VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƯƠNG THỊ QUỲNH

BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG

HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN

TỪ THỰC TIỄN TỈNH THANH HÓA

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số : 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. ĐỖ THỊ PHƯỢNG

HÀ NỘI, năm 2021

1

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ......................................................................................................................

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC

TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ....................... 11

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và nội dung của nguyên tắc tranh tụng trong hoạt

động xét xử của Toà án nhân dân .............................................................................. 11

1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và các yếu tố bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong

hoạt động xét xử của Toà án nhân dân ...................................................................... 19

1.3. Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân

theo pháp luật của một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ............. 32

Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN BẢO

ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ TỈNH THANH HÓA ................................................. 32

2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt

động xét xử của Toà án nhân dân .............................................................................. 32

2.2. Thực tiễn bảo đảm tranh tụng trong xét xử các loại án của Tòa án nhân dân từ

tỉnh Thanh Hóa .......................................................................................................... 45

Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH

TỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ

TỈNH THANH HÓA ............................................................................................... 63

3.1. Yêu cầu bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử của Tòa án nhân dân ..... 63

3.2.Các giải pháp bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Toà án

nhân dân……………………………………………………………………………70

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 86

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

2

DANH MỤC TỪ VÀ CỤM TỪ VIẾT TẮT

BLHS: Bộ luật hình sự

BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự

BLDS: Bộ luật dân sự

BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự

BLTTHC: Bộ luật tố tụng hành chính.

TAND: Tòa án nhân dân

VKSND: Viện kiểm sát nhân dân

HĐXX: Hội đồng xét xử

HTND: Hội thẩm nhân dân

KSV: Kiểm sát viên

CMCN4.0: Cách mạng công nghiệp lần thứ 4

CNTT: Công nghệ thông tin

3

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tranh tụng đã được thừa nhận trên phạm vi toàn cầu và được ghi nhận tại

Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của Liên Hợp quốc. Theo đó, “Mọi người đều

có quyền hoàn toàn ngang nhau được phát biểu bình đẳng và công khai trước Tòa

án độc lập và không thiên vị, nơi quyết định các quyền và nghĩa vụ của mình hoặc

về việc buộc tội mình có cơ sở trước Tòa Tranh tụng tại phiên toà xét xử là nội dung

có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động tố tụng của Tòa án, là yêu cầu cấp bách bảo

đảm tính khách quan, công bằng, dân chủ, là căn cứ để xác định sự thật vụ án và là

cơ sở để Hội đồng xét xử ra bản án khách quan, công bằng, đúng lẽ phải và đúng

pháp luật. Ở Việt Nam, nhằm hướng đến xây dựng một nền tư pháp dân chủ, tiến

bộ, thì bảo đảm tranh tụng trong xét xử là một trong những mục tiêu quan trọng

trong tiến trình cải cách tư pháp mà Bộ chính trị đã đề ra. Xác định tầm quan trọng

của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013

quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”, lần đầu tiên trong

lịch sử lập hiến, tranh tụng được ghi nhận là một nguyên tắc và phải được bảo đảm

trong xét xử. Tuy nhiên, do mô hình tố tụng ở nước ta về cơ bản là mô hình tố tụng

xét hỏi nên việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án

nhân dân chưa thực sự được coi trọng đúng mức trên cả phương diện lý luận, xây

dựng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật. Về mặt lý luận, hiện còn nhiều quan

điểm khác nhau về tranh tụng, có quan điểm cho rằng đối với mô hình tố tụng ở

Việt Nam hiện nay, tranh tụng là một nguyên tắc, cũng có quan điểm cho rằng tranh

tụng là một mô hình tố tụng hay một thủ tục trong tố tụng. Chính vì về mặt lý luận

còn chưa thống nhất đó đã ảnh hưởng ít nhiều đến việc bảo đảm tranh tụng. Bên

cạnh đó, việc nghiên cứu những biện pháp bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong

hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân được áp dụng có hiệu quả cao nhất cũng góp

phần bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân, đáp ứng yêu cầu của cải

cách tư pháp ở nước ta. Với những lý do trên, thì việc lựa chọn nghiên cứu đề tài

“Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân từ

thực tiễn tỉnh Thanh Hóa” là yêu cầu có tính khách quan, cấp thiết cả về lý luận và

thực tiễn.

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân

là một vấn đề còn khá mới mẻ đối với lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam. Trước đây, có

quan điểm cho rằng tranh tụng là nguyên tắc đặc trưng của tố tụng hình sự tư sản

nên vấn đề này không được áp dụng trong tổ chức và hoạt động tư pháp ở nước ta.

Theo đó mà trước năm 2013, các công trình nghiên cứu về bảo đảm nguyên tắc

tranh tụng còn hạn chế, chủ yếu là các công trình nghiên cứu về hoạt động tranh

tụng tại phiên tòa hình sự như:

- Nguyễn Mạnh Kháng “Cải cách tư pháp và vấn đề tranh tụng” - Tạp chí

Nhà nước và pháp luật, số 10/2013: tác giả đã phân tích bản chất của tranh tụng và

những ưu điểm, hạn chế của nó. Đồng thời, phân tích các điều kiện để đảm bảo

tranh tụng và khả năng vận dụng tranh tụng trong tình hình nước ta cũng như hệ quả

của việc vận dụng này.

- Trần Văn Độ (2004), “Bản chất tranh tụng tại phiên toà”, Tạp chí khoa

học pháp lý, số 4: tác giả cho rằng phiên tòa là giai đoạn trung tâm thể hiện đầy đủ

nhất bản chất quá trình tố tụng nói chung và xét xử nói riêng, do đó, việc nghiên

cứu xây dựng một hệ thống tố tụng tranh tụng hay hệ thống tố tụng khác có các yếu

tố tranh tụng phải được xuất phát trước tiên từ vấn đề tranh tụng tại phiên tòa. Từ

đó, tác giả phân tích nội dung tranh tụng tại phiên tòa trong các hệ thống tố tụng

khác nhau và đưa ra một số giải pháp nhằm đảm bảo cho nguyên tắc tranh tụng

được thực hiện đầy đủ trong tố tụng.

- Nguyễn Thái Phúc (2018), “Vấn đề tranh tụng và tăng cường tranh tụng

trong tố tụng hình sự theo yêu cầu của cải cách tư pháp”, Tạp chí Nhà nước và

pháp luật, số 8: bài viết nêu quan điểm về khái niệm “tranh tụng” dưới các góc độ

khác nhau. Từ đó, tác giả đưa ra các giải pháp tăng cường tranh tụng trong hoạt

động tố tụng hình sự ở nước ta theo yêu cầu của cải cách tư pháp.

- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường, Đại học Luật Hà Nội “Tranh tụng

trong tố tụng dân sự ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp” của tác giả

Nguyễn Thị Thu Hà năm 2011. Nội dung đề tài tập trung làm rõ những vấn đề lý

luận về tranh tụng trong TTDS như khái niệm, đặc điểm, bản chất, chủ thể tham gia

tranh tụng, phạm vi tranh tụng trong TTDS và đánh giá các quy định của pháp luật

2

TTDS về tranh tụng. Qua thực tiễn xét xử của Tòa án tác giả đã đưa ra các giải pháp

nhằm nâng cao hiệu quả tranh tụng. Mặc dù tác giả đã có quan điểm coi tranh tụng

là nguyên tắc của TTDS nhưng đề tài được thực hiện dựa trên các quy định của

BLTTDS năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011.

- Bài viết “Bảo đảm tranh tụng trong xét xử theo quy định của Bộ luật Tố

tụng dân sự năm 2015” của tác giả Bùi Thị Huyền trên tạp chí Luật học, số 4/2016.

Bài viết đã phân tích các quy định của BLTTDS theo hướng bảo đảm tranh tụng, cụ

thể: các quy định về thời hạn giao nộp chứng cứ của đương sự; quy định về việc

thông báo chứng cứ của vụ việc cho nhau giữa các đương sự; quy định về phiên họp

kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và quy định về phiên tòa sơ

thẩm theo hướng bảo đảm tranh tụng, đề cao vai trò của các bên đương sự trong quá

trình tranh tụng tại Tòa án. Mục đích bài viết của tác giả Bùi Thị Huyền đưa ra các

đề xuất nhằm hướng dẫn các quy định của BLTTDS năm 2015 về bảo đảm tranh

tụng trong xét xử. Tuy nhiên, bài viết thực hiện năm 2016 khi mà BLTTDS năm

2015 chưa có hiệu lực thi hành, chưa được áp dụng trên thực tế nên tác giả chưa thể

nêu ra những vướng mắc, khó khăn nhất định khi áp dụng BLTTDS năm 2015.

- Luận văn thạc sỹ luật học với đề tài “Tranh tụng trong tố tụng hành chính ở

Việt Nam- lý luận và thực tiễn”, tác giả Nguyễn Việt Nam bảo vệ năm 2013 tại

trường đại học luật Hà Nội. Tác giả đã phân tích và đưa ra những nhận định về tranh

tụng trong xét xử vụ án hành chính, đưa ra được khái niệm, đặc điểm, phạm vi tranh

tụng trong tố tụng hành chính và đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng

và các lý do để tranh tụng trở thành nguyên tắc của luật tố tụng hành chính.

- Bài viết “Hiểu đúng nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hành chính” của

thạc sỹ Phạm Công Minh, Viện kiểm sát cấp cao 3, đăng trên website Kiemsat.vn

ngày 10 tháng 8 năm 2016, đã chỉ ra được chủ thể, phạm vi, nội dung, phương pháp

và biểu hiện của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hành chính để cho các cán bộ

kiểm sát hiểu rõ và áp dụng thực hiện trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ

án hành chính tại Toà án.

Ngoài ra, các nghiên cứu về lý luận và thực tiễn tranh tụng với cách nhìn ở

các góc độ khác nhau, thể hiện trên các bài báo, tạp chí, có thể kể như bài:“Một số

vấn đề về mối quan hệ giữa tranh tụng trong tố tụng hình sự với chức năng xét xử

3

của Toà án trong bối cảnh cải cách tư pháp”, Nguyễn Trương Tín, Tạp chí Nhà

nước và pháp luật, số 10/2018. Hiến pháp 2013 ghi nhận “Nguyên tắc tranh tụng

trong xét xử được đảm bảo”, đã có nhiều các bài viết về nguyên tắc tranh tụng

như:“Vấn đề áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong luật tố tụng hình sự Việt Nam”,

Nguyễn Thanh Bình, Tạp chí Nghề Luật, số 10/2015; “Thực hiện nguyên tắc tranh

tụng trong xét xử bảo đảm tinh thần Hiến pháp 2013”, Phạm Văn Tuyên, Tạp chí

Lý luận chính trị, số 1/2016; “Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự”, Mai

Bộ, Tòa án nhân dân tối cao năm 2014.

Với các công trình trên, khi nghiên cứu đề tài “Bảo đảm nguyên tắc tranh

tụng trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hoá”, tác

giả có thuận lợi được tham khảo khá nhiều nguồn tài liệu. Tuy nhiên, tình hình

nghiên cứu cho thấy, các tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu về hoạt động “tranh

tụng” và nội hàm “nguyên tắc tranh tụng”. Do đó, việc nghiên cứu các biện pháp

bảo đảm cho nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vẫn rất cần thiết, góp phần làm rõ

cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc tranh tụng trong xét xử và đề ra những giải

pháp đảm bảo nguyên tắc này.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng

trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân và phân tích thực trạng thực hiện bảo

đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân, từ đó đề

xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong

hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện được mục đích nghiên cứu, đề tài đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu là:

- Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng

trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân;

- Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn bảo

đảm nguyên tắc tranh tụng từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa;

- Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo đảm

nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân.

4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu vấn đề bảo đảm nguyên tắc

tranh tụng trong xét xử trên phương diện lý luận, pháp lý và thực tiễn tranh tụng

trong giai đoạn xét xử từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Tranh tụng trong hoạt động xét xử là vấn đề có phạm vi nghiên cứu rất rộng.

Tuy nhiên, trong giới hạn của đề tài, tác giả chỉ nghiên cứu vấn đề bảo đảm nguyên

tắc tranh tụng trong xét xử từ góc độ Tòa án nhân dân, góc độ tiếp cận nghiên cứu

có tính khái quát các lĩnh vực pháp luật tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành

chính. Luận văn nghiên cứu thực tiễn hoạt động xét xử các vụ án hình sự, dân sự và

hành chính của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2016 - 2020.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, những quan điểm,

đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về nhà nước pháp quyền, cải cách

pháp luật, cải cách bộ máy nhà nước nói chung, cải cách tư pháp và thủ tục tư pháp

nói riêng.

Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp phân tích nhằm làm rõ những

vấn đề lý luận và thực tiễn về tranh tụng tại phiên tòa, phương pháp tổng hợp để

tổng hợp những vấn đề nghiên cứu nhằm đưa ra những nhận định và kết luận chung.

Phương pháp thống kê được sử dụng để thống kê số liệu trong thực tiễn xét xử liên

quan đến tranh tụng tại phiên tòa làm cơ sở cho việc đưa ra những nhận xét, kết

luận và đề xuất các biện pháp bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử từ góc độ

Tòa án nhân dân.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

Với mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, luận văn góp phần bổ sung lý luận về cải

cách tư pháp mà trọng tâm là nâng cao chất lượng xét xử, bổ sung hoàn thiện lý

luận về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử từ góc độ Tòa án nhân dân.

Về mặt thực tiễn, luận văn đóng góp vào việc tìm ra những hạn chế trong

thực trạng các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật, qua đó, đưa ra

5

những giải pháp có tính khả thi giúp nâng cao chất lượng bảo đảm nguyên tắc tranh

tụng trong xét xử từ góc độ Tòa án nhân dân.

7. Kết cấu của luận văn.

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết

cấu thành 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong

hoạt động xét xử;

Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn bảo đảm nguyên tắc tranh tụng

trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân từ tỉnh Thanh Hóa;

Chương 3: Giải pháp bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử

của Tòa án nhân dân từ tỉnh Thanh Hóa

6

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG

TRONG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và nội dung của nguyên tắc tranh tụng

trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân

1.1.1. Khái niệm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án

nhân dân

Hoạt động xét xử của TAND với tư cách là khâu trung tâm của hoạt động tư

pháp (theo nghĩa rộng) nhằm giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia

đình, lao động, hành chính. Tuy là khâu trung tâm, có ý nghĩa quyết định trong quá

trình giải quyết một vụ án, nhưng để TAND có thể xét xử được thì cần phải có hàng

loạt những hoạt động tố tụng trước đó. Các giai đoạn tố tụng có mối liên hệ gắn bó

hữu cơ thống nhất với nhau và đều dẫn đến kết quả tạo cơ sở cho khâu cuối cùng là

việc Tòa án đưa ra phán quyết một cách khách quan, công bằng, đúng pháp luật. Vì

vậy, tồn tại những tư tưởng có tính định hướng, chỉ đạo chung cho toàn bộ quá trình

hoạt động tố tụng, cho việc tổ chức và hoạt động của TAND. Đó cũng chính là các

nguyên tắc pháp lý, mà tranh tụng trong xét xử được bảo đảm là một trong những

nguyên tắc như vậy.

Mặc dù được sử dụng và nhắc đến rất phổ biến trong thời gian gần đây

nhưng hiện nay, chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào quy định cụ thể định

nghĩa về “tranh tụng”. Thuật ngữ tranh tụng lại được nhắc tới trong nhiều văn bản

của Đảng, các tài liệu Hội thảo và được hiểu theo nhiều quan điểm khác nhau trong

cả thực tiễn và khoa học pháp lý.

Về mặt ngôn ngữ, theo từ điển tiếng Việt, tranh tụng có nghĩa là kiện tụng

hay là sự kiện cáo lẫn nhau giữa hai bên, bên nguyên đơn và bên bị đơn có lập

trường tương phản được đưa ra để yêu cầu Toà án phân xử.

Theo Hán Việt từ điển giải thích “tranh tụng có nghĩa là cãi lẽ, cãi nhau để tranh lấy phải”1 thuật ngữ “tranh tụng” được ghép từ hai từ “tranh luận” và “tố

tụng”, như vậy, có thể hiểu tranh tụng là tranh luận trong tố tụng hay được hiểu

1 Nguyễn Lân, Từ điển Từ và Ngữ Hán - Việt, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2002 tr.621.

7

thông thường là việc từng bên đưa ra các quan điểm của mình và tranh luận lại, bác

bỏ một phần hay toàn bộ quan điểm của phía bên kia.

Các quan điểm này mặc dù đã thể hiện được một số đặc trưng cơ bản của

hoạt động tranh tụng nhưng chỉ thể hiện được tranh tụng là hoạt động riêng lẻ mà

chưa thể hiện được sự thống nhất, gắn bó hữu cơ giữa nguyên tắc tranh tụng được

quy định trong hiến pháp và các bộ luật quy định cho từng lĩnh vực cụ thể.

Tranh tụng bao giờ cũng gắn liền với hoạt động của Tòa án, xét xử là hoạt

động phân xử vụ kiện giữa các bên có quyền và lợi ích khác nhau. Tòa án tiến hành

xác định sự thật khách quan của vụ án tại phiên toà bằng cách điều tra công khai,

chính thức về vụ việc, nghe các bên tranh luận bảo vệ quan điểm của mình, xem xét

vụ án từ góc độ nội dung đến pháp luật áp dụng để ra phán quyết. Tuỳ theo từng

loại vụ án mà quyền tranh tụng, địa vị pháp lý của các bên cũng khác nhau như:

tranh tụng trong tố tụng hình sự, tranh tụng trong tố tụng dân sự, tranh tụng trong tố

tụng hành chính,... Tuy nhiên, Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ chính trị đã phân

biệt hai thuật ngữ “tranh tụng” và “tranh luận”. Tranh tụng là một quá trình còn

tranh luận chỉ là một thủ tục độc lập của phiên toà xét xử - phần thể hiện điển hình

nhất của quá trình tranh tụng mà Tòa án là trung tâm, đóng vai trò là trọng tài điều

khiển và đưa ra phán quyết về kết quả đấu tranh pháp lý giữa các bên.

Tranh tụng là con đường đi đến chân lý, sự thật khách quan của vụ án một

cách công bằng, dân chủ và hợp pháp, tránh được lối dùng quyền lực hay sức mạnh

của nhà nước áp đặt một cách chủ quan, duy ý chí, bất công và do vậy không bảo

đảm được công lý.

Từ việc phân tích các quan điểm trên có thể nêu khái niệm chung: tranh tụng

là việc hai bên đưa ra các quan điểm, lập luận riêng của mình và tranh luận, bác bỏ

một phần hoặc toàn bộ quan điểm của bên kia nhằm bảo vệ quan điểm của mình

dưới sự giám sát của Tòa án và Tòa án đưa ra phán quyết dựa trên kết quả của quá

trình tranh tụng đó.

Như vậy, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được hiểu là tư tưởng chủ đạo,

định hướng cho việc xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật về việc trình bày

quan điểm, tranh luận pháp lý giữa các bên trong hoạt động tố tụng nhằm xác định

sự thật khách quan của vụ án một cách dân chủ, công bằng, bảo đảm công lý.

8

1.1.2. Đặc điểm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Toà án

nhân dân

Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm là một trong những

nguyên tắc hiến định về tổ chức và hoạt động của TAND:

Tòa án đóng vai trò như một vị trọng tài độc lập giữa các bên, xem xét khách

quan các tài liệu, chứng cứ, căn cứ vào hoạt động tranh tụng và đặc biệt là kết quả

của hoạt động này, xem như cốt lõi, để ra bản án, quyết định việc có tội hay không

có tội, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Do có vai trò quan trọng

như vậy, hoạt động tranh tụng cần được bảo đảm thực hiện không chỉ ở bất kì lĩnh

vực pháp luật tố tụng cụ thể, mà cần phải có sự thống nhất hữu cơ giữa các lĩnh vực

khác nhau, đóng vai trò là tư tưởng chủ đạo, định hướng toàn bộ vấn đề tổ chức và

hoạt động xét xử tại TAND. Tư tưởng trên được xem là một trong những điểm mới

tích cực của Hiến pháp năm 2013, cụ thể hóa qua các điều luật trong từng lĩnh vực

pháp luật cụ thể: Điều 18 Luật tố tụng hành chính; Điều 24 Bộ luật tố tụng Dân sự

và Điều 26 Bộ luật tố tụng Hình sự. Đặc điểm này quyết định một trong những vai

trò quan trọng của nguyên tắc (sẽ được phân tích ở phần sau).

Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm có mối liên hệ hữu cơ gắn

bó trong hệ thống các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của toà án nhân dân:

Nguyên tắc độc lập của tòa án: Khoản 2 Điều 103 Hiến pháp 2013 quy định: “Thẩm

phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ

chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”. Đây là nguyên

tắc được đánh giá là quan trọng bậc nhất. Nguồn gốc của nó được bắt nguồn học

thuyết “Phân quyền” của Montesquieu và nhu cầu phải xét xử công bằng chỉ dựa

theo các quy định của pháp luật khi nó ngày càng lấn sâu vào mọi lĩnh vực của xã

hội. Trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật” Montesquieu đã viết: “Khi quyền lập

pháp được sát nhập với quyền hành pháp và tập trung vào trong một người hay một

tập đoàn thì sẽ không có tự do được bởi vì người ta có thể sợ rằng chính nhà Vua

hay Nghị viện ấy sẽ làm những đạo luật độc đoán để thi hành một cách độc đoán..”2.

2 Phạm Ngọc Minh, “Những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân” (24/07/2017), luatviet.co tại địa chỉ: http://luatviet.co/nhung-nguyen-tac-chu-yeu-ve-to-chuc-va-hoat-dong-cua-toa-an- nhan-dan/n20170524045758484.html truy cập ngày 30/07/2018

9

Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số: Hoạt động xét xử

mang bản chất là sự trừng phạt đối với những cá nhân, tập thể vượt qua hành lang

quy định của pháp luật, răn đe các chủ thể khác và bảo vệ hệ thống Nhà nước xã hội

chủ nghĩa. Kết quả của hoạt động này, bản án sẽ quyết định số phận của cá nhân,

tập thể, quyền và lợi ích của Nhà nước, ảnh hưởng trực tiếp đến thân nhân họ và xã

hội nên cần phải xem xét một cách kĩ lưỡng, thận trọng, tránh để yếu tố chủ quan

chi phối. Vì vậy, việc xét xử cần có sự phối hợp, đồng thuận của cả hội đồng xét xử,

tập hợp trí tuệ tập thể. Theo quy định tại Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014, Hội

đồng xét xử cần có ít nhất ba người trở lên và phải là số lẻ, do Chánh án quyết định.

Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo:“Quyền bào chữa của

bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm” (khoản 7

Điều 103 Hiến pháp năm 2013). Cũng như các nguyên tắc khác, nguyên tắc này

được quy định cũng góp phần củng cố thêm tính dân chủ, khách quan và chính xác

của Tòa án trong hoạt động xét xử.

Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm luôn có sự thống nhất hữu

cơ với các nguyên tắc khác về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Nó không

nằm riêng rẽ, biệt lập với các nguyên tắc khác mà luôn có sự tác động qua lại, phối

kết hợp nhằm một mục đích duy nhất là đảm bảo sự công bằng, bình đẳng của

người dân trước pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, xây dựng một nền tư

pháp dân chủ tiến bộ. Nguyên tắc này có ảnh hưởng rất lớn tới bản chất của nền tư

pháp nước nhà nhưng không khẳng định mô hình tố tụng nước ta hoàn toàn là mô

hình tố tụng tranh tụng.

- Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm thể hiện rõ ràng, mạch

lạc các chức năng cơ bản, gắn với tư cách chủ thể của các bên trong hoạt động tố

tụng: Trong tố tụng hình sự đó là các chức năng buộc tội (bên buộc tội); chức năng

gỡ tội hay bào chữa (bên gỡ tội); chức năng xét xử (Tòa án). Trong các loại tố tụng

phi hình sự, đó là các bên: bên nguyên hoặc bên khởi kiện, bên bị hoặc bên bị kiện

và toà án đóng vai trò là trọng tài phân xử. Tranh tụng trong xét xử diễn ra giữa các

bên có tư cách bình đẳng với nhau trong tố tụng (giữa bên buộc tội với bên gỡ tội

hoặc giữa các đương sự) dưới quyền điều khiển (trọng tài) của Tòa án. Trên cơ sở

10

nguyên tắc tranh tụng, quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, tính chủ động của các bên

trong tố tụng được tôn trọng và đề cao.

- Nguyên tắc này được thực hiện theo quy định được cụ thể hoá trong từng

lĩnh vực pháp luật tố tụng và tồn tại trong thể thống nhất với các nguyên tắc tố tụng

khác của mỗi ngành luật tố tụng:

Nguyên tắc“Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” được cụ thể hóa qua các

điều luật được quy định trong từng bộ luật tố tụng riêng biệt: Khoản 1 Điều 18

LTTHC năm 2015 quy định rõ: “Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự,

người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh

tụng…”

Trước khi Hiến pháp 2013 ra đời (thời điểm nguyên tắc đảm bảo tranh tụng

được hiến định), trong tất cả các bộ luật tố tụng mới chỉ quy định các yếu tố tiền đề,

liên quan đến nguyên tắc trên, thậm chí là cụm từ “tranh tụng” còn chưa xuất hiện

mà thay vào đó là cụm từ “tranh luận”. Do vậy, nguyên tắc đảm bảo tranh tụng

trong xét xử không tồn tại biệt lập với các nguyên tắc tố tụng khác trong từng lĩnh

vực riêng lẻ mà ngược lại, chúng cụ thể hóa nguyên tắc này, bổ trợ lẫn nhau, tồn tại

trong thể thống nhất.

1.1.3. Vai trò nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Toà án

nhân dân

Thể chế hoá chủ trương, đường lối của Đảng trong Hiến pháp 2013, nguyên

tắc tranh tụng trong xét xử giữ một vai trò quan trọng, ảnh hưởng lớn tới hiệu quả

của quá trình tố tụng xét xử vụ án cũng như thể hiện được ý nghĩa quan trọng của

hoạt động xét xử trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lẽ

phải, bảo vệ công lý:

Thứ nhất, nguyên tắc này đã thể chế hoá ở cấp độ cao nhất (hiến định) một

trong những quan điểm, nội dung đường lối có tính trọng tâm, đột phá về cải cách

tư pháp của Đảng và Nhà nước ta. Nguyên tắc hiến định này tạo nền tảng pháp lý

thống nhất, định hướng và chỉ đạo toàn bộ hệ thống các quy định về tổ chức và hoạt

động của bộ máy tư pháp của Nhà nước ta, tạo bước chuyển biến căn bản trong quá

trình cải cách tư pháp nhằm xây dựng một nền tư pháp tiến bộ, dân chủ, công bằng,

khách quan, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân.

11

Đảng và Nhà nước đã có chủ trương về vấn đề này và đã được đề cập trong

Nghị quyết 08-NQ/TW và Nghị quyết 49-NQ/TW. Thể chế hoá chủ trương đó,

những quy định pháp luật tố tụng đã và đang phát huy hiệu lực trên thực tiễn của

công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm và giải quyết các mâu thuẫn xã hội được

pháp luật điều chỉnh.

Thứ hai, nguyên tắc tranh tụng trong Hiến pháp là nền tảng để xây dựng và

hoàn thiện các quy định về bảo đảm tranh tụng trong các văn bản pháp luật tố tụng.

Ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm trong Hiến pháp

tạo ra một chế độ, khuôn khổ chính trị-pháp lí thống nhất, định hướng cho sự phát

triển của cả hệ thống pháp luật tố tụng. Tất cả các văn bản quy phạm pháp luật tố

tụng cũng như thực tiễn hoạt động tố tụng đều phải phù hợp với quy định và tinh

thần của Hiến pháp. Từ một chủ trương, quan điểm trong đường lối chính trị của

Đảng ta với tư cách là đảng cầm quyền, tranh tụng đã trở thành một nguyên tắc hiến

định. Điều đó góp phần quan trọng vào việc thể chế hoá và hiện thực hoá tư tưởng

của Đảng và Nhà nước, cũng là nguyện vọng của nhân dân ta về xây dựng một nền

tư pháp tiến bộ, dân chủ, công bằng, khách quan ở Việt Nam.

Như vậy, nếu Hiến pháp không thể chế hoá nguyên tắc này thì rất khó có thể

bảo đảm được tính thống nhất trong hệ thống pháp luật tố tụng, sự thể hiện đúng

bản chất chung của nền tư pháp Việt Nam.

Thứ ba, tranh tụng trong xét xử có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực

hiện quyền tư pháp. Điều đó là đặc biệt cần thiết trong hoạt động xét xử của Tòa án,

qua tranh tụng tại phiên tòa, các chứng cứ sẽ có điều kiện được kiểm định lại và làm

sáng tỏ thêm, những người có thẩm quyền tham gia tố tụng tại phiên tòa, có điều

kiện trình bày, chứng minh, phản biện một cách dân chủ, công khai, minh bạch; chủ

tọa phiên tòa sẽ có điều kiện đánh giá một cách khách quan hơn so với tố tụng chỉ

thiên về xét hỏi. Như vậy, tranh tụng trong xét xử góp phần rất quan trọng để Tòa

án phán xét đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế tình trạng oan sai, phân

xử các mâu thuẫn phát sinh trong đời sống xã hội một cách đúng đắn, bảo đảm cho

nền tư pháp của nước nhà là biểu hiện điển hình của công bằng và công lý. Tranh

tụng trong xét xử là nguyên tắc phổ quát trong tố tụng tư pháp của hầu hết các nhà

nước dân chủ và pháp quyền. Đó là một giá trị và là một tiêu chí để đánh giá một

12

nền tư pháp có dân chủ và pháp quyền hay không. Chính vì thế, trong định hướng

về cải cách tư pháp, Đảng ta đã nhấn mạnh phải tăng cường tranh tụng tại phiên tòa

và Hiến pháp năm 2013 đã quy định thành một trong những nguyên tắc về tổ chức

và hoạt động của toà án nhân dân.

Thứ tư, bảo đảm tranh tụng trong xét xử là thực hiện dân chủ, công bằng, là

Nhà nước bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, từ nguyên tắc hiến định, được cụ thể hoá

trong các đạo luật theo từng loại tố tụng đóng vai trò xác định một cách rõ ràng,

thống nhất chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể tố tụng, các bên tham

gia tranh tụng, phát huy tính tích cực chủ động của các chủ thể trong quá trình

chứng minh vụ án, nhờ đó tạo điều kiện cho việc tìm ra sự thật khách quan của vụ

án, tạo cơ sở quan trọng cho việc đưa ra phán quyết công bằng, khách quan, hợp

pháp của toà án, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân nói chung và

quyền trong lĩnh vực tố tụng nói riêng.

Tóm lại, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng nhìn dưới góc độ lý luận và thực tiễn

đều giữ vai trò quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Các

chủ thể tham gia tố tụng thực hiện hoạt động xem xét, đánh giá chứng minh xoay

quanh đơn kiện của các bên. Nói một cách khác, nguyên tắc tranh tụng cho phép các

bên tham gia tố tụng có quyền chứng minh. Từ cơ sở đó, Toà án ra phán quyết công

khai tại phiên tòa. Với vai trò đó, có thể thấy dù theo mô hình tố tụng tranh tụng hay

tố tụng thẩm vấn thì tính công bằng, công khai minh bạch trong hoạt động tố tụng

nhằm bảo đảm tối đa quyền con người đòi hỏi xã hội phải có sự thay đổi về nhận

thức và ý thức pháp luật nếu muốn nguyên tắc được ghi nhận tại các luật tố tụng

được bảo đảm vững chắc, tăng cường hoạt động cải cách tư pháp đang diễn ra ở

Việt Nam hiện nay.

1.1.4. Nội dung nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Toà án

nhân dân

1.1.4.1. Tranh tụng được thực hiện giữa các bên trong tố tụng, tranh tụng là

khâu trung tâm của hoạt động xét xử

Khi thực hiện hoạt động xét xử, Tòa án phải đảm bảo tranh tụng giữa các bên

đương sự, bị cáo với những người tham gia tố tụng khác, tranh tụng là khâu trung

13

tâm của hoạt động xét xử. Đối với mô hình tố tụng thẩm vấn, vai trò Thẩm phán

được đề cao rõ rệt, chủ thể này có là người tích cực xét hỏi bị cáo, nhân chứng,

người bị hại…để tìm ra sự thật. Chứng cứ cũng do Thẩm phán điều tra và tập hợp,

đương sự không có nghĩa vụ chứng minh chứng cứ nên có nhiều ý kiến cho rằng

việc này đã hạn chế quyền của các bên đương sự, đi ngược lại nguyên tắc khách

quan do vậy mà việc tranh tụng trước tòa chỉ là một hoạt động mang tính hình thức.

Nhiều trường hợp, bị cáo còn phải trải qua một thời gian giam giữ mới được xét xử,

gây ảnh hưởng tới khả năng bào chữa và nghiêm trọng hơn là tổn hại tới quyền con

người, quyền của chủ thể bị buộc tội không được coi trọng. Qua đây, người viết

thấy rằng sự phân biệt về quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự có tính đối kháng về

pháp lý trong mô hình này không rõ ràng, rành mạch, quyền lực và mọi vai trò đều

thuộc về các cơ quan và chủ thể tiến hành tố tụng.

Tranh tụng phải được xác định là khâu trung tâm của hoạt động xét xử: Nếu

xét xử là khâu trung tâm của hoạt động tư pháp thì trong quá trình xét xử tại Tòa án,

tranh tụng phải được coi là yêu cầu trung tâm. Yêu cầu này đòi hỏi tất cả mọi hoạt

động tố tụng khác trước đó hoặc đồng thời với quá trình xét xử tại Tòa án đều nhằm

phục vụ cho việc tranh tụng tại phiên xét xử của Tòa án. Chất lượng, hiệu quả của

tranh tụng phản ánh chất lượng, hiệu quả của các hoạt động tố tụng khác. Ngược lại,

các hoạt động tố tụng khác không tốt sẽ ảnh hưởng không tốt đến kết quả tranh tụng

và do đó sẽ ảnh hưởng xấu đến phán quyết của Tòa án, sự thật khách quan, công

bằng, công lý không được bảo đảm. Điều đó cũng có nghĩa nguyên tắc tranh tụng

đòi hỏi, phán quyết của Tòa án về cơ bản phải dựa trên kết quả của tranh tụng.

1.1.4.2. Các bên tranh tụng bình đẳng với nhau

Các chủ thể tham gia tố tụng có quyền bình đẳng trong việc đề đạt yêu cầu

để Tòa án bảo vệ, bổ sung yêu cầu và rút yêu cầu…Khi đưa ra yêu cầu, các bên

tranh tụng có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ và chứng minh để bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ

và chứng minh phải được hiểu là, đương sự là người có yêu cầu có quyền cung cấp

cho Tòa án các chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ chứng minh để làm cơ sở cho yêu

cầu của mình và ngược lại khi phản đối quan điểm phía bên kia thì họ phải trả lời

các yêu cầu cũng có quyền cung cấp cho Tòa án các chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ

14

chứng minh làm cơ sở cho việc phản đối của mình. Khi cung cấp chứng cứ, căn cứ

pháp lý, lý lẽ chứng minh cho Tòa án các bên đều có quyền bình đẳng, có nghĩa là

không phân biệt nam nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã

hội, vị trí tố tụng, mọi chủ thể tham gia tranh tụng đều có quyền như nhau trong

việc tranh tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Chính vì vậy, quá trình này chỉ đạt được mục đích khi các chủ thể tham gia

tranh tụng được bình đẳng với nhau trước Tòa án. Ở đây, không phải là sự bình

đẳng giữa những chủ thể mà địa vị pháp lý của họ khác nhau như chủ tọa phiên tòa

với các bên tranh tụng hay giữa Hội thẩm nhân dân với người làm chứng…mà các

chủ thể tham gia tranh tụng được bình đẳng với nhau trước Tòa án được hiểu là

bình đẳng về quyền và nghĩa vụ tố tụng giữa các chủ thể có cùng địa vị pháp lý

trong quá trình tố tụng như các bên đương sự trong tố tụng dân sự, hành chính hay

bên buộc tội và bên gỡ tội trong tố tụng hình sự. Các chủ thể tranh tụng được bình

đẳng trong việc thực hiện quyền tranh tụng, theo đó các bên tranh tụng được bình

đẳng về quyền và nghĩa vụ tố tụng và bình đẳng về trách nhiệm pháp lý. Bởi nếu

không được bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng thì sự thật

khách quan của vụ án không được sáng tỏ, các bên tranh tụng không bảo vệ được

quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ và chứng minh để bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp của mình là một bảo đảm cho các chủ thể thực hiện quyền

tự định đoạt trong việc rút yêu cầu, rút đơn khởi kiện, truy tố. Bởi vì, khi xuất trình

chứng cứ các bên sẽ tự mình xem xét các yêu cầu, phản yêu cầu mà họ đưa ra có

hợp lý hay không? Các chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý mà họ viện dẫn có đủ sức

thuyết phục Tòa án, phía bên kia không? Và trong trường hợp nếu các bên thấy các

chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý mà họ đưa ra không đủ cơ sở để chứng minh cho

yêu cầu của mình thì trong nhiều trường hợp một trong các bên tự nguyện rút yêu

cầu, rút đơn khởi kiện và khi đó Tòa án có căn cứ để ra quyết định đình chỉ việc giải

quyết vụ kiện. Thông qua quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ và chứng

minh mà người phải trả lời các yêu cầu tự nhận thấy yêu cầu, các chứng cứ, lý lẽ,

căn cứ pháp lý mà phía bên kia đưa ra là đúng đắn, có cơ sở và họ thừa nhận những

chứng cứ, những yêu cầu đó. Việc các bên thừa nhận một sự kiện pháp lý, một yêu

15

cầu…mà đáng lẽ ra họ phải cung cấp cho Tòa án để làm rõ sẽ giải phóng phía bên

kia khỏi nghĩa vụ chứng minh. Tuy nhiên, việc thừa nhận yêu cầu, chứng cứ do bên

kia cung cấp cũng cần phải được Tòa án kiểm tra, xem xét để xác định việc thừa

nhận đó là có cơ sở, không bị gò ép, mua chuộc.

Quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ và chứng minh còn được hiểu

là, những chứng cứ mà các bên cung cấp trong thời gian do Thẩm phán ấn định đều

phải được Tòa án chấp nhận và đưa vào trong hồ sơ vụ kiện. Trong quá trình giải

quyết vụ kiện, mọi yêu cầu, tình tiết và chứng cứ của vụ kiện đều phải được Tòa án

nghiên cứu, đánh giá, sử dụng một cách đầy đủ, khách quan và toàn diện. Tòa án

không được coi chứng cứ của bên này hơn chứng cứ của bên kia dẫn đến không

xem xét đầy đủ các yêu cầu, lý lẽ. Việc ghi nhận đầy đủ các chứng cứ được cung

cấp cho Tòa án là sự bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bình đẳng trong việc

đưa ra chứng cứ và chứng minh đồng thời nó còn thể hiện quyền tự định đoạt của

đương sự trong việc cung cấp chứng cứ và chứng minh.

Quyền bình đẳng của đương sự trước Tòa án còn được hiểu là các bên được

biết các chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ chứng minh do các đương sự khác xuất trình

hoặc các chứng cứ do Tòa án thu thập. Thông qua việc được biết các chứng cứ, căn

cứ pháp lý, lý lẽ chứng minh này, đương sự chuẩn bị tổ chức việc biện hộ, bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy, trong quá trình giải quyết vụ kiện, các

bên tham gia tố tụng phải được Tòa án cho xem xét các giấy tờ, tài liệu, vật chứng,

căn cứ pháp lý, lý lẽ chứng minh do phía bên kia xuất trình hoặc chứng cứ do Tòa

án thu thập.

Bên cạnh đó, các bên được bình đẳng trong việc tham gia tranh luận tại phiên

tòa. Việc thực hiện được quyền trình bày, tranh luận là một biện pháp tốt để các bên

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án đặc biệt trong tố tụng hình

sự khi mà những quy định của pháp luật mới cho thấy rõ ràng sự bình đẳng trong

tranh luận giữa một bên là Viện kiểm sát và một bên là bị cáo, người bào chữa,

người đại diện hợp pháp của bị cáo. Thông qua tranh luận, các chủ thể dựa vào pháp

luật, đưa ra các chứng cứ, những lập luận thuyết phục Hội đồng xét xử bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

16

1.1.4.3. Tranh tụng được các bên thực hiện trên cơ sở pháp luật, tôn trọng sự

thật khách quan, có trách nhiệm, có văn hoá ứng xử

Tòa án phải tôn trọng quyền tranh tụng của các bên tham gia tranh tụng, phải

bảo đảm cho các bên tham gia tranh tụng cũng như những người tham gia tố tụng

khác hiểu biết và đủ điều kiện thực hiện quyền tranh tụng theo quy định của pháp

luật. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia tốt tụng đều được ghi nhận trong các

quy định của pháp luật nhằm tạo ra cơ chế để buộc các bên phải thực hiện hoạt động

tranh tụng có trách nhiệm, tôn trọng sự thật và có văn hoá ứng xử. Các bên khi tham

gia tố tụng, cung cấp tài liệu chứng cứ, lời khai...đều phải chịu trách nhiệm trước

pháp luật về lời nói và hành vi của mình. Bên cạnh đó, Tòa án là người điều khiển

hoạt động tranh tụng, đảm bảo việc thực hiện tranh tụng của các bên được thực hiện

theo đúng pháp luật và có văn hoá. Chỉ khi các bên tham gia tố tụng thực hiện đúng

yêu cầu này thì sự thật khách quan mới được làm sáng tỏ, hoạt động tranh tụng mới

đạt được kết quả tốt nhất và Tòa án có thể đưa ra được phán quyết đúng đắn, công

bằng, công minh để bảo vệ lẽ phải, bảo vệ công lý. Tòa án chỉ được đưa ra phán

quyết dựa vào những chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ chứng minh đã được xét hỏi,

tranh luận công khai tại phiên tòa.

1.1.4.4. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho các bên được tham gia tranh

tụng

Tòa án không tham gia tranh tụng mà chỉ là trọng tài, điều khiển tranh tụng

nhưng vai trò của Tòa án hết sức quan trọng, là người tao điều kiện thuận lợi cho

các bên thực hiện quyền, trách nhiệm tranh tụng, bảo đảm tuân thủ các quy định khi

tranh tụng nhằm hướng tranh tụng diễn ra đúng hành lang pháp lý, đi đến được mục

tiêu của nó. Sở dĩ Tòa án có trách nhiệm này vì Tòa án là cơ quan thực hiện quyền

lực Nhà nước (quyền tư pháp), nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, có chức năng, thẩm quyền xét xử các vụ án đương nhiên vì thế Tòa án có

thẩm quyền đưa ra phán quyết giải quyết vụ án. Tuy nhiên, một mặt Tòa án cũng

cần phải có trách nhiệm bảo đảm cho quá trình xét xử được diễn ra một cách dân

chủ, công bằng, tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của các bên. Mặt khác, Tòa án

cũng cần phải có căn cứ khách quan để có thể đưa ra được phán quyết đúng đắn,

công bằng, hợp pháp. Chỉ có thể bảo đảm tranh tụng trong xét xử thì Tòa án mới

17

hoàn thành được sứ mạng của mình. Bảo đảm cho các bên thực hiện được tranh

tụng trong xét xử là trách nhiệm của Tòa án nhưng đó cũng là phương thức mà Tòa

án thực hiện được nhiệm vụ một cách đúng đắn và hiệu quả.

Nguyên tắc tranh tụng được thực hiện trong suốt quá trình giải quyết vụ án,

từ khi có khởi kiện hoặc truy tố, thụ lý đến xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc

thẩm, tái thẩm và thủ tục đặc biệt. Biểu hiện rõ nét nhất của nguyên tắc tranh tụng

trong xét xử được thể hiện trong phiên toà sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm. Trong

quá trình đó, các bên đương sự dưới sự điều khiển của Hội đồng xét xử trực tiếp

trình bày yêu cầu, tài liệu, chứng cứ, tranh luận và đối đáp với nhau về chứng cứ,

căn cứ pháp lý, lý lẽ, lập luận để chứng minh yêu cầu của mình đối với phía bên kia

là có căn cứ và hợp pháp. Dù trong vụ án dân sự, hình sự, kinh doanh thương mại

hay hành chính...thì Hội đồng xét xử sẽ đưa ra phán quyết về việc giải quyết vụ án

dựa trên cơ sở kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

1.1.4.5. Tòa án ra phán quyết dựa trên kết quả của tranh tụng giữa các bên

Tranh tụng còn là phương thức thể hiện tính dân chủ, tiến bộ của quá trình tố

tụng, thể hiện nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền

công dân trong lĩnh vực tố tụng, do vậy nó hạn chế tối đa các sai phạm trong quá

trình giải quyết vụ việc.

Hệ quả này bắt nguồn từ việc tố tụng tranh tụng rất đề cao quyền tự đưa ra lý

lẽ, luận điểm để bảo vệ quan điểm của mình và quyền tự bào chữa của các bên. Yêu

cầu này đặt ra đối với Tòa án - người đóng vai trò trọng tài trong tranh tụng. Với tư

cách là cơ quan xét xử, Tòa án có thẩm quyền đưa ra phán quyết về vụ án nhưng

cũng với tư cách là trọng tài, người điều khiển cuộc tranh tụng giữa các bên, toà án

phải có trách nhiệm đưa ra phán quyết dựa trên cơ sở kết quả tranh tụng. Điều đó có

nghĩa phán quyết của Tòa án phải làm rõ kết quả của tranh tụng, phải chứng minh

được lý lẽ, chứng cứ của bên nào đưa ra là có sức thuyết phục với Tòa án, lý do, căn

cứ nào mà Tòa khẳng định là lý lẽ, chứng cứ đó có ý nghĩa quyết định đối với phán

quyết của Tòa án và ngược lại đối với lý lẽ, chứng cứ nào không thuyết phục được

Tòa án, căn cứ và lý do vì sao. Nói cách khác, bản án do Tòa án đưa ra không phải

là sản phẩm của ý chí chủ quan, quan điểm cá nhân của Thẩm phán hay Hội đồng

xét xử mà phải là sản phẩm của cả một quá trình xem xét, đánh giá chứng cứ, tranh

18

tụng, cọ sát, tranh đấu giữa các quan điểm của những bên đối tụng. Để đưa ra phán

quyết, Tòa án phải lập luận và chứng minh một cách đầy đủ, toàn diện, khách quan,

công bằng, có căn cứ dựa trên kết quả của cuộc tranh tụng giữa các bên tại Tòa án.

1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và các yếu tố bảo đảm nguyên tắc

tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân

1.2.1. Khái niệm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử

của Tòa án nhân dân

Theo từ điển Tiếng Việt, “bảo đảm” là tạo điều kiện cần thiết để thực hiện

những nguyên tắc; bảo đảm theo nghĩa chung nhất là làm cho chắc chắn thực hiện

được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết. Trong tố tụng, bảo đảm còn

được hiểu là trách nhiệm của mọi chủ thể bao gồm cả cá nhân và tổ chức phải làm

cho quyền, lợi ích của chủ thể bên kia chắc chắn được thực hiện, được giữ gìn.

Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng mở ra cơ hội cho các bên tham gia tố tụng.

Bên buộc tội, bên bào chữa, các bên đương sự đều có quyền chủ động xác định vấn

đề cần chứng minh, trên cơ sở đó có thể tự tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ cần

thiết, triệu tập nhân chứng để phản bác lại quan điểm của phía đối phương và khẳng

định lý lẽ của mình trước toà. Bất kỳ chứng cứ, lý lẽ nào được thu thập, xuất trình

tại phiên toà theo đúng trình tự pháp lý được Toà án chấp nhận sẽ là căn cứ cho

phán quyết cuối cùng mà không phân biệt do bên nào đưa ra.

Qua nhiều giai đoạn lịch sử lập pháp, đến Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức

Tòa án nhân dân năm 2014 thì nguyên tắc này mới được ghi nhận. Tranh tụng tồn

tại từ khi xuất hiện yêu cầu cho đến khi mâu thuẫn được giải quyết. Trong giai đoạn

này, chức năng tài phán thuộc về Tòa án, Tòa án được khẳng định giữ vị trí, vai trò

của người trọng tài trung lập và là cơ quan có thẩm quyền nhân danh Nhà nước thực

hiện hoạt động xét xử, lắng nghe các luận điểm của các bên và xem xét tính hợp

pháp, các giá trị chứng minh của các chứng cứ được đưa ra nhằm xác định sự thật

vụ án. Bởi vậy, Tòa án chính là chủ thể duy nhất duy trì trật tự tại phiên toà, giám

sát và điều khiển quá trình tranh tụng giữa các bên, bảo đảm sự tuân thủ pháp luật tố

tụng của tất cả các bên tham gia phiên toà, bảo đảm quá trình tranh luận diễn ra đạt

được đúng yêu cầu, mục đích của pháp luật. Với vai trò của người trọng tài có

nhiệm vụ bảo đảm sự bình đẳng được pháp luật quy định giữa các chủ thể tham gia

19

tranh tụng, tạo điều kiện cho các chủ thể làm sáng tỏ các chứng cứ, tình tiết, hành vi

để xác định sự thật khách quan của vụ án. Toà án là trọng tài, do đó, cần phải thể

hiện sự vô tư, không thiên vị, là cơ chế bảo đảm sự bình đẳng giữa các bên tham gia

tố tụng tại phiên toà, bảo đảm xác định được sự thật khách quan bởi người trọng tài

với chức năng chuyên môn là phán xét nhằm thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ lẽ

phải, bảo vệ công lý. Việc bảo đảm cơ chế xét xử của Tòa án có ý nghĩa vô cùng

quan trọng trong việc thực hiện bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên toà xét

xử; hạn chế và loại bỏ sự yếu thế của một bên nào đó cùng với sự lấn lướt của số

đông làm cho phiên toà chỉ còn mang tính hình thức, các chứng cứ được xem xét

một cách phiến diện và ảnh hưởng đến phán quyết của Toà án.

1.2.2. Đặc điểm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử

của Toà án nhân dân

Việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự có các

đặc điểm sau đây:

Thứ nhất, các chủ thể tham gia tranh tụng đều có quyền xác định sự thật vụ

án theo quy định của pháp luật. Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa xét

xử sơ thẩm các vụ án hình sự không chỉ đòi hỏi bên buộc tội là Viện kiểm sát, bị hại

mà còn đòi hỏi bên gỡ tội người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng

khác cũng phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án.

Thứ hai, các bên tham gia tố tụng (buộc tội và gỡ tội) đều có quyền bình

đẳng để đưa ra chứng cứ chứng minh cho luận điểm của mình.

Thứ ba, Tòa án chỉ đóng vai trò trọng tài, độc lập và khách quan, chỉ căn cứ

vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa để đưa ra phán quyết

1.2.3. Vai trò bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của

Toà án nhân dân

Nắm bắt được vai trò quan trọng của tranh tụng, trong thời gian gần đây,

Đảng và Nhà nước ta đã khởi động công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước

pháp quyền trong bối cảnh ngày càng hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế và đời

sống pháp lý quốc tế. Nghị quyết 49-NQ/TW một lần nữa yêu cầu “Nâng cao chất

lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên

tòa xét xử, coi đây là hoạt động đột phá của các cơ quan tư pháp...”. Một vấn đề đặt

20

ra là tranh tụng được đề cập trong các văn kiện này được hiểu như thế nào cho

đúng. Có ý kiến cho rằng, cần xác định tranh tụng như một nguyên tắc của tố tụng

Việt Nam, có ý kiến đề nghị chuyển mô hình tố tụng ở nước ta sang mô hình tố tụng

tranh tụng như nhiều nước đang áp dụng trên thế giới. Tuy nhiên, trong điều kiện

của nước ta hiện nay, nên hiểu yêu cầu tăng cường tranh tụng là yêu cầu cần phải

tăng cường khả năng tranh luận dân chủ giữa các chủ thể tiến hành và tham gia tố

tụng nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm cho việc xét xử đúng

người đúng tội, đúng pháp luật. Cách hiểu này phù hợp với trình độ dân trí nói

chung, khi mà trình độ của đại bộ phận nhân dân am hiểu về pháp luật với khả năng

tự bào chữa, tranh luận còn hạn chế về nhiều mặt.

Tranh tụng bao giờ cũng gắn với hoạt động tài phán của Tòa án. Tranh tụng

là một yêu cầu khách quan, là điều kiện cần thiết để Tòa án thực hiện chức năng xét

xử của mình một cách tốt nhất. Bản án, quyết định của Tòa án về nguyên tắc phải là

chân lý. Điều này chỉ có thể xảy ra khi những nội dung của bản án phù hợp với thực

tại khách quan của vụ án. Do đó, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử đóng

vai trò cốt yếu để tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Vai trò đó được thể hiện qua

các khía cạnh sau:

Thứ nhất, tại các phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có sự tham gia đầy

đủ nhất của tất cả các chủ thể của hai bên (buộc tội, bào chữa) và các chủ thể khác

tham gia vào quá trình tố tụng. Như vậy, chỉ có tại phiên tòa, các chức năng tố tụng

cơ bản: buộc tội, gỡ tội, tài phán được phân định rõ ràng giữa bên buộc tội, bên gỡ

tội, tòa án và cũng chỉ tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, vai trò của bên

buộc tội, bên bào chữa được xác định là các bên có quyền bình đẳng với nhau trong

việc sử dụng các phương tiện mà pháp luật cho phép để thực hiện chức năng tranh

tụng. Có thể thấy rằng ở giai đoạn xét xử, nguyên tắc tranh tụng được thể hiện một

cách đầy đủ và toàn diện nhất.

Thứ hai, về bản chất, tranh tụng là một quá trình tranh luận giữa các bên về lập

luận nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án. Tranh tụng chỉ được coi là bắt đầu

khi có sự xuất hiện chức năng buộc tội và tương ứng với nó là chức năng gỡ tội. Việc

bảo đảm nguyên tắc tranh tụng thực sự mở ra một cơ hội để cho các bên (buộc tội và

gỡ tội) có một vị thế ngang nhau để tìm hiểu sự thật khách quan của vụ án và bảo vệ

21

luận điểm của mình trước Tòa. Tòa án chỉ ra phán quyết theo những chứng cứ và lý lẽ

được coi là hợp pháp và bác bỏ những chứng cứ chưa đúng và bất hợp lý.

Thứ ba, kết quả tranh tụng tại phiên tòa là cơ sở để Tòa án đưa ra các phán

quyết về tội phạm và người phạm tội. Do đó, việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng

trong xét xử có thể hạn chế mức thấp nhất các trường hợp kết án oan, sai.

1.2.4. Yêu cầu bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của

Toà án nhân dân

Tranh tụng trong xét xử được đảm bảo là nguyên tắc mới, lần đầu tiên được

quy định là nguyên tắc riêng biệt trong Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm

2015. Quy định cụ thể hóa nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng, thể hiện rõ nét tư

tưởng đề cao tranh tụng trong hoạt động tố tụng hình sự, vấn đề này được thể hiện

thành quan điểm chỉ đạo, định hướng tư tưởng xuyên suốt trong quá trình xây dựng

và áp dụng pháp luật của các chủ thể tham gia vào hoạt động tố tụng.

Trên nền tảng nguyên tắc quy định tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm

2013 đã ghi nhận: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”, BLTTHS

năm 2015 đã bổ sung nguyên tắc “Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (Điều

26), cụ thể: “Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm

sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào

chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra

chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ

án”. Như vậy, đã khẳng định quá trình tranh tụng không chỉ tồn tại ở giai đoạn xét

xử nơi mà có sự hiện diện đầy đủ của ba bên buộc tội, gỡ tội và xét xử mà còn diễn

ra trong suốt quá trình tố tụng từ giai đoạn khởi tố đến xét xử, tạo điều kiện cho các

bên có thời gian cần thiết để thu thập các chứng cứ, tài liệu và các tình tiết của vụ án

trước khi bước vào cuộc tranh tụng tại phiên tòa. Đây là quy định mới, căn cứ pháp

lý quan trọng để đảm bảo quyền con người, quyền công dân như Hiến định.

Trên cơ sở bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, Bộ luật tố tụng hình

sự năm 2015 có các nội dung sửa đổi, bổ sung để cụ thể hóa nguyên tắc này, bảo

đảm nguyên tắc tranh tụng đầy đủ sẽ bảo vệ các quyền của người bị buộc tội, nhất

là quyền tự bào chữa, quyền nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Bộ luật tố tụng

hình sự năm 2003 có quy định quyền bào chữa, chứng minh sự vô tội hoặc giảm

22

nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội, nhưng đến Bộ luật tố tụng hình sự

năm 2015 quy định cụ thể hơn và đảm bảo tốt hơn quyền nhờ luật sư hoặc người

khác bào chữa, nhất là quyền tự bào chữa của người bị buộc tội, bị can, bị cáo (các

Điều 60, 61). Các quy định này có ý nghĩa rất quan trọng nhằm bảo đảm quyền tự

bào chữa, bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tranh tụng tại phiên tòa của bị can,

bị cáo.

Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, điều tra viên, kiểm sát viên,

người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và

người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ,

đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.

Muốn cho vụ án được giải quyết một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ

thì bên buộc tội, bên gỡ tội và những người khác có quyền và lợi ích hợp pháp cần

được giải quyết trong vụ án đều phải được bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ và

đưa ra những yêu cầu. Trước đây, quyền bình đẳng trong việc đưa chứng cứ, đưa

yêu cầu của các bên liên quan trọng vụ án chỉ được thực hiện vào thời điểm tại

phiên toà.

Theo quy định hiện nay, quyền này được mở rộng cả về phạm vi quyền, thời

gian cũng như về chủ thể được hưởng quyền. Không chỉ là quyền đưa chứng cứ,

yêu cầu mà pháp luật còn quy định các chủ thể được bình đẳng ưong việc đánh giá

chứng cứ; không chi giới hạn thời điểm thực hiện quyền chỉ tại phiên toà mà quyền

bình đẳng trong việc đưa chứng cứ, yêu cầu, đánh giá chứng cứ được thực hiện

ttong suốt quá trình giải quyết vụ án; các chủ thể tranh tụng bao gồm điều tra viên,

kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người

bào chữa và người tham gia tố tụng khác.

Nguyên tắc này là cụ thể hoá nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật trong tố

tụng hình sự. Nội dung cơ bản của nguyên tắc này là bình đẳng giữa bên buộc tội và

bên gỡ tội. Họ phải được bình đẳng với nhau trong việc đưa ra chứng cứ và đánh

giá chứng cứ để chứng minh sự thật khách quan của vụ án. Dựa vào chứng cứ của

các bên đưa ra, toà án mới có thể giải quyết vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp

luật, không để lọt kẻ phạm tội, không làm oan người vô tội.

23

Bình đẳng trong việc đưa ra yêu cầu trong nguyên tắc tranh tụng trong xét

xử được bảo đảm

Ngoài việc bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ và đánh giá chứng cứ, các

bên buộc tội và gỡ tội... còn bình đẳng trong việc đưa ra yêu cầu (như yêu cầu thay

đồi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch), bình đẳng trong

việc tranh luận trước toà án.Nguyên tắc này đã xác định vị trí của toà án là ưọng tài

công minh cho các bên buộc tội và gỡ tội, tạo điều kiện cho toà án xử lí vụ án đúng

pháp luật. Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do viện kiểm sát chuyển đến toà án

để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp. Phiên toà xét xử vụ án hình sự phải có mặt đầy

đủ những người theo quy định cùa Bộ luật này, trường hợp vắng mặt phải vì lí do

bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan hoặc trường hợp khác do Bộ luật này

quy định.

Toà án có trách nhiệm tạo điều kiện cho kiểm sát viên, bị cáo, người bào

chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của

mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước tòa án.

Nguyên tắc này xác định rõ trách nhiệm của toà án trong việc bảo đảm ưanh

tụng trong xét xử. Các chủ thể cố quyền tranh tụng phải được toà án triệu tập đầy đủ

để tham gia phiên toà xét xử; toà án chỉ xét xử vắng mặt họ trong trường hợp vắng

mặt phải vì lí do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan.

Hoặc trường hợp khác do Bộ luật này quy định; toà án có trách nhiệm tạo

điều kiện cho họ thực thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và ttanh tụng dân

chủ, bình đẳng trước toà án; toà án phải nghiên cứu hồ sơ vụ án bảo đảm những tài

liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do viện kiểm sát chuyển đen toà án để xét xử phải

đầy đù và hợp pháp, làm phương tiện để chứng minh và ưanh tụng tại phiên toà.

1.2.5. Chủ thể bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của

Toà án nhân dân

Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc

thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Luật này;

Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền

thu thập, giao nộp, cung cấp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án hành

24

chính và có nghĩa vụ thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp; trình

bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp

dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu

của người khác theo quy định của Luật này. Trong quá trình xét xử, mọi tài liệu,

chứng cứ phải được xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện, công khai, trừ trường

hợp không được công khai theo quy định của Luật này. Tòa án điều hành việc tranh

tụng, hỏi những vấn đề chưa rõ và căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra bản án, quyết

định”. Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Viện kiểm

sát không tham gia tranh tụng như trong tố tụng hình sự.

Các chủ thể tranh tụng có quyền tranh tụng trong suốt quá trình Tòa án giải

quyết vụ án kể từ khi đương sự có yêu cầu và Tòa án thụ lý cho đến khi xét xử sơ

thẩm, xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm. Theo đó, các bên có quyền đưa ra yêu cầu;

có quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của mình; có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu

trữ, quản lý tài liệu, chứng cứ, cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình để giao nộp

cho Tòa án; có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc

các biện pháp cần thiết để bảo toàn chứng cứ trong trường hợp chứng cứ đang bị

tiêu huỷ, có nguy cơ bị tiêu huỷ hoặc sau này khó có thể thu thập được; có quyền đề

nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ việc mà tự mình không thể

thực hiện được; đề nghị Tòa án yêu cầu bên còn còn lại xuất trình tài liệu, chứng cứ

mà họ đang giữ; đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân

đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; đề nghị Tòa

án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, quyết định việc định giá tài sản;

có quyền được biết, trao đổi và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương

sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập; có quyền tham gia phiên tòa; có quyền

trình bày về các yêu cầu và chứng cứ chứng minh cho yêu cầu; có quyền hỏi những

người tham gia tố tụng khác; tranh luận về chứng cứ, trình bày quan điểm, lập luận

của mình về các tình tiết của vụ án; có quyền bác bỏ những lập luận của các bên

khác, đưa ra quan điểm của mình về hướng giải quyết vụ án; được đối chất với nhau

hoặc người làm chứng; có quyền kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm chưa có

hiệu lực pháp luật để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm; có

25

quyền đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Đề cao

tính dân chủ, bình đẳng của các bên chính là một trong những nét khác biệt lớn nhất

của mô hình tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn.

1.2.6. Nội dung bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của

Toà án nhân dân

Tranh tụng là nguyên tắc quan trọng trong tố tụng nói chung và xét xử nói

riêng. Để đảm bảo cho nguyên tắc tranh tụng được thực hiện đầy đủ trong tố tụng

nhằm giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp

của các bên tham gia tố tụng, cần thiết phải có một hệ thống các bảo đảm về pháp

lý, về tổ chức cũng như về cơ sở vật chất.

* Bảo đảm về mặt pháp lý: ghi nhận rõ nội dung và các cơ chế pháp lý đảm

bảo nguyên tắc tranh tụng tại phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hành chính theo hướng

thực chất, đảm bảo đảm dân chủ, công khai; xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của

hội đồng xét xử và quy định thủ tục tố tụng hình đẳng, đảm bảo các bên tham gia tố

tụng được xét hỏi, tranh luận một cách khách quan, công bằng và bình đẳng.

Bảo đảm pháp lý cho việc thực hiện tranh tụng tại phiên tòa bao gồm:

- Các quy định đầy đủ, hợp lý và khả thi về địa vị tố tụng của các bên tham

gia tố tụng tại phiên tòa để họ có đầy đủ điều kiện, khả năng thực hiện các nội dung

tranh tụng theo chức năng, nhiệm vụ hoặc lợi ích của mình: được chủ động thu thập

vật chứng, được xét hỏi những người tham gia tố tụng, đặc biệt là người làm chứng

trong giai đoạn điều tra, được yêu cầu cung cấp tài liệu;

- Quy định thủ tục tố tụng bình đẳng, nhất là tại phiên tòa; đảm bảo để các

bên tham gia tố tụng được xét hỏi, tranh luận một cách khách quan, công bằng và

bình đẳng; mở rộng phạm vi các vụ án có sự tham gia bắt buộc của luật sư;

- Quy định quyền khiếu nại, kháng cáo bản án, quyết định của các bên và

hiệu lực như nhau của các khiếu nại đó. Ví dụ: Viện kiểm sát và bị cáo đều phải có

quyền kháng cáo, kháng nghị như nhau đối với bản án, quyết định của Tòa án.

Pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội và bảo đảm cho các quyền

con người được thực hiện. Nhất quán với nguyên tắc tất cả vì sự tự do hạnh phúc

của nhân dân, đảm bảo cho người dân có quyền sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền

26

và lợi ích hợp pháp của mình, Nhà nước ta không ngừng hoàn thiện pháp luật, bảo

đảm tốt nhất quyền tố tụng cho đương sự.

Bảo đảm thực hiện quyền tranh tụng của đương sự phải gắn liền với sự điều

chỉnh của pháp luật. Hiệu quả của bảo đảm tranh tụng một phần được quyết định

bởi các quy định về trình tự thủ tục, nội dung, hình thức và cách thức thực hiện các

quyền tố tụng của đương sự như quyền cung cấp chứng cứ, đề nghị Tòa án thu thập

chứng cứ, tranh luận tại phiên tòa, quyền nhờ người khác bảo vệ…từ khi khởi kiện

vụ án đển chuẩn bị xét xử, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

Như vậy, quy định của pháp luật là hành lang pháp lý xác định trách nhiệm của Nhà

nước trên các phương diện tôn trọng, bảo vệ và thực hiện quyền tranh tụng trong xét

xử.

* Bảo đảm về mặt tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ tư pháp:

Thứ nhất, thông qua việc hình thành các cơ quan tiến hành tố tụng, các tổ

chức bổ trợ với chức năng hợp lý phù hợp với cơ chế tranh tụng.

Thứ hai, bảo đảm về số lượng và chất lượng các tổ chức luật sư, mở rộng

phạm vi bào chữa để đảm bảo các phiên tòa có sự tham gia của người bào chữa

ngày càng nhiều; nâng cao văn hoá pháp lý trong tố tụng nói chung và tại phiên tòa

nói riêng;

Thứ ba, trình độ, nhận thức của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố

tụng, đảm bảo cho họ có đủ năng lực về chuyên môn, về phong cách, về khả năng

diễn đạt để thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa. Những trường hợp người

tham gia tranh tụng không có khả năng đó thì nhất thiết phải được sự trợ giúp của

luật sư;

Thứ tư, bảo đảm cơ sở vật chất cho quá trình tranh tụng. Vị trí của các bên tại

phiên tòa thế nào để đảm bảo không khí tố tụng bình đẳng, khách quan; tạo điều

kiện cho các bên dễ dàng tiếp xúc trong quá trình tố tụng; hệ thống âm thanh, hình

ảnh thuận tiện cho việc theo dõi tiến trình tố tụng là những điều kiện rất cần thiết

cho tranh tụng cần được nghiên cứu.

1.3. Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân

dân theo pháp luật của một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

27

Nghiên cứu nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm theo pháp luật

một số nước trên thế giới cho thấy, tuỳ thuộc vào truyền thống, lịch sử và điều kiện

kinh tế xã hội của mỗi quốc gia sẽ là một mô hình tố tụng phù hợp với định hướng

phát triển của quốc gia đó. Chúng có những điểm tương đồng và khác biệt nhất

định. Theo đó, pháp luật tố tụng luôn đề cao vai trò của các bên trong việc chứng

minh sự việc, việc dẫn dắt nêu câu hỏi và tranh luận thuộc về chủ thể giữ quyền

công tố, bị cáo, các bên đương sự và luật sư của các bên, còn Thẩm phán chỉ là

người thứ ba giữ vai trò trung gian, trọng tài và ra phán quyết sau khi theo dõi các

bên xét hỏi, đưa ra chứng cứ, người làm chứng, người liên quan tranh luận với nhau

để bảo vệ quan điểm của mình.

Ở các nước theo truyền thống pháp luật dân sự như Cộng hoà Pháp, Nga,

Trung Quốc, Nhật Bản thì áp dụng loại hình tố tụng xét hỏi. Theo đó, pháp luật tố

tụng cao vai trò chủ động của thẩm phán trong việc chứng minh sự việc. Thẩm phán

trong tố tụng xét hỏi không phải là người trọng tài mà là người điều khiển phiên tòa,

bảo đảm phiên tòa được tiến hành theo trình tự và thủ tục do pháp luật quy định.

Đối với mô hình tố tụng hỗn hợp, cụ thể tại Pháp, nguyên tắc tranh tụng là

nguyên tắc có tầm quan trọng đặc biệt trong tố tụng nói chung và tố tụng dân sự nói

riêng. Đây là nguyên tắc được ghi nhận chính thức trong Công ước châu Âu về

quyền con người, Bộ luật Tố tụng dân sự (Điều 6 Công ước châu Âu về quyền con

người và từ Điều 14 đến Điều 17 Chương 6 Bộ luật Tố tụng dân sự của Pháp), các

quy định chuyên biệt khác có liên quan, đặc biệt là án lệ. Đây là nguyên tắc nền

tảng trong tố tụng, biểu hiện cụ thể của khái niệm tiếp cận công bằng. Nguyên tắc

tranh tụng là nguyên tắc hiến định có ý nghĩa rằng, mỗi bên thực hiện tranh luận về

những tình tiết, sự kiện và những công cụ pháp lý mà đối phương của họ dựa vào đó

để phản đối họ. Nguyên tắc này cũng được nêu ra bởi một thuật ngữ la tinh Audi

alteram partem có nghĩa “miễn là bên kia cũng được biết”. Dưới góc độ Hiến pháp,

Hội đồng Bảo hiến đã tuyên bố rằng, nguyên tắc tranh tụng là một “hệ quả của

quyền được bảo vệ”, một quyền có giá trị hiến định với tư cách là “quyền cơ bản

mang đặc tính Hiến pháp” (Hội đồng Bảo hiến, ngày 13/8/1993). Hội đồng Bảo

hiến kiểm duyệt những quy định lập pháp “trái… với quyền được bảo vệ mà xuất

phát từ những nguyên tắc cơ bản được ghi nhận bởi các luật của nước cộng hòa”

28

(Hội đồng Bảo hiến, ngày 19-20/01/1981) hoặc kiểm tra những quy tắc về các con

đường kháng cáo để xem nếu những quy tắc này không có hiệu lực làm mất đi một

sự bảo đảm chủ yếu đối với quyền phòng vệ của các bên (Hội đồng Bảo hiến, ngày 23/01/1987).3

Bên cạnh những điểm khác biệt nhất định về vấn đề trao đổi chứng cứ, tài

liệu, vai trò của các bên và Thẩm phán, Bồi thẩm trong việc giải quyết vụ kiện thì

pháp luật của các nước cũng có nhiều điểm tương đồng như vấn đề quyền được

thông tin, quyền được tham gia tranh luận của các bên, vấn đề xác định mâu thuẫn,

bất đồng giữa các bên, tiến tới thu hẹp và chốt lại những điểm chính của vụ kiện mà

các bên còn chưa có sự thống nhất để tiến hành xét xử trong một phiên toà theo thể

thức tranh tụng. Xu thế hiện nay là pháp luật tố tụng của các nước có xu hướng xích

lại gần nhau, tiếp thu những ưu điểm của nhau cho phù hợp với điều kiện của mỗi

nước.

Tuy nhiên, mỗi mô hình cũng đều mang những ưu điểm và hạn chế nhất

định:

Mô hình tố tụng tranh tụng rất coi trọng quyền con người, đảm bảo quyền

bình đẳng, sự thắng hoặc thua các bên phải tranh giành nhau, hoạt động tranh tụng

được diến ra rất tự nhiên và sòng phằng. Nếu trong trường hợp bị cáo nhận tội, thì

hoạt động xét xử sẽ được chuyển sang phần nghị án và tuyên án, giảm thiểu thời

gian và công sức trong quá trình xét xử. Hạn chế của mô hình này thể hiện ở chỗ,

chức năng xét xử không được coi trọng, quyền lực của Thẩm phán, Luật sư, Công

tố viên và Bồi thẩm đoàn là như nhau. Điều này dẫn tới việc Thẩm phán sẽ rất thụ

động, kết quả của bản án phụ thuộc chủ yếu vào kết quả tranh luận, nhờ vào tài

hùng biện là cốt yếu. “Với những quy định, môi trường, cách thức tiến hành cũng

như trình tự, thủ tục như vậy, một chứng cứ thuyết phục, có khả năng quyết định

luật

(01/08/2018)

thắng thua giữa các bên liên quan đến vụ án chưa chắc đã thắng một cách lập luận logic.”4

3 Phan Thị Thu Hà, "Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự của Cộng hòa Pháp", Tạp chí Dân chủ và pháp tại địa chỉ: http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/dien-dan-cong-tac-tu- phap.aspx?ItemID=210 ngày truy cập 18/07/2018 4 Nguyễn Đức Mai, “Đặc điểm của mô hình tố tụng tranh tụng và phương hướng hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự ở Việt Nam (Kỳ 1)” tại đại chỉ: http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/296 truy cập ngày 30/07/2018

29

Mô hình tố tụng thẩm vấn có nét khác biệt rất lớn đối với mô hình tố tụng

tranh tụng: coi trọng luật nội dung hơn luật hình thức, coi trọng các chứng cứ viết

(trọng cung hơn trọng chứng). Vai trò của Tòa án được đề cao, Thẩm phán là người

vừa đưa ra quyết định điều tra vụ án, vừa phải tìm ra sự thật. Đặc biệt với những vụ

án phức tạp, sau khi điều tra sơ bộ còn xuất hiện khâu thẩm vấn do Thẩm phán,

nhưng hoàn toàn độc lập, không tham gia vào quá trình điều tra ban đầu và có

nhiệm vụ làm cho sự thật được tỏ rõ, do đó hoàn toàn khách quan. Mô hình này có

ưu điểm là khắc phục được những hạn chế của mô hình tố tụng tranh tụng tuy nhiên

vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định: vì quá tập trung quyền lực vào trong tay

thẩm phán nên đã tạo sự mất cân bằng, bao gồm cả chức năng buộc tội, hoạt động

tranh tụng có vai trò bị hạn chế đi rõ rệt. Do đặc điểm trọng cung hơn trọng chứng

nên việc xét xử diễn ra chỉ để nhằm mục đích thẩm định lại chứng cứ đã có do cơ

quan điều tra thu thập được từ trước, hệ quả là hoạt động tranh tụng bị hạn chế đi rất

nhiều.

Xét bối cảnh của Việt Nam hiện nay, sự trao đổi và tiếp thu thành tựu tố tụng

của các nước là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên, các quy định về tố tụng được

xây dựng phải đáp ứng được hai yêu cầu cơ bản là tiếp thu được những thành tựu

khoa học tố tụng của các nước phát triển nhưng phải phù hợp với điều kiện kinh tế,

xã hội của Việt Nam.

Việc tiếp nhận các yếu tố của thủ tục tố tụng tranh tụng trong pháp luật tố

tụng Việt Nam cũng đặt ra những vấn đề mà chúng ta cần giải quyết. Trong thực

tiễn, sau khi một loạt các bộ luật tố tụng mới ban hành có hiệu lực pháp luật, các

Tòa án dường như trút được một gánh nặng trong việc chứng minh làm rõ sự thật

của vụ án với quan niệm các đương sự phải tự chứng minh cho quyền lợi của mình,

nếu không tự chứng minh được sẽ bị Toà án xử bác yêu cầu. Tuy nhiên, do là một

đất nước nông nghiệp, dân trí chưa cao nên các quy định này của pháp luật tố tụng

cũng chưa thực sự phù hợp. Người dân chưa quen với việc phải tự đi thu thập các

tài liệu cần thiết để chứng minh, không có điều kiện để thuê luật sư bảo vệ.

Kết luận chương 1

Qua nghiên cứu những vấn đề lý luận về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng

trong hoạt động xét xử của TAND có thể rút ra một số kết luận sau:

30

Nguyên tắc tranh tụng là nguyên tắc quan trọng trong tố tụng mà được hầu

hết các nước trên thế giới thừa nhận, kể cả các hệ thống tố tụng tranh tụng, hay hệ

thống xét hỏi, vì trong xét hỏi vẫn có tranh tụng. Đây là nguyên tắc chung được

pháp luật Việt Nam ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Từ những nghiên cứu trên

cho thấy khái niệm, đặc điểm, vai trò của nguyên tắc tranh tụng với tính cách là một

nguyên tắc hiến pháp, một nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân

đồng thời cũng là một nguyên tắc được cụ thể hoá trong các nguyên tắc và quy định

cụ thể của các lĩnh vực pháp luật tố tụng.

Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của TAND có được

thực hiện trên thực tế hay không phải dựa vào các yếu tố như các quy định của pháp

luật về bảo đảm tranh tụng trong pháp luật tố tụng, cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt

động tranh tụng, hoạt động giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án, sự hiểu biết pháp

luật của đương sự về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng và sự hỗ trợ đương sự thực

hiện quyền tranh tụng từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức.

Những quan điểm và phân tích được đề cập trên đây cũng chính là cơ sở

chung nhất về mặt lý luận để tác giả tiếp tục làm rõ hơn vấn đề bảo đảm nguyên tắc

tranh tụng trong hoạt động xét xử của TAND, từ đó đưa ra những quan điểm, kiến

nghị nhằm hỗ trợ cho việc thực hiện nguyên tắc trong thực tiễn.

31

Chương 2

THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN BẢO ĐẢM

NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN

DÂN TỪ TỈNH THANH HÓA

2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về bảo đảm nguyên tắc tranh

tụng trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân

2.1.1. Quy định về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử theo quy

định của Hiến pháp

Mô hình tố tụng nước ta hình thành và phát triển chịu ảnh hưởng lớn từ mô

hình tố tụng Pháp và Xô Viết (hai mô hình tố tụng vốn bắt nguồn từ truyền thống

luật Châu Âu lục địa) và đã tiếp thu đậm nét những yếu tố của mô hình tố tụng thẩm

vấn. Từ đó, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được manh nha hình thành. Mặc dù,

tại các bản Hiến pháp trước Hiến pháp 2013, chưa có bất kỳ một quy tắc hiến định

nào quy định nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, nhưng các quy định về những

nguyên tắc xét xử, xây dựng nền tư pháp dân chủ cũng như các nguyên tắc khác về

tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân... chứa đựng tinh

thần, định hướng cho các văn bản quy phạm pháp luật quy định chế độ xét xử phù

hợp với điều kiện, bối cảnh xã hội từng thời kỳ.

Thời kỳ trước Hiến pháp 1992, mô hình tố tụng nước ta thời kỳ này là mô

hình thẩm vấn. Mô hình này đặt nặng vai trò, trách nhiệm của các cơ quan tố tụng

trong suốt quá trình tố tụng. Tại phiên toà xét xử Tòa án giữ vai trò chính, làm

nhiệm vụ kiểm tra chứng cứ, tình tiết, xem các hoạt động của cơ quan điều tra trước

đó có căn cứ, đúng pháp luật hay không…Điều này có thể được minh chứng bởi các

quy định về thủ tục tố tụng tại Bắc kỳ, Trung Kỳ và Nam kỳ trong thời kỳ Pháp

thuộc được xây đựng trên cơ sở mô phỏng và giản lược các quy định của Bộ luật Tố

tụng dân sự năm 1989, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994,

pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996, mặc dù quy định

nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh bảo vệ quyền lợi cho mình thuộc về

đương sự nhưng vẫn khẳng định “Khi cần thiết, Tòa án có thể xác minh, thu thập

32

chứng cứ để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được chính xác”5. Mô hình tố tụng

thẩm vấn có ưu điểm là giúp cho hoạt động kiểm soát tội phạm của nhà nước đạt kết

quả khả quan. Tuy nhiên, mô hình này làm chênh lệch vai trò giữa các cơ quan tố

tụng (mang tính quyền lực nhà nước) với các bên tham gia tố tụng khác mà đặc biệt

là giữa bên buộc tội với bên gỡ tội trong tố tụng hình sự; làm hạn chế tính chủ động

của các bên tham gia tranh tụng đưa ra lập luận, chứng cứ chứng minh quan điểm

của mình mà phụ thuộc nhiều vào các câu hỏi của Hội đồng xét xử. Trong khi đó,

với mô hình tố tụng tranh tụng, tòa sẽ đóng vai trò là trọng tài với chức năng điều

khiển, giải thích luật. Tố tụng tranh tụng là kiểu tố tụng có sự phân chia rạch ròi

giữa ba chức năng: Buộc tội, bào chữa và xét xử được áp dụng tại các nước như

Anh, Mỹ, Australia...

Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được hiến định là một trong những đổi

mới đáng chú ý và là một điểm nhấn mới trong lịch sử pháp luật bởi lần đầu tiên

Hiến pháp đã ghi nhận nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử. Có thể nói đây

là một bước tiến lớn và rất phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp của Nhà nước ta

cũng như sự phát triển của nền lập hiến.

Pháp luật tố tụng Việt Nam hiện nay về cơ bản cũng được xây dựng trên cơ

sở thủ tục tố tụng xét hỏi của các nước theo hệ thống luật châu Âu lục địa như

BLTTDS mới của Pháp năm 1975 nhưng có kết hợp các yếu tố của thủ tục tố tụng

tranh tụng của các nước theo hệ thống pháp luật án lệ. Cụ thể là các bộ luật tố tụng

của Việt Nam hiện nay vẫn coi hồ sơ vụ án là tài liệu quan trọng làm cơ sở cho việc

giải quyết vụ án nhưng đề cao hơn nghĩa vụ tự chứng minh của đương sự so với các

quy định trước kia, trong trường hợp xét thấy chứng cứ trong hồ sơ chưa đủ cơ sở

để giải quyết thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ. Tòa án

chỉ tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ khi đương sự không thể tự mình thu

thập được và có yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ.

Theo pháp luật tố tụng, mặc dù Hội đồng xét xử giữ vai trò điều khiển phiên

tòa nhưng các yếu tố của thủ tục tố tụng tranh tụng được coi trọng như trong phần

xét hỏi luật sư có quyền chất vấn bên đối thủ, tranh luận với Viện kiểm sát, các

5 Xem Điều 3 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989; Điều 3, 4 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994, Điều 3 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996, Điều 5 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết vụ án hành chính năm 1996.

33

đương sự có thể đặt câu hỏi đối với nhau. Ngoài ra, các bên được biết và ghi chép,

sao chụp tài liệu, chứng cứ do các bên khác xuất trình hoặc do Toà án thu thập; tất

cả các tình tiết, chứng cứ, tài liệu dùng làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án đều

được các bên tranh tụng công khai, trực tiếp và bằng lời nói tại phiên tòa, luật sư

giữ vai trò chủ động trong quá trình tranh tụng, Tòa án không được hạn chế thời

gian tranh luận mà phải tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày

hết ý kiến của họ.

2.1.2. Quy định về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử theo các

văn bản luật tố tụng tại Việt Nam

2.1.2.1. Quy định về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án

hình sự

Sau hơn 10 năm thực hiện BLTTHS năm 2003, nhiều quy định về chứng cứ

còn bất cập, chưa phù hợp với diễn biến tình hình tội phạm, chưa thể hiện được yêu

cầu tranh tụng đã trở thành nguyên tắc Hiến định và chưa theo kịp sự phát triển của

khoa học công nghệ hiện đại, Quốc hội khoá XIII đã ban hành Bộ luật Tố tụng hình

sự năm 2015 (BLTTHS năm 2015) thay thế BLTTHS năm 2003, qua đó khắc phục

những bất cập trong Bộ luật này, đồng thời kịp thời thể hiện quan điểm của Đảng về

cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng tranh tụng và thể chế hoá nguyên tắc Hiến

định về tranh tụng trong tố tụng hình sự.

Theo đó, BLTTHS năm 2015 tiếp tục quy định lại các nguyên tắc cơ bản

trong TTHS như các Bộ luật trước. Bộ luật mới này đã bổ sung thêm năm nguyên

tắc mới so với Bộ luật cũ, trong đó có nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo

đảm. Với nền tảng của nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm được ghi

nhận trong Hiến pháp năm 2013, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung nguyên tắc “Tranh

tụng trong xét xử được bảo đảm” (Điều 26).

Về thời điểm bắt đầu xuất hiện tranh tụng

Trước khi nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm ra đời, trên các

diễn đàn khoa học pháp lý còn có nhiều quan điểm khác nhau về phạm vi tranh

tụng, chủ yếu là về thời điểm bắt đầu xuất hiện tranh tụng. Có ý kiến cho rằng,

phạm vi tranh tụng được bắt đầu từ giai đoạn xét xử vì chỉ trong giai đoạn này mới

có sự hiện diện đầy đủ các bên buộc tội, bên bào chữa dưới sự kiểm tra, giám sát

34

của Tòa án. Quan điểm khác cho rằng phạm vi tranh tụng được bắt đầu từ giai đoạn

trước khởi tố vì cho rằng tranh tụng là một quá trình xác định sự thật khách quan

của vụ án và quá trình này bắt đầu từ khi xác định có hay không có dấu hiệu của tội phạm6.

Việc quy định Điều 26 BLTTHS năm 2015 “Trong quá trình khởi tố, điều

tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến

hành tố tụng… đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng

cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án”, BLTTHS năm 2015 đã

khẳng định quá trình tranh tụng được diễn ra trong suốt quá trình tố tụng, bắt đầu từ

giai đoạn khởi tố và xuyên suốt đến giai đoạn xét xử. Đây là quan điểm hợp lý, đã

khái quát đầy đủ quá trình tranh tụng. Theo đó, tranh tụng không chỉ tồn tại ở giai

đoạn xét xử nơi mà có sự hiện diện đầy đủ của ba bên buộc tội, gỡ tội và xét xử, mà

còn xuất hiện từ giai đoạn khởi tố vì để tiến hành được việc tranh tụng và tranh tụng

có hiệu quả, các bên cần phải có thời gian và điều kiện cần thiết để thu thập các

chứng cứ, tài liệu và các tình tiết của vụ án trước khi bước vào cuộc tranh tụng tại

phiên tòa.

Về chủ thể tham gia tranh tụng:

Chủ thể tham gia quan hệ tranh tụng bao gồm cả Điều tra viên, Kiểm sát

viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị bắt, bị tạm giữ, bị can,

bị cáo, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác. Quy định này thể hiện được

tính chất hai bên trong tranh tụng hình sự, bao gồm một bên là những chủ thể đại

diện cho Nhà nước, thực hiện chức năng buộc tội (Điều tra viên, Kiểm sát viên,

người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng) và một bên đại diện cho quyền lợi của

chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật, thực hiện chức năng gỡ tội (người bị buộc tội,

người bào chữa của họ và người tham tố tụng khác). Đây cũng chính là cơ sở đầu

tiên của tranh tụng trong xét xử.

Về cơ chế thực hiện tranh tụng

Các quy định về quyền của những người tiến hành tố tụng và tham gia tố

tụng cho thấy trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm

6 Đào Trí Úc (2011), “Tổng quan về mô hình Tố tụng hình sự Việt Nam thực trạng và phương hướng hoàn thiện”, Trường đại học Kiểm sát Hà Nội tại địa chỉ: http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/32 truy cập ngày 25/07/2020

35

sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc, người bào

chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng

cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.

Quy định “bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật” theo Điều 9 BLTTHS

năm 2015. Đây là một trong những điểm mới, tiến bộ nhất được ghi nhận của

BLTTHS năm 2015. Tất cả tài liệu chứng cứ liên quan đến vụ án đều phải được

xem xét, đánh giá, tranh luận làm rõ tại phiên tòa làm căn cứ cho việc xét hỏi, tranh

luận công khai, khách quan, toàn diện.

Có thể khẳng định, BLTTHS năm 2015 đã quy định một cách khá toàn diện

về nguyên tắc tranh tụng. Nguyên tắc này cùng với các quy định về quyền của

người bị buộc tội, người bào chữa, Viện kiểm sát, quyền, trách nhiệm của Tòa án,

các quy định về thủ tục tố tụng tại phiên tòa...đã tạo ra cơ chế hoàn chỉnh bảo đảm

cho các bên thực hiện tranh tụng có hiệu quả trong thực tế, góp phần loại bỏ tình

trạng làm oan, sai; bảo đảm quyền con người và tiến tới xây dựng một nền tư pháp

trong sạch, hiện đại.

2.1.2.2. Quy định về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án

dân sự

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2003 mới chỉ quy định “bảo đảm quyền tranh

luận của đương sự là một nguyên tắc của tố tụng dân sự” mà chưa chính thức quy

định “tranh tụng” là một nguyên tắc của tố tụng dân sự. Quy định này đã góp phần

bảo đảm được tính dân chủ, công khai và minh bạch trong tố tụng dân sự, đồng thời

tạo điều kiện cho các đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa

án và việc giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án được nhanh chóng và đúng đắn khi mà

các chủ thể tham gia tố tụng được thực hiện quyền tranh luận. Bởi khi đó, các tình

tiết của vụ án sẽ được làm sáng tỏ, Tòa án sẽ có đầy đủ các căn cứ để giải quyết vụ

án một cách chính xác và đúng pháp luât. Tuy nhiên, quy định này vẫn chưa thể

hiện được hết nội hàm của “tranh tụng” mà đặc biệt là về mặt chủ thể. Với đặc

điểm, nội dung tranh tụng như đã đề cập thì tranh tụng không chỉ dừng lại ở các

đương sự (nguyên đơn, bị đơn, nguời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Điều 56

BLTTDS năm 2003), nguời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (Điều

63 BLTTDS năm 2003) mà còn kể đến chủ thể tham gia tố tụng khác như: người

36

đại diện (Điều 73 BLTTDS năm 2003), họ cũng cần được đảm bảo các quyền năng

tố tụng để tham gia chứng minh. Mặc dù, nguời đại diện (đại diện theo pháp luật

hoặc theo ủy quyền) xem như được thực hiện các quyền, nghĩa vụ của đương sự mà

mình đại diện, nhưng không vì vậy mà lại không coi họ là chủ thể tranh tụng, trong

khi đó họ được luật quy định về địa vị pháp lý của mình (từ Điều 73 đến Điều 78

BLTTDS năm 2003) và là người trực tiếp tham gia tranh luận trong tố tụng. Đó là

lý do vì sao các trường hợp mà chủ thể là người khởi kiện (không phải là nguyên

đơn) để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác (theo khoản 1, 2 Điều 162

BLTTDS năm 2003; khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP) mà luật

quy định là nguời đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự của nguời được bảo

vệ đó (Điều 73 BLTTDS năm 2003); với tư cách tham gia tố tụng này thì mặc nhiên

họ được xem là chủ thể tranh tụng.

Bên cạnh đó, theo quy định về thủ tục tố tụng tại phiên tòa, thì “tranh luận”

là một phần của tố tụng phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm xét xử vụ án dân sự được tiến

hành sau khi kết thúc phần xét hỏi. Trước khi xét hỏi và trong giai đoạn chuẩn bị

xét xử, thì về nguyên tắc, việc cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh để bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của mình thuộc về các bên đương sự. Tuy nhiên, không

phải lúc nào đương sự cũng có được chứng cứ để nộp cho Tòa án vì nhiều lý do

khác nhau cho nên Tòa án phải có nhiệm vụ hỗ trợ đương sự trong việc thu thập

chứng cứ bằng cách tiến hành một hoặc một số biện pháp sau đây để thu thập tài

liệu, chứng cứ: lấy lời khai của đương sự, người làm chứng; đối chất giữa các

đương sự với nhau, giữa các đương sự với người làm chứng; trưng cầu giám định;

quyết định định giá tài sản, yêu cầu thẩm định giá tài sản; xem xét, thẩm định tại

chỗ; ủy thác thu thập, xác minh tài liệu, chứng cứ; yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ

chức cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan

đến việc giải quyết vụ việc dân sự. Như vậy, mặc dù pháp luật có ghi nhận đương

sự có quyền “yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý tài liệu,

chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Tòa án”; Tòa án

(Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án) có quyền “yêu cầu cá nhân, cơ quan,

tổ chức cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên

quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự” nhưng vẫn chưa có cơ chế, chế tài hữu

37

hiệu để thực hiện quyền của đương sự cũng như của Tòa án. Pháp luật tố tụng dân

sự cũng chưa có quy định về vấn đề đồng thời với việc nộp chứng cứ cho Tòa án,

đương sự phải thông báo cho đương sự khác có liên quan trong vụ án; Tòa án phải

định kỳ thông báo cho đương sự còn lại biết kết quả của việc thu thập chứng cứ để

nghiên cứu, quyết định định đoạt vụ kiện để đảm bảo điều kiện cho các bên có sự

chuẩn bị tốt nhất cho hoạt động tranh tụng tại tòa.

Tại phiên tòa, theo quy định tại Điều 222 BLTTDS năm 2003, thì thứ tự hỏi

được quy định như sau:“Sau khi nghe xong lời trình bày của đương sự, việc hỏi

từng người về từng vấn đề được thực hiện theo thứ tự chủ tọa phiên tòa hỏi trước

rồi đến Hội thẩm nhân dân, sau đó đến người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

đương sự và những người tham gia tố tụng khác; trường hợp có Kiểm sát viên tham

gia phiên tòa thì Kiểm sát viên hỏi sau đương sự”. Đến phần tranh luận, thì nguyên

đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là những những người có quyền

tranh luận. Trường hợp đương sự nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của mình thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền tranh

luận. Khi đó, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phát biểu tranh

luận sau đó đương sự bổ sung ý kiến theo thứ tự:

Trước tiên là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn phát

biểu. Nguyên đơn có quyền bổ sung ý kiến. Người có quyền và lợi ích được bảo vệ

có quyền bổ sung ý kiến; tiếp theo là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị

đơn phát biểu. Hội đồng xét xử phải xem Điều 85 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2003

xét toàn bộ, không được xem nhẹ chứng cứ nào đuợc thu thập và kiểm tra tại phiên

toà; cân nhắc các quan điểm khác nhau về áp dụng pháp luạt, về đánh giá thực chất

vụ án để ra phán quyết đúng đắn, khách quan, hợp pháp. Tuy nhiên, phần tranh luận

tại phiên tòa chỉ được tiến hành sau khi xét hỏi đã là rõ tất cả các vấn đề phải giải

quyết trong vụ án dân sự cho nên đến phần tranh luận, đương sự không còn gì để

nói. Với trình tự xét hỏi như quy định của BLTTDS năm 2003, thì quyền chủ động

xét hỏi thuộc về Tòa án (Hội đồng xét xử). Kiểm sát viên tham gia phiên tòa để

kiểm sát sự tuân theo pháp luật của Tòa án và những người tham gia tố tụng nhưng

vẫn có quyền xét hỏi (BLTTDS năm 2003 chỉ quy định trường hợp Kiểm sát viên

hỏi đương sự khi tham gia phiên tòa nhưng không quy định là không được hỏi về

38

nội dung vụ kiện). Do vậy, không loại trừ trường hợp Thẩm phán, Hội thẩm và

Kiểm sát viên đặt những câu hỏi nhằm tìm câu trả lời của đương sự phục vụ cho

việc giải quyết vụ án theo sự thiên vị của mình.

Những quy định về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa từ Điều 217 đến Điều 231

BLTTDS năm 2003 cho thấy sau khi xét hỏi, nội dung vụ án đã được làm sáng tỏ

Ví dụ: Điều 221 quy định về nghe lời trình bày của đương sự theo trình tự các bên

trình bày yêu cầu, đề nghị của mình và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề

nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. Đồng thời, quá trình hỏi sẽ kết hợp với việc công

bố các tài liệu của vụ án; nghe băng, đĩa ghi hình; xem xét vật chứng; hỏi người

giám định. Bằng quy định này, qua trình bày của đương sự trong phần xét hỏi, nội

dung vụ án không những đã đầy đủ, rõ ràng, sáng tỏ mà các bên đương sự cũng đã

có dịp đối đáp với những nội dung trình bày của nhau. Như vậy, với quy định của

BLTTDS, thì qua phần xét hỏi, nội dung vụ án đã đầy đủ nên phần tranh luận không

còn nội dung và chỉ là sự lặp lại những nội dung đã trình bày ở phần xét hỏi. Mặt

khác, như đã trình bày, việc tranh luận tại phiên tòa cũng chỉ được tiến hành sau khi

xét hỏi. Có những vụ án dân sự, việc xét hỏi được thực hiện trong một thời gian dài

(một buổi, một hoặc vài ngày) đến nỗi khi đến thời điểm tranh luận thì đương sự lại

quên mất những nội dung và kết quả xét hỏi từng vấn đề vì họ không phải là những

người am hiểu về luật. Cùng với việc ban hành BLTTDS năm 2004, Luật sửa đổi bổ

sung một số điều của BLTTDS năm 2011 và các văn bản hướng dẫn thi hành, pháp

luật tố tụng dân sự Việt Nam cũng đã tương đối hoàn thiện.

Đến Hiến pháp năm 2013, pháp luật Việt Nam nói chung và luật tố tụng dân

sự Việt Nam nói riêng đã tiến một bước đi rất quan trọng mang tính đột phá trong

tiến trình cải cách tư pháp đó là việc lần đầu tiên nguyên tắc bảo đảm tranh tụng

trong xét xử được ghi nhận trong Hiến pháp. Đây được coi là nguyên tắc rất quan

trọng đồng thời là nguyên tắc bảo vệ quyền con người trong hoạt động tố tụng dân

sự. Nếu như trước đây BLTTDS năm 2004 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của

BLTTDS mới chỉ quy định nguyên tắc bảo đảm quyền tranh luận trong tố tụng dân

sự (Điều 23a Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2003) và có

những quy định mang sắc thái của tranh tụng, bước đầu có sự bảo đảm quyền tranh

luận trong tố tụng dân sự. BLTTDS năm 2015 được ban hành đã ghi nhận nguyên

39

tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử tại Điều 24. Đồng thời BLTTDS năm 2015 có

những điều luật quy định trực tiếp về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng.

Nội dung của khoản 1 Điều 24 BLTTDS năm 2015 đã bổ sung thêm quy

định “Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc

thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật này”. Trước đó, BLTTDS

2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 chỉ quy định chung tại điều 23a là “Trong quá trình

giải quyết các vụ án dân sự, Tòa án bảo đảm để các bên đương sự và người bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh luận để bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của đương sự”. Mặc dù, chỉ thay thế từ “tranh tụng” cho “tranh

luận” nhưng đã tạo ra một sự thay đổi lớn mang ý nghĩa cao về mặt pháp lý và

mang dấu ấn tinh thần tuân thủ nguyên tắc được ghi nhận trong Hiến pháp năm

2013.

Ngoài ra, Điều 24 BLTTDS năm 2015 đã quy định bổ sung mới khoản 2, 3

quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của đương sự cũng như việc xem xét, đánh giá các tài liệu chứng cứ tạo

điều kiện, cơ sở cho việc đảm bảo cho hoạt động tranh tụng trong xét xử được diễn

ra công khai, công bằng, bình đẳng và phù hợp với quy định pháp luật.

Như vậy, có thể thấy BLTTDS năm 2015 sửa đổi, bổ sung nguyên tắc tranh

tụng trong xét xử góp phần thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta về cải cách

tư pháp trong hoạt động xét xử của Tòa án nhằm bảo vệ quyền con người, quyền

công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi

ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

2.1.2.3. Quy định về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án

hành chính

Luật Tố tụng hành chính năm 2010 (LTTHC năm 2010) được đánh giá là

một trong những đạo luật quan trọng góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ

sở pháp lý đầy đủ hơn để Toà án nhân dân giải quyết các khiếu kiện hành chính có

hiệu quả, góp phần bảo vệ tốt hơn các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan,

tổ chức; bảo vệ lợi ích của Nhà nước. Tuy nhiên, vấn đề bảo đảm tranh tụng chưa

được cụ thể hóa trong LTTHC năm 2010 nên nội hàm của “tranh tụng” chưa được

40

làm rõ; quyền, nghĩa vụ của những người tham gia tranh tụng còn chưa đầy đủ;

phạm vi tranh tụng, trách nhiệm của Tòa án, Thẩm phán và Hội thẩm trong việc bảo

đảm quyền tranh tụng không được quy định cụ thể.

Luật TTHC năm 2010 cũng không quy định về nguyên tắc tranh tụng mà

mới chỉ tiếp cận khái niệm tranh luận qua điều luật quy định về trình tự phát biểu

khi tranh luận (Điều 158). Các nội dung của nguyên tắc tranh tụng không rõ ràng,

quyền được biết và trình bày ý kiến về yêu cầu, chứng cứ của người tham gia tố

tụng chưa được đảm bảo; nghĩa vụ của Tòa án chưa được quy định phù hợp để bảo

đảm việc thực hiện quyền tranh tụng của đương sự bình đẳng, công khai và đúng

pháp luật. Thực tế hoạt động xét xử cho thấy tại hầu hết các Tòa án, quá trình tố

tụng vẫn diễn ra chủ yếu theo mô hình tố tụng xét hỏi. Không ít phiên tòa, Hội đồng

xét xử hạn chế thời gian tranh luận của các bên đương sự…; do đó, công tác xét xử

các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân theo quy định của LTTHC năm 2010

chưa đáp ứng được sự mong đợi của người dân và xã hội, ảnh hưởng đến việc bảo

vệ các quyền, lợi ích chính đáng của cơ quan, tổ chức, cá nhân cũng như ảnh hưởng

đến chất lượng giải quyết các vụ án hành chính của toà án nhân dân. Tranh tụng

được vận dụng trong xét xử án hành chính chưa mang lại hiệu quả cao và chưa đáp

ứng được yêu cầu cải cách tư pháp đã đề ra.

So với LTTHC năm 2010, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (LTTHC năm

2015) đã bổ sung các quy định để cụ thể hoá nguyên tắc tranh tụng trong xét xử

được bảo đảm được quy định tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013.

Nội dung của Điều 18 LTTHC năm 2015 về bảo đảm tranh tụng trong xét xử

cũng quy định rõ Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử tương tự

như nội dung về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử tại Điều 24 BLTTDS

năm 2015. LTTHC năm 2015 đã bổ sung quyền, nghĩa vụ của đương sự trong việc

thu thập tài liệu, chứng cứ; bổ sung quy định trách nhiệm của Toà án trong việc hỗ

trợ đương sự thu thập, tiếp cận, trao đổi tài liệu, chứng cứ, tạo điều kiện thuận lợi

cho đương sự thực hiện quyền tranh tụng, như: đề nghị Tòa án buộc bên đương sự

khác xuất trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang lưu giữ, quản lý; đề nghị Tòa án ra

quyết định buộc cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý chứng cứ cung cấp

41

chứng cứ... (Điều 93); Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập tài

liệu, chứng cứ và tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ...(Điều 84); đương sự có

quyền được biết, ghi chép, sao chụp, trao đổi tài liệu, chứng cứ do đương sự khác

giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập được, trừ chứng cứ có liên quan đến bí

mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh

doanh, bí mật cá nhân; khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì

trong thời hạn 05 ngày làm việc họ phải thông báo cho đương sự khác biết về việc

họ đã giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án để đương sự khác liên hệ với Tòa án

thực hiện quyền tiếp cận tài liệu, chứng cứ; trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ

ngày Tòa án thu thập được tài liệu, chứng cứ thì Tòa án phải thông báo cho đương

sự biết để họ thực hiện quyền tiếp cận tài liệu, chứng cứ (Điều 98).

Để làm rõ hơn sự đổi mới trong quy định pháp luật tố tụng hành chính, tạo

cơ sở pháp lý để nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm, tác giả sẽ phân

tích qua một số đặc trưng của tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính như

sau:

Thứ nhất, chủ thể tranh tụng chỉ bao gồm đương sự, người đại diện của

đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự:

Tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính, chủ thể của tranh tụng là các bên

trong vụ án - là người khởi kiện và người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên

quan. Các bên đều được bình đẳng, chủ động và công khai đưa ra chứng cứ, căn cứ

pháp lý, lập luận và đối đáp để chứng minh, biện luận nhằm bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp của mình trước Tòa án theo những trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng

hành chính quy định. Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng điều hành, giám sát quá

trình tranh tụng mà không tranh tụng với các bên đương sự, Tòa án sử dụng kết quả

tranh tụng để giải quyết vụ án hành chính một cách khách quan, công bằng, đúng

pháp luật.

Thứ hai, về phạm vi tranh tụng là các vấn đề cần làm rõ để xác định sự thật

khách quan của vụ án:

Các vấn đề cần làm rõ có thể là chứng cứ, tình tiết của vụ án, quan hệ pháp

luật tranh chấp và pháp luật áp dụng để giải quyết yêu cầu của đương sự trong vụ án

hoặc những vấn đề mâu thuẫn, chưa thống nhất giữa các đương sự cần được Tòa án

42

phân xử. Việc tranh tụng bắt đầu từ khi Tòa án thụ lý vụ án, các bên đương sự có

quyền thu thập, giao nộp, cung cấp tài liệu, chứng cứ và nghĩa vụ thông báo cho

nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp. Việc tranh tụng kết thúc khi vụ án đã được

giải quyết. Như vậy, phạm vi tranh tụng là giới hạn tất cả các vấn đề mà các bên

tham gia tranh tụng cần làm rõ bằng các chứng cứ, tài liệu, căn cứ pháp lý, lập luận

để Hội đồng xét xử có thể nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, chính xác nhất

sự thật của vụ án hành chính.

Thứ ba, nội dung và phương thức tranh tụng:

Một số quy định mới nhằm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa hành

chính được thể hiện cụ thể trong LTTHC năm 2015 như: Điều 175 đã quy định rõ

nội dung và phương thức tranh tụng tại phiên tòa. Với phương thức này, các đương

sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đều được bình đẳng, chủ

động và công khai đưa ra chứng cứ, căn cứ pháp lý, lập luận và đối đáp với nhau để

làm rõ sự thật khách quan của vụ án hành chính. Tòa án phải sử dụng kết quả tranh

tụng giữa các bên đương sự để giải quyết vụ án hành chính một cách khách quan,

công bằng và đúng pháp luật. Đây là một phương thức bảo đảm dân chủ và công

bằng trong tố tụng hành chính.

So với trước đây, quy định về trình tự xét hỏi quy định tại Điều 171 LTTHC

năm 2015 có sự thay đổi tích cực và hợp lý hơn tạo sự chủ động trong việc hỏi để

khai thác các chứng cứ, tránh sự áp đặt ý chí của Tòa án.

Luật tố tụng hành chính năm 2015 cũng quy định điểm đ khoản 1 Điều 187

cho các bên đương sự sử dụng quyền tự quyết của mình đó là “các bên đương sự có

quyền đề nghị Toà án tạm ngưng phiên toà để các bên đương sự tự đối thoại”. Như

vậy, trong phiên toà ở giai đoạn hỏi mà các bên đương sự trong quá trình hỏi thấy

đuợc rõ bản chất của vụ án và nhận định việc đúng sai trong yêu cầu khởi kiện và có

thể đi đến đuợc việc đối thoại thành giữa các bên thì trong giai đoạn này pháp luật

tạo điều kiện cho các bên đương sự được đối thoại giải quyết vụ án với nhau và việc

tạm ngưng phiên toà phải đuợc hội đồng xét xử đồng ý. Quy phạm pháp luật trên

mang nội hàm nguyên tắc tranh tụng rất rõ nét đó là đảm bảo cho đương sự thực

hiện được các quyền của mình một cách tốt nhất trong quá trình xét xử vụ án hành

chính. Bên cạnh đó, khoản 19 Điều 55 LTTHC năm 2015 còn quy định thêm việc

43

đương sự có quyền “đưa ra câu hỏi với người khác về vấn đề có liên quan đến vụ án

hoặc đề xuất với Tòa án những vấn đề cần hỏi với người khác; được đối chất với

nhau hoặc với người làm chứng”.

Thứ tư, ý nghĩa của tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính Trước

hết, việc quy định rõ nội dung và phương thức tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ

án hành chính bảo đảm cho đương sự được bình đẳng bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của mình trước Tòa án, từ đó, góp phần cho việc ra các bản án, quyết định của

Tòa án khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm

vụ án hành chính còn thể hiện rõ tính chất dân chủ, công khai và minh bạch trong

việc giải quyết tranh chấp hành chính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,

tổ chức, củng cố lòng tin của người dân, nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý hành

chính. Như vậy, việc bổ sung các quy định trên đã cụ thể hoá nguyên tắc hiến định,

đảm bảo cơ chế thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. Những

quy định đó đã xác định rõ và đầy đủ hơn quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham

gia tranh tụng, đảm bảo cho đương sự quyền và nghĩa vụ chứng minh để bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án.

Như vậy, qua xem xét pháp luật tố tụng trước năm 2013, có thể nhận thấy,

nguyên tắc bảo đảm trong xét chưa được ghi nhận trực tiếp trong các bản Hiến

pháp, trong các văn bản pháp luật tố tụng. Điều này là nguyên nhân dẫn đến thực

tiễn hoạt động chưa phát huy hiệu quả. Vấn đề bảo đảm tranh tụng chưa được nhìn

nhận với “vị thế” đúng đắn của nó trong hoạt động tư pháp. Tuy không đề cập trực

tiếp đến nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử nhưng các văn bản pháp luật

trước Hiến pháp năm 2013 đã “manh nha” ghi nhận những tiền đề, liên quan đến

vấn đề bảo đảm tranh tụng. Đến Hiến pháp năm 2013 và các bộ luật tố tụng hiện

hành thì chế định này lần đầu tiên được ghi nhận một cách chính thức; khắc phục

những khuyết điểm, hạn chế của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trước đấy và

tạo tiền đề “nâng tầm” hoạt động tranh tụng trong thực tiễn xét xử ở nước ta.

2.1.2.4. Các văn bản pháp luật khác

Bên cạnh các bộ luật tố tụng, cũng có các văn bản pháp luật, dưới luật khác

ghi nhận các quy định cho thấy sự hỗ trợ trong việc thực hiện bảo đảm nguyên tắc

tranh tụng trong xét xử theo tinh thần của Hiến pháp. Điển hình trong số đó là quy

44

định về sơ đồ, vị trí chỗ ngồi trong phiên toà xét xử vụ án hình sự, dân sự, hành

chính...có sự đổi mới so với trước đây, thể hiện sự bình đẳng về địa vị pháp lý trong

tranh tụng giữa các bên tranh tụng trong quá trình xét xử. Theo đó, vị trí ngồi của

những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đều có sự thay đổi

thể hiện đúng địa vị pháp lý, đặc điểm và vai trò tham gia tranh tụng của họ. Trong

tất cả các phiên toà, vị trí của Thư ký phiên toà và Kiếm sát viên tách khỏi khu vực

của Hội đồng xét xử và cùng khu vực với những người tham gia tố tụng khác. Sự

thay đổi này cho thấy địa vị pháp lý trong xét xử của Hội đồng xét xử được nâng

lên, giữ vị trí trung tâm, mang tính quyền lực độc lập, làm "chủ" điều hành và bao

quát toàn bộ phiên toà. Vị trí ngồi ngang hàng, đối lập nhau, ở hai phía so với vị trí

trung tâm (Hội đồng xét xử) của các bên đương sự trong phiên toà dân sự, hành

chính hay bên buộc tội (Viện kiểm sát) và bên gỡ tội (bị cáo, người bào chữa) trong

phiên toà hình sự, là biểu hiệu rõ nét cho sự đối trọng, bình đẳng giữa các bên trong

tranh tụng. Quy định như vậy, phần nào gạt bỏ được tâm thế e ngại khi tham gia tố

tụng nhất là trong tố tụng hình sự và hành chính khi cho rằng ý kiến của các cơ

quan nhà nước, các tổ chức, đoàn thể là chủ thể trong tố tụng (Viện kiểm sát, cơ

quan hành chính Nhà nước...) được Hội đồng xét xử coi trọng hơn, có tầm ảnh

hưởng lớn hơn trong tranh tụng.

2.2. Thực tiễn bảo đảm tranh tụng trong xét xử các loại án của Tòa án

nhân dân từ tỉnh Thanh Hóa

2.2.1. Khái quát về tình hình xét xử của Tòa án nhân dân từ tỉnh Thanh

Hóa

Trong giai đoạn 2016 - 2020, Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Thanh Hóa đã thụ

lý 51.107 vụ việc các loại (gồm: các vụ án hình sự; các vụ việc dân sự; các vụ án

hành chính và việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án), so với đầu

nhiệm kỳ tăng 46,6% (3.999 vụ việc); đã giải quyết 45.047 vụ việc các loại, đạt tỷ lệ

chung 88,1%. Kết quả giải quyết, xét xử đối với từng loại vụ việc cụ thể như sau:

2.2.1.1. Các vụ án hình sự

Tổng số vụ án hình sự Tòa án hai cấp phải giải quyết là 12.062 vụ, 23.084 bị

cáo (sơ thẩm 10.519 vụ 20.508 bị cáo; phúc thẩm 1.548 vụ 2.576 bị cáo); đã giải

quyết, xét xử 10.905 vụ, 20.503 bị cáo, tỷ lệ giải quyết đạt 90 % về số vụ. Trong đó:

45

- Cấp tỉnh thụ lý sơ thẩm và phúc thẩm 2.165 vụ, 4.168 bị cáo; đã giải quyết

1.927 vụ, 3.548 bị cáo, tỷ lệ giải quyết đạt 89%.

- Cấp huyện thụ lý 9.897 vụ, 18.916 cáo; đã giải quyết 8.978 vụ, 16.955 bị

cáo, tỷ lệ giải quyết đạt 90,7% về số vụ.

Hai cấp Tòa án tỉnh Thanh Hóa trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung 80 vụ,

trong đó được chấp nhận 70 hồ sơ = 87,5%, không chấp nhận 10 vụ = 12,5 (số vụ

không chấp nhận chủ yếu là do thực hiện Công văn số 234/TANDTC-HS, ngày

17/9/2014 của TAND tối cao về về việc yêu cầu xác định hàm lượng ma túy), về cơ

bản quan điểm của Tòa án và Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án là

thống nhất về áp dụng pháp luật.

Thống kê các vụ án hình sự đã thụ lý cho thấy tình hình tội phạm tập trung

chủ yếu vào các loại tội về ma tuý (2.821 vụ), chiếm tỷ lệ 28,6%; trộm cắp tài sản

(2.206 vụ), chiếm tỷ lệ 20,9%; đánh bạc (1.698 vụ), chiếm tỷ lệ 16,1 %; cố ý gây

thương tích (930 vụ), chiếm tỷ lệ 8,8%... Nhiệm kỳ qua, Tòa án nhân dân hai cấp đã

xét xử 30 vụ 101 bị cáo phạm các tội về tham nhũng, tội phạm tập trung chủ yếu ở

lĩnh vực liên quan đến quản lý, sử dụng đất đai.

Tòa án thường xuyên phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát

trong việc đẩy nhanh tiến độ điều tra, truy tố, kịp thời đưa ra xét xử các vụ án tham

nhũng, vụ án kinh tế phục vụ nhiệm vụ chính trị địa phương. Việc áp dụng các biện

pháp tạm giữ, kê biên tài sản, thu hồi và xử lý tài sản trong các vụ án tham nhũng,

vụ án kinh tế ngay ở giai đoạn điều tra luôn được Lãnh đạo các cơ quan tư pháp cấp

tỉnh quan tâm chỉ đạo thực hiện, do đó nhiều vụ án tài sản của Nhà nước bị thất

thoát, chiếm đoạt đã được thu hồi ngay từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử hạn chế

được việc tẩu tán tài sản tham nhũng. Không có trường hợp nào xét xử oan, không

bỏ lọt tội phạm. Việc xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ

được Hội đồng xét xử xem xét, cân nhắc kỹ lưỡng, đảm bảo đúng quy định của

BLHS và hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao. Tòa án nhân dân hai

cấp luôn chú trọng việc tranh tụng tại phiên tòa theo hướng thực chất, hiệu quả,

không hạn chế thời gian tranh tụng, trên cơ sở kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử

đưa ra các phán quyết đúng pháp luật, được dư luận xã hội ủng hộ.

46

Trong quá trình xét xử Tòa án luôn chú trọng việc tuyên truyền, giáo dục ý

thức pháp luật cho quần chúng nhân dân, theo đó lịch xét xét xử các vụ án về kinh

tế, chức vụ gửi cho cơ quan báo chí và đài phát thanh để phối hợp đưa tin; khi tổ

chức phiên tòa xét xử lưu động phối hợp chặt chẽ với cơ quan báo, đài địa phương

để đưa tin về kết quả xét xử; tạo điều kiện tốt nhất để các phóng viên tham dự phiên

tòa điển hình, phiên tòa xét xử các vụ án tham nhũng, chức vụ, vụ án kinh tế lớn, vụ

án dư luận xã hội quan tâm, bảo đảm thông tin nhanh, kịp thời, chính xác. Thông

qua hoạt động xét xử mỗi Thẩm phán là một tuyên truyền viên, góp phần đưa chính

sách, pháp luật của Đảng, của Nhà nước vào cuộc sống; trong tiếp công dân, cán bộ

tiếp công dân thường xuyên cập nhật thông tin mới về phòng chống tham nhũng, để

lồng ghép việc phổ biến, giáo dục pháp luật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; các

thủ tục khởi kiện đều phải được niêm yết công khai tại trụ sở để tổ chức, công dân

nắm rõ quy định của pháp luật.

2.2.1.2. Các vụ án dân sự

Tòa án nhân dân hai cấp thụ lý 7.461 vụ việc về dân sự (sơ thẩm 6.812 vụ

việc; phúc thẩm 649 vụ việc); đã giải quyết, xét xử 5.616 vụ việc, đạt 92,6% (vượt

chỉ tiêu 75,2%). Cụ thể:

+ Cấp tỉnh: Thụ lý 938 vụ, việc; đã giải quyết, xét xử 684 vụ việc, đạt tỷ lệ

72,9%.

+ Cấp huyện: Thụ lý 6.523 vụ, việc; đã giải quyết, xét xử 4.932 vụ việc; đạt

tỷ lệ 75,6%.

- Giải quyết, xét xử các vụ, việc hôn nhân và gia đình:

Tòa án nhân dân hai cấp thụ lý 30.376 vụ việc về dân sự (sơ thẩm 30.061 vụ

việc; phúc thẩm 315 vụ việc); đã giải quyết, xét xử 27.580 vụ việc, đạt 90,7%.

Trong đó:

+ Cấp tỉnh: Thụ lý 452 vụ, việc; đã giải quyết, xét xử 392 vụ việc, đạt tỷ lệ

86,7%. Trong đó:

+ Cấp huyện: Thụ lý 29.924 vụ, việc; đã giải quyết, xét xử 27.188 vụ việc;

đạt tỷ lệ 90,8%.

- Giải quyết, xét xử các vụ, việc kinh doanh thương mại:

47

Tòa án nhân dân hai cấp thụ lý 1.117 vụ việc về kinh doanh thương mại(sơ

thẩm 1.008 vụ việc; phúc thẩm 109 vụ việc); đã giải quyết, xét xử 862 vụ việc, đạt

77,1%. Trong đó:

+ Cấp tỉnh: Thụ lý 160 vụ, việc; đã giải quyết, xét xử 120 vụ việc, đạt tỷ lệ

77%. Trong đó:

+ Cấp huyện: Thụ lý 957 vụ, việc; đã giải quyết, xét xử 742 vụ việc; đạt tỷ lệ

77,5%.

- Về án lao động:

Tòa án nhân dân hai cấp thụ lý 67 vụ (sơ thẩm 62 vụ; phúc thẩm 05 vụ); đã

giải quyết, xét xử 60 vụ, đạt 89%. Trong đó:

+ Cấp tỉnh: Thụ lý 11 vụ, việc; đã giải quyết, xét xử 9 vụ việc, đạt tỷ lệ 81%.

+ Cấp huyện: Thụ lý 56 vụ, việc; đã giải quyết, xét xử 51 vụ việc; đạt tỷ lệ

91%.

Trong quá trình giải quyết, Tòa án nhân dân hai cấp đã chú trọng và làm tốt

việc hướng dẫn các đương sự thực hiện đúng nghĩa vụ về cung cấp chứng cứ, tài

liệu của vụ án; đồng thời, chủ động xác minh, thu thập chứng cứ trong những

trường hợp cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng; tăng cường phối hợp với

các cơ quan hữu quan nhằm giải quyết tốt vụ án. Công tác hòa giải tiếp tục được

chú trọng và thực hiện có hiệu quả, các vụ, việc Tòa án không phải đưa ra xét xử là

25.968 vụ việc, chiếm tỉ lệ 76%, trong đó: Đình chỉ 6.802 vụ việc (đình chỉ do hòa

giải thành 1.149 vụ việc; đình chỉ lý do khác 5.653 vụ việc); công nhận sự thỏa

thuận của các đương sự 19.259 vụ việc (hôn nhân và gia đình 17.994 vụ, việc; dân

sự 1.217 vụ việc; kinh doanh thương mại 48 vụ việc), qua đó góp phần giải quyết

nhanh chóng vụ án, đồng thời củng cố mối đoàn kết trong nội bộ nhân dân.

2.2.1.3. Các vụ án hành chính

Tòa án hai cấp thụ lý 682 vụ (sơ thẩm 644 vụ, phúc thẩm 38 vụ). Đã giải

quyết 470 vụ; tỷ lệ giải quyết 68,9,1%. Trong đó:

+ Cấp tỉnh: Thụ lý 626 vụ, việc; đã giải quyết, xét xử 419 vụ việc, đạt tỷ lệ

66,9%.

+ Cấp huyện: Thụ lý 56 vụ, việc; đã giải quyết, xét xử 51 vụ việc; đạt tỷ lệ

91%.

48

Qua số liệu thống kê cho thấy đối tượng khởi kiện các vụ án hành chính tại

Tòa án chủ yếu là các Quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND và của

Chủ tịch UBND các cấp về quản lý đất đai (584 vụ chiếm 85,6%), gồm: Yêu cầu

hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Quyết định phê duyệt bồi thường, hỗ trợ

khi nhà nước thu hồi đất; Quyết định cưỡng chế; Quyết định giải quyết khiếu nại

trong lĩnh vực đất đai...

Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Tòa án luôn chú trọng việc tổ

chức đối thoại, qua đó đã đình chỉ 120 vụ = 25,5% (đình chỉ thông qua đối thoại 14

vụ; đình chỉ do đương sự rút đơn 106 vụ); Tòa án đã phối hợp tốt với các cơ quan

có liên quan để xây dựng hồ sơ vụ án, thu thập đầy đủ chứng cứ cần thiết để đảm

bảo giải quyết vụ án đúng quy định của pháp luật, không để án quá thời hạn xét xử;

chất lượng xét xử ngày càng được nâng lên; tỷ lệ bản án bị hủy do lỗi chủ quan

không có.

Tòa án nhân dân hai cấp thụ lý 1.174 hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý

hành chính (cấp huyện 1.169 hồ sơ; cấp tỉnh phúc thẩm 05 hồ sơ); đã giải quyết

1.156 hồ sơ, đạt tỷ lệ giải quyết 98%.

Hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đều được các Tòa án

chủ động phối hợp với các cơ quan liên quan, kịp thời tổ chức các phiên họp để xem

xét, giải quyết ngay các hồ sơ đề nghị đã đủ điều kiện, đảm bảo việc giải quyết

nhanh chóng, đúng thời hạn, không có hồ sơ tồn đọng, qua đó góp phần đảm bảo

tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

2.2.2. Thực tiễn bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử

của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa.

Thực hiện Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và trên cơ sở quán triệt Nghị

quyết số 08-NQ/TW, Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị và kết luận của

Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương, các phiên tòa xét xử án hình sự đã được

tổ chức theo tinh thần cải cách tư pháp, yêu cầu tranh tụng được chú trọng đã góp

phần nâng cao chất lượng công tác xét xử và giải quyết các loại án. Thực tiễn thực

hiện tranh tụng tại phiên tòa xét xử các loại án những năm qua nổi lên một số nội

dung như sau:

2.2.2.1 Tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự

49

* Đối với Hội đồng xét xử và chủ tọa phiên tòa

Trong xét hỏi đã thẩm tra đầy đủ các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ và công

khai tài liệu tại phiên tòa, chú trọng các vấn đề còn mâu thuẫn để hướng trọng tâm

thẩm tra bảo đảm cho việc ban hành bản án, quyết định sau này. Trong tranh luận:

Hội đồng xét xử đã bảo đảm cho các bên được trình bày hết ý kiến, không hạn chế

thời gian tranh luận, định hướng vấn đề để các bên tranh luận đi vào trọng tâm. Về

bản án, quyết định: Hội đồng xét xử đã phân tích, nhận xét, lập luận về các tài liệu,

chứng cứ và vấn đề đã được thẩm tra công khai, chấp nhận hay không chấp nhận

vấn đề nào đều nhận định rõ trong bản án nên bản án có tính thuyết phục.

Ví dụ1 : Vụ án Bùi Xuân N bị Viện kiểm sát truy tố về tội vi phạm quy định

về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Trong vụ án có hai bị cáo khác bị

truy tố về tội cản trở giao thông đường bộ. Khi xét hỏi, hội đồng xét xử đã tập trung

thẩm tra xác định được hai bị cáo này là công nhân của đơn vị thi công công trình

đường bộ, được giao trách nhiệm quản lý bảo đảm an toàn trong thi công công

trình, có dấu hiệu của tội phạm khác đã quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung và

Viện kiểm sát đã thống nhất thay đổi tội danh hai bị cáo này.

Ví dụ 2: Vụ án Ngô Văn L, Ngô Xuân L, Lê Hữu H bị Viện kiểm sát nhân

dân thành phố TH truy tố về tội “Hủy hoại tài sản” theo khoản 3 Điều 178 – BLHS.

Hồ sơ thể hiện: Do có mâu thuẫn với anh Vũ Văn H, nên Ngô Văn L, Ngô Xuân L

và Lê Hữu H đã có hành vi đốt máy ép cọc bê tông của anh H đang thi công để đe

dọa, dằn mặt, làm máy ép cọc bị hư hỏng hoàn toàn. Tại kết luận định giá tài sản số

80 định giá thiệt hại tài sản là 262.121.000đ. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tập

trung thẩm tra làm rõ hành vi phạm tội, không hạn chế thời gian để các bị cáo được

thể hiện hết các ý kiến, quan điểm. Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình,

tuy nhiên không đồng ý với kết quả định giá và đề nghị định giá lại. Hội đồng xét

xử đã Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát để định giá lại với

lý do: Hội đồng định giá thành lập không có đại diện cơ quan, tổ chức chuyên môn

liên quan đến tài sản cần định giá là chưa đúng quy định tại điểm c khoản 1 Điều 8

Nghị định số 30/2018/NĐ- CP ngày 07/3/2018 của Chính phủ quy định thành phần

của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự cấp huyện và tại bản kết luận định giá

này, Hội đồng định giá đã không dựa trên các căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều

50

15 Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 07/3/2018 mà chỉ dựa vào báo cáo của bị hại

là chưa đủ cơ sở; Sau khi có kết luận định giá lại tài sản thì giá trị thiệt hại là

106.923.000đ. Kết quả này được Viện kiểm sát, các bị cáo, bị hại thống nhất và

không có ý kiến gì. Với kết quả này Viện kiểm sát đã thay đổi bổ sung nội dung

Quyết định truy tố của cáo trạng, các bị cáo phạm tội “Hủy hoại tài sản” theo quy

định tại điểm b khoản 2 Điều 178 BLHS.

Ví dụ 3 : Vụ án Hoàng Văn T và đồng bọn về tội cố ý gây thương tích và gây

rối trật tự công cộng. Trong vụ án này có 02 kiểm sát viên, 16 bị cáo và 04 người

bào chữa được xét xử trong hai ngày. Hội đồng xét xử đã bảo đảm cho các bên

tranh luận và đối đáp về tất cả các ý kiến, lập luận được đưa ra, không hạn chế thời

gian được kiểm sát viên và các luật sư hài lòng.

Tuy nhiên, vẫn còn trường hợp bản án, quyết định của Hội đồng xét xử còn

hạn chế như: Khi xét hỏi, chủ tọa phiên tòa thường thẩm vấn bị cáo theo hướng

buộc tội như cáo trạng của Viện kiểm sát, giúp Viện kiểm sát bảo vệ cáo trạng;

phần lập luận chấp nhận hoặc không chấp nhận quan điểm của người bào chữa,

nhiều trường hợp đánh giá một cách chung chung như: “chấp nhận một phần ý kiến

của luật sư” mà không ghi rõ một phần ý kiến là ý kiến gì, như thế nào.

* Đối với kiểm sát viên

- Trong xét hỏi: Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đã có chuẩn bị đề cương

tham gia xét hỏi; một số vấn đề qua xét hỏi của kiểm sát viên đã làm rõ và có ý

nghĩa xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

- Trong tranh luận và đối đáp: Kiểm sát viên đã kiểm tra tính hợp pháp, có

căn cứ của tình tiết mới phát sinh tại phiên tòa khác với nội dung cáo trạng đã luận

tội phù hợp với các chứng cứ, tài liệu được thẩm tra.

Tuy nhiên, vẫn còn kiểm sát viên chưa chủ động tham gia xét hỏi nhằm đưa

ra các chứng cứ buộc tội mà chủ yếu phụ thuộc vào HĐXX, nhất là các vụ án mà bị

cáo không khai nhận hành vi phạm tội nên chưa thể hiện rõ việc tranh tụng giữa

kiểm sát viên với bị cáo.

* Đối với người bào chữa và người bảo vệ quyền lợi của đương sự

- Trong xét hỏi: Người bào chữa, người bảo về quyền lợi đương sự chủ yếu

là luật sư) đã phát huy trách nhiệm chủ động đề xuất HĐXX được tham gia hỏi hoặc

51

đề xuất vấn đề được hỏi nhằm làm rõ thêm tình tiết liên quan đến bị cáo hoặc đương

sự đã nhận bào chữa hoặc bảo vệ; một số luật sư đã thể hiện sự sắc sảo trong cách

nêu và đặt câu hỏi, nắm bắt diễn biến và các tình tiết vụ án đã giúp cho HĐXX ra

phán quyết đúng lý, hợp tình, có sức thuyết phục.

- Trong tranh luận và đối đáp: Người bào chữa và người bảo vệ quyền lợi

của đương sự đã chuẩn bị bản luận cứ. Trong phần này, nhiều luật sư tham gia bào

chữa hoặc bảo vệ quyền lợi của đương sự đã tập trung phân tích các tình tiết, diễn

biến vụ việc qua thẩm tra tại phiên tòa, lời buộc tội của kiểm sát viên; trên cơ sở đối

chiếu quy định của pháp luật nhằm gỡ tội cho bị cáo hoặc bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của đương sự.

Trong phiên tòa, luật sư là một bên của quá trình tranh tụng, tuy nhiên, có

không ít vụ án mà luật sư tham gia hỏi một cách hời hợt, không theo diễn biến tình

tiết vụ án, nhiều trường hợp bài bào chữa chỉ mang nặng việc khai thác các tình tiết

tăng nặng, giảm nhẹ hoặc bắt bẻ về câu chữ, hay những lỗi tố tụng nhỏ mà không đi

vào những tình tiết, chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội của vụ án một cách toàn

diện, để bảo vệ quyền lợi chính đáng của bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ

liên quan. HĐXX xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ mới, chứng cứ có trong

hồ sơ, chứng cứ đã được kiểm sát viên phân tích, đánh giá khi luận tội bảo vệ cáo

trạng, phát biểu tại phiên tòa, quan điểm của kiểm sát viên, của người bào chữa và

những người tham gia tố tụng để ra phán quyết cuối cùng đúng pháp luật, bảo vệ

được quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.

2.2.2.2. Trong phiên tòa xét xử các vụ án dân sự, kinh doanh thương mại, lao

động, hôn nhân gia đình.

Theo quy định về thủ tục tố tụng tại phiên tòa, thì “tranh luận” là một phần

của tố tụng phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm xét xử vụ án dân sự được tiến hành sau

khi kết thúc phần xét hỏi.

Xã hội ngày càng phát triển, các tranh chấp trong các lĩnh vực dân sự, hình

sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại… ngày càng gia tăng cả về số lượng

vụ việc lẫn tính chất phức tạp. Công tác giải quyết án dân sự của Tòa án nhân dân

hai cấp tỉnh Thanh Hóa đạt được nhiều thành tích. Chất lượng tranh tụng được nâng

cao. Trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc “Quyền quyết định và tự định đoạt của đương

52

sự” thì trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt,

thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không

trái pháp luật và đạo đức xã hội” thẩm phán đã chủ động phân tích, hòa giải để các

đương sự thấy được các lợi ích của việc tự thỏa thuận với nhau, trừ những vụ án

không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 181 và

Điều 182 của Bộ luật tố tụng dân sự; hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ

bằng cách tiến hành một hoặc một số biện pháp sau đây: lấy lời khai của đương sự,

người làm chứng; đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa các đương sự với

người làm chứng; trưng cầu giám định; quyết định định giá tài sản, yêu cầu thẩm

định giá tài sản; xem xét, thẩm định tại chỗ; ủy thác thu thập, xác minh tài liệu,

chứng cứ; yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu đọc được, nghe được,

nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự. Khi

đương sự không có đủ căn cứ, so sánh sự thiệt hơn trong quá trình theo đuổi vụ kiện

thì đều có thể chấm dứt vụ kiện hoặc tự hòa giải bất cứ lúc nào trong quá trình Tòa

án giải quyết vụ án.

Chất lượng tranh tụng tại phiên tại phiên tòa dân sự đã được đảm bảo, về cơ

bản chủ tọa không hạn chế thời gian, để các đương sự được trình bày hết ý kiến.

Người tham gia tố tụng khi phát biểu về đánh giá chứng cứ, đề xuất quan điểm của

mình về việc giải quyết vụ án, đã căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã thu thập được và

đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa cũng như kết quả việc hỏi tại phiên tòa, đối

đáp lại ý kiến của người khác. Khi người tham gia tố tụng tranh luận lan man,

không liên quan đến vụ án, chủ tọa phiên tòa đã “cắt” hướng người tham gia tập

trung tranh luận vào nội dung vụ án.

Tuy nhiên thực trạng áp dụng quy định của BLTTDS hiện hành cho thấy quy

định của pháp luật tố tụng dân sự về tranh tụng còn thể hiện những bất cập sau đây:

- Thứ nhất, khái niệm tranh tụng chưa được thừa nhận theo nghĩa rộng nên

hiện nay chưa có cơ chế để Tòa án ghi nhận và cho thi hành kết quả hòa giải thành

các tranh chấp dân sự do Ban tư pháp và các đoàn thể chính trị cấp xã thực hiện

trước khi đương sự khởi kiện ra Tòa án.

- Thứ hai, Đương sự có quyền thu thập, giao nộp tài liệu chứng cứ để chứng

minh cho yêu cầu của mình kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án và thông báo cho bên kia

53

biết các tài liệu chứng cứ đã giao nộp; đương sự được quyền trình bày, đối đáp, phát

biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ cho

yêu cầu của mình hoặc có quyền bác bỏ yêu cầu của người khác theo quy định tại

khoản 2 Điều 24 –BLTTDS. Trong quá trình giải quyết vụ án, mọi tài liệu, chứng

cứ phải được xem xét một cách đầy đủ, khách quan, toàn diện, công khai, trừ trường

hợp không được công khai theo quy định tại khoản 2 Điều 109 – BLTTDS. Như

vậy pháp luật quy định các đương sự phải có nghĩa vụ thông báo cho nhau các tài

liệu, chứng cứ đã giao nộp cho Tòa án cụ thể là: gửi cho đương sự khác hoặc người

đại diện hợp pháp của họ bản sao đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ, trừ tài liệu

chứng cứ mà đương sự khác đã có. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho người

tham gia tố tụng chủ động, tích cực trong việc thu thập, cung cấp, nghiên cứu và

đánh giá tài liệu chứng cứ cũng như các tình tiết liên quan đến vụ án một cách chính

xác, khách quan và đầy đủ. Trên cơ sở đó để đưa ra những lý lẽ để bảo vệ cho yêu

cầu của mình, cũng như phản bác yêu cầu của đối phương. Tuy nhiên, trên thực tế

có không ít trường hợp người khởi kiện không thông báo cho bên bị kiện và không

gửi bản sao các tài liệu chứng cứ cho bên bị kiện biết. nhiều trường hợp các đương

sự cố tình không giao nộp tài liệu chứng cứ, để chờ khi ra phiên tòa mới giao nộp,

để đối phương không kịp chuẩn bị phản bác lại. Đây cũng là nguyên nhân án bị sửa

do tại phiên tòa phúc thẩm đương sự xuất trình thêm tài liệu chứng cứ mới.

BLTTDS hiện chưa quy định rõ trách nhiệm của đương sự khi không thực hiện

nghĩa vụ thông báo cho đương sự khác về tài liệu chứng cứ đã giao nộp cho Tòa án.

Cần phải có quy định cụ thể về vấn đề này để nguyên tắc đảm bảo tranh tụng trong

xét xử được thực thi có hiệu quả trên thực tế, nâng cao chất lượng xét xử của Tòa

án nhân dân

- Thứ ba, BLTTDS hiện hành quy định trình tự xét hỏi thì quyền chủ động

xét hỏi thuộc về Hội đồng xét xử. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa để kiểm sát sự

tuân theo pháp luật của Tòa án và những người tham gia tố tụng nhưng vẫn có

quyền xét hỏi (BLTTDS chỉ quy định trường hợp Kiểm sát viên hỏi đương sự khi

tham gia phiên tòa nhưng không quy định là không được hỏi về nội dung vụ kiện).

Do vậy, không loại trừ trường hợp Thẩm phán, Hội thẩm và Kiểm sát viên đặt

54

những câu hỏi hướng đương sự trả lời để phục vụ cho việc giải quyết vụ án theo sự

thiên vị của mình.

Những quy định về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa từ Điều 217 đến Điều 231

BLTTDS cho thấy sau khi xét hỏi, nội dung vụ án đã được làm sáng tỏ. Ví dụ Điều

221 quy định về nghe lời trình bày của đương sự theo trình tự các bên trình bày yêu

cầu, đề nghị của mình và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị đó là có căn

cứ và hợp pháp. Đồng thời, quá trình hỏi sẽ kết hợp với việc công bố các tài liệu của

vụ án; nghe băng, đĩa ghi hình; xem xét vật chứng; hỏi người giám định. Bằng quy

định này, qua trình bày của đương sự trong phần xét hỏi, nội dung vụ án không

những đã đầy đủ, rõ ràng, sáng tỏ mà các bên đương sự cũng đã có dịp đối đáp với

những nội dung trình bày của nhau. Như vậy, với quy định của BLTTDS, thì qua

phần xét hỏi, nội dung vụ án đã đầy đủ nên phần tranh luận không còn nội dung và

chỉ là sự lặp lại những nội dung đã trình bày ở phần xét hỏi. Mặt khác, như đã trình

bày, việc tranh luận tại phiên tòa cũng chỉ được tiến hành sau khi xét hỏi. Có những

vụ án dân sự, việc xét hỏi được thực hiện trong một thời gian dài (một buổi, một

hoặc vài ngày) đến nỗi khi đến thời điểm tranh luận thì đương sự lại quên mất

những nội dung và kết quả xét hỏi từng vấn đề vì họ không phải là những người am

hiểu về luật.

- Thứ tư, việc tranh luận tại phiên tòa chỉ được tiến hành sau khi xét hỏi đã

làm rõ tất cả các vấn đề phải giải quyết trong vụ án dân sự cho nên đến phần tranh

luận, đương sự không còn gì để nói, nên thường phần tranh luận đương sự không

tranh luận.

- Thứ năm, số vụ án dân sự có sự tham gia của Luật sư với tư cách là người

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chiếm tỷ lệ không cao nên chất

lượng tranh tụng không cao. Nhiều trường hợp, đương sự chỉ phát biểu tranh luận

“đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật”, nguyên nhân là do số

lượng luật sư của nước ta còn ít, lại tập trung chủ yếu ở các đô thị; phí dịch vụ thuê

luật sư quá cao, Nhà nước chưa có cơ chế hữu hiệu kiểm soát sự không tương xứng

giữa giá trị và chất lượng dịch vụ, giá cả dịch vụ pháp lý của luật sự. Cá biệt, có

trường hợp luật sư của hai bên đương sự bắt tay nhau cùng làm tiền các thân chủ.

2.2.2.3. Trong phiên tòa xét xử vụ án hành chính

55

Theo quy định tại khoản 2 Điều 36 Luật TTHC 2015 thì những người tiến

hành tố tụng trong vụ án hành chính gồm có: Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội

thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án; Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát

viên, Kiểm tra viên; Những người tham gia tố tụng gồm đương sự, người đại diện

của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm

chứng, người giám định, người phiên dịch (Điều 53 Luật TTHC 2015).

Trong quá trình tham gia xét xử vụ án hành chính, các đương sự có nghĩa vụ

cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án, có nghĩa vụ chứng minh để thuyết phục Tòa án

chấp nhận yêu cầu của mình. Khi ấy, Tòa có thể yêu cầu các đương sự có các chứng cứ

phải xuất trình trước Tòa để việc giải quyết vụ án được thuận lợi, khách quan.

Cơ quan nhà nước có nhiều lợi thế khi tranh tụng. Ngược lại, người khởi

kiện đa phần là người dân chỉ có thể sử dụng chứng cứ từ những nguồn thông tin

công khai hoặc do chính các cơ quan nhà nước cung cấp. Để tạo sự bình đẳng, Điều

55 Luật TTHC 2015 quy định: “Các đương sự của vụ án có quyền: Yêu cầu cơ

quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu,

chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Tòa án; Đề nghị Tòa án xác minh, thu thập

tài liệu, chứng cứ của vụ án mà tự mình không thể thực hiện được; đề nghị Tòa án

buộc bên đương sự khác xuất trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang lưu giữ, quản lý;

đề nghị Tòa án ra quyết định buộc cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý

chứng cứ cung cấp chứng cứ; đề nghị Tòa án triệu tập người làm chứng, trưng cầu

giám định, định giá tài sản; Được biết, ghi chép và sao chụp tài liệu, chứng cứ do

đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập, trừ tài liệu, chứng cứ không được

công khai theo quy định tại khoản 2 Điều 96…”

Tại phiên tòa, trong trường hợp có sự mâu thuẫn trong các tài liệu, chứng cứ

do các bên xuất trình, HĐXX sẽ phải chủ động, tích cực thẩm vấn để làm rõ sự thật

khách quan. Tranh tụng được thể hiện rõ nét trong thủ tục xét hỏi tại phiên tòa, đặc

biệt là trong thủ tục tranh luận và đối đáp. Tại khoản 2, Điều 152 Luật TTHC 2015:

“HĐXX phải trực tiếp xác định những tình tiết của vụ án tại phiên tòa bằng cách hỏi

và nghe trình bày, tranh luận trực tiếp về tình tiết, chứng cứ của vụ án của người

khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người

đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những

56

người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức được mời tham dự phiên tòa, nghe

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát”.

Quy định này thể hiện rõ vai trò điều khiển của HĐXX trong quá trình xét

hỏi, tranh luận và đối đáp công khai tại phiên tòa. Các bên đều có nghĩa vụ chứng

minh, đưa ra tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Trong tố tụng hành chính, người tham gia tranh luận chủ yếu là các đương sự và

luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Nhằm bảo đảm việc tranh tụng trong TTHC đáp ứng được yêu cầu cải cách

tư pháp như Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị, cần phải xác định rõ và đầy đủ hơn

quyền và nghĩa vụ của bên khởi kiện và bên bị kiện, đảm bảo cho họ quyền và

nghĩa vụ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa.

Nâng cao vai trò của các bên trong việc xét hỏi, tranh luận và đối đáp trước Tòa.

Bên cạnh đó cần nâng cao vai trò và vị trí của Viện kiểm sát trong tố tụng hành

chính. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa vụ án hành chính nhưng không phải là chủ

thể tranh tụng. (Điều 190 Luật TTHC 2015). Kiểm sát viên trong quá trình hỏi cần

hướng cho các đương sự tranh tụng, đưa ra các chứng cứ hợp pháp bảo vệ quyền lợi

cho mình, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của HĐXX trong việc điều khiển quá

trình tranh tụng.

Ví dụ: Trong vụ án hành chính “khiếu kiện Quyết định hành chính”, nội

dung vụ án như sau: ông Tào Văn S và bà Nguyễn Thị M sinh được 3 người con

gồm: Ông Tào Minh H, Bà Tào Thị T và ông Tào Minh D. Ông S chết năm 1959,

bà M1 chết năm 1994 có để lại khối di sản để lại là 04 gian nhà cấp 4, xây tường 20

gạch đỏ, cột, kèo, mi, mè bằng gỗ, lợp ngói âm dương (ngói vẩy), có nhà bếp, công

trình phụ, bể nước, sân phơi, quy hoạch khu vực chăn nuôi gia súc, gia cầm, thành

khuôn viên khép kín có diện tích 500m2 tại xóm đê, sát Quốc lộ 1A, gần cầu TX, xã

HL, huyện HH, tỉnh Thanh Hóa, ăn ở ổn định, không tranh chấp với ai.

Sau khi bà M chết, các con thống nhất không chia thừa kế mà để sử dụng

chung, giao cho anh H1 là con trai cả đảm nhiệm việc thờ cúng tổ tiên cha mẹ và

trông coi giữ gìn tài sản chung của các anh em. Đây là đất hương hỏa nên anh H chỉ

được sử dụng, không được bán, không được chia cho các con và cũng không được

tặng, cho, cầm cố, thế chấp vay vốn ngân hàng. Giữa ông H, bà T, ông D chỉ thỏa

57

thuận miệng mà không lập thành văn bản. Đến tháng 6 năm 2015, ông H phá 4 gian

nhà cấp 4 và chia đất cho 2 con gái cho nên đã phá vỡ thỏa thuận với anh em trước

đây.

Trước đó, năm 1996, khi Nhà nước tổng kiểm kê lại quỹ đất để cấp Giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất, bà T, ông D không ai được biết, bản đồ đo vẽ và sổ

mục kê lúc đó ghi tên người sử dụng là Tào Văn H, tại Thửa 843, tờ bản đồ số 05,

diện tích 500m2, bản đồ đo vẽ năm 1996.

Năm 2007, Ủy ban nhân dân xã HL lập hồ sơ dựa trên sổ mục kê để cấp

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Tào Minh H và vợ là bà Hoàng Thị S

mà bà T, ông D không biết.

Khi biết sự việc, bà T ông D cùng làm đơn khiếu nại gửi Chủ tịch Ủy ban

nhân dân huyện HH. Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện HH ra quyết định giải quyết

khiếu nại với nội dung: “Giữ nguyên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy

ban nhân dân huyện HH đã cấp cho anh H1 và chị S1 ngày 31/12/2007”

Không đồng ý với Quyết định giải quyết khiếu nại, bà T ông D tiếp tục khiếu

nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã ban hành Quyết định giải quyết

khiếu nại lần hai số với nội dung: Giữ nguyên Quyết định của Chủ tịch Ủy ban

nhân dân huyện HH.

Không đồng ý với các Quyết định hành chính nói trên, bà T ông D khởi kiện

đến Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đề nghị:

Hủy Quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa;

Hủy Quỵết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND huyện HH, tỉnh

Thanh Hóa;

Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện HH đã cấp cho

ông Tào Minh H.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã tiến hành mở

phiên họp công khai, tiếp cận tài liệu, chứng cứ và đối thoại; đại diện của những

người khởi kiện vẫn giữ nguyên nội dung khởi kiện; đại diện được ủy quyền của

những người bị kiện vẫn giữ nguyên quyết định hành chính và quyết định giải quyết

khiếu nại.

58

Tòa án tiến hành xác minh nguồn gốc đất vợ chồng ông H đang sử dụng,

cũng như trình tự thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông

H…Tại phiên tòa, do có sự mâu thuẫn trong các tài liệu chứng cứ do các bên xuất

trình. HĐXX đã chủ động, tích cực thẩm vấn để làm rõ sự thật khách quan, tạm

ngưng phiên tòa để giám định chữ ký, chữ viết. HDDXX cũng không hạn chế thời

gian tranh tụng, đảm bảo cho các bên có quyền và nghĩa vụ chứng minh để bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

HĐXX đã Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Tào Thị T và ông Tào Minh D.

Tranh tụng tại phiên tòa hành chính là nội dung có ý nghĩa quan trọng trong

hoạt động tố tụng hành chính được quy định trong Luật TTHC 2015 đã cụ thể hóa

khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 về “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được

bảo đảm” và thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng trong Nghị quyết số 49-

NQ/TW. Đó cũng là yêu cầu cấp bách đảm bảo tính khách quan, công bằng, dân

chủ trong xét xử vụ án hành chính nhằm làm căn cứ để xác định sự thật vụ án, cơ sở

để hội đồng xét xử ra bản án, quyết định khách quan, đúng pháp luật.

2.2.3. Đánh giá thực tiễn bảo đảm tranh tụng trong xét xử của Tòa án

nhân dân tại tỉnh Thanh Hóa

2.2.3.1. Kết quả đạt được

Thứ nhất, sự ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong xét xử tại Hiến pháp năm

2013 đánh dấu bước phát triển vượt trội của nền lập hiến Việt Nam về tổ chức và

hoạt động tư pháp, tạo nền tảng hiến định vững chắc bảo đảm tính thống nhất của hệ

thống pháp luật tố tụng Việt Nam. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xét xử là một

nguyên tắc trong hệ thống các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Toà án nhân

dân.

Thứ hai, các đạo luật hiện hành về tố tụng ở Việt Nam đã triển khai thi hành

đúng với tinh thần quy định của hiến pháp về nguyên tắc tranh tụng trong xét xử,

thiết lập nguyên tắc tranh tụng trong xét xử cũng như các quy định cụ thể có liên

quan trong mỗi lĩnh vực pháp luật tố tụng (tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng

hành chính). Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử cũng là một nguyên tắc trong số

các nguyên tắc cơ bản của mỗi ngành luật tố tụng cụ thể.

59

Thứ ba, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được ghi nhận tạo thuận lợi cho

hoạt động thực thi pháp luật tố tụng trong thực tiễn, các cơ quan tiến hành tố tụng

cũng như những người tham gia tố tụng cũng đã phần nào nhận thức được vai trò, ý

nghĩa quan trọng của tranh tụng và vận dụng được các cơ sở pháp lý mà pháp luật tố

tụng đã quy định. Việc thực hiện hoạt động này góp phần bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của chủ thể tham gia tố tụng, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,

bảo vệ lẽ phải. Thực tiễn hoạt động giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố

tụng những năm gần đây là minh chứng cụ thể cho nhận định này.

Có thể nói, sự tham gia của luật sư trong các vụ án đã góp phần tích cực vào

việc thực hiện dân chủ trong tố tụng, đồng thời giúp Hội đồng xét xử có những phán

quyết đúng đắn và chính xác. Trong quá trình giải quyết vụ án, các luật sư cũng

được Tòa án tạo điều kiện thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng.

Thứ tư, nhìn chung, quy định của các bộ luật tố tụng hiện hành đã thống nhất

với nhau và phù hợp với nguyên tắc tranh tụng trong xét xử đã được hiến pháp ghi

nhận. Tuy nhiên, một số quy định hiện hành vẫn còn bộc lộ những hạn chế, bất cập

hoặc còn thiếu như chế tài nếu vi phạm tranh tụng sẽ được áp dụng thế nào? Vị trí,

vai trò và quyền của người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng (viện kiểm sát, bào

chữa viên nhân dân, trợ giúp viên pháp lý…) vẫn cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoàn

thiện pháp luật về tố tụng để bảo đảm tốt hơn, thể hiện đầy đủ, toàn diện nguyên tắc

tranh tụng theo tinh thần hiến pháp.

2.2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân

* Hạn chế

Thực tiễn thực hiện pháp luật hiện nay cũng cho thấy còn nhiều hạn chế, bất

cập trong việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong thực tiễn xét xử theo quy định

của hiến pháp và pháp luật như: tổ chức xây dựng bộ máy, phát triển đội ngũ cán bộ

tư pháp đủ năng lực, phẩm chất, nâng cao ý thức pháp luật, ý thức về quyền con

người, quyền công dân đến việc bảo đảm các điều kiện vật chất, kĩ thuật bảo đảm

thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử... đặc biệt, tính tranh tụng trong hoạt

động tố tụng ở nước ta còn rất hạn chế như trong tố tụng hình sự thì chức năng bào

chữa dường như bị lấn át bởi chức năng buộc tội; Do sự cả nể với cơ quan điều tra,

cũng như Viện kiểm sát, nên khi hồ sơ chưa chặt chẽ thì thẩm phán thường “linh

60

động” cho khắc phục thay vì trả hồ sơ để điều tra bổ sung; hay trong tố tụng dân sự,

tố tụng hành chính... thì hoạt động tranh luận, đối đáp giữa các bên rất ít được thực

hiện hoặc không được hiệu quả.

Thực tiễn cho thấy, vẫn còn một số đơn vị tòa án cấp huyện việc thực hiện

chủ trương mở rộng tranh tụng còn mang tính hình thức, chưa đáp ứng được yêu

cầu cải cách tư pháp (các bản án, phán quyết của Tòa án chủ yếu phải dựa trên kết

quả tranh tụng dân chủ tại phiên toà). So với yêu cầu đặt ra thì vẫn còn có phiên tòa

chưa thực sự bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo và những người tham gia tố tụng

khác, số lượng án hủy, sửa do lỗi chủ quan vẫn còn.

* Nguyên nhân

Thứ nhất, do cơ chế làm việc, sự hạn chế về tinh thần trách nhiệm của số ít

đội ngũ Thẩm phán nên nguyên tắc “Khi xét xử Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật” đôi khi chưa được tuân thủ chặt chẽ. Nhất là đối với các vụ án hình sự có

đông bị cáo và nhiều luật sư tham gia nên mặc dù thời gian tranh luận kéo dài

nhưng chất lượng đối đáp không cao, hay trong các vụ án dân sự có nhiều người có

quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, nhiều luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp việc tranh luận, đối đáp của các bên không đi vào trọng tâm các vấn đề cần

giải quyết trong vụ án.

Thứ hai, trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp của một số Kiểm sát

viên còn hạn chế nên không phát hiện kịp thời các vi phạm tố tụng trong giai đoạn

điều tra. Vấn đề tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa vẫn là khâu yếu ở cấp sơ

thẩm (nhất ở cấp huyện).

Thứ ba, đội ngũ luật sư ở nước ta vừa thiếu về số lượng, một số còn hạn chế

về trình độ nghiệp vụ, đặc biệt là kỹ năng tranh tụng nên chưa nhận thức đúng về

vai trò, vị trí của mình là một bên trong tranh tụng, chưa bảo vệ có hiệu quả các

quyền và lợi ích của công dân. Nhận thức pháp luật của các tầng lớp nhân dân nói

chung và của những người dân tham gia tố tụng và gia đình họ nói riêng về vai trò,

vị trí của luật sư trong tố tụng còn nhiều hạn chế. Trong khi đó các dịch vụ pháp lý

miễn phí cho bị can, bị cáo cũng như các bên nguyên đơn, bị đơn, người có quyền

lợi nghĩa vụ liên quan ở nước ta mới được triển khai, chưa đáp ứng được nhu cầu

của xã hội. Bên cạnh đó, việc nhận thức của công dân về quyền và nghĩa vụ của

61

mình khi tham gia tố tụng không đúng và đầy đủ. Nhiều người dân còn có quan

niệm dè dặt, chưa thực sự tin tưởng vào các cơ quan tiến hành tố tụng nên tạo tâm

lý và thái độ chưa phù hợp, thiếu hợp tác trong quá trình giải quyết vụ án.

Kết luận chương 2

Qua nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển của nguyên tắc tranh tụng

trong xét xử, nội dung nguyên tắc theo sự ghi nhận tại Hiến pháp năm 2013 và sự

cụ thể hoá quy định của Hiến pháp trong các đạo luật về tố tụng và các văn bản quy

phạm pháp luật khác có liên quan có thể rút ra một số điểm nhận xét và kiến nghị bổ

sung, sửa đổi, hoàn thiện pháp luật, nâng cao nhận thức về nguyên tắc tranh tụng.

Đây là lần đầu tiên nguyên tắc tranh tụng được thể hiện trong Hiến pháp, từ đó

tranh tụng cũng đã được xuất hiện trong một loạt các quy định khác nhau của pháp

luật tố tụng, với mục đích tăng cường tranh tụng trong hoạt động tố tụng, nhằm bảo

đảm quyền con người, chống oan sai, nhanh chóng xác định sự thật khách quan của

vụ án. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế, vướng mắc cần giải quyết bằng cách

hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao chất lượng, năng lực của các chủ thể liên

quan (Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư…)

62

Chương 3

YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG

TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ TỈNH

THANH HÓA

3.1. Yêu cầu bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử của Tòa án

nhân dân

Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử đã được Hiến định trong Hiến

pháp năm 2013 và tiếp tục được thể chế hóa trong Luật Tổ chức TAND năm 2014,

Luật Tổ chức VKSND năm 2014, BLTTHS năm 2015, BLTTDS năm 2015,

LTTHC năm 2015 và một số Nghị quyết của Quốc hội, đã trở thành một trong

những nguyên tắc quan trọng trong hoạt động tố tụng ở Việt Nam nhằm đáp ứng

yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động tố tụng hình sự, đảm bảo xét xử đúng người,

đúng tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan sai người vô tội, bảo vệ công lý,

bảo vệ quyền con người. Để đạt được mục đích đó, việc bảo đảm nguyên tắc tranh

tụng trong xét xử cần có những giải pháp cụ thể. Yêu cầu đối với những giải pháp

đó là:

Một là, các giải pháp được đặt ra phải phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp

ở nước ta.

Từ thực tiễn quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị

quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020;

phát huy tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tư pháp, đặt ra yêu cầu

cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp nhằm thích ứng tốt hơn với yêu cầu, đòi hỏi

cấp thiết trong tình hình mới. Định hướng của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng

xác định, việc kiên định, nhất quán nguyên tắc Đảng lãnh đạo toàn diện, thống nhất

và trực tiếp đối với cơ quan tư pháp, hoạt động tư pháp để bảo đảm thực hiện hiệu

quả trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ

chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp

của tổ chức, cá nhân; xác định cải cách tư pháp là động lực quan trọng để nâng cao

chất lượng, hiệu quả hoạt động tư pháp và công tác phòng chống tham nhũng do

Đảng lãnh đạo; là nhân tố quan trọng góp phần bảo vệ, giữ vững, phát huy thành

tựu phát triển của đất nước thời gian qua; đẩy nhanh việc hoàn thiện các thiết chế

63

của Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hoạt động tư pháp phải đặt

người dân vào vị trí trung tâm, lấy tinh thần phục vụ nhân dân làm tôn chỉ, mục đích

hoạt động; hoàn thiện thể chế, phát huy dân chủ, bảo đảm các điều kiện về pháp lý

và thực tế để người dân thực hiện đầy đủ, toàn diện các quyền của mình trong tố

tụng; bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của người dân thông qua hoạt

động tư pháp; phát huy vai trò và hoàn thiện cơ chế giám sát đặc thù của cơ quan

dân cử, của công luận và của nhân dân đối với hoạt động tư pháp…

Việc xây dựng các biện pháp bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử cần

đáp ứng các yêu cầu cụ thể mà các Nghị quyết của Đảng đã đề ra, đó là: Nâng cao

chất lượng công tố của KSV tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư,

người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác...Việc phán quyết của Tòa án

phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ,

toàn diện các chứng cứ, ý kiến của KSV, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng,

nguyên đơn, bị đơn...để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết

phục trong thời hạn do luật định.

Hai là, các giải pháp phải đồng bộ, bao quát toàn diện trong các giai đoạn tố

tụng

Toàn bộ quá trình tố tụng gồm nhiều giai đoạn có mối liên hệ mật thiết với

nhau. Với quy tắc đó, muốn nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa xét xử các

vụ án hình sự, không chỉ tập trung hoàn thiện thủ tục tranh tụng tại phiên tòa mà

còn phải khắc phục những vấn đề còn tồn tại trong các giai đoạn trước đó. Do đó,

việc đề ra các giải pháp cần phải được xem xét trên toàn bộ các giai đoạn tố tụng.

Đồng thời, việc thực hiện các giải pháp phải đồng bộ trên tất cả các phương diện về

pháp luật, con người, đảm bảo điều kiện cơ sở vật chất...Nếu như việc bảo đảm

nguyên tắc tranh tụng chỉ được tiến hành trên cơ sở xây dựng và hoàn thiện các quy

định pháp luật mà không chú trọng đến việc nâng cao nhận thức của những người

tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của nhân dân, ý thức xã hội, ý thức pháp

luật về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng thì nguyên tắc tranh tụng chỉ là mang tính

hình thức, các giải pháp được đề ra cũng chỉ mang tính tạm thời, không hiệu quả.

Bốn là, các giải pháp phải có tính khả thi.

64

Tính khả thi được hiểu là khả năng áp dụng trong thực tiễn. Tính khả thi của

các giải pháp bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự được

đánh giá bởi sự phù hợp giữa các giải pháp đó với hiện thực pháp luật tố tụng, điều

kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Nếu các giải pháp phản ánh chính xác, kịp thời

những vấn đề đặt ra từ thực tiễn, chứa đựng nội dung phù hợp với các điều kiện

phát triển kinh tế - xã hội và yêu cầu cải cách tư pháp sẽ tạo những “đòn bẩy” cho

việc đảm bảo tranh tụng tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự. Ngược lại, nếu đặt ra

những giải pháp quá xa rời, không phù hợp với thực tiễn, không có tính khả thi sẽ là

nguyên nhân làm giảm sút hiệu quả của nguyên tắc tranh tụng trong xét xử.

Bốn là, các giải pháp bảo đảm tranh tụng phải trên cơ sở tôn trọng quyền con

người

Chúng ta có thể tìm thấy trong các văn kiện quốc tế về quyền con người

trong tố tụng hình sự như: Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948 (UHDR);

Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR); Những

nguyên tắc cơ bản trong việc đối xử với tù nhân; Công ước chống tra tấn, đối xử vô

nhân đạo và hạ nhục con người năm 1985…Nghiên cứu các văn bản này đưa đến

một khẳng định quyền con người trong tố tụng hình sự chẳng qua là sự cụ thể quyền

được sống, quyền được tự do trong lĩnh vực tố tụng hình sự.

Năm là, các giải pháp đề xuất theo định hướng Tòa án điện tử trong cải cách

tư pháp

Thành tựu của cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0) có thể làm thay

đổi nhiều vấn đề của Tòa án nói riêng và tố tụng tư pháp nói chung. Xu hướng Tòa

án thông minh đã khá phổ biến trên thế giới, vì thế, Việt Nam cần đặt ra vấn đề này

sao cho hiệu quả. Cải cách tư pháp cần đẩy mạnh để đáp ứng sự thay đổi của tình

hình mới, đó là nhu cầu về ứng dụng công nghệ thông tin đặt ra mục tiêu năm 2023

hoàn tất xây dựng Tòa án điện tử. Cùng với đó phải tiếp tục đổi mới để hội nhập

quốc tế. Các tranh chấp quốc tế xuyên biên giới ngày càng gia tăng, nếu chúng ta

không cải cách, không đổi mới sẽ không thể đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Hoạt

động của Tòa án, xu hướng đơn giản hóa thủ tục tố tụng và ứng dụng công nghệ

thông tin (CNTT) vào hoạt động của Tòa án đang được nhiều quốc gia trên thế giới

thực hiện. Nhiều Tòa án của một số nước đã xây dựng nhiều phòng xử mới để ứng

65

dụng những tiến bộ của CNTT. Những phòng xử án như vậy có thể được sử dụng

để xét xử trực tuyến khi có kết nối internet với mạng nội bộ. Việc ứng dụng CNTT

trong tố tụng cũng đã được ghi nhận trong các Bộ luật về tố tụng. Theo đó, ghi nhận

việc gửi, nhận đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo bằng phương tiện

điện tử; việc cấp, tống đạt thông báo văn bản tố tụng bên cạnh các phương thức

tống đạt trực tiếp và qua dịch vụ bưu chính thì bổ sung phương thức tống đạt bằng

thư điện tử. Quy định các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật phải được công

bố công khai trên cổng thông tin điện tử của Tòa án. Đây là quy định mới nhằm thể

chế hoá chủ trương, chính sách của Đảng về tăng cường áp dụng CNTT trong hoạt

động tư pháp; đồng thời cũng là nền tảng để xây dựng Tòa án điện tử và hướng tới

xây dựng Tòa án thông minh trong tương lai. Do đó, các giải pháp nhằm bảo đảm

nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự cần phải đồng thời đảm bảo

quyền con người.

3.2. Các giải pháp bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét

xử của Toà án nhân dân

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử

của Tòa án nhân dân

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện mô hình tố tụng nhằm bảo đảm nguyên tắc

tranh tụng trong xét xử

Qua các nghiên cứu mô hình tố tụng của một số nước trên thế giới, các đặc

điểm của tố tụng tranh tụng và những tồn tại, bất cập, vướng mắc trong thực tiễn

tranh tụng tại các phiên toà ở nước ta cho thấy việc chuyển mô hình tố tụng hiện

hành ở nuớc ta sang hẳn mô hình tranh tụng là một công việc cực kỳ khó khăn và

phức tạp. Nhiều chuyên gia cho rằng mô hình tố tụng bán tranh tụng theo hướng kết

hợp một số yếu tố hợp lý của tố tụng tranh tụng vào tố tụng thẩm vấn truyền thống

đang được áp dụng ở các nước (như: Pháp, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản,...) là kinh

nghiêm quý để nước ta có thể xây dựng mô hình tố tụng phù hợp với trình độ phát

triển kinh tế, xã hội, với truyền thống lịch sử - văn hoá và các điều kiện, hoàn cảnh

đặc thù của Việt Nam. Nhiệm vụ đặt ra là cần chọn lọc có căn cứ khoa học những

yếu tố phù hợp của tố tụng tranh tụng để tiếp tục hoàn thiện hơn nữa mô hình tố

66

tụng của nước ta, vừa bảo đảm tập hợp đầy đủ nhất các chứng cứ về vụ án, vừa tìm

ra sự thật một cách chính xác nhất mà vẫn tôn trọng được quyền của các bên.

Với giải pháp này, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử phải được coi là

nguyên tắc căn bản, trọng tâm. Bởi lẽ, tranh tụng thể hiện tính minh bạch, tinh thần

thượng tôn pháp luật và sự bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Chính vì

thế, những nguyên tắc của tố tụng, của tổ chức bộ máy Tòa án cần “thiết kế” xoay

quanh nguyên tắc tranh tụng sao cho phù hợp, loại bỏ những yếu tố không đồng bộ,

không thống nhất, chồng chéo trong quá trình ban hành văn bản pháp luật.

Thứ hai, tiến hành rà soát, sửa đổi hệ thống văn bản pháp luật nhằm đáp ứng

điều kiện cơ sở pháp lý để bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử

Nguyên tắc tranh tụng đuợc ghi nhận trong xét xử giữ vai trò chi phối và

định huớng mọi hoạt đọng cũng nhu hành vi tranh tụng của nguyên tắc tranh tụng

đuợc ghi nhạn trong xét xử giữ vai trò chi phối và định huớng mọi hoạt động cũng

như hành vi tranh tụng của nó. Bên cạnh những quy định mới phù hợp định hướng

tranh tụng, cũng có những quy định đi ngược lại định hướng đó cần thiết sửa đổi.

Cụ thể như sau:

Một là, đối với pháp luật tố tụng dân sự: Để nguyên tắc bảo đảm tranh tụng

được thực thi trên thực tế thì trong quy định về giao nộp chứng cứ, BLTTDS 2015

cần bổ sung quy định cụ thể về hậu quả đối với trường hợp đương sự không sao gửi,

thông báo hoặc sao gửi thông báo tài liệu, chứng cứ nhưng không đầy đủ cho đương

sự có liên quan về các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp cho Tòa án. Nguyên tắc bảo

đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự buộc Thẩm phán được phân công giải quyết vụ

án phải bác bỏ giá trị của những chứng cứ chưa được gửi hoặc chưa được thông báo

hợp lệ trước đó giữa các bên đương sự.

Bên cạnh đó, BLTTDS 2015 cần bổ sung thêm quy định theo hướng bổ sung

trách nhiệm hỗ trợ của Tòa án trong việc bảo đảm đương sự có quyền được biết về

chứng cứ của nhau trong quá trình giải quyết vụ án, cụ thể là Tòa án có trách nhiệm

thông báo về tài liệu, chứng cứ đương sự giao nộp cho các đương sự khác có liên

quan. Từ đó, mới có thể bảo đảm được việc công khai chứng cứ, cũng như bảo đảm

đầy đủ quyền được tiếp cận chứng cứ của đương sự trong tố tụng dân sự.

67

Bổ sung quy định về thời hạn giao nộp chứng cứ: cần bổ sung thêm quy định

về các chế tài trong trường hợp đương sự không thực hiện việc giao nộp chứng cứ

đúng hạn. Cụ thể, đối với đương sự không tuân thủ nguyên tắc tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự: chứng cứ, yêu cầu, ý kiến phản bác của họ bị bác bỏ7.

Đối với quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự. Khoản 8 Điều 70 BLTTDS

năm 2015 nên quy định như sau: “Được nghiên cứu hồ sơ vụ án, ghi chép, sao chụp

tài liệu, chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập, trừ tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này”8.

Để tạo sự liên kết giữa các quy định về trình bày, hỏi đáp trong BLTTDS với

các quy định về phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa

giải, các quy định về trình bày, hỏi, tranh luận trong BLTTDS năm 2015 cần được

thiết kế theo hướng “những vấn đề các bên đương sự đã thống nhất và vấn đề chưa

thống nhất”. Từ đó quy định về những vấn đề trình bày, hỏi, tranh luận sẽ có sự kết

nối với phiên họp kiểm tra, giao nộp chứng cứ, công khai chứng cứ và hòa giải.

Việc điều hành hoạt động tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm của Thẩm phán chủ tọa

phiên tòa đảm bảo tính hợp lý, logic, khoa học, tiết kiệm được thời gian của những

người tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng.

Hai là, đối với pháp luật tố tụng hình sự: Để tạo cơ chế pháp lý giúp việc

thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử cần thay đổi một số quy định liên quan

đến vấn đề bào chữa trong tố tụng hình sự.

Về thủ tục đăng ký bào chữa: theo Điều 78 BLTTHS năm 2015: “… Khi

đăng ký bào chữa, người bào chữa phải xuất trình các giấy tờ: a) Luật sư xuất trình

Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và giấy yêu cầu luật sư của người bị

buộc tội hoặc của người đại diện, người thân thích của người bị buộc tội; ....”.

Để đảm bảo thời hạn luật định, sau khi Luật sư đăng ký bào chữa, cơ quan

tiến hành tố tụng sẽ kiểm tra tính hợp lệ của các giấy tờ để vào sổ đăng ký và thông

báo cho người bào chữa hoặc lấy ý kiến của người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị

tạm giam, nếu họ đồng ý nhờ Luật sư bào chữa thì chấp nhận yêu cầu.

7 Phạm Thị Ánh Ngọc (2016) - Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ, Trường ĐH Luật Hà Nội, tr.71 8 Phạm Thị Ánh Ngọc (2016) - Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam, Trường ĐH Luật Hà Nội

68

Về người bào chữa, BLTTHS năm 2015 cần bổ sung “trợ giúp viên pháp lý”

là người tham gia bào chữa trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng

được trợ giúp pháp lý (điểm d khoản 2 Điều 72). Mặt khác, luật cũng cần làm rõ

nếu người đại diện của người bị buộc tội không phải là người bào chữa thì họ tham

gia tố tụng với tư cách gì?

Ba là, đối với pháp luật tố tụng hành chính: Bên cạnh những quy định thể

hiẹn nguyên tắc tranh tụng trong Luật TTHC hiện hành, có những quy định đi

nguợc lại nguyên tắc tranh tụng đó là quy định về việc “kèm theo đơn khởi kiện

phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của nguời khởi kiện

bị xâm phạm. Quy định này yêu cầu người khởi kiện buộc phải gửi những chứng

cứ, tài liệu chứng minh quyền và lợi ích của họ bị xâm phạm kèm theo đơn khởi

kiện là đang đi ngược với nguyên tắc tranh tụng bởi khi cá nhân, tổ chức nhận thấy

mình bị xâm phạm bởi các quyết định hành chính, hành vi hành chính do có nhà

hành chính áp đặt quyết định thì họ chỉ cần khởi kiện tại Toà án, việc chứng minh

cho yêu cầu khởi kiện là giai đoạn về sau khi Toà án thụ lý vụ án hành chính. Lúc

đó là thời gian người khởi kiện có điều kiện thu thập những chứng cứ để chứng

minh cho yêu cầu khởi kiện của mình là hợp pháp. Đồng thời quy định về việc trả

lại đơn khởi kiện không có trường hợp nào đơn bị trả lại do không có tài liệu, chứng

cứ kèm đơn khởi kiện. Tuy nhiên, trên thực tế đây là quy định gây khó khăn cho

người đi khởi kiện vì Tòa án khi nhận đơn khởi kiện thuờng có yêu cầu bổ sung đơn

khởi kiện đối với nguời khởi kiện, yêu cầu họ nộp những chứng cứ, tài liệu chứng

minh quyền, lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm thì mới có đủ điều kiện để thụ lý

vụ án. Quy định này hạn chế quyền khởi kiện của cá nhân, tổ chức vì việc chứng

minh, thu thập tài liệu của vụ án hành chính sẽ bắt đầu thực hiện khi vụ án hành

chính được thụ lý.

Chính vì vậy, cần thiết phải sửa đổi quy định tại khoản 2 Điều 118 để phù

hợp hơn, không nhất thiết phải nộp kèm theo đơn khởi kiện các tài liệu, chứng cứ

chứng chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm nhưng

quy định trách nhiệm, thời hạn nộp bổ sung để làm căn cứ giải quyết vụ án.

Về một số quy định liên quan tới Kiểm sát viên, cần có sự điều chỉnh quy

định về nội dung phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa tại Điều 262 BLTTDS

69

“sau khi những nguời tham gia tố tụng tranh luận và đối đáp xong, Kiểm sát viên

phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội thẩm nhân

dân, Thư ký phiên toà và của nguời tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ

án, kể từ khi thụ lý đến truớc thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến

về việc giải quyết vụ án”. Việc quy định cho Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc

giải quyết vụ án đang đi ngược lại nguyên tắc tranh tụng. Vì trong nguyên tắc tranh

tụng, chỉ có đương sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan mới có các quyền đưa

ra những lập luận, ý kiến, việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết vụ án và Hội

đồng xét xử là nguời đưa ra quyết định giải quyết vụ án. Việc quy định thêm một

chủ thể được quyền phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án sẽ khiến cho việc tranh

tụng không đảm bảo. Vì sau khi nghe bài phát biểu của Viện kiểm sát, các bên

đương sự không có quyền tranh luận với Viện kiểm sát về ý kiến đó và đây cũng

không phải là yếu tố để Hội đồng xét xử căn cứ vào đó mà giải quyết vụ án.

Cần xác định lại vai trò của Viện kiểm sát trong phiên tòa xét xử vụ án hành

chính. Bởi lẽ, với quy định về sự có mặt của Kiểm sát tại phiên tòa xét xử sơ thẩm

vụ án hành chính là không bắt buộc vì “kiểm sát viên đuợc Viện trưởng Viện kiểm

sát phân công có nhiệm vụ tham gia phiên tòa nếu vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn

tiến hành xét xử” theo khoản 1 Điều 156 LTTHC. Nhưng cần phải nói rằng nếu quy

định sự có mặt của Viện kiểm sát là không bắt buộc trong phiên toà xét xử sơ thẩm

vụ án hành chính thì việc quy định nội dung phát biểu của Viện kiểm sát về việc

giải quyết vụ án đang có sự đối lập. Trong phiên toà xét xử, sau phần hỏi đáp, tranh

tụng là phần phát biểu của đại diện Viện kiểm sát và đây là một trong những nội

dung đánh giá vụ án được Hội đồng xét xử xem xét, cân nhắc khi đưa ra phán

quyết. Tuy nhiên, quy định tại khoản 1 Điều 156 lại quy định, phiên toà xét xử vụ

án hành chính có thể diễn ra mà không có mặt của Viện kiểm sát. Quy định này có

thể hiểu là căn cứ để đưa ra phán quyết này có hay không, không ảnh hưởng tới việc

đưa ra phán quyết cuối cùng không? Thực tế cho thấy, việc có mặt và đưa ra quan

điểm của Viện kiểm sát tác động không nhỏ giúp việc giải quyết vụ án đúng đắn,

đúng pháp luật. Chính vì vậy, để đảm bảo thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét

xử vụ án hành chính, cần xác định vai trò của Viện kiểm sát trong việc đảm cho

70

việc thực hiện nguyên tắc này có hiệu quả cao, nhằm đạt kết quả tốt nhất giải quyết

vụ án hành chính.

Về thời hạn giao nộp chứng cứ, LTTHC năm 2015 cần bổ sung thêm quy

định về các chế tài pháp luật trong những truờng hợp đương sự không thực hiện

việc giao nộp chứng cứ đúng hạn và không giao nộp chứng cứ, đặc biệt đối với bên

bị kiện và cơ quan hành chính trong việc có trách nhiệm cung cấp tài liệu chứng cứ

liên quan đến vụ án. Đối với Tòa án, trong trường hợp Tòa án vi phạm nguyên tắc

bảo đảm tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, phán quyết của Toà

án về việc giải quyết vụ án không tuân thủ nguyên tắc tranh tụng thì đây sẽ trở

thành căn cứ để tuyên huỷ.

3.2.2. Tăng cường thực thi pháp luật về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng

trong xét xử của Tòa án nhân dân

Thứ nhất, đẩy mạnh công tác tuyên truyền về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng

trong hoạt động xét xử

Muốn có văn hóa tranh tụng, cần tích cực coi trọng những biện pháp tuyên

truyền, giáo dục đối với cộng đồng nói chung và đội ngũ cán bộ, công chức tòa án

nói riêng. Để thực hiện được lý tưởng đó, cần có những giải pháp nâng cao ý thức

pháp luật trong nhân dân, nhất là trong đội ngũ cán bộ tư pháp về nguyên tắc tranh

tụng. Hiện nay, ý thức trách nhiệm của cán bộ tư pháp về thực hiện nguyên tắc

tranh tụng vẫn còn thấp; tâm lý, thói quen hành nghề vẫn chủ yếu theo lối cũ, chưa

sẵn sàng về tâm thế, trình độ, năng lực tranh tụng. Tranh tụng cũng chưa được hiểu

biết và nhận thức đầy đủ, đúng đắn trong nhân dân, quyền con người, quyền công

dân nói chung cũng như quyền tranh tụng nói riêng chưa được phổ biến, giáo dục

một cách hiệu quả. Tư tưởng về xây dựng một nền tư pháp tiến bộ, dân chủ, công

bằng, công khai, khách quan, minh bạch trong đó có nguyên tắc tranh tụng tuy đã

được triển khai và thu được kết quả với những chuyển biến bước đầu nhưng vẫn

còn chưa được nhận thức và thực hiện một cách đầy đủ, thiết thực.

Trong tố tụng hành chính, bằng việc nâng cao nhận thức của người dân về

vai trò của đương sự, Tòa án, Thẩm phán, Kiểm sát viên, người bào chữa, trong quá

trình giải quyết vụ án hành chính góp phần nâng cao chất lượng của tranh tụng

trong xét xử vụ án hành chính. Hiện nay có rất nhiều chương trình giáo dục phổ

71

biến pháp luật trên hệ thống truyền thống, bẳng những trương trình phổ biến giáo

dục trực tiếp đến người dân, phố biến giáo dục trong học đường hay những đặc san

chuyên đề tuyên truyền pháp luật tố tụng hành chính. Với những kênh phổ biến này,

người dân đã và đang được tiếp cận và hiểu về quy định pháp luật hơn. Song ở

nhưng kênh phổ biến pháp luật này thường hướng dẫn, phổ biến pháp luật hình sự

là chủ yếu còn pháp luật về dân sự và đặc biệt là về pháp luật hành chính chiếm tỷ

lệ thấp và chủ yếu mang tính lý luận chưa có nhiều thực tiễn áp dụng để người dân

xem là hiểu và có thể áp dụng thực hiện khi minh gặp phải trường hợp như vậy.

Chính vì vậy, để nâng cao hiểu biết của người dân thì chúng ta cần xây dựng những

chương trình phổ biết pháp luật về luật tố tụng và phổ biến về bảo đảm nguyên tắc

tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân để người dân hiểu và vận

dụng thực hiện khi tham gia vào quá trình xét xử vụ án hành chính nói riêng và

những vụ án khác nói chung sẽ biết được cách bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

mình. Ví dụ, chúng ta xây dựng những tiểu phẩm pháp luật về án tố tụng thành

những chuyên đề và được phát thanh và chiếu trên các kênh truyền hình Trung

ương. Để qua những tiểu phẩm về những chuyên đề đó, người dân có thêm hiểu biết

khi nào mình có quyền khởi kiện án hành chính, án dân sự, án hình sự và hiểu được

quyền và nghĩa vụ khi tham gia xét xử vụ. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần tuyên

truyền sâu rộng nội dung của nguyên tắc tranh tụng ở mỗi loại hình xét xử để không

chỉ cơ quan tiến hành tố tụng cần nghiên cứu, vận dụng thực hiện mà cá nhân, cơ

quan, tổ chức trong xã hội cũng cần biết đến và hiểu rõ để thực hiện khi tham gia

quá trình xét xử vụ án.

Thứ hai, tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tiến hành tố

tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng nhằm đáp ứng yêu cầu đảm

bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được thực hiện hiệu quả:

Tiếp theo, triển khai thực hiện nghiêm túc các quy định của BLHS năm 2015

(sửa đổi) và BLTTHS năm 2015. Đối với mỗi chủ thể tham gia tố tụng, cần có

những biện pháp riêng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với

chức năng, nhiệm vụ của mình trong TTHS. Cụ thể như sau:

72

Đối với đội ngũ Thẩm phán: Nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán, Kiểm

sát viên và những người tham gia tố tụng khác đáp ứng yêu cầu trình độ chuyên

môn nghiệp vụ, kỹ năng tranh tụng tốt.

Trước áp lực về tình trạng quá tải của đội ngũ Thẩm phán trong cả nước, cần

có quy định về việc mở rộng nguồn bổ nhiệm Thẩm phán không chỉ đối với cán bộ

đang công tác trong ngành mà còn cả những người là luật gia, Luật sư nếu họ đáp

ứng được các điều kiện theo quy định của pháp luật.

Ban hành hướng dẫn về tổ chức các phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp,

trong đó các yêu cầu đặt ra của phiên tòa này là: Thẩm phán độc lập chỉ tuân theo

pháp luật; thực hiện tốt nguyên tắc tranh tụng, bảo vệ quyền con người, HĐXX thực

hiện đầy đủ các quyền năng tố tụng. Tiếp tục giao chỉ tiêu cho từng Thẩm phán làm

chủ tọa các phiên tòa rút kinh nghiệm, coi đây là giải pháp đột phá và thiết thực để

các Thẩm phán nâng cao tinh thần trách nhiệm, tích lũy kiến thức, kinh nghiệm, tạo

bước chuyển biến rõ nét trong xét xử. Tăng cường tập huấn chuyên sâu về kỹ năng

điều hành tranh tụng tại phiên tòa cho các Thẩm phán; tổ chức phát sóng các phiên

tòa mẫu theo tinh thần cải cách tư pháp. Thực hiện nghiêm túc việc công bố các bản

án, quyết định trên Cổng thông tin điện tử TAND tối cao để nhân dân tham gia

giám sát hoạt động xét xử của Tòa án.

Đối với Công tố viên (Kiểm sát viên hiện nay). Để làm tốt công tác “tranh

tụng” mỗi Kiểm sát viên phải tự rèn luyện phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị,

nâng cao ý thức trách nhiệm, năng lực trình độ nghiệp vụ, bản lĩnh nghề nghiệp,

tích cực nghiên cứu học hỏi để vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về

pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm” sẵn sàng tâm thế “tranh

tụng” đúng quy định của pháp luật và thuyết phục trong các giai đoạn tố tụng.

Phải có sự chuyển biến thực chất về nhận thức, xác định tranh luận tại phiên

toà không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ. Điểm cốt lõi để đảm bảo việc tranh luận

tốt là phải nghiên cứu kỹ và nắm vững hồ sơ vụ án.

Trách nhiệm của ngành Kiểm sát nhân dân như sau:

Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân phải quán triệt, nâng cao nhận thức về vai

trò, tầm quan trọng của việc tranh tụng tại phiên tòa cho KSV, từ đó có định hướng

đúng về vấn đề tranh tụng. Viện kiểm sát nhân dân các cấp cần tổ chức sơ kết rút

73

kinh nghiệm hoạt động tranh tụng của KSV. Định kỳ 06 tháng, một năm, Viện kiểm

sát các cấp tiến hành sơ kết, ra thông báo chung về hoạt động tranh tụng của KSV

gửi các đơn vị để cùng học tập, rút kinh nghiệm. Nơi nào có điều kiện nên tổ chức

các cuộc thi về tranh luận tại phiên tòa để phổ biến kinh nghiệm, nâng cao năng lực,

kỹ năng tranh luận tại phiên tòa. Viện kiểm sát nhân dân các cấp cần triển khai, áp

dụng rộng rãi phiên tòa số hóa hồ sơ, phục vụ tối đa cho hoạt động tranh tụng tại

Tòa án đảm bảo khách quan, chính xác và thuyết phục cao. Cùng với đó, cần sớm

có văn bản hướng dẫn liên ngành về quy trình số hóa, bảo mật, lưu trữ, sử dụng tài

liệu…cho việc số hóa nhằm bảo đảm tính khách quan, công khai trong công tác đấu

tranh tội phạm.

Đối với Điều tra viên (là người trực tiếp thực hiện việc điều tra tội phạm)

Ngoài kiến thức pháp luật cần phải giỏi về nghiệp vụ điều tra, khám phá tội

phạm, nắm vững các quy định của BLTTHS về hoạt động điều tra, thu thập chứng

cứ. Việc bổ nhiệm Điều tra viên cũng phải áp dụng hình thức thi tuyển như đối với

Thẩm phán và Công tố viên.

Đối với người bào chữa:

Nâng cao chất lượng đào tạo luật sư: cần đổi mới chương trình đào tạo luật

sư thật sự gắn kết với yêu cầu của thực tiễn. Hơn nữa, phân loại luật sư theo các

chuyên ngành chuyên sâu tương ứng với chứng chỉ hành nghề như luật sư tố tụng,

luật sư tư vấn pháp luật, luật sư thương mại - quốc tế…và việc đào tạo luật sư cũng

tuân theo các chứng chỉ hành nghề này. Những người được miễn đào tạo thì cấp

chứng chỉ hành nghề phù hợp với công việc của họ, ví dụ như đã là Thẩm phán thì

cấp chứng chỉ hành nghề luật sư tố tụng, còn nếu muốn hành nghề tư vấn pháp luật,

thương mại - quốc tế thì phải tham gia khóa đào tạo để được cấp chứng chỉ hành

nghề phù hợp hoặc đã là giảng viên chính chuyên ngành luật thương mại - quốc tế

thì cấp chứng chỉ hành nghề luật sư thương mại - quốc tế và muốn tham gia tố tụng

thì cũng phải tham gia khóa đào tạo để được cấp chứng chỉ hành nghề,…

+ Liên đoàn Luật sư Việt Nam có trách nhiệm tăng cường công tác hướng

dẫn bồi dưỡng, giám sát tập sự hành nghề luật sư, quản lý chặt chẽ chất lượng tập

sự hành nghề nhằm tăng cường chất lượng đầu vào của đội ngũ luật sư.

74

Thứ ba, tiếp tục đầu tư, hoàn thiện hệ thống cơ sở vật chất, ứng dụng công

nghệ thông tin cho các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và ngành Tòa án nói

riêng.

Các cơ quan tiến hành tố tụng phải hoàn thiện hơn nữa hệ thống cổng thông

tin điện tử, cử cán bộ cập nhật thường xuyên các thông tin cần thiết liên quan đến

hoạt động tố tụng nhằm tạo điều kiện cho người dân nói chung và chủ thể tham gia

tố tụng dễ dàng tiếp cận với công lý. Cụ thể, TAND công khai hóa các thủ tục tố

tụng tư pháp tại các cơ quan tiến hành tố tụng để người dân tra cứu thông tin pháp

luật, nội dung vụ kiện, chứng cứ mà Tòa án thu thập được một cách thuận lợi nhất

bằng các phương tiện khoa học công nghệ.

Hiện nay trên thế giới, hệ thống Tòa án của một số quốc gia đã tiến hành và

thành công trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của mình như hệ

thống Tòa án của Úc, Tòa án của Singapore, Malaysia…Việc ứng dụng công nghệ

thông tin vào hoạt động của Tòa án mang lại rất nhiều lợi ích, như: nâng cao khả

năng tiếp cận công lý, giảm các thủ tục và chi phí không cần thiết cho các đương sự,

đặc biệt là những đương sự ở các khu vực xa trung tâm hay khu vực nông thôn; Hỗ

trợ Thẩm phán, bất kể ở khu vực địa lý nào, thực hiện nhiệm vụ chuyên môn hiệu

quả hơn; hỗ trợ bộ phận quản lý hành chính Tòa án thực hiện nhiệm vụ chuyên môn

được dễ dàng hơn…

Chính vì vậy, TAND hai cấp tỉnh Thanh Hóa cần xem xét thực hiện việc ứng

dụng công nghệ thông tin nhằm triển khai hiệu quả định hướng Tòa án điện tử, Tòa

án thông minh, cụ thể:

(1) Nộp đơn qua mạng

Việc nộp đơn bằng văn bản có nhiều hạn chế như việc lưu trữ văn bản chiếm

quá nhiều diện tích, việc tìm kiếm văn bản gặp nhiều khó khăn và phụ thuộc rất

nhiều vào các cán bộ văn thư lưu trữ. Việc di chuyển các tài liệu từ nơi này qua nơi

khác cũng dẫn đến việc mất mát hoặc thất lạc tài liệu. Ngoài ra, nếu hồ sơ không

được lưu giữ cẩn thận cũng có thể xảy ra khả năng hồ sơ bị hư hỏng. Những tài liệu

này sẽ được quản lý trên máy tính và sẽ được đánh mã số để phục vụ cho việc tìm

kiếm. Như vậy đương sự hoặc luật sư có thể trực tiếp nộp đơn qua mạng internet từ

nhà riêng, văn phòng hoặc bất kỳ nơi đâu.

75

(2) Phòng xử án điện tử

Theo kinh nghiệm của Úc, phòng xử án điện tử là phòng xử án ảo, các chủ

thể là thành phần của một phiên tòa sẽ tham gia vào phiên xét xử giống như một hội

nghị video được thiết lập bởi Skype, nếu cần có thể liên hệ với các cơ quan, tổ chức

liên quan cũng thông qua hình thức này mà không cần các chủ thể phải có mặt tập

trung tại phòng xử án thông thường. Áp dụng các phòng xử án điện tử sẽ giúp cho

người dân tiết kiệm được chi phí đi lại, nhất là khi các bên đương sự đến từ những

khu vực nằm xa tòa án; đồng thời cũng giúp nhà nước giảm bớt được chi phí tổ

chức phiên tòa. Hơn nữa, phiên xét xử online cũng có thể giúp đông đảo người dân

quan tâm đến vụ kiện có thể theo dõi quá trình xét xử mà không bị giới hạn số

lượng như phòng xử án thông thường.

(3) Hệ thống quản lý án điện tử

Hệ thống quản lý án điện tử là một ứng dụng phần mềm kết nối với mạng

internet được xây dựng nhằm quản lý và giám sát các vụ án từ khi thụ lý đến khi

được giải quyết xong. Hệ thống này sẽ ghi lại các vụ án, quản lý danh sách các vụ

án sẽ được xét xử, ghi lại những lệnh của Tòa án và kết quả của từng vụ án. Hệ

thống quản lý án điện tử giúp các cán bộ chuyên trách quản lý án; hỗ trợ thư ký sắp

xếp lịch và hồ sơ các vụ án sẽ được xét xử; hỗ trợ Thẩm phán trong việc đưa ra

phán quyết; đồng thời là nguồn thông tin số liệu về hoạt động của Tòa án. Hệ thống

quản lý án điện tử đã giúp Tòa án thực hiện các quy trình, thủ tục mang tính chất lặp

đi lặp lại một cách chính xác hơn, nhanh hơn và chi phí thấp hơn so với khi làm thủ

công. Nếu như trước đây, việc đăng ký một vụ án phải mất vài ngày với sự tham gia

của nhiều cán bộ Tòa án thì khi hệ thống này được áp dụng, việc đăng ký như vậy

chỉ mất vài phút và do một cán bộ đảm nhiệm.

Mặc dù có thể nhìn nhận được những lợi ích của việc ứng dụng các Tòa án

điện tử nhưng để ứng dụng được vào hệ thống Tòa án của Việt Nam, chúng ta cần

phải chuẩn bị thêm nhiều yếu tố trước khi chính thức thành lập các Tòa án điện tử.

Những yếu tố cần thiết này không chỉ dừng lại ở việc trang bị cho hệ thống Tòa án

những máy móc thiết bị cần thiết, nâng cao trình độ công nghệ thông tin của cán bộ

Tòa án, mà quan trọng hơn là phải mở rộng phổ cập tin học đến người dân để họ có

thể tự tin lựa chọn và dễ dàng tham gia vào các phiên tòa điện tử. Với điều kiện

76

hiện nay của nước ta, trong tương lai gần chúng ta khó có thể ngay lập tức thành lập

và đưa vào hoạt động các Tòa án điện tử hoàn chỉnh được. Tuy nhiên, chúng ta có

thể đi dần từng bước nhỏ bằng cách ban đầu ứng dụng một phần của các dịch vụ

của Tòa án điện tử, như: nộp và tiếp nhận đơn qua mạng internet, quản lý hồ sơ vụ

việc bằng phần mềm điện tử…

Thứ tư, tích cực cải cách chế độ tiền lương, phụ cấp đối với đội ngũ cán bộ,

công chức tham gia tố tụng:

Hiện nay, ngành Tòa án đã có sự ưu đãi hơn, song vẫn phải khẳng định hiện

nay lương của thẩm phán, thư ký, thẩm tra viên… là quá thấp, chế độ không rõ

ràng. Với vật giá đắt đỏ như hiện nay thì cán bộ ngành Tòa án nói chung và Thẩm

phán nói riêng rất khó đảm bảo cuộc sống bằng đồng lương.

Đảng và Nhà nước, các cấp các ngành có liên quan cần bồi dưỡng, rèn luyện

đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên, Thẩm phán, người bào chữa (Luật sư, Bào chữa viên

nhân dân, Trợ giúp viên pháp lý) có bản lĩnh chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp vững

vàng, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng của Đảng; có phẩm chất đạo

đức trong sáng, lương tâm, trách nhiệm, tận tuỵ và có tính tự giác cao với công việc;

có tinh thần kiên quyết đấu tranh bảo vệ công lý, không thiên lệch trước bất kỳ áp

lực nào. Để nâng cao ý thức chính trị, nhận thức, đạo đức nghề nghiệp đối với các

chủ thể tham gia tố tụng, các tổ chức chủ quản cần quan tâm quán triệt nghiêm túc

và sâu rộng các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà

nước, cụ thể hoá bằng những nhiệm vụ cụ thể, phù hợp với điều kiện thực tiễn của

ngành, đơn vị.

Thứ năm, tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Tòa án với các bên tham

gia tranh tụng

Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát - Tòa án - Người bào chữa là mối quan hệ

giữa bên buộc tội - xét xử - bên gỡ tội. Tách từng cặp các mối quan hệ tố tụng cho

thấy mối quan hệ giữa HĐXX và KSV hiện thân nó biểu hiện mối quan hệ giữa cơ

quan xét xử và cơ quan kiểm sát trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi

ngành. HĐXX do Tòa án lập ra để xét xử vụ án hình sự, còn KSV là người đại diện

cho VKS thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử tại phiên tòa.

VKSND và TAND phải có trách nhiệm phối hợp với nhau để giải quyết vụ án hình

77

sự đúng đắn, khách quan theo luật định. Bên cạnh đó, quan hệ phối hợp còn xuất

phát từ yêu cầu phải thực hiện đúng đắn thẩm quyền của cơ quan và người tiến hành

tố tụng; nhu cầu hoàn thiện pháp luật. Hơn nữa, quan hệ phối hợp giữa HĐXX và

KSV xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ tranh tụng tại phiên tòa. Một ví dụ cụ thể đó là

việc phối hợp trong áp dụng các thủ tục xét xử tại phiên tòa: KSV buộc tội bằng

cách xét hỏi, đưa ra chứng cứ, hoặc là KSV cùng HĐXX phải xem xét các yêu cầu,

kiến nghị của bị cáo và người tham gia tố tụng khác đưa ra, hoặc thực hiện tranh

luận với người bào chữa phải có sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa; HĐXX công

bố tài liệu, vật chứng theo yêu cầu của KSV; xem xét vật chứng và nơi xảy ra tội

phạm do HĐXX cùng KSV tiến hành… Hoạt động buộc tội hỗ trợ đắc lực cho chức

năng xét xử, và ngược lại hoạt động xét xử tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động

buộc tội.

Xét về mối quan hệ giữa Tòa án và người bào chữa đó là mối quan hệ chấp

hành sự điều hành. Xuất phát từ yếu tố độc lập trong hoạt động xét xử của thẩm

phán và hội thẩm nhân dân, do đó mối quan hệ giữa HĐXX và người bào chữa là

quan hệ chấp hành sự điều hành. Biểu hiện cụ thể, đó là hoạt động tố tụng hình sự

của người bào chữa mang tính phục tùng HĐXX, họ không được từ chối tham gia

tố tụng trong trường hợp luật định. Trong quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên xét

xử hình sự, người bào chữa phải phục tùng sự điều khiển của chủ tọa phiên tọa. Các

yêu cầu, kiến nghị, đề xuất của họ tại phiên tranh tụng có thể không được HĐXX

chấp nhận, nhưng vẫn phải chấp hành. Ví dụ như người bào chữa dù có quyền xét

hỏi, tranh luận nhưng nếu việc này xảy ra lan man, không liên quan đến vụ án thì bị

chủ tọa phiên tòa ngắt lời; hoặc như họ yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, yêu

cầu hoãn phiên tòa, trả hồ sơ điều tra bổ sung nhưng không được HĐXX chấp nhận.

Lý do của sự phục tùng của người bào chữa đối với HĐXX đề cập trên là xuất phát

từ chức năng, nhiệm vụ tố tụng riêng của các bên, đòi hỏi phải bảo đảm những

mệnh lệnh, quyền hạn mang tính chất cưỡng chế trong tố tụng hình sự không thể chỉ

trông chờ vào sự tự giác của cá nhân hay tổ chức nào khác.

Tuy nhiên, trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay, mối quan hệ giữa KSV

và HĐXX với người bào chữa trong tố tụng hình sự cần được xây dựng theo hướng

mở rộng hoạt động của người bào chữa, nâng cao vị thế của họ tại phiên tòa, nhằm

78

đảm bảo việc xét xử theo nguyên tắc tranh tụng; đồng thời cần tạo ra các cơ sở pháp

lý đồng bộ để ngăn ngừa người bào chữa sa đà vào việc “mua chuộc” người tiến

hành tố tụng làm ảnh hưởng đến uy tín, cũng như sự tin tưởng của người dân.

Kết luận chương 3

Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử của Tòa án nhân dân giữ vai trò

chi phối và định hướng mọi hoạt động của tất cả các chủ thể tham gia vào quá trình

xét xử. Nguyên tắc tranh tụng được quy định tương đối đầy đủ trong luật tố tụng

hình sự, dân sự và hành chính, đã và đang áp dụng thực hiện trong thực tiễn xét xử

để nâng cao hiệu quả xét xử. Nguyên tắc tranh tụng có vai trò lớn trong việc xác

định sự thật khách quan vụ án, nhưng quá trình thực hiện trên thực tế đã thấy có

những nguyên nhân, tồn tại làm cản trở tiến trình thực hiện nguyên tắc. Kết quả

thực hiện bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh

Thanh Hóa cho thấy đã áp dụng linh hoạt các nguyên tắc, qua đó bảo đảm việc thực

hiện tranh tụng theo hiến định và quy định trong pháp luật tố tụng trên địa bàn tỉnh.

79

KẾT LUẬN

Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm là kim chỉ nam trong tổ

chức và hoạt động của Tòa án được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Nguyên

tắc tố tụng này có những đặc điểm mang tính đặc trưng riêng và mang những nội

dung có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn vận hành hoạt động xét xử của Toà án,

đảm bảo thực hiện được đúng chức năng nhiệm vụ mà Nhà nước đề ra.

Tranh tụng là một nguyên tắc được bảo đảm trong xét xử, có nội dung, vai

trò và ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình tố tụng. Lần đầu tiên Hiến pháp ghi

nhận nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm, đó là một đổi mới mang

tính lịch sử và là cơ sở pháp lý cho Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự,

Luật tố tụng hành chính và các văn bản pháp luật khác cụ thể hóa, chi tiết hóa nhằm

đảm bảo sự khách quan, công khai, minh bạch trong hoạt động xét xử của Tòa án,

giúp Tòa án xét xử công khai, dân chủ, công bằng, bình đẳng, đúng pháp luật, xét

xử đúng người đúng tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan

người vô tội, khắc phục hạn chế oan sai đối với các vụ án hình sự hoặc giải quyết

đúng đắn, bảo vệ lẽ phải đối với các vụ án khác theo quy định của pháp luật. Sự đổi

mới này được coi là một bước ngoặt lớn trong lịch sử lập hiến, lập pháp cho thấy sự

cải cách trong hoạt động tố tụng, là sự tiếp thu những ưu điểm của pháp luật các

nước tiên tiến trên thế giới.

Bên cạnh việc hiến định nguyên tắc tranh tụng trong xét xử là một loạt các

quy định mới trong pháp luật tố tụng, tạo hành lang pháp lý chặt chẽ cho việc thực

thi quy định của Hiến pháp. Thông qua những phân tích cụ thể trong luận văn đã

cho thấy những chuyển biến về vấn đề đảm bảo tranh tụng trong lịch sử lập pháp

cũng như quá trình áp dụng thực tiễn. Từ đó, đưa ra những ưu điểm cần tiếp tục

phát huy, những hạn chế và kiến nghị nên được xem xét sửa đổi trong thời gian tới

để nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm có thể phát huy tối đa hiệu quả

của nó đối với hoạt động xét xử của Tòa án.

Có như vậy thì bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử của Tòa án nhân

dân mới được thực hiện một cách hiệu quả theo đúng tinh thần, phương hướng của

cải cách tư pháp.

80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban chấp hành trung ương Đảng (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày

2/1/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp

trong thời gian tới”, Hà Nội.

2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005

của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

3. Nguyễn Hòa Bình (Chủ biên) (2015), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

(Sách chuyên kháo), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Nguyễn Hòa Bình (2016), Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự

năm 2015, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị

về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm

2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội;

6. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị

về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội;

7. Trần Văn Độ (2004), Bản chất của tranh tụng tại phiên tòa, Tạp chí Khoa

học pháp lý, số 4/2004.

8. Trần Văn Độ (2010), Xác định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Tòa án

trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí Kiểm sát,

(10), tr.22-28.

9. Trần Thái Dương (2017), Quyền được suy đoán vô tội theo hiến pháp và vấn

đề bảo đảm thực thi ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Luật học, 3/2017.

10. Bùi Thị Hà (2010), Tranh tụng tại phiên tòa theo pháp luật tố tụng hình sự

Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

11. Trương Hồ Hải - Lê Thị Oanh (2014), Góp ý sửa đổi Bộ luật Tố tụng Hình

sự nhằm đảm bảo nguyên tắc tranh tụng và suy đoán vô tội theo tinh thần

Hiến pháp 2013 - góc nhìn từ thực tiễn vụ án hình sự, Kỷ yếu hội thảo:

“Hiến pháp 2013 và vấn đề đổi mới tố tụng hình sự ở Việt Nam”, An Giang,

30/5/2014.

12. Đỗ Phú Hải (2015), Quá trình xây dựng chương trình chính sách công tại

các nước đang phát triển, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 4/2014.

13. Nguyễn Thanh Hải (2017), Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án hành

chính, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội.

14. Nguyễn Văn Hiển (2010), Nguyên tắc tranh tụng trong TTHSVN - những vấn

đề lí luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội.

15. Vũ Thị Hòa (2015), Bảo đảo quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức

trong xét xử các vụ án hành chính ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Học viện

chính trị, quốc gia Hồ Chí Minh.

16. Tô Văn Hòa, Vũ Thị Linh (2018), Mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và

những ưu, nhược điểm, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10 (kỳ 2) tháng 5

năm 2018, tr.17.

17. Nguyễn Việt Nam (2013), Tranh tụng trong tố tụng hành chính ở Việt Nam -

Lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội.

18. Phạm Thị Anh Ngọc (2016), Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng

dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội.

19. Phạm Hồng Phong (2015), Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực

hiện nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử, Tạp chí Nghiên cứu lập

pháp, (8), tr. 14-21.

20. Nguyễn Thái Phúc (2007), Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam - Những vấn đề

lý luận và thực tiễn, Tạp chí Khoa học Pháp lý (số 5 (42));

21. Nguyễn Thái Phúc (2015), Bình luận về nguyên tắc tranh tụng trong dự thảo

Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi), Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (9), tr.17-

23.

22. Lê Kim Quế (2002), Hai loại hình tố tụng và nguyên tắc tranh tụng, Tạp chí

Dân chủ và Pháp luật, số 10/2002.

23. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm

1992

24. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm

2013

25. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003

26. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

27. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2003

28. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

29. Quốc hội (2010), Bộ luật Tố tụng hành chính năm 2010

30. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hành chính năm 2015

31. Hoàng Thị Quyên (2014), Bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong hoạt

động tố tụng hình sự theo Hiến pháp Việt Nam năm 2013, Kỷ yếu hội thảo:

“Hiến pháp 2013 và vấn đề đổi mới tố tụng hình sự ở Việt Nam”, An Giang,

30/5/2014.

32. Phan Văn Sơn (2014), Đề xuất giải pháp triển khai thi hành nguyên tắc

tranh tụng trong ngành Kiểm sát nhân dân, Tạp chí Kiểm sát, (6), tr. 6-8.

33. Phạm Văn Tuyển (2016), Thực hiện nguyên tắc tranh trụng trong xét xử bảo

đảm tinh thần hiến pháp năm 2013, Tạp chí Lý luận chính trị số 1, Hà Nội.

34. Lê Hữu Thể, Đỗ Văn Đương, Nguyễn Thị Thủy (2013), Những vấn đề lý

luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng

yêu cầu cải cách tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Nguyễn Thị Thủy (2014), Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam và những vấn

đề áp dụng tranh tụng, Luận án tiến sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học quốc gia

Hà Nội;

36. Trần Thị Bích Thủy (2017), Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các

vụ án hình sự từ thực tiễn xét xử tại thành phố Hồ Chí Minh, Học viện khoa

học xã hội.

37. Lại Văn Trinh (2014), Nghiên cứu bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong Bộ

luật tố tụng dân sự, Tạp chí luật học, tập 30, số 4/2014.

38. Đào Trí Úc (2014), (chủ biên), Bình luận khoa học Hiến pháp nước

CHXHCN Việt Nam năm 2013, Nxb. Lao động xã hội, Hà Nội.

39. Trịnh Tiến Việt (2012), Cải cách tư pháp và các giải pháp phòng, chống

oan, sai trong tố tụng hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân (số 3,4);

40. Viện ngôn ngữ học (1996), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

41. Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển luật học, NXB Tư pháp

và Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

42. Viện Khoa học xét xử Tòa án nhân dân tối cao (2013), Nâng cao chất lượng

tranh luận tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp

cơ sở, Hà Nội.

43. BC công tác nhiệm kỳ 2016 – 2020 của TAND tỉnh Thanh Hóa.