VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRƯƠNG THỊ QUỲNH
BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG
HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH THANH HÓA
Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số : 8 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐỖ THỊ PHƯỢNG
HÀ NỘI, năm 2021
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC
TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ....................... 11
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và nội dung của nguyên tắc tranh tụng trong hoạt
động xét xử của Toà án nhân dân .............................................................................. 11
1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và các yếu tố bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong
hoạt động xét xử của Toà án nhân dân ...................................................................... 19
1.3. Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân
theo pháp luật của một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ............. 32
Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN BẢO
ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ TỈNH THANH HÓA ................................................. 32
2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt
động xét xử của Toà án nhân dân .............................................................................. 32
2.2. Thực tiễn bảo đảm tranh tụng trong xét xử các loại án của Tòa án nhân dân từ
tỉnh Thanh Hóa .......................................................................................................... 45
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH
TỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ
TỈNH THANH HÓA ............................................................................................... 63
3.1. Yêu cầu bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử của Tòa án nhân dân ..... 63
3.2.Các giải pháp bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Toà án
nhân dân……………………………………………………………………………70
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
2
DANH MỤC TỪ VÀ CỤM TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
BLDS: Bộ luật dân sự
BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự
BLTTHC: Bộ luật tố tụng hành chính.
TAND: Tòa án nhân dân
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
HĐXX: Hội đồng xét xử
HTND: Hội thẩm nhân dân
KSV: Kiểm sát viên
CMCN4.0: Cách mạng công nghiệp lần thứ 4
CNTT: Công nghệ thông tin
3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tranh tụng đã được thừa nhận trên phạm vi toàn cầu và được ghi nhận tại
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của Liên Hợp quốc. Theo đó, “Mọi người đều
có quyền hoàn toàn ngang nhau được phát biểu bình đẳng và công khai trước Tòa
án độc lập và không thiên vị, nơi quyết định các quyền và nghĩa vụ của mình hoặc
về việc buộc tội mình có cơ sở trước Tòa Tranh tụng tại phiên toà xét xử là nội dung
có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động tố tụng của Tòa án, là yêu cầu cấp bách bảo
đảm tính khách quan, công bằng, dân chủ, là căn cứ để xác định sự thật vụ án và là
cơ sở để Hội đồng xét xử ra bản án khách quan, công bằng, đúng lẽ phải và đúng
pháp luật. Ở Việt Nam, nhằm hướng đến xây dựng một nền tư pháp dân chủ, tiến
bộ, thì bảo đảm tranh tụng trong xét xử là một trong những mục tiêu quan trọng
trong tiến trình cải cách tư pháp mà Bộ chính trị đã đề ra. Xác định tầm quan trọng
của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013
quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”, lần đầu tiên trong
lịch sử lập hiến, tranh tụng được ghi nhận là một nguyên tắc và phải được bảo đảm
trong xét xử. Tuy nhiên, do mô hình tố tụng ở nước ta về cơ bản là mô hình tố tụng
xét hỏi nên việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án
nhân dân chưa thực sự được coi trọng đúng mức trên cả phương diện lý luận, xây
dựng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật. Về mặt lý luận, hiện còn nhiều quan
điểm khác nhau về tranh tụng, có quan điểm cho rằng đối với mô hình tố tụng ở
Việt Nam hiện nay, tranh tụng là một nguyên tắc, cũng có quan điểm cho rằng tranh
tụng là một mô hình tố tụng hay một thủ tục trong tố tụng. Chính vì về mặt lý luận
còn chưa thống nhất đó đã ảnh hưởng ít nhiều đến việc bảo đảm tranh tụng. Bên
cạnh đó, việc nghiên cứu những biện pháp bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong
hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân được áp dụng có hiệu quả cao nhất cũng góp
phần bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân, đáp ứng yêu cầu của cải
cách tư pháp ở nước ta. Với những lý do trên, thì việc lựa chọn nghiên cứu đề tài
“Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân từ
thực tiễn tỉnh Thanh Hóa” là yêu cầu có tính khách quan, cấp thiết cả về lý luận và
thực tiễn.
1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân
là một vấn đề còn khá mới mẻ đối với lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam. Trước đây, có
quan điểm cho rằng tranh tụng là nguyên tắc đặc trưng của tố tụng hình sự tư sản
nên vấn đề này không được áp dụng trong tổ chức và hoạt động tư pháp ở nước ta.
Theo đó mà trước năm 2013, các công trình nghiên cứu về bảo đảm nguyên tắc
tranh tụng còn hạn chế, chủ yếu là các công trình nghiên cứu về hoạt động tranh
tụng tại phiên tòa hình sự như:
- Nguyễn Mạnh Kháng “Cải cách tư pháp và vấn đề tranh tụng” - Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, số 10/2013: tác giả đã phân tích bản chất của tranh tụng và
những ưu điểm, hạn chế của nó. Đồng thời, phân tích các điều kiện để đảm bảo
tranh tụng và khả năng vận dụng tranh tụng trong tình hình nước ta cũng như hệ quả
của việc vận dụng này.
- Trần Văn Độ (2004), “Bản chất tranh tụng tại phiên toà”, Tạp chí khoa
học pháp lý, số 4: tác giả cho rằng phiên tòa là giai đoạn trung tâm thể hiện đầy đủ
nhất bản chất quá trình tố tụng nói chung và xét xử nói riêng, do đó, việc nghiên
cứu xây dựng một hệ thống tố tụng tranh tụng hay hệ thống tố tụng khác có các yếu
tố tranh tụng phải được xuất phát trước tiên từ vấn đề tranh tụng tại phiên tòa. Từ
đó, tác giả phân tích nội dung tranh tụng tại phiên tòa trong các hệ thống tố tụng
khác nhau và đưa ra một số giải pháp nhằm đảm bảo cho nguyên tắc tranh tụng
được thực hiện đầy đủ trong tố tụng.
- Nguyễn Thái Phúc (2018), “Vấn đề tranh tụng và tăng cường tranh tụng
trong tố tụng hình sự theo yêu cầu của cải cách tư pháp”, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, số 8: bài viết nêu quan điểm về khái niệm “tranh tụng” dưới các góc độ
khác nhau. Từ đó, tác giả đưa ra các giải pháp tăng cường tranh tụng trong hoạt
động tố tụng hình sự ở nước ta theo yêu cầu của cải cách tư pháp.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường, Đại học Luật Hà Nội “Tranh tụng
trong tố tụng dân sự ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp” của tác giả
Nguyễn Thị Thu Hà năm 2011. Nội dung đề tài tập trung làm rõ những vấn đề lý
luận về tranh tụng trong TTDS như khái niệm, đặc điểm, bản chất, chủ thể tham gia
tranh tụng, phạm vi tranh tụng trong TTDS và đánh giá các quy định của pháp luật
2
TTDS về tranh tụng. Qua thực tiễn xét xử của Tòa án tác giả đã đưa ra các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả tranh tụng. Mặc dù tác giả đã có quan điểm coi tranh tụng
là nguyên tắc của TTDS nhưng đề tài được thực hiện dựa trên các quy định của
BLTTDS năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011.
- Bài viết “Bảo đảm tranh tụng trong xét xử theo quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015” của tác giả Bùi Thị Huyền trên tạp chí Luật học, số 4/2016.
Bài viết đã phân tích các quy định của BLTTDS theo hướng bảo đảm tranh tụng, cụ
thể: các quy định về thời hạn giao nộp chứng cứ của đương sự; quy định về việc
thông báo chứng cứ của vụ việc cho nhau giữa các đương sự; quy định về phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và quy định về phiên tòa sơ
thẩm theo hướng bảo đảm tranh tụng, đề cao vai trò của các bên đương sự trong quá
trình tranh tụng tại Tòa án. Mục đích bài viết của tác giả Bùi Thị Huyền đưa ra các
đề xuất nhằm hướng dẫn các quy định của BLTTDS năm 2015 về bảo đảm tranh
tụng trong xét xử. Tuy nhiên, bài viết thực hiện năm 2016 khi mà BLTTDS năm
2015 chưa có hiệu lực thi hành, chưa được áp dụng trên thực tế nên tác giả chưa thể
nêu ra những vướng mắc, khó khăn nhất định khi áp dụng BLTTDS năm 2015.
- Luận văn thạc sỹ luật học với đề tài “Tranh tụng trong tố tụng hành chính ở
Việt Nam- lý luận và thực tiễn”, tác giả Nguyễn Việt Nam bảo vệ năm 2013 tại
trường đại học luật Hà Nội. Tác giả đã phân tích và đưa ra những nhận định về tranh
tụng trong xét xử vụ án hành chính, đưa ra được khái niệm, đặc điểm, phạm vi tranh
tụng trong tố tụng hành chính và đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng
và các lý do để tranh tụng trở thành nguyên tắc của luật tố tụng hành chính.
- Bài viết “Hiểu đúng nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hành chính” của
thạc sỹ Phạm Công Minh, Viện kiểm sát cấp cao 3, đăng trên website Kiemsat.vn
ngày 10 tháng 8 năm 2016, đã chỉ ra được chủ thể, phạm vi, nội dung, phương pháp
và biểu hiện của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hành chính để cho các cán bộ
kiểm sát hiểu rõ và áp dụng thực hiện trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ
án hành chính tại Toà án.
Ngoài ra, các nghiên cứu về lý luận và thực tiễn tranh tụng với cách nhìn ở
các góc độ khác nhau, thể hiện trên các bài báo, tạp chí, có thể kể như bài:“Một số
vấn đề về mối quan hệ giữa tranh tụng trong tố tụng hình sự với chức năng xét xử
3
của Toà án trong bối cảnh cải cách tư pháp”, Nguyễn Trương Tín, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 10/2018. Hiến pháp 2013 ghi nhận “Nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử được đảm bảo”, đã có nhiều các bài viết về nguyên tắc tranh tụng
như:“Vấn đề áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong luật tố tụng hình sự Việt Nam”,
Nguyễn Thanh Bình, Tạp chí Nghề Luật, số 10/2015; “Thực hiện nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử bảo đảm tinh thần Hiến pháp 2013”, Phạm Văn Tuyên, Tạp chí
Lý luận chính trị, số 1/2016; “Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự”, Mai
Bộ, Tòa án nhân dân tối cao năm 2014.
Với các công trình trên, khi nghiên cứu đề tài “Bảo đảm nguyên tắc tranh
tụng trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hoá”, tác
giả có thuận lợi được tham khảo khá nhiều nguồn tài liệu. Tuy nhiên, tình hình
nghiên cứu cho thấy, các tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu về hoạt động “tranh
tụng” và nội hàm “nguyên tắc tranh tụng”. Do đó, việc nghiên cứu các biện pháp
bảo đảm cho nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vẫn rất cần thiết, góp phần làm rõ
cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc tranh tụng trong xét xử và đề ra những giải
pháp đảm bảo nguyên tắc này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng
trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân và phân tích thực trạng thực hiện bảo
đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân, từ đó đề
xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong
hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu, đề tài đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu là:
- Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng
trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân;
- Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn bảo
đảm nguyên tắc tranh tụng từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa;
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo đảm
nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân.
4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu vấn đề bảo đảm nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử trên phương diện lý luận, pháp lý và thực tiễn tranh tụng
trong giai đoạn xét xử từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tranh tụng trong hoạt động xét xử là vấn đề có phạm vi nghiên cứu rất rộng.
Tuy nhiên, trong giới hạn của đề tài, tác giả chỉ nghiên cứu vấn đề bảo đảm nguyên
tắc tranh tụng trong xét xử từ góc độ Tòa án nhân dân, góc độ tiếp cận nghiên cứu
có tính khái quát các lĩnh vực pháp luật tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành
chính. Luận văn nghiên cứu thực tiễn hoạt động xét xử các vụ án hình sự, dân sự và
hành chính của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2016 - 2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, những quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về nhà nước pháp quyền, cải cách
pháp luật, cải cách bộ máy nhà nước nói chung, cải cách tư pháp và thủ tục tư pháp
nói riêng.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp phân tích nhằm làm rõ những
vấn đề lý luận và thực tiễn về tranh tụng tại phiên tòa, phương pháp tổng hợp để
tổng hợp những vấn đề nghiên cứu nhằm đưa ra những nhận định và kết luận chung.
Phương pháp thống kê được sử dụng để thống kê số liệu trong thực tiễn xét xử liên
quan đến tranh tụng tại phiên tòa làm cơ sở cho việc đưa ra những nhận xét, kết
luận và đề xuất các biện pháp bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử từ góc độ
Tòa án nhân dân.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Với mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, luận văn góp phần bổ sung lý luận về cải
cách tư pháp mà trọng tâm là nâng cao chất lượng xét xử, bổ sung hoàn thiện lý
luận về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử từ góc độ Tòa án nhân dân.
Về mặt thực tiễn, luận văn đóng góp vào việc tìm ra những hạn chế trong
thực trạng các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật, qua đó, đưa ra
5
những giải pháp có tính khả thi giúp nâng cao chất lượng bảo đảm nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử từ góc độ Tòa án nhân dân.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết
cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong
hoạt động xét xử;
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn bảo đảm nguyên tắc tranh tụng
trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân từ tỉnh Thanh Hóa;
Chương 3: Giải pháp bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử
của Tòa án nhân dân từ tỉnh Thanh Hóa
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG
TRONG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và nội dung của nguyên tắc tranh tụng
trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân
1.1.1. Khái niệm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án
nhân dân
Hoạt động xét xử của TAND với tư cách là khâu trung tâm của hoạt động tư
pháp (theo nghĩa rộng) nhằm giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia
đình, lao động, hành chính. Tuy là khâu trung tâm, có ý nghĩa quyết định trong quá
trình giải quyết một vụ án, nhưng để TAND có thể xét xử được thì cần phải có hàng
loạt những hoạt động tố tụng trước đó. Các giai đoạn tố tụng có mối liên hệ gắn bó
hữu cơ thống nhất với nhau và đều dẫn đến kết quả tạo cơ sở cho khâu cuối cùng là
việc Tòa án đưa ra phán quyết một cách khách quan, công bằng, đúng pháp luật. Vì
vậy, tồn tại những tư tưởng có tính định hướng, chỉ đạo chung cho toàn bộ quá trình
hoạt động tố tụng, cho việc tổ chức và hoạt động của TAND. Đó cũng chính là các
nguyên tắc pháp lý, mà tranh tụng trong xét xử được bảo đảm là một trong những
nguyên tắc như vậy.
Mặc dù được sử dụng và nhắc đến rất phổ biến trong thời gian gần đây
nhưng hiện nay, chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào quy định cụ thể định
nghĩa về “tranh tụng”. Thuật ngữ tranh tụng lại được nhắc tới trong nhiều văn bản
của Đảng, các tài liệu Hội thảo và được hiểu theo nhiều quan điểm khác nhau trong
cả thực tiễn và khoa học pháp lý.
Về mặt ngôn ngữ, theo từ điển tiếng Việt, tranh tụng có nghĩa là kiện tụng
hay là sự kiện cáo lẫn nhau giữa hai bên, bên nguyên đơn và bên bị đơn có lập
trường tương phản được đưa ra để yêu cầu Toà án phân xử.
Theo Hán Việt từ điển giải thích “tranh tụng có nghĩa là cãi lẽ, cãi nhau để tranh lấy phải”1 thuật ngữ “tranh tụng” được ghép từ hai từ “tranh luận” và “tố
tụng”, như vậy, có thể hiểu tranh tụng là tranh luận trong tố tụng hay được hiểu
1 Nguyễn Lân, Từ điển Từ và Ngữ Hán - Việt, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2002 tr.621.
7
thông thường là việc từng bên đưa ra các quan điểm của mình và tranh luận lại, bác
bỏ một phần hay toàn bộ quan điểm của phía bên kia.
Các quan điểm này mặc dù đã thể hiện được một số đặc trưng cơ bản của
hoạt động tranh tụng nhưng chỉ thể hiện được tranh tụng là hoạt động riêng lẻ mà
chưa thể hiện được sự thống nhất, gắn bó hữu cơ giữa nguyên tắc tranh tụng được
quy định trong hiến pháp và các bộ luật quy định cho từng lĩnh vực cụ thể.
Tranh tụng bao giờ cũng gắn liền với hoạt động của Tòa án, xét xử là hoạt
động phân xử vụ kiện giữa các bên có quyền và lợi ích khác nhau. Tòa án tiến hành
xác định sự thật khách quan của vụ án tại phiên toà bằng cách điều tra công khai,
chính thức về vụ việc, nghe các bên tranh luận bảo vệ quan điểm của mình, xem xét
vụ án từ góc độ nội dung đến pháp luật áp dụng để ra phán quyết. Tuỳ theo từng
loại vụ án mà quyền tranh tụng, địa vị pháp lý của các bên cũng khác nhau như:
tranh tụng trong tố tụng hình sự, tranh tụng trong tố tụng dân sự, tranh tụng trong tố
tụng hành chính,... Tuy nhiên, Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ chính trị đã phân
biệt hai thuật ngữ “tranh tụng” và “tranh luận”. Tranh tụng là một quá trình còn
tranh luận chỉ là một thủ tục độc lập của phiên toà xét xử - phần thể hiện điển hình
nhất của quá trình tranh tụng mà Tòa án là trung tâm, đóng vai trò là trọng tài điều
khiển và đưa ra phán quyết về kết quả đấu tranh pháp lý giữa các bên.
Tranh tụng là con đường đi đến chân lý, sự thật khách quan của vụ án một
cách công bằng, dân chủ và hợp pháp, tránh được lối dùng quyền lực hay sức mạnh
của nhà nước áp đặt một cách chủ quan, duy ý chí, bất công và do vậy không bảo
đảm được công lý.
Từ việc phân tích các quan điểm trên có thể nêu khái niệm chung: tranh tụng
là việc hai bên đưa ra các quan điểm, lập luận riêng của mình và tranh luận, bác bỏ
một phần hoặc toàn bộ quan điểm của bên kia nhằm bảo vệ quan điểm của mình
dưới sự giám sát của Tòa án và Tòa án đưa ra phán quyết dựa trên kết quả của quá
trình tranh tụng đó.
Như vậy, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được hiểu là tư tưởng chủ đạo,
định hướng cho việc xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật về việc trình bày
quan điểm, tranh luận pháp lý giữa các bên trong hoạt động tố tụng nhằm xác định
sự thật khách quan của vụ án một cách dân chủ, công bằng, bảo đảm công lý.
8
1.1.2. Đặc điểm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Toà án
nhân dân
Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm là một trong những
nguyên tắc hiến định về tổ chức và hoạt động của TAND:
Tòa án đóng vai trò như một vị trọng tài độc lập giữa các bên, xem xét khách
quan các tài liệu, chứng cứ, căn cứ vào hoạt động tranh tụng và đặc biệt là kết quả
của hoạt động này, xem như cốt lõi, để ra bản án, quyết định việc có tội hay không
có tội, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Do có vai trò quan trọng
như vậy, hoạt động tranh tụng cần được bảo đảm thực hiện không chỉ ở bất kì lĩnh
vực pháp luật tố tụng cụ thể, mà cần phải có sự thống nhất hữu cơ giữa các lĩnh vực
khác nhau, đóng vai trò là tư tưởng chủ đạo, định hướng toàn bộ vấn đề tổ chức và
hoạt động xét xử tại TAND. Tư tưởng trên được xem là một trong những điểm mới
tích cực của Hiến pháp năm 2013, cụ thể hóa qua các điều luật trong từng lĩnh vực
pháp luật cụ thể: Điều 18 Luật tố tụng hành chính; Điều 24 Bộ luật tố tụng Dân sự
và Điều 26 Bộ luật tố tụng Hình sự. Đặc điểm này quyết định một trong những vai
trò quan trọng của nguyên tắc (sẽ được phân tích ở phần sau).
Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm có mối liên hệ hữu cơ gắn
bó trong hệ thống các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của toà án nhân dân:
Nguyên tắc độc lập của tòa án: Khoản 2 Điều 103 Hiến pháp 2013 quy định: “Thẩm
phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ
chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”. Đây là nguyên
tắc được đánh giá là quan trọng bậc nhất. Nguồn gốc của nó được bắt nguồn học
thuyết “Phân quyền” của Montesquieu và nhu cầu phải xét xử công bằng chỉ dựa
theo các quy định của pháp luật khi nó ngày càng lấn sâu vào mọi lĩnh vực của xã
hội. Trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật” Montesquieu đã viết: “Khi quyền lập
pháp được sát nhập với quyền hành pháp và tập trung vào trong một người hay một
tập đoàn thì sẽ không có tự do được bởi vì người ta có thể sợ rằng chính nhà Vua
hay Nghị viện ấy sẽ làm những đạo luật độc đoán để thi hành một cách độc đoán..”2.
2 Phạm Ngọc Minh, “Những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân” (24/07/2017), luatviet.co tại địa chỉ: http://luatviet.co/nhung-nguyen-tac-chu-yeu-ve-to-chuc-va-hoat-dong-cua-toa-an- nhan-dan/n20170524045758484.html truy cập ngày 30/07/2018
9
Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số: Hoạt động xét xử
mang bản chất là sự trừng phạt đối với những cá nhân, tập thể vượt qua hành lang
quy định của pháp luật, răn đe các chủ thể khác và bảo vệ hệ thống Nhà nước xã hội
chủ nghĩa. Kết quả của hoạt động này, bản án sẽ quyết định số phận của cá nhân,
tập thể, quyền và lợi ích của Nhà nước, ảnh hưởng trực tiếp đến thân nhân họ và xã
hội nên cần phải xem xét một cách kĩ lưỡng, thận trọng, tránh để yếu tố chủ quan
chi phối. Vì vậy, việc xét xử cần có sự phối hợp, đồng thuận của cả hội đồng xét xử,
tập hợp trí tuệ tập thể. Theo quy định tại Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014, Hội
đồng xét xử cần có ít nhất ba người trở lên và phải là số lẻ, do Chánh án quyết định.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo:“Quyền bào chữa của
bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm” (khoản 7
Điều 103 Hiến pháp năm 2013). Cũng như các nguyên tắc khác, nguyên tắc này
được quy định cũng góp phần củng cố thêm tính dân chủ, khách quan và chính xác
của Tòa án trong hoạt động xét xử.
Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm luôn có sự thống nhất hữu
cơ với các nguyên tắc khác về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Nó không
nằm riêng rẽ, biệt lập với các nguyên tắc khác mà luôn có sự tác động qua lại, phối
kết hợp nhằm một mục đích duy nhất là đảm bảo sự công bằng, bình đẳng của
người dân trước pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, xây dựng một nền tư
pháp dân chủ tiến bộ. Nguyên tắc này có ảnh hưởng rất lớn tới bản chất của nền tư
pháp nước nhà nhưng không khẳng định mô hình tố tụng nước ta hoàn toàn là mô
hình tố tụng tranh tụng.
- Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm thể hiện rõ ràng, mạch
lạc các chức năng cơ bản, gắn với tư cách chủ thể của các bên trong hoạt động tố
tụng: Trong tố tụng hình sự đó là các chức năng buộc tội (bên buộc tội); chức năng
gỡ tội hay bào chữa (bên gỡ tội); chức năng xét xử (Tòa án). Trong các loại tố tụng
phi hình sự, đó là các bên: bên nguyên hoặc bên khởi kiện, bên bị hoặc bên bị kiện
và toà án đóng vai trò là trọng tài phân xử. Tranh tụng trong xét xử diễn ra giữa các
bên có tư cách bình đẳng với nhau trong tố tụng (giữa bên buộc tội với bên gỡ tội
hoặc giữa các đương sự) dưới quyền điều khiển (trọng tài) của Tòa án. Trên cơ sở
10
nguyên tắc tranh tụng, quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, tính chủ động của các bên
trong tố tụng được tôn trọng và đề cao.
- Nguyên tắc này được thực hiện theo quy định được cụ thể hoá trong từng
lĩnh vực pháp luật tố tụng và tồn tại trong thể thống nhất với các nguyên tắc tố tụng
khác của mỗi ngành luật tố tụng:
Nguyên tắc“Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” được cụ thể hóa qua các
điều luật được quy định trong từng bộ luật tố tụng riêng biệt: Khoản 1 Điều 18
LTTHC năm 2015 quy định rõ: “Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh
tụng…”
Trước khi Hiến pháp 2013 ra đời (thời điểm nguyên tắc đảm bảo tranh tụng
được hiến định), trong tất cả các bộ luật tố tụng mới chỉ quy định các yếu tố tiền đề,
liên quan đến nguyên tắc trên, thậm chí là cụm từ “tranh tụng” còn chưa xuất hiện
mà thay vào đó là cụm từ “tranh luận”. Do vậy, nguyên tắc đảm bảo tranh tụng
trong xét xử không tồn tại biệt lập với các nguyên tắc tố tụng khác trong từng lĩnh
vực riêng lẻ mà ngược lại, chúng cụ thể hóa nguyên tắc này, bổ trợ lẫn nhau, tồn tại
trong thể thống nhất.
1.1.3. Vai trò nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Toà án
nhân dân
Thể chế hoá chủ trương, đường lối của Đảng trong Hiến pháp 2013, nguyên
tắc tranh tụng trong xét xử giữ một vai trò quan trọng, ảnh hưởng lớn tới hiệu quả
của quá trình tố tụng xét xử vụ án cũng như thể hiện được ý nghĩa quan trọng của
hoạt động xét xử trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lẽ
phải, bảo vệ công lý:
Thứ nhất, nguyên tắc này đã thể chế hoá ở cấp độ cao nhất (hiến định) một
trong những quan điểm, nội dung đường lối có tính trọng tâm, đột phá về cải cách
tư pháp của Đảng và Nhà nước ta. Nguyên tắc hiến định này tạo nền tảng pháp lý
thống nhất, định hướng và chỉ đạo toàn bộ hệ thống các quy định về tổ chức và hoạt
động của bộ máy tư pháp của Nhà nước ta, tạo bước chuyển biến căn bản trong quá
trình cải cách tư pháp nhằm xây dựng một nền tư pháp tiến bộ, dân chủ, công bằng,
khách quan, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân.
11
Đảng và Nhà nước đã có chủ trương về vấn đề này và đã được đề cập trong
Nghị quyết 08-NQ/TW và Nghị quyết 49-NQ/TW. Thể chế hoá chủ trương đó,
những quy định pháp luật tố tụng đã và đang phát huy hiệu lực trên thực tiễn của
công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm và giải quyết các mâu thuẫn xã hội được
pháp luật điều chỉnh.
Thứ hai, nguyên tắc tranh tụng trong Hiến pháp là nền tảng để xây dựng và
hoàn thiện các quy định về bảo đảm tranh tụng trong các văn bản pháp luật tố tụng.
Ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm trong Hiến pháp
tạo ra một chế độ, khuôn khổ chính trị-pháp lí thống nhất, định hướng cho sự phát
triển của cả hệ thống pháp luật tố tụng. Tất cả các văn bản quy phạm pháp luật tố
tụng cũng như thực tiễn hoạt động tố tụng đều phải phù hợp với quy định và tinh
thần của Hiến pháp. Từ một chủ trương, quan điểm trong đường lối chính trị của
Đảng ta với tư cách là đảng cầm quyền, tranh tụng đã trở thành một nguyên tắc hiến
định. Điều đó góp phần quan trọng vào việc thể chế hoá và hiện thực hoá tư tưởng
của Đảng và Nhà nước, cũng là nguyện vọng của nhân dân ta về xây dựng một nền
tư pháp tiến bộ, dân chủ, công bằng, khách quan ở Việt Nam.
Như vậy, nếu Hiến pháp không thể chế hoá nguyên tắc này thì rất khó có thể
bảo đảm được tính thống nhất trong hệ thống pháp luật tố tụng, sự thể hiện đúng
bản chất chung của nền tư pháp Việt Nam.
Thứ ba, tranh tụng trong xét xử có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực
hiện quyền tư pháp. Điều đó là đặc biệt cần thiết trong hoạt động xét xử của Tòa án,
qua tranh tụng tại phiên tòa, các chứng cứ sẽ có điều kiện được kiểm định lại và làm
sáng tỏ thêm, những người có thẩm quyền tham gia tố tụng tại phiên tòa, có điều
kiện trình bày, chứng minh, phản biện một cách dân chủ, công khai, minh bạch; chủ
tọa phiên tòa sẽ có điều kiện đánh giá một cách khách quan hơn so với tố tụng chỉ
thiên về xét hỏi. Như vậy, tranh tụng trong xét xử góp phần rất quan trọng để Tòa
án phán xét đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế tình trạng oan sai, phân
xử các mâu thuẫn phát sinh trong đời sống xã hội một cách đúng đắn, bảo đảm cho
nền tư pháp của nước nhà là biểu hiện điển hình của công bằng và công lý. Tranh
tụng trong xét xử là nguyên tắc phổ quát trong tố tụng tư pháp của hầu hết các nhà
nước dân chủ và pháp quyền. Đó là một giá trị và là một tiêu chí để đánh giá một
12
nền tư pháp có dân chủ và pháp quyền hay không. Chính vì thế, trong định hướng
về cải cách tư pháp, Đảng ta đã nhấn mạnh phải tăng cường tranh tụng tại phiên tòa
và Hiến pháp năm 2013 đã quy định thành một trong những nguyên tắc về tổ chức
và hoạt động của toà án nhân dân.
Thứ tư, bảo đảm tranh tụng trong xét xử là thực hiện dân chủ, công bằng, là
Nhà nước bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, từ nguyên tắc hiến định, được cụ thể hoá
trong các đạo luật theo từng loại tố tụng đóng vai trò xác định một cách rõ ràng,
thống nhất chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể tố tụng, các bên tham
gia tranh tụng, phát huy tính tích cực chủ động của các chủ thể trong quá trình
chứng minh vụ án, nhờ đó tạo điều kiện cho việc tìm ra sự thật khách quan của vụ
án, tạo cơ sở quan trọng cho việc đưa ra phán quyết công bằng, khách quan, hợp
pháp của toà án, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân nói chung và
quyền trong lĩnh vực tố tụng nói riêng.
Tóm lại, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng nhìn dưới góc độ lý luận và thực tiễn
đều giữ vai trò quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Các
chủ thể tham gia tố tụng thực hiện hoạt động xem xét, đánh giá chứng minh xoay
quanh đơn kiện của các bên. Nói một cách khác, nguyên tắc tranh tụng cho phép các
bên tham gia tố tụng có quyền chứng minh. Từ cơ sở đó, Toà án ra phán quyết công
khai tại phiên tòa. Với vai trò đó, có thể thấy dù theo mô hình tố tụng tranh tụng hay
tố tụng thẩm vấn thì tính công bằng, công khai minh bạch trong hoạt động tố tụng
nhằm bảo đảm tối đa quyền con người đòi hỏi xã hội phải có sự thay đổi về nhận
thức và ý thức pháp luật nếu muốn nguyên tắc được ghi nhận tại các luật tố tụng
được bảo đảm vững chắc, tăng cường hoạt động cải cách tư pháp đang diễn ra ở
Việt Nam hiện nay.
1.1.4. Nội dung nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Toà án
nhân dân
1.1.4.1. Tranh tụng được thực hiện giữa các bên trong tố tụng, tranh tụng là
khâu trung tâm của hoạt động xét xử
Khi thực hiện hoạt động xét xử, Tòa án phải đảm bảo tranh tụng giữa các bên
đương sự, bị cáo với những người tham gia tố tụng khác, tranh tụng là khâu trung
13
tâm của hoạt động xét xử. Đối với mô hình tố tụng thẩm vấn, vai trò Thẩm phán
được đề cao rõ rệt, chủ thể này có là người tích cực xét hỏi bị cáo, nhân chứng,
người bị hại…để tìm ra sự thật. Chứng cứ cũng do Thẩm phán điều tra và tập hợp,
đương sự không có nghĩa vụ chứng minh chứng cứ nên có nhiều ý kiến cho rằng
việc này đã hạn chế quyền của các bên đương sự, đi ngược lại nguyên tắc khách
quan do vậy mà việc tranh tụng trước tòa chỉ là một hoạt động mang tính hình thức.
Nhiều trường hợp, bị cáo còn phải trải qua một thời gian giam giữ mới được xét xử,
gây ảnh hưởng tới khả năng bào chữa và nghiêm trọng hơn là tổn hại tới quyền con
người, quyền của chủ thể bị buộc tội không được coi trọng. Qua đây, người viết
thấy rằng sự phân biệt về quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự có tính đối kháng về
pháp lý trong mô hình này không rõ ràng, rành mạch, quyền lực và mọi vai trò đều
thuộc về các cơ quan và chủ thể tiến hành tố tụng.
Tranh tụng phải được xác định là khâu trung tâm của hoạt động xét xử: Nếu
xét xử là khâu trung tâm của hoạt động tư pháp thì trong quá trình xét xử tại Tòa án,
tranh tụng phải được coi là yêu cầu trung tâm. Yêu cầu này đòi hỏi tất cả mọi hoạt
động tố tụng khác trước đó hoặc đồng thời với quá trình xét xử tại Tòa án đều nhằm
phục vụ cho việc tranh tụng tại phiên xét xử của Tòa án. Chất lượng, hiệu quả của
tranh tụng phản ánh chất lượng, hiệu quả của các hoạt động tố tụng khác. Ngược lại,
các hoạt động tố tụng khác không tốt sẽ ảnh hưởng không tốt đến kết quả tranh tụng
và do đó sẽ ảnh hưởng xấu đến phán quyết của Tòa án, sự thật khách quan, công
bằng, công lý không được bảo đảm. Điều đó cũng có nghĩa nguyên tắc tranh tụng
đòi hỏi, phán quyết của Tòa án về cơ bản phải dựa trên kết quả của tranh tụng.
1.1.4.2. Các bên tranh tụng bình đẳng với nhau
Các chủ thể tham gia tố tụng có quyền bình đẳng trong việc đề đạt yêu cầu
để Tòa án bảo vệ, bổ sung yêu cầu và rút yêu cầu…Khi đưa ra yêu cầu, các bên
tranh tụng có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ và chứng minh để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ
và chứng minh phải được hiểu là, đương sự là người có yêu cầu có quyền cung cấp
cho Tòa án các chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ chứng minh để làm cơ sở cho yêu
cầu của mình và ngược lại khi phản đối quan điểm phía bên kia thì họ phải trả lời
các yêu cầu cũng có quyền cung cấp cho Tòa án các chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ
14
chứng minh làm cơ sở cho việc phản đối của mình. Khi cung cấp chứng cứ, căn cứ
pháp lý, lý lẽ chứng minh cho Tòa án các bên đều có quyền bình đẳng, có nghĩa là
không phân biệt nam nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã
hội, vị trí tố tụng, mọi chủ thể tham gia tranh tụng đều có quyền như nhau trong
việc tranh tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Chính vì vậy, quá trình này chỉ đạt được mục đích khi các chủ thể tham gia
tranh tụng được bình đẳng với nhau trước Tòa án. Ở đây, không phải là sự bình
đẳng giữa những chủ thể mà địa vị pháp lý của họ khác nhau như chủ tọa phiên tòa
với các bên tranh tụng hay giữa Hội thẩm nhân dân với người làm chứng…mà các
chủ thể tham gia tranh tụng được bình đẳng với nhau trước Tòa án được hiểu là
bình đẳng về quyền và nghĩa vụ tố tụng giữa các chủ thể có cùng địa vị pháp lý
trong quá trình tố tụng như các bên đương sự trong tố tụng dân sự, hành chính hay
bên buộc tội và bên gỡ tội trong tố tụng hình sự. Các chủ thể tranh tụng được bình
đẳng trong việc thực hiện quyền tranh tụng, theo đó các bên tranh tụng được bình
đẳng về quyền và nghĩa vụ tố tụng và bình đẳng về trách nhiệm pháp lý. Bởi nếu
không được bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng thì sự thật
khách quan của vụ án không được sáng tỏ, các bên tranh tụng không bảo vệ được
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ và chứng minh để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình là một bảo đảm cho các chủ thể thực hiện quyền
tự định đoạt trong việc rút yêu cầu, rút đơn khởi kiện, truy tố. Bởi vì, khi xuất trình
chứng cứ các bên sẽ tự mình xem xét các yêu cầu, phản yêu cầu mà họ đưa ra có
hợp lý hay không? Các chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý mà họ viện dẫn có đủ sức
thuyết phục Tòa án, phía bên kia không? Và trong trường hợp nếu các bên thấy các
chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý mà họ đưa ra không đủ cơ sở để chứng minh cho
yêu cầu của mình thì trong nhiều trường hợp một trong các bên tự nguyện rút yêu
cầu, rút đơn khởi kiện và khi đó Tòa án có căn cứ để ra quyết định đình chỉ việc giải
quyết vụ kiện. Thông qua quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ và chứng
minh mà người phải trả lời các yêu cầu tự nhận thấy yêu cầu, các chứng cứ, lý lẽ,
căn cứ pháp lý mà phía bên kia đưa ra là đúng đắn, có cơ sở và họ thừa nhận những
chứng cứ, những yêu cầu đó. Việc các bên thừa nhận một sự kiện pháp lý, một yêu
15
cầu…mà đáng lẽ ra họ phải cung cấp cho Tòa án để làm rõ sẽ giải phóng phía bên
kia khỏi nghĩa vụ chứng minh. Tuy nhiên, việc thừa nhận yêu cầu, chứng cứ do bên
kia cung cấp cũng cần phải được Tòa án kiểm tra, xem xét để xác định việc thừa
nhận đó là có cơ sở, không bị gò ép, mua chuộc.
Quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ và chứng minh còn được hiểu
là, những chứng cứ mà các bên cung cấp trong thời gian do Thẩm phán ấn định đều
phải được Tòa án chấp nhận và đưa vào trong hồ sơ vụ kiện. Trong quá trình giải
quyết vụ kiện, mọi yêu cầu, tình tiết và chứng cứ của vụ kiện đều phải được Tòa án
nghiên cứu, đánh giá, sử dụng một cách đầy đủ, khách quan và toàn diện. Tòa án
không được coi chứng cứ của bên này hơn chứng cứ của bên kia dẫn đến không
xem xét đầy đủ các yêu cầu, lý lẽ. Việc ghi nhận đầy đủ các chứng cứ được cung
cấp cho Tòa án là sự bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bình đẳng trong việc
đưa ra chứng cứ và chứng minh đồng thời nó còn thể hiện quyền tự định đoạt của
đương sự trong việc cung cấp chứng cứ và chứng minh.
Quyền bình đẳng của đương sự trước Tòa án còn được hiểu là các bên được
biết các chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ chứng minh do các đương sự khác xuất trình
hoặc các chứng cứ do Tòa án thu thập. Thông qua việc được biết các chứng cứ, căn
cứ pháp lý, lý lẽ chứng minh này, đương sự chuẩn bị tổ chức việc biện hộ, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy, trong quá trình giải quyết vụ kiện, các
bên tham gia tố tụng phải được Tòa án cho xem xét các giấy tờ, tài liệu, vật chứng,
căn cứ pháp lý, lý lẽ chứng minh do phía bên kia xuất trình hoặc chứng cứ do Tòa
án thu thập.
Bên cạnh đó, các bên được bình đẳng trong việc tham gia tranh luận tại phiên
tòa. Việc thực hiện được quyền trình bày, tranh luận là một biện pháp tốt để các bên
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án đặc biệt trong tố tụng hình
sự khi mà những quy định của pháp luật mới cho thấy rõ ràng sự bình đẳng trong
tranh luận giữa một bên là Viện kiểm sát và một bên là bị cáo, người bào chữa,
người đại diện hợp pháp của bị cáo. Thông qua tranh luận, các chủ thể dựa vào pháp
luật, đưa ra các chứng cứ, những lập luận thuyết phục Hội đồng xét xử bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
16
1.1.4.3. Tranh tụng được các bên thực hiện trên cơ sở pháp luật, tôn trọng sự
thật khách quan, có trách nhiệm, có văn hoá ứng xử
Tòa án phải tôn trọng quyền tranh tụng của các bên tham gia tranh tụng, phải
bảo đảm cho các bên tham gia tranh tụng cũng như những người tham gia tố tụng
khác hiểu biết và đủ điều kiện thực hiện quyền tranh tụng theo quy định của pháp
luật. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia tốt tụng đều được ghi nhận trong các
quy định của pháp luật nhằm tạo ra cơ chế để buộc các bên phải thực hiện hoạt động
tranh tụng có trách nhiệm, tôn trọng sự thật và có văn hoá ứng xử. Các bên khi tham
gia tố tụng, cung cấp tài liệu chứng cứ, lời khai...đều phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về lời nói và hành vi của mình. Bên cạnh đó, Tòa án là người điều khiển
hoạt động tranh tụng, đảm bảo việc thực hiện tranh tụng của các bên được thực hiện
theo đúng pháp luật và có văn hoá. Chỉ khi các bên tham gia tố tụng thực hiện đúng
yêu cầu này thì sự thật khách quan mới được làm sáng tỏ, hoạt động tranh tụng mới
đạt được kết quả tốt nhất và Tòa án có thể đưa ra được phán quyết đúng đắn, công
bằng, công minh để bảo vệ lẽ phải, bảo vệ công lý. Tòa án chỉ được đưa ra phán
quyết dựa vào những chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ chứng minh đã được xét hỏi,
tranh luận công khai tại phiên tòa.
1.1.4.4. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho các bên được tham gia tranh
tụng
Tòa án không tham gia tranh tụng mà chỉ là trọng tài, điều khiển tranh tụng
nhưng vai trò của Tòa án hết sức quan trọng, là người tao điều kiện thuận lợi cho
các bên thực hiện quyền, trách nhiệm tranh tụng, bảo đảm tuân thủ các quy định khi
tranh tụng nhằm hướng tranh tụng diễn ra đúng hành lang pháp lý, đi đến được mục
tiêu của nó. Sở dĩ Tòa án có trách nhiệm này vì Tòa án là cơ quan thực hiện quyền
lực Nhà nước (quyền tư pháp), nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, có chức năng, thẩm quyền xét xử các vụ án đương nhiên vì thế Tòa án có
thẩm quyền đưa ra phán quyết giải quyết vụ án. Tuy nhiên, một mặt Tòa án cũng
cần phải có trách nhiệm bảo đảm cho quá trình xét xử được diễn ra một cách dân
chủ, công bằng, tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của các bên. Mặt khác, Tòa án
cũng cần phải có căn cứ khách quan để có thể đưa ra được phán quyết đúng đắn,
công bằng, hợp pháp. Chỉ có thể bảo đảm tranh tụng trong xét xử thì Tòa án mới
17
hoàn thành được sứ mạng của mình. Bảo đảm cho các bên thực hiện được tranh
tụng trong xét xử là trách nhiệm của Tòa án nhưng đó cũng là phương thức mà Tòa
án thực hiện được nhiệm vụ một cách đúng đắn và hiệu quả.
Nguyên tắc tranh tụng được thực hiện trong suốt quá trình giải quyết vụ án,
từ khi có khởi kiện hoặc truy tố, thụ lý đến xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc
thẩm, tái thẩm và thủ tục đặc biệt. Biểu hiện rõ nét nhất của nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử được thể hiện trong phiên toà sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm. Trong
quá trình đó, các bên đương sự dưới sự điều khiển của Hội đồng xét xử trực tiếp
trình bày yêu cầu, tài liệu, chứng cứ, tranh luận và đối đáp với nhau về chứng cứ,
căn cứ pháp lý, lý lẽ, lập luận để chứng minh yêu cầu của mình đối với phía bên kia
là có căn cứ và hợp pháp. Dù trong vụ án dân sự, hình sự, kinh doanh thương mại
hay hành chính...thì Hội đồng xét xử sẽ đưa ra phán quyết về việc giải quyết vụ án
dựa trên cơ sở kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
1.1.4.5. Tòa án ra phán quyết dựa trên kết quả của tranh tụng giữa các bên
Tranh tụng còn là phương thức thể hiện tính dân chủ, tiến bộ của quá trình tố
tụng, thể hiện nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền
công dân trong lĩnh vực tố tụng, do vậy nó hạn chế tối đa các sai phạm trong quá
trình giải quyết vụ việc.
Hệ quả này bắt nguồn từ việc tố tụng tranh tụng rất đề cao quyền tự đưa ra lý
lẽ, luận điểm để bảo vệ quan điểm của mình và quyền tự bào chữa của các bên. Yêu
cầu này đặt ra đối với Tòa án - người đóng vai trò trọng tài trong tranh tụng. Với tư
cách là cơ quan xét xử, Tòa án có thẩm quyền đưa ra phán quyết về vụ án nhưng
cũng với tư cách là trọng tài, người điều khiển cuộc tranh tụng giữa các bên, toà án
phải có trách nhiệm đưa ra phán quyết dựa trên cơ sở kết quả tranh tụng. Điều đó có
nghĩa phán quyết của Tòa án phải làm rõ kết quả của tranh tụng, phải chứng minh
được lý lẽ, chứng cứ của bên nào đưa ra là có sức thuyết phục với Tòa án, lý do, căn
cứ nào mà Tòa khẳng định là lý lẽ, chứng cứ đó có ý nghĩa quyết định đối với phán
quyết của Tòa án và ngược lại đối với lý lẽ, chứng cứ nào không thuyết phục được
Tòa án, căn cứ và lý do vì sao. Nói cách khác, bản án do Tòa án đưa ra không phải
là sản phẩm của ý chí chủ quan, quan điểm cá nhân của Thẩm phán hay Hội đồng
xét xử mà phải là sản phẩm của cả một quá trình xem xét, đánh giá chứng cứ, tranh
18
tụng, cọ sát, tranh đấu giữa các quan điểm của những bên đối tụng. Để đưa ra phán
quyết, Tòa án phải lập luận và chứng minh một cách đầy đủ, toàn diện, khách quan,
công bằng, có căn cứ dựa trên kết quả của cuộc tranh tụng giữa các bên tại Tòa án.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và các yếu tố bảo đảm nguyên tắc
tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân
1.2.1. Khái niệm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử
của Tòa án nhân dân
Theo từ điển Tiếng Việt, “bảo đảm” là tạo điều kiện cần thiết để thực hiện
những nguyên tắc; bảo đảm theo nghĩa chung nhất là làm cho chắc chắn thực hiện
được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết. Trong tố tụng, bảo đảm còn
được hiểu là trách nhiệm của mọi chủ thể bao gồm cả cá nhân và tổ chức phải làm
cho quyền, lợi ích của chủ thể bên kia chắc chắn được thực hiện, được giữ gìn.
Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng mở ra cơ hội cho các bên tham gia tố tụng.
Bên buộc tội, bên bào chữa, các bên đương sự đều có quyền chủ động xác định vấn
đề cần chứng minh, trên cơ sở đó có thể tự tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ cần
thiết, triệu tập nhân chứng để phản bác lại quan điểm của phía đối phương và khẳng
định lý lẽ của mình trước toà. Bất kỳ chứng cứ, lý lẽ nào được thu thập, xuất trình
tại phiên toà theo đúng trình tự pháp lý được Toà án chấp nhận sẽ là căn cứ cho
phán quyết cuối cùng mà không phân biệt do bên nào đưa ra.
Qua nhiều giai đoạn lịch sử lập pháp, đến Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức
Tòa án nhân dân năm 2014 thì nguyên tắc này mới được ghi nhận. Tranh tụng tồn
tại từ khi xuất hiện yêu cầu cho đến khi mâu thuẫn được giải quyết. Trong giai đoạn
này, chức năng tài phán thuộc về Tòa án, Tòa án được khẳng định giữ vị trí, vai trò
của người trọng tài trung lập và là cơ quan có thẩm quyền nhân danh Nhà nước thực
hiện hoạt động xét xử, lắng nghe các luận điểm của các bên và xem xét tính hợp
pháp, các giá trị chứng minh của các chứng cứ được đưa ra nhằm xác định sự thật
vụ án. Bởi vậy, Tòa án chính là chủ thể duy nhất duy trì trật tự tại phiên toà, giám
sát và điều khiển quá trình tranh tụng giữa các bên, bảo đảm sự tuân thủ pháp luật tố
tụng của tất cả các bên tham gia phiên toà, bảo đảm quá trình tranh luận diễn ra đạt
được đúng yêu cầu, mục đích của pháp luật. Với vai trò của người trọng tài có
nhiệm vụ bảo đảm sự bình đẳng được pháp luật quy định giữa các chủ thể tham gia
19
tranh tụng, tạo điều kiện cho các chủ thể làm sáng tỏ các chứng cứ, tình tiết, hành vi
để xác định sự thật khách quan của vụ án. Toà án là trọng tài, do đó, cần phải thể
hiện sự vô tư, không thiên vị, là cơ chế bảo đảm sự bình đẳng giữa các bên tham gia
tố tụng tại phiên toà, bảo đảm xác định được sự thật khách quan bởi người trọng tài
với chức năng chuyên môn là phán xét nhằm thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ lẽ
phải, bảo vệ công lý. Việc bảo đảm cơ chế xét xử của Tòa án có ý nghĩa vô cùng
quan trọng trong việc thực hiện bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên toà xét
xử; hạn chế và loại bỏ sự yếu thế của một bên nào đó cùng với sự lấn lướt của số
đông làm cho phiên toà chỉ còn mang tính hình thức, các chứng cứ được xem xét
một cách phiến diện và ảnh hưởng đến phán quyết của Toà án.
1.2.2. Đặc điểm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử
của Toà án nhân dân
Việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự có các
đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, các chủ thể tham gia tranh tụng đều có quyền xác định sự thật vụ
án theo quy định của pháp luật. Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa xét
xử sơ thẩm các vụ án hình sự không chỉ đòi hỏi bên buộc tội là Viện kiểm sát, bị hại
mà còn đòi hỏi bên gỡ tội người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng
khác cũng phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án.
Thứ hai, các bên tham gia tố tụng (buộc tội và gỡ tội) đều có quyền bình
đẳng để đưa ra chứng cứ chứng minh cho luận điểm của mình.
Thứ ba, Tòa án chỉ đóng vai trò trọng tài, độc lập và khách quan, chỉ căn cứ
vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa để đưa ra phán quyết
1.2.3. Vai trò bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của
Toà án nhân dân
Nắm bắt được vai trò quan trọng của tranh tụng, trong thời gian gần đây,
Đảng và Nhà nước ta đã khởi động công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước
pháp quyền trong bối cảnh ngày càng hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế và đời
sống pháp lý quốc tế. Nghị quyết 49-NQ/TW một lần nữa yêu cầu “Nâng cao chất
lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên
tòa xét xử, coi đây là hoạt động đột phá của các cơ quan tư pháp...”. Một vấn đề đặt
20
ra là tranh tụng được đề cập trong các văn kiện này được hiểu như thế nào cho
đúng. Có ý kiến cho rằng, cần xác định tranh tụng như một nguyên tắc của tố tụng
Việt Nam, có ý kiến đề nghị chuyển mô hình tố tụng ở nước ta sang mô hình tố tụng
tranh tụng như nhiều nước đang áp dụng trên thế giới. Tuy nhiên, trong điều kiện
của nước ta hiện nay, nên hiểu yêu cầu tăng cường tranh tụng là yêu cầu cần phải
tăng cường khả năng tranh luận dân chủ giữa các chủ thể tiến hành và tham gia tố
tụng nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm cho việc xét xử đúng
người đúng tội, đúng pháp luật. Cách hiểu này phù hợp với trình độ dân trí nói
chung, khi mà trình độ của đại bộ phận nhân dân am hiểu về pháp luật với khả năng
tự bào chữa, tranh luận còn hạn chế về nhiều mặt.
Tranh tụng bao giờ cũng gắn với hoạt động tài phán của Tòa án. Tranh tụng
là một yêu cầu khách quan, là điều kiện cần thiết để Tòa án thực hiện chức năng xét
xử của mình một cách tốt nhất. Bản án, quyết định của Tòa án về nguyên tắc phải là
chân lý. Điều này chỉ có thể xảy ra khi những nội dung của bản án phù hợp với thực
tại khách quan của vụ án. Do đó, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử đóng
vai trò cốt yếu để tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Vai trò đó được thể hiện qua
các khía cạnh sau:
Thứ nhất, tại các phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có sự tham gia đầy
đủ nhất của tất cả các chủ thể của hai bên (buộc tội, bào chữa) và các chủ thể khác
tham gia vào quá trình tố tụng. Như vậy, chỉ có tại phiên tòa, các chức năng tố tụng
cơ bản: buộc tội, gỡ tội, tài phán được phân định rõ ràng giữa bên buộc tội, bên gỡ
tội, tòa án và cũng chỉ tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, vai trò của bên
buộc tội, bên bào chữa được xác định là các bên có quyền bình đẳng với nhau trong
việc sử dụng các phương tiện mà pháp luật cho phép để thực hiện chức năng tranh
tụng. Có thể thấy rằng ở giai đoạn xét xử, nguyên tắc tranh tụng được thể hiện một
cách đầy đủ và toàn diện nhất.
Thứ hai, về bản chất, tranh tụng là một quá trình tranh luận giữa các bên về lập
luận nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án. Tranh tụng chỉ được coi là bắt đầu
khi có sự xuất hiện chức năng buộc tội và tương ứng với nó là chức năng gỡ tội. Việc
bảo đảm nguyên tắc tranh tụng thực sự mở ra một cơ hội để cho các bên (buộc tội và
gỡ tội) có một vị thế ngang nhau để tìm hiểu sự thật khách quan của vụ án và bảo vệ
21
luận điểm của mình trước Tòa. Tòa án chỉ ra phán quyết theo những chứng cứ và lý lẽ
được coi là hợp pháp và bác bỏ những chứng cứ chưa đúng và bất hợp lý.
Thứ ba, kết quả tranh tụng tại phiên tòa là cơ sở để Tòa án đưa ra các phán
quyết về tội phạm và người phạm tội. Do đó, việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử có thể hạn chế mức thấp nhất các trường hợp kết án oan, sai.
1.2.4. Yêu cầu bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của
Toà án nhân dân
Tranh tụng trong xét xử được đảm bảo là nguyên tắc mới, lần đầu tiên được
quy định là nguyên tắc riêng biệt trong Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm
2015. Quy định cụ thể hóa nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng, thể hiện rõ nét tư
tưởng đề cao tranh tụng trong hoạt động tố tụng hình sự, vấn đề này được thể hiện
thành quan điểm chỉ đạo, định hướng tư tưởng xuyên suốt trong quá trình xây dựng
và áp dụng pháp luật của các chủ thể tham gia vào hoạt động tố tụng.
Trên nền tảng nguyên tắc quy định tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm
2013 đã ghi nhận: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”, BLTTHS
năm 2015 đã bổ sung nguyên tắc “Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (Điều
26), cụ thể: “Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm
sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào
chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra
chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ
án”. Như vậy, đã khẳng định quá trình tranh tụng không chỉ tồn tại ở giai đoạn xét
xử nơi mà có sự hiện diện đầy đủ của ba bên buộc tội, gỡ tội và xét xử mà còn diễn
ra trong suốt quá trình tố tụng từ giai đoạn khởi tố đến xét xử, tạo điều kiện cho các
bên có thời gian cần thiết để thu thập các chứng cứ, tài liệu và các tình tiết của vụ án
trước khi bước vào cuộc tranh tụng tại phiên tòa. Đây là quy định mới, căn cứ pháp
lý quan trọng để đảm bảo quyền con người, quyền công dân như Hiến định.
Trên cơ sở bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2015 có các nội dung sửa đổi, bổ sung để cụ thể hóa nguyên tắc này, bảo
đảm nguyên tắc tranh tụng đầy đủ sẽ bảo vệ các quyền của người bị buộc tội, nhất
là quyền tự bào chữa, quyền nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 có quy định quyền bào chữa, chứng minh sự vô tội hoặc giảm
22
nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội, nhưng đến Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015 quy định cụ thể hơn và đảm bảo tốt hơn quyền nhờ luật sư hoặc người
khác bào chữa, nhất là quyền tự bào chữa của người bị buộc tội, bị can, bị cáo (các
Điều 60, 61). Các quy định này có ý nghĩa rất quan trọng nhằm bảo đảm quyền tự
bào chữa, bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tranh tụng tại phiên tòa của bị can,
bị cáo.
Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, điều tra viên, kiểm sát viên,
người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và
người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ,
đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Muốn cho vụ án được giải quyết một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ
thì bên buộc tội, bên gỡ tội và những người khác có quyền và lợi ích hợp pháp cần
được giải quyết trong vụ án đều phải được bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ và
đưa ra những yêu cầu. Trước đây, quyền bình đẳng trong việc đưa chứng cứ, đưa
yêu cầu của các bên liên quan trọng vụ án chỉ được thực hiện vào thời điểm tại
phiên toà.
Theo quy định hiện nay, quyền này được mở rộng cả về phạm vi quyền, thời
gian cũng như về chủ thể được hưởng quyền. Không chỉ là quyền đưa chứng cứ,
yêu cầu mà pháp luật còn quy định các chủ thể được bình đẳng ưong việc đánh giá
chứng cứ; không chi giới hạn thời điểm thực hiện quyền chỉ tại phiên toà mà quyền
bình đẳng trong việc đưa chứng cứ, yêu cầu, đánh giá chứng cứ được thực hiện
ttong suốt quá trình giải quyết vụ án; các chủ thể tranh tụng bao gồm điều tra viên,
kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người
bào chữa và người tham gia tố tụng khác.
Nguyên tắc này là cụ thể hoá nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật trong tố
tụng hình sự. Nội dung cơ bản của nguyên tắc này là bình đẳng giữa bên buộc tội và
bên gỡ tội. Họ phải được bình đẳng với nhau trong việc đưa ra chứng cứ và đánh
giá chứng cứ để chứng minh sự thật khách quan của vụ án. Dựa vào chứng cứ của
các bên đưa ra, toà án mới có thể giải quyết vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, không để lọt kẻ phạm tội, không làm oan người vô tội.
23
Bình đẳng trong việc đưa ra yêu cầu trong nguyên tắc tranh tụng trong xét
xử được bảo đảm
Ngoài việc bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ và đánh giá chứng cứ, các
bên buộc tội và gỡ tội... còn bình đẳng trong việc đưa ra yêu cầu (như yêu cầu thay
đồi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch), bình đẳng trong
việc tranh luận trước toà án.Nguyên tắc này đã xác định vị trí của toà án là ưọng tài
công minh cho các bên buộc tội và gỡ tội, tạo điều kiện cho toà án xử lí vụ án đúng
pháp luật. Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do viện kiểm sát chuyển đến toà án
để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp. Phiên toà xét xử vụ án hình sự phải có mặt đầy
đủ những người theo quy định cùa Bộ luật này, trường hợp vắng mặt phải vì lí do
bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan hoặc trường hợp khác do Bộ luật này
quy định.
Toà án có trách nhiệm tạo điều kiện cho kiểm sát viên, bị cáo, người bào
chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của
mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước tòa án.
Nguyên tắc này xác định rõ trách nhiệm của toà án trong việc bảo đảm ưanh
tụng trong xét xử. Các chủ thể cố quyền tranh tụng phải được toà án triệu tập đầy đủ
để tham gia phiên toà xét xử; toà án chỉ xét xử vắng mặt họ trong trường hợp vắng
mặt phải vì lí do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan.
Hoặc trường hợp khác do Bộ luật này quy định; toà án có trách nhiệm tạo
điều kiện cho họ thực thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và ttanh tụng dân
chủ, bình đẳng trước toà án; toà án phải nghiên cứu hồ sơ vụ án bảo đảm những tài
liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do viện kiểm sát chuyển đen toà án để xét xử phải
đầy đù và hợp pháp, làm phương tiện để chứng minh và ưanh tụng tại phiên toà.
1.2.5. Chủ thể bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của
Toà án nhân dân
Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Luật này;
Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền
thu thập, giao nộp, cung cấp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án hành
24
chính và có nghĩa vụ thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp; trình
bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp
dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu
của người khác theo quy định của Luật này. Trong quá trình xét xử, mọi tài liệu,
chứng cứ phải được xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện, công khai, trừ trường
hợp không được công khai theo quy định của Luật này. Tòa án điều hành việc tranh
tụng, hỏi những vấn đề chưa rõ và căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra bản án, quyết
định”. Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Viện kiểm
sát không tham gia tranh tụng như trong tố tụng hình sự.
Các chủ thể tranh tụng có quyền tranh tụng trong suốt quá trình Tòa án giải
quyết vụ án kể từ khi đương sự có yêu cầu và Tòa án thụ lý cho đến khi xét xử sơ
thẩm, xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm. Theo đó, các bên có quyền đưa ra yêu cầu;
có quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình; có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu
trữ, quản lý tài liệu, chứng cứ, cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình để giao nộp
cho Tòa án; có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc
các biện pháp cần thiết để bảo toàn chứng cứ trong trường hợp chứng cứ đang bị
tiêu huỷ, có nguy cơ bị tiêu huỷ hoặc sau này khó có thể thu thập được; có quyền đề
nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ việc mà tự mình không thể
thực hiện được; đề nghị Tòa án yêu cầu bên còn còn lại xuất trình tài liệu, chứng cứ
mà họ đang giữ; đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân
đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; đề nghị Tòa
án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, quyết định việc định giá tài sản;
có quyền được biết, trao đổi và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương
sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập; có quyền tham gia phiên tòa; có quyền
trình bày về các yêu cầu và chứng cứ chứng minh cho yêu cầu; có quyền hỏi những
người tham gia tố tụng khác; tranh luận về chứng cứ, trình bày quan điểm, lập luận
của mình về các tình tiết của vụ án; có quyền bác bỏ những lập luận của các bên
khác, đưa ra quan điểm của mình về hướng giải quyết vụ án; được đối chất với nhau
hoặc người làm chứng; có quyền kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm; có
25
quyền đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Đề cao
tính dân chủ, bình đẳng của các bên chính là một trong những nét khác biệt lớn nhất
của mô hình tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn.
1.2.6. Nội dung bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của
Toà án nhân dân
Tranh tụng là nguyên tắc quan trọng trong tố tụng nói chung và xét xử nói
riêng. Để đảm bảo cho nguyên tắc tranh tụng được thực hiện đầy đủ trong tố tụng
nhằm giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên tham gia tố tụng, cần thiết phải có một hệ thống các bảo đảm về pháp
lý, về tổ chức cũng như về cơ sở vật chất.
* Bảo đảm về mặt pháp lý: ghi nhận rõ nội dung và các cơ chế pháp lý đảm
bảo nguyên tắc tranh tụng tại phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hành chính theo hướng
thực chất, đảm bảo đảm dân chủ, công khai; xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của
hội đồng xét xử và quy định thủ tục tố tụng hình đẳng, đảm bảo các bên tham gia tố
tụng được xét hỏi, tranh luận một cách khách quan, công bằng và bình đẳng.
Bảo đảm pháp lý cho việc thực hiện tranh tụng tại phiên tòa bao gồm:
- Các quy định đầy đủ, hợp lý và khả thi về địa vị tố tụng của các bên tham
gia tố tụng tại phiên tòa để họ có đầy đủ điều kiện, khả năng thực hiện các nội dung
tranh tụng theo chức năng, nhiệm vụ hoặc lợi ích của mình: được chủ động thu thập
vật chứng, được xét hỏi những người tham gia tố tụng, đặc biệt là người làm chứng
trong giai đoạn điều tra, được yêu cầu cung cấp tài liệu;
- Quy định thủ tục tố tụng bình đẳng, nhất là tại phiên tòa; đảm bảo để các
bên tham gia tố tụng được xét hỏi, tranh luận một cách khách quan, công bằng và
bình đẳng; mở rộng phạm vi các vụ án có sự tham gia bắt buộc của luật sư;
- Quy định quyền khiếu nại, kháng cáo bản án, quyết định của các bên và
hiệu lực như nhau của các khiếu nại đó. Ví dụ: Viện kiểm sát và bị cáo đều phải có
quyền kháng cáo, kháng nghị như nhau đối với bản án, quyết định của Tòa án.
Pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội và bảo đảm cho các quyền
con người được thực hiện. Nhất quán với nguyên tắc tất cả vì sự tự do hạnh phúc
của nhân dân, đảm bảo cho người dân có quyền sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền
26
và lợi ích hợp pháp của mình, Nhà nước ta không ngừng hoàn thiện pháp luật, bảo
đảm tốt nhất quyền tố tụng cho đương sự.
Bảo đảm thực hiện quyền tranh tụng của đương sự phải gắn liền với sự điều
chỉnh của pháp luật. Hiệu quả của bảo đảm tranh tụng một phần được quyết định
bởi các quy định về trình tự thủ tục, nội dung, hình thức và cách thức thực hiện các
quyền tố tụng của đương sự như quyền cung cấp chứng cứ, đề nghị Tòa án thu thập
chứng cứ, tranh luận tại phiên tòa, quyền nhờ người khác bảo vệ…từ khi khởi kiện
vụ án đển chuẩn bị xét xử, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Như vậy, quy định của pháp luật là hành lang pháp lý xác định trách nhiệm của Nhà
nước trên các phương diện tôn trọng, bảo vệ và thực hiện quyền tranh tụng trong xét
xử.
* Bảo đảm về mặt tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ tư pháp:
Thứ nhất, thông qua việc hình thành các cơ quan tiến hành tố tụng, các tổ
chức bổ trợ với chức năng hợp lý phù hợp với cơ chế tranh tụng.
Thứ hai, bảo đảm về số lượng và chất lượng các tổ chức luật sư, mở rộng
phạm vi bào chữa để đảm bảo các phiên tòa có sự tham gia của người bào chữa
ngày càng nhiều; nâng cao văn hoá pháp lý trong tố tụng nói chung và tại phiên tòa
nói riêng;
Thứ ba, trình độ, nhận thức của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố
tụng, đảm bảo cho họ có đủ năng lực về chuyên môn, về phong cách, về khả năng
diễn đạt để thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa. Những trường hợp người
tham gia tranh tụng không có khả năng đó thì nhất thiết phải được sự trợ giúp của
luật sư;
Thứ tư, bảo đảm cơ sở vật chất cho quá trình tranh tụng. Vị trí của các bên tại
phiên tòa thế nào để đảm bảo không khí tố tụng bình đẳng, khách quan; tạo điều
kiện cho các bên dễ dàng tiếp xúc trong quá trình tố tụng; hệ thống âm thanh, hình
ảnh thuận tiện cho việc theo dõi tiến trình tố tụng là những điều kiện rất cần thiết
cho tranh tụng cần được nghiên cứu.
1.3. Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân
dân theo pháp luật của một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
27
Nghiên cứu nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm theo pháp luật
một số nước trên thế giới cho thấy, tuỳ thuộc vào truyền thống, lịch sử và điều kiện
kinh tế xã hội của mỗi quốc gia sẽ là một mô hình tố tụng phù hợp với định hướng
phát triển của quốc gia đó. Chúng có những điểm tương đồng và khác biệt nhất
định. Theo đó, pháp luật tố tụng luôn đề cao vai trò của các bên trong việc chứng
minh sự việc, việc dẫn dắt nêu câu hỏi và tranh luận thuộc về chủ thể giữ quyền
công tố, bị cáo, các bên đương sự và luật sư của các bên, còn Thẩm phán chỉ là
người thứ ba giữ vai trò trung gian, trọng tài và ra phán quyết sau khi theo dõi các
bên xét hỏi, đưa ra chứng cứ, người làm chứng, người liên quan tranh luận với nhau
để bảo vệ quan điểm của mình.
Ở các nước theo truyền thống pháp luật dân sự như Cộng hoà Pháp, Nga,
Trung Quốc, Nhật Bản thì áp dụng loại hình tố tụng xét hỏi. Theo đó, pháp luật tố
tụng cao vai trò chủ động của thẩm phán trong việc chứng minh sự việc. Thẩm phán
trong tố tụng xét hỏi không phải là người trọng tài mà là người điều khiển phiên tòa,
bảo đảm phiên tòa được tiến hành theo trình tự và thủ tục do pháp luật quy định.
Đối với mô hình tố tụng hỗn hợp, cụ thể tại Pháp, nguyên tắc tranh tụng là
nguyên tắc có tầm quan trọng đặc biệt trong tố tụng nói chung và tố tụng dân sự nói
riêng. Đây là nguyên tắc được ghi nhận chính thức trong Công ước châu Âu về
quyền con người, Bộ luật Tố tụng dân sự (Điều 6 Công ước châu Âu về quyền con
người và từ Điều 14 đến Điều 17 Chương 6 Bộ luật Tố tụng dân sự của Pháp), các
quy định chuyên biệt khác có liên quan, đặc biệt là án lệ. Đây là nguyên tắc nền
tảng trong tố tụng, biểu hiện cụ thể của khái niệm tiếp cận công bằng. Nguyên tắc
tranh tụng là nguyên tắc hiến định có ý nghĩa rằng, mỗi bên thực hiện tranh luận về
những tình tiết, sự kiện và những công cụ pháp lý mà đối phương của họ dựa vào đó
để phản đối họ. Nguyên tắc này cũng được nêu ra bởi một thuật ngữ la tinh Audi
alteram partem có nghĩa “miễn là bên kia cũng được biết”. Dưới góc độ Hiến pháp,
Hội đồng Bảo hiến đã tuyên bố rằng, nguyên tắc tranh tụng là một “hệ quả của
quyền được bảo vệ”, một quyền có giá trị hiến định với tư cách là “quyền cơ bản
mang đặc tính Hiến pháp” (Hội đồng Bảo hiến, ngày 13/8/1993). Hội đồng Bảo
hiến kiểm duyệt những quy định lập pháp “trái… với quyền được bảo vệ mà xuất
phát từ những nguyên tắc cơ bản được ghi nhận bởi các luật của nước cộng hòa”
28
(Hội đồng Bảo hiến, ngày 19-20/01/1981) hoặc kiểm tra những quy tắc về các con
đường kháng cáo để xem nếu những quy tắc này không có hiệu lực làm mất đi một
sự bảo đảm chủ yếu đối với quyền phòng vệ của các bên (Hội đồng Bảo hiến, ngày 23/01/1987).3
Bên cạnh những điểm khác biệt nhất định về vấn đề trao đổi chứng cứ, tài
liệu, vai trò của các bên và Thẩm phán, Bồi thẩm trong việc giải quyết vụ kiện thì
pháp luật của các nước cũng có nhiều điểm tương đồng như vấn đề quyền được
thông tin, quyền được tham gia tranh luận của các bên, vấn đề xác định mâu thuẫn,
bất đồng giữa các bên, tiến tới thu hẹp và chốt lại những điểm chính của vụ kiện mà
các bên còn chưa có sự thống nhất để tiến hành xét xử trong một phiên toà theo thể
thức tranh tụng. Xu thế hiện nay là pháp luật tố tụng của các nước có xu hướng xích
lại gần nhau, tiếp thu những ưu điểm của nhau cho phù hợp với điều kiện của mỗi
nước.
Tuy nhiên, mỗi mô hình cũng đều mang những ưu điểm và hạn chế nhất
định:
Mô hình tố tụng tranh tụng rất coi trọng quyền con người, đảm bảo quyền
bình đẳng, sự thắng hoặc thua các bên phải tranh giành nhau, hoạt động tranh tụng
được diến ra rất tự nhiên và sòng phằng. Nếu trong trường hợp bị cáo nhận tội, thì
hoạt động xét xử sẽ được chuyển sang phần nghị án và tuyên án, giảm thiểu thời
gian và công sức trong quá trình xét xử. Hạn chế của mô hình này thể hiện ở chỗ,
chức năng xét xử không được coi trọng, quyền lực của Thẩm phán, Luật sư, Công
tố viên và Bồi thẩm đoàn là như nhau. Điều này dẫn tới việc Thẩm phán sẽ rất thụ
động, kết quả của bản án phụ thuộc chủ yếu vào kết quả tranh luận, nhờ vào tài
hùng biện là cốt yếu. “Với những quy định, môi trường, cách thức tiến hành cũng
như trình tự, thủ tục như vậy, một chứng cứ thuyết phục, có khả năng quyết định
luật
(01/08/2018)
thắng thua giữa các bên liên quan đến vụ án chưa chắc đã thắng một cách lập luận logic.”4
3 Phan Thị Thu Hà, "Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự của Cộng hòa Pháp", Tạp chí Dân chủ và pháp tại địa chỉ: http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/dien-dan-cong-tac-tu- phap.aspx?ItemID=210 ngày truy cập 18/07/2018 4 Nguyễn Đức Mai, “Đặc điểm của mô hình tố tụng tranh tụng và phương hướng hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự ở Việt Nam (Kỳ 1)” tại đại chỉ: http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/296 truy cập ngày 30/07/2018
29
Mô hình tố tụng thẩm vấn có nét khác biệt rất lớn đối với mô hình tố tụng
tranh tụng: coi trọng luật nội dung hơn luật hình thức, coi trọng các chứng cứ viết
(trọng cung hơn trọng chứng). Vai trò của Tòa án được đề cao, Thẩm phán là người
vừa đưa ra quyết định điều tra vụ án, vừa phải tìm ra sự thật. Đặc biệt với những vụ
án phức tạp, sau khi điều tra sơ bộ còn xuất hiện khâu thẩm vấn do Thẩm phán,
nhưng hoàn toàn độc lập, không tham gia vào quá trình điều tra ban đầu và có
nhiệm vụ làm cho sự thật được tỏ rõ, do đó hoàn toàn khách quan. Mô hình này có
ưu điểm là khắc phục được những hạn chế của mô hình tố tụng tranh tụng tuy nhiên
vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định: vì quá tập trung quyền lực vào trong tay
thẩm phán nên đã tạo sự mất cân bằng, bao gồm cả chức năng buộc tội, hoạt động
tranh tụng có vai trò bị hạn chế đi rõ rệt. Do đặc điểm trọng cung hơn trọng chứng
nên việc xét xử diễn ra chỉ để nhằm mục đích thẩm định lại chứng cứ đã có do cơ
quan điều tra thu thập được từ trước, hệ quả là hoạt động tranh tụng bị hạn chế đi rất
nhiều.
Xét bối cảnh của Việt Nam hiện nay, sự trao đổi và tiếp thu thành tựu tố tụng
của các nước là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên, các quy định về tố tụng được
xây dựng phải đáp ứng được hai yêu cầu cơ bản là tiếp thu được những thành tựu
khoa học tố tụng của các nước phát triển nhưng phải phù hợp với điều kiện kinh tế,
xã hội của Việt Nam.
Việc tiếp nhận các yếu tố của thủ tục tố tụng tranh tụng trong pháp luật tố
tụng Việt Nam cũng đặt ra những vấn đề mà chúng ta cần giải quyết. Trong thực
tiễn, sau khi một loạt các bộ luật tố tụng mới ban hành có hiệu lực pháp luật, các
Tòa án dường như trút được một gánh nặng trong việc chứng minh làm rõ sự thật
của vụ án với quan niệm các đương sự phải tự chứng minh cho quyền lợi của mình,
nếu không tự chứng minh được sẽ bị Toà án xử bác yêu cầu. Tuy nhiên, do là một
đất nước nông nghiệp, dân trí chưa cao nên các quy định này của pháp luật tố tụng
cũng chưa thực sự phù hợp. Người dân chưa quen với việc phải tự đi thu thập các
tài liệu cần thiết để chứng minh, không có điều kiện để thuê luật sư bảo vệ.
Kết luận chương 1
Qua nghiên cứu những vấn đề lý luận về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng
trong hoạt động xét xử của TAND có thể rút ra một số kết luận sau:
30
Nguyên tắc tranh tụng là nguyên tắc quan trọng trong tố tụng mà được hầu
hết các nước trên thế giới thừa nhận, kể cả các hệ thống tố tụng tranh tụng, hay hệ
thống xét hỏi, vì trong xét hỏi vẫn có tranh tụng. Đây là nguyên tắc chung được
pháp luật Việt Nam ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Từ những nghiên cứu trên
cho thấy khái niệm, đặc điểm, vai trò của nguyên tắc tranh tụng với tính cách là một
nguyên tắc hiến pháp, một nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân
đồng thời cũng là một nguyên tắc được cụ thể hoá trong các nguyên tắc và quy định
cụ thể của các lĩnh vực pháp luật tố tụng.
Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của TAND có được
thực hiện trên thực tế hay không phải dựa vào các yếu tố như các quy định của pháp
luật về bảo đảm tranh tụng trong pháp luật tố tụng, cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt
động tranh tụng, hoạt động giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án, sự hiểu biết pháp
luật của đương sự về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng và sự hỗ trợ đương sự thực
hiện quyền tranh tụng từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Những quan điểm và phân tích được đề cập trên đây cũng chính là cơ sở
chung nhất về mặt lý luận để tác giả tiếp tục làm rõ hơn vấn đề bảo đảm nguyên tắc
tranh tụng trong hoạt động xét xử của TAND, từ đó đưa ra những quan điểm, kiến
nghị nhằm hỗ trợ cho việc thực hiện nguyên tắc trong thực tiễn.
31
Chương 2
THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN BẢO ĐẢM
NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN
DÂN TỪ TỈNH THANH HÓA
2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về bảo đảm nguyên tắc tranh
tụng trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân
2.1.1. Quy định về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử theo quy
định của Hiến pháp
Mô hình tố tụng nước ta hình thành và phát triển chịu ảnh hưởng lớn từ mô
hình tố tụng Pháp và Xô Viết (hai mô hình tố tụng vốn bắt nguồn từ truyền thống
luật Châu Âu lục địa) và đã tiếp thu đậm nét những yếu tố của mô hình tố tụng thẩm
vấn. Từ đó, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được manh nha hình thành. Mặc dù,
tại các bản Hiến pháp trước Hiến pháp 2013, chưa có bất kỳ một quy tắc hiến định
nào quy định nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, nhưng các quy định về những
nguyên tắc xét xử, xây dựng nền tư pháp dân chủ cũng như các nguyên tắc khác về
tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân... chứa đựng tinh
thần, định hướng cho các văn bản quy phạm pháp luật quy định chế độ xét xử phù
hợp với điều kiện, bối cảnh xã hội từng thời kỳ.
Thời kỳ trước Hiến pháp 1992, mô hình tố tụng nước ta thời kỳ này là mô
hình thẩm vấn. Mô hình này đặt nặng vai trò, trách nhiệm của các cơ quan tố tụng
trong suốt quá trình tố tụng. Tại phiên toà xét xử Tòa án giữ vai trò chính, làm
nhiệm vụ kiểm tra chứng cứ, tình tiết, xem các hoạt động của cơ quan điều tra trước
đó có căn cứ, đúng pháp luật hay không…Điều này có thể được minh chứng bởi các
quy định về thủ tục tố tụng tại Bắc kỳ, Trung Kỳ và Nam kỳ trong thời kỳ Pháp
thuộc được xây đựng trên cơ sở mô phỏng và giản lược các quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 1989, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994,
pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996, mặc dù quy định
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh bảo vệ quyền lợi cho mình thuộc về
đương sự nhưng vẫn khẳng định “Khi cần thiết, Tòa án có thể xác minh, thu thập
32
chứng cứ để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được chính xác”5. Mô hình tố tụng
thẩm vấn có ưu điểm là giúp cho hoạt động kiểm soát tội phạm của nhà nước đạt kết
quả khả quan. Tuy nhiên, mô hình này làm chênh lệch vai trò giữa các cơ quan tố
tụng (mang tính quyền lực nhà nước) với các bên tham gia tố tụng khác mà đặc biệt
là giữa bên buộc tội với bên gỡ tội trong tố tụng hình sự; làm hạn chế tính chủ động
của các bên tham gia tranh tụng đưa ra lập luận, chứng cứ chứng minh quan điểm
của mình mà phụ thuộc nhiều vào các câu hỏi của Hội đồng xét xử. Trong khi đó,
với mô hình tố tụng tranh tụng, tòa sẽ đóng vai trò là trọng tài với chức năng điều
khiển, giải thích luật. Tố tụng tranh tụng là kiểu tố tụng có sự phân chia rạch ròi
giữa ba chức năng: Buộc tội, bào chữa và xét xử được áp dụng tại các nước như
Anh, Mỹ, Australia...
Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được hiến định là một trong những đổi
mới đáng chú ý và là một điểm nhấn mới trong lịch sử pháp luật bởi lần đầu tiên
Hiến pháp đã ghi nhận nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử. Có thể nói đây
là một bước tiến lớn và rất phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp của Nhà nước ta
cũng như sự phát triển của nền lập hiến.
Pháp luật tố tụng Việt Nam hiện nay về cơ bản cũng được xây dựng trên cơ
sở thủ tục tố tụng xét hỏi của các nước theo hệ thống luật châu Âu lục địa như
BLTTDS mới của Pháp năm 1975 nhưng có kết hợp các yếu tố của thủ tục tố tụng
tranh tụng của các nước theo hệ thống pháp luật án lệ. Cụ thể là các bộ luật tố tụng
của Việt Nam hiện nay vẫn coi hồ sơ vụ án là tài liệu quan trọng làm cơ sở cho việc
giải quyết vụ án nhưng đề cao hơn nghĩa vụ tự chứng minh của đương sự so với các
quy định trước kia, trong trường hợp xét thấy chứng cứ trong hồ sơ chưa đủ cơ sở
để giải quyết thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ. Tòa án
chỉ tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ khi đương sự không thể tự mình thu
thập được và có yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ.
Theo pháp luật tố tụng, mặc dù Hội đồng xét xử giữ vai trò điều khiển phiên
tòa nhưng các yếu tố của thủ tục tố tụng tranh tụng được coi trọng như trong phần
xét hỏi luật sư có quyền chất vấn bên đối thủ, tranh luận với Viện kiểm sát, các
5 Xem Điều 3 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989; Điều 3, 4 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994, Điều 3 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996, Điều 5 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết vụ án hành chính năm 1996.
33
đương sự có thể đặt câu hỏi đối với nhau. Ngoài ra, các bên được biết và ghi chép,
sao chụp tài liệu, chứng cứ do các bên khác xuất trình hoặc do Toà án thu thập; tất
cả các tình tiết, chứng cứ, tài liệu dùng làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án đều
được các bên tranh tụng công khai, trực tiếp và bằng lời nói tại phiên tòa, luật sư
giữ vai trò chủ động trong quá trình tranh tụng, Tòa án không được hạn chế thời
gian tranh luận mà phải tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày
hết ý kiến của họ.
2.1.2. Quy định về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử theo các
văn bản luật tố tụng tại Việt Nam
2.1.2.1. Quy định về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án
hình sự
Sau hơn 10 năm thực hiện BLTTHS năm 2003, nhiều quy định về chứng cứ
còn bất cập, chưa phù hợp với diễn biến tình hình tội phạm, chưa thể hiện được yêu
cầu tranh tụng đã trở thành nguyên tắc Hiến định và chưa theo kịp sự phát triển của
khoa học công nghệ hiện đại, Quốc hội khoá XIII đã ban hành Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2015 (BLTTHS năm 2015) thay thế BLTTHS năm 2003, qua đó khắc phục
những bất cập trong Bộ luật này, đồng thời kịp thời thể hiện quan điểm của Đảng về
cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng tranh tụng và thể chế hoá nguyên tắc Hiến
định về tranh tụng trong tố tụng hình sự.
Theo đó, BLTTHS năm 2015 tiếp tục quy định lại các nguyên tắc cơ bản
trong TTHS như các Bộ luật trước. Bộ luật mới này đã bổ sung thêm năm nguyên
tắc mới so với Bộ luật cũ, trong đó có nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo
đảm. Với nền tảng của nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm được ghi
nhận trong Hiến pháp năm 2013, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung nguyên tắc “Tranh
tụng trong xét xử được bảo đảm” (Điều 26).
Về thời điểm bắt đầu xuất hiện tranh tụng
Trước khi nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm ra đời, trên các
diễn đàn khoa học pháp lý còn có nhiều quan điểm khác nhau về phạm vi tranh
tụng, chủ yếu là về thời điểm bắt đầu xuất hiện tranh tụng. Có ý kiến cho rằng,
phạm vi tranh tụng được bắt đầu từ giai đoạn xét xử vì chỉ trong giai đoạn này mới
có sự hiện diện đầy đủ các bên buộc tội, bên bào chữa dưới sự kiểm tra, giám sát
34
của Tòa án. Quan điểm khác cho rằng phạm vi tranh tụng được bắt đầu từ giai đoạn
trước khởi tố vì cho rằng tranh tụng là một quá trình xác định sự thật khách quan
của vụ án và quá trình này bắt đầu từ khi xác định có hay không có dấu hiệu của tội phạm6.
Việc quy định Điều 26 BLTTHS năm 2015 “Trong quá trình khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến
hành tố tụng… đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng
cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án”, BLTTHS năm 2015 đã
khẳng định quá trình tranh tụng được diễn ra trong suốt quá trình tố tụng, bắt đầu từ
giai đoạn khởi tố và xuyên suốt đến giai đoạn xét xử. Đây là quan điểm hợp lý, đã
khái quát đầy đủ quá trình tranh tụng. Theo đó, tranh tụng không chỉ tồn tại ở giai
đoạn xét xử nơi mà có sự hiện diện đầy đủ của ba bên buộc tội, gỡ tội và xét xử, mà
còn xuất hiện từ giai đoạn khởi tố vì để tiến hành được việc tranh tụng và tranh tụng
có hiệu quả, các bên cần phải có thời gian và điều kiện cần thiết để thu thập các
chứng cứ, tài liệu và các tình tiết của vụ án trước khi bước vào cuộc tranh tụng tại
phiên tòa.
Về chủ thể tham gia tranh tụng:
Chủ thể tham gia quan hệ tranh tụng bao gồm cả Điều tra viên, Kiểm sát
viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị bắt, bị tạm giữ, bị can,
bị cáo, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác. Quy định này thể hiện được
tính chất hai bên trong tranh tụng hình sự, bao gồm một bên là những chủ thể đại
diện cho Nhà nước, thực hiện chức năng buộc tội (Điều tra viên, Kiểm sát viên,
người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng) và một bên đại diện cho quyền lợi của
chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật, thực hiện chức năng gỡ tội (người bị buộc tội,
người bào chữa của họ và người tham tố tụng khác). Đây cũng chính là cơ sở đầu
tiên của tranh tụng trong xét xử.
Về cơ chế thực hiện tranh tụng
Các quy định về quyền của những người tiến hành tố tụng và tham gia tố
tụng cho thấy trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm
6 Đào Trí Úc (2011), “Tổng quan về mô hình Tố tụng hình sự Việt Nam thực trạng và phương hướng hoàn thiện”, Trường đại học Kiểm sát Hà Nội tại địa chỉ: http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/32 truy cập ngày 25/07/2020
35
sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc, người bào
chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng
cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Quy định “bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật” theo Điều 9 BLTTHS
năm 2015. Đây là một trong những điểm mới, tiến bộ nhất được ghi nhận của
BLTTHS năm 2015. Tất cả tài liệu chứng cứ liên quan đến vụ án đều phải được
xem xét, đánh giá, tranh luận làm rõ tại phiên tòa làm căn cứ cho việc xét hỏi, tranh
luận công khai, khách quan, toàn diện.
Có thể khẳng định, BLTTHS năm 2015 đã quy định một cách khá toàn diện
về nguyên tắc tranh tụng. Nguyên tắc này cùng với các quy định về quyền của
người bị buộc tội, người bào chữa, Viện kiểm sát, quyền, trách nhiệm của Tòa án,
các quy định về thủ tục tố tụng tại phiên tòa...đã tạo ra cơ chế hoàn chỉnh bảo đảm
cho các bên thực hiện tranh tụng có hiệu quả trong thực tế, góp phần loại bỏ tình
trạng làm oan, sai; bảo đảm quyền con người và tiến tới xây dựng một nền tư pháp
trong sạch, hiện đại.
2.1.2.2. Quy định về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án
dân sự
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2003 mới chỉ quy định “bảo đảm quyền tranh
luận của đương sự là một nguyên tắc của tố tụng dân sự” mà chưa chính thức quy
định “tranh tụng” là một nguyên tắc của tố tụng dân sự. Quy định này đã góp phần
bảo đảm được tính dân chủ, công khai và minh bạch trong tố tụng dân sự, đồng thời
tạo điều kiện cho các đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa
án và việc giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án được nhanh chóng và đúng đắn khi mà
các chủ thể tham gia tố tụng được thực hiện quyền tranh luận. Bởi khi đó, các tình
tiết của vụ án sẽ được làm sáng tỏ, Tòa án sẽ có đầy đủ các căn cứ để giải quyết vụ
án một cách chính xác và đúng pháp luât. Tuy nhiên, quy định này vẫn chưa thể
hiện được hết nội hàm của “tranh tụng” mà đặc biệt là về mặt chủ thể. Với đặc
điểm, nội dung tranh tụng như đã đề cập thì tranh tụng không chỉ dừng lại ở các
đương sự (nguyên đơn, bị đơn, nguời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Điều 56
BLTTDS năm 2003), nguời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (Điều
63 BLTTDS năm 2003) mà còn kể đến chủ thể tham gia tố tụng khác như: người
36
đại diện (Điều 73 BLTTDS năm 2003), họ cũng cần được đảm bảo các quyền năng
tố tụng để tham gia chứng minh. Mặc dù, nguời đại diện (đại diện theo pháp luật
hoặc theo ủy quyền) xem như được thực hiện các quyền, nghĩa vụ của đương sự mà
mình đại diện, nhưng không vì vậy mà lại không coi họ là chủ thể tranh tụng, trong
khi đó họ được luật quy định về địa vị pháp lý của mình (từ Điều 73 đến Điều 78
BLTTDS năm 2003) và là người trực tiếp tham gia tranh luận trong tố tụng. Đó là
lý do vì sao các trường hợp mà chủ thể là người khởi kiện (không phải là nguyên
đơn) để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác (theo khoản 1, 2 Điều 162
BLTTDS năm 2003; khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP) mà luật
quy định là nguời đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự của nguời được bảo
vệ đó (Điều 73 BLTTDS năm 2003); với tư cách tham gia tố tụng này thì mặc nhiên
họ được xem là chủ thể tranh tụng.
Bên cạnh đó, theo quy định về thủ tục tố tụng tại phiên tòa, thì “tranh luận”
là một phần của tố tụng phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm xét xử vụ án dân sự được tiến
hành sau khi kết thúc phần xét hỏi. Trước khi xét hỏi và trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử, thì về nguyên tắc, việc cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình thuộc về các bên đương sự. Tuy nhiên, không
phải lúc nào đương sự cũng có được chứng cứ để nộp cho Tòa án vì nhiều lý do
khác nhau cho nên Tòa án phải có nhiệm vụ hỗ trợ đương sự trong việc thu thập
chứng cứ bằng cách tiến hành một hoặc một số biện pháp sau đây để thu thập tài
liệu, chứng cứ: lấy lời khai của đương sự, người làm chứng; đối chất giữa các
đương sự với nhau, giữa các đương sự với người làm chứng; trưng cầu giám định;
quyết định định giá tài sản, yêu cầu thẩm định giá tài sản; xem xét, thẩm định tại
chỗ; ủy thác thu thập, xác minh tài liệu, chứng cứ; yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ
chức cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan
đến việc giải quyết vụ việc dân sự. Như vậy, mặc dù pháp luật có ghi nhận đương
sự có quyền “yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý tài liệu,
chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Tòa án”; Tòa án
(Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án) có quyền “yêu cầu cá nhân, cơ quan,
tổ chức cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên
quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự” nhưng vẫn chưa có cơ chế, chế tài hữu
37
hiệu để thực hiện quyền của đương sự cũng như của Tòa án. Pháp luật tố tụng dân
sự cũng chưa có quy định về vấn đề đồng thời với việc nộp chứng cứ cho Tòa án,
đương sự phải thông báo cho đương sự khác có liên quan trong vụ án; Tòa án phải
định kỳ thông báo cho đương sự còn lại biết kết quả của việc thu thập chứng cứ để
nghiên cứu, quyết định định đoạt vụ kiện để đảm bảo điều kiện cho các bên có sự
chuẩn bị tốt nhất cho hoạt động tranh tụng tại tòa.
Tại phiên tòa, theo quy định tại Điều 222 BLTTDS năm 2003, thì thứ tự hỏi
được quy định như sau:“Sau khi nghe xong lời trình bày của đương sự, việc hỏi
từng người về từng vấn đề được thực hiện theo thứ tự chủ tọa phiên tòa hỏi trước
rồi đến Hội thẩm nhân dân, sau đó đến người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự và những người tham gia tố tụng khác; trường hợp có Kiểm sát viên tham
gia phiên tòa thì Kiểm sát viên hỏi sau đương sự”. Đến phần tranh luận, thì nguyên
đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là những những người có quyền
tranh luận. Trường hợp đương sự nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền tranh
luận. Khi đó, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phát biểu tranh
luận sau đó đương sự bổ sung ý kiến theo thứ tự:
Trước tiên là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn phát
biểu. Nguyên đơn có quyền bổ sung ý kiến. Người có quyền và lợi ích được bảo vệ
có quyền bổ sung ý kiến; tiếp theo là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị
đơn phát biểu. Hội đồng xét xử phải xem Điều 85 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2003
xét toàn bộ, không được xem nhẹ chứng cứ nào đuợc thu thập và kiểm tra tại phiên
toà; cân nhắc các quan điểm khác nhau về áp dụng pháp luạt, về đánh giá thực chất
vụ án để ra phán quyết đúng đắn, khách quan, hợp pháp. Tuy nhiên, phần tranh luận
tại phiên tòa chỉ được tiến hành sau khi xét hỏi đã là rõ tất cả các vấn đề phải giải
quyết trong vụ án dân sự cho nên đến phần tranh luận, đương sự không còn gì để
nói. Với trình tự xét hỏi như quy định của BLTTDS năm 2003, thì quyền chủ động
xét hỏi thuộc về Tòa án (Hội đồng xét xử). Kiểm sát viên tham gia phiên tòa để
kiểm sát sự tuân theo pháp luật của Tòa án và những người tham gia tố tụng nhưng
vẫn có quyền xét hỏi (BLTTDS năm 2003 chỉ quy định trường hợp Kiểm sát viên
hỏi đương sự khi tham gia phiên tòa nhưng không quy định là không được hỏi về
38
nội dung vụ kiện). Do vậy, không loại trừ trường hợp Thẩm phán, Hội thẩm và
Kiểm sát viên đặt những câu hỏi nhằm tìm câu trả lời của đương sự phục vụ cho
việc giải quyết vụ án theo sự thiên vị của mình.
Những quy định về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa từ Điều 217 đến Điều 231
BLTTDS năm 2003 cho thấy sau khi xét hỏi, nội dung vụ án đã được làm sáng tỏ
Ví dụ: Điều 221 quy định về nghe lời trình bày của đương sự theo trình tự các bên
trình bày yêu cầu, đề nghị của mình và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề
nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. Đồng thời, quá trình hỏi sẽ kết hợp với việc công
bố các tài liệu của vụ án; nghe băng, đĩa ghi hình; xem xét vật chứng; hỏi người
giám định. Bằng quy định này, qua trình bày của đương sự trong phần xét hỏi, nội
dung vụ án không những đã đầy đủ, rõ ràng, sáng tỏ mà các bên đương sự cũng đã
có dịp đối đáp với những nội dung trình bày của nhau. Như vậy, với quy định của
BLTTDS, thì qua phần xét hỏi, nội dung vụ án đã đầy đủ nên phần tranh luận không
còn nội dung và chỉ là sự lặp lại những nội dung đã trình bày ở phần xét hỏi. Mặt
khác, như đã trình bày, việc tranh luận tại phiên tòa cũng chỉ được tiến hành sau khi
xét hỏi. Có những vụ án dân sự, việc xét hỏi được thực hiện trong một thời gian dài
(một buổi, một hoặc vài ngày) đến nỗi khi đến thời điểm tranh luận thì đương sự lại
quên mất những nội dung và kết quả xét hỏi từng vấn đề vì họ không phải là những
người am hiểu về luật. Cùng với việc ban hành BLTTDS năm 2004, Luật sửa đổi bổ
sung một số điều của BLTTDS năm 2011 và các văn bản hướng dẫn thi hành, pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam cũng đã tương đối hoàn thiện.
Đến Hiến pháp năm 2013, pháp luật Việt Nam nói chung và luật tố tụng dân
sự Việt Nam nói riêng đã tiến một bước đi rất quan trọng mang tính đột phá trong
tiến trình cải cách tư pháp đó là việc lần đầu tiên nguyên tắc bảo đảm tranh tụng
trong xét xử được ghi nhận trong Hiến pháp. Đây được coi là nguyên tắc rất quan
trọng đồng thời là nguyên tắc bảo vệ quyền con người trong hoạt động tố tụng dân
sự. Nếu như trước đây BLTTDS năm 2004 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
BLTTDS mới chỉ quy định nguyên tắc bảo đảm quyền tranh luận trong tố tụng dân
sự (Điều 23a Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2003) và có
những quy định mang sắc thái của tranh tụng, bước đầu có sự bảo đảm quyền tranh
luận trong tố tụng dân sự. BLTTDS năm 2015 được ban hành đã ghi nhận nguyên
39
tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử tại Điều 24. Đồng thời BLTTDS năm 2015 có
những điều luật quy định trực tiếp về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng.
Nội dung của khoản 1 Điều 24 BLTTDS năm 2015 đã bổ sung thêm quy
định “Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật này”. Trước đó, BLTTDS
2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 chỉ quy định chung tại điều 23a là “Trong quá trình
giải quyết các vụ án dân sự, Tòa án bảo đảm để các bên đương sự và người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh luận để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự”. Mặc dù, chỉ thay thế từ “tranh tụng” cho “tranh
luận” nhưng đã tạo ra một sự thay đổi lớn mang ý nghĩa cao về mặt pháp lý và
mang dấu ấn tinh thần tuân thủ nguyên tắc được ghi nhận trong Hiến pháp năm
2013.
Ngoài ra, Điều 24 BLTTDS năm 2015 đã quy định bổ sung mới khoản 2, 3
quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự cũng như việc xem xét, đánh giá các tài liệu chứng cứ tạo
điều kiện, cơ sở cho việc đảm bảo cho hoạt động tranh tụng trong xét xử được diễn
ra công khai, công bằng, bình đẳng và phù hợp với quy định pháp luật.
Như vậy, có thể thấy BLTTDS năm 2015 sửa đổi, bổ sung nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử góp phần thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta về cải cách
tư pháp trong hoạt động xét xử của Tòa án nhằm bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
2.1.2.3. Quy định về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án
hành chính
Luật Tố tụng hành chính năm 2010 (LTTHC năm 2010) được đánh giá là
một trong những đạo luật quan trọng góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ
sở pháp lý đầy đủ hơn để Toà án nhân dân giải quyết các khiếu kiện hành chính có
hiệu quả, góp phần bảo vệ tốt hơn các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan,
tổ chức; bảo vệ lợi ích của Nhà nước. Tuy nhiên, vấn đề bảo đảm tranh tụng chưa
được cụ thể hóa trong LTTHC năm 2010 nên nội hàm của “tranh tụng” chưa được
40
làm rõ; quyền, nghĩa vụ của những người tham gia tranh tụng còn chưa đầy đủ;
phạm vi tranh tụng, trách nhiệm của Tòa án, Thẩm phán và Hội thẩm trong việc bảo
đảm quyền tranh tụng không được quy định cụ thể.
Luật TTHC năm 2010 cũng không quy định về nguyên tắc tranh tụng mà
mới chỉ tiếp cận khái niệm tranh luận qua điều luật quy định về trình tự phát biểu
khi tranh luận (Điều 158). Các nội dung của nguyên tắc tranh tụng không rõ ràng,
quyền được biết và trình bày ý kiến về yêu cầu, chứng cứ của người tham gia tố
tụng chưa được đảm bảo; nghĩa vụ của Tòa án chưa được quy định phù hợp để bảo
đảm việc thực hiện quyền tranh tụng của đương sự bình đẳng, công khai và đúng
pháp luật. Thực tế hoạt động xét xử cho thấy tại hầu hết các Tòa án, quá trình tố
tụng vẫn diễn ra chủ yếu theo mô hình tố tụng xét hỏi. Không ít phiên tòa, Hội đồng
xét xử hạn chế thời gian tranh luận của các bên đương sự…; do đó, công tác xét xử
các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân theo quy định của LTTHC năm 2010
chưa đáp ứng được sự mong đợi của người dân và xã hội, ảnh hưởng đến việc bảo
vệ các quyền, lợi ích chính đáng của cơ quan, tổ chức, cá nhân cũng như ảnh hưởng
đến chất lượng giải quyết các vụ án hành chính của toà án nhân dân. Tranh tụng
được vận dụng trong xét xử án hành chính chưa mang lại hiệu quả cao và chưa đáp
ứng được yêu cầu cải cách tư pháp đã đề ra.
So với LTTHC năm 2010, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (LTTHC năm
2015) đã bổ sung các quy định để cụ thể hoá nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
được bảo đảm được quy định tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013.
Nội dung của Điều 18 LTTHC năm 2015 về bảo đảm tranh tụng trong xét xử
cũng quy định rõ Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử tương tự
như nội dung về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử tại Điều 24 BLTTDS
năm 2015. LTTHC năm 2015 đã bổ sung quyền, nghĩa vụ của đương sự trong việc
thu thập tài liệu, chứng cứ; bổ sung quy định trách nhiệm của Toà án trong việc hỗ
trợ đương sự thu thập, tiếp cận, trao đổi tài liệu, chứng cứ, tạo điều kiện thuận lợi
cho đương sự thực hiện quyền tranh tụng, như: đề nghị Tòa án buộc bên đương sự
khác xuất trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang lưu giữ, quản lý; đề nghị Tòa án ra
quyết định buộc cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý chứng cứ cung cấp
41
chứng cứ... (Điều 93); Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập tài
liệu, chứng cứ và tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ...(Điều 84); đương sự có
quyền được biết, ghi chép, sao chụp, trao đổi tài liệu, chứng cứ do đương sự khác
giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập được, trừ chứng cứ có liên quan đến bí
mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh
doanh, bí mật cá nhân; khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì
trong thời hạn 05 ngày làm việc họ phải thông báo cho đương sự khác biết về việc
họ đã giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án để đương sự khác liên hệ với Tòa án
thực hiện quyền tiếp cận tài liệu, chứng cứ; trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ
ngày Tòa án thu thập được tài liệu, chứng cứ thì Tòa án phải thông báo cho đương
sự biết để họ thực hiện quyền tiếp cận tài liệu, chứng cứ (Điều 98).
Để làm rõ hơn sự đổi mới trong quy định pháp luật tố tụng hành chính, tạo
cơ sở pháp lý để nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm, tác giả sẽ phân
tích qua một số đặc trưng của tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính như
sau:
Thứ nhất, chủ thể tranh tụng chỉ bao gồm đương sự, người đại diện của
đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự:
Tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính, chủ thể của tranh tụng là các bên
trong vụ án - là người khởi kiện và người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan. Các bên đều được bình đẳng, chủ động và công khai đưa ra chứng cứ, căn cứ
pháp lý, lập luận và đối đáp để chứng minh, biện luận nhằm bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình trước Tòa án theo những trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng
hành chính quy định. Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng điều hành, giám sát quá
trình tranh tụng mà không tranh tụng với các bên đương sự, Tòa án sử dụng kết quả
tranh tụng để giải quyết vụ án hành chính một cách khách quan, công bằng, đúng
pháp luật.
Thứ hai, về phạm vi tranh tụng là các vấn đề cần làm rõ để xác định sự thật
khách quan của vụ án:
Các vấn đề cần làm rõ có thể là chứng cứ, tình tiết của vụ án, quan hệ pháp
luật tranh chấp và pháp luật áp dụng để giải quyết yêu cầu của đương sự trong vụ án
hoặc những vấn đề mâu thuẫn, chưa thống nhất giữa các đương sự cần được Tòa án
42
phân xử. Việc tranh tụng bắt đầu từ khi Tòa án thụ lý vụ án, các bên đương sự có
quyền thu thập, giao nộp, cung cấp tài liệu, chứng cứ và nghĩa vụ thông báo cho
nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp. Việc tranh tụng kết thúc khi vụ án đã được
giải quyết. Như vậy, phạm vi tranh tụng là giới hạn tất cả các vấn đề mà các bên
tham gia tranh tụng cần làm rõ bằng các chứng cứ, tài liệu, căn cứ pháp lý, lập luận
để Hội đồng xét xử có thể nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, chính xác nhất
sự thật của vụ án hành chính.
Thứ ba, nội dung và phương thức tranh tụng:
Một số quy định mới nhằm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa hành
chính được thể hiện cụ thể trong LTTHC năm 2015 như: Điều 175 đã quy định rõ
nội dung và phương thức tranh tụng tại phiên tòa. Với phương thức này, các đương
sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đều được bình đẳng, chủ
động và công khai đưa ra chứng cứ, căn cứ pháp lý, lập luận và đối đáp với nhau để
làm rõ sự thật khách quan của vụ án hành chính. Tòa án phải sử dụng kết quả tranh
tụng giữa các bên đương sự để giải quyết vụ án hành chính một cách khách quan,
công bằng và đúng pháp luật. Đây là một phương thức bảo đảm dân chủ và công
bằng trong tố tụng hành chính.
So với trước đây, quy định về trình tự xét hỏi quy định tại Điều 171 LTTHC
năm 2015 có sự thay đổi tích cực và hợp lý hơn tạo sự chủ động trong việc hỏi để
khai thác các chứng cứ, tránh sự áp đặt ý chí của Tòa án.
Luật tố tụng hành chính năm 2015 cũng quy định điểm đ khoản 1 Điều 187
cho các bên đương sự sử dụng quyền tự quyết của mình đó là “các bên đương sự có
quyền đề nghị Toà án tạm ngưng phiên toà để các bên đương sự tự đối thoại”. Như
vậy, trong phiên toà ở giai đoạn hỏi mà các bên đương sự trong quá trình hỏi thấy
đuợc rõ bản chất của vụ án và nhận định việc đúng sai trong yêu cầu khởi kiện và có
thể đi đến đuợc việc đối thoại thành giữa các bên thì trong giai đoạn này pháp luật
tạo điều kiện cho các bên đương sự được đối thoại giải quyết vụ án với nhau và việc
tạm ngưng phiên toà phải đuợc hội đồng xét xử đồng ý. Quy phạm pháp luật trên
mang nội hàm nguyên tắc tranh tụng rất rõ nét đó là đảm bảo cho đương sự thực
hiện được các quyền của mình một cách tốt nhất trong quá trình xét xử vụ án hành
chính. Bên cạnh đó, khoản 19 Điều 55 LTTHC năm 2015 còn quy định thêm việc
43
đương sự có quyền “đưa ra câu hỏi với người khác về vấn đề có liên quan đến vụ án
hoặc đề xuất với Tòa án những vấn đề cần hỏi với người khác; được đối chất với
nhau hoặc với người làm chứng”.
Thứ tư, ý nghĩa của tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính Trước
hết, việc quy định rõ nội dung và phương thức tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ
án hành chính bảo đảm cho đương sự được bình đẳng bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình trước Tòa án, từ đó, góp phần cho việc ra các bản án, quyết định của
Tòa án khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm
vụ án hành chính còn thể hiện rõ tính chất dân chủ, công khai và minh bạch trong
việc giải quyết tranh chấp hành chính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
tổ chức, củng cố lòng tin của người dân, nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý hành
chính. Như vậy, việc bổ sung các quy định trên đã cụ thể hoá nguyên tắc hiến định,
đảm bảo cơ chế thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. Những
quy định đó đã xác định rõ và đầy đủ hơn quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham
gia tranh tụng, đảm bảo cho đương sự quyền và nghĩa vụ chứng minh để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án.
Như vậy, qua xem xét pháp luật tố tụng trước năm 2013, có thể nhận thấy,
nguyên tắc bảo đảm trong xét chưa được ghi nhận trực tiếp trong các bản Hiến
pháp, trong các văn bản pháp luật tố tụng. Điều này là nguyên nhân dẫn đến thực
tiễn hoạt động chưa phát huy hiệu quả. Vấn đề bảo đảm tranh tụng chưa được nhìn
nhận với “vị thế” đúng đắn của nó trong hoạt động tư pháp. Tuy không đề cập trực
tiếp đến nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử nhưng các văn bản pháp luật
trước Hiến pháp năm 2013 đã “manh nha” ghi nhận những tiền đề, liên quan đến
vấn đề bảo đảm tranh tụng. Đến Hiến pháp năm 2013 và các bộ luật tố tụng hiện
hành thì chế định này lần đầu tiên được ghi nhận một cách chính thức; khắc phục
những khuyết điểm, hạn chế của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trước đấy và
tạo tiền đề “nâng tầm” hoạt động tranh tụng trong thực tiễn xét xử ở nước ta.
2.1.2.4. Các văn bản pháp luật khác
Bên cạnh các bộ luật tố tụng, cũng có các văn bản pháp luật, dưới luật khác
ghi nhận các quy định cho thấy sự hỗ trợ trong việc thực hiện bảo đảm nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử theo tinh thần của Hiến pháp. Điển hình trong số đó là quy
44
định về sơ đồ, vị trí chỗ ngồi trong phiên toà xét xử vụ án hình sự, dân sự, hành
chính...có sự đổi mới so với trước đây, thể hiện sự bình đẳng về địa vị pháp lý trong
tranh tụng giữa các bên tranh tụng trong quá trình xét xử. Theo đó, vị trí ngồi của
những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đều có sự thay đổi
thể hiện đúng địa vị pháp lý, đặc điểm và vai trò tham gia tranh tụng của họ. Trong
tất cả các phiên toà, vị trí của Thư ký phiên toà và Kiếm sát viên tách khỏi khu vực
của Hội đồng xét xử và cùng khu vực với những người tham gia tố tụng khác. Sự
thay đổi này cho thấy địa vị pháp lý trong xét xử của Hội đồng xét xử được nâng
lên, giữ vị trí trung tâm, mang tính quyền lực độc lập, làm "chủ" điều hành và bao
quát toàn bộ phiên toà. Vị trí ngồi ngang hàng, đối lập nhau, ở hai phía so với vị trí
trung tâm (Hội đồng xét xử) của các bên đương sự trong phiên toà dân sự, hành
chính hay bên buộc tội (Viện kiểm sát) và bên gỡ tội (bị cáo, người bào chữa) trong
phiên toà hình sự, là biểu hiệu rõ nét cho sự đối trọng, bình đẳng giữa các bên trong
tranh tụng. Quy định như vậy, phần nào gạt bỏ được tâm thế e ngại khi tham gia tố
tụng nhất là trong tố tụng hình sự và hành chính khi cho rằng ý kiến của các cơ
quan nhà nước, các tổ chức, đoàn thể là chủ thể trong tố tụng (Viện kiểm sát, cơ
quan hành chính Nhà nước...) được Hội đồng xét xử coi trọng hơn, có tầm ảnh
hưởng lớn hơn trong tranh tụng.
2.2. Thực tiễn bảo đảm tranh tụng trong xét xử các loại án của Tòa án
nhân dân từ tỉnh Thanh Hóa
2.2.1. Khái quát về tình hình xét xử của Tòa án nhân dân từ tỉnh Thanh
Hóa
Trong giai đoạn 2016 - 2020, Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Thanh Hóa đã thụ
lý 51.107 vụ việc các loại (gồm: các vụ án hình sự; các vụ việc dân sự; các vụ án
hành chính và việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án), so với đầu
nhiệm kỳ tăng 46,6% (3.999 vụ việc); đã giải quyết 45.047 vụ việc các loại, đạt tỷ lệ
chung 88,1%. Kết quả giải quyết, xét xử đối với từng loại vụ việc cụ thể như sau:
2.2.1.1. Các vụ án hình sự
Tổng số vụ án hình sự Tòa án hai cấp phải giải quyết là 12.062 vụ, 23.084 bị
cáo (sơ thẩm 10.519 vụ 20.508 bị cáo; phúc thẩm 1.548 vụ 2.576 bị cáo); đã giải
quyết, xét xử 10.905 vụ, 20.503 bị cáo, tỷ lệ giải quyết đạt 90 % về số vụ. Trong đó:
45
- Cấp tỉnh thụ lý sơ thẩm và phúc thẩm 2.165 vụ, 4.168 bị cáo; đã giải quyết
1.927 vụ, 3.548 bị cáo, tỷ lệ giải quyết đạt 89%.
- Cấp huyện thụ lý 9.897 vụ, 18.916 cáo; đã giải quyết 8.978 vụ, 16.955 bị
cáo, tỷ lệ giải quyết đạt 90,7% về số vụ.
Hai cấp Tòa án tỉnh Thanh Hóa trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung 80 vụ,
trong đó được chấp nhận 70 hồ sơ = 87,5%, không chấp nhận 10 vụ = 12,5 (số vụ
không chấp nhận chủ yếu là do thực hiện Công văn số 234/TANDTC-HS, ngày
17/9/2014 của TAND tối cao về về việc yêu cầu xác định hàm lượng ma túy), về cơ
bản quan điểm của Tòa án và Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án là
thống nhất về áp dụng pháp luật.
Thống kê các vụ án hình sự đã thụ lý cho thấy tình hình tội phạm tập trung
chủ yếu vào các loại tội về ma tuý (2.821 vụ), chiếm tỷ lệ 28,6%; trộm cắp tài sản
(2.206 vụ), chiếm tỷ lệ 20,9%; đánh bạc (1.698 vụ), chiếm tỷ lệ 16,1 %; cố ý gây
thương tích (930 vụ), chiếm tỷ lệ 8,8%... Nhiệm kỳ qua, Tòa án nhân dân hai cấp đã
xét xử 30 vụ 101 bị cáo phạm các tội về tham nhũng, tội phạm tập trung chủ yếu ở
lĩnh vực liên quan đến quản lý, sử dụng đất đai.
Tòa án thường xuyên phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
trong việc đẩy nhanh tiến độ điều tra, truy tố, kịp thời đưa ra xét xử các vụ án tham
nhũng, vụ án kinh tế phục vụ nhiệm vụ chính trị địa phương. Việc áp dụng các biện
pháp tạm giữ, kê biên tài sản, thu hồi và xử lý tài sản trong các vụ án tham nhũng,
vụ án kinh tế ngay ở giai đoạn điều tra luôn được Lãnh đạo các cơ quan tư pháp cấp
tỉnh quan tâm chỉ đạo thực hiện, do đó nhiều vụ án tài sản của Nhà nước bị thất
thoát, chiếm đoạt đã được thu hồi ngay từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử hạn chế
được việc tẩu tán tài sản tham nhũng. Không có trường hợp nào xét xử oan, không
bỏ lọt tội phạm. Việc xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ
được Hội đồng xét xử xem xét, cân nhắc kỹ lưỡng, đảm bảo đúng quy định của
BLHS và hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao. Tòa án nhân dân hai
cấp luôn chú trọng việc tranh tụng tại phiên tòa theo hướng thực chất, hiệu quả,
không hạn chế thời gian tranh tụng, trên cơ sở kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử
đưa ra các phán quyết đúng pháp luật, được dư luận xã hội ủng hộ.
46
Trong quá trình xét xử Tòa án luôn chú trọng việc tuyên truyền, giáo dục ý
thức pháp luật cho quần chúng nhân dân, theo đó lịch xét xét xử các vụ án về kinh
tế, chức vụ gửi cho cơ quan báo chí và đài phát thanh để phối hợp đưa tin; khi tổ
chức phiên tòa xét xử lưu động phối hợp chặt chẽ với cơ quan báo, đài địa phương
để đưa tin về kết quả xét xử; tạo điều kiện tốt nhất để các phóng viên tham dự phiên
tòa điển hình, phiên tòa xét xử các vụ án tham nhũng, chức vụ, vụ án kinh tế lớn, vụ
án dư luận xã hội quan tâm, bảo đảm thông tin nhanh, kịp thời, chính xác. Thông
qua hoạt động xét xử mỗi Thẩm phán là một tuyên truyền viên, góp phần đưa chính
sách, pháp luật của Đảng, của Nhà nước vào cuộc sống; trong tiếp công dân, cán bộ
tiếp công dân thường xuyên cập nhật thông tin mới về phòng chống tham nhũng, để
lồng ghép việc phổ biến, giáo dục pháp luật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; các
thủ tục khởi kiện đều phải được niêm yết công khai tại trụ sở để tổ chức, công dân
nắm rõ quy định của pháp luật.
2.2.1.2. Các vụ án dân sự
Tòa án nhân dân hai cấp thụ lý 7.461 vụ việc về dân sự (sơ thẩm 6.812 vụ
việc; phúc thẩm 649 vụ việc); đã giải quyết, xét xử 5.616 vụ việc, đạt 92,6% (vượt
chỉ tiêu 75,2%). Cụ thể:
+ Cấp tỉnh: Thụ lý 938 vụ, việc; đã giải quyết, xét xử 684 vụ việc, đạt tỷ lệ
72,9%.
+ Cấp huyện: Thụ lý 6.523 vụ, việc; đã giải quyết, xét xử 4.932 vụ việc; đạt
tỷ lệ 75,6%.
- Giải quyết, xét xử các vụ, việc hôn nhân và gia đình:
Tòa án nhân dân hai cấp thụ lý 30.376 vụ việc về dân sự (sơ thẩm 30.061 vụ
việc; phúc thẩm 315 vụ việc); đã giải quyết, xét xử 27.580 vụ việc, đạt 90,7%.
Trong đó:
+ Cấp tỉnh: Thụ lý 452 vụ, việc; đã giải quyết, xét xử 392 vụ việc, đạt tỷ lệ
86,7%. Trong đó:
+ Cấp huyện: Thụ lý 29.924 vụ, việc; đã giải quyết, xét xử 27.188 vụ việc;
đạt tỷ lệ 90,8%.
- Giải quyết, xét xử các vụ, việc kinh doanh thương mại:
47
Tòa án nhân dân hai cấp thụ lý 1.117 vụ việc về kinh doanh thương mại(sơ
thẩm 1.008 vụ việc; phúc thẩm 109 vụ việc); đã giải quyết, xét xử 862 vụ việc, đạt
77,1%. Trong đó:
+ Cấp tỉnh: Thụ lý 160 vụ, việc; đã giải quyết, xét xử 120 vụ việc, đạt tỷ lệ
77%. Trong đó:
+ Cấp huyện: Thụ lý 957 vụ, việc; đã giải quyết, xét xử 742 vụ việc; đạt tỷ lệ
77,5%.
- Về án lao động:
Tòa án nhân dân hai cấp thụ lý 67 vụ (sơ thẩm 62 vụ; phúc thẩm 05 vụ); đã
giải quyết, xét xử 60 vụ, đạt 89%. Trong đó:
+ Cấp tỉnh: Thụ lý 11 vụ, việc; đã giải quyết, xét xử 9 vụ việc, đạt tỷ lệ 81%.
+ Cấp huyện: Thụ lý 56 vụ, việc; đã giải quyết, xét xử 51 vụ việc; đạt tỷ lệ
91%.
Trong quá trình giải quyết, Tòa án nhân dân hai cấp đã chú trọng và làm tốt
việc hướng dẫn các đương sự thực hiện đúng nghĩa vụ về cung cấp chứng cứ, tài
liệu của vụ án; đồng thời, chủ động xác minh, thu thập chứng cứ trong những
trường hợp cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng; tăng cường phối hợp với
các cơ quan hữu quan nhằm giải quyết tốt vụ án. Công tác hòa giải tiếp tục được
chú trọng và thực hiện có hiệu quả, các vụ, việc Tòa án không phải đưa ra xét xử là
25.968 vụ việc, chiếm tỉ lệ 76%, trong đó: Đình chỉ 6.802 vụ việc (đình chỉ do hòa
giải thành 1.149 vụ việc; đình chỉ lý do khác 5.653 vụ việc); công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự 19.259 vụ việc (hôn nhân và gia đình 17.994 vụ, việc; dân
sự 1.217 vụ việc; kinh doanh thương mại 48 vụ việc), qua đó góp phần giải quyết
nhanh chóng vụ án, đồng thời củng cố mối đoàn kết trong nội bộ nhân dân.
2.2.1.3. Các vụ án hành chính
Tòa án hai cấp thụ lý 682 vụ (sơ thẩm 644 vụ, phúc thẩm 38 vụ). Đã giải
quyết 470 vụ; tỷ lệ giải quyết 68,9,1%. Trong đó:
+ Cấp tỉnh: Thụ lý 626 vụ, việc; đã giải quyết, xét xử 419 vụ việc, đạt tỷ lệ
66,9%.
+ Cấp huyện: Thụ lý 56 vụ, việc; đã giải quyết, xét xử 51 vụ việc; đạt tỷ lệ
91%.
48
Qua số liệu thống kê cho thấy đối tượng khởi kiện các vụ án hành chính tại
Tòa án chủ yếu là các Quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND và của
Chủ tịch UBND các cấp về quản lý đất đai (584 vụ chiếm 85,6%), gồm: Yêu cầu
hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Quyết định phê duyệt bồi thường, hỗ trợ
khi nhà nước thu hồi đất; Quyết định cưỡng chế; Quyết định giải quyết khiếu nại
trong lĩnh vực đất đai...
Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Tòa án luôn chú trọng việc tổ
chức đối thoại, qua đó đã đình chỉ 120 vụ = 25,5% (đình chỉ thông qua đối thoại 14
vụ; đình chỉ do đương sự rút đơn 106 vụ); Tòa án đã phối hợp tốt với các cơ quan
có liên quan để xây dựng hồ sơ vụ án, thu thập đầy đủ chứng cứ cần thiết để đảm
bảo giải quyết vụ án đúng quy định của pháp luật, không để án quá thời hạn xét xử;
chất lượng xét xử ngày càng được nâng lên; tỷ lệ bản án bị hủy do lỗi chủ quan
không có.
Tòa án nhân dân hai cấp thụ lý 1.174 hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý
hành chính (cấp huyện 1.169 hồ sơ; cấp tỉnh phúc thẩm 05 hồ sơ); đã giải quyết
1.156 hồ sơ, đạt tỷ lệ giải quyết 98%.
Hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đều được các Tòa án
chủ động phối hợp với các cơ quan liên quan, kịp thời tổ chức các phiên họp để xem
xét, giải quyết ngay các hồ sơ đề nghị đã đủ điều kiện, đảm bảo việc giải quyết
nhanh chóng, đúng thời hạn, không có hồ sơ tồn đọng, qua đó góp phần đảm bảo
tình hình an ninh trật tự tại địa phương.
2.2.2. Thực tiễn bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử
của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa.
Thực hiện Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và trên cơ sở quán triệt Nghị
quyết số 08-NQ/TW, Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị và kết luận của
Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương, các phiên tòa xét xử án hình sự đã được
tổ chức theo tinh thần cải cách tư pháp, yêu cầu tranh tụng được chú trọng đã góp
phần nâng cao chất lượng công tác xét xử và giải quyết các loại án. Thực tiễn thực
hiện tranh tụng tại phiên tòa xét xử các loại án những năm qua nổi lên một số nội
dung như sau:
2.2.2.1 Tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự
49
* Đối với Hội đồng xét xử và chủ tọa phiên tòa
Trong xét hỏi đã thẩm tra đầy đủ các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ và công
khai tài liệu tại phiên tòa, chú trọng các vấn đề còn mâu thuẫn để hướng trọng tâm
thẩm tra bảo đảm cho việc ban hành bản án, quyết định sau này. Trong tranh luận:
Hội đồng xét xử đã bảo đảm cho các bên được trình bày hết ý kiến, không hạn chế
thời gian tranh luận, định hướng vấn đề để các bên tranh luận đi vào trọng tâm. Về
bản án, quyết định: Hội đồng xét xử đã phân tích, nhận xét, lập luận về các tài liệu,
chứng cứ và vấn đề đã được thẩm tra công khai, chấp nhận hay không chấp nhận
vấn đề nào đều nhận định rõ trong bản án nên bản án có tính thuyết phục.
Ví dụ1 : Vụ án Bùi Xuân N bị Viện kiểm sát truy tố về tội vi phạm quy định
về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Trong vụ án có hai bị cáo khác bị
truy tố về tội cản trở giao thông đường bộ. Khi xét hỏi, hội đồng xét xử đã tập trung
thẩm tra xác định được hai bị cáo này là công nhân của đơn vị thi công công trình
đường bộ, được giao trách nhiệm quản lý bảo đảm an toàn trong thi công công
trình, có dấu hiệu của tội phạm khác đã quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung và
Viện kiểm sát đã thống nhất thay đổi tội danh hai bị cáo này.
Ví dụ 2: Vụ án Ngô Văn L, Ngô Xuân L, Lê Hữu H bị Viện kiểm sát nhân
dân thành phố TH truy tố về tội “Hủy hoại tài sản” theo khoản 3 Điều 178 – BLHS.
Hồ sơ thể hiện: Do có mâu thuẫn với anh Vũ Văn H, nên Ngô Văn L, Ngô Xuân L
và Lê Hữu H đã có hành vi đốt máy ép cọc bê tông của anh H đang thi công để đe
dọa, dằn mặt, làm máy ép cọc bị hư hỏng hoàn toàn. Tại kết luận định giá tài sản số
80 định giá thiệt hại tài sản là 262.121.000đ. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tập
trung thẩm tra làm rõ hành vi phạm tội, không hạn chế thời gian để các bị cáo được
thể hiện hết các ý kiến, quan điểm. Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình,
tuy nhiên không đồng ý với kết quả định giá và đề nghị định giá lại. Hội đồng xét
xử đã Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát để định giá lại với
lý do: Hội đồng định giá thành lập không có đại diện cơ quan, tổ chức chuyên môn
liên quan đến tài sản cần định giá là chưa đúng quy định tại điểm c khoản 1 Điều 8
Nghị định số 30/2018/NĐ- CP ngày 07/3/2018 của Chính phủ quy định thành phần
của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự cấp huyện và tại bản kết luận định giá
này, Hội đồng định giá đã không dựa trên các căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều
50
15 Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 07/3/2018 mà chỉ dựa vào báo cáo của bị hại
là chưa đủ cơ sở; Sau khi có kết luận định giá lại tài sản thì giá trị thiệt hại là
106.923.000đ. Kết quả này được Viện kiểm sát, các bị cáo, bị hại thống nhất và
không có ý kiến gì. Với kết quả này Viện kiểm sát đã thay đổi bổ sung nội dung
Quyết định truy tố của cáo trạng, các bị cáo phạm tội “Hủy hoại tài sản” theo quy
định tại điểm b khoản 2 Điều 178 BLHS.
Ví dụ 3 : Vụ án Hoàng Văn T và đồng bọn về tội cố ý gây thương tích và gây
rối trật tự công cộng. Trong vụ án này có 02 kiểm sát viên, 16 bị cáo và 04 người
bào chữa được xét xử trong hai ngày. Hội đồng xét xử đã bảo đảm cho các bên
tranh luận và đối đáp về tất cả các ý kiến, lập luận được đưa ra, không hạn chế thời
gian được kiểm sát viên và các luật sư hài lòng.
Tuy nhiên, vẫn còn trường hợp bản án, quyết định của Hội đồng xét xử còn
hạn chế như: Khi xét hỏi, chủ tọa phiên tòa thường thẩm vấn bị cáo theo hướng
buộc tội như cáo trạng của Viện kiểm sát, giúp Viện kiểm sát bảo vệ cáo trạng;
phần lập luận chấp nhận hoặc không chấp nhận quan điểm của người bào chữa,
nhiều trường hợp đánh giá một cách chung chung như: “chấp nhận một phần ý kiến
của luật sư” mà không ghi rõ một phần ý kiến là ý kiến gì, như thế nào.
* Đối với kiểm sát viên
- Trong xét hỏi: Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đã có chuẩn bị đề cương
tham gia xét hỏi; một số vấn đề qua xét hỏi của kiểm sát viên đã làm rõ và có ý
nghĩa xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.
- Trong tranh luận và đối đáp: Kiểm sát viên đã kiểm tra tính hợp pháp, có
căn cứ của tình tiết mới phát sinh tại phiên tòa khác với nội dung cáo trạng đã luận
tội phù hợp với các chứng cứ, tài liệu được thẩm tra.
Tuy nhiên, vẫn còn kiểm sát viên chưa chủ động tham gia xét hỏi nhằm đưa
ra các chứng cứ buộc tội mà chủ yếu phụ thuộc vào HĐXX, nhất là các vụ án mà bị
cáo không khai nhận hành vi phạm tội nên chưa thể hiện rõ việc tranh tụng giữa
kiểm sát viên với bị cáo.
* Đối với người bào chữa và người bảo vệ quyền lợi của đương sự
- Trong xét hỏi: Người bào chữa, người bảo về quyền lợi đương sự chủ yếu
là luật sư) đã phát huy trách nhiệm chủ động đề xuất HĐXX được tham gia hỏi hoặc
51
đề xuất vấn đề được hỏi nhằm làm rõ thêm tình tiết liên quan đến bị cáo hoặc đương
sự đã nhận bào chữa hoặc bảo vệ; một số luật sư đã thể hiện sự sắc sảo trong cách
nêu và đặt câu hỏi, nắm bắt diễn biến và các tình tiết vụ án đã giúp cho HĐXX ra
phán quyết đúng lý, hợp tình, có sức thuyết phục.
- Trong tranh luận và đối đáp: Người bào chữa và người bảo vệ quyền lợi
của đương sự đã chuẩn bị bản luận cứ. Trong phần này, nhiều luật sư tham gia bào
chữa hoặc bảo vệ quyền lợi của đương sự đã tập trung phân tích các tình tiết, diễn
biến vụ việc qua thẩm tra tại phiên tòa, lời buộc tội của kiểm sát viên; trên cơ sở đối
chiếu quy định của pháp luật nhằm gỡ tội cho bị cáo hoặc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự.
Trong phiên tòa, luật sư là một bên của quá trình tranh tụng, tuy nhiên, có
không ít vụ án mà luật sư tham gia hỏi một cách hời hợt, không theo diễn biến tình
tiết vụ án, nhiều trường hợp bài bào chữa chỉ mang nặng việc khai thác các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ hoặc bắt bẻ về câu chữ, hay những lỗi tố tụng nhỏ mà không đi
vào những tình tiết, chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội của vụ án một cách toàn
diện, để bảo vệ quyền lợi chính đáng của bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan. HĐXX xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ mới, chứng cứ có trong
hồ sơ, chứng cứ đã được kiểm sát viên phân tích, đánh giá khi luận tội bảo vệ cáo
trạng, phát biểu tại phiên tòa, quan điểm của kiểm sát viên, của người bào chữa và
những người tham gia tố tụng để ra phán quyết cuối cùng đúng pháp luật, bảo vệ
được quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
2.2.2.2. Trong phiên tòa xét xử các vụ án dân sự, kinh doanh thương mại, lao
động, hôn nhân gia đình.
Theo quy định về thủ tục tố tụng tại phiên tòa, thì “tranh luận” là một phần
của tố tụng phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm xét xử vụ án dân sự được tiến hành sau
khi kết thúc phần xét hỏi.
Xã hội ngày càng phát triển, các tranh chấp trong các lĩnh vực dân sự, hình
sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại… ngày càng gia tăng cả về số lượng
vụ việc lẫn tính chất phức tạp. Công tác giải quyết án dân sự của Tòa án nhân dân
hai cấp tỉnh Thanh Hóa đạt được nhiều thành tích. Chất lượng tranh tụng được nâng
cao. Trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc “Quyền quyết định và tự định đoạt của đương
52
sự” thì trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt,
thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không
trái pháp luật và đạo đức xã hội” thẩm phán đã chủ động phân tích, hòa giải để các
đương sự thấy được các lợi ích của việc tự thỏa thuận với nhau, trừ những vụ án
không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 181 và
Điều 182 của Bộ luật tố tụng dân sự; hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ
bằng cách tiến hành một hoặc một số biện pháp sau đây: lấy lời khai của đương sự,
người làm chứng; đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa các đương sự với
người làm chứng; trưng cầu giám định; quyết định định giá tài sản, yêu cầu thẩm
định giá tài sản; xem xét, thẩm định tại chỗ; ủy thác thu thập, xác minh tài liệu,
chứng cứ; yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu đọc được, nghe được,
nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự. Khi
đương sự không có đủ căn cứ, so sánh sự thiệt hơn trong quá trình theo đuổi vụ kiện
thì đều có thể chấm dứt vụ kiện hoặc tự hòa giải bất cứ lúc nào trong quá trình Tòa
án giải quyết vụ án.
Chất lượng tranh tụng tại phiên tại phiên tòa dân sự đã được đảm bảo, về cơ
bản chủ tọa không hạn chế thời gian, để các đương sự được trình bày hết ý kiến.
Người tham gia tố tụng khi phát biểu về đánh giá chứng cứ, đề xuất quan điểm của
mình về việc giải quyết vụ án, đã căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã thu thập được và
đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa cũng như kết quả việc hỏi tại phiên tòa, đối
đáp lại ý kiến của người khác. Khi người tham gia tố tụng tranh luận lan man,
không liên quan đến vụ án, chủ tọa phiên tòa đã “cắt” hướng người tham gia tập
trung tranh luận vào nội dung vụ án.
Tuy nhiên thực trạng áp dụng quy định của BLTTDS hiện hành cho thấy quy
định của pháp luật tố tụng dân sự về tranh tụng còn thể hiện những bất cập sau đây:
- Thứ nhất, khái niệm tranh tụng chưa được thừa nhận theo nghĩa rộng nên
hiện nay chưa có cơ chế để Tòa án ghi nhận và cho thi hành kết quả hòa giải thành
các tranh chấp dân sự do Ban tư pháp và các đoàn thể chính trị cấp xã thực hiện
trước khi đương sự khởi kiện ra Tòa án.
- Thứ hai, Đương sự có quyền thu thập, giao nộp tài liệu chứng cứ để chứng
minh cho yêu cầu của mình kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án và thông báo cho bên kia
53
biết các tài liệu chứng cứ đã giao nộp; đương sự được quyền trình bày, đối đáp, phát
biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ cho
yêu cầu của mình hoặc có quyền bác bỏ yêu cầu của người khác theo quy định tại
khoản 2 Điều 24 –BLTTDS. Trong quá trình giải quyết vụ án, mọi tài liệu, chứng
cứ phải được xem xét một cách đầy đủ, khách quan, toàn diện, công khai, trừ trường
hợp không được công khai theo quy định tại khoản 2 Điều 109 – BLTTDS. Như
vậy pháp luật quy định các đương sự phải có nghĩa vụ thông báo cho nhau các tài
liệu, chứng cứ đã giao nộp cho Tòa án cụ thể là: gửi cho đương sự khác hoặc người
đại diện hợp pháp của họ bản sao đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ, trừ tài liệu
chứng cứ mà đương sự khác đã có. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho người
tham gia tố tụng chủ động, tích cực trong việc thu thập, cung cấp, nghiên cứu và
đánh giá tài liệu chứng cứ cũng như các tình tiết liên quan đến vụ án một cách chính
xác, khách quan và đầy đủ. Trên cơ sở đó để đưa ra những lý lẽ để bảo vệ cho yêu
cầu của mình, cũng như phản bác yêu cầu của đối phương. Tuy nhiên, trên thực tế
có không ít trường hợp người khởi kiện không thông báo cho bên bị kiện và không
gửi bản sao các tài liệu chứng cứ cho bên bị kiện biết. nhiều trường hợp các đương
sự cố tình không giao nộp tài liệu chứng cứ, để chờ khi ra phiên tòa mới giao nộp,
để đối phương không kịp chuẩn bị phản bác lại. Đây cũng là nguyên nhân án bị sửa
do tại phiên tòa phúc thẩm đương sự xuất trình thêm tài liệu chứng cứ mới.
BLTTDS hiện chưa quy định rõ trách nhiệm của đương sự khi không thực hiện
nghĩa vụ thông báo cho đương sự khác về tài liệu chứng cứ đã giao nộp cho Tòa án.
Cần phải có quy định cụ thể về vấn đề này để nguyên tắc đảm bảo tranh tụng trong
xét xử được thực thi có hiệu quả trên thực tế, nâng cao chất lượng xét xử của Tòa
án nhân dân
- Thứ ba, BLTTDS hiện hành quy định trình tự xét hỏi thì quyền chủ động
xét hỏi thuộc về Hội đồng xét xử. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa để kiểm sát sự
tuân theo pháp luật của Tòa án và những người tham gia tố tụng nhưng vẫn có
quyền xét hỏi (BLTTDS chỉ quy định trường hợp Kiểm sát viên hỏi đương sự khi
tham gia phiên tòa nhưng không quy định là không được hỏi về nội dung vụ kiện).
Do vậy, không loại trừ trường hợp Thẩm phán, Hội thẩm và Kiểm sát viên đặt
54
những câu hỏi hướng đương sự trả lời để phục vụ cho việc giải quyết vụ án theo sự
thiên vị của mình.
Những quy định về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa từ Điều 217 đến Điều 231
BLTTDS cho thấy sau khi xét hỏi, nội dung vụ án đã được làm sáng tỏ. Ví dụ Điều
221 quy định về nghe lời trình bày của đương sự theo trình tự các bên trình bày yêu
cầu, đề nghị của mình và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị đó là có căn
cứ và hợp pháp. Đồng thời, quá trình hỏi sẽ kết hợp với việc công bố các tài liệu của
vụ án; nghe băng, đĩa ghi hình; xem xét vật chứng; hỏi người giám định. Bằng quy
định này, qua trình bày của đương sự trong phần xét hỏi, nội dung vụ án không
những đã đầy đủ, rõ ràng, sáng tỏ mà các bên đương sự cũng đã có dịp đối đáp với
những nội dung trình bày của nhau. Như vậy, với quy định của BLTTDS, thì qua
phần xét hỏi, nội dung vụ án đã đầy đủ nên phần tranh luận không còn nội dung và
chỉ là sự lặp lại những nội dung đã trình bày ở phần xét hỏi. Mặt khác, như đã trình
bày, việc tranh luận tại phiên tòa cũng chỉ được tiến hành sau khi xét hỏi. Có những
vụ án dân sự, việc xét hỏi được thực hiện trong một thời gian dài (một buổi, một
hoặc vài ngày) đến nỗi khi đến thời điểm tranh luận thì đương sự lại quên mất
những nội dung và kết quả xét hỏi từng vấn đề vì họ không phải là những người am
hiểu về luật.
- Thứ tư, việc tranh luận tại phiên tòa chỉ được tiến hành sau khi xét hỏi đã
làm rõ tất cả các vấn đề phải giải quyết trong vụ án dân sự cho nên đến phần tranh
luận, đương sự không còn gì để nói, nên thường phần tranh luận đương sự không
tranh luận.
- Thứ năm, số vụ án dân sự có sự tham gia của Luật sư với tư cách là người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chiếm tỷ lệ không cao nên chất
lượng tranh tụng không cao. Nhiều trường hợp, đương sự chỉ phát biểu tranh luận
“đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật”, nguyên nhân là do số
lượng luật sư của nước ta còn ít, lại tập trung chủ yếu ở các đô thị; phí dịch vụ thuê
luật sư quá cao, Nhà nước chưa có cơ chế hữu hiệu kiểm soát sự không tương xứng
giữa giá trị và chất lượng dịch vụ, giá cả dịch vụ pháp lý của luật sự. Cá biệt, có
trường hợp luật sư của hai bên đương sự bắt tay nhau cùng làm tiền các thân chủ.
2.2.2.3. Trong phiên tòa xét xử vụ án hành chính
55
Theo quy định tại khoản 2 Điều 36 Luật TTHC 2015 thì những người tiến
hành tố tụng trong vụ án hành chính gồm có: Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án; Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát
viên, Kiểm tra viên; Những người tham gia tố tụng gồm đương sự, người đại diện
của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm
chứng, người giám định, người phiên dịch (Điều 53 Luật TTHC 2015).
Trong quá trình tham gia xét xử vụ án hành chính, các đương sự có nghĩa vụ
cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án, có nghĩa vụ chứng minh để thuyết phục Tòa án
chấp nhận yêu cầu của mình. Khi ấy, Tòa có thể yêu cầu các đương sự có các chứng cứ
phải xuất trình trước Tòa để việc giải quyết vụ án được thuận lợi, khách quan.
Cơ quan nhà nước có nhiều lợi thế khi tranh tụng. Ngược lại, người khởi
kiện đa phần là người dân chỉ có thể sử dụng chứng cứ từ những nguồn thông tin
công khai hoặc do chính các cơ quan nhà nước cung cấp. Để tạo sự bình đẳng, Điều
55 Luật TTHC 2015 quy định: “Các đương sự của vụ án có quyền: Yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu,
chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Tòa án; Đề nghị Tòa án xác minh, thu thập
tài liệu, chứng cứ của vụ án mà tự mình không thể thực hiện được; đề nghị Tòa án
buộc bên đương sự khác xuất trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang lưu giữ, quản lý;
đề nghị Tòa án ra quyết định buộc cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý
chứng cứ cung cấp chứng cứ; đề nghị Tòa án triệu tập người làm chứng, trưng cầu
giám định, định giá tài sản; Được biết, ghi chép và sao chụp tài liệu, chứng cứ do
đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập, trừ tài liệu, chứng cứ không được
công khai theo quy định tại khoản 2 Điều 96…”
Tại phiên tòa, trong trường hợp có sự mâu thuẫn trong các tài liệu, chứng cứ
do các bên xuất trình, HĐXX sẽ phải chủ động, tích cực thẩm vấn để làm rõ sự thật
khách quan. Tranh tụng được thể hiện rõ nét trong thủ tục xét hỏi tại phiên tòa, đặc
biệt là trong thủ tục tranh luận và đối đáp. Tại khoản 2, Điều 152 Luật TTHC 2015:
“HĐXX phải trực tiếp xác định những tình tiết của vụ án tại phiên tòa bằng cách hỏi
và nghe trình bày, tranh luận trực tiếp về tình tiết, chứng cứ của vụ án của người
khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người
đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những
56
người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức được mời tham dự phiên tòa, nghe
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát”.
Quy định này thể hiện rõ vai trò điều khiển của HĐXX trong quá trình xét
hỏi, tranh luận và đối đáp công khai tại phiên tòa. Các bên đều có nghĩa vụ chứng
minh, đưa ra tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Trong tố tụng hành chính, người tham gia tranh luận chủ yếu là các đương sự và
luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Nhằm bảo đảm việc tranh tụng trong TTHC đáp ứng được yêu cầu cải cách
tư pháp như Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị, cần phải xác định rõ và đầy đủ hơn
quyền và nghĩa vụ của bên khởi kiện và bên bị kiện, đảm bảo cho họ quyền và
nghĩa vụ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa.
Nâng cao vai trò của các bên trong việc xét hỏi, tranh luận và đối đáp trước Tòa.
Bên cạnh đó cần nâng cao vai trò và vị trí của Viện kiểm sát trong tố tụng hành
chính. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa vụ án hành chính nhưng không phải là chủ
thể tranh tụng. (Điều 190 Luật TTHC 2015). Kiểm sát viên trong quá trình hỏi cần
hướng cho các đương sự tranh tụng, đưa ra các chứng cứ hợp pháp bảo vệ quyền lợi
cho mình, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của HĐXX trong việc điều khiển quá
trình tranh tụng.
Ví dụ: Trong vụ án hành chính “khiếu kiện Quyết định hành chính”, nội
dung vụ án như sau: ông Tào Văn S và bà Nguyễn Thị M sinh được 3 người con
gồm: Ông Tào Minh H, Bà Tào Thị T và ông Tào Minh D. Ông S chết năm 1959,
bà M1 chết năm 1994 có để lại khối di sản để lại là 04 gian nhà cấp 4, xây tường 20
gạch đỏ, cột, kèo, mi, mè bằng gỗ, lợp ngói âm dương (ngói vẩy), có nhà bếp, công
trình phụ, bể nước, sân phơi, quy hoạch khu vực chăn nuôi gia súc, gia cầm, thành
khuôn viên khép kín có diện tích 500m2 tại xóm đê, sát Quốc lộ 1A, gần cầu TX, xã
HL, huyện HH, tỉnh Thanh Hóa, ăn ở ổn định, không tranh chấp với ai.
Sau khi bà M chết, các con thống nhất không chia thừa kế mà để sử dụng
chung, giao cho anh H1 là con trai cả đảm nhiệm việc thờ cúng tổ tiên cha mẹ và
trông coi giữ gìn tài sản chung của các anh em. Đây là đất hương hỏa nên anh H chỉ
được sử dụng, không được bán, không được chia cho các con và cũng không được
tặng, cho, cầm cố, thế chấp vay vốn ngân hàng. Giữa ông H, bà T, ông D chỉ thỏa
57
thuận miệng mà không lập thành văn bản. Đến tháng 6 năm 2015, ông H phá 4 gian
nhà cấp 4 và chia đất cho 2 con gái cho nên đã phá vỡ thỏa thuận với anh em trước
đây.
Trước đó, năm 1996, khi Nhà nước tổng kiểm kê lại quỹ đất để cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, bà T, ông D không ai được biết, bản đồ đo vẽ và sổ
mục kê lúc đó ghi tên người sử dụng là Tào Văn H, tại Thửa 843, tờ bản đồ số 05,
diện tích 500m2, bản đồ đo vẽ năm 1996.
Năm 2007, Ủy ban nhân dân xã HL lập hồ sơ dựa trên sổ mục kê để cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Tào Minh H và vợ là bà Hoàng Thị S
mà bà T, ông D không biết.
Khi biết sự việc, bà T ông D cùng làm đơn khiếu nại gửi Chủ tịch Ủy ban
nhân dân huyện HH. Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện HH ra quyết định giải quyết
khiếu nại với nội dung: “Giữ nguyên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy
ban nhân dân huyện HH đã cấp cho anh H1 và chị S1 ngày 31/12/2007”
Không đồng ý với Quyết định giải quyết khiếu nại, bà T ông D tiếp tục khiếu
nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã ban hành Quyết định giải quyết
khiếu nại lần hai số với nội dung: Giữ nguyên Quyết định của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân huyện HH.
Không đồng ý với các Quyết định hành chính nói trên, bà T ông D khởi kiện
đến Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đề nghị:
Hủy Quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa;
Hủy Quỵết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND huyện HH, tỉnh
Thanh Hóa;
Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện HH đã cấp cho
ông Tào Minh H.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã tiến hành mở
phiên họp công khai, tiếp cận tài liệu, chứng cứ và đối thoại; đại diện của những
người khởi kiện vẫn giữ nguyên nội dung khởi kiện; đại diện được ủy quyền của
những người bị kiện vẫn giữ nguyên quyết định hành chính và quyết định giải quyết
khiếu nại.
58
Tòa án tiến hành xác minh nguồn gốc đất vợ chồng ông H đang sử dụng,
cũng như trình tự thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông
H…Tại phiên tòa, do có sự mâu thuẫn trong các tài liệu chứng cứ do các bên xuất
trình. HĐXX đã chủ động, tích cực thẩm vấn để làm rõ sự thật khách quan, tạm
ngưng phiên tòa để giám định chữ ký, chữ viết. HDDXX cũng không hạn chế thời
gian tranh tụng, đảm bảo cho các bên có quyền và nghĩa vụ chứng minh để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
HĐXX đã Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Tào Thị T và ông Tào Minh D.
Tranh tụng tại phiên tòa hành chính là nội dung có ý nghĩa quan trọng trong
hoạt động tố tụng hành chính được quy định trong Luật TTHC 2015 đã cụ thể hóa
khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 về “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được
bảo đảm” và thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng trong Nghị quyết số 49-
NQ/TW. Đó cũng là yêu cầu cấp bách đảm bảo tính khách quan, công bằng, dân
chủ trong xét xử vụ án hành chính nhằm làm căn cứ để xác định sự thật vụ án, cơ sở
để hội đồng xét xử ra bản án, quyết định khách quan, đúng pháp luật.
2.2.3. Đánh giá thực tiễn bảo đảm tranh tụng trong xét xử của Tòa án
nhân dân tại tỉnh Thanh Hóa
2.2.3.1. Kết quả đạt được
Thứ nhất, sự ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong xét xử tại Hiến pháp năm
2013 đánh dấu bước phát triển vượt trội của nền lập hiến Việt Nam về tổ chức và
hoạt động tư pháp, tạo nền tảng hiến định vững chắc bảo đảm tính thống nhất của hệ
thống pháp luật tố tụng Việt Nam. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xét xử là một
nguyên tắc trong hệ thống các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Toà án nhân
dân.
Thứ hai, các đạo luật hiện hành về tố tụng ở Việt Nam đã triển khai thi hành
đúng với tinh thần quy định của hiến pháp về nguyên tắc tranh tụng trong xét xử,
thiết lập nguyên tắc tranh tụng trong xét xử cũng như các quy định cụ thể có liên
quan trong mỗi lĩnh vực pháp luật tố tụng (tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng
hành chính). Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử cũng là một nguyên tắc trong số
các nguyên tắc cơ bản của mỗi ngành luật tố tụng cụ thể.
59
Thứ ba, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được ghi nhận tạo thuận lợi cho
hoạt động thực thi pháp luật tố tụng trong thực tiễn, các cơ quan tiến hành tố tụng
cũng như những người tham gia tố tụng cũng đã phần nào nhận thức được vai trò, ý
nghĩa quan trọng của tranh tụng và vận dụng được các cơ sở pháp lý mà pháp luật tố
tụng đã quy định. Việc thực hiện hoạt động này góp phần bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của chủ thể tham gia tố tụng, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
bảo vệ lẽ phải. Thực tiễn hoạt động giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố
tụng những năm gần đây là minh chứng cụ thể cho nhận định này.
Có thể nói, sự tham gia của luật sư trong các vụ án đã góp phần tích cực vào
việc thực hiện dân chủ trong tố tụng, đồng thời giúp Hội đồng xét xử có những phán
quyết đúng đắn và chính xác. Trong quá trình giải quyết vụ án, các luật sư cũng
được Tòa án tạo điều kiện thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng.
Thứ tư, nhìn chung, quy định của các bộ luật tố tụng hiện hành đã thống nhất
với nhau và phù hợp với nguyên tắc tranh tụng trong xét xử đã được hiến pháp ghi
nhận. Tuy nhiên, một số quy định hiện hành vẫn còn bộc lộ những hạn chế, bất cập
hoặc còn thiếu như chế tài nếu vi phạm tranh tụng sẽ được áp dụng thế nào? Vị trí,
vai trò và quyền của người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng (viện kiểm sát, bào
chữa viên nhân dân, trợ giúp viên pháp lý…) vẫn cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoàn
thiện pháp luật về tố tụng để bảo đảm tốt hơn, thể hiện đầy đủ, toàn diện nguyên tắc
tranh tụng theo tinh thần hiến pháp.
2.2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
* Hạn chế
Thực tiễn thực hiện pháp luật hiện nay cũng cho thấy còn nhiều hạn chế, bất
cập trong việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong thực tiễn xét xử theo quy định
của hiến pháp và pháp luật như: tổ chức xây dựng bộ máy, phát triển đội ngũ cán bộ
tư pháp đủ năng lực, phẩm chất, nâng cao ý thức pháp luật, ý thức về quyền con
người, quyền công dân đến việc bảo đảm các điều kiện vật chất, kĩ thuật bảo đảm
thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử... đặc biệt, tính tranh tụng trong hoạt
động tố tụng ở nước ta còn rất hạn chế như trong tố tụng hình sự thì chức năng bào
chữa dường như bị lấn át bởi chức năng buộc tội; Do sự cả nể với cơ quan điều tra,
cũng như Viện kiểm sát, nên khi hồ sơ chưa chặt chẽ thì thẩm phán thường “linh
60
động” cho khắc phục thay vì trả hồ sơ để điều tra bổ sung; hay trong tố tụng dân sự,
tố tụng hành chính... thì hoạt động tranh luận, đối đáp giữa các bên rất ít được thực
hiện hoặc không được hiệu quả.
Thực tiễn cho thấy, vẫn còn một số đơn vị tòa án cấp huyện việc thực hiện
chủ trương mở rộng tranh tụng còn mang tính hình thức, chưa đáp ứng được yêu
cầu cải cách tư pháp (các bản án, phán quyết của Tòa án chủ yếu phải dựa trên kết
quả tranh tụng dân chủ tại phiên toà). So với yêu cầu đặt ra thì vẫn còn có phiên tòa
chưa thực sự bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo và những người tham gia tố tụng
khác, số lượng án hủy, sửa do lỗi chủ quan vẫn còn.
* Nguyên nhân
Thứ nhất, do cơ chế làm việc, sự hạn chế về tinh thần trách nhiệm của số ít
đội ngũ Thẩm phán nên nguyên tắc “Khi xét xử Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật” đôi khi chưa được tuân thủ chặt chẽ. Nhất là đối với các vụ án hình sự có
đông bị cáo và nhiều luật sư tham gia nên mặc dù thời gian tranh luận kéo dài
nhưng chất lượng đối đáp không cao, hay trong các vụ án dân sự có nhiều người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, nhiều luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp việc tranh luận, đối đáp của các bên không đi vào trọng tâm các vấn đề cần
giải quyết trong vụ án.
Thứ hai, trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp của một số Kiểm sát
viên còn hạn chế nên không phát hiện kịp thời các vi phạm tố tụng trong giai đoạn
điều tra. Vấn đề tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa vẫn là khâu yếu ở cấp sơ
thẩm (nhất ở cấp huyện).
Thứ ba, đội ngũ luật sư ở nước ta vừa thiếu về số lượng, một số còn hạn chế
về trình độ nghiệp vụ, đặc biệt là kỹ năng tranh tụng nên chưa nhận thức đúng về
vai trò, vị trí của mình là một bên trong tranh tụng, chưa bảo vệ có hiệu quả các
quyền và lợi ích của công dân. Nhận thức pháp luật của các tầng lớp nhân dân nói
chung và của những người dân tham gia tố tụng và gia đình họ nói riêng về vai trò,
vị trí của luật sư trong tố tụng còn nhiều hạn chế. Trong khi đó các dịch vụ pháp lý
miễn phí cho bị can, bị cáo cũng như các bên nguyên đơn, bị đơn, người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan ở nước ta mới được triển khai, chưa đáp ứng được nhu cầu
của xã hội. Bên cạnh đó, việc nhận thức của công dân về quyền và nghĩa vụ của
61
mình khi tham gia tố tụng không đúng và đầy đủ. Nhiều người dân còn có quan
niệm dè dặt, chưa thực sự tin tưởng vào các cơ quan tiến hành tố tụng nên tạo tâm
lý và thái độ chưa phù hợp, thiếu hợp tác trong quá trình giải quyết vụ án.
Kết luận chương 2
Qua nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển của nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử, nội dung nguyên tắc theo sự ghi nhận tại Hiến pháp năm 2013 và sự
cụ thể hoá quy định của Hiến pháp trong các đạo luật về tố tụng và các văn bản quy
phạm pháp luật khác có liên quan có thể rút ra một số điểm nhận xét và kiến nghị bổ
sung, sửa đổi, hoàn thiện pháp luật, nâng cao nhận thức về nguyên tắc tranh tụng.
Đây là lần đầu tiên nguyên tắc tranh tụng được thể hiện trong Hiến pháp, từ đó
tranh tụng cũng đã được xuất hiện trong một loạt các quy định khác nhau của pháp
luật tố tụng, với mục đích tăng cường tranh tụng trong hoạt động tố tụng, nhằm bảo
đảm quyền con người, chống oan sai, nhanh chóng xác định sự thật khách quan của
vụ án. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế, vướng mắc cần giải quyết bằng cách
hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao chất lượng, năng lực của các chủ thể liên
quan (Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư…)
62
Chương 3
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG
TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ TỈNH
THANH HÓA
3.1. Yêu cầu bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử của Tòa án
nhân dân
Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử đã được Hiến định trong Hiến
pháp năm 2013 và tiếp tục được thể chế hóa trong Luật Tổ chức TAND năm 2014,
Luật Tổ chức VKSND năm 2014, BLTTHS năm 2015, BLTTDS năm 2015,
LTTHC năm 2015 và một số Nghị quyết của Quốc hội, đã trở thành một trong
những nguyên tắc quan trọng trong hoạt động tố tụng ở Việt Nam nhằm đáp ứng
yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động tố tụng hình sự, đảm bảo xét xử đúng người,
đúng tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan sai người vô tội, bảo vệ công lý,
bảo vệ quyền con người. Để đạt được mục đích đó, việc bảo đảm nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử cần có những giải pháp cụ thể. Yêu cầu đối với những giải pháp
đó là:
Một là, các giải pháp được đặt ra phải phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp
ở nước ta.
Từ thực tiễn quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị
quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020;
phát huy tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tư pháp, đặt ra yêu cầu
cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp nhằm thích ứng tốt hơn với yêu cầu, đòi hỏi
cấp thiết trong tình hình mới. Định hướng của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
xác định, việc kiên định, nhất quán nguyên tắc Đảng lãnh đạo toàn diện, thống nhất
và trực tiếp đối với cơ quan tư pháp, hoạt động tư pháp để bảo đảm thực hiện hiệu
quả trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân; xác định cải cách tư pháp là động lực quan trọng để nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động tư pháp và công tác phòng chống tham nhũng do
Đảng lãnh đạo; là nhân tố quan trọng góp phần bảo vệ, giữ vững, phát huy thành
tựu phát triển của đất nước thời gian qua; đẩy nhanh việc hoàn thiện các thiết chế
63
của Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hoạt động tư pháp phải đặt
người dân vào vị trí trung tâm, lấy tinh thần phục vụ nhân dân làm tôn chỉ, mục đích
hoạt động; hoàn thiện thể chế, phát huy dân chủ, bảo đảm các điều kiện về pháp lý
và thực tế để người dân thực hiện đầy đủ, toàn diện các quyền của mình trong tố
tụng; bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của người dân thông qua hoạt
động tư pháp; phát huy vai trò và hoàn thiện cơ chế giám sát đặc thù của cơ quan
dân cử, của công luận và của nhân dân đối với hoạt động tư pháp…
Việc xây dựng các biện pháp bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử cần
đáp ứng các yêu cầu cụ thể mà các Nghị quyết của Đảng đã đề ra, đó là: Nâng cao
chất lượng công tố của KSV tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư,
người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác...Việc phán quyết của Tòa án
phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ,
toàn diện các chứng cứ, ý kiến của KSV, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng,
nguyên đơn, bị đơn...để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết
phục trong thời hạn do luật định.
Hai là, các giải pháp phải đồng bộ, bao quát toàn diện trong các giai đoạn tố
tụng
Toàn bộ quá trình tố tụng gồm nhiều giai đoạn có mối liên hệ mật thiết với
nhau. Với quy tắc đó, muốn nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa xét xử các
vụ án hình sự, không chỉ tập trung hoàn thiện thủ tục tranh tụng tại phiên tòa mà
còn phải khắc phục những vấn đề còn tồn tại trong các giai đoạn trước đó. Do đó,
việc đề ra các giải pháp cần phải được xem xét trên toàn bộ các giai đoạn tố tụng.
Đồng thời, việc thực hiện các giải pháp phải đồng bộ trên tất cả các phương diện về
pháp luật, con người, đảm bảo điều kiện cơ sở vật chất...Nếu như việc bảo đảm
nguyên tắc tranh tụng chỉ được tiến hành trên cơ sở xây dựng và hoàn thiện các quy
định pháp luật mà không chú trọng đến việc nâng cao nhận thức của những người
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của nhân dân, ý thức xã hội, ý thức pháp
luật về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng thì nguyên tắc tranh tụng chỉ là mang tính
hình thức, các giải pháp được đề ra cũng chỉ mang tính tạm thời, không hiệu quả.
Bốn là, các giải pháp phải có tính khả thi.
64
Tính khả thi được hiểu là khả năng áp dụng trong thực tiễn. Tính khả thi của
các giải pháp bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự được
đánh giá bởi sự phù hợp giữa các giải pháp đó với hiện thực pháp luật tố tụng, điều
kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Nếu các giải pháp phản ánh chính xác, kịp thời
những vấn đề đặt ra từ thực tiễn, chứa đựng nội dung phù hợp với các điều kiện
phát triển kinh tế - xã hội và yêu cầu cải cách tư pháp sẽ tạo những “đòn bẩy” cho
việc đảm bảo tranh tụng tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự. Ngược lại, nếu đặt ra
những giải pháp quá xa rời, không phù hợp với thực tiễn, không có tính khả thi sẽ là
nguyên nhân làm giảm sút hiệu quả của nguyên tắc tranh tụng trong xét xử.
Bốn là, các giải pháp bảo đảm tranh tụng phải trên cơ sở tôn trọng quyền con
người
Chúng ta có thể tìm thấy trong các văn kiện quốc tế về quyền con người
trong tố tụng hình sự như: Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948 (UHDR);
Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR); Những
nguyên tắc cơ bản trong việc đối xử với tù nhân; Công ước chống tra tấn, đối xử vô
nhân đạo và hạ nhục con người năm 1985…Nghiên cứu các văn bản này đưa đến
một khẳng định quyền con người trong tố tụng hình sự chẳng qua là sự cụ thể quyền
được sống, quyền được tự do trong lĩnh vực tố tụng hình sự.
Năm là, các giải pháp đề xuất theo định hướng Tòa án điện tử trong cải cách
tư pháp
Thành tựu của cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0) có thể làm thay
đổi nhiều vấn đề của Tòa án nói riêng và tố tụng tư pháp nói chung. Xu hướng Tòa
án thông minh đã khá phổ biến trên thế giới, vì thế, Việt Nam cần đặt ra vấn đề này
sao cho hiệu quả. Cải cách tư pháp cần đẩy mạnh để đáp ứng sự thay đổi của tình
hình mới, đó là nhu cầu về ứng dụng công nghệ thông tin đặt ra mục tiêu năm 2023
hoàn tất xây dựng Tòa án điện tử. Cùng với đó phải tiếp tục đổi mới để hội nhập
quốc tế. Các tranh chấp quốc tế xuyên biên giới ngày càng gia tăng, nếu chúng ta
không cải cách, không đổi mới sẽ không thể đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Hoạt
động của Tòa án, xu hướng đơn giản hóa thủ tục tố tụng và ứng dụng công nghệ
thông tin (CNTT) vào hoạt động của Tòa án đang được nhiều quốc gia trên thế giới
thực hiện. Nhiều Tòa án của một số nước đã xây dựng nhiều phòng xử mới để ứng
65
dụng những tiến bộ của CNTT. Những phòng xử án như vậy có thể được sử dụng
để xét xử trực tuyến khi có kết nối internet với mạng nội bộ. Việc ứng dụng CNTT
trong tố tụng cũng đã được ghi nhận trong các Bộ luật về tố tụng. Theo đó, ghi nhận
việc gửi, nhận đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo bằng phương tiện
điện tử; việc cấp, tống đạt thông báo văn bản tố tụng bên cạnh các phương thức
tống đạt trực tiếp và qua dịch vụ bưu chính thì bổ sung phương thức tống đạt bằng
thư điện tử. Quy định các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật phải được công
bố công khai trên cổng thông tin điện tử của Tòa án. Đây là quy định mới nhằm thể
chế hoá chủ trương, chính sách của Đảng về tăng cường áp dụng CNTT trong hoạt
động tư pháp; đồng thời cũng là nền tảng để xây dựng Tòa án điện tử và hướng tới
xây dựng Tòa án thông minh trong tương lai. Do đó, các giải pháp nhằm bảo đảm
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự cần phải đồng thời đảm bảo
quyền con người.
3.2. Các giải pháp bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét
xử của Toà án nhân dân
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
của Tòa án nhân dân
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện mô hình tố tụng nhằm bảo đảm nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử
Qua các nghiên cứu mô hình tố tụng của một số nước trên thế giới, các đặc
điểm của tố tụng tranh tụng và những tồn tại, bất cập, vướng mắc trong thực tiễn
tranh tụng tại các phiên toà ở nước ta cho thấy việc chuyển mô hình tố tụng hiện
hành ở nuớc ta sang hẳn mô hình tranh tụng là một công việc cực kỳ khó khăn và
phức tạp. Nhiều chuyên gia cho rằng mô hình tố tụng bán tranh tụng theo hướng kết
hợp một số yếu tố hợp lý của tố tụng tranh tụng vào tố tụng thẩm vấn truyền thống
đang được áp dụng ở các nước (như: Pháp, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản,...) là kinh
nghiêm quý để nước ta có thể xây dựng mô hình tố tụng phù hợp với trình độ phát
triển kinh tế, xã hội, với truyền thống lịch sử - văn hoá và các điều kiện, hoàn cảnh
đặc thù của Việt Nam. Nhiệm vụ đặt ra là cần chọn lọc có căn cứ khoa học những
yếu tố phù hợp của tố tụng tranh tụng để tiếp tục hoàn thiện hơn nữa mô hình tố
66
tụng của nước ta, vừa bảo đảm tập hợp đầy đủ nhất các chứng cứ về vụ án, vừa tìm
ra sự thật một cách chính xác nhất mà vẫn tôn trọng được quyền của các bên.
Với giải pháp này, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử phải được coi là
nguyên tắc căn bản, trọng tâm. Bởi lẽ, tranh tụng thể hiện tính minh bạch, tinh thần
thượng tôn pháp luật và sự bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Chính vì
thế, những nguyên tắc của tố tụng, của tổ chức bộ máy Tòa án cần “thiết kế” xoay
quanh nguyên tắc tranh tụng sao cho phù hợp, loại bỏ những yếu tố không đồng bộ,
không thống nhất, chồng chéo trong quá trình ban hành văn bản pháp luật.
Thứ hai, tiến hành rà soát, sửa đổi hệ thống văn bản pháp luật nhằm đáp ứng
điều kiện cơ sở pháp lý để bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
Nguyên tắc tranh tụng đuợc ghi nhận trong xét xử giữ vai trò chi phối và
định huớng mọi hoạt đọng cũng nhu hành vi tranh tụng của nguyên tắc tranh tụng
đuợc ghi nhạn trong xét xử giữ vai trò chi phối và định huớng mọi hoạt động cũng
như hành vi tranh tụng của nó. Bên cạnh những quy định mới phù hợp định hướng
tranh tụng, cũng có những quy định đi ngược lại định hướng đó cần thiết sửa đổi.
Cụ thể như sau:
Một là, đối với pháp luật tố tụng dân sự: Để nguyên tắc bảo đảm tranh tụng
được thực thi trên thực tế thì trong quy định về giao nộp chứng cứ, BLTTDS 2015
cần bổ sung quy định cụ thể về hậu quả đối với trường hợp đương sự không sao gửi,
thông báo hoặc sao gửi thông báo tài liệu, chứng cứ nhưng không đầy đủ cho đương
sự có liên quan về các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp cho Tòa án. Nguyên tắc bảo
đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự buộc Thẩm phán được phân công giải quyết vụ
án phải bác bỏ giá trị của những chứng cứ chưa được gửi hoặc chưa được thông báo
hợp lệ trước đó giữa các bên đương sự.
Bên cạnh đó, BLTTDS 2015 cần bổ sung thêm quy định theo hướng bổ sung
trách nhiệm hỗ trợ của Tòa án trong việc bảo đảm đương sự có quyền được biết về
chứng cứ của nhau trong quá trình giải quyết vụ án, cụ thể là Tòa án có trách nhiệm
thông báo về tài liệu, chứng cứ đương sự giao nộp cho các đương sự khác có liên
quan. Từ đó, mới có thể bảo đảm được việc công khai chứng cứ, cũng như bảo đảm
đầy đủ quyền được tiếp cận chứng cứ của đương sự trong tố tụng dân sự.
67
Bổ sung quy định về thời hạn giao nộp chứng cứ: cần bổ sung thêm quy định
về các chế tài trong trường hợp đương sự không thực hiện việc giao nộp chứng cứ
đúng hạn. Cụ thể, đối với đương sự không tuân thủ nguyên tắc tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự: chứng cứ, yêu cầu, ý kiến phản bác của họ bị bác bỏ7.
Đối với quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự. Khoản 8 Điều 70 BLTTDS
năm 2015 nên quy định như sau: “Được nghiên cứu hồ sơ vụ án, ghi chép, sao chụp
tài liệu, chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập, trừ tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này”8.
Để tạo sự liên kết giữa các quy định về trình bày, hỏi đáp trong BLTTDS với
các quy định về phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa
giải, các quy định về trình bày, hỏi, tranh luận trong BLTTDS năm 2015 cần được
thiết kế theo hướng “những vấn đề các bên đương sự đã thống nhất và vấn đề chưa
thống nhất”. Từ đó quy định về những vấn đề trình bày, hỏi, tranh luận sẽ có sự kết
nối với phiên họp kiểm tra, giao nộp chứng cứ, công khai chứng cứ và hòa giải.
Việc điều hành hoạt động tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm của Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa đảm bảo tính hợp lý, logic, khoa học, tiết kiệm được thời gian của những
người tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng.
Hai là, đối với pháp luật tố tụng hình sự: Để tạo cơ chế pháp lý giúp việc
thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử cần thay đổi một số quy định liên quan
đến vấn đề bào chữa trong tố tụng hình sự.
Về thủ tục đăng ký bào chữa: theo Điều 78 BLTTHS năm 2015: “… Khi
đăng ký bào chữa, người bào chữa phải xuất trình các giấy tờ: a) Luật sư xuất trình
Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và giấy yêu cầu luật sư của người bị
buộc tội hoặc của người đại diện, người thân thích của người bị buộc tội; ....”.
Để đảm bảo thời hạn luật định, sau khi Luật sư đăng ký bào chữa, cơ quan
tiến hành tố tụng sẽ kiểm tra tính hợp lệ của các giấy tờ để vào sổ đăng ký và thông
báo cho người bào chữa hoặc lấy ý kiến của người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị
tạm giam, nếu họ đồng ý nhờ Luật sư bào chữa thì chấp nhận yêu cầu.
7 Phạm Thị Ánh Ngọc (2016) - Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ, Trường ĐH Luật Hà Nội, tr.71 8 Phạm Thị Ánh Ngọc (2016) - Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam, Trường ĐH Luật Hà Nội
68
Về người bào chữa, BLTTHS năm 2015 cần bổ sung “trợ giúp viên pháp lý”
là người tham gia bào chữa trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng
được trợ giúp pháp lý (điểm d khoản 2 Điều 72). Mặt khác, luật cũng cần làm rõ
nếu người đại diện của người bị buộc tội không phải là người bào chữa thì họ tham
gia tố tụng với tư cách gì?
Ba là, đối với pháp luật tố tụng hành chính: Bên cạnh những quy định thể
hiẹn nguyên tắc tranh tụng trong Luật TTHC hiện hành, có những quy định đi
nguợc lại nguyên tắc tranh tụng đó là quy định về việc “kèm theo đơn khởi kiện
phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của nguời khởi kiện
bị xâm phạm. Quy định này yêu cầu người khởi kiện buộc phải gửi những chứng
cứ, tài liệu chứng minh quyền và lợi ích của họ bị xâm phạm kèm theo đơn khởi
kiện là đang đi ngược với nguyên tắc tranh tụng bởi khi cá nhân, tổ chức nhận thấy
mình bị xâm phạm bởi các quyết định hành chính, hành vi hành chính do có nhà
hành chính áp đặt quyết định thì họ chỉ cần khởi kiện tại Toà án, việc chứng minh
cho yêu cầu khởi kiện là giai đoạn về sau khi Toà án thụ lý vụ án hành chính. Lúc
đó là thời gian người khởi kiện có điều kiện thu thập những chứng cứ để chứng
minh cho yêu cầu khởi kiện của mình là hợp pháp. Đồng thời quy định về việc trả
lại đơn khởi kiện không có trường hợp nào đơn bị trả lại do không có tài liệu, chứng
cứ kèm đơn khởi kiện. Tuy nhiên, trên thực tế đây là quy định gây khó khăn cho
người đi khởi kiện vì Tòa án khi nhận đơn khởi kiện thuờng có yêu cầu bổ sung đơn
khởi kiện đối với nguời khởi kiện, yêu cầu họ nộp những chứng cứ, tài liệu chứng
minh quyền, lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm thì mới có đủ điều kiện để thụ lý
vụ án. Quy định này hạn chế quyền khởi kiện của cá nhân, tổ chức vì việc chứng
minh, thu thập tài liệu của vụ án hành chính sẽ bắt đầu thực hiện khi vụ án hành
chính được thụ lý.
Chính vì vậy, cần thiết phải sửa đổi quy định tại khoản 2 Điều 118 để phù
hợp hơn, không nhất thiết phải nộp kèm theo đơn khởi kiện các tài liệu, chứng cứ
chứng chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm nhưng
quy định trách nhiệm, thời hạn nộp bổ sung để làm căn cứ giải quyết vụ án.
Về một số quy định liên quan tới Kiểm sát viên, cần có sự điều chỉnh quy
định về nội dung phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa tại Điều 262 BLTTDS
69
“sau khi những nguời tham gia tố tụng tranh luận và đối đáp xong, Kiểm sát viên
phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân, Thư ký phiên toà và của nguời tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ
án, kể từ khi thụ lý đến truớc thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến
về việc giải quyết vụ án”. Việc quy định cho Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc
giải quyết vụ án đang đi ngược lại nguyên tắc tranh tụng. Vì trong nguyên tắc tranh
tụng, chỉ có đương sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan mới có các quyền đưa
ra những lập luận, ý kiến, việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết vụ án và Hội
đồng xét xử là nguời đưa ra quyết định giải quyết vụ án. Việc quy định thêm một
chủ thể được quyền phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án sẽ khiến cho việc tranh
tụng không đảm bảo. Vì sau khi nghe bài phát biểu của Viện kiểm sát, các bên
đương sự không có quyền tranh luận với Viện kiểm sát về ý kiến đó và đây cũng
không phải là yếu tố để Hội đồng xét xử căn cứ vào đó mà giải quyết vụ án.
Cần xác định lại vai trò của Viện kiểm sát trong phiên tòa xét xử vụ án hành
chính. Bởi lẽ, với quy định về sự có mặt của Kiểm sát tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
vụ án hành chính là không bắt buộc vì “kiểm sát viên đuợc Viện trưởng Viện kiểm
sát phân công có nhiệm vụ tham gia phiên tòa nếu vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn
tiến hành xét xử” theo khoản 1 Điều 156 LTTHC. Nhưng cần phải nói rằng nếu quy
định sự có mặt của Viện kiểm sát là không bắt buộc trong phiên toà xét xử sơ thẩm
vụ án hành chính thì việc quy định nội dung phát biểu của Viện kiểm sát về việc
giải quyết vụ án đang có sự đối lập. Trong phiên toà xét xử, sau phần hỏi đáp, tranh
tụng là phần phát biểu của đại diện Viện kiểm sát và đây là một trong những nội
dung đánh giá vụ án được Hội đồng xét xử xem xét, cân nhắc khi đưa ra phán
quyết. Tuy nhiên, quy định tại khoản 1 Điều 156 lại quy định, phiên toà xét xử vụ
án hành chính có thể diễn ra mà không có mặt của Viện kiểm sát. Quy định này có
thể hiểu là căn cứ để đưa ra phán quyết này có hay không, không ảnh hưởng tới việc
đưa ra phán quyết cuối cùng không? Thực tế cho thấy, việc có mặt và đưa ra quan
điểm của Viện kiểm sát tác động không nhỏ giúp việc giải quyết vụ án đúng đắn,
đúng pháp luật. Chính vì vậy, để đảm bảo thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét
xử vụ án hành chính, cần xác định vai trò của Viện kiểm sát trong việc đảm cho
70
việc thực hiện nguyên tắc này có hiệu quả cao, nhằm đạt kết quả tốt nhất giải quyết
vụ án hành chính.
Về thời hạn giao nộp chứng cứ, LTTHC năm 2015 cần bổ sung thêm quy
định về các chế tài pháp luật trong những truờng hợp đương sự không thực hiện
việc giao nộp chứng cứ đúng hạn và không giao nộp chứng cứ, đặc biệt đối với bên
bị kiện và cơ quan hành chính trong việc có trách nhiệm cung cấp tài liệu chứng cứ
liên quan đến vụ án. Đối với Tòa án, trong trường hợp Tòa án vi phạm nguyên tắc
bảo đảm tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, phán quyết của Toà
án về việc giải quyết vụ án không tuân thủ nguyên tắc tranh tụng thì đây sẽ trở
thành căn cứ để tuyên huỷ.
3.2.2. Tăng cường thực thi pháp luật về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử của Tòa án nhân dân
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác tuyên truyền về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng
trong hoạt động xét xử
Muốn có văn hóa tranh tụng, cần tích cực coi trọng những biện pháp tuyên
truyền, giáo dục đối với cộng đồng nói chung và đội ngũ cán bộ, công chức tòa án
nói riêng. Để thực hiện được lý tưởng đó, cần có những giải pháp nâng cao ý thức
pháp luật trong nhân dân, nhất là trong đội ngũ cán bộ tư pháp về nguyên tắc tranh
tụng. Hiện nay, ý thức trách nhiệm của cán bộ tư pháp về thực hiện nguyên tắc
tranh tụng vẫn còn thấp; tâm lý, thói quen hành nghề vẫn chủ yếu theo lối cũ, chưa
sẵn sàng về tâm thế, trình độ, năng lực tranh tụng. Tranh tụng cũng chưa được hiểu
biết và nhận thức đầy đủ, đúng đắn trong nhân dân, quyền con người, quyền công
dân nói chung cũng như quyền tranh tụng nói riêng chưa được phổ biến, giáo dục
một cách hiệu quả. Tư tưởng về xây dựng một nền tư pháp tiến bộ, dân chủ, công
bằng, công khai, khách quan, minh bạch trong đó có nguyên tắc tranh tụng tuy đã
được triển khai và thu được kết quả với những chuyển biến bước đầu nhưng vẫn
còn chưa được nhận thức và thực hiện một cách đầy đủ, thiết thực.
Trong tố tụng hành chính, bằng việc nâng cao nhận thức của người dân về
vai trò của đương sự, Tòa án, Thẩm phán, Kiểm sát viên, người bào chữa, trong quá
trình giải quyết vụ án hành chính góp phần nâng cao chất lượng của tranh tụng
trong xét xử vụ án hành chính. Hiện nay có rất nhiều chương trình giáo dục phổ
71
biến pháp luật trên hệ thống truyền thống, bẳng những trương trình phổ biến giáo
dục trực tiếp đến người dân, phố biến giáo dục trong học đường hay những đặc san
chuyên đề tuyên truyền pháp luật tố tụng hành chính. Với những kênh phổ biến này,
người dân đã và đang được tiếp cận và hiểu về quy định pháp luật hơn. Song ở
nhưng kênh phổ biến pháp luật này thường hướng dẫn, phổ biến pháp luật hình sự
là chủ yếu còn pháp luật về dân sự và đặc biệt là về pháp luật hành chính chiếm tỷ
lệ thấp và chủ yếu mang tính lý luận chưa có nhiều thực tiễn áp dụng để người dân
xem là hiểu và có thể áp dụng thực hiện khi minh gặp phải trường hợp như vậy.
Chính vì vậy, để nâng cao hiểu biết của người dân thì chúng ta cần xây dựng những
chương trình phổ biết pháp luật về luật tố tụng và phổ biến về bảo đảm nguyên tắc
tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân để người dân hiểu và vận
dụng thực hiện khi tham gia vào quá trình xét xử vụ án hành chính nói riêng và
những vụ án khác nói chung sẽ biết được cách bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Ví dụ, chúng ta xây dựng những tiểu phẩm pháp luật về án tố tụng thành
những chuyên đề và được phát thanh và chiếu trên các kênh truyền hình Trung
ương. Để qua những tiểu phẩm về những chuyên đề đó, người dân có thêm hiểu biết
khi nào mình có quyền khởi kiện án hành chính, án dân sự, án hình sự và hiểu được
quyền và nghĩa vụ khi tham gia xét xử vụ. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần tuyên
truyền sâu rộng nội dung của nguyên tắc tranh tụng ở mỗi loại hình xét xử để không
chỉ cơ quan tiến hành tố tụng cần nghiên cứu, vận dụng thực hiện mà cá nhân, cơ
quan, tổ chức trong xã hội cũng cần biết đến và hiểu rõ để thực hiện khi tham gia
quá trình xét xử vụ án.
Thứ hai, tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng nhằm đáp ứng yêu cầu đảm
bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được thực hiện hiệu quả:
Tiếp theo, triển khai thực hiện nghiêm túc các quy định của BLHS năm 2015
(sửa đổi) và BLTTHS năm 2015. Đối với mỗi chủ thể tham gia tố tụng, cần có
những biện pháp riêng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ của mình trong TTHS. Cụ thể như sau:
72
Đối với đội ngũ Thẩm phán: Nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán, Kiểm
sát viên và những người tham gia tố tụng khác đáp ứng yêu cầu trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, kỹ năng tranh tụng tốt.
Trước áp lực về tình trạng quá tải của đội ngũ Thẩm phán trong cả nước, cần
có quy định về việc mở rộng nguồn bổ nhiệm Thẩm phán không chỉ đối với cán bộ
đang công tác trong ngành mà còn cả những người là luật gia, Luật sư nếu họ đáp
ứng được các điều kiện theo quy định của pháp luật.
Ban hành hướng dẫn về tổ chức các phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp,
trong đó các yêu cầu đặt ra của phiên tòa này là: Thẩm phán độc lập chỉ tuân theo
pháp luật; thực hiện tốt nguyên tắc tranh tụng, bảo vệ quyền con người, HĐXX thực
hiện đầy đủ các quyền năng tố tụng. Tiếp tục giao chỉ tiêu cho từng Thẩm phán làm
chủ tọa các phiên tòa rút kinh nghiệm, coi đây là giải pháp đột phá và thiết thực để
các Thẩm phán nâng cao tinh thần trách nhiệm, tích lũy kiến thức, kinh nghiệm, tạo
bước chuyển biến rõ nét trong xét xử. Tăng cường tập huấn chuyên sâu về kỹ năng
điều hành tranh tụng tại phiên tòa cho các Thẩm phán; tổ chức phát sóng các phiên
tòa mẫu theo tinh thần cải cách tư pháp. Thực hiện nghiêm túc việc công bố các bản
án, quyết định trên Cổng thông tin điện tử TAND tối cao để nhân dân tham gia
giám sát hoạt động xét xử của Tòa án.
Đối với Công tố viên (Kiểm sát viên hiện nay). Để làm tốt công tác “tranh
tụng” mỗi Kiểm sát viên phải tự rèn luyện phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị,
nâng cao ý thức trách nhiệm, năng lực trình độ nghiệp vụ, bản lĩnh nghề nghiệp,
tích cực nghiên cứu học hỏi để vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về
pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm” sẵn sàng tâm thế “tranh
tụng” đúng quy định của pháp luật và thuyết phục trong các giai đoạn tố tụng.
Phải có sự chuyển biến thực chất về nhận thức, xác định tranh luận tại phiên
toà không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ. Điểm cốt lõi để đảm bảo việc tranh luận
tốt là phải nghiên cứu kỹ và nắm vững hồ sơ vụ án.
Trách nhiệm của ngành Kiểm sát nhân dân như sau:
Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân phải quán triệt, nâng cao nhận thức về vai
trò, tầm quan trọng của việc tranh tụng tại phiên tòa cho KSV, từ đó có định hướng
đúng về vấn đề tranh tụng. Viện kiểm sát nhân dân các cấp cần tổ chức sơ kết rút
73
kinh nghiệm hoạt động tranh tụng của KSV. Định kỳ 06 tháng, một năm, Viện kiểm
sát các cấp tiến hành sơ kết, ra thông báo chung về hoạt động tranh tụng của KSV
gửi các đơn vị để cùng học tập, rút kinh nghiệm. Nơi nào có điều kiện nên tổ chức
các cuộc thi về tranh luận tại phiên tòa để phổ biến kinh nghiệm, nâng cao năng lực,
kỹ năng tranh luận tại phiên tòa. Viện kiểm sát nhân dân các cấp cần triển khai, áp
dụng rộng rãi phiên tòa số hóa hồ sơ, phục vụ tối đa cho hoạt động tranh tụng tại
Tòa án đảm bảo khách quan, chính xác và thuyết phục cao. Cùng với đó, cần sớm
có văn bản hướng dẫn liên ngành về quy trình số hóa, bảo mật, lưu trữ, sử dụng tài
liệu…cho việc số hóa nhằm bảo đảm tính khách quan, công khai trong công tác đấu
tranh tội phạm.
Đối với Điều tra viên (là người trực tiếp thực hiện việc điều tra tội phạm)
Ngoài kiến thức pháp luật cần phải giỏi về nghiệp vụ điều tra, khám phá tội
phạm, nắm vững các quy định của BLTTHS về hoạt động điều tra, thu thập chứng
cứ. Việc bổ nhiệm Điều tra viên cũng phải áp dụng hình thức thi tuyển như đối với
Thẩm phán và Công tố viên.
Đối với người bào chữa:
Nâng cao chất lượng đào tạo luật sư: cần đổi mới chương trình đào tạo luật
sư thật sự gắn kết với yêu cầu của thực tiễn. Hơn nữa, phân loại luật sư theo các
chuyên ngành chuyên sâu tương ứng với chứng chỉ hành nghề như luật sư tố tụng,
luật sư tư vấn pháp luật, luật sư thương mại - quốc tế…và việc đào tạo luật sư cũng
tuân theo các chứng chỉ hành nghề này. Những người được miễn đào tạo thì cấp
chứng chỉ hành nghề phù hợp với công việc của họ, ví dụ như đã là Thẩm phán thì
cấp chứng chỉ hành nghề luật sư tố tụng, còn nếu muốn hành nghề tư vấn pháp luật,
thương mại - quốc tế thì phải tham gia khóa đào tạo để được cấp chứng chỉ hành
nghề phù hợp hoặc đã là giảng viên chính chuyên ngành luật thương mại - quốc tế
thì cấp chứng chỉ hành nghề luật sư thương mại - quốc tế và muốn tham gia tố tụng
thì cũng phải tham gia khóa đào tạo để được cấp chứng chỉ hành nghề,…
+ Liên đoàn Luật sư Việt Nam có trách nhiệm tăng cường công tác hướng
dẫn bồi dưỡng, giám sát tập sự hành nghề luật sư, quản lý chặt chẽ chất lượng tập
sự hành nghề nhằm tăng cường chất lượng đầu vào của đội ngũ luật sư.
74
Thứ ba, tiếp tục đầu tư, hoàn thiện hệ thống cơ sở vật chất, ứng dụng công
nghệ thông tin cho các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và ngành Tòa án nói
riêng.
Các cơ quan tiến hành tố tụng phải hoàn thiện hơn nữa hệ thống cổng thông
tin điện tử, cử cán bộ cập nhật thường xuyên các thông tin cần thiết liên quan đến
hoạt động tố tụng nhằm tạo điều kiện cho người dân nói chung và chủ thể tham gia
tố tụng dễ dàng tiếp cận với công lý. Cụ thể, TAND công khai hóa các thủ tục tố
tụng tư pháp tại các cơ quan tiến hành tố tụng để người dân tra cứu thông tin pháp
luật, nội dung vụ kiện, chứng cứ mà Tòa án thu thập được một cách thuận lợi nhất
bằng các phương tiện khoa học công nghệ.
Hiện nay trên thế giới, hệ thống Tòa án của một số quốc gia đã tiến hành và
thành công trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của mình như hệ
thống Tòa án của Úc, Tòa án của Singapore, Malaysia…Việc ứng dụng công nghệ
thông tin vào hoạt động của Tòa án mang lại rất nhiều lợi ích, như: nâng cao khả
năng tiếp cận công lý, giảm các thủ tục và chi phí không cần thiết cho các đương sự,
đặc biệt là những đương sự ở các khu vực xa trung tâm hay khu vực nông thôn; Hỗ
trợ Thẩm phán, bất kể ở khu vực địa lý nào, thực hiện nhiệm vụ chuyên môn hiệu
quả hơn; hỗ trợ bộ phận quản lý hành chính Tòa án thực hiện nhiệm vụ chuyên môn
được dễ dàng hơn…
Chính vì vậy, TAND hai cấp tỉnh Thanh Hóa cần xem xét thực hiện việc ứng
dụng công nghệ thông tin nhằm triển khai hiệu quả định hướng Tòa án điện tử, Tòa
án thông minh, cụ thể:
(1) Nộp đơn qua mạng
Việc nộp đơn bằng văn bản có nhiều hạn chế như việc lưu trữ văn bản chiếm
quá nhiều diện tích, việc tìm kiếm văn bản gặp nhiều khó khăn và phụ thuộc rất
nhiều vào các cán bộ văn thư lưu trữ. Việc di chuyển các tài liệu từ nơi này qua nơi
khác cũng dẫn đến việc mất mát hoặc thất lạc tài liệu. Ngoài ra, nếu hồ sơ không
được lưu giữ cẩn thận cũng có thể xảy ra khả năng hồ sơ bị hư hỏng. Những tài liệu
này sẽ được quản lý trên máy tính và sẽ được đánh mã số để phục vụ cho việc tìm
kiếm. Như vậy đương sự hoặc luật sư có thể trực tiếp nộp đơn qua mạng internet từ
nhà riêng, văn phòng hoặc bất kỳ nơi đâu.
75
(2) Phòng xử án điện tử
Theo kinh nghiệm của Úc, phòng xử án điện tử là phòng xử án ảo, các chủ
thể là thành phần của một phiên tòa sẽ tham gia vào phiên xét xử giống như một hội
nghị video được thiết lập bởi Skype, nếu cần có thể liên hệ với các cơ quan, tổ chức
liên quan cũng thông qua hình thức này mà không cần các chủ thể phải có mặt tập
trung tại phòng xử án thông thường. Áp dụng các phòng xử án điện tử sẽ giúp cho
người dân tiết kiệm được chi phí đi lại, nhất là khi các bên đương sự đến từ những
khu vực nằm xa tòa án; đồng thời cũng giúp nhà nước giảm bớt được chi phí tổ
chức phiên tòa. Hơn nữa, phiên xét xử online cũng có thể giúp đông đảo người dân
quan tâm đến vụ kiện có thể theo dõi quá trình xét xử mà không bị giới hạn số
lượng như phòng xử án thông thường.
(3) Hệ thống quản lý án điện tử
Hệ thống quản lý án điện tử là một ứng dụng phần mềm kết nối với mạng
internet được xây dựng nhằm quản lý và giám sát các vụ án từ khi thụ lý đến khi
được giải quyết xong. Hệ thống này sẽ ghi lại các vụ án, quản lý danh sách các vụ
án sẽ được xét xử, ghi lại những lệnh của Tòa án và kết quả của từng vụ án. Hệ
thống quản lý án điện tử giúp các cán bộ chuyên trách quản lý án; hỗ trợ thư ký sắp
xếp lịch và hồ sơ các vụ án sẽ được xét xử; hỗ trợ Thẩm phán trong việc đưa ra
phán quyết; đồng thời là nguồn thông tin số liệu về hoạt động của Tòa án. Hệ thống
quản lý án điện tử đã giúp Tòa án thực hiện các quy trình, thủ tục mang tính chất lặp
đi lặp lại một cách chính xác hơn, nhanh hơn và chi phí thấp hơn so với khi làm thủ
công. Nếu như trước đây, việc đăng ký một vụ án phải mất vài ngày với sự tham gia
của nhiều cán bộ Tòa án thì khi hệ thống này được áp dụng, việc đăng ký như vậy
chỉ mất vài phút và do một cán bộ đảm nhiệm.
Mặc dù có thể nhìn nhận được những lợi ích của việc ứng dụng các Tòa án
điện tử nhưng để ứng dụng được vào hệ thống Tòa án của Việt Nam, chúng ta cần
phải chuẩn bị thêm nhiều yếu tố trước khi chính thức thành lập các Tòa án điện tử.
Những yếu tố cần thiết này không chỉ dừng lại ở việc trang bị cho hệ thống Tòa án
những máy móc thiết bị cần thiết, nâng cao trình độ công nghệ thông tin của cán bộ
Tòa án, mà quan trọng hơn là phải mở rộng phổ cập tin học đến người dân để họ có
thể tự tin lựa chọn và dễ dàng tham gia vào các phiên tòa điện tử. Với điều kiện
76
hiện nay của nước ta, trong tương lai gần chúng ta khó có thể ngay lập tức thành lập
và đưa vào hoạt động các Tòa án điện tử hoàn chỉnh được. Tuy nhiên, chúng ta có
thể đi dần từng bước nhỏ bằng cách ban đầu ứng dụng một phần của các dịch vụ
của Tòa án điện tử, như: nộp và tiếp nhận đơn qua mạng internet, quản lý hồ sơ vụ
việc bằng phần mềm điện tử…
Thứ tư, tích cực cải cách chế độ tiền lương, phụ cấp đối với đội ngũ cán bộ,
công chức tham gia tố tụng:
Hiện nay, ngành Tòa án đã có sự ưu đãi hơn, song vẫn phải khẳng định hiện
nay lương của thẩm phán, thư ký, thẩm tra viên… là quá thấp, chế độ không rõ
ràng. Với vật giá đắt đỏ như hiện nay thì cán bộ ngành Tòa án nói chung và Thẩm
phán nói riêng rất khó đảm bảo cuộc sống bằng đồng lương.
Đảng và Nhà nước, các cấp các ngành có liên quan cần bồi dưỡng, rèn luyện
đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên, Thẩm phán, người bào chữa (Luật sư, Bào chữa viên
nhân dân, Trợ giúp viên pháp lý) có bản lĩnh chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp vững
vàng, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng của Đảng; có phẩm chất đạo
đức trong sáng, lương tâm, trách nhiệm, tận tuỵ và có tính tự giác cao với công việc;
có tinh thần kiên quyết đấu tranh bảo vệ công lý, không thiên lệch trước bất kỳ áp
lực nào. Để nâng cao ý thức chính trị, nhận thức, đạo đức nghề nghiệp đối với các
chủ thể tham gia tố tụng, các tổ chức chủ quản cần quan tâm quán triệt nghiêm túc
và sâu rộng các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, cụ thể hoá bằng những nhiệm vụ cụ thể, phù hợp với điều kiện thực tiễn của
ngành, đơn vị.
Thứ năm, tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Tòa án với các bên tham
gia tranh tụng
Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát - Tòa án - Người bào chữa là mối quan hệ
giữa bên buộc tội - xét xử - bên gỡ tội. Tách từng cặp các mối quan hệ tố tụng cho
thấy mối quan hệ giữa HĐXX và KSV hiện thân nó biểu hiện mối quan hệ giữa cơ
quan xét xử và cơ quan kiểm sát trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi
ngành. HĐXX do Tòa án lập ra để xét xử vụ án hình sự, còn KSV là người đại diện
cho VKS thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử tại phiên tòa.
VKSND và TAND phải có trách nhiệm phối hợp với nhau để giải quyết vụ án hình
77
sự đúng đắn, khách quan theo luật định. Bên cạnh đó, quan hệ phối hợp còn xuất
phát từ yêu cầu phải thực hiện đúng đắn thẩm quyền của cơ quan và người tiến hành
tố tụng; nhu cầu hoàn thiện pháp luật. Hơn nữa, quan hệ phối hợp giữa HĐXX và
KSV xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ tranh tụng tại phiên tòa. Một ví dụ cụ thể đó là
việc phối hợp trong áp dụng các thủ tục xét xử tại phiên tòa: KSV buộc tội bằng
cách xét hỏi, đưa ra chứng cứ, hoặc là KSV cùng HĐXX phải xem xét các yêu cầu,
kiến nghị của bị cáo và người tham gia tố tụng khác đưa ra, hoặc thực hiện tranh
luận với người bào chữa phải có sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa; HĐXX công
bố tài liệu, vật chứng theo yêu cầu của KSV; xem xét vật chứng và nơi xảy ra tội
phạm do HĐXX cùng KSV tiến hành… Hoạt động buộc tội hỗ trợ đắc lực cho chức
năng xét xử, và ngược lại hoạt động xét xử tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
buộc tội.
Xét về mối quan hệ giữa Tòa án và người bào chữa đó là mối quan hệ chấp
hành sự điều hành. Xuất phát từ yếu tố độc lập trong hoạt động xét xử của thẩm
phán và hội thẩm nhân dân, do đó mối quan hệ giữa HĐXX và người bào chữa là
quan hệ chấp hành sự điều hành. Biểu hiện cụ thể, đó là hoạt động tố tụng hình sự
của người bào chữa mang tính phục tùng HĐXX, họ không được từ chối tham gia
tố tụng trong trường hợp luật định. Trong quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên xét
xử hình sự, người bào chữa phải phục tùng sự điều khiển của chủ tọa phiên tọa. Các
yêu cầu, kiến nghị, đề xuất của họ tại phiên tranh tụng có thể không được HĐXX
chấp nhận, nhưng vẫn phải chấp hành. Ví dụ như người bào chữa dù có quyền xét
hỏi, tranh luận nhưng nếu việc này xảy ra lan man, không liên quan đến vụ án thì bị
chủ tọa phiên tòa ngắt lời; hoặc như họ yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, yêu
cầu hoãn phiên tòa, trả hồ sơ điều tra bổ sung nhưng không được HĐXX chấp nhận.
Lý do của sự phục tùng của người bào chữa đối với HĐXX đề cập trên là xuất phát
từ chức năng, nhiệm vụ tố tụng riêng của các bên, đòi hỏi phải bảo đảm những
mệnh lệnh, quyền hạn mang tính chất cưỡng chế trong tố tụng hình sự không thể chỉ
trông chờ vào sự tự giác của cá nhân hay tổ chức nào khác.
Tuy nhiên, trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay, mối quan hệ giữa KSV
và HĐXX với người bào chữa trong tố tụng hình sự cần được xây dựng theo hướng
mở rộng hoạt động của người bào chữa, nâng cao vị thế của họ tại phiên tòa, nhằm
78
đảm bảo việc xét xử theo nguyên tắc tranh tụng; đồng thời cần tạo ra các cơ sở pháp
lý đồng bộ để ngăn ngừa người bào chữa sa đà vào việc “mua chuộc” người tiến
hành tố tụng làm ảnh hưởng đến uy tín, cũng như sự tin tưởng của người dân.
Kết luận chương 3
Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử của Tòa án nhân dân giữ vai trò
chi phối và định hướng mọi hoạt động của tất cả các chủ thể tham gia vào quá trình
xét xử. Nguyên tắc tranh tụng được quy định tương đối đầy đủ trong luật tố tụng
hình sự, dân sự và hành chính, đã và đang áp dụng thực hiện trong thực tiễn xét xử
để nâng cao hiệu quả xét xử. Nguyên tắc tranh tụng có vai trò lớn trong việc xác
định sự thật khách quan vụ án, nhưng quá trình thực hiện trên thực tế đã thấy có
những nguyên nhân, tồn tại làm cản trở tiến trình thực hiện nguyên tắc. Kết quả
thực hiện bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh
Thanh Hóa cho thấy đã áp dụng linh hoạt các nguyên tắc, qua đó bảo đảm việc thực
hiện tranh tụng theo hiến định và quy định trong pháp luật tố tụng trên địa bàn tỉnh.
79
KẾT LUẬN
Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm là kim chỉ nam trong tổ
chức và hoạt động của Tòa án được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Nguyên
tắc tố tụng này có những đặc điểm mang tính đặc trưng riêng và mang những nội
dung có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn vận hành hoạt động xét xử của Toà án,
đảm bảo thực hiện được đúng chức năng nhiệm vụ mà Nhà nước đề ra.
Tranh tụng là một nguyên tắc được bảo đảm trong xét xử, có nội dung, vai
trò và ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình tố tụng. Lần đầu tiên Hiến pháp ghi
nhận nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm, đó là một đổi mới mang
tính lịch sử và là cơ sở pháp lý cho Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự,
Luật tố tụng hành chính và các văn bản pháp luật khác cụ thể hóa, chi tiết hóa nhằm
đảm bảo sự khách quan, công khai, minh bạch trong hoạt động xét xử của Tòa án,
giúp Tòa án xét xử công khai, dân chủ, công bằng, bình đẳng, đúng pháp luật, xét
xử đúng người đúng tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan
người vô tội, khắc phục hạn chế oan sai đối với các vụ án hình sự hoặc giải quyết
đúng đắn, bảo vệ lẽ phải đối với các vụ án khác theo quy định của pháp luật. Sự đổi
mới này được coi là một bước ngoặt lớn trong lịch sử lập hiến, lập pháp cho thấy sự
cải cách trong hoạt động tố tụng, là sự tiếp thu những ưu điểm của pháp luật các
nước tiên tiến trên thế giới.
Bên cạnh việc hiến định nguyên tắc tranh tụng trong xét xử là một loạt các
quy định mới trong pháp luật tố tụng, tạo hành lang pháp lý chặt chẽ cho việc thực
thi quy định của Hiến pháp. Thông qua những phân tích cụ thể trong luận văn đã
cho thấy những chuyển biến về vấn đề đảm bảo tranh tụng trong lịch sử lập pháp
cũng như quá trình áp dụng thực tiễn. Từ đó, đưa ra những ưu điểm cần tiếp tục
phát huy, những hạn chế và kiến nghị nên được xem xét sửa đổi trong thời gian tới
để nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm có thể phát huy tối đa hiệu quả
của nó đối với hoạt động xét xử của Tòa án.
Có như vậy thì bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử của Tòa án nhân
dân mới được thực hiện một cách hiệu quả theo đúng tinh thần, phương hướng của
cải cách tư pháp.
80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành trung ương Đảng (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày
2/1/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới”, Hà Nội.
2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005
của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
3. Nguyễn Hòa Bình (Chủ biên) (2015), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
(Sách chuyên kháo), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Hòa Bình (2016), Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị
về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội;
6. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị
về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội;
7. Trần Văn Độ (2004), Bản chất của tranh tụng tại phiên tòa, Tạp chí Khoa
học pháp lý, số 4/2004.
8. Trần Văn Độ (2010), Xác định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Tòa án
trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí Kiểm sát,
(10), tr.22-28.
9. Trần Thái Dương (2017), Quyền được suy đoán vô tội theo hiến pháp và vấn
đề bảo đảm thực thi ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Luật học, 3/2017.
10. Bùi Thị Hà (2010), Tranh tụng tại phiên tòa theo pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
11. Trương Hồ Hải - Lê Thị Oanh (2014), Góp ý sửa đổi Bộ luật Tố tụng Hình
sự nhằm đảm bảo nguyên tắc tranh tụng và suy đoán vô tội theo tinh thần
Hiến pháp 2013 - góc nhìn từ thực tiễn vụ án hình sự, Kỷ yếu hội thảo:
“Hiến pháp 2013 và vấn đề đổi mới tố tụng hình sự ở Việt Nam”, An Giang,
30/5/2014.
12. Đỗ Phú Hải (2015), Quá trình xây dựng chương trình chính sách công tại
các nước đang phát triển, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 4/2014.
13. Nguyễn Thanh Hải (2017), Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án hành
chính, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội.
14. Nguyễn Văn Hiển (2010), Nguyên tắc tranh tụng trong TTHSVN - những vấn
đề lí luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội.
15. Vũ Thị Hòa (2015), Bảo đảo quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức
trong xét xử các vụ án hành chính ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Học viện
chính trị, quốc gia Hồ Chí Minh.
16. Tô Văn Hòa, Vũ Thị Linh (2018), Mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và
những ưu, nhược điểm, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10 (kỳ 2) tháng 5
năm 2018, tr.17.
17. Nguyễn Việt Nam (2013), Tranh tụng trong tố tụng hành chính ở Việt Nam -
Lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội.
18. Phạm Thị Anh Ngọc (2016), Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng
dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội.
19. Phạm Hồng Phong (2015), Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực
hiện nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, (8), tr. 14-21.
20. Nguyễn Thái Phúc (2007), Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam - Những vấn đề
lý luận và thực tiễn, Tạp chí Khoa học Pháp lý (số 5 (42));
21. Nguyễn Thái Phúc (2015), Bình luận về nguyên tắc tranh tụng trong dự thảo
Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi), Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (9), tr.17-
23.
22. Lê Kim Quế (2002), Hai loại hình tố tụng và nguyên tắc tranh tụng, Tạp chí
Dân chủ và Pháp luật, số 10/2002.
23. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm
1992
24. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm
2013
25. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
26. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
27. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2003
28. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
29. Quốc hội (2010), Bộ luật Tố tụng hành chính năm 2010
30. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hành chính năm 2015
31. Hoàng Thị Quyên (2014), Bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong hoạt
động tố tụng hình sự theo Hiến pháp Việt Nam năm 2013, Kỷ yếu hội thảo:
“Hiến pháp 2013 và vấn đề đổi mới tố tụng hình sự ở Việt Nam”, An Giang,
30/5/2014.
32. Phan Văn Sơn (2014), Đề xuất giải pháp triển khai thi hành nguyên tắc
tranh tụng trong ngành Kiểm sát nhân dân, Tạp chí Kiểm sát, (6), tr. 6-8.
33. Phạm Văn Tuyển (2016), Thực hiện nguyên tắc tranh trụng trong xét xử bảo
đảm tinh thần hiến pháp năm 2013, Tạp chí Lý luận chính trị số 1, Hà Nội.
34. Lê Hữu Thể, Đỗ Văn Đương, Nguyễn Thị Thủy (2013), Những vấn đề lý
luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Nguyễn Thị Thủy (2014), Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam và những vấn
đề áp dụng tranh tụng, Luận án tiến sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học quốc gia
Hà Nội;
36. Trần Thị Bích Thủy (2017), Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các
vụ án hình sự từ thực tiễn xét xử tại thành phố Hồ Chí Minh, Học viện khoa
học xã hội.
37. Lại Văn Trinh (2014), Nghiên cứu bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong Bộ
luật tố tụng dân sự, Tạp chí luật học, tập 30, số 4/2014.
38. Đào Trí Úc (2014), (chủ biên), Bình luận khoa học Hiến pháp nước
CHXHCN Việt Nam năm 2013, Nxb. Lao động xã hội, Hà Nội.
39. Trịnh Tiến Việt (2012), Cải cách tư pháp và các giải pháp phòng, chống
oan, sai trong tố tụng hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân (số 3,4);
40. Viện ngôn ngữ học (1996), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
41. Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển luật học, NXB Tư pháp
và Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
42. Viện Khoa học xét xử Tòa án nhân dân tối cao (2013), Nâng cao chất lượng
tranh luận tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp
cơ sở, Hà Nội.
43. BC công tác nhiệm kỳ 2016 – 2020 của TAND tỉnh Thanh Hóa.