ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------
HÀ THỊ BÍCH THỦY
BÁO IN MẶT TRẬN VỚI VIỆC TUYÊN TRUYỀN, VẬN ĐỘNG
TRÍ THỨC THAM GIA PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
(GIAI ĐOẠN 2010-2013)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60 32 01
Hà Nội – 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------
HÀ THỊ BÍCH THỦY
BÁO IN MẶT TRẬN VỚI VIỆC TUYÊN TRUYỀN, VẬN ĐỘNG
TRÍ THỨC THAM GIA PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
(GIAI ĐOẠN 2010-2013)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60 32 01 01
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Hoàng Hải
Hà Nội – 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn khoa học của TS. Hoàng Hải. Các kết quả trong luận văn đều có nguồn gốc rõ
ràng, tin cậy.
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2015
Tác giả luận văn
Hà Thị Bích Thủy
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn T.S Hoàng Hải – Người hướng dẫn đã tận tình
giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này!
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của các chuyên gia, nhà quản lý,
lãnh đạo các ngành và các đơn vị có liên quan; sự giúp đỡ của các nhà báo, biên tập
viên, phóng viên, bạn bè đồng nghiệp đã dành thời gian tham gia trả lời phỏng vấn;
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô ở Khoa Báo chí & Truyền thông - Đại học
Khoa học Xã hội & Nhân văn đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Hà Thị Bích Thủy
MỤC LỤC
MỤC LỤC ................................................................................................................... 1
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 5
1. Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................................... 5
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................... 7
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 9
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu ......................................................... 11
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài .............................................................. 13
7. Kết cấu luận văn ................................................................................................ 14
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI .................................................. 15
1.1 Trí thức với phát triển kinh tế - xã hội .......................................................... 15
1.1.1 Trí thức là gì ............................................................................................ 15
1.1.2 Chính sách của Đảng và Nhà nước về đội ngũ trí thức .......................... 22
1.2. Báo chí với đội ngũ trí thức ............................................................................ 28
1.2.1 Tuyên truyền về chính sách của Đảng, Nhà nước đối với trí thức .......... 28
1.2.2 Tuyên truyền về vai trò của trí thức trong phát triển kinh tế - xã hội ..... 30
Chƣơng 2: TUYÊN TRUYỀN CỦA BÁO IN MẶT TRẬN VỀ VẬN ĐỘNG
TRÍ THỨC THAM GIA PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI GIAI ĐOẠN
2010-2014.................................................................................................................. 33
2.1 Khảo sát báo Đại đoàn kết ............................................................................... 33
2.1.1 Lịch sử phát triển của Báo Đại đoàn kết................................................. 33
2.1.2 Khảo sát trên báo Đại đoàn kết............................................................... 39
2.2 Khảo sát trên Tạp chí Mặt trận ........................................................................ 44
2.2.1 Lịch sử phát triển Tạp chí Mặt trận ........................................................ 44
2.2.3 Đánh giá nhận xét ................................................................................... 53
2.3 Một số nhận xét chất lượng của Báo in Mặt trận ............................................. 57
2.3.1 Ưu điểm: .................................................................................................. 57
1
2.3.2 Hạn chế .................................................................................................... 59
Tiểu kết chƣơng 2 .................................................................................................... 61
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TUYÊN TRUYỀN CỦA
BÁO IN MẶT TRẬN .............................................................................................. 62
3.1 Đánh giá chung về công tác tuyên truyền, vận động ....................................... 62
3.1.1 Thành công .............................................................................................. 62
3.1.2 Hạn chế: .................................................................................................. 64
3.2. Đề xuất một số giải pháp nâng cao công tác tuyên truyền, vận động trí thức
trên báo Đại đoàn kết và tạp chí Mặt trận .............................................................. 65
3.2.1 Về cơ chế chính sách ............................................................................... 65
3.3 Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng các tuyên truyền, vận động trí
thức ............................................................................................................................ 72
Tiểu kết chƣơng 3 .................................................................................................... 75
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 80
PHỤ LỤC
2
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
1. Đảng Cộng sản: ĐCS
2. Đại đoàn kết: ĐĐK
3. Mặt trận: MT
4. Nhà nước: NN
5. Kinh tế - xã hội: KTXH
6. Tạp chí: TC
7. Tổ quốc: TQ
8. Tuyên truyền: TT
9. Trung ương Mặt trận tổ quốc: TWMTTQ
10. Vận động: VĐ
11. Việt Nam: VN
12. Xã hội: XH
3
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
Bảng 2.1: Thống kê số lượng tin bài tuyên truyền (từ năm 2010 đến năm 2014) .... 39
Bảng 2.2: Thống kê số lượng tin bài tuyên truyền (từ năm 2010 đến năm 2014) .... 48
Hình 2.1: Biểu đồ thể hiện tỷ trọng nội dung tác phẩm của Báo Đại đoàn kết ........ 54
(từ năm 2010 đến năm 2014) .................................................................................... 54
Hình 2.2: Biểu đồ thể hiện tỷ trọng nội dung tác phẩm của Tạp chí Mặt trận.......... 56
(từ năm 2010 đến năm 2014) .................................................................................... 56
4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong mọi thời đại và ở bất kỳ quốc gia nào, đội ngũ trí thức luôn là nguồn
lực quan trọng đối sự phát triển của xã hội. Tấm bia tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám:
“Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí vững thì thế nước mạnh vvvaaà thịnh;
nguyên khí kém thì thế nước yếu và suy” là minh chứng rõ nét cho tư tưởng trọng
dụng và đánh giá cao trí thức của bậc tiền nhân. Tư tưởng đó đến nay và muôn đời
sau sẽ vẫn còn nguyên giá trị. Thế kỷ XXI, thế kỷ của khoa học công nghệ, trước xu
thế hội nhập kinh tế quốc tế, trí thức Việt Nam càng có vai trò quan trọng đặc biệt.
Họ không chỉ là một lực lượng tiêu biểu cho nguồn trí tuệ của dân tộc, mà còn là
một động lực trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội, phát triển văn hoá, phát
triển con người và tạo nguồn nhân lực có kiến thức. Mặt khác, trí thức còn là nhân
tố quyết định đến sự phát triển nhanh chóng và bền vững của nước ta trong quá
trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 6/8/2008 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã khẳng định: “Trong mọi thời đại, tri thức luôn
là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền
bá tri thức. Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học
và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng, tạo
nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển. Mục tiêu sớm đưa nước
ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại vào năm 2020 đòi hỏi phải lựa chọn con đường phát triển rút ngắn,
phát huy đến mức cao nhất mọi nguồn lực, tiềm năng trí tuệ của dân tộc, đặc biệt là
năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức”.
Từ quan điểm đó, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, quyết
sách nhằm phát triển đội ngũ trí thức; phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong
phát triển kinh tế - xã hội. Là một kênh thông tin quan trọng và hữu hiệu của Đảng,
5
Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, báo chí có vai trò vô cùng quan trọng
trong việc tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về
phát huy vai trò của đội ngũ trí thức, tuyên truyền vận động trí thức tham gia phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Với nội dung thông tin có định hướng phù hợp
với thực tế, có sức thuyết phục, báo chí có khả năng hình thành dư luận xã hội, dẫn
đến hành động xã hội, phù hợp với sự vận động của hiện thực theo những chiều
hướng có chủ định.
Có thể khẳng định, báo chí chính là công cụ tuyên truyền hiệu quả nhất các
chủ trương, đường lối, chính sách của Việt Nam đối với các tổ chức kinh tế - xã hội
tới nhân dân. Đồng thời, báo chí cũng đăng tải những phản hồi của nhân dân tới
Đảng, Nhà nước nhằm bổ sung và hoàn thiện đường lối, chính sách. Vì vậy, ý nghĩa
thông tin của báo chí đóng vai trò hết sức quan trọng.
Trong hệ thống báo chí Việt Nam, hệ thống báo chí của các tổ chức chính trị
- xã hội đang ngày càng lớn mạnh, trong đó hệ thống báo chí của Mặt trận từ khi ra
đời đến nay đã không ngừng phát triển, đổi mới cả nội dung và hình thức, góp phần
quan trọng trong việc tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, vận động nhân
dân tham gia phát triển kinh tế - xã hội. Có thể khẳng định, đây là hệ thống báo có
tính lý luận và thực tiễn cao.
Trong công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia phát triển kinh tế -
xã hội, đặc biệt là đội ngũ trí thức trên hệ thống báo Mặt trận đã đạt được những kết
quả đáng kể nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Xuất phát từ vai trò trên của báo chí,
cùng những nhiệm vụ đặt ra cho báo chí trong thời kỳ mới, tác giả chọn đề tài: “Báo
in Mặt trận với việc tuyên truyền, vận động trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội (giai đoạn 2010-2013) làm Luận văn Thạc sỹ tốt nghiệp chuyên ngành báo chí.
(Tuy nhiên, do quá trình thực hiện Luận văn kéo dài hơn so với dự kiến nên tác giả
đã thực hiện đề tài: “Báo in Mặt trận với việc tuyên truyền, vận động trí thức tham
gia phát triển kinh tế - xã hội (giai đoạn 2010-2014).
6
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Thực tế cho thấy, báo chí Mặt trận với việc tuyên truyền, vận động trí thức
tham gia phát triển kinh tế - xã hội là vấn đề còn mới trong hoạt động nghiên cứu
hiện nay. Do đó, đây là mảng nghiên cứu còn mới mẻ, còn là vấn đề mở cho những
ai quan tâm, có thể liệt kê dưới đây các công trình nghiên cứu của nhiều tác giả.
Một số khoá luận, luận văn đề cập đến vấn đề báo chí tuyên truyền về chủ
trương, đường lối lãnh đạo của Đảng đối với các lĩnh vực chính trị - xã hội khác
nhau ví dụ như: “Báo chí với vấn đề tuyên truyền về công tác phát triển Đảng trong
thanh niên” (Khoá luận cử nhân báo chí - Đỗ Thị Thái Hoà, 2009, Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội); “Báo chí tuyên truyền chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước về kinh tế- xã hội miền núi” (Khoá luận cử nhân báo chí - Chu
Thuý Ngà, 2010, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội); “Tạp chí Xây dựng
Đảng với việc tuyên truyền hướng dẫn thực hiện NQ TW 3 (Khóa VIII) về chiến
lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước” (Khoá luận cử nhân báo chí -
Trịnh Quỳnh Hoa, 2012, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia
Hà Nội).
Về mặt báo chí, đã có một số khoá luận lấy báo Đại đoàn kết (báo thuộc hệ
thống báo chí Mặt trận) làm đối tượng nghiên cứu nhưng là nghiên cứu trên một
khía cạnh, một vấn đề khác như: “Gia đình Việt Nam và vấn đề giáo dục gia đình
trong giai đoạn hiện nay trên Báo Đại đoàn kết” (Khoá luận cử nhân báo chí – Chu
Thanh Tâm, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội); “Văn hoá gia đình
Việt Nam và tác dụng của giáo dục văn hoá, đối với sự phát triển của gia đình
trong giai đoạn hiện nay được phản ánh (trên báo Phụ nữ Việt Nam và Đại đoàn
kết)” (Khoá luận cử nhân báo chí - Nguyễn Hương Giang, 2013, Học viện Báo chí
tuyên truyền, Hà Nội); “Nâng cao hiệu quả truyền thông của chuyên mục "Tham
vấn và phản biện" trên báo Đại đoàn kết” (Luận văn Thạc sỹ Báo chí - Nguyễn Thị
Thu Hương, 2014, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội). Thêm vào đó có đề tài “Đánh giá của bạn đọc về Tạp chí Mặt trận” (Khoá
luận cử nhân xã hội học - Nguyễn Việt Phương, 2013, Đại học Khoa học xã hội và
7
nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) nghiên cứu Tạp chí Mặt trận dưới góc độ xã
hội học, nội dung của công trình nghiên cứu này nhằm tập trung tìm hiểu đánh giá
của bạn đọc về nội dung và hình thức của Tạp chí Mặt trận.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp viện “Giải pháp nâng cao hiệu quả tuyên
truyền về lý luận và thực tiễn của Tạp chí Mặt trận” - Chủ nhiệm đề tài Nguyễn
Thu Thảo, 2013, Tạp chí Mặt trận, số 3, Hà Nội) có nói tới công tác tuyên truyền
của Tạp chí Mặt trận nói chung; “Tạp chí Mặt trận với Tuyên truyền về nông thôn
mới”, Ths Nguyễn Thu Thảo, Tạp chí Mặt trận điện tử; “Tuyên truyền về sự lãnh
đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội” Nguyễn Thị Thủy, 2014, Tạp
chí Cộng sản (số 5), Hà Nội) đề tài cũng tiến hành nghiên cứu Tạp chí Mặt trận,
nhưng không phải là toàn bộ hệ thống báo chí Mặt trận.
Đề tài “Cách thức tổ chức thông tin của Tạp chí Mặt trận” (Luận văn Thạc
sỹ truyền thông đại chúng – Nguyễn Thị Thu Thảo, 2013, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền), nghiên cứu Tạp chí Mặt trận dưới góc độ hình thức và cách thức tổ
chức nội dung thông tin nói chung trên Tạp chí Mặt trận.
Đề tài “Báo chí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với hoạt động kinh tế báo
chí” (Luận văn thạc sỹ - Phạm Khánh Giang, 2013, Đại học Khoa học xã hội và
nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội) nghiên cứu hệ thống báo chí Mặt trận
ở phương diện kinh tế báo chí.
Nghiên cứu dưới dạng đề tài cấp Bộ có liên quan đến chủ đề nghiên cứu của
Luận văn còn phải kể tới đề tài của Tiến sĩ Hoàng Hải, 2013, “Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam với công tác tuyên truyền về giới trí thức tham gia công tác Mặt trận
trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Mặt trận, Hà Nội.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, đề tài Luận văn của tác giả thực sự là một
công trình mới mẻ, đầu tiên trong việc nghiên cứu về hệ thống báo chí Mặt trận với
việc tuyên truyền, vận động trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện
Luận văn này sẽ đồng thời có những thuận lợi (khuyến khích, động viên nghiên cứu
và đóng góp lý luận vào công việc nghiên cứu báo chí) nhưng cũng sẽ có những khó
khăn (ít tài liệu, khó tiếp cận),v.v…
8
Những công trình nghiên cứu trên đây là những nỗ lực của các nhà khoa học,
các nhà nghiên cứu trong việc tìm hiểu công tác vận động, tuyền truyền, của báo
chí, đối với đội ngũ trí thức. Đó là những kết quả có ý nghĩa và là thành quả của quá
trình làm việc nghiêm túc công phu của các nhà báo, các học viên, các nhà nghiên
cứu. Tác giả luận văn xem đây là những chỉ dẫn và các tài liệu có giá trị tham khảo
rất cao, góp phần phục vụ đắc lực trong việc triển khai đề tài Luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng công tác tuyên truyền, vận động trí thức
tham gia phát triển kinh tế - xã hội trên hệ thống báo chí Mặt trận (cụ thể là báo in).
Từ đó, chỉ ra những ưu điểm, nhược điểm của công tác này. Đồng thời, đề xuất giải
pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động trí thức tham gia phát triển
kinh tế - xã hội trên hệ thống báo chí Mặt trận giai đoạn 2015-2020.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích những chính sách của Đảng, Nhà nước về định hướng tuyên
truyền, vận động đội ngũ trí thức nói chung; đặc biệt là hệ thống hoá những vấn đề
lý luận cơ bản về vai trò của báo chí Mặt trận (báo in) trong công tác tuyên truyền,
vận động trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội.
- Phân tích thực trạng về tuyên truyền, vận động trên hệ thống báo Mặt trận ở
nước ta giai đoạn 2010 - 2014. Trong đó, đánh giá mặt tích cực, những hạn chế của
hoạt động này và rút ra các bài học kinh nghiệm.
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền về giới trí thức
của báo chí Mặt trận giai đoạn 2015 - 2020.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tƣợng nghiên cứu:
Nghiên cứu về Báo in Mặt trận với việc tuyên truyền, vận động trí thức tham
gia phát triển kinh tế - xã hội (Khảo sát trên Tạp chí Mặt trận và Báo Đại đoàn kết).
9
4.1.1 Báo Đại đoàn kết
Báo Đại đoàn kết thành lập ngày 25/1/1942, tiền thân của báo Đại đoàn kết
là báo Cứu quốc và báo Giải phóng. Báo Đại đoàn kết - cơ quan Trung ương của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Báo Đại đoàn kết có nhiều đóng góp trong công tác
thông tin tuyên truyền đúng đắn đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước đến
với bạn đọc. Đồng thời, ông khẳng định trang báo điện tử này là phương tiện thể
hiện tiếng nói của Mặt trận Tổ quốc tới nhân dân, cầu nối giữa nhân dân, Đảng và
Nhà nước. Báo Đại đoàn kết phải phản ánh được tiếng nói của nhân dân với cả
nước, tạo nên thông tin hai chiều giữa nhân dân và Mặt trận, huy động sáng kiến
nhân dân, qua đó hoàn thành nhiệm vụ tạo ra một diễn đàn sáng kiến nhân dân bảo
vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước.
4.1.2 Tạp chí Mặt trận
Tạp chí Mặt trận xuất bản số đầu tiền vào tháng 8/2001. Tạp chí Mặt trận là
cơ quan tuyên truyền và phát triển lý luận của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam. Từ năm 2010, thử nghiệm Tạp chí điện tử, từ tháng 8 năm 2011 đã ra
chuyên đề: Mặt trận và cuộc sống... Bên cạnh xuất bản báo chí, Tạp chí còn hợp tác
xuất bản sách, tổ chức sự kiện, dịch vụ khoa học, tư vấn phát triển; đồng thời phối
hợp quảng bá sản phẩm và thương hiệu cho các doanh nghiệp... So với nhiều tạp chí
khác, Tạp chí Mặt trận ra đời muộn. Tuy nhiên, với tính chất và đặc thù là cơ quan
lý luận của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tạp chí Mặt trận tương
đương với các tạp chí lí luận của bộ, ngành nước ta (cấp vụ). Tạp chí có nhiệm vụ
thông tin, tạo diễn đàn để nghiên cứu trao đổi về mọi mặt hoạt động của tổ chức
Mặt trận ở khắp nơi trên đất nước Việt Nam, là diễn đàn để tập hợp sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát và nghiên cứu các tác phẩm báo in trên Tạp chí
Mặt trận, báo Đại đoàn kết cùng những sản phẩm báo chí của những cơ quan này về
vấn đề tuyên truyền, vận động trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội trong 5
10
năm (Từ 2010 đến năm 2014). Tác giả chọn thời gian này vì đây là thời điểm diễn
ra rất nhiều hoạt tuyên truyền phát triển kinh tế - xã hội nhằm thực hiện Hội nghị
lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng cộng sản Việt Nam về Chiến lược phát triển
kinh tế-xã hội giai đoạn 2011-2020, hướng tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XII của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra vào tháng 1/2016.
Bên cạnh đó, để so sánh và đề xuất giải pháp tác giả có nghiên cứu mở rộng
thêm về thời gian và có tham khảo báo chí của một số tổ chức thành viên Mặt trận
về nội dung liên quan đến đề tài.
4.3 Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của luận văn là nội dung và hình thức tác phẩm được
đăng tải trên báo in là Tạp chí Mặt trận và Báo Đại đoàn kết.
5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lí luận:
Công trình được thực hiện dựa vào hệ thống các quan điểm, chủ trương,
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về công tác báo chí tuyên
truyền. Đặc biệt là những định hướng, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về việc phát
huy vai trò, sức mạnh của trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội.
5.2 Phƣơng pháp nghiên cứu
5.2.1 Phương pháp luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở kết hợp lý luận chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước về
báo chí nói chung và báo in nói riêng. Tác giả cũng dựa trên lý luận về nguồn gốc ra
đời, vai trò, chức năng của báo in, đặc biệt là các chức năng thông tin, giáo dục tư
tưởng, cổ vũ hành động, khai sáng.
5.2.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Đề tài được thực hiện trên cơ sở nhận thức học về duy vật biện chứng, lý
luận về truyền thông, quan điểm của Đảng và nhà nước Việt Nam về báo chí truyền
11
thông và công tác tư tưởng, về chiến lược triển khai công tác tuyên truyền, vận động
trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội.
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như: Phân tích, tổng hợp thống kê, so sánh, phương pháo phỏng vấn
sâu… Các phương pháp này được sử dụng phù hợp theo từng chương và có sự kết
hợp trong quá trình phân tích nhằm làm nổi bật các nội dung nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu thống kê xã hội học: Thống kê, tổng hợp,
lập bảng biểu theo các số liệu thu từ hoạt động khảo sát các dạng tin bài, phóng sự
trên Tạp chí Mặt trận và Báo Đại đoàn kết có liên quan đến vấn đề tuyên truyền về
trí thức gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội. Phương pháp này nhằm nghiên cứu
tần xuất xuất hiện, nội dung tuyên truyền, phương thức, hình thức thể hiện của các
tác phẩm báo chí về chủ đề tuyên truyền, vận động trí thức tham gia phát triển kinh
tế - xã hội ở các đối tượng được khảo sát.
Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn trực tiếp và đưa ra so sánh -
tương quan.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Phân tích thông tin từ -
nguồn tài liệu sẵn có, vận dụng để khái quát hóa và lý thuyết hóa các vấn đề đơn lẻ
khảo sát được. Phương pháp này được sử dụng để hệ thống hóa các vấn đề lý luận
và vai trò của báo chí nói chung, báo in nói riêng trong công tác tuyên truyền, vận
động trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội. Thông qua phân tích nội dung văn
bản bao gồm phân tích về mặt định tính nội dung các báo cáo, tài liệu, giáo trình,
các công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến vấn đề truyền, vận động trí thức
tham gia phát triển kinh tế - xã hội.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh: Sử dụng trong
việc xem xét, đánh giá và phân tích các tác phẩm báo chí được khảo sát, đối chiếu,
so sánh giữa các tác phẩm đăng trên 2 báo, từ đó rút ra những kết luận cần thiết cho
luận văn.
12
Quá trình tổng hợp sẽ thu thập các tác phẩm báo chí được đăng tải trên Tạp
chí Mặt trận, báo Đại đoàn kết phân tích nội dung và hình thức, đưa ra những đánh
giá về chất lượng nội dung và hình thức tuyên truyền.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Luận văn là một công trình nghiên cứu vận dụng lý luận báo chí học để giải
quyết một vấn đề của thực tiễn. Kết quả của đề tài này sẽ góp phần bổ sung, phát
triển cho lý luận báo chí học, lý luận Mặt trận về vấn đề tuyên truyền, vận động trí
thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội nói riêng và xây dựng đất nước nói chung.
Đây có thể được coi là tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác giảng dạy
cho sinh viên, học viên sau đại học. Thực hiện luận văn, tác giả cũng mong muốn
những cán bộ, phóng viên, biên tập viên và những người làm công tác tuyên truyền,
vận động trí thức ở Tạp chí Mặt trận và Báo Đại đoàn kết, cũng như báo chí nói
chung có thêm một góc nhìn về lý luận và có thể áp dụng vào thực tiễn cho tác
phẩm của mình.
Như đã trình bày trong phần Mở đầu luận văn, từ trước tới nay, đã có một số
luận văn nghiên cứu xung quanh vấn đề về trí thức. Tuy nhiên, chưa có luận văn
nào nghiên cứu với tên cụ thể: Báo in Mặt trận với việc tuyên truyền, vận động trí
thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, luận văn sẽ đóng góp hiệu
quả cho vấn đề lý luận và thực tiễn về vấn đề này. Luận văn không chỉ cho thấy
thực trạng vấn đề tuyên truyền, vận động trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội
được khảo sát mà còn đề ra những biện pháp nâng cao chất lượng trí thức tham gia
phát triển kinh tế - xã hội.
Luận văn cung cấp cái nhìn khái quát về công tác tuyên truyền, vận động trí
thức trên Tạp chí Mặt trận và Báo Đại đoàn kết, từ đó những người thực hiện có khả
năng nhìn nhận trực tiếp công tác tuyên truyền của mình, để có hướng điều chỉnh tốt
hơn. Những người làm mảng kinh tế trên cơ sở nghiên cứu về đề tài của luận văn
này cũng sẽ có những bài học cụ thể cho mình trong công tác tuyên truyền về phát
triển kinh tế - xã hội.
13
Luận văn có tính thời sự cấp bách, được ra đời trong hoàn cảnh cả nước đang
gấp rút thi đua hoàn thành Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 5 năm đầu
(2011-2015) trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020 đã đề ra trong
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam và
hướng đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ
diễn ra vào tháng 1/2015. Báo in với tư cách là một trong những phương tiện truyền
thông phổ biến ở Việt Nam được nghiên cứu cụ thể, nhằm nâng cao hơn nữa chất
lượng tuyên truyền các chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã
hội, góp phần nâng cao hiệu quả tuyên truyền, vận động trí thức trên các ấn phẩm
của Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam và giới truyền thông nói chung cũng
tham khảo ít nhiều. Trong đó, có Tạp chí Môi trường và Cuộc sống - nơi tác giả
đang cộng tác.
Riêng với bản thân tác giả, quá trình nghiên cứu đề tài: “Báo in Mặt trận với
việc tuyên truyền, vận động trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội” sẽ là một
cơ hội tích lũy kiến thức, nâng cao tầm hiểu biết cũng như năng lực chuyên môn, để
thực hiện một cách tốt nhất nhiệm vụ của mình với tư cách là một phóng viên, biên
tập viên.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
Luận văn được kết cấu làm 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý thuyết của đề tài
Chƣơng 2: Tuyên truyền của Báo in Mặt trận về vận động trí thức tham gia
phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2010 - 2014
Chƣơng 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả tuyên truyền giai đoạn 2015-2020 của Báo in Mặt trận
14
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Trí thức với phát triển kinh tế - xã hội
1.1.1 Trí thức là gì
Khái niệm và đặc điểm của trí thức Việt Nam
* Khái niệm trí thức
Có nhiều định nghĩa trí thức và cho đến nay định nghĩa về trí thức còn có
nhiều cách hiểu. Do vậy, khi bàn về trí thức thường phải xác định khái niệm trước.
Nhiều nhà trí thức lớn cũng đưa ra định nghĩa của mình, trong đó có những định
nghĩa mới chỉ nêu tính cách đặc trưng hơn là nêu bản chất. Ví dụ: “Trí thức là người
phát hiện những điều thuộc bản chất sự vật mà người khác không nhìn ra được”;
hoặc “Người trí thức là người luôn có khát vọng tự do”. Ngoài ra, một số người khi
thảo luận về đề tài này cũng đưa ra những định nghĩa theo quan niệm của mình,
khiến vấn đề càng phong phú, nhưng sẽ càng khó thảo luận khi khái niệm chưa
thống nhất. Có thể liệt kê một số định nghĩa tiêu biểu sau đây:
- Trí thức Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về
lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và
làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã
hội. [47].
- Trí thức: Người sử dụng trí óc một cách sáng tạo.
- Trí thức: Người thông minh, có khả năng phát triển cao độ để hiểu biết là lý
giải, đặc biệt được giáo dục tốt và quan tâm đến khoa học hay nghệ thuật, hoặc yêu
thích các hoạt động liên quan đến nỗ lực tinh thần một cách nghiêm túc.
- Trí thức: là người hoặc do thích thú hoặc do nghề nghiệp mà quan tâm đến
những công việc tinh thần.
- Trí thức: Người chuyên làm việc, lao động trí óc [4, tr.32].
Trí thức theo định nghĩa cá nhân:
- Người trí thức: Là người đem lại giá trị cho những gì mà tự chúng không
có (Paul Valéry - nhà thơ, triết gia Pháp).
15
- Người trí thức: Nói đến những người suy tư, mà không sính chữ nghĩa,
không lợi dụng, bịp bợm và ăn bám… (Henri Barbusse - nhà văn Pháp).
- Người trí thức: Là người phát hiện những điều thuộc bản chất sự vật mà
người khác không nhìn ra được (Jean Paul Sartre - nhà triết học hiện sinh, nhà soạn
kịch, nhà biên kịch, tiểu thuyết gia và là nhà hoạt động chính trị người Pháp).
Tuy nhiên, vẫn có thể phân chia các định nghĩa hiện hành thành 2 nhóm:
nhóm chặt chẽ (rất hữu dụng khi bàn vấn đề ở bình diện triết lý, gồm cả thiên chức,
nhiệm vụ trí thức đối với nhân dân, xã hội) và nhóm thông dụng (để dùng rộng rãi
trong đời sống, dễ hiểu với trình độ chung).
Một cách chặt chẽ, trí thức phải là người:
1) Sáng tạo những giá trị tinh thần. Mức độ sáng tạo cho phép tách ra những
trí thức lớn, tầm cỡ nhân loại.
2) Chỉ tôn thờ những giá trị tinh thần vĩnh hằng: Chân (chân lý, sự thật);
Thiện (cái tốt); Mỹ (cái đẹp).
Từ cái gốc này, do đặc trưng lao động, trí thức có những phẩm chất, tính
cách nhất định – không bẩm sinh và cũng không phải là độc quyền của trí thức. Ví
dụ, để sáng tạo, trí thức phải có một cái vốn tri thức cao hơn mặt bằng chung (đã
đành) nhưng quan trọng là phải bổ sung suốt đời (để sáng tạo tiếp). Điều này rất
tương đối, vì mặt bằng dân trí mỗi thời một khác: thầy giáo tiểu học là lao động trí
óc (đúng với mọi thời) nhưng trước đây 60 năm có thể là trí thức – nếu có sáng tạo
(ví dụ như Nam Cao, Tô Hoài…).
Do tôn thờ chân lý, trí thức chỉ tin những gì đã được chứng minh đầy đủ và
do đó bảo vệ sự thật đến cùng. Khám phá chân lý là niềm say mê cao nhất (bị cấm
đoán nghiên cứu hoặc cấm nói sự thật là điều đau khổ vô tận). Khám phá ra chân lý
là hạnh phúc cao nhất, do vậy họ có yêu cầu bức xúc công bố và đòi hỏi được công
bố (Galilê bị cấm công bố “quả đất tròn”). Tuy quyết bảo vệ kết quả nghiên cứu
bằng tranh luận, nhưng trí thức cũng sẵn sàng nhận sai lầm, từ bỏ niềm tin, nếu có
chứng minh đầy đủ – từ đó họ đòi hỏi tự do tư tưởng, tự do ngôn luận… Tôn thờ cái
16
tốt (thiện), trí thức rất nhạy cảm khi cái xấu lộng hành (ví dụ bất công, áp bức, hạn
chế quyền tự do, dân chủ giả hiệu…).
Theo cách thông dụng, trí thức được định nghĩa như những người lao động
trí óc nói chung, ví dụ: trong khẩu hiệu “Liên minh Công – Nông – Trí”; hoặc trong
một bản thành tích có câu: chế độ ưu việt của ta đã đào tạo được hàng triệu trí thức
XHCN… Cách định nghĩa này làm số trí thức trong xã hội tăng lên rất nhiều, có
mặt ở mọi lĩnh vực, ngành nghề.
Trong xã hội Việt Nam, thời phong kiến không có khái niệm “trí thức”, mà
chỉ có nói tới tầng lớp sĩ phu; đến thời Pháp thuộc mới có khái niệm “trí thức”,
được dịch từ chữ Intellectue (tiếng Pháp), Intellectual (tiếng Anh). Và có thể hiểu,
trí thức là những người lao động trên mọi lĩnh vực, ngành nghề, sử dụng trí tuệ và
tài năng của mình trong lao động, sáng tạo, đưa ra những ý tưởng có tác động tích
cực tới sự phát triển kinh tế, xã hội. Trí thức không nhất thiết phải là những người
có bằng cấp, học vị.
Nói tóm lại, trí thức là những người lao động trí óc, có hiểu biết sâu rộng về
một hoặc một số lĩnh vực khoa học - công nghệ, văn hóa - nghệ thuật, quản lý kinh
tế - xã hội, thường xuyên vận dụng những hiểu biết đó để phát hiện và giải quyết
những vấn đề lý luận và thực tiễn nảy sinh trong lĩnh vực hoạt động của mình vì lợi
ích chung của cộng đồng và nhu cầu nhận thức của bản thân.
Theo cách hiểu trên thì tầng lớp trí thức là một tập hợp mở và đa dạng, không
giống bất kỳ một tập hợp nào khác trong xã hội như nông dân, công nhân, thợ thủ
công, quân nhân, thương nhân hay người buôn bán nhỏ. Trí thức có thể là bất kỳ ai,
miễn là có hiểu biết sâu rộng và tham gia lao động trí óc. Tuy nhiên, bộ phận hạt
nhân của tầng lớp trí thức là các nhà nghiên cứu; các giảng viên đại học; các bác sĩ,
dược sĩ cao cấp; các nhà văn, nhà thơ, nhà điêu khắc, nhạc sĩ, họa sĩ, nhà báo; các nhà
quản lý và công chức, viên chức trong bộ máy tham mưu cho nhà quản lý.
Đặc điểm của trí thức
Trí thức là một tập hợp mở và đa dạng nên đặc điểm của tầng lớp này cũng
rất phong phú. Tuy nhiên, giữa các nhà trí thức, nhất là bộ phận hạt nhân của tầng
17
lớp này, cũng có những đặc điểm phẩm chất chung; phẩm chất nào cũng có mặt
mạnh và mặt yếu của nó. Có thể nói đến những đặc điểm phẩm chất sau:
- Trí thức nói chung rất ham học, ham đọc. Nhờ ham học, ham đọc mà người
trí thức luôn luôn tiếp cận được cái mới, do đó trình độ lý luận không ngừng được
nâng cao. Tuy nhiên, sự ham học, ham đọc, ham lý luận quá mức có thể dẫn đến
tình trạng sách vở, kinh viện, xa rời thực tiễn. Đó là nhược điểm mà người trí thức
cần đề phòng.
- Trí thức là người luôn sáng tạo trong cách nghĩ, cách làm; ít khi chịu rập
khuôn theo công thức sẵn có. Chính nhờ đặc điểm này mà trí thức đóng vai trò nhân
tố quan trọng thúc đẩy khoa học - công nghệ, văn hóa - nghệ thuật, kinh tế - xã hội
phát triển. Tuy nhiên, xã hội cũng dễ nhìn nhận những sáng tạo quá đà, nhất là trong
phong cách sống, là lập dị.
- Trí thức là người luôn có thói quen lật lại vấn đề. Vì vậy, trí thức thường
hay có ý kiến phản biện. Trong xã hội cũng như trong mỗi đơn vị, những ý kiến
phản biện mang tính xây dựng đều có giá trị, ít nhất cũng giúp người được phản
biện cân nhắc hoặc bổ sung, hoàn thiện chủ kiến của mình. Nhưng ý kiến phản biện,
nhất là những ý kiến quá thẳng thắn, dễ gây phản ứng tiêu cực. Vì vậy, người phản
biện cũng cần chọn cách nói, thời điểm nói thích hợp để tính thuyết phục của ý kiến
mình được cao hơn.
Thói quen lật lại vấn đề khiến người trí thức nhiều khi lật đi lật lại cả ý kiến
của mình. Tự phản biện mình là một thói quen tốt, thể hiện thái độ thực sự cầu thị.
Tuy nhiên, nếu trước bất cứ việc gì cũng cân đi nhắc lại mà không dám hành động
thì sẽ thành do dự, nhu nhược, thiếu quyết đoán.
- Mặc dù hay lật lại vấn đề nhưng khi đã tin điều gì một cách có căn cứ thì trí
thức thường rất trung thành với niềm tin của mình. Nhà thiên văn học Ba Lan
Nicolas Copernik sẵn sàng đối mặt với toà án giáo hội, chứ không phản bội niềm tin
của mình là trái đất quay xung quanh mặt trời. Gần một trăm năm sau, lại đến lượt
nhà thiên văn Italia Galileo Galilée dũng cảm bảo vệ thuyết quả đất quay trước tòa
án giáo hội, bất chấp án lưu đày và rút phép thông công.
18
- Trí thức thường có hoài bão vươn lên những đỉnh cao, những vị trí nổi bật
trong xã hội. Cách chúng ta 150 năm, Nguyễn Công Trứ từng viết: “Đã mang tiếng
ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông”[23, tr.109].
Người trí thức nói chung trọng danh hơn trọng lợi. Thậm chí không ít người
trọng danh hơn cả mạng sống của mình.
- Trí thức thường khảng khái, tự trọng. Người xưa đã khái quát phẩm hạnh
này thành nguyên tắc sống: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất
năng khuất” (nghĩa là: giàu sang không làm hư hỏng, nghèo khó không khiến đổi
lòng, quyền uy không khuất phục nổi). Trong lịch sử đã có biết bao tấm gương liêm
khiết, chính trực, khảng khái của người trí thức. Xã hội trọng vọng trí thức không
chỉ vì trí tuệ của họ mà còn vì phẩm chất cao quý này
- Trí thức thường cư xử lịch thiệp. Bộc trực khi tỏ bày chính kiến về những
vấn đề lớn, nhưng trong đời sống hằng ngày, người trí thức thường khiêm tốn, nhún
nhường, tránh những va chạm nhỏ, tránh làm mếch lòng người khác.
1.1.2 Vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức trong phát triển kinh tế - xã hội
Quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam gắn liền với sự phát triển của
đội ngũ trí thức. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ năm 1930 đến
nay, trí thức Việt Nam luôn là một lực lượng của cách mạng, luôn xung kích đi đầu
trên mặt trận khoa học công nghệ và văn hoá. Trí thức Việt Nam không chỉ là lực
lượng sản xuất trực tiếp mà còn làm nhiệm vụ quan trọng là nghiên cứu, tổng kết,
khám phá, truyền bá, trao truyền kinh nghiệm cho các thế hệ nối tiếp.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, trí thức Việt Nam,
bằng công sức và trí tuệ của mình, cùng với khối liên minh công nông đã góp phần
thúc đẩy cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi, thu non sông về một mối, thống nhất
đất nước.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là công cuộc đổi mới,
trí thức Việt Nam góp phần quan trọng trong tiến trình xây dựng đất nước theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, góp phần thay đổi bộ mặt xã hội, nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
19
Bước sang thế kỷ XXI, thế kỷ của khoa học công nghệ, trước xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế, trí thức Việt Nam càng có vai trò quan trọng đặc biệt. Họ không chỉ
là một lực lượng tiêu biểu cho nguồn trí tuệ của dân tộc, mà còn là một động lực
trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội, phát triển văn hoá, phát triển con người và
tạo nguồn nhân lực có kiến thức. Mặt khác, trí thức còn là nhân tố quyết định đến sự
phát triển nhanh chóng và bền vững của nước ta trong quá trình thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đội ngũ trí thức trong thời kỳ đổi mới
Cùng với sự phát triển của đất nước, đội ngũ trí thức đã tăng nhanh về số lượng,
nâng lên về chất lượng; góp phần trực tiếp cùng toàn dân đưa nước ta ra khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội, từng bước xóa đói, giảm nghèo, phát triển đất nước, nâng cao
chất lượng cuộc sống [47].
Đội ngũ trí thức Việt Nam khá hùng hậu, hiện có 70% - 80% công chức trong
chính quyền trung ương đã có trình độ đại học, tỷ lệ này là 50% ở tuyến quận, huyện.
Trong tổng số khoảng 4 triệu Việt kiều định cư ở hơn 90 quốc gia và vùng lãnh thổ, tập
trung ở các nước phát triển, có khoảng 400.000 trí thức được đào tạo rất bài bản về
chuyên môn ở trình độ đại học và công nhân kỹ thuật bậc cao [38-2, tr.9], có kiến thức
cập nhật về khoa học - công nghệ, về quản lý kinh tế làm việc trong các trung tâm kinh
tế, khoa học - công nghệ ở nước ngoài. Họ là nguồn lực quan trọng, có ý nghĩa chiến
lược trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, đặc biệt khi đất nước ta tham gia
hội nhập quốc tế. Qua thống kê cho thấy, số lượt chuyên gia trí thức Việt kiều về làm
việc với các cơ quan quản lý Nhà nước chiếm đến 55%; số lượt trí thức về nước tham
gia giảng dạy và hợp tác nghiên cứu ở các trường đại học, viện nghiên cứu chiếm
khoảng 45%.
Ðội ngũ trí thức đã đóng góp tích cực vào xây dựng những luận cứ khoa học
cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước, góp
phần làm sáng tỏ con đường phát triển của đất nước và giải đáp những vấn đề mới phát
sinh trong sự nghiệp đổi mới; trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí và bồi
20
dưỡng nhân tài; sáng tạo những công trình có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật, nhiều
sản phẩm chất lượng cao, có sức cạnh tranh; từng bước nâng cao trình độ khoa học và
công nghệ của đất nước, vươn lên tiếp cận với trình độ của khu vực và thế giới.
Bộ phận trí thức tham gia công tác lãnh đạo, quản lý đã phát huy tốt vai trò và
khả năng, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị,
nâng cao năng lực lãnh đạo của Ðảng, trình độ quản lý của Nhà nước. Ðội ngũ trí thức
trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh là lực lượng nòng cốt xây dựng lực lượng vũ trang
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Những đóng góp của đội ngũ trí thức Việt Nam trong thời kỳ đổi mới được
Đảng, Nhà nước ta đánh giá và ghi nhận. Tuy nhiên, đội ngũ trí thức còn bộc lộ một
số ưu, khuyết điểm sau:
- Ưu điểm: Trí thức Việt Nam hầu hết xuất thân từ nhân dân lao động, có
tinh thần yêu nước, có phẩm chất chính trị vững vàng, nhiệt tình, trách nhiệm với
đất nước, có năng lực chuyên môn, tiếp cận nhanh với khoa học công nghệ. Nhiều
trí thức trẻ thể hiện tính năng động, sáng tạo, thích ứng nhanh với kinh tế thị trường và
hội nhập kinh tế quốc tế. Ða số trí thức Việt Nam ở nước ngoài luôn hướng về Tổ
quốc; nhiều người đã về nước làm việc, hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau, có
những đóng góp thiết thực vào sự nghiệp phát triển đất nước. [47].
- Nhược điểm: Số lượng và chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu của sự
phát triển đất nước. Cơ cấu đội ngũ trí thức có những mặt bất hợp lý về ngành nghề,
độ tuổi, giới tính... Trí thức tinh hoa và hiền tài còn ít, chuyên gia đầu ngành còn
thiếu nghiêm trọng, đội ngũ kế cận hẫng hụt; chưa có nhiều tập thể khoa học mạnh,
có uy tín ở khu vực và quốc tế. Nhìn chung, hoạt động nghiên cứu khoa học chưa
xuất phát và gắn bó mật thiết với thực tiễn sản xuất, kinh doanh và đời sống.
Trình độ của trí thức ở nhiều cơ quan nghiên cứu, trường đại học tụt hậu so
với yêu cầu phát triển đất nước và so với một số nước tiên tiến trong khu vực, nhất
là về năng lực sáng tạo, khả năng thực hành và ứng dụng, khả năng giao tiếp bằng
ngoại ngữ và sử dụng công nghệ thông tin.
21
Một bộ phận trí thức, kể cả người có trình độ học vấn cao, còn thiếu tự tin, e
ngại, sợ bị quy kết về quan điểm, né tránh những vấn đề có liên quan đến chính trị.
Một số giảm sút đạo đức nghề nghiệp, thiếu ý thức trách nhiệm và lòng tự trọng, có
biểu hiện chạy theo bằng cấp, thiếu trung thực và tinh thần hợp tác. Một số trí thức
không thường xuyên học hỏi, tìm tòi, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, thiếu chí khí
và hoài bão. Nhiều trí thức trẻ có tâm trạng thiếu phấn khởi, chạy theo lợi ích trước
mắt, thiếu ý chí phấn đấu vươn lên về chuyên môn.
Những hạn chế, yếu kém của đội ngũ trí thức do nhiều nguyên nhân. Nền
kinh tế nước ta vẫn trong tình trạng lạc hậu, trình độ khoa học và công nghệ còn
thấp; việc áp dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống chưa cao; thị
trường khoa học và công nghệ, văn hóa và văn nghệ đang trong quá trình hình
thành...
Bằng hoạt động sáng tạo, trí thức nước ta đã có đóng góp to lớn trên tất cả các
lĩnh vực xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, đội ngũ trí thức của Việt Nam còn có
khoảng cách với đội ngũ trí thức của thế giới và ngay với một số nước trong khu
vực, vì vậy, cần sớm được khắc phục để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và bảo vệ
Tổ quốc trong thời kỳ mới.
1.1.2 Chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về đội ngũ trí thức
1.1.2.1 Khái quát
Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định vai trò quan trọng của trí
thức, coi trí thức yêu nước là một lực lượng cách mạng, là nhân tài, vốn quý của dân
tộc.
Cả trước và sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Đảng, Bác Hồ đã có
chủ trương tập hợp và xây dựng đội ngũ trí thức để phục vụ kháng chiến và kiến
thiết đất nước. Nhiều trí thức Việt Nam được đào tạo ở nước ngoài, nghe theo tiếng
gọi của Đảng đã trở về nước tham gia kháng chiến, phụng sự Tổ quốc. Để có một
lực lượng trí thức đông đảo, phục vụ công cuộc kiến thiết, xây dựng đất nước sau
22
khi nước nhà giành được độc lập, từ những năm 50 của thế kỷ XX, hàng nghìn
thanh niên Việt Nam được Đảng ta chọn lọc đưa sang Trung Quốc, Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa đào tạo về khoa học kỹ thuật. Đảng và Bác Hồ đã sử dụng
nhiều trí thức trong bộ máy nhà nước, trên tất cả các lĩnh vực như tổ chức chính
phủ, công nghiệp, nông nghiệp, văn hoá, giáo dục... Bác Hồ quan niệm rằng, cách
tốt nhất để phục vụ lợi ích của công nông là phải đưa những người có đủ tài, đủ đức
vào bộ máy nhà nước để phụng sự lợi ích của người lao động.
Ngay cả khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bước vào giai đoạn gay
go và quyết liệt nhất, Đảng ta vẫn luôn chăm lo đến việc xây dựng đội ngũ trí thức,
chuẩn bị cho sự nghiệp xây dựng đất nước sau ngày miền Nam giải phóng. Nhiều
trường đại học ở miền Bắc được mở ra để đào tạo nhân tài, nhiều học sinh được cử
ra nước ngoài đào tạo về khoa học, kỹ thuật.
Năm 1975, đất nước thống nhất, Đảng ta đưa ra chủ trương trọng dụng trí
thức yêu nước ở miền Nam cùng với đội ngũ trí thức miền Bắc tập hợp lại thành
một lực lượng xung kích trong cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật nhằm đưa nước
ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước công nghiệp tiên tiến.
Từ năm 1986 trở lại đây, đất nước ta tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng ta
nhận thức sâu sắc về vai trò quan trọng của đội ngũ trí thức, coi trí thức là động lực
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế.
Đảng ta khẳng định việc phát triển, xây dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm của các
cấp uỷ Đảng, của các bộ, ban ngành, các địa phương. Từ nhận thức đó, Đảng, Nhà
nước ta rất quan tâm đến phát triển khoa học và công nghệ, coi đây là khâu then
chốt trong quá trình phát triển đất nước.
Đảng và Nhà nước luôn khẳng định vai trò, vị trí quan trọng của đội ngũ trí
thức trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, khẳng định ý nghĩa chiến lược
của khối liên minh công nhân, nông dân và trí thức, coi đây là nền tảng của cách
mạng Việt Nam. Đảng luôn nhất quán trong đường lối, chính sách đối với trí thức.
Nhận thức được xu hướng phát triển tất yếu của thời đại, Đảng cũng đã định hướng
23
phát triển kinh tế tri thức trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa qua các văn
kiện Đại hội Đảng.
Trước những năm 2000, Đảng đã đề ra đường lối công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước; đề cao vai trò của khoa học công nghệ, coi đó là nền tảng của quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng chưa nói đến vấn đề công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức. Ở Đại hội Đảng IX (tháng 4-
2001), Đảng Cộng sản lần đầu tiên đã nói đến vấn đề phát triển kinh tế tri thức ở
Việt Nam. Trong Báo cáo tại Đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định: “Kinh tế tri thức
đang có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển của lực lượng sản
xuất”[7, tr.32]. Điều này, chứng tỏ Đảng đã xác định sự ra đời và phát triển tất yếu
của kinh tế tri thức và vai trò to lớn của nó đối với sự phát triển của lực lượng sản
xuất nói riêng và với nền kinh tế - xã hội trên thế giới nói chung. Từ khẳng định đó,
Đảng ta đã xác định cách thức phát triển của Việt Nam là kết hợp hai bước phát
triển tuần tự và nhảy vọt: “Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta
cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước
nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt được
trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học,
tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những
thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức”. Như
vậy, tuy lần đầu tiên đưa thuật ngữ “phát triển kinh tế tri thức” vào đường lối, chiến
lược phát triển đất nước nhưng chúng ta có thể nhận thấy Đảng ta coi phát triển
kinh tế tri thức là cách thức để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, để tạo ra những bước nhảy vọt.
Trên cơ sở kế thừa những quan điểm của các kỳ Đại hội trước về phát triển
kinh tế tri thức, ở Đại hội XI, Đảng tiếp tục đưa ra những quan điểm cụ thể hơn về
phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong những năm
tới. Trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại
hội XI, khi dự báo về tình hình thế giới và trong nước trong những năm sắp tới,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học –
24
công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và
kinh tế tri thức”. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (bổ
sung, phát triển năm 2011), cũng nhận định: “Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội
trong bối cảnh quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu sắc. Cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, tác
động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước”. Như vậy, khác với các kỳ Đại hội
trước, khi dự báo về tình hình thế giới, ở Đại hội XI, Đảng ta đã gắn quá trình phát
triển kinh tế tri thức với quá trình toàn cầu hóa và sự hình thành xã hội thông tin.
Điều đó nói lên sự tác động qua lại, sự gắn kết chặt chẽ giữa quá trình phát triển
kinh tế tri thức với các quá trình phát triển khác trên thế giới, đòi hỏi Việt Nam cần
phải chủ động, tích cực hơn trong chiến lược phát triển kinh tế.
Ở Đại hội XI, Đảng ta đã đưa ra những phương hướng rất cụ thể để đẩy
mạnh phát triển kinh tế tri thức. Đảng ta đã nhận định phát triển giáo dục, đào tạo,
phát triển nguồn nhân lực và khoa học công nghệ là cơ sở, là nền tảng quan trọng để
phát triển kinh tế tri thức: “Phát triển kinh tế tri thức trên cơ sở phát triển giáo dục,
đào tạo, khoa học, công nghệ, xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng khoa học, công nghệ,
trước hết là công nghệ thông tin, truyền thông, công nghệ tự động, nâng cao năng
lực nghiên cứu - ứng dụng gắn với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao” [8,
tr.52]. Đây là phương hướng tổng quát, vừa có ý nghĩa trước mắt, vừa định hướng
lâu dài trong mục tiêu phát triển kinh tế tri thức.
Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 6/8/2008 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã khẳng định : « Trong những năm đổi mới,
Ðảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách để đội ngũ trí thức phát triển
nhanh về số lượng và nâng lên về chất lượng, phát huy vai trò trên mọi lĩnh vực đời
sống xã hội. Ðảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, đặc biệt là các nghị quyết
chuyên đề về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và văn nghệ,
chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài... để tạo động lực thúc đẩy sự sáng
tạo, cống hiến của đội ngũ trí thức. Nhà nước đã thực hiện các chính sách xây dựng
25
và từng bước hoàn thiện hệ thống đào tạo, nghiên cứu; đổi mới cơ chế quản lý, tăng
cường đầu tư cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và
văn nghệ; các chính sách sử dụng và tạo môi trường phát huy vai trò của trí thức;
chính sách đãi ngộ, tôn vinh trí thức, lập các giải thưởng quốc gia, phong tặng các
chức danh khoa học và các danh hiệu cao quý; thu hút trí thức người Việt Nam ở
nước ngoài »...
Nhìn chung, công tác trí thức của Ðảng và Nhà nước trong những năm qua
đã thể hiện coi trọng vị trí, vai trò của trí thức, bước đầu tạo điều kiện thuận lợi để
đội ngũ trí thức và các hội của trí thức hoạt động, phát triển. Đặc biệt trong bối cảnh
mới hiện nay, vai trò của giới trí thức lại càng quan trọng bởi đây là lực lượng đón
nhận những thay đổi của thời cuộc nhanh nhất, chủ động nhất. Vì vậy, những chủ
trương trên của Đảng Cộng sản Việt Nam góp phần đáng kể cho việc phát huy vai
trò to lớn của đội ngũ trí thức.
1.1.2.2 Chính sách phát triển trí thức Mặt trận Tổ Quốc
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị của
nước ta hiện nay. Sự qui định này là do yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách
mạng, là xuất phát tư thể chế chính trị: nước ta là nước dân chủ, mọi quyền lực
thuộc về nhân dân. Đây là vấn đề lịch sử, vấn đề truyền thống. Vai trò của Mặt trận
không phải tự Mặt trận đặt ra mà là do chính nhân dân, chính lịch sử thừa nhận.
Từ khi có Đảng là có Mặt trận, ngay sau khi nhân dân giành được chính
quyền, Mặt trận đã trở thành một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị. Tuy vai
trò, vị trí, chức năng và phương thức hoạt động của từng bộ phận cấu thành trong hệ
thống chính trị có khác nhau nhưng đều là công cụ thực hiện và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân nhằm một mục đích chung là: Phấn đấu xây dựng một nước Việt
Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh, có vị trí xứng đáng trên
trường quốc tế. Hiến pháp năm 1992 đã xác định: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là
cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân..." [19, tr. 47] điều đó càng khẳng định
26
Mặt trận Tổ quốcViệt Nam là một bộ phận không thể thiếu được của hệ thống chính
trị nước ta.
Thêm vào đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể thành viên có vai
trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc... Đó là củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo nên sự nhất trí về
chính trị và tinh thần trong nhân dân, thắt chặt mật thiết giữa nhân dân với Đảng và
Nhà nước để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới.
Trong vấn đề chính sách phát triển trí thức thì Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
đã trên tinh thần dựa vào những chủ trương của Đảng, chính sách của nhà nước để
thực hiện công tác vận động trí thức ở các ngành, các địa phương và ở nước ngoài.
Đối với Mặt trận địa phương còn tùy thực tế vận dụng chỉ đạo của cấp ủy, chính
quyền để công tác này phù hợp với với địa phương.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã nhận thức rõ ý nghĩa vận động đội ngũ trí
thức tham gia hoạt động xã hội. Thực tế những năm gần đây, Mặt trận các cấp và
các tổ chức thành viên đã thu hút từ nhà giáo, nhà báo, nhà văn, kỹ sư, bác sỹ, luật
sư… tham gia những tổ chức chuyên đề và cùng Mặt trận có nhiều hoạt động tích
cực góp phần phát triển kinh tế- xã hội thiết thực. Do đó, vai trò của đội trí thức
ngày càng quan trọng nhưng còn không ít hạn chế, trong đó có trách nhiệm phát huy
vai trò đội ngũ trí thức của Mặt trận…
Mặt trận đóng vai trò quan trọng trong tập hợp đoàn kết trí thức. Trong Mặt
trận có nhiều tổ chức thành viên, đặc biệt là Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật
Việt Nam đóng vai trò chính trong tập hợp trí thức. Quá trình tập hợp trí thức bên
cạnh mặt tích cực còn không ít hạn chế nên có tình trạng nhiều trí thức muốn ra
nước ngoài...
Tóm lại, với những chủ trương và nỗ lực trong công tác tập hợp trí thức tham
gia vào phát triển kinh tế - Mặt trận tổ quốc Việt Nam đã đưa ra nhiều phương thức
và biện pháp khác nhau, do đó Mặt trận luôn nhận được sự hưởng ứng từ đội ngũ trí
thức. Tuy nhiên, những mặt hạn chế vẫn còn tồn tại và đây là vấn đề sẽ được luận
văn tiếp tục nghiên cứu và trong các phần sau.
27
1.2. Báo chí với đội ngũ trí thức
1.2.1 Tuyên truyền về chính sách của Đảng, Nhà nước đối với trí thức
Trong xã hội hiện đại, báo chí ngày càng thể hiện vai trò, vị thế đặc biệt quan
trọng. Báo chí đã và đang đóng góp hết sức to lớn vào quá trình phát triển kinh tế -
xã hội, bảo đảm sự phát triển bền vững của xã hội. Trong tình hình cuộc đấu tranh
chính trị, tư tưởng ngày càng tinh vi và phức tạp, trong bối cảnh toàn cầu hóa và
môi trường truyền thông số hiện nay, báo chí và truyền thông nói chung có vai trò
đặc biệt quan trọng.
Hoạt động báo chí là một bộ phận cấu thành hữu cơ trong bộ máy hoạt động
của Đảng Cộng sản Việt Nam, là yếu tố cầu thành hoạt động tư tưởng, lý luận.
Không chỉ là yếu tố cấu thành hữu cơ, báo chí là vũ khí xung kích trên mặt trận tư
tưởng, lý luận. Báo chí có vai trò quan trọng đối với công tác tư tưởng, lý luận và tổ
chức. Quan điểm này đã được thể hiện xuyên suốt trong hoạt động của Mác-
Ănghen, Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như trong lịch sử đấu tranh cách
mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo chí là bộ phận hữu cơ và đặt dưới sự lãnh
đạo toàn diện và trực tiếp của Đảng.
Báo chí Việt Nam đã góp phần tích cực vào tuyên truyền lý luận Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước. Báo chí đã góp phần tích cực xây dựng lý tưởng xã hội vì mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, góp phần ổn định
chính trị tư tưởng, bình ổn đời sống tinh thần để huy động nguồn lực phát triển kinh
tế-xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống; xây dựng lý tưởng xã hội, tuyên truyền tư
tưởng của Đảng.
Báo chí - vũ khí tư tưởng sắc bén, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng
định công tác báo chí là một lĩnh vực đặc biệt quan trọng trong công tác tư tưởng
của Đảng, nhất là trong những giai đoạn có ý nghĩa bước ngoặt của cách mạng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, báo chí cách mạng Việt Nam và đội ngũ những người
làm báo nước nhà đã vượt qua mọi khó khăn gian khổ, phản ánh sinh động thực tế
28
hào hùng của các cuộc kháng chiến cứu nước, cũng như thực tiễn sôi động của sự
nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần khơi dậy các phong trào thi
đua yêu nước của quần chúng, nhân dân.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, báo chí đã có những đóng góp quan trọng
vào việc tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối đổi mới của Đảng.
Đồng thời, trong quá trình đó, báo chí cũng đã tự đổi mới và ngày càng trưởng
thành về mọi mặt. Có thể nói, chưa bao giờ đội ngũ những người làm báo, các loại
hình báo chí và phương tiện truyền thông đại chúng nước ta phát triển mạnh mẽ và
hùng hậu như hiện nay. Cách đây một năm, nhân dịp kỷ niệm 85 năm Ngày Báo chí
cách mạng Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã tặng thưởng Huân chương Sao Vàng -
Huân chương cao quý nhất cho đội ngũ những người làm báo cách mạng, là sự ghi
nhận, đánh giá cao những đóng góp to lớn của các thế hệ những người làm báo cách
mạng Việt Nam.
Trong thời gian vừa qua, báo chí đã tập trung tuyên truyền về đại hội đảng
bộ các cấp và Đại hội lần thứ XI của Đảng, đóng góp vào thành công của Đại hội;
tuyên truyền về các ngày kỷ niệm lớn của Đảng, của đất nước, góp phần giáo dục
truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng cho cán bộ, đảng viên, các tầng lớp
nhân dân, nhất là cho thế hệ trẻ. Báo chí cũng đã phát hiện, biểu dương những nhân
tố mới, gương người tốt, việc tốt, những tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến, cổ vũ,
động viên phong trào thi đua yêu nước của nhân dân. Đồng thời, báo chí đã tham
gia tích cực vào cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và
các tệ nạn xã hội; đấu tranh phản bác các quan điểm, thông tin sai trái, chống “diễn
biến hoà bình” của các thế lực thù địch; mở rộng thông tin đối ngoại, góp phần
quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam, thành tựu đổi mới của nhân
dân ta đến với bạn bè quốc tế và đồng bào ta sinh sống ở nước ngoài.
Có thể khẳng định rằng, báo chí thực sự đã trở thành vũ khí sắc bén của công
tác tư tưởng của Đảng, Nhà nước và của nhân dân. Thực tiễn sự phát triển của báo
chí càng làm tăng vai trò và ảnh hưởng của báo chí đến mọi mặt đời sống của đất
nước. Có thể nói, cả trong nhận thức, quy định pháp lý, chức năng và thực tế đều
29
khẳng định, báo chí có vai trò quan trọng và là công cụ hàng đầu, hữu hiệu và phổ
biến nhất trong tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà
nước.
Tuy nhiên, công tác tuyên truyền về sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ
chức chính trị - kinh tế - xã hội còn một số hạn chế: Nội dung thông tin còn chưa
đầy đủ và đi sâu vào từng vấn đề cụ thể. Hình thức tuyên truyền chậm đổi mới còn
nặng về lý luận chưa sát thực tế. Do đó, cần hoàn thiện hơn nữa trong quá trình triển
khai công tác tuyên truyền, phần nội dung này sẽ được tác giả để cập trong chương
ba của luận văn.
1.2.2 Tuyên truyền về vai trò của trí thức trong phát triển kinh tế - xã hội
Trong xu thế toàn cầu hoá với sự phát triển như vũ bão của khoa học công
nghệ, nhất là công nghệ thông tin và truyền thông, với sự phổ biến của Internet, với
sự tiến nhanh đến nền kinh tế tri thức thì vai trò và trách nhiệm của trí thức là rất
lớn lao. Chính vì vậy, Đảng, Nhà nước luôn chú trọng đến công tác tuyên truyền về
vai trò của trí thức trong phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều tổ chức chính trị xã hội
như Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam; Liên hiệp Hội khoa học kỹ thuật Việt
Nam; các tổ chức đoàn thể thường xuyên tổ chức Hội thảo, Hội nghị,… nhằm tuyên
truyền, đề cao vai trò của trí thức.
Đối với hệ thống báo chí trực thuộc Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, trong những năm qua đã đã triển khai nhiều chương trình tuyên truyền về
vai trò của trí thức.
- Về Tạp chí Mặt trận: thông tin tuyên truyền của tạp chí Mặt trận về vận
động trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội khá phong phú, bên cạnh thông tin
về sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận tổ quốc (cơ quan chủ quản của Tạp chí);
Tạp chí còn thông tin về các cuộc vận động khác.
Về hình thức là các bài bình luận chuyên sâu về vấn đề.
- Báo Đại đoàn kết: thông tin tuyên truyền được đăng tải trên báo trong các
mục khác nhau của báo: chính trị, xã hội, kinh tế…
30
Hệ thống báo chí Mặt trận đã góp phần quan trọng trong việc cập nhật thông
tin nhanh, kịp thời và nhiều chiều về diễn biến của thị trường, những khó khăn của
Doanh nghiệp về vốn, lao động…, qua đó, giúp Đảng, nhà nước có những chủ
trương, giải pháp và quyết sách kịp thời để giảm bớt khó khăn, giúp DN có nhiều
kênh thông tin để định hướng phát triển phù hợp trong thời khủng hoảng.
“Kinh tế là trung tâm”, chính vì vậy, thông tin kinh tế luôn là chủ đề rất
được quan tâm chỉ đạo, định hướng trong thời gian vừa qua cả về liều lượng và tần
suất. Báo chí Mặt trận không ngừng đổi mới cả về cách thức, phương pháp và nội
dung thông tin sao cho thiết thực, khách quan và chính xác. Khi phát hiện thấy có
vấn đề hoặc chưa chính xác, báo chí Mặt trận luôn “dũng cảm” cải chính và phản
hồi kịp thời để độc giả, doanh nghiệp được biết, qua đó tạo thêm niềm tin vào kênh
thông tin của báo chí. Đây là hai nhiệm vụ cơ bản đối với mỗi cơ quan báo chí Mặt
trận, nó có quan hệ mật thiết với nhau, nhất là trong thời kỳ bùng nổ thông tin hiện
nay. Nếu những thông tin trên báo chí nhanh và chuẩn xác, kèm theo những bình
luận, dự báo sắc sảo sẽ là sự bảo đảm uy tín và thương hiệu của tờ báo. Một khi tờ
báo đã có uy tín và thương hiệu thì lượng bạn đọc sẽ tăng, theo đó là quảng cáo và
vấn đề kinh tế của tờ báo cũng được giải quyết.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã và đang tác động rất sâu vào
mọi quan hệ của đời sống xã hội. Do đó, báo chí Mặt trận thường xuyên điều chỉnh,
sửa đổi những quy định hiện không còn phù hợp, thậm chí kìm hãm để thúc đẩy sự
phát triển tích cực của báo chí.
Báo in Mặt trận đã tích cực tuyên truyền, vận động trí thức tham gia phát
triển kinh tế - xã hội. Sự tuyên truyền này đã góp phần thông tin kịp thời đến lực
lượng quan trọng này của xã hội, đồng thời đưa ra những ý kiến phản hồi tức cực từ
lực lượng trí thức để từ đó phản hồi lại cho cơ quan Đảng và Nhà nước trong việc
điều chỉnh chính sách, chủ trương cụ thể hơn, hoàn thiện hơn.
31
Tiểu kết chƣơng 1
Có thể nói, trong mọi thời đại và ở bất kỳ quốc gia nào, đội ngũ trí thức luôn
là nguồn lực quan trọng đối với sự phát triển xã hội. Tấm bia tại Văn Miếu – Quốc
Tử Giám ghi: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí vững thì thế nước mạnh
và thịnh; nguyên khí kém thì thế nước yếu và suy” để thấy rằng, ở thời nào cũng
đều đánh giá cao vai trò của đội ngũ trí thức.
Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 6/8/2008 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cũng chỉ rõ: “Trong mọi thời đại, tri thức luôn là
nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá
tri thức. Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng, tạo nên
sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển”. Từ quan điểm đó, Đảng và
Nhà nước đã có nhiều chủ trương, quyết sách nhằm phát triển đội ngũ trí thức.
Là cơ quan tuyên truyền của Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hệ
thống báo in Mặt trận đã bám sát chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta
trong công tác tuyên truyền, vận động giới trí thức trong phát triển đất nước nói
chung và phát triển kinh tế - xã hội nói riêng. Để từ đó góp phần vào thực hiện
thắng lợi mục tiêu của Đảng, Nhà nước đã đề ra trong xây dựng phát triển đất nước
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
32
Chƣơng 2: TUYÊN TRUYỀN CỦA BÁO IN MẶT TRẬN VỀ VẬN ĐỘNG
TRÍ THỨC THAM GIA PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI GIAI ĐOẠN
2010-2014
2.1 Khảo sát báo Đại đoàn kết
2.1.1 Lịch sử phát triển của Báo Đại đoàn kết
Cách đây hơn 70 năm, thực hiện Nghị quyết của Hội nghị xứ ủy Bắc Kỳ, tờ
Báo Cứu quốc đã được chuẩn bị tích cực cho việc ra đời số đầu tiên, đến ngày
25/1/1942, trong một căn nhà lá nhỏ ở làng Xuân Kỳ (nay thuộc huyện Sóc Sơn –
Hà Nội), báo Cứu Quốc – cơ quan tuyên truyền của Tổng bộ Việt Minh đã ra số đầu
tiên. Tòa soạn lúc ấy chỉ có 3 người: Tổng bí thư Trường Trinh làm chủ nhiệm kiêm
chủ bút, Ban Biên tập có các đồng chí Lê Quang Đạo và Lê Toàn Thư... Trong làng
báo chí Cách mạng Việt Nam, có lẽ hiếm có cơ quan báo chí nào có vinh hạnh đặc
biệt như những người làm báo Đại đoàn kết vì được thừa hưởng di sản từ một tờ
báo lớn, ra đời cách đây 70 năm, có sứ mệnh và vị trí rất đặc biệt trong lịch sử cách
mạng Việt Nam.
Trong điều kiện vô cùng khó khăn, thiếu thốn của những ngày đầu cách
mạng, đồng chí Trường Trinh cùng với các nhà báo đã tích cực hoạt động và trực
tiếp viết báo. Khoảng thời gian đó báo Cứu Quốc chỉ ra được 30 số nhưng đã có
đóng góp vô cùng to lớn cho sự nghiệp cách mạng. Sau khi nước nhà giành được
độc lập, báo chuyển về Hà Nội và nhanh chóng trở thành tờ nhật báo. Cứu Quốc là
tờ báo đầu tiên có vinh dự được đăng những bài báo của Bác Hồ sau Cách mạng.
Kể từ đó đến 1955, Bác Hồ đã viết và đăng trên báo Cứu Quốc rất nhiều bài khác
nhau với những bút danh khác nhau (khoảng 400 bài). Ngoài ra còn phải kể tới
những văn bản quan trọng của đất nước đều lần đầu công bố trên Cứu Quốc như
Tuyên ngôn Độc lập; Lời thề của Chính phủ và Lời thề của Quốc dân được đăng
ngay sau ngày Lễ Độc lập; Hiếp pháp 1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến;
Thông báo tìm người tài đức của Bác Hồ v.v...
Sau đó suốt hai cuộc cách mạng chống Pháp và chống Mỹ, Cứu Quốc luôn là
tờ báo đi đầu trên mọi mặt trận. Kể từ khi ra đời cho tới sau này, trực tiếp phụ trách
33
và tham gia viết bài cho báo Cứu Quốc là những nhà cách mạng, nhà báo tên tuổi
lẫy lừng của đất nước như Xuân Thủy, Lê Quang Đạo, Hồng Hà, Thép Mới,
Nguyễn Thành Lê... cùng với rất nhiều văn nghệ sĩ trí thức hàng đầu như Tô Hoài,
Nam Cao, Xuân Oanh, Trần Đình Thọ v.v...
Chính tại Hội trường Báo Cứu Quốc, tại nơi tờ báo đứng chân ở An Toàn
Khu – Định Hóa (Thái Nguyên) năm 1950, Hội những người viết báo Việt Nam nay
là Hội nhà báo Việt Nam đã ra đời với Chủ tịch sáng lập Hội là nhà báo Xuân Thủy.
Cố nhà báo Hồng Hà – nguyên Bí thư Trung ương Đảng – nguyên phóng
viên Báo Cứu Quốc đã từng viết những lời đẹp đẽ nhất về tờ báo: “Cứu Quốc là tờ
báo hằng ngày đầu tiên của Đảng ta và Mặt trận Việt Minh, có truyền thống vô cũng
oanh liệt, hết sức vẻ vang. Cứu Quốc là ngọn cờ tư tưởng và báo chí thời kỳ Việt
Minh chói lọi, xứng đáng có một vị trí nổi bật trong lịch sử báo chí cách mạng”.
Năm 1954, hòa bình lập lại, báo Cứu Quốc chuyển địa điểm về Hà Nội, tại
số nhà 66 Bà Triệu hiện nay. Từ đó, một lực lượng cán bộ tinh nhuệ của tờ báo đã
được hi viện cho báo Nhân dân khi tờ báo Đảng thay nhiệm vụ của báo Mặt trận
xuất bản hàng ngày, Cứu Quốc trở thành tuần báo. Đầu năm 1964, từ Hà Nội, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam quyết định cử một đoàn cán bộ báo Cứu Quốc vào miền
Nam làm nòng cốt để thành lập báo Giải Phóng – cơ quan Trung ương của Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Các nhà báo Tống Đức Thắng (tức Trần
Tâm Trí) và Thái Duy (tức Trần Đinh Vân) phóng viên báo Cứu Quốc bằng con
đường vượt Trường Sơn vào Nam. Riêng Tổng Biên tập báo Cứu Quốc Kỳ Phương
được đưa nhanh vào chiến trường theo một tàu không số chở vũ khí vào Bến Tre.
Luật sư Nguyễn Hữu Thọ và Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát trực tiếp chỉ đạo việc ra
báo. Ngoài ba đồng chí từ miền Bắc vào Nam, Mặt trận đã điều một số cán bộ từ
Đảng bộ Việt kiều Campuchia, từ đô thị Sài Gòn về báo. Một số thanh niên yêu
nước cũng được tuyển về phục vụ cho việc ra báo. Ngày 22/12/1964, báo Giải
Phóng với 4 trang khổ lớn, in hai màu đã xuất hiện trong vùng giải phóng miền
Nam, vùng ven và đưa vào nội đô, sang Phnompenh và ra miền Bắc. Trong thư Ban
Biên tập báo Giải Phóng nhân dịp ra số đầu tiên, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ đã viết
34
“...làm sao khi đọc báo Giải Phóng, nhân dân miền Nam sẽ được động viên tinh
thần yêu nước, tin tưởng ở sức mạnh của cách mạng. Báo Giải Phóng sẽ vượt vĩ
tuyến 17 ra với đồng bào miền Bắc, cổ vũ bà con ngoài đó đóng góp sức người, sức
của vào cuộc chiến đấu trên nửa đất nước. Báo Giải Phóng cũng đến với bạn bè
quốc tế giúp họ hiểu rõ và hiểu đúng cuộc kháng chiến của chúng ta”. Những ngày
tháng làm báo Giải Phóng cũng là những ngay tháng hết sức nguy hiểm, gian khổ,
hi sinh của những người làm báo. Tờ báo cũng là nơi tập hợp những cây bút tên
tuổi, hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng là tiếng nói của Mặt trận dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam, đóng góp rất lớn cho công cuộc đấu tranh thống nhất đất
nước.
Sau khi đất nước được thống nhất, đầu năm 1977, báo Giải phóng hoàn thành
sứ mệnh lịch sử, Cứu Quốc hợp nhất với báo Giải Phóng lấy tên là Đại đoàn kết. Và
tuần báo Đại đoàn kết, cơ quan Trung ương của Mặt trận tổ quốc Việt Nam hợp
nhất từ Báo Cứu Quốc và Báo Giải Phóng xuất bản số đầu tiên ngày 6/2/1977.
35
36
Tiếp nối truyền thống hết sức vẻ vang và đáng tự hào đó trong những năm
qua, báo Đại đoàn kết đã không ngừng nỗ lực đổi mới, phát triển và trưởng thành.
Đại đoàn kết vẫn là tờ báo gắn bó sâu sắc với nhân dân, với khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, đồng hành cùng sự phát triển dân tộc, cùng đất nước. Báo Đại đoàn kết là
nơi tập hợp và chuyền tải những ý kiến tham vấn, phản biện về các vấn đề lớn của
đất nước. Giữ vị trí tiên phong trong đấu tranh chống tiêu cực, đấu tranh với những
biểu hiện suy thoái về đạo đức và lối sống, đấu tranh quyết liệt với các âm mưu chia
37
rẽ phá hoại khối Đại đoàn kết dân tộc. Báo Đại đoàn kết luôn kiên trì trong việc
phản ảnh đời sống ở khu dân cư, nói tiếng nói rộng rãi của tầng lớp nhân dân, từ
đông bào thiểu số, các chức sắc tôn giáo, nhân sĩ trí thức tiêu biểu đến kiều bào ở
nước ngoài... Nhiều vụ việc phản ánh trên báo Đại đoàn kết đã gây tiếng vang lớn
trong dư luận nhân dân. Đặc biệt, trong năm 2011, loạt bài Cơ sở pháp lý và chứng
cứ lịch sử khẳng định chủ quyền Việt Nam tại Trường Sa và Hoàng Sa đã được bạn
đọc hoan nghênh, được đánh giá cao.
Ngay từ sớm, báo Đại đoàn kết cũng là tờ báo khởi xướng những hoạt động,
những phong trào, những cuộc vận động mà cho đến này, tính đúng đắn của những
ý tưởng mới mẻ đó đã được nhân rộng như “Tôn vinh hàng Việt Nam chất lượng
cao”; các chương trình “Tự hào thương hiệu Việt”...
Trong vòng mấy năm gần đây, trong bối cảnh kinh tế có nhiều khó khăn,
trong điều kiện báo giấy bị cạnh tranh khốc liệt bởi báo điện tử và mạng xã hội. Báo
Đại đoàn kết đã có những bước phát triển vượt bậc. Từ lúc chỉ xuất bản 2, 3 rồi 4 số
mỗi tuần, kể từ năm 2009 báo phát hành số ra ngày thứ 7. Từ năm 2010, báo xuất
bản 6 kỳ/tuần. Và đặc biệt vào đúng dịp kỉ niệm 70 năm thành lập báo, những người
làm báo Đại đoàn kết đã ghi một dấu ấn đặc biệt: xuất bản hàng ngày, 7/7 kỳ mỗi
tuần, báo Đại đoàn kết chính thức trở thành nhật báo với số lượng phát hành 30
ngàn bản/ngày. Bên cạnh tờ báo chính, Đại đoàn kết còn có những ấn phẩm khác:
Năm 2007, cho ra mắt trang điện tử của báo Đại đoàn kết: daidoanket.vn; Năm
2007 ra đời chuyên đề Dân tộc; Tháng 7/2010 ra đời Nguyệt san Tinh hoa Việt với
68 trang. Tờ báo này cũng sẽ tiếp tục có những cải tiến về nội dung nhằm phát huy
hơn nữa vai trò là tiếng nói của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam nhằm cổ vũ một cách
sáng tạo cho sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc và gắn kết mọi tầng lớp nhân dân.
Công tác xuất bản
Trải qua gần 70 năm ra đời và phát triển, việc Đại đoàn kết ra báo ngày là thể
hiện trách nhiệm của những người làm báo với đòi hỏi thực tiễn, với sự nghiệp đại
đoàn kết dân tộc, với yêu cầu của thời cuộc, của xã hội hiện nay. Thực tiễn ngày
nay đang đòi hỏi các dân tộc tiếp tục và tăng cường đoàn kết để xây dựng và phát
38
triển, để bảo vệ sự toàn vẹn đất nước. Mục tiêu này không phải bây giờ mới được
đặt ra mà xuyên suốt bao nhiêu năm qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam vẫn kiên
định một mục tiêu là phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu dân
giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nhưng vào giai đoạn hiện này, mục
tiêu đó ngày càng cấp bách hơn để đáp ứng cho đòi hỏi phát triển của đất nước, hội
nhập kinh tế quốc tế. Cho nên, có thể nói, yêu cầu phải phát triển một tờ báo xứng
tầm với truyền thống hào hùng 70 năm bắt gặp yêu cầu phát triển đất nước trong
giai đoạn mới. Vị thế của Mặt trận, của tờ báo Mặt trận cần phải được nâng lên.
Đây còn là trách nhiệm của những người làm báo Đại đoàn kết trước bạn đọc đã
gắn bó cùng tờ báo, trách nhiệm với Nghị quyết 03 của Đoàn chủ tịch Ủy Ban
TWMTTQ đã đặt ra cách đây 10 năm “về đổi mới, nâng cao chất lượng và phát
triển báo Đại đoàn kết”, tờ báo của Ủy ban TWMTTQ Việt Nam.
2.1.2 Khảo sát trên báo Đại đoàn kết
Trong thời gian 5 năm từ qua khảo sát của tác giả (2010-2014) lượng bài
tuyên truyền về vấn đề này trên tác phẩm báo in cụ thể như sau:
Số lƣợng tin, bài tuyên truyền Năm TT
2010 62 1
2011 87 2
2012 103 3
2013 124 4
2014 164 5
Bảng 2.1: Thống kê số lượng tin bài tuyên truyền (từ năm 2010 đến năm 2014)
Trong loạt bài về vận động phát triển kinh tế có nhiều bài viết sinh động thể
hiện được tính năng động, thực tiễn của nền kinh tế nước nhà. Bài viết “11 doanh
nghiệp được trao tặng giải vàng chất lượng quốc gia” số báo 14 ra ngày
18/1/2010 của tác giả Hoàng Lâm. Bài viết nêu lên thành tích của các doanh nghiệp
và các doanh nhân làm kinh tế giỏi, đóng góp thiết thực vào việc giải quyết các vấn
đề xã hội. Từ đó tác giả cũng nêu lên kiến nghị cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ với
các Bộ, ban ngành khác tiếp tục có nhiều giải pháp hữu hiệu, thiết thực, trước hết là
39
thực hiện thật tốt chiến lược nâng cao năng suất, chất lượng hàng hóa và dịch vụ
của doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020 đã được phê duyệt để cộng đồng doanh
nghiệp Việt Nam thấy thực sự có động lực, có lợi ích thiết thực để đầu tư, đổi mới
công nghệ, chú trọng vào quản lý chất lượng, nâng cao chất lượng, năng suất đưa
nền kinh tế của Việt Nam đi lên.
Giải thưởng Chất lượng Quốc gia không chỉ là giải thưởng được bình xét qua
các quy trình nghiêm ngặt, được Thủ tướng Chính phủ công nhận mà đằng sau giải
thưởng này là sự trông đợi, là sự cổ vũ của 90 triệu dân Việt Nam. Các doanh
nghiệp cùng nhau hợp tác, chia sẻ và cạnh tranh lành mạnh để các thương hiệu Việt
được tỏa sáng ở trong và ngoài nước. Tất cả các doanh nghiệp, các đơn vị có liên
quan cùng nhau đồng lòng để chất lượng Việt Nam, Giải thưởng chất lượng Quốc
gia ngày càng có giá trị góp phần thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển hơn nữa.
Qua đây cho thấy rằng, vấn đề then chốt của nền kinh tế phải được thúc đẩy,
hoạt động mạnh mẽ bởi một bộ phận những con người năng động, dám nghĩ dám
làm, nhạy bén với thời cuộc. Họ là những người am hiểu sự vận hành và các quy
luật của kinh tế thị trường. Trên một khía cạnh nào đó có thể khẳng định họ là đội
ngữ trí thức của nền kinh tế trí thức hiện nay.
Báo Đại đoàn kết ra ngày 21/2/2011 số báo 44 của tác giả Thanh Giang
phóng vấn Đại biểu Quốc hội Trần Du Lịch với tiêu để bài viết “Cần đổi hướng
dạy nghề và bảo đảm trách nhiệm xã hội”. Trả lời bài báo, Đại biểu Trần Du Lịch
có nêu lên vấn đề hiện nay có một thực tế không thể phủ nhận là đa số người dân
không muốn học nghề mà chỉ muốn học đại học. Cánh cửa các trường đại học ngày
một rộng mở với nhiều hệ đào tạo, nhiều loại hình, tạo cơ hội tốt nhất để mọi người
có thể đến với các giảng đường đại học. Và hệ lụy tất yếu, số người đến với học
nghề thì ngày càng ít đi, trong khi đó, lao động qua đào tạo nghề lại là lực lượng lao
động chính trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để khắc phục vấn đề này, Nhà nước đã có nhiều chính sách để tạo sự phân
luồng học nghề được quy định trong Luật Giáo dục, Luật Dạy nghề, nhiều văn bản
dưới luật và gần đây là Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 5/10/2011 của Bộ chính trị về
40
phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, củng cố kết quả phổ cập giáo dục tiểu học
và trung học cơ sở, tăng cường phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và xóa mù
chữ cho người lớn (theo Chỉ thị số 10-CT/TW, đến năm 2020 có ít nhất 30% học
sinh sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở đi học nghề). Tuy nhiên, các chính sách
phân luồng nêu trên đều chưa thực hiện được. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực
trạng trên, trong đó có nguyên nhân từ những chính sách quy định trong các văn bản
luật không cụ thể.
Ông cũng nhận định vấn đề đặt ra là: Chính sách học nghề như thế nào để
người dân tự giác học nghề, say sưa với việc học nghề tương tự như với mục tiêu
vào đại học hiện nay của họ. Thực tế, các chính sách dạy nghề cũng như các giải
pháp dạy nghề chưa hấp dẫn và chưa đủ sức thuyết phục với xã hội. Do vậy, cần
phải thể hiện rõ chính sách này, tạo sự phân luồng để hình thành 2 hệ thống: Giáo
dục nghề nghiệp và giáo dục hàn lâm (DẠY NGHỀ và ĐẠI HỌC).
Với nhận thức không đúng của xã hội về việc học nghề, làm nghề nên trong
nhưng năm qua, người dân chỉ muốn con em của họ vào học đại học. Điều này dẫn
đến một hệ lụy đáng buồn: Ngoài việc gây mất cân đối trong cơ cấu nhân lực của
quốc gia, thiếu hụt lực lượng lao động qua đào tạo nghề cho sự phát triển kinh tế đất
nước thì đó còn là sự lãng phí thời gian, tiền bạc, công sức của người học và gia
đình của họ.
Và Đại biểu Trần Du Lịch cũng kết luận về thực trạng trên đó là cả xã hội
đều nhận biết vấn đề này, nhưng đây là vấn đề lớn, có tính hệ thống, để khắc phục
cần phải được giải quyết đồng bộ trong cả hệ thống, phải được điều chỉnh từ các
luật liên quan như: Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học, Luật Doanh nghiệp, Luật
Đầu tư, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Dạy nghề, Luật Việc làm, Bộ Luật
lao động.v.v...
Từ đó cho chúng ta thấy sự nỗ lực, trăn trở và nỗi niềm suy tư của những
người mang trọng trách với nhân dân. Là đại biểu Quốc hội do nhân dân tin tưởng
bầu ra, Ông Trần Du Lịch được xem là một trí thức có tên tuổi không chỉ với nhân
dân thành phố Hồ Chí Minh mà còn có ảnh hưởng tới nhân dân cả nước bởi những
41
đóng góp của ông với sự phản biện thẳng thắn, chất vấn mạnh mẽ trong nghị trường
Quốc hội và quá trình hoạt động tại cơ quan địa phương.
Tiếp đó bài viết “Nỗ lực vì chất lượng sống của người dân” của tác
giả Quốc Định số 133 ra ngày 12/5/2012. Theo bài viết, tại Tỉnh Trà Vinh, trong 2
năm (2010-2012), MTTQ tỉnh đã tổ chức được 37 lớp tuyên truyền cho 4.434 cán
bộ, chức sắc, chức việc các tôn giáo và nhân dân tham dự, từng bước nâng cao nhận
thức của người dân đối với công tác Mặt trận. Mối quan hệ giữa tổ chức Đảng với
MTTQ các cấp được thực hiện theo cơ chế “Đảng vừa là thành viên, vừa là người
lãnh đạo Mặt trận” được thể hiện qua các hoạt động khá hiệu quả, cụ thể: Mặt trận
được mời tham gia đóng góp nhân sự cấp ủy ở các thời kỳ Đại hội Đảng, bầu cử
Quốc hội, HĐND các cấp... điều này đã làm nổi bật vị trí, vai trò của MTTQ trong
hệ thống chính trị. Mặt trận vận động nhân dân đoàn kết, giúp đỡ nhau phát triển
kinh tế, xóa đói giảm nghèo, làm giàu chính đáng, phối hợp với Hội Liên hiệp phụ
nữ, Hội cựu chiến binh, Hội Nông dân, Đoàn thanh niên và các tổ chức tôn giáo vận
động các hộ có nhiều đất cho hộ không có đất; mô hình vận động nhân dân đóng
góp tạo nguồn vốn giúp đỡ các gia đình khó khăn phát triển kinh tế, xóa đói giảm
nghèo; mô hình “Giáo dục thanh niên chậm tiến”; mô hình cương quyết bài trừ các
tệ nạn xã hội...
Kết quả vận động Quỹ “Vì người nghèo” và chương trình an sinh xã hội năm
2011 tại tỉnh Trà Vinh đã thu về được hơn 34 tỷ đồng (đạt 113,7%). Cùng với việc
tham gia ủng hộ Quỹ “Vì người nghèo”, Mặt trận các cấp trong tỉnh còn vận động
sự giúp đỡ ngày công lao động, hiện vật và sự đóng góp khác cho người nghèo với
giá trị hàng trăm triệu đồng... Ban Thường trực MTTQ tỉnh Trà Vinh kiến nghị Ủy
ban TƯMTTQ Việt Nam tham mưu đề xuất việc thực hiện chế độ chính sách, nhất
là đối với cán bộ ở cơ sở. Mặt trận Trung ương cần sớm có văn bản hướng dẫn cụ
thể về vai trò, giám sát và phản biện xã hội, đây có thể xem là nội dung quan trọng
của Mặt trận trong thời kỳ đổi mới.
Tiếp theo là loạt bài viết về tình hình kinh tế đất nước có thể kể tới bài viết
“Nền kinh tế có những dấu hiệu khởi sắc, khả quan nhưng không chủ quan” số
42
245 ngày 13/9/2013 của tác giả Duy Phương. Bài viết nêu ra con số hơn 50.000
doanh nghiệp (DN) mới được thành lập và sự hồi sinh của khoảng trên 10.000 DN,
cùng với những nỗ lực của Chính phủ trong việc kiềm chế lạm phát (thể hiện ở chỉ
số CPI khá ổn định theo chiều hướng thấp), có thể khẳng định, nền kinh tế đang có
những chuyển biến mang màu sắc tích cực.
Thời điểm này, khác với thực tế của một năm về trước, bức tranh kinh tế
đang được tô điểm bởi những gam màu khá tươi sáng. Đầu tiên phải kể đến con số
DN được “hồi sinh” cũng như sự ra đời của hơn 50.000 DN mới. Cụ thể, theo nhận
định của Cục Quản lý đăng ký kinh doanh (Bộ KH&ĐT), số lượng DN được thành
lập mới tăng nhanh từ quý II của năm 2013, còn số DN phải giải thể, ngừng hoạt
động giảm đi trông thấy. Đặc biệt, chỉ tính riêng quý II, đã có tới 23.201 DN đăng
ký thành lập mới, con số này được đánh giá là cao nhất trong vòng 2 năm trở lại
đây, tăng 20% so với cùng kỳ năm 2012 và tăng 41,8% so với quý III-2012.
Nhìn qua những con số trên có thể thấy những tín hiệu vui trong sự
chuyển mình của nền kinh tế. Với những nỗ lực của Chính phủ trong điều hành
chính sách, dường như cộng đồng DN đã và đang “hấp thu” được những kết quả từ
việc điều chỉnh lãi suất cho vay, đến những động thái của việc giảm, giãn thuế thu
nhập DN.
Bài báo cũng nêu lên khiến nghị của giới chuyên gia khuyến cáo, dù nền
kinh có những dấu hiệu khả quan song cũng không thể chủ quan, bởi cho dù kinh tế
đang trên đà phục hồi nhưng vẫn ở mức rất chậm, các DN khi đầu tư vào sản xuất
vẫn ở tình trạng nghe ngóng. Trong khi đó, những cơ hội ở phía trước như mở rộng
quan hệ giao thương quốc tế cũng vẫn bao hàm cả những rủi ro mà DN khó có thể
lường trước được. Bên cạnh đó, các điều hành chính sách của nhà quản lý vẫn chưa
thực sự đáng yên tâm, khi mà vẫn chỉ nằm trong khuôn khổ hành chính ngắn hạn
như nhận định của TS.Trần Đình Thiên - chuyên gia kinh tế độc lập. Kể cả việc
chậm chạp trong tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế cũng sẽ là một rào cản đối với đà
phục hồi của nền kinh tế. Và theo TS. Trần Đình Thiên, đây đang là thời điểm mang
tính thách thức rất lớn, việc tái cơ cấu là không thể trễ hơn được nữa.
43
Không chỉ đăng tải những bài phản ánh, phóng sự, bình luận về các sự kiện
kinh tế, chính sách ảnh hưởng đến đội ngũ trí thức. Báo Đại đoàn kết còn đăng tải
những bài viết chân dung, phỏng vấn những tấm gương trí thức tiêu biểu. Đáng chú
ý, không định kỳ, nhưng trong năm 2014, báo Đại đoàn kết có chuyên mục Trí
Thức đăng vào các số báo Đại đoàn kết Chủ nhật. Chuyên mục này đăng tải các viết
chân dung nhân vật là những trí thức nổi tiếng qua các thời kỳ. Tiêu biểu như:
“Giáo sư Nguyễn Ngọc Doãn- Một trí thức gần dân” số 152 ngày 1/6/2014) của
tác giả Thu Hương; Hay như bài chân dung: “Giáo sư Lê Văn Đạt-Suốt đời học
Bác” số 159 (ngày 8/6/2014) cũng của tác giả Thu Hương.
2.2 Khảo sát trên Tạp chí Mặt trận
2.2.1 Lịch sử phát triển Tạp chí Mặt trận
Tạp chí Mặt trận được thành lập theo giấy phép xuất bản số 154/GP –
BVHTT của bộ Văn hóa thông tin, ngày 17/4/2001, quyết định thành lập TCMT của
Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam số 196/QĐ –
MTTW, ngày 5/7/2001. Trong lời nói đầu tại số đầu tiên của Tạp chí Mặt trận, chủ
tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam Phạm Thế Duyệt đã chỉ rõ:
“Tạp chí Mặt trận là cơ quan ngôn luận chính trị - xã hội của Ủy ban Trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là diễn đàn để tập hợp, trao đổi thông tin, tổng kết lý
luận và kinh nghiệm thực tiễn, góp phần bồi dưỡng nâng cao quan điểm, nhận thức
và trình độ lý luận, nghiệp vụ về công tác Mặt trận”. Trong lời chúc mừng Tạp chí
Mặt trận ra đời, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh cũng nhấn mạnh, Tạp chí phải: “Giúp
mọi người tìm hiểu, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, nghiệp vụ về chính sách và
công tác Mặt trận; đồng thời góp ý với Đảng, Nhà nước về chủ trương, chính sách
pháp luật, góp phần phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới”.
Tạp chí Mặt trận có tôn chỉ, mục đích tuyên truyền, phổ biến các quan điểm
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về đại đoàn kết và tăng cường góp phần
nâng cao trình độ lý luận và trình độ thực tiễn của cơ quan Mặt trận Tổ quốc các
cấp nhằm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của MTTQ.
44
Tạp chí Mặt trận có đối tượng phục vụ là hệ thống cơ quan Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam (bao gồm cả tổ chức thành viên), các cơ quan Đảng và Nhà nước có chức
năng lãnh đạo, quản lý, hoạch định chính sách liên quan đến đại đoàn kết dân tộc và
Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam. Tạp chí được phát hành trong toàn quốc.
Công tác xuất bản
Tạp chí Mặt trận xuất bản số đầu tiên vào tháng 8/2001. Tạp chí Mặt trận là
cơ quan tuyên truyền và phát triển lý luận của Ủy ban TWMTTQ Việt Nam. Từ
năm 2010, Tạp chí Mặt trận chạy thử nghiệm Tạp chí điện tử, từ tháng 8 năm 2011
đã ra chuyên đề: Mặt trận và cuộc sống... Bên cạnh xuất bản báo chí, Tạp chí còn
hợp tác xuất bản sách, tổ chức sự kiện, dịch vụ khoa học, tư vấn phát triển; đồng
thời phối hợp quảng bá sản phẩm và thương hiệu cho các doanh nghiệp... So với
nhiều tạp chí khác, Tạp chí Mặt trận ra đời muộn, tuy nhiên, với tính chất và đặc thù
45
là cơ quan lý luận của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tạp chí Mặt
trận tương đương với các tạp chí lí luận của các bộ, ngành nước ta (cấp vụ). Tạp chí
có nhiệm vụ thông tin, tạo diễn đàn để nghiên cứu trao đổi về mọi mặt hoạt động
của tổ chức Mặt trận ở khắp mọi nơi trên đất nước Việt Nam, là diễn đàn để tập hợp
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Nội dung thông tin của Tạp chí
Tạp chí Mặt trận có phạm vi, đối tượng phục vụ gồm hệ thống cơ quan từ
Trung ương đến cấp huyện, cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội,
tổ chức xã hội, các cơ quan nghiên cứu, người Việt Nam ở trong nước và nước
ngoài,v.v...
Tạp chí Mặt trận xuất bản một kỳ một tháng với 80 trang in. Tạp chí có 6
chuyên mục chính: Sự kiện –lý luận; Khoa học Mặt trận; Diễn đàn hợp tác; Kinh
nghiệm thực tiễn; nghiên cứu địa phương; Những vấn đề quốc tế.
Sự kiện – lý luận: là những sự kiện, những hoạt động của Đảng, Nhà nước,
Mặt trận và các đoàn thể nổi lên mang tính thời sự trong từng thời điểm của mỗi số
Tạp chí được ấn hành. Phần lý luận đăng tải những bài viết mang tính lý luận, khoa
học về Tư tưởng Hồ Chí Minh, một bộ luật hay một chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước cần được làm rõ.
Khoa học Mặt trận: Bàn về các công tác và hoạt động của Mặt trận ở các
cấp, dưới góc nhìn khoa học mang tính nghiên cứu lý luận. Nhằm chỉ ra những ưu
điểm và hạn chế trong chủ trương, chính sách của Mặt trận Tổ quốc để có sự điều
chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tiễn.
Diễn đàn hợp tác: Các bài viết tập trung vào các hoạt động hợp tác, phối hợp
giữa các Mặt trận Tổ quốc với các đơn vị cơ sở. Đặc biệt, là hoạt động hợp tác, phối
hợp của Mặt trận Tổ quốc với các đơn vị cơ sở trong các cuộc vận động lớn như
“Xây dựng Nông thôn mới”; “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”;
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”; “Toàn dân bảo vệ an
ninh tổ quốc”.
Kinh nghiệm thực tiễn: Tổng kết kinh nghiệm hoạt động thực tiễn tại cơ sở
46
trong tất cả các lĩnh vực, nhằm chỉ ra những bài học kinh nghiệm, góp phần bổ sung
hoàn thiện cac chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đẩy mạnh xây dựng
công cuộc CNH – HĐH đất nước.
Nghiên cứu địa phương: Các bài viết đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu các hoạt
động ở các địa phương, nhất là hoạt động đã có được những hiệu quả tích cực. Tìm
hiểu thực trạng, kết quả, nguyên nhân thực trạng và kinh nghiệm từ các hoạt động
đó. Giới thiệu về các đơn vị cơ sở có các chương trình, chủ trương điển hình, cho
các địa phương tham khảo học tập.
Những vấn đề quốc tế: Gồm các bài giới thiệu những vấn đề liên quan đến
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, đến đại đoàn kết toàn dân... của các nước trên các
khu vực và trên thế giới, nhằm cung cấp thông tin và kinh nghiệm, mở rộng tầm
quan sát, hiểu biết.
Nội dung thông tin trên Tạp chí Mặt trận nhìn chung khá phong phú, bao
quát tất cả mọi lĩnh vực của đời sống, xã hội và ưu điểm lớn nhất của tờ Tạp chí là
bàn luận đến những vấn đề lớn của đất nước đang được dư luận quan tâm.
Tạp chí đã thể hiện đúng đắn quan điểm, đường lối của Đảng về Đại đoàn
kết dân tộc. Các bài đã đăng trên Tạp chí đều bám sát tôn chỉ, mục đích của Tạp chí,
chức năng, nhiệm vụ của các chủ trương, công tác lớn của Mặt trận, có lượng thông
tin về lý luận và thực tiễn nhất định. Các chuyên mục phong phú, đa dạng (gồm các
lĩnh vực lý luận thực tiễn, các đối tượng của Mặt trận, trong nước, ngoài nước...).
Kết cấu bài giữa lý luận và thực tiễn có tỷ lệ tương đối hợp lý. Tạp chí đã góp phần
tích cực giúp nhân dân ngày càng hiểu rõ hơn về đường lối chính sách đúng đắn và
những thành tựu đối mới to lớn của nước ta.
Cùng với tạp chí in tháng 8/2011, ấn phẩm Mặt trận & Cuộc sống đã ra mắt
bạn đọc với mỗi kỳ một tháng, cũng có 6 chuyên đề bám sát khu dân cư: Sự kiện và
vấn đề chung, các vấn đề Mặt trận, khu dân cư và văn hóa, miền núi và dân tộc, nhà
kinh doanh và người tiêu dùng, người Việt ở nước ngoài và vấn đề quốc tế. Ấn phẩm
này nhằm cung cấp các tư liệu, thông tin lý luận, chính trị, hướng dẫn giải thích
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác Mặt trận trong hoạt động
47
thực tiễn. Chuyên đề phát hành đến các doanh nghiệp, các khu dân cư và lãnh đạo cấp
xã, phường. Tạp chí Mặt trận điện tử được thử nghiệm từ tháng 7 năm 2010 và từ
tháng 8/2011 bước sang giai đoạn thử nghiệm 2 với 10 chủ đề, cập nhật thông tin
hàng tuần: Sự kiện và vấn đề chung, lý luận, kinh nghiệm thực tiễn, diễn đàn hợp tác,
các vấn đề Mặt trận, nghiên cứu địa phương, miền núi và dân tộc, biên giới và biển,
người Việt ở nước ngoài và vấn đề quốc tế, nhà kinh doanh và người tiêu dùng.
Các ấn phẩm ra đời đã làm cho Tạp chí Mặt trận có các cấp độ thông tin,
hình thức, liều lượng thông tin cũng như các bài viết, cách thể hiện khác nhau. Mục
tiêu cuối cùng là đưa thông tin đến với đông đảo bạn đọc, gắn với bạn đọc, lôi cuốn
ngày càng nhiều bạn đọc đối với tạp chí.
2.2.2 Khảo sát tuyên truyền trên tạp chí Mặt trận
Với báo Đại đoàn kết (báo in) là báo xuất bản hàng ngày nên tần suất tuyên
truyền với số lượng nhiều và nhiều nội dung tuyên truyền. Tuy nhiên, Tạp chí Mặt
trận với đặc điểm là tờ báo ra hàng tháng, vì thế nội dung bài tuyên truyền về trí
thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội cũng ít hơn. Vì vậy, chúng tôi sẽ khảo sát
vấn đề tuyên truyền vận động trí thức trên Tạp chí Mặt trận tất cả số bài được đăng.
Số lƣợng bài tuyên truyền Năm
3 2010
5 2011
7 2012
6 2013
6 2014
Bảng 2.2: Thống kê số lượng tin bài tuyên truyền (từ năm 2010 đến năm 2014)
Trong loạt bài về vận động trí thức có nhiều bài viết sinh động, trong đó tiêu
biểu là bài “Về lòng yêu nước của những nhà trí thức dấn thân” thời hiện đại số 87
(số ra tháng 1 năm 2011) của tác giả Văn Tạo. Trong bài viết tác giả đã nêu lên các
vấn đề Trí thức dấn thân. Đó là những trí thức đã dũng cảm gác sang một bên những
48
quyền lợi, hạnh phúc riêng tư, dấn thân vào gian khổ, hy sinh, có khi phải dằn vặt,
chịu đựng suốt đời, để cuối cùng giành được niềm tự hào là đã vì nghĩa lớn của dân
tộc tham gia vào sự nghiệp Dựng nước, giữ nước thành công. Ông đã viết về hai
nhà trí thức tiêu biểu cho lập luận của mình về vấn đề này, đó là hai nhà trí thức: Lê
Xuân Phương (nhà địa lý học), gốc xứ Thanh và nhạc sĩ Phạm Tuyên, gốc xứ Đông
(Hải Dương). Bài viết thể hiện sự trăn trở của tác giả cho thế hệ trí thức hiện nay và
nêu lên các quan điểm, quan niệm sống của tầng lớp trí thức xưa mà tiêu biểu là hai
nhà trí thức trên. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, thiết thực đối với xã hội hiện
nay và bản thân các nhà trí thức đương thời.
Phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa nói chung, kết nạp chủ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân
vào Đảng nói riêng đang là một trong những vấn đề có ý nghĩa lý luận và là đòi
hỏi của thực tiễn là nội dung nổi bật trong bài viết của tác giả Vũ Tiến Dũng
“Kết nạp doanh nghiệp tư nhân vào Đảng để tăng cường sức mạnh của Đảng”
số 91 (tháng 5 năm 2011).
Báo cáo tại Đại hội XI của Đảng, do Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đọc tại
phiên khai mạc Đại hội XI ngày 12/1/2011, khẳng định: “Tiếp tục thực hiện chủ
trương đảng viên làm kinh tế tư nhân, thực hiện thí điểm việc kết nạp những người
là chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng”. Đây là chủ trương đúng, hiện
thực hóa tư tưởng của V. I. Lênin: những người cộng sản phải có “bản lĩnh của một
thương nhân thông minh và có học”.
Một trong những mục đích cốt lõi của doanh nghiệp, doanh nhân là tìm kiếm
lợi nhuận. Trong những năm gần đây, cùng với việc theo đuổi mục đích này, doanh
nhân Việt Nam đã và đang cố gắng hoàn thành tốt trách nhiệm xã hội. Đa số doanh
nhân, đặc biệt là chủ doanh nghiệp tư nhân, khẳng định rằng, họ luôn hướng về lợi
ích của dân tộc, tuy nhiên, cái còn thiếu là “chính danh” để họ thực hiện lý tưởng
đó. Việc đứng trong hàng ngũ của Đảng sẽ tạo thêm điều kiện cho doanh nhân gắn
kết chặt chẽ hơn hoạt động sản xuất, kinh doanh với hoạt động chính trị- xã hội.
49
Chủ trương kết nạp chủ doanh nghiệp tư nhân vào Đảng biểu hiện sự thống
nhất giữa chính trị và kinh tế, làm tăng giá trị thực tiễn trong nghị quyết cũng như
hoạt động lãnh đạo của Đảng, mở rộng phạm vi ảnh hưởng tích cực của Đảng tới
mọi tầng lớp nhân dân lao động, tạo nên cái nhìn tích cực hơn của bạn bè thế giới về
con đường hội nhập của Việt Nam.
Chủ trương của Đảng là luôn tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng, không
phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai
thực hiện, vẫn có những vướng mắc nhất định. Nếu như bộ phận doanh nhân khu
vực nhà nước gần như đương nhiên đứng trong hàng ngũ của Đảng và được hưởng
không ít sự đãi ngộ và ưu thế, thì bộ phận doanh nhân trong khu vực kinh tế tư nhân
nhìn chung chưa được hưởng những “đặc quyền” đó.
Xét hiệu quả hoạt động kinh tế, những năm gần đây, nếu như bộ phận doanh
nhân trong khu vực kinh tế nhà nước ngày càng thể hiện sự trì trệ, yếu kém trên
nhiều lĩnh vực sản xuất, kinh doanh trọng điểm của nền kinh tế, thì bộ phận doanh
nhân trong khu vực kinh tế tư nhân lại cho thấy sự năng động, hiệu quả trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh của mình.
Khi có thêm bộ phận đảng viên hoạt động sản xuất, kinh doanh, cũng có
nghĩa là Đảng thu hút thêm những người có điều kiện và năng lực hoạt động kinh
tế, những người đã trải nghiệm thực tế và đã thấy rõ vấn đề liên quan đến công tác
chỉ đạo vận hành, phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh nói chung; điều này còn
làm phong phú hơn kết cấu thành phần trong Đảng. Nếu chủ doanh nghiệp tư nhân
có đủ tiêu chuẩn của người đảng viên, chấp hành đầy đủ điều lệ cũng như các quy
định của Đảng cũng như của các tổ chức chính trị- xã hội khác… thì việc kết nạp họ
vào hàng ngũ của Đảng là hợp lý, và cũng không cần thiết phải đặt ra việc bản chất
của Đảng có bị ảnh hưởng tiêu cực hay không.
Bài viết đã đưa ra thông điệp, xã hội cần tạo điều kiện cho doanh nhân có
thêm điều kiện đóng góp tiếng nói của mình thông qua các hoạt động chính trị - xã
hội để góp phần xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách cho sự phát triển đất
nước.
50
Thanh niên Việt Nam là một tầng lớp xã hội rộng lớn, có vai trò quan trọng
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong tất cả các cuộc cách mạng do
Đảng khởi xướng và lãnh đạo, thanh niên bao giờ cũng là lực lượng xung kích, đi
đầu. Thanh niên có mặt ở tất cả các giai cấp và các thành phần xã hội. Thanh niên
có tiềm năng lớn và là chủ nhân tương lai của đất nước. Về vấn đề này có bài viết
của tác giả Đăng Quang Định “Vấn đề vận động thanh niên trong giai đoạn mới”
đăng trên Số 89 (tháng 3 năm 2012). Bài viết phân tích trong những thời kỳ cách
mạng khác nhau, Đảng ta luôn thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo công tác thanh niên và
Đoàn Thanh niên. Đảng lãnh đạo công tác thanh niên về chủ trương, đường lối và
chính sách. Trong tất cả các Đại hội đại biểu toàn quốc, Đảng đều đánh giá công tác
thanh niên và đề ra nhiệm vụ lãnh đạo công tác thanh niên. Và từ trên cơ sở đường
lối, chủ trương và chính sách của Đảng, Nhà nước xây dựng những chính sách cụ
thể nhằm phát triển thanh niên. Đảng lãnh đạo Nhà nước làm công tác quản lý thanh
niên và công tác thanh niên bằng các Nghị quyết và thông qua đội ngũ cán bộ, đảng
viên của Đảng công tác trong các cơ quan của Nhà nước. Phương pháp lãnh đạo này
nhằm đảm bảo sự nhất quán về chủ trương, phương hướng, nội dung và phương
thức lãnh đạo công tác thanh niên. Từ đường lối, chủ trương của Đảng và chính
sách, pháp luật của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân
tham gia vào công tác vận động, tập hợp và đoàn kết thanh niên. Chủ trương xã hội
hóa công tác thanh niên của Đảng và Nhà nước đã được Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể vận dụng vào công tác của mình. Phải nói rằng, chủ trương xã hội hóa
công tác thanh niên đã phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị vào thực hiện
công tác thanh vận của Đảng. Về nhiệm vụ của Mặt trận và các đoàn thể, Nghị
quyết 25 của BCH Trung ương Đảng đã chỉ rõ: “Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân trong công tác thanh niên, mỗi đoàn thể phải có
chương trình về công tác thanh niên, quy chế phối hợp hoạt động với Đoàn và các
tổ chức thanh niên, chú trọng công tác nữ thanh niên; phân công cán bộ làm công
tác thanh niên; vận động đoàn viên, hội viên thuộc đoàn thể mình tham gia tập hợp,
giáo dục thanh thiếu nhi; tham gia kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách
51
liên quan đến thanh niên và công tác thanh niên. Trên đây là những nội dung của
trong bài viết được tác giả trình bày, phân tích và làm sáng tỏ quá trình vận động
Thanh niên của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong lịch sử cũng như những nhiệm
vụ, biện pháp công tác thanh niên trong tình hình mới.
Đi thẳng vào vai trò của đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, tác giả Yên Khê có bình luận: “Một số suy nghĩ về
việc phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nước ta hiện nay” đăng trên số 133 (tháng 11/2014). Tác giả cho
rằng, lịch sử đất nước ta đã tôn vinh và ghi nhận những bậc hiền tài, chí sỹ có đóng
góp trí tuệ, tâm huyết và công sức cho quá trình tạo dựng, bảo vệ và phát triển đất
nước. Đội ngũ trí thức cũng đã đóng góp phần công sức to lớn của mình trong rong
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nưnớc. Trong thời kỳ đổi mới
gần 30 năm qua, Đảng và Nhà nước đặc biệt chú trọng đến phát triển đội ngũ trí
thức và nhân tài cho đất nước.
Đánh giá đúng tàm quan trọng và vai trò của đội ngũ trí thức đối với sự phát
triển của đất nước cũng như hạn chế, bấp cập về chính sách dành cho đội ngũ trí
thức trọng thời gian qua, tìm ra những giải pháp tích cực để xây dựng đội ngũ trí
thức trong thời gian tới, để đội ngũ trí thức phát huy được hết trí tuệ, công sức, tâm
huyết của mình cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước thì tác giả Yên Khê
cho rằng, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục thể chế hóa các chủ trương, chính sách xã
hội xây dựng môi trường thực sự dân chủ, tôn trọng và bảo vệ các điều kiện lao
động sáng tạo, chế đội đãi ngộ thích đáng với trí thức; Có chính sách và cơ chế để
trí thức phát huy được năng lực chuyên môn; Động viên, sử dụng hiệu quả những trí
thức có sức khỏe, trình độ năng lực chuyên môn tốt; Củng cố và phát triển các Hội
trí thức nhằm nâng cao vai trò của các tổ chức này trong tập hợp, đoàn kết và góp
phần phát huy năng lực chuyên môn, khoa học, nâng cao cập nhật trí thức.
Bên cạnh đó, Ta còn Tạp chí Mặt trận giới thiệu một số bài viết mới về chủ
đề tuyên truyền, vận động trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội trên Chuyên
đề Mặt trận & Cuộc sống.
52
2.2.3 Đánh giá nhận xét
Như đã trình bày, với báo Đại đoàn kết (báo in) là báo xuất bản hàng ngày
nên tần suất tuyên truyền với số lượng nhiều và nhiều nội dung tuyên truyền. Tuy
nhiên, Tạp chí Mặt trận với đặc điểm là tờ báo ra hàng tháng, vì vậy, nội dung bài
tuyên truyền về trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội cũng ít hơn. Chính vì
vậy, ở đây tác giả không so sánh về mặt số lượng bài giữa báo Đại đoàn kết và Tạp
chí Mặt trận mà tác giả tiến hành so sánh về nội dung phản ánh, bởi Tạp chí Mặt
trận là tờ báo ra hàng tháng và tập trung chuyên sâu vào những bài viết mang tính lý
luận, còn báo Đại đoàn kết là tờ báo ngày, bài viết thường ngắn gọn hơn.
Báo Đại đoàn kết sử dụng đa dạng các hình thức trình bày
Về thể loại báo chí sử dụng: Báo Đại đoàn kết sử dụng nhiều thể loại báo chí
để thể hiện nội dung như: tin, phỏng vấn, phản ánh, bình luận, phóng sự. Để có
được cái nhìn toàn diện về vấn đề tuyên truyền, vận động trí thức tham gia phát
triển kinh tế - xã hội trên tạp chí Mặt trận và báo Đại đoàn kết, tác giả luận văn đưa
ra một số nhận định như sau:
Sự phản ánh thông tin về mô hình phát triển kinh tế, người trí thức tham gia
phát triển kinh tế, trí thức đóng góp công sức cho việc kiến nghị các chủ trương
chính sách phát triển kinh tế - xã hội là rất đa dạng, tần suất cao nhất đó là loại tin,
bài phản ánh và một số bài phỏng vấn... Nhìn chung, các thể loại được sử dụng phù
hợp với yêu cầu thông tin về độ nhanh chóng, dễ hiểu, dễ tiếp nhận đối với đông
đảo công chúng báo chí là tầng lớp có học, tầng lớp sáng tạo và trí thức, phát huy
được thế mạnh là tờ báo hằng ngày, chuyển tải được nhiều nội dung thông tin trong
từng số báo.
* Khảo sát báo Đại đoàn kết trong 5 năm (từ năm 2010 đến năm 2014), qua
thống kê số lượng và tỉ lệ nội dung tin bài [Bảng 2.2, phụ lục 1], chúng ta vẽ được
biểu đồ sau:
53
Hình 2.1: Biểu đồ thể hiện tỷ trọng nội dung tác phẩm của Báo Đại đoàn kết
(từ năm 2010 đến năm 2014)
Về nội dung: Có thể thấy, tin cho phép phản ánh nhanh sự kiện thời sự nóng
hổi nhất và với những ưu điểm của nó về nội dung thông tin đầy đủ, ngắn gọn súc
tích và dễ hiểu, đáp ứng được nhu cầu thông tin của đa số độc giả. Khảo sát trên báo
Đại đoàn kết cho thấy, tỉ lệ mỗi trang báo tin chiếm khoảng 35% số tác phẩm và
chiếm khoảng 30% diện tích mặt báo. Nhưng so sánh trên một số báo thì tin lại
chiếm khoảng 60% tác phẩm và chiếm khoảng 55% diện tích mặt báo. Dung lượng
tin giao động từ 160-200 chữ/tin.
Qua bảng thống kê này, có thể thấy, trong 5 năm, từ năm 2010-2014 có tất cả
276 tác phẩm liên quan đến truyên truyền, vận động trí thức tham gia phát triển kinh
tế - xã hội, thì có đến 207 tin (chiếm 55,05%). Số lượng bài phản ánh đứng thứ hai
sau tin, có 117 bài phản ánh liên quan đến đề tài này (chiếm 31,11%). Có bài phỏng
vấn nhưng số lượng ít, chỉ có 52 bài phỏng vấn (chiếm 1 dung lượng nhỏ khoảng
13,83%).
Về hình thức: Việc báo Đại đoàn kết thiết lập các chuyên trang giúp người
đọc lựa chọn ngay những phần mà mình quan tâm như: Thời sự (2 trang), kinh tế -
54
xã hội (2 trang), Văn hóa -nghệ thuật (2 trang), Tham vấn – Phản biện (1 trang),
Quê hương – Hải ngoại (1 trang)... Vào số ra ngày Chủ nhật, dù không mang tính
định kỳ nhưng báo Đại đoàn kết còn có chuyên mục Trí Thức. Việc quy hoạch
chuyên trang kéo theo cách trình bày gói gọn toàn bộ bài viết trong một trang giúp
người đọc tiện theo dõi.
Thiết kế maket cho trang báo rõ ràng, vị trí tít bài, tin cũng luôn được đặt cân
đối, không làm người đọc rối mắt. Điểm nổi bật trong thiết kê Báo Đại đoàn kết là
việc sử dụng hình ảnh minh họa. Các bài báo đều có từ 1-2 ảnh họa, các ảnh được
trình bày theo đúng quy tắc thiết kế trang báo, làm cho người đọc không bị nhàm
chán, khiến cho bài báo sinh động, chân thực hơn, đỡ khô khan. Chú thích ảnh rõ
ràng và không gây khó hiểu cho người đọc.
Về Ngôn ngữ: Ngôn ngữ trong các bài báo Đại đoàn kết có tính chiến đấu
cao, thu hút người đọc. Tuy nhiên, điểm hạn chế của báo Đại đoàn kết đó là việc sử
dụng các ngôn ngữ phi văn tự còn ít.
Tạp chí Mặt trận thể hiện được sự chững chạc nhưng không đơn điệu
Về hình thức, Tạp chí Mặt trận thể hiện được sự chững chạc nhưng không
đơn điệu. Tạp chí xuất bản hàng tháng, hình thức trình bày tốt, các bài viết ngắn
gọn, cỡ chữ in dễ đọc, giấy trắng, ảnh đẹp, in rất ít sai lỗi, bìa sáng sủa. Việc chọn
ảnh, phối hợp trình bày và măng- sec trên các trang bìa hợp lý, phù hợp với những
sự kiện lớn của đất nước và phản ánh được nét đặc trưng riêng của Mặt trận Tổ
Quốc. Những bức ảnh minh họa trong tạp chí thường được chụp từ những sự kiện
có thật của cán bộ Mặt trận các cấp, vì thế mang tính thực tế cao và tăng niềm tin
cho bạn đọc. Hầu hết các số của Tạp chí đều chú ý nâng cao hiệu quả thông tin
trang bìa để có giá trị như một bài tổng quát, phản ánh tương đối nhất về nội dung
chủ đạo của số Tạp chí hoặc nêu bật sự kiện được Tạp chí thông tin trong thời gian
đó. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế như trình bày tiêu đề các chuyên mục và tên
bài viết còn đơn giản, chưa sinh động.
55
* Khảo sát báo Đại đoàn kết trong 5 năm (từ năm 2010 đến năm 2014), qua
thống kê số lượng và tỉ lệ nội dung tin bài [Bảng 2.3, phụ lục 2], chúng ta vẽ được
biểu đồ sau:
Hình 2.2: Biểu đồ thể hiện tỷ trọng nội dung tác phẩm của Tạp chí Mặt trận
(từ năm 2010 đến năm 2014)
Về nội dung: Đa phần các bài viết trong Tạp chí Mặt trận đều sử dụng dạng
bài tổng hợp tin tức, sự kiện; tổng kết kinh nghiệm và bình luận. Trong đó, bình
luận chiếm số lượng lớn. Bởi các bài viết dạng này đánh giá, phân tích, giải thích,
bàn luận về những sự thật của đời sống. Nội dung bài viết chủ yếu gắn với những sự
kiện thời sự. Mục đích nhằm phân tích, lý giải, bàn luận, đánh giá những sự thật đó
trên cơ sở của một thái độ rõ ràng nhằm hướng dẫn, điều chỉnh dư luận.
Về hình thức: Chuyên mục Sự kiện - lý luận thường có độ dài lớn nhất,
chiếm tới vài chục trang. Các chuyên mục khác thường chỉ chiếm diện tích từ 2
trang tới 10 trang.
Trong vòng 5 năm với 60 số báo và với 27 tác phẩm liên quan đến vận động
trí thức tham gia phát triển kinh tế xã hội thì có 17 bài bình luận (51,85%). Sử dụng
thể loại này ở hầu hết các số của Tạp chí Mặt trận bởi bình luận là một thể loại có
56
chức năng giải thích, đánh giá, phân tích về những sự thật tiêu biểu. Đối tượng phản
ánh của bình luận có thể là các sự kiện, hoàn cảnh, tình hình, hiện trạng tiêu biểu
của đời sống, đang cần được làm sáng tỏ và được định hướng rất phù hợp để sử
dụng trong mục đích tuyên truyền vận động trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã
hội. Đi sau đó là các loại tin tổng hợp từ tin tức – sự kiện có 13 (chiếm 44,14%).
2.3 Một số nhận xét chất lƣợng của Báo in Mặt trận
2.3.1 Ưu điểm:
Về nội dung: Công tác tuyên truyền của Báo in Mặt trận đạt được một số
thành tựu đáng kể. Trong 5 năm từ năm 2010 đến năm 2014, số bài tuyên truyền,
vận động trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội trên báo Đại đoàn kết tăng theo
từng năm (Bảng 2.1). Cao nhất là năm 2014 có 166 bài tuyên truyền về vấn đề này
trên tổng số 376 số báo (chiếm khoảng 44,14%). Đối với Tạp chí Mặt trận, thì số
lượng bài ít (Bảng 2.2) (khoảng 6 bài viết/1 năm trong 5 năm tác giả khảo sát).
Nhưng tính số báo thì trung bình 2 số báo (trên tổng số 12 số báo/năm) lại có 1 bài
tuyên truyền vận động trí thức, tham gia phát triển kinh tế-xã hội. Điều đó đã phần
nào phản ánh được nội dung tuyên truyền phong phú và nhiều góc độ. Các ấn phẩm
như sách, báo in, tạp chí… nâng cao hiểu biết của người đọc và giúp họ có cái nhìn
rõ nét hơn về chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề vận động
trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài ra, còn có những bài phản ánh về
cách thức kinh doanh, làm giàu cũng là một trong những hình thức tuyên truyền
hiệu quả. Và thêm vào đó, tranh ảnh, pano, áp phích cổ động… giúp mọi người dễ
tiếp cận, ghi nhớ được những nội dung mà ấn phẩm cần chuyển tải. Cùng với việc
sử dụng các công cụ trên báo in Mặt trận còn cộng tác với các đài phát thanh, sử
dụng sóng phát thanh để mức độ tuyên truyền được phủ rộng, từ thành thị cho đến
nông thôn, thông tin nhanh, kịp thời về vấn đề phát triển kinh tế -xã hội nói chung
và công tác vận động trí thức tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội nói riêng.
Đối với báo Đại đoàn kết, một trong những tờ báo ra đời sớm nhất tại Việt
Nam, trải qua hơn 7 thập kỉ hình thành và phát triển, báo Đại đoàn kết đã có nhiều
bước thay đổi cả về hình thức và nội dung cho phù hợp với công tác tuyên truyền,
57
cổ động trong thời kỳ mới. Trong xu thế mới của thời đại công nghệ thông tin,
ngoài việc xây dựng báo Đại đoàn kết (phiên bản in) phát hành 1 số/ngày, năm 2010
báo hòa mạng phiên bản điện tử. Năm 2015, báo Đại đoàn kết đã chính thức ra mắt
báo Điện tử phiên bản mới nhằm tăng cường hơn nữa công tác thông tin tuyên
truyền đúng đắn đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước đến với bạn đọc.
Từ tháng 7/2010, TCMT đề ra mục tiêu nâng cao chất lượng các sản phẩm
báo in được. Để việc này có kết quả tích cực, Tạp chí kết hợp 4 biện pháp như: chú
ý đặt bài các nhà nghiên cứu đối với số lý luận, nhà báo và nhà hoạt động thực tiễn
có uy tín đối với chuyên đề Mặt trận & Cuộc sống; trả nhuận bút theo chất
lượng; tăng số nhân sự kiêm nhiệm có kinh nghiệm giúp công tác biên tập; tăng
cường gửi bài dự thi tuyển chọn tác phẩm xuất sắc…
Đa dạng hóa sản phẩm báo chí là một nội dung quan trọng trong chính sách
phát triển Tạp chí Mặt trận giai đoạn 3. Theo hướng này, Tạp chí có 4 loại sản
phẩm: số lý luận ( xuất bản từ tháng 8/2001) được đổi mới từ tháng 7/2010, số
chuyên đề Mặt trận & Cuộc sống ( xuất bản từ tháng 8/2011) từng bước hoàn thiện
đáp ứng nhu cầu bạn đọc cấp cơ sở và các đối tượng người dân, Tạp chí điện
tử (giai đoạn thử nghiệm 2 từ tháng 8/2011) đã chính thức cập nhật thông tin từ
hàng tháng lên hàng tuần vào tháng 3/2012 và tiến tới cập nhật thông tin hàng
ngày, sách tuyển tập bài báo đã thử nghiệm trước năm 2010 và tiến tới hợp tác xuất
bản mỗi năm từ 4 - 6 cuốn.
Bên cạnh đó, Tạp chí còn hợp tác xuất bản sản phẩm khác; trong đó có Sổ
tay công tác lý luận (phối hợp với Tạp chí Môi trường & Cuộc sống)… Việc đa
dạng hoá sản phẩm nói trên đã góp phần đa dạng hoá nội dung tuyên truyền theo
hướng hiệu quả của Tạp chí.
Tăng cường quảng bá Tạp chí thông qua nhiều biện pháp như: có nhiều bài
giới thiệu hoạt động trên các sản phẩm báo chí (trong đó có Tạp chí Bảo hiểm xã
hội, Tạp chí Môi trường & Cuộc sống, Tạp chí Ánh sáng & Cuộc sống, Tạp chí Văn
hiến điện tử…); Phối hợp tổ chức Hội nghị cộng tác viên ở 3 miền Bắc – Trung -
Nam; phối hợp tổ chức sự kiện và tư vấn thực hiện một số sự kiện khác)… Những
58
hoạt động nói trên sẽ từng bước giúp tăng phát hành sản phẩm báo in; cũng như mở
rộng khả năng làm dịch vụ quảng cáo báo chí. Đây là cơ sở có vai trò tích cực nâng
cao hiệu quả công tác tuyên truyền của Tạp chí Mặt trận.
Hệ thống báo chí Mặt trận đã có nhiều bài đi sâu phản ánh vấn đề, giúp công
chúng nắm được thông tin một cách toàn diện. Nội dung tuyên truyền đi đúng tôn
chỉ mục đích của cơ quản chủ quản và đường lối của Đảng và Nhà nước. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, được nhân dân ủng hộ, nuôi dưỡng, báo chí cách mạng Việt
Nam nói chung và hệ thống báo chí Mặt trận nói riêng đã trưởng thành, không
ngừng lớn mạnh và phát triển. Với vai trò xung kích trên mặt trận đại đoàn kết dân
tộc, hệ thống báo chí Mặt trận đã phản ánh trung thực tâm tư, nguyện vọng chính
đáng của nhân dân trong đó có đội ngũ trí thức. Góp phần tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận, cổ vũ, động viên phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, biểu dương
các nhân tố mới; tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí,
chống các quan điểm sai trái, thù địch; góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc
đẩy công cuộc đổi mới, củng cố lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng
và Nhà nước. Báo chí Mặt trận cũng có những đóng góp quan trọng trong công tác
vận động, tuyên truyền nhân dân góp sức trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mở cửa, hội nhập quốc tế.
Về hình thức: Hình thức tuyên truyền được báo chí Mặt trận cố gắng đổi
mới. Sử dụng nhiều thể loại trong tác phẩm báo chí. Các thể loại đã chuyển tải
thông tin tới bạn đọc một cách sinh động và hấp dẫn. Xây dựng nhiều chuyên trang,
chuyên mục, đáp ứng nhu cầu thông tin của độc giả; Dung lượng các bài viết ngắn
dài đan xen, kết cấu logic, linh hoạt, ngôn ngữ dễ hiểu. Trình bày bìa ruột, ảnh ngày
càng được đổi mới.
2.3.2 Hạn chế
Về nội dung: Nếu nhìn từ số liệu phân tích tác giả đã nêu lên khi khảo sát
trên hai đầu báo, tạp chí thì tỉ lệ 376 bài viết về vận động trí thức tham gia phát triển
kinh tế, xã hội trên tổng số 1825 số báo (từ năm 2010-2014) chiếm khoảng hơn
20% số lượng bài viết đối với báo Đại đoàn kết (là nhật báo) và 27 bài viết trên tổng
59
số 60 số báo (từ năm 2010-2014), chiếm khoảng 45% đối với Tạp chí Mặt trận
(Nguyệt san) thì số lượng bài viết tuyên truyền, vận động trí thức tham gia phát
triển kinh tế - xã hội tháng vẫn chưa nhiều (62 bài đối với báo Đại đoàn kết năm
2010 và 3 bài đối với Tạp chí Mặt trận là năm 2010). Nội dung tuyên truyền còn
chưa có nhiều bài tổng hợp, nghiên cứu sâu với những luận cứ, luận chứng chặt chẽ,
rút kinh nghiệm trong mang tính tổng kết (số lượng tin trên báo Đại đoàn kết chiếm
55,05%); Nhiều bài nặng về tuyên truyền mà chưa có tính phản biện xã hội.
Về hình thức: Trong giai đoạn 2010-2014, báo in Mặt trận đã cố gắng đa
dạng hóa hình thức vận động trí thức trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia ít nhiều hoạt
động liên quan đến Mặt trận. Như báo Đại đoàn kết phát triển thành Nhật báo, ra
mắt thêm nhiều ấn phẩm phụ; xây dựng và phát triển báo điện tử; Tạp chí Mặt trận
xây dựng trang điện tử; ra mắt nhiều ấn phẩm phụ.
Hệ thống báo chí Mặt trận là cơ quan lý luận-truyền thông của Trung ương
Mặt trận cũng chính là một hình thức truyền bá kiến thức và vận động trí thức tham
gia phát triển kinh tế - xã hội nên trong công tác vận động còn nhiều hạn chế; Kỹ
năng vận động còn hạn chế, bởi bộ phận và cán bộ vận động làm kiêm nhiệm chưa
chuyên nghiệp, thiếu kinh nghiệm chưa có lý luận về công tác vận động vẫn là vận
dụng công tác dân vận... để làm vận động; Bố cục bài phản ánh thường dập khuôn
về hình thức; Ngôn ngữ và cách trình bày chưa thật sự sáng tạo.
60
Tiểu kết chƣơng 2
Từ kết quả khảo sát, có thể thấy rằng đề tài vận động, tuyên truyền trí thức
tham gia phát triển kinh tế, xã hội là một trong những nội dung quan trọng được hệ
thống báo chí Mặt trận quan tâm quan tâm và khai thác. Nội dung tuyên truyền của
các chương trình khảo sát đã đáp ứng đúng và đủ yêu cầu tuyên truyền về trí thức
tham gia phát triển kinh tế-xã hội. Góp thêm một tiếng nói sinh động vào công tác
tuyên truyền phát triển kinh tế-xã hội nói chung của báo chí nước ta.
Điều đó đã minh chứng rằng, trong nhiệm vụ vận động, tuyên truyền trí thức
tham gia phát triển kinh tế - xã hội để đưa những chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước về vấn đề này vào thực tiễn cuộc sống thì đã cần tới những cơ quan
truyền thông, các bộ ban ngành cùng thực hiện điều đó. Và cũng không nằm ngoài
chính sách này, Báo Đại đoàn kết cùng Tạp Chí Mặt trận đã tích cực, thường xuyên
có bài viết phản ánh mọi mặt tinh thần của Nghị quyết đã đề ra và đạt hiệu quả cao.
Những bài viết sắc sảo có tính lý luận cao sẽ là tiền đề vững chắc để thực hiện tốt
mục tiêu cho cuộc vận động tuyên truyền trong thời gian tới.
Các bài viết đã phản ánh một cách chân thực tình hình kinh tế -xã hội và quá
trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam cũng như những cố gắng và nỗ lực tham
gia của các lực lượng xã hội vào vấn đề này, đặc biệt là của giới trí thức nước ta.
Tạp chí Mặt trận và báo Đại đoàn kết đã góp phần làm rõ nội dung Nghị quyết, đưa
đến sự đổi mới nhận thức về phát triển kinh tế hiện đại, trong xu thế hội nhập hiện
nay.
Qua khảo sát công tác tuyên truyền vận động trí thức tham gia phát triển kinh
tế-xã hội chúng tôi nhận thấy nội dung chủ yếu phản ánh những vấn đề như tuyên
truyền các vận động trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội thông qua nội dung
như tuyên truyền những tấm gương trí thức làm kinh tế; những chính sách của
Đảng, Nhà nước tạo điều kiện cho trí thức tham gia phát triển kinh tế;…
61
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TUYÊN TRUYỀN CỦA
BÁO IN MẶT TRẬN
3.1 Đánh giá chung về công tác tuyên truyền, vận động
3.1.1 Thành công
a) Về nội dung:
Hệ thống báo in Mặt trận có chủ đề tuyên truyền phong phú, nội dung đa
dạng. Tập trung chủ yếu tuyên truyền trí thức tham gia vào quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, thúc đẩy phát triển nhiều ngành nghề mới, tạo ra các sản
phẩm kinh tế có hàm lượng trí trí tuệ cao, làm tăng sức cạnh tranh của hàng hóa
Việt Nam đối với thị trường trong và ngoài nước. Đồng thời vận động trí thức huy
động tối đa việc sử dụng nguồn tri thức của con người Việt Nam, kết hợp với tri
thức của nhân loại đem áp dụng vào sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy nền kinh tế đất
nước phát triển. Bởi vậy, để đẩy mạnh phát triển kinh tế, chúng ta phải không
ngừng vận động, tuyên truyền trí thức không ngừng học tập, phấn đấu, phát huy
sáng tạo sức lao động của mình để góp phần thúc đẩy quá trình xây dựng và phát
triển nền kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay.
Hiện nay, xu thế toàn cầu hoá đang là khách quan tác động đến mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Quá trình phân công lao động xã hội không chỉ dừng lại ở biên giới
quốc gia mỗi nước mà lan rộng ra các khu vực và toàn thế giới. Toàn cầu hoá tạo ra
cơ hội, điều kiện để những người Việt Nam tiếp cận với những thành tựu khoa học,
công nghệ hiện đại; trao đổi, học hỏi kinh nghiệm tổ chức quản lý, sản xuất kinh
doanh của các nước; mở rộng quan hệ hợp tác, giao lưu và tăng cường đoàn kết với
lục lượng tiến bộ trên thế giới.
Tuy nhiên, để thể hiện đề tài trên được thành công và hấp dẫn như vậy không phải
đơn giản. Nó đòi hỏi nhiều nỗ lực thực hiện của các PV, BTV chuyên mục. Họ đã
thực sự sáng tạo khi khai thác nội dung tuyên truyền về trí thức tham gia phát triển
kinh tế - hội vốn khô cứng, dập khuôn trở nên sinh động và đa chiều nhất. Ví dụ,
nói về chủ đề “tuyên truyền vận động trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội”,
62
báo Đại đoàn kết tập trung đưa các tin tức về xây dựng kinh tế, cách thức kinh
doanh của doanh nhân – doanh nghiệp hay chân dung nhân vật điển hình cho trí
thức Việt Nam. Hay như Tạp chí Mặt trận có chuyên mục Sự kiện- lý luận là
những bài viết đi thẳng vào vấn đề trí thức trong thời kỳ mới. Ví dụ như bài viết:
Nâng cao vai trò của Nhà nước và tổ chức dân sự trong kinh tế trí thức vì sự phát
triển con người của tác giả Phạm Xuân Hoàng, Nguyễn Hà My đăng trên số 132.
Các nội dung được tập trung phản ánh theo chủ đề, chủ điểm tập trung ở mỗi
chương trình.Ví dụ như, đối với báo Đại đoàn kết chuyên mục kinh tế - xã hội ở
trang 2. Vào các số báo ngày Chủ nhật thì có chuyên mục Trí thức. Cách thể hiện
này khiến chương trình có trọng tâm, vấn đề được thể hiện liền mạch và hết sức
logic.
b) Về hình thức
Hệ thống báo chí Mặt trận đã sử dụng đa dạng và hiệu quả nhiều thể loại
như: Tin tức, phản ánh, bình luận, phỏng vấn… để làm sáng tỏ nội dung những
vấn đề được khai thác trong chương rình. Việc lựa chọn thể loại phù hợp đã làm
nên sự thành công cho tác phẩm. Nổi bật ở hệ thống báo chí Mặt trận là các bài
viết phản ánh, bình luận về vấn đề liên quan đến trí thức nói chung đang được xã
hội quan tâm. Cách làm này làm cho chương trình sâu sắc về nội dung và trở nên
gần gũi với độc giả.
c) Về ý nghĩa:
Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, Chính phủ về nâng cao vị thế của trí thức
trong phát triển kinh tế - xã hội, công tác tuyên truyền, vận động đã giúp định
hướng phát triển nguồn nhân lực trí thức đồi dào. Đồng thời, huy động tối đa việc
sử dụng nguồn tri thức của con người Việt Nam, kết hợp với tri thức của nhân loại
đem áp dụng vào sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, người trí thức phải nhận
thấy vai trò cũng như trách nhiệm to lớn của mình đối với xã hội. Tuyên truyền để
giới trí thức nhận thức được một nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh toàn cầu
hoá và hội nhập quốc tế phải là nền kinh tế có khả năng thích ứng cao với những
63
biến động của tình hình quốc tế và ít bị tổn thương trước những biến động đó; trong
bất kỳ tình huống nào nó cũng có thể cho phép duy trì được các hoạt động bình
thường của xã hội và phục vụ đắc lực cho các mục tiêu an ninh, quốc phòng của đất
nước. Nền kinh tế độc lập tự chủ trước hết phải có cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả
và độ an toàn cần thiết; phát triển bền vững và có năng lực cạnh tranh cao; cơ cấu
xuất khẩu nhập khẩu cơ bản cân đối, hàng hoá đa dạng, phong phú, trong đó các
mặt hàng sản xuất sử dụng công nghệ cao có giá trị gia tăng chiếm ưu thế... Xây
dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ thể hiện ở đường lối phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn
với phát triển kinh tế trí thức, có tiềm lực khoa học, công nghệ, cơ sở vật chất - kỹ
thuật đủ mạnh, tăng trưởng nhanh và bền vững, tạo điều kiện để thực hiện có hiệu
quả các chính sách phát triển kinh tế - xã hội và các cam kết quốc tế.
Tóm lại, thông qua công tác tuyên truyền vận động trí thức tham gia phát
triển kinh tế - xã hội trên báo Đại đoàn kết và Tạp chí Mặt trận mà tác giả đã khảo
sát, có thể thấy, hệ thống báo chí Mặt trận đã hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Những vấn đề trọng tâm trong công tác tuyên truyền, vận động trí thức đã được
phản ánh với những cách tiếp cận phong phú, dưới nhiều góc cạnh.
3.1.2 Hạn chế:
Nằm trong cùng hệ thống báo in Mặt trận, báo Đại đoàn kết và Tạp chí Mặt
trận có một số hạn chế và trở ngại chung trong công tác tuyên truyền như: Thứ nhất,
chưa có một kế hoạch truyền thông cụ thể mang tính chiến lược, khai thác đề tài
mang tính thời vụ, khi có sự kiện nổi cộm thì phản ánh một cách rầm rộ, khi thì
thưa thớt vắng bóng… dẫn đến việc tuyên truyền thiếu tập trung, hiệu quả tuyên
truyền không cao. Ngoài ra, hệ thống báo in Mặt trận chưa khai thác được những
vấn đề “nóng bỏng, nổi cộm” mà dư luận xã hội đặc biệt quan tâm. Nhiều bài
nặng về tuyên truyền mà chưa có tính phản biện xã hội.
Do nặng tính tuyên truyền nên thông tin nhiều khi mang tính áp đặt,
khiên cưỡng, không phù hợp với tâm lý tiếp nhận của công chúng. Đây là mặt
64
trái của các tác có nội dung truyền ở nước ta. Sở dĩ khô cứng là vì đa phần các tác
phẩm đều là nhân vật người tốt việc tốt, không hề có tác phẩm nào thể hiện những
mặt còn hạn chế hay chưa hoàn thiện của lực lượng chức năng. Trong khi báo chí
cần có tính phản biện đa chiều.
3.2. Đề xuất một số giải pháp nâng cao công tác tuyên truyền, vận động
trí thức trên báo Đại đoàn kết và tạp chí Mặt trận
3.2.1 Về cơ chế chính sách
Nhà nước cần có cơ chế, chính sách hỗ trợ phù hợp tạo điều kiện cho cho sự
tuyên truyền, vận động trí thức trong xây dựng đất nước nói chung và phát triển
kinh tế - xã hội nói riêng.
Nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp, cải thiện nâng cao đời sống cho đội ngũ
cán bộ, công chức, người lao động; có cơ chế, chính sách cụ thể để hỗ trợ cho
các phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên... tham gia học tập, đào tạo, bồi
dưỡng để nâng cao trình độ về chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị.
Xây dựng môi trường làm việc chuyên nghiệp, chế độ nhuận bút phù hợp với
tình hình thực tế để đội ngũ cán bộ phóng viên yên tâm công tác và cống hiến.
Có chế độ cấp thẻ nhà Báo cho những phóng viên, tạo điều kiện thuận lợi cho
các anh chị em khi tác nghiệp.
Có hình thức khen thưởng, động viên kịp thời các nhà báo có những thành
tích xuất sắc trong công tác tuyên truyền đối với đóng góp của đội ngũ trí thức,
quan tâm hơn nữa đến việc bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của họ.
3.2.2 Về việc nâng cao chất lượng nội dung và hình thức
Giải pháp căn bản để nâng cao chất lượng tuyên truyền chính là phải ngày
càng hoàn thiện về nội dung và hình thức của nó. Nói cách khác, sức hấp dẫn của
mỗi chuyên mục, bài viết phụ thuộc vào chính nội dung và hình thức mà chương
trình đem đến cho công chúng.
65
3.2.2.1 Về nội dung:
Cần tăng cường thông tin “nóng”, những vấn đề về đội ngũ trí thức hàng
ngày hàng giờ đang diễn ra trên cả nước được xã hội quan tâm. Những tin bài phản
ánh tâm tư nguyện vọng, kiến nghị, những đóng góp của trí thức đối với phát triển đất
nước, cần được mở rộng đa dạng hơn trong chương trình.
Tăng cường các thông tin có chất lượng về phát triển nguồn lực, trí thức
làm kinh tế, chính sách dành cho đội ngũ trí thức. Thực tế số thông tin này xuất
hiện trên cả báo Đại đoàn kết và tạp chí Mặt trận chưa nhiều, trong khi thông tin
thiết thực này sẽ thu hút được đông đảo bạn đọc.
Ngoài ra, xã hội càng phát triển, nhu cầu xem, đọc của độc giả cũng thay
đổi. Vì vậy, cần xây dựng một số chuyên mục mới phù hợp với nhu cầu và tâm lý
tiếp nhận của công chúng. Với báo Đại đoàn kết cần chú trọng đến vấn đề tuyên
truyền theo thị hiếu thích hợp với công chúng trong và ngoài nước, trong khi đó, tạp
chí Mặt trận cần tập trung vào bài vấn đề, nghiên cứu về trí thức. Ngoài ra, cần loại
bỏ, thay đổi những chuyên mục không còn phù hợp, hoặc có nội dung khiên cưỡng,
nặng nề. Cần tuyên truyền một cách sâu sắc nhưng linh hoạt, mềm dẻo.
3.2.2.2 Về hình thức thể hiện:
Muốn nâng cao hiệu quả của tuyên truyền, cần chú trọng việc cải tiến hình
thức. Sẽ không thể có chuyên mục, bài viết hấp dẫn, lay động tình cảm, chuyển biến
nhận thức của công chúng nếu những thông tin và thông điệp được chứa đựng trong
một hình thức khuôn sáo, tẻ nhạt. Nhất là trong tình hình hiện nay, người làm báo in
đang đứng trước sự biến đổi và cạnh tranh không ngừng của công nghệ và xã hội.
Các đài cần sử dụng đa dạng các thể loại của báo in nói riêng và báo chí nói
chung như: tin, phỏng vấn, phóng sự, ghi nhanh, bình luận, chính luận, ghi chép, ký...
Mỗi thể loại báo chí đều sử dụng để đáp ứng một nhiệm vụ cụ thể. Việc vận dụng các
thể loại tác phẩm, tạo nên tính hấp dẫn và hiệu quả thông tin tuyên truyền đưa đến
cho khán giả những góc độ tiếp cận thông tin khác nhau. Trên thực tế, không có quy
định người làm báo phải sử dụng một thể loại báo chí theo khuôn mẫu nào. Nhưng
66
việc xác định thể loại sẽ giúp cho người làm báo tận dụng mọi khả năng để biểu đạt,
sáng tạo tác phẩm một cách tốt nhất theo ý đồ của mình.
Cần đổi mới, linh hoạt về kết cấu của bài viết theo từng đề tài chủ đề, tránh
tình trạng dập khuôn.
Tăng cường các chuyên mục có tính tương tác với độc giả. Đây là cách làm
theo xu hướng của báo in hiện đại. Ví dụ, có thể tăng cường khả năng tương tác với
khán giả, giải đáp những thắc mắc hoặc trưng cầu ý kiến qua những sự kiện, vấn đề
đưa ra thông qua các chuyên mục dành cho độc giả. Đây là cách làm mới và có sức
thu hút công chúng cao.
Chất lượng in ấn cũng có ảnh hưởng rất lớn tới tâm lý độc giả. Đối với báo
Đại đoàn kết có thể tăng cường trang in màu bắt mắt, sinh động hơn. Đối với tạp chí
Mặt trận thì cần thay đổi chất liệu giấy in cho phù hợp với 1 cuốn tạp chí hiện đại.
Tóm lại, báo Đại đoàn kết và tạp chí Mặt trận cần có sự cải thiện về hình
thức cũng như chất lượng nội dung các chuyên mục, bài viết. Bởi trong xã hội ngày
càng phát triển, trình độ dân trí của người dân ngày càng tăng lên, nhất là với Việt
kiều ở nước ngoài, phần đông sống ở các nước phát triển, họ sẽ không thể tiếp nhận
những thông tin đơn điệu tẻ nhạt cả về nội dung và hình thức. Trước sự cạnh tranh
giữa các loại hình báo chí ngày càng khốc liệt, nếu không thu hút được khán giả, sẽ
không thể tồn tại.
3.2.3 Tăng cường nguồn kinh phí, đầu tư phát triển hiện đại hóa cơ sở vật
chất kỹ thuật.
Muốn nâng cao chất lượng cho chuyên mục, bài viết tuyên truyền, vận động
cần có sự đầu tư về cơ sở vật chất đi trước một bước, cải thiện trang bị kỹ thuật,
phương tiện, kinh phí đảm bảo yêu cầu hoạt động.
3.2.3.1 Về kinh phí
Muốn xây dựng chuyên mục, bài viết có chất lượng không thể thiếu được
việc đầu tư về nguồn kinh phí. Khoản kinh phí eo hẹp đã làm hạn chế rất nhiều
trong việc xây dựng đội ngũ phóng viên, cộng tác viên chuyên biệt dành cho công
tác tuyên truyền, vận động trí thức phát triển kinh tế như về tuyển nhân sự, chế độ
67
đãi ngộ… Có bổ sung nhân lực và vật lực mới có thể tạo điều kiện cho công tác này
phát triển. Đại đoàn kết và tạp chí Mặt trận hiện này hai cơ quan tuyên truyền chính
của TWMTTQ Việt Nam, phục vụ công tác thông tin, tuyên truyền các chủ trương
chính sách của Đảng, Nhà nước nói chung về trí thức nói riêng. Bởi vậy báo Đại
đoàn kết và tạp chí Mặt trận cần phải có một cơ chế tài chính thích hợp, trong đó ưu
tiên phát triển công tác này. Có nguồn kinh phí ổn định thì báo Đại đoàn kết và tạp
chí Mặt trận sẽ chủ động hơn trong hoạt động sản xuất, nâng cao chất lượng, đảm
bảo hiệu quả hoạt động thông tin tuyên truyền trong bối cảnh toàn cầu hóa, cạnh
tranh thông tin ngày càng trở nên gay gắt.
3.2.3.2 Tăng cường phương tiện di chuyển
Do đặc thù thường xuyên phải đi công tác ở mọi miền của tổ quốc, phương
tiện đi lại có một ý nghĩa vô cùng quan trọng và được ví như “đôi chân” của các
phóng viên. Tuy nhiên, hiện nay, phóng viên, biên tập viên vẫn phải tự chủ động
trong tác nghiệp do nguồn kinh phí eo hẹp.
Trước yêu cầu cơ động nhanh nhậy của nghề báo, sự trang bị phương tiện
như vậy gây khó khăn rất nhiều trong quá trình tác nghiệp của các phóng viên...
Thậm Do đó cần trang bị phương tiện đủ để cung cấp đủ xe cho anh chị em phóng
viên chủ động tác nghiệp.
3.2.3.3 Về cơ sở vật chất kỹ thuật:
Cần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện làm việc, trang bị hệ
thống máy tính, máy ảnh kỹ thuật số hiện đại cho phóng viên tác nghiệp. Xây dựng
và phát triển kinh tế báo chí là điều kiện rất quan trọng và cần thiết để đảm bảo cho
các chuyên mục hoạt động tốt. Khuyến khích việc tăng nguồn thu từ quảng cáo, tài
trợ xây dựng chuyên mục vừa góp phần thông tin kinh tế phục vụ công chúng bạn
đọc, vừa có các khoản thu để trang bị và hỗ trợ chi trả nhuận bút thỏa đáng cho
phóng viên và cộng tác viên, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho đội ngũ cán
bộ, phóng viên.
Mở rộng phát hành báo, tạp chí trên toàn quốc, ra nước ngoài. Việc làm này
sẽ giúp các tác phẩm báo chí đến được với công chúng ở khắp nơi trên cả nước, và
kiều bào ở nước ngoài.
68
Với việc thực hiện đồng bộ các giải pháp cụ thể như trên, tác giả tin rằng có
thể khơi dậy được tinh thần sáng tạo của những người làm báo in nói chung và
những phóng viên, biên tập viên báo Đại đoàn kết và tạp chí Mặt trận nói riêng.
Tăng cường hiệu quả tuyên truyền về biển đảo trên báo chí, truyền hình.
3.2.4 Về nâng cao hệ thống nhân lực:
Nhân lực là yếu tố quyết định đến sự thành công của mọi công việc. Muốn
nâng cao chất lượng tuyên truyền, trước hết phải nâng cao trình độ đội ngũ phóng
viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có bản lĩnh chính trị vững vàng.
3.2.4.1 Tăng cường bản lĩnh chính trị, đạo đức cho phóng viên:
Nâng cao bản lĩnh chính trị của người làm báo là một vấn đề quan trọng, cần
phải đặt ra trong giai đoạn hiện nay. Chỉ thị 22 – CT/TƯ của Bộ chính trị đã chỉ rõ:
“Người hoạt động báo chí xuất bản phải theo định hướng của Đảng và pháp luật của
nhà nước, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tính chiến đấu cao, phẩm chất đạo đức
trong sáng, kiến thức trong sáng, kiến thức sâu rộng, trình độ nghiệp vụ và ngoại
ngữ ngày một nâng cao, luôn gắn bó với thực tiễn đất nước”.
Bản lĩnh chính trị của người làm báo được hình thành trên cơ sở thấm nhuần
sâu sắc chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Bản lĩnh chính trị giúp cho
người làm báo biết lựa chọn sự kiện bản chất nhất trong vô vàn sự kiện diễn ra trong
nước, quốc tế để thông tin tới công chúng. Nhờ có bản lĩnh chính trị mà người làm
truyền hình điều tiết được liều lượng, mức độ thông tin.
3.2.4.2 Nâng cao chất lượng phóng viên, biên tập viên
Cần chuyên môn hóa cho phóng viên có thể đi sâu khai thác đề tài của mình.
Nếu mỗi phóng viên kiêm nhiệm nhiều lĩnh vực thì khi tác nghiệp hầu như không
có điều kiện tìm hiểu vấn đề một cách kỹ càng, vì vậy nhiều bài viết chỉ dừng lại ở
mức độ phản ánh chứ chưa đi sâu phân tích và tìm ra giải pháp cụ thể cho từng sự
việc, chưa làm tốt nhiệm vụ định hướng dư luận của báo chí. Khi phân công phóng
viên chuyên trách thì bản thân phóng viên đó có trách nhiệm hơn với công việc
được giao, dành nhiều thời gian tìm hiểu chuyên sâu, đầu tư sáng tạo nên những tác
phẩm báo chí có giá trị đối với đời sống xã hội.
69
Ngoài ra cần nâng cao kiến thức “nền” về kinh tế một cách sâu sắc cho
phóng viên. Từ đó, họ sẽ có đủ tầm hiểu biết về công tác tuyên truyền có hiệu quả
hơn.
Tóm lại, nhân lực là yếu tố quan trọng hàng đầu, cần phải đảm bảo khi muốn
thực hiện bất cứ công việc gì. Những vị trí còn thiếu tại báo và tạp chí chính là trở
ngại cho sự phát triển công tác tuyên truyền. Việc đảm bảo nhân lực không chỉ về
số lượng mà còn về chất lượng đang là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Muốn thu
hút được nhân sự, cần đảm bảo cho họ có một chế độ đãi ngộ tốt nhất. Công tác đào
tạo và tự đào tạo cần được tăng cường, các đơn vị tạo điều kiện cho anh em đi học
bổ túc kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao trình độ.
3.2.5 Về việc khảo sát công chúng, độc giả
Nghiên cứu công chúng là một việc làm cần được chú trọng bởi công chúng
có vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các loại hình báo chí. Số lượng
độc giả chính là thước đo chất lượng và uy tín của mỗi tờ báo. Bởi vậy việc nghiên
cứu công chúng là một việc làm cần được tiến hành thường xuyên, liên tục. Đây
vừa là giải pháp trước mắt đồng thời là chiến lược lâu dài để nâng cao chất lượng
công tác tuyên truyền trên báo Đại đoàn kết và Tạp chí Mặt trận.
Việc khảo sát độc giả sẽ đem đến kết quả thiết thực nhất vì họ vừa là một
trong những đối tượng được phản ánh, vừa là người thưởng thức chương trình. Đối
tượng công chúng ở đây là 90 triệu người dân Việt Nam và 4 triệu kiều bào ở hơn
90 quốc gia và vùng lãnh thổ trên khắp thế giới. Do sự phức tạp về lứa tuổi, ngôn
ngữ, giới tính, trình độ học vấn… nên việc nắm bắt công chúng là rất khó khăn.
Thời gian qua, báo Đại đoàn kết và tạp chí Mặt trận đã có sự quan tâm nhất định
đến vấn đề khảo sát công chúng nhưng theo chúng tôi, cần phải tận dụng nhiều kênh
thông tin hơn nữa để nắm bắt tâm lý độc giả. Phải có những đợt điều tra, khảo sát
công chúng về mức độ quan tâm đến vấn đề trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã
hội để có thể rút kinh nghiệm cho công tác tuyên truyền, vận động. Từ những việc
làm chưa tốt cũng như phát huy những việc đã làm được. Đây sẽ là cơ sở để điều
70
chỉnh nội dung, hình thức, phương pháp thông tin tuyên truyền cho phù hợp với tâm
lý, tình cảm, nhu cầu tiếp nhận thông tin của độc giả.
Có một vấn đề được đặt ra hiện nay là con người của xã hội hiện đại đã và
đang chịu ảnh hưởng của rất nhiều loại thông tin từ các phương tiện thông tin đại
chúng. Con người, khi đang đọc báo, tức là đang chịu tác động của thông tin mà báo
chí mang lại. Báo chí giờ đây có thể làm thay đổi nhận thức của công chúng từ việc
làm ăn đến quan điểm chính trị, từ cách thức học hành đến vui chơi giải trí. Mức độ
chuyển biến phụ thuộc mức độ tìm đọc tác phẩm báo chí của các nhóm công chúng
và định hướng của báo chí như thế nào.
“Thực tiễn – nhà báo – tác phẩm – công chúng.” Công chúng tham gia vào
quá trình sáng tạo tác phẩm như đối tượng phản ánh và đối tượng tác động của
truyền hình, là đối tượng chủ thể của tác phẩm báo chí mà nhà báo phải tính đến.
Cần xác định rõ công chúng báo in gồm những đối tượng nào, từ đó có
hướng điều chỉnh, phục vụ thị hiếu của những nhóm đối tượng ấy. Công chúng của
báo Đại đoàn kết và Tạp chí Mặt trận là những ai? Những nhà quản lý, Nhà nghiên
cứu, doanh nhân… Nắm được thị hiếu của công chúng để từ đó phát triển chương
trình sẽ ngày càng hoàn thiện. Các chuyên mục, bài viết của báo Đại đoàn kết và
Tạp chí Mặt trận muốn thu hút được số công chúng đông đảo thì cần phải tăng
cường nội dung sao cho đa dạng, tin tức cần phải cập nhật và toàn diện. Điều đó
giúp cho công chúng thân thiết có được vốn thông tin toàn diện về các vấn đề kinh
tế - văn hóa - xã hội, lại vừa giúp thu hút các nhóm đối tượng quan tâm tới những
thông tin trên đến với báo, tạp chí.
Tóm lại, muốn phát triển báo in thì việc thiết yếu là phải tăng cường nhiên
cứu công chúng một cách chuyên nghiệp và thường xuyên. Từ đó, có thể tạo ra các
sản phẩm phù hợp với công chúng, được công chúng yêu thích và đón nhận.
3.2.6 Xây dựng chuyên mục dành cho đội ngũ trí thức
Hiện nay, ở báo Đại đoàn kết, các bài viết liên quan đến trí thức phát triển
kinh tế - xã hội đều đăng chung vào chuyên mục kinh tế. Ngoài ra, có 1 chuyên mục
Trí thức vào số Chủ nhật. Còn đối với Tạp chí Mặt trận thì các bài viết thường đăng
ở chuyên mục Tin tức – sự kiện. Chính vì vậy, khi tiến hành phỏng vấn sâu, các
71
chuyên gia đều cho rằng, phải xây dựng các chuyên mục ổn định dành riêng cho đội
ngũ trí thức. Để từ đó, hướng đối tượng người đọc vào các tác phẩm cần tuyên
truyền [Phục lục 3].
Điều đó sẽ giúp các ấn phẩm này có thêm độc giả, đảm bảo được tính thời
sự và phản ánh được các đề tài về đội ngũ trí thức một cách phong phú và đa
chiều. Từ đó tăng cường tuyên truyền, vận động trí thức, từ đó tăng cường ý thức,
trách nhiệm của đội ngũ trí thức đối với việc xây dựng đất nước nói chung và phát
triển kinh tế - xã hội nói riêng. Thực hiện thắng lợi các Nghị quyết của các kỳ Đại
hội Đảng đã đề ra.
3.3 Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lƣợng các tuyên truyền, vận
động trí thức
Từ những ưu điểm của mình, báo in giữ một vị thế vô cùng quan trọng trong
việc tuyên truyền vận động trí thức nói riêng và các chính sách của Đảng và Nhà
nước nói chung đến công chúng. Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi không
có tham vọng đưa ra đề xuất nâng cao chất lượng chung cho tất cả các báo in. Bởi
lẽ, mỗi tờ báo, mỗi hệ thống báo chí khác nhau đều có những đặc điểm riêng biệt. Ở
đây, qua việc đề xuất những biện pháp nâng cao chất lượng tuyên truyền trí thức
tham gia phát triển kinh tế - xã hội trên báo Đại đoàn kết và Tạp chí Mặt trận, chúng
tôi chỉ xin khái quát lại những biện pháp cơ bản để nâng cao chất lượng báo in Mặt
trận trong công tác tuyên truyền vận động trí thức tham gia xây dựng đất nước nói
chung và phát triển kinh tế - xã hội nói riêng. Hy vọng đây là nguồn thông tin tham
khảo hữu ích cho báo in trong việc nâng cao chất lượng tuyên truyền của mình.
3.3.1 Cần có mục tiêu, định hướng cụ thể
Các bài viết, chuyên mục tuyên truyền cần xác định mục tiêu cụ thể và định
hướng rõ ràng. Đó là cơ sở vững chắc và tiền đề cho các báo in thực hiện các
chuyên mục về đội ngũ trí thức đúng với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước.
Từ thuở sơ khai, vai trò của trí thưc đã được khẳng định, tuy nhiên công tác
tuyên truyền trên các ấn phẩm báo in nhìn chung vẫn theo từng “đợt”, giai đoạn
72
nhất định. Do vậy, cần có những chiến dịch cụ thể, dài hơi đảm bảo công tác tuyên
truyền có tính hệ thống và liên tục hơn nữa.
3.3.2 Chú trọng vào đội ngũ nhân sự:
Xây dựng đội ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập viên vững vàng về bản lĩnh
chính trị, tư cách đạo đức tốt và có “tay nghề” cao. Trí thức là đề tài nhạy cảm và
khó thực hiện, do đó yêu cầu các PV, BTV phải có quan điểm lập trường đúng đắn
và có kiến thức “nền” (về lịch sử, đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân) về trí
thức vững vàng.
Để nâng cao chất lượng tuyên truyền trí thức cần phải tăng cường và nâng
cao cả về số lượng và chất lượng hệ thống nhân sự, đây là “mắt xích” quan trọng
trong quá trình nâng cao chất lượng tuyên truyền trí thức tham gia phát triển kinh tế
- xã hội nói riêng cũng như công tác tuyên truyền trí thức nói chung.
3.3.3 Nâng cao về cơ sở vật chất
Muốn nâng cao chất lượng, chúng ta cần được chú trọng đầu tư cơ sở vật
chất đi trước một bước. Khi trang thiết bị kỹ thuật được cải thiện, hiện đại hóa sẽ
giúp cho chất lượng của bài viết, chuyên mục tăng lên.
Đổi mới, hiện đại hóa kỹ thuật nhằm giúp tiết kiệm thời gian cho quá trình
xử lý, biên tập thông tin, giúp thông tin nhanh chóng đến được với công chúng.
Trong tương lai, tòa soạn sẽ ứng dụng những phương pháp làm báo hiện đại nhất
như trang bị phương tiện tác nghiệp cho phóng viên, xử lí, thông tin…), nâng cao
chất lượng các chuyên trang, chuyên mục. Ngoài ra, việc cải thiện phương tiện đi
lại, phương tiện tác nghiệp cho PV, BTV là một việc làm cần được quan tâm.
3.3.4 Công tác quảng bá và khảo sát khán giả
Công chúng có vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của bất kỳ loại
hình báo chí nào. Với báo in, nghiên cứu công chúng là việc làm cần được tiến hành
thường xuyên, liên tục. Khảo sát công chúng sẽ cho biết họ cần gì và muốn gì để
đáp ứng. Đây là yếu tố quan trọng giúp kéo khán giả đến với báo in.
Ngoài ra, cần chú trong về công tác quảng bá. Tùy quy mô mà có phương
thức giới thiệu cho phù hợp. Có thể sử dụng quảng bá trên cùng hệ thống như báo,
đài, phương tiện thông tin đại chúng... để đông đảo độc giả biết đến báo, tạp chí.
73
Đây là một biện pháp hữu hiệu nhằm thu hút độc giả và đã được sử dụng với nhiều
báo chí ở nước ngoài. Ở Việt Nam, phương pháp này còn khá hạn chế, chưa được
phổ biến rộng rãi.
3.3.5 Nâng cao chất lượng nội dung và hình thức của chương trình
Giải pháp nâng cao chất lượng tuyên truyền, trước hết chính là ở việc hoàn
thiện nội dung và hình thức của nó. Việc nâng cao yếu tố hỗ trợ bên ngoài không có
ý nghĩa khi chương trình không có sự thay đổi ở trong bản thân nó. Do đó, cần có
sự cải thiện, đổi mới về cách thể hiện, nội dung đề tài, từ đó làm cơ sở nâng cao
chất lượng của bài viết. Cũng giống như việc xã hội không ngừng phát triển, các
chương trình cần có sự chuyển biến và thích ứng cho phù hợp nhằm đáp ứng nhu
cầu của độc giả trong thời kỳ mới.
Tóm lại, những giải pháp mà tác giả nêu ra trên đây là những yếu tố chung
nhất, là gợi ý để các tòa soạn nâng cao chất lượng của mình trên báo in. Bởi, các
vấn đề về định hướng, cơ sở vật chất, nhân lực, công chúng, nội dung – hình thức
luôn là những vấn đề then chốt của bất cứ tờ báo nào.
74
Tiểu kết chƣơng 3
Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong
tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế,
xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân
tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Ðảng và chất lượng
hoạt động của hệ thống chính trị. Ðầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho
phát triển bền vững.
Xây dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm chung của toàn xã hội, của cả hệ
thống chính trị, trong đó trách nhiệm của Ðảng và Nhà nước giữ vai trò quyết định.
Trí thức có vinh dự và bổn phận trước Tổ quốc và dân tộc, không ngừng phấn đấu
nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực chuyên môn, đóng góp nhiều nhất
cho sự phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát
huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tạo môi trường và điều
kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của trí thức. Trọng dụng trí thức trên cơ
sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến; có chính sách đặc biệt
đối với nhân tài của đất nước.
Chính vì vậy, vấn đề nâng cao chất lượng hiệu quả tuyên truyền về trí thức là
yêu cầu đòi hỏi tất yếu đối hệ thống báo in Mặt trận cũng như và đội ngũ phóng
viên, biên tập viên trực thuộc. Việc tuyên truyền các thông tin về trí thức là điều
kiện để thay đổi nhận thức và hành động của công chúng. Các biện pháp nâng cao
chất lượng tuyên truyền cũng là những biện pháp cho các báo chí ngoài hệ thống
báo in Mặt trận tham khảo. Đây cũng là bài học kinh nghiệm để các báo chí nâng
cao chất lượng trong công tác tuyên truyền trí thức của mình.
75
KẾT LUẬN
Trí thức đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như trong hội nhập kinh tế quốc tế
ngành càng sâu rộng. Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định vai trò
quan trọng của trí thức, coi trí thức yêu nước là một lực lượng cách mạng, là nhân
tài, vốn quý của dân tộc.
Đảng và Nhà nước luôn khẳng định vai trò, vị trí quan trọng của đội ngũ trí
thức trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, khẳng định ý nghĩa chiến lược
của khối liên minh công nhân, nông dân và trí thức, coi đây là nền tảng của cách
mạng Việt Nam. Đảng ta luôn nhất quán trong đường lối, chính sách đối với trí
thức. Trên cơ sở kế thừa những quan điểm của các kỳ Đại hội trước về phát triển
kinh tế tri thức, ở Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục đưa ra những quan điểm cụ thể hơn
về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong những năm
tới.
Báo chí nước ta đã thể hiện vai trò của mình qua việc dốc toàn lực trên mặt
trận tuyên truyền. Các phương tiện truyền thông đại chúng đã tích cực tham gia
tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về vận động
trí thức. Các tin bài, phóng sự, chuyên mục về trí thức tham gia phát triển kinh tế -
xã hội xuất hiện ngày càng nhiều trên các loại hình báo chí. Với nội dung và hình
thức thể hiện phong phú, báo chí đã góp phần làm chuyển biến mạnh mẽ nhận thức
người dân về vị trí, vai trò, tiềm năng của trí thức đối với sự nghiệp phát triển KT-
XH của đất nước.
1. Trong các loại hình báo chí, báo in có vai trò vô cùng đặc biệt. Báo in là
phương tiện truyền thông truyền thống có ảnh hưởng xã hội sâu rộng, là công cụ sắc
bén của Đảng và Nhà Nước, là diễn đàn của nhân dân. Với đặc điểm chuyển tải
thông tin Báo chí in bao gồm báo và tạp chí là những ấn phẩm định kỳ chuyển tải
nội dung thông tin mang tính thời sự và được phát hành rộng rãi trong xã hội. Là
76
phương tiện truyền thông hiệu quả các chức năng thông tin, tuyên truyền, giáo dục
điều hành và quản lý xã hội.
2. Hệ thống báo in Mặt trận mà ở đây là báo Đại đoàn kết và Tạp chí Mặt
trận đã đóng góp to lớn vào việc thông tin tuyên truyền trí thức, nâng cao nhận thức
của trí thức nói riêng và công chúng nói chung trong xây dựng và phát triển kinh tế
- xã hội, từ đó cải biến ý thức của công chúng đối với công tác phát triển đất nước.
Qua khảo sát trong 5 năm đối với báo Đại đoàn kết và Tạp chí Mặt trận, có thể rút
ra một số kết luận sau: Hai tờ báo, tạp chí đã định vị cho mình được vị trí riêng về
công tác tuyên truyền trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội, nhắm đến đối
tượng là lực lượng trí thức hung hậu không chỉ trong nước mà cả trí thức là kiều bào
nước ngoài đang sinh sống trên 90 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Vì những lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Báo in Mặt trận với
việc tuyên truyền, vận động trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội (giai đoạn
2010- 2013)” (do thời gian thực hiện luận văn kéo dài nên tác giả đã tiến hành khảo
sát đến năm 2014) làm đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ Báo chí nhằm góp
phần làm rõ thêm những vấn đề cơ bản xung quanh nội dung này. Trong luận văn,
chúng tôi không có tham vọng khái quát một cách toàn diện, sâu sắc về thực trạng
hoạt động tuyên truyền, vận động trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội trên cả
hệ thống báo chí Mặt trận (gồm cả báo in và báo điện tử) mà chỉ tập trung vào khảo
sát hệ thống báo in Mặt trận bao gồm báo Đại đoàn kết và Tạp chí Mặt trận, từ đó
các báo, tạp chí, ấn phẩm khác có thể tham khảo cho mình.
3. Trong luận văn này, chúng tôi đã giải quyết được một số nội dung
cơ bản sau đây:
Trong chương 1, tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn
có liên quan đến đề tài nghiên cứu. Về lý luận, luận văn đã trình bày một số khái
niệm, định nghĩa về những thuật ngữ liên quan đến đề tài, đồng thời tác giả đã đi
vào giới thiệu vị trí, vai trò của trí thức Việt Nam, Quan điểm của, Đảng, nhà nước
ta về vấn đề vấn đề trí thức cũng như tuyên truyền vận động trí thức tham gia phát
triển kinh tế - xã hội. Qua chương 1 tác giả cũng giới thiệu vài nét về 2 tờ báo, tạp
77
chí được khảo sát là báo Đại đoàn kết và tạp chí Mặt trận. Đây là cơ sở lý luận quan
trọng để đi sâu phân tích, đánh giá công tác tuyên truyền vận động trí thức tham gia
phát triển kinh tế - xã hội tên các ấn phẩm này, đồng thời, gợi mở cho việc đề xuất
những giải pháp nâng cao chất lượng tuyên truyền trong chương 3.
Trong chương 2, tác giả đã đi sâu vào vấn đề khảo sát nội dung và
hình thức tuyên truyền, vận động trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội trên
báo Đại đoàn kết và tạp chí Mặt trận. Từ kết quả khảo sát, có thể thấy rằng nội dung
tuyên truyền về trí thức là một trong những nội dung được báo chí Mặt trận quan
tâm, phản ánh. Nội dung tuyên truyền báo Đại đoàn kết và tạp chí Mặt trận đã đáp
ứng đúng và đủ yêu cầu tuyên truyền về trí thức.
Dựa vào kết quả khảo sát, tổng hợ ý kiến cũng như phân tích của chương 2,
trong chương 3, tác giả luận văn đã nêu lên một số thành công và hạn chế, nguyên
nhân của những hạn chế trong tuyên truyền trí thức báo Đại đoàn kết và tạp chí Mặt
trận. Trên cơ sở đó, đưa ra những đề xuất nâng cao chất lượng ấn phẩm được khảo
sát nói riêng và đề xuất những biện pháp nâng cao chất lượng báo in về vấn đề trí
thức nói chung. Từ việc nâng cao chất lượng hiệu quả tuyên truyền, cải thiện nhận
thức và hành động của công chúng.
4. Tác giả nghiên cứu đề tài này trước đòi hỏi bức thiết của xã hội của Đảng,
Nhà nước về những đóng góp của trí thức trong phát triển kinh tế - xã hội cũng như
hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới. Báo in với tư cách là kênh truyền thông
phổ biến, hiệu quả đã có những đóng góp lớn cho đất nước về mảng đề tài này.
Đồng thời, do thực tiễn tuyên truyền về trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng do hạn chế về điều kiện khảo sát, đồng
thời gặp những trở ngại khách quan như: Việc lưu trữ thông tin, tư liệu,… được
khảo sát hầu như rất ít, nên việc khảo sát của chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn và
không được như mong muốn, nên việc tìm hiểu, khảo sát thông tin để có những
đánh giá mang tính hệ thống cũng gặp nhiều khó khăn. Nhưng với những kết quả
nghiên cứu bước đầu, tác giả luận văn hy vọng đóng góp thêm được các cứ liệu xác
78
thực và điểm nhìn ở góc độ hẹp về một vấn đề trong thực tiễn rất phong phú và sinh
động của hoạt động báo chí.
Với tâm huyết và trách nhiệm, tác giả luận văn đã lao động nghiêm túc để
hoàn thành công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, do trình độ còn nhiều hạn chế, nhất là
những hiểu biết về thực trạng tuyên truyền trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã
hội chưa đầy đủ, cũng như chưa có nhiều kinh nghiệm khi nghiên cứu khoa học nên
chắc chắn rằng luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, sơ suất. Chính vì thế,
tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn
đồng nghiệp, giúp tác giả rút ra những kinh nghiệm quý báu, bổ ích cho bản thân
trên con đường nghiên cứu khoa học và hoạt động báo chí sau này.
Hà Nội, tháng 9.2015
79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Sách tiếng việt:
1. Ban chấp hành Trung ương ương khóa VIII, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội
2001 – 2010 (Báo cáo tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng)
2. Ban chấp chấp hành Trung ương ương khóa VIII, Chiến lược phát triển kinh tế
xã hội 2001 – 2010 (Báo cáo tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng).
3. Ban Tuyên giáo Trung ương (2007); Tài liệu nghiên cứu các Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 5, khoá X; NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội
4. Bùi Như Ý chủ biên (2008) Đại từ điển tiếng Việt, NxbVăn hoá – Thông tin, Hà
Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần
thứ VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc
lần thứ X, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, NXB Sự thật, Hà Nội.
11. Dương Xuân Sơn - Đinh Văn Hường - Trần Quang (2005), Cơ sở lý luận báo
chí truyền thông, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
12. Đinh Văn Hường (2007), Các thể loại báo chí thông tấn, NXB Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
13. Đinh Văn Hường (2004), Tổ chức và hoạt động toà soạn, NXB Đại học Quốc
Gia, Hà Nội.
80
14. Đinh Văn Mậu - Phạm Hồng Thái - Nguyễn Anh Tuấn - Phạm Bính - Đặng
Khắc Ánh (1997), Chính trị học đại cương, NXB Thành Phố Hồ Chí Minh.
15. Hà Minh Đức (2010), C.M ác – Ph.Ăngghen –V.I. L ênin với báo chí, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
16. Hà Minh Đức (2000), Cơ sở lý luận báo chí - Đặc tính chung và phong cách,
NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
17. Hoàng Hải (chủ biên) (2011), Tạp chí Mặt trận 10 năm phát triển, NXB Văn
hoá Thông tin, Hà Nội.
18. Hoàng Tùng (2001), Những bài báo chính luận, NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
19. Hiến Pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1993), NXB Tư Pháp,
Hà Nội
20. Luật Báo chí và các văn bản hướng dẫn thi hành (2004), NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
21. Luật Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam (2009), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22. Ngọc Đản (1995), Báo chí với sự nghiệp đổi mới, NXB Lao động, Hà Nội.
23. Nguyễn Đức Tài (2005), Tuyển tập Tác giả và Tác phẩm Văn học Cổ-Trung
đại Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
24. Nguyễn Văn Dững (2011), Báo chí và dư luận xã hội, NXB Lao động, Hà Nội.
25. Nguyễn Văn Dững (2011), Báo chí truyền thông hiện đại, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội.
26. Nguyễn Văn Dững – Hoàng Anh (2003); Nhà báo, bí quyết, kỹ năng, nghề
nghiệp; NXB Lao động, Hà Nội.
27. Tạ Ngọc Tấn (2001), Truyền thông đại chúng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
28. Trần Quang (2007), Các thể loại báo chí chính luận, NXB Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
29. Trần Thế Phiệt, Lịch sử nghiên cứu lý luận báo chí ở Việt Nam, Tài liệu tham
khảo dành cho đào tạo sau đại học, Học viện báo chí và tuyên truyền, Hà Nội.
81
30. Vũ Duy Thông (chủ biên) (2004); Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh bàn về
báo chí, xuất bản, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
31. Vũ Quang Hào (2001), Ngôn ngữ báo chí, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
II. Sách tiếng nƣớc ngoài dịch ra tiếng Việt:
32. Claudia Mast (2007), Truyền thông đại chúng những kiến thức cơ bản, NXB
Thông tấn, Hà Nội.
33. E.P.Prôkhôrốp (2004), Cơ sở lý luận báo chí, tập 1,2, NXB Thông tấn, Hà Nội.
34. G.V.Lazutina (2003), Cơ sở hoạt động sáng tạo của nhà báo, NXB Thông tấn,
Hà Nội.
35. G.V.Lazutina (2004), Những vấn đề cơ bản của đạo đức nghề nghiệp nhà báo,
NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội.
36. Jack Hart (2007), Huấn luyện của người viết báo, NXB Thông tấn, Hà Nội.
37. V.I.Lênin (1970), Vấn đề báo chí, NXB Sự thật, Hà Nội.
38. V.I.Lênin toàn tập (1978), NXB Tiến bộ, Matxcơva.
III Tài liệu khác:
39. Tạp chí Mặt trận từ năm 2010 – 2013
40. Báo Đại đoàn kết từ năm 2010 – 2013.
41. Website Mattran.org.vn từ năm 2010 – 2013.
42. Các bài báo trên các báo và tạp chí lý luận và đề tài khoa học:
1. TS Hoàng Hải (2010), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt
trận tổ quốc, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 11: 24, 25, 30
2. Hoàng Hải (2013) Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam với công tác vận động trí thức
trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Mặt trận – đề tài cấp Bộ, Hà Nội, tr.9
3. Thu Huyền (2011), Hội Liên hiệp trong Phụ nữ Việt Nam trong việc thúc
đẩy sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý, Tạp chí Xây
dựng Đảng, số 3: 14-17
4. Để báo chí cách mạng nước ta luôn làm tròn chức năng và sứ mệnh cao cả,
Tạp chí Xây dựng Đảng, số 2+3/2007: 9-13
82
5. Ths Trương Thị Mỹ Trang (2007), Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 2+3:
18,19, 67
6. Lê Văn Thiềng (2007), Người làm báo Việt Nam học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 6: 4,5,23
7. Sự lãnh đạo của Đảng – nhân tố quyết định sự phát triển của nền báo chí
nước ta, Tạp chí Xây dựng Đảng, số tháng 9/2005: 3,4,5,22
- Huỳnh Đảm (2011), Phát huy vai trò giám sát và phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, góp phần thực hiện thắng lợi nghị quyết đại
hội XI của Đảng, Tạp chí Cộng sản, số 829, tháng 11: 23-26
- Lê Mã Lương, Trí thức và vai trò của trí thức trong hội nhập kinh tế quốc
tế, Tạp chí Mặt trận, số 55
43. Website:
- Website Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (www.cpv.org.vn):
+ Bài: “Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VI, từ
ngày 12 đến ngày 27/3/1990”.
+ Bài: “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”, Lược ghi bài nói của đồng chí Phùng Hữu Phú, Uỷ
viên Trung ương Đảng, Phó trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung
ương tại Hội nghị Báo cáo viên trực tuyến ngày 22/7/2008.
+ Bài: “Xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam ngang tầm với yêu
cầu, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới”.
+ Bài: “Nghị quyết về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”.
- www.mattran. org.vn
- http://vi.wikipedia.org/wiki/Tri thức Bách khoa toàn thư mở Wikipedia/
định nghĩa trí thức, truy cập ngày 21/9/2014
83
44. Các khoá luận và luận văn:
- Báo Nhân dân với vấn đề nâng cao phẩm chất năng lực Đảng viên, Khoá
luận, Lưu Thị Lệ Thuý, K41, Khoa Báo chí, Trường ĐH Khoa học xã hội và
nhân văn.
- Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo NQ Trung ương 6 lần 2, Khoá
luận, Hoàng Nam, TC 2, Khoa Báo chí, Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân
văn.
- Báo chí tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về kinh
tế - xã hội miền núi, Khoá luận, Chu Thuý Ngà, K43, Khoa Báo chí, Trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.
- Báo chí với vấn đề tuyên truyền về công tác phát triển Đảng trong thanh
niên, Khoá luận, Nguyễn Phương Hoa, K42, Khoa Báo chí, Trường Đại học
Khoa học xã hội và Nhân văn.
- Nhiệm vụ của báo Đảng trong thời kỳ đổi mới, Khoá luận, Đỗ Thị Thái Hoà,
TC 4, Khoa Báo chí, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn.
- Báo chí với vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý ở cơ sở, Luận
văn thạc sỹ, Trần Thị Thu Thuỷ, 2008, Khoa Báo chí, Trường Đại học Khoa
học xã hội và Nhân văn.
- Giải pháp nâng cao hiệu quả tuyên truyền về lý luận và thực tiễn của Tạp chí
Mặt trận, đề tài nghiên cứu khoa học cấp viện, Chủ nhiệm đề tài Nguyễn Thu
Thảo, 2011.
- Đánh giá của bạn đọc về Tạp chí Mặt trận, Khoá luận, Nguyễn Việt Phương,
2011, Khoa Xã hội học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn.
- Cách thức tổ chức thông tin của Tạp chí Mặt trận, Luận văn thạc sỹ, Nguyễn
Thị Thu Thảo, 2011, Học viện Báo chí và tuyên truyền).
45. Chỉ thị 08 của Bộ Chính trị khóa VII về tăng cương công tác quản lý báo chí
và xuất bản;
46. Chỉ thị Chỉ thị số 22-CT/TW của Bộ Chính trị tiếp tục đổi mới và tăng cường
sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản; ngày 17-10-1997
84
47. Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 6/8/2008 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
85
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
Thống kê thể loại tin bài và thể loại tin bài trên báo Đại đoàn kết về đề tài
tuyên truyền, vận động trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội (từ 2010 - 2014)
Thời gian Thể loại (Từ năm 2010-2015)
Tổng số 376 (100%)
Tin 207 (55.05%)
Phỏng vấn 52 (13.83%)
Phản ánh 117 (31.11%)
Chính luận 0 (0%)
Bảng 2.3: Thống kê thể loại tác phẩm trên báo Đại đoàn kết về đề tài tuyên truyền,
vận động trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội (từ 2010 - 2014)
Phụ lục 2
Thống kê thể loại tin bài và thể loại tin bài trên Tạp chí Mặt trận về đề tài
tuyên truyền, vận động trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội (từ 2010 - 2014)
Thời gian Thể loại (Từ năm 2010-2014)
Tổng số 27 (100%)
Bình luận 15 (55,85%)
Tin 13 (44,14%)
Thể loại khác 01 (1%)
Bảng 2.4: Thống kê tỉ lệ thể loại tác phẩm về đề tài tuyên truyền, vận động trí thức
tham gia phát triển kinh tế xã hội (từ 2010 - 2014)
Phụ lục 3
Biên bản hỏi và trả lời phỏng vấn sâu
(mẫu dành cho cán bộ quản lý và mẫu cho phóng viên)
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU
(Mẫu dành cho những nhà nghiên cứu, cán bộ lãnh đạo, quản lý)
Kính chào: Quý ông/bà.
Tôi là Hà Thị Bích Thủy – Học viên Cao học báo chí K16, trường đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc Gia Hà Nội. Hiện đang thực hiện đề
tài Luận Văn tốt nghiệp: “Báo in Mặt trận với việc tuyên truyền, vận động trí thức
tham gia phát triển kinh tế - xã hội (giai đoạn 2010-2014).
Để phục vụ mục đích nghiên cứu đề tài, tôi mong muốn nhận được từ quý
ông/bà những ý kiến chia sẻ của mình thông qua các câu hỏi phỏng vấn sau đây. Ý
kiến của ông/bà sẽ chỉ được dùng vào mục đích nghiên cứu khoa học. Chúng tôi
cam kết sẽ giữ bí mật hoàn toàn các thông tin cá nhân của quý ông/bà trong trường
hợp quý vị không muốn tiết lộ danh tính. Với nghiên cứu này sẽ không có câu trả
lời nào là đúng hay sai, mọi ý kiến của ông/bà đều hữu ích cho việc phân tích và
đánh giá vấn đề của luận văn.
--------------------------------------------------------------
Câu 1: Thưa ông, ông đánh giá công tác như thế nào về công tác tuyên truyền, vận
động trí thức đối với phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong những năm qua?
Câu 2: Với điều kiện hội nhập kinh tế, quốc tế sâu rộng như hiện nay thì chúng ta
nên làm gì để tăng cường hiệu quả tuyên truyền, vận động trí thức tham gia phát
triển kinh tế - xã hội.
Câu 3: Ông đánh giá như thế nào về những nội dung về tuyên truyền trí thức tham
gia phát triển kinh tế - xã hội trên hệ thống báo in Mặt trận?
Câu 4: Ông đánh giá như thế nào về những nội dung chuyên biệt về tuyên truyền
trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội (về số lượng, chất lượng tuyên truyền)?
Câu 5: Ông có thể cho biết những đề xuất để nâng cao chất lượng tuyên truyền, vận
động trí thức tham gia phát triển kinh tế, xã hội ở báo Đại đoàn kết và Tạp chí Mặt
trận nói riêng cũng như trên hệ thống báo chí của UBMTTQ Việt Nam nói chung?
Xin chân thành cảm ơn sự cộng tác quý báu của quý Ông (bà)!
Tác giả luận văn: Hà Thị Bích Thủy. ĐT: 0984. 92.66.99
Email: hathuy226@gmail.com
TRẢ LỜI CỦA PGS. TS PHẠM ĐỨC SANG
ỦY VIÊN TRUNG ƢƠNG MTTQVN-TỔNG BIÊN TẬP TẠP CHÍ
NGHE NHÌN
Câu 1: Thưa ông, ông đánh giá công tác như thế nào về công tác tuyên
truyền, vận động trí thức đối với phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong
những năm qua?
Trả lời: Theo tôi, đội ngũ trí thức Việt Nam đã từng đóng góp rất lớn trọng
lịch sử Việt Nam. Để phát huy hơn nữa vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam, tháng
7/2008, Hội nghị Trung ương 7, khóa X Đảng Cộng sản Việt Nam đã có Nghị quyết
về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa
– hiện đại hóa đất nước.
Đội ngũ trí thức Việt Nam khá hùng hậu, hiện có 70-80% công chức trong
chính quyền Trung ương đã có trình độ đại học, tỷ lệ này là 50% ở tuyến quận,
huyện. Đó là chưa kể đến đội ngũ trí thức hùng hậu đang sinh sống và làm việc ở
nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn cầu. Những người thuộc tầng lớp trí thức
thường có sức sáng tạo cao, có đầu óc khái quát và tư duy trừu tượng.
Trên cơ sở tiếp tục khẳng định con người là yếu tố trung tâm của quá trình
phát triển kinh tế – xã hội mà các kỳ Đại hội của Đảng cộng sản Việt Nam đã đặt ra,
Đại hội lần thứ XI của Đảng đã đề ra mục tiêu tổng quát là đến năm 2020, nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại. Để đạt được mục tiêu
đó, phải xác định đúng khâu đột phá, trong đó phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất
là nguồn nhân lực chất lượng cao trong đó phải kể đến đội ngũ trí thức. Chính vì vậy,
những năm qua, công tác tuyên truyền, vận động trí thức tham gia vào phát triển kinh
tế - xã hội, xây dựng đất nước cũng được quan tâm, trú trọng.
Câu 2: Với điều kiện hội nhập kinh tế, quốc tế sâu rộng như hiện nay thì
chúng ta nên làm gì để tăng cường hiệu quả tuyên truyền, vận động trí thức tham
gia phát triển kinh tế - xã hội?
Thực tế lịch sử đã chứng minh những quốc gia nào biết dựa vào
nguồn lực con người thì luôn giữ được tốc độ phát triển và ổn định. Trong xu thế
toàn cầu hóa với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, nhất là công
nghệ thông tin và truyền thông, với sự phổ biến của Internet, với sự tiến nhanh
đến nền kinh tế tri thức thì vai trò và trách nhiệm của trí thức là rất lớn lao. Xây
dựng đội ngũ trí thức đáp ứng với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước được coi là một trong những nội dung quan trọng trong “Đề án Nghị quyết
Trung ương 7”.
Hơn bao giờ hết, Nhà nước cần có hoạch định chiến lược phát triển đội ngũ
trí thức trên cơ sở tầm nhìn chiến lược, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại,
và từ tình hình thực tế của Việt Nam. Cần đẩy mạnh, đầu tư cho giáo dục đào tạo
nhằm phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài có trình độ cao cả về số lượng,
chất lượng. Nhanh chóng đào tạo đội ngũ trí thức của các ngành, đặc biệt là các
ngành công nghệ cao, công nghệ mũi nhọn. Nhà nước cần có sự liên kết, mở rộng
hợp tác với nước ngoài trong việc đào tạo nhân tài.
Câu 3: Ông đánh giá như thế nào về vai trò của hệ thống báo in thuộc
UBTWMTTQ trong việc tuyên truyền, vận động trí thức tham gia phát triển kinh
tế - xã hội so với hệ thống báo chí khác như thế nào?
Tôi đánh giá cao vai trò của báo chí của Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam
trong đó có báo in đối với việc vận động tầng lớp trí thức tham gia phát triển kinh tế -
xã hội. Giống như nền báo chí thế giới, báo in ở Việt Nam vẫn đóng vai trò vô cùng
quan trọng trong công tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân. Nó không
chỉ ưu việt dễ đọc, lưu giữ được lâu. Theo dõi báo chí, tôi thấy báo in đã làm tốt công
tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp tham gia phát triển kinh tế - xã hội thông qua
các tấm gương doanh nhân làm kinh tế; các cuộc vận động như Người Việt Nam ưu
tiên dùng hàng Việt Nam;… Điều đó đã thỏa mãn sự quan tâm của công chúng về
tình hình phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời định hướng dư luận tập trung xung
quanh vấn đề này.
Hồ Chí Minh đã nói “ Báo chí là mặt trận và người làm báo cũng là những
chiến sỹ trên mặt trận ấy”. Do đó với 4500 nhà báo được cấp thẻ ở Việt Nam tôi
đánh giá chung là đều nhận thức tốt về vấn đề phát triển kinh tế, xây dựng đất nước.
Đáng tuyên dương, các phóng viên đã kịp thời theo sát các chương trình vận động,
tuyên truyền giới trí thức phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng tiến trình hiện đại hóa
đất nước. Các nhà báo của chúng ta đang theo dõi mảng kinh tế cần tiếp tục rèn
luyện lập trường vững vàng để có nhận thức đúng, từ nhận thức đúng sẽ có hành
động đúng về vấn đề này.
Tôi cũng xin đóng góp thêm ý kiến, đó là hội nhà báo nên có hoạt động
mạnh mẽ hơn nữa nhằm nâng cao công tác tuyên truyền, vận động tầng lớp trí thức
trong xây dựng và phát triển đất nước.
Nhà nước nên đầu tư thêm vào công tác này, có thể xây dựng các chuyên
trang, chuyên mục dành cho trí thức trên các báo kinh tế. Từ đó thúc đẩy công tác
tuyên truyền, vận động trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội.
Câu 4: Ông đánh giá như thế nào về những nội dung về tuyên truyền trí
thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội trên hệ thống báo in Mặt trận?
Tôi rất hoan nghênh những chuyên mục, chuyên trang dành riêng cho trí
thức. Tôi có theo dõi cả báo Đại Đoàn kết và Tạp chí Mặt trận, tôi nhận thấy, công
tác tuyên truyền, vận động trí thức đóng góp xây dựng đất nước nói chung, trí thức
làm kinh tế nói chung trên báo in của TWMTTQVN nói riêng có nội dung đáng
quan tâm và tìm đọc. Nếu như những bài viết tuyên truyền, vận động trí thức trên
báo Đại Đoàn kết xuất phát từ thực tiễn đời sống thì các bài viết trên Tạp chí Mặt
trận lại là những bài sự kiện, vấn đề có tính tổng hợp, khái quát cao. Nhưng nội
dung này đóng vai trò vô cùng quan trọng trong công tác tuyên truyền, vận động trí
thức tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội.
Câu 5: Ông có thể cho biết những đề xuất để nâng cao chất lượng tuyên
truyền, vận động trí thức tham gia phát triển kinh tế, xã hội ở báo Đại đoàn kết
và Tạp chí Mặt trận nói riêng cũng như trên hệ thống báo chí của UBMTTQ Việt
Nam nói chung?
Tôi đánh giá cao báo in Mặt trận trong việc nỗ lực tuyên truyền, vận động trí thức
và cũng xin có chút ý kiến đóng góp như sau:
- Thứ nhất, cần chú trọng hơn nữa công tác tuyên truyền vận động trí thức
nói chung. Tăng cường xây dựng thêm các chuyên trang, chuyên mục dành cho trí
thức Việt Nam. Đồng thời nên tăng số trang trong báo và tạp chí dành cho công tác
này.
- Thứ 2, bản thân báo Đại Đoàn kết và Tạp chí Mặt trận nên chú trọng thêm
vào chất lượng bài viết, tăng cường bài viết đi sâu vào phân tích, đánh giá, ko cần
tập trung vào việc nêu lại sự kiện. Chính vì đối tượng tuyên truyền là trí thức nên
phải hết sức chú trọng vào nội dung. Có thể có 100 số có bài viết, thông tin hay
nhưng 1 số làm dở cũng có thể khiến trí thức không còn quan tâm nữa. Đó là điều
mà những người thực hiện chuyên trang, chuyên mục nên lưu ý.
TRẢ LỜI CỦA PGS.TS BÙI XUÂN ĐỨC
- NGUYÊN VIỆN TRƢỞNG VIỆN NGHIÊN CỨU MẶT TRẬN, ỦY
BAN TRUNG ƢƠNG MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
Câu 1: Thưa ông, ông đánh giá công tác như thế nào về công tác tuyên
truyền, vận động trí thức đối với phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong
những năm qua?
Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định vai trò quan trọng của trí
thức, coi trí thức yêu nước là một lực lượng cách mạng, là nhân tài, vốn quý của dân
tộc.
Từ năm 1986 trở lại đây, đất nước ta tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng ta
nhận thức sâu sắc về vai trò quan trọng của đội ngũ trí thức, coi trí thức là động lực
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế.
Đảng ta khẳng định việc phát triển, xây dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm của các
cấp uỷ Đảng, của các bộ, ban ngành, các địa phương. Từ nhận thức đó, Đảng, Nhà
nước ta rất quan tâm đến phát triển khoa học và công nghệ, coi đây là khâu then
chốt trong quá trình phát triển đất nước.
Đảng và Nhà nước luôn khẳng định vai trò, vị trí quan trọng của đội ngũ trí
thức đồng thời, nhất quán trong đường lối, chính sách đối với trí thức.
Câu 2: Với điều kiện hội nhập kinh tế, quốc tế sâu rộng như hiện nay thì
chúng ta nên làm gì để tăng cường hiệu quả tuyên truyền, vận động trí thức tham
gia phát triển kinh tế - xã hội?
Theo tôi, để thực hiện điều đó, Nhà nước cần đổi mới cơ chế, chính sách sử
dụng, đãi ngộ thỏa đáng, tôn vinh trí thức để thu hút trí thức, nhân tài trong và ngoài
nước phục vụ đất nước. Cần tạo những điều kiện cần thiết, tốt nhất để họ nghiên
cứu, triển khai công nghệ, phát huy tối đa trí tuệ và năng lực của mỗi cá nhân, tập
thể và của đội ngũ trí thức. Đồng thời Nhà nước hoạch định và hoàn thiện cơ chế,
hệ thống pháp luật, chủ động hội nhập quốc tế, tạo điều kiện cho các nhà khoa học
là Việt kiểu và người nước ngoài làm việc, nghiên cứu, khai thác thông tin, trao đổi
học tập, khảo sát thực tế tại Việt Nam.
Nhà nước cần cải tổ lại hệ thống quản lý và tổ chức nghiên cứu khoa học, triển
khai công nghệ theo hướng tiếp cận với trình độ của thế giới, tìm ra cách đi có hiệu
quả bảo đảm đúng quy luật phát triển, phù hợp với Việt Nam nhằm rút ngắn được
thời gian và khoảng cách với các nước phát triển.
Câu 3: Ông đánh giá như thế nào về vai trò của hệ thống báo in thuộc
UBTWMTTQ trong việc tuyên truyền, vận động trí thức tham gia phát triển kinh
tế - xã hội so với hệ thống báo chí khác như thế nào?
Ở Đại hội XI, Đảng ta đã đưa ra những phương hướng rất cụ thể để đẩy mạnh
phát triển kinh tế tri thức. Đảng đã nhận định phát triển giáo dục, đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực và khoa học công nghệ là cơ sở, là nền tảng quan trọng để phát triển
kinh tế tri thức: “Phát triển kinh tế tri thức trên cơ sở phát triển giáo dục, đào tạo,
khoa học, công nghệ, xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng khoa học, công nghệ trước
hết là công nghệ thông tin, truyền thông, công nghẹ tự động, nâng cao năng lực
nghiên cứu - ứng dụng gắn với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao”. Đây là
phương hướng tổng quát, vừa có ý nghĩa trước mắt, vừa có định hướng lâu dài trong
mục tiêu phát triển kinh tế tri thức.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (gồm các tổ chức thành viên) dựa vào những chủ
trương của Đảng, chính sách của Nhà nước để thực hiện công tác vận động trí thức
ở các ngành, các địa phương và ở nước ngoài. Đối với Mặt trận địa phương còn tùy
thực tế vận dụng chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền để công tác này phù hợp với địa
phương.
Câu 4: Ông đánh giá như thế nào về những nội dung về tuyên truyền trí thức
tham gia phát triển kinh tế - xã hội trên hệ thống báo in Mặt trận?
Trước tiên, cá nhân tôi hoan nghênh chủ trương tuyên truyền trí thức đối với
phát triển kinh tế xã hội. Đồng thời đánh giá cao sự nỗ lực của phóng viên, biên tập
viên, tòa soạn tổ chức thực hiện nhiệm vụ này bởi đây là vấn đề không mới nhưng
lại khá khó khai thác nếu không hiểu về nhiệm vụ cũng như trách nhiệm trong công
tác tuyên truyền.
Tuy nhiên cũng phải nói thêm, hiện nay công tác tuyên truyền, vận động
chưa thực sự đag dạng về hình thức cũng như nội dung. Công tác vận động, tuyên
truyền còn dàn trải, chưa tập trung vào một nội dung nhất định, chính vì vậy, hiệu
quả tuyên truyền chưa thực sự cao.
Câu 5: Ông có thể cho biết những đề xuất để nâng cao chất lượng tuyên
truyền, vận động trí thức tham gia phát triển kinh tế, xã hội ở báo Đại đoàn kết và
Tạp chí Mặt trận nói riêng cũng như trên hệ thống báo chí của UBMTTQ Việt Nam
nói chung?
Đảng đã có Nghị quyết Trung ương 7 về xây dựng và phát huy vai trò của
đội ngũ trí thức trọng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết
đánh giá cao vai trò của đội ngũ trí thức và những quan điểm lớn trong xây dựng
đội ngũ trí thức trong những năm tới. Chính vì vậy, để sớm biến những chủ trương
đúng đắn trong Nghị quyết thành hành động thực tiễn trong hoạt động của Đảng,
Nhà nước thì theo tôi cần tập trung về các vấn đề sau:
Về phía nội dung, phóng viên, biên tập viên thực hiện chuyên mục, bài viết
tuyên truyền trí thức nên lưu ý. Bám sát định hướng của Đảng, Nhà nước về vai trò
của trí thức, đồng thời tuyên truyền về những đóng góp, cũng như đề xuất của đội
ngũ trí thức trong phát triển kinh tế xã hội; Tuyên truyền trong công tác nâng cao,
phát triển nguồn nhân lực. Tuyên truyền về hoạt động khoa học của trí thức trong
quá trình phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Xây dựng thêm các chuyên trang, chuyên mục trên báo dành riêng cho trí
thức, những đóng góp của trí thức đối với phát triển đất nước nói chung và kinh tế -
xã hội nói riêng. Đặc biệt, theo tôi nên xây dựng các chuyên trang, chuyên mục
dành cho trí thức trong hội nhập kinh tế quốc tế đang ngày càng sâu rộng.
TRẢ LỜI CỦA GS NGUYỄN QUANG HƢNG
- ỦY VIÊN ĐOÀN CHỦ TỊCH TRUNG ƢƠNG MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM
Câu 1: Thưa ông, ông đánh giá công tác như thế nào về công tác tuyên
truyền, vận động trí thức đối với phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong những
năm qua?
Quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam gắn liền với sự phát triển của
đội ngũ trí thức. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ năm 1930 đến
nay, trí thức Việt Nam luôn là một lực lượng của cách mạng, luôn xung kích đi đầu
trên mặt trận khoa học công nghệ và văn hoá. Trí thức Việt Nam không chỉ là lực
lượng sản xuất trực tiếp mà còn làm nhiệm vụ quan trọng là nghiên cứu, tổng kết,
khám phá, truyền bá, trao truyền kinh nghiệm cho các thế hệ nối tiếp.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là công cuộc đổi mới, trí
thức Việt Nam góp phần quan trọng trong tiến trình xây dựng đất nước theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần thay đổi bộ mặt xã hội, nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần cho nhân dân.
Bước sang thế kỷ XXI, thế kỷ của khoa học công nghệ, trước xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế, trí thức Việt Nam càng có vai trò quan trọng đặc biệt. Họ không chỉ
là một lực lượng tiêu biểu cho nguồn trí tuệ của dân tộc, mà còn là một động lực
trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội, phát triển văn hóa, phát triển con người và
tạo nguồn nhân lực có kiến thức. Mặt khác, trí thức còn là nhân tố quyết định đến sự
phát triển nhanh chóng và bền vững của nước ta trong quá trình thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nghị quyết Trung ương 7 đã đề cao vai trò của trí thức trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính vì vậy, theo tôi, những năm qua, Đảng,
Nhà nước quán triệt thực hiện công tác vận động trí thức trong xây dựng đất nước
nói chung và trong phát triển kinh tế - xã hội nói riêng.
Câu 2: Với điều kiện hội nhập kinh tế, quốc tế sâu rộng như hiện nay thì
chúng ta nên làm gì để tăng cường hiệu quả tuyên truyền, vận động trí thức tham
gia phát triển kinh tế - xã hội?
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 9, khóa X đã tổng kết 10 năm
thực hiện cộng tác cán bộ, đã đề ra những yêu cầu, nhiệm vụ mới tất quan trọng để
thực hiện chiến lược công tác cán bộ theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 3, khóa VIII về Chiến lược cán bộ phục vụ sự nghiệp cộng nghiệp hóa và hiện
đại hóa.
Một thời gian nữa, sau khi tháo khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, Việt
Nam sẽ bước vào một giai đoạn lịch sử mới, giai đoạn tiếp tục đổi mới chính trị,
đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường và hội
nhập, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển bền vững.
Chính vì vậy, muốn thực hiện được công tác tuyên truyền, vận động trí thức,
trước tiên người làm công tác tuyên truyền cần nắm rõ được vị trí, vai trò của người
trí thức đối với phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, người làm công tác tuyên
truyền là những phóng viên, biên tập viên phải nắm rõ chủ trương, chính sách của
Đảng Nhà nước đối với trí thức.
Để công tác tuyên truyền vận động trí thức có hiệu quả thì không cách nào
khác phải nâng cao chất lượng của đội ngũ tuyên truyền. Có thế, việc tuyên truyền
vận động mới đạt được kết quả tốt.
Câu 3: Ông đánh giá như thế nào về vai trò của hệ thống báo in thuộc
UBTWMTTQ trong việc tuyên truyền, vận động trí thức tham gia phát triển kinh
tế - xã hội so với hệ thống báo chí khác như thế nào?
Hệ thống báo chí Mặt trận từ lâu đã có một vai trò hết sức quan trọng
trong việc tuyên truyền các chủ trương, quan điểm, giải pháp của Đảng và Nhà
nước. Đồng thời, hệ thống báo chí Mặt trận nhận thức rất rõ ý nghĩa của vận động
giới trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội. Tổ chức nhiều chuyên đề và các
hoạt động thiết thực trong công tác này.
Câu 4: Ông đánh giá như thế nào về những nội dung về tuyên truyền trí thức
tham gia phát triển kinh tế - xã hội trên hệ thống báo in Mặt trận?
Công tác tuyên truyền, vận động trí thức đốivới phát triển kinh tế xã hội theo
tôi là vô cùng. Với hàng trăm bài viết, hệ thống báo in của TƯMTTQVN đã làm
tròn chức năng nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó. Đặc biệt trong thời điểm
hiện nay, công tác này đã và đang phát huy mạnh mẽ vai trò của mình.
Tuy nhiên số lượng bài viết cần được tăng lên nhiều hơn nữa để bắt kịp xu
hướng. Hiện nay chương trình có thể chuyển từ một tháng hai số thành một tuần hai
số, thậm chí có thể làm một ngày một số để phù hợp với sự nóng bỏng của vấn đề
hiện nay. Thời lượng của chương trình từ 30 phút giảm xuống còn 15 phút với mật
độ phát sóng tăng lên sẽ tạo điều kiện cho chương trình cập nhật và thời sự hơn.
Câu 5: Ông có thể cho biết những đề xuất để nâng cao chất lượng tuyên
truyền, vận động trí thức tham gia phát triển kinh tế, xã hội ở báo Đại đoàn kết và
Tạp chí Mặt trận nói riêng cũng như trên hệ thống báo chí của UBMTTQ Việt Nam
nói chung?
Đề xuất thứ nhất của tôi là chúng ta có thể nâng cao chất lượng đội ngũ
phóng viên, biên tập viên, xây dựng chuyên mục mang tính định kỳ, chú trọng đầu
tư vào các cơ sở hạ tầng tạo sức hút đối với công chúng cả nội dung lẫn hình thức
thể hiện. Những bài viết về trí thức làm kinh tế có thêm và xuất hiện nhiều hơn nữa,
góp phần tuyên truyền vận động trí thức vào phát triển đất nước nói chung và xây
dựng kinh tế nói riêng.
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU
(Mẫu dành cho đối tƣợng là phụ trách báo Đại Đoàn kết và Tạp chí Mặt trận)
Kính thƣa quý ông/bà.
Chúng tôi đang thực hiện một đề tài nghiên cứu với cấp độ Luận Văn Thạc
sỹ Báo chí học có tiêu đề: “Báo in Mặt trận đối với việc tuyên truyền, vận động trí
thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội (giai đoạn 2010-2013)”. Với việc khảo sát,
đánh giá thực trạng công tác tuyên truyền, vận động trí thức tham gia phát triển kinh
tế - xã hội, chúng tôi mong muốn có một cái nhìn tổng quát về ưu nhược điểm,
hướng đến những giải pháp tích cực nhằm nâng cao chất lượng công tác tuyên
truyền, vận động này trên hệ thống báo in Mặt trận (Báo Đại đoàn kết và Tạp chí
Mặt trận)
Tác giả luận văn rất mong nhận được sự góp ý, nhận xét, đánh giá khách
quan của quý ông (bà) với tư cách là những người trực tiếp tham gia công tác tuyên
truyền, vận động trí thức tham gia phát triển, kinh tế - xã hội. Những ý kiến của quý
ông bà là nguồn tư liệu quý giá và sẽ được sử dụng trong công trình nghiên cứu của
chúng tôi với tư cách là những cứ liệu khoa học tin cậy.
Xin quý ông (bà) vui lòng trả lời những câu hỏi sau đây:
Câu 1: Xin vui lòng giới thiệu về bản thân?
Họ và tên:
Nơi sinh sống:
Nơi công tác:
Dân tộc:
Câu 2: Ông (bà) đánh giá nội dung thông tin, chất lượng thông tin về tuyên truyền,
vận động trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội của chúng ta hiện nay như thế
nào?
Câu 3: Ông (bà) nhận xét như thế nào về ý nghĩa tuyên truyền (trên báo Đại Đoàn
kết/ Tạp chí Mặt trận) trong thời gian qua?
Câu 4: Nếu được nhấn mạnh về một ưu và nhược điểm nổi bật nhất công tác này,
ông bà sẽ đề cập đến vấn đề gì?
Câu 5: Trong quá trình thực hiện tuyên truyền, ông (bà) đã có những thuận lợi và
gặp phải những khó khăn gì, xin cho biết?
Câu 6: Ông (bà) có đóng góp ý kiến như thế nào để góp phần nâng cao chất lượng
tuyên truyền vận động trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội trên hệ thống báo
in của UBMTTQ nói riêng cũng như của báo chí nói chung?
Xin chân thành cảm ơn sự cộng tác quý báu của quý ông (bà)!
Tác giả luận văn: Hà Thị Bích Thủy. ĐT: 0984.92.66.99
Email: hathuy226@gmail.com
TRẢ LỜI CỦA ÔNG NGUYỄN QUỐC KHÁNH
– PHÓ TỔNG BIÊN TẬP BÁO ĐẠI ĐUOÀN KẾT
Câu 1: Xin vui lòng giới thiệu về bản thân?
Họ và tên: Nguyễn Quốc Khánh
Nơi sinh sống: Hà Nội
Nơi công tác: Báo Đại đoàn kết.
Dân tộc: Kinh
Câu 2: Ông (bà) đánh giá nội dung thông tin, chất lượng thông tin về
tuyên truyền, vận động trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội của chúng ta
hiện nay như thế nào?
Theo tôi, Đảng đã có Nghị quyết Trung ương 7 về xây dựng và phát huy vai
trò của đội ngũ trí thức trọng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nghị quyết đánh giá cao vai trò của đội ngũ trí thức và những quan điểm lớn trong
xây dựng đội ngũ trí thức trong những năm tới. Các hệ thống báo chí đã bám sát nội
dung này để đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền.
Đánh giá chung, các bài viết đăng tải liên quan đến tuyên truyền vận động trí
thức đã làm tốt nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, đây đó một số nội dung vẫn chưa
phản ánh đúng, trọng tâm về vấn đề trí thức, tuyên truyền vận động trí thức tham
gia vào xây dựng kinh tế đất nước nói chung và phát triển kinh tế nói riêng.
Câu 3: Ông (bà) nhận xét như thế nào về ý nghĩa tuyên truyền (trên báo
Đại Đoàn kết/ Tạp chí Mặt trận) trong thời gian qua?
Với việc xây dựng các chuyên mục liên quan đến trí thức, nhiều bài viết trên
chuyên mục kinh tế của báo Đại đoàn kết thời gian quan đã tuyên truyền chính sách
của Đảng và nhà nước, động viên đội ngũ trí thức tích cực tham gia phát triển kinh
tế - xã hội. Chuyên mục kinh tế, chuyên mục trí thức đã gắn bó thân thiết, trở thành
người bạn không thể thiếu đối với nhiều tầng lớp nhân dân. Nó cũng cung cấp thông
tin quý báu cho nhân dân cả nước về vấn đề xây dựng kinh tế đất nước của đội ngũ
trí thức ngày nay. Đồng thời cũng góp phần tôn vinh nhiều gương điển hình góp
phần trong xây dựng và phát triển kinh tế.
Câu 4: Nếu được nhấn mạnh về một ưu và nhược điểm nổi bật nhất công
tác này, ông bà sẽ đề cập đến vấn đề gì?
Nếu được nhấn mạnh về một ưu và nhược điểm nổi bật nhất, tôi xin nói ngắn
gọn như sau: Ưu điểm là chương trình đã khái quát lượng thông tin đa dạng phong
phú trên khắp miền của đất nước. Nó phản ánh những hoạt động của trí thức trong
xây dựng kinh tế, góp phần cung cấp thông tin đa dạng, phong phú đến bạn đọc.
Nhược điểm: Nhược điểm đầu tiên phải kể đến là do yếu tố con người. Hiện
nay, chúng tôi không có phóng viên, biên tập viên chuyên trách chuyên mục mà
chủ yếu vẫn là phóng viên tác nghiệp theo sự kiện. Do vậy, nhiều lúc nội dung chưa
thực sự phong phú, và đúng trọng tâm trong công tác tuyên truyền.
Câu 5: Trong quá trình thực hiện tuyên truyền, ông (bà) đã có những
thuận lợi và gặp phải những khó khăn gì, xin cho biết?
Thuận lợi: Thông tin về trí thức phong phú. Nhiều chương trình tôn vinh
doanh nhân, doanh nghiệp làm kinh tế giỏi được thực hiện thường xuyên. Những tấm
gương điển hình làm kinh tế được hiện lên một cách sinh động rõ nét nhất.
Khó khăn: Do đặc điểm phản ánh đề tài là đội ngũ trí thức nên trong quá
trình tác nghiệp, phóng viên sẽ gặp một số khó khăn nhất định trong việc xác định
đúng nhân vật cần phản ánh hay như tiếp cận nhân vật để đưa tin. Ngoài ra, cơ sở
vật chất được trang bị từ rất lâu, thiết bị đi lại xuống cấp, thiếu thốn cũng làm ảnh
hưởng đến quá trình tác nghiệp của anh chị em cán bộ phóng viên.
Câu 6: Ông (bà) có đóng góp ý kiến như thế nào để góp phần nâng cao
chất lượng tuyên truyền vận động trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội
trên hệ thống báo in của UBMTTQ nói riêng cũng như của báo chí nói chung??
Theo ý kiến của bản thân tôi. Từ những ưu điểm và điểm còn hạn chế, theo
tôi cần phải thực hiện những biện pháp như sau:
Về hình thức: Xây dựng chuyên mục cố định về đề tài trí thức
Đối với thể loại: Nên có thêm những thể loại khác như đối thoại, phỏng vấn
chuyên gia phân tích vấn đề để làm sâu sắc thêm nội dung.
Về nhân lực: Cần có những phóng viên trẻ, năng nổ, nhiều sáng tạo, có cách
thể hiện độc đáo, mới lạ.
Về vấn đề kinh phí: Cần được đầu tư trang thiết bị nhiều hơn nhằm nâng cao
chất lượng chương trình.
Trên đây là những ý kiến đóng góp của tôi để nâng cao chất lượng cho tuyên
truyền, vận động trí thức tham gia phát triển kinh tế trên báo Đại đoàn kết nói riêng
cũng là kinh nghiệm để tham khảo để báo chí muốn khai thác đề tài này nói chung.
TRẢ LỜI CỦA THS LÊ THU THẢO
-THƢ KÝ TOÀN SOẠN TẠP CHÍ MẶT TRẬN
Câu 1: Xin vui lòng giới thiệu về bản thân?
Họ và tên: Lê Thu Thảo
Nơi sinh sống: Hà Nội, Việt Nam
Nơi công tác: Thư ký tòa soạn, Tạp chí Mặt trận
Dân tộc: Kinh
Câu 2: Ông (bà) đánh giá nội dung thông tin, chất lượng thông tin về
tuyên truyền, vận động trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội của chúng ta
hiện nay như thế nào?
Công tác tuyên truyền, vận động trí thức những năm gần đây đã có phần
được chú trọng hơn. Tuy nhiên về cơ bản, thông tin tuyên truyền, vận động trí thức
thường chỉ được triển khai dồn dập trong từng giai đoạn /chiến dịch cụ thể, khi có
sự kiện hay có chỉ đạo thông tin tuyên truyền. Bên cạnh đó, số lượng bài viết,
chuyên mục có chất lượng tốt, sâu, mang tính phổ quát chưa cao. Nguyên nhân cơ
bản là đề tài khô, khó thể hiện, do đó mức thu hút độc giả còn chưa cao. Mặt khác,
chúng ta còn thiếu các chuyên gia nghiên cứu sâu về vấn đề trí thức, có khả năng
đáp ứng tốt yêu cầu công tác thông tin tuyên truyền một cách thường xuyên.
Câu 3: Ông (bà) nhận xét như thế nào về ý nghĩa tuyên truyền (trên báo
Đại Đoàn kết/ Tạp chí Mặt trận) trong thời gian qua?
Tạp chí Mặt trận là một trong những số ít số báo có những bài viết chuyên
biệt cho giới trí thức nhằm thực hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với tầng
lớp này. Tạp chí có nhiều bài viết chuyên sâu phản ánh về trí thức, về vai trò và
nhiệm vụ của trí thức hiện nay trong thời kỳ hội nhập sâu về kinh tế quốc tế.
Qua thăm dò sơ bộ, những bài viết đăng tải trên Tạp chí được đánh giá tốt về
ý nghĩa thông tin tuyên truyền về phát triển kinh tế đất nước nói chung và đội ngũ
trí thức làm kinh tế nói riêng.
Câu 4: Nếu được nhấn mạnh về một ưu và nhược điểm nổi bật nhất công
tác này, ông bà sẽ đề cập đến vấn đề gì?
Ưu điểm lớn nhất Tạp chí đã đăng tải nội dung bài viết có tính chuyên biệt,
do đó có điều kiện tập trung phân tích sâu, nhờ đó có chất lượng tương đối cao về
mặt thông tin.
Hạn chế lớn nhất là hình thức thể hiện và diện phổ cập. Hiện Tạp chí chưa có
chuyên mục riêng dành cho trí thức.
Câu 5: Trong quá trình thực hiện tuyên truyền, ông (bà) đã có những
thuận lợi và gặp phải những khó khăn gì, xin cho biết?
Thuận lợi cơ bản là các lãnh đạo tạo điều kiện hết mức trong chủ động lựa
chọn đề tài, nội dung và ý tưởng thể hiện cũng như các thủ tục làm việc với các cơ
quan chức năng.
Khó khăn lớn nhất là đòi hỏi phóng viên, biên tập viên phải có kiến thức nền
tốt. Ngoài ra, Mức đầu tư kinh phí cũng còn là một vấn đề trong việc khuyến khích
anh em đi làm.
Câu 6: Ông (bà) có đóng góp ý kiến như thế nào để góp phần nâng cao chất
lượng tuyên truyền vận động trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội trên hệ
thống báo in của UBMTTQ nói riêng cũng như của báo chí nói chung?
Về đội ngũ sản xuất:
Cần xây dựng đội ngũ phóng viên, biên tập viên có kiến thức nền tốt về lĩnh
vực này, yêu nghề, sẵn sàng tìm tòi, sáng tạo để có được thông tin và bài viết tốt.
Cần chủ động xây dựng đội ngũ cố vấn, mạng lưới các quan hệ trong các cơ quan,
viện nghiên cứu chuyên sâu về trí thức.
Với các cơ quan chức năng: Cần có sự phối hợp tích cực, chủ động, thường
xuyên nhằm cung cấp thông tin, cố vấn nội dung, đề tài cũng như định hướng thông
tin tuyên truyền.