PHẦN MỞ ĐẦU

1- Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu.

Trong công cuộc đổi mới đất nước, xã là đơn vị hành chính cơ sở có tầm

quan trọng đặc biệt, đó không chỉ là một đơn vị hành chính về mặt Nhà nước

mà còn là “ngôi nhà chung” của cộng đồng dân cư. Chính quyền cấp xã là

chính quyền nhỏ nhất, gắn bó mật thiết nhất với người dân và là đại diện của

Nhà nước giải quyết mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước và nhân dân. Gắn kết

hoạt động bình thường của chính quyền cấp xã là ngân sách cấp xã(gọi chung

là ngân sách xã), phương tiện vật chất đảm bảo sự hoạt động bình thường của

chính quyền cấp xã, là công cụ tài chính giúp chính quyền cấp xã thực hiện

chức năng, nhiệm vụ được giao. Ngân sách cấp xã phải là công cụ thực sự và

phương tiện vật chất bằng tiền tương xứng để thực hiện nhiệm vụ đó.

Trong những năm qua, cùng với những đổi thay của đất nước, xây dựng

nông thôn mới, ngân sách cấp xã đã có nhiều biến đổi tích cực, công tác quản

lý điều hành ngân sách xã cũng đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển,

giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội từ cơ sở. Nguồn thu của ngân sách

xã đã không ngừng tăng lên, ngoài các khoản thu thường xuyên, ngân sách xã

đã tích cực khai thác và huy động các nguồn khác tại địa phương. Tuy nhiên,

công tác quản lý Ngân sách xã cũng đã bộc lộ những yếu kém và hạn chế nhất

định. Hạn chế trong quản lý thu ngân sách do chưa tổ chức khai thác tiềm

năng sẵn có, còn buông lỏng quản lý các nguồn thu được giao, để thất thu lớn.

Hạn chế trong công tác lập, chấp hành, quyết toán ngân sách dẫn đến việc

quản lý ngân sách cấp xã bị buông lỏng, thất thoát và lãng phí. Xuất phát từ

tình hình đó thì vấn đề tìm biện pháp nhằm hoàn thiện từng bước công tác

quản lý ngân sách ở cấp cơ sở mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với

từng địa phương trên địa bàn Thành phố Hà Nội nói chung và đối với Thị xã

Sơn Tây nói riêng trong giai đoạn hiện nay.

Với lý do trên tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài “Tăng cường quản lý

ngân sách xã trên địa bàn Thị xã Sơn Tây – Hà Nội”

1

2- Mục đích vµ nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.

2.1- Mục đích nghiên cứu:

Kiến nghị c¸c gi¶i ph¸p nhằm tăng cường công tác quản lý NSX trên địa

bàn Thị xã Sơn Tây cho phù hợp với điều kiện hiện nay.

2.2- Nhiệm vụ nghiên cứu.

- Tr×nh bµy những nội dung lý luËn cơ bản của NSX và quản lý NSX.

- Phân tích thực trạng quản lý NSX trên địa bàn thị xã Sơn Tây qua các

năm 2010 - 2014.

- Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị về lý luận và thực tiễn nhằm

tăng cường công tác quản lý NSX trên địa bàn thị xã Sơn Tây trong thêi gian

tíi .

3- Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.

3.1- Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản lý NSNN cấp xã trên địa bàn

Thị xã Sơn Tây.

3.2- Phạm vi nghiên cứu: Các xã trên địa bàn thị xã Sơn Tây, thành phố

Hà Nội.

3.3- Thời gian nghiên cứu: Tình hình và số liệu được thu thập, phân

tích trong giai đoạn 5 năm (2010 – 2014) vµ kiÕn nghÞ ®Õn n¨m 2020.

4- Phương pháp nghiên cứu: Khảo sát, thống kê, tổng hợp, phân tích

và so sánh.

5- Kết cấu của luận văn gồm 3 chương:

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, luận văn gồm các chương sau:

Chương 1: Lý luận chung về ng©n s¸ch x· vµ qu¶n lý ngân sách xã.

Chương 2: Thực trạng công tác quản lý ngân sách xã trên địa bàn

thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội.

Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý ngân sách xã trªn ®Þa

bµn thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội.

2

Chương 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ NSX vµ QUẢN LÝ NSX

1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NSX.

1.1.1. Khái niệm về NSX.

“NSX là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tạo lập,

phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ của chính quyền Nhà nước cấp xã nhằm

phục vụ cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của chính quyền Nhà nước

cấp cơ sở trong khuôn khổ đã được phân công, phân cấp quản lý”.

Xét về nguồn gốc xuất hiện NSNN nói chung và NSX nói riêng, thì các

nhà nghiên cứu đều nhất trí rằng: Sự xuất hiện và tồn tại của nhà nước và nền

kinh tế hàng hóa – tiền tệ đã tạo ra những điều kiện cần và đủ cho NSNN ra

đời và tồn tại. Chừng nào còn tồn tại cả 2 điều kiện trên, thì NSNN vẫn còn

tồn tại. Cơ cấu tổ chức của bộ máy nhà nước ở mọi quốc gia đều là sự hợp

thành của một số cấp hành chính nhất định, và có sự phân công, phân cấp về

quản lý kinh tế, xã hội cho mỗi cấp đó. Nên cấu trúc của hệ thống NSNN ở

các quốc gia luôn bao gồm một số cấp ngân sách nhất định; trong đó NSX

luôn được coi là cấp ngân sách cơ sở.

Trong thực tiễn, thuật ngữ ngân sách thường để chỉ tổng số thu và chi

của một đơn vị trong một thời gian nhất định. Một bảng tính toán các chi phí

để thực hiện một kế hoạch, hoặc một chương trình cho một mục đích nhất

định của một chủ thể nào đó.

Hiện nay trong Luật NSNN và các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật

NSNN cũng chưa đưa ra khái niệm cụ thể và đầy đủ về NSX. Thông tư số

60/2003/TT-BTC ngày 23/6/2003 của Bộ Tài chính xác định: “NSX là một bộ

phận của NSNN”.

Vai trò của NSX là công cụ của chính quyền Nhà nước cấp xã để thực

hiện chức năng quản lý kinh tế - tài chính ở xã. NSX được quản lý thống nhất

theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, có sự phân công cụ

thể, gắn quyền hạn với trách nhiệm.

3

Nhiệm vụ của NSX là huy động nguồn thu, bảo đảm các nhu cầu chi tiêu

của xã, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Thông qua

hoạt động thu, chi NSX, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế,

nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần cho nhân dân trong xã, đảm bảo

sự công bằng xã hội, tăng cường hiệu quả các hoạt động quản lý Nhà nước,

bảo đảm an ninh trật tự trên địa bàn xã.

1.1.2. Đặc điểm của NSX.

Lµ mét cÊp NS c¬ së trong hÖ thèng NSNN thèng nhÊt, NSX võa cã

nh÷ng ®Æc ®iÓm chung cña NSNN l¹i võa cã nh÷ng ®Æc ®iÓm riªng cã sau

®©y:

Thø nhÊt, Ng©n s¸ch x· lµ cÊp ng©n s¸ch cuèi cïng g¨n chÆt víi viÖc

thùc hiÖn chøc n¨ng, nhiÖm vô cña chÝnh quyÒn cÊp x·. NSX lµ cÊp ng©n s¸ch

cuèi cïng v× nã lµ n¬i trùc tiÕp gi¶i quyÕt mèi quan hÖ lîi Ých gi÷a Nhµ n íc

víi nh©n d©n, ®¶m b¶o cho ph¸p luËt cña Nhµ n íc ® îc thùc hiÖn nghiªm

minh. NSX lµ mét lo¹i quü tiÒn tÖ cña c¬ quan chÝnh quyÒn Nhµ n íc cÊp c¬

së. Ho¹t ®éng cña quü nµy thÓ hiÖn trªn hai ph ¬ng diÖn: Huy ®éng nguån thu

vµo quü (gäi t¾t lµ thu NSX) vµ ph©n phèi, sö dông c¸c kho¶n vèn quü ®ã ( gäi

t¾t lµ chi NSX).

Th«ng qua ho¹t ®éng thu, chi NSX th× mèi quan hÖ vÒ lîi Ých gi÷a

ng êi d©n- ng êi d©n, ng êi d©n- Nhµ n íc còng sÏ ® îc gi¶i quyÕt tèt vµ

triÖt ®Ó nÕu nh chÝnh quyÒn cÊp x· thùc hiÖn ®óng viÖc ph©n cÊp nguån thu

vµ nhiÖm vô chi trong nhiÖm vô vµ quyÒn h¹n cña m×nh. VÝ dô nh thu thuÕ

ch¼ng h¹n th× ®ã chÝnh lµ viÖc lÊy bít mét phÇn thu nhËp cña d©n ®Ó tËp trung

vµo NSX, ®iÒu nµy sÏ ¶nh h ëng trùc tiÕp ®Õn lîi Ých cña d©n, tõ ®ã ®Æt ra yªu

cÇu ng­êi d©n còng muèn biÕt “ kho¶n ®ãng gãp” cña m×nh sÏ ® îc sö dông

nh thÕ nµo. MÆt kh¸c, th«ng qua chi NSX ®· t¹o ra phóc lîi c«ng céng cho

mäi ng êi d©n h ëng, nh x©y dùng c¸c Nhµ v¨n ho¸ n©ng cao ®êi sèng tinh

thÇn cho nh©n d©n, hay gãp phÇn lµm ® êng giao th«ng n«ng th«n... Qua ho¹t

®éng thu, chi NSX nh vËy còng chÝnh lµ ®Ó chÝnh quyÒn x· thùc hiÖn chøc

n¨ng, nhiÖm vô cña m×nh mµ th«i.

4

Thø hai, ho¹t ®éng thu, chi NSX lu«n g¾n liÒn víi chøc n¨ng, nhiÖm vô

cña chÝnh quyÒn x· ® îc ph©n cÊp, ®ång thêi lu«n chÞu sù kiÓm tra, gi¸m s¸t

cña c¬ quan quyÒn lùc cña Nhµ n íc ë cÊp x·. ChÝnh v× vËy, c¸c chØ tiªu thu,

chi NSX lu«n mang tÝnh ph¸p lý.

Thø ba: C¸c quan hÖ thu, chi NSX rÊt ®a d¹ng vµ biÓu hiÖn d íi nhiÒu

hÝnh thøc kh¸c nhau. Nh ng sè thu hoÆc sè chi theo tõng h×nh thøc chØ cã thÓ

® îc thùc thi mét khi nã ®· ® îc ghi vµo dù to¸n vµ ®· ® îc c¬ quan Nhµ

n íc cã thÈm quyÒn phª duyÖt. Èn chøa ®»ng sau c¸c ho¹t ®éng thu, chi NSX

lµ c¸c quan hÖ lîi Ých gi÷a mét bªn lµ lîi Ých céng ®ång cÊp c¬ së mµ chÝnh

quyÕn x· lµ ng êi ®¹i diÖn víi mét bªn lµ lîi Ých cña c¸c chñ thÓ kinh tÕ x·

héi kh¸c.

Thø t : Mét ®iÓm kh¸c biÖt víi cÊp ng©n s¸ch kh¸c ®ã lµ: NSX võa lµ

mét cÊp ng©n s¸ch võa lµ mét ®¬n vÞ dù to¸n ®Æc biÖt. NSX lµ mét ®¬n vÞ dù

to¸n ®Æc biÖt v× d íi nã kh«ng cã c¸c ®¬n vÞ dù to¸n trùc thuéc nµo vµ nã ph¶i

t¹o nguån kinh phÝ th«ng qua kho¶n thu ng©n s¸ch x· ® îc ph©n ®Þnh, võa

duyÖt cÊp, chi trùc tiÕp vµ tæng hîp c¸c kho¶n chi trùc tiÕp ®ã vµo chi ng©n

s¸ch. ChÝnh ®Æc ®iÓm riªng cã nµy ¶nh h ëng vµ chi phèi rÊt lín ®Õn qu¸ tr×nh

tæ chøc, lËp, chÊp hµnh, kÕ to¸n vµ quyÕt to¸n NSX.

1.1.3. Nguồn thu và nhiệm vụ chi của NSX

1.1.3.1. Nguồn thu NSX được hình thành từ 3 nguồn thu sau:

a) Các khoản thu NSX hưởng 100%:

Là các khoản thu phát sinh trên địa bàn xã, do xã tổ chức huy động và

dành cho NSX được hưởng 100% số thu từ các khoản này. Cơ sở để hình

thành các khoản thu và cho phép xã được hưởng 100% xuất phát bởi: cơ sở

kinh tế của nguồn thu và yêu cầu tập trung quản lý nguồn thu.

Dựa trên cơ sở kinh tế, người nào là chủ sở hữu (hoặc được giao quyền

như chủ sở hữu) các tư liệu sản xuất, thì người đó được hưởng lợi ích từ khai

thác, sử dụng các tư liệu sản xuất đó. Nên, các khoản thu từ đấu thầu, khoán

trên đất công ích của xã; các khoản thu do kết quả đầu tư của xã mang lại,

như: phí chợ đò, bến bãi, thu kết dư NSX…; Ngoài ra, một số khoản thu được

5

hình thành từ quyền lựa chọn ưu tiên đầu tư của người dân hoặc người tài trợ

cũng trở thành các khoản thu NSX được hưởng 100%, như: thu ủng hộ, đóng

góp tự nguyện và thu viện trợ trực tiếp cho xã.

Dựa trên yêu cầu tập trung quản lý nguồn thu, thông thường những

khoản thu nhỏ lẻ, gắn liền với các hoạt động thường xuyên của chính quyền

cấp xã, thì giao cho xã thu và hưởng 100%, như: các khoản phí, lệ phí và một

số khoản thu khác.

b) Các khoản thu NSX được hưởng theo tỷ lệ điều tiết:

Cơ sở để hình thành các khoản thu này cũng dựa vào cơ sở kinh tế và

yêu cầu tập trung quản lý nguồn thu. Khi dựa trên cơ sở kinh tế, những lợi ích

gì thuộc về quyền sở hữu của chính quyền nhà nước cấp trên phát sinh trên

địa bàn xã, thì chính quyền nhà nước cấp trên được hưởng; song nên có phân

chia cho cấp xã một phần để tạo sự phối hợp quản lý có hiệu quả. Khi dựa

trên yêu cầu tập trung quản lý nguồn thu, những khoản thu lớn và tương đối

ổn định thường dành cho ngân sách cấp trên.

Trong điều kiện hiện nay, Chính phủ đang khuyến khích chính quyền các

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nâng cao tỷ lệ để lại cho ngân sách cấp

xã (có thể nâng tỷ lệ điều tiết cho ngân sách cấp xã tới 100%). Thông qua đó

nhằm phát huy quyền chủ động của chính quyền cấp xã trong quản lý kinh tế -

xã hội ngày càng cao hơn.

c) Thu bổ sung từ ngân sách cấp trên:

Trong hệ thống tổ chức NSNN, các cấp ngân sách có mối quan hệ chặt

chẽ với nhau, và mỗi cấp đều phải đảm bảo cân đối thu – chi của mình. Tuy

nhiên, trong những hoàn cảnh cụ thể nếu cấp ngân sách (hay một bộ phận của

cấp ngân sách) nào không tự cân đối được, thì ngân sách cấp trên có trách

nhiệm cấp bổ sung nguồn thu cho cấp ngân sách (hay bộ phận của cấp ngân

sách) đó để đảm bảo cân đối thu – chi ngay từ khâu dự toán. Từ đó hình thành

khoản thu bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới. Trong điều

kiện nước ta hiện nay, phần lớn ngân sách cấp xã chưa tự cân đối được thu –

6

chi, nên ngân sách cấp trên phải cấp bổ sung và hình thành nguồn thu thứ 3

cho NSX.

1.1.3.2. Chi NSX gồm:

Chi thường xuyên của NSX: Chi thường xuyên của NSX là các khoản chi

nhằm đảm bảo cho sự hoạt động của chính quyền cấp xã. Thuộc phạm vi chi

thường xuyên của NSX, bao gồm:

Chi cho hoạt động quản lý nhà nước, Đảng, đoàn thể ở xã;

Chi sự nghiệp văn – xã;

Chi sự nghiệp kinh tế;

Các khoản chi thường xuyên khác theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào định mức, chế độ, tiêu chuẩn của nhà nước, HĐND cấp tỉnh

quy định cụ thể mức chi thường xuyên cho từng công việc phù hợp với tình

hình đặc điểm và khả năng ngân sách địa phương.

Chi đầu tư phát triển: Tập hợp các nội dung chi có liên quan đến cải tạo,

nâng cấp, làm mới các công trình thuộc hệ thống cơ sở vật chất – kỹ thuật của

xã, như: đường giao thông; kênh mương tưới tiêu nước; trường học; trạm xá;

các trạm thu, phát sóng phát thanh…, được gọi là chi đầu tư phát triển của

NSX. Thông qua chi đầu tư phát triển của NSX mà từng bước tạo dựng cơ sở

vật chất cần thiết cho quá trình xây dựng, phát triển kinh tế địa phương ngay

từ cấp cơ sở. Trong điều kiện hiện nay, phạm vi chi đầu tư phát triển của

NSX, bao gồm:

Chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của

xã không có khả năng thu hồi vốn, theo phân cấp của Thành phố;

Chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng KTXH của xã từ

nguồn huy động đóng góp của các tổ chức, cá nhân cho từng dự án nhất định

theo quy định của pháp luật, do HĐND xã quyết định đưa vào NSX quản lý;

1.2. Quản lý NSX.

1.2.1. Khái niệm quản lý NSX.

Trong bộ máy hành chính Nhà nước ta, chính quyền cấp xã là chính

quyền cơ sở trực tiếp nắm bắt, giải quyết các nguyện vọng của nhân dân triển

7

khai thực hiện các chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước vào thực

tiễn. Các nội dung hoạt động của chính quyền cấp xã đòi hỏi một nguồn lực

tài chính đáp ứng rất lớn và có ý nghĩa tiên quyết mà chủ yếu do NSNN đảm

bảo. Chính vì thế công tác quản lý điều hành NSX một cách tiết kiệm, hiệu

quả, công khai, minh bạch và khoa học càng cần thiết hơn bao giờ hết.

Ngân sách cấp xã - cấp đơn vị hành chính cơ sở có tầm quan trọng đặc

biệt và cũng có đặc thù riêng: nguồn thu được khai thác trực tiếp trên địa bàn

và nhiệm vụ chi cũng được bố trí để phục vụ cho mục đích trực tiếp của cộng

đồng dân cư trong xã mà không thông qua một khâu trung gian nào. NSX là

cấp ngân sách cơ sở trong hệ thống NSNN, đảm bảo điều kiện tài chính để

chính quyền xã chủ động khai thác các thế mạnh về đất đai, phát triển kinh tế,

xã hội, xây dựng nông thôn mới, thực hiện các chính sách xã hội, giữ gìn an

ninh, trật tự trên địa bàn.

Điều 3 Luật NSNN năm 2002 quy định, NSNN được quản lý thống nhất

theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, có phân công, phân

cấp quản lý, gắn quyền hạn với trách nhiệm. Vì vậy, các khoản thu, chi NSX

phải đảm bảo sự cân đối, theo chế độ, tiêu chuẩn, định mức, dự toán trên cơ

sở pháp luật quy định, theo phân cấp quản lý. Cũng như các cấp ngân sách

khác, hoạt động của NSX không mang tính tự phát mà nó được quản lý theo

dự toán và được kiểm soát một cách chặt chẽ qua Kho bạc Nhà nước.

Có thể hiểu, quản lý NSX là hoạt động thực thi quyền hành pháp của

Nhà nước, đó là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực pháp

luật đối với các hoạt động thu, chi NSX, là hành vi hoạt động của con người

trong các cơ quan Nhà nước cấp cơ sở để tiến hành thực hiện chức năng,

nhiệm vụ của Nhà nước nhằm duy trì, xây dựng và phát triển NSX đáp ứng

được nhu cầu quản lý NSX của chính quyền cấp xã và nhu cầu phát triển kinh

tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng ở địa phương.

Vì vậy, việc quản lý NSX nhất thiết phải vận hành theo 3 khâu: Lập dự

toán NSX; chấp hành ngân sách; kế toán, kiểm toán và quyết toán NSX.

8

1.2.2. Tổ chức bộ máy quản lý NSX.

Theo quy định tại Thông tư số 60/2003/TT-BTC ngày 23/6/2003 của Bộ

Tài chính “Quy định về quản lý NSX và các hoạt động tài chính khác của xã,

phường, thị trấn”, thì UBND các cấp có kế hoạch cụ thể từng bước củng cố

Ban Tài chính của các xã để Ban Tài chính xã thực hiện tốt chức năng giúp

UBND xã quản lý NSX và các hoạt động tài chính khác của xã theo chế độ

quy định.

Chức danh và số lượng cán bộ của Ban Tài chính xã căn cứ vào khối

lượng công việc, quy mô thu, chi và định biên được Chính phủ quy định tại

Nghị định số 174/CP ngày 29/9/1994 về cơ cấu, thành viên UBND các cấp và

Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23/01/1998 về chế độ phụ cấp đối với cán

bộ xã. Ban Tài chính xã thường có 3 người: 1 trưởng ban, 1 phụ trách kế toán

NSX và 1 thủ quỹ. Trưởng ban là uỷ viên Uỷ ban nhân dân phụ trách công tác

tài chính, có nhiệm vụ giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã tổ chức thực hiện

công tác quản lý NSX và các hoạt động tài chính khác của xã. Phụ trách kế

toán phải là người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tối thiểu trung cấp tài

chính kế toán; ở miền núi cao đặc biệt khó khăn, tối thiểu phải qua đào tạo

ngắn hạn chuyên ngành tài chính kế toán, nhưng phải có kế hoạch đào tạo để

đạt trình độ trung cấp vào năm 2005. Người phụ trách kế toán có nhiệm vụ

giúp Trưởng ban tài chính quản lý hoạt động thu, chi NSX và các hoạt động

tài chính khác ở xã; thực hiện công tác kế toán, quyết toán NSX và các quỹ

của xã. Đối với những xã quy mô lớn, quản lý phức tạp, Chủ tịch Uỷ ban

nhân dân huyện có thể cho phép xã được bố trí thêm một cán bộ tài chính kế

toán làm việc theo chế độ hợp đồng lao động hiện hành. Thủ quỹ có nhiệm vụ

quản lý quỹ tiền mặt của xã (đối với xã có quy mô thu chi nhỏ có thể sử dụng

cán bộ kiêm nhiệm, nhưng không được là cán bộ kế toán xã).

Tùy theo quy mô mỗi xã mà biên chế Ban tài chính xã sẽ có số lượng

khác nhau, phổ biến các xã được biên chế 01 người, các xã lớn được biên chế

02 người trực tiếp làm nhiệm vụ quản lý tài chính xã. Cho dù số lượng biên

chế tài chính xã có khác nhau, nhưng các nhiệm vụ mà Ban tài chính xã phải

9

đảm nhận lại giống nhau. Nhiệm vụ chung nhất của Ban tài chính xã là giúp

UBND xã thực hiện quản lý nhà nước về tài chính trên địa bàn xã.

1.2.3. Nguyên tắc cơ bản về quản lý NSX.

Quản lý NSX và các hoạt động tài chính khác của xã phải được thực hiện

theo nguyên tắc dân chủ, công khai, hiệu quả và tiết kiệm.

Cân đối NSX phải bảo đảm nguyên tắc chi không vượt quá nguồn thu

quy định. Nghiêm cấm đi vay hoặc chiếm dụng vốn dưới mọi hình thức để

cân đối NSX.

Tại khoản 3, Điều 8 của Luật NSNN quy định “Về nguyên tắc, NSĐP

được cân đối với tổng số chi không được vượt quá tổng số thu”. Như vậy,

NSX hàng năm được cân đối theo nguyên tắc tổng số chi (chi đầu tư phát

triển, công tác xã hội, quốc phòng an ninh, hoạt động Nhà nước và đoàn thể,

các sự nghiệp và các khoản chi khác theo quy định phân cấp của HĐND cấp

tỉnh) không được vượt tổng số thu các khoản thu được hưởng (gồm các khoản

thuế, phí, lệ phí, thu từ kết quả hoạt động tài chính khác của xã, thu viện trợ,

thu bổ sung từ ngân sách cấp trên nếu có, và các khoản thu khác đã được pháp

luật quy định và sự phân cấp của HĐND cấp tỉnh). Nghĩa là tổng số dự toán

chi cả năm không được vượt quá tổng số dự toán thu cả năm; và tổng số quyết

toán chi cả năm không được vượt tổng số quyết toán thu cả năm.

1.2.4. Nội dung quản lý NSX.

Quản lý NSNN nói chung và quản lý NSX nói riêng đều có một chu

trình khép kín giống nhau. Chu trình ngân sách hay còn gọi là quy trình ngân

sách dùng để chỉ toàn bộ hoạt động của một ngân sách kể từ khi bắt đầu hình

thành cho tới khi kết thúc chuyển sang ngân sách mới. Một chu trình ngân

sách gồm ba khâu nối tiếp nhau, đó là: lập dự toán ngân sách (bao gồm chuẩn

bị và quyết định dự toán NS); chấp hành ngân sách và quyết toán ngân sách.

1.2.4.1. Lập dự toán NSX.

a) Mục tiêu lập dự toán:

Huy động nguồn lực tài chính theo đúng chế độ, chính sách của Nhà

nước và bảo đảm kiểm soát chi tiêu tổng thể.

10

Phân bổ ngân sách phù hợp với ưu tiên trong kế hoạch phát triển kinh tế

- xã hội cấp xã và chính sách, chế độ của Nhà nước.

Là cơ sở cho việc quản lý thu, chi trong khâu chấp hành ngân sách cũng

như việc đánh giá, quyết toán NSX được công khai, minh bạch và bảo đảm

trách nhiệm giải trình.

b) Yêu cầu lập dự toán:

Lập theo đúng nội dung, mẫu biểu, mục lục NSNN, thời hạn qui định.

Tuân theo các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức.

Đảm bảo nguyên tắc cân đối ngân sách.

Phải căn cứ vào điều kiện và nguồn kinh phí để lựa chọn các hoạt động,

dự án cần ưu tiên bố trí vốn tránh dàn trải.

c) Căn cứ lập dự toán:

Các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng và

trật tự an toàn xã hội của xã thể hiện trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội

của xã đã được HĐND xã thông qua.

Chính sách, chế độ thu NSNN, cơ chế phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi

của NSX và tỷ lệ phân chia nguồn thu do HĐND thành phố quy định;

Chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách hiện hành như: chế độ tiền

lương CBCC xã, chi cho hoạt động của các ban ngành đoàn thể…

Số kiểm tra về dự toán NSX do UBND huyện thông báo; Tình hình thực

hiện dự toán NSX năm trước và một số năm liền kề, ước thực hiện NS năm

hiện hành. Dự báo những xu hướng có tác động đến NSX năm kế hoạch.

d) Quy trình lập dự toán như sau:

Bước (1): UBND huyện hướng dẫn và giao số kiểm tra dự toán ngân

sách cho các xã.

Bước (2): UBND xã tổ chức hội nghị triển khai xây dựng dự toán NSX

và giao số kiểm tra cho các ban ngành, đoàn thể.

Bước (3): Các ban ngành, đoàn thể, kế toán xã lập dự toán NSX.

11

Bước (4): UBND xã làm việc với các ban ngành, đoàn thể về dự toán

ngân sách; kế toán tổng hợp và hoàn chỉnh dự toán NSX.

Bước (5): UBND xã trình Thường trực HĐND xã xem xét cho ý kiến về

dự toán NSX.

Bước (6): Căn cứ vào ý kiến của Thường trực HĐND xã, UBND xã hoàn

chỉnh lại dự toán ngân sách và gửi Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện.

Bước (7): Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện tổ chức làm việc về dự

toán ngân sách với các xã đối với năm đầu của thời kỳ ổn định hoặc khi

UBND xã có yêu cầu ở những năm tiếp theo của thời kỳ ổn định ngân sách;

tổng hợp và hoàn chỉnh dự toán ngân sách huyện báo cáo UBND huyện.

Bước (8): UBND huyện giao dự toán ngân sách chính thức cho các xã

Bước (9): UBND xã hoàn chỉnh lại dự toán NSX gửi đại biểu HĐND xã

trước phiên họp của HĐND xã về dự toán ngân sách; HĐND xã thảo luận và

quyết định dự toán ngân sách

Bước (10): UBND xã giao dự toán cho ban, ngành, đoàn thể, đồng thời

gửi Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện, Kho bạc nhà nước huyện; thực hiện

công khai dự toán NSX trước ngày 31/12.

1.2.4.2. Tổ chức chấp hành NSX.

a) Mục đích, yêu cầu:

Chấp hành NSX là quá trình sử dụng tổng hợp các biện pháp kinh tế, tài

chính và hành chính nhằm biến các chỉ tiêu thu, chi ghi trong kế hoạch ngân

sách năm trở thành hiện thực, góp phần thực hiện các chỉ tiêu của kế hoạch

phát triển KTXH của xã. Cũng qua việc chấp hành ngân sách sẽ bảo đảm

kiểm tra việc thực hiện các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức về kinh

tế, tài chính của Nhà nước, đánh giá sự phù hợp giữa chính sách với thực tiễn.

Đối với công tác quản lý điều hành NSX, chấp hành NSX là khâu cốt

yếu có ý nghĩa quyết định với một chu trình ngân sách. Nếu khâu lập kế

hoạch đạt kết quả tốt thì cơ bản cũng mới dừng ở trên giấy, nằm trong khả

năng và dự kiến, chúng có biến thành hiện thực hay không là tuỳ thuộc vào

khâu chấp hành ngân sách. Hơn nữa, chấp hành ngân sách thực hiện tốt sẽ có

tác dụng tích cực trong việc thực hiện khâu tiếp theo là quyết toán NSX.

12

Yêu cầu đầu tiên của chấp hành ngân sách là phải bảo đảm rằng ngân

sách sẽ được thực hiện tuân theo những điều mà pháp luật cho phép, cả về

khía cạnh tài chính cũng như chính sách trong dự toán ngân sách. Tuy nhiên,

quá trình chấp hành ngân sách không đơn giản chỉ là bảo đảm sự tuân thủ dự

toán ngân sách bởi lẽ kể cả khi có dự báo tốt, những thay đổi không lường

trước trong môi trường kinh tế vĩ mô vẫn có thể xảy ra trong năm và cần được

phản ánh trong quá trình điều hành ngân sách.

Điều chỉnh việc thực thi ngân sách cho phù hợp với những thay đổi quan

trọng trong môi trường kinh tế vĩ mô cũng là một yêu cầu hết sức quan trọng

nhằm tránh gián đoạn hoặc giảm số lượng, chất lượng hoạt động của các cơ

quan, đơn vị. Ngoài ra cần giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh trong

quá trình thực hiện để bảo đảm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời vào NSX và sử

dụng một cách hiệu quả những nguồn lực tài chính khan hiếm.

b) Nội dung tổ chức chấp hành thu ngân sách

UBND xã phối hợp với cơ quan thuế đảm bảo thu đúng, thu đủ và kịp

thời các khoản thuế, phí, lệ phí và các khoản phải nộp khác vào NSNN.

Về nguyên tắc, các khoản thu NSX được nộp qua ngân hàng hoặc nộp

trực tiếp tại KBNN, trường hợp tại các địa bàn có khó khăn trong việc nộp

qua ngân hàng hoặc nộp tại KBNN thì cơ quan thu được trực tiếp thu, hoặc uỷ

nhiệm cho tổ chức, cá nhân thu tiền mặt từ người nộp, sau đó phải nộp đầy

đủ, kịp thời vào KBNN. Đối với các khoản thu thuộc nhiệm vụ thu của

UBND xã, cũng phải tuân thủ nguyên tắc là phải nộp vào KBNN theo chế độ

quy định. Đối với các xã ở xa KBNN, được phép để tại xã sử dụng và định kỳ

làm thủ tục thu, chi ngân sách qua KBNN.

Tất cả các khoản thu NSX được hạch toán bằng đồng nội tệ, chi tiết theo

niên độ ngân sách, cấp ngân sách và mục lục NSNN.

Các khoản thu NSX bằng hiện vật, bằng ngày công lao động được quy

đổi ra đồng nội tệ theo giá hiện vật, giá ngày công lao động được cơ quan nhà

nước có thẩm quyền quy định tại thời điểm phát sinh để hạch toán thu NSX.

Các khoản thu không đúng chế độ phải được hoàn trả cho đối tượng nộp.

13

Các khoản thu đã tập trung vào NSX nhưng được miễn giảm hoặc hoàn

trả, thì KBNN hoàn trả cho các đối tượng nộp theo quyết định của cơ quan

nhà nước có thẩm quyền.

Nguồn thu bổ sung từ Ngân sách huyện cho xã đã được thông báo theo

dự toán từ đầu năm. Căn cứ vào dự toán được duyệt, đối chiếu với nhu cầu sử

dụng kinh phí NSX, xã chủ động rút dự toán bổ sung từ Ngân sách huyện

đảm bảo nhu cầu chi

c) Nội dung tổ chức chấp hành chi NSX.

Về nguyên tắc: Các đơn vị dự toán ngân sách và các tổ chức được

NSNN hỗ trợ thường xuyên phải mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước theo

hướng dẫn của Bộ Tài chính; chịu sự kiểm tra của cơ quan tài chính và Kho

bạc Nhà nước trong quá trình thanh toán, sử dụng kinh phí. Các khoản thanh

toán về cơ bản theo nguyên tắc chi trả trực tiếp qua Kho bạc Nhà nước.

Kế toán xã cần căn cứ vào dự toán chi cả năm đã được UBND xã phân

bổ chi tiết theo mục lục ngân sách đã gửi Kho bạc trước ngày 31/12 để thực

hiện chi trả cho các hoạt động theo dự toán.

Kế toán xã cần xem xét kỹ lưỡng nhu cầu sử dụng kinh phí của các đơn

vị và trình chủ tịch xã ký thủ tục chi ngân sách theo quy định. Việc chấp hành

các khoản chi thường xuyên của ngân sách phải căn cứ vào tiến độ thực hiện

chuyên môn, thực hiện chế độ, căn cứ vào dự toán chi cả năm.

Trường hợp không đủ nguồn chi trả, thì sắp xếp các yêu cầu chi theo thứ

tự ưu tiên. Trước hết là các khoản chi tiền lương, phụ cấp của cán bộ xã phải

trả đầy đủ, kịp thời; Tiếp đến là các khoản chi cho các hoạt động, chi sự

nghiệp không thể trì hoãn được; Kiểm tra, giám sát việc thực hiện chi ngân

sách, sử dụng tài sản của các bộ phận, phát hiện và báo cáo đề xuất kịp thời

Chủ tịch UBND xã về những vi phạm chế độ, tiêu chuẩn định mức để có biện

pháp thực hiện mục tiêu và tiến độ quy định.

Việc quyết định chi phải theo đúng chế độ, tiêu chuẩn và mức chi trong

phạm vi dự toán được phê duyệt và người ra quyết định chi phải chịu trách

nhiệm về quyết định của mình trước pháp luật.

14

d) Chi NSNN chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau đây :

Đã có trong dự toán NSNN được giao.

Đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cấp có thẩm quyền quy định.

Đã được Chủ tịch UBND xã hoặc người được ủy quyền quyết định chi.

Trường hợp sử dụng kinh phí NSNN để đầu tư xây dựng cơ bản, mua

sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc... cần phải thực hiện đấu thầu hoặc

thẩm định giá theo quy định của pháp luật.

1.2.4.3. Quyết toán NSX

a) Khái niệm, mục đích quyết toán NSX.

Quyết toán NSX là khâu cuối cùng của một chu trình ngân sách. Quyết

toán NSX là việc tổng kết, đánh giá việc tổ chức thực hiện thu, chi ngân sách

trong năm theo quyết định của các cơ quan có thẩm quyền, cũng như xem xét

trách nhiệm pháp lý của chính quyền cấp xã trong việc huy động và sử dụng

ngân sách.

Mục đích của quyết toán NSX là tổng kết, đánh giá lại toàn bộ quá trình

thu, chi ngân sách trong một năm ngân sách đã qua, cung cấp đầy đủ thông tin

về quản lý điều hành thu, chi cho những người quan tâm như: Hội đồng nhân

dân các cấp, các nhà tài trợ, người dân...

Quyết toán ngân sách được thực hiện tốt sẽ có ý nghĩa rất quan trọng

trong việc nhìn nhận lại quá trình chấp hành ngân sách qua một năm, rút ra

những bài học kinh nghiệm thiết thực bổ sung cho công tác lập ngân sách

cũng như chấp hành ngân sách những chu trình tiếp theo.

b) Nguyên tắc quyết toán:

Về số liệu: Số liệu trong báo cáo quyết toán ngân sách phải chính xác,

trung thực, đầy đủ. Số quyết toán thu NSX là số thu đã thực nộp hoặc đã hạch

toán thu NSX qua Kho bạc Nhà nước; Số quyết toán chi NSX là số chi đã

thực thanh toán hoặc đã được phép hạch toán chi theo quy định.

Về nội dung: Báo cáo quyết toán NS phải theo đúng các nội dung trong

dự toán được giao và theo Mục lục NSNN; Báo cáo quyết toán của các đơn vị

dự toán và ngân sách các cấp chính quyền địa phương không được quyết toán

15

chi lớn hơn thu. Báo cáo quyết toán năm phải có báo cáo thuyết minh nguyên

nhân tăng, giảm các chỉ tiêu thu, chi ngân sách so với dự toán.

Về trách nhiệm: Chủ tịch UBND xã phải chịu trách nhiệm trước pháp

luật về tính chính xác, trung thực, đầy đủ của báo cáo quyết toán NSX.

c) Trình tự quyết toán NSX

Bước 1: Khóa sổ kế toán cuối năm và xử lý các nghiệp vụ kinh tế phát

sinh trong thời gian chỉnh lý quyết toán.

Khoá sổ kế toán: Là công việc cộng sổ để tính ra tổng số phát sinh bên

nợ, bên có và số dư cuối kỳ của từng tài khoản kế toán hoặc tổng số thu, chi,

tồn quĩ... Khoá sổ kế toán NSX cuối năm được thực hiện vào thời điểm cuối

niên độ kế toán NSX tức là cuối ngày 31/12. Kết quả hoạt động của năm báo

cáo được tập hợp thông qua việc khoá sổ kế toán cuối năm là một trong

những căn cứ để tiến hành lập dự toán cho những năm ngân sách tiếp theo.

Thông qua việc khoá sổ kế toán cuối năm để đối chiếu, rà soát, phát hiện và

sửa chữa những sai sót trong quá trình hạch toán.

Chỉnh lý quyết toán NSX: Chỉnh lý quyết toán NSX là việc kế toán NSX

thực hiện việc kiểm tra rà soát và chỉnh lý lại các số liệu thu, chi NSX nhằm

thoả mãn yêu cầu hạch toán chính xác số thực thu, thực chi của năm ngân

sách. Trong khoảng thời gian được phép chỉnh lý quyết toán do Bộ Tài chính

quy định, kế toán phải đối chiếu và điều chỉnh những sai sót trong quá trình

hạch toán kế toán. Kế toán xã phải phối hợp với KBNN huyện nơi giao dịch

chỉnh lý quyết toán NSX, đảm bảo số liệu hạch toán đầy đủ, chính xác, khớp

đúng cả tổng số và chi tiết các khoản thu, chi theo mục lục NSX đã qui định.

Chỉnh lý quyết toán NSX được thực hiện đến hết ngày 31/01 năm sau, theo

Thông tư số 108/2008/TT-BTC ngày 18/11/2008 của Bộ Tài chính.

Bước 2: Lập báo cáo quyết toán NSX.

Cuối niên độ, sau khi đã thực hiện xong việc khoá sổ kế toán và xử lý

các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong thời gian chỉnh lý quyết toán NSX,

UBND xã phải tiến hành lập báo cáo quyết toán NSX của năm trước. Số liệu

trong báo cáo quyết toán phải chính xác, trung thực, rõ ràng dễ hiểu, cung cấp

16

đầy đủ những thông tin cần thiết cho UBND xã, HĐND xã và các cơ quan

Nhà nước cấp trên theo qui định; Nội dung trong các báo cáo quyết toán NSX

phải theo đúng các nội dung ghi trong dự toán được duyệt và phải báo cáo

quyết toán theo đúng Mục lục NSNN; Số liệu giải trình trong thuyết minh báo

cáo quyết toán năm phải thống nhất với số liệu trên các báo cáo quyết toán.

Thuyết minh quyết toán năm phải giải trình rõ được nguyên nhân đạt hay

không đạt dự toán hoặc vượt dự toán được giao theo từng chỉ tiêu thu, chi

NSX. Từ đó đưa ra được những giải pháp kiến nghị nếu có; Báo cáo quyết

toán năm trước khi gửi cho HĐND xã xét duyệt và gửi cho Phòng Tài chính -

Kế hoạch huyện phải có đối chiếu, xác nhận số liệu của KBNN nơi giao dịch.

Bước 3: Kiểm toán quyết toán NSX.

Kiểm toán Nhà nước tiến hành kiểm tra và đánh giá các thông tin liên

quan tới quá trình quản lý và sử dụng vốn của chính quyền cấp xã. Quan hệ

giữa cơ quan kiểm toán nhà nước và UBND xã là quan hệ bắt buộc theo luật

định. Cơ quan kiểm toán Nhà nước xác nhận, đánh giá và nhận xét các tài

liệu, số liệu kế toán, báo cáo kế toán đã được kiểm toán và chịu trách nhiệm

về các nội dung đó.

Theo quy định của Luật ngân sách, Kiểm toán Nhà nước có nhiệm vụ

xác định tính đúng đắn, hợp pháp của báo cáo quyết toán NSX. Thông qua

kiểm toán quyết toán NSNN, kiểm toán nhà nước thực hiện đánh giá tính kinh

tế, tính hiệu lực, hiệu quả trong sử dụng ngân sách. Kết quả kiểm toán này

được báo cáo và thực hiện trước khi Hội đồng nhân dân phê chuẩn quyết toán.

Bước 4: Xét duyệt, phê chuẩn quyết toán NSX:

Sau khi hoàn tất việc chỉnh lý quyết toán năm, số liệu trên sổ sách kế

toán phải khớp đúng với số liệu của KBNN và cơ quan thu, khi đó bộ phận kế

toán NSX có trách nhiệm lập báo cáo quyết toán NSX trình UBND xã xem

xét để gửi cho Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện, đồng thời UBND xã trình

HĐND xã phê chuẩn.

Trong trường hợp báo cáo quyết toán năm của xã do HĐND xã phê

chuẩn có thay đổi so với báo cáo quyết toán năm do UBND xã đã gửi cho

17

Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện, thì UBND xã phải báo cáo bổ sung, điều

chỉnh gửi Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện.

Báo cáo quyết toán NSX phải được HĐND xã phê chuẩn kịp thời để gửi

cho Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện theo đúng thời gian quy định.

HĐND xã sẽ thảo luận và ra Nghị quyết phê chuẩn quyết toán NSX

trong kỳ họp của HĐND. Báo cáo quyết toán ngân sách sẽ phải công khai

theo quy định của Bộ Tài chính. Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện có trách

nhiệm thẩm định báo cáo quyết toán thu, chi NSX, trường hợp có sai sót phải

báo cáo UBND huyện yêu cầu HĐND xã điều chỉnh.

1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý NSX.

1.3.1. Cơ chế chính sách và môi trường pháp lý.

Việc đổi mới NSX là một yêu cầu mang tính tất yếu, là điều kiện quan

trọng để ngân sách xã thực sự trở thành công cụ điều chỉnh của chính quyền

Nhà nước cấp xã. Tuy nhiên những nội dung đổi mới phải được thể chế hóa

và nâng cao hiệu lực về mặt pháp lý, đó chính là điều kiện cơ bản để đảm bảo

tính khả thi của đối mới ngân sách xã.

Quá trình đổi mới quản lý NSX được Đảng và Nhà nước hết sức chú

trọng, thể hiện ở hàng loạt những văn bản pháp luật về quản lý ngân sách xã

đã ra đời và ngày càng được đổi mới cho phù hợp với tình hình chung của đất

nước. Trên cơ sở các điều luật quy định, công tác quản lý ngân sách xã đã có

hiệu quả, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, tiết kiệm trong chi tiêu, hạn chế

việc sử dụng lãng phí kinh phí ngân sách cấp. Như vậy, một môi trường pháp

lý đồng bộ và hoàn thiện góp phần không nhỏ tạo điều kiện cho công tác quản

lý ngân sách xã đạt hiệu quả cao.

1.3.2. Vai trò của chính quyền xã trong quản lý ngân sách.

Việc đổi mới cơ chế quản lý nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang cơ chế

thị trường định hướng XHCN đã làm thay đổi căn bản vai trò của Ngân sách

nhà nước. Cấp xã là cấp chính quyền cơ sở trong bộ máy quản lý Nhà nước,

có chức năng, nhiệm vụ thực hiện các mục tiêu của Nhà nước ở cấp cơ sở. Để

thực hiện tốt nhiệm vụ đó, chính quyền cấp xã phải có nguồn tài chính đủ

18

mạnh để góp phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế - xã hội tại cơ sở. Với

vai trò là cấp chính quyền cấp cơ sở gắn liền với đời sống nhân dân và thực

hiện quản lý trực tiếp đối với nhân dân, trực tiếp giải quyết các công việc của

dân trên mọi phương diện theo chính sách chế độ của Nhà nước quy định

nhằm đáp ứng các nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân.

Để giải quyết được các vấn đề trên có hiệu quả, chính quyền xã phải sử

dụng một trong những công cụ đặc biệt, đó là NSX. Thông qua hoạt động thu

NSX mà các nguồn thu được tạo lập tập trung vào quỹ NSX, đồng thời giúp

chính quyền cơ sở thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát, điều chỉnh các hoạt

động sản xuất kinh doanh dịch vụ và các hoạt động khác theo pháp luật nhà

nước. Việc kiểm soát thông qua NSX được thể hiện qua việc phân loại các

ngành, nghề kinh doanh, các chủng loại hàng hoá…, qua đó chống các hoạt

động kinh tế phi pháp, trốn thuế, gian lận thuế và các nghĩa vụ đóng góp khác.

Thông qua chi ngân sách xã, các hoạt động của Đảng bộ, chính quyền

đoàn thể chính trị, xã hội ở xã được duy trì phát triển liên tục và ổn định, nhờ

đó mà nâng cao hiệu lực quản lý của chính quyền cơ sở.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế theo cơ chế thị trường, bên cạnh

những mặt tích cực thì vẫn còn tồn tại những mặt trái của nó. Thông qua hoạt

động thu, chi NSX đóng vai trò quan trọng trong việc khắc phục khuyết tật đó

bằng việc tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi cho các chủ thể kinh tế,

ngăn chặn sự độc quyền trong kinh doanh, định hướng tiêu dùng xã hội,

hướng xã hội tới các hoạt động phát triển lành mạnh, hạn chế các tiêu cực và

các tệ nạn xã hội.

Với phương châm “toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới”, ngân

sách xã đã cùng nhân dân giải quyết tốt các vấn đề về cơ sở hạ tầng “Điện,

đường, trường, trạm,…”, từng bước cải thiện bộ mặt nông thôn và rút ngắn sự

cách biệt giữa thành thị và nông thôn, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển

kinh tế - xã hội trong cả nước.

Trên thực tế hiện nay chính quyền cơ sở sử dụng các khoản thu theo tỷ lệ

điều tiết dành cho chi xây dựng cơ bản chưa được thực hiện đúng chủ trương.

19

Số quyết toán NSX không hoàn toàn là số thực chi mà chỉ là số cấp phát. Có

những khoản chi còn lãng phí, chưa được quản lý chặt chẽ, nhất là chi cho

văn phòng phẩm, hội nghị, tiếp khách…; Kết quả thu NSX hàng năm tuy có

tăng nhưng các nguồn thu trên địa bàn không ổn định, chưa được kiểm soát

chặt chẽ, nợ đọng kéo dài, chưa có kế hoạch, giải pháp bồi dưỡng nguồn thu

và chống thất thu thuế. Một số sắc thuế do cán bộ thuế không nắm được mức

doanh thu của doanh nghiệp nên tỷ lệ nộp thuế thấp không sát với thực tế.

1.3.3. Chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Ngân sách xã được lập hàng năm và phải phù hợp với kế hoạch phát

triển chung do Đảng và Nhà nước đề ra. Quá trình quản lý ngân sách nói

chung và quản lý ngân sách xã nói riêng cũng phải đảm bảo thực hiện những

đường lỗi chủ trương phát triển kinh tế - xã hội đó.

Nếu những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mang tính khả thi thì việc

đầu tư ngân sách để thực hiện sẽ có cơ sở cho hiệu quả cao công tác quản lý

sẽ chặt chẽ hơn, tránh được những hiện tượng tiêu cực, gây thất thoát vốn của

Nhà nước. Ngược lại, khi các mục tiêu kinh tế - xã hội đó thiếu tính thực tiễn,

đầu tư không tính đến hiệu quả sẽ dẫn đến những hiện tượng tiêu cực, việc

quản lý không chặt chẽ gây thất thoát cũng như lãng phí tiền của Nhà nước.

1.3.4. Năng lực, trình độ đội ngũ cán bộ quản lý NSX.

NSX là một bộ phận quan trọng trong hệ thống NSNN, đảm bảo thực

hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao của chính quyền cấp xã. Những

người làm công tác quản lý NSX đòi hỏi phải có một trình độ nhất định về

mọi mặt và chuyên sâu nghiệp vụ quản lý thì mới có thể đáp ứng được yêu

cầu chung.

Việc tổ chức bộ máy quản lý ngân sách xã phải thống nhất đồng bộ từ

khâu tổ chức thu, quản lý cấp phát, kiểm soát chi tiêu đến từng công việc cụ

thể. Các khâu lập, trình duyệt ngân sách, điều hành ngân sách đến quyết toán

ngân sách đều phải dựa trên cơ sở luật định, đòi hỏi cán bộ tài chính xã phải

thông hiểu Luật NSNN, nắm chắc tiêu chuẩn, định mức, thực hiện đúng chế

độ quy định. Như vậy, công tác quản lý NSX có đạt được hiệu quả hay không

20

phụ thuộc khá nhiều vào trình độ của cán bộ quản lý cũng như việc tổ chức bộ

máy quản lý.

1.3.5. Phân cấp quản lý ngân sách.

Mục tiêu chính của phân cấp NS nhằm đảm bảo các nguồn lực tài chính

nhà nước được huy động và sử dụng một cách hiệu quả nhất. Đồng thời đảm

bảo tính chủ động, sáng tạo, sự hài hòa về quyền lực trong quản lý NS giữa

các cấp, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Phân cấp quản lý NS

bao gồm các nội dung: phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và tỷ lệ phần trăm

các khoản thu phân chia giữa NS Trung ương và NS địa phương.

Phân cấp NSNN hiện nay còn mang nặng tính bao cấp, làm phát sinh

tính cửa quyền, xin cho. Cần hoàn thiện việc phân cấp quản lý NS theo hướng

giảm tính lồng ghép NS, quy định rõ ràng, cụ thể phạm vi nhiệm vụ các cấp

đảm nhận, tăng cường tính chủ động của địa phương trong việc phân cấp

nguồn thu và nhiệm vụ chi cho cấp dưới.

Quy trình lập NSNN hiện quy định thời gian quá ngắn và còn bị ràng

buộc bởi Luật Tổ chức HĐND và UBND cho nên việc lập dự toán NSNN ở

địa phương còn mang nặng tính hình thức, không sát thực tế, không khoa học.

Sự tự chủ của chính quyền địa phương còn hạn chế, tương quan giữa nguồn

thu và nhiệm vụ chi của các cấp chính quyền địa phương chưa tương xứng.

1.4. Sự cần thiết khách quan phải tăng cường quản lý NSX

Thứ nhất, Xuất phát từ thực trạng quản lý NSX thời gian qua.

Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, NSX đã có nhiều biến đổi

tích cực, tạo nguồn thu ngày càng lớn, đáp ứng nhu cầu chi phong phú và đa

dạng đặt ra cho chính quyền cấp xã, đạt được những thành tựu to lớn góp

phần vào công cuộc xây dựng và phát triển nông thôn mới.

Trong thời gian qua Nhà nước đã ban hành hàng loạt các chính sách,

chế độ quản lý NSX giúp cho công tác tổ chức thu, điều hành chi NSX đi vào

nề nếp và có hiệu quả, các khâu trong chu trình quản lý NSX được đảm bảo

và chấp hành nghiêm chỉnh, đúng luật. Ngày 23/6/2003, Bộ Tài chính đã ban

hành thông tư số 60/2003/TT-BTC quy định về quản lý NSX và các hoạt

21

động tài chính khác của xã, phường, thị trấn. Qua đây ta thấy rằng Nhà nước

ta đã có sự quan tâm đúng mức đến công tác quản lý NSX và luôn chú trọng

đến việc sửa đổi, bổ sung chế độ quản lý NSX cho phù hợp với thực tế.

Quy mô thu, chi NSX ngày một tăng lên, việc bồi dưỡng phát triển

nguồn thu cũng được hầu hết các xã quan tâm, các công trình mục tiêu như

Điện – Đường – Trường – Trạm đã hoàn thành góp phần thay đổi sâu sắc bộ

mặt nông thôn, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mở rộng khả năng tiếp

thị, nâng cao dân trí, sức khỏe cộng đồng, tạo tiền đề vật chất cho sự nghiệp

CNH,HĐH nông nghiệp nông thôn.

Việc kiểm tra, kiểm soát các khoản thu chi của NSX qua Kho Bạc Nhà

nước đã được triển khai ở tất cả các xã, từ đó giúp cho các cơ quan chuyên

môn và các cấp lãnh đạo bắt kịp thời diễn biến thu, chi vào NSX để kịp thời

chỉ đạo, quản lý và điều hành.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, NSX cũng đã bộc lộ

những hạn chế nhất định đòi hỏi phải có biện pháp để tăng cường quản lý.

Công tác quản lý thu chưa khai thác được tiềm năng sẵn có, cơ cấu thu chưa

hợp lý, chưa thực sự quan tâm đặc biệt tới việc nuôi dưỡng nguồn thu. Quản

lý chi còn lỏng lẻo, cơ cấu chi còn nhiều bất cập. Vấn đề nổi cộm trong chi

NSX là chi tiêu trong quản lý hành chính còn lãng phí, các khoản chi hội

nghị, tiếp khách còn quá lớn, sửa chữa thường xuyên chắp vá, chi đầu tư tràn

lan, không dứt điểm. Nhiều nơi còn giao cho thôn, xóm thực hiện thu, chi cho

đầu tư xây dựng cơ bản không đúng các thủ tục quy định, không thực hiện

công khai tài chính trước dân.

Về cân đối ngân sách còn nhiều nan giải, hầu hết các xã là không tự cân

đối được ngân sách, nên số bổ sung từ ngân sách cấp trên còn lớn.

Ngoài ra công tác lập dự toán còn mang tính hình thức, không bám sát

thực tế với tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn, từ đó gây khó khăn cho

công tác điều hành ngân sách theo dự toán được duyệt. Bộ máy quản lý NSX

còn rất hạn chế, trình độ chuyên môn không đồng đều, nhiều cán bộ làm công

tác quản lý kinh tê – tài chính chưa thực sự quan tâm đến luật NSNN, chưa

22

đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của quản lý NSX.

Thứ hai, theo tinh thần của luật NSNN được quốc hội thông qua

ngày 16/12/2002 có hiệu lực thi hành bắt đầu từ năm 2004 có nhấn mạnh đến

vấn đề tăng cường nguồn lực cho NSX (điểm c; khoản 2; điều 4); dành quyền

chủ động nhiều hơn cho xã, điều này thể hiện ở chỗ:tăng tỷ lệ điều tiết cho xã

ở một số khoản thu như: thuế chuyển quyền sử dụng đất; thuế nhà, thuế đất;

thuế môn bài từ cá nhân, hộ kinh doanh; thuế sử dụng đất nông nghiệp; lệ phí

trước bạ nhà, đất). Theo quy định thì các khoản thu này NSX được hưởng tối

thiểu 70% (theo quy định tại điểm b, khoản 1, điều 34 luật NSNN). Đây là

điểm khác biệt so với luật NSNN cũ, là một bước tiến trong quản lý NSN.

Việc phân cấp mạnh hơn cho xã như vậy là để xã chủ động khai thác nguồn

thu, bố trí nhu cầu chi tiêu hợp lý phù hợp với điều kiện của mỗi xã. Từ đó đặt

ra yêu cầu nâng cao trình độ và yêu cầu quản lý NSX.

Thứ ba, xuất phát từ nguyện vọng thực tế của người dân cũng như

yêu cầu chung của toàn xã hội, chúng ta đang thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc

phòng chống tham nhũng, cũng như xử lý kịp thời, đầy đủ những sai phạm

trong việc sử dụng NSX, tránh để xảy ra tình trạng thất thoát lãng phí trong

chi tiêu NSX. Vì vậy, UBND các cấp cần chỉ đạo thực hiện đầy đủ các quy

định và hướng dẫn về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, thực hiện quy chế

công khai tài chính Ngân sách, tăng cường kiểm tra, kiểm soát trong việc chi

tiêu NS, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật trong chi tiêu NS. Như vậy tất yếu

đặt ra yêu cầu hoàn thiện công tác quản lý NSX.

Nói tóm lại: NSX đóng một vị trí vô cùng quan trọng trong việc thực

hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công bằng, văn minh ở

địa phương, NSX liên quan đến lợi ích và nhu cầu sát sườn của người dân,

nhưng thực tế công tác quản lý NSX còn nhiều bất cập. Hơn thế nữa để thực

hiện tốt theo tinh thần của Luật NSNN thì cần phải có biện pháp tăng cường

quản lý NSX, tạo cho NSX đủ mạnh để chính quyền xã thực hiện tốt chức

năng, nhiệm vụ trong giai đoạn đổi mới hiện na. Vì vậy, việc hoàn thiện công

tác quản lý NSX luôn là một yêu cầu bức thiết khi mà yêu cầu dân chủ hóa

23

đời sống kinh tế xã hộ ngày càng được đẩy mạnh.

1.4.1. Xuất phát từ vị trí, vai trò của NSX.

NSX là một đơn vị dự toán cuối cùng, là cấp chính quyền cơ sở, dưới xã

không có các đơn vị dự toán trực thuộc nào. Vừa phải quản lý ngân sách

thông qua các nghiệp vụ thuế, tài chính, quỹ NSX, lại vừa quản lý tiền mặt,

vật tư, tài sản và các hoạt động kinh tế - xã hội khác thuộc địa bàn xã. Vì vậy,

NSX có vị trí và vai trò rất quan trọng trong hệ thống NSNN:

NSX có vai trò cung cấp các phương tiện vật chất cho sự tồn tại và hoạt

động của bộ máy chính quyền ở cơ sở.

Thông qua các hoạt động thu, chi NSX mà chính quyền xã có thể quản lý

toàn diện các hoạt động kinh tế - xã hội tại địa phương.

Thu NSX đóng vai trò quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế -

xã hội tại xã. Thông qua thu NSX mà các nguồn thu được tập trung nhằm tạo

lập quỹ NSX. Đây là nguồn chủ yếu để đáp ứng nhu cầu chi ngày càng tăng ở

xã. Thông qua thu NSX, chính quyền xã có thể điều tiết, đảm bảo công bằng

giữa những người có nghĩa vụ đóng góp cho NSX, trợ giúp cho những đối

tượng thuộc diện ưu đãi, những đối tượng có hoàn cảnh khó khăn, những

ngành nghề mới phát triển ở nông thôn.

Nhờ có chi NSX mà bộ mặt của nông thôn có những thay đổi đáng kể,

tạo niềm tin, phấn khởi của nhân dân. Các nhu cầu chi phục vụ mục tiêu,

chương trình xóa đói giảm nghèo, thực hiện chính sách xã hội…, cũng được

đáp ứng có hiệu quả. Các nhu cầu chi an ninh - quốc phòng cũng được đảm

bảo, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Chi giáo dục,

y tế góp phần nâng cao dân trí và sức khỏe của nhân dân địa phương.

Về quy mô thu ngày một tăng lên, việc bồi dưỡng phát triển nguồn thu

cũng được hầu hết các xã quan tâm, các công trình mục tiêu như điện, đường,

trường, trạm đã hoàn thiện góp phần thay đổi sâu sắc bộ mặt nông thôn, thúc

đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao dân trí, sức khoẻ cộng đồng, toàn

dân tham gia chung sức xây dựng nông thôn mới.

24

Về chi NSX các xã đã tự trang trải chi thường xuyên đảm bảo cho việc

hoạt động của chính quyền xã bằng nguồn thu được phân cấp và bổ sung của

ngân sách cấp trên.

Việc kiểm tra, kiểm soát các khoản thu - chi của NSX qua KBNN đã

được triển khai ở tất cả các xã, từ đó giúp cho các cơ quan chuyên môn và các

cấp lãnh đạo nắm bắt kịp thời diễn biến thu - chi vào NSX để kịp thời chỉ đạo,

quản lý và điều hành.

Tuy nhiên, bên cạnh đó việc quản lý NSX còn nhiều hạn chế đòi hỏi phải

có biện pháp để tăng cường quản lý đó là:

Về thu NSX cần phải quản lý chặt chẽ nguồn thu không để bỏ sót gây

mất công bằng trong xã hội dẫn đến việc cạnh tranh thiếu lành mạnh. Cần thu

đúng, thu đủ và bồi dưỡng nguồn thu, các xã hiện nay đã chú trọng đến huy

động đóng góp của nhân dân nhưng chưa được nhiều. Tình trạng nợ vốn trong

XDCB vẫn diễn ra khá phổ biến ở các xã.

Về chi NSX là việc chi tiêu trong quản lý hành chính còn lãng phí, các

khoản chi hội nghị, tiếp khách còn quá lớn, sửa chữa thường xuyên chắp vá,

chi đầu tư tràn lan không có trọng tâm, trọng điểm.

Vấn đề cân đối ngân sách còn nhiều hạn chế, hầu hết các xã không tự

cân đối được ngân sách, nên số bổ sung từ cấp trên còn lớn.

Ngoài ra công tác tự lập dự toán còn mang tính hình thức, không bám sát

thực tế với tình hình kinh tế xã hội trên địa bàn, từ đó gây khó khăn cho công

tác điều hành ngân sách theo dự toán được duyệt.

Bộ máy quản lý NSX còn rất nhiều hạn chế, đa số chủ tịch xã chưa được

đào tạo cơ bản về quản lý tài chính, mới chỉ dừng lại ở việc bồi dưỡng kiến

thức quản lý NSX nên nghiệp vụ chưa sâu. Trình độ cán bộ tài chính - kế toán

xã còn hạn chế, chủ yếu là đào tạo chắp vá tại chức. Hiện nay đội ngũ cán bộ

chuyên trách NSX vừa mỏng về số lượng, vừa hạn chế về trình độ, cần phải

tiếp tục đào tạo để đáp ứng được yêu cầu công tác quản lý NSX hiện nay.

1.4.2. Những nguyên nhân khác.

25

Luật NSNN 2002 có nhấn mạnh đến vấn đề tăng cường nguồn lực cho

NSX (điểm c; khoản 2; điều 4); dành quyền chủ động nhiều hơn cho xã, điều

này được thể hiện ở chỗ: tăng tỷ lệ điều tiết cho xã ở một số khoản thu như:

thuế chuyển quyền sử dụng đất (nay là thuế TNCN hoặc thuế TNDN); thuế

nhà, đất (nay là thuế phi nông nghiệp); thuế môn bài từ cá nhân, hộ kinh

doanh; thuế sử dụng đất nông nghiệp; lệ phí trước bạ nhà, đất. Theo quy định

thì các khoản thu này NSX được hưởng tối thiểu 70% (theo quy định tại điểm

b, khoản 1, điều 34 luật NSNN). Căn cứ vào nguồn thu và nhiệm vụ chi của

xã, thị trấn, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có thể quyết định tỷ lệ NSX, thị trấn

được hưởng cao hơn, đến tối đa là 100% (Theo quy định tại Phần II, mục I,

điểm 1, tiết 1.2, tiểu tiết a, Thông tư số 60/2003/TT-BTC ngày 23/06/2003).

Việc phân cấp mạnh hơn cho xã như vậy là để xã chủ động khai thác

nguồn thu, bố trí nhu cầu chi tiêu hợp lý phù hợp với điều kiện của mỗi xã.

Từ đó đặt ra yêu cầu nâng cao trình độ và tăng cường quản lý NSX.

26

Chương 2

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NSX

TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ SƠN TÂY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội và hệ thống quản lý NSX trên địa bàn

thị xã Sơn Tây.

2.1.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội

2.1.1.1. Đặc điểm kinh tế

Dưới sự lãnh đạo của Thị uỷ, HĐND, UBND thị xã cũng với sự phấn

đấu của các ngành, các cấp trong những năm qua, Đảng bộ và nhân dân thị xã

Sơn Tây đã đạt được những kết quả tương đối toàn diện về phát triển KT-

XH, an ninh và quốc phòng. Năm 2014, tốc độ giá trị tăng thêm (VA) đạt

9,3%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: Công nghiệp- xây

dựng chiếm 48%; các ngành dịch vụ chiếm 44,6%; nông, lâm nghiệp, thuỷ

sản chiếm 7,4%; thu nhập bình quân đầu người đạt 31,4 triệu đồng/năm. Kết

quả cụ thể trong các ngành kinh tế trên địa bàn những năm vừa qua cụ thể là:

* Ngành Công nghiệp- xây dựng: Trong những năm qua ngành công

nghiệp- xây dựng, tiểu thủ công nghiệp của thị xã có bước phát triển và tăng

trưởng khá, sản xuất công nghiệp đã bước đầu thích nghi với cơ chế thị

trường, một số doanh nghiệp nhà nước đã được chuyển đổi, cổ phần hoá tiến

hành đầu tư đổi mới thiết bị, dây truyền sản xuất dần đi vào ổn định. Tuy quy

mô còn nhỏ, hiệu quả SXKD chưa cao nhưng đã góp phần vào giải quyết việc

làm cho người lao động và có đóng góp cho NS địa phương.

* Ngành thương mại, dịch vụ, du lịch đã có bước chuyển biến tích cực

tốc độ tăng bình quân hàng năm giai đoạn 2010- 2014 đạt 16,5%.

* Nông, lâm nghiệp của thị xã trong những năm qua chuyển dịch tích

cực theo hướng sản xuất hàng hoá, sản phẩm phong phú đa dạng, tốc độ tăng

bình quân hàng năm giai đoạn 2010- 2014 đạt 5,8%; giá trị 1 ha canh tác đạt

35 triệu đồng, kinh tế trang trại hộ gia đình phát triển mạnh.

2.1.1.2. Tình hình xã hội:

27

Kinh tế của thị xã ngày một ổn định và phát triển, đời sống các tầng lớp

nhân dân từng bước được cải thiện, thị xã không còn hộ đói, số hộ nghèo

giảm hàng năm; các chương trình văn hoá- xã hội, y tế, giáo dục đào tạo, dân

số gia đình và trẻ em có bước phát triển mới đạt được những kết quả khá so

với các huyện trong Thành phố Hà Nội; các hoạt động văn hoá, văn nghệ,

truyền thanh đã kịp thời phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương góp phần

xây dựng con người mới, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà

bản sắc dân tộc; công tác giáo dục đào tạo đã phát triển cả về số lượng và chất

lượng. Cơ sở vật chất trường học được tăng cường, số học sinh giỏi cấp thành

phố và thị xã bình quân hàng năm đạt trên 3.000 em, kết quả thi tốt nghiệp ở

các cấp học đạt trên 99%. Đến nay, thị xã đã được thành phố công nhận 25

trường chuẩn quốc gia, 15/15 xã, phường được công nhận phổ cập trung học

cơ sở.

Tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội trong những năm gần

đây có nhiều tiến bộ, tệ nạn xã hội đang được đẩy lùi, phong trào toàn dân

đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá đã phát triển cả chiều rộng và chiều sâu,

Hàng năm có trên 80% số hộ đăng ký được công nhận gia đình văn hoá, số

làng, khu phố, cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị được công nhận đạt danh hiệu là

làng, khu phố, cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị văn hoá ngày một tăng.

Bên cạnh những mặt thuận lợi, nhìn chung kinh tế của thị xã phát triển

còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có, chưa huy động được mọi

nguồn lực cho phát triển KTXH của thị xã, điều này đã gây nên những khó

khăn không nhỏ trong việc quản lý thu - chi NSNN trên địa bàn trong những

năm vừa qua.

2.1.2. Hệ thống quản lý NSX trên địa bàn Thị xã Sơn Tây

2.1.2.1. Những vấn đề đổi mới và vận dụng trong công tác quản lý

NSX trên địa bàn Thị xã.

2.1.2.1.1. Đổi mới trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và giao trách nhiệm

cho các đơn vị tham gia quản lý ngân sách địa phương.

28

Chi Cục thuế và các đơn vị tổng hợp của thị xã căn cứ tình hình hoạt

động kinh tế của toàn thị xã để xác định dự toán thu một cách hợp lý, phù hợp

với tốc độ tăng trưởng kinh tế và tình hình thực hiện kế hoạch các năm trước

cũng như các chế độ chính sách hiện hành; tham mưu cho UBND thị xã giao

dự toán thu cho các đơn vị thực hiện, trên nguyên tắc đảm bảo tổng thu

NSNN giao cho các đơn vị phải bằng hoặc cao hơn dự toán thu của Thành

phố giao cho thị xã, đồng thời thường xuyên theo dõi sát tình hình phát triển

kinh tế, xã hội và các nhân tố ảnh hưởng làm tăng, giảm thu ngân sách trên

từng địa bàn để tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương các biện pháp

chỉ đạo tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc để đảm bảo tăng trưởng

kinh tế đạt và vượt mức các chỉ tiêu đề ra.

Phòng Tài chính - Kế hoạch là cơ quan chuyên môn giúp UBND thị xã

thực hiện lập dự kiến phân bổ dự toán chi đầu tư xây dựng cơ bản cho từng

đơn vị, từng dự án công trình thuộc ngân sách địa phương. Để đảm bảo thực

hiện tốt các mục tiêu nhiệm vụ kinh tế - xã hội của địa phương và các qui

hoạch kế hoạch phát triển lâu dài của địa phương.

Các phường, xã trên địa bàn thị xã bám sát quy hoạch, kế hoạch được

duyệt thực hiện việc sắp xếp bố trí đầu tư phù hợp, thực hiện nghiêm các thủ

tục và trình tự quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản, đảm bảo việc áp dụng các

tiêu chuẩn định mức, đơn giá, sát thực, kịp thời, hạn chế tối đa thất thoát lãng

phí trong xây dựng cơ bản. Các thông tin giá, bộ đơn giá tổng hợp, các định

mức tiêu chuẩn kỹ thuật mới, tiến bộ đã được các phòng, ngành, bộ phận cập

nhật kịp thời để sử dụng trong quản lý.

Tổ chức quản lý tốt các chợ, các điểm kinh doanh, các bến bãi..., vì đây

là nguồn thu chiếm tỷ trọng không nhỏ trong NSX của một số xã trên địa bàn.

Thực hiện tốt việc công khai tài chính và sử dụng ngân sách ở các xã, thị

trấn để tăng cường sự giám sát của cán bộ, đảng viên và của nhân dân nhằm

thúc đẩy tiết kiệm chi, chống tham nhũng, lãng phí. Thực hiện nghiêm chỉnh

các quy định về công khai tài chính đối với các cấp NSNN, các đơn vị dự toán

29

ngân sách, các tổ chức được NSNN hỗ trợ, công khai các khoản đóng góp của

dân, công khai phân bổ, quản lý sử dụng vốn đầu tư XDCB thuộc nguồn ngân

sách. Trong thực hiện công khai đã chú trọng đổi mới phương thức, cải cách

thủ tục tạo điều kiện tối đa cho người được cung cấp thông tin nắm được

nhanh gọn chính xác những thông tin cơ bản kể cả nguồn tài chính và kết quả

của việc sử dụng nguồn tài chính đó.

Tập trung chỉ đạo quản lý, giám sát các khoản thu thuế và thu ngân sách

trong điều kiện triển khai thực hiện, cơ chế tự kê khai tự nộp thuế được áp

dụng rộng rãi với mọi đối tượng, cơ quan thuế đã tập trung nguồn nhân lực để

tổ chức kiểm tra các loại hồ sơ khai thuế tại cơ quan thuế nhằm kiểm soát việc

kê khai của người nộp thuế, phát hiện, ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm

pháp luật về thuế vừa chống thất thu thuế và vừa là biện pháp nhắc nhở để hỗ

trợ người nộp thuế nâng cao tính tuân thủ nghĩa vụ thuế. Uỷ nhiệm cho xã, thị

trấn thực hiện thu thuế với những khoản thuế nhỏ nằm rải rác trên địa bàn.

Về quản lý chi đầu tư XDCB, đã xây dựng chuẩn các quy trình nghiệp

vụ, kiểm tra, kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB. Để quản lý tốt chi ngân

sách cho đầu tư XDCB chính quyền các cấp của thị xã Sơn Tây đã chú trọng

công tác kiểm tra giám sát và chỉ đạo các đơn vị trực thuộc thực hiện tốt các

quy trình nghiệp vụ, kiểm tra, kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB

Về quản lý và kiểm soát các khoản chi thường xuyên của ngân sách theo

hướng kiểm soát chi theo kết quả đầu ra. Thông qua các biện pháp quản lý chi

NSNN qua Kho bạc Nhà nước, hoàn thiện và xây dựng chuẩn các quy trình

nghiệp vụ nhằm quản lý, kiểm tra, kiểm soát theo dự toán được duyệt, đảm

bảo theo chế độ và tiêu chuẩn định mức, kiên quyết từ chối các khoản chi

không đúng chế độ, không có trong dự toán

2.1.2.1.2. Đổi mới tổ chức bộ máy quản lý NSX.

Thực hiện tiêu chuẩn hoá và chuyên môn hoá đội ngũ cán bộ quản lý

thu, chi NSNN. Cán bộ quản lý thu, chi ngân sách của thị xã có năng lực

chuyên môn, được đào tạo và bồi dưỡng tốt, am hiểu và nắm vững tình hình

30

KTXH cũng như các cơ chế chính sách của Nhà nước. Đồng thời có tư cách,

phẩm chất đạo đức tốt, có trách nhiệm và tâm huyết với công việc được giao.

Tăng cường đào tạo và đào tạo lại kiến thức quản lý tài chính và NSNN

cho đội ngũ cán bộ làm công tài chính, kế toán thị xã, cán bộ tài chính xã, thị

trấn và đội ngũ cán bộ xã về quản lý NSX nói riêng, để mọi người hiểu và

nhận thức đúng được yêu cầu của quản lý NSNN và chức năng nhiệm vụ

cũng như thẩm quyền của mình, đồng thời tự tích luỹ kiến thức và kinh

nghiệm, để có đủ khả năng thực hiện các nhiệm vụ được giao.

Hàng năm tổ chức tập huấn những nội dung quan trọng chủ yếu của Luật

NSNN và các văn bản hướng dẫn thi hành đối với đại biểu HĐND, một số

thành viên UBND các cấp được giao nhiệm vụ liên quan đến công tác tài

chính. Tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng bằng nhiều hình

thức về những quy định của Luật NSNN nói chung và NSX nói riêng.

Hoàn thiện, củng cố cơ chế đánh giá công chức để bố trí vào các công

việc phù hợp, những công chức không có đủ trình độ, khả năng chuyên môn

sẽ bố trí chuyển việc khác, đào tạo lại hoặc cho thôi việc.

Thực hiện luân phiên, luân chuyển cán bộ nhằm nâng cao tính năng

động, sáng tạo, chống bảo thủ, trì trệ và ngăn ngừa các sai phạm của cán bộ.

Có chế độ thưởng phạt nghiêm minh, tăng cường trách nhiệm cá nhân, tạo

lòng tin của nhân dân đối với chính quyền.

2.1.2.1.3. Áp dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý.

Các cấp chính quyền của thị xã đã tập trung đầu tư công nghệ thông tin

và các phần mềm ứng dụng trong quản lý NSX, phần mềm được kết nối với

hệ thống từ thị xã đến cơ sở.

Cấp huyện đã có bộ phận chuyên trách làm công tác quản trị hệ thống,

nghiên cứu và triển khai các giải pháp đảm bảo an toàn, bảo mật hệ thống

thông tin, ngăn chặn mọi sự truy cập trái phép từ bên ngoài, bảo mật các cơ sở

dữ liệu để đảm bảo sự an toàn và tính pháp lý của dữ liệu.

2.1.2.2. Biên chế bộ máy quản lý NSX của thị xã Sơn Tây hiện nay.

31

2.1.2.2.1. Phòng Tài chính - Kế hoạch thị xã.

a) Vị trí, chức năng:

Phòng Tài chính - Kế hoạch là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân

dân thị xã Sơn Tây, có chức năng tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân thị xã

thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực tài chính, ngân sách…

Phòng Tài chính - Kế hoạch chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế

và công tác của UBND thị xã, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn

về chuyên môn nghiệp vụ thuộc lĩnh vực tài chính của Sở Tài chính, thuộc

lĩnh vực kế hoạch, đầu tư của Sở Kế hoạch và Đầu tư.

b) Nhiệm vụ, quyền hạn.

- Về lĩnh vực tài chính: Trình UBND thị xã ban hành các quyết định, chỉ

thị, quy hoạch, kế hoạch dài hạn, 5 năm và hàng năm về lĩnh vực tài chính;

chương trình, biện pháp thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính nhà nước

trong lĩnh vực tài chính thuộc nhiệm vụ quản lý của Phòng.

Hướng dẫn các cơ quan, đơn vị dự toán thuộc thị xã, UBND phường, xã

xây dựng dự toán ngân sách hàng năm; xây dựng trình UBND thị xã dự toán

ngân sách thị xã và tổng hợp dự toán ngân sách thị xã theo hướng dẫn của Sở

Tài chính.

Lập dự toán thu ngân sách nhà nước đối với những khoản thu được phân

cấp quản lý, dự toán chi ngân sách huyện và tổng hợp dự toán ngân sách

phường, xã, phương án phân bổ ngân sách thị xã trình UBND thị xã; lập dự

toán ngân sách điều chỉnh trong trường hợp cần thiết để trình UBND thị xã; tổ

chức thực hiện dự toán ngân sách đã được quyết định.

Hướng dẫn, kiểm tra việc quản lý tài chính, ngân sách, giá, thực hiện chế

độ kế toán của chính quyền phường, xã, tài chính HTX, tài chính kinh tế tập

thể và các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp nhà nước thuộc thị xã.

Phối hợp với cơ quan có liên quan trong việc quản lý công tác thu ngân

sách nhà nước trên địa bàn theo quy định của pháp luật.

Thẩm tra quyết toán các dự án đầu tư do thị xã quản lý; thẩm định quyết

toán thu, chi NSX; lập quyết toán thu, chi ngân sách thị xã; tổng hợp, lập báo

32

cáo quyết toán thu NSNN trên địa bàn thị xã và quyết toán thu, chi ngân sách

thị xã báo cáo UBND thị xã để trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê

chuẩn. Tổ chức thẩm tra, trình Chủ tịch UBND thị xã phê duyệt quyết toán

đối với dự án thuộc thẩm quyền phê duyệt của Chủ tịch UBND thị xã. Thẩm

tra, phê duyệt quyết toán dự án đầu tư bằng nguồn vốn sự nghiệp có tính chất

đầu tư xây dựng cơ bản thuộc ngân sách thị xã quản lý.

Quản lý tài sản nhà nước tại các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp

thuộc thị xã quản lý theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Bộ Tài

chính. Thẩm định, trình UBND thị xã quyết định theo thẩm quyền việc mua

sắm, thuê, thu hồi, điều chuyển, thanh lý, bán, tiêu hủy tài sản nhà nước.

Quản lý nguồn kinh phí được ủy quyền của cấp trên; quản lý các dịch vụ

tài chính theo quy định của pháp luật.

Thực hiện chế độ thông tin báo cáo định kỳ và đột xuất về tài chính,

ngân sách, giá thị trường… với UBND thị xã và Sở Tài chính.

Chủ trì phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan kiểm tra việc thi

hành pháp luật tài chính; giúp UBND thị xã giải quyết các tranh chấp, khiếu

nại, tố cáo về tài chính theo quy định của pháp luật.

Thực hiện các nhiệm vụ khác về quản lý nhà nước trong lĩnh vực tài

chính theo phân công, phân cấp hoặc ủy quyền của UBND thị xã và theo quy

định của pháp luật.

- Về lĩnh vực kế hoạch và đầu tư: Trình UBND thị xã dự thảo các quy

hoạch, kế hoạch 5 năm và hàng năm của thị xã; đề án, chương trình phát triển

KTXH, CCHC trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư trên địa bàn thị xã.

Trình Chủ tịch UBND thị xã các chương trình, danh mục, dự án đầu tư

trên địa bàn; thẩm định và chịu trách nhiệm về dự án, kế hoạch đầu tư trên dịa

bàn thuộc thẩm quyền quyết định của Chủ tịch UBND thị xã; thẩm định và

chịu trách nhiệm về kế hoạch đấu thầu, kết quả lựa chọn nhà thầu các dự án

hoặc gói thẩu thuộc thẩm quyền quyết định của Chủ tịch UBND thị xã.

33

Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan giám sát và đánh giá đầu

tư, kiểm tra việc thi hành pháp luật về kế hoạch và đầu tư trên địa bàn thị xã,

giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm theo thẩm quyền.

c) Tổ chức và biên chế.

Phòng Tài chính - Kế hoạch có Trưởng phòng, 03 Phó Trưởng phòng và

các công chức chuyên môn.

Trưởng phòng chịu trách nhiệm trước UBND, Chủ tịch UBND thị xã và

trước pháp luật về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn dược giao

và toàn bộ hoạt động của Phòng.

Phó trưởng phòng giúp Trưởng phòng phụ trách và theo dõi một số mặt

công tác; chịu trách nhiệm trước Trưởng phòng và trước pháp luật về nhiệm

vụ được phân công.

Biên chế hành chính của Phòng Tài chính - Kế hoạch do Chủ tịch Uỷ

ban nhân dân thị xã quyết định trong tổng số biên chế hành chính được Uỷ

ban nhân dân Thành phố giao hàng năm. Lãnh đạo phòng: 04 người (01

Trưởng phòng, 03 phó trưởng phòng). Cơ cấu tổ chức bộ máy của Phòng Tài

chính - Kế hoạch thị xã Sơn Tây có thể mô tả theo sơ đồ sau:

34

SƠ ĐỒ 2.1: TỔ CHỨC BỘ MÁY CỦA PHÒNG TÀI CHÍNH

KẾ HOẠCH THỊ XÃ SƠN TÂY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Trưởng phòng

Các Phó phòng

Các bộ phận khác

Đăng ký kinh doanh Quản lý công sản, giá

Ngân sách huyện, xã Hành chính văn phòng

Kế hoạch & Đầu tư

2.1.2.2.2. Ban Tài chính cấp xã.

a) Chức năng, nhiệm vụ.

Ban Tài chính xã, phường có trách nhiệm tham mưu giúp Đảng uỷ, Hội

đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân xã thực hiện quản lý tài chính, ngân sách xã

và các hoạt động tài chính khác theo quy định của nhà nước và chịu sự chỉ

đạo, hướng dẫn của UBND cấp xã và cơ quan tài chính cấp huyện (thị xã);

Xây dựng dự toán ngân sách xã theo hướng dẫn của cơ quan Tài chính

cấp trên trình UBND xã xem xét, để trình Hội đồng nhân dân xã quyết định.

Phối hợp với cơ quan thuế và các ban, ngành, đoàn thể cấp xã tổ chức

thu ngân sách trên địa bàn, đảm bảo thu đúng, thu đủ và kịp thời các khoản

thu ngân sách theo quy định của Nhà nước.

Tổ chức thực hiện công tác quản lý ngân sách xã và các hoạt động tài

chính khác của xã theo phân cấp.

Quản lý các quỹ công chuyên dùng của xã (Quỹ quốc phòng an ninh,

Quỹ đền ơn đáp nghĩa…) và các khoản đóng góp tự nguyện của nhân dân do

huy động đã được Hội đồng nhân dân xã quyết định.

35

Quản lý tài sản công tại xã theo phân cấp quản lý tài sản theo quy định

của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân thành phố.

Quản lý các hoạt động sự nghiệp của xã, bao gồm các hoạt động của

Trạm Y tế, Trường mầm non, các hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục thể

thao, các hoạt động quản lý đò, chợ, đầm ao hồ, đất đai, tài nguyên, bến bãi

do UBND xã trực tiếp đứng ra tổ chức và quản lý theo chế độ quy định.

Kiểm tra, giám sát việc thực hiện chi ngân sách, sử dụng tài sản của các

đơn vị sự nghiệp ngân sách, phát hiện và báo cáo đề xuất kịp thời Chủ tịch Uỷ

ban nhân dân xã về những vi phạm chế độ, tiêu chuẩn định mức để có biện

pháp đảm bảo thực hiện mục tiêu và tiến độ theo quy định của pháp luật.

Quản lý thống nhất các hoạt động tài chính có liên quan đến quản lý tài

sản công tại xã: Quản lý đất đai, các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng như

trụ sở xã, trường học, đường giao thông nông thôn, công trình thủy lợi…, đầu

tư bằng nguồn vốn ngân sách và nguồn vốn khác theo quy định của pháp luật.

Thực hiện việc lập báo cáo quyết toán thu, chi ngân sách xã hàng năm

trình Uỷ ban nhân dân xã xem xét trình Hội đồng nhân dân xã phê chuẩn, gửi

báo cáo theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước.

b) Tổ chức bộ máy và biên chế.

Theo Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ “Về

chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở

xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã”,

thì bộ máy và biên chế cấp xã gồm: cán bộ chuyên trách giữ chức vụ bầu cử

theo nhiệm kỳ ở cấp xã (cán bộ cấp xã), công chức cấp xã và những người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.

Cán bộ cấp xã có các chức vụ: Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy; Chủ tịch,

Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân; Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân;

Chủ tịch Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam; Bí thư Đoàn thanh niên cộng sản

Hồ Chí Minh; Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam; Chủ tịch Hội nông

dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn có hoạt động nông, lâm,

36

ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội nông dân Việt Nam); Chủ tịch Hội Cựu

chiến binh Việt Nam.

Công chức cấp xã có các chức danh: Trưởng Công an; Chỉ huy trưởng

Quân sự; Văn phòng – thống kê; Địa chính – xây dựng – đô thị và môi trường

(đối với phường, thị trấn) hoặc địa chính – nông nghiệp – xây dựng và môi

trường (đối với xã); Tài chính – kế toán; Tư pháp – hộ tịch; Văn hóa xã hội.

Số lượng cán bộ, công chức cấp xã được bố trí theo loại đơn vị hành

chính cấp xã, cụ thể: Cấp xã loại 1: không quá 25 người; Cấp xã loại 2: không

quá 23 người; Cấp xã loại 3: không quá 21 người.

Công tác tài chính xã được Chủ tịch UBND xã phân công cho Phó chủ

tịch UBND xã phụ trách kinh tế, tài chính và Kế toán xã thực hiện, tham mưu

giúp UBND xã tổ chức thực hiện công tác quản lý NSX và các hoạt động tài

chính khác của xã.

Công chức Tài chính - Kế toán xã là người có trình độ chuyên môn

nghiệp vụ từ Trung cấp tài chính kế toán trở lên. Công chức Tài chính - Kế

toán xã có nhiệm vụ giúp Trưởng Ban Tài chính xã quản lý hoạt động thu chi

ngân sách xã và các hoạt động tài chính khác của xã.

Thủ quỹ: Thủ quỹ có nhiệm vụ quản lý quỹ tiền mặt của xã. Thủ quỹ

hiện nay chủ yếu là cán bộ Văn phòng - thống kê kiêm nhiệm.

Biên chế công chức Tài chính - Kế toán xã thực hiện theo Quy định của

Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội về việc giao số lượng, chức danh cán bộ,

công chức các xã, phường, thị trấn thành phố Hà Nội. Hiện nay số lượng công

chức tài chính - kế toán của các xã trên địa bàn thị xã chủ yếu bố trí được 01

người, ngoài ra một số xã có thêm số lượng cán bộ hợp đồng theo chỉ tiêu.

2.2. Thực trạng công tác quản lý NSX trên địa bàn Thị xã Sơn Tây

Để quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, nâng cao tính chủ động và

trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý và sử dụng

NSNN, củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả ngân sách và

tài sản của Nhà nước, tăng tích lũy nhằm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại

37

hoá đất nước theo định hướng XHCN, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã

hội, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại.

Ngày 27/12/2002, Chủ tịch nước đã ban hành Lệnh số 21/2002/L-CTN

về việc công bố Luật NSNN đã được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ hai thông

qua ngày 16/12/2002. Luật này có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 2004;

thay thế Luật NSNN năm 1996 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật

NSNN năm 1998. Những quy định trước đây trái với Luật này đều bãi bỏ.

Trong thời gian qua công tác quản lý NSX trên địa bàn thị xã Sơn Tây

được thực hiện theo Luật NSNN, Luật tổ chức HĐND và UBND, Luật thuế

GTGT, Luật Thuế TNDN,Luật kế toán; trong đó chủ đạo là Luật NSNN và

các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật NSNN.

Các chính sách được áp dụng trong quản lý NSX tại thị xã Sơn Tây bao

gồm các chính sách thể hiện qua các chế độ kế toán ngân sách và tài chính xã

theo Thông tư số 60/2003/TT-BTC ngày 23/6/2003, Quyết định số

94/2005/QĐ-BTC ngày 12/12/2005 của Bộ Tài chính; chế độ chính sách đối

với cán bộ công chức cấp xã theo Nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày

22/10/2009, Nghị định 112/2011/NĐ-CP ngày 05/12/2011; các chính sách đặc

thù của Trung ương và địa phương áp dụng cho cấp chính quyền cơ sở; cơ

chế phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và tỉ lệ phân chia nguồn thu cho NSX,

định mức phân bổ dự toán chi NSX theo Nghị quyết số 16/201/NQ-HĐND

ngày 10/12/2010 của HĐND thành phố Hà Nội, Quyết định số 55/2010/QĐ-

UBND ngày 15/12/2009 của UBNd thành phố Hà Nội.

Trong thời gian qua, công tác kiểm tra của UBND thị xã, cơ quan tài

chính cấp trên mà trực tiếp là phòng Tài chính – kế hoạch thị xã được tiến

hành thường xuyên để hướng dẫn công tác quản lý NSX, nắm bắt tình hình

chấp hành ngân sách để cùng chính quyền địa phương tháo gỡ những khó

khăn vướng mắc kịp thời. HĐND cấp xã ngoài việc quyết định dự toán và

biến pháp thực hiện dự toán hàng năm, còn thực hiện giám sát quá trình thực

hiện thu, chi tại xã đảm bảo theo dự toán được giao. Thanh tra tài chính được

38

thực hiện theo chuyên đề như thanh tra quá trình quản lý thu, chi ngân sách,

các khoản nhân dân đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng.

Thực trạng công tác quản lý NSX của thị xã Sơn Tây (5 năm) giai đoạn

2009 – 2013 từ ba khâu: lập dự toán, chấp hành và quyết toán NSX như sau:

2.2.1. Lập dự toán NSX:

a) Về ưu điểm.

Để việc chấp hành và quyết toán NSX được thực hiện theo đúng quy

định của luật NSNN và các văn bản, thông tư hướng dẫn của Bộ tài chính thì

trước hết phải thực hiện đúng các bước của khâu lập dự toán NSX. Lập dự

toán NSX là tiền đề cực kỳ quan trọng để thực hiện tiếp hai khâu sau. Nhận

thức được điều này các xã trên địa bàn thị xã đã tiến hành tuân thủ quy trình

lập dự toán theo quy định của luật NSNN.

Lập dự toán ngân sách gồm hai phần đó là: Dự toán thu ngân sách được

phân cấp cho xã quản lý và dự toán chi ngân sách, trong đó có dự toán chi tiết

cho chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển.

Căn cứ hướng dẫn của thông tư số 60/2003/TT-BTC ngày 23/6/2003 của

Bộ tài chính về việc hướng dẫn quản lý NSX và các hoạt động tài chính khác

của xã, thị trấn. Phòng Tài chính - Kế hoạch thị xã cùng UBND thị xã đã

hướng dẫn các xã của thị xã lập dự toán NSX hàng năm, đồng thời hướng dẫn

các xã thực hiện mở tài khoản thu - chi ngân sách và các khoản thu chi của xã

tại kho bạc Nhà nước thị xã Sơn Tây. Trước khi có Luật Ngân sách việc lập

dự toán ngân sách chỉ mang tính hình thức chứ không làm căn cứ điều hành.

Nhưng sau khi thực hiện luật NSNN, nhận thức được việc quản lý NSX phải

được tổ chức quản lý từ khâu lập dự toán, chấp hành và quyết toán NSX.

Công tác Lập dự toán ngân sách hàng năm đã đi vào nề nếp.

Trong những năm qua, công tác lập dự toán NSX trên địa bàn thị xã Sơn

Tây về cơ bản đã chấp hành tốt, cùng với sự hướng dẫn và chỉ đạo của cơ

quan tài chính cấp trên và sự nỗ lực cố gắng của đội ngũ cán bộ tài chính - kế

toán NSX, các xã trong địa bàn thị xã đã tiến hành lập dự toán ngân sách một

cách khoa học, hợp lý hơn và tuân thủ theo biểu mẫu quy định. Dự toán chi

39

NSX đã được tính toán phân bổ theo mục lục ngân sách, tạo cơ sở cho công

tác kiểm soát thu chi NSX của Kho Bạc nhà nước.

Hàng năm căn cứ vào quyết định của Chính phủ, thông tư hướng dẫn của

Bộ Tài chính và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của nhà nước, của địa

phương, UBND thành phố Hà Nội, UBND thị xã Sơn Tây hướng dẫn chính

quyền xã lập dự toán NSX. Bộ phận tài chính – kế toán xã có trách nhiệm lập

dự toán NSX theo mục lục ngân sách và biểu mẫu do Bộ Tài chính quy định

để UBND xã trình HĐND xã xem xét, thảo luận và quyết định.

Dự toán thu gồm: Các chương, loại, khoản, nhóm, tiểu nhóm, mục và

tiểu mục theo quy định của mục lục NSNN và luật NSNN. Dự toán các khoản

thu của NSX được xã xây dựng trên cơ sở các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh

của địa phương theo đúng các luật thuế và chế độ hiện hành, có tính đến yếu

tố trượt giá và dự toán thu thường được lập lớn hơn hoặc bằng dự toán chi và

lớn hơn hoặc bằng tốc độ tăng thu hàng năm. Số tăng hay giảm thu so với

năm trước phải được giải thích rõ ràng.

Hướng phấn đấu của các xã hiện nay là cố gắng tự cân đối thu và chi

ngân sách trên địa bàn. Các xã đều cố gắng tự cân đối thu chi NSX mình và

hạn chế việc xin bổ sung từ ngân sách cấp trên, chỉ thực hiện khi thực sự cần

thiết và tuỳ theo mục đích nhất định đối với các xã gặp rủi ro không lường

trước được như: Thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn…

Đối với khoản thu do đóng góp tự nguyện của nhân dân để đầu tư vào

việc chung cho chính quyền xã là khoản không mang tính thường xuyên nên

các xã ghi chú trong dự toán, không tổng hợp vào số thu trong ngân sách.

b) Về hạn chế.

HĐND xã quyết định dự toán NSX còn mang tính hình thức, là cơ quan

dân cử, nhiều đại biểu không có trình độ, kiến thức chuyên môn về công tác

tài chính. Bên cạnh đó, thời gian lập dự toán cũng chưa hợp lý, bộ phận

chuyên môn cũng chưa tuân thủ và bảo đảm đầy đủ theo quy trình lập, thẩm

tra, quyết định dự toán NSX. Tài liệu gửi đến cơ quan thẩm tra không bảo

đảm về thời gian và nội dung báo cáo; sự phối hợp giữa bộ phần Tài chính – 40

kế toán với các bộ phận chuyên môn khác của HĐND và UBND cũng chưa

thật rõ về phương pháp, hình thức phối hợp thẩm tra, thẩm định cho ý kiến.

Một số cán bộ kế toán NSX trên địa bàn thị xã chưa được đào tạo chính

quy về chuyên môn, chủ yếu là vừa học vừa làm. Một số cán bộ kế toán NSX

làm việc dựa trên cơ sở biết việc chứ chưa nắm sâu nghiệp vụ kế toán NSX,

chưa nắm bắt được kịp thời các chính sách, chế độ kế toán mới áp dụng đối

với xã.

Theo quyết định số 192/2004/QĐ-TTg ngày 16/11/2004 của Thủ tướng

Chính phủ và Thông tư 03/2005/TT-BTC ngày 06/01/2005 của Bộ Tài chính

hướng dẫn thực hiện “Quy chế công khai tài chính đối với các cấp ngân sách

nhà nước và chế độ báo cáo tình hình thực hiện công khai tài chính” vẫn chưa

được thực hiện triệt để. UBND các cấp của thị xã đã ra các văn bản về công

khai tài chính, song việc thông báo bằng văn bản cho Đảng ủy, các tổ chức

chính trị - xã hội ở cấp xã và trưởng các thôn ở xã; thông báo trên hệ thống

truyền thanh của cấp xã chưa được thực hiện đầy đủ, chỉ làm cho qua chuyện.

Đa số các tổ chức chính trị - xã hội ở cấp xã và trưởng thôn không nhận được

các thông báo về công khai tài chính, mới chỉ gửi đến Đảng ủy để báo cáo.

Các tài liệu công khai chỉ được niêm yết ở trụ sở UBND xã, việc công khai

trên hệ thống loa truyền thanh của xã chưa nhiều, thời gian thực hiện công

khai chưa đúng quy định còn chậm.

Nhận xét, còn một số chưa chú trọng công tác lập dự toán NSX mà chỉ

làm theo hình thức lấy lệ, việc công khai tài chính ở một số xã chưa được thực

hiện triệt để, chỉ làm để lấy hình thức, việc này rơi vào một số xã cán bộ tài

chính – kế toán chưa được đào tạo cơ bản chủ yếu là chấp vá trình độ, kiến

thức. Song nhìn chung phần lớn các xã đều nhận thức được việc quản lý NSX

phải được tổ chức quản lý từ khâu lập dự toán, chấp hành và quyết toán NSX

trở đi. Bởi vì thông qua việc lập dự toán NSX, xã mới thực hiện tốt được hai

khâu còn lại và hơn nữa xã mới có thể thực hiện thu đúng, thu đủ, chi đúng

chế độ chính sách, nhiệm vụ được giao đã có trong dự toán, đồng thời góp

41

phần giảm bớt việc chi sai chế độ hiện hành làm lãng phí tiền của ngân sách.

Bên cạnh đó nhiều xã đã tuân thủ đúng quy chế công khai tài chính theo văn

bản pháp luật hiện hành, tạo được lòng tin trong nhân dân, tránh được tình

trạng sử dụng tiền của ngân sách sai mục đích, thu sai đối tượng chế độ, định

mức theo quy định của nhà nước.

2.2.2. Chấp hành dự toán NSX.

a) Về ưu điểm.

Chấp hành dự toán NSX thực chất là việc tổ chức thực hiện theo đúng dự

toán ngân sách mà xã đã xây dựng. Sau khi ngân sách được phê chuẩn và năm

ngân sách bắt đầu, việc thực hiện ngân sách được triển khai. Nội dung của

quá trình này là tổ chức thu NSX và bố trí cấp kinh phí của NSX cho các nhu

cầu đã được phê chuẩn. Việc chấp hành NSX thuộc về tất cả pháp nhân và thể

nhân dưới dự điều hành của UBND xã.

Tổ chức chấp hành dự toán thu: Mục tiêu của chấp hành dự toán thu là

trên cơ sở không ngừng bồi dưỡng phát triển nguồn thu, tìm mọi biện pháp

động viên khai thác, đảm bảo tỷ lệ động viên chung mà HĐND đã phê chuẩn,

đáp ứng nhu cầu chi tiêu của xã đã được hoạch định trong dự toán chi.

Để đạt được mục tiêu đó, việc tổ chức chấp hành dự toán thu của các xã

trên địa bàn thị xã đã thực hiện đồng bộ các biện pháp như sau:

Xác lập, hoàn thiện hệ thống chính sách, chế độ động viên thích hợp,

vừa đảm bảo khuyến khích hoạt động sản xuất kinh doanh, vừa đảm bảo mức

động viên của Nhà nước.

Nâng cao công tác tuyên truyền chính sách, chế độ thu làm cho mọi

thành viên thấy rõ trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với

NSNN.

Kiện toàn tổ chức bộ máy theo nguyên tắc thống nhất, nâng cao hiệu lực

của bộ máy, đảm bảo gọn nhẹ, hiệu quả cao.

Đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý thu từ khâu lập kế hoạch, giao kế

hoạch thu đến khâu tổ chức đôn đốc thu nộp, công tác kế hoạch kế toán thu.

42

Tăng cường công tác bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ của cán bộ quản lý

thu; đồng thời xử lý các mối quan hệ giữa các cơ quan chức năng liên quan

đến công tác thu nộp của NSNN.

Tổ chức chấp hành dự toán chi: Mục đích của việc chấp hành dự toán chi

là đảm bảo đầy đủ, kịp thời nguồn kinh phí của ngân sách cho hoạt động của

bộ máy nhà nước và thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội đã được

hoạch định trong năm kế hoạch. Thực chất của việc chấp hành dự toán chi là

tổ chức việc cấp phát kinh phí sao cho tiết kiệm và đạt hiệu quả cao. Để đạt

được mục đích đó, trong việc chấp hành dự toán chi các xã trên địa bàn thị xã

đã thực hiện tốt các yêu cầu đó là:

Thực hiện cấp phát kinh phí trên cơ sở hệ thống các định mức, tiêu

chuẩn. Nhằm đạt được yêu cầu này, các xã đã rà soát bổ sung những định

mức mới, xóa bỏ những định mức lạc hậu, đảm bảo cho hệ thống định mức,

tiêu chuẩn có tính khoa học, tính thực tiễn cao.

Bảo đảm việc cấp phát kinh phí theo kế hoạch được duyệt. Do đó, cần

phải quy định lại chế độ lập và duyệt kế hoạch cấp phát hàng quý vừa đơn

giản, vừa khoa học đảm bảo cấp phát theo kế hoạch với thứ tự ưu tiên được

quy định bằng pháp luật. Đồng thời phải thực hiện nghiêm ngặt khoản dự trữ

kinh phí để xử lý khi có nhu cầu đột xuất hoặc mất cân đối giữa thu chi trong

quá trình chấp hành.

Triệt để thực hiện thanh toán trực tiếp, nghĩa là, mọi khoản kinh phí chi

trả từ ngân sách phải do KBNN trực tiếp thanh toán. Nguyên tắc này đã được

áp dụng cả trong lĩnh vực xây dựng cơ bản có sử dụng vốn của NSNN.

Đổi mới phương thức cấp phát vốn của ngân sách nhà nước theo hướng

nhanh, gọn, dễ kiểm tra.

Đổi mới cơ chế cấp phát theo hướng giảm các kênh cấp phát, tập trung

vào một ít đầu mối. Đặc biệt là cải tiến cơ chế cấp phát vốn xây dựng cơ bản

nhằm đảm bảo gọn nhẹ, dễ kiểm tra, nâng cao trách nhiệm của các đơn vị làm

nhiệm vụ cấp phát và đơn vị sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản.

43

Xây dựng dự toán thu – chi quý, tháng: thực chất là kế hoạch tiến độ

thực hiện nhiệm vụ của dự toán thu – chi năm. Dự toán thu – chi quý, tháng

có ý nghĩa quan trọng trong việc chấp hành ngân sách. Thông qua việc lập dự

toán thu – chi quý, tháng có thể đánh giá được khả năng hoàn thành dự toán

ngân sách nhà nước, tìm ra được những mặt yếu kém, tồn tại để tìm biện pháp

khắc phục. Yêu cầu xây dựng dự toán thu – chi quý, tháng có thể đánh giá

được khả năng phát triển nguồn thu quý, tháng trên cơ sở phân tích các hoạt

động kinh tế, dự kiến khả năng hình thành các nguồn thu mới, đồng thời xác

định được tiến độ, phạm vi mức độ cần tiến hành cấp phát phạm vi vốn của

ngân sách nhà nước trong điều kiện khả năng thu còn bị hạn chế.

b) Về hạn chế.

Với hơn 10 năm thực hiện Luật NSNN và thực hiện phân cấp quản lý

NSX theo thẩm quyền, công tác chấp hành dự toán NSX trên địa bàn thị xã

cũng gặp không ít khó khăn, vướng mắc.

Quá trình chấp hành Ngân sách cũng còn nhiều hạn chế: về thu do tổ

chức bộ máy thu chưa đủ mạnh, việc quản lý nguồn thu còn lỏng lẻo, nhất là

khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Nên thất thu còn lớn, nhất là về thuế môn

bài. Về chi: nhiều định mức tiêu chuẩn, chế độ chi tiêu hành chính sự nghiệp

chưa được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với đặc điểm tình hình KTXH.

Còn tồn tại cơ chế giao khoán kinh phí với mức cao hơn so với định mức

phân bổ ngân sách chung do cấp trên quyết định; quy định bổ sung cân đối

cho ngân sách xã được ổn định theo số tuyệt đối trong từng thời kỳ ổn định

ngân sách (3-5 năm) là chưa hợp lý.

Các quy định về điều tiết ngân sách thông qua bổ sung cân đối và bổ

sung có mục tiêu từ ngân sách thị xã cho NSX còn tạo cơ chế “xin cho”, ỷ lại,

trông chờ vào NS cấp trên, không phù hợp với phân cấp ngân sách và kém

hiệu quả.

Phương pháp cân đối NSX còn dựa chủ yếu trên nguồn lực đầu vào,

không căn cứ vào kết quả đầu ra theo hàng năm, chưa gắn với trách nhiệm sử

dụng và huy động tối đa nguồn lực cho các mục tiêu phát triển. Trong thẩm

44

tra còn chú trọng nhiều đến con số phân bổ hơn là các mục tiêu ưu tiên để bảo

đảm tính công bằng, hợp lý, dân chủ trong phân bổ các nguồn lực.

Các xã trên địa bàn thị xã còn bị động, chưa cân đối được nguồn thu với

nhiệm vụ chi, trong công tác quản lý các khoản thu chưa chặt chẽ, chưa bao

quát hết đối tượng nộp thuế, thu chưa đúng và chưa đủ, chưa có biện pháp bồi

dưỡng nguồn thu. Chỉ tiêu của một số khoản thu đề ra quá cao, vượt quá khả

năng có thể thực hiện được của các xã.

2.2.2.1. Tình hình quản lý thu NSX của thị xã Sơn Tây.

Các xã trong thị xã đã tích cực khai thác và phát triển các nguồn thu cho

NSX theo quy định của luật NSNN với các khoản thu xã hưởng 100% các xã

đã tập trung khai thác cơ bản đầy đủ các nguồn thu và chiếm tỷ trọng khá lớn

trong tổng thu NSX, nhiều xã đã huy động được các nguồn thu mới như tiền

khai thác cát, sỏi, ao hồ, các khoản do nhân dân đóng góp, cho thuê mặt bằng

và các khoản thu khác.

Với nguồn thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm, kể từ khi thực hiện Luật

NSNN các xã trong thị xã Sơn Tây được sử dụng tỷ lệ (%) số thu phân chia

theo tỷ lệ % từ các loại thuế theo quy định của Luật ngân sách. Tuy nhiên

nguồn thu này hết sức phức tạp số thu được còn rất nhỏ so với khả năng có

thể tận dụng và khai thác ngay trên địa bàn xã.

Với nguồn thu bổ sung từ ngân sách cấp trên đây là khoản thu khá lớn

trợ cấp cho các xã để có nguồn cân đối ngân sách và cho đầu tư phát triển và

các khoản chi phát sinh đột xuất khác. Trong lúc đó thực trạng của từng xã

Nhà nước chưa bao quát được hết, có xã thực sự gặp khó khăn trong thu ngân

sách, nhưng có xã phát triển và có số thu cao cũng được trợ cấp ngân sách. Do

đó cơ quan cấp trên phải xem xét tìm hiểu thực tế để cấp ngân sách sao cho

chính xác và công bằng.

a) Phương thức tổ chức quản lý các khoản thu ngân sách xã trên địa bàn

Thị xã Sơn Tây:

Căn cứ vào dự toán thu theo tháng, quý dã báo cáo Chủ tịch UBND xã,

trước khi đếnn thời điểm huy động Ban Tài chính xã báo cáo lại UBND xã,

45

đồng thời thông báo rộng rãi, công khai cho các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ

nộp chuản bị sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ nộp của mình

UBND các xã căn cứ vào đặc điểm hình thành nguồn thu của mỗi khoản

thu, Ban Tài chính xã lựa chọn thời điểm huy động cho phù hợp. Như đối với

khoản thu hoa lợi công sản nên lựa chọn thời điểm thu theo mùa vụ thu hoạch

thì người nộp dễ thực hiện nghĩa vụ của họ.

Tùy theo phạm vi phát sinh của mỗi khoản thu mà tổ chức lực lượng thu

và địa điểm thu cho phù hợp. Nếu phạm vi phát sinh một khoản thu nào đó

rộng thì cần sử dụng thêm lực lượng ủy nhiệm thu. Cụ thể như đối với khoản

thu đóng góp xây dựng kết cấu hạ tầng của xã được tính theo đầu người, theo

độ tuổi cần sử dụng ủy nhiệm thu tại các xóm hoặc các đội.

Về nguyên tắc khoản thu do Ban Tài chính xã tổ chức thu cũng phải nộp

kịp thời vào Kho bạc Nhà nước, Mọi khoản thu vào ngân sách xã đều phải thu

bằng biên lai hoặc phiếu thu do Bộ Tài chính phát hành và ghi đủ số tiền theo

quy định để giao cho người nộp 1 liên và làm cơ sở để hạch toán thu ngân

sách xã. Hàng tháng kế toán xã phải lập bảng kê chi tiết để theo dõi các khoản

thu nộp của người dân.

Việc tổ chức quản lý số thu bổ sung từ ngân sách cấp trên: UBND các xã

căn cứ vào số bổ sung mà ngân sách cấp trên đã thông báo chính thức khi giao

nhiệm vụ năm kế hoạch; căn cứ vào số thu bổ sung trong dự toán thu quý đã

báo cáo với Phòng Tài chính huyện, hàng tháng các xã đề nghị Phòng Tài

chính huyện cấp phát số bổ sung cho ngân sách xã. Căn cứ vào dự toán số cấp

bổ sung cho từng xã và khả năng cân đối của ngân sách huyện, Phòng tài

chính huyện thông báo số bổ sung hàng tháng cho xã chủ động điều hành

ngân sách. Phòng tài chính huyện phải cấp ngay cho xã khi yêu cầu và cấp đủ

số đã thông báo cho xã trong phạm vi tháng đó.

b) Kết quả thu NSX của thị xã Sơn Tây từ năm 2010 đến năm 2014 được

phản ảnh qua các bảng biểu như sau:

Việc chấp hành dự toán NSX trong đó có nhiệm vụ thu NSX luôn được

cấp ủy, chính quyền thị xã Sơn Tây và cơ sở hết sức quan tâm, coi đó là

46

nhiệm vụ trọng tâm. Thị xã đã thường xuyên chỉ đạo các ban ngành, các xã

triển khai công tác thu ngân sách ngay từ đầu năm để đạt được kết quả cao

nhất. Về phía các xã trong toàn thị xã những năm qua đã luôn phấn đấu cố

gắng thu đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch của thị xã giao, thu năm sau cao hơn

năm trước. Kết quả thu NSX của thị xã Sơn Tây được phản ánh qua số liệu đã

được tổng hợp ở biểu số 2.1 (giai đoạn 2010 – 2014) như sau:

47

Thu NSX ở thị xã Sơn Tây giai đoạn 2010 - 2014 bao gồm 3 nguồn thu

chính đó là: Các khoản thu NSX được điều tiết thu bổ sung từ ngân sách cấp

trên và thu kết dư, chuyển nguồn. Tình hình thu NSX của thị xã trong những

năm qua đã có những chuyển biến tích cực. Cụ thể như sau:

Năm 2010, tổng thu ngân sách các xã trong thị xã là 26.393 triệu đồng,

đạt 227% so với dự toán. Bình quân một xã thu được 4.399 triệu đồng. Khoản

thu các xã được điều tiết là 4.200 triệu đồng đạt 152% so với dự toán và

chiếm tỷ trọng 15,9% tổng thu NSX. Thu bổ sung từ ngân sách cấp trên là

14.281 triệu đồng đạt 161,3% so với dự toán, đây là một trong những khoản

thu quan trọng để các xã cân đối được ngân sách, đồng thời nó chiếm một tỷ

trọng lớn nhất là 54,1% trong tổng thu NSX, nhờ nguồn ngân sách bổ sung

này mà các xã tiếp tục duy trì có hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền

cấp xã. Thu kết dư và chuyển nguồn cũng chiếm tỷ trọng khá lớn, đạt 7.912

triệu đồng, chiếm tỷ trọng 30% trong tổng thu NSX.

Năm 2011, tổng thu ngân sách các xã trong thị xã đạt 23.681 triệu đồng,

đạt 183,8% so với dự toán. Khoản thu các xã được điều tiết là 6.070 triệu

đồng đạt 191% so với dự toán, chiếm tỷ trọng 25,6% tổng thu NSX. Thu bổ

sung từ ngân sách cấp trên là 13.263 triệu đồng đạt 136,7% so với dự toán,

chiếm tỷ trọng 56% tổng thu NSX. Thu kết dư và chuyển nguồn cũng chiếm

tỷ trọng khá lớn, đạt 4.348 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 18,4% trong tổng thu

NSX. Khoản thu bổ sung từ ngân sách cấp trên và thu kết dư, chuyển nguồn

có chiều hướng giảm so với năm 2010.

Năm 2012, tổng thu ngân sách các xã trong thị xã đạt 48.812 triệu đồng,

đạt 230% so với dự toán năm, tăng 1,85 lần so với năm 2010 và tăng 2,06 lần

so với năm 2011. Khoản thu bổ sung từ ngân sách cấp trên vẫn chiếm tỷ trọng

lớn nhất, chiếm 76,2% tổng thu NSX, số thu 37.200 triệu đồng tăng 2,6 lần so

với năm 2010 và tăng 2,8 lần so với năm 20111. Các khoản thu NSX được

điều tiết đạt 6.449 triệu đồng tăng 2,3 lần so với năm 2010, tăng 1,06 lần so

với năm 2011 và chiếm tỷ trọng 13,2% trong thu NSX. Thu kết dư và chuyển

nguồn có xu hướng tăng lên và tăng 1,18 lần so với năm 2011.

48

Năm 2013, tổng thu ngân sách các xã trong thị xã đạt 72.141 triệu đồng,

đạt 311% dự toán, tổng thu NSX tăng mạnh, tăng 2,73 lần so với năm 2010;

tăng 3,05 lần so với năm 2011 và 1,48 lần so với năm 2012. Khoản thu bổ

sung từ ngân sách cấp trên vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu NSX,

chiếm 56,9%, số thu 41.029 triệu đồng tăng 2,87 lần so với năm 2010, tăng

3,09 lần so với năm 2011 và tăng 1,1 lần so với năm 2012. Khoản thu NSX

được điều tiết có xu hướng giảm so với năm 2012, số thu 6.271 triệu đồng đạt

133,5% so với dự toán năm, tăng 1,49 lần so với năm 2010, tăng 1,03 lần so

với năm 2011 và bằng 97,2% so với năm 2012. Kết quả thu NSX được điều

tiết giảm cũng phản ánh tình hình kinh tế chưa có nhiều chuyển biến tích cực,

các doanh nghiệp đóng trên địa bàn, các hộ kinh doanh ngày một giảm do

hàng hóa sản xuất ra không bán được, dẫn đến quy mô nguồn thu giảm.

Năm 2014, tổng thu ngân sách các xã trong thị xã đạt 87.633 triệu đồng,

đạt 289% dự toán, số thu tăng 3,32 lần so với năm 2010, tăng 3,7 lần so với

năm 2011, tăng 1,79 lần so với năm 2012 và tăng 1,21 lần so với năm 2013,

đây là năm có tổng thu NSX cao nhất trong giai đoạn 5 năm. Trong năm 2014

thu bổ sung từ ngân sách cấp trên vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất lên tới 76,8%

tổng thu NSX, số thu là 67.291 triệu đồng tăng 4,7 lần so với năm 2010, tăng

4,94 lần so với năm 2011, tăng 1,81 lần so với năm 2012 và tăng 1,64 lần so

với năm 2013. Các khoản thu NSX được hưởng theo phân cấp lại có sự khởi

sắc, số thu là 6.464 triệu đồng đạt 103% so với dự toán năm, tăng 1,03 lần so

với năm 2013.

Nhận xét: Từ bảng số liệu tổng hợp và qua phân tích trên cho thấy, các

xã trên địa bàn thị xã Sơn Tây đã có nhiều cố gắng trong việc huy động mọi

nguồn thu không những đạt mà còn vượt so kế hoạch trong năm đề ra. Có thể

nhận thấy tổng thu NSX của thị xã Sơn Tây khá lớn, tương xứng với sự phát

triển của các xã trên địa bàn thị xã trong những năm qua. Tuy nhiên trong

tổng thu NSX thì khoản thu bổ sung từ ngân sách cấp trên vẫn còn rất cao,

còn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào nguồn thu bổ sung từ cấp trên, thiếu tính

chủ động và năng động, chưa có sáng tạo, biện pháp trong công tác thu ngân

49

sách, nhiều nguồn thu vẫn còn bị bỏ ngỏ, bỏ sót như: nguồn thu từ các hộ cho

thuê nhà trọ, các hộ kinh doanh lợi dụng chính sách xin nghỉ kinh doanh

nhưng thực tế vẫn kinh doanh…

Thu kết dư và thu chuyển nguồn của các xã cũng chiếm tỷ trọng khá lớn

trong tổng thu NSX, số thu kết dư và chuyển nguồn lớn của NSX không phải

là số bội thu mà do nguồn thu đến chậm vào những tháng cuối năm. Vì vậy,

chính quyền cơ sở không kịp giải ngân chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư xây

dựng cơ bản, một số dự án đã được phê duyệt nhưng chưa triển khai được do

chưa bố trí được vốn ngay từ đầu năm, cuối năm mới bố trí được vốn dẫn đến

phải xin phê duyệt dự án chuyển tiếp và chuyển nguồn sang năm sau để thực

hiện đồng thời với các dự án mới. Nguyên nhân khác là trong quá trình lập kế

hoạch dự báo chưa sát với thực tế nguồn thu.

50

Từ biểu số 2.2 về tổng hợp tình hình thực hiện các khoản thu ngân sách

xã được điều tiết giai đoạn 2010 – 2014 cho thấy:

Thuế môn bài hộ nhỏ, là khoản thu không lớn trong tổng thu NSX được

điều tiết, là khoản thu không ổn định về số thu qua các năm. Cụ thể:

Năm 2010 khoản thu này là 133 triệu đồng, đạt 214,5% dự toán và

chiếm tỷ trọng 3,2%.

Năm 2011 khoản thu này đã tăng so với năm 2010, thu được 145 triệu

đồng, tăng 1,09 lần so với số thu của năm 2010, nhưng cũng chỉ chiếm tỷ

trọng 2,4%.

Năm 2012 khoản thu này giảm dần, chỉ còn thu được 139 triệu đồng,

bằng 95,8% so với số thu năm 2011, chiếm tỷ trọng thấp là 2,15%.

Năm 2013 khoản thu này lại có xu hướng tăng mạnh, thu được 329 triệu

đồng, tăng 2,47 lần so với số thu năm 2010, tăng 2,27 lần so với số thu năm

2011 và tăng 2,37 lần so với số thu năm 2012, nhưng vẫn chiếm tỷ trọng thấp

đạt 5,2% trong tổng thu NSX được điều tiết.

Năm 2014 khoản thu này lại có xu hướng giảm mạnh, chỉ còn 217 triệu

đồng, bằng 66% so với số thu năm 2013, chiếm tỷ trọng 3,35% so với tổng

thu NSX được điều tiết.

Thuế môn bài hộ nhỏ là nguồn thu được phân cấp cho xã có ý nghĩa rất

quan trọng trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ quản lý của chính

quyền cơ sở. Song khoản thu này chưa phản ánh đúng thực chất, bởi công tác

quản lý của chính quyền một số xã còn buông lỏng ở khâu kiểm tra, giám sát

thực tế các hộ kinh doanh trên địa bàn, nhiều hộ kinh doanh làm đơn xin nghỉ

để được miễn giảm, song trên thực tế vẫn hoạt động kinh doanh bình thường,

một số nguồn thu trên địa bàn chưa khai thác hết như các hộ cho thuê nhà trọ,

các hộ buôn bán vãng lai…, nhất là vào năm 2014 mặc dù thu vượt dự toán

giao nhưng khoản thu có giảm, mức giảm mạnh trong năm này phản ánh trách

nhiệm của chính quyền cơ sở trong khâu quản lý. Trước tình hình số thu giảm

mạnh, chính quyền cấp thị xã và cấp ủy các cơ sở cần phải đẩy mạnh tăng

51

cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, giao tăng dự toán để kết quả thu đạt kết quả

tốt hơn nữa.

Thuế nhà đất (nay là thuế phi nông nghiệp), là khoản thu cố định được

phân cấp cho chính quyền địa phương, khoản thu này có chiều hướng tăng lên

qua các năm. Cụ thể:

Năm 2010 thực hiện 301 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 7,2% tổng thu NSX

được điều tiết

Năm 2011 số thu đạt 1.420 triệu đồng, tăng 4,7 lần so với năm 2010 và

chiếm tỷ trọng 23,4% tổng thu NSX được điều tiết.

Năm 2012 số thu đạt 1.435 triệu đồng, tăng 4,77 lần so với năm 2010,

tăng 1,01lần so với năm 2011, chiếm tỷ trọng 22,25% tổng thu NSX được

điều tiết.

Năm 2013 số thu đạt 1.531 triệu đồng, tăng 5,08 lần so với năm 2010,

tăng 1,08 lần so với năm 2011, tăng 1,07 lần so với năm 2012 và chiếm tỷ

trọng 24,4% tổng thu NSX được điều tiết.

Năm 2014 số thu đạt 1.618 triệu đồng, tăng 5,37 lần so với năm 2010,

tăng 1,14 lần so với năm 2011, tăng 1,13 lần so với năm 2012 và tăng 1,06 lần

so với năm 2013, chiếm tỷ trọng 25% tổng thu NSX được điều tiết.

Thuế nhà đất luôn được các hộ dân chấp hành tốt bởi có liên quan nhiều

đến quyền lợi của người dân khi chuyển nhượng hoặc đề nghị tách quyền sử

dụng đất. Vì vậy nguồn thu này phản ánh tăng lên qua các năm là đúng thực

chất. Song việc áp dụng thuế phi nông nghiệp hiện nay vẫn còn nhiều bất cập

thiếu công bằng, một số hộ còn nợ đọng thuế nhà đất, nay chuyển sang kê

khai thuế phi nông nghiệp và được áp dụng biểu thuế mới, các khoản nợ đọng

trước đây không được truy thu, không có biện pháp truy thu, dẫn đến thất thu

cho NSX và NSNN một khoản không nhỏ.

Phí, lệ phí, cũng là một trong những khoản thu chiếm tỷ trọng nhỏ

(khoản từ 3,3% - 5,5%)trong tổng thu NSX được điều tiết, khoản thu này chủ

yếu thu từ phí chợ, phí bến bãi, môi trường, thu khoán các hàng quán…, các

52

xã có số thu nhiều tập trung ở các xã Đường Lâm, Sơn Đông, Cổ Đông…, là

những địa phương có nhiều chợ, bến bãi…

Thu từ đền bù thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất, đây là một khoản thu

chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu NSX cũng như tổng thu các khoản NSX

được điều tiết. Khoản thu này tuy phụ thuộc vào các dự án và diện tích bị thu

hồi nhưng có số thu rất lớn. Cụ thể:

Năm 2010 số thu này là 1.410 triệu đồng, đạt 470% dự toán, chiếm tỷ

trọng 51% tổng thu NSX được điều tiết.

Năm 2011 số thu này đạt 2.045 triệu đồng, đạt 409% dự toán, tăng 1,45

lần so với số thu của năm 2010, chiếm tỷ trọng 33,7% tổng thu NSX được

điều tiết.

Năm 2012 số thu đạt 1.500 triệu đồng, đạt 500% dự toán, tăng 1,06 lần

so với năm 2010, bằng 73,3% số thu năm 2011, chiếm tỷ trọng 23,3% tổng

thu NSX được điều tiết.

Năm 2013 số thu đạt 1.900 triệu đồng, đạt 190% dự toán, tăng 1,35 lần

so với năm 2010, bằng 93% số thu năm 2011, tăng 1,27 lần so với năm 2012,

chiếm tỷ trọng 30,3% tổng thu NSX được điều tiết.

Năm 2014 số thu đạt 1.836 triệu đồng, đạt 262,3% dự toán, tăng 1,3 lần

so với 2010, bằng 89,8% số thu năm 2011, bằng 96,6% số thu 2012 và tăng

lần so với 2013, đồng thời chiếm tỷ trọng 28,4%.

Thu từ quỹ đất công ích và hoa lợi công sản, đây là khoản thu Nhà

nước đã giao cho các xã quản lý với mục đích khuyến khích các xã tham gia

vào quá trình quản lý và sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả, tạo nguồn thu cho

NSX. Nguồn thu này tăng đều qua các năm và đều vượt kế hoạch đề ra.

Nguồn thu này cũng chiếm tỷ trọng tương đối trong tổng thu NSX trong 5

năm qua khoảng từ 10,7% đến 14,2% chứng tỏ việc quản lý, khai thác nguồn

thu này được các xã quan tâm.

Thu từ đóng góp tự nguyện và đóng góp của nhân dân, đây là nguồn

thu đóng góp trên cơ sở tự nguyện để đầu tư cơ sở hạ tầng trên địa bàn như:

điện, đường, trường, trạm, các công trình phúc lợi công cộng phục vụ cho

53

mục tiêu chung của số đông người dân nhằm nâng cao đời sống vật chất và

tinh thần của nhân dân. Vì là khoản thu tự nguyện và huy động trong dân, nên

số thu không nhiều, không ổn định, khó dự báo để dự toán, qua biểu số liệu

cho thấy, qua 5 năm số thu có những biến động tăng giảm thất thường giảm

mạnh từ 350 triệu đồng của năm 2009 xuống thấp nhất 13 triệu đồng, có xu

hướng tăng nhẹ lên 60 triệu đồng vào năm 2012, đột ngột tăng mạnh lên cao

nhất 418 triệu đồng vào năm 2013 và lại có chiều hướng giảm vào năm 2014

xuồng còn 300 triệu đồng.

54

Biểu số 2.3 phản ánh cho thấy, thu bổ sung từ ngân sách cấp trên bao

gồm 2 khoản: thu bổ sung cân đối ngân sách và thu bổ sung có mục tiêu.

Thu bổ sung cân đối ngân sách chỉ thực hiện khi nhiệm vụ chi của xã

vượt quá khả năng từ các nguồn thu theo phân cấp. Thu bổ sung cân đối chủ

yếu phục vụ cho chi thường xuyên của xã.

Thu bổ sung có mục tiêu là việc cấp trên chi cho ngân sách xã để thực

hiện các nhiệm vụ do xã đề nghị hoặc do cấp trên xét thấy cần thiết như: đầu

tư xây dựng các công trình phúc lợi công cộng, dân sinh, mục tiêu xóa đói,

giảm nghèo, mục tiêu xây dựng nông thôn mới…, khoản thu này phụ thuộc

vào khả năng của ngân sách cấp trên và nhu cầu của từng xã và yêu cầu của

từng mục tiêu.

Khoản thu bổ sung từ ngân sách cấp trên là rất cần thiết để thị xã điều

tiết cho những xã còn gặp khó khăn trong giải quyết an sinh xã hội, phát triển

hạ tầng, thực hiện các mục tiêu phát triển, hạn chế sự chênh lệch mất cân đối

giữa các xã trên địa bàn thị xã.

Từ bảng số liệu trên cho thấy số thu bổ sung từ ngân sách cấp trên luôn

đạt mức cao và tăng mạnh qua các năm. Cụ thể như sau:

Năm 2010 ngân sách cấp trên bổ sung cho ngân sách xã là 14.281 triệu

đồng, trong đó bổ sung có mục tiêu là 5.844 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 40,9%.

Năm 2011 ngân sách cấp trên bổ sung cho NSX là 13.263 triệu đồng,

bằng 92,8% so với năm 2010. Bổ sung có mục tiêu là 4.284 triệu đồng, bằng

73,3% so với năm 2010 và chiếm tỷ trọng 32,3%.

Năm 2012 số thu bổ sung từ ngân sách cấp trên là 37.200 triệu đồng,

tăng 2,6 lần so với năm 2010, tăng 2,8 lần so với năm 2011. Số thu bổ sung

có mục tiêu là 20.739 triệu đồng, tăng 3,5 lần so với năm 2010, tăng 4,8 lần

so với năm 2011 và chiếm tỷ trọng 55,75%.

Năm 2013 thu bổ sung từ ngân sách cấp trên là 41.029 triệu đồng, tăng

2,87 lần so với năm 2010, tăng 3,09 lần so với năm 2011 và tăng 1,1 lần so

với năm 2012. Thu bổ sung có mục tiêu là 22.212 triệu đồng, chiếm tỷ trọng

55

54,1 %, tăng 3,8 lần so với năm 2010, tăng 5,2 lần so với năm 2011 và tăng

1,07 lần so với năm 2012.

Năm 2013 là năm thứ hai thị xã Sơn Tây thực hiện đề án xây dựng nông

thôn mới. Vì vậy thị xã đã chú trọng đầu tư các nhiệm vụ cho mục tiêu xây

dựng nông thôn mới, chủ yếu là lĩnh vực cơ sở hạ tầng theo tiêu chí quốc gia

về xây dựng nông thôn mới.

Năm 2014 ngân sách cấp trên bổ sung cho NSX là 67.291 triệu đồng,

tăng 4,7 lần so với năm 2010, tăng 5,07 lần so với năm 2011, tăng 1,8 lần so

với năm 2012 và tăng 1,64 lần so với năm 2013. Số thu bổ sung có mục tiêu

là 48.452 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 72%, tăng 8,3 lần so với năm 2010, tăng

11,3 lần so với năm 2011, tăng 2,3 lần so với năm 2012, tăng 2,2 lần so với

năm 2013.

Năm 2014 cũng là năm thị xã Sơn Tây và các xã trên địa bàn thị xã đẩy

mạnh thực hiện các tiêu chí xây dựng nông thôn mới, nhiều dự án công trình

đã được phê duyệt và được cấp vốn đầu tư, vì vậy mà số thu bổ sung có mục

tiêu đạt cao.

Về số thu bổ sung cân đối qua các năm cho thấy, hiện nay hầu hết các xã

trên địa bàn thị xã vẫn chưa tự cân đối được ngân sách, vẫn phải trông chờ

vào ngân sách của cấp trên. Số thu bổ sung cân đối tăng dần qua các năm là

do tốc độ tăng chi thường xuyên của ngân sách xã lớn hơn tốc độ tăng thu nội

địa cân đối ngân sách, các xã chưa chủ động bồi dưỡng và khai thác hết

nguồn thu trên địa bàn, nhiều nguồn thu còn bị bỏ ngỏ, công tác quản lý các

hộ kinh doanh buôn bán còn lỏng lẻo, điều này dẫn đến vừa không đảm bảo

công bằng vừa thất thu cho NSX.

2.2.2.2. Tình hình quản lý chi ngân sách xã của thị xã Sơn Tây.

Chi đầu tư, phát triển: là những khoản chi để hình thành tài sản cố định

như mua sắm tài sản cố định, đầu tư xây dựng các công trình kinh tế mũi

nhọn, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, sửa chữa lớn tài sản cố định…

Chi thường xuyên: là những khoản chi hết sức cần thiết và không thể trì

hoãn, phải thực hiện thường xuyên hàng tháng, hàng quý, hàng năm để duy trì

56

sự tồn tại của bộ máy chính quyền cơ sở. Chi thường xuyên của NSX là quá

trình phân phối và sử dụng các khoản thu của NSX để đáp ứng các nhu cầu

gắn với các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của địa phương.

Sự khác nhau cơ bản giữa hai nhóm chi tiêu trên thể hiện ở chỗ: chi

thường xuyên có tính chất tiêu dùng trực tiếp, còn chi đầu tư phát triển có tính

chất thu hồi trong những điều kiện nhất định.

Theo thứ tự ưu tiên thì chi thường xuyên được ưu tiên trước hết, sau đó

mới đến chi đầu tư phát triển. Thứ tự ưu tiên này cũng chỉ có ý nghĩa tương

đối vì nếu cứ ưu tiên chi thường xuyên dễ dẫn đến phá vỡ cơ cấu kinh tế và

nếu cứ ưu tiên chi đầu tư phát triển dễ đẫn đến làm tăng thâm hụt NSX.

a) Phương thức cấp phát các khoản chi ngân sách xã trên địa bàn Thị xã

Sơn Tây:

* Đối với chi thường xuyên:

- Khi rút dự toán từ KBNN về quỹ để chi ngân sách đối với các khoản

chi có tính chất cố định như: trả sinh hoạt phí, phụ cấp cho cán bộ xã, chi trả

thanh toán cho người cung cấp... các xã phải thực hiện rút đủ và chi đúng số

tiền đã ghi chi tiết theo Mục lục ngân sách ở trong Lệnh chi tiền, đồng thời

được thực hiện ngay trong tháng.

- Đối với các khoản chi cho công việc như: tạm ứng công tác phí, tổng

kết hội nghị... UBND xã thực hiện tạm ứng chi phí và thanh toán tạm ứng

theo quy định hiện hành. Khi đã có chứng từ hợp pháp, hợp lệ, Ban Tài chính

xã lập bảng kê chứng từ chi, giấy đề nghị thanh toán tạm ứng, kèm theo

chứng từ đối với những tài sản có giá trị lớn, làm thủ tục ghi chi ngân sách xã

tại KBNN

* Đối với chi đầu tư phát triển:

(1) Tạm ứng vốn đầu tư xây dựng công trình:

- Mức vốn tạm ứng:

+ Đối với hợp đồng thi công xây dựng: mức vốn tạm ứng tối thiểu bằng

20% giá trị hợp đồng và không vượt kế hoạch vốn năm cho gói thầu.

57

+ Đối với gói thầu mua sắm thiết bị: mức vốn tạm ứng do Chủ đầu tư và

nhà thầu thỏa thuận, nhưng nhiều nhất không vượt giá trị hợp đồng và kế

hoạch vốn trong năm ghi cho gói thầu.

+ Đối với hợp đồng tư vấn: mức vốn tạm ứng theo thỏa thuận trong hợp

đồng giữa Chủ đầu tư với nhà thầu nhưng tối thiểu bằng 25% giá trị hợp

đồng.

+ Đối với công việc giải phóng mặt bằng: mức vốn tạm ứng theo tiến độ

thực hiện trong kế hoạch giải phóng mặt bằng nằm trong phương án được cấp

có thẩm quyền phê duyệt.

- Hồ sơ đề nghị ứng vốn: Căn cứ hồ sơ tài liệu ban đầu và mức tạm ứng

quy định ở trên; Chủ đầu tư kiểm tra và lập hồ sơ đề nghị tạm ứng gồm: Giấy

đề nghị thanh toán vốn đầu tư; Chứng từ chuyển tiền; Bảo lãnh khoản tiền

tạm ứng của nhà thầu (nếu trong Hợp đồng Chủ đàu tư và nhà thầu thỏa thuận

có bảo lãnh tiền tạm ứng); gửi đến Kho bạc Nhà nước nơi Chủ đầu tư mở tài

khoản.

- Thu hồi vốn tạm ứng: Vốn tạm ứng được thu hồi qua từng lần thanh

toán khối lượng hoàn thành của hợp đồng; bắt đầu thu hồi từ lần thanh toán

đầu tiên và thu hồi hết khi thanh toán khối lượng hoàn thành đạt 80% giá trị

hợp đồng. Mức thu hồi từng lần do Chủ đầu tư thống nhất với nhà thầu. Chủ

đầu tư có trách nhiệm cùng với nhà thầu tính toán mức tạm ứng hợp lý, có

hiệu quả và có trách nhiệm đảm bảo hoàn trả đủ số vốn đã tạm ứng khi thanh

toán khối lượng hoàn thành đạt 80% giá trị hợp đồng.

- Trường hợp vốn tạm ứng chưa thu hồi nhưng không sử dụng hoặc sử

dụng vào việc khác thì Chủ đầu tư có trách nhiệm thu hồi, hoàn trả đủ cho

ngân nhà nước. Nghiêm cấm việc tạm ứng vốn mà không sử dụng hoặc sử

dụng không đúng mục đích. Trường hợp đến hết năm kế hoạch mà vốn tạm

ứng chưa thu hồi hết do hợp đồng chưa được thanh toán đạt đến tỷ lệ quy định

thì tiếp tục thu hồi trong kế hoạch năm sau và không trừ vào kế hoạch thanh

toán vốn đầu tư năm sau.

58

- Việc tạm ứng vốn được thực hiện trong thời hạn thanh toán của kế

hoạch vốn và có thể tạm ứng một hoặc nhiều lần căn cứ vào nhu cầu thanh

toán vốn tạm ứng nhưng không vượt mức vốn tạm ứng theo quy định nêu

trên.

(2) Thanh toán khối lượng hoàn thành:

- Đối với các công việc được thực hiện thông qua các hợp đồng xây

dựng: việc thanh toán hợp đồng phù hợp với từng loại hợp đồng. Số lần thanh

toán, giai đoạn thanh toán và điều kiện thanh toán phải được ghi rõ trong hợp

đồng.

- Đối với các công việc được thực hiện không thông qua hợp đồng xây

dựng (như trường hợp tự làm, các công việc quản lý dự án do Chủ đầu tư trực

tiếp thực hiện,...): việc thanh toán phù hợp với từng loại công việc, trên cơ sở

báo cáo khối lượng công việc hoàn thành và dự toán được duyệt cho từng

công việc.

b) Tình hình thực hiện dự toán chi ngân sách xã trên địa bàn Thị xã Sơn

Tây giai đoạn 2010 – 2014:

59

Qua biểu số 2.4 tổng hợp tình hình chi NSX cho thấy, tổng chi NSX tăng

dần theo từng năm, số tăng rất lớn. Cụ thể như sau:

Năm 2010 tổng chi NSX là 24.389 triệu đồng.

Năm 2011 tổng chi NSX là 25.234 triệu đồng, tăng 1,03 lần so với năm

2010.

Năm 2012 tổng chi NSX là 43.362 triệu đồng, tăng 1,78 lần so với năm

2010 và tăng 1,72 lần so với năm 2011.

Năm 2013 tổng chi NSX là 65.674 triệu đồng, tăng 2,69 lần so với năm

2010, tăng 2,6 lần so với năm 2011, tăng 1,51 lần so với năm 2012.

Năm 2014 tổng chi NSX là 100.259 triệu đồng, tăng 4,1 lần so với năm

2010, tăng 3,97 lần so với năm 2011, tăng 2,3 lần so với năm 2012, tăng 1,53

lần so với năm 2013.

Đối với chi đầu tư phát triển, từ bảng số liệu 2.4 cho thấy năm 2010 chi

NSX cho đầu tư phát triển là 6.174 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 25,3% trong

tổng chi NSX.

Năm 2011 chi đầu tư phát triển là 5.108 triệu đồng, chiếm tỷ trọng

20,2% tổng chi NSX, bằng 82,7% so với năm 2010.

Năm 2012 chi đầu tư phát triển là 1.594 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 3,7%

tổng chi NSX, bằng 25,8% so với năm 2010, bằng 31,2% so với năm 2011.

Năm 2013 chi đầu tư phát triển là 25.523 triệu đồng, chiếm tỷ trọng

35,8% tổng chi NSX, tăng 3,8 lần so với năm 2010, tăng 4,6 lần so với năm

2011 và tăng 14,75 lần so với năm 2012.

Năm 2014 chi đầu tư phát triển là 50.937 triệu đồng, chiếm tỷ trọng

50,8% tổng chi NSX, tăng 8,25 lần so với năm 2010, tăng 9,97 lần so với năm

2011, tăng 31,95 lần so với năm 2012 và tăng 2,16 lần so với năm 2013.

Chi đầu tư phát triển của NSX từ năm 2010 đến năm 2012 có xu hướng

giảm mạnh là do công tác đầu tư cơ sở hạ tầng đã được quan tâm đầu tư từ

những năm trước về cơ bản đã được đầu tư gần hết, vì vậy số chi cho đầu tư

phát triển cũng giảm đi. Ngoài ra, do giai đoạn này nên kinh tế chung của cả

nước rơi vào tình trạng suy thoái ảnh hưởng đến nền kinh tế của các địa

60

phương nói riêng, nhu cầu chi thường xuyên để đảm bảo các hoạt động của bộ

máy Nhà nước tại các xã lớn, bởi vậy kinh phí đầu tư cho XDCB tại các xã

cũng phải giảm đi.

Năm 2013 và 2014 là những năm đầu thực hiện đề án nông thôn mới, chi

đầu tư phát triển của các xã tăng mạnh, chủ yếu là chi cho xây dựng cơ bản,

khoản chi cho đầu tư phát triển chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng chi NSX,

trọng tâm là đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông nông thôn, nhà văn hóa các

thôn, sửa chữa, trung tu, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa, các công trình

phục vụ xây dựng nông thôn mới.

Dự báo trong thời gian tới khoản chi này tiếp tục tăng do thị xã đang đẩy

mạnh tiến độ hoàn thành đề án xây dựng nông thôn mới vào năm 2015. Bên

cạnh việc chi cho đầu tư phát triển tăng mạnh cũng đòi hỏi về công tác quản

lý phải được chặt chẽ ngay từ khâu lập dự toán, dự báo tình hình cho sát với

thực tế, tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải.

Đối với các khoản chi thường xuyên, chi thường xuyên là khoản chi

quan trọng nhằm duy trì hoạt động của bộ máy chính quyền cơ sở và thực

hiện các chức năng về quản lý nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị,

văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh trên địa bàn xã. Trong các khoản chi

thường xuyên, chi cho quản lý nhà nước, Đảng, đoàn thể là khoản chi có số

chi cao nhất. Qua số liệu tổng hợp quyết toán chi ngân sách xã giai đoạn 2010

– 2014 cho thấy:

Về chi công tác an ninh, quốc phòng, là một trong những nhiệm vụ chi

quan trọng của chính quyền xã để góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ

chính trị của xã, khoản chi này theo xu hướng tăng dần qua các năm, nó thể

hiện tầm quan trọng của nhiệm vụ an ninh, quốc phòng trên địa bàn. Khoản

chi này chủ yếu thực hiện ở các nhiệm vụ sau: chi cho công tác dân quân tự

vệ như phụ cấp trách nhiệm, công tác huấn luyện, may trang phục…; công tác

quốc phòng, quân sự của địa phương chủ yếu là công tác rà soát thanh niên

trong độ tuổi sẵn sang nhập ngũ, công tác khám tuyển, công tác tuyển quân…;

công tác đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn các xã

61

chủ yếu chi phụ cấp cho công an viên, dân phòng, công tác tuyên truyền vận

động, các phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc…, khoản chi này là cần thiết và

không thể thiếu đối với mỗi cấp chính quyền, điều này chứng tỏ sự quan tâm

của các xã về vấn đề an ninh trật tự trên địa bàn, thực hiện tốt chính sách quốc

phòng toàn dân. Nhìn chung các xã trên địa bàn thị xã đã quản lý tốt nguồn

ngân sách chi cho lĩnh vực này, chi đúng, chi đủ theo quy định, nhưng bên

cạnh đó vẫn còn có xã chưa quản lý chặt chẽ nguồn chi này, nhất là chi bồi

dưỡng huấn luyện dân quân tự vệ còn có tình trạng lãng phí, chưa thực hiện

đúng kế hoạch huấn luyện nhưng vẫn thanh quyết toán đủ theo kế hoạch.

Chi sự nghiệp giáo dục, qua bảng số liệu cho thấy số chi cho sự nghiệp

giáo dục còn hạn chế, chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng chi thường xuyên

NSX (< 2% trong tổng chi thường xuyên của NSX), chủ yếu là chi đầu tư

mua sắm các trang thiết bị dạy và học, khen thưởng động viên giáo viên, học

sinh có thành tích trong giảng dạy và học tập, một số xã chưa chú trọng đến

việc xã hội hóa giáo dục, còn trong chờ nhiều vào nguồn ngân sách của cấp

trên.

Chi cho sự nghiệp y tế, chủ yếu là để mua sắm, sửa chữa các loại dụng

cụ y tế, chi tiền thuốc khám, chữa bệnh miễn phí cho các gia đình chính sách,

chi cho công tác phòng chống dịch bệnh trên địa bàn, chi cho công tác dân số,

kế hoạch hóa gia đình…, khoản chi cho sự nghiệp y tế cũng chiếm một tỷ

trọng nhỏ trong tổng chi thường xuyên của NSX, mặc dù có tăng lên qua các

năm nhưng không đáng kể, máy móc và các trang thiết bị y tế chưa được quan

tâm đầu tư đúng mức, điều này chưa tương xứng với vai trò, vị trí của tuyến y

tế cơ sở trong việc đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân, những

bệnh thông thường mà y tế cơ sở có thể chữa trị được, nhằm giảm áp lực của

tuyến trên. Trong thời gian tới cần có sự quan tâm hơn nữa cho lĩnh vực này.

Chi sự nghiệp VHTT, thể thao, khoản chi cho sự nghiệp VHTT, thể

thao cũng chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng chi thường xuyên NSX, các xã đã

có sự quan tâm đúng mực đối với sự nghiệp văn hóa, thông tin, thể thao như

các xã đã được trang bị đầy đủ đài phát thanh phục vụ nhân dân, tổ chức được

62

nhiều phong trào thể dục thể thao như: bong bàn, bong đá, cầu lông nhằm

nâng cao đời sống tinh thần, sức khỏe, đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí của

nhân dân trong xã. Tuy nhiên trong sự nghiệp văn hóa thông tin có cả dự toán

chi cho đầu tư, xây dựng, sửa chữa, cải tạo, nâng cấp các công trình văn hóa

như: xây dựng nhà văn hóa, trùng tu, tôn tạo các di tích lịch sử Đình, Chùa…,

điều này chưa đúng với nhiệm vụ chi theo quy định, khoản chi này phải được

đưa vào dự toán chi đầu tư phát triển.

Chi sự nghiệp kinh tế, khoản chi này đáp ứng nhu cầu duy tu, bảo

dưỡng các công trình thủy lợi, đường giao thông do các xã quản lý.

Những năm gần đây, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội thị xã, đường

giao thông được nâng cấp và sửa chữa tốt hơn. Cùng với sự phát triển của nền

kinh tế thị trường trên địa bàn thị xã là nhu cầu giao lưu, buôn bán hàng hóa

tăng lên, vì vậy dẫn đến tình trạng xe có tải trọng lớn đi lại trên đường nhiều

nên đường giao thông do xã quản lý nhanh bị hư hỏng. Do đó, trong thời gian

gần đây chi ngân sách cho khoản này tăng lên.

Chi sự nghiệp xã hội, khoản chi này chủ yếu đáp ứng cho nhu cầu về chi

trợ cấp hàng tháng cho các đối tượng theo quy định như: chi cho cán bộ hưu

xã, trợ cấp cho các gia đình, cá nhân có hoàn cảnh khó khăn, hộ nghèo, các

gia đình thường binh, liệt sỹ và các khoản chi xã hội khác theo quy định của

pháp luật. Khoản chi này có xu hướng tăng lên theo từng năm thể hiện sự

quan tâm của chính quyền các cấp, thể hiện tính nhân văn, đạo lý uống nước

nhớ nguồn. Qua 5 năm thực hiện cho thấy năm 2014 NSX chi cho lĩnh vực

này đã tăng 1,85 lần so với năm 2010.

Chi quản lý nhà nước, Đảng, đoàn thể, khoản chi này bao gồm chi hoạt

động quản lý của bộ máy chính quyền xã, hoạt động của Đảng ủy xã, hoạt

động của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội của xã. Trong đó chủ yếu

là chi tiền lương, phụ cấp, điện nước, mua sắm trang thiết bị phục vụ công tác

quản lý, hội họp, sách báo…, khoản chi này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong

tổng chi thường xuyên của NSX. Cụ thể:

63

Năm 2010 số chi là 6.912 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 43,6% tổng số chi

thường xuyên.

Năm 2011 số chi là 9.420 triệu đồng, tăng 1,36 lần so với năm 2010,

chiếm tỷ trọng 55,9% so với tổng chi thường xuyên.

Năm 2012 số chi là 12.498 triệu đồng, tăng 1,81 lần so với 2010, tăng

1,33 lần so với năm 2011 và chiếm tỷ trọng 54,2% tổng chi thường xuyên.

Năm 2013 số chi là 20.351 triệu đồng, tăng 2,94 lần so với 2010, tăng

2,16 lần so với 2011 và tăng 1,63 lần so với năm 2012. Khoản chi này chiếm

tỷ trọng 59,7% chi thường xuyên.

Năm 2014 có số chi là 18.665 triệu đồng, tăng 2,7 lần so với 2010, tăng

1,98 lần so với năm 2011, tăng 1,49 lần so với năm 2012, bằng 91,7% so với

năm 2013. Khoản chi này chiếm tỷ trọng 53,2% chi thường xuyên.

Trong khoản chi cho công tác quản lý nhà nước, Đảng, đoàn thể, thì

khoản chi cho công tác quản lý nhà nước chiếm tỷ trọng lớn nhất. Từ bảng số

liệu cho thấy khoản chi này luôn biến động tăng qua các năm, mặc dù những

năm qua các xã đã thực hiện tốt chủ trương tiết kiệm, giảm 10% chi thường

xuyên, cắt giảm các cuộc họp và các chi phí không cần thiết theo chủ trương

của Chính phủ và Thành phố Hà Nội để kiềm chế lạm phát nhằm ổn định kinh

tế vĩ mô, nhưng trên thực tế một số khoản chi khác lại tăng lên như: số lượng

cán bộ tăng, lương, phụ cấp đối với cán bộ xã tăng, khoản chi lương và phụ

cấp chiếm tỷ trọng rất lớn từ 55% đến 65% trong tổng chi quản lý nhà nước,

Đảng, đoàn thể. Các khoản phụ cấp và khen thưởng lại được quy định hệ số

lần hoặc tỷ lệ % theo lương tối thiểu. Vì vậy, khi lương tối thiểu tăng đồng

nghĩa với các khoản phụ cấp cũng tăng theo.

Chi khác, là những khoản chi phát sinh ngoài nhiệm vụ chi của cấp xã

không lường trước được, thường là chi cho những việc đột xuất và khẩn cấp

như: khắc phục hậu quả thiên tai, hỏa hoạn, trợ cấp đột xuất, cứu trợ…, khoản

chi này thường chiếm khoảng 0,7-1,4% dự toán chi thường xuyên.

Đối với chi chuyển nguồn ngân sách năm trước sang năm sau, đây là

các khoản kinh phí còn dư của năm trước chưa giải ngân hết chủ yếu trong

64

lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản do nguồn vốn đến chậm, công trình chưa

được triển khai kịp theo kế hoạch. Vì vậy phải xin quyết toán chuyển nguồn

sang năm sau để tiếp tục thực hiện các mục tiêu của năm trước.

2.2.3. Khâu quyết toán NSX.

a) Về ưu điểm:

Để thực hiện tốt công tác khoá sổ và quyết toán NSX hàng năm, ban tài

chính các xã trên địa bàn thị xã đã phối hợp với KBNN thị xã Sơn Tây đối

chiếu lại toàn bộ các khoản thu chi đầy đủ, chính xác các khoản thu chi theo

mục lục NSNN.

Hàng tháng xã có báo cáo tình hình thu chi NSX, mỗi quý xã đều tiến

hành báo cáo quyết toán, lập bảng kê đối chiếu thu chi gửi Phòng Tài chính -

Kế hoạch thị xã kiểm tra, chuyển sang KBNN thị xã Sơn Tây để tổng hợp

quyết toán NSX và NSNN . Cuối năm Phòng Tài chính - Kế hoạch căn cứ vào

bản đối chiếu của mỗi xã lập báo cáo tổng hợp, đính kèm tổng hợp thu chi

theo mục lục NSNN báo cáo UBND thị xã xem xét để báo cáo Sở Tài chính.

Nhìn chung các xã trên địa bàn thị xã đã thực hiện tốt công tác lập báo

cáo quyết toán thu chi ngân sách xã hàng năm đúng quy định, có đối chiếu và

xác nhận của kho bạc nhà nước cấp thị xã, ban tài chính xã đã kịp thời trình

UBND xã xem xét để trình HĐND xã phê chuẩn, thường công tác quyết toán

NSX được thực hiện vào kỳ họp gần nhất của năm sau (khoảng tháng 6 hàng

năm). Số quyết toán chi của NSX đều thấp hơn hơn số quyết toán thu. Phòng

Tài chính - Kế hoạch thị xã đã thực hiện tốt nhiệm vụ thẩm định báo cáo

quyết toán thu, chi ngân sách xã.

b) Về hạn chế:

Bên cạnh những ưu điểm, công tác quyết toán ngân sách xã vẫn còn một

số hạn chế cần khắc phục đó là: Một số xã trên địa bàn thị xã đã làm tốt, song

bên cạnh đó còn có một số xã làm chưa tốt, chưa thực hiện đúng chế độ báo

cáo quyết toán theo quy định của luật Ngân sách và hướng dẫn của các thông

tư do Bộ Tài chính ban hành. Việc lập báo cáo quyết toán vẫn có sai sót như

lập không đúng mục lục ngân sách, số liệu chưa khớp với kho bạc phải chỉnh

65

lý. Một số xã vẫn còn tình trạng xin báo cáo bổ sung quyết toán cả thu và chi

do khâu lập báo cáo để bỏ sót.

Chưa thực hiện việc kiểm toán báo cáo quyết toán theo quy định của

Luật NSNN trước khi HĐND phê chuẩn quyết toán.

2.3. Đánh giá chung về công tác quản lý NSX ở thị xã Sơn Tây.

2.3.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân.

Qua thực tế nghiên cứu 5 năm thực hiện công tác quản lý NSX trên địa

bàn thị xã Sơn Tây cho thấy, công tác quản lý NSX đã góp phần tăng cường

nội lực về tài chính cho bộ máy chính quyền cấp cơ sở ngày một lớn mạnh.

Làm cho công quỹ được quản lý chặt chẽ, thống nhất, phát huy quyền làm chủ

của nhân dân. Đồng thời qua việc tăng cường công tác quản lý NSX đã tạo

thuận lợi cho Phòng Tài chính - Kế hoạch thị xã giảm bớt được công việc sự

vụ so với trước, có điều kiện tăng cường hướng dẫn, kiểm tra các hoạt động

tài chính của cấp xã, cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương và tạo điều kiện

thuận lợi cho cơ quan thuế, các đội thuế trên địa bàn các xã khai thác tốt

nguồn thu trên địa bàn xã. Việc chỉ đạo và điều hành NSX đã đi vào nề nếp.

Đối với khâu lập dự toán, đây là khâu đầu tiên trong chu trình ngân sách.

Vì vậy, nó có tác động rất lớn đến toàn bộ chu trình khác của ngân sách, nhận

thức được vấn đề này các xã quan tâm và từng bước triển khai theo đúng quy

định của luật NSNN. Dự toán thu chi ngân sách xã đã được tính toán, phân bổ

theo mục lục NSNN, tạo cơ sở cho công tác điều hành ngân sách xã của chính

quyền cơ sở và công tác kiểm soát chi của KBNN. Hiện nay các xã trên địa

bàn thị xã đã lập dự toán một cách khoa học và hợp lý.

Đối với khâu chấp hành dự toán, do làm tốt công tác dự toán NSX sát

với tình hình thực tế trên địa bàn, vì vậy việc chấp hành dự toán được thực

hiện thuận lợi, nhiều xã đã chủ động tăng cường công tác quản lý tránh lãng

phí trong chi tiêu và thực hiện tốt việc huy động nguồn thu cho NSX. Nhìn

chung các xã đã biết tổ chức khai thác nguồn thu và nuôi dưỡng nguồn thu tại

chỗ bằng cách đầu tư mở rộng các khu chợ, bến bãi để tạo thêm nguồn thu lâu

dài. Các xã trên địa bàn đã biết cách bố trí, sử dụng ngân sách xã có khoa học

66

và hiệu quả, bám sát vào dự toán, các chương trình, mục tiêu, nhiệm vụ đã

được HĐND xã phê duyệt để thực hiện, thực hiện các khoản chi theo đúng dự

toán và định mức tiêu chuẩn.

Đối với việc quyết toán, thực hiện theo chế độ ghi chép sổ sách theo

đúng quy định, cơ bản việc quyết toán được thực hiện theo đúng trình tự, quá

trình thực hiện các ngành chức năng đều kiểm tra, giám sát để phát huy những

ưu điểm, đồng thời chỉ ra những tồn tại, hạn chế, thiếu sót cần khắc phục và

ngăn chặn được những vi phạm có thể xảy ra.

Đạt được kết quả trên là do: Kế hoạch thu chi NSX được xây dựng ngay

từ đầu năm, được thảo luận bàn bạc dân chủ, công khai và được HĐND xã

thông qua. Các xã tiến hành lập kế hoạch đều tuân thủ căn cứ vào khả năng

thu ngân sách tại xã để lập dự toán. Các khoản chi ngoài kế hoạch được bàn

bạc thống nhất trong lãnh đạo để xác định nguồn thu. Chi NSX xuất phát từ ý

nguyện nhân dân trong định hướng phát triển kinh tế của địa phương, đồng

thời thường xuyên có sự kiểm tra, giám sát của các cấp, ngành chuyên môn.

Xã đã thực hiện tốt việc huy động nguồn lực trong nhân dân với phương châm

“Dân biết, dân bàn, dân đóng góp, dân làm, dân hưởng thụ”. Thu chi gắn với

nhiệm vụ cụ thể của từng tập thể và cá nhân. Báo cáo thu chi NSX được duy

trì thành nề nếp tại địa phương, hàng tháng báo cáo tại hội nghị UBND, 6

tháng hoặc một năm báo cáo tại kỳ họp HĐND xã. Nhờ có sự hướng dẫn về

chuyên môn, nghiệp vụ của Phòng Tài chính - Kế hoạch thị xã cho nên công

tác lập, chấp hành và quyết toán NSX về cơ bản đã được thực hiện đúng theo

chế độ hiện hành.

2.3.2. Những tồn tại, hạn chế, yếu kém và nguyên nhân.

2.3.2.1. Những tồn tại, hạn chế.

a) Đối với khâu lập dự toán Ngân sách xã:

Có những xã trên địa bàn thị xã nhận thức về công tác quản lý ngân sách

xã còn đơn giản. Vì thế công tác lập dự toán Ngân sách xã bị coi nhẹ, chỉ làm

lấy lệ. Việc lập dự toán ngân sách xã ở một số xã trên địa bàn không sát với

thực tế, không phù hợp với yêu cầu của địa phương dẫn đến phải bổ sung thay

67

đổi nhiều lần. Ban tài chính một số xã trình độ chuyên môn về lĩnh vực tài

chính còn yếu kém dẫn đến không nắm hết chế độ, quy định hiện hành, có xã

cho rằng chi tiêu như thế nào là quyền của xã. Thời gian lập và gửi dự toán để

xét duyệt thường bị chậm trễ so với thời gian quy định.

Việc xây dựng dự toán thu, chi vẫn chưa lường hết được những khoản

thu, chi phát sinh, chưa dự báo được sát với tình hình dẫn đến vẫn còn tình

trạng bổ sung dự toán hàng năm nhiều khoản thu, chi lớn.

Việc thực hiện thảo luận trong lập dự toán NSX chưa thực sự bài bản,

khoa học, bản thân các đại biểu HĐND xã cũng hạn chế, thậm chí là không có

trình độ chuyên môn về tài chính vì vậy việc thảo luận làm rõ những vấn đề là

hạn chế lớn, chủ yếu là biểu quyết thông qua theo cảm tính và tin tưởng vào

số liệu được trình trước HĐND xã.

b) Đối với khâu chấp hành dự toán ngân sách xã:

Do trình độ chuyên môn, nghiệp vụ tài chính của đội ngũ cán bộ xã

chưa theo kịp với nhịp độ triển khai ngân sách xã. Việc lập dự toán chi tiết,

đầy đủ theo đúng mục lục NSNN đối với một số xã còn lúng túng, dẫn đến

những khó khăn trong việc chấp hành dự toán ngân sách và sự kiểm soát của

KBNN thị xã. Vẫn còn một số xã chưa năng động trong khai thác nguồn thu

trên địa bàn trông chờ vào khoản chi hỗ trợ, bổ sung từ ngân sách cấp trên, bỏ

sót nguồn thu nhất là các hộ kinh doanh, buôn bán nhỏ lẻ trong các ngõ, xóm,

các hộ có nhà cho thuê...

Thu hoa lợi công sản từ đất công ích hầu hết các xã đều không khai thác

triệt để nguồn thu này, có những hộ nợ nghĩa vụ tài chính đến 2 năm nhưng

vẫn không có biện pháp để khắc phục.

Về chi NSX vẫn còn tình trạng một số bộ phận điều hành chi vượt quá

dự toán và nguồn ngân sách được cấp, dẫn đến phải điều hành từ các lĩnh vực

khác bổ sung làm ảnh hưởng đến hoạt động của một số lĩnh vực khác, một số

xã chi cho đầu tư xây dựng cơ bản vượt quá khả năng NSX gây nợ đọng về

xây dựng cơ bản trong khi chưa tìm ra nguồn thu để bù đắp.

c) Đối với khâu quyết toán Ngân sách:

68

Việc thẩm tra, thẩm định số liệu của cơ quan chuyên môn chưa kịp thời,

cấp xã chưa có bộ phận chuyên môn chuyên trách để giúp cho HĐND, UBND

trong việc thẩm tra, thẩm định báo cáo quyết toán tài chính, chủ yếu chỉ dựa

vào cảm quan và tin tưởng vào bộ phận tài chính – kế toán, tin tưởng vào đối

chiếu của kho bạc. Vì vậy, có xã công tác duyệt quyết toán thiếu chính xác

phải làm lại do chưa phản ánh hết các khoản thu, chi phát sinh trong năm.

Chưa thực hiện việc kiểm toán theo quy định trước khi HĐND xã phê

chuẩn quyết toán. Vì vậy, chưa có cơ sở xác định tính đúng đắn, hợp pháp của

báo cáo quyết toán NSX.

2.3.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế.

Nhiều loại hình kinh doanh dịch vụ, buôn bán trên địa bàn phát triển đến

từng ngõ nhỏ trong các khu dân cư chưa được quản lý chặt chẽ…, đây là

nguyên nhân dẫn tới nguồn thu bị bỏ ngỏ và buông lỏng quản lý, chưa thống

kê, rà soát để đưa hết vào dự toán nguồn thu của NSX.

Trong điều hành chi, nhất là lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản một số đơn

vị thi công để giữ được các mối làm ăn và để có công việc cho công nhân đã

ứng vốn trước, xã trả sau trong khi xã chưa có nguồn thu chắc chắn. Một số

nguồn thu trên địa bàn có dự toán nhưng không thực hiện được hoặc thực hiện

còn chậm như các nguồn thu về đấu giá quyền sử dụng đất, dẫn đến danh mục

đầu tư xây dựng có nhưng không có vốn để giải ngân.

Đại biểu HĐND xã là cơ quan dân cử theo nhiệm kỳ, trình độ chuyên

môn không sâu, mỗi nhiệm kỳ lại thường có thay đổi đại biểu, vì vậy khi

nghiên cứu các văn bản về quản lý ngân sách đa số các đại biểu chưa hiểu

nhiều. Từ đó không nắm bắt được nội dung, yêu cầu cơ bản của công tác quản

lý ngân sách xã. Cấp xã không được thành lập các ban của HĐNĐ để giúp

HĐND xã trong việc thẩm tra các báo cáo quyết toán của UBND xã.

Bản thân lãnh đạo xã là người điều hành NSX cũng chỉ được dừng lại ở

việc bồi dưỡng và tập huấn về nghiệp vụ quản lý tài chính, chứ chưa có trình

độ chuyên môn tối thiểu và thường bị thay đổi sau mỗi kỳ bầu cử HĐND.

69

Chính vì vậy những tích luỹ kinh nghiệm về quản lý tài chính NSX sau mỗi

thời gian công tác không được tiếp tục sử dụng ở những năm sau.

Đội ngũ cán bộ chuyên trách về quản lý tài chính và ngân sách xã chưa

được tăng cường đúng mức về số lượng và chất lượng theo yêu cầu công việc,

trình độ chuyên môn còn phải đào tạo chấp vá điều này gây khó khăn trong tổ

chức kế toán, giám sát kiểm tra và tổng hợp, phân tích đánh giá về ngân sách.

70

Chương 3

GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NSX trªn ®Þa bµn THỊ XÃ

SƠN TÂY

3.1. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội và định hướng quản lý NSX

của Thị xã Sơn Tây đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020.

3.1.1. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội

Thực hiện kế hoạch 5 năm (2011 – 2015) Thị xã Sơn Tây có những

thuận lợi cơ bản: Những thành tựu quan trọng đạt được trong sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đang tạo điều kiện cho sự phát triển của cả

nước nói chung và thị xã nói riêng. Kinh tế - xã hội Thị xã có sự chuyển biến

tích cực và đáng được ghi nhận. Cơ sở hạ tầng giao thông đã và đang được

đầu tư mở rộng nâng cấp, an ninh chính trị vững, trật tự an toàn xã hội được

đảm bảo, tạo đà cho Thị xã phát triển vững vàng cả về kinh tế và ổn định xã

hội.

Thị xã Sơn Tây có vị trí thuận lợi, là đầu mối giao thông và giao lưu

thương mại ở cửa ngõ phía Tây Bắc thành phố Hà Nội, có một hệ thống giao

thông hết sức quan trọng chạy qua: Đại lộ Thăng Long ở phía Nam, đường

Hồ Chí Minh (quốc lộ 21) và quốc lộ 32 nên Sơn Tây có điều kiện mở rộng

quan hệ giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội với vùng kinh tế Tây Bắc, hành lang

phát triển đường Hồ Chí Minh với cả nước. Đặc biệt, trong tương lai khi các

tuyến đường trọng điểm của thành phố được xây dựng và nâng cấp như: trục

Thăng Long từ đường Hoàng Quốc Việt kéo dài đến đô thị Hòa Lạc, trục phát

triển Sơn Tây – Thạch Thất – Quốc Oai – Xuân Mai – Miếu Môn, đường

vành đai V liên kết các đô thị xung quanh Hà Nội, cộng thêm đầu mối hạ tầng

kỹ thuật của thành phố được đầu tư, khu đô thị Hòa Lạc được hoàn thành thì

sẽ thúc đẩy quá trình đô thị hóa mạnh kéo theo sự chuyển biến toàn diện về

kinh tế - xã hội của thị xã Sơn Tây.

71

Nằm sát với Sơn Tây còn có khu công nghệ cao Hòa Lạc, Khu trường

Đại học Quốc gia, Khu đô thị Hòa Lạc, và Sơn Tây còn thuộc khu vực kinh tế

trọng điểm của Trung ương nên thị xã Sơn Tây có điều kiện phát huy tối đa

nội lực của mình và tranh thủ được sự tác động từ các cực tăng trưởng.

Về mặt sinh thái, Sơn Tây là vùng có thời tiết thuận lợi, khí hậu ôn hào,

thảm thực vật phong phú rất phù hợp cho cuộc sống của dân cư. Đặc biệt, Sơn

Tây có địa hình bán sơn địa có nhiều loại đất nên thuận lợi trong việc đa dạng

hóa các loại cây trồng.

Sơn Tây nằm trong vùng cội nguồn văn hóa xứ Đoài, là vùng giao thoa

giữa các nền văn hóa: văn hóa Hòa Bình, văn Hóa Thăng Long – Hà Nội, do

vậy Sơn Tây có điều kiện để kế thừa và nâng cao tinh hoa văn hóa dân tộc. Là

nơi có nhiều di tích lịch sử nổi tiếng như Thành cổ Sơn Tây, Làng cổ Đường

Lâm, Đền Và, Chùa Mía... cùng cảnh quan thiên nhiên với Sông Tích Giang,

hồ Đồng Mô, khu du lịch nghỉ dưỡng Đồng Mô, làng văn hóa các dân tộc

Việt Nam... là tài sản vô giá khai thác cho phát triển các hoạt động du lịch,

dịch vụ.

Tuy nhiên, nhìn chung nền kinh tế Thị xã vẫn còn trong tình trạng

chậm phát triển, hệ thống cơ sở hạ tầng trên địa bàn thị xã còn thiếu đồng bộ,

thu hút vốn đầu tư còn gặp nhiều khó khăn. Trình độ đội ngũ cán bộ quản lý,

công chức, viên chức, cán bộ xã, phường còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Quyết định số 3356/QĐ-UBND ngày 18/05/2013 của UBND Thành

phô Hà Nội đã đề ra:

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế theo giá trị gia tăng hàng năm trên địa bàn

giai đoạn 2011 – 2015 bình quân đạt 15,5 – 17%/năm, giai đoạn 2016 – 2020

bình quân đạt 17 – 17,5%. Cơ cấu kinh tế: công nghiệp xây dựng đạt 45%,

dịch vụ đạt 53%, nông nghiệp đạt 2%.

- Xây dựng Thị xã Sơn Tây thành đô thị văn hóa lịch sử, du lịch nghỉ

dưỡng, đô thị xanh, đô thị vệ tinh cửa ngõ Tây Bắc thành phố Hà Nội. Là

72

trung tâm kinh tế, văn hóa – nghệ thuật – vui chơi giải trí, dịch vụ cao cấp khu

vực phí Tây Bắc của Thủ đô gắn với phát triển các khu du lịch nghỉ dưỡng

cuối tuần, vui chơi giải trí, thể thao tại; có vị trí quan trọng về an ninh quốc

phòng, là đầu mối giao thông quan trọng của Thủ đô trên tuyến đường Hồ Chí

Minh, Quốc lộ 32, đường vành đai 5, là hạt nhân thúc đẩy phát triển kinh tế -

xã hội khu vực Tây Bắc Thủ đô.

- Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế, gắn liền với đảm

bảo an sinh xã hội và nâng cao đời sống vật chất, tinh thàn của nhân dân; giữ

gìn và phát huy giá trị văn hóa, các di tích lịch sử, bảo vệ môi trường sinh

thái. Phát triển đô thị đồng bộ, bền vững,văn minh, hiện đại. Đảm bảo anh

ninh - quốc phòng.

3.1.2. Định hướng phát triển kinh tế xã hội của Thị xã Sơn Tây

Để thực hiện tốt mục tiêu đề ra, Đảng bộ Thành phố đã vạch ra những

phương hướng như sau:

* Về kinh tế:

- Về công nghiệp: phát triển công nghiệp theo hướng tập trung, nâng

cao hiệu quả sản xuất, ưu tiến phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, có

hàm lượng công nghệ cao và chất xám cao; duy trì tốc độ tăng tưởng cao, đến

năm 2020 tỷ trọng công nghiệp – XDCB chiếm 45,5%; Đẩy mạnh việc hình

thành các khu công nghiệp Xuân Sơn – Thanh Mỹ và KCN Sơn Đông mở

rộng, ưu tiên phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghệ điện tử, tin học

và tự động hóa; Phát triển cơ khí nhỏ, công nghiệp hỗ trợ và các ngành cơ khí

phục vụ công nghiệp; phát triển các điểm chế biến nông sản.

- Về thương mại, dịch vụ và du lịch: Phát triển thương mại, dịch vụ và

du lịch trở thành ngành kinh tế chủ lực theo hướng phát triển kinh tế dịch vụ

thương mại, dịch vụ và du lịch chất lượng cao, kết hợp với các loại hình dịch

vụ đào tạo; tài chính, ngân hàng và bảo hiểm; thương mại và dịch vụ đô thị; lễ

hội truyền thống; các hoạt động dịch vụ du lịch vui chơi giải trí, du lịch sinh

thái gắn với làng nghề, di tích lịch sử và nông nghiệp đô thị sinh thái.

73

- Về nông nghiệp: Kết hợp phát triển nông nghiệp đô thị, sinh thái với

nông nghiệp công nghệ cao theo hướng sản xuất nông hàng hóa cao cấp kết

hợp kinh doanh du lịch dịch vụ sinh thái tạo cảnh quan môi trường; chuyển

dịch cơ cấu nông nghiệp, theo hướng giảm tỷ trọng trồng trọt, tăng tỷ trọng

chăn nuôi;

* Về văn hóa, xã hội:

- Văn hóa, thể dục, thể thao: Phát triển toàn diện các hoạt động văn

hóa, nâng cao chất lượng phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn

hóa, gia đình văn hóa; Giữ gìn và phát huy bản sắc giá trị văn hóa “xứ Đoài”,

gắn với văn hóa người Hà Nội thanh lịch, văn minh; Duy trì và phát triển vốn

văn hóa dân gian phong phú, đa dạng phản ánh đặc điểm chung Sơn Tây; Xây

dựng cụm, trung tâm văn hóa – thể dục, thể thao của thị xã nhằm tạo ra khu

sinh hoạt, vui chơi, giải trí, hội thi, hội diễn với quy mô lớn.

- Giáo dục – đào tạo: Tập trung phát triển chất lượng giáo dục, đảm bảo

chất lượng cao và toàn diện; Đầu tư cơ sở vật chất và mở rộng diện tích cho

các trường học để phấn đấu các trường đạt chuẩn quốc gia; đảm bảo đội ngũ

giáo viên về số lượng, cơ cấu và chất lượng theo tiêu chí chuẩn và trên chuẩn

của giáo viên các cấp học; Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, ứng dụng công

nghệ thông tin vào giảng dạy, phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng học sinh giỏi,

sinh viên tài năng.

- Y tế: Phát triền dịch vụ y tế chất lượng cao đáp ứng nhu cầu chăm sóc

sức khỏe cho nhân dân. Đẩy mạnh các hoạt động y tế dự phòng, chủ động

phòng, chống các loại dịch bệnh; Nâng cao chát lượng mạng lưới y tế cơ sở,

đẩy mạnh xã hội hóa công tác y tế, đi đôi với tăng cường quản lý hệ thống

hành nghề y – dược tư nhân. Hình thành và phát huy hiệu quả mạng lưới quản

lý vệ sinh an toàn thực phẩm từ thị xã đến cơ sở.

Để đạt được những mục tiêu quan trọng đó, thiết thực phải có những

giải pháp và định hướng rõ rệt nhằm tăng nguồn thu và sử dụng hiệu quả các

khoản chi Ngân sách, đặc biệt là Ngân sách xã. Một trong những vấn đề cần

74

được chú trọng hàng đầu đó là nhận thức. Nhận thức ở đây không chỉ bó hẹp

trong việc nâng cao nhận thức của người dân, mà còn là nâng cao ý thức, tinh

thần trách nhiệm của cán bộ ở các cấp chính quyền, điều này đòi hỏi rất nhiều

yếu tố.

3.2. Giải pháp tăng cường quản lý NSX trên địa bàn Thị xã Sơn

Tây.

3.2.1. Tăng cường công tác quản lý NSX theo Luật NSNN và các văn

bản hướng dẫn thi hành.

* Tăng cường quản lý NSX trong khâu lập dự toán NSX:

Lập dự toán là khâu đầu tiên quan trọng của quá trình quản lý NS, chất

lượng quản lý NS phụ thuộc nhiều vào khâu lập dự toán, bởi vì lập dự toán là

việc lên kế hoạch thu, chi NS cho năm NS tới, toàn bộ các dự kiến về các

khoản thu và các khoản chi đều phải được định hình rõ nét qua dự toán NS,

đó là yêu cầu cơ bản mà khâu lập dự toán cần phải đạt được. Với tư cách là

khâu đầu tiên trong việc quản lý và sử dụng NS, công tác lập dự toán NS có

vai trò đặc biệt quan trọng trong việc quản lý và sử dụng NS cũng như làm

cho NS có tính ổn định, an toàn và hiệu quả.

Nắm bắt được tầm quan trọng của công tác xây dựng dự toán NS, đòi

hỏi UBND thị xã phải chỉ đạo cơ quan tài chính, đôn đốc các đơn vị tổ chức,

cá nhân xây dựng kế hoạch cụ thể cho việc quản lý và sử dụng NSNN. Việc

xây dựng dự toán NS phải bắt đầu tư cơ sở, từ các đơn vị trực tiếp chấp hành

NS, đến các cấp NS, các cơ sở SXKD trên địa bàn; tránh tình trạng bỏ sót các

nguồn thu trên địa bàn, quên nhiệm vụ chi, vì việc đó sẽ làm cho công tác

quản lý và sử dụng NS bị động, kém hiệu quả, ảnh hưởng đến năm NS và các

năm sau đó.

Hàng năm căn cứ vào hướng dẫn và định hướng phát triển KT- XH của

Thị xã, số giao kiểm tra của năm đầu thời kỳ ổn định NS và kế hoạch phát

triển KT- XH của thị xã, các xã tiến hành lập dự toán thu, chi NS địa phương

mình.

75

Để công tác lập dự toán NSX sát đúng nội dung thực tế, có căn cứ chắc

chắn đảm bảo bao quát hết các nguồn thu và bố trí chi tiêu hợp lý, phù hợp

với nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng ở xã

cần có các giải pháp sau:

- Các xã phải đánh giá đúng tiềm năng phát triển kinh tế xã hội của địa

phương mình, từ đó đề ra những biện pháp đầu tư nuôi dưỡng nguồn thu cho

NSX, khai thác triệt để các nguồn thu sẵn có ở từng xã và bố trí nhu cầu chi

hợp lý làm căn cứ tính toán trong thời gian xây dựng dự toán NSX.

- Xây dựng dự toán NSX phải dựa trên những căn cứ tiêu chuẩn chính

sách chế độ quy định và phản ánh đúng mục lục NSNN.

Đối với dự toán chi NSX: dự toán chi ngân sách phải thiết thực, đúng

dự toán được giao về tổng mức và chi tiết theo lĩnh vực chi phân bổ dự toán

ngân sách cho phải đúng chế độ tiêu chuẩn định mức và theo quy định của

pháp luật, chỉ nên lập những khoản chi như chi cho con người và chi hoạt

động nhằm quản lý chặt chẽ các khoản chi sao cho phù hợp và hiệu quả nhất.

* Tăng cường công tác quản lý NSX trong khâu chấp hành dự toán

NSX:

- Về chấp hành chi:

Nguồn thu NSX nhìn chung là còn hạn hẹp, thu bổ sung vẫn chiếm một

tỷ trọng lớn, thêm vào đó nhu cầu chi tiêu của xã ngày càng tăng. Chính vì

vậy mà trong công tác tổ chức chi ngân sách, các xã phải thực hiện triệt để tiết

kiệm, xem xét tính hiệu quả của từng khoản chi mà có quyết định cho phù

hợp. Nghiêm chỉnh chấp hành các điều kiện chi theo quy định như: đã được

ghi trong dự toán, đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức quy định, đã được chủ

tịch UBND xã hoặc người được ủy quyền chuẩn chi. Bên cạnh đó nên làm tốt

những công việc sau:

+ Đảm bảo thực hiện quản lý chi tiêu chặt chẽ, tiết kiệm và có hiệu quả

trong chi NSX. Giành vốn cho đầu tư phát triển, xây dựng mới và khai thác có

hiệu quả nhằm ổn định nguồn thu cho NSNN.

76

+ Việc chấp hành dự toán chi NSX phải đảm bảo đúng chính sách chế

độ, nguyên tắc quản lý.

+ Phải thường xuyên kiểm tra, giám sát các khoản chi nhằm phát hiện

những sai phạm để chấn chỉnh thống thất thoát cho NSX

+ Cần phải nâng cao trình độ quản lý, nghiệp vụ chuyên môn cho cán

bộ xã để kiểm tra, giám sát sao cho việc sử dụng đồng vốn đầu tư có hiệu quả

nhất.

+ Cần thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí. Ưu tiên kinh phí để trả lương

và các khoản chi theo lương với nguồn thu thực hiện cải cách tiền lương được

quy định.

* Tăng cường công tác quản lý NSX trong khâu quyết toán NSX:

Để công tác quyết toán NSX đi vào nề nếp, có chất lượng, kịp thời gian

quy định thì:

- Các xã phải ghi chép đầy đủ, rõ ràng, trung thực mọi hoạt động thu,

chi tài chính phát sinh trong từng thời kỳ vào sổ kế toán và hạch toán đúng

theo chế độ quy định. Muốn vậy đòi hỏi không chỉ cán bộ kế toán xã mà cả

lãnh đạo xã và các cán bộ chuyên môn phải có chuyên môn nghiệp vụ về tài

chính, ngân sách đáp ứng yêu cầu, nhận thức và nắm được đầy đủ những quy

định của Luật NSNN và các văn bản pháp luật có liên quan. Muốn vậy, Sở

Tài chính và Phòng Tài chính – Kế hoạch cần thường xuyên tổ chức tập huấn,

bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý Nhà nước về tài chính, ngân sách cho chủ tịch

UBND xã, thị trấn và nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ kế toán xã.

- Phòng Tài chính kiểm tra tổng hợp báo cáo thu chi và bảng đối chiếu

thu chi hàng tháng, khi phát hiện sai sót trong quyết toán Phòng Tài chính - kế

hoạch phải báo cáo UBND Thị xã yêu cầu HĐND xã điều chỉnh lại.

- Phản ánh kịp thời các khoản thu chi theo dự toán, xem xét và xử lý

kịp thời các khoản tạm thu, tạm gửi. Phòng Tài chính – kế hoạch phải tiến

hành thẩm tra tính trung thực, chính xác, khớp đúng của báo cáo quyết toán.

77

3.2.2. Tăng cường quản lý ngân sách hiệu quả, tiết kiệm, tăng đầu tư

phát triển, tăng thu, tăng điều tiết cho ngân sách cấp trên.

* Tăng cường công tác quản lý thu:

Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế chính sách các khoản thu ngân sách xã.

Đối với các khoản thu từ quỹ đất công ích 5% cần xây dựng quy chế

quản lý sử dụng đất đai, ao hồ, đầm, vườn cây đất trồng phù hợp với luật đất

đai, ban hành quy chế đấu thầu đất công điền. Hàng năm, các xã cần bố trí

một khoản kinh phí từ ngân sách xã để cải tạo và nuôi dưỡng nguồn thu từ

diện tích đất công ích 5% và hoa lợi công sản này, khắc phục tình trạng khoán

trắng cho người nhận thầu dễ dẫn đến việc khai thác triệt để, làm giảm chất

lượng nguồn thu. Bên cạnh đó, đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền

sử dụng đất nông nghiệp và đất ở nông thôn...

Đối với các khoản phí và lệ phí, cần công khai và niêm yết mức thu ở

các nơi thu phí và lệ phí, kiểm tra thường xuyên việc sử dụng biên lai thu tiền

theo quy định. Thường xuyên rà soát lại các khoản phí lệ phí để điều chỉnh

kịp thời đối với các khoản phí và lệ phí mới phát sinh trên địa bàn các xã.

Tăng cường sự phối hợp hơn nữa giữa đội thuế với Ban Tài chính xã đối với

các khoản phí, lệ phí chưa được chú trọng như thu khoán hàng quán, bãi đỗ

xe, lệ phí giao thông nông thôn...

Đối với khoản thu sự nghiệp, không huy động tràn lan, chỉ huy động

và sử dụng nguồn vốn do nhân dân đóng gốp để xây dựng những công trình

có lợi ích thiết thực, trực tiếp với người dân như đường giao thông, nhà văn

hóa khối xóm, kênh mương...

Đối với các khoản thu khác, ngày từ đầu quý IV của năm, các xã cần rà

soát tất cả các nhiệm vụ chi đặc biệt là nhiệm vụ chi xây dựng cơ bản, hoàn

tất các thủ tục đẻ thanh toán dứt điểm các khoản tạm ứng, các khoản

* Tăng cường công tác quản lý chi

Song song với việc tăng cường công tác quản lý thu NS, các xã khi thực

hiện nhiệm vụ cần đảm bảo việc quản lý chi NS đạt hiệu quả, tiết kiệm, thực

78

hiện tốt các nhiệm vụ phát triển KT- XH đã đề ra. Nếu như thu NS là để tạo ra

NS thì chi NS thể hiện tính ưu việt, sức mạnh tài chính và tính hiệu quả của

NS. Một số giải pháp hoàn thiện quản lý chi NSĐP trong giai đoạn tới như

sau:

Trước hết cần có cơ cấu chi ngân sách một cách hợp lý: Thời gian qua

chi cho đầu tư phát triển trên địa bàn còn chiếm tỷ lệ rất thấp, các khoản chi

tiếp khách, hội nghị vật dụng văn phòng còn cao... cần thiết phải có sự cân

nhắc giữa các khoản chi này đảm bảo triệt để, tiết kiệm, hiệu quả. Đảm bảo

chi đúng đối tượng, chi đúng kế hoạch, tiêu chuẩn định mức chi của xã. Hiện

nay còn tồn tại khoản chi hỗ trợ cho công tác thu trên địa bàn còn cao, không

đúng với phạm vi trách nhiệm của xã cần phả khắc phục ngay tình trạng này.

Công việc điều hành chi trước hết cần dựa vào kế hoạch, dự toán được

duyệt và nhiệm vụ chi được giao. Trong chi thường xuyên hàng quý, xã phải

lập dự toán cụ thể và đầy đủ hồ sơ, thủ tục theo quy định giữa cơ quan tài

chính, cơ quan quản lý cấp trên xét duyệt. Căn cứ vào khả năng thu NSX, cơ

quan tài chính ra thông báo hạn mức cho xã. Đảm bảo chi thường xuyên phải

tuân thủ đúng theo quy định của Nhà nước, chỉ được phép chi khi khoản chi

đó đã có trong dự toán được duyệt, chi đúng chế độ, định mức được giao,

được chủ tài khoản chuẩn chi.

Trong chi đầu tư phát triển, quản lý khoản chi này phải đảm bảo đúng

nguyên tắc tài chính, không chắp vá đảm bảo chất lượng tuổi thọ công trình

và phục vụ ngày một tốt hơn cho nhu cầu của nhân dân xã. Thực hiện bàn bạc

dân chủ, thống nhất các khoản chi, thu một cách công khai theo phương châm

“Nhà nước và nhân dân cùng làm” nhằm tránh tình trạng tiêu cực, giữ đoàn

kết nội bộ, tạo niềm tin với nhân dân.

3.2.3. Đẩy mạnh và tăng cường hơn nữa việc công khai minh bạch

trong quản lý NSX.

Thực hiện công khai dân chủ là một trong những nguyên tắc quan trọng

bậc nhất trong quản lý NSNN. Đối với cấp xã việc thực hiện công khai dân

79

chủ càng có ý nghĩa quan trọng bởi dân chủ ở xã là dân chủ trực tiếp gắn liền

với lợi ích của dân. Nếu làm tốt sẽ phát huy được tinh thần, trí tuệ, tiền của

của toàn dân tạo nội lực mạnh mẽ thúc đẩy CNH, HĐH đất nước. Đồng thời

sẽ giảm bớt khiếu kiện của dân, tạo niềm tin cho dân vào chính quyền cấp xã.

Qua thực tế rất nhiều xã trên địa bàn thị xã Sơn Tây cho thấy, việc công

khai minh bạch NSX đã được thực hiện, nhưng hiệu quả của nó đến đâu thì

thực sự phải xem xét. Anh Hoàng Viết Năng, kế toán xã Đường Lâm: “xã

cũng đã công khai trên phương tiện thông tin, trong các cuộc họp thôn, niêm

yết, nhưng khi được hỏi người dân lại nói rằng không biết, một số ít không

quan tâm vì cho rằng thời gian lớn là ở ngoài đồng, loa phát thanh ở xa, nên

việc công khai như thế nào là tùy chính quyền Xã”. Không chỉ tại xã Đường

Lâm mới có tình trạng trên mà gần như ở cả những xã quản lý NSX tốt thì

việc công khai minh bạch vẫn là một hạn chế đáng quan tâm. Chúng ta không

thể làm tốt công tác công khai minh bạch khi mà người dân còn chưa thể lo

đủ bữa ăn và cái chữ cho con em mình. Thực tế đáng nói là đời sống người

dân càng được cải thiện thì trình độ nhận thức của họ mới được nâng cao lên,

từ đó họ mới nhận thức được việc công khai minh bạch NSX không còn là

vấn đề xa vời nữa, từ đó mà chính quyền xã cũng không thể lơ là trong công

tác này.

Vì vậy, biện pháp thiết yếu trong thời gian tới vẫn là phải công khai

hơn nữa, minh bạch hơn nữa mọi khoản thu, chi NSX. Muốn vậy, UBND thị

xã phải chỉ đạo các xã coi việc công khai dân chủ là một yêu cầu bắt buộc.

Mọi khoản thu, chi phải có chứng từ của Bộ Tài chính ban hành, phản ánh

đầy đủ vào sổ sách kế toán, thanh quyết toán đầy đủ với UBND xã hoặc cơ

quan cấp trên theo chế độ quy định. Thông báo cho dân biết dự toán, quyết

toán ngân sách, các quỹ, các dự án huy động và sử dụng các khoản đóng góp

cho đầu tư xây dựng CSHT, các công trình phúc lợi của xã, của thôn, cụm dân

cư, các chương trình dự án của Nhà nước, các tổ chức cá nhân đầu tư trực tiếp

cho xã... và các vấn đề tài chính cần thiết khác.

80

Riêng các khoản đóng góp của nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng

chăm lo việc chung đều phải có phương án cụ thể, được nhân dân tham gia

đóng góp ý kiến xây dựng và HĐND xã quyết định. Việc sử dụng các khoản

đóng góp này phải đúng mục đích và công khai, có sự kiểm tra giám sát của

tổ chức đoàn thể như: Mặt trận Tổ quốc xã, HĐND, Hội Cựu Chiến binh, Hội

nông dân, Hội phụ nữ... Tất cả các khoản chi ngân sách xã phải được ghi chép

đầy đủ vào sổ sách kế toán và định kỳ thông qua HĐND xã cho mọi người

dân đều biết.

Việc công khai NSX có thể thực hiện công khai không chỉ trong các

cuộc họp thôn mà có thể định kỳ một tháng một lần tại nhà văn hóa các thôn,

từ đó thu hút sự quan tâm của một phận lớn dân cư, có như vậy thì những

chính sách phát triển, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội mới phản ánh hết ý

nguyện của người dân, từ đó cũng giúp cho việc lập dự toán NSX dễ dàng và

phù hợp hơn.

3.2.4. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tài chính, KBNN với

xã, phường.

Cơ quan tài chính ở địa phương chịu trách nhiệm trước Nhà nước về

chỉ đạo công tác nghiệp vụ tài chính xã, phường. Cán bộ thuộc cơ quan tài

chính và KBNN phải có sự phối hợp chặt chẽ, thống nhất chỉ đạo và tháo gỡ

những khó khăn, nhất là chế độ kiểm soát chứng từ và thể thức thanh toán,

giao dịch của cấp xã tại KBNN. Cần quy định và hướng dẫn cụ thể:

+ Quy trình thu nộp và cấp phát NSX qua KBNN các thủ tục thanh

quyết toán đảm bảo chặt chẽ nhưng đơn giản, xã dễ thực hiện.

+ Giảm bớt thủ tục khi xã xây dựng từ nguồn vốn huy động đóng góp,

vốn tự có của NSX.

+ Cần có quy chế quản lý các quỹ tài chính ở xã.

Ngoài ra luật NSNN 2002 quy định, cơ quan tài chính chịu trách nhiệm

về dự toán và quyết toán ngân sách địa phương; KBNN chịu trách nhiệm kế

81

toán NSNN, trong đó có ngân sách địa phương. Từ quy định đó mỗi cơ quan

có sự độc lập tương đối trong công tác quản lý NSX, nhưng cần phải tăng

cường hơn nữa sự phối hợp hai cơ quan này với xã. Nếu không có sự phối

hợp chặt chẽ thì dễ dẫn đến thiếu thống nhất và số liệu có sự sai lệch.

Mặt khác cần nhận thức đúng và phân biệt rõ chức năng, nhiệm vụ của

chủ tịch HĐND xã, Chủ tịch UBND xã và Bí thư Đảng ủy xã trong quản lý,

điều hành NSX, tránh sự chồng chéo, ôm đồm và lấn sân, dẫn đến vừa mất

thời gian và vừa gây lãng phí.

3.2.5. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp

Xã là đơn vị hành chính cơ sở có tầm quan trọng đặc biệt, đó không chỉ

là một đơn vị hành chính về mặt nhà nước mà còn là “ngôi nhà chung” của

cộng đồng dân cư: Ngày nay với vai trò, vị trí của cấp xã càng được nâng cao,

quy mô NSX ngày một lớn, để quản lý tốt NSX trong những năm tới chúng ta

không thể không quan tâm tới việc xây dựng, tổ chức bộ máy chính quyền xã

cũng như tăng cường tổ chức bộ máy quản lý NSX các cấp. Xác định rõ vị trí

vai trò NSX vừa là công cụ vừa là phương tiện vật chất để chính quyền xã

hoàn thành nhiệm vụ.

Ở cấp tỉnh (Thành phố): Cần có biện pháp để củng cố và tổ chức

phòng quản lý ngân sách quận, huyện, xã, phường đủ mạnh về chuyên môn,

nghiệp vụ, phương tiện, điều kiện làm việc và lực lượng để đủ sức tham mưu

giúp Sở Tài chính và Thành phố tổ chức NSX theo luật NSNN và các văn bản

chế độ quy định của Trung ương và địa phương kịp thời, có hiệu quả. Tổng

hợp quyết toán NSX của Tỉnh chính xác, nhanh, kịp thời gửi Bộ Tài chính.

Ở cấp huyện (Thị xã): Phòng Tài chính – kế hoạch Thị xã cần là cơ

quan có trách nhiệm hướng dẫn UBND các xã xây dựng dự toán ngân sách

hàng năm theo chỉ đạo của UBND Thành phố và hướng dẫn của Sở Tài chính;

hướng dẫn, kiểm tra việc quản lý, thực hiện chế độ kế toán, thẩm tra quyets

toán ngân sách cấp xã; Phối hợp với các cơ quan thu thuế trong việc quản lý

công tác thu NSNN trên địa bàn theo quy định của pháp luật. Để thực hiện tố

82

nhiệm vụ, cán bộ quản lý ngân sách xã chuyên trách của Phòng Tài chính – kế

hoạch cần có trình độ chuyên môn, am hiểu, nắm vững các điều kiện tự nhiên,

xã hội và các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý ngân sách ở từng xã; có

khả năng hướng dẫn kế toán xã thực hiện chế độ quản lý tài chính ngân sách

theo quy định, hướng dẫn kế toán xã thực hiện tốt phần mềm kế toán xã; giải

quyết những vướng mắc về chế độ chính sách lĩnh vực tài chính trong những

tình huống thực tế diễn ra ở xã.

Ở cấp xã: Kế toán xã có trách nhiệm giúp UBND xã thực hiện quản lý

tài chính và NSX theo quy định của Nhà nước và sự hướng dẫn, chỉ đạo của

cơ quan tài chính cấp trên. Trình độ đội ngũ cán bộ kế toán xã không đồng

đều, còn yếu kém, Chủ tài khoản NSX nói chung đều chưa qua lớp bồi dưỡng

tập huấn nghiệp vụ kinh tế tài chính. Vì thế, trước yêu cầu quản lý hiện nay và

trong thời gian tới cần có biện pháp tăng cường kiện toàn, chuẩn hóa và nâng

cao năng lực cho bộ máy quản lý NSX bằng cách tổ chức các lớp bồi dưỡng

cho các bộ xã; Đồng thời cũng cần đặc biệt chú trọng công tác phổ biến chính

sách mới, đưa tài liệu về cho các xã đầy đủ, kịp thời để cán bộ xã nắm bắt

được tình hình và triển khai kịp thời.

3.2. 6. Nâng cao trình độ cán bộ quản lý NSX theo hướng đào tạo, sử

dụng và đãi ngộ

Đào tạo sử dụng và chuyên môn hóa các cán bộ công chức tài chính ở

xã:

+ Công tác tài chính ở xã vẫn là vấn đề hết sức nhạy cảm, nguyên nhân

chính thường xảy ra khiếu kiện, khiếu nại trong dân về tài chính NSX là do

cán bộ làm tài chính NSX có chuyên môn yếu kém. Hơn nữa trong điều kiện

hiện nay nguồn thu NSX ngày càng phát triển và mở rộng về quy mô, đa dạng

và phong phú về cơ cấu nguồn thu. Nhu cầu chi cũng ngày càng lớn và tăng

nhanh nhằm đáp ứng nhu cầu thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội

trên địa bàn. Thực tế đó đòi hỏi công tác tổ chức thu và thực hiện chi NSX

cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, đồng bộ của các ban ngành, đoàn thể đặc

83

biệt là Tài chính xã. Để đáp ứng được các yêu cầu, nhiệm vụ chi trong tình

hình mới đòi hỏi đội ngũ cán bộ quản lý tài chính trực tiếp ở xã cần được đào

tạo và đào tạo lại một cách có hệ thống với một chương trình phù hợp, ngoài

các kiến thức cơ bản về tài chính, ngân sách, quản lý tài sản cần được phổ cập

về kiến thức nông thôn, đầu tư xây dựng cơ bản, các chính sách chế độ, kiến

thức về pháp luật…

+ Các chế độ sử dụng cán bộ tài chính đã qua đào tạo, từng bước chuyên

môn hóa cán bộ có kiến thức tài chính, loại dần số cán bộ không có trình độ

chuyên môn

+ Để sử dụng cán bộ đã qua đào tạo cần phải có chính sách đãi ngộ đối

với họ

Giải pháp về đào tạo được đưa ra là: Các xã lập kế hoạch và chủ động bố

trí kinh phí thực hiện đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn đối với cán

bộ xã nhằm đáp ứng nhu cầu quản lý ngày càng cao. Bên cạnh việc đào tạo

cần có chính sách đãi ngộ hợp lý đối với những cán bộ xã đã được đào tạo

như: được hưởng sinh hoạt phí theo ngạch bậc đào tạo, được hưởng phụ cấp

trách nhiệm. Việc thực hiện chính sách đãi ngộ đối với cán bộ tài chính cấp xã

có liên quan chặt chẽ đến việc xác định rõ vị trí, chức năng của chính quyền

cơ sở và công việc cải cách bộ máy quản lý Nhà nước.

3.2.7. Tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong quản lý NSX.

Trong giai đoạn hiện nay, công nghệ thông tin đang phát triển rất nhanh

chóng. Hoạt động quản lý tài chính ngân sách ngày càng đòi hỏi cao hơn về

tính kịp thời và chính xác. Do vậy, việc ứng dụng tin học vào công tác quản lý

kinh tế tài chính là rất cần thiết.

Trong những năm qua, thị xã Sơn Tây đã áp dụng công nghệ thông tin

trong công tác quản lý và điều hành ngân sách. Song mới chỉ dừng ở việc in

ấn chứng từ và cập nhật số liệu, phần mềm còn gặp nhiều lỗi, hệ thống chưa

được kết nối đồng bộ với các cấp, các ngành. Người quản lý (Chủ tài khoản)

chưa quản lý trực tiếp nội dung này qua hệ thống, một số xã chưa kết nối hệ

84

thống với cấp trên (chưa có Internet), việc sử dụng việc báo cáo tuy đã có

phần mềm nhưng các xã vẫn phải copy dữ liệu (dùng USB) và mang trực tiếp

tới phòng tài chính kế hoạch để truyền dữ liệu báo cáo vào phần mềm, điều

này dẫn đến số liệu báo cáo không kịp thời, không chiết xuất được số liệu dẫn

đến việc đôi khi vẫn phải làm báo cáo thủ công.

Các cấp ngân sách và các ngành, các cơ quan liên quan phải có sự phát

triển tin học một cách đồng bộ, thường xuyên nâng cao chương trình, đổi mới

thiết bị, đồng thời nâng cao trình độ của người sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu

ngày càng cao của công tác quản lý để đảm bảo tính kịp thời và chính xác.

3.3 Kiến nghị:

3.3.1 Đối với Đảng và Nhà nước:

- Nhà nước cần sửa đổi Luật NSNN nhằm khuyến khích các cấp chính

quyền địa phương nâng cao tính tự chủ tài chính. Sửa đổi theo hướng xóa bỏ

tính “lồng ghép” của hệ thống NSNN

- Sửa đổi Luật NSNN nhằm tăng cường phân cấp nhiệm vụ chi ngân

sách, xác định rõ ràng và minh bạch về chi tiêu trong Luật Ngân sách, dựa

vào những căn cứ mang tính khoa học để xác định ranh giới nhiệm vụ chi của

mỗi cấp chính quyền. Đẩy mạnh phân cấp nhiệm vụ chi cho ngân sách xã, nếu

nguồn thu được hưởng lớn hơn nhiệm vụ chi thường xuyên thì cấp tỉnh phân

cấp thêm nhiệm vụ chi đầu tư CSHT do phường quản lý.

- Tiếp tục nghiên cứu và điều chỉnh lại định mức chi ngân sách cho phù

hợp với tình hình thực tế, vì định mức chi hiện nay còn thấp chưa đáp ứng

được yêu cầu nhiệm vụ chính trị ngày càng tăng của các cơ quan Đảng, Nhà

nước và các đoàn thể chính trị xã hội.

3.3.2 Đối với Thành phố Hà Nội:

- Về thu NSNN: Đề nghị thành phố xem xét phân cấp cho thị xã và điều

tiết cho NSX thực hiện thu thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập của các

DNNN và tư nhân trên địa bàn để NSX chủ động về nhiệm vụ và thực hiện

85

quản lý thu có hiệu quả; khi giao dự toán thu ngân sách, đặc biệt là chỉ tiêu

thu tiền sử dụng phải có cơ sở và khả năng thực hiện nguồn thu.

- Về chi ngân sách: Trên cơ sở việc phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, đề

nghị thành phố xem xét lại định mức chi cho sự nghiệp kinh tế. Hiện tại được

tính bằng 10% trên tổng số chi thường xuyên sẽ rất khó khăn cho các xã khi

thực hiện nhiệm vụ.

Đối với các công trình đầu tư XDCB thuộc nhiệm vụ chi của thành phố,

đề nghị thành phố xem xét cân đối bố trí đủ vốn để dự án sớm được khai thác

đưa vào sử dụng có hiệu quả.

Việc giao dự toán các chỉ tiêu pháp lệnh như chi đầu tư XDCB cho giáo

dục đào tạo, chi sự nghiệp môi trường phải được xây dựng trên cơ sở nhu cầu

thực tế, phù hợp với điều kiện của địa phương.

86

KẾT LUẬN

Cùng với sự phát triển của đất nước trong thời kỳ đổi mới, đòi hỏi phải

đặt ra nhiều vấn đề về quản lý kinh tế nói chung và quản lý tài chính nói

riêng. Một trong những vấn đề đó là tăng cường công tác quản lý ngân sách

các cấp trong những năm tới phù hợp với tốc độ phát triển chung của nền kinh

tế, đây là vấn đề rất được quan tâm và mang tính thời sự cao. Vì vậy, việc

tăng cường công tác quản lý ngân sách cấp xã ở Thị xã Sơn Tây trong giai

đoạn hiện nay là rất cần thiết và phù hợp với yêu cầu chung của đất nước.

Thông qua nghiên cứu thực tế, thực trạng công tác quản lý NSX trên địa

bàn thị xã Sơn Tây đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn sau:

Thứ nhất, đã hệ thống hóa được những vấn đề lý luận về vị trí, vai trò

của NSX trong hệ thống NSNN, các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý

NSX, cũng như vai trò của chính quyền cơ sở và sự cần thiết trong việc tăng

cường quản lý NSX.

Thứ hai, đề tài đã phân tích, đánh giá được thực trạng công tác quản lý

NSX trên địa bàn thị xã Sơn Tây giai đoạn 2010 - 2014. Trên cơ sở đó đã chỉ

ra những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của công

tác quản lý NSX của thị xã Sơn Tây trong thời gian qua bằng những số liệu cụ

thể chứng minh cho thấy: công tác quản lý NSX đã được các cấp chính quyền

của thị xã Sơn Tây quan tâm nhưng chưa đúng mức, cán bộ làm công tác

quản lý, nhất là đội ngũ cán bộ xã chưa đạt yêu cầu về chuyên môn, nghiệp

vụ, để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm giải quyết và khắc phục những tồn tại,

hạn chế, thiếu sót trong công tác quản lý NSX.

Thứ ba, đề tài đã đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường công tác

quản lý NSX trong thời gian tới, đồng thời đề xuất một số kiến nghị với các

cấp nhằm tiếp tục tăng cường công tác quản lý NSX, để NSX đi vào nề nếp.

Với khối lượng thời gian tìm hiểu thực tế không dài và trình độ lý luận

còn hạn chế chắc chắn còn những nhìn nhận chưa hoàn chỉnh. Rất mong nhận

87

được ý kiến góp ý của các thầy, cô và các bạn để đề tài được hoàn chỉnh hơn,

góp phần vào công tác quản lý NSNN nói chung và NSX nói riêng ngày một

hoàn thiện.

88