HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

KHOA LUẬT

BÀO CHỮA CHO BỊ CAN DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC

TIỄN TẠI TỈNH ĐỒNG NAI

Ngành, chuyên ngành: Luật hình sự - Tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

Học viên: NGUYỄN THÀNH HẢI

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. VÕ KHÁNH VINH

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020

1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài: “Bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm tội từ

thực tiễn tại tỉnh Đồng Nai” là một công trình nghiên cứu độc lập dưới sự hướng

dẫn của Giáo sư - Tiến sĩ Võ Khánh Vinh. Ngoài ra không có bất cứ sự sao chép

của người khác.

Luận văn là sản phẩm mà tôi đã nỗ lực nghiên cứu trong quá trình học tập

tại trường kết hợp với thực tế tại địa bàn tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 - 2019.

Các số liệu, kết quả trình bày trong luận văn là hoàn toàn trung thực. Tôi

xin chịu hoàn toàn trách nhiệm, kỷ luật của Bộ môn và Nhà trường đề ra nếu như

có vấn đề xảy ra.

Đồng Nai, ngày 25 tháng 11 năm 2020

Tác giả đề tài

Nguyễn Thành Hải

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................. 1

MỤC LỤC .............................................................................................................. 3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .................................................................... 5

MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1

CHƯƠNG 1 ............................................................................................................ 8

NHỮNG VẤN ĐẾ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CHO

BỊ CAN DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI ................................................................... 8

1.1. Khái niệm, ý nghĩa của quyền bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm tội

8

1.2. Nội dung bào chữa cho bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội .............. 12

1.3. Các yếu tố tác động đến bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm tội ...... 17

1.4. Lịch sử phát triển các quy định của pháp luật về bào chữa cho bị can là

người dưới 18 tuổi phạm tội ............................................................................. 23

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ BÀO CHỮA CHO BỊ CAN

DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI VÀ THỰC TIỂN BÀO CHỮA CHO BỊ CAN

DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TẠI TỈNH ĐỒNG NAI ......................................... 29

2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi

phạm tội ............................................................................................................. 29

2.2. Thực tiễn bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm tội tại tỉnh Đồng Nai .. 32

CHƯƠNG 3 .......................................................................................................... 51

CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO BÀO CHỮA CHO BỊ CAN DƯỚI 18 TUỔI

PHẠM TỘI ........................................................................................................... 51

3.1. Hoàn thiện pháp luật về bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm tội ...... 51

3.2. Nâng cao năng lực của người bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm tội 58

3.3. Các giải pháp khác .................................................................................. 62

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 68

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 69

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

: Bộ luật hình sự BLHS

: Bộ Luật Tố tụng Hình sự BLTTHS

: Cải cách tư pháp CCTP

: Cơ quan Cảnh sát Điều tra CQCSĐT

: Cơ quan tiến hành tố tụng CQTHTT

ĐTV : Điều tra viên

: Hội đồng nhân dân HĐND

: Tòa án Nhân dân TAND

: Tiến hành tố tụng THTT

: Viện Kiểm sát VKS

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Thống kê số liệu vụ án hình sự được thụ lý và đã xét xử do

người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 đến 2019

Bảng 2.2. Thống kê mức án do Tòa án tuyên đối với người dưới 18 tuổi

phạm tội đã bị xét xử tại tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 đến 2019.

Bảng 2.3. Thống kê đặc điểm nhân thân đối với người dưới 18 tuổi

phạm tội đã bị xét xử tại tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 đến 2019.

Bảng 2.4. Thống kê các vụ án hình sự chỉ định có bị can là người dưới

18 tuổi phạm tội từ giai đoạn 2015-2019 của Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai.

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của nhân loại trong

nhiều thập kỷ qua. Giá trị của quyền con người luôn được tôn trọng và bảo vệ

và được xem là một trong những quyền cơ bản của Nhà nước pháp quyền Xã

hội Chủ nghĩa Việt Nam. Một trong những quyền cơ bản của con người ta

không thể không nói đến đó là quyền bào chữa. Tại khoản 4 Điều 31 Hiến

pháp năm 2013 quy định: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra,

truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào

chữa”[34]. Như vậy, so với quyền bào chữa trong các bản Hiến Pháp trước

đây thì quyền bào chữa trong Hiến pháp năm 2013 đã được mở rộng hơn so.

Khi bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội thì họ sẽ bị chế tài hình sự

theo quy định của pháp luật Hình sự, pháp luật hình sự Việt Nam có quy định

riêng nhằm bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp đối với họ. Khi quy

định rõ ràng về đảm bảo quyền bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi thì có thể

hiểu pháp luật đặt nặng nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố

tụng, người tiến hành tố tụng đối với chủ thể đặc biệt này.

Pháp luật hình sự nước ta từng bước hoàn thiện và đảm bảo quyền

bào chữa cho tất cả công dân theo xu hướng hội nhập Quốc tế, do vậy nhiều

Hội thảo quan trọng về cải cách tư pháp đã được thực hiện ở cấp Quốc gia và

gặt hái nhiều ý kiến đóng góp rất quan trọng, một trong những căn cứ góp ý

quan trọng đó là “Dựa trên các chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp,

Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam, chính sách pháp luật về tư pháp từng

bước được xây dựng, làm nền tảng, cơ sở cho việc hoàn thiện về tư pháp

nước ta. Chính sách pháp luật hình sự, chính sách pháp luật tố tụng hình sự,

… và các chính sách pháp luật khác đã được xác lập ngày càng rõ hơn, định

hướng hoạt động xây dựng pháp luật liên quan đến tư pháp, thúc đẩy cải

1

cách tư pháp” [55, tr. 13]. Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về CCTP

đã tạo ra sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của cơ quan tư pháp. Qua

đó, hệ thống các cơ quan tư pháp được củng cố và nâng cao, chất lượng điều

tra, truy tố, xét xử cũng được chú trọng hơn. Việc bắt người, tạm giam, tạm

giữ đã được xem xét cẩn thận, kiểm tra thường xuyên các quy định nhằm đảm

bảo bắt đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tất cả những quy định đó thể

hiện chính sách nhân đạo, giá trị nhân văn cao cả trong quá trình lập pháp.

Bên cạnh những thành quả ghi nhận ban đầu về quyền bào chữa thì hiện nay,

thì vẫn còn tồn tại một số vấn đề tồn đọng trong thực thi những quy định của

pháp luật tố tụng hình sự và chất lượng công tác tư pháp chưa tương xứng với

yêu cầu phát triển của đất nước và yêu cầu thực tiễn của xã hội. Nhất là vẫn

còn tình trạng oan, sai trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố bị can là người

dưới 18 tuổi phạm tội. Nguyên nhân một phần do cơ quan tiến hành tố tụng,

người tiến hành tố tụng chưa nắm vững và vận dụng chưa chính xác, triệt để

các quy định của pháp luật liên quan đến bị can là người dưới 18 tuổi phạm

tội và một phần do nhận thức của một bộ phận người tiến hành tố tụng xem

nhẹ vai trò của CCTP, không chấp hành nghiêm ngặt các quy định của pháp

luật tố tụng hình sự, xem nhẹ quyền bào chữa của bị can là người dưới 18 tuổi

phạm tội.

Quyền bào chữa là một quyền quan trọng của bị can, trong đó có bị

can dưới 18 tuổi. Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản, quy định về

quyền bào chữa của bị can dưới 18 tuổi nhằm đảm bảo tốt hơn các quyền con

người của đối tượng này.

Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, việc đảm bảo quyền bào

chữa của bị can là người dưới 18 tuổi phải được các cơ quan tiến hành tố

tụng, người tiến hành tố tụng quan tâm. Tuy nhiên, trong thực tiễn hiện nay,

việc đảm bảo quyền này của bị can dưới 18 tuổi trong giải quyết vụ án hình

2

sự trên địa bàn tỉnh Đồng Nai còn gặp phải nhiều hạn chế, tồn tại nhất định,

điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Do đó, việc nghiên cứu

làm rõ các quy định về nội dung này, đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường

đảm bảo quyền bào chữa của bị can dưới 18 tuổi trongn giải quyết vụ án hình

sự có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hiện nay.

Do vậy, việc tác giả đã chọn đề tài “Bào chữa cho bị can dưới 18

tuổi phạm tội từ thực tiễn tại tỉnh Đồng Nai” để có cái nhìn tổng thể và toàn

diện nhất về công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta nói chung và địa bàn tỉnh

Đồng Nai nói riêng.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:

Trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự có liên quan đến bị can

là người dưới 18 tuổi phạm tội là một trong những nội dung quan trọng trong

quá trình thực thi pháp luật. Bởi đây là chủ thể chưa phát triển toàn diện về

mặt thể chất và tinh thần. Hiện nay, bên cạnh các sách chuyên khảo, các đề tài

khoa học của các nhà nghiên cứu nước ngoài, còn có các công trình nghiên

cứu của các học giả trong nước, trong đó nổi bật là các công trình nghiên cứu

đề cập đến người chưa thành niên phạm tội, cụ thể:

- Bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong

tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp của PGS.TS Trần Văn Độ.

- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên theo

pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, của TS Trần Hưng Bình, Học Viện Khoa

học và Xã hội, năm 2014.

- Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo

trong tố tụng hình sự Việt Nam của Tiến sĩ Lại Văn Trình, Đại học Luật

TP.HCM năm 2011.

3

- Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo - Một trong những

nguyên tắc quan trọng góp phần bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình

sự của Tiến sĩ Nguyễn Bá Ngừng.

Dưới góc độ nghiên cứu chuyên ngành cũng có nhiều công trình liên

quan đến vấn đề quyền bào chữa của bị can. Cụ thể:

- Bài viết của PGS.TS Nguyễn Thái Phúc “Sự tham gia bắt buộc của

người bào chữa trong tố tụng hình sự” được đăng trên tạp chí khoa học pháp

lý số 4 năm 2007;

- Bài viết của TS. Nguyễn Văn Tuân “ Bảo đảm quyền có người bào

chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự”, “Bàn về sự tham gia của Luật

sư trong các vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên” đăng trên tạp

chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề 1995;

- Báo cáo của PGS.TS Phạm Hồng Hải về “Quyền tự bào chữa trong

tố tụng hình sự ở Việt Nam và việc thực hiện trong thực tiễn” tại Hội thảo

Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam;

Qua nghiên cứu tôi nhận thấy những công trình nghiên cứu của các

tác giả đã đạt được những thành công nhất định. Tuy nhiên, các bài viết chỉ

nói chung về quyền bào chữa của bị can, bị cáo mà chưa có công trình nghiên

cứu nào viết riêng về quyền bào chữa của bị can là người chưa thành niên

phạm tội. Mặc khác, những đề tài trên được viết khi Bộ luật Hình sự 2015 sửa

đổi bổ sung 2017, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 chưa có hiệu lực pháp luật.

Điều này cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, toàn

diện hơn về vấn đề bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định

của Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017, Bộ luật Tố tụng hình sự

2015 hiện hành, cụ thể là tại địa bàn tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 đến năm

2019.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu nhằm mục đích nâng cao hiệu quả thực thi cơ

chế bảo đảm quyền bào chữa của bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nêu trên, khi làm đề tài tôi tập trung vào

những nhiệm vụ chính sau đây:

Thứ nhất, nêu được những vấn đề lý luận và lịch sử về bào chữa cho

bị can dưới 18 tuổi phạm tội.

Thứ hai, nêu được quy định của pháp luật hiện hành về bào chữa cho

bị can dưới 18 tuổi phạm tội và thực tiễn bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi

phạm tội tại tỉnh Đồng Nai

Thứ ba, từ thực tiễn bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm tội tại

tỉnh Đồng Nai, đưa ra các giải pháp bảo đảm bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi

phạm tội.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là vấn đề liên quan đến bào chữa cho bị can

dưới 18 tuổi phạm tội tại giai đoạn điều tra, truy tố theo quy định của pháp

luật Việt Nam nói chung và bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm tội từ thực

tiễn tỉnh Đồng Nai nói riêng từ năm 2015 đến 2019.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về thời gian:

- Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định về quyền bào chữa của là

người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của pháp luật Tố tụng Hình sự từ

BLTTHS đầu tiên của Việt Nam đến BLTTHS hiện hành.

5

- Đề tài sẽ tiến hành thủ tục khảo sát, phân tích số liệu thực tế liên

quan đến là bị can người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ

năm 2015 đến năm 2019.

Về lĩnh vực nghiên cứu: Trọng tâm nghiên cứu đề tài là các vấn đề lý

luận và thực tiễn về quyền bào chữa của bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội

từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai tại giai đoạn điều tra, truy tố vụ án hình sự. Trên

cơ sở lý luận và thực tiễn, đề tài sẽ đưa ra các kiến nghị để hoàn thiện hệ

thống pháp luật của Việt Nam liên quan đến đề tài nghiên cứu.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Đề tài nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,

những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về Nhà nước pháp quyền,

CCTP về quyền con người, quyền công dân.

Khi nghiên cứu đề tài sẽ áp dụng phương pháp phân tích, thống kê để

tìm ra bất cập và hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về quyền bào chữa.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Bài viết sử dụng phương pháp phân tích, so sánh luật, bình luận

án,…Bên cạnh đó, bài viết cũng có sử dụng các phương pháp quy nạp, diễn

dịch,... để làm sáng tỏ đề tài.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện, chuyên sâu về

quyền bào chữa của bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội và các biện pháp để

bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của bị can.

6

Luận văn tập trung nghiên cứu kỹ lý luận về quyền bào chữa của bị

can dưới 18 tuổi phạm tội, thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật tố

tụng hình sự về quyền bào chữa của bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội để

từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định về quyền bào chữa.

Kết quả của luận văn có thể sử dụng làm đề tài tham khảo, có giá trị

trong hoạt động lập pháp, thực tiễn điều tra, truy tố cũng như trong nghiên

cứu, giảng dạy về Tố tụng Hình sự trên cả nước nói chung và tại địa bàn tỉnh

Đồng Nai nói riêng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn góp phần làm rõ những vấn đề liên quan đến quyền bào

chữa của bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội. Từ đó đưa ra kiến nghị, giải

pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền bào chữa trong hoạt

động tố tụng, góp phần thực thi nhiệm vụ bảo đảm quyền con người trong

công cuộc CCTP của nước ta hiện nay.

7. Kết cấu của luận văn

Luận văn được thiết kế gồm 3 Chương (không bao gồm phần mở

đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo), cụ thể:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và lịch sử về bào chữa cho bị can

dưới 18 tuổi phạm tội.

Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về bào chữa cho bị can

dưới 18 tuổi phạm tội và thực tiễn bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm tội

tại tỉnh Đồng Nai.

Chương 3: Các giải pháp bảo đảm bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi

phạm tội.

7

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐẾ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ VỀ QUYỀN BÀO CHỮA

CHO BỊ CAN DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI

1.1. Khái niệm, ý nghĩa của quyền bào chữa cho bị can dưới 18

tuổi phạm tội

1.1.1. Khái niệm quyền bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm

tội

Việt Nam cũng như các nước phát triển trên thế giới rất đề cao quyền

công dân, một trong các quyền của công dân được Nhà nước bảo đảm thực

hiện, đó chính là quyền được bảo vệ đối với người dưới 18 tuổi khi họ phạm

tội.

Bộ luật hình sự nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm

2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự

của chủ thể của tội phạm là cá nhân (thể nhân) tại Điều 12, theo đó: “Người

từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ

những tội phạm mà Bộ luật hình sự có quy định khác; Người từ đủ 14 tuổi trở

lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự tội rất nghiệm

trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng” [38, tr. 85].

Theo quy định của Bộ luật Dân sự, người chưa thành niên là người

chưa đủ 18 tuổi. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015, sửa

đổi bổ sung năm 2017 thì độ tuổi bắt đầu chịu trách nhiệm hình sự là từ đủ 14

tuổi trở lên. Để thuộc khái niệm người chưa thành niên phạm tội, những

người này vừa phải thõa mãn điều kiện về chủ thể của tội phạm theo quy định

tại Điều 12 của BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì vừa phải thỏa

mãn điều kiện về năng lực trách nhiệm hình sự [54, tr.466].

8

Từ trình bày trên, người dưới 18 tuổi phạm tội là người phải có độ

tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi.

Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì bị can là người dưới 18

tuổi phạm tội là người mà tại thời điểm họ bị cơ quan có thẩm quyền khởi tố

khi có hành vi phạm tội phải từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi.

Trong BLTTHS hiện hành quy định về quyền bào chữa là một trong

những quy định rất quan trọng. Bất kỳ người nào bị phạm tội khi tham gia tố

tụng đều có quyền bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Quyền

này cũng được quy định tại Điều 31 của Hiến pháp năm 2013. Như vậy,

quyền bào chữa của bị can dưới 18 tuổi phạm tội phát sinh từ lúc người đó bị

bắt, tạm giam, tạm giữ. Quyền này xuất phát từ nguyên lý có buộc tội thì phải

có gỡ tội.

Pháp luật hình sự được xây dựng trên nền tảng của Hiến pháp Nước

Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Theo đó, người bị buộc tội cụ thể là

bị can dưới 18 tuổi có quyền tự bảo vệ mình và nhờ người khác bảo vệ theo

quy định để chứng minh rằng mình không có tội trước cơ quan tiến hành tố

tụng, đó gọi là quyền bào chữa.

Trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa

và công cuộc CCTP ở Việt Nam hiện nay, vấn đề đảm bảo quyền con người

trong đó có quyền bào chữa là một trong những nội dung quan trọng, đặt lên

hàng đầu. Hiện nay, trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam chưa đưa ra khái

niệm thế nào là quyền bào chữa, chính vì không đề cập đến khái niệm quyền

bào chữa cho nên nội dung bào chữa, phạm vi bào chữa, chủ thể bào chữa và

cơ chế đảm bảo quyền bào chữa chưa được xác định rõ ràng và thiếu thống

nhất. Do đó đã trực tiếp làm giảm chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự

và quyền của bị can là người dưới 18 tuổi chưa được bảo đảm.

9

Có rất nhiều quan điểm về quyền bào chữa, tác giả xin nêu ra như

sau. Theo từ điển Tiếng Việt thì: “Bào chữa là dùng lời lẽ, chứng cứ để bênh

vực cho đương sự nào đó thuộc vụ án hình sự hay dân sự trước toà án hoặc

cho một việc làm đang bị lên án” [42, tr. 38].

PGS.TS Phạm Hồng Hải định nghĩa: “Quyền bào chữa trong tố

tụng hình sự là tổng hòa các hành vi tố tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị

cáo, người bị kết án thực hiện trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật

nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của cơ quan tiến hành tố

tụng, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án

hình sự”[41]. Như vây, theo PGS.TS Phạm Hồng Hải thì chủ thể của quyền

bào chữa gồm có người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

Theo PGS.TS Hoàng Thị Minh Sơn: “Quyền bào chữa bị can, bị cáo

là tổng thể các quyền mà pháp luật quy định bị can, bị cáo có thể sử dụng

nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm

cho họ”[41]. Quan điểm khác cho rằng: “Quyền bào chữa là tổng hòa các

hành vi tố tụng hướng tới việc bác bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có

lỗi hoặc nhằm làm giảm trách nhiệm của bị can” [40].

Về cơ bản, những nội dung quy định quyền bào chữa cho người dưới

18 tuổi phạm tội và người từ đủ 18 tuổi trở lên phạm tội khá giống nhau. Từ

đó, có thể khái quát quyền bào chữa của bị can dưới 18 tuổi phạm tội là

tổng thể các quyền mà pháp luật quy định bị can là người dưới 18 tuổi phạm

tội có thể sử dụng nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội hoặc giảm

nhẹ trách nhiệm cho họ.

1.1.2. Ý nghĩa của bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm tội

Quyền bào chữa đảm bảo cho người bị buộc tội nói chung và cho bị

can dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng thực hiện đầy đủ quyền bào chữa. Đồng

10

thời đảm bảo cho các cơ quan tố tụng phải đảm bảo để người bị buộc tội thực

hiện quyền này của họ, có thể thông qua chính bản thân họ và thông qua

người khác bào chữa theo quy định. Nghiêm cấm các hành vi gây cản trở, khó

khăn, xâm phạm đến quyền bào chữa.

Các nhà lập pháp của nước ta đã nhận thức được ý nghĩa to lớn về

quyền bào chữa trong hoạt động tố tụng hình sự nên ngay từ khi BLTTHS đầu

tiên ra đời năm 1988 và đến nay thì BLTTHS năm 2015 đã đề cập đến quyền

này.

Đối với đối tượng là người dưới 18 tuổi, do những hạn chế nhất định

về sự phát triển thể chất cũng như tinh thần, cho nên họ sẽ gặp rất nhiều khó

khăn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ nếu không có người

bào chữa trong quá trình điều tra. Chính vì vậy rất cần có sự tham gia của

người bào chữa trong những vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm

tội.

Trên cơ sở cụ thể hóa nguyên tắc quy định tại Điều 31 Hiến pháp

năm 2013, tại Điều 16 của BLTTHS năm 2015 quy định về bảo đảm quyền

bào chữa của người dưới 18 tuổi như sau: “Người dưới 18 tuổi có quyền tự

bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm

quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho

người dưới 18 tuổi, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền

và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này” [29].

Để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được khách quan, công bằng,

tránh bỏ sót tội phạm, không xuất hiện tình trạng oan sai thì việc bào chữa là

rất cần , giúp cơ quan tiến hành tố tụng tìm ra sự thật của vụ án. Mặt khác, để

một vụ án hình sự được giải quyết tốt thì trong quá trình giải quyết vụ án hình

sự luôn luôn phải tồn tại song song hai cơ chế: Cơ chế buộc tội thuộc về Nhà

11

nước và cơ chế gỡ tội thuộc về bên yếu thế (có thể nói cách khác là quyền bào

chữa).

Tóm tại, quyền bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm tội không chỉ

có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ mà

còn là điều kiện để đảm bảo hiệu quả của các hoạt động tố tụng hình sự như

hoạt động điều tra, truy tố … hay nói cụ thể hơn là thể hiện bản chất tốt đẹp,

nhân văn của Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa.

1.2. Nội dung bào chữa cho bị can là người dưới 18 tuổi phạm

tội

1.2.1. Nội dung quyền bào chữa cho bị can là người dưới 18 tuổi

phạm tội

Tại Điều 1 Công ước Quốc tế về quyền trẻ em có hiệu lực từ ngày

02/9/1990 quy định: “Trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có nghĩa là

người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp dụng đối với trẻ em đó quy

định độ tuổi thành niên sớm hơn”. Bên cạnh đó, do đặc thù (Khí hậu, dinh

dưỡng, văn hóa, tôn giáo,…) của mỗi quốc gia khác nhau nên sự phát triển

của trẻ em cũng không đồng đều như nhau nên khái niệm người chưa thành

niên không thống nhất nên Công ước Quốc tế về Quyền Trẻ em vẫn còn nhiều

điều khoản để tùy theo từng quốc gia quy định về độ tuổi.

Khái niệm người chưa thành niên và khái niệm trẻ em ở nước Việt

Nam chúng ta đều thống nhất ở giới hạn là dưới 18 tuổi, từ đó pháp luật đưa

ra quy định về độ tuổi phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa truyền

thống của quốc gia đó, đặc thù của người người dưới 18 tuổi là có sự hạn chế

về nhận thức, tâm sinh lý phát triển chưa hoàn thiện. Do đó, việc xét xử

người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu mang tính giáo dục, răn đe, phòng ngừa

chung.

12

Người dưới 18 tuổi được quy định trong hệ thống pháp luật của nước

ta tương đối thống nhất ở các đạo luật: Hiến pháp năm 2013; BLHS năm 1999

sửa đổi, bổ sung năm 2009; BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015; Bộ luật lao động; Bộ luật Dân sự;

Luật xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật khác.

Các văn bản pháp luật trong từng lĩnh vực đều quy định về độ tuổi để có quy

định riêng như trong BLHS năm 1988, BLHS năm 1999 và BLHS năm 2005

đều quy định một chương riêng về người dưới 18 tuổi phạm tội.

Hiện nay, theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự thì người

phạm tội chưa hẳn đã có tội do đó họ được hưởng các quyền trong quá trình

tố tụng. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp 2013 quy định:

“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh

theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp

luật”. Quy định này đặt ra yêu cầu cho các cơ quan tiến hành tố tụng và

những người tiến hành tố tụng phải thận trọng, khách quan, có trách nhiệm

làm rõ các chứng cứ để buộc tội cũng như gỡ tội, để làm sáng tỏ sự thật khách

quan của vụ án, tránh làm oan người vô tội và bỏ lọt người phạm tội được quy

định tại Điều 10 BLTTHS năm 1988, Điều 9 BLTTHS 2003 và Điều 15

BLTTHS năm 2015.

Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự luôn song hành với sự suy

đoán vô tội, không phải chống lại sự buộc tội mà khẳng định quyền bào chữa

là quyền nhằm hạn chế, phòng ngừa các chủ thể tiến hành tố tụng có hành vi

vi phạm pháp luật. Nếu các chủ thể tiến hành tố tụng có hành vi vi phạm pháp

luật thì người dưới 18 tuổi phạm tội có quyền khiếu nại, kháng cáo đối với

13

hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với họ. Do đó,

cần phải nâng cao hoạt động tố tụng cho các chủ thể tiến hành tố tụng vì đây

là chủ thể đại diện cho Nhà nước thực hiện chức năng buộc tội.

Theo quy định tại Điều 16 BLTTHS 2015 nêu rõ về việc đảm bảo

quyền bào chữa của người bị buộc tội: “Người bị buộc có quyền tự bào chữa,

nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến

hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị

buộc, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp

pháp của họ theo quy định của Bộ luật này”. Theo Điều này quyền bào chữa

hoặc nhờ người bào chữa của người dưới 18 tuổi phạm tội tuy chưa rõ ràng

nhưng với quy định thì người dưới 18 tuổi là bị can đương nhiên sẽ có đầy đủ

quyền tự bào chữa hay nhờ người khác bào chữa, đồng thời cơ quan, người có

thẩm quyền tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm và tạo điều kiện thuận lợi

cho người phạm tội đặc biệt là bị can dưới 18 tuổi thực hiện quyền bào chữa

của mình.

1.2.2. Những quy định liên quan khi bào chữa cho người dưới 18

tuổi phạm tội

Thứ nhất, về nguyên tắc xử lý chung, tại khoản 1 Điều 91 của BLHS

2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã bổ sung nguyên tắc: “Việc xử lý người

dưới 18 tuổi phạm tội phải đảm bảo lợi ích tốt nhất của người dưới 18

tuổi”[29] và tại khoản 6 Điều 91 của Bộ luật đã bổ sung nguyên tắc: “Tòa án

chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi

xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe,

phòng ngừa”[29].

14

Với việc sửa đổi bổ sung các nguyên tắc trên, BLHS năm 2015 sửa

đổi, bổ sung năm 2017 được thiết kế đã đảm bảo tính nhân đạo và tạo cơ hội

cho những người chưa thành niên được giáo dục, cảm hóa, sửa chữa lỗi lầm.

Thứ hai, về phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi,

kế thừa các quy định trước đây của BLHS thì người từ đủ 14 tuổi trở lên phải

chịu trách nhiệm hình sự. Người dưới 18 tuổi phạm tội, BLHS chia làm hai

nhóm, thứ nhất là nhóm người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi và nhóm từ đủ

16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Việc phân loại ra như vậy giúp cơ quan tiến hành tố

tụng, người tiến hành tố tụng áp dụng chính sách hình sự phù hợp để xử lý với

mức độ hành vi.

BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã thay đổi cụ thể hơn

về phạm vi chịu trách nhiệm hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16

tuổi. Cụ thể, người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phải chịu hình sự về tội phạm

rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong 28

điều, đó là các điều: 123, 134, 141, 142. 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170,

171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299,

303 và 304 của BLHS.

Ngoài ra, BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 cũng sửa đổi

phạm vi chịu trách nhiệm của người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị

phạm tội theo hướng thu hẹp hơn, cụ thể họ chỉ phải chịu TNHS nếu chuẩn bị

phạm tội thuộc một trong 2 tội danh đó là: Giết người (Điều 123) và Cướp tài

sản (Điều 168).

Thứ ba, về quyết định hình phạt, BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm

2017 đã quy định rõ ràng, chi tiết hơn các trường hợp tổng hợp hình phạt đối

với người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội tại Điều 103; đồng thời có sự phân hóa

giữa người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và người từ đủ 16 tuổi đến dước 18

15

tuổi. Để giúp đỡ người phạm tội được sửa chữa sai lầm mà mình đã thực hiện,

sớm hòa nhập cộng đồng thì việc phân hóa phù hợp với độ tuổi, nhận thức của

người phạm tội thể hiện rõ nét tính nhân đạo trong việc xây dựng pháp luật.

Ngoài ra, BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 còn bổ sung

quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm

tội chưa đạt (Điều 102) và tha tù trước thời hạn có điều kiện (Điều 106) để cụ

thể hóa cũng như tách biệt với trường hợp người thanh niên phạm tội, thống

nhất các nguyên tắc trong việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội.

Thứ tư, về các biện pháp giáo dục, giám sát, … thì BLHS năm 2015

sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã bổ sung một số biện pháp giám sát, giáo dục

đối với người chưa thành niên được miễn TNHS là: Biện pháp khiển trách

(Điều 93), hòa giải tại cộng đồng (Điều 94) và giáo dục tại xã, phường, thị

trấn (Điều 95). Đây là những quy định cụ thể nhằm đưa việc giáo dục, nâng

cao nhận thức đối với người phạm tội, biện pháp áp dụng pháp luật đi vào

thực tế và có hiệu quả.

Ngoài ra, từ Điều 426 đến Điều 429 của thì BLTTHS năm 2015 cũng

có bổ sung các quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng các biện

pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. BLHS năm 2015

sửa đổi, bổ sung năm 2017 bỏ đi biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường,

thị trấn theo quy định của BLHS năm 1999 (do đã có các biện pháp giám sát,

giáo dục cụ thể nêu trên) và chỉ giữ lại một biện pháp tư pháp áp dụng đối với

người chưa thành niên phạm tội, đó là biện pháp giáo dục tại trường giáo

dưỡng (Điều 96).

Thứ năm, về việc xóa án tích, nói chung những quy định liên quan

đến xóa án tích đối với người dưới 18 tuổi bị kết án trong thì tại Khoản 2

Điều 107 của BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 được quy định

16

theo hướng có lợi hơn, thể hiện được đường lối chính sách của Đảng và Nhà

nước ta là khuyến khích, giúp người phạm tội tích cực cải tạo tốt, chấp hành

tốt pháp luật, sớm tái hòa nhập cộng đồng để thực hiện các quyền và nghĩa vụ

của mình.

Thứ sáu, một số thay đổi trong hoạt động tố tụng, mở rộng chủ thể

tiến hành tố tụng với tư cách là Hội thẩm, theo đó: Thành phần HĐXX sơ

thẩm vụ án hình sự có bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội phải có

một Hội thẩm là Giáo viên hoặc cán bộ Đoàn Thanh niên hoặc người có kinh

nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi.

Thứ bảy, về “Quyền im lặng”, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy

định chi tiết cụ thể về quyền của bị can, người bị tạm giữ và người bị bắt khẩn

cấp tại các điều: điểm d, điểm đ khoản 1 Điều 58; điểm c, điểm 2 khoản 2

Điều 59; điểm d, điểm e, khoản 2 Điều 60. Theo đó, các điều khoản này quy

định, các bị can, bị cáo có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không

buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có

tội.

Như vậy, có thể hiểu người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có

quyền chủ động về việc khai báo. Những gì bị can, bị cáo thấy bất lợi cho

mình, họ có thể không buộc phải khai báo cũng như không buộc phải nhận

mình có tội trước cơ quan tiến hành tố tụng hình sự.

1.3. Các yếu tố tác động đến bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi

phạm tội

1.3.1. Ý chí của bị can dưới 18 tuổi phạm tội

So với người thành niên nói chung, bị can dưới 18 tuổi phạm tội nói

riêng có những hạn chế về đặc điểm tâm sinh lý, xã hội, do vậy về chủ quan

của các nhà xây dựng pháp luật tính đến trách nhiệm hình sự của họ. Ở độ

17

tuổi này, người dưới 18 tuổi thường chưa tích lũy đủ kiến thức và kinh

nghiệm sống cần thiết để có thể giải quyết tốt mọi việc theo yêu cầu của xã

hội. Cũng trong khoảng thời gian này, người chưa thành niên thường chưa rời

khỏi ghế nhà trường, chưa hòa nhập nhiều vào đời sống xã hội thông qua lao

động nên điều kiện để tích lũy kinh nghiệm sống cho họ cũng khá hạn chế. Sự

thiếu hụt kiến thức và kinh nghiệm sống là yếu tố tác động đáng kể đối với

khả năng lựa chọn xử sự phù hợp với đòi hỏi của xã hội trong hoàn cảnh cụ

thể [54, tr 467].

Từ những phân tích trên cho thấy, trong một số trường hợp thì việc

thiếu kiến thức, kỹ năng sống sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quyền bào chữa của bị

can dưới 18 tuổi phạm tội.

Trên thực tế, thông thường có sự tham gia của Luật sư hoặc Người

bào chữa trong những vụ án có bị can dưới 18 tuổi thực hiện phạm tội thì sự

tham gia bào chữa đó phụ thuộc vào ý chí của bị can hoặc đại diện của bị can

dưới 18 tuổi phạm tội. Bên cạnh đó, trường hợp này pháp luật quy định họ

được chỉ định người bào chữa, người bào chữa tham gia vào vụ án không phụ

thuộc vào ý chí của họ. Sự tham gia của người bào chữa trong trường hợp

được chỉ định có những nét đặc trưng riêng như sau:

Thứ nhất, điều kiện để người bào chữa được tham gia vào vụ án để

bào chữa cho bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội là phải được cơ quan tiến

hành tố tụng (cơ quan Cảnh sát Điều tra) yêu cầu hoặc đề nghị cơ quan có

chức năng (Đoàn Luật sư nói chung) cử người bào chữa.

Thứ hai, sau khi nhận được yêu cầu hoặc đề nghị cử người bào chữa

từ cơ quan tiến hành tố tụng thì cơ quan có thẩm quyền, cụ thể là Đoàn luật

sư, Trung tâm trợ giúp pháp lý, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc phải có quyết định

phân công người bào chữa cho bị can trong vụ án hình sự. Việc người bào

18

chữa tham gia vào vụ án được phân công chỉ định thì không phải là sự thỏa

thuận giữa bị can với người bào chữa.

Thứ ba, bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội không có quyền yêu

cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa đã được cử cho họ theo quy định tại

điểm b khoản 1 Điều 76 BLTTHS năm 2015: “Người bị buộc tội có nhược

điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần

hoặc là người dưới 18 tuổi”[29]. Xuất phát từ chính lợi ích cho các bị can,

quy định chỉ định người bào chữa là một quy định rất đúng đắn và phù hợp.

Trong các trường hợp quy định ở khoản 1 Điều 76 BLTTHS năm

2015 thì quyền quyết định của các chủ thể này không còn tính tuyệt đối mà bị

phụ thuộc vào sự xem xét chấp nhận hay không chấp nhận của Tòa án. Do

đó,việc bị can là người dưới 18 tuổi được chỉ định người bào chữa trong

trường hợp này sẽ dẫn đến thái độ bất hợp tác trong quá trình làm việc với

người bào chữa. Do đó, sẽ dẫn đến những kết quả không như mong đợi.

1.3.2. Nhận thức của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành

tố tụng

Khi bị can dưới 18 tuổi phạm tội bị bắt, họ rất mong muốn được mời

người bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Nhưng để liên

lạc với người bào chữa đã rất khó, thậm chí khi người thân của bị can đến yêu

cầu người tham gia bào chữa (Luật sư hoặc Bào chữa viên) và khi người bào

chữa thực hiện các thủ tục để tiếp xúc và làm việc với bị can thì lại bị cơ quan

tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng từ chối. Bộ luật Tố tụng hình sự

2015 đã mở rộng quyền của người bị can để đảm bảo quyền bào chữa cho

chính họ, tuy nhiên, chưa có cơ chế đảm bảo cho việc thực hiện này, vì vậy

trên thực tế còn gặp rất những áp dụng tùy nghi, cảm tính.

19

Khi áp dụng những quy định của BLTTHS năm 2015 về khởi tố,

điều tra, truy tố đối với những vụ án mà bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội,

có những yếu tố tác động đến quyền bào chữa của bị can xuất phát từ nhận

thức của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Một số điều tra

viên “lo sợ có trình độ thấp hơn” người bào chữa nên mặc cảm rằng khi có

người bào chữa tham gia vào quá trình giải quyết vụ án sẽ “vẽ chuyện, khó

chứng minh bị can phạm tội”.

Có một số trường hợp, ĐTV đã “lạm quyền”, không tạo điều kiện

thuận lợi cho bị can thực hiện quyền bào chữa của mình. Theo quy định của

pháp luật hình sự, một bên có quyền bào chữa thì bên còn lại phải có nghĩa vụ

tôn trọng và bảo đảm việc thực hiện quyền đó.

1.3.3. Chi phí cho người bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi do Nhà

nước chịu

Trường hợp bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội được chỉ định

người bào chữa là một quy định đầy tính nhân văn của BLTTHS năm 2015.

Đây là trường hợp người bào chữa tham gia vào quá trình tố tụng không phụ

thuộc vào ý chí của bị can. Việc có người bào chữa rất có lợi không chỉ cho bị

can mà còn cho cả cơ quan tiến hành tố tụng, nhưng thực tiễn vẫn xảy ra tình

trạng người bào chữa không muốn tham gia bào chữa chỉ định và nguyên

nhân là do chi phí cho người bào chữa không cao.

Trường hợp bào chữa chỉ định, chi phí thanh toán cho người bào

chữa do Nhà nước thanh toán theo khung, mức cố định. Trong khi đó, khi

được mời làm người bào chữa chỉ định, nếu người bào chữa tham gia từ giai

đoạn điều tra đến khi giải quyết xong vụ án thì người bào chữa phải đi lại cơ

quan tiến hành tố tụng rất nhiều lần, tốn chi phí đi lại,... Thù lao bào chữa chỉ

định thực tế quá thấp sẽ dẫn đến tâm lý ít luật sư muốn tham gia bào chữa chỉ

20

định hoặc có tham gia cũng tham gia cho có chứ không nhiệt tình, đặt cái tâm

vào vụ án.

Hiện nay, mức thù lao và các khoản phí cho việc bào chữa chỉ định

áp dụng cho người dưới 18 tuổi phạm tội quy định cụ thể tại Điều 2 Thông tư

liên tịch số 191/2014/TTLT-BTC-BTP về hướng dẫn thù lao và thanh toán

chi phí cho Luật sư trong trường hợp Luật sư tham gia tố tụng theo yêu cầu

của cơ quan THTT: “Điều 2. Mức thù lao và các khoản chi phí

1. Mức thù lao chi trả cho 01 ngày làm việc của luật sư tham gia tố

tụng trong vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu là 0,4 lần mức lương

cơ sở do Chính phủ quy định. Ngày làm việc của luật sư được tính trên cơ sở

08 giờ làm việc.

Trong trường hợp, luật sư làm việc trong nhiều ngày, nhưng mỗi

ngày thực hiện không đủ 08 giờ, thì số ngày làm việc của luật sư được tính

trên tổng số giờ làm việc thực tế của luật sư. Số giờ làm việc lẻ còn lại (nếu

có) được tính như sau:

Nếu số giờ làm việc lẻ không đủ 06 giờ thì tính thành ½ ngày làm

việc.

Nếu số giờ làm việc lẻ từ 06 giờ trở lên thì tính thành 01 ngày làm

việc” [5]..

1.3.4. Nhận thức của người bào chữa

Điều 72 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định “Người bào

chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa….”[29]. Điều 4 BLTTHS

năm 2015 giải thích khái niệm: “Người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị

tạm giữ, bị can, bị cáo”[29].

21

Hiện nay, trình độ của người bào chữa có ảnh hưởng rất lớn đến việc

bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm tội. Trong trường hợp do nhận thức

của chính của bị can dưới 18 tuổi hạn chế hoặc điều kiện hoàn cảnh không thể

đủ khả năng tài chính để yêu cầu được Luật sư nên sẽ dẫn đến trường hợp

được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu chỉ định người bào

chữa.

1.3.5. Đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội

Không ai bị coi là có tội cho đến khi được chứng minh theo đúng

trình tự thủ tục và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Nội

dung này đã được ghi nhận tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013. Nhằm

cụ thể hóa tinh thần Hiến pháp năm 2013 và bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp

pháp của người dưới 18 tuổi, cụ thể tại Điều 13 của BLTTHS năm 2015 cũng

quy định về nguyên tắc “Suy đoán vô tội”.

Như vậy, BLTTHS năm 2015 là văn bản pháp lý đầu tiên ghi nhận

chính thức nguyên tắc suy đoán vô tội thông qua việc kế thừa quy định của

Hiến pháp năm 2013.

Nguyên tắc suy đoán vô tội có ý nghĩa rất quan trọng. Theo đó, nâng

cao năng lực và trách nhiệm chứng minh trong tố tụng hình sự, loại bỏ định

kiến đối với người dưới 18 tuổi, đem đến sự cân bằng giữa một bên là các cơ

quan tiến hành tố tụng với chức năng buộc tội và một bên là người dưới 18

tuổi với chức năng bào chữa. Đảm bảo thực thi nguyên tắc suy đoán vô tội sẽ

tạo ra sự công bằng trong quá trình xét xử vụ án, tránh oan sai, tránh bỏ lọt tội

phạm..

1.3.6. Đảm bảo bình đẳng trước pháp luật

Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp

luật”[34]. Như vậy, giữa đảm bảo quyền bào chữa của bị can nói chung, bị

22

can dưới 18 tuổi phạm tội nói chung có mối quan hệ mật thiết đến quyền bình

đẳng trước pháp luật.

Điều 26 của BLTTHS năm 2015 quy định: “Trong quá trình khởi tố,

điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm

quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia

tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá

chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án”[29].

Theo đó, việc tạo điều kiện cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, người

khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và

người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình

một cách dân chủ, bình đằng là vấn đề cần thiết đặt ra, giải quyết và hoàn

thiện.

1.4. Lịch sử phát triển các quy định của pháp luật về bào chữa

cho bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội

Tại Điều 67 của Bản Hiến pháp năm 1946 là Bản Hiến pháp đầu tiên

của Nước Việt Nam quy định quyền bào chữa: “Người bị cáo được quyền tự

bào chữa hoặc mướn luật sư”[30]. Tại Điều 101 của Bản Hiến pháp năm

1959 quy định như sau: “Quyền bào chữa của người bị cáo được bảo

đảm”[31]. Tại Điều 133 của Bản Hiến pháp năm 1980 – Bản Hiến pháp năm

1992 tiếp tục khẳng định quyền bào chữa được bảo đảm. Tại Điều 132 Bản

Hiến pháp 2013 quy định: “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo

có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Tổ chức luật sư

được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của mình và góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”[34].

23

Tại Điều 48, 49, 50 của BLTTHS năm 2003 cũng có những quy định

thay đổi, quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền: “Tự bào chữa

hoặc nhờ người khác bào chữa”.

Mặt khác, theo quy định tại Thông tư 70/TT-BCA ngày 10/10/2011

về đảm bảo quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Điều 4

Thông tư quy định: “Khi giao quyết định tạm giữ cho người bị tạm giữ, quyết

định khởi tố cho bị can, Điều tra viên phải đọc và giải thích cho họ biết rõ về

quyền, nghĩa vụ của người bị tạm giữ, bị can theo quy định tại Điều 48, 49

của BLTTHS và lập biên bản giao nhận quyết định. Trong biên bản phải ghi

rõ ý kiến của người bị tạm giữ, bị can về việc có nhờ người bào chữa hay

không”[4].

Đồng thời, tại khoản 2 Điều 57 của BLTTHS năm 2003 còn quy định

bị can chưa thành niên được bảo đảm quyền bào chữa. Tại khoản 3 Điều 4

của thông tư 70 quy định rõ hơn về điều này như sau: “Nếu sau khi giải thích

và thông báo cho bị can, người đại diện hợp pháp của họ về quyền được nhờ

người bào chữa mà họ từ chối thì cơ quan điều tra đang thụ lý vụ án phải làm

văn bản yêu cầu Đoàn luật sư hoặc Ủy ban Mặt trận tổ quốc, tổ chức thành

viên của Mặt trận cử người bào chữa cho họ; trường hợp Đoàn luật sư hoặc

Ủy ban Mặt trận tổ quốc, tổ chức thành viên của Mặt trận đã cử người bào

chữa nhưng bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ vẫn từ chối, Điều tra

viên phải lập biên bản ghi rõ ý kiến của họ; trường hợp họ đề nghị thay đổi

người bào chữa thì cơ quan điều tra phải có văn bản yêu cầu Đoàn luật sư

hoặc Ủy ban Mặt trận tổ quốc, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người

khác bào chữa cho họ”[4].

Cụ thể hóa các bản Hiến pháp trước đó, Hiến pháp 2013 đã mở rộng

phạm vi các đối tượng được đảm bảo quyền bào chữa. Khoản 4 Điều 31 Bản

Hiến pháp 2013 quy định rõ hơn về quyền bào chữa, cụ thể: “Người bị bắt,

24

tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa hoặc

nhờ người khác bào chữa”[33]. Càng mở rộng phạm vi quyền bào chữa bao

nhiêu thì càng mở rộng tính tranh tụng bấy nhiêu và kết quả tương ứng là

càng hạn chế khả năng dẫn đến oan sai người vô tội trong xét xử, xu thế phát

triển của tố tụng hình sự nước ta đã đi theo hướng đó. BLTTHS năm 1988 –

Bộ luật đầu tiên của nước ta ghi nhận sự tham gia của người bào chữa sớm

hơn rất nhiều - từ khi có quyết định khởi tố bị can thì BLTTHS năm 2003 đã

có thêm bước tiến nữa khi quy định người bào chữa có quyền tham gia ngay

từ khi có quyết định tạm giữ. Sau đây là lịch sử quyền bào chữa theo từng giai

đoạn phát triển của đất nước:

1.4.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến

trước khi BLTTHS 1988 có hiệu lực thi hành

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước ta đã tiến hành củng cố

và xây dựng hệ thống pháp luật hình sự. Chính vì thế mà quyền bào chữa

trong TTHS đã được pháp luật hình sự Việt Nam ghi nhận từ rất sớm. Tuy

nhiên, giai đoạn này vẫn chưa đề cập đến quyền bào chữa của bị can nói

chung và bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng.

Trên cơ sở bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta được Quốc hội thông

qua vào ngày 09/11/1946, Sắc lệnh số 69 ngày 18/06/1949 những bị can có

thể nhờ một công dân không phải là luật sư bào chữa cho, trước các Tòa án

thường và Tòa án đặc biệt xử việc tiểu hình, đại hình và Sắc lệnh số 144 ngày

22/12/1949 đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp.

Sắc lệnh 69 đã được sửa đổi bổ sung bởi Sắc lệnh số 144 và đây là

hai sắc lệnh đặt nền móng cho việc xây dựng chế độ Bào chữa viên nhân dân

và cũng là văn bản đầu tiên đề cập đến quyền bào chữa cho bị can.

25

Có thể nói, pháp luật thời kỳ này chưa ghi nhận cụ thể quyền bào

chữa cho bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội, chỉ ghi nhận quyền bào chữa

của bị can nói chung mà thôi.

1.4.2. Giai đoạn từ khi BLTTHS 1988 có hiệu lực thi hành đến

trước thời điểm BLTTHS 2003 có hiệu lực thi hành

Kế thừa quy định về bào chữa trong giai đoạn từ sau Cách mạng

Tháng Tám năm 1945 đến trước khi BLTTHS năm 1988 (ngày 28/06/1988)

có hiệu lực thi hành, BLTTHS đầu tiên ra đời có hiệu lực thi hành ngày

01/01/1989. Tại Điều 12 của BLTTHS năm 1988 đã bổ sung thêm quyền bào

chữa của bị can và quy định việc bảo đảm quyền bào chữa cho bị can dưới 18

tuổi phạm tội.

BLTTHS năm 1989 không dùng từ “Người dưới 18 tuổi” phạm tội

mà dùng từ “Người chưa thành niên” phạm tội. Độ tuổi quy định chịu trách

nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên quy định cụ thể tại BLHS năm

1985. Cụ thể:

Tại BLHS năm 1985 quy định độ tuổi chịu trách nhiệm của người

chưa thành niên:

“Điều 58. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

1- Người từ 14 tuổi trở lên những chưa đủ 16 tuổi phải trách nhiệm

hình sự về những tội phạm nghiêm trọng do cố ý.

2- Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi

tội phạm”[23].

1.4.3. Giai đoạn từ khi BLTTHS 2003 có hiệu lực thi hành đến

nay

26

Ngày 26/11/2003, BLTTHS 2003 ra đời và có hiệu lực thi hành ngày

01/07/2004. BLTTHS năm 2003 tiếp tục ghi nhận việc bảo đảm bào chữa cho

bị can.

Đến khi BLTTHS năm 2015 ra đời đã dành một chương riêng để quy

định những nội dung liên quan đến tội phạm là người chưa thành niên. Tuy

nhiên, BLTTHS năm 2015 đã không còn sử dụng từ “Người chưa thành

niên” mà thay đổi thành “Người dưới 18 tuổi phạm tội”.

Kết luận Chương 1

Nội dung Chương 1 đã trình bày những vấn đề về nội dung bào chữa

cho bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội gồm các nội dung chính như:

Khái niệm bào chữa cho bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội là một

chế định quan trọng, không thể thiếu trong BLTTHS Việt Nam. Chế định bào

chữa được thừa nhận và quy định trong pháp luật hình sự ở Việt Nam, cũng

như các nước trên thế giới từ rất sớm nhưng có những khái niệm, nội dung

còn nhiều ý kiến khác nhau. Do đó, cần có bổ sung những quy định của pháp

luật để làm rõ những vấn đề này.

Việc bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam mang tính lịch sử và

kế thừa, nó đảm bảo pháp lý và quyền của người dưới 18 tuổi phạm tội đồng

thời cũng là trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng được quy định ở từng

giai đoạn lịch sử ngày càng hoàn thiện, phù hợp với thực tiễn của “bên bị

buộc tội” và ‘bên gỡ tội” trong suốt quá trình giải quyết vụ án.

Những điểm mới của BLTTHS năm 2015 về quyền bào chữa đã

phần nào đáp ứng thực tiễn, phù hợp cải cách tư pháp. Như vậy, pháp luật quy

27

định rõ người bị buộc tội, phạm tội thuộc các trường hợp phải có người bào

chữa, cụ thể là bị can dưới 18 tuổi phạm tội.

28

CHƯƠNG 2

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ BÀO CHỮA CHO BỊ

CAN DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI VÀ THỰC TIỂN BÀO CHỮA CHO

BỊ CAN DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TẠI TỈNH ĐỒNG NAI

2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về bào chữa cho bị can

dưới 18 tuổi phạm tội

Theo quy định tại Điều 60 và Điều 422 của BLTTHS năm 2015 thì

bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội có thể thực hiện quyền bào chữa thông

qua những hình thức sau đây:

2.1.1. Về quyền tự bào chữa

Là việc bị can phạm tội sẽ tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ

theo quy định của pháp luật để đưa ra các chứng cứ bảo vệ quyền và lợi ích

của mình trước cơ quan THTT trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.

Tự bào chữa là quyền được pháp luật ghi nhận và bảo đảm cho phép

bị can tự dùng lý lẽ đưa ra chứng cứ và những yêu cầu có lợi cho mình khi

tham gia tố tụng mà không nhất thiết phải có sự tham gia của người bào chữa.

Như vậy, người dưới 18 tuổi bị buộc tội thì họ sẽ bị chế tài theo quy

định của pháp luật. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của

mình thì họ được quyền tự mình bào chữa cho mình. Để quyền tự bào chữa

của bị can được đảm bảo thì theo quy định tại Điều 60 của BLTTHS năm

2015 quy định bị can có những quyền sau:

- Bị can được biết lý do mình bị khởi tố. Chỉ khi bị can biết được họ

bị cơ quan có thẩm quyền buộc tội gì thì họ mới có thể chuẩn bị các chứng cứ,

lập luận để phủ nhận toàn bộ hoặc một phần việc buộc tội đó. Căn cứ theo

quy định tại khoản 3, Điều 179 của BLTTHS năm 2015 quy định mình bị

29

buộc tội gì? Theo điều khoản nào? Thời gian, địa điểm phạm tội? Những tình

tiết khác của tội phạm thì họ mới có thể chuẩn bị được các chứng cứ, lập luận

để phủ nhận toàn bộ hoặc một phần việc buộc tội.

- Bị can được quyền giải thích quyền và nghĩa vụ. Khi hiểu rõ quyền

và nghĩa vụ của mình, họ sẽ dễ dàng thực hiện quyền tự bào chữa cho mình

mà không trái với quy định của pháp luật. Việc giải thích quyền và nghĩa vụ

của bị can khi thực hiện các hoạt động tố tụng như: Giao quyết định khởi tố bị

can; sau khi giao quyết định truy tố; trước khi hỏi cung.

- Bị can có quyền trình bày lời khai. Việc trình bày lời khai trước cơ

quan tiến hành tố tụng giúp làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án hoặc không có

nghĩa vụ khai nhận những tình tiết không thuận lợi cho mình. Đây là quy định

mới mà BLTTHS năm 2003 không quy định.

- Bị can có quyền đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố

tụng, người giám định, định giá tài sản, người phiên dịch, dịch thuật nếu có

căn cứ cho rằng họ không vô tư, khách quan khi làm nhiệm vụ, ảnh hưởng

đến bị can.

- Bị can có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan,

người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi xét thấy có hành vi ảnh hưởng đến

quyền và lợi ích của mình.

Tất cả những quyền trên là căn cứ quan trọng giúp cho bị can thực

hiện tốt quyền tự bào chữa cho mình.

2.1.2. Quyền nhờ người khác bào chữa

Là việc bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội thông qua người khác

để thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật để đưa ra các

30

chứng cứ bảo vệ quyền và lợi ích của mình trước cơ quan THTT trong quá

trình giải quyết vụ án hình sự.

Quyền nhờ người khác bào chữa là một nội dung quan trọng của

nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự. Để bị can là người

dưới 18 tuổi phạm tội có khả năng tự bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của

mình trước sự buộc tội của cơ quan THTT, pháp luật đã quy định quyền tự

bào chữa. Tuy nhiên, trong một số trường hợp do trình độ hiểu biết pháp luật

hạn chế nên bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội có thể nhờ người bào chữa

theo quy định tại Điều 422 của BLTTHS năm 2015: “Người THTT, pháp luật

đã quy định quyền tự bào chữa. Tuy nhiên, trong một số trường hợp do [29].

Nhờ người khác bào chữa là hình thức nhờ sự giúp đỡ về mặt pháp lý để bị

can là người dưới 18 tuổi phạm tội thực hiện quyền bào chữa của mình khi họ

không đủ khả năng để tự mình thực hiện. Người khác có thể là người đại diện,

Luật sư, bào chữa viên nhân dân, người đại diện hợp pháp của người bị buộc

tội, trợ giúp viên pháp lí.

Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì bắt buộc phải có người

bào chữa tham gia tố tụng trong vụ án có bị can là người dưới 18 tuổi phạm

tội. Nếu không có người bào chữa tham gia thì được coi là vi phạm nghiêm

trọng trong thủ tục tố tụng, dẫn đến vụ án sẽ bị trả hồ sơ, bị hủy án,...

Việc có người người bào chữa từ giai đoạn có quyết định khởi tố sẽ

giúp cho bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội ổn định về mặt tâm lý, đồng

thời bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích của người nhờ bào chữa tránh tình trạng

bị bức cung, ép cung, dụ cung từ phía Điều tra viên.

2.1.3. Chỉ định người bào chữa

Căn cứ Điều 76 của BLTTHS năm 2015, chỉ định người bào chữa

được quy định khi người dưới 18 tuổi phạm tội không có người bào chữa

31

hoặc đại diện của họ không lựa chọn người bào chữa thì Cơ quan điều tra,

Viện kiểm sát, Tòa án phải chỉ định người bào chữa.

Quyền bào chữa được ghi nhận là một trong những quyền quan trọng

của người bị buộc tội, nó được là phương tiện pháp lý cần thiết để bảo vệ

được quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Thông thường sự tham gia của người bào chữa phụ thuộc vào ý chí

của người bị buộc tội; người bào chữa do người bị buộc tội, người đại diện

hoặc người thân thích của họ lựa chọn. Tuy nhiên, trong một số trường hợp

đặc biệt pháp luật quy định sự tham gia của người bào chữa vào trong vụ án

không phụ thuộc vào ý chí của người bị buộc tội mà đây là quy định bắt buộc,

Theo quy định Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, cơ quan có thẩm quyền

tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa đối với người bị buộc tội là

người dưới 18 tuổi.

Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào

chữa khi có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành và được sự phân

công của Đoàn luật sư, Trung tâm trợ giúp pháp lý, Ủy ban mặt trận Tổ Quốc.

Quy định chỉ định người bào chữa tham gia vào vụ án sẽ hạn chế sai sót,

không làm oan người vô tội trong hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng

đồng thời đảm bảo thực hiện đúng quy định của pháp luật.

2.2. Thực tiễn bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm tội tại tỉnh

Đồng Nai

2.2.1. Khái quát tình hình người dưới 18 tuổi thực hiện phạm tội

trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 đến 2019

Đồng Nai là tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, vùng có tốc độ phát

triển kinh tế năng động nhất cả nước, có nhiều cụm công nghiệp nghề truyền

thống và hơn 32 khu công nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và

32

đi vào hoạt động, đã đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của đất nước theo

chiến lược phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc phát triển kinh tế

thu tại địa bàn tỉnh Đồng Nai một mặt thu hút nhiều lao động về sinh sống và

làm việc nhưng cũng kéo theo đó là tệ nạn xã hội, làm cho tình hình tội phạm

tại tỉnh Đồng Nai khá phức tạp, ngày càng gia tăng và manh động hơn về

phương thức, thủ đoạn, tính chất, mức độ nguy hiểm, trong đó phải kể đến đối

tượng phạm tội là người chưa đủ 18 tuổi thực hiện hành vi. Điều này dẫn đến

trật tự an toàn xã hội trên địa bàn không còn đảm bảo. Việc tội phạm gia tăng

ảnh hưởng lớn đến việc điều tra, truy tố, xét xử của cơ quan tiến hành tố tụng

đặc biệt là đối với đối tượng là người chưa đủ 18 tuổi thực hiện hành vi phạm

tội.

Những đối tượng phạm tội là người dưới 18 tuổi phạm tội ngày càng

gia tăng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên

nhân chủ yếu là: Do trình độ học vấn thấp, nhận thức pháp luật còn bị hạn

chế, do đặc điểm tâm sinh lý, do hoàn cảnh gia đình, môi trường xã hội, mối

quan hệ giữa nhà trường và gia đình không mật thiết, thiếu sự giám sát … nên

những người dưới 18 tuổi này phát sinh lối sống buông thả, tự do, bị điều xấu

cám dỗ dẫn đến dễ đi vào con đường phạm tội.

Trong những năm qua trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, tình hình trật tự an

ninh xã hội được các cấp Chính quyền, các sở ban ngành quan tâm sâu sát nên

tình hình tội phạm tương đối ổn định, tuy nhiên tội phạm chưa có xu hướng

giảm nhiều nhất là đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

Qua công tác thu thập số liệu từ Báo cáo Thống kê các vụ án hình sự

chỉ định có bị can là dưới 18 tuổi phạm tội giai đoạn 2015-2019 của Đoàn

Luật sư tỉnh Đồng Nai và Báo cáo Thống kê thụ lý và giải quyết các vụ án

hình sự sơ thẩm có bị cáo là người chưa thành niên thực hiện từ năm 2015

33

đến năm 2019 của Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng Nai có thể cho thấy tình hình

xét xử sơ thẩm đối với các bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội tại tỉnh

Đồng Nai từ năm 2015 đến năm 2019 như sau:

 Tham khảo số liệu từ Tòa án:

Từ năm 2015 đến 2019 trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, Tòa án nhân dân

tỉnh Đồng Nai đã thụ lý tổng cộng 418 vụ án có bị cáo là người dưới 18 tuổi

với tổng cộng 596 bị cáo. Trong đó đã đưa ra xét xử 387/548 vụ án (tỷ lệ

92,5%) với 548/596 bị cáo là người dưới 18 tuổi (tỷ lệ 92%) được thể hiện ở

các bảng sau:

Bảng 2.1. Thống kê số liệu vụ án hình sự được thụ lý và đã xét xử do

người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 đến

2019

Năm Thụ lý Đã xét xử Tỷ lệ % án đã xét

xử so với vụ án thụ

Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị

cáo

131 2015 112 149 101

123 2016 98 124 97

128 2017 97 149 81

103 2018 71 111 68

63 2019 40 63 40

34

Tổng 92,5% 92% 418 596 387 548

Nguồn: Bảng Thống kê thụ lý và giải quyết các vụ án hình sự sơ

thẩm có bị cáo là người chưa thành niên của TAND tỉnh Đồng Nai từ năm

2015 đến 2019.

Qua số liệu bảng 2.1 nêu trên, chúng ta thấy số vụ án thụ lý các vụ án

hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện những năm gần đây tại địa bàn tỉnh

Đồng Nai có xu hướng giảm dần theo các năm nhưng số bị cáo lại không theo

quy luật giảm dần, cụ thể trong năm 2017 tăng đột ngột, điều này cũng dễ giải

thích vì trong thời gian này có những vụ án đồng phạm với số lượng bị cáo

đông.

Về số lượng vụ án đã được xét xử đạt tỷ lệ khoảng 92,5% đối với số

vụ án và đạt 92% đối với số bị cáo, điều này thể hiện trong quá trình điều tra,

truy tố có những vụ chưa xử được vì có thể là do chứng cứ chưa đầy đủ, quá

trình điều tra chưa làm rõ một số vấn đề quan trọng nên HĐXX sơ thẩm đã trả

hồ sơ điều tra bổ sung, đình chỉ giải quyết hoặc trường hợp đến ngay thời

điểm thống kê số liệu thì có một số bị cáo kháng cáo nên chưa có số liệu giải

quyết đủ 100%.

Bảng 2.2. Thống kê mức án do Tòa án tuyên đối với người dưới 18

tuổi phạm tội đã bị xét xử tại tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 đến 2019.

Mức án đã tuyên

Từ 3

Cải năm

Cảnh Phạt tạo Án trở Từ 3 - Từ 7 - Từ 15 -

Năm cáo tiền KGG treo xuống 7 năm 15 năm 18 năm

35

2 24 88 2015 1 1 15 0 0

3 10 93 2016 17 0 0

1 11 18 81 2017 17 0 0

9 17 59 2018 16 2 0

2 13 28 2019 1 19 0 0

2 2 27 82 349 84 2 0

Nguồn: Bảng Thống kê thụ lý và giải quyết các vụ án hình sự sơ

thẩm có bị cáo là người chưa thành niên của TAND tỉnh Đồng Nai từ năm

2015 đến 2019.

Nhìn bảng 2.2 ta thấy các hình thức như: Cảnh cáo, phạt tiền thường

ít được Tòa án áp dụng, có thể vì các mức phạt này ít có tác dụng giáo dục,

phạt tiền thì do cha mẹ phải gánh nên không ảnh hưởng trực tiếp đến người

phạm tội. Nhìn vào số liệu thực tế ta thấy Tòa án thường áp dụng mức hình

phạt tù từ 3 năm trở xuống (chiếm gần 64% tổng số hình phạt áp dụng), thể

hiện mức án do người dưới 18 tuổi thực hiện rất nhiều vụ việc nhưng mỗi vụ

việc gây ra với hậu quả là ít nghiêm trọng. Mức án từ 3 năm đến 7 năm chiếm

khoảng 15%, điều này nói lên chỉ có số lượng nhỏ ngưởi dưới 18 tuổi thực

hiện các hành vi nghiêm trọng. Mức án từ 5 năm đến 7 năm chiếm tỷ lệ rất

nhỏ (<1%) cho ta thấy với độ tuổi dưới 18 thì khả năng thực hiện các vụ án

nghiêm trọng và rất nghiêm trọng là rất thấp.

Bảng 2.3. Thống kê đặc điểm nhân thân đối với người dưới 18 tuổi

phạm tội đã bị xét xử tại tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 đến 2019.

36

Phân tích đặc điểm nhân thân số bị cáo

là người chưa thành niên đã bị xét xử

Trẻ Đã Trẻ Tái Nghiện Dân Nữ Tuổi Tuổi

bỏ lang phạm, ma túy tộc từ từ mồ Năm

học thang tái thiểu 14- 16- côi

số 16 18 cha phạm

hoặc nguy

mẹ hiểm

2015 1 1 2 2 38 2

21 1 2016 1 5 6 35 7

2017 1 7 1 3 44 1 3

2018 6 12 4 0 88 5 1

2019 3 2 3 1 26 3 0

16 6 1 38 1 16 15 12 231

Nguồn: Bảng Thống kê thụ lý và giải quyết các vụ án hình sự sơ

thẩm có bị cáo là người chưa thành niên của TAND tỉnh Đồng Nai từ năm

2015 đến 2019.

Nhìn bảng 2.3, số liệu cho thấy độ tuổi thực hiện hành vi phạm tội từ

16 tuổi đến 18 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất là gần 69% (231/336 bị cáo). Có

nghĩa là độ tuổi này, người phạm tội có nhiều điều kiện hơn để thực hiện hành

vi, nhu cầu thỏa mãn cá nhân thể hiện rõ hơn các nhóm đối tượng khác, ví dụ:

Sức khỏe, tâm sinh lý gần trưởng thành, … Tình trạng người dưới 18 tuổi bỏ

37

học phạm tội chiếm tỷ lệ 11,1% (38/336 bị cáo) cho ta thấy hiện tượng thiếu

sự giáo dục văn hóa, nhận thức đúng sai sẽ dễ dần đến thực hiện hành vi vi

phạm pháp luật.

Các đối tượng còn lại như: Mồ côi cha hoặc mẹ, trẻ lang thang,

nghiện ma túy dân tộc thiểu số, đối tượng là nữ chiếm tỷ lệ nhỏ, mỗi đặc điểm

nhân thân nói trên chỉ chiếm 4% nhưng nhìn chung cộng lại thì tỷ lệ không

nhỏ (gần 20%) người phạm tội. Do vậy, nhìn tổng quát, địa phương nên có

những chính sách, giải pháp phù hợp để giảm thiểu các đối tượng này thực

hiện hành vi phạm tội như: Tuyên truyền pháp luật, khuyến khích học chữ,

học nữ công gia chánh, … có như thế tôi nghĩ tình hình phạm tội do người

dưới 18 tuổi thực hiện tại địa phương sẽ giảm nhiều.

Hiện nay, số lượng người bào chữa chỉ định chưa đáp ứng được yêu

cầu khi cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu cử người bào chữa chỉ định. Theo

quy định của pháp luật Hình sự, đường lối xét xử, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng

Nai phải đảm bảo tốt nhất quyền lợi cho người dưới 18 tuổi phạm tội. Việc

này giúp cho người dưới 18 tuổi có cơ hội sửa chữa sai lầm, trở thành người

có ích cho xã hội. Bị can dưới 18 tuổi phạm tội là chủ thể đặc biệt được quy

định trong pháp luật hình sự. Do đó, khi xử lý phải xét khả năng nhận thức,

hành vi phạm tội, mục đích thực hiện hành vi, xét về nhân thân, hoàn cảnh.

 Tham khảo số liệu từ Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai:

Thực hiện chứng năng nhiệm vụ của mình, Đoàn Luật sư tỉnh Đồng

Nai là đầu mối tiếp nhận yêu cầu bào chữa chỉ định cho người dưới 18 tuổi

thực hiện phạm tội từ cơ quan CSĐT (bào chữa chỉ định) và phân công cho

các Luật sư thành viên thực hiện việc bào chữa chỉ định trong các vụ án hình

sự.

38

Bảng 2.4. Thống kê các vụ án hình sự chỉ định có bị can là dưới 18

tuổi phạm tội giai đoạn 2015-2019 của Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai

Năm Tiếp nhận yêu Phân công Luật sư bào Tỷ lệ % Luật sư được

cầu phân công chữa cho bị can dưới phân công và tham gia

Luật sư thực 18 tuổi phạm tội theo thực hiện việc bào

hiện án chỉ yêu cầu của CQĐT chữa từ yêu cầu

định từ CQĐT CQĐT

Số vụ Số bị Số vụ Số bị Số Số bị Số lượt Số

án can án can lượt can LS (%) vụ

LS (%) (%)

2015 95 132 132 75 100 100 100 95

2016 80 106 80 106 81 98 100 99

2017 82 134 82 134 95 96 100 97

2018 68 108 68 108 97 99 100 98

2019 39 62 39 62 39 99 100 99

Tổng 364 542 364 542 387

Nguồn: Thống kê các vụ án hình sự chỉ định có bị can là dưới 18 tuổi

phạm tội của Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai

Qua bảng 2.4 cho thấy:

Thứ nhất: Số lượng vụ án cũng như số lượng bị can là người dưới 18

tuổi do Cơ quann CSĐT yêu cầu luật sư bào chữa chỉ định tại Đoàn Luật sư

39

tỉnh Đồng Nai có ít hơn số lượng vụ án cũng như số lượng bị cáo là người

dưới 18 tuổi thực hiện phạm tội thực hiện trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, điều đó

cũng có thể hiểu là số lượng bị can dưới 18 tuổi thực hiện phạm tội trong giai

đoạn điều tra trong thực tế có nhiều hơn số lượng mà Cơ quan Điều tra có yêu

cầu chỉ định gửi đến Đoàn Luật sư. Vì trong thực tế trong giai đoạn điều tra

ban đầu, có trường hợp bị can đề nghị trực tiếp với Cơ quan Điều tra/Điều tra

viên yêu cầu đích danh luật sư nào đó bào chữa cho mình cho nên Cơ quan

CSĐT không có văn bản yêu cầu Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai phân công luật

sư bào chữa chỉ định cho bị can.

Thứ hai: Số liệu án, bị can do Cơ quan CSĐT có yêu cầu luật sư chỉ

định gửi đến Đoàn Luật sư bằng chính số liệu mà Đoàn luật sư tỉnh Đồng Nai

đã phân công cho các Luật sư bào chữa chỉ định, chiếm tỷ lệ 100%. Điều này

cho thấy có sự phối hợp nhịp nhàng từ phía cơ quan CSĐT đối với Đoàn Luật

sư tỉnh Đồng Nai, có thể nói Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai thực hiện rất tốt

chức năng của mình trong việc phân công Luật sư chỉ định.

Thứ ba: Tỷ lệ vụ việc Luật sư tham gia bào chữa án chỉ định được

Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai phân công chiếm tỷ lệ 100%, đứng về góc độ

quan hệ giữa Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai và Luật sư nhận nhiệm vụ bào chữa

án chỉ định thì điều này thể hiện sự chấp hành tuyệt đối sự phân công việc mà

mình đã tiếp nhận. Dưới góc độ quan hệ giữa Luật sư bào chữa án chỉ định và

bị can phần nào cũng thể hiện trách nhiệm lương tâm nghề nghiệp của Luật sư

mặc dù biết rằng thực hiện công việc bào chữa chỉ định thì mức thù lao gần

như rất ít.

Thứ tư: Tỷ lệ số vụ án và số lượng bị can dưới 18 tuổi thực hiện

phạm tội không đạt được tỷ lệ 100%, điều đó có thể giải thích rằng khi Cơ

quan CSĐT khởi tố vụ án đến khi Đoàn Luật sư phân công và Luật sư tiếp

40

nhận yêu cầu bào chữa chỉ định thì bị can còn dưới 18 tuổi, nhưng qua thời

gian tố tụng thì bị can đã đủ 18 tuổi và không tiếp tục yêu cầu luật sư bào

chữa, cho rằng bản thân mình có thể tự bào chữa hoặc chấm dứt hợp tác với

luật sư bào chữa chỉ định và mới luật sư khác theo yêu cầu.

2.2.2. Những bất cập, hạn chế trong bào chữa cho bị can dưới 18

tuổi thực hiện phạm tội trên địa bàn tỉnh Đồng Nai

Theo các số liệu thực tế nêu tại các bảng thống kê, có thể nhìn nhận

rằng việc bảo đảm quyền bào chữa của người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa

bản tỉnh Đồng Nai đã đạt được một kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên cũng

còn một số hạn chế như sau:

2.2.2.1. Hạn chế từ phía người bào chữa

Tại địa bản tỉnh Đồng Nai, người bào chữa chưa được đào tạo

chuyên môn về kiến thức tâm lý chuyên biệt nên khi tiếp cận đối với người

dưới 18 tuổi phạm tội, người bào chữa khó nhận được sự hợp tác ngay từ ban

đầu từ bị can. Nói cách khác, không có đội ngũ Luật sư chuyên trách bào

chữa cho đối tượng dưới 18 tuổi phạm tội.

Còn tình trạng người bào chữa cả nể trong giao tiếp với cơ quan tiến

hành tố tụng, các ĐTV “nói như thế nào thì mình làm như thế đó”. Dẫn đến

tình trạng người bào chữa không dám đề xuất hoặc đưa ra những chứng cứ có

lợi cho người mình bào chữa.

Người bào chữa chỉ định chưa chú tâm hết lòng vì công việc, chưa

chủ động tìm kiếm, thu thập những chứng cứ, tài liệu, đồ vật có liên quan đến

vụ án mà người bào chữa biết sẽ có lợi cho người mình bào chữa.

Trên thực tế, rất ít người bào chữa chỉ định nhiệt huyết tham gia bào

chữa chỉ định và nếu có luật sư bào chữ nhiệt tình cho người dưới 18 tuổi

41

phạm tội thì đa phần là những luật sư mới ra trường, mới theo nghề kinh

nghiệm còn yếu nên hiệu quả của việc bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi thực

hiện không cao. Người bào chữa chỉ định thường có tâm lý ỷ lại, không chủ

động sao chụp hồ sơ đầy đủ, nghiên cứu hồ sơ một cách không nghiêm túc,

thậm chí khi cơ quan tiến hành tố tụng tạo điều kiện để người bào chữa tham

gia bào chữa, tiếp xúc bị can nhưng họ lại viện lý do vắng mặt.

2.2.2.2. Hạn chế từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến

hành tố tụng

Thứ nhất, thực tiễn khi luật sư được cấp giấy chứng nhận là người

bào chữa thì một khó khăn lớn đó là tiếp cận bị can. Khi luật sư muốn tiếp

xúc bị can thì thường nhận được những câu trả lời từ điều tra viên như: Án

phức tạp nên chưa gặp được bị can hoặc điều tra viên đang đi công tác chưa

gặp được hoặc chưa có lịch làm việc. Giai đoạn điều tra ban đầu, khi ĐTV

làm việc với bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội thường không có sự chứng

kiến của người bào chữa. Do vậy, có những vụ án sau khi gần kết thúc quá

trình lấy lời khai của bị can thì luật sư mới tiếp cận được thân chủ của họ,

việc bào chữa chưa thật sự có hiệu quả.

Thứ hai, trong quá trình luật sư muốn gặp bị can trong trại tạm giam

thì thủ tục hành chính tư pháp còn nhiều bất cập. Khi trại tạm giam, tạm giữ

nhận được ý kiến đồng ý của Cơ quan điều tra thì luật sư mới có quyền gặp bị

can, đây là mầm mống của cơ chế xin cho trong hành chính tư pháp hiện nay.

Thứ ba, theo quy định của BLTTHS hiện hành, bị can dưới 18 tuổi

phạm tội có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa và quyền này

có thể được thực hiện ở bất kỳ giai đoạn nào trong quá trình tố tụng, nhưng

trên thực tế thì người bào chữa có được tham gia tố tụng sớm, trễ hay không

thì hoàn toàn phụ thuộc vào thái độ hợp tác của cơ quan tố tụng. Việc tham

42

gia tố tụng của luật sư trong giai đoạn điều tra đang gặp rất nhiều khó khăn vì

thiếu nhiều quy định rõ ràng hoặc quy định còn mang nặng tính hình thức,

dẫn đến nhiều vụ án điều tra, lấy lời khai không có người bào chữa khi lấy lời

khai ban đầu, đến khi ra xét xử thì bị cáo thường khai với Hội đồng xét xử là

do bị ép cung, nhục hình. Điều này đã ảnh hưởng nhất định đến việc thực hiện

chức năng bào chữa và ở mức độ nào đó xâm hại đến quyền được bào chữa

của bị can dưới 18 tuổi phạm tội.

Thứ tư, có quy định các quyền của ĐTV nhưng không quy định các

chế tài đối với hành vi vi phạm, cản trở…của Điều tra viên, nên ĐTV chưa

nhận rõ nghĩa vụ của mình.

Thứ năm, hiện nay chưa có cơ quan và đội ngũ tiến hành tố tụng

chuyên trách để giải quyết những vụ án do người dưới 18 tuổi phạm tội theo

quy định của BLTTHS quy định nên trong suốt quá trình điều tra không có sự

phân biệt giữa việc giải quyết vụ án do người dưới 18 tuổi phạm tội với vụ án

do người trên 18 tuổi phạm tội. Có những trường hợp ĐTV “quên” giải thích

quyền và nghĩa vụ của người dưới 18 tuổi phạm tội, quên giải thích luôn

quyền của bị can là nhờ người khác bào chữa hay tự mình bào chữa hoặc chỉ

định theo quy định của pháp luật.

2.2.2.3. Hạn chế từ cơ sở vật chất, trình tự thủ tục giải quyết đối

với người dưới 18 tuổi phạm tội

Trong giai đoạn điều tra lấy lời khai, hỏi cung bị cán là người dưới

18 tuổi vẫn còn tình trạng sử dụng cùng chung một nơi làm việc với người

thành niên phạm tội. Một số trường hợp, khi hỏi cung người dưới 18 tuổi

phạm tội lại không có người đại diện của họ hay người bào chữa tham gia.

Nếu có người bào chữa tham gia thì họ đỡ sợ hãi, căng thẳng, tâm lý sợ Công

an giảm đi nên việc lấy lời khai sẽ đúng sự thật khách quan hơn. Khi làm việc

43

với người dưới 18 tuổi phạm tội, về trình tự thủ tục cần tuân thủ quy định của

pháp luật. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết, Điều tra viên, Kiểm sát viên

cũng cần tạo bầu không khí thoải mái, thân thiện để họ có thể nói hết những

tình tiết liên quan đến vụ án, thành khẩn khai báo như Phòng hỏi cung thân

thiện, trang bị cơ sở vật chất không gây áp lực cho giới trẻ, ...

2.2.2.4. Hạn chế ý thức của người bị buộc tội là người dưới 18

tuổi, và người đại diện hợp pháp của họ

Thực tế cho thấy bị can dưới 18 tuổi phạm tội cũng như đại diện hợp

pháp của bị can dưới 18 tuổi phạm tội chưa nhận thức được tầm quan trọng

của việc phải có người bào chữa. Nhiều trường hợp họ từ chối luật sư bào

chữa hoặc tỏ thái độ không hợp tác với người được chỉ định bào chữa. Cơ bản

là do họ hạn chế về kiến thức, có trường hợp bị mù chữ, mù thông tin. Vì vậy,

quyền bào chữa của họ chưa phát huy hết tác dụng.

Do kiến thức về pháp luật của người dưới 18 tuổi phạm tội và người

đại diện hợp pháp của họ vẫn còn hạn chế. Nguyên nhân là người dưới 18 tuổi

phạm tội rất hạn chế về nhận thức, trình độ văn hóa thông thường chưa qua

được trung học cơ sở. Thậm chí có nhiều trường hợp mù chữ, thiếu những

kênh thông tin tuyên truyền pháp luật chính thống. Do vậy, họ không thể thực

hiện hoặc thực hiện không hiệu quả quyền tự bào chữa của mình.

Họ không được cơ quan tiến hành tố tụng giải thích rõ quyền và

nghĩa vụ của mình cụ thể, đầy đủ nên không nắm được các quy định của pháp

luật là mình có quyền tự bào chữa hoặc nếu họ không mời người bào chữa thì

được cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa chỉ

định. Mặt khác, tuy họ biết được là mình có quyền mời luật sư bào chữa

nhưng điều kiện kinh tế không cho phép nên họ không nhờ người bào chữa

hoặt từ chối.

44

Ví dụ: Vào tháng 12/2019, có trường hợp bị can hoặc người nhà bị

can do thiếu hiểu biết nên từ chối người bào chữa, đó là trường hợp bị can

Nguyễn Minh Hữu ngụ tại phường Long Bình Tân, thành phố Biên Hòa, tỉnh

Đồng Nai bị khởi tố về hành vi vận chuyển pháo lậu với số lượng nhỏ (theo

khoản 1). Trong trường hợp này, cơ quan Cảnh sát Điều tra đã yêu cầu luật sư

chỉ định tham gia từ ban đầu nhưng vì gia đình và bị can sợ thuê luật sư phải

tốn tiền nên buổi ban đầu nhất định từ chối, nhưng thời gian được giải thích

nhiều hơn thì họ mới chấp nhận sự có mặt của luật sư chỉ định bào chữa.

2.2.2.5. Những hạn chế trong quy định của pháp luật

Thứ nhất, Điều 302 BLTTHS năm 2003 quy định: “1. Điều tra viên,

Kiểm sát viên, Thẩm phán tiến hành tố tụng đối với người chưa thành niên

phạm tội phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học

giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của người

chưa thành niên.....”[28]. Tuy nhiên Điều 302 BLTTHS năm 2003 không quy

định rõ ràng về tiêu chuẩn: Người hiểu biết về tâm lý học; khoa học giáo

dục,... Chính vì vậy, khi tiến hành tố tụng dễ dẫn đến chất lượng điều tra các

vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi dễ vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp

của chủ thể đặc biệt được pháp luật bảo vệ.

Những hạn chế này đã được BLTTHS 2015 điều chỉnh quy định cụ

thể và chặt chẽ hơn, cụ thể tại Điều 415 BLTTHS 2015 quy định: “Người tiến

hành tố tụng đối với vụ án có người dưới 18 tuổi phải là người đã được đào

tạo hoặc có kinh nghiệm điều tra, truy tố, xét xử vụ án liên quan đến người

dưới 18 tuổi, có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với

người dưới 18 tuổi”[29] thì mới được tiến hành tố tụng đã góp phần nào giúp

cho vụ án được giải quyết tốt hơn, khách quan và chính xác hơn.

45

Thứ hai, quy định về quyền thay đổi hoặc từ chối người bào chữa tại

Điểm b Khoản 2 Điều 57 của BLTTHS năm 2003 chưa rõ ràng, cụ thể. Trong

trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội hoặcngười đại diện hợp pháp của họ

không mời được người bào chữa thì cơ quan tiến hành tố tụng vẫn phải yêu

cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho người dưới 18 tuổi phạm tội và đại

diện hợp pháp vẫn có quyền từ chối hoặc thay đổi người bào chữa. Đối với

quyền từ chối thì họ được từ chối không cần sự trợ giúp pháp lý của người

bào chữa vì họ sẽ tự thực hiện quyền bào chữa hoặc họ từ chối là do họ chưa

nắm rõ quy định của pháp luật và chưa được giải thích cụ thể là họ được trợ

giúp bảo chữa hoàn toàn miễn phí.

Để khắc phục hạn chế trên, BLTTHS năm 2015 quy định về quyền

thay đổi hoặc từ chối người bào chữa đã khắc phục hạn chế các mặt nêu trên,

cụ thể tại Điểm c Khoản 1 Điều 77 của BLTTHS năm 2015 quy định cơ quan

tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm thực hiện khi họ có yêu cầu thay đổi từ

chối người bào chữa.

Thứ ba, BLTTHS năm 2003 quy định về người đại diện hợp pháp

của người dưới 18 tuổi phạm tội có thể tham gia tố tụng chưa cụ thể. Theo

quy định của pháp luật dân sự thì người đại diện hợp pháp có thể là đại diện

theo ủy quyền hoặc đại diện theo pháp luật.

Theo quy định tại Điều 57 và 305 của BLTTHS năm 2003 xác định

người bị tạm giam, bị can, người chưa thành niên buộc phải có người đại diện

hợp pháp. Vấn đề này được hướng dẫn cụ thể tại Nghị quyết số 03/2004/NQ-

HĐTP ngày 02 tháng 10 năm 2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân

tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định “Những quy định chung” Phần

thứ nhất của BLTTHS năm 2003 thì người chưa thành niên phạm tội phải có

đại diện hợp pháp nhưng không hướng dẫn cụ thể để thực hiện. Trong thực

46

tiễn khi người chưa thành niên phạm tội thì cơ quan điều tra thường căn cứ

vào BLDS để xác định người đại diện hợp pháp và tại khoản 3 Điều 303 của

BLTTHS năm 2003 quy định:“Cơ quan ra lệnh bắt tạm giữ, tạm giam người

chưa thành niên phải thông báo cho gia đình, đại diện hợp pháp của họ biết

ngay sau khi bắt, tạm giữ, tạm giam”[27] nhưng lại không quy định trường

hợp không tìm được người đại diện hợp pháp thì cá nhân hay đại diện nào sẽ

đại diện cho người chưa thành niên phạm tội.

BLTTHS năm 2015 quy định người dưới 18 tuổi bị buộc tội thì

người đại diện hợp pháp tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện có các

quyền và nghĩa vụ như thế nào không có quy định chi tiết và cơ quan tiến

hành tố tụng đã tìm kiếm và xác minh không được người đại diện thì ai sẽ là

người tham gia chứng kiến tham gia tố tụng với tư cách là đại diện trong

trường hợp khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam người dưới 18 tuổi phạm tội..

Thứ tư, tại Khoản 2 Điều 306 BLTTHS năm 2003 quy định: “Trong

trường hợp cần thiết việc hỏi cung bị can tại cơ quan điều tra phải có mặt đại

diện gia đình bị can”[27]. Có thể thấy điều này chưa thật sự hợp lý, còn

chung chung, chưa có văn bản pháp lý nào hướng dẫn cụ thể như thế nào là

“trường hợp cần thiết”,

Để khắc phục vấn đề này, tại Điều 421 của BLTTHS năm 2015 đã

khắc phục được vấn đề này là khi hỏi cung bị can bắt buộc phải có mặt người

bào chữa hoặc người đại diện của người dưới 18 tuổi phạm tội khi hỏi cung bị

can, đồng thời cũng quy định cơ quan tiến hành tố tụng phải thông báo trước

thời gian và địa điểm hỏi cung cho người đại diện của người bị buộc tội,

phạm tội.

Thứ năm, những quy định BLTTHS năm 2003 về bảo đảm quyền

bào chữa chưa hợp lý, sự tham gia tố tụng của người bào chữa còn hạn chế

47

gây không ít khó khăn khi người bào chữa thực hiện công việc của mình,

những vướng mắt gây ảnh hưởng đến quyền bào chữa của người phạm tội

dưới 18 tuổi có thể kể đến đó là việc cấp giấy chứng nhận bào chữa cho từng

giai đoạn tố tụng là không cần thiết, lãng phí, rườm rà, việc tham gia bào chữa

không chị đảm bảo tốt quyền của người phạm tội, người bị buộc tội và các

người tham gia tố tụng khác mà còn giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng làm

sáng tỏ vụ án, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Từ giai đoạn điều tra, nếu người dưới 18 tuổi phạm tội thì bị tạm giữ

trong thời hạn 24 giờ kể từ khi được nhận được đề nghị của người bào chữa

kèm theo các giấy tờ theo quy định. Trường hợp từ chối cấp giấy chứng nhận

bào chữa phải nêu rõ lý do. Còn đối với người bị buộc tội là 03 ngày. Khoản 4

Điều 56 của BLTTHS năm 2003 quy định phải cấp Giấy chứng nhận nếu

không cấp thì phải nêu rõ lý do từ chối nhưng tại Khoản 3 Điều 27 của Luật

Luật sư quy định giấy chứng nhận tham gia tố tụng của Luật sư có giá trị

trong các giai đoạn tố tụng, điều này có sự mâu thuẫn về giá trị của giấy

chứng nhận bào chữa.

BLTTHS năm 2015 ra đời khắc phục, thống nhất những mâu thuẫn

tồn tại trong BLTTHS năm 2003. Tại Điều 78 của BLTTHS năm 2015 về thủ

tục đăng ký bào chữa, thời gian rút ngắn còn 24 giờ. Ngoài ra, BLTTHS năm

2015 còn quy định đầy đủ các loại giấy tờ mà người bào chữa phải xuất trình

cho cơ quan tiến hành tố tụng để đăng ký bào chữa. Một điểm tiến bộ hơn nữa

đó là văn bản thông báo người bào chữa tham gia tố tụng có giá trị trong suốt

quá trình tham gia tố tụng.

2.2.2.6. Những quy định của pháp luật chưa cụ thể, hướng dẫn

kịp thời

48

Mặc dù những quy định về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành

niên được quy định trong một chương riêng trong BLTTHS năm 2003 nhưng

tác giả nhận thấy vẫn chưa có một văn bản pháp lý cụ thể nào quy định về kỹ

năng điều tra, kỹ năng xử lý, giải quyết vụ án có người chưa thành niên thực

hiện hành vi phạm tội. Điều này cho thấy hiện nay những người tiến hành tố

tụng giải quyết vụ án có người từ đủ 18 tuổi phạm tội đang đang cùng lúc giải

quyết những vụ án hình sự có những người dưới 18 tuổi thực hiện. Do đó, sự

“hiểu biết, cần thiết” không có chuẩn hóa để thực hiện đồng bộ khi tiến hành

tố tụng, từ đó hầu như những người tiến hành tố tụng không đáp ứng được

quy định cơ bản của pháp luật hình sự.

Để khắc phục hạn chế này, tại Điều 415 của BLTTHS năm 2015 đã

sửa đổi, bổ sung và có quy định chi tiết, chặt chẽ hơn, cụ thể: “Người tiến

hành tố tụng đối với vụ án có người dưới 18 tuổi phạm tội phải là người đã

được đào tạo hoặc có kinh nghiệm điều tra, truy tố, xét xử vụ án liên quan

đến người dưới 18 tuổi, có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo

dục đối với người dưới 18 tuổi”[28].

Thứ nhất, bị can là người dưới 18 tuổi bị tổn thương nghiêm trọng về

tâm lý, cần được hỗ trợ điều kiện môi trường sống, học tập, sinh hoạt tốt như

các bạn khác cùng trang lứa.

Thứ hai, giáo dục người phạm tội tại địa phương có sự giám sát chặt

chẽ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, hay xử lý hành chính người dưới 18

tuổi phạm tội phải xem xét và quyết định áp dụng các biện pháp khác phù

hợp.

Ngày 21/01/2016 Tòa án nhân dân tối cao ban hành Thông tư số

01/2016/TT-CA nhằm chỉ đạo các tòa án phải chủ động xây dựng quy chế,

phối hợp với các tổ chức chính trị, xã hội, cơ quan y tế, giáo dục ở địa phương

49

và trung ương, tổ chức phúc lợi xã hội, ủy ban chăm sóc trẻ em và tòa án để

phối hợp giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người

chưa thành niên. Những quy định cụ thể về thẩm quyền của Tòa gia đình và

Người chưa thành niên như: người tiến hành tố tụng, cơ sở vật chất, phòng

hỏi cung bị can phải thân thiện, ngoài ra cần phải có phòng trợ giúp y tế.

Hiện nay tòa án chuyên trách chỉ mới thành lập ở cấp tỉnh (Tòa gia

đình và Người chưa thành niên) và chưa thành lập tòa chuyên trách ở tòa án

cấp huyện thuộc tỉnh Đồng Nai. Điều này dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp

của bị can dưới 18 tuổi phạm tội chưa được đảm bảo tại các huyện thuộc tỉnh.

Kết luận Chương 2

Tập trung vào nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện hành về

bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi phạm tội và thực tiễn bào chữa cho bị can

dưới 18 tuổi phạm tội tại Đồng Nai.

Qua đó, thể hiện được thực tiển tình hình tội phạm dưới 18 tuổi thực

hiện tại tỉnh Đồng Nai, các nguyên nhân tác động đến hành vi vi phạm, đặc

điểm nhân thân của người phạm tội. Quan trọng không kém là những chủ

trương chính sách được các ngành tư pháp chức năng tại tỉnh Đồng Nai áp

dụng mang lại tính tích cực cho người tội phạm dưới 18 tuổi thực hiện: Tòa

án vị thành niên được hình thành tại cấp tỉnh, .... Tuy nhiên cũng ghi nhận

những điểm bất cập, hạn chế trong bào chữa cho người tội phạm dưới 18 tuổi

thực hiện tại địa bàn tỉnh Đồng Nai.

50

CHƯƠNG 3

CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO BÀO CHỮA CHO BỊ CAN

DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI

3.1. Hoàn thiện pháp luật về bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi

phạm tội

Theo quy định tại Điều 68 của BLHS năm 2015 về việc áp dụng Bộ

luật Hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, người chưa thành niên từ đủ

14 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của

chương này, đồng thời theo những chương khác của Phần chung Bộ luật

không trái với những quy dịnh của chương này [54, tr. 470].

Theo quy định tại Điều 69 của BLHS năm 2015, việc xử lý người

dưới 18 tuổi phạm tội nhằm giáo dục, giúp họ sữa chữa sai lầm, phát triển

lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội [54, tr. 470].

BLTTHS năm 2015 là một trong những văn bản pháp lý có ý nghĩa

quy định đầy đủ quyền bào chữa của bị can, bị cáo nói chung, người dưới 18

tuổi phạm tội nói riêng, BLTTHS 2015 đã có những điều chỉnh, bổ sung đối

với hoạt động bào chữa cho người dưới 18 tuổi phạm tội.

Do có nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan nên một số vụ án

và ở một vài nơi quy định quyền bào chữa người dưới 18 tuổi phạm tội chưa

được bảo đảm. Nguyên nhân do thiếu sự nhất quán, hạn chế từ quy định của

pháp luật, sự chủ quan trong nhận thức của những người tiến hành tố tụng và

không thể không kể đến sự thiếu tôn trọng, không tạo các điều kiện thuận lợi

cho người bào chữa thực hiện các công việc của mình.

Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ 10 đã thông qua BLTTHS năm 2015,

về cơ bản đã bổ sung những vướng mắt của BLTTHS năm 2003: Ngoài

51

những chủ thể là người tạm giam, tạm giữ, bị can, bị cáo thì người bị bắt cũng

được đảm bảo quyền bào chữa. BLTTHS năm 2015 có quy định người bào

chữa có quyền thu thập tài liệu, chứng cứ thay vì chỉ có quyền được thu thập

tài liệu, đồ vật; bổ sung thêm quyền của người phạm tội là được đọc tài liệu

liên quan đến mình trong vụ án.

Tại điểm đ khoản 2 Điều 72 BLTTHS năm 2015 bổ sung thêm đối

tượng được tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa là trợ giúp viên pháp

lý để giúp đỡ về thủ tục và bào chữa cho những đối tượng thuộc diện chính

sách Nhà nước quy định. Mặt khác, điểm a khoản 1 Điều của 76 BLTTHS

năm 2015 mở rộng đối tượng được bào chữa chỉ định với tội danh có mức

hình phạt cao nhất là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình, trong đó có bị can

dưới 18 tuổi phạm tội.

Để bảo đảm quyền bào chữa cho người dưới 18 tuổi phạm tội nên

cần phải hoàn thiện các quy định bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi, cụ thể như

sau:

Thứ nhất, tác giả nhận thấy quy định về người tiến hành tố tụng giải

quyết vụ án hình sự có bị can dưới 18 tuổi phạm tội là người phải có kinh

nghiệm điều tra và phải có hiểu biết cần thiết về tâm lý học khoa học giáo dục

đối với người dưới 18 tuổi là mang tính chủ quan cao, khó đánh giá được.

Pháp luật nên có hướng dẫn cụ thể người tiến hành tố tụng cần có thời gian

công tác đối với người dưới 18 tuổi bao lâu để đủ tích lũy được kinh nghiệm

và giải quyết được bao nhiêu vụ án cùng loại (ví dụ: Thời gian công tác thâm

niên trên 5 năm; giải quyết từ 20 vụ án cùng loại trở lên), cũng như hiểu biết

đến đâu thì mới gọi là có hiểu biết cần thiết tránh tình trạng quy định chung

chung sẽ dẫn đến tình trạng vụ án không được giải quyết hiệu quả.

52

Thứ hai, trong giai đoạn điều tra thì Người bào chữa và Điều tra viên

phải cùng gặp người phạm tội bị buộc tội, trực tiếp vào để xác nhận việc họ từ

chối người bào chữa (nếu có). Nếu người dưới 18 tuổi phạm tội từ chối người

bào chữa thì Điều tra viên phải lập biên bản về việc từ chối đó và nêu lý do,

nếu thay đổi thì tiến hành chỉ định người khác.

Thứ ba, BLTTHS năm 2015 không có quy định trường hợp rút ngắn

thủ tục đăng ký đối với trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội bị giữ trong

trường hợp khẩn cấp. Đây là đối tượng cần được bảo vệ ngay từ sớm khi bắt

đầu áp dụng các biện pháp ngăn chặn . Vì nếu kéo dài thời gian sẽ ảnh hưởng

tâm lý, nhận thức khi không có người bào chữa hoặc người đại diện ở bên

cạnh.

Do vậy, nội dung này phải được làm rõ trong các hướng dẫn liên

ngành Trung ương như: Viện kiểm sát Nhân dân Tối cao, Tòa án Nhân dân

Tối cao, Bộ Công an để có sự thống nhất khi áp dụng chung. Nên chăng

trường hợp này thì người bào chữa tham gia ngay khi người dưới 18 tuổi

phạm tội bị bắt, bị tạm giữ.

Thứ tư, cơ cấu tổ chức của Tòa án chuyên trách tại Tòa án nhân dân

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã,

thành phố thuộc tỉnh và tương đương được hình thành đồng bộ và hoạt động

theo các quy định liên quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội (chuyên trách).

Thứ năm, Theo Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP ban hành ngày

19/09/2017 của Hội đồng thẩm phán quy định một số biểu mẫu trong giai

đoạn xét xử vụ án hình sự, xem xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực

pháp luật, trong đó có biểu mẫu số 13-HS “Thông báo về việc thay đổi người

bào chữa tham gia tố tụng”[45] khi áp dụng trong thực tế có nhiều bất cập

của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng ở mỗi địa phương khác nhau. Vì theo quy

53

định tại điểm a và điểm b khoản 6 Điều 78 của BLTTHS năm 2015 quy định

cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (cơ quan đang thụ lý vụ án) có phải

ra văn bản thông báo việc từ chối hoặc thay đổi người bào chữa hay không?

Hay chỉ cần người bào chữa gặp người bị buộc tội tại Trại tạm giam và xác

nhận là được theo khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015.

Theo phân tích trên, người bị buộc tội có thể thay đổi hoặc từ chối

người bào chữa bất kỳ giai đoạn nào trong quá trình tiến hành tố tụng. Vậy

trường hợp người bào chữa đã được cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy thông

báo về việc bào chữa pháp lý trong suốt quá trình tiến hành tố tụng, nếu người

bị buộc tội yêu cầu thay đổi người bào chữa hoặc từ chối người bào chữa rồi

lại đồng ý người bào chữa đó lại thì sẽ xử lý ra sao, nhất là khi phiên tòa đã

diễn ra hoặc nếu trước đó cơ quan tiến hành tố tụng chưa ra thông báo thay

đổi người bào chữa hoặc thông báo từ chối người bào chữa. Thiết nghĩ cơ

quan lập pháp, cơ quan tư pháp ưu tâm vấn đề này.

Thứ sáu, việc xác định độ tuổi để truy cứu trách nhiệm hình sự là yếu

tố vô cùng quan trọng đặc biệt là đối với những vụ án có người dưới 18 tuổi

phạm tội, tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập. Có một số trường hợp người dưới

18 tuổi phạm tội là trẻ lang thang, không xác định rõ nhân thân, không có giấy

tờ tùy thân, mồ côi,... Do đó, sẽ gây khó khăn trong việc xác định độ tuổi

chính xác của chủ thể phạm tội này. Tại Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-

VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 12/07/2011 của

VKSNDTC, TANDTC, BCA, BTP, BLĐTBXH hướng dẫn thi hành một số

quy định đối với người dưới 18 tuổi có quy định về việc xác định độ tuổi của

bị can, bị cáo. Thông tư này là văn bản pháp lý quy đinh áp dụng về độ tuổi

của bị can, bị cáo là người chưa thành niên và việc xác định độ tuổi do cơ

quan tiến hành tố tụng thực hiện theo quy định pháp luật. Cụ thể tại Khoản 5

Điều 6 của Thông tư liên tịch đã nêu: “ Trường hợp không xác định được

54

năm sinh của bị can, bị cáo là người chưa thành niên thì phải tiến hành giám

định để xác định độ tuổi của họ”[47].

Tuy nhiên, quy định này chỉ quy định chung chung là khi không xác

định được năm sinh của người chưa thành niên phạm tội thì tiến hành giám

định nhưng chưa quy định rõ phương pháp nào giám định, giám định ra sao

để áp dụng trong vụ án.

Hiện nay có nhiều cơ quan giám định tư pháp khác nhau nên cho ra

kết quả giám định khác nhau. Vì vậy, nhà nước cần phải quy định rõ căn cứ

pháp lý thống nhất trong việc giám định về độ tuổi đối với người dưới 18 tuổi

phạm tội để làm căn cứ pháp lý để cử người bào chữa chỉ định tham gia giải

quyết vụ án.

Thứ bảy, Theo khoản 4 Điều 421 của BLTTHS năm 2015 quy định

“Việc lấy lời khai không quá hai lần trong một ngày và mỗi lần không quá 02

giờ” [28] nhưng không quy định mỗi lần lấy lời khai cách nhau bao nhiêu giờ

dẫn đến tình trạng thực tế mỗi cơ quan có những cách làm việc khác nhau,

không có sự đồng bộ. Điều này cần có văn bản chính thức hướng dẫn cụ thể

của cơ quan có thẩm quyền để áp dụng thống nhất.

Thứ tám, cần phải hướng dẫn bổ sung bằng văn bản chế tài cụ thể đối

với những người tiến hành tố tụng do cản trở quyền hành nghề luật sư hợp

pháp được quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự và Luật Luật sư. Thực tế

cho đến nay, trong BLTTHS năm 2015 quy định những người tiến hành tố

tụng có nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm nhưng vẫn chưa có những quy

định cụ thể nào để xử lý trách nhiệm do có những hành vi cản trở hoạt động

hành nghề luật sư. Thực tiễn cho thấy chưa ghi nhận được trường hợp nào mà

người tiến hành tố tụng bị xử lý nghiêm túc và công khai. Nếu có chỉ là “rút

kinh nghiệm sâu sắc hoặc do nóng vội...”. Tuy nhiên, nếu người bào chữa có

55

hành vi không đúng với cơ quan và người tiến hành tố tụng thì sẽ bị cơ quan

tiến hành tố tụng gửi văn bản yêu cầu xử lý người bào chữa đó ngay. Thậm

chí còn bị đề nghị thu hồi chứng chỉ hành nghề là thẻ luật sư. Do vậy, những

người tiến hành tố tụng là người nhân danh nhà nước để thực thi nhiệm vụ

nên họ cần phải gương mẫu, cần thiết là phải có chế tài xử lý nghiêm những

hành vi vi phạm của những người tiến hành tố tụng như thay đổi người tiến

hành tố tụng, khiển trách, cảnh cáo.

Thứ chín, cần có sự bổ sung quy chế phối hợp giữa một bên là cơ

quan tiến hành tố tụng, trại tạm giam và một bên là Luật sư để giải quyết việc

tiếp xúc bị can thuận lợi, theo đúng tinh thần cải cách tư pháp, đảm bảo quyền

và lợi ích của người dưới 18 tuổi phạm tội.

Thứ mười, theo quy định tại khoản 1 - Điều 122 của BLTTHS 2015

quy định “Bị can chưa thành niên có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác

bào chữa”[28]. Việc sử dụng từ “hoặc” ở đây là chưa thật chính xác, có thể

khiến cho người chưa thành niên hiểu nhầm nội dung của quyền này là họ chỉ

được lựa chọn một trong hai phương thức thực hiện quyền bào chữa, nếu tự

mình bào chữa thì không được nhờ người khác bào chữa hoặc ngược lại. Như

vậy, sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo đảm quyền bào chữa của đối

tượng này. Do đó, nên sửa quy định tại khoản 1, Điều 122 thành: “Người bị

buộc tội là người dưới 18 tuổi có quyền tự bào chữa, nhờ người khác bào

chữa”.

Thứ mười một, khi hỏi cung bị can, CQTHTT phải thông báo trước

thời gian, địa điểm hỏi cung cho người bào chữa, người đại diện của họ, việc

thông báo này được hướng dẫn tại Điều 9 Thông tư số 06/2018 TTLT-

VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 quy định về

việc phối hợp thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thủ

56

tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi là “phải thông báo trước trong thời

gian hợp lý”[47]. Tuy nhiên, thực tế việc quy định thời gian thông báo chưa

cụ thể có thể dẫn đến nhiều trường hợp, cả người bào chữa và người đại diện

của họ nhận được thông báo về việc hỏi cung trong thời gian quá ngắn trước

khi diễn ra hoạt động này nên không thể chủ động, sắp xếp thời gian để có

mặt, dẫn đến quyền và lợi ích bị xâm phạm. Mặt khác, thực tiễn giải quyết vụ

án có nhiều trường hợp ĐTV phải hỏi cung nhiều lần. Vậy có đòi hỏi tất cả

các lần hỏi cung đều phải có sự tham gia của người bào chữa, người đại diện

của bị can hay không? Vấn đề này cần phải được quy định rõ ràng hơn để bảo

vệ tốt quyền của bị can chưa thành niên. Do đó, cần phải hoàn thiện quy định

về sự có mặt của người bào chữa, người đại diện trong hoạt động hỏi cung bị

can. Việc hỏi cung bị can chưa thành niên phải có mặt người bào chữa hoặc

người đại diện của họ.

Thứ mười hai, việc xem xét nâng mức thù lao cho luật sư bào chữa

chỉ định cho người dưới 18 tuổi là một vấn đề cần thiết được các Cơ quan liên

quan quan tâm. Khi thù lao tương xứng với công sức bỏ ra thì tạo điều kiện

thuận lợi hơn cho luật sư trong việc trang trãi chi phí cơ bản trong quá trình

làm việc, nhất là chi phí đi lại tới những địa bàn xa xôi.

Thứ mười ba, thiết nghỉ nên thành lập các cơ quan chuyên trách để

xử lý các trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội (ĐTV, KSV, Luật sư,…),

có như thế mới xử lý một cách đồng bộ giữa các cơ quan chức năng với nhau,

tạo nên môi trường làm việc thân thiện, tác động tích cực đến tâm lý người

phạm tội.

57

3.2. Nâng cao năng lực của người bào chữa cho bị can dưới 18

tuổi phạm tội

Bảo đảm quyền bào chữa của người dưới 18 tuổi phạm tội được quy

định trong Hiến pháp năm 2013, BLTTHS 2015 quy định phù hợp với công

cuộc cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế, đồng thời khắc phục hạn chế còn tộn

đọng trong các quy định của pháp luật nhằm bảo đảm quyền bào chữa và

quyền nhờ người khác bào chữa cho họ khi có sự kiểu pháp lí xảy ra, thể hiện

sự công bằng, dân chủ, văn minh.

Trong các Nghị quyết của Bộ Chính trị cũng đã rất nhiều lần khẳng

định vai trò của người bào chữa nói chung và đội ngũ luật sư nói riêng trong

nền tư pháp của nước ta, đã đề ra nhiều quy định quan trọng nhằm phát huy

vai trò của người bào chữa. Để đạt được những mục tiêu đó cần đáp ứng

những yêu cầu sau đây:

Thứ nhất, xây dựng đội ngũ những người làm công tác bào chữa thật

sự có tâm với nghề nghiệp, có chuyên môn, năng lực. Hơn nữa, cần có những

chính sách để khuyến khích người bào chữa tham gia tố tụng đối với các vụ

án bào chữa chỉ định, tránh những tình trạng né tránh hoặc phân công cho

những người bào chữa còn yếu về nghiệp vụ, ngại va chạm hay vì lý do thù

lao quá thấp, bào chữa cho người dưới 18 tuổi phạm tội cho đủ thành phần

theo quy định để vụ án không bị hủy do vi phạm tố tụng.

Thực tế cho thấy những vụ án rơi vào tình trạng bào chữa chỉ định

bởi tính chất nghiêm trọng của vụ việc và người vi phạm là người dưới 18

tuổi, do đó cần phải có người bào chữa có nghiệp vụ giỏi để tâm để bào chữa

cho họ vì những trường hợp này thông thường là có mức hình phạt khá cao.

Mặt khác, pháp luật cần phải quy định chế tài phạt thật nghiêm khác đối với

những người bào chữa có hành vi vi phạm pháp luật và vi phạm quy tắc đạo

58

đức nghề nghiệp. Bên cạnh đó cần khuyến khích anh chị công tác trong ngành

pháp luật đã nghỉ việc, nghĩ hưu (thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên)

tham gia vào đội ngũ luật sư để góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ cho những

người yếu thế trong xã hội khi họ vướng, vi phạm vào những quy định của

pháp luật hình sự.

Hình thành những Câu Lạc bộ Luật sư chuyên trách hỗ trợ bào chữa

cho người dưới 18 tuổi thực hiện phạm tội, qua sinh hoạt chung các luật sư

học hỏi rút kinh nghiệm về: Chính sách pháp luật đối với người dưới 18 tuổi

phạm tội, tâm lý người phạm tội, kỷ năng làm việc đối khi làm việc với

ĐTV, ... có như thế chất lượng nghiệp vụ luật sư bào chữa cho người dưới 18

tuổi phạm tội sẽ được nâng lên.

Thứ hai, những chủ thể mang quyền lực nhà nước, nhân dân nhà

nước trong lĩnh vực tư pháp để tiến hành tố tụng theo quy định của pháp luật

hình sự, cụ thể là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có địa vị pháp lý cao hơn

người bào chữa. Tuy cả hai chủ thể này đều hướng tới mục đích tốt đẹp là bảo

vệ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhưng cơ quan tiến hành tố tụng

mang nặng cơ chế “xin cho” nên cần có thêm những cải cách và gia tăng thêm

quyền hạn của người bào chữa đủ điều kiện khi tham gia tố tụng.

Thứ ba, duy trì các chuẩn mực đạo đức, quy tắc nghề nghiệp luật sư.

Ngay từ khi còn ngồi trên giảng đường Đại học, người bào chữa nên được đào

tạo tính chuyên nghiệp, tác phong nghiêm chỉnh , năm cuối sinh viên nên đi

thực tập để được tiếp xúc trực tiếp với các vụ án, tình huống thực tế dưới sự

hướng dẫn của giáo viên hoặc với luật sư có kinh nghiệm. Mặt khác, cần có

thay đổi mạnh mẽ trong đào tạo luật sư thông qua định hướng đào tạo nghề

nghiệp luật sư trong quá trình học tập tại các trường đại học, tham gia các lớp

bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về hình sự nhằm đảm bảo cho luật sư có

59

kiến thức đúng trọng tâm, trọng điểm, thái độ ứng xử cũng thể hiện tính

chuyên nghiệp của họ chứ không phải để có bằng cử nhân luật sinh viên mới

được đào tạo nghề luật sư như hiện nay. Đạo đức nghề nghiệp nên được bồi

dưỡng thường xuyên, luật sư cũng nên tham gia vào các khoa học tâm lý về

trẻ em để phục vụ công việc.

Cần phải chính quy hóa, chuyên nghiệp hóa đội ngũ những người

bào chữa có trình độ pháp lý cao hơn hoặc ít ra cũng tương xứng với nhau về

trình độ hiểu biết pháp luật, bảo đảm tính “đối trọng” của phía gỡ tội với phía

buộc tội trong TTHS. Nâng cao địa vị pháp lý cho người bào chữa trong

TTHS chính là một trong những phương thức tránh oan sai và bảo đảm sự

công bằng, khách quan đối với việc giải quyết các vụ án hình sự. Đoàn luật sư

Đồng Nai thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn và mời những người có

chuyên môn để hướng dẫn người làm công tác bào chữa.

Khuyến khích người bào chữa tham gia các vụ bào chữa chỉ định,

tránh các trường hợp né tránh vì thù lao quá thấp hoặc phân công cho những

người bào chữa thiếu chuyên môn nghiệp vụ.

Thứ tư, phải đảm bảo tính độc lập khi thực hiện công việc và không

ngại bày tỏ quan điểm đối với các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong quá trình

thực hiện nhiệm vụ bào chữa chỉ định cho bị can là người chưa đủ 18 tuổi

phạm tội của bản thân, tôi thường gặp nhưng trường hợp ĐTV đã hoàn tất các

bản hỏi cung, bản lấy lời khai từ trước, sau đó yêu cầu luật sư ký vào vì cho

rằng bị can đã thừa nhận, vụ việc quá rõ ràng không cần điều tra thêm.

Nếu luật sư không có tâm, thực hiện công việc qua loa sẽ dễ dàng

chấp nhận yêu cầu của ĐTV và ký tên vào các biên bản, như vậy là không

đúng quy định của pháp luật và với nhận thức hạn chế của người dưới 18 tuổi

thì có thể bị oan hoặc mức độ hành vi chưa đến mức phải bị xử lý hình sự.

60

Gặp những trường hợp này luật sư từ chối ký ngay và sẵn sàng yêu cầu tiến

hành lấy lại lời khai có sự chứng kiến của mình mới đảm bảo được tính khách

quan của vụ việc cũng như góp phần đảm quyền lợi của bị can.

Thứ năm, phải quan tâm đến sự tác động của môi trường bên ngoài

đến hành vi của người dưới 18 tuổi. Trước tiên, phải nói đến sự tác động của

gia đình sẽ hình ảnh hưởng lớn đến hành vi của con trẻ, nếu cha mẹ anh chị

của người dưới 18 tuổi có quan tâm đến pháp luật, đạo đức lối sống thì tất

nhiên con trẻ sẽ được thẩm thấu thông qua các sinh hoạt tại nhà trường, gia

đình và ngược lại. Do vậy, trước nhất người lớn trong nhà phải là tấm gương

sáng trong việc chấp hành pháp luật để con trẻ noi theo.

Mặt khác, mối quan hệ bạn bè cũng rất quan trọng trong việc tác

động đến hành vi con trẻ, người xưa từng nói “Gần mực thì đen, gần đèn thì

sáng”, do vậy kiểm soát được mối quan hệ bạn bè của con trẻ sẽ kiểm soát

được những hành vi, những tương tác tích cực trong xã hội.

Thứ sáu, có tấm lòng nhân hậu, sẵn sàng bênh vực người yếu thế

trong xã hội, nhất là người phạm tội dưới 18 tuổi

Là một luật sư đã trãi nghiệm qua những hoàn cảnh trẻ em vướng

vào tù tội, với những hành vi hết sức đơn giản để thỏa mãn mục đích hiện tại,

tôi cảm thấy rất sót xa, phải chăng các em nhỏ đã được người lớn dạy bảo,

cha mẹ quan tâm, xã hội lưu ý thì chắc chắn việc phạm tội sẽ ít xảy ra, thậm

chí khó xảy ra?

Để đạt được điều này, nên chăng các ban ngành địa phương, nhất là

Đoàn Thanh niên, hội Phụ nữ nên phối hợp quan tâm với Hội Luật gia, Đoàn

Luật sư quan tâm tạo điều kiện những buổi sinh hoạt thường kỳ để góp phần

cho các trẻ hướng đến các hoạt động tích cực như: Học tập văn hóa, Thể thao,

61

văn nghệ, chuyên đề pháp lý ... và hạn chế các cơ hội để các con trẻ vướng

vào các họat động tiêu cực xảy ra hàng ngày.

3.3. Các giải pháp khác

3.3.1. Đảm bảo chế độ, cơ sở vật chất cho cán bộ xử lý tội phạm

Ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-

NQ/TW về việc tăng cường thực hiện đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện, trụ

sở làm việc cho hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, hiện nay chế độ, cơ sở vật chất

cho cán bộ xử lý tội phạm vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách

tư pháp.

BLTTHS 2015 đã quy định với nhiều điểm mới tiến bộ áp dụng đối

với người chưa đủ 18 tuổi phạm tội. Trong đó, ngày 30/06/2016, Chánh án

tòa án nhân dân tối cao đã ban hành quyết định thành lập Tòa Gia đình và

Người chưa thành niên đầu tiên trên cả nước với thẩm quyền xét xử các vụ án

hôn nhân và gia đình, các vụ án dân sự, hình sự liên quan đến người chưa

thành niên, thể hiện một sự quan tâm đúng mức của Nhà nước Việt Nam đối

với người dưới 18 tuổi trong bối cảnh đất nước trong tiến trình cải cách tư

pháp mạng mẽ, nhằm giải quyết các vấn đề liên quan đến người dưới 18 tuổi

nói chung, lĩnh vực tố tụng hình sự nói riêng.

3.3.2 Đảm bảo cơ chế kiểm tra, giám sát, xử lý hành vi vi phạm

quyền bào chữa

Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là người đại diện

cho quyền lực nhà nước, được nhà nước giao nhiệm vụ trong hoạt động tố

tụng, bảo vệ pháp luật, bảo đảm cho hoạt động tố tụng đúng pháp luật. Do đó

cần thiết đặt ra các cơ chế nhằm bảo đảm cho quyền bào chữa được thực thi

hiệu quả như cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực thi và xử lý các vi phạm

62

quyền bào chữa cho bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội. Có thể đưa ra một

số biện pháp sau:

HĐND cần tăng cường hoạt động giám sát đối với hoạt động của cơ

quan tư pháp, phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với hoạt động tư

pháp, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; không

ngừng nâng cao trình độ dân trí, ý thức pháp luật của người dân. Qua đó, có

thể phát hiện những hạn chế, khuyết điểm trong hoạt động tư pháp để khắc

phục. Từ đó kiến nghị với cơ quan tư pháp khắc phục, sửa chữa hoặc kiến

nghị để cấp có thẩm quyền xem xét, hướng dẫn.

Cần có cơ chế giám sát tốt qua đó đánh giá hiệu quả của các quy

định về đảm bảo quyền bào chữa, tính khách quan, căn cứ và phù hợp thực

tiễn cần xem xét đến trình độ văn hóa pháp lý và ý thức pháp luật của nhân

dân; trình độ chuyên môn và ý thức của các bộ, công chức.

Cần quy định nghiêm khắc hơn đối với người có thẩm quyền thực thi

pháp luật. Xây dựng cơ chế phát huy sức mạnh của nhân dân, các tổ chức

đoàn thể trong giám sát hoạt động tư pháp.

Có chế định cụ thể xử lý hành vi vi phạm quyền bào chữa của bị can

nói chung và của bị can là người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng kể cả hành vi

cản trở hoạt động hành nghề của người bào chữa. Khi có hành vi vi phạm của

bất kỳ ai, bất kỳ tổ chức nào phải xử lý nghiêm để răn đe, để không còn tiếp

diễn hành vi đó nữa.

3.3.3. Tuyên truyền, giáo dục chính sách pháp luật tại địa bàn

tỉnh Đồng Nai

Thứ nhất, tham gia các chương trình phổ biến pháp luật trên Đài Phát

thanh truyền hình Đồng Nai, đặc biệt là các chuyên đề Phổ biến pháp luật

dành cho thiếu niên. Trước đây không lâu, Đài Phát thanh và truyền hình

63

Đồng Nai phối hợp cùng một số cá nhân Luật sư có nhiệt huyết (mang tư cách

cá nhân, trong đó có tôi là Luật sư tham gia) thực hiện Chuyên đề “Góc nhìn

và suy ngẫm” phát trên sóng FM 97,5 MHz của Đài Phát thanh và truyền hình

Đồng Nai vào lúc 18 giờ đến 19 giờ ngày Thứ Ba hàng tuần, đã thực hiện

được kỳ thứ 4 và thu hút không ít số lượng thính giả theo dõi.

Theo kế hoạch, nội dung chương trình phát sóng sẽ bao gồm tất cả

các lĩnh vực trong cuộc sống như: Hôn nhân gia đình; Hợp đồng Dân sự liên

quan đến đất đai; Thừa kế; ... Trong thời gian tới, tôi sẽ đề nghị Ban Tổ chức

phát sóng chương trình phổ biến pháp luật cho các em thiếu niên dưới 18 tuổi,

và tôi cho rằng những lần phát sóng này sẽ có tác động không ít đến sự hiểu

biết của mọi người, đặc biệt là các em thiếu niên dưới 18 tuổi và từ đó góp

phần cho mọi người nhận thức sâu hơn về những quy định của pháp luật trong

cuộc sống.

Thứ hai, tham gia tuyên truyền pháp luật cho thiếu niên thông qua

các trang mạng xã hội như: Facebook, Zalo. Thời đại hiện nay khoa học phát

triển, các phương tiện nghe nhìn gần như phổ biến đến tất cả mọi người thông

qua kênh mạng xã hội Facebook, Zalo ... Việc tương tác trên mạng ý thức

chấp hành pháp luật của người dân là một nội dung hết sức quan trọng đối với

bản thân – một người cung cấp thông tin pháp luật “miễn phí” cho người dân,

vì thông qua mạng Facebook tôi (xuất thân từ xã Hưng Lộc, huyện Thống

Nhất, tỉnh Đồng Nai) đã hình thành nhóm “Hưng Lộc – Quê hương chúng

tôi”, qua đó tôi thường xuyên đăng tải những nội dung mới của pháp luật cho

nhóm với gần 1.000 thành viên, trong đó đủ thành phần lứa tuổi, hiện sinh

sống trong và ngoài nước.

64

Qua những lần thực hiện, tôi nhận thấy có hiệu quả thông qua việc

tương tác của các thành viên và các thành viên tỏ ra rất quan tâm đến các quy

định của pháp luật có tác động đến mọi người trong cuộc sống hàng ngày.

Mặt khác, qua mạng xã hội Zalo, khi cập nhật thông tin mới về các

quy định của pháp luật thì tất cả mọi người có tương tác (lưu số) sẽ nắm được

ít nhiều và theo thời gian sẽ hình thành thói quen tốt và ảnh hưởng đến cách

xử sự hành vi.

Thứ ba, đề xuất kế hoạch phối hợp với ban ngành địa phương (Hội

Luật gia, Đoàn Thanh niên, Hội phụ nữ) tuyên truyền pháp luật dành cho

thiếu niên. Tuyên truyền pháp luật là một phương pháp hiệu quả nhằm nâng

cao hiểu biết của người dân về kiến thức pháp luật, đặc biệt chú trọng đến giới

thanh thiếu niên là người dưới 18 tuổi. Điều này không những giúp người dân

thay đổi nhận thức của mình về pháp luật, tự ý thức và tuân thủ pháp luật, tự

mình bảo vệ những lợi ích chính đáng của bản thân và lợi ích chung của xã

hội. Hơn nữa, tình trạng phạm tội sẽ giảm đáng kể, đảm bảo trật tự an toàn xã

hội.

Trước đây, Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai cũng đã vạch ra chương

trình phối hợp với các địa phương (thông qua các tổ chức hành nghề) để tổ

chức các buổi phổ biến, tuyên truyền pháp luật với các chuyên đề tập trung

vào giới thanh thiếu niên dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, đến nay thì chưa triển khai

được do một số nguyên nhân khách quan như: Còn khuyết chức danh Chủ

nhiệm Đoàn Luật sư nên sự chỉ đạo của Luật sư phụ trách Đoàn cũng thiếu

quyết liệt thực hiện Nghị quyết; Dịch Covid 19 cũng tác động rất lớn đến

công tác tuyên truyền vì phải tập hợp số đông người khi triển khai, ...

Do vậy, tôi tin chắc rằng khi chức danh Chủ nhiệm Đoàn Luật sư

được rõ ràng đầy đủ và các ban ngành đã chỉ đạo đầy lùi hoàn toàn dịch bệnh

65

Covid 19 thì việc tuyên truyền pháp luật đến các em nhỏ sẽ thành hiện thực,

góp phần nâng cao nhận thức pháp luật cho một bộ phận không nhỏ thanh

thiếu niên tại địa phương.

Thứ tư, đề xuất Đài Phát thanh truyền hình Đồng Nai phối hợp với

Luật sư tăng thêm thời lượng phát thanh với các chuyên đề Phổ biến pháp luật

dành cho thiếu niên. Chuyên đề “Góc nhìn và suy ngẫm” phát trên sóng FM

97,5 MHz đã thực hiện được kỳ thứ 4 và thu hút không ít số lượng thính giả

theo dõi. Tuy nhiên với thời lượng phát sóng như hiện nay 1 giờ/1 tuần chưa

đủ sức thẩm thấu đối với thính giả, đề xuất Ban tổ chức chương trình tăng

thời lượng thêm 1 giờ thì tôi nghĩ sẽ mang lại hiệu quả tích cực hơn trong việc

phổ biến pháp luật cho mọi người, nhất là chuyên đề dễ tiếp thu đối với giới

trẻ dưới 18 tuổi.

Kết luận Chương 3

Trong Chương 3, tác giả đã đưa ra các yêu cầu và các giải pháp

nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật tố tụng hình sự và các văn bản khác

có liên quan đến pháp luật đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như: giải thích

và hướng dẫn pháp luật, tổng kết áp dụng thực tiễn pháp luật về về quyền bào

chữa cho người dưới 18 tuổi phạm tội; nâng cao năng lực đạo đức của người

tiến hành tố tụng trong thực tiễn quá trình giải quyết những vụ án có người

dưới 18 tuổi phạm tội,...Trong thực tiễn quá trình giải quyết những vụ án cho

người dưới 18 tuổi phạm tội cho thấy phải có những giải pháp để giải quyết

các vướng mắc, bất cập và hạn chế nhằm nâng cao chất lượng cao tinh thần

cải cách tư pháp.

Để đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, đáp ứng yêu

cầu trong công cuộc cải cách tư pháp, đáp ứng được hội nhập quốc tế cần phải

66

có những giải pháp nâng cao chất lượng giải quyết những vụ án có người dưới

18 tuổi phạm tội Trong công tác tư pháp nói chung và trong tố tụng hình sự

nói riêng, việc hoàn thiện pháp luật cần phải thực hiện một cách toàn diện

triệt để những vấn đề vướng mắc, hạn chế trong các Bộ luật cũ đã được bổ

sung vào BLTTHS 2015. Tuy nhiên, để đạt được những yêu cầu đặt ra thì

việc thay đổi về nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của người dưới 18

tuổi phạm tội là quan tâm hàng đầu.

67

KẾT LUẬN

Quyền con người nói chung và quyền bào chữa nói riêng là quyền

thiêng liêng, bất khả xâm phạm đặc biệt là đối với người dưới 18 tuổi phạm

tội. Lĩnh vực hình sự có nhiều nguy cơ xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp

của người dưới 18 tuổi phạm tội nhất là trong gia đoạn điều tra. Do đó, đòi

hỏi cần có những quy định của pháp luật để bảo vệ quyền con người nói

chung và quyền bào chữa nói riêng.

Bào chữa có vai trò là đảm bảo cho quyền con người, quyền công

dân khi tham gia tố tụng không bị xâm phạm, tuy nhiên quyền này chưa hoàn

toàn độc lập trong pháp luật tố tụng hình sự nước ta. Việc bảo đảm quyền bào

chữa cho người phạm tội dưới 18 tuổi là phù hợp với xu thế hội nhập, phát

triển của đất nước.

Nước ta đang đẩy mạnh cải cách tư pháp, sửa đổi các quy định của

pháp luật cho phù hợp với xã hội, với dân và với thế giới. Tuy còn nhiều

vướng mắc nhưng tôi tin rằng trong tương lai, những nội dung bất cập trong

bài luận văn sẽ được khắc phục và hoàn thiện.

Luận văn đã giải quyết được những vấn đề sau:

Thứ nhất, nêu được những vấn đề lý luận và lịch sử về bào chữa cho

bị can dưới 18 tuổi phạm tội.

Thứ hai, nêu được quy định của pháp luật hiện hành về bào chữa cho

bị can dưới 18 tuổi phạm tội và thực tiễn bào chữa cho bị can dưới 18 tuổi

phạm tội tại tỉnh Đồng Nai

Thứ ba, đưa ra các giải pháp bảo đảm bào chữa cho bị can dưới 18

tuổi phạm tội.

68

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu Tiếng Việt: I.

Bộ Chính trị (2002). Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 quy 1.

định về một số nhiệm vụ trọn tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà

Nội.

2. Bộ Chính trị (2005). Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/05/2005 quy

định về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến

năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

3. Bộ Chính trị (2005). Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 quy

định về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

4. Bộ Công an (2011). Thông tư 70/TT-BCA ngày 10/10/2011 quy định

về đảm bảo quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Hà Nội.

5. Bộ Tư pháp, Bộ Tài Chính (2014). Thông tư liên tịch số

191/2014/TTLT-BTC-BTP về hướng dẫn thù lao và thanh toán chi phí cho

Luật sư tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, Hà Nội.

6. Chủ tịch Chính phủ lâm thời (1945). Sắc lệnh số 46/SL ngày

10/10/1945 quy định tổ chức các đoàn thể luật sư, Hà Nội.

7. Chủ tịch nước (1949). Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/06/1949 quy định về

những bị can có thể nhờ một công dân không phải là Luật sư bào chữa cho,

trước các tòa án thường và Tòa án đặc biệt xử việc tiểu hình và đại hình, Hà

Nội.

8. Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1949). Sắc lệnh số 144/SL

ngày 22/12/1949 quy định về việc mở rộng quyền bào chữa cho các bị cáo

trước các Tòa án, Hà Nội.

9. Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Lê Văn Cảm, Vũ Công Giao,

Lê Khánh Tùng (2011). Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong Tố tụng

Hình sự, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

69

10. Trần Văn Dũng, Hoàng Ngọc Thành (2008). Về một số chế định pháp

lý liên quan đến người chưa thành niên phạm tội trong Luật hình sự và Luật

tố tụng hình sự cộng hòa Pháp, Tòa án nhân dân, số 19/2008, tr.38-45.

11. Trương Minh Hiếu (2018). Bào chữa chỉ định theo pháp luật tố tụng

hình sự Việt Nam cho người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thành phố Hồ

Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.

12. Trần Thu Hạnh (2018). Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét

xử vụ án hình sự theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Tạp chí Khoa học

Đại học Quốc gia Hà Nội: Luật học, Tập 34, số 3, tr.54-59.

13. Trần Bình Hưng (2013). Bảo vệ quyền con người của người chưa thành

niên bị buộc tội trong tố tụng hình sự, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 297,

tháng 1, tr. 56.

14. Hoàng Thế Liên (chủ biên) (1996), “Bảo vệ quyền trẻ em trong pháp

luật Việt Nam”, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

15. Đặng Trần Thanh Ngọc (2019). Cơ sở thực hiện quyền bào chữa trong

tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, Viện Hàn lâm

Khoa học Xã hội Việt Nam, số 01 (68), tr. 40.

16. Nguyễn Hải Ninh (2009). Hoàn thiện quy định của pháp luật nhằm bảo

đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo chưa thành niên, Tạp chí Luật học, số

11, tr. 41.

17. Vũ Thị Kim Oanh (chủ biên) (2010). Bảo đảm quyền con người trong

tư pháp Hình sự, Nxb Đại học Luật TPHCM.

18. Bùi Hạnh Phúc (2020). Bảo đảm quyền của bị can chưa thành niên

trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Tạp chí Công thương, số 12.

19. Nguyễn Thái Phúc (2007). Sự tham gia bắt buộc của người bào chữa

trong tố tụng hình sự, Tạp chí khoa học pháp lý, số 4, tr. 41.

70

20. Tôn Thiện Phương (2016). Quyền bào chữa của người bị buộc tội theo

BLTTHS năm 2015, Tạp chí kiểm sát, số 10/2016.

21. Đinh Văn Quế (2011). Một số vấn đề người bào chữa không phải là

luật sư, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 13.

22. Lương Thị Mỹ Quỳnh (2011). Bảo đảm quyền có người bào chữa của

người bị buộc tội – so sánh giữa luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, Đức, Mỹ,

Luận án tiến sĩ luật học, Đại học Luật TP.HCM.

23. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1985), Bộ luật

Hình sự năm 1985, Hà Nội.

24. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1999), Bộ luật

Hình sự năm 1999, Hà Nội.

25. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2017), Bộ luật

Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, Hà Nội.

26. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1988), Bộ luật

Tố tụng Hình sự năm 1988, Hà Nội.

27. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1992), Bộ luật

Tố tụng Hình sự năm 1992, Hà Nội.

28. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2003), Bộ luật

Tố tụng Hình sự năm 2003, Hà Nội.

29. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật

Tố tụng Hình sự năm 2015, Hà Nội.

30. Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa (1946), Hiến pháp năm

1946, Hà Nội.

31. Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa (1959), Hiến pháp năm

1959, Hà Nội.

32. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến

pháp năm 1992, Hà Nội.

71

33. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2003), Hiến

pháp năm 2003, Hà Nội.

34. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến

pháp năm 2013, Hà Nội.

35. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2006), Luật

Luật sư năm 2006, Hà Nội.

36. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2012), Luật

Luật sư năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2012, Hà Nội.

37. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Tổ

chức Tòa án nhân dân năm 2014, Hà Nội.

38. Hồ Sỹ Sơn (2018). Sách chuyên khảo Luật So sánh, Nxb Chính trị

Quốc gia Sự thật, Hà Nội.

39. Hoàng Thị Minh Sơn (2014). Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố

tụng hình sự nhằm nâng cao hiệu quả bào chữa đối với người chưa thành

niên, Tạp chí Khoa học kiểm sát, số 1, tr. 33.

40. Hoàng Thị Sơn (2000). Về khái niệm quyền bào chữa và việc bảo đảm

quyền bào chữa của bị can, bị cáo, Tạp chí Luật học, số 05.

41. Phan Thị Thanh Tâm (tháng 2/2016). Quyền bào chữa của bị can, bị

cáo và vấn đề quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên

trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí KHGD CSND, số 72.

42. Từ điển Tiếng Việt (2006). Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

43. Tòa án nhân dân tối cao (2004), Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP

ngày 02 tháng 10 năm 2004 hướng dẫn thi hành một số quy định “Những quy

định chung” Phần thứ nhất của BLTTHS năm 2003.

44. Tòa án nhân dân tối cao (2016), Thông tư số 01/2016/TT-CA ngày

21/01/2016 quy định việc tổ chức các Tòa án chuyên trách tại Tòa án nhân

72

dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, tòa án nhân dân huyện, quận, thị

xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, Hà Nội.

45. Tòa án nhân dân tối cao (2017), Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP ban

hành ngày 19/09/2017 quy định một số biểu mẫu trong giai đoạn xét xử vụ án

hình sự, xem xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật, Hà Nội.

46. Nguyễn Thế Hữu Trạch (2014). Quyền bảo chữa của bị can, bị cáo là

người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật

học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.

47. Lại Văn Trình (2011). Bảo đảm quyền con người của người bị tạm

giam, bị can, bị cáo trong Tố tụng Hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật

học, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.

48. VKSNDTC, TANDTC, BCA, BTP, BLĐTBXH (2011), Thông tư liên

tịch số 01/2011/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày

12/07/2011 hướng dẫn thi hành một số quy định đối với người dưới 18 tuổi về

xác định độ tuổi của bị can, bị cáo.

49. VKSNDTC, TANDTC, BCA, BTP, BLĐTBXH (2018), Thông tư liên

tịch 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày

21/12/2018 quy định về việc phối hợp thực hiện một số quy định của Bộ luật

Tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi, Hà Nội.

50. Võ Khánh Vinh (2004). Bình luận khoa học Bộ luật TTHS, Nxb Công

an nhân dân, Hà Nội.

51. Võ Khánh Vinh (2010). Quyền con người – Tiếp cận đa ngành và liên

ngành luật học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

52. Võ Khánh Vinh (2012). Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự,

Nxb Tư pháp, Hà Nội.

53. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2014). Giáo trình luật Hình sự Việt Nam –

Phần chung, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

73

54. Võ Khánh Vinh (2014). Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

55. Võ Khánh Vinh (2020). Tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp ở Việt

Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn. Báo cáo hội thảo khoa học Quốc

gia, Hà Nội, năm 2020.

56. Thống kê thụ lý và giải quyết các vụ án hình sự sơ thẩm có bị cáo là

người chưa thành niên giai đoạn 2015-2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng

Nai.

57. Thống kê các vụ án hình sự chỉ định có bị can là người dưới 18 tuổi

phạm tội từ giai đoạn 2015-2019 của Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai.

II. Tài liệu trên website

1. Thanh Lâm (2020).Các hình thức xử lý người dưới 14 tuổi phạm tội,

duoi-14-tuoi-pham-toi-72172.html>, xem 30/08/2020.

2. Luật Việt (2019). Quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa

thành niên, < http://hinhsu.luatviet.co/quyen-bao-chua-cua-nguoi-bi-buoc-toi-

la-nguoi-chua-thanh-nien/n20161028120823600.html>, xem ngày

30/10/2019.

3. Phạm Thanh Tuấn (2018). Quyền bào chữa của bị can, bị cáo dưới 18

tuổi theo quy định trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, <

http://csnd.vn/Home/Nghien-cuu-Trao-doi/5825/Quyen-bao-chua-cua-bi-can-

bi-cao-duoi-18-tuoi-theo-quy-dinh-trong-bo-luat-to-tung-hinh-su-nam-2015>,

xem ngày 25/12/2019.

4. Phạm Minh Tuyên (2019). Phòng ngừa người dưới 18 tuổi phạm tội

thông qua hoạt động xét xử của Tòa án – Hạn chế và kiến nghị, <

https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/phong-ngua-nguoi-duoi-18-tuoi-

74

pham-toi-thong-qua-hoat-dong-xet-xu-cua-toa-an-han-che-va-kien-nghi>,

xem ngày 20/11/2019.

5. Dương Tấn Thanh (2019), Chế định người đại diện của người bị buộc

tội dưới 18 tuổi, < https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/che-dinh-nguoi-

dai-dien-cua-nguoi-bi-buoc-toi-duoi-18-tuoi>, xem ngày 21/12/2019.

6. Nguyễn Thị Minh, Một số yếu tố tâm lý trong quá trình tố tụng đối với

người dưới 18 tuổi, <

http://hvta.toaan.gov.vn/portal/page/portal/hvta/27676686/27677461?p_page_

id=27677461&pers_id=28346379&folder_id=&item_id=146486239&p_detai

ls=1>, xem ngày 09/01/2020.

7. Phương Nam (2018), Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi

phạm tội, < https://congly.vn/hoat-dong-toa-an/nghiep-vu/chinh-sach-hinh-su-

doi-voi-nguoi-duoi-18-tuoi-pham-toi-259622.html>, xem ngày 05/10/2019.

8. Trần Thành Hưng (2018), Trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi

phạm tội trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), <

http://pup.edu.vn/index.php/news/Nghien-cuu-Trao-doi/Trach-nhiem-hinh-su-

cua-nguoi-duoi-18-tuoi-pham-toi-trong-Bo-luat-hinh-su-nam-2015-sua-doi-

bo-sung-nam-2017-1430.html>, xem ngày 10/11/2019.

9. Nguyễn Hoàng Hằng, Thân Đình Trung (2018), Những quy định mới

đối với người dưới 18 tuổi phạm tội áp dụng từ 01/01/2018,

https://kiemsat.vn/nhung-quy-dinh-moi-doi-voi-nguoi-duoi-18-tuoi-pham-toi-

ap-dung-tu-01-01-2018-48631.html, xem ngày 05/11/2018

10. Nguyễn Hải Ninh (2019), Pháp luật tố tụng hình sự với việc bảo đảm

quyền con người của người bị buộc tội dưới 18 tuổi, <

http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210301>, xem ngày

26/10/2019.

75