Luận văn cao học

“Thơ Bùi Giáng dưới lăng

kính phê bình cổ mẫu"

MỤC LỤC

Trang

MỤC LỤC

DẪN NHẬP

1. Lí do chọn đề tài 1

2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 2

3. Lịch sử vấn đề 4

4. Phương pháp nghiên cứu 18

5. Đóng góp của luận văn 19

6. Cấu trúc luận văn 20

CHƯƠNG 1: Phê bình cổ mẫu

1.1 Khái niệm và lịch sử 21

1.1.1 Khái niệm 21

1.1.2 Lịch sử 30

1.2 Phương pháp 46

1.2.1 Nguyên tắc và tiêu chí của phê bình cổ mẫu 46

1.2.2 Các thao tác cơ bản của phê bình cổ mẫu 53

1.2.3 Ý nghĩa thực tiễn

Ưu điểm và giới hạn của phương pháp 56

CHƯƠNG 2: Cổ mẫu tự nhiên trong thơ Bùi Giáng

2.1 Tiếng gọi ngàn xưa 58

v Cổ mẫu Đất 59

v Cổ mẫu Nước 78

2.2 Thiên đường ngưỡng vọng 96

v Cổ mẫu Vườn 97

CHƯƠNG 3: Cổ mẫu xã hội trong thơ Bùi Giáng

3.1 Tình yêu siêu năng 116

v Cổ mẫu Linh âm (Anima) 116

3.2 Đường về bản thể 139

v Cổ mẫu Tự ngã (Self) 139

KẾT LUẬN 152

PHỤ LỤC 1: Tác phẩm đã in của Bùi Giáng 157

PHỤ LỤC 2: Một số hình ảnh liên quan đến Bùi Giáng 160

PHỤ LỤC 3: Một số sáng tác của bạn hữu về Bùi Giáng 170

THƯ MỤC THAM KHẢO 181

2.1 Tiếng gọi ngàn xưa

“Cũng như thân thể người ta là một tập hợp đầy đủ những bộ phận, mỗi bộ

phận là kết quả của một cuộc tiến hóa qua các thời kì tiền sử, ta phải nghĩ

rằng tinh thần của ta cũng có một tổ chức tương tự thế. Tinh thần cũng như

thể chất của ta, không thể là một cái gì không có quá khứ, lịch sử của nó”

[80; tr.96]. Lời khẳng định trên của Jung đã nhấn mạnh đến tính lịch sử, tính

di truyền của vô thức. Tinh thần con người chúng ta hôm nay có nền móng từ

những yếu tố “phi ý thức thời tiền sử”, những “vết tích bàn cổ” trong quá khứ

xa thẳm loài người. Đặt cái nhìn đó vào thơ Bùi Giáng, ta thấy những yếu tố

nguyên thủy, “vết tích bàn cổ” hãy còn ăn sâu trong tiềm thức con người hiện

đại. Và hiện thân của Đất, Nước trong thơ Bùi Giáng chính là tiếng nói ngàn

xưa đã được bảo chứng.

Thật vậy, Đất từ rất lâu đời đã trở thành một biểu tượng lớn trong văn hóa

nhân loại tinh khôn (homo sapiens). Không biết tự bao giờ nơi chúng ta sinh

được gọi là Trái Đất. Quả đất tròn như bầu sữa mẹ, như chiếc nôi đưa nhân

loại lớn khôn từng ngày. Và Nước cũng vậy, là một biểu tượng thiêng kỳ mỹ

từng tạo nên những nền văn minh vĩ đại sông Nin, sông Ấn, sông Hằng…

Nước cũng đồng thời gắn bó song hành cùng Đất tạo thành cặp đôi khắng

khít Đất Nước. Nói chung, Đất và Nước hay Đất Nước mỗi khi nhắc đến

luôn gợi lên những khái niệm chung, lớn lao, cổ xưa hay truyền thống. Đặt

chân lên Đất, chạm tay vào Nước hay đứng giữa lòng Đất Nước là chúng ta

đang đón lấy ký ức hàng ngàn năm của dân tộc, dòng giống. Nên tìm hiểu về

Đất, Nước cũng đồng nghĩa chúng ta tìm hiểu, lắng nghe tiếng nói ngàn xưa

của tổ tiên, nguồn cội.

v Cổ mẫu Đất:

(…)

v Cổ mẫu Nước:

Nước là một đặc tính thơ Bùi Giáng. Thơ ông tràn ngập Nước, ở bất cứ

nơi nào ta cũng có thể tìm thấy: biển, sông, giòng, nguồn, suối, khe, mưa,

sương… Tên những tập thơ cũng đã âm vang lời của Nước: Mưa nguồn,

Ngàn thu rớt hột, Như sương, Rớt hột phiêu bồng hoặc gợi liên hệ đến Nước:

Bài ca quần đảo, Lá hoa cồn, Tuyết băng vô tận xứ, Rong rêu.

Nước, cũng như Đất, là bản nguyên vũ trụ (Prakriti), là một trong bốn

yếu tố vật chất khởi thủy (materia prima): Đất, Nước, Lửa, Khí tạo nên sự

sống loài người. Nhưng khác với Đất ở tính thô rắn, ổn định, bền vững,

Nước tỏ ra mềm mại, tùy biến và luân chuyển (chạy dọc, uốn lượn, bao

quanh Đất hay tràn xuống, luồn sâu, phân tỏa). Khác với Lửa khô nóng, trực

tính, Nước bẩm sinh đã ẩm ướt, dung hòa (làm dịu Lửa, cũng như có thể làm

dịu các hợp chất khác trở nên bớt nóng, bớt lạnh, bớt nồng, bớt đậm…). Và

Nước (H2O) cũng mang trong lòng nó dưỡng Khí oxi - hơi thở sự sống. Có

thể thấy, trước hết Nước là một khối vật chất khổng lồ chưa phân hóa với “số

lượng vô cùng lớn của những khả năng diễn biến” [6; tr.709] và sau là vô

vàn hình thức, trạng thái tồn tại đi cùng những thuộc tính phức tạp của nó.

Biển, Sông, Hồ, Đầm, Giếng, Mương, Rạch,… là những hình thức tồn tại tự

nhiên của Nước. (Bên cạnh là những hình thức tồn tại nhân tạo do con người

thiết kế chứa nước như ao, kênh, ruộng, bể…). Và các trạng thái phẳng lặng,

êm ái, lặng lẽ, lững lờ, chảy tương đối, chảy mạnh, chảy xiết, cuộn xoáy, bao

vây, nhấn chìm, nuốt chửng, dâng cao, hạ thấp, xuôi dòng, ngược dòng, bào

mòn, bồi đắp…, tất cả đều thể hiện tính cách và tính khí của nước. Một cách

khái quát, Nước có tính dương tính âm, tính nam tính nữ và cả lưỡng tính.

Bởi có khi Nước mạnh mẽ, hung bạo như Lũ Lụt, có khi hiền hòa như Sương

và cũng có lúc trung tính như Mưa. Nước cũng có nước mặn, nước ngọt và

nước lợ. Và có lúc Nước thuần khiết, trong trẻo, mát lành (nước giếng), có

lúc vẫn đục, đen xỉn (nước tự ô nhiễm), có lúc nóng bỏng (nước ở khu vực

thỗ nhưỡng đặc biệt tạo ra nước nóng) hay băng giá (nước đóng băng). Cũng

như có nơi Nước ở thể lỏng (chiếm đa số), có nơi sệt đặc (đầm lầy) hoặc đông

cứng (hai cực trái đất)… Nhưng dù Nước có muôn hình vạn trạng sao đi chăng

nữa, ý nghĩa tượng trưng về Nước trong đời sống nhân loại vẫn quy về ba chủ

đề lớn: nguồn sống, phương tiện thanh tẩy và trung tâm tái sinh (theo Từ điển

biểu tượng văn hóa thế giới, tr.709). Thật vậy, “quả trứng” Trái Đất chúng ta

hai phần ba đã là nước. Cơ thể chúng ta và các loài có sự sống khác cũng vậy,

nước chiếm ưu thế trong sinh thể. Nước chính là mầm sống của mọi mầm

sống. Từ trong sâu xa, chính Nước đã làm nên vũ trụ bởi chức năng duy trì sự

sống và vai trò tạo ra mùa màng, phúc lộc sinh sôi nảy nở cho muôn loài trên

mặt đất. Con người tìm về với Nước cũng đồng nghĩa tìm về nguồn cội:

Đầm mình trong nước để rồi đi ra mà không tự hòa tan hết vào trong đó, trừ

khi do một cái chết tượng trưng, đó là trở về cội nguồn, tự tiếp nguồn cho

mình trong kho dự trữ tiềm năng rộng mênh mông và lấy ở đó một sức mạnh

mới: là một bước thoái lui và tan rã nhất thời, tạo tiền đề cho một bước tiến

lên để tái thống hợp và tái sinh [6; tr.709].

Nước vì thế còn là phương tiện thanh tẩy, trung tâm tái sinh. Ví như việc tắm

hay rửa tội, thụ pháp của con người là những minh chứng sống động cho

điều đó. Tắm để bắt đầu một cuộc đời mới cho trẻ sơ sinh và tắm khi chết,

trước khi chôn cất để có thể tái sinh một cuộc đời mới mai sau. Trẻ em Kitô

giáo cũng được làm lễ rửa tội để xóa tội tổ tông (tội của Adam và Eva không

nghe lời Thiên Chúa) và bắt đầu làm một con chiên ngoan đạo của Chúa.

Người sắp thụ pháp (teleutai) cũng cần phải tắm để tẩy trần, chuẩn bị tâm

hồn cho một cõi sống mới. Nói cách khác, người được thụ pháp phải chết đi

(teleutai có nghĩa là làm chết) ở cõi này và tái sinh ở cõi khác, trong đó động

thái tắm là tự dìm chết mình, quay về trạng thái ban đầu như cái thai nằm

trong tử cung người mẹ… Có thể nói, câu chuyện của Nước hay liên quan

Nước còn vô vàn trong lịch sử nhân loại: nước phán xét (đại hồng thủy dìm

chết người có tội và những người lương thiện được con tàu Noel cứu sống;

một số bộ lạc, bộ tộc trừng phạt tội lỗi bằng cách thả người trôi sông hoặc cột

đá vào người quăng xuống nước), nước trừ tà, nước chữa bệnh, nước trường

thọ…; nước còn liên quan đến rượu (rượu giao bôi, tiễn biệt), liên quan đến

máu (rượu nho là máu Thánh dưỡng nuôi tâm hồn người Kitô giáo)… Nói

chung Nước với muôn khả năng đáng trọng và đáng sợ trong tâm thức con

người đã khiến người ta vừa quý vừa nghi ngại, cảnh giác cao với nước. Tính

chất nước đôi của Nước có lẽ là sự lý giải hợp lý cho sự đối nghịch này.

Trong văn hóa, văn học Việt Nam, Nước có mặt khắp nơi, phong phú và đa

dạng. Từ trận Lụt dữ dội trong huyền thoại Quả bầu mẹ và pho sử thi Mường

Đẻ đất đẻ nước, nhân loại được tái tạo qua biểu tượng quả bầu mẹ và cây si.

Tiếp đến, Nước tạo mầm sống thụ thai cho những nhân vật phi thường, dị

biệt (Thánh Gióng, Sọ Dừa… được sinh ra sau khi người Mẹ uống hoặc giẫm

nguồn nước lạ), Nước làm con người cải lão hoàn đồng (ông bà lão tiều phu

uống nước tiên vào trẻ lại – chuyện dân gian Việt Nam), Nước tăng sức

mạnh cho người anh hùng chiến đấu (Đam săn uống nước suối trước khi giao

chiến để tăng thể lực - sử thi Êđê)… Nước còn gắn với các yếu tố khác: núi

non, con sông, chiếc cầu… tạo nên khung cảnh thơ mộng, đậm tình: “Đường

vô xứ Nghệ quanh quanh. Non xanh nước biếc như tranh họa đồ” (ca dao),

“Lòng quê dờn dợn vời con nước. Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

(Huy Cận), “Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha” (Nguyễn Du)… Nước

cũng là nguồn cảm hứng bất tận cho những ngành nghệ thuật khác như âm

nhạc, hội họa. Chúng ta khó mà kể hết vô số nhạc phẩm có hình bóng nước

trong đó: Chảy đi sông ơi (Phó Đức Phương), Trở về dòng sông tuổi thơ

(Hoàng Hiệp), Sông quê (Đinh Trầm Ca)… Và những cơn mưa, dòng sông,

bến nước, con đò… cũng là mỹ cảnh phổ biến cho tranh nghệ thuật Việt

Nam… Song ở một bình diện nào đó, Nước trong văn học Việt Nam vẫn

đượm buồn. Đối với người Việt chúng ta, chưa cần ra đến biển thì sông cũng

đã để lại quá nhiều buồn bã và đau đớn (như Bờ đã nói). Có lẽ vì vậy mà

Nước trong thơ ca dù có đẹp vẫn buồn man mác:

Mưa có tạnh nhưng chân trời còn mãi

Những giọt sương là lệ ở trong mây

Giòng sông đi cho nước nói ngàn ngày

Rằng bể rộng không bến bờ em ạ

(Không thể gọi – Mưa nguồn)

Khảo sát Nước trong thơ Bùi Giáng, trên bình diện chung, Nước mang nét

mặt nguyên thủy: Cội nguồn sự sống nhưng thấm đẫm nỗi buồn. Ám ảnh trực

diện nhất là biểu tượng Mưa, bởi Mưa trong thơ Bùi Giáng không bình

thường như bất kì cơn mưa nào xưa nay. Đó là: Ngàn thu rớt hột, Rớt hột

phiêu bồng, Bây giờ mưa dứt hột, Rớt hột bây giờ, Trời xa rớt hột, Trang mờ

rớt hột, thân em như hột mưa sa, tự trời rớt hột quan san, tự trời rớt hột lim

dim, tự trời rớt hột mù sa… “Hột”mưa chứ không phải “hạt” mưa, “rớt” chứ

không phải “rơi” và “hột” mưa gắn liền các hình ảnh, từ ngữ gợi lên cái

buồn: ngàn thu, trời xa, trang mờ, phiêu bồng, mưa sa… Có thể thấy, Mưa

trong thơ Bùi Giáng là sự đan xen cả vui lẫn buồn, cả hài lẫn bi với môtíp chủ

đạo “hột”mưa, tần số xuất hiện: 145 lần. Về loại từ, “hột” là từ bình dân

(trang trọng: hạt) và là từ địa phương (miền Trung và Nam). Về âm, hột tượng

hình hơn, mang lại một hình ảnh tròn đầy. Về nghĩa, hột là cái lõi bên trong

của quả, có thể ươm thành mầm sống mới. Dân gian hay nói bóc trần, bóc cho

lòi hột ra… nên hột cũng có nghĩa trần trụi, bản chất thật. Người Nam bộ còn

dùng hột thay cho trứng (hột gà, hột vịt, hột vịt lộn). Ngôn ngữ thơ Bùi Giáng

vẫn thường trần trụi và rất thật như thế, kiểu như “Em vốn xưa kia là/ Ngồi hè

em đi tiểu/ Em vốn xưa kia là/ Trong lúc đó thấy anh” (Vốn xưa kia là – Màu

hoa trên ngàn). Những người vui tính cũng thường hay đùa: “vũ khí hột

nhân”, “con cá lợn”, còn Bùi Giáng là hột mưa. Cách nói “bóc trần” và có vẻ

“ngược đời” này vừa mang tính nghịch đùa vừa thể hiện cái lắt léo, trớ trêu

trong thơ Bùi Giáng. Sinh thời, nhà thơ từng tự nhận mình là đứa trẻ thích đùa,

trong tiểu sử tự ghi ông viết: 1971-75-93 “rong chơi như hài nhi (con nít)”

[76; tr.165]. Nên nhà thơ dường như cũng mang cái khí chất tinh nghịch, táo

bạo của cha ông ta ngày xưa khi qua giữa đàng trêu ghẹo con gái: “Cô kia cắt

cỏ bên sông/ Có muốn ăn nhãn thì lồng sang đây”- ca dao). Nhưng sự tinh

nghịch của người đời và cha ông ta làm nên nụ cười và duyên tình, còn Bùi

Giáng thì đùa ra nước mắt và cảnh báo về mất mát:

Bây giờ mưa dứt hột sa

Ngớt tầm tã gội tuôn hoa trôi nguồn

Rừng ong gấu lạnh ghê hồn

Một lần đối diện là khôn gắn hàn

(Bây giờ mưa dứt hột – Ngàn thu rớt hột)

Ngàn thu rớt hột bây giờ

Ngẩng nghe gái núi bước hờ hững sương

Hùm voi rồng ngục tù mương

Khe nào hang hở dồn hương xuống đời

(Rớt hột bây giờ – Màu hoa trên ngàn)

Âm hưởng đọng lại của những dòng thơ trên là: hoài vọng và nuối tiếc,

nghẹn ngào và đắng lòng. Bây giờ mưa mới dứt hột sa, bây giờ ngàn thu

mới rớt hột về… thì tất cả đã tuôn hoa trôi nguồn, gái núi đã bước đi hờ

hững và rừng thiêng trở nên lạnh giá, cho những khe hang hở dồn hương

xuống đời… Hướng về quá khứ, Cội nguồn vẫn là tiếng nói chủ đạo trong

thơ Bùi Giáng: “Tôi vốn xưa kia là/ Ngàn thu tôi rớt hột/ Tôi vốn xưa kia là/

Mưa nguồn cồn lá hoa”, “Tôi vốn xưa kia là/ Sợ mất hột sương hoa”, “Tôi

vốn xưa kia là/ Mò mẫm giữa đêm khuya/ Tôi vốn xưa kia là/ Mơ cái hột

xiêm mềm” (Vốn xưa kia là – Màu hoa trên ngàn). Giọng thơ cứ nửa đùa

nửa thật như trạng thái nửa mơ nửa tỉnh của nhà thơ. Giữa đêm khuya, nhà

thơ “mò mẫm” đường về quá khứ tìm “cái hột xiêm mềm”, lý do “sợ mất”

(sợ mất hột sương hoa). “Chàng” Đười Ươi đã thõng đôi tay dài của mình

vào quá khứ để cố níu về một chân trời hồng khiết: “Chân trời nảy hột hồng

tô/ Đầu khe suối chảy nước vô trong rừng” (Chết trong hang – Lá hoa cồn).

“Hột hồng tô” là hột gì, chỉ biết loại hột lạ lùng này chỉ có trong thơ Bùi

Giáng. “Hột mưa” đã đành nhưng còn hột hồng tô, hột xiêm mềm, hột

sương hoa? Ở đây có những ám ảnh về sex (rất gần với biểu tượng Khe

được trình bày ở sau), Bùi Giáng đã nói sáng tạo về một loại "hột…" có ở bộ

phận kín của người phụ nữ. Bởi những từ hồng tô, xiêm mềm, sương hoa đã

đưa lại cho ta một loạt liên hệ gần gũi khác gắn liền các thuộc tính nữ yểu

điệu, nhẹ nhàng, trinh trắng, cao quý: bóng hồng, gót hồng, áo xiêm mềm

mại, đóa hồng nhan đẹp như hoa và mong manh như sương... Giọng thơ Bùi

Giáng vẫn thường vẫn lấp lửng hai mặt và thuần nhiên như thế. Bằng sự lấp

lửng tự nhiên cá biệt đó, ta nhận ra hai ý nghĩa lớn của biểu tượng hột trong

thơ Bùi Giáng: tinh thần Mưa nguồn bừng toát và chủ nghĩa tự nhiên (mà

chúng tôi gọi là triết lý phồn thực về sau) mở đường bộc phát. Rõ ràng hơn,

đi liền những loại hột trên là những dòng thơ hai nghĩa của Bùi Giáng: "Mò

mẫm giữa đêm khuya", “Đầu khe suối chảy nước vô trong rừng”… Mưa

chính là suối nguồn nước truông quý giá (“Còn ghì giữ ân tình trong cỏ

nhặt/ Múa vi vu vì hẹn với truông ngàn”; “Anh quên mất bò đang gặm cỏ/

Anh chỉ nghe tiếng cọ rì rào (…) Hay là đây tiếng suối lao xao/ Giữa giòng

cỏ xuôi ghềnh chảy xuống”; “Bỏ hai chân xuống một vùng/ Nước truông là

lá thu rừng xuống khe” - Xuân thu trang phượng, Anh lùa bò vào đồi sim

trái chín, Bỏ hai chân, trích Mưa nguồn…), nhưng đồng thời gợi ra một

"dòng khác", "hột khác". (Nghĩa thứ hai gắn liền triết lý phồn thực, xin bàn

sau). Còn nghĩa thứ nhất gắn liền biểu tượng Mưa thuần khiết, mát trong.

Bởi Mưa vốn sinh ra từ Nước. Ai cũng biết Nước bốc hơi tạo mây và sinh

ra Mưa thông qua điều kiện không khí thuận lợi. Nên Mưa cũng là con của

mây và giông, và là tinh dịch của Trời gieo cho Đất để tạo sự sống. Tính

chất của Mưa là thuần khiết (vì nước ở lưng chừng trời, người ta thường

hứng nước mưa để uống) và bản chất của Mưa là ban phúc (nhân gian có

cụm từ “ơn mưa móc”). Mưa làm sạch bầu không khí, làm mát dịu sự oi

bức và làm cho mặt đất phong nhiêu. Mưa chính là sữa trời giúp sự sống

sinh sôi nảy nở, giúp cho vũ trụ trở nên bất tử. “Hỡi các thần Mitra và

Varuna. Mưa của trời làm trời căng phồng chất mật ngọt của mình…

Chúng tôi cầu xin các thần cho mưa, cho sự sống, cho sự bất tử… Hỡi các

vị chú tể, hãy gội tắm chúng tôi bằng sữa trời! Các thần làm trời mưa

xuống, đỏ chót, trong ngần” (Kinh Rig-Véda) [6, tr.609]. Và Mưa trong thơ

Bùi Giáng cũng chuyển tải chức năng sự sống đó. Nhà thơ đã nhìn cuộc

sống với quy luật sinh sôi nảy nở đẹp đẽ qua lăng kính của hột mưa rơi:

“Ôi một người con gái/ Là đúng một bầu trời/ Là sinh con đẻ cái/ Đẹp

bằng hột mưa rơi” (Ôi một người con gái, Lá hoa cồn). Mưa còn là thể

điệu ban sơ vui sống thanh nhàn: “Ban sơ thể điệu phiêu bồng/ Về sau rớt

hột chùm bông quê nhà/ Bây giờ một lúc uống trà/ Ăn qua loa chút gọi là

tái sinh” (Tặng cố nhân – Thơ Bùi Giáng).

Có thể thấy thơ Bùi Giáng có sức nén rất chặt. Nhà thơ đã đẩy cả chu kỳ, quy

luật sinh sôi nảy nở viên mãn của Trời Đất và Con Người vào trong bốn câu

thơ và bốn câu thơ lại dồn cả vào một hình ảnh nhỏ bé ở câu cuối: “Đẹp bằng

hột mưa rơi”. Kỳ thực, chỉ một hột mưa cũng đã nói đầy đủ cái tinh thần, chu

kỳ luân chuyển của vũ trụ và sự sống. Ở bài sau cũng vậy, thời gian và không

gian dài rộng khôn cùng của một kiếp người được khái quát chỉ qua bốn câu

thơ. Mỗi câu là một không gian, thời gian khác nhau từ quá khứ ban sơ của

cõi phiêu bồng (câu 1) đến quá khứ cận hiện nơi quê nhà (câu 2), xuyên qua

thời điểm hiện tại với không gian uống trà (câu 3) và cuối cùng là vị lai tái

sinh ở cõi khác (câu 4). Sức nặng của cả bài thơ dường như rơi vào câu 2 bởi

hai từ “rớt hột” và hình ảnh tâm điểm sinh động chùm bông quê nhà. Bài thơ

với tựa đề Tặng cố nhân nhưng hoàn toàn không thấy bóng người xưa chỉ

thấy chùm bông quê nhà lay động bởi mưa “rớt hột”. Phải chăng ở đây, từ

trong tiềm thức, quan năng thơ Bùi Giáng hãy còn ảnh hưởng ý thơ nổi tiếng

của Thôi Hộ hàng chục thế kỷ trước: “Nhân diện bất tri hà xứ khứ/ Đào hoa y

cựu tiếu đông phong” - Đề đô thành Nam Trang (Gương mặt người xưa giờ

không biết chốn nào. (Chỉ thấy) hoa đào năm ngoái còn cười gió đông)…

Không cần biết chính xác về điều đó, chỉ biết một điều chắc chắn rằng, tiếng

thơ của Bùi Giáng luôn là hoài cổ, vọng sơ thông qua Mưa. Hay nói cách

khác Bùi Giáng đã vực dậy được những biểu tượng từ văn hóa và văn học

quá khứ. Ông không chỉ múc biểu tượng từ giếng vô thức tập thể dân gian mà

còn lấy chúng từ hồ vô thức tập thể bác học và thả chúng một cách tự nhiên

vào thơ mình, làm thành những hột mưa “độc nhất vô nhị”. Nên “hột mưa”

ấy vừa mang tinh thần hiện đại, vừa điển hình cho tiếng nói Cội nguồn ban

sơ, cho tiếng nói vui buồn thăng trầm hàng ngàn năm của Nước. Và cùng với

Mưa, người em gái Sương, tuy nhỏ bé và mong manh hơn nhưng đã đồng

hành, chia sẻ hành trình của người Mẹ Nước trong thơ Bùi Giáng.

Sương thật vậy, cũng giống Mưa nhưng tinh tế nhiều hơn, là hiện thân

cho thiên ân hồi phục sự sống. “Nước tuôn ra từ tim, làm toàn bộ con người

bên trong tràn ngập sương thần thánh” – Calliste II Xanthopoulos [6;

tr.840]. Những giọt Sương đó được Người Kitô giáo xem là mồ hôi hòa máu

Đấng cứu thế làm nở những bông hồng. Cũng theo Từ điển biểu tượng văn

hóa thế giới, Sương còn là mồ hôi của trời đất, là nước bọt của các thiên thể

(Pline), là sương trời trả lại cuộc sống cho những hài cốt (người Do Thái), là

sương trăng làm sáng mắt và đạt tới sự bất tử (người Trung Hoa – những tiên

ông ở đảo Ho-tcheou đã nuôi dưỡng mình bằng không khí và sương, Hoàng

đế Vũ nhà Hán hứng sương vào cốc ngọc thạch để uống). Sự rơi sương dịu

ngọt là dấu hiệu kết hợp hài hòa của Trời và Đất (Lão Tử). Và sau hết, đặc

biệt trong ngôn ngữ nhà Phật, thế giới Sương gắn liền với sự Chân ngộ triết lý

đạo.

Tiếp nguồn ý nghĩa đó, Sương trong thơ Bùi Giáng là tinh thể Nước ấp ủ linh

hồn bản nguyên vũ trụ:

Hai tay vốc nước suối ngàn

Rắc lên cành dại giọt ngần như sương

(Xuân thôn nữ - Mưa nguồn)

Ý thơ sáng đẹp, đầy hình ảnh. Những giọt nước trong ngần như sương đọng

trên cành cây hoang dại tựu trưng cả sự sống núi rừng, suối ngàn (giống như

hạt muối bé bỏng nhưng chất chứa hồn đại dương mặn mà). Vẻ đẹp bản

nhiên của sự sống đã được nhà thơ nâng niu, quý trọng đón khẽ trên hai tay.

Trong giây phút đó, người và vật như hòa hợp đỉnh điểm, con người bản

nhiên đón lấy sự sống bản nhiên trong một khung cảnh bản nhiên. Bùi Giáng

vẫn luôn thích để nhiên giới tiếp xúc trực tiếp tại thể mình như thế (giống

kiểu cọ xát thiên nhiên của “Người con gái lội qua khe/ Bàn chân với nước

lạnh đè lên nhau/ Nỗi niềm tưởng lại xưa sau/ Bàn chân với nước cùng nhau

lại đè” (Đè nhau - Bàn chân với nước – Lá hoa cồn). Nên ông không bao giờ

dừng chân đứng yên mà luôn chủ động tiến về phía nhiên giới và Sương là

chính là tinh thể cội nguồn: “Ngày nào trùng ngộ bước ra/ Trùng sinh sương

sớm đầu hoa cuối cùng”, “Chú buồn bã chú đi xa/ Tìm hoa kiếm lá sương sa

đầu rừng” (Uống rượu yêu đời, Đèo bồng đến chết - Như sương).

Có thể thấy, môtíp Sương có mặt khắp nơi trong không gian thơ của Bùi

Giáng: Sương bình nguyên (tập khảo luận), Như sương (tập thơ), sương sớm,

sương sa, giọt sương buồn, sương đồng, sương khói, sương mù, sáng sớm

tinh sương… Sương xuất hiện với tần số cao nhất so với các cổ mẫu khác 745

lần. Với biểu tượng thuần khiết và tần số xuất hiện đó, tiếng thơ Bùi Giáng

trở nên đặc biệt, vừa gắn bó thiết tha Cội nguồn sự sống, vừa long lanh, thấm

đẫm tâm hồn Việt, nhất là hình ảnh “bóng sương đồng” dưới đêm trăng bàng

bạc:

Ngàn trăng ngậm bóng sương đồng

Ngày mai cá sóng phiêu bồng vẫn bay[1]

(Lời tựa tập Như sương)

Hai câu thơ này trở đi trở lại nhiều lần trong các tập thơ: Thơ vô tận vui (lời

tựa, tr.24, tr.78), Ngắm trăng (tr.171), Màu hoa trên ngàn (tr.38), Ngàn thu

rớt hột (tr.38), Trúc mai (tr.59)… Câu thơ đầy ấn tượng bởi nếu nhân loại

thường miêu tả giọt sương dưới ánh mặt trời thì ở đây, Bùi Giáng vẽ lại hình

ảnh giọt sương qua ánh trăng, mà độc đáo hơn là “bóng sương” in trên cánh

đồng tràn ngập ánh trăng. Bức tranh lại càng trở nên bất tuyệt khi chuyển từ

trạng thái tĩnh sang động với hình ảnh “cá sóng phiêu bồng”. Chỉ cần một từ

“sóng” (lướt sóng, vượt sóng, vỗ sóng), tĩnh cảnh thành động cảnh, ngụy ảnh

thành chân ảnh, như bút pháp kì tài của Mã Lương chỉ cần hạ một chấm đen

vào mắt hổ, lập tức thành hổ thật. Nhưng quan trọng hơn, bức tranh đẹp nhờ

“bóng sương đồng”. Vì nếu giả sử cắt đi hoặc thay vào “bóng sương đồng”

bằng một hình ảnh khác, một cụm từ khác như “nhánh ngô đồng”, “bóng lúa

đồng” hay “bóng sương ruộng”, câu thơ sẽ không còn giá trị và nét đẹp dù

cảnh động hay tĩnh. Bởi một từ Sương thôi cũng đã mang vẻ đẹp gợi cảm,

thanh trong, thuần khiết của tự nhiên. Càng tuyệt vời hơn khi Sương là sương

đồng, bóng sương đồng. Vì “cánh đồng” từ lâu đã là biểu tượng mang giá trị

thẩm mỹ và biểu cảm cao cho nét đẹp thuần Việt (Ruộng gắn liền vẻ đẹp cần

lao). Và “bóng sương” càng làm tăng nét đẹp gợi cảm của Sương cũng như

vẻ đẹp tự nhiên lên bội phần. “Đồng” đã tiếp thêm mỹ tính cho Sương, biến

ảnh qua nước tạo “bóng” thành “bóng - sương - đồng” nâng câu thơ đạt đến

trình độ vi tế. Hóa ra không phải Trăng mà “Sương” mới là hình ảnh chủ đạo

của câu thơ. Và thơ Bùi Giáng có rất nhiều câu đạt đến độ vi tế bất ngờ như

thế, càng đặc biệt hơn khi nói đến việc nhà thơ bị “thơ làm” chứ không phải

làm thơ. Chính bản chất tinh khởi của Sương (từ Cội nguồn vô thức chung)

cùng bản chất thuần nông (từ Cội nguồn vô thức riêng nước Việt) đã kết tinh

thành “bóng sương đồng” bất tuyệt trong thơ Bùi Giáng.

Tiếng gọi ngàn xưa, sức sống Cội nguồn cứ thế ngân dài bất tận chưa

bao giờ thôi trong thơ “người nhà quê” Bùi Giáng. Đi theo tiếng gọi của Đất

và Nước, nhà thơ đã bỏ phố thị – nơi ông đang sống – về Làng quê, vượt Bờ

bãi, xuyên Rừng thẳm, lênh đênh trên Nước và giờ đây thẩm thấu trong

Sương. Hình hài nhà thơ chừng như tan biến và mất dạng một cách tự do,

phiêu lãng trong nhiên giới. Thử đọc lại hai câu thơ ta sẽ thấy: “Ngàn trăng

ngậm bóng sương đồng/ Ngày mai cá sóng phiêu bồng vẫn bay”. Mang trong

lòng hình bóng nguồn cội (có vẻ gì đó giống Hàn Mặc Tử ngậm Một miệng

trăng chăng?), tâm hồn nhà thơ đã cất cánh phiêu bồng, bay bổng. Như chim

về tổ, như ong về rừng, như cá về biển, Thiên Nhiên Nguồn cội mới thật sự là

mái nhà của nhà thơ. Đó là ngôi nhà không nóc, không cửa để nhà thơ có thể

thả hồn đi rong hoặc thăng thiên bất cứ lúc nào, cũng như để những giọt

nhiên giới có thể thấm sâu vào thân xác nhà thơ tùy mọi lúc. Với tất cả ý

nghĩa đó, thơ Bùi Giáng luôn vang vọng tiếng gọi Trở về và một kiểu sống

Tận tuyệt. Ở ông, chỉ có khái niệm hết mình, đã đời, triệt để chứ không có

nửa vời với cuộc sống: “Đã đi đi đến cuối trời/ Đã về như vẫn muôn đời đã

đi” (Đã đi, Mùa màng tháng tư). “Sài Gòn Chợ Lớn rong chơi/ Đi lên đi

xuống đã đời du côn”[2]. Thế nên đã đi dưới Mưa, hòa trong Sương thì nhà

thơ cũng có thể tìm đến tận cùng của Nước. Và cái Khe đã trở thành một biểu

tượng đặc biệt tràn đầy mỹ lực trong thế giới Nước của Bùi Giáng: Lạc về

đầu rú khe truông, Nước truông là lá thu rừng xuống khe (Phượng, Bỏ hai

chân – Mưa nguồn), Xuống khe tìm biển hội đàm (Ở trong hang – Bài ca

quần đảo), “Tôi sẽ ra khe bắt cá về” (Tôi sẽ ra khe – Ngàn thu rớt hột),

“Đầu khe suối chảy nước vô trong rừng”, “Trong tấm lòng thu động rú

truông khe”, “Non ngàn lũng tạ nước đầu khe truông”, “Nước trong khe cũ

đó là cá trôi”, “Buổi trời trở lại bên khe” (Chết trong hang, Chân trời, Sa

mạc phát tiết, Điệu cười trăm năm, Buổi trời trở lại – Lá hoa cồn)...

Xuất hiện không nhiều như những cổ mẫu khác, 196 lần, nhưng Khe trong

thơ Bùi Giáng đã gợi lên những ám ảnh đặc biệt. Trước hết đó là khe nước,

khe suối, (đầu rú) khe truông. Khe luôn gắn liền với Nước. Có thể hiểu, Khe

là kẽ hở của vách đá, hang núi, nơi có mạch nước chảy ra. Đó là mạch sống

ngọt mát, quý hiếm không bao giờ cạn. Đó là tinh nguồn của núi rừng từng

nuôi sống tổ tiên, cha ông của chúng ta. Nên Nước Khe hay nói khác đi là

nước mạch, nước nguồn, suối nguồn… chính là biểu trưng của sự sống bất

tận, của những gì tinh túy, thuần khiết nhất. Trong tiềm thức nhân loại xưa

nay, người ta vẫn thường hay nói về nguồn nước vĩnh cửu. Con người tin

rằng trên Thiên Đường có một mạch nước phun ra giữa vườn, chảy đi bốn

phương mang lại sự bất tử, thanh xuân cho con người, ai uống nước đó sẽ

trường thọ, thành thần tiên. Người ta cũng tin nơi các vị Thánh, Tiên, Phật,

Chúa… tọa lạc đều có nguồn nước thiêng ở đó nên nước Thánh, nước Tiên,

nước Phật, nước Chúa… đều có khả năng chữa bệnh và dưỡng nuôi phần hồn

con người. Bởi vậy không phải ngẫu nhiên tôn giáo nào cũng có những nghi

thức đặc biệt liên quan đến Nước. Nước là một trong những căn nguyên lí

giải các hiện thực tín ngưỡng phong phú của loài người. Ví như hằng năm,

vào dịp lễ Phục sinh, các cha xứ Thiên Chúa giáo thường làm phép nước (còn

gọi là phép thánh thủy) ở nhà thờ, sau đó cho mỗi gia đình trong họ đạo mang

nước về để trên bàn thờ nhà mình. Sự hiện diện của nước thánh đó trong nhà

là một “liều thuốc bình an” cho thân thể và linh hồn họ… Sau tất cả, có lẽ do

tính chất quan trọng, thiêng liêng không thể thiếu đối với sự sống của nguồn

nước, mạch nước mà khái niệm Nước được chuyển thành một khái niệm

khác có giá trị như một địa điểm, nơi chốn: nước tôi, nước bạn (đất nước tôi,

đất nước bạn)… hay nước Trời, nước Phật (cõi Trời, cõi Phật)… hoặc nơi bất

tử muôn đời của con người sau khi chết: “chín suối”, “suối vàng”… Nói

chung, suối nguồn, nước mạch, theo nghiên cứu của Jung, là một cổ mẫu, “là

một hình ảnh của linh hồn, như là cội nguồn của cuộc sống nội tâm và của

năng lượng tinh thần” [6; tr.651]. Khe (nước) là hiện thân của nước nguồn, là

biến thể của cổ mẫu suối, mạch. Trong thơ Bùi Giáng, Khe cũng mang tính

chất Cội nguồn nội tâm và năng lượng tinh thần đó. Thừa hưởng một cách tự

nhiên vô thức nhân loại, nhà thơ bị ám ảnh và đầy quý trọng nước Khe:

Xin mọi người hãy uống

Nước từ hở hang khe

Trong bóng tối đêm khuya

(Hoặc trong ánh sáng ban ngày cũng được)

(Ôi người con gái, Lá hoa cồn)

Nước Khe, trong đôi mắt nhà thơ là dưỡng chất trần gian hấp thụ tinh khí trời

đất có thể mang đến sức mạnh thể xác và tinh thần cho con người. Đêm

khuya chính là thời điểm thuận lợi, đó là lúc núi rừng thiêng liêng bừng tỉnh,

căng tràn nhựa sống và chiết xuất tinh khí dồi dào nhất. Trong đời thật cũng

như phim, truyện, ta thường thấy những con người của Núi Rừng luôn là hình

tượng của sức mạnh hoang nhiên và vẻ đẹp nguyên sơ, thuần chất. Chính nhờ

họ đã tiếp thu năng lượng, sinh khí thiên nhiên thuần khiết mà trong đó nước

Khe, suối nguồn là một yếu tố quan trọng. Và nếu có phải chiến đấu với con

người hiện đại, những con người tự cho mình tối tân, thủ lĩnh thế giới thì họ

vẫn luôn là người chiến thắng. Bởi tinh cốt Núi Rừng hàng ngàn triệu năm

qua đã hun đúc nên thiên tính anh hùng vĩ đại bẩm sinh trong họ (bộ phim

ứng dụng công nghệ 3D tốn kém nhất thế giới hiện nay Avatar là một ví dụ).

Thiên Nhiên luôn tiềm ẩn sức mạnh lớn lao đối với đời sống nhân loại, giống

như dòng máu nóng luôn lưu chuyển trong cơ thể ta mà ta không biết. Chỉ khi

mất đi, chúng ta mới thấy mình khó thở, thoi thóp. Người hiện đại chúng ta

đang phải đối diện với thực trạng mất mát và suy kiệt đó. Còn Bùi Giáng, cứ

ngỡ “người nhà quê” như ông là đi sau thời đại, đi sau chúng ta (khi ông mãi

quẩn quanh với Cội nguồn quá khứ), nhưng không, ông đã đi trước chúng ta

cả chặng đường dài xa tắp, ít nhất là gần nửa thế kỷ. Ông đã nhìn thấy trước

hình ảnh và tình cảnh của chúng ta hôm nay: “Ngày mai bưng mặt khóa òa/

Xóa hai lớp bụi và ba chân trời” (Nam Đình nghe động – Lá hoa cồn). Và vì

thế giờ đây chúng ta mới cảm nhận được hết lời mời gọi thiết tha, thành khẩn

của ông: “Xin mọi người hãy uống…”, đồng thời hiểu sâu sắc hơn tiếng gọi

ngàn xưa trong thơ ông còn là nỗi đau của Thiên Nhiên bị “ruồng rẫy”. Sống

giữa Sài thành náo nhiệt, khi con người chạy đua cật lực với văn minh thì chỉ

duy ông thong dong quay về với Rừng Núi, Suối Khe. Tiếng nước ngàn năm

không ngừng trôi chảy như tiếng lòng nhà thơ vẫn mải miết với Cội nguồn xứ

sở. Bằng những cảm nhận tinh tế và sâu thẳm đó, ông còn nhìn thấy sức sống

nhiên giới đã và đang trỗi dậy mạnh mẽ trong từng ngóc ngách của Núi

Rừng:

Lạc về trong cõi thanh âm

Mù sương quấn cỏ khe ngầm trổ hoa”

(L’Être -Le-Là – Lá hoa cồn).

Bùi Giáng quả là có khả năng thấu thị siêu phàm. Ông không những

nhìn thấy mà còn chụp được những bức ảnh đẹp từ nhiên giới cho dù đang ở

đâu. Bức tranh đúng là lạc cõi, lạc vào cõi thần tiên và lạc xa cõi trần: có

thanh âm của thiên nhiên, có mù sương lãng đãng quấn quanh cây cỏ, có hoa

trổ sắc bất tuyệt nơi các khe đá. Một từ “ngầm” (sức sống ngầm, duyên

ngầm…) đã tựu trưng hết vẻ đẹp của những đóa hoa đang trổ và toàn cảnh

Núi Rừng thơ mộng. Bao giờ cũng vậy, cái gì ẩn ngầm, thầm lặng cũng đầy

sức hút và quyến rũ. Chính nước Khe đã dẫn nguồn sức sống ngầm đó về cho

hoa cỏ, muôn vật. Người trong sáng nhìn đời cũng trong sáng. Bùi Giáng có

lẽ là người luôn nhìn thấy cả tờ giấy trắng trinh nguyên thay vì như bao người chỉ tập trung nhìn vào chấm đen ở giữa[3]. Suối nguồn, nước Khe đã

làm sáng mắt sáng lòng nhà thơ. Cội nguồn nội tâm và năng lượng tinh thần

từ đấy được cởi mở, cởi mở đến khôn cùng. Khe đã chuyển thành một biểu

tượng đặc biệt tràn đầy mỹ lực, biểu tượng phồn thực mang tín ngưỡng dân

gian của nền văn hóa nông nghiệp trù phú với tục thờ sinh thực khí (sinh: đẻ,

thực: nảy nở, khí: công cụ). Ngay trong đoạn thơ trên trong bài “Ôi một

người con gái”, hai từ “hở hang” (Nước từ hở hang khe) cũng đã “nhuốm

màu” phồn thực. Và sự thật không chút nghi ngờ khi ta kiểm chứng lại những

dòng thơ trước đó: “Ôi một người con gái/ Dù là gái đốt than/ Cũng đẹp như

suối ngàn/ Chảy từ trên núi xuống”. Khe như thế đã không còn là Khe nước

mà gợi ra một Khe khác: bộ phận kín của phụ nữ (cũng như hột mưa ở trên đã

chuyển thành một loại hột khác có ở phần kín cơ thể người phụ nữ). Thật

vậy, cái Khe thứ hai ấy xuất hiện rất nhiều trong thơ Bùi Giáng: “Đầu khe

nguyệt bạch trần truồng/ Hồng nhan em nhớ về truông mặt quần” (Nam

Đình nghe động – Lá hoa cồn). Câu thơ vừa ngụ ý vừa chơi chữ: khe nguyệt

bạch, trần truồng – truông quần đã tạo nên sự lấp lửng hai mặt cho Khe,

khêu gợi trí tưởng tượng người đọc. Cũng có lúc ý thơ lộ liễu, thuần nhiên:

“Mỗi về thôn ổ ở truồng tắm khe/ Thương cô gánh củi nặng nề/ Rủ cô cùng

tắm nước khe với mình”(Mỗi xuân mỗi mỗi – Ngắm trăng). Lúc khác, trong

bài Chém cha cái số - Màu hoa trên ngàn, Khe lại là là khe mương: “Một

ngàn cái hố giữa khe mương/ Mình liễu bâng quơ lục nhạc hường/ Mỏi gối

phù kiều ngang thể bắc/ Mệt lòng dát ngọc dọc kim tương”, hoặc có khi là

khe rỗng: “Chiêm bao sờ khe rỗng/ Giường trống trải tay quờ” (Trang mờ

rớt hột - Màu hoa trên ngàn)…

Có thể thấy, thơ Bùi Giáng ít nhiều mang hơi thở Xuân Hương. Tựa đề Chém

cha cái số trên là một ví dụ (Chém cha cái kiếp lấy chồng chung – Làm lẽ,

Hồ Xuân Hương). Ta còn có thể bắt gặp những hình ảnh quen thuộc khác:

“Ngủ yên thùy liễu xanh trời/ Khép sương bồng đảo qua lời biển dâu” (Thế

tượng – Màu hoa trên ngàn) – “Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm” (Thiếu

nữ ngủ ngày, Hồ Xuân Hương); “Đi về trong gió đóng khung/ Mở hai cánh

khép một vùng rì xanh” (Chút nghĩa – Màu hoa trên ngàn) – “Trời đất sinh

ra đá một chòm/ Nứt ra đôi mảnh hỏm hòm hom/ Kẽ hầm rêu móc trơ toen

toẻn/ Luồng gió thông reo vỗ phập phòm” (Hang Cắc Cớ, Hồ Xuân Hương);

“Tôi vốn xưa kia là/ Con gái của chửa hoang”, “Tôi vốn xưa kia là/ Nhớ dọc

đổi thương ngang”, “Tôi vốn xưa kia là/ Đề nghị gái chửa hoang”, “Em vốn

xưa kia là/ Nở nụ dọc chồi ngang”, “Em vốn xưa kia là/ Chưa dạ chửa bụng

mang” (Vốn xưa kia là – Màu hoa trên ngàn) – “Duyên thiên chưa thấy nhô

đầu dọc/ Phận liễu sao đà nảy nét ngang”, “Quản bao miệng thế đời chênh

lệch/ Không có, nhưng mà có, mới ngoan” (Không chồng mà chửa – Hồ

Xuân Hương)… Tuy cách xa nhau cả hai thế kỷ nhưng hai nhà thơ lại gặp

nhau đầy ngẫu hứng và tinh tướng trong dòng chảy văn hóa phồn thực. Nói

cách khác, từ trong tiềm thức, thơ Bùi Giáng cũng như thơ Hồ Xuân Hương

được thừa hưởng cái tinh hoa của tín ngưỡng văn hóa dân gian sống động

này. Nhưng nếu Xuân Hương là bà Chúa thơ Nôm với thể thất ngôn thì Bùi

Giáng cũng có thể được xem là ông Hoàng thơ Việt với thể lục bát. Và nếu

thơ Xuân Hương ám ảnh người đọc bởi một hệ thống biểu tượng phồn thực

phong phú triển khai theo trục ngang: âm vật (hang, động, giếng…) , dương

vật (sừng, cọc, đầu…) và hành động tính giao (đánh du, dệt cửi…) thì Bùi

Giáng gây ấn tượng mạnh về sự táo bạo thể hiện biểu tượng âm vật theo trục

dọc: chỉ một biểu tượng Khe nhưng Khe gắn liền không rời với đa dạng hình

ảnh liên tạo: cồn, môi, vành cong, cái lá, cỏ…

“Quan san chết đuối giang hà/ Trời hôn cái lá đã ba lần rồi/ Lần thứ

tư chết lịm thôi/ Ba lần cái lá bị trời ghì hôn/ Một hai hai một bồn

chồn/ Trời hôn cái lá trên cồn của em/ Hai lần ba một lần thêm/ Lần

khân tứ khỉ là tên ông trời”; “Lá cồn thu nhặt chia trôi/ Chắp làm hai

mảnh rạc rời cả hai/ Vành cong hiển hiện hiên ngoài/ Hít hôn chưa

thỏa còn môi móc gì/ Càn khôn chết lịm li bì/ Một hai ba bốn năm quỳ

khuynh soi/ Trường đình giục ngựa ra roi/ Nằm nghiêng mở ngửa cửa

choai gái cồn”; “Vành cong hiển hiện phương rừng”; “Môi cong cong

mở khép vòng khuỷu tay”; “Sương hoàng hậu đẹp vì hoa/ Cỏ hoàng

hậu đẹp vì ta mơ mòng/ Chân hoàng hậu khép cong cong/ Gót hoàng

hậu giẫm giữa lòng chiêm bao/ Gái ơi bờ cỏ phương nào/ Về nhanh gái

nhé hoàng chào hậu hoa/ Ngủ yên tơ liễu trong tòa/ Khép hang hố

thẳm sau tà hồng xiêm”(Lần thứ tư trời hôn cái lá, Hẹn lần thứ năm,

Tặng Henri Heine, Em về ra sao, Ngủ yên bên lá – Màu hoa trên

ngàn).

Không gợi liên tưởng như lối vịnh cảnh (Đèo Ba Dội, Hang Cắc Cớ, Động

Hương Tích…), vịnh vật (Bánh trôi nước, Cái giếng, Cái quạt…), vịnh việc

(Đánh đu, Dệt cửi, Tát nước…), vịnh người (Thiếu nữ ngủ ngày, Kiếp tu

hành, Sư bị ong châm…) của Hồ Xuân Hương, Bùi Giáng tả trực tiếp bằng

lối trực ngôn và chơi chữ. Những khả năng từ loại (danh từ, động từ, tính từ,

lượng từ…) bị nhà thơ lôi kéo vào cuộc mây mưa ngôn ngữ: chết đuối, chết

lịm, trần truồng, mặc quần, hôn, ghì hôn, hít hôn, moi móc, nằm nghiêng,

khép, cong cong, mơ mòng, một hai, hai một, ba lần, lần thứ tư,… Và lối chơi

chữ cũng thật tài tình: bồn chồn, cồn, lá cồn… cùng vần với một chữ khác

chỉ bộ phận kín của phụ nữ. Ngay tên tập thơ Lá hoa cồn có lẽ cũng không

nằm ngoài sự ám gợi đó. Điều này không là suy diễn bởi trong Mùa thu thi

ca, sau khi hay người đẹp Marilyn Monroe tự tử bên trời Tây, nhà thơ có viết

một đoạn cũng dùng lối chơi chữ tương tự thế, chỉ khác ở trên là đồng âm

còn ở đây là nói láy:

Mọi Nhỏ – Tại sao em tự tử?

Monroe – Tại vì chị là người da trắng. Huống hồ nữa là …

Mọi Nhỏ – Là sao huống nữa?

Monroe – Huống nữa là màu da trắng của chị còn trắng hơn tất cả

màu da của mọi người da trắng khác.

Mọi Nhỏ – Thế nghĩa là màu da trắng của chị đã đạt quai nhai cảnh

giới của lô hỏa thuần thanh thánh thần thiên tiên liên tồn tố bạch?

Monroe – Nhiên

Mọi Nhỏ – Sao gọi là liên tồn tố bạch?

Monroe – Tố bạch là tách bộ.

Mọi Nhỏ – Còn liên tồn? Cũng đồng nghĩa với tồn liên chăng?

Monroe – Nhiên.

“Liên tồn”, nói láy cũng cho ra kết quả tương tự như bồn chồn, cồn… ở trên.

Bùi Giáng quả là táo bạo. Sự táo bạo này có thể lý giải vì nhà thơ là nam giới,

lại ở thời hiện đại nên có phần “bạo miệng” hơn Hồ Xuân Hương chăng. Chỉ

biết nhà thơ chưa dừng lại, ông còn cả gan dám đảo lộn Càn Khôn bằng cách

“người hóa” ông Trời, bà Trăng: “Trời hôn cái lá trên cồn của em”, “Đầu

khe nguyệt bạch trần truồng”, “Hoàng hoa vân nguyệt vén xiêm ngồi”

(Moira Alêthéia – Màu hoa trên ngàn). Thi sĩ lại còn “tày trời” hạ bệ một

cách gọn gàng “đấng thượng thiên”: “Lần khân tứ khỉ là tên ông trời”. Nếu

xưa kia người ta hoa mặt vì thái độ hạ bệ ông “thần” thái thú Sầm Nghi Đống

của nữ sĩ Xuân Hương (Đề đền Sầm công) thì giờ đây người ta phải choáng

váng, xiêu đổ vì sự hạ bệ Trời cao của Bùi Giáng. Rõ ràng ở đây, không còn

cái nhẹ nhàng, tao nhã vừa thanh vừa tục như trong thơ Xuân Hương mà cao

hơn, kịch tính hơn, cái thiêng và cái phàm đã hòa quyện nhất thể thông qua

biểu tượng phồn thực Khe trong thơ Bùi Giáng. Henry Miller từng phát biểu:

“Nói về bản chất và ý nghĩa của cái tục cũng khó như nói về Thượng đế”

(theo Đỗ Lai Thúy, [114; tr.57]). Nhưng với Bùi Giáng, việc đó dường như

không khó, bởi vịn vào ngàn xưa, nương theo hiện tại và bám lấy nhiên giới,

kho ngôn ngữ của Bùi Giáng tưởng chừng như vô tận và điều quan trọng hơn

là với ông, Thượng đế cũng là con người. Thật vậy, các bậc thần thánh trước

khi hóa giới cũng là phàm nhân, Đức Phật trước khi thành chân quả cũng trải

qua kiếp sống lụy phiền, sắc dục nhân gian. Nên cái “quyết định luận” cho sự

tồn tại của con người không phải là việc đặt ra và dựa vào những phép tắc,

nội quy, thước đo, sự phân biệt, ràng buộc nào để sống mà quan trọng hơn là

sự nhìn nhận ra quy luật tự nhiên của vạn vật, thế giới để biến ứng sinh tồn.

Người xưa nói: “Thiên chi đại đức viết sinh” (Đức lớn của trời đất là sinh

sôi) (Trình Hạo). Văn hóa, tín ngưỡng phồn thực nói một cách ngắn gọn nhất

là ngợi ca bản chất tự nhiên sự sống, như chính Bùi Giáng đã đề cao, trân

trọng vẻ đẹp tự nhiên cuộc sống, vẻ đẹp con người, vẻ đẹp phụ nữ trong tác

phẩm của mình:

Gái lội qua khe/ Nước tự rừng về/ Chân gái có gót/ Và năm ngón chân/

Và một đầu gối/ Và trên nữa rất tròn/ Đầu tôi có mắt/ Nhìn với hai con/

Tên là con mắt/ Đầu tôi có tóc/ Thờ phượng tổ tiên/ Vấn khăn quanh

tóc/ (Mỗi khi khấn vái tổ tiên)/ Gái lội qua khe/ Tấm quần gái ướt/ Hãy

ngồi bờ khe/ Vắt quần phơi khóm trúc/ Tôi cho gái mượn/ Khăn tóc

trên đầu/ Gái lau cho khô/ Lau chân ngón gót/ Lau hai đầu gối/ (Lau

bất cứ chỗ nào tùy ý)/ Tôi nhắm con mắt/ Gái cứ tự nhiên/ Tùy nghi sử

dụng/ Tôi nghe Tổ Tiên/ Ở dưới mồ thức dậy/ Lại gần bảo rằng:/ Gái

cứ tự nhiên/ Tùy nghi sử dụng/ Gái cứ tự nhiên/ Lau bất cứ chỗ nào

cũng được (Gái lội qua khe - Lá hoa cồn).

Ở đây, cũng biểu tượng Khe với cái nhìn lưỡng hợp (vừa là khe nước vừa khe

“kín đáo”), cũng biểu tượng phồn thực với cái nhìn yếu tính (nhũ hoa - “Và

trên nữa rất tròn”, âm vật - khe), Bùi Giáng đã nhân danh Tổ Tiên và làm

“hài lòng” Tổ Tiên ngàn đời dưới mồ trong việc thờ phụng cái đẹp, ca ngợi

bản chất tự nhiên của sự sống. Thế ra vô tình trong giấc “mơ mòng”, Bùi

Giáng lại hữu duyên trở thành người phát ngôn cho triết lý tự nhiên của dòng

chảy văn hóa quá khứ : tín ngưỡng phồn thực. Bùi Giáng như nói với chúng

ta rằng: hãy sống như bản chất tự nhiên con người vốn có, đừng che đậy,

đừng đeo mặt nạ, đừng gò ép mình theo những nguyên tắc, luật lệ, tất cả chỉ

làm cuộc sống bị kìm nén, nghẹt thở và kiệt quệ. Hãy trở về Nguồn cùng tổ

tiên để được thỏa thích trần trụi, được vô tư ngao du và tự do phiêu bồng vui

sống. Đó cũng chính là quan niệm và cách sống cả đời của nhà thơ.

Một lần nữa, Bùi Giáng đưa chúng ta về lại Cội nguồn, nơi cuộc sống và bản

chất tự nhiên, thuần khiết con người được lưu giữ, nơi tiếng cười nói hàng

ngàn năm vẫn trong trẻo, vang đọng. Cổ mẫu Đất và Nước trong nhiều hình

thái Làng quê, Bờ, Rừng, Mưa, Sương, Khe đã thể hiện được sức mạnh biểu

tượng của mình trong hành trình nối dài vạn lý ngàn xưa của thơ Bùi Giáng.

Theo đó, quá khứ xa xăm của dân tộc và nhân loại, thế giới nguyên khởi và

tinh mật của vũ trụ, vạn vật rộng cánh ùa về. Thơ Bùi Giáng trở thành dòng

chảy không ngừng nghỉ tìm về Cội nguồn bản chất sự sống và “Ngàn xưa”

mãi là xứ sở cổ tích, huyền thoại tuyệt diệu muôn đời trong thơ Bùi Giáng.

MỤC LỤC

Trang

MỤC LỤC

DẪN NHẬP

7. Lí do chọn đề tài 1

8. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 2

9. Lịch sử vấn đề 4

10. Phương pháp nghiên cứu 18

11. Đóng góp của luận văn 19

12. Cấu trúc luận văn 20

CHƯƠNG 1: Phê bình cổ mẫu

1.1 Khái niệm và lịch sử 21

1.1.1 Khái niệm 21

1.1.2 Lịch sử 30

1.2 Phương pháp 46

1.2.1 Nguyên tắc và tiêu chí của phê bình cổ mẫu 46

1.2.2 Các thao tác cơ bản của phê bình cổ mẫu 53

1.2.3 Ý nghĩa thực tiễn

Ưu điểm và giới hạn của phương pháp 56

CHƯƠNG 2: Cổ mẫu tự nhiên trong thơ Bùi Giáng

2.1 Tiếng gọi ngàn xưa 58

v Cổ mẫu Đất 59

v Cổ mẫu Nước 78

2.2 Thiên đường ngưỡng vọng 96

v Cổ mẫu Vườn 97

CHƯƠNG 3: Cổ mẫu xã hội trong thơ Bùi Giáng

3.1 Tình yêu siêu năng 116

v Cổ mẫu Linh âm (Anima) 116

3.2 Đường về bản thể 139

v Cổ mẫu Tự ngã (Self) 139

KẾT LUẬN 152

PHỤ LỤC 1: Tác phẩm đã in của Bùi Giáng 157

PHỤ LỤC 2: Một số hình ảnh liên quan đến Bùi Giáng 160

PHỤ LỤC 3: Một số sáng tác của bạn hữu về Bùi Giáng 170

THƯ MỤC THAM KHẢO 181

[1] Bùi Giáng từng nói với Ngô Văn Tao (nhà thơ đồng thời là Giáo sư toán

học ở Canada): “Từ đây đến chết tao còn một vạn câu thơ, và mày chỉ cần

nhớ hai câu này là đủ” và Bùi Giáng đọc hai câu trên (theo Hoàng Phủ Ngọc

Tường, [76; tr.233]).

[2] thơ Bùi Giáng, theo Nguyễn Hữu Hồng Minh, Bùi Giáng – nhà thơ cuối

cùng của thế kỷ XX, http://vnthuquan.net, tr.2

[3] Trong các sách Hạt giống tâm hồn, câu chuyện được kể lại như sau: Một

vị giáo sư đưa lên tờ giấy có chấm đen ở giữa và hỏi học trò của mình thấy gì

trên ấy. Các học trò lần lượt đều bảo: thưa Thầy, là cái chấm đen. Thầy đã đặt

vấn đề lại cho các học trò: vì sao các em không thấy đây là tờ giấy trắng mà

chỉ thấy cái chấm đen.