HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÝ HÙNG

VAI TRÒ CỦA TU SĨ PHẬT GIÁO NAM TÔNG

TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI CỦA NGƯỜI KHMER

Ở TÂY NAM BỘ HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH TÔN GIÁO HỌC

HÀ NỘI - 2020

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÝ HÙNG

VAI TRÒ CỦA TU SĨ PHẬT GIÁO NAM TÔNG

TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI CỦA NGƯỜI KHMER

Ở TÂY NAM BỘ HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH TÔN GIÁO HỌC

Mã số: 9229009 (Cũ: 62220309)

Người hướng dẫn khoa học: 1. TS NGUYỄN QUỐC TUẤN

2. PGS,TS ĐỖ LAN HIỀN

HÀ NỘI - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,

kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích

dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả

Lý Hùng

Trang

1

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

Chương 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN

7

QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án

7

1.2. Một số lý thuyết nghiên cứu

22

1.3. Một số thuật ngữ được sử dụng trong luận án

32

Chương 2: KHÁI QUÁT PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER VÙNG

40

TÂY NAM BỘ

2.1. Khái quát về điều kiện địa lý, kinh tế, chính trị, xã hội vùng Tây Nam Bộ

40

2.2. Đặc điểm tôn giáo, tín ngưỡng vùng Tây Nam Bộ

46

2.3. Khái quát về Phật giáo Nam tông Khmer ở Tây Nam Bộ

69

Chương 3: VAI TRÒ CỦA TU SĨ PHẬT GIÁO NAM TÔNG TRONG

ĐỜI SỐNG XÃ HỘI NGƯỜI KHMER TÂY NAM BỘ: THỰC

TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

87

3.1. Vai trò của tu sĩ Phật giáo Nam tông đối với đời sống xã hội người Khmer

88

3.2. Những vấn đề đặt ra

108

Chương 4: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA

TU SĨ PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG NGƯỜI

129

KHMER TÂY NAM BỘ TRONG THỜI GIAN TỚI

4.1. Một số giải pháp

129

4.2. Kiến nghị

140

144

KẾT LUẬN

147

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

149

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

159

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BTSGHPGVN Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam :

GHPGVN : Giáo hội Phật giáo Việt Nam

HĐKSSYN : Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước

PGNTK : Phật giáo Nam tông Khmer

PGNT : Phật giáo Nam tông

PGVN : Phật giáo Việt Nam

TNB : Tây Nam Bộ

UBND : Ủy ban nhân dân

: UBMTTQVN Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tây Nam Bộ gồm 13 tỉnh, thành với diện tích tự nhiên gần 40.000 km2,

có đường biên giới giáp Campuchia trên 340 km, có dân số khoảng 17,7 triệu

người; trong đó, có khoảng 1,3 triệu người Khmer sinh sống tập trung ở thành

phố Cần Thơ và các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc

Liêu, Cà Mau, Hậu Giang, Vĩnh Long. Đây là vùng có tiềm năng và lợi thế để

phát triển kinh tế và là vùng có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, đối

ngoại và an ninh quốc phòng.

Đồng bào Khmer sống xen kẽ với đồng bào Kinh, Hoa trong các ấp,

phum, sóc. Đa số người Khmer đều là tín đồ và cuộc sống của họ hết sức gắn

bó với các ngôi chùa. Họ xem Phật giáo Nam tông (PGNT) là một tôn giáo

chính thống trong đời sống tinh thần. Bộ máy tự quản truyền thống ở các

phum, sóc người Khmer là những người có uy tín trong đồng bào dân tộc

Khmer do dân làng bầu ra, ngoài ra còn có Ban Quản trị chùa và các vị tu sĩ

Phật giáo Nam tông Khmer cũng nằm trong bộ máy tự quản của cộng đồng.

Riêng đối với Phật giáo Nam tông Khmer (PGNTK) thì trong việc thực

hành tôn giáo, tu sĩ là người “thay mặt Tam bảo” chăm lo phần tinh thần cho

các tín đồ; trong hoạt động Phật sự, xã hội là người điều hành nền hành chính

đạo; trong hoạt động truyền đạo thì họ là trụ cột để phát triển tín đồ. Hơn nữa,

họ là người đại diện cho từng chùa, từng phum sóc nên thường xuyên có mối

quan hệ với cấp uỷ Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các

đoàn thể chính trị - xã hội ở địa phương. Với vai trò quan trọng như vậy, tu sĩ

PGNTK luôn có vai trò ảnh hưởng trực tiếp đối với đời sống xã hội trong

cộng đồng người Khmer.

Thực hiện Chỉ thị số 68-CT/TW của Ban Bí thư, Chỉ thị số 19-CT/TW

ngày 10/01/2018, hầu hết các tỉnh, thành trong vùng ban hành nghị quyết

2

chuyên đề về công tác dân tộc, chương trình hành động, kế hoạch thực hiện

các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác đối với dân tộc

Khmer. Qua đó, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, tạo được sự nhất

trí, ủng hộ của quần chúng nhân dân trong việc thực hiện các chính sách dân

tộc, nâng cao đời sống cho đồng bào góp phần tích cực vào việc xây dựng

khối đại đoàn kết giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau và giữa đồng

bào có và không có tôn giáo, phát huy được nguồn lực của đồng bào có tôn

giáo trong phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo an ninh chính trị ở địa phương,

cũng như trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,

hội nhập quốc tế của đất nước.

Đặc biệt là trong công tác vận động quần chúng nói chung và công tác

vận động tu sĩ PGNTK nói riêng được các cấp ủy Đảng quan tâm, chỉ đạo và

tạo điều kiện cho các vị phối hợp với các ngành chức năng ở địa phương tham

gia vận động quần chúng là Phật tử tích cực lao động sản xuất, thực hiện tốt

nghĩa vụ công dân, đồng hành cùng dân tộc; có ý thức phòng ngừa và đấu

tranh với những hoạt động lợi dụng dân tộc, tôn giáo gây mất ổn định chính

trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.

Tuy nhiên xã hội ngày càng biến động và yêu cầu cần xây dựng một xã

hội tốt đẹp, trong đó sự đóng góp của cộng đồng Khmer ở Tây Nam bộ (TNB)

là hết sức quan trọng. Trong xã hội biến động thì xã hội người Khmer cũng

biến động hết sức gay gắt và khắc nghiệt. Đã một bộ phận người Khmer bỏ

tôn giáo của mình, bỏ tôn giáo truyền thống, bỏ phong tục tập quán để đi theo

tôn giáo khác. Ngoài ra còn bỏ phum, sóc để đi nơi khác hoặc đi nước ngoài

định cư dẫn đến bản sắc Khmer không còn thuần túy.

Bên cạnh đó một số ít tu sĩ PGNTK chưa nhận thức đầy đủ về hiến

pháp và pháp luật Việt Nam, có thái độ thiếu hợp tác với chính quyền đi

ngược lại với những gì tốt đẹp của tôn giáo và lợi ích dân tộc. Nhận thức

3

về vai trò của tu sĩ PGNTK của một bộ phận cán bộ trong hệ thống chính

trị chưa đầy đủ và thống nhất; còn xem nhẹ công tác vận động họ trong quá

trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Một số cấp ủy

Đảng, chính quyền còn lúng túng trong việc chỉ đạo giải quyết những vấn

đề có liên quan đến PGNTK; chưa thực sự quan tâm tháo gỡ những khó

khăn vướng mắc thuộc về cơ chế, chính sách liên quan đến PGNTK, trong

đó, có công tác xây dựng lực lượng cốt cán trong PGNTK chưa được quan

tâm đúng mức và phát huy hiệu quả chưa cao.

Mặc khác, vai trò của tu sĩ PGNT hiện nay trong điều kiện phát triển của

đồng sống xã hội đối với người Khmer vẫn còn nhiều vấn đề cần phải bàn

luận liên quan đến vấn đề thực hiện tốt Nghị định số 82/2010/NĐ-CP ngày

15/7/2010 của Chính phủ, về việc tổ chức thực hiện giảng dạy ngôn ngữ

Khmer, Pali, giáo lý tại các điểm chùa của một số tỉnh, thành chưa được quan

tâm đúng mức; việc giữ gìn và bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc chưa được

phát huy một mạnh mẽ. Đặc biệt là vấn đề một số ít tu sĩ trẻ tham gia các hội,

nhóm đi ngược lại lợi ích quốc gia dân tộc; một số chùa còn có biểu hiện mâu

thuẫn giữa Trụ trì chùa với Ban Quản trị; gây mất đoàn kết, chia rẽ trong nội

bộ cộng đồng người Khmer, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị, trật tự

xã hội.

Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Vai trò của tu sĩ Phật giáo

Nam tông trong đời sống xã hội của người Khmer ở Tây Nam Bộ hiện nay”

để làm luận án tiến sĩ Chuyên ngành Tôn giáo học.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu về vai trò của tu sĩ PGNT trong đời sống xã hội của người

Khmer ở TNB hiện nay, chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế, từ đó đề ra một

số giải pháp phát huy vai trò của tu sĩ PGNT hơn.

4

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục tiêu tổng quát luận án có nhiệm vụ nghiên cứu các nội

dung cụ thể như sau:

- Đặc điểm tình hình vùng TNB và PGNTK.

- Vai trò của tu sĩ PGNT trong đời sống xã hội của người Khmer ở TNB.

- Thực trạng và vấn đề đặt ra đối với tu sĩ PGNT trong đời sống xã hội

của người Khmer ở TNB.

- Đề ra các giải pháp để tiếp tục phát huy vai trò và nâng cao hiệu quả

hoạt động của tu sĩ PGNT trong đời sống xã hội người Khmer ở TNB.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là: “Vai trò của tu sĩ Phật giáo Nam tông

trong đời sống xã hội của người Khmer ở Tây Nam Bộ hiện nay”.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Thời gian: từ năm 1991 đến nay (từ khi có Chỉ thị 68/CT-TW ngày

18/4/1991 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) về công tác ở

vùng đồng bào dân tộc Khơ - me)

- Không gian: Một số tỉnh, thành vùng TNB.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án được dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư

tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, dân tộc; chủ trương, chính sách của Đảng và

Nhà nước đối với dân tộc, tôn giáo. Ngoài ra, luận án còn sử dụng một số lý

thuyết khác để vận dụng phân tích các vấn đề tương ứng trong luận án như:

Lý thuyết cấu trúc - chức năng của tôn giáo; lý thuyết vùng văn hóa; lý thuyết

thực thể tôn giáo…

5

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Thực hiện luận án này, chúng tôi vận dụng các phương pháp luận

nghiên cứu tôn giáo học mác xít, lý thuyết cấu trúc, chức năng của tôn giáo, lý

thuyết thực thể tôn giáo, lý thuyết vùng văn hóa, lý thuyết hành động xã

hội...Đồng thời, luận án còn sử dụng các phương pháp cụ thể như phương

pháp lịch sử - logic, phương pháp phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh,

quan sát, điền dã, phỏng vấn, khảo sát, tham gia...phương pháp nghiên cứu

chuyên ngành và liên ngành như: phương pháp tôn giáo học, sử học, xã hội học

tôn giáo.

4.3. Cách tiếp cận

Cách tiếp cận dân tộc học và tôn giáo học: Dùng lý thuyết thực thể tôn

giáo (niềm tin, thực hành, cộng đồng) để xem xét mối tương tác giữa tu sĩ

PGNT trong cộng đồng người Khmer.

Cách tiếp cận sử học: Được áp dụng nghiên cứu về lịch sử quá trình

hình thành cộng đồng người Khmer và PGNTK ở TNB.

Cách tiếp cận triết học: Được áp dụng nghiên cứu về vai trò của tôn

giáo như một thành tố của thuộc kiến trúc thượng tầng tác động đến các thành

tố khác của kiến trúc thượng tầng và hạ tầng cơ sở như: Kinh tế, chính trị, văn

hóa, xã hội.

5. Đóng góp mới của luận án

Luận án nghiên cứu một cách hệ thống “Vai trò của tu sĩ PGNT trong

đời sống xã hội người Khmer ở Tây Nam Bộ hiện nay”. Qua đó, đề xuất

những giải pháp nhằm phát huy những giá trị tích cực về vai trò của tu sĩ

PGNT trong đời sống xã hội người Khmer ở TNB hiện nay; hạn chế những mặt

tiêu cực còn tồn tại trong đời sống xã hội. Đồng thời, khuyến nghị Đảng và

Nhà nước về việc thực hiện chính sách tôn giáo, dân tộc nói chung; chính sách

đối với PGNTK và dân tộc Khmer nói riêng.

6

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận án góp phần bổ sung cho lý thuyết tôn giáo học đương đại về vai

trò của tu sĩ nói chung, PGNTK nói riêng. Luận án góp phần cung cấp cơ sở lý

luận, thực tiễn, bổ sung, hoàn thiện thể chế, chính sách về dân tộc, tôn giáo nói

chung, dân tộc Khmer và PGNTK nói riêng trong bối cảnh hội nhập quốc tế

như hiện nay.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả luận án cung cấp những luận cứ khoa học để bổ sung và hoàn

thiện chính sách đặc thù đối với PGNTK nói chung, tu sĩ PGNTK nói riêng.

Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các

công trình nghiên cứu khoa học, giảng dạy và học tập chuyên ngành tôn giáo

học và các lĩnh vực khác có liên quan.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục,

nội dung chính của luận án được kết cấu gồm 4 chương, 10 tiết:

Chương 1: Tổng quan nghiên cứu và các vấn đề liên quan đến đề tài

Chương 2: Khái quát Phật giáo Nam tông Khmer vùng Tây Nam Bộ

Chương 3: Vai trò của tu sĩ Phật giáo Nam tông trong đời sống xã hội

người Khmer Tây Nam Bộ: thực trạng và một số vấn đề đặt ra

Chương 4: Giải pháp và kiến nghị phát huy vai trò của tu sĩ Phật giáo

Nam tông đối với cộng đồng người Khmer Tây Nam Bộ trong thời gian tới

7

Chương 1

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1.1.1. Nhóm công trình liên quan đến vấn đề dân tộc Khmer

Trước năm 1975, vấn đề dân tộc Khmer Nam Bộ - Việt Nam được

nhiều học giả người nước ngoài nghiên cứu, tuy nhiên các công trình của họ

chủ yếu đề cập đến từng khía cạnh riêng biệt về lịch sử, mỹ thuật, kiến trúc

chùa, nghi lễ tôn giáo, sinh hoạt dân gian, thơ ca dân gian. Thời điểm này,

đáng chú ý là công trình“Người Việt gốc Miên” của Lê Hương [62] xuất bản

(1969) tại Sài Gòn và bản ghi chép “Chân lạp phong thổ ký” của Châu Đạt

Quan do Lê Hương dịch (1973), có thể xem là những công trình đầu tiên trình

bày tổng quan khá đầy đủ về người Khmer Nam Bộ - Việt Nam, cụ thể là về

nguồn gốc, dân số, sinh hoạt, xã hội, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn

giáo, văn hóa, giáo dục, kinh tế, địa danh, lịch sử, …. Bên cạnh đó, tác giả

cũng có đề cập đến vấn đề Phật giáo trong cộng đồng người Khmer. Tuy

nhiên tác giả chỉ nghiên cứu trong phạm vi ở tỉnh Vĩnh Bình (tỉnh Trà Vinh

hiện nay) qua các mối quan hệ xã hội, phong tục tập quán, tín ngưỡng; đây là

tư liệu quí để chúng tôi làm cơ sở nghiên cứu luận án.

Sau năm 1975, các công trình nghiên cứu liên quan đến người Khmer

Nam Bộ liên tục được chú trọng và đạt nhiều kết quả đáng quan tâm; trong đó

phải kể đến nhà nghiên cứu Phan An, với các công trình tiêu biểu như: “Vài

khía cạnh dân tộc học về người Khmer ở Việt Nam và Camphuchia” (1980);

“Một số vấn đề kinh tế - xã hội của vùng nông thôn Khmer Đồng bằng sông

Cửu Long - Vấn đề dân tộc ở Đồng bằng sông Cửu Long” (1984); “Dân tộc

Khmer trong các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam)”(1984);

8

“Nghiên cứu người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long” (1985) [1]… Qua

các bài viết, tác giả đã khái quát đầy đủ các khía cạnh về đời sống xã hội của

người Khmer ở Nam Bộ trong những thập niên 80 của thế kỷ XX; đây là cơ

sở để chúng tôi so sánh sự chuyển biến trong đời sống xã hội của người

Khmer trước và sau thời kỳ đổi mới.

Năm 1981, công trình sách “Quá trình phát triển dân cư và dân tộc ở

Đồng bằng sông Cửu Long từ Thế kỷ thứ XV đến thế kỷ thứ XIX” của tác giả

Mạc Đường [45] đã khái quát được quá trình hình thành các tộc người Việt,

Khmer, Hoa và Chăm; đồng thời, làm rõ đặc điểm của các cộng đồng tộc

người này ở đồng bằng sông Cửu Long nhằm làm cơ sở nghiên cứu những

đặc trưng riêng của từng tộc người ở vùng đất Nam Bộ.

Công trình “Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ” do Huỳnh Lứa [68]

chủ biên đã được Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản vào năm

1987; đến năm 2017, công trình này có chỉnh sửa, bổ sung và tái bản; công

trình bằng tiếng Việt, dày 355 trang; các tác giả đã trình bày tiến trình nhân

dân ta khai khẩn và mở mang vùng đất Nam Bộ từ nữa thế kỷ XVII đến giữa

thế kỷ XX, trước hết là để phục vụ việc tìm hiểu sâu và kỷ hơn về hiện trạng,

động thái, tiềm năng của vùng đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam

Bộ. Công trình này đã giúp chúng ta nắm được quá trình hình thành và phát

triển của các dân cư sinh sống ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Công trình “Vấn đề Dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long” [99] Nxb.

Khoa học xã hội, 1991, Hà Nội do Viện Khoa học Xã hội tại thành phố Hồ

Chí Minh thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam chủ biên; công trình dày 324

trang, gồm 7 bài nghiên cứu bằng tiếng Việt do các tác giả: (1) Mạc Đường:

Vấn đề dân cư và dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long, Người Hoa ở đồng

bằng sông Cửu Long; (2) Đinh Văn Liên: Đặc điểm môi sinh và dân số ở

vùng người Khmer đồng bằng sông Cửu Long, (3) Phan An: Một số vấn đề

9

kinh tế - xã hội của vùng nông thôn Khmer đồng bằng sông Cửu Long, (4)

Phan Thị Yến Tuyết: Một số đặc điểm về văn hóa vật chất của người Khmer

và người Chăm ở đồng bằng sông Cửu Long, Truyền thống đấu tranh cách

mạng của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long; (5) Phan Văn Dốp và

Nguyễn Việt Cường: Người Chăm ở đồng bằng sông Cửu Long. Công trình

đã phát họa bức tranh tổng thể các dân tộc chủ yếu đang có mặt ở đồng bằng

sông Cửu Long; đồng thời, đề cập đến khía cạnh của các vấn đề khoa học xã

hội qua nhiều đợt điều tra nối tiếp nhau tại các vùng dân tộc Khmer từ cuối

năm 1977 đến 1986 sẽ giúp ích cho chúng tôi nghiên cứu về tình hình trong

vùng đồng bào dân tộc trước thời kỳ đổi mới; đồng thời ứng dụng cho việc

vạch định chính sách và giải pháp phù hợp trong thời kỳ đổi mới.

Nguyễn Khắc Cảnh (2000) “Các loại hình phum, sóc của người Khmer

đồng bằng sông Cửu Long” [33], tác giả dựa trên những quan sát về các loại

hình phum, sóc của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long đã đưa ra

những nhận định về cấu trúc, tính chất, mối quan hệ xã hội của người Khmer

Nam Bộ. Song song đó, với hai bài viết “Quá trình hình thành tộc người của

người Khmer từ thế kỷ VI đến thế kỷ XIII” và “Sự hình thành cộng đồng

người Khmer vùng ĐBSCL” trong “Văn hoá Nam Bộ trong không gian văn

hoá Đông Nam Á” (2000), tác giả Nguyễn Khắc Cảnh đã làm rõ quá trình

hình thành cộng đồng tộc người của người Khmer nhằm “đánh giá đúng

những mối quan hệ mang tính tộc người, giữa bộ phận người Khmer ở Nam

Bộ - Việt Nam và người Khmer ở Campuchia”. Với những nghiên cứu này

giúp chúng tôi nhận diện mối quan hệ xã hội, các đặc trưng về văn hoá tộc

người của người Khmer Nam Bộ.

Đề tài khoa học: Truyền thống đấu tranh cách mạng của đồng bào

Khmer Nam bộ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (1939-1975)

[96], do cơ quan đặc trách công tác dân tộc ở Nam bộ thực hiện năm 2000-

10

2001 đã trình bày khá đầy đủ chi tiết các cuộc đấu tranh chống lại những bất

công của đồng bào dân tộc Khmer; cũng như sự đoàn kết đấu tranh giữa các

dân tộc công cư trong vùng nhằm chống lại giặc xâm lượt để bảo vệ quê

hương, bảo vệ Tổ quốc từ khi có Đảng đến kết thúc cuộc kháng chiến chống

Mỹ, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

Năm 2002, tác giả Nguyễn Mạnh Cường viết về Vài nét về người Khmer

Nam bộ [37] Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. Công trình giới thiệu về người

Khmer Nam bộ như một cộng đồng dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt

Nam với nhiều cách tiếp cận: nhân học, dân tộc học, khảo cổ học, lịch sử, văn

hóa và tôn giáo của người Khmer trong bối cảnh của Nam bộ. Thành công nhất

của công trình là những tư liệu, ghi chép của tác giả về “văn hóa người Khmer

Nam bộ”, tác giả giành nhiều trang viết về phong tục, tập quán, lễ hội, tâm lý lối

sống đến các chùa, tranh tượng, nhạc cụ; ngoài ra, tác giả cũng phản ánh “vấn đề

Phật giáo Khmer” mà giới nghiên cứu Phật giáo Việt Nam rất quan tâm. Song

song đó, tác giả còn có công trình “Tôn giáo - Tín ngưỡng của các cư dân

vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Nxb. Phương Đông, 2004, Hà Nội; với 488

trang, 07 chương đã trình bày bức tranh tổng thể những nét cơ bản về các tộc

người ở đồng bằng sông Cửu Long; cũng như về tôn giáo, tín ngưỡng của từng

tộc người cụ thể. Tác giả Nguyễn Mạnh Cường và Nguyễn Minh Ngọc đã

dành hai chương (II, III) để nói những vấn đề liên quan đến người Khmer,

chương IV nói về người Chăm ở Châu Đốc, chương V, nói về người Hoa ở

miền TNB và Chương V, nói về người Việt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Nhìn chung, qua nội dung công trình các tác giả đánh giá được sự thay

đổi và sự lớn mạnh không ngừng của vùng đồng bằng sông Cửu Long trong

quá trình đổi mới và hội nhập của Việt Nam trên trường quốc tế. Người dân

vùng đồng bằng sông Cửu Long đang hàng ngày, hàng giờ giàu mạnh hơn

trước đây. Các dân tộc anh em cùng chung lưng đấu cật, đoàn kết với nhau

11

trong niềm tin vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trên các mặt

kinh tế, văn hóa- xã hội, chính trị, ngoại giao và an ninh quốc phòng nhằm

chống lại các thế lực thù địch trên mọi mặt trận, nhất là mặt trận tư tưởng, tôn

giáo, tín ngưỡng. Nội dung công trình đã góp phần tìm hiểu bản sắc văn hóa

tộc người, tìm hiểu sâu hơn về quá trình tâm linh- hay đức tin- cái cốt lõi cho

sự bảo tồn và phát triển văn hóa của các tộc người: Kinh, Khmer, Hoa, Chăm.

Đây là tài liệu góp phần rất lớn cho các nhà quản lý nhà nước về công tác dân

tộc, tôn giáo trong vùng TNB; hiểu hơn về đồng bào dân tộc và hiểu hơn về các

tôn giáo tránh xảy ra các xung đột sắc tộc và xung đột tôn giáo như một số

nước trong khu vực Đông Nam Á.

Năm 2005, tác giả Đinh Lê Thư chủ biên sách “ Vấn đề giáo dục vùng

đồng bào Khmer đồng bằng sông Cửu Long” [89], công trình dày 384, gồm 5

chương; trong đó chương 3 giới thiệu về “Giáo dục song ngữ và tình hình song

ngữ Việt - Khmer ở đồng bằng song Cửu Long” và Chương 5 viết về “Vai trò

nhà chùa trong hoạt động văn hóa - giáo dục ở vùng dân tộc Khmer Nam Bộ”

tác giả giới thiệu các chức năng của chùa và tập trung đánh giá vai trò dạy học

chữ Khmer và chữ Pali cho con em trong cộng đồng Khmer tại các điểm chùa

Khmer ở Nam Bộ.

Năm 2006, Ủy ban Dân tộc thực hiện dự án “Điều tra cơ bản tình hình

phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc

Khmer Nam Bộ năm 2006” [97] do Cơ quan Thường trực khu vực đồng bằng

sông Cửu Long thực hiện - Phạm Văn Thới (chủ nhiệm). Nội dung kỷ yếu

bằng tiếng Việt, dày 221 trang; nội dung của dự án được triển khai thực hiện

gồm 4 chuyên đề: (1) Tác dụng, hiệu quả của Chương trình 135; (2) Thực

trạng và những vấn đề đặt ra đối với các xã thuộc Chương trình 135 giai

đoạn II ở vùng dân tộc Khmer Nam Bộ; (3) Các giải pháp để phát huy hiệu

quả giai đoạn I và thực hiện tốt giai đoạn II Chương trình 135 ở vùng dân tộc

12

Khmer Nam Bộ; (4) Đề xuất chính sách và giải pháp mạng tính bức phá cho

các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc Khmer Nam Bộ.

Ngoài ra, trong kỷ yếu có nhiều bài báo cáo tham luận của các cơ quan

làm công tác dân tộc ở Nam Bộ đã khái quát được tình hình phát kinh tế xã

hội vùng đồng bào Khmer của từng địa phương tại thời điểm năm 2006; qua

đó, đặt ra những vấn đề khó khăn, hạn chế trong việc thực hiện triển khai thực

hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong vùng đồng bào dân

tộc thiểu số ở Nam Bộ cần giải quyết; đồng thời, đưa ra những giải pháp và

kiến nghị nhằm thực hiện tốt hơn chủ trương, chính sách đối với vùng đồng

bào dân tộc Khmer.

Năm 2007, Luận án Chuyên ngành Lịch sử “Quá trình thực hiện chính

sách xóa đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước trong cộng đồng người

Khmer tại đồng bằng sông Cửu Long 1992-2002”, Học viện Khoa học Xã hội

vùng Nam Bộ, thành phố Hồ Chí Minh, bằng tiếng Việt, dày 216 trang. Tác

giả Nguyễn Hoàng Sơn [86] đã khái quát được đặc điểm kinh tế - văn hóa - xã

hội truyền thống của cộng đồng người Khmer đồng bằng sông Cửu Long; qua

đó tác giả phân tích được tính chất đặc thù về thực trạng, đặc điểm, nguyên

nhân dẫn đến nghèo đói của người Khmer đồng bằng sông Cửu Long; hệ

thống hóa các kết quả đã đạt được, rút ra thành tựu, kinh nghiệm và những

vấn đề đặt ra; đồng thời kiến nghị các giải pháp thực hiện nhằm góp phần xóa

đói giảm nghèo trong vùng đồng bào dân tộc Khmer.

Đặc biệt, năm 2009, tác giả Phan An có sách “Dân tộc Khmer Nam

Bộ” [2] Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, công trình dày 188 trang của

giúp chúng tôi hiểu thêm về lịch sử, thực trạng đời sống kinh tế xã hội, bản

sắc văn hóa dân tộc của cộng đồng cư dân Khmer tại đồng bằng sông Cửu

Long; bên cạnh đó, tài liệu còn giới thiệu về điều kiện địa lý, dân cư và đặc

biệt là những sinh hoạt văn hóa giàu bản sắc của cư dân Khmer và các dân

13

tộc trong đại gia đình dân tộc đang sinh sống cộng cư. Đồng thời, tác giả

cũng đưa ra những dự báo về sự phát triển đời sống chính trị, kinh tế, xã

hội của đồng bào Khmer trong tương lai nhằm giúp cho các bộ, ban, ngành,

các đơn vị làm công tác dân tộc từ địa phương đến trung ương có những

ứng dụng để đưa ra các giải pháp phù hợp với đặc điểm, tình hình trong

cộng đồng dân tộc Khmer vùng TNB.

Năm 2012, trong sách “Văn hóa Khmer Nam bộ - Nét đẹp trong bản sắc

văn hóa Việt Nam” của tác giả Phạm Thị Phương Hạnh [54], công trình dày

328 trang, tác giả đã khái quát được một số nét về người Khmer Nam Bộ; đồng

thời giới thiệu được nét văn hóa đặc trưng của người Khmer Nam bộ gồm cả

văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần; đồng thời, đưa ra một số giải pháp nhằm

phát huy nét đẹp, những mặt tích cực, những tiềm năng, thế mạnh của dân tộc

Khmer trong sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam trong

thời kỳ phát triển mới của đất nước. Ngoài ra, các tác giả còn sư tầm những

hình ảnh, tư liệu làm nổi bật hơn nét đặc sắc, những thành tự đã đạt được của

đồng bào Khmer trong thời gian qua, nhất là về mặt văn hóa; từ đó khẳng

định sự quan tâm, chăm sóc và tạo điều kiện của Đảng và Nhà nước đối với

sự phát triển mọi mặt của đồng bào Khmer Nam Bộ.

Năm 2015, Luận án chuyên ngành Nhân học “Quan hệ tộc người của

người Khmer ở hai bên biên giới Việt Nam - Campuchia (khu vực Tây Nam

Bộ)” Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội, công trình dày 145 trang [82]. Tác

giả Nguyễn Thuận Quý đã phân tích mối quan hệ của người Khmer ở khu vực

biên giới TNB qua các mối quan hệ trong lĩnh vực của đời sống xã hội. Đồng

thời, phân tích ý thức và hành động của người Khmer đối với quốc gia - Tổ

quốc Việt Nam. Tuy nhiên, với đặc trưng đa tộc người, đa tôn giáo thì vùng

đất TNB vẫn còn nhiều nguy cơ mất ổn định do nhiều nguyên nhân khác nhau

mang tính chủ quan và khách quan. Đồng thời, tác giả cũng đã đưa ra một số

14

kiến nghị đề xuất những giải pháp nhằm góp phần cho công tác quản lý nhà

nước về công tác dân tộc được hiểu quả hơn.

1.1.2. Nhóm công trình liên quan đến Phật giáo Nam tông Khmer

Đề tài khoa học cấp bộ (1999-2000), “Vai trò của chùa Khmer đối với

đời sống văn hóa của đồng bào Khmer Nam Bộ“ của Ủy ban Dân tộc và

Miền núi cơ quan đặc trách công tác dân tộc ở Nam Bộ do Sơn Phước Hoan

(chủ nhiệm) [95]; công trình bằng tiếng Việt, tuy dày chỉ 64 trang nhưng

nhóm tác giả đã trình bày khái quát được thực trạng về đời sống xã hội trong

cộng đồng người Khmer đến năm 2000; khái quát đặc điểm về Phật giáo,

trong đó phân tích khá sâu về vai trò của PGNT đối với đời sống tinh thần của

cộng đồng Khmer Nam Bộ. Song song đó, nhóm tác giả tập trung phân tích

vai trò của chùa đối với đời sống văn hóa của người Khmer; công trình có đề

ra một số kiến nghị nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và tiếp tục

phát huy vai trò của chùa đối với đời sống văn hóa của người Khmer Nam Bộ

trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Năm 2000, tác giả Trần Hồng Liên xuất bản tác phẩm Đạo Phật trong

cộng đồng người Việt ở Nam bộ - Việt Nam (Từ thế kỷ XVII đến 1975), Nxb.

Khoa học Xã hội, Hà Nội [65]. Tác phẩm trình bày tìm hiểu tiến trình phát triển

của lịch sử Phật giáo tại vùng đất mới, vai trò của đạo Phật trong đời sống văn

hóa - xã hội của người Việt, làm rõ được tính địa phương và tính dân tộc của

Phật giáo Nam bộ, những đóng góp của PGNT và Bắc tông trong Phật giáo

Việt Nam. Bên cạnh đó có so sánh một số nét cơ bản của PGNT trong người

Việt và người Khmer, mối quan hệ qua lại giữa văn hóa Phật giáo của ba dân

tộc Kinh, Khmer, Hoa ở Nam bộ. Song song đó, tác giả còn đi sâu nghiên cứu

đối với các hình thức thực hành tôn giáo của các tôn giáo này.

Năm 2004, Kỷ yếu hội thảo “Xây dựng đời sống văn hoá vùng dân tộc

Khmer Nam Bộ” [109] do Vụ Văn hoá dân tộc tổ chức tại Hà Nội, tập hợp

15

các bài viết xoay quanh thực trạng xây dựng đời sống văn hoá cho vùng dân

tộc Khmer trong giai đoạn hiện nay và các giải pháp mới. Trong đó có một số

bài viết liên quan đến đề tài là “Để hiểu sâu thêm về Pháp (Dharma), một

trong “Tam pháp báo” của Phật giáo Theravada của người Khmer Nam Bộ”

của Ngô Văn Doanh. “Đạo Phật Tiểu thừa Khmer Nam Bộ ở vùng nông thôn

đồng bằng sông Cửu Long:Chức năng xã hội truyền thống và động thái xã

hội” của Nguyễn Xuân Nghĩa, “Ảnh hưởng của Phật giáo Theravada trong

tang ma người Khmer Nam Bộ” của Nguyễn Mạnh Cường. Đây là nguồn tư

liệu quan trọng để chúng tôi nghiên cứu về vai trò của tu sĩ PGNTK trong đời

sống xã hội. Tuy nhiên, hạn chế của các bài viết là thiếu tính thực tiễn trong

khi nghiên cứu do các nhà nghiên cứu còn chưa có điều kiện xâm nhập thực tế

ở các vùng có đông đồng bào dân tộc Khmer.

Năm 2008, tác giả Nguyễn Mạnh Cường đã xuất bản công trình:

Phật giáo Khmer Nam bộ (Những vấn đề nhìn lại), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội

[36]. Công trình bằng tiếng việt, dày 310 trang, đây là chuyên đề nghiên

cứu sâu về đồng bào dân tộc Khmer, mô tả đời sống tinh thần của người

Khmer Nam Bộ gắn liền với PGNT, những định hướng và những đề xuất

các chủ trương, chính sách phù hợp với tâm tư, nguyện vọng với người

Khmer. Trong công trình này, tác giả đã nêu lịch sử hình thành và phát

triển vùng đồng bằng sông Cửu Long, quá trình hình thành người Khmer

ở Nam bộ, sự hình thành người Khmer khu vực Đông Nam Á, người

Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, mối quan hệ giữa người Môn

với người Khmer.

Công trình khoa học của Nguyễn Tiến Dũng (2014) "Phật giáo Nam

tông với đời sống tinh thần của người Khmer Nam bộ trong bối cảnh toàn cầu

hoá hiện nay" [40]. Qua nghiên cứu cho thấy, tác giả đã phân tích và đánh giá

khá toàn diện những mặt tồn tại của PGNT trong đời sống xã hội của người

16

Khmer Nam bộ. Tuy nhiên, tác giả chủ yếu làm rõ các vấn đề tích cực mà

chưa nêu lên được những yếu tố tiêu cực liên quan. Chẳng hạn như công nghệ

thông tin phát triển tràn làn, các nhà sư Khmer có nhiều điều kiện hơn trong

việc cập nhật kiến thức và nâng cao sự hiểu biết, nhưng nếu không có sự cảnh

giác và quản lý chặt chẽ sẽ dễ dẫn đến nhiều vấn đề phức tạp.

Kỷ yếu hội thảo khoa học với đề tài nhánh: “Chính sách đối với tổ

chức, hội đoàn, chức sắc, nhà tu hành, cơ sở thờ tự của Phật giáo Nam tông

Khmer vùng Tây Nam Bộ” (10/2014), do PGS.TS Hoàng Minh Đô (chủ

nhiệm) [43], Kỷ yếu dày 389 trang và bằng tiếng Việt tập hợp được 17 bài viết

của các nhà nghiên cứu, nhà quản lý về công tác dân tộc, tôn giáo đầu ngành.

Đây là tài liệu có các bải viết nghiên cứu sâu về vùng đất, cư dân, về các thể chế

chính trị trong lịch sử; về tình hình tôn giáo trong cộng đồng người Khmer.

Ngoài ra, các tác giả cũng đặt ra những vấn đề cấp bách cần giải quyết và đưa ra

những giải pháp góp phần để bổ sung, hoàn thiện các chính sách đối với tổ chức,

hội đoàn, chức sắc, nhà tu hành, cơ sở thờ tự của PGNTK và đồng bào Khmer

vùng TNB đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

Ngoài ra, tác giả cũng đề cập đến PGNTK - qua quá trình du nhập và

phát triển nơi đây, Phật giáo đến với người Khmer, những triết lý Phật giáo và

kinh kệ mà người Khmer đã thực hành trong hành đạo, PGNT qua quá trình

lịch sử thời kỳ Pháp thuộc, thời kỳ Mỹ Ngụy... Song song đó, tác giả có đề

cập đến vai trò của Sư sãi đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội của

người Khmer, vai trò của Phật giáo trong quản lý cộng đồng phum sóc, vai trò

của chùa trong đời sống người Khmer, một số nghi thức tụng niệm kinh kệ

trong PGNTK. Đồng thời, nêu lên hiện trạng PGNTK và đưa ra những giải

pháp cho sự phát triển bền vững của vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Trang Thiếu Hùng, “Ảnh hưởng của Phật giáo Nam tông đối với tư

tưởng và đạo đức người Khmer tỉnh Trà Vinh”. Tác giả luận án nhận định:

17

“Số lượng thanh thiếu niên Khmer xuất gia (đi tu) ngày càng ít đi không phải

là vấn đề đáng lo ngại, người không xuất gia cũng là người có đạo đức tốt nếu

được giáo dục đầy đủ và sống trong môi trường tốt”. Nhận định trên đặt ra hai

vấn đề đáng quan tâm. Trước hết, “số lượng thanh thiếu niên Khmer xuất gia

ngày càng ít đi” có phần đúng với thực tế, nhưng cũng cần khảo sát lại cho

thỏa đáng. Bởi lẽ, thời gian tu học của sư sãi Khmer không bắt buộc. Họ có

thể tu học vài ngày, vài tháng, vài năm rồi hoàn tục.

Do đó, lấy sự hiện diện của số sư sãi Khmer trong chùa ở một thời

điểm nào đó để đánh giá hiện trạng tu học tăng hay giảm sẽ không tránh khỏi

phiến diện. Còn về nhận định “người không xuất gia cũng là người có đạo

đức tốt nếu được giáo dục đầy đủ và sống trong môi trường tốt” cũng có phần

đúng. Thực tế cho thấy, trước sự tiến bộ xã hội hiện nay, đại bộ phận thanh

thiếu niên, bất luận là tộc người nào đều hướng đến cuộc sống hiện đại. Với

hệ thống giáo dục các cấp được mở rộng, việc học tập ở các trường lớp đối

với thanh thiếu niên là điều dễ thấy, và đó là điều kiện để họ trau dồi đạo đức

và hoàn thiện nhân cách sống tốt hơn. Bài viết đã phản ánh đầy đủ các mặt

tồn tại của PGNTK trong cộng đồng người Khmer đồng bằng sông Cửu Long

nói chung và người Khmer ở Trà Vinh nói riêng, đặc biệt là việc tu học, hành

đạo của tu sĩ PGNTK cũng như thanh thiếu niên dân tộc Khmer.

Bài viết của tác giả Trần Hồng Liên “Sự chuyển đổi tôn giáo trong

người Khmer ở Trà Vinh hiện nay” [66] trình bày khái quát sự chuyển đổi tôn

giáo trong người Khmer ở Trà Vinh. Đồng thời, nêu lên một số nguyên nhân

từ những biến đổi trong sinh hoạt của tu sĩ PGNTK đưa đến tình trạng cải đạo

và đưa ra dự báo xu hướng truyền đạo vào cộng đồng người Khmer thời gian

tới. Tác giả đã đưa ra một số suy nghĩ về hiện tượng cải đạo của người

Khmer: Do sự tiếp và giao lưu văn hóa từ bên ngoài đã làm cho phong tục tập

quán của người Khmer dần bị thay đổi, ngôi chùa ngày càng ít thanh niên

18

Khmer vào tu, một số vị sư cả đánh mất sự ảnh hưởng của mình đối với tín

đồ; Về phía các điểm nhóm Tin Lành chưa được cấp phép hoạt động, họ cần

có ngay một số lượng người theo đạo để có điều kiện được cấp phép nên tìm

mọi cách để lôi kéo người Khmer vào đạo; vẫn còn những bất cập trong việc

thực hiện chính sách nhà nước, đặc biệt là Chương trình 134, 135; Việc tu sĩ

Khmer ngày càng ít đi, trình độ Phật học và thế học có phần hạn chế là cơ hội

để các tôn giáo khác tạo sự ảnh hưởng đối với người Khmer.

Bài viết của Nguyễn Nghị Thanh “Vài nét về biến động của Phật giáo

Nam tông Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long” [87] gồm 3 phần: Đôi nét về

người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long; Những biến động trong lịch sử và

hiện tại của PGNTK ở đồng bằng sông Cửu Long; Một số nhận định và ý kiến

để giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống của PGNTK ở nước ta.

Tác giả đưa ra một vài nhận xét như sau: Địa bàn sinh sống của người

Khmer ở nước ta khá phức tạp nên việc tiếp xúc, gặp gỡ, trao đổi, dựng vợ gả

chồng với người Khmer Campuchia là không tránh khỏi, đây là điều kiện

thuận lợi để các tổ chức phản động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo nhằm

chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta. Trình độ nhận thức của

người Khmer đồng bằng sông Cửu Long còn hạn chế nên khó khăn trong việc

tiếp nhận, nắm bắt đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và

Nhà nước. Các cấp ủy Đảng và Nhà nước cần quan tâm tạo điều kiện thuận

lợi để cho đồng bào Khmer yên tâm sinh hoạt tôn giáo; hỗ trợ và giúp đỡ các

chùa tổ chức các lớp dạy và học chữ Khmer, chữ Pali; quan tâm đến việc tu

học của thanh thiếu niên Khmer; bảo tồn, gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa

dân tộc Khmer.

Bên cạnh đó, còn có các công trình sách của các tác giả như: Thạch Voi

(1988), Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam bộ, NXB Tổng hợp Hậu

Giang [108], trình bày về truyền thống văn hóa, các lễ, hội văn hóa, tín

19

ngưỡng, quá trình hình thành dân tộc Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long.

Trường Lưu (1993), Văn hóa người Khmer đồng bằng sông Cửu Long, NXB

Văn hóa dân tộc, trình bày khái quát về tín ngưỡng- tôn giáo, phong tục, tập

quán, lễ, hội, văn hóa, nghệ thuật âm nhạc và biểu diễn, nghệ thuật tạo hình

của người Khmer ở TNB. Đoàn Thanh Nô (2002), Người Khmer ở Kiên

Giang, NXB Văn hóa dân tộc, khảo tả về tên tộc người, dân số, phong tục, tập

quán, tín ngưỡng, tôn giáo, cư trú, sản xuất, họ người Khmer; văn hóa truyền

thống phi vật thể và vật thể; một số di tích lịch sử - văn hóa người Khmer tỉnh

Kiên Giang. Huỳnh Thanh Quang (2011), Giá trị văn hóa Khmer vùng Đồng

bằng sông Cửu long, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật. Tác giả trình bày khá

đặc sắc về những giá trị văn hóa, thực trạng và những vấn đề đặt ra trong phát

huy giá trị văn hóa, phương hướng và giải pháp nhằm phát huy giá trị văn hóa

Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn hiện nay…Tuy đây là

những công trình nghiên cứu sâu về văn hóa nhưng chúng tôi có thể vận

dụng làm tài liệu tham khảo các phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo,

kiến trúc, lễ, hội truyền thống của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu

Long để đưa ra các đặc điểm của dân tộc Khmer nói chung, đặc điểm của

PGNTK nói riêng.

Ngoài ra, chúng tôi cũng nghiên cứu các công trình, bài viết đăng tải

trên các tạp chí như: Phật giáo trong đời sống của người Khmer Nam bộ

của Phan An, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo số 5-2003; Phật giáo tiểu thừa

Khmer ở vùng nông thôn Đồng bằng sông Cửu Long: chức năng xã hội

truyền thống và động thái của xã hội của Nguyễn Xuân Nghĩa, Tạp chí

Nghiên cứu Tôn giáo số 5-2003. Phật giáo Nam tông Khmer trong bối

cảnh thống nhất và hội nhập của Phật giáo Việt Nam của Dương Nhơn,

Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo số 5-2008; Giáo dục truyền thống của người

Khmer (nghiên cứu ở xã Lương Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh),

20

Tạp chí Dân tộc học, số 4/2002; Đời sống đồng bào Khmer trên địa bàn

tỉnh Cà Mau của Danh Xương, Tạp chí Dân vận, số 6/2002; Nghiên cứu về

người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) của Phan An - Tạp

chí Dân tộc học, số 3 - 1985; Một số vấn đề về văn hóa tâm linh của người

Khmer hiện nay dưới góc độ tâm lý học của Hoàng Minh Đoàn, Tạp chí

Dân tộc học, số 4/2006; Đời sống văn hóa cơ sở ở Phum, Sóc Khmer của

Trần Văn Ánh, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 6/2008; Phật giáo Nam tông

Khmer tỉnh Kiên Giang và những vấn đề đáng quan tâm của Nguyễn Đức

Dũng và Danh Lắm, tạp chí nghiên cứu Ấn Độ và Châu Á số 4/2013; Văn

hóa Phật giáo của người Khmer Nam bộ của Cao Xuân Phổ, Tạp chí

Nghiên cứu Đông Nam Á số 2/2004.

Những công trình nêu trên nghiên cứu khá sâu ở một số khía cạnh về

PGNT trong quá trình hội nhập và phát triển, và đi sâu vào tìm hiểu về người

Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long cũng như đời sống văn hóa, giáo dục

truyền thống của người Khmer Nam Bộ. Dưới những góc độ khác nhau các

công trình trên đã đề cập nhiều khía cạnh liên quan đến văn hóa Khmer, vai

trò ảnh hưởng của Phật giáo Khmer Nam bộ đối với đời sống của Nhân dân

đồng bằng sông Cửu Long. Qua đó, đã khái quát được bức tranh khá toàn

diện về đặc điểm tự nhiên, lịch sử hình thành vùng đất và nơi cư trú, sinh hoạt

các dân tộc ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, giúp chúng tôi có nhiều tài liệu

để tham khảo. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào đi vào

nghiên cứu về vai trò của tu sĩ PGNT trong đời sống xã hội của người Khmer ở

vùng TNB.

Nhìn chung, dưới những góc độ khác nhau, các công trình nghiên cứu

của các tác giả đã khái quát được bức tranh khá toàn diện về đặc điểm tự

nhiên, lịch sử hình thành vùng đất; nơi cư trú, sinh hoạt của các dân tộc ở

vùng đồng bằng sông Cửu Long; các tác giả đã cập đến nhiều khía cạnh liên

21

quan đến đồng bào Khmer và vai trò ảnh hưởng của PGNTK đối với đời sống

xã hội của người Khmer ở Nam Bộ. Đây là những công trình góp phần tác

động và có tầm ảnh hưởng rộng đối với công chúng; là những công trình rất

bổ ích, giúp chúng tôi được tiếp cận tìm hiểu, nghiên cứu, tổng hợp và chắc

lọc các kết quả đã nghiên cứu để kế thừa hoàn thiện đề tài luận án.

1.1.3. Những vấn đề đặt ra cần nghiên cứu

Đề tài luận án “Vai trò của tu sĩ Phật giáo Nam tông trong đời sống xã

hội của người Khmer ở Tây Nam Bộ hiện nay” là bước nghiên cứu phát triển

tiếp theo của đề tài luận văn thạc sĩ “Vai trò của sư sãi Phật giáo Nam tông

trong đời sống xã hội của người Khmer ở thành phố Cần Thơ hiện nay” tại

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, ở cấp độ cao học, luận

văn chủ yếu dừng lại ở việc khảo tả vấn đề trong phạm vi hẹp của một địa

phương mà chưa đi sâu luận giải vấn đề mang tính lý luận. Mặt khác, vai trò

của tu sĩ PGNT trong đời sống xã hội của người Khmer ở TNB hiện nay chưa

được nghiên cứu một cách hệ thống và mang tính chuyên đề nên có rất nhiều

vấn đề còn bỏ ngõ cần phải tiếp tục nghiên cứu làm rõ. Để thực hiện được đề

tài này chúng tôi tìm hiểu, nghiên cứu các nội dung sau:

Một, vận dụng những phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc, tôn giáo.

Hai, tiếp tục tìm hiểu vai trò của tu sĩ PGNTK trong đời sống xã hội của

người Khmer ở TNB; đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm giúp các vị tu sĩ

PGNTK tiếp tục phát huy vai trò của mình trong bối cảnh hội nhập quốc tế

như hiện nay.

Mặt khác, để thực hiện đề tài luận án “Vai trò của tu sĩ Phật giáo Nam

tông trong đời sống xã hội của người Khmer ở Tây Nam Bộ hiện nay”, chúng

tôi tập trung nghiên cứu có hệ thống để trả lời các câu hỏi sau:

Một, đặc điểm và tình hình PGNTK ở TNB hiện nay như thế nào?

22

Hai, vai trò của tu sĩ PGNTK đối với đời sống xã hội trong cộng đồng

người Khmer ở TNB hiện nay ra làm sao?

Ba, những vấn đề cần giải quyết trong hoạt động của tu sĩ PGNTK hiện nay?

Bốn, giải pháp nào để tu sĩ PGNTK tiếp tục phát huy vai trò của mình

đối với cộng đồng người Khmer trong bối cảnh như hiện nay?

1.1.4. Giả thuyết nghiên cứu

Một, tu sĩ PGNTK thực sự có vai trò đối với cộng đồng người

Khmer không?

Hai, phải chăng, hoạt động của tu sĩ PGNTK đang có những những vấn

đề bất cập cần giải quyết?

Ba, cần phải có chính sách đặc thù gì đối với tu sĩ PGNTK để các tu sĩ có

điều kiện phát huy vai trò của mình trong cộng đồng người Khmer?

1.2. MỘT SỐ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU

1.2.1. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Nghiên cứu liên ngành là vận

dụng, sử dụng tri thức của nhiều môn khoa học để làm rõ các vấn đề đặt ra

thông qua các câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu đề tài: “Vai trò của tu sĩ

Phật giáo Nam tông trong đời sống xã hội của người Khmer ở Tây Nam Bộ

hiện nay”.

- Phương pháp hệ thống - cấu trúc: Hệ thống - cấu trúc là nhằm tiếp

cận hệ thống đi từ chỉnh thể đến các thành tố hợp thành. Qua đó, phân tích

cấu trúc tôn giáo của PGNTK qua đặc điểm tôn giáo, xu hướng phát triển theo

quy luật trong một chỉnh thể thống nhất nhàm làm rõ thực trạng hoạt động, xu

hướng hoạt của tu sĩ PGNTK.

- Phương pháp phân tích tài liệu: Phân tích tài liệu là sử dụng những

thông tin trong tài liệu để rút ra những thông tin cần thiết đáp ứng mục tiêu

nghiên cứu của đề tài; phương pháp này thu thập thông tin gián tiếp, không

23

tiếp xúc với đối tượng khảo sát, chủ yếu được thực hiện trong thư viện, thư

phòng. Bên cạnh đó, với sự bùng nổ của khoa học công nghệ giúp nguồn

thông tin thêm đa dạng, phong phú sẽ là điều kiện thuận lợi cho chúng tôi dễ

dàng thu thập và xử lý thông tin.

1.2.2. Cơ sở lý thuyết

Tôn giáo là một thể văn hóa thống nhất nhiều tầng diện và là hiện

tượng văn hóa - xã hội khá phức tạp; có quan hệ chặt chẽ đến sự vận động

biến đổi của văn hóa tinh thần nên chuyên ngành Tôn giáo học hiện nay sử

dụng rất nhiều lý thuyết trong quá trình nghiên cứu. Tuy nhiên trong luận án

này, chúng tôi chủ yếu sử dụng một số lý thuyết để vận dụng phân tích các

vấn đề tương ứng, phù hợp với đề tài như sau:

Chúng tôi vận dụng phương pháp luận, quan điểm của chủ nghĩa Mác -

Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc, tôn giáo để phân tích và lý giải

những vấn đề đặt ra trong đề tài luận án nhằm làm rõ hơn vai trò của PGNTK

nói chung, tu sĩ PGNTK nói riêng trong đời sống xã hội ở vùng TNB.

- Sử học tôn giáo: Sử học tôn giáo có mối quan hệ mật thiết với sử học,

khảo cổ học; nó nghiên cứu tôn giáo thông qua mô tả lịch sử, khảo sát ngôn

ngữ, thực tiễn khảo cổ. Sử học tôn giáo là xuất phát từ lịch sử phát triển mà

tôn giáo đã trải qua để nhận thức về bản chất tôn giáo; nhiệm vụ của nó là

nghiên cứu sự thật lịch sử của các loại tôn giáo, vạch ra con đường phát triển

lịch sử của nó. Chúng tôi sử dụng lý thuyết này để chiếu rọi những sự kiện

lịch sử đã diễn ra trong quá trình tồn tại và phát riển của PGNTK trên vùng

đất Nam Bộ - Việt Nam.

- Xã hội học tôn giáo: Xã hội học tôn giáo cho rằng tôn giáo chính là

nhân tố kết cấu của xã hội loài người có nội dung hết sức hiện thực. Xã hội

học tôn giáo khi lý giải tôn giáo thường sử dụng chức năng (thuyết chức

năng), nhấn mạnh chức năng, tác dụng của tôn giáo trong đoàn thể xã hội. Sử

24

dụng lý thuyết này, chúng tôi chủ yếu quan tâm đến chức năng xã hội của

PGNTK nói chung, tu sĩ PGNTK nói riêng đối với cộng đồng người Khmer ở

Nam Bộ - Việt Nam.

1.2.3. Khung lý thuyết nghiên cứu

1.2.3.1. Lý thuyết thực thể tôn giáo

Nghiên cứu bài viết “Tiếp cận hệ thống về thực thể tôn giáo: Một cách

nhìn khác về tôn giáo”, Nghiên cứu tôn giáo, số 3 (129) phát hành năm 2014

của tác giả Nguyễn Quốc Tuấn, chúng tôi nhận thấy: Khái niệm thực thể tôn

giáo đã được giới nghiên cứu ở Phương Tây đề cập đến từ khá lâu, nhưng nó

mới được sử dụng trong những thập niên gần đây. Năm 1992, khái niệm

“thực thể tôn giáo”, xuất hiện trong cuốn sách cùng tên của Jean

Deelumeau và trở thành đề tài tranh luận sôi nổi trong giới học thuật pháp

và Châu Âu (Đức, Bỉ. Năm 2002, Régis Débray công bố bài: Thực thể tôn

giáo: các định nghĩa và vấn đề làm rõ hơn thuật ngữ thực thể tôn giáo và

chỉ ra ba đặc tính của nó: (1) Là thực thể nhận biết và thừa nhận của tất cả

mọi người; (2) Là thực thể không bị xét đoán về bản chất, trạng thái luân lý

và đạo đức cũng như nhận thức lý luận khi thừa nhận; (3) là thực thế mang

tính toàn thể.

Tại Việt Nam, qua bài viết “Một số lý thuyết nghiên cứu tôn giáo

đương đại” Nghiên cứu tôn giáo, số 02 (170), 2018 của tác giả Nguyễn Phú

Lợi cho rằng: Trước đây cách tiếp cận của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề

tôn giáo chủ yếu dưới góc độ là hình thái ý thức xã hội, thậm chí còn đồng

nhất tôn giáo với ý thức hệ. Một ví dụ điển hình là trong tập bài giảng về tín

ngưỡng, tôn giáo dành cho lớp cao cấp lý luận chính trị của Học viện Chính

trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1997, viết: “Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng

về bản chất, tôn giáo chỉ là hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã

hội”..Sau khi có sự đổi mới về công tác tôn giáo (đánh dấu bằng sự ra đời

25

Nghị quyết số 24 của Bộ Chính trị); vấn đề tôn giáo được nhận thức lại rằng:

tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã hội mà còn là một thực thể xã

hội đúng theo tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin. Việc nghiên cứu tôn giáo

với tư cách là một thực thể xã hội của giới nghiên cứu ở Việt Nam qua hai

giai đoạn gắn với hai mô hình lý thuyết “tứ tố” (bốn yếu tố) và lý thuyết “ ngũ

tính” (năm tính chất). Cụ thể như sau:

Mô hình lý thuyết “tứ tố”: Đặng Nghiêm Vạn là người đầu tiên coi tôn

giáo là một “thực thể” khách quan của xã hội trong cuốn Bước đầu tìm hiểu

đạo Cao Đài, xuất bản năm 1995. Theo ông, quan điểm này đã được K. Marx

khẳng định qua luận điểm nổi tiếng: “Nhà nước ấy, xã hội ấy sản sinh ra tôn

giáo” và được các nhà tôn giáo học quyền uy như M. Weber, É.Durkhiem

thừa nhận. Theo tác giả, sở dĩ coi tôn giáo là một thực thể xã hội, bởi vì nó

“mang tính cộng đồng, tính xã hội”. Hơn nữa, ông còn cho rằng: “Trong tôn

giáo có vấn đề ý thức hệ, nhưng cũng không hẳn chỉ là ý thức hệ, mà còn gắn

với văn hóa với lối sống của nhà tôn giáo học dân tộc, từng khu vực”. Tán

thành quan điểm của nhà tôn giáo học người Pháp Y.Lambert, và người tôn

giáo học ngưới Nga, G.V.Plekhanov, tác giả Đặng Nghiêm Vạn cho rằng một

tôn giáo gồm có bốn yếu tố cấu thành: “có một niềm tin, một nội dung, những

nghi thức, những quy chế về tổ chức, những kiêng cử của nó”. Ông viết:

“một tôn giáo nào cũng bao gồm một hệ thống niềm tin, được hình thành

do những tình cảm thông qua những hành vi tôn giáo biểu hiện rất khác

nhau,…được quy định bởi một nội dung mang tính siêu thực (hay siêu

nghiệm), nhằm tập hợp những thành viên thành một cộng đồng có tính xã

hội”. Theo tác giả, một cộng đồng tôn giáo bao giờ cũng có hai bộ phận:

những người quản lý điều hành theo thiết chế được định ra (tổ chức quản lý

hay gọi là tổ chức giáo hội) và những tín đồ thường. Thuyết “tứ tố” (tức

bốn yếu tố: niềm tin, nội dung hay giáo lý, giáo luật; nghi lễ hay thực hành

26

đức tin và cộng đồng) trên đã được tác giả phân tích khá sâu sắc trong cuốn

sách Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam do Nhà xuất bản

Chính trị quốc gia ấn hành năm 2003.

Quan điểm trên được hầu hết giới nghiên cứu trong nước thừa nhận và đã

được dựa vào giảng dạy từ nhiều năm nay. Tập Đề cương bài giảng về tín

ngưỡng và tôn giáo (cùng cho các lớp bồi dưỡng kiến thức lý luận về tín ngưỡng

và tôn giáo (dùng cho các lớp bồi dưỡng kiến thức lý luận về tín ngưỡng và tôn

giáo) của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1997, viết: “Tôn giáo

là hình thái ý thức xã hội, đồng thời cũng là một thực thể xã hội”. Cuốn những

đặc điểm cơ bản của một số tôn giáo lớn ở Việt Nam viết: “Tôn giáo vừa là một

hình thái ý thức xã hội, vừa là một hình thể xã hội. Với tư cách là một hình thái ý

thức xã hội, tôn giáo luôn phản ánh tồn tại xã hội”. Tập bài giảng dành cho hệ

đào tạo lý luận chính trị của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh từ năm

2001 đến nay đều viết “Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, về bản chất, tôn giáo

không chỉ là hình thái ý thức xã hội mà còn là một thực thể xã hội”.

Nhìn chung, cách tiếp cận lý thuyết “thực thể tôn giáo” để nghiên cứu

đã khắc phục được cách nhìn nhận phiến điện về tôn giáo trên phương diện là

một “hình thái ý thức xã hội”. Mặc dù cách tiếp cận tôn giáo theo thuyết thực

thể với bốn yếu tố (niềm tin; giáo lý, giáo luật; nghi lễ và tổ chức) này được

giới khoa học Việt Nam và luật pháp Việt Nam thừa nhận phổ biến. Tuy

nhiên, nó chưa được làm rõ về mặt lý thuyết. Nói cách khác tiếp cận tôn giáo

theo thuyết “bốn yếu tố”, trên thực tế mới chỉ dừng lại ở việc chỉ ra các cấu

trúc trong cấu thành của một tôn giáo, nghĩa là cái nội tại bản thân tôn giáo

chứ chưa thấy được tôn giáo là một tiểu hệ thống bên cạnh các tiểu hệ thống

khác của tổng thể xã hội.

Mô hình thuyết “ngũ tính”: Trước đây, tôn giáo được nhìn nhận tôn

giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã hội nhưng nghiên cứu tôn giáo ở

27

Việt Nam đã có quan điểm đổi mới với việc nhìn nhận tôn giáo là một thực

thể xã hội đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhận thức xã hội, về vấn

đề tôn giáo đã được nâng cao. Thậm chí ngày nay không chỉ người ta nhìn

nhận tôn giáo với tư cách là “một thực thể khách quan của xã hội”. Mà còn là

“một một nguồn lực trí tuệ”, “một nguồn lực xã hội”, “một nguồn vốn xã hội”

có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, xã hội. Rõ ràng, với cách

nhìn nhận như vậy thì việc tiếp cận tôn giáo theo thuyết “tứ tố” sẽ không thỏa

mãn được yêu cầu, đòi hỏi của tôn giáo trong xã hội hiện đại. Vì thế, một số

nhà tôn giáo học đặt lại vấn đề cần có cách tiếp cận thực thể tôn giáo một

cách thực tế hơn và rộng lớn hơn. Người nêu lên vấn đề này là tác giả Nguyễn

Quốc Tuấn, khi ông cho rằng, việc nhìn nhận tôn giáo là một thực thể khách

quan của xã hội đã được các nhà khoa học Việt Nam như Đặng Nghiêm Vạn,

Nguyễn Duy Hinh đề cập tới, nhưng chưa làm rõ nội hàm của nó.

Từ cách đặt vấn đề đó, qua các bài viết: Tiếp cận hệ thống về thực thể

tôn giáo và triển khai lý thuyết thực thể tôn giáo đăng trên tạp chí nghiên cứu

Tôn giáo số tháng 3 và tháng 10 năm 2014, dựa vào các công trình nghiên cứu

lý luận của các học giả Phương Tây, Nguyễn Quốc Tuấn đã làm rõ nội hàm lý

thuyết thực thể tôn giáo. Theo đó một thực thể tôn giáo được xem là một tiểu

hệ thống trong tổng thể xã hội, bao gồm năm đặc tính (ngũ tính), để phân biệt

nó với thực thể xã hội khác theo hai chiều thời gian và không gian, một thuộc

về lịch sử và bốn thuộc về thiết chế xã hội.

Theo đó, thực hiện tôn giáo vừa là một thực thể lịch sử (hay tính lịch

sử), đồng thời là một thực thể xã hội với bốn đặc tính: tính tập thể, tính vật thể

hay tính tài liệu, tính biểu tượng, và tính trải nghiệm và nhạy cảm. Năm đặc

tính đó đều song tồn không thể chia tách hay phân biệt theo thứ tự thời gian

lẫn vị trí không gian cao thấp như một thực thể xã hội. Chúng tạo thành một

hệ thống trong tổng thể xã hội. Theo tác giả một xã hội có thể chia làm năm

28

tiểu hệ thống cơ bản: (1) kinh tế, (2) văn hóa, (con người sáng tạo), (3) nhà

nước - thể chế chính trị, (4) tôn giáo (tâm linh), (5) hệ sinh thái và môi

trường. Năm tiểu hệ thống này không tồn tại riêng rẽ mà chúng có sự liên hệ,

tương tác và xung đột, biểu lộ bằng sự cân bằng hoặc mất cân bằng tùy thời

điểm và không gian lịch sử. Năm tiểu hệ thống này đến lượt nó lại là một hệ

thống của các hệ thống dưới cho đến các hệ thống vi mô, có nghĩa, chỉnh thể

xã hội là một cấu trúc tổng thể mà mỗi hệ thống nhỏ hơn là một thực thể xã

hội của tổng thể.

Như vậy, thực thể tôn giáo là một khái niệm dùng để chỉ toàn bộ thực

thể tôn giáo tồn tại trong lịch sử đồng thời là một thiết chế và kết cấu của đời

sống xã hội, chịu tác động từ các mối quan hệ và tương tác với các thiết chế

xã hội khác. Thực thể xã hội là một tiểu hệ thống có vai trò trong hệ thống xã

hội tổng thể, có một cấu trúc riêng so với các tiểu hệ thống khác, nhưng có

quan hệ tương tác (cả chiều thuận lẫn chiều nghịch) đối với các tiểu hệ thống

khác: tôn giáo và chính trị, tôn giáo và kinh tế, tôn giáo và giáo dục, tôn giáo

và sức khỏe…Khi xác định tôn giáo như một thực thể xã hội gồm “ngũ tính”

(5 tính chất): tính lịch sử, tính tập thể, tính vật chất, tính biểu tượng, tính trải

nghiệm và nhạy cảm, có nghĩa là một thực thể tôn giáo, nhìn theo hệ thống

luận là một tiểu hệ thống của tổng thể xã hội. Ở cấp độ tiểu hệ thống, có thể

coi thực thể tôn giáo được phân tích như một tổng thể xã hội, nhưng tự thân,

nó cũng là một cấu trúc được vận hành trên bốn nguyên tắc tương tác với các

tiểu hệ thống khác như một quan hệ chỉnh thể, trên cơ sở tổ chức của chính nó

và của cả hệ thống xã hội, trong mối quan hệ nhân quả và đan chéo, phức tạp,

làm nên phức hợp tôn giáo - văn hóa - chính trị của tổng thể xã hội.

Như vậy, lý thuyết thực thể tôn giáo đã và đang được áp dụng nghiên

cứu ở Việt Nam hiện nay bao gồm hai mô hình: mô hình thuyết “tứ tố” và mô

hình thuyết “ngũ tính”. Đây không phải là hai mô hình tách biệt nhau, mà là

29

sự tiếp nối trong nghiên cứu nhằm làm rõ hơn tôn giáo với tư cách là một thực

thể xã hội. Nghiên cứu thực thể tôn giáo theo thuyết “tứ tố” sẽ có điều kiện đi

sâu làm rõ các yếu tố tạo thành cái tôn giáo nói chung hay của một tôn giáo cụ

thể nói riêng. Trong khi, nghiên cứu thực thể tôn giáo cụ thể nói riêng. Trong

khi, nghiên cứu thực thể tôn giáo theo thuyết “ngũ tính” sẽ có điều kiện đi sâu

làm rõ các yếu tố tạo thành tôn giáo với tư cách là tiểu hệ thống trong các mối

quan hệ với các thực thể xã hội khác (kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, môi

trường), của tổng thể xã hội. Hai mô hình lý thuyết này đã và đang được

nghiên cứu để bổ trợ cho nhau góp phần nghiên cứu sâu hơn về tôn giáo nói

chung và phát huy giá trị tích cực của tôn giáo nói riêng cho sự nghiệp phát

triển đất nước.

1.2.3.2. Lý thuyết thế tục hóa

Nghiên cứu bài viết của tác giả Nguyễn Phú Lợi “Một số lý thuyết

nghiên cứu tôn giáo đương đại” trên tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 02

(170), 2018, trang 3-20, chúng tôi nhận thấy rằng: Thế tục hóa là thuật ngữ do

giới nghiên cứu tôn giáo Phương Tây sử dụng nhằm chỉ một xu hướng về con

người, về thế giới trần gian, thế giới hiện tại của con người. Thế tục hóa xuất

hiện cùng với phong trào Cải cách tôn giáo, đặc biệt từ trào lưu thế kỷ Ánh sáng

với các nhà tư tưởng khẳng định sự thắng thế của khoa học đối với thần học.

Những nhà tư tưởng lớn của thế kỷ 19,20, như: Auguste Comte,

Herbert Spencer, Karl Marx, Émile Durkheim, Max Weber, và

Sigmund Freud, tất cả đều tin rằng với sự phát triển của xã hội công

nghiệp, tôn giáo sẽ mất dần tầm quan trọng và sẽ không còn có ý nghĩa

đối với xã hội hiện đại. Lý thuyết thế tục hóa về sự suy tàn của tôn

giáo tập trung vào hai luận điểm chính: Một là, sự hình thành một thế

giới quan duy lý dẫn đến sự xói mòn niềm tin tôn giáo. Hai là, sự

chuyên biệt hóa chức năng xã hội trong xã hội công nghiệp dẫn đến sự

30

suy yếu chức năng của các tổ chức tôn giáo đối với đời sống xã hội và

hệ lụy của nó là sự suy yếu của chính tôn giáo [60].

Tuy nhiên, theo quan điểm của các nhà lý luận của thuyết thế tục hóa

đương đại, thế tục là sự chuyển giao quyền lực từ tổ chức tôn giáo cho tổ chức

thế tục, bao gồm hai khía cạnh: chủ quan và khách quan. Khía cạnh chủ quan

liên quan đến tư tưởng tôn giáo, cảm giác và hình ảnh thu được từ sự hiểu biết

về sự vật trên thế giới khiến cho tôn giáo không còn tồn tại như một lực lượng

độc lập, hoặc chỉ giới hạn ở sự thờ phụng cái siêu việt trừu tượng. Điều đó

dẫn đến tình trạng con người thực hiện các nghĩa vụ, giải quyết và tổ chức

cuộc sống hàng ngày không cần đến thần thánh. Nói đúng hơn là con người

đã dành lại vị trí trung tâm thay vì Chúa để có thể quyết định vận mệnh của

mình. Về khách quan, thế tục hóa là quá trình bộ máy tôn giáo, các tổ chức và

nghi lễ tôn giáo đi váo cuộc sống công cộng như trong giáo dục, lập pháp,

hành chính và chính phủ. Nó làm giảm bớt vai trò của giới luật và nghi thức

tôn giáo trong hoạt động hằng ngày của cá nhân và nhóm xã hội. Như vậy

theo quan điểm thế tục mới, trong khi nhận thấy sự gia tăng ổn định của thế

tục hóa, nó vẫn nhấn mạnh đến sự tác động của tôn giáo đến xã hội hiện đại ở

những mức độ đậm nhạt khác nhau.

Tại Việt Nam, lý thuyết thế tục hóa đã được giới nghiên cứu áp dụng từ

lâu trong nghiên cứu tôn giáo và đã đạt được những thành tựu nhất định. Theo

Nguyễn Thị Minh Ngọc, lý thuyết thế tục hóa đương đại có ba mô hình chủ

đạo. Mô hình thứ nhất cho rằng, trong xã hội hiện đại, các giá trị tôn giáo

không nhất thiết làm cho tôn giáo suy giảm trong xã hội, mà nó vẫn có vai trò

nhất định trong xã hội hiện đại. Mô hình thứ ba: thế tục hóa là sự tự giới hạn

mở đường cho sự hồi sinh hoặc đổi mới tôn giáo mà là cho người có đức tin

gắn ý tưởng và thực hành tôn giáo của họ với thế giới trần tục nhằm khẳng

định tầm quan trọng của sự linh thiêng.

Nhìn chung, lý thuyết thế tục hóa đương đại xem xét tôn giáo ở hai góc

31

độ: thứ nhất, sự suy giảm quyền lực tôn giáo trong đời sống cá nhân, thể hiện

ở sự suy giảm niềm tin tôn giáo giáo cá nhân, giảm sút sự tham gia hoạt động

tôn giáo cá nhân diễn ra khá phổ biến trên thế giới. Thứ hai, tôn giáo hòa nhập

vào đời sống xã hội. Thế tục hóa diễn ra hai phương diện: về thể chế là sự

tách tôn giáo khỏi chính trị (nhà nước), khỏi các lĩnh vực công, và trong thực

hành niềm tin tôn giáo là sự giảm bớt tính thiêng, nhập thế sâu hơn vào đời

sống xã hội. Thế tục hóa còn diễn ra trên ba cấp độ: cá nhân, tổ chức và xã

hội. Ở cấp độ cá nhân, là sự giảm sút thực hành tôn giáo và niềm tin truyền

thống, được thể hiện ở những mức độ khác nhau của các chiều kích tôn giáo

khác nhau. Ở cấp độ tổ chức, thể hiện sự tác động của các định chế và ứng xử

xã hội vào tôn giáo. Ở cấp độ xã hội, là quá trình tách nhà nước (chính trị),

giáo dục, luật pháp, kể cả đạo đức khỏi giáo hội, nhà thờ tôn giáo, tôn giáo.

Tóm lại, lý thuyết thế tục hóa đương đại đưa ra một “mô hình mới”,

theo đó, tôn giáo không còn chiếm ưu thế trong xã hội hiện đại, song nó cũng

không bị mất đi hoàn toàn. Thế tục hóa không phải là quá trình đơn hướng mà

là một quá trình đa hướng và phức tạp, trong khi xuất hiện một số hiện tượng

chứng tỏ sự suy giảm của tôn giáo, cũng xuất hiện các hiện tượng ngược lại,

điển hình là sự xuất hiện và bùng phát của các hiện tượng tôn giáo mới.

Những biến đổi và sự đa dạng của tôn giáo trong quá trình thế tục hóa, một

mặt thể hiện sự suy giảm sự ảnh hưởng của tôn giáo trong đời sống xã hội,

mặt khác chứng tỏ tôn giáo đang tự điều chỉnh để thích nghi với xã hội hiện

đại. Thế tục không làm cho tôn giáo mất đi, nhưng diện mạo của nó có nhiều

thay đổi, xuất hiện định hướng giá trị đa dạng, cục diện tôn giáo thống trị bị

thay đổi bởi trạng thái đa dạng háo, tạo cơ hội cho các tôn giáo, nhất là tôn

giáo nhóm nhỏ bình đẳng trước nhà nước (pháp luật) các tổ chức tôn giáo ứng

xử với nhau trên tinh thần khoan dung và tự do cạnh tranh, tôn giáo không chỉ

32

mất đi sự độc quyền cung cấp các gái trị mà còn phải cạnh tranh với các tổ

chức phi tôn giáo trong xã hội hiện đại.

1.3. MỘT SỐ THUẬT NGỮ ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN

- Thuật ngữ “Vùng”: Vùng là thuật ngữ địa lý được sử dụng theo nhiều

cách khác nhau tùy theo từng ngành khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi

nghiên cứu của đề tài luận án, khái niệm Vùng hoặc Vùng TNB) được hiểu: là

diện tích trung bình của một vùng đất... hoặc theo cách hiểu thông thường,

một vùng là một bộ phận giới hạn của không gian trái đất.

- Khái niệm “Tôn giáo”: Thuật ngữ “Tôn giáo” có rất nhiều định nghĩa,

Từ Điển Tôn Giáo của tác giả Marguerite-Marie Thiollier, do Lê Diên dịch từ

nguyên bản tiếng Pháp, đã đưa ra định nghĩa về tôn giáo như sau: Tôn giáo

bao hàm, một mặt, một sự tìm kiếm sự thật về nguồn gốc của thế giới và

cứu cánh của nó, về nguồn gốc con người và những quan hệ của nó với

thần thánh, mặt khác, một tập hợp những tín ngưỡng, một nhu cầu thương

yêu và xúc cảm, một quan hệ hài hòa giữa vũ trụ vi mô và vũ trụ vĩ mô; nó

là sự thể hiện của cái thiêng và sự tổ chức những nghi thức cá nhân và xã hội

theo định chế.

Tại Việt Nam, thuật ngữ “tôn giáo” được định nghĩa rất ngắn gọn trong

Luật Tín ngưỡng, tôn giáo như sau: “Tôn giáo là niềm tin của con người tồn

tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý,

giáo luật, lễ nghi và tổ chức” [75, tr.08].

- Khái niệm “Phật giáo”: Phật giáo là một “tôn giáo” được thiết lập nên

bởi đức Phật Thích Ca, vì phúc lợi của chúng sanh, vì hạnh phúc của chúng sanh

và vì sự tiến bộ của thế giới con người nhằm hướng dẫn và phát triển con người

bằng cách làm cho thân tâm trong sạch (thông qua con đường đạo đức); làm cho

thân tâm bình lặng (thông qua con đường thiền tập), và làm khai sáng tâm linh

con người (thông qua con đường trí tuệ). Phật giáo là một tôn giáo chủ trương

33

sự thực hành của chính bản thân mỗi người. Chỉ có mình mới thực hành mình,

giải quyết vấn đề tâm linh và những đau khổ của mình và chính mình giải

thoát cho mình. Và sau đó, giúp đỡ người khác đi theo con đường đạo vì lòng

từ bi và để tu dưỡng thêm lòng từ bi đối với họ.

- Khái niệm “hệ phái Nam tông” và “hệ phái Bắc tông”: Tên gọi Nam

tông, Bắc tông đã cho thấy sự khác biệt rõ nét của hai tông phái Phật giáo lớn

nhất tại Việt Nam. Tuy nhiên, dù có sự khác biệt về cách thức tu tập, giáo lý,

nhưng Nam tông và Bắc tông vẫn có sự tương đồng cơ bản. Điều này cho

thấy, Phật giáo cho dù có phân chia về hình thức, nhưng vẫn chung một tôn

chỉ, đó là sự giác ngộ tuyệt đối để thoát khỏi sự luân hồi, thoát khỏi vòng sinh

tử. Những điểm tương đồng của hai hệ phái có thể tóm tắt như sau:

Một là, cả Nam tông và Bắc tông đều nhìn nhận Đức Phật là bậc đạo

sư, là người thầy đầu tiên của Phật giáo. Đức Phật là người khai ngộ trí tuệ

cho con người, chỉ ra cho con người con đường giác ngộ, từ bỏ được sân si để

đi đến giải thoát; là một nhà tư tưởng chứ không phải là một vị thần có nhiều

quyền năng.

Hai là, cả hai tông phái đều phủ nhận về đấng tối cao sáng tạo và ngự

trị thế giới. Điều này khác với nhiều tôn giáo hữu thần khác. Vì vậy, nhiều ý

kiến cho rằng, Phật giáo là một hệ tư tưởng triết học chứ không phải là một

tôn giáo, hoặc đó là tôn giáo vô thần.

Ba là, Nam tông hay Bắc tông đều chấp nhận và hành trì giáo lý Tứ

thánh đế, Bát chánh đạo, Duyên khởi, Thập nhị nhân duyên…; đều chấp nhận

Tam pháp Ấn: khổ, không, Vô ngã; đều chấp nhận con đường tu tập: Giới,

Định, Tuệ.

Sự tương đồng giữa Bắc tông và Nam tông là nền móng căn bản của

của giáo lý nhà Phật, là cơ sở tất yếu để hai hệ phái tồn tại và phát triển.

Nhưng theo sự phát triển của mình, hai hệ phái với sự khác biệt mà phần lớn

về bề nổi, đã bộc lộ rõ những ưu điểm cũng như hạn chế của mình.

34

- Khái niệm “Đời sống xã hội”: Khi bàn đến về thuật ngữ “đời sống xã

hội”, tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu mà cách tiếp cận đưa ra những luận

giải thích khác nhau về thuật ngữ này. Tuy nhiên, thuật ngữ “Đời sống xã

hội” cũng đã có rất nhiều tài liệu đã đề cập đến; cụ thể theo tác giả Lương

Văn Úc có quan niệm rằng:

Đời sống xã hội được hiểu là tổng thể các hiện tượng phát sinh do sự

tác động lẫn nhau của các chủ thể xã hội và cộng đồng tồn tại trong

những không gian nhất định, là tổng thể hoạt động của xã hội nhằm

đáp ứng các nhu cầu của con người. Thông qua các hoạt động của các

bộ phận cấu trúc xã hội, mỗi cá nhân bằng nổ lực của mình tạo dựng

cuộc sống riêng cho mình. Cuộc sống của cá nhân trước hết phụ thuộc

vào chính bản thân họ như: sức khỏe, trí thông minh, nhân cách, sự

cần cù, bền bỉ trong học tập và lao động, các đặc tính tâm lý cá nhân.

Tiếp đó phụ thuộc vào môi trường và hoàn cảnh xã hội như: gia đình,

xóm làng, nhà trường, các tổ chức xã hội, chế độ chính sách và pháp

luật của Nhà nước, sự phát triển kinh tế xã hội và các điều kiện sống

và làm việc [85, tr.192].

Trong phạm vi đề tài, chúng tôi hiểu: Đời sống xã hội là tổng thể các

hiện tượng phát sinh do sự tác động lẫn nhau của các chủ thể xã hội và cộng

đồng tồn tại trong những không gian và thời gian nhất định, là tổng thể hoạt

động của xã hội nhằm đáp ứng các nhu cầu của con người. Theo cách hiểu

này, đời sống xã hội là một phạm trù rất rộng lớn, nhưng trong phạm vi luận

án, chúng tôi tiếp cận đời sống xã hội trên 03 phương diện cơ bản đó là: đời

sống kinh tế - xã hội, đời sống chính trị và đời sống văn hóa - xã hội, cụ thể

như sau:

Đời sống kinh tế - xã hội: bao gồm tổng thể các điều kiện về kinh tế -

xã hội, hệ thống các chính sách kinh tế, chính sách xã hội cũng như quá trình

35

triển khai thực hiện, áp dụng chúng trong thực tế xã hội. Nền kinh tế - xã hội

phát triển năng động, bền vững sẽ là điều kiện thuận lợi cho việc đảm bảo đời

sống vật chất, tinh thần cho các tầng lớp nhân dân. Ngược lại, khi nền kinh tế

- xã hội phát triển chậm, thiếu bền vững sẽ có ảnh hưởng tiêu cực tới chất

lượng cuộc sống cho đối tượng này.

Đời sống chính trị: là toàn bộ các yếu tố tạo nên đời sống chính trị của

đất nước nói chung, của mỗi địa phương nói riêng ở từng giai đoạn lịch sử

nhất định, gồm đời sống chính trị, hệ thống các chuẩn mực chính trị, chủ

trương, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, của các cấp ủy

Đảng ở địa phương và quá trình tổ chức thực hiện chúng; các quan hệ chính

trị và ý thức chính trị; hoạt động của hệ thống chính trị; cùng với đó nền dân

chủ xã hội và bầu không khí chính trị - xã hội.

Đời sống văn hóa - xã hội: là môi trường gắn liền với một phạm vi

không gian - xã hội nhất định, nơi các cá nhân và cộng đồng xã hội tổ chức

các hoạt động sống, lao động, sinh hoạt, cùng nhau tạo dựng, thừa nhận và

chia sẻ các giá trị văn hóa, ngôn ngữ, lối sống, phong tục, tập quán, tôn giáo,

tín ngưỡng.

- Khái niệm“tu sĩ”: Nghiên cứu Luật Tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam

chúng tôi không thấy đề cập đến thuật ngữ “tu sĩ” mà chỉ đề cập đến “nhà tu

hành”. Do đó, khi nghiên cứu tài liệu Bách khoa toàn thư mở có định nghĩa:

“Tu sĩ hay nhà tu hành, thầy tu là người tu dưỡng tôn giáo khổ hạnh, sống

một mình hoặc với một nhóm các thầy tu khác trong tu viện. Thầy tu có thể là

người cống hiến cuộc đời mình để phụng sự chúng sinh hoặc là một người tu

hành khổ hạnh tránh xa trần thế để sống cuộc sống cầu nguyện và chiêm

nghiệm cuộc đời”. Tuy nhiên, chúng tôi nhận định rằng định nghĩa trên chỉ

mang tính tương đối và chưa hoàn toàn phù hợp với từng tôn giáo cụ thể. Bởi

vì không phải tôn giáo nào cũng “khổ hạnh” và không phải tu sĩ nào cũng

36

“tránh xa trần thế”, trường hợp tu sĩ PGNTK là một ví dụ điển hình. Các tu sĩ

Khmer luôn thực hành theo giáo lý và tuân thủ giới luật Đức Phật nhưng chưa

phải là những người tu khổ hạnh. Hơn nữa, tu sĩ Khmer không tránh xa trần

thế, họ vừa thực hành theo giáo lý nhà Phật, học kinh kệ, thực hiện các nghi lễ

tôn giáo…nhưng vẫn tham gia công tác xã hội, vẫn tới lui thăm gia đình,

người thân của mình và giúp đỡ cộng đồng dân tộc trong việc tổ chức và sinh

hoạt văn hóa.

Chữ “tu” mang ý nghĩa rèn luyện, chỉnh sửa, thay đổi, uốn nắn bản

thân... cho phù hợp với chuẩn mực đạo đức nào đó. Chữ “sĩ” có nghĩa là

người có học thức, người có hiểu biết sâu rộng. Trong PGNT nói chung, tu sĩ

là các nhà sư, chư tăng, tăng sĩ, bần tăng, sư sãi, là bậc xuất gia và sinh sống

trong các ngôi chùa. Họ luôn trau dồi phẩm hạnh và đạo đức, rèn luyện và

uốn nắn bản thân cho phù hợp với giới luật của Đức Phật và Hiến chương của

Giáo hội Phật giáo Việt Nam và đóng góp công sức cho sự phát triển của tôn

giáo và dân tộc. Tu sĩ chính là người xuất gia tu học. Do đó, tu sĩ Khmer có

vai trò quan trọng trong đời sống xã hội của người Khmer, nếu họ tránh xa

trần thế thì chắc chắn rằng văn hóa Khmer sẽ sớm bị mai một và tan biến theo

thời gian. Trong phạm vi bài viết các thuật ngữ và khái niệm như: tu sĩ, tăng

sĩ, bần tăng, nhà sư, sư sãi, chư tăng, người xuất gia, nhà tu hành đều có

nghĩa như nhau.

- Dân tộc Khmer: Ngày 02/3/1979, Tổng cục Thống kê đã ra Quyết

định số: 121-TCTK/PPCĐ chính thức ban hành “Danh mục các thành phần

dân tộc Việt Nam” để dùng thống nhất trong cuộc tổng điều tra dân số năm

1979, cũng như trong công tác thống kê thường xuyên, công tác nghiên cứu.

Theo đó, trong danh mục các dân tộc Việt Nam thì tên dân tộc “Khmer” (tên

được cộng đồng người Khmer Nam Bộ quen dùng hiện nay) được viết là:

“Khơ-me; tên gọi khác là: Cur, Cul, Cu, thổ, Việt gốc Miên, Khơ-me Krôm”

37

Tuy nhiên, ngày 29/9/1981, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Chỉ

thị số 117/CT-TW về công tác đối với đồng bào Khmer để “thống nhất cách

dùng tên gọi dân tộc Khmer, người Khmer, người Việt (người Kinh), không

được dùng những tên gọi không chính xác hoặc hàm ý miệt thị như người

Miên, người Thổ, người Việt gốc Miên, Duôn v.v...”

Mặc khác, trong thực tiễn, việc áp dụng tên dân tộc: “Khơ-me” hoặc

“Khmer” vẫn chưa thống nhất trong các văn bản của các cơ quan trong hệ

thống chính trị ở Việt Nam nhưng việc sử dụng dân tộc “Khmer” đang được

thể hiện trong tác phẩm báo chí và nghiên cứu khoa học cũng vậy. Trong hệ

thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN), với tên gọi “Phật giáo Nam

tông Khmer” đã và đang được sử dụng vượt khởi biên giới quốc gia dân tộc.

Do đó, chúng tôi việc sử dụng tên dân tộc “Khmer” theo tinh thần của Chỉ thị

117/CT-TW thay vì sử dụng từ “Khơ-me” theo Quyết định số: 121-

TCTK/PPCĐ. Nếu trong chuyên đề hoặc luận án có sử dụng dân tộc “Khơ-

me” (do trích dẫn nguyên văn của các tác giả) thì cũng được hiểu là dân tộc

“Khmer”; nghĩa là dân tộc “Khơ-me” và “Khmer” là cùng một tộc người ở

Việt Nam.

- Phật giáo Nam tông Khmer: Năm 1950, tại Đại hội Liên hữu Phật

giáo Thế giới (WFB) ở Srilanka đã có qui định cách gọi Phật giáo Tiểu

thừa (Theravada) Phật giáo Nguyên thủy - Thượng tọa bộ thành PGNT

hoặc Phật giáo Nam truyền, từ đó khái niệm Phật giáo Bắc tông

(Mahayana) Phật giáo Bắc truyền và PGNT ra đời và sử dụng đến hiện nay.

Hiện nay thuật ngữ “Phật giáo Nam tông Khmer” được dùng trong hệ

thống GHPGVN để phân biệt PGNT của người Kinh và PGNT trong cộng

đồng người Khmer ở Nam Bộ. Do vậy, trong Phật giáo Việt Nam có các

tên gọi riêng cho các tổ chức, hệ phái khác nhau, trong đó có PGNT Kinh

và PGNTK.

38

Tiểu kết chương 1

Tôn giáo và dân tộc là hai vấn đề lớn luôn được nhiều quốc gia trên thế

giới đặc biệt quan tâm. Tôn giáo có ảnh hưởng lớn tới đời sống và tiến trình

phát triển của nhiều dân tộc, quốc gia. Việt Nam là nước đa tôn giáo, Phật

giáo với hai hệ phái Nam tông, Bắc tông là một trong những tôn giáo có mặt

sớm nhất ở Việt Nam. PGNT tồn tại và phát triển chủ yếu trong đồng bào

Khmer ở Nam Bộ (tập trung chủ yếu ở 09 tỉnh, thành phố ở TNB). PGNT là

một trong những tông phái Phật giáo có nguồn gốc từ Phật giáo ở Ấn Độ. Hệ

phái này được du nhập vào miền Nam Việt Nam vào khoảng thế kỷ thứ XIII

sau Công nguyên bằng con đường hàng hải quốc tế.

Thời kỳ Vương quốc Phù Nam, nơi đây là một trung tâm lớn giao lưu

buôn bán đường biển giữa Ấn Độ với các nước Đông Nam Á, do đó, Vương

quốc này đã chịu ảnh hưởng rất lớn của văn hóa Ấn Độ. Khi PGNT đến đây

được người Khmer đón nhận một cách nồng nhiệt và nhanh chóng đã chiếm

lĩnh được vị trí trong đời sống tinh thần của người Khmer. Qua quá trình chọn

lọc, người Khmer đã chọn PGNT làm tôn giáo cho mình và đã ăn sâu vào

trong tâm hồn của người Khmer đã có sức ảnh hưởng gần như đến mọi mặt

của đời sống xã hội của dân tộc này.

Phật giáo Nam tông có sức ảnh hưởng rộng rãi, với triết lý nhân sinh

cao cả, nhằm hướng con người đến việc giải thoát khỏi nổi khổ, hướng đến

chân - thiện - mỹ, sống hòa thuận và yêu thương. Bởi vậy, đạo Phật thực sự là

chỗ dựa tinh thần cho một bộ phận đông đảo quần chúng trong xã hội. Trải

qua nhiều thế kỷ, PGNT đã đem đến vùng đất Nam Bộ một sắc thái riêng biệt

trong việc thực hành tôn giáo … Nét riêng đó là bản sắc văn hóa của vùng đồng

bào Khmer Nam Bộ.

Người Khmer ở Nam Bộ coi PGNT là tôn giáo truyền thống duy nhất

không thể thiếu được trong đời sống tâm linh và trong sinh hoạt đời thường

39

của họ. Nói đến dân tộc Khmer ở Nam bộ cũng chính là nói đến tôn giáo của

người Khmer ở khu vực này, và ngược lại khi nói đến PGNTK cũng là nói

đến đồng bào Khmer đang sinh sống ở đây. Tôn giáo và dân tộc đối với đồng

bào Khmer ở Nam Bộ có quan hệ hữu cơ không thể tách rời.

Tuy nhiên, PGNTK ở TNB, cũng có những tác động tiêu cực đến đời

sống của người Khmer, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như vị trí

địa lý, lịch sử dân tộc, kinh tế, chính trị,... PGNT làm cho người Khmer lối

sống thụ động, cam chịu. Với quan niệm cuộc sống ở trần gian chỉ là tạm bợ

nên người Khmer luôn bằng lòng, chấp nhận cuộc sống thiếu thốn ở đời này

và chăm chỉ lo tích đức cho đời sau; sự lệ thuộc quá nhiều của người Khmer

vào Phật giáo và sự đóng góp cho Phật giáo quá lớn so với thực lực kinh tế

làm cho đời sống kinh tế của người Khmer thêm nghèo đói. Bên cạnh đó,

với tâm lý sống gửi thác về, người Khmer cũng ít quan tâm đến chuyện học

hành, nâng cao trình độ hiểu biết. Đặc biệt, những năm gần đây, PGNTK ở

TNB đã và đang bị sử dụng như một công cụ hữu hiệu nhằm thực hiện chiến

lược diễn biến hòa bình ở Việt Nam.

Do đó, việc giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp của

PGNTK nói chung, tạo điều kiện để tu sĩ PGNTK phát huy vai trò của mình

trong xóa đói giảm nghèo, ổn định chính trị xã hội, nâng cao đời sống vật chất

và tinh thần của đồng bào Khmer trước những biến động của xã hội cũng như

hạn chế việc lợi dụng tu sĩ và Phật tử Khmer để chia rẽ khối đại đoàn kết dân

tộc, tôn giáo của các thế lực thù địch là rất cần thiết.

40

Chương 2

KHÁI QUÁT VỀ VÙNG TÂY NAM BỘ

VÀ PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER

2.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN ĐỊA LÝ, KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI

VÙNG TÂY NAM BỘ

2.1.1. Đặc điểm vị trí, địa lý

Tây Nam Bộ có 13 tỉnh, thành phố gồm: Long An, Tiền Giang, Bến Tre,

Đồng Tháp, Trà Vinh, Vĩnh Long, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau,

Hậu Giang, An Giang và Kiên Giang. Diện tích tự nhiên gần 4 triệu ha, bờ biển dài 743 km, vùng lãnh hải rộng 36.000 km2, có 143 hòn đảo (trong đó có 44

đảo có dân cư sinh sống). Môi trường tự nhiên ở TNB phong phú và đa dạng,

có đồng bằng, có núi, có rừng, có biển, có đảo, có nhiều sông lớn với hệ thống

kênh rạch trằn trịt tạo nên nguồn lực dồi dào về lương thực và thực phẩm.

Nhìn chung, vùng TNB có tài nguyên thiên nhiên trù phú, màu mỡ, là

điều kiện rất thuận lợi cho phát triển kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp và lợi thế

này đã được khai thác, tận dụng tối đa trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, trình

độ sản xuất và năng lực lao động của vùng nói chung, vùng đồng bào dân tộc

Khmer nói riêng còn kém so với mặt bằng chung cả nước. Điều này cũng gây

nên những hạn chế nhất định như chất lượng tăng trưởng thấp, kém bền vững,

ô nhiễm môi trường, suy thoái nguồn tài nguyên. Thực tế này đòi hỏi các cấp

ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các Đoàn thể chính trị -

xã hội phải có những chiến lược phát triển mới phù hợp với bối cảnh hiện tại

nhằm ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của vùng trong quá trình phát

triển kinh tế - xã hội của cả nước.

2.1.2. Đặc điểm về tộc người

Quá trình hình thành tộc người được diễn ra nhờ sự tiếp xúc giữa những

người trong tộc người. Điều này chỉ có thể xảy ra nếu họ sống bên cạnh nhau,

41

nghĩa là cùng chung một lãnh thổ. Cộng đồng lãnh thổ như vậy là điều kiện

trước hết để hình thành tộc người. Đặc điểm nổi bật của tộc người là tính bền

vững của nó, tộc người tồn tại từ thế kỷ này qua thế kỷ khác. Mỗi một tộc

người có một sự thống nhất nội tại nhất định, cũng như những đặc điểm riêng

biệt, khác với tộc người khác.

Về đặc điểm dân số và nhân khẩu học, toàn vùng có khoảng gần 18 triệu

người, chiếm 20% dân số cả nước. Với 57,2% dân số đang trong độ tuổi lao

động (khoảng 10,3 triệu người), đây là tỷ lệ dân số vàng để phát triển kinh tế

nhưng chất lượng lao động của vùng lại ở mức thấp. Trong đó, đồng bào Kinh

có dân số đông nhất, chiếm khoảng 90%; đồng bào Khmer có trên 1,2 triệu

người (chiếm 7%), đồng bào Hoa có khoảng 192.000 người (chiếm 1,1%),

đồng bào Chăm có khoảng 15.000 người (chiếm 0,08%). Ngoài ra còn có một

số dân tộc khác với dân số khoảng 4.600 người (chiếm 0,02% so với dân số

toàn vùng). Lợi thế về vấn đề dân tộc ở TNB là đồng bào các dân tộc cùng

sinh sống xen kẽ, gần gũi với nhau, có truyền thống đoàn kết tốt đẹp từ lâu

đời. Song, vấn đề dân tộc tại đây có một số đặc điểm cần quan tâm:

Một, đồng bào các dân tộc thiểu số vùng TNB (Khmer, Hoa, Chăm) là

các dân tộc giàu bản sắc, có tiếng nói, chữ viết phát triển đủ để sử dụng trên

mọi phương diện, có phong tục, tập quán tốt đẹp, có nền văn hóa phong phú,

đa dạng được giữ gìn và phát huy từ lâu đời. Song, đồng bào Khmer, Hoa,

Chăm đều là dân tộc thiểu số đã, đang sinh sống xen kẽ, gần gũi với dân tộc

đa số, nên bị tác động nhất định từ văn hóa của dân tộc đa số, bên cạnh mặt

tích cực cũng dễ làm cho văn hóa dân tộc thiếu số có phần lu mờ, phai nhạt là

điều khó tránh khỏi. Do đó, đẩy mạnh việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn

hóa dân tộc thiểu số là việc làm thường xuyên, lâu dài nhằm tạo điều kiện

thuận lợi đế đồng bào hòa nhập vào xu thế phát triến chung của đất nước,

nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa của dân tộc mình.

42

Hai, đồng bào các dân tộc thiếu số trong vùng có mối quan hệ với người

dân một số quốc gia về mặt văn hóa, tôn giáo. Đồng bào Hoa có mối quan hệ

với người Hoa ở Trung Quốc và nhiều nước trên thế giới thông qua các tổ

chức hội đoàn bởi yếu tố đồng tộc, kinh tế, văn hóa. Đồng bào Chăm có quan

hệ gần gũi với người Chăm ở Campuchia và cộng đồng người Hồi giáo trên

thế giới, nhất là Malaysia và Indonesia bởi yếu tố đồng tôn. Đồng bào Khmer

có mối quan hệ truyền thống với người Khmer ở Campuchia từ lâu đời trên

các lĩnh vực, bởi yếu tố đồng tộc, đồng tôn, đồng văn hóa. Các mối quan hệ

đó, bên cạnh mặt tích cực, cũng nảy sinh những vấn đề phức tạp cần được

quan tâm.

Trong cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam, mỗi một nghề, mỗi một đặc

điểm sinh hoạt của mỗi một tộc người đều có cái riêng của nó. Cái khác của

đồng bào Khmer trong phát triển kinh tế là ý thức hệ dân tộc - hệ tư tưởng tín

ngưỡng tôn giáo. Người Khmer TNB thích một cuộc sống thảnh thơi, an

nhàn, kinh tế chủ yếu là hoạt động nông nghiệp. Họ không thích hơn thua,

cạnh tranh, đua chen để làm giàu lớn. Họ thường chịu nhịn, chịu thua thiệt để

tránh chuyện bất hòa. Công việc làm ăn của họ đều trông ở số phận, họ tin

rằng khi họ sống tốt thì cuộc sống mới trở nên tốt đẹp và giàu được. Quan

niệm sống của họ không thiên nhiều về vật chất mà thiên về tinh thần, họ

thường quyên góp xây dựng chùa khang trang, nguy nga, đồ sộ trong khi đó

đại đa số nhà cửa của đồng bào bằng tre lá chỉ đủ che mưa, che nắng. Họ luôn

có tinh thần chuẩn bị và đầu tư hết mực cả về vật chất và tinh thần cho chùa,

cho Phật mà quên cả bản thân nơi trần thế. Như vậy có thể thấy rằng người

Khmer TNB họ sống theo một định hướng là để ngày mai - kiếp sau về được

cõi Niết Bàn, khi chết vào chùa.

Song song đó, xã hội tộc người Khmer có những sản phẩm độc đáo

mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc trong lĩnh vực điêu khắc, kiến trúc, vũ trụ,

43

dân ca… tất cả đều có nguồn gốc sâu xa cũng chính từ chùa PGNTK mà ra, vì

những con người được đào luyện ra đều từ đội ngũ lao động kỹ thuật có trình

độ, tay nghề cao. Các kỹ thuật lao động xã hội đã được tích lũy và phát triển

là do đội ngũ sư sãi Phật giáo Khmer truyền dạy vốn kiến thức này cho dân

Sóc. Đó chính là tiềm năng, nguồn lực, bảo đảm sự phát triển cho một nền

kinh tế xã hội.

Như vậy, sự hình thành tộc người Khmer TNB mang một số đặc điểm

đáng lưu ý như sau:

- Thứ nhất, xuất phát từ nguồn gốc dân cư nông nghiệp, xã hội Khmer

mang tính thuần nông, lấy canh tác nông nghiệp làm hoạt động kinh tế

chủ yếu.

- Thứ hai, xã hội Khmer TNB mang tính truyền thống cơ bản, cơ chế

quán lý lưỡng hợp, mang tính chất thiên về tinh thần hơn là vật chất.

- Thứ ba, xã hội Khmer TNB chủ yếu hình thành từ quá trình di dân theo

chiều ngược mang nhiều yếu tố hỗn dung và giao thoa văn hóa.

Ngoài ra, do nằm gần với nguồn gốc văn hóa Khmer Campuchia và do

tính chất cộng cư dân tộc lâu đời nên văn hóa Khmer vừa mang tính bảo lưu

truyền thống lại vừa mang nhiều yếu tố “mở” của ĐBSCL tạo nên những đặc

trưng riêng của văn hóa Khmer TNB.

2.1.3. Đặc điểm kinh tế - xã hội

Trong giai đoạn 2011-2017, tình hình kinh tế - xã hội vùng TNB đạt

được nhiều kết quả tích cực, tăng trưởng kinh tế duy trì ổn định ở mức khá,

tăng trưởng GDP bình quân của vùng ước đạt 8,87%/năm. Xuất khẩu tăng

trưởng khá, kim ngạch xuất khẩu năm 2014 ước đạt trên 12,3 tỷ USD, bằng

8,2% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tốc độ tăng trưởng bình quân

ước đạt 14,7%/năm. Tỷ lệ hộ nghèo toàn vùng giảm tương đối nhanh (còn

3,54%). Tuy đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng thực trạng kinh tế

44

- xã hội của vùng chưa tương xứng với tiềm năng của nó; vẫn còn nhiều hạn

chế, yếu kém, phát triển chưa bền vững và đang đứng trước nguy cơ thách

thức mới. Nhìn chung, kinh tế - xã hội còn nhiều mặt chưa tiến kịp so với mặt

bằng chung cả nước như:

Vùng TNB được đánh giá là một trong ba đồng bằng trên thế giới dễ bị

tổn thương nhất do nước biển dâng; hoạt động liên kết, hợp tác giữa các tỉnh,

thành trong nội bộ vùng và với bên ngoài vẫn còn những hạn chế nhất định.

Trình độ học vấn của vùng thấp hơn mức bình quân chung của cả nước.

Chất lượng giáo dục, y tế vẫn còn thấp xa so với yêu cầu, tay nghề lao động

yếu và thiếu cơ sở đào tạo lao động kỹ thuật cao.

Thách thức của vùng là năng suất lao động kém, chất lượng nguồn nhân

lực rất thấp, cơ giới hóa và hạ tầng cơ sở chưa tương xứng với tiềm năng của

vùng và nhất là do thiếu một cơ chế phát triển vùng để tạo nên sức mạnh tổng

hợp của cả vùng; do thiếu sự liên kết chuỗi nên giá trị các mặt hàng nông sản

xuất khẩu thấp, sức cạnh tranh yếu. Tình hình an ninh chính trị trong tôn giáo,

vùng biên giới và vùng dân tộc còn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định,

tranh chấp đất đai trong nông thôn còn diễn biến phức tạp.

2.1.4. Đặc điểm về quốc phòng - an ninh

Quốc phòng, an ninh vùng TNB được giữ vững, ta chủ động kiểm soát

được tình hình. Tuy vậy, tình hình an ninh, chính trị vẫn luôn tiềm ẩn những

nhân tố phức tạp, nhất là trong lĩnh vực an ninh tư tưởng, tôn giáo, dân tộc,

khiếu kiện bởi những yếu tố sau đây:

Về địa lý: Do vùng biển rộng lớn với nhiều hải đảo, có biên giới trên đất

liền giáp với Campuchia và biên giới trên biến tiếp giáp với nhiều nước, cho

nên các thế lực thù địch, các tổ chức phản động và bọn tội phạm xem đây là

địa bàn dễ xâm nhập, dễ cho mọi hoạt động phá hoại. Điển hình các cuộc tập

trận trên biển của quân đội một số nước láng giềng gần vùng biển ở TNB, ít

45

nhiều ảnh hưởng đến anh ninh - quốc phòng trên địa bàn; các hoạt động tội

phạm, những trường hợp xâm phạm hải phận cũng đã gây phức tạp về trật tự

xã hội.

Về khiếu kiện: Tình hình khiếu kiện, chủ yếu liên quan đến đất đai

diễn biến phức tạp; trong đó, có việc khiếu kiện đòi lại nhà, đất tôn giáo,

sinh hoạt tôn giáo trái phép, biến gia thành tự... vẫn còn diễn ra ở nhiều địa

phương. Thực tiễn cho thấy, tâm trạng, tâm lý chung của phần lớn những

người khiếu kiện là không hài lòng, thậm chí đối đầu với cán bộ và chính

quyền địa phương, mặc dù địa phương đã giải quyết đúng với quy định

pháp luật hiện hành. Địch lợi dụng vấn đề khiếu kiện và tâm trạng của

người khiếu kiện để kích động gây rối, ảnh hưởng đến an ninh, chính trị,

trật tự an toàn xã hội.

Các thế lực thù địch: Chúng không từ bỏ âm mưu, ý đồ chống phá sự

nghiệp cách mạng nước ta bằng nhiều hình thức. Trong đó, chúng hậu thuẫn

trong việc hình thành và nuôi dưỡng các tổ chức phản động người Việt lưu

vong và một số phần tử cực đoan ở trong nước để tìm cách thực hiện âm mưu

“diễn biến hòa bình ”, triệt để lợi dụng vấn đề nhân quyền, dân chủ, tự do tôn

giáo... để chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta. Các tổ chức phản động

“Khmer Campuchia Krôm” lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, bản Tuyên

ngôn của Liên hiệp quốc về quyền của người bản địa để lừa đồng bào, sư sãi

Khmer cả trong và ngoài nước. Chúng triệt để khai thác phương tiện thông tin

đại chúng để tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo Đảng và Nhà nước ta; kích động

tư tưởng hận thù, chia rẽ dân tộc.

Thực tế, chúng đã gầy dựng được một số nòng cốt ở trong nước và chỉ

đạo tạo ra các cuộc gây rối như sau: Kích động một số tu sĩ trẻ gây rối trước

trụ sở công an huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh vào ngày 19/01/2007. Tập hợp

lực lượng để gây áp lực với cán bộ, các vị chức sắc trong Hội Đoàn kết sư sãi

46

yêu nước (HĐKSSYN) tỉnh Sóc Trăng tại chùa Nước Mặn vào ngày

08/02/2007 nhưng không thành. Chúng liền tạo cớ kích động tăng sinh

Trường Bổ túc văn hóa Pali trung cấp Nam Bộ gây rối trước trụ sở công an thị

xã Sóc Trăng. Kích động, xúi giục đồng bào Khmer ở các tỉnh đồng loạt kéo

về thành phố Cần Thơ, thành phố Hồ Chí Minh khiếu kiện đông người. Đầu

năm 2008, chúng tiếp tục kích động, xúi giục một số bà con ở xã Châu Lăng,

huyện Tri Tôn và xã An Cư, xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang tự

bao chiếm đất đai của người trực canh, ném đá trụ sở xã, đập phá trụ sở ấp,

bám trụ một phần trụ sở xã, phá hoại tài sản nhà nước và tài sản công dân,

đánh cán bộ gây thương tích…

Đặc biệt, những năm gần đây, đảng đối lập ở Campuchia đã và đang

tranh thủ triệt để việc phân giới, cắm mốc giữa hai nước Việt Nam -

Campuchia để tạo áp lực, gây sức ép với Đảng cầm quyền và Chính phủ

Hoàng gia Campuchia; đồng thời tập hợp các tổ chức, hội, nhóm “Khmer

Campuchia Krôm” ở Campuchia và nước ngoài tăng cường chống phá việc

phân giới, cắm mốc giữa hai nước Việt Nam - Campuchia mà trong thực tế đã

xảy ra một số vụ việc phức tạp tại các tỉnh giáp biên giới của hai nước.

2.2. KHÁI QUÁT VỀ TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNG VÙNG TÂY NAM BỘ

2.2.1. Khái quát về tôn giáo trong cộng đồng người Khmer ở Tây

Nam bộ

Tây Nam Bộ là vùng tôn giáo, văn hóa khá đặc biệt. Đây là nơi sinh sống

của nhiều dân tộc, nhiều nhất là người Kinh, người Khmer, người Chăm,

người Hoa và cả một số dân tộc ít người khác nữa. Cũng vì lẽ đó mà Nam Bộ

nói chung và TNB nói riêng là vùng tôn giáo và văn hóa đa dạng, đan xen

nhất Việt Nam. Ở đây vừa có các tôn giáo được du nhập từ ngoài vào, đồng

thời có nhiều tôn giáo nội sinh. Bên cạnh những tôn giáo lớn có truyền thống

lâu đời được du nhập từ nước ngoài như Phật giáo Bắc tông, PGNT, Công

47

giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, còn có cả những tôn giáo bản địa và

các tôn giáo mới phát sinh như Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân hiếu nghĩa, Cao

Đài, Phật giáo Hòa Hảo… Chính sự đa dạng về văn hóa và tôn giáo như vậy

khiến cho TNB trở thành nơi có những đặc trưng văn hóa và tôn giáo rất đa

dạng và độc đáo. Đây là nét đặc sắc song cũng là thách thức cho chính sách

tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta đối với vùng đất này.

Trong hoạt động văn hóa xã hội, các tổ chức tôn giáo và tín đồ vùng

TNB luôn hưởng ứng rất linh hoạt, nhanh nhạy với nhiều hình thức phong

phú vào các phong trào chung của vùng cũng như cả nước như: xây dựng lối

sống văn minh, gia đình văn hóa; xóa đói giảm nghèo; cứu trợ nhân dân vùng

bão lụt, thiên tai; chăm sóc trẻ em nghèo; mở các lớp học tình thương; cơ sở

khám chữa bệnh từ thiện,… và luôn là người đại diện có uy tín trong việc

đoàn kết, tập hợp, kêu gọi quần chúng nhân dân tham gia tích cực vào phong

trào chung.

Ngoài những sinh hoạt tôn giáo thường xuyên như cúng rằng, mồng một,

lên chùa của các tín đồ Phật giáo, Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài. Cầu nguyện,

đi lễ nhà thờ vào các ngày thứ bảy, chủ nhật của tín đồ Công giáo, Tin lành,

đi lễ thánh đường của tín đồ Islam vào ngày thứ sáu,… Tất cả các tôn giáo

và tổ chức tôn giáo vùng TNB còn có nhiều sinh hoạt khác tạo ra một đời

sống thường trực và sôi động như sinh hoạt câu lạc bộ hàng tuần, tổ chức

thường xuyên những buổi nói chuyện, hội thảo và bình giảng giáo lý, mở

các khóa đào tạo và giáo dục giáo lý cho tín đồ từ sơ cấp đến cao cấp

(tương đương đại học).

Trong các tôn giáo xuất hiện tại TNB, Phật giáo Hòa Hảo là một tôn giáo

nội sinh bên cạnh đạo Cao Đài, Bửu Sơn Kỳ Hương, Minh sư đạo,… đã góp

phần tạo nên dấu ấn văn hóa riêng biệt của vùng đất này, có những ảnh hưởng

sâu đậm trong lịch sử đời sống xã hội của cư dân TNB.

48

Nếu coi PGNT tại khu vực này là một tôn giáo gắn chặt với dân tộc

Khmer, thì Phật giáo Hòa Hảo là tôn giáo gắn liền với người nông dân TNB.

Nói cách khác, Phật giáo Hòa Hảo là một tông phái Phật giáo đã được bình

dân hóa, giản dị hóa cho phù hợp với căn cơ, trình độ của người nông dân; và

ngược lại, những người nông dân TNB đã khiến Phật giáo Hòa Hảo được gìn

giữ, nuôi dưỡng và phát triển không gián đoạn, đóng góp vào lịch sử yêu

nước của vùng đất này trong quá khứ, và đang tiếp tục đóng góp một cách nổi

bật cho sự phát triển bền vững vùng TNB.

Những giáo lý bình dân dễ hiểu, cách hành trì tối giản, hệ thống thiết chế

không có Giáo hội, đối tượng truyền đạo và tu hành điều rất đặc thù, song

Phật giáo Hòa Hảo lại thẩm thấu một cách bền bỉ và lan tỏa đáng ngạc nhiên

tại đồng bằng sông Cửu Long.

Về Công giáo ở TNB qua nghiên cứu các tài liệu lịch sử và các tư liệu

sưu tập được từ các cuộc điều tra điền dã có mặt tại vùng đất TNB cùng với

sự hình thành của cộng đồng người Việt tại đây. Nói cách khác, người Việt có

đạo Công giáo đã có mặt trong số những lưu dân đến từ vùng Thuận Quảng,

vào khai phá vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Công giáo là một tôn giáo có sự thống nhất cao về giáo lý, giáo luật, lễ

nghi và tổ chức giáo hội, mang tính toàn cầu. Thực hành tôn giáo được thực

hiện thường xuyên, liên tục và nghiêm ngặt tạo ra tính liên kết chặt chẽ trong

Công giáo. Bên cạnh đó Công giáo là một tôn giáo có nhiều hội đoàn như:

Dòng Ba Đa Minh, Thiếu nhi Thánh thể, Liên Minh Thánh Tâm, Legio

Maria, Giới trẻ, Hiền Mẫu, ca đoàn Nhà thờ… là những tổ chức được thành

lập để phục vụ hoạt động truyền giáo, tái truyền giáo và tham gia một số hoạt

động từ thiện xã hội. Ngoài ra, vùng TNB còn là nơi có nhiều tín đồ Đạo công

giáo sinh sống và làm việc ở nước ngoài nhiều nhất cả nước nên ngoài mối

quan hệ quốc tế giữa các tổ chức thì hoạt động quốc tế của tín đồ ở khu vực

TNB cũng diễn ra với mức độ đâm đặc và đa dạng.

49

Vùng TNB là nơi tồn tại nhiều hệ phái Tin lành, các hệ phái này đều có

nguồn gốc du nhập từ nước ngoài, trong đó nổi bật nhất là quan hệ quốc tế với

Tin lành Mỹ, Hàn Quốc, Đức, Bắc Âu… Theo ước tính, Nam Bộ là nơi tập

trung đông nhất các hệ phái Tin lành ở Việt Nam và cũng là nơi mà hoạt động

quan hệ quốc tế của các hệ phái Tin lành diễn ra sôi nổi nhất.

Hồi giáo (Islam) vùng TNB thường xuyên có mối quan hệ với cộng đồng

Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á, một khu vực có đông tín đồ Hồi nhất

thế giới. Các mối quan hệ này rất đa dạng. Hồi giáo Việt Nam có quan hệ với

cộng đồng Hồi giáo Malaysia, cộng đồng Hồi giáo Campuchia, cộng đồng

Hồi giáo Indonesia, Arab Saudi, Liên hiệp Hồi giáo thế giới… Song, mối

quan hệ với cộng đồng Hồi giáo ở Malaysia là thường xuyên và thân thiện

nhất. Do những nguyên nhân lịch sử, truyền thống dòng tộc, ngôn ngữ mà có

mối quan hệ gần gũi này. Chính nhờ mối quan hệ gần gũi này nên nhiều tín

đồ Hồi giáo vùng TNB đã nhận được học bổng tại Trường Đại học Quốc tế

Hồi giáo ở Malaysia (International Islamic University of Malaysia). Hàng

năm, các tổ chức Hồi giáo vùng TNB đều nhận được tài trợ của Ngân hàng

Phát triển Hồi giáo Thế giới (IDB).

Đối với Phật giáo, đã được truyền vào cộng đồng người Khmer trên 2000

năm, kể từ ngày 2 vị Thánh tăng: Soṇatthera và Uttaratthera theo tàu buôn từ

Ấn Độ đặt chân vào vùng cảng cổ Óc Eo (Tứ giác Long Xuyên ngày nay)

truyền giáo đầu tiên trước công nguyên vào Phật lịch 234. Đến nay vùng

Khmer Nam bộ có trên 450 chùa Phật giáo tu hành theo hệ phái Nam tông

(Nam truyền: Dakkhiṇànikaya). Suốt chiều dài lịch sử ngót 2000 năm, Phật

giáo luôn đồng hành cùng dân tộc, cùng sự thăng trầm của đất nước, mặc

dầu vậy nhưng Phật giáo nói chung và PGNT Khmer nói riêng đều gắn bó

mật thiết với Phật tử bổn tự, Phật tử bá tánh tứ phương mà Phật tử, bá tánh

là đồng bào, là Nhân dân.

50

Năm 1981, Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập với sự hợp

nhất của 09 tổ chức, hội, hệ phái. Kể từ đó đến nay, PGNTK sinh hoạt chung

trong ngôi nhà của GHPGVN; đã trải qua tám nhiệm kỳ, với 38 năm hoạt

động, PGNTK hoạt động ổn định, phát triển và ngày càng nâng cao vị thế của

mình trong GHPGVN.

Chùa Khmer là nơi tu hành vừa là nơi thực hiện các lễ nghi tôn giáo, là

trung tâm văn hóa, sinh hoạt xã hội, là nơi thực hiện các cuộc lễ hội theo

phong tục mang tính truyền thống của dân tộc Khmer. Trong chùa có lưu giữ

kinh sách, báo chí, những tác phẩm văn học nghệ thuật Khmer…

Là tôn giáo mang tính chất quần chúng, thiên về thế giới quan, nhân

sinh quan, đạo đức luận PGNTK từ lâu đã in đậm trong tâm khảm và chi phối

mạnh mẽ đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc Khmer. Việc hành đạo luôn

gắn chặt với việc truyền dạy giáo lý, đạo đức, niềm tin và các giá trị tinh hoa

của Phật giáo. Ngoài việc truyền dạy, giáo dục bổn đạo thực hiện tốt lời dạy

của đức Phật, thực hiện tốt giá trị đạo đức và giá trị nhân văn, từng ngôi chùa

còn là nơi tổ chức giảng dạy những kiến thức bổ ích, bao gồm chương trình

giảng dạy tiếng Khmer, các học phần về triết học, văn học, thơ ca, ngữ văn…

nhất là chương trình Pali vừa để sáng tạo ngôn từ bổ sung cho tiếng Khmer,

vừa để tiếp cận kinh sách, giáo lý, những tinh hoa của nhà Phật.

Quá trình du nhập và phát triển: PGNT Khmer đã có mặt ở vùng TNB

từ rất lâu. Có thể nói vấn đề tôn giáo trong đồng bào Khmer, sau khi Bà La

Môn giáo thất thế, Phật giáo giữ vai trò độc tôn trong đời sống cộng đồng của

đồng bào Khmer, vai trò đó đã được biểu hiện ở chỗ mọi hoạt động trong sinh

hoạt gia đình, cộng đồng phum sóc gắn với tín ngưỡng, tôn giáo dân tộc;

người Khmer đều dựa vào triết lý của đạo Phật. Mọi sinh hoạt lễ hội của gia

đình hoặc cộng đồng dù lúc vui hay lúc buồn, đều có mời các vị sư tham gia

làm lễ, đọc kinh. Việc trang trí nhà cửa, lễ đài, chùa… hầu hết gia đình, phum

51

sróc vùng dân tộc Khmer đều có tranh ảnh hoặc tượng của Đức Phật đặt nơi

trang trọng nhất.

Mọi thành viên trong cộng đồng đều tôn thờ Đức Phật, kính trọng tu sĩ

PGNTK; mọi người dân, già trẻ bé lớn ai cũng đều đi chùa. Từng gia đình ít

nhiều đều có đọc kinh Phật. Đặc biệt, khi xảy ra hoạn nạn, ốm đau, tai biến

trong gia đình, trong cộng đồng, đồng bào Khmer đều cầu mong Đức Phật độ

trì, mời sư sãi đến làm lễ, đọc kinh tụng niệm mong cho tai qua, nạn khỏi.

Đạo Phật cũng giữ vai trò góp phần quan trọng trong việc làm đa dạng

và phong phú thêm đối với các loại hình nghệ thuật dân tộc. Trước hết là

những nét đẹp trong điêu khắc và kiến trúc của dân tộc. Thông qua những

công trình xây dựng chùa, cách trang trí trong chùa với những hoa văn độc

đáo của từng công trình đã chấp cánh trí tưởng tượng của các nghệ nhân

Khmer. Những kiểu tư duy trong các loại hình nghệ thuật truyện kể, truyền

thuyết nói chung đều có màu sắc của Phật giáo và nó được truyền từ khu vực

này sang khu vực khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Phật giáo Nam Tông Khmer giữ vai trò rất lớn trong việc giáo dục hình

thành nhân cách, đạo đức, dân trí của cộng đồng dân tộc Khmer. Thông qua

triết lý mang tính nhân đạo và quan niệm nhân quả của đạo Phật đã tác động

sâu sắc đến từng thành viên trong gia đình, trong cộng đồng dân tộc Khmer;

làm cho mọi người muốn hướng thiện, làm việc lành, tránh điều ác. Con

người biết khiêm tốn, nhường nhịn, tương trợ giúp đỡ nhau, làm cho cái tâm

họ không bị vẫn đục bởi tiền tài vật chất cám giỗ. Việc tu học theo PGNTK,

việc hình thành các trường chùa, đã góp phần nâng cao dân trí, đáp ứng các

ngành nghề để có thể phục vụ cuộc sống đời thường.

Trong đời sống tâm linh của người Khmer, tu sĩ PGNTK mang một ý

nghĩa đặc biệt, nhà sư là người đại diện cho Đức Phật để chứng giám những

hành động lòng thành kính của phật tử, nhà sư còn là cầu nối giửa phật tử với

52

Đức Phật. Với họ không chỉ có Phật giáo, bởi vẫn còn dấu vết của sự pha trộn

của nhiều tín ngưỡng: Tô tem, tín ngưỡng dân gian, Balamôn giáo… song tín

ngưỡng Phật giáo vẫn là tín ngưỡng điển hình và chi phối tâm linh của người

Khmer mạnh nhất, bởi các hoạt động tinh thần của người Khmer đều có sự

chi phối của Phật giáo từ các lễ hội mang tính cộng đồng khi cho công việc

riêng của từng gia đình đến mỗi cá nhân. Cuộc đời của người Khmer theo đạo

Phật gắn liền với ngôi chùa “Sống gửi thân chết gửi cốt”. Những công việc

lớn như làm nhà, cưới hỏi tới việc nhỏ như cày cấy người Khmer đều hỏi ý

kiến của các vị sư về những điều nên làm, nên tránh.

Người Khmer theo đạo Phật thì triết lý phật giáo đã ngấm sâu váo ý thức

mỗi con người, trở thành tiềm thức, trở thành triết lý sống của mổi người. Khi

vừa chào đời mặc nhiên được xem là một tín đồ Phật giáo, từ bé đã được cha

mẹ giáo dục nếp sống theo triết lý sống của đạo Phật, bởi thế người Khmer con

tiếp cha, đời tiếp đời, sống trong niềm tin theo triết lý đạo Phật. Chính vì thế

người Khmer chấp nhận những gì phù hợp với triết lý sống của đạo Phật. Trãi

qua hàng ngàn năm, niềm tin đó không hề thay đổi, biết bao biến đổi thăng

trầm của lịch sử với nhiều tác động của tôn giáo khác đến đời sống tâm linh

của đồng bào Khmer nhưng đều thất bại trước niềm tin vào PGNTK, chính nhờ

vào niềm tin đó mà dân tộc Khmer giữ được truyền thống văn hóa mang bản

sắc riêng của mình, không bị văn hóa ngoại lai xâm nhập.

Chính vì vậy mà PGNT đã ảnh hưởng sâu sắc đến đồng bào dân tộc

Khmer về đạo đức cũng như lối sống, trong quan niệm là sống tích phước

để khi chết đi về cõi Niết Bàn. Điều này thể hiện ở việc họ đến chùa làm

phước, họ đến chùa với sư sãi với kinh kệ để tìm nguồn an ủi trong cuộc

sống hiện tại và tích lũy nhiều việc thiện để lại cho con cháu mai sau. Họ

theo tập quán, phong tục của người Khmer nếu trong gia đình có con trai

trong độ tuổi từ 13-19 tuổi thường cho vào chùa tu hành một thời gian.

53

Trong thời gian tu hành, các thanh niên sẽ được học về Phật pháp, về ngôn

ngữ và văn hóa truyền thống của người Khmer. Mục đích của việc tu hành

ở chùa đối với người Khmer trước hết là để báo hiếu cho ông bà, cha mẹ,

sau là góp phần cũng cố nền đạo đức và thường xuyên ủng hộ chùa theo

khả năng và sức lực của mình một cách tự nguyện. Không có thời gian quy

định cho việc đi tu. Nghĩa là người con trai Khmer có thể vô chùa tu một

đêm cho đến hàng năm và thậm chí tu suốt đời là hoàn toàn tự giác. Việc đi

tu thực sự cởi mở, vậy nên người con trai Khmer trong cuộc đời của mình

đều muốn đi tu ít ra là một lần. Việc đi tu của nam giới rõ ràng không phải

“luật” định nhưng đã thành “lệ” của cộng đồng mà người con trai Khmer

nào cũng cố gắng noi theo.

Một số vấn đề liên quan đến HĐKSSYN: Trong những năm kháng

chiến chống Mỹ cứu nước, với sự lãnh đạo của Đảng nhằm tuyên truyền, vận

động, tập hợp sư sãi, các vị chư tăng và đồng bào Khmer tham gia vào sự

nghiệp cách mạng đấu tranh giải phóng dân tộc. Khi Mặt trận Giải phóng Dân

tộc Miền Nam Việt Nam ra đời, ngày 20/03/1963, Khu ủy Khu TNB có chủ

trương thành lập HĐKSSYN trên cơ sở kế thừa tổ chức Ban Sãi vận, Ban

Khmer vận…ở 3 cấp (khu, tỉnh và huyện) nhằm vận động đồng bào, sư sãi

Khmer tham gia phong trào cách mạng.

Từ đó HĐKSSYN ra đời và là tổ chức thành viên trực thuộc Mặt trận

dân tộc giải phóng Miền Nam; quá trình hoạt động của Hội ngoài công tác

hoạt động Phật sự xã hội gắn với tham gia đấu tranh cách mạng luôn được sự

hướng dẫn trực tiếp của Mặt trận và Ban Khmer vận khu TNB. Sau năm 1975

thực hiện chủ trương của Đảng, Khu ủy và các cơ quan, ban ngành, đoàn thể

của Khu TNB đã giải thể, trong đó có HĐKSSYN các cấp (riêng tỉnh Hậu

Giang cũ vẫn duy trì tổ chức này). Ngày 18/4/1991, Ban Bí thư Trung ương

Đảng khóa VI ban hành Chỉ thị số 68-CT/TW, trong đó có đề ra việc thành

54

lập HĐKSSYN hoặc các hình thức tổ chức thích hợp. Đến nay có 08 tỉnh,

thành vùng TNB có các chùa PGNTK đã củng cố và thành lập HĐKSSYN

(riêng tỉnh An Giang chưa thành lập).

Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước là tổ chức chính trị - xã hội đặc thù trong

giới sư sãi Khmer do Đảng ta có chủ trương thành lập, hoạt động như tổ chức

đoàn thể trong hệ thống chính trị. Nội dung và phương thức hoạt chủ yếu là

tuyên truyền, vận động sư sãi và đồng bào Phật tử Khmer.

Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, HĐKSSYN (cấp khu, tỉnh,

huyện) đã công khai kêu gọi tập hợp các tầng lớp Chư tăng và Phật tử Khmer

có xu hướng chính trị khác nhau kể cả binh lính, công chức ngụy quân, ngụy

quyền nêu cao lòng yêu nước, đoàn kết chống xâm phạm tự do tín ngưỡng,

xâm phạm chùa chiền, đòi hoà bình trung lập, độc lập dân tộc. Kết quả hoạt

động của Hội đã làm chuyển biến, phân hoá nhiều lực lượng địch. Số Chư

tăng ở các chùa vùng tạm chiếm thân chính quyền Mỹ - Ngụy dần chuyển

sang trung lập. Các địa phương đã tập hợp được đông đảo đồng bào, sư sãi

Khmer tham gia, ủng hộ cách mạng, đấu tranh chống địch rất mạnh mẽ.

Nhiều ngôi chùa là cơ sở cách mạng an toàn. Một bộ phận khác trung lập đã

thay đổi chuyển theo cách mạng tạo thành khối đoàn kết tiến hành các cuộc

biểu tình lớn nhỏ khắp các tỉnh chống lại Chính quyền Sài Gòn với các hình

thức từ thấp đến cao, góp phần tích cực vào chiến thắng 30/04/1975. Một số

chức sắc Khmer, tu sĩ PGNTK đã hy sinh. Nhiều vị đã trở thành cán bộ cốt

cán của Đảng và Nhà nước, người tiêu biểu trong cộng đồng và quần chúng

Nhân dân.

Phong trào giải phóng dân tộc như đã nêu, là biểu hiện rất rõ về tính

nhập thế của PGNTK trong bối cảnh quốc gia, dân tộc bị áp bức, bốc lột,

đồng hóa qua các thời kỳ lịch sử. Đáng trân trọng là “tinh thần yêu nước”, vì

nhiều vị Chư tăng Khmer đã lãnh đạo và huy động đoàn kết thực hiện trách

55

nhiệm tham gia cứu nước, giải phóng dân tộc. Điển hình như: Hòa thượng

Tăng Phố (tức Trần Phố), Hòa thượng Tăng Hô, Hòa thượng Tăng Nê (Phó

Chủ tịch Ủy ban Hành chánh Kháng chiến Nam Bộ), Hòa thượng Sơn Vọng

(Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam,

Phó Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới và là cố vấn Ủy ban Mặt trận

Dân tộc giải phóng khu Tây Nam Bộ), Hòa thượng Thạch Som, Hòa thượng

Hữu Nhem… Nhiều vị Chư tăng đã thoát ly và trở thành cán bộ chỉ huy

quân sự giỏi hoặc lãnh đạo chủ chốt trong các cơ quan của hệ thống chính trị

như: Maha Sơn Thông, Maha Huỳnh Cương, Sơn Ngọc Minh, Thạch Mẹnre,

Thạch Tụm, Trần Lai, Achar Sabút, Lui Sarát, Trịnh Thới Cang...

Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, HĐKSSYN đẩy mạnh công tác

vận động đồng bào, tu sĩ PGNTK tích cực tham gia các phong trào cách

mạng, chống lại các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Đặc biệt là

HĐKSSYN đã tổ chức, quản lý, điều hành các lớp học trong chùa, tạo nên

phong trào học tập sâu rộng cả kiến thức dân tộc lẫn kiến thức phổ thông.

Thực hiện phương châm của GHPGVN: “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ

nghĩa xã hội”. BTSPGVN, HĐKSSYN vùng TNB tiếp tục phát huy truyền

thống đoàn kết, yêu nước, hoà hợp dân tộc; đến nay đã trãi qua nhiều kỳ đại

hội. Đại hội đại biểu HĐKSSYN bầu Ban Chấp hành Hội cấp tỉnh, thành có

nhiều vị có uy tín và đức hạnh được Giáo hội Phật giáo Việt Nam bầu vào

Ban, Viện Trung ương

Tình hình hoạt động của HĐKSSYN: Xác định việc phối hợp tuyên

truyền chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong chức

sắc, tu sĩ PGNTK, Ban Quản trị chùa và bà con tín đồ PGNT Khmer có ý

nghĩa quan trọng; đồng thời nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết về các chủ

trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước nhất là chính sách đại

đoàn kết dân tộc, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo.

56

Ban chấp hành Hội thường xuyên phối hợp làm công tác phổ biến,

tuyên truyền vận động các giới tu sĩ PGNTK, Ban quản trị, Achar và phật tử

học tập và quán triệt các đường lối, chủ trương chính sách pháp luật của

Đảng, Nhà nước; nhằm tạo được sự đoàn kết chung giữa tôn giáo dân tộc và

dân tộc với dân tộc, giữ vững trật tự an toàn xã hội; từ đó, tu sĩ PGNTK và

đồng bào dân tộc Khmer vùng TNB luôn ý thức và nêu cao tinh thần cảnh

giác trước âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Đồng thời,

Ban Chấp hành đa số các Hội cũng đã ký qui chế phối hợp đảm bảo an ninh

trật tự với Công an các tỉnh, thành trong vùng TNB.

Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước các tỉnh, thành trong vùng thực hiện tốt

chức năng, nhiệm vụ của mình; cùng tham gia phối hợp với Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam, Ban Dân tộc, Ban Tôn giáo vận động các vị chức sắc, tu sĩ

PGNTK, Achar, Ban Quản trị và đồng bào dân tộc Khmer tham gia sinh

hoạt các lớp phổ biến chính sách pháp luật do Ban Tôn giáo, Ban Dân tộc

tổ chức hàng năm.

Thực hiện việc phối hợp tuyên truyền, vận động, hướng dẫn đồng bào

dân tộc Khmer phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống.

Hội có nhiều nổ lực cùng với các vị chức sắc, tu sĩ PGNTK, Achar, Ban Quản

trị chùa tích cực tuyên truyền trong sư sãi, bà con tín đồ Khmer tập trung lao

động sản xuất phát triển kinh tế gia đình, biết đổi mới, tiếp cận và ứng dụng

tiến bộ kỹ thuật vào cây trồng vật nuôi, nâng cao năng suất, hiệu quả góp

phần giảm nghèo, quan tâm chăm lo việc học tập của con em, giữ gìn truyền

thống, bản sắc văn hoá dân tộc. Hàng năm, HĐKSSYN thực hiện phối hợp

cùng các ngành chức năng xem xét cử tuyển đưa các vị tăng sinh vào học

trường bổ túc văn hóa Pali Trung cấp Nam bộ Sóc Trăng, trường trung cấp

Pali Trà Vinh nhằm tạo nguồn cho Học viện PGNT Khmer; phối hợp Trung

tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, hòa giải các

57

vụ tranh chấp dân sự, cấp và làm giấy khai sanh miễn phí cho con em đồng

bào dân tộc Khmer… Ngoài ra, mỗi năm HĐKSSYN tổ chức khải giảng các

lớp Pali sơ cấp (Pali lớp 1, lớp 2 và Pali Ruông) dành cho các vị sư PGNTK

trong và ngoài vùng đến học.

Đồng thời để đáp ứng yêu cầu đọc tụng, nghiên cứu, giảng dạy, học tập

của các vị sư sãi, tăng sinh về kinh sách chữ Khmer; được sự hỗ trợ của các

ngành chức năng đã thỉnh nhiều bộ Tam Tạng Kinh từ Campuchia được nhập

về đúng theo quy định, pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt Chính phủ đã hỗ trợ

để PGNTK in ấn 52 đầu kinh sách bằng tiếng Khmer cho 446 chùa tại 13 tỉnh,

thành; hỗ trợ khắc dấu cho các chùa PGNTK không thu tiền và đã đưa vào sử

dụng từ năm 2005 đến nay.

Công tác phối hợp vận động chức sắc, tu sĩ PGNTK, Ban Quản trị các

chùa và tín đồ PGNTK tham gia hưởng ứng rộng rãi cuộc vận động Học tập

và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được tuyên truyền bằng tiếng

Khmer (dịch từ tài liệu tiếng Việt sang tiếng Khmer), tham gia phong trào thi

đua yêu nước trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc như vận động thanh niên dân

tộc đăng ký lên đường làm nghĩa vụ quân sự; phong trào nông dân sản xuất,

kinh doanh giỏi; phong trào phụ nữ dân tộc làm kinh tế gia đình; phong trào

xây dựng đời sống văn hoá khu dân cư.

Ngoài ra, các HĐKSSYN còn ký kết chương trình phối hợp với công

an các địa phương về giữ gìn an ninh, trật tự vùng đồng bào Khmer. Bên cạnh

công tác Phật sự, HĐKSSYN và các chùa PGNTK tham gia tích cực các hoạt

động từ thiện xã hội do Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (UBMTTQVN)

và chính quyền địa phương phát động như: Hỗ trợ đồng bào bị thiên tai, lũ lụt

và vận động Phật tử đóng góp tiền xây trường học, xây cầu, bê tông hoá

đường giao thông nông thôn, tặng nhà đại đoàn kết.... cụ thể:

Tỉnh Trà Vinh, trong nhiệm kỳ VI (2013 - 2018) HĐKSSYN đã vận

động được “hơn 6 tỷ đồng và đã giúp đỡ trẻ mồ côi, các con em nghèo hiếu

58

học với số tiền 934 triệu đồng, giúp đỡ các cụ già neo đơn được 874 triệu

đồng; cứu trợ đồng bào bị lũ lụt, thiên tai, giúp đỡ bệnh nhân nghèo, hỗ trợ

đám tang người nghèo 124 triệu đông, giúp đỡ các giảng viên giảng dạy

trong chùa khi gặp khó khăn 878 triệu đồng; giúp đỡ tăng sinh đang học Đại

học trong và ngoài nước 984 triệu đồng”. Tỉnh Sóc Trăng, “trong 5 năm

(2005-2012) đã thực hiện công tác từ thiện xã hội được 4,683 tỷ đồng và trên

80 tấn gạo, vận động phật tử và các chùa hiến 27.600 m2 đất để xây dựng

trường học, làm giao thông”.

Tỉnh Kiên Giang, “tính từ năm 2005 đến nay, Hội Đoàn kết Sư sãi yêu

nước các cấp đã vận động sư sãi, đồng bào Khmer đóng góp trên 10 ngàn

ngày công lao động, sửa chữa làm mới hàng chục ngàn mét đường, bắt mới

136 cây cầu bê tông, cát 723 căn nhà đại đoàn kết, hốt khoảng 600 ngàn

thang thuốc nam với số tiền đóng góp gần 20 tỷ đồng” và “trong năm 2015

các Chi hội đã vận động được hơn 6,5 tỷ đồng”. Cần Thơ “vận động làm

công tác xã hội được trên 5 tỷ đồng”. Hậu Giang, “trong nhiệm kỳ năm 2016

vừa qua Hội đã tích cực vận động Phật tử gần xa kết hợp cùng các chùa ủng

hộ trên 80 triệu đồng...”

Vị trí, vai trò của Ban Quản trị chùa và đội ngũ chức việc trong

PGNTK trên địa bàn vùng TNB hiện nay: Do nét đặc thù của PGNTK mà từ

xưa đến nay mỗi một ngôi chùa đều thành lập một ban quản trị, mỗi thành

viên Ban Quản trị đều có vị trí vai trò quan trọng trong cộng đồng dân tộc

Khmer, giúp các vị sư trụ tì chùa hướng dẫn phật tử thực hiện phong tục tập

quán và lễ nghi tôn giáo, đồng thời hướng dẫn phật tử thực hiện đúng theo

chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Từng thành viên Ban Quản trị,

phải là người am hiểu về phong tục tập quán và lễ nghi tôn giáo, sống gương

mẫu, có uy tín trong cộng đồng người Khmer, được tập thể cộng đồng người

Khmer kính trọng, tín nhiệm và suy cử.

59

Ban Quản trị cùng với vị Trụ trì chùa thường xuyên phối hợp với tổ

chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đoàn thể ở cơ sở vận

động đồng bào ra sức cần kiệm, phát triển kinh tế, đổi mới cách làm ăn,

chuyển đổi cơ cấu cây trồng và vật nuôi, áp dụng khoa học kỹ thuật và sản

xuất, xóa giảm hộ đói nghèo…

Động viên đồng bào Khmer thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn

kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, tham gia xây dựng và thực hiện

hương ước, quy ước của địa phương, vận động xóa bỏ tập tục lạc hậu, giữ gìn

và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc, làm lành mạnh các quan hệ

xã hội ngay trong từng gia đình; động viên các gia đình cho con em tham gia

đến trường học tập, thực hiện sống khỏe, sống vui và hạnh phúc, sống có ích,

chống các tệ nạn xã hội, phải đoàn kết chống lại âm nưu và thủ đoạn phá hoại

của các thế lực thù địch.

Thông qua hoạt động của Hội ĐKSSYN, PGNTK có các hoạt động góp

phần ổn định an ninh chính trị trong vùng có đông đồng bào dân tộc Khmer

sinh sống như: “Từ 2008 đến nay, tỉnh Sóc Trăng đã tổ chức tuyên truyền

được 11 cuộc với hơn 4.500 lượt người nghe. Trà Vinh bằng nhiều hình thức

các vị Trụ trì và Ban Quản trị chùa thực hiện lồng ghép tuyên truyền các nội

dung văn bản có liên quan đến dân tộc, tôn giáo cho Phật tử vào 4 ngày quy

y, thọ giới trong tháng của Phật giáo Nam tông Khmer (ngày 8, 15, 23 và 30)

hàng tháng. “Vĩnh Long từ khi thành lập đến nay Hội đã phối hợp với các

ngành chức năng tuyên truyền được 10 cuộc với trên 700 lượt người dự.

Ngoài ra, các tỉnh có đông đồng bào dân tộc Khmer cũng có phối hợp tốt

công các tổ chức tuyên truyền hàng năm của Ban Chỉ đạo TNB trong sư sãi,

Ban Quản trị chùa và đồng bào Khmer”.

Đặc biệt, “Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước tỉnh Sóc Trăng đã phối hợp

với các ngành chức năng giải quyết có hiệu quả vụ việc phức tạp xảy ra tại

60

Trường Bổ túc Văn hóa - trung cấp Pali Nam bộ (8/2/2007) và tại các chùa

Praey Chóp, chùa Tà sết (5/2013) vừa qua” ; “Hội ĐKSSYN tỉnh Kiên Giang

tham gia vận động giải quyết có hiệu quả các vụ việc phức tạp liên quan đến

sư sãi và đồng bào Khmer, điển hình như: vụ tranh chấp đất đai ở chùa Láng

Cát (Tp. Rạch Giá), chùa Sóc Xoài (Hòn Đất), chùa KhLang Mương (Châu

Thành), chùa Kinh 2 (Vĩnh Thuận)” ; “Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước tỉnh

Bạc Liêu giải quyết đạt kết quả tốt về mâu thuẫn nội bộ giữa Phật tử và Ban

Quản trị chùa Cù Lao (xã Hưng Hội) trong việc di dời 06 tháp cốt nhỏ vào

một tháp cốt lớn; việc đền bù, giải tỏa hàng rào chùa Mới (thị trấn Hòa

Bình). Ngoài ra Hội còn kết hợp với chính quyền và các cơ quan chức năng

tại địa phương xây dựng mô hình 66 tổ Tự quản trong dòng tộc, với 1.280

thành viên tham gia, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội

ở khu dân cư, khóm ấp”.

Ngoài ra, “trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc đã xuất

hiện nhiều tấm gương người có uy tín gương mẫu, tiêu biểu như: Hòa thượng

Đào Như, Hòa thượng Tăng Nô, Hòa thượng Thạch Sok Xane, Hòa Thượng

Thạch Hà, Hòa thượng Danh Nhưỡng, Hòa thượng Danh Đổng, Hòa thượng

Trần Nhíp, Thượng tọa Danh Dỗ, Thượng tọa Danh Nhuôl … đã nhiệt tình hỗ

trợ cơ quan Công an và các ban ngành thực hiện công tác tuyên truyền, vận

động sư sãi, đồng bào dân tộc thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước,

giáo dục quản lý tăng sinh tu học, tham gia bài trừ mê tín dị đoan, phòng

chống tệ nạ xã hội, bảo đảm an ninh trật tự tại địa phương. Đáng chú ý, Đại

Đức Hữu Trung , chùa Cao Dân (Tân Lộc, Thới Bình, Cà Mau) đã phát hiện

chủ động đấu tranh, vận động đồng bào dân tộc không tin vào lời kích động,

lôi kéo của đối tượng xáu tuyên truyền, kích động tư tưởng hận thù dân tộc

giữa người Khmer và người Kinh…Hòa thượng Danh Thiệp, chùa Vĩnh

Thạnh (huyện Châu Thành - An Giang) tích cực vận động đồng bào chấp

61

hành tốt chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tham gia công tác

bảo đảm an ninh, trật tự trên địa bàn; Hòa thượng Lý Sa Muoth, Chủ tịch Hội

Đoàn kết Sư sãi tỉnh Bạc Liêu tích cực tham gia xây dựng mô hình “ Tổ tự

quản dòng tộc”.

Chức năng của Ban Quản trị: nâng cao ý thức tâm nguyện đoàn kết nội

bộ và hướng dẫn Phật tử thực hành theo đúng truyền thống của dân tộc và

Phật giáo. Quan hệ mật thiết giữa các tôn giáo, dân tộc anh em đang sinh sống

cùng địa bàn, xây dựng sự đoàn kết theo phương châm “Tốt đời, đẹp đạo”.

Phối hợp cùng Trụ trì chùa giữ gìn và phát triển nền văn hóa mang bản

sắc dân tộc theo đúng lễ nghi của Phật giáo và truyền thống dân tộc, bảo tồn

giá trị những công trình kiến trúc cơ sở tôn giáo.

Hướng dẫn Phật tử tổ chức các lễ nghi như: lễ tang, lễ cưới, lễ giỗ, lễ

phước thiện với tinh thần tâm nguyện trong phạm vi khả năng kinh tế của mỗi

gia đình. Chịu trách nhiệm trước phật tử và sự chỉ đạo của trụ trì chùa trong

việc quản lý, bảo quản tài sản chung của nhà chùa không để thất thoát. Công

khai tài chính rõ ràng, sử dụng đúng mức, đúng việc và tiết kiệm. Phối hợp

cùng với trụ trì giáo dục tu sĩ và phật tử ý thức PGNTK là một thành viên gắn

bó trong ngôi nhà chung của GHPGVN.

Quyền hạn của Ban Quản trị: Tổ chức điều động hội họp Ban quản trị,

tập trung tín đồ theo định kỳ hay tổ chức các lễ nghi tôn giáo theo luật định

của Phật giáo và lễ cổ truyền của người dân tộc. Tổ chức Đại hội, Hội nghị

thường niên của Ban Quản trị. Tổ chức lấy ý kiến lập thủ tục bổ nhiệm Trụ trì

chùa theo quy định.

Khi cần, được quyền đề nghị lên Trụ trì và HĐKSSYN tổ chức bầu bổ

sung hay bầu lại Ban Quản trị đảm bảo đủ sức điều hành sinh hoạt, hoạt động

tôn giáo nơi thờ tự. Được quyền tham gia giám sát việc xây dựng và phát triển

kinh tế tại địa bàn quản lý. Tham gia góp ý với chính quyền địa phương về

62

quyền lợi, nghĩa vụ của công dân về phát triển văn hóa, xã hội, kinh tế ở địa

bàn mình phụ trách.

2.2.2. Khái quát về hệ thống tín ngưỡng trong cộng đồng người

Khmer ở Tây Nam Bộ

Tín ngưỡng bao gồm hầu hết các hoạt động, nghi thức, thể hiện niềm

tin, sự tưởng nhớ và cả lòng biết ơn của của con người đối với thần, thánh,

các thế lực siêu nhiên và cả những người quá cố. Hoạt động tín ngưỡng có ở

mỗi người, mỗi nhà, mỗi cộng đồng dân tộc, nhưng khi thực hành hoạt động

tín ngưỡng ở mỗi cộng đồng dân cư, mỗi vùng miền cụ thể thì lại không

giống nhau.

Tuy nhiên, do vị trí, điều kiện tự nhiên, yếu tố tộc người và văn hóa là

những nhân tố hình thành và phát triển tín ngưỡng dân gian trên địa bàn TNB

khá phong phú, mang bản sắc văn hóa, dân tộc độc đáo, được lưu truyền lâu

nay trong cộng đồng các dân tộc Kinh, Khmer, Hoa, Chăm và các dân tộc

thiểu số khác.

Theo số liệu báo cáo chưa đầy đủ của các địa phương hiện nay có trên

1.495 cơ sở tín ngưỡng dân gian như: đình, miếu, đền, hội quán, phủ thờ,

trong đó có nhiều cơ sở được công nhận di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh, cấp

quốc gia Mỗi dân tộc có những đặc thù và bản sắc văn hóa riêng của mình

góp phần làm phong phú đa dạng văn hóa dân tộc Việt Nam. Riêng đối với

tộc người Khmer, tính đặc thù và bản sắc văn hóa được thể hiện gắn với các

nghi lễ trong tôn giáo và tín ngưỡng, như sau:

Tín ngưỡng liên quan đến nông nghiệp: Người Khmer ở Nam Bộ nói

chung hiện nay sinh sống chủ yếu bằng sản xuất nông nghiệp, một số ít hộ

sản xuất tiểu thủ công nghiệp nhưng chủ yếu là làm những ngành nghề

truyền thống như đan lát, dệt chiếu, làm gốm… Những mặt hàng này tuy

không có giá trị kinh tế cao, nhưng cũng góp thêm thu nhập cho hộ gia

63

đình người Khmer giúp trang trải cho cuộc sống hằng ngày. Một số hộ gia

đình còn chăn nuôi thêm bò, dê… Do sinh sống gần ở vùng trũng nên hầu

hết ruộng đất của người Khmer còn nhiều khó khăn trong canh tác. Việc

sản xuất lúa của người Khmer hiện nay còn khá hạn chế trong việc áp dụng

khoa học kỹ thuật, vẫn còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên vì vậy năng

xuất lúa không cao.

Là cư dân nông nghiệp, những lễ hội trong năm của người Khmer mang

đậm nét của lễ nghi nông nghiệp. Hai nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sản

xuất nông nghiệp là mưa và nắng, nên trong năm có nhiều lễ hội cầu cho mưa

thuận gió hòa. Những lễ hội này được tổ chức rất long trọng. Vào giữa tháng

Chệt (khoảng giữa tháng 4 dương lịch) người dân Khmer tổ chức ăn tết (Chôl

Chnăm Thmây), đón mừng Chư thiên năm mới hay là vào năm mới trong lễ

này tín đồ tổ chức lễ đắp núi cát, lễ Băng-số-kol cầu siêu và lễ tắm Phật; đồng

thời làm lễ cầu an (Pun Kom San) ở từng phum sóc, cầu cho mưa mưa thuận

gió hòa, người dân được an vui, không bị thất mùa vì thiếu nước vào mùa

nắng, ngập lụt vào mùa mưa.

Tín ngưỡng hồn lúa: Là cư dân chủ yếu sinh sống bằng nghề nông nên

cây lúa có một vị trí trong tinh thần của người Khmer. Họ quan niệm rằng cây

lúa cũng giống như người phụ nữ, có thời con gái, có lúc mang bầu và sinh

con… Hình tượng nữ thần lúa trong người Khmer là một người đàn bà cởi

trần mình cá chép, tay cầm nhánh lúa. Vì vậy, phần nhiều tên các giống lúa

đều được gọi bắt đầu bằng chữ “Neang” người Kinh gọi chệch thành

“Nàng”: Nàng Mau, Nàng Lép, Nàng Quýt… Người Khmer còn tin lúa có

19 hồn nên trước khi gặt lúa, người Khmer phải làm lễ gọi hồn lúa về nhà.

Sau khi gặt, phơi khô đổ vào bồ phải đậy kỹ để hồn lúa khỏi bay đi nơi khác.

Bao giờ trong bồ cũng chừa lại một ít lúa để giữ hồn ở đó phù hộ cho mùa

màng năm sau.

64

Có thể thấy khá rõ, các lễ hội dân gian truyền thống của người Khmer ở

Nam Bộ có liên quan đến sản xuất nông nghiệp. Cho đến nay, người Khmer

còn duy trì việc thờ cúng các vị tổ dòng họ gọi là Àrăk. Thờ cúng vị thần bảo

hộ cho cộng đồng phum, sóc gọi là Nặc Tà cùng một hệ thống lễ nghi nông

nghiệp. Ngoài vị Nặc Tà bảo hộ phum, sóc, người Khmer còn thờ Nặc Tà Srê

(Nặc Tà ruộng) để xin được mùa màng tươi tốt, khỏi bị chuột bọ, sâu rầy; Nặc

Tà ngã ba sông giúp ghe thuyền đi lại an toàn; Nặc Tà Wat (Nặc Tà chùa) để

bảo vệ ngôi chùa khỏi bị ma quỷ quấy phá…Trong các buổi lễ tổ chức tại

chùa hoặc tại gia đình thì đều hoạt động văn nghệ như ca múa, đặc biệt là

không thể thiếu diệu nhảy Rom Vong của trai gái trong tiếng nhạc của giàn

nhạc ngũ âm đặc sắc tạo nên không khí thật vui tươi cho phum sóc.

Tín ngưỡng Nặc Tà: Đây là tín ngưỡng có từ lâu của người Khmer. Nặc

Tà được thờ trong một miếu nhỏ, lớn ở một góc làng hoặc một góc chùa hay

ngã ba, ngã tư sông. Nặc Tà được tượng trưng bởi những hòn đá hình bầu dục

được mài nhẵn hoặc có trong tự nhiên. Có nhiều loại Nặc Tà khác nhau, có

loại thuộc loại cây cổ thụ (Nặc Tà Sâm Rông, Nặc Tà Đơm Chrây, Nặc Tà

Pem Um Mul… có loại Nặc Tà thuộc địa thế, Nặc Tà sự tích địa phương và

Nặc Tà chùa (Wat). Việc thờ cúng Nặc Tà của người Khmer còn mang nhiều

dấu vết của Bàlamôn giáo. Tuy nhiên, hiện nay theo nhận xét của HĐKSSYN

tỉnh Hậu Giang thì việc thờ Nặc Tà gần như không còn nhiều nữa, và thực tế

cũng cho thấy, khi hỏi về Nặc Tà, thanh niên Khmer ngày nay không còn tin

nữa và cũng rất ít người biết đến.

Tín ngưỡng Àrăk: Người Khmer quan niệm rằng Àrăk vừa là ma quỷ

vừa là thánh thần. Mỗi dòng họ thờ một Àrăk riêng để phù hộ cho dòng họ

mình. Trước đây mỗi dòng họ chọn ra một người phụ nữ phụ trách việc lên

đồng (gọi là Lơn Àrăk). Ngày nay, có người làm chuyên nghiệp khi gia đình

nào cần lên đồng thì đến mời và trả thù lao. Những người hành nghề này cứ

65

hằng năm vào tháng 3 hoặc tháng 4 phải tổ chức cúng lễ cho Tổ sư của mình.

Giống như Nặc Tà, Àrăk có nhiều loại: Àrăk Pateh (tức thần đất), Àrăk Phtah

(tức thần bảo bộ gia đình, Àrăk Kol (tức tổ tiên), Àrăk phum (tức thổ thần),

Àrăk Vêl (tức thần ruộng)…

- Tín ngưỡng liên quan đến vòng đời người: Cuộc đời của mỗi người

Khmer phải trãi qua nhiều nghi lễ khác nhau như lễ mở mắt, lễ giáp tuổi, lễ đi

tu… trong đó có những lễ mà người Khmer coi là trọng đại nhất đối với cuộc

đời của con người - đó là lễ cưới và lễ tang. Trong khuôn khổ luận án này,

chúng tôi chỉ đề cập đến hai lễ quan trọng trong hệ thống nghi lễ vòng đời là

lễ cưới và lễ tang mà qua đó chúng ta cũng có thể thấy được ảnh hưởng của

PGNT trong hệ thống nghi lễ vòng đời.

Người Khmer rất coi trọng hôn nhân nên việc dựng vợ, gả chồng luôn

được quan tâm và chuẩn bị chu đáo. Tục ngữ Khmer có câu “làm ruộng bị

thất bát một năm nhưng năm sau có thể lại trúng, còn việc dựng vợ gả chồng

mà sai trái thì suốt đời thất bại” hoặc “làm ruộng nên xem cỏ, cưới gả cho con

nên xem dòng họ” cũng giống như câu nói của người Kinh “lấy vợ xem tông,

lấy chồng xem giống”. Điều này cho thấy người Khmer rất chú ý đến việc

chọn lựa những chàng rể, cô dâu cho con và yếu tố dòng họ có vai trò quan

trọng trong việc chọn lựa rể hoặc dâu.

Theo phong tục trước đây, người Khmer thường hay lấy những người

trong cùng dòng họ, một mặt họ không muốn người khác họ lấy con cháu

mình vì như vậy sẽ dễ mất dòng, mặt khác, những gia đình giàu có không

muốn những người bên ngoài tộc họ lấy con cháu mình để thừa hưởng gia tài,

nên những thanh niên nam nữ khi lớn lên đến tuổi trưởng thành được dòng họ

mai mối để lấy nhau, không khuyến khích yêu và lấy người ngoài tộc họ.

Ngày nay, tình trạng này không còn phổ biến, thanh niên nam nữ được tự do

yêu đương và chọn chồng, vợ cho mình.

66

Lễ cưới của người Khmer được tổ chức gồm nhiều bước, đầu tiên là lễ

dạm hỏi, tiếp đến là lễ ăn hỏi, sau đó là lễ xin cưới và cuối cùng là lễ cưới. Lễ

cưới của người Khmer thường được tổ chức vào mùa khô, rất ít khi tổ chức

vào mùa nhập hạ vì mùa này trời thường hay mưa nên rất khó khăn cho việc

tổ chức lễ cưới. Lễ cưới thường được tổ chức theo hai kiểu: kiểu đám cưới

truyền thống và kiểu hiện đại. Trong lễ cưới có tục “cột chỉ” nhằm nối kết vợ

chồng cho đến trọn đời. Nghi thức này thường do các vị sư thực hiện một

cách trang trọng.

Tang ma là phong tục của người Khmer có ảnh hưởng rất lớn của PGNT.

Theo quan niệm của người Khmer cũng như của PGNT thì chết không phải là

biểu hiện của sự chấm dứt mà sau khi chết linh hồn của người đó vẫn tiếp tục

một cuộc sống mới ở thế giới bên kia. Nghi thức tổ chức tang ma của người

Khmer luôn gắn liền với những nghi thức của nhà chùa, và được tổ chức rất

long trọng. Người Khmer sau khi chết đều được hỏa táng chỉ trừ một số

trường hợp chết do đột tử hoặc tai nạn thì mới áp dụng hình thức thổ táng. Tất

cả những trường hợp thổ táng hay hỏa táng đều được thực hiện trong khuôn

viên của nhà chùa. Tục hỏa táng của người Khmer có nguồn gốc từ Bàlamôn

giáo của Ấn Độ. Họ quan niệm mỗi con người chính là tiểu vũ trụ được sinh

ra từ linh hồn vũ trụ cho nên sau khi con người chết đi phải quay trở về hòa

nhập với vũ trụ. Chính vì thế nên khi chết cần phải được hỏa thiêu để thân

xác được nhanh chóng trở về vũ trụ. Quan niệm này phù hợp với giáo lý của

PGNT và khi tiếp nhận Phật giáo, người Khmer cũng đã chấp nhận tục hỏa

táng và trở thành tập quán của dân tộc mình.

Cũng cần phải nói thêm về những nghi thức thực hiện nghi lễ hỏa táng

của người Khmer. Trước khi liệm Achar Du ki làm lễ xin giới, môn đồ pháp

quyến thỉnh các vị tu sĩ làm lễ Oy Pua Tức (cầu phúc rải nước), Sau đó Achar

Du ki tiếp tục thực hiện nghi thức liệm xác, cắt 5 mảnh vải trắng chia ra 5

67

đoạn, có khan vắt vai rồi chắp tay lại cằm nhang, đèn, trầu cau. Tiếp theo thực

hiện các nghi thức liệm xác, trước khi vào quan tài Achar Du ki thắp 5 cây

đèn cầy, sau đó tụng kinh quán tưởng, nhiễn đèn cầy quanh quan tài 3 vòng,

sau đó mới đưa xác vào quan tài, sau đó thỉnh mời các vị sư sãi tụng kinh cầu

siêu để trợ tiến hương linh cho những người quá vãng được thực hiện tại nhà

từ 1 đến 3 ngày, mỗi ngày tụng 2 thời buổi trưa thì dâng cơm buổi tối cầu an

và cầu siêu, thuyết pháp, lễ an vị Phật... Achar Du ki và Achar lễ trực suốt đến

khi làm lễ động quan Achar Du ki đọc kinh và nhiễu đèn 3 vòng quanh quan

tài rồi mới tiến hành đưa quan tài ra ngoài. Quan tài được khiêng vòng quanh

lò hỏa táng 3 vòng, nếu các vị Achar, Ban Quản trị chùa, người có uy tín được

phép nhiễu 3 vòng chánh điện. Đến lò hỏa táng thỉnh chư tăng đọc kinh cầu

siều lần cuối, xong con cháu làm lễ thắp hương và sám hối đến người quá

vảng lần cuối, Achar Du ki cùng với 4 vị Ph-Lút khiềng vào lò, tiếp đến đại

diện môn đồ pháp quyết châm lửa thiêu. Sau khi thiêu xong Achar Du ki làm

lễ cúng xin cốt một lần nữa mới giao cho gia đình, rửa cốt bằng nước dừa

phời khô xong phần cốt cho vào hủ, được để thờ ở nhà hoặc mang gửi cốt vào

chùa vào các tháp trong chùa.

- Các lễ hội trong năm: Ở người Khmer, PGNT có hai hệ thống lễ hội.

Một là, lễ hội của PGNTK như: (Makha Puja) rằm tháng giêng al, lễ (Vesak

Puja) Phật đản rằm tháng 4 al, lễ (Chol Vassa) Nhập hạ rằm tháng 6 al, lễ

(Cheng Vassa) Ra hạ vào rằm tháng 9 al và lễ Dâng y (Kathina) từ 16 tháng 9

al đến rằm tháng 10 al. Hai là, lễ hội của đồng bào dân tộc Khmer như: Lễ

(Chôl Chnăm Thmây) tết cổ truyền của đồng bào dân tộc Khmer từ ngày 14 -

16 tháng 4 dương lịch hằng năm, lễ (Phchum Penh) Sene Đolta cúng ông bà

từ ngày rằm tháng 8 đến 30 tháng 8 al gọi cúng ông bà, xá tội vong nhân, lễ

Hội (Ok Om Bok) cúng trăng, đua ghe ngo vào rằm tháng 10 al là kết thúc lễ

hội trong năm.

68

Đặc biệt, khi nói đến người Khmer thì không thể không nói đến lễ hội

Ok Om Bok được tổ chức vào các ngày 14,15 và16/10 (Âm lịch). Đây là lễ

hội có từ rất lâu, lúc ban đầu chỉ đua xuồng, ghe và một số môn thể thao, càng

về sau điều kiện kinh tế ngày càng phát triển, người dân tham gia ngày càng

đông, qui mô tổ chức lễ hội ngày càng được nâng dần công nhận là qui mô lễ

hội cấp tỉnh. Ở lễ hội Ok Om Bok, ngoài phần lễ cúng trăng, bộ môn đua ghe

ngo được quan tâm nhiều nhất và được đông đảo các chùa trong và ngoài tỉnh

tham gia thi đấu tranh tài. Lễ hội quy tụ rất đông đảo đồng bào không chỉ

người Khmer mà còn có sự tham gia của các dân tộc khác…

Ngoài ra, còn các cuộc lễ bổ sung khác trong năm như: Lễ cầu an (Pun

Kom san) phum sóc, lễ an vị Phật, lễ chúc thọ, Đại lễ kiết giới Sima rất hoành

tráng và long trọng.

Cùng với lễ là các chương trình giao lưu văn nghệ, ca múa rom vông

được diễn ra ngay tại sân chùa, đặc biệt là thu hút không chỉ thanh thiếu niên

của người Khmer mà cũng có cả người Kinh, Hoa quanh vùng cùng tham dự.

Tóm lại, ngoài PGNTK, tín ngưỡng dân gian cũng chi phối đời sống

tinh thần của người Khmer đó là tín ngưỡng Neak Tà và tín ngưỡng Arăk.

Người Khmer thường tổ chức cúng Neak Tà vào đầu mùa mưa với cầu

mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, phù hộ người dân trong

phum, sróc nhưng Neak Tà cũng có thể gieo họa hoặc ban phúc. Tín

ngưỡng Neak Tà gắn liền với đời sống, sản xuất của người Khmer. Riêng

tín ngưỡng. “Arăk là thần, một loại thần không có hình dáng, biểu hiện rõ

rệt và tính chất thiện, ác cũng khó phân biệt... Arăk tượng trưng cho vị thần

của dòng họ, nghĩa là người trong dòng họ chết từ lâu nhưng linh thiêng

nên được tôn là thần và được các gia đình trong dòng họ thờ cúng nhờ bảo

hộ” [100, tr.68-69] rất phổ biến trước năm 1975 nhưng hiện nay không còn

phổ biến trong đời sống của người Khmer, vì đây là một sinh hoạt mê tín dị

đoan, không còn được người Khmer chấp nhận.

69

2.3. KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER VÙNG TÂY NAM BỘ

2.3.1. Lịch sử truyền giáo

Lịch sử của người Khmer vùng TNB lưu giữ lại đã phản ánh rõ nét

trước khi đạo Phật du nhập vào vùng đất này, nhân dân ở đây đã có nhiều loại

hình tín ngưỡng khác nhau: Tín ngưỡng Tô tem, tín ngưỡng nhân gian, tín

ngưỡng Bàlamôn giáo… Điều này cho tới nay còn mang nặng dấu ấn thể hiện

qua trang trí nơi thờ tự, nơi sinh hoạt, qua nghi thức tế lễ, trong việc thờ cúng,

hình ảnh các tín ngưỡng đan xen, pha trộn nhau trong sự nổi trội của tín

ngưỡng Phật giáo hiện tại.

Căn cứ vào lịch sử nước Phù Nam và nước Chân Lạp, thì người Khmer

có mặt ở vùng đất Nam bộ vào thế kỷ VII. Tuy nhiên, con đường du nhập

PGNT vào cộng đồng người Khmer ở Nam bộ phải diễn ra sau đó rất lâu, và

gắn liền với tiến trình lịch sử nước Chân Lạp. Từ thế kỷ VII, với sức mạnh

quân sự, Chân Lạp nhiều lần đánh chiếm Thái Lan để mở rộng vùng lãnh thổ

của mình. Sau hai thế kỷ đô hộ Thái Lan (XI-XII).

Đến “thế kỷ XIII, các đạo quân Mông Cổ tràn vào tàn phá Thái Lan

và đánh bại người Khmer. Dân chúng tháo chạy nhưng đồng thời họ

cũng thoát được ách đô hộ của người Khmer. Sau đó họ tập hợp lại

và thành lập hai vương quốc là Chiangmai và Sukhothai. Vương

quốc Sukhothai chịu ảnh hưởng của các nhà sư Miến Điện nên ngả

theo Phật giáo Theravada. Vua Rama Kamheng (trị vì: 1281-1318)

cũng theo Phật giáo Theravada và đã hết lòng quảng bá giáo lý trong

Tam tạng kinh [97, tr.303].

Sau khi Thái Lan giành được độc lập vào thế kỷ XIII, Chân Lạp dần bị

suy yếu, cộng với việc triều đình cho xây dựng nhiều đền đài phục vụ cho tôn

giáo đẳng cấp và tôn thờ hình tượng vua Jayavarman VII khiến người dân

càng thêm bất mãn. Thời gian này, song song với Phật giáo Mahayana (Phật

70

giáo Đại thừa) thì Phật giáo Theravada cũng đã âm thầm tồn tại trong lòng

dân chúng Chân Lạp, “lý do là vì có nhiều nhà sư Miến Điện thường xuyên

thay nhau đến Chân Lạp thuyết giảng” [97, tr.303].

Do vậy, Phật giáo Theravada và Phật giáo Mahayana đã tồn tại song

song trong dân chúng Chân Lạp. Trước nhiều biến loạn trên vùng đất Chân

Lạp, nhất là các thế kỷ XII-XIV, người Khmer ở Chân Lạp di cư xuống vùng

đất Nam bộ sinh sống ngày nhiều hơn. Họ quần cư với một nhóm người đồng

tộc định cư từ trước đó (từ thế kỷ VII và những lần di cư rải rác sau đó). Qua

những đợt di cư, liên hệ qua lại giữa hai nhóm người trước đó và nhóm người

di cư từ các thế kỷ XII-XIV, PGNT dần được truyền bá vào Nam bộ, được

người Khmer ở đây tiếp nhận, thay thế Phật giáo Mahayana và Bàlamôn giáo

tồn tại từ trước đó. Do đó, dựa vào những biến cố lịch sử ở Chân Lạp, và sự

liên hệ qua lại giữa hai đồng tộc này, những người Khmer Chân Lạp qua quá

trình di cư tìm nơi đất mới ổn định sinh sống, đã đem Phật giáo Theravada

truyền bá rộng rãi vào Nam bộ, đồng tộc của họ đã tiếp nhận và lưu truyền

rộng rãi trong tộc người.

Một ý kiến khác, căn cứ vào thời gian PGNT hình thành và phát triển

thời kỳ Phù Nam và Chân Lạp với thời gian xây dựng các ngôi chùa của

người Khmer ở Nam bộ thì, PGNT được hình thành ở Nam bộ vào khoảng

cuối thế kỷ thứ III, đầu thế kỷ thứ IV (sau công nguyên) là có cơ sở. Vì Chùa

Kop Treng (ấp Kop Treng, xã Núi Tô, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang) được

xây dựng năm 400; chùa Som Bua (Ấp Trà Kháo, xã Hòa Ân, huyện Cầu Kè,

tỉnh Trà Vinh) xây dựng năm 373; chùa Bến Có (Ấp Bến Có, xã Nguyệt Hóa,

huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh) xây dựng năm 613. Qua đó, có thể khẳng

định, PGNT tồn tại ở Nam Bộ trước khi những ngôi chùa ngày xuất hiện từ

nửa thế kỷ.

Theo Nguyễn Xuân Nghĩa [72], những tư liệu khảo cổ học cho thấy, từ

thế kỷ VI đến thế kỷ XVIII, vùng phía nam Trà Vinh, một trong những điểm

71

tụ cư lâu đời và đông đảo nhất của người Khmer là một trong các trung tâm

Phật giáo lớn thời bấy giờ. Sự tập trung các bức tượng cổ nơi đây khiến ta suy

nghĩ Phật giáo đã du nhập vào vùng Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long chủ

yếu bằng đường biển mà các cửa sông Cổ Chiên, Định An, Trần Đề là những

đường thâm nhập thuận lợi nhất. Đồng thời, trong số 13 tượng Phật cổ được

tìm thấy nơi đây có 4 tượng liên hệ đến Lokecvara. Như vậy đã có thời gian

Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền đã cùng tồn tại. Song từ thế kỷ XIII trở

đi, ảnh hưởng đến cách ứng xử của đồng bào Khmer trong mọi mặt của đời

sống hàng ngày rõ ràng là Phật giáo Nam truyền.

Quá trình truyền thừa của Phật giáo: Cách đây hơn 2.500 năm Phật lịch,

thời Đức Phật Thích Ca còn tại thế, Phật giáo vốn là một thể thống nhất,

không có sự phân chia hệ phái. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn,

các hàng đệ tử của Đức Phật tập trung nhau lại đọc tụng kinh, ghi nhớ những

điều Phật dạy, khi đó mới xuất hiện những quan điểm khác biệt về việc thực

hành giới luật, hình thành các bộ phái khác nhau. Việc giải thích khác nhau về

giáo lý cho thích hợp với tình hình của xã hội vào mỗi thời điểm là chuyện tất

yếu. Tuy vậy, bản thân giáo lý Phật giáo không hề có sự phân chia tông phái.

Sự phân chia hệ phái trong Phật giáo bắt đầu xảy ra vào thời kỳ kết tập

Tam tang kinh điển lần II tổ chức tại thành Tỳ Xá Ly (khoảng 100 năm sau

khi Thích Ca Mâu Ni nhập Niết Bàn). Lần phân chia đầu tiên là do sự bất

đồng về yêu cầu thay đổi 10 điều giới luật. Các điều này tuy không phải là

những thay đổi lớn lao, nhưng đủ để gây ra sự tách biệt Tăng đoàn thành Đại

Chúng Bộ (Mahàsamghika), mà đa số là các Tỳ Kheo trẻ muốn thay đổi. Số

còn lại bảo lưu các giới luật nguyên thuỷ hình thành Thượng Tọa Bộ

(Thèravada). Các cuộc phân phái về sau trở nên phức tạp và đa dạng hơn.

Thèravada còn gọi là Phật giáo Nguyên thủy hay PGNT; thuật ngữ

“Thèravađa” còn có nghĩa là “lời dạy của bậc trưởng thượng”, do đó nhiều

72

sách còn gọi nhóm này là Trưởng Lão Bộ. Trong kỳ kết tập Tam tang kinh

điển lần III, hội đồng tham gia kết tập đã công nhận giáo pháp gọi là Thuyết

Trưởng Lão. Sau đó, người con trai của vua Asoka (A Dục) là Mahinda đã

đem cả ba tạng kinh đến Sri Lanka để dịch sang tiếng Pàli, từ đó trở thành

nguồn tạng kinh sử dụng của Phật giáo Thèravađa cho đến ngày nay.

Trong quá trình phát triển, hệ phái Đại Chúng Bộ truyền về hướng Bắc

sang Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam… được gọi là Phật giáo

Bắc tông (Mahayana) hoặc Phật giáo Bắc truyền. Phái Thượng Tọa Bộ

truyền về hướng Nam, phát triển xuống Sri Lanka (Tích Lan), Myanmar

(Miến Điện), Thái Lan, Campuchia, Lào, Việt Nam … nên được gọi là

PGNT hoặc Phật giáo Nam truyền. PGNT được đông đảo người dân ở Nam

Bộ - Việt Nam; đặc biệt là tộc người Khmer đón nhận và trở thành tôn giáo

truyền thống chính thống trong cộng đồng người Khmer ở nơi đây; do đó

được gọi là PGNTK.

Quá trình du nhập Phật giáo Nam tông vào Việt Nam: Phật giáo Nam

tông được truyền vào các nước Đông Nam Á như: Sri Lanka, Myanmar, Thái

Lan, Lào, Campuchia và Miền Nam Việt Nam (trước đây là vùng đất Phù

Nam) bằng hai con đường: đường thủy thông qua việc buôn bán với thương

gia Ấn Độ và đường bộ qua sự giao lưu văn hóa với các nước trong khu vực

bán đảo Đông Dương. Nhưng trước khi Phật giáo truyền vào cộng đồng người

Khmer, chủ yếu họ theo Bàlamôn giáo hoặc các tín ngưỡng truyền thống như:

thờ các thần đất, thần nước, thần lửa, thần gió và thần Arặk, Nặk Tà...Theo

các tác giả: Trí Bửu (tr.14), Lê Đàn (tr. 27), Hòa thượng Thích Thiện Tâm

(tr.486) và Phan Thuận (tr.541) trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Phật giáo

đồng hành cùng dân tộc” tổ chức tại Kiên Giang do Viện nghiên cứu tôn giáo

(Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam) - Học viện PGNTK (Giáo hội Phật giáo

Việt Nam) tổ chức vào ngày 11/6/2014 đều cho rằng: “Phật giáo Nam tông

73

có mặt ở Nam Bộ - Việt Nam từ khoảng thế kỷ IV”. Mặc khác, chùa Tro Păng

Veng ở xã Nhị Trường, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh là ngôi chùa đầu

tiên của PGNT ở vùng đất Nam Bộ - Việt Nam được xây dựng trên vết tích

của Bàlamôn giáo vào năm 374 (sau Công nguyên).

Từ khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam thì triết lý, đạo đức Phật giáo đã

nhanh chóng hòa quyện vào đời sống xã hội, mỗi hành động, mỗi ý tưởng của

ngôn ngữ sinh hoạt đời thường điều có chất liệu Phật giáo thấm nhuần theo

từng lĩnh vực của đời sống xã hội. Riêng đối với PGNTK, bên cạnh chức

năng văn hóa, ngôi chùa luôn đảm nhiệm chức năng giáo dục, bản chất giáo

dục Phật học trong chùa Khmer luôn có mối quan hệ gắn bó mật thiết với giáo

dục phổ thông nghĩa là dạy học chữ Khmer và chữ phổ thông rất ngẫu nhiên,

thậm chí ngôi chùa còn đảm đương việc dạy nghề cho Phật tử… Nếu chỉ đơn

thuần xét về đặc điểm giáo dục Phật học cho các vị tăng sinh hoặc cho lứa

tuổi thanh thiếu niên được trưởng thành trong ngôi chùa Khmer từ xưa cho

đến nay thì nó là một chu trình khép kính của việc “tu - học”.

Quá trình tồn tại và phát triển, PGNTK giữ vai trò độc tôn trong đời sống

của cộng đồng người Khmer; ngôi chùa Khmer vừa là trung tâm sinh hoạt tôn

giáo, vừa là trung tâm văn hóa, giáo dục của cộng đồng người Khmer ở nơi

đây. Đồng thời, có nhiều đóng góp quan trọng trong công cuộc dựng nước và

giữ nước của dân tộc Việt Nam và góp phần quan trọng trong việc hình thành

văn hóa, lối sống, phong tục tập quán, đạo đức cũng như trong các cuộc đấu

tranh xây dựng và bảo vệ độc lập của nhiều dân tộc và đặc biệt là góp phần vào

việc tạo ra bản sắc văn hóa Việt Nam.

Phật giáo Nam tông trở thành tôn giáo truyền thống của người Khmer,

đã đồng hành cùng dân tộc Khmer trong suốt quá trình lịch sử của dân tộc. Dù

bất cứ hoàn cảnh nào, dù khó khăn gian khổ đến mấy, họ cũng luôn gắn bó

với tôn giáo truyền thống của họ, thậm chí họ còn coi chùa chiền là niềm tin,

74

là chỗ dựa tinh thần vững chắc. Mỗi khi có việc không lành xảy ra, họ thường

tìm đến đây để van vái, cầu mong cho Phật, Pháp, Tăng phù hộ để sớm thoát

nạn. Khi có chiến tranh, chùa là nơi để họ trú ẩn, để tránh mối hiểm nguy. Họ

cho rằng, đây là vùng đất linh thiêng có thể che chở, có thể tránh được các

mối đe dọa cuộc sống của họ, cho nên trong thời gian xảy ra chiến tranh, hầu

hết người Khmer đã tập trung về sống xung quanh chùa để tránh bom đạn,

tránh mối hiểm nguy cho bản thân, cho gia đình và người thân của họ.

2.3.2. Giáo lý, giáo luật, nghi lễ, cơ cấu tổ chức

Phật giáo Nam tông từ lâu đã in đậm trong tâm khảm và chi phối mạnh mẽ

đời sống tinh thần của các thế hệ người Khmer. Đối với đồng bào Khmer, triết lý

Phật giáo là chân lý, đức Phật là niềm tin, ngôi chùa là điểm tựa về tinh thần, sư

sãi là tấm gương đạo đức. Vì vậy, mỗi người Khmer được sinh ra đã được xem

mình là một người Phật tử. Ngoài ý nghĩa xuất gia để báo hiếu, tu gieo duyên

còn tôi luyện đạo đức, sư sãi Khmer còn được trau dồi kiến thức và trí tuệ để

phụng sự đạo pháp và dân tộc.

Do đó, nhà chùa đảm nhiệm cả công nội và công ngoại, ngoài việc giảng

dạy tiếng Khmer để giữ gìn và phát huy tiếng nói, chữ viết của dân tộc; dạy tiếng

Pali - Khmer, văn phạm Khmer ngữ để sáng tạo ngôn từ mới bổ sung cho tiếng

Khmer; dạy kiến thức Phật học để tiếp cận những tinh hoa của Phật giáo. Trong

chương trình giảng dạy, người học còn được tiếp cận văn học, văn hóa học, dân

tộc học, ngôn ngữ học...

Những chuẩn mực đạo đức phật giáo có tác dụng điều chỉnh hành vi,

nhân cách con người, ảnh hưởng tích cực đến tín đồ, Phật tử. Điều đó thể hiện

tính độc lập tương đối của các hình thái ý thức xã hội, chúng luôn có sự tác

động qua lại lẫn nhau tạo nên nét đặc thù riêng trong lối sống, đạo đức cho

dân tộc này được phát triển và sinh tồn trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.

PGNT với giáo lý, giáo luật, lễ nghi đơn giản phù hợp với cuộc sống đời

thường của người Khmer gắn liền với nền văn hóa lúa nước.

75

Người Khmer đã tiếp nhận PGNT và đưa tôn giáo này lên vị trí độc tôn

trong đời sống vật chất, tinh thần cả mình. Những triết lý nhà Phật đã ảnh

hưởng rất sâu sắc đến đồng bào dân tộc Khmer. Văn hóa tộc người Khmer và

PGNT đã hòa quyện vào nhau, bổ sung cho nhau tạo nên một chỉnh thể văn

hóa tôn giáo - tộc người độc đáo và đặc sắc của người Khmer. Việc đi tu để

trả hiếu cũng là nét đẹp truyền thống và là giá trị đạo đức nhân văn cao cả của

người Khmer vẫn được duy trì.

Thanh niên Khmer cần phải vào chùa tu hành một thời gian để trau dồi

đạo đức, trang bị tri thức và học cách làm người vì người đã tu hành ở chùa sẽ

được cộng đồng người Khmer nhìn nhận và đánh giá cao, dễ lập gia đình, dễ

được tiếp nhận làm các công việc xã hội. Về đời sống hàng ngày, PGNT thực

hành theo giới luật Phật giáo Nguyên thủy, nên không ăn chay (dùng tam tịnh

nhục) như Phật giáo Bắc tông, các vị sư sống bằng sự khất thực hằng ngày, sự

dâng cúng vật thực mỗi ngày của tín đồ. Các sư chỉ ăn hai bữa một ngày điểm

tâm ăn cháu; vào trời ló vạng buổi sáng sớm, và trước giờ Ngọ (sớm hơn 12

giờ trưa). Sau 12 giờ trưa cho đến hết đêm nhà sư chỉ được dùng vật lỏng để

uống, như: nước, sữa, trà, đường, trái cây ép, vắt, mật ong, nước mía…Sau

một thời gian tu học, họ hết căn duyên có thể xin hoàn tục theo truyền thống,

lập gia đình, phát triển kinh tế, tham gia các công việc xã hội nhưng khi

muốn, nếu còn căn duyên họ có thể tiếp tục xin vào chùa xuất gia lần thứ hai

vẫn được, nhưng phải được sự chấp thuận và đồng ý của gia đình.

Đặc biệt, PGNTK không có phụ nữ tu hành ở chùa, chỉ có tu nữ thọ bát

quan trai giới hay thập giới. Tuy nhiên, người phụ nữ Khmer lại được giáo

dục tư tưởng và đạo đức Phật giáo thông qua nếp sống của người đàn ông

trong gia đình, thông qua các lễ hội, các buổi thuyết giảng giáo lý và những

nghi thức truyền thống mang đậm nét Phật giáo của người Khmer như: Lễ

Phật đản; lễ Nhập hạ, lễ Xuất hạ, lễ Dâng y Kathina, tết Chôl Chnăm Thmây,

76

lễ Sene Đôlta, lễ hội Ok Om Bok, nghi thức dâng cúng trai tăng và các nghi lễ

khác tổ chức tại gia đình... Tất cả các cuộc lễ đều được tổ chức tại chùa,

chương trình lễ do vị sư cả trong chùa soạn thảo. Ngày lễ thực sự là ngày hội

quần chúng, mọi người đều quy tụ về ngôi chùa trong xóm để dự lễ và vui

chơi với hàng loạt những trò chơi dân gian, truyền thống của dân tộc mình.

Nhìn chung, mọi tín đồ đều gắn bó chặt chẽ với nhà chùa từ những việc lễ hội

cho đến các công việc thường nhật hàng ngày của đời sống gia đình.

Phật giáo Nam Tông Khmer có hệ thống tổ chức 4 cấp là trung ương,

tỉnh, huyện, cơ sở. Các tổ chức này đều tập trung hoạt động về công tác tôn

giáo, quan hệ với các đạo khác, quan hệ với các cấp chính quyền… nhằm giải

quyết các công việc đạo sự. Chỉ riêng có một số chức sắc là tham gia vào các

đoàn thể, Mặt trận. Việc tham gia quản lý Phum, Sóc cơ bản cấp xã là do các

chùa đảm nhiệm. Nhà chùa, với hình thức tổ chức tập thể đã bầu ra Ban quản

trị để liên lạc với chính quyền địa phương. Chính quyền địa phương ở nhiều

tỉnh, nhất là tỉnh Sóc Trăng - thống nhất với nhà chùa tiến hành tổ chức Đại

hội Sư sãi Acha để thống nhất một số quy ước về phong tục tập quán và lễ

hội của dân tộc, cũng là nhằm đảm bảo việc quản lý địa bàn thực hiện tốt an

ninh trật tự trong chùa, Phum, Sóc. Kết quả là các lễ hội được tổ chức cải

tiến, giảm bớt các thủ tục rườm rà, rút ngắn được thời gian, bảo đảm thích

hợp thực hiện tốt công tac trật tự trị an, an toàn xã hội trong địa bàn chùa,

Phum, Sóc.

2.3.3. Tu sĩ và tín đồ

Ngay từ thời xa xưa và cho đến ngày nay, đa phần một người Khmer vùng

TNB khi cất tiếng khóc chào đời mặc nhiên đã là một tín đồ của PGNTK. Cùng

với sự phát triển dân số thì tín đồ của PGNTK cũng liên tục phát triển.

Qua bao thế kỷ người Khmer Nam Bộ đã gắn bó với PGNT; với vai trò,

chức năng và những giá trị nhân văn sâu sắc của mình; PGNT đã trở thành

77

chỗ dựa trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Khmer. Đặc biệt khi

thanh, thiếu niên vào chùa đi tu sẽ được các sư sãi khuyên dạy những điều

hay lẽ phải “lễ nghĩa”, dạy học chữ, viết chữ, dạy nhân cách làm người... Để

khi thanh thiếu niên đó trở về gia đình, hòa nhập vào cuộc sống đời thường có

được một kiến thức nhất định sẽ vững vàng hơn trong cuộc sống. Qua nghiên

cứu chúng tôi khái quát những nét đặc trưng của PGNTK được thể hiện trên

các mặt như sau:

Trong thời gian tu học làm tu sĩ, đa số các vị được sự giúp đỡ về mọi mặt

vật chất lẫn tinh thần từ phía nhà chùa và các tín đồ đóng góp. Trong suốt quá

trình các vị sư tu học, trụ trì ở các chùa luôn quan tâm giúp đỡ học tập Phật học

và thế học và cưu mang che chở giúp đỡ mọi thứ, cụ thể những năm gần đây

HĐKSSYN các cấp cũng đã giới thiệu cho tu sĩ Khmer đi học các nơi như:

Trường Bổ túc Văn hóa Pali trung cấp Nam Bộ tại Sóc Trăng; Học viện PGNT ở

thành phố Cần Thơ; các trường cao đẳng, đại học ở trong nước và nước ngoài

(chủ yếu là du học tại Thái Lan và Myanmar). Tuy nhiên, tu sĩ PGNTK không bị

bắt buột là phải tu suốt đời mà có thể lựa chọn các hình thức như sau:

Tu suốt đời: có rất ít thanh niên Khmer nguyện đi tu và thực hành theo

giáo lý nhà Phật suốt đời. Đối với hình thức đi tu này, các vị sư chỉ chú tâm

học hành theo giáo lý nhà Phật như: học Kinh, Luận, Giới, học Pali và học

ngồi thiền Vipassana, bên cạnh đó là trau dồi kiến thức liên quan đến việc tu

học của mình. Trong tương lai các vị sẽ trở thành vị pháp sư, thiền sư chuyên

đi thuyết pháp giảng đạo, hoặc trở thành các vị thiền sư hướng dẫn Phật tử

cách ngồi thiền định Vipassana gọi là pháp hành.

Tu trả lễ: Hình thức đi tu gieo duyên này thường được tổ chức vào dịp

lễ Chôl Chnăm Thmây (tết cổ truyền đồng bào dân tộc Khmer), hoặc lễ cầu an

tại phum soc. Nhưng dù xuất gia trả lễ hay gieo duyên từ một đến bảy ngày,

vào dịp lễ nào thì cũng phải hoàn tục.

78

Tu báo hiếu: đây là một tập quán lâu đời, là truyền thống văn hóa đặc

trưng của người Khmer. Hình thức đi tu này vừa mang đậm tính chất tôn giáo,

nhưng đồng thời còn thể hiện lòng hiếu thảo của con cháu đối với ông bà, cha

mẹ những người đã có công sinh thành dưỡng dục. Người Khmer gọi đó là

Buôs Muc Phlơn, tức là tu trước ngọn lửa cháy to trong lúc hỏa thiêu những

người quá cố. Người đi tu trong trường hợp này cũng được gọi là Buôs Son

Kun tu báo hiếu, thực hiện đúng nghi lễ xuất gia trở thành một vị Sadi. Nhưng

đối với hình thức tu này, người tu không vào chánh điện hoặc vào chánh điện

nếu xét thấy bản thân có căn duyên tu được một hạ Phật là 3 tháng, hoặc làm

lễ xuất gia trong túp lều hay nhà hỏa táng. Lễ buộc tay Neak trong trường hợp

này được tổ chức trước giờ động quan. Sau đó Achar Duki hướng dẫn Neak

và tất cả thành viên trong gia đình tiễn đưa quan tài đến nơi hỏa táng. Khi

ngọn lửa cháy bừng lên thì Achar Duki dẫn Neak vào trong lều nơi có một vị

sư đang ngồi Abhidhamma (Ngồi niệm kinh Vi Diệu Pháp hồi hướng phước

cho người chết) chú nguyện để làm lễ xuất gia. Khi xuất gia xong vị Sadi này

sẽ được bố trí ngồi trong lều niệm câu chú nguyện, hồi hướng phước báu cho

hương linh người quá vãng. Ngồi niệm ở đó đến khi thiêu xong thì vị Sadi

này cùng Achar Duki và gia đình đi nhặt xương người chết bỏ vào khay có lót

vải trắng, xương cốt được gói gọn trong khay đem về nhà làm lễ đấp núi cát,

cầu siêu cho sớm giải thoát. Đến khi tang lễ kết thúc, Achar Duki sẽ hướng

dẫn vị Sadi làm lễ hoàn tục tại nhà. Tuy nhiên cũng có trường hợp người tu

báo hiếu không muốn hoàn tục mà xin về chùa ở luôn; trong trường hợp này,

gia đình phải làm thêm một số thủ tục để hợp thức hóa đúng theo quy định

của pháp luật.

Mặc dù vào chùa tu trên tinh thần tự nguyện nhưng chỉ được nhận vào

chùa và được thọ giới Sadi khi đáp ứng được một số yêu cầu cơ bản: Phải

được sự đồng ý của cha mẹ hoặc người nuôi dưỡng (nếu còn nhỏ). Người nam

79

đã có gia đình muốn vào chùa tu phải được sự đồng ý của vợ; Phải là công

dân tốt, không trong tình trạng vi phạm pháp luật; phải có thầy dẫn dắt và có

những vật dụng cần thiết của một tu sĩ.

Tu sĩ PGNTK có vị trí và ảnh hưởng rất lớn đối với cộng đồng người

Khmer. Các vị tu sĩ Khmer được coi là đại diện cho 3 đời Chư Phật để truyền

dạy và giáo hóa chúng sanh, họ luôn là người thầy mô phạm được tôn kính và

tin tưởng. Sinh hoạt văn hóa, lễ hội của đồng bào Khmer đều có sự tham dự,

hướng dẫn và chứng minh của các vị tu sĩ. Có thể nói, đời sống thường nhật

của đồng bào Khmer và PGNTK luôn gắn bó mật thiết với nhau và không thể

tách rời từ sinh ra cho đến hết đời.

Người Khmer theo PGNT trước tín đồ tu sĩ là nhân vật thiêng liêng, là

người đại diện cho Đức Phật, người nối giữa tín đồ và Đức Phật. Các vị tu sĩ

được xã hội kính trọng như vậy cho nên trong xã hội Khmer trước đây tu sĩ có

phạm pháp chính quyền cũng không được đụng tới, không được xử lý theo

pháp luật như người thường dân. Chỉ khi nào Hội đồng kỷ luật sư sãi của

Giáo hội Phật giáo khẳng định sai sót trong việc làm của vị tu sĩ đó và trục

xuất ra khỏi chùa, khi đó pháp luật mới được xử lý người phạm pháp theo luật

xử lý với người dân.

Do được đề cao, được xã hội kính trọng nên các vị tu sĩ Khmer theo

phái Nam tông phải tu hành theo giới luật nghiêm ngặt, thực hiện nghiêm túc

theo những quy định giới luật do Phật chế lúc còn tại thế như: Tu sĩ không

được đi một mình với một người phụ nữ trên quãng đường vắng chỉ có hai

người; tu sĩ không được ngồi chung chiếu với phụ nữ, không được ăn cơm, ăn

đồ cúng sau 12 giờ trưa (quá ngọ)…

Đối với tín đồ, tu sĩ là một mẫu hình của chuẩn mực đạo đức thực hành

đạo hạnh của Đức Phật. Trong các chùa Khmer , tu sĩ được phân công giữ gìn

giới luật trong chùa. Vị nào vi phạm giới luật sẽ bị xử lý nghiêm khắc, với các

80

hình thức khác nhau: Vi phạm nhẹ thì người vi phạm phải sám hối, vi phạm

nặng sẽ bị xử phạt hoặc bị lột áo cà sa, trục xuất ra khỏi chùa…

Ngoài tu hành rèn luyện đạo hạnh, tu sĩ còn phải học tập thông hiểu giáo

lý, vị tu sĩ được kính trọng là vị tu sĩ tinh tiến trong tu học thông hiểu giáo lý và

có đạo hạnh trang nghiêm.

Tóm lại, cách đây hơn 2.500 năm, thời Đức Phật Thích Ca còn tại thế,

Phật giáo vốn là một thể thống nhất, không có sự phân chia hệ phái. Sau khi Đức

Phật nhập Niết Bàn, các đệ tử Phật tập trung nhau lại đọc tụng, ghi nhớ những

điều Phật dạy, khi đó mới xuất hiện những quan điểm khác biệt về việc thực

hành giới luật, hình thành các bộ phái khác nhau. Việc giải thích khác nhau về

giáo lý cho thích hợp với tình hình của xã hội vào mỗi thời điểm là chuyện tất

yếu. Tuy vậy, bản thân giáo lý Phật giáo không hề có sự phân chia tông phái.

Sự phân chia bộ phái trong Phật giáo bắt đầu xảy ra vào thời kỳ kết tập kinh

điển lần II tổ chức tại thành Tỳ Xá Ly (khoảng 100 năm sau khi Thích Ca Mâu

Ni nhập Niết Bàn). Lần phân chia đầu tiên là do sự bất đồng về yêu cầu thay đổi

10 điều giới luật. Các điều này tuy không phải là những thay đổi lớn lao, nhưng đủ

để gây ra sự tách biệt Tăng đoàn thành Đại Chúng Bộ (Mahàsamghika), mà đa số

là các Tỳ Kheo trẻ muốn thay đổi. Số còn lại bảo lưu các giới luật nguyên thuỷ

hình thành Thượng Tọa Bộ (Theravada) hay còn gọi là PGNT.

Phật giáo Nam tông có điểm ưu việt của nó là truyền bá đến quốc gia

nào vẫn giữ được nét văn hoá Phật giáo đặc thù, mà những truyền thống khác

rất hiếm có. Hiện nay, PGNT có mặt ở những quốc gia: Srilanka, Myanma,

Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Anh, Mỹ, Ý, Úc, Malaysia , Indonesia,

Nepal, Ấn Độ v.v… Điểm đáng nói là tính thống nhất trong truyền thống tu

tập, chư tăng tụng kinh bằng tiếng Pali và tiếng bản ngữ, tu hành y cứ theo

thánh điển Pali, Tam y và bình bát là tài sản của bậc xuất gia, chỉ ăn ngày một

buổi, không ăn phi thời.

81

Phật giáo là một tôn giáo dạy cho con người làm lành lánh dữ, với mục

đích cao cả là giải thoát nhập đại Niết Bàn, giúp con người được an vui trong

hiện tại, chấm dứt phiền não và được thuận duyên trong cuộc sống. Phật giáo

được truyền vào Việt Nam từ lâu đời và bằng nhiều con đường khác nhau. Ở

nước ta Phật giáo có nhiều hệ phái như Phật giáo Bắc tông (Phật giáo Bắc

truyền), PGNT (Phật giáo Nam truyền, Phật giáo Nguyên thủy), Khất sĩ...

Trong hệ phái Nam tông Việt Nam được chia làm hai hệ phái là Nam tông

Khmer và Nam tông Kinh. PGNT được truyền vào Việt Nam theo con đường

của các nhà truyền giáo Ấn Độ đi theo đường biển tới Srilanka, Myanmar,

Thái Lan, dọc theo dòng Sông Mê Kông đến Campuchia và vào các tỉnh khu

vực đồng Bằng Sông Cửu Long của Việt Nam. Việc tiếp nhận PGNT của

người Khmer Nam Bộ là một thực tế khách quan, đã được thử thách và chọn

lọc. Vì trong thực tế cho thấy từ những thế kỷ đầu Công nguyên Phật giáo

Bắc tông, đạo Bàlamôn đã đến với người Khmer. Cuối cùng các tôn giáo này

đều phải ra đi để người Khmer đón nhận PGNT một cách nồng nhiệt.

Nghiên cứu lịch sử PGNT Việt Nam, chúng ta thấy có hai hệ phái

chính: PGNTK và PGNT Kinh cùng tồn tại và phát triển trong ngôi nhà Phật

giáo Việt Nam. Hệ phái Nam tông được đông đảo người dân Khmer đón

nhận, trở thành tôn giáo chính của người Khmer nên gọi là PGNTK và có ảnh

hưởng sâu sắc và chi phối nhiều mặt, thấm sâu vào cuộc sống tâm linh, phong

tục, tập quán, lễ, hội truyền thống, tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào Khmer

Nam bộ. Đây cũng là nơi hội tụ, tiếp biến, giao thoa của nhiều dòng chảy văn

hóa, các giá trị đạo đức, văn hóa được kết tinh, lắng đọng góp phần tạo nên

những giá trị văn hóa độc đáo, phong phú, giàu bản sắc của cộng đồng người

Khmer Nam Bộ.

Thời nhà Nguyễn, vua Minh Mạng vì muốn thống nhất việc tu hành của

Phật giáo trong toàn quốc, đã bắt buộc sư sãi Khmer mặc áo cổ vuông và ăn

82

chay trường như quý thầy Bắc tông. Nhưng chính sách này đã bị sư sãi và

đồng bào Khmer phản đối kịch liệt, và từ đó đã nổ ra phong trào chống đồng

hóa dân tộc tôn giáo ở nhiều nơi. Trong thời kỳ Đông Dương thuộc Pháp,

PGNT của dân tộc Khmer ít có quan hệ với các tổ chức Phật giáo Bắc tông

của người Kinh, mà phần nhiều chịu ảnh hưởng của các tổ chức Phật giáo ở

Campuchia; chính quyền thực dân Pháp đã tìm cách tách PGNT của người

Khmer ra khỏi cộng đồng các tôn giáo ở Việt Nam nói chung và khu vực

Nam bộ nói riêng, gắn với tổ chức Phật giáo ở Campuchia.

Người Pháp chủ trương PGNTK ở Nam bộ trực thuộc hệ thống quản lý

của vua sãi ở Campuchia. Các tỉnh ở Nam Bộ có đông tu sĩ Khmer được

thành lập “Hội đồng kỹ luật Sư sãi”, và có liên hệ với vua sãi ở Campuchia để

quản lý tín đồ PGNTK ở Nam bộ. Các tổ chức “Hội đồng kỹ luật Sư sãi” ở

các tỉnh Nam bộ được sự hỗ trợ giúp tư vấn của Chính phủ Hoàng gia

Campuchia. Song song đó, người Pháp cũng giúp các tu sĩ Khmer Nam Bộ

thành lập “Phân bộ địa phương của Viện Phật học ở Nam Kỳ” (1943) để quan

hệ với các tổ chức Phật giáo ở Campuchia

Sau năm 1975, PGNTK của tỉnh tiếp tục đồng hành cùng dân tộc, hàn

gắn vết thương chiến tranh. Nhiều tu sĩ PGNTK được giới thiệu tham gia

thành viên của các cơ quan ban, ngành của hệ thống chính trị như: Uỷ ban

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp, Hội liên hiệp thanh niên, Hội Hữu nghị

Việt Nam - Campuchia, Hội Chữ thập đỏ, Hội Khuyến học..v.v. Bên cạnh đó,

được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận và đoàn thể

chính trị - xã hội, PGNTK tiếp tục phát huy tinh thần yêu nước và truyền thống

đoàn kết dân tộc, có nhiều thành tích đóng góp trong việc tập hợp, tuyên truyền

vận động hướng dẫn các vị sư sãi và bà con đồng bào dân tộc Khmer trong

đường hướng hoạt động đạo pháp phù hợp với Luật tín ngưỡng, tôn giáo; chấp

hành và thực hiện tốt các chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật của

83

Đảng, Nhà nước; giữ gìn và phát huy truyền thống bản sắc văn hóa dân tộc;

tăng cường khối đại đoàn kết góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an

toàn xã hội ở địa phương.

Đặc biệt là từ năm 1981 đến nay trải qua 37 năm kể từ khi thành lập

Giáo hội Phật giáo Việt Nam, với tinh thần đoàn kết, hòa hợp tuân thủ các

nguyên tắc tổ chức và hoạt động PGNTK, các cấp ủy đảng, chính quyền tiếp tục

lãnh đạo tu sĩ và Phật tử Khmer tiếp tục đẩy mạnh việc hoằng pháp độ sinh,

hướng dẫn tu sĩ và Phật tử Khmer hành đạo đúng phương châm của Giáo hội.

Mặt khác, luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, tích cực phòng, chống và

làm thất bại âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch nhằm bảo vệ

vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần nền móng vững chắt

cho sự nghiệp xây dựng và phát triển của Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong

lòng dân tộc và trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tiểu kết chương 2

Trước khi PGNT thịnh hành thì người Khmer chịu ảnh hưởng của Bà La

Môn giáo. Đạo Bà La Môn không còn tồn tại nhưng giá trị của nó vẫn còn in

dấu đậm nét khắp vùng người Khmer trong tín ngưỡng dân gian. Trong đời

sống tinh thần, Bà La Môn giáo tồn tại dưới dạng một hệ thống thần linh đã

được Phật giáo Nam tông đồng hóa đó là thần Maha Prum, Reahu, chim Krut,

các vị Thêvađa...

Phật giáo Nam tông Khmer nói chung, tu sĩ PGNTK nói riêng có vai

trò rất quan trọng đối với dân tộc Khmer thể hiện ở một số nội dung như sau:

Một là, mọi hoạt động trong sinh hoạt lễ hội của gia đình hoặc cộng

đồng phum, sóc đều dựa vào triết lý của đạo Phật và gắn liền với tín ngưỡng,

tôn giáo, mọi sinh hoạt dù vui hay buồn đều thỉnh các vị chư tăng Khmer

tham gia làm lễ, đọc Kinh.

84

Hai là, tu sĩ PGNTK góp phần trong việc bảo tồn, bổ sung và phát huy

bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc Khmer, nhất là ngôn ngữ và chữ

viết. Vì hầu hết các lễ hội của dân tộc đều gắn liền với sự tích của Phật giáo

như: Tết Chôl Chhnăm Thmây, lễ Sene Đônta, lễ hội Ok Om Bok…

Ba là, tu sĩ PGNTK giữ vai trò góp phần quan trọng trong việc làm đa

dạng và phong phú thêm đối với loại hình nghệ thuật dân tộc, mà trước hết là

những nét đẹp trong điêu khắc và kiến trúc dân tộc.

Bốn là, tu sĩ PGNTK giữ vai trò rất lớn trong việc giáo dục hình thành

nhân cách đạo đức, dân trí cho cộng đồng người Khmer. Song song đó, việc

tu học và việc hình thành các trường chùa đã góp phần nâng cao dân trí, đáp

ứng các ngành nghề để có thể phục vụ cuộc sống bình thường.

Năm là, tu sĩ PGNTK còn giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc mở

rộng quan hệ giao lưu với các dân tộc, trong cộng đồng, kể cả trong nước và

ngoài nước.

Sáu là, tu sĩ PGNTK đã luôn cùng với nhân dân Nam Bộ đứng lên chống

ngoại xâm vì sự tồn vong của đất nước, tuyệt đại bộ phận các chư tăng , đồng

bào Phật tử Khmer đã thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn, đó là điểm nổi

bật của PGNTK Nam Bộ. Tinh thần ấy xuất phát từ truyền thống yêu nước

của dân tộc Việt Nam mà đội ngũ chư tăng là một bộ phận, trong kháng chiến

chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, có nhiều vị xuất thân từ tu sĩ PGNTK

tham gia cách mạng và đã anh dũng hy sinh, nhiều ngôi chùa là nơi che dấu

bảo vệ an toàn cho cán bộ cách mạng và có nhiều người là mẹ Việt Nam anh

hùng là dân tộc Khmer.

Nói đến dân tộc Khmer ở Nam bộ cũng chính là nói đến tôn giáo của

người Khmer ở khu vực này, và ngược lại khi nói đến PGNTK cũng là nói

đến đồng bào Khmer đang sinh sống ở đây. Tôn giáo và dân tộc đối với đồng

bào Khmer ở Nam bộ có quan hệ hữu cơ không thể tách rời. Bên cạnh đó,

85

PGNTK có mối liên hệ mật thiết với Phật giáo Nam tông ở các nước

Campuchia, Lào, Thái Lan...

Trong điều kiện nước ta hiện nay do sự tác động của nền kinh tế thị

trường, hội nhập kinh tế quốc tế thì vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo chưa thể mất

đi mà nó còn tồn tại lâu dài và giữ một vị trí, vai trò quan trọng trong đời sống

vật chất, đời sống tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân.

Tuy nhiên, PGNTK ở TNB cũng có những tác động tiêu cực nhất định

đến đời sống kinh tế - văn hóa xã hội của người Khmer. PGNT đã đưa lại cho

người Khmer lối sống thụ động, cam chịu. Với quan niệm cuộc sống ở trần

gian chỉ là tạm bợ nên người Khmer luôn bằng lòng, chấp nhận cuộc sống thiếu

thốn ở đời này và chăm chỉ lo tích đức cho đời sau; sự lệ thuộc quá nhiều của

người Khmer vào Phật giáo và sự đóng góp cho Phật giáo quá lớn so với thực

lực kinh tế làm cho đời sống kinh tế của người Khmer thêm nghèo đói.

Với tâm lý sống gửi thác về, người Khmer cũng ít quan tâm đến chuyện

học hành, nâng cao trình độ hiểu biết. Đặc biệt, trong lịch sử và hiện tại, các

thế lực thù địch luôn lợi dụng cả vấn đề dân tộc và tôn giáo để chống phá sự

nghiệp cách mạng Việt Nam. Vì thế, việc nghiên cứu vai trò của tu sĩ

PGNTK và đề xuất các giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực,

hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của PGNTK nói chung, của tu sĩ Khmer nói

riêng trong quá trình xây dựng đời sống xã hội của người Khmer ở TNB là

việc làm cần thiết nhưng do đồng bào Khmer ở Nam Bộ gắn liền với một tôn

giáo nên khi thực hiện chính sách đối với người Khmer thì phải giải quyết

vấn đề PGNTK.

Cùng với lợi thế có được từ vùng biển rộng lớn với nhiều hòn đảo, lợi

ích có được từ quan hệ kinh tế, mậu dịch trên tuyến biên giới đất liền và biên

giới trên biển giữa các nước láng giềng, thì điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý nêu

trên cũng tiềm ẩn những vấn đề phức tạp về quốc phòng, an ninh và thường

86

xuyên xảy ra các vụ việc ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội. Các thế lực

thù địch không từ bỏ âm mưu, ý đồ chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta

bằng nhiều hình thức. Trong đó, chúng hậu thuẫn, nuôi dưỡng các tổ chức

phản động lưu vong và một số đối tượng cực đoan ở trong nước để tìm cách

thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, triệt để lợi dụng vấn đề “nhân

quyền”, “dân chủ”, “tự do tôn giáo”, nhất là khơi gợi vấn đề lịch sử vương

quốc Chăm Pa (liên quan đến đồng bào dân tộc Chăm) và lịch sử vùng đất

Nam Bộ (liên quan đến đồng bào dân tộc Khmer) để kích động tư tưởng hận

thù, chia rẽ dân tộc, tạo ra các cuộc gây rối.

87

Chương 3

VAI TRÒ CỦA TU SĨ PHẬT GIÁO NAM TÔNG TRONG ĐỜI SỐNG

XÃ HỘI CỦA NGƯỜI KHMER TÂY NAM BỘ - THỰC TRẠNG

VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

Đời sống xã hội là một khái niệm chỉ rõ các hiện tượng phát sinh do sự

tác động lẫn nhau giữa các cá thể và cộng đồng tồn tại trong một khoảng

không gian nhất định với việc sử dụng chung các tài nguyên hiện có. Nó bao

hàm tất cả những hiện tượng tác động có ý thức và thích nghi không có ý

thức. Đó là tổng thể các cơ thể ràng buộc nhau bởi sự tác động qua lại giữa

các quá trình sống của chúng và tác động vào môi trường.

Trong phạm vi của luận án, chúng tôi hiểu đời sống xã hội là tổng thể

các hiện tượng phát sinh do sự tác động lẫn nhau của các chủ thể xã hội và

cộng đồng tồn tại trong những không gian và thời gian nhất định, là tổng thể

hoạt động của xã hội nhằm đáp ứng các nhu cầu của con người. Theo cách

hiểu như vậy, đời sống xã hội là một phạm trù rất rộng lớn, nhưng trong phạm

vi của chuyên đề, chúng tôi tiếp cận đời sống xã hội trên 4 phương diện cơ

bản đó là: đời sống tôn giáo, đời sống văn hóa - xã hội, đời sống chính trị và

đời sống kinh tế.

Để phân tích vần đề này, chúng tôi trở lại câu nói nổi tiếng của C. Mác

khi bàn về tôn giáo, C.Mác cho rằng “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”.

Điều này thể hiện được tính chất hai mặt của tôn giáo. Bất cứ một tôn giáo

nào thâm nhập vào trong quần chúng nhân dân cũng trở thành một bộ phận

tinh thần nhằm mục đích giải phóng con người một cách hư hảo trước những

mối đe dọa, bất công và sự hiểu biết hạn hẹp về tự nhiên, xã hội do nhận thức

của họ đem lại.

Dù là hư ảo nhưng xét ở một góc độ nào đó thì tôn giáo bao giờ cũng

có những ảnh hưởng tích cực đến các lĩnh vực khác của đời sống tinh thần.

88

PGNTK không nằm ngoài quỹ đạo đó. Nghĩa là PGNT cũng có những tác

động tích cực và tiêu cực đến đời sống tinh thần của người Khmer, một mặt

tạo nên những giá trị truyền thống bền vững của cộng đồng, hình thành nên

những sắc thái riêng biệt của người Khmer; mặt khác, có những yếu tố gây

cản trở sự phát triển của cộng đồng người Khmer. Chúng tôi, khái quát đặc

điểm của PGNTKM ở TNB và những biểu hiện tích cực, tiêu cực trên một số

phương diện của đời sống xã hội như sau:

3.1. VAI TRÒ CỦA TU SĨ PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG XÃ

HỘI NGƯỜI KHMER

Xã hội được tạo nên bởi nhiều yếu tố, thành phần, cộng đồng… Mỗi cá

nhân có một vị trí, hoàn cảnh, điều kiện và vai trò riêng biệt. Nếu ai cũng thực

hiện đúng vai trò của mình theo xu hướng tốt đẹp, chuẩn mực đạo đức thì sẽ

đem lại động lực phát triển xã hội tốt. “Vai trò là một tập hợp các mong đợi,

các quyền và nghĩa vụ được gán cho một địa vị cụ thể. Nhưng sự mong đợi

này xác định các hành vi của con người được xem như là phù hợp và không

phù hợp đối với người chiếm giữ một vị trí” [102, tr.205].

Vai trò không chỉ là nghĩa vụ mà trong đó có cả quyền và sự mong đợi.

Ví dụ, một người nông dân đáp ứng được các mong đợi là mang thực phẩm

đến cho mọi người, đồng thời có quyền hưởng lợi nhuận từ sản phẩm đã làm

ra, vai trò của họ là cày sâu, cuốc bẫm để có lúa gạo cùng các hoa màu khác

cung cấp cho đời sống con người. Như vậy, vai trò xã hội luôn có mối liên hệ

mật thiết với vị trí xã hội. Trước hết, một người phải làm tròn bổn phận đúng

với vị trí của mình: “Địa vị đóng vai trò là giáo viên thì cá nhân đó phải

truyền giải kiến thức cho học sinh, còn những người học sinh để thực hiện tốt

vai trò của mình họ phải đi nghe giảng, ghi chép bài đầy đủ, làm bài tập ở

nhà…” [102, tr.215].

Nếu mọi người không làm đúng vai trò của mình, thì hiệu quả, năng

suất không cao. Chẳng hạn, một nông dân mà đi dạy học thì làm sao được.

89

Trong một gia đình, mọi người phải làm tròn bổn phận của mình. Trong một

xã hội, tùy theo trình độ, tay nghề,… mà mỗi người được phân công công tác

khác nhau, có như thế thì xã hội mới tiến bộ, giàu đẹp.

Khi bàn đến vai trò của tu sĩ PGNT đối với đời sống xã hội vùng TNB

là muốn nói đến vai trò “kép” của tu sĩ, đó là, vai trò trong đời sống tôn giáo

và trong cả đời sống xã hội. Trong luận án này, chúng tôi sẽ đề cập đến cả hai

trò đó. Trong đời sống xã hội, luận án sẽ bàn đến vai trò của tu sĩ PGNT đối

với đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa vùng TNB và đặc biệt là công tác giáo

dục thanh niên Khmer.

3.1.1. Vai trò của tu sĩ Phật giáo Nam tông Khmer đối với đời

sống tôn giáo

Phật giáo trong vai trò thực thi đạo pháp trước hết là phải tu học, giữ

gìn giới luật… sau đó đem truyền trao lại cho mọi người cùng nhau có niềm

an lạc. Như vậy, vai trò của tu sĩ là mang thức ăn tinh thần đến cho tha nhân.

Hầu hết, người Khmer ở Nam Bộ đều theo hệ phái PGNT. Có thể nói, lý

tưởng sống truyền thống của người Khmer ở Nam Bộ là Đức Phật. Cho nên,

trong cuộc sống hằng ngày, dù tu sĩ ở chùa hay dân chúng tại thế đều phải rèn

luyện theo đạo pháp đó là: thọ giới, bố thí và niệm. Đối với tu sĩ PGNTK,

những điều trên là bắt buộc.

Người Khmer quan niệm sống cốt yếu để làm phước. Hầu hết các lễ,

hội của người Khmer đều mang ý nghĩa làm phước. Đối với người Khmer,

làm càng nhiều thì phước hạnh càng nhiều nên cứ mỗi dịp lễ, hội, họ lại

không sợ tốn kém đều cố gắng chuẩn bị gạo thóc, vải lụa, cơm xôi, trà bánh,

mặn, ngọt, hoa quả mang đến để tặng chùa; những người khá giả giàu có còn

làm phước cho người nghèo trong làng, xã, phum, sóc của mình và các vùng

lân cận. Do đó, mỗi dịp lễ, hội là mỗi dịp để các tín đồ, Phật tử thể hiện tấm

lòng nhân đức, bao dung, rộng lượng, nhân ái cao cả của mình, làm cho người

người càng xích lại gần nhau, yêu thương nhau hơn.

90

Phật giáo Nam tông Khmer với giáo lý, giáo luật, lễ nghi đơn giản phù

hợp với cuộc sống đời thường của người Khmer sống ở sông nước miệt vườn.

Người Khmer đã tiếp nhận PGNT và đưa tôn giáo này lên vị trí độc tôn trong

đời sống vật chất, tinh thần cả mình. Những triết lý nhà Phật đã ảnh hưởng rất

sâu sắc đến đồng bào dân tộc Khmer. Văn hóa tộc người Khmer và PGNT đã

hòa quyện vào nhau, bổ sung cho nhau tạo nên một chỉnh thể văn hóa tôn giáo

- tộc người độc đáo và đặc sắc của người Khmer.

Tu sĩ PGNTK là những người gìn giữ giá trị tôn giáo đạo Phật trong

truyền thống tín ngưỡng của dân tộc, mỗi tu sĩ là những con người làm nhiệm

vụ của mình là tu học rèn luyện bản thân với mục đích là gìn giữ đạo giáo hơn

là để bản thân giải thoát đến với cõi niết bàn, vì trong mỗi vị đều nhận thức

rằng trong hiện tại thì các vị không thể làm được điều đó (giải thoát). Cho nên

trong người Khmer gọi các vị là “Sammatisang” (Tăng quy ước) có nghĩa là

các vị là những tu sĩ được quy ước là Tăng, gọi như thế để phân biệt với các

Chư tăng là A la hán thuở xa xưa mà đến nay mọi người luôn khao khát

nhưng vẫn không thể đạt được. Tuy không phải là A la hán nhưng mỗi tín đồ

người Khmer ai ai cũng kính trọng các vị và ví các vị như là lửa và ví von

rằng: Đã là lửa thì dù lớn hay nhỏ đều có tác dụng như nhau, một khi đã cháy

thì từ lửa nhỏ sẽ phát triển thành lửa lớn và sức hủy diệt cũng giống nhau thôi.

Trong cuộc đời tu học của mình, nhiều vị đã hy sinh cuộc đời phàm tục

tràn đầy sức sống vì đạo giáo để tu hành trọn đời. Các vị là người trực tiếp và

dán tiếp gìn giữ, duy trì hoạt động của chùa chiền, của Phật pháp nhằm làm

tấm gương tinh thần cho các Phật tử noi theo và được những người sùng đạo

kính trọng. Vì vậy, đã bao thế kỷ mà người Khmer vẫn gắn bó với PGNT.

Theo truyền thống, thanh niên Khmer phải có một thời gian vào chùa

tu để báo hiếu cha mẹ, học lễ nghĩa, học chữ, học kinh sách Phật giáo. Thời

gian vào chùa tu có thể vài ba tuần, vài ba tháng, hoặc vài ba năm, có cơ

91

duyên Phật pháp thì tu suốt đời, do vậy lực lượng tu sĩ PGNTK thật hùng

hậu. Hình ảnh của tu sĩ là một hình ảnh không thể thiếu trong nhận thức của

đồng bào Khmer.

Mỗi chùa đều có Achar hoặc Ban Quản trị chùa. Họ là những bậc lớn

tuổi, đã trải qua quá trình tu học tại chùa, có kinh nghiệm sống và uy tín trong

phum sóc, được cử ra để giúp việc Sư cả trong thời gian lâu dài. Đây là bộ

phận nắm giữ vật chất, tiền của trong chùa, có vai trò quan trọng đối với đời

sống cộng đồng, nên việc bổ nhiệm cần có sự đồng thuận từ phía nhà chùa và

cộng đồng. Một góc độ khác, mối quan hệ giữa PGNTK với Phật giáo Bắc

tông của người Việt, Hoa trong vùng Khmer vừa là quan hệ tôn giáo vừa là

quan hệ tộc người, cần tạo điều kiện để các tộc người, các hệ phái được gần

gũi, chia sẻ với nhau trong các công việc chung của Giáo hội.

Vì thế, Phật giáo là một bộ phận văn hóa của dân tộc Khmer, tạo nét

đặc sắc cho văn hóa Khmer Nam bộ. Phật giáo có vai trò và vị trí quan trọng

trong đời sống nhiều mặt của người Khmer Nam bộ. Trong quá khứ và hiện

tại, Phật giáo đã góp phần cố kết cộng đồng Khmer, cũng như sự ổn định và

phát triển của người Khmer.

3.1.2. Vai trò của tu sĩ Phật giáo Nam tông Khmer đối với đời sống

văn hóa - xã hội

Hệ thống kinh điển của Phật giáo luôn đặt nền tảng trên tinh thần

duyên sinh vô ngã để trình bày về nhân sinh quan và vũ trụ quan một cách

khoa học, nhằm mục đích chứng minh cho sự hiện hữu của vạn pháp đều

tồn tại dưới dạng nhân duyên. Vì thế, sự hiện hữu của con người và gia

đình, xã hội cũng không ngoài những quy luật trên. Từ quan điểm đạo đức

Phật giáo bảo đảm hạnh phúc và an lạc cho cá nhân, chúng tôi khái quát vai

trò của tu sĩ PGNTKM trên một số phương diện của đời sống văn hóa - xã

hội như sau:

92

Một là, tu sĩ PGNTK góp phần xây dựng đạo đức, lối sống; góp phần

tham gia giải quyết các vấn đề an sinh xã hội.

Tu sĩ PGNTK góp phần rất lớn trong việc giáo dục hình thành nhân

cách đạo đức, dân trí của cộng đồng dân tộc Khmer. Đạo đức dạy chữ Khmer

ngữ, tiếng nói chữ viết ở các trường chùa, thông qua triết lý mang tính nhân

đạo và quan niệm nhân quả của đạo Phật đã tác động sâu sắc đến từng thành

viên trong gia đình, trong cộng đồng dân tộc Khmer; làm cho mọi người

muốn hướng thiện, làm việc lành, tránh điều ác. Con người biết khiêm tốn,

nhường nhịn, tương trợ giúp đỡ nhau, không so bì hơn thiệt. Làm cho cái tâm

của họ không bị vẩn đục bởi tiền tài vật chất cám dỗ. Việc tu học theo PGNT,

việc hình thành các trường chùa, đã góp phần nâng cao dân trí, đáp ứng các

ngành nghề để có thể phục vụ cuộc sống bình thường.

Giáo lý, giáo luật, những triết lý sống của tôn giáo này được tu sĩ

PGNTK truyền đạt có sự tác động rất lớn đến lối sống, đạo đức của người

Khmer. Với vai trò, chức năng và những giá trị nhân văn sâu sắc của mình,

PGNT đã trở thành chỗ dựa trong đời sống văn hóa tinh thần của đại đa số

người dân Khmer. Những chuẩn mực của đạo đức Phật giáo có tác dụng điều

chỉnh hành vi, nhân cách con người, ảnh hưởng tích cực đến tín đồ. Điều này

thể hiện tính độc lập tương đối của các hình thái ý thức xã hội, chúng luôn có

sự tác động qua lại lẫn nhau tạo nên nét đặc thù trong lối sống, đạo đức cho

dân tộc này.

Hơn nữa, chịu ảnh hưởng nhiều bởi triết lý, tư tưởng về “từ bi, hỷ xả”

trong triết lý của đạo Phật và đã từ lâu ăn sâu vào máu thịt của họ nên người

Khmer tin theo PGNT sống rất hiền hòa; người trong phum sóc rất đoàn kết,

gắn bó với nhau. Sự đoàn kết ấy thể hiện qua cách cư xử hàng ngày như sống

có nghĩa có tình, luôn sẵn lòng giúp nhau trong những cơn hoạn nạn, cùng

nhau chung tay gánh vác để xây cất, tu sửa ngôi chùa, không đùn đẩy trách

93

nhiệm cho một cá nhân nào. Tùy theo từng gia cảnh, ai có tiền nhiều thì đóng

góp nhiều, ai có ít thì góp ít, không phân biệt giữa những người trong phum,

sóc của mình. Bởi lẽ, với người Khmer việc cúng dường, làm phước là điều

rất thiêng liêng cao cả, nhiều gia đình giàu có sẵn sàng bỏ tiền của để làm

phước cho chùa và cho những người nghèo khổ trong phum, sóc của mình và

những nơi lân cận.

Bên cạnh đó, cùng với tư tưởng “từ bi”, “cứu khổ” các chùa Khmer đã

dang rộng vòng tay sẵn lòng đón tiếp những người lang thang cơ nhỡ, những

trẻ mồ côi không nơi nương tựa, những người già cô đơn hay những kẻ trước

đây đã lầm đường lạc lối muốn phục thiện trở về, tùy sức làm công quả trong

chùa được việc gì thì làm, không làm được thì các vị sư thay nhau chia sẻ

phần cơm do tín đồ dâng cúng để nuôi người già qua quãng đời còn lại và học

sinh, sinh viên nghèo. Việc làm nhân đạo của nhà chùa là hoàn toàn tự

nguyện, thực hiện giáo lý từ bi, phổ độ chúng sinh của Đức Phật. Bởi vậy,

người được nhà chùa giúp đỡ nương nhờ của Phật thấy được an ủi và thấy cần

phải cố gắng không ai có tư tưởng ỷ lại. Bên cạnh đó, việc các gia đình tổ

chức làm phước để bố thí tiền bạc, gạo thóc cho người nghèo thể hiện được

tính nhân văn, nhân đạo theo đúng tinh thần Phật Pháp là cứu khổ, cứu nạn

cho bá tánh đồng bào.

Nhiều vị cao tăng trong PGNTK là tấm gương tiêu biểu, đi đầu trong

công tác từ thiện xã hội như: “Hòa thượng Trần Nhíp ở Kiên Giang, đã vận

động sư sãi, phật tử, các mạnh thường quân tham gia sửa chữa và bê tông

hóa trên 15 km đường nông thôn, bắt mới 112 cây cầu nông thôn với số tiền

trên 10 tỷ đồng, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng III

và nhiều bằng khen khác”.

Chùa Pitu Khôsa Răngsây ở thành phố Cần Thơ là một trong những

ngôi chùa Khmer tiêu biểu trong công tác từ thiện xã hội. Dưới sự trụ trì của

94

Thượng tọa Lý Hùng, chùa Pitu Khôsa Răngsây là ngôi chùa PGNTK duy

nhất ở thành phố Cần Thơ hiện nay có ký túc xá miễn phí dành riêng cho sinh

viên dân tộc Khmer. Chùa còn tổ chức lớp dạy chữ Khmer miễn phí cho hàng

trăm cán bộ, viên chức và thanh niên Khmer. Đồng thời tặng nhiều suất học

bổng, tặng 80 chiếc xe đạp cho học sinh, sinh viên nghèo hiếu học. Chẳng những

vậy, chùa còn vận động các nhà hảo tâm ở Australia đóng góp xây dựng Trường

học Sammaki ở Xóm Giữa, Chợ Dưới, tỉnh Kom Pong Chnăng, Campuchia với

kinh phí xây dựng 2,2 tỷ đồng. Nhân dịp Tết nguyên Đán, Tết Chôl Chnăm

Thmây, Vu lan báo hiếu…. chùa vận động Phật tử, các nhà hảo tâm và các vị

mạnh thường quân cho khoảng 100 tấn gạo và tặng quà, vật phẩm cho bà con

nghèo của tỉnh Hậu Giang và Sóc Trăng, thành phố Cần Thơ và Campuchia với

kinh phí trên 01 tỷ đồng. Xây dựng được 3 km đường giao thông nông thôn và

15 cây cầu bê tông ở các phum sóc; xây dựng 5 căn nhà tình thương, tổ chức mổ

mắt nhân đạo cho hàng ngàn lượt người mù nghèo ở tỉnh Trà Keo, tỉnh Kan Đal,

Campuchia. Ngoài chùa còn vận động trùng tu sửa chữa các chùa ở vùng TNB

như: chùa Savor, quận Ô Môn, TP Cần Thơ; chùa Pôthi Somrôn, huyện Giồng

Riềng, tỉnh Kiên Giang; chùa Aranh Nhứt, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu

Giang; chùa Phno Prel, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh; chùa Bưng Tung, thị xã

Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng; chùa Ô Chum Prưksa, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu

Giang… Xây dựng trường, ký túc xá sinh viên nghèo, tăng xá cho sư tăng các

tỉnh, giúp đỡ cho hàng trăm em sinh viên nghèo đã tốt nghiệp cử nhân, có việc

làm ổn định. Bên cạnh đó chùa vận động Phật tử đóng góp kinh phí xây dựng

được 01 lò hỏa táng từ thiện, miễn phí cho tang chế nghèo với tổng kinh phí 400

triệu đồng tại chùa Sanvor, phường Châu Văn Liêm, quận Ô Môn.

Chùa Pitu Khôsa Răngsây được Trung tâm Unesco Văn hóa và Thông

tin Truyền thông Việt Nam công nhận nằm trong Top 10 của 100 điểm Du

lịch Văn hóa tâm linh tiêu biểu khu vực phía Nam năm 2014.

95

Mặc dù, lối sống và đạo đức của người Khmer chịu sự ảnh hưởng khá

lớn của PGNT nhưng do nhu cầu giao lưu văn hóa với các dân tộc khác xung

quanh nên đã ít nhiều có phần biến đổi, đặc biệt là ở giới trẻ. Đạo đức mà tu sĩ

PGNT truyền đạt ảnh hưởng đến nay vẫn phát huy được mặt tích cực của nó

như việc đi tu của thanh niên được xem là một trong những phong tục của

người Khmer chịu sự ảnh hưởng giá trị tư tưởng hiếu nghĩa, luật nhân quả,

hướng thiện của PGNT; đồng thời, tục đi tu của thanh niên Khmer cốt là để

báu hiếu cho cha mẹ, học những kiến thức về văn hóa, xã hội về những kinh

nghiệm sống… để khi hoàn tục trở thành những công dân có ích cho gia đình,

cộng đồng và xã hội.

Tóm lại, với vai trò, chức năng và những giá trị nhân văn sâu sắc của

mình, tu sĩ PGNT đã trở thành chỗ dựa trong đời sống văn hóa tinh thần của

dân tộc Khmer. Những chuẩn mực đạo đức Phật giáo có tác dụng điều chỉnh

hành vi, nhân cách con người, ảnh hưởng tích cực đến tín đồ, Phật tử. Điều đó

thể hiện tính độc lập tương đối của các hình thái ý thức xã hội, chúng luôn có

sự tác động qua lại lẫn nhau tạo nên nét đặc thù riêng trong lối sống, đạo đức

cho dân tộc này được phát triển và sinh tồn trong cộng đồng dân tộc Việt

Nam. Việc đi tu để trả hiếu cũng là nét đẹp truyền thống và là giá trị đạo đức

nhân văn cao cả của người dân tộc Khmer vẫn được duy trì. Tính đến nay có

khoảng 8.000 tu sĩ PGNTK, thông qua các vị mà bản sắc văn hóa dân tộc

Khmer được giữ gìn và phát huy, nhiều điểm chùa Khmer đã được xây dựng

thành những trung tâm văn hóa, giáo dục, học tập, nơi vui chơi giải trí cộng

đồng, góp phần vào việc tôn vinh giá trị đạo đức, văn hóa truyền thống tốt

đẹp của dân tộc Khmer. Với người Khmer, đời sống của họ không thể thiếu

được PGNT, ngôi chùa được đồng bào coi như ngôi nhà thứ hai của mình.

Và tuyệt đại đa số người Khmer đều được tu ở chùa nên ít nhiều đã chịu

ảnh hưởng giáo lý của Phật, khi trở về với cuộc sống đời thường họ đã

96

mang theo những giá trị nhân văn và nhân đạo trong nhà chùa vào trong

đời sống hàng ngày, dần dần hình thành nên lối sống đặc thù riêng của dân

tộc Khmer, sự hòa trộn giữa hai yếu tố “đạo” và “đời” đã tạo nên cách sống

riêng biệt của người Khmer.

Hai là, tu sĩ PGNTK tông góp phần tạo dựng bản sắc văn hóa, góp

phần bảo bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa của đồng bào Khmer

Phật giáo Nam tông Khmer là tôn giáo giữ vai trò chủ đạo và đi vào

trong tiềm thức của người Khmer ở Nam Bộ. Trong đó, tu sĩ PGNTK giữ một

vai trò then chốt trong việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của đồng

bào Khmer. Bên cạnh đó phong tục, lễ hội truyền thống giữ một vị trí rất quan

trọng trong đời sống xã hội của các dân tộc nói chung, của đồng bào Khmer

nói riêng. Thông qua phong tục, tập quán, lễ hội truyền thống, chúng ta có thể

nhận diện rõ hơn về bản sắc văn hóa của dân tộc, của con người và cộng đồng

xã hội. Đồng thời qua đó, những giá trị như: văn hóa ứng xử, lối sống hiền

hòa, chất phát, hiếu thảo, trọng tình nghĩa... được bộc lộ rõ qua các hoạt động

sống hàng ngày của người Khmer trong phum, sóc. Hầu hết những phong tục,

lễ hội của người Khmer đều hướng con người đến việc thiện, tích nhiều

phước. Các ngày lễ, tết mọi người quần tụ bên nhau chúc phúc cho nhau

những lời chúc đầu năm mới với nhiều niềm vui hạnh phúc, thăm hỏi sức

khỏe và quan tâm nhau trong cuộc sống hàng ngày.

Ngoài ra, người Khmer thể hiện lòng thành kính, sự hiếu thảo đối với

người quá cố hoặc tạ ơn thần linh đã mang đến cho họ cuộc sống ấm no, hạnh

phúc phần nào cho thấy văn hóa ứng xử của tộc người Khmer trong cộng

đồng dân tộc thông qua hệ thống các phong tục, tập quán, lễ hội truyền thống

ấy. Đối với người Khmer, trong một đời người, họ phải trải qua nhiều nghi lễ

khác nhau như: lễ đi tu (xuất gia), lễ cưới hỏi, lễ tang ma,... Song, PGNT vẫn

chi phối ảnh hưởng đối với những lễ hội này.

97

Người Khmer xem tục đi tu là giai đoạn quan trọng của đời người nên

tu sĩ PGNT đã góp phần hình thành nhân cách, đạo đức cho đồng bào Khmer.

Theo đó, đi tu theo nếp nghĩ truyền thống của người Khmer còn là cách tích

phước cho cha mẹ, gia đình và cho bản thân. Trong sách dạy làm người

Khmer có câu: “người không được tu trong chùa là người có nhiều tội lỗi

trong đời sống”. Cho nên người con trai Khmer được xem là đủ tư cách phẩm

chất trong xã hội đều phải trải qua thời gian tu học ở chùa” [77, tr.59].

Do vậy, việc đi tu không chỉ là một tập tục mà còn là nét văn hóa rất

riêng từ bao đời nay của dân tộc này.Về phong tục cưới xin của người Khmer,

Phật giáo đem đến cho người Khmer quan niệm hôn nhân tương đối bình

đẳng, vợ chồng cùng chia sẻ công việc, cha mẹ không có sự phân biệt đối xử

giữa con trai và con gái, trưởng, thứ, con đẻ, con nuôi. Phật giáo đã góp phần

nâng cao giá trị văn hóa trong quan niệm hôn nhân, tạo nên lối sống truyền

thống trong gia đình người Khmer, giáo dục đạo đức, rèn luyện cách sống

trong đạo nghĩa vợ chồng.

Về tang ma, là một trong những phong tục thể hiện sắc thái văn hóa rất

riêng của tộc người này. Người Khmer có câu “sống gửi của, chết gửi

xương”. Tang ma của người Khmer thể hiện những nét riêng khá rõ của cộng

đồng dân tộc Khmer, đây là một trong những nghi lễ mà tu sĩ Khmer đóng

một vai trò hết sức quan trọng.

Tu sĩ PGNTK còn truyền đạt triết lý nhân sinh ảnh hưởng đến văn hóa

ứng xử của người Khmer trong tang ma, thông qua quan hệ giữa người sống với

người đã chết, giữa người sống với nhau. Khi một người qua đời, cả cộng đồng

cầu siêu cho người quá cố, họ nhiệt tình và tận tâm tham dự đám tang. Dù cho

lúc còn sống, giữa họ và láng giềng có xảy ra mâu thuẫn, đến khi ai đó qua đời,

mọi lỗi lầm, giận hờn, tranh chấp đều được xóa bỏ. Những người đến viếng,

những người tham dự các nghi lễ đều thành tâm nghĩ đến người đã chết với

những gì tốt đẹp nhất.

98

Phật giáo đề cao vai trò của giáo dục, vai trò của các vị tu sĩ Khmer

được xem trọng trong xã hội, đặc biệt là lớp trẻ. Những kiến thức về đạo lý,

cách sống làm người cho trẻ em Khmer được trang bị từ các ngôi trường chùa

Phật giáo. Đó cũng là nét riêng thể hiện bản sắc văn hóa của người Khmer

Nam Bộ. Chùa là trung tâm lưu giữ những di sản qua các thế hệ của người

Khmer ở vùng đất Nam bộ; chùa cũng là nơi bảo tồn và phát huy những giá

trị vật thể, phi vật thể trong cộng đồng, đặc biệt là giáo dục tiếng dân tộc,

tiếng Pali - những ngôn ngữ truyền thống của họ. Có thể nói, nền văn hóa

nghệ thuật Phật giáo Khmer được thể hiện qua các ngôi chùa đã có vai trò

xuyên suốt trong quá trình lịch sử của cộng đồng người Khmer.

Ba là, tu sĩ PGNTK góp phần trang bị kiến thức cho thanh thiếu niên

Khmer; duy trì, phát triển tiếng nói và chữ viết riêng của dân tộc Khmer.

Đối với người Khmer, các vị tu sĩ PGNTK có vị trí và ảnh hưởng rất

lớn. Tu sĩ Khmer được coi là đại diện cho Đức Phật để truyền dạy và giáo hóa

chúng sinh, các vị sư luôn là người thầy được tôn kính và tin tưởng. Người

Khmer quan niệm rằng, thanh niên Khmer phải vào chùa tu một thời gian. Tu

ở đây không phải để lánh đời mà là cơ hội học tập, rèn luyện để trở thành một

người trưởng thành thật sự. Chính vì thế, hiện nay ngoài việc học đạo theo

chương trình bắt buộc ở chùa, nhiều vị tu sĩ ban ngày còn phải đến trường

như các bạn cùng trang lứa. Họ nỗ lực tu và học để bắt kịp sự phát triển của

xã hội và giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc. Tu là để trả hiếu cho ông bà, cha

mẹ, theo cách hiểu của nhiều người, nhưng nếu chỉ hiểu như vậy thì chưa đủ.

Tu còn là con đường hướng đến tri thức, học tập, rèn luyện để trở thành một

người Phật tử “thuần thành” và có ích cho xã hội sau này.

Bốn là, tu sĩ PGNTK tạo sức đề kháng cho văn hóa Khmer trong thời

kỳ hội nhập quốc tế.

Tính nhân văn của Phật giáo thể hiện trong các phong tục, lễ hội truyền

thống của người Khmer, đó là sự cố kết cộng đồng, tinh thần cầu an, sự hiếu

99

nghĩa... Tư tưởng triết lý của đạo Phật đã thấm sâu trong ý thức hệ của họ, các

giá trị khác khó có thể thay thế.

Hiện nay, sự hội nhập giao lưu giữa các nước, tác động của nền kinh tế

thị trường phần nào đã tạo điều kiện cho các yếu tố văn hóa hiện đại xâm

nhập vào đời sống của đồng bào Khmer. Thực tế cho thấy, trong thời gian

qua, thanh niên Khmer đã chịu sự chi phối của văn hóa hiện đại, thể hiện qua

các trang phục và phong cách diện mạo ở một số giới trẻ người Khmer. Tuy

nhiên, những giá trị văn hóa truyền thống của tộc người Khmer, đặc biệt là tư

tưởng triết lý của tu sĩ PGNT vẫn chi phối mạnh mẽ trên nhiều phương diện

đời sống của đồng bào Khmer.

Tu sĩ PGNTK góp phần gắn bó, đoàn kết dân tộc, góp phần ổn định

chính trị - xã hội, an ninh trật tự vùng đồng bào dân tộc Khmer: Đại đa số

người Khmer vùng TNB đều theo Phật giáo thuộc hệ phái Nam tông và đã trở

thành như một tục lệ truyền thống của người Khmer. Dù là đứa trẻ mới cất

tiếng khóc chào đời nhưng đã được xem như là một tín đồ. Người nam giới

trong một cuộc đời vừa đóng vai trò là tu sĩ, vừa đóng vai trò là tín đồ nhiều

lần, lúc nhỏ là tín đồ, lớn lên vào chùa đi tu thời gian ít là một tháng, thời gian

nhiều tuỳ ý, sau đó xuất sư hoàn tục về nhà lấy vợ, làm ăn tham gia việc xã

hội... Khi muốn trở lại có thể xin vào chùa đi tu một thời gian rồi sau đó lại trở

về với gia đình... Điều này có ý nghĩa rất lớn trong đời sống xã hội của người

Khmer bởi chính người nam giới qua tu hành ở chùa là đã qua học tập rèn

luyện, có đạo hạnh, có hiểu biết nhất định. Mặc dù ngoài đời không phải giữ

giới luật như trong chùa, nhưng đã qua chùa tu hành từ lúc còn nhỏ nên nhiều

nét trang nghiêm, thanh tịnh của giới luật còn đọng lại và được thể hiện trong

đạo đức, lối sống của cộng đồng, vì thế phum, sóc của người Khmer ở TNB

thường yên bình ít tệ nạn xã hội.

Trong quá trình tồn tại và phát triển, dân tộc Khmer ở TNB đã xây đắp

nên những truyền thống đoàn kết tốt đẹp trong nội bộ đồng bào Khmer và

100

giữa đồng bào Khmer với các dân tộc khác. Đó là truyền thống đoàn kết trong

cộng đồng phum, sóc; đoàn kết trong lao động sản xuất, chống thiên tai, giúp

đở nhau trong đời sống; đoàn kết trong đấu tranh chống bóc lột, nô dịch,

chống xâm lược, giành và giữ độc lập, tự do, hạnh phúc cho đồng bào... Từ đó

cho thấy, giáo lý PGNT được tu sĩ truyền đạt có ảnh hưởng rất lớn trên các

lĩnh vực của đời sống xã hội của đồng bào Khmer.

Ngày ngay, ngôi chùa Khmer nói chung, vai trò của tu sĩ nói riêng với

vai trò là trung tâm kinh tế, văn hóa - xã hội trong cộng đồng dân tộc Khmer.

“Đây không chỉ là nơi để mọi người bày tỏ lòng thành kính với Đức Phật mà

đây còn là trung tâm của phum, sóc, nơi cộng đồng dân cư tụ họp chung sức

cùng nhau gánh vác chia sẽ những khó khăn trong cuộc sống đời thường” [30,

tr.91]. Do vậy, ngôi chùa có vai trò rất quan trọng, là nơi tổ chức tuyên truyền

các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến với đồng bào Khmer mà

chủ thể thực hiện các nội dung đó không ai khác là tu sĩ PGNTK. Mặt khác,

“trong đời sống tâm linh của người Khmer, sư sãi mang một ý nghĩa đặc biệt,

nhà sư là người đại diện cho Đức Phật để chứng giám những hành động, lòng

thành kính của tín đồ tới Đức Phật” [30, tr.92].

Đây là nhân tố rất quan trọng quy tụ đồng bào… Với ý nghĩa đó, thời

gian qua nhận thấy, đồng bào dân tộc Khmer ở TNB ý thức hơn về vai trò,

trách nhiệm lịch sử của mình đối với quốc gia, dân tộc, cùng nhau xây dựng

khối đại đoàn kết toàn dân tộc tham gia cách mạng do Đảng lãnh đạo, góp

phần tạo sức mạnh để chống lại các âm mưu, thủ đoạn và những luận điệu

tuyên truyền, xuyên tạc của các thế lực thù địch đã và đang ra sức chống phá

Đảng và Nhà nước ta, phá hoại chính sách đại đoàn kết dân tộc.

3.1.3. Vai trò của tu sĩ Phật giáo Nam tông Khmer đối với đời sống

chính trị

Tu sĩ PGNTK có vai trò đặc biệt quan trọng góp phần định hướng tư

tưởng chính trị cho cộng đồng người Khmer. Là người có học vấn, cả về Phật

101

học và thế học, hiểu biết xã hội, đại diện ưu tú nhất nên có ảnh hưởng rất lớn

đến tư tưởng của quần chúng và được nhân dân sùng kính. Nhìn về mặt hành

chính thì tu sĩ không tham gia sản xuất và quản lý xã hội, nhưng tiếng nói và

ý kiến của họ có ý nghĩa quan trọng đối với sinh hoạt của phum, sóc. Mọi tín

đồ đều nghe lời nói của các vị sư, vì cho đó là lời nói của Phật, mà tuân thủ

làm theo. Với xã hội, tu sĩ là thiêng liêng bất khả xâm phạm trong suốt thời

gian mặc áo cà sa… Với ảnh hưởng như vậy, nên việc định hướng tư tưởng

thông qua vị tu sĩ rất quan trọng. Vấn đề này, lịch sử đã được chứng minh qua

hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ.

Qua tổng kết hai cuộc chiến tranh, chống thực dân Pháp và đế quốc

Mỹ, “toàn vùng hiện có 92 bà mẹ Việt Nam anh hùng, 11 anh hùng lực lượng

vũ trang nhân dân, 2.863 liệt sĩ, 1.029 thương binh là người dân tộc Khmer

và hằng chục ngàn gia đình Khmer có công với nước”; trong đó, (tính đến

năm 2003), “toàn vùng có 47 chùa Khmer có thành tích kháng chiến, 11 liệt sĩ

là chư tăng Khmer”. Với những thành quả đạt được,“Phật giáo Tiểu thừa

Khmer đã được Trung ương cục miền Nam tặng 2 Huân chương Giải phóng vì

đã có thành tích trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đó là vinh dự lớn lao

mà chưa một tôn giáo nào có được hân hạnh đó” [10, tr.1].

Khi hòa bình độc lập, cũng như hiện nay các vị tu sĩ Khmer vẫn là kênh

quan trọng, góp phần tích cực tuyên truyền các chủ trương chính sách của

Đảng, Pháp luật của Nhà nước đến đồng bào Khmer. Đồng thời, vận động

đồng bào Phật tử Khmer thực hiện tốt các quy định của chính quyền địa

phương, góp phần tham gia cùng chính quyền địa phương quản lý xã hội,

chùa chiền... Trong khi các thế lực thù địch trong và ngoài nước, đặc biệt là

các tổ chức, hội nhóm “Khmer Kampuchea Krôm” (KKK) cực đoan đứng

chân ở Campuchia luôn tìm cách lôi kéo, kích động tu sĩ, đồng bào Khmer

tham gia các hoạt động chống phá Đảng và Nhà nước ta: kích động và gây

102

hằn thù dân tộc giữa người Kinh, người Khmer; kêu gọi người Khmer đòi lại

đất đai,...

Ngoài ra, để định hướng cho tu sĩ và đồng bào Khmer tham gia tích cực

vào các phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới, các vị trụ trì

ở các chùa đã hưởng ứng và vận động đồng bào Khmer trong phum, sóc của

mình tham gia vào các phong trào này một cách tích cực, góp phần cùng với

chính quyền đảm bảo tình hình an ninh trật tự ở địa phương.

Tu sĩ PGNTK có vai trò rất quan trọng và không thể thiếu trong việc

định hướng tư tưởng chính trị cho đồng bào Khmer, từ đó làm cho đồng bào

dân tộc Khmer tự đề kháng và phản bác lại những luận điệu tuyên truyền,

xuyên tạc của các thế lực thù địch chống Đảng, Nhà nước ta. Đồng thời qua

đó, các vị tu sĩ còn tích cực tham gia cùng với lực lượng công an đấu tranh,

ngăn chặn, vô hiệu hóa âm mưu, thủ đoạn của bọn phản động lợi dụng tôn

giáo, dân tộc góp phần làm ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn

xã hội ở TNB.

3.1.4. Vai trò của tu sĩ Phật giáo Nam tông Khmer đối với đời sống

kinh tế

Tu sĩ PGNTK là người truyền bá, giáo dục kinh tế lành mạnh trong cộng

đồng người Khmer

Trong chế độ xã hội chủ nghĩa như ở Việt Nam; một lối sống lành

mạnh, tốt đẹp vừa là những phẩm chất cần thiết góp phần phát triển nguồn lực

con người - nhân tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững, vừa là yếu tố văn

hóa góp phần xây dựng xã hội ổn định, văn minh. Nếu một người nào đó chỉ

biết chạy theo lợi ích vật chất của cá nhân, thiếu tình yêu thương đối với đồng

loại, những người xung quanh thì họ sẽ sẵn sàng thực hiện các hoạt động kinh

tế vì cá nhân mà phương hại đến lợi ích của cộng đồng như buôn gian bán lận,

làm ăn giả dối...

103

Những hoạt động kinh tế như vậy không thể góp phần thúc đẩy một nền

kinh tế phát triển bền vững. Một nền kinh tế phát triển bền vững là một nền

kinh tế dựa trên nguồn nhân lực có tri thức cao và có đạo đức, phẩm chất nhân

văn, nhân ái. Tu sĩ PGNTK có vai trò quan trọng trong việc giáo dục đạo đức,

lễ nghĩa, tôn ti trật tự... cho cộng đồng Khmer theo triết lý hướng thiện, từ bi,

hỷ xả của đức Phật. Đây là những phẩm chất rất cần thiết của người lao động

trong thời kỳ mới. Ở khía cạnh này, PGNT sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế

bền vững ở đồng bào Khmer.

Tu sĩ giáo dục giáo lý làm cho ảnh hưởng của PGNT trong kinh doanh,

nên người Khmer Nam Bộ luôn có lối sống ngay thẳng, thật thà, rất tôn trọng

đạo lý, không cạnh tranh, lừa dối trong làm ăn, mọi người trong phum, sóc

luôn biết nhường nhịn, tương trợ, giúp đỡ nhau, trao đổi kinh nghiệm với

nhau, không so bì, hơn thiệt, không hề giấu diếm nghề… Họ trọng tình nghĩa,

chân thành, thương yêu, sẵn sàng giúp người thân, bạn bè khi gặp khó khăn

trong cuộc sống...

Tu sĩ PGNTK là người hướng dẫn, ngôi chùa PGNT là nơi đào tạo kiến

thức, đào tạo nghề, kỹ thuật sản xuất, xây dựng vốn sống cho con em đồng

bào dân tộc Khmer.

Phật giáo Nam tông không đơn thuần chỉ là một tôn giáo, thỏa mãn nhu

cầu tâm linh của đồng bào Khmer, mà trong lịch sử, tôn giáo này đã có vai trò

đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của cộng đồng Khmer, trong đó có

việc phát triển nguồn lực con người. Các tu sĩ Khmer cũng là những trí thức

Khmer, họ nắm toàn bộ tinh hoa tri thức đã tích lũy từ bao đời nay của dân

tộc Khmer từ ngôn ngữ đến nghệ thuật, kinh nghiệm sản xuất... Trong thời

gian các thanh niên Khmer tu học tại chùa, những tri thức của cộng đồng

Khmer được các tu sĩ trao truyền giúp họ nâng cao nhận thức và hiểu biết.

Thậm chí, nhà chùa tạo điều kiện cho các tăng sinh đang tu trong chùa

104

được học nghề một cách tự nhiên. Hằng ngày, các vị tu sĩ được truyền dạy

một số nghề cơ bản nhất, cần thiết nhất như: học cưa, đục bào, đóng tủ bàn

ghế, học xây cất nhà cửa, trồng các loại rau, trồng các loại cây ăn trái,

trồng các loại cây lâu năm lấy gỗ, học cày cấy làm ruộng, học vẽ các hoa

văn theo đường nét của dân gian dân tộc, học nặn tượng, nặn các phù điêu

truyện kể cổ tích,…

Hiện nay, các tăng sinh trong chùa còn học thêm nhiều kiến thức khoa

học kỹ thuật tiên tiến và hiện đại trong các ngành, các trường Trung cấp, Cao

đẳng, Đại học,v.v… Đặc biệt, các tăng sinh trong chùa còn tranh thủ học

nhiều chuyên môn khác nhau, nhưng hiện đăng ký học nhiều nhất vẫn là vi tính

và các ngoại ngữ: Anh, Pháp, v.v... nhằm để nâng cao trình độ, kiến thức nhất

định, một mặt để truyền đạt lại kiến thức cho cộng đồng trong phum, sóc; mặt

khác, để tiếp nối truyền dạy cho đệ tử sau này. Khi các vị sư hoàn tục, muốn xây

dựng gia đình thì đã biết một số nghề cơ bản, có công ăn việc làm nuôi vợ nuôi

con ngay, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế của gia đình, xã hội. PGNTK góp

phần tác động đến việc thực hiện có hiệu quả chương trình phát triển kinh tế của

Đảng, Nhà nước trong vùng đồng bào dân tộc Khmer.

Đa số đồng bào Khmer ở Nam Bộ là nông dân, vẫn chịu ảnh hưởng

những tập tục lạc hậu. Chính vì vậy, trong những năm gần đây, Đảng và Nhà

nước ta đã có nhiều chính sách ưu đãi phát triển kinh tế ở TNB. Nhận thức và

tranh thủ được vai trò của các tu sĩ trong đời sống của đồng bào Khmer nên

các cấp ủy đảng, chính quyền đã thông qua họ để tuyên truyền đến người dân

bằng nhiều hình thức như: lồng ghép trong các buổi thuyết giảng kinh, luật,

luận trên chùa, các vị tu sĩ sẽ gặp gỡ trực tiếp người dân để tuyên truyền các

chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà nước, các chương trình hỗ trợ của

Chính phủ, của địa phương cũng như cách thức thực hiện, sử dụng nguồn vốn

có hiệu quả phục vụ sản xuất.

105

Có thể nói, vai trò của tu sĩ đối với việc góp phần tác động đến việc

thực hiện có hiệu quả chương trình phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước

trong vùng đồng bào dân tộc Khmer là rất quan trọng. Tích cực tham gia,

động viên Phật tử cùng tham gia những công tác phúc lợi xã hội như: xây

dựng trường, lớp học, bắt cầu, đắp đường phục vụ lợi ích dân sinh và phát

triển sản xuất.

3.1.5. Vai trò của tu sĩ Phật giáo Nam tông Khmer đối với thanh

niên Khmer trong quá trình tu học

3.1.5.1. Đối với thanh niên Khmer trước tu học

Trong xã hội người Khmer, người xuất gia (tu sĩ hoặc sư sãi) được

cộng đồng kính trọng và vâng lời, một thanh niên Khmer trước khi xuất gia

thì quỳ lại cha mẹ xin được phép xuất gia, nhưng sau khi xuất gia trở thành

nhà sư thì không chỉ ông bà nội ngoại, cha mẹ mà cũng phải đảnh lễ Chư

tăng, trong đó có con, cháu của mình (Kính Phật, trọng Tăng). Hơn nữa, trong

vấn đề ăn uống, tu sĩ chia phiên nhau vào bếp; ngoài ra, trong chùa bao giờ

cũng có một đội ngũ Phật tử chuyên lo bếp núc trong việc dâng cơm rót nước

cho nhà sư.

Thanh niên Khmer có tu học luôn là một thành viên gương mẫu trong

gia đình, định hướng các hoạt động theo đạo đức PGNT, là chỗ dựa về mặt tư

tưởng, niềm tin của gia đình trong việc ứng xử, trong lao động sản xuất.

Trong xã hội, thanh niên Khmer sau tu học là người có địa vị, được xã hội kính

trọng, sẵn sàng giúp đỡ, hòa giải các mâu thuẫn xảy ra, giúp ích cho chính quyền

địa phương trong các phong trào vận động xã hội hóa, biết giáo dục thanh thiếu

niên Khmer chấp hành tốt những qui định của địa phương, tham gia tốt các

phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao mà địa phương tổ chức.

3.1.5.2. Đối với thanh niên Khmer sau tu học

- Đối với bản thân và gia đình: Thanh niên Khmer sau một thời gian tu

học trong chùa luôn tự xem mình là người gương mẫu về đạo đức và nhân

106

cách sống. Trong cách ăn nói, đi đứng phải cư xử làm sao để mọi người nhìn

vào có thể nhận ra mình là người đã qua thời gian tu học trong chùa. Trong

gia đình luôn hiếu kính với ông bà cha mẹ, khi có bất hòa thì đứng ra dằn xếp

cho ổn thỏa. Vai trò quan trọng nhất chính là luôn nêu cao và giáo dục truyền

thống tu học cho con em đồng bào Khmer, trước hết là các thành viên trong

gia đình. Đặc biệt hơn, khi các gia đình bà con Khmer trong phum, sóc tổ

chức lễ lộc, ma chay, cưới hỏi... thì bản thân người từng tu học luôn sốt sắng

giúp đỡ trong khâu tổ chức, hướng dẫn. Bởi lẽ họ là những người đã từng đi

tu trong chùa, nên am hiểu về các nghi lễ, nghi thức, về phong tục tập quán

của dân tộc.

- Đối với cộng đồng xã hội: Thanh niên Khmer xuất gia tu học không

chỉ là niềm hãnh diện đối với bản thân mà còn là niềm tự hào đối với dòng

tộc. Sau tu học trở về đời thường họ luôn gương mẫu trong các hoạt động

Phật sự và trong công tác xã hội. Với năng lực, trình độ đã học được trong

chùa, sự hiểu biết về pháp luật, họ đã ra sức tuyên truyền vận động trong bà

con lối xóm thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp

luật của Nhà nước, phát huy tinh thần đoàn kết trong đồng bào và góp phần

vào việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

Qua thời gian tu học tại chùa, dù lâu hay mau, thời gian ngắn hay dài,

người thanh niên Khmer cũng tiếp thu được những kiến thức nhất định về

Phật học, thế học, về ngôn ngữ và các ngành nghề truyền thống..., từ đó có

những đóng góp thiết thực cho cộng đồng và xã hội.

Trước hết, vì có vốn kiến thức về văn hóa, kiến thức về phong tục tập

quán, các hoạt động tôn giáo trong chùa nên bản thân các thanh niên ấy sẽ

biết cách tổ chức các lễ nghi, các sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo, đồng thời

luôn giáo dục và hướng con em người Khmer biết trân trọng giá trị văn hóa

của dân tộc, một lòng thành kính Đức Phật và tin tưởng tuyệt đối vào tôn giáo

truyền thống của mình.

107

Trong quá trình tu học, đã có không ít thanh niên Khmer trước kia từng

làm trụ trì các ngôi chùa, qua đó họ biết cách thức tổ chức, quản lý và đoàn

kết các thành viên trong chùa, giáo dục lòng tự hào dân tộc, tình yêu quê

hương, đất nước, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Khi trở về

đời thường, họ phát huy tốt vai trò đó và là nhân tố quan trọng trong việc xây

dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Có thể nói, thông qua quá trình tu học tại chùa, từ việc tiếp thu chân lý

của Đức Phật, sự hiểu biết về ngôn ngữ, văn hóa, phong tục tập quán, thanh

niên Khmer sau tu học đã thực hiện tốt công việc truyền bá trong đồng bào

Khmer về những giá trị truyền thống của Phật giáo, của dân tộc Khmer, đặc

biệt là những giá trị do ngôi chùa mang lại. Người thanh niên Khmer sau tu

học đã giúp cho đồng bào Khmer củng cố thêm tình yêu đối với quê hương,

đất nước, vun đắp thêm tình làng nghĩa xóm trong phum, sóc, là cơ sở tạo sự

gắn bó, đoàn kết trong cộng đồng. Góp phần thực hiện đường lối của Đảng về

xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Người Khmer tham gia tu học được học chữ dân tộc, tiếp cận kinh

Phật, tiếp nhận sách báo, tạp chí liên quan đến chính sách pháp luật Nhà

nước, học được cách thức tổ chức hội họp, sinh hoạt văn nghệ, thể thao trong

các ngày lễ. Được rèn luyện về tinh thần từ bi, vị tha và hướng con người đến

những giá trị chân, thiện, mỹ, học kiến trúc, điêu khắc, các loại hình nghệ

thuật... Với kiến thức được tích lũy đó, sau tu học, người thanh niên Khmer có

nhiều đóng góp cho gia đình và xã hội, truyền lại cho thế hệ sau. Việc tham gia tu học ở chùa, thanh niên Khmer còn có điều kiện giao

lưu với khách thập phương, học hỏi được nhiều điều từ khách phương xa, đồng

thời người ta biết được đồng bào, sư sãi và quê hương thông qua chùa có những

điểm nổi bật nào đó, gây được chú ý hoặc gợi được trí tò mò của khách. Đó cũng

là cơ sở, nền tảng kiến thức về giao lưu với các tôn giáo, các dân tộc khác cho

108

thanh niên Khmer tu học và sẽ truyền đạt lại trong thanh thiếu niên, trong đồng

bào Khmer để có thêm vốn kiến thức trong giao tiếp, hội nhập.

Thanh niên Khmer qua quá trình tu học đã đóng góp thiết thực và hữu

ích cho cộng đồng và xã hội. Họ luôn xem mình là người gương mẫu về đạo

đức và nhân cách sống. Với năng lực, trình độ đã học được giáo dục trong

chùa, sự hiểu biết về pháp luật, họ đã ra sức tuyên truyền vận động trong bà

con Khmer thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp

luật của Nhà nước, phát huy tinh thần đoàn kết trong đồng bào, giáo dục

truyền thống tu học cho thanh thiếu niên và góp phần vào việc giữ gìn bản

sắc văn hóa dân tộc.

Tóm lại, vai trò của tu sĩ Khmer trong đời sống cộng đồng, trong xã hội

truyền thống và trong cả sinh hoạt đời thường của người Khmer hiện nay. Từ

khi sinh ra đến lúc trưởng thành, kết hôn đến khi chết, cúng tế... đều có sự

hiện diện của tu sĩ. Tu sĩ không chỉ trực tiếp tiến hành thực hiện các lễ thức

trong vòng đời người mà còn nhập thế, tham gia các hoạt động xã hội. Chính

vai trò này mà tu sĩ được người Khmer kính trọng, coi họ là hiện thân của

Đức Phật. Như vậy, đối với cộng đồng người Khmer Nam Bộ thì tu sĩ cùng

với PGNT đã trở thành một nhu cầu tinh thần và niềm tin tuyệt đối.

3.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.2.1. Vấn đề truyền thừa của Phật giáo Nam tông Khmer

Theo GS.TS Phan An: Hệ phái Nam tông Khmer và người Khmer ở

Nam bộ trong hai thập niên cuối thế kỷ XX trở lại đây không còn nằm trong

vùng “phẳng lặng” mà trở thành đối tượng thu hút sự quan tâm của nhiều giới

ở cả trong nước và ngoài nước. Điều dễ hiểu là người Khmer Nam bộ tuy là

một bộ phận của cộng đồng dân tộc Việt Nam, nhưng đồng thời nó cũng là

một bộ phận tuy xa trong quá khứ của Đế chế Khmer thời Trung thế kỷ. Vì

vậy điều đáng bàn trước hết là liên hệ lịch sử nào khiến người Khmer, đặc

109

biệt là những người trí thức quá khích vẫn bám vào để phá hoại hình ảnh một

nước Việt Nam thống nhất.

Tuy nhiên, có một thực sự cần nhắc lại là sự mở đất và áp đặt quản

trị vào vùng đất mới chỉ thực sự bắt đầu vào các thế kỷ 16 về sau. Điều này

ẩn chứa những tiền đề lịch sử và lý luận cho những người chống Việt Nam

dựa vào.

Khi mà các tiến trình kinh tế, xã hội và văn hóa thuận lợi thì sự chống

đối ở bộ phận này không có tác dụng. Nhưng khi mà các tiến trình đó vấp

phải những thách thức thì nó lại có dịp khơi lên và thật sự có hại cho sự

nghiệp kiến thiết nước Việt Nam hiện tại và tương lai. Cũng không nên xem

thường khả năng các thế lực chống Việt Nam sẽ tận dụng ảnh hưởng quốc tế

để tiến hành thọc sâu vào nội bộ nước ta.

Trong thực tế vấn đề Khmer Krom đã và đang bị lợi dụng để tạo ra chỗ

dựa cho sự can thiệp của nước ngoài vào công việc nội bộ của nước ta, bất

chấp sự biến đổi sâu sắc của người Khmer với tư cách là một thành viên tộc

người của một nước Việt Nam thống nhất.

Trong cộng đồng người Khmer, sư sãi PGNT được xem là một bộ phận

người trí thức am hiểu nhiều về lĩnh vực dân tộc và tôn giáo. Vì thế, các vị có

vai trò và vị trí quan trọng trong đời sống xã hội cộng đồng người Khmer.

Cũng vì vị thế và vai trò đó, các thế lực thù địch từ trước đến nay thường tìm

cách tranh thủ họ, lợi dụng họ thực hiện các hoạt động chống phá Việt Nam,

gây bất ổn trong quan hệ Việt Nam - Campuchia, đồng thời nhằm thực hiện

âm mưu “Diễn biến hoà bình”, kẻ thù dùng những thủ đoạn can thiệp vào nội

bộ gây ly gián, chia rẽ khối đoàn kết thống nhất. Một trong những con đường

chủ yếu để các thế lực thù địch giành chiến thắng là: tạo ra những mâu thuẫn

nhỏ rồi tiếp tục phát triển dần trong nội bộ cho đến khi xảy ra “tự diễn biến”,

“tự chuyển hóa”.

110

Cùng với việc chuyển đổi nền kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập cũng

như sự đổi mới về chính sách tôn giáo ở Việt Nam; trong thời gian tới số

người Khmer chuyển đổi niềm tin tôn giáo có thể tiếp tục tăng; là điều kiện

xuất hiện một “thị trường tôn giáo” ở vùng TNB; vấn đề này sẽ ảnh hưởng

đến tình cảm, tâm lý và tác động trực tiếp đến tín ngưỡng, tôn giáo truyền

thống, ảnh hưởng đến văn hóa, phong tục tập quán của đồng bào dân tộc,

thậm chí dẫn đến xung đột trong gia gia đình, dòng họ anh em với nhau và

giữa người Khmer theo tôn giáo truyền thống với người Khmer theo các tôn

giáo khác. Ngoài ra, nó còn tác động đến chính sách đại đoàn kết dân tộc, tôn

giáo của Đảng, Nhà nước, tạo ra sự phát triển không cân bằng hài hòa nhằm

đảm bảo an ninh chính trị xã hội tại địa phương nói riêng và cả vùng nói

chung. Đó là sự vênh về văn hóa, tôn giáo của các thế hệ trong một gia đình,

các gia đình trong một phum sóc hoặc rộng hơn gây sự hiểu lầm xa cách, mất

đoàn kết nội bộ.

Mặt khác, trong điều kiện nước ta hiện nay, do sự tác động của nhiều yếu

tố, vấn đề tín ngưỡng và tôn giáo chưa thể mất đi mà còn tồn tại và tồn tại lâu

dài, nó giữ vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của một bộ phận quần

chúng. PGNTK thì càng có vị trí quan trọng hơn vì nó không chỉ ảnh hưởng

đến một bộ phận trong đồng bào Khmer mà gần như tất cả mọi người trong

cộng đồng này. Mặt khác, sự chi phối của tôn giáo với đời sống tinh thần của

con người là một điều hiển nhiên nhưng sự chi phối ấy không phải bao giờ và

lúc nào cũng như nhau.

Tùy theo từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử, văn hóa và tập quán của

từng dân tộc sự ảnh hưởng cũng có những khía cạnh khác nhau, có lúc phù

hợp nhưng cũng có lúc trở thành cản trở sự phát triển. Nghiên cứu xu

hướng vận động trong PGNTK đối với đời sống tinh thần hay nói cách

khác hơn là nghiên cứu dự báo tình hình ảnh hưởng của nó trong thời gian

111

tới đối với đời sống tinh thần, từ đó đề ra giải pháp nhằm hạn chế tối đa

những ảnh hưởng tiêu cực và vận dụng những giá trị hợp lý của nó vào

trong đời sống xã hội, nhằm góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh

thần, làm lành mạnh và văn minh hóa nền văn hóa truyền thống của dân

tộc, góp phần thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về

vấn đề dân tộc, tôn giáo.

3.2.2. Vấn đề truyền thống xuất gia của tu sĩ Phật giáo Nam tông

Theo truyền thống, thanh niên Khmer phải có một thời gian vào chùa tu

để báo hiếu cha mẹ, học lễ nghĩa, học chữ, học kinh sách Phật giáo. Thời gian

vào chùa tu có thể vài ba tuần, vài ba tháng, hoặc vài ba năm hay suốt đời, do

vậy lực lượng sư sãi của PGNTK thật hùng hậu. Hình ảnh của nhà sư là một

hình ảnh không thể thiếu trong nhận thức của đồng bào Khmer.

Mỗi chùa đều có Achar hoặc Hội đồng Achar. Họ là những bậc lớn

tuổi, đã trải qua quá trình tu học tại chùa, có kinh nghiệm sống và uy tín trong

phum sóc, được cử ra để giúp việc Sư cả trong thời gian lâu dài. Đây là bộ

phận nắm giữ vật chất, tiền của trong chùa, có vai trò quan trọng đối với đời

sống cộng đồng, nên việc bổ nhiệm cần có sự đồng thuận từ phía nhà chùa và

cộng đồng.

Một góc độ khác, mối quan hệ giữa PGNTK với Phật giáo Bắc tông

của người Việt, Hoa trong vùng Khmer vừa là quan hệ tôn giáo vừa là quan

hệ tộc người, cần tạo điều kiện để các tộc người, các hệ phái được gần gũi,

chia sẻ với nhau trong các công việc chung của Giáo hội.

Vì thế, Phật giáo là một bộ phận văn hóa của dân tộc Khmer, tạo nét

đặc sắc cho văn hóa Khmer Nam bộ. Phật giáo có vai trò và vị trí quan trọng

trong đời sống nhiều mặt của người Khmer Nam bộ. Trong quá khứ và hiện

tại, Phật giáo đã góp phần cố kết cộng đồng Khmer, cũng như sự ổn định và

phát triển của người Khmer.

112

Dù vẫn được cộng đồng dân cư tôn vinh theo đạo lý truyền thống,

nhưng một số ít sãi cả và sãi phó hiện nay đều rất trẻ (20 - 30 tuổi) nên trình

độ nhận thức còn hạn chế. Sự hạn chế này làm giảm vai trò của nhà sư đối với

cộng đồng Khmer. Mặt khác, sãi cả và sãi phó hiện nay không qua một thủ

tục bổ nhiệm nào của tổ chức giáo hội, chủ yếu dựa vào sự tín nhiệm và thừa

nhận của cộng đồng.

Do chỉ có những thanh niên chưa học phổ thông nội trú mới vào chùa

tu học nên ít thạo tiếng Việt; thời gian tu học không bắt buộc nên nhiều tu sĩ

chỉ tu học vài tháng hoặc vài năm rồi hoàn tục, không có điều kiện học kinh

tạng Pali để nghiên cứu.

Tệ mê tín trong đời sống phum sóc và trong chùa đã hầu như không còn,

nhưng còn một số nơi có những biểu hiện ảnh hưởng đến việc thực hiện các chính

sách của Nhà nước như xây sửa chùa với quy mô tốn kém; nghi lễ rườm rà, kéo

dài (khánh thành chùa tốn kém, khánh thành từng hạng mục trong chùa…); kéo

dài lễ hội theo tập quán; xây tháp chôn xác tràn lan trong sân chùa...

Ngoài ra, đây là một trong những lĩnh vực có nhiều thay đổi, thể hiện ở

những mặt sau như: Thay đổi trong khất thực, không phải tất cả các tu sĩ đều

đi khất thực mà việc này phân công cho một số vị tu sĩ, số tu sĩ còn lại phụ

trách công việc trong chùa hoặc giành thời gian tu luyện. Cũng xuất hiện xu

hướng nhập thế của PGNT, thể hiện rõ qua việc rất nhiều tu sĩ xem truyền

hình nghe, xem thời sự; sử dụng điện thoại di động, tu sĩ tham gia sản xuất

nông nghiệp như làm ruộng vườn trong đất chùa…Những điều này làm cho

Phật giáo ngày càng gắn liền với đời sống xã hội.

Mặt khác, hiện tượng tu sĩ ngày càng giảm, đội ngũ tu sĩ trẻ được trẻ

hoá cũng đáng quan tâm. Những người chọn con đường tu hành suốt đời giảm

hơn trước rất nhiều; giải thích về vấn đề này thì câu trả lời chung là trước đây

số lượng tu sĩ nhiều là để chốn đi quân dịch, còn ngày nay sống hoà bình thì

113

lo học hành thành đạt, lo làm ăn để phụng dưỡng ông bà, cha mẹ, cho tiền bạc

cha mẹ đi chùa đây cũng là một cách báo hiếu chứ không chỉ vào chùa tu thì

mới coi là báo hiếu. Chính vì thế mà một bộ phận con, em người Khmer trong

độ tuổi đi học phổ thông thường chọn hai tháng hè để vào chùa tu, khi tựu

trường lại đi học phổ thông tiếp tục.

3.2.3. Vấn đề trình độ của tu sĩ

Nếu chúng ta nghiên cứu kỹ về truyền thống giáo dục, dạy chữ, dạy dỗ

con em của đồng bào người Khmer từ thời xa xưa thì chúng ta sẽ thấy một

điều rất rõ là vùng đồng bào Khmer không có cái gọi là trường học theo đúng

nghĩa thông thường. Tất cả việc dạy dỗ dạy chữ, rèn luyện, bồi dưỡng kiến

thức và hình thành nhân cách đạo đức kể cả học làm người, học một số nghề

cần thiết cho cuộc sống gia đình như: Học cưa, đục bào, đóng tủ bàn ghế, học

xây cất nhà cửa, trồng các loại rau, trồng các loại cây ăn trái, trồng các loại

cây lâu năm lấy gỗ, học cày cấy làm ruộng, học vẽ các hoa văn theo đường

nét của dân gian dân tộc, học nặn tượng, nặn các phù điêu truyện kể cổ tích …

đều phải vô chùa tu, hay còn gọi là học tu.

Như vậy chùa của đồng bào dân tộc Khmer là trường học đầu đời cho

con em của họ. Trong chùa Khmer có nhiều lớp dạy, học chữ Sanskrít - chữ

Khmer hiện nay do thầy giáo hoặc các sư trong chùa dạy cũng khá lâu đời.

Nhưng đứng về thuật ngữ giáo dục có lớp cho việc dạy và học, học và dạy

trong chùa từ thời xa xưa vẫn quan niệm là vào chùa đi tu. Hiện tượng học

theo kiểu này trong cộng đồng người Khmer không gọi là trường học, nhưng

việc đi tu này vẫn làm tròn ý nghĩa của chức năng trường học thông thường.

Qua đây chúng ta thấy rằng đồng bào dân tộc Khmer dùng đặc tính linh cảm

linh thiên màu nhiệm của triết lý đức Phật - chùa làm phương tiện, phương

pháp truyền dạy học trò. Còn học trò vào chùa học, tự nhận thức được đây là

cửa linh thiêng của đức Phật phải hết sức nghiêm túc…

114

Vì thế, việc giáo dục đạo đức, giáo dục nhân cách, rèn luyện về mọi

mặt, người dạy nhờ vào “sức mạnh vô hình của luân lý Phật giáo” làm trợ thủ

đắc lực nhất cho sự thành bại của người dạy và người học. Phải nói đây là một

lĩnh vực thuộc về tâm lý học dân tộc và giáo dục học dân tộc nói chung cũng

như trong lĩnh vực giáo dục Phật giáo học nói riêng. Nó rất tinh tế và tế nhị

của phương pháp dạy học cổ truyền trong chùa, trong vùng đồng bào dân tộc

Khmer đạt hiệu quả rất cao từ lâu đời mà chúng ta chưa biết cách khai thác.

Đặc biệt, vấn đề giáo dục trong PGNTK đã tồn tại các loại hình giáo dục

trong trường chùa từ lâu đời, trãi qua nhiều thế kỷ và chịu nhiều bom đạn của

hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, với việc quản lý kinh sách

thiếu sự kiểm tra của các vị trụ trì cùa nên phần lớn kinh sách đều bị thất lạc,

mất mát và hư hong nhiều, không đủ đáp ứng nhu cầu tu học tập của con em

đồng bào Khmer.

Đội ngũ giảng sư vừa thiếu, vừa không ổn định, chưa được chuẩn hóa

và hạn chế về chuyên môn Phật học, nghiệp vụ sư phạm, giáo dục PGNTK

vẫn theo lối truyền thống, truyền thụ những kinh nghiệm của người xuất gia

đi trước cho những người đi sau theo lời Phật dạy. Thực tế cho thấy, đội ngũ

giảng sư hiện nay kể từ Trung cấp Phật học đến Học viện PGNTK chủ yếu là

các sư đã tu lâu năm giảng dạy, chỉ có bằng trung cấp Pali, một số ít có trình

độ Cao cấp Pali. Nhiều trường (lớp) chùa Khmer chỉ thuần túy dạy chữ Pali,

chưa dạy chữ phổ thông (tiếng Việt), nên nhiều sư sãi và đồng bào Khmer rất

tâm tư. Nhiều vị tu sĩ mong muốn được học để biết tiếng Việt, khi xuất tu có

thể đi học nghề, kiếm công ăn việc làm. Đồng thời, hầu hết các cơ sở đào tạo

tu sĩ Khmer chưa chủ động được nguồn kinh phí, còn phụ thuộc nhiều vào

việc cúng dường của Phật tử và những nhà hảo tâm nên nguồn thu không cố

định và rất hạn hẹp vì đa số đồng bào Khmer, cũng như các chùa Khmer còn

nghèo, ít có khả năng vận động đóng góp. Riêng đối với Học viện PGNTK

115

tuy đã được cấp đất xây dựng, nhưng đến nay việc xây dựng mới được khởi

công và đang gặp nhiều khó khăn về tài chính để lo tiền ăn học cho tăng sinh

Khmer đang theo học.

Việc công nhận và cấp bằng Phật học cho các lớp sơ cấp Pali ở các tỉnh

chưa thống nhất, nên mỗi địa phương làm một cách riêng. Có nơi cấp bằng

tiếng Khmer (Trà Vinh), có nơi chỉ cần sư trụ trì chứng nhận, trong khi

GHPGVN chưa có quy chuẩn thống nhất về văn bằng, chứng nhận cho các

lớp đào tạo tiếng Pali, gây khó khăn trong công tác quản lý và không khuyến

khích được các vị tu sĩ tham gia học tập ở trình độ cao hơn.

Trong bối cảnh đất nước ta đang trên con đường hội nhập và phát triển

thì việc giáo dục trong PGNTK cũng cần phải tiếp tục được nghiên cứu.

Tóm lại, giáo dục trong PGNTK về kiến thức văn hóa - xã hội và kiến thức

Phật học là một trong những nhiệm vụ cốt lõi, thường xuyên và lâu dài trong

hệ phái Nam tông Khmer. Công tác giáo dục và đào tạo nêu trên được tổ chức

vận hành từ lâu đời dưới 3 loại hình đào tạo:

Một là, giảng dạy chữ Khmer, chữ Pali để làm nền tảng cơ bản trước

khi bước vào học tập kiến thức về văn hóa, xã hội, Phật học.

Hai là, giảng dạy chương trình thế học, bao gồm các môn học về

khoa học xã hội, văn hóa, văn học, thơ ca, nghệ thuật, kiến trúc, điêu khắc,

toán học...

Ba là, giảng dạy chương trình Phật học để tiếp cận giáo lý, triết lý, tinh

hoa văn hóa của đạo Phật.

Các loại hình giáo dục đào tạo nêu trên đã và đang góp phần rất lớn

trong việc đào tạo đội ngũ trí thức dân tộc Khmer, nhất là góp phần giữ gìn và

phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, giá trị tốt đẹp của PGNTK.

Mặt khác, dân tộc Khmer là một thành viên trong 54 dân tộc Việt Nam,

PGNTK là thành viên trong ngôi nhà chung Giáo hội Phật giáo Việt Nam,

116

công tác giáo dục tại các chùa, các trường lớp PGNTK cơ bản đã đi vào nề

nếp và đã đáp ứng được nhu cầu học tập trong cộng đồng người Khmer Nam

Bộ. Hiện nay, giáo dục PGNT có Học viện (tại Cần Thơ), 05 Trường Trung

cấp Phật học (tại Sóc Trăng, Bạc Liêu, An Giang, Kiên Giang, Trà Vinh) và

các lớp Sơ cấp, Trung cấp Pali Vini tại các chùa Khmer. Tuy nhiên, hiện nay

việc tổ chức giảng dạy trong PGNTK còn nhiều khó khăn, bất cập:

Một là, mô hình giáo dục đào tạo trong PGNTK chưa được đưa vào

chương trình giáo dục đào tạo của GHPGVN, nên chưa có một đơn vị có tư

cách pháp nhân nào công nhận, dẫn đến văn bằng thiếu tính pháp lý;

Hai là, chương trình chậm được cải tiến, chưa thống nhất giữa các

địa phương.

Ba là, nhu cầu về học tập ngày càng cao, nhưng bậc học còn thấp, chưa

tương ứng với nhu cầu.

Những hạn chế này dẫn đến hệ quả là: (1) Hầu hết tăng sinh lúng túng

không biết tìm nơi nào để học ở bậc cao hơn; (2) Một bộ phận tăng sinh tự đi

học các nước có Phật giáo cùng hệ phái như: Campuchia, Thái Lan,

Myanmar... dẫn đến ý kiến đánh giá, cách nhìn nhận vấn đề khác nhau.

3.2.4. Vấn đề về cơ cấu tổ chức

Phật giáo Nam tông Khmer là một trong 09 tổ chức, hội, hệ phái, là

thành viên sáng lập của GHPGVN nhưng đến nay, vai trò của hệ phái

PGNTK trong ngôi nhà chung GHPGVN rất mờ nhạt, chưa tương xứng với

vị trí của nó, mà trong lịch sử PGNTK cùng lúc có cả hai hệ thống tổ chức

Giáo hội từ Trung ương đến tận cơ sở (hệ thống Phật giáo Theravada và

Khemaranikaya).

Do đặc điểm, biệt truyền PGNTK, đề nghị tới đây, Đảng và Nhà nước

quan tâm, hướng dẫn Hội đồng Trị sự Trung ương GHPGVN thành lập tổ

chức đặc trách theo dõi PGNTK trực thuộc GHPGVN, từ cấp Trung ương,

117

đến cấp cơ sở để tạo điều kiện thuận lợi cho việc sinh hoạt tôn giáo của đồng

bào Khmer.

Mặc khác, PGNTK nằm trong GHPGVN. Mối quan hệ giữa PGNTK

với Phật giáo Bắc tông của người Việt, người Hoa trên địa bàn có đông người

Khmer diễn ra tốt đẹp. HĐKSSYN ở các địa phương có đông người Khmer

vẫn có một vị trí nhất định. Đây là một tổ chức liên kết các tu sĩ PGNTK với

nhau khá mật thiết. Vì vậy, cần quan tâm đến HĐKSSYN vùng TNB và mối

quan hệ với các tổ chức tôn giáo nói chung, hệ thống tổ chức GHPGVN nói

riêng hiện nay.

Vấn đề PGNTK là một trong những vấn đề rất nhạy cảm trong tình

hình đất nước ta hiện nay. Nhiều thế lực xấu trong và ngoài nước luôn tìm

cách lợi dụng tôn giáo, thông qua tôn giáo để dụ dỗ người Khmer nhẹ dạ

chống phá chính quyền Việt Nam. Vì vậy phải hết sức cảnh giác với vấn đề

này, vì hậu quả của chúng gây ra vô cùng nghiêm trọng và không dễ dàng

khắc phục được nhanh chóng.

Một số ít chức sắc, tu sĩ và Phật tử Khmer chưa nhận thức sâu sắc quan

điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước về tôn giáo, vẫn

còn nghi ngờ chính sách tôn giáo, chưa thật sự tin tưởng đường lối đổi mới do

Đảng lãnh đạo; chưa phận biệt rõ chức năng, nhiệm vụ giữa Ban Trị sự Phật

giáo và HĐKSSYN nên vẫn xem HĐKSSYN là tổ chức của Giáo hội riêng.

Song song đó, việc đào tạo, bồi dưỡng giáo lý, đến nay phần lớn các chùa đều

tổ chức lớp học giáo lý Pàli - Kinh Luận giới và chữ Khmer, xong tất cả đều

do sự chỉ đạo của HĐKSSYN các cấp, tu sĩ PGNTK ở những chùa không có

tổ chức giảng dạy phải đi chùa khác học tập cũng không xin phép chính quyền,

thậm chí một số chư tăng đi tham gia khóa đào tạo ở nước ngòài cũng không

thực hiện các thủ tục hành chính theo quy định, dẫn đến việc dạy và học gây

không ít khó khăn cho công tác quản lý nhà nước của các cấp chính quyền.

118

Cụ thể: tác giả Phan An có đánh giá và nhận xét: Hệ phái Nam tông

Khmer và người Khmer ở Nam bộ trong hai thập niên cuối thế kỷ XX trở lại

đây không còn năm trong vùng “phẳng lặng” mà trở thành đối tượng thu hút sự

quan tâm của nhiều giới ở cả trong nước và ngoài nước. Điều dễ hiểu là người

Khmer Nam bộ tuy là một bộ phận của cộng đồng dân tộc Việt Nam, nhưng

đồng thời nó cũng là một bộ phận tuy xa trong quá khứ của Đế chế Khmer thời

Trung thế kỷ. Vì vậy điều đáng bàn trước hết là liên hệ lịch sử nào khiến người

Khmer, đặc biệt là những người trí thức quá khích vẫn bám vào để phá hoại

hình ảnh một nước Việt Nam thống nhất.

3.2.5. Vấn đề tu sĩ tham gia Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước

Thời kỳ xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đến năm 1993, HĐKSSYN tỉnh

Cần Thơ được thành lập, căn cứ vào những điều qui ước của Đại hội sư

sãi và Achar lần thứ nhất. Từ khi thành lập HĐKSSYN Cần Thơ (2004)

là một thành viên trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đặc biệt, Hội đã

tổ chức, quản lý và điều hành các lớp học sơ cấp Pali - giáo lý tại các

điểm chùa, tạo nên phong trào học tập cả kiến thức dân tộc lẫn kiến thức

phổ thông, góp phần tích cực trong việc nâng cao dân trí trong đồng bào

dân tộc Khmer…

Chủ trương củng cố, kiện toàn và tái lập lại HĐKSSYN vùng TNB là

hoàn toàn đúng đắn, phù hợp nhu cầu nguyện vọng của sư sãi, Phật tử và

đồng bào dân tộc Khmer; đồng thời đáp ứng yêu cầu công tác vận động quần

chúng trong tôn giáo nói chung, trong PGNTK nói riêng. Tuy nhiên, từ khi

được củng cố, kiện toàn và tái lập tổ chức Hội. Mặc dù được sự quan tâm chỉ

đạo của các cấp ủy Đảng, sự tạo điều kiện của chính quyền, các cơ quan chức

năng; sự phối hợp, hỗ trợ, hướng dẫn giúp đỡ của Mặt trận Tổ quốc và các

đoàn thể ở địa phương nhưng hoạt động của Hội vẫn còn nhiều mặt hạn chế.

Vì các nguyên nhân như sau:

119

Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước không nằm trong danh sách các Hội đặc

thù theo quyết định 68/2010/QĐ-TTg, ngày 1/11/2010 của Thủ tướng

Chính phủ, đồng thời, Hội không chịu sự điều chỉnh của Nghị định số

45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ Quy định về tổ chức, hoạt

động và quản lý Hội.

Mặt khác, thành phố Cần Thơ còn quan điểm xem Hội là tổ chức Hội

đoàn trong tôn giáo và được điều chỉnh theo Điều 3,19 của Pháp lệnh Tín

ngưỡng, tôn giáo và Điều 12 của Nghị định 92/2012/NĐ-CP; xem

HĐKSSYN trực thuộc Giáo hội trong khi đó tại điều 2 và 3 của Điều lệ Hội

lại quy định mối quan hệ giữa Hội và BTSPGVN thành phố Cần Thơ là mối

quan hệ “phối hợp” có tính chất ngang cấp vì “đều là tổ chức thành viên thuộc

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Cần Thơ.

Bên cạnh đó, việc hỗ trợ kinh phí của UBMTTQVN cho HĐKSSYN:

Với 30 triệu đồng/năm Hội không đủ kinh phí hoạt động. Nếu được so sánh

với tỉnh Vĩnh Long thì quá chênh lệch, cụ thể như: Vĩnh Long có 13 chùa,

khoảng 24 ngàn đồng bào Khmer tương đương thành phố Cần Thơ nhưng

mức hỗ trợ 150 triệu đồng/năm, vả lại còn vận dụng trợ cấp cho chủ tịch hội

2.0/tháng, phó hội trưởng 1.6/tháng (mức lương tối thiêu của Nhà nước), ủy

viên thư ký 1.0/tháng hệ số so với mức lương tối thiểu.

3.2.6. Vấn đề của Phật giáo Nam tông Khmer trong đời sống tinh

thần của người Khmer trong thời gian tới

Qua những biểu hiện trong thời gian gần đây của PGNTK vùng TNB,

chúng tôi đưa ra một số vấn đề của PGNTK trong đời sống tinh thần của

người Khmer trong thời gian tới tiếp tục diễn ra như sau:

Một là, chính trị hóa PGNTK làm cơ sở cho chiến lược “Diễn biến hòa

bình” của các thế lực thù địch;

Mặt khác, do đặc điểm PGNTK đồng hành và gắn liền với dân tộc, nên

các thế lực thù địch, các tổ chức phản động luôn tranh thủ, lợi dụng vấn đề

120

PGNTK để tác động lan tỏa đến đồng bào dân tộc Khmer và ngược lại. Trong

những năm gần đây, tổ chức phản động “Liên đoàn Khmer Campuchia Krôm”

và “Cộng đồng Khmer Campuchia Krôm” tập trung tác động vào số sư sãi

Khmer nhất là những vị sư trẻ tuổi để tuyên truyền, lôi kéo, kích động gây rối

chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam. Tổ chức phản động “Liên đoàn

Khmer Campuchia Krôm” và “Cộng đồng Khmer Campuchia Krôm” lợi dụng

hạn chế này để tuyên truyền xuyên tạc chính sách tôn giáo, chính sách dân tộc

của Đảng và Nhà nước ta, kích động đòi tách hệ phái PGNTK ra khỏi

GHPGVN, tái lập tổ chức bộ máy truyền thống của PGNTK như đã từng tồn

tại trước đây.

Tổ chức bộ máy truyền thống của PGNTK đã từng tồn tại và phát triển

trong thời gian khá dài đến năm 1981 ta chủ trương đưa vào GHPGVN, từ đó

tổ chức này không tồn tại nữa. Để tham gia điều hành Phật sự và các hoạt động

khác liên quan đến PGNTK, các vị cao tăng, giáo phẩm Khmer lần lượt được

cơ cấu vào các tổ chức các cấp trong GHPGVN qua các kỳ Đại hội, nhưng thực

tế các vị khó phát huy vai trò, do cơ cấu tổ chức thiếu rõ ràng, thiếu cơ chế đối

với PGNTK.

Hai là, trẻ hóa và giảm dần số lượng các vị tu sĩ trong các ngôi chùa;

Hiện nay đa số các trụ trì chùa PGNT Khmer tuổi đời còn rất trẻ, trình

độ văn hóa và trình độ Phật học thấp nên uy tín của họ với cộng đồng giảm

sút. Theo kết quả khảo sát thì: “Độ tuổi sư Trụ trì đang trẻ hoá. Tuổi bình

quân sư Trụ trì 43; Sư độ tuổi 20 - 30 chiếm 39%... bình quân số lượng sư

trong từ năm 1975 đến tháng 12/2013 có nhiều thay đổi: Năm 1975: 29 Sư

/chùa; năm 1985 là 19 sư/chùa; năm 1995 là 16 Sư/chùa; năm 1999 là 19

Sư/chùa; T6/2004 khoảng 20 Sư/chùa; 12/2013 là 21 Sư/chùa” [36, tr.240].

Điều này đã và đang tạo ra những tác động tiêu cực trong sinh hoạt của

PGNTK cũng như trong việc quản lý chư tăng và Phật tử Khmer làm ảnh

121

hưởng nhất định đến việc vận động đoàn kết đồng bào Khmer trong chiến

lược đại đoàn kết toàn dân tộc. Bên cạnh đó, hiện nay số thanh niên người

Khmer ít khi vào chùa tu học, số lượng chư tăng ngày ít đi.

Ba là, lối sống đạo của tu sĩ có xu hướng thế tục hoá;

Sự phát triển của xã hội công nghiệp, làm cho tôn giáo mất dần tầm quan

trọng và sẽ không còn có ý nghĩa như trước nữa. Sự thế tục hoá được xếp

ngang hàng với quá trình hành chính hóa, hợp lý hoá, và đô thị hoá như là

những cuộc cách mạng chủ đạo của lịch sử làm biến đổi xã hội. Wright

Mills trong tác phẩm The Sociological Imagination (1959) đã tóm tắt quá

trình này như sau: “Đã có thời thế giới chứa đầy những cái thiêng - trong

tư tưởng, thực hành, và thể chế. Sau thời kỳ Cải cách và Phục hưng, những

lực lượng hiện đại hóa đã quét qua địa cầu và thế tục hóa, một quá trình

lịch sử theo sau nó, đã nới lỏng sự ngự trị của cái thiêng. Đến một lúc nào

đó trong tương lai, cái thiêng sẽ biến mất hoàn toàn ngoại trừ, có lẽ, trong

lĩnh vực riêng tư”.

Đối với PGNTK, sự phát triển như vũ bão của nền công nghiệp hiện đại

làm cho niềm tin tôn giáo của người dân Khmer nói chung, tu sĩ PGNTK nói

riêng bị giảm sút. Sự sụt giảm số người đến chùa cho thấy sự suy giảm niềm

tin tôn giáo hay xu hướng niềm tin tôn giáo trở thành một việc riêng tư không

còn giữ một vai trò ưu thắng trong đời sống công cộng hay trong những khía

cạnh khác của quá trình quyết định. Bên cạnh đó, tình trạng đa nguyên tôn

giáo làm giảm sức sống của tôn giáo. Điều này cũng là vấn đề đáng quan tâm

hiện nay.

Bốn là, hiện tượng cải đạo của một bộ phận đồng bào Khmer;

Hiện nay một bộ phận đồng bào Khmer có hiện tượng bỏ tôn giáo truyền

thống để tin theo tôn giáo khác; tính đến nay “có 4.433 người Khmer theo các

tôn giáo khác ổn định từ nhiều năm nay” trong đó: “Tin lành 2.153, Công

122

giáo 2.186, Cao Đài 78, Baha’I 34” [5, tr.14]. Nguyên nhân chủ yếu, trước

hết là do các tôn giáo tăng cường tuyên truyền, giảng đạo, truyền đạo vào

vùng đồng bào dân tộc, bằng nhiều hình thức tuyên truyền, vận động, thậm

chí sử dụng vật chất để lôi kéo người vào đạo, trong khi cuộc sống của người

dân tộc Khmer còn nghèo, cần sự giúp đỡ về vật chất; thứ hai, nội dung giáo

lý và hình thức sinh hoạt của các tôn giáo mới đơn giảng, có nhiều sức hấp

dẫn, mang tính dân chủ; thứ ba, một số nơi chức sắc PGNTK là người đứng

đầu Giáo hội ở cơ sở thiếu sự quan tâm đến cuộc sống của đồng bào Phật tử,

không tổ chức các hoạt động từ thiện giúp đỡ đồng bào nghèo khi gặp khó

khăn, thiếu thốn hoặc khi bị thiên tai trong cuộc sống.

Đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội của nước ta nói chung và

vùng TNB nói riêng có sự chuyển đổi toàn diện và sâu sắc. Điều này kéo theo

sự tất yếu của việc phân tầng xã hội. Dù Đảng, Nhà nước có chính sách xóa

đói, giảm nghèo, đầu tư kinh tế cho vùng đặc biệt khó khăn nhưng phân cực

giàu nghèo là không thể tránh khỏi. Nền kinh tế thị trường ở nước ta dù là

theo định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn phải chịu những quy luật và sự tác

động khác nghiệt của nền kinh tế thế giới. Nếu như đất nước càng hội nhập

sâu với quốc tế tạo nên nhiều cơ hội để phát triển thì càng đặt ra nhiều thách

thức mới trên tất cả các bình diện từ kinh tế, chính trị cho đến văn hóa, tôn

giáo… Đặc biệt, trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo đã có những biến động.

Một trong những vấn đề nổi cộm nhất trong sự biến động tôn giáo đối

với cộng đồng người Khmer ở TNB hiện nay đó là sự biến động không gian

tôn giáo với sự xâm nhập của đạo Tin lành và một vài tôn giáo khác, làm cho

tình hình tôn giáo ở đây trở nên đa phức, đa chiều. Các hệ phái Tin lành du

nhập đến TNB trong thời gian gần đây. Là tôn giáo đến sau, nên các hệ phái

Tin lành tìm cách xâm nhập, phát triển tín đồ. Đặc biệt, là họ chú trọng vào

thu hút các tín đồ mới là người nghèo, người dân tộc thiểu số, người ở vùng

123

sâu. Không chỉ thu hút tín đồ của các tôn giáo du nhập từ lâu đời, có số lượng

tín đồ ổn định như PGNTK của người Khmer, giữa các hệ phái Tin lành này

cũng cạnh tranh thu hút tín đồ của nhau, tạo nên những biến động trong đời

sống tôn giáo của người Khmer. Nhiều khu vực của người Khmer là không

gian chủ yếu của PGNTK, nay bị phân tách, chia ra. Cụ thể là vấn đề đạo

Công giáo và đạo Tin lành phát triển trong tộc người Khmer, vốn được xem là

một cộng đồng gắn chặt với PGNT. Do hầu hết đồng bào Khmer mới gia nhập

đạo Tin lành thời gian chưa được bao lâu, sự thông hiểu giáo lý, giáo luật, đặc

biệt chưa quen với nếp sống đạo của tôn giáo mới nên niềm tin tôn giáo chưa

thật sự vững, hay dao động.

Do đó, với đặc điểm và tính biệt truyền của hệ phái Nam tông Khmer

nên chăng có tổ chức đặc trách theo dõi PGNTK trực thuộc Giáo hội Phật

giáo Việt Nam, từ cấp Trung ương, đến cấp cơ sở để tạo điều kiện thuận lợi

cho việc sinh hoạt và hoạt động của tu sĩ PGNTK. Tuy nhiên, đối với tôn giáo

nói chung, PGNTK nói riêng là một trong những vấn đề rất nhạy cảm trong

tình hình đất nước ta hiện nay. Nhiều thế lực xấu trong và ngoài nước luôn

tìm cách lợi dụng tôn giáo, thông qua tôn giáo để dụ dỗ người Khmer chống

phá chính quyền Việt Nam. Vì vậy phải hết sức cảnh giác với vấn đề này, vì

hậu quả của chúng gây ra vô cùng nghiêm trọng và không dễ dàng khắc phục

được nhanh chóng.

Năm là, rời bỏ phum sóc di dân tự do để lao động;

Phật giáo Nam tông Khmer là hệ phái được nhiều quốc gia, dân tộc tin

theo như: Thái Lan, Srilanka, Mianma, trong đó có Campuchia, việc xuất

cảnh để thăm thân, quan hệ cùng hệ phái cũng như việc tham gia các khóa

đào tạo, sinh hoạt tôn giáo còn diễn ra phức tạp, nhiều vị không thực hiện

đúng quy định về xuất cảnh. Vì nhiều vị tu sĩ thiếu nhận thức về quốc gia, dân

tộc, vẫn còn quan niệm xem Campuchia là tổ quốc thiêng liêng của mình, qua

124

lại biên giới Việt Nam - Campuchia xem như việc tự nhiên, không liên quan

đến pháp luật, thậm chí có những vị vượt biên giới sang Campuchia tham gia

các tổ chức phản động của nhóm người Khmer gốc Việt lưu vong, nhằm vận

động, tuyên truyền, kích động quần chúng nhân dân là người Khmer trong

nước chống phá Đảng, Nhà nước.

Ngoài ra, tâm lý thanh niên Khmer hiện nay muốn được tham gia rộng

hơn vào thành quả do tiến bộ xã hội đem lại. Họ muốn được ra ngoài phum

sóc học tập, tiếp cận khoa học kỹ thuật, nếp sống hiện đại. Mặt khác, cùng

sống chung với thanh niên Việt, Hoa, nên thanh niên Khmer không muốn vì

việc tu mà chịu chậm cơ hội tiến bộ, học hành… Vì vậy, với lớp trẻ Khmer,

một số vì giữ gìn tập tục truyền thống nên đã vào chùa tu một thời gian ngắn,

ít người ở chùa hơn một năm. Một số thanh niên Khmer lại không vào chùa tu

mà tìm kiếm cơ hội để thoát ly khỏi phum sóc, tiếp cận với cuộc sống bên

ngoài. Nhiều gia đình Khmer ở TNB đã rời bỏ phum sóc để đi nơi khác sinh

sống hoặc định cư ở nước ngoài. Điều này thể hiện rõ điều kiện kinh tế nơi họ

sinh sống không đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt, nên họ quyết định rời bỏ cái

nôi mình sinh ra, rời bỏ văn hóa bản sắc lâu đời để mưu sinh với cuộc sống.

Sáu là, mai một các loại hình văn hóa nghệ thuật Khmer.

Đồng bào Khmer ở Nam Bộ có nền văn hóa nghệ thuật rất độc đáo.

Đặc biệt đây là một tộc người rất ưa thích múa hát, những ngôi chùa thường

có đội trống, kèn, đàn, có đội ghe ngo… Chùa Khmer là tụ điểm sinh hoạt tôn

giáo, văn hóa, xã hội của đồng bào.

Người Khmer có nền văn hóa phong phú, đặc biệt là các thể loại âm

nhạc và sân khấu dân gian vô cùng tinh túy, đặc sắc, là nguồn tài nguyên nhân

văn quý, cần được trân trọng bảo tồn và phát huy giá trị. Trong Nghị quyết số

23-NQ/TW ngày 16/6/2008 của Bộ chính trị về tiếp tục xây dựng và phát

triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới đề ra mục tiêu: “Cần xây dựng đề

125

án và cơ chế bảo tồn, truyền bá các loại hình văn học, nghệ thuật cổ truyền; có

chính sách đặc biệt hỗ trợ sự phát triển của ngôn ngữ, chữ viết và văn học,

nghệ thuật các dân tộc thiểu số”.

Tuy nhiên, đời sống văn hóa, tinh thần của đồng bào Khmer hiện nay

vẫn còn nhiều khó khăn. Hằng ngày có rất nhiều luồng thông tin sai lệch,

xuyên tạc và các văn hóa phẩm độc hại tác động đến đồng bào. Trong đó, vốn

văn nghệ truyền thống đang có nguy cơ bị mai một. Một trong những nghệ

thuật văn hóa đặc sắc là nghệ thuật sân khấu Rô băm, nhưng đã nhiều năm

nay hoạt động biểu diễn này không cò tổ chức vào dịp lễ tết như trước nữa.

Lý do là lớp nghệ nhân già thưa thớt dần, còn lớp trẻ thì không được truyền

dạy và cũng không còn mặn mà với nghệ thuật Rô Băm.

Từ thập niên 80 của thế kỷ trước, loại Dù Kê phát triển khá mạnh ở Nam

Bộ, hầu như xã nào cũng có đội văn nghệ biểu diễn. Thế nhưng, những năm

gần đây, diễn Dù Kê ở các tỉnh Nam Bộ đã bị mai một dần. Ở các tỉnh Nam

Bộ vào những dịp lễ hội lớn luôn có đội Dù Kê biểu diễn phục vụ đồng bào,

nhưng sau này lớp diễn viên lớn tuổi không còn theo nghiệp được nữa. Trong

khi đó, lớp thanh thiếu niên trong xã hội không được kế thừa, thậm chí nói

tiếng dân tộc cũng không còn chuẩn như lớp người trước nên không thể hát

được Dù kê.

Các nghệ nhân người Khmer hiện nay cũng chưa được quan tâm hỗ trợ,

nên đời sống gặp nhiều khó khăn. Điển hình như nghệ nhân Danh Mỹ ở

phường An Hòa, thành phố Rạch Giá, là một trong số ít nghệ nhân Khmer ở

Kiên Giang biết làm nhạc cụ Khmer. Đây là nghề gia truyền từ 3 đời để lại và

anh có thể làm được 37 loại nhạc cụ khác nhau. Công việc đòi hỏi sự công

phu, nhưng cuộc sống của gia đình anh hết sức khó khăn, vì nhạc cụ làm ra

không có người mua. Niềm mong ước lớn nhất của anh là có một số vốn, mở

xưởng sản xuất nhạc cụ và làm công việc xúc tiền báng hàng để làm ra nhiều

126

nhạc cụ hơn nữa phục vụ nghệ thuật truyền thống của dân tộc mình và truyền

thứ nghề nhiều tâm huyết này cho 2 con trai.

Từ đó cho thấy việc bảo tồn các loại hình văn nghệ truyền thống của

đồng bào Khmer ở Nam Bộ đang gặp khó khăn. Vấn đề cần thiết hiện nay là

phải có biện pháp và chính sách hỗ trợ thích hợp để giữ gìn nét văn hóa đặc

sắc của đồng bào Khmer.

Tiểu kết chương 3

Ở vùng đất có nhiều tôn giáo và đa dân tộc, trong quá trình cộng cư,

người Khmer ở Nam Bộ đã hình thành cho mình một phong cách sống, một

nét văn hóa ứng xử rất độc đáo. Cách ứng xử này thể hiện tính hòa hợp dân

tộc và tinh thần tôn giáo. Điều này góp phần quan trọng tạo nên lối sống vì

đạo, vì đời trong bối cảnh hòa hợp dân tộc, hòa hợp tôn giáo từ xưa đến nay.

Tinh thần tôn giáo đến tinh thần thực hành tôn giáo là một hệ ý thức sống

quan trọng của người Khmer ở Nam bộ, cần được giữ gìn và phát huy trong

thời đại ngày nay, khi mà tôn giáo dần có khuynh hướng bị thế tục hóa, làm

mất đi những giá trị bản thể của tôn giáo và dân tộc.

Quan trọng hơn, quá trình thế tục hóa này làm phát sinh mâu thuẫn hệ ý

thức tôn giáo, mâu thuẫn dân tộc. Vì vậy, việc tạo ra môi trường, gìn giữ môi

trường tôn giáo, gìn giữ đặc trưng ứng xử của người Khmer ở Nam bộ là hết

sức quan trọng, ngăn chặn lại sự tan chảy của hệ ý thức thế tục hóa vào tôn

giáo, một trong những nguyên nhân dẫn đến mất đi bản thể giá trị của tôn

giáo và gây mất đoàn kết tôn giáo và đoàn kết dân tộc.

Đồng bào dân tộc Khmer ở TNB nói chung là một bộ phận không thể

tách rời trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Trong thời kỳ tiếp tục đổi

mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện

nay, các tộc người thiểu số nói chung, tộc người Khmer nói riêng đang đứng

trước cơ hội và thách thức mới trong phát triển đối với việc tiếp cận các

127

nguồn tài nguyên, tiếp thụ kiến thức khoa học để nâng cao trình độ chuyên

môn, trình độ kỹ thuật và trình độ tay nghề…

Với thuyết nhân duyên thì vai trò của tu sĩ PGNTK giúp cho mỗi phần

tử trong đoàn thể, quốc gia, xã hội nhận thấy rõ được địa vị quan trọng, cũng

như ảnh hưởng của mình đới với toàn thể, từ đó nhận thấy trách nhiệm của

mình trong bộ máy xã hội. PGNTK ở TNB với một thế hệ người sống đồng

cam cộng khổ với quần chúng, biết phụng sự lý tưởng xã hội vô ngã, biết

khinh thường địa vị và quyền lợi thì chắc sẽ gây được niềm tin và khơi dậy

nguồn cảm hứng cần thiết mang lại sự tồn tại của xã hội.

Mặt khác, người Khmer xem ngôi chùa làm trung tâm thì tu sĩ PGNTK

là hạt nhân bởi chính vai trò của tu sĩ là người có học, có đạo hạnh được xã

hội kính trọng và tôn vinh. Nhiều tu sĩ có ảnh hưởng rất lớn và chi phối đến

đời sống mọi mặt của người Khmer. Mọi tín đồ đều nghe theo lời nói từ

cửa miệng các vị tu sĩ như là lời đức Phật. Đây là ưu điểm và cũng chính là

nhược điểm của PGNT. Bởi lẽ, nếu các tu sĩ PGNTK đó là những nhà tu

hành chân chính thì đây là ưu điểm, có giá trị tích cực trong việc dạy dỗ

con em tín đồ tu tập, học đạo làm người, sống có ích cho cộng đồng phum,

sóc và đất nước.

Ngược lại, nếu đó là những kẻ đội lốt tôn giáo, “mượn đạo tạo đời”

được các thế lực thù địch cài vào để chống lại cách mạng, chống lại Đảng và

Nhà nước thì sẽ dẫn đến những hậu quả khó lường. Nhận thấy được điều này,

trong thời gian qua các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách để tiếp cận sâu

vào các ngôi chùa Khmer ở TNB, lợi dụng các tu sĩ PGNTK tuyên truyền

kích động tín đồ nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Bên cạnh đó, người tu sĩ PGNTK không có vai trò trong việc tạo ra của

cải vật chất, nhưng góp phần làm ổn định đạo đức xã hội trong khi thực thi

đạo pháp. Phật giáo là một tôn giáo bình đẳng, tự giác, tự do, không bắt buộc

128

và trong vấn đề kỳ vọng của xã hội xã hội chủ nghĩa cũng vậy, PGNTK phải

thực hiện đúng vai trò của mình, tu sĩ PGNTK thể hiển rõ quyền lợi và nghĩa

vụ của mình là công dân Việt Nam; nếu chỉ biết tu tập để được hạnh phúc

riêng mình, đó không đúng với tinh thần lời Đức Phật dạy, phải có trách

nhiệm với những khổ đau của tha nhân, đem đạo vào đời, góp phần làm cho

xã hội ngày một tốt đẹp hơn. Điều đáng mừng là nhìn lại đời sống thường

ngày của cộng đồng người Khmer ở Nam Bộ nói chung, ở TNB nói riêng hiện

nay đã thực hiện cơ bản tinh thần ấy.

129

Chương 4

GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA TU SĨ

PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG NGƯỜI KHMER

TÂY NAM BỘ TRONG THỜI GIAN TỚI

4.1. MỘT SỐ GIẢI PHÁP

Do đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số vùng

TNB nói chung, tu sĩ PGNTK nói riêng còn gặp nhiều khó khăn, thiếu điều

kiện để vươn lên, do đó việc Nhà nước điều tiết đầu tư, hỗ trợ tạo điều kiện

để đồng bào DTTS vươn lên trong cuộc sống là việc làm tất yếu và hết sức

cần thiết.

Các chính sách, chương trình, dự án đã và đang triển khai thực hiện

trong vùng DTTS nói chung là việc làm cụ thể trong chính sách dân tộc mang

tính ưu việt của Đảng và Nhà nước; tạo điều kiện, khuyến khích tinh thần cầu

tiến, tránh được tính ỷ lại trong đồng bào dân tộc thiểu số nói chung, dân tộc

Khmer nói riêng.

Tuy nhiên, trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, vùng dân tộc thiểu số nói

chung, vùng đồng bào dân tộc Khmer nói riêng vẫn còn đối mặt với những

khó khăn thách thức. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có nơi còn yếu kém, có

mặt chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Sản xuất hàng hóa nhỏ lẻ, sức cạnh

tranh thấp. Đời sống của một bộ nhân dân còn gặp khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo

trong đồng bào Khmer còn cao. Mặt bằng dân trí còn thấp so với các vùng

miền trong cả nước. Chất lượng nguồn nhân lực có mặt chưa đáp ứng được

yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nguyên nhân chủ yếu là xuất phát

điểm của vùng TNB còn thấp. Mức đầu tư kinh phí cho từng chính sách,

chương trình, dự án còn thấp, trong khi yêu cầu đầu tư, hỗ trợ để phát triển thì

lớn. Một số chính sách còn chồng chéo, đầu tư dàn trải, thiếu đồng bộ, thiếu

tập trung, thiếu đột phá.

130

Mặc khác, những tác dụng xã hội tích cực của PGNT đối với cộng đồng

người Khmer đã được thực tế chứng minh nhưng thực chất ảnh hưởng giữa

Phật giáo và xã hội là một quá trình tác động qua lại. Ảnh hưởng của Phật

giáo đối với xã hội cũng luôn có hai mặt; mặt tích cực là góp phần làm ổn

định xã hội, nhưng mặt tiêu cực cũng dễ dàng bắt nguồn từ mặt tích cực.

Vì vậy, việc thực hiện chính sách tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc

Khmer cần có sự liên kết với việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà

nước. Đồng thời, chú trọng việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng

nhân tài cho người Khmer, từng bước xóa đói giảm nghèo để cuộc sống của

đồng bào được cải thiện. Có như vậy, văn hóa truyền thống và PGNT mới có thể

phát triển một cách bền vững và lâu dài trong cộng đồng người Khmer ở Nam

bộ. Tác giả đưa ra các nhóm giải pháp cụ thể như sau:

4.1.1. Nhóm giải pháp về nhận thức

Cần nhận thức chung văn hóa dân tộc Khmer là tài sản quý giá góp

phần làm nên sự phong phú, đa dạng mà thống nhất của văn hóa Việt Nam.

Giữ gìn bản sắc và sự đa dạng của văn hóa dân tộc Khmer là vấn đề có ý

nghĩa chính trị - xã hội to lớn trong tình hình hiện nay. Có thể nói, thực chất

của vấn đề dân tộc là vấn đề văn hóa. Khi nhận thức đúng sẽ giúp các ngành,

các cấp xác định được nhiệm vụ của mình từng cấp, từng ngành trong sự

nghiệp bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Khmer trong cộng đồng

dân tộc Việt Nam. Tránh tình trạng buông lỏng quản lý, chỉ đạo thực hiện các

chủ trương, chính sách về dân tộc, tôn giáo trên địa bàn phụ trách, thúc đẩy sự

nghiệp phát triển văn hóa nói chung và văn hóa Khmer phát triển tốt hơn.

Các ngành, các cấp cần nhận thức đầy đủ hơn nữa về vị trí, vai trò, tầm

quan trọng và sự đóng góp thiết thực, quý báu của các vị cao tăng, chức sắc

tôn giáo và tu sĩ PGNTK vào sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đây là những

người có khả năng chi phối hầu hết tu sĩ trẻ, đồng bào Phật tử Khmer. Hơn

131

nữa, đồng bào Khmer từ bao đời nay vốn gắn bó, đóng góp công sức và trí

tuệ đối với sự phát triển của vùng đất Nam Bộ giàu tiềm năng, nhiều lợi

thế. Từ đó hướng nội dung hoạt động của các vị chức sắc, tu sĩ PGNTK

ngày càng thiết thực và đi vào trọng tâm; đồng thời, tăng cường hơn nữa sự

lãnh đạo của cấp ủy đối với nội dung hoạt động của các vị chức sắc, nhà tu

hành và Ban Quản trị chùa, nội dung cần bám sát nhiệm vụ chính trị của

từng địa phương.

Để hướng dẫn, giúp đỡ hoạt động của các vị tu sĩ PGNTK mang tính

thống nhất ở từng chùa, từng địa phương cần cần chú ý cơ cấu hợp lý các

vị giáo phẩm, cao tăng, chức sắc PGNTK trong các tổ chức, tránh cơ cấu

các vị cùng lúc đảm nhiệm nhiều việc trong nhiều tổ chức khác nhau như

trước đây cũng như hiện nay nhằm giúp các vị có đủ thời gian thực hiện

hoàn thành nhiệm vụ, toàn tâm, toàn ý với công việc, với cương vị mà các

vị đảm nhận.

4.1.2. Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách

Phật giáo nói chung là tôn giáo có số lượng tín đồ lớn, có ảnh hưởng

trong đời sống tinh thần của một bộ phận không nhỏ người dân Việt Nam. Vì

vậy, vấn đề bảo tồn và phát huy các di sản Phật giáo cần được nghiên cứu

sâu và ứng dụng để góp phần giữ gìn bản sắc, truyền thống, giá trị lịch sử,

văn hóa. Những hoạt động văn hóa xã hội của Phật giáo cần được

GHPGVN quan tâm sâu sát hơn để có những định hướng và triển khai đúng

trong phát triển văn hóa tâm linh, tổ chức các sự kiện mang tầm cỡ quốc tế.

Việc làm dịch vụ tôn giáo tại các di tích Phật giáo vẫn còn tồn tại dưới

nhiều hình thức, các cơ quan quản lý vẫn chưa tìm ra được những biện

pháp khả thi để ngăn chặn và giảm thiểu. Nạn cò mồi, bắt chẹt khách, dịch

vụ mê tín... tại các lễ hội Phật giáo vẫn tái diễn khiến cho các lễ hội Phật

giáo thiếu đi sự linh thiêng vốn có.

132

Tình trạng xây dựng sửa chữa sai quy hoạch và làm giảm giá trị di tích

do không được đầu tư đúng đắn vẫn tồn tại, tuy đã giảm hơn thời gian trước

đây. Nạn xâm lấn các di tích Phật giáo vẫn chưa giải quyết được, thậm chí ở

nhiều nơi còn tiếp tục diễn ra công nhiên vì nhiều lý do. Tình trạng khiếu kiện

tại một số cơ sở thờ tự vẫn xảy ra, chưa giải quyết dứt điểm.

Riêng đối với PGNTK là hệ phái đang chiếm đa số trong hệ phái Nam

tông nói chung, vì vậy cần quan tâm đến những vấn đề dưới đây để có hướng

xây dựng chính sách hợp lý cho PGNTK nói chung, tu sĩ PGNTK nói riêng.

Thứ nhất, xác định cơ cấu tổ chức trong ngôi nhà chung Giáo hội Phật

giáo Việt Nam của hệ phái PGNTK một cách rõ ràng.

Thứ hai, xác định vị trí, vai trò, nội dung, phương thức hoạt động của

HĐKSSYN, Ban Quản trị chùa trong tình hình mới.

Thứ ba, nhận diện mối quan hệ giữa PGNTK với PGNT các nước Đông

Nam Á và một số quốc gia khác có cùng hệ phái Nam tông (Theravada).

Thứ tư, xác định cơ chế hỗ trợ cụ thể, rõ ràng từ phía nhà nước đối với

Học viện PGNTK tại thành phố Cần Thơ.

Đây là những điều kiện để tu sĩ PGNTK và đồng bào Khmer có dịp

quảng bá hình ảnh đất nước Việt Nam nói chung, hình ảnh Giáo hội Phật giáo

Việt Nam nói riêng ra nước ngoài. Do đó, các Bộ, ngành và địa phương cần

nâng cao trách nhiệm được giao đối với việc hỗ trợ Học viện PGNTK bao

gồm: xây dựng cơ sở vật chất, hỗ trợ nâng cao năng lực điều hành của Hội

đồng điều hành Học viện, đào tạo nguồn nhân lực cho Học viện đáp ứng việc

giảng dạy trình độ cử nhân Phật học và phối hợp một số ngành, nghề nào đó

để có văn bằng, chứng chỉ đáp ứng giải quyết công ăn việc làm khi các vị tu sĩ

PGNTK hoàn tục hòa nhập vào cuộc sống xã hội góp phần xóa đói giảm

nghèo cho gia đình.

Tiếp tục, đánh giá thực trạng và đề xuất chính sách hỗ trợ việc nâng

cao công tác giáo dục, đào tạo trong đồng bào Khmer và PGNTK đáp ứng

133

yêu cầu thực tiễn đã và đang đặt ra; tiếp tục hỗ trợ, tạo điều kiện in ấn và

tái bản kinh sách phục vụ việc tu học của tu sĩ PGNTK; tiếp tục nghiên cứu

chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện để giới tu sĩ PGNTK, nhất là tu sĩ trẻ tuổi

có cơ hội và điều kiện hòa nhập, tiến thân trong xu thế phát triển chung của

đất nước.

Cần có kế hoạch, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chức sắc, tu

sĩ PGNTK trẻ tạo đội ngũ kế thừa nhằm đáp ứng nhu cầu về lâu dài trong

hoạt động Phật sự đối với đồng bào Khmer hiện nay và kể cả trong

GHPGVN trong tương lai. Riêng đối với các vị chức sắc hàng giáo phẩm

từ Thượng tọa trở lên hoặc các vị trụ trì có ảnh hưởng lớn trong tín đồ, Nhà

nước cần có chính sách hỗ trợ kinh phí để mua bảo hiểm y tế nhằm kịp thời

động viên sự đóng góp của các vị chức sắc này trong sự nghiệp Đạo pháp

và Dân tộc.

Bên cạnh đó phát huy văn hóa truyền thống, xây dựng, nâng cấp cải

tạo các thiết chế văn hóa, công trình kiến trúc văn hoá nghệ thuật, triển

khai tích cực cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa,

làm sao cho văn hóa thực sự giữ vai trò nền tảng, là động lực thúc đẩy kinh

tế xã hội phát triển.

Vai trò về công tác tuyên truyền vận động đồng bào Khmer hưởng ứng

cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa phải được xem là nhiệm vụ cơ bản

trong giai đoạn hiện nay. Phải xem đây là nhiệm vụ chung của các cấp, các

ngành trong toàn hệ thống chính trị, trong đó có Sở văn hóa thể thao và du

lịch và các Trung tâm văn hoá ở các quận, huyện giữ vai trò nồng cốt, có kế

hoạch cụ thể từ đầu năm, phối hợp với HĐKSSYN các tỉnh thành trong việc

vận động đồng bào Khmer. Tuy nhiên, để công tác tuyên tuyên truyền đạt

hiệu quả cao nhất định không thể thiếu vai trò của tu sĩ và nhà chùa. Đây là

những lực lượng có vai trò nòng cốt rất quan trọng trong công tác vận động

134

đồng bào tín đồ phật tử của mình. Do vậy, ngoài những nổ lực của các cấp

chính quyền, ban, ngành, đoàn thể phải tranh thủ vận động giới tu học trong

nhà chùa tích cực tham gia vào phong trào này.

Có kế hoạch bảo tồn các giá trị di sản văn hoá của dân tộc Khmer, vì

hiện nay tình trạng các giá trị di sản quý đang ngày càng giảm dần, việc xây

dựng sửa chữa các chùa phổ biến vô tình hoặc cố ý làm mất đi những nét đẹp

kiến trúc vốn có của đồng bào Khmer. Tuy nhiên, việc bảo tồn di sản văn hoá

phải được nhìn nhận theo quan điểm phát triển, bảo tồn không có nghĩa là cố

níu kéo lại tất cả những gì có trong quá khứ mà phải có sự chọn lọc những giá

trị phù hợp với xu hướng phát triển của dân tộc và thời đại. Bản chất của văn

hoá là sự sáng tạo, thiếu tính sáng tạo có nghĩa là tự đẩy lùi nền văn hoá của

dân tộc lại phía sau. Cho nên, nếu chỉ dừng lại ở việc giữ gìn và phát huy

những gì đã có thì nền văn hoá đó không thể phát triển. Các giá trị truyền

thống phải được nghiên cứu, sắp xếp, chọn lọc lại những yếu tố nào còn phù

hợp, mang tính nhân văn thì khuyến khích kế thừa, tạo điều kiện để bảo tồn

và phát triển, những yếu tố nào mang tính bảo thủ, không còn phù hợp với

những giá trị chuẩn mực đạo đức của dân tộc thì tìm cách thay thế hoặc loại

bỏ hẳn khỏi đời sống tinh thần của đồng bào.

Việc giữ gìn, phát huy và phát triển văn hoá muốn thực hiện được nhất

định phải có sự tham gia của nhân tố con người, không có con người làm văn

hoá thì không thể nói đến việc giữ gìn và phát huy nền văn hoá. Bởi lẽ, muốn

giữ gìn và phát huy nó nhất định phải có những con người có một kiến thức

và trình độ thưởng thức văn hoá nhất định mới có thể biết được đâu là giá trị,

đâu là những yếu tố bảo thủ, lạc hậu cần phải loại bỏ. Do vây, phải tăng

cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cho tu sĩ PGNT trong chùa nhằm đáp ứng

các yêu cầu trên. Đào tạo được đội ngũ này thì việc bảo tồn và phát triển văn

hoá trong cộng đồng người Khmer mới đạt hiệu quả cao. Thực thế không có

135

ai có thể làm tốt công tác văn hoá và vận động quần chúng người dân tộc

Khmer tham gia vào các hoạt động văn hoá tốt như chính người Khmer.

Song song đó, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa ảnh hưởng từ

PGNT, những phong tục phù hợp đồng thời từng bước giảm dần đến xóa bỏ

hủ tục lạc hậu và những lễ hội kéo dài gây tốn kém cho đồng bào.

Khi nghiên cứu về đời sống tinh thần, nhiều nơi trên thế giới đã đặt văn

hoá tôn giáo vào vị trí hàng đầu. Bởi lẽ, bản chất của văn hoá là mang tính

nhân văn và tính sáng tạo, tất cả những giá trị văn hoá suy cho cùng đều

hướng về cái chân, thiện, mỹ. Không có nền văn hóa chân chính nào lại

không đề cao cái thiện, phê bình cái ác, cái xấu xa. PGNTK cũng không nằm

ngoài những tiêu chí trên. Văn hoá của dân tộc này từ lâu đã trở thành một bộ

phận có mối quan hệ khăng khít với tôn giáo, hay nói cách khác nền văn hoá

Khmer là nền “văn hoá tôn giáo”.

Vì những giá trị đó, nên trong thời gian tới, TNB cần phải tiếp tục nâng

cao và phát huy hơn nữa vai trò trung tâm văn hoá xã hội truyền thống của

các ngôi chùa, và vai trò của các tu sĩ PGNT. Vì ngôi chùa không chỉ là nơi

để chuyển tải nội dung văn hoá tôn giáo của PGNT mà còn là nơi lưu giữ, bảo

tồn nhiều di sản văn hoá đặc của cộng đồng dân tộc Khmer. Đồng thời, trong

những hoạt động đời thường, ngày nay chùa Khmer, đặc biệt và vai trò của

các tu sĩ PGNT và các vị chức sắc có sức ảnh hưởng lớn đến đời sống và hoạt

động của cộng đồng dân cư trong phạm vi khu vực quản lý của mình.

Hiện nay, các chùa PGNTK trên địa bàn tỉnh đã được trùng tu, sửa

chữa khá khang trang, khuôn viên thoáng mát và đẹp đẽ, rất thuận lợi cho việc

tổ chức lễ hội, vui chơi giải trí cho bà con và khách đến viếng chùa. Thế

nhưng, do phải đảm nhiệm chiều chức năng trong khuôn khổ của một ngôi

chùa thì nhất định là không thể cùng lúc đáp ứng đầy đủ các nhu cầu hưởng

thụ những giá trị văn hoá của đồng bào, nên cũng cần phải quan tâm đến các

136

hoạt động văn hoá khác ngoài ngôi chùa. Mặc khác, các lễ nghi đã tồn tại từ

lâu đời trong đời sống của người Khmer lại gắn chặt với chư tăng và nhà

chùa. Tuy nhiên, đây là những yếu tố tinh thần đã ăn sâu vào trong đời sống

tinh thần của người dân Khmer nên không thể một sớm một chiều có thể thay

đổi được mà đòi hỏi phải có sự kiên trì lâu dài mới có thể thay đổi được.

Bên cạnh đó, các phương tiện thông tin đại chúng phải thường xuyên

tuyên truyền để chính bản thân người dân nhận thấy được những hủ tục lạc

hậu để tự họ nhận thức được mà loại bỏ những tập tục lạc hậu ấy.

Cần xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý văn hóa, nghệ thuật

Khmer là người Khmer các cấp. Muốn có phong trào văn hóa, nghệ thuật

Khmer phát triển thì phải có đội ngũ cán bộ Khmer chuyên trách. Nhà nước

cần quy hoạch, đào tạo và bổ nhiệm cán bộ quản lý, nghiệp vụ văn hóa, nghệ

thuật Khmer là dân tộc Khmer từ trung ương đến cơ sở để chăm lo cho sự

nghiệp phát triển văn hóa Khmer. Trong điều kiện khó khăn như hiện nay, các

địa phương cần quan tâm đầu tư cho các Đoàn nghệ thuật Khmer hiện có để

nâng cao chất lượng hoạt động nghệ thuật sáng tác, biểu diễn, phục vụ cho

nhu cầu hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật cho đồng bào Khmer, ở những nơi có

điều kiện (như Trà Vinh) đề xuất nâng lên thành lập Nhà hát ca, múa, nhạc để

nâng tầm hoạt động sáng tác, biểu diễn và đào tạo lớp văn nghệ sĩ kế cận.

4.1.3. Nhóm giải pháp về nâng cao vai trò của tu sĩ trong hoạt động

tôn giáo vận, xã hội vận

Để tạo điều kiện cho đội ngũ tu sĩ PGNTK phát huy hơn nữa vai trò của

mình thì cần đẩy mạnh và thực hiện các giải pháp sau:

Trước hết cần đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường lớp trong chùa,

nâng cao chất lượng giáo dục phật học gắn với thế học như: sơ cấp Pali giáo

lý, dhammaviniya (kinh luận giới), dạy chữ Khmer… đi đôi với tích cực vận

động và tạo điều kiện cho tu sĩ đến trường, thực hiện dạy chữ Khmer ngữ, phổ

137

cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở. Xây dựng các trường phổ thông dân

tộc nội trú trong nhà trường và nhà chùa làm cơ sở tạo nguồn nhân lực nói

chung và cán bộ kế thừa nói riêng; làm tốt quy chế tuyển sinh, chính sách cử

tuyển học sinh, sinh viên; thực hiên dầy đủ các quy định của chính phủ về học

bổng, học phí của tu sĩ.

Phải có trường lớp bổ túc văn hóa dành riêng (trong chùa) cho tu sĩ

Nam tông Khmer, nhất là con em của đồng bào Khmer nghèo. Làm tốt công

tác này sẽ nâng cao được trình độ dân trí tu sĩ PGNTK rất nhiều. Đồng thời thu

hút được nhiều thanh thiếu niên Khmer muốn xuất gia được vào chùa để được

học. Nếu không sẽ tạo gánh nặng cho nhà chùa và xã hội trong việc giải quyết

những trường hợp này.

Cần có sự quan tâm đến công việc dạy học trong các chùa, những thanh

thiếu niên xuất gia tu học trước đây và hiện nay các tu sĩ làm nhiệm vụ dạy

học chữ Khmer và Pali giáo lý. Hiện nay, trường chùa của người Khmer đang

góp phần quan trọng cùng với ngành giáo dục nâng cao dân trí, tạo nguồn

nhân lực. Có thể tận dụng những điều kiện này để làm công tác phổ cập, xóa

mù chữ cho con em người dân tộc. Tuy nhiên, việc dạy và học trong các

trường chùa hiện nay cũng khá đơn điệu, chưa thống nhất về chương trình

học, chương trình giảng dạy, nội dung giảng dạy cho đến cấp bằng và chứng

nhận cũng chưa thống nhất; thiếu về sách giáo khoa và các tài liệu học tập

khác; thiếu sự quan tâm của ngành giáo dục, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm

cho những giáo viên tình nguyện. Vì vậy, cần có những quan tâm đầu tư cho

việc dạy và học tại các chùa của tu sĩ cũng như người học về sách giáo khoa,

chương trình dạy học, bồi dưỡng cho giáo viên… làm sao chất lượng ngày

càng được nâng lên.

Việc đào tạo tu sĩ PGNTK cần được các cấp, các ngành quan tâm và

tạo điều kiện, hàng năm cho phép HĐKSSYN tổ chức các lớp thi Pali-kinh

138

luận giới cho tăng sinh các chùa, cử tăng sinh đi học các lớp bổ túc văn hoá -

Trung cấp Pali, học ở Học viện PGNTK và Giáo hội Phật giáo Việt Nam giới

thiệu tăng sinh trẻ du học ở nước ngoài. Do đó, đề nghị cần có việc nghiên

cứu, đánh giá đi đến thống nhất quan điểm, giải pháp đối với PGNTK. Trong

đó tập trung các vấn đề sau đây:

Thứ nhất, Hội đồng Trị sự Giáo Hội Phật giáo Việt Nam và Ban Giáo

dục Tăng, Ni Trung ương cần có cơ chế xây dựng, biên soạn chương trình

giảng dạy và chương trình đào tạo giáo viên dạy Pàli - Khmer và Phật học các

cấp, kèm theo đó là quy chế giảng dạy, học tập, thi cử, cấp giấy chứng nhận,

văn bằng tốt nghiệp, áp dụng thống nhất trong hệ thống giáo dục của thuộc

Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Thứ hai, Ban Giáo dục Tăng, Ni Trung ương, các Viện, Trường thuộc

Giáo hội Phật giáo Việt Nam liên kết với các Viện, Trường Phật giáo Nam

tông thuộc các nước: Campuchia, Thái Lan, Myanma, Sri Lănka để có

chương trình hợp tác đào tạo. Qua đó, hàng năm có kế hoạch đào tạo tăng

sinh PGNT tại một số nước nêu trên theo nhu cầu thực tiễn mà trong nước

chưa có hoặc không có điều kiện đào tạo, kèm theo cơ chế chính sách hỗ trợ

đặc thù trong thời gian tăng sinh du học.

Thứ ba, Giáo hội Phật giáo Việt Nam giúp Học viện Phật giáo Nam tông

Khmer sớm đi vào hoạt động; đồng thời, tiếp tục làm cầu nối vận động xã hội

hỗ trợ cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu học tập của tăng sinh.

Thứ tư, nghiên cứu hình thành đơn vị có tư cách pháp nhân (giao đơn vị

sự nghiệp Nhà nước hoặc tạo điều kiện pháp lý cho các đơn vị tư nhân) để

nhập kinh sách Phật giáo từ Campuchia dưới dạng kinh doanh, nhưng được

hưởng các chính sách ưu đãi theo quy định hiện hành.

Theo chúng tôi, đối với giáo dục PGNT hiện nay thì cần lựa chọn 02

mô hình giáo dục Phật giáo như sau: (1) Đào tạo theo mô hình truyền thống

139

khép kín mang tính chuyên môn PGNTK nhưng phải theo hệ thống giáo dục

của Giáo hội Phật giáo Việt Nam; (2) Đào tạo theo mô hình truyền thống

ghép với hệ đào tạo thuộc hệ thống quốc dân tại các cấp học dành cho những

ai thích nghiên cứu kinh điển Phật giáo (hiện nay Học viện Phật giáo Nam

tông Khmer đã phối hợp với Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn

Hà Nội đào tạo chuyên ngành Tôn giáo học), với mô hình đài tạo này, những

ai đáp ứng đủ những điều kiện về tuyển sinh thì đều được tham gia thi tuyển,

thời gian đào tạo có thể dài hơn tùy theo cấp học nhưng khi tốt nghiệp, tăng

sinh, học viên sẽ có được 02 bằng cấp Phật học và Thế học (Phật học và Tôn

giáo học).

Do vậy, Ban Giáo dục Tăng, Ni Trung ương cần đổi mới và củng cố hệ

thống giáo dục Phật giáo thật mạnh trước hết là hệ thống trường lớp phải

đồng bộ và thống nhất từ trên xuống dưới trong cả nước. Khi đã phân chia rõ

ràng từng cấp bậc cụ thể thì sẽ dễ dàng định hướng nội dung chương trình cho

từng cấp. Trong khi định hướng nội dung đào tạo, các nhà soạn thảo sẽ đưa ra

mô hình đào tạo sao cho thích hợp theo nhu cầu của Phật giáo và xã hội.

Xây dựng kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực để mở rộng Khoa Pali

trong giáo dục Phật giáo nghĩa là trong Khoa Pali phải có bộ môn Pàli -

Khmer hoặc các bộ môn theo ngôn ngữ của các nước có Phật giáo như: Pali

- Anh, Pali - Thái Lan, Pali - Lào…để tạo hướng cho các Tăng, Ni sinh đi

nghiên cứu bậc học cao hơn tại các quốc gia mà Tăng, Ni đó đã chọn bộ

môn học tương ứng; đồng thời chuẩn hóa các điểm chùa giảng dạy chữ

Khmer trong dịp hè thành cơ sở giảng dạy có tư cách pháp nhân để cấp

chứng chỉ sau khi kết thúc khóa học (vấn đề này có thể liên kết với Trung

tâm ngoại ngữ - Tin học Victory thuộc trường Đại học Trà Vinh để phối

hợp đào tạo, học viên sau khi tốt nghiệp sẽ có chứng nhận của Bộ Giáo dục

& Đào Tạo).

140

Tiếp tục thực hiện Chỉ thị 06/2008/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ

về phát huy vai trò của người có uy tín trong đồng bào DTTS trong sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Quan tâm xây dựng lực lượng nòng cốt là người dân tộc, các vị tu sĩ,

Àchar, Ban Quản trị chùa để làm tốt công tác giáo dục đối với con em đồng

bào Khmer, đây là nội dung hết sức quan trọng, có tác dụng thiết thực đến

việc nâng cao dân trí, nhận thức và ý thức dân tộc, ý thức quốc gia, dân tộc.

4.2. KIẾN NGHỊ

Đối với Trung ương: Tiếp tục duy trì và phát huy các chính sách hiện

hành với vùng dân tộc thiểu số; tăng mức đầu tư cho từng chính sách, chương

trình, dự án từ ngân sách Nhà nước; đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo,

đào tạo nghề, giải quyết việc làm nhằm nâng cao đời sống cho đồng bào; nâng

cao ý thức dân tộc, tự hào dân tộc trong đồng bào, nhất là giới trẻ, trí thức trẻ,

cán bộ trẻ; tăng cường đào tạo nguồn nhân lực trong đồng bào Khmer, tiến tới

sử dụng nguồn nhân lực là người dân tộc Khmer tương ứng với tỷ lệ dân số ở

địa phương.

Riêng đối với hình thái đặc thù của PGNTK thì cần xác định cơ cấu tổ

chức của hệ phái Nam tông Khmer trong hệ thống GHPGVN; xác định vị trí,

vai trò, nội dung, phương thức hoạt động của HĐKSSYN, Ban Quản trị chùa

trong tình hình mới. Hỗ trợ về cở sở vật chất, kinh phí, phương tiện, trang

thiết bị đáp ứng yêu cầu công tác của Hội và quan tâm thực hiện chế độ chính

sách đối với các thành viên Ban Chấp Hội và Ban Quản trị chùa; đồng thời,

xác định cơ chế hỗ trợ cụ thể, rõ ràng từ phía nhà nước đối với Học viện

PGNTK, nâng cao trách nhiệm của Bộ, ngành và địa phương được giao nhiệm

vụ hỗ trợ Học viện; tạo điều kiện để giới sư sãi trong PGNTK, nhất là tu sĩ trẻ

tuổi có cơ hội, có điều kiện hòa nhập, tiến thân trong xu thế phát triển chung

của đất nước.

141

Đối với Ban Tôn giáo Chính phủ: Tác động với Giáo hội Phật giáo Việt

Nam có cơ chế xây dựng, biên soạn chương trình giảng dạy và đào tạo Pali và

Viniya các cấp và Khmer ngữ, kèm theo đó là Quy chế giảng dạy, học tập, thi

cử, cấp giấy chứng nhận, văn bằng tốt nghiệp, áp dụng thống nhất trong khu

vực Nam Bộ và có giá trị rộng hơn nếu phối hợp được với các cơ sở đào tạo ở

nước ngoài về chương trình Phật học; đồng thời, hỗ trợ một phần kinh phí cho

các vị tu sĩ, tăng sinh PGNTK đi tu học và tạo điều kiện thuận lợi cho các vị

tăng sinh khi có nhu cầu du học nước ngoài và cần có cách nhìn thiện cảm đối

với các vị tăng sinh đi du học trở về nước.

Đối với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Chủ trì, phối

hợp nghiên cứu, đề xuất chính sách đối với HĐKSSYN; trước mắt, cần có

chính sách hỗ trợ kinh phí hoạt động hàng năm đảm bảo hoạt động của

HĐKSSYN; về lâu dài, cần nghiên cứu đề xuất cơ chế chính sách mang tính

toàn diện, thống nhất và bền vững.

Đối với Bộ Ngoại giao: Tiếp tục xây dựng tốt mối quan hệ đoàn kết

hữu nghị Việt Nam - Campuchia và nâng lên tầm cao mới theo phương

châm“láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững

lâu dài”. Đồng thời các tổ chức hữu nghị, các đoàn thể Trung ương và các

tỉnh/thành phố có đông đồng bào Khmer, nhất là các tỉnh giáp biên giới tăng

cường công tác đối ngoại nhân dân, mở rộng quan hệ hợp tác với Campuchia;

giải quyết xử lý tốt những tranh chấp xảy ra giữa nhân dân địa phương hai

bên biên giới theo nguyên tắc thỏa thuận giữa 2 nước.

Đối với Ban Tuyên giáo Trung ương: Để đối phó lại các luận điệu

xuyên tạc, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc của các thế lực thù địch, Ban

Tuyên giáo Trung ương cần tiếp tục tổ chức nhiều cuộc vận động, tuyên

truyền trong tu sĩ PGNTK và đồng bào dân tộc Khmer nâng cao nhận thức về

chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta, nhất là vấn đề

lịch sử vùng đất Nam Bộ.

142

Đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam: Các Ban, Viện, Trung ương

GHPGVN liên kết với các viện, trường của hệ phái Nam tông trong khu vực

(Campuchia, Thái Lan, Myanma, Sri Lanka, Lào…) để có chương trình hợp

tác đào tạo qua lại giữa các nước. Qua đó, hàng năm có kế hoạch đào tạo tăng

sinh PGNTK theo nhu cầu thực tiễn mà trong nước chưa có hoặc không có

điều kiện đào tạo, kèm theo cơ chế chính sách hỗ trợ đặc thù trong thời gian

tăng sinh du học.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam làm cầu nối giữa Học viện PGNTK với các

nhà hảo tâm, công ty xí nghiệp, các vị mạnh thường quân sớm đưa Học viện đi

vào hoạt động để tránh những tâm tư trong tăng sinh và Phật tử Khmer.

Tại các kỳ Đại hội Giáo hội Phật giáo Việt Nam xem xét sửa đổi, bổ

sung một số điều trong Hiến chương và Nội quy tăng sự Trung ương

GHPGVN liên quan đến từng hệ phái trong ngôi nhà chung của Giáo hội.

Đồng thời cơ cấu và chuẩn y thành phần nhân sự thuộc các hệ phái vào các

ban, viện Trung ương GHPGVN đặt trách của từng hệ phái hợp lý hơn.

Tiểu kết chương 4

Dưới sự nỗ lực tự vươn lên trong cộng đồng người Khmer và dưới tác

động của chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước và được cụ thể hóa

bằng các chương trình, dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm

nghèo bền vững, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển cố kết cộng đồng tộc người

thiểu số Việt Nam nói chung, vùng TNB nói riêng có đời sống vật chất và tinh

thần của đồng bào được cải thiện và nâng cao rõ rệt. Tuy nhiên, sự vươn lên của

đồng bào ở các địa phương vùng đồng bào Khmer không đồng đều, tỷ lệ hộ

nghèo còn cao, trình độ dân trí thấp; Vì thế, cần quan tâm nhiều hơn trong việc

xây dựng hệ thống chính trị trong vùng có đông đồng bào Khmer.

Bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa làm cơ sở, là một giải pháp

trực tiếp tác động đến việc phát huy những giá trị văn hóa Khmer gắn với

143

PGNTK khu vực TNB trong giai đoạn hiện nay. Bảo tồn các giá trị văn hóa

tinh thần của đồng bào dân tộc Khmer khu vực TNB để đáp ứng yêu cầu, mục

tiêu phát triển của đời sống xã hội góp phần cũng cố khối đại đoàn kết dân tộc;

Bên cạnh đó, nền giáo dục là những mục tiêu tiên phong đi đầu và phải chuyển

biến để thích nghi với cuộc sống. Giáo dục Phật giáo có thể ổn định hướng phát

triển cho một nền giáo dục nhân bản và toàn diện. Vì vậy, giáo dục Phật giáo nói

chung, giáo dục Phật giáo Nam tông nói riêng thời kỳ hội nhập quốc tế là vấn đề

cần được quan tâm để cải tiến kịp thời theo xu thế hội nhập.

Để thực hiện tốt chính sách bình đẳng, đoàn kết, phát huy nguồn nhân

lực, tương trợ nhau cùng phát triển trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam;

chống kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc. Tập trung phát triển kinh tế, chăm lo

đời sống vật chất và tinh thần; xóa đói giảm nghèo bền vững, nâng cao trình

độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, tiếng nói, chữ viết và truyền

thống của các dân tộc và đẩy mạnh việc dạy và học tiếng dân tộc, trong thời

gian tới cần tiếp tục nghiên cứu thực hiện thêm một số giải pháp đồng bộ và

quyết sách kịp thời đối với các dân tộc thiểu số nói chung, vùng đồng bào

Khmer nói riêng nhất là chính sách nhằm phát huy vai trò của chức sắc, tu sĩ

PGNTK để hỗ trợ việc tuyên truyền, triển khai thực hiện chủ trương, chính

sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước nhằm thúc đẩy sự phát triển, bền

vững trong cộng đồng người Khmer.

144

KẾT LUẬN

Trong xã hội hiện đại, do bị chi phối bởi nhiều yếu tố, đặc biệt sự phát

triển của khoa học công nghệ, thông tin, do đó sự ảnh hưởng của tôn giáo nói

chung, PGNTK nói riêng đối với đồng bào dân tộc Khmer sẽ có sự thay đổi.

Hầu hết đồng bào Khmer theo PGNT, hiện có trên 1 triệu Phật tử

Khmer, chiếm tỷ lệ 87,06% so với dân số Khmer. PGNTK là tôn giáo truyền

thống của đồng bào Khmer, hiện cả nước có 463 chùa, với số lượng chư tăng

dao động hàng năm trên trên dưới 8.000 vị; đã từ lâu hòa quyện vào văn hóa

tộc người và trở thành yếu tố cốt lõi của nền văn hóa dân tộc Khmer đặc sắc

và độc đáo. Đặc biệt, ngôi chùa Khmer chính nơi này được xem là biểu tượng

“hồn cốt” của tộc người Khmer. PGNTK nói chung, tu sĩ PGNTK nói riêng

có vai trò rất quan trọng đối với dân tộc Khmer.

Người Khmer ở Nam Bộ coi PGNT là tôn giáo truyền thống duy nhất

không thể thiếu được trong đời sống tâm linh và trong sinh hoạt đời thường

của họ. Người Khmer ở Nam bộ vốn có mối quan hệ tộc người với người

Khmer ở Campuchia và cộng đồng tín đồ PGNT trong khu vực bởi các yếu tố

đồng tộc, đồng tôn, đồng văn hóa, kinh tế, thương mại...

Phật giáo Nam Tông Khmer ngày càng có vị trí quan trọng vì nó không

chỉ ảnh hưởng đến một bộ phận mà gần như cả cộng đồng này. Trong bối cảnh

ấy, chính sách tôn giáo, dân tộc của Đảng và Nhà nước ta ngày càng trở nên cởi

mở, thông thoáng hơn, tạo điều kiện cho các tôn giáo, trong đó có PGNTK ngày

càng nhập thế, hội nhập sâu vào đời sống xã hội phát huy truyền thống nhập thế

của mình, tích cực góp phần vào việc củng cố bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy

cộng đồng người Khmer phát triển hòa cùng sự phát triển chung của đất nước và

nhân loại.

Thực trạng vai trò của tu sĩ PGNTK và xu hướng tác động đến hoạt động

của tu sĩ PGNTK cho thấy tính chất nguy hiểm trong âm mưu và hoạt động

145

chống phá của các thế lực thù địch. Nếu không nâng cao cảnh giác và chủ

động ngăn chặn, đối phó có hiệu quả với hoạt động chống phá của chúng, sẽ

gây ảnh hưởng nghiêm trọng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì

thế khi giải quyết vấn đề tôn giáo phải vận dụng quan điểm của chủ nghĩa

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo vào việc giải quyết vấn đề tôn

giáo và các nguyên tắc cơ bản như sau:

Cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo, bởi

vì: ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối

với đời sống xã hội không như nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, nhà

tu hành, tín đồ về các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn có sự khác biệt. Do

đó, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối

với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo.

Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với

quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, điều đó nói lên rằng: muốn

thay đổi ý thức xã hội, trước hết cần phải thay đổi bản thân tồn tại xã hội;

muốn xóa bỏ ảo tưởng nảy sinh trong tư tưởng con người, phải xóa bỏ nguồn

gốc sinh ra ảo tưởng ấy. Đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong

tôn giáo là gián tiếp đấu tranh với cái thế giới đang cần có ảo tưởng. Điều

cần thiết trước hết phải xác lập được một thế giới hiện thực không có áp

bức, bất công, nghèo đói và thất học... cùng những tệ nạn nảy sinh trong xã

hội. Chỉ có thông qua quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới

nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và trí tuệ cho con người thì mới

có khả năng gạt bỏ dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời

sống xã hội. Tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tính ngưỡng, tôn giáo và

không tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân. Các tôn giáo hoạt động trong

khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật. Chính sách tôn trọng và

bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng.

146

Cần phân biệt hai mặt nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín

ngưỡng tôn giáo. Vì có sự phân biệt được hai mặt đó mới tránh khỏi khuynh

hướng tả hoặc hữu trong quá trình quản lý, ứng xử với những vấn đề nảy sinh

từ tín ngưỡng, tôn giáo. Nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần

chính đáng của đồng bào có đạo sẽ còn tồn tại lâu dài, phải được tôn trọng và

bảo đảm. Mọi biểu hiện vi phạm quyền ấy là trái với tư tưởng của chủ nghĩa

Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo.

Việc nghiên cứu vai trò của tu sĩ PGNTK và đề xuất các giải pháp

nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của

PGNTK nói chung, của tu sĩ Khmer nói riêng trong quá trình xây dựng đời

sống xã hội của người Khmer ở TNB là việc làm cần thiết nhưng do đồng

bào Khmer ở Nam Bộ gắn liền với một tôn giáo nên khi thực hiện chính

sách đối với người Khmer thì phải giải quyết vấn đề PGNTK./.

147

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC

CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

I. Bài viết đăng trong Tạp chí quốc tế (mã ISSN 2570- 9542)

1. Lý Hùng (2019), Khmer Theravada Buddhism in Viet Nam on the Way

of the Developmet and Intrernational Integration, Anti- Corruption &

International cooperation, vol 2,02/2019, p. 51-58.

II. Bài viết đăng trong sách chuyên khảo (mã ISBN)

1. Lý Hùng - Bạch Thanh Sang (2017), Phát huy vai của Hội Đoàn kết

Sư sãi yêu nước trong Phật giáo Nam tông Khmer vùng Tây Nam Bộ trên con

đường hội nhập và phát triển hiện nay đăng trong sách: Phật giáo Nam tông

Khmer đồng hành cùng dân tộc, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, Hồ Chí Minh,

tr. 372 - 392.

2. Lý Hùng - Bạch Thanh Sang (2018), Phật giáo và tinh thần bất bạo

động (Trường hợp Phật giáo Nam tông Khmer ở Nam Bộ” đăng trong sách:

Triết lý nhân sinh của người dân Nam Bộ, Việt Nam - Phần 1: Văn hóa nhận

thức và Tôn giáo - Tín ngưỡng, Nxb. Đại học Cần Thơ, Cần Thơ, tr. 272 - 279.

III. Bài viết đăng các tạp chí chuyên ngành xuất bản (mã ISSN)

1. Lý Hùng (2019), “Những đóng góp của Phật giáo Nam tông Khmer

ở Nam Bộ trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ”, số 07

(187), Tạp chí Nguyên cứu Tôn giáo, Hà Nội.

2. Lý Hùng (2019), “Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước thành phố Cần

Thơ phát huy vai trò là tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”,

Tạp chí Mặt trận, số 194 (tháng 10/2019), Hà Nội.

3. Lý Hùng (2019), “Sự truyền thừa của Phật giáo vào vùng châu thổ

sông Mê kông qua cứ liệu thời Vương quốc Phù Nam và văn hóa óc Eo -

148

Những vấn đề khoa học đặt ra cần nghiên cứu hiện nay” số 10 (83), Tạp chí

Nghiên cứu Ấn Độ và Châu Á, Hà Nội.

4. Lý Hùng (2019), “Vấn đề giáo dục đối với Phật giáo Nam tông

Khmer trong bối cảnh hội nhập quốc tế, số 10 (158), Tạp chí Công tác Tôn

giáo, Hà Nội.

VI. Bài viết tham gia hội thảo khoa học

1. Lý Hùng (2018), Tính nhập thế của Phật giáo Nam tông Khmer ở Nam

Bộ - Việt Nam từ thế kỷ thứ XVIII đến nay” đăng trong Kỷ yếu hội thảo “Việt

Nam - Thái Lan: Đối thoại Văn hóa vùng” do Trường Đại học Khoa học xã

hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh tổ chức (14/09/2018), Hồ Chí Minh,

tr. 153 -166;

2. Lý Hùng (2018), Vấn đề giáo dục của Phật giáo Nam tông Khmer

trong bối cảnh hội nhập quốc tế in trong Kỷ yếu Hội Nghị chuyên đề Phật

giáo Nam tông Khmer lần thứ VIII do Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức

(19/20/10/2018), tại tỉnh Cà Mau.

149

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phan An (1985), "Nghiên cứu về người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu

Long", Tạp chí Dân tộc học, (3).

2. Phan An (2009), Dân tộc Khmer Nam bộ, NXB Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

3. Phạm Minh Anh (2016), "Lý thuyết xã hội trong nghiên cứu tôn giáo",

Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (6), tr.112-118.

4. Ban Bí Thư (2018), Chỉ thị số 19-CT/TW ngày 10/01/2018 của Ban Bí

thư Trung ương Đảng (khóa XII) về tăng cường công tác ở vùng

đồng bào dân tộc Khơ - me trong tình hình mới, Hà Nội.

5. Ban Cán sự Đảng Ủy ban Dân tộc (2017), Báo cáo số 108, Tổng kết 25

năm thực hiện Chỉ thị 68-CT/TW, ngày 18/4/1991 của Ban Bí thư

Trung ương Đảng (khóa VI) về công tác ở vùng đồng bào dân tộc

Khmer, Hà Nội.

6. Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ (2009), Báo cáo số 03-BC/BCĐTNB ngày

06/02 về Phật giáo Nam tông Khmer và Hội Đoàn kết sư sãi yêu

nước, Cần Thơ.

7. Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ (2016), Báo cáo kinh tế - xã hội, giai đoạn

2011-2015, Cần Thơ.

8. Ban Dân vận Trung ương - Cơ quan Thường trú tại thành phố Hồ Chí Minh

(2013), Báo cáo thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội Đoàn kết Sư

sãi Yêu nước trong Phật giáo Nam tông Khmer, Hồ Chí Minh.

9. Ban Dân vận Trung ương - Cơ quan Thường trú tại thành phố Hồ Chí

Minh (2014), Báo cáo kết quả tọa đàm về “Tổ chức và hoạt động

của Hội Đoàn kết Sư sãi Yêu nước trong Phật giáo Nam tông

Khmer - Thực trạng và giải pháp”, Hồ Chí Minh.

10. Ban Dân Vận Trung ương (2006), Báo cáo số 03 ngày 11/10/2006 của

Ban Dân vận Trung ương “Tổng kết việc tổ chức thực hiện Chỉ thị

150

68-CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khóa 6) về công tác ở

vùng đồng bào dân tộc Khmer”, Hà Nội.

11. Ban Dân vận Tỉnh ủy Trà Vinh (2013), Báo cáo thực trạng, tổ chức hoạt,

động của Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước trong Phật giáo Nam tông

Khmer, Trà Vinh.

12. Ban Dân vận Tỉnh ủy Sóc Trăng (2013), Báo cáo thực trạng, tổ chức

hoạt, động của Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước trong Phật giáo Nam

tông Khmer, Sóc Trăng.

13. Ban Dân vận Thành ủy Cần Thơ (2013), Báo cáo thực trạng, tổ chức

hoạt, động của Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước trong Phật giáo Nam

tông Khmer, Cần Thơ.

14. Ban Dân vận Trung ương (2014), Tài liệu Tọa đàm về Tổ chức và hoạt

động của Hội Đoàn kết Sư sãi Yêu nước trong Phật giáo Nam tông

Khmer - Thực trạng và giải pháp, Cần Thơ.

15. Ban Dân vận Trung ương (2014), Tài liệu Tọa đàm về “Tổ chức và hoạt

động của Hội Đoàn kết Sư sãi Yêu nước trong Phật giáo Nam tồng

Khmer - Thực trạng và giải pháp”, Cần Thơ.

16. Ban Tôn giáo Chính phủ (2006), Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt

Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Ban Tôn giáo (Sở Nội vụ) thành phố Cần Thơ (2013), Báo cáo tình hình

Phật giáo Nam tông Khmer thành phố Cần Thơ, Cần Thơ.

18. Ban Tôn giáo (Sở Nội vụ) tỉnh An Giang (2013), Báo cáo tình hình Phật

giáo tỉnh An Giang, An Giang.

19. Ban Tôn giáo (Sở Nội vụ) tỉnh Bạc Liêu (2013), Báo cáo tình hình Phật

giáo Nam tông Khmer tỉnh Bạc Liêu, Bạc Liêu.

20. Ban Tôn giáo (Sở Nội vụ) tỉnh Cà Mau (2013), Báo cáo tình hình Phật

giáo Nam tông Khmer tỉnh Cà Mau, Cà Mau.

21. Ban Tôn giáo (Sở Nội vụ) tỉnh Hậu Giang (2013), Báo cáo tình hình Phật

giáo Nam tông Khmer tỉnh Hậu Giang, Hậu Giang.

151

22. Ban Tôn giáo (Sở Nội vụ) tỉnh Sóc Trăng (2013), Báo cáo số 101/BC-SNV

ngày 18/11/2013 ề tình hình Phật giáo Nam tông Khmer tỉnh Sóc

Trăng, Sóc Trăng.

23. Ban Tôn giáo (Sở Nội vụ) tỉnh Trà Vinh (2013), Báo cáo tình hình Phật

giáo Nam tông Khmer tỉnh Trà Vinh, Trà Vinh.

24. Ban Tôn giáo (Sở Nội vụ) tỉnh Vĩnh Long (2013), Báo cáo tình hình Phật

giáo Nam tông Khmer tỉnh Vĩnh Long, Vĩnh Long.

25. Bộ Chính trị (1991), Chỉ thị 68/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng

(Khóa 6) về công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khơ-me, Hà Nội.

26. Bộ Chính trị (1998), Nghị quyết Trung ương 5 về xây dựng và phát triển

nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Hà Nội.

27. Bộ Chính trị (2003), Nghị quyết 25- NQ/TW của Ban Chấp hành Trung

ương (khóa IX) về công tác tôn giáo, Hà Nội.

28. Bộ Chính trị (2003), Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 20/01/2003 về

“Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và

bảo đảm an ninh - quốc phòng vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời

kỳ 2001-2010”, Hà Nội.

29. Bộ Chính trị (2012), Kết luận số 28-KL/TW ngày 14/8/2012 về “phương

hướng, nhiệm vụ, giải pháp kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh -

quốc phòng vùng Đồng bằng sông Cửu Long, thời kỳ 2011-2020”,

Hà Nội.

30. Bộ Công an (2014), Báo cáo số 486/BC-BCA - V28 ngày 23/9 “Báo cáo

tình hình, kết quả công tác phát huy vai trò người có uy tín trong

phong trào Toàn dân bảo vệ Tổ quốc khu vực Tây Nam Bộ giai

đoạn 2008 - 2014, Hà Nội.

31. Nguyễn Khắc Cảnh (2000), Đôi nét về đặc điểm phân bố dân cư và hình

thái cư trú của người Khmer Sóc Trăng, Tài liệu hội thảo khoa học

lịch sử hình thành và phát triển tỉnh Sóc Trăng trước năm 1945.

152

32. Nguyễn Khắc Cảnh (2000), Sự hình thành cộng đồng Khmer vùng Đồng

bằng sông Cửu Long, (Văn hóa Nam bộ trong không gian xã hội

Đông Nam Á), NXB Đại học Quốc gia - Hồ Chí Minh.

33. Nguyễn Khắc Cảnh (2000), Các loại hình phum, sóc của người Khmer

đồng bằng sông Cửu Long, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Nguyễn Khắc Cảnh (2014), "Yếu tố văn hóa Phật giáo trong cơ chế quản

lý xã hội truyền thống phum sóc của Khmer ở Nam Bộ", Tạp chí

Nghiên cứu Tôn giáo, (05), tr.53 -60.

35. Nguyễn Mạnh Cường, Nguyễn Minh Ngọc (2004), Tôn giáo - Tín

ngưỡng của các cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long, NXB

Phương Đông, Hà Nội.

36. Nguyễn Mạnh Cường (2008), Phật giáo Khơ Me Nam bộ (Những vấn đề

nhìn lại), NXB Tôn giáo, Hà Nội.

37. Nguyễn Mạnh Cường (2008), Vài nét về người Khmer Nam bộ, NXB

Khoa học xã hội, Hà Nội.

38. Nguyễn Mạnh Cường (2008), Phật giáo Khmer Nam bộ (những vấn đề

nhìn lại), NXB Tôn giáo, Hà Nội.

39. Nguyễn Đức Dũng, Danh Lắm (2013), "Phật giáo Nam tông Khmer tỉnh

Kiên Giang và những vấn đề đáng quan tâm", Tạp chí nghiên cứu Ấn

Độ và Châu Á, (4).

40. Nguyễn Tiến Dũng (2014), Phật giáo Nam tông với đời sống tinh thần

của người Khmer Nam bộ trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, Đề

tài nghiên cứu khoa học.

41. Nguyễn Hồng Dương (2015), Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà

nước Việt Nam về tôn giáo, NXB Khoa học xã hôi, Hà Nội.

42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Hoàng Minh Đô (Chủ nhiệm) (2014), Chính sách đối với tổ chức, hội đoàn,

chức sắc, nhà tu hành, cơ sở thờ tự của Phật giáo Nam tông Khmer

vùng Tây Nam Bộ, Kỷ yếu hội thảo khoa học với đề tài nhánh.

153

44. Nguyễn Đại Đồng (2014), "Tính chất và đặc điểm của Phật giáo Việt

Nam trong kháng chiến chống Pháp", Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo,

(09), tr.77-91.

45. Mạc Đường (1981), Quá trình phát triển dân cư và dân tộc ở Đồng bằng

sông Cửu Long từ Thế kỷ thứ XV đến thế kỷ thứ XIX, Hà Nội.

46. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (1981), Kỷ yếu Hội nghị Đại biểu thống

nhất Phật giáo Việt Nam, NXB Tôn giáo, Hà Nội.

47. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2013), Hiến chương Giáo hội Phật giáo

Việt Nam, NXB Tôn giáo, Hà Nội.

48. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2013), Hiến chương Giáo hội Phật giáo

Việt Nam, NXB Tôn giáo, Hà Nội.

49. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2014), Tài liệu Hội nghị Chuyên đề Phật

giáo Nam tông Khmer lần thứ VI, An Giang.

50. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2016), Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Phật giáo

Nam tông Khmer tính kế thừa, thành tựu và phát triển, Kiên Giang.

51. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2016), Tài liệu Hội nghị Chuyên đề Phật

giáo Nam tông Khmer lần thứ VII, Hậu Giang.

52. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2016), Kỷ yếu Đại hội Đại biểu Phật giáo

toàn quốc, Hà Nội.

53. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2018), Kỷ yếu Đại hội Đại biểu Phật giáo

toàn quốc, Hà Nội.

54. Phạm Thị Phương Hạnh (2012), Văn hóa Khmer Nam bộ - Nét đẹp trong

bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

55. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Chính sách đối với tổ

chức, hội đoàn, chức sắc, nhà tu hành, cơ sở thờ tự của Phật giáo

Nam tông Khmer vùng Tây Nam Bộ, Kỷ yếu Đề tài nhánh, Hà Nội.

56. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Chính sách cán bộ cốt

cán, phát triển nguồn nhân lực, tạo việc làm và đảm bảo an sinh xã

154

hội đối với đồng bào Khmer vùng Tây Nam bộ, Kỷ yếu hội thảo

khoa học Đề án tổng thể Tây Nam bộ, Hồ Chí Minh.

57. Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh Kiên Giang (2016), Báo cáo tổng kết

công tác hoạt động năm 2015 và phương hướng hoạt động năm

2016, Kiên Giang.

58. Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh ủy Vĩnh Long (2015), Văn kiện Đại

hội Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh Vĩnh Long, lần thứ II, nhiệm

kỳ 2014 -2019, Vĩnh Long.

59. Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh Hậu Giang (2017), Báo cáo tổng kết

hoạt động Phật sự - Xã hội cuối năm 2016 và phương hướng công

tác nhiệm vụ Phật sự sáu tháng đầu năm 2017, Hậu Giang.

60. Đỗ Quang Hưng (2003), "Những biểu hiện mới của vấn đề tôn giáo - dân

tộc trong tình hình hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (02).

61. Đỗ Quang Hưng (2016), Sự kiện tôn giáo, NXB Chính trị quốc gia - Sự

thật, Hà Nội.

62. Lê Hương (1969), Người Việt gốc Miên, NXB Sài Gòn.

63. Nguyễn Mạnh Hưởng (2003), "Tăng cường đoàn kết dân tộc - Nội dung

cốt lõi của công tác tôn giáo hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu Tôn

giáo, (03), tr.03-07.

64. Tịnh Không (Thích Giác Thiện dịch), Làm thế nào để cứu vãn phong hóa

xã hội, NXB Phương Đông, Hà Nội.

65. Trần Hồng Liên (2000), Đạo Phật trong cộng đồng người Việt ở Nam bộ -

Việt Nam (Từ thế kỷ XVII đến 1975), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

66. Trần Hồng Liên (2014), "Sự chuyển đổi tôn giáo trong người Khmer ở

Trà Vinh hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (05), tr.57 -52.

67. Nguyễn Phú Lợi (2018), “Một số lý thuyết nghiên cứu tôn giáo đương

đại”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, (02).

68. Huỳnh Lứa (Chủ biên) (1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, NXB

Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.

155

69. Lê Quốc Lý (2017), Chính sách đối với Phật giáo Nam tông Khmer và

đồng bào Khmer vùng Tây Nam Bộ, NXB Chính trị quốc gia - Sự

thật, Hà Nội.

70. Danh Nâng (2014), Phong tục đi tu trong văn hóa Khmer (Trường hợp

tỉnh Kiên Giang), Luận văn thạc sĩ Văn hóa, Trường Đại học Trà

Vinh, Trà Vinh.

71. Phạm Minh Nga (2016), "Lý thuyết xã hội học trong nghiên cứu tôn

giáo", Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (6).

72. Nguyễn Xuân Nghĩa (2003), "Phật giáo tiểu thừa Khmer ở vùng nông

thôn Đồng bằng sông Cửu Long: chức năng xã hội truyền thống và

động thái của xã hội", Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (5).

73. Nguyễn Xuân Nghĩa (2003), "Tôn giáo trong thời hiện đại: Thế tục hóa

hay phi thế tục hóa", Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, (2), tr.21-30.

74. Nguyễn Xuân Nghĩa (2004), "Phật giáo tiểu thừa Khmer ở vùng nông

thôn đồng bằng sông Cửu Long: chức năng xã hội truyền thống và

động thái của xã hội", Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (11).

75. Nguyễn Xuân Nghĩa (2010), "Tâm thức tôn giáo và lý thuyết thế tục hóa ở

Châu á và Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, (02), tr.03-10.

76. Dương Nhơn (2008), "Phật giáo Nam tông Khmer trong bối cảnh thống

nhất và hội nhập của Phật giáo Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu Tôn

giáo, (5).

77. Nguyễn Hùng Khu (2008), Hôn nhân và gia đình người Khmer Nam Bộ,

NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.

78. Pascal Bourdeaux (Cù Thị Dung lược dịch) (2017), Tài liệu về một giáo

phận của Viện Phật giáo ở Nam Kỳ, tại trang http://luutruvn.c

om/index.php/2015/10/17/tai-lieu-ve-mot-giao-phan-cua-vien-phat-

giao-o-nam-ky/, [truy cập ngày 15/9/2017].

79. Thích Hiển Pháp (2001), "Phật giáo Nam Bộ", Tạp chí Nghiên cứu Tôn

giáo, (6), tr.22-24.

156

80. Huỳnh Thanh Quang (2011), Giá trị văn hóa Khmer vùng Đồng bằng

sông Cửu long, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

81. Quốc hội (2017), Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, NXB Chính trị quốc gia -

Sự thật, Hà Nội

82. Nguyễn Thuận Quý (2015), Quan hệ tộc người của người Khmer ở hai bên

biên giới Việt Nam - Campuchia (khu vực Tây Nam Bộ), Luận án tiến

sĩ Chuyên ngành Nhân học, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.

83. Bình An Son (Biên dịch) (2006), Phật pháp vấn đáp, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.

84. Lê Thanh Sơn (1997), Ngôi chùa trong đời sống văn hóa của người

Khmer tỉnh Sóc Trăng, Luận văn thạc sĩ Văn hóa, Học viện Chính

trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

85. Lê Thanh Sơn (1997), Ngôi chùa trong đời sống văn hóa của người

Khmer tỉnh Sóc Trăng, Luận văn thạc sĩ Văn hóa, Học viện Chính

trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

86. Nguyễn Hoàng Sơn (2007), Quá trình thực hiện chính sách xóa đói giảm

nghèo của Đảng và Nhà nước trong cộng đồng người Khmer tại

đồng bằng sông Cửu Long 1992-2002, Luận án tiến sĩ, Học viện

Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ, thành phố Hồ Chí Minh.

87. Nguyễn Nghị Thanh (2012), "Vài nét về biến động của Phật giáo Nam

tông Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long", Tạp chí Nghiên cứu Tôn

giáo, (08), tr.35-40.

88. Phan Thuận (2014), "Vai trò của Phật giáo Nam tông Khmer đối với sự

ổn định và phát triển xã hội ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay",

Tạp chí Khoa học, (33), tr.56-62.

89. Đinh Lê Thư (Chủ biên) (2005), Vấn đề giáo dục vùng đồng bào Khmer

đồng bằng sông Cửu Long, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

90. Nguyễn Xuân Trung (2015), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn

giáo - Giá trị lý luận và thực tiễn, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.

157

91. Nguyễn Quốc Tuấn (2011), "Trở lại mối quan hệ giữa tôn giáo/văn hóa

và chính trị", Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (02), tr.17-26.

92. Nguyễn Quốc Tuấn (2014), “Tiếp cận hệ thống về thực thể tôn giáo: Một

cách nhìn khác về tôn giáo”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, (3).

93. Lương Văn Úc (Chủ biên), (2008), Giáo trình xã hội học, NXB Đại học

kinh tế quốc dân, Hà Nội.

94. Danh Út (2014), Biến đổi trong đời sống văn hóa của tu sĩ Phật giáo Nam

tông Khmer tỉnh Kiên Giang (từ sau năm 1986 đến nay), Luận văn

thạc sĩ, Trường Đại học Trà Vinh.

95. Ủy ban Dân tộc và Miền núi (2000), Vai trò của chùa đối với đời sống văn

hóa của đồng bào Khmer Nam bộ, Đề tài cấp bộ do Cơ quan đặc trách

công tác Dân tộc ở Nam bộ thực hiện năm 1999-2000, Cần Thơ.

96. Ủy ban Dân tộc và Miền núi (2001), Truyền thống đoàn kết đấu tranh cách

mạng của đồng bào Khmer Nam bộ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng

sản Việt nam (1930-1975)”, Đề tài cấp Bộ do Cơ quan đặc trách công

tác Dân tộc ở Nam bộ thực hiện năm 2000-2001, Cần Thơ.

97. Ủy ban Dân tộc và Miền Núi (2006), Điều tra cơ bản tình hình phát

triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân

tộc Khmer Nam Bộ năm 2006, Đề tài cấp bộ do Cơ quan đặc trách

công tác Dân tộc ở Nam bộ, Cần Thơ.

98. Uỷ ban nhân dân tỉnh Kiên Giang (2013), Báo cáo số 196/BC-UBND

ngày 29/11 tình hình Phật giáo tỉnh Kiên Giang, Kiên Giang.

99. Viện Khoa học Xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh thuộc Viện Khoa học

xã hội Việt Nam (1991), Vấn đề dân tộc ở Đồng bằng sông Cửu

Long, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

100. Viện Khoa học Xã hội vùng Nam bộ thuộc Viện Hàn Lâm Khoa học xã

hội (2017), Những vấn đề dân tộc ở vùng Tây Nam bộ trong bối

cảnh toàn cầu hóa, hội nhập khu vực và quốc tế, Kỷ yếu hội thảo

khoa học, Cần Thơ.

158

101. Viện Nghiên cứu Phật học, Ban giới luật (1989), Luật xuất gia, in lần thứ

1 tại xưởng in Quân Đội, Campuchia.

102. Viện Nghiên cứu tôn giáo, Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ, Sở Nội vụ thành

phố Cần Thơ (2012), Biến động tín ngưỡng, tôn giáo trong quá

trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa (nghiên cứu trường hợp đồng

bằng sông Cửu Long), Cần Thơ.

103. Viện Nghiên cứu Tôn giáo thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam -

Học viện Phật giáo Nam tông Khmer thuộc Giáo hội Phật giáo Việt

Nam (2014), Phật giáo Nam tông Khmer đồng hành cùng dân tộc,

Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Kiên Giang.

104. Viện Triết thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (2016), Tôn

giáo và sự phát triển bền vững khu vực Tây Nam bộ- Những vấn đề

lý luận và thực tiễn, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Cần Thơ.

105. Viện Triết thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (2018), Tôn

giáo Tây Nam Bộ một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Thông

tin và truyền thông, Hà Nội.

106. Viện Triết thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (2017), Quan

điểm và giải pháp giải quyết các vấn đề tôn giáo vì mục tiêu phát

triển bền vững Tây Nam bộ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2035,

Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Đồng Tháp.

107. Viện Văn hóa (2016), Người Khmer Cửu Long, Nxb Sở Văn hóa và

Thông tin Cửu Long.

108. Thạch Voi (1988), Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam bộ, NXB

Tổng hợp, Hậu Giang.

109. Vụ Văn hoá dân tộc (2004), Xây dựng đời sống văn hoá vùng dân tộc

Khmer Nam Bộ, Kỷ yếu hội thảo, Hà Nội.

110. Trần Thị Kim Xuyến (2003), Nhập môn Xã hội học, Nxb Thống Kê, Hà Nội.

159

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

Bảng 1: Số liệu về dân tộc Khmer Nam Bộ

Dân số dân tộc Khmer

TT

Tỉnh, thành

Dân số chung

Số lượng

Tỷ lệ % so với dân số chung

01

Sóc Trăng

1.292.853

397.014

30,70 %

02

Trà Vinh

1.007.743

318.288

31,58 %

03

Kiên Giang

1.707.050

213.310

12,49 %

04

An Giang

2.144.772

91.018

4,24 %

05

Bạc Liêu

863.910

66.176

7,66 %

06

Cà Mau

1.351.727

40.012

2,96 %

07

Hậu Giang

781.459

27.181

3,47 %

08

Vĩnh Long

1.031.994

24.089

2,33 %

09

Cần Thơ

1.188.314

21.411

1,80 %

10

Long An

1.436.066

1.195

0,08 %

11

Tiền Giang

1.707.432

744

0,04 %

12

Đồng Tháp

1.678.000

675

0,04 %

13

Bến Tre

1.255.946

578

0,04 %

Tổng cộng

17.447.266

1.201.691

6,31 %

* Ở thành phố Hồ Chí Minh và Đông Nam Bộ có:

TT

Tỉnh, thành

Dân số

01

Bình Phước

12.036

02

Hồ Chí Minh

5.000

03

Tây Ninh

4.660

04

Bình Dương

3.943

05

Đồng Nai

2.635

06

Bà Rịa - Vũng Tàu

1.279

Tổng cộng

29.553

* Ở Tây Nam Bộ có:

160

Bảng 2. Danh bạ và số liệu ngôi chùa Phật giáo Nam tông Khmer

ល.រ. STT

TÊN CHÙA

ឈ្មោះវត្ត

អាសយដ្ឋាន

ĐỊA CHỈ

ឆ្នាំកសាង NĂM THÀNH LẬP

TỈNH TRÀ VINH

ខេត្តត្រាវិញ(ព្រះត្រពាំង)

1

613

2

Chùa Kos Keo Sế Rây Chùa Somrong Ek

phường 8, thành phố Trà Vinh phường 8, Tp.TV

642

3

Chùa Kompong

khóm 2, P. 1, Tp.TV

642

4

Chùa Âng

phường 8, Tp.TV

990

5

Chùa Sras Nẹt

phường 8, Tp.TV

1632

6

Chùa Khươne

Khóm 1, P. 7, Tp.TV

1348

7

Chùa Som Bua

phường 8, Tp.TV

1421

8

Chùa Ktưng

Khóm 7, P. 7, Tp.TV

1485

9

Chùa ThmoTol

Phường 9, Tp.TV

1519

10

phường 9, Tp.TV

1642

11

Khóm 8, P. 6, Tp.TV

1733

វត្តកោះកែវសិរី (កោះ) វត្តសំរោងឯក វត្តពោធិសាលរាជ (កំពង់) វត្តអង្គររាជបូរី (អង្គ) វត្តសុវណ្ណមុនីស្រះស្រង់ (ស្រះនាគ) វត្តចម្បកមាស (ខឿន) វត្តសម្បូណ៌សំរិទ្ធិស័ក (សម្បួរ) វត្តនាគវនារាម (ខ្ទឹង) វត្តសិលាទ្រ (ថ្មទល់) វត្តចម្ប៉ាអង្គរជ័យ (ចំការ) វត្តនិគ្រោធកំពង់ក្សាន្ត

ទីក្រុង ត្រាវិញ ទីក្រុង ត្រាវិញ ទីក្រុង ត្រាវិញ ទីក្រុង ត្រាវិញ ទីក្រុង ត្រាវិញ ទីក្រុង ត្រាវិញ ទីក្រុង ត្រាវិញ ទីក្រុង ត្រាវិញ ទីក្រុង ត្រាវិញ ទីក្រុង ត្រាវិញ ទីក្រុង ត្រាវិញ

12

373

ស្រុកកំពង់ស្ពាន

វត្តសម្បូរង្សី (សម្បួរ)

13

1097

ស្រុកកំពង់ស្ពាន

វត្តភិរម្យរាជ (ភិរម្យសុខ)

Chùa Chom Ka Chùa KompongKsan Chùa SomBuaRăngsây Chùa Phi Rum Sóc

14

Chùa Kandal

1317

ស្រុកកំពង់ស្ពាន

វត្តមជ្ឈិមារាម (កណ្តាល)

ấp Trà Kháo, Hòa Ân, H. Cầu Kè Phi Rùm Sóc, Châu Điền, CK Trà Kháo, Hòa Ân, CK

15

Bà My, Hòa Ân, CK

1364

ំរត្នកេសរបុប្ផាចម្បាមាស (សំណឹងធំ)

16

Chùa Somnâng Thum Chùa Tà Thiêu

Chùa Phật, TT.Cầu Kè

1367

17

1525

18

1576

ស្រុកកំពង់ស្ពាន ស្រុកកំពង់ស្ពាន ស្រុកកំពង់ស្ពាន ស្រុកកំពង់ស្ពាន

វត្តបុទុមក្រពុ វត្តមហាពោធិវ័ន (តាថៀវ) វត្តវេឡុវ័ន (ឫស្សីស្រុក) វត្តជ្រោយប្រាសាទ (ចុងខ្សាច់)

Chùa Rưsrây Sróc Chùa Chông Ksach

19

Chùa Ô Mịch

1657

ស្រុកកំពង់ស្ពាន

វត្តរតនទីបារាមកោះកែវ (អូរមិច)

20

Chùa Ô Tô Tưng

1667

ស្រុកកំពង់ស្ពាន

វត្តសង្វរថ្មមាស (អូរទទឹង)

21

1680

ស្រុកកំពង់ស្ពាន

វត្តសមោធារាម (កំបាំងបាត់)

Chùa Kombăng Bat

22

Chùa Tà Điêu

1710

ស្រុកកំពង់ស្ពាន

វត្តទេពឧទ្យាន (តាដេវ)

23

Chùa Tà Ôt

1736

ស្រុកកំពង់ស្ពាន

វត្តសាលវ័ន (តាអោក)

24

Chùa Pô Thum

1756

ស្រុកកំពង់ស្ពាន

វត្តពោធិមានជ័យសិរីឧត្តម (ពោធិ

៍ធំ)

25

Chùa Bat Kroma

1758

ស្រុកកំពង់ស្ពាន

វត្តជោវ័នសង្វាមាស (បាត់ក្រមា)

26

1777

ស្រុកកំពង់ស្ពាន

វត្តព្រលានមានជ័យ (ចុងព្រលាន)

27

1818

28

Chùa Chông ProLen Chùa Kompong Spen Chùa Mê Păng

1851

វត្តបទុមសាគរ (កំពង់ស្ពាន) វត្តមុនីរង្សី (មេពាំង)

29

Chùa Chông Bưng

1887

ស្រុកកំពង់ស្ពាន ស្រុកកំពង់ស្ពាន ស្រុកកំពង់ស្ពាន

វត្តពោធិ

៍ភិរម្យរង្សី (ចុងបឹង)

30

Chùa Pôthisrây

1903

ស្រុកកំពង់ស្ពាន

វត្តពោធិសិរី (ចុងផោ្ន)

31

Chùa Kinh Xáng

1960

ស្រុកកំពង់ស្ពាន

វត្តមង្គលឧទ្យាន (កិញ្ឆាង)

32

Chùa Ô SomPâu

1968

ស្រុកកំពង់ស្ពាន

វត្តមហាវ័ន (អូរសំពៅ)

33

Chùa Prơm

1972

ស្រុកកំពង់ស្ពាន

វត្តរតនសាគរ (ព្រើម)

34

1565

វត្តកញ្ចោងកំពង់លាវ

ស្រុកកញ្ចោង

Chùa Kompong Leo

ấp Nhì, Phong Phú,CK Đầu Giồng, Tam Ngãi, CK Ô Mịch, Châu Điền, CK Ô Tưng, Châu Điền, CK Ngọc Hồ, Tam Ngãi, CK ấp Ba, Phong Phú, CK Xóm Lớn, Châu Điền, CK Trà Kháo, Hòa Ân, CK Bến Chợ, xã Phong Thạnh, CK ấp Nhì, xã Phong Thạnh, CK Châu Thành A, TT. Cầu Kè ấp Tư, Phong Phú, CK Giồng Dầu, Hòa Ân, CK Chông Nô, Hòa Tân, CK Kinh Xáng, xã Phong Phú, CK Ô Mịch, Châu Điền, CK Ô Rồm, Châu Điền, CK Đại Mong, Phú Cần, huyện Tiểu Cần

35

Chùa Phnom Penh

1655

វត្តកញ្ចោងភំ

36

Chùa Ô Chhuk

1859

ស្រុកកញ្ចោង ស្រុកកញ្ចោង

វត្តបុទុមប្រជុ

្នពេញ (កញ្ចោងផ្សារ) ំនទី (អូរឈូក)

Cây Hẹ, TT. Tiểu Cần Ngãi Hòa, Tập Ngãi, TC

37

Tân Đại, Hiếu Tử, TC

1721

ស្រុកកញ្ចោង

វត្តសាលតិតា្ថរាម (កំពង់រាំង)

38

Ô Đùng, Hiếu Tử, TC

1719

ស្រុកកញ្ចោង

វត្តពោធិវង្សកំពង់ដូង (ផោ្នដូង)

39

1760

40

1775

វត្តព្រះបាទកងចក្រ (កំពង់មាស) វត្តកំពង់ឈូក (ផោ្នសង្រ្កម)

41

1970

្គមុនីសុវណ្ណនទី (ដៃទទឹង)

42

1826

43

1827

ស្រុកកញ្ចោង ស្រុកកញ្ចោង ស្រុកកញ្ចោង ស្រុកកញ្ចោង ស្រុកកញ្ចោង

វត្តសាមគី វត្តសុវណ្ណនិគ្រោធ (ជៃ្រភេ) វត្តអរុណរង្សី (ចាកអាគ្រោង)

Chùa Kompong Răng Chùa Kompong Đung Chùa Kompong Mes Chùa Phnô Krom Chùa Đại Tô Tưng Chùa Chrây Phê Chùa Chac A Krôn

44

Chùa Phnô Pring

1862

ស្រុកកញ្ចោង

វត្តទិព្វមង្គលនិលឧទ្យាន (ផោ្នពី

្រង)

45

Chùa Prek Tung

1873

ស្រុកកញ្ចោង

វត្តសុវណ្ណគន្ធវារីរង្សី (ពែ្រកទុង)

46

1873

ស្រុកកញ្ចោង

វត្តនទីសមន្តា (អូរវែងចាស់)

Tân Trung Giồng, Hiếu Trung, TC Ô Trom, Hiếu Tử, TC ấp Giồng Tranh, xã Tập Ngãi, TC ấp Nhì, Tân Hùng, TC Đại Trường, Phú Cần, TC Cầu Tre 2, Long Thới, TC Sóc Chùa, Tân Hùng, TC Sóc Chàm, Hùng Hòa, TC

47

Sóc Dừa, Tân Hòa, TC

1992

វត្តសឹ

48

Chùa Ô Veng Chás Chùa Ô Veng Thmây Chùa Ô Trao

1993

49

Chùa Konleng Sés

1500

50

Chùa Ích

1541

51

Chùa Ka Ep

1690

ស្រុកកញ្ចោង ស្រុកកញ្ចោង ស្រុកកន្លង់ ស្រុកកន្លង់ ស្រុកកន្លង់

្ទងមានជ័យសិរីឧត្តម (អូរវែងថ្មី) ្គរង្សី (អូរត្រាវ) វត្តសាសនសាមគី វត្តពិសេសារាម (កនែ្លងសេស) វត្តពោធិចុឡាមុនី (ឥដ្ឋ) ្ធស័ក (កែ្អប)

វត្តសង្វារិទិ

52

Chùa Bi Sây

1700

ស្រុកកន្លង់

វត្តពិសីវរារាម (ពិសី)

53

Chùa Knông Sróc

641

ស្រុកកំពង់ធំ

វត្តបិដកត្យារាម (ក្នុងស្រុក)

54

Chùa Banle Chây

1556

ស្រុកកំពង់ធំ

វត្តព្រះពន្លាជ័យ (ពន្លា)

55

Chùa Trốt Lích

1612

56

Chùa Knok

1655

57

Chùa Trốt Cớt

1672

58

1660

59

1673

ស្រុកកំពង់ធំ ស្រុកកំពង់ធំ ស្រុកកំពង់ធំ ស្រុកកំពង់ធំ ស្រុកកំពង់ធំ

វត្តចម្ប៉ាបុរី (ត្រោកលិច) ំឈូក (ក្នក) វត្តក្រពុ វត្តចម្បីសោភ័ណ (ត្រោកកើត) វត្តសីលាជលធី (គគីរ) វត្តកំពង់និគ្រោធ (កំពង់ជ្រៃ)

60

1541

្ធស័ក (ផោ្នកំបុត)

61

Chùa Ko Ki Chùa Kompong Chrây Chùa Phnô Kombut Chùa Kốk

1755

62

Chùa Ruôm Mích

1802

ស្រុកកំពង់ធំ ស្រុកកំពង់ធំ ស្រុកកំពង់ធំ

វត្តគងជ័យរឹងរិទិ វត្តគោករាជសីមារាម (គោក) វត្តបុទុមគង្គា (រួមមិត្រ)

63

Chùa Chông Tọp

1681

ស្រុកកំពង់ធំ

វត្តពោធិវង្សារាម (ចុងទ័ព)

64

1845

ស្រុកកំពង់ធំ

វត្តមហិង្គុទ្យារាម (សំរោងធំ)

65

1872

ស្រុកកំពង់ធំ

ំប្រាសាទ (ខ្សាច់កណ្តាល)

វត្តជុ

66

1894

ស្រុកកំពង់ធំ

វត្តបទុមវង្សកំពង់ថ្ម (ទ័ពថ្ម)

Chùa Somrong Thum Chùa Ksach Candal Chùa Kompong Thmo

67

Chùa Phnô Anđet

1973

68

Chùa Ô Ta Pâu

2014

69

Chùa Ô Ka Đa

2017

ស្រុកកំពង់ធំ ស្រុកកំពង់ធំ ស្រុកកំពង់ធំ

វត្តពោធិទេពចេត្យារាម (ផោ្នអណែ្តត) វត្តសុវណ្ណនទីសិរីឧត្តម (អូរតាពៅ) វត្តជយនទីរតនារាម (អូរក្តារ)

70

Chùa RaKa Chás

1352

ស្រុកផ្នោដាច់

វត្តលាយលក្ខកងចក្រភូមិរាជឥន្រី

្ទជិត (រការចាស់)

71

1439

ស្រុកផ្នោដាច់

វត្តលាយលក្ខកងចកា្តរាម (អំពាំងសាន្ត)

Chùa Ompăng San

72

Chùa ThLốk

1676

ស្រុកផ្នោដាច់

វត្តកងចកា្តរាម (ធ្លក)

Ô Trao, Hiếu Tử, TC ấp B, xã Bình Phú, huyện Càng Long ấp Sóc, Huyền Hội,CL Lưu Tư, Huyền Hội, CL Sóc Chùa, xã Phương Thạnh, CL ấp Qui Nông, xã Hòa Lợi, H. Châu Thành Bình La, Lương Hòa, CT Thanh Trì, TT.Châu Thành, CT Trà Nốc, Song Lộc,CT Hương Phụ, Đa Lộc, Châu Thành Kỳ La, Hòa Thuận, CT Khóm 4, TT. Châu Thành Trì Phong, Hòa Lợi, Châu Thành Nguyệt Hoá, CT Sa Múc, Lương Hòa A, CT Hòa Lạc, Lương Hòa A, CT Phú Mỹ, Mỹ Chánh, Châu Thành Xóm Giữa, xã Hòa Thuận, Châu Thành Ba Se A, Lương Hòa, Châu Thành Giồng Lức, Đa Lộc,CT Bàu Sơn, Đa Lộc, CT Ô Ka Đa, Phước Hảo, Châu Thành ấp Là Ca, Nhị Trường, H. Cầu Ngang Sóc Cụt, Trường Thọ, Cầu Ngang Hòa Lục, Hiệp Hoà, Cầu Ngang

161

73

1512

ស្រុកផ្នោដាច់

វត្តយសមេត្រី (មេរងចាស់)

74

1631

ស្រុកផ្នោដាច់

វត្តគង់បន្ទាយជយារាម (មេរងថី

្ម)

75

1642

ស្រុកផ្នោដាច់

វត្តកំពង់នាវា (កំពង់ទូក)

76

1642

ស្រុកផ្នោដាច់

វត្តលាយលក្ខកងចក្រ (ត្រពាំងវែង)

Chùa MêRongChás Chùa MêRongThMây Chùa KompongTuk Chùa Tropăng Veng

77

Chùa Vel Lac

1650

ស្រុកផ្នោដាច់

វត្តបរមនិមិត្ត (វាលាក់)

78

1654

ស្រុកផ្នោដាច់

វត្តគិរីសុវណ្ណ (ចុងមីសចាស់)

C. ChôngMêSoChás

79

Chùa Ret Mol

1667

80

Chùa Phiêu

1667

វត្តពោធិនាគ (រាជមល្ល) ំ (ភៀវ)

វត្តអង្គរជុ

81

Chùa Teo Chás

1683

្ខណាមហាពោធិស្រះស្រង់ (ទៀវចាស់)

82

Chùa Phnô Răng

Lạc Thạnh A, Thạnh Hoà Sơn, Cầu Ngang Lạc Sơn, Thạnh Hoà Sơn, CN Bình Tân, Hiệp Hoà, Cầu Ngang Bông Veng, Nhị Trường, CN Lạc Hòa, xã Thạnh Hoà Sơn, CN Ba So Cũ, Hiệp Hoà, Cầu Ngang Kim Câu, Kim Hoà, Cầu Ngang Phiếu, Hiệp Hoà, CN Cẩm Hương, Mỹ Hoà, Cầu Ngang Ô Răng, Long Sơn,CN

1683

83

Chùa Pro Hut

1733

84

Chùa Căn Nom

1749

ស្រុកផ្នោដាច់ ស្រុកផ្នោដាច់ ស្រុកផ្នោដាច់ ស្រុកផ្នោដាច់ ស្រុកផ្នោដាច់ ស្រុកផ្នោដាច់

វត្តទកិ វត្តសាគរគិរីកោះកើយ (ផោ្នរាំង) វត្តកងចក្រលាយលក្ខណារាម (ផោ្នប្រហូត) វត្តពោធិសយ្យារាម (កាន់សំ

្ន)

85

Chùa Teo Thmây

1807

ស្រុកផ្នោដាច់

វត្តដំបូកបីជ័យជំនះ (ទៀវថី

្ម)

86

Chùa Đom Bốt Bi

1856

ស្រុកផ្នោដាច់

វត្តពោធិស្រះស្រង់ កំពង់រការថី

្ម (ដំបូកបី)

87

Chùa Kossom

1868

ស្រុកផ្នោដាច់

វត្តមុនីសេ្នហាសុវណា្ណស្រះកែវ (កោះសោម)

Mỹ Cẩm, Mỹ Hoà, CN Căn Nom, Trường Thọ, CN Cần Dưng, Mỹ Hoà, Cầu Ngang Là Ca, Nhị Trường,CN Sóc Chùa, Thuận Hoà, Cầu Ngang

88

1882

ស្រុកផ្នោដាច់

វត្តបុទុមឈូកស (ចុងមីសថី

្ម)

Ba So, Nhị Trường,CN

C. ChôngMêSoThmâ y

89

Chùa Cós Xoài

1890

ស្រុកផ្នោដាច់

Cos Xoài, Trường Thọ, CN

90

1908

91

1966

ស្រុកផ្នោដាច់ ស្រុកផ្នោដាច់

វត្តព្រះពោធិវង្សទ្រង់លក្ខណ៍ផ្នោប្រស ព្កំណប់កោះកែវ (កោះសា្វយ) វត្តជ័យសត្ថារតនឧត្តម (ចេកជ្រំ) វត្តកំពង់មានជ័យសិរីនិគ្រោធ (កំពង់ទទឹង)

Chùa Chêk Chrum C. KompongTôTưng

92

Chùa Chông Phnô

1975

ស្រុកផ្នោដាច់

វត្តមុនីបញ្ញាជ័យសេដ្ឋាសុវណ្ណារាម (ចុងផោ្ន)

93

Chùa Pro Khúp

1872

94

Chùa Thum

ấp Giữa, Kim Hoà, CN Tân Lập, Long Sơn, Cầu Ngang Trà Kim, Thuận Hoà, Cầu Ngang Sóc Ớt, xã Ngũ Lạc, H. Duyên Hải Thốt Lốt, Ngũ Lạc,DH

1542

95

Chùa Chrây Ta Sô

1515

96

Chùa Âng Kôl

1920

ស្រ.មាត់សមុទ្រ ស្រុកមាត់សមុទ្រ ស្រុកមាត់សមុទ្រ ស្រុកមាត់សមុទ្រ

វត្តសតា្ថរីនទី (ប្រខុប) វត្តអរិយធម្មវង្សាភូមិដូនជ័យបាហារី (ធំ) វត្តចន្ទគិរីឧត្តុង្គមានជ័យ (ជ្រៃតាសូរ) វត្តសិរីសាគរ (អងោ្កល)

97

Chùa Trô Lôn

1929

ស្រុកមាត់សមុទ្រ

វត្តទកិ

្ខណាសាគរ (ទ្រលោង)

98

1800

ស្រុកមាត់សមុទ្រ

វត្តពោធិបឹង (ខ្នាចទទឹង)

99

1964

ស្រុកមាត់សមុទ្រ

វត្តបូព៌ាសាគរ (ត្រពាំងឈូក)

Rọ Say, Ngũ Lạc, DH Trà Côn, Long Vĩnh, Duyên Hải Cá Cối, Long Vĩnh, Duyên Hải Bổn Thanh, Ngũ Lạc, Duyên Hải Đình Cũ, Long Khánh, Duyên Hải

100

Ba Sát, Đôn Châu, DH

1450

ស្រុកមាត់សមុទ្រ

វត្តនិគ្រោធារាម (ជ្រៃប្រាសាទ)

Chùa Khnach Tô Tưng Chùa Tropăng Chhuc Chùa Chrây Pra Sat

101

Chùa Sla Pang

1856

ស្រុកមាត់សមុទ្រ

វត្តសុរិន្ទរាជ្យពឹ

្រក្ស (សា្លប៉ាង)

102

1806

ស្រុកមាត់សមុទ្រ

វត្តសុវណ្ណទេពី

្វឯកវិមលា្លរាម (ដំបងពាក់)

Chùa Đom Bon Pac

103

Chùa Tà Rom

1598

ស្រុកមាត់សមុទ្រ

វត្តសតា្ថរាមវ័ន (តារ៉ម)

104

Chùa Chrây Kôk

1694

ស្រុកមាត់សមុទ្រ

វត្តសុវណ្ណពិជ័យ (ជៃ្រគោក)

105

Chùa Bà Giam

1698

106

Chùa Rum Đuôl

1570

107

Chùa Brây Vo

1466

ស្រុកមាត់សមុទ្រ ស្រុកមាត់សមុទ្រ ស្រុកថ្កូវ

វត្តឧត្តមភិរីរាជបូជាមន្ទីរ (បាយ៉ាម) វត្តតាលភិរីឧត្តុង្គមានជ័យសិរីវង្សារាម (រំដួល) ្ល) វត្តលតាវ័ន (ពៃ្រវលិ

162

108

Chùa Chum Nit

1468

109

Chùa Chet Đây

La Bang, Đôn Xuân, Duyên Hải Bà Môn, Đôn Xuân, Duyên Hải Tà Ròm, Đôn Xuân, Duyên Hải Bà Nhì, Đôn Xuân, Duyên Hải Bà Giam, Đôn Xuân, Duyên Hải Lộ Sỏi, Đôn Xuân, DH ấp Sà Vần, Ngọc Biên, H. Trà Cú Tà Niếc, Lưu Nghiệp Anh, TC Cây Da, Tập Sơn, TC

1488

ស្រុកថ្កូវ ស្រុកថ្កូវ

វត្តជំនិតមានជ័យ (ជំនិត) វត្តពោធិចុឡាមណីព្រះចេតិយ (ចេតិយ)

110

1498

111

(Tháp) Chùa Bonray Chás Chùa ThCâu

1557

112

Chùa Xoài Dọt

1698

ស្រុកថ្កូវ ស្រុកថ្កូវ ស្រុកថ្កូវ

វត្តកំពង់ពោធិព្រឹក្ស (បងៃ្រចាស់) វត្តពោធិព្រឹក្ស (ថ្កូវ) វត្តមុនីរង្សីសិរីវរារាម (សា្វយពក)

113

1568

ស្រុកថ្កូវ

វត្តកំពង់ហ្លួង (កំពង់កី

្ត)

Vàm Ray, Hàm Tân, TC Trà Cú, Kim Sơn, TC Xoài Dọt, Lưu Nghiệp Anh, TC ấp Chợ, An Quảng Hữu, TC

114

ấp Chợ, Tân Sơn, TC

1624

ស្រុកថ្កូវ

វត្តពោធិបឹង (បឹង)

115

Cà Săng, Hàm Tân, TC

1645

ស្រុកថ្កូវ

វត្តព្រះឥន្ទឧទ្យាន (បងៃ្រថី

្ម)

Chùa Kompong Luông C. Pôthi Bưng (Leng) Chùa Bonray Thmây

116

Chùa Sleng Chás

1650

ស្រុកថ្កូវ

វត្តសែ្លងមានជ័យ (សែ្លងចាស់)

Bến Chùa, Phước Hưng, TC

117

Trà Kha, Đại An, TC

1635

ស្រុកថ្កូវ

វត្តកេតុបូគម្ពីរសាគរ (ផោ្នសងែ្កចាស់)

C. PhnôSăngKeChás

118

Chùa Bài Chhao

1673

ស្រុកថ្កូវ

វត្តកប្បព្រឹក្ស (បាយឆាវ)

119

Chùa Ba Tục

1674

ស្រុកថ្កូវ

វត្តថ្មគោល (ក្បាលទូក)

120

Chùa Bantay Kro

1838

121

Chùa Phnô Đung

Bải Xào Dơi, Kim Sơn, TC Trà Sất C, Long Hiệp, TC Trà Tro, Hàm Giang, TC Cây Da, xã Đại An, TC

1678

122

Chùa Tà Sất

1698

123

Chùa Ba Cụm

1698

ស្រុកថ្កូវ ស្រុកថ្កូវ ស្រុកថ្កូវ ស្រុកថ្កូវ

ំពល (បន្ទាយក្រ) វត្តបន្ទាយប្រជុ វត្តវិភាគរាជដួងកែវ (ផោ្នដូង) វត្តសាលទិភកា្ករាម (តាសឹក) វត្តមជ្ឈិមសាល (ឫស្សីម្គុម្ព)

124

1699

ស្រុកថ្កូវ

វត្តសត្ថារាម (កំពង់សាលា)

125

1711

ស្រុកថ្កូវ

វត្តគោបាលនិគ្រោធ (ផោ្នព្រាល)

Chùa Kompong SaLa Chùa Tà Phnô Prel

126

Chùa Ba Trạch

1732

ស្រុកថ្កូវ

វត្តពោធិភិរម្យឧត្តមសួសី

្ត (បាត្រាច)

127

Chùa Trô Prás Bat

1698

ស្រុកថ្កូវ

វត្តមណិជោត្យារាម (ទ្រព្រះបាទ)

128

Chùa Sóc Chà

1751

ស្រុកថ្កូវ

វត្តក្រពុ

៍) ំឈូកច្រាល (ចារិ

129

Chùa Cós Lọp

1758

ស្រុកថ្កូវ

វត្តមុនីកោះកែវ (កោះទន្លាប់)

130

Chùa Crôi Tansa

1763

ស្រុកថ្កូវ

វត្តជម្ពូទីបវរារាម (ជ្រោយទន្សា)

131

Chùa RongVel

1783

ស្រុកថ្កូវ

វត្តរោងពិសីជ័យឧត្តម (រោងវាល)

132

1868

ស្រុកថ្កូវ

វត្តសិមារាម (ផោ្នអណ្តូង)

133

1808

ស្រុកថ្កូវ

វត្តលាវចន្ទស្សរារាម (ដីក្រហម)

134

1835

ស្រុកថ្កូវ

វត្តសេរីវង្សារាម (ផោ្នអំពូង)

135

1657

ស្រុកថ្កូវ

វត្តពោធិពឹ

្រក្សគិរីវង្ស (សា្វយសៀមចាស់)

Chùa Phnô Anđung Chùa Đây Kro Hom Chùa Phnô Ompung Chùa Xoài Xiêm Chás

136

Chùa Chông Prây

1885

ស្រុកថ្កូវ

វត្តប្រទក្សីលានិគ្រោធ (ចុងពៃ្រ)

137

1894

្ម)

137

ấp Chợ, Long Hiệp,TC Ba Cụm, Ngọc Biên, TC Tha La, Ngọc Biên, TC Nô Rè A, Long Hiệp, TC Ba Trạch, Tân Hiệp, TC Chông Bát, Tân Hiệp, TC Sóc Chà, Thanh Sơn, TC Con Lọp, Tân Hiệp, TC Bải Xào Giữa, Kim Sơn, TC Sóc Ruộng, Tân Hiệp, TC Nô Đùng, Tân Hiệp, TC Cà Hom, Hàm Giang, TC Long Trường, Tân Hiệp, TC Xoài Xiêm, Ngãi Xuyên, TC ấp Trạm, Phước Hưng, TC Bến Chùa, Phước Hưng, TC Kos La, Thanh Sơn,TC

1476

ស្រុកថ្កូវ ស្រុកថ្កូវ

វត្តកោះកែវមុនីសម្បាណ (សែ្លងថី វត្តកេតុសំរោងទងកល្បព្រឹក្ស (កោះសា្ល)

139

Mé Láng, Định An, TC

1903

ស្រុកថ្កូវ

វត្តសិរីពទ្ធជុ

ំគម្ពីរសាគរ (ផោ្នសងែ្កថី

្ម)

Chùa Sleng Thmây Chùa Kos Sla C. PhnôSăngKeThm ây

140

Chùa Kro

1915

ស្រុកថ្កូវ

វត្តចម្ប៉ាបុរីសិរីតារាជ (ក្រ)

141

Chùa Pras Prang

1919

ស្រុកថ្កូវ

វត្តសុវណ្ណមាលី (ព្រះប្រាង្គ)

142

Chùa Tul Tà thok

1972

ស្រុកថ្កូវ

វត្តខេមរារចនាសម្ព័ន្ធ (ទួលតាថុក)

143

1905

ស្រុកថ្កូវ

វត្តពោធិគិរីវង្សារាម (សា្វយសៀមថី

្ម)

C. XoàiXiêmThmây

Sóc Tro Dưới, An Quảng Hữu, TC Giồng Cao, Ngọc Biên, TC Giồng Tranh, Ngãi Xuyên, TC Xoài Xiêm, Ngãi Xuyên, TC

163

TỈNH SÓC TRĂNG

ខេត្តសុកត្រាំង(ឃ្លាំង)

144

Chùa Khleang

1533

វត្តឃ្លាំង

ទីរួមខេត្ត

145

Chùa Sôm Rông

1725

146

Chùa Maha Túp (Dơi)

Khóm 5, P. 6, Tp. Sóc Trăng Khóm 2, P. 5, Tp. ST Khóm 9, P.3 Tp. ST

1569

147

Chùa Peam Buôn Chas

1963

148

Chùa (Pô) Sóc Vồ

1664

ទីរួមខេត្ត ទីរួមខេត្ត ទីរួមខេត្ត ទីរួមខេត្ត

វត្តបទុមវង្សា (សំរោង) វត្តសិរីតេជោ (មហាទប់) វត្តសិរីពាមបួនចាស់ (ស្រះស្រៀង) វត្តពោធិសត្ថារាម (ពោធិ ៍)

Khóm 7, P.8, Tp. ST Khóm 3, P.7 , Tp. ST

149

Khóm 5, P.4, Tp. ST

1964

ទីរួមខេត្ត

វត្តសិរីប្រជុ

ំវង្ស (ពាមបួនថ្មី)

Chùa Peam Buôn Thmây

150

Chùa Trà Tim Cũ

1465

ទីរួមខេត្ត

វត្តមជ្ឈឹមារាម (ជ្រោយទឹមចាស់)

151

Chùa Pô Pus Tứk

1901

ស្រុកកំពង់ធំ

វត្តសិរីពោធិវាល (ពពុះទឹក)

Chùa Bâng Kha Don

1881

152 153

Chùa Bưng Cóc

1727

ស្រុកកំពង់ធំ ស្រុកកំពង់ធំ

វត្តបឹងខ្យង វត្តពុទ្ធរង្សី (បឹងកក)

154

Chùa Đay Ta Suôs

1843

វត្តដៃតាសួស

ស្រុកកំពង់ធំ

155

Chùa Prek Pinh Tôn

1863

ស្រុកកំពង់ធំ

វត្តបុព្វេវណ្ណារាម (ព្រែកពិន្ទួង)

156

1678

ស្រុកកំពង់ធំ

វត្តសិរីពោធិព្រឹក្ស (តាអង្គ)

Chùa Pô Thi Prưk Tà Ong

157

Chùa Tum Pok Sok

1727

វត្តទំពក់សក់

ស្រុកកំពង់ធំ

158

Chùa Pô Thi Khsach

1648

វត្តពោធិខ្សាច់

ស្រុកខ្សាច់

Chùa On Đôn Rưs Sây

2004

159 160

Chùa Pring Prum

1843

ស្រុកខ្សាច់ ស្រុកខ្សាច់

វត្តអណ្តូងឫស្សី វត្តព្រីងព្រំមង្គល (កំពប)

161

Chùa Chom Pa Chum

1860

វត្តសិរីបុប្ផាចម្ប៉ាជុ

ស្រុកខ្សាច់

162

Chùa Pô Thi Pdok

1618

វត្តពន្លឺពោធិអណ្តែតផ្តោក

ស្រុកខ្សាច់

163

Chùa Pô Thi Thlâng

1889

វត្តពោធិថ្លឹង

ស្រុកខ្សាច់

164

Chùa Peng Som Rith

1495

ស្រុកចូវថាញ់

វត្តសិរីមុនីវង្ស (ពាងសំរឹទ្ធិ

៍)

165

Chùa Kom Pong Tróp

1890

វត្តកំពង់ទ្រព្យ

ស្រុកចូវថាញ់

166

Chùa Tum Núp

1621

ស្រុកចូវថាញ់

វត្តបទុមរង្សី (ទំនប់)

167

Chùa Chông Pro Lean

1749

ស្រុកចូវថាញ់

វត្តព្រលានមានជ័យ (ចុងព្រលាន)

168

Chùa Trà Quýt Cũ

1881

វត្តតាឃ្វិចចាស់

ស្រុកចូវថាញ់

169

Chùa Trà Quýt Mới

1964

ស្រុកចូវថាញ់

វត្តសិរីប្រជុ

ំវង្ស (តាឃ្វិចថ្មី)

170

Chùa Phnô Rô Ka

1860

វត្តសិរីផ្នោរកា

ស្រុកចូវថាញ់

171

Chùa Chăm Pa

1676

ស្រុកចូវថាញ់

វត្តចម្ប៉ាវណ្ណារាម (ចម្ប៉ា)

172

Chùa Bốn Mặt

1537

វត្តព្រះបួនព្រះភក្រ័

ស្រុកចូវថាញ់

173

Chùa Pong Tưk Chăs

1830

ស្រុកពងទឹក

វត្តមុនីសោភ័ណ (ពងទឹកចាស់)

174

Chùa Pong Tưk Thmây

1965

ស្រុកពងទឹក

វត្តកំពង់មានជ័យសិរីឧត្តម (ពងទឹកថ្មី)

175

Chùa Srăs Keo

1798

វត្តមុនីស្រះកែវ

ស្រុកពងទឹក

176

1873

177

Chùa Đay Chho Khmao Chùa Ong Kho

Khóm Tâm Trung, P.10, Tp. ST ấp Phú Tức, Phú Mỹ, huyện Mỹ Tú Đại Úi, Phú Mỹ, MT Bưng Cóc, Phú Mỹ, MT Sóc Xoài, Phú Mỹ,MT Bét Tôn, Phú Mỹ, MT Tà Ân B, Thuận Hưng, MT Tam Sóc, Mỹ Thuận, MT ấp An Thành, TT. Kế Sách, huyện Kế sách ấp 8, Trinh Phú, KS ấp 10, Trinh Phú, KS An Nghiệp, An Mỹ,KS Kinh Giữa 1, xã Kế Thành, KS Tập Rèn, Thới An Hội, KS Giồng Chùa A, An Hiệp, Châu Thành Bưng Tróp, An Hiệp, huyện Châu Thành Châu Thành, An Ninh, CT Mỹ Tân, Thiện Mỹ,CT Trà Quýt B, Thuận Hòa, CT Xây Đá A, Hồ Bắc Kiện, CT Phú Hữu, Phú Tâm,CT Phước Phong, Phú Tân, CT Phước Thuận, Phú Tân, CT Tân Lợi, xã Thạnh Tân, huyện Thạnh Trị Trung Hòa, Tuân Tức, TT Kiết Lợi, Lâm Kiết,TT Xau Mau II, TT. Phú Lộc Giồng Chùa,

1910

ស្រុកពងទឹក ស្រុកពងទឹក

វត្តស្រះស្រង់កំពង់មានជ័យ (ដៃឈើខ្មៅ) វត្តនរេន្រ្ទរង្សី (អុង ខ)

164

178

Chùa Đay Niêl

1971

ស្រុកពងទឹក

វត្តរតនមុនី (ដៃនៀល)

179

Chùa Lộ Mới

1971

ស្រុកពងទឹក

វត្តបួនមុ

ំប្រជុ

ំមានជ័យ (ថ្នល់ថ្មី)

180

Chùa Ong Tao

1964

ស្រុកពងទឹក

វត្តប្រជុ

ំដែនមានជ័យ (អុង តាវ)

181

Chùa Prêk Chêk

1798

ស្រុកង៉ាណាំ

វត្តអូរជុ

ំអារាម (ព្រែកចេក)

182

Chùa Cần Đước

1783

ស្រុកបាយឆៅ

វត្តចន្ទសោភ័ណ (ព្រែកអណ្តើក)

183

Chùa Nhu Gia

1913

ស្រុកបាយឆៅ

វត្តសិរីនគរជុ

ំ (អំពូយារ)

184

Chùa Trà Cuôn

1780

ស្រុកបាយឆៅ

វត្តសិរីឧត្តមប្រជុ

ំវង្សា (ព្រែកត្រកួន)

185

Chùa Đay Om Pu

1951

ស្រុកបាយឆៅ

វត្តសិរីឧត្តម (ដៃអំពូ)

186

Chùa Sro Lôn

1815

ស្រុកបាយឆៅ

វត្តសិរីសុខុម (ស្រឡូង)

187

Chùa Trà Tim Giữa

1666

ស្រុកបាយឆៅ

វត្តពោធិសាល (ជ្រោយទឹមកណ្តាល)

188

Chùa Trà Tim Mới

1894

ស្រុកបាយឆៅ

វត្តកំពង់តាឥន្ទ (ជ្រោយទឹមថ្មី)

189

Chùa Tắc Gồng

1224

វត្តប្រាសាទគង់

ស្រុកបាយឆៅ

190

1975

ស្រុកបាយឆៅ

វត្តឧត្តមមុនី (ផ្នោកញ្ឆើថ្មី)

191

1967

ស្រុកបាយឆៅ

វត្តសិរីវ័ន (ផ្នោកញ្ឆើចាស់)

Chùa Phnô Canh Chơ Thmây Chùa Phnô Canh Chơ Chăs

192

Chùa Pô Thi Chum

1957

ំ វត្តសិរីឧត្តមពោធិជុ

ស្រុកបាយឆៅ

193

Chùa Phnô Kom Bôth

1585

ស្រុកបាយឆៅ

វត្តសិរីឧត្តម (ផ្នោកំបុត)

194

Chùa Bai Chhao

1507

ស្រុកបាយឆៅ

វត្តហ្លួងបាសាក់ (បាយឆៅ)

195

Chùa Tức Pray

1706

ស្រុកអណ្តូងទឹក

វត្តកំពង់មានជ័យ (ទឹកប្រៃ)

196

1837

ស្រុកអណ្តូងទឹក

វត្តសោភណរង្សី (បឹងក្រចាប់ថ្មី)

197

1773

ស្រុកអណ្តូងទឹក

វត្តមង្គលធិបតី (បឹងក្រចាប់ចាស់)

Chùa Bưng Kro Chap Thmây Chùa Bưng Kro Chap Chăs

198

Chùa Săng Ke

1609

ស្រុកអណ្តូងទឹក

វត្តសិរីមុនី (សង្កែ)

199

Chùa Bưng Kol

1884

វត្តបឹងគល់

ស្រុកអណ្តូងទឹក

200

Chùa Seerray Ta Mơn

1615

វត្តសិរីតាម៉

ឺន

ស្រុកត្រឹងដេ

201

Chùa Pđau Pên

1895

ស្រុកត្រឹងដេ

វត្តពោធិធំ (ផ្តៅពេន)

202

Chùa Bâng Sa

1890

ស្រុកត្រឹងដេ

វត្តសិរីជុ

ំ (បឹងទន្សា)

203

Chùa Chông Prek

1973

ស្រុកត្រឹងដេ

វត្តប្រជុ

ំមានជ័យសិរីចុងព្រែកនាងល្អដាច់(ចុងព្រែក)

204

Chùa Bâng Phniết

1887

ស្រុកត្រឹងដេ

វត្តបទុមសាគរ (បឹងភ្នៀត)

205

Chùa Prek Chac

1881

ស្រុកត្រឹងដេ

វត្តប្រជុ

ំវង្ស (ព្រែកចាក)

206

Chùa Pem Buôn

1954

ស្រុកត្រឹងដេ

វត្តចតុមុខារាតនារាម(ពាមបួន-កូនក្អែក)

207

Chùa Đờm Pô

1899

ស្រុកត្រឹងដេ

វត្តសិរីពោធិ (ដើមពោធិ ៍)

208

Chùa Prek Kol Thmây

1914

ស្រុកត្រឹងដេ

វត្តព្រហ្មវិសាល (ព្រែកគយថ្មី)

209

Chùa Prek Kol Chăs

1502

ស្រុកត្រឹងដេ

វត្តពោធិព្រឹក្ស (ព្រែកគយចាស់)

210

Chùa Phnô Tà Niêl

2003

ស្រុកត្រឹងដេ

វត្តមុនីវង្សារាម (ផ្នោតានៀវ)

TT. Hưng Lợi Trương Hiền, Thạnh Trị, TT Kiết Lập B, Lâm Tân, TT ấp B 1, Thạnh Tân, TT Vĩnh Thạnh, xã Vĩnh Qưới, huyện Ngã Năm ấp Cần Đước, Thạnh Phú, huyện Mỹ Xuyên Khu 1, Thạnh Phú,MX Hòa Khánh, Thạnh Qưới, MX Phú Giáo, Thạnh Qưới, MX Đại Thành, Đại Tâm, MX Tân Lộc, Đại Tâm, MX Tâm Kiên, Đại Tâm, MX Tắc Gồng, Tham Đôn, MX Cần Giờ II, Tham Đôn, MX Cần Giờ, Tham Đôn, MX Bưng Chụm, Tham Đôn, MX Phnô Com Bôth, Tham Đôn, MX ấp Chợ Cũ, TT. Mỹ Xuyên ấp 5, TT. Long Phú, huyện Long Phú Tân Lịch, Tân Hưng, LP ấp 4, Châu Khánh, LP Trường Thành B, Trường Khánh, LP Phú Đức, Long Phú, LP Đào Viên, xã Viên Bình, huyện Trần Đề Lao Vên, Viên Bình, TĐ Tiếp Nhựt, Viên An, TĐ Bờ Đập, Viên An, TĐ Bưng Triết, Liêu Tú, TĐ Giồng Chát, Liêu Tú, TĐ Tú Điềm, Đại Ân 2, TĐ Lâm Dồ, Đại Ân 2, TĐ Sóc Lèo B, TT. Lịch Hội Thượng, TĐ Châu Thành, TT. Lịch Hội Thượng, TĐ Nam Chánh, Lịch Hội Thượng,

165

211

C. Kom Pong Tro Tel

1904

ស្រុកត្រឹងដេ

វត្តកំពង់មានជ័យសិរីឧត្តម(កំពង់ប្រទាល)

212

Chùa Prek Om Pu

1668

ស្រុកត្រឹងដេ

វត្តកំពង់មានជ័យសិរីឧត្តម (ព្រែកអំពូ)

213

Chùa Đon Ka Đồn

1901

ស្រុកត្រឹងដេ

វត្តពោធិគម្ភីរសាគរ (ដងក្តោង)

214

Chùa Kro Săng

1576

វត្តសិរីក្រសាំង

ស្រុកជ្រោយ ញ

215

Chùa Đơm Om Pil

1675

ស្រុកជ្រោយ ញ

វត្តមុនីសាគរ (ដើមអំពិល)

216

Chùa Sêray Kandal

1694

វត្តសិរីកណ្តាល

ស្រុកជ្រោយ ញ

217

Chùa Pích Monkhol

1738

វត្តពេជ្រមង្គល

ស្រុកជ្រោយ ញ

218

Chùa Soài Côn

1750

ស្រុកជ្រោយ ញ

វត្តអម្ពវ័ន (ស្វាយកោង)

219

Chùa Tăng Du

1767

ស្រុកជ្រោយ ញ

វត្តឆត្តវ័ន (តាំងយូ)

220

Chùa Pro Lean

1783

ស្រុកជ្រោយ ញ

វត្តកំពង់មានជ័យសិរី (ព្រលាន)

221

Chùa Đôn Tru

1799

ស្រុកជ្រោយ ញ

វត្តមុនីសត្ថារាម (ដូនទ្រូ)

222

Chùa Tà Teo

1866

ស្រុកជ្រោយ ញ

វត្តពោធិមង្គលសិរី (តាទាវ)

223

Chùa Chhung Thom

1816

ស្រុកជ្រោយ ញ

វត្តលក្ខណវង្ស (ឈូងធំ)

224

Chùa Tà Sêk

1884

វត្តសិរីតាសេក

ស្រុកជ្រោយ ញ

225

Chùa Tà Đớk

1886

ស្រុកជ្រោយ ញ

វត្តសិរីប្រជុ

ំវង្ស (តាដើក)

226

Chùa Prây Chóp

1870

ស្រុកជ្រោយ ញ

វត្តទេពារាម (ព្រៃជាប់)

227

Chùa Phnô Pôn

1882

ស្រុកជ្រោយ ញ

វត្តបទុមសាគរសិរី (ផ្នោពោន)

228

Chùa Sala Pô Thi Mới

1937

ស្រុកជ្រោយ ញ

វត្តសាលាពោធិសិរីសាគរ (វត្តថ្មី)

229

Chùa Thoma Chô

1949

ស្រុកជ្រោយ ញ

វត្តមុនីវង្សាសិរីវង្ស (ធម្មជោតិ ៍)

230

Chùa Tứk Sáp

1953

ស្រុកជ្រោយ ញ

វត្តសិរីប្រជុ

ំវង្សព្រះកណ្តាល (ទឹកសាប)

231

Chùa Bâng Tung

1955

ស្រុកជ្រោយ ញ

វត្តសិរីរតនវង្ស (បឹងទុង)

232

Chùa Phnô Thum

1972

ស្រុកជ្រោយ ញ

វត្តសិរីសាគរ (ផ្នោធំ)

233

Chùa Đơm Thnốt

1973

ស្រុកជ្រោយ ញ

វត្តរឹទ្ធិមុនីសាគរ (ដើមត្នោត)

234

Chùa Đay Tà Pay

1973

ស្រុកជ្រោយ ញ

វត្តសិរីប្រជុ

ំបុណ្យសុវណ្ណសាគរ (ដៃតាប៉ាយ)

235

Chùa Kos Tung

1991

វត្តសុវណ្ណសង្កែមុនីកោះទុង

ស្រុកជ្រោយ ញ

TĐ Sóc Lèo, Lịch Hội Thượng, TĐ Hưng Thới, Thạnh Thới An, TĐ Giồng Chùa, TT. Trần Đề Khóm Cà Săng, P. 2, TX. Vĩnh Châu Khóm Sở Tại A, P. Vĩnh Phước, TX. VC Vĩnh Thành, Vĩnh Phước, TX. VC Khóm Wach Pích, Vĩnh Phước, TX. VC Khóm Soài Côn, P. 2, TX. VC Hòa Thành, Lạc Hòa, TX. VC Vĩnh Thành B, Vĩnh Hải, TX. VC Khóm 7, P.1, TX. VC Trà Teo, Hòa Đông, TX. VC Xum Thum A, Lai Hòa, VC Trà Sết, Vĩnh Hải, VC Hòa Nam, Lạc Hòa, VC Prây Chóp B, Lai Hòa, VC Phnô Puôl, Vĩnh Tân, VC Vĩnh Bình, P. 2, TX. VC Trà Vôn B, Vĩnh Tân, VC Xẻo Cốc, Lai Hòa, VC Khóm Bưng Tum, P. Khánh Hòa, TX. VC Nô Thum, Vĩnh Tân, VC Khóm Biến Trên A, P. Vĩnh Phước, TX.VC Đại Bái, Lạc Hòa, VC Sơn Ton, An Thạnh 2, huyện Cù Lao Dung

166

TỈNH AN GIANG

ខេត្តអាងយ៉ាង(មាត់ជ្រូក)

236

Chùa Muni Vongsa

1901

ស្រុកចៅភូ

វត្តមុនីវង្សា (ស្នែងព្រះគោ)

237

Chùa Prek Stưng

1937

វត្តព្រះស្ទឹង

ស្រុកបារាជ

238

Chùa Chắc Sđào

1820

ស្រុកបារាជ

វត្តបុប្ផសិរីចេស្តី (ចាស់ស្តៅ)

239

Chùa Vĩnh Trạch

1798

240

Chùa Ba Thê

Bình Hưng I, Bình Mỹ, Châu Phú Cần Thạnh, Cần Đăng, Châu Thành Hoà Tân, Hoà Bình Thạnh, Châu Thành Đông Bình, Vĩnh Thạnh, Châu Thành Ba Thê, Vong Thê,

1816

ស្រុកបារាជ ស្រុកបាថេរ

វត្តសិរីមង្គលសាគរ (បារាជ) វត្តកល្បព្រឹក្ស (បាថេរ)

241

Chùa Pô Los

1798

វត្តពោធិវង្សពង្សពោធិលាស់

ស្រុកស្វាយទង

Thoại Sơn ấp Tô Lợi, xã Cô Tô, huyện Tri Tôn

242

Chùa Pra Sath Pôs

Tô Lợi, Cô Tô, TT

ស្រុកស្វាយទង

វត្តសុរិន្ទារាម (ប្រាសាទផុស)

1891 (201 3)

243

Chùa Svay Tà Hon

1849

វត្តស្វាយតាហង្ស

ស្រុកស្វាយទង

244

1962

វត្តស្វាយដង្គំថ្មី

ស្រុកស្វាយទង

Chùa Soai Ta Kum Mới

245

Chùa Tro Peng Trao

1513

វត្តត្រពាំងត្រាវ

ស្រុកស្វាយទង

246

Chùa Som Sây

1904

ស្រុកស្វាយទង

វត្តរាជាសំសីរស្មីថ្នល់កែវ (សំសី)

247

Chùa Soai Ta Kum Cũ

1110

វត្តស្វាយដង្គំចាស់

ស្រុកស្វាយទង

248

Chùa Kom Phlưng

1910

ស្រុកស្វាយទង

វត្តពោធិវង្ស (អង្គកំភ្លឹង)

249

Chùa Sre Bun

1846

ស្រុកស្វាយទង

វត្តឥន្ទសេរី (ស្រែបុណ្យ)

250

Chùa Pa Theat

1799

ស្រុកស្វាយទង

វត្តសិរីវង្សា (ព្រះធាតុ)

251

Chùa Thnốt Chrum

1590

វត្តត្នោតជ្រំ

ស្រុកស្វាយទង

252

Chùa Chi Pok

1817

ស្រុកស្វាយទង

វត្តមុនីជោតិវង្សារាម (ជ្រោះពក)

253

Chùa Sóc Triết

1590

វត្តចម្ប៉ាភ្នំទ្រៀក

ស្រុកស្វាយទង

254

Chùa Khok Treng

1400

255

Chùa Tà Pạ

1850

256

Chùa Soài So

1860

ស្រុកស្វាយទង ស្រុកស្វាយទង ស្រុកស្វាយទង

វត្តគោកត្រែង វត្តភ្នំតាប៉ា វត្តស្វាយ ស (ទំនើប)

257

Chùa Chi Mung

1299

ស្រុកស្វាយទង

វត្តពោធិវង្ស (ជីមុង)

258

Chùa Kol Kas

1650

259

Chùa Prey Veng

1149

វត្តទួលប្រាសាទ (គល់កាស) វត្តព្រៃវែង

260

Chùa Ông

1932

ស្រុកស្វាយទង ស្រុកស្វាយទង ស្រុកស្វាយទង

វត្តសិរីអង្គរជុ

ំ (អង្គ)

261

Chùa Sập Da

1992

វត្តអណ្តូងប៉ែន

ស្រុកស្វាយទង

262

Chùa Ta Miệt Trên

1941

ស្រុកស្វាយទង

វត្តគីរីរង្សីសិរីឧត្តមស្វាយតាណិប (គោករមៀតលើ)

263

Chùa Ta Miệt Dưới

1399

ស្រុកស្វាយទង

វត្តបវរពោធិលង្កាតារា(គោករមៀតក្រោម)

264

Chùa Chika Êng Trên

1885

ស្រុកស្វាយទង

វត្តទឹកផុស (ជីក្អេងលើ)

265

Chùa Chika Êng Dưới

1404

ស្រុកស្វាយទង

វត្តរំដួលទួលសូរភីរាម (ជីក្អេងក្រោម)

266

Chùa Sà Lôn

1746

ស្រុកស្វាយទង

វត្តបវរពោធិញ្ញាណ (ស្រឡូង)

267

Chùa Bân Rô

1700

វត្តពង្រហ៏

ស្រុកស្វាយទង

268

Chùa Krăn Croch

1608

ស្រុកស្វាយទង

វត្តសារាំងប្រជុ

ំមជ្ឈឹមគីរីរាម (ក្រាំងក្រូច)

269

Chùa Pô Som Rong

1657

ស្រុកស្វាយទង

វត្តរមណីយារាម (ពោធិសំរោង)

270

Chùa Nam Qui trên

1925

វត្តភ្នំពីរលើ

ស្រុកស្វាយទង

271

Chùa Nam Qui giữa

1699

វត្តភ្នំពីរកណ្តាល

ស្រុកស្វាយទង

272

Chùa Nam Qui dưới

1769

វត្តភ្នំពីរក្រោម

ស្រុកស្វាយទង

273

Chùa Soài Tong

1510

ស្រុកស្វាយទង

វត្តសត្តមណ្ឌលគីរី (ស្វាយទង)

274

Chùa Ta Dung trên

1784

ស្រុកស្វាយទង

វត្តគីរីបុព្វតាចម្ប៉ាលើក (ទំពូងលើ)

275

Chùa Ta Dung dưới

1678

ស្រុកស្វាយទង

វត្តរំដួលទួលសុភី (ទំពូងក្រោម)

Sla Đơm, An Tức, TT Ninh Hoà, An Tức, TT Tapeng Trao, An Tức, Tri Tôn Som Sây, Ô Lâm, TT Phước Thọ, Ô Lâm, Tri Tôn Tropengpôr, Ô Lâm, Tri Tôn ấp Chhuk, Ô Lâm, TT Pa Theat, Ô Lâm, TT Thnốt Chrum, Ô Lâm, Tri Tôn Chrốs Pốk, An Tức, Tri Tôn Sóc Triết, Cô Tô, TT Kop Treng, Núi Tô, Tri Tôn Tố Hạ, Núi Tô, TT Chrôi, Núi Tô, Tri Tôn Ta Pôr, Cô Tô, Tri Tôn Kol Kas, Châu Lăng, Tri Tôn khóm 4, Tri Tôn, TT Ta Ông, Ba Chúc, TT Sập Da, Ba Chúc, TT Kôkrômiết Trên, Lương Phi, Tri Tôn Kôkrômiết dưới, Lương Phi, Tri Tôn Chika Êng Trên, Châu Lăng, Tri Tôn Chika Êng Dưới, Châu Lăng, Tri Tôn Sà Lôn, Lương Phi, TT Pung Rô, Châu Lăng, Tri Tôn An Hoà, Châu Lăng, Tri Tôn Som Rông, Châu Lăng, Tri Tôn Nam Qui, Châu Lăng, Tri Tôn Nam Qui Giữa, Châu Lăng, Tri Tôn Nam Qui, Châu Lăng, Tri Tôn Soài Tong, Tri Tôn, Tri Tôn Tumpunglơ, Lương Phi, Tri Tôn Tumpungcro, Lương Phi, Tri Tôn

167

276

Chùa Thlâng

Lê Trì, Tri Tôn

1678

277

Chùa On Đôn Tkâu

1690

278

Chùa Soài Chếk

1946

ស្រុកស្វាយទង ស្រុកស្វាយទង ស្រុកក្របៅ

វត្តបវរពោធិថ្លឹង (ថ្លឹង) វត្តសិរីចេស្តារាម (អណ្តូងថ្កូវ) វត្តរតនារាមអង្គត្រពាំងព្រះ (ស្វាយចេក)

279

Chùa Đắc Tọt

1880

280

Chùa Pen Lợt

1873

281

Chùa Rô

1900

ស្រុកក្របៅ ស្រុកក្របៅ ស្រុកក្របៅ

វត្តរាជទស្សនារាម (ស្តេចទត) វត្តសុវណ្ណវនារាម (សុព៌ណលើក) ៍)

៍ឥសីសិទ្ធី (រោទិ

វត្តគីរីគុជ្ជរោទិ

282

Chùa Ben Đồn

1890

283

Chùa Pô Thi

1933

284

Chùa Thốt Nốt

1700

Chùa Cô

1690

285

Lê Trì, Tri Tôn Soài Chếk, An Cư, Tịnh Biên Vĩnh Hạt, Vĩnh Trung, Tịnh Biên Chi Lăng, Tịnh Biên Vĩnh Thuận, An Cư, Tịnh Biên Chơn Cô, An Cư, TB Pô Thi, An Cư, TB Chơn Cô, An Cư, TB Pô Thi, An Cư, TB

286

Chùa Cây Đuốk

1890

287

Chùa Thom Mít

1890

288

Chùa Ba Soài

1799

289

Chùa Prel

1900

ស្រុកក្របៅ ស្រុកក្របៅ ស្រុកក្របៅ ស្រុកក្របៅ ស្រុកក្របៅ ស្រុកក្របៅ ស្រុកក្របៅ ស្រុកក្របៅ

វត្តធម្មវង្សារាម (ពាមដូង) វត្តពោធិឧត្តម (ពោធិ ៍) វត្តតាលវណ្ណារាម (ត្នោត) វត្តពោធិវង្សគីរីសាគរ (គរ) វត្តសិរីសង្កែមាស (សង្កែដួច) វត្តធម្មនិមិត្ត (ក្តួច) វត្តគីរីបុប្ផាពោធិព្រឹក្សក្តុល (អំពាយស្វាយ) វត្តពារាណសី (ព្រាល)

290

Chùa Cây Khoa

1910

ស្រុកក្របៅ

វត្តគីរីរង្សី (ខ្លាខ្វា)

291

Chùa Kos Rumdet

1516

វត្តកោះអណ្តែត

ស្រុកក្របៅ

292

Chùa Mới

1900

ស្រុកក្របៅ

វត្តគីរីសុខុម (ថ្មី)

293

Chùa Crăn Chay

1899

Chùa Mỹ Á Chùa Neng Nong

294 295

1699 1600

296

Chùa Văn Râu

1600

ស្រុកក្របៅ ស្រុកក្របៅ ស្រុកក្របៅ ស្រុកក្របៅ

វត្តភទ្ទសីមាចម្ប៉ាជើងភ្នំ (ក្រាំងចាយ) វត្តប្រឡាយមាស វត្តគីរីសោភ័ណសុវណ្ណ (ណែងណង) វត្តសត្ថាវង្សអង្គ (ត្រពាំងជ្រៅ)

297

Chùa Sà Rất

1600

វត្តសិលាចារឹត

ស្រុកក្របៅ

298

Chùa Soai Tà Som

1860

Chùa Đờm Pà Ốk

1800

299

Pô Thi, An Cư, TB Vĩnh Hạt, Vĩnh Trung, Tịnh Biên Pô Thi, An Cư, TB Chơn Cô, An Cư, TB Vĩnh Thượng, An Cư, Tịnh Biên An Thạnh, An Hảo, Tịnh Biên Xuân Phú, Nhà Bàng, Tịnh Biên Tân Thuận, Tân Lợi, Tịnh Biên Mỹ Á, Chi Lăng, TB Văn Giáo, Tịnh Biên Sây Sà Cốt, Văn Giáo, Tịnh Biên Soài Chếk, An Cư, TB An Hoà, An Hảo, TB An Cư, Tịnh Biên

Chùa On Đôn Pruos

1600

300

Chùa Pothiwong

1820

ស្រុកក្របៅ ស្រុកក្របៅ ស្រុកក្របៅ ស្រុកក្របៅ

301

វត្តសំរឹទ្ធិជ័យ (ស្វាយតាសំ) វត្តចន្ទលីវង្សារាម (ដើមផ្អោក) វត្តសិរីវង្សាចេស្តា (អណ្តូងព្រួស) វត្តពោធិវង្ស (ត្រាស់)

An Cư, Tịnh Biên Nhà Bàng, Tịnh Biên

TỈNH KIÊN GIANG

ខេត្តគៀងយ៉ាង(ក្រមួន ស)

302

Chùa Thứ Ba

1947

ស្រុកព្រែកបី

វត្តសិរីវង្សា (ព្រែកបី)

303

Chùa Thứ Năm

1907

ស្រុកព្រែកបី

វត្តវង្សាសួស្តី (ព្រែកប្រាំ)

304

Chùa Tà Bết

1606

ស្រុកឃ្លាំងមឿង

វត្តសិរីវង្សាផល (អំពាច)

305

1940

Chùa Chắc Kha Cũ

វត្តអង្គមានជ័យសិរីសុខា (ចាកហាលចាស់)

ស្រុកឃ្លាំងមឿង ស្រុកឃ្លាំងមឿង

306

Chùa Chụng

1870

វត្តសិរីវង្សា (ជ្រុង)

ស្រុកឃ្លាំងមឿង

307

Chùa Cà Săn

1950

វត្តមង្គលរង្សី (ក្រសាំង)

308

Chùa Kveng Tô Tưng

1835

ស្រុកឃ្លាំងមឿង

វត្តមង្គលរង្សី (ខ្វែងទទឹង)

309

Chùa Gò Đất

1925

ស្រុកឃ្លាំងមឿង

វត្តប្រជុ

ំសាគរ (ដង្ហិត)

310

Chùa Chắc Kha Mới

1948

ស្រុកឃ្លាំងមឿង

វត្តជម្ពូព្រឹក្សា (ចាកហាលថ្មី)

311

Chùa Xà Xiêm mới

1960

312

Chùa Xà Xiêm cũ

Khu vực 2, TT. Thứ 3, An Biên ấp 5 Chùa, Nam Thái, An Biên Thạnh Bình, xã Thanh Lộc, H. Châu Thành Bình Lợi, Minh Hoà, H. Châu Thành Tân Hưng, Giục Tượng, CT Phước Lợi, Mong Thọ B, CT Minh Hưng, Minh Hoà, CT Bình Hoà, Minh Hoà, Châu Thành An Bình, Minh Hoà, Châu Thành Xà Xiêm, Bình An, CT Xà Xiêm, Bình An,

1893

ស្រុកឃ្លាំងមឿង ស្រុកឃ្លាំងមឿង

វត្តសិរីវង្សា (ស្រែសៀមថ្មី) វត្តសិយាមវង្សា (ស្រែសៀមចាស់)

168

313

Chùa Cù Là mới

1901

ស្រុកឃ្លាំងមឿង

វត្តឧត្តមសុរិយា (កំពង់ចិនថ្មី)

314

Chùa Cù Là cũ

1627

ស្រុកឃ្លាំងមឿង

វត្តវង្សាគ្រឹះ (កំពង់ចិនចាស់)

315

Chùa Khlang Mương

1673

ស្រុកឃ្លាំងមឿង

វត្តតម្លៃថោង (ខ្លាងមឿង)

316

Chùa Khlang Ông

1638

ស្រុកឃ្លាំងមឿង

វត្តសុវណ្ណរង្សី (ខ្លាងអុង)

317

1658

ស្រុកព្រៃរំដេង

វត្តកោះស្លាខេត្ត (ឡាំងឈួងចាស់)

Chùa Đường Xuồng Cũ

318

Chùa Cả Đước Vàm

1952

ស្រុកព្រៃរំដេង

វត្តវិភទ្ទរង្សី (កាយដួកពាម)

319

Chùa Thác Lác

1842

ស្រុកព្រៃរំដេង

វត្តអម្ពរវ័ន (កាយដួកស្វាយ)

320

Chùa Rạch Tranh

1971

ស្រុកព្រៃរំដេង

វត្តសុវណ្ណមជ្ឈឹម (ព្រែកក្រូច)

321

Chùa Mò Om

1927

ស្រុកព្រៃរំដេង

វត្តសិរីពោធិជុ

ំ (ម្អម)

322

Chùa Đây Ông

1973

ស្រុកព្រៃរំដេង

វត្តមុនីរង្សី (ដីអុង)

323

Chùa Cả Đuốc nhỏ

1900

ស្រុកព្រៃរំដេង

វត្តសិរីមង្គលពោធិពោធិទ័ម (កាយដួកតូច)

324

Chùa Nha Si mới

1962

ស្រុកព្រៃរំដេង

វត្តសិរីមង្គលពោធិសីលា (កំពង់បោះត្រាថ្មី)

325

Chùa Pô Som Rông

1895

ស្រុកព្រៃរំដេង

វត្តពោធិសំរោង (ថាញ់ឡើយ)

326

Chùa Giồng Đá

1532

ស្រុកព្រៃរំដេង

វត្តគង្គានទី (គោកស្ទឹង)

327

Chùa Som Rông

1931

ស្រុកព្រៃរំដេង

វត្តមុនីរង្សីសិរីសំពៅមាស (សំរោង)

328

Chùa Cà Đuốc lớn

1626

ស្រុកព្រៃរំដេង

វត្តចន្ធសុរិយា (កាយដួកធំ)

329

Chùa Nha Si cũ

1733

ស្រុកព្រៃរំដេង

វត្តពោធិកណ្តាល (កំពង់បោះត្រាចាស់)

330

Chùa Tràm Chẹt

1933

ស្រុកព្រៃរំដេង

វត្តចម្ប៉ាជ័យ (សំចេត្រ)

331

Chùa Sóc Sâu

1686

ស្រុកអំពាចវែង

វត្តនគរជុ

ំ (បឹងមូល)

332

1910

ស្រុកអំពាចវែង

វត្តដួងលៃសិរីវង្សា (ឡាំងឈួងថ្មី)

Chùa Đường Xuồng Mới

333

Chùa Prết Prô Lít

1956

ស្រុកអំពាចវែង

វត្តឧត្តមមុនីរង្សី (ព្រែកប្រលិត)

334

Chùa Tức Sáp

1973

ស្រុកអំពាចវែង

វត្តសុវណ្ណមុនីរង្សី (ទឹកសាប)

335

Chùa Prết Tia

1678

ស្រុកអំពាចវែង

វត្តមូលជុ

ំ (ព្រែកទា)

336

Chùa Thới An

1889

ស្រុកអំពាចវែង

វត្តសិរីវង្សាជុ

ំ (ព្រែកជុ

ំ)

337

Chùa Cỏ Khía Cũ

1928

ស្រុកអំពាចវែង

វត្តមង្គលព្រឹក្សា (ព្រែកជ្រៃចាស់)

338

Chùa Cà Nhung

1790

ស្រុកអំពាចវែង

វត្តសិរីគង្គា (គ្រញូង)

339

Chùa Tổng Quản

1662

ស្រុកអំពាចវែង

វត្តសិរីសួស្តី (កំពង់ក្របី)

340

Chùa Cỏ Khía Mới

1964

ស្រុកអំពាចវែង

វត្តសិរីរតនារាម (ព្រែកជ្រៃថ្មី)

341

Chùa Prết Sla

1565

ស្រុកអំពាចវែង

វត្តថ្នល់ជុ

ំ (ព្រែកស្លា)

342

Chùa Tà Mum

1578

ស្រុកអំពាចវែង

វត្តមន្ទាមុនី (តាមុ ំ)

343

Chùa Sóc Ven Mới

1956

ស្រុកអំពាចវែង

វត្តសិរីឧត្តមវង្សា (អំពាចវែងថ្មី)

344

Chùa Sóc Ven Cũ

1680

វត្តអូរជុ

ំវង្សា (អំពាចវែងចាស់)

ស្រុកអំពាចវែង ស្រុកភ្នំដី

345

Chùa Hòn Sóc

1738

វត្តគីរីវង្សាចរិយាព្រឹក្ស (ចម្ប៉ាភ្នំច្រក់)

CT Kp Minh Lạc, TT. Minh Lương Kp Minh Phú, TT. Minh Lương Kp. Minh Lương, TT. Châu Thành Kp Minh An, TT. Minh Lương ấp 8, xã Long Thạnh, huyện Giồng Riềng Ngọc Bình, Ngọc Chúc, GR Hai Lành, Hoà Thuận, Giồng Riềng Vĩnh Hoá, TT. Giồng Riềng, GR Thạnh Ngọc, Thạnh Hưng, GR ấp 2 Cây Queo, Thạnh Hoà, GR Ngọc Tân, Ngọc Chúc, Giồng Riềng Vĩnh Lợi, Vĩnh Thạnh, Giồng Riềng Thạnh Đông, Thạnh Phước, GR Giồng Đá, Bàn Thạch, Giồng Riềng Cây Trôm, Bàn Thạch, Giồng Riềng Ngọc Bình, Ngọc Chúc, GR Huỳnh Tố, Vĩnh Phú, GR Tràm Chẹt, Bàn Tân Định, GR ấp An Phú, xã Vĩnh Phước, H. Gò Quao Thanh Gia, Định Hoà, Gò Quao Hoà Chiếu 2, Định Hoà, Gò Quao ấp 2, Vĩnh Hoà Hưng, Gò Quao 4 An Trường, Định An, Gò Quao Trung Nông, Thới Quản, Gò Quao Hoà Lệ, Thới Quản, Gò Quao Hoà Tạo, Định Hoà, Gò Quao Hòa Bình, Thới Quản, Gò Quao Xuân Đông, Thới Quản, Gò Quao ấp 4 Hoà An, Thuỷ Liễu, Gò Quao Hoà Hưng, Định Hoà, Gò Quao ấp 3 An Lợi, Định An, Gò Quao ấp 2 An Hoà, Định An, Gò Quao Hòn Sóc, Thổ Sơn, Hòn Đất

169

ស្រុកភ្នំដី

346

Chùa Lình Huỳnh

1940

វត្តសាគររង្សី (ព្រែកអង្គុញ)

ស្រុកភ្នំដី

347

Chùa Rồng Kè

1829

វត្តសុវណ្ណសាគរ (ស្ទឹងស្ទង)

348

Chùa Hòn Me

1820

ស្រុកភ្នំដី

វត្តគីរីសាគរ (ព្រែកអំពិល)

349

Chùa Kinh 12

2003

ស្រុកភ្នំដី

វត្តជ័យឧត្តមបញ្ចខត្តអន្តរគីរី (កិញ ១២)

350

Chùa Ranh Hạt

1952

វត្តសិរីវង្សាចម្ប៉ា (រាញហាត)

ស្រុកភ្នំដី ស្រុកភ្នំដី

351

Chùa Chòm Chuối

1966

វត្តចម្ប៉ា (ដើមចេក)

ស្រុកភ្នំដី

352

Chùa Sóc Xoài

1750

វត្តរាជកុសលបំពេញជ័យ (ស្វាយ)

353

Chùa Tà Phọt

1895

ស្រុកព្រៃរមែង

វត្តសិរីព្រឹក្សា (ប៉ប្រក)

354

Chùa Tà Ten

1932

ស្រុកព្រៃរមែង

វត្តសិរីមង្គលអង្គលើក (តាតែន)

355

Chùa Giồng Kè

1878

ស្រុកព្រៃរមែង

វត្តបឹងជុ

ំ (កោះទទា)

356

Chùa Núi Trầu

1965

ស្រុកភ្នំម្លូ

វត្តគីរីវង្សា (ភ្នំម្លូ)

357

Chùa Bãy Ớt

1884

ស្រុកភ្នំម្លូ

វត្តចម្ប៉ាលើក (បាយអឺក)

358

Chùa Bảy Chà Và

1589

ស្រុកភ្នំម្លូ

វត្តបឹងជុ

ំ (ថ្លុក)

359

Chùa Hòn Chông

1826

ស្រុកភ្នំម្លូ

វត្តសិរីសាគរ (ទម្លប់)

360

Chùa Ba Trại

1932

ស្រុកភ្នំម្លូ

វត្តសុវណ្ណសាគរ (ព្រះចៅការ)

361

Chùa Mũi Nai

1920

ស្រុកពាម

វត្តគីរីវង្សា (វាលបើស)

362

Chùa Xà Xía

1981

ស្រុកពាម

វត្តខេត្តបរិវេន (កោះចន្លុះ)

363

Chùa Thôn Dôn

1886

ទីក្រុង

វត្តកែវមុនីវង្សា (ជ្រុងយោង)

364

Chùa Rạch Sỏi

1953

ទីក្រុង

វត្តសិរីវង្សសូរិយា (ក្រួស)

365

Chùa Phật Lớn

1504

ទីក្រុង

វត្តឧត្តុង្គមានជ័យ (ចំការត្រើយជើង)

366

Chùa Láng Cát

1412

ទីក្រុង

វត្តរតនរង្សី (ចំការត្រើយត្បូង)

367

Chùa Chắc Băng Cũ

1725

ស្រុកខ្វែងទទឹង

វត្តវង្សពិសីសិរីសុខា (ចាកបាំងចាស់)

368

Chùa Kinh II

1940

ស្រុកខ្វែងទទឹង

វត្តសិរីមានជ័យរមណីយដ្ឋាន (កិញហាយ)

369

Chùa Chắc Băng Mới

1962

ស្រុកខ្វែងទទឹង

វត្តឧត្តមមានជ័យ (ចាកបាំងថ្មី)

370

Chùa Đông Tranh

1725

ស្រុកខ្វែងទទឹង

វត្តអង្គមេត្រីសិរីព្រឹក្សា (ព្រែកពក)

371

Chùa Kè Một

1836

ស្រុកខ្វែងទទឹង

វត្តសិរីឧត្តម (កង្កែបយំ)

Chùa Tà Keo

372

2008

ស្រុកតឹងហ៊

ីប

វត្តរតនារាម (តាកែវ)

373

Chùa Xẻo Ranh

1974

អូរមិញទឿង

វត្តសិរីវង្សាសាគរ (ឆែវរាញ)

374

1990

អូរមិញទឿង

វត្តឧត្តមមានជ័យសិរីព្រឹក្សា (ព្រែកប្រាំ -ង៉ាណាំបិញមិញ)

Chùa Ngã Năm Bình Minh

375

Chùa Xẻo Cạn

1965

អូរមិញទឿង

វត្តសិរីវង្សា (ឆែវក្រាង)

Lình Huỳnh, Thổ Sơn, Hòn Đất Rồng Kè, Bình Giang, Hòn Đất Hòn Me, Thổ Sơn, Hòn Đất Sơn An, Nam Thái Sơn, Hòn Đất Ranh Hạt, Bình Giang, Hòn Đất Chòm Chuối, TT. Hòn Đất, Hòn Đất Sóc Xoài, TT. Sóc Sơn, Hòn Đất Tà Phọt, Phú Mỹ, Giang Thành Tà Ten, Phú Mỹ, Giang Thành Giồng Kè, Phú Lợi, Giang Thành Núi Trầu, Hòa Điền, Kiên Lương Bãy Ớt, Dương Hòa, Kiên Lương Bảy Chà Già, Dương Hòa, Kiên Lương Hòn Chông, Bình An, Kiên Lương Ba Trại, Bình An, Kiên Lương Kp 3, P. Pháo Đài, TT. Hà Tiên, TX. Hà Tiên Xà Xía, Mỹ Đức, TX. Hà Tiên Kp 6, P. An Hòa, Tp. RG 36 Cao Thắng, Kp 3, P.Vĩnh Lợi, Tp. RG 151 Quang Trung, P. Vĩnh Thạnh, Tp. RG 325 Ngô Quyền, P.Vĩnh Lạc, Tp. RG Phong Đông, Vĩnh Phong, Vĩnh Thuận Vĩnh Tây, Vĩnh Phong, Vĩnh Thuận Vĩnh Phước 2, TT. Vĩnh Thuận Đồng Tranh, Vĩnh Bình Bắc, Vĩnh Thuận Bình Hòa, Vĩnh Bình Bắc, Vĩnh Thuận Thanh Trúc, Thạnh Trị, Tân Hiệp Vĩnh Chanh, Hòa Chánh, U Minh Thượng Vĩnh Chanh, Hòa Chánh, U Minh Thượng Vàm Canh A, Thạnh Yên, U Minh Thượng

170

កោះត្រល់

376

Chùa Bồ Đề Hải Đảo

2011

វត្តពោធិទីបារាម (កោះត្រល់)

ấp Đường Bào, Dương Tơ - Phú Quốc

171

TỈNH VĨNH LONG

ខេត្តវិញឡុង(លង់ហោរ)

Chùa Phù Ly 1

ស្រុកអង្គុលី

377

1672

វត្តអង្គុលីរាជាសិរីឧត្តម (អង្គុលីត្បូង)

378

Chùa Phù Ly 2

1672

ស្រុកអង្គុលី

វត្តកំពង់រាជបុប្ផា (អង្គុលីជើង)

379

Chùa Mỹ Bổn

1995

ស្រុកអង្គុលី

វត្តមុនីបុទុម (ព្រែកគោល)

380

Chùa Tòa Sen

1800

ស្រុកអង្គុលី

វត្តសិរីសទ្ធារាម (តាសែន)

381

C. Măng Khol Bô Rây

1060

ស្រុកផ្សារថ្មី

វត្តមង្គលបុរី (ទ្រនំសេក)

382

Chùa Kỳ Sơn

1601

ស្រុកផ្សារថ្មី

វត្តសាលវនឧទ្យា (ព្រែកឈូក)

383

Chùa Hạnh Phúc Tăng

632

កំពង់រលេម

វត្តសង្ឃមង្គល (កំពង់រលេម)

384

Chùa Cần Thay

1559

ស្រុកតាឪន

វត្តសិរីមង្គលតាធាយ (ព្រែកនិស្ស័យ)

385

Chùa Giữa

1684

ស្រុកតាឪន

វត្តសិរីសួស្តីដូនល្អ (កណ្តាល)

386

Chùa Gò Xoài

1530

ស្រុកតាឪន

វត្តមុនីឧត្តម (ស្វាយ)

387

Chùa Gia Kiết

1878

ស្រុកតាឪន

វត្តទេពមង្គលឧត្តម (អន្ទិព)

388

Chùa Cũ

1648

ស្រុកតាឪន

វត្តបូគ៌ាមរិក្សកាលបូព្រឹក្ស (សង់ច្រវាចាស់)

389

Chùa Mới

1879

ស្រុកតាឪន

Phù Ly 1, Đông Bình, Bình Minh Phù Ly 2, Đông Bình, Bình Minh Thuận Tân, Thuận An, Bình Minh Hóa Thành, Đông Thành, Bình Minh Đại Thọ, Loan Mỹ, Tam Bình Sóc Rừng, Loan Mỹ, Tam Bình Trung Thạch, Trung Thành, Vũng Liêm Mỹ Định, Tân Mỹ, Trà Ôn Mỹ An, Tân Mỹ, Trà Ôn Mỹ Bình, Tân Mỹ, Trà Ôn Gia Kiết, Tân Mỹ, Trà Ôn Trà Sơn, Hữu Thành, Trà Ôn Ngãi Lộ A, Trà Côn, Trà Ôn

វត្តកេលបទុមបុប្ផាសាលវនសមន្តរឹទ្ធិ (សង់ច្រវាថ្មី)

ខេត្តបាកសីវ(ពលលាវ) TỈNH BẠC LIÊU

390

Chùa Giá Rai Cũ

ấp 5, TT. Giá Rai

1949

ស្រុកកោះម្ហាត់

វត្តសិរីមានជ័យ (យ៉ារ៉ាយចាស់)

391

Chùa Hộ Phòng Mới

1973

ấp 1, TT. Hộ Phòng

វត្តថ្មីប្រជុ

392

Chùa Hộ Phòng cũ

1946

ấp 4, TT. Hộ Phòng

ំមានជ័យសិរីរតនារាម-ហោផុងថ្មី ំវង្ស (ហោផុងចាស់)

393

Chùa Giá Rai mới

1972

394

Chùa Dì Quán

1849

ស្រុកកោះម្ហាត់ ស្រុកកោះម្ហាត់ ស្រុកកោះម្ហាត់ ស្រុកខ្នារង

វត្តសិរីសាគរប្រជុ វត្តថ្មីសិរីមានជ័យ (យ៉ារ៉ាយថ្មី) វត្តសិរីឧត្តមមុនីជយារាម (កៃខ្វាង)

1629

395

Chùa Ngàn Dừa

ស្រុកខ្នារង

វត្តឧត្តុង្គមានជ័យបូរីប្រឹក្សា (ង៉ាងយឿ)

396

Chùa Khna Ron

1946

ស្រុកខ្នារង

វត្តខ្នារងថ្មីសិរីសោភ័ណ (ខ្នារង)

397

Chùa Đìa Muồng

1956

ស្រុកខ្នារង

វត្តសិរីវង្សាជយារាម (ខ្វែងដង្ហិត)

398

Chùa Đầu Sấu

1901

ស្រុកខ្នារង

វត្តរម្ភាវណ្ណ (ក្បាលក្រពើ)

399

Chùa Kos Thum

1832

ស្រុកខ្នារង

វត្តក្រពុ

ំមានជ័យ (កោះធំ)

400

Chùa Kos Đôn

1903

ស្រុកខ្នារង

វត្តមុនីសិរីសោភ័ណ (កោះដូង)

401

Chùa Kim Cấu

1974

ទីក្រុង

វត្តសុវណ្ណសាគរសិរី (ដើមពោន)

402

Chùa Trà Kha

1974

ទីក្រុង

វត្តសាលាពោធិជុ

ំ (ផ្នោបើស)

403

Chùa Phường 7

1887

ទីក្រុង

វត្តប្រជុ

ំសាគរ (ពលលាវថ្មី)

404

Chùa Xiêm Cán

1887

ទីក្រុង

វត្តគម្ភីរសាគរ (ព្រែកជ្រៅ)

ấp 4, TT. Giá Rai Phú Tân, Ninh Quới, Hồng Dân Trèm Trẹm, TT. Ngàn Dừa, Hồng Dân Ninh Chùa, Ninh Quới, Hồng Dân Vĩnh Lộc, V. Phú Đông, Phước Long Đầu Sấu, Lộc Ninh, Hồng Dân Kos Thum, Ninh Thạnh Lợi, Hồng Dân Bình Bảo, Vĩnh Phú Tây, Phước Long Kim Cấu, Vĩnh Tạch, TX. BL Trà Kha A, P. 8, TX. BL khóm 4, P. 7, TX.BL Biển Đông B, Vĩnh Trạch Đông, TX.BL

405

Chùa Khôsêtaram

1868

ស្រុកខ្វែងបបែល

វត្តឃោសិតារាម (ពលលាវចាស់)

406

Chùa Cái Giá cũ

1573

ស្រុកខ្វែងបបែល

វត្តបុប្ផារាម (ខ្វែងបបែលចាស់)

407

Chùa Vĩnh Thạnh

1965

ស្រុកខ្វែងបបែល

វត្តសិរីវង្សសាគរ (កោះថ្មី)

408

Chùa Cái Giá mới

1937

ស្រុកខ្វែងបបែល

វត្តសុរិយារាម (ខ្វែងបបែលថ្មី)

409

Chùa Hoà Bình mới

1952

ស្រុកពុតធ្លេ

វត្តសិរីវង្សា (ពុតធ្លេថ្មី)

410

Chùa Hoà Bình cũ

1536

ស្រុកពុតធ្លេ

វត្តសិរីពោធិមង្គល (ពុតធ្លេចាស់)

411

Chùa Đìa Chuối

1928

ស្រុកពុតធ្លេ

វត្តសិរីវង្សា (អណ្តូងចេកមាស)

Cù Lao, Hưng Hội, Vĩnh Lợi Cái Giá, Hưng Hội, Vĩnh Lợi Vĩnh Thạnh, Vĩnh Hậu, Vĩnh Lợi Cái Giá, Hưng Hội, Vĩnh Lợi Thị Trấn B, Hoà Bình, Vĩnh Lợi Thị Trấn A, Hoà Bình, Vĩnh Lợi Thành Sơn, Vĩnh Bình, Vĩnh Lợi

172

TỈNH CÀ MAU

ខេត្តកាម៉ាវ(ទឹកខ្មៅ)

Chùa Đầu Nai

412

1841

ស្រុកថើយបិញ

វត្តសិរីជុ

ំបទុមមានជ័យ (ដូវណាយ)

Chùa Rạch Giồng

413

1788

ស្រុកថើយបិញ

វត្តសិរីមង្គល (ជ្រុងខ្មែរ)

Chùa Cao Vân

414

1922

ស្រុកថើយបិញ

វត្តសិរីមានជ័យវង្សស្រង់ (ក្របីឃ្លៀច)

Munivong Bôpharam

415

1964

ទីក្រុង

វត្តមុនីវង្សាបុប្ផារាម (ទឹកខ្មៅ)

Chùa Rạch Cui

416

1921

ត្រឹងវាំងថើយ

ំប្រាសាទ (រាជកូយ)

វត្តជុ

Chùa Tam Hiệp

417

1946

ត្រឹងវាំងថើយ

ấp 12, Tân Lộc, Thới Bình Đường Đào, Hồ Thị Kỷ, Thới Bình ấp 7, Tân Lộc, Thới Bình khóm III, phường I, Tp.CM Rạch Cui, Khánh Bình Đôn, Trần Văn Thời Bình Minh I, Trần Hợi, Trần Văn Thời

វត្តសេរីវង្សា (ញ៉ាម័យ)

ទីក្រុងកឹងធើ(ព្រែកឫស្សី) THÀNH PHỐ CẦN THƠ

Chùa Muni Rengsây

វត្តមុនីរង្សី

418

1948

ទីក្រុងព្រែកឫស្សី

វត្តពិទូឃោសរង្សី

419

1949

Chùa Pithi Khosa Rengsây Chùa Pithi Somrông

វត្តពោធិសំរោង

420

1735

ស្រុកអូរមល់

វត្តសង្វរពោធិញ្ញាណ

421

1704

ស្រុកអូរមល់

Chùa Sanvor Pithi Nhen Chùa Phe Sacha Vone

វត្តភេសជ្ជវ័ន

422

1497

ស្រុកអូរមល់

Chùa Ne Rey Vone

វត្តនារីវណ្ណ

423

1822

ស្រុកអូរមល់

Chùa Serey Vong sa

វត្តសិរីវង្សា

424

1893

ស្រុកអូរមល់

Chùa Ompor Vone

វត្តអម្ពរវ័ន

425

1720

ស្រុកអូរមល់

វត្តព្រហ្មមុនីវង្សា

426

1949

ស្រុកអូរមល់

វត្តមុនីឧត្តមរង្សី

427

1960

ស្រុកអូរមល់

Chùa Prommani Vongsa Chùa Muni Ođom Rengsây Chùa Sét Todor

វត្តសេតុត្តរ

428

1949

ស្រុកអូរមល់

វត្តសាមគ្គីមុនីមាស

429

Chùa Samaky Munimes

1957

ស្រុកដើមត្នោត

36 Hoà Bình, Phường An Cư, TP.CT 27/18 Mạc Định, ទីក្រុងព្រែកឫស្សី P. An Cư, TP.CT Rạch Chùa, TT. Ô Môn, Ô Môn Đồng Hoà, TT. Ô Môn, Ô Môn Thới Bình A, Thới Thạnh, Ô Môn Định Phước, Định Môn, Ô Môn Định Yên, Định Môn, Ô Môn Định Khánh An, Định Môn, Ô Môn Thới Thuận, Thới Lai, Ô Môn Đông Lợi, Đông Hiệp, Ô Môn Thới Hoà B, TT. Cờ Đỏ, Ô Môn Vĩnh Nhuận, Thới Thuận, Thốt Nốt

TỈNH HẬU GIANG

ខេត្តហូវយ៉ាង

430

Bô tum Vongsey

1937

ចូវថាញ់

វត្តបូទុមវង្សី (កៃតាក់)

431

1968

Chùa Khênara Rengsey

ចូវថាញ់

វត្តខេមររង្សី (៧ពាន់)

Chùa Thomma

432

TT. Cái Tắc, Châu Thành 7 Ngàn, Tân Hoà, Châu Thành 8 Ngàn, Tân

1968

ចូវថាញ់

វត្តធម្មរង្សីសេរីស្នរ៍ (៨ពាន់)

Rengsey

433

Chùa Aranh Nhứt

1632

វត្តជោអារញ្ញឹក

ចូវថាញ់

434

1949

ឡុងម៉

វត្តសង្គមមានជ័យ (តម្រា)

Chùa Săngkhum Meanchey

435

Chùa Cai Rone Mới

1974

ឡុងម៉

វត្តពោធិវណ្ណវង្សា (កៃរន្តខាងកើត)

436

Chùa Cai Rone Cũ

1682

ឡុងម៉

វត្តបូរីសិរីជុ

ំ (កៃរន្តចាស់)

437

Chùa Sarray Vongsa

1670

ឡុងម៉

វត្តឧត្តុង្គមានជ័យសិរីវង្សា (ជ្រុង្គាម) វត្តពោធិរង្សី (ទ្វារ)

438

1974

ីថាញ់

វ៉

Chùa Pôthi Rengsây(Trầm Cửa)

វត្តខេមរប្បភាសិរីស្នរ៍ (១៤ពាន់)

439

Chùa 14 Ngàn

1952

ីថាញ់ វ៉

វត្តមហាមង្គលរង្សី (ឃូរ)

440

Chùa Khu

1972

ីថាញ់

វ៉

វត្តអូរជុ

ំវង្សា (កោះស្រួល)

441

Chùa Ôchum Vongsa

1890

ីថាញ់

វ៉

វត្តសាសនរង្សី (វ៉

ីថាញ់)

442

Chùa Vị Thanh

1969

ីថាញ់ វ៉

វត្តរតនប្បភាវរារាម (៩ពាន់)

443

Chùa 9 Ngàn

1990

ីថាញ់

វ៉

វត្តអូរជុ

ំព្រឹក្សា (ទឹកល្អក់)

444

Chùa Tức Lo Ók

1737

ីថ្វី

វ៉

Hoà, Châu Thành Long A, Tân Phú Thạnh, C. Thành ấp 12, Vĩnh Viễn, Long Mỹ ấp 4, Xà Phiên, Long Mỹ ấp 5, Xà Phiên, Long Mỹ ấp 7, Lương Tâm, Long Mỹ ấp 4, Vị Đông, Vị Thanh ấp 4, Vĩnh Trung, Vị Thanh ấp 2, phường 4, Vị Thanh Thạnh Trung, Hoả Lựu, Vị Thanh Khu vực 5, TT. Vị Thanh, Vị Thanh 9 Ngàn, Vị Thanh, Vị Thanh ấp 6, Vị Thuỷ, Vị Thuỷ

173

TỈNH TÂY NINH

ខេត្តតីនិញ(រោងដំរី )

ចូវថាញ់

វត្តសិរីកុមារាម (ភ្នំប្រម៉ា)

445

Chùa Bà Ma

1920

Chùa Khê Đonl

ទីរួមខេត្ត

វត្តបទុមគីរីរង្សី (ស្តរ)

446

1976

Chùa Kà Ốp

តឹងចូវ

វត្តគីរីស្រ្តីមានជ័យ (ក្អូក)

446

1987

ចូវថាញ់

វត្តសិរីអង្គរជុ

ំថ្មី (ឈ្លើយ)

448

1986

Chùa Chlươl (Hiệp Phước) Chùa Chung Rúc

តឹងបៀង

វត្តរាជសទ្ធារតនឧត្តម (ជង្រុក)

449

1990

Chùa Svay (Xác Rát)

ចូវថាញ់

វត្តពន្លឺរតនឧត្តម (ស្វាយ)

450

1998

Thành Tân, Thành Long, Châu Thành Thạnh Đông, Thạnh Tân, TX.TN Cà Ôp, Tân Đông, Tân Châu Hiệp Phước, Hoà Thành, Châu Thành Hoà Đông A, Hoà Hiệp, Tân Biên Đầu Cầu, Ninh Điền, Châu Thành

TỈNH BÌNH PHƯỚC

ខេត្តប៊

ីញភឿក(ទួលតាមោក)

ស្រួល

វត្តរាជមហាជេតវនរាម (ស្រុកធំ)

451

Chùa Sóc Lớn

1931

ចើងថាញ់

វត្តពោធិសត្ថារាម (ញ៉ាបិច)

452

Chùa Bồ Đề

1903

ស្រួល

វត្តសិរីឧត្តម (កនហឹង)

453

Chùa Lộc Hưng

1960

ស្វាយ

វត្តសិរីវង្សា (ស្វាយ)

454

Chùa Svay

2011

វត្តចាឡា

ស្រួល

455

Chùa Chà Là

2018

ấp Sóc lớn, Lộc Thịnh, Lộc Ninh ấp 5, xã Nha Bích, Chơn Thành ấp 4, Lộc Hưng, Lộc Ninh Phường Tân Xuân, TX. Đồng Xoài ấp Chà Là, Lộc Thịnh, Lộc Ninh

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

ទីក្រុងហូជីមិញ(ព្រៃនគរ )

1947

456

Chùa Chantarangsey

វត្តចន្ទរង្សី

ខ័ណ្ឌទី៣

1960

457

Chùa Bothiwong

វត្តពោធិវង្ស

ខ័ណ្ឌតឹងបិញ

164/235 Trần Quốc Thảo, Phường 7, Q. 3 21/2 Bùi Thế Mỹ, Phường10, Q.Tân Bình

TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

ខេត្តវុងតាវ(អូរកាប់)

458

Chùa Nam Sơn

1996

ក្រុងអូរកាប់

វត្តគីរីទក្ខិណាសត្ថារាម (ភ្នំធំ)

459

Chùa Kiri Sakor

1945

វត្តគីរីសាគរ

ក្រុងអូរកាប់

460

2009

ក្រុងអូរកាប់

Tăng xá Sang Khemararam

33/18 Trần Xuân Độ, K. Bình Sơn, P. 6, Tp. VT Nguyễn Kim, P. 4, Tp. VT 634/8C Trần Phú, P. 6 Tp. VT

សមណកុដិសាងខេមារារាម

174

TỈNH ĐỒNG NAI

ខេត្តដូនណៃ

461

Chùa Hoa Sơn Tự

1968

វត្តគីរីបុប្ផារាម

ស្រុកឡុងខាញ់

462

Chùa Thái Hòa

1961

វត្តគីរីមានជ័យ

ស្រុកឌិញក្វាង

Khu phố 2, P. Phú Bình, TX. Long Khánh Km 112, ấp Hiệp Nhất, TT. Định Quán

THỦ ĐÔ HÀ NỘI

រដ្ឋធានីហាណូយ

Chùa Khmer

2013

463

វត្តខ្មែរ

ដុងម៉ោ - សើងតី

Làng Văn hóa - Du lịch các Dân tộc VN, Đồng Mô, Sơn Tây

សារុបវត្តខ្មែរនិងប្រជាជនខ្មែរនៃបណ្តាខេត្តមួយចំនួន Bảng 3. TỔNG SỐ CHÙA KHMER VÀ DÂN SỐ KHMER MỘT SỐ TỈNH THÀNH NAM BỘ

ល.រ.

ខេត្ត/ក្រុង - TỈNH THÀNH

ចំនួនប្រជាជនខ្មែរ - DÂN SỐ NGƯỜI KHMER

01

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

ខេត្តត្រាវិញ (ព្រះត្រពាំង) - Trà Vinh ខេត្តសុកត្រាំង (ឃ្លាំង) - Sóc Trăng ខេត្តគៀងយ៉ាង (ក្រមួន ស) - Kiên Giang ខេត្តអាងយ៉ាង (មាត់ជ្រូក) - An Giang ទីក្រុងកឹងធើ (ព្រែកឫស្សី ) - TP. Cần Thơ ខេត្តហូវយ៉ាង - Hậu Giang ខេត្តបាកលិវ (ពលលាវ) - Bạc Liêu ខេត្តវិញឡុង (លង់ហោរ) - Vĩnh Long ខេត្តកាម៉ាវ (ទឹកខ្មៅ) - Cà Mau ខេត្តតីនិញ (រោងដំរី) - Tây Ninh ខេត្តប៊

12

13

14

ចំនួនវត្ត - SỐ LƯỢNG CHÙA ១៤៣ - 143 ៩២ - 92 ៧៥ - 75 ៦៦ - 66 ១២ - 12 ១៥ ២២ ១៣ - 13 ០៦ - 06 ០៦ - 06 ០៥ - 05 ០០ - 0 ០២ - 02 ០២ - 02

៣១៧.២០៣ នាក់ - 317.203 người ៣៩៧.០១៤ នាក់ - 397.014 người ២១០.២៩៩ នាក់ - 201.299 người ៩០.២៧១ នាក់ - 90.271 người ២១.៤១៤ នាក់ - 21.414 người ២១.១៦៩ នាក់ - 21.169 người ៧០.៦៧៧ នាក់ - 70.677 người ២១.៨២០ នាក់ - 21.820 người ២៩.៨៤៥ នាក់ - 29.845 người ៧.១៥៨ នាក់ - 7.158 người ១៥.៥៧៨ នាក់ - 15.578 người ១៥.៤៣៥ នាក់ - 15.435 người ២៤.២៦៨នាក់ - 24.268 người ៤.៥៧២ នាក់ - 4.572 người

15

០៣ - 03

២.៨៧៨នាក់ 2.878 người

16

០១ - 01

១.២៤៩.៦០១ នាក់

ិញភឿក (ទួលតាមោក) - Bình Phước ិញយឿង (ទួលតាមោក) - Bình Dương ខេត្តប៊ ទីក្រុងហូជីមិញ (ព្រៃនគរ) - TP. Hồ Chí Minh ខេត្តដូនណៃ - Đồng Nai ខេត្តវុងតាវ (អូរកាប់ ព្រះសួគ៌ា) Bà Rịa - Vũng Tàu រដ្ឋធានីហាណូយ - Thủ đô Hà Nội សរុបរួម - TỔNG CỘNG

៤៦៣ - 463 Chùa

1.249.601 Người

175

Phụ lục 2

MỘT SỐ HÌNH ẢNH

Hình 1.1. Nhân dịp Chol Chnam Thmay Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thăm và tặng quà đến Học viện Phật giáo Nam tông Khmer Nguồn: Học viện

Hình 1.2. Chức sắc Phật giáo Nam tông Khmer tham gia thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP. Cần Thơ Nguồn: Mặt trận Cần Thơ

176

Hình 1.3. tham gia bầu cử trưởng Khu vực các cấp

Hình 1.4. tham gia khen thưởng, khuyến học khuyến tài góp phần Đào tạo nguồn nhân lực Phật giáo Nam tông Khmer

Nguồn: Đại đức Thạch Sô Phia

177

Hình 1.5. tham gia thả cá bảo vệ nguồn nước và môi trường

Nguồn: Sư Sô Vanh

Hình 1.6. tham gia công tác từ thiện xã hội

Nguồn: Hội chữ thập đỏ quận Ninh Kiều

178

Hình 1.7. tham gia trao học bổng cho học sinh nghèo

Nguồn: Hội khuyến học thành phố

Hình 1.8. Ươm mầm hữu nghị du học sinh Campuchia

Nguồn: Hội Liên hiệp các tổ chức

179

Hình 1.9. Tham gia Hội liên hiệp thanh niên

Nguồn: Hội Liên hiệp thanh niên

Hình 1.10. Tham gia tặng xe đạp cho học sinh nghèo