ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------- NGUYỄN THỊ THÚY HẰNG
VĂN DU KÝ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX VÀ TIẾN TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------- NGUYỄN THỊ THÚY HẰNG
VĂN DU KÝ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX VÀ TIẾN TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số:
62223401
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN NHO THÌN
XÁC NHẬN NCS ĐÃ CHỈNH SỬA THEO QUYẾT NGHỊ
CỦA HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ LUẬN ÁN
Người hướng dẫn khoa học
Chủ tịch hội đồng đánh giá Luận án Tiến sĩ
PGS.TS. Trần Nho Thìn GS.TS. Trần Ngọc Vương
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dữ
liệu, kết quả trong luận án là trung thực, chưa từng được ai công bố trong bất
cứ công trình nào khác.
Tác giả
Nguyễn Thị Thúy Hằng
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS. Trần
Nho Thìn, người hướng dẫn khoa học đã tận tình chỉ dẫn, giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện Luận án.
Tôi xin bày tỏ sự biết ơn chân thành tới Ban giám hiệu, tập thể giảng
viên, cán bộ Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã giúp đỡ và tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi nghiên cứu và học tập tại Trường.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các bạn bè, đồng nghiệp đã hỗ trợ, tạo điều
kiện trong quá trình nghiên cứu. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành và
sâu sắc tới các nhà khoa học, các cán bộ quản lý, các giảng viên của Trung
tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Văn hóa Nghệ thuật, Khoa Du lịch học và Khoa
Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đã góp ý, tư vấn,
giúp đỡ cho tôi cả về tinh thần và vật chất trong suốt quá trình nghiên cứu và
thực hiện Luận án.
Tôi xin tri ân sự động viên, khích lệ và ủng hộ của gia đình, người thân,
bạn bè và đồng nghiệp đã giúp tôi yên tâm và có thêm động lực để hoàn thành
Luận án.
Tác giả
Nguyễn Thị Thúy Hằng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 4
5. Đóng góp mới của luận án .................................................................................. 5
6. Cấu trúc của luận án ........................................................................................... 5
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .................................. 6
1.1. Một số khái niệm cần xác định ........................................................................ 6
1.1.1. Khái niệm “du lịch” và du lịch hiện đại .................................................. 6
1.1.2. “Văn du ký” ............................................................................................. 8
1.1.3. Một số định nghĩa về văn du ký .............................................................. 10
1.1.4. Khái niệm “hiện đại”và “hiện đại hóa văn học” .................................. 15
1.2. Điểm qua lịch sử của văn du ký .................................................................... 19
1.2.1. Văn du ký ở Việt Nam trung đại ............................................................. 19
1.2.2. Văn du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX ................................................. 22
1.2.3. Du ký thế giới ......................................................................................... 25
1.3. Nghiên cứu, phê bình văn du ký trong nước và thế giới ............................... 27
1.3.1. Nghiên cứu văn du ký ở Việt Nam trước năm 1945 ............................... 27
1.3.2. Nghiên cứu văn du ký ở Việt Nam trong thời gian hai thập kỷ
gần đây ............................................................................................................. 31
1.3.3. Nghiên cứu văn du ký ở nước ngoài ....................................................... 36
Tiểu kết ................................................................................................................. 42
CHƢƠNG 2. CƠ SỞ VĂN HÓA XÃ HỘI VÀ DIỄN BIẾN CỦA
VĂN DU KÝ VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX ............................................ 43
2.1. Cơ sở văn hóa xã hội ..................................................................................... 43
2.1.1. Thời đại của những mối liên hệ Phương Đông - Phương Tây ............... 43
2.1.2. Mạng lưới giao thông - điều kiện đầu tiên cho người viết văn
du ký nửa đầu thế kỷ XX ................................................................................... 48
2.1.3. Văn du ký và đời sống báo chí ............................................................... 55
2.1.4. Các tác phẩm dịch và sáng tác có ảnh hưởng đến du lịch
và văn du ký ...................................................................................................... 58
2.2. Diễn biến của văn du ký ................................................................................ 60
Tiểu kết ................................................................................................................. 66
CHƢƠNG 3. NỘI DUNG VĂN DU KÝ VIỆT NAM NỬA ĐẦU
THẾ KỶ XX VÀ HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC .................................................... 67
3.1. Nhận thức về “người khác” ........................................................................... 67
3.1.1. Cái nhìn đối với người Pháp và văn hóa Pháp ...................................... 70
3.1.2. Cái nhìn về người Hoa ........................................................................... 80
3.1.3. Cái nhìn người Chăm ............................................................................. 87
3.2. Khuynh hướng lãng mạn chủ nghĩa như một nét hiện đại của văn học ........ 89
3.2.1. Lãng mạn gắn với phiêu lưu, mạo hiểm ................................................. 89
3.2.2. Văn du ký với cái nhìn lý tưởng hóa cuộc sống thôn dã và
chất hoài cổ ...................................................................................................... 95
3.3. Văn du ký về phụ nữ và phụ nữ viết văn du ký ........................................... 100
3.3.1. Văn du ký viết về phụ nữ ...................................................................... 100
3.3.2. Văn du ký của phụ nữ ........................................................................... 106
Tiểu kết ............................................................................................................... 112
CHƢƠNG 4. NGHỆ THUẬT VĂN DU KÝ VIỆT NAM NỬA ĐẦU
THẾ KỶ XX VÀ HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC .................................................. 113
4.1. Thi pháp tả thực trong văn du ký nửa đầu thế kỷ XX ................................. 115
4.1.1. Hiện thực nhiều chiều, đa dạng, phong phú ........................................ 117
4.1.2. Hiện thực hiện ra qua các chi tiết ........................................................ 124
4.2. Hình thức thể hiện cái tôi ............................................................................ 126
4.2.1. Các hình thức kể chuyện trong văn du ký ............................................ 127
4.2.2. Các trải nghiệm và khám phá cá nhân ................................................. 130
4.3. Ngôn ngữ văn du ký .................................................................................... 143
Tiểu kết ............................................................................................................... 146
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN ..................................................................................................... 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 152
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn du ký nửa đầu thế kỷ XX như một thể loại của văn học hiện đại
Chúng ta đều biết, trong khoảng thời gian nửa đầu thế kỷ XX, văn học Việt
Nam chứng kiến sự xuất hiện của không ít các tác phẩm thuộc nhóm thể loại văn du ký1. Qua một thời gian dài ít được chú ý, trong thập niên gần đây, thể văn du ký nói
chung trong đó có văn du ký nửa đầu thế kỷ XX ở Việt Nam đã bắt đầu thu hút sự
quan tâm của giới nghiên cứu. Thực tế trên cho thấy rằng, càng ngày, giới nghiên
cứu càng quan tâm đến một kiểu thể loại vốn bị xem là cận văn học, một thể loại
dường như đứng bên lề của văn học. Sự quan tâm đó có cơ sở thực tế bởi văn du ký
cho đến nay, trong thế kỷ XXI, chẳng những không mất đi tính hấp dẫn và sức sống
mà trái lại đang có được một vị trí nhất định trong đời sống văn học Việt Nam
đương đại. Mặt khác, chủ nghĩa hậu cấu trúc đã phê phán việc đối lập văn hóa bác
học và văn hóa bình dân, văn học và cận văn học. Vì thế, nghiên cứu về thể văn du
ký không những có nội dung khoa học hàn lâm, thuộc nhóm vấn đề tổng kết qui luật
của văn học sử, mà còn có ý nghĩa thực tiễn đối với việc sáng tác, thưởng thức và
nghiên cứu văn du ký đương đại.
1.2. Các nghiên cứu đã có về du ký chưa nghiên cứu sâu vấn đề văn du ký
và hiện đại hóa văn học dân tộc
Hầu hết các nghiên cứu về du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đã có đều tập
trung tìm hiểu đặc điểm du ký, một thể loại mà các ý kiến đánh giá hiện chưa phải
là thống nhất. Đây chính là một hướng tiếp cận cần có để khẳng định giá trị văn học
của thể loại du ký. Nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn, một chuyên gia về du ký
trong một bài viết năm 2007 đã khẳng định ngay trong tên bài viết rằng du ký là thể
tài [168]. Phạm Thị Ngọc Lan trong đề tài khoa học của mình cũng quan niệm văn
du ký là thể tài [85]. Trong nhiều nghiên cứu về travel literature (dịch nguyên nghĩa:
văn học du lịch) của giới nghiên cứu Phương Tây, họ dùng khái niệm genre (thể
1 Vấn đề định danh khái niệm “văn du ký” sẽ được trình bày ở các mục dưới đây.
1
loại). Chúng tôi theo cách dùng của các nhà nghiên cứu Phương Tây vì chỉ có dùng
khái niệm thể loại thì mới có căn cứ để phân loại các tiểu thể loại (subtypes) du ký
thành du ký thám hiểm, du ký công vụ, du ký nghiên cứu, du ký du lịch, du ký tâm
linh v.v…
Các công trình nghiên cứu du ký nửa đầu thế kỷ XX thường bàn nhiều về
đặc điểm mà chưa quan tâm đến những đóng góp của văn du ký cho quá trình hiện
đại hóa văn học dân tộc. Thực ra cũng có một số nghiên cứu gần đây nêu vấn đề về
mối quan hệ giữa thể văn du ký và quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Chẳng
hạn, Vương Trí Nhàn đã nhắc đến thể ký nói chung trong quá trình hiện đại hóa văn
học. Trong luận án của Dương Thu Hằng về Trương Vĩnh Ký [55] cũng có nêu vấn
đề về mối quan hệ giữa du ký với công cuộc hiện đại hóa văn học qua phân tích
Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi, một áng du ký quốc ngữ đầu tiên. Đoàn Lê Giang nói
rõ trong những biểu hiện của hiện đại hóa văn học nửa đầu thế kỷ XX có vị trí của
du ký [43]. Tuy nhiên, các trường hợp vừa nói trên, do mục đích và nhiệm vụ
nghiên cứu đặt ra, đều chỉ mới dừng lại mức độ nhận xét ban đầu chứ chưa đi sâu
nghiên cứu. Vấn đề về đóng góp của văn du ký cho quá trình hiện đại hóa văn học
dân tộc ở đầu thế kỷ XX hầu như chưa được chú ý nghiên cứu. Nghiên cứu văn du
ký từ góc nhìn của quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX vì
thế vẫn đang là một công việc mời gọi hấp dẫn mà cũng là thách thức.
1.3. Cần ứng dụng nhiều thành tựu nghiên cứu văn du ký của thế giới
Theo sự khảo sát sơ bộ của chúng tôi, có thể nói, giới nghiên cứu quốc tế đã
có nhiều thành tựu trong việc nghiên cứu du ký, nhất là du ký của các nhà văn
Phương Tây xuất hiện suốt từ quãng thế kỷ XVIII trở lại đây. Những thành tựu
nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của văn học du ký của Phương Tây hầu
như ít được phản ánh trong nghiên cứu du ký ở Việt Nam. Công trình khoa học của
Phạm Thị Ngọc Lan [87] đã vận dụng một số luận điểm lý luận quan trọng của giới
nghiên cứu Trung Quốc để nghiên cứu du ký trung đại Việt Nam. Bài viết của
Nguyễn Hữu Lễ trình bày du ký hiện đại dưới hình thức phân loại du ký và sơ bộ
nêu một vài đặc điểm chứ không nêu vấn đề hiện đại hóa văn học qua thể du ký
2
[103]. Như vậy, có một vấn đề khác cũng khá cấp thiết là vận dụng những kết quả
nghiên cứu thực tiễn và lý thuyết về văn du ký của nước ngoài để tiếp cận văn du ký
Việt Nam. Đây là một khoảng trống khá rõ trong nghiên cứu du ký mà chúng tôi
nhận thấy cần có những đóng góp nhất định để bổ sung.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài Văn du ký và quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam nhằm đến các
mục tiêu sau đây:
2.1. Xác định khái niệm về thể loại văn du ký và giới thiệu một số vấn đề lý thuyết
và thực tiễn của văn du ký thế giới, chủ yếu của các tác giả Phương Tây để định
hướng cho việc tiếp cận văn du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
2.2. Chỉ ra tiến trình vận động của văn du ký trong tiến trình chung hiện đại hóa văn
học dân tộc.
2.3. Luận án sẽ làm rõ, văn du ký trong nửa đầu thế kỷ XX có những đóng góp gì
cho tiến trình hiện đại hóa văn học về các phương diện nội dung và nghệ thuật.
2.4. Bước đầu nhận xét về khả năng kế thừa và phát triển những thành tựu của văn
du ký nửa đầu thế kỷ XX đối với văn du ký Việt Nam đương đại, trong thế kỷ XXI.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi chọn dối tượng nghiên cứu là các tác phẩm văn du ký tiêu biểu, có
giá trị về nội dung và nghệ thuật xuất hiện trên các báo và tạp chí nửa đầu thế kỷ
XX, đặc biệt chú ý đến các tác phẩm du ký phản ánh quá trình vận động, thay đổi
của văn du ký theo thời gian.
Vì số lượng văn du ký rất lớn, in rải rác trên nhiều báo và tạp chí khác nhau
qua thời gian dài, khó có thể đọc hết trong phạm vi thời gian làm luận án và mặt
khác do thực tế lưu trữ của nước ta, không phải tạp chí nào hiện cũng còn đủ số
trong thư viện nên chúng tôi chỉ chọn lựa một số tác phẩm văn du ký tiêu biểu nhất,
có khả năng tiếp cận cao nhất.
Các tác phẩm du ký bằng thơ sẽ chỉ được liên hệ so sánh khi cần thiết chứ
không phải là đối tượng nghiên cứu chính.
Du ký trong văn học trung đại cũng chỉ được đề cập khi cần thiết nhằm phục
3
vụ cho mục tiêu so sánh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Các vấn đề lý thuyết của văn du ký, từ vấn đề định nghĩa đến các đặc trưng
thể loại. Một số lý thuyết về văn du ký của Phương Tây, khái quát từ đặc trưng văn
học Phương Tây cũng là một phạm vi quan tâm.
3.2.2. Những tiền đề văn hóa, xã hội của văn du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
3.2.3. Quá trình hình thành cũng như sự vận động của du ký trong văn học Việt
Nam. So sánh du ký trung đại và du ký hiện đại, những đặc điểm tương đồng và
khác biệt của hai kiểu du ký.
3.2.4. Những vấn đề của hiện đại hóa văn học nửa đầu thế kỷ XX và vị trí của văn
du ký trong dòng chảy hiện đại hóa đó.
3.2.5. Tính hiện đại của văn du ký nửa đầu thế kỷ XX về nội dung và nghệ thuật.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu đã đặt ra, trong luận án chúng tôi vận
dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
4.1. Phương pháp lịch sử: phân tích, đánh giá văn du ký như là một đối tượng có
lịch sử ra đời, vận động trong thời gian.
4.2. Phương pháp hệ thống: nhìn nhận văn du ký như là một chỉnh thể riêng có cấu
trúc nội tại, có những mầm mống riêng từ văn học trung đại nhưng nằm trong một
hệ thống lớn hơn là cả tiến trình hiện đại hóa của văn học dân tộc. Đến lượt mình,
văn học Việt Nam trong quá trình hiện đại hóa lại được xem xét trong bối cảnh
chung của công cuộc tiếp xúc văn hóa và văn học Phương Đông -Phương Tây.
4.3. Phương pháp tiếp cận văn hóa học: cho phép nhìn nhận văn du ký như là sản
phẩm văn hóa tinh thần của tác giả Việt Nam, tuy trong bối cảnh hội nhập, giao lưu,
tiếp biến văn hóa với Phương Tây để thay đổi nhưng vẫn ít nhiều chịu sự chi phối
của văn hóa Việt Nam, của những quan niệm về con người và thế giới.
4.4. Thi pháp học: các vấn đề chủ yếu về thi pháp và nghệ thuật nói chung của văn
du ký nửa đầu thế kỷ XX như vấn đề người kể chuyện ngôi thứ nhất và thứ ba, vấn
đề tự khám phá, bộc lộ cái tôi, vấn đề tư duy tả chân.
4.5. Phương pháp nghiên cứu văn học theo thể loại: phân tích, minh chứng, đánh
4
giá văn du ký như là một thể loại độc lập của văn học.
5. Đóng góp mới của luận án
5.1. Về lý luận: xác lập đặc trưng của văn du ký từ điểm nhìn của giao lưu tiếp biến
văn hóa, chú ý đến những nội dung và hình thức tiếp nối truyền thống du ký trung
đại đồng thời các ảnh hưởng của xu thế hiện đại hóa văn học đến văn du ký Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XX. Cụ thể là vấn đề ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn trong
văn du ký Phương Tây, vấn đề con người cá nhân, cái nhìn nữ quyền và tư duy tả
chân trong du ký Phương Tây đã ảnh hưởng đến văn du ký Việt Nam như thế nào.
5.2. Về thực tiễn: Chỉ ra nét tương đồng và nét khác biệt, nét kế thừa và nét mới của
văn du ký hiện đại so với văn du ký Việt Nam trung đại; chỉ ra những yếu tố ảnh
hưởng của văn học Phương Tây trong văn du ký như một biểu hiện của quá trình
hiện đại hóa văn học.
Phân tích văn du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX với các điểm nhìn lý luận
như trên cho phép đánh giá đầy đủ hơn, toàn diện hơn về vị trí, ý nghĩa của văn du
ký đối với tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc nói chung ở nửa đầu thế kỷ XX,
chỉ ra quan hệ tương tác của văn du ký với quan niệm đổi mới về con người, nhận
thức về “người khác” (các dân tộc khác), ý thức về cái tôi, vấn đề nữ quyền, về
nghệ thuật tự sự, tả chân trong văn học hiện đại.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho nhiều
đối tượng quan tâm về văn học Việt Nam nói chung và văn du ký nói riêng ở nửa
đầu thế kỷ XX.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, luận án có 4 chương
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2. Cơ sở văn hóa xã hội và diễn biến của văn du ký Việt Nam nửa đầu
thế kỷ XX
Chương 3. Nội dung văn du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX và hiện đại hóa
văn học
Chương 4. Nghệ thuật văn du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX và hiện đại hóa
5
văn học
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Văn du ký cả ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài có lịch sử khá lâu đời và
trong bối cảnh văn hóa xã hội từ đầu thế kỷ XX phát triển rất mạnh, hiện vẫn đang
được tiếp tục, thậm chí còn làm nên một mảng văn học hấp dẫn. Hiện tượng Huyền
Chíp với Xách balô lên và đi gần đây [25] đã gây nên những phản ứng khác nhau
của công chúng văn học cho thấy thế mạnh và những đặc điểm của thể loại này cần
được chú ý hơn nữa.
Phần tổng quan này được dành cho việc giới thuyết khái niệm văn du ký và
các lý thuyết nghiên cứu văn du ký ở nước ngoài cũng như trong nước, trình bày
khái quát lịch sử nghiên cứu với những gì giới nghiên cứu đã giải quyết và xác định
nội dung cụ thể mà luận án cần giải quyết.
1.1. Một số khái niệm cần xác định
1.1.1. Khái niệm “du lịch” và du lịch hiện đại
Du ký hay văn du ký do những người du lịch viết. Vì vậy chúng ta cần trước
tiên bàn về các dạng du lịch khác nhau và những người đi du lịch.
Theo Từ điển tiếng Việt, du lịch “đi xa cho biết xứ lạ khác với nơi mình ở”
[232, 272]. Từ định nghĩa này, cuốn từ điển xác định du ký là “thể ký ghi lại những
điều người viết chứng kiến trong chuyến đi chơi xa” [232, 272]. Tất nhiên đây là
định nghĩa chung nhất của một cuốn từ điển phổ thông chứ chưa phải là định nghĩa
chuyên sâu của sách nghiên cứu về du lịch. Và vì thế mà khái niệm du ký cũng mới
chỉ được đề cập sơ bộ, chưa toàn diện. Chẳng hạn, cùng với những điều chứng kiến,
người đi xa còn ghi lại các suy nghĩ, cảm xúc của bản thân, nhìn lại bản thân mình,
dân tộc mình và so sánh mình với người. Và nhiều chuyến đi không hề là “đi chơi”
mà thực sự là các chuyến “công vụ” như chuyến đi sứ Trung Quốc của Lê Quí Đôn
được ghi lại trong Bắc sứ thông lục, hay chuyến đi sứ sang Pháp của Phạm Phú Thứ
ghi trong Tây hành nhật ký.
Từ điển Wikipedia (tiếng Anh) định nghĩa “du lịch” (tourism): “du lịch là
6
cuộc đi nhằm mục đích giải trí, nghỉ ngơi, tôn giáo, gia đình hoặc kinh tế, thường
diễn ra trong một quãng thời gian nhất định”. Tài liệu của Tổ chức du lịch thế giới
(World Tourism Organisation) định nghĩa du lịch là “những hoạt động của con
người di chuyển đến và ở lại những địa điểm nằm bên ngoài môi trường quen thuộc
của họ trong thời gian liên tục nhưng không quá một năm cho các mục đích giải trí,
kinh doanh hay các mục đích khác” [282, 1]. Định nghĩa này chú ý đến mục đích đi
và thời gian đi. Các mục đích khác đó rất rộng, có thể bao gồm kỳ nghỉ hè, dự lễ hội,
kinh doanh, hành hương tôn giáo, truyền giáo, hội nghị khoa học, thăm viếng, đi
nghiên cứu, ngoại giao, kể cả hoạt động công cán của sĩ quan của đội quân thực dân
xâm lược, của người thám hiểm. Cũng như các khái niệm khoa học xã hội khác,
khái niệm du lịch khó có thể có được một định nghĩa bao quát hết được mọi phương
diện, khía cạnh và bản thân khái niệm du lịch cũng không diễn tả hết được các kiểu
đi, nội dung hoạt động và kể cả nội dung ghi chép, mục đích ghi chép. Thời gian đi
du lịch bị khống chế trong phạm vi một năm cũng có thể gây phân vân. Các sứ thần
Việt Nam xưa đi sứ Trung Quốc cả đi về mất gần 2 năm, các giáo sĩ Phương Tây
đến Việt Nam truyền giáo có người ở lại hàng chục năm, Philiphê Bỉnh sống ở Bồ
Đào Nha hàng chục năm có thể cho thấy việc hạn định thời gian du lịch một năm
khó thuyết phục. Tuy vậy, một định nghĩa như vừa nêu trên có thể giúp ta hình dung
đại thể du lịch như một hiện tượng văn hóa của nhân loại.
Trong các sách nghiên cứu về du lịch của nước ngoài, có phân biệt tourism
(du lịch) với travel (du hành). Theo Bách khoa thư về du lịch (Encyclopedia of
Tourism), travel chỉ sự di chuyển từ địa điểm này sang địa điểm khác-một khía cạnh
cơ bản, không thể thiếu của du lịch. Khái niệm du hành có gợi ý về hình thức,
phương tiện đi lại: đi bộ, đi ngựa, đi tàu hỏa, đi máy bay, trượt tuyết, tự lái xe
v.v…Từ khái niệm travel có từ traveller-người du hành, du lữ mà có thể không hẳn
là nhà du lịch- tourist, ví dụ như người nhập cư, người di tản, sinh viên diện trao đổi
văn hóa thì không thể gọi là khách du lịch. Lại có trường hợp mà người đi xa tìm
thấy ở việc đi xa một phương cách thể hiện quan điểm sống của mình. Nguyễn Tuân
thậm chí có lúc cao hứng còn gọi mình là “đổi khách”: “Là một đổi khách chỉ muốn
sống với cảnh đẹp luôn đổi thay, tôi chỉ muốn lòng tôi sớm chiều đều rung lên một
7
điệu nhẹ nhõm, vui vẻ” [236, 284]. Thậm chí việc đi xa với ông không phải là để
xem sự khác lạ so với nơi ở của mình mà chính là một cách để thay đổi cảm giác,
thể hiện chủ nghĩa lãng mạn sâu đậm của mình. “Tôi chỉ là một du khách đi qua,
thấy hay tôi ở lâu, thấy dở tôi lên đường đi ngay”.
Phân biệt một cách tinh tế các trường hợp cụ thể, vốn rất đa dạng phong phú
của những người di chuyển từ địa điểm này sang địa điểm khác không phải là
nhiệm vụ của luận án. Chúng tôi quan tâm nghiên cứu tất cả các dạng văn bản do
những người lữ hành, du lịch hay du lữ.
Để hiểu được tầm quan trọng của văn du ký, chúng ta cần chú ý đến sự phát
triển bùng nổ của du lịch hiện đại. Việc đi từ điểm này đến điểm khác đã diễn ra
từ thời cổ đại nhưng hiện nay, việc đi tăng mạnh hơn bao giờ hết do những nhân tố
khác nhau. Tổ chức du lịch thế giới ghi nhận sự tăng trưởng ngoạn mục của du
lịch trên toàn cầu: từ năm 1950 mới có 25 triệu người đi du lịch đến năm có 277
triệu người, qua năm 1990, con số này đạt đến 438 triệu, năm 2000 lên tới 919
triệu [283, 2]. Khi du lịch đã thành một hiện tượng toàn cầu hóa thì văn du ký tất
nhiên có vị trí, ý nghĩa to lớn hơn trước vì nó nằm trong tổng thể hoạt động của
con người trên phạm vi toàn cầu, phục vụ cho nhu cầu tuyên truyền, quảng bá, giải
trí của ngành du lịch.
1.1.2. “Văn du ký”
Thực tế, khái niệm “văn du ký” cũng đã được tòa soạn Phụ nữ tân văn dùng
để giới thiệu du ký của Phạm Vân Anh (năm 1929), nhưng cho đến nay, chúng ta
thường gặp khái niệm phổ biến “du ký” chứ ít khi thấy nói đến “văn du ký”. Chúng
tôi lại chủ trương phải gọi là “văn du ký” vì lý do sau:
Trước hết, trong lịch sử văn du ký ở nước ta, kể cả thời trung đại và hiện đại
(chủ yếu là nửa đầu thế kỷ XX), có hiện tượng viết du ký bằng thơ. Đơn cử Nguyễn
Tông Quai (1692-1767) có Sứ trình tân truyện -một tập thơ sứ trình dài 646 câu thơ
Nôm theo thể song thất lục bát kể về chuyến Bắc sứ năm 1742 [234, 1196]. Nguyễn
Huy Oánh (1713-1789) viết Phụng sứ Yên Kinh tổng ca dài 472 câu thơ lục bát chữ
Hán [234, 1150]. Trương Minh Ký (1855-1900), người có thể liệt vào loại tác giả
văn học hiện đại, có Như Tây nhật trình (năm 1888) gồm 2000 câu thơ song thất lục
8
bát, theo thể thức nhật ký, kể về từng ngày dẫn 10 du học sinh sang Trường trung
học Angiê (Bắc Phi) và Chư quấc thoại hội (năm 1891) cũng bằng thơ. Do viết về
hành trình bằng thơ nên các tác phẩm này có những điểm khác với văn xuôi du ký
về thể loại. Hiển nhiên, thơ không có lợi thế ghi chép cụ thể, chi tiết các hiện tượng
của cuộc sống như văn xuôi, tính tự sự mờ nhạt hơn. Trong khi đó, một trong những
nội dung quan trọng của luận án này là nghiên cứu nghệ thuật tả chân của nhiều tác
phẩm du ký. Gọi là “văn du ký” để phân biệt với “thơ du ký”.
Chúng ta cũng cần chú ý đến thuật ngữ quốc tế về văn du ký- travel
literature-khái niệm cấu tạo từ travel có nghĩa là du lữ, và literature tức văn học.
Nếu dịch nguyên văn thì sẽ là “văn học du lịch”, nếu Việt hóa sẽ có “văn du ký”.
Về tinh thần chung, khái niệm “văn du ký” của chúng tôi thống nhất với khái
niệm “du ký” mà giới nghiên cứu hiện đang sử dụng, chỉ có điều cách gọi này có
khả năng làm rõ hơn nội dung và đặc điểm của đối tượng.
Nhân đây cũng cần lưu ý rằng trong lịch sử du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XX, có trường hợp tác giả đặt tên tác phẩm của mình dưới một tiêu mục là “lữ ký”
mặc dù về hình thức và nội dung về cơ bản tương đồng với văn du ký. Đó là trường
hợp Biệt Lam Trần Huy Bá trên tạp chí Tri tân với bài ký xuất bản năm 1942 Ban
Mê Thuột [8] và bài ký xuất bản năm 1944 Hai tháng ở gò Óc eo hay là câu chuyện
đi đào vàng [9]. Đây là áng văn du ký của một nhà khảo cổ học, không phải là một
khách du lịch theo nghĩa người du lịch hiện đại. Vì vậy, lại cần phải có phân biệt
kiểu tác giả viết du ký và hình thức đi. Trần Huy Bá dùng khái niệm “lữ ký” theo
chúng tôi là rất chính xác. Theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh, du là “đi chơi”,
còn lữ là “đi ra xa nhà”. Cả hai hình thức đi đều là đi xa nhà, song một bên là đi
chơi, chủ động, tự nguyện; còn một bên là xa nhà có thể bất đắc dĩ, do công việc đòi
hỏi hay những lý do khác. Sắc thái phân biệt rõ ràng là có. Có thể phải xét sự khác
biệt giữa một bên là chủ động đi và một bên là bị động, đi ra khỏi nhà mà không
phải đi chơi.
Cũng có trường hợp nhà nghiên cứu đồng nhất du ký với phóng sự. Đức
Dũng viết: “Ngay từ những thập niên đầu thế kỉ XX, một loạt phóng sự đã xuất hiện
trên báo chí ở nước ta …Tiêu biểu cho loại này là một số phóng sự như: Mười ngày
9
ở Huế, Pháp du hành trình nhật kí, Hạn mạn du kí v.v” [34, 65-66]. Nhưng việc
đồng nhất này theo chúng tôi không có căn cứ khoa học. Mục đích, tính chất, chức
năng của phóng sự khác du ký mặc dù có thể giữa chúng có sự giao thoa nào đó.
Phóng sự thường đòi hỏi tính nhanh nhạy của tin tức cần cung cấp, còn du ký có thể
là viết lại hành trình qua sự hồi tưởng dựa trên trí nhớ hay sổ ghi chép.
1.1.3. Một số định nghĩa về văn du ký
- Có một giới thuyết khá sớm về văn du ký trên Phụ nữ tân văn năm 1929
khi toà soạn viết lời giới thiệu cho du ký đi sang Tây của Phạm Vân Anh, trong đó
sử dụng chính khái niệm “văn du ký”: “Thể văn du ký là một thể văn ai cũng ham
đọc, và nó dễ khích phát lòng người hơn là tiểu thuyết. Tiểu thuyết còn có thể tưởng
tượng ra, chớ du ký là tả những sự thiệt, có khi đọc du ký mà tức là học lịch sử, học
địa lý, học mỹ thuật, học phong tục, mình ngồi tựa trước bên đèn, mà hình như thấy
rõ những non sông, nhân vật ở phương xa đất lạ thì còn có lợi ích gì hơn và thú vị gì
hơn nữa” [2]. Ở đây, từ góc nhìn của tòa soạn báo, người viết chú ý đến tính chất
tổng hợp về nội dung của văn du ký, đặc biệt quan tâm đến tính hấp dẫn (có lẽ trước
hết nhờ nó mà bán được nhiều báo) của văn du ký so với tiểu thuyết, dường như để
giải thích vì sao báo này lại cho đăng du ký. Đồng thời người viết cũng nhấn mạnh
việc “tả sự thiệt” trong các áng du ký.
- Định nghĩa của Từ điển thuật ngữ văn học:“ Du ký - một thể loại văn học
thuộc loại hình ký mà cơ sở là sự ghi chép của bản thân mình đi du lịch, ngoạn cảnh
về những điều mắt thấy tai nghe của chính mình tại những xứ sở xa lạ hay những
nơi ít người có dịp đến. Hình thức của du ký rất đa dạng, có thể là ghi chép, ký sự,
nhật ký, thư tín, hồi tưởng, miễn là mang lại những thông tin, tri thức và cảm xúc
mới lạ về phong cảnh, phong tục, dân tình của xứ sở ít người biết đến… Dạng đặc
biệt của du ký phát huy cái chất ghi chép về miền xa lạ của nó là du ký về các xứ sở
tưởng tượng, có tính chất không tưởng hay viễn tưởng khoa học… Dạng du ký khác
đậm đà phong vị Phương Đông là ghi chép cảm tưởng, nhận xét về những nơi danh
lam thắng cảnh đất nước… Thể loại du ký có vai trò quan trọng đối với văn học thế
kỷ XVIII-XIX trong việc mở rộng tầm nhìn và tưởng tượng của nhà văn. Sang thế
kỷ XX, du ký mang nhiều tính chất tư liệu khoa học do các nhà địa chất, nhà dân
10
tộc học viết. Loại du ký khoa học cũng rất thịnh hành” [233, 108]. Định nghĩa này
nói rõ du ký là thể loại; trong định nghĩa ta thấy sự cố gắng bao quát cả hai mặt
đồng đại và lịch đại của văn du ký trong lịch sử văn học Việt Nam và thế giới. Định
nghĩa lưu ý cả điều tai nghe mắt thấy cũng như điều tưởng tượng trong các tác phẩm
du ký. Tuy nhiên, có những vấn đề của lịch sử văn du ký chưa được bao quát trong
định nghĩa này. Ví dụ như cái nhìn thực dân của các tác giả du ký châu Âu khi đi
sang các nước Phương Đông, coi Phương Đông như là thế giới man ri, mọi rợ cần
được khai hóa. Cái nhìn của các sứ thần Trung Quốc khi đến Việt Nam thời trung
đại cũng mang một sắc thái thực dân tương tự. Trong khi đó, người Việt đi sang
Phương Tây lại có tâm thế học hỏi. Nghĩa là văn du ký viết khi ra nước ngoài
thường bao hàm một cái nhìn về “người khác”.
Trần Kim Anh, Hoàng Hồng Cẩm dựa trên mảng văn học chữ Hán, lại định
nghĩa “văn du ký là loại văn được viết ra trong những chuyến đi, vừa để ghi lại hành
trình, vừa để bày tỏ cảm xúc về những điều mắt thấy tai nghe. Đặc điểm của du ký
là chuyên lấy việc mô tả thắng cảnh núi sông, phong vật làm đề tài, cách viết đa
dạng, có thể miêu tả, có thể trữ tình, có thể nghị luận, và phải là chính tác giả ghi
chép, về chính chuyến đi của mình, miêu tả lại cảm thụ của bản thân trước non sông
cảnh vật” [4,113]. Định nghĩa này chủ yếu áp dụng cho văn du ký chữ Hán thời
trung đại mà chưa bao quát hết thực tế du ký thế kỷ XX bằng quốc ngữ, chưa nói
đến một trong những yếu tố quan trọng nhất của du ký là kể về các cuộc tiếp xúc
với “người khác”, “xứ khác” tức nền văn hóa khác.
- Định nghĩa của giới nghiên cứu quốc tế:
Định nghĩa của từ điển Từ Hải: “Du ký là một trong những thể tài văn học, là
một loại của tản văn, dựa vào ngòi bút nhanh nhạy, miêu tả một cách đầy đủ và sinh
động tất cả những điều tác giả tai nghe mắt thấy trên đường du lịch, như đời sống xã
hội, phong tục tập quán, núi sông cảnh vật, danh thắng cổ tích, cùng với việc biểu
đạt tư tưởng, tình cảm của tác giả” [dẫn theo Phạm Thị Ngọc Lan, 86, 6]. Nhà
nghiên cứu Phạm Thị Ngọc Lan cũng dẫn ý kiến của nhà nghiên cứu Trung Quốc là
Vương Lập Quần: “dấu tích du lịch, cảnh quan và cảm xúc cá nhân là ba yêu cầu
lớn của thể văn du ký” [dẫn theo Phạm Thị Ngọc Lan, 86, 6]. Ba yếu tố nói đây
nhấn mạnh khá toàn diện nội hàm của văn du ký mà các định nghĩa trên cũng đều
11
đã đề cập.
Nói đến tính chân thực về nội dung của văn du ký, một số định nghĩa trong
tài liệu tiếng Việt thường dùng cụm từ “mắt thấy tai nghe”. Nhưng không hẳn là tất
cả những sự kiện được ghi trong văn du ký đều có thực, đều là điều bản thân người
viết trải nghiệm. Trên Phụ nữ tân văn năm 1932, Phan Khôi từng phê phán những
thiên du ký thiếu chân thực, tức là chứa đựng những thông tin lấy từ nguồn tài liệu
khác độn vào chứ không phải là những tư liệu do chính người viết nghe nhìn được:
“Từ đôi mươi năm nay người mình mới có một số ít bước chân ra ngoại quốc, hoặc
sang Tây hoặc sang Đông. Trong một số ít ấy lại có một số ít đã đem cuộc xuất
dương của mình mà viết nên những tập du ký, in ra và bán cho những người ngồi
nhà mua đọc. Ấy là sự có ích lắm. Nhưng mà tiếc cho những người viết du ký ấy
hay có cái tánh không thiệt thà (…) Như du ký Nhật Bổn thì họ chia ra những là
lịch sử, phong tục, giáo dục của nước ấy, mỗi việc làm một thiên… Đại để người ta
làm cách nầy: Họ có đến Đông Kinh của Nhật Bổn thật, nhưng ở đó không lâu,
hoặc là ở lâu nhưng vì cớ gì đó họ quan sát chẳng được gì mấy chút. Đến chừng họ
viết du ký, lấy vài ba việc mục kích làm cái cốt rồi, ngoài ra chẳng còn gì nữa cho
đầy tập. Khi ấy họ mới sanh tâm ra, làm cho lớn lối, bèn chia từng thiên một, rồi
thiếu chi thứ sách nói về Đông Kinh ấy, dịch lấy một mớ mà thộn vào, nó mới thành
ra thứ du ký như tôi đã thấy” [77].
Nhật Nham trên Tri tân năm 1942 có tiết lộ ông từng viết về Hồ Ba Bể và
cho in năm 1941 [Tri tân số 25] nhưng ông chưa từng lên đó mà người đọc cứ
tưởng ông nói sự thực, lần này ông mới thực sự đi thăm Hồ Ba Bể và chép sự thực
[126]. Gần đây, ở thế kỷ XXI, cuốn Xách Ba lô lên và đi xuất bản năm 2012 của
Huyền Chíp [25] đã bị bạn đọc trên các trang mạng chỉ ra một số yếu tố hư cấu,
không có thực. Tóm lại, rất khó xác định liều lượng giữa sự thực và hư cấu trong
du ký. Trong khi chủ yếu là ghi chép lại điều tai nghe mắt thấy, tác giả văn du ký
có thể hư cấu bằng những cách khác nhau ví dụ như dựa vào du ký của người khác,
thậm chí có thể là sách nghiên cứu hay tiểu thuyết để độn cho áng văn đầy lên.
Hiện tượng này giới nghiên cứu gọi là kể chuyện ở ngôi thứ ba chứ không phải
12
ngôi thứ nhất.
Theo Bách khoa thư về du lịch (Encyclopedia of Tourism), khái niệm travel
literature -“văn học du lịch” bao gồm nhiều loại, từ các sách hướng dẫn du lịch
thuần túy cung cấp các thông tin cho du khách - khi đó không thể gọi là thể loại văn
học -đến các sáng tác tưởng tượng, hư cấu cũng không thuần túy là văn du ký nữa
[265, 602]. Điều nói đây có thể giúp phân biệt những tác phẩm tuy có tên là du ký
nhưng không thuộc đối tượng nghiên cứu của luận án. Ví dụ như tác phẩm nổi tiếng
Tây du ký của Ngô Thừa Ân tuy rất hấp dẫn song bên cạnh những quan sát, ghi
chép về các xứ khác, người khác, lại tồn tại chất tiểu thuyết đậm nét, xây dựng
thành công những kiểu nhân vật tiểu thuyết. Nằm ở khoảng giữa chúng là các ghi
chép về một chuyến đi và các ghi chép này thực hiện một chức năng kép, vừa có thể
cung cấp thông tin xác thực về các địa điểm du khách cần đến vừa thỏa mãn nhu
cầu thẩm mỹ, hiểu biết về các miền đất lạ, các nền văn hóa và con người đa dạng
trên thế giới. Tức là trong văn du ký, có sự tổng hợp các chức năng thông tin cộng
với chức năng dân tộc học, nhân loại học, chức năng thẩm mỹ. Bách khoa thư về du
lịch quan niệm văn du ký là thể loại phi hư cấu.
Theo Wikipedia (tiếng Anh), khái niệm văn học du lịch (travel literature)
được giới thuyết như sau: “thể loại văn học du lịch bao gồm văn học du lữ (outdoor
literature), văn học thám hiểm (exploration literature), văn học phiêu lưu (adventure
literature), văn học viết về thiên nhiên (nature writing), và sách hướng dẫn du lịch
(guide book), cũng như các ghi chép từ các chuyến đi ra hải ngoại”. Đây không hẳn
là định nghĩa mà chỉ là một khái quát về những biến thể khác nhau có thể có của
văn du ký -tức văn học du lịch Phương Tây. Ở Phương Tây bắt đầu từ thế kỷ XV,
do sự phát triển của ngành hàng hải, sự phát triển của công nghiệp mà hiện tượng đi
thám hiểm vòng quang trái đất phát triển, kéo theo văn học có nội dung thám hiểm
thế giới rất phổ biến còn ở ta, nội dung này rất mờ nhạt, không điển hình. Trong sự
đa dạng, có một nội dung chung giữa các kiểu loại văn học du lịch là ghi chép về sự
di chuyển từ địa điểm này đến địa điểm khác với những nhận thức, suy nghĩ, cảm
xúc nảy sinh trong quá trình di chuyển đó.
Nhà nghiên cứu Carl Thompson quan niệm du hành (travel) là cuộc thương
13
lượng giữa bản thân (self) và người khác (other) dẫn đến việc di chuyển trong
không gian. “Nếu tất cả các cuộc du hành đều bao gồm cuộc gặp gỡ giữa bản thân
và người khác được thực hiện bằng việc di chuyển trong không gian thì tất cả văn
du ký (travel writing) ở mức độ nào đó đều là sự ghi chép hay sản phẩm của cuộc
gặp gỡ này, sản phẩm của sự thương lượng giữa cái tương đồng và cái khác biệt”
[261, 10]. Ở đây nhà nghiên cứu quan tâm nhiều hơn đến loại văn du ký của
Phương Tây vốn ghi chép những quan sát, suy nghĩ về thế giới ngoài Phương Tây,
về Other-người khác trong các thế kỷ thám hiểm, tiến hành thực dân hóa thế giới
phi Phương Tây. Vì thế nhà nghiên cứu này quan tâm nhiều đến các cuộc tiếp xúc
giữa tác giả văn du ký và Người Khác (tức là dân tộc khác, nền văn hóa khác). Đây
cũng là một nội dung mà luận án chúng tôi cũng sẽ quan tâm tìm hiểu.
Tất nhiên, các nhận xét trên chưa phải là định nghĩa vì theo Carl Thompson,
văn du ký -travel writing- là một thể loại không thuần nhất, lai ghép. Rất khó để xác
định ở chỗ nào thì du ký kết thúc và bắt đầu các thể loại khác: tự truyện, dân tộc học,
miêu tả thiên nhiên, tiểu thuyết hư cấu. Ông đề nghị một cách giới thuyết khái niệm
có nội hàm rộng, “có nhiều đặc điểm và dấu hiệu cho phép chúng ta xếp loại một
văn bản như là văn du ký và mỗi văn bản riêng rẽ sẽ thể hiện một tiêu chí lựa chọn
khác và một thế kết hợp khác các đặc điểm này”. Tiêu chí trung tâm cho thể loại
văn du ký phải là “tự sự phi hư cấu ở ngôi thứ nhất” (chúng tôi nhấn mạnh). Tự sự
ngôi thứ nhất hàm nghĩa rằng đây là sự ghi chép chân thực các trải nghiệm của
chính tác giả - người kể chuyện. Nhưng nhà văn viết du ký lại phải đóng hai vai trò
xung đột nhau: là người viết phóng sự thì phải ghi lại đúng những gì đã trải nghiệm,
nhưng là người kể chuyện thì anh ta phải gây được hứng thú cho người đọc, trình
bày để người đọc thưởng thức. Ranh giới giữa hư cấu và phi hư cấu không dễ gì
vạch ra được. Tính hư cấu là không tránh khỏi trong tất cả các tác phẩm văn du ký.
Có thể lấy dải quang phổ để hình dung chất hư cấu trong văn du ký: ở một cực của
dải quang phổ là những nhà văn muốn ghi lại trung thực các trải nghiệm của mình
nhưng thấy cần biên tập lại, cấu trúc lại các trải nghiệm nên làm cho chúng biến
dạng. Ở cực bên kia có những nhà văn có chủ ý sáng tạo các chi tiết và tạo truyền
thuyết [261, 29]. Trước một đối tượng phức tạp, đa diện như văn du ký, phương
pháp của Carl Thompson là mô tả, giải thích mà tránh đưa ra một định nghĩa cụ thể.
14
Cách làm này rất có lý.
Nhìn chung, trên đây chỉ là một số trong vô số các định nghĩa về du ký trong
nước và quốc tế. Mỗi định nghĩa được đưa ra từ góc nhìn riêng của nhà khoa học,
được khái quát từ thực tiễn văn học mà nhà nghiên cứu đó quan tâm nghiên cứu,
nên khó có thể lấy một tiêu chí nào để phê phán, đánh giá đúng sai. Người chú trọng
đến tính chất cá nhân, tính chất biểu hiện chủ thể của du ký, người đề cao tính chân
thực, mắt thấy tai nghe của du ký nhưng lại có thể nhấn mạnh tính hư cấu tưởng
tượng; người chú ý tính chất hấp dẫn của du ký. Theo chúng tôi, một định nghĩa
càng dài, càng cụ thể thì lại càng có nguy cơ thiếu hụt. Vì thế nên trong luận án này,
chúng tôi chủ trương xem khái niệm văn du ký có những nội dung chính sau:
- Là thể loại tự sự phi cốt truyện, viết bằng văn xuôi, thường có dạng hồi ức,
và dạng nhật ký, dành cho hoạt động di chuyển giữa các địa điểm có khoảng cách
lớn, ra bên ngoài không gian sống thường ngày, trong một khoảng thời gian có độ
dài nhất định.
- Ghi lại các sự kiện, các điều quan sát của nhân vật “tôi” về cảnh quan tự
nhiên và xã hội ở nơi đến, về cơ bản có tính xác thực nhưng cũng có khả năng xen
kẽ hư cấu và cung cấp các tri thức thiên về khảo cứu sách vở.
- Ghi lại các nhận thức, suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật “tôi”. Người kể
chuyện chủ yếu ở ngôi thứ nhất, đôi khi có kể chuyện ở ngôi thứ ba (khi dẫn các tài
liệu nghiên cứu liên quan do các tác giả khác viết).
1.1.4. Khái niệm “hiện đại” và “hiện đại hóa văn học”
- Cách hiểu của giới nghiên cứu Việt Nam:
Hiện đại hóa văn học là vấn đề có lịch sử nghiên cứu khá phong phú ở ta.
Chúng tôi xin điểm một vài ý kiến tiêu biểu quanh khái niệm “hiện đại” để có cơ sở
triển khai nhiệm vụ luận án.
Vương Trí Nhàn tổng hợp các cách hiểu về hiện đại và hiện đại hóa đã chỉ rõ,
hiện đại hóa và Phương Tây hóa được coi là ngang nhau. Ông xem hiện đại hóa ở
Phương Tây trong đời sống kinh tế là chủ nghĩa tư bản, là kỹ thuật hiện đại, là hình
thức tiêu thụ. Trong đời sống văn hóa, hiện đại là sự thế tục hóa, đa cực hóa, đa
dạng hóa tư tưởng [131, 18]. Từ đó, ông nêu một số nhân tố chính của hiện đại hóa
15
văn học Việt Nam: 1) sự hình thành một môi trường văn học thống nhất trong cả
nước; 2) sự hình thành một lớp người làm nghề; 3) vai trò chỉ đạo của một nguyên
tắc thi pháp khác trước; hệ thống thể loại gần với (hệ thống thể loại) châu Âu; ngôn
ngữ văn học là thứ ngôn ngữ hàng ngày, hướng về đời thực. Theo ông, “quá trình
hiện đại hóa văn học khởi động từ đầu thế kỷ, và đến 1945, coi như đã hoàn thành
một chặng cơ bản” [131, 22-26]. Vương Trí Nhàn có một lưu ý: chúng ta không
nhầm lẫn tính hiện đại với chủ nghĩa hiện đại trong văn học nghệ thuật (chủ nghĩa
ấn tượng, chủ nghĩa biểu hiện, chủ nghĩa lập thể... ).
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hạnh cho rằng “Thời kỳ hiện đại trong văn
học, cũng như trong nghệ thuật, tư tưởng, lịch sử nói chung, bắt nguồn từ những
phát kiến mới về thế giới, từ trình độ phát triển mạnh mẽ của công nghiệp và
thương mại, từ sự hình thành nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và giai cấp tư sản ở các
nước trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Khi nói về các nền văn học hiện đại
Phương Đông, có lúc người ta nhấn mạnh nguyên nhân tư sản hóa, Âu hóa. Thật ra,
tư sản hóa, Âu hóa chỉ là những biểu hiện có tính chất cục hạn, còn ngọn nguồn sâu
xa, phổ biến của hiện đại hóa là công nghiệp hóa, quốc tế hóa, cách thức tư duy mới
và ý thức về giá trị cá nhân” [53]. Nội hàm hiện đại theo Nguyễn Văn Hạnh gắn liền
với phát kiến về thế giới (điều này có quan hệ với văn du ký), với chủ nghĩa tư bản,
với công nghiệp hóa, quốc tế hóa, tư duy mới, ý thức về cá nhân. Trong quá trình
hiện đại hóa văn học Việt Nam, theo Nguyễn Văn Hạnh, tính hiện đại của văn học
đi liền với tính dân tộc; hệ thống thể loại thơ, văn xuôi, kịch tương đồng thể loại
Phương Tây; con người cá nhân vẫn gắn với ý thức cộng đồng.
Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử viết: “Tính hiện đại của xã hội như là trạng
thái chuyển biến về hình thái, từ xã hội trung đại sang hiện đại, từ tôn giáo sang thế
tục, từ quân quyền sang dân chủ, tự do; từ cát cứ sang quốc gia dân tộc, từ dân tộc
biệt lập sang giao lưu quốc tế. Tính hiện đại có tính chất toàn cầu hoá. Tính hiện đại
như một phạm trù văn hoá bao gồm các thuộc tính như sùng thượng lí tính, khoa
học, giải phóng cái tôi, đề cao tính chủ thể”. Trong văn học, tính hiện đại được ông
quan niệm: “Tính hiện đại của văn học nóí chung bao gồm sự đề cao tính thẩm mĩ,
phân biệt với tính giáo huấn, tính cộng cụ; đề cao tính tự chủ phân biệt với tính phụ
16
thuộc; giải phóng cá nhân với cái tôi chủ thể; đề cao nhận thức, sáng tạo, phân biệt
với việc sử dụng các hình thức có sẵn” [183]. Tương tự như Vương Trí Nhàn, Trần
Đình Sử cũng lưu ý cần phân biệt tính hiện đại với chủ nghĩa hiện đại vốn là một
khái niệm khác.
Nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến xét riêng “chủ nghĩa cá nhân văn hóa”
như một biểu hiện tiêu biểu của hiện đại hóa văn học Việt Nam [58]. Ông viết “Có
thể nói chủ nghĩa cá nhân “văn hoá” là ngọn nguồn của sự phong phú những phong
cách cá nhân, những tìm tòi mỹ học và tư tưởng - nghệ thuật trong văn học, nghệ
thuật thời kỳ này. Chủ nghĩa cá nhân “văn hoá” là một bước tiến của ý thức văn hoá
Việt Nam, là một trình độ mới mà văn hoá Việt Nam đạt được trên con đường hiện
đại hoá, sau gần một thế kỷ cộng sinh với văn hoá Pháp”.
Nhóm tác giả Đỗ Quang Hưng và Trần Viết Nghĩa quan niệm hiện đại hóa ở
Phương Đông được hiểu theo nghĩa Tây phương hóa. Nếu vậy thì cần nắm được
những đặc điểm của văn minh Phương Tây. Theo các tác giả, văn minh Phương Tây
có những đặc điểm lớn sau:
- Nền văn minh kỹ thuật, xã hội công nghiệp và nhà nước hiện đại.
- Nền văn minh có căn tính Kito giáo.
- Nền văn minh in đậm vai trò của cá thể [72, 50-58].
Trong phần viết ngắn ngủi về văn học Việt Nam trong môi trường hiện đại
hóa, các tác giả tóm tắt một số nét chính yếu như: hệ thống thể loại mới, sự phát
triển của cái tôi, cảm hứng lãng mạn có vai trò quan trọng… [72, 310-325].
Các ý kiến về tính hiện đại và tính hiện đại của văn học Việt Nam khá phong
phú mà trên đây chúng tôi mới trích dẫn được một số ý kiến. Song tựu chung, các ý
kiến này có những triển khai sâu rộng hơn, song đều thống nhất với quan điểm mà
Hoài Thanh, Đinh Gia Trinh đã nêu lên từ trước năm 1945. Hoài Thanh trong Thi
nhân Việt Nam lưu ý nét hiện đại nổi bật của thơ Mới chính là con người cá nhân,
cái tôi cá nhân. Đinh Gia Trinh với bài viết Tính cách văn chương Việt Nam trước
thời kỳ Âu hóa đã gián tiếp đề cập đến điểm mới cơ bản của văn học hiện đại chính
2 Điều này đã được Phạm Thị Hồng trình bày trong luận án tiến sĩ Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam dưới cái nhìn so sánh của các nhà phê bình nửa đầu thế kỷ XX, Học viện Khoa học Xã hội, 2013.
17
là tinh thần tả chân. Và cả hai ông, những người hít thở không khí hiện đại, đều nhấn mạnh hiện đại hóa văn học Việt Nam chính là Âu hóa2.
- Cách hiểu của giới nghiên cứu Phương Tây:
Chúng tôi xin điểm qua một vài tài liệu tiếng Anh bàn về khái niệm hiện đại.
Mục từ modernity (tính hiện đại) trong Từ điển các lý thuyết văn hóa và phê
bình có đoạn viết “Là một khái niệm xã hội học, tính hiện đại chủ yếu liên hệ với
công nghiệp hóa, thế tục hóa, bộ máy công chức và ĐÔ THỊ” [255, 456]. Các nhà
xã hội học có cách hiểu khác nhau về tính hiện đại. Durkheim nhấn mạnh chìa khóa
của cuộc sống hiện đại là phân công lao động ngày một sâu sắc. Tonnies hiểu hiện
đại hóa là đi từ các mối quan hệ tương tác cộng đồng chuyển sang xã hội đề cao cá
nhân. Max Weber khái quát đó là sự duy lý hóa.
Theo Bách khoa thư Blackwell về triết học Phương Tây, mục từ modernity
(tính hiện đại) viết: “Nói chung, tính hiện đại liên hệ với tính tối thượng của cái duy
lý thuần túy và quyền tự trị của cái tôi hiện đại. Được vũ trang bởi cái duy lý, con
người hiện đại tìm kiếm sự đồng thuận trên khuôn khổ siêu hình thống nhất trong
cách nhìn thế giới. Họ tìm kiếm sự tự trị chủ quan của mình và coi thường sự câu
thúc của lịch sử, truyền thống và văn hóa. Họ có thái độ hung hăng trong việc tổ
chức và kiểm soát môi trường tự nhiên, với khoa học là môn học hàng đầu của mình.
Các đối tượng thẩm mỹ được đo đạc bằng thước đo của lợi ích kinh tế. Tính hiện
đại mang lại hiệu quả cho chủ nghĩa tư bản công nghiệp” [279, 439].
Nhìn chung, trong sự đa dạng của các cách hiểu khái niệm hiện đại cả trong
nước và trên thế giới, có thể tóm lại mấy nội dung nổi bật của “hiện đại”:
- Hiện đại gắn với tư duy duy lý, với thế tục hóa. Từ đó mới có sự phát triển
khoa học, kỹ thuật, công nghiệp hóa.
- Hiện đại gắn với con người cá nhân, từ đây mới có chủ nghĩa tư bản, có sự
phong phú của cá tính sáng tạo, có chủ nghĩa lãng mạn và ý thức nữ quyền.
Văn học Phương Tây, có ảnh hưởng đến các nước Phương Đông trong đó có
Việt Nam, là sản phẩm của tính hiện đại, có lịch sử từ thời Phục hưng và tiếp tục
vận động đến thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Từ hai nội dung nổi bật trên, chúng ta sẽ triển khai tìm hiểu văn du ký trong
18
tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
Trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi sẽ kết hợp cả cách hiểu hiện đại theo
nghĩa hàn lâm viện như trên, đồng thời sẽ phân tích thực tế văn du ký, so sánh với
văn du ký chữ Hán trung đại để xác lập những chỗ văn du ký nửa đầu thế kỷ XX
tiếp tục truyền thống văn du ký trung đại, những điểm mới không có trong văn du
ký trung đại và những điểm chịu ảnh hưởng của văn học Phương Tây.
1.2. Điểm qua lịch sử của văn du ký
Lịch sử văn du ký là một vấn đề phức tạp đòi hỏi phải có những công trình
nghiên cứu riêng mà hiện nay ở Việt Nam vẫn còn thiếu vắng. Chúng tôi xin dựa vào
một số quan sát của bản thân và một số từ điển phổ thông để điểm qua, cốt đem lại
cho bản thân một ý niệm tương đối về một đối tượng có lịch sử vận động, thay đổi.
1.2.1. Văn du ký ở Việt Nam trung đại
Các văn nhân trí thức Trung Quốc cổ đại đã rất chú trọng việc đi xa. Tư Mã
Thiên là nhà du lịch lớn thời cổ đại. Bộ Sử ký đồ sộ của ông được viết trên cơ sở
tham bác các tài liệu lịch sử đồng thời là kết quả quan sát thực địa của những
chuyến đi trên một địa bàn rộng lớn của Trung Quốc thời cổ.
Thời trung đại ở Việt Nam, văn du ký phổ biến nhất thường của các tác giả
là nhà nho. Họ đi sứ Trung Quốc hoặc thực hiện các cuộc thuyên chuyển hay du
lãm trong nước những lúc nhàn rỗi và khi về ngồi hồi tưởng lại, ghi những cảm
tưởng, suy nghĩ, những quan sát thu nhận được trên đường du lữ, để lại các áng
văn thơ du ký.
Số lượng sáng tác văn du ký còn giữ được không nhiều, chủ yếu tập trung
trong khoảng thời gian từ thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX. Xét mục đích chuyến đi,
địa điểm di chuyển đến, và hình thức chữ viết, có thể tạm thời chia văn du ký trung
đại thành ba loại: loại văn du ký của các sứ thần Việt Nam đi Trung Quốc và đến
giữa thế kỷ XIX có văn du ký của sứ thần nhà Nguyễn sang Đông Nam Á và Pháp;
văn du ký của các nhà nho đi lại giữa các vùng trong nước; một loại thứ ba là văn
du ký viết bằng chữ cái latinh mà ngày nay ta gọi là chữ quốc ngữ của Philiphê
Bỉnh và Trương Vĩnh Ký, tuy xuất hiện ở thời trung đại nhưng có những nét của du
ký hiện đại. Thơ sáng tác trong các chuyến đi sứ và du lãm trong nước của nhà nho
19
rất nhiều nhưng chúng tôi chỉ liên hệ khi thấy cần thiết.
- Du ký của các nhà nho trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam: các chuyến đi
trong phạm vi không gian của nước Việt được ghi chép lại cũng khá đa đạng. Về
thời gian, du ký ở các thế kỷ trước đã lác đác xuất hiện ví dụ Bài ký tháp Linh Tế
núi Dục Thúy của Trương Hán Siêu (chưa kể thơ, phú có nội dung du ký như thơ
của Nguyễn Trãi viết về Côn Sơn, phú của Nguyễn Hàng Đại Đồng phong cảnh
phú). Nhưng phải đợi đến thế kỷ XVIII-nửa đầu thế kỷ XIX, thể loại du ký văn xuôi
này mới thực sự nở rộ. Đó là bài ký động Nhị Thanh của Ngô Thì Sĩ. Đó là chuyến
đi dài ngày đến hơn nửa năm của danh y Lê Hữu Trác từ Hà Tĩnh ra Thăng Long
chữa bệnh cho Trịnh Cán với những cuộc du ngoạn trong lúc rảnh rỗi được chép lại
trong Thượng kinh ký sự. Chuyến đi về quê Văn Giang, chuyến du ngoạn quanh Hồ
Tây mất đến ba ngày và những cuộc đàm đạo thơ ca với bạn thơ tại Thăng Long.
Hoặc là một chuyến du ngoạn từ Thăng Long lên núi Sài Sơn vãng cảnh chùa Phật
Tích trong phạm vi ba ngày của Phạm Đình Hổ và bè bạn còn ghi lại trong Tang
thương ngẫu lục, Vũ trung tùy bút với rất nhiều cảm xúc khác nhau. Ngoài ra, thế
kỷ XVIII-XIX còn để lại nhiều bài ký đi thăm chùa chiền, danh lam thắng cảnh
khác trong lãnh thổ Việt Nam. Tinh thần chung của du ký thời trung đại là ghi chép
về phong cảnh và các di tích văn hóa lịch sử. Nhà nho vốn có tinh thần hoài cổ và
cảm hứng ẩn dật nên viết nhiều về các di tích cổ và không gian xa vắng, tĩnh mịch.
-Văn du ký của sứ thần Việt Nam: Việc đi xa, đi ra ngoài phạm vi đất nước ở thời
xưa là một dạng hoạt động để lại dấu ấn đậm nét trong văn thơ nhà nho Việt. Quan
hệ bang giao giữa Việt Nam và Trung Quốc thời trung đại qui định sự ra đời một
loại nhân vật văn hóa đặc biệt gọi là sứ thần. Các chuyến đi của họ thường gọi là đi
Bắc sứ. Các áng văn du ký tiêu biểu thuộc loại này có Bắc sứ thông lục của Lê Quí
Đôn (1726-1784), Bắc hành tùng ký của Lê Quýnh. Trong bài tựa cho Bắc sứ thông
lục cho biết thơ viết đi sứ của sứ thần Việt Nam trong lịch sử thì rất nhiều, song văn
xuôi thì mãi đến Lê Hữu Kiều mới viết Sứ Bắc kỷ sự (chuyến đi sứ năm 1737) [theo
88,1]-tập này hiện không còn. Và tập Bắc sứ thông lục là tập văn du ký thứ hai của
sứ thần Việt Nam, viết bằng văn xuôi chữ Hán trong chuyến đi sứ năm 1760-1761.
20
Lê Quí Đôn ghi chép tỉ mỉ, chi tiết trước hết các nội dung liên quan đến chuyến đi
sứ, từ thành phần sứ đoàn, các cống vật, lễ vật; hành trình qua các ngày tháng, các
địa điểm được ghi theo hình thức nhật ký, dừng lại làm lễ tế thần sông núi ở đâu,
khi nào; ghi chép nội dung đối đáp với các quan lại Trung Quốc các cấp (thường
qua hình thức bút đàm) v.v…Có thể nói tập thông lục này có nhiều điểm ta sẽ gặp
lại trong Như Tây nhật trình của Phạm Phú Thứ ở cuối thế kỷ XIX vì chức năng
chính của các nhật trình là ghi chép về nội dung hoạt động của sứ thần chứ không
phải một khách du lịch. Tuy vậy, bên cạnh việc ghi chép chi tiết các nội dung hoạt
động trực tiếp liên quan đến công việc của sứ thần, họ cũng có ghi lại các điều quan
sát, các cảm xúc, suy nghĩ của một khách đi đường.
Bắc hành tùng ký của Lê Quýnh (1750-1805) nói cho đúng ra, rất ít điểm gần
gũi với văn du ký. Tập ký này chủ yếu ghi lại những sự việc, những thảm cảnh khi
ông theo Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc do bị quân Tây Sơn đánh đuổi.
Tâm trạng của người bề tôi tòng vong không cho phép ông quan sát khác biệt văn
hóa hay có hứng thú ngâm vịnh. Tuy nhiên, các ghi chép của bọn bầy tôi tòng vong
ở Trung Quốc có một giá trị tư liệu quí báu đối với việc nghiên cứu lịch sử và văn
hóa Việt Nam.
Đến giữa thế kỷ XIX, nhà Nguyễn phái một số nhà nho sang vùng Đông
Nam Á với mục đích mua hàng hóa, tìm hiểu tình hình người Tây dương (Phương
Tây) v.v.v. Trong số các văn du ký viết từ các chuyến đi đó, có thể kể một số ghi
chép tiêu biểu như Tây hành kiến văn kỷ lược của Lý Văn Phức (1785-1849), Hải
trình chí lược của Phan Huy Chú (1782-1840). Các tập ký này ghi chép những
điều các vị quan sát được từ các xứ thuộc địa như Singapore, Penang, Java, nhận
xét về người Phương Tây, ví dụ nhận xét về Hồng mao tức người Anh, người Hà
Lan có mặt ở Đông Nam Á. Nội dung ghi chép trong các tập ký đó cấp cho độc
giả hiện đại những thông tin quí báu về lịch sử xâm nhập Phương Đông của các
thế lực thực dân Phương Tây cũng như cách thức mà người Việt Nam ở giữa thế
kỷ XIX tiếp nhận sự khác lạ của một nền văn hóa khác, của những con người khác
đến từ Phương Tây đó.
Cuối thế kỷ XIX, do Việt Nam đã dần trở thành thuộc địa của Pháp, quan hệ
21
Việt Nam - Pháp đòi hỏi cử sứ thần sang Pháp nên nhà Nguyễn đã cho một số đoàn
đi sứ. Tác phẩm sứ trình tiêu biểu cho kiểu đi xa này chính là Tây hành nhật ký do
Phạm Phú Thứ viết [214]. Viết theo hình thức nhật ký, kể tuần tự các công việc, các
sự vụ, các chuyến thăm thú, gặp gỡ ở Pháp, đây là một tài liệu có giá trị nhiều mặt.
Tuy nhiên, trong tư cách một sứ thần, Phạm Phú Thứ thường rất kiệm lời, rất ít khi
bộc lộ suy nghĩ, đánh giá của bản thân về con người và văn hóa Pháp. Thành thử
nếu cứ máy móc áp theo định nghĩa văn du ký là ghi lại những sự khác lạ thì tập ký
này ít màu sắc du ký.
- Trong khuôn khổ thời gian của thời trung đại, có hai tập ký có thể nói là rất
khác với văn du ký trung đại của nhà nho. Đó là Sách sổ sang chép các việc [16]
của Philiphê Bỉnh (hoàn thành năm 1822) và Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất hợi (hoàn
thành năm 1876) của Trương Vĩnh Ký (1837-1898) [84]. Đây là hai tập văn du ký
viết bằng tiếng Việt-chữ quốc ngữ. Tập của Philiphê Bỉnh ghi chép và có những
nhận xét, quan sát, so sánh văn hóa Việt Nam và văn hóa Phương Tây (cụ thể là Bồ
Đào Nha) rất tinh tế, ghi nhận cuộc tiếp xúc văn hóa thuộc loại đầu tiên giữa
Phương Đông và Phương Tây trong con mắt một người Việt. Tập ký của Trương
Vĩnh Ký có nhiều quan sát cụ thể, tỉ mỉ về phong tục, lối sống, về đời sống văn hóa,
nghệ thuật của miền Bắc Việt Nam. Do viết bằng chữ quốc ngữ và bản thân tác giả
là những người am hiểu văn hóa, văn học Phương Tây nên văn du ký của họ có khá
nhiều nét hiện đại, rất khác với văn du ký của các nhà nho.
1.2.2. Văn du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX
Bước sang nửa đầu thế kỷ XX, văn du ký tiếng Việt phong phú và đa dạng cả
về số lượng và chất lượng, có nhiều giá trị văn học, sử học, văn hóa học.
So với thời kỳ trung đại, ở đầu thế kỷ XX, số người Việt Nam đi xa, kể cả đi
ra nước ngoài nhiều hơn hẳn. Sự xuất hiện của báo chí, xuất bản hiện đại đã tạo điều
kiện thuận lợi hơn bao giờ hết cho việc công bố và đọc văn du ký. Trên hầu hết các
báo, tạp chí xuất bản ở đầu thế kỷ XX ít nhiều đều có đăng văn du ký và giá cả phải
chăng của báo chí đã giúp cho người đọc tiếp cận được các áng văn du ký hiện đại
này. Đến lượt mình, văn du ký trong buổi đầu đã đóng vai trò đắc lực tạo nên sự hấp
dẫn của báo chí, giúp báo chí tồn tại trong khi sáng tác hư cấu bằng tiếng Việt còn
22
chập chững.
Hầu hết các báo, tạp chí giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX đều có đăng văn du ký.
Các báo địa phương như Nam Kỳ tuần báo, Thanh Nghệ Tĩnh tân văn, Thần
chung… các báo có vận mệnh khá ngắn ngủi như An Nam tạp chí, các báo chuyên
về văn học như Phong hóa ở các mức độ khác nhau đều đăng văn du ký. Có ba tờ
tạp chí và báo công bố nhiều du ký, đó là tạp chí Nam phong, báo Phụ nữ tân văn,
tạp chí Tri tân. Chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu chủ yếu mảng văn du ký trên ba
tờ báo, tạp chí này vì chúng tiêu biểu cho nhiều mặt: vùng miền, cho các giai đoạn
khác nhau và vì khuynh hướng của tờ báo, tạp chí.
Nam phong tạp chí 3 tồn tại trong một thời gian khá dài, từ năm 1917 đến
năm 1934. Đây là một tờ tạp chí có nội dung tổng hợp trong đó phần văn học được
dành một địa vị quan trọng, bao gồm cả văn du ký. Nam phong thường cho in
những bài văn du ký trung đại bằng Hán văn đã dịch ra tiếng Việt và các bài du ký
văn quốc ngữ nửa đầu thế kỷ XX. Về độ lớn của dung lượng, có thể khẳng định du
ký Nam phong chiếm vị trí dẫn đầu, cá biệt Pháp du hành trình nhật ký của Phạm
Quỳnh có dung lượng dài hơn ba trăm trang, bao trùm một khoảng thời gian và
không gian khá dài rộng trong chuyến đi Pháp 6 tháng của tác giả năm 1922, rất tiêu
biểu cho văn du ký nửa đầu thế kỷ XX về nhiều mặt.
Phụ nữ tân văn hoạt động từ năm 1929 đến năm 1935 ở Sài Gòn, là một tờ
báo tư nhân, có xu hướng nữ quyền, cũng thường in văn du ký nhưng dung lượng
không thực lớn. Có điều tờ báo này ưu tiên cho một số thiên du ký của phụ nữ như du ký của Phạm Vân Anh4 (đi sang Pháp) hay du ký của cô Nguyễn Thị Kiêm đi từ
Sài Gòn ra Hà Nội để diễn thuyết về chủ đề nam nữ bình đẳng. Tờ báo cũng là một
trường hợp khá tiêu biểu của báo chí Nam Kỳ nửa đầu thế kỷ XX. Tiếc là tại Thư
viện Quốc gia chỉ còn lưu lại không đầy đủ các số báo nên chúng tôi chỉ đọc được
không quá 5 bài du ký và một vài bài bàn về phụ nữ với du ký.
Tạp chí Tri tân tồn tại từ 1941 đến 1945, thuộc về giai đoạn cuối của nửa đầu
thế kỷ XX. Đây là tờ tạp chí thiên về khảo cứu, tuy có dành một số trang cho mảng
23
nghiên cứu, phê bình các hiện tượng văn hóa văn học đương đại, song chủ yếu ưu 3 Nam phong tạp chí là tên gọi chính thức. Nhưng một số nhà nghiên cứu vẫn gọi đây là “báo” (xem Từ điển Văn học –bộ mới, mục từ Phạm Quỳnh (230, 1366). Thiết nghĩ cần gọi tên đúng của sự vật. 4 Thực ra, Phạm Vân Anh không phải là tác giả nữ mà chỉ là bút danh của Đào Trinh Nhất.
tiên đăng những áng văn du ký có tính chất nghiên cứu, khảo sát. Thống kê sơ bộ
cho thấy có 23 thiên văn du ký công bố trên Tri tân từ 1941 đến 1945, có thiên du
ký kéo dài nhiều kỳ như Indrapura của Mãn Khánh Dương Kỵ (4 kỳ) hay Bốn năm
trên đảo Các Bà (5 kỳ) của Vân Đài, Hai tháng ở gò Óc Eo của Biệt Lam Trần Huy
Bá (6 kỳ).
Số lượng tác phẩm văn du ký trên Nam phong đã đủ để nhà nghiên cứu
Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm thành một bộ gồm 3 tập dày dặn [31, 32, 33] trong đó
sưu tầm tuyển chọn được 52 tác phẩm du ký nửa đầu thế kỷ XX chưa kể du ký
trung đại. Bộ tài liệu quí này giúp người đọc hiện đại dễ dàng tiếp cận di sản văn
học vẫn ít được biết.
Chúng ta đều biết, trong thập niên gần đây, thể loại văn du ký như đang có
sự phục hưng sau một thời gian dài trầm lắng. Các thiên du ký đương đại có thể đã
in thành sách mà có thể chỉ mới công bố trên blog cá nhân (như du ký của Vương
Trí Nhàn viết gần đây nhân khi ông đi du lịch Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Đài
Loan -xem thư mục các số từ 134 đến 136). Nội dung của các thiên du ký này chủ
yếu vẫn theo tinh thần đi du lịch, nhìn người rồi quay lại nhìn ta, một nhu cầu đổi
mới văn hóa xã hội đã bắt đầu từ văn du ký nửa đầu thế kỷ XX. Theo nhận định của
Lê Thiếu Nhơn, văn học Việt Nam năm 2013 chứng kiến sự lên ngôi của du ký và
tạp văn. Anh nói: “Chúng ta thấy trào lưu sách viết về du ký đang trở lại với những
tác phẩm của Phan Việt, Di Li, Dương Thụy, Phương Mai. Thực ra, thể loại du ký không phải mới xuất hiện. Từ những thập niên 40 của thế kỷ trước5, học giả Phạm
Quỳnh đã viết du ký. Tuy nhiên hiện nay, người Việt đang muốn một cái nhìn mới
mẻ để bước ra thế giới nên rất cần thông tin và sự trải nghiệm”. Và cho biết “Rất
nhiều nhà nghiên cứu văn hóa trên thế giới đã dự đoán thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của
văn học tự sự không dùng trí tưởng tượng, không hư cấu. Du ký là một trong những
thể loại đó. Du ký là thể loại được viết từ trải nghiệm, suy ngẫm của người viết về
cảnh vật, sự việc, thế thái nhân tình” (Năm 2013, du ký và tạp văn lên ngôi, báo Đà
Nẵng điện tử, ngày 13-1-2014, http://www.baodanang.vn/channel/5433/201401/
nam-2013-du-ky-va-tap-van-len-ngoi-2300749/). Nhận xét này phản ánh đúng thực
24
tế văn học Việt Nam mấy năm gần đây, cho thấy sức sống tiềm tàng của văn du ký. 5 Chỗ này không chính xác.
Phân loại theo đề tài, Nguyễn Hữu Lễ chia văn du ký nửa đầu thế kỷ XX
thành các loại sau: 1) đề tài lịch sử, 2) đề tài danh lam thắng cảnh, 3) đề tài quốc tế,
4) đề tài dân tộc thiểu số. Còn phân loại theo cảm hứng, tác giả này chi thành mấy
loại: 1) cảm hứng viễn du, 2) cảm hứng văn hóa và lịch sử, 3) cảm hứng tâm linh, 4)
cảm hứng trữ tình, 5) cảm hứng thế sự [103].
Tuy nhiên, trên thực tế, nội dung của văn du ký rất phong phú, khó có thể
dùng 4 nhóm đề tài như trên mà bao quát hết được (ví dụ cô Nguyễn thị Kiêm đi
xuyên Việt ra Hà Nội và Hải Phòng để diễn thuyết về nữ quyền không thuộc loại
nào), hoặc một thiên du ký lại có thể xếp vào hai ba loại khác nhau (Ví dụ Pháp du
hành trình nhật ký có thể xếp cả vào đề tài quốc tế, cả vào đề tài viễn du). Một tác
phẩm văn du ký có thể có rất nhiều cảm hứng khác nhau và có những cảm hứng mà
bảng phân loại nói trên không bao quát được. Bốn năm trên đảo Các Bà của Vân
Đài có nhiều cảm hứng khác nhau: nhận diện bản chất Khách trú (người Hoa) chiếm
đoạt tài nguyên biển của dân ta, lãng mạn hóa cuộc sống của dân cư trên đảo biệt
lập với đất liền, thể nghiệm tâm trạng phiêu lưu, đối diện với nguy hiểm. Vì thế,
trong khi chờ đợi xác định được đầy đủ kho văn học du ký giai đoạn nửa đầu thế kỷ
XX, chúng tôi tạm thời chưa phân loại.
Điểm cần chú ý là góc nhìn giới trong khi nghiên cứu văn du ký hiện đại vẫn
chưa được chú ý. Những vấn đề phụ nữ đã được văn du ký phản ánh ra sao, người
phụ nữ đã tham gia viết văn du ký như thế nào. Đây sẽ là một hướng nghiên cứu của
luận án.
1.2.3. Du ký thế giới
Theo Từ điển mở Wikipedia (tiếng Anh), văn bản văn du ký sớm nhất hiện
nay biết được là Miêu tả nước Hy Lạp của Pausania (thế kỷ II). Vào thời trung đại,
văn du ký đã là thể loại phổ biến trong văn học Arap, tiêu biểu là các nhật ký hành
trình của Ibn Jubayr (1145-1214) và Ibn Batuta (1304-1377). Đời Tống ở Trung
Quốc cũng đã biết đến du ký. Thể loại này được người Trung Quốc gọi là “văn học
du ký”, thường được viết bằng các phương thức tự sự, nhật ký, khảo cứu. Một vài tác
giả tiêu biểu của văn du ký trung đại ở Trung Quốc như Phạm Thành Đại (1126-1193)
25
với Quế Hải ngu hành chí, Từ Hà Khách (1587-1641) với Từ Hà Khách du ký.
Cũng theo từ điển mở Wikipedia, một trong những áng văn du ký vào loại
sớm nhất ghi chép sự vui thích khi đi du lịch là của Petrarsh (1304-1374) chép về
cuộc leo núi Ventoux của ông năm 1336. Việc leo núi để tìm hứng thú đứng trên
đỉnh cao nhìn ra các ngọn núi thấp hơn còn hàm nghĩa tượng trưng cho quá trình
hoàn thiện về đạo đức trong cuộc sống. Giữa thế kỷ XV, Gilles le Bouvier đã giải
thích lý do ông viết tập văn du ký Livre de la description des pays (Sách kể chuyện
các nước): “Vì nhiều người từ các dân tộc, các nước khác nhau có sự vui thích,
khoan khoái, như tôi đã từng có, khi nhìn ngắm thế giới và sự vật trong thế giới và
cũng vì nhiều người muốn biết mà không cần đi đến tận nơi, còn một số người lại
muốn xem, đi, du hành nên tôi đã bắt tay viết cuốn sách nhỏ này”.
Đến thế kỷ XVIII, ở châu Âu, văn học du hành đã định hình với những cuốn
sách du hành mà nội dung chính của chúng là các nhật ký hàng hải. Người châu Âu
đang vươn xa ra ngoài các đại dương, bắt đầu lịch sử thực dân của họ thì tất nhiên,
nhu cầu giới thiệu các xứ sở xa xôi, các miền đất, các nền văn hóa Phương Đông trở
nên một nhu cầu lớn. Nhật ký của thuyền trưởng James Cook (1784) cho đến nay
vẫn là một tác phẩm bestseller. Hầu hết các nhà văn Anh trong thế kỷ này đều có
tham gia viết văn học du hành.
Sang thế kỷ XIX, văn học du lịch (tourism literature) thực sự-phân biệt với
travel literature- mới bắt đầu. Những nhà quí tộc, giới tu sĩ, những người có tiền của
bắt đầu đi du lịch châu Âu tìm hiểu nghệ thuật, kiến trúc cổ. Robert Louis Stevenson
(1850-1894) là người đi tiên phong trong văn học du lịch với tác phẩm Những chuyến
đi bằng lừa ở xứ Cevennes (Pháp), lần đầu tiên kể về thú đi du lịch cắm trại, dùng túi
ngủ… Văn học du lịch có nội dung thám hiểm cũng bắt đầu phổ biến.
So với người Việt Nam và Phương Đông nói chung thì người châu Âu và Mỹ
trong các thế kỷ XVIII, XIX, XX đi ra nước ngoài nhiều hơn. Các áng văn du ký
của họ kể về các chuyến đi du lịch, thám hiểm, nghiên cứu nhiều nước trên thế giới
không dừng lại ở những bài viết ngắn như văn du ký ở ta nửa đầu thế kỷ XX mà
thường xuất bản thành sách (travel book). Theo Wikipedia, Samuel Johnson có Một
cuộc hành trình đến các đảo vùng Tây Scotland (1775), Mary Wollstonecraft có
26
Thư từ viết trong một chuyến di trú ngắn hạn ở NaUy, Thụy Điển, Đan Mạch (1796),
Hilaire Belloc viết Đường tới La Mã (1902), Joshua Slocum có Một mình bơi
thuyền vòng quang thế giới (1900), D. H. Lawrence có Những buổi sáng ở Meheico
và các tiểu luận khác (1927), Rebecca West viết Cừu đen và phượng hoàng xám (về
Nam Tư, 1941)…
Nhật ký du lịch của châu Âu cũng thường có qui mô đồ sộ. Theo Wikipedia,
Gơt đã có nhật ký đi Italia từ tháng 9-1786 đến tháng 5-1788. Cũng trong năm 1786,
James Boswell viết Nhật ký một chuyến đi đến Hebrides.
Trong văn học Phương Tây có thể loại du ký hư cấu, dựa trên những chuyến
đi có thực như tiểu thuyết của Kira Salak có Cô Mary người da trắng kể chuyện
diễn ra ở Papua New Guine và Congo hay Trên đường của Jack Kerouac (1957).
Đây đều là kiểu tiểu thuyết được xây dựng trên cơ sở những chuyến đi có thực.
Trong văn học Việt Nam, dạng tiểu thuyết du ký hư cấu như vậy hầu như vắng bóng.
Ở Phương Tây để khuyến khích sự phát triển của văn học du ký, người ta đặt
những giải thưởng: Giải thưởng của Anh cho văn du ký mang tên Thomas Cook
(Thomas Cook Travel Book Award) hoạt động từ 1980 đến 2004 và Giải thưởng
cho những tác phẩm văn du ký xuất sắc nhất của Anh do William Dolman tài trợ
(Dolman Best Travel Book Award) bắt đầu từ 2006. Năm 2013 và 2014 mỗi năm có
6 tác phẩm du ký được trao giải thưởng. Điều này cũng nói lên tầm quan trọng của
văn du ký trong văn học Phương Tây so với ở nước ta.
1.3. Nghiên cứu, phê bình văn du ký trong nƣớc và thế giới
1.3.1. Nghiên cứu văn du ký ở Việt Nam trước năm 1945
Như đã nói trong các mục trên, trước cách mạng tháng Tám, đã có rải rác
một số bài viết nhỏ có nội dung ít nhiều liên quan đến phê bình văn du ký. Chẳng
hạn trên Phụ nữ tân văn, đoạn văn giới thiệu du ký của Phạm Vân Anh (năm 1929),
hay bài viết của Phan Khôi (năm 1932) về sự thiếu chân thực của những điều tưởng
như là tai nghe mắt thấy của một số áng văn du ký đương thời. Trên Tri tân (năm
1942), Trần Huy Bá đã bộc bạch rằng năm 1941 ông viết văn du ký kể về hồ Ba Bể
nhưng chưa hề đến đó, mặc dù người đọc có cảm tưởng đây là điều tác giả mắt thấy
tai nghe. Mấy bài viết tản mạn đó đều tập trung nói nhiều về tính chân thực của văn
27
du ký, một vấn đề mà hiện nay giới nghiên cứu vẫn rất quan tâm.
Cũng liên quan ít nhiều đến văn du ký, Phan Khôi đã bàn về vai trò của thể
văn nhật ký trong văn học hiện đại. Ông viết: “Có người luận về văn nhựt ký đã nói
như vầy: Nội các thể văn chỉ có nhựt ký là thiệt thà hơn hết, chắc chắn hơn hết; cái
thú vị của nó ở trong chỗ đó mà ra. Xem các thể văn khác chưa chắc biết đúng tánh
tình của tác giả, chớ xem nhựt ký của ai thì biết đúng tánh tình của nấy. Bởi vì làm
thi, làm tiểu thuyết, làm kịch bổn là để cho người thứ ba đọc, cho nên phải dồi mài
gò gẫm hết sức, e khi dồi mài gò gẫm quá rồi đến nỗi sai với chơn tình của người
làm. Còn xích độc (thơ tín) là để cho người thứ hai coi, sự dồi mài gò gẫm có bớt đi,
nhưng cũng chưa dứt hẳn. Đến chép nhựt ký là để cho chính mình coi, mình có
trong bụng làm sao, ắt phải viết ra mà nói với mình làm vậy, không cần dồi mài gò
gẫm làm chi, tự nhiên phải giữ được cái tánh tình thật mà khỏi mất. Hễ cái gì đã là
chơn thật thì phải có thú vị” [77].
Ta biết thể văn nhật ký được dùng rất phổ biến trong văn du ký, tuy nhật ký
không phải là du ký nhưng du ký thường là nhật ký, nên nói về nhật ký là gợi ý suy
nghĩ về du ký như một thể loại văn xuôi riêng của văn học hiện đại. Trên thực tế,
hầu hết các tác phẩm du ký nửa đầu thế kỷ XX được viết dưới dạng nhật ký. Bàn về
nhật ký cũng là gián tiếp bàn đến tính chân thực của tự sự và vấn đề bộc lộ chủ thể
trong văn du ký.
Việc đi du lịch còn có những lợi ích to lớn mở mang tầm hiểu biết. Viên
Hồng (Phụ nữ tân văn -1931), nhân nói về văn hóa Mã Lai, viết như sau: “Phong
dao ta có câu: “Đi một bước đàng, học một sàng khôn”, cái câu ấy tuy nó cũ mèm,
tự đời xưa truyền lại, nhưng nó rất ứng dụng với thời đại bây giờ. Ở chung quanh
xứ ta, hay ở khắp thế giới, hãy còn biết bao nhiều là phong cảnh nhơn vật xinh đẹp
lạ lùng, đáng cho ta thấy biết để mở tầm con mắt và bồi bổ óc khôn cho ta rộng lớn
mãi ra? Có biết người biết ta rồi mới có thể so sánh mà biết ai hay ai dở, hễ có so
sánh biết ai hay ai dở rồi thì mới có cạnh tranh mà tiến bộ được. Ở các nước văn
minh giàu có chẳng những người lớn rất ham du du lịch xứ người, dẫu tốn hao nguy
hiểm thế nào cũng chẳng quản, mà họ lại còn khuyến khích nong nả cho bạn thiếu
niên đi du lịch nữa” [Phụ nữ tân văn s. 114, ngày 24 -12-1931]. Bài viết nói đến
28
nhu cầu khám phá, tìm hiểu thế giới rộng lớn xung quanh đất nước ta, đặc biệt là
cần thiết phải đi để có được cái nhìn so sánh giữa ta và người thì mới có tinh thần
cạnh tranh cho tiến bộ. Du lịch gắn với tinh thần phát triển nên cần khuyến khích
thanh niên đi du lịch. Đây là quan điểm tiến bộ về du lịch.
Trên Tri tân năm 1941, nhận xét về tùy bút lãng du của Nguyễn Tuân, Vũ
Văn Lợi viết: “Chính ông Nguyễn Tuân nhận rằng “bệnh du lịch” đã truyền vào
người ông không phải ở phía mẹ mà ở phía cha”. Nhưng không phải ai đi du lịch
cũng được đâu: dư thì giờ chưa đủ, phải thèm đi nữa! Biết bao kẻ thật là giàu có, mà
suốt đời có biết đó biết, đây là cái gì đâu. Trái lại, nhiều người còn thèm đi hơn ông
Nguyễn Tuân nữa kia mà rút cục phải chôn chân một chỗ, sống trong một cuộc đời
mòn chờ đợi một cái gì mới mẻ, mà than ôi không bao giờ thấy đến! Nguyên nhân?
chỉ vì trong tay không sẵn đồng tiền. Thế mà ngày xưa đã có người dám nói rằng
tiền bạc không tạo nên được hạnh phúc... Có người đi xa vì sinh kế bắt buộc, có kẻ
đi xa du học, để cầu chút công danh; cũng có khi đi xa để mưu cuộc hòa bình cho
thế giới. Nhưng “đi” đối với tác giả “là hình thức tốt đẹp nhất của thoát ly. Thoát ly
khỏi cái tủn mủn của cuộc sống hàng ngày; khỏi phiền phức của sự an bài, để trốn
cái trơ trẽn của người cũ” [105]. Bài viết chú ý đến các động cơ khác nhau của việc
đi xa, nhấn mạnh khía cạnh lãng mạn, chủ nghĩa cá nhân của việc đi du lịch, gợi ý
cho chúng ta ngày nay suy nghĩ về sự thay đổi trong cái nhìn về sự đi xa của con
người ở nửa đầu thế kỷ XX, khi mà sự ràng buộc của gia đình truyền thống đang
dần bị nới lỏng.
Về một trong những ngọn nguồn ảnh hưởng đến văn du ký ở nước ta, trên
Nam phong năm 1934, Mộng Tuyết cho rằng đó là nhờ có các tác phẩm phiêu lưu
Tê lê mặc phiêu lưu ký và tác phẩm của Alain Gerbault [237]. Chúng ta biết rằng Tê
lê mặc phiêu lưu ký được đưa vào Việt Nam qua các bản dịch khác nhau, đầu tiên là
bản dịch thơ lục bát của Trương Minh Ký in trên Gia Định báo năm 1885, đến 1887
thì in thành sách. Bản dịch bằng văn xuôi do Nguyễn Văn Vĩnh thực hiện sau này
được in vào năm 1927. Còn Alain Gerbault (1893-1941) là nhà thám hiểm, một
mình điều khiển thuyền buồm đi vòng quanh thế giới và lên một số hòn đảo, tìm
hiểu và viết về lối sống của cư dân trên các hòn đảo đó. Mộng Tuyết nhắc đến điều
29
này khi đi ra đảo Phú Quốc có hàm ý đây là một cuộc đi có sắc thái thám hiểm ra
đảo. Từ cái nhìn của một người đương thời, người trong cuộc, chúng ta biết rằng
trong những nhân tố khác nhau, có việc xuất hiện văn học phiêu lưu, óc ham thám
hiểm khám phá của Phương Tây, đã ảnh hưởng đến văn học Việt Nam hiện đại,
trong đó có du ký. Tinh thần phiêu lưu, mạo hiểm và con người cá nhân trong tiểu
thuyết Robinson Crusoe dường như phảng phất trong “nhà mạo hiểm như ông An Tiêm” của “phiêu lưu tiểu thuyết” 6 Quả dưa đỏ của Nguyễn Trọng Thuật (được
giải thưởng Hội Khai trí Tiến đức năm 1925) rồi được đăng nhiều kỳ trên Nam
phong năm 1926.
Một số bài viết có quan hệ với đề tài văn du ký nửa đầu thế kỷ XX đã gián
tiếp hoặc trực tiếp đề cập đến mảng văn du ký của tác giả nữ và vấn đề phụ nữ du
lịch. Trong bài Lịch trình tiến hóa của văn học phụ nữ ta in trên Tri tân (1943), Hoa
Bằng điểm các tác giả nữ Tương Phố Đỗ Thị Đàm với Giọt lệ thu (1928), tiếp theo
là Đạm Phương nữ sử, Huỳnh Thị Bảo Hòa trên Tiếng Dân, Vân Anh trên Phụ nữ
tân văn, cho thấy nhà phê bình đã có chú ý đến mảng văn du ký của họ [15]. Trước
đó cả chục năm, Phụ nữ tân văn (số 264 năm 1934), có bài Con gái đi xa, bộc lộ
quan điểm mới về phụ nữ và du lịch. Bài viết cho hay, mục đích của cô Nguyễn Thị
Kiêm đi từ Sài gòn ra Hà Nội nhằm cổ động cho Phụ nữ tân văn và diễn thuyết ở
Hội Khai trí Tiến đức. Điểm lại dư luận ồn ào chê cô Kiêm là con gái đi xa không
biết có giữ được phẩm giá không, tác giả viết: “Nhiều ông trong báo giới không bỏ
qua dịp nào là không binh vực cho đạo đức và luân lý. Thấy cô Nguyễn Thị Kiêm là
một thiếu nữ phải đi xa, tuy rằng cùng đi với cha, các ông lo sợ không biết cô ấy có
kiên tâm mà giữ nổi phẩm giá của mình hay không? Thậm chí có mấy người đến
báo quán phàn nàn rằng: “Con gái sao lại đi xa như vậy, tôi không phục”. Theo ý tôi,
bao nhiêu dư luận về việc cô Nguyễn Thị Kiêm ra Bắc đủ chứng rằng: nền luân lý,
gốc đạo đức của nước nhà vẫn còn có người binh vực rất sốt sắng! Nhưng có lẽ các
ổng sốt sắng thái quá. Đối với một người phụ nữ đứng ở chỗ công chúng mà bày tỏ
ý kiến của mình, tôi tưởng các nhà ngôn luận đều có quyền phê bình vì những ý
6 Mấy từ để trong dấu ngoặc kép là từ dùng của tác giả Nguyễn Trọng Thuật trong Bài tựa đề trước Quả dưa đỏ in trên Nam phong số 103, tháng Ba, 1926.
30
kiến ấy sẽ có ảnh hưởng trong dân gian. Thế mà lạ, ít có ai xét coi tư tưởng của cô
Kiêm và cô Nga chánh đáng hay là không, việc cổ động của hai cô có lợi hay là hại
cho cuộc vận động của toàn thể nữ giới. Đó là những điều quan hệ mà hình như các
nhà đạo đức không cần. Các ông chỉ để tâm vào những việc thuộc về luân lý cá
nhân…Đời nay, dẫu là con gái hay con trai đều có thể đi xa để hoặc là học hành,
hoặc là sanh kế hoặc là làm một công việc gì có ích cho nhân quần xã hội. Điều cốt
yếu là chúng ta phải tránh sự chỉ trích vô bằng, sự áp bức phụ nữ. Nghĩa là chúng ta
không nên vô cớ nói xấu, hay là đặt cho đàn bà vào một cái khuôn khổ luân lý riêng
nghiêm khắc với họ mà quên nghiêm khắc với đàn ông”. Nguyễn Thị Kiêm chính là
tác giả của thiên du ký Dọc đường: cuộc hành trình từ Nam ra Bắc, [Phụ nữ tân
văn, s. 264, 25 -10-1934], kể về chuyến đi dài ngày từ Nam bộ ra Hà Nội, Hải
Phòng để quảng bá cho tư tưởng nữ quyền. Từ trước cách mạng tháng Tám, nói về
văn du ký, người ta đã bàn đến một vài nội dung của du lịch, văn du ký có quan hệ
với nữ quyền. Vì phụ nữ đi xa nhà là điều rất hiếm thấy, không được khuyến khích
trong văn hóa Việt Nam trung đại. Người phụ nữ lý tưởng thời trung đại là mẫu
người “khuê các”, “bên khung cửi”, tề gia nội trợ.
Tóm lại, tuy phê bình văn du ký nửa đầu thế kỷ XX còn khá thưa thớt, mỏng
mảnh nhưng nhiều vấn đề hiện đại của văn du ký đều đã được chạm đến, như: văn
du ký và tính chân thực của nhật ký, về tính lợi ích của du lịch (gián tiếp nói về sự
cần thiết của du ký, nhất là so sánh với văn hóa của người khác để mình tự thay đổi),
về tính chất phiêu lưu, thám hiểm của du lịch mà văn du ký cần ghi nhận, về du ký
và phụ nữ…Đây là những vấn đề mà luận án của chúng tôi cần tiếp tục đào sâu.
1.3.2. Nghiên cứu văn du ký ở Việt Nam trong thời gian hai thập kỷ gần đây
Sau cách mạng tháng Tám 1945, trong bối cảnh chiến tranh chống Pháp, rồi
chống Mỹ, ở miền Bắc, trong các tiêu chí đánh giá giá trị văn học, tiêu chí hàng đầu
phải là những đóng góp thiết thực của văn học cho cách mạng. Điểm nhìn về hiện
đại hóa văn học chưa phải là mối quan tâm hàng đầu. Do đó, dễ hiểu là Đặng Thai
Mai đã có phần nặng lời với văn du ký, dường như đánh đồng các loại du ký khác
nhau. Trong cuốn Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX, ông nhận xét “Ở
nước ta, dưới chế độ kiểm duyệt và với trình độ nhận thức về chính trị, về khoa học
31
của các nhà viết báo hồi đó, phần lớn các bài du ký, ký sự, hài đàm…chỉ có thể là
những nét ký họa hay hài họa hết sức hời hợt để “khai vị” cho một lớp độc giả đang
chờ bữa cơm sau khi ở „sở” về mà thôi. Tham quan một danh lam thắng cảnh về,
nhà văn viết bài du ký cũng chưa mấy khi thoát ra ngoài khuôn sáo của giọng hoài cổ siêu thoát của các nhà văn lớp trước…”7.
Trong một thời gian khá dài, văn du ký ít được giới nghiên cứu phê bình
quan tâm.
Ở miền Nam, có một số quan sát về văn du ký nhưng chưa phải là những
nghiên cứu chuyên sâu. Ví dụ, Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước
tân biên, viết về Phạm Quỳnh đã có hẳn một chuyên mục “nhà du ký” dài hơn 3
trang sách. Phạm Thế Ngũ nhận xét: “Phạm Quỳnh còn mở đường cho một loại văn
sau thành mốt thời ấy, là loại du ký…Văn du ký của ông cũng thường thiên về khảo
luận…Mặc dầu vậy nó cũng giúp ta nhận định được ít nhiều nét thâm thiết về con
người tác giả. Những thiên du ký của ông tuy nhiều khi thiên về khảo luận nhưng
không khô khan. Ông biết thuật chuyện có duyên, biết điểm vào những đoạn tả cảnh
xinh tươi, nhất là biết khéo sử dụng một lời văn thanh thoát trang nhã” [122, 190].
Điều đáng chú ý là Phạm Thế Ngũ đã dõi theo sự biến chuyển của văn du ký Phạm
Quỳnh qua thời gian, tuổi tác. Những áng văn du ký tuổi trẻ (đăng trước 1925) của
Phạm Quỳnh còn bồng bột, sính làm văn chương, song sau 1925, ngòi bút Phạm
Quỳnh đã giản dị, chuẩn xác hơn, không hoa mỹ màu mè. Riêng Pháp du hành
trình nhật ký được Phạm Thế Ngũ đánh giá cao. Nhà nghiên cứu đã nhận xét rất
trúng, rất sắc sảo về cuộc tiếp xúc văn hóa văn minh Đông Tây, tâm lý tự ti đồng
thời với tự kiêu, về các giọng điệu đa dạng khi nhục nhã, khi than thở, khi bông lơn
cười cợt và “điều đáng chú ý là chính trong thiên du ký này Phạm Quỳnh đã nói về
ông nhiều hơn cả” [122, 192]. Như ta sẽ thấy, cái tôi, con người chủ thể chính là
một nét đặc sắc mà du ký đóng góp cho công cuộc hiện đại hóa văn học, điều được
giới nghiên cứu Phương Tây và Việt Nam đồng loạt nhấn mạnh.
Trong thời kỳ đổi mới, giới nghiên cứu đã chuyển đổi điểm nhìn đối với
văn học nửa đầu thế kỷ XX, một cách toàn diện và đánh giá khách quan hơn
32
những đóng góp của các dòng văn học, các tác giả, các thể loại khác nhau. Văn du 7 Đặng Thai Mai (1960), Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1960, tr. 106.
ký đã bắt đầu được đặt dưới điểm nhìn của quá trình hiện đại hóa văn học. Trong
công trình dành riêng cho vấn đề hiện đại hóa văn học trong giai đoạn nửa đầu thế
kỷ XX xuất bản năm 1999, nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn đã chú ý đến vị trí, ý
nghĩa của thể loại ký như bút ký, phóng sự, tùy bút, du ký…Theo ông, do sự ra đời
hàng loạt tờ báo nên về “mấy thể loại văn rất gần với báo, tồn tại trước tiên trên
mặt báo như bút ký, du ký phóng sự-lại tìm được điều kiện lý tưởng để nẩy nở”
[131, 56]. Vương Trí Nhàn lưu ý đến đóng góp của ký trong đó có du ký đối với
việc làm mới hệ thống thể loại văn học hiện đại hóa: “nhấn mạnh đến những đảo
lộn lớn lao đã đến qua sự có mặt của tiểu thuyết và của thơ là đúng. Song cũng
không thể bỏ qua sự phát triển của ký sự, phóng sự, du ký, cụ thể là vai trò khởi
động của nó. Hơn nữa, có một điều thú vị nên đặc biệt lưu ý: chính là nhờ có
phóng sự ký sự, mà tiểu thuyết bớt đi tính cách vu vơ hão huyền” [131, 64].
Chúng tôi quan tâm và sẽ tiếp tục triển khai ý tưởng này về vai trò của văn du ký
đối với quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Tuy vậy, cũng phải nói, do đối
tượng chính đang được theo dõi là phóng sự nên những gì cụ thể về văn du ký
chưa được ông triển khai.
Trong công trình xuất bản năm 2000 bàn về hiện đại hóa văn học Việt Nam,
Mã Giang Lân khẳng định du ký là thể loại đầu tiên viết bằng quốc ngữ và cũng
xem nó là một tiểu loại của thể loại bút ký: “Thể loại văn học đầu tiên viết bằng chữ
quốc ngữ phải kể đến du ký. Đây là một hình thức bút ký văn học được ghi lại bằng
văn xuôi, thuật lại những chuyến đi của tác giả đến những vùng đất khác
nhau…Nguồn gốc của du ký cần tìm trong những hình thức tùy bút, ký sự truyền
thống” [92]. Trong nhận xét này, có tư tưởng thống nhất với Vương Trí Nhàn về vai
trò mở đầu của thể loại du ký trong công cuộc hiện đại hóa văn học nửa đầu thế kỷ
XX.
Đó là một số nhận xét quan trọng nhưng còn quá vắn tắt của giới nghiên cứu
về du ký trong các mốc thời gian khác nhau trước đây.
Chỉ trong khoảng chục năm trở lại đây, văn du ký bắt đầu có sức hấp dẫn trở
lại như một đối tượng của khoa nghiên cứu văn học và bắt đầu có những chuyên
33
khảo lớn nhỏ dành riêng cho văn du ký.
Sự khởi sắc của mảng nghiên cứu về du ký có nguyên nhân ở việc giới
nghiên cứu đương đại đã có công “khai quật” lại nhiều mỏ vàng của báo chí xuất
bản trước cách mạng tháng Tám năm 1945-những mỏ vàng vốn một thời bị quên
lãng, coi nhẹ vì nhiều lý do. Một trong những nhà tiên phong chính là nhà nghiên
cứu Lại Nguyên Ân: công trình sưu tầm bền bỉ của ông trong hàng chục năm qua đã
cho thấy, chỉ riêng với nhà văn hóa Phan Khôi, đã có hàng ngàn trang văn báo chí
chính luận, phê bình, luận chiến đề cập đến rất nhiều phương diện của đời sống văn
hóa nghệ thuật trước cách mạng, có giá trị nhiều mặt. Từ mảng tư liệu phong phú đó,
giới nghiên cứu nhận thấy cần quay trở lại nghiên cứu giá trị của chúng.
Niculin, nhà Việt Nam học người Nga, từ góc nhìn của một người châu Âu,
qua nghiên cứu Sách sổ sang chép các việc của Philiphê Bỉnh từ thế kỷ XVIII, rất
nhạy bén nhận ra nét độc đáo có tính hiện đại, ý nghĩa thoát ly truyền thống Phương
Đông trong thể loại du ký: nhân vật trung tâm của tác phẩm văn du ký là chính cái
tôi tác giả. “Philiphê Bỉnh, với tư cách là nhân vật trong cuốn sách của mình, cuốn
sách có tính chất tư liệu, hiện thực, nhưng đồng thời cũng trải qua quá trình chỉnh lý
văn học, thông qua quan điểm, chính kiến, thị hiếu của tác giả, đã vượt ra khỏi
phạm vi địa lý của đất nước quê hương… Chỉ riêng một điều, ở vào vị trí trung tâm
của cuốn sách, tác giả kể lại một cách hết sức tự nhiên về bản thân đã là một sự
khước từ truyền thống: “Tôi là thầy cả Philip Bỉnh…” - cuốn sách mở đầu như vậy”
[141, 90]. Nhà nghiên cứu muốn so sánh cái tôi của Philiphê Bỉnh với truyền thống
văn hóa cộng đồng, coi nhẹ cái con người cá nhân của văn hóa Việt Nam. Tuy được
viết từ thế kỷ XVIII song Sách sổ sang chép các việc -một áng văn du ký độc đáo
bằng tiếng Việt ròng-đã báo trước những nét hiện đại của văn du ký thế kỷ XX. Đây
là gợi ý quí báu để chúng tôi triển khai phân tích văn du ký trong tiến trình hiện đại
hóa văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
Riêng về văn du ký, phải nói ngay là nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn có
những đóng góp quan trọng trong việc phát lộ kho tàng văn du ký. Ông bắt đầu
bằng việc biên tuyển các áng văn du ký trên Nam phong, đánh thức sự chú ý của
giới nghiên cứu phê bình đến giá trị nhiều mặt của mảng sáng tác này. Không
34
những làm công việc sưu tầm, công bố tư liệu, Nguyễn Hữu Sơn còn viết hàng chục
bài khảo cứu có giá trị về các mặt khác nhau của văn du ký giai đoạn nửa đầu thế kỷ
XX (xem thư mục tham khảo từ 169 đến 178). Bắt đầu từ đó, các nhà nghiên cứu,
phê bình khác cũng bắt đầu viết về văn du ký; đề tài văn du ký được lựa chọn cho
các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ.
Nguyễn Hữu Sơn đã có nhiều nghiên cứu, đánh giá nhiều mặt về văn du ký.
Trong bài viết giới thiệu tập Du ký Việt Nam, ông phân loại du ký trên Nam phong
ra 5 dòng khác nhau: đó là “dòng du ký mang tính quan phương, sự vụ, công vụ”;
“dòng du ký viễn du-những chuyến du hành vượt biên giới”; “dòng du ký thiên về
khảo cứu danh nhân lịch sử, truyền thuyết và sự tích liên quan tới một sự kiện cụ
thể”; “dòng du ký hướng tới khảo sát, giới thiệu cả một vùng văn hóa rộng lớn”;
“dòng du ký mà yếu tố “vị nghệ thuật” chiếm phần quan trọng” [169]. Ông nhấn
nhấn mạnh sự phân loại chỉ tương đối và dù các tác phẩm có khác nhau thế nào đi
nữa thì du ký vẫn hướng về ĐI và XEM, đặt cược vào tính tích cực chủ thể. Nhận
xét về tính chủ thể, tức cái tôi trong tự sự du ký là một nhận xét khá thống nhất với
các quan điểm nghiên cứu du ký cả trong và ngoài nước, nói lên được tính hiện đại
của du ký. Điểm riêng của Nguyễn Hữu Sơn là ông sử dụng khái niệm “thể tài” chứ
không phải “thể loại” khi định danh bản chất thể loại của văn du ký.
Nguyễn Hữu Sơn có một nghiên cứu đề cập đến vai trò của du ký trong quá
trình hiện đại hóa văn xuôi tiếng Việt, nói rộng ra, hiện đại hóa văn học Việt Nam.
Trong bài viết này, Nguyễn Hữu Sơn đã nhấn mạnh cái tôi, tính tự thuật của người
kể chuyện trong các áng văn du ký đi ra hải ngoại. Chẳng hạn, ông viết: “Trong
Hạn mạn du ký, cái “tôi” tác giả trong tư cách người kể chuyện đã xuất hiện từ trang
đầu đến trang cuối. Người kể chuyện ở đây phân thân trong nhiều vai trò, vị trí khác
nhau, có khi là người dẫn chuyện, có khi là kể, có khi là tả, có khi là người tự thuật,
có khi là những lời độc thoại, có khi là những lời nhận xét, bình luận, có khi là
chứng nhân, có khi đóng vai người giảng thuyết, khảo tả địa lý, văn hóa, lịch sử…”
[175].
Một bài viết gần đây của nhà nghiên cứu Đoàn Lê Giang đã trực tiếp đặt văn
du ký vào quĩ đạo của quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. So sánh văn học
35
Việt Nam và Nhật Bản, ông còn chỉ rõ, hiện đại hóa văn học tại các nước Đông Á
cũng có một điểm gặp gỡ chung, đó là sự có mặt của du ký. Ông nhận xét: “Có ba
hiện tượng văn học giống nhau ở hai nước, đó là sự xuất hiện của các du ký, sự
bùng nổ của văn học dịch và sự ra đời của văn học duy tân - khải mông chủ nghĩa”
[43]. Về văn du ký, ông viết: “Đây là thời đại người ta đi và đi: đi ra khỏi nhà mình,
ra khỏi làng mình và ra khỏi nước mình. Vì thế du ký là thể loại phát triển rất
mạnh”. Vì sao du ký được ông xem là thể loại tiên phong của hiện đại hóa văn học?
Đoàn Lê Giang viết: “Mở cánh cửa ra thế giới, trong các loại du ký đó thì du ký
chính trị có vai trò quan trọng nhất vì ở đó nhà văn nói chuyện về văn minh Âu Tây
để thấy cái lạc hậu, cái hèn kém của nước nhà” [43]. Ông lý giải rõ hơn ý kiến của
mình: “Nói chung bước khởi đầu của hiện đại hoá văn học các nước Khu vực văn
hoá chữ Hán là từ vấn đề dân tộc. Từ dân tộc đi đến duy tân, từ duy tân đi đến đổi
mới văn học. Văn học hiện đại bắt đầu từ đó. Vì thế quá trình hiện đại hoá văn học
của các nước Đông Á có những nét rất riêng biệt, trong đó nội dung dân tộc chiếm
một phần rất quan trọng, dù là một nước độc lập hay một nước thuộc địa” [43].
Chúng tôi rất tán thành cách tiếp cận vấn đề hiện đại hóa văn học của Đoàn Lê
Giang. Hiện đại hóa phải là một quá trình đồng bộ, nhưng vấn đề dân tộc phải là
điểm kích hoạt các vấn đề khác. Và trong vấn đề dân tộc, cần thiết sự quan sát, so
sánh, nhìn người rồi nhìn ta, nhận ra những yếu kém, ngu dại của mình để mà học
hỏi, thay đổi, tự cường. Văn du ký đảm nhận một phần lớn nhiệm vụ đó. Đây là
điểm riêng, đóng góp riêng của thể loại văn du ký cho tiến trình hiện đại hóa văn
học Việt Nam.
1.3.3. Nghiên cứu văn du ký ở nước ngoài
Trong phần này chúng tôi điểm qua những vấn đề chính mà giới nghiên cứu
văn du ký Phương Tây đã đề cập.
Ở các nước Phương Tây, việc nghiên cứu văn du ký cũng bắt đầu khá muộn
và một phần quan trọng được kích thích bởi các lý thuyết hậu thực dân và lý
thuyết diễn ngôn. Các thách thức với điển phạm truyền thống về thể loại đã dành
chỗ cho quan tâm đến những thể loại thấp kém từng bị coi là bên lề của văn học.
Chủ nghĩa Tân lịch sử (New Historism) và khoa nghiên cứu văn hóa (Cultural
36
Study) kêu gọi các phân tích liên ngành và thuần túy lý luận trong đó các văn bản
luật pháp, chính trị, lịch sử, văn hóa bình dân, và du lịch cũng như các thực hành
văn hóa như vẽ bản đồ, đi du lịch, sưu tầm, mua sắm, hay vũ hội hóa trang-được
đọc liền nhau, và được phân tích bởi cùng các thuật ngữ như với các văn bản văn
học chứ không qua các phạm trù có tính hiện đại hóa mà lịch sử của chúng đòi hỏi
một sự phê bình kỹ lưỡng. Các vấn đề được chú ý bởi lý thuyết diễn ngôn thực
dân -mối quan hệ giữa văn hóa và quyền lực, sự hình dung theo kiểu Phương Tây
về những “người khác” không phải người châu Âu, ảnh hưởng của thực dân hóa
và đế quốc đến tất cả những gì liên quan có quan hệ cả với tiểu thuyết và văn du
ký và cả hai được nghiên cứu bởi các nhà phê bình Peter Hume, Mary Louise Pratt,
Jonathan Lamb, và Nigel Leask.
Vào những năm 1980 và 1990, tạp chí văn học hàng đầu của Anh quốc
Granta đăng một số chuyên đề văn học du lịch. Carl Thompson nhận xét: “Ẩn ý
của Granta trong việc đề cao hình thức văn học này là một ngụ ý rằng văn học du
lịch là thể loại đặc biệt phản ánh và phù hợp với điều kiện hiện đại. Xét cho cùng,
chúng ta đang sống trong kỷ nguyên toàn cầu hóa gia tăng, trong đó tính lưu
chuyển, đi du lịch và tiếp xúc liên văn hóa là sự thực đời sống, là thực tế hàng
ngày của nhiều người... Trong bối cảnh đó, văn học du lịch có được một vị trí mới,
uy tín mới” [261, 2].
Trong giới nghiên cứu phê bình Phương Tây, cũng bắt đầu những năm 1980
trở đi mới xuất hiện những chuyên khảo về văn du ký dưới khái niệm phổ biến
“travel writing” mà nếu dịch nguyên văn phải gọi là “văn học du lịch”. Tuy sự khởi
đầu cho nghiên cứu về văn du ký ở Phương Tây có sớm hơn ở nước ta nhưng so với
mảng nghiên cứu văn chương thì thời điểm xuất hiện như thế là quá muộn. Công
trình vào loại mẫu mực nghiên cứu văn du ký thuộc về Percy G. Adams, Travel
writing and the evolution of the novel-“Văn du ký và sự tiến hóa của tiểu thuyết”,
xuất bản tại Đại học Kentucky (Mỹ) năm 1983 [xem 276]. Tiếp theo đó, có nhiều
công trình nghiên cứu uy tín khác về văn du ký ra đời mà luận án không có điều
kiện bao quát được đầy đủ, toàn diện do những khó khăn về tài liệu nghiên cứu.
Chúng tôi chỉ tóm tắt một số hướng nghiên cứu chính ở Phương Tây, xem đây là
37
những gợi ý cần thiết cho hướng triển khai của luận án này.
Một tác giả viết khá tập trung về văn du ký là nhà nghiên cứu người Anh,
Carl Thompson. Ông đã theo đuổi đề tài nghiên cứu về văn du ký trong nhiều năm
và cho xuất bản những công trình có giá trị.
Trong một công trình dành riêng cho văn du ký, ông nhận xét về các lý
thuyết mới được vận dụng để nghiên cứu về văn du ký ở Phương Tây. “Các học giả
và các sinh viên làm việc trong một số lĩnh vực khác nhau đã nhận thấy ở thể loại
này mối quan hệ với một phạm vi rộng các cuộc tranh luận về văn hóa, chính trị và
lịch sử. Đây là một bước phát triển có liên hệ đặc biệt với sự phổ biến của điều được
định danh là “lý thuyết hậu thực dân” (postcolonialism) hay là “nghiên cứu hậu thực
dân” (postcolonial studies) trong nhiều lĩnh vực của khoa học xã hội nhân văn. Nói
rộng ra, mục đích của các nghiên cứu hậu thực dân là để nhận thức và tranh luận về
những hậu quả tai hại của các đế quốc châu Âu rộng lớn trong thế kỷ XIX và đầu
thế kỷ XX” [261, 3]. Nhà nghiên cứu cho rằng chủ nghĩa đế quốc của châu Âu và
chủ nghĩa tư bản toàn cầu đã đặt nền móng cho thế giới hiện đại toàn cầu hóa, đưa
lại công cuộc tiếp xúc liên văn hóa, xáo trộn cuộc sống các cá nhân và các dân tộc.
Nó cũng thiết lập sự bất bình đẳng to lớn hiện vẫn đang tồn tại giữa các khu vực
khác nhau của thế giới, giữa thế giới Phương Tây “phát triển” và phần thế giới “còn
lại” kém phát triển theo các tiêu chí giàu có, sức khỏe và nền kỹ thuật tiên tiến. Từ
việc nhìn nhận quá trình lịch sử toàn cầu hóa mà các nhà nghiên cứu hậu thực dân
thấy cần phải tìm hiểu sự bất bình đẳng đó đã được hình thành từ buổi ban sơ như
thế nào mà ngày nay vẫn còn được duy trì. Họ cũng thấy cần dựng lại quá trình các
nền văn hóa khác nhau đã nhìn nhận, miêu tả về nhau và tương tác với nhau như thế
nào. Đối với một chương trình nghiên cứu như thế thì văn du ký là một nguồn tài
liệu có giá trị. “Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XX, thể loại văn du ký đã đóng vai trò trọn
vẹn của nó trong công cuộc bành trướng đế quốc của châu Âu và văn du ký thời kỳ
này bộc lộ ở mức độ cao những hành động mà những nhà du hành châu Âu đã làm
ở nước ngoài, cho biết về thái độ và hệ tư tưởng dẫn dắt chủ nghĩa bành trướng của
châu Âu. Tương tự như vậy, văn du ký hiện đại vẫn soi rọi đáng kể hệ tư tưởng và
38
các thực hành duy trì ổn định trật tự thế giới hiện hành” [261, 3].
Như vậy, một hướng quan trọng trong nghiên cứu văn du ký ở Phương Tây
là dựa trên lý thuyết hậu thực dân để quan sát, phân tích cái nhìn Phương Tây trong
văn du ký đối với các dân tộc khác ngoài thế giới Phương Tây. Các vấn đề văn hóa
và xã hội học này rất tiềm tàng trong văn du ký qua nhiều thế kỷ ở Phương Tây.
Bản chất vấn đề là ở hệ tư tưởng và cách nhìn “người khác” của các nhà du hành
Phương Tây. Đi du lịch hay đi truyền giáo, đi chinh phục, những nhà du hành châu
Âu và về sau là Mỹ đã nhìn các dân tộc bên ngoài châu Âu ra sao, một vấn đề mà
Đông phương luận [41] của Edward Said đã bàn. Như vậy, một trong những đặc
trưng nổi bật của văn du ký là luôn hàm chứa một cách nhìn về người khác, nền văn
hóa khác. Điều này nằm trong bản thân quá trình hình thành căn cước văn hóa dân
tộc (indentity) trong thời hiện đại. Các tác phẩm văn du ký Việt Nam ở nửa đầu thế
kỷ XX chứa đựng nhiều tư liệu thể hiện cái nhìn của người Việt đương thời về
người Hoa, người Chăm, người Pháp. Có người nói, ta nhìn người, rồi ta nhìn ta
[68], đây là một nhu cầu nhận thức và tự nhận thức rất lớn trong giai đoạn hiện đại
hóa văn học dân tộc mà nghiên cứu văn du ký không thể bỏ qua. Chúng tôi sẽ dành
một số trang thích hợp để phân tích nội dung này.
Cũng theo Carl Thompson, sự gia tăng chú ý của giới nghiên cứu hàn lâm
Phương Tây đối với văn học du lịch có cội rễ không chỉ do sự phát triển của các
nghiên cứu hậu thực dân, mà còn cả làn sóng chủ nghĩa nữ quyền thứ hai vào những
năm 1970. Nhiều nhà nghiên cứu bắt đầu vận dụng lý thuyết Giới vào nghiên cứu
văn du ký. Một mặt, họ quan tâm đến những biểu hiện nam tính, nam quyền trong
văn du ký Phương Tây thế kỷ XVIII-XIX như là diễn ngôn chủ nghĩa đế quốc, chủ
nghĩa dân tộc, tư tưởng nam quyền; mặt khác hướng đến những đóng góp của phụ
nữ trong địa hạt tưởng chừng như chỉ là độc quyền của nam giới: thể loại văn học
du lịch, chỉ ra thực tế rằng chính phụ nữ đã viết nhiều tác phẩm văn du ký từ thế kỷ
XIX và đầu thế kỷ XX. Góc nhìn giới về cả nam tính và nữ tính là một vấn đề của
văn học hiện đại, du ký cũng không nằm ngoại lệ. Nhưng vận dụng lý luận về giới
để nghiên cứu văn du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX cũng đang là một khoảng
39
trống cần được lấp.
Nhìn từ góc độ thể loại, các nhà nghiên cứu Phương Tây không dừng lại ở
việc chứng minh tính hỗn dung, khả năng chứa đựng nhiều thể loại của văn du ký
mà còn đánh giá văn du ký chính là một thể loại góp phần thúc đẩy sự hình thành
của thể loại tiểu thuyết trong văn học Phương Tây. Điều đó có nghĩa là thể loại văn
du ký có một vai trò trong quá trình hiện đại hóa của văn học Phương Tây. Nhận xét
về lịch sử văn du ký Phương Tây, Carl Thompson nhận xét: “có thể cho rằng tiểu
thuyết hiện đại đã ra đời như là sự mô phỏng văn du ký đương thời” [261, 51].
Chúng ta đều biết, Robinson Crusoe (1719)- tiểu thuyết của Daniel Defoe là dị bản
hư cấu của tự sự có tính tự truyện, còn Giulliver phiêu lưu ký của Jonathan Swift
(1726) là dị bản nhại lại tự sự của William Dempier. Tiểu thuyết là thể loại có khả
năng đồng hóa cao các thể loại khác, trong đó có văn du ký, để trở thành một thể
loại có tính tổng hợp.
Nhìn từ quan điểm của Carl Thompson, văn du ký có ảnh hưởng không nhỏ
đến quá trình hiện đại hóa văn học Phương Tây về nhiều mặt, tác động đến sự hình
thành của tiểu thuyết Phương Tây buổi ban đầu. Những gợi ý này có giá trị lớn đối
với chúng tôi khi nghiên cứu văn du ký Việt Nam và những tác động có thể có của
nó đối với sự hình thành tiểu thuyết hiện đại.
Cũng như các nhà nghiên cứu Việt Nam kể trên, các nhà nghiên cứu Phương
Tây đã chú ý đến cái tôi, đến tính chủ thể đậm nét, bản chất tự truyện của văn du ký.
Nhưng khác với giới nghiên cứu Việt Nam, các nhà nghiên cứu Phương Tây đã nhìn
nhận cái tôi trong văn du ký Phương Tây phản ánh quá trình chuyển biến từ chủ
nghĩa Tình cảm (centimentalism) sang chủ nghĩa Lãng mạn (romanticism). Nghĩa là
văn du ký ở Phương Tây được họ khám phá từ góc độ vận động, phát triển hướng
đến hiện đại hóa của văn học. Carl Thompson cho biết: “Trong nhiều nghiên cứu về
văn du ký, sự ra đời của các tác phẩm du ký có tính chủ quan nhiều hơn từ cuối thế
kỷ XVIII trở đi được xác định như là một sự chuyển đổi dứt khoát từ các giá trị
Khai sáng sang các giá trị Lãng mạn. Với sự chuyển biến này, như nó gợi ý, một cái
tôi Lãng mạn mới bắt đầu lưu hành, hay như đôi khi người ta vẫn nói, tính chủ quan
40
Lãng mạn, khác nhiều so với cái tôi Khai sáng và tính chủ quan Khai sáng đi trước”
[261, 117]. “Trong các tác phẩm du ký, các nhà du lịch Lãng mạn chủ nghĩa không
đơn giản quan sát mà họ phản ứng lại các cảnh đời quanh họ, và ghi chép lại các
phản ứng ấy và cả những suy nghĩ về chúng. Trong một số trường hợp, họ tìm ra
những tình huống gây nên các cảm xúc mạnh mẽ, những cảm xúc về cái cao cả, các
căng thẳng tinh thần…Trong khi các tác phẩm du ký thời Khai sáng chủ yếu bày tỏ
cái tôi Descart không biến đổi trong quá trình đi du lịch, tác phẩm du lịch Lãng mạn
ghi lại không chỉ một hành trình văn học mà còn cả chuyến đi ẩn dụ nội tâm của sự
tự khám phá và chín mùi”.
Nhận xét này có ý nghĩa gợi ý quan trọng cho chúng tôi, giúp chúng tôi tìm
được điểm nhìn đối với văn du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX theo hướng hiện
đại hóa văn học. Sự tự khám phá chủ thể trong văn du ký có liên quan đến sự phân
tích, miêu tả tâm lý trong văn xuôi và biểu đạt cái tôi trong thơ, điều dễ thấy trong
văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Chúng tôi sẽ tìm hiểu hiện tượng tự khám
phá, tự phân tích của chủ thể tự sự trong văn du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX
như một nét đáng chú ý của hiện đại hóa văn học.
Tính chủ thể, cái tôi cá nhân đậm nét trong du ký nửa đầu thế kỷ XX có
những điểm khác với tính chủ thể trong văn du ký trung đại vì nó thể hiện chủ nghĩa
Lãng mạn, cái tôi xê dịch, phiêu lưu, khám phá. Carl Thompson chỉ rõ, các tự sự du
lịch thế kỷ XVIII miêu tả những cuộc thám hiểm, khám phá còn có ảnh hưởng đến
thơ lãng mạn thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Chủ đề du lịch, nhà văn nhà du lịch là
chủ đề của nhiều nhà thơ lãng mạn như Coledrige, Wordsworth, Byron. “Nhà thám
hiểm so với những khách du lịch thông thường cũng như vị Thánh so với giáo đoàn
thông thường” (Lời của Hugh Massingham, chuyển dẫn theo 260, 145). Tinh thần
lãng mạn ưa thích phiêu lưu, thám hiểm, chấp nhận rủi ro mạo hiểm, nói như nhà
thơ Nga Lecmontov trong bài thơ Cánh buồm “Dường như trong giông tố mới là
bình yên” tràn ngập trong nhiều du ký Anh từ thế kỷ XVIII, ta cũng có thể bắt gặp
trong một số thiên văn du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX chịu ảnh hưởng của tinh
41
thần này.
Tiểu kết
Có thể nêu lên một số điểm chủ yếu sau:
1. Khái niệm văn du ký có nội hàm rộng, có thể nêu một số nét chính của nội dung
khái niệm như đã trình bày chứ khó có thể đưa ra một định nghĩa ngắn gọn bao quát
đầy đủ các phương diện phức tạp của văn du ký.
- Văn du ký có quan hệ với quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc nhưng chưa được
giới nghiên cứu nước ta chú ý thích đáng.
2. Văn du ký ở Việt Nam có một lịch sử riêng, nhưng văn du ký nửa đầu thế kỷ XX
có nhiều điểm khác với du ký truyền thống, nguyên nhân cơ bản là văn du ký hiện đại
của kiểu tác giả mới, diễn tả tư tưởng và cảm xúc mới của lớp người sống trong môi
trường xã hội khác thời trung đại, tiếp nhận những ảnh hưởng văn học Phương Tây
trong đó có văn du ký.
3. Văn du ký của Phương Tây có những đặc trưng riêng, phản ánh quá trình thâm
nhập, phát hiện thế giới, xâm nhập thế giới và thể hiện cái nhìn thực dân của người
Phương Tây đối với thế giới bên ngoài Phương Tây. Tuy nhiên, những đặc trưng của
văn du ký Phương Tây cũng có những nét tương đồng với văn du ký Việt Nam và
những kinh nghiệm nghiên cứu văn du ký Phương Tây có thể có ích cho nghiên cứu
văn du ký Việt Nam.
4. Các thành tựu nghiên cứu của giới nghiên cứu Việt Nam và giới nghiên cứu
Phương Tây có thể khai thác cho đề tài Văn du ký nửa đầu thế kỷ XX và tiến trình
hiện đại hóa văn học dân tộc. Qua việc tiếp nhận thành tựu nghiên cứu của cả trong
nước và quốc tế, chúng tôi sẽ triển khai các nội dung chủ yếu sau:
- Chương 2. Cơ sở văn hóa xã hội và diễn biến của văn du ký nửa đầu thế kỷ XX: các
nhân tố văn hóa, xã hội, văn học qui định sự ra đời, tồn tại của văn du ký; quá trình
diễn biến theo nhịp hiện đại hóa văn học dân tộc.
- Chương 3. Nội dung văn du ký nửa đầu thế kỷ XX với vấn đề hiện đại hóa văn học:
phân tích các phương diện ý thức về bản thân và ý thức về người khác trong tiếp xúc
văn hóa; một số biểu hiện đặc thù của chủ nghĩa lãng mạn trong riêng văn du ký; vấn
đề giới trong văn du ký - phụ nữ viết du ký và vấn đề nữ quyền trong du ký.
- Chương 4. Nghệ thuật văn du ký nửa đầu thế kỷ XX và vấn đề hiện đại hóa văn học:
phân tích các phương diện quan hệ giữa ghi chép và tả chân; người kể chuyện, ý thức
chủ thể với hình thức nhật ký và vấn đề khám phá bản thân tác giả du ký; vấn đề miêu
42
tả và phân tích tâm lý.
CHƢƠNG 2
CƠ SỞ VĂN HÓA XÃ HỘI VÀ
DIỄN BIẾN CỦA VĂN DU KÝ VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
Bàn đến văn du ký trong quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc, không thể
không xem xét các tiền đề văn hóa xã hội đã đưa đến sự hình thành của thể loại này
cũng như qui định đặc điểm của nó.
2.1. Cơ sở văn hóa xã hội
2.1.1. Thời đại của những mối liên hệ Phương Đông - Phương Tây
Chúng ta đều biết, năm 1942, trong bài viết nổi tiếng Một thời đại trong thi
ca đặt ở đầu tập Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh có một câu nói đã trở thành kinh
điển “Sự gặp gỡ Phương Tây là cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ
mấy mươi thế kỷ” [191, 19]. Nhận định này tuy nhằm lý giải sự xuất hiện thơ mới,
song có thể áp dụng để lý giải toàn bộ văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, thời
kỳ văn học đang mạnh mẽ Âu hóa, tức là hiện đại hóa. Cuộc tiếp xúc với văn hóa
Phương Tây là một nhân tố quyết định dẫn đến những thay đổi lớn của văn học Việt
Nam giai đoạn này, đưa đến sự xuất hiện những thể loại mới, những cảm hứng mới,
thi pháp mới.
Nghiên cứu Sách sổ sang chép các việc, áng văn du ký đi sang Phương Tây
đầu tiên của một người Việt tên gọi Philiphê Bỉnh ở thế kỷ XVIII, nhà nghiên cứu
Niculin đã nhận xét xác đáng rằng: “Một cách thích hợp có thể hiểu được nó chỉ
trong cảnh huống của hệ thống văn hóa thế giới đầu tiên của lịch sử loài người,
được hình thành từ những phát kiến địa lý vĩ đại, và như tôi hiểu, trên cơ sở của
ngôn ngữ Bồ Đào Nha và văn hóa Bồ Đào Nha. Những cuộc giao tiếp này đi kèm
sự truyền bá đạo Thiên Chúa. Chẳng phải ngẫu nhiên mà giáo hoàng La Mã vào
năm 1492 đã phân chia thế giới, nhượng toàn bộ phần đất mới tìm thấy ở phía Tây
cho Tây Ban Nha, ở phía Đông cho Bồ Đào Nha” [141, 87-88]. Niculin nhận định
tiếp về ý nghĩa giao lưu văn hóa toàn cầu trong Sách sổ sang chép các việc: “Phạm
vi tư duy toàn thế giới là đặc trưng cho sự cấu thành nhân cách của thời đại mới, là
43
thuộc tính của Philiphê Bỉnh, tác giả cuốn sách. Đối với Bỉnh, người đã nhận những
bức thư từ Macao và Bradin gửi đến Lixbon, biểu tượng của những mối liên hệ
chung toàn thế giới là bưu điện, còn người bưu tá, với túi thư trên vai, lao vút về
phía xa trên lưng ngựa, dưới mắt ông đã gần như là hình ảnh của người anh
hùng…Trong cá nhân con người Philiphê Bỉnh dường như có sự gặp gỡ của Việt
Nam cổ truyền và châu Âu thời đại mới” [141, 89].
Đúng là khi nói đến hoàn cảnh văn hóa xã hội của riêng Việt Nam từ đầu thế
kỷ XX, không thể không chú ý đến các mối liên hệ Phương Đông -Phương Tây cho
đến đầu thế kỷ XX, một mối liên hệ đã đưa đến việc ĐI XA của cả người Phương
Tây và Phương Đông ra ngoài biên giới quốc gia chật hẹp của mình. Đó là ý nghĩa
khách quan không phủ nhận được của những hoạt động bành trướng của các thế lực
thực dân Phương Tây sang thế giới bên ngoài Phương Tây.
Kể từ năm 1498 với chuyến thám hiểm của Vasco da Gama, Bồ Đào Nha
phát triển thành một cường quốc thương mại. Theo sách Giáo hội công giáo ở Việt
Nam [166] của Bùi Đức Sinh: Lịch sử truyền giáo và thương mại của người Bồ Đào
Nha ở Việt Nam bắt đầu khá sớm. Năm 1523, Duarte Coello được sai làm sứ giả
đến điều đình về thương mại giữa người Việt và người Bồ. Năm 1535, Antonio de
Faria đã vào Cửa Hàn. Năm 1540, người Bồ bắt đầu đến buôn bán với xứ “Đông
Kinh”. Từ năm 1555, người Bồ lập trụ sở thương mại ở Macao, quan hệ buôn bán
gia tăng. Macao trở thành một căn cứ cho các hoạt động của người Bồ ở Đông Á.
Năm 1556, Fernão Mendes Pinto, giáo sĩ dòng Tên qua vùng ven biển Việt Nam.
Người Bồ đã có những can dự nhất định không chỉ về thương mại mà cả chính trị ở
Việt Nam: “Nguyễn Hoàng từ khi được vào trấn thủ đất Thuận Hóa (1558), và sau
kiêm cả trấn Quảng Nam (1566), muốn thế lực mạnh để đương đầu với họ Trịnh sau
này, đã tìm hết cách lôi cuốn người Bồ đem đạn dược khí giới vào bán cho mình.
Vua Lê trước thế lực họ Trịnh mỗi ngày thêm mạnh, cũng tìm cách liên lạc với
người Bồ và người Tây Ban Nha, để nhờ thế lực của họ mong trừ được chúa Trịnh.
Và trước đấy, nhà Mạc cũng không chịu thua kém, nhiều lần sai sứ giả sang Macao
yêu cầu người Bồ đến Thăng Long” [166, 35]. Nhân tố Phương Tây can dự vào lịch
sử Việt Nam từ thế kỷ XVI chứ không phải đợi đến mãi năm 1858. Cuộc tiếp xúc
44
do người Phương Tây khởi xướng và người Phương Đông có phần bị động, tuy
nhiên, muộn hơn, người Phương Đông cũng sẽ khám phá Phương Tây qua chính
con đường thương mại và tôn giáo này. Chuyến đi của Philphê Bỉnh là kết quả
mang tính qui luật của cả một quá trình lâu dài, đúng như nhà nghiên cứu người
Nga Niculin đã nói.
Chúng tôi xin phác thảo một vài nét như vậy về buổi đầu tiếp xúc Đông-Tây
ở Việt Nam qua hoạt động truyền giáo và thương mại của người Bồ. Về sau các
cuộc tiếp xúc sẽ chuyển thành hành động xâm lược, cai trị, khai thác, cướp bóc tài
nguyên mà các thế lực thực dân Phương Tây tiến hành đối với các thuộc địa trong
đó có Việt Nam. Đó là những trang sử đen tối của các nước Phương Đông trong đó
có Việt Nam. Nhưng việc người Phương Tây đến Phương Đông sớm muộn sẽ tạo
cơ hội cho những chuyến đi sang Phương Tây của người Phương Đông, cuối cùng
sẽ mở ra một chương mới chưa từng có trong văn du ký trung đại. Người đi sẽ
chứng kiến những miền đất lạ, những nền văn hóa lạ, những con người lạ. Tầm nhìn,
sự hiểu biết đổi thay. Những ý nghĩ mới, cảm xúc mới xuất hiện trong văn du ký
của họ. Không phải đợi sang đầu thế kỷ XX, ngay từ cuối thế kỷ XVIII, Philiphê
Bỉnh đã tiến hành chuyến Tây du đầu tiên của người Việt Nam. Ông vượt ba đại
dương, ròng rã sáu tháng, từ Macao đến Lisboa, không mất một đồng tiền vì tàu
buôn các nước Anh, Bồ Đào Nha v.v…đã giúp đỡ. Để tiếp đến giữa và cuối thế kỷ
XIX, những chuyến vượt đại dương của người Việt sang trời Tây càng nhiều hơn.
Phan Châu Trinh kể về những đại dương bao la đưa con người hiện đại đến với một
thế giới hoàn cầu:
Thái Bình, Ấn Độ, Tây Dương
Mỹ, Phi, Á, Úc là đường chiều mai (Tỉnh quốc hồn ca).
Còn rất nhiều tác giả và tác phẩm nói về cuộc tiếp xúc Đông-Tây đã đưa lại
điều kiện đi lại, thay đổi cảm hứng và cách nhìn thế giới của người Việt. Một loạt
tác phẩm có tính cách văn du ký ở các mức độ khác nhau từ cuối thế kỷ XIX đến
đầu thế kỷ XX đều là kết quả của cuộc tiếp xúc Đông Tây này. Nhật ký đi Tây (Tây
hành nhật ký) của Phạm Phú Thứ và Pháp du hành trình nhật ký của Phạm Quỳnh
có thể xem là hai tác phẩm tiêu biểu cho cái ĐI trong thời đại bắt đầu toàn cầu hóa.
45
Nội dung, mục đích của hai chuyến đi không giống nhau, Phạm Phú Thứ là thành
viên của sứ đoàn do triều Nguyễn cử sang Pháp, còn Phạm Quỳnh được Thống sứ
Bắc Kỳ cử sang Pháp dự Đấu xảo (Triển lãm) Marseille. Nhưng cả hai chuyến đi
đều là sản phẩm của giao lưu Đông Tây. Sự hỗ trợ của người Pháp rất quan trọng.
Nếu không có phương tiện giao thông-ở đây là tàu biển, nếu không có sự phối hợp
giữa người Pháp và người Việt thì không có hai chuyến đi này.
Thời trung đại, các sứ thần Đại Việt qua Trung Quốc, những địa danh, nhân
danh, những yếu tố văn hóa của nước này hầu như đều là những điều mà nhà nho
Việt Nam đã rất quen thuộc qua sách vở chữ Hán họ từng đọc. Kho tàng văn học, sử
học chữ Hán đã được họ thuộc lòng sau thập niên đăng hỏa. Không phải ngẫu nhiên
mà chiếm một vị trí áp đảo trong thi văn đi sứ của sứ thần Việt Nam là thơ xướng
họa với các nhà nho Trung Quốc và cả các sứ thần Triều Tiên. Về cơ bản, có thể nói
họ có cùng mã văn hóa trong cái gọi là không gian văn hóa chữ Hán (Hán tự văn
hóa quyển). Niềm tự hào của sứ thần Việt Nam là vô tốn Trung Quốc -không thua
kém Trung Quốc.
Các cuộc giao tiếp văn hóa Phương Tây Phương Đông làm nảy sinh những
chủ đề mới, những cảm hứng hoàn toàn mới. Đi sang Tây là sang một thế giới hoàn
toàn khác, tiếp xúc với một nền văn hóa hoàn toàn khác. Nói như Bùi Mộng Hùng,
đó là dịp ta nhìn ta, ta nhìn người [68]. Soi vào văn hóa Phương Tây-một loại hình
văn hóa khác, những người Việt Nam có thể so sánh để nhận ra mình, tự đánh giá
mình, tự điều chỉnh mình, điều mà sự tiếp xúc với văn hóa Trung Quốc trước đây
không thể đem lại.
Các chuyến viễn du của người Việt sang trời Tây sẽ khắc phục những tưởng
tượng hão huyền, không có căn cứ đó. Vì thế, du ký đi sang Pháp, dẫu là của một
nhà nho như Phạm Phú Thứ viết, mang không ít nhãn quan cố hữu của một nhà nho
về “người khác” nhưng cũng có nhiều nét hiện đại như văn du ký đi Thái Tây của
trí thức tân học đầu thế kỷ XX.
Phạm Phú Thứ vốn giữ một thái độ rất điềm tĩnh, nhưng trong Tây hành nhật
ký, nhiều lúc ông vẫn ghi nhận những sự kiện như là “cú sốc văn hóa” đối với nhà
nho. Chẳng hạn, ông nói đến sự tôn trọng phụ nữ của người Tây. Hai mẹ con phụ
46
nữ gốc Việt lấy chồng Pháp đến chào sứ bộ Việt Nam. Lễ quan người Pháp bắt tay
thi lễ hai mẹ con rồi nhường ghế cho bà này ngồi trên tràng kỷ, ông “hỏi ra thì
phong tục Tây đều coi trọng phụ nữ, phàm trong yến tiệc mà có phụ nữ thời thù tiếp
cũng coi như nam giới chứ không có tị hiềm gì” [214, 91]. Chuyện tôn trọng phụ nữ
của người Phương Tây thì bất cứ một người Phương Đông nào sang Tây cũng đều
dễ dàng ghi nhận- điều này chúng tôi sẽ trở lại kỹ hơn ở chương ba của luận án.
Hay ông kể trên đất Pháp, có lần xem tranh vẽ người, “còn nhiều bức họa thân hình
người phần đông lõa thể, nhưng không ai cho là bậy bạ, thô tục cả; đắp tượng cũng
vậy, phần nhiều là lõa thể hết. Thần đẳng có hỏi về vấn đề này, họ trả lời: “Khi vẽ
hay đắp tượng, nếu chỉ làm diện mạo không thôi, còn phần dưới vẫn có quần áo che,
thì chưa được là khéo!” [214, 118]. Nhà nho theo tín điều tam tòng, quen nhìn phụ
nữ tòng thuộc và vốn có lối nghĩ “vạn ác dâm vi thủ” (trong vạn điều xấu ác thì dâm
đứng đầu) thì hai sự việc nói trên chắc hẳn đánh mạnh vào suy nghĩ của họ. Đấy là
chưa kể những quan sát, thu nhận được của ông về tình hình khoa học, kỹ thuật của
Pháp, nhiều điều sau khi về nước ông đã điều trần đề nghị áp dụng.
Điều đáng nói là cả người Phương Tây đến Việt Nam cũng chú ý ghi chép về
những khác biệt văn hóa. Chẳng hạn, một giáo sĩ thừa sai đến Đàng Ngoài truyền
giáo ở thế kỷ XVIII nhận xét về luật pháp và sự thừa hành luật pháp ở Việt Nam khi
đó, cũng có một cú sốc văn hóa: “luật lệ ở đây rất đúng đắn, rất hợp lý và được qui
định rõ ràng. Chỉ tệ một nỗi là chẳng được kẻ nào tôn trọng cả. Chính những người
có phận sự thi hành luật pháp lại là những người phạm luật trước hơn ai hết. Tiền
bạc và những tặng vật đút lót xóa sạch những tội ác” [213, 74]. Vị giáo sĩ này cũng
nhận xét về phong tục tôn trọng người cao tuổi ở Đông Kinh:“Ở Đông Kinh người
già cả rất được kính trọng. Những người đến tuổi 50 đều được miễn thuế và miễn
sưu…Người già mà phạm lỗi sẽ bị qưở trách nhưng chẳng ai trừng phạt họ vì luật
pháp tha thứ họ và tinh thần “kính lão đắc thọ” của mọi người trong nước tất nhiên
cũng sẵn sàng tha thứ” [213, 75].
Đến chuyến Pháp du của Phạm Quỳnh, một trí thức Tây học, thì những đề tài,
cảm hứng so với Phạm Phú Thứ có những thay đổi quan trọng. Do có Tây học, đã
nghiên cứu trước về thế giới và có mục đích quan sát, nghiên cứu nên Phạm Quỳnh
47
nhận xét nhiều điểm về thế giới bên ngoài khá mới. Chẳng hạn, ông đã so sánh các
thuộc địa của Anh như Singapore, Penang, Colombo với Djibouti-thuộc địa của
Pháp, hay khi nói về người Somali, Phạm Quỳnh đã có thể so sánh với người da đỏ
Bắc Mỹ, thổ dân châu Úc. Phạm Quỳnh giỏi tiếng Pháp nên tham gia những hoạt
động tại Pháp mà các nhà nho xưa không thể có được, như dự diễn thuyết về nhiều
đề tài khác nhau, bản thân ông cũng có diễn thuyết trước các trí thức, học giả Pháp.
Vì thế nên phổ của những quan sát so sánh của Phạm Quỳnh về văn hóa Pháp-Việt
Nam rộng hơn hẳn của các nhà nho. Nếu Phạm Phú Thứ mới ngạc nhiên về sự tôn
trọng phụ nữ ở xứ Tây thì Phạm Quỳnh đã kể lại nội dung một cuộc diễn thuyết của
một nữ bác sĩ đề cập đến quyền người phụ nữ được trụy thai [33, 399] hoặc diễn
thuyết của hội nữ quyền đặt vấn đề cần cho phụ nữ làm thẩm phán [33, 415]. Phạm
Quỳnh còn tỏ rõ là người am hiểu văn học Pháp, đi đến đâu, nhắc đến tên nhà văn
Pháp nào là ông lại kể qua về tác giả đó. Phạm Quỳnh bàn về ngôn ngữ nhân khái
niệm „cơm Tây”, “giường Tây” để cho thấy cần đề phòng các ngôn từ do chính
chúng ta đặt ra quay trở lại tác động đến lối nghĩ suy diễn sai lầm. Thực ra, Tây
không ăn cơm gạo như chúng ta và họ có giường nằm lò xo mà khái niệm giường
của người Việt không thể diễn tả. Đó là một vài ví dụ về các suy tư, cảm hứng mới
của thế hệ người Việt có Tây học trong thế kỷ XX.
Không có tiếp xúc Đông-Tây thì không có những chuyến viễn du, cũng
không có văn du ký và không có những cú sốc văn hóa đi vào nội dung văn du ký
của cả hai phía Đông-Tây. Và từ xung đột văn hóa dần dần dẫn đến sự tự điều chỉnh
chính bản thân mình. Nói cách khác, cuộc gặp gỡ Phương Tây cũng là một nhân tố
góp phần hình thành căn cước (identity) văn hóa của người Việt ở đầu thế kỷ XX.
2.1.2. Mạng lưới giao thông - điều kiện đầu tiên cho người viết văn du ký
nửa đầu thế kỷ XX
Du lịch theo nghĩa thông thường nhất là dịch chuyển trong không gian từ
điểm này đến một điểm khác. Để có văn du ký, trước hết phải có người đi du lịch
hay du hành. Việc đi du lịch phụ thuộc vào nhiều nhân tố, trong đó, nhân tố quan
trọng hàng đầu là phương tiện giao thông đi lại.
Thời trung đại, sự hạn chế của giao thông khiến cho tốc độ chậm chạp,
48
không gian trở nên dài rộng. Các chuyến đi du lãm thường hạn chế trong phạm vi
hẹp, bán kính vài chục cây số. Từ Thăng Long, các nhà nho có thể vãn cảnh chùa
Thày (Quốc Oai, Sơn Tây), chùa Hương, mà cũng tiêu mất đôi ba ngày. Những
chuyến đi xa hàng ngàn dặm thường thực hiện các chuyến công cán do triều đình
sai phái, cắt cử như đi sứ sang Trung Quốc thường mất khoảng một năm rưỡi cả đi
về. Chuyến đi của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác từ Hà Tĩnh ra Thăng Long
mất mười ngày là do chúa Trịnh Sâm yêu cầu ông ra kinh đô chữa bệnh cho thế tử
Trịnh Cán. Tốc độ chậm chạp, sự kiện vì thế mà cũng thưa thớt hơn, thời gian rảnh
rỗi trên đường nhiều, cảm xúc chuyển thành thơ. Thượng kinh ký sự có vài chục bài
thơ cũng tương tự như các sứ thần Việt Nam đi Bắc sứ vốn rất nhiều thơ.
Từ cuối thế kỷ XIX, trong các hoạt động chuẩn bị cho việc khai thác thuộc
địa, thực dân Pháp đã chú trọng trước tiên đến mở mang giao thông cả đường sắt,
đường bộ và đường thủy ở Việt Nam. Một vài số liệu để hình dung sự hiện đại hóa
giao thông nước ta cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX: 1) đường sắt: tuyến đường sắt
đầu tiên do Pháp xây dựng năm 1881 nối Sài Gòn-Mỹ Tho dài 71 km; năm 1895
tuyến Phủ Lạng Thương -Lạng Sơn mở; năm 1892, tuyến Gia Lâm-Hải Phòng mở;
năm 1902, Pháp làm xong đường sắt Hà Nội -Hải Phòng, đường sắt Hà Nội-Đồng
Đăng; năm 1905 tuyến Hà Nội -Vinh mở; năm 1906 làm xong các tuyến đường sắt
Hà Nội-Lào Cai, Lào Cai-Côn Minh Trung Quốc; năm 1906-tuyến Huế -Đà Nẵng
mở; năm 1908: xong tuyến Huế-Đông Hà; năm 1910; năm 1911 mở các tuyến Hà
Nội- Lạng Sơn, Hà Nội -Vinh, Đà Nẵng-Huế-Quảng Trị;, …đến năm 1931, trên cả
nước đã có 2389 km đường sắt. 2) Đường bộ: tuyến đường bộ đầu tiên ở nước ta do
người Pháp làm chạy từ Sài Gòn đi Mỹ Tho, khởi công từ năm 1866 đến năm 1880
hoàn thành; người Pháp tiến hành nâng cấp đường thiên lý Bắc- Nam dưới thời
Nguyễn, đến năm 1913 thì có từng đoạn xe kéo và ô tô đi được. Trên đường thiên lý
Bắc- Nam này, các tuyến đường bộ và cầu thường được làm song song với đường
sắt. Tính đến năm 1930, Pháp đã làm được 15 000 km đường bộ, trong đó khoảng
2000 km rải nhựa. 3) Đường thủy: Các tuyến giao thông đường sông theo truyền
thống vẫn đóng vai trò quan trọng, tất nhiên, các phương tiện vận tải bằng máy móc
đã hiện diện mà tiêu biểu phải kể đến đội tàu vận tải của Bạch Thái Bưởi cuối
49
những năm 1920 lên đến 40 chiếc. Người Pháp chú ý mở các cảng biển: năm 1862
mở cửa biển Đà Nẵng, Cam Ranh, năm 1876 xây cảng Hải Phòng, cảng Sài Gòn
được xây dựng năm 1884. 4) Đường không: Pháp xây dựng sân bay Bạch Mai năm
1919, sân bay Tân Sơn Nhất năm 1930; sân bay Gia Lâm năm 1936. Chuyến bay
quốc tế đầu tiên từ Sài Gòn đến Paris xuất phát từ sân bay Tân Sơn Nhất vào
năm 1933, chuyến bay này kéo dài 18 ngày vì phải dừng lại ở nhiều điểm (các
thông tin trên được lấy từ Wikipedia tiếng Anh).
Việc mở các tuyến đường giao thông của người Pháp là để phục vụ cho công
cuộc khai thác thuộc địa. Tuy nhiên, một tác động khách quan của việc làm này là
thay đổi hành vi ĐI của người Việt, một tiền đề không thể thiếu cho sự ra đời của
văn du ký kiểu mới so với văn du ký trung đại. Về vai trò của giao thông đường sắt
thế kỷ XIX đối với du lịch ở Phương Tây, Tim Youngs viết “Không đơn giản là vấn
đề di chuyển thuận lợi. Đường sắt không chỉ giúp cho đi lại thuận lợi-và cho sự
bành trướng của chủ nghĩa tư bản và đế quốc-mà nó còn làm thay đổi quan hệ của
con người với thế giới và sự tiếp nhận thế giới” [278, 7].
Trong văn du ký tất cả các thời đại đều có nói đến phương tiện giao thông.
Văn du ký trung đại cũng không phải là ngoại lệ. Nhưng thời trung đại, đi bộ có
ngựa và võng cáng, đi thủy có thuyền. Người làm quan đi lại có võng cáng nên có
thể ở một ông quan có lương tâm, nảy sinh nỗi áy náy vì người phu cáng vất vả
(Nguyễn Khuyến có bài thơ viết về người phu cáng). Đi thuyền thì phụ thuộc vào tự
nhiên nhiều hơn. Trong Bắc sứ thông lục Lê Quí Đôn kể hành trình trên thuyền của
sứ đoàn ông thường phụ thuộc vào gió, khi nào có gió thuận cho buồm mới hành
trình. Khi nào ngược gió thì nghỉ chờ đợi. Qua những dòng sông sâu, rộng nguy hiểm phải làm lễ tế thần sông8. Với phương tiện đi lại truyền thống thì sứ đoàn Lê
Quý Đôn vẫn hiện ra như những con người thuộc mẫu hình Phương Đông xưa cũ
với niềm tin tâm linh ngự trị. Không chỉ người thời trung đại, ở thời hiện đại, những
vùng núi non hiểm trở mà giao thông cho đến những năm 1950 vẫn kém phát triển
thì cảm xúc về đường đi vẫn như cũ. Nếu Trung Quốc có Thục đạo nan của Lý
50
Bạch thì Việt Nam thời hiện đại vẫn có Lên miền Tây (năm 1958) của Bùi Minh 8 Ví dụ trong chuyến đi Bắc sứ, sứ bộ của Lê Quí Đôn thường phải tế thần sông khi đi qua các dòng sông bên Trung Quốc. Năm Càn Long thứ 26, tháng 7, khi qua huyện thành Vu Hồ, ngày 13 tế thần sông; ngày 14 tế thủy thần sông Đại Giang thuộc tỉnh Giang Nam (xem 88, 5).
Quốc: Xe chạy nghiêng nghiêng đèo dốc núi/Lên Điện Biên vời vợi nghìn trùng.
Năm 1970, khu du lịch Sapa nổi tiếng ngày nay vẫn là một vùng heo hút, nên
Nguyễn Thành Long đã viết Lặng lẽ Sapa như để nói lên tiếng nói tri âm với thế hệ
những người thanh niên hy sinh tuổi thanh xuân làm việc trên một vùng sơn cước
xa xôi, vắng vẻ. Tất nhiên, ngày nay, tình hình đã đổi khác. Sapa không còn lặng lẽ
nữa. Đường cao tốc Nội Bài-Lào Cai chỉ chiếm mất khoảng 5 tiếng xe chạy đã góp
phần biến Sapa thành một điểm du lịch thu hút khách.
Tốc độ thay đổi, sự tin cậy của phương tiện giao thông tăng lên, con người
cảm nhận được sức mạnh của bản thân-vấn đề tự nhận thức- đồng thời hiểu được
thế giới rộng lớn quanh mình. Nếu thời xưa, đi bộ là bắt buộc, là một việc thường
nhật tầm thường thì nay, việc những khách du thời hiện đại đã đi từ Hà Nội đến
Nam Định bằng xe lửa muốn đi bộ từ nhà ga đến Tức Mặc mà từ chối xe tay, đã
thành một cử chỉ đầy lãng mạn: “Con tàu đi Nam đưa chúng tôi đến nơi chóng quá.
Chúng tôi tiếc không bắt chước được người xưa, với chiếc áo ấy, chiếc gậy ấy, đi bộ,
vừa đi vừa đọc kinh. Từ Nam Định chúng tôi có thể đi xe tay đến tận nơi, nhưng
những xe cao su tân thời quá, đi như vậy còn gì là màu sắc của cuộc hành hương
trong dự tưởng của chúng tôi, Chúng tôi đã phí một quãng đường Nam Định-Hà
Nội rồi. Chúng tôi đi đường bộ đến Thượng Lỗi để đi đò” [194].
Phương tiện giao thông hiện đại cấp cho khách du lịch điểm nhìn mới đối với
thế giới. Về máy bay, từ những năm 1910 máy bay đã xuất hiện trên vùng trời Nam
Kỳ nhưng người Việt chỉ được xem phi công Tây biểu diễn chứ chưa đi máy bay.
Khi đó đã có những bài vè về máy bay, tàu bay của Đặng Lễ Nghi, Lê Hoằng Mưu,
Hồ Văn Lang được in thành loại sách cỡ nhỏ tại Sài Gòn [207, 590]. Tác giả Vũ
Nhật đã gửi cảm hứng về một thời đại mới mẻ qua cách đặt tên bài văn du ký Hà
Nội-Vientian trong hai giờ. Đi máy bay, hành khách có được một điểm nhìn cảnh
quan thiên nhiên từ trên không mà thời trước, các bậc ông cha đi bộ không thể có
được: “Mọi người đều chăm chú nhìn qua cửa kính để ngắm phong cảnh. Ánh nắng
buổi sáng của mặt trời lòe chiếu lên cảnh vật. Nhìn vũ trụ, ta cảm thấy như nhuộm
một màu tươi sáng. Dưới đất, những ruộng nước trông vừa to bằng chiếc chiếu, liên
51
tiếp nhau, ta có thể tưởng tượng cái cánh đồng bát ngát của miền hạ lưu xứ Bắc kỳ
là một cái sân gạch khổng lồ. Thỉnh thoảng một con đường hay một con sông ngòng
ngoèo chạy qua trông chỉ như những vết rạn vỡ hay nứt nẻ của mặt đất. Đó đây một
vài làng xóm ẩn hiện dưới ngọn tre xanh, nhô lên giữa cánh đồng nước, trông như
những cù lao ngoài bể” [139].
Trong thiên du ký Sau tám năm trở lại thăm Laokay in trên Tri tân, Nhật
Nham tả cảnh nhìn được khi đi xe lửa từ Hà Nội qua Việt Trì, đi Lao Kay. Xe lửa
và đường sắt cấp cho lữ khách một điểm nhìn mới lạ mà các du ký trung đại không
có được: “Từ Hà Nội lên tới Việt Trì, vẫn cảnh đồng bằng, hai bên ruộng lúa xanh rì.
Rồi dần dần qua các đồi chè núi cọ, bao la bát ngát. Khoảng đường từ Yên Báy đi
Lao Kay, tầu khi quanh co, khi leo dốc, như rồng uốn khúc, như rắn lượn bò, núi
cao rừng rậm một dòng sông Thao nước đục, hai bên lau lách rậm rì. Thỉnh thoảng
vài ba chú Thổ kiếm củi trên sườn non, xa xa hiện năm bảy túp lều gianh trong rừng
rậm, cảnh chiều hôm như giục người lữ khách ôn lại chuyện xưa” [125].
Xe đạp cũng là một phương tiện đi lại hiện đại, là sự kết hợp của nhiều lĩnh
vực kỹ thuật khác nhau. Một đoàn du lịch khoảng 200 xe đạp từ Hà Nội thăm làng
Bối Khê, một thế hệ thanh niên mạnh khỏe, đi xe đạp như một phương tiện tập thể
thao, họ có cái nhìn tráng kiện về tuổi trẻ và quê hương đất nước khác hẳn các nhà
nho ung dung, lững thững dạo bước dưới trăng.
Hầu như tất cả các áng văn du ký nửa đầu thế kỷ XX, khi kể về các chuyến
đi, đều nhắc đến phương tiện giao thông hiện đại được người du hành sử dụng. Khi
tốc độ tăng lên, sự kiện diễn ra nhiều hơn, những suy nghĩ, nhận thức về các sự kiện
diễn ra choán nhiều chỗ của cảm hứng thơ. Không phải là văn du ký nhưng bài thơ
Chơi Huế (1932) của Tản Đà cũng là một dạng du ký bằng thơ, kể lịch trình đi Huế
bằng các phương tiện giao thông hiện đại khác nhau: từ Hà Nội, du khách đi xe hơi
Xe hơi đã tới Đèo Ngang/Ấy qua Hà Tĩnh đường sang Quảng Bình. Từ Quảng Trị
đến Huế đi bằng xe lửa: Giời Tây ngả bóng tà dương/ Ô tô lại đổi lên đường hỏa
xa/ Ấy từ Quảng Trị Đông Hà/Đi năm ga nữa vừa là tới kinh. Nhưng nhà thơ lãng
tử của chúng ta hình như quên mất tên gọi bài thơ, đã không dừng lại ở Huế, ông đi
tiếp theo đường xe lửa vào phía Nam Đế kinh đã gội mưa nhuần/ Tiện theo đường
52
sắt vô dần xứ trong. Và ông kể khi quay ra Bắc thì cũng theo con đường đã đi vào.
Ngay như cảm hứng Chơi cho biết mặt sơn hà/Cho sơn hà biết ai là mặt chơi cũng
phảng phất sự ra Bắc vào Nam dễ dàng nhờ giao thông hiện đại. Một niềm tự hào
kiêu ngạo của một nhà nho tài tử mà làm nên nó không thể thiếu sự đóng góp của
giao thông hiện đại. Nhân tiện cũng nói góp thêm, Tản Đà có nhiều thơ viết về giao
thông. Có lúc ông ngồi nhớ cây cầu Hàm Rồng, một cây cầu then chốt trên đường
Nam-Bắc và ông dặn Sơn Tinh Hà Bá hay cùng/ Giữ nguyên phong cảnh Hàm Rồng
đợi ta/Có ngày xe lửa đi qua/Trong xe lại có Tản Đà đứng trông (bài thơ in năm
1932). Những cảm xúc của một nhà thơ hiện đại không thể thiếu hình tượng những
con đường, những cây cầu.
Giao thông hiện đại còn giúp thay đổi quan niệm về sự ĐI của người Việt ở
một khía cạnh khác. Chúng ta vẫn nhớ trước đây, nhà nho được Khổng Phu Tử nhắc
nhở: “Phụ mẫu tại bất viễn du, du tất hữu phương” (Luận ngữ, Lý nhân-Cha mẹ còn,
người con không được đi chơi xa, nếu đi xa phải cho biết rõ nơi mình định đến).
Người con theo đạo hiếu cần ở bên cha mẹ để phụng dưỡng, thăm hỏi hàn ôn hàng
ngày. Nếu đi xa thì tất không thực hiện được đạo hiếu. Nhưng điều huấn thị này còn
phản ánh hoàn cảnh giao thông của xã hội nông nghiệp, khi mà tốc độ còn rất hạn
chế thì khoảng cách không gian địa lý đặt ra thách thức. Vượt qua một vài trăm cây
số với sự hỗ trợ của đường xá, cầu phà tốt, xe máy, tàu hỏa, máy bay là câu chuyện
đơn giản của thời hiện đại. Nhưng đối với người xưa, đi bộ hay đi theo đường sông,
tốc độ hạn chế thì khoảng cách luôn phải được tính đến. Nếu cha già mẹ héo, có
chuyện gì xẩy ra, người con không có mặt kịp thời thì ân hận suốt đời. Những cuộc
ly biệt của con người trong Truyện Kiều thường được Nguyễn Du diễn tả bằng
những thành ngữ đất khách quê người, chân trời góc bể và những biểu tượng sông,
núi, quan ải ông sử dụng đã phản ánh tâm thức tiếp nhận không gian của người xưa
trong nền văn minh nông nghiệp [207, 338].
Như vậy, giao thông hiện đại đã làm thay đổi quan niệm sống và đi. Những
người con vẫn giữ được đạo hiếu đồng thời vẫn có thể thực hiện những chuyến đi
xa nhờ có phương tiện giao thông hiện đại giúp vượt qua không gian. Sau chuyến
bay từ Hà Nội sang Vientian chỉ có hai giờ, tác giả không nén nổi chút tự hào của
53
một khách du được hưởng những thành quả kỹ thuật hiện đại: “Hà Nội-Vientian
trong hai giờ! Sự tiến bộ của khoa học đã làm mất nghĩa của hai câu thơ của nhà bất
hủ Nguyễn Du: “Đường xa chớ ngại Ngô Lào”. Hoặc giả thi sĩ là một nhà tiên tri,
câu thơ ấy chỉ có nghĩa “Ngô Lào ta chớ ngại đường xa” [139]. Không cần nói đến
vài trăm năm, mà chỉ cần lùi về trước khoảng 100 năm, một chuyến theo đường bộ
từ Bắc vào Nam phải vượt qua biết bao sông núi, đèo dốc hẳn là rất khó khăn,
không khác gì thầy trò Đường Tăng đi Tây Trúc thỉnh kinh.
Một điểm nữa cần đề cập là phương tiện giao thông hiện đại đã góp phần lấp
nhiều khoảng trống trên bản đồ nhận thức thế giới của người Việt, thay đổi những
định kiến rất ấu trĩ về thế giới bên ngoài khi mà người Việt chưa xuất ngoại. Về mặt
này, Nguyễn Thị Chân Quỳnh viết “Những người chưa từng bước chân ra khỏi
nước rất dễ có những ngộ nhận: tác giả Ðại Nam Việt Quấc triều Sử ký tả cảnh nước
Pháp có "cửa son chói lói, lầu vàng oai nghi", và Bá-đa-lộc vào bệ kiến quốc trưởng
Pháp thì "quỳ lạy"! Trong cuộc chiến chống Pháp, người ta còn đồn rằng "Tây
không có đầu gối, cứ rải ổi xanh ra đường nó dẫm phải trượt chân ngã, bắt dễ như
chơi" (có lẽ vì thấy Tây đi ủng cao che lấp đầu gối?) [xem 156]. Nhưng khi người
Việt đã đứng giữa Paris thì xã hội Phương Tây đã có thể sờ mó được, hít hở được,
các đoàn du khách Việt Nam bắt đầu tìm hiểu đặc điểm của xã hội đó, sức mạnh và
nhược điểm của nó. Theo Nguyễn Thị Chân Quỳnh, sau chuyến đi Pháp trở về,
Phạm Phú Thứ đã có nhiều hoạt động hướng đến cải cách, đổi mới như gửi thư cho
nhiều đại thần trong triều đình trình bày phương án cải cách về binh bị, kinh tế, giáo
dục, tiểu công nghệ, đề nghị mở cảng ngoại thương, mở trường hàng hải, trường
dạy tiếng Pháp... Giữa văn du ký như là dạng văn bản thể hiện tư tưởng và hành
động thực tiễn có sự thống nhất cao. Du ký không chỉ đơn giản ghi chép lại điều tai
nghe mắt thấy và không chỉ có văn học tự sự hư cấu mới thể hiện tư tưởng. Những
điều tai nghe mắt thấy dẫn đến tư tưởng và từ đó dẫn đến hành động.
Ngoài các chuyến viễn du ra hải ngoại, phải kể những xứ sở xa xôi, khó đến,
vắng bóng trong văn du ký thời trung đại xưa thì nay đã thành đích đến của nhiều
người có đầu óc thám hiểm, lãng mạn. Đó là hồ Ba Bể [126], đảo Cát Bà (trong du
ký ghi là Các Bà-xem 37), đảo Phú Quốc [237], đỉnh Bà Nà [62]…Và như một
54
quan hệ nhân quả, việc đến thăm những vùng đất, xứ sở mới làm nảy sinh những
quan sát mới, kiến văn mới, tạo ra những quan tâm mới cho người đọc. Chẳng hạn
nhận diện người Hoa ở Việt Nam. Vấn đề người Hoa ở Việt Nam lần đầu tiên, một
cách hệ thống đã được Đào Trinh Nhất trình bày trong sách Thế lực khách trú và
vấn đề di dân vào Nam Kỳ từ năm 1924 [xem 138]. Nhưng đi vào mô tả những đặc
điểm văn hóa và hoạt động một cách sinh động thì phải kể những áng văn du ký như
bài của Trần Trọng Kim (1923), Sự du lịch đất Hải ninh in trên Nam phong s. 71
[85], viết về cả cái hay, cái tích cực của người Hoa ở bên Đông Hưng giáp Móng
Cái và cả những mặt trái, xấu, nhất là lối sống mất vệ sinh của họ. Hoặc phải nhắc
đến Vân Đài với áng văn du ký viết về mối nguy người Hoa độc chiếm các nguồn
lợi hải sản ở Cát Bà với những chiếc thuyền lớn trong khi đó người Việt chịu bó tay
vì không có vốn và kỹ thuật [37].
2.1.3. Văn du ký và đời sống báo chí
Ai cũng nhận thấy báo chí có vai trò quan trọng hàng đầu đối với quá trình
hiện đại hóa văn học Việt Nam. Cách nay khoảng một nửa thế kỷ, Phạm Thế Ngũ
đã viết về vai trò của hoạt động báo chí, xuất bản trong tiến trình hình thành nền văn
học mới khác văn học truyền thống: “Xưa đối với nho gia, trung tâm văn học là khu
lều chõng ba năm mở một lần, là nơi thầy đồ bình văn giảng sách, là nơi thi hữu
xướng họa vịnh ngâm. Nay trung tâm ấy chuyển ra nơi tòa báo, nhà xuất bản, tiệm
sách, thư viện, chỗ xuất phát những ấn phẩm có khả năng khích động những tư trào
lôi cuốn xã hội vào những biến đổi sôi nổi” [122, 96-97].
Theo Phạm Thế Ngũ, trong nhiều vai trò mà báo chí quốc ngữ đảm nhiệm ở
đầu thế kỷ XX, có một vai trò làm nơi luyện tập quốc văn. “Tờ báo nhất là tờ tạp chí
còn là chỗ tập hợp và tuyển lựa những người cầm bút, chỗ để cho họ luyện văn và
tác phẩm mới trong buổi đầu này. Những nhà văn có sự nghiệp trong giai đoạn này-
nhất là hai đại gia Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh -đều là nhà báo cả. Họ dùng
cột báo làm chỗ luyện tập câu văn và viết dần những tác phẩm của họ. Quốc văn
chưa vững, độc giả chưa nhiều, nên thời này chưa có những nhà xuất bản chuyên
sản xuất sách. Văn học nhất là trước 1925 chỉ mới có ở báo chí” [122].
Số lượng báo chí ở các ba miền Bắc, Trung và Nam năm 1923 có 71 tờ; vào
55
năm 1934 lên tới 227 tờ, và đến năm 1937 tổng cộng có 269 tờ báo, kỷ yếu, tạp chí
[131, 55]. Con số này rất có ý nghĩa nếu ta hình dung thời trung đại, nhà nho không
có báo chí.
Vì sao báo chí ra đời và phát triển thì văn du ký được đẩy mạnh? Vương Trí
Nhàn lý giải khá thỏa đáng: báo chí ra đời vào những năm 20 và 30 của thế kỷ XX,
đội ngũ làm báo còn rất mỏng, nguồn tin trong nước và thế giới còn rất hạn hẹp, lực
lượng viết báo chính là các nhà văn. Về mặt nghề nghiệp mà xét, bấy giờ không có
sự phân biệt quá rõ rệt giữa nhà văn và nhà báo. Các tác giả vừa viết văn làm báo để
đáp ứng yêu cầu bài vở đa dạng. “Sự gần gụi giữa văn học và báo chí đúng hơn là
tình trạng văn sử triết bất phân lúc ấy bên cạnh những mặt hạn chế suy cho cùng lại
là nhân tố làm cho báo chí trở nên sinh động và trong số các thể loại văn học, mấy
thể văn rất gần với báo tồn tại trước tiên trên mặt báo như bút ký, du ký, phóng sự
lại tìm được điều kiện lý tưởng để nảy nở” [131, 56].
Khi văn du ký là một dạng văn báo chí, nó phải đáp ứng được những thay
đổi trong cuộc sống. Vương Trí Nhàn viết “Nay thì quan niệm sống của người ta đã
khác, nên viết cũng phải khác. Câu hỏi có tính chất ám ảnh bây giờ là: ta đang sống
như thế nào? Chung quanh ta đang diễn ra những chuyện gì? Cách sống của cổ nhân
cần được hiểu, cần được nghiên cứu nhưng không hẳn đã là mẫu mực để theo. Con
người phải dò tìm cái cách tồn tại cho bản thân. Người ta không chỉ cần lời khuyên,
người ta trước tiên muốn biết hình ảnh của chính mình. Báo chí và các phương tiện
truyền thông phải trở nên tấm gương để con người tự nhận thức. Nếu các tin tức bài
vở lặt vặt nhỏ lẻ, đã thỏa mãn ham muốn tò mò, thì những ký sự, phóng sự tương
đối dài đưa ra những toàn cảnh rộng lớn, kèm theo sự phân tích tỉ mỉ, mới thật làm
cho người ta biết mình một cách đầy đủ” [131, 59]. Những điều trên bàn về ký sự,
phóng sự nhưng cũng rất thích hợp cho văn du ký, một tiểu loại của ký sự.
Trước Vương Trí Nhàn vài chục năm, Phạm Thế Ngũ từng có một nhận xét
đáng chú ý rằng bước đầu văn quốc ngữ phải qua một giai đoạn tập dượt nên văn
du ký có vai trò rất lớn trong cuộc tập dượt này, bên cạnh văn học dịch, để xây
dựng một nền văn xuôi hiện đại. Luận điểm quan trọng của ông là chính ký sự,
56
trong đó có du ký, đã chuẩn bị cho một thể loại thuộc hàng chủ đạo của văn học
nửa đầu thế kỷ XX-tiểu thuyết. Ông đặt tên cho một tiểu mục trong cuốn sách của
mình, chương V Sự hình thành của tiểu thuyết mới là Bước đầu của tiểu thuyết
mới: những thiên ký sự. Theo ông, ký sự có các tiểu loại như nhật ký, hồi ký, du
ký, mộng ký. Tất nhiên, việc phân loại chỉ có tính tương đối, trong văn du ký có
thể có cả nhật ký, hồi ký. Nhưng quan điểm của Phạm Thế Ngũ về vai trò của ký
sự chuẩn bị cho tiểu thuyết mới là xác đáng. Bởi theo ông, trong ký sự có đủ mọi
hình thái của tiểu thuyết như tiểu thuyết đòi hỏi có cốt truyện thì ký sự chính là kể
chuyện, có điều là câu chuyện còn ở dạng nguyên chất chưa chế hóa thành tiểu
thuyết; ký sự thuật việc cũng có nét tương tự như chất phiêu lưu của tiểu thuyết;
ký sự cũng như tiểu thuyết bao gồm đủ các giọng điệu, các lối văn, tả cảnh, tả tình,
đối thoại, độc thoại. “Đại để đó đều là những lối ký sự và đều có thể coi như một
hình thức tối giản của tiểu thuyết” và “viết ký sự còn có thể coi như một công việc
luyện tập viết văn. Bởi vậy nên chúng ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy, ở giai
đoạn học tập sáng tác này, trước khi có những tiểu thuyết chân chính, lối ký sự
này đã rất thịnh hành” [122, 293-294].
Luận điểm của Phạm Thế Ngũ là trùng hợp với Percy G. Adams, tác giả
công trình Văn học du lịch và sự tiến hóa của tiểu thuyết [276]. “Hình thức tự sự du
lịch, récit de voyage không đơn giản chỉ là loại nhật ký ở ngôi thứ nhất, hay bức ảnh
chụp cái thế giới mà nhà du lịch nhìn thấy…Nhà du lịch giống như nhà tiểu thuyết
có hàng ngàn công thức và hình thức để lựa chọn khi viết về một chuyến đi, dù anh
ta có ý định công bố hay không” [276, Preface, ix]. Văn du ký xuất hiện trước và sự
đa dạng của các hình thức tự sự mà nhà văn du lịch lựa chọn mở đường cho tiểu
thuyết hiện đại mà nhà nghiên cứu này gọi là “đế quốc” vì nó xâm lấn mọi đường
biên thể loại.
Như vậy, do sự phát triển của báo chí trong buổi đầu mà văn du ký (cũng
như các thể ký khác) phải gánh vác vai trò thỏa mãn nhu cầu người đọc, nhưng
chính sự tồn tại của ký sự lại đã tập dượt cho tiểu thuyết mới, kiểu hiện đại ra đời.
Quan hệ qua lại giữa báo chí, ký sự, tiểu thuyết có thể xem như ba chân kiềng của
57
văn học nửa đầu thế kỷ XX.
2.1.4. Các tác phẩm dịch và sáng tác có ảnh hưởng đến du lịch và văn du ký
Theo lý thuyết liên văn bản thì bất cứ một sáng tác nào cũng chịu ảnh hưởng
của sáng tác đã có trước đó. Văn du ký nửa đầu thế kỷ XX về phương diện này cũng
không phải là ngoại lệ.
Hoạt động dịch thuật văn học đóng góp một phần hết sức quan trọng đối với
sự hình thành văn học Việt Nam hiện đại. Vấn đề này đã có nhiều nghiên cứu, ở đây
chúng tôi chỉ xin đề cập đến mảng dịch thuật văn du ký mà theo chúng tôi, cũng có
phần ảnh hưởng đến viết văn du ký nói chung.
Trong tác phẩm du ký Chơi Phú Quốc, nữ sỹ Mộng Tuyết khi đó là một nữ
sinh trung học đã kể về ngọn nguồn ảnh hưởng của các áng văn du ký đã được đọc
đối với hứng thú phiêu lưu của mình. “Thuyền chúng tôi đi đây là thuyền buôn, chở
nước mắm đi Rạch giá ghé qua Hà tiên, tiện đường chúng tôi đi theo để nếm qua
cho biết cái thú đi biển bằng thuyền buồm. Cái tính hiếu kỳ và “mạo hiểm” ấy đã nuôi sẵn trong lòng mỗi khi đọc truyện Télémaque phiêu lưu, chuyện Quả dưa đỏ 9 hay những bài du ký của Alain Gerbault10” [Nam phong s. 199]. Lời tâm sự của
Mộng Tuyết hé lộ cho chúng ta biết về ý nghĩa của các tác phẩm dịch hay sáng tác
đã được đăng trên báo chí đầu thế kỷ, hoặc được đọc qua Pháp văn, đối với hứng
thú du lịch, một hành động khởi đầu cho sự viết văn du ký.
Trong luận văn nghiên cứu về Nam phong, chương III Trào lưu dung hòa:
tản văn, Phạm Thị Ngoạn viết: “Tạp chí Nam phong cũng góp phần đẩy mạnh đà
tiến của nhiều loại văn khác: bài ký, văn du ký, bút ký, tùy bút…Chúng tôi đã ghi
trên đây bài du ký của Lãn Ông, do Nguyễn Trọng Thuật dịch từ Hán văn. Bài này ra mắt đã khuyến khích loại văn [du ký ] được phát triển”11. Ý bà muốn nói bản dịch
Thượng kinh ký sự được đăng trên Nam phong đã tạo cú hích cho văn du ký phát
9 Quả dưa đỏ, tiểu thuyết của Nguyễn Trọng Thuật, phóng tác theo chuyện An Tiêm trong Lĩnh nam chích quái (thế kỷ XIV). 10 Alain Gerbault (1893-1941), người đã một mình bơi thuyền vòng quanh trái đất, cuối cùng lên sống các hòn đảo ở Nam Thái Bình Dương, viết một số cuốn sách về lối sống của cư dân các đảo này (Theo Wikipedia). Có lẽ Mộng Tuyết đã đọc qua tiếng Pháp các sách của ông. 11 Phạm Thị Ngoạn (1993), Tìm hiểu tạp chí Nam phong (1917-1934), kỷ yếu Hội nghiên cứu các vấn đề Đông Dương, Ý Việt. Phạm Trọng Nhân dịch ra tiếng Việt. Công bố trong CD Nam Phong, tr. 205.
58
triển. Về điểm này, Phạm Thị Ngoạn đã không hoàn toàn chính xác vì trước Thượng
kinh ký sự thì văn du ký trung đại đã được giới thiệu. Còn sở dĩ bà đặt tên trào lưu
dung hòa: tản văn là vì các tác phẩm ký sự “bắt nguồn cả từ hiện đại lẫn quá khứ”,
nghĩa là văn du ký có thể tiếp nhận ảnh hưởng của cả du ký truyền thống cũng như
văn du ký hiện đại, nhất là của Phương Tây.
Tê lê mạc phiêu lưu ký 12 được dịch lần đầu tiên bởi Trương Minh Ký năm
1887 và đến 1927 có bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh. Không rõ Mộng Tuyết đọc
qua bản dịch nào hay trực tiếp đọc từ bản Pháp văn?
Quả dưa đỏ của Nguyễn Trọng Thuật được gọi là tiểu thuyết phiêu lưu, giải
thưởng của Hội Khai Trí Tiến đức năm 1925 và ngay trong 12 số của năm 1926 và
1 số đầu năm 1927, Nam phong đã đăng trọn vẹn.
Nhưng nói đến kiểu truyện phiêu lưu thì không phải chỉ có chừng ấy. Chẳng
hạn, trên Nam phong có thể đọc thấy Nguyễn Bá Học có đoản thiên tiểu thuyết Dư
lịch sinh hiểm ký (số 35, năm 1923) kể cuộc đời phiêu lưu của nhân vật “tôi” hành
trình từ Bắc vào Nam.
Các trường hợp được Mộng Tuyết nhắc đến đều thuộc loại tiểu thuyết phiêu
lưu, đầy chất lãng mạn, có liên quan đến vượt biển. Tuy nhiên, để cho đầy đủ, phải
nói rằng một số tác phẩm du ký của văn học trung đại cũng đã được dịch trên báo
chí nửa đầu thế kỷ.
Thực ra, trên Nam phong từ năm 1919, dưới đề mục Tồn cổ lục, Đông Châu
Nguyễn Hữu Tiến đã dịch các bài du ký trung đại trong Tang thương ngẫu lục (của
Phạm Đình Hổ-Nguyễn Án) như Núi Dục thúy [s.23, tháng 6-1919], kể về chuyến
đi thăm núi Dục thúy ở Ninh Bình; Bài ký chơi núi Phật tích [số 24 tháng 7-1919]
kể về chuyến thăm chùa Thày, Sài Sơn, Quốc Oai, Sơn Tây. Trong năm 1923 và
1924, Nam phong mới công bố trọn vẹn bản dịch của Nguyễn Trọng Thuật dịch
Thượng kinh ký sự, một áng văn du ký tiêu biểu của thế kỷ XVIII. Năm 1927-1928,
Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến công bố bản dịch Vũ trung tùy bút của Phạm Đình
12 Les Adventures de Télémaque -tiểu thuyết của nhà văn Pháp Francois de Fénelon, in lần đầu tiên năm 1699. Tiểu thuyết kể về cuộc phiêu lưu của Telemaque đi tìm cha là Ulysse, được xây dựng theo moyip hành trình qua nhiều quốc gia kỳ lạ có chế độ chính trị khác nhau nhưng cuối cùng nhân vật thích chế độ quân chủ chuyên chế khai sáng nhất.
59
Hổ trong đó có một số áng văn du ký như Cảnh chùa Sơn Tây, Xứ Hải Dương.
Có thể nói, lý thuyết liên văn bản có thể giúp chúng ta hiểu được các nguồn
văn bản ảnh hưởng, tác động đến văn du ký. Nếu như điều kiện báo chí xuất bản
thuận lợi, nếu như giao thông phát triển kích thích sự đi của người viết văn du ký thì
việc dịch các tác phẩm văn du ký hay tiểu thuyết phiêu lưu cũng tác động đến cả
hành vi đi du lịch và viết văn du ký.
2.2. Diễn biến của văn du ký
Văn du ký, cũng như bất cứ một hiện tượng văn hóa xã hội nào, có một lịch sử của
mình. Để phác họa diễn biến trong khoảng thời gian nửa thế kỷ của văn du ký,
chúng ta cần chú ý trước hết đến các nhân tố lịch sử chính trị xã hội và văn hóa qui
định sự ra đời, tồn tại cũng như tôn chỉ, mục đích của các tờ báo là nơi công bố các
áng văn du ký.
Điều cần phải nói trước hết là các báo đăng văn du ký đều là thuộc báo chí
công khai, được phép xuất bản, có những tờ như Đông Dương tạp chí hay Nam
phong còn do người Pháp chủ trương, giao cho người Việt điều hành. Trong hoàn
cảnh phong trào văn hóa yêu nước như Đông kinh nghĩa thục bị cấm năm 1908 sau
các cuộc vận động chống thuế ở Trung kỳ, các cuộc đấu tranh vũ trang chống Pháp
thất bại (ví dụ, cuộc đánh bom của Việt Nam quang phục hội vào khách sạn Hà Nội
1913 và cuộc Khởi nghĩa Yên Bái năm 1930 của Việt Nam quốc dân đảng) thì dễ
hiểu là nhiều trí thức đã sớm nhận ra tầm quan trọng của báo chí với tư cách là một
phương tiện truyền bá kín đáo tư tưởng yêu nước, tư tưởng canh tân, mở mang dân
trí. Vì thế, ngay cả khi các tờ báo do người Pháp lập, nhưng giao cho người Việt
điều hành thì các tờ báo đó trở thành “công cụ vô thức của lịch sử” như chữ thường
dùng của nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương, không đơn giản chỉ thuần túy là công
cụ nô dịch của thực dân Pháp. Phạm Thế Ngũ đã đúng khi ông nhận xét về Đông
Dương tạp chí:“Tất nhiên đối với Schneider và những người Pháp đứng sau tờ
Đông Dương tạp chí, thì mục tiêu chính trị là quan yếu nhất. Còn đối với những
người Việt Nam cộng tác, đứng đầu là Nguyễn Văn Vĩnh, hẳn các ông cũng muốn
lợi dụng báo để làm nơi tuyên truyền cho việc duy tân đất nước và xây dựng văn
học mới” [122, 119]. Vẫn nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ nhận xét về Nam phong:
60
theo ông, dù là người Pháp cho lập Nam phong nhằm mục tiêu củng cố cho công
cuộc “bảo hộ” của họ nhưng về phía người Việt Nam, không phải họ chỉ biết đơn
giản nhất nhất phục vụ cho mục tiêu ấy. Ông cho rằng Phạm Quỳnh, ngoài việc
phục vụ cho Pháp, đã đặt ra ba mục tiêu: lợi dụng tờ báo để bồi bổ cho quốc văn, đủ
để phiên dịch và truyền bá các tư tưởng Âu Tây; xây dựng một nền học thuật mới
thay cho Hán học suy tàn; gây lấy trong quốc dân một chủ nghĩa quốc gia ôn hòa
dựa trên cơ sở văn hóa [122, 142-143].
Nếu từ góc độ đó để nhìn các báo tạp chí buổi đầu đăng văn du ký thì ta sẽ
hiểu sâu sắc hơn vì sao đề tài thăm viếng các địa điểm du lịch nổi tiếng của người
Việt Nam được ưu tiên. Viết về các danh lam thắng cảnh, đặc biệt là các di tích lịch
sử liên quan đến các danh nhân, anh hùng nghĩa sĩ của Việt Nam rõ ràng là một
cách kín đáo bày tỏ lòng yêu nước. Một phương diện khác, một số lễ hội truyền
thống đã được nhìn từ quan điểm phát triển hiện đại, thấy những yếu tố lạc hậu,
phản văn hóa của một số phong tục. Đông Dương tạp chí ra mắt năm 1913 đã sớm
đăng Hương Sơn hành trình liên tiếp các số 41,42,43,44,45 (1914) một áng văn du
ký hiện đại. Với chủ trương canh tân đất nước, ông sớm có con mắt phê phán những
biểu hiện phản văn hóa của một số lễ hội truyền thống. Thực ra bài viết này ông đã
thực hiện bằng Pháp văn từ 1909 và nay tự dịch ra tiếng Việt. Ông kể lại những điều
chướng tai gai mắt đầy ngụ ý phê phán lễ hội chùa Hương trong số 45 như; hàng
trăm hàng ngàn phụ nữ đi cầu tự tranh nhau, xéo đạp, chửi nhau; món ăn xung
quanh rặt những cá bốc mùi tanh tưởi bên cạnh tượng Phật; các me Tây đi chùa có
sư trẻ (“sư ông non” theo từ dùng của tác giả) dẫn đi, vừa đi vừa nô đùa sằng sặc;
“đi lễ chùa chiền là chỗ các bà ganh nhau tốn kém, mà mấy sư ông vả lại cũng chưa
quên hẳn sự đời”… Những vấn đề đáng phê phán của lễ hội nhìn từ tư duy khoa học
hiện nay vẫn đang được đặt ra ở nước ta.
Văn du ký trên Nam phong đa dạng hơn, phản ánh chủ trương văn hóa của
Phạm Quỳnh cũng đa chiều hơn so với Đông Dương tạp chí. Cũng viết về chuyến
du lịch chùa Hương song bài văn du ký Chảy chùa Hương [Nam phong, s. 23-1919]
viết về cả hai phương diện được và chưa được của lễ hội chùa Hương, là một ví dụ
tiêu biểu cho thấy chủ trương dung hòa Đông-Tây của Nam phong. Trong bài ký
61
này, Phạm Quỳnh dành cảm tình cho nhiều đặc điểm văn hóa truyền thống, từ đạo
Phật đến hội họa và thơ Đường đồng thời cũng quan sát phê phán những biểu hiện
lộn xộn, vô văn hóa của lễ hội. Dung hòa Đông-Tây là một chủ trương quán xuyến
của Nam phong và nói riêng trong văn du ký trên Nam phong. Dễ hiểu là trong
chuyên mục Tồn cổ lục do Nguyễn Hữu Tiến phụ trách, giữa những áng thơ văn
trung đại được dịch, phiên âm (nếu là văn Nôm), lại có một số áng văn du ký của Lê
Hữu Trác, Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án. Và cũng có thể gặp các áng văn du ký mới
như Pháp du hành trình nhật ký trong đó một mặt có những ngụ ý phê phán người
Pháp (người Pháp ở Pháp có văn hóa và lịch sự không như người Pháp ở xứ Đông
Dương), có những tuyên bố không phải là không có ý nghĩa về văn hóa Việt Nam
như một tờ giấy đã có chữ viết chứ không phải là tở giấy trắng để cho người Pháp
muốn viết gì thì viết), mặt khác cũng có ý tuyên truyền, giới thiệu văn hóa Pháp.
Những ẩn ý văn hóa văn chương của các tờ báo buổi ban đầu công bố du ký cần
được chú ý.
Về phương diện văn chương, văn du ký trên Nam phong không ngừng biến
chuyển. Nếu như du ký của Phạm Quỳnh còn nặng về khảo cứu, thì các áng văn du
ký xuất hiện muộn hơn về sau đã có những thay đổi quan trọng về cảm hứng, về bút
pháp. Không bàn về nội dung, mà xét về giọng điệu, chất lãng mạn, cái tôi cá nhân
tự khám phá, sự tự bộc lộ chủ thể thẩm mỹ trong Bà nà du ký [số 163/năm 1931]
của Huỳnh Thị Bảo Hòa, Chơi Phú Quốc [số 198-199/năm 1934] của Mộng Tuyết
hoặc Lại tới thần kinh [số 200-204/1934] của Nguyễn Tiến Lãng đã đậm đà hơn
văn du ký hồi những năm 1920. Trong khi đó, Phạm Quỳnh vẫn giữa phong cách
viết văn du ký thiên về khảo cứu, suy tư những vấn đề mang màu sắc chính trị xã
hội trong áng du ký Du lịch xứ Lào [số 159/1931]. Có thể nói, một phần Nam phong
tôn trọng các phong cách du ký khác nhau, cũng có thể nói là về phương diện văn
chương, bước sang những năm 1932, khi mà một thế hệ mới ra đời theo như phân
kỳ của Thanh Lãng, không khí và dáng dấp của văn học hiện đại đã rõ nét, thì du ký
Nam phong cũng phản ánh tình hình chung của văn học.
Ra đời sau Nam phong và là một tờ báo đăng nhiều văn du ký, lại là báo ở
Nam Kỳ, Phụ nữ tân văn có chủ trương không chỉ đấu tranh cho nữ quyền mà còn
62
đặt vấn đề về phụ nữ trong bối cảnh chung của đất nước. Bìa tờ báo có ba cô gái
tượng trưng cho phụ nữ ba miền Bắc-Trung-Nam. Số báo đầu (ra ngày 2-5- 1929)
có lời giới thiệu “Nhà cữa suy hay thạnh, chồng con giỏi hay hèn, nòi giống yếu hay
mạnh, đều là những việc ta phải nhận làm việc mình. Chớ không thể chỉ quy-trách
vào người đàn ông hết cả”. Người phụ nữ có trách nhiệm đối với nói giống, vấn đề
dân tộc chứ không chỉ của riêng gia đình nào. Phấn đấu cho bản thân phải gắn với
phấn đấu cho đoàn thể, cho quốc gia. Văn du ký phản ánh tôn chỉ chung của tờ báo
tư nhân này). Tinh thần đổi mới, hiện đại hóa là tinh thần chủ đạo của Phụ nữ tân
văn. Trong số báo 114, ngày 24 -12-1931, một tác giả là Viên Hồng nhân nói về văn
hóa Mã Lai, viết chung về đi du lịch như sau: “Phong dao ta có câu: “Đi một bước
đàng, học một sàng khôn”, cái câu ấy tuy nó cũ mèm, tự đời xưa truyền lại, nhưng
nó rất ứng dụng với thời đại bây giờ. Ở chung quanh xứ ta, hay ở khắp thế giới, hãy
còn biết bao nhiều là phong cảnh nhơn vật xinh đẹp lạ lùng, đáng cho ta thấy biết để
mở tầm con mắt và bồi bổ óc khôn cho ta rộng lớn mãi ra? Có biết người biết ta rồi
mới có thể so sánh mà biết ai hay ai dở, hễ có so sánh biết ai hay ai dở rồi thì mới
có cạnh tranh mà tiến bộ được. Ở các nước văn minh giàu có chẳng những người
lớn rất ham du du lịch xứ người, dẫu tốn hao nguy hiểm thế nào cũng chẳng quản,
mà họ lại còn khuyến khích nong nả cho bạn thiếu niên đi du lịch nữa”. Đi du lịch
không còn chỉ là câu chuyện ngắm cảnh đẹp mà còn nhìn người, biết người để học
hỏi, cạnh tranh mà tiến bộ.
Vì thế mà Phụ nữ tân văn ủng hộ, cổ vũ cho cô Nguyễn Thị Kiêm làm cuộc
hành trình xuyên Việt, đi từ Sài Gòn ra Hà Nội để diễn thuyết, vận động cho nữ
quyền và công bố ghi chép du ký của cô trong chuyến đi này-dường như ý thức về
nữ quyền ở Nam Kỳ khi đó cao hơn ở Bắc Kỳ. Cô Nguyễn Thị Kiêm lại chính là
Manh Manh nữ sĩ, chủ trương cổ súy cho thơ mới. Báo Phụ nữ tân văn được xem là
tờ báo đi những bước đi khởi đầu cho thơ mới: đăng bài thơ Tình già của Phan Khôi
(thứ năm, 10-3-1932) và nhiều bài thơ theo lối mới của Manh Manh (tức Nguyễn
Thị Kiêm) trong năm 1933. Số ngày 10-8-1933 của Phụ nữ tân văn còn tường thuật
diễn thuyết của cô Nguyễn Thị Kiêm về thơ mới [xem thêm 246].
Như vậy văn du ký trên Phụ nữ tân văn thể hiện tôn chỉ riêng của tờ báo. So
63
với các báo khác có đăng văn du ký thì Phụ nữ tân văn ưu tiên công bố các áng du
ký của phụ nữ Việt Nam hồi đó. Mà vấn đề nữ quyền lại là một trong những biểu
hiện quan trọng không thể coi nhẹ của văn học Việt Nam trên con đường hiện đại
hóa. Vì vậy, văn du ký trên Phụ nữ tân văn cần được chú ý khai thác từ phương
diện này.
Tuần báo Tri tân (1941-1946) khép lại cánh cửa báo chí trước cách mạng
tháng Tám. Tờ tạp chí ra đời lúc đầu với tôn chỉ nặng về “khảo cổ”. Số đầu tiên có
lời phi lộ như sau: “Ôn cũ! Biết mới!” Nhằm cái đích ấy, TRI TÂN đi riêng con
đường văn hoá. Với cặp kính khảo cứu, TRI TÂN lần dở từng trang lịch sử; bằng
con mắt nhận chân và lạc quan, TRI TÂN ngó rộng chân trời tri thức. Ghé vai
gánh gạch xe vôi, TRI TÂN đứng vào hàng ngũ công binh, xây dựng lâu đài văn
hoá Nam Việt”. Nhưng trên thực tế, cùng giống như nhiều tờ báo, tạp chí khi đó,
Tri tân có nội dung mang tính tổng hợp. Không phải chỉ có các vấn đề khảo cổ
văn hóa, truyện nôm còn đăng cả những bài bình luận sắc sảo về văn học đương
đại của Lê Thanh.
Văn du ký của Tri tân thường hướng về các miền đất có những vấn đề về
nhân học, sử học phong phú mà nội dung của các bài du ký đó có thể gợi ý cho thể
loại tiểu thuyết lịch sử hồi những năm 1940, một đóng góp không có từ văn du ký
các báo chí khác. Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân nhận xét rất xác đáng: “Trên tạp
chí này cũng thường đăng những thiên du ký, nhất là những du khảo điền dã, kể về
những cuộc viếng thăm các di tích lịch sử (Tức Mạc, Kiếp Bạc, chùa Bà Đanh,
miếu Hát, Hoa Lư, tháp Bình Sơn, chùa Bối Khê ở miền Bắc, di tích Indrapura
Đồng Dương, đền thờ Thiên Ya Na ở miền Trung, gò Ốc Eo, mộ Cử Trị ở miền
Nam). Có thể nói Tri tân đã kích thích và giành “đất‟” cho sự phát triển mảng sáng
tác về đề tài lịch sử ở văn học Việt Nam những năm 1940, một khuynh hướng
không đặc trưng ở sự nhạy bén đáp ứng văn hoá đô thị hiện đại hoá đương thời,
nhưng đặc trưng ở tinh thần “tìm nguồn”, “về nguồn” trong đề tài văn học” (Lời
giới thiệu cho bộ đĩa CD Tri tân do Viễn Đông Bác cổ Pháp thực hiện).
Trên đây chỉ là bản phác thảo sơ lược về diễn biến của văn du ký nửa đầu thế
kỷ XX. Sự vận động của văn du ký nhìn chung có ba nhân tố chi phối: 1) vấn đề tôn
64
chỉ, mục đích của mỗi tờ báo, tạp chí đăng văn du ký như đã nói; 2) Vấn đề thế hệ:
trong thời kỳ này, sự thay đổi xã hội diễn ra rất nhanh chóng nên chúng ta cần lưu ý
các thế hệ nhà văn, nhà báo viết văn du ký. Ví dụ, cùng đăng văn du ký trên Nam
phong nhưng trong 17 năm tồn tại của tờ báo có sự hiện diện của các thế hệ khác
nhau: Nguyễn Bá Học sinh năm 1857, Nguyễn Hữu Tiến 1875, Nguyễn Đôn Phục
1878, Nguyễn Bá Trác 1881, Phạm Quỳnh sinh 1892, Trần Trọng Kim sinh 1883,
Huỳnh Thị Bảo Hòa 1896, Đông Hồ sinh 1906, Mộng Tuyết sinh 1914. Đến Phụ nữ
tân văn, các tác giả lại trẻ hơn: Cao Thị Khanh -tức là bà Nguyễn Đức Nhuận- chủ
bút Phụ nữ tân văn sinh 1900, Nguyễn Thị Kiêm sinh 1914. Viết du ký cho Tri tân,
Hoa Bằng sinh 1902, Vân Đài sinh 1903, Mãn Khánh Dương Kỵ (tên thật là Tôn
Thất Dương Kỵ) sinh 1914, Nhật Nham Trịnh Như Tấu sinh 1915. So sánh giữa các
thế hệ kể cả cùng viết cho một báo, tạp chí hay viết cho các báo, tạp chí khác, dễ
dàng nhận thấy sự khác biệt. Do thế hệ khác nhau nên quan niệm về cuộc sống, về
xã hội, về thẩm mỹ, về chức năng văn chương …của họ có khác nhau. Cảm hứng
lãng mạn ở văn du ký Mộng Tuyết (viết về chuyến đi Phú Quốc đăng trên Nam
phong 1934) hay ở văn du ký Nhật Nham (viết về cuộc đi chơi Hồ Ba Bể (đăng trên
Tri tân, 1942), kể cả văn du ký của Mãn Khánh Dương Kỵ viết về văn hóa Chăm ở
Đồng Dương đều có những nét tương đồng, trái lại chất khảo cứu của thế hệ sinh
những năm 1890 như Nguyễn Bá Trác, Phạm Quỳnh đậm hơn, dường như họ chịu
ảnh hưởng của lối viết địa chí xưa. 3) tình hình văn học của mỗi giai đoạn: ở nửa
đầu thế kỷ XX diễn biến rất nhanh mà văn du ký có thể phản ánh sự diễn biến này.
Chẳng hạn, sau những năm 1932, tiểu thuyết và thơ sáng tác theo thi pháp văn học
Phương Tây bắt đầu ngày càng rõ nét. Nguyễn Tuân (sinh năm 1910) là tác giả sở
trường về thể tùy bút, có những áng văn đứng ở vị trí giao thoa với văn du ký nhưng
không hẳn là văn du ký vì ghi chép sự kiện thì ít mà bộc lộ con người cá nhân, nhận
diện và khám phá cá nhân mạnh mẽ. Có thể xem Nguyễn Tuân như là sản phẩm tác
động qua lại giữa văn du ký và dòng văn học lãng mạn ở những năm ba mươi của
thế kỷ XX đang sôi nổi nhất. Các áng văn du ký xuất hiện trong những năm 1930
(ví dụ một số văn du ký trên Nam phong, Phụ nữ tân văn cần được nhìn nhận trong
65
ngữ cảnh văn học này).
Tiểu kết
Sự xuất hiện, vận động của văn du ký nửa đầu thế kỷ XX chịu sự chi phối
của nhiều nhân tố khác nhau.
Có những nhân tố thuần túy thuộc về kỹ thuật như vấn đề giao thông, in ấn
xuất bản, có những vấn đề về văn hóa xã hội, có nhân tố thuộc về hệ thống báo chí
với các tôn chỉ, mục đích khác nhau, có những vấn đề thuộc về tư duy văn học, và
có những vấn đề thuộc về thế hệ người viết với nền tảng văn hóa văn học riêng của
mỗi thế hệ. Phân tích các nhân tố đó để hiểu được tính tất yếu của sự tồn tại bộ phận
văn du ký như là một sản phẩm đặc thù của giai đoạn văn học đang trên bước đường
hiện đại hóa, theo hình mẫu văn học Phương Tây. Các chương tiếp theo của luận án
sẽ phải trình bày ý nghĩa, vai trò, những đóng góp của văn du ký đối với văn học
66
đang hiện đại hóa giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX này.
CHƢƠNG 3
NỘI DUNG VĂN DU KÝ VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
VÀ HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC
Xét về nội dung, có thể nói văn du ký hàm chứa nhiều vấn đề khác nhau.
Nhưng trong chương này, chúng tôi chọn trình bày một số vấn đề nổi trội của văn
du ký so với các thể loại khác nhìn từ góc độ hiện đại hóa văn học.
3.1. Nhận thức về “ngƣời khác”
Như đã trình bày ở mục 1.3.3, lý thuyết hậu thực dân đã quan tâm đến cái
nhìn người khác (tức là người bên ngoài thế giới Phương Tây) của chủ nghĩa thực
dân Phương Tây. Giới nghiên cứu Phương Tây cho rằng tiểu thuyết hiện đại
Phương Tây hình thành với sự ra đời và phát triển của văn học du lịch, một thể loại
văn học ghi chép các cuộc thám hiểm, viễn du, tìm hiểu và giới thiệu thế giới bên
ngoài thế giới Phương Tây.
Văn du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX cũng trình bày một cái nhìn “người
khác” nhưng đây không phải là cái nhìn thực dân Phương Tây đối với thế giới phi
Phương Tây. Đây là cái nhìn của người dân thuộc địa đối với thế giới thực dân, cái
nhìn của người thuộc địa đang ý thức về nhu cầu cấp thiết thay đổi, tự cường, khẳng
định bản sắc của mình trong một thế giới toàn cầu hóa, đang biến chuyển mạnh mẽ.
Chúng ta đều biết Hoài Thanh từng có câu nói nổi tiếng “Sự gặp gỡ Phương
Tây là cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ”. Tiếp
xúc văn hóa Đông-Tây là một trong những vấn đề lớn nhất của thời hiện đại. Trong
cuộc tiếp xúc này, nhận thức về “người khác” có ý nghĩa rất lớn. So với các thể loại
khác, văn du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX phản ánh rõ nhất nội dung này. Phạm
Quỳnh khi nghiên cứu so sánh mỹ thuật Phương Tây và Phương Đông đã phải nói
rằng sự hiểu biết về khác biệt của mỹ thuật có quan hệ đến sự tiến hóa về tinh thần
của dân tộc [33, 502].
Khái niệm “người khác” mà chúng tôi muốn đề cập ở đây là những người
thuộc về một chủng tộc khác, mang nền văn hóa khác. Người khác được giới nghiên
67
cứu quan niệm giống như một tấm gương khi chúng ta soi vào chúng ta sẽ tự hiểu
mình. Nói đơn giản hơn, khi so sánh với người khác chúng ta mới tự hiểu mình.
Cuộc gặp gỡ Đông-Tây chính là một nội dung lớn của thời hiện đại vì thế.
Về điểm này, nhà nhân chủng học Levis- Strauss viết trong công trình Nhiệt
đới buồn như sau: “Nhờ có những chuyến đi thám hiểm vĩ đại mà thời điểm quan
trọng của tư tưởng hiện đại đã đến, khi mà một cộng đồng người vẫn hằng tự tin
rằng nó là hoàn thiện, nó là hình thái cuối cùng bỗng nhận ra rằng nó không phải là
duy nhất, mà nó là một bộ phận của một toàn thể, rằng để tự biết chính mình thì
trước tiên nó phải ngắm nhìn cái hình ảnh không thể nhận ra được trong tấm gương
này” [chuyển dẫn theo Percy Adams trong tài liệu số 276, tr. 38].
Trên thực tế, các cuộc tiếp xúc văn hóa giữa các nhóm người, tộc người, các
dân tộc là một hiện tượng văn hóa bình thường từ xưa đến nay và sáng tác văn học
các thời đều có phản ánh. Nhưng trong văn học trung đại Việt Nam, chúng ta chỉ
gặp những thông tin về tiếp xúc văn hóa giữa người Việt và người Hán, giữa người
Việt và các dân tộc láng giềng với cái nhìn riêng mà đến thời hiện đại về cơ bản sẽ
phải thay đổi. Đối với người Hán, cách hình dung cơ bản của người Việt là niềm tự
hào “vô tốn”: chúng ta có lễ nghĩa, thi thư chẳng thua gì người Hán, người Việt có
thể xướng họa thơ văn với người Hán, có thể bút đàm với người Hán, tranh biện với
họ về nhân nghĩa, về đạo đức... Tuy trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi có nói
đến sự khác biệt về phong tục Bắc/Nam (ý nói phong tục Trung Quốc /Đại Việt)
song lại tự hào nước ta “xưng nền văn hiến đã lâu”. Nền văn hiến nói đây gồm có
nhân tài và điển tịch, sách vở. Người Việt xưa hình dung mình đã chiếm lĩnh được
kho tàng văn hóa chữ Hán không thua kém gì chính người Hán, rằng mình thuộc về
không gian văn hóa chữ Hán- Hán tự văn hóa quyển. Trên thực tế có rất nhiều yếu
tố văn hóa Đông Nam Á tồn tại trong văn hóa Việt, nhưng ở đây ta đang nói về cách
nghĩ, cách nhìn của người xưa.
Các dân tộc khác được người Việt nhìn bằng con mắt của đế quốc văn hóa,
thực chất là vay mượn quan điểm kỳ thị Hoa-Di của người Hán. Sách Dư địa chí
(có thể Nguyễn Trãi tham gia soạn) viết: “Người nước không được bắt chước ngôn
ngữ và y phục của các nước Ngô, Chiêm, Lào, Xiêm, Chân lạp để làm loạn phong
68
tục trong nước…Tiếng Ngô là tiếng lưỡi, phải dịch mới hiểu; tiếng Lào là tiếng
họng; tiếng Xiêm, Chiêm, Chân Lạp là tiếng hầu, như tiếng quẹt, đều không được
bắt chước để loạn tiếng nói nước nhà. Người Ngô bị chìm đắm lâu trong phong tục
người Nguyên, tóc bện, răng trắng, áo ngắn có tay dài, mũ xiêm rực rỡ như chồng
lớp lá. Người Minh tuy khôi phục lại lối ăn mặc cũ của thời Hán Đường, nhưng
phong tục vẫn chưa biến đổi. Người Lào lấy chiếu quấn vào mình như áo cà sa nhà
Phật. Người Chiêm lấy khăn che đùi mà để lộ mình. Người Xiêm La, Chân Lạp lấy
vải bọc luôn cả tay và gối như bó thây chết. Các tục ấy đều không nên theo mà loạn
phong tục” [224, 222-223].
Công cuộc tiếp xúc văn hóa với Phương Tây đã không diễn ra theo hướng
khác. Những nhận thức và phát biểu về người Phương Tây trong văn học Việt Nam
thế kỷ XIX vẫn còn mang nặng cái nhìn Hoa-Di-một cái nhìn ảnh hưởng văn hóa
Hán. Người Việt thế kỷ XIX gọi người Phương Tây là bạch quỉ, hồng mao, là bọn
người tả đạo, theo đạo Hòa Lan. Nguyễn Đình Chiểu hình dung bọn người theo đạo
Thiên chúa không có chỗ trên thiên đàng. Nhưng những thất bại liên tiếp trước quân
xâm lược không truyền thống đã buộc các trí thức người Việt phải thay đổi cách
nhìn, cách nghĩ về Phương Tây. Dần dần người ta đã nhận ra những nguyên nhân
khiến cho chúng ta mất nước nhờ có cái nhìn so sánh nghiêm túc chúng ta với
Phương Tây. Không chỉ các trí thức Tây học như Nguyễn Trường Tộ với những bản
điều trần đề nghị thay đổi khá toàn diện xã hội Việt Nam theo mô hình văn hóa của
Phương Tây. Bản thân các nhà nho cũng thay đổi bằng những cách khác nhau. Phan
Bội Châu chủ trương tìm kiếm sự giúp đỡ của Nhật Bản để đánh Pháp, nhưng Nhật
Bản chẳng qua cũng là một nước châu Á đã kịp thời Âu hóa sớm nên đạt được
nhiều thành tựu phát triển về kinh tế, kỹ thuật. Phan Châu Trinh chủ trương dựa vào
Pháp để tiến bộ, phải học hỏi chủ nghĩa dân chủ của Phương Tây để thoát ra khỏi xã
hội phong kiến quân chủ độc đoán.
Đây là lúc người Việt buộc phải nhìn người để nhìn lại mình. Vì thế nên có
thể nói: xuất phát từ nhu cầu cấp thiết phải thay đổi, vấn đề nhìn người, nhìn mình
là một nội dung quan trọng của hiện đại hóa xã hội, văn hóa và văn học Việt Nam.
Nói cách khác, cái nhìn người khác trong văn du ký đầu thế kỷ XX chịu sự qui định
69
của quan điểm phát triển, điều chưa từng có trong lịch sử trung đại. Văn học yêu
nước đầu thế kỷ XX thấm đẫm tinh thần thay đổi để tồn tại, điều được gọi khái quát
bằng một từ “duy tân”. Tuy nhiên, do những định hướng nghiên cứu qui định, xưa
nay giới nghiên cứu dường như chỉ khoanh vùng nghiên cứu tinh thần “duy tân”,
đổi mới trong thơ văn yêu nước đầu thế kỷ XX, chủ yếu của nhà nho. Sự mở rộng
nghiên cứu tiếp xúc văn hóa Đông-Tây, cái nhìn người khác của người Việt hiện
vẫn còn hạn chế vì chưa chú ý đến mảng sáng tác du ký. Trong chuyên mục này,
chúng tôi sẽ dựa vào văn du ký để phác họa tinh thần hiện đại hóa trong cách nhìn
người khác như một phương thức tự nhận thức để phát triển.
3.1.1. Cái nhìn đối với người Pháp và văn hóa Pháp
Có nhiều mức độ tiếp xúc văn hóa khác nhau. Mức độ giản đơn nhất là tiếp
xúc bề ngoài. Khi người Phương Tây, trong đó có người Pháp, đến Phương Đông,
người Việt Nam chỉ nhìn họ ở những gì trực quan bề ngoài quan sát được. Trong bài
thơ Dương phụ hành, Cao Bá Quát chỉ mới ngạc nhiên khi nhìn thấy người phụ nữ
Tây dương mặc bộ đồ trắng như tuyết (người Việt xưa quan niệm áo trắng là đồ
tang), ngồi nũng nịu trong lòng một người đàn ông (người Việt có quan niệm nam
nữ thụ thụ bất thân). Đó chỉ là những quan sát bên ngoài, còn Cao Bá Quát chưa
hiểu được bề sâu văn hóa của các hành vi đó. Chúng ta chỉ thấy người Phương Tây
ăn bánh mỳ, uống rượu vang (rượu lạt), không thờ cúng tổ tiên mà chưa hiểu cơ
tầng văn hóa ẩn dưới các hành vi. Tương tự như vậy, người Việt ở thế kỷ XIX có
thể mô phỏng một khẩu súng của người Tây, mô phỏng một con tàu của họ nhưng
chúng không thể sử dụng được. Khi đó chúng ta không hiểu được công nghệ luyện
kim của Phương Tây có khả năng tạo ra những hợp kim có sức chịu nhiệt, chịu ma
sát, các nguyên lý khí động học quyết định độ chính xác của viên đạn ra khỏi nòng,
những điều mà người thợ rèn Việt Nam không thể làm nổi.
Mức độ tiếp xúc sâu hơn là ta biết ngôn ngữ, của Phương Tây, đọc sách vở
của họ, có khả năng giao tiếp với người Phương Tây. Những người này như Nguyễn
Trường Tộ, Trương Vĩnh Ký đã hiểu được những lý do sâu xa khiến cho Phương Tây
có sức mạnh và cần phải hiện đại hóa, học hỏi Phương Tây để tiến bộ. Không phải
ngẫu nhiên, Phúc Trạch Dụ Cát chủ trương người Nhật phải bỏ Nho học mà học toán
70
và vật lý, hai môn học tạo nên sức mạnh khoa học công nghệ của Phương Tây.
Mức độ cao nhất là vừa hiểu biết tiếng nói, ngôn ngữ, đọc sách báo để hiểu
tư tưởng và văn hóa, vừa trực tiếp sống trong bầu không khí văn hóa xã hội của
Phương Tây. Chuyến đi Pháp của Phạm Quỳnh là một minh chứng rõ ràng cho sự
hiểu biết sâu, tổng hợp các mức độ quan sát, đọc hiểu và nhận thức khác nhau.
Chúng ta có thể so sánh nội dung và mức độ tiếp xúc văn hóa Đông-Tây, sự
nhận thức về người khác của người Việt qua Tây hành nhật ký của Phạm Phú Thứ
và Thuật chuyện du lịch ở Paris cùng Pháp du hành trình nhật ký của Phạm Quỳnh.
Từ đó có thể suy ngẫm về tiến trình hiện đại hóa tư tưởng của người Việt.
Mục đích, tư cách và sứ mệnh đi Tây và thời đại của hai người không giống
nhau. Phạm Phú Thứ (1821-1882), năm 1863, sung chức phó chánh sứ đi sang Pháp
với nhiệm vụ được giao là chuộc lại ba tỉnh miền đông Nam Kỳ. Sứ đoàn có
Trương Vĩnh Ký phiên dịch, Phạm Phú Thứ là nhà nho. Chuyến đi dùng kinh phí
của triều đình Tự Đức. Công vụ nặng nề luôn phân tâm tác giả Tây hành nhật ký,
thậm chí về phương diện nào đó, rất khó xem đây là văn du ký thuần túy vì hàng
ngày, ông phải ghi chép tường tận nhất cử nhất động của phái đoàn để khi về nước,
báo cáo triều đình. Mọi cảm xúc phải nén lại, gạt bỏ. Tháng 2 năm 1864 sứ bộ về
đến Huế, ông có bản tường trình thuyết phục Tự Đức cải cách việc học và phát triển
công nghiệp. Nhưng đây là giai đoạn triều đình Tự Đức bàn thảo nhiều việc cần
canh tân nhưng trù trừ, rốt cuộc không dám thông qua quyết sách mở cửa Âu hóa.
Nguyễn Trường Tộ, một trí thức công giáo có hiểu biết tình hình thế giới và có tâm
huyết với tiền đồ đất nước đã liên tục gửi điều trần từ 1861 đến 1871 song đều bị
khước từ. Trong bối cảnh đó, những quan sát của Phạm Phú Thứ tuy có nhiều tiến
bộ hơn hẳn các nhà nho cùng thời, song vẫn có những điểm hạn chế cố hữu của tư
tưởng Nho giáo. Ở các nước Đông Á đến cuối thế kỷ XIX đều xuất hiện khẩu hiệu
thể hiện chủ trương dung hợp văn minh Đông Tây (Nhật Bản: Hòa hồn, Dương tài;
Trung Quốc: Trung thể Tây dụng; Triều Tiên: Đông đạo Tây khí). Nhưng riêng ở
Việt Nam, không có khẩu hiệu này, điều đó chứng tỏ người Việt bảo thủ hơn.
Phạm Quỳnh đi sang Tây năm 1922, sau Phạm Phú Thứ hơn nửa thế kỷ, với
tư cách đại diện cho Hội Khai trí tiến đức sang dự đấu xảo (hội chợ triển lãm) thuộc
71
địa. Mục đích chuyến đi khá thoải mái, không ràng buộc đối với việc viết văn du ký.
Ông tốt nghiệp trường thông ngôn, thông thạo Pháp văn, hiểu biết văn hóa Pháp, có
thể đăng đàn diễn thuyết bằng tiếng Pháp trước các cử tọa gồm chính khách và giới
nghiên cứu hàn lâm. Bối cảnh lịch sử khi đó đã rất khác thời Phạm Phú Thứ. Tiếng
súng khởi nghĩa vũ trang chống Pháp của Hoàng Hoa Thám trên vùng Yên Thế đã
tắt lặng từ lâu. Thực dân Pháp đang tiến hành khai thác thuộc địa ráo riết.
Giáo sư Trần Văn Giàu từng nhận xét: “Những tổ chức cách mạng yêu nước
không hề đặt vấn đề điều hoà văn hoá Ðông phương và Tây phương, chỉ nghĩ rằng
đi vào văn hoá là xa rời yêu nước” [44, 529]. Theo nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn,
ý của Trần Văn Giàu là đưa ra một lời khen ngợi nhưng mặt khác, đây lại là lời cắt
nghĩa đúng đắn về sự thất bại của những người yêu nước hồi thế kỷ XIX.
Những khám phá văn hóa Pháp nhìn từ góc nhìn của một người Phương
Đông vốn theo đạo Nho bắt đầu từ những ấn tượng mạnh về sự khác. Phạm Phú
Thứ ngạc nhiên trước cách đối xử đầy bình đẳng của người Tây với phụ nữ: nam nữ
ngồi ăn chung bàn, giấy mời khách đến dự tiệc có đứng tên cả hai vợ chồng là sự
thể hiện trọng thị với khách [214,111]. Cấm hút thuốc ở nhà hát vì phụ nữ không ưa,
còn ở nhà thì người chồng hút thuốc ở một nơi riêng biệt. Điều này thì Philiphê
Bỉnh cũng đã quan sát thấy trước đó ngót thế kỷ. Một cú sốc văn hóa có lẽ là việc
nhà nho Phạm Phú Thứ chứng kiến những bức tranh, tượng khỏa thân khi đi thăm
bảo tàng: “Nhiều bức họa thân hình người phần đông lõa thể, nhưng không ai cho là
bậy bạ, thô tục cả; đắp tượng cũng vậy, phần nhiều là lõa thể hết. Thần đẳng có hỏi
về vấn đề này, họ trả lời: “khi vẽ hay đắp tượng, nếu chỉ làm diện mạo không thôi,
còn phần dưới vẫn có quần áo che, thì chưa được là khéo!” [214, 118].
Cũng làm ông ngạc nhiên là người Tây uống trà có đường. Ông để ý các nhà
có thu lôi hút sét đánh, mọi nhà đều có ống dẫn khí đốt và dẫn nước đến tận nơi.
Ngoài đường xá, ngày nào cũng quét dọn đường, cứ cách nhau vài trượng lại có cột
đèn, đêm đến đèn đốt bằng hơi sáng rực. Thành phố nào cũng có công viên trồng
hoa, có giàn phun nước. Một đô thị văn minh mà người Việt khi đó không thể hình
dung nếu cứ ngồi ở nhà. Về tổ chức chính trị, người Pháp có nghị viện, nơi hàng
năm các nghị sĩ họp bàn về các chính sách của quốc trưởng như về các loại thuế.
72
Bảo vệ sức khỏe nhân dân có các bệnh viện. Đối với người đã khuất, xã hội Pháp có
nghĩa trang được quét dọn thường xuyên, trong nghĩa trang có đường đi, hai bên
đường trồng cây. Người Pháp có lập vườn bách thảo, bách thú. Các nhà hát (hý
trường) thường xuyên có trình diễn, người xem vỗ tay…Người Pháp cũng đưa sứ
đoàn của ông tham quan khoảng hai mươi xưởng máy về các kỹ nghệ sản xuất vũ
khí, đóng tàu biển, luyện kim,…Những quan sát thực tế đó được ông ghi chép kỹ
càng, vì chúng gây cho ông ấn tượng mạnh: ở đất nước ông, không có các quan
niệm và hoạt động tương tự.
Hơn nửa thế kỷ sau, Phạm Quỳnh có cái nhìn mới hơn về người Pháp và
văn hóa Pháp. Nhiều điều Phạm Phú Thứ ngạc nhiên, có ấn tượng mạnh đối với
thế hệ Phạm Quỳnh đã trở nên quen thuộc, bình thường, ví dụ việc uống chè có
đường, những biểu hiện văn hóa tôn trọng phụ nữ, đô thị có công viên, vườn hoa,
có nhà hát, có bệnh viện…, có lẽ vì những cảnh tượng ấy giờ đây không cần phải
sang đến tận nước Pháp mới thấy được. Và các quan sát của Phạm Quỳnh tỏ ra có
chiều sâu văn hóa hơn. Trên đường đi sang Pháp, qua các thuộc địa của Anh và
Pháp, ông đã chú ý so sánh hai kiểu thuộc địa này. Sau khi đi qua các cửa bể của
người Anh như Singapore, Penang, Colombo, mọi người trong đoàn đều muốn lên
xem một cửa bể của Pháp: “Đem Djibouti mà so sánh với Colombo, với Penang,
với Singapore, thì không bằng thật. Nhưng phải biết rằng ba cửa bể của người Anh
đó thành lập đã lâu, lại ở vào những nơi đất tốt, người đông, của nhiều, cho nên dễ
phát đạt lên to” [33, 373].
Và ông biện luận bằng điều kiện khí hậu nóng bức ở Djibouti không thuận
lợi so với các hải cảng kia. Tuy nhiên, bản thân sự so sánh đã ngầm nói lên sự khác
biệt giữa người Anh và người Pháp trong cách khai thác thuộc địa. Không phải ngẫu
nhiên mà ngày nay, nhiều người cũng nhận xét các thuộc địa cũ của Anh phát triển
về kinh tế hơn các thuộc địa Pháp.
Điều khiến cho thế hệ Phạm Quỳnh khác với thế hệ Phạm Phú Thứ trong khi
tiếp xúc với người Pháp là Phạm Quỳnh biết tiếng Pháp, đã đọc nhiều tài liệu hướng
dẫn nhiều mặt về nước Pháp nên ông biết trước khá nhiều điều và chuyến đi Pháp
chỉ có tính chất kiểm nghiệm, xác nhận lại những gì ông đã biết qua sách vở. Đi là
73
để xem người, biết người “Mình sang đây là để xem người, không phải để cho
người xem mình” [33, 427]. Ông quan niệm đi Pháp để biết “chân tướng” nước
Pháp, vì thế “nên ra sức dò xét xem cái chân tướng ấy thế nào” [31, 314].
Trong thời gian du lịch Paris, Phạm Quỳnh đã được dự họp Hội đồng của
Nghị viện Pháp nghe Thủ tướng Poincaré diễn thuyết. Sau bài diễn văn kéo dài ba
giờ, các nghị viên cánh tả, cánh hữu lao xao tranh luận. Từ đó ông suy nghĩ về đảng
phái “Đã có nghị viện phải có chính đảng, đã có chính đảng tất phải có cạnh tranh,
có cạnh tranh mới hoạt động; cái phép tiến hóa của các dân tộc như thế. Dân tộc
mình còn chưa tới trình độ đó, ta nên đáng mừng hay là đáng tiếc? Điều đó xin chất
vấn ở quốc dân” [31, 340]. Một câu hỏi bỏ lửng, song thực ra nếu xem kỹ cách kể
chuyện thì Phạm Quỳnh có vẻ nghiêng về cạnh tranh giữa các đảng. Chẳng hạn ông
thuật chuyện ông vào dự tranh luận ở Thượng nghị viện Pháp, các vị bên đảng cánh
tả công kích cảnh hữu hay công kích chính phủ, ông lý giải dù nặng lời công kích
nhau nhưng “cũng là vì lòng nhiệt thành về việc công cả, cho nên lòng công phẫn
ấy dẫu quá đáng cũng khả nguyên” [31, 342]. Như vậy, Phạm Quỳnh đã chạm đến
và hiểu được hệ thống chính trị hiện đại của Phương Tây qua thực tiễn hoạt động cả
ở Hạ viện và Thượng viện Pháp.
Các hoạt động diễn thuyết ở nước Pháp đặc biệt lôi cuốn sự chú ý của Phạm
Quỳnh. Thông thạo tiếng Pháp, ông hiểu được nội dung diễn thuyết và cách trình
bày tư tưởng của người Pháp. Mọi đề tài ở Pháp đều đưa ra bàn luận. Ông kể cuộc
tranh luận về cải cách trung học, nên theo hẳn về tân học hay nên giữ lấy phần cổ
họ La Mã Hy Lạp, có hai đảng phản đối nhau: đảng tiến bộ thì theo về tân học, đảng
bảo thủ thì muốn giữ cổ học. Ông kết luận “Ở một xứ tự do có khác, bất cứ việc gì
cũng có thể đem ra công chúng mà nghị luận được. Kẻ nói đi người nói lại, quốc
dân đứng giữa mà phán đoán, chính phủ ở trên mà chiết trung, tưởng còn hơn là cái
chính sách “bịt bung”, rút lại chẳng có lợi cho ai hết”. Ông so sánh với Việt Nam:
“Song cho được đủ tư cách nghị luận hay phán đoán, cái trình độ văn minh cũng
phải kha khá mới được, nếu còn thấp kém lắm thì dẫu được quyền bàn cũng chẳng
biết bàn gì, được quyền nói cũng chẳng biết nói sao” [33, 546]. Phạm Quỳnh đã cụ
74
thể hóa rõ hơn tư tưởng khai dân trí của nhà nho yêu nước đầu thế kỷ.
Tự do tư tưởng không chỉ biểu hiện qua tự do ngôn luận mà còn dưới những
hình thức khác nữa. Đến thăm nhà thờ Basilique du Sacré Coeur (Nhà thờ Quả tim
thánh), khởi công từ 1875 đến mãi 1921 mới xong, Phạm Quỳnh bắt gặp cạnh nhà
thờ có bức tượng đồng, hình một người võ sĩ chịu tội, hỏi ra mới biết đó là tượng võ
sĩ De La Larre năm 1766 bị Giáo hội xử tội ở thành Abbeville vì đi trước một đám
rước đạo mà không ngả mũ chào. Một phái dân sở tại không tin sự lễ bái đã quyên
tiền dựng tượng ngay cạnh nhà thờ tỏ ý phản đối việc lập nhà thờ, cho thiên hạ biết
cái thói chuyên chế độc ác của giáo hội vẫn hay bách hại những ai không tin đạo
mình. Phạm Quỳnh bình luận “Ở nước tự do có khác, tư tưởng gì cũng có cách biểu
lộ ra được” [33, 558]. Đây có lẽ cũng là một tiếng thở dài kín đáo về sự khủng bố
bức hại, cấm đoán tư tưởng mà người Pháp thực hiện ở Việt Nam.
Về trình độ và nghệ thuật diễn thuyết, ông cũng rất quan tâm: “Nghe người
ta diễn thuyết mà hồi tưởng đến người mình, không những nghề diễn thuyết chưa
biết, mà đến nói câu chuyện cho đầu đuôi manh mối, cũng ít nói được. Chưa từng
thấy ai nói cái gì chỗ đông người mà nói luôn được trong mười phút, không vấp váp.
Khi hội đồng thời chẳng khác gì như họp việc làng, tranh nhau mà nói, ồn ào lộn
xộn, mà ít ai nói được câu gì có nghĩa lý, chỉ bẻ hành bẻ tỏi nhau những cái vặt vặt
chẳng đâu đâu” [33, 394-395]. Đúng như có nhà nghiên cứu đã diễn đạt, cuộc tiếp
xúc Đông-Tây đưa đến tình huống ta nhìn người, ta nhìn ta. Cảm hứng tự nhận thức,
tự phê phán được khơi gợi từ việc quan sát đối chiếu, so sánh ta với người chính là
một đặc trưng của tinh thần hiện đại chưa từng có trong thời trung đại. Cảm hứng
này đã manh nha từ chuyên mục Xét tật mình trên Đông Dương tạp chí của Nguyễn
Văn Vĩnh, cũng phải do sự quan sát so sánh với văn hóa Phương Tây.
Phạm Quỳnh ấn tượng sâu sắc về hệ thống nhà bảo tàng của Pháp, coi đây là
một khía cạnh đặc biệt của giáo dục Phương Tây. Ông quan tâm đến bảo tàng mỹ
thuật Le Louvre ở Paris, mua sách đọc để tìm hiểu sâu quan niệm thẩm mỹ của
người châu Âu. Từ đó, rút ra được những bài thu hoạch rất quan trọng khi so sánh
mỹ thuật Phương Tây và Phương Đông trước khi đi thăm bảo tàng. “Theo cái lý
tưởng về mỹ thuật đó thì phàm sự vật gì trong trời đất, bất cứ sang hèn, đều có ngụ
75
một cái vẻ đẹp cả; nhà mỹ thuật là người biết cảm kích cái vẻ đẹp ngầm đó mà có
tài phô diễn được nó ra, trong khi phô diễn ấy không những là phát biểu được cái
tinh túy của sự vật mà lại phát tiết được cái tinh anh của mình nữa. Cái lý tưởng về
mỹ thuật của Á Đông ta có khác, nhất là về nghề họa. Nhà họa Tàu hay nhà họa
Nhật không chủ phô diễn cái đẹp ngầm ở trong sự vật, nhưng cốt là tả một cái thái
độ của thần trí người ta đối với cảnh vũ trụ bao la. Mỹ thuật ấy có một cái vị triết lý,
một cái vẻ siêu hình, cho nên không châu tuần ở trong vòng sự vật mà muốn siêu
thoát ra ngoài cõi thanh không…Đó là một vấn đề người An Nam mình cần phải
nghiên cứu, vì có quan hệ to cho sự tiến hóa về đường tinh thần của dân tộc ta” [33,
502]. Có những “thu hoạch” rất có giá trị đối với Phạm Quỳnh khi đi thăm các Viện
bản tàng của Paris như Viện Le Louvre, Viện Luxembourg và Viện Petit Palais:
“Người Tây cho người là trung tâm của vũ trụ, không những có sức thắng đoạt được
cả vũ trụ, mà lại có tài hình dung được hết vũ trụ. Cho nên phàm tưởng tượng cái gì
cũng ra hình người cả. Tự do, Công lý, Lý tưởng, Ái tình, phàm những cái tư tưởng
siêu hình ở trong trí người ta nghĩ ra, đều tượng ra hình người cả mà phần nhiều ra
hình người đàn bà cả…Người Tây lại yêu sự thực, mến sự thực, ham sự thực, mê sự
thực, cho phàm sự thực là có mỹ thuật hết cả, nhà mỹ thuật có tài là biết tả chân một
cái phương diện trong sự vật một cách thâm thiết trước minh thế nào cho phát biểu
được cái ý nghĩa sâu xa” [31, 347-348]. Ở đây Phạm Quỳnh đã nói trúng hai đặc
điểm lớn của văn hóa nghệ thuật Phương Tây khi đó đang ảnh hưởng đến văn học
Việt Nam: hình tượng con người là trung tâm trong nghệ thuật và vấn đề tả chân.
Nói như vậy thôi chứ có lúc Phạm Quỳnh cũng phải thừa nhận sự hạn chế về
khả năng hiểu được nghệ thuật Phương Tây: “Có khi tưởng rằng hiểu, mà xét kỹ ra
thật chưa hiểu. Vì không có cảm giác. Lại có khi miễn cưỡng muốn cảm cho được,
nhưng cái cảm đó không cho là thành thực được. Cho nên mỗi lần thấy có người
nhìn bức tranh Tây khen là đẹp, nghe bài đàn Tây khen là hay, mình vẫn tự hỏi
không biết nghe lời khen ấy có quả là thành thực không? Đông Tây tuy vậy vẫn còn
xa cách nhau lắm” [33, 554].
Quan sát văn hóa nước khác mà thâm nhập sâu vào phần văn hóa tinh thần
uyên áo như hội họa, điêu khắc là đạt đến mức độ hiểu biết sâu sắc “người khác”,
sự hiểu biết này như Phạm Quỳnh nói, có quan hệ đến sự tiến hóa về tinh thần của
76
dân tộc.
Phạm Quỳnh kể lại nội dung một buổi diễn thuyết về nước Nga và về nữ
quyền. Diễn giả là một nữ bác sĩ đã đi du lịch ở Nga thuật lại phong trào cách mạng
và “chủ nghĩa quá khích” ở nước Nga. “Ta thường đọc sách báo chỉ thấy công kích
cái phong trào quá khích nước Nga, cũng nên nghe có người tán dương cổ đãng cái
phong trào ấy, mới có thể chiết trung mà phán đoán cho đúng được” [33, 398].
Thực tế diễn thuyết cho thấy cái lợi ích của tự do tư tưởng, các quan điểm đối lập
nhau đều được xã hội Pháp tạo điều kiện bộc lộ. Phạm Quỳnh cũng kể lại nội dung
diễn thuyết của nữ diễn giả này về quyền được trụy thai (kế hoạch hóa nói như
chúng ta ngày nay). Diễn giả nói đến sự bất công giữa nam và nữ, lên án thói duy
kỷ của đàn ông chỉ biết sung sướng bản thân, còn người phụ nữ gánh chịu hậu quả,
nếu bị lừa đảo phải nuôi con một bề, vì vậy cần cho phụ nữ quyền được trụy thai,
trụy thai không phải là hại mạng người, không cho là tội giết người được. Phạm
Quỳnh không chia sẻ quan điểm này nhưng ông bộc lộ cũng có mức độ “Mình nghe
mấy câu ấy cũng hơi thấy sửng sốt trong người: có lẽ là cái óc mình hãy còn trần hủ
mà chưa biết cảm những cái lý tưởng tối tân ấy chăng? Xét những người nghe
chung quanh mình, ai cũng điềm nhiên cả, tựa hồ như cho là một sự tự nhiên vậy”
[33, 399]. Dẫu sao ông cũng là con người ít nhiều lớn lên trong không gian văn hóa
nam quyền. Qua những ghi chép của Phạm Quỳnh ta có thể mường tượng những tư
tưởng nữ quyền đã xuất hiện rất sớm ở Phương Tây mà đến cuối thế kỷ XX thì
người Việt mới có thể tiếp nhận.
Điều quan trọng là chính Phạm Quỳnh đã sử dụng phương pháp trình bày tư
tưởng bằng hình thức diễn thuyết. Ông kể là đã diễn thuyết ở Paris trong chuyến đi
năm 1922 cả thảy 5 lần ở trường dạy tiếng Đông phương, ở trường Thuộc địa, nơi
dạy những người sang cai trị các xứ thuộc địa, ở Hội Đông phương Ái hữu, ở Hội
Địa dư học Paris, ở Viện Hàn lâm. Diễn thuyết tại Viện Hàn lâm, nói về chính sách
giáo dục, về việc học Pháp văn và quốc văn, ông ngầm phản đối chính sách đồng
hóa văn hóa của Pháp ở Việt Nam: “Nếu dân Việt Nam là một dân mới có, chưa có
nền nếp, chưa có lịch sử gì, thì quý quốc cứ việc hóa theo tây cả, dạy cho học chữ
tây hết cả, đồng hóa được đến đâu hay đến đó. Nhưng ngặt thay, dân Việt Nam
77
không phải là một tờ giấy trắng muốn vẽ gì vào cũng được; tức là một tập giấy đã
có chữ sẵn từ đời nào đến giờ rồi, nếu bây giờ viết đè một thứ chữ mới nữa lên trên,
thì e thành giấy lộn mất” [31, 360]. Ông cho hay, những ý kiến nói ở Hội Hàn lâm
toàn là những ý kiến ông đã từng bàn luận trong Nam phong rồi, nay có cơ hội trình
bày cho các danh sĩ Pháp.
Vì giỏi tiếng Pháp nên Phạm Quỳnh còn thường xuyên mua vé đến nhà hát
xem diễn kịch. Một bữa nọ, Phạm Quỳnh đi xem diễn bi kịch Một đêm ở Luân Đôn,
ông nhận xét “Diễn khéo quá, tài quá, dáng bộ cảnh bày hiển nhiên như thực, khiến
cho người xem rùng mình sởn tóc, lay chuyển cả quả tim, cảm kích đến phải chảy
nước mắt…Xét ra văn diễn kịch phải là văn cứng cát lắm mới được; văn quốc ngữ
ta bây giờ còn non nớt, dùng vào diễn kịch không khỏi khuyết điểm. Vậy nếu bây
giờ có một lối kịch như lối kịch bằng cảnh đó, lấy cảnh mà giúp sức cho lời văn,
thời hợp với trình độ của ta lắm. Vả lại lối này là đoản kịch, chỉ một vài hồi mà thôi,
và diễn không đầy một giờ đồng hồ, tưởng bắt chước cũng không khó” [33, 543].
Xem kịch của người, ông nghĩ đến xây dựng kịch hiện đại của nước mình.
Khi tiếp xúc với dân Pháp bên chính quốc, Phạm Quỳnh nhận thấy người
Pháp ở bên Pháp lịch thiệp: “Cứ xem người Pháp ở bên Pháp này, đối với người ta
sang đây, tuyệt nhiên không có lòng sai kỵ, không có ý cách biệt gì cả, nên mối cảm
tình dễ bén và dễ thân vậy” [33, 517]. Đến viếng quê Bá Đa Lộc, khi đoàn xe lửa có
đoàn của Phạm Quỳnh ngồi đã chạy mà trên sân ga, vẫn có người Pháp phất khăn
vẫy lưu luyến. Ông bày tỏ mong muốn “nói về sự giao tế thường, muốn có cảm tình,
tất phải bình đẳng; không có bình đẳng thời tình người dưới đối với người trên
không ngoài sự sợ, tình người trên đối với người dưới không ngoài sự thương;
thương với sợ, ngoài tình cốt nhục trong gia đình, không đủ gây nên sự cảm tình
đích đáng” [33, 516]. Sau khi dự cuộc tiếp tân của một vị phu nhân người Pháp,
Phạm Quỳnh nhận xét “Nghĩ bụng rằng nếu nước Pháp được những người nhã nhặn
như phu nhân cả, và nếu người Pháp ở bên ta cũng được như phu nhân hết, thì ta
không thể không đem lòng yêu mến vậy” [33, 574]. Trong bài Thuật chuyện du lịch
ở Paris, Phạm Quỳnh cũng có nhận xét tưởng như vô tình: “Lính cảnh sát ở Paris có
78
quyền mà lại có phép, đối với người đi đường bao giờ cũng lễ phép và ai hỏi han
điều gì sẵn lòng chỉ bảo đến nơi đến chốn, không có như nhiều các bác phú lít tây ở
bên ta coi người đi đường như cỏ rác cả” [31, 324]. Đó là sự ngầm so sánh và phê
phán kín đáo người Pháp bên thuộc địa. Tại sao vẫn là người Pháp nhưng ở chính
quốc thì họ văn hóa, văn minh mà ở thuộc địa thì độc ác, bất nhân, hống hách? Ông
chưa phân tích sâu (né tránh?) song các nhận xét như thế rất có ý nghĩa. Vẫn biết
rằng sự mong mỏi đó chỉ là ảo tưởng, cũng như việc cổ động Pháp-Việt đề huề cũng
chỉ là ảo tưởng, song chuyến đi và các cuộc tiếp xúc văn hóa đã giúp ông hiểu sâu
nhân dân Pháp, nền văn hóa Pháp, phân biệt với bọn người Pháp đi xâm lược, hà
hiếp áp bức người dân các xứ thuộc địa. Đó cũng có thể xem là một loại nhận thức
hiện đại, không vơ đũa cả nắm.
Phạm Quỳnh nhận thấy xã hội Pháp cũng không đơn giản chỉ toàn là những
con người văn hóa, lịch thiệp. Khu cổ nhất của Marseille: “bây giờ có tiếng là chỗ
chơi bời hỗn tạp lắm, bao nhiêu những trai côn gái điếm thường hay tụ họp ở đấy,
tối đến không nên vào” [33, 389], và Paris có xóm Mông Mạc nơi nhiều “chị em”,
những người giống như các chị em bên ta, không làm việc ban ngày mà chỉ bắt đầu
từ tám, chín giờ tối [33, 555]. Và người Pháp, văn hóa Pháp cũng có mặt trái của nó:
tật uống rượu “một thành phố Marseille, không biết mấy nghìn nhà bán rượu, gọi là
bars, thường thường không có chỗ ngồi, khách qua đường vào mua cốc rượu đứng
tợp một hơi rồi ra; ấy là không kể những nhà cà phê lớn, có bàn ghế hẳn hoi, cho
khách lịch sự ngồi, vừa hút thuốc vừa đọc báo, vừa nhắp cốc rượu hay cốc nước để
tiêu khiển, quanh mình lại những ả mày ngài ngồi chờ “mệnh lệnh”, hạng cà phê đó
cũng đến mấy trăm sở” [33, 404]. Đây là cái nhìn khách quan, trọng sự thực của nhà
du ký, không lóa mắt trước văn minh Phương Tây mà bình tĩnh quan sát, ghi nhận
thực tế.
Trong một cuộc tiếp xúc với người Pháp và người các xứ khác đến đất Pháp,
Phạm Quỳnh nhân nói về thi ca Việt Nam đã đề cập đến phong tục ăn trầu của
người Việt, tạo nên hứng thú, quan tâm cho mọi người. Ông kết luận “cho nên
thuộc về phong tục tập quán của nước nhà, ta cũng chớ nên nhẹ dạ mà vội đem lòng
rẻ rúng‟ [33, 574]. Ý thức về nền văn hóa dân tộc ở đây nhất quán với tinh thần bảo
79
tồn quốc túy trên tạp chí Nam phong do Phạm Quỳnh chủ trương.
Nhìn chung, với các thiên du ký Thuật chuyện du lịch ở Paris và Pháp du
hành trình nhật ký, Phạm Quỳnh đã cho thấy cái mới của thế hệ trí thức Tây học
trong bối cảnh đầu thế kỷ XX thể hiện qua cái nhìn người khác, nền văn hóa khác
trên rất nhiều phương diện, có chiều sâu tư tưởng và nhận thức, theo hướng hiện đại
hóa. Phạm Quỳnh không chỉ chú ý đến những nét văn hóa của Pháp cần và đáng
học tập để đất nước mình phát triển mà còn biết đề cao một số nét đặc trưng của văn
hóa Việt Nam, biết nhìn ra những mặt trái của người Pháp.
Tất nhiên, ý thức so sánh văn hóa Pháp -Việt Nam nảy nở không cứ phải khi
đi sang đất Pháp. Ngay trên đất nước mình, nếu một người có tầm nhìn, tầm suy
nghĩ cũng có thể rút ra được những nhận xét cần thiết. Chẳng hạn, khi ngồi tàu hỏa
đi qua một đường hầm xuyên núi đá, Nhật Nham đã thốt lên: “Đục núi đá vừa đủ
chỗ cho xe lửa chui qua, công cuộc khai sơn phá thạch của người Pháp thực là một
công trình vĩ đại. Người Pháp đi đến đâu, trước hết nghĩ đến việc mở các đường
giao thông là những con đường huyết mạch, ảnh hưởng đến nền kinh tế trong xứ.
Dù gặp trở lực đến đâu, họ cũng không từ” [126, số 62]. Cũng trong chuyến đi liên
vận từ Hà Nội lên hồ Ba Bể, ông phải khen ngợi năng lực tổ chức của người Pháp
hơn hẳn người Việt: “Cùng một nghề vận tải bằng xe hơi, cũng qua miền sơn cước
như nhau, có khác chỉ khác người giám đốc, thế mà cách tổ chức của người Pháp
trên đường Bắc Cạn có thứ tự, có tín nhiệm, làm hài lòng hành khách mà mỗi ngày
càng thêm phát đạt mở mang. Trái lại, người mình phần nhiều chỉ vì lòng tham mà
không nghĩ gì đến việc tổ chức để bổ khuyết cho những cái cần thiết cho sự tiến bộ
của nghề mình. Trông người lại ngẫm đến ta, bao giờ cho theo kịp bằng người”
[126, s. 74]. Cảm hứng nhìn ta, nhìn người thấm đậm trong du ký thời này, phản
ánh nhu cầu thay đổi, nhu cầu xây dựng bản sắc mới của văn hóa dân tộc, phù hợp
với xu thế phát triển.
3.1.2. Cái nhìn về người Hoa
Trong văn du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, hình ảnh người Hoa cũng
gợi cho chúng ta những vấn đề nhận thức về các dân tộc khác của người Việt
trong giai đoạn hiện đại hóa. Nếu như thời trung đại, người Việt tự hào vì văn hóa
80
không thua kém Trung Quốc thì nay, người Việt nhìn người Hoa trong bối cảnh so
sánh văn hóa Đông-Tây, trong tâm thế tự thay đổi để phát triển, tâm thế cạnh tranh
sinh tồn, bảo chủng, chấn hưng dân khí, khai dân trí. Đây là một điểm khác biệt cơ
bản giữa văn du ký nửa đầu thế kỷ XX và du ký văn xuôi chữ Hán trung đại. So
với các thể loại văn học nửa đầu thế kỷ XX, nội dung này được chuyển tải rõ rệt
hơn cả trong văn du ký. Vì thế, chúng tôi quan niệm đây cũng là một nội dung của
hiện đại hóa văn hóa ở đầu thế kỷ XX mà văn du ký có đóng góp. Mảng nội dung
này còn có tính thời sự nóng hổi mà bất cứ người dân Việt Nam nào ngày nay
cũng cảm nhận được.
Người Hoa di cư sang Việt Nam và Đông Nam Á tuy không dưới hình thức
xâm lược, chiếm đất đai, khai thác tài nguyên như các nước thực dân Phương Tây,
nhưng cách sống, cách tổ chức, làm ăn của họ, sự thành công của họ tại các nước
mà họ đến định cư cũng mang tính thực dân rất đặc biệt mà ít người nhận ra. Trong
Pháp du hành trình nhật ký, Phạm Quỳnh cũng đã chú ý đến lối thực dân đặc biệt
của người Hoa ở Đông Nam Á. Trên đường sang Pháp, tàu chở đoàn Phạm Quỳnh
rẽ vào Singapore, ông đã có nhận xét ban đầu về người Hoa: “Vào đến trong phố
thời nghiễm nhiên là nơi đô hội của người Tàu, chẳng kém gì thành phố Chợ Lớn,
phố xá đông đúc, san sát những hiệu Khách cả; có mấy dẫy phố toàn những nhà tửu
lâu khách sạn, ngày đêm tấp nập những khách ăn chơi, người đi lại. Đặt để công
việc gì cũng là người khách làm cả, từ bán cháo rong cho đến làm chủ hiệu, tựa hồ
như người Anh mở mang đất này riêng cho người Tàu đến kinh lý, còn thổ dân là
giống Mã Lai thời bị khu trục ra ngoài cái sinh hoạt giới tuyến vậy. Coi đó cũng đủ
biết cái nghị lực của người Tàu, kể không kém gì người Anh vậy. Người Anh có cái
tài sáng tạo kinh doanh, người Tàu có cái sức thừa hành lao động, người Anh là cái
óc sắp đặt, người Tàu là cái tay làm lụng, hễ đâu có hai giống người ấy tất là nơi
sinh hoạt phồn thịnh” [33, 358]. Đến Pinang, ông lại cũng chỉ thấy phố xá, nhà cửa
của người Anh và người Tàu: “Nói tóm lại, người Tàu ở đây có cái vẻ phong phú,
khác các nơi đô hội Tàu khác, là không ồn ào nhộn nhịp, mà bình tĩnh êm đềm, ra
cái phong vị các nhà phú ông điền chủ nước Anh”. Phạm Quỳnh còn thăm chùa Cực
lạc của người Hoa ở Pinang: “Người khách dời bỏ nước nhà mà đến lập nghiệp ở
81
đây, may làm nên giàu có, không có quên tổ quốc, muốn gây nên một nơi cảnh trí
phảng phất cái phong vị nước nhà để làm chỗ du ngoạn cho di dưỡng tính tình. Vào
đến cảnh chùa này không thể không cảm phục cái nghị lực khác thường của người
Tàu, đi đến đâu cũng gây nên sự nghiệp cơ đồ lớn, nghiễm nhiên làm chủ nhân ông
trong đất nước người ta” [33, 362]. Chỉ có đến thành phố Colombo thì mới không
nhận thấy một hiệu Khách nào mà chỉ có người Chà (tức Ấn Độ). Phạm Quỳnh
nhận ra hai giống người này thay nhau đóng vai trò thực dân “Trong thế giới chỉ có
hai giống người có cái sức sinh hoạt mạnh ngang nhau, là giống Chi Na non bốn
trăm triệu và giống Ấn Độ ngoại ba trăm triệu người. Hai giống người ấy không đủ
sinh hoạt ở đất nước mình, thường phải di cư ra ngoài, làm các nghề nghiệp, bất cứ
sang hèn, nghề gì kiếm ăn được thì thôi, dù kéo xe cũng được, cho nên những xứ
nào người thổ dân lười biếng hay nhu nhược, không đủ giữ được lợi quyền, tất thảy
người Chà người Chiệc đến lập nghiệp nhiều lắm. Ở Singapore và Penang thời hai
giống ấy chia nhau mà ăn hại người thổ dân là người Mã Lai” [33, 366]. Không chỉ
các nước thực dân Phương Tây đến đô hộ, khai thác, cướp bóc tài nguyên mà còn cả
người Chiệc (người Tàu), người Chà (Ấn Độ) tranh giành lợi ích với dân bản xứ ở
châu Á. Đó là những nhận xét khiến chúng ta ngày nay vẫn phải suy nghĩ.
Người Hoa -chữ dùng của các tác giả du ký hồi này thường là người Tàu,
Khách- trong cái nhìn của các nhà văn du ký Việt Nam hiện lên một cách hiện thực,
không tô hồng, không bôi đen. Trần Trọng Kim trong bài diễn thuyết đăng trên Nam
phong số 71-1923 đã ghi một số nhận xét đáng chú ý về người Hoa ở phía bên kia
Móng Cái. Tuy Đông Hưng là đất Trung Quốc nhưng người Việt ở Móng Cái có
mua bán gì là sang đó, gọi là sang phố. Tất nhiên đây là những quan sát khi đó: “Ai
mới sang Đông Hưng trước hết có một cái lấy làm lạ, là cái bẩn. Đến cái bẩn thì tôi
tưởng không sao bẩn hơn được nữa…Ở bên ấy nhà nào cũng có một vài con lợn và
một đàn gà, nuôi ngay ở trong nhà, quây quần ngay ở chỗ người ngồi. Trông xuống
chỗ nền nhà thì thấy đen đen như chuồng phân của ta, mà lại ướt ướt, thật là ghê”
[32, 29-30].
Người Hoa có tài buôn bán và có tính chịu khó làm ăn nhưng có những
phong tục đáng phê phán. Tác giả viết “Ta xưa nay vẫn theo văn minh Tàu, cương
82
thường luân lý đều bắt chước theo Tàu cả, chắc ai cũng yên trí rằng dẫu ở chỗ nào
phong tục của họ cũng tốt. Thế mà người Tàu ở mạn Đông Hưng và mạn Hải Ninh
có lắm tục thật là dã man, như là tục giết con gái và tục bán vợ” [32, 33].
Theo tác giả, tuy phong tục dã man nhưng người Tàu cũng có những ưu điểm,
nhất là thiên trọng việc làm giàu. “Đi đến những xứ Tàu ở thì xem ra cả cái tâm lý
của họ chỉ ở chữ tài, là của. Người quen kẻ thuộc gặp nhau ngoài đường ngoài phố
hỏi thăm nhau, mở miệng ra là hỏi có phát tài không. Vào nhà nào, bất cứ sang hèn
cũng thấy chữ phát tài, tiến tài, hoặc để thờ hai bên cửa, hoặc để thờ trong nhà.
Cũng có nhà mua cái tranh ông thần Tài để thờ ngay chính giữa nhà. Đến đám chay,
đám tế lễ, làm những hình nhân bày trước sân cũng làm tay cầm lá cờ đề bốn chữ:
nhất kiến nhất tài” [32, 32]. Hành vi của người Tàu được Trần Trọng Kim lý giải từ
góc độ tâm lý khát khao làm giàu: “Vì họ chủ vào sự tài lợi như thế, và lại có cái
tính rất kiên nhẫn, cần kiệm, cho nên họ đã ở đâu, là không những là không ai cướp
được quyền lợi của họ, mà họ lại dần dần lấn mất cả cái quyền lợi của người ta
được. Nhất là khi nào có việc dính dáng đến quyền lợi của họ, thì họ có cái tính liên
lạc rất lạ: chỉ một vài người đứng lên bảo nhau một tiếng là cả đoàn thể ai cũng
theo” [32, 32]. Đó là tính cách văn hóa đặc trưng của người Hoa mà ngày nay vẫn
không thay đổi.
Nói về người để nhìn lại mình. Nếu người Tàu họ năng động làm giàu bao
nhiêu thì người mình kém cỏi kém cỏi bấy nhiêu. “Nhất là về mạn Hải Ninh, người
mình hèn kém lắm, chỉ trừ làng Trà Cổ có người đi buôn bán làm giàu làm có, trong
làng có nhà ngói nhà gạch trông còn ra dáng một tí, còn thì khổ sở hèn hạ quá
chừng. Thường những cái quyền lợi ở trong tay mình cũng đem trao cho người ta
cả…Nghề nghiệp chỉ có chài lưới, kiếm ăn lần hồi. Mà đánh được cá cũng không
biết làm gì để sinh lợi, lại đem bán buôn cho người khách, người ta đem muối đi,
đến lúc mình dùng đến lại đi mua, đắt gấp mấy lần cái giá mình đã bán. Thậm chí
cái rau, củ khoai của mình trồng ra được cũng đem bán cho Khách, rồi sau lại sang
mua mà ăn. Thành ra mình chỉ làm khó nhọc mà bao nhiêu cái lợi là người ta hưởng
hết cả” [32, 41-42]. Buôn bán giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày nay vẫn phản
ánh xu thế văn hóa dân tộc này nhưng tiếc rằng trên báo chí ngày nay, thiếu những
83
quan sát có tính thức tỉnh dân tộc tương tự.
Người Hoa có ý thức dân tộc mạnh mẽ. Họ không chịu mua hàng của ta mà
chỉ có ta mua hàng của họ. “Hễ mà lúc nào An Nam ta có ai định mở cửa hàng buôn
bán ganh nhau với người khách thì họ bảo nhau mua đắt bán rẻ làm thế nào cho
mình đến vỡ cửa hiệu, thì họ mới thôi. Người mình phần thì đã không sành nghề
buôn bán, lưng vốn lại ít, phần thì bảo nhau không được, cho nên không thể nào
buôn bán ganh nhau được với người khách” [32, 33].
Những quan sát và suy nghĩ của Trần Trọng Kim gặp gỡ với những quan sát và suy nghĩ của Vân Đài hai chục năm sau trên đảo Các Bà13 (tức đảo Cát Bà).
Trong thiên du ký Bốn năm trên đảo Các Bà [Tri tân, các số từ 149 đến 158-1944],
nữ văn sĩ đã khảo sát sự độc chiếm quyền lợi của người Hoa từ bên Trung Quốc
sang và sự yếu kém của người Việt vốn là chủ nhân hòn đảo: “Người ta không thể
ví nghề làm cá ở Các Bà với Cát Hải được. Cát Hải chỉ là khu chài lưới rất nhỏ do
một số người Nam làm với những chiếc lưới mong manh những con thuyền bé nhỏ,
không bao giờ giám mạo hiểm ra đến bể khơi hay xông pha nơi muôn trùng sóng
bạc. Các Bà mỗi năm có một mùa đánh cá, bắt đầu từ tháng tám đến tháng tư ta.
Mùa đánh cá chỉ có sáu tháng, những tháng đã bắt đầu mát mẻ và bể êm sóng lặng.
Các thuyền to trọng tải từ ba mươi đến bốn mươi tấn, đã lục tục bắt đầu từ Bắc Hải,
Long Châu. Mỗi năm sang có từ năm đến bẩy trăm chiếc. Những chiếc thuyền
khổng lồ mà người ta gọi là tàu ô, ở trong ấy có đủ cả nơi ăn, chốn ngủ, có bếp nước,
có ô nuôi cá sống và muối cá chết. Các ô ở dưới thuyền rất ngăn nắp và rất kín đáo.
Người ta có thể khu biệt ra nhiều ô riêng để nuôi gà, nuôi lợn, cũng có khi nuôi
người, nếu là một thuyền mua người do mẹ mìn dỗ trẻ con đem bán. Một điều cho
ta để ý, là mỗi năm các tàu ô sang đây đều sang thuyền không với những chiếc lưới
to với những tay chân sào lực lưỡng. Rồi họ dùng sức khỏe của họ, làm một cách
sung sướng trong sáu tháng trời, cho đến khi họ về với những chiếc thuyền đầy cá,
những túi nặng tiền và nghỉ ngơi ăn chơi trong sáu tháng kia để chờ sang mùa khác”
84
[37, 674]. Trong khi đó, người Nam sống nghèo khổ, chấp nhận làm thuê cho người 13 Vân Đài viết “Tiện đây tôi xin nói qua về cái tên Các Bà mà nhiều người vẫn gọi lầm là Cát Bà như Cát Hải vậy. Các Bà xưa kia vẫn có một tên mà người khách gọi là Appovan và người Nam gọi là Các Bà, do lấy tên một ngôi mộ của hai bà nữ thần không tên, chết ở đâu trôi về và hiển linh tại đấy. Ngôi mộ ấy gọi là ngôi mộ của Các Bà, người ta lập miếu thờ và người ta muốn biểu dương cái uy linh của các bà nên lấy tên Các Bà đặt cho hòn đảo” (35, s. 149, tr. 563).
khách trú. Vì thiếu vốn, dân chài ta chỉ có những chiếc thuyền bé nhỏ. Bài văn du
ký cũng ghi chép những thủ đoạn của thương lái người Hoa buôn lậu trốn thuế:
“Mặc dầu sự canh phòng rất nghiêm ngặt của nhà đoan, họ cũng không sợ cả những
chiếc tàu Đoan lúc nào cũng sẵn sàng và nhẹ như chiếc thoi trên mặt bể. Họ vẫn
luôn “đi ngang về tắt…”. Một chiếc thuyền chở hàng đi, họ đã dự bị sẵn sàng mua
các vật liệu, họ chờ những đêm tối tăm, chỉ vài chiếc “siệng” con chuyên chở hàng
hóa ra tàu lớn. Rồi họ chỉ chờ một cơn gió. Cánh buồm của họ, một khi đã nêu cao
lên với một chiều giờ xuôi thì không có tàu nào đuổi kịp. Chú L. một người đã quen
đi buôn lậu, vẫn thường tự cao khoe với mọi người: “Hi Hàng Pạc long vỹ. Ngộ
mậu pha lớ” (Đến Bạch Long Vĩ tôi không sợ gì nữa). Có lẽ đến đây hắn ta đã hiện
nguyên hình ra một tên giặc tàu ô thuở trước. Các hang hốc của kỳ quan tạo hóa ở
nơi đây không chỉ riêng tô điểm một phong cảnh tuyệt trần ở vịnh Hạ Long mà thôi
đâu! Cảnh đẹp kia không gây cho bọn buôn lậu một cảm giác mỹ quan nào hơn là
giúp cho họ những sào huyệt tốt... Về nghề buôn bán trốn thuế này, chỉ có người
khách đối với nhau một cách rất kín đáo” [37, 154].
Điều mà Trần Trọng Kim và Vân Đài nêu ra cũng đã được một du khách
thăm hồ Ba Bể từ năm 1921 nhận diện. Tại một dãy phố núi cách Phủ Thông (Bắc
Cạn) chừng 17 km, ký giả Hoàng Văn Trung đã chứng kiến sự có mặt của dân
Khách (tức người Hoa): “Nhìn kỹ thấy hai dãy phố phường, giữa có mấy quán chợ
lợp bằng gianh. Dân phần nhiều là Khách với Nùng, thế mới biết từ những nơi đô
trường lợi thị cho chí những chốn hang cùng ngõ hẻm, đâu đâu Khách họ cũng mầy
mò, len lỏi tới được, đoạt hết mối thương quyền của người đồng bang ta, mà ngán
thay! Đồng bang ta hình như vẫn mê man trong giấc ngủ, không biết không hay đến,
khoanh tay để cho nguồn lợi ấy thuận theo dòng nước mà chảy ra Bắc Hải” [228,1].
Biệt Lam Trần Huy Bá trên đường đi khảo cổ gò Óc Eo đã dừng chân nghiên
cứu Sài Gòn - Chợ Lớn (năm 1944). Ông quan sát việc người Hoa chiếm lĩnh, làm
chủ mọi lĩnh vực đời sống kinh tế của Nam Kỳ. Ở Chợ lớn chừng một tuần, ông có
nhận xét “Người ta thường nói, “Chợ lớn là thành phố riêng của người Tàu”, thực
chẳng phải ngoa. Về phần thương mại, những cửa hàng của các hội buôn đồ sộ,
85
thượng vàng hạ cám, họ đều lũng đoạn hết cả”. Rồi tác giả liệt kê đủ các mặt hàng,
các nghề kinh doanh, thợ kỹ thuật đều có người Hoa chiếm lĩnh, như các cửa hàng
đồ gỗ mỹ thuật, làm mũ, đóng giầy, hàng thiếc… “nói tóm lại, các ngành kỹ nghệ,
người Tàu quả đã tiến đạt bội phần; mà những sản phẩm của họ rất là tinh xảo”.
Không chỉ vậy, “những công việc thường thường như thợ chữa giày, người chữa xe,
kẻ vá mướn, kẻ đan sọt, người mài dao, nhất thiết đều là người tầu làm cả. Họ làm
lụng rất chăm chỉ và khéo léo” [9, 168].
Đáng chú ý là trong văn mạch của ý thức về dân tộc mình, các trí thức người
Việt ở nửa đầu thế kỷ XX đã quan sát, nhận xét và kể cả nghiên cứu người Hoa ở
mọi vùng miền từ nhiều góc độ. Nhà nghiên cứu Đào Trinh Nhất đã tiến hành khảo
sát tường tận thế lực của người Hoa, khi đó gọi là “khách trú” ở Nam Kì với ý thức
rất rõ về việc bảo vệ quyền lợi của dân tộc, làm nên công trình có giá trị Thế lực
khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kì (1924). Ông viết ngay trong phần mở đầu:
“Xứ Nam Kỳ tức là một cuống họng của ta, đối với trong là một kho tàng to, quay
ra ngoài là một thị trường lớn, công phu cha ông khai thác mấy trăm năm, mới có
ngày nay, để cho con cháu làm của gia tài, đáng lẽ ta không nên để cho ai phạm vào
quyền lợi của ta mới phải. Thế mà bị 20 vạn người Tàu là một dân tộc có tài thực
dân, kéo nhau sang hạ cái thủ đoạn kiếp lược dần dần, bây giờ nghiễm nhiên làm
ông chủ nhân trong trường thương mại công nghệ của ta, thôi thì trên bến dưới
thuyền, thượng vàng hạ cám, nhất thiết lợi quyền đều vào tay họ lũng đoạn hết, ta
cam tâm để họ đè nén: khó nhọc ta gánh, miếng ngon họ ăn, bao nhiêu lâu nay, ta
chịu mãi cái nỗi “cường tân áp chủ” như thế” [138, 25]. Phân tích nguyên nhân, tác
giả nêu vấn đề Việt Nam cần đưa người từ Trung, Bắc kì vào để thực hiện chiến
tranh kinh tế:“Nam Kì thiếu nhân công thật, còn non hai triệu mẫu đất bỏ hoang
chưa khai khẩn, bao nhiêu nguyên liệu vật sản, bỏ chưa đếm dùng, đến ngay tiện
nghệ khổ công, cũng không có người làm, nhất thiết công nghệ buôn bán gì đều vào
tay Hoa kiều hết, cũng chỉ vì không có người làm, bởi vậy, bây giờ nói việc mở
mang xứ Nam Kì, tức là cách phá cái thế lực Hoa kiều, mưu cuộc phú cường nay
mai, thì nhân công chính là một tài liệu mà xứ Nam Kì đang phải cần đến lắm.
Nhân công ấy lấy ở đâu ra được? Người Trung, Bắc Kì cất tiếng lên mà đáp rằng:
86
“Tôi đây!” [138, 25]. Di dân miền Bắc và miền Trung vào Nam Kỳ để đối phó với
sự lấn lướt của người Hoa ở đây là một kết luận từ nghiên cứu của Đào Trinh Nhất,
một nghiên cứu thể hiện ý thức mới về bản sắc dân tộc trong giai đoạn nửa đầu thế
kỷ XX. Chúng ta có thể hiểu vì sao khi có một nhà doanh nghiệp người Việt là
Bạch Thái Bưởi đã cạnh tranh thành công với người Hoa trong lĩnh vực vận tải
đường sông ở Bắc Kỳ thì dư luận báo chí Việt Nam, nhất là Nam phong đã nhiệt liệt
biểu dương.
Nhận thức về người Hoa là một khía cạnh khác trong nhận thức về người khác,
thể hiện một nhu cầu xác lập bản sắc văn hóa Việt Nam ở đầu thế kỷ. Nói về người
Hoa là để tự nhìn lại mình, không khác gì nói về người Pháp, vì thế cũng là một phần
của chủ nghĩa yêu nước ở đầu thế kỷ XX, điều mà giới nghiên cứu văn học giai đoạn
này thường bỏ qua. Nghiên cứu văn học nửa đầu thế kỷ XX, cho đến nay, giới nghiên
cứu chủ yếu tập trung vào mảng văn thơ kịch với những vấn đề chủ nghĩa hiện thực,
nhấn mạnh các nội dung phê phán xã hội thực dân phong kiến, chủ nghĩa lãng mạn,
tư duy văn học tả chân… nhưng hầu như lãng quên một nội dung quan trọng là phải
nghiên cứu ý thức về bản sắc văn hóa dân tộc thể hiện trong cái nhìn so sánh với
người khác, kẻ khác để tự phản tỉnh. Song song với cái nhìn so sánh với người Pháp,
văn hóa Pháp, là cái nhìn của tầng lớp trí thức Tây học, có ý thức so sánh với người
Hoa, một sắc dân đã hiện diện nhiều thế kỷ trên đất nước ta, cạnh tranh thu vét bao
nhiêu nguồn lợi của ta, điều đã không được trí thức nho sĩ quan tâm. Cảm hứng về
cạnh tranh, ưu thắng liệt bại thấm nhuần vào nhiều áng văn du ký giai đoạn đầu thế
kỷ XX, nhiều khi thành câu cửa miệng của trí thức. Đi thăm Phú Quốc, nhân nói về
Việt kiều hội ở Căm pu chia, Đông Hồ thốt lên: “Ở về đời cạnh tranh ưu thắng liệt bại
này, nếu không có tình đoàn thể thì không thể nào sinh tồn được” [32, 258]. Vấn đề
cạnh tranh sinh tồn không chỉ nảy sinh trước thất bại của người Nam trước người Tây
mà cả sự thua thiệt của người Nam trước người Hoa.
3.1.3. Cái nhìn người Chăm
Còn nhớ, các nhà nho yêu nước đã từng nhắc đến người Chăm (xưa gọi là
Chiêm Thành, hay Chàm) khi muốn cảnh báo về cạnh tranh sinh tồn, ưu thắng liệt
bại. Văn du ký giai đoạn này cũng có những tác phẩm viết về người Chăm, văn hóa
87
Chăm tiếp tục mạch suy nghĩ của các nhà nho đầu thế kỷ.
Tri tân ra số đầu tiên có tác phẩm du ký Một ngày ở xứ Chàm của Tam Lang.
Người viết dường như quan sát, tìm hiểu những nguyên nhân khiến cho một dân tộc
đã suy vong. Ông quan sát phong tục người Chàm. Họ đi ngủ lúc 12 giờ đêm, dậy
lúc 12 giờ trưa. Nhưng nay nhiều phụ nữ Chàm đã thay đổi do quan hệ buôn bán
làm ăn với người Việt. Bài du ký cho hay người đàn bà Chăm quần quật làm lụng
chợ búa, chăm con, còn đàn ông Chàm chơi dài. “Thì ra ở xứ Chàm ngày nay,
người đàn ông đã chịu lùi xuống hàng nhì, làm những kẻ “chân yếu tay mềm” để
bọn đàn bà tiến lên làm “phái mạnh” [89]. Chính tác giả chứng kiến một anh chàng
người Chàm thấy rắn bỏ chạy, còn vợ lấy cành cây đánh con rắn đang quăng bên
đường: “Từ bé đến lớn người đàn ông Chàm hàng ngày đã quen sống một cách
nhàn hạ”, “trong làng Chàm, nhiều lần chúng tôi thấy có vài ba người đàn ông ngồi
dơ đầu ra cho vợ bắt chấy hoặc gỡ hộ tóc. Họ còn lười đến nước quẳng quần áo ra
cho vợ bắt rận, nhờ vợ gắp mẩu than hồng ở bếp lên để hút thuốc” [89]. Người đàn
ông ở đâu cũng phải là trụ cột gia đình, thế nhưng đàn ông Chăm lười biếng, ỷ lại,
để cho phụ nữ gánh vác toàn bộ công việc nặng nhọc. Qua đó có thể hình dung phần
nào một nguyên nhân diệt vong của vương quốc Chăm Pa.
Mãn Khánh Dương Kỵ đi thăm di tích Đồng Dương (Indrapura), mường
tượng một đế quốc có thời huy hoàng rực rỡ mà nay chỉ còn lại cảnh hoang phế, tịch
mịch. Xét về kiến trúc, về nhân tài, về ý chí của hoàng đế Chăm Pa xưa thì lẽ ra đây
phải là một đế quốc hùng mạnh. Nhưng sự sống của dân tộc đó sẽ ở những kiệt tác
nghệ thuật mà những người thợ Chăm cần mẫn từ ngàn năm xưa để lại. Một tâm
trạng hoài cổ, cảm thương tràn đầy trang du ký: “Đến nay, tuy trải qua bao lớp bể
dâu, những tượng, bức chạm, đã bị phá, đẽo gãy, mẻ nhiều nơi, nhưng cũng không
phải vì thế mà bớt đẹp. Trái lại, từ tượng Phật to lớn cho đến các con người bằng đá
nho nhỏ, có kẻ không to quá ngón tay cái người lớn, vẫn sống, vẫn hoạt động, vẫn
còn làm cho người xem cảm động bồi hồi, đi không muốn dứt. Mai sau cho đến lúc
người Chàm cuối cùng đã thở hơi cuối cùng trong túp nhà sàn quạnh hiu, sập nát thì
dân tộc Chiêm Thành vẫn sẽ còn sống, còn mãi mãi sống trong những tác phẩm mà
tại đó họ đã để lại bao nhiêu nhịp rung động của quả tim, bao nhiêu tinh thần nghệ
88
thuật” [81, 110].
Mãn Khánh Dương Kỵ quan sát tín ngưỡng thờ nữ thần Thiên Y A Na, phải
thốt lên “Chung đụng với người Chàm hơn 10 thế kỷ, những cái hay của họ, nhất là
về mỹ thuật (kiến trúc, điêu khắc) thì ta không bắt chước bao lăm, mà tại sao lại sẵn
sàng theo các tín ngưỡng nhảm nhí của họ như việc thờ cúng Thiên Y A Na này?”
[82, 122]. Tất nhiên, các ý kiến của Dương Kỵ cho tín ngưỡng Thiên Y A Na của
người Chăm là nhảm nhí vị tất ngày nay đã đứng vững trước khoa nghiên cứu văn
hóa học. Nhưng chúng ta hiểu ý đồ của Dương Kỵ là muốn tìm kiếm, suy tư về các
bài học hưng vong của dân tộc Chăm, để qua đó cảnh tỉnh dân Việt. Vì thế, ông kết
luận cho thiên du ký Thiên Yana: “Đến thế kỷ thứ 20 nầy, trong lúc năm châu khói
lửa, các nước đua tranh, mà dân ta vốn đã tự phụ có cái văn hiến mấy nghìn năm (!),
còn có người rủ nhau vất bạc trăm bạc nghìn để tin thần lạy quỷ, cúng mướn thờ
vay như thế thì ta cũng nên theo cụ Phan Thanh Giản mà nhận rằng đó là một điều
kỳ, một điều tối kỳ tối thương tâm vậy” [82, số 122]. Những tín ngưỡng thần bí theo
tác giả có thể là nguyên nhân đưa đến sự diệt vong của đế quốc Chăm Pa. Tác giả
Mẫu Sơn Mục N.X.H. trong bài du ký Lược ký đi đường bộ từ Hà Nội vào Sài Gòn:
“Xem sự diệt vong người Hời (tức người Chăm), mà cái lẽ vật cạnh thiên trạch,
mạnh được yếu thua, và lời Khổng Phu Tử nói là tài giả bồi chi, khuynh giả phúc
chi…lại càng rõ rệt lắm” [31, 34]. Quan điểm này khá tương đồng với quan điểm
các nhà nho duy tân về sự cạnh tranh sinh tồn, ưu thắng liệt bại, nhìn người để thức
tỉnh dân tộc mình thay đổi.
3.2. Khuynh hƣớng lãng mạn chủ nghĩa nhƣ một nét hiện đại của văn học
3.2.1. Lãng mạn gắn với phiêu lưu, mạo hiểm
Trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX,
ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn của văn học Phương Tây là điều đã được giới
nghiên cứu khẳng định. Nhưng các nhà nghiên cứu hiện mới chủ yếu khoanh vùng
nghiên cứu vào thơ mới và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Văn du ký hầu như chưa
được chú ý, mặc dù trữ lượng lãng mạn của văn du ký không nhỏ.
Viết về tinh thần lãng mạn trong văn du ký, nhà nghiên cứu Carl Thompson
trong sách Travel Writing viết: “Trong nhiều nghiên cứu về văn du ký, sự ra đời của
89
các tác phẩm du ký có tính chủ quan nhiều hơn từ cuối thế kỷ XVIII trở đi được xác
định như là một sự chuyển đổi dứt khoát từ các giá trị Khai sáng sang các giá trị
Lãng mạn. Với sự chuyển biến này, như nó gợi ý, một cái tôi Lãng mạn mới bắt đầu
lưu hành, hay như đôi khi người ta vẫn nói, tính chủ quan Lãng mạn, khác nhiều so
với cái tôi Khai sáng và tính chủ quan Khai sáng đi trước” [261, 117]. Nhưng tính
chủ quan lãng mạn là gì? Ông viết tiếp: “Trong các tác phẩm du ký, các nhà du lịch
Lãng mạn chủ nghĩa không đơn giản quan sát mà họ phản ứng lại các cảnh đời
quanh họ, và ghi chép lại các phản ứng ấy và cả những suy nghĩ về chúng. Trong
một số trường hợp, họ tìm ra những tình huống gây nên các cảm xúc mạnh mẽ,
những cảm xúc về cái cao cả, các căng thẳng tinh thần” [261, 117]. Các cảm xúc
mạnh mẽ, những cảm xúc cao cả, các căng thẳng tinh thần được nhà nghiên cứu
nhấn mạnh, coi như những biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa lãng mạn trong văn du
ký. Đây là những nét riêng của tinh thần lãng mạn trong văn du ký, khác với quan
niệm ở Việt Nam của giới nghiên cứu một thời coi chủ nghĩa lãng mạn là cái gì đó
thoát ly, quay lưng cuộc sống, tiêu cực.
Trong cuốn The Suffering Traveller and the Romantic Imagination (Nhà du
lịch đau khổ và sự tưởng tượng lãng mạn), tác giả Carl Thompson đã dẫn lời của
Leigh Hunt “Ở Italia, những người Anh bị gọi là “người Anh điên rồ” do những
phiêu lưu mà họ làm. Họ thích làm cho dân bản xứ kinh ngạc vì nguy hiểm không
cần thiết lắm” [260, 1]. Ở đây nói về những người Anh đi du lịch tại Italia với đầu
óc phiêu lưu, thích mạo hiểm. Một khách du người Anh là William Hazlitt viết
trong Ghi chú về cuộc hành trình qua Pháp và Italia: “Một người bạn tôi nói rằng
anh ấy nghĩ đó là chuyến đi có chất lãng mạn nhất, vì nó được bọn cướp chấp nhận;
cuộc sống trở nên nhạt nhẽo, vô vị biết bao nếu thiếu đi những tai nạn như thế, rằng
sẽ là thích hợp khi chính bản thân mình lên đường với một phiêu lưu như thế, như
đặt cửa cho một giải thưởng xổ số lớn” [chuyển dẫn theo 260, 1-2]. Tác giả cho biết
sở thích thích lãng mạn đó được hai người thực hiện: họ bất chấp những cảnh báo
về an toàn tính mạng, đã du lịch không chỉ Naples mà còn rộng hơn cả Naples, đến
vùng Calabria còn nguy hiểm hơn.
Đi xa, xem những nguy hiểm, tai họa là những thử thách hấp dẫn, làm cho
90
cuộc sống tránh được sự nhàm chán là một trong những biểu hiện quan trọng hàng
đầu của chủ nghĩa lãng mạn. Tính tích cực của nó dễ thấy: khuyến khích sự khám
phá thế giới, tìm hiểu các nền văn hóa lạ, những vùng đất mới, chấp nhận mạo hiểm.
Tinh thần phiêu lưu đầy chất lãng mạn này có thể bắt gặp trong văn du ký một số
tác giả Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Nghiên cứu tinh thần lãng mạn trong văn du
ký giai đoạn này có thể mở rộng, bổ sung, làm hoàn chỉnh hơn quan niệm về lãng
mạn trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
Đề tài du lịch hồ Ba Bể được nhiều người viết trong văn du ký. Đây là một
thắng cảnh nổi tiếng đã đành, Ba Bể còn là một sự mời gọi, một thách thức đối với
khách du vì đương thời, đường đi tới đó rất hiểm trở. Hoàng Văn Trung kể lại
chuyến đi Ba Bể của mình qua sông qua phà nguy hiểm như thế nào do phương tiện
cầu phà rất lạc hậu. “Nguyên con đường đi Ba Bể, cách tỉnh lỵ hơn nghìn thước tây,
có con sông Cầu chảy qua, trên bắc cái cầu bằng phên nứa. Tuy gọi bằng phên nứa,
nhưng cầu cũng to và chắc chắn lắm, vậy mà cứ đến mùa mưa nước lên to chảy rất
mạnh, thì cầu dù chắc cũng phải đổ” [228]. Vì thế mà mùa mưa ông đi qua khúc
sông, xe oto của các ông phải dùng phà. Nhưng giữa mùa nước lên to, phà lại cũ kỹ,
“phà đã rò, lại chở nặng, nước rỉ vào, tròng trành như chiếc lá giữa dòng, người với
xe những muốn lăn tòm xuống sông mà phó theo dòng nước. Cố đẩy mãi mới sang
đến bờ bên kia, thì phà đã đầy nước, liền chìm xuống đáy sông. May được chỗ nông
và nhờ có hai ba mươi nhân lực xúm lại, kéo được chiếc xe lên” [228]. Cảm xúc của
ông sau cơn hiểm nguy là: “Lúc bấy giờ trong lòng khoan khoái vô cùng, cho hay
phàm việc gì cũng vậy, càng trải qua nguy hiểm khó khăn càng thấy nhiều lạc thú”.
Đây là cảm xúc điển hình của con người mang tinh thần của chủ nghĩa lãng mạn đi
tìm trong giông tố sự bình yên. Tác giả còn trải nghiệm một số cảm xúc mạnh khác
trong chuyến đi. Xe oto chạy trên đường núi: “Bên thì núi cao vòi vọi, cây mọc
rườm ra, bên thì khe sâu thăm thẳm, suối chảy róc rách. Ôi! Tính mệnh chiếc xe
chạy trên lưng chừng, khá nên nguy hiểm thay! Tưởng người cầm lái chỉ tay vô ý
một tí là xe lăn xuống vực” [228].
Cảm giác nguy hiểm thêm ý vị cho cuộc phiêu lưu. Nhật Nham trong bài du
ký thăm hồ Ba Bể in trên Tri tân hai chục năm sau vẫn trải qua cảm xúc tương tự
91
khi ngồi trên tàu hỏa: “Ra khỏi phố Đầm Hồng, xe hỏa bắt đầu chạy mau qua các
dẫy núi cao. Khi thì hai bên đầu núi đường hỏa xa đi giữa; khi thì một bên là núi,
một bên là thung lũng, có vực sâu thăm thẳm; có khi một bên là thác ở trên cao đổ
xuống ầm ầm (... ). Cạnh đường tầu, có một con suối chảy rất mạnh: nước từ cao
đổ xuống qua các tảng đá lớn, tỏa ra nghìn tấm bạc trông thật đẹp! Tiếng nước
chảy ầm ầm, như có thiên binh vạn mã, nghe mà rùng rợn! Nếu vô ý mà sa chân
xuống đấy, thực chết không kịp ngáp, có thánh phục sinh cũng vô kế khả thi! Chỉ
nháy mắt là thành một cái xác vô hồn, thịt nát xương tan, bị luồng nước dập vùi,
nện xuống các tảng đá như búa, đe thiên tạo rồi cuồn cuộn bi cuốn đi một nơi vô
cùng vô tận” [126, số 62].
Không những bản thân trải qua những nguy hiểm trong cuộc du lịch như một
chuyến phiêu lưu, tác giả còn chứng kiến cảnh những cô gái dân tộc bơi những
chiếc thuyền độc mộc trên mặt nước mênh mông: “Ôi! Chiếc thuyền rất nhỏ bé, vừa
bằng một ôm, thế mà khách liễu yếu đào tơ, vẫn nói cười dịu dàng, mặt mày hớn hở,
không chút quan tâm, khiến cho ký giả cũng phải khen thầm cái lòng can đảm ấy”
[126]. Tìm kiếm cảm giác phiêu lưu, mạo hiểm là một phần của cảm hứng du lịch
đã được các tác giả du ký ghi nhận.
Mộng Tuyết lý giải vì sao những người đi du lịch Phú Quốc lại chọn việc đi
bằng thuyền buồm: “Thuyền chúng tôi đi đây là thuyền trài buôn, chở nước mắm đi
Rạch Giá ghé qua Hà Tiên, tiện đường chúng tôi đi theo để nếm qua cho biết cái thú
đi biển bằng thuyền buồm. Cái tính hiếu kỳ và “mạo hiểm” ấy đã nuôi sẵn trong
lòng mỗi khi đọc truyện Télémaque phiêu lưu, chuyện Quả dưa đỏ hay những bài
du ký của Alain Gerbault. Đối với người đi biển thì Phú Quốc, Hà Tiên mà đi như
thế là rất thường, và rất bình yên, nhưng đây chúng tôi, dùng chữ “mạo hiểm” là nói
với một kẻ con gái học trò mới từng bước xuống thuyền đi biển lần đầu, thì trong
lòng bấy giờ cũng được cái tự phụ như chàng Alain Gerbault mới bước chân xuống
chiếc Yacht qua biển Đại Tây Dương” [237]. Một cô gái Việt Nam 17 tuổi vốn bị
xã hội ấn định cho vai trò nữ nhi khuê các thì chuyến ra đảo đầu tiên hẳn là một
cuộc phiêu lưu mạo hiểm. Lãng mạn không đơn giản là thoát ly cuộc sống như có
thời một số nhà nghiên cứu suy diễn mà có ý nghĩa tích cực, rèn luyện nhân cách,
92
bản lĩnh, khát vọng của con người cá nhân.
Mộng Tuyết còn kể đi du lịch đảo Phú Quốc đã đem lại cho mình những ấn
tượng và cảm xúc mạnh mẽ thế nào: “Con tầu từ từ rẽ sóng..tiến lên. Tiếng sóng vỗ
vào be tầu nghe như một khúc nhạc hùng hồn mãnh liệt. Chúng tôi cảm thấy lòng
sung sướng mạnh mẽ…Hôm nay trời râm mát, mấy đám mây đen lơ lửng bóng tối,
tưởng tượng như con chim đại bàng to lớn xòe đôi cánh bay lướt qua biển Nam
Minh” (cảnh mây nước hùng vĩ khiến Mộng Tuyết liên tưởng đến chim bằng bay
qua biển Nam Minh của Trang Tử). Đó là cảm xúc mạnh của một cô gái mới lớn
trước trời bể bao la, vĩ đại. Hoặc: “Nhớ lại những chuyện nguy hiểm khó khăn của
người đi biển bằng thuyền buồm mà chúng tôi lấy làm sung sướng quá. Trong sáu
tiếng đồng hồ đi một cách bình yên mà đã được trải qua cái cảnh bềnh bồng trên
mặt biển, được thở hút cái không khí thanh tân man mác chốn biển khơi, và được
trông thấy bao cảnh vật thanh kỳ ở chốn trời nước gió mây thần tiên xa lạ, đối với
cái đời im lặng kín đáo của người con gái ở chốn buồng khuê, thật là một dịp may
đặc biệt” [237].
Cảm giác ngồi xe oto đi từ Ninh Hòa lên Ban Mê Thuột dài 163 km cũng là
một cảm giác mạo hiểm. “Tới đây đã bắt đầu vào sơn phận, bắt đầu leo dốc. Xe
chạy đến cây số 44, phải qua cái đèo của núi Yok kao, cao hơn 900 thước. Đường
ngoạch hơn chữ “chi”, hết mé núi này đến mé núi kia, hai bên toàn rừng rậm, non
cao, tuyệt nhiên không thấy bóng người! Cứ ở núi nọ ngoạch sang núi kia, xe lại
phải qua một cái cầu bắc toàn bằng thân cây gỗ ghép lại. Khi sắp tới cầu, xe phải
lao mình xuống dốc. Ngồi trong xe, tưởng như sắp bị đập mình vào quả núi chắn
ngang; lại tưởng như mình sắp sa xuống hố. Mỗi lúc qua cầu là một phen “mất
vía”. Qua cầu rồi, xe lại bò lên dốc một cách uể oải khó khăn, vì cái nghẹo chữ
“chi” liền ngay đầu cầu lên dốc. Nếu tay lái non, thì có lẽ cả ngày chỉ đâm xuống
suối!” [8, s.53]. Những cảm giác của xe oto chạy trên đường núi mang lại một ý vị
lãng mạn, một cảm giác mạnh mà du ký trung đại không có. Đúng như Huỳnh Thị
Bảo Hòa từng viết trên Nam phong số 163 năm 1941: “Muốn tắm mát lên ngọn
sông đào, nếu không có gan mạo hiểm thì sao khám phá được hết cảnh trí thiên
nhiên của thợ Tạo” [32, 51]. Đi để tìm cảm giác mạnh, để có cảm giác thay đổi, đi
để đôi diện với mọi thách thức, để khẳng định mục đích. Xu hướng này đã được
93
Nguyễn Tuân đẩy lên thành triết lý xê dịch với biểu tượng là chiếc valy.
Để đóng lại tiểu mục này, xin dẫn một đoạn phân tích của Carl Thompson về
ý nghĩa của những thử thách, gian truân trên đường du lịch khám phá thế giới:
“Những nguy hiểm, khó khăn mà cuộc du hành có thể đặt ra trên đường đi của họ
không những không làm nản chí các lữ khách mà kỳ lạ hơn và không kém nghịch lý
hơn, trên thực tế chúng là một phần của hứng thú vị và mục đích của chuyến đi”
[261, 2]. Người du lịch Anh thế kỷ XVIII lãng mạn hóa những nguy hiểm, gian khó,
đau khổ trong du hành. Nhân vật Harold-một nhân vật tưởng tượng của Byron, khi
vượt eo biển Anh, đã hát: “Và giờ đây tôi đang một mình trên đời/ Trên biển khơi
bao la, bao la”. Nhân vật của Byron không muốn làm một nhà du lịch đơn thuần mà
ông hình dung mình trong sự cộng hưởng rất mạnh của sự tưởng tượng theo tinh
thần chủ nghĩa lãng mạn: một khách du hành không may mắn, với những thử thách
khủng khiếp trên biển cả, được khắc họa một cách tự hào [261, 60]. Kiểu nhân vật
đó làm say mê nhiều nhà văn đương thời: “Và cũng như Byron, các nhà văn này -
nhất là những người mà ngày nay ta gọi là nhà văn lãng mạn-không quan tâm việc
thuật lại một cách đơn giản các điều bất hạnh này mà họ cảm nhận niềm tự hào sâu
sắc khi nhận diện mình cùng với những nỗi bất hạnh đó. Một số còn vận các nhân
vật đó vào chính mình và trong các trang viết hình dung mình trải qua các bất hạnh
của kẻ đi biển như đắm tàu” [261, 60].
Nhìn từ góc độ của chủ nghĩa lãng mạn trong văn học du lịch Anh từ thế kỷ
XVIII, chúng ta có thể nói văn du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX cũng có màu
sắc lãng mạn. Chủ nghĩa lãng mạn trong nghĩa này rõ ràng là một điểm tích cực,
nó làm giàu cho chủ nghĩa lãng mạn nói chung trong văn học, nó cấp cho ta tư liệu
để khắc phục cách nhìn chính trị hóa văn học, xem văn học lãng mạn là thoát ly,
tiêu cực. Mặt khác, về thể loại, chính văn du ký đảm nhiệm tốt hơn việc chuyển tải
nội dung phiêu lưu, mạo hiểm tốt hơn thơ văn lãng mạn. Trong nhân vật Dũng
(Đoạn tuyệt) hay người khách chinh phu (Giây phút chạnh lòng), người ly khách
(Tống biệt hành) cũng phảng phất tinh thần lãng mạn phiêu lưu của con người cá
nhân, song văn học lãng mạn không có thực nhiều cảm hứng phiêu lưu mạo hiểm
94
như văn du ký.
3.2.2. Văn du ký với cái nhìn lý tưởng hóa cuộc sống thôn dã và chất hoài cổ
Quay lưng với cuộc sống hiện tại xô bồ, quay về với quá khứ được lý tưởng
hóa, với cuộc sống bình dị nơi sơn cùng thủy tận, xa biệt phố thị ồn ào, đó cũng là
một nét lãng mạn của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Nguyễn Tuân tìm về
một thời vang bóng, Xuân Diệu bảo Chúng ta nay trong cuộc thế ao tù/ Đốt điếu
thuốc chiêu hồn sương quá khứ (Mơ xưa). Chất lãng mạn mang đậm cảm hứng phê
phán thực tại xã hội. Văn du ký có một đóng góp riêng của thể loại này cho cảm
hứng lãng mạn như vậy. Cảm hứng lãng mạn quay về quá khứ, lý tưởng hóa cuộc
sống thôn dã cũng còn là một nét riêng của văn học lãng mạn Việt Nam trong bối
cảnh đất nước bị thực dân ngoại bang thống trị.
Trong thiên du ký Bốn năm trên đảo Các Bà, hứng vị của chuyến du lịch bốn
năm bộc lộ khi con thuyền đưa tác giả tiến ra đảo: “ Chầm chậm tiến lên, thuyền
dần dần xa bến. Gió bể gieo vào thuyền một thứ không khí khác thường, nhưng rất
trong sạch. Không khí này quen với tôi lắm. Chỉ một chút gió phớt qua, một chút
lạnh lùng đưa lại, lòng tôi đã gây gấy lên một cơn sốt nhẹ nhàng, nhưng sôi nổi để
tha thiết những cái gì cao cả mênh mông của vũ trụ, nhưng cái gì chân thật, vĩnh
viễn, không giả dối, không khinh bạc của loài người. Phải chăng là gió với mây,
trăng với nước, là bạn chí thân của những tâm hồn ẩn dật?” [37, s. 149].
Đứng từ thuyền ngoài biển nhìn vào, du khách thấy: “Bến Cát Hải đã lần
lượt hiện ra trước mắt chúng tôi: một màu cây xanh và mát. Đây là nơi làm nước
mắm, thứ nước mắm mà phường Vạn Vân vẫn chở thuyền đi bán khắp nơi. Một doi
bể phong phú phồn thịnh, đã phơi ra trước du khách, những nếp nhà ngói kiên cố,
những con đường sạch và trắng, chen chúc giữa đám cau và chuối xanh xanh nhưng
vụng về như một cô con gái nhà giầu xứ quê, e lệ ra mắt khách lạ. Nghề làm cá ở
Cát Hải đã cho một số đông dân ở đây được no đủ, sống đời thái bình và ít phải
cạnh tranh. Nếu không cần đem nước mắm đi bán khắp nơi để làm giàu thêm cho
các nhà chế tạo nước mắm, Cát Hải có thể sống riêng một cõi an cư lạc nghiệp, như
đời xưa không cần đến ai” [37, s.149]. Cái nhìn thông báo về mục đích ra đảo của
khách du lãng mạn, người muốn đi tìm một không gian riêng tách biệt với cõi đời
95
trần tục, không gian đô thị ồn ào trong đất liền kia.
Quả thực, Vân Đài nhìn cuộc sống của cư dân trên hòn đảo này qua lăng
kính lãng mạn. Trong thiên du ký đăng trên Tri tân số 156, tác giả có phần lý tưởng
hóa những thôn làng cô tịch trên đảo Các Bà - làng Tân Châu và Xuân Đám: “Làng
Tân châu và Xuân đám là một cõi riêng, gần như một thế giới khác. Người ở đây
sống biệt lập, và vẫn giữ được căn bản người Việt Nam. Đến đấy, ta có cảm tưởng
như sống trong một thế hệ cũ vì người và cảnh vẫn có một vẻ mộc mạc thời xưa.
Mười năm về trước, trong lúc các nơi đã bỏ nghề nuôi tằm dệt lụa, ở đây cũng vẫn
có những bãi dâu, những khung cửi, những cô gái mặc váy đũi, yếm cổ xẻ và những
ông già bạc đầu chống gậy trúc, mặc áo lụa mộc, chiều chiều đi ngắm cảnh dưới tà
dương… “Khỏe mạnh” và “mộc mạc”, hai tiếng ấy có thể nói về tất cả đờn ông,
đờn bà ở hai làng này. Họ có một thân thể rất đều đặn và màu da rất hồng hào. Họ
không hề biết qua sự bão lụt, sự đói kém ở các nơi. Họ không bao giờ trông thấy
người gầy còm vì đói, vì rét. Họ không giầu nhưng đầy đủ…Hỏi đến Hà Nội, Hải
Phòng, họ tưởng là một thế giới nào ở đâu xa lạ. Thậm chí tỉnh Quảng Yên là một
tỉnh mà hai làng ấy thuộc dưới quyền quản trị, cũng còn có người cả đời chưa đi tới.
Mà họ cần đi tới để làm gì?... Cả hai làng có ai đi học, may ra được có người biết ít
chữ quốc ngữ, biết cũng không làm gì! Nơi cả năm không một tờ báo lạc tới và cả
đời không ai gửi một lá thư thăm ai!” [37, s. 156]. Khác với nhiều thiên phóng sự
của các nhà văn hiện thực phê phán thường phanh phui cái cảnh bùn lầy nước đọng,
những hủ tục bên trong lũy tre làng, nêu yêu cầu “cải lương hương chính”, các thiên
du ký thường ca ngợi vẻ đẹp nguyên chất, trong trắng, thuần phác của con người nơi
thôn dã.
Bài du ký của Nhật Nham Sau tám năm trở lại thăm Laokay in trên Tri tân
năm 1942 cũng lý tưởng hóa cuộc sống nơi biên viễn. Những suy tư lãng mạn về ý
nghĩa của cuộc sống khi quan sát về cuộc sống người miền núi: “Dân vùng này
cũng đã được hưởng văn minh của Tàu nhiều lắm. Có văn hóa, có võ công, có lễ
nghi, có trật tự, biết sinh nhai một cách êm đềm, biết chế tạo những khí mãnh và các
thức ăn mặc, thích thú đoàn viên, không ham danh lợi, ngày tháng chỉ bạn cùng non
96
nước. Thực là một dân tộc tự ta cho là trong cảnh Đào nguyên vậy” [125, s. 47].
Vẫn Nhật Nham, người ham đi du lịch các vùng núi phía Bắc, ghi lại cảm
xúc khi dự bữa cơm tại đất Bắc Cạn: “Khi ăn tôi thấy nhiều món là gia sản của chủ
nhà, chẳng hạn thịt gà thịt vịt luộc và rán, chấm với muối mỡ, canh măng nứa chua
và món lòng xào mộc nhĩ. Tôi nhân tự nghĩ: nhân sinh mấy vật cần dùng, dân miền
sơn cước không hề thiếu thốn. Cứ hiện trạng dân miền xuôi giờ gáo nước thanh củi
chưa phải đã dồi dào! Thế mà người thổ trước, củi rừng, nước suối thừa thãi đã
đành, lại thóc chất đầy gác, gà lợn đầy gầm, vải dệt, áo may, măng rừng, củ núi, họa
chăng có thiếu chỉ thiếu dầu, muối, sắt, đồng phải mua của người. Mỗi khi mưa rét,
công việc đồng, việc rừng nhàn nhã, đốt bếp giữa nhà, thổi nấu, vợ chồng con cái
quây quần, vừa sửa vừa dạy con cháu may vá, thêu thùa, vừa khuyên con gái lấy
đạo làm người, hưởng cảnh no ấm, êm đềm. Cái lạc thú gia đình của họ có phần cực
điểm” [126, s. 69].
Ông bình luận thêm: “Cuộc đời đương buổi cạnh tranh, hơn được kém thua,
lệ thường thiên diễn, mà riêng người thổ trước được yên hưởng một cuộc đời êm
đềm, đầy đủ và vô tư lự, thực cũng là hạnh phúc của hóa công dành cho người sơn
cước! Dù có phải hy sinh về phần vật chất, nhưng so với dân trung châu ta, họ vẫn
còn nhiều phần vui sướng về tinh thần. Đối với người thổ trước, nhân thế phải
chăng là nơi khổ hải?” [126, s. 69].
Tất nhiên, nhà văn đã không lưu ý độc giả rằng cuộc sống có vẻ sung túc đó
là cuộc sống ở nhà viên lý trưởng xã Nhu Viễn- người thuộc tầng lớp trên- chứ
không phải là tại nhà một người nông dân cùng khổ. Điều mà tác giả muốn nhắm
tới là lý tưởng hóa cuộc sống nơi sơn dã so với cuộc sống thị thành chứ vị tất là sự
thực phổ biến.
Đối lập với cuộc đời bình lặng, tự cấp tự túc của vùng sơn dã, hải đảo được
ca ngợi là cảnh nhố nhăng giữa chốn phồn hoa đô hội, nơi nhà văn du ký chỉ nhìn
thấy phong hóa đạo đức suy đồi một cách đáng buồn. Đêm tháng sáu chơi hồ Hoàn
Gươm của Hội Nhân là một tiếng thở dài chán ngán về cảnh đạo đức suy đồi xuống
cấp của thành phố Âu hóa. “Ôi! Đến chỗ kia là chỗ chi chi, mà đôi trai gái cặp cùng
nhau trơ trẽn ra vào, cười tiền, hôn bạc, yêu dối, tình vờ; làm cho tinh thần trác táng,
97
thân thể hao mòn, gây nên bệnh hoạn, gia đình bởi đó mà hỏng, phong hóa bởi đó
mà suy, quốc gia bởi đó mà không còn nguyên khí! Thương thay! Cho cái lòng dục
của con người ta vốn sẵn có từ trời cũng như con vật, thế mà không lấy cái đạo đức
để hạn chế nó lại, thời người ta với thú có khác gì? -Đây là sở Phó Toàn quyền, đây
là nhà thư viện mấy năm nay sách xếp đó mục ra mà người mình thưa thớt kẻ vào
xem, đôi khi đến trông rêu bám nhện chằng, thương cho người mình lười biếng hư
thân! -Trên một tí là Đền vua Lê Thái Tổ, tượng đồng cột đá cũng uy nghi. Tiếc
thay! Một chốn linh thiêng đáng sùng bái mà ít người đi lại bằng các nơi các cậu,
các cô cùng bà mẹ, ông lớn, thoải phủ, lục cung”… [31, 266-267].
Không chỉ tìm về không gian cô tịch, xa xôi trên rừng núi, hải đảo, các cuộc
du lịch được gọi là hành hương, đưa khách du thoát khỏi thời gian hiện tại mà trở về
với thời gian quá khứ cũng có một ý vị lãng mạn riêng. Mảng đề tài này về phương
diện nào đó có thể được xem là nối tiếp dòng văn học yêu nước của nhà nho cuối
thế kỷ XIX- đầu thế kỷ XX trong điều kiện xã hội hiện đại, kết hợp với cảm hứng
lãng mạn đi tìm những không gian và thời gian thoát tục, sự chán ghét cuộc sống
phố phường hiện đại. Mảng đề tài này khá phổ biến trong văn du ký nửa đầu thế kỷ
XX có lẽ vì nó đã có một dòng chảy tiếp tục từ văn học trung đại, nhưng có những
điểm mới mẻ, hiện đại.
Nhà nho Tùng Vân (Nguyễn Đôn Phục) đi chơi Sài Sơn với tâm thế của nhà
nho truyền thống, trước hết tìm thấy ý nghĩa phong thủy của địa điểm đến thăm
viếng. Sài Sơn là một ngọn núi đứng cao nhất trong quần thể 18 ngọn núi đá, bên
cạnh dòng sông Hát. Địa linh nhân kiệt, vùng này sản sinh nhiều người tài, gắn với
nhiều công trạng, thi ca, lịch sử [245]. Nhưng mặt khác, ông cảm nhận được thời
gian xưa cũ như đọng lại nơi đây qua việc phục sức của phụ nữ vùng Sơn Tây:
“Xem ra thì nhân vật miền Sơn Tây phần nhiều còn là nhân vật chất phác, theo lối
cổ phong”. Vì sao? Tùng Vân cho hay, phần nhiều các cô gái Sơn Tây hồi này vẫn
mặc áo vá đi xem hội. Hỏi chuyện một bà cụ thì được biết, đó là phong cách cần
kiệm từ ngàn xưa; vả lại, con gái phải giỏi khâu vá, người ta có thể nhìn vào đường
kim mũi chỉ mà đánh giá con người. “Nghe nói mà lấy làm kính thay” [33, 130].
Một thế giới cách biệt với thành phố Hà Nội hào nhoáng. Đó là một phát hiện cũng
mang màu sắc lãng mạn vì nhà văn du ký dẫn người đọc vào thế giới của thời gian
98
“muôn năm cũ”, nói như Hoài Thanh, ở đây thời gian như ngừng trôi.
Cũng có khi một nhà khảo cứu như Hoa Bằng lại chỉ đến viếng thăm đền
Hai Bà Trưng với tâm thế của một sử học gia. Kết thúc cuộc dâng hương miếu Hát,
ông viết: “ra khỏi miếu Hát, tôi được một thỏa mãn là đã làm đạt mục đích trong
một cuộc du lịch nhỏ thuộc địa hạt lịch sử, chứ chẳng có những “cảm tưởng thi vị”
về cuộc tang thương hưng phế hay “xúc cảm bâng khuâng” về nỗi thấy nay nhớ
xưa gì cả” [13, 14]. Nhưng cũng có người đi viếng thăm một di tích, danh thắng
để có được cảm xúc về lẽ hưng phế xưa nay. Khái Sinh đi thăm Hoa Lư, cố đô nhà
Đinh, nhìn hai con nghê đá tương truyền thu được từ những trận chiến với Chiêm
Thành nay đã sứt mẻ, có cảm khái về cuộc đời biến đổi: “Trước sân có cái sập đá
vuông, trên chạm rồng coi cũng cổ kính. Hai con nghê chầu hai bên đã thấy sứt
sẹo nhiều chỗ. Có lẽ chúng thấy nước Chiêm Thành nay đã diệt vong mà ngậm
ngùi không thiết gì đến tấm thân nữa chăng”. Cảm xúc về cạnh tranh sinh tồn,
mạnh sống yếu chết được nói từ Phan Bội Châu, qua những du ký về Chàm trên
Tri tân khá rõ nét.
Lê Thanh và Trúc Khê thực hiện Một cuộc hành hương (Đi thăm Tức Mặc
quê cũ nhà Trần) [Tri tân s. 19/1941]. Hai ông chờ đợi một cảm xúc về cơ bản
không có gì mới so với du ký trung đại mà Hoa Bằng có nói đến, cảm xúc về hưng
vong, trị loạn, kim cổ. Ví dụ hai nhà du lịch viết: “Tôi đứng ở trước “Chinh nam
môn”, trong lòng lúc này bỗng cảm động bồi hồi vô hạn. Nhìn từng một ngọn cây,
một bờ cỏ, một đợt sóng ở trên ao nước, cái gì tôi cũng tưởng tượng như nó đã từng
được thân thấy những lúc võng giá rộn ràng, xiêm đai lộng lẫy của các đế hậu, các
vương công. Cái gì hằn trên mặt đường kia, phải chăng là dấu vết của bánh xe loan?
Cái gì loang loáng trên gương nước kia, phải chăng là phấn vãi hương thừa của các
bà tần phi còn lại? Ngây nhìn một lúc, tôi bất giác phải thở dài một tiếng. Nghĩ lại
cái phồn hoa của một nơi vương phủ, cái oanh liệt của một triều đế vương thời xưa
ở đây, tới nay còn tìm đâu thấy nữa? Nay người qua viếng, chỉ còn đấy mấy gian
đền mốc, tiêu điều giữa chốn đồng hoang cỏ rậm, lá rụng trong sương sớm, quạ kêu
dưới bóng chiều! Công hầu đế bá trăm năm trắng/ Phú quí công danh một giấc
vàng. Đứng trước cảnh ấy, lại nghĩ đến hai câu thơ này, niềm xúc cảm của tôi tới
99
đây, còn lấy bút nào mà tả được” [194, 7].Tuy nhiên, vẫn có chút khác biệt so với
du ký trung đại là chất lãng mạn của con người hiện đại. Họ đi từ Hà Nội đến Nam
Định bằng tàu lửa nhưng chọn cách đi bộ và đi đò để vào Tức Mặc cho cuộc hành
hương có màu sắc. “Con tàu đi Nam đưa chúng tôi đến nơi chóng quá. Chúng tôi
tiếc không bắt chước được người xưa, với chiếc áo ấy, chiếc gậy ấy, đi bộ, vừa đi
vừa đọc kinh. Từ Nam Định chúng tôi có thể đi xe tay đến tận nơi, nhưng những xe
cao su tân thời quá, đi như vậy còn gì là màu sắc của cuộc hành hương trong dự
tưởng của chúng tôi, Chúng tôi đã phí một quãng đường Nam Định-Hà Nội rồi.
Chúng tôi đi đường bộ đến Thượng Lỗi để đi đò” [194, 5]. Và trong nỗi cảm khái về
cuộc đời hưng vong, có chút tình yêu nước kín đáo gửi trong đó.
Đúng như tinh thần bài báo Gương vĩ nhân mà Tri tân mở đầu cho số chuyên
khảo về Đinh Tiên Hoàng, viết về vĩ nhân trong quá khứ lịch sử là để khơi dậy niềm
tin của mỗi người Việt Nam vào bản thân mình giữa lúc tinh thần yêu nước đang ở
tình trạng “héo lả”: “Chúng tôi muốn đem cái gương vĩ nhân ra lau làn bụi thời gian
đã phủ lên, ai nấy đều có thể đến trước tự soi để biết rằng nguyên mình là người
không đến nỗi hèn kém lắm, họa may có làm sống được cái tinh thần quốc gia héo
lả ấy được một phần nào không?” [Gương vĩ nhân, Tri tân, s.41/1942, tr. 2].
Tuy nhiên, điều chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây chính là nét lãng mạn nhất
định của các cuộc hành hương về các di tích, danh thắng như là đi tìm không gian
và thời gian bên ngoài không gian và thời gian hiện thực đang sống.
3.3. Văn du ký về phụ nữ và phụ nữ viết văn du ký
3.3.1. Văn du ký viết về phụ nữ
Một trong những dấu hiệu rõ nhất của hiện đại hóa văn học chính là ý thức
về nữ quyền. Điều đó dễ hiểu. Xã hội Phương Đông hàng ngàn năm tồn tại trong
văn hóa nam quyền, người phụ nữ bị nam giới thống trị, quyền sống và quyền bình
đẳng của họ bị hạn chế. Hiện đại hóa văn học dân tộc gắn liền với sự thay đổi trong
cái nhìn đối với phụ nữ. Một cái nhìn mới chịu ảnh hưởng của ý thức về nữ quyền
trong văn hóa và văn học Phương Tây đã nảy nở trong văn hóa và văn học Việt
Nam từ giữa thế kỷ XIX nay có thêm những biến chuyển mới mẻ, quan trọng. Văn
du ký có đóng góp riêng trong quá trình hình thành ý thức nữ quyền của toàn bộ nền
100
văn học hiện đại hóa.
Nói đóng góp riêng vì văn du ký viết về phụ nữ và phụ nữ viết du ký là
những câu chuyện người thực việc thực, khác với các hình tượng nhân vật nữ là sản
phẩm hư cấu trong cả tiểu thuyết lãng mạn của Tự lực văn đoàn và truyện, tiểu
thuyết hiện thực phê phán. Và do đó, những vấn đề nữ quyền đặt ra trong văn du ký
phản ánh trình độ thực tế của ý thức nữ quyền khác với trong tiểu thuyết, truyện
ngắn thể hiện cái nhìn chủ quan của các tác giả.
Như đã nói, nói đến vấn đề nữ quyền trong văn du ký thì trước hết phải nói
đến văn du ký mà người Việt viết trong các cuộc tiếp xúc với người Phương Tây.
Sách sổ sang chép các việc (1822) của Philiphê Bỉnh nhận xét về văn hóa ứng xử
giữa nam và nữ ở Bồ Đào Nha: “Như thói nước người mà bổn đạo nam nữ cũng ngồi
với Vit vồ cùng thầy cả, vì ở nước nào thì cứ thói nước ấy, mà thói An Nam là thói
lịch sự cho đến nỗi có nhà mà vợ chồng cũng chẳng ngồi ăn cơm với nhau vì cha thì
ngồi với con giai, mà mẹ thì ngồi với các con gái. Sau có một truyện bổn đạo u mê
mà khi thầy cả đạo thánh đến làm phúc, thì nó dọn một mâm cùng hai bát cơm cùng
hai đôi đũa, người nhà thầy liền hỏi rằng: hôm nay có cụ nào đây ru mà dọn hai bát
cơm, nó thưa rằng có bà mụ vì nó nghĩ rằng: bà mụ chính thì chẳng được ngồi với cụ,
mà bà mụ tùy thì sẽ ngồi với các thầy, vì nó thấy mâm cỗ ngày tết mà bổn đạo đến lễ
lạt thì cũng lặng bà mụ chính như Cụ lặng vậy ” [16, 150-151]. Trong nhiều điểm
ngạc nhiên về văn hóa Phương Tây, Philiphê Bỉnh nói đến sự bình đẳng, tự nhiên của
nam nữ ở Phương Tây, khác với Việt Nam (và Phương Đông nói chung) có nghi lễ
nam nữ thụ thụ bất thân. Ông sử dụng khái niệm “thói lịch sự” để nhận xét nghi lễ
nam nữ thụ thụ bất thân của xứ mình, nó đã ăn sâu vào hành vi ứng xử của cả những
người trong gia đình, đến mức vợ chồng cũng không ngồi ăn cơm cùng nhau mà tách
biệt, chồng ngồi cùng con trai, vợ ngồi cùng con gái.
Theo hướng quan sát này thì phải kể đến ấn tượng của nhà nho Cao Bá Quát
trong chuyến đi dương trình hiệu lực sang vùng Đông Nam Á quãng năm 1843
(hoặc 1844?). Ông đã viết bài thơ Tây dương thiếu phụ ghi lại một hình ảnh lạ về
một thiếu phụ Phương Tây mặc đồ trắng như tuyết (đồ trắng với người Việt Nam
cho đến khi tiếp xúc với Phương Tây là màu gợi sự tang tóc-Hà Tôn Quyền cũng đã
101
dùng cụm từ tuyết y khách để gọi người Hà Lan), ngồi tựa vào vai chồng (theo nhà
nho, nam nữ hữu biệt). Nhà nghiên cứu Vĩnh Sĩnh có so sánh mở rộng thú vị: Phúc
Trạch Dụ Cát trong một phái bộ Nhật Bản sang Hoa Kỳ công cán, rất ngạc nhiên
khi thấy nam nữ khiêu vũ chạy đi chạy lại trên sàn nhảy, hoặc một lần được mời
đến ăn tối tại nhà người Mỹ gốc Hà Lan, “khi bữa ăn thịnh soạn sắp sửa được bày
dọn trên bàn, điều tôi [Fukuzawa] thấy kì lạ nhất là bà chủ nhà vẫn ngồi trên ghế trò
chuyện tỉnh bơ với khách, trong khi ông chủ nhà thì xăng xít điều động người giúp
việc dọn thức ăn ra cho khách. Điều này thật hoàn toàn trái ngược với phong tục tập
quán ở Nhật Bản” [167]. Tất cả các nước trong khu vực ảnh hưởng của văn hóa
Khổng giáo đều theo nghi lễ “nam nữ thụ thụ bất thân” nên điều gây ấn tượng mạnh
mẽ nhất cho người các nước này chính là sự giao tế tự nhiên, bình đẳng nam nữ.
Phạm Phú Thứ đi sứ sang Pháp kể lại trong Tây hành nhật ký sự có mặt của
một phụ nữ người Việt lấy chồng Pháp trong buổi tiếp tân mừng thọ vua Tự Đức.
Ông chú ý đến cách ứng xử của “lễ quan” (quan chức ngoại giao của Pháp) đối với
bà Nguyễn Thị Sen, 75 tuổi-một phụ nữ người Việt lấy chồng Pháp- “Đúng giờ khai
mạc, Lễ quan nước đó tới chúc mừng. A Ba Ly (Aubaret) giới thiệu Thị Sen và
thuật lai lịch của bà này, Lễ quan quay lại phía hai mẹ con và bắt tay thi lễ, xong rồi
nhường bà ta ngồi trên tràng kỷ (hỏi ra thì phong tục Tây đều coi trọng phụ nữ,
phàm trong yến tiệc mà có phụ nữ, thời kỳ thù tiếp cũng coi như nam giới chứ
không phân tị hiềm gì, dẫu chưa quen biết bao giờ cũng thế, huống chi Thị Sen lại
là người Việt, nên các quan chức nước đó càng kính mến hơn” [214, 91]. Trong một
đoạn văn ngắn, mặc dù giữ điềm tĩnh, Phạm Phú Thứ vẫn phải ghi lại hai chi tiết
quan trọng: nam nữ bắt tay nhau và nam nhường ghế cho nữ.
Một sự kiện khác cũng gây ấn tượng cho Phạm Phú Thứ: ông nhận được giấy
mời của viên Đại học sĩ mời đến nhà dự tiệc, trong giấy viết rằng “Đô Dư Anh Đê
Luy và phu nhân kính mời quý ông, ngày mai hồi 6 giờ chiều, đến tệ xá đàm thoại”.
Ông tìm hiểu mới hay “chiếu theo tục lệ của nước này, chỉ khi nào họ coi trọng
khách lắm thời trong thiếp mới đứng tên cả hai vợ chồng mời” [214, 111].
Nhưng những cảm xúc lạ lùng của một nhà nho ở những năm 1860 của thế
kỷ XIX đến thế hệ Phạm Quỳnh ở đầu thế kỷ XX không còn nữa. Chuyện nam nữ
102
khiêu vũ ở Mỹ mà Phúc Trạch Dụ Cát thấy ngạc nhiên thì Phạm Quỳnh bắt gặp
ngay trong lễ hội chào mừng Quốc khánh Pháp. Không phải trong nhà mà ngay trên
đường phố, có tổ chức hẳn hoi, ở đầu các phố, có đặt bục gỗ cho người đánh dương
cầm, nam nữ khoác tay nhau, không phân biệt đẳng cấp tước vị. Trong Pháp du
hành trình nhật ký, Phạm Quỳnh đã dự nhiều buổi tiếp tân của người Pháp có cả các
bà vợ chủ nhà cùng chồng tiếp khách. Thực tế tiếp xúc văn hóa và hiểu biết qua
sách vở thì các sự kiện bề ngoài tương tự của bình đẳng nam nữ không còn xa lạ
nữa. Là một trí thức, lại thông thạo tiếng Pháp nên ông đã đi sâu hơn vào văn hóa
nữ quyền của Phương Tây hơn hẳn các nhà nho như Phạm Phú Thứ. Có buổi Phạm
Quỳnh đến thăm và dự cuộc tiếp tân của một phụ nữ Pháp, người đã dự buổi diễn
thuyết của ông hôm trước về đề tài thi ca Việt Nam. Điều đáng nói là vị phu nhân
này không phải đơn giản là tiếp khách cùng chồng mà là “chủ salon theo như lịch sử
phong nhã của nước Pháp”. Trong cuộc tiếp khách, có năm sáu vị phu nhân, ba bốn
ông quí khách, “chừng là những tay văn nhân tài tử cả”. Nghĩa là người phụ nữ ở
Pháp bình đẳng so với nam giới không chỉ về quyền mà quan trọng hơn, bình đẳng
cả về học vấn, trí tuệ. “Bà mời ngồi chơi, rồi hỏi chuyện về bên ta, nói về đạo
Khổng, đạo Phật, về văn hóa Đông Phương Tây phương, trong bài diễn thuyết hôm
qua bà lấy làm thích nhất là ở chỗ nói về cái tục nam nữ giao ca ở nước ta, bà muốn
biết rõ cách hát thì ở nhà quê ta thế nào; mình cắt nghĩa cho nghe về cách hát trống
quân, hát quan họ, (…); bà cho cái tục đó là tuyệt thú mà nức nỏm khen” [33, 572].
Người phụ nữ này am hiểu và quan tâm nhiều vấn đề về văn hóa thế giới, người phụ
nữ có tầm vóc trí tuệ như vậy thì ở Việt Nam cho đến năm 1922 vẫn chỉ là mong
mỏi, chờ đợi. Vì thế mà Phạm Quỳnh nghĩ “Bà chủ người tuyệt nhã; tuổi còn thanh
xuân, hình dung yểu điệu, dáng dấp dịu dàng, mà câu chuyện phong thú biết bao
nhiêu! Thật là một bà chủ sa lông theo như lịch sử phong nhã của nước Pháp. Bao
giờ cho xã hội An Nam ta cũng có những bậc đàn bà nhã thú như thế?” [33, 572].
Đây là một mơ mộng tiến bộ, có chút lãng mạn về người phụ nữ hiện đại, dựa trên
thực tế quan sát thấy ở Phương Tây, chứ không phải là nhằm giải quyết vấn đề nữ
quyền ở thực tế xã hội Việt Nam. Người phụ nữ Việt Nam còn ở một khoảng cách
quá xa với mẫu bà chủ sa lông ở Pháp. Ở Việt Nam, sau bài du ký này quãng chục
103
năm, cũng mới chỉ xuất hiện các nhân vật phụ nữ đấu tranh cho quyền tự do hôn
nhân, chống ách áp bức của đại gia đình phong kiến, hình tượng những cô gái mới,
tân thời chứ chưa thể hình dung về kiểu phụ nữ trí thức chủ nhân sa lông văn hóa
như ở Pháp được.
Một vấn đề khác mà ở trong nước, ngay cả các nhà văn Việt Nam có tinh
thần nữ quyền cao cũng khó mường tượng -đó là việc một nữ diễn giả Pháp nói về
quyền đàn bà được trụy thai [33, 399]. Ta biết Thiên chúa giáo thời đó chủ trương
cấm phụ nữ “kế hoạch hóa gia đình” nên bàn về bình đẳng nam nữ thì được nhưng
nói đến đề tài cho phụ nữ quyền trụy thai là cấm kỵ.
Một sự kiện khác là Phạm Quỳnh làm quen ông Diagne (người Senegal, da
đen, đã nhập tịch Pháp) là nghị sĩ thuộc nghị viện Pháp, có vợ người Pháp có nhan
sắc. Nếu so sánh với bài thơ Cô Tây đen mà Tản Đà viết để chế giễu những cô gái
Việt Nam lấy chồng tây đen (anh tiếc cho em phận gái má đào/tham đồng bạc trắng
mới gán mình vào cái chú Tây đen) thì mới thấy tầm nhìn, tầm hiểu biết của Tản Đà
hạn hẹp do không có trải nghiệm quốc tế. Tư tưởng văn hóa thuần chủng của nhà
nho vẫn ám ảnh những tác giả như Tản Đà. Trong khi đó, Phạm Quỳnh chỉ bình
luận “ái tình thật không phân biệt gì giống loài” [33, 563].
Nhìn chung, trong du ký ghi chép ở nước ngoài thì những quan sát của Phạm
Quỳnh cũng gợi mở cho văn hóa và văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ về nhiều vấn
đề nữ quyền trên một phổ rộng hơn những vấn đề đặt ra trong văn học lãng mạn
trong nước.
Nhưng nước Pháp và Phương Tây nói chung cũng có vấn đề như nhiều nước
khác mà cho đến tận nay nhân loại chưa giải quyết được: phụ nữ bán hoa, những
người sống trong xóm bình khang ở Paris. Phạm Quỳnh cùng các thành viên trong
đoàn, với tư cách là người đi xem để hiểu “kẻ khác” không giữ thái độ giả đạo đức,
họ quyết định đi “khảo sát”. Ông kể về khu “Mông Mạc” [33, 484-485]. Chỉ có điều,
gái bán hoa ở đây được hành nghề công khai, nơi này san sát lâu đài tửu quán, đèn
điện sáng choang. Thơ ca ngâm vịnh ở xóm Mông Mạc này rất nhiều, khách phong
lưu như thi nhân, họa sĩ lui tới thường xuyên tìm cảm hứng sáng tạo. Rõ ràng vấn
đề người phụ nữ bán hoa trong xã hội tư bản rất nan giải mà Phạm Quỳnh nhạy cảm
104
nhìn nhận từ khá sớm.
Văn du ký viết trong nước đề cập đến người phụ nữ có những bài của Mãn
Khánh Dương Kỵ, Tam Lang viết về phụ nữ Chăm. Ấn tượng của Tam Lang là
người đàn bà Chăm quần quật làm lụng chợ búa, chăm con, còn đàn ông Chàm
chơi dài. “Trong gia đình Chàm, chỉ người đàn bà mới suốt ngày bận rộn. Từ
sáng đến tối họ làm hết các công việc khó nhọc như ra đồng cấy gặt, ra tỉnh mua
bán, vào Mọi đổi chác, rồi về nhà lại dã gạo, sàng gạo, chăn con trẻ, giặt áo xống,
nấu ăn, tiếp khách, dệt vải, xe bông. Sẩm tối, khi công việc đã ngớt, người đàn
bà Chàm, đầu đội chiếc bình đất lớn, lại ra sông, lạch, vợi nước về dùng. Quần
quật suốt ngày, thế mà họ không bao giờ có một tiếng phàn nàn về chồng con là
những kẻ suốt ngày ăn xong lại nằm, nằm chán lại chạy nhông hoặc mơ màng
ngồi hút thuốc” [Tam Lang, Một ngày ở xứ Chàm, Tri tân s. 1/1941, tr. 6]. Đây
rõ ràng là thân phận của phụ nữ trong xã hội nam quyền điển hình. Bất bình đẳng
tới mức khi ăn, người đàn ông Chàm dùng đũa gắp thức ăn còn đàn bà Chàm lấy
tay bốc (?).
Nhưng văn du ký về phụ nữ cũng có khi đề cập đến cách phục sức và vẻ
đẹp của người phụ nữ Việt. Đi suốt từ Hà Nội qua cách tỉnh miền Trung vào đến
Sài Gòn, Mẫu Mục Sơn N.X.H so sánh cách phục sức của phụ nữ Bắc-Trung-
Nam, chê lối mặc của phụ nữ từ Hải Vân đến Sài Gòn, rồi phát biểu: “Về lối ăn
mặc của đàn bà ta, tôi tưởng không gì bằng lối ăn mặc của nhà quê Bắc Kỳ. Ta
thử xem cách ăn mặc các nước văn minh Thái Tây chú trọng nhất là chỗ ngực,
đều để lộ cái áo “sơ mi” ở ngực ra cho tôn lên. Vậy cái yếm của đàn bà mình
thực là đẹp, mà lại hợp vệ sinh, là giữ được kín bụng, lại giữ được khỏi vú sa. Và
đàng lưng hở lại mát, vì mình ở xứ nóng. Nếu ngực có đeo đồ trang sức, được
cái yếm lại tôn đẹp thêm lên. Cái yếm thực là một đồ ăn mặc đẹp đặc biệt của
đàn bà nước mình” [33, 40].
Văn du ký về phụ nữ tuy chưa phải thật phong phú song cũng cho thấy cái
nhìn hiện đại của các tác giả nam giới viết về phụ nữ. Cái nhìn hiện đại phát hiện
những vấn đề, những khía cạnh về người phụ nữ mà văn học trung đại chưa hề
chạm đến, và đồng thời trong các thể loại khác của văn học hiện đại cũng chưa
105
đề cập.
3.3.2. Văn du ký của phụ nữ
Trong bài Lịch trình tiến hóa của văn học phụ nữ ta trên Tri tân năm 1943
(số chuyên san về văn học phụ nữ Việt Nam), Hoa Bằng viết “Từ khi có chữ quốc
ngữ, báo quốc ngữ, chị em bạn gái nắm được cái lợi khí ấy, thường hay giãi bày tâm
tư ý tưởng trên báo chương…Từ khi Âu hóa, nhiều bà chịu ảnh hưởng hoặc gián
tiếp hoặc trực tiếp của văn chương tây, nhất là tiểu thuyết tây, rất dễ tiêm nhiễm cái
tư tưởng lãng mạn trong văn học của họ. Một khi áp dụng vào quốc văn, lắm cây
bút nữ lưu đã tỏ ra chịu ảnh hưởng của Tây phương một cách rất sâu xa” [15, 787].
Ông điểm tên một số tác giả nữ như Tương Phố Đỗ Thị Đàm, Đạm Phương nữ sử,
Huỳnh Thị Bảo Hòa…Trong đó có tác giả nữ viết du ký là Huỳnh Thị Bảo Hòa
nhưng lại thiếu không nhắc đến Mộng Tuyết, Vân Đài. Nhưng Hoa Bằng đã nhấn
mạnh đúng một khía cạnh về chất lãng mạn, chịu ảnh hưởng Tây phương trong sáng
tác của các tác giả nữ.
Trong công trình nghiên cứu của Carl Thompson Travel Writing, tác giả
dành một chương về vấn đề giới và tính dục trong văn du ký. Theo nhà nghiên cứu
này, việc đi lại, tự do dịch chuyển thường được coi là độc quyền đàn ông. Phụ nữ
thường được liên tưởng với sự tĩnh tại, với công việc nội trợ. Thường phụ nữ đi
cùng cha mẹ, chồng, con trong các chuyến đi xa. Nhưng trong văn du ký Phương
Tây thế kỷ XVIII-XIX, phụ nữ đã đi du lịch độc lập.
Người phụ nữ đi và viết về các chuyến đi bằng văn xuôi du ký là hiện tượng
mới mẻ chưa từng thấy trong văn học trung đại. Hồi trung đại, không phải tuyệt đối
không có phụ nữ đi và viết: ta biết có một Hồ Xuân Hương, một bà Huyện Thanh
Quan đi nhưng họ chỉ viết thơ và chất tự sự, chất lãng mạn của văn du ký vắng bóng
trong sáng tác của họ. Đến thời hiện đại, ta có Huỳnh Thị Bảo Hòa đi du lịch Bà Nà,
có Nguyễn Thị Kiêm đi suốt từ Nam ra Bắc để diễn thuyết về nữ quyền, có Vân Đài
bốn năm trên đảo Cát Bà, có Mộng Tuyết đi thăm Phú Quốc. Qua các chuyến đi và
tâm sự của họ ta hình dung rõ diện mạo của thế hệ phụ nữ mới, hiện đại không
những không gặp trong văn học trung đại mà trong các thể loại khác của văn học
106
hiện đại cũng không thể hiện.
Văn du ký của tác giả nữ trước hết là kết quả của việc người phụ nữ đi-đi ra
khỏi nhà, đi xa hay gần nhưng để có trải nghiệm của con người xã hội. Những
người phụ nữ Việt Nam truyền thống vốn sống trong những không gian khép kín,
gọi là khuê phòng, khuê các. Cô gái thôn quê của chàng trai trong bài thơ Tương tư
của Nguyễn Bính cũng sống trong không gian khép kín mà chàng gọi một cách văn
hoa là “khuê các” (Bao giờ bến mới gặp đò/ Hoa khuê các bướm giang hồ gặp
nhau). Mở rộng hơn, họ sống trong không gian của cánh đồng quê, dòng sông, chợ
quê. Những người phụ nữ trung lưu có thể đi xa theo chồng làm quan đây đó, nhưng
trong thế phụ thuộc. Bản thân việc những người phụ nữ Việt Nam đi du lịch xa đã là
một bước đột phá trong tư tưởng xã hội. Nhiều bậc cha mẹ, nhiều người chồng đã
thấy cần tôn trọng quyền đi, quyền hiện diện trong không gian xã hội ngoài gia đình.
Người phụ nữ đi du lịch là một trong những dấu hiệu quan trọng của hiện đại hóa xã
hội. Trong tiểu thuyết và thi ca, chúng ta hầu như không bắt gặp những nhân vật
phụ nữ hư cấu đi du lịch ngoại trừ kiểu nhân vật cô Tuyết giang hồ trong Đời mưa
gió hoặc Tám Bính giang hồ trong Bỉ vỏ. Đi vẫn là độc quyền của nam giới: một ly
khách trong Tống biệt hành của Thâm Tâm hay chàng Dũng trong Đoạn tuyệt của
Khái Hưng-Nhất Linh. Nhưng văn du ký đã cho thấy có thực những người phụ nữ
kiểu mới đi du lịch. Một khía cạnh mới của chủ nghĩa nữ quyền cần được phân tích.
Chất lãng mạn của tâm hồn phụ nữ đi du lịch đã được chúng tôi điểm qua trong mục
3.2.1 nên ở mục này, chúng tôi chỉ chọn phân tích điểm nhìn về thân phận, hình ảnh
người phụ nữ trong văn du ký của một tác giả nữ tiêu biểu là Nguyễn Thị Kiêm.
Có một sự tương ứng giữa việc Nguyễn Thị Kiêm thực hiện một cuộc hành
trình từ miền Nam ra miền Bắc để cổ động việc đọc Phụ nữ tân văn và tuyên truyền
cho nữ quyền với sự kiện Nguyễn Thị Kiêm đăng đàn diễn thuyết cổ vũ cho thơ mới.
Đây là người phụ nữ nhiệt thành cổ vũ cho cái mới. Tối ngày 26-7-1933 Nguyễn
Thị Kiêm diễn thuyết tại Hội Khuyến học Sài Gòn. Đây là buổi diễn thuyết đầu tiên
trong lịch sử đã 25 năm của Hội mà diễn giả là phụ nữ. Hai năm sau, tháng 11-1935,
bà lại diễn thuyết một lần nữa về thơ mới tại Hội Khuyến học. Năm 1934, Nguyễn
Thị Kiêm, Phan Thị Nga và chủ nhiệm báo lên đường đi ra Bắc để vận động cho
107
báo Phụ nữ tân văn và chủ nghĩa nữ quyền. Theo bài viết Phái bộ của Phụ nữ tân
văn về tới Sài Gòn (số 265, ngày 8-11-1934), “ngoài sự đồng bào nam nữ ở Bắc
mua báo Phụ nữ tân văn và cổ động giúp cho cơ quan nầy được thêm lực lượng ra,
các nữ phái viên của bổn báo, cô Nguyễn Thị Kiêm và Phan Thị Nga đã bắt đầu
thiệt hành một vài cái trách nhiệm trong chương trình phụ nữ chủ nghĩa…Có điều
nầy là hiển nhiên: hai cô bạn Kiêm và Nga trong phái bộ của Phụ nữ tân văn đã gây
được một cơ hội hay cho trào lưu của phụ nữ An Nam khắp ba kỳ”.
Đi từ Sài Gòn ra Hà Nội, Nguyễn Thị Kiêm có nhiều cảm tưởng về mọi khía
cạnh của thành phố cổ kính, từ các công trình lịch sử, các cảnh quan, đến con người,
lối sống. Nhưng là một phụ nữ có tư tưởng nữ quyền, cô quan tâm nhiều hơn, có
nhiều nhận xét đáng chú ý về người phụ nữ ở Hà Nội. Trong bài du ký dưới dạng
một bức thư gửi cho chị Huê, Nguyễn Thị Kiêm kể lại các ấn tượng, suy nghĩ của
mình về phụ nữ Hà Nội trong sự so sánh với phụ nữ Nam Kỳ. Chẳng hạn, bán kem
ở bờ hồ Hoàn Kiếm “không phải là mấy chú Chệc tèm lem mộc mạc đẩy xe rung
chuông, giữ độc quyền bán kem” mà “bán kem Hà Nội là mấy cô gái má phấn, môi
son, khéo nói, khéo mời, khéo chìu khách”. Chắc cô đã đọc báo chí nói chung và
Phụ nữ tân văn kể về những vụ tự tử của các cô thiếu nữ trẻ ở các hồ Hà Nội 14 nên
liên tưởng đầu tiên vụt đến trong óc cô gái lớn lên ở Nam Kỳ khi đến Hà Nội là
chuyện tự tử này. “Hôm tôi đến Hà Nội ngày đầu, thấy Hồ Gươm lần thứ nhứt, tôi
vụt hỏi: “Có phải hồ nầy người gọi là mồ hồng nhan?”. Người ta gật đầu, tôi lại
ngạc nhiên: “Làm sao mà tự tử được giữa chốn đông đảo vui đẹp thế này. Cái chết
này chẳng có tính cách cái chết!”. Vì trước kia, nghe nói đến sự tự tử ở Hồ Gươm,
14 Trên Phụ nữ tân văn năm 1929, Phan Khôi viết “Gần nay, trong nữ giới ta có xảy ra nhiều vụ tự sát. Thì
cách hơn tháng trước, ở Hà Nội, trong một tuần lễ, mà hết bốn năm mạng vừa đàn bà, vừa con gái; ba mạng
thì trầm mình nơi hồ Hoàn Kiếm, còn thì quyên sanh vì ả phù dung. Mới trong tuần đầu tháng chín tây đây, ở
Nam Định có cô Trần Thị Quế cũng tự tử bằng cách sau đó, nhưng cứu được; còn ở Sài Gòn cũng có người
đàn bà gieo mình xuống sông Thị Nghè, mà đã hơn tuần lễ mới vớt được thây. Ấy là những vụ chúng tôi biết
được, hoặc còn nhiều nữa mà chúng tôi không được tin thì chưa kể. Nhưng mới trong vài tháng mà số tự sát
đến ngần ấy, cũng đã là nhiều rồi” (76).
108
tôi tưởng tượng ra một cảnh sầm uất, vắng vẻ, xa thành phố, chỗ có chim ụt đếm giờ,
dế gọi tỉ tê. Thế mà, sự thật hồ Hoàn Kiếm là nơi nhiều người đắm đuối. Vợ chồng
cãi cọ với nhau một chút, vợ toan nhảy xuống hồ, học sinh chán bài, chán thi cũng
toan nhảy xuống hồ, con bị cha mẹ rầy la cũng định trầm mình nơi ấy. Sự chết dễ
dàng, gần bên mình lại làm cho người ta không xét đến cái giá trị của sự sống” [79,
13]. Vấn đề khiến Nguyễn Thị Kiêm quan tâm cũng là sự quan tâm chung của
những ai chú ý đến biến động trong quan niệm sống của các thiếu nữ đương thời,
nói rộng hơn là những biến đổi văn hóa trong chiều sâu của tâm lý phụ nữ. Điều này
đã được nhà nghiên cứu Nguyễn Nam phân tích thấu đáo và có những kết luận xác
đáng (xem chú thích 113). Nhà nữ quyền trẻ tuổi không thể không lập tức liên
tưởng đến thân phận người phụ nữ trong giây phút đầu tiên bên hồ Hoàn Kiếm: cô
nghĩ đến mấy chữ mồ hồng nhan từ Truyện Kiều. Đây là nơi chôn vùi cuộc sống của
những thiếu nữ (chứ không phải của nam giới!). Nếu như Vũ Trọng Phụng trong Số
đỏ đem chuyện các cô gái tự trầm để hài hước, giễu cợt thì Nguyễn Thị Kiêm nghĩ
đây là điều hệ trọng.
Nguyễn Thị Kiêm còn quan tâm đến phụ nữ miền Bắc ở nhiều phương diện
khác. Vẻ đẹp nền nã, có cái gì đó rất truyền thống toát lên từ cách phục sức và nhất
là hàm răng đen gây cho cô ấn tượng mạnh. “Nói đến chị em Hà thành, tôi nhớ đến
một câu của một người bạn trai Nam Kỳ: “ Các cô gái ấy mỹ miều, có hơi kín đáo,
có hơi bí mật, mà cái miệng là cái hang sâu thẳm lọt mất biết bao lời lẽ thâm trầm”.
Bạn tôi phê bình thế là ngụ ý tiếc hàm răng nhuộm của chị em làm nụ cười đen tối.
Nhưng hiện nay, người đàn bà Bắc để răng trắng cũng nhiều. Người có răng đen
nếu nhuộm thật tốt, bóng láng như hạt huyền thì cũng đẹp riêng một vẻ” [79, 14].
Riêng ở điểm này, những yếu tố văn hóa riêng trong tục nhuộm răng đen không
được anh bạn của Nguyễn Thị Kiêm và chính Nguyễn Thị Kiêm hiểu đúng. Điều
mà họ muốn là thay đổi kể vẻ đẹp thẩm mỹ cho người phụ nữ Việt Nam theo hướng
hiện đại.
Một khía cạnh xã hội khác của người phụ nữ mà Nguyễn Thị Kiêm quan sát
thấy: sự bất công giữa tầng lớp giàu nghèo. “Đi ngoài đường, nhất là buổi chiều và
109
tối, người ta gặp rất nhiều bà nhiều cô ăn mặc sang trọng đẹp đẽ, rất nhiều ông
“mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”. Một cảm tưởng đầu thoạt nhiên nảy trong
trí tôi ngay lúc bước vào thành phố Hà Nội là ở đây, cái nghèo, cái sang, thấy rõ rệt
quá. Rõ rệt vì gần các ô tô lồng kiếng láng bóng, gần các bộ áo xinh xắn huê dạng
lại có mấy chục mấy trăm đốm vải nâu của dân nghèo, cái màu nâu đã phai lợt với
nắng, nước”. Trên kia chúng tôi đã dẫn ghi chép của Tùng Vân về các cô gái Sơn
Tây mặc cả áo vá đi hội. Chẳng phải để tỏ tài khéo vá may như bà cụ giải thích cho
Tùng Vân, đó chỉ là hiện thân của nỗi khốn khó mà các cô gái Sơn Tây phải chấp
nhận. Thì đây, một du khách từ Nam Kỳ ra lại nêu vấn đề tương tự, không chỉ là
biểu hiện của bất công giàu nghèo mà còn là biểu hiện sự nghèo khó của kinh tế
vùng Bắc Kỳ: “Ai có đến Sài Gòn, Huế rồi, mà tới Hà Nội lần đầu thì có lẽ cũng
nhận thấy cái rõ rệt đặc biệt ấy ở nơi đây” [79, 14].
Nguyễn Thị Kiêm cũng không quên ghi nhận sự siêng năng chịu khó của phụ
nữ Bắc Kỳ. “Trong các tánh tốt của người đàn bà Bắc Kỳ, tánh siêng năng bặt thiệp
có lẽ là tánh chung. Phụ nữ Bắc Kỳ buôn bán giỏi, làm việc nhiều, bằng hay là trội
hơn đàn ông. Đây là kể hạng trung và hạ lưu. Đi ngoài đường, mình thấy mấy cỗ xe
chở cây, thùng, hàng nặng mà người kéo xe toàn là đàn bà, hoặc đàn bà lẫn đàn ông.
Ở thành phố Hà Nội chẳng có xe ngựa, xe bò, bao nhiêu công việc nặng nề do tay
người cả”. Trong lời khen có ngầm một ý ái ngại, cám cảnh. Đây là cái nhìn thực sự
tập trung vào thân phận phụ nữ, khác với cái nhìn của Tam Lang (Một ngày ở xứ
Chàm) đã nói ở trên tuy nói đến phụ nữ Chàm vất vả gian khó nhưng chủ yếu nhằm
phê phán đàn ông Chàm lười biếng, ỷ lại vợ.
Tinh thần phụ nữ mới của Nguyễn Thị Kiêm còn bộc lộ ngay trong cái nhìn
ngầm phê phán phong khí có vẻ suy đồi của thanh niên Hà Nội: “Cách Hà Nội
chừng hai cây số ngàn, có xóm Khâm Thiên, đây là xóm ả đào, xóm đăng- xinh
(dancing), chiều tối nào cũng tấp nập khách chơi, xe cộ…Thanh niên Hà Thành rất
có nhiều sự quyến rũ (tentations) chung quanh mình. Ở đất ngàn năm văn vật này,
phong cảnh hữu tình có thể đúc ra những óc lãng mạn mà cuộc chơi của thành phố
ánh sáng đang chực chờ để lôi cuốn, thâu nhập, rồi nhả ra những tâm hồn bạc nhược
chẳng có khí phách, chẳng có cái tinh thần mạnh mẽ đáng gọi là tinh thần thanh
110
niên” [79, 15].
Chuyến đi của cô gái Nam Kỳ ra Bắc Kỳ rất có ý nghĩa đối với văn học hiện
đại. Ít nhất, ta có được một cái nhìn so sánh Nam-Bắc của một người phụ nữ trẻ tuổi,
tân tiến, có tư tưởng hiện đại về quyền phụ nữ và về cuộc sống nói chung. Thiên du
ký của bà nêu nhiều vấn đề hệ trọng về người phụ nữ chưa từng gặp trong văn học
trung đại.
Dọc đường đi ra Bắc, Nguyễn Thị Kiêm cũng thể hiện góc nhìn của phụ nữ
chú ý đến cảnh đời phụ nữ hay. Vùng Phan Rang Phan Rí đất cát khô bỏng: “Ngồi
trong xe đi qua mấy cánh đồng khô nóng ấy, mình tưởng tượng là lạc trong bãi sa
mạc nào. Thế rồi trong cái cảnh phẳng lặng đìu hiu ấy, ta lại gặp một vài người đàn
bà Chàm, mặc cũng dài, bó cái mình ốm, cao thẳng, đầu đội thúng to, đi điềm nhiên
trong khoảng vắng. Mấy người này mặt nám, tóc quăn có cái vẻ lãnh đạm như
tượng đồng…Thỉnh thoảng ta lại gặp người đàn bà mình, cũng da đen mặt nám
nhưng nét mặt dịu dàng hơn, nhưng lang thang rách rưới hơn, hai vai hoằng hoại
một gánh nặng, cúi đầu đi, đi như người có tội, trên mặt có vẻ vất vả đau thương, đi
như Đức chúa Giê Du mang cây thánh giá nặng. Họ là mấy đốm đen trơ trọi trong
cánh đồng trắng không bóng cây, không dạng nhà” [80, s. 258, tr. 10].
Một số đoạn trích đủ để hình dung nét riêng biệt của văn du ký tác giả nữ, họ
quan tâm nhiều đến thân phận phụ nữ hơn các tác giả nam giới. Những vấn đề phụ
nữ nêu lên trong văn du ký, do các tác giả đi nhiều, thay đổi không gian văn hóa
trên phạm vi địa lý rộng, là những gì thực sự tác giả tai nghe mắt thấy, nên có một
giá trị riêng, khác với các vấn đề phụ nữ đặt ra trong các tác phẩm hư cấu, kể cả văn
111
học lãng mạn hay văn học hiện thực phê phán.
Tiểu kết
Hiện đại hóa văn học Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX là một quá
trình bao gồm nhiều phương diện, nhiều xu hướng. Văn du ký là thể loại văn xuôi
trung gian đứng giữa các thể loại hư cấu như truyện ngắn, tiểu thuyết và thể loại phi
hư cấu nên có những đóng góp riêng so với mảng sáng tác hư cấu trong công cuộc
hiện đại hóa văn học dân tộc nửa đầu thế kỷ XX. Ba mảng nội dung chủ đạo, nổi bật
được xem như là đóng góp của văn du ký cho diện mạo của nền văn học hiện đại là
nhận thức về “người khác” từ nhu cầu tự thay đổi để phát triển; tính chất lãng mạn
của cảm hứng du lịch và ý thức nữ quyền thể hiện trong văn du ký của các tác giả
112
nam giới và văn du ký của chính các tác giả nữ.
CHƢƠNG 4
NGHỆ THUẬT VĂN DU KÝ VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
VÀ HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC
Trong khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa văn du ký và sự tiến hóa của tiểu
thuyết Phương Tây hiện đại, Percy Adams cho biết, A. O. Aldridge từ những năm
1960 đã kêu gọi đánh giá lại các nhân tố đứng sau sự ra đời của tiểu thuyết và trong
khi xem nhẹ yếu tố cấu trúc và đề tài, Aldridge cho rằng cần nghiên cứu các kiểu tự
sự bao gồm sử thi, tiểu thuyết lịch sử, sử học, tiểu sử học và văn học du lịch (travel
literature). Nói một cách ngắn gọn, ở Phương Tây, văn du ký có đóng góp quan
trọng cho sự ra đời của tiểu thuyết hiện đại Phương Tây.
Giới nghiên cứu Phương Tây nhận thấy trong văn du ký các thế kỷ XVI,
XVII và XVIII sử dụng phổ biến bốn hình thức tự sự sau: viết thư, nhật ký, tự sự
ngôi thứ nhất, tự sự ngôi thứ ba và các hình thức không điển hình như đối thoại.
“Khi xem xét lịch sử của văn du ký, người ta thường chủ yếu tập trung vào thư từ, nhật ký, tự sự ngôi thứ nhất, và vô số những tự sự ghi chép lại ở ngôi thứ ba15, đó là
những hình thức rất phổ biến từ những năm 1530” [276, 45]. Các hình thức tự sự đó
được giới nghiên cứu Phương Tây xem như là các nền tảng thi pháp cần thiết chuẩn
bị cho sự ra đời của tiểu thuyết hiện đại. Nói cách khác, văn du ký ở Phương Tây là
hình thái tiền thân của tiểu thuyết hiện đại.
Carl Thompson trong Travel Writing đặc biệt chú ý đến bản chất của các
hình thức tự sự là nhằm đạt đến mục đích tả chân bức tranh cuộc sống mà người du
lịch quan sát. Chẳng hạn, đối với hình thức ghi nhật ký, ông viết: “Giữ hình thức
nhật ký là một tôn chỉ then chốt của Hội Hoàng gia. Nó được dự tính để bảo đảm
rằng các quan sát được ghi chép hãy còn tươi mới trong trí nhớ, thậm chí các cảnh
tượng và sự kiện như còn đang trước mắt khách du chứ không phải là được nhớ lại
15 Tự sự ngôi thứ ba: chẳng hạn tác giả không trực tiếp kể mà dẫn lại một truyền thuyết dân gian ở địa phương hoặc dẫn lời kể của người khác, dẫn các tài liệu nghiên cứu, điều tra của môn dư địa chí.
113
ở một địa điểm khác, trong một thời gian lùi về sau” [261, 75].
Nhưng văn du ký không chỉ là sự ghi chép khô khan các sự kiện, các con số
về các địa điểm, các vùng đất như cuốn sách hướng dẫn du lịch mà còn là sự bộc lộ
cái tôi của người du lịch, là sự tự khám phá bản thân cuả người kể chuyện ở ngôi
thứ nhất. Carl Thompson viết: “Phổ biến hơn là các tự sự hướng đến sự hòa quyện
giữa thế giới nội tâm và thế giới khách quan, pha trộn giữa sự miêu tả khách quan
mang tính sự kiện hiển nhiên về con người và địa điểm mà tác giả đi qua với sự
tường thuật có tính chủ quan rõ rệt các tư tưởng và cảm xúc của chính người du
hành về tiến trình du lịch” [261, 98]. Sự cân bằng giữa hai phương diện khách quan
hóa và chủ quan hóa này là khác nhau qua các thời đại và các tác giả văn du ký,
song hai phương diện đó luôn tồn tại. Điều này cũng làm nên một đặc trưng cơ bản
của tiểu thuyết hiện đại.
Tất nhiên, văn du ký của Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX có những đặc điểm
riêng nên khi vận dụng mô hình lý luận khái quát từ thực tiễn văn du ký Phương
Tây cần cân nhắc. Khác với văn học Phương Tây, tiểu thuyết Việt Nam hiện đại
hình thành không những từ nền tảng của văn học tự sự Phương Đông mà còn tiếp
thu trực tiếp các kỹ thuật viết tiểu thuyết từ văn học Phương Tây. Không phải ngẫu
nhiên mà Phạm Quỳnh khi bàn về tiểu thuyết có dẫn cả cách kể chuyện trong
Truyện Kiều đồng thời lại giới thiệu cả lịch sử tiểu thuyết Pháp. Các nhà văn Việt
Nam ở nửa đầu thế kỷ XX khi sáng tác tiểu thuyết đã có bên mình không chỉ các bộ
tiểu thuyết Phương Tây mà còn cả những thiên tiểu thuyết chương hồi Phương
Đông như Tam quốc diễn nghĩa, Hồng lâu mộng, Thủy hử. Rất khó có căn cứ để nói
rằng văn học du lịch (travel literature) ở văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX là
thể loại mở đầu, từ văn du ký mà dẫn đến sự ra đời của tiểu thuyết Việt Nam hiện
đại. Tuy nhiên, chúng tôi nghĩ, có thể nói đến những đóng góp của văn du ký đối
với việc hình thành tư duy và thi pháp tự sự hiện đại, vai trò tập dượt viết văn xuôi
tiểu thuyết mà văn du ký đã thực hành. Không phải ngẫu nhiên mà trong khi công
16 Ngô Đức Kế trong Luận về chánh học cùng tà thuyết viết “Những người học thức kiến văn chưa được một nắm, nhân cách giá trị chẳng đáng là bao, mới lom lem những học thuyết ông Mạnh (Montesquieu), ông Lư
114
kích Phạm Quỳnh, hai nhà nho Ngô Đức Kế và Huỳnh Thúc Kháng đều có nói đến du ký của ông này16. Có thể phỏng đoán hai cụ khinh ghét Pháp du hành trình nhật
ký không chỉ vì sự khoe khoang tài giỏi, có tinh thần dân tộc (Phạm Quỳnh diễn
thuyết bằng tiếng Pháp ở Pháp, nói về đề tài văn hóa, văn học Việt Nam) mà cả lối
văn du ký trong Pháp du hành trình nhật ký gây tiếng vang cho Phạm Quỳnh dường
như là cái gì đó rất đáng ghét, đáng khinh trong mắt hai cụ, nhất là cái tôi to tướng
của người kể chuyện du lịch.
Trong chương này, chúng tôi sẽ chọn bốn yếu tố của văn du ký nửa đầu thế
kỷ XX để phân tích. Đó là vấn đề thi pháp tả thực của văn du ký, là sự xuất hiện và
khám phá cái tôi tác giả văn du ký; là việc tự phân tích tâm lý của chính người kể
chuyện và ngôn ngữ đời sống của văn du ký. Đó chính là bốn yếu tố quan trọng tiêu
biểu cho nền văn học hiện đại của nước ta.
4.1. Thi pháp tả thực trong văn du ký nửa đầu thế kỷ XX
Tả thực là một xu hướng mới của văn xuôi quốc ngữ Âu hóa -cũng tức là
hiện đại hóa- ở giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX. Ở đây chúng ta bàn về một kiểu tư
duy nghệ thuật mà không dùng khái niệm tả thực hay tả chân theo nghĩa mà giới
nghiên cứu văn học Việt Nam hiện đại vẫn quen dùng khi phân biệt chủ nghĩa hiện
thực phê phán với chủ nghĩa lãng mạn. Kiểu tư duy tả chân, tả thực này được tất cả
các nhà văn hiện đại theo hình mẫu Phương Tây vận dụng, vô luận nhà văn đó
thuộc chủ nghĩa hiện thực hay chủ nghĩa lãng mạn.
Ngay trong bài viết đăng trên Nam phong số 2 nhan đề Văn quốc ngữ Phạm
Quỳnh đã bàn đến khái niệm “tả thực”-có lẽ đây là bài viết sớm nhất trong giai đoạn
nửa đầu thế kỷ XX nói về tả thực: “Nhờ cả các bậc cựu học tân học trong nước vun
giồng thì cái mầm quốc văn mấy nỗi mà mọc thành cây, sinh hoa kết quả, thêm tốt
đẹp cho cái vườn cũ đất Việt Nam này. Nhà Tây học thì phỏng cái lối thuyết lý tả
thực của Âu châu mà vụ cho nhời nôm được rõ ràng thiết thực, trọng phép trực tiếp
hơn phép gián tiếp” [157, 80]. Theo Phạm Quỳnh, lối tả thực xuất phát từ văn xuôi
(Rousseau), bập bẹ những cách ngôn ông Trang, họ Liệt, thì đã nghiễm nhiên tự lập làm một đấng văn hào, tự xưng khai hóa quốc dân, mà không ngó lại mình đã khai hóa hay chưa; thôi thì bài diễn văn chất đống, sách du ký đầy thùng, thôi thì tán xằng tán nhảm, nói bậy nói càn, không còn có nghĩa lý chính đáng chi nữa” (dẫn theo 152, 77, chúng tôi nhấn mạnh). Huỳnh Thúc Kháng thì viết: “Vả lại trong bài Chánh học của ông Ngô, ông có đem 10 năm Côn Lôn ra mà khoe với ai đâu? Ông có làm Côn Lôn du ký mà tuyên bố để mua danh đâu?” (dẫn theo 152, 86).
115
Âu châu và để xây dựng nền quốc văn, ta phải học lối tả thực như vậy. Nhất quán
với chủ trương này, Phạm Quỳnh đã sớm biểu dương Một lối văn mới khi cho đăng
truyện ngắn Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn trên Nam phong và có lời giới
thiệu nồng nhiệt: “Ông là một người rất nhiệt thành với văn quốc ngữ mà đã biệt lập
ra một lối văn riêng lấy sự tả chân làm cốt. Mỗi bài văn của ông như một tấm ảnh
phản chiếu cái chân tướng như hệt… Văn chương ta xưa nay thường lấy sự mập mờ
phảng phất làm hay, càng phiếu diểu bao nhiêu càng huyền diệu bấy nhiêu, nên ít
dụng lối tả thực, coi là tầm thường. Nay xét ra văn học, họa học của Thái Tây, phần
nhiều lại trọng lối tả thực hơn là lối phá bút. Quốc văn của ta sau này tất chịu ảnh
hưởng của văn Tây nhiều, lối tả thực rồi tất mỗi ngày một thịnh hành. Như bài văn
ông Phạm Duy Tốn sau này cũng khá gọi là một bài tả thực tuyệt khéo: đối hai cái
cảnh trái ngược nhau, như bầy hai bức tranh trước mặt người ta, mà tự khắc nảy ra
một cái cảm giác, một cái tư tưởng tự người đọc biết, không cần phải diễn giải ra, là
cái cảm giác tức giận, cái tư tưởng thống mạ kẻ “chễm chện” này không biết thương
lũ “lấm láp kia”. Văn tả thực mà được như vậy cũng đã khéo thay. Bản báo đăng
bài này mà có lời khen ông Phạm Duy Tốn đã có công với quốc văn” [số 18, tháng
12-1918, tr. 355]. Theo Phạm Thị Ngoạn, Sống chết mặc bay thực ra mô phỏng
truyện ngắn Ván chơi bida (La partie de billard) của nhà văn Pháp Alphongse
Daudet. Điều này càng cho thấy tả thực là một kiểu thi pháp văn xuôi có nguồn gốc
Phương Tây [xem 119, 183-186].
Nhưng nội dung của tả thực, tả chân là gì? Đinh Gia Trinh giới thiệu tư
tưởng của Phương Tây: “Theo phái tả chân thì mục đích nghệ thuật là ghi đúng sự
thực, những hình thể, màu sắc, những phát triển của sự sống. Nghệ thuật “chép lại”
đời sống và tạo hóa: họa sĩ vẽ một cảnh thực; nhà điêu khắc chạm một pho tượng
hình dung một sinh vật có thực ở tạo hóa; nhà văn mô tả nhân vật và đời sống hàng
ngày” [225, 16].
Còn đối lập lại văn tả thực là gì? Trong bài viết quan trọng nổi tiếng Tính
cách văn chương Việt Nam trước thời kỳ Âu hóa (năm 1941) Đinh Gia Trinh khái
quát đặc điểm của văn học trung đại (tức là văn học trước thời kỳ Âu hóa như chữ
dùng của ông) như sau: “Những nhà văn của ta khi xưa không ưa tả cảnh tỉ mỉ; đến
116
giời mây sông núi nước ta cũng chỉ được ghi vẽ hồ đồ và sơ giản, còn nói chi đến
cảnh trí nước ngoài… Tả tỉ mỉ một căn phòng, một sắc trời, một thân thể người như
các nhà văn tả chân bên Tây phương? Không! Ở văn thuật Việt Nam khi xưa không
có chỗ cho tài nghệ của những nhà tiểu thuyết tựa Balzac dành một trang sách để tả
cái mặt ngộ nghĩnh của một nhân vật trong truyện Le cousin Pons; hoặc như
Flaubert dẫn ta qua những bụi cây bên đường, dán mắt ta qua khe cỏ để cho ta mục
kích mấy con nhện xôn xao chạy trên mặt nước lặng. Hơn một trang trong Balzac
để tả thân thể của Eugenie Grandet, hai câu thơ nhỏ trong Nguyễn Du để vẽ hình
dung của Kiều (Làn thu thủy nét xuân sơn/ Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém
xanh)” [226, s.4, tr. 8].
Như vậy, theo Phạm Quỳnh và Đinh Gia Trinh, tả chân hay tả thực là phải
ghi chép đúng sự thực đến chi tiết, đúng với hình thể, màu sắc của đối tượng, không
được tả một cách chung chung, ước lệ.
Trên cơ sở nghiên cứu quan niệm sáng tác thiên về tả thực này, khi bàn về
vai trò của “tả thực” đối với quá trình hiện đại hóa truyện ngắn và tiểu thuyết, Trần
Văn Toàn viết: “Trong văn xuôi nghệ thuật giao thời người ta thấy sự hiện diện của
những nguồn mạch truyền thống: truyện Nôm và hệ thống văn xuôi chữ Hán trung
đại. Bên cạnh đó là những ảnh hưởng ngày một đậm nét của những nhân tố đến từ
Phương Tây. Diễn ra một quá trình đan xen và tích hợp Đông -Tây mà tả thực là
nhân tố trung tâm. “Tả thực” là thuật ngữ do chính những nhà văn và nhà phê bình
giao thời đề xuất với nét nghĩa nội hàm: đối lập với những đặc điểm tải đạo, ước lệ
của văn học truyền thống; đưa văn học đến với hiện thực của cuộc sống đời thường.
Với ý nghĩa ấy, “tả thực” là một tiêu điểm để chúng ta nhìn thấy rõ nhất sự hình
thành của văn xuôi nghệ thuật với tư cách một thể loại đặc thù của văn học hiện
đại” [221, 1].
Theo nghĩa đó, chúng ta dễ dàng quan sát thấy tư duy và thi pháp tả thực nổi
trội trong văn du ký nửa đầu thế kỷ XX.
4.1.1. Hiện thực nhiều chiều, đa dạng, phong phú
Văn du ký trung đại không phải không quan tâm ghi chép các sự kiện của
hiện thực đời sống. Nhưng các ghi chép thường nhằm phục vụ cho một mục đích
117
định sẵn nào đó chứ không nhằm nhận thức khách quan cuộc sống hiện thực trong
sự phong phú, đa dạng, nhiều chiều của nó. Du ký dưới hình thức nhật ký của các
sứ thần nếu có ghi chép tỉ mỉ các điều quan sát là để báo cáo, giải trình với triều
đình về tiến trình làm việc. Trong Bắc sứ thông lục, Lê Quý Đôn ghi chép nhiều lần
về việc thuyền của phía Trung Quốc đón sứ đoàn Việt Nam chậm trễ vì những
người chủ thuyền hay dừng lại mua bán muối trên các bến dọc đường đi Bắc Kinh;
ghi chép vậy dường như để giải thích lý do chậm trễ của hành trình. Lê Quý Đôn
cũng hay ghi chép việc tế lễ thần sông mỗi khi sứ đoàn vượt sông, dường như để
giải trình cho việc dùng ngân sách cho chi tiêu dọc đường.
Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác ghi chép nhiều quan sát về không gian
cung đình mà tác giả được chứng kiến khi vào phủ Chúa Trịnh để chữa bệnh cho
Trịnh Cán. So với các tác phẩm văn du ký khác thời trung đại thì Thượng kinh ký sự
hơn hẳn về tính hiện thực của nội dung được ghi chép. Tuy nhiên, có cảm giác sự
ghi chép đầy chi tiết đó chịu sự qui định ngầm của một quan niệm nhân sinh, quan
niệm đạo đức -chính trị của nhà nho Lê Hữu Trác. Chẳng hạn, ông quan sát và ghi
lại màu sắc của không gian kiến trúc và đồ đạc trong phủ chúa: “Qua hành lang phía
tây, đến một dãy nhà lớn rất cao rộng, hai bên để hai cỗ kiệu. Mọi đồ nghi trượng
đều sơn son thếp vàng. Gian giữa đặt một cái sập ngự thếp vàng, trên sập mắc một
cái võng điều. Trước võng và bàn ghế hai bên bày biện toàn những thứ mà người
đời chưa từng thấy. Tôi chỉ liếc mắt nhìn qua rồi lại cúi đầu mà đi. Lại qua một cái
ngách nữa đến một cái gác cao rộng. Trong gác từ giường đến cột đều sơn son thếp
vàng” [222, 42]. Theo ý kiến của nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn, vàng son là biểu
hiện của quyền lực hoàng đế-trường hợp này là vua Lê. Các chúa Trịnh dùng màu
vàng son là biểu hiện tiếm vị và Lê Hữu Trác kín đáo ghi lại chi tiết màu sắc biết
nói đó. Điều này cũng tương tự như trong tuồng cung đình của các chúa Nguyễn
trình diễn nhân vật thái sư phản diện mặc áo tía để ám chỉ đối thủ chính trị của mình
(màu áo tía là màu áo của các chúa Trịnh). Một sự kiện khác nói về cuộc sống
vương giả trong phủ Chúa của quan Chánh đường-tức Quận Huy Hoàng Đình Bảo:
“Ông chia phần cơm của mình cho tôi ăn. Mâm vàng chén bạc, thức ngon của lạ,
bấy giờ tôi mới biết cái phong vị của nhà sang” [222, 44]. Nhưng Lê Hữu Trác về
118
đến Hà Tĩnh được vài ngày thì nghe tin kiêu binh nổi loạn, giết hại cả nhà quan
Chánh đường. Đây là lúc để tác giả gài triết lý đã chuẩn bị từ trước về sự phù du,
tạm bợ đến vô nghĩa của cuộc sống giàu sang, vương giả: “Vừa được vài ngày thì
nghe tin cả nhà quan Chánh đường bị hại. Tôi nghe chuyện than rằng “Giàu sang
như mây nổi, những nơi đàn sáo lâu đài trước đây phút chốc thành gò hoang cồn
vắng” [222, 221]. Và những lời kết của thiên du ký được Lê Hữu Trác dành cho
việc bộc lộ mục đích ghi chép của ông: “Nhân lúc rỗi rãi, sau khi cuộc cờ chén rượu,
bèn đem đầu đuôi các việc ghi chép lại để cho con cháu sau này biết lẽ xử thế, nên
tùy cảnh giữ phận, biết chỗ đủ, biết nơi dừng, lấy điều không tham lam làm tấm
gương sáng mà noi theo” [222, 222]. Tìm kiếm một ý nghĩa triết lý tách ra từ thực
tế chứ không nhìn thực tế như nó vốn tồn tại đầy phức tạp, đa nghĩa, đó là một đặc
điểm của du ký trung đại.
Tây hành nhật ký của Phạm Phú Thứ lại là một ghi chép mang tính chất
công vụ. Các sự việc được ghi chép khá tỉ mỉ, chi tiết mà ông chứng kiến ở Pháp
chắc hẳn do yêu cầu của triều đình về việc báo cáo, tường trình tựa như tin tình
báo ngày nay. Ví dụ, ông ghi chép kỹ phương pháp mạ vàng bạc [214, 70], cách tổ
chức một hệ thống làm khí đốt [214, 74], qui trình làm giấy [214, 107], cách làm
pha lê [214, 124]... Nói chung, trong thiên du ký này, Phạm Phú Thứ dành sự chú
ý nhiều hơn cả đến các khía cạnh khoa học công nghệ của Pháp. Các sự kiện liên
quan đến văn hóa rất không nhiều. Và rất hiếm khi ông bộc lộ con người riêng,
các ý kiến bình luận, đánh giá. Đó là du ký -nhật ký công vụ, dành để báo cáo. Chỉ
có điều vì trên đất Pháp chứng kiến quá nhiều sự lạ lùng về khoa học công nghệ
Phương Tây nên nhật ký của ông có nhiều nội dung ghi chép hơn là chuyến đi sứ
Trung Quốc của Lê Quý Đôn.
Văn du ký nửa đầu thế kỷ XX thường ghi chép hiện thực không những một
cách chi tiết, tỉ mỉ mà điều quan trọng là hiện thực trong sự phong phú, đa dạng,
nhiều chiều của nó. Có thể lấy Pháp du hành trình nhật ký và Bốn năm trên đảo
Các Bà để phân tích.
Có thể ai đó có định kiến rằng một người được Tây trả tiền cho sang Pháp
như Phạm Quỳnh thì chắc chắn ông ta chỉ một chiều ca ngợi văn hóa, văn minh
119
Pháp. Thực tế cho thấy lối suy diễn như vậy không có căn cứ. Phạm Quỳnh trong
hành trình sang Pháp năm 1922 đã ghi chép một thực tế đa dạng, phức tạp, nhiều
chiều. Một hôm đoàn của ông đến ăn cơm với mấy người đồng bang (tức cùng
người Việt với nhau), họ ăn uống no say, cười nói thỏa thích, không biết rằng buồng
bên cạnh có người đương hấp hối, đến lúc xuống thang, mở cửa thì mới nghe người
quản gia cho hay. Rồi ông nhận xét có vẻ bâng qươ: “Ở thành Paris này, trong một
ngày biết bao nhiêu đám như đám chúng mình lúc nãy: ở bên buồng này thì kẻ ăn
uống no say, cười đùa vui vẻ, ở bên kia thì người đương ngắc ngoải, đánh nhau với
cái chết một trận sau cùng phải thua, mà chẳng ai biết đến ai, một vách tường cách
nhau bằng mấy nghìn dặm” [33, 596]. Đó là một hình ảnh thu nhỏ về một thế giới
phức tạp, không thuần nhất, không một chiều, không phải chỉ thuần có tốt hay chỉ
có xấu.
Thành phố cảng Marseille là nơi đoàn Phạm Quỳnh gặp gỡ với nước Pháp:
“Trên bến thời nhà cửa san sát, nhất là hàng cơm hàng rượu, xe điện chạy như mắc
cửi, kẻ đi người lại tấp nập như ngày hội, đủ các giống người, đủ các thứ tiếng, từ
bác phu tàu, chú “bắt tê” chửi nhau như ăn gỏi, cho đến ông phú thương tất tả, chị
hàng cá đong đưa, khách du lịch ngẩn ngơ, gái giang hồ nhấm nháy, thật là cái cảnh
tứ chiếng quần cư, có cái vẻ bác tạp, nhưng trông cũng vui mắt như một bức tranh
sặc sỡ vậy” [33, 388]. Marseille hiện đại với bến tàu la liệt thuyền, ca nô, cầu sắt
treo giữa hai cột sắt cao ngất trời, san sát nhà cửa, xe cộ và Marseille cổ kính, có cả
những khu có những đường phố ngoắt ngoéo quanh “Bến Cũ”, tập trung các phần tử
bất hảo mà ông gọi lại “trai côn gái điếm” tụ họp mà ban đêm không nên đi vào.
Tác giả du ký đã tỏ ra biết quan sát, nhìn nhận hiện thực nhiều chiều.
Nói về trường Đấu xảo (tức Khu Triển lãm), Phạm Quỳnh quan sát các khu
dành cho các xứ thuộc địa Pháp như Tây Phi châu thuộc Pháp, Đông Dương và
ông tự hào vì khu Đấu xảo của Đông Dương đẹp và lớn nhất. Song nếu xem xét kỹ
thì để xây dựng khu đó, xứ Đông Dương phải gánh chịu có đến mấy triệu. Các
công trình kiến trúc để triển lãm thì rất công phu, tốn tiền mà “trong cốt gỗ, ngoài
đắp vôi, xong sáu tháng lại phá đi, đáng tiếc. Đến khi ông vào thăm khu nhà gỗ
mà Sở đấu xảo dựng tạm làm nơi ở cho thợ An Nam sang làm việc thì thấy quá
120
khổ sở “thật không lấy gì làm vui mắt cả”. “Thế mà bọn phái viên mình, khi sắp
sửa đi, những rắp định rằng sang bên này nếu ăn ở đắt đỏ lắm thời sẽ vào ở trong
Đấu xảo cho đỡ tốn: cách ở như thế này thì ở đến một giờ tôi cũng xin kiếu” [33,
394]. Một quang cảnh triển lãm vừa đẹp, vừa đáng tự hào lại vừa tốn kém, lãng
phí, ẩn sau đó là nỗi khổ nhục của những người thợ An Nam sang xây dựng cho
nhà Đấu xảo của Đông Dương.
Là người hứng thú với diễn thuyết-lối sinh hoạt văn hóa rất văn minh của
người Pháp, Phạm Quỳnh thường hay đi dự các buổi đó và chính ông cũng đăng
đàn diễn thuyết. Có lần ông hết sức ca ngợi tài hùng biện của một diễn giả Pháp và
chạnh lòng nghĩ đến người mình ăn nói kém. Một buổi diễn thuyết ở hội Nhân
quyền Marseille của ông giáo K. người Paris đến: “Tôi chưa từng được nghe người
Tây nào diễn giỏi bằng ông giáo này. Mà không phải là những lời hư văn đâu,
những câu thuộc lòng đâu, toàn là những lời nghị luận, biện bác, công kích, chứng
giải, đón trước rào sau, dự sẵn những câu người ta có thể bẻ mình được mà phản đối
trước” [33, 395]. Nhưng có hôm đọc báo thấy nói Hội văn sĩ thiếu niên mở cuộc
diễn thuyết về văn chương nghệ thuật, ông đến dự để rồi thất vọng hoàn toàn: “Đọc
lời bá cáo thời như rồng như phượng cả, mà đến nghe thời chán như cơm nếp nát”.
“Đến khi diễn giả đăng đàn thời cầm tập giấy đọc một hồi như người tụng kinh,
tiếng đã nhỏ mà giọng lại có tật, đọc cứ phều phào, chẳng ai nghe ra gì cả” [33,
407]. Hóa ra không phải cuộc diễn thuyết nào ở Pháp cũng là đáng học tập. Đó
chính là tư duy trọng hiện thực, không lý tưởng hóa tô hồng mà cũng không bôi đen
thực tế.
Một quan sát nữa về chính trị: những ngày ở Marseille, Phạm Quỳnh chứng kiến thành phố cảng này tưng bừng chuẩn bị đón quan Giám quốc Millerand17 đi
kinh lược Bắc Phi về: “Mấy ngày nay trong thành phố sửa soạn đón tiếp ngài. Gần
nhà trọ mình có làm cái bài phường, chăng đèn điện, tối thắp đẹp lắm. Mấy bữa nay
đi chơi phố buổi chiều vui vẻ lắm”. Ông nhận xét: “Nước này là nước dân chủ, mà
sửa soạn đón ông Giám quốc cũng linh đình tấp nập như người ta đón ông quân chủ
vậy” [33, 415]. Hình như có sự tương đồng giữa hai xã hội, ở đâu thì cũng có sự
121
phân biệt quan-dân. Tuy vậy, quan sát kỹ, ông vẫn nhận thấy có sự khác biệt nhất 17 Alexandre Millerand làm Tổng thống Pháp từ 1920 đến 1924-theo Wikipedia.
định giữa một vị Giám quốc trong xã hội dân chủ và xã hội quân chủ. “Người ta
thường nói nước Pháp là nước dân chủ mà vẫn còn cái nghi vệ di truyền tự đời quân
chủ, thật thế! Cứ xem cách nghênh tiếp một ông vua thì đủ biết. Song xét ra chỉ có
cái nghi vệ trang nghiêm để cho tráng quan chiêm và sự trọng thể mà thôi, chớ
trong dân gian không có cái lòng sùng bái ông quốc trưởng như người Đông
phương ta mê tín ông vua vậy…Thường nghe thấy người nói “Quan Giám quốc là
gì? Quan Giám quốc cũng là người như mình, cũng là một kẻ công dân như mình,
chớ gì?... Quan Giám quốc chẳng qua là người của một đảng, dẫu đảng ấy có số
nhiều mà đắc thế, còn đảng khác số ít mà thất thế, ở một nước tự do bình đẳng, sự
đảng tranh nhiều khi kịch liệt lắm” [33, 417]. Đi sâu vào tìm hiểu thực tế, thâm
nhập vào bản chất của hiện tượng cũng là một yếu tố của tả thực. Tả thực hay tả
chân không phải là công việc chụp bức ảnh bề mặt của đời sống mà cần thám sát
bản chất của sự vật.
Nhiều hiện tượng, sự việc khác diễn ra trên đất Pháp mà Phạm Quỳnh quan
sát thấy đều được ông ghi lại với cái nhìn khách quan, nhiều chiều. Tinh thần học
hỏi, tôn vinh văn hóa Pháp không loại trừ cái nhìn thực tế, phát hiện cả một số mặt
trái của xã hội Pháp. Trong mục viết về “người khác” ở chương 3 chúng tôi cũng đã
dẫn một số ví dụ mà ở đây không lặp lại, như về nạn uống bia rượu, nạn đĩ điếm, tội
phạm trong xã hội Pháp được văn du ký Phạm Quỳnh đặt cạnh các nhà bảo tàng
nghệ thuật to lớn, các kịch trường sôi động, các nhân vật trí thức kể cả phụ nữ
quyên bác, lịch lãm.
Thiên du ký Bốn năm trên đảo Các Bà của Vân Đài cũng cho thấy một cái
nhìn đa chiều về cuộc sống và con người trên đảo. Nếu xem một cuộc sống an
bình phẳng lặng, no đủ thì theo tác giả có thể bằng lòng với hiện tại trên đảo:
“những nếp nhà kiên cố, những con đường sạch và trắng, chen chúc giữa đám
cau và chuối xanh xanh…Nghề làm cá ở Cát Hải đã cho một số đông dân ở đây
được no đủ, sống đời thái bình và ít phải cạnh tranh” [37, s. 149, tr. 562]. Nếu
nhìn từ góc độ thưởng ngoạn phong cảnh, phải nói cảnh biển ở đây tuyệt đẹp:
“Trùng điệp những ngọn núi xanh, không cao lắm, chằng chịt những cây cằn cỗi
122
với thời gian, nhưng vẫn giữ một màu tươi mới mẻ. Các dẫy núi chia nhau, chắn
lấy một góc bể, làm một thế giới của mình, một thế giới vô cùng kỳ tú. Những
buổi trời êm sóng lặng, Các Bà lúc nào cũng êm đềm nhưng không ủ dột. Mặt bể
phẳng lặng và xanh, xa trông như một tấm thảm. Chân trời rơi xuống gần quá,
bao chung quanh nước một khoảng tròn, như một vòng hoa tim tím. Dăm chiếc
thuyền đủng đỉnh tạt qua, chiếc buông câu, chiếc ghé bến. Dòng nước xanh và
trong vắt, tưởng chừng không một sóng gió gì, có quyền khuấy đục tấm gương
ngọc bích này” [37, s. 157, tr. 749].
Song du khách thâm nhập, tìm hiểu kỹ cư dân trên đảo thì tác giả thấy tình hình không đơn giản. Khu phố duy nhất của đảo Các Bà18 khi đó gồm có đồn binh
của Pháp và người Khách (tức người Hoa). “Rải rác dưới chân núi, những ngôi nhà
gạch lợp ngói đỏ tươi, những lô cốt cao phấp phới lá cờ ba sắc. Chạy dài hai bên tay
ngai, hai dãy nhà vừa lợp lá vừa lợp ngói liền san sát do những dân chài người
Khách cư trú. Nhà nào cũng làm quay lưng ra bể, mặt trông vào phố, một phố độc
nhất ở Các Bà” [37, s. 149, tr. 563]. Trái với cảnh thanh bình, sạch sẽ, sáng sủa mà
tác giả nhìn thấy khi bước lên đảo, ở khu phố này hiện lên sự nhếch nhác, bẩn thỉu
của người Khách: “Ngoài một khu vực có ngăn nắp, có vệ sinh và sửa sang ngoạn
mục của viên đại lý người Pháp ở, còn ra là tất cả hiện tượng của nước Tàu. Bao
nhiêu cái lộn xộn, ô tạp, thiếu vệ sinh, ít ánh sáng, nhiều ẩm ướt và lẫn lộn cả gà lợn
ở chung với người, đều có ở dãy phố khách này, thế nhưng người ta vẫn sống được”
[37, s. 149, tr. 563]. Tình trạng này hệt như sự mất vệ sinh của người Khách ở Đông
Hưng mà Trần Trọng Kim đã miêu tả năm 1923 (xin xem lại mục 3.1.2). Trái ngược
với cuộc sống thanh bình, nhàn hạ tác giả nhìn thấy ban đầu, ở đây là cảnh chen
chúc: “Sự phồn thịnh về hải sản nơi đây đã bắt người ta quá chen chúc chật hẹp để
tìm lấy một chỗ trọ, mặc dầu đã có hàng ngàn gia đình sống ở dưới thuyền, mà cả
giang sơn của họ chỉ hàng đời lênh đênh trên mặt sóng” [37, s. 149, tr. 563]. Người
Khách đến đánh cá, thu vét nguồn hải sản giàu có của vùng biển Cát Bà còn người
Việt thì cam tâm nghèo khổ, làm thuê cho Khách trú, lấy củi, vác muối, câu tôm bán
18 Chú ý bài du ký kể về chuyến đi Các Bà vào năm 1935, chín năm sau, 1944, tác giả mới cho đăng trên Tri tân.
123
lại cho thuyền khách.
Hiện thực nghiệt ngã đứng bên cạnh hiện thực có vẻ mộng mơ. Không phải
Vân Đài tự mâu thuẫn mà tác giả chỉ phản ánh hiện thực cuộc sống đa chiều. Nhà
du lịch không còn là người đi ngắm cảnh mà đã thành nhà khảo sát điền dã dân tộc
học, phát hiện những vấn đề ẩn sau cuộc sống thoạt nhìn có vẻ thanh bình của dân
đảo. Các quan sát này tiêu biểu cho tư duy tả chân hiện đại vốn tôn trọng tính đa
chiều, mâu thuẫn trong đời sống hiện thực.
4.1.2. Hiện thực hiện ra qua các chi tiết
Tả chân hay tả thực đòi hỏi tính cụ thể, chi tiết của đối tượng được miêu tả.
Tư duy kể, tả chi tiết không xa lạ với văn du ký nửa đầu thế kỷ XX.
Lược ký đi đường bộ từ Hà Nội vào Sài Gòn của Mẫu Sơn Mục N.X.H. có
nhiều chi tiết đáng chú ý. Đi qua đèo Ngang (Hoành Sơn), du khách đã nhận ra sự
khác biệt của y phục phụ nữ so với phụ nữ Bắc. “Qua đèo Hoành Sơn, lối y phục đã
khác, đàn bà bới tóc, khăn vành giây, áo cài khuy cổ, quần trắng, tức là lối ăn vận
Huế vậy” [33, 27]. Đến Sài Gòn, tác giả tiếp tục nhận xét “sự ăn mặc” của phụ nữ ở
đây: “Đàn bà sang trọng thì quần áo và khăn quàng đều là nhiễu hoa trắng. Người
làm ăn thì quần áo toàn vải đen, trên đầu vắt một cái khăn vải trắng, dòng dọc đen,
dài độ ba bốn vuông. Áo toàn là hai ống tay chật nít lại và gài khuy cổ cả” [33, 39-
40]. Quan sát trang phục nữ chi tiết như thế hiếm gặp trong văn học trung đại.
Tả không gian phong cảnh trong văn du ký nửa đầu thế kỷ XX cũng có
nhiều tác phẩm khắc phục được tính ước lệ của việc tả cảnh của du ký trung đại.
Đây là đoạn văn du ký tả đền Lý Bát Đế: “Đền ở một khu rộng rãi có nhiều cây cổ
thụ rườm rà, người ta cho là cây thiêng. Thoạt vào có một cửa tam quan, có mấy
bậc đá đi lên và hai bên có hai con rồng bằng đá chạm. Đi qua tam quan thì đến
một cái sân rộng, hai bên có hai dẫy nhà hành lang và ở tay trái có đền thờ bà Lý
Chiêu Hoàng. Đi hết sân có hai con voi lớn phục hai bên, trông cũ kỹ, ngà đã gẫy
cả; bước lên vài bậc thì đến đền ngoài. Đền ngoài chỉ có một cái hương án và
trước hương án có hai tượng trông rất kỳ dị. Tượng hình hai người không ra đàn
ông hay đàn bà, cởi trần, chỉ có một cái quần ngắn đến đùi, đầu hình như bới tóc
và bịt khăn kín đi, một tay thì cầm một cái roi giơ lên và trên cánh tay lại đeo một
cái vòng lớn, như lối các bà đầm đeo vòng trên khủyu tay…Trông những tượng ấy
124
thì ra dáng cổ lắm, thế mà trên thềm đền thì lại thấy lát bằng gạch hoa “xi măng”,
trông thật là lố lăng” [Phạm Văn Thư, Một cuộc đi xem đền Lý Bát Đế, xem 32,
68]. Đây là một đoạn văn rất tiêu biểu cho sự miêu tả chi tiết, tỉ mỉ phối cảnh xét
về kết cấu không gian trước sau, phải trái, trên dưới cùng với sự cũ mới của hai
con voi, giới tính nam nữ của hai hình người và nền gạch hoa tương phản với
những pho tượng người, vật cổ kính. Cách tả thể hiện óc quan sát hiện đại đối với
không gian hoạt động của con người.
Nhật Nham đi du lịch lên hồ Ba Bể, quan sát rất chi tiết cách phục sức của
phụ nữ dân tộc Mán Cóc, ấn tượng mạnh nhất là màu sắc: “Đàn bà thích dùng đồ
đỏ. Khăn áo, yếm, quần đều thêu bằng chỉ đỏ. Trên đầu vấn tóc như đàn bà Thổ,
ngoài tóc quấn sợi khăn hoa đỏ (bằng vải chàm thêu chỉ đỏ chung quanh) đầu khăn
đính mấy sợi giây xanh, đỏ, tím, vàng. Áo vải thâm dùng những sợi nỉ đỏ làm thành
tua, cùng các thứ hột bột ngũ sắc, đơm vào hai bên vạt đằng trước và hai bên tà áo
đằng trước và đằng sau chỗ nách xuống, mỗi chỗ là năm cái tua dài ước 20 phân
tây. Áo không có vạt cả, từ cổ trở xuống thắt lưng đằng trước, hai bên ngực đều tết
thành túm nỉ đỏ như bông hoa hồng, mà khâu xếp hàng xuống đến thắt lưng. Yếm
thì làm hẳn bằng một miếng nỉ đỏ, ở ngực và từ cổ, còn dài xuống đằng sau lưng
ước ba mươi phân tây nữa, xẻ đôi và cài khuy như yếm dãi của trẻ con vậy. Đằng
trước ngực có 5 hoặc 6 miếng bài bằng bạc vuông chữ nhật, có chạm hoa khác
nhau, ngang 4 phân tây, dài 8 phân tây, khâu xếp hàng từ cổ trở xuống. Còn chung
quanh cổ và đằng sau lưng, lại có những cánh hoa nhỏ như cánh hoa hồi đình chung
quanh cổ mà khâu xếp hàng đôi hoặc hàng một (tùy có ít hay nhiều) xuống cho đến
hết cùng cái giải yếm đó. Quần thì thêu hoa đỏ, vàng, trắng chung quanh ống quần,
cao ước 20 phân tây. Thắt lưng vải chàm cũng thêu hoa hai đầu. Đàn ông thì mặc áo
vải xanh ngắn như người Nùng, không thêu hoa; chỉ duy có sợi khăn đội đầu cũng
thêu như đàn bà, song không đơm rải ở đầu khăn như đàn bà” [126, s. 66, tr. 901-
904]. Các ghi chép về trang phục của phụ nữ Mán Tiền cũng tuân theo một nguyên
tắc đề cao chi tiết tương tự. Có cảm tưởng đoạn ghi chép trên quá chi tiết đến vụn
vặt. Nhưng tư duy duy lý, tư duy nghiên cứu đòi hỏi sự chân thực, cụ thể, chi tiết.
Tả thực hay tả chân là tả cuộc sống trong hình thái của bản thân đời sống. Nhật
Nham chỉ là một công chức đi du lịch, khám phá chứ không phải là nhà dân tộc học
125
chuyên nghiệp nên các quan sát và ghi chép của ông không bị nhiệm vụ chi phối,
cũng không phải là thói quen nghề nghiệp. Trong văn học trung đại, văn nhân xưa
có xu hướng truyền thần tả chiếu, trọng thần khinh hình (coi trọng tả thần thái toát
ra từ nhân vật mà coi nhẹ tả chi tiết bề ngoài), đó là một nguyên nhân chủ yếu của
việc coi nhẹ chi tiết. Trần Nho Thìn viết: “Thi pháp coi trọng thần và coi nhẹ hình là
truyền thống chung của văn học Phương Đông thời xưa” [209, 51]. Chẳng hạn, Lê
Hữu Trác đã chú ý đến cuộc sống vương giả của quan Chánh đường nhưng cũng chỉ
viết đến mức đủ để gây ấn tượng (tả thần): “ông chia phần cơm của mình cho tôi ăn.
Mâm vàng chén bạc, thức ngon của lạ, bấy giờ tôi mới biết cái phong vị của nhà
sang” [222, 44]. Nhà văn trung đại không kể, tả chi tiết cho ta biết món ngon lạ đó
là món gì, màu sắc, mùi vị, hương vị ra sao. So sánh như vậy để thấy tư duy tả thực
đi vào từng chi tiết nhỏ như trên đây phản ánh xu thế tiếp nhận ảnh hưởng thi pháp
tả thực của văn học Phương Tây trong quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc.
Chúng ta cũng nhớ Đinh Gia Trinh đã từng than phiền về tư duy tả ước lệ của văn
chương truyền thống Phương Đông: “Tả tỉ mỉ một căn phòng, một sắc trời, một
thân thể người như các nhà văn tả chân bên Tây phương? Không! Ở văn thuật Việt
Nam khi xưa không có chỗ cho tài nghệ của những nhà tiểu thuyết tựa Balzac dành
một trang sách để tả cái mặt ngộ nghĩnh của một nhân vật trong truyện Le cousin
Pons; hoặc như Flaubert dẫn ta qua những bụi cây bên đường, dán mắt ta qua khe
cỏ để cho ta mục kích mấy con nhện xôn xao chạy trên mặt nước lặng. Hơn một
trang trong Balzac để tả thân thể của nàng Eugénie Grandet, hai câu thơ nhỏ trong
Nguyễn Du để vẽ hình dung của Kiều (Làn thu thuỷ, nét xuân sơn - Hoa ghen thua
thắm, liễu hờn kém xanh)” [225, 8]. Chúng ta hiểu đó là lời than phiền của nhà phê
bình Tây học đang mong muốn hiện đại hóa văn học Việt Nam, đang muốn nhà văn
Việt Nam tiếp nhận tư duy tả chân đến mức chi tiết, tỉ mỉ. Trong sáng tác văn xuôi,
truyện ngắn và tiểu thuyết cũng như văn du ký đã phản ánh xu thế tả chân hiện đại
theo mô hình tư duy Phương Tây như vậy.
4.2. Hình thức thể hiện cái tôi
Một trong những đặc điểm tiêu biểu của văn học hiện đại so với văn học
trung đại là sự xuất hiện của cái tôi cá nhân. Điều này có thể thấy rõ trong hầu hết
các áng văn du ký nửa đầu thế kỷ XX. Chúng tôi sẽ phân tích ba hình thức thể hiện
126
cái tôi cá nhân trong văn du ký như sau đây:
4.2.1. Các hình thức kể chuyện trong văn du ký
- Kể chuyện ở ngôi thứ nhất
Trong văn du ký, người kể chuyện thường xuất hiện ở ngôi thứ nhất và ngôi
thứ ba. Kể chuyện ở ngôi thứ ba về bản chất là hình thức dẫn dụ các công trình khảo
cứu, truyền thuyết, các thông tin của người khác (văn thư viện, nói như Phạm
Quỳnh) về địa danh nơi tác giả đi du lịch. Điều này Phạm Quỳnh đã tiết lộ trong bài
du ký Chơi Lạng Sơn, Cao Bằng (năm 1925): “Vẫn biết nhà văn thường có lắm
khóe khôn ngoan, văn liệu ít mà làm ra cho nhiều cũng được. Trước hết sưu tập
những sách Tây sách Nho, nói về tỉnh Cao tỉnh Lạng, nào là địa dư, nào là lịch sử,
nào là phong tục, nào là thổ dân, đọc qua một lượt, trích lấy đoạn hay, rồi đương sự
xen thêm mấy đoạn về phong tục người Thổ người Nùng, về truyện Ngô Thời Sĩ
sửa sang động Tam Thanh, truyện Nùng Trí Cao hùng cứ đất Cao Bằng, truyện nhà
Mạc ở Vườn Cam, truyện quân Pháp đánh thành Lạng, cũng đủ viết được ba bốn
chục trang” [32, 488-489]. Tất nhiên, trong một áng văn du ký, để giúp độc giả hiểu
biết sâu sắc hơn địa điểm được kể, tả thì rất cần có tự sự ngôi thứ ba như vậy. Các
công trình nghiên cứu, khảo cứu, truyền thuyết dân gian v.v…rất cần có để bổ sung
cho bài văn du ký. Trên thực tế, hầu hết các tác phẩm du ký đều có kết hợp kể
chuyện từ ngôi thứ ba như vậy. Kể chuyện ở ngôi thứ ba là mượn điểm nhìn của
người khác, không phải của tác giả du ký. Chẳng hạn, trong du ký Từ Hà Nội đến
hồ Ba Bể (Tri tân, năm 1942), Nhật Nham đã kết hợp kể chuyện từ ngôi thứ nhất
với ngôi thứ ba: dẫn dụng các truyền thuyết địa phương, tra cứu lịch sử hồ Ba Bể
từng một thời làm sào huyệt của quân cường khấu, quân nổi loạn chống triều đình
qua các thời như thời vua Lê Nhân Tôn, chúa Trịnh Tùng, rồi sự phá hoại của các
đám tàn quân từ Trung Quốc sang v.v…Các truyền thuyết thì có thể nghe kể tại địa
phương, nhưng các tri thức lịch sử chắc phải đọc sách báo, hay ít nhất nghe các
chuyên gia về lịch sử địa phương dẫn giải.
Nhưng nếu chỉ dựa vào các nguồn thông tin thuộc về dư địa chí thì không
còn là văn du ký nữa. Phạm Quỳnh quan niệm: “Văn kỷ sự không phải là văn khảo
cứu, nhà văn lại càng phải nên phân biệt lắm. Văn kỷ sự là cứ sự thực mà thuật lại,
127
cốt lấy tự nhiên, giản dị, ngoài sự thực có thể điểm chút cảm tưởng riêng, cũng là do
sự thực mà phát ra, càng có cái vẻ thật thà mới mẻ lại càng hay, bất tất phải bàng
sưu bác tập, điển cố xa xôi làm gì…Nghĩ thế nên bao nhiêu sách tây sách nho soạn
ra để kê cứu, đều xếp lại cả, quyết định chỉ làm một bài thuần kỷ thuật sự đi chơi,
không để cho dính cái hơi hám chốn thư viện mà muốn cho nhiễm cái khí vị miền
thượng du” [32, 489]. Nghĩa là Phạm Quỳnh quyết định kể chuyện từ ngôi thứ nhất.
Cái tôi là tâm điểm của văn du ký, tuy kết hợp với tự sự ngôi thứ ba song hình thức
tự sự ngôi thứ nhất vẫn là chủ đạo. Có những thiên du ký ngay cả trong giai đoạn
hiện đại mà hình thức khảo cứu, kể lại truyền thuyết (tự sự ngôi thứ ba) chiếm vị trí
áp đảo. Ví dụ như Các nơi cổ tích đất Nghệ Tĩnh của Nguyễn Đức Tánh trên Nam
phong số 135, năm 1929. Đây là cuộc du lịch ngoại khóa về lịch sử của thầy trò
trường Cao đẳng tiểu học Vinh nên đến mỗi nơi có di tích, đền đài, thành quách, tác
giả lại phải trình bày các tri thức lịch sử có tính chất sách vở, các truyền thuyết dân
gian liên quan. Ngay trong thiên du ký phần lớn là tự sự ngôi thứ ba này, vẫn gặp
con người cá nhân tác giả với tâm trạng, cảm xúc, suy tư riêng. Ví dụ, thăm nhà thờ
Nguyễn Du, tác giả kể thầy trò đều ngạc nhiên vì thấy nhà thờ một danh nhân mà lại
tiêu điều, nếu ở nước khác thì tượng đồng bia đá, ảnh truyền thần không biết bao
nhiêu rồi. “Ta ngắm cảnh nhớ người, luống những ngậm ngùi mà phàn nàn tục
người mình đối với kẻ anh tài thực là lãnh đạm” [33, 515].
Edward Ive có viết về người kể chuyện trong văn du ký: “Người viết lại
chuyến đi của mình có nhu cầu biến bản thân mình thành nhân vật trong câu chuyện
của chính anh ta” [chuyển dẫn theo Percy Adams, xem 276, 148]. Vấn đề tự bộc lộ,
tự khám phá bản thân trong văn du ký là hiện tượng phổ biến, tương đồng với tự sự
ngôi thứ nhất trong tiểu thuyết hiện đại. Người kể chuyện trực tiếp nhìn, nghe, cảm
nhận và kể lại các điều trực tiếp quan sát đó.
- Hình thức nhật ký trong văn du ký
Kể chuyện từ ngôi thứ nhất được thực hiện phổ biến dưới hình thức ghi nhật
ký. Một hình thức phổ biến nhất của văn du ký là ghi nhật ký. Nhật ký chính là lối
kể chuyện từ ngôi thứ nhất. Không chỉ những chuyến đi du lịch kéo dài nhiều ngày,
nhiều tháng mà kể cả một chuyến đi chỉ gói gọn trong một ngày cũng được kể dưới
128
hình thức nhật ký, theo trình tự thời gian các công việc, các ấn tượng và cảm xúc.
Một buổi đi xem đền Lý Bát Đế được Phạm Văn Thư kể theo trình tự: sáng sớm, tác
giả cùng anh em bè bạn ăn lót dạ, rồi đạp xe từ Hà Nội sang làng Đình Bảng. Đi
được 15 km cách xa Hà Nội dừng xem chùa Cổ Pháp (chùa Dặn), rồi đi thẳng lên
phủ Từ Sơn, cách Từ Sơn 2 km thì rẽ vào làng Đình Bảng. Xem xong đến Lý Bát
Đế, mọi người quay ra xem lăng Lý Bát Đế cách đền hơn 1 km nhưng đáng tiếc chỉ
còn lại mấy gò đất. Nghe nói gần đấy có lăng vua Lê Uy Mục nên mọi người đạp xe
đến xem, rồi vì còn thời gian nên họ đi lên ga Lim để xem chùa Trăm cửa (chùa
Linh Cảm) [Một buổi đi xem đền Lý Bát Đế, Nam phong, s. 91, 1925, tr. 37-39].
Cuộc đi chơi trong một ngày đầy các sự kiện và được kể tỉ mỉ các sự kiện theo trình
tự thời gian, cung cấp những tri thức về hiện trạng của địa điểm tham quan và các
bước có thể thực hiện của người tham quan.
Một cuộc đi xa kéo dài vài tháng như chuyến sang Pháp của Phạm Quỳnh
năm 1922 được ghi theo trình tự từng ngày, và trong một ngày cũng trình bày theo
trình tự thời gian sáng-trưa-chiều -tối. Phạm Quỳnh tâm sự trong Pháp du hành
trình nhật ký: “Tập nhật ký này chẳng qua là ghi chép những sự việc hằng ngày,
một cách bình thường giản dị, để nhớ lấy về sau, chưa phải là sách tổng thuật về
cuộc Âu du của tôi vậy. Cho nên không có nghị luận, không có văn chương gì cả, là
một quyển sổ tay gặp việc gì biên việc nấy, không phải là một tập du ký có đầu đuôi
mạch lạc vậy” [33, 384]. Nhưng chính hình thức nhật ký đã đem lại cho văn du ký
những nội dung chi tiết về cuộc sống, các sự kiện tại các địa điểm khác nhau trong
hành trình của tác giả. Nói khác đi, một mặt, nó vừa là dạng ghi chép tư liệu rất tỉ
mỉ chuẩn bị cho những áng văn hư cấu khi tác giả có thời gian, mặt khác, rèn luyện
thói quen tư duy nhìn cuộc sống trong các chi tiết chân thực, sống động. Nhật ký là
của cá nhân; trong nhật ký, tất cả các sự kiện, không gian sống, hành động được
nhìn từ ngôi thứ nhất, thấm đẫm tính chủ quan cá nhân trong việc đánh giá, thể hiện
thái độ từ ngôi thứ nhất rất tiêu biểu cho văn xuôi hiện đại.
Phan Khôi từng cho rằng nhật ký là lối văn mà văn học truyền thống ta ngày
xưa chưa có [xem tài liệu 77]. Ngày nay chúng ta biết nói vậy không hoàn toàn
chính xác. Trong Bắc sứ thông lục, (Lê Quý Đôn) hay Thượng kinh ký sự (Lê Hữu
129
Trác) đã ghi chép hành trình đi sứ theo lối nhật ký rồi. Nhưng nếu chúng ta đọc kỹ
thì thấy Phan Khôi cũng có lý nhất định khi ông chia nhật ký làm hai loại. Một loại
ông gọi là nhật ký phổ thông, ghi chép chuyện sinh hoạt thường ngày, kéo dài đôi
ba năm cho đến vài chục năm-loại này thiếu trong truyền thống Việt Nam. Còn loại
nhật ký đặc biệt chép riêng về một chuyến đi, kéo dài mấy ngày cho đến mấy năm,
hết việc thì thôi chép, ví dụ Tây phù nhựt ký của Phạm Phú Thứ. Tuy nhiên, lối nhật
ký dùng trong văn du ký trung đại có một số điểm khác với nhật ký của du ký hiện
đại mà chúng tôi sẽ phân tích.
- Hình thức viết thư
Viết thư tuy không phải là hình thức phổ biến trong du ký nhưng cũng được một số
tác giả văn du ký hiện đại sử dụng. Chúng ta đã nói đến bức thư của Nguyễn Thị
Kiêm trong Thành phố Hà Nội với mấy cảm tưởng đầu trên Phụ nữ tân văn năm
1932. Một trường hợp khác là các bức thư (không biết có thực gửi?) của một chàng
thanh niên sang Pháp du học gửi về nhà, được lục đăng trên Nam phong số 176,
năm 1932. Viết thư chủ yếu là một dạng thức tự sự ngôi thứ nhất mà cách kể
chuyện và bộc lộ thái độ, cảm xúc, cách đánh giá các sự kiện, hành động, tình
huống tương đồng với nhật ký.
Tóm lại, cả ba hình thức tự sự chủ yếu của văn du ký nửa đầu thế kỷ XX đều
gắn với thi pháp tự sự hiện đại, hướng về khẳng định vị thế của cái tôi cá nhân trong
văn học hiện đại nói chung. Người kể chuyện trong cả ba hình thức kể chuyện đều
xuất hiện ở ngôi thứ nhất và đều có hình thức nhật ký ở các mức độ khác nhau.
Nói cho đúng thì các tác phẩm văn du ký trung đại như Thượng kinh ký sự
của Lê Hữu Trác cũng có hình thức nhật ký và bộc lộ cái tôi người kể chuyện. Tuy
nhiên, cái tôi đó có tính cá nhân đến mức nào và cách miêu cái tôi đó như thế nào
lại là điều cần phân biệt với văn du ký hiện đại.
4.2.2. Các trải nghiệm và khám phá cá nhân
Một nhà văn viết du ký đã nói: “Độc giả của một cuốn sách sách du ký tốt có
hứng thú không chỉ với một chuyến đi ra ngoài thế giới, với sự miêu tả các cảnh
quan mà còn cả với một chuyến du lịch nội tâm tràn đầy cảm xúc diễn ra song song
với cuộc du lịch ở thế giới bên ngoài” [dẫn theo Carl Thompson, 261, 97]. Carl
130
Thompson cho biết theo nhà phê bình Paul Fussel, “cuộc hôn nhân giữa chuyến đi
ngoại tại và nội tâm thể hiện lý tưởng thẩm mỹ trong văn du ký”. Văn du ký không
chỉ kể chuyện mà điều quan trọng là tác giả tự phân tích tâm lý bản thân, trong
chừng mực nào đó, văn du ký có nét của một cuốn tự truyện. Cuộc du lịch của nội
tâm tác giả hay bức tranh tình cảm của người viết du ký hấp dẫn và quan trọng ít ra
là ngang hàng với các sự kiện của thế giới bên ngoài. Các sự kiện thuộc thế giới bên
ngoài được tác giả du ký ghi chép thì chúng tôi đã trình bày trong chương 3. Ở đây,
chúng tôi sẽ nói về “cuộc du lịch nội tâm” của văn du ký nửa đầu thế kỷ XX và
cách thể hiện con người cá nhân của tác giả-người kể chuyện.
Trong văn du ký trung đại, việc bộc lộ cái tôi chủ quan thường thông qua
hình thức thơ ca. Người xưa thể hiện cảm xúc bằng cách làm thơ. Thượng kinh ký
sự rất tiêu biểu về mặt này. Tác giả có thể làm một bài thơ hay mượn một bài thơ,
một câu thơ cổ để biểu đạt nội tâm khi có nhu cầu. Lê Hữu Trác kể khi đi qua đèo
Ba Dội (Tam Điệp), nhìn cảnh mây mù, ông xúc động nghĩ đến câu thơ của Hàn Dũ:
“tôi mời quan Văn thư cùng uống rượu rồi lên cao nhìn xa, trong lòng man mác, tôi
định đọc lại mấy câu thơ của người xưa để khuây khỏa, bất giác tiện miệng ngâm
luôn câu thơ Đường: Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại/ Tuyết ủng Lam Quan mã bất
tiền (Mây giăng Tần Lĩnh nhà đâu nhỉ/Tuyết đọng Lam Quan vó ngựa chùn) [222,
30]. Đây là đặc điểm chung cho văn xuôi tự sự chữ Hán trung đại chứ không phải là
đặc điểm riêng chỉ của văn du ký trung đại. Trong Truyền kỳ mạn lục, ở nhiều
truyện, nhân vật thường bộc lộ cảm xúc bằng việc sáng tác thơ hoặc từ khúc.
Khi vào thành Thăng Long, qua cửa Vũ Thành, ông xúc động và lại làm thơ.
“Số là, trước kia tôi đã từng trọ học ở nơi này, nhân lúc nghỉ, tôi bèn chống gậy dạo
quanh đây đó, ngắm lại cảnh xưa. Tuy rằng núi hồ vẫn như cũ, nhưng chùa Phật, đình
đài, dinh quan, trại lính, hết thảy đã khác trước. Người qua kẻ lại đông như mắc cửi,
Ba mươi năm lưu lạc sông hồ,
Chiếu chỉ ai ngờ đến đế đô.
Áo mũ hào hoa phường phố đẹp,
Đình đài lầu quán nối trời xa.
131
xe ngựa ồn ào. Tôi càng thêm cảm khái, bèn làm một bài thơ giải tỏ nỗi niềm:
Vụng khờ quen tính người quê núi,
Thù tạc e dè bậc gấm hoa.
Những chốn rong chơi thời trẻ bé
Nay nhìn quá nửa khác ngày xưa” [222, 35-36], (chúng tôi lược
phiên âm chữ Hán).
Chưa nói khuôn hình cảm xúc có phần công thức (đối lập xưa/nay, cuộc đời
dâu bể…), thay vì dùng ngôn ngữ để tự phân tích tâm lý, việc người xưa làm thơ để
phô bày cảm xúc tất nhiên có những hạn chế dễ thấy đối với tính chân thực và cụ
thể cá biệt của cảm xúc như: bài thơ thường lược bỏ chủ ngữ, bị qui định ngặt
nghèo bởi thể thơ với niêm luật, bằng trắc, đối xứng, những ước lệ không gian -thời
gian v.v…Hình thức làm thơ khi đi du lịch thì ngay trong du ký hiện đại nửa đầu thế
kỷ XX vẫn đây đó bắt gặp ở một số tác giả chứ không nhất thiết chỉ tồn tại thời
trung đại. Ai Lao hành trình của Trần Quang Huyến [Nam phong số 57-năm 1922]
được viết khá giống văn du ký chữ Hán trung đại: kể sự việc và thường kèm theo
không ít bài thơ bày tỏ cảm xúc, mà thơ theo thể Đường luật thất ngôn bát cú.
Huỳnh Thị Bảo Hòa trong Bà Nà du ký cũng có làm một số câu thơ tuy không nhiều
như bài du ký của Trần Quang Huyến.
Văn du ký viết bằng quốc ngữ đã giải phóng khả năng tự phân tích tâm lý tác
giả, tạo điều kiện cho tác giả thể hiện sự phong phú đa dạng của thế giới nội tâm. Sự
bộc lộ con người cá nhân, thể hiện cái chủ quan của tác giả vẫn theo một trình tự là
sự việc diễn ra trước và các cảm xúc được kích hoạt bởi các sự kiện ngoại quan đó.
Có tác giả bộc lộ con người cá nhân đều khắp, nhưng có những tác giả cũng hạn chế
sự bộc lộ này. Không phải tất cả mọi tác phẩm văn du ký đồng đều nhau về sự khám
phá bản thân. Cũng vậy, nhiều sự kiện được kể và việc con người cá nhân bộc lộ có
thể ít có gắn bó logich với nhau. Điều này, trong văn xuôi hư cấu cũng có thể gặp.
Người phụ nữ Huỳnh Thị Bảo Hòa tỏ ra là một phụ nữ hiện đại, quan tâm
đến nhiều vấn đề của cuộc sống. Trong gần nửa tháng lên nghỉ ở Bà Nà (năm 1931),
bà suy tư, nghĩ ngợi, xúc cảm về nhiều chuyện, cho thấy đây là một tâm hồn phong
phú chứ không đơn giản chỉ là một người phụ nữ chỉ biết tề gia nội trợ. Về điều lạ
132
lùng của đá Ông Phơi, bà viết “Nhớ khi tôi còn ở quê nhà thấy bọn nông phu, mỗi
khi cày cấy thường hay trông lên núi Chúa xem sắc đá mà chiêm nghiệm nắng mưa,
nhiều khi cũng ứng nghiệm lắm. Lấy lý mà đoán lẽ hòn đá ấy sinh trưởng hàng
ngàn vạn năm, trải qua sương tuyết, lâu ngày thành ra chuyển theo thời tiết mà thay
đổi sắc màu, vì như người thường nói: đá đổ mồ hôi, cũng có lẽ vậy. Duy có điều
khác nhau, nhà khoa học thì xét về cách trí, còn bình dân thì tin tưởng về thần
quyền, song cũng có lý cả” [32, 54]. Người phụ nữ này tỏ ra có hiểu biết nhất định
về cách trí-khoa học. Người kể chuyện đã kết hợp cả ngôn ngữ tự sự và ngôn ngữ
trữ tình, biểu cảm, đây là một nét đặc trưng dễ thấy của văn du ký hiện đại.
Khi lên đến đỉnh núi, những suy tư đầy tính triết lý về lẽ đời lại cho thấy bà
dường như đọc và ảnh hưởng khá nhiều thi văn truyền thống. Những nét cảm xúc ẩn
dật lánh đời của ẩn sĩ trung đại cộng hưởng với thái độ phê phán thực tại xô bồ
trong tâm hồn lãng mạn. Đây là cảm xúc điếu cổ thương kim và cũng có hàm tâm
sự thời thế: “Chính chỗ ta đứng viếng đây, xưa vua Gia Long đồn binh lập trại, ngày
nay người Đại Pháp nối gót dựng lên biệt thự thừa lương, một góc giang sơn, tang
thương mấy độ! Điếu cổ hoài kim, mình ta với núi!” [32, 64]. Còn đây là tâm hồn
của các nhà nho ẩn dật: “Lạ sao vừa mới ở chốn nồng nàn bực bội vì thán khí ô trọc,
tiếp xúc những cảnh phồn hoa bỉ ổi, thốt nhiên một chốc tiêu dao trên khoảng trời
xanh, nhìn lại đám hồng trần khói bụi, thì sao khỏi ngạc nhiên, tưởng mình đã lên
một quả địa cầu nào khác, trông lại cõi trần mà chán!” [32, 57]. Tư tưởng này tiếp
tục khi nữ sĩ quan sát cuộc sống cư dân tộc người thiểu số trên dãy Trường Sơn:
“biệt lập trong khoảng rừng xanh, sinh nhai về nghề trồng tỉa, an cư lạc nghiệp, vui
nước thẳm non cao, tính tình chất phác, phong tục đơn sơ, chưa nhiễm mùi phù hoa
đen bạc, chưa tiếp thụ cái đời cạnh tranh kinh tế, thật là riêng hẳn một bầu trời, mà
trong ba phần núi một phần đất, dân tộc Mường Mọi ở khắp mọi nơi, nhưng chưa
chắc đã hèn đã thua ai” [32, 59]. Dường như nữ sĩ có cả cái nhìn phủ định đối với
xã hội đương thời đang lao vào cuộc cạnh tranh kinh tế. “Mình ở non tiên, thương ai
trần thế, cùng một buổi này lửa hạ nấu nung, lò cừ hun đúc, những ai ai còn mài
miệt trong đám lợi danh, đắm đuối vào trường vinh nhục, thì giọt nước cam lộ cành
dương sao tưới khắp” [32, 61]. Ngôn ngữ phân tích, tự sự ở đoạn văn này kết hợp
133
uyển chuyển với ngôn ngữ biểu cảm. Tính chất kế thừa mạch cảm xúc truyền thống
của nhà nho về lẽ hưng vong kim cổ là rõ ràng, song cũng cần ghi nhận chất thế sự
của suy tư khi xuất hiện chữ Đại Pháp hoặc khái niệm Chánh phủ ở đoạn văn sau.
Quan sát các công trình trên Bà Nà bà thấy toàn của người Pháp, người Nam
chỉ phục dịch, bà suy tư: “Không rõ vì khó xin đất, hay là sợ tốn tiền và hủ bại,
không biết thưởng thức phong cảnh thiên nhiên và di dưỡng thân thể tinh thần, thì
thật là đáng lấy làm thương tiếc cho họ lắm”. Người phụ nữ này suy tư về đồng bào,
về người Pháp, vừa tiếc cho người Việt, mà ngầm phê phán chính sách bất công của
Pháp. Giá cả đắt đỏ chỉ tiện cho người Pháp hưởng thụ nơi nghỉ mát lý tưởng thế
này. “Thiết tưởng Chánh phủ mà muốn ra ơn cho được tiện lợi cả hai đàng (ý nói cả
người Việt và người Pháp), thì trong các sở chỗ nào còn dư đất, Chánh phủ cho làm
thêm một sở nhà riêng tùng tiệm cho các viên chức tòng sự liêu thuộc người An
Nam, ai đau ốm mệt nhọc được lên đấy có chỗ nghỉ ngơi điều dưỡng, thì ơn của
Chánh phủ ai mà chẳng cảm bội” [32, 58]. Vấn đề mở rộng sang địa hạt chính trị rồi.
Đất đai sông núi của người Nam mà lại phải mong mỏi người Pháp chia sẻ cho
những nơi nghỉ mát thì quả là mỉa mai, cay đắng.
Là một phụ nữ, nữ sĩ còn quan tâm đến giới nữ của mình. Ngắm trăng trên
đỉnh núi, giữa không gian tịch mịch, vắng vẻ, nữ sĩ liên tưởng: “Lẽ trong thanh khí,
chị Hằng Nga soi thấu cũng chau mày cho nhân loại, vì nam nữ bất bình, mà vấn đề
giải phóng phụ nữ biết bao giờ giải quyết cho xong?” [32, 63]. Trong chiều sâu tâm
lý, bà thấy một phụ nữ như mình được lên nghỉ ngơi ở chốn chỉ dành cho nam giới,
ngay cả việc ngắm trăng xưa nay cũng là độc quyền của đàn ông nên có liên tưởng
về bất bình đẳng nam nữ và vấn đề giải phóng phụ nữ.
Trong một cuộc du lịch Bà Nà, đúng là nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hòa đã làm một
cuộc du lịch nội tâm, phát lộ sự phong phú của cảm xúc và tư tưởng mà bình thường
nhìn một phụ nữ đầu thế kỷ ít khi người ta hình dung được. Người phụ nữ này
không chấp nhận mẫu hình phụ nữ “nội tướng” quen tề gia nội trợ mà tỏ ra bình
đẳng với nam giới, ít nhất là bình đẳng về tư tưởng, về suy nghĩ, về những vấn đề
mà một người phụ nữ mới-tân thời- có thể, cần phải quan tâm. Ngôn ngữ tự sự và
ngôn ngữ trữ tình hòa quyện, kho từ vựng hiện đại đã không còn xa lạ trong văn du
134
ký của bà: thần quyền, khoa học cách trí, cạnh tranh kinh tế, giải phóng phụ nữ.
Văn du ký của nữ sĩ Mộng Tuyết thì giống như một bài thơ, tràn đầy cảm
xúc. Lòng người con gái trẻ rung cảm mãnh liệt trước thiên nhiên trời biển hùng vĩ
của đảo Phú Quốc. “Tiếng sóng vỗ vào be tàu nghe như một khúc nhạc hùng hồn
oanh liệt. Chúng tôi cảm thấy lòng sung sướng mạnh mẽ. Tựa vào be tàu, đăm đăm
tôi ngó về phía trước” [31, 382]. Khi đã lên bờ, cô thổ lộ: “Nhớ lại những chuyện
nguy hiểm khó khăn của người đi biển bằng thuyền buồm nói lại mà chúng tôi lấy
làm sung sướng quá. Trong sáu tiếng đồng hồ đi một cách bình yên mà đã được trải
qua cái cảnh bềnh bồng trên mặt biển, hít thở cái không khí thanh tân man mác chốn
biển khơi, và được trông thấy bao nhiêu cảnh vật thanh kỳ ở chốn trời nước gió mây
thần tiên xa lạ, đối với cái đời êm lặng kín đáo của người con gái ở chốn buồng
khuê, thật là một dịp may đặc biệt”. Trong những dòng văn biểu cảm này, chúng ta
bắt gặp không chỉ cảm xúc mà còn cả chân dung tự họa của người kể chuyện: Tựa
vào be tàu, tôi đăm đăm ngó về phía trước. Xu hướng tự khắc họa chân dung trong
du ký Mộng Tuyết rất rõ ràng. Chúng ta bắt gặp nhân vật người kể chuyện trẻ trung,
hồn nhiên, giàu cảm xúc trong nhiều đoạn của thiên du ký thăm Phú Quốc. Nữ sĩ đã
kết hợp kể, tả, bộc bạch tâm sự, tự thể hiện và tự phân tích tâm lý bản thân.
Đối với cô nữ sinh này, đảo Phú Quốc mở ra bao điều mới lạ khiến cho cô
háo hức, xúc cảm. Được biết sẽ đi qua rừng sim, sẽ được hái sim, cô tưởng tượng
một cảnh lãng mạn “cái thú vui vẻ nên thơ lắm, trên cành nặng trĩu trái chín, điểm
có mấy chùm hoa nở muộn trăng trắng hồng hồng. Đây một cô bé xinh tay mang
giỏ thay hái trái, nét mặt ngây thơ hớn hở; kia một người thiếu phụ lẩn quẩn dưới
gốc cây, nét mặt vô tư lự ở giữa chốn bông trái đầy rẫy nhẹ nhàng uốn éo, rồi cất
tiếng hát ca véo von êm ái…Nghe nói mà thích quá, những ước ao được một dịp đi
hái sim. Nhưng nay đến đây, mùa này, thì chỉ có cành không trơ trọi thổi qua một
ngọn gió vô tình. Chúng tôi bồi hồi đứng tiếc” [31, 385]. Khác với nhiều áng văn du
ký nặng về kể, tả ngoại cảnh và sự việc, du ký Chơi Phú Quốc của Mộng Tuyết
thường diễn tả các cảm xúc mạnh mẽ, sâu xa, đầy chất lãng mạn trước mỗi sự kiện,
cảnh vật, thể hiện một tâm hồn đa cảm, giàu yêu thương, khát vọng.
Đi chân trần trên cát mịn, cô liên tưởng đến sự chăm sóc của cha mẹ: “Cái
135
chân được cha mẹ “cưng” không mấy khi để dấn trên đường cát bụi. Nghĩ cái lòng
thương con của cha mẹ thật là vô cùng, không nói cái lòng thương đó nên như thế
hay không nên như thế” [31, 385]. Ý cô là có lẽ cha mẹ nên để cho con cái xông
pha “bụi bặm” trong cuộc đời hơn là bao bọc chúng trong nhung lụa để rồi chúng
mất đi khả năng thích ứng với mọi hoàn cảnh không mấy thuận lợi.
Giữa thiên nhiên mênh mông và hoang sơ trên đảo, Mộng Tuyết thể hiện sự
hồn nhiên trong trẻo của một thiếu nữ. “Trong những “cù lao nhỏ” ấy là chỗ trú của
giống chim cúc. Tiếng người bước xột xạt, vài con ở gần giật mình cất cánh bay vù
ra rồi xao xác tìm bụi khác chui vào. Thích quá, chúng tôi chạy đến mấy bụi khác
đuổi phá. Chim lại bay vù rồi xao xác tìm bụi khác chúi vào. Mải đùa giỡn như thế
mà khi đến bãi biển mặt trời đã xuống kề mặt nước” [31, 387].
Với tâm hồn trẻ trung lãng mạn, đêm trăng đẹp lại càng quyến rũ. “Đêm
nay trăng tốt quá, giờ phút thần tiên dễ bỏ hoài, chúng tôi liền dở cuộc thưởng
trăng chơi phiếm trên sông. Cơm tối xong chúng tôi xuống chiếc thuyền
con…Chúng tôi sung sướng ở giữa khoảng đêm thanh tĩnh trăng soi gió thoảng
như vậy. Chúng tôi mơ màng phảng phất như đang phiếm du trên Hương Giang
mà trong mộng tưởng đã vẽ vời theo kỷ thuật của các nhà du lịch đất Trường
An…Đêm đã khuya quá rồi mà chúng tôi còn tiếc mãi, chưa đành dứt về
được…Thật không còn gì thú bằng ở chỗ mênh mông trời nước vài người tri kỷ
bàn câu chuyện văn chương buông tầm mắt ở chỗ tuyệt vời trong khoảng bóng
trăng làn sóng, nào có biết đâu trong đời còn có chuyện đáng bực mình” [31, 387-
389]. Những cụm từ diễn tả cảm xúc như “chúng tôi sung sướng”, “chúng tôi mơ
màng”, “thích quá”, “chúng tôi cùng vui cười”, những câu văn vừa kể vừa tả cảm
xúc rất phong phú trong bài du ký này “chúng tôi chạy giỡn nô đùa, nhởn nhơ như
đàn bướm lượn, sung sướng như trẻ con được phát quà”, “tôi, trong lòng phấp
phới, có cái cảm giác nóng nảy mừng vui như muốn vụt một cái nhảy lên bờ”…
Các hành động được tác giả kể, tả để biểu đạt cảm xúc.
Từ chiều sâu của vô thức, một cô gái ở tuổi học trò sống trong xã hội đang
chuyển mình từ xã hội phong kiến Phương Đông sang xã hội hiện đại, tiếp nhận ảnh
hưởng của văn chương và lối sống Phương Tây, chúng ta cảm nhận được sự bung
136
phá của khát khao tự do, khát khao được là chính mình. Những tín điều công, dung,
ngôn, hạnh bao đời ràng buộc người phụ nữ Việt Nam cũng như Phương Đông nay
phải nhường bước-cứ cho là tạm thời trong khi Mộng Tuyết đi du lịch Phú Quốc-
cho sự hồn nhiên, tươi tắn, thành thực, lãng mạn, trẻ trung. Cuộc du lịch đảo Phú
Quốc của Mộng Tuyết song hành với cuộc du lịch nội tâm, sự tự khám phá, bộc lộ
bản thân, điều mà nếu cứ ngồi trong bốn bức tường nhà hẳn cô không thể tưởng
tượng nổi. Điều quan trọng cần nhấn mạnh ở đây là các bộc lộ của nhân vật người
kể chuyện đều hợp lý chứ không gượng gạo: mỗi cảm xúc, suy tư được khơi gợi từ
các sự việc, cảnh quan có thực, một cách ngẫu nhiên, không sắp đặt. Các cảnh
huống và sự kiện được đưa vào du ký là rất đa dạng, không đơn giản chỉ là những
cảnh huống và sự kiện chỉ có quan hệ với thế thái nhân tình như trong du ký trung
đại. Trái lại, trong văn du ký hiện đại, đó là các cảnh và sự kiện do tác giả-người du
khách -chứng kiến trên đường đi.
Đinh Gia Trinh vào năm 1941 trên Thanh nghị từng viết: “Ở văn chương
Việt Nam không có những bệnh não khó chữa của trái tim, mà cũng không có
những cuộc chạy rông của trí tưởng tượng. Đông phương là rất ưa yên tĩnh, ít sôi
nổi, bồng bột. A. France thực là người Tây phương khi ông ta viết: "Tôi thích sự
điên dại của lòng ham thiết tha hơn là thái độ lãnh đạm hiền triết." (Je préfére la
folie des passions à la sagesse de l'indifférence)” [225, s. 2, tr. 16]. Chúng ta hiểu
rằng nhà phê bình đang nói về văn học trung đại chứ không phải nói về văn chương
Việt Nam đương thời. Văn du ký với xu hướng tự phân tích tâm lý, tự khám phá,
bộc lộ bản thân của Mộng Tuyết đã báo hiệu sự khắc phục những hạn chế của văn
chương truyền thống đó.
Nhật Nham-một công chức tòa sứ nhiều tỉnh19- đi du lịch hồ Ba Bể lại bộc lộ
một con người trí thức quan tâm nhiều đến văn hóa ứng xử (hay là bản sắc) của con
người, có lẽ với tâm nguyện muốn người Việt thay đổi. Các sự việc diễn ra trong
mắt ông gây cho ông những cảm xúc, suy tư về văn hóa. Không phải ông suy tư
mông lung mà chính các sự việc ông chứng kiến đã gây nên các trạng thái nội tâm.
19 http://www.vanhoabacgiang.vn/node/268. cho biết Nhật Nham Trịnh Như Tấu quê ở Bắc Giang, từng làm Tham tán tòa sứ Bắc Giang, rồi Hà Nam, Lao Cai, Hưng Yên.
137
Cảnh xe khách dồn ép khách để chở được nhiều, thu lắm lợi: “Người làm ô tô vì
quá ham lợi, không hề bỏ lại người nào cho những xe chạy các giờ sau, cứ luôn
luôn cho xe dừng lại rồi lèn hành khách như nêm cối! Họ coi thường cả nhân mệnh
những kẻ đã nuôi sống họ” [126, s. 58, tr. 709]. Ông ngán ngẩm than thở về sự thản
nhiên đến mức lạnh lùng của nhà xe khi thùng dầu đặt trên nóc xe nhỏ giọt vào đầu
một nữ hành khách: “Ấy đấy, cách cư xử của người mình có đáng ngán không!
Phần đông chỉ nghĩ đến lợi riêng, “sống chết mặc bay tiền thày bỏ túi”, có mấy ai đã
biết trọng cái quyền lợi của người khác. Vị kỷ mà chẳng vị tha, xưa nay vốn là bệnh
chung của người đời”. Hình như vào thời điểm năm 1942, chiến tranh thế giới lần
thứ II đang diễn ra quyết liệt nên tầng lớp trí thức công chức như Nhật Nham bàn
luận nhiều về chiến tranh thế giới nên những cảm xúc đó bỗng bật dậy khi ông đi xe
khách nhìn thấy những cảnh chướng tai gai mắt. “Ngày nào loài người còn say đắm
trong cái bể tham không đáy, ngày nào con người còn luẩn quẩn trong vòng “tam
độc” tham, sân, si thì trên sân khấu doanh hoàn còn diễn nhiều tấn tuồng bi đát”
[126, s. 58, tr. 709].
Nhìn những người phụ nữ cưỡi ngựa đi chợ mua thực phẩm trở về, vị công
chức tòa sứ này suy tư về sự thay đổi thích ứng của phụ nữ theo hoàn cảnh sống hiện đại: “Được nửa đường, chúng tôi gặp mấy người đàn bà ta 20 cưỡi ngựa đương
trèo dốc, trên lưng ngựa có đeo nhiều thực phẩm. Hỏi ra mới biết thường nhật các
bà vợ các ông Ký mỏ trên Plateau (cao nguyên) xuống chợ điền để mua các thứ nhật
dụng. Nhân thấy vậy, tôi nảy ra một quan niệm: Nghĩ như đàn bà con gái nước ta
khi xưa, những ai hỏi vào bậc phong lưu khuê các, đâu có biết rừng xanh suối bạc,
mà ngồi trên lưng ngựa thâu ngày! Chẳng qua đó cũng là cảnh ngộ có thể làm cho
người ta biến hóa khí chất vậy. Phải chăng là “thiên nhiên học hiệu” của cuộc sinh
nhai buổi mới…” [126, s. 67, tr. 928]. Những suy nghĩ có vẻ thoáng qua đã nêu một
vấn đề có tính lý luận quan trọng về nữ tính: cái gọi là nữ tính thực ra chỉ là sản
phẩm của hoàn cảnh sống. Phong lưu khuê các là lối sống chốn thị thành của phụ nữ
thuộc tầng lớp trên. Vẫn chính những người phụ nữ đó nếu gặp hoàn cảnh sống ở
20 Ý nói phụ nữ người Kinh.
138
vùng núi thì họ sẽ thay đổi.
Vẫn câu chuyện về phụ nữ và sự biến đổi của họ theo cuộc sống, Nhật Nham
kể có một cô gái Mán có mang với một thợ mỏ người kinh, theo hương ước của
người Mán cha mẹ cô gái phải nộp vạ cho bản và làm bữa rượu để xin dân làng tạ
tội. “Tôi tự nghĩ, không ngờ tại nơi sơn cùng thủy tận, mà giữa một dân tộc một đời
sinh trưởng trên đỉnh núi, tại một nơi hưu quạnh, xa những cuộc cạnh tranh, cái lễ
giáo cổ điển còn được duy trì đến như thế. Thế mới biết cái hay thì dù thời đại nào,
dân tộc nào, xứ sở nào cũng được tôn sùng! Tiếc thay! Cái hay ấy gần đây không
còn ảnh hưởng đến luân lý người mình vốn có sẵn văn hóa từ nghìn xưa. Ta xem
chuyện người Mán, ta lại nghĩ đến khuyết điểm của ta, khỏi sao chẳng thẹn với
người rừng xanh núi đỏ?” [24, s. 68, tr. 948]. Trong vấn đề phụ nữ thì hình như
Nhật Nham tỏ ra là một nhà nho, có phần luyến tiếc với những lễ giáo đã dẫn đến
những hình phạt nghiệt ngã đối với những thiếu nữ “không chồng mà chửa”, hiện
tượng mà Nguyên Hồng đã phản ánh với tinh thần phê phán trong tiểu thuyết Bỉ vỏ.
Nói về văn du ký khám phá, phân tích tâm lý cá nhân thì văn du ký của Phạm
Quỳnh có nhiều khám phá sâu sắc. Khi chuẩn bị đi từ Marseille lên Paris, ông phải
soạn lại chiếc va li to đựng quần áo đem đi từ nhà, phát hiện thấy có quá nhiều quần
áo, đặc biệt là quốc phục (trang phục truyền thống của quan viên người Việt như áo
the, khăn xếp). Những bộ quốc phục để trong va li trên đất Pháp đã dẫn ông đến
những suy tư mà khi ở trong nước, ông không lường tới. “Những đồ quần áo trong
hòm cũng không dùng đến, vì phần nhiều là quốc phục, sang đến đây mới biết rằng
không tiện. Mình sang đây là để xem người, không phải cho người xem mình; như
vậy mà cứ thướt tha như anh lễ sinh, đi lại nghênh ngang ngoài đường phố, thời
khác nào như làm một cái vật “đấu xảo” giong đường cho người quí quốc xem, nghĩ
nó cũng dơ dáng dạng hình quá!” [31, 427]. Nhân chuyện quốc phục, Âu phục, ông
giãi bày tâm sự: “Còn nhớ mấy ngày đầu mới ăn mặc Tây, rõ phiền quá. Tôi bắt đầu
thử mặc Tây tự Sài Gòn đi, để tiện xuống chơi các bến tàu đỗ. Hôm xuống Tân Gia
Ba là ngày mặc Âu phục lần thứ nhất: hôm ấy trời lại nóng nực, mình quen mặc
rộng rãi thênh thang, bây giờ bó buộc như thằng hình nhân, lấy làm khổ quá; nào là
quần trong, quần ngoài, nào là áo “sổ mi”, nào là “bờ-lơ-ten”; khổ nhất là đeo cái
139
“phô côn” cho ngay ngắn, thắt cái “cà vạt” cho dễ coi. “Cà vạt” có thứ đã thắt sẵn,
chỉ việc cài vào mà thôi; có thứ mình phải thắt lấy. Trước khi mua đã phải hỏi ý các
ông sành mặc Tây, ông nào cũng bảo rằng thứ thắt sẵn chỉ để cho các ông già dùng,
còn người trẻ phải thắt lấy mới là lịch sự. Nhưng khốn quá, mình tập mãi mà nó cứ
nghiêng vẹo, lệch lạc, xô xếch, nhăn nheo, không thấy “lịch sự” một chút nào cả!
Cực nhất là lúc tàu đã đến bến rồi, anh em đợi để lên ăn cơm ở cao lâu trên phố, mà
mình ở trong buồng cứ loay hoay thắt với buộc mãi không xong, bấy giờ đỏ mặt tía
tai lên, muốn quăng cả đi…” [33, 428]. Chúng ta nhận ra rằng ẩn kín bên trong mỗi
con người là một thế giới riêng tư rất phong phú, lạ lùng mà nếu người đó không
thổ lộ thì mãi mãi là bí ẩn. Chuyện Âu phục hay quốc phục chỉ đặt ra khi có cuộc
tiếp biến văn hóa Đông Tây, khi mà người Việt đứng trước sự lựa chọn trang phục
như một sự lựa chọn văn minh.
Tuy nhiên, đây không phải chỉ là chuyện ăn mặc, quốc phục hay Âu phục.
Phạm Quỳnh biết khéo léo liên hệ, khái quát việc ăn mặc thành một vấn đề văn hóa
rộng lớn hơn, có ý nghĩa hơn. Ông kể dọc đường đi, dần dần ông làm quen với cách
buộc cà vạt và khi đến Marseille, ông đã thấy mọi sự trở nên dung dị: “Khi đến
Marseille thời nghiễm nhiên như ông Tây “đặc”, tưởng hình như mình vẫn mặc Tây
đã mấy mươi năm rồi; không những cách ăn mặc mà dáng bộ cũng hệt lắm: tay bỏ
túi quần, tay cầm gậy “can”, không còn ngượng ngập gì nữa…Lại nghĩ rằng nếu
văn minh mà chỉ có thế thôi, cũng dễ quá: chỉ mất sáu trăm quan là được cái lốt văn
minh như hệt, và theo “mốt” tối tân, các “công tử” nước nhà không sao theo kịp: áo
thắt ngang lưng, quần nếp thẳng băng, cổ là bóng nhoáng, giầy sơn đen nháy, lại
phủ một miếng da trắng ở trên cho khỏi bụi…Nhưng mà mình vẫn biết đã lâu rằng
văn minh không phải ở cái lốt ngoài đó. Chẳng qua là đến đâu phải theo tục đó mà
thôi” [33, 428-429]. Dòng suy tư này phản ánh tư tưởng về văn minh Đông -Tây,
vấn đề kết hợp điều hòa Đông-Tây ra sao mà Nam phong bàn luận ngay từ đầu. Văn
minh không đơn giản chỉ là ở cái lốt bề ngoài. Chúng ta hiểu vì sao, trong Số đỏ, Vũ
Trọng Phụng chế giễu phong trào Âu hóa của tầng lớp thượng lưu thành thị, những
tiệm thời trang Âu hóa, tân thời của ông Văn Minh.
Tương tự như câu chuyện trang phục là từ ngữ Pháp-Việt. Nhân vào một nhà
140
hàng ở Paris “ăn cơm tối”, ông lại nghĩ đến từ “ăn cơm”, kể cả “ăn cơm Tây”-ông
bảo chỉ sang đây, vào nhà hàng Tây, không có “cơm” thì mới nghĩ đến sự khác biệt:
“Cơm mà của Tây, Tây mà có cơm, thế là cái gì? Cho hay ngữ ngôn của mỗi nước
là đặc biệt cho nước ấy, xét cho kỹ, không có một tiếng một chữ nào là giống nhau
như hệt, kháp nhau như in được... Người đã ăn theo lối Tây, nằm theo lối Tây, thì
nói đến cơm Tây, giường Tây, mới hiểu là cái gì, chứ người chưa từng ăn bánh bột
mì, chưa từng nằm giường “lò xo”, thì nói đến những tiếng ấy phỏng có nghĩa lý gì?
Nói mà không có nghĩa lý gì, thì dẫu nói luôn miệng cũng chẳng ăn thua gì. Chẳng
qua là truyền khẩu như con yểng mà thôi. Ấy là thí dụ những tiếng tầm thường về
sự ăn nằm cũng đã cách xa nhau một vực một trời như thế; huống những tiếng có ý
nghĩa sâu xa u ẩn thì còn cách nhau đến thế nào!”. Từ đó, Phạm Quỳnh nâng lên
thành một vấn đề lý luận rất quan trọng, có tính hiện đại: “Ấy người mình học chữ
Tây đại để như thế…Chỉ sợ một điều, là trong khi cố công cùng sức nhồi óc cho đầy
những cái vỏ chữ của người, thì cái ruột chữ của mình mất hết cả” [33, 444-445].
Đây chính là hiện tượng mà Derrida gọi là differance, vấn đề “diên dị”: trong ngôn
ngữ, một khái niệm, một từ ngữ du hành từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác
sẽ tất yếu bị chuyển nghĩa do các nhân tố văn hóa, xã hội, chính trị qui định. Nói
đến “cơm”, kể cả “cơm Tây” thì trong óc người Việt Nam hình dung cơm là do hạt
gạo nấu thành còn thực tế, cơm Tây chỉ là “bánh mỳ”. Vì thế cùng khái niệm “ăn
cơm” nhưng người Việt và người Tây hiểu khác nhau. Tương tự như thế, các khái
niệm khác, trừu tượng hơn như dân chủ, tự do, nhân đạo lại càng phức tạp khi di
chuyển từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác.
Là một trí thức quan tâm nhiều vấn đề quốc gia đại sự, Phạm Quỳnh dễ nhạy
cảm trước những vấn đề về văn hóa giáo dục. Đi qua trường École Normale
Supérieure (ông dịch là trường Cao đẳng sư phạm), nhìn trường sở, nhìn các thầy,
nhìn sinh viên, ông chạnh lòng buồn bã về cái học dang dở của bản thân: “Than ôi!
Mình không phải là không có cái lửa nhiệt thành về sự học, nhưng mà sinh trưởng
vào giữa buổi thanh hoàng, học không ra gì cả, nho chẳng ra nho, mà Tây cũng
chẳng thành Tây. Phàm sự học phải cho đến nơi đến chốn thì sở học sở hành mới
điều hòa dung hợp nhau, mà gây nên cái nhân cách thanh cao. Hễ còn dở dang, còn
141
nửa chừng, thì không ra con người gì cả”. Xét bản thân, Phạm Quỳnh tự nhận Hán
học nửa chừng, Tây học cũng không hoàn chỉnh “Nói đến học Tây, thì chẳng qua
học mấy câu tiếng Tây để đi làm thuê, cũng tự biết còn thiếu thốn, muốn ra công
học thêm, nhưng thày đâu sách đâu, ở trường thông ngôn ra, được mấy ông hương
sư ở Tây sang, thế đã là tột phẩm rồi, nào đã bao giờ được từng ngồi qua cái ghế
một trường Đại học như trường Sư phạm này?”. Tác giả du ký cám cảnh thân phận
mình, rồi cám cảnh cho cả đất nước mình: “Dở dang, dở dang, thôi mình đã đành là
một con người dở dang!” [33, 448]. Chuyện học hành, khi đến thăm Chánh đốc học
trường Bác cổ, người đã nhận Phạm Quỳnh vào làm Bác cổ, ông hồi tưởng lại bản
thân: “Thủ khoa Tây mà chữ nho chỉ biết viết nổi hai chữ tên, còn thời mù tịt cả. Kỳ
thi có một bài Hán tự dịch ra chữ Tây …dịch giỏi đến nỗi được một nửa điểm [1/2].
Đáng thì phải 0, hỏng “toẹt” không được đỗ, vì dịch sai cả, làm hẳn một bài chữ
Tây khác…nhưng may ông chánh chủ khảo có bụng nhân từ, xét các bài khác được
cả, làm ơn cho lên nửa điểm cho khỏi hỏng, lại đến khi cộng “nốt” quyết cho đỗ thủ
khoa”. Phạm Quỳnh tự thấy tiếc vì mình bỏ Bác cổ mà đi làm báo, song tự an ủi
“Giữa lúc quốc dân nhiệt thành về Âu hóa, đem những chuyện cũ, việc cũ, cái tinh
thần cũ, cái lý tưởng cũ của Đông phương mà bàn bạc, mà nhắc lại cho người mình
biết, tưởng cũng là một sự hay. Song nghĩ đi thì thế, mà nghĩ lại nước nhà còn
đương buổi nhu tài, các việc công ích còn cần phải có người cổ động, dữ kỳ an
thường thủ phận mà làm một nhà ngôn luận, dẫu “bí beng” chẳng ăn thua gì, nhưng
cũng khiến cho xã hội có cái vẻ hoạt động một chút” [33, 464]. Tự phân tích, nhìn
nhận bản thân một cách nghiêm khắc, Phạm Quỳnh tỏ rõ là người ưu tư về nền giáo
dục của đất nước, lý giải sự lựa chọn của mình làm con người gì, nhà khảo cứu hay
nhà ngôn luận. Tâm trạng này là kết quả cộng hưởng của con người chủ quan tác
giả cộng với những tác động ngoại cảnh khi đi Pháp.
Cuộc du lịch bên ngoài và cuộc du lịch nội tâm đã dẫn người đọc khám phá
con người tác giả du ký với nhiều bất ngờ. Phạm Quỳnh là một nam giới trí thức có
tầm nhìn, có sức nghĩ khác với một cô nữ sinh như Mộng Tuyết. Các cảm xúc, tâm
tư, suy nghĩ của họ lại nảy sinh trong những hoàn cảnh du lịch khác nhau nên tất
nhiên cũng không giống nhau. Điều thú vị là chính Phạm Quỳnh từng phê phán Tản
142
Đà đưa cái tôi vào thơ tựa như người cuồng trần truồng đi ngoài phố, nhưng chính
ông lại cũng đưa cái tôi cá nhân vào văn du ký như vậy. Ông từng kể là đoàn của
ông đi Pháp đã từng đến xóm bình khang “khảo sát”, có người trong đoàn còn cao
hứng thử “tiên” Tây: “Rượu chuyện đã vãn, đêm cũng đã khuya, bác nào cao hứng
thời theo “tiên” …lên mây; còn rủ nhau ra về cả, tính ra ngồi nói chuyện “chay”
như thế mà mỗi người cũng mất năm sáu chục quan về tiền nước chanh, nước cam,
nước đá, ấy là không ai nghiện “sâm banh” cả, chứ nếu lại đụng cốc chúc thọ nữa
thì chửa biết đến mấy trăm quan” [33, 485]. Sự khám phá con người cá nhân đưa
đến những trải nghiệm thật bất ngờ mà “nhà nho” (chữ dùng của Phạm Quỳnh)
trước đó không thể nghĩ đến. Và dù đạo mạo đến mấy, Phạm Quỳnh cũng ghi lại
một hành vi mà các nhà nho xưa không thừa nhận.
4.3. Ngôn ngữ văn du ký
Văn du ký chữ quốc ngữ có cội nguồn từ Sách sổ sang chép các việc (năm
1822) của Philiphê Bỉnh. Nhận xét về tiếng Việt của tác phẩm này, Thanh Lãng đã
nói đến một thứ tiếng Việt ròng, thuần túy Việt. “Hầu toàn sự nghiệp của Philiphê
Bỉnh đều là thứ văn xuôi, tiếng nói của bình dân, tức tiếng nói thường ngày, giao tế
trong xã hội. Nó không chịu ảnh hưởng của Tây phương, nhưng chúng cũng chẳng
giống gì cái văn chữ nho…Nếu nói như ngôn ngữ của Trương Vĩnh Ký thì nó “là
tiếng An Nam ròng”, “trơn tuột như lời nói” [16, Thay lời giới thiệu, tr. XXI-XXII].
Điều đáng chú ý trong khu vực văn học viết bằng chữ Nôm thời trung đại,
văn xuôi rất kém phát triển. Hoa Bằng đã lý giải một số nguyên nhân của tình trạng
này. So với tiếng Việt trong Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú
(năm 1763)- một bản dịch Nôm của Truyền kỳ mạn lục thì Sách sổ sang chép các
việc thuần Việt hơn, không bị chi phối bởi cấu trúc câu theo ngữ Pháp văn ngôn như
“chi là chưng, sở là thửa”. Nhà nghiên cứu Hoa Bằng trên tạp chí Tri tân năm 1942
đã nhận xét về tiếng Việt của bản dịch Truyền kỳ mạn lục này: “bản dịch cổ theo hệt
lối hành văn chữ nho, ứng dùng cái thể “tỉnh văn” nên trong một câu, thường hay
21 Một đoạn văn dịch ra Nôm từ sách này “Nhà Trần niên hiệu Kiến Tân năm Kỹ mão, kịp chưng vạ ngươi Khát Chân, con gái họ Nguyễn bèn vào trong cung. Chàng Lý cả mất thửa lòng mong” (theo 14, tr. 1059)
143
trốn những tiếng chủ ngữ và những tiếng túc từ. Vì vậy câu văn thường có cái nạn tối nghĩa, lẫn ý và không minh bạch rạch ròi” [14, 1060]21. Có thể thấy, do ngữ
pháp của tiếng Việt và tiếng Hán có nhiều điểm khác nhau nên khi các nhà nho viết
văn Nôm chịu sức ép của cú pháp Hán văn đã khiến cho câu văn không trong sáng;
còn những tác giả không có nhiều duyên nợ Hán văn như Philiphê Bỉnh thì có một
lối văn tiếng Việt sáng sủa hơn.
Tiếng Việt trong văn du ký nửa đầu thế kỷ XX đã có những thay đổi vượt
bậc. Văn xuôi quốc ngữ đã mau chóng hình thành trên báo chí, trong đó có thể xem
văn du ký như là một trường đào tạo, trau dồi, tập dượt của quốc văn. Các báo chí ra
đời hàng loạt và dễ hiểu là nhu cầu bài vở hay, hấp dẫn để bán được báo trở nên hết
sức lớn. Trong khi chờ đợi các sáng tác văn xuôi hư cấu như truyện ngắn hay tiểu
thuyết đăng dài kỳ thì loại tác phẩm có thể hấp dẫn đối với công chúng chính là văn
du ký.
Xét về ngôn ngữ, có thể chia ra ba loại văn du ký với ba loại tác giả văn du
ký có phong cách ngôn ngữ khác nhau. Các tác giả nhà nho duy tân, các tác giả Tây
học và các tác giả Nam Bộ.
Văn du ký quốc ngữ của các nhà nho mới như Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Đôn
Phục còn tồn tại khá nhiều câu văn đăng đối theo mẫu mực của văn biền ngẫu, cùng
không ít từ Hán Việt. Quan niệm thẩm mỹ của nhà nho xem cái đẹp phải có tính cân
đối nhịp nhàng vẫn tìm được chỗ đứng trong văn xuôi của thế hệ tác giả Nho học
này. Ví dụ, Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục viết “Chẳng qua nhờ có một vài tháng
xuân, hội hè đình đám; trên dặm phần gọi là phất phới có tấm lụa bạch, dưới ngõ
hạnh gọi là thấp thoáng có cái yếm nhất phẩm hồng” [32, 88]. Các từ Hán như dặm
phần, ngõ hạnh có thể quen thuộc với độc giả ở đầu thế kỷ XX nhưng ngày nay đã
trở nên khó hiểu. Một đoạn văn khác cũng của Tùng Vân nói về lăng mộ trong văn
du ký Cuộc đi chơi năm tầng núi: “ Có lịch sử mà không có lăng, thì cái lịch sử
nghìn năm cũng vẫn chọi lọi ở trên đám nhật tinh, vẻ vang ở dưới vùng hà nhạc; có
lăng mà không có có lịch sử, thì cái lăng nghìn năm cũng chỉ tịch mịch ở trong
luồng thu thảo, nhấp nhánh ở dưới bóng tà dương đấy mà thôi…Sửa sang cho ra cái
lăng ông khanh ông tướng, cũng phí tổn mất vài bốn mươi vạn kim tiền, mà sửa
sang cho ra cái lịch sử vị công hầu, cũng phí tổn mất vài bốn mươi năm tâm huyết
144
vậy” [32, 90]. Cấu trúc câu đăng đối của văn biền ngẫu như vậy còn khá phổ biến
trong du ký của các cụ, nó có mặt tiêu cực là gò bó tư tưởng, giảm tính chân thực
của các quan sát được ghi chép. Đó là đặc điểm giai đoạn đầu của văn xuôi quốc
ngữ. Trong truyện ngắn Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn cũng vẫn phảng
phất lối văn biễn ngẫu này.
Tuy nhiên, phải khẳng định rằng văn xuôi quốc ngữ của các nhà nho đã tiến
bộ vượt bậc. Phần lớn các bài du ký được viết bằng thứ ngôn ngữ đời thường, ngôn
ngữ nói.
Văn du ký của các tác giả Tây học, một thế hệ trí thức mới chịu nhiều ảnh
hưởng Pháp văn mà ít chịu ảnh hưởng của văn xuôi chữ Hán là tiêu biểu cho xu thế
hiện đại hóa ngôn ngữ văn học ở nửa đầu thế kỷ XX. Ngôn ngữ văn xuôi du ký của
họ tự nhiên, giản dị, phản ánh chủ trương viết một thứ tiếng Việt ròng, tiếng Việt
nguyên chất. Một đoạn văn du ký của Phạm Quỳnh kể về chuyến đi chơi Lạng Sơn,
Cao Bằng: “Những núi đá ở đây có lắm thứ hoa cỏ đẹp. Trong bọn đi chơi Tam
Thanh có ông thích nhất thứ lan, nói quí lắm, cố hái lấy cho được. Trời đã chiều
hôm, thấy có gió mát, mà trên trời thời vẩn mây, tiếng sấm vang sườn núi, tưởng
rằng mưa, nhưng mà không. Anh em từ biệt quan châu, rồi về trọ nghỉ” [32, 494].
Văn du ký của các tác giả Nam Bộ ở nửa đầu thế kỷ XX, vì chủ trương nói
thế nào viết thế ấy nên vẫn còn tình trạng một số từ viết theo lối phát âm Nam Bộ,
dùng một số từ địa phương. Nguyễn Thị Kiêm viết chìu khách, thấy Hồ Gươm lần
thứ nhứt, mấy chú Chệc tèm lem mộc mạc …Tuy nhiên, nếu đọc văn du ký của
Đông Hồ như Thăm đảo Phú Quốc ta thấy ông rất có ý thức về việc sử dụng một
thứ tiếng Việt chuẩn, khá thống nhất với tiếng Việt trên Nam phong. Đối với Đông
Hồ, rõ ràng văn quốc ngữ trên Nam phong có ảnh hưởng quan trọng.
Nhìn chung, văn du ký đã đóng vai trò của môi trường rèn luyện văn xuôi
quốc ngữ nói chung. Trong văn du ký có thể thấy rõ sự tồn tại ba kiểu ngôn ngữ, mà
sự vận động hiện đại hóa ngôn ngữ văn học sẽ làm mờ sự khác biệt giữa chúng để
tiến đến một thứ ngôn ngữ văn học thống nhất trên toàn lãnh thổ Việt Nam vào giữa
145
thế kỷ XX.
Tiểu kết
Xét về thi pháp và các phương diện nghệ thuật khác, văn du ký nửa đầu thế
kỷ XX đóng góp vào sự hiện đại hóa văn học nổi bật nhất ở hai vấn đề là tư duy tả
thực, tả chân và sự thể hiện, khám phá, trình diễn cái tôi. Đây chính là hai vấn đề
mà những người đương thời của nửa đầu thế kỷ XX hết sức quan tâm và giới nghiên
cứu hiện nay cũng xác nhận.
Tả thực bao gồm việc kể, tả theo hướng đi vào chi tiết, tỉ mỉ, cụ thể. Không
chỉ có vậy, quan trọng hơn là việc tả thực bao quát được một hiện thực khách quan
rộng lớn, đa chiều, phong phú chứ không đơn tuyến.
Cái tôi cá nhân mà các tác giả văn du ký bộc lộ trên hành trình du lịch mang
tính chất tự khám phá vì các cảm xúc và suy tư chỉ có cơ hội nảy nở, xuất hiện trước
cảnh đời, cảnh thiên nhiên, trước thực tế xã hội. Cái tôi là người kể chuyện ở ngôi
thứ nhất trực tiếp hoặc dưới hoặc hình thức viết nhật ký, viết thư nhưng đều cần có
một tác động của ngoại cảnh để trữ tình. Sự đa dạng của cái tôi trong văn du ký giai
đoạn nửa đầu thế kỷ XX chịu sự qui định một mặt bởi bản thân sự đa dạng của chủ
thể du lịch xét về giới (nam hay nữ), địa vị xã hội, tuổi tác, học vấn…cũng như bản
thân loại hình du lịch, địa điểm du lịch, mục đích du lịch.
Ngôn ngữ văn du ký cũng phản ánh quá trình vận động đi đến nhất thể hóa
146
ngôn ngữ văn học nói chung trong nửa đầu thế kỷ XX.
KẾT LUẬN
1. Khái niệm văn du ký sử dụng trong luận án là kết quả của sự cân nhắc
giữa thuật ngữ quốc tế (travel literature, hoặc travel writing- dịch sát là văn học du
lịch) và thực tế tồn tại của thơ du ký. Trong văn du ký có tất cả các phương thức tạo
tác văn bản, tự sự và trữ tình, có cả thơ song văn xuôi chiếm tỷ lệ áp đảo.
2. Tính hiện đại và hiện đại hóa trong văn học nói chung và văn du ký nói
riêng gắn liền với tư duy duy lý, tinh thần thế tục, con người cá nhân. Từ đó mà
xuất hiện thi pháp tả chân, tả thực, cái nhìn đa chiều về đời sống, xu hướng khám
phá cái tôi cá nhân, chú ý nhận xét người khác, tư tưởng nữ quyền.
2. Sự phát triển của giao thông ở đầu thế kỷ XX, công cuộc giao lưu tiếp xúc
Phương Đông -Phương Tây, quan niệm sống mới của con người Việt Nam, đã kích
thích các hình thức du lịch hiện đại mà thời trung đại chưa thể có được. Nếu như
thời trung đại, việc chiếm lĩnh không gian còn rất hạn chế do tốc độ chậm chạp thì
đầu thế kỷ XX, giao thông đường sắt, đường bộ, đường biển và đường không đã
giúp cho sự đi lại nhanh chóng, thuận lợi. Nhờ có giao thông tăng tốc độ, không
gian đất nước và thế giới trở nên nhỏ hẹp hơn và tâm lý ngại đi xa bị đẩy lùi. Việc
tiếp nhận các ảnh hưởng của văn học Phương Tây trong đó có mảng văn học du lịch
qua các bản dịch hay trực tiếp từ tiếng Pháp cũng tác động đến cả cảm hứng du lịch
và cách viết du ký.
3. Văn du ký được kế thừa một truyền thống quan trọng từ văn du ký trung
đại nhưng nói chung, đây là một thể loại riêng của văn học Việt Nam nửa đầu thế
kỷ XX, có nhiều điểm khác biệt so với văn du ký trung đại. Nếu như không đủ cơ
sở để nói văn du ký giai đoạn này có vai trò thúc đẩy chủ nghĩa lãng mạn hay chủ
nghĩa hiện thực của văn học hay sự hình thành tiểu thuyết hiện đại như đối với văn
du ký Phương Tây, thì cũng có thể nói thể loại này hòa nhịp cùng tiến trình hiện đại
hóa văn học nói chung, góp phần tô đậm những đặc điểm của hiện đại hóa văn học.
4. Về phương diện nội dung, văn du ký nửa đầu thế kỷ XX có những nét hiện
đại riêng. Du lịch là di chuyển qua không gian, đến các địa điểm khác nhau. Vì thế,
147
vấn đề tiếp xúc với “người khác” là một nội dung đặc biệt của văn du ký so với thơ,
truyện ngắn, tiểu thuyết. Nói đến người khác, tức là nói đến khía cạnh chủng tộc,
khía cạnh văn hóa. Về mặt này, chỉ có văn du ký tiếp tục mạch tư tưởng của văn học
yêu nước nửa đầu thế kỷ XX: cạnh tranh sinh tồn, bảo chủng.
Có nhiều kiểu người khác xuất hiện trong văn du ký giai đoạn này. Hình
ảnh người Pháp gợi ý những vấn đề hiện đại và phát triển dân tộc về khoa học
công nghệ, văn học nghệ thuật. Hình ảnh người Hoa cho thấy sự cần thiết người
Việt phải thay đổi để giữ lấy những quyền lợi chính đáng của dân tộc mình. Đối
với người Chăm, lại là những bài học về mạnh được yếu thua. Nhìn chung, việc
chú ý quan sát và nhận thức về người khác phản ánh nhu cầu tự quan sát, tự phản
tỉnh về bản thân, nhu cầu xây dựng bản sắc dân tộc trong thế giới hiện đại để phát
triển, không bị tụt hậu.
Về một phương diện nào đó, du lịch là thám hiểm, là phiêu lưu mạo hiểm, là
đối diện các thử thách. Vì thế trong văn du ký, có hàm chứa tinh thần lãng mạn tích
cực vốn rất tiêu biểu cho chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Phương Tây, con người
đi tìm cơ hội khẳng định một cách mạnh mẽ bản thân, tìm ý nghĩa của cuộc sống
trong các cuộc phiêu lưu. Chủ nghĩa lãng mạn của văn du ký còn bộc lộ ở sự lý
tưởng hóa cuộc sống thôn dã, vẻ đẹp cuộc sống xưa cũ, xa lạ với lối sống đô thị, đối
lập lại xã hội cạnh tranh xô bồ, hỗn độn. Ở phương diện này, có sự gặp gỡ nhất định
giữa văn du ký với tùy bút Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân.
Một trong những điểm mới tiêu biểu của văn du ký nửa đầu thế kỷ XX là
tinh thần nữ quyền. Người phụ nữ đi du lịch và viết về du lịch, các tác giả nam giới
quan tâm đến thân phận, cuộc sống của người phụ nữ. Các nhà văn viết du ký đi
sang Phương Tây đều nhận thấy sự bình đẳng nam nữ, người phụ nữ Phương Tây
có trí tuệ, có trình độ như là điều kiện cho sự bình đẳng. Nhưng tại Việt Nam, cụ thể
là ở dân tộc Chăm, người phụ nữ còn gánh vác quá nhiều trách nhiệm nặng nề trong
khi nam giới phó mặc cho người phụ nữ mọi gánh nặng.
Người phụ nữ không chỉ là đối tượng của văn du ký. Một số phụ nữ đã đi du
lịch, đã quan sát về người phụ nữ Việt ở các vùng miền. Nếu nói rằng ý thức nữ
148
quyền là một trong những dấu hiệu quan trọng của sự hiện đại hóa văn học thì văn
du ký có những đóng góp riêng, xứng đáng. Các tác phẩm văn xuôi hư cấu tập trung
vào những vấn đề giải phóng người phụ nữ khỏi đại gia đình phong kiến, khỏi ách
áp bức bóc lột. Còn văn du ký lại tiếp cận người thực việc thực, qua đó mà đặt vấn
đề về người phụ nữ mới, có tinh thần giải phóng, hướng đến mẫu phụ nữ hiện đại.
5. Về phương diện nghệ thuật và thi pháp, văn du ký cũng có một số đóng
góp xứng đáng cho hiện đại hóa văn học nửa đầu thế kỷ XX. Chúng ta đã nói, tinh
thần duy lý và chủ nghĩa cá nhân là những dấu hiệu cơ bản của chủ nghĩa hiện đại.
Văn du ký thể hiện tinh thần duy lý qua tư duy tả thực. Tư duy tả thực có mặt trong
cả khuynh hướng văn học lãng mạn và khuynh hướng văn học hiện thực; tả thực
trong văn du ký có những biểu hiện chung và riêng. Hai biểu hiện quan trọng không
thể thiếu của thi pháp tả thực: sự đa dạng của đối tượng được quan sát và miêu tả và
sự phong phú của các chi tiết cụ thể, cảm tính. Tất nhiên, ở đây cần phân biệt giữa
tư duy và thi pháp tả chân với khái niệm chủ nghĩa hiện thực phê phán-một bên là
tư duy nghệ thuật còn một bên là khuynh hướng xã hội của văn học. Có sự gặp gỡ
nhất định và cũng có sự khác biệt nhất định giữa chúng.
Xét về biểu hiện con người cá nhân thì văn du ký có những nét đặc sắc riêng
so với các thể loại khác. Về cấu trúc, bài văn du ký thường kể sự việc, cảnh quan và
sau đó kể các phản ứng tâm lý, các cảm xúc, suy tư, đúng như các nhà nghiên cứu
quốc tế nói, văn du ký có hai cuộc du lịch song song-cuộc du lịch thế giới bên ngoài
và cuộc du lịch nội tâm. Sự tự khám phá chủ thể tự sự, người kể chuyện ở ngôi thứ
nhất trong văn du ký thú vị và chân thực vì nó là những phản ứng tâm lý của người
kể chuyện trước những sự kiện, biến cố ngẫu nhiên không thể hình dung trước trong
tiến trình một chuyến đi du lịch. Vì thế, trong một chuyến đi, có rất nhiều cảm xúc,
tư tưởng, quan điểm sống được thổ lộ, dựng thành một bức khảm tâm hồn, trí tuệ
của người kể chuyện. Vì các chuyến đi du lịch khác nhau xét về địa điểm, mục đích,
vì người kể chuyện cũng khác nhau về địa vị, tuổi tác, giới tính, trình độ hiểu biết
và phạm vi quan tâm nên cái tôi cá nhân bộc lộ trong văn du ký cũng rất khác nhau.
Ngôn ngữ trong văn du ký phản ánh quá trình từ chỗ còn có sự khác biệt thế
hệ (nhà nho-trí thức Tây học) và vùng miền (tiếng Việt miền Nam, miền Bắc) tiến
149
đến chỗ nhất thể hóa trong nửa đầu thế kỷ XX. Đây là một quá trình không đơn giản,
vì từ văn học trung đại vốn có truyền thống tự sự bằng thơ chuyển qua văn học hiện
đại dùng ngôn ngữ nói hàng ngày để viết văn xuôi, nói sao viết vậy là một quá trình
đầy nỗ lực. Trong quá trình đó, văn du ký có những đóng góp không thể coi nhẹ.
6. Những kinh nghiệm của văn du ký nửa đầu thế kỷ XX về cả nội dung và
nghệ thuật ngày nay vẫn còn giữ nguyên giá trị. Nhận thức về người khác, nhìn
người để đánh giá lại bản thân, khám phá cái tôi cá nhân đa diện, đặt những vấn đề
về nữ quyền, tư duy tả chân v.v… vẫn còn là những đóng góp độc đáo, riêng biệt
150
của văn du ký cho văn học nước nhà.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Thúy Hằng (2009), “Giá trị văn hóa và văn học của du ký (khảo sát
qua sách Du ký Việt Nam)”, Tạp chí Khoa học (25), Đại học Quốc gia Hà Nội,
tr.63-71.
2. Nguyễn Thị Thúy Hằng (2009), “Hành trình du ký - góc nhìn mới mẻ hiệu quả
trong quảng bá du lịch”, Tạp chí du lịch (3), tr.38-39.
3. Nguyễn Thị Thúy Hằng (2014), “Những đặc điểm của văn học du ký trung đại”,
Tạp chí Khoa học (30), Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.75-83.
4. Nguyễn Thị Thúy Hằng (2015), “Những tiền đề văn hóa xã hội của Du ký Việt
151
Nam hiện đại”, Tạp chí Khoa học (31), Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.11-20.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Phạm Quang Ái (2014), “Sự phê phán chủ nghĩa kỳ thị dân tộc trong Bắc hành
tạp lục của đại thi hào Nguyễn Du”, Nghiên cứu văn học (6), tr. 31-42.
2. Phạm Vân Anh (1929), “Sang Tây, du ký của một cô thiếu nữ ”, Phụ nữ tân văn
(5, 6), tr.1.
3. Trần Kim Anh (1996), “Vũ trung tùy bút với lối viết tạp ký của Phạm Đình Hổ”,
Tác phẩm mới (8), tr. 83-86.
4. Trần Kim Anh, Hoàng Hồng Cẩm (2010), Các thể văn chữ Hán Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
5. Vũ Tuấn Anh (1999), “Đời sống thể loại trong quá trình văn học đương đại”,
Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học (nhiều tác giả), Viện Văn học, Hà Nội,
tr.474-510.
6. Lại Nguyên Ân (1997), “Các thể tài trước thuật và sáng tác nghệ thuật ở văn
học trung đại Việt Nam”, Tạp chí Văn học (4), tr.31-42.
7. Lại Nguyên Ân (2008), “Phạm trù Chủ nghĩa cá nhân của tư tưởng Phương Tây
trong sự lý giải của Phan Khôi”, Nghiên cứu văn học (12), tr.104-116.
8. Biệt Lam Trần Huy Bá (1942), “Ban Mê Thuột”, Tri tân (53, 54, 55), tr.1.
9. Biệt Lam Trần Huy Bá (1944), “Hai tháng ở gò Óc eo hay là câu chuyện đi đào
vàng”, Tri tân (168, 169, 170, 172, 173, 174), tr.1.
10. Đỗ Bang-Trần Bạch Đằng-Đinh Xuân Lâm và các tác giả khác (1999), Tư
tưởng canh tân đất nước dưới triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa.
11. Barrow (2011), Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà, Bản dịch Nxb Thế giới,
Hà Nội.
12. Hoa Bằng (1941), “Những khuynh hướng trong văn học Việt Nam cận đại”, Tri
Tân (21), tr.1.
13. Hoa Bằng (1942), “Dâng hương miếu Hát”, Tri Tân (38), tr. 14.
14. Hoa Bằng (1942), “Mới 179 năm nay văn xuôi của ta đã đổi khác nhiều”, Tri
152
tân (73), tr. 1059-1060.
15. Hoa Bằng (1943), “Lịch trình tiến hóa của văn học phụ nữ ta”, Tri tân (112),
tr.1.
16. Philiphê Bỉnh (1968), Sách sổ sang chép các việc, Viện Đại học Đà Lạt xuất
bản, Thanh Lãng giới thiệu.
17. Phan Văn Các (2000), “Chuyến đi sứ của Nguyễn Tư Giản”, Tạp chí Hán Nôm
(3), tr.33-37.
18. Nguyễn Thị Châm (2013), “Sứ Tây nhật ký và giá trị của tác phẩm”, Thông báo
Hán Nôm học (8), tr.1.
19. Đặng Thị Vân Chi (2008), Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt trước năm
1945, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
20. Thượng Chi (1919), “Chảy chùa Hương”, Nam phong (23), tr.1.
21. Thượng Chi (Phạm Quỳnh) (1924), “Bàn phiếm về văn hóa Đông - Tây”, Nam
phong (84), tr.1.
22. Nguyễn Huệ Chi (1992), “Con đường giao tiếp của văn học cổ trung đại Việt
Nam trong mối quan hệ khu vực”, Tạp chí Văn học (1), tr.13-23.
23. Nguyễn Huệ Chi (2013), Văn học cổ cận đại Việt Nam từ góc nhìn văn hóa đến
các mã nghệ thuật, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
24. Trần Bá Chí (1999), “Tài liệu Hán Nhật Bản về buôn bán với Đại Việt thế kỷ
XVI-XVIII”, Thông báo Hán Nôm học, Viện Nghiên cứu Hán Nôm xuất bản, tr.
50-54.
25. Huyền Chíp (2012), Xách balô lên và đi, Nxb Văn học, Hà Nội.
26. Nguyễn Đình Chú (1960), “Thực chất cuộc đấu tranh giữa Ngô Đức Kế và
Phạm Quỳnh chung quanh vấn đề “Truyện Kiều”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học
(12), tr.28-44.
27. Nguyễn Đình Chú (1999), “Vấn đề “ngã” và “phi ngã‟ trong văn học Việt Nam
trung cận đại”, Tạp chí Văn học (5), tr. 38-43.
28. Nguyễn Đình Chú (2010), “Từ công cuộc hiện đại hóa văn học Việt Nam, nghĩ
thêm đôi điều về sự tương đồng và tương dị giữa Việt Nam và Nhật Bản chung
153
quanh vấn đề hiện đại hóa văn học”, Hội thảo Quá trình hiện đại hóa văn học
Nhật Bản và các nước khu vực văn hóa chữ Hán: Việt Nam, Trung Quốc, Hàn
Quốc, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia
TPHCM http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
29. Phan Huy Chú (2001), “Hải trình chí lược”, Nguyễn Đăng Na dịch, Văn xuôi tự
sự Việt Nam thời trung đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.219-220.
30. Georges Condominas (1998), Không gian xã hội vùng Đông Nam Á, Bản dịch
Nxb Văn hóa, Hà Nội.
31. Nguyễn Hữu Sơn (2007) (sưu tầm và giới thiệu), Du ký Việt Nam - Tạp chí
Nam phong (1917-1934), T.I, Nxb Trẻ, Thành phố HCM.
32. Nguyễn Hữu Sơn (2007) (sưu tầm và giới thiệu), Du ký Việt Nam - Tạp chí
Nam phong (1917-1934), T.II, Nxb Trẻ, Thành phố HCM.
33. Nguyễn Hữu Sơn (2007) (sưu tầm và giới thiệu), Du ký Việt Nam - Tạp chí
Nam phong (1917-1934), T.III, Nxb Trẻ, Thành phố HCM.
34. Đức Dũng (1998), Các thể ký báo chí, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
35. Cao Việt Dũng (2011), “Báo chí văn chương đầu thế kỷ XX tại Việt Nam: nhìn
nhận từ cấp độ mô hình”, Nghiên cứu văn học (7), tr.1.
36. Đoàn Đình Duyệt (1918), “Lâm Viên hành trình nhật ký”, Nam phong (153-154)
(Hán văn), bản dịch của Phạm Phú Thành, xem http://maxreading.com/sach-
hay/da-lat-nam-xua/lam-vien-hanh-trinh-nhat-ky-6654.html
37. Vân Đài (1944), “Bốn năm trên đảo Các Bà”, Tri tân (149, 154, 156, 157, 158),
tr.1.
38. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê Chí
Dũng, Hà Văn Đức (1998), Văn học Việt Nam (1900-1945), Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
39. Nhàn Vân Đình (1932), “Quảng Yên du ký”, Nam phong (168), tr.1.
40. Lê Quý Đôn (2014), Bắc sứ thông lục, Phạm Thị Ngọc Lan dịch, Viện Văn học,
Hà Nội.
41. Edward Said (2014), Đông phương luận, bản dịch, Nxb Tri thức.
42. Giác Tha (dịch) (1932), “Phong tục Âu Mỹ dưới con mắt Thái hư pháp sư”,
154
Phụ nữ tân văn (162, 164), tr.1.
43. Đoàn Lê Giang (2010), “Con đường hiện đại hóa văn học của các nước khu vực
chữ Hán (qua tư liệu văn học Việt Nam và Nhật Bản)”, Hội thảo Quá trình hiện
đại hóa văn học Nhật Bản và các nước khu vực văn hóa chữ Hán: Việt Nam,
Trung Quốc, Hàn Quốc, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại
học Quốc gia TPHCM http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
44. Trần Văn Giàu (1996), “Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX
đến Cách mạng tháng Tám - Hệ ý thức tư sản và sự thất bại của nó trước các
nhiệm vụ lịch sử”, T.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Mẫu Sơn Mục N.X.H (1928), “Lược ký đi đường bộ từ Hà Nội vào Sài Gòn”,
Nam phong (129), tr.1.
46. Nguyên Hà (1994), “Thăng Long qua con mắt Hải Thượng Lãn Ông”, Gương
mặt văn học Thăng Long (nhiều tác giả), Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội xuất
bản, tr.35-40.
47. Trần Thanh Hà (2012), “Nhìn nhận Phạm Quỳnh trong quá trình phát triển văn
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=18073
học Việt Nam đầu thế kỷ XX đến năm 1945”,
48. Trúc Hà (1932), “Lược khảo về sự tiến hóa của quốc văn trong lối viết tiểu
thuyết”, Nam phong (175), tr.1.
49. Nguyễn Thị Bích Hải (2010), “Quá trình hiện đại hóa văn học ở Trung Quốc và
Việt Nam từ cái nhìn so sánh”, Hội thảo Quá trình hiện đại hóa văn học Nhật
Bản và các nước khu vực văn hóa chữ Hán: Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TPHCM
http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
50. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên (1999), Từ điển thuật
ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
51. Hoàng Xuân Hãn (1967), “Vụ Bắc sứ năm Canh Thìn với Lê Quí Đôn và bài
trình bằng văn nôm”, Tập san Văn Sử Địa (6, 9), Sài Gòn, tr.1.
52. Nguyễn Văn Hạnh (1998), “Về tiến trình hiện đại hóa của văn học Việt Nam”,
155
Báo Văn nghệ (51), tr.1.
53. Nguyễn Văn Hạnh (2010), “Về tiến trình hiện đại hóa văn học của văn học Việt
Nam”, Hội thảo Quá trình hiện đại hóa văn học Nhật Bản và các nước khu vực
văn hóa chữ Hán: Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc, Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TPHCM http://khoavanhoc-
ngonngu.edu.vn
54. Hồ Văn Hảo (1934), “Một kỷ nguyên mới trong văn học ta”, Phụ nữ tân văn
(258), tr.1.
55. Dương Thu Hằng (2010), Trương Vĩnh Ký và bước khởi đầu đời sống văn
chương hiện đại, Luận án Tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
56. Nguyễn Thị Thúy Hằng (2009), “Giá trị văn hóa và văn học của du ký (khảo sát
qua sách Du ký Việt Nam”, Tạp chí Khoa học, ĐHQG Hà Nội, Khoa học Xã
hội và Nhân văn (25), tr.63-71.
57. Hoàng Ngọc Hiến (1992), Năm bài giảng về thể loại, Trường viết văn Nguyễn
Du xuất bản, Hà Nội.
58. Hoàng Ngọc Hiến (2008), “Tiếp cận quá trình hiện đại hóa văn hóa Việt Nam
từ góc độ chủ nghĩa cá nhân văn hóa”, http://www.viet-
studiesinfo/HoangNgocHien_ChuNghiaCaNhanVanHoa.htm
59. Nguyễn Công Hoan (1971), Đời viết văn của tôi, Nxb Văn học, Hà Nội.
60. Viên Hoành (1931), “Xứ Mallaca và phong tục người Má La”, Phụ nữ tân văn
(114), tr. 12-24.
61. Nguyễn Kim Hoa (1966), “Hư và thực với giá trị của thể ký”, Tạp chí Văn học
(10), tr.95-100.
62. Huỳnh Thị Bảo Hòa (1931), “Banà du ký”, Nam phong (163), tr.1.
63. Hoan Châu ký (cuối thế kỷ XVII) (1988), bản dịch, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
64. Hoàng giáp Nguyễn Tư Giản -cuộc đời và thơ văn (2001), Trung tâm Văn hóa
Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
65. Đông Hồ (1927), “Thăm đảo Phú quốc”, Nam phong (124), tr.1.
66. Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án (cuối thế kỷ XVIII-đầu thế kỷ XIX) (1960), Tang
156
thương ngẫu lục, bản dịch, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
67. Phạm Đình Hổ (cuối thế kỷ XVIII-đầu thế kỷ XIX) (1972), Vũ trung tùy bút,
bản dịch, Nxb Văn học, Hà Nội.
68. Bùi Mộng Hùng (2007), Ta nhìn ta, ta nhìn người, website diendan.org
69. Lại Văn Hùng (2000), Dòng văn Nguyễn Huy ở Trường Lưu, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
70. Trần Quang Huyến (1922), “Ai lao hành trình”, Nam phong (57), tr.1.
71. Nguyễn Trung Hỷ (2007), Thơ sơn thủy cổ đại Trung Quốc, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
72. Đỗ Quang Hưng chủ biên, Trần Viết Nghĩa (2013), Tính hiện đại và sự chuyển
biến của văn hóa Việt Nam thời cận đại, Nxb Chính trị quốc gia.
73. Tùng Hương (1932), “Trên đường Nam Pháp (mấy đoạn gia thư)”, Nam phong
(176), tr.1.
74. J.L. Dutreuil de Rhins (1879), “Huế những năm 1876-1877”, Bản dịch, Nghiên
cứu Huế, các tập 5 (2003), 6 (2008), 7 (2010).
75. Mme Diệu Khanh (1934), “Tâm lý đàn ông”, Phụ nữ tân văn (267), tr.1.
76. Phan Khôi (1929), “Luận về phụ nữ tự sát”, Phụ nữ tân văn (22), tr.1.
77. Phan Khôi (1932), “Một lối văn mà xứ ta chưa có: nhật ký”, Phụ nữ tân văn
(132), dẫn theo Lại Nguyên Ân, “Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1932”,
http://lainguyenan.free.fr/pk1932/
78. Phan Khôi (1932), “Pháp du ký sự của Trần Bá Vinh-một tập nhật ký có vẻ khả
quan”, Phụ nữ tân văn (177), tr.11-17.
79. Nguyễn Thị Kiêm (1934), “Thành phố Hà Nội với mấy cảm tưởng đầu”, Phụ
nữ tân văn (265), tr.13-15.
80. Nguyễn Thị Kiêm (1934), “Dọc đường: cuộc hành trình từ Nam ra Bắc”, Phụ
nữ tân văn (264, 265).
81. Mãn Khánh Dương Kỵ (1943), “Indrapura (Đồng Dương)”, Tri Tân (107, 108,
109, 110), tr.1.
82. Mãn Khánh Dương Kỵ (1943), “Thiên Yana”, Tri tân (121, 122), tr.1.
83. Trịnh Như Kim (1973), Nền kinh tế Việt Nam dưới thời Pháp thuộc 1920 - 1930,
157
Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn.
84. Trương Vĩnh Ký (1881), Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi, Sài Gòn.
85. Trần Trọng Kim (1923), “Sự du lịch đất Hải Ninh”, Nam phong (71), tr.1.
86. Phạm Thị Ngọc Lan (2002), Ký văn xuôi chữ Hán thế kỷ XVIII-nửa đầu thế kỷ
XIX, Luận án Tiến sĩ, Viện Văn học.
87. Phạm Thị Ngọc Lan (2014), “Thể tài du ký trong văn học trung đại Việt Nam”,
Đề tài khoa học, Viện Văn học (chưa xuất bản).
88. Phạm Thị Ngọc Lan (tuyển chọn du ký trung đại) (2014), Tác phẩm tuyển chọn,
Viện Văn học (chưa xuất bản).
89. Tam Lang (1941), “Một ngày ở xứ Chàm”, Tri tân (1), tr.1.
tử http://chimviet.free.fr/vanhoc/
90. Thanh Lãng (1972 - 1973), Phê bình văn học thế hệ 1932 (1, 2), Phong trào văn
thanhlang/thll050.htm
hóa xuất bản, Sài Gòn. Bản điện
91. Hoàng Văn Lân (2008), “Một số vấn đề về con đường Đông Du của Phan Bội
Châu”, Nghiên cứu Huế (6), tr.1.
92. Mã Giang Lân (2000), Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam 1900-1945,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
93. Mã Giang Lân (2005), Những cuộc tranh luận văn học nửa đầu thế kỷ XX, Nxb
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
94. Hoàng Văn Lâu (2000), “Tác phẩm Yên Thiều thi văn tập của Nguyễn Tư
Giản”, Tạp chí Hán Nôm (3), tr.1.
95. Hoàng Văn Lâu (2003), “Đào Công Chính với Bắc sứ thi tập”, Thông báo Hán
Nôm học (6), tr.1.
96. Phan Huy Lê (2008), “Nhận thức về Hà Lan qua hồi ký của Phan Huy Chú năm
1832-1833”, Sư tử và Rồng, bốn thế kỷ quan hệ Hà Lan -Việt Nam, nhiều tác
giả, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr.99.
97. Phong Lê (1998), Văn học trên hành trình của thế kỉ XX, NXB Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
98. Phong Lê (1999), “Phác thảo sinh hoạt tư tưởng và học thuật Việt Nam thời kỳ
1930-1945”, Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học, Viện Văn học, tr.155-
158
160.
99. Phong Lê (2007), “Nhân đọc du ký trên tạp chí Nam Phong”,
http://phamquynh.wordpress.com/2013/10/18/du-ky-tren-nam-phong.
100. Phong Lê (2009), “Du ký Việt Nam trên chặng đường hiện đại hóa”, Nghiên
cứu văn học (11), tr.51-59.
101. Phong Lê (2009), Hiện đại hóa và đổi mới văn học Việt Nam thế kỷ XX,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
102. Phong Lê (2010), “Hiện đại hóa văn học Việt Nam trong đối sánh khu vực
Đông Á”, Hội thảo Quá trình hiện đại hóa văn học Nhật Bản và các nước khu
vực văn hóa chữ Hán: Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TPHCM http://khoavanhoc-
ngonngu.edu.vn
103. Nguyễn Hữu Lễ (2015), “Vấn đề thể tài du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX”,
Nghiên cứu văn học (5), tr.104-115.
104. Bùi Dương Lịch (đầu thế kỷ XIX) (1993), Nghệ An ký, Bản dịch, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
105. Vũ Văn Lợi (1941), ““Tùy bút” hay là “thi vị cuộc sống””, Tri tân (10), tr.1.
106. Huỳnh Lý - Hoàng Dung (1976), Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
107. Nguyễn Công Lý (2013), “Diện mạo thơ sứ trình trung đại Việt Nam và thơ
đi sứ của Nguyễn Trung Ngạn”, Tạp chí Khoa học, ĐHSP Thành phố HCM,
(49), tr.95-107.
108. Thụy Khuê (1994), “Tạ Trọng Hiệp và tập Hải trình chí lược của Phan Huy
Chú”, http://vannghe.free.fr/tatrong/S3HAITRI.html
109. Masaya Shiraishi (2008), “Phan Bội Châu trong thời kỳ Đông Du giao lưu
với các chính khách Nhật Bản và các nước khác”, Nghiên cứu Huế (6), tr.1.
110. Nguyễn Đăng Mạnh (1973), Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
111. Trịnh Khắc Mạnh (2000), “Nguyễn Tư Giản, cuộc đời và tác phẩm”, Tạp chí
159
Hán Nôm (3), tr.41-44.
112. Mẫu Sơn Mục N.X.H (1928), “Lược ký đi đường bộ từ Hà Nội vào Sài Gòn”,
Nam phong (129), tr.1.
113. Nguyễn Nam (2010), “Phụ nữ tự sát-lỗi tại tiểu thuyết? Một góc nhìn về phụ
nữ với văn chương -xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX (lược trích)”, Nghiên cứu
văn học (7), tr.53-65.
114. Vô Ngã (1942), “Cuộc hành hương đền thờ cụ Nguyễn Trãi -một vị đại anh
hùng có công lớn giúp vua Lê trong cuộc bình Ngô”, Tri tân (65), tr.1.
115. Vu Ngã (1943), “Một vài kiến văn trong dịp đi thăm làng Bối Khê”, Tri tân
(103, 104, 105), tr.1.
116. Nguyễn Thị Ngân (2008), “Khảo sát bài tựa sách Tây hành kiến văn ký lược”,
Thông báo Hán Nôm học (9), tr.1.
117. Nguyễn Thị Ngân (2009), “Xác định địa danh Tiểu Tây Dương qua thư tịch
Hán Nôm”, Thông báo Hán Nôm học (7), tr.1.
118. Nguyễn Thị Ngân (2009), Nghiên cứu về Lý Văn Phức và tác phẩm Tây hành
kiến văn kỷ lược, Luận án Tiến sĩ.
119. Phạm Thị Ngoạn (1973), “Tìm hiểu tạp chí Nam phong”, Luận đề Nam
phong tạp chí, (Nguyên văn tiếng Pháp, Phạm Trọng Nhân dịch), Nhà sách
Khai trí, Sài Gòn, tr.10-15.
120. Phan Ngọc (1993), “Ảnh hưởng văn học Pháp tới văn học Việt Nam giai
đoạn 1932-1945”, Tạp chí Văn học (4), tr. 25-27.
121. Phan Ngọc (2006), Sự tiếp xúc văn hóa Việt Nam với Pháp, NXB Văn hóa
Thông tin & Viện Văn hóa, Hà Nội.
122. Phạm Thế Ngũ (1963), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập III, Văn
học hiện đại 1862-1945, Quốc học tùng thư Sài Gòn xuất bản. Nxb Đồng Tháp
tái bản, 1996.
123. Phạm Xuân Nguyên (2007), “Đọc sách để đi chơi”, Báo Tuổi trẻ, ngày 23-3,
tr.1.
124. Lê Nguyễn (2005), “Tây hành nhật ký: tập sử liệu quý của người xưa”, Tuần
báo Doanh nhân Sài Gòn, 25-6-2005, tr.1.
160
125. Nhật Nham (1942), “Sau tám năm trở lại thăm Laokay”, Tri tân (46, 47), tr.1.
126. Nhật Nham (1942), “Từ Hà nội đến hồ Ba Bể”, Tri tân (58, 59, 60, 61, 62,
63, 65, 67, 68, 69, 70, 71, 72, 73, 74), tr.1.
127. Vương Trí Nhàn (1992), “Phạm Quỳnh và quá trình tiếp nhận văn hóa Tây
phương ở Việt Nam đầu thế kỷ XX”,
http://vuongtrinhan.free.fr/baiviet/phamquynh.html
128. Vương Trí Nhàn (1995), “Nơi gặp gỡ của báo chí và văn học”, Tạp chí văn
học (1), tr.1.
129. Vương Trí Nhàn (1997), “Nguyễn Tuân và thể tùy bút”, Tạp chí Văn học (6),
tr. 28-36.
130. Vương Trí Nhàn (2001), “Tìm nghĩa khái niệm hiện đại”, Nghiên cứu văn
học (1), tr. 43-50.
131. Vương Trí Nhàn (2005), Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hóa trong
văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX cho tới 1945, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
132. Vương Trí Nhàn (2005), “Vai trò của trí thức trong quá trình tiếp nhận văn
hóa Phương Tây ở Việt Nam đầu thế kỷ XX”, www/http://vietstudies.info.
133. Vương Trí Nhàn (2009), “Cái mới cơ bản của văn học thế kỷ XX”,
http://vuonghoahaidang.blogspot.com/2009/07/cai-moi-co-ban-cua-van-hoc-ky-
xx.html.
134. Vương Trí Nhàn blog (2009), “Du lịch bụi Trung Quốc”,
http://vuongtrinhan.blogspot.com/2009/10/xuat-ban-bai-ang.html
135. Vương Trí Nhàn blog (2010), “Năm ngày trên đất Đài Loan”,
http://vuongtrinhan.blogspot.com/2010/06/nam-ngay-tren-at-ai-loan.html
136. Vương Trí Nhàn blog (2014), “Nước Nhật quá xa xôi”,
http://vuongtrinhan.blogspot.com/2014/02/mot-nuoc-nhat-qua-xa-xoi.html
137. Hội Nhân (1919), “Đêm tháng sáu chơi hồ Hoàn Gươm”, Nam phong (28),
tr.1.
138. Đào Trinh Nhất (1911), Đào Trinh Nhất tuyển tập, Lại Nguyên Ân tuyển.
Nxb Lao động-Trung tâm ngôn ngữ văn hóa Đông-Tây, Hà Nội.
161
139. Vũ Nhật (1942), “Hà Nội- Vientian trong hai giờ”, Tri tân (77, 78), tr.1.
140. Niculin N.I. (1986), “Sự phản ánh những mối giao tiếp văn hóa với châu Âu
trong văn học Việt Nam thế kỉ XVII đến giữa thế kỉ XIX”, Tạp chí Văn học (6),
tr.83-95.
141. Niculin N.I. (1999), “Những sáng tác về các chuyến viễn du”, Trần Hồng
Vân dịch, Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học, Viện Văn học, Hà Nội.
142. Nguyễn Ngọc Nhuận (1996), “Nghiên cứu và đánh giá văn bản thơ văn bang
giao, đi sứ của Phan Huy Ích, Luận án Tiến sĩ.
143. Mme Nguyễn Đức Nhuận (1934), “Con gái đi xa”, Phụ nữ tân văn (264),
tr.25-10.
144. Nguyễn Ngọc Nhuận, Nguyễn Văn Lãng (1998), “Lạng trình ký thực và một
số vấn đề về văn bản”, Thông báo Hán Nôm học, Nhà xuất bản Khoa học xã hội,
tr.428-436.
145. Nguyễn Kim Oanh (2002), “Giới thiệu tác phẩm Như Tây ký của Ngụy Khắc
Đản”, Thông báo Hán Nôm học (4), tr.1.
146. Vũ Ngọc Phan (1952), Nhà văn hiện đại, Vĩnh Thịnh xuất bản, Hà Nội.
147. Vũ Đức Phúc (1971), Bàn về những cuộc đấu tranh tư tưởng trong lịch sử
văn học Việt Nam hiện đại (1930 - 1945), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
148. Vũ Đức Phúc (1999), “Ảnh hưởng của văn học Pháp đối với Việt Nam”,
Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học (nhiều tác giả), Viện Văn học, Hà Nội,
tr.234-245.
149. Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục (1922), “Du Tử trầm sơn ký”, Nam phong (59),
tr.1.
150. Lý Văn Phức (2001), “Tây hành kiến văn kỷ lược”, Nguyễn Đăng Na dịch,
Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.123-129.
151. Chu Đạt Quan (2011), Chân Lạp phong thổ ký, Bản dịch, Nxb Thế giới, Hà
Nội.
152. Phạm Đan Quế (2002), Bình Kiều, vịnh Kiều, bói Kiều, Nxb Thanh niên, Hà
Nội.
153. Nguyễn Hoàng Quí (2003), “Dòng họ Phan Huy Sài Sơn và những tập thơ đi
162
sứ”, Thông báo Hán Nôm học (3), tr.1.
154. Nguyễn Hoàng Quí (2004), “Phong cảnh Quế Lâm trong mắt sứ thần Việt
Nam”, Thông báo Hán Nôm học (2), tr.1.
155. Lê Quính (1969), “Bắc hành tùng ký”, Hoàng Xuân Hãn dịch và giới thiệu,
Nhà sách Khai trí, Sài Gòn.
156. Nguyễn Thị Chân Quỳnh (2000), “Ký sự đi Thái Tây: Philipphê Bỉnh”
(1759-1830?) “Phạm Phú Thứ” (1821-1882),
http://chimviet.free.fr/vanhoc/chquynh/loixua2/loixua28.htm
157. Phạm Quỳnh (1917), “Văn quốc ngữ”, Nam phong (2), tr. 77-80.
158. Phạm Quỳnh (1919), “Bàn về sử dụng chữ Nho trong văn học quốc ngữ”,
Nam Phong, số 20, tr.1.
159. Phạm Quỳnh (1921), “Bàn về tiểu thuyết - Tiểu thuyết là gì và phép làm tiểu
thuyết thế nào”, Nam phong, số 43, tr.1.
160. Phạm Quỳnh (1921), “Văn chương Pháp (Pháp quốc văn học đại quan)”,
Nam Phong (53), tr.1.
161. Phạm Quỳnh (1922), “Thuật chuyện du lịch ở Paris”, Nam phong (64), tr.1.
162. Phạm Quỳnh (1922 - 1925), “Pháp du hành trình nhật ký”, Nam phong, (58
(1922) - 100 (1925)), tr.1.
163. Phạm Quỳnh (1929), Khảo về tiểu thuyết, NXB Đông Kinh.
164. Phạm Quỳnh (1931), “Du lịch xứ Lào”, Nam phong (158, 159), tr.1.
165. Phạm Quỳnh (1931), “Bàn về quốc học”, Nam phong (163), tr.1.
166. Bùi Đức Sinh (2013), Giáo hội Công giáo ở Việt Nam (1), 3 tập, in lần thứ
ba tại Canada.
167. Vĩnh Sính (2004), Cao Bá Quát -Về tác giả tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
168. Mộng Bình Sơn - Đào Đức Chương (1996), Nhà văn phê bình - Khảo cứu
văn học Việt Nam (thời kì 1932 - 1945), NXB Văn học, Hà Nội.
169. Nguyễn Hữu Sơn (2007), “Lời nói đầu”, Du ký Việt Nam - Tạp chí Nam
phong 1917-1934, Nxb Trẻ, Thành phố HCM, tr.3-18.
170. Nguyễn Hữu Sơn (2007), “Thể tài du ký trên Tạp chí Nam phong (1917-
163
1934)”, Nghiên cứu Văn học (4), tr. 21-38.
171. Nguyễn Hữu Sơn (2007), “Du ký về vùng văn hóa Sài Gòn-Nam Bộ trên
Nam phong tạp chí”, Kiến thức ngày nay, (619), tr.109.
172. Nguyễn Hữu Sơn (2007), “Ký Việt Nam từ đầu thế kỷ đến 1945”, Nghiên
cứu Văn học (8), tr. 17-28.
173. Nguyễn Hữu Sơn (2008), “Du ký của người Việt Nam viết về nước Pháp và
mối quan hệ Việt - Pháp giai đoạn cuối thế kỷ XIX - nửa đầu thế kỷ XX”,
Tuyển tập Báo cáo tóm tắt Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ ba: Việt Nam
hội nhập và phát triển (Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện KHXH Việt Nam tổ
chức), tr.115-122.
174. Nguyễn Hữu Sơn (2009), “Du ký viết về Hà Tiên nửa đầu thế kỷ XX”, Kiến
thức ngày nay (688), tr.109.
175. Nguyễn Hữu Sơn (2011), “Du ký của người Việt Nam viết về các nước và và
những đóng góp vào quá trình hiện đại hóa văn xuôi tiếng Việt giai đoạn thế kỷ
XIX - đầu thế kỷ XX”, Văn học cận đại Đông Á từ góc nhìn so sánh (Đoàn Lê
Giang chủ biên), Nxb TP Hồ Chí Minh.
176. Nguyễn Hữu Sơn (2011), “Đạm Phương nữ sử và những trang du ký viết về
xứ Huế”, Kiến thức ngày nay (751), tr.109.
177. Nguyễn Hữu Sơn (2012), “Thể tài văn xuôi du ký chữ Hán thế kỷ XVIII-
XIX và những đường biên thể loại”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam (5), tr.1.
178. Nguyễn Hữu Sơn (2013), “Phạm Quỳnh và những trang du ký viết về nước
Pháp”, Kiến thức ngày nay (810), tr.109.
179. Thiếu Sơn (1933), “Chủ nghĩa cá nhân với văn học”, Phụ nữ tân văn (223),
tr.1.
180. Trần Đăng Suyền (2010), Chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam nửa
đầu thế kỷ XX, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
181. Trần Đình Sử (1999), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
182. Trần Đình Sử (2013), Tính hiện đại và lịch sử lý luận phê bình văn học Việt
164
Nam thế kỷ XX, https://trandinhsu.wordpress.com.
183. Trần Đình Sử (2010), “Cuộc gặp gỡ Đông Tây và cơ duyên tiến bộ của văn
học các nước Đông Á”, Hội thảo “Quá trình hiện đại hóa văn học Nhật Bản và
các nước khu vực văn hóa chữ Hán: Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc”,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Đại học Quốc gia TPHCM
http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
184. Trần Đình Sử chủ biên (2011), Lý luận văn học -Tác phẩm và thể loại văn
học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
185. Phan Tất Tạo (1919), “Đi tàu bay”, Nam phong (22), tr.1.
186. Nguyễn Đan Tâm (1942), “Vài nơi danh thắng có quan hệ với Trần sử”, Tri
tân (64), tr.1.
187. Bùi Duy Tân (1976), “Vấn đề thể loại trong văn học Việt Nam thời cổ”, Tạp
chí Văn học (3), tr.70-80.
188. Bùi Duy Tân chủ biên (2007), Thơ văn Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.
189. Phạm Xuân Thạch (2009), “Ba thập niên đầu thế kỷ XX và sự hình thành
“trường văn học” ở Việt Nam”, Nghiên cứu văn học Việt Nam- những khả năng
và thách thức (nhiều tác giả), Nxb Thế giới, Hà Nội.
190. Hoài Thanh (1941), “Nguyên nhân sâu xa của phong trào thơ mới”, Tri tân
(25), tr.1.
191. Hoài Thanh - Hoài Chân (1942), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.
192. Hoài Thanh (1960), “Nhìn lại cuộc tranh luận nghệ thuật hồi 1935 - 1936”,
Nghiên cứu Văn học (1), tr.36-56.
193. Hoài Thanh (1965), “Hồi ức về phê bình văn học trước Cách mạng tháng
Tám”, Nghiên cứu Văn học (9), tr.1.
194. Lê Thanh và Trúc Khê (1941), “Một cuộc hành hương (Đi thăm Tức Mặc
quê cũ nhà Trần)”, Tri tân (19), tr.5-7.
195. Lê Thanh (1941), “Ảnh hưởng văn chương Pháp trong văn chương Việt
Nam”, Tri tân (27), tr.5-7.
196. Lê Thanh (1944), “Văn học Việt Nam hiện đại”, Tri tân (139, 140, 141, 144,
165
145), tr.1.
197. Lê Thanh (2000), Nghiên cứu và phê bình văn học, NXB Hội Nhà văn -
Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
198. Trần Thị Băng Thanh (1984), “Bắc sứ thông lục, một tập ký đặc sắc”, Tạp
chí Văn học (6), tr. 36-43.
199. Trần Thị Băng Thanh (1992), Ngô Thì Sĩ-những chặng đường thơ văn, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
200. Trần Thị Băng Thanh (2009), “Về tấm bia mộ Phạm Phú Thứ”, Thông báo
Hán Nôm học (5), tr.15-20.
201. Nguyễn Thị Thảo, Phạm Văn Thắm, Nguyễn Kim Oanh (1996), Sứ thần Việt
Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
202. Chương Thâu (2008), “Phan Bội Châu và sự lựa chọn con đường Đông Du”,
Nghiên cứu Huế (6), tr.9-13.
203. Nguyễn Ngọc Thiện (1993), “Vũ Ngọc Phan trong nghiên cứu văn học theo
đặc trưng thể loại và phong cách”, Tạp chí Văn học (1), tr.39-41.
204. Nguyễn Ngọc Thiện (1994), “Ý nghĩa cuộc tranh luận nghệ thuật 1935 -
1939, những vấn đề của lí luận văn học hôm qua và hôm nay”, Tạp chí Văn học
(5), tr.7-9.
205. Nguyễn Ngọc Thiện (Chủ biên) (2005), Lí luận, phê bình văn học Việt Nam
từ đầu thế kỉ XX đến 1945 (Chuyên luận), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
206. Phạm Thiều, Đào Phương Bình (1993), Thơ đi sứ, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
207. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa,
Nxb Giáo dục.
208. Trần Nho Thìn (2008), “Chuyến đi dương trình hiệu lực năm 1844 và tư
tưởng Cao Bá Quát”, Nghiên cứu văn học (11), tr.3-16.
209. Trần Nho Thìn (2014), “Đối thoại liên văn hóa trong thời đại toàn cầu hóa và
vấn đề tiếp nhận lý luận văn học Phương Tây ở Việt Nam”, Nghiên cứu văn học
(10), tr.43-56.
210. Nguyễn Đức Thuận (2013), Đoản thiên tiểu thuyết, truyện ngắn trên Nam
166
phong tạp chí, Nxb Văn học.
211. Nguyễn Trọng Thuật (1923), “Một tập du ký của cụ Lãn Ông”, Nam phong
(69, 70), tr.1.
212. Phạm Văn Thư (1925), “Một buổi đi xem đền Lý Bát Đế”, Nam phong (91),
tr.1.
213. Nguyễn Minh Hoàng (dịch) (2013), Thư của các giáo sĩ thừa sai, Nxb Văn
học-Trung tâm nghiên cứu quốc học, Hà Nội.
214. Phạm Phú Thứ (2001), Tây hành nhật ký, bản dịch, Nxb Văn nghệ Thành
phố HCM.
215. Mã Khắc Thừa (1996), “Chữ Hán ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Trung
Quốc (4), tr.25-38.
216. Phan Trọng Thưởng (1999), “Ảnh hưởng Phương Tây trong sự hình thành
nghệ thuật kịch ở các nước phương Đông”, Những vấn đề lý luận và lịch sử văn
học (nhiều tác giả), Viện Văn học, Hà Nội, tr.235-249.
217. Trần Mạnh Tiến (2001), “Cuộc tranh luận “Truyện Kiều” giữa những năm
hai mươi”, Lí luận phê bình văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX, NXB Giáo dục,
Hà Nội, tr.93-99.
218. Thái Phong Vũ Khắc Tiệp (1921), “Hành trình mạn ngược (từ Cao bằng
xuống Phú thọ)”, Nam phong (44), tr.1.
219. Trần Văn Toàn (2004), “Quan niệm về tả thực trong tiểu thuyết giai đoạn
giao thời”, Hội thảo Những nhà ngữ văn trẻ (lần thứ hai), Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội.
220. Trần Văn Toàn (2008), “Cảm quan thế giới trong lí luận, phê bình văn học
của Phạm Quỳnh và tác động của nó đến tiến trình văn học”, Nghiên cứu văn
học (6), tr.25-30.
221. Trần Văn Toàn (2010), Tả thực với hiện đại hóa văn xuôi nghệ thuật quốc
ngữ giai đoạn giao thời. Bản tóm tắt luận án Tiến sĩ Ngữ văn, bảo vệ tại Đại
học Sư phạm Hà Nội.
222. Lê Hữu Trác (2001), Thượng kinh ký sự, Bùi Hạnh Cẩn dịch, Trần Nghĩa
giới thiệu, Nxb Văn học, Hà Nội.
167
223. Nguyễn Bá Trác (1921), “Hạn mạn du ký”, Nam phong (38-43), tr.1.
224. Nguyễn Trãi (1969), Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
225. Đinh Gia Trinh (1941), “Thanh niên với văn chương Việt Nam: Một vài tín
tưởng về nghệ thuật”, Thanh nghị (1), tr.1.
226. Đinh Gia Trinh (1941), “Tính cách văn chương Việt Nam trước thời kỳ Âu
hóa”, Thanh nghị (2), tr.15-16, (4), tr. 7-10.
227. Đinh Gia Trinh (1942), “Danh văn ngoại quốc: Oscar Wilde-Tư tưởng về
nghệ thuật”, Thanh nghị (25), tr. 16-18.
228. Nhạc Anh Hoàng Văn Trung (1921), “Ba bể du ký”, Nam phong (55), tr.1.
229. Phạm Quang Trung (2002), “Tiến trình hiện đại hóa phê bình văn chương
Việt Nam thế kỷ XX”, http://www.pqtrung.com/nghien-cuu-van-chuong/ly-
luan-van-chuong/tin-trnh-hin-i-ha-ph-bnh-vn-chng-vit-nam-th-k-xx
230. Trần Thị Việt Trung (2010), Lịch sử phê bình văn học Việt Nam hiện đại
(giai đoạn từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945, NXB Đại học Thái Nguyên.
231. Võ Thị Thanh Tùng (2013), “Du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, một vài
đặc điểm về thể loại”, Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm Thành phố HCM
(52), tr.190-199.
232. Trung tâm từ điển ngôn ngữ (1992), Từ điển tiếng Việt, Hà Nội.
233. Nxb Giáo dục (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, Hà Nội.
234. Nguyễn Huệ Chi, Trần Hữu Tá, Phùng Văn Tửu, Vũ Thanh (2004), Từ điển
văn học (bộ mới), Nxb Thế giới.
235. Nguyễn Tuân (1941), “Về chuyện một chiếc valy mới”, Thanh nghị (3, 4),
tr.1.
236. Nguyễn Tuân (2005), Nguyễn Tuân tuyển tập (3 tập), Nxb Văn học, Hà Nội.
237. Mộng Tuyết (1934), “Chơi Phú quốc”, Nam phong (198, 199, 200), tr.1.
238. Trương Tửu (1997), Tuyển tập phê bình văn học Việt Nam, NXB Văn học,
Hà Nội.
239. Nguyễn Hữu Sơn - Trịnh Bá Đĩnh (sưu tầm và biên soạn) (2007), Trương
Tửu - Tuyển tập nghiên cứu, phê bình, NXB Lao động - Trung tâm văn hóa
168
ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
240. Lê Quang Trường (2007), “Bước đầu tìm hiểu thơ đi sứ của Trịnh Hoài
Đức”, Thông báo Hán Nôm học (7), tr.1.
241. Lê Trí Viễn (1987), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, NXB Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
242. Lê Trí Viễn (1998), Quy luật phát triển lịch sử văn học Việt Nam (tái bản),
NXB Giáo dục, Hà Nội.
243. Đoàn Thị Thu Vân (2013), “Hải trình chí lược và sự chuyển mình của những
quan niệm văn hoá nơi người trí thức Việt Nam thế kỷ XIX”, Nghiên cứu văn
học (1), tr.15-20.
244. Trần Hồng Vân (1999), “Cảm quan phương Đông trong sáng tác của
A.Puskin”, Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học (nhiều tác giả), Viện Văn
học, Hà Nội, tr.221-236.
245. Tùng Vân (1925), “Cuộc đi chơi Sài Sơn”, Nam phong (93), tr.1.
246. Mai Thị Mỹ Vị (2013), “Báo Phụ nữ tân văn và sự khởi xướng phong trào
thơ mới đầu thế kỷ XX”, Khoa học xã hội (179), tr.15-19.
247. Loan Vũ (2015), “Du lịch “phượt”-trào lưu của giới trẻ hiện nay”,
http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Du-lich/735349/du-lich-phuot---trao-luu-cua-
gioi-tre-hien-nay
248. Trần Ngọc Vương (Chủ biên) (2007), Văn học Việt Nam thế kỉ X - XIX,
Những vấn đề lí luận và lịch sử, NXB Giáo dục, Hà Nội.
249. Trần Ngọc Vương (2008), “Văn học trung đại Việt Nam - vài nét đặc thù”,
Bản tin Đại học Quốc gia Hà Nội (213), tr.1.
250. Trần Ngọc Vương (2010), Thực thể Việt nhìn từ các tọa độ chữ, Nxb Tri
thức, Hà Nội.
251. Hoàng Lương Xá (2009), “Lý thuyết du hành và Orientalism ở Đông Á”,
Nghiên cứu văn học Việt Nam- những khả năng và thách thức (nhiều tác giả),
Nxb Thế giới, Hà Nội, tr.12-30.
252. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2004), Phê bình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ
169
XX (1900 - 1945), NXB Đại học Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh.
253. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2010), “Hiện đại hóa văn học đầu thế kỷ XX:
nghiên cứu so sánh trường hợp Hàn Quốc và Việt Nam”, Quá trình hiện đại
hóa văn học Nhật Bản và các nước khu vực văn hóa chữ Hán: Việt Nam, Trung
Quốc, Hàn Quốc, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc
gia TPHCM http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
254. Nguyễn Ngu Í (1962), “Một quan điểm mới về cuộc tranh luận Phạm Quỳnh,
Ngô Đức Kế qua “Truyện Kiều””, Bách khoa (139), tr.1.
Tiếng Anh
255. Blackwell Publishing Ltd (nhiều tác giả) (2010), A Dictionary of Cultural
and Critical Theory, Second Edition.
256. Blackwell Publishing Ltd (nhiều tác giả) (2004), A Companion to Tourism.
257. Bendixen A. & Hamera J. (2009), American Travel Writing, Cambrigde
University Press.
258. Aya Tanaka (2008), Travel Liturature and the Development of the Novel in
Eighteen-century France, The State University New Jersey.
259. Brown Christopher K. (2000), Encyclopedia of Travel Writing, Santa
Barbara, Caliphornia.
260. Carl Thompson (2007), The Suffering Traveller and the Romantic
Imagination, Oxford University Press.
261. Carl Thompson (2011), Travel Writing, Routledge, London and New York.
262. Chris Rojek C. & Jonh Urry (1997), Touring Cultures (Transformations of
Travel and Theory), Ruthlegde Published.
263. David N. Wells (2004), Russian View of Japan, 1792-1913, Routledge
Curzon.
264. Debbie Lisle (2006), The Global Politics of Contemporary Travel Writing,
Cambridge University Press.
265. Encyclopedia of Tourism (2000), Routledge.
266. Frederic Regard (Editor) (2009), British Narratives of Exploration -Case
Studies of the Self and Other, Published by Pickering & Chatto (Publishers)
170
Limited, London.
267. Jafar Jafari (Chief Editor) (2000), Encyclopedia of Tourism, Routledge, New
York.
268. Jennifer Speake (Editor) (2003, 2013), Literature of Travel and Exploration:
an Encyclopedia, Routledge.
269. John Urry (2002), The Tourist Gaze, Second Edition, SAGE Publications
270. Mary Louis Pratt (1992), Imperial Eyes-Travel Writing and Transculturation,
Routledge, London &New York.
271. Matthew Wispinski (1997), Re-exploring Travel Literature: A Discourse -
centred approach to the text type, Simon Frazer University, Canada.
272. Neil Robert (2004), D.H. Lawrence, Travel and Cultural Difference,
Palgrabe Macmillan, New York.
273. Panmira Brummett (2009), The “Book” of Travels: Genre, Ethnology and
Pigrimage 1250-1700, Brill, Leiden -Boston.
(2000), Tourists with
Typerwriters-Critical Reflations on Contemporary Travel Writing, The
University of Michigan Press.
274. Patrick Holland and Graham Huggan
275. Paula R. Backscheider và Catherine Ingrassia (2005), A Companion to the
Eighteenth-Century English Novel and Culture, Blackwell Publishing.
276. Percy G. Adams (1983), Travel writing and the evolution of the novel,
University Press of Kentucky.
277. Peter Hulme and Tim Youngs (Edited) (2002), The Cambridge Companion
to Travel Writing, Cambridge University Press.
278. Tim Youngs edited (2006), Travel Writing in the Nineteenth century (Filling
the Blank Spaces), London-New York-Delhi.
279. The Blackwell Dictionary of Western Philosophy (2004), Blackwell
Publishing.
280. Tourism, Religions and Spiritual Journeys (2006), Routledge.
281. Wendy Bracewell &Alex Drace Francis (2008), Under Eastern Eyesố A
Comparative Introduction to Easet European Travel Writing on Europe,
171
Central European Univercity Press, Budapest.
282. World Tourism Organisation (1995), Technical Manual (2), (Collection of
Tourism Expenditure Staticstics).
283. World Tourism Organisation (2011), Policy and Practice for Global Tourism,
172
Madrid.