HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LÝ HÙNG
VAI TRÒ CỦA TU SĨ PHẬT GIÁO NAM TÔNG
TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI CỦA NGƯỜI KHMER
Ở TÂY NAM BỘ HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH TÔN GIÁO HỌC
HÀ NỘI - 2020
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LÝ HÙNG
VAI TRÒ CỦA TU SĨ PHẬT GIÁO NAM TÔNG
TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI CỦA NGƯỜI KHMER
Ở TÂY NAM BỘ HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH TÔN GIÁO HỌC
Mã số: 9229009 (Cũ: 62220309)
Người hướng dẫn khoa học: 1. TS NGUYỄN QUỐC TUẤN
2. PGS,TS ĐỖ LAN HIỀN
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích
dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Lý Hùng
Trang
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN
7
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
7
1.2. Một số lý thuyết nghiên cứu
22
1.3. Một số thuật ngữ được sử dụng trong luận án
32
Chương 2: KHÁI QUÁT PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER VÙNG
40
TÂY NAM BỘ
2.1. Khái quát về điều kiện địa lý, kinh tế, chính trị, xã hội vùng Tây Nam Bộ
40
2.2. Đặc điểm tôn giáo, tín ngưỡng vùng Tây Nam Bộ
46
2.3. Khái quát về Phật giáo Nam tông Khmer ở Tây Nam Bộ
69
Chương 3: VAI TRÒ CỦA TU SĨ PHẬT GIÁO NAM TÔNG TRONG
ĐỜI SỐNG XÃ HỘI NGƯỜI KHMER TÂY NAM BỘ: THỰC
TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
87
3.1. Vai trò của tu sĩ Phật giáo Nam tông đối với đời sống xã hội người Khmer
88
3.2. Những vấn đề đặt ra
108
Chương 4: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
TU SĨ PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG NGƯỜI
129
KHMER TÂY NAM BỘ TRONG THỜI GIAN TỚI
4.1. Một số giải pháp
129
4.2. Kiến nghị
140
144
KẾT LUẬN
147
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
159
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BTSGHPGVN Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam :
GHPGVN : Giáo hội Phật giáo Việt Nam
HĐKSSYN : Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước
PGNTK : Phật giáo Nam tông Khmer
PGNT : Phật giáo Nam tông
PGVN : Phật giáo Việt Nam
TNB : Tây Nam Bộ
UBND : Ủy ban nhân dân
: UBMTTQVN Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tây Nam Bộ gồm 13 tỉnh, thành với diện tích tự nhiên gần 40.000 km2,
có đường biên giới giáp Campuchia trên 340 km, có dân số khoảng 17,7 triệu
người; trong đó, có khoảng 1,3 triệu người Khmer sinh sống tập trung ở thành
phố Cần Thơ và các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc
Liêu, Cà Mau, Hậu Giang, Vĩnh Long. Đây là vùng có tiềm năng và lợi thế để
phát triển kinh tế và là vùng có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, đối
ngoại và an ninh quốc phòng.
Đồng bào Khmer sống xen kẽ với đồng bào Kinh, Hoa trong các ấp,
phum, sóc. Đa số người Khmer đều là tín đồ và cuộc sống của họ hết sức gắn
bó với các ngôi chùa. Họ xem Phật giáo Nam tông (PGNT) là một tôn giáo
chính thống trong đời sống tinh thần. Bộ máy tự quản truyền thống ở các
phum, sóc người Khmer là những người có uy tín trong đồng bào dân tộc
Khmer do dân làng bầu ra, ngoài ra còn có Ban Quản trị chùa và các vị tu sĩ
Phật giáo Nam tông Khmer cũng nằm trong bộ máy tự quản của cộng đồng.
Riêng đối với Phật giáo Nam tông Khmer (PGNTK) thì trong việc thực
hành tôn giáo, tu sĩ là người “thay mặt Tam bảo” chăm lo phần tinh thần cho
các tín đồ; trong hoạt động Phật sự, xã hội là người điều hành nền hành chính
đạo; trong hoạt động truyền đạo thì họ là trụ cột để phát triển tín đồ. Hơn nữa,
họ là người đại diện cho từng chùa, từng phum sóc nên thường xuyên có mối
quan hệ với cấp uỷ Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể chính trị - xã hội ở địa phương. Với vai trò quan trọng như vậy, tu sĩ
PGNTK luôn có vai trò ảnh hưởng trực tiếp đối với đời sống xã hội trong
cộng đồng người Khmer.
Thực hiện Chỉ thị số 68-CT/TW của Ban Bí thư, Chỉ thị số 19-CT/TW
ngày 10/01/2018, hầu hết các tỉnh, thành trong vùng ban hành nghị quyết
2
chuyên đề về công tác dân tộc, chương trình hành động, kế hoạch thực hiện
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác đối với dân tộc
Khmer. Qua đó, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, tạo được sự nhất
trí, ủng hộ của quần chúng nhân dân trong việc thực hiện các chính sách dân
tộc, nâng cao đời sống cho đồng bào góp phần tích cực vào việc xây dựng
khối đại đoàn kết giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau và giữa đồng
bào có và không có tôn giáo, phát huy được nguồn lực của đồng bào có tôn
giáo trong phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo an ninh chính trị ở địa phương,
cũng như trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
hội nhập quốc tế của đất nước.
Đặc biệt là trong công tác vận động quần chúng nói chung và công tác
vận động tu sĩ PGNTK nói riêng được các cấp ủy Đảng quan tâm, chỉ đạo và
tạo điều kiện cho các vị phối hợp với các ngành chức năng ở địa phương tham
gia vận động quần chúng là Phật tử tích cực lao động sản xuất, thực hiện tốt
nghĩa vụ công dân, đồng hành cùng dân tộc; có ý thức phòng ngừa và đấu
tranh với những hoạt động lợi dụng dân tộc, tôn giáo gây mất ổn định chính
trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
Tuy nhiên xã hội ngày càng biến động và yêu cầu cần xây dựng một xã
hội tốt đẹp, trong đó sự đóng góp của cộng đồng Khmer ở Tây Nam bộ (TNB)
là hết sức quan trọng. Trong xã hội biến động thì xã hội người Khmer cũng
biến động hết sức gay gắt và khắc nghiệt. Đã một bộ phận người Khmer bỏ
tôn giáo của mình, bỏ tôn giáo truyền thống, bỏ phong tục tập quán để đi theo
tôn giáo khác. Ngoài ra còn bỏ phum, sóc để đi nơi khác hoặc đi nước ngoài
định cư dẫn đến bản sắc Khmer không còn thuần túy.
Bên cạnh đó một số ít tu sĩ PGNTK chưa nhận thức đầy đủ về hiến
pháp và pháp luật Việt Nam, có thái độ thiếu hợp tác với chính quyền đi
ngược lại với những gì tốt đẹp của tôn giáo và lợi ích dân tộc. Nhận thức
3
về vai trò của tu sĩ PGNTK của một bộ phận cán bộ trong hệ thống chính
trị chưa đầy đủ và thống nhất; còn xem nhẹ công tác vận động họ trong quá
trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Một số cấp ủy
Đảng, chính quyền còn lúng túng trong việc chỉ đạo giải quyết những vấn
đề có liên quan đến PGNTK; chưa thực sự quan tâm tháo gỡ những khó
khăn vướng mắc thuộc về cơ chế, chính sách liên quan đến PGNTK, trong
đó, có công tác xây dựng lực lượng cốt cán trong PGNTK chưa được quan
tâm đúng mức và phát huy hiệu quả chưa cao.
Mặc khác, vai trò của tu sĩ PGNT hiện nay trong điều kiện phát triển của
đồng sống xã hội đối với người Khmer vẫn còn nhiều vấn đề cần phải bàn
luận liên quan đến vấn đề thực hiện tốt Nghị định số 82/2010/NĐ-CP ngày
15/7/2010 của Chính phủ, về việc tổ chức thực hiện giảng dạy ngôn ngữ
Khmer, Pali, giáo lý tại các điểm chùa của một số tỉnh, thành chưa được quan
tâm đúng mức; việc giữ gìn và bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc chưa được
phát huy một mạnh mẽ. Đặc biệt là vấn đề một số ít tu sĩ trẻ tham gia các hội,
nhóm đi ngược lại lợi ích quốc gia dân tộc; một số chùa còn có biểu hiện mâu
thuẫn giữa Trụ trì chùa với Ban Quản trị; gây mất đoàn kết, chia rẽ trong nội
bộ cộng đồng người Khmer, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị, trật tự
xã hội.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Vai trò của tu sĩ Phật giáo
Nam tông trong đời sống xã hội của người Khmer ở Tây Nam Bộ hiện nay”
để làm luận án tiến sĩ Chuyên ngành Tôn giáo học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về vai trò của tu sĩ PGNT trong đời sống xã hội của người
Khmer ở TNB hiện nay, chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế, từ đó đề ra một
số giải pháp phát huy vai trò của tu sĩ PGNT hơn.
4
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu tổng quát luận án có nhiệm vụ nghiên cứu các nội
dung cụ thể như sau:
- Đặc điểm tình hình vùng TNB và PGNTK.
- Vai trò của tu sĩ PGNT trong đời sống xã hội của người Khmer ở TNB.
- Thực trạng và vấn đề đặt ra đối với tu sĩ PGNT trong đời sống xã hội
của người Khmer ở TNB.
- Đề ra các giải pháp để tiếp tục phát huy vai trò và nâng cao hiệu quả
hoạt động của tu sĩ PGNT trong đời sống xã hội người Khmer ở TNB.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là: “Vai trò của tu sĩ Phật giáo Nam tông
trong đời sống xã hội của người Khmer ở Tây Nam Bộ hiện nay”.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: từ năm 1991 đến nay (từ khi có Chỉ thị 68/CT-TW ngày
18/4/1991 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) về công tác ở
vùng đồng bào dân tộc Khơ - me)
- Không gian: Một số tỉnh, thành vùng TNB.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, dân tộc; chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước đối với dân tộc, tôn giáo. Ngoài ra, luận án còn sử dụng một số lý
thuyết khác để vận dụng phân tích các vấn đề tương ứng trong luận án như:
Lý thuyết cấu trúc - chức năng của tôn giáo; lý thuyết vùng văn hóa; lý thuyết
thực thể tôn giáo…
5
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện luận án này, chúng tôi vận dụng các phương pháp luận
nghiên cứu tôn giáo học mác xít, lý thuyết cấu trúc, chức năng của tôn giáo, lý
thuyết thực thể tôn giáo, lý thuyết vùng văn hóa, lý thuyết hành động xã
hội...Đồng thời, luận án còn sử dụng các phương pháp cụ thể như phương
pháp lịch sử - logic, phương pháp phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh,
quan sát, điền dã, phỏng vấn, khảo sát, tham gia...phương pháp nghiên cứu
chuyên ngành và liên ngành như: phương pháp tôn giáo học, sử học, xã hội học
tôn giáo.
4.3. Cách tiếp cận
Cách tiếp cận dân tộc học và tôn giáo học: Dùng lý thuyết thực thể tôn
giáo (niềm tin, thực hành, cộng đồng) để xem xét mối tương tác giữa tu sĩ
PGNT trong cộng đồng người Khmer.
Cách tiếp cận sử học: Được áp dụng nghiên cứu về lịch sử quá trình
hình thành cộng đồng người Khmer và PGNTK ở TNB.
Cách tiếp cận triết học: Được áp dụng nghiên cứu về vai trò của tôn
giáo như một thành tố của thuộc kiến trúc thượng tầng tác động đến các thành
tố khác của kiến trúc thượng tầng và hạ tầng cơ sở như: Kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội.
5. Đóng góp mới của luận án
Luận án nghiên cứu một cách hệ thống “Vai trò của tu sĩ PGNT trong
đời sống xã hội người Khmer ở Tây Nam Bộ hiện nay”. Qua đó, đề xuất
những giải pháp nhằm phát huy những giá trị tích cực về vai trò của tu sĩ
PGNT trong đời sống xã hội người Khmer ở TNB hiện nay; hạn chế những mặt
tiêu cực còn tồn tại trong đời sống xã hội. Đồng thời, khuyến nghị Đảng và
Nhà nước về việc thực hiện chính sách tôn giáo, dân tộc nói chung; chính sách
đối với PGNTK và dân tộc Khmer nói riêng.
6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần bổ sung cho lý thuyết tôn giáo học đương đại về vai
trò của tu sĩ nói chung, PGNTK nói riêng. Luận án góp phần cung cấp cơ sở lý
luận, thực tiễn, bổ sung, hoàn thiện thể chế, chính sách về dân tộc, tôn giáo nói
chung, dân tộc Khmer và PGNTK nói riêng trong bối cảnh hội nhập quốc tế
như hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả luận án cung cấp những luận cứ khoa học để bổ sung và hoàn
thiện chính sách đặc thù đối với PGNTK nói chung, tu sĩ PGNTK nói riêng.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các
công trình nghiên cứu khoa học, giảng dạy và học tập chuyên ngành tôn giáo
học và các lĩnh vực khác có liên quan.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục,
nội dung chính của luận án được kết cấu gồm 4 chương, 10 tiết:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu và các vấn đề liên quan đến đề tài
Chương 2: Khái quát Phật giáo Nam tông Khmer vùng Tây Nam Bộ
Chương 3: Vai trò của tu sĩ Phật giáo Nam tông trong đời sống xã hội
người Khmer Tây Nam Bộ: thực trạng và một số vấn đề đặt ra
Chương 4: Giải pháp và kiến nghị phát huy vai trò của tu sĩ Phật giáo
Nam tông đối với cộng đồng người Khmer Tây Nam Bộ trong thời gian tới
7
Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1.1. Nhóm công trình liên quan đến vấn đề dân tộc Khmer
Trước năm 1975, vấn đề dân tộc Khmer Nam Bộ - Việt Nam được
nhiều học giả người nước ngoài nghiên cứu, tuy nhiên các công trình của họ
chủ yếu đề cập đến từng khía cạnh riêng biệt về lịch sử, mỹ thuật, kiến trúc
chùa, nghi lễ tôn giáo, sinh hoạt dân gian, thơ ca dân gian. Thời điểm này,
đáng chú ý là công trình“Người Việt gốc Miên” của Lê Hương [62] xuất bản
(1969) tại Sài Gòn và bản ghi chép “Chân lạp phong thổ ký” của Châu Đạt
Quan do Lê Hương dịch (1973), có thể xem là những công trình đầu tiên trình
bày tổng quan khá đầy đủ về người Khmer Nam Bộ - Việt Nam, cụ thể là về
nguồn gốc, dân số, sinh hoạt, xã hội, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn
giáo, văn hóa, giáo dục, kinh tế, địa danh, lịch sử, …. Bên cạnh đó, tác giả
cũng có đề cập đến vấn đề Phật giáo trong cộng đồng người Khmer. Tuy
nhiên tác giả chỉ nghiên cứu trong phạm vi ở tỉnh Vĩnh Bình (tỉnh Trà Vinh
hiện nay) qua các mối quan hệ xã hội, phong tục tập quán, tín ngưỡng; đây là
tư liệu quí để chúng tôi làm cơ sở nghiên cứu luận án.
Sau năm 1975, các công trình nghiên cứu liên quan đến người Khmer
Nam Bộ liên tục được chú trọng và đạt nhiều kết quả đáng quan tâm; trong đó
phải kể đến nhà nghiên cứu Phan An, với các công trình tiêu biểu như: “Vài
khía cạnh dân tộc học về người Khmer ở Việt Nam và Camphuchia” (1980);
“Một số vấn đề kinh tế - xã hội của vùng nông thôn Khmer Đồng bằng sông
Cửu Long - Vấn đề dân tộc ở Đồng bằng sông Cửu Long” (1984); “Dân tộc
Khmer trong các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam)”(1984);
8
“Nghiên cứu người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long” (1985) [1]… Qua
các bài viết, tác giả đã khái quát đầy đủ các khía cạnh về đời sống xã hội của
người Khmer ở Nam Bộ trong những thập niên 80 của thế kỷ XX; đây là cơ
sở để chúng tôi so sánh sự chuyển biến trong đời sống xã hội của người
Khmer trước và sau thời kỳ đổi mới.
Năm 1981, công trình sách “Quá trình phát triển dân cư và dân tộc ở
Đồng bằng sông Cửu Long từ Thế kỷ thứ XV đến thế kỷ thứ XIX” của tác giả
Mạc Đường [45] đã khái quát được quá trình hình thành các tộc người Việt,
Khmer, Hoa và Chăm; đồng thời, làm rõ đặc điểm của các cộng đồng tộc
người này ở đồng bằng sông Cửu Long nhằm làm cơ sở nghiên cứu những
đặc trưng riêng của từng tộc người ở vùng đất Nam Bộ.
Công trình “Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ” do Huỳnh Lứa [68]
chủ biên đã được Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản vào năm
1987; đến năm 2017, công trình này có chỉnh sửa, bổ sung và tái bản; công
trình bằng tiếng Việt, dày 355 trang; các tác giả đã trình bày tiến trình nhân
dân ta khai khẩn và mở mang vùng đất Nam Bộ từ nữa thế kỷ XVII đến giữa
thế kỷ XX, trước hết là để phục vụ việc tìm hiểu sâu và kỷ hơn về hiện trạng,
động thái, tiềm năng của vùng đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam
Bộ. Công trình này đã giúp chúng ta nắm được quá trình hình thành và phát
triển của các dân cư sinh sống ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Công trình “Vấn đề Dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long” [99] Nxb.
Khoa học xã hội, 1991, Hà Nội do Viện Khoa học Xã hội tại thành phố Hồ
Chí Minh thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam chủ biên; công trình dày 324
trang, gồm 7 bài nghiên cứu bằng tiếng Việt do các tác giả: (1) Mạc Đường:
Vấn đề dân cư và dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long, Người Hoa ở đồng
bằng sông Cửu Long; (2) Đinh Văn Liên: Đặc điểm môi sinh và dân số ở
vùng người Khmer đồng bằng sông Cửu Long, (3) Phan An: Một số vấn đề
9
kinh tế - xã hội của vùng nông thôn Khmer đồng bằng sông Cửu Long, (4)
Phan Thị Yến Tuyết: Một số đặc điểm về văn hóa vật chất của người Khmer
và người Chăm ở đồng bằng sông Cửu Long, Truyền thống đấu tranh cách
mạng của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long; (5) Phan Văn Dốp và
Nguyễn Việt Cường: Người Chăm ở đồng bằng sông Cửu Long. Công trình
đã phát họa bức tranh tổng thể các dân tộc chủ yếu đang có mặt ở đồng bằng
sông Cửu Long; đồng thời, đề cập đến khía cạnh của các vấn đề khoa học xã
hội qua nhiều đợt điều tra nối tiếp nhau tại các vùng dân tộc Khmer từ cuối
năm 1977 đến 1986 sẽ giúp ích cho chúng tôi nghiên cứu về tình hình trong
vùng đồng bào dân tộc trước thời kỳ đổi mới; đồng thời ứng dụng cho việc
vạch định chính sách và giải pháp phù hợp trong thời kỳ đổi mới.
Nguyễn Khắc Cảnh (2000) “Các loại hình phum, sóc của người Khmer
đồng bằng sông Cửu Long” [33], tác giả dựa trên những quan sát về các loại
hình phum, sóc của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long đã đưa ra
những nhận định về cấu trúc, tính chất, mối quan hệ xã hội của người Khmer
Nam Bộ. Song song đó, với hai bài viết “Quá trình hình thành tộc người của
người Khmer từ thế kỷ VI đến thế kỷ XIII” và “Sự hình thành cộng đồng
người Khmer vùng ĐBSCL” trong “Văn hoá Nam Bộ trong không gian văn
hoá Đông Nam Á” (2000), tác giả Nguyễn Khắc Cảnh đã làm rõ quá trình
hình thành cộng đồng tộc người của người Khmer nhằm “đánh giá đúng
những mối quan hệ mang tính tộc người, giữa bộ phận người Khmer ở Nam
Bộ - Việt Nam và người Khmer ở Campuchia”. Với những nghiên cứu này
giúp chúng tôi nhận diện mối quan hệ xã hội, các đặc trưng về văn hoá tộc
người của người Khmer Nam Bộ.
Đề tài khoa học: Truyền thống đấu tranh cách mạng của đồng bào
Khmer Nam bộ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (1939-1975)
[96], do cơ quan đặc trách công tác dân tộc ở Nam bộ thực hiện năm 2000-
10
2001 đã trình bày khá đầy đủ chi tiết các cuộc đấu tranh chống lại những bất
công của đồng bào dân tộc Khmer; cũng như sự đoàn kết đấu tranh giữa các
dân tộc công cư trong vùng nhằm chống lại giặc xâm lượt để bảo vệ quê
hương, bảo vệ Tổ quốc từ khi có Đảng đến kết thúc cuộc kháng chiến chống
Mỹ, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Năm 2002, tác giả Nguyễn Mạnh Cường viết về Vài nét về người Khmer
Nam bộ [37] Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. Công trình giới thiệu về người
Khmer Nam bộ như một cộng đồng dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt
Nam với nhiều cách tiếp cận: nhân học, dân tộc học, khảo cổ học, lịch sử, văn
hóa và tôn giáo của người Khmer trong bối cảnh của Nam bộ. Thành công nhất
của công trình là những tư liệu, ghi chép của tác giả về “văn hóa người Khmer
Nam bộ”, tác giả giành nhiều trang viết về phong tục, tập quán, lễ hội, tâm lý lối
sống đến các chùa, tranh tượng, nhạc cụ; ngoài ra, tác giả cũng phản ánh “vấn đề
Phật giáo Khmer” mà giới nghiên cứu Phật giáo Việt Nam rất quan tâm. Song
song đó, tác giả còn có công trình “Tôn giáo - Tín ngưỡng của các cư dân
vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Nxb. Phương Đông, 2004, Hà Nội; với 488
trang, 07 chương đã trình bày bức tranh tổng thể những nét cơ bản về các tộc
người ở đồng bằng sông Cửu Long; cũng như về tôn giáo, tín ngưỡng của từng
tộc người cụ thể. Tác giả Nguyễn Mạnh Cường và Nguyễn Minh Ngọc đã
dành hai chương (II, III) để nói những vấn đề liên quan đến người Khmer,
chương IV nói về người Chăm ở Châu Đốc, chương V, nói về người Hoa ở
miền TNB và Chương V, nói về người Việt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Nhìn chung, qua nội dung công trình các tác giả đánh giá được sự thay
đổi và sự lớn mạnh không ngừng của vùng đồng bằng sông Cửu Long trong
quá trình đổi mới và hội nhập của Việt Nam trên trường quốc tế. Người dân
vùng đồng bằng sông Cửu Long đang hàng ngày, hàng giờ giàu mạnh hơn
trước đây. Các dân tộc anh em cùng chung lưng đấu cật, đoàn kết với nhau
11
trong niềm tin vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trên các mặt
kinh tế, văn hóa- xã hội, chính trị, ngoại giao và an ninh quốc phòng nhằm
chống lại các thế lực thù địch trên mọi mặt trận, nhất là mặt trận tư tưởng, tôn
giáo, tín ngưỡng. Nội dung công trình đã góp phần tìm hiểu bản sắc văn hóa
tộc người, tìm hiểu sâu hơn về quá trình tâm linh- hay đức tin- cái cốt lõi cho
sự bảo tồn và phát triển văn hóa của các tộc người: Kinh, Khmer, Hoa, Chăm.
Đây là tài liệu góp phần rất lớn cho các nhà quản lý nhà nước về công tác dân
tộc, tôn giáo trong vùng TNB; hiểu hơn về đồng bào dân tộc và hiểu hơn về các
tôn giáo tránh xảy ra các xung đột sắc tộc và xung đột tôn giáo như một số
nước trong khu vực Đông Nam Á.
Năm 2005, tác giả Đinh Lê Thư chủ biên sách “ Vấn đề giáo dục vùng
đồng bào Khmer đồng bằng sông Cửu Long” [89], công trình dày 384, gồm 5
chương; trong đó chương 3 giới thiệu về “Giáo dục song ngữ và tình hình song
ngữ Việt - Khmer ở đồng bằng song Cửu Long” và Chương 5 viết về “Vai trò
nhà chùa trong hoạt động văn hóa - giáo dục ở vùng dân tộc Khmer Nam Bộ”
tác giả giới thiệu các chức năng của chùa và tập trung đánh giá vai trò dạy học
chữ Khmer và chữ Pali cho con em trong cộng đồng Khmer tại các điểm chùa
Khmer ở Nam Bộ.
Năm 2006, Ủy ban Dân tộc thực hiện dự án “Điều tra cơ bản tình hình
phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc
Khmer Nam Bộ năm 2006” [97] do Cơ quan Thường trực khu vực đồng bằng
sông Cửu Long thực hiện - Phạm Văn Thới (chủ nhiệm). Nội dung kỷ yếu
bằng tiếng Việt, dày 221 trang; nội dung của dự án được triển khai thực hiện
gồm 4 chuyên đề: (1) Tác dụng, hiệu quả của Chương trình 135; (2) Thực
trạng và những vấn đề đặt ra đối với các xã thuộc Chương trình 135 giai
đoạn II ở vùng dân tộc Khmer Nam Bộ; (3) Các giải pháp để phát huy hiệu
quả giai đoạn I và thực hiện tốt giai đoạn II Chương trình 135 ở vùng dân tộc
12
Khmer Nam Bộ; (4) Đề xuất chính sách và giải pháp mạng tính bức phá cho
các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc Khmer Nam Bộ.
Ngoài ra, trong kỷ yếu có nhiều bài báo cáo tham luận của các cơ quan
làm công tác dân tộc ở Nam Bộ đã khái quát được tình hình phát kinh tế xã
hội vùng đồng bào Khmer của từng địa phương tại thời điểm năm 2006; qua
đó, đặt ra những vấn đề khó khăn, hạn chế trong việc thực hiện triển khai thực
hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong vùng đồng bào dân
tộc thiểu số ở Nam Bộ cần giải quyết; đồng thời, đưa ra những giải pháp và
kiến nghị nhằm thực hiện tốt hơn chủ trương, chính sách đối với vùng đồng
bào dân tộc Khmer.
Năm 2007, Luận án Chuyên ngành Lịch sử “Quá trình thực hiện chính
sách xóa đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước trong cộng đồng người
Khmer tại đồng bằng sông Cửu Long 1992-2002”, Học viện Khoa học Xã hội
vùng Nam Bộ, thành phố Hồ Chí Minh, bằng tiếng Việt, dày 216 trang. Tác
giả Nguyễn Hoàng Sơn [86] đã khái quát được đặc điểm kinh tế - văn hóa - xã
hội truyền thống của cộng đồng người Khmer đồng bằng sông Cửu Long; qua
đó tác giả phân tích được tính chất đặc thù về thực trạng, đặc điểm, nguyên
nhân dẫn đến nghèo đói của người Khmer đồng bằng sông Cửu Long; hệ
thống hóa các kết quả đã đạt được, rút ra thành tựu, kinh nghiệm và những
vấn đề đặt ra; đồng thời kiến nghị các giải pháp thực hiện nhằm góp phần xóa
đói giảm nghèo trong vùng đồng bào dân tộc Khmer.
Đặc biệt, năm 2009, tác giả Phan An có sách “Dân tộc Khmer Nam
Bộ” [2] Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, công trình dày 188 trang của
giúp chúng tôi hiểu thêm về lịch sử, thực trạng đời sống kinh tế xã hội, bản
sắc văn hóa dân tộc của cộng đồng cư dân Khmer tại đồng bằng sông Cửu
Long; bên cạnh đó, tài liệu còn giới thiệu về điều kiện địa lý, dân cư và đặc
biệt là những sinh hoạt văn hóa giàu bản sắc của cư dân Khmer và các dân
13
tộc trong đại gia đình dân tộc đang sinh sống cộng cư. Đồng thời, tác giả
cũng đưa ra những dự báo về sự phát triển đời sống chính trị, kinh tế, xã
hội của đồng bào Khmer trong tương lai nhằm giúp cho các bộ, ban, ngành,
các đơn vị làm công tác dân tộc từ địa phương đến trung ương có những
ứng dụng để đưa ra các giải pháp phù hợp với đặc điểm, tình hình trong
cộng đồng dân tộc Khmer vùng TNB.
Năm 2012, trong sách “Văn hóa Khmer Nam bộ - Nét đẹp trong bản sắc
văn hóa Việt Nam” của tác giả Phạm Thị Phương Hạnh [54], công trình dày
328 trang, tác giả đã khái quát được một số nét về người Khmer Nam Bộ; đồng
thời giới thiệu được nét văn hóa đặc trưng của người Khmer Nam bộ gồm cả
văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần; đồng thời, đưa ra một số giải pháp nhằm
phát huy nét đẹp, những mặt tích cực, những tiềm năng, thế mạnh của dân tộc
Khmer trong sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam trong
thời kỳ phát triển mới của đất nước. Ngoài ra, các tác giả còn sư tầm những
hình ảnh, tư liệu làm nổi bật hơn nét đặc sắc, những thành tự đã đạt được của
đồng bào Khmer trong thời gian qua, nhất là về mặt văn hóa; từ đó khẳng
định sự quan tâm, chăm sóc và tạo điều kiện của Đảng và Nhà nước đối với
sự phát triển mọi mặt của đồng bào Khmer Nam Bộ.
Năm 2015, Luận án chuyên ngành Nhân học “Quan hệ tộc người của
người Khmer ở hai bên biên giới Việt Nam - Campuchia (khu vực Tây Nam
Bộ)” Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội, công trình dày 145 trang [82]. Tác
giả Nguyễn Thuận Quý đã phân tích mối quan hệ của người Khmer ở khu vực
biên giới TNB qua các mối quan hệ trong lĩnh vực của đời sống xã hội. Đồng
thời, phân tích ý thức và hành động của người Khmer đối với quốc gia - Tổ
quốc Việt Nam. Tuy nhiên, với đặc trưng đa tộc người, đa tôn giáo thì vùng
đất TNB vẫn còn nhiều nguy cơ mất ổn định do nhiều nguyên nhân khác nhau
mang tính chủ quan và khách quan. Đồng thời, tác giả cũng đã đưa ra một số
14
kiến nghị đề xuất những giải pháp nhằm góp phần cho công tác quản lý nhà
nước về công tác dân tộc được hiểu quả hơn.
1.1.2. Nhóm công trình liên quan đến Phật giáo Nam tông Khmer
Đề tài khoa học cấp bộ (1999-2000), “Vai trò của chùa Khmer đối với
đời sống văn hóa của đồng bào Khmer Nam Bộ“ của Ủy ban Dân tộc và
Miền núi cơ quan đặc trách công tác dân tộc ở Nam Bộ do Sơn Phước Hoan
(chủ nhiệm) [95]; công trình bằng tiếng Việt, tuy dày chỉ 64 trang nhưng
nhóm tác giả đã trình bày khái quát được thực trạng về đời sống xã hội trong
cộng đồng người Khmer đến năm 2000; khái quát đặc điểm về Phật giáo,
trong đó phân tích khá sâu về vai trò của PGNT đối với đời sống tinh thần của
cộng đồng Khmer Nam Bộ. Song song đó, nhóm tác giả tập trung phân tích
vai trò của chùa đối với đời sống văn hóa của người Khmer; công trình có đề
ra một số kiến nghị nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và tiếp tục
phát huy vai trò của chùa đối với đời sống văn hóa của người Khmer Nam Bộ
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Năm 2000, tác giả Trần Hồng Liên xuất bản tác phẩm Đạo Phật trong
cộng đồng người Việt ở Nam bộ - Việt Nam (Từ thế kỷ XVII đến 1975), Nxb.
Khoa học Xã hội, Hà Nội [65]. Tác phẩm trình bày tìm hiểu tiến trình phát triển
của lịch sử Phật giáo tại vùng đất mới, vai trò của đạo Phật trong đời sống văn
hóa - xã hội của người Việt, làm rõ được tính địa phương và tính dân tộc của
Phật giáo Nam bộ, những đóng góp của PGNT và Bắc tông trong Phật giáo
Việt Nam. Bên cạnh đó có so sánh một số nét cơ bản của PGNT trong người
Việt và người Khmer, mối quan hệ qua lại giữa văn hóa Phật giáo của ba dân
tộc Kinh, Khmer, Hoa ở Nam bộ. Song song đó, tác giả còn đi sâu nghiên cứu
đối với các hình thức thực hành tôn giáo của các tôn giáo này.
Năm 2004, Kỷ yếu hội thảo “Xây dựng đời sống văn hoá vùng dân tộc
Khmer Nam Bộ” [109] do Vụ Văn hoá dân tộc tổ chức tại Hà Nội, tập hợp
15
các bài viết xoay quanh thực trạng xây dựng đời sống văn hoá cho vùng dân
tộc Khmer trong giai đoạn hiện nay và các giải pháp mới. Trong đó có một số
bài viết liên quan đến đề tài là “Để hiểu sâu thêm về Pháp (Dharma), một
trong “Tam pháp báo” của Phật giáo Theravada của người Khmer Nam Bộ”
của Ngô Văn Doanh. “Đạo Phật Tiểu thừa Khmer Nam Bộ ở vùng nông thôn
đồng bằng sông Cửu Long:Chức năng xã hội truyền thống và động thái xã
hội” của Nguyễn Xuân Nghĩa, “Ảnh hưởng của Phật giáo Theravada trong
tang ma người Khmer Nam Bộ” của Nguyễn Mạnh Cường. Đây là nguồn tư
liệu quan trọng để chúng tôi nghiên cứu về vai trò của tu sĩ PGNTK trong đời
sống xã hội. Tuy nhiên, hạn chế của các bài viết là thiếu tính thực tiễn trong
khi nghiên cứu do các nhà nghiên cứu còn chưa có điều kiện xâm nhập thực tế
ở các vùng có đông đồng bào dân tộc Khmer.
Năm 2008, tác giả Nguyễn Mạnh Cường đã xuất bản công trình:
Phật giáo Khmer Nam bộ (Những vấn đề nhìn lại), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội
[36]. Công trình bằng tiếng việt, dày 310 trang, đây là chuyên đề nghiên
cứu sâu về đồng bào dân tộc Khmer, mô tả đời sống tinh thần của người
Khmer Nam Bộ gắn liền với PGNT, những định hướng và những đề xuất
các chủ trương, chính sách phù hợp với tâm tư, nguyện vọng với người
Khmer. Trong công trình này, tác giả đã nêu lịch sử hình thành và phát
triển vùng đồng bằng sông Cửu Long, quá trình hình thành người Khmer
ở Nam bộ, sự hình thành người Khmer khu vực Đông Nam Á, người
Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, mối quan hệ giữa người Môn
với người Khmer.
Công trình khoa học của Nguyễn Tiến Dũng (2014) "Phật giáo Nam
tông với đời sống tinh thần của người Khmer Nam bộ trong bối cảnh toàn cầu
hoá hiện nay" [40]. Qua nghiên cứu cho thấy, tác giả đã phân tích và đánh giá
khá toàn diện những mặt tồn tại của PGNT trong đời sống xã hội của người
16
Khmer Nam bộ. Tuy nhiên, tác giả chủ yếu làm rõ các vấn đề tích cực mà
chưa nêu lên được những yếu tố tiêu cực liên quan. Chẳng hạn như công nghệ
thông tin phát triển tràn làn, các nhà sư Khmer có nhiều điều kiện hơn trong
việc cập nhật kiến thức và nâng cao sự hiểu biết, nhưng nếu không có sự cảnh
giác và quản lý chặt chẽ sẽ dễ dẫn đến nhiều vấn đề phức tạp.
Kỷ yếu hội thảo khoa học với đề tài nhánh: “Chính sách đối với tổ
chức, hội đoàn, chức sắc, nhà tu hành, cơ sở thờ tự của Phật giáo Nam tông
Khmer vùng Tây Nam Bộ” (10/2014), do PGS.TS Hoàng Minh Đô (chủ
nhiệm) [43], Kỷ yếu dày 389 trang và bằng tiếng Việt tập hợp được 17 bài viết
của các nhà nghiên cứu, nhà quản lý về công tác dân tộc, tôn giáo đầu ngành.
Đây là tài liệu có các bải viết nghiên cứu sâu về vùng đất, cư dân, về các thể chế
chính trị trong lịch sử; về tình hình tôn giáo trong cộng đồng người Khmer.
Ngoài ra, các tác giả cũng đặt ra những vấn đề cấp bách cần giải quyết và đưa ra
những giải pháp góp phần để bổ sung, hoàn thiện các chính sách đối với tổ chức,
hội đoàn, chức sắc, nhà tu hành, cơ sở thờ tự của PGNTK và đồng bào Khmer
vùng TNB đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Ngoài ra, tác giả cũng đề cập đến PGNTK - qua quá trình du nhập và
phát triển nơi đây, Phật giáo đến với người Khmer, những triết lý Phật giáo và
kinh kệ mà người Khmer đã thực hành trong hành đạo, PGNT qua quá trình
lịch sử thời kỳ Pháp thuộc, thời kỳ Mỹ Ngụy... Song song đó, tác giả có đề
cập đến vai trò của Sư sãi đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội của
người Khmer, vai trò của Phật giáo trong quản lý cộng đồng phum sóc, vai trò
của chùa trong đời sống người Khmer, một số nghi thức tụng niệm kinh kệ
trong PGNTK. Đồng thời, nêu lên hiện trạng PGNTK và đưa ra những giải
pháp cho sự phát triển bền vững của vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Trang Thiếu Hùng, “Ảnh hưởng của Phật giáo Nam tông đối với tư
tưởng và đạo đức người Khmer tỉnh Trà Vinh”. Tác giả luận án nhận định:
17
“Số lượng thanh thiếu niên Khmer xuất gia (đi tu) ngày càng ít đi không phải
là vấn đề đáng lo ngại, người không xuất gia cũng là người có đạo đức tốt nếu
được giáo dục đầy đủ và sống trong môi trường tốt”. Nhận định trên đặt ra hai
vấn đề đáng quan tâm. Trước hết, “số lượng thanh thiếu niên Khmer xuất gia
ngày càng ít đi” có phần đúng với thực tế, nhưng cũng cần khảo sát lại cho
thỏa đáng. Bởi lẽ, thời gian tu học của sư sãi Khmer không bắt buộc. Họ có
thể tu học vài ngày, vài tháng, vài năm rồi hoàn tục.
Do đó, lấy sự hiện diện của số sư sãi Khmer trong chùa ở một thời
điểm nào đó để đánh giá hiện trạng tu học tăng hay giảm sẽ không tránh khỏi
phiến diện. Còn về nhận định “người không xuất gia cũng là người có đạo
đức tốt nếu được giáo dục đầy đủ và sống trong môi trường tốt” cũng có phần
đúng. Thực tế cho thấy, trước sự tiến bộ xã hội hiện nay, đại bộ phận thanh
thiếu niên, bất luận là tộc người nào đều hướng đến cuộc sống hiện đại. Với
hệ thống giáo dục các cấp được mở rộng, việc học tập ở các trường lớp đối
với thanh thiếu niên là điều dễ thấy, và đó là điều kiện để họ trau dồi đạo đức
và hoàn thiện nhân cách sống tốt hơn. Bài viết đã phản ánh đầy đủ các mặt
tồn tại của PGNTK trong cộng đồng người Khmer đồng bằng sông Cửu Long
nói chung và người Khmer ở Trà Vinh nói riêng, đặc biệt là việc tu học, hành
đạo của tu sĩ PGNTK cũng như thanh thiếu niên dân tộc Khmer.
Bài viết của tác giả Trần Hồng Liên “Sự chuyển đổi tôn giáo trong
người Khmer ở Trà Vinh hiện nay” [66] trình bày khái quát sự chuyển đổi tôn
giáo trong người Khmer ở Trà Vinh. Đồng thời, nêu lên một số nguyên nhân
từ những biến đổi trong sinh hoạt của tu sĩ PGNTK đưa đến tình trạng cải đạo
và đưa ra dự báo xu hướng truyền đạo vào cộng đồng người Khmer thời gian
tới. Tác giả đã đưa ra một số suy nghĩ về hiện tượng cải đạo của người
Khmer: Do sự tiếp và giao lưu văn hóa từ bên ngoài đã làm cho phong tục tập
quán của người Khmer dần bị thay đổi, ngôi chùa ngày càng ít thanh niên
18
Khmer vào tu, một số vị sư cả đánh mất sự ảnh hưởng của mình đối với tín
đồ; Về phía các điểm nhóm Tin Lành chưa được cấp phép hoạt động, họ cần
có ngay một số lượng người theo đạo để có điều kiện được cấp phép nên tìm
mọi cách để lôi kéo người Khmer vào đạo; vẫn còn những bất cập trong việc
thực hiện chính sách nhà nước, đặc biệt là Chương trình 134, 135; Việc tu sĩ
Khmer ngày càng ít đi, trình độ Phật học và thế học có phần hạn chế là cơ hội
để các tôn giáo khác tạo sự ảnh hưởng đối với người Khmer.
Bài viết của Nguyễn Nghị Thanh “Vài nét về biến động của Phật giáo
Nam tông Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long” [87] gồm 3 phần: Đôi nét về
người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long; Những biến động trong lịch sử và
hiện tại của PGNTK ở đồng bằng sông Cửu Long; Một số nhận định và ý kiến
để giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống của PGNTK ở nước ta.
Tác giả đưa ra một vài nhận xét như sau: Địa bàn sinh sống của người
Khmer ở nước ta khá phức tạp nên việc tiếp xúc, gặp gỡ, trao đổi, dựng vợ gả
chồng với người Khmer Campuchia là không tránh khỏi, đây là điều kiện
thuận lợi để các tổ chức phản động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo nhằm
chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta. Trình độ nhận thức của
người Khmer đồng bằng sông Cửu Long còn hạn chế nên khó khăn trong việc
tiếp nhận, nắm bắt đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước. Các cấp ủy Đảng và Nhà nước cần quan tâm tạo điều kiện thuận
lợi để cho đồng bào Khmer yên tâm sinh hoạt tôn giáo; hỗ trợ và giúp đỡ các
chùa tổ chức các lớp dạy và học chữ Khmer, chữ Pali; quan tâm đến việc tu
học của thanh thiếu niên Khmer; bảo tồn, gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa
dân tộc Khmer.
Bên cạnh đó, còn có các công trình sách của các tác giả như: Thạch Voi
(1988), Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam bộ, NXB Tổng hợp Hậu
Giang [108], trình bày về truyền thống văn hóa, các lễ, hội văn hóa, tín
19
ngưỡng, quá trình hình thành dân tộc Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long.
Trường Lưu (1993), Văn hóa người Khmer đồng bằng sông Cửu Long, NXB
Văn hóa dân tộc, trình bày khái quát về tín ngưỡng- tôn giáo, phong tục, tập
quán, lễ, hội, văn hóa, nghệ thuật âm nhạc và biểu diễn, nghệ thuật tạo hình
của người Khmer ở TNB. Đoàn Thanh Nô (2002), Người Khmer ở Kiên
Giang, NXB Văn hóa dân tộc, khảo tả về tên tộc người, dân số, phong tục, tập
quán, tín ngưỡng, tôn giáo, cư trú, sản xuất, họ người Khmer; văn hóa truyền
thống phi vật thể và vật thể; một số di tích lịch sử - văn hóa người Khmer tỉnh
Kiên Giang. Huỳnh Thanh Quang (2011), Giá trị văn hóa Khmer vùng Đồng
bằng sông Cửu long, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật. Tác giả trình bày khá
đặc sắc về những giá trị văn hóa, thực trạng và những vấn đề đặt ra trong phát
huy giá trị văn hóa, phương hướng và giải pháp nhằm phát huy giá trị văn hóa
Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn hiện nay…Tuy đây là
những công trình nghiên cứu sâu về văn hóa nhưng chúng tôi có thể vận
dụng làm tài liệu tham khảo các phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo,
kiến trúc, lễ, hội truyền thống của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu
Long để đưa ra các đặc điểm của dân tộc Khmer nói chung, đặc điểm của
PGNTK nói riêng.
Ngoài ra, chúng tôi cũng nghiên cứu các công trình, bài viết đăng tải
trên các tạp chí như: Phật giáo trong đời sống của người Khmer Nam bộ
của Phan An, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo số 5-2003; Phật giáo tiểu thừa
Khmer ở vùng nông thôn Đồng bằng sông Cửu Long: chức năng xã hội
truyền thống và động thái của xã hội của Nguyễn Xuân Nghĩa, Tạp chí
Nghiên cứu Tôn giáo số 5-2003. Phật giáo Nam tông Khmer trong bối
cảnh thống nhất và hội nhập của Phật giáo Việt Nam của Dương Nhơn,
Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo số 5-2008; Giáo dục truyền thống của người
Khmer (nghiên cứu ở xã Lương Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh),
20
Tạp chí Dân tộc học, số 4/2002; Đời sống đồng bào Khmer trên địa bàn
tỉnh Cà Mau của Danh Xương, Tạp chí Dân vận, số 6/2002; Nghiên cứu về
người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) của Phan An - Tạp
chí Dân tộc học, số 3 - 1985; Một số vấn đề về văn hóa tâm linh của người
Khmer hiện nay dưới góc độ tâm lý học của Hoàng Minh Đoàn, Tạp chí
Dân tộc học, số 4/2006; Đời sống văn hóa cơ sở ở Phum, Sóc Khmer của
Trần Văn Ánh, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 6/2008; Phật giáo Nam tông
Khmer tỉnh Kiên Giang và những vấn đề đáng quan tâm của Nguyễn Đức
Dũng và Danh Lắm, tạp chí nghiên cứu Ấn Độ và Châu Á số 4/2013; Văn
hóa Phật giáo của người Khmer Nam bộ của Cao Xuân Phổ, Tạp chí
Nghiên cứu Đông Nam Á số 2/2004.
Những công trình nêu trên nghiên cứu khá sâu ở một số khía cạnh về
PGNT trong quá trình hội nhập và phát triển, và đi sâu vào tìm hiểu về người
Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long cũng như đời sống văn hóa, giáo dục
truyền thống của người Khmer Nam Bộ. Dưới những góc độ khác nhau các
công trình trên đã đề cập nhiều khía cạnh liên quan đến văn hóa Khmer, vai
trò ảnh hưởng của Phật giáo Khmer Nam bộ đối với đời sống của Nhân dân
đồng bằng sông Cửu Long. Qua đó, đã khái quát được bức tranh khá toàn
diện về đặc điểm tự nhiên, lịch sử hình thành vùng đất và nơi cư trú, sinh hoạt
các dân tộc ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, giúp chúng tôi có nhiều tài liệu
để tham khảo. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào đi vào
nghiên cứu về vai trò của tu sĩ PGNT trong đời sống xã hội của người Khmer ở
vùng TNB.
Nhìn chung, dưới những góc độ khác nhau, các công trình nghiên cứu
của các tác giả đã khái quát được bức tranh khá toàn diện về đặc điểm tự
nhiên, lịch sử hình thành vùng đất; nơi cư trú, sinh hoạt của các dân tộc ở
vùng đồng bằng sông Cửu Long; các tác giả đã cập đến nhiều khía cạnh liên
21
quan đến đồng bào Khmer và vai trò ảnh hưởng của PGNTK đối với đời sống
xã hội của người Khmer ở Nam Bộ. Đây là những công trình góp phần tác
động và có tầm ảnh hưởng rộng đối với công chúng; là những công trình rất
bổ ích, giúp chúng tôi được tiếp cận tìm hiểu, nghiên cứu, tổng hợp và chắc
lọc các kết quả đã nghiên cứu để kế thừa hoàn thiện đề tài luận án.
1.1.3. Những vấn đề đặt ra cần nghiên cứu
Đề tài luận án “Vai trò của tu sĩ Phật giáo Nam tông trong đời sống xã
hội của người Khmer ở Tây Nam Bộ hiện nay” là bước nghiên cứu phát triển
tiếp theo của đề tài luận văn thạc sĩ “Vai trò của sư sãi Phật giáo Nam tông
trong đời sống xã hội của người Khmer ở thành phố Cần Thơ hiện nay” tại
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, ở cấp độ cao học, luận
văn chủ yếu dừng lại ở việc khảo tả vấn đề trong phạm vi hẹp của một địa
phương mà chưa đi sâu luận giải vấn đề mang tính lý luận. Mặt khác, vai trò
của tu sĩ PGNT trong đời sống xã hội của người Khmer ở TNB hiện nay chưa
được nghiên cứu một cách hệ thống và mang tính chuyên đề nên có rất nhiều
vấn đề còn bỏ ngõ cần phải tiếp tục nghiên cứu làm rõ. Để thực hiện được đề
tài này chúng tôi tìm hiểu, nghiên cứu các nội dung sau:
Một, vận dụng những phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc, tôn giáo.
Hai, tiếp tục tìm hiểu vai trò của tu sĩ PGNTK trong đời sống xã hội của
người Khmer ở TNB; đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm giúp các vị tu sĩ
PGNTK tiếp tục phát huy vai trò của mình trong bối cảnh hội nhập quốc tế
như hiện nay.
Mặt khác, để thực hiện đề tài luận án “Vai trò của tu sĩ Phật giáo Nam
tông trong đời sống xã hội của người Khmer ở Tây Nam Bộ hiện nay”, chúng
tôi tập trung nghiên cứu có hệ thống để trả lời các câu hỏi sau:
Một, đặc điểm và tình hình PGNTK ở TNB hiện nay như thế nào?
22
Hai, vai trò của tu sĩ PGNTK đối với đời sống xã hội trong cộng đồng
người Khmer ở TNB hiện nay ra làm sao?
Ba, những vấn đề cần giải quyết trong hoạt động của tu sĩ PGNTK hiện nay?
Bốn, giải pháp nào để tu sĩ PGNTK tiếp tục phát huy vai trò của mình
đối với cộng đồng người Khmer trong bối cảnh như hiện nay?
1.1.4. Giả thuyết nghiên cứu
Một, tu sĩ PGNTK thực sự có vai trò đối với cộng đồng người
Khmer không?
Hai, phải chăng, hoạt động của tu sĩ PGNTK đang có những những vấn
đề bất cập cần giải quyết?
Ba, cần phải có chính sách đặc thù gì đối với tu sĩ PGNTK để các tu sĩ có
điều kiện phát huy vai trò của mình trong cộng đồng người Khmer?
1.2. MỘT SỐ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU
1.2.1. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Nghiên cứu liên ngành là vận
dụng, sử dụng tri thức của nhiều môn khoa học để làm rõ các vấn đề đặt ra
thông qua các câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu đề tài: “Vai trò của tu sĩ
Phật giáo Nam tông trong đời sống xã hội của người Khmer ở Tây Nam Bộ
hiện nay”.
- Phương pháp hệ thống - cấu trúc: Hệ thống - cấu trúc là nhằm tiếp
cận hệ thống đi từ chỉnh thể đến các thành tố hợp thành. Qua đó, phân tích
cấu trúc tôn giáo của PGNTK qua đặc điểm tôn giáo, xu hướng phát triển theo
quy luật trong một chỉnh thể thống nhất nhàm làm rõ thực trạng hoạt động, xu
hướng hoạt của tu sĩ PGNTK.
- Phương pháp phân tích tài liệu: Phân tích tài liệu là sử dụng những
thông tin trong tài liệu để rút ra những thông tin cần thiết đáp ứng mục tiêu
nghiên cứu của đề tài; phương pháp này thu thập thông tin gián tiếp, không
23
tiếp xúc với đối tượng khảo sát, chủ yếu được thực hiện trong thư viện, thư
phòng. Bên cạnh đó, với sự bùng nổ của khoa học công nghệ giúp nguồn
thông tin thêm đa dạng, phong phú sẽ là điều kiện thuận lợi cho chúng tôi dễ
dàng thu thập và xử lý thông tin.
1.2.2. Cơ sở lý thuyết
Tôn giáo là một thể văn hóa thống nhất nhiều tầng diện và là hiện
tượng văn hóa - xã hội khá phức tạp; có quan hệ chặt chẽ đến sự vận động
biến đổi của văn hóa tinh thần nên chuyên ngành Tôn giáo học hiện nay sử
dụng rất nhiều lý thuyết trong quá trình nghiên cứu. Tuy nhiên trong luận án
này, chúng tôi chủ yếu sử dụng một số lý thuyết để vận dụng phân tích các
vấn đề tương ứng, phù hợp với đề tài như sau:
Chúng tôi vận dụng phương pháp luận, quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc, tôn giáo để phân tích và lý giải
những vấn đề đặt ra trong đề tài luận án nhằm làm rõ hơn vai trò của PGNTK
nói chung, tu sĩ PGNTK nói riêng trong đời sống xã hội ở vùng TNB.
- Sử học tôn giáo: Sử học tôn giáo có mối quan hệ mật thiết với sử học,
khảo cổ học; nó nghiên cứu tôn giáo thông qua mô tả lịch sử, khảo sát ngôn
ngữ, thực tiễn khảo cổ. Sử học tôn giáo là xuất phát từ lịch sử phát triển mà
tôn giáo đã trải qua để nhận thức về bản chất tôn giáo; nhiệm vụ của nó là
nghiên cứu sự thật lịch sử của các loại tôn giáo, vạch ra con đường phát triển
lịch sử của nó. Chúng tôi sử dụng lý thuyết này để chiếu rọi những sự kiện
lịch sử đã diễn ra trong quá trình tồn tại và phát riển của PGNTK trên vùng
đất Nam Bộ - Việt Nam.
- Xã hội học tôn giáo: Xã hội học tôn giáo cho rằng tôn giáo chính là
nhân tố kết cấu của xã hội loài người có nội dung hết sức hiện thực. Xã hội
học tôn giáo khi lý giải tôn giáo thường sử dụng chức năng (thuyết chức
năng), nhấn mạnh chức năng, tác dụng của tôn giáo trong đoàn thể xã hội. Sử
24
dụng lý thuyết này, chúng tôi chủ yếu quan tâm đến chức năng xã hội của
PGNTK nói chung, tu sĩ PGNTK nói riêng đối với cộng đồng người Khmer ở
Nam Bộ - Việt Nam.
1.2.3. Khung lý thuyết nghiên cứu
1.2.3.1. Lý thuyết thực thể tôn giáo
Nghiên cứu bài viết “Tiếp cận hệ thống về thực thể tôn giáo: Một cách
nhìn khác về tôn giáo”, Nghiên cứu tôn giáo, số 3 (129) phát hành năm 2014
của tác giả Nguyễn Quốc Tuấn, chúng tôi nhận thấy: Khái niệm thực thể tôn
giáo đã được giới nghiên cứu ở Phương Tây đề cập đến từ khá lâu, nhưng nó
mới được sử dụng trong những thập niên gần đây. Năm 1992, khái niệm
“thực thể tôn giáo”, xuất hiện trong cuốn sách cùng tên của Jean
Deelumeau và trở thành đề tài tranh luận sôi nổi trong giới học thuật pháp
và Châu Âu (Đức, Bỉ. Năm 2002, Régis Débray công bố bài: Thực thể tôn
giáo: các định nghĩa và vấn đề làm rõ hơn thuật ngữ thực thể tôn giáo và
chỉ ra ba đặc tính của nó: (1) Là thực thể nhận biết và thừa nhận của tất cả
mọi người; (2) Là thực thể không bị xét đoán về bản chất, trạng thái luân lý
và đạo đức cũng như nhận thức lý luận khi thừa nhận; (3) là thực thế mang
tính toàn thể.
Tại Việt Nam, qua bài viết “Một số lý thuyết nghiên cứu tôn giáo
đương đại” Nghiên cứu tôn giáo, số 02 (170), 2018 của tác giả Nguyễn Phú
Lợi cho rằng: Trước đây cách tiếp cận của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề
tôn giáo chủ yếu dưới góc độ là hình thái ý thức xã hội, thậm chí còn đồng
nhất tôn giáo với ý thức hệ. Một ví dụ điển hình là trong tập bài giảng về tín
ngưỡng, tôn giáo dành cho lớp cao cấp lý luận chính trị của Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1997, viết: “Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng
về bản chất, tôn giáo chỉ là hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã
hội”..Sau khi có sự đổi mới về công tác tôn giáo (đánh dấu bằng sự ra đời
25
Nghị quyết số 24 của Bộ Chính trị); vấn đề tôn giáo được nhận thức lại rằng:
tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã hội mà còn là một thực thể xã
hội đúng theo tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin. Việc nghiên cứu tôn giáo
với tư cách là một thực thể xã hội của giới nghiên cứu ở Việt Nam qua hai
giai đoạn gắn với hai mô hình lý thuyết “tứ tố” (bốn yếu tố) và lý thuyết “ ngũ
tính” (năm tính chất). Cụ thể như sau:
Mô hình lý thuyết “tứ tố”: Đặng Nghiêm Vạn là người đầu tiên coi tôn
giáo là một “thực thể” khách quan của xã hội trong cuốn Bước đầu tìm hiểu
đạo Cao Đài, xuất bản năm 1995. Theo ông, quan điểm này đã được K. Marx
khẳng định qua luận điểm nổi tiếng: “Nhà nước ấy, xã hội ấy sản sinh ra tôn
giáo” và được các nhà tôn giáo học quyền uy như M. Weber, É.Durkhiem
thừa nhận. Theo tác giả, sở dĩ coi tôn giáo là một thực thể xã hội, bởi vì nó
“mang tính cộng đồng, tính xã hội”. Hơn nữa, ông còn cho rằng: “Trong tôn
giáo có vấn đề ý thức hệ, nhưng cũng không hẳn chỉ là ý thức hệ, mà còn gắn
với văn hóa với lối sống của nhà tôn giáo học dân tộc, từng khu vực”. Tán
thành quan điểm của nhà tôn giáo học người Pháp Y.Lambert, và người tôn
giáo học ngưới Nga, G.V.Plekhanov, tác giả Đặng Nghiêm Vạn cho rằng một
tôn giáo gồm có bốn yếu tố cấu thành: “có một niềm tin, một nội dung, những
nghi thức, những quy chế về tổ chức, những kiêng cử của nó”. Ông viết:
“một tôn giáo nào cũng bao gồm một hệ thống niềm tin, được hình thành
do những tình cảm thông qua những hành vi tôn giáo biểu hiện rất khác
nhau,…được quy định bởi một nội dung mang tính siêu thực (hay siêu
nghiệm), nhằm tập hợp những thành viên thành một cộng đồng có tính xã
hội”. Theo tác giả, một cộng đồng tôn giáo bao giờ cũng có hai bộ phận:
những người quản lý điều hành theo thiết chế được định ra (tổ chức quản lý
hay gọi là tổ chức giáo hội) và những tín đồ thường. Thuyết “tứ tố” (tức
bốn yếu tố: niềm tin, nội dung hay giáo lý, giáo luật; nghi lễ hay thực hành
26
đức tin và cộng đồng) trên đã được tác giả phân tích khá sâu sắc trong cuốn
sách Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam do Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia ấn hành năm 2003.
Quan điểm trên được hầu hết giới nghiên cứu trong nước thừa nhận và đã
được dựa vào giảng dạy từ nhiều năm nay. Tập Đề cương bài giảng về tín
ngưỡng và tôn giáo (cùng cho các lớp bồi dưỡng kiến thức lý luận về tín ngưỡng
và tôn giáo (dùng cho các lớp bồi dưỡng kiến thức lý luận về tín ngưỡng và tôn
giáo) của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1997, viết: “Tôn giáo
là hình thái ý thức xã hội, đồng thời cũng là một thực thể xã hội”. Cuốn những
đặc điểm cơ bản của một số tôn giáo lớn ở Việt Nam viết: “Tôn giáo vừa là một
hình thái ý thức xã hội, vừa là một hình thể xã hội. Với tư cách là một hình thái ý
thức xã hội, tôn giáo luôn phản ánh tồn tại xã hội”. Tập bài giảng dành cho hệ
đào tạo lý luận chính trị của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh từ năm
2001 đến nay đều viết “Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, về bản chất, tôn giáo
không chỉ là hình thái ý thức xã hội mà còn là một thực thể xã hội”.
Nhìn chung, cách tiếp cận lý thuyết “thực thể tôn giáo” để nghiên cứu
đã khắc phục được cách nhìn nhận phiến điện về tôn giáo trên phương diện là
một “hình thái ý thức xã hội”. Mặc dù cách tiếp cận tôn giáo theo thuyết thực
thể với bốn yếu tố (niềm tin; giáo lý, giáo luật; nghi lễ và tổ chức) này được
giới khoa học Việt Nam và luật pháp Việt Nam thừa nhận phổ biến. Tuy
nhiên, nó chưa được làm rõ về mặt lý thuyết. Nói cách khác tiếp cận tôn giáo
theo thuyết “bốn yếu tố”, trên thực tế mới chỉ dừng lại ở việc chỉ ra các cấu
trúc trong cấu thành của một tôn giáo, nghĩa là cái nội tại bản thân tôn giáo
chứ chưa thấy được tôn giáo là một tiểu hệ thống bên cạnh các tiểu hệ thống
khác của tổng thể xã hội.
Mô hình thuyết “ngũ tính”: Trước đây, tôn giáo được nhìn nhận tôn
giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã hội nhưng nghiên cứu tôn giáo ở
27
Việt Nam đã có quan điểm đổi mới với việc nhìn nhận tôn giáo là một thực
thể xã hội đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhận thức xã hội, về vấn
đề tôn giáo đã được nâng cao. Thậm chí ngày nay không chỉ người ta nhìn
nhận tôn giáo với tư cách là “một thực thể khách quan của xã hội”. Mà còn là
“một một nguồn lực trí tuệ”, “một nguồn lực xã hội”, “một nguồn vốn xã hội”
có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, xã hội. Rõ ràng, với cách
nhìn nhận như vậy thì việc tiếp cận tôn giáo theo thuyết “tứ tố” sẽ không thỏa
mãn được yêu cầu, đòi hỏi của tôn giáo trong xã hội hiện đại. Vì thế, một số
nhà tôn giáo học đặt lại vấn đề cần có cách tiếp cận thực thể tôn giáo một
cách thực tế hơn và rộng lớn hơn. Người nêu lên vấn đề này là tác giả Nguyễn
Quốc Tuấn, khi ông cho rằng, việc nhìn nhận tôn giáo là một thực thể khách
quan của xã hội đã được các nhà khoa học Việt Nam như Đặng Nghiêm Vạn,
Nguyễn Duy Hinh đề cập tới, nhưng chưa làm rõ nội hàm của nó.
Từ cách đặt vấn đề đó, qua các bài viết: Tiếp cận hệ thống về thực thể
tôn giáo và triển khai lý thuyết thực thể tôn giáo đăng trên tạp chí nghiên cứu
Tôn giáo số tháng 3 và tháng 10 năm 2014, dựa vào các công trình nghiên cứu
lý luận của các học giả Phương Tây, Nguyễn Quốc Tuấn đã làm rõ nội hàm lý
thuyết thực thể tôn giáo. Theo đó một thực thể tôn giáo được xem là một tiểu
hệ thống trong tổng thể xã hội, bao gồm năm đặc tính (ngũ tính), để phân biệt
nó với thực thể xã hội khác theo hai chiều thời gian và không gian, một thuộc
về lịch sử và bốn thuộc về thiết chế xã hội.
Theo đó, thực hiện tôn giáo vừa là một thực thể lịch sử (hay tính lịch
sử), đồng thời là một thực thể xã hội với bốn đặc tính: tính tập thể, tính vật thể
hay tính tài liệu, tính biểu tượng, và tính trải nghiệm và nhạy cảm. Năm đặc
tính đó đều song tồn không thể chia tách hay phân biệt theo thứ tự thời gian
lẫn vị trí không gian cao thấp như một thực thể xã hội. Chúng tạo thành một
hệ thống trong tổng thể xã hội. Theo tác giả một xã hội có thể chia làm năm
28
tiểu hệ thống cơ bản: (1) kinh tế, (2) văn hóa, (con người sáng tạo), (3) nhà
nước - thể chế chính trị, (4) tôn giáo (tâm linh), (5) hệ sinh thái và môi
trường. Năm tiểu hệ thống này không tồn tại riêng rẽ mà chúng có sự liên hệ,
tương tác và xung đột, biểu lộ bằng sự cân bằng hoặc mất cân bằng tùy thời
điểm và không gian lịch sử. Năm tiểu hệ thống này đến lượt nó lại là một hệ
thống của các hệ thống dưới cho đến các hệ thống vi mô, có nghĩa, chỉnh thể
xã hội là một cấu trúc tổng thể mà mỗi hệ thống nhỏ hơn là một thực thể xã
hội của tổng thể.
Như vậy, thực thể tôn giáo là một khái niệm dùng để chỉ toàn bộ thực
thể tôn giáo tồn tại trong lịch sử đồng thời là một thiết chế và kết cấu của đời
sống xã hội, chịu tác động từ các mối quan hệ và tương tác với các thiết chế
xã hội khác. Thực thể xã hội là một tiểu hệ thống có vai trò trong hệ thống xã
hội tổng thể, có một cấu trúc riêng so với các tiểu hệ thống khác, nhưng có
quan hệ tương tác (cả chiều thuận lẫn chiều nghịch) đối với các tiểu hệ thống
khác: tôn giáo và chính trị, tôn giáo và kinh tế, tôn giáo và giáo dục, tôn giáo
và sức khỏe…Khi xác định tôn giáo như một thực thể xã hội gồm “ngũ tính”
(5 tính chất): tính lịch sử, tính tập thể, tính vật chất, tính biểu tượng, tính trải
nghiệm và nhạy cảm, có nghĩa là một thực thể tôn giáo, nhìn theo hệ thống
luận là một tiểu hệ thống của tổng thể xã hội. Ở cấp độ tiểu hệ thống, có thể
coi thực thể tôn giáo được phân tích như một tổng thể xã hội, nhưng tự thân,
nó cũng là một cấu trúc được vận hành trên bốn nguyên tắc tương tác với các
tiểu hệ thống khác như một quan hệ chỉnh thể, trên cơ sở tổ chức của chính nó
và của cả hệ thống xã hội, trong mối quan hệ nhân quả và đan chéo, phức tạp,
làm nên phức hợp tôn giáo - văn hóa - chính trị của tổng thể xã hội.
Như vậy, lý thuyết thực thể tôn giáo đã và đang được áp dụng nghiên
cứu ở Việt Nam hiện nay bao gồm hai mô hình: mô hình thuyết “tứ tố” và mô
hình thuyết “ngũ tính”. Đây không phải là hai mô hình tách biệt nhau, mà là
29
sự tiếp nối trong nghiên cứu nhằm làm rõ hơn tôn giáo với tư cách là một thực
thể xã hội. Nghiên cứu thực thể tôn giáo theo thuyết “tứ tố” sẽ có điều kiện đi
sâu làm rõ các yếu tố tạo thành cái tôn giáo nói chung hay của một tôn giáo cụ
thể nói riêng. Trong khi, nghiên cứu thực thể tôn giáo cụ thể nói riêng. Trong
khi, nghiên cứu thực thể tôn giáo theo thuyết “ngũ tính” sẽ có điều kiện đi sâu
làm rõ các yếu tố tạo thành tôn giáo với tư cách là tiểu hệ thống trong các mối
quan hệ với các thực thể xã hội khác (kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, môi
trường), của tổng thể xã hội. Hai mô hình lý thuyết này đã và đang được
nghiên cứu để bổ trợ cho nhau góp phần nghiên cứu sâu hơn về tôn giáo nói
chung và phát huy giá trị tích cực của tôn giáo nói riêng cho sự nghiệp phát
triển đất nước.
1.2.3.2. Lý thuyết thế tục hóa
Nghiên cứu bài viết của tác giả Nguyễn Phú Lợi “Một số lý thuyết
nghiên cứu tôn giáo đương đại” trên tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 02
(170), 2018, trang 3-20, chúng tôi nhận thấy rằng: Thế tục hóa là thuật ngữ do
giới nghiên cứu tôn giáo Phương Tây sử dụng nhằm chỉ một xu hướng về con
người, về thế giới trần gian, thế giới hiện tại của con người. Thế tục hóa xuất
hiện cùng với phong trào Cải cách tôn giáo, đặc biệt từ trào lưu thế kỷ Ánh sáng
với các nhà tư tưởng khẳng định sự thắng thế của khoa học đối với thần học.
Những nhà tư tưởng lớn của thế kỷ 19,20, như: Auguste Comte,
Herbert Spencer, Karl Marx, Émile Durkheim, Max Weber, và
Sigmund Freud, tất cả đều tin rằng với sự phát triển của xã hội công
nghiệp, tôn giáo sẽ mất dần tầm quan trọng và sẽ không còn có ý nghĩa
đối với xã hội hiện đại. Lý thuyết thế tục hóa về sự suy tàn của tôn
giáo tập trung vào hai luận điểm chính: Một là, sự hình thành một thế
giới quan duy lý dẫn đến sự xói mòn niềm tin tôn giáo. Hai là, sự
chuyên biệt hóa chức năng xã hội trong xã hội công nghiệp dẫn đến sự
30
suy yếu chức năng của các tổ chức tôn giáo đối với đời sống xã hội và
hệ lụy của nó là sự suy yếu của chính tôn giáo [60].
Tuy nhiên, theo quan điểm của các nhà lý luận của thuyết thế tục hóa
đương đại, thế tục là sự chuyển giao quyền lực từ tổ chức tôn giáo cho tổ chức
thế tục, bao gồm hai khía cạnh: chủ quan và khách quan. Khía cạnh chủ quan
liên quan đến tư tưởng tôn giáo, cảm giác và hình ảnh thu được từ sự hiểu biết
về sự vật trên thế giới khiến cho tôn giáo không còn tồn tại như một lực lượng
độc lập, hoặc chỉ giới hạn ở sự thờ phụng cái siêu việt trừu tượng. Điều đó
dẫn đến tình trạng con người thực hiện các nghĩa vụ, giải quyết và tổ chức
cuộc sống hàng ngày không cần đến thần thánh. Nói đúng hơn là con người
đã dành lại vị trí trung tâm thay vì Chúa để có thể quyết định vận mệnh của
mình. Về khách quan, thế tục hóa là quá trình bộ máy tôn giáo, các tổ chức và
nghi lễ tôn giáo đi váo cuộc sống công cộng như trong giáo dục, lập pháp,
hành chính và chính phủ. Nó làm giảm bớt vai trò của giới luật và nghi thức
tôn giáo trong hoạt động hằng ngày của cá nhân và nhóm xã hội. Như vậy
theo quan điểm thế tục mới, trong khi nhận thấy sự gia tăng ổn định của thế
tục hóa, nó vẫn nhấn mạnh đến sự tác động của tôn giáo đến xã hội hiện đại ở
những mức độ đậm nhạt khác nhau.
Tại Việt Nam, lý thuyết thế tục hóa đã được giới nghiên cứu áp dụng từ
lâu trong nghiên cứu tôn giáo và đã đạt được những thành tựu nhất định. Theo
Nguyễn Thị Minh Ngọc, lý thuyết thế tục hóa đương đại có ba mô hình chủ
đạo. Mô hình thứ nhất cho rằng, trong xã hội hiện đại, các giá trị tôn giáo
không nhất thiết làm cho tôn giáo suy giảm trong xã hội, mà nó vẫn có vai trò
nhất định trong xã hội hiện đại. Mô hình thứ ba: thế tục hóa là sự tự giới hạn
mở đường cho sự hồi sinh hoặc đổi mới tôn giáo mà là cho người có đức tin
gắn ý tưởng và thực hành tôn giáo của họ với thế giới trần tục nhằm khẳng
định tầm quan trọng của sự linh thiêng.
Nhìn chung, lý thuyết thế tục hóa đương đại xem xét tôn giáo ở hai góc
31
độ: thứ nhất, sự suy giảm quyền lực tôn giáo trong đời sống cá nhân, thể hiện
ở sự suy giảm niềm tin tôn giáo giáo cá nhân, giảm sút sự tham gia hoạt động
tôn giáo cá nhân diễn ra khá phổ biến trên thế giới. Thứ hai, tôn giáo hòa nhập
vào đời sống xã hội. Thế tục hóa diễn ra hai phương diện: về thể chế là sự
tách tôn giáo khỏi chính trị (nhà nước), khỏi các lĩnh vực công, và trong thực
hành niềm tin tôn giáo là sự giảm bớt tính thiêng, nhập thế sâu hơn vào đời
sống xã hội. Thế tục hóa còn diễn ra trên ba cấp độ: cá nhân, tổ chức và xã
hội. Ở cấp độ cá nhân, là sự giảm sút thực hành tôn giáo và niềm tin truyền
thống, được thể hiện ở những mức độ khác nhau của các chiều kích tôn giáo
khác nhau. Ở cấp độ tổ chức, thể hiện sự tác động của các định chế và ứng xử
xã hội vào tôn giáo. Ở cấp độ xã hội, là quá trình tách nhà nước (chính trị),
giáo dục, luật pháp, kể cả đạo đức khỏi giáo hội, nhà thờ tôn giáo, tôn giáo.
Tóm lại, lý thuyết thế tục hóa đương đại đưa ra một “mô hình mới”,
theo đó, tôn giáo không còn chiếm ưu thế trong xã hội hiện đại, song nó cũng
không bị mất đi hoàn toàn. Thế tục hóa không phải là quá trình đơn hướng mà
là một quá trình đa hướng và phức tạp, trong khi xuất hiện một số hiện tượng
chứng tỏ sự suy giảm của tôn giáo, cũng xuất hiện các hiện tượng ngược lại,
điển hình là sự xuất hiện và bùng phát của các hiện tượng tôn giáo mới.
Những biến đổi và sự đa dạng của tôn giáo trong quá trình thế tục hóa, một
mặt thể hiện sự suy giảm sự ảnh hưởng của tôn giáo trong đời sống xã hội,
mặt khác chứng tỏ tôn giáo đang tự điều chỉnh để thích nghi với xã hội hiện
đại. Thế tục không làm cho tôn giáo mất đi, nhưng diện mạo của nó có nhiều
thay đổi, xuất hiện định hướng giá trị đa dạng, cục diện tôn giáo thống trị bị
thay đổi bởi trạng thái đa dạng háo, tạo cơ hội cho các tôn giáo, nhất là tôn
giáo nhóm nhỏ bình đẳng trước nhà nước (pháp luật) các tổ chức tôn giáo ứng
xử với nhau trên tinh thần khoan dung và tự do cạnh tranh, tôn giáo không chỉ
32
mất đi sự độc quyền cung cấp các gái trị mà còn phải cạnh tranh với các tổ
chức phi tôn giáo trong xã hội hiện đại.
1.3. MỘT SỐ THUẬT NGỮ ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN
- Thuật ngữ “Vùng”: Vùng là thuật ngữ địa lý được sử dụng theo nhiều
cách khác nhau tùy theo từng ngành khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi
nghiên cứu của đề tài luận án, khái niệm Vùng hoặc Vùng TNB) được hiểu: là
diện tích trung bình của một vùng đất... hoặc theo cách hiểu thông thường,
một vùng là một bộ phận giới hạn của không gian trái đất.
- Khái niệm “Tôn giáo”: Thuật ngữ “Tôn giáo” có rất nhiều định nghĩa,
Từ Điển Tôn Giáo của tác giả Marguerite-Marie Thiollier, do Lê Diên dịch từ
nguyên bản tiếng Pháp, đã đưa ra định nghĩa về tôn giáo như sau: Tôn giáo
bao hàm, một mặt, một sự tìm kiếm sự thật về nguồn gốc của thế giới và
cứu cánh của nó, về nguồn gốc con người và những quan hệ của nó với
thần thánh, mặt khác, một tập hợp những tín ngưỡng, một nhu cầu thương
yêu và xúc cảm, một quan hệ hài hòa giữa vũ trụ vi mô và vũ trụ vĩ mô; nó
là sự thể hiện của cái thiêng và sự tổ chức những nghi thức cá nhân và xã hội
theo định chế.
Tại Việt Nam, thuật ngữ “tôn giáo” được định nghĩa rất ngắn gọn trong
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo như sau: “Tôn giáo là niềm tin của con người tồn
tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý,
giáo luật, lễ nghi và tổ chức” [75, tr.08].
- Khái niệm “Phật giáo”: Phật giáo là một “tôn giáo” được thiết lập nên
bởi đức Phật Thích Ca, vì phúc lợi của chúng sanh, vì hạnh phúc của chúng sanh
và vì sự tiến bộ của thế giới con người nhằm hướng dẫn và phát triển con người
bằng cách làm cho thân tâm trong sạch (thông qua con đường đạo đức); làm cho
thân tâm bình lặng (thông qua con đường thiền tập), và làm khai sáng tâm linh
con người (thông qua con đường trí tuệ). Phật giáo là một tôn giáo chủ trương
33
sự thực hành của chính bản thân mỗi người. Chỉ có mình mới thực hành mình,
giải quyết vấn đề tâm linh và những đau khổ của mình và chính mình giải
thoát cho mình. Và sau đó, giúp đỡ người khác đi theo con đường đạo vì lòng
từ bi và để tu dưỡng thêm lòng từ bi đối với họ.
- Khái niệm “hệ phái Nam tông” và “hệ phái Bắc tông”: Tên gọi Nam
tông, Bắc tông đã cho thấy sự khác biệt rõ nét của hai tông phái Phật giáo lớn
nhất tại Việt Nam. Tuy nhiên, dù có sự khác biệt về cách thức tu tập, giáo lý,
nhưng Nam tông và Bắc tông vẫn có sự tương đồng cơ bản. Điều này cho
thấy, Phật giáo cho dù có phân chia về hình thức, nhưng vẫn chung một tôn
chỉ, đó là sự giác ngộ tuyệt đối để thoát khỏi sự luân hồi, thoát khỏi vòng sinh
tử. Những điểm tương đồng của hai hệ phái có thể tóm tắt như sau:
Một là, cả Nam tông và Bắc tông đều nhìn nhận Đức Phật là bậc đạo
sư, là người thầy đầu tiên của Phật giáo. Đức Phật là người khai ngộ trí tuệ
cho con người, chỉ ra cho con người con đường giác ngộ, từ bỏ được sân si để
đi đến giải thoát; là một nhà tư tưởng chứ không phải là một vị thần có nhiều
quyền năng.
Hai là, cả hai tông phái đều phủ nhận về đấng tối cao sáng tạo và ngự
trị thế giới. Điều này khác với nhiều tôn giáo hữu thần khác. Vì vậy, nhiều ý
kiến cho rằng, Phật giáo là một hệ tư tưởng triết học chứ không phải là một
tôn giáo, hoặc đó là tôn giáo vô thần.
Ba là, Nam tông hay Bắc tông đều chấp nhận và hành trì giáo lý Tứ
thánh đế, Bát chánh đạo, Duyên khởi, Thập nhị nhân duyên…; đều chấp nhận
Tam pháp Ấn: khổ, không, Vô ngã; đều chấp nhận con đường tu tập: Giới,
Định, Tuệ.
Sự tương đồng giữa Bắc tông và Nam tông là nền móng căn bản của
của giáo lý nhà Phật, là cơ sở tất yếu để hai hệ phái tồn tại và phát triển.
Nhưng theo sự phát triển của mình, hai hệ phái với sự khác biệt mà phần lớn
về bề nổi, đã bộc lộ rõ những ưu điểm cũng như hạn chế của mình.
34
- Khái niệm “Đời sống xã hội”: Khi bàn đến về thuật ngữ “đời sống xã
hội”, tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu mà cách tiếp cận đưa ra những luận
giải thích khác nhau về thuật ngữ này. Tuy nhiên, thuật ngữ “Đời sống xã
hội” cũng đã có rất nhiều tài liệu đã đề cập đến; cụ thể theo tác giả Lương
Văn Úc có quan niệm rằng:
Đời sống xã hội được hiểu là tổng thể các hiện tượng phát sinh do sự
tác động lẫn nhau của các chủ thể xã hội và cộng đồng tồn tại trong
những không gian nhất định, là tổng thể hoạt động của xã hội nhằm
đáp ứng các nhu cầu của con người. Thông qua các hoạt động của các
bộ phận cấu trúc xã hội, mỗi cá nhân bằng nổ lực của mình tạo dựng
cuộc sống riêng cho mình. Cuộc sống của cá nhân trước hết phụ thuộc
vào chính bản thân họ như: sức khỏe, trí thông minh, nhân cách, sự
cần cù, bền bỉ trong học tập và lao động, các đặc tính tâm lý cá nhân.
Tiếp đó phụ thuộc vào môi trường và hoàn cảnh xã hội như: gia đình,
xóm làng, nhà trường, các tổ chức xã hội, chế độ chính sách và pháp
luật của Nhà nước, sự phát triển kinh tế xã hội và các điều kiện sống
và làm việc [85, tr.192].
Trong phạm vi đề tài, chúng tôi hiểu: Đời sống xã hội là tổng thể các
hiện tượng phát sinh do sự tác động lẫn nhau của các chủ thể xã hội và cộng
đồng tồn tại trong những không gian và thời gian nhất định, là tổng thể hoạt
động của xã hội nhằm đáp ứng các nhu cầu của con người. Theo cách hiểu
này, đời sống xã hội là một phạm trù rất rộng lớn, nhưng trong phạm vi luận
án, chúng tôi tiếp cận đời sống xã hội trên 03 phương diện cơ bản đó là: đời
sống kinh tế - xã hội, đời sống chính trị và đời sống văn hóa - xã hội, cụ thể
như sau:
Đời sống kinh tế - xã hội: bao gồm tổng thể các điều kiện về kinh tế -
xã hội, hệ thống các chính sách kinh tế, chính sách xã hội cũng như quá trình
35
triển khai thực hiện, áp dụng chúng trong thực tế xã hội. Nền kinh tế - xã hội
phát triển năng động, bền vững sẽ là điều kiện thuận lợi cho việc đảm bảo đời
sống vật chất, tinh thần cho các tầng lớp nhân dân. Ngược lại, khi nền kinh tế
- xã hội phát triển chậm, thiếu bền vững sẽ có ảnh hưởng tiêu cực tới chất
lượng cuộc sống cho đối tượng này.
Đời sống chính trị: là toàn bộ các yếu tố tạo nên đời sống chính trị của
đất nước nói chung, của mỗi địa phương nói riêng ở từng giai đoạn lịch sử
nhất định, gồm đời sống chính trị, hệ thống các chuẩn mực chính trị, chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, của các cấp ủy
Đảng ở địa phương và quá trình tổ chức thực hiện chúng; các quan hệ chính
trị và ý thức chính trị; hoạt động của hệ thống chính trị; cùng với đó nền dân
chủ xã hội và bầu không khí chính trị - xã hội.
Đời sống văn hóa - xã hội: là môi trường gắn liền với một phạm vi
không gian - xã hội nhất định, nơi các cá nhân và cộng đồng xã hội tổ chức
các hoạt động sống, lao động, sinh hoạt, cùng nhau tạo dựng, thừa nhận và
chia sẻ các giá trị văn hóa, ngôn ngữ, lối sống, phong tục, tập quán, tôn giáo,
tín ngưỡng.
- Khái niệm“tu sĩ”: Nghiên cứu Luật Tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam
chúng tôi không thấy đề cập đến thuật ngữ “tu sĩ” mà chỉ đề cập đến “nhà tu
hành”. Do đó, khi nghiên cứu tài liệu Bách khoa toàn thư mở có định nghĩa:
“Tu sĩ hay nhà tu hành, thầy tu là người tu dưỡng tôn giáo khổ hạnh, sống
một mình hoặc với một nhóm các thầy tu khác trong tu viện. Thầy tu có thể là
người cống hiến cuộc đời mình để phụng sự chúng sinh hoặc là một người tu
hành khổ hạnh tránh xa trần thế để sống cuộc sống cầu nguyện và chiêm
nghiệm cuộc đời”. Tuy nhiên, chúng tôi nhận định rằng định nghĩa trên chỉ
mang tính tương đối và chưa hoàn toàn phù hợp với từng tôn giáo cụ thể. Bởi
vì không phải tôn giáo nào cũng “khổ hạnh” và không phải tu sĩ nào cũng
36
“tránh xa trần thế”, trường hợp tu sĩ PGNTK là một ví dụ điển hình. Các tu sĩ
Khmer luôn thực hành theo giáo lý và tuân thủ giới luật Đức Phật nhưng chưa
phải là những người tu khổ hạnh. Hơn nữa, tu sĩ Khmer không tránh xa trần
thế, họ vừa thực hành theo giáo lý nhà Phật, học kinh kệ, thực hiện các nghi lễ
tôn giáo…nhưng vẫn tham gia công tác xã hội, vẫn tới lui thăm gia đình,
người thân của mình và giúp đỡ cộng đồng dân tộc trong việc tổ chức và sinh
hoạt văn hóa.
Chữ “tu” mang ý nghĩa rèn luyện, chỉnh sửa, thay đổi, uốn nắn bản
thân... cho phù hợp với chuẩn mực đạo đức nào đó. Chữ “sĩ” có nghĩa là
người có học thức, người có hiểu biết sâu rộng. Trong PGNT nói chung, tu sĩ
là các nhà sư, chư tăng, tăng sĩ, bần tăng, sư sãi, là bậc xuất gia và sinh sống
trong các ngôi chùa. Họ luôn trau dồi phẩm hạnh và đạo đức, rèn luyện và
uốn nắn bản thân cho phù hợp với giới luật của Đức Phật và Hiến chương của
Giáo hội Phật giáo Việt Nam và đóng góp công sức cho sự phát triển của tôn
giáo và dân tộc. Tu sĩ chính là người xuất gia tu học. Do đó, tu sĩ Khmer có
vai trò quan trọng trong đời sống xã hội của người Khmer, nếu họ tránh xa
trần thế thì chắc chắn rằng văn hóa Khmer sẽ sớm bị mai một và tan biến theo
thời gian. Trong phạm vi bài viết các thuật ngữ và khái niệm như: tu sĩ, tăng
sĩ, bần tăng, nhà sư, sư sãi, chư tăng, người xuất gia, nhà tu hành đều có
nghĩa như nhau.
- Dân tộc Khmer: Ngày 02/3/1979, Tổng cục Thống kê đã ra Quyết
định số: 121-TCTK/PPCĐ chính thức ban hành “Danh mục các thành phần
dân tộc Việt Nam” để dùng thống nhất trong cuộc tổng điều tra dân số năm
1979, cũng như trong công tác thống kê thường xuyên, công tác nghiên cứu.
Theo đó, trong danh mục các dân tộc Việt Nam thì tên dân tộc “Khmer” (tên
được cộng đồng người Khmer Nam Bộ quen dùng hiện nay) được viết là:
“Khơ-me; tên gọi khác là: Cur, Cul, Cu, thổ, Việt gốc Miên, Khơ-me Krôm”
37
Tuy nhiên, ngày 29/9/1981, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Chỉ
thị số 117/CT-TW về công tác đối với đồng bào Khmer để “thống nhất cách
dùng tên gọi dân tộc Khmer, người Khmer, người Việt (người Kinh), không
được dùng những tên gọi không chính xác hoặc hàm ý miệt thị như người
Miên, người Thổ, người Việt gốc Miên, Duôn v.v...”
Mặc khác, trong thực tiễn, việc áp dụng tên dân tộc: “Khơ-me” hoặc
“Khmer” vẫn chưa thống nhất trong các văn bản của các cơ quan trong hệ
thống chính trị ở Việt Nam nhưng việc sử dụng dân tộc “Khmer” đang được
thể hiện trong tác phẩm báo chí và nghiên cứu khoa học cũng vậy. Trong hệ
thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN), với tên gọi “Phật giáo Nam
tông Khmer” đã và đang được sử dụng vượt khởi biên giới quốc gia dân tộc.
Do đó, chúng tôi việc sử dụng tên dân tộc “Khmer” theo tinh thần của Chỉ thị
117/CT-TW thay vì sử dụng từ “Khơ-me” theo Quyết định số: 121-
TCTK/PPCĐ. Nếu trong chuyên đề hoặc luận án có sử dụng dân tộc “Khơ-
me” (do trích dẫn nguyên văn của các tác giả) thì cũng được hiểu là dân tộc
“Khmer”; nghĩa là dân tộc “Khơ-me” và “Khmer” là cùng một tộc người ở
Việt Nam.
- Phật giáo Nam tông Khmer: Năm 1950, tại Đại hội Liên hữu Phật
giáo Thế giới (WFB) ở Srilanka đã có qui định cách gọi Phật giáo Tiểu
thừa (Theravada) Phật giáo Nguyên thủy - Thượng tọa bộ thành PGNT
hoặc Phật giáo Nam truyền, từ đó khái niệm Phật giáo Bắc tông
(Mahayana) Phật giáo Bắc truyền và PGNT ra đời và sử dụng đến hiện nay.
Hiện nay thuật ngữ “Phật giáo Nam tông Khmer” được dùng trong hệ
thống GHPGVN để phân biệt PGNT của người Kinh và PGNT trong cộng
đồng người Khmer ở Nam Bộ. Do vậy, trong Phật giáo Việt Nam có các
tên gọi riêng cho các tổ chức, hệ phái khác nhau, trong đó có PGNT Kinh
và PGNTK.
38
Tiểu kết chương 1
Tôn giáo và dân tộc là hai vấn đề lớn luôn được nhiều quốc gia trên thế
giới đặc biệt quan tâm. Tôn giáo có ảnh hưởng lớn tới đời sống và tiến trình
phát triển của nhiều dân tộc, quốc gia. Việt Nam là nước đa tôn giáo, Phật
giáo với hai hệ phái Nam tông, Bắc tông là một trong những tôn giáo có mặt
sớm nhất ở Việt Nam. PGNT tồn tại và phát triển chủ yếu trong đồng bào
Khmer ở Nam Bộ (tập trung chủ yếu ở 09 tỉnh, thành phố ở TNB). PGNT là
một trong những tông phái Phật giáo có nguồn gốc từ Phật giáo ở Ấn Độ. Hệ
phái này được du nhập vào miền Nam Việt Nam vào khoảng thế kỷ thứ XIII
sau Công nguyên bằng con đường hàng hải quốc tế.
Thời kỳ Vương quốc Phù Nam, nơi đây là một trung tâm lớn giao lưu
buôn bán đường biển giữa Ấn Độ với các nước Đông Nam Á, do đó, Vương
quốc này đã chịu ảnh hưởng rất lớn của văn hóa Ấn Độ. Khi PGNT đến đây
được người Khmer đón nhận một cách nồng nhiệt và nhanh chóng đã chiếm
lĩnh được vị trí trong đời sống tinh thần của người Khmer. Qua quá trình chọn
lọc, người Khmer đã chọn PGNT làm tôn giáo cho mình và đã ăn sâu vào
trong tâm hồn của người Khmer đã có sức ảnh hưởng gần như đến mọi mặt
của đời sống xã hội của dân tộc này.
Phật giáo Nam tông có sức ảnh hưởng rộng rãi, với triết lý nhân sinh
cao cả, nhằm hướng con người đến việc giải thoát khỏi nổi khổ, hướng đến
chân - thiện - mỹ, sống hòa thuận và yêu thương. Bởi vậy, đạo Phật thực sự là
chỗ dựa tinh thần cho một bộ phận đông đảo quần chúng trong xã hội. Trải
qua nhiều thế kỷ, PGNT đã đem đến vùng đất Nam Bộ một sắc thái riêng biệt
trong việc thực hành tôn giáo … Nét riêng đó là bản sắc văn hóa của vùng đồng
bào Khmer Nam Bộ.
Người Khmer ở Nam Bộ coi PGNT là tôn giáo truyền thống duy nhất
không thể thiếu được trong đời sống tâm linh và trong sinh hoạt đời thường
39
của họ. Nói đến dân tộc Khmer ở Nam bộ cũng chính là nói đến tôn giáo của
người Khmer ở khu vực này, và ngược lại khi nói đến PGNTK cũng là nói
đến đồng bào Khmer đang sinh sống ở đây. Tôn giáo và dân tộc đối với đồng
bào Khmer ở Nam Bộ có quan hệ hữu cơ không thể tách rời.
Tuy nhiên, PGNTK ở TNB, cũng có những tác động tiêu cực đến đời
sống của người Khmer, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như vị trí
địa lý, lịch sử dân tộc, kinh tế, chính trị,... PGNT làm cho người Khmer lối
sống thụ động, cam chịu. Với quan niệm cuộc sống ở trần gian chỉ là tạm bợ
nên người Khmer luôn bằng lòng, chấp nhận cuộc sống thiếu thốn ở đời này
và chăm chỉ lo tích đức cho đời sau; sự lệ thuộc quá nhiều của người Khmer
vào Phật giáo và sự đóng góp cho Phật giáo quá lớn so với thực lực kinh tế
làm cho đời sống kinh tế của người Khmer thêm nghèo đói. Bên cạnh đó,
với tâm lý sống gửi thác về, người Khmer cũng ít quan tâm đến chuyện học
hành, nâng cao trình độ hiểu biết. Đặc biệt, những năm gần đây, PGNTK ở
TNB đã và đang bị sử dụng như một công cụ hữu hiệu nhằm thực hiện chiến
lược diễn biến hòa bình ở Việt Nam.
Do đó, việc giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp của
PGNTK nói chung, tạo điều kiện để tu sĩ PGNTK phát huy vai trò của mình
trong xóa đói giảm nghèo, ổn định chính trị xã hội, nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của đồng bào Khmer trước những biến động của xã hội cũng như
hạn chế việc lợi dụng tu sĩ và Phật tử Khmer để chia rẽ khối đại đoàn kết dân
tộc, tôn giáo của các thế lực thù địch là rất cần thiết.
40
Chương 2
KHÁI QUÁT VỀ VÙNG TÂY NAM BỘ
VÀ PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER
2.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN ĐỊA LÝ, KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI
VÙNG TÂY NAM BỘ
2.1.1. Đặc điểm vị trí, địa lý
Tây Nam Bộ có 13 tỉnh, thành phố gồm: Long An, Tiền Giang, Bến Tre,
Đồng Tháp, Trà Vinh, Vĩnh Long, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau,
Hậu Giang, An Giang và Kiên Giang. Diện tích tự nhiên gần 4 triệu ha, bờ biển dài 743 km, vùng lãnh hải rộng 36.000 km2, có 143 hòn đảo (trong đó có 44
đảo có dân cư sinh sống). Môi trường tự nhiên ở TNB phong phú và đa dạng,
có đồng bằng, có núi, có rừng, có biển, có đảo, có nhiều sông lớn với hệ thống
kênh rạch trằn trịt tạo nên nguồn lực dồi dào về lương thực và thực phẩm.
Nhìn chung, vùng TNB có tài nguyên thiên nhiên trù phú, màu mỡ, là
điều kiện rất thuận lợi cho phát triển kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp và lợi thế
này đã được khai thác, tận dụng tối đa trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, trình
độ sản xuất và năng lực lao động của vùng nói chung, vùng đồng bào dân tộc
Khmer nói riêng còn kém so với mặt bằng chung cả nước. Điều này cũng gây
nên những hạn chế nhất định như chất lượng tăng trưởng thấp, kém bền vững,
ô nhiễm môi trường, suy thoái nguồn tài nguyên. Thực tế này đòi hỏi các cấp
ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các Đoàn thể chính trị -
xã hội phải có những chiến lược phát triển mới phù hợp với bối cảnh hiện tại
nhằm ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của vùng trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của cả nước.
2.1.2. Đặc điểm về tộc người
Quá trình hình thành tộc người được diễn ra nhờ sự tiếp xúc giữa những
người trong tộc người. Điều này chỉ có thể xảy ra nếu họ sống bên cạnh nhau,
41
nghĩa là cùng chung một lãnh thổ. Cộng đồng lãnh thổ như vậy là điều kiện
trước hết để hình thành tộc người. Đặc điểm nổi bật của tộc người là tính bền
vững của nó, tộc người tồn tại từ thế kỷ này qua thế kỷ khác. Mỗi một tộc
người có một sự thống nhất nội tại nhất định, cũng như những đặc điểm riêng
biệt, khác với tộc người khác.
Về đặc điểm dân số và nhân khẩu học, toàn vùng có khoảng gần 18 triệu
người, chiếm 20% dân số cả nước. Với 57,2% dân số đang trong độ tuổi lao
động (khoảng 10,3 triệu người), đây là tỷ lệ dân số vàng để phát triển kinh tế
nhưng chất lượng lao động của vùng lại ở mức thấp. Trong đó, đồng bào Kinh
có dân số đông nhất, chiếm khoảng 90%; đồng bào Khmer có trên 1,2 triệu
người (chiếm 7%), đồng bào Hoa có khoảng 192.000 người (chiếm 1,1%),
đồng bào Chăm có khoảng 15.000 người (chiếm 0,08%). Ngoài ra còn có một
số dân tộc khác với dân số khoảng 4.600 người (chiếm 0,02% so với dân số
toàn vùng). Lợi thế về vấn đề dân tộc ở TNB là đồng bào các dân tộc cùng
sinh sống xen kẽ, gần gũi với nhau, có truyền thống đoàn kết tốt đẹp từ lâu
đời. Song, vấn đề dân tộc tại đây có một số đặc điểm cần quan tâm:
Một, đồng bào các dân tộc thiểu số vùng TNB (Khmer, Hoa, Chăm) là
các dân tộc giàu bản sắc, có tiếng nói, chữ viết phát triển đủ để sử dụng trên
mọi phương diện, có phong tục, tập quán tốt đẹp, có nền văn hóa phong phú,
đa dạng được giữ gìn và phát huy từ lâu đời. Song, đồng bào Khmer, Hoa,
Chăm đều là dân tộc thiểu số đã, đang sinh sống xen kẽ, gần gũi với dân tộc
đa số, nên bị tác động nhất định từ văn hóa của dân tộc đa số, bên cạnh mặt
tích cực cũng dễ làm cho văn hóa dân tộc thiếu số có phần lu mờ, phai nhạt là
điều khó tránh khỏi. Do đó, đẩy mạnh việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc thiểu số là việc làm thường xuyên, lâu dài nhằm tạo điều kiện
thuận lợi đế đồng bào hòa nhập vào xu thế phát triến chung của đất nước,
nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa của dân tộc mình.
42
Hai, đồng bào các dân tộc thiếu số trong vùng có mối quan hệ với người
dân một số quốc gia về mặt văn hóa, tôn giáo. Đồng bào Hoa có mối quan hệ
với người Hoa ở Trung Quốc và nhiều nước trên thế giới thông qua các tổ
chức hội đoàn bởi yếu tố đồng tộc, kinh tế, văn hóa. Đồng bào Chăm có quan
hệ gần gũi với người Chăm ở Campuchia và cộng đồng người Hồi giáo trên
thế giới, nhất là Malaysia và Indonesia bởi yếu tố đồng tôn. Đồng bào Khmer
có mối quan hệ truyền thống với người Khmer ở Campuchia từ lâu đời trên
các lĩnh vực, bởi yếu tố đồng tộc, đồng tôn, đồng văn hóa. Các mối quan hệ
đó, bên cạnh mặt tích cực, cũng nảy sinh những vấn đề phức tạp cần được
quan tâm.
Trong cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam, mỗi một nghề, mỗi một đặc
điểm sinh hoạt của mỗi một tộc người đều có cái riêng của nó. Cái khác của
đồng bào Khmer trong phát triển kinh tế là ý thức hệ dân tộc - hệ tư tưởng tín
ngưỡng tôn giáo. Người Khmer TNB thích một cuộc sống thảnh thơi, an
nhàn, kinh tế chủ yếu là hoạt động nông nghiệp. Họ không thích hơn thua,
cạnh tranh, đua chen để làm giàu lớn. Họ thường chịu nhịn, chịu thua thiệt để
tránh chuyện bất hòa. Công việc làm ăn của họ đều trông ở số phận, họ tin
rằng khi họ sống tốt thì cuộc sống mới trở nên tốt đẹp và giàu được. Quan
niệm sống của họ không thiên nhiều về vật chất mà thiên về tinh thần, họ
thường quyên góp xây dựng chùa khang trang, nguy nga, đồ sộ trong khi đó
đại đa số nhà cửa của đồng bào bằng tre lá chỉ đủ che mưa, che nắng. Họ luôn
có tinh thần chuẩn bị và đầu tư hết mực cả về vật chất và tinh thần cho chùa,
cho Phật mà quên cả bản thân nơi trần thế. Như vậy có thể thấy rằng người
Khmer TNB họ sống theo một định hướng là để ngày mai - kiếp sau về được
cõi Niết Bàn, khi chết vào chùa.
Song song đó, xã hội tộc người Khmer có những sản phẩm độc đáo
mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc trong lĩnh vực điêu khắc, kiến trúc, vũ trụ,
43
dân ca… tất cả đều có nguồn gốc sâu xa cũng chính từ chùa PGNTK mà ra, vì
những con người được đào luyện ra đều từ đội ngũ lao động kỹ thuật có trình
độ, tay nghề cao. Các kỹ thuật lao động xã hội đã được tích lũy và phát triển
là do đội ngũ sư sãi Phật giáo Khmer truyền dạy vốn kiến thức này cho dân
Sóc. Đó chính là tiềm năng, nguồn lực, bảo đảm sự phát triển cho một nền
kinh tế xã hội.
Như vậy, sự hình thành tộc người Khmer TNB mang một số đặc điểm
đáng lưu ý như sau:
- Thứ nhất, xuất phát từ nguồn gốc dân cư nông nghiệp, xã hội Khmer
mang tính thuần nông, lấy canh tác nông nghiệp làm hoạt động kinh tế
chủ yếu.
- Thứ hai, xã hội Khmer TNB mang tính truyền thống cơ bản, cơ chế
quán lý lưỡng hợp, mang tính chất thiên về tinh thần hơn là vật chất.
- Thứ ba, xã hội Khmer TNB chủ yếu hình thành từ quá trình di dân theo
chiều ngược mang nhiều yếu tố hỗn dung và giao thoa văn hóa.
Ngoài ra, do nằm gần với nguồn gốc văn hóa Khmer Campuchia và do
tính chất cộng cư dân tộc lâu đời nên văn hóa Khmer vừa mang tính bảo lưu
truyền thống lại vừa mang nhiều yếu tố “mở” của ĐBSCL tạo nên những đặc
trưng riêng của văn hóa Khmer TNB.
2.1.3. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Trong giai đoạn 2011-2017, tình hình kinh tế - xã hội vùng TNB đạt
được nhiều kết quả tích cực, tăng trưởng kinh tế duy trì ổn định ở mức khá,
tăng trưởng GDP bình quân của vùng ước đạt 8,87%/năm. Xuất khẩu tăng
trưởng khá, kim ngạch xuất khẩu năm 2014 ước đạt trên 12,3 tỷ USD, bằng
8,2% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tốc độ tăng trưởng bình quân
ước đạt 14,7%/năm. Tỷ lệ hộ nghèo toàn vùng giảm tương đối nhanh (còn
3,54%). Tuy đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng thực trạng kinh tế
44
- xã hội của vùng chưa tương xứng với tiềm năng của nó; vẫn còn nhiều hạn
chế, yếu kém, phát triển chưa bền vững và đang đứng trước nguy cơ thách
thức mới. Nhìn chung, kinh tế - xã hội còn nhiều mặt chưa tiến kịp so với mặt
bằng chung cả nước như:
Vùng TNB được đánh giá là một trong ba đồng bằng trên thế giới dễ bị
tổn thương nhất do nước biển dâng; hoạt động liên kết, hợp tác giữa các tỉnh,
thành trong nội bộ vùng và với bên ngoài vẫn còn những hạn chế nhất định.
Trình độ học vấn của vùng thấp hơn mức bình quân chung của cả nước.
Chất lượng giáo dục, y tế vẫn còn thấp xa so với yêu cầu, tay nghề lao động
yếu và thiếu cơ sở đào tạo lao động kỹ thuật cao.
Thách thức của vùng là năng suất lao động kém, chất lượng nguồn nhân
lực rất thấp, cơ giới hóa và hạ tầng cơ sở chưa tương xứng với tiềm năng của
vùng và nhất là do thiếu một cơ chế phát triển vùng để tạo nên sức mạnh tổng
hợp của cả vùng; do thiếu sự liên kết chuỗi nên giá trị các mặt hàng nông sản
xuất khẩu thấp, sức cạnh tranh yếu. Tình hình an ninh chính trị trong tôn giáo,
vùng biên giới và vùng dân tộc còn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định,
tranh chấp đất đai trong nông thôn còn diễn biến phức tạp.
2.1.4. Đặc điểm về quốc phòng - an ninh
Quốc phòng, an ninh vùng TNB được giữ vững, ta chủ động kiểm soát
được tình hình. Tuy vậy, tình hình an ninh, chính trị vẫn luôn tiềm ẩn những
nhân tố phức tạp, nhất là trong lĩnh vực an ninh tư tưởng, tôn giáo, dân tộc,
khiếu kiện bởi những yếu tố sau đây:
Về địa lý: Do vùng biển rộng lớn với nhiều hải đảo, có biên giới trên đất
liền giáp với Campuchia và biên giới trên biến tiếp giáp với nhiều nước, cho
nên các thế lực thù địch, các tổ chức phản động và bọn tội phạm xem đây là
địa bàn dễ xâm nhập, dễ cho mọi hoạt động phá hoại. Điển hình các cuộc tập
trận trên biển của quân đội một số nước láng giềng gần vùng biển ở TNB, ít
45
nhiều ảnh hưởng đến anh ninh - quốc phòng trên địa bàn; các hoạt động tội
phạm, những trường hợp xâm phạm hải phận cũng đã gây phức tạp về trật tự
xã hội.
Về khiếu kiện: Tình hình khiếu kiện, chủ yếu liên quan đến đất đai
diễn biến phức tạp; trong đó, có việc khiếu kiện đòi lại nhà, đất tôn giáo,
sinh hoạt tôn giáo trái phép, biến gia thành tự... vẫn còn diễn ra ở nhiều địa
phương. Thực tiễn cho thấy, tâm trạng, tâm lý chung của phần lớn những
người khiếu kiện là không hài lòng, thậm chí đối đầu với cán bộ và chính
quyền địa phương, mặc dù địa phương đã giải quyết đúng với quy định
pháp luật hiện hành. Địch lợi dụng vấn đề khiếu kiện và tâm trạng của
người khiếu kiện để kích động gây rối, ảnh hưởng đến an ninh, chính trị,
trật tự an toàn xã hội.
Các thế lực thù địch: Chúng không từ bỏ âm mưu, ý đồ chống phá sự
nghiệp cách mạng nước ta bằng nhiều hình thức. Trong đó, chúng hậu thuẫn
trong việc hình thành và nuôi dưỡng các tổ chức phản động người Việt lưu
vong và một số phần tử cực đoan ở trong nước để tìm cách thực hiện âm mưu
“diễn biến hòa bình ”, triệt để lợi dụng vấn đề nhân quyền, dân chủ, tự do tôn
giáo... để chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta. Các tổ chức phản động
“Khmer Campuchia Krôm” lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, bản Tuyên
ngôn của Liên hiệp quốc về quyền của người bản địa để lừa đồng bào, sư sãi
Khmer cả trong và ngoài nước. Chúng triệt để khai thác phương tiện thông tin
đại chúng để tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo Đảng và Nhà nước ta; kích động
tư tưởng hận thù, chia rẽ dân tộc.
Thực tế, chúng đã gầy dựng được một số nòng cốt ở trong nước và chỉ
đạo tạo ra các cuộc gây rối như sau: Kích động một số tu sĩ trẻ gây rối trước
trụ sở công an huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh vào ngày 19/01/2007. Tập hợp
lực lượng để gây áp lực với cán bộ, các vị chức sắc trong Hội Đoàn kết sư sãi
46
yêu nước (HĐKSSYN) tỉnh Sóc Trăng tại chùa Nước Mặn vào ngày
08/02/2007 nhưng không thành. Chúng liền tạo cớ kích động tăng sinh
Trường Bổ túc văn hóa Pali trung cấp Nam Bộ gây rối trước trụ sở công an thị
xã Sóc Trăng. Kích động, xúi giục đồng bào Khmer ở các tỉnh đồng loạt kéo
về thành phố Cần Thơ, thành phố Hồ Chí Minh khiếu kiện đông người. Đầu
năm 2008, chúng tiếp tục kích động, xúi giục một số bà con ở xã Châu Lăng,
huyện Tri Tôn và xã An Cư, xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang tự
bao chiếm đất đai của người trực canh, ném đá trụ sở xã, đập phá trụ sở ấp,
bám trụ một phần trụ sở xã, phá hoại tài sản nhà nước và tài sản công dân,
đánh cán bộ gây thương tích…
Đặc biệt, những năm gần đây, đảng đối lập ở Campuchia đã và đang
tranh thủ triệt để việc phân giới, cắm mốc giữa hai nước Việt Nam -
Campuchia để tạo áp lực, gây sức ép với Đảng cầm quyền và Chính phủ
Hoàng gia Campuchia; đồng thời tập hợp các tổ chức, hội, nhóm “Khmer
Campuchia Krôm” ở Campuchia và nước ngoài tăng cường chống phá việc
phân giới, cắm mốc giữa hai nước Việt Nam - Campuchia mà trong thực tế đã
xảy ra một số vụ việc phức tạp tại các tỉnh giáp biên giới của hai nước.
2.2. KHÁI QUÁT VỀ TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNG VÙNG TÂY NAM BỘ
2.2.1. Khái quát về tôn giáo trong cộng đồng người Khmer ở Tây
Nam bộ
Tây Nam Bộ là vùng tôn giáo, văn hóa khá đặc biệt. Đây là nơi sinh sống
của nhiều dân tộc, nhiều nhất là người Kinh, người Khmer, người Chăm,
người Hoa và cả một số dân tộc ít người khác nữa. Cũng vì lẽ đó mà Nam Bộ
nói chung và TNB nói riêng là vùng tôn giáo và văn hóa đa dạng, đan xen
nhất Việt Nam. Ở đây vừa có các tôn giáo được du nhập từ ngoài vào, đồng
thời có nhiều tôn giáo nội sinh. Bên cạnh những tôn giáo lớn có truyền thống
lâu đời được du nhập từ nước ngoài như Phật giáo Bắc tông, PGNT, Công
47
giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, còn có cả những tôn giáo bản địa và
các tôn giáo mới phát sinh như Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân hiếu nghĩa, Cao
Đài, Phật giáo Hòa Hảo… Chính sự đa dạng về văn hóa và tôn giáo như vậy
khiến cho TNB trở thành nơi có những đặc trưng văn hóa và tôn giáo rất đa
dạng và độc đáo. Đây là nét đặc sắc song cũng là thách thức cho chính sách
tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta đối với vùng đất này.
Trong hoạt động văn hóa xã hội, các tổ chức tôn giáo và tín đồ vùng
TNB luôn hưởng ứng rất linh hoạt, nhanh nhạy với nhiều hình thức phong
phú vào các phong trào chung của vùng cũng như cả nước như: xây dựng lối
sống văn minh, gia đình văn hóa; xóa đói giảm nghèo; cứu trợ nhân dân vùng
bão lụt, thiên tai; chăm sóc trẻ em nghèo; mở các lớp học tình thương; cơ sở
khám chữa bệnh từ thiện,… và luôn là người đại diện có uy tín trong việc
đoàn kết, tập hợp, kêu gọi quần chúng nhân dân tham gia tích cực vào phong
trào chung.
Ngoài những sinh hoạt tôn giáo thường xuyên như cúng rằng, mồng một,
lên chùa của các tín đồ Phật giáo, Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài. Cầu nguyện,
đi lễ nhà thờ vào các ngày thứ bảy, chủ nhật của tín đồ Công giáo, Tin lành,
đi lễ thánh đường của tín đồ Islam vào ngày thứ sáu,… Tất cả các tôn giáo
và tổ chức tôn giáo vùng TNB còn có nhiều sinh hoạt khác tạo ra một đời
sống thường trực và sôi động như sinh hoạt câu lạc bộ hàng tuần, tổ chức
thường xuyên những buổi nói chuyện, hội thảo và bình giảng giáo lý, mở
các khóa đào tạo và giáo dục giáo lý cho tín đồ từ sơ cấp đến cao cấp
(tương đương đại học).
Trong các tôn giáo xuất hiện tại TNB, Phật giáo Hòa Hảo là một tôn giáo
nội sinh bên cạnh đạo Cao Đài, Bửu Sơn Kỳ Hương, Minh sư đạo,… đã góp
phần tạo nên dấu ấn văn hóa riêng biệt của vùng đất này, có những ảnh hưởng
sâu đậm trong lịch sử đời sống xã hội của cư dân TNB.
48
Nếu coi PGNT tại khu vực này là một tôn giáo gắn chặt với dân tộc
Khmer, thì Phật giáo Hòa Hảo là tôn giáo gắn liền với người nông dân TNB.
Nói cách khác, Phật giáo Hòa Hảo là một tông phái Phật giáo đã được bình
dân hóa, giản dị hóa cho phù hợp với căn cơ, trình độ của người nông dân; và
ngược lại, những người nông dân TNB đã khiến Phật giáo Hòa Hảo được gìn
giữ, nuôi dưỡng và phát triển không gián đoạn, đóng góp vào lịch sử yêu
nước của vùng đất này trong quá khứ, và đang tiếp tục đóng góp một cách nổi
bật cho sự phát triển bền vững vùng TNB.
Những giáo lý bình dân dễ hiểu, cách hành trì tối giản, hệ thống thiết chế
không có Giáo hội, đối tượng truyền đạo và tu hành điều rất đặc thù, song
Phật giáo Hòa Hảo lại thẩm thấu một cách bền bỉ và lan tỏa đáng ngạc nhiên
tại đồng bằng sông Cửu Long.
Về Công giáo ở TNB qua nghiên cứu các tài liệu lịch sử và các tư liệu
sưu tập được từ các cuộc điều tra điền dã có mặt tại vùng đất TNB cùng với
sự hình thành của cộng đồng người Việt tại đây. Nói cách khác, người Việt có
đạo Công giáo đã có mặt trong số những lưu dân đến từ vùng Thuận Quảng,
vào khai phá vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Công giáo là một tôn giáo có sự thống nhất cao về giáo lý, giáo luật, lễ
nghi và tổ chức giáo hội, mang tính toàn cầu. Thực hành tôn giáo được thực
hiện thường xuyên, liên tục và nghiêm ngặt tạo ra tính liên kết chặt chẽ trong
Công giáo. Bên cạnh đó Công giáo là một tôn giáo có nhiều hội đoàn như:
Dòng Ba Đa Minh, Thiếu nhi Thánh thể, Liên Minh Thánh Tâm, Legio
Maria, Giới trẻ, Hiền Mẫu, ca đoàn Nhà thờ… là những tổ chức được thành
lập để phục vụ hoạt động truyền giáo, tái truyền giáo và tham gia một số hoạt
động từ thiện xã hội. Ngoài ra, vùng TNB còn là nơi có nhiều tín đồ Đạo công
giáo sinh sống và làm việc ở nước ngoài nhiều nhất cả nước nên ngoài mối
quan hệ quốc tế giữa các tổ chức thì hoạt động quốc tế của tín đồ ở khu vực
TNB cũng diễn ra với mức độ đâm đặc và đa dạng.
49
Vùng TNB là nơi tồn tại nhiều hệ phái Tin lành, các hệ phái này đều có
nguồn gốc du nhập từ nước ngoài, trong đó nổi bật nhất là quan hệ quốc tế với
Tin lành Mỹ, Hàn Quốc, Đức, Bắc Âu… Theo ước tính, Nam Bộ là nơi tập
trung đông nhất các hệ phái Tin lành ở Việt Nam và cũng là nơi mà hoạt động
quan hệ quốc tế của các hệ phái Tin lành diễn ra sôi nổi nhất.
Hồi giáo (Islam) vùng TNB thường xuyên có mối quan hệ với cộng đồng
Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á, một khu vực có đông tín đồ Hồi nhất
thế giới. Các mối quan hệ này rất đa dạng. Hồi giáo Việt Nam có quan hệ với
cộng đồng Hồi giáo Malaysia, cộng đồng Hồi giáo Campuchia, cộng đồng
Hồi giáo Indonesia, Arab Saudi, Liên hiệp Hồi giáo thế giới… Song, mối
quan hệ với cộng đồng Hồi giáo ở Malaysia là thường xuyên và thân thiện
nhất. Do những nguyên nhân lịch sử, truyền thống dòng tộc, ngôn ngữ mà có
mối quan hệ gần gũi này. Chính nhờ mối quan hệ gần gũi này nên nhiều tín
đồ Hồi giáo vùng TNB đã nhận được học bổng tại Trường Đại học Quốc tế
Hồi giáo ở Malaysia (International Islamic University of Malaysia). Hàng
năm, các tổ chức Hồi giáo vùng TNB đều nhận được tài trợ của Ngân hàng
Phát triển Hồi giáo Thế giới (IDB).
Đối với Phật giáo, đã được truyền vào cộng đồng người Khmer trên 2000
năm, kể từ ngày 2 vị Thánh tăng: Soṇatthera và Uttaratthera theo tàu buôn từ
Ấn Độ đặt chân vào vùng cảng cổ Óc Eo (Tứ giác Long Xuyên ngày nay)
truyền giáo đầu tiên trước công nguyên vào Phật lịch 234. Đến nay vùng
Khmer Nam bộ có trên 450 chùa Phật giáo tu hành theo hệ phái Nam tông
(Nam truyền: Dakkhiṇànikaya). Suốt chiều dài lịch sử ngót 2000 năm, Phật
giáo luôn đồng hành cùng dân tộc, cùng sự thăng trầm của đất nước, mặc
dầu vậy nhưng Phật giáo nói chung và PGNT Khmer nói riêng đều gắn bó
mật thiết với Phật tử bổn tự, Phật tử bá tánh tứ phương mà Phật tử, bá tánh
là đồng bào, là Nhân dân.
50
Năm 1981, Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập với sự hợp
nhất của 09 tổ chức, hội, hệ phái. Kể từ đó đến nay, PGNTK sinh hoạt chung
trong ngôi nhà của GHPGVN; đã trải qua tám nhiệm kỳ, với 38 năm hoạt
động, PGNTK hoạt động ổn định, phát triển và ngày càng nâng cao vị thế của
mình trong GHPGVN.
Chùa Khmer là nơi tu hành vừa là nơi thực hiện các lễ nghi tôn giáo, là
trung tâm văn hóa, sinh hoạt xã hội, là nơi thực hiện các cuộc lễ hội theo
phong tục mang tính truyền thống của dân tộc Khmer. Trong chùa có lưu giữ
kinh sách, báo chí, những tác phẩm văn học nghệ thuật Khmer…
Là tôn giáo mang tính chất quần chúng, thiên về thế giới quan, nhân
sinh quan, đạo đức luận PGNTK từ lâu đã in đậm trong tâm khảm và chi phối
mạnh mẽ đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc Khmer. Việc hành đạo luôn
gắn chặt với việc truyền dạy giáo lý, đạo đức, niềm tin và các giá trị tinh hoa
của Phật giáo. Ngoài việc truyền dạy, giáo dục bổn đạo thực hiện tốt lời dạy
của đức Phật, thực hiện tốt giá trị đạo đức và giá trị nhân văn, từng ngôi chùa
còn là nơi tổ chức giảng dạy những kiến thức bổ ích, bao gồm chương trình
giảng dạy tiếng Khmer, các học phần về triết học, văn học, thơ ca, ngữ văn…
nhất là chương trình Pali vừa để sáng tạo ngôn từ bổ sung cho tiếng Khmer,
vừa để tiếp cận kinh sách, giáo lý, những tinh hoa của nhà Phật.
Quá trình du nhập và phát triển: PGNT Khmer đã có mặt ở vùng TNB
từ rất lâu. Có thể nói vấn đề tôn giáo trong đồng bào Khmer, sau khi Bà La
Môn giáo thất thế, Phật giáo giữ vai trò độc tôn trong đời sống cộng đồng của
đồng bào Khmer, vai trò đó đã được biểu hiện ở chỗ mọi hoạt động trong sinh
hoạt gia đình, cộng đồng phum sóc gắn với tín ngưỡng, tôn giáo dân tộc;
người Khmer đều dựa vào triết lý của đạo Phật. Mọi sinh hoạt lễ hội của gia
đình hoặc cộng đồng dù lúc vui hay lúc buồn, đều có mời các vị sư tham gia
làm lễ, đọc kinh. Việc trang trí nhà cửa, lễ đài, chùa… hầu hết gia đình, phum
51
sróc vùng dân tộc Khmer đều có tranh ảnh hoặc tượng của Đức Phật đặt nơi
trang trọng nhất.
Mọi thành viên trong cộng đồng đều tôn thờ Đức Phật, kính trọng tu sĩ
PGNTK; mọi người dân, già trẻ bé lớn ai cũng đều đi chùa. Từng gia đình ít
nhiều đều có đọc kinh Phật. Đặc biệt, khi xảy ra hoạn nạn, ốm đau, tai biến
trong gia đình, trong cộng đồng, đồng bào Khmer đều cầu mong Đức Phật độ
trì, mời sư sãi đến làm lễ, đọc kinh tụng niệm mong cho tai qua, nạn khỏi.
Đạo Phật cũng giữ vai trò góp phần quan trọng trong việc làm đa dạng
và phong phú thêm đối với các loại hình nghệ thuật dân tộc. Trước hết là
những nét đẹp trong điêu khắc và kiến trúc của dân tộc. Thông qua những
công trình xây dựng chùa, cách trang trí trong chùa với những hoa văn độc
đáo của từng công trình đã chấp cánh trí tưởng tượng của các nghệ nhân
Khmer. Những kiểu tư duy trong các loại hình nghệ thuật truyện kể, truyền
thuyết nói chung đều có màu sắc của Phật giáo và nó được truyền từ khu vực
này sang khu vực khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Phật giáo Nam Tông Khmer giữ vai trò rất lớn trong việc giáo dục hình
thành nhân cách, đạo đức, dân trí của cộng đồng dân tộc Khmer. Thông qua
triết lý mang tính nhân đạo và quan niệm nhân quả của đạo Phật đã tác động
sâu sắc đến từng thành viên trong gia đình, trong cộng đồng dân tộc Khmer;
làm cho mọi người muốn hướng thiện, làm việc lành, tránh điều ác. Con
người biết khiêm tốn, nhường nhịn, tương trợ giúp đỡ nhau, làm cho cái tâm
họ không bị vẫn đục bởi tiền tài vật chất cám giỗ. Việc tu học theo PGNTK,
việc hình thành các trường chùa, đã góp phần nâng cao dân trí, đáp ứng các
ngành nghề để có thể phục vụ cuộc sống đời thường.
Trong đời sống tâm linh của người Khmer, tu sĩ PGNTK mang một ý
nghĩa đặc biệt, nhà sư là người đại diện cho Đức Phật để chứng giám những
hành động lòng thành kính của phật tử, nhà sư còn là cầu nối giửa phật tử với
52
Đức Phật. Với họ không chỉ có Phật giáo, bởi vẫn còn dấu vết của sự pha trộn
của nhiều tín ngưỡng: Tô tem, tín ngưỡng dân gian, Balamôn giáo… song tín
ngưỡng Phật giáo vẫn là tín ngưỡng điển hình và chi phối tâm linh của người
Khmer mạnh nhất, bởi các hoạt động tinh thần của người Khmer đều có sự
chi phối của Phật giáo từ các lễ hội mang tính cộng đồng khi cho công việc
riêng của từng gia đình đến mỗi cá nhân. Cuộc đời của người Khmer theo đạo
Phật gắn liền với ngôi chùa “Sống gửi thân chết gửi cốt”. Những công việc
lớn như làm nhà, cưới hỏi tới việc nhỏ như cày cấy người Khmer đều hỏi ý
kiến của các vị sư về những điều nên làm, nên tránh.
Người Khmer theo đạo Phật thì triết lý phật giáo đã ngấm sâu váo ý thức
mỗi con người, trở thành tiềm thức, trở thành triết lý sống của mổi người. Khi
vừa chào đời mặc nhiên được xem là một tín đồ Phật giáo, từ bé đã được cha
mẹ giáo dục nếp sống theo triết lý sống của đạo Phật, bởi thế người Khmer con
tiếp cha, đời tiếp đời, sống trong niềm tin theo triết lý đạo Phật. Chính vì thế
người Khmer chấp nhận những gì phù hợp với triết lý sống của đạo Phật. Trãi
qua hàng ngàn năm, niềm tin đó không hề thay đổi, biết bao biến đổi thăng
trầm của lịch sử với nhiều tác động của tôn giáo khác đến đời sống tâm linh
của đồng bào Khmer nhưng đều thất bại trước niềm tin vào PGNTK, chính nhờ
vào niềm tin đó mà dân tộc Khmer giữ được truyền thống văn hóa mang bản
sắc riêng của mình, không bị văn hóa ngoại lai xâm nhập.
Chính vì vậy mà PGNT đã ảnh hưởng sâu sắc đến đồng bào dân tộc
Khmer về đạo đức cũng như lối sống, trong quan niệm là sống tích phước
để khi chết đi về cõi Niết Bàn. Điều này thể hiện ở việc họ đến chùa làm
phước, họ đến chùa với sư sãi với kinh kệ để tìm nguồn an ủi trong cuộc
sống hiện tại và tích lũy nhiều việc thiện để lại cho con cháu mai sau. Họ
theo tập quán, phong tục của người Khmer nếu trong gia đình có con trai
trong độ tuổi từ 13-19 tuổi thường cho vào chùa tu hành một thời gian.
53
Trong thời gian tu hành, các thanh niên sẽ được học về Phật pháp, về ngôn
ngữ và văn hóa truyền thống của người Khmer. Mục đích của việc tu hành
ở chùa đối với người Khmer trước hết là để báo hiếu cho ông bà, cha mẹ,
sau là góp phần cũng cố nền đạo đức và thường xuyên ủng hộ chùa theo
khả năng và sức lực của mình một cách tự nguyện. Không có thời gian quy
định cho việc đi tu. Nghĩa là người con trai Khmer có thể vô chùa tu một
đêm cho đến hàng năm và thậm chí tu suốt đời là hoàn toàn tự giác. Việc đi
tu thực sự cởi mở, vậy nên người con trai Khmer trong cuộc đời của mình
đều muốn đi tu ít ra là một lần. Việc đi tu của nam giới rõ ràng không phải
“luật” định nhưng đã thành “lệ” của cộng đồng mà người con trai Khmer
nào cũng cố gắng noi theo.
Một số vấn đề liên quan đến HĐKSSYN: Trong những năm kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, với sự lãnh đạo của Đảng nhằm tuyên truyền, vận
động, tập hợp sư sãi, các vị chư tăng và đồng bào Khmer tham gia vào sự
nghiệp cách mạng đấu tranh giải phóng dân tộc. Khi Mặt trận Giải phóng Dân
tộc Miền Nam Việt Nam ra đời, ngày 20/03/1963, Khu ủy Khu TNB có chủ
trương thành lập HĐKSSYN trên cơ sở kế thừa tổ chức Ban Sãi vận, Ban
Khmer vận…ở 3 cấp (khu, tỉnh và huyện) nhằm vận động đồng bào, sư sãi
Khmer tham gia phong trào cách mạng.
Từ đó HĐKSSYN ra đời và là tổ chức thành viên trực thuộc Mặt trận
dân tộc giải phóng Miền Nam; quá trình hoạt động của Hội ngoài công tác
hoạt động Phật sự xã hội gắn với tham gia đấu tranh cách mạng luôn được sự
hướng dẫn trực tiếp của Mặt trận và Ban Khmer vận khu TNB. Sau năm 1975
thực hiện chủ trương của Đảng, Khu ủy và các cơ quan, ban ngành, đoàn thể
của Khu TNB đã giải thể, trong đó có HĐKSSYN các cấp (riêng tỉnh Hậu
Giang cũ vẫn duy trì tổ chức này). Ngày 18/4/1991, Ban Bí thư Trung ương
Đảng khóa VI ban hành Chỉ thị số 68-CT/TW, trong đó có đề ra việc thành
54
lập HĐKSSYN hoặc các hình thức tổ chức thích hợp. Đến nay có 08 tỉnh,
thành vùng TNB có các chùa PGNTK đã củng cố và thành lập HĐKSSYN
(riêng tỉnh An Giang chưa thành lập).
Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước là tổ chức chính trị - xã hội đặc thù trong
giới sư sãi Khmer do Đảng ta có chủ trương thành lập, hoạt động như tổ chức
đoàn thể trong hệ thống chính trị. Nội dung và phương thức hoạt chủ yếu là
tuyên truyền, vận động sư sãi và đồng bào Phật tử Khmer.
Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, HĐKSSYN (cấp khu, tỉnh,
huyện) đã công khai kêu gọi tập hợp các tầng lớp Chư tăng và Phật tử Khmer
có xu hướng chính trị khác nhau kể cả binh lính, công chức ngụy quân, ngụy
quyền nêu cao lòng yêu nước, đoàn kết chống xâm phạm tự do tín ngưỡng,
xâm phạm chùa chiền, đòi hoà bình trung lập, độc lập dân tộc. Kết quả hoạt
động của Hội đã làm chuyển biến, phân hoá nhiều lực lượng địch. Số Chư
tăng ở các chùa vùng tạm chiếm thân chính quyền Mỹ - Ngụy dần chuyển
sang trung lập. Các địa phương đã tập hợp được đông đảo đồng bào, sư sãi
Khmer tham gia, ủng hộ cách mạng, đấu tranh chống địch rất mạnh mẽ.
Nhiều ngôi chùa là cơ sở cách mạng an toàn. Một bộ phận khác trung lập đã
thay đổi chuyển theo cách mạng tạo thành khối đoàn kết tiến hành các cuộc
biểu tình lớn nhỏ khắp các tỉnh chống lại Chính quyền Sài Gòn với các hình
thức từ thấp đến cao, góp phần tích cực vào chiến thắng 30/04/1975. Một số
chức sắc Khmer, tu sĩ PGNTK đã hy sinh. Nhiều vị đã trở thành cán bộ cốt
cán của Đảng và Nhà nước, người tiêu biểu trong cộng đồng và quần chúng
Nhân dân.
Phong trào giải phóng dân tộc như đã nêu, là biểu hiện rất rõ về tính
nhập thế của PGNTK trong bối cảnh quốc gia, dân tộc bị áp bức, bốc lột,
đồng hóa qua các thời kỳ lịch sử. Đáng trân trọng là “tinh thần yêu nước”, vì
nhiều vị Chư tăng Khmer đã lãnh đạo và huy động đoàn kết thực hiện trách
55
nhiệm tham gia cứu nước, giải phóng dân tộc. Điển hình như: Hòa thượng
Tăng Phố (tức Trần Phố), Hòa thượng Tăng Hô, Hòa thượng Tăng Nê (Phó
Chủ tịch Ủy ban Hành chánh Kháng chiến Nam Bộ), Hòa thượng Sơn Vọng
(Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam,
Phó Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới và là cố vấn Ủy ban Mặt trận
Dân tộc giải phóng khu Tây Nam Bộ), Hòa thượng Thạch Som, Hòa thượng
Hữu Nhem… Nhiều vị Chư tăng đã thoát ly và trở thành cán bộ chỉ huy
quân sự giỏi hoặc lãnh đạo chủ chốt trong các cơ quan của hệ thống chính trị
như: Maha Sơn Thông, Maha Huỳnh Cương, Sơn Ngọc Minh, Thạch Mẹnre,
Thạch Tụm, Trần Lai, Achar Sabút, Lui Sarát, Trịnh Thới Cang...
Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, HĐKSSYN đẩy mạnh công tác
vận động đồng bào, tu sĩ PGNTK tích cực tham gia các phong trào cách
mạng, chống lại các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Đặc biệt là
HĐKSSYN đã tổ chức, quản lý, điều hành các lớp học trong chùa, tạo nên
phong trào học tập sâu rộng cả kiến thức dân tộc lẫn kiến thức phổ thông.
Thực hiện phương châm của GHPGVN: “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ
nghĩa xã hội”. BTSPGVN, HĐKSSYN vùng TNB tiếp tục phát huy truyền
thống đoàn kết, yêu nước, hoà hợp dân tộc; đến nay đã trãi qua nhiều kỳ đại
hội. Đại hội đại biểu HĐKSSYN bầu Ban Chấp hành Hội cấp tỉnh, thành có
nhiều vị có uy tín và đức hạnh được Giáo hội Phật giáo Việt Nam bầu vào
Ban, Viện Trung ương
Tình hình hoạt động của HĐKSSYN: Xác định việc phối hợp tuyên
truyền chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong chức
sắc, tu sĩ PGNTK, Ban Quản trị chùa và bà con tín đồ PGNT Khmer có ý
nghĩa quan trọng; đồng thời nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết về các chủ
trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước nhất là chính sách đại
đoàn kết dân tộc, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo.
56
Ban chấp hành Hội thường xuyên phối hợp làm công tác phổ biến,
tuyên truyền vận động các giới tu sĩ PGNTK, Ban quản trị, Achar và phật tử
học tập và quán triệt các đường lối, chủ trương chính sách pháp luật của
Đảng, Nhà nước; nhằm tạo được sự đoàn kết chung giữa tôn giáo dân tộc và
dân tộc với dân tộc, giữ vững trật tự an toàn xã hội; từ đó, tu sĩ PGNTK và
đồng bào dân tộc Khmer vùng TNB luôn ý thức và nêu cao tinh thần cảnh
giác trước âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Đồng thời,
Ban Chấp hành đa số các Hội cũng đã ký qui chế phối hợp đảm bảo an ninh
trật tự với Công an các tỉnh, thành trong vùng TNB.
Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước các tỉnh, thành trong vùng thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ của mình; cùng tham gia phối hợp với Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, Ban Dân tộc, Ban Tôn giáo vận động các vị chức sắc, tu sĩ
PGNTK, Achar, Ban Quản trị và đồng bào dân tộc Khmer tham gia sinh
hoạt các lớp phổ biến chính sách pháp luật do Ban Tôn giáo, Ban Dân tộc
tổ chức hàng năm.
Thực hiện việc phối hợp tuyên truyền, vận động, hướng dẫn đồng bào
dân tộc Khmer phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống.
Hội có nhiều nổ lực cùng với các vị chức sắc, tu sĩ PGNTK, Achar, Ban Quản
trị chùa tích cực tuyên truyền trong sư sãi, bà con tín đồ Khmer tập trung lao
động sản xuất phát triển kinh tế gia đình, biết đổi mới, tiếp cận và ứng dụng
tiến bộ kỹ thuật vào cây trồng vật nuôi, nâng cao năng suất, hiệu quả góp
phần giảm nghèo, quan tâm chăm lo việc học tập của con em, giữ gìn truyền
thống, bản sắc văn hoá dân tộc. Hàng năm, HĐKSSYN thực hiện phối hợp
cùng các ngành chức năng xem xét cử tuyển đưa các vị tăng sinh vào học
trường bổ túc văn hóa Pali Trung cấp Nam bộ Sóc Trăng, trường trung cấp
Pali Trà Vinh nhằm tạo nguồn cho Học viện PGNT Khmer; phối hợp Trung
tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, hòa giải các
57
vụ tranh chấp dân sự, cấp và làm giấy khai sanh miễn phí cho con em đồng
bào dân tộc Khmer… Ngoài ra, mỗi năm HĐKSSYN tổ chức khải giảng các
lớp Pali sơ cấp (Pali lớp 1, lớp 2 và Pali Ruông) dành cho các vị sư PGNTK
trong và ngoài vùng đến học.
Đồng thời để đáp ứng yêu cầu đọc tụng, nghiên cứu, giảng dạy, học tập
của các vị sư sãi, tăng sinh về kinh sách chữ Khmer; được sự hỗ trợ của các
ngành chức năng đã thỉnh nhiều bộ Tam Tạng Kinh từ Campuchia được nhập
về đúng theo quy định, pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt Chính phủ đã hỗ trợ
để PGNTK in ấn 52 đầu kinh sách bằng tiếng Khmer cho 446 chùa tại 13 tỉnh,
thành; hỗ trợ khắc dấu cho các chùa PGNTK không thu tiền và đã đưa vào sử
dụng từ năm 2005 đến nay.
Công tác phối hợp vận động chức sắc, tu sĩ PGNTK, Ban Quản trị các
chùa và tín đồ PGNTK tham gia hưởng ứng rộng rãi cuộc vận động Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được tuyên truyền bằng tiếng
Khmer (dịch từ tài liệu tiếng Việt sang tiếng Khmer), tham gia phong trào thi
đua yêu nước trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc như vận động thanh niên dân
tộc đăng ký lên đường làm nghĩa vụ quân sự; phong trào nông dân sản xuất,
kinh doanh giỏi; phong trào phụ nữ dân tộc làm kinh tế gia đình; phong trào
xây dựng đời sống văn hoá khu dân cư.
Ngoài ra, các HĐKSSYN còn ký kết chương trình phối hợp với công
an các địa phương về giữ gìn an ninh, trật tự vùng đồng bào Khmer. Bên cạnh
công tác Phật sự, HĐKSSYN và các chùa PGNTK tham gia tích cực các hoạt
động từ thiện xã hội do Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (UBMTTQVN)
và chính quyền địa phương phát động như: Hỗ trợ đồng bào bị thiên tai, lũ lụt
và vận động Phật tử đóng góp tiền xây trường học, xây cầu, bê tông hoá
đường giao thông nông thôn, tặng nhà đại đoàn kết.... cụ thể:
Tỉnh Trà Vinh, trong nhiệm kỳ VI (2013 - 2018) HĐKSSYN đã vận
động được “hơn 6 tỷ đồng và đã giúp đỡ trẻ mồ côi, các con em nghèo hiếu
58
học với số tiền 934 triệu đồng, giúp đỡ các cụ già neo đơn được 874 triệu
đồng; cứu trợ đồng bào bị lũ lụt, thiên tai, giúp đỡ bệnh nhân nghèo, hỗ trợ
đám tang người nghèo 124 triệu đông, giúp đỡ các giảng viên giảng dạy
trong chùa khi gặp khó khăn 878 triệu đồng; giúp đỡ tăng sinh đang học Đại
học trong và ngoài nước 984 triệu đồng”. Tỉnh Sóc Trăng, “trong 5 năm
(2005-2012) đã thực hiện công tác từ thiện xã hội được 4,683 tỷ đồng và trên
80 tấn gạo, vận động phật tử và các chùa hiến 27.600 m2 đất để xây dựng
trường học, làm giao thông”.
Tỉnh Kiên Giang, “tính từ năm 2005 đến nay, Hội Đoàn kết Sư sãi yêu
nước các cấp đã vận động sư sãi, đồng bào Khmer đóng góp trên 10 ngàn
ngày công lao động, sửa chữa làm mới hàng chục ngàn mét đường, bắt mới
136 cây cầu bê tông, cát 723 căn nhà đại đoàn kết, hốt khoảng 600 ngàn
thang thuốc nam với số tiền đóng góp gần 20 tỷ đồng” và “trong năm 2015
các Chi hội đã vận động được hơn 6,5 tỷ đồng”. Cần Thơ “vận động làm
công tác xã hội được trên 5 tỷ đồng”. Hậu Giang, “trong nhiệm kỳ năm 2016
vừa qua Hội đã tích cực vận động Phật tử gần xa kết hợp cùng các chùa ủng
hộ trên 80 triệu đồng...”
Vị trí, vai trò của Ban Quản trị chùa và đội ngũ chức việc trong
PGNTK trên địa bàn vùng TNB hiện nay: Do nét đặc thù của PGNTK mà từ
xưa đến nay mỗi một ngôi chùa đều thành lập một ban quản trị, mỗi thành
viên Ban Quản trị đều có vị trí vai trò quan trọng trong cộng đồng dân tộc
Khmer, giúp các vị sư trụ tì chùa hướng dẫn phật tử thực hiện phong tục tập
quán và lễ nghi tôn giáo, đồng thời hướng dẫn phật tử thực hiện đúng theo
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Từng thành viên Ban Quản trị,
phải là người am hiểu về phong tục tập quán và lễ nghi tôn giáo, sống gương
mẫu, có uy tín trong cộng đồng người Khmer, được tập thể cộng đồng người
Khmer kính trọng, tín nhiệm và suy cử.
59
Ban Quản trị cùng với vị Trụ trì chùa thường xuyên phối hợp với tổ
chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đoàn thể ở cơ sở vận
động đồng bào ra sức cần kiệm, phát triển kinh tế, đổi mới cách làm ăn,
chuyển đổi cơ cấu cây trồng và vật nuôi, áp dụng khoa học kỹ thuật và sản
xuất, xóa giảm hộ đói nghèo…
Động viên đồng bào Khmer thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, tham gia xây dựng và thực hiện
hương ước, quy ước của địa phương, vận động xóa bỏ tập tục lạc hậu, giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc, làm lành mạnh các quan hệ
xã hội ngay trong từng gia đình; động viên các gia đình cho con em tham gia
đến trường học tập, thực hiện sống khỏe, sống vui và hạnh phúc, sống có ích,
chống các tệ nạn xã hội, phải đoàn kết chống lại âm nưu và thủ đoạn phá hoại
của các thế lực thù địch.
Thông qua hoạt động của Hội ĐKSSYN, PGNTK có các hoạt động góp
phần ổn định an ninh chính trị trong vùng có đông đồng bào dân tộc Khmer
sinh sống như: “Từ 2008 đến nay, tỉnh Sóc Trăng đã tổ chức tuyên truyền
được 11 cuộc với hơn 4.500 lượt người nghe. Trà Vinh bằng nhiều hình thức
các vị Trụ trì và Ban Quản trị chùa thực hiện lồng ghép tuyên truyền các nội
dung văn bản có liên quan đến dân tộc, tôn giáo cho Phật tử vào 4 ngày quy
y, thọ giới trong tháng của Phật giáo Nam tông Khmer (ngày 8, 15, 23 và 30)
hàng tháng. “Vĩnh Long từ khi thành lập đến nay Hội đã phối hợp với các
ngành chức năng tuyên truyền được 10 cuộc với trên 700 lượt người dự.
Ngoài ra, các tỉnh có đông đồng bào dân tộc Khmer cũng có phối hợp tốt
công các tổ chức tuyên truyền hàng năm của Ban Chỉ đạo TNB trong sư sãi,
Ban Quản trị chùa và đồng bào Khmer”.
Đặc biệt, “Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước tỉnh Sóc Trăng đã phối hợp
với các ngành chức năng giải quyết có hiệu quả vụ việc phức tạp xảy ra tại
60
Trường Bổ túc Văn hóa - trung cấp Pali Nam bộ (8/2/2007) và tại các chùa
Praey Chóp, chùa Tà sết (5/2013) vừa qua” ; “Hội ĐKSSYN tỉnh Kiên Giang
tham gia vận động giải quyết có hiệu quả các vụ việc phức tạp liên quan đến
sư sãi và đồng bào Khmer, điển hình như: vụ tranh chấp đất đai ở chùa Láng
Cát (Tp. Rạch Giá), chùa Sóc Xoài (Hòn Đất), chùa KhLang Mương (Châu
Thành), chùa Kinh 2 (Vĩnh Thuận)” ; “Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước tỉnh
Bạc Liêu giải quyết đạt kết quả tốt về mâu thuẫn nội bộ giữa Phật tử và Ban
Quản trị chùa Cù Lao (xã Hưng Hội) trong việc di dời 06 tháp cốt nhỏ vào
một tháp cốt lớn; việc đền bù, giải tỏa hàng rào chùa Mới (thị trấn Hòa
Bình). Ngoài ra Hội còn kết hợp với chính quyền và các cơ quan chức năng
tại địa phương xây dựng mô hình 66 tổ Tự quản trong dòng tộc, với 1.280
thành viên tham gia, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội
ở khu dân cư, khóm ấp”.
Ngoài ra, “trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc đã xuất
hiện nhiều tấm gương người có uy tín gương mẫu, tiêu biểu như: Hòa thượng
Đào Như, Hòa thượng Tăng Nô, Hòa thượng Thạch Sok Xane, Hòa Thượng
Thạch Hà, Hòa thượng Danh Nhưỡng, Hòa thượng Danh Đổng, Hòa thượng
Trần Nhíp, Thượng tọa Danh Dỗ, Thượng tọa Danh Nhuôl … đã nhiệt tình hỗ
trợ cơ quan Công an và các ban ngành thực hiện công tác tuyên truyền, vận
động sư sãi, đồng bào dân tộc thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước,
giáo dục quản lý tăng sinh tu học, tham gia bài trừ mê tín dị đoan, phòng
chống tệ nạ xã hội, bảo đảm an ninh trật tự tại địa phương. Đáng chú ý, Đại
Đức Hữu Trung , chùa Cao Dân (Tân Lộc, Thới Bình, Cà Mau) đã phát hiện
chủ động đấu tranh, vận động đồng bào dân tộc không tin vào lời kích động,
lôi kéo của đối tượng xáu tuyên truyền, kích động tư tưởng hận thù dân tộc
giữa người Khmer và người Kinh…Hòa thượng Danh Thiệp, chùa Vĩnh
Thạnh (huyện Châu Thành - An Giang) tích cực vận động đồng bào chấp
61
hành tốt chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tham gia công tác
bảo đảm an ninh, trật tự trên địa bàn; Hòa thượng Lý Sa Muoth, Chủ tịch Hội
Đoàn kết Sư sãi tỉnh Bạc Liêu tích cực tham gia xây dựng mô hình “ Tổ tự
quản dòng tộc”.
Chức năng của Ban Quản trị: nâng cao ý thức tâm nguyện đoàn kết nội
bộ và hướng dẫn Phật tử thực hành theo đúng truyền thống của dân tộc và
Phật giáo. Quan hệ mật thiết giữa các tôn giáo, dân tộc anh em đang sinh sống
cùng địa bàn, xây dựng sự đoàn kết theo phương châm “Tốt đời, đẹp đạo”.
Phối hợp cùng Trụ trì chùa giữ gìn và phát triển nền văn hóa mang bản
sắc dân tộc theo đúng lễ nghi của Phật giáo và truyền thống dân tộc, bảo tồn
giá trị những công trình kiến trúc cơ sở tôn giáo.
Hướng dẫn Phật tử tổ chức các lễ nghi như: lễ tang, lễ cưới, lễ giỗ, lễ
phước thiện với tinh thần tâm nguyện trong phạm vi khả năng kinh tế của mỗi
gia đình. Chịu trách nhiệm trước phật tử và sự chỉ đạo của trụ trì chùa trong
việc quản lý, bảo quản tài sản chung của nhà chùa không để thất thoát. Công
khai tài chính rõ ràng, sử dụng đúng mức, đúng việc và tiết kiệm. Phối hợp
cùng với trụ trì giáo dục tu sĩ và phật tử ý thức PGNTK là một thành viên gắn
bó trong ngôi nhà chung của GHPGVN.
Quyền hạn của Ban Quản trị: Tổ chức điều động hội họp Ban quản trị,
tập trung tín đồ theo định kỳ hay tổ chức các lễ nghi tôn giáo theo luật định
của Phật giáo và lễ cổ truyền của người dân tộc. Tổ chức Đại hội, Hội nghị
thường niên của Ban Quản trị. Tổ chức lấy ý kiến lập thủ tục bổ nhiệm Trụ trì
chùa theo quy định.
Khi cần, được quyền đề nghị lên Trụ trì và HĐKSSYN tổ chức bầu bổ
sung hay bầu lại Ban Quản trị đảm bảo đủ sức điều hành sinh hoạt, hoạt động
tôn giáo nơi thờ tự. Được quyền tham gia giám sát việc xây dựng và phát triển
kinh tế tại địa bàn quản lý. Tham gia góp ý với chính quyền địa phương về
62
quyền lợi, nghĩa vụ của công dân về phát triển văn hóa, xã hội, kinh tế ở địa
bàn mình phụ trách.
2.2.2. Khái quát về hệ thống tín ngưỡng trong cộng đồng người
Khmer ở Tây Nam Bộ
Tín ngưỡng bao gồm hầu hết các hoạt động, nghi thức, thể hiện niềm
tin, sự tưởng nhớ và cả lòng biết ơn của của con người đối với thần, thánh,
các thế lực siêu nhiên và cả những người quá cố. Hoạt động tín ngưỡng có ở
mỗi người, mỗi nhà, mỗi cộng đồng dân tộc, nhưng khi thực hành hoạt động
tín ngưỡng ở mỗi cộng đồng dân cư, mỗi vùng miền cụ thể thì lại không
giống nhau.
Tuy nhiên, do vị trí, điều kiện tự nhiên, yếu tố tộc người và văn hóa là
những nhân tố hình thành và phát triển tín ngưỡng dân gian trên địa bàn TNB
khá phong phú, mang bản sắc văn hóa, dân tộc độc đáo, được lưu truyền lâu
nay trong cộng đồng các dân tộc Kinh, Khmer, Hoa, Chăm và các dân tộc
thiểu số khác.
Theo số liệu báo cáo chưa đầy đủ của các địa phương hiện nay có trên
1.495 cơ sở tín ngưỡng dân gian như: đình, miếu, đền, hội quán, phủ thờ,
trong đó có nhiều cơ sở được công nhận di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh, cấp
quốc gia Mỗi dân tộc có những đặc thù và bản sắc văn hóa riêng của mình
góp phần làm phong phú đa dạng văn hóa dân tộc Việt Nam. Riêng đối với
tộc người Khmer, tính đặc thù và bản sắc văn hóa được thể hiện gắn với các
nghi lễ trong tôn giáo và tín ngưỡng, như sau:
Tín ngưỡng liên quan đến nông nghiệp: Người Khmer ở Nam Bộ nói
chung hiện nay sinh sống chủ yếu bằng sản xuất nông nghiệp, một số ít hộ
sản xuất tiểu thủ công nghiệp nhưng chủ yếu là làm những ngành nghề
truyền thống như đan lát, dệt chiếu, làm gốm… Những mặt hàng này tuy
không có giá trị kinh tế cao, nhưng cũng góp thêm thu nhập cho hộ gia
63
đình người Khmer giúp trang trải cho cuộc sống hằng ngày. Một số hộ gia
đình còn chăn nuôi thêm bò, dê… Do sinh sống gần ở vùng trũng nên hầu
hết ruộng đất của người Khmer còn nhiều khó khăn trong canh tác. Việc
sản xuất lúa của người Khmer hiện nay còn khá hạn chế trong việc áp dụng
khoa học kỹ thuật, vẫn còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên vì vậy năng
xuất lúa không cao.
Là cư dân nông nghiệp, những lễ hội trong năm của người Khmer mang
đậm nét của lễ nghi nông nghiệp. Hai nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sản
xuất nông nghiệp là mưa và nắng, nên trong năm có nhiều lễ hội cầu cho mưa
thuận gió hòa. Những lễ hội này được tổ chức rất long trọng. Vào giữa tháng
Chệt (khoảng giữa tháng 4 dương lịch) người dân Khmer tổ chức ăn tết (Chôl
Chnăm Thmây), đón mừng Chư thiên năm mới hay là vào năm mới trong lễ
này tín đồ tổ chức lễ đắp núi cát, lễ Băng-số-kol cầu siêu và lễ tắm Phật; đồng
thời làm lễ cầu an (Pun Kom San) ở từng phum sóc, cầu cho mưa mưa thuận
gió hòa, người dân được an vui, không bị thất mùa vì thiếu nước vào mùa
nắng, ngập lụt vào mùa mưa.
Tín ngưỡng hồn lúa: Là cư dân chủ yếu sinh sống bằng nghề nông nên
cây lúa có một vị trí trong tinh thần của người Khmer. Họ quan niệm rằng cây
lúa cũng giống như người phụ nữ, có thời con gái, có lúc mang bầu và sinh
con… Hình tượng nữ thần lúa trong người Khmer là một người đàn bà cởi
trần mình cá chép, tay cầm nhánh lúa. Vì vậy, phần nhiều tên các giống lúa
đều được gọi bắt đầu bằng chữ “Neang” người Kinh gọi chệch thành
“Nàng”: Nàng Mau, Nàng Lép, Nàng Quýt… Người Khmer còn tin lúa có
19 hồn nên trước khi gặt lúa, người Khmer phải làm lễ gọi hồn lúa về nhà.
Sau khi gặt, phơi khô đổ vào bồ phải đậy kỹ để hồn lúa khỏi bay đi nơi khác.
Bao giờ trong bồ cũng chừa lại một ít lúa để giữ hồn ở đó phù hộ cho mùa
màng năm sau.
64
Có thể thấy khá rõ, các lễ hội dân gian truyền thống của người Khmer ở
Nam Bộ có liên quan đến sản xuất nông nghiệp. Cho đến nay, người Khmer
còn duy trì việc thờ cúng các vị tổ dòng họ gọi là Àrăk. Thờ cúng vị thần bảo
hộ cho cộng đồng phum, sóc gọi là Nặc Tà cùng một hệ thống lễ nghi nông
nghiệp. Ngoài vị Nặc Tà bảo hộ phum, sóc, người Khmer còn thờ Nặc Tà Srê
(Nặc Tà ruộng) để xin được mùa màng tươi tốt, khỏi bị chuột bọ, sâu rầy; Nặc
Tà ngã ba sông giúp ghe thuyền đi lại an toàn; Nặc Tà Wat (Nặc Tà chùa) để
bảo vệ ngôi chùa khỏi bị ma quỷ quấy phá…Trong các buổi lễ tổ chức tại
chùa hoặc tại gia đình thì đều hoạt động văn nghệ như ca múa, đặc biệt là
không thể thiếu diệu nhảy Rom Vong của trai gái trong tiếng nhạc của giàn
nhạc ngũ âm đặc sắc tạo nên không khí thật vui tươi cho phum sóc.
Tín ngưỡng Nặc Tà: Đây là tín ngưỡng có từ lâu của người Khmer. Nặc
Tà được thờ trong một miếu nhỏ, lớn ở một góc làng hoặc một góc chùa hay
ngã ba, ngã tư sông. Nặc Tà được tượng trưng bởi những hòn đá hình bầu dục
được mài nhẵn hoặc có trong tự nhiên. Có nhiều loại Nặc Tà khác nhau, có
loại thuộc loại cây cổ thụ (Nặc Tà Sâm Rông, Nặc Tà Đơm Chrây, Nặc Tà
Pem Um Mul… có loại Nặc Tà thuộc địa thế, Nặc Tà sự tích địa phương và
Nặc Tà chùa (Wat). Việc thờ cúng Nặc Tà của người Khmer còn mang nhiều
dấu vết của Bàlamôn giáo. Tuy nhiên, hiện nay theo nhận xét của HĐKSSYN
tỉnh Hậu Giang thì việc thờ Nặc Tà gần như không còn nhiều nữa, và thực tế
cũng cho thấy, khi hỏi về Nặc Tà, thanh niên Khmer ngày nay không còn tin
nữa và cũng rất ít người biết đến.
Tín ngưỡng Àrăk: Người Khmer quan niệm rằng Àrăk vừa là ma quỷ
vừa là thánh thần. Mỗi dòng họ thờ một Àrăk riêng để phù hộ cho dòng họ
mình. Trước đây mỗi dòng họ chọn ra một người phụ nữ phụ trách việc lên
đồng (gọi là Lơn Àrăk). Ngày nay, có người làm chuyên nghiệp khi gia đình
nào cần lên đồng thì đến mời và trả thù lao. Những người hành nghề này cứ
65
hằng năm vào tháng 3 hoặc tháng 4 phải tổ chức cúng lễ cho Tổ sư của mình.
Giống như Nặc Tà, Àrăk có nhiều loại: Àrăk Pateh (tức thần đất), Àrăk Phtah
(tức thần bảo bộ gia đình, Àrăk Kol (tức tổ tiên), Àrăk phum (tức thổ thần),
Àrăk Vêl (tức thần ruộng)…
- Tín ngưỡng liên quan đến vòng đời người: Cuộc đời của mỗi người
Khmer phải trãi qua nhiều nghi lễ khác nhau như lễ mở mắt, lễ giáp tuổi, lễ đi
tu… trong đó có những lễ mà người Khmer coi là trọng đại nhất đối với cuộc
đời của con người - đó là lễ cưới và lễ tang. Trong khuôn khổ luận án này,
chúng tôi chỉ đề cập đến hai lễ quan trọng trong hệ thống nghi lễ vòng đời là
lễ cưới và lễ tang mà qua đó chúng ta cũng có thể thấy được ảnh hưởng của
PGNT trong hệ thống nghi lễ vòng đời.
Người Khmer rất coi trọng hôn nhân nên việc dựng vợ, gả chồng luôn
được quan tâm và chuẩn bị chu đáo. Tục ngữ Khmer có câu “làm ruộng bị
thất bát một năm nhưng năm sau có thể lại trúng, còn việc dựng vợ gả chồng
mà sai trái thì suốt đời thất bại” hoặc “làm ruộng nên xem cỏ, cưới gả cho con
nên xem dòng họ” cũng giống như câu nói của người Kinh “lấy vợ xem tông,
lấy chồng xem giống”. Điều này cho thấy người Khmer rất chú ý đến việc
chọn lựa những chàng rể, cô dâu cho con và yếu tố dòng họ có vai trò quan
trọng trong việc chọn lựa rể hoặc dâu.
Theo phong tục trước đây, người Khmer thường hay lấy những người
trong cùng dòng họ, một mặt họ không muốn người khác họ lấy con cháu
mình vì như vậy sẽ dễ mất dòng, mặt khác, những gia đình giàu có không
muốn những người bên ngoài tộc họ lấy con cháu mình để thừa hưởng gia tài,
nên những thanh niên nam nữ khi lớn lên đến tuổi trưởng thành được dòng họ
mai mối để lấy nhau, không khuyến khích yêu và lấy người ngoài tộc họ.
Ngày nay, tình trạng này không còn phổ biến, thanh niên nam nữ được tự do
yêu đương và chọn chồng, vợ cho mình.
66
Lễ cưới của người Khmer được tổ chức gồm nhiều bước, đầu tiên là lễ
dạm hỏi, tiếp đến là lễ ăn hỏi, sau đó là lễ xin cưới và cuối cùng là lễ cưới. Lễ
cưới của người Khmer thường được tổ chức vào mùa khô, rất ít khi tổ chức
vào mùa nhập hạ vì mùa này trời thường hay mưa nên rất khó khăn cho việc
tổ chức lễ cưới. Lễ cưới thường được tổ chức theo hai kiểu: kiểu đám cưới
truyền thống và kiểu hiện đại. Trong lễ cưới có tục “cột chỉ” nhằm nối kết vợ
chồng cho đến trọn đời. Nghi thức này thường do các vị sư thực hiện một
cách trang trọng.
Tang ma là phong tục của người Khmer có ảnh hưởng rất lớn của PGNT.
Theo quan niệm của người Khmer cũng như của PGNT thì chết không phải là
biểu hiện của sự chấm dứt mà sau khi chết linh hồn của người đó vẫn tiếp tục
một cuộc sống mới ở thế giới bên kia. Nghi thức tổ chức tang ma của người
Khmer luôn gắn liền với những nghi thức của nhà chùa, và được tổ chức rất
long trọng. Người Khmer sau khi chết đều được hỏa táng chỉ trừ một số
trường hợp chết do đột tử hoặc tai nạn thì mới áp dụng hình thức thổ táng. Tất
cả những trường hợp thổ táng hay hỏa táng đều được thực hiện trong khuôn
viên của nhà chùa. Tục hỏa táng của người Khmer có nguồn gốc từ Bàlamôn
giáo của Ấn Độ. Họ quan niệm mỗi con người chính là tiểu vũ trụ được sinh
ra từ linh hồn vũ trụ cho nên sau khi con người chết đi phải quay trở về hòa
nhập với vũ trụ. Chính vì thế nên khi chết cần phải được hỏa thiêu để thân
xác được nhanh chóng trở về vũ trụ. Quan niệm này phù hợp với giáo lý của
PGNT và khi tiếp nhận Phật giáo, người Khmer cũng đã chấp nhận tục hỏa
táng và trở thành tập quán của dân tộc mình.
Cũng cần phải nói thêm về những nghi thức thực hiện nghi lễ hỏa táng
của người Khmer. Trước khi liệm Achar Du ki làm lễ xin giới, môn đồ pháp
quyến thỉnh các vị tu sĩ làm lễ Oy Pua Tức (cầu phúc rải nước), Sau đó Achar
Du ki tiếp tục thực hiện nghi thức liệm xác, cắt 5 mảnh vải trắng chia ra 5
67
đoạn, có khan vắt vai rồi chắp tay lại cằm nhang, đèn, trầu cau. Tiếp theo thực
hiện các nghi thức liệm xác, trước khi vào quan tài Achar Du ki thắp 5 cây
đèn cầy, sau đó tụng kinh quán tưởng, nhiễn đèn cầy quanh quan tài 3 vòng,
sau đó mới đưa xác vào quan tài, sau đó thỉnh mời các vị sư sãi tụng kinh cầu
siêu để trợ tiến hương linh cho những người quá vãng được thực hiện tại nhà
từ 1 đến 3 ngày, mỗi ngày tụng 2 thời buổi trưa thì dâng cơm buổi tối cầu an
và cầu siêu, thuyết pháp, lễ an vị Phật... Achar Du ki và Achar lễ trực suốt đến
khi làm lễ động quan Achar Du ki đọc kinh và nhiễu đèn 3 vòng quanh quan
tài rồi mới tiến hành đưa quan tài ra ngoài. Quan tài được khiêng vòng quanh
lò hỏa táng 3 vòng, nếu các vị Achar, Ban Quản trị chùa, người có uy tín được
phép nhiễu 3 vòng chánh điện. Đến lò hỏa táng thỉnh chư tăng đọc kinh cầu
siều lần cuối, xong con cháu làm lễ thắp hương và sám hối đến người quá
vảng lần cuối, Achar Du ki cùng với 4 vị Ph-Lút khiềng vào lò, tiếp đến đại
diện môn đồ pháp quyết châm lửa thiêu. Sau khi thiêu xong Achar Du ki làm
lễ cúng xin cốt một lần nữa mới giao cho gia đình, rửa cốt bằng nước dừa
phời khô xong phần cốt cho vào hủ, được để thờ ở nhà hoặc mang gửi cốt vào
chùa vào các tháp trong chùa.
- Các lễ hội trong năm: Ở người Khmer, PGNT có hai hệ thống lễ hội.
Một là, lễ hội của PGNTK như: (Makha Puja) rằm tháng giêng al, lễ (Vesak
Puja) Phật đản rằm tháng 4 al, lễ (Chol Vassa) Nhập hạ rằm tháng 6 al, lễ
(Cheng Vassa) Ra hạ vào rằm tháng 9 al và lễ Dâng y (Kathina) từ 16 tháng 9
al đến rằm tháng 10 al. Hai là, lễ hội của đồng bào dân tộc Khmer như: Lễ
(Chôl Chnăm Thmây) tết cổ truyền của đồng bào dân tộc Khmer từ ngày 14 -
16 tháng 4 dương lịch hằng năm, lễ (Phchum Penh) Sene Đolta cúng ông bà
từ ngày rằm tháng 8 đến 30 tháng 8 al gọi cúng ông bà, xá tội vong nhân, lễ
Hội (Ok Om Bok) cúng trăng, đua ghe ngo vào rằm tháng 10 al là kết thúc lễ
hội trong năm.
68
Đặc biệt, khi nói đến người Khmer thì không thể không nói đến lễ hội
Ok Om Bok được tổ chức vào các ngày 14,15 và16/10 (Âm lịch). Đây là lễ
hội có từ rất lâu, lúc ban đầu chỉ đua xuồng, ghe và một số môn thể thao, càng
về sau điều kiện kinh tế ngày càng phát triển, người dân tham gia ngày càng
đông, qui mô tổ chức lễ hội ngày càng được nâng dần công nhận là qui mô lễ
hội cấp tỉnh. Ở lễ hội Ok Om Bok, ngoài phần lễ cúng trăng, bộ môn đua ghe
ngo được quan tâm nhiều nhất và được đông đảo các chùa trong và ngoài tỉnh
tham gia thi đấu tranh tài. Lễ hội quy tụ rất đông đảo đồng bào không chỉ
người Khmer mà còn có sự tham gia của các dân tộc khác…
Ngoài ra, còn các cuộc lễ bổ sung khác trong năm như: Lễ cầu an (Pun
Kom san) phum sóc, lễ an vị Phật, lễ chúc thọ, Đại lễ kiết giới Sima rất hoành
tráng và long trọng.
Cùng với lễ là các chương trình giao lưu văn nghệ, ca múa rom vông
được diễn ra ngay tại sân chùa, đặc biệt là thu hút không chỉ thanh thiếu niên
của người Khmer mà cũng có cả người Kinh, Hoa quanh vùng cùng tham dự.
Tóm lại, ngoài PGNTK, tín ngưỡng dân gian cũng chi phối đời sống
tinh thần của người Khmer đó là tín ngưỡng Neak Tà và tín ngưỡng Arăk.
Người Khmer thường tổ chức cúng Neak Tà vào đầu mùa mưa với cầu
mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, phù hộ người dân trong
phum, sróc nhưng Neak Tà cũng có thể gieo họa hoặc ban phúc. Tín
ngưỡng Neak Tà gắn liền với đời sống, sản xuất của người Khmer. Riêng
tín ngưỡng. “Arăk là thần, một loại thần không có hình dáng, biểu hiện rõ
rệt và tính chất thiện, ác cũng khó phân biệt... Arăk tượng trưng cho vị thần
của dòng họ, nghĩa là người trong dòng họ chết từ lâu nhưng linh thiêng
nên được tôn là thần và được các gia đình trong dòng họ thờ cúng nhờ bảo
hộ” [100, tr.68-69] rất phổ biến trước năm 1975 nhưng hiện nay không còn
phổ biến trong đời sống của người Khmer, vì đây là một sinh hoạt mê tín dị
đoan, không còn được người Khmer chấp nhận.
69
2.3. KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER VÙNG TÂY NAM BỘ
2.3.1. Lịch sử truyền giáo
Lịch sử của người Khmer vùng TNB lưu giữ lại đã phản ánh rõ nét
trước khi đạo Phật du nhập vào vùng đất này, nhân dân ở đây đã có nhiều loại
hình tín ngưỡng khác nhau: Tín ngưỡng Tô tem, tín ngưỡng nhân gian, tín
ngưỡng Bàlamôn giáo… Điều này cho tới nay còn mang nặng dấu ấn thể hiện
qua trang trí nơi thờ tự, nơi sinh hoạt, qua nghi thức tế lễ, trong việc thờ cúng,
hình ảnh các tín ngưỡng đan xen, pha trộn nhau trong sự nổi trội của tín
ngưỡng Phật giáo hiện tại.
Căn cứ vào lịch sử nước Phù Nam và nước Chân Lạp, thì người Khmer
có mặt ở vùng đất Nam bộ vào thế kỷ VII. Tuy nhiên, con đường du nhập
PGNT vào cộng đồng người Khmer ở Nam bộ phải diễn ra sau đó rất lâu, và
gắn liền với tiến trình lịch sử nước Chân Lạp. Từ thế kỷ VII, với sức mạnh
quân sự, Chân Lạp nhiều lần đánh chiếm Thái Lan để mở rộng vùng lãnh thổ
của mình. Sau hai thế kỷ đô hộ Thái Lan (XI-XII).
Đến “thế kỷ XIII, các đạo quân Mông Cổ tràn vào tàn phá Thái Lan
và đánh bại người Khmer. Dân chúng tháo chạy nhưng đồng thời họ
cũng thoát được ách đô hộ của người Khmer. Sau đó họ tập hợp lại
và thành lập hai vương quốc là Chiangmai và Sukhothai. Vương
quốc Sukhothai chịu ảnh hưởng của các nhà sư Miến Điện nên ngả
theo Phật giáo Theravada. Vua Rama Kamheng (trị vì: 1281-1318)
cũng theo Phật giáo Theravada và đã hết lòng quảng bá giáo lý trong
Tam tạng kinh [97, tr.303].
Sau khi Thái Lan giành được độc lập vào thế kỷ XIII, Chân Lạp dần bị
suy yếu, cộng với việc triều đình cho xây dựng nhiều đền đài phục vụ cho tôn
giáo đẳng cấp và tôn thờ hình tượng vua Jayavarman VII khiến người dân
càng thêm bất mãn. Thời gian này, song song với Phật giáo Mahayana (Phật
70
giáo Đại thừa) thì Phật giáo Theravada cũng đã âm thầm tồn tại trong lòng
dân chúng Chân Lạp, “lý do là vì có nhiều nhà sư Miến Điện thường xuyên
thay nhau đến Chân Lạp thuyết giảng” [97, tr.303].
Do vậy, Phật giáo Theravada và Phật giáo Mahayana đã tồn tại song
song trong dân chúng Chân Lạp. Trước nhiều biến loạn trên vùng đất Chân
Lạp, nhất là các thế kỷ XII-XIV, người Khmer ở Chân Lạp di cư xuống vùng
đất Nam bộ sinh sống ngày nhiều hơn. Họ quần cư với một nhóm người đồng
tộc định cư từ trước đó (từ thế kỷ VII và những lần di cư rải rác sau đó). Qua
những đợt di cư, liên hệ qua lại giữa hai nhóm người trước đó và nhóm người
di cư từ các thế kỷ XII-XIV, PGNT dần được truyền bá vào Nam bộ, được
người Khmer ở đây tiếp nhận, thay thế Phật giáo Mahayana và Bàlamôn giáo
tồn tại từ trước đó. Do đó, dựa vào những biến cố lịch sử ở Chân Lạp, và sự
liên hệ qua lại giữa hai đồng tộc này, những người Khmer Chân Lạp qua quá
trình di cư tìm nơi đất mới ổn định sinh sống, đã đem Phật giáo Theravada
truyền bá rộng rãi vào Nam bộ, đồng tộc của họ đã tiếp nhận và lưu truyền
rộng rãi trong tộc người.
Một ý kiến khác, căn cứ vào thời gian PGNT hình thành và phát triển
thời kỳ Phù Nam và Chân Lạp với thời gian xây dựng các ngôi chùa của
người Khmer ở Nam bộ thì, PGNT được hình thành ở Nam bộ vào khoảng
cuối thế kỷ thứ III, đầu thế kỷ thứ IV (sau công nguyên) là có cơ sở. Vì Chùa
Kop Treng (ấp Kop Treng, xã Núi Tô, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang) được
xây dựng năm 400; chùa Som Bua (Ấp Trà Kháo, xã Hòa Ân, huyện Cầu Kè,
tỉnh Trà Vinh) xây dựng năm 373; chùa Bến Có (Ấp Bến Có, xã Nguyệt Hóa,
huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh) xây dựng năm 613. Qua đó, có thể khẳng
định, PGNT tồn tại ở Nam Bộ trước khi những ngôi chùa ngày xuất hiện từ
nửa thế kỷ.
Theo Nguyễn Xuân Nghĩa [72], những tư liệu khảo cổ học cho thấy, từ
thế kỷ VI đến thế kỷ XVIII, vùng phía nam Trà Vinh, một trong những điểm
71
tụ cư lâu đời và đông đảo nhất của người Khmer là một trong các trung tâm
Phật giáo lớn thời bấy giờ. Sự tập trung các bức tượng cổ nơi đây khiến ta suy
nghĩ Phật giáo đã du nhập vào vùng Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long chủ
yếu bằng đường biển mà các cửa sông Cổ Chiên, Định An, Trần Đề là những
đường thâm nhập thuận lợi nhất. Đồng thời, trong số 13 tượng Phật cổ được
tìm thấy nơi đây có 4 tượng liên hệ đến Lokecvara. Như vậy đã có thời gian
Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền đã cùng tồn tại. Song từ thế kỷ XIII trở
đi, ảnh hưởng đến cách ứng xử của đồng bào Khmer trong mọi mặt của đời
sống hàng ngày rõ ràng là Phật giáo Nam truyền.
Quá trình truyền thừa của Phật giáo: Cách đây hơn 2.500 năm Phật lịch,
thời Đức Phật Thích Ca còn tại thế, Phật giáo vốn là một thể thống nhất,
không có sự phân chia hệ phái. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn,
các hàng đệ tử của Đức Phật tập trung nhau lại đọc tụng kinh, ghi nhớ những
điều Phật dạy, khi đó mới xuất hiện những quan điểm khác biệt về việc thực
hành giới luật, hình thành các bộ phái khác nhau. Việc giải thích khác nhau về
giáo lý cho thích hợp với tình hình của xã hội vào mỗi thời điểm là chuyện tất
yếu. Tuy vậy, bản thân giáo lý Phật giáo không hề có sự phân chia tông phái.
Sự phân chia hệ phái trong Phật giáo bắt đầu xảy ra vào thời kỳ kết tập
Tam tang kinh điển lần II tổ chức tại thành Tỳ Xá Ly (khoảng 100 năm sau
khi Thích Ca Mâu Ni nhập Niết Bàn). Lần phân chia đầu tiên là do sự bất
đồng về yêu cầu thay đổi 10 điều giới luật. Các điều này tuy không phải là
những thay đổi lớn lao, nhưng đủ để gây ra sự tách biệt Tăng đoàn thành Đại
Chúng Bộ (Mahàsamghika), mà đa số là các Tỳ Kheo trẻ muốn thay đổi. Số
còn lại bảo lưu các giới luật nguyên thuỷ hình thành Thượng Tọa Bộ
(Thèravada). Các cuộc phân phái về sau trở nên phức tạp và đa dạng hơn.
Thèravada còn gọi là Phật giáo Nguyên thủy hay PGNT; thuật ngữ
“Thèravađa” còn có nghĩa là “lời dạy của bậc trưởng thượng”, do đó nhiều
72
sách còn gọi nhóm này là Trưởng Lão Bộ. Trong kỳ kết tập Tam tang kinh
điển lần III, hội đồng tham gia kết tập đã công nhận giáo pháp gọi là Thuyết
Trưởng Lão. Sau đó, người con trai của vua Asoka (A Dục) là Mahinda đã
đem cả ba tạng kinh đến Sri Lanka để dịch sang tiếng Pàli, từ đó trở thành
nguồn tạng kinh sử dụng của Phật giáo Thèravađa cho đến ngày nay.
Trong quá trình phát triển, hệ phái Đại Chúng Bộ truyền về hướng Bắc
sang Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam… được gọi là Phật giáo
Bắc tông (Mahayana) hoặc Phật giáo Bắc truyền. Phái Thượng Tọa Bộ
truyền về hướng Nam, phát triển xuống Sri Lanka (Tích Lan), Myanmar
(Miến Điện), Thái Lan, Campuchia, Lào, Việt Nam … nên được gọi là
PGNT hoặc Phật giáo Nam truyền. PGNT được đông đảo người dân ở Nam
Bộ - Việt Nam; đặc biệt là tộc người Khmer đón nhận và trở thành tôn giáo
truyền thống chính thống trong cộng đồng người Khmer ở nơi đây; do đó
được gọi là PGNTK.
Quá trình du nhập Phật giáo Nam tông vào Việt Nam: Phật giáo Nam
tông được truyền vào các nước Đông Nam Á như: Sri Lanka, Myanmar, Thái
Lan, Lào, Campuchia và Miền Nam Việt Nam (trước đây là vùng đất Phù
Nam) bằng hai con đường: đường thủy thông qua việc buôn bán với thương
gia Ấn Độ và đường bộ qua sự giao lưu văn hóa với các nước trong khu vực
bán đảo Đông Dương. Nhưng trước khi Phật giáo truyền vào cộng đồng người
Khmer, chủ yếu họ theo Bàlamôn giáo hoặc các tín ngưỡng truyền thống như:
thờ các thần đất, thần nước, thần lửa, thần gió và thần Arặk, Nặk Tà...Theo
các tác giả: Trí Bửu (tr.14), Lê Đàn (tr. 27), Hòa thượng Thích Thiện Tâm
(tr.486) và Phan Thuận (tr.541) trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Phật giáo
đồng hành cùng dân tộc” tổ chức tại Kiên Giang do Viện nghiên cứu tôn giáo
(Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam) - Học viện PGNTK (Giáo hội Phật giáo
Việt Nam) tổ chức vào ngày 11/6/2014 đều cho rằng: “Phật giáo Nam tông
73
có mặt ở Nam Bộ - Việt Nam từ khoảng thế kỷ IV”. Mặc khác, chùa Tro Păng
Veng ở xã Nhị Trường, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh là ngôi chùa đầu
tiên của PGNT ở vùng đất Nam Bộ - Việt Nam được xây dựng trên vết tích
của Bàlamôn giáo vào năm 374 (sau Công nguyên).
Từ khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam thì triết lý, đạo đức Phật giáo đã
nhanh chóng hòa quyện vào đời sống xã hội, mỗi hành động, mỗi ý tưởng của
ngôn ngữ sinh hoạt đời thường điều có chất liệu Phật giáo thấm nhuần theo
từng lĩnh vực của đời sống xã hội. Riêng đối với PGNTK, bên cạnh chức
năng văn hóa, ngôi chùa luôn đảm nhiệm chức năng giáo dục, bản chất giáo
dục Phật học trong chùa Khmer luôn có mối quan hệ gắn bó mật thiết với giáo
dục phổ thông nghĩa là dạy học chữ Khmer và chữ phổ thông rất ngẫu nhiên,
thậm chí ngôi chùa còn đảm đương việc dạy nghề cho Phật tử… Nếu chỉ đơn
thuần xét về đặc điểm giáo dục Phật học cho các vị tăng sinh hoặc cho lứa
tuổi thanh thiếu niên được trưởng thành trong ngôi chùa Khmer từ xưa cho
đến nay thì nó là một chu trình khép kính của việc “tu - học”.
Quá trình tồn tại và phát triển, PGNTK giữ vai trò độc tôn trong đời sống
của cộng đồng người Khmer; ngôi chùa Khmer vừa là trung tâm sinh hoạt tôn
giáo, vừa là trung tâm văn hóa, giáo dục của cộng đồng người Khmer ở nơi
đây. Đồng thời, có nhiều đóng góp quan trọng trong công cuộc dựng nước và
giữ nước của dân tộc Việt Nam và góp phần quan trọng trong việc hình thành
văn hóa, lối sống, phong tục tập quán, đạo đức cũng như trong các cuộc đấu
tranh xây dựng và bảo vệ độc lập của nhiều dân tộc và đặc biệt là góp phần vào
việc tạo ra bản sắc văn hóa Việt Nam.
Phật giáo Nam tông trở thành tôn giáo truyền thống của người Khmer,
đã đồng hành cùng dân tộc Khmer trong suốt quá trình lịch sử của dân tộc. Dù
bất cứ hoàn cảnh nào, dù khó khăn gian khổ đến mấy, họ cũng luôn gắn bó
với tôn giáo truyền thống của họ, thậm chí họ còn coi chùa chiền là niềm tin,
74
là chỗ dựa tinh thần vững chắc. Mỗi khi có việc không lành xảy ra, họ thường
tìm đến đây để van vái, cầu mong cho Phật, Pháp, Tăng phù hộ để sớm thoát
nạn. Khi có chiến tranh, chùa là nơi để họ trú ẩn, để tránh mối hiểm nguy. Họ
cho rằng, đây là vùng đất linh thiêng có thể che chở, có thể tránh được các
mối đe dọa cuộc sống của họ, cho nên trong thời gian xảy ra chiến tranh, hầu
hết người Khmer đã tập trung về sống xung quanh chùa để tránh bom đạn,
tránh mối hiểm nguy cho bản thân, cho gia đình và người thân của họ.
2.3.2. Giáo lý, giáo luật, nghi lễ, cơ cấu tổ chức
Phật giáo Nam tông từ lâu đã in đậm trong tâm khảm và chi phối mạnh mẽ
đời sống tinh thần của các thế hệ người Khmer. Đối với đồng bào Khmer, triết lý
Phật giáo là chân lý, đức Phật là niềm tin, ngôi chùa là điểm tựa về tinh thần, sư
sãi là tấm gương đạo đức. Vì vậy, mỗi người Khmer được sinh ra đã được xem
mình là một người Phật tử. Ngoài ý nghĩa xuất gia để báo hiếu, tu gieo duyên
còn tôi luyện đạo đức, sư sãi Khmer còn được trau dồi kiến thức và trí tuệ để
phụng sự đạo pháp và dân tộc.
Do đó, nhà chùa đảm nhiệm cả công nội và công ngoại, ngoài việc giảng
dạy tiếng Khmer để giữ gìn và phát huy tiếng nói, chữ viết của dân tộc; dạy tiếng
Pali - Khmer, văn phạm Khmer ngữ để sáng tạo ngôn từ mới bổ sung cho tiếng
Khmer; dạy kiến thức Phật học để tiếp cận những tinh hoa của Phật giáo. Trong
chương trình giảng dạy, người học còn được tiếp cận văn học, văn hóa học, dân
tộc học, ngôn ngữ học...
Những chuẩn mực đạo đức phật giáo có tác dụng điều chỉnh hành vi,
nhân cách con người, ảnh hưởng tích cực đến tín đồ, Phật tử. Điều đó thể hiện
tính độc lập tương đối của các hình thái ý thức xã hội, chúng luôn có sự tác
động qua lại lẫn nhau tạo nên nét đặc thù riêng trong lối sống, đạo đức cho
dân tộc này được phát triển và sinh tồn trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
PGNT với giáo lý, giáo luật, lễ nghi đơn giản phù hợp với cuộc sống đời
thường của người Khmer gắn liền với nền văn hóa lúa nước.
75
Người Khmer đã tiếp nhận PGNT và đưa tôn giáo này lên vị trí độc tôn
trong đời sống vật chất, tinh thần cả mình. Những triết lý nhà Phật đã ảnh
hưởng rất sâu sắc đến đồng bào dân tộc Khmer. Văn hóa tộc người Khmer và
PGNT đã hòa quyện vào nhau, bổ sung cho nhau tạo nên một chỉnh thể văn
hóa tôn giáo - tộc người độc đáo và đặc sắc của người Khmer. Việc đi tu để
trả hiếu cũng là nét đẹp truyền thống và là giá trị đạo đức nhân văn cao cả của
người Khmer vẫn được duy trì.
Thanh niên Khmer cần phải vào chùa tu hành một thời gian để trau dồi
đạo đức, trang bị tri thức và học cách làm người vì người đã tu hành ở chùa sẽ
được cộng đồng người Khmer nhìn nhận và đánh giá cao, dễ lập gia đình, dễ
được tiếp nhận làm các công việc xã hội. Về đời sống hàng ngày, PGNT thực
hành theo giới luật Phật giáo Nguyên thủy, nên không ăn chay (dùng tam tịnh
nhục) như Phật giáo Bắc tông, các vị sư sống bằng sự khất thực hằng ngày, sự
dâng cúng vật thực mỗi ngày của tín đồ. Các sư chỉ ăn hai bữa một ngày điểm
tâm ăn cháu; vào trời ló vạng buổi sáng sớm, và trước giờ Ngọ (sớm hơn 12
giờ trưa). Sau 12 giờ trưa cho đến hết đêm nhà sư chỉ được dùng vật lỏng để
uống, như: nước, sữa, trà, đường, trái cây ép, vắt, mật ong, nước mía…Sau
một thời gian tu học, họ hết căn duyên có thể xin hoàn tục theo truyền thống,
lập gia đình, phát triển kinh tế, tham gia các công việc xã hội nhưng khi
muốn, nếu còn căn duyên họ có thể tiếp tục xin vào chùa xuất gia lần thứ hai
vẫn được, nhưng phải được sự chấp thuận và đồng ý của gia đình.
Đặc biệt, PGNTK không có phụ nữ tu hành ở chùa, chỉ có tu nữ thọ bát
quan trai giới hay thập giới. Tuy nhiên, người phụ nữ Khmer lại được giáo
dục tư tưởng và đạo đức Phật giáo thông qua nếp sống của người đàn ông
trong gia đình, thông qua các lễ hội, các buổi thuyết giảng giáo lý và những
nghi thức truyền thống mang đậm nét Phật giáo của người Khmer như: Lễ
Phật đản; lễ Nhập hạ, lễ Xuất hạ, lễ Dâng y Kathina, tết Chôl Chnăm Thmây,
76
lễ Sene Đôlta, lễ hội Ok Om Bok, nghi thức dâng cúng trai tăng và các nghi lễ
khác tổ chức tại gia đình... Tất cả các cuộc lễ đều được tổ chức tại chùa,
chương trình lễ do vị sư cả trong chùa soạn thảo. Ngày lễ thực sự là ngày hội
quần chúng, mọi người đều quy tụ về ngôi chùa trong xóm để dự lễ và vui
chơi với hàng loạt những trò chơi dân gian, truyền thống của dân tộc mình.
Nhìn chung, mọi tín đồ đều gắn bó chặt chẽ với nhà chùa từ những việc lễ hội
cho đến các công việc thường nhật hàng ngày của đời sống gia đình.
Phật giáo Nam Tông Khmer có hệ thống tổ chức 4 cấp là trung ương,
tỉnh, huyện, cơ sở. Các tổ chức này đều tập trung hoạt động về công tác tôn
giáo, quan hệ với các đạo khác, quan hệ với các cấp chính quyền… nhằm giải
quyết các công việc đạo sự. Chỉ riêng có một số chức sắc là tham gia vào các
đoàn thể, Mặt trận. Việc tham gia quản lý Phum, Sóc cơ bản cấp xã là do các
chùa đảm nhiệm. Nhà chùa, với hình thức tổ chức tập thể đã bầu ra Ban quản
trị để liên lạc với chính quyền địa phương. Chính quyền địa phương ở nhiều
tỉnh, nhất là tỉnh Sóc Trăng - thống nhất với nhà chùa tiến hành tổ chức Đại
hội Sư sãi Acha để thống nhất một số quy ước về phong tục tập quán và lễ
hội của dân tộc, cũng là nhằm đảm bảo việc quản lý địa bàn thực hiện tốt an
ninh trật tự trong chùa, Phum, Sóc. Kết quả là các lễ hội được tổ chức cải
tiến, giảm bớt các thủ tục rườm rà, rút ngắn được thời gian, bảo đảm thích
hợp thực hiện tốt công tac trật tự trị an, an toàn xã hội trong địa bàn chùa,
Phum, Sóc.
2.3.3. Tu sĩ và tín đồ
Ngay từ thời xa xưa và cho đến ngày nay, đa phần một người Khmer vùng
TNB khi cất tiếng khóc chào đời mặc nhiên đã là một tín đồ của PGNTK. Cùng
với sự phát triển dân số thì tín đồ của PGNTK cũng liên tục phát triển.
Qua bao thế kỷ người Khmer Nam Bộ đã gắn bó với PGNT; với vai trò,
chức năng và những giá trị nhân văn sâu sắc của mình; PGNT đã trở thành
77
chỗ dựa trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Khmer. Đặc biệt khi
thanh, thiếu niên vào chùa đi tu sẽ được các sư sãi khuyên dạy những điều
hay lẽ phải “lễ nghĩa”, dạy học chữ, viết chữ, dạy nhân cách làm người... Để
khi thanh thiếu niên đó trở về gia đình, hòa nhập vào cuộc sống đời thường có
được một kiến thức nhất định sẽ vững vàng hơn trong cuộc sống. Qua nghiên
cứu chúng tôi khái quát những nét đặc trưng của PGNTK được thể hiện trên
các mặt như sau:
Trong thời gian tu học làm tu sĩ, đa số các vị được sự giúp đỡ về mọi mặt
vật chất lẫn tinh thần từ phía nhà chùa và các tín đồ đóng góp. Trong suốt quá
trình các vị sư tu học, trụ trì ở các chùa luôn quan tâm giúp đỡ học tập Phật học
và thế học và cưu mang che chở giúp đỡ mọi thứ, cụ thể những năm gần đây
HĐKSSYN các cấp cũng đã giới thiệu cho tu sĩ Khmer đi học các nơi như:
Trường Bổ túc Văn hóa Pali trung cấp Nam Bộ tại Sóc Trăng; Học viện PGNT ở
thành phố Cần Thơ; các trường cao đẳng, đại học ở trong nước và nước ngoài
(chủ yếu là du học tại Thái Lan và Myanmar). Tuy nhiên, tu sĩ PGNTK không bị
bắt buột là phải tu suốt đời mà có thể lựa chọn các hình thức như sau:
Tu suốt đời: có rất ít thanh niên Khmer nguyện đi tu và thực hành theo
giáo lý nhà Phật suốt đời. Đối với hình thức đi tu này, các vị sư chỉ chú tâm
học hành theo giáo lý nhà Phật như: học Kinh, Luận, Giới, học Pali và học
ngồi thiền Vipassana, bên cạnh đó là trau dồi kiến thức liên quan đến việc tu
học của mình. Trong tương lai các vị sẽ trở thành vị pháp sư, thiền sư chuyên
đi thuyết pháp giảng đạo, hoặc trở thành các vị thiền sư hướng dẫn Phật tử
cách ngồi thiền định Vipassana gọi là pháp hành.
Tu trả lễ: Hình thức đi tu gieo duyên này thường được tổ chức vào dịp
lễ Chôl Chnăm Thmây (tết cổ truyền đồng bào dân tộc Khmer), hoặc lễ cầu an
tại phum soc. Nhưng dù xuất gia trả lễ hay gieo duyên từ một đến bảy ngày,
vào dịp lễ nào thì cũng phải hoàn tục.
78
Tu báo hiếu: đây là một tập quán lâu đời, là truyền thống văn hóa đặc
trưng của người Khmer. Hình thức đi tu này vừa mang đậm tính chất tôn giáo,
nhưng đồng thời còn thể hiện lòng hiếu thảo của con cháu đối với ông bà, cha
mẹ những người đã có công sinh thành dưỡng dục. Người Khmer gọi đó là
Buôs Muc Phlơn, tức là tu trước ngọn lửa cháy to trong lúc hỏa thiêu những
người quá cố. Người đi tu trong trường hợp này cũng được gọi là Buôs Son
Kun tu báo hiếu, thực hiện đúng nghi lễ xuất gia trở thành một vị Sadi. Nhưng
đối với hình thức tu này, người tu không vào chánh điện hoặc vào chánh điện
nếu xét thấy bản thân có căn duyên tu được một hạ Phật là 3 tháng, hoặc làm
lễ xuất gia trong túp lều hay nhà hỏa táng. Lễ buộc tay Neak trong trường hợp
này được tổ chức trước giờ động quan. Sau đó Achar Duki hướng dẫn Neak
và tất cả thành viên trong gia đình tiễn đưa quan tài đến nơi hỏa táng. Khi
ngọn lửa cháy bừng lên thì Achar Duki dẫn Neak vào trong lều nơi có một vị
sư đang ngồi Abhidhamma (Ngồi niệm kinh Vi Diệu Pháp hồi hướng phước
cho người chết) chú nguyện để làm lễ xuất gia. Khi xuất gia xong vị Sadi này
sẽ được bố trí ngồi trong lều niệm câu chú nguyện, hồi hướng phước báu cho
hương linh người quá vãng. Ngồi niệm ở đó đến khi thiêu xong thì vị Sadi
này cùng Achar Duki và gia đình đi nhặt xương người chết bỏ vào khay có lót
vải trắng, xương cốt được gói gọn trong khay đem về nhà làm lễ đấp núi cát,
cầu siêu cho sớm giải thoát. Đến khi tang lễ kết thúc, Achar Duki sẽ hướng
dẫn vị Sadi làm lễ hoàn tục tại nhà. Tuy nhiên cũng có trường hợp người tu
báo hiếu không muốn hoàn tục mà xin về chùa ở luôn; trong trường hợp này,
gia đình phải làm thêm một số thủ tục để hợp thức hóa đúng theo quy định
của pháp luật.
Mặc dù vào chùa tu trên tinh thần tự nguyện nhưng chỉ được nhận vào
chùa và được thọ giới Sadi khi đáp ứng được một số yêu cầu cơ bản: Phải
được sự đồng ý của cha mẹ hoặc người nuôi dưỡng (nếu còn nhỏ). Người nam
79
đã có gia đình muốn vào chùa tu phải được sự đồng ý của vợ; Phải là công
dân tốt, không trong tình trạng vi phạm pháp luật; phải có thầy dẫn dắt và có
những vật dụng cần thiết của một tu sĩ.
Tu sĩ PGNTK có vị trí và ảnh hưởng rất lớn đối với cộng đồng người
Khmer. Các vị tu sĩ Khmer được coi là đại diện cho 3 đời Chư Phật để truyền
dạy và giáo hóa chúng sanh, họ luôn là người thầy mô phạm được tôn kính và
tin tưởng. Sinh hoạt văn hóa, lễ hội của đồng bào Khmer đều có sự tham dự,
hướng dẫn và chứng minh của các vị tu sĩ. Có thể nói, đời sống thường nhật
của đồng bào Khmer và PGNTK luôn gắn bó mật thiết với nhau và không thể
tách rời từ sinh ra cho đến hết đời.
Người Khmer theo PGNT trước tín đồ tu sĩ là nhân vật thiêng liêng, là
người đại diện cho Đức Phật, người nối giữa tín đồ và Đức Phật. Các vị tu sĩ
được xã hội kính trọng như vậy cho nên trong xã hội Khmer trước đây tu sĩ có
phạm pháp chính quyền cũng không được đụng tới, không được xử lý theo
pháp luật như người thường dân. Chỉ khi nào Hội đồng kỷ luật sư sãi của
Giáo hội Phật giáo khẳng định sai sót trong việc làm của vị tu sĩ đó và trục
xuất ra khỏi chùa, khi đó pháp luật mới được xử lý người phạm pháp theo luật
xử lý với người dân.
Do được đề cao, được xã hội kính trọng nên các vị tu sĩ Khmer theo
phái Nam tông phải tu hành theo giới luật nghiêm ngặt, thực hiện nghiêm túc
theo những quy định giới luật do Phật chế lúc còn tại thế như: Tu sĩ không
được đi một mình với một người phụ nữ trên quãng đường vắng chỉ có hai
người; tu sĩ không được ngồi chung chiếu với phụ nữ, không được ăn cơm, ăn
đồ cúng sau 12 giờ trưa (quá ngọ)…
Đối với tín đồ, tu sĩ là một mẫu hình của chuẩn mực đạo đức thực hành
đạo hạnh của Đức Phật. Trong các chùa Khmer , tu sĩ được phân công giữ gìn
giới luật trong chùa. Vị nào vi phạm giới luật sẽ bị xử lý nghiêm khắc, với các
80
hình thức khác nhau: Vi phạm nhẹ thì người vi phạm phải sám hối, vi phạm
nặng sẽ bị xử phạt hoặc bị lột áo cà sa, trục xuất ra khỏi chùa…
Ngoài tu hành rèn luyện đạo hạnh, tu sĩ còn phải học tập thông hiểu giáo
lý, vị tu sĩ được kính trọng là vị tu sĩ tinh tiến trong tu học thông hiểu giáo lý và
có đạo hạnh trang nghiêm.
Tóm lại, cách đây hơn 2.500 năm, thời Đức Phật Thích Ca còn tại thế,
Phật giáo vốn là một thể thống nhất, không có sự phân chia hệ phái. Sau khi Đức
Phật nhập Niết Bàn, các đệ tử Phật tập trung nhau lại đọc tụng, ghi nhớ những
điều Phật dạy, khi đó mới xuất hiện những quan điểm khác biệt về việc thực
hành giới luật, hình thành các bộ phái khác nhau. Việc giải thích khác nhau về
giáo lý cho thích hợp với tình hình của xã hội vào mỗi thời điểm là chuyện tất
yếu. Tuy vậy, bản thân giáo lý Phật giáo không hề có sự phân chia tông phái.
Sự phân chia bộ phái trong Phật giáo bắt đầu xảy ra vào thời kỳ kết tập kinh
điển lần II tổ chức tại thành Tỳ Xá Ly (khoảng 100 năm sau khi Thích Ca Mâu
Ni nhập Niết Bàn). Lần phân chia đầu tiên là do sự bất đồng về yêu cầu thay đổi
10 điều giới luật. Các điều này tuy không phải là những thay đổi lớn lao, nhưng đủ
để gây ra sự tách biệt Tăng đoàn thành Đại Chúng Bộ (Mahàsamghika), mà đa số
là các Tỳ Kheo trẻ muốn thay đổi. Số còn lại bảo lưu các giới luật nguyên thuỷ
hình thành Thượng Tọa Bộ (Theravada) hay còn gọi là PGNT.
Phật giáo Nam tông có điểm ưu việt của nó là truyền bá đến quốc gia
nào vẫn giữ được nét văn hoá Phật giáo đặc thù, mà những truyền thống khác
rất hiếm có. Hiện nay, PGNT có mặt ở những quốc gia: Srilanka, Myanma,
Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Anh, Mỹ, Ý, Úc, Malaysia , Indonesia,
Nepal, Ấn Độ v.v… Điểm đáng nói là tính thống nhất trong truyền thống tu
tập, chư tăng tụng kinh bằng tiếng Pali và tiếng bản ngữ, tu hành y cứ theo
thánh điển Pali, Tam y và bình bát là tài sản của bậc xuất gia, chỉ ăn ngày một
buổi, không ăn phi thời.
81
Phật giáo là một tôn giáo dạy cho con người làm lành lánh dữ, với mục
đích cao cả là giải thoát nhập đại Niết Bàn, giúp con người được an vui trong
hiện tại, chấm dứt phiền não và được thuận duyên trong cuộc sống. Phật giáo
được truyền vào Việt Nam từ lâu đời và bằng nhiều con đường khác nhau. Ở
nước ta Phật giáo có nhiều hệ phái như Phật giáo Bắc tông (Phật giáo Bắc
truyền), PGNT (Phật giáo Nam truyền, Phật giáo Nguyên thủy), Khất sĩ...
Trong hệ phái Nam tông Việt Nam được chia làm hai hệ phái là Nam tông
Khmer và Nam tông Kinh. PGNT được truyền vào Việt Nam theo con đường
của các nhà truyền giáo Ấn Độ đi theo đường biển tới Srilanka, Myanmar,
Thái Lan, dọc theo dòng Sông Mê Kông đến Campuchia và vào các tỉnh khu
vực đồng Bằng Sông Cửu Long của Việt Nam. Việc tiếp nhận PGNT của
người Khmer Nam Bộ là một thực tế khách quan, đã được thử thách và chọn
lọc. Vì trong thực tế cho thấy từ những thế kỷ đầu Công nguyên Phật giáo
Bắc tông, đạo Bàlamôn đã đến với người Khmer. Cuối cùng các tôn giáo này
đều phải ra đi để người Khmer đón nhận PGNT một cách nồng nhiệt.
Nghiên cứu lịch sử PGNT Việt Nam, chúng ta thấy có hai hệ phái
chính: PGNTK và PGNT Kinh cùng tồn tại và phát triển trong ngôi nhà Phật
giáo Việt Nam. Hệ phái Nam tông được đông đảo người dân Khmer đón
nhận, trở thành tôn giáo chính của người Khmer nên gọi là PGNTK và có ảnh
hưởng sâu sắc và chi phối nhiều mặt, thấm sâu vào cuộc sống tâm linh, phong
tục, tập quán, lễ, hội truyền thống, tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào Khmer
Nam bộ. Đây cũng là nơi hội tụ, tiếp biến, giao thoa của nhiều dòng chảy văn
hóa, các giá trị đạo đức, văn hóa được kết tinh, lắng đọng góp phần tạo nên
những giá trị văn hóa độc đáo, phong phú, giàu bản sắc của cộng đồng người
Khmer Nam Bộ.
Thời nhà Nguyễn, vua Minh Mạng vì muốn thống nhất việc tu hành của
Phật giáo trong toàn quốc, đã bắt buộc sư sãi Khmer mặc áo cổ vuông và ăn
82
chay trường như quý thầy Bắc tông. Nhưng chính sách này đã bị sư sãi và
đồng bào Khmer phản đối kịch liệt, và từ đó đã nổ ra phong trào chống đồng
hóa dân tộc tôn giáo ở nhiều nơi. Trong thời kỳ Đông Dương thuộc Pháp,
PGNT của dân tộc Khmer ít có quan hệ với các tổ chức Phật giáo Bắc tông
của người Kinh, mà phần nhiều chịu ảnh hưởng của các tổ chức Phật giáo ở
Campuchia; chính quyền thực dân Pháp đã tìm cách tách PGNT của người
Khmer ra khỏi cộng đồng các tôn giáo ở Việt Nam nói chung và khu vực
Nam bộ nói riêng, gắn với tổ chức Phật giáo ở Campuchia.
Người Pháp chủ trương PGNTK ở Nam bộ trực thuộc hệ thống quản lý
của vua sãi ở Campuchia. Các tỉnh ở Nam Bộ có đông tu sĩ Khmer được
thành lập “Hội đồng kỹ luật Sư sãi”, và có liên hệ với vua sãi ở Campuchia để
quản lý tín đồ PGNTK ở Nam bộ. Các tổ chức “Hội đồng kỹ luật Sư sãi” ở
các tỉnh Nam bộ được sự hỗ trợ giúp tư vấn của Chính phủ Hoàng gia
Campuchia. Song song đó, người Pháp cũng giúp các tu sĩ Khmer Nam Bộ
thành lập “Phân bộ địa phương của Viện Phật học ở Nam Kỳ” (1943) để quan
hệ với các tổ chức Phật giáo ở Campuchia
Sau năm 1975, PGNTK của tỉnh tiếp tục đồng hành cùng dân tộc, hàn
gắn vết thương chiến tranh. Nhiều tu sĩ PGNTK được giới thiệu tham gia
thành viên của các cơ quan ban, ngành của hệ thống chính trị như: Uỷ ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp, Hội liên hiệp thanh niên, Hội Hữu nghị
Việt Nam - Campuchia, Hội Chữ thập đỏ, Hội Khuyến học..v.v. Bên cạnh đó,
được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận và đoàn thể
chính trị - xã hội, PGNTK tiếp tục phát huy tinh thần yêu nước và truyền thống
đoàn kết dân tộc, có nhiều thành tích đóng góp trong việc tập hợp, tuyên truyền
vận động hướng dẫn các vị sư sãi và bà con đồng bào dân tộc Khmer trong
đường hướng hoạt động đạo pháp phù hợp với Luật tín ngưỡng, tôn giáo; chấp
hành và thực hiện tốt các chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật của
83
Đảng, Nhà nước; giữ gìn và phát huy truyền thống bản sắc văn hóa dân tộc;
tăng cường khối đại đoàn kết góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội ở địa phương.
Đặc biệt là từ năm 1981 đến nay trải qua 37 năm kể từ khi thành lập
Giáo hội Phật giáo Việt Nam, với tinh thần đoàn kết, hòa hợp tuân thủ các
nguyên tắc tổ chức và hoạt động PGNTK, các cấp ủy đảng, chính quyền tiếp tục
lãnh đạo tu sĩ và Phật tử Khmer tiếp tục đẩy mạnh việc hoằng pháp độ sinh,
hướng dẫn tu sĩ và Phật tử Khmer hành đạo đúng phương châm của Giáo hội.
Mặt khác, luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, tích cực phòng, chống và
làm thất bại âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch nhằm bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần nền móng vững chắt
cho sự nghiệp xây dựng và phát triển của Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong
lòng dân tộc và trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tiểu kết chương 2
Trước khi PGNT thịnh hành thì người Khmer chịu ảnh hưởng của Bà La
Môn giáo. Đạo Bà La Môn không còn tồn tại nhưng giá trị của nó vẫn còn in
dấu đậm nét khắp vùng người Khmer trong tín ngưỡng dân gian. Trong đời
sống tinh thần, Bà La Môn giáo tồn tại dưới dạng một hệ thống thần linh đã
được Phật giáo Nam tông đồng hóa đó là thần Maha Prum, Reahu, chim Krut,
các vị Thêvađa...
Phật giáo Nam tông Khmer nói chung, tu sĩ PGNTK nói riêng có vai
trò rất quan trọng đối với dân tộc Khmer thể hiện ở một số nội dung như sau:
Một là, mọi hoạt động trong sinh hoạt lễ hội của gia đình hoặc cộng
đồng phum, sóc đều dựa vào triết lý của đạo Phật và gắn liền với tín ngưỡng,
tôn giáo, mọi sinh hoạt dù vui hay buồn đều thỉnh các vị chư tăng Khmer
tham gia làm lễ, đọc Kinh.
84
Hai là, tu sĩ PGNTK góp phần trong việc bảo tồn, bổ sung và phát huy
bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc Khmer, nhất là ngôn ngữ và chữ
viết. Vì hầu hết các lễ hội của dân tộc đều gắn liền với sự tích của Phật giáo
như: Tết Chôl Chhnăm Thmây, lễ Sene Đônta, lễ hội Ok Om Bok…
Ba là, tu sĩ PGNTK giữ vai trò góp phần quan trọng trong việc làm đa
dạng và phong phú thêm đối với loại hình nghệ thuật dân tộc, mà trước hết là
những nét đẹp trong điêu khắc và kiến trúc dân tộc.
Bốn là, tu sĩ PGNTK giữ vai trò rất lớn trong việc giáo dục hình thành
nhân cách đạo đức, dân trí cho cộng đồng người Khmer. Song song đó, việc
tu học và việc hình thành các trường chùa đã góp phần nâng cao dân trí, đáp
ứng các ngành nghề để có thể phục vụ cuộc sống bình thường.
Năm là, tu sĩ PGNTK còn giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc mở
rộng quan hệ giao lưu với các dân tộc, trong cộng đồng, kể cả trong nước và
ngoài nước.
Sáu là, tu sĩ PGNTK đã luôn cùng với nhân dân Nam Bộ đứng lên chống
ngoại xâm vì sự tồn vong của đất nước, tuyệt đại bộ phận các chư tăng , đồng
bào Phật tử Khmer đã thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn, đó là điểm nổi
bật của PGNTK Nam Bộ. Tinh thần ấy xuất phát từ truyền thống yêu nước
của dân tộc Việt Nam mà đội ngũ chư tăng là một bộ phận, trong kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, có nhiều vị xuất thân từ tu sĩ PGNTK
tham gia cách mạng và đã anh dũng hy sinh, nhiều ngôi chùa là nơi che dấu
bảo vệ an toàn cho cán bộ cách mạng và có nhiều người là mẹ Việt Nam anh
hùng là dân tộc Khmer.
Nói đến dân tộc Khmer ở Nam bộ cũng chính là nói đến tôn giáo của
người Khmer ở khu vực này, và ngược lại khi nói đến PGNTK cũng là nói
đến đồng bào Khmer đang sinh sống ở đây. Tôn giáo và dân tộc đối với đồng
bào Khmer ở Nam bộ có quan hệ hữu cơ không thể tách rời. Bên cạnh đó,
85
PGNTK có mối liên hệ mật thiết với Phật giáo Nam tông ở các nước
Campuchia, Lào, Thái Lan...
Trong điều kiện nước ta hiện nay do sự tác động của nền kinh tế thị
trường, hội nhập kinh tế quốc tế thì vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo chưa thể mất
đi mà nó còn tồn tại lâu dài và giữ một vị trí, vai trò quan trọng trong đời sống
vật chất, đời sống tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân.
Tuy nhiên, PGNTK ở TNB cũng có những tác động tiêu cực nhất định
đến đời sống kinh tế - văn hóa xã hội của người Khmer. PGNT đã đưa lại cho
người Khmer lối sống thụ động, cam chịu. Với quan niệm cuộc sống ở trần
gian chỉ là tạm bợ nên người Khmer luôn bằng lòng, chấp nhận cuộc sống thiếu
thốn ở đời này và chăm chỉ lo tích đức cho đời sau; sự lệ thuộc quá nhiều của
người Khmer vào Phật giáo và sự đóng góp cho Phật giáo quá lớn so với thực
lực kinh tế làm cho đời sống kinh tế của người Khmer thêm nghèo đói.
Với tâm lý sống gửi thác về, người Khmer cũng ít quan tâm đến chuyện
học hành, nâng cao trình độ hiểu biết. Đặc biệt, trong lịch sử và hiện tại, các
thế lực thù địch luôn lợi dụng cả vấn đề dân tộc và tôn giáo để chống phá sự
nghiệp cách mạng Việt Nam. Vì thế, việc nghiên cứu vai trò của tu sĩ
PGNTK và đề xuất các giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực,
hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của PGNTK nói chung, của tu sĩ Khmer nói
riêng trong quá trình xây dựng đời sống xã hội của người Khmer ở TNB là
việc làm cần thiết nhưng do đồng bào Khmer ở Nam Bộ gắn liền với một tôn
giáo nên khi thực hiện chính sách đối với người Khmer thì phải giải quyết
vấn đề PGNTK.
Cùng với lợi thế có được từ vùng biển rộng lớn với nhiều hòn đảo, lợi
ích có được từ quan hệ kinh tế, mậu dịch trên tuyến biên giới đất liền và biên
giới trên biển giữa các nước láng giềng, thì điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý nêu
trên cũng tiềm ẩn những vấn đề phức tạp về quốc phòng, an ninh và thường
86
xuyên xảy ra các vụ việc ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội. Các thế lực
thù địch không từ bỏ âm mưu, ý đồ chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta
bằng nhiều hình thức. Trong đó, chúng hậu thuẫn, nuôi dưỡng các tổ chức
phản động lưu vong và một số đối tượng cực đoan ở trong nước để tìm cách
thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, triệt để lợi dụng vấn đề “nhân
quyền”, “dân chủ”, “tự do tôn giáo”, nhất là khơi gợi vấn đề lịch sử vương
quốc Chăm Pa (liên quan đến đồng bào dân tộc Chăm) và lịch sử vùng đất
Nam Bộ (liên quan đến đồng bào dân tộc Khmer) để kích động tư tưởng hận
thù, chia rẽ dân tộc, tạo ra các cuộc gây rối.
87
Chương 3
VAI TRÒ CỦA TU SĨ PHẬT GIÁO NAM TÔNG TRONG ĐỜI SỐNG
XÃ HỘI CỦA NGƯỜI KHMER TÂY NAM BỘ - THỰC TRẠNG
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Đời sống xã hội là một khái niệm chỉ rõ các hiện tượng phát sinh do sự
tác động lẫn nhau giữa các cá thể và cộng đồng tồn tại trong một khoảng
không gian nhất định với việc sử dụng chung các tài nguyên hiện có. Nó bao
hàm tất cả những hiện tượng tác động có ý thức và thích nghi không có ý
thức. Đó là tổng thể các cơ thể ràng buộc nhau bởi sự tác động qua lại giữa
các quá trình sống của chúng và tác động vào môi trường.
Trong phạm vi của luận án, chúng tôi hiểu đời sống xã hội là tổng thể
các hiện tượng phát sinh do sự tác động lẫn nhau của các chủ thể xã hội và
cộng đồng tồn tại trong những không gian và thời gian nhất định, là tổng thể
hoạt động của xã hội nhằm đáp ứng các nhu cầu của con người. Theo cách
hiểu như vậy, đời sống xã hội là một phạm trù rất rộng lớn, nhưng trong phạm
vi của chuyên đề, chúng tôi tiếp cận đời sống xã hội trên 4 phương diện cơ
bản đó là: đời sống tôn giáo, đời sống văn hóa - xã hội, đời sống chính trị và
đời sống kinh tế.
Để phân tích vần đề này, chúng tôi trở lại câu nói nổi tiếng của C. Mác
khi bàn về tôn giáo, C.Mác cho rằng “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”.
Điều này thể hiện được tính chất hai mặt của tôn giáo. Bất cứ một tôn giáo
nào thâm nhập vào trong quần chúng nhân dân cũng trở thành một bộ phận
tinh thần nhằm mục đích giải phóng con người một cách hư hảo trước những
mối đe dọa, bất công và sự hiểu biết hạn hẹp về tự nhiên, xã hội do nhận thức
của họ đem lại.
Dù là hư ảo nhưng xét ở một góc độ nào đó thì tôn giáo bao giờ cũng
có những ảnh hưởng tích cực đến các lĩnh vực khác của đời sống tinh thần.
88
PGNTK không nằm ngoài quỹ đạo đó. Nghĩa là PGNT cũng có những tác
động tích cực và tiêu cực đến đời sống tinh thần của người Khmer, một mặt
tạo nên những giá trị truyền thống bền vững của cộng đồng, hình thành nên
những sắc thái riêng biệt của người Khmer; mặt khác, có những yếu tố gây
cản trở sự phát triển của cộng đồng người Khmer. Chúng tôi, khái quát đặc
điểm của PGNTKM ở TNB và những biểu hiện tích cực, tiêu cực trên một số
phương diện của đời sống xã hội như sau:
3.1. VAI TRÒ CỦA TU SĨ PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG XÃ
HỘI NGƯỜI KHMER
Xã hội được tạo nên bởi nhiều yếu tố, thành phần, cộng đồng… Mỗi cá
nhân có một vị trí, hoàn cảnh, điều kiện và vai trò riêng biệt. Nếu ai cũng thực
hiện đúng vai trò của mình theo xu hướng tốt đẹp, chuẩn mực đạo đức thì sẽ
đem lại động lực phát triển xã hội tốt. “Vai trò là một tập hợp các mong đợi,
các quyền và nghĩa vụ được gán cho một địa vị cụ thể. Nhưng sự mong đợi
này xác định các hành vi của con người được xem như là phù hợp và không
phù hợp đối với người chiếm giữ một vị trí” [102, tr.205].
Vai trò không chỉ là nghĩa vụ mà trong đó có cả quyền và sự mong đợi.
Ví dụ, một người nông dân đáp ứng được các mong đợi là mang thực phẩm
đến cho mọi người, đồng thời có quyền hưởng lợi nhuận từ sản phẩm đã làm
ra, vai trò của họ là cày sâu, cuốc bẫm để có lúa gạo cùng các hoa màu khác
cung cấp cho đời sống con người. Như vậy, vai trò xã hội luôn có mối liên hệ
mật thiết với vị trí xã hội. Trước hết, một người phải làm tròn bổn phận đúng
với vị trí của mình: “Địa vị đóng vai trò là giáo viên thì cá nhân đó phải
truyền giải kiến thức cho học sinh, còn những người học sinh để thực hiện tốt
vai trò của mình họ phải đi nghe giảng, ghi chép bài đầy đủ, làm bài tập ở
nhà…” [102, tr.215].
Nếu mọi người không làm đúng vai trò của mình, thì hiệu quả, năng
suất không cao. Chẳng hạn, một nông dân mà đi dạy học thì làm sao được.
89
Trong một gia đình, mọi người phải làm tròn bổn phận của mình. Trong một
xã hội, tùy theo trình độ, tay nghề,… mà mỗi người được phân công công tác
khác nhau, có như thế thì xã hội mới tiến bộ, giàu đẹp.
Khi bàn đến vai trò của tu sĩ PGNT đối với đời sống xã hội vùng TNB
là muốn nói đến vai trò “kép” của tu sĩ, đó là, vai trò trong đời sống tôn giáo
và trong cả đời sống xã hội. Trong luận án này, chúng tôi sẽ đề cập đến cả hai
trò đó. Trong đời sống xã hội, luận án sẽ bàn đến vai trò của tu sĩ PGNT đối
với đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa vùng TNB và đặc biệt là công tác giáo
dục thanh niên Khmer.
3.1.1. Vai trò của tu sĩ Phật giáo Nam tông Khmer đối với đời
sống tôn giáo
Phật giáo trong vai trò thực thi đạo pháp trước hết là phải tu học, giữ
gìn giới luật… sau đó đem truyền trao lại cho mọi người cùng nhau có niềm
an lạc. Như vậy, vai trò của tu sĩ là mang thức ăn tinh thần đến cho tha nhân.
Hầu hết, người Khmer ở Nam Bộ đều theo hệ phái PGNT. Có thể nói, lý
tưởng sống truyền thống của người Khmer ở Nam Bộ là Đức Phật. Cho nên,
trong cuộc sống hằng ngày, dù tu sĩ ở chùa hay dân chúng tại thế đều phải rèn
luyện theo đạo pháp đó là: thọ giới, bố thí và niệm. Đối với tu sĩ PGNTK,
những điều trên là bắt buộc.
Người Khmer quan niệm sống cốt yếu để làm phước. Hầu hết các lễ,
hội của người Khmer đều mang ý nghĩa làm phước. Đối với người Khmer,
làm càng nhiều thì phước hạnh càng nhiều nên cứ mỗi dịp lễ, hội, họ lại
không sợ tốn kém đều cố gắng chuẩn bị gạo thóc, vải lụa, cơm xôi, trà bánh,
mặn, ngọt, hoa quả mang đến để tặng chùa; những người khá giả giàu có còn
làm phước cho người nghèo trong làng, xã, phum, sóc của mình và các vùng
lân cận. Do đó, mỗi dịp lễ, hội là mỗi dịp để các tín đồ, Phật tử thể hiện tấm
lòng nhân đức, bao dung, rộng lượng, nhân ái cao cả của mình, làm cho người
người càng xích lại gần nhau, yêu thương nhau hơn.
90
Phật giáo Nam tông Khmer với giáo lý, giáo luật, lễ nghi đơn giản phù
hợp với cuộc sống đời thường của người Khmer sống ở sông nước miệt vườn.
Người Khmer đã tiếp nhận PGNT và đưa tôn giáo này lên vị trí độc tôn trong
đời sống vật chất, tinh thần cả mình. Những triết lý nhà Phật đã ảnh hưởng rất
sâu sắc đến đồng bào dân tộc Khmer. Văn hóa tộc người Khmer và PGNT đã
hòa quyện vào nhau, bổ sung cho nhau tạo nên một chỉnh thể văn hóa tôn giáo
- tộc người độc đáo và đặc sắc của người Khmer.
Tu sĩ PGNTK là những người gìn giữ giá trị tôn giáo đạo Phật trong
truyền thống tín ngưỡng của dân tộc, mỗi tu sĩ là những con người làm nhiệm
vụ của mình là tu học rèn luyện bản thân với mục đích là gìn giữ đạo giáo hơn
là để bản thân giải thoát đến với cõi niết bàn, vì trong mỗi vị đều nhận thức
rằng trong hiện tại thì các vị không thể làm được điều đó (giải thoát). Cho nên
trong người Khmer gọi các vị là “Sammatisang” (Tăng quy ước) có nghĩa là
các vị là những tu sĩ được quy ước là Tăng, gọi như thế để phân biệt với các
Chư tăng là A la hán thuở xa xưa mà đến nay mọi người luôn khao khát
nhưng vẫn không thể đạt được. Tuy không phải là A la hán nhưng mỗi tín đồ
người Khmer ai ai cũng kính trọng các vị và ví các vị như là lửa và ví von
rằng: Đã là lửa thì dù lớn hay nhỏ đều có tác dụng như nhau, một khi đã cháy
thì từ lửa nhỏ sẽ phát triển thành lửa lớn và sức hủy diệt cũng giống nhau thôi.
Trong cuộc đời tu học của mình, nhiều vị đã hy sinh cuộc đời phàm tục
tràn đầy sức sống vì đạo giáo để tu hành trọn đời. Các vị là người trực tiếp và
dán tiếp gìn giữ, duy trì hoạt động của chùa chiền, của Phật pháp nhằm làm
tấm gương tinh thần cho các Phật tử noi theo và được những người sùng đạo
kính trọng. Vì vậy, đã bao thế kỷ mà người Khmer vẫn gắn bó với PGNT.
Theo truyền thống, thanh niên Khmer phải có một thời gian vào chùa
tu để báo hiếu cha mẹ, học lễ nghĩa, học chữ, học kinh sách Phật giáo. Thời
gian vào chùa tu có thể vài ba tuần, vài ba tháng, hoặc vài ba năm, có cơ
91
duyên Phật pháp thì tu suốt đời, do vậy lực lượng tu sĩ PGNTK thật hùng
hậu. Hình ảnh của tu sĩ là một hình ảnh không thể thiếu trong nhận thức của
đồng bào Khmer.
Mỗi chùa đều có Achar hoặc Ban Quản trị chùa. Họ là những bậc lớn
tuổi, đã trải qua quá trình tu học tại chùa, có kinh nghiệm sống và uy tín trong
phum sóc, được cử ra để giúp việc Sư cả trong thời gian lâu dài. Đây là bộ
phận nắm giữ vật chất, tiền của trong chùa, có vai trò quan trọng đối với đời
sống cộng đồng, nên việc bổ nhiệm cần có sự đồng thuận từ phía nhà chùa và
cộng đồng. Một góc độ khác, mối quan hệ giữa PGNTK với Phật giáo Bắc
tông của người Việt, Hoa trong vùng Khmer vừa là quan hệ tôn giáo vừa là
quan hệ tộc người, cần tạo điều kiện để các tộc người, các hệ phái được gần
gũi, chia sẻ với nhau trong các công việc chung của Giáo hội.
Vì thế, Phật giáo là một bộ phận văn hóa của dân tộc Khmer, tạo nét
đặc sắc cho văn hóa Khmer Nam bộ. Phật giáo có vai trò và vị trí quan trọng
trong đời sống nhiều mặt của người Khmer Nam bộ. Trong quá khứ và hiện
tại, Phật giáo đã góp phần cố kết cộng đồng Khmer, cũng như sự ổn định và
phát triển của người Khmer.
3.1.2. Vai trò của tu sĩ Phật giáo Nam tông Khmer đối với đời sống
văn hóa - xã hội
Hệ thống kinh điển của Phật giáo luôn đặt nền tảng trên tinh thần
duyên sinh vô ngã để trình bày về nhân sinh quan và vũ trụ quan một cách
khoa học, nhằm mục đích chứng minh cho sự hiện hữu của vạn pháp đều
tồn tại dưới dạng nhân duyên. Vì thế, sự hiện hữu của con người và gia
đình, xã hội cũng không ngoài những quy luật trên. Từ quan điểm đạo đức
Phật giáo bảo đảm hạnh phúc và an lạc cho cá nhân, chúng tôi khái quát vai
trò của tu sĩ PGNTKM trên một số phương diện của đời sống văn hóa - xã
hội như sau:
92
Một là, tu sĩ PGNTK góp phần xây dựng đạo đức, lối sống; góp phần
tham gia giải quyết các vấn đề an sinh xã hội.
Tu sĩ PGNTK góp phần rất lớn trong việc giáo dục hình thành nhân
cách đạo đức, dân trí của cộng đồng dân tộc Khmer. Đạo đức dạy chữ Khmer
ngữ, tiếng nói chữ viết ở các trường chùa, thông qua triết lý mang tính nhân
đạo và quan niệm nhân quả của đạo Phật đã tác động sâu sắc đến từng thành
viên trong gia đình, trong cộng đồng dân tộc Khmer; làm cho mọi người
muốn hướng thiện, làm việc lành, tránh điều ác. Con người biết khiêm tốn,
nhường nhịn, tương trợ giúp đỡ nhau, không so bì hơn thiệt. Làm cho cái tâm
của họ không bị vẩn đục bởi tiền tài vật chất cám dỗ. Việc tu học theo PGNT,
việc hình thành các trường chùa, đã góp phần nâng cao dân trí, đáp ứng các
ngành nghề để có thể phục vụ cuộc sống bình thường.
Giáo lý, giáo luật, những triết lý sống của tôn giáo này được tu sĩ
PGNTK truyền đạt có sự tác động rất lớn đến lối sống, đạo đức của người
Khmer. Với vai trò, chức năng và những giá trị nhân văn sâu sắc của mình,
PGNT đã trở thành chỗ dựa trong đời sống văn hóa tinh thần của đại đa số
người dân Khmer. Những chuẩn mực của đạo đức Phật giáo có tác dụng điều
chỉnh hành vi, nhân cách con người, ảnh hưởng tích cực đến tín đồ. Điều này
thể hiện tính độc lập tương đối của các hình thái ý thức xã hội, chúng luôn có
sự tác động qua lại lẫn nhau tạo nên nét đặc thù trong lối sống, đạo đức cho
dân tộc này.
Hơn nữa, chịu ảnh hưởng nhiều bởi triết lý, tư tưởng về “từ bi, hỷ xả”
trong triết lý của đạo Phật và đã từ lâu ăn sâu vào máu thịt của họ nên người
Khmer tin theo PGNT sống rất hiền hòa; người trong phum sóc rất đoàn kết,
gắn bó với nhau. Sự đoàn kết ấy thể hiện qua cách cư xử hàng ngày như sống
có nghĩa có tình, luôn sẵn lòng giúp nhau trong những cơn hoạn nạn, cùng
nhau chung tay gánh vác để xây cất, tu sửa ngôi chùa, không đùn đẩy trách
93
nhiệm cho một cá nhân nào. Tùy theo từng gia cảnh, ai có tiền nhiều thì đóng
góp nhiều, ai có ít thì góp ít, không phân biệt giữa những người trong phum,
sóc của mình. Bởi lẽ, với người Khmer việc cúng dường, làm phước là điều
rất thiêng liêng cao cả, nhiều gia đình giàu có sẵn sàng bỏ tiền của để làm
phước cho chùa và cho những người nghèo khổ trong phum, sóc của mình và
những nơi lân cận.
Bên cạnh đó, cùng với tư tưởng “từ bi”, “cứu khổ” các chùa Khmer đã
dang rộng vòng tay sẵn lòng đón tiếp những người lang thang cơ nhỡ, những
trẻ mồ côi không nơi nương tựa, những người già cô đơn hay những kẻ trước
đây đã lầm đường lạc lối muốn phục thiện trở về, tùy sức làm công quả trong
chùa được việc gì thì làm, không làm được thì các vị sư thay nhau chia sẻ
phần cơm do tín đồ dâng cúng để nuôi người già qua quãng đời còn lại và học
sinh, sinh viên nghèo. Việc làm nhân đạo của nhà chùa là hoàn toàn tự
nguyện, thực hiện giáo lý từ bi, phổ độ chúng sinh của Đức Phật. Bởi vậy,
người được nhà chùa giúp đỡ nương nhờ của Phật thấy được an ủi và thấy cần
phải cố gắng không ai có tư tưởng ỷ lại. Bên cạnh đó, việc các gia đình tổ
chức làm phước để bố thí tiền bạc, gạo thóc cho người nghèo thể hiện được
tính nhân văn, nhân đạo theo đúng tinh thần Phật Pháp là cứu khổ, cứu nạn
cho bá tánh đồng bào.
Nhiều vị cao tăng trong PGNTK là tấm gương tiêu biểu, đi đầu trong
công tác từ thiện xã hội như: “Hòa thượng Trần Nhíp ở Kiên Giang, đã vận
động sư sãi, phật tử, các mạnh thường quân tham gia sửa chữa và bê tông
hóa trên 15 km đường nông thôn, bắt mới 112 cây cầu nông thôn với số tiền
trên 10 tỷ đồng, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng III
và nhiều bằng khen khác”.
Chùa Pitu Khôsa Răngsây ở thành phố Cần Thơ là một trong những
ngôi chùa Khmer tiêu biểu trong công tác từ thiện xã hội. Dưới sự trụ trì của
94
Thượng tọa Lý Hùng, chùa Pitu Khôsa Răngsây là ngôi chùa PGNTK duy
nhất ở thành phố Cần Thơ hiện nay có ký túc xá miễn phí dành riêng cho sinh
viên dân tộc Khmer. Chùa còn tổ chức lớp dạy chữ Khmer miễn phí cho hàng
trăm cán bộ, viên chức và thanh niên Khmer. Đồng thời tặng nhiều suất học
bổng, tặng 80 chiếc xe đạp cho học sinh, sinh viên nghèo hiếu học. Chẳng những
vậy, chùa còn vận động các nhà hảo tâm ở Australia đóng góp xây dựng Trường
học Sammaki ở Xóm Giữa, Chợ Dưới, tỉnh Kom Pong Chnăng, Campuchia với
kinh phí xây dựng 2,2 tỷ đồng. Nhân dịp Tết nguyên Đán, Tết Chôl Chnăm
Thmây, Vu lan báo hiếu…. chùa vận động Phật tử, các nhà hảo tâm và các vị
mạnh thường quân cho khoảng 100 tấn gạo và tặng quà, vật phẩm cho bà con
nghèo của tỉnh Hậu Giang và Sóc Trăng, thành phố Cần Thơ và Campuchia với
kinh phí trên 01 tỷ đồng. Xây dựng được 3 km đường giao thông nông thôn và
15 cây cầu bê tông ở các phum sóc; xây dựng 5 căn nhà tình thương, tổ chức mổ
mắt nhân đạo cho hàng ngàn lượt người mù nghèo ở tỉnh Trà Keo, tỉnh Kan Đal,
Campuchia. Ngoài chùa còn vận động trùng tu sửa chữa các chùa ở vùng TNB
như: chùa Savor, quận Ô Môn, TP Cần Thơ; chùa Pôthi Somrôn, huyện Giồng
Riềng, tỉnh Kiên Giang; chùa Aranh Nhứt, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu
Giang; chùa Phno Prel, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh; chùa Bưng Tung, thị xã
Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng; chùa Ô Chum Prưksa, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu
Giang… Xây dựng trường, ký túc xá sinh viên nghèo, tăng xá cho sư tăng các
tỉnh, giúp đỡ cho hàng trăm em sinh viên nghèo đã tốt nghiệp cử nhân, có việc
làm ổn định. Bên cạnh đó chùa vận động Phật tử đóng góp kinh phí xây dựng
được 01 lò hỏa táng từ thiện, miễn phí cho tang chế nghèo với tổng kinh phí 400
triệu đồng tại chùa Sanvor, phường Châu Văn Liêm, quận Ô Môn.
Chùa Pitu Khôsa Răngsây được Trung tâm Unesco Văn hóa và Thông
tin Truyền thông Việt Nam công nhận nằm trong Top 10 của 100 điểm Du
lịch Văn hóa tâm linh tiêu biểu khu vực phía Nam năm 2014.
95
Mặc dù, lối sống và đạo đức của người Khmer chịu sự ảnh hưởng khá
lớn của PGNT nhưng do nhu cầu giao lưu văn hóa với các dân tộc khác xung
quanh nên đã ít nhiều có phần biến đổi, đặc biệt là ở giới trẻ. Đạo đức mà tu sĩ
PGNT truyền đạt ảnh hưởng đến nay vẫn phát huy được mặt tích cực của nó
như việc đi tu của thanh niên được xem là một trong những phong tục của
người Khmer chịu sự ảnh hưởng giá trị tư tưởng hiếu nghĩa, luật nhân quả,
hướng thiện của PGNT; đồng thời, tục đi tu của thanh niên Khmer cốt là để
báu hiếu cho cha mẹ, học những kiến thức về văn hóa, xã hội về những kinh
nghiệm sống… để khi hoàn tục trở thành những công dân có ích cho gia đình,
cộng đồng và xã hội.
Tóm lại, với vai trò, chức năng và những giá trị nhân văn sâu sắc của
mình, tu sĩ PGNT đã trở thành chỗ dựa trong đời sống văn hóa tinh thần của
dân tộc Khmer. Những chuẩn mực đạo đức Phật giáo có tác dụng điều chỉnh
hành vi, nhân cách con người, ảnh hưởng tích cực đến tín đồ, Phật tử. Điều đó
thể hiện tính độc lập tương đối của các hình thái ý thức xã hội, chúng luôn có
sự tác động qua lại lẫn nhau tạo nên nét đặc thù riêng trong lối sống, đạo đức
cho dân tộc này được phát triển và sinh tồn trong cộng đồng dân tộc Việt
Nam. Việc đi tu để trả hiếu cũng là nét đẹp truyền thống và là giá trị đạo đức
nhân văn cao cả của người dân tộc Khmer vẫn được duy trì. Tính đến nay có
khoảng 8.000 tu sĩ PGNTK, thông qua các vị mà bản sắc văn hóa dân tộc
Khmer được giữ gìn và phát huy, nhiều điểm chùa Khmer đã được xây dựng
thành những trung tâm văn hóa, giáo dục, học tập, nơi vui chơi giải trí cộng
đồng, góp phần vào việc tôn vinh giá trị đạo đức, văn hóa truyền thống tốt
đẹp của dân tộc Khmer. Với người Khmer, đời sống của họ không thể thiếu
được PGNT, ngôi chùa được đồng bào coi như ngôi nhà thứ hai của mình.
Và tuyệt đại đa số người Khmer đều được tu ở chùa nên ít nhiều đã chịu
ảnh hưởng giáo lý của Phật, khi trở về với cuộc sống đời thường họ đã
96
mang theo những giá trị nhân văn và nhân đạo trong nhà chùa vào trong
đời sống hàng ngày, dần dần hình thành nên lối sống đặc thù riêng của dân
tộc Khmer, sự hòa trộn giữa hai yếu tố “đạo” và “đời” đã tạo nên cách sống
riêng biệt của người Khmer.
Hai là, tu sĩ PGNTK tông góp phần tạo dựng bản sắc văn hóa, góp
phần bảo bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa của đồng bào Khmer
Phật giáo Nam tông Khmer là tôn giáo giữ vai trò chủ đạo và đi vào
trong tiềm thức của người Khmer ở Nam Bộ. Trong đó, tu sĩ PGNTK giữ một
vai trò then chốt trong việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của đồng
bào Khmer. Bên cạnh đó phong tục, lễ hội truyền thống giữ một vị trí rất quan
trọng trong đời sống xã hội của các dân tộc nói chung, của đồng bào Khmer
nói riêng. Thông qua phong tục, tập quán, lễ hội truyền thống, chúng ta có thể
nhận diện rõ hơn về bản sắc văn hóa của dân tộc, của con người và cộng đồng
xã hội. Đồng thời qua đó, những giá trị như: văn hóa ứng xử, lối sống hiền
hòa, chất phát, hiếu thảo, trọng tình nghĩa... được bộc lộ rõ qua các hoạt động
sống hàng ngày của người Khmer trong phum, sóc. Hầu hết những phong tục,
lễ hội của người Khmer đều hướng con người đến việc thiện, tích nhiều
phước. Các ngày lễ, tết mọi người quần tụ bên nhau chúc phúc cho nhau
những lời chúc đầu năm mới với nhiều niềm vui hạnh phúc, thăm hỏi sức
khỏe và quan tâm nhau trong cuộc sống hàng ngày.
Ngoài ra, người Khmer thể hiện lòng thành kính, sự hiếu thảo đối với
người quá cố hoặc tạ ơn thần linh đã mang đến cho họ cuộc sống ấm no, hạnh
phúc phần nào cho thấy văn hóa ứng xử của tộc người Khmer trong cộng
đồng dân tộc thông qua hệ thống các phong tục, tập quán, lễ hội truyền thống
ấy. Đối với người Khmer, trong một đời người, họ phải trải qua nhiều nghi lễ
khác nhau như: lễ đi tu (xuất gia), lễ cưới hỏi, lễ tang ma,... Song, PGNT vẫn
chi phối ảnh hưởng đối với những lễ hội này.
97
Người Khmer xem tục đi tu là giai đoạn quan trọng của đời người nên
tu sĩ PGNT đã góp phần hình thành nhân cách, đạo đức cho đồng bào Khmer.
Theo đó, đi tu theo nếp nghĩ truyền thống của người Khmer còn là cách tích
phước cho cha mẹ, gia đình và cho bản thân. Trong sách dạy làm người
Khmer có câu: “người không được tu trong chùa là người có nhiều tội lỗi
trong đời sống”. Cho nên người con trai Khmer được xem là đủ tư cách phẩm
chất trong xã hội đều phải trải qua thời gian tu học ở chùa” [77, tr.59].
Do vậy, việc đi tu không chỉ là một tập tục mà còn là nét văn hóa rất
riêng từ bao đời nay của dân tộc này.Về phong tục cưới xin của người Khmer,
Phật giáo đem đến cho người Khmer quan niệm hôn nhân tương đối bình
đẳng, vợ chồng cùng chia sẻ công việc, cha mẹ không có sự phân biệt đối xử
giữa con trai và con gái, trưởng, thứ, con đẻ, con nuôi. Phật giáo đã góp phần
nâng cao giá trị văn hóa trong quan niệm hôn nhân, tạo nên lối sống truyền
thống trong gia đình người Khmer, giáo dục đạo đức, rèn luyện cách sống
trong đạo nghĩa vợ chồng.
Về tang ma, là một trong những phong tục thể hiện sắc thái văn hóa rất
riêng của tộc người này. Người Khmer có câu “sống gửi của, chết gửi
xương”. Tang ma của người Khmer thể hiện những nét riêng khá rõ của cộng
đồng dân tộc Khmer, đây là một trong những nghi lễ mà tu sĩ Khmer đóng
một vai trò hết sức quan trọng.
Tu sĩ PGNTK còn truyền đạt triết lý nhân sinh ảnh hưởng đến văn hóa
ứng xử của người Khmer trong tang ma, thông qua quan hệ giữa người sống với
người đã chết, giữa người sống với nhau. Khi một người qua đời, cả cộng đồng
cầu siêu cho người quá cố, họ nhiệt tình và tận tâm tham dự đám tang. Dù cho
lúc còn sống, giữa họ và láng giềng có xảy ra mâu thuẫn, đến khi ai đó qua đời,
mọi lỗi lầm, giận hờn, tranh chấp đều được xóa bỏ. Những người đến viếng,
những người tham dự các nghi lễ đều thành tâm nghĩ đến người đã chết với
những gì tốt đẹp nhất.
98
Phật giáo đề cao vai trò của giáo dục, vai trò của các vị tu sĩ Khmer
được xem trọng trong xã hội, đặc biệt là lớp trẻ. Những kiến thức về đạo lý,
cách sống làm người cho trẻ em Khmer được trang bị từ các ngôi trường chùa
Phật giáo. Đó cũng là nét riêng thể hiện bản sắc văn hóa của người Khmer
Nam Bộ. Chùa là trung tâm lưu giữ những di sản qua các thế hệ của người
Khmer ở vùng đất Nam bộ; chùa cũng là nơi bảo tồn và phát huy những giá
trị vật thể, phi vật thể trong cộng đồng, đặc biệt là giáo dục tiếng dân tộc,
tiếng Pali - những ngôn ngữ truyền thống của họ. Có thể nói, nền văn hóa
nghệ thuật Phật giáo Khmer được thể hiện qua các ngôi chùa đã có vai trò
xuyên suốt trong quá trình lịch sử của cộng đồng người Khmer.
Ba là, tu sĩ PGNTK góp phần trang bị kiến thức cho thanh thiếu niên
Khmer; duy trì, phát triển tiếng nói và chữ viết riêng của dân tộc Khmer.
Đối với người Khmer, các vị tu sĩ PGNTK có vị trí và ảnh hưởng rất
lớn. Tu sĩ Khmer được coi là đại diện cho Đức Phật để truyền dạy và giáo hóa
chúng sinh, các vị sư luôn là người thầy được tôn kính và tin tưởng. Người
Khmer quan niệm rằng, thanh niên Khmer phải vào chùa tu một thời gian. Tu
ở đây không phải để lánh đời mà là cơ hội học tập, rèn luyện để trở thành một
người trưởng thành thật sự. Chính vì thế, hiện nay ngoài việc học đạo theo
chương trình bắt buộc ở chùa, nhiều vị tu sĩ ban ngày còn phải đến trường
như các bạn cùng trang lứa. Họ nỗ lực tu và học để bắt kịp sự phát triển của
xã hội và giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc. Tu là để trả hiếu cho ông bà, cha
mẹ, theo cách hiểu của nhiều người, nhưng nếu chỉ hiểu như vậy thì chưa đủ.
Tu còn là con đường hướng đến tri thức, học tập, rèn luyện để trở thành một
người Phật tử “thuần thành” và có ích cho xã hội sau này.
Bốn là, tu sĩ PGNTK tạo sức đề kháng cho văn hóa Khmer trong thời
kỳ hội nhập quốc tế.
Tính nhân văn của Phật giáo thể hiện trong các phong tục, lễ hội truyền
thống của người Khmer, đó là sự cố kết cộng đồng, tinh thần cầu an, sự hiếu
99
nghĩa... Tư tưởng triết lý của đạo Phật đã thấm sâu trong ý thức hệ của họ, các
giá trị khác khó có thể thay thế.
Hiện nay, sự hội nhập giao lưu giữa các nước, tác động của nền kinh tế
thị trường phần nào đã tạo điều kiện cho các yếu tố văn hóa hiện đại xâm
nhập vào đời sống của đồng bào Khmer. Thực tế cho thấy, trong thời gian
qua, thanh niên Khmer đã chịu sự chi phối của văn hóa hiện đại, thể hiện qua
các trang phục và phong cách diện mạo ở một số giới trẻ người Khmer. Tuy
nhiên, những giá trị văn hóa truyền thống của tộc người Khmer, đặc biệt là tư
tưởng triết lý của tu sĩ PGNT vẫn chi phối mạnh mẽ trên nhiều phương diện
đời sống của đồng bào Khmer.
Tu sĩ PGNTK góp phần gắn bó, đoàn kết dân tộc, góp phần ổn định
chính trị - xã hội, an ninh trật tự vùng đồng bào dân tộc Khmer: Đại đa số
người Khmer vùng TNB đều theo Phật giáo thuộc hệ phái Nam tông và đã trở
thành như một tục lệ truyền thống của người Khmer. Dù là đứa trẻ mới cất
tiếng khóc chào đời nhưng đã được xem như là một tín đồ. Người nam giới
trong một cuộc đời vừa đóng vai trò là tu sĩ, vừa đóng vai trò là tín đồ nhiều
lần, lúc nhỏ là tín đồ, lớn lên vào chùa đi tu thời gian ít là một tháng, thời gian
nhiều tuỳ ý, sau đó xuất sư hoàn tục về nhà lấy vợ, làm ăn tham gia việc xã
hội... Khi muốn trở lại có thể xin vào chùa đi tu một thời gian rồi sau đó lại trở
về với gia đình... Điều này có ý nghĩa rất lớn trong đời sống xã hội của người
Khmer bởi chính người nam giới qua tu hành ở chùa là đã qua học tập rèn
luyện, có đạo hạnh, có hiểu biết nhất định. Mặc dù ngoài đời không phải giữ
giới luật như trong chùa, nhưng đã qua chùa tu hành từ lúc còn nhỏ nên nhiều
nét trang nghiêm, thanh tịnh của giới luật còn đọng lại và được thể hiện trong
đạo đức, lối sống của cộng đồng, vì thế phum, sóc của người Khmer ở TNB
thường yên bình ít tệ nạn xã hội.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, dân tộc Khmer ở TNB đã xây đắp
nên những truyền thống đoàn kết tốt đẹp trong nội bộ đồng bào Khmer và
100
giữa đồng bào Khmer với các dân tộc khác. Đó là truyền thống đoàn kết trong
cộng đồng phum, sóc; đoàn kết trong lao động sản xuất, chống thiên tai, giúp
đở nhau trong đời sống; đoàn kết trong đấu tranh chống bóc lột, nô dịch,
chống xâm lược, giành và giữ độc lập, tự do, hạnh phúc cho đồng bào... Từ đó
cho thấy, giáo lý PGNT được tu sĩ truyền đạt có ảnh hưởng rất lớn trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội của đồng bào Khmer.
Ngày ngay, ngôi chùa Khmer nói chung, vai trò của tu sĩ nói riêng với
vai trò là trung tâm kinh tế, văn hóa - xã hội trong cộng đồng dân tộc Khmer.
“Đây không chỉ là nơi để mọi người bày tỏ lòng thành kính với Đức Phật mà
đây còn là trung tâm của phum, sóc, nơi cộng đồng dân cư tụ họp chung sức
cùng nhau gánh vác chia sẽ những khó khăn trong cuộc sống đời thường” [30,
tr.91]. Do vậy, ngôi chùa có vai trò rất quan trọng, là nơi tổ chức tuyên truyền
các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến với đồng bào Khmer mà
chủ thể thực hiện các nội dung đó không ai khác là tu sĩ PGNTK. Mặt khác,
“trong đời sống tâm linh của người Khmer, sư sãi mang một ý nghĩa đặc biệt,
nhà sư là người đại diện cho Đức Phật để chứng giám những hành động, lòng
thành kính của tín đồ tới Đức Phật” [30, tr.92].
Đây là nhân tố rất quan trọng quy tụ đồng bào… Với ý nghĩa đó, thời
gian qua nhận thấy, đồng bào dân tộc Khmer ở TNB ý thức hơn về vai trò,
trách nhiệm lịch sử của mình đối với quốc gia, dân tộc, cùng nhau xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc tham gia cách mạng do Đảng lãnh đạo, góp
phần tạo sức mạnh để chống lại các âm mưu, thủ đoạn và những luận điệu
tuyên truyền, xuyên tạc của các thế lực thù địch đã và đang ra sức chống phá
Đảng và Nhà nước ta, phá hoại chính sách đại đoàn kết dân tộc.
3.1.3. Vai trò của tu sĩ Phật giáo Nam tông Khmer đối với đời sống
chính trị
Tu sĩ PGNTK có vai trò đặc biệt quan trọng góp phần định hướng tư
tưởng chính trị cho cộng đồng người Khmer. Là người có học vấn, cả về Phật
101
học và thế học, hiểu biết xã hội, đại diện ưu tú nhất nên có ảnh hưởng rất lớn
đến tư tưởng của quần chúng và được nhân dân sùng kính. Nhìn về mặt hành
chính thì tu sĩ không tham gia sản xuất và quản lý xã hội, nhưng tiếng nói và
ý kiến của họ có ý nghĩa quan trọng đối với sinh hoạt của phum, sóc. Mọi tín
đồ đều nghe lời nói của các vị sư, vì cho đó là lời nói của Phật, mà tuân thủ
làm theo. Với xã hội, tu sĩ là thiêng liêng bất khả xâm phạm trong suốt thời
gian mặc áo cà sa… Với ảnh hưởng như vậy, nên việc định hướng tư tưởng
thông qua vị tu sĩ rất quan trọng. Vấn đề này, lịch sử đã được chứng minh qua
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ.
Qua tổng kết hai cuộc chiến tranh, chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ, “toàn vùng hiện có 92 bà mẹ Việt Nam anh hùng, 11 anh hùng lực lượng
vũ trang nhân dân, 2.863 liệt sĩ, 1.029 thương binh là người dân tộc Khmer
và hằng chục ngàn gia đình Khmer có công với nước”; trong đó, (tính đến
năm 2003), “toàn vùng có 47 chùa Khmer có thành tích kháng chiến, 11 liệt sĩ
là chư tăng Khmer”. Với những thành quả đạt được,“Phật giáo Tiểu thừa
Khmer đã được Trung ương cục miền Nam tặng 2 Huân chương Giải phóng vì
đã có thành tích trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đó là vinh dự lớn lao
mà chưa một tôn giáo nào có được hân hạnh đó” [10, tr.1].
Khi hòa bình độc lập, cũng như hiện nay các vị tu sĩ Khmer vẫn là kênh
quan trọng, góp phần tích cực tuyên truyền các chủ trương chính sách của
Đảng, Pháp luật của Nhà nước đến đồng bào Khmer. Đồng thời, vận động
đồng bào Phật tử Khmer thực hiện tốt các quy định của chính quyền địa
phương, góp phần tham gia cùng chính quyền địa phương quản lý xã hội,
chùa chiền... Trong khi các thế lực thù địch trong và ngoài nước, đặc biệt là
các tổ chức, hội nhóm “Khmer Kampuchea Krôm” (KKK) cực đoan đứng
chân ở Campuchia luôn tìm cách lôi kéo, kích động tu sĩ, đồng bào Khmer
tham gia các hoạt động chống phá Đảng và Nhà nước ta: kích động và gây
102
hằn thù dân tộc giữa người Kinh, người Khmer; kêu gọi người Khmer đòi lại
đất đai,...
Ngoài ra, để định hướng cho tu sĩ và đồng bào Khmer tham gia tích cực
vào các phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới, các vị trụ trì
ở các chùa đã hưởng ứng và vận động đồng bào Khmer trong phum, sóc của
mình tham gia vào các phong trào này một cách tích cực, góp phần cùng với
chính quyền đảm bảo tình hình an ninh trật tự ở địa phương.
Tu sĩ PGNTK có vai trò rất quan trọng và không thể thiếu trong việc
định hướng tư tưởng chính trị cho đồng bào Khmer, từ đó làm cho đồng bào
dân tộc Khmer tự đề kháng và phản bác lại những luận điệu tuyên truyền,
xuyên tạc của các thế lực thù địch chống Đảng, Nhà nước ta. Đồng thời qua
đó, các vị tu sĩ còn tích cực tham gia cùng với lực lượng công an đấu tranh,
ngăn chặn, vô hiệu hóa âm mưu, thủ đoạn của bọn phản động lợi dụng tôn
giáo, dân tộc góp phần làm ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội ở TNB.
3.1.4. Vai trò của tu sĩ Phật giáo Nam tông Khmer đối với đời sống
kinh tế
Tu sĩ PGNTK là người truyền bá, giáo dục kinh tế lành mạnh trong cộng
đồng người Khmer
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa như ở Việt Nam; một lối sống lành
mạnh, tốt đẹp vừa là những phẩm chất cần thiết góp phần phát triển nguồn lực
con người - nhân tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững, vừa là yếu tố văn
hóa góp phần xây dựng xã hội ổn định, văn minh. Nếu một người nào đó chỉ
biết chạy theo lợi ích vật chất của cá nhân, thiếu tình yêu thương đối với đồng
loại, những người xung quanh thì họ sẽ sẵn sàng thực hiện các hoạt động kinh
tế vì cá nhân mà phương hại đến lợi ích của cộng đồng như buôn gian bán lận,
làm ăn giả dối...
103
Những hoạt động kinh tế như vậy không thể góp phần thúc đẩy một nền
kinh tế phát triển bền vững. Một nền kinh tế phát triển bền vững là một nền
kinh tế dựa trên nguồn nhân lực có tri thức cao và có đạo đức, phẩm chất nhân
văn, nhân ái. Tu sĩ PGNTK có vai trò quan trọng trong việc giáo dục đạo đức,
lễ nghĩa, tôn ti trật tự... cho cộng đồng Khmer theo triết lý hướng thiện, từ bi,
hỷ xả của đức Phật. Đây là những phẩm chất rất cần thiết của người lao động
trong thời kỳ mới. Ở khía cạnh này, PGNT sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế
bền vững ở đồng bào Khmer.
Tu sĩ giáo dục giáo lý làm cho ảnh hưởng của PGNT trong kinh doanh,
nên người Khmer Nam Bộ luôn có lối sống ngay thẳng, thật thà, rất tôn trọng
đạo lý, không cạnh tranh, lừa dối trong làm ăn, mọi người trong phum, sóc
luôn biết nhường nhịn, tương trợ, giúp đỡ nhau, trao đổi kinh nghiệm với
nhau, không so bì, hơn thiệt, không hề giấu diếm nghề… Họ trọng tình nghĩa,
chân thành, thương yêu, sẵn sàng giúp người thân, bạn bè khi gặp khó khăn
trong cuộc sống...
Tu sĩ PGNTK là người hướng dẫn, ngôi chùa PGNT là nơi đào tạo kiến
thức, đào tạo nghề, kỹ thuật sản xuất, xây dựng vốn sống cho con em đồng
bào dân tộc Khmer.
Phật giáo Nam tông không đơn thuần chỉ là một tôn giáo, thỏa mãn nhu
cầu tâm linh của đồng bào Khmer, mà trong lịch sử, tôn giáo này đã có vai trò
đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của cộng đồng Khmer, trong đó có
việc phát triển nguồn lực con người. Các tu sĩ Khmer cũng là những trí thức
Khmer, họ nắm toàn bộ tinh hoa tri thức đã tích lũy từ bao đời nay của dân
tộc Khmer từ ngôn ngữ đến nghệ thuật, kinh nghiệm sản xuất... Trong thời
gian các thanh niên Khmer tu học tại chùa, những tri thức của cộng đồng
Khmer được các tu sĩ trao truyền giúp họ nâng cao nhận thức và hiểu biết.
Thậm chí, nhà chùa tạo điều kiện cho các tăng sinh đang tu trong chùa
104
được học nghề một cách tự nhiên. Hằng ngày, các vị tu sĩ được truyền dạy
một số nghề cơ bản nhất, cần thiết nhất như: học cưa, đục bào, đóng tủ bàn
ghế, học xây cất nhà cửa, trồng các loại rau, trồng các loại cây ăn trái,
trồng các loại cây lâu năm lấy gỗ, học cày cấy làm ruộng, học vẽ các hoa
văn theo đường nét của dân gian dân tộc, học nặn tượng, nặn các phù điêu
truyện kể cổ tích,…
Hiện nay, các tăng sinh trong chùa còn học thêm nhiều kiến thức khoa
học kỹ thuật tiên tiến và hiện đại trong các ngành, các trường Trung cấp, Cao
đẳng, Đại học,v.v… Đặc biệt, các tăng sinh trong chùa còn tranh thủ học
nhiều chuyên môn khác nhau, nhưng hiện đăng ký học nhiều nhất vẫn là vi tính
và các ngoại ngữ: Anh, Pháp, v.v... nhằm để nâng cao trình độ, kiến thức nhất
định, một mặt để truyền đạt lại kiến thức cho cộng đồng trong phum, sóc; mặt
khác, để tiếp nối truyền dạy cho đệ tử sau này. Khi các vị sư hoàn tục, muốn xây
dựng gia đình thì đã biết một số nghề cơ bản, có công ăn việc làm nuôi vợ nuôi
con ngay, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế của gia đình, xã hội. PGNTK góp
phần tác động đến việc thực hiện có hiệu quả chương trình phát triển kinh tế của
Đảng, Nhà nước trong vùng đồng bào dân tộc Khmer.
Đa số đồng bào Khmer ở Nam Bộ là nông dân, vẫn chịu ảnh hưởng
những tập tục lạc hậu. Chính vì vậy, trong những năm gần đây, Đảng và Nhà
nước ta đã có nhiều chính sách ưu đãi phát triển kinh tế ở TNB. Nhận thức và
tranh thủ được vai trò của các tu sĩ trong đời sống của đồng bào Khmer nên
các cấp ủy đảng, chính quyền đã thông qua họ để tuyên truyền đến người dân
bằng nhiều hình thức như: lồng ghép trong các buổi thuyết giảng kinh, luật,
luận trên chùa, các vị tu sĩ sẽ gặp gỡ trực tiếp người dân để tuyên truyền các
chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà nước, các chương trình hỗ trợ của
Chính phủ, của địa phương cũng như cách thức thực hiện, sử dụng nguồn vốn
có hiệu quả phục vụ sản xuất.
105
Có thể nói, vai trò của tu sĩ đối với việc góp phần tác động đến việc
thực hiện có hiệu quả chương trình phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước
trong vùng đồng bào dân tộc Khmer là rất quan trọng. Tích cực tham gia,
động viên Phật tử cùng tham gia những công tác phúc lợi xã hội như: xây
dựng trường, lớp học, bắt cầu, đắp đường phục vụ lợi ích dân sinh và phát
triển sản xuất.
3.1.5. Vai trò của tu sĩ Phật giáo Nam tông Khmer đối với thanh
niên Khmer trong quá trình tu học
3.1.5.1. Đối với thanh niên Khmer trước tu học
Trong xã hội người Khmer, người xuất gia (tu sĩ hoặc sư sãi) được
cộng đồng kính trọng và vâng lời, một thanh niên Khmer trước khi xuất gia
thì quỳ lại cha mẹ xin được phép xuất gia, nhưng sau khi xuất gia trở thành
nhà sư thì không chỉ ông bà nội ngoại, cha mẹ mà cũng phải đảnh lễ Chư
tăng, trong đó có con, cháu của mình (Kính Phật, trọng Tăng). Hơn nữa, trong
vấn đề ăn uống, tu sĩ chia phiên nhau vào bếp; ngoài ra, trong chùa bao giờ
cũng có một đội ngũ Phật tử chuyên lo bếp núc trong việc dâng cơm rót nước
cho nhà sư.
Thanh niên Khmer có tu học luôn là một thành viên gương mẫu trong
gia đình, định hướng các hoạt động theo đạo đức PGNT, là chỗ dựa về mặt tư
tưởng, niềm tin của gia đình trong việc ứng xử, trong lao động sản xuất.
Trong xã hội, thanh niên Khmer sau tu học là người có địa vị, được xã hội kính
trọng, sẵn sàng giúp đỡ, hòa giải các mâu thuẫn xảy ra, giúp ích cho chính quyền
địa phương trong các phong trào vận động xã hội hóa, biết giáo dục thanh thiếu
niên Khmer chấp hành tốt những qui định của địa phương, tham gia tốt các
phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao mà địa phương tổ chức.
3.1.5.2. Đối với thanh niên Khmer sau tu học
- Đối với bản thân và gia đình: Thanh niên Khmer sau một thời gian tu
học trong chùa luôn tự xem mình là người gương mẫu về đạo đức và nhân
106
cách sống. Trong cách ăn nói, đi đứng phải cư xử làm sao để mọi người nhìn
vào có thể nhận ra mình là người đã qua thời gian tu học trong chùa. Trong
gia đình luôn hiếu kính với ông bà cha mẹ, khi có bất hòa thì đứng ra dằn xếp
cho ổn thỏa. Vai trò quan trọng nhất chính là luôn nêu cao và giáo dục truyền
thống tu học cho con em đồng bào Khmer, trước hết là các thành viên trong
gia đình. Đặc biệt hơn, khi các gia đình bà con Khmer trong phum, sóc tổ
chức lễ lộc, ma chay, cưới hỏi... thì bản thân người từng tu học luôn sốt sắng
giúp đỡ trong khâu tổ chức, hướng dẫn. Bởi lẽ họ là những người đã từng đi
tu trong chùa, nên am hiểu về các nghi lễ, nghi thức, về phong tục tập quán
của dân tộc.
- Đối với cộng đồng xã hội: Thanh niên Khmer xuất gia tu học không
chỉ là niềm hãnh diện đối với bản thân mà còn là niềm tự hào đối với dòng
tộc. Sau tu học trở về đời thường họ luôn gương mẫu trong các hoạt động
Phật sự và trong công tác xã hội. Với năng lực, trình độ đã học được trong
chùa, sự hiểu biết về pháp luật, họ đã ra sức tuyên truyền vận động trong bà
con lối xóm thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước, phát huy tinh thần đoàn kết trong đồng bào và góp phần
vào việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Qua thời gian tu học tại chùa, dù lâu hay mau, thời gian ngắn hay dài,
người thanh niên Khmer cũng tiếp thu được những kiến thức nhất định về
Phật học, thế học, về ngôn ngữ và các ngành nghề truyền thống..., từ đó có
những đóng góp thiết thực cho cộng đồng và xã hội.
Trước hết, vì có vốn kiến thức về văn hóa, kiến thức về phong tục tập
quán, các hoạt động tôn giáo trong chùa nên bản thân các thanh niên ấy sẽ
biết cách tổ chức các lễ nghi, các sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo, đồng thời
luôn giáo dục và hướng con em người Khmer biết trân trọng giá trị văn hóa
của dân tộc, một lòng thành kính Đức Phật và tin tưởng tuyệt đối vào tôn giáo
truyền thống của mình.
107
Trong quá trình tu học, đã có không ít thanh niên Khmer trước kia từng
làm trụ trì các ngôi chùa, qua đó họ biết cách thức tổ chức, quản lý và đoàn
kết các thành viên trong chùa, giáo dục lòng tự hào dân tộc, tình yêu quê
hương, đất nước, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Khi trở về
đời thường, họ phát huy tốt vai trò đó và là nhân tố quan trọng trong việc xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Có thể nói, thông qua quá trình tu học tại chùa, từ việc tiếp thu chân lý
của Đức Phật, sự hiểu biết về ngôn ngữ, văn hóa, phong tục tập quán, thanh
niên Khmer sau tu học đã thực hiện tốt công việc truyền bá trong đồng bào
Khmer về những giá trị truyền thống của Phật giáo, của dân tộc Khmer, đặc
biệt là những giá trị do ngôi chùa mang lại. Người thanh niên Khmer sau tu
học đã giúp cho đồng bào Khmer củng cố thêm tình yêu đối với quê hương,
đất nước, vun đắp thêm tình làng nghĩa xóm trong phum, sóc, là cơ sở tạo sự
gắn bó, đoàn kết trong cộng đồng. Góp phần thực hiện đường lối của Đảng về
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Người Khmer tham gia tu học được học chữ dân tộc, tiếp cận kinh
Phật, tiếp nhận sách báo, tạp chí liên quan đến chính sách pháp luật Nhà
nước, học được cách thức tổ chức hội họp, sinh hoạt văn nghệ, thể thao trong
các ngày lễ. Được rèn luyện về tinh thần từ bi, vị tha và hướng con người đến
những giá trị chân, thiện, mỹ, học kiến trúc, điêu khắc, các loại hình nghệ
thuật... Với kiến thức được tích lũy đó, sau tu học, người thanh niên Khmer có
nhiều đóng góp cho gia đình và xã hội, truyền lại cho thế hệ sau. Việc tham gia tu học ở chùa, thanh niên Khmer còn có điều kiện giao
lưu với khách thập phương, học hỏi được nhiều điều từ khách phương xa, đồng
thời người ta biết được đồng bào, sư sãi và quê hương thông qua chùa có những
điểm nổi bật nào đó, gây được chú ý hoặc gợi được trí tò mò của khách. Đó cũng
là cơ sở, nền tảng kiến thức về giao lưu với các tôn giáo, các dân tộc khác cho
108
thanh niên Khmer tu học và sẽ truyền đạt lại trong thanh thiếu niên, trong đồng
bào Khmer để có thêm vốn kiến thức trong giao tiếp, hội nhập.
Thanh niên Khmer qua quá trình tu học đã đóng góp thiết thực và hữu
ích cho cộng đồng và xã hội. Họ luôn xem mình là người gương mẫu về đạo
đức và nhân cách sống. Với năng lực, trình độ đã học được giáo dục trong
chùa, sự hiểu biết về pháp luật, họ đã ra sức tuyên truyền vận động trong bà
con Khmer thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước, phát huy tinh thần đoàn kết trong đồng bào, giáo dục
truyền thống tu học cho thanh thiếu niên và góp phần vào việc giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc.
Tóm lại, vai trò của tu sĩ Khmer trong đời sống cộng đồng, trong xã hội
truyền thống và trong cả sinh hoạt đời thường của người Khmer hiện nay. Từ
khi sinh ra đến lúc trưởng thành, kết hôn đến khi chết, cúng tế... đều có sự
hiện diện của tu sĩ. Tu sĩ không chỉ trực tiếp tiến hành thực hiện các lễ thức
trong vòng đời người mà còn nhập thế, tham gia các hoạt động xã hội. Chính
vai trò này mà tu sĩ được người Khmer kính trọng, coi họ là hiện thân của
Đức Phật. Như vậy, đối với cộng đồng người Khmer Nam Bộ thì tu sĩ cùng
với PGNT đã trở thành một nhu cầu tinh thần và niềm tin tuyệt đối.
3.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.2.1. Vấn đề truyền thừa của Phật giáo Nam tông Khmer
Theo GS.TS Phan An: Hệ phái Nam tông Khmer và người Khmer ở
Nam bộ trong hai thập niên cuối thế kỷ XX trở lại đây không còn nằm trong
vùng “phẳng lặng” mà trở thành đối tượng thu hút sự quan tâm của nhiều giới
ở cả trong nước và ngoài nước. Điều dễ hiểu là người Khmer Nam bộ tuy là
một bộ phận của cộng đồng dân tộc Việt Nam, nhưng đồng thời nó cũng là
một bộ phận tuy xa trong quá khứ của Đế chế Khmer thời Trung thế kỷ. Vì
vậy điều đáng bàn trước hết là liên hệ lịch sử nào khiến người Khmer, đặc
109
biệt là những người trí thức quá khích vẫn bám vào để phá hoại hình ảnh một
nước Việt Nam thống nhất.
Tuy nhiên, có một thực sự cần nhắc lại là sự mở đất và áp đặt quản
trị vào vùng đất mới chỉ thực sự bắt đầu vào các thế kỷ 16 về sau. Điều này
ẩn chứa những tiền đề lịch sử và lý luận cho những người chống Việt Nam
dựa vào.
Khi mà các tiến trình kinh tế, xã hội và văn hóa thuận lợi thì sự chống
đối ở bộ phận này không có tác dụng. Nhưng khi mà các tiến trình đó vấp
phải những thách thức thì nó lại có dịp khơi lên và thật sự có hại cho sự
nghiệp kiến thiết nước Việt Nam hiện tại và tương lai. Cũng không nên xem
thường khả năng các thế lực chống Việt Nam sẽ tận dụng ảnh hưởng quốc tế
để tiến hành thọc sâu vào nội bộ nước ta.
Trong thực tế vấn đề Khmer Krom đã và đang bị lợi dụng để tạo ra chỗ
dựa cho sự can thiệp của nước ngoài vào công việc nội bộ của nước ta, bất
chấp sự biến đổi sâu sắc của người Khmer với tư cách là một thành viên tộc
người của một nước Việt Nam thống nhất.
Trong cộng đồng người Khmer, sư sãi PGNT được xem là một bộ phận
người trí thức am hiểu nhiều về lĩnh vực dân tộc và tôn giáo. Vì thế, các vị có
vai trò và vị trí quan trọng trong đời sống xã hội cộng đồng người Khmer.
Cũng vì vị thế và vai trò đó, các thế lực thù địch từ trước đến nay thường tìm
cách tranh thủ họ, lợi dụng họ thực hiện các hoạt động chống phá Việt Nam,
gây bất ổn trong quan hệ Việt Nam - Campuchia, đồng thời nhằm thực hiện
âm mưu “Diễn biến hoà bình”, kẻ thù dùng những thủ đoạn can thiệp vào nội
bộ gây ly gián, chia rẽ khối đoàn kết thống nhất. Một trong những con đường
chủ yếu để các thế lực thù địch giành chiến thắng là: tạo ra những mâu thuẫn
nhỏ rồi tiếp tục phát triển dần trong nội bộ cho đến khi xảy ra “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa”.
110
Cùng với việc chuyển đổi nền kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập cũng
như sự đổi mới về chính sách tôn giáo ở Việt Nam; trong thời gian tới số
người Khmer chuyển đổi niềm tin tôn giáo có thể tiếp tục tăng; là điều kiện
xuất hiện một “thị trường tôn giáo” ở vùng TNB; vấn đề này sẽ ảnh hưởng
đến tình cảm, tâm lý và tác động trực tiếp đến tín ngưỡng, tôn giáo truyền
thống, ảnh hưởng đến văn hóa, phong tục tập quán của đồng bào dân tộc,
thậm chí dẫn đến xung đột trong gia gia đình, dòng họ anh em với nhau và
giữa người Khmer theo tôn giáo truyền thống với người Khmer theo các tôn
giáo khác. Ngoài ra, nó còn tác động đến chính sách đại đoàn kết dân tộc, tôn
giáo của Đảng, Nhà nước, tạo ra sự phát triển không cân bằng hài hòa nhằm
đảm bảo an ninh chính trị xã hội tại địa phương nói riêng và cả vùng nói
chung. Đó là sự vênh về văn hóa, tôn giáo của các thế hệ trong một gia đình,
các gia đình trong một phum sóc hoặc rộng hơn gây sự hiểu lầm xa cách, mất
đoàn kết nội bộ.
Mặt khác, trong điều kiện nước ta hiện nay, do sự tác động của nhiều yếu
tố, vấn đề tín ngưỡng và tôn giáo chưa thể mất đi mà còn tồn tại và tồn tại lâu
dài, nó giữ vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của một bộ phận quần
chúng. PGNTK thì càng có vị trí quan trọng hơn vì nó không chỉ ảnh hưởng
đến một bộ phận trong đồng bào Khmer mà gần như tất cả mọi người trong
cộng đồng này. Mặt khác, sự chi phối của tôn giáo với đời sống tinh thần của
con người là một điều hiển nhiên nhưng sự chi phối ấy không phải bao giờ và
lúc nào cũng như nhau.
Tùy theo từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử, văn hóa và tập quán của
từng dân tộc sự ảnh hưởng cũng có những khía cạnh khác nhau, có lúc phù
hợp nhưng cũng có lúc trở thành cản trở sự phát triển. Nghiên cứu xu
hướng vận động trong PGNTK đối với đời sống tinh thần hay nói cách
khác hơn là nghiên cứu dự báo tình hình ảnh hưởng của nó trong thời gian
111
tới đối với đời sống tinh thần, từ đó đề ra giải pháp nhằm hạn chế tối đa
những ảnh hưởng tiêu cực và vận dụng những giá trị hợp lý của nó vào
trong đời sống xã hội, nhằm góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần, làm lành mạnh và văn minh hóa nền văn hóa truyền thống của dân
tộc, góp phần thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
vấn đề dân tộc, tôn giáo.
3.2.2. Vấn đề truyền thống xuất gia của tu sĩ Phật giáo Nam tông
Theo truyền thống, thanh niên Khmer phải có một thời gian vào chùa tu
để báo hiếu cha mẹ, học lễ nghĩa, học chữ, học kinh sách Phật giáo. Thời gian
vào chùa tu có thể vài ba tuần, vài ba tháng, hoặc vài ba năm hay suốt đời, do
vậy lực lượng sư sãi của PGNTK thật hùng hậu. Hình ảnh của nhà sư là một
hình ảnh không thể thiếu trong nhận thức của đồng bào Khmer.
Mỗi chùa đều có Achar hoặc Hội đồng Achar. Họ là những bậc lớn
tuổi, đã trải qua quá trình tu học tại chùa, có kinh nghiệm sống và uy tín trong
phum sóc, được cử ra để giúp việc Sư cả trong thời gian lâu dài. Đây là bộ
phận nắm giữ vật chất, tiền của trong chùa, có vai trò quan trọng đối với đời
sống cộng đồng, nên việc bổ nhiệm cần có sự đồng thuận từ phía nhà chùa và
cộng đồng.
Một góc độ khác, mối quan hệ giữa PGNTK với Phật giáo Bắc tông
của người Việt, Hoa trong vùng Khmer vừa là quan hệ tôn giáo vừa là quan
hệ tộc người, cần tạo điều kiện để các tộc người, các hệ phái được gần gũi,
chia sẻ với nhau trong các công việc chung của Giáo hội.
Vì thế, Phật giáo là một bộ phận văn hóa của dân tộc Khmer, tạo nét
đặc sắc cho văn hóa Khmer Nam bộ. Phật giáo có vai trò và vị trí quan trọng
trong đời sống nhiều mặt của người Khmer Nam bộ. Trong quá khứ và hiện
tại, Phật giáo đã góp phần cố kết cộng đồng Khmer, cũng như sự ổn định và
phát triển của người Khmer.
112
Dù vẫn được cộng đồng dân cư tôn vinh theo đạo lý truyền thống,
nhưng một số ít sãi cả và sãi phó hiện nay đều rất trẻ (20 - 30 tuổi) nên trình
độ nhận thức còn hạn chế. Sự hạn chế này làm giảm vai trò của nhà sư đối với
cộng đồng Khmer. Mặt khác, sãi cả và sãi phó hiện nay không qua một thủ
tục bổ nhiệm nào của tổ chức giáo hội, chủ yếu dựa vào sự tín nhiệm và thừa
nhận của cộng đồng.
Do chỉ có những thanh niên chưa học phổ thông nội trú mới vào chùa
tu học nên ít thạo tiếng Việt; thời gian tu học không bắt buộc nên nhiều tu sĩ
chỉ tu học vài tháng hoặc vài năm rồi hoàn tục, không có điều kiện học kinh
tạng Pali để nghiên cứu.
Tệ mê tín trong đời sống phum sóc và trong chùa đã hầu như không còn,
nhưng còn một số nơi có những biểu hiện ảnh hưởng đến việc thực hiện các chính
sách của Nhà nước như xây sửa chùa với quy mô tốn kém; nghi lễ rườm rà, kéo
dài (khánh thành chùa tốn kém, khánh thành từng hạng mục trong chùa…); kéo
dài lễ hội theo tập quán; xây tháp chôn xác tràn lan trong sân chùa...
Ngoài ra, đây là một trong những lĩnh vực có nhiều thay đổi, thể hiện ở
những mặt sau như: Thay đổi trong khất thực, không phải tất cả các tu sĩ đều
đi khất thực mà việc này phân công cho một số vị tu sĩ, số tu sĩ còn lại phụ
trách công việc trong chùa hoặc giành thời gian tu luyện. Cũng xuất hiện xu
hướng nhập thế của PGNT, thể hiện rõ qua việc rất nhiều tu sĩ xem truyền
hình nghe, xem thời sự; sử dụng điện thoại di động, tu sĩ tham gia sản xuất
nông nghiệp như làm ruộng vườn trong đất chùa…Những điều này làm cho
Phật giáo ngày càng gắn liền với đời sống xã hội.
Mặt khác, hiện tượng tu sĩ ngày càng giảm, đội ngũ tu sĩ trẻ được trẻ
hoá cũng đáng quan tâm. Những người chọn con đường tu hành suốt đời giảm
hơn trước rất nhiều; giải thích về vấn đề này thì câu trả lời chung là trước đây
số lượng tu sĩ nhiều là để chốn đi quân dịch, còn ngày nay sống hoà bình thì
113
lo học hành thành đạt, lo làm ăn để phụng dưỡng ông bà, cha mẹ, cho tiền bạc
cha mẹ đi chùa đây cũng là một cách báo hiếu chứ không chỉ vào chùa tu thì
mới coi là báo hiếu. Chính vì thế mà một bộ phận con, em người Khmer trong
độ tuổi đi học phổ thông thường chọn hai tháng hè để vào chùa tu, khi tựu
trường lại đi học phổ thông tiếp tục.
3.2.3. Vấn đề trình độ của tu sĩ
Nếu chúng ta nghiên cứu kỹ về truyền thống giáo dục, dạy chữ, dạy dỗ
con em của đồng bào người Khmer từ thời xa xưa thì chúng ta sẽ thấy một
điều rất rõ là vùng đồng bào Khmer không có cái gọi là trường học theo đúng
nghĩa thông thường. Tất cả việc dạy dỗ dạy chữ, rèn luyện, bồi dưỡng kiến
thức và hình thành nhân cách đạo đức kể cả học làm người, học một số nghề
cần thiết cho cuộc sống gia đình như: Học cưa, đục bào, đóng tủ bàn ghế, học
xây cất nhà cửa, trồng các loại rau, trồng các loại cây ăn trái, trồng các loại
cây lâu năm lấy gỗ, học cày cấy làm ruộng, học vẽ các hoa văn theo đường
nét của dân gian dân tộc, học nặn tượng, nặn các phù điêu truyện kể cổ tích …
đều phải vô chùa tu, hay còn gọi là học tu.
Như vậy chùa của đồng bào dân tộc Khmer là trường học đầu đời cho
con em của họ. Trong chùa Khmer có nhiều lớp dạy, học chữ Sanskrít - chữ
Khmer hiện nay do thầy giáo hoặc các sư trong chùa dạy cũng khá lâu đời.
Nhưng đứng về thuật ngữ giáo dục có lớp cho việc dạy và học, học và dạy
trong chùa từ thời xa xưa vẫn quan niệm là vào chùa đi tu. Hiện tượng học
theo kiểu này trong cộng đồng người Khmer không gọi là trường học, nhưng
việc đi tu này vẫn làm tròn ý nghĩa của chức năng trường học thông thường.
Qua đây chúng ta thấy rằng đồng bào dân tộc Khmer dùng đặc tính linh cảm
linh thiên màu nhiệm của triết lý đức Phật - chùa làm phương tiện, phương
pháp truyền dạy học trò. Còn học trò vào chùa học, tự nhận thức được đây là
cửa linh thiêng của đức Phật phải hết sức nghiêm túc…
114
Vì thế, việc giáo dục đạo đức, giáo dục nhân cách, rèn luyện về mọi
mặt, người dạy nhờ vào “sức mạnh vô hình của luân lý Phật giáo” làm trợ thủ
đắc lực nhất cho sự thành bại của người dạy và người học. Phải nói đây là một
lĩnh vực thuộc về tâm lý học dân tộc và giáo dục học dân tộc nói chung cũng
như trong lĩnh vực giáo dục Phật giáo học nói riêng. Nó rất tinh tế và tế nhị
của phương pháp dạy học cổ truyền trong chùa, trong vùng đồng bào dân tộc
Khmer đạt hiệu quả rất cao từ lâu đời mà chúng ta chưa biết cách khai thác.
Đặc biệt, vấn đề giáo dục trong PGNTK đã tồn tại các loại hình giáo dục
trong trường chùa từ lâu đời, trãi qua nhiều thế kỷ và chịu nhiều bom đạn của
hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, với việc quản lý kinh sách
thiếu sự kiểm tra của các vị trụ trì cùa nên phần lớn kinh sách đều bị thất lạc,
mất mát và hư hong nhiều, không đủ đáp ứng nhu cầu tu học tập của con em
đồng bào Khmer.
Đội ngũ giảng sư vừa thiếu, vừa không ổn định, chưa được chuẩn hóa
và hạn chế về chuyên môn Phật học, nghiệp vụ sư phạm, giáo dục PGNTK
vẫn theo lối truyền thống, truyền thụ những kinh nghiệm của người xuất gia
đi trước cho những người đi sau theo lời Phật dạy. Thực tế cho thấy, đội ngũ
giảng sư hiện nay kể từ Trung cấp Phật học đến Học viện PGNTK chủ yếu là
các sư đã tu lâu năm giảng dạy, chỉ có bằng trung cấp Pali, một số ít có trình
độ Cao cấp Pali. Nhiều trường (lớp) chùa Khmer chỉ thuần túy dạy chữ Pali,
chưa dạy chữ phổ thông (tiếng Việt), nên nhiều sư sãi và đồng bào Khmer rất
tâm tư. Nhiều vị tu sĩ mong muốn được học để biết tiếng Việt, khi xuất tu có
thể đi học nghề, kiếm công ăn việc làm. Đồng thời, hầu hết các cơ sở đào tạo
tu sĩ Khmer chưa chủ động được nguồn kinh phí, còn phụ thuộc nhiều vào
việc cúng dường của Phật tử và những nhà hảo tâm nên nguồn thu không cố
định và rất hạn hẹp vì đa số đồng bào Khmer, cũng như các chùa Khmer còn
nghèo, ít có khả năng vận động đóng góp. Riêng đối với Học viện PGNTK
115
tuy đã được cấp đất xây dựng, nhưng đến nay việc xây dựng mới được khởi
công và đang gặp nhiều khó khăn về tài chính để lo tiền ăn học cho tăng sinh
Khmer đang theo học.
Việc công nhận và cấp bằng Phật học cho các lớp sơ cấp Pali ở các tỉnh
chưa thống nhất, nên mỗi địa phương làm một cách riêng. Có nơi cấp bằng
tiếng Khmer (Trà Vinh), có nơi chỉ cần sư trụ trì chứng nhận, trong khi
GHPGVN chưa có quy chuẩn thống nhất về văn bằng, chứng nhận cho các
lớp đào tạo tiếng Pali, gây khó khăn trong công tác quản lý và không khuyến
khích được các vị tu sĩ tham gia học tập ở trình độ cao hơn.
Trong bối cảnh đất nước ta đang trên con đường hội nhập và phát triển
thì việc giáo dục trong PGNTK cũng cần phải tiếp tục được nghiên cứu.
Tóm lại, giáo dục trong PGNTK về kiến thức văn hóa - xã hội và kiến thức
Phật học là một trong những nhiệm vụ cốt lõi, thường xuyên và lâu dài trong
hệ phái Nam tông Khmer. Công tác giáo dục và đào tạo nêu trên được tổ chức
vận hành từ lâu đời dưới 3 loại hình đào tạo:
Một là, giảng dạy chữ Khmer, chữ Pali để làm nền tảng cơ bản trước
khi bước vào học tập kiến thức về văn hóa, xã hội, Phật học.
Hai là, giảng dạy chương trình thế học, bao gồm các môn học về
khoa học xã hội, văn hóa, văn học, thơ ca, nghệ thuật, kiến trúc, điêu khắc,
toán học...
Ba là, giảng dạy chương trình Phật học để tiếp cận giáo lý, triết lý, tinh
hoa văn hóa của đạo Phật.
Các loại hình giáo dục đào tạo nêu trên đã và đang góp phần rất lớn
trong việc đào tạo đội ngũ trí thức dân tộc Khmer, nhất là góp phần giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, giá trị tốt đẹp của PGNTK.
Mặt khác, dân tộc Khmer là một thành viên trong 54 dân tộc Việt Nam,
PGNTK là thành viên trong ngôi nhà chung Giáo hội Phật giáo Việt Nam,
116
công tác giáo dục tại các chùa, các trường lớp PGNTK cơ bản đã đi vào nề
nếp và đã đáp ứng được nhu cầu học tập trong cộng đồng người Khmer Nam
Bộ. Hiện nay, giáo dục PGNT có Học viện (tại Cần Thơ), 05 Trường Trung
cấp Phật học (tại Sóc Trăng, Bạc Liêu, An Giang, Kiên Giang, Trà Vinh) và
các lớp Sơ cấp, Trung cấp Pali Vini tại các chùa Khmer. Tuy nhiên, hiện nay
việc tổ chức giảng dạy trong PGNTK còn nhiều khó khăn, bất cập:
Một là, mô hình giáo dục đào tạo trong PGNTK chưa được đưa vào
chương trình giáo dục đào tạo của GHPGVN, nên chưa có một đơn vị có tư
cách pháp nhân nào công nhận, dẫn đến văn bằng thiếu tính pháp lý;
Hai là, chương trình chậm được cải tiến, chưa thống nhất giữa các
địa phương.
Ba là, nhu cầu về học tập ngày càng cao, nhưng bậc học còn thấp, chưa
tương ứng với nhu cầu.
Những hạn chế này dẫn đến hệ quả là: (1) Hầu hết tăng sinh lúng túng
không biết tìm nơi nào để học ở bậc cao hơn; (2) Một bộ phận tăng sinh tự đi
học các nước có Phật giáo cùng hệ phái như: Campuchia, Thái Lan,
Myanmar... dẫn đến ý kiến đánh giá, cách nhìn nhận vấn đề khác nhau.
3.2.4. Vấn đề về cơ cấu tổ chức
Phật giáo Nam tông Khmer là một trong 09 tổ chức, hội, hệ phái, là
thành viên sáng lập của GHPGVN nhưng đến nay, vai trò của hệ phái
PGNTK trong ngôi nhà chung GHPGVN rất mờ nhạt, chưa tương xứng với
vị trí của nó, mà trong lịch sử PGNTK cùng lúc có cả hai hệ thống tổ chức
Giáo hội từ Trung ương đến tận cơ sở (hệ thống Phật giáo Theravada và
Khemaranikaya).
Do đặc điểm, biệt truyền PGNTK, đề nghị tới đây, Đảng và Nhà nước
quan tâm, hướng dẫn Hội đồng Trị sự Trung ương GHPGVN thành lập tổ
chức đặc trách theo dõi PGNTK trực thuộc GHPGVN, từ cấp Trung ương,
117
đến cấp cơ sở để tạo điều kiện thuận lợi cho việc sinh hoạt tôn giáo của đồng
bào Khmer.
Mặc khác, PGNTK nằm trong GHPGVN. Mối quan hệ giữa PGNTK
với Phật giáo Bắc tông của người Việt, người Hoa trên địa bàn có đông người
Khmer diễn ra tốt đẹp. HĐKSSYN ở các địa phương có đông người Khmer
vẫn có một vị trí nhất định. Đây là một tổ chức liên kết các tu sĩ PGNTK với
nhau khá mật thiết. Vì vậy, cần quan tâm đến HĐKSSYN vùng TNB và mối
quan hệ với các tổ chức tôn giáo nói chung, hệ thống tổ chức GHPGVN nói
riêng hiện nay.
Vấn đề PGNTK là một trong những vấn đề rất nhạy cảm trong tình
hình đất nước ta hiện nay. Nhiều thế lực xấu trong và ngoài nước luôn tìm
cách lợi dụng tôn giáo, thông qua tôn giáo để dụ dỗ người Khmer nhẹ dạ
chống phá chính quyền Việt Nam. Vì vậy phải hết sức cảnh giác với vấn đề
này, vì hậu quả của chúng gây ra vô cùng nghiêm trọng và không dễ dàng
khắc phục được nhanh chóng.
Một số ít chức sắc, tu sĩ và Phật tử Khmer chưa nhận thức sâu sắc quan
điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước về tôn giáo, vẫn
còn nghi ngờ chính sách tôn giáo, chưa thật sự tin tưởng đường lối đổi mới do
Đảng lãnh đạo; chưa phận biệt rõ chức năng, nhiệm vụ giữa Ban Trị sự Phật
giáo và HĐKSSYN nên vẫn xem HĐKSSYN là tổ chức của Giáo hội riêng.
Song song đó, việc đào tạo, bồi dưỡng giáo lý, đến nay phần lớn các chùa đều
tổ chức lớp học giáo lý Pàli - Kinh Luận giới và chữ Khmer, xong tất cả đều
do sự chỉ đạo của HĐKSSYN các cấp, tu sĩ PGNTK ở những chùa không có
tổ chức giảng dạy phải đi chùa khác học tập cũng không xin phép chính quyền,
thậm chí một số chư tăng đi tham gia khóa đào tạo ở nước ngòài cũng không
thực hiện các thủ tục hành chính theo quy định, dẫn đến việc dạy và học gây
không ít khó khăn cho công tác quản lý nhà nước của các cấp chính quyền.
118
Cụ thể: tác giả Phan An có đánh giá và nhận xét: Hệ phái Nam tông
Khmer và người Khmer ở Nam bộ trong hai thập niên cuối thế kỷ XX trở lại
đây không còn năm trong vùng “phẳng lặng” mà trở thành đối tượng thu hút sự
quan tâm của nhiều giới ở cả trong nước và ngoài nước. Điều dễ hiểu là người
Khmer Nam bộ tuy là một bộ phận của cộng đồng dân tộc Việt Nam, nhưng
đồng thời nó cũng là một bộ phận tuy xa trong quá khứ của Đế chế Khmer thời
Trung thế kỷ. Vì vậy điều đáng bàn trước hết là liên hệ lịch sử nào khiến người
Khmer, đặc biệt là những người trí thức quá khích vẫn bám vào để phá hoại
hình ảnh một nước Việt Nam thống nhất.
3.2.5. Vấn đề tu sĩ tham gia Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước
Thời kỳ xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đến năm 1993, HĐKSSYN tỉnh
Cần Thơ được thành lập, căn cứ vào những điều qui ước của Đại hội sư
sãi và Achar lần thứ nhất. Từ khi thành lập HĐKSSYN Cần Thơ (2004)
là một thành viên trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đặc biệt, Hội đã
tổ chức, quản lý và điều hành các lớp học sơ cấp Pali - giáo lý tại các
điểm chùa, tạo nên phong trào học tập cả kiến thức dân tộc lẫn kiến thức
phổ thông, góp phần tích cực trong việc nâng cao dân trí trong đồng bào
dân tộc Khmer…
Chủ trương củng cố, kiện toàn và tái lập lại HĐKSSYN vùng TNB là
hoàn toàn đúng đắn, phù hợp nhu cầu nguyện vọng của sư sãi, Phật tử và
đồng bào dân tộc Khmer; đồng thời đáp ứng yêu cầu công tác vận động quần
chúng trong tôn giáo nói chung, trong PGNTK nói riêng. Tuy nhiên, từ khi
được củng cố, kiện toàn và tái lập tổ chức Hội. Mặc dù được sự quan tâm chỉ
đạo của các cấp ủy Đảng, sự tạo điều kiện của chính quyền, các cơ quan chức
năng; sự phối hợp, hỗ trợ, hướng dẫn giúp đỡ của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể ở địa phương nhưng hoạt động của Hội vẫn còn nhiều mặt hạn chế.
Vì các nguyên nhân như sau:
119
Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước không nằm trong danh sách các Hội đặc
thù theo quyết định 68/2010/QĐ-TTg, ngày 1/11/2010 của Thủ tướng
Chính phủ, đồng thời, Hội không chịu sự điều chỉnh của Nghị định số
45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ Quy định về tổ chức, hoạt
động và quản lý Hội.
Mặt khác, thành phố Cần Thơ còn quan điểm xem Hội là tổ chức Hội
đoàn trong tôn giáo và được điều chỉnh theo Điều 3,19 của Pháp lệnh Tín
ngưỡng, tôn giáo và Điều 12 của Nghị định 92/2012/NĐ-CP; xem
HĐKSSYN trực thuộc Giáo hội trong khi đó tại điều 2 và 3 của Điều lệ Hội
lại quy định mối quan hệ giữa Hội và BTSPGVN thành phố Cần Thơ là mối
quan hệ “phối hợp” có tính chất ngang cấp vì “đều là tổ chức thành viên thuộc
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Cần Thơ.
Bên cạnh đó, việc hỗ trợ kinh phí của UBMTTQVN cho HĐKSSYN:
Với 30 triệu đồng/năm Hội không đủ kinh phí hoạt động. Nếu được so sánh
với tỉnh Vĩnh Long thì quá chênh lệch, cụ thể như: Vĩnh Long có 13 chùa,
khoảng 24 ngàn đồng bào Khmer tương đương thành phố Cần Thơ nhưng
mức hỗ trợ 150 triệu đồng/năm, vả lại còn vận dụng trợ cấp cho chủ tịch hội
2.0/tháng, phó hội trưởng 1.6/tháng (mức lương tối thiêu của Nhà nước), ủy
viên thư ký 1.0/tháng hệ số so với mức lương tối thiểu.
3.2.6. Vấn đề của Phật giáo Nam tông Khmer trong đời sống tinh
thần của người Khmer trong thời gian tới
Qua những biểu hiện trong thời gian gần đây của PGNTK vùng TNB,
chúng tôi đưa ra một số vấn đề của PGNTK trong đời sống tinh thần của
người Khmer trong thời gian tới tiếp tục diễn ra như sau:
Một là, chính trị hóa PGNTK làm cơ sở cho chiến lược “Diễn biến hòa
bình” của các thế lực thù địch;
Mặt khác, do đặc điểm PGNTK đồng hành và gắn liền với dân tộc, nên
các thế lực thù địch, các tổ chức phản động luôn tranh thủ, lợi dụng vấn đề
120
PGNTK để tác động lan tỏa đến đồng bào dân tộc Khmer và ngược lại. Trong
những năm gần đây, tổ chức phản động “Liên đoàn Khmer Campuchia Krôm”
và “Cộng đồng Khmer Campuchia Krôm” tập trung tác động vào số sư sãi
Khmer nhất là những vị sư trẻ tuổi để tuyên truyền, lôi kéo, kích động gây rối
chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam. Tổ chức phản động “Liên đoàn
Khmer Campuchia Krôm” và “Cộng đồng Khmer Campuchia Krôm” lợi dụng
hạn chế này để tuyên truyền xuyên tạc chính sách tôn giáo, chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nước ta, kích động đòi tách hệ phái PGNTK ra khỏi
GHPGVN, tái lập tổ chức bộ máy truyền thống của PGNTK như đã từng tồn
tại trước đây.
Tổ chức bộ máy truyền thống của PGNTK đã từng tồn tại và phát triển
trong thời gian khá dài đến năm 1981 ta chủ trương đưa vào GHPGVN, từ đó
tổ chức này không tồn tại nữa. Để tham gia điều hành Phật sự và các hoạt động
khác liên quan đến PGNTK, các vị cao tăng, giáo phẩm Khmer lần lượt được
cơ cấu vào các tổ chức các cấp trong GHPGVN qua các kỳ Đại hội, nhưng thực
tế các vị khó phát huy vai trò, do cơ cấu tổ chức thiếu rõ ràng, thiếu cơ chế đối
với PGNTK.
Hai là, trẻ hóa và giảm dần số lượng các vị tu sĩ trong các ngôi chùa;
Hiện nay đa số các trụ trì chùa PGNT Khmer tuổi đời còn rất trẻ, trình
độ văn hóa và trình độ Phật học thấp nên uy tín của họ với cộng đồng giảm
sút. Theo kết quả khảo sát thì: “Độ tuổi sư Trụ trì đang trẻ hoá. Tuổi bình
quân sư Trụ trì 43; Sư độ tuổi 20 - 30 chiếm 39%... bình quân số lượng sư
trong từ năm 1975 đến tháng 12/2013 có nhiều thay đổi: Năm 1975: 29 Sư
/chùa; năm 1985 là 19 sư/chùa; năm 1995 là 16 Sư/chùa; năm 1999 là 19
Sư/chùa; T6/2004 khoảng 20 Sư/chùa; 12/2013 là 21 Sư/chùa” [36, tr.240].
Điều này đã và đang tạo ra những tác động tiêu cực trong sinh hoạt của
PGNTK cũng như trong việc quản lý chư tăng và Phật tử Khmer làm ảnh
121
hưởng nhất định đến việc vận động đoàn kết đồng bào Khmer trong chiến
lược đại đoàn kết toàn dân tộc. Bên cạnh đó, hiện nay số thanh niên người
Khmer ít khi vào chùa tu học, số lượng chư tăng ngày ít đi.
Ba là, lối sống đạo của tu sĩ có xu hướng thế tục hoá;
Sự phát triển của xã hội công nghiệp, làm cho tôn giáo mất dần tầm quan
trọng và sẽ không còn có ý nghĩa như trước nữa. Sự thế tục hoá được xếp
ngang hàng với quá trình hành chính hóa, hợp lý hoá, và đô thị hoá như là
những cuộc cách mạng chủ đạo của lịch sử làm biến đổi xã hội. Wright
Mills trong tác phẩm The Sociological Imagination (1959) đã tóm tắt quá
trình này như sau: “Đã có thời thế giới chứa đầy những cái thiêng - trong
tư tưởng, thực hành, và thể chế. Sau thời kỳ Cải cách và Phục hưng, những
lực lượng hiện đại hóa đã quét qua địa cầu và thế tục hóa, một quá trình
lịch sử theo sau nó, đã nới lỏng sự ngự trị của cái thiêng. Đến một lúc nào
đó trong tương lai, cái thiêng sẽ biến mất hoàn toàn ngoại trừ, có lẽ, trong
lĩnh vực riêng tư”.
Đối với PGNTK, sự phát triển như vũ bão của nền công nghiệp hiện đại
làm cho niềm tin tôn giáo của người dân Khmer nói chung, tu sĩ PGNTK nói
riêng bị giảm sút. Sự sụt giảm số người đến chùa cho thấy sự suy giảm niềm
tin tôn giáo hay xu hướng niềm tin tôn giáo trở thành một việc riêng tư không
còn giữ một vai trò ưu thắng trong đời sống công cộng hay trong những khía
cạnh khác của quá trình quyết định. Bên cạnh đó, tình trạng đa nguyên tôn
giáo làm giảm sức sống của tôn giáo. Điều này cũng là vấn đề đáng quan tâm
hiện nay.
Bốn là, hiện tượng cải đạo của một bộ phận đồng bào Khmer;
Hiện nay một bộ phận đồng bào Khmer có hiện tượng bỏ tôn giáo truyền
thống để tin theo tôn giáo khác; tính đến nay “có 4.433 người Khmer theo các
tôn giáo khác ổn định từ nhiều năm nay” trong đó: “Tin lành 2.153, Công
122
giáo 2.186, Cao Đài 78, Baha’I 34” [5, tr.14]. Nguyên nhân chủ yếu, trước
hết là do các tôn giáo tăng cường tuyên truyền, giảng đạo, truyền đạo vào
vùng đồng bào dân tộc, bằng nhiều hình thức tuyên truyền, vận động, thậm
chí sử dụng vật chất để lôi kéo người vào đạo, trong khi cuộc sống của người
dân tộc Khmer còn nghèo, cần sự giúp đỡ về vật chất; thứ hai, nội dung giáo
lý và hình thức sinh hoạt của các tôn giáo mới đơn giảng, có nhiều sức hấp
dẫn, mang tính dân chủ; thứ ba, một số nơi chức sắc PGNTK là người đứng
đầu Giáo hội ở cơ sở thiếu sự quan tâm đến cuộc sống của đồng bào Phật tử,
không tổ chức các hoạt động từ thiện giúp đỡ đồng bào nghèo khi gặp khó
khăn, thiếu thốn hoặc khi bị thiên tai trong cuộc sống.
Đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội của nước ta nói chung và
vùng TNB nói riêng có sự chuyển đổi toàn diện và sâu sắc. Điều này kéo theo
sự tất yếu của việc phân tầng xã hội. Dù Đảng, Nhà nước có chính sách xóa
đói, giảm nghèo, đầu tư kinh tế cho vùng đặc biệt khó khăn nhưng phân cực
giàu nghèo là không thể tránh khỏi. Nền kinh tế thị trường ở nước ta dù là
theo định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn phải chịu những quy luật và sự tác
động khác nghiệt của nền kinh tế thế giới. Nếu như đất nước càng hội nhập
sâu với quốc tế tạo nên nhiều cơ hội để phát triển thì càng đặt ra nhiều thách
thức mới trên tất cả các bình diện từ kinh tế, chính trị cho đến văn hóa, tôn
giáo… Đặc biệt, trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo đã có những biến động.
Một trong những vấn đề nổi cộm nhất trong sự biến động tôn giáo đối
với cộng đồng người Khmer ở TNB hiện nay đó là sự biến động không gian
tôn giáo với sự xâm nhập của đạo Tin lành và một vài tôn giáo khác, làm cho
tình hình tôn giáo ở đây trở nên đa phức, đa chiều. Các hệ phái Tin lành du
nhập đến TNB trong thời gian gần đây. Là tôn giáo đến sau, nên các hệ phái
Tin lành tìm cách xâm nhập, phát triển tín đồ. Đặc biệt, là họ chú trọng vào
thu hút các tín đồ mới là người nghèo, người dân tộc thiểu số, người ở vùng
123
sâu. Không chỉ thu hút tín đồ của các tôn giáo du nhập từ lâu đời, có số lượng
tín đồ ổn định như PGNTK của người Khmer, giữa các hệ phái Tin lành này
cũng cạnh tranh thu hút tín đồ của nhau, tạo nên những biến động trong đời
sống tôn giáo của người Khmer. Nhiều khu vực của người Khmer là không
gian chủ yếu của PGNTK, nay bị phân tách, chia ra. Cụ thể là vấn đề đạo
Công giáo và đạo Tin lành phát triển trong tộc người Khmer, vốn được xem là
một cộng đồng gắn chặt với PGNT. Do hầu hết đồng bào Khmer mới gia nhập
đạo Tin lành thời gian chưa được bao lâu, sự thông hiểu giáo lý, giáo luật, đặc
biệt chưa quen với nếp sống đạo của tôn giáo mới nên niềm tin tôn giáo chưa
thật sự vững, hay dao động.
Do đó, với đặc điểm và tính biệt truyền của hệ phái Nam tông Khmer
nên chăng có tổ chức đặc trách theo dõi PGNTK trực thuộc Giáo hội Phật
giáo Việt Nam, từ cấp Trung ương, đến cấp cơ sở để tạo điều kiện thuận lợi
cho việc sinh hoạt và hoạt động của tu sĩ PGNTK. Tuy nhiên, đối với tôn giáo
nói chung, PGNTK nói riêng là một trong những vấn đề rất nhạy cảm trong
tình hình đất nước ta hiện nay. Nhiều thế lực xấu trong và ngoài nước luôn
tìm cách lợi dụng tôn giáo, thông qua tôn giáo để dụ dỗ người Khmer chống
phá chính quyền Việt Nam. Vì vậy phải hết sức cảnh giác với vấn đề này, vì
hậu quả của chúng gây ra vô cùng nghiêm trọng và không dễ dàng khắc phục
được nhanh chóng.
Năm là, rời bỏ phum sóc di dân tự do để lao động;
Phật giáo Nam tông Khmer là hệ phái được nhiều quốc gia, dân tộc tin
theo như: Thái Lan, Srilanka, Mianma, trong đó có Campuchia, việc xuất
cảnh để thăm thân, quan hệ cùng hệ phái cũng như việc tham gia các khóa
đào tạo, sinh hoạt tôn giáo còn diễn ra phức tạp, nhiều vị không thực hiện
đúng quy định về xuất cảnh. Vì nhiều vị tu sĩ thiếu nhận thức về quốc gia, dân
tộc, vẫn còn quan niệm xem Campuchia là tổ quốc thiêng liêng của mình, qua
124
lại biên giới Việt Nam - Campuchia xem như việc tự nhiên, không liên quan
đến pháp luật, thậm chí có những vị vượt biên giới sang Campuchia tham gia
các tổ chức phản động của nhóm người Khmer gốc Việt lưu vong, nhằm vận
động, tuyên truyền, kích động quần chúng nhân dân là người Khmer trong
nước chống phá Đảng, Nhà nước.
Ngoài ra, tâm lý thanh niên Khmer hiện nay muốn được tham gia rộng
hơn vào thành quả do tiến bộ xã hội đem lại. Họ muốn được ra ngoài phum
sóc học tập, tiếp cận khoa học kỹ thuật, nếp sống hiện đại. Mặt khác, cùng
sống chung với thanh niên Việt, Hoa, nên thanh niên Khmer không muốn vì
việc tu mà chịu chậm cơ hội tiến bộ, học hành… Vì vậy, với lớp trẻ Khmer,
một số vì giữ gìn tập tục truyền thống nên đã vào chùa tu một thời gian ngắn,
ít người ở chùa hơn một năm. Một số thanh niên Khmer lại không vào chùa tu
mà tìm kiếm cơ hội để thoát ly khỏi phum sóc, tiếp cận với cuộc sống bên
ngoài. Nhiều gia đình Khmer ở TNB đã rời bỏ phum sóc để đi nơi khác sinh
sống hoặc định cư ở nước ngoài. Điều này thể hiện rõ điều kiện kinh tế nơi họ
sinh sống không đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt, nên họ quyết định rời bỏ cái
nôi mình sinh ra, rời bỏ văn hóa bản sắc lâu đời để mưu sinh với cuộc sống.
Sáu là, mai một các loại hình văn hóa nghệ thuật Khmer.
Đồng bào Khmer ở Nam Bộ có nền văn hóa nghệ thuật rất độc đáo.
Đặc biệt đây là một tộc người rất ưa thích múa hát, những ngôi chùa thường
có đội trống, kèn, đàn, có đội ghe ngo… Chùa Khmer là tụ điểm sinh hoạt tôn
giáo, văn hóa, xã hội của đồng bào.
Người Khmer có nền văn hóa phong phú, đặc biệt là các thể loại âm
nhạc và sân khấu dân gian vô cùng tinh túy, đặc sắc, là nguồn tài nguyên nhân
văn quý, cần được trân trọng bảo tồn và phát huy giá trị. Trong Nghị quyết số
23-NQ/TW ngày 16/6/2008 của Bộ chính trị về tiếp tục xây dựng và phát
triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới đề ra mục tiêu: “Cần xây dựng đề
125
án và cơ chế bảo tồn, truyền bá các loại hình văn học, nghệ thuật cổ truyền; có
chính sách đặc biệt hỗ trợ sự phát triển của ngôn ngữ, chữ viết và văn học,
nghệ thuật các dân tộc thiểu số”.
Tuy nhiên, đời sống văn hóa, tinh thần của đồng bào Khmer hiện nay
vẫn còn nhiều khó khăn. Hằng ngày có rất nhiều luồng thông tin sai lệch,
xuyên tạc và các văn hóa phẩm độc hại tác động đến đồng bào. Trong đó, vốn
văn nghệ truyền thống đang có nguy cơ bị mai một. Một trong những nghệ
thuật văn hóa đặc sắc là nghệ thuật sân khấu Rô băm, nhưng đã nhiều năm
nay hoạt động biểu diễn này không cò tổ chức vào dịp lễ tết như trước nữa.
Lý do là lớp nghệ nhân già thưa thớt dần, còn lớp trẻ thì không được truyền
dạy và cũng không còn mặn mà với nghệ thuật Rô Băm.
Từ thập niên 80 của thế kỷ trước, loại Dù Kê phát triển khá mạnh ở Nam
Bộ, hầu như xã nào cũng có đội văn nghệ biểu diễn. Thế nhưng, những năm
gần đây, diễn Dù Kê ở các tỉnh Nam Bộ đã bị mai một dần. Ở các tỉnh Nam
Bộ vào những dịp lễ hội lớn luôn có đội Dù Kê biểu diễn phục vụ đồng bào,
nhưng sau này lớp diễn viên lớn tuổi không còn theo nghiệp được nữa. Trong
khi đó, lớp thanh thiếu niên trong xã hội không được kế thừa, thậm chí nói
tiếng dân tộc cũng không còn chuẩn như lớp người trước nên không thể hát
được Dù kê.
Các nghệ nhân người Khmer hiện nay cũng chưa được quan tâm hỗ trợ,
nên đời sống gặp nhiều khó khăn. Điển hình như nghệ nhân Danh Mỹ ở
phường An Hòa, thành phố Rạch Giá, là một trong số ít nghệ nhân Khmer ở
Kiên Giang biết làm nhạc cụ Khmer. Đây là nghề gia truyền từ 3 đời để lại và
anh có thể làm được 37 loại nhạc cụ khác nhau. Công việc đòi hỏi sự công
phu, nhưng cuộc sống của gia đình anh hết sức khó khăn, vì nhạc cụ làm ra
không có người mua. Niềm mong ước lớn nhất của anh là có một số vốn, mở
xưởng sản xuất nhạc cụ và làm công việc xúc tiền báng hàng để làm ra nhiều
126
nhạc cụ hơn nữa phục vụ nghệ thuật truyền thống của dân tộc mình và truyền
thứ nghề nhiều tâm huyết này cho 2 con trai.
Từ đó cho thấy việc bảo tồn các loại hình văn nghệ truyền thống của
đồng bào Khmer ở Nam Bộ đang gặp khó khăn. Vấn đề cần thiết hiện nay là
phải có biện pháp và chính sách hỗ trợ thích hợp để giữ gìn nét văn hóa đặc
sắc của đồng bào Khmer.
Tiểu kết chương 3
Ở vùng đất có nhiều tôn giáo và đa dân tộc, trong quá trình cộng cư,
người Khmer ở Nam Bộ đã hình thành cho mình một phong cách sống, một
nét văn hóa ứng xử rất độc đáo. Cách ứng xử này thể hiện tính hòa hợp dân
tộc và tinh thần tôn giáo. Điều này góp phần quan trọng tạo nên lối sống vì
đạo, vì đời trong bối cảnh hòa hợp dân tộc, hòa hợp tôn giáo từ xưa đến nay.
Tinh thần tôn giáo đến tinh thần thực hành tôn giáo là một hệ ý thức sống
quan trọng của người Khmer ở Nam bộ, cần được giữ gìn và phát huy trong
thời đại ngày nay, khi mà tôn giáo dần có khuynh hướng bị thế tục hóa, làm
mất đi những giá trị bản thể của tôn giáo và dân tộc.
Quan trọng hơn, quá trình thế tục hóa này làm phát sinh mâu thuẫn hệ ý
thức tôn giáo, mâu thuẫn dân tộc. Vì vậy, việc tạo ra môi trường, gìn giữ môi
trường tôn giáo, gìn giữ đặc trưng ứng xử của người Khmer ở Nam bộ là hết
sức quan trọng, ngăn chặn lại sự tan chảy của hệ ý thức thế tục hóa vào tôn
giáo, một trong những nguyên nhân dẫn đến mất đi bản thể giá trị của tôn
giáo và gây mất đoàn kết tôn giáo và đoàn kết dân tộc.
Đồng bào dân tộc Khmer ở TNB nói chung là một bộ phận không thể
tách rời trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Trong thời kỳ tiếp tục đổi
mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện
nay, các tộc người thiểu số nói chung, tộc người Khmer nói riêng đang đứng
trước cơ hội và thách thức mới trong phát triển đối với việc tiếp cận các
127
nguồn tài nguyên, tiếp thụ kiến thức khoa học để nâng cao trình độ chuyên
môn, trình độ kỹ thuật và trình độ tay nghề…
Với thuyết nhân duyên thì vai trò của tu sĩ PGNTK giúp cho mỗi phần
tử trong đoàn thể, quốc gia, xã hội nhận thấy rõ được địa vị quan trọng, cũng
như ảnh hưởng của mình đới với toàn thể, từ đó nhận thấy trách nhiệm của
mình trong bộ máy xã hội. PGNTK ở TNB với một thế hệ người sống đồng
cam cộng khổ với quần chúng, biết phụng sự lý tưởng xã hội vô ngã, biết
khinh thường địa vị và quyền lợi thì chắc sẽ gây được niềm tin và khơi dậy
nguồn cảm hứng cần thiết mang lại sự tồn tại của xã hội.
Mặt khác, người Khmer xem ngôi chùa làm trung tâm thì tu sĩ PGNTK
là hạt nhân bởi chính vai trò của tu sĩ là người có học, có đạo hạnh được xã
hội kính trọng và tôn vinh. Nhiều tu sĩ có ảnh hưởng rất lớn và chi phối đến
đời sống mọi mặt của người Khmer. Mọi tín đồ đều nghe theo lời nói từ
cửa miệng các vị tu sĩ như là lời đức Phật. Đây là ưu điểm và cũng chính là
nhược điểm của PGNT. Bởi lẽ, nếu các tu sĩ PGNTK đó là những nhà tu
hành chân chính thì đây là ưu điểm, có giá trị tích cực trong việc dạy dỗ
con em tín đồ tu tập, học đạo làm người, sống có ích cho cộng đồng phum,
sóc và đất nước.
Ngược lại, nếu đó là những kẻ đội lốt tôn giáo, “mượn đạo tạo đời”
được các thế lực thù địch cài vào để chống lại cách mạng, chống lại Đảng và
Nhà nước thì sẽ dẫn đến những hậu quả khó lường. Nhận thấy được điều này,
trong thời gian qua các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách để tiếp cận sâu
vào các ngôi chùa Khmer ở TNB, lợi dụng các tu sĩ PGNTK tuyên truyền
kích động tín đồ nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Bên cạnh đó, người tu sĩ PGNTK không có vai trò trong việc tạo ra của
cải vật chất, nhưng góp phần làm ổn định đạo đức xã hội trong khi thực thi
đạo pháp. Phật giáo là một tôn giáo bình đẳng, tự giác, tự do, không bắt buộc
128
và trong vấn đề kỳ vọng của xã hội xã hội chủ nghĩa cũng vậy, PGNTK phải
thực hiện đúng vai trò của mình, tu sĩ PGNTK thể hiển rõ quyền lợi và nghĩa
vụ của mình là công dân Việt Nam; nếu chỉ biết tu tập để được hạnh phúc
riêng mình, đó không đúng với tinh thần lời Đức Phật dạy, phải có trách
nhiệm với những khổ đau của tha nhân, đem đạo vào đời, góp phần làm cho
xã hội ngày một tốt đẹp hơn. Điều đáng mừng là nhìn lại đời sống thường
ngày của cộng đồng người Khmer ở Nam Bộ nói chung, ở TNB nói riêng hiện
nay đã thực hiện cơ bản tinh thần ấy.
129
Chương 4
GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA TU SĨ
PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG NGƯỜI KHMER
TÂY NAM BỘ TRONG THỜI GIAN TỚI
4.1. MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Do đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số vùng
TNB nói chung, tu sĩ PGNTK nói riêng còn gặp nhiều khó khăn, thiếu điều
kiện để vươn lên, do đó việc Nhà nước điều tiết đầu tư, hỗ trợ tạo điều kiện
để đồng bào DTTS vươn lên trong cuộc sống là việc làm tất yếu và hết sức
cần thiết.
Các chính sách, chương trình, dự án đã và đang triển khai thực hiện
trong vùng DTTS nói chung là việc làm cụ thể trong chính sách dân tộc mang
tính ưu việt của Đảng và Nhà nước; tạo điều kiện, khuyến khích tinh thần cầu
tiến, tránh được tính ỷ lại trong đồng bào dân tộc thiểu số nói chung, dân tộc
Khmer nói riêng.
Tuy nhiên, trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, vùng dân tộc thiểu số nói
chung, vùng đồng bào dân tộc Khmer nói riêng vẫn còn đối mặt với những
khó khăn thách thức. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có nơi còn yếu kém, có
mặt chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Sản xuất hàng hóa nhỏ lẻ, sức cạnh
tranh thấp. Đời sống của một bộ nhân dân còn gặp khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo
trong đồng bào Khmer còn cao. Mặt bằng dân trí còn thấp so với các vùng
miền trong cả nước. Chất lượng nguồn nhân lực có mặt chưa đáp ứng được
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nguyên nhân chủ yếu là xuất phát
điểm của vùng TNB còn thấp. Mức đầu tư kinh phí cho từng chính sách,
chương trình, dự án còn thấp, trong khi yêu cầu đầu tư, hỗ trợ để phát triển thì
lớn. Một số chính sách còn chồng chéo, đầu tư dàn trải, thiếu đồng bộ, thiếu
tập trung, thiếu đột phá.
130
Mặc khác, những tác dụng xã hội tích cực của PGNT đối với cộng đồng
người Khmer đã được thực tế chứng minh nhưng thực chất ảnh hưởng giữa
Phật giáo và xã hội là một quá trình tác động qua lại. Ảnh hưởng của Phật
giáo đối với xã hội cũng luôn có hai mặt; mặt tích cực là góp phần làm ổn
định xã hội, nhưng mặt tiêu cực cũng dễ dàng bắt nguồn từ mặt tích cực.
Vì vậy, việc thực hiện chính sách tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc
Khmer cần có sự liên kết với việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước. Đồng thời, chú trọng việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng
nhân tài cho người Khmer, từng bước xóa đói giảm nghèo để cuộc sống của
đồng bào được cải thiện. Có như vậy, văn hóa truyền thống và PGNT mới có thể
phát triển một cách bền vững và lâu dài trong cộng đồng người Khmer ở Nam
bộ. Tác giả đưa ra các nhóm giải pháp cụ thể như sau:
4.1.1. Nhóm giải pháp về nhận thức
Cần nhận thức chung văn hóa dân tộc Khmer là tài sản quý giá góp
phần làm nên sự phong phú, đa dạng mà thống nhất của văn hóa Việt Nam.
Giữ gìn bản sắc và sự đa dạng của văn hóa dân tộc Khmer là vấn đề có ý
nghĩa chính trị - xã hội to lớn trong tình hình hiện nay. Có thể nói, thực chất
của vấn đề dân tộc là vấn đề văn hóa. Khi nhận thức đúng sẽ giúp các ngành,
các cấp xác định được nhiệm vụ của mình từng cấp, từng ngành trong sự
nghiệp bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Khmer trong cộng đồng
dân tộc Việt Nam. Tránh tình trạng buông lỏng quản lý, chỉ đạo thực hiện các
chủ trương, chính sách về dân tộc, tôn giáo trên địa bàn phụ trách, thúc đẩy sự
nghiệp phát triển văn hóa nói chung và văn hóa Khmer phát triển tốt hơn.
Các ngành, các cấp cần nhận thức đầy đủ hơn nữa về vị trí, vai trò, tầm
quan trọng và sự đóng góp thiết thực, quý báu của các vị cao tăng, chức sắc
tôn giáo và tu sĩ PGNTK vào sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đây là những
người có khả năng chi phối hầu hết tu sĩ trẻ, đồng bào Phật tử Khmer. Hơn
131
nữa, đồng bào Khmer từ bao đời nay vốn gắn bó, đóng góp công sức và trí
tuệ đối với sự phát triển của vùng đất Nam Bộ giàu tiềm năng, nhiều lợi
thế. Từ đó hướng nội dung hoạt động của các vị chức sắc, tu sĩ PGNTK
ngày càng thiết thực và đi vào trọng tâm; đồng thời, tăng cường hơn nữa sự
lãnh đạo của cấp ủy đối với nội dung hoạt động của các vị chức sắc, nhà tu
hành và Ban Quản trị chùa, nội dung cần bám sát nhiệm vụ chính trị của
từng địa phương.
Để hướng dẫn, giúp đỡ hoạt động của các vị tu sĩ PGNTK mang tính
thống nhất ở từng chùa, từng địa phương cần cần chú ý cơ cấu hợp lý các
vị giáo phẩm, cao tăng, chức sắc PGNTK trong các tổ chức, tránh cơ cấu
các vị cùng lúc đảm nhiệm nhiều việc trong nhiều tổ chức khác nhau như
trước đây cũng như hiện nay nhằm giúp các vị có đủ thời gian thực hiện
hoàn thành nhiệm vụ, toàn tâm, toàn ý với công việc, với cương vị mà các
vị đảm nhận.
4.1.2. Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách
Phật giáo nói chung là tôn giáo có số lượng tín đồ lớn, có ảnh hưởng
trong đời sống tinh thần của một bộ phận không nhỏ người dân Việt Nam. Vì
vậy, vấn đề bảo tồn và phát huy các di sản Phật giáo cần được nghiên cứu
sâu và ứng dụng để góp phần giữ gìn bản sắc, truyền thống, giá trị lịch sử,
văn hóa. Những hoạt động văn hóa xã hội của Phật giáo cần được
GHPGVN quan tâm sâu sát hơn để có những định hướng và triển khai đúng
trong phát triển văn hóa tâm linh, tổ chức các sự kiện mang tầm cỡ quốc tế.
Việc làm dịch vụ tôn giáo tại các di tích Phật giáo vẫn còn tồn tại dưới
nhiều hình thức, các cơ quan quản lý vẫn chưa tìm ra được những biện
pháp khả thi để ngăn chặn và giảm thiểu. Nạn cò mồi, bắt chẹt khách, dịch
vụ mê tín... tại các lễ hội Phật giáo vẫn tái diễn khiến cho các lễ hội Phật
giáo thiếu đi sự linh thiêng vốn có.
132
Tình trạng xây dựng sửa chữa sai quy hoạch và làm giảm giá trị di tích
do không được đầu tư đúng đắn vẫn tồn tại, tuy đã giảm hơn thời gian trước
đây. Nạn xâm lấn các di tích Phật giáo vẫn chưa giải quyết được, thậm chí ở
nhiều nơi còn tiếp tục diễn ra công nhiên vì nhiều lý do. Tình trạng khiếu kiện
tại một số cơ sở thờ tự vẫn xảy ra, chưa giải quyết dứt điểm.
Riêng đối với PGNTK là hệ phái đang chiếm đa số trong hệ phái Nam
tông nói chung, vì vậy cần quan tâm đến những vấn đề dưới đây để có hướng
xây dựng chính sách hợp lý cho PGNTK nói chung, tu sĩ PGNTK nói riêng.
Thứ nhất, xác định cơ cấu tổ chức trong ngôi nhà chung Giáo hội Phật
giáo Việt Nam của hệ phái PGNTK một cách rõ ràng.
Thứ hai, xác định vị trí, vai trò, nội dung, phương thức hoạt động của
HĐKSSYN, Ban Quản trị chùa trong tình hình mới.
Thứ ba, nhận diện mối quan hệ giữa PGNTK với PGNT các nước Đông
Nam Á và một số quốc gia khác có cùng hệ phái Nam tông (Theravada).
Thứ tư, xác định cơ chế hỗ trợ cụ thể, rõ ràng từ phía nhà nước đối với
Học viện PGNTK tại thành phố Cần Thơ.
Đây là những điều kiện để tu sĩ PGNTK và đồng bào Khmer có dịp
quảng bá hình ảnh đất nước Việt Nam nói chung, hình ảnh Giáo hội Phật giáo
Việt Nam nói riêng ra nước ngoài. Do đó, các Bộ, ngành và địa phương cần
nâng cao trách nhiệm được giao đối với việc hỗ trợ Học viện PGNTK bao
gồm: xây dựng cơ sở vật chất, hỗ trợ nâng cao năng lực điều hành của Hội
đồng điều hành Học viện, đào tạo nguồn nhân lực cho Học viện đáp ứng việc
giảng dạy trình độ cử nhân Phật học và phối hợp một số ngành, nghề nào đó
để có văn bằng, chứng chỉ đáp ứng giải quyết công ăn việc làm khi các vị tu sĩ
PGNTK hoàn tục hòa nhập vào cuộc sống xã hội góp phần xóa đói giảm
nghèo cho gia đình.
Tiếp tục, đánh giá thực trạng và đề xuất chính sách hỗ trợ việc nâng
cao công tác giáo dục, đào tạo trong đồng bào Khmer và PGNTK đáp ứng
133
yêu cầu thực tiễn đã và đang đặt ra; tiếp tục hỗ trợ, tạo điều kiện in ấn và
tái bản kinh sách phục vụ việc tu học của tu sĩ PGNTK; tiếp tục nghiên cứu
chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện để giới tu sĩ PGNTK, nhất là tu sĩ trẻ tuổi
có cơ hội và điều kiện hòa nhập, tiến thân trong xu thế phát triển chung của
đất nước.
Cần có kế hoạch, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chức sắc, tu
sĩ PGNTK trẻ tạo đội ngũ kế thừa nhằm đáp ứng nhu cầu về lâu dài trong
hoạt động Phật sự đối với đồng bào Khmer hiện nay và kể cả trong
GHPGVN trong tương lai. Riêng đối với các vị chức sắc hàng giáo phẩm
từ Thượng tọa trở lên hoặc các vị trụ trì có ảnh hưởng lớn trong tín đồ, Nhà
nước cần có chính sách hỗ trợ kinh phí để mua bảo hiểm y tế nhằm kịp thời
động viên sự đóng góp của các vị chức sắc này trong sự nghiệp Đạo pháp
và Dân tộc.
Bên cạnh đó phát huy văn hóa truyền thống, xây dựng, nâng cấp cải
tạo các thiết chế văn hóa, công trình kiến trúc văn hoá nghệ thuật, triển
khai tích cực cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa,
làm sao cho văn hóa thực sự giữ vai trò nền tảng, là động lực thúc đẩy kinh
tế xã hội phát triển.
Vai trò về công tác tuyên truyền vận động đồng bào Khmer hưởng ứng
cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa phải được xem là nhiệm vụ cơ bản
trong giai đoạn hiện nay. Phải xem đây là nhiệm vụ chung của các cấp, các
ngành trong toàn hệ thống chính trị, trong đó có Sở văn hóa thể thao và du
lịch và các Trung tâm văn hoá ở các quận, huyện giữ vai trò nồng cốt, có kế
hoạch cụ thể từ đầu năm, phối hợp với HĐKSSYN các tỉnh thành trong việc
vận động đồng bào Khmer. Tuy nhiên, để công tác tuyên tuyên truyền đạt
hiệu quả cao nhất định không thể thiếu vai trò của tu sĩ và nhà chùa. Đây là
những lực lượng có vai trò nòng cốt rất quan trọng trong công tác vận động
134
đồng bào tín đồ phật tử của mình. Do vậy, ngoài những nổ lực của các cấp
chính quyền, ban, ngành, đoàn thể phải tranh thủ vận động giới tu học trong
nhà chùa tích cực tham gia vào phong trào này.
Có kế hoạch bảo tồn các giá trị di sản văn hoá của dân tộc Khmer, vì
hiện nay tình trạng các giá trị di sản quý đang ngày càng giảm dần, việc xây
dựng sửa chữa các chùa phổ biến vô tình hoặc cố ý làm mất đi những nét đẹp
kiến trúc vốn có của đồng bào Khmer. Tuy nhiên, việc bảo tồn di sản văn hoá
phải được nhìn nhận theo quan điểm phát triển, bảo tồn không có nghĩa là cố
níu kéo lại tất cả những gì có trong quá khứ mà phải có sự chọn lọc những giá
trị phù hợp với xu hướng phát triển của dân tộc và thời đại. Bản chất của văn
hoá là sự sáng tạo, thiếu tính sáng tạo có nghĩa là tự đẩy lùi nền văn hoá của
dân tộc lại phía sau. Cho nên, nếu chỉ dừng lại ở việc giữ gìn và phát huy
những gì đã có thì nền văn hoá đó không thể phát triển. Các giá trị truyền
thống phải được nghiên cứu, sắp xếp, chọn lọc lại những yếu tố nào còn phù
hợp, mang tính nhân văn thì khuyến khích kế thừa, tạo điều kiện để bảo tồn
và phát triển, những yếu tố nào mang tính bảo thủ, không còn phù hợp với
những giá trị chuẩn mực đạo đức của dân tộc thì tìm cách thay thế hoặc loại
bỏ hẳn khỏi đời sống tinh thần của đồng bào.
Việc giữ gìn, phát huy và phát triển văn hoá muốn thực hiện được nhất
định phải có sự tham gia của nhân tố con người, không có con người làm văn
hoá thì không thể nói đến việc giữ gìn và phát huy nền văn hoá. Bởi lẽ, muốn
giữ gìn và phát huy nó nhất định phải có những con người có một kiến thức
và trình độ thưởng thức văn hoá nhất định mới có thể biết được đâu là giá trị,
đâu là những yếu tố bảo thủ, lạc hậu cần phải loại bỏ. Do vây, phải tăng
cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cho tu sĩ PGNT trong chùa nhằm đáp ứng
các yêu cầu trên. Đào tạo được đội ngũ này thì việc bảo tồn và phát triển văn
hoá trong cộng đồng người Khmer mới đạt hiệu quả cao. Thực thế không có
135
ai có thể làm tốt công tác văn hoá và vận động quần chúng người dân tộc
Khmer tham gia vào các hoạt động văn hoá tốt như chính người Khmer.
Song song đó, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa ảnh hưởng từ
PGNT, những phong tục phù hợp đồng thời từng bước giảm dần đến xóa bỏ
hủ tục lạc hậu và những lễ hội kéo dài gây tốn kém cho đồng bào.
Khi nghiên cứu về đời sống tinh thần, nhiều nơi trên thế giới đã đặt văn
hoá tôn giáo vào vị trí hàng đầu. Bởi lẽ, bản chất của văn hoá là mang tính
nhân văn và tính sáng tạo, tất cả những giá trị văn hoá suy cho cùng đều
hướng về cái chân, thiện, mỹ. Không có nền văn hóa chân chính nào lại
không đề cao cái thiện, phê bình cái ác, cái xấu xa. PGNTK cũng không nằm
ngoài những tiêu chí trên. Văn hoá của dân tộc này từ lâu đã trở thành một bộ
phận có mối quan hệ khăng khít với tôn giáo, hay nói cách khác nền văn hoá
Khmer là nền “văn hoá tôn giáo”.
Vì những giá trị đó, nên trong thời gian tới, TNB cần phải tiếp tục nâng
cao và phát huy hơn nữa vai trò trung tâm văn hoá xã hội truyền thống của
các ngôi chùa, và vai trò của các tu sĩ PGNT. Vì ngôi chùa không chỉ là nơi
để chuyển tải nội dung văn hoá tôn giáo của PGNT mà còn là nơi lưu giữ, bảo
tồn nhiều di sản văn hoá đặc của cộng đồng dân tộc Khmer. Đồng thời, trong
những hoạt động đời thường, ngày nay chùa Khmer, đặc biệt và vai trò của
các tu sĩ PGNT và các vị chức sắc có sức ảnh hưởng lớn đến đời sống và hoạt
động của cộng đồng dân cư trong phạm vi khu vực quản lý của mình.
Hiện nay, các chùa PGNTK trên địa bàn tỉnh đã được trùng tu, sửa
chữa khá khang trang, khuôn viên thoáng mát và đẹp đẽ, rất thuận lợi cho việc
tổ chức lễ hội, vui chơi giải trí cho bà con và khách đến viếng chùa. Thế
nhưng, do phải đảm nhiệm chiều chức năng trong khuôn khổ của một ngôi
chùa thì nhất định là không thể cùng lúc đáp ứng đầy đủ các nhu cầu hưởng
thụ những giá trị văn hoá của đồng bào, nên cũng cần phải quan tâm đến các
136
hoạt động văn hoá khác ngoài ngôi chùa. Mặc khác, các lễ nghi đã tồn tại từ
lâu đời trong đời sống của người Khmer lại gắn chặt với chư tăng và nhà
chùa. Tuy nhiên, đây là những yếu tố tinh thần đã ăn sâu vào trong đời sống
tinh thần của người dân Khmer nên không thể một sớm một chiều có thể thay
đổi được mà đòi hỏi phải có sự kiên trì lâu dài mới có thể thay đổi được.
Bên cạnh đó, các phương tiện thông tin đại chúng phải thường xuyên
tuyên truyền để chính bản thân người dân nhận thấy được những hủ tục lạc
hậu để tự họ nhận thức được mà loại bỏ những tập tục lạc hậu ấy.
Cần xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý văn hóa, nghệ thuật
Khmer là người Khmer các cấp. Muốn có phong trào văn hóa, nghệ thuật
Khmer phát triển thì phải có đội ngũ cán bộ Khmer chuyên trách. Nhà nước
cần quy hoạch, đào tạo và bổ nhiệm cán bộ quản lý, nghiệp vụ văn hóa, nghệ
thuật Khmer là dân tộc Khmer từ trung ương đến cơ sở để chăm lo cho sự
nghiệp phát triển văn hóa Khmer. Trong điều kiện khó khăn như hiện nay, các
địa phương cần quan tâm đầu tư cho các Đoàn nghệ thuật Khmer hiện có để
nâng cao chất lượng hoạt động nghệ thuật sáng tác, biểu diễn, phục vụ cho
nhu cầu hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật cho đồng bào Khmer, ở những nơi có
điều kiện (như Trà Vinh) đề xuất nâng lên thành lập Nhà hát ca, múa, nhạc để
nâng tầm hoạt động sáng tác, biểu diễn và đào tạo lớp văn nghệ sĩ kế cận.
4.1.3. Nhóm giải pháp về nâng cao vai trò của tu sĩ trong hoạt động
tôn giáo vận, xã hội vận
Để tạo điều kiện cho đội ngũ tu sĩ PGNTK phát huy hơn nữa vai trò của
mình thì cần đẩy mạnh và thực hiện các giải pháp sau:
Trước hết cần đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường lớp trong chùa,
nâng cao chất lượng giáo dục phật học gắn với thế học như: sơ cấp Pali giáo
lý, dhammaviniya (kinh luận giới), dạy chữ Khmer… đi đôi với tích cực vận
động và tạo điều kiện cho tu sĩ đến trường, thực hiện dạy chữ Khmer ngữ, phổ
137
cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở. Xây dựng các trường phổ thông dân
tộc nội trú trong nhà trường và nhà chùa làm cơ sở tạo nguồn nhân lực nói
chung và cán bộ kế thừa nói riêng; làm tốt quy chế tuyển sinh, chính sách cử
tuyển học sinh, sinh viên; thực hiên dầy đủ các quy định của chính phủ về học
bổng, học phí của tu sĩ.
Phải có trường lớp bổ túc văn hóa dành riêng (trong chùa) cho tu sĩ
Nam tông Khmer, nhất là con em của đồng bào Khmer nghèo. Làm tốt công
tác này sẽ nâng cao được trình độ dân trí tu sĩ PGNTK rất nhiều. Đồng thời thu
hút được nhiều thanh thiếu niên Khmer muốn xuất gia được vào chùa để được
học. Nếu không sẽ tạo gánh nặng cho nhà chùa và xã hội trong việc giải quyết
những trường hợp này.
Cần có sự quan tâm đến công việc dạy học trong các chùa, những thanh
thiếu niên xuất gia tu học trước đây và hiện nay các tu sĩ làm nhiệm vụ dạy
học chữ Khmer và Pali giáo lý. Hiện nay, trường chùa của người Khmer đang
góp phần quan trọng cùng với ngành giáo dục nâng cao dân trí, tạo nguồn
nhân lực. Có thể tận dụng những điều kiện này để làm công tác phổ cập, xóa
mù chữ cho con em người dân tộc. Tuy nhiên, việc dạy và học trong các
trường chùa hiện nay cũng khá đơn điệu, chưa thống nhất về chương trình
học, chương trình giảng dạy, nội dung giảng dạy cho đến cấp bằng và chứng
nhận cũng chưa thống nhất; thiếu về sách giáo khoa và các tài liệu học tập
khác; thiếu sự quan tâm của ngành giáo dục, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm
cho những giáo viên tình nguyện. Vì vậy, cần có những quan tâm đầu tư cho
việc dạy và học tại các chùa của tu sĩ cũng như người học về sách giáo khoa,
chương trình dạy học, bồi dưỡng cho giáo viên… làm sao chất lượng ngày
càng được nâng lên.
Việc đào tạo tu sĩ PGNTK cần được các cấp, các ngành quan tâm và
tạo điều kiện, hàng năm cho phép HĐKSSYN tổ chức các lớp thi Pali-kinh
138
luận giới cho tăng sinh các chùa, cử tăng sinh đi học các lớp bổ túc văn hoá -
Trung cấp Pali, học ở Học viện PGNTK và Giáo hội Phật giáo Việt Nam giới
thiệu tăng sinh trẻ du học ở nước ngoài. Do đó, đề nghị cần có việc nghiên
cứu, đánh giá đi đến thống nhất quan điểm, giải pháp đối với PGNTK. Trong
đó tập trung các vấn đề sau đây:
Thứ nhất, Hội đồng Trị sự Giáo Hội Phật giáo Việt Nam và Ban Giáo
dục Tăng, Ni Trung ương cần có cơ chế xây dựng, biên soạn chương trình
giảng dạy và chương trình đào tạo giáo viên dạy Pàli - Khmer và Phật học các
cấp, kèm theo đó là quy chế giảng dạy, học tập, thi cử, cấp giấy chứng nhận,
văn bằng tốt nghiệp, áp dụng thống nhất trong hệ thống giáo dục của thuộc
Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Thứ hai, Ban Giáo dục Tăng, Ni Trung ương, các Viện, Trường thuộc
Giáo hội Phật giáo Việt Nam liên kết với các Viện, Trường Phật giáo Nam
tông thuộc các nước: Campuchia, Thái Lan, Myanma, Sri Lănka để có
chương trình hợp tác đào tạo. Qua đó, hàng năm có kế hoạch đào tạo tăng
sinh PGNT tại một số nước nêu trên theo nhu cầu thực tiễn mà trong nước
chưa có hoặc không có điều kiện đào tạo, kèm theo cơ chế chính sách hỗ trợ
đặc thù trong thời gian tăng sinh du học.
Thứ ba, Giáo hội Phật giáo Việt Nam giúp Học viện Phật giáo Nam tông
Khmer sớm đi vào hoạt động; đồng thời, tiếp tục làm cầu nối vận động xã hội
hỗ trợ cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu học tập của tăng sinh.
Thứ tư, nghiên cứu hình thành đơn vị có tư cách pháp nhân (giao đơn vị
sự nghiệp Nhà nước hoặc tạo điều kiện pháp lý cho các đơn vị tư nhân) để
nhập kinh sách Phật giáo từ Campuchia dưới dạng kinh doanh, nhưng được
hưởng các chính sách ưu đãi theo quy định hiện hành.
Theo chúng tôi, đối với giáo dục PGNT hiện nay thì cần lựa chọn 02
mô hình giáo dục Phật giáo như sau: (1) Đào tạo theo mô hình truyền thống
139
khép kín mang tính chuyên môn PGNTK nhưng phải theo hệ thống giáo dục
của Giáo hội Phật giáo Việt Nam; (2) Đào tạo theo mô hình truyền thống
ghép với hệ đào tạo thuộc hệ thống quốc dân tại các cấp học dành cho những
ai thích nghiên cứu kinh điển Phật giáo (hiện nay Học viện Phật giáo Nam
tông Khmer đã phối hợp với Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn
Hà Nội đào tạo chuyên ngành Tôn giáo học), với mô hình đài tạo này, những
ai đáp ứng đủ những điều kiện về tuyển sinh thì đều được tham gia thi tuyển,
thời gian đào tạo có thể dài hơn tùy theo cấp học nhưng khi tốt nghiệp, tăng
sinh, học viên sẽ có được 02 bằng cấp Phật học và Thế học (Phật học và Tôn
giáo học).
Do vậy, Ban Giáo dục Tăng, Ni Trung ương cần đổi mới và củng cố hệ
thống giáo dục Phật giáo thật mạnh trước hết là hệ thống trường lớp phải
đồng bộ và thống nhất từ trên xuống dưới trong cả nước. Khi đã phân chia rõ
ràng từng cấp bậc cụ thể thì sẽ dễ dàng định hướng nội dung chương trình cho
từng cấp. Trong khi định hướng nội dung đào tạo, các nhà soạn thảo sẽ đưa ra
mô hình đào tạo sao cho thích hợp theo nhu cầu của Phật giáo và xã hội.
Xây dựng kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực để mở rộng Khoa Pali
trong giáo dục Phật giáo nghĩa là trong Khoa Pali phải có bộ môn Pàli -
Khmer hoặc các bộ môn theo ngôn ngữ của các nước có Phật giáo như: Pali
- Anh, Pali - Thái Lan, Pali - Lào…để tạo hướng cho các Tăng, Ni sinh đi
nghiên cứu bậc học cao hơn tại các quốc gia mà Tăng, Ni đó đã chọn bộ
môn học tương ứng; đồng thời chuẩn hóa các điểm chùa giảng dạy chữ
Khmer trong dịp hè thành cơ sở giảng dạy có tư cách pháp nhân để cấp
chứng chỉ sau khi kết thúc khóa học (vấn đề này có thể liên kết với Trung
tâm ngoại ngữ - Tin học Victory thuộc trường Đại học Trà Vinh để phối
hợp đào tạo, học viên sau khi tốt nghiệp sẽ có chứng nhận của Bộ Giáo dục
& Đào Tạo).
140
Tiếp tục thực hiện Chỉ thị 06/2008/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ
về phát huy vai trò của người có uy tín trong đồng bào DTTS trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quan tâm xây dựng lực lượng nòng cốt là người dân tộc, các vị tu sĩ,
Àchar, Ban Quản trị chùa để làm tốt công tác giáo dục đối với con em đồng
bào Khmer, đây là nội dung hết sức quan trọng, có tác dụng thiết thực đến
việc nâng cao dân trí, nhận thức và ý thức dân tộc, ý thức quốc gia, dân tộc.
4.2. KIẾN NGHỊ
Đối với Trung ương: Tiếp tục duy trì và phát huy các chính sách hiện
hành với vùng dân tộc thiểu số; tăng mức đầu tư cho từng chính sách, chương
trình, dự án từ ngân sách Nhà nước; đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo,
đào tạo nghề, giải quyết việc làm nhằm nâng cao đời sống cho đồng bào; nâng
cao ý thức dân tộc, tự hào dân tộc trong đồng bào, nhất là giới trẻ, trí thức trẻ,
cán bộ trẻ; tăng cường đào tạo nguồn nhân lực trong đồng bào Khmer, tiến tới
sử dụng nguồn nhân lực là người dân tộc Khmer tương ứng với tỷ lệ dân số ở
địa phương.
Riêng đối với hình thái đặc thù của PGNTK thì cần xác định cơ cấu tổ
chức của hệ phái Nam tông Khmer trong hệ thống GHPGVN; xác định vị trí,
vai trò, nội dung, phương thức hoạt động của HĐKSSYN, Ban Quản trị chùa
trong tình hình mới. Hỗ trợ về cở sở vật chất, kinh phí, phương tiện, trang
thiết bị đáp ứng yêu cầu công tác của Hội và quan tâm thực hiện chế độ chính
sách đối với các thành viên Ban Chấp Hội và Ban Quản trị chùa; đồng thời,
xác định cơ chế hỗ trợ cụ thể, rõ ràng từ phía nhà nước đối với Học viện
PGNTK, nâng cao trách nhiệm của Bộ, ngành và địa phương được giao nhiệm
vụ hỗ trợ Học viện; tạo điều kiện để giới sư sãi trong PGNTK, nhất là tu sĩ trẻ
tuổi có cơ hội, có điều kiện hòa nhập, tiến thân trong xu thế phát triển chung
của đất nước.
141
Đối với Ban Tôn giáo Chính phủ: Tác động với Giáo hội Phật giáo Việt
Nam có cơ chế xây dựng, biên soạn chương trình giảng dạy và đào tạo Pali và
Viniya các cấp và Khmer ngữ, kèm theo đó là Quy chế giảng dạy, học tập, thi
cử, cấp giấy chứng nhận, văn bằng tốt nghiệp, áp dụng thống nhất trong khu
vực Nam Bộ và có giá trị rộng hơn nếu phối hợp được với các cơ sở đào tạo ở
nước ngoài về chương trình Phật học; đồng thời, hỗ trợ một phần kinh phí cho
các vị tu sĩ, tăng sinh PGNTK đi tu học và tạo điều kiện thuận lợi cho các vị
tăng sinh khi có nhu cầu du học nước ngoài và cần có cách nhìn thiện cảm đối
với các vị tăng sinh đi du học trở về nước.
Đối với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Chủ trì, phối
hợp nghiên cứu, đề xuất chính sách đối với HĐKSSYN; trước mắt, cần có
chính sách hỗ trợ kinh phí hoạt động hàng năm đảm bảo hoạt động của
HĐKSSYN; về lâu dài, cần nghiên cứu đề xuất cơ chế chính sách mang tính
toàn diện, thống nhất và bền vững.
Đối với Bộ Ngoại giao: Tiếp tục xây dựng tốt mối quan hệ đoàn kết
hữu nghị Việt Nam - Campuchia và nâng lên tầm cao mới theo phương
châm“láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững
lâu dài”. Đồng thời các tổ chức hữu nghị, các đoàn thể Trung ương và các
tỉnh/thành phố có đông đồng bào Khmer, nhất là các tỉnh giáp biên giới tăng
cường công tác đối ngoại nhân dân, mở rộng quan hệ hợp tác với Campuchia;
giải quyết xử lý tốt những tranh chấp xảy ra giữa nhân dân địa phương hai
bên biên giới theo nguyên tắc thỏa thuận giữa 2 nước.
Đối với Ban Tuyên giáo Trung ương: Để đối phó lại các luận điệu
xuyên tạc, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc của các thế lực thù địch, Ban
Tuyên giáo Trung ương cần tiếp tục tổ chức nhiều cuộc vận động, tuyên
truyền trong tu sĩ PGNTK và đồng bào dân tộc Khmer nâng cao nhận thức về
chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta, nhất là vấn đề
lịch sử vùng đất Nam Bộ.
142
Đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam: Các Ban, Viện, Trung ương
GHPGVN liên kết với các viện, trường của hệ phái Nam tông trong khu vực
(Campuchia, Thái Lan, Myanma, Sri Lanka, Lào…) để có chương trình hợp
tác đào tạo qua lại giữa các nước. Qua đó, hàng năm có kế hoạch đào tạo tăng
sinh PGNTK theo nhu cầu thực tiễn mà trong nước chưa có hoặc không có
điều kiện đào tạo, kèm theo cơ chế chính sách hỗ trợ đặc thù trong thời gian
tăng sinh du học.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam làm cầu nối giữa Học viện PGNTK với các
nhà hảo tâm, công ty xí nghiệp, các vị mạnh thường quân sớm đưa Học viện đi
vào hoạt động để tránh những tâm tư trong tăng sinh và Phật tử Khmer.
Tại các kỳ Đại hội Giáo hội Phật giáo Việt Nam xem xét sửa đổi, bổ
sung một số điều trong Hiến chương và Nội quy tăng sự Trung ương
GHPGVN liên quan đến từng hệ phái trong ngôi nhà chung của Giáo hội.
Đồng thời cơ cấu và chuẩn y thành phần nhân sự thuộc các hệ phái vào các
ban, viện Trung ương GHPGVN đặt trách của từng hệ phái hợp lý hơn.
Tiểu kết chương 4
Dưới sự nỗ lực tự vươn lên trong cộng đồng người Khmer và dưới tác
động của chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước và được cụ thể hóa
bằng các chương trình, dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm
nghèo bền vững, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển cố kết cộng đồng tộc người
thiểu số Việt Nam nói chung, vùng TNB nói riêng có đời sống vật chất và tinh
thần của đồng bào được cải thiện và nâng cao rõ rệt. Tuy nhiên, sự vươn lên của
đồng bào ở các địa phương vùng đồng bào Khmer không đồng đều, tỷ lệ hộ
nghèo còn cao, trình độ dân trí thấp; Vì thế, cần quan tâm nhiều hơn trong việc
xây dựng hệ thống chính trị trong vùng có đông đồng bào Khmer.
Bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa làm cơ sở, là một giải pháp
trực tiếp tác động đến việc phát huy những giá trị văn hóa Khmer gắn với
143
PGNTK khu vực TNB trong giai đoạn hiện nay. Bảo tồn các giá trị văn hóa
tinh thần của đồng bào dân tộc Khmer khu vực TNB để đáp ứng yêu cầu, mục
tiêu phát triển của đời sống xã hội góp phần cũng cố khối đại đoàn kết dân tộc;
Bên cạnh đó, nền giáo dục là những mục tiêu tiên phong đi đầu và phải chuyển
biến để thích nghi với cuộc sống. Giáo dục Phật giáo có thể ổn định hướng phát
triển cho một nền giáo dục nhân bản và toàn diện. Vì vậy, giáo dục Phật giáo nói
chung, giáo dục Phật giáo Nam tông nói riêng thời kỳ hội nhập quốc tế là vấn đề
cần được quan tâm để cải tiến kịp thời theo xu thế hội nhập.
Để thực hiện tốt chính sách bình đẳng, đoàn kết, phát huy nguồn nhân
lực, tương trợ nhau cùng phát triển trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam;
chống kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc. Tập trung phát triển kinh tế, chăm lo
đời sống vật chất và tinh thần; xóa đói giảm nghèo bền vững, nâng cao trình
độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, tiếng nói, chữ viết và truyền
thống của các dân tộc và đẩy mạnh việc dạy và học tiếng dân tộc, trong thời
gian tới cần tiếp tục nghiên cứu thực hiện thêm một số giải pháp đồng bộ và
quyết sách kịp thời đối với các dân tộc thiểu số nói chung, vùng đồng bào
Khmer nói riêng nhất là chính sách nhằm phát huy vai trò của chức sắc, tu sĩ
PGNTK để hỗ trợ việc tuyên truyền, triển khai thực hiện chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước nhằm thúc đẩy sự phát triển, bền
vững trong cộng đồng người Khmer.
144
KẾT LUẬN
Trong xã hội hiện đại, do bị chi phối bởi nhiều yếu tố, đặc biệt sự phát
triển của khoa học công nghệ, thông tin, do đó sự ảnh hưởng của tôn giáo nói
chung, PGNTK nói riêng đối với đồng bào dân tộc Khmer sẽ có sự thay đổi.
Hầu hết đồng bào Khmer theo PGNT, hiện có trên 1 triệu Phật tử
Khmer, chiếm tỷ lệ 87,06% so với dân số Khmer. PGNTK là tôn giáo truyền
thống của đồng bào Khmer, hiện cả nước có 463 chùa, với số lượng chư tăng
dao động hàng năm trên trên dưới 8.000 vị; đã từ lâu hòa quyện vào văn hóa
tộc người và trở thành yếu tố cốt lõi của nền văn hóa dân tộc Khmer đặc sắc
và độc đáo. Đặc biệt, ngôi chùa Khmer chính nơi này được xem là biểu tượng
“hồn cốt” của tộc người Khmer. PGNTK nói chung, tu sĩ PGNTK nói riêng
có vai trò rất quan trọng đối với dân tộc Khmer.
Người Khmer ở Nam Bộ coi PGNT là tôn giáo truyền thống duy nhất
không thể thiếu được trong đời sống tâm linh và trong sinh hoạt đời thường
của họ. Người Khmer ở Nam bộ vốn có mối quan hệ tộc người với người
Khmer ở Campuchia và cộng đồng tín đồ PGNT trong khu vực bởi các yếu tố
đồng tộc, đồng tôn, đồng văn hóa, kinh tế, thương mại...
Phật giáo Nam Tông Khmer ngày càng có vị trí quan trọng vì nó không
chỉ ảnh hưởng đến một bộ phận mà gần như cả cộng đồng này. Trong bối cảnh
ấy, chính sách tôn giáo, dân tộc của Đảng và Nhà nước ta ngày càng trở nên cởi
mở, thông thoáng hơn, tạo điều kiện cho các tôn giáo, trong đó có PGNTK ngày
càng nhập thế, hội nhập sâu vào đời sống xã hội phát huy truyền thống nhập thế
của mình, tích cực góp phần vào việc củng cố bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy
cộng đồng người Khmer phát triển hòa cùng sự phát triển chung của đất nước và
nhân loại.
Thực trạng vai trò của tu sĩ PGNTK và xu hướng tác động đến hoạt động
của tu sĩ PGNTK cho thấy tính chất nguy hiểm trong âm mưu và hoạt động
145
chống phá của các thế lực thù địch. Nếu không nâng cao cảnh giác và chủ
động ngăn chặn, đối phó có hiệu quả với hoạt động chống phá của chúng, sẽ
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì
thế khi giải quyết vấn đề tôn giáo phải vận dụng quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo vào việc giải quyết vấn đề tôn
giáo và các nguyên tắc cơ bản như sau:
Cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo, bởi
vì: ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối
với đời sống xã hội không như nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, nhà
tu hành, tín đồ về các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn có sự khác biệt. Do
đó, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối
với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo.
Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với
quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, điều đó nói lên rằng: muốn
thay đổi ý thức xã hội, trước hết cần phải thay đổi bản thân tồn tại xã hội;
muốn xóa bỏ ảo tưởng nảy sinh trong tư tưởng con người, phải xóa bỏ nguồn
gốc sinh ra ảo tưởng ấy. Đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong
tôn giáo là gián tiếp đấu tranh với cái thế giới đang cần có ảo tưởng. Điều
cần thiết trước hết phải xác lập được một thế giới hiện thực không có áp
bức, bất công, nghèo đói và thất học... cùng những tệ nạn nảy sinh trong xã
hội. Chỉ có thông qua quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới
nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và trí tuệ cho con người thì mới
có khả năng gạt bỏ dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời
sống xã hội. Tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tính ngưỡng, tôn giáo và
không tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân. Các tôn giáo hoạt động trong
khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật. Chính sách tôn trọng và
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng.
146
Cần phân biệt hai mặt nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín
ngưỡng tôn giáo. Vì có sự phân biệt được hai mặt đó mới tránh khỏi khuynh
hướng tả hoặc hữu trong quá trình quản lý, ứng xử với những vấn đề nảy sinh
từ tín ngưỡng, tôn giáo. Nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần
chính đáng của đồng bào có đạo sẽ còn tồn tại lâu dài, phải được tôn trọng và
bảo đảm. Mọi biểu hiện vi phạm quyền ấy là trái với tư tưởng của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo.
Việc nghiên cứu vai trò của tu sĩ PGNTK và đề xuất các giải pháp
nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của
PGNTK nói chung, của tu sĩ Khmer nói riêng trong quá trình xây dựng đời
sống xã hội của người Khmer ở TNB là việc làm cần thiết nhưng do đồng
bào Khmer ở Nam Bộ gắn liền với một tôn giáo nên khi thực hiện chính
sách đối với người Khmer thì phải giải quyết vấn đề PGNTK./.
147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
I. Bài viết đăng trong Tạp chí quốc tế (mã ISSN 2570- 9542)
1. Lý Hùng (2019), Khmer Theravada Buddhism in Viet Nam on the Way
of the Developmet and Intrernational Integration, Anti- Corruption &
International cooperation, vol 2,02/2019, p. 51-58.
II. Bài viết đăng trong sách chuyên khảo (mã ISBN)
1. Lý Hùng - Bạch Thanh Sang (2017), Phát huy vai của Hội Đoàn kết
Sư sãi yêu nước trong Phật giáo Nam tông Khmer vùng Tây Nam Bộ trên con
đường hội nhập và phát triển hiện nay đăng trong sách: Phật giáo Nam tông
Khmer đồng hành cùng dân tộc, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, Hồ Chí Minh,
tr. 372 - 392.
2. Lý Hùng - Bạch Thanh Sang (2018), Phật giáo và tinh thần bất bạo
động (Trường hợp Phật giáo Nam tông Khmer ở Nam Bộ” đăng trong sách:
Triết lý nhân sinh của người dân Nam Bộ, Việt Nam - Phần 1: Văn hóa nhận
thức và Tôn giáo - Tín ngưỡng, Nxb. Đại học Cần Thơ, Cần Thơ, tr. 272 - 279.
III. Bài viết đăng các tạp chí chuyên ngành xuất bản (mã ISSN)
1. Lý Hùng (2019), “Những đóng góp của Phật giáo Nam tông Khmer
ở Nam Bộ trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ”, số 07
(187), Tạp chí Nguyên cứu Tôn giáo, Hà Nội.
2. Lý Hùng (2019), “Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước thành phố Cần
Thơ phát huy vai trò là tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”,
Tạp chí Mặt trận, số 194 (tháng 10/2019), Hà Nội.
3. Lý Hùng (2019), “Sự truyền thừa của Phật giáo vào vùng châu thổ
sông Mê kông qua cứ liệu thời Vương quốc Phù Nam và văn hóa óc Eo -
148
Những vấn đề khoa học đặt ra cần nghiên cứu hiện nay” số 10 (83), Tạp chí
Nghiên cứu Ấn Độ và Châu Á, Hà Nội.
4. Lý Hùng (2019), “Vấn đề giáo dục đối với Phật giáo Nam tông
Khmer trong bối cảnh hội nhập quốc tế, số 10 (158), Tạp chí Công tác Tôn
giáo, Hà Nội.
VI. Bài viết tham gia hội thảo khoa học
1. Lý Hùng (2018), Tính nhập thế của Phật giáo Nam tông Khmer ở Nam
Bộ - Việt Nam từ thế kỷ thứ XVIII đến nay” đăng trong Kỷ yếu hội thảo “Việt
Nam - Thái Lan: Đối thoại Văn hóa vùng” do Trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh tổ chức (14/09/2018), Hồ Chí Minh,
tr. 153 -166;
2. Lý Hùng (2018), Vấn đề giáo dục của Phật giáo Nam tông Khmer
trong bối cảnh hội nhập quốc tế in trong Kỷ yếu Hội Nghị chuyên đề Phật
giáo Nam tông Khmer lần thứ VIII do Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức
(19/20/10/2018), tại tỉnh Cà Mau.
149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan An (1985), "Nghiên cứu về người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu
Long", Tạp chí Dân tộc học, (3).
2. Phan An (2009), Dân tộc Khmer Nam bộ, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
3. Phạm Minh Anh (2016), "Lý thuyết xã hội trong nghiên cứu tôn giáo",
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (6), tr.112-118.
4. Ban Bí Thư (2018), Chỉ thị số 19-CT/TW ngày 10/01/2018 của Ban Bí
thư Trung ương Đảng (khóa XII) về tăng cường công tác ở vùng
đồng bào dân tộc Khơ - me trong tình hình mới, Hà Nội.
5. Ban Cán sự Đảng Ủy ban Dân tộc (2017), Báo cáo số 108, Tổng kết 25
năm thực hiện Chỉ thị 68-CT/TW, ngày 18/4/1991 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng (khóa VI) về công tác ở vùng đồng bào dân tộc
Khmer, Hà Nội.
6. Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ (2009), Báo cáo số 03-BC/BCĐTNB ngày
06/02 về Phật giáo Nam tông Khmer và Hội Đoàn kết sư sãi yêu
nước, Cần Thơ.
7. Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ (2016), Báo cáo kinh tế - xã hội, giai đoạn
2011-2015, Cần Thơ.
8. Ban Dân vận Trung ương - Cơ quan Thường trú tại thành phố Hồ Chí Minh
(2013), Báo cáo thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội Đoàn kết Sư
sãi Yêu nước trong Phật giáo Nam tông Khmer, Hồ Chí Minh.
9. Ban Dân vận Trung ương - Cơ quan Thường trú tại thành phố Hồ Chí
Minh (2014), Báo cáo kết quả tọa đàm về “Tổ chức và hoạt động
của Hội Đoàn kết Sư sãi Yêu nước trong Phật giáo Nam tông
Khmer - Thực trạng và giải pháp”, Hồ Chí Minh.
10. Ban Dân Vận Trung ương (2006), Báo cáo số 03 ngày 11/10/2006 của
Ban Dân vận Trung ương “Tổng kết việc tổ chức thực hiện Chỉ thị
150
68-CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khóa 6) về công tác ở
vùng đồng bào dân tộc Khmer”, Hà Nội.
11. Ban Dân vận Tỉnh ủy Trà Vinh (2013), Báo cáo thực trạng, tổ chức hoạt,
động của Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước trong Phật giáo Nam tông
Khmer, Trà Vinh.
12. Ban Dân vận Tỉnh ủy Sóc Trăng (2013), Báo cáo thực trạng, tổ chức
hoạt, động của Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước trong Phật giáo Nam
tông Khmer, Sóc Trăng.
13. Ban Dân vận Thành ủy Cần Thơ (2013), Báo cáo thực trạng, tổ chức
hoạt, động của Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước trong Phật giáo Nam
tông Khmer, Cần Thơ.
14. Ban Dân vận Trung ương (2014), Tài liệu Tọa đàm về Tổ chức và hoạt
động của Hội Đoàn kết Sư sãi Yêu nước trong Phật giáo Nam tông
Khmer - Thực trạng và giải pháp, Cần Thơ.
15. Ban Dân vận Trung ương (2014), Tài liệu Tọa đàm về “Tổ chức và hoạt
động của Hội Đoàn kết Sư sãi Yêu nước trong Phật giáo Nam tồng
Khmer - Thực trạng và giải pháp”, Cần Thơ.
16. Ban Tôn giáo Chính phủ (2006), Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt
Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Ban Tôn giáo (Sở Nội vụ) thành phố Cần Thơ (2013), Báo cáo tình hình
Phật giáo Nam tông Khmer thành phố Cần Thơ, Cần Thơ.
18. Ban Tôn giáo (Sở Nội vụ) tỉnh An Giang (2013), Báo cáo tình hình Phật
giáo tỉnh An Giang, An Giang.
19. Ban Tôn giáo (Sở Nội vụ) tỉnh Bạc Liêu (2013), Báo cáo tình hình Phật
giáo Nam tông Khmer tỉnh Bạc Liêu, Bạc Liêu.
20. Ban Tôn giáo (Sở Nội vụ) tỉnh Cà Mau (2013), Báo cáo tình hình Phật
giáo Nam tông Khmer tỉnh Cà Mau, Cà Mau.
21. Ban Tôn giáo (Sở Nội vụ) tỉnh Hậu Giang (2013), Báo cáo tình hình Phật
giáo Nam tông Khmer tỉnh Hậu Giang, Hậu Giang.
151
22. Ban Tôn giáo (Sở Nội vụ) tỉnh Sóc Trăng (2013), Báo cáo số 101/BC-SNV
ngày 18/11/2013 ề tình hình Phật giáo Nam tông Khmer tỉnh Sóc
Trăng, Sóc Trăng.
23. Ban Tôn giáo (Sở Nội vụ) tỉnh Trà Vinh (2013), Báo cáo tình hình Phật
giáo Nam tông Khmer tỉnh Trà Vinh, Trà Vinh.
24. Ban Tôn giáo (Sở Nội vụ) tỉnh Vĩnh Long (2013), Báo cáo tình hình Phật
giáo Nam tông Khmer tỉnh Vĩnh Long, Vĩnh Long.
25. Bộ Chính trị (1991), Chỉ thị 68/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng
(Khóa 6) về công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khơ-me, Hà Nội.
26. Bộ Chính trị (1998), Nghị quyết Trung ương 5 về xây dựng và phát triển
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Hà Nội.
27. Bộ Chính trị (2003), Nghị quyết 25- NQ/TW của Ban Chấp hành Trung
ương (khóa IX) về công tác tôn giáo, Hà Nội.
28. Bộ Chính trị (2003), Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 20/01/2003 về
“Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và
bảo đảm an ninh - quốc phòng vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời
kỳ 2001-2010”, Hà Nội.
29. Bộ Chính trị (2012), Kết luận số 28-KL/TW ngày 14/8/2012 về “phương
hướng, nhiệm vụ, giải pháp kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh -
quốc phòng vùng Đồng bằng sông Cửu Long, thời kỳ 2011-2020”,
Hà Nội.
30. Bộ Công an (2014), Báo cáo số 486/BC-BCA - V28 ngày 23/9 “Báo cáo
tình hình, kết quả công tác phát huy vai trò người có uy tín trong
phong trào Toàn dân bảo vệ Tổ quốc khu vực Tây Nam Bộ giai
đoạn 2008 - 2014, Hà Nội.
31. Nguyễn Khắc Cảnh (2000), Đôi nét về đặc điểm phân bố dân cư và hình
thái cư trú của người Khmer Sóc Trăng, Tài liệu hội thảo khoa học
lịch sử hình thành và phát triển tỉnh Sóc Trăng trước năm 1945.
152
32. Nguyễn Khắc Cảnh (2000), Sự hình thành cộng đồng Khmer vùng Đồng
bằng sông Cửu Long, (Văn hóa Nam bộ trong không gian xã hội
Đông Nam Á), NXB Đại học Quốc gia - Hồ Chí Minh.
33. Nguyễn Khắc Cảnh (2000), Các loại hình phum, sóc của người Khmer
đồng bằng sông Cửu Long, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Nguyễn Khắc Cảnh (2014), "Yếu tố văn hóa Phật giáo trong cơ chế quản
lý xã hội truyền thống phum sóc của Khmer ở Nam Bộ", Tạp chí
Nghiên cứu Tôn giáo, (05), tr.53 -60.
35. Nguyễn Mạnh Cường, Nguyễn Minh Ngọc (2004), Tôn giáo - Tín
ngưỡng của các cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long, NXB
Phương Đông, Hà Nội.
36. Nguyễn Mạnh Cường (2008), Phật giáo Khơ Me Nam bộ (Những vấn đề
nhìn lại), NXB Tôn giáo, Hà Nội.
37. Nguyễn Mạnh Cường (2008), Vài nét về người Khmer Nam bộ, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
38. Nguyễn Mạnh Cường (2008), Phật giáo Khmer Nam bộ (những vấn đề
nhìn lại), NXB Tôn giáo, Hà Nội.
39. Nguyễn Đức Dũng, Danh Lắm (2013), "Phật giáo Nam tông Khmer tỉnh
Kiên Giang và những vấn đề đáng quan tâm", Tạp chí nghiên cứu Ấn
Độ và Châu Á, (4).
40. Nguyễn Tiến Dũng (2014), Phật giáo Nam tông với đời sống tinh thần
của người Khmer Nam bộ trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, Đề
tài nghiên cứu khoa học.
41. Nguyễn Hồng Dương (2015), Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà
nước Việt Nam về tôn giáo, NXB Khoa học xã hôi, Hà Nội.
42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Hoàng Minh Đô (Chủ nhiệm) (2014), Chính sách đối với tổ chức, hội đoàn,
chức sắc, nhà tu hành, cơ sở thờ tự của Phật giáo Nam tông Khmer
vùng Tây Nam Bộ, Kỷ yếu hội thảo khoa học với đề tài nhánh.
153
44. Nguyễn Đại Đồng (2014), "Tính chất và đặc điểm của Phật giáo Việt
Nam trong kháng chiến chống Pháp", Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo,
(09), tr.77-91.
45. Mạc Đường (1981), Quá trình phát triển dân cư và dân tộc ở Đồng bằng
sông Cửu Long từ Thế kỷ thứ XV đến thế kỷ thứ XIX, Hà Nội.
46. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (1981), Kỷ yếu Hội nghị Đại biểu thống
nhất Phật giáo Việt Nam, NXB Tôn giáo, Hà Nội.
47. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2013), Hiến chương Giáo hội Phật giáo
Việt Nam, NXB Tôn giáo, Hà Nội.
48. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2013), Hiến chương Giáo hội Phật giáo
Việt Nam, NXB Tôn giáo, Hà Nội.
49. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2014), Tài liệu Hội nghị Chuyên đề Phật
giáo Nam tông Khmer lần thứ VI, An Giang.
50. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2016), Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Phật giáo
Nam tông Khmer tính kế thừa, thành tựu và phát triển, Kiên Giang.
51. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2016), Tài liệu Hội nghị Chuyên đề Phật
giáo Nam tông Khmer lần thứ VII, Hậu Giang.
52. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2016), Kỷ yếu Đại hội Đại biểu Phật giáo
toàn quốc, Hà Nội.
53. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2018), Kỷ yếu Đại hội Đại biểu Phật giáo
toàn quốc, Hà Nội.
54. Phạm Thị Phương Hạnh (2012), Văn hóa Khmer Nam bộ - Nét đẹp trong
bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
55. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Chính sách đối với tổ
chức, hội đoàn, chức sắc, nhà tu hành, cơ sở thờ tự của Phật giáo
Nam tông Khmer vùng Tây Nam Bộ, Kỷ yếu Đề tài nhánh, Hà Nội.
56. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Chính sách cán bộ cốt
cán, phát triển nguồn nhân lực, tạo việc làm và đảm bảo an sinh xã
154
hội đối với đồng bào Khmer vùng Tây Nam bộ, Kỷ yếu hội thảo
khoa học Đề án tổng thể Tây Nam bộ, Hồ Chí Minh.
57. Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh Kiên Giang (2016), Báo cáo tổng kết
công tác hoạt động năm 2015 và phương hướng hoạt động năm
2016, Kiên Giang.
58. Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh ủy Vĩnh Long (2015), Văn kiện Đại
hội Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh Vĩnh Long, lần thứ II, nhiệm
kỳ 2014 -2019, Vĩnh Long.
59. Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh Hậu Giang (2017), Báo cáo tổng kết
hoạt động Phật sự - Xã hội cuối năm 2016 và phương hướng công
tác nhiệm vụ Phật sự sáu tháng đầu năm 2017, Hậu Giang.
60. Đỗ Quang Hưng (2003), "Những biểu hiện mới của vấn đề tôn giáo - dân
tộc trong tình hình hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (02).
61. Đỗ Quang Hưng (2016), Sự kiện tôn giáo, NXB Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội.
62. Lê Hương (1969), Người Việt gốc Miên, NXB Sài Gòn.
63. Nguyễn Mạnh Hưởng (2003), "Tăng cường đoàn kết dân tộc - Nội dung
cốt lõi của công tác tôn giáo hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu Tôn
giáo, (03), tr.03-07.
64. Tịnh Không (Thích Giác Thiện dịch), Làm thế nào để cứu vãn phong hóa
xã hội, NXB Phương Đông, Hà Nội.
65. Trần Hồng Liên (2000), Đạo Phật trong cộng đồng người Việt ở Nam bộ -
Việt Nam (Từ thế kỷ XVII đến 1975), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
66. Trần Hồng Liên (2014), "Sự chuyển đổi tôn giáo trong người Khmer ở
Trà Vinh hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (05), tr.57 -52.
67. Nguyễn Phú Lợi (2018), “Một số lý thuyết nghiên cứu tôn giáo đương
đại”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, (02).
68. Huỳnh Lứa (Chủ biên) (1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, NXB
Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.
155
69. Lê Quốc Lý (2017), Chính sách đối với Phật giáo Nam tông Khmer và
đồng bào Khmer vùng Tây Nam Bộ, NXB Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội.
70. Danh Nâng (2014), Phong tục đi tu trong văn hóa Khmer (Trường hợp
tỉnh Kiên Giang), Luận văn thạc sĩ Văn hóa, Trường Đại học Trà
Vinh, Trà Vinh.
71. Phạm Minh Nga (2016), "Lý thuyết xã hội học trong nghiên cứu tôn
giáo", Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (6).
72. Nguyễn Xuân Nghĩa (2003), "Phật giáo tiểu thừa Khmer ở vùng nông
thôn Đồng bằng sông Cửu Long: chức năng xã hội truyền thống và
động thái của xã hội", Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (5).
73. Nguyễn Xuân Nghĩa (2003), "Tôn giáo trong thời hiện đại: Thế tục hóa
hay phi thế tục hóa", Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, (2), tr.21-30.
74. Nguyễn Xuân Nghĩa (2004), "Phật giáo tiểu thừa Khmer ở vùng nông
thôn đồng bằng sông Cửu Long: chức năng xã hội truyền thống và
động thái của xã hội", Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (11).
75. Nguyễn Xuân Nghĩa (2010), "Tâm thức tôn giáo và lý thuyết thế tục hóa ở
Châu á và Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, (02), tr.03-10.
76. Dương Nhơn (2008), "Phật giáo Nam tông Khmer trong bối cảnh thống
nhất và hội nhập của Phật giáo Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu Tôn
giáo, (5).
77. Nguyễn Hùng Khu (2008), Hôn nhân và gia đình người Khmer Nam Bộ,
NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
78. Pascal Bourdeaux (Cù Thị Dung lược dịch) (2017), Tài liệu về một giáo
phận của Viện Phật giáo ở Nam Kỳ, tại trang http://luutruvn.c
om/index.php/2015/10/17/tai-lieu-ve-mot-giao-phan-cua-vien-phat-
giao-o-nam-ky/, [truy cập ngày 15/9/2017].
79. Thích Hiển Pháp (2001), "Phật giáo Nam Bộ", Tạp chí Nghiên cứu Tôn
giáo, (6), tr.22-24.
156
80. Huỳnh Thanh Quang (2011), Giá trị văn hóa Khmer vùng Đồng bằng
sông Cửu long, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
81. Quốc hội (2017), Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, NXB Chính trị quốc gia -
Sự thật, Hà Nội
82. Nguyễn Thuận Quý (2015), Quan hệ tộc người của người Khmer ở hai bên
biên giới Việt Nam - Campuchia (khu vực Tây Nam Bộ), Luận án tiến
sĩ Chuyên ngành Nhân học, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.
83. Bình An Son (Biên dịch) (2006), Phật pháp vấn đáp, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
84. Lê Thanh Sơn (1997), Ngôi chùa trong đời sống văn hóa của người
Khmer tỉnh Sóc Trăng, Luận văn thạc sĩ Văn hóa, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
85. Lê Thanh Sơn (1997), Ngôi chùa trong đời sống văn hóa của người
Khmer tỉnh Sóc Trăng, Luận văn thạc sĩ Văn hóa, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
86. Nguyễn Hoàng Sơn (2007), Quá trình thực hiện chính sách xóa đói giảm
nghèo của Đảng và Nhà nước trong cộng đồng người Khmer tại
đồng bằng sông Cửu Long 1992-2002, Luận án tiến sĩ, Học viện
Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ, thành phố Hồ Chí Minh.
87. Nguyễn Nghị Thanh (2012), "Vài nét về biến động của Phật giáo Nam
tông Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long", Tạp chí Nghiên cứu Tôn
giáo, (08), tr.35-40.
88. Phan Thuận (2014), "Vai trò của Phật giáo Nam tông Khmer đối với sự
ổn định và phát triển xã hội ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay",
Tạp chí Khoa học, (33), tr.56-62.
89. Đinh Lê Thư (Chủ biên) (2005), Vấn đề giáo dục vùng đồng bào Khmer
đồng bằng sông Cửu Long, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
90. Nguyễn Xuân Trung (2015), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn
giáo - Giá trị lý luận và thực tiễn, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
157
91. Nguyễn Quốc Tuấn (2011), "Trở lại mối quan hệ giữa tôn giáo/văn hóa
và chính trị", Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (02), tr.17-26.
92. Nguyễn Quốc Tuấn (2014), “Tiếp cận hệ thống về thực thể tôn giáo: Một
cách nhìn khác về tôn giáo”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, (3).
93. Lương Văn Úc (Chủ biên), (2008), Giáo trình xã hội học, NXB Đại học
kinh tế quốc dân, Hà Nội.
94. Danh Út (2014), Biến đổi trong đời sống văn hóa của tu sĩ Phật giáo Nam
tông Khmer tỉnh Kiên Giang (từ sau năm 1986 đến nay), Luận văn
thạc sĩ, Trường Đại học Trà Vinh.
95. Ủy ban Dân tộc và Miền núi (2000), Vai trò của chùa đối với đời sống văn
hóa của đồng bào Khmer Nam bộ, Đề tài cấp bộ do Cơ quan đặc trách
công tác Dân tộc ở Nam bộ thực hiện năm 1999-2000, Cần Thơ.
96. Ủy ban Dân tộc và Miền núi (2001), Truyền thống đoàn kết đấu tranh cách
mạng của đồng bào Khmer Nam bộ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt nam (1930-1975)”, Đề tài cấp Bộ do Cơ quan đặc trách công
tác Dân tộc ở Nam bộ thực hiện năm 2000-2001, Cần Thơ.
97. Ủy ban Dân tộc và Miền Núi (2006), Điều tra cơ bản tình hình phát
triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân
tộc Khmer Nam Bộ năm 2006, Đề tài cấp bộ do Cơ quan đặc trách
công tác Dân tộc ở Nam bộ, Cần Thơ.
98. Uỷ ban nhân dân tỉnh Kiên Giang (2013), Báo cáo số 196/BC-UBND
ngày 29/11 tình hình Phật giáo tỉnh Kiên Giang, Kiên Giang.
99. Viện Khoa học Xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh thuộc Viện Khoa học
xã hội Việt Nam (1991), Vấn đề dân tộc ở Đồng bằng sông Cửu
Long, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
100. Viện Khoa học Xã hội vùng Nam bộ thuộc Viện Hàn Lâm Khoa học xã
hội (2017), Những vấn đề dân tộc ở vùng Tây Nam bộ trong bối
cảnh toàn cầu hóa, hội nhập khu vực và quốc tế, Kỷ yếu hội thảo
khoa học, Cần Thơ.
158
101. Viện Nghiên cứu Phật học, Ban giới luật (1989), Luật xuất gia, in lần thứ
1 tại xưởng in Quân Đội, Campuchia.
102. Viện Nghiên cứu tôn giáo, Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ, Sở Nội vụ thành
phố Cần Thơ (2012), Biến động tín ngưỡng, tôn giáo trong quá
trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa (nghiên cứu trường hợp đồng
bằng sông Cửu Long), Cần Thơ.
103. Viện Nghiên cứu Tôn giáo thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam -
Học viện Phật giáo Nam tông Khmer thuộc Giáo hội Phật giáo Việt
Nam (2014), Phật giáo Nam tông Khmer đồng hành cùng dân tộc,
Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Kiên Giang.
104. Viện Triết thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (2016), Tôn
giáo và sự phát triển bền vững khu vực Tây Nam bộ- Những vấn đề
lý luận và thực tiễn, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Cần Thơ.
105. Viện Triết thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (2018), Tôn
giáo Tây Nam Bộ một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Thông
tin và truyền thông, Hà Nội.
106. Viện Triết thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (2017), Quan
điểm và giải pháp giải quyết các vấn đề tôn giáo vì mục tiêu phát
triển bền vững Tây Nam bộ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2035,
Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Đồng Tháp.
107. Viện Văn hóa (2016), Người Khmer Cửu Long, Nxb Sở Văn hóa và
Thông tin Cửu Long.
108. Thạch Voi (1988), Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam bộ, NXB
Tổng hợp, Hậu Giang.
109. Vụ Văn hoá dân tộc (2004), Xây dựng đời sống văn hoá vùng dân tộc
Khmer Nam Bộ, Kỷ yếu hội thảo, Hà Nội.
110. Trần Thị Kim Xuyến (2003), Nhập môn Xã hội học, Nxb Thống Kê, Hà Nội.
159
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
Bảng 1: Số liệu về dân tộc Khmer Nam Bộ
Dân số dân tộc Khmer
TT
Tỉnh, thành
Dân số chung
Số lượng
Tỷ lệ % so với dân số chung
01
Sóc Trăng
1.292.853
397.014
30,70 %
02
Trà Vinh
1.007.743
318.288
31,58 %
03
Kiên Giang
1.707.050
213.310
12,49 %
04
An Giang
2.144.772
91.018
4,24 %
05
Bạc Liêu
863.910
66.176
7,66 %
06
Cà Mau
1.351.727
40.012
2,96 %
07
Hậu Giang
781.459
27.181
3,47 %
08
Vĩnh Long
1.031.994
24.089
2,33 %
09
Cần Thơ
1.188.314
21.411
1,80 %
10
Long An
1.436.066
1.195
0,08 %
11
Tiền Giang
1.707.432
744
0,04 %
12
Đồng Tháp
1.678.000
675
0,04 %
13
Bến Tre
1.255.946
578
0,04 %
Tổng cộng
17.447.266
1.201.691
6,31 %
* Ở thành phố Hồ Chí Minh và Đông Nam Bộ có:
TT
Tỉnh, thành
Dân số
01
Bình Phước
12.036
02
Hồ Chí Minh
5.000
03
Tây Ninh
4.660
04
Bình Dương
3.943
05
Đồng Nai
2.635
06
Bà Rịa - Vũng Tàu
1.279
Tổng cộng
29.553
* Ở Tây Nam Bộ có:
160
Bảng 2. Danh bạ và số liệu ngôi chùa Phật giáo Nam tông Khmer
ល.រ. STT
TÊN CHÙA
ឈ្មោះវត្ត
អាសយដ្ឋាន
ĐỊA CHỈ
ឆ្នាំកសាង NĂM THÀNH LẬP
TỈNH TRÀ VINH
ខេត្តត្រាវិញ(ព្រះត្រពាំង)
1
613
2
Chùa Kos Keo Sế Rây Chùa Somrong Ek
phường 8, thành phố Trà Vinh phường 8, Tp.TV
642
3
Chùa Kompong
khóm 2, P. 1, Tp.TV
642
4
Chùa Âng
phường 8, Tp.TV
990
5
Chùa Sras Nẹt
phường 8, Tp.TV
1632
6
Chùa Khươne
Khóm 1, P. 7, Tp.TV
1348
7
Chùa Som Bua
phường 8, Tp.TV
1421
8
Chùa Ktưng
Khóm 7, P. 7, Tp.TV
1485
9
Chùa ThmoTol
Phường 9, Tp.TV
1519
10
phường 9, Tp.TV
1642
11
Khóm 8, P. 6, Tp.TV
1733
វត្តកោះកែវសិរី (កោះ) វត្តសំរោងឯក វត្តពោធិសាលរាជ (កំពង់) វត្តអង្គររាជបូរី (អង្គ) វត្តសុវណ្ណមុនីស្រះស្រង់ (ស្រះនាគ) វត្តចម្បកមាស (ខឿន) វត្តសម្បូណ៌សំរិទ្ធិស័ក (សម្បួរ) វត្តនាគវនារាម (ខ្ទឹង) វត្តសិលាទ្រ (ថ្មទល់) វត្តចម្ប៉ាអង្គរជ័យ (ចំការ) វត្តនិគ្រោធកំពង់ក្សាន្ត
ទីក្រុង ត្រាវិញ ទីក្រុង ត្រាវិញ ទីក្រុង ត្រាវិញ ទីក្រុង ត្រាវិញ ទីក្រុង ត្រាវិញ ទីក្រុង ត្រាវិញ ទីក្រុង ត្រាវិញ ទីក្រុង ត្រាវិញ ទីក្រុង ត្រាវិញ ទីក្រុង ត្រាវិញ ទីក្រុង ត្រាវិញ
12
373
ស្រុកកំពង់ស្ពាន
វត្តសម្បូរង្សី (សម្បួរ)
13
1097
ស្រុកកំពង់ស្ពាន
វត្តភិរម្យរាជ (ភិរម្យសុខ)
Chùa Chom Ka Chùa KompongKsan Chùa SomBuaRăngsây Chùa Phi Rum Sóc
14
Chùa Kandal
1317
ស្រុកកំពង់ស្ពាន
វត្តមជ្ឈិមារាម (កណ្តាល)
ấp Trà Kháo, Hòa Ân, H. Cầu Kè Phi Rùm Sóc, Châu Điền, CK Trà Kháo, Hòa Ân, CK
15
Bà My, Hòa Ân, CK
1364
ំរត្នកេសរបុប្ផាចម្បាមាស (សំណឹងធំ)
16
Chùa Somnâng Thum Chùa Tà Thiêu
Chùa Phật, TT.Cầu Kè
1367
17
1525
18
1576
ស្រុកកំពង់ស្ពាន ស្រុកកំពង់ស្ពាន ស្រុកកំពង់ស្ពាន ស្រុកកំពង់ស្ពាន
វត្តបុទុមក្រពុ វត្តមហាពោធិវ័ន (តាថៀវ) វត្តវេឡុវ័ន (ឫស្សីស្រុក) វត្តជ្រោយប្រាសាទ (ចុងខ្សាច់)
Chùa Rưsrây Sróc Chùa Chông Ksach
19
Chùa Ô Mịch
1657
ស្រុកកំពង់ស្ពាន
វត្តរតនទីបារាមកោះកែវ (អូរមិច)
20
Chùa Ô Tô Tưng
1667
ស្រុកកំពង់ស្ពាន
វត្តសង្វរថ្មមាស (អូរទទឹង)
21
1680
ស្រុកកំពង់ស្ពាន
វត្តសមោធារាម (កំបាំងបាត់)
Chùa Kombăng Bat
22
Chùa Tà Điêu
1710
ស្រុកកំពង់ស្ពាន
វត្តទេពឧទ្យាន (តាដេវ)
23
Chùa Tà Ôt
1736
ស្រុកកំពង់ស្ពាន
វត្តសាលវ័ន (តាអោក)
24
Chùa Pô Thum
1756
ស្រុកកំពង់ស្ពាន
វត្តពោធិមានជ័យសិរីឧត្តម (ពោធិ
៍ធំ)
25
Chùa Bat Kroma
1758
ស្រុកកំពង់ស្ពាន
វត្តជោវ័នសង្វាមាស (បាត់ក្រមា)
26
1777
ស្រុកកំពង់ស្ពាន
វត្តព្រលានមានជ័យ (ចុងព្រលាន)
27
1818
28
Chùa Chông ProLen Chùa Kompong Spen Chùa Mê Păng
1851
វត្តបទុមសាគរ (កំពង់ស្ពាន) វត្តមុនីរង្សី (មេពាំង)
29
Chùa Chông Bưng
1887
ស្រុកកំពង់ស្ពាន ស្រុកកំពង់ស្ពាន ស្រុកកំពង់ស្ពាន
វត្តពោធិ
៍ភិរម្យរង្សី (ចុងបឹង)
30
Chùa Pôthisrây
1903
ស្រុកកំពង់ស្ពាន
វត្តពោធិសិរី (ចុងផោ្ន)
31
Chùa Kinh Xáng
1960
ស្រុកកំពង់ស្ពាន
វត្តមង្គលឧទ្យាន (កិញ្ឆាង)
32
Chùa Ô SomPâu
1968
ស្រុកកំពង់ស្ពាន
វត្តមហាវ័ន (អូរសំពៅ)
33
Chùa Prơm
1972
ស្រុកកំពង់ស្ពាន
វត្តរតនសាគរ (ព្រើម)
34
1565
វត្តកញ្ចោងកំពង់លាវ
ស្រុកកញ្ចោង
Chùa Kompong Leo
ấp Nhì, Phong Phú,CK Đầu Giồng, Tam Ngãi, CK Ô Mịch, Châu Điền, CK Ô Tưng, Châu Điền, CK Ngọc Hồ, Tam Ngãi, CK ấp Ba, Phong Phú, CK Xóm Lớn, Châu Điền, CK Trà Kháo, Hòa Ân, CK Bến Chợ, xã Phong Thạnh, CK ấp Nhì, xã Phong Thạnh, CK Châu Thành A, TT. Cầu Kè ấp Tư, Phong Phú, CK Giồng Dầu, Hòa Ân, CK Chông Nô, Hòa Tân, CK Kinh Xáng, xã Phong Phú, CK Ô Mịch, Châu Điền, CK Ô Rồm, Châu Điền, CK Đại Mong, Phú Cần, huyện Tiểu Cần
35
Chùa Phnom Penh
1655
វត្តកញ្ចោងភំ
36
Chùa Ô Chhuk
1859
ស្រុកកញ្ចោង ស្រុកកញ្ចោង
វត្តបុទុមប្រជុ
្នពេញ (កញ្ចោងផ្សារ) ំនទី (អូរឈូក)
Cây Hẹ, TT. Tiểu Cần Ngãi Hòa, Tập Ngãi, TC
37
Tân Đại, Hiếu Tử, TC
1721
ស្រុកកញ្ចោង
វត្តសាលតិតា្ថរាម (កំពង់រាំង)
38
Ô Đùng, Hiếu Tử, TC
1719
ស្រុកកញ្ចោង
វត្តពោធិវង្សកំពង់ដូង (ផោ្នដូង)
39
1760
40
1775
វត្តព្រះបាទកងចក្រ (កំពង់មាស) វត្តកំពង់ឈូក (ផោ្នសង្រ្កម)
41
1970
្គមុនីសុវណ្ណនទី (ដៃទទឹង)
42
1826
43
1827
ស្រុកកញ្ចោង ស្រុកកញ្ចោង ស្រុកកញ្ចោង ស្រុកកញ្ចោង ស្រុកកញ្ចោង
វត្តសាមគី វត្តសុវណ្ណនិគ្រោធ (ជៃ្រភេ) វត្តអរុណរង្សី (ចាកអាគ្រោង)
Chùa Kompong Răng Chùa Kompong Đung Chùa Kompong Mes Chùa Phnô Krom Chùa Đại Tô Tưng Chùa Chrây Phê Chùa Chac A Krôn
44
Chùa Phnô Pring
1862
ស្រុកកញ្ចោង
វត្តទិព្វមង្គលនិលឧទ្យាន (ផោ្នពី
្រង)
45
Chùa Prek Tung
1873
ស្រុកកញ្ចោង
វត្តសុវណ្ណគន្ធវារីរង្សី (ពែ្រកទុង)
46
1873
ស្រុកកញ្ចោង
វត្តនទីសមន្តា (អូរវែងចាស់)
Tân Trung Giồng, Hiếu Trung, TC Ô Trom, Hiếu Tử, TC ấp Giồng Tranh, xã Tập Ngãi, TC ấp Nhì, Tân Hùng, TC Đại Trường, Phú Cần, TC Cầu Tre 2, Long Thới, TC Sóc Chùa, Tân Hùng, TC Sóc Chàm, Hùng Hòa, TC
47
Sóc Dừa, Tân Hòa, TC
1992
វត្តសឹ
48
Chùa Ô Veng Chás Chùa Ô Veng Thmây Chùa Ô Trao
1993
49
Chùa Konleng Sés
1500
50
Chùa Ích
1541
51
Chùa Ka Ep
1690
ស្រុកកញ្ចោង ស្រុកកញ្ចោង ស្រុកកន្លង់ ស្រុកកន្លង់ ស្រុកកន្លង់
្ទងមានជ័យសិរីឧត្តម (អូរវែងថ្មី) ្គរង្សី (អូរត្រាវ) វត្តសាសនសាមគី វត្តពិសេសារាម (កនែ្លងសេស) វត្តពោធិចុឡាមុនី (ឥដ្ឋ) ្ធស័ក (កែ្អប)
វត្តសង្វារិទិ
52
Chùa Bi Sây
1700
ស្រុកកន្លង់
វត្តពិសីវរារាម (ពិសី)
53
Chùa Knông Sróc
641
ស្រុកកំពង់ធំ
វត្តបិដកត្យារាម (ក្នុងស្រុក)
54
Chùa Banle Chây
1556
ស្រុកកំពង់ធំ
វត្តព្រះពន្លាជ័យ (ពន្លា)
55
Chùa Trốt Lích
1612
56
Chùa Knok
1655
57
Chùa Trốt Cớt
1672
58
1660
59
1673
ស្រុកកំពង់ធំ ស្រុកកំពង់ធំ ស្រុកកំពង់ធំ ស្រុកកំពង់ធំ ស្រុកកំពង់ធំ
វត្តចម្ប៉ាបុរី (ត្រោកលិច) ំឈូក (ក្នក) វត្តក្រពុ វត្តចម្បីសោភ័ណ (ត្រោកកើត) វត្តសីលាជលធី (គគីរ) វត្តកំពង់និគ្រោធ (កំពង់ជ្រៃ)
60
1541
្ធស័ក (ផោ្នកំបុត)
61
Chùa Ko Ki Chùa Kompong Chrây Chùa Phnô Kombut Chùa Kốk
1755
62
Chùa Ruôm Mích
1802
ស្រុកកំពង់ធំ ស្រុកកំពង់ធំ ស្រុកកំពង់ធំ
វត្តគងជ័យរឹងរិទិ វត្តគោករាជសីមារាម (គោក) វត្តបុទុមគង្គា (រួមមិត្រ)
63
Chùa Chông Tọp
1681
ស្រុកកំពង់ធំ
វត្តពោធិវង្សារាម (ចុងទ័ព)
64
1845
ស្រុកកំពង់ធំ
វត្តមហិង្គុទ្យារាម (សំរោងធំ)
65
1872
ស្រុកកំពង់ធំ
ំប្រាសាទ (ខ្សាច់កណ្តាល)
វត្តជុ
66
1894
ស្រុកកំពង់ធំ
វត្តបទុមវង្សកំពង់ថ្ម (ទ័ពថ្ម)
Chùa Somrong Thum Chùa Ksach Candal Chùa Kompong Thmo
67
Chùa Phnô Anđet
1973
68
Chùa Ô Ta Pâu
2014
69
Chùa Ô Ka Đa
2017
ស្រុកកំពង់ធំ ស្រុកកំពង់ធំ ស្រុកកំពង់ធំ
វត្តពោធិទេពចេត្យារាម (ផោ្នអណែ្តត) វត្តសុវណ្ណនទីសិរីឧត្តម (អូរតាពៅ) វត្តជយនទីរតនារាម (អូរក្តារ)
70
Chùa RaKa Chás
1352
ស្រុកផ្នោដាច់
វត្តលាយលក្ខកងចក្រភូមិរាជឥន្រី
្ទជិត (រការចាស់)
71
1439
ស្រុកផ្នោដាច់
វត្តលាយលក្ខកងចកា្តរាម (អំពាំងសាន្ត)
Chùa Ompăng San
72
Chùa ThLốk
1676
ស្រុកផ្នោដាច់
វត្តកងចកា្តរាម (ធ្លក)
Ô Trao, Hiếu Tử, TC ấp B, xã Bình Phú, huyện Càng Long ấp Sóc, Huyền Hội,CL Lưu Tư, Huyền Hội, CL Sóc Chùa, xã Phương Thạnh, CL ấp Qui Nông, xã Hòa Lợi, H. Châu Thành Bình La, Lương Hòa, CT Thanh Trì, TT.Châu Thành, CT Trà Nốc, Song Lộc,CT Hương Phụ, Đa Lộc, Châu Thành Kỳ La, Hòa Thuận, CT Khóm 4, TT. Châu Thành Trì Phong, Hòa Lợi, Châu Thành Nguyệt Hoá, CT Sa Múc, Lương Hòa A, CT Hòa Lạc, Lương Hòa A, CT Phú Mỹ, Mỹ Chánh, Châu Thành Xóm Giữa, xã Hòa Thuận, Châu Thành Ba Se A, Lương Hòa, Châu Thành Giồng Lức, Đa Lộc,CT Bàu Sơn, Đa Lộc, CT Ô Ka Đa, Phước Hảo, Châu Thành ấp Là Ca, Nhị Trường, H. Cầu Ngang Sóc Cụt, Trường Thọ, Cầu Ngang Hòa Lục, Hiệp Hoà, Cầu Ngang
161
73
1512
ស្រុកផ្នោដាច់
វត្តយសមេត្រី (មេរងចាស់)
74
1631
ស្រុកផ្នោដាច់
វត្តគង់បន្ទាយជយារាម (មេរងថី
្ម)
75
1642
ស្រុកផ្នោដាច់
វត្តកំពង់នាវា (កំពង់ទូក)
76
1642
ស្រុកផ្នោដាច់
វត្តលាយលក្ខកងចក្រ (ត្រពាំងវែង)
Chùa MêRongChás Chùa MêRongThMây Chùa KompongTuk Chùa Tropăng Veng
77
Chùa Vel Lac
1650
ស្រុកផ្នោដាច់
វត្តបរមនិមិត្ត (វាលាក់)
78
1654
ស្រុកផ្នោដាច់
វត្តគិរីសុវណ្ណ (ចុងមីសចាស់)
C. ChôngMêSoChás
79
Chùa Ret Mol
1667
80
Chùa Phiêu
1667
វត្តពោធិនាគ (រាជមល្ល) ំ (ភៀវ)
វត្តអង្គរជុ
81
Chùa Teo Chás
1683
្ខណាមហាពោធិស្រះស្រង់ (ទៀវចាស់)
82
Chùa Phnô Răng
Lạc Thạnh A, Thạnh Hoà Sơn, Cầu Ngang Lạc Sơn, Thạnh Hoà Sơn, CN Bình Tân, Hiệp Hoà, Cầu Ngang Bông Veng, Nhị Trường, CN Lạc Hòa, xã Thạnh Hoà Sơn, CN Ba So Cũ, Hiệp Hoà, Cầu Ngang Kim Câu, Kim Hoà, Cầu Ngang Phiếu, Hiệp Hoà, CN Cẩm Hương, Mỹ Hoà, Cầu Ngang Ô Răng, Long Sơn,CN
1683
83
Chùa Pro Hut
1733
84
Chùa Căn Nom
1749
ស្រុកផ្នោដាច់ ស្រុកផ្នោដាច់ ស្រុកផ្នោដាច់ ស្រុកផ្នោដាច់ ស្រុកផ្នោដាច់ ស្រុកផ្នោដាច់
វត្តទកិ វត្តសាគរគិរីកោះកើយ (ផោ្នរាំង) វត្តកងចក្រលាយលក្ខណារាម (ផោ្នប្រហូត) វត្តពោធិសយ្យារាម (កាន់សំ
្ន)
85
Chùa Teo Thmây
1807
ស្រុកផ្នោដាច់
វត្តដំបូកបីជ័យជំនះ (ទៀវថី
្ម)
86
Chùa Đom Bốt Bi
1856
ស្រុកផ្នោដាច់
វត្តពោធិស្រះស្រង់ កំពង់រការថី
្ម (ដំបូកបី)
87
Chùa Kossom
1868
ស្រុកផ្នោដាច់
វត្តមុនីសេ្នហាសុវណា្ណស្រះកែវ (កោះសោម)
Mỹ Cẩm, Mỹ Hoà, CN Căn Nom, Trường Thọ, CN Cần Dưng, Mỹ Hoà, Cầu Ngang Là Ca, Nhị Trường,CN Sóc Chùa, Thuận Hoà, Cầu Ngang
88
1882
ស្រុកផ្នោដាច់
វត្តបុទុមឈូកស (ចុងមីសថី
្ម)
Ba So, Nhị Trường,CN
C. ChôngMêSoThmâ y
89
Chùa Cós Xoài
1890
ស្រុកផ្នោដាច់
Cos Xoài, Trường Thọ, CN
90
1908
91
1966
ស្រុកផ្នោដាច់ ស្រុកផ្នោដាច់
វត្តព្រះពោធិវង្សទ្រង់លក្ខណ៍ផ្នោប្រស ព្កំណប់កោះកែវ (កោះសា្វយ) វត្តជ័យសត្ថារតនឧត្តម (ចេកជ្រំ) វត្តកំពង់មានជ័យសិរីនិគ្រោធ (កំពង់ទទឹង)
Chùa Chêk Chrum C. KompongTôTưng
92
Chùa Chông Phnô
1975
ស្រុកផ្នោដាច់
វត្តមុនីបញ្ញាជ័យសេដ្ឋាសុវណ្ណារាម (ចុងផោ្ន)
93
Chùa Pro Khúp
1872
94
Chùa Thum
ấp Giữa, Kim Hoà, CN Tân Lập, Long Sơn, Cầu Ngang Trà Kim, Thuận Hoà, Cầu Ngang Sóc Ớt, xã Ngũ Lạc, H. Duyên Hải Thốt Lốt, Ngũ Lạc,DH
1542
95
Chùa Chrây Ta Sô
1515
96
Chùa Âng Kôl
1920
ស្រ.មាត់សមុទ្រ ស្រុកមាត់សមុទ្រ ស្រុកមាត់សមុទ្រ ស្រុកមាត់សមុទ្រ
វត្តសតា្ថរីនទី (ប្រខុប) វត្តអរិយធម្មវង្សាភូមិដូនជ័យបាហារី (ធំ) វត្តចន្ទគិរីឧត្តុង្គមានជ័យ (ជ្រៃតាសូរ) វត្តសិរីសាគរ (អងោ្កល)
97
Chùa Trô Lôn
1929
ស្រុកមាត់សមុទ្រ
វត្តទកិ
្ខណាសាគរ (ទ្រលោង)
98
1800
ស្រុកមាត់សមុទ្រ
វត្តពោធិបឹង (ខ្នាចទទឹង)
99
1964
ស្រុកមាត់សមុទ្រ
វត្តបូព៌ាសាគរ (ត្រពាំងឈូក)
Rọ Say, Ngũ Lạc, DH Trà Côn, Long Vĩnh, Duyên Hải Cá Cối, Long Vĩnh, Duyên Hải Bổn Thanh, Ngũ Lạc, Duyên Hải Đình Cũ, Long Khánh, Duyên Hải
100
Ba Sát, Đôn Châu, DH
1450
ស្រុកមាត់សមុទ្រ
វត្តនិគ្រោធារាម (ជ្រៃប្រាសាទ)
Chùa Khnach Tô Tưng Chùa Tropăng Chhuc Chùa Chrây Pra Sat
101
Chùa Sla Pang
1856
ស្រុកមាត់សមុទ្រ
វត្តសុរិន្ទរាជ្យពឹ
្រក្ស (សា្លប៉ាង)
102
1806
ស្រុកមាត់សមុទ្រ
វត្តសុវណ្ណទេពី
្វឯកវិមលា្លរាម (ដំបងពាក់)
Chùa Đom Bon Pac
103
Chùa Tà Rom
1598
ស្រុកមាត់សមុទ្រ
វត្តសតា្ថរាមវ័ន (តារ៉ម)
104
Chùa Chrây Kôk
1694
ស្រុកមាត់សមុទ្រ
វត្តសុវណ្ណពិជ័យ (ជៃ្រគោក)
105
Chùa Bà Giam
1698
106
Chùa Rum Đuôl
1570
107
Chùa Brây Vo
1466
ស្រុកមាត់សមុទ្រ ស្រុកមាត់សមុទ្រ ស្រុកថ្កូវ
វត្តឧត្តមភិរីរាជបូជាមន្ទីរ (បាយ៉ាម) វត្តតាលភិរីឧត្តុង្គមានជ័យសិរីវង្សារាម (រំដួល) ្ល) វត្តលតាវ័ន (ពៃ្រវលិ
162
108
Chùa Chum Nit
1468
109
Chùa Chet Đây
La Bang, Đôn Xuân, Duyên Hải Bà Môn, Đôn Xuân, Duyên Hải Tà Ròm, Đôn Xuân, Duyên Hải Bà Nhì, Đôn Xuân, Duyên Hải Bà Giam, Đôn Xuân, Duyên Hải Lộ Sỏi, Đôn Xuân, DH ấp Sà Vần, Ngọc Biên, H. Trà Cú Tà Niếc, Lưu Nghiệp Anh, TC Cây Da, Tập Sơn, TC
1488
ស្រុកថ្កូវ ស្រុកថ្កូវ
វត្តជំនិតមានជ័យ (ជំនិត) វត្តពោធិចុឡាមណីព្រះចេតិយ (ចេតិយ)
៍
110
1498
111
(Tháp) Chùa Bonray Chás Chùa ThCâu
1557
112
Chùa Xoài Dọt
1698
ស្រុកថ្កូវ ស្រុកថ្កូវ ស្រុកថ្កូវ
វត្តកំពង់ពោធិព្រឹក្ស (បងៃ្រចាស់) វត្តពោធិព្រឹក្ស (ថ្កូវ) វត្តមុនីរង្សីសិរីវរារាម (សា្វយពក)
113
1568
ស្រុកថ្កូវ
វត្តកំពង់ហ្លួង (កំពង់កី
្ត)
Vàm Ray, Hàm Tân, TC Trà Cú, Kim Sơn, TC Xoài Dọt, Lưu Nghiệp Anh, TC ấp Chợ, An Quảng Hữu, TC
114
ấp Chợ, Tân Sơn, TC
1624
ស្រុកថ្កូវ
វត្តពោធិបឹង (បឹង)
115
Cà Săng, Hàm Tân, TC
1645
ស្រុកថ្កូវ
វត្តព្រះឥន្ទឧទ្យាន (បងៃ្រថី
្ម)
Chùa Kompong Luông C. Pôthi Bưng (Leng) Chùa Bonray Thmây
116
Chùa Sleng Chás
1650
ស្រុកថ្កូវ
វត្តសែ្លងមានជ័យ (សែ្លងចាស់)
Bến Chùa, Phước Hưng, TC
117
Trà Kha, Đại An, TC
1635
ស្រុកថ្កូវ
វត្តកេតុបូគម្ពីរសាគរ (ផោ្នសងែ្កចាស់)
C. PhnôSăngKeChás
118
Chùa Bài Chhao
1673
ស្រុកថ្កូវ
វត្តកប្បព្រឹក្ស (បាយឆាវ)
119
Chùa Ba Tục
1674
ស្រុកថ្កូវ
វត្តថ្មគោល (ក្បាលទូក)
120
Chùa Bantay Kro
1838
121
Chùa Phnô Đung
Bải Xào Dơi, Kim Sơn, TC Trà Sất C, Long Hiệp, TC Trà Tro, Hàm Giang, TC Cây Da, xã Đại An, TC
1678
122
Chùa Tà Sất
1698
123
Chùa Ba Cụm
1698
ស្រុកថ្កូវ ស្រុកថ្កូវ ស្រុកថ្កូវ ស្រុកថ្កូវ
ំពល (បន្ទាយក្រ) វត្តបន្ទាយប្រជុ វត្តវិភាគរាជដួងកែវ (ផោ្នដូង) វត្តសាលទិភកា្ករាម (តាសឹក) វត្តមជ្ឈិមសាល (ឫស្សីម្គុម្ព)
124
1699
ស្រុកថ្កូវ
វត្តសត្ថារាម (កំពង់សាលា)
125
1711
ស្រុកថ្កូវ
វត្តគោបាលនិគ្រោធ (ផោ្នព្រាល)
Chùa Kompong SaLa Chùa Tà Phnô Prel
126
Chùa Ba Trạch
1732
ស្រុកថ្កូវ
វត្តពោធិភិរម្យឧត្តមសួសី
្ត (បាត្រាច)
127
Chùa Trô Prás Bat
1698
ស្រុកថ្កូវ
វត្តមណិជោត្យារាម (ទ្រព្រះបាទ)
128
Chùa Sóc Chà
1751
ស្រុកថ្កូវ
វត្តក្រពុ
៍) ំឈូកច្រាល (ចារិ
129
Chùa Cós Lọp
1758
ស្រុកថ្កូវ
វត្តមុនីកោះកែវ (កោះទន្លាប់)
130
Chùa Crôi Tansa
1763
ស្រុកថ្កូវ
វត្តជម្ពូទីបវរារាម (ជ្រោយទន្សា)
131
Chùa RongVel
1783
ស្រុកថ្កូវ
វត្តរោងពិសីជ័យឧត្តម (រោងវាល)
132
1868
ស្រុកថ្កូវ
វត្តសិមារាម (ផោ្នអណ្តូង)
133
1808
ស្រុកថ្កូវ
វត្តលាវចន្ទស្សរារាម (ដីក្រហម)
134
1835
ស្រុកថ្កូវ
វត្តសេរីវង្សារាម (ផោ្នអំពូង)
135
1657
ស្រុកថ្កូវ
វត្តពោធិពឹ
្រក្សគិរីវង្ស (សា្វយសៀមចាស់)
Chùa Phnô Anđung Chùa Đây Kro Hom Chùa Phnô Ompung Chùa Xoài Xiêm Chás
136
Chùa Chông Prây
1885
ស្រុកថ្កូវ
វត្តប្រទក្សីលានិគ្រោធ (ចុងពៃ្រ)
137
1894
្ម)
137
ấp Chợ, Long Hiệp,TC Ba Cụm, Ngọc Biên, TC Tha La, Ngọc Biên, TC Nô Rè A, Long Hiệp, TC Ba Trạch, Tân Hiệp, TC Chông Bát, Tân Hiệp, TC Sóc Chà, Thanh Sơn, TC Con Lọp, Tân Hiệp, TC Bải Xào Giữa, Kim Sơn, TC Sóc Ruộng, Tân Hiệp, TC Nô Đùng, Tân Hiệp, TC Cà Hom, Hàm Giang, TC Long Trường, Tân Hiệp, TC Xoài Xiêm, Ngãi Xuyên, TC ấp Trạm, Phước Hưng, TC Bến Chùa, Phước Hưng, TC Kos La, Thanh Sơn,TC
1476
ស្រុកថ្កូវ ស្រុកថ្កូវ
វត្តកោះកែវមុនីសម្បាណ (សែ្លងថី វត្តកេតុសំរោងទងកល្បព្រឹក្ស (កោះសា្ល)
139
Mé Láng, Định An, TC
1903
ស្រុកថ្កូវ
វត្តសិរីពទ្ធជុ
ំគម្ពីរសាគរ (ផោ្នសងែ្កថី
្ម)
Chùa Sleng Thmây Chùa Kos Sla C. PhnôSăngKeThm ây
140
Chùa Kro
1915
ស្រុកថ្កូវ
វត្តចម្ប៉ាបុរីសិរីតារាជ (ក្រ)
141
Chùa Pras Prang
1919
ស្រុកថ្កូវ
វត្តសុវណ្ណមាលី (ព្រះប្រាង្គ)
142
Chùa Tul Tà thok
1972
ស្រុកថ្កូវ
វត្តខេមរារចនាសម្ព័ន្ធ (ទួលតាថុក)
143
1905
ស្រុកថ្កូវ
វត្តពោធិគិរីវង្សារាម (សា្វយសៀមថី
្ម)
C. XoàiXiêmThmây
Sóc Tro Dưới, An Quảng Hữu, TC Giồng Cao, Ngọc Biên, TC Giồng Tranh, Ngãi Xuyên, TC Xoài Xiêm, Ngãi Xuyên, TC
163
TỈNH SÓC TRĂNG
ខេត្តសុកត្រាំង(ឃ្លាំង)
144
Chùa Khleang
1533
វត្តឃ្លាំង
ទីរួមខេត្ត
145
Chùa Sôm Rông
1725
146
Chùa Maha Túp (Dơi)
Khóm 5, P. 6, Tp. Sóc Trăng Khóm 2, P. 5, Tp. ST Khóm 9, P.3 Tp. ST
1569
147
Chùa Peam Buôn Chas
1963
148
Chùa (Pô) Sóc Vồ
1664
ទីរួមខេត្ត ទីរួមខេត្ត ទីរួមខេត្ត ទីរួមខេត្ត
វត្តបទុមវង្សា (សំរោង) វត្តសិរីតេជោ (មហាទប់) វត្តសិរីពាមបួនចាស់ (ស្រះស្រៀង) វត្តពោធិសត្ថារាម (ពោធិ ៍)
Khóm 7, P.8, Tp. ST Khóm 3, P.7 , Tp. ST
149
Khóm 5, P.4, Tp. ST
1964
ទីរួមខេត្ត
វត្តសិរីប្រជុ
ំវង្ស (ពាមបួនថ្មី)
Chùa Peam Buôn Thmây
150
Chùa Trà Tim Cũ
1465
ទីរួមខេត្ត
វត្តមជ្ឈឹមារាម (ជ្រោយទឹមចាស់)
151
Chùa Pô Pus Tứk
1901
ស្រុកកំពង់ធំ
វត្តសិរីពោធិវាល (ពពុះទឹក)
Chùa Bâng Kha Don
1881
152 153
Chùa Bưng Cóc
1727
ស្រុកកំពង់ធំ ស្រុកកំពង់ធំ
វត្តបឹងខ្យង វត្តពុទ្ធរង្សី (បឹងកក)
154
Chùa Đay Ta Suôs
1843
វត្តដៃតាសួស
ស្រុកកំពង់ធំ
155
Chùa Prek Pinh Tôn
1863
ស្រុកកំពង់ធំ
វត្តបុព្វេវណ្ណារាម (ព្រែកពិន្ទួង)
156
1678
ស្រុកកំពង់ធំ
វត្តសិរីពោធិព្រឹក្ស (តាអង្គ)
Chùa Pô Thi Prưk Tà Ong
157
Chùa Tum Pok Sok
1727
វត្តទំពក់សក់
ស្រុកកំពង់ធំ
158
Chùa Pô Thi Khsach
1648
វត្តពោធិខ្សាច់
ស្រុកខ្សាច់
Chùa On Đôn Rưs Sây
2004
159 160
Chùa Pring Prum
1843
ស្រុកខ្សាច់ ស្រុកខ្សាច់
វត្តអណ្តូងឫស្សី វត្តព្រីងព្រំមង្គល (កំពប)
161
Chùa Chom Pa Chum
1860
វត្តសិរីបុប្ផាចម្ប៉ាជុ
ំ
ស្រុកខ្សាច់
162
Chùa Pô Thi Pdok
1618
វត្តពន្លឺពោធិអណ្តែតផ្តោក
ស្រុកខ្សាច់
163
Chùa Pô Thi Thlâng
1889
វត្តពោធិថ្លឹង
ស្រុកខ្សាច់
164
Chùa Peng Som Rith
1495
ស្រុកចូវថាញ់
វត្តសិរីមុនីវង្ស (ពាងសំរឹទ្ធិ
៍)
165
Chùa Kom Pong Tróp
1890
វត្តកំពង់ទ្រព្យ
ស្រុកចូវថាញ់
166
Chùa Tum Núp
1621
ស្រុកចូវថាញ់
វត្តបទុមរង្សី (ទំនប់)
167
Chùa Chông Pro Lean
1749
ស្រុកចូវថាញ់
វត្តព្រលានមានជ័យ (ចុងព្រលាន)
168
Chùa Trà Quýt Cũ
1881
វត្តតាឃ្វិចចាស់
ស្រុកចូវថាញ់
169
Chùa Trà Quýt Mới
1964
ស្រុកចូវថាញ់
វត្តសិរីប្រជុ
ំវង្ស (តាឃ្វិចថ្មី)
170
Chùa Phnô Rô Ka
1860
វត្តសិរីផ្នោរកា
ស្រុកចូវថាញ់
171
Chùa Chăm Pa
1676
ស្រុកចូវថាញ់
វត្តចម្ប៉ាវណ្ណារាម (ចម្ប៉ា)
172
Chùa Bốn Mặt
1537
វត្តព្រះបួនព្រះភក្រ័
ស្រុកចូវថាញ់
173
Chùa Pong Tưk Chăs
1830
ស្រុកពងទឹក
វត្តមុនីសោភ័ណ (ពងទឹកចាស់)
174
Chùa Pong Tưk Thmây
1965
ស្រុកពងទឹក
វត្តកំពង់មានជ័យសិរីឧត្តម (ពងទឹកថ្មី)
175
Chùa Srăs Keo
1798
វត្តមុនីស្រះកែវ
ស្រុកពងទឹក
176
1873
177
Chùa Đay Chho Khmao Chùa Ong Kho
Khóm Tâm Trung, P.10, Tp. ST ấp Phú Tức, Phú Mỹ, huyện Mỹ Tú Đại Úi, Phú Mỹ, MT Bưng Cóc, Phú Mỹ, MT Sóc Xoài, Phú Mỹ,MT Bét Tôn, Phú Mỹ, MT Tà Ân B, Thuận Hưng, MT Tam Sóc, Mỹ Thuận, MT ấp An Thành, TT. Kế Sách, huyện Kế sách ấp 8, Trinh Phú, KS ấp 10, Trinh Phú, KS An Nghiệp, An Mỹ,KS Kinh Giữa 1, xã Kế Thành, KS Tập Rèn, Thới An Hội, KS Giồng Chùa A, An Hiệp, Châu Thành Bưng Tróp, An Hiệp, huyện Châu Thành Châu Thành, An Ninh, CT Mỹ Tân, Thiện Mỹ,CT Trà Quýt B, Thuận Hòa, CT Xây Đá A, Hồ Bắc Kiện, CT Phú Hữu, Phú Tâm,CT Phước Phong, Phú Tân, CT Phước Thuận, Phú Tân, CT Tân Lợi, xã Thạnh Tân, huyện Thạnh Trị Trung Hòa, Tuân Tức, TT Kiết Lợi, Lâm Kiết,TT Xau Mau II, TT. Phú Lộc Giồng Chùa,
1910
ស្រុកពងទឹក ស្រុកពងទឹក
វត្តស្រះស្រង់កំពង់មានជ័យ (ដៃឈើខ្មៅ) វត្តនរេន្រ្ទរង្សី (អុង ខ)
164
178
Chùa Đay Niêl
1971
ស្រុកពងទឹក
វត្តរតនមុនី (ដៃនៀល)
179
Chùa Lộ Mới
1971
ស្រុកពងទឹក
វត្តបួនមុ
ំប្រជុ
ំមានជ័យ (ថ្នល់ថ្មី)
180
Chùa Ong Tao
1964
ស្រុកពងទឹក
វត្តប្រជុ
ំដែនមានជ័យ (អុង តាវ)
181
Chùa Prêk Chêk
1798
ស្រុកង៉ាណាំ
វត្តអូរជុ
ំអារាម (ព្រែកចេក)
182
Chùa Cần Đước
1783
ស្រុកបាយឆៅ
វត្តចន្ទសោភ័ណ (ព្រែកអណ្តើក)
183
Chùa Nhu Gia
1913
ស្រុកបាយឆៅ
វត្តសិរីនគរជុ
ំ (អំពូយារ)
184
Chùa Trà Cuôn
1780
ស្រុកបាយឆៅ
វត្តសិរីឧត្តមប្រជុ
ំវង្សា (ព្រែកត្រកួន)
185
Chùa Đay Om Pu
1951
ស្រុកបាយឆៅ
វត្តសិរីឧត្តម (ដៃអំពូ)
186
Chùa Sro Lôn
1815
ស្រុកបាយឆៅ
វត្តសិរីសុខុម (ស្រឡូង)
187
Chùa Trà Tim Giữa
1666
ស្រុកបាយឆៅ
វត្តពោធិសាល (ជ្រោយទឹមកណ្តាល)
188
Chùa Trà Tim Mới
1894
ស្រុកបាយឆៅ
វត្តកំពង់តាឥន្ទ (ជ្រោយទឹមថ្មី)
189
Chùa Tắc Gồng
1224
វត្តប្រាសាទគង់
់
ស្រុកបាយឆៅ
190
1975
ស្រុកបាយឆៅ
វត្តឧត្តមមុនី (ផ្នោកញ្ឆើថ្មី)
191
1967
ស្រុកបាយឆៅ
វត្តសិរីវ័ន (ផ្នោកញ្ឆើចាស់)
Chùa Phnô Canh Chơ Thmây Chùa Phnô Canh Chơ Chăs
192
Chùa Pô Thi Chum
1957
ំ វត្តសិរីឧត្តមពោធិជុ
ស្រុកបាយឆៅ
193
Chùa Phnô Kom Bôth
1585
ស្រុកបាយឆៅ
វត្តសិរីឧត្តម (ផ្នោកំបុត)
194
Chùa Bai Chhao
1507
ស្រុកបាយឆៅ
វត្តហ្លួងបាសាក់ (បាយឆៅ)
195
Chùa Tức Pray
1706
ស្រុកអណ្តូងទឹក
វត្តកំពង់មានជ័យ (ទឹកប្រៃ)
196
1837
ស្រុកអណ្តូងទឹក
វត្តសោភណរង្សី (បឹងក្រចាប់ថ្មី)
197
1773
ស្រុកអណ្តូងទឹក
វត្តមង្គលធិបតី (បឹងក្រចាប់ចាស់)
Chùa Bưng Kro Chap Thmây Chùa Bưng Kro Chap Chăs
198
Chùa Săng Ke
1609
ស្រុកអណ្តូងទឹក
វត្តសិរីមុនី (សង្កែ)
199
Chùa Bưng Kol
1884
វត្តបឹងគល់
ស្រុកអណ្តូងទឹក
200
Chùa Seerray Ta Mơn
1615
វត្តសិរីតាម៉
ឺន
ស្រុកត្រឹងដេ
201
Chùa Pđau Pên
1895
ស្រុកត្រឹងដេ
វត្តពោធិធំ (ផ្តៅពេន)
202
Chùa Bâng Sa
1890
ស្រុកត្រឹងដេ
វត្តសិរីជុ
ំ (បឹងទន្សា)
203
Chùa Chông Prek
1973
ស្រុកត្រឹងដេ
វត្តប្រជុ
ំមានជ័យសិរីចុងព្រែកនាងល្អដាច់(ចុងព្រែក)
204
Chùa Bâng Phniết
1887
ស្រុកត្រឹងដេ
វត្តបទុមសាគរ (បឹងភ្នៀត)
205
Chùa Prek Chac
1881
ស្រុកត្រឹងដេ
វត្តប្រជុ
ំវង្ស (ព្រែកចាក)
206
Chùa Pem Buôn
1954
ស្រុកត្រឹងដេ
វត្តចតុមុខារាតនារាម(ពាមបួន-កូនក្អែក)
207
Chùa Đờm Pô
1899
ស្រុកត្រឹងដេ
វត្តសិរីពោធិ (ដើមពោធិ ៍)
208
Chùa Prek Kol Thmây
1914
ស្រុកត្រឹងដេ
វត្តព្រហ្មវិសាល (ព្រែកគយថ្មី)
209
Chùa Prek Kol Chăs
1502
ស្រុកត្រឹងដេ
វត្តពោធិព្រឹក្ស (ព្រែកគយចាស់)
210
Chùa Phnô Tà Niêl
2003
ស្រុកត្រឹងដេ
វត្តមុនីវង្សារាម (ផ្នោតានៀវ)
TT. Hưng Lợi Trương Hiền, Thạnh Trị, TT Kiết Lập B, Lâm Tân, TT ấp B 1, Thạnh Tân, TT Vĩnh Thạnh, xã Vĩnh Qưới, huyện Ngã Năm ấp Cần Đước, Thạnh Phú, huyện Mỹ Xuyên Khu 1, Thạnh Phú,MX Hòa Khánh, Thạnh Qưới, MX Phú Giáo, Thạnh Qưới, MX Đại Thành, Đại Tâm, MX Tân Lộc, Đại Tâm, MX Tâm Kiên, Đại Tâm, MX Tắc Gồng, Tham Đôn, MX Cần Giờ II, Tham Đôn, MX Cần Giờ, Tham Đôn, MX Bưng Chụm, Tham Đôn, MX Phnô Com Bôth, Tham Đôn, MX ấp Chợ Cũ, TT. Mỹ Xuyên ấp 5, TT. Long Phú, huyện Long Phú Tân Lịch, Tân Hưng, LP ấp 4, Châu Khánh, LP Trường Thành B, Trường Khánh, LP Phú Đức, Long Phú, LP Đào Viên, xã Viên Bình, huyện Trần Đề Lao Vên, Viên Bình, TĐ Tiếp Nhựt, Viên An, TĐ Bờ Đập, Viên An, TĐ Bưng Triết, Liêu Tú, TĐ Giồng Chát, Liêu Tú, TĐ Tú Điềm, Đại Ân 2, TĐ Lâm Dồ, Đại Ân 2, TĐ Sóc Lèo B, TT. Lịch Hội Thượng, TĐ Châu Thành, TT. Lịch Hội Thượng, TĐ Nam Chánh, Lịch Hội Thượng,
165
211
C. Kom Pong Tro Tel
1904
ស្រុកត្រឹងដេ
វត្តកំពង់មានជ័យសិរីឧត្តម(កំពង់ប្រទាល)
212
Chùa Prek Om Pu
1668
ស្រុកត្រឹងដេ
វត្តកំពង់មានជ័យសិរីឧត្តម (ព្រែកអំពូ)
213
Chùa Đon Ka Đồn
1901
ស្រុកត្រឹងដេ
វត្តពោធិគម្ភីរសាគរ (ដងក្តោង)
214
Chùa Kro Săng
1576
វត្តសិរីក្រសាំង
ស្រុកជ្រោយ ញ
215
Chùa Đơm Om Pil
1675
ស្រុកជ្រោយ ញ
វត្តមុនីសាគរ (ដើមអំពិល)
216
Chùa Sêray Kandal
1694
វត្តសិរីកណ្តាល
ស្រុកជ្រោយ ញ
217
Chùa Pích Monkhol
1738
វត្តពេជ្រមង្គល
ស្រុកជ្រោយ ញ
218
Chùa Soài Côn
1750
ស្រុកជ្រោយ ញ
វត្តអម្ពវ័ន (ស្វាយកោង)
219
Chùa Tăng Du
1767
ស្រុកជ្រោយ ញ
វត្តឆត្តវ័ន (តាំងយូ)
220
Chùa Pro Lean
1783
ស្រុកជ្រោយ ញ
វត្តកំពង់មានជ័យសិរី (ព្រលាន)
221
Chùa Đôn Tru
1799
ស្រុកជ្រោយ ញ
វត្តមុនីសត្ថារាម (ដូនទ្រូ)
222
Chùa Tà Teo
1866
ស្រុកជ្រោយ ញ
វត្តពោធិមង្គលសិរី (តាទាវ)
223
Chùa Chhung Thom
1816
ស្រុកជ្រោយ ញ
វត្តលក្ខណវង្ស (ឈូងធំ)
224
Chùa Tà Sêk
1884
វត្តសិរីតាសេក
ស្រុកជ្រោយ ញ
225
Chùa Tà Đớk
1886
ស្រុកជ្រោយ ញ
វត្តសិរីប្រជុ
ំវង្ស (តាដើក)
226
Chùa Prây Chóp
1870
ស្រុកជ្រោយ ញ
វត្តទេពារាម (ព្រៃជាប់)
227
Chùa Phnô Pôn
1882
ស្រុកជ្រោយ ញ
វត្តបទុមសាគរសិរី (ផ្នោពោន)
228
Chùa Sala Pô Thi Mới
1937
ស្រុកជ្រោយ ញ
វត្តសាលាពោធិសិរីសាគរ (វត្តថ្មី)
229
Chùa Thoma Chô
1949
ស្រុកជ្រោយ ញ
វត្តមុនីវង្សាសិរីវង្ស (ធម្មជោតិ ៍)
230
Chùa Tứk Sáp
1953
ស្រុកជ្រោយ ញ
វត្តសិរីប្រជុ
ំវង្សព្រះកណ្តាល (ទឹកសាប)
231
Chùa Bâng Tung
1955
ស្រុកជ្រោយ ញ
វត្តសិរីរតនវង្ស (បឹងទុង)
232
Chùa Phnô Thum
1972
ស្រុកជ្រោយ ញ
វត្តសិរីសាគរ (ផ្នោធំ)
233
Chùa Đơm Thnốt
1973
ស្រុកជ្រោយ ញ
វត្តរឹទ្ធិមុនីសាគរ (ដើមត្នោត)
234
Chùa Đay Tà Pay
1973
ស្រុកជ្រោយ ញ
វត្តសិរីប្រជុ
ំបុណ្យសុវណ្ណសាគរ (ដៃតាប៉ាយ)
235
Chùa Kos Tung
1991
វត្តសុវណ្ណសង្កែមុនីកោះទុង
ស្រុកជ្រោយ ញ
TĐ Sóc Lèo, Lịch Hội Thượng, TĐ Hưng Thới, Thạnh Thới An, TĐ Giồng Chùa, TT. Trần Đề Khóm Cà Săng, P. 2, TX. Vĩnh Châu Khóm Sở Tại A, P. Vĩnh Phước, TX. VC Vĩnh Thành, Vĩnh Phước, TX. VC Khóm Wach Pích, Vĩnh Phước, TX. VC Khóm Soài Côn, P. 2, TX. VC Hòa Thành, Lạc Hòa, TX. VC Vĩnh Thành B, Vĩnh Hải, TX. VC Khóm 7, P.1, TX. VC Trà Teo, Hòa Đông, TX. VC Xum Thum A, Lai Hòa, VC Trà Sết, Vĩnh Hải, VC Hòa Nam, Lạc Hòa, VC Prây Chóp B, Lai Hòa, VC Phnô Puôl, Vĩnh Tân, VC Vĩnh Bình, P. 2, TX. VC Trà Vôn B, Vĩnh Tân, VC Xẻo Cốc, Lai Hòa, VC Khóm Bưng Tum, P. Khánh Hòa, TX. VC Nô Thum, Vĩnh Tân, VC Khóm Biến Trên A, P. Vĩnh Phước, TX.VC Đại Bái, Lạc Hòa, VC Sơn Ton, An Thạnh 2, huyện Cù Lao Dung
166
TỈNH AN GIANG
ខេត្តអាងយ៉ាង(មាត់ជ្រូក)
236
Chùa Muni Vongsa
1901
ស្រុកចៅភូ
វត្តមុនីវង្សា (ស្នែងព្រះគោ)
237
Chùa Prek Stưng
1937
វត្តព្រះស្ទឹង
ស្រុកបារាជ
238
Chùa Chắc Sđào
1820
ស្រុកបារាជ
វត្តបុប្ផសិរីចេស្តី (ចាស់ស្តៅ)
239
Chùa Vĩnh Trạch
1798
240
Chùa Ba Thê
Bình Hưng I, Bình Mỹ, Châu Phú Cần Thạnh, Cần Đăng, Châu Thành Hoà Tân, Hoà Bình Thạnh, Châu Thành Đông Bình, Vĩnh Thạnh, Châu Thành Ba Thê, Vong Thê,
1816
ស្រុកបារាជ ស្រុកបាថេរ
វត្តសិរីមង្គលសាគរ (បារាជ) វត្តកល្បព្រឹក្ស (បាថេរ)
241
Chùa Pô Los
1798
វត្តពោធិវង្សពង្សពោធិលាស់
ស្រុកស្វាយទង
Thoại Sơn ấp Tô Lợi, xã Cô Tô, huyện Tri Tôn
242
Chùa Pra Sath Pôs
Tô Lợi, Cô Tô, TT
ស្រុកស្វាយទង
វត្តសុរិន្ទារាម (ប្រាសាទផុស)
1891 (201 3)
243
Chùa Svay Tà Hon
1849
វត្តស្វាយតាហង្ស
ស្រុកស្វាយទង
244
1962
វត្តស្វាយដង្គំថ្មី
ស្រុកស្វាយទង
Chùa Soai Ta Kum Mới
245
Chùa Tro Peng Trao
1513
វត្តត្រពាំងត្រាវ
ស្រុកស្វាយទង
246
Chùa Som Sây
1904
ស្រុកស្វាយទង
វត្តរាជាសំសីរស្មីថ្នល់កែវ (សំសី)
247
Chùa Soai Ta Kum Cũ
1110
វត្តស្វាយដង្គំចាស់
ស្រុកស្វាយទង
248
Chùa Kom Phlưng
1910
ស្រុកស្វាយទង
វត្តពោធិវង្ស (អង្គកំភ្លឹង)
249
Chùa Sre Bun
1846
ស្រុកស្វាយទង
វត្តឥន្ទសេរី (ស្រែបុណ្យ)
250
Chùa Pa Theat
1799
ស្រុកស្វាយទង
វត្តសិរីវង្សា (ព្រះធាតុ)
251
Chùa Thnốt Chrum
1590
វត្តត្នោតជ្រំ
ស្រុកស្វាយទង
252
Chùa Chi Pok
1817
ស្រុកស្វាយទង
វត្តមុនីជោតិវង្សារាម (ជ្រោះពក)
253
Chùa Sóc Triết
1590
វត្តចម្ប៉ាភ្នំទ្រៀក
ស្រុកស្វាយទង
254
Chùa Khok Treng
1400
255
Chùa Tà Pạ
1850
256
Chùa Soài So
1860
ស្រុកស្វាយទង ស្រុកស្វាយទង ស្រុកស្វាយទង
វត្តគោកត្រែង វត្តភ្នំតាប៉ា វត្តស្វាយ ស (ទំនើប)
257
Chùa Chi Mung
1299
ស្រុកស្វាយទង
វត្តពោធិវង្ស (ជីមុង)
258
Chùa Kol Kas
1650
259
Chùa Prey Veng
1149
វត្តទួលប្រាសាទ (គល់កាស) វត្តព្រៃវែង
260
Chùa Ông
1932
ស្រុកស្វាយទង ស្រុកស្វាយទង ស្រុកស្វាយទង
វត្តសិរីអង្គរជុ
ំ (អង្គ)
261
Chùa Sập Da
1992
វត្តអណ្តូងប៉ែន
ស្រុកស្វាយទង
262
Chùa Ta Miệt Trên
1941
ស្រុកស្វាយទង
វត្តគីរីរង្សីសិរីឧត្តមស្វាយតាណិប (គោករមៀតលើ)
263
Chùa Ta Miệt Dưới
1399
ស្រុកស្វាយទង
វត្តបវរពោធិលង្កាតារា(គោករមៀតក្រោម)
264
Chùa Chika Êng Trên
1885
ស្រុកស្វាយទង
វត្តទឹកផុស (ជីក្អេងលើ)
265
Chùa Chika Êng Dưới
1404
ស្រុកស្វាយទង
វត្តរំដួលទួលសូរភីរាម (ជីក្អេងក្រោម)
266
Chùa Sà Lôn
1746
ស្រុកស្វាយទង
វត្តបវរពោធិញ្ញាណ (ស្រឡូង)
267
Chùa Bân Rô
1700
វត្តពង្រហ៏
ស្រុកស្វាយទង
268
Chùa Krăn Croch
1608
ស្រុកស្វាយទង
វត្តសារាំងប្រជុ
ំមជ្ឈឹមគីរីរាម (ក្រាំងក្រូច)
269
Chùa Pô Som Rong
1657
ស្រុកស្វាយទង
វត្តរមណីយារាម (ពោធិសំរោង)
270
Chùa Nam Qui trên
1925
វត្តភ្នំពីរលើ
ស្រុកស្វាយទង
271
Chùa Nam Qui giữa
1699
វត្តភ្នំពីរកណ្តាល
ស្រុកស្វាយទង
272
Chùa Nam Qui dưới
1769
វត្តភ្នំពីរក្រោម
ស្រុកស្វាយទង
273
Chùa Soài Tong
1510
ស្រុកស្វាយទង
វត្តសត្តមណ្ឌលគីរី (ស្វាយទង)
274
Chùa Ta Dung trên
1784
ស្រុកស្វាយទង
វត្តគីរីបុព្វតាចម្ប៉ាលើក (ទំពូងលើ)
275
Chùa Ta Dung dưới
1678
ស្រុកស្វាយទង
វត្តរំដួលទួលសុភី (ទំពូងក្រោម)
Sla Đơm, An Tức, TT Ninh Hoà, An Tức, TT Tapeng Trao, An Tức, Tri Tôn Som Sây, Ô Lâm, TT Phước Thọ, Ô Lâm, Tri Tôn Tropengpôr, Ô Lâm, Tri Tôn ấp Chhuk, Ô Lâm, TT Pa Theat, Ô Lâm, TT Thnốt Chrum, Ô Lâm, Tri Tôn Chrốs Pốk, An Tức, Tri Tôn Sóc Triết, Cô Tô, TT Kop Treng, Núi Tô, Tri Tôn Tố Hạ, Núi Tô, TT Chrôi, Núi Tô, Tri Tôn Ta Pôr, Cô Tô, Tri Tôn Kol Kas, Châu Lăng, Tri Tôn khóm 4, Tri Tôn, TT Ta Ông, Ba Chúc, TT Sập Da, Ba Chúc, TT Kôkrômiết Trên, Lương Phi, Tri Tôn Kôkrômiết dưới, Lương Phi, Tri Tôn Chika Êng Trên, Châu Lăng, Tri Tôn Chika Êng Dưới, Châu Lăng, Tri Tôn Sà Lôn, Lương Phi, TT Pung Rô, Châu Lăng, Tri Tôn An Hoà, Châu Lăng, Tri Tôn Som Rông, Châu Lăng, Tri Tôn Nam Qui, Châu Lăng, Tri Tôn Nam Qui Giữa, Châu Lăng, Tri Tôn Nam Qui, Châu Lăng, Tri Tôn Soài Tong, Tri Tôn, Tri Tôn Tumpunglơ, Lương Phi, Tri Tôn Tumpungcro, Lương Phi, Tri Tôn
167
276
Chùa Thlâng
Lê Trì, Tri Tôn
1678
277
Chùa On Đôn Tkâu
1690
278
Chùa Soài Chếk
1946
ស្រុកស្វាយទង ស្រុកស្វាយទង ស្រុកក្របៅ
វត្តបវរពោធិថ្លឹង (ថ្លឹង) វត្តសិរីចេស្តារាម (អណ្តូងថ្កូវ) វត្តរតនារាមអង្គត្រពាំងព្រះ (ស្វាយចេក)
279
Chùa Đắc Tọt
1880
280
Chùa Pen Lợt
1873
281
Chùa Rô
1900
ស្រុកក្របៅ ស្រុកក្របៅ ស្រុកក្របៅ
វត្តរាជទស្សនារាម (ស្តេចទត) វត្តសុវណ្ណវនារាម (សុព៌ណលើក) ៍)
៍ឥសីសិទ្ធី (រោទិ
វត្តគីរីគុជ្ជរោទិ
282
Chùa Ben Đồn
1890
283
Chùa Pô Thi
1933
284
Chùa Thốt Nốt
1700
Chùa Cô
1690
285
Lê Trì, Tri Tôn Soài Chếk, An Cư, Tịnh Biên Vĩnh Hạt, Vĩnh Trung, Tịnh Biên Chi Lăng, Tịnh Biên Vĩnh Thuận, An Cư, Tịnh Biên Chơn Cô, An Cư, TB Pô Thi, An Cư, TB Chơn Cô, An Cư, TB Pô Thi, An Cư, TB
286
Chùa Cây Đuốk
1890
287
Chùa Thom Mít
1890
288
Chùa Ba Soài
1799
289
Chùa Prel
1900
ស្រុកក្របៅ ស្រុកក្របៅ ស្រុកក្របៅ ស្រុកក្របៅ ស្រុកក្របៅ ស្រុកក្របៅ ស្រុកក្របៅ ស្រុកក្របៅ
វត្តធម្មវង្សារាម (ពាមដូង) វត្តពោធិឧត្តម (ពោធិ ៍) វត្តតាលវណ្ណារាម (ត្នោត) វត្តពោធិវង្សគីរីសាគរ (គរ) វត្តសិរីសង្កែមាស (សង្កែដួច) វត្តធម្មនិមិត្ត (ក្តួច) វត្តគីរីបុប្ផាពោធិព្រឹក្សក្តុល (អំពាយស្វាយ) វត្តពារាណសី (ព្រាល)
290
Chùa Cây Khoa
1910
ស្រុកក្របៅ
វត្តគីរីរង្សី (ខ្លាខ្វា)
291
Chùa Kos Rumdet
1516
វត្តកោះអណ្តែត
ស្រុកក្របៅ
292
Chùa Mới
1900
ស្រុកក្របៅ
វត្តគីរីសុខុម (ថ្មី)
293
Chùa Crăn Chay
1899
Chùa Mỹ Á Chùa Neng Nong
294 295
1699 1600
296
Chùa Văn Râu
1600
ស្រុកក្របៅ ស្រុកក្របៅ ស្រុកក្របៅ ស្រុកក្របៅ
វត្តភទ្ទសីមាចម្ប៉ាជើងភ្នំ (ក្រាំងចាយ) វត្តប្រឡាយមាស វត្តគីរីសោភ័ណសុវណ្ណ (ណែងណង) វត្តសត្ថាវង្សអង្គ (ត្រពាំងជ្រៅ)
297
Chùa Sà Rất
1600
វត្តសិលាចារឹត
ស្រុកក្របៅ
298
Chùa Soai Tà Som
1860
Chùa Đờm Pà Ốk
1800
299
Pô Thi, An Cư, TB Vĩnh Hạt, Vĩnh Trung, Tịnh Biên Pô Thi, An Cư, TB Chơn Cô, An Cư, TB Vĩnh Thượng, An Cư, Tịnh Biên An Thạnh, An Hảo, Tịnh Biên Xuân Phú, Nhà Bàng, Tịnh Biên Tân Thuận, Tân Lợi, Tịnh Biên Mỹ Á, Chi Lăng, TB Văn Giáo, Tịnh Biên Sây Sà Cốt, Văn Giáo, Tịnh Biên Soài Chếk, An Cư, TB An Hoà, An Hảo, TB An Cư, Tịnh Biên
Chùa On Đôn Pruos
1600
300
Chùa Pothiwong
1820
ស្រុកក្របៅ ស្រុកក្របៅ ស្រុកក្របៅ ស្រុកក្របៅ
301
វត្តសំរឹទ្ធិជ័យ (ស្វាយតាសំ) វត្តចន្ទលីវង្សារាម (ដើមផ្អោក) វត្តសិរីវង្សាចេស្តា (អណ្តូងព្រួស) វត្តពោធិវង្ស (ត្រាស់)
An Cư, Tịnh Biên Nhà Bàng, Tịnh Biên
TỈNH KIÊN GIANG
ខេត្តគៀងយ៉ាង(ក្រមួន ស)
302
Chùa Thứ Ba
1947
ស្រុកព្រែកបី
វត្តសិរីវង្សា (ព្រែកបី)
303
Chùa Thứ Năm
1907
ស្រុកព្រែកបី
វត្តវង្សាសួស្តី (ព្រែកប្រាំ)
304
Chùa Tà Bết
1606
ស្រុកឃ្លាំងមឿង
វត្តសិរីវង្សាផល (អំពាច)
305
1940
Chùa Chắc Kha Cũ
វត្តអង្គមានជ័យសិរីសុខា (ចាកហាលចាស់)
ស្រុកឃ្លាំងមឿង ស្រុកឃ្លាំងមឿង
306
Chùa Chụng
1870
វត្តសិរីវង្សា (ជ្រុង)
ស្រុកឃ្លាំងមឿង
307
Chùa Cà Săn
1950
វត្តមង្គលរង្សី (ក្រសាំង)
308
Chùa Kveng Tô Tưng
1835
ស្រុកឃ្លាំងមឿង
វត្តមង្គលរង្សី (ខ្វែងទទឹង)
309
Chùa Gò Đất
1925
ស្រុកឃ្លាំងមឿង
វត្តប្រជុ
ំសាគរ (ដង្ហិត)
310
Chùa Chắc Kha Mới
1948
ស្រុកឃ្លាំងមឿង
វត្តជម្ពូព្រឹក្សា (ចាកហាលថ្មី)
311
Chùa Xà Xiêm mới
1960
312
Chùa Xà Xiêm cũ
Khu vực 2, TT. Thứ 3, An Biên ấp 5 Chùa, Nam Thái, An Biên Thạnh Bình, xã Thanh Lộc, H. Châu Thành Bình Lợi, Minh Hoà, H. Châu Thành Tân Hưng, Giục Tượng, CT Phước Lợi, Mong Thọ B, CT Minh Hưng, Minh Hoà, CT Bình Hoà, Minh Hoà, Châu Thành An Bình, Minh Hoà, Châu Thành Xà Xiêm, Bình An, CT Xà Xiêm, Bình An,
1893
ស្រុកឃ្លាំងមឿង ស្រុកឃ្លាំងមឿង
វត្តសិរីវង្សា (ស្រែសៀមថ្មី) វត្តសិយាមវង្សា (ស្រែសៀមចាស់)
168
313
Chùa Cù Là mới
1901
ស្រុកឃ្លាំងមឿង
វត្តឧត្តមសុរិយា (កំពង់ចិនថ្មី)
314
Chùa Cù Là cũ
1627
ស្រុកឃ្លាំងមឿង
វត្តវង្សាគ្រឹះ (កំពង់ចិនចាស់)
315
Chùa Khlang Mương
1673
ស្រុកឃ្លាំងមឿង
វត្តតម្លៃថោង (ខ្លាងមឿង)
316
Chùa Khlang Ông
1638
ស្រុកឃ្លាំងមឿង
វត្តសុវណ្ណរង្សី (ខ្លាងអុង)
317
1658
ស្រុកព្រៃរំដេង
វត្តកោះស្លាខេត្ត (ឡាំងឈួងចាស់)
Chùa Đường Xuồng Cũ
318
Chùa Cả Đước Vàm
1952
ស្រុកព្រៃរំដេង
វត្តវិភទ្ទរង្សី (កាយដួកពាម)
319
Chùa Thác Lác
1842
ស្រុកព្រៃរំដេង
វត្តអម្ពរវ័ន (កាយដួកស្វាយ)
320
Chùa Rạch Tranh
1971
ស្រុកព្រៃរំដេង
វត្តសុវណ្ណមជ្ឈឹម (ព្រែកក្រូច)
321
Chùa Mò Om
1927
ស្រុកព្រៃរំដេង
វត្តសិរីពោធិជុ
ំ (ម្អម)
322
Chùa Đây Ông
1973
ស្រុកព្រៃរំដេង
វត្តមុនីរង្សី (ដីអុង)
323
Chùa Cả Đuốc nhỏ
1900
ស្រុកព្រៃរំដេង
វត្តសិរីមង្គលពោធិពោធិទ័ម (កាយដួកតូច)
324
Chùa Nha Si mới
1962
ស្រុកព្រៃរំដេង
វត្តសិរីមង្គលពោធិសីលា (កំពង់បោះត្រាថ្មី)
325
Chùa Pô Som Rông
1895
ស្រុកព្រៃរំដេង
វត្តពោធិសំរោង (ថាញ់ឡើយ)
326
Chùa Giồng Đá
1532
ស្រុកព្រៃរំដេង
វត្តគង្គានទី (គោកស្ទឹង)
327
Chùa Som Rông
1931
ស្រុកព្រៃរំដេង
វត្តមុនីរង្សីសិរីសំពៅមាស (សំរោង)
328
Chùa Cà Đuốc lớn
1626
ស្រុកព្រៃរំដេង
វត្តចន្ធសុរិយា (កាយដួកធំ)
329
Chùa Nha Si cũ
1733
ស្រុកព្រៃរំដេង
វត្តពោធិកណ្តាល (កំពង់បោះត្រាចាស់)
330
Chùa Tràm Chẹt
1933
ស្រុកព្រៃរំដេង
វត្តចម្ប៉ាជ័យ (សំចេត្រ)
331
Chùa Sóc Sâu
1686
ស្រុកអំពាចវែង
វត្តនគរជុ
ំ (បឹងមូល)
332
1910
ស្រុកអំពាចវែង
វត្តដួងលៃសិរីវង្សា (ឡាំងឈួងថ្មី)
Chùa Đường Xuồng Mới
333
Chùa Prết Prô Lít
1956
ស្រុកអំពាចវែង
វត្តឧត្តមមុនីរង្សី (ព្រែកប្រលិត)
334
Chùa Tức Sáp
1973
ស្រុកអំពាចវែង
វត្តសុវណ្ណមុនីរង្សី (ទឹកសាប)
335
Chùa Prết Tia
1678
ស្រុកអំពាចវែង
វត្តមូលជុ
ំ (ព្រែកទា)
336
Chùa Thới An
1889
ស្រុកអំពាចវែង
វត្តសិរីវង្សាជុ
ំ (ព្រែកជុ
ំ)
337
Chùa Cỏ Khía Cũ
1928
ស្រុកអំពាចវែង
វត្តមង្គលព្រឹក្សា (ព្រែកជ្រៃចាស់)
338
Chùa Cà Nhung
1790
ស្រុកអំពាចវែង
វត្តសិរីគង្គា (គ្រញូង)
339
Chùa Tổng Quản
1662
ស្រុកអំពាចវែង
វត្តសិរីសួស្តី (កំពង់ក្របី)
340
Chùa Cỏ Khía Mới
1964
ស្រុកអំពាចវែង
វត្តសិរីរតនារាម (ព្រែកជ្រៃថ្មី)
341
Chùa Prết Sla
1565
ស្រុកអំពាចវែង
វត្តថ្នល់ជុ
ំ (ព្រែកស្លា)
342
Chùa Tà Mum
1578
ស្រុកអំពាចវែង
វត្តមន្ទាមុនី (តាមុ ំ)
343
Chùa Sóc Ven Mới
1956
ស្រុកអំពាចវែង
វត្តសិរីឧត្តមវង្សា (អំពាចវែងថ្មី)
344
Chùa Sóc Ven Cũ
1680
វត្តអូរជុ
ំវង្សា (អំពាចវែងចាស់)
ស្រុកអំពាចវែង ស្រុកភ្នំដី
345
Chùa Hòn Sóc
1738
វត្តគីរីវង្សាចរិយាព្រឹក្ស (ចម្ប៉ាភ្នំច្រក់)
CT Kp Minh Lạc, TT. Minh Lương Kp Minh Phú, TT. Minh Lương Kp. Minh Lương, TT. Châu Thành Kp Minh An, TT. Minh Lương ấp 8, xã Long Thạnh, huyện Giồng Riềng Ngọc Bình, Ngọc Chúc, GR Hai Lành, Hoà Thuận, Giồng Riềng Vĩnh Hoá, TT. Giồng Riềng, GR Thạnh Ngọc, Thạnh Hưng, GR ấp 2 Cây Queo, Thạnh Hoà, GR Ngọc Tân, Ngọc Chúc, Giồng Riềng Vĩnh Lợi, Vĩnh Thạnh, Giồng Riềng Thạnh Đông, Thạnh Phước, GR Giồng Đá, Bàn Thạch, Giồng Riềng Cây Trôm, Bàn Thạch, Giồng Riềng Ngọc Bình, Ngọc Chúc, GR Huỳnh Tố, Vĩnh Phú, GR Tràm Chẹt, Bàn Tân Định, GR ấp An Phú, xã Vĩnh Phước, H. Gò Quao Thanh Gia, Định Hoà, Gò Quao Hoà Chiếu 2, Định Hoà, Gò Quao ấp 2, Vĩnh Hoà Hưng, Gò Quao 4 An Trường, Định An, Gò Quao Trung Nông, Thới Quản, Gò Quao Hoà Lệ, Thới Quản, Gò Quao Hoà Tạo, Định Hoà, Gò Quao Hòa Bình, Thới Quản, Gò Quao Xuân Đông, Thới Quản, Gò Quao ấp 4 Hoà An, Thuỷ Liễu, Gò Quao Hoà Hưng, Định Hoà, Gò Quao ấp 3 An Lợi, Định An, Gò Quao ấp 2 An Hoà, Định An, Gò Quao Hòn Sóc, Thổ Sơn, Hòn Đất
169
ស្រុកភ្នំដី
346
Chùa Lình Huỳnh
1940
វត្តសាគររង្សី (ព្រែកអង្គុញ)
ស្រុកភ្នំដី
347
Chùa Rồng Kè
1829
វត្តសុវណ្ណសាគរ (ស្ទឹងស្ទង)
348
Chùa Hòn Me
1820
ស្រុកភ្នំដី
វត្តគីរីសាគរ (ព្រែកអំពិល)
349
Chùa Kinh 12
2003
ស្រុកភ្នំដី
វត្តជ័យឧត្តមបញ្ចខត្តអន្តរគីរី (កិញ ១២)
350
Chùa Ranh Hạt
1952
វត្តសិរីវង្សាចម្ប៉ា (រាញហាត)
ស្រុកភ្នំដី ស្រុកភ្នំដី
351
Chùa Chòm Chuối
1966
វត្តចម្ប៉ា (ដើមចេក)
ស្រុកភ្នំដី
352
Chùa Sóc Xoài
1750
វត្តរាជកុសលបំពេញជ័យ (ស្វាយ)
353
Chùa Tà Phọt
1895
ស្រុកព្រៃរមែង
វត្តសិរីព្រឹក្សា (ប៉ប្រក)
354
Chùa Tà Ten
1932
ស្រុកព្រៃរមែង
វត្តសិរីមង្គលអង្គលើក (តាតែន)
355
Chùa Giồng Kè
1878
ស្រុកព្រៃរមែង
វត្តបឹងជុ
ំ (កោះទទា)
356
Chùa Núi Trầu
1965
ស្រុកភ្នំម្លូ
វត្តគីរីវង្សា (ភ្នំម្លូ)
357
Chùa Bãy Ớt
1884
ស្រុកភ្នំម្លូ
វត្តចម្ប៉ាលើក (បាយអឺក)
358
Chùa Bảy Chà Và
1589
ស្រុកភ្នំម្លូ
វត្តបឹងជុ
ំ (ថ្លុក)
359
Chùa Hòn Chông
1826
ស្រុកភ្នំម្លូ
វត្តសិរីសាគរ (ទម្លប់)
360
Chùa Ba Trại
1932
ស្រុកភ្នំម្លូ
វត្តសុវណ្ណសាគរ (ព្រះចៅការ)
361
Chùa Mũi Nai
1920
ស្រុកពាម
វត្តគីរីវង្សា (វាលបើស)
362
Chùa Xà Xía
1981
ស្រុកពាម
វត្តខេត្តបរិវេន (កោះចន្លុះ)
363
Chùa Thôn Dôn
1886
ទីក្រុង
វត្តកែវមុនីវង្សា (ជ្រុងយោង)
364
Chùa Rạch Sỏi
1953
ទីក្រុង
វត្តសិរីវង្សសូរិយា (ក្រួស)
365
Chùa Phật Lớn
1504
ទីក្រុង
វត្តឧត្តុង្គមានជ័យ (ចំការត្រើយជើង)
366
Chùa Láng Cát
1412
ទីក្រុង
វត្តរតនរង្សី (ចំការត្រើយត្បូង)
367
Chùa Chắc Băng Cũ
1725
ស្រុកខ្វែងទទឹង
វត្តវង្សពិសីសិរីសុខា (ចាកបាំងចាស់)
368
Chùa Kinh II
1940
ស្រុកខ្វែងទទឹង
វត្តសិរីមានជ័យរមណីយដ្ឋាន (កិញហាយ)
369
Chùa Chắc Băng Mới
1962
ស្រុកខ្វែងទទឹង
វត្តឧត្តមមានជ័យ (ចាកបាំងថ្មី)
370
Chùa Đông Tranh
1725
ស្រុកខ្វែងទទឹង
វត្តអង្គមេត្រីសិរីព្រឹក្សា (ព្រែកពក)
371
Chùa Kè Một
1836
ស្រុកខ្វែងទទឹង
វត្តសិរីឧត្តម (កង្កែបយំ)
Chùa Tà Keo
372
2008
ស្រុកតឹងហ៊
ីប
វត្តរតនារាម (តាកែវ)
373
Chùa Xẻo Ranh
1974
អូរមិញទឿង
វត្តសិរីវង្សាសាគរ (ឆែវរាញ)
374
1990
អូរមិញទឿង
វត្តឧត្តមមានជ័យសិរីព្រឹក្សា (ព្រែកប្រាំ -ង៉ាណាំបិញមិញ)
Chùa Ngã Năm Bình Minh
375
Chùa Xẻo Cạn
1965
អូរមិញទឿង
វត្តសិរីវង្សា (ឆែវក្រាង)
Lình Huỳnh, Thổ Sơn, Hòn Đất Rồng Kè, Bình Giang, Hòn Đất Hòn Me, Thổ Sơn, Hòn Đất Sơn An, Nam Thái Sơn, Hòn Đất Ranh Hạt, Bình Giang, Hòn Đất Chòm Chuối, TT. Hòn Đất, Hòn Đất Sóc Xoài, TT. Sóc Sơn, Hòn Đất Tà Phọt, Phú Mỹ, Giang Thành Tà Ten, Phú Mỹ, Giang Thành Giồng Kè, Phú Lợi, Giang Thành Núi Trầu, Hòa Điền, Kiên Lương Bãy Ớt, Dương Hòa, Kiên Lương Bảy Chà Già, Dương Hòa, Kiên Lương Hòn Chông, Bình An, Kiên Lương Ba Trại, Bình An, Kiên Lương Kp 3, P. Pháo Đài, TT. Hà Tiên, TX. Hà Tiên Xà Xía, Mỹ Đức, TX. Hà Tiên Kp 6, P. An Hòa, Tp. RG 36 Cao Thắng, Kp 3, P.Vĩnh Lợi, Tp. RG 151 Quang Trung, P. Vĩnh Thạnh, Tp. RG 325 Ngô Quyền, P.Vĩnh Lạc, Tp. RG Phong Đông, Vĩnh Phong, Vĩnh Thuận Vĩnh Tây, Vĩnh Phong, Vĩnh Thuận Vĩnh Phước 2, TT. Vĩnh Thuận Đồng Tranh, Vĩnh Bình Bắc, Vĩnh Thuận Bình Hòa, Vĩnh Bình Bắc, Vĩnh Thuận Thanh Trúc, Thạnh Trị, Tân Hiệp Vĩnh Chanh, Hòa Chánh, U Minh Thượng Vĩnh Chanh, Hòa Chánh, U Minh Thượng Vàm Canh A, Thạnh Yên, U Minh Thượng
170
កោះត្រល់
376
Chùa Bồ Đề Hải Đảo
2011
វត្តពោធិទីបារាម (កោះត្រល់)
ấp Đường Bào, Dương Tơ - Phú Quốc
171
TỈNH VĨNH LONG
ខេត្តវិញឡុង(លង់ហោរ)
Chùa Phù Ly 1
ស្រុកអង្គុលី
377
1672
វត្តអង្គុលីរាជាសិរីឧត្តម (អង្គុលីត្បូង)
378
Chùa Phù Ly 2
1672
ស្រុកអង្គុលី
វត្តកំពង់រាជបុប្ផា (អង្គុលីជើង)
379
Chùa Mỹ Bổn
1995
ស្រុកអង្គុលី
វត្តមុនីបុទុម (ព្រែកគោល)
380
Chùa Tòa Sen
1800
ស្រុកអង្គុលី
វត្តសិរីសទ្ធារាម (តាសែន)
381
C. Măng Khol Bô Rây
1060
ស្រុកផ្សារថ្មី
វត្តមង្គលបុរី (ទ្រនំសេក)
382
Chùa Kỳ Sơn
1601
ស្រុកផ្សារថ្មី
វត្តសាលវនឧទ្យា (ព្រែកឈូក)
383
Chùa Hạnh Phúc Tăng
632
កំពង់រលេម
វត្តសង្ឃមង្គល (កំពង់រលេម)
384
Chùa Cần Thay
1559
ស្រុកតាឪន
វត្តសិរីមង្គលតាធាយ (ព្រែកនិស្ស័យ)
385
Chùa Giữa
1684
ស្រុកតាឪន
វត្តសិរីសួស្តីដូនល្អ (កណ្តាល)
386
Chùa Gò Xoài
1530
ស្រុកតាឪន
វត្តមុនីឧត្តម (ស្វាយ)
387
Chùa Gia Kiết
1878
ស្រុកតាឪន
វត្តទេពមង្គលឧត្តម (អន្ទិព)
388
Chùa Cũ
1648
ស្រុកតាឪន
វត្តបូគ៌ាមរិក្សកាលបូព្រឹក្ស (សង់ច្រវាចាស់)
389
Chùa Mới
1879
ស្រុកតាឪន
Phù Ly 1, Đông Bình, Bình Minh Phù Ly 2, Đông Bình, Bình Minh Thuận Tân, Thuận An, Bình Minh Hóa Thành, Đông Thành, Bình Minh Đại Thọ, Loan Mỹ, Tam Bình Sóc Rừng, Loan Mỹ, Tam Bình Trung Thạch, Trung Thành, Vũng Liêm Mỹ Định, Tân Mỹ, Trà Ôn Mỹ An, Tân Mỹ, Trà Ôn Mỹ Bình, Tân Mỹ, Trà Ôn Gia Kiết, Tân Mỹ, Trà Ôn Trà Sơn, Hữu Thành, Trà Ôn Ngãi Lộ A, Trà Côn, Trà Ôn
វត្តកេលបទុមបុប្ផាសាលវនសមន្តរឹទ្ធិ (សង់ច្រវាថ្មី)
ខេត្តបាកសីវ(ពលលាវ) TỈNH BẠC LIÊU
390
Chùa Giá Rai Cũ
ấp 5, TT. Giá Rai
1949
ស្រុកកោះម្ហាត់
វត្តសិរីមានជ័យ (យ៉ារ៉ាយចាស់)
391
Chùa Hộ Phòng Mới
1973
ấp 1, TT. Hộ Phòng
វត្តថ្មីប្រជុ
392
Chùa Hộ Phòng cũ
1946
ấp 4, TT. Hộ Phòng
ំមានជ័យសិរីរតនារាម-ហោផុងថ្មី ំវង្ស (ហោផុងចាស់)
393
Chùa Giá Rai mới
1972
394
Chùa Dì Quán
1849
ស្រុកកោះម្ហាត់ ស្រុកកោះម្ហាត់ ស្រុកកោះម្ហាត់ ស្រុកខ្នារង
វត្តសិរីសាគរប្រជុ វត្តថ្មីសិរីមានជ័យ (យ៉ារ៉ាយថ្មី) វត្តសិរីឧត្តមមុនីជយារាម (កៃខ្វាង)
1629
395
Chùa Ngàn Dừa
ស្រុកខ្នារង
វត្តឧត្តុង្គមានជ័យបូរីប្រឹក្សា (ង៉ាងយឿ)
396
Chùa Khna Ron
1946
ស្រុកខ្នារង
វត្តខ្នារងថ្មីសិរីសោភ័ណ (ខ្នារង)
397
Chùa Đìa Muồng
1956
ស្រុកខ្នារង
វត្តសិរីវង្សាជយារាម (ខ្វែងដង្ហិត)
398
Chùa Đầu Sấu
1901
ស្រុកខ្នារង
វត្តរម្ភាវណ្ណ (ក្បាលក្រពើ)
399
Chùa Kos Thum
1832
ស្រុកខ្នារង
វត្តក្រពុ
ំមានជ័យ (កោះធំ)
400
Chùa Kos Đôn
1903
ស្រុកខ្នារង
វត្តមុនីសិរីសោភ័ណ (កោះដូង)
401
Chùa Kim Cấu
1974
ទីក្រុង
វត្តសុវណ្ណសាគរសិរី (ដើមពោន)
402
Chùa Trà Kha
1974
ទីក្រុង
វត្តសាលាពោធិជុ
ំ (ផ្នោបើស)
403
Chùa Phường 7
1887
ទីក្រុង
វត្តប្រជុ
ំសាគរ (ពលលាវថ្មី)
404
Chùa Xiêm Cán
1887
ទីក្រុង
វត្តគម្ភីរសាគរ (ព្រែកជ្រៅ)
ấp 4, TT. Giá Rai Phú Tân, Ninh Quới, Hồng Dân Trèm Trẹm, TT. Ngàn Dừa, Hồng Dân Ninh Chùa, Ninh Quới, Hồng Dân Vĩnh Lộc, V. Phú Đông, Phước Long Đầu Sấu, Lộc Ninh, Hồng Dân Kos Thum, Ninh Thạnh Lợi, Hồng Dân Bình Bảo, Vĩnh Phú Tây, Phước Long Kim Cấu, Vĩnh Tạch, TX. BL Trà Kha A, P. 8, TX. BL khóm 4, P. 7, TX.BL Biển Đông B, Vĩnh Trạch Đông, TX.BL
405
Chùa Khôsêtaram
1868
ស្រុកខ្វែងបបែល
វត្តឃោសិតារាម (ពលលាវចាស់)
406
Chùa Cái Giá cũ
1573
ស្រុកខ្វែងបបែល
វត្តបុប្ផារាម (ខ្វែងបបែលចាស់)
407
Chùa Vĩnh Thạnh
1965
ស្រុកខ្វែងបបែល
វត្តសិរីវង្សសាគរ (កោះថ្មី)
408
Chùa Cái Giá mới
1937
ស្រុកខ្វែងបបែល
វត្តសុរិយារាម (ខ្វែងបបែលថ្មី)
409
Chùa Hoà Bình mới
1952
ស្រុកពុតធ្លេ
វត្តសិរីវង្សា (ពុតធ្លេថ្មី)
410
Chùa Hoà Bình cũ
1536
ស្រុកពុតធ្លេ
វត្តសិរីពោធិមង្គល (ពុតធ្លេចាស់)
411
Chùa Đìa Chuối
1928
ស្រុកពុតធ្លេ
វត្តសិរីវង្សា (អណ្តូងចេកមាស)
Cù Lao, Hưng Hội, Vĩnh Lợi Cái Giá, Hưng Hội, Vĩnh Lợi Vĩnh Thạnh, Vĩnh Hậu, Vĩnh Lợi Cái Giá, Hưng Hội, Vĩnh Lợi Thị Trấn B, Hoà Bình, Vĩnh Lợi Thị Trấn A, Hoà Bình, Vĩnh Lợi Thành Sơn, Vĩnh Bình, Vĩnh Lợi
172
TỈNH CÀ MAU
ខេត្តកាម៉ាវ(ទឹកខ្មៅ)
Chùa Đầu Nai
412
1841
ស្រុកថើយបិញ
វត្តសិរីជុ
ំបទុមមានជ័យ (ដូវណាយ)
Chùa Rạch Giồng
413
1788
ស្រុកថើយបិញ
វត្តសិរីមង្គល (ជ្រុងខ្មែរ)
Chùa Cao Vân
414
1922
ស្រុកថើយបិញ
វត្តសិរីមានជ័យវង្សស្រង់ (ក្របីឃ្លៀច)
Munivong Bôpharam
415
1964
ទីក្រុង
វត្តមុនីវង្សាបុប្ផារាម (ទឹកខ្មៅ)
Chùa Rạch Cui
416
1921
ត្រឹងវាំងថើយ
ំប្រាសាទ (រាជកូយ)
វត្តជុ
Chùa Tam Hiệp
417
1946
ត្រឹងវាំងថើយ
ấp 12, Tân Lộc, Thới Bình Đường Đào, Hồ Thị Kỷ, Thới Bình ấp 7, Tân Lộc, Thới Bình khóm III, phường I, Tp.CM Rạch Cui, Khánh Bình Đôn, Trần Văn Thời Bình Minh I, Trần Hợi, Trần Văn Thời
វត្តសេរីវង្សា (ញ៉ាម័យ)
ទីក្រុងកឹងធើ(ព្រែកឫស្សី) THÀNH PHỐ CẦN THƠ
Chùa Muni Rengsây
វត្តមុនីរង្សី
418
1948
ទីក្រុងព្រែកឫស្សី
វត្តពិទូឃោសរង្សី
419
1949
Chùa Pithi Khosa Rengsây Chùa Pithi Somrông
វត្តពោធិសំរោង
420
1735
ស្រុកអូរមល់
វត្តសង្វរពោធិញ្ញាណ
421
1704
ស្រុកអូរមល់
Chùa Sanvor Pithi Nhen Chùa Phe Sacha Vone
វត្តភេសជ្ជវ័ន
422
1497
ស្រុកអូរមល់
Chùa Ne Rey Vone
វត្តនារីវណ្ណ
423
1822
ស្រុកអូរមល់
Chùa Serey Vong sa
វត្តសិរីវង្សា
424
1893
ស្រុកអូរមល់
Chùa Ompor Vone
វត្តអម្ពរវ័ន
425
1720
ស្រុកអូរមល់
វត្តព្រហ្មមុនីវង្សា
426
1949
ស្រុកអូរមល់
វត្តមុនីឧត្តមរង្សី
427
1960
ស្រុកអូរមល់
Chùa Prommani Vongsa Chùa Muni Ođom Rengsây Chùa Sét Todor
វត្តសេតុត្តរ
428
1949
ស្រុកអូរមល់
វត្តសាមគ្គីមុនីមាស
429
Chùa Samaky Munimes
1957
ស្រុកដើមត្នោត
36 Hoà Bình, Phường An Cư, TP.CT 27/18 Mạc Định, ទីក្រុងព្រែកឫស្សី P. An Cư, TP.CT Rạch Chùa, TT. Ô Môn, Ô Môn Đồng Hoà, TT. Ô Môn, Ô Môn Thới Bình A, Thới Thạnh, Ô Môn Định Phước, Định Môn, Ô Môn Định Yên, Định Môn, Ô Môn Định Khánh An, Định Môn, Ô Môn Thới Thuận, Thới Lai, Ô Môn Đông Lợi, Đông Hiệp, Ô Môn Thới Hoà B, TT. Cờ Đỏ, Ô Môn Vĩnh Nhuận, Thới Thuận, Thốt Nốt
TỈNH HẬU GIANG
ខេត្តហូវយ៉ាង
430
Bô tum Vongsey
1937
ចូវថាញ់
វត្តបូទុមវង្សី (កៃតាក់)
431
1968
Chùa Khênara Rengsey
ចូវថាញ់
វត្តខេមររង្សី (៧ពាន់)
Chùa Thomma
432
TT. Cái Tắc, Châu Thành 7 Ngàn, Tân Hoà, Châu Thành 8 Ngàn, Tân
1968
ចូវថាញ់
វត្តធម្មរង្សីសេរីស្នរ៍ (៨ពាន់)
Rengsey
433
Chùa Aranh Nhứt
1632
វត្តជោអារញ្ញឹក
ចូវថាញ់
434
1949
ី
ឡុងម៉
វត្តសង្គមមានជ័យ (តម្រា)
Chùa Săngkhum Meanchey
435
Chùa Cai Rone Mới
1974
ី
ឡុងម៉
វត្តពោធិវណ្ណវង្សា (កៃរន្តខាងកើត)
436
Chùa Cai Rone Cũ
1682
ី
ឡុងម៉
វត្តបូរីសិរីជុ
ំ (កៃរន្តចាស់)
437
Chùa Sarray Vongsa
1670
ី
ឡុងម៉
វត្តឧត្តុង្គមានជ័យសិរីវង្សា (ជ្រុង្គាម) វត្តពោធិរង្សី (ទ្វារ)
438
1974
ីថាញ់
វ៉
Chùa Pôthi Rengsây(Trầm Cửa)
វត្តខេមរប្បភាសិរីស្នរ៍ (១៤ពាន់)
439
Chùa 14 Ngàn
1952
ីថាញ់ វ៉
វត្តមហាមង្គលរង្សី (ឃូរ)
440
Chùa Khu
1972
ីថាញ់
វ៉
វត្តអូរជុ
ំវង្សា (កោះស្រួល)
441
Chùa Ôchum Vongsa
1890
ីថាញ់
វ៉
វត្តសាសនរង្សី (វ៉
ីថាញ់)
442
Chùa Vị Thanh
1969
ីថាញ់ វ៉
វត្តរតនប្បភាវរារាម (៩ពាន់)
443
Chùa 9 Ngàn
1990
ីថាញ់
វ៉
វត្តអូរជុ
ំព្រឹក្សា (ទឹកល្អក់)
444
Chùa Tức Lo Ók
1737
ីថ្វី
វ៉
Hoà, Châu Thành Long A, Tân Phú Thạnh, C. Thành ấp 12, Vĩnh Viễn, Long Mỹ ấp 4, Xà Phiên, Long Mỹ ấp 5, Xà Phiên, Long Mỹ ấp 7, Lương Tâm, Long Mỹ ấp 4, Vị Đông, Vị Thanh ấp 4, Vĩnh Trung, Vị Thanh ấp 2, phường 4, Vị Thanh Thạnh Trung, Hoả Lựu, Vị Thanh Khu vực 5, TT. Vị Thanh, Vị Thanh 9 Ngàn, Vị Thanh, Vị Thanh ấp 6, Vị Thuỷ, Vị Thuỷ
173
TỈNH TÂY NINH
ខេត្តតីនិញ(រោងដំរី )
ចូវថាញ់
វត្តសិរីកុមារាម (ភ្នំប្រម៉ា)
445
Chùa Bà Ma
1920
Chùa Khê Đonl
ទីរួមខេត្ត
វត្តបទុមគីរីរង្សី (ស្តរ)
446
1976
Chùa Kà Ốp
តឹងចូវ
វត្តគីរីស្រ្តីមានជ័យ (ក្អូក)
446
1987
ចូវថាញ់
វត្តសិរីអង្គរជុ
ំថ្មី (ឈ្លើយ)
448
1986
Chùa Chlươl (Hiệp Phước) Chùa Chung Rúc
តឹងបៀង
វត្តរាជសទ្ធារតនឧត្តម (ជង្រុក)
449
1990
Chùa Svay (Xác Rát)
ចូវថាញ់
វត្តពន្លឺរតនឧត្តម (ស្វាយ)
450
1998
Thành Tân, Thành Long, Châu Thành Thạnh Đông, Thạnh Tân, TX.TN Cà Ôp, Tân Đông, Tân Châu Hiệp Phước, Hoà Thành, Châu Thành Hoà Đông A, Hoà Hiệp, Tân Biên Đầu Cầu, Ninh Điền, Châu Thành
TỈNH BÌNH PHƯỚC
ខេត្តប៊
ីញភឿក(ទួលតាមោក)
ស្រួល
វត្តរាជមហាជេតវនរាម (ស្រុកធំ)
451
Chùa Sóc Lớn
1931
ចើងថាញ់
វត្តពោធិសត្ថារាម (ញ៉ាបិច)
452
Chùa Bồ Đề
1903
ស្រួល
វត្តសិរីឧត្តម (កនហឹង)
453
Chùa Lộc Hưng
1960
ស្វាយ
វត្តសិរីវង្សា (ស្វាយ)
454
Chùa Svay
2011
វត្តចាឡា
ស្រួល
455
Chùa Chà Là
2018
ấp Sóc lớn, Lộc Thịnh, Lộc Ninh ấp 5, xã Nha Bích, Chơn Thành ấp 4, Lộc Hưng, Lộc Ninh Phường Tân Xuân, TX. Đồng Xoài ấp Chà Là, Lộc Thịnh, Lộc Ninh
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ទីក្រុងហូជីមិញ(ព្រៃនគរ )
1947
456
Chùa Chantarangsey
វត្តចន្ទរង្សី
ខ័ណ្ឌទី៣
1960
457
Chùa Bothiwong
វត្តពោធិវង្ស
ខ័ណ្ឌតឹងបិញ
164/235 Trần Quốc Thảo, Phường 7, Q. 3 21/2 Bùi Thế Mỹ, Phường10, Q.Tân Bình
TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
ខេត្តវុងតាវ(អូរកាប់)
458
Chùa Nam Sơn
1996
ក្រុងអូរកាប់
វត្តគីរីទក្ខិណាសត្ថារាម (ភ្នំធំ)
459
Chùa Kiri Sakor
1945
វត្តគីរីសាគរ
ក្រុងអូរកាប់
460
2009
ក្រុងអូរកាប់
Tăng xá Sang Khemararam
33/18 Trần Xuân Độ, K. Bình Sơn, P. 6, Tp. VT Nguyễn Kim, P. 4, Tp. VT 634/8C Trần Phú, P. 6 Tp. VT
សមណកុដិសាងខេមារារាម
174
TỈNH ĐỒNG NAI
ខេត្តដូនណៃ
461
Chùa Hoa Sơn Tự
1968
វត្តគីរីបុប្ផារាម
ស្រុកឡុងខាញ់
462
Chùa Thái Hòa
1961
វត្តគីរីមានជ័យ
ស្រុកឌិញក្វាង
Khu phố 2, P. Phú Bình, TX. Long Khánh Km 112, ấp Hiệp Nhất, TT. Định Quán
THỦ ĐÔ HÀ NỘI
រដ្ឋធានីហាណូយ
Chùa Khmer
2013
463
វត្តខ្មែរ
ដុងម៉ោ - សើងតី
Làng Văn hóa - Du lịch các Dân tộc VN, Đồng Mô, Sơn Tây
សារុបវត្តខ្មែរនិងប្រជាជនខ្មែរនៃបណ្តាខេត្តមួយចំនួន Bảng 3. TỔNG SỐ CHÙA KHMER VÀ DÂN SỐ KHMER MỘT SỐ TỈNH THÀNH NAM BỘ
ល.រ.
ខេត្ត/ក្រុង - TỈNH THÀNH
ចំនួនប្រជាជនខ្មែរ - DÂN SỐ NGƯỜI KHMER
01
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
ខេត្តត្រាវិញ (ព្រះត្រពាំង) - Trà Vinh ខេត្តសុកត្រាំង (ឃ្លាំង) - Sóc Trăng ខេត្តគៀងយ៉ាង (ក្រមួន ស) - Kiên Giang ខេត្តអាងយ៉ាង (មាត់ជ្រូក) - An Giang ទីក្រុងកឹងធើ (ព្រែកឫស្សី ) - TP. Cần Thơ ខេត្តហូវយ៉ាង - Hậu Giang ខេត្តបាកលិវ (ពលលាវ) - Bạc Liêu ខេត្តវិញឡុង (លង់ហោរ) - Vĩnh Long ខេត្តកាម៉ាវ (ទឹកខ្មៅ) - Cà Mau ខេត្តតីនិញ (រោងដំរី) - Tây Ninh ខេត្តប៊
12
13
14
ចំនួនវត្ត - SỐ LƯỢNG CHÙA ១៤៣ - 143 ៩២ - 92 ៧៥ - 75 ៦៦ - 66 ១២ - 12 ១៥ ២២ ១៣ - 13 ០៦ - 06 ០៦ - 06 ០៥ - 05 ០០ - 0 ០២ - 02 ០២ - 02
៣១៧.២០៣ នាក់ - 317.203 người ៣៩៧.០១៤ នាក់ - 397.014 người ២១០.២៩៩ នាក់ - 201.299 người ៩០.២៧១ នាក់ - 90.271 người ២១.៤១៤ នាក់ - 21.414 người ២១.១៦៩ នាក់ - 21.169 người ៧០.៦៧៧ នាក់ - 70.677 người ២១.៨២០ នាក់ - 21.820 người ២៩.៨៤៥ នាក់ - 29.845 người ៧.១៥៨ នាក់ - 7.158 người ១៥.៥៧៨ នាក់ - 15.578 người ១៥.៤៣៥ នាក់ - 15.435 người ២៤.២៦៨នាក់ - 24.268 người ៤.៥៧២ នាក់ - 4.572 người
15
០៣ - 03
២.៨៧៨នាក់ 2.878 người
16
០១ - 01
១.២៤៩.៦០១ នាក់
ិញភឿក (ទួលតាមោក) - Bình Phước ិញយឿង (ទួលតាមោក) - Bình Dương ខេត្តប៊ ទីក្រុងហូជីមិញ (ព្រៃនគរ) - TP. Hồ Chí Minh ខេត្តដូនណៃ - Đồng Nai ខេត្តវុងតាវ (អូរកាប់ ព្រះសួគ៌ា) Bà Rịa - Vũng Tàu រដ្ឋធានីហាណូយ - Thủ đô Hà Nội សរុបរួម - TỔNG CỘNG
៤៦៣ - 463 Chùa
1.249.601 Người
175
Phụ lục 2
MỘT SỐ HÌNH ẢNH
Hình 1.1. Nhân dịp Chol Chnam Thmay Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thăm và tặng quà đến Học viện Phật giáo Nam tông Khmer Nguồn: Học viện
Hình 1.2. Chức sắc Phật giáo Nam tông Khmer tham gia thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP. Cần Thơ Nguồn: Mặt trận Cần Thơ
176
Hình 1.3. tham gia bầu cử trưởng Khu vực các cấp
Hình 1.4. tham gia khen thưởng, khuyến học khuyến tài góp phần Đào tạo nguồn nhân lực Phật giáo Nam tông Khmer
Nguồn: Đại đức Thạch Sô Phia
177
Hình 1.5. tham gia thả cá bảo vệ nguồn nước và môi trường
Nguồn: Sư Sô Vanh
Hình 1.6. tham gia công tác từ thiện xã hội
Nguồn: Hội chữ thập đỏ quận Ninh Kiều
178
Hình 1.7. tham gia trao học bổng cho học sinh nghèo
Nguồn: Hội khuyến học thành phố
Hình 1.8. Ươm mầm hữu nghị du học sinh Campuchia
Nguồn: Hội Liên hiệp các tổ chức
179
Hình 1.9. Tham gia Hội liên hiệp thanh niên
Nguồn: Hội Liên hiệp thanh niên
Hình 1.10. Tham gia tặng xe đạp cho học sinh nghèo