LUẬN VĂN: Chương trình Dân tộc và Miền núi trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam
lượt xem 25
download
Nước Việt Nam, hiện có 53/63 tỉnh, thành có dân tộc thiểu số cư trú, với hơn mười triệu người, sống rải rác ở 3/4 lãnh thổ, lại ở vào những vị trí chiến lược quan trọng trong quốc phòng và phát triển kinh tế. Nơi tập trung đông đồng bào dân tộc thiểu số nhất là: Vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, miền Trung. Đây là những vùng thiếu thông tin trong thời đại bùng nổ thông tin và hiện đang bị tranh chấp thông tin. Thực tế cho thấy, trên mạng internet hiện có rất...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Chương trình Dân tộc và Miền núi trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam
- LUẬN VĂN: Chương trình Dân tộc và Miền núi trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam
- M Ở ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nước Việt Nam, hiện có 53/63 tỉnh, thành có dân tộc thiểu số cư trú, với hơn mười triệu người, sống rải rác ở 3/4 lãnh thổ, lại ở vào những vị trí chiến lược quan trọng trong quốc phòng và phát triển kinh tế. Nơi tập trung đông đồng bào dân tộc thiểu số nhất là: Vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, miền Trung. Đây là những vùng thiếu thông tin trong thời đại bùng nổ thông tin và hiện đang bị tranh chấp thông tin. Thực tế cho thấy, trên mạng internet hiện có rất nhiều các trang web phản động của các thế lực thù địch ở nước ngoài lập ra nhằm mục đích bôi xấu, hạ bệ lãnh tụ, xuyên tạc chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước, kích động quần chúng nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số ly khai, chống lại Nhà nước. Điển hình là vụ xúi giục hình thành nhà nước Đề Ga ở Tây Nguyên. Mặc dù Nhà nước đã thiết lập những bức tường lửa ngăn chặn, nhưng chiến dịch "chuyển lửa về quê hương" với tần xuất ngày càng dày khiến không ít thanh thiếu niên, người dân bi quan, không tin tưởng vào chế độ. Đặc biệt do phần lớn đồng bào dân tộc thiểu số học vấn thấp, hiểu biết còn hạn hẹp nên họ đã thành đối tượng để các thế lực xúi giục, kích động hơn cả. Trước tình hình phức tạp như vậy, với tư cách là một trong những cơ quan báo chí chính thống, có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến chủ trương chính sách của Nhà nước cho đồng bào hiểu không tin theo kẻ xấu phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, trách nhiệm của Đài Truyền hình Việt Nam nói chung Ban truyền hình Tiếng Dân tộc nói riêng càng khó khăn và nặng nề. Vì vậy, nâng cao nhận thức chính trị của người làm báo và sự cần thiết phải đổi mới, nâng cao chất lượng thông tin là yêu cầu cấp bách đối với báo chí nói chung, trong đó có Đài Truyền hình Việt Nam, trước xu thế cạnh tranh và đa loại hình báo chí. Nhận thức rõ được tầm quan trọng của công tác dân tộc trong tình hình mới, Nghị quyết Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX nêu rõ:
- Vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam thống nhất [ ]. Thời gian qua, cùng với nhiều phương tiện thông tin đại chúng, Đài Truyền hình Việt Nam đã tham gia tích cực vào công tác tuyên truyền, chuyển đổi cơ cấu kinh tế trên địa bản cả nước nói chung và đồng bào các dân tộc miền núi nói riêng trong thời kỳ mới, tạo tư tưởng xuyên suốt trong nhân dân về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế; đồng thời làm cho cán bộ đảng viên, nhân dân, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số thấy rõ được những cơ hội và thách thức, âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Báo chí đã góp phần thúc đẩy thu hút đầu tư, quảng bá những tiềm năng, thế mạnh của vùng dân tộc và miền núi. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc nêu mục tiêu cụ thể đến năm 2010: ... Phấn đấu 90% đồng bào được xem truyền hình; 100% được nghe đài phát thanh; các giá trị bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc thiểu số sẽ được bảo tồn và phát triển. ... Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các ch ương trình phủ sóng phát thanh truyền hình: tăng thời lượng và nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh truyền hình bằng các tiếng dân tộc thiểu số…[ ]. Thực hiện nhiệm vụ trên, Đài Truyền hình Việt Nam không ngừng mở rộng, tăng cường đầu tư phương tiện kỹ thuật, nhân lực, thời lượng phát sóng, đổi mới nâng cao chất
- lượng chương trình truyền hình phục vụ đồng bào dân tộc miền núi là việc làm cần thiết và luôn có tính thời sự. 2. Lý do lựa chọn đề tài Trước bối cảnh hội nhập và phát triển chung của đất nước, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng miền và bình đẳng trong thụ hưởng văn hóa và thông tin… là một trong những mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta phấn đấu. Tuy nhiên, việc thông tin tuyên truyền chưa đáp ứng được đòi hỏi của nhiệm vụ. Vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi còn có những khó khăn về địa hình, về điều kiện kinh tế, về trình độ nhận thức… Các thế lực thù địch luôn tìm cách lợi dụng những khó khăn, hạn chế của đồng bào, những yếu kém, sai sót của các cấp, các ngành trong nhận thức và tổ chức thực hiện công tác dân tộc ở vùng dân tộc, miền núi để kích động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội… Vì vậy, cùng với việc tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với đồng bào, tuyên truyền phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng đời sống mới, tăng cường đại đoàn kết dân tộc…báo chí còn có nhiệm vụ rất quan trọng, đó là giúp đồng bào nâng cao ý thức cảnh giác với kẻ xấu, không làm theo những điều trái pháp luật. Đổi mới thông tin nói chung và đổi mới, nâng cao chất lượng thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số là một trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay đối với Đài Truyền hình Việt Nam. Trước hết cần đánh giá đúng thực trạng, tìm ra những ưu điểm, nhược điểm; đồng thời, đề ra những giải pháp khắc phục, nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả của thông tin tuyên truyền phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: "Chương trình Dân tộc và Miền núi trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam" làm luận văn Thạc sĩ khoa học báo chí tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền Hà Nội. 3. Lịch sử nghiên cứu đề tài
- Những năm qua vấn đề dân tộc và miền núi đã được nhiều tác giả, nhiều công trình nghiên cứu và tìm hiểu, nhưng ở mỗi góc độ, mỗi cách tiếp cận vấn đề khác nhau. 3.1. Các tài liệu của Hội thảo Đối với Đài Truyền hình Việt Nam, vấn đề dân tộc và miền núi mới chỉ dừng lại ở một vài khía cạnh nhỏ hẹp của một số buổi hội thảo và tổng kết năm. Liên quan đến đề tài này, có một số cuộc hội thảo, tổng kết đáng chú ý như: Nguyên Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam Hồ Anh Dũng có bài viết: "S ự nghiệp phát triển truyền hình ở vùng dân tộc thiểu số" trong cuốn "Các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX". Bài viết cho thấy sự cần thiết và dự báo khả năng đóng góp, tăng cường đầu tư cho công tác thông tin tuyên truyền của Đài Truyền hình Việt Nam đối với vùng dân tộc thiểu số trong tình hình mới. Năm 2001, Hội thảo tổng kết "Tăng cường và đổi mới công tác thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi" do Bộ Văn hóa - Thông tin tổ chức. Hội thảo nặng về đọc các báo cáo tham luận, tổng kết của những đại diện cơ quan báo chí. Hội thảo chưa đi sâu bàn bạc, kiếm tìm giải pháp tăng cường đổi mới nội dung, hình thức, chất lượng của đơn vị mình. Năm 2007, Ủy ban Dân tộc đã tổ chức sơ kết đánh giá tiến độ thực hiện Quyết định 975/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc cấp một số báo, tạp chí cho đồng bào dân tộc thiểu số. Nhưng hội nghị mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá mặt tốt, còn hạn chế về nội dung và hình thức tuyên truyền, công tác phát hành đến đồng bào các dân tộc thiểu số. 3.2. Các luận văn Thạc sĩ Năm 2001, Nguyễn Xuân An Việt có đề tài nghiên cứu luận án thạc sĩ: "Thông tin về dân tộc miền núi trên VTV1- Đài Truyền hình Việt Nam". Luận văn đã khảo sát chươn g trình về đề tài dân tộc miền núi của Đài Truyền hình Việt Nam trong 3 năm 1999-2001. Ở công trình này, tác giả đưa ra các giải pháp cụ thể nâng cao chất lượng chương trình, nhằ m tăng cường hiệu quả thông tin về vấn đề dân tộc miền núi của Đài Truyền hình Việt Nam.
- Năm 2005, Phạm Ngọc Bách có đề tài nghiên cứu luận án thạc sĩ: "Chương trình Dân tộc và Miền núi trên sóng VTV1- Đài Truyền hình Việt Nam". Tác giả đã khảo sát các chương trình dân tộc và miền núi từ tháng 1/2004 đến tháng 6/2005; đồng thời đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng chương trình. Kế thừa kết quả của các tác giả nghiên cứu đi trước, luận văn này sẽ đi sâu nghiên cứu những vấn đề cơ bản của thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Trên cơ sở đó có cái nhìn tổng quát về chương trình Dân tộc và miền núi của Đài Truyền hình Việt Nam; làm rõ những ưu điểm và nhược điểm; đề xuất những giải pháp nâng cao hơn nữa chất lượng của công tác thông tin phục vụ đồng bào, nơi còn nhiều khó khăn, nơi mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang quan tâm đầu tư lớn để đồng bào ngày càng có cuộc sống tốt đẹp hơn. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở lý luận báo chí và thực tiễn sản xuất, phát sóng các sản phẩm của chương trình Dân tộc và Miền núi trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, luận văn để xuất giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc tuyên truyền đối với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi ở nước ta. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến vấn đề nghiên cứu. - Khảo sát chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển trên sóng VTV1 và thực tế hoạt động sản xuất chương trình Dân tộc và Miền núi nói chung trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam. - Phân tích kinh nghiệm, phát hiện vấn đề, những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng chương trình; - Đề xuất giải pháp, khuyến nghị khoa học nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- 5.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn này bao gồm: một số văn kiện của Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành về đồng bào dân tộc thiểu số và thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; công tác chỉ đạo và đưa tin về lĩnh vực này của Đài Truyền hình Việt Nam; chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển trên sóng VTV1 của Đài Truyền hình Việt Nam - đây là đối tượng chính mà tác giả khảo sát, nghiên cứu trong luận văn này. 5.2. Phạm vi nghiên cứu Đài Truyền hình Việt Nam có nhiều chương trình phát sóng khác nhau.Tuy nhiên, thông tin về đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi hiện nay đều tập trung ở Ban truyền hình Tiếng Dân tộc. Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi chỉ giới hạn phạm vi khảo sát các chương trình được phát sóng trong Chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển của Đài Truyền hình Việt Nam từ tháng 5/ 2008 đến tháng 5/2009. 6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 6.1. Cơ sở lý luận Luận văn được viết trên cơ sở quan điểm triết học Mác - Lênin, mà nền tảng là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phân tích đánh giá trong đề tài đứng trên quan điểm báo chí vô sản, tư tưởng Hồ Chí Minh về đường lối dân tộc; dựa vào đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đối với vấn đề dân tộc và miền núi; cũng như quan điểm của Đảng về vai trò của báo chí trong đời sống văn hóa xã hội để làm căn cứ trong quá trình nghiên cứu. 6.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp khảo sát thực tế, khảo sát chương trình Tạp chí Dân tộc và phát triển trên sóng VTV1 - Đài Truyền hình Việt Nam. Phương pháp điều tra xã hội học: (phương pháp này dự kiến thực hiện đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở 4 tỉnh là: Hà Giang, Điện biên, Cần Thơ và Gia Lai).
- Phương pháp thống kê, phân loại nhằm tổng hợp, phân tích vấn đề một cách cụ thể, khách quan. Qua đó, tìm ra những điểm nổi bật về nội dung, hình thức, thế mạnh của chương trình phát trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Phương pháp phỏng vấn sâu những người am hiểu, quan tâm đến chương trình, cùng ý kiến của các đồng nghiệp, của nội bộ lãnh đạo, phóng viên, biên tập viên Ban truyền hình Tiếng Dân tộc; cũng như lãnh đạo Đài Truyền hình Việt Nam. Phương pháp đối chiếu, so sánh: để rút ra những ưu nhược điểm của chương trình so với yêu cầu và nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Từ đó, xác định rõ vai trò, đặc điểm của thông tin phục vụ đồng bào trong hệ thống báo chí. 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn Luận văn hoàn thành sẽ góp phần vào việc tổng kết thực tiễn và lý luận về thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, nhất là việc nâng cao chất lượng và hiệu quả thông tin phục vụ đồng bào. Đồng thời, luận văn cũng có thể là tài liệu để cán bộ, phóng viên trực tiếp làm công tác thông tin về lĩnh vực này tham khảo, vận dụng. Luận văn còn có thể là tài liệu cho các cơ quan chức năng, các cơ sở giáo dục - đào tạo, những ai quan tâm tham khảo. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề về dân tộc và miền núi ở nước ta Chương 2: Khảo sát chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển trên sóng VTV1, từ tháng 5/2008 đến tháng 5/2009 Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng chương trình Tạp chí Dân tộc và Miền núi trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam.
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ DÂN TỘC VÀ MIỀN NÚI Ở NƯỚC TA 1.1. KHÁI NIỆM VỀ DÂN TỘC VÀ MIỀN NÚI Hiện nay, khái niệm dân tộc còn có nhiều ý kiến khác nhau. Điều đó một phần là do vấn đề dân tộc được xem xét từ nhiều quan điểm, lập trường và giác độ khác nhau; phần khác là do hiện thực phong phú, phức tạp của các loại hình dân tộc đang tồn tại ở các quốc gia, khu vực trên thế giới. Sự phong phú, phức tạp đó làm cho nhiều định nghĩa được nêu ra, cho đến nay chưa diễn đạt được đầy đủ, trọn vẹn các thuộc tính của các loại hình dân tộc đã xuất hiện trên thế giới. Việc tìm kiếm một định nghĩa chuẩn xác về dân tộc đang là đòi hỏi cấp bách của lý luận và thực tiễn, cần được quan tâm. Từ điển Bách khoa Việt Nam đưa ra định nghĩa như sau: 1. Dân tộc (nation) hay quốc gia dân tộc là một cộng đồng chính trị- xã hội được chỉ đạo bởi một nhà nước, thiết lập trên một lãnh thổ nhất định, ban đầu được hình thành do sự tập hợp của nhiều bộ lạc và liên minh bộ lạc, sau này của nhiều cộng đồng mang tính người (ethnie) của bộ phận tộc người. Tính chất của dân tộc phụ thuộc vào những phương thức sản xuất khác nhau… 2. Dân tộc (ethnie) còn đồng nghĩa với cộng đồng mang tính tộc người… Cộng đồng này có thể là bộ phận chủ thể hay thiểu số của một dân tộc (nation) sinh sống ở nhiều quốc gia dân tộc khác nhau được liên kết với nhau bằng những đặc điểm ngôn ngữ, văn hóa và nhất là ý thức tự giác tộc [63, tr. 655]. Từ điển Tiếng Việt nêu định nghĩa dân tộc như sau:
- 1. Cộng đồng người hình thành trong lịch sử có chung một lãnh thổ, các quan hệ kinh tế, một ngôn ngữ văn học và một số đặc trưng văn hóa và tính cách… 2. Tên gọi chung những cộng đồng người cùng chung một ngôn ngữ, lãnh thổ, đời sống kinh tế và văn hóa, hình thành trong lịch sử từ sau bộ lạc… 3. Cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước, có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung [62, tr. 255]. Và định nghĩa dân tộc thiểu số như sau: "Dân tộc chiếm số ít so với dân tộc chiếm số đông nhất trong một nước có nhiều dân tộc". Giáo trình triết học Mác - Lênin, do Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ sách khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh xuất bản, nói về khái niệm dân tộc như sau: Khái niệm dân tộc thông thường được dùng để chỉ hầu như tất cả các hình thức cộng đồng người (bộ lạc, bộ tộc, dân tộc). Cần phân biệt "dân tộc " theo nghĩa rộng trên đây với "dân tộc" theo nghĩa khoa học: đó là hình thức cộng đồng người cao hơn các hình thức cộng đồng trước đó, kể cả bộ tộc. Cũng như bộ tộc, dân tộc là hình thức cộng đồng người gắn liền với xã hội có giai cấp, có nhà nước và các thể chế chính trị. Dân tộc có thể từ một bộ tộc phát triển lên, song, đa số trường hợp được hình thành trên cơ sở nhiều bộ tộc và tộc người hợp nhất lại. Từ hình thức cộng đồng trước dân tộc phát triển lên dân tộc là một quá trình vừa có tính liên tục vừa là bước nhảy vọt lớn [42, tr. 475-476]. Từ những nội dung trên có thể khái quát rằng: dân tộc là một khái niệm đa nghĩa, nhưng có hai nghĩa chính: hoặc để chỉ cộng đồng dân cư của một quốc gia, hoặc để chỉ cộng đồng dân cư của một tộc người. Sự liên kết cộng đồng dân tộc được tạo nên từ yếu tố có chung ngôn ngữ, văn hóa, lãnh thổ và biểu hiện thành ý thức tự giác tộc người. Xét cho
- cùng, nền tảng của sự liên kết mà các yếu tố trên tạo nên là trình độ phát triển kinh tế. Bởi vì, tính chất của dân tộc bao giờ cũng phụ thuộc vào phương thức sản xuất. Ngoài ra nhiều ý kiến còn nhấn mạnh, dù hiểu theo nghĩa nào thì dân tộc cũng vừa là một cộng đồng người, vừa là một cộng đồng chính trị- xã hội-tộc người. Có thể định nghĩa khái quát: dân tộc là một cộng đồng chính trị-xã hội- tộc người. Quan niệm này tạo nên một ranh giới rõ rệt để phân biệt khái niệm để phân biệt dân tộc với sắc tộc, bởi vì khái niệm sắc tộc thường dùng để chỉ các tộc người da màu [65, tr. 199]. Quan niệm này cũng cho phép phân biệt khái niệm dân tộc với khái niệm chủng tộc, vì khái niệm chủng tộc thường dùng để chỉ sự khác nhau về cấu tạo tự nhiên của con người [63, tr. 529]. Mối quan hệ giữa cái chung-quốc gia và cái riêng- từng dân tộc là mối quan hệ nổi bật trong chính sách dân tộc. Đại hội lần thứ VI của Đảng ta đã khẳng định: Sự phát triển mọi mặt của từng dân tộc đi liền với sự củng cố, phát triển của cộng đồng các dân tộc trên đất nước ta. Sự tăng cường tính cộng đồng, tính thống nhất là một quá trình hợp quy luật, nhưng tính cộng đồng, tính thống nhất không mâu thuẫn, không bài trừ tính đa dạng, tính độc đáo trong bản sắc của mỗi dân tộc [30, tr. 9] Dân tộc và Miền núi. Đây là cách gọi ngắn gọn khi chúng ta dùng để chỉ toàn bộ các dân tộc thiểu số và các vấn đề liên quan đến miền núi, cao nguyên, vùng cao. Gọi như thế này để dễ dàng trong giao tiếp và nhằm khu biệt với những nội dung khác. Hiện nay, cụm từ này đang được dùng phổ biến trong các đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước ta. 1.2. DÂN TỘC VÀ MIỀN NÚI TRONG SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC 1.2.1. Đặc điểm về dân tộc thiểu số và miền núi số Cộng đồng văn hóa Việt Nam rất đa dạng, bao gồm 54 dân tộc và bảy hệ ngôn ngữ chính tìm thấy từ Tây Á tới khu vực Thái Bình Dương. Nhiều nhóm dân tộc đã tồn tại rất lâu đời và thậm chí trước cả khi người Việt tới định cư; một số khác thì mới nhập cư gần đây. Dân tộc thiểu số và miền núi đông nhất là người Tày, với gần 1,5 triệu người. Tron g
- khi dân tộc thiểu số nhỏ nhất là người Ơ Đu với con số vừa vặn 300 người. Nhiều dân tộc cùng có chung ngôn ngữ và lịch sử với các dân tộc ở các quốc gia khác (ví dụ người Tày, được biết tới như người Choang ở Trung Quốc, họ là dân tộc thiểu số lớn nhất nước), trong khi một số dân tộc khác lại chỉ thấy tồn tại trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số có khoảng trên 10 triệu người trong tổng số hơn 86 triệu dân cả nước. Đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại khoảng 170 huyện của 42 tỉnh trải dài trong cả nước. Các dân tộc thiểu số và miền núi có một vài đặc điểm chung: 75% dân số là người dân tộc thiểu số ở Việt Nam sống ở hai vùng: miền núi phía Bắc giáp với Trung Quốc và vùng Tây Nguyên giáp Lào và Cam-pu-chia. Hầu hết các dân tộc thiểu số đều sống ở vùng nông thôn. Các vùng khác cũng có người dân tộc thiểu số sinh sống, ví dụ như: người Khơ-me, người Hoa và người Chăm có thấy ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên nhìn chung là những tỉnh nghèo, kinh tế chậm phát triển, đời sống vật chất, văn hóa, xã hội còn nhiều khó khăn. Các tỉnh này cũng là nơi tập trung chủ yếu đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Theo thống kê, số hộ nghèo ở vùng núi và trung du phía Bắc là 48,5% và ở Tây Nguyên hơn 48,4%. Có đến gần một nửa số tỉnh của Việt Nam, trải trên khắp đất nước, có người dân tộc thiểu số sinh sống. Nhiều dân tộc thiểu số không sinh sống ở những khu vực địa lý riêng biệt tách biệt với người Kinh hoặc các dân tộc khác. Có đến hơn một nửa số huyện ở khu vực miền núi phía Bắc có 10 dân tộc hoặc hơn đại diện và tất cả các dân tộc này sinh sống bên cạnh nhau hoặc thậm chí sống cùng nhau trong từng thôn bản. Mỗi dân tộc cá thể có những thành viên nằm rải rác ở hàng trăm và thậm chí hàng nghìn xã khác nhau trên khắp đất nước. Tính đa dạng sắc tộc này ở Việt Nam đã tồn tại lâu đời ở một số vùng miền (khu vực miền núi phía Bắc) trong khi lại chỉ mới xuất hiện gần đây ở một số nơi khác (khu vực Tây Nguyên). Mặt khác, sự đa dạng cũng tồn tại nhiều trong nội bộ các cộng đồng dân tộc thiểu số: họ rất khác nhau về sự đồng hóa, khác cả cấp độ thành công về kinh tế. Một số dân tộc như: Tày và Mường, có mức thu nhập hộ gia đình và sự giáo dục tương đương với người
- Kinh, trong khi ở một nhóm dân tộc khác thì thậm chí lại không có thành viên nào theo học được tới bậc trung học phổ thông. Tính đa dạng về văn hóa và địa lý này khiến cho việc xây dựng chương trình của Chính phủ và các chương trình khác đáp ứng được nhu cầu về ngôn ngữ và văn hóa của từng cá thể trở nên vô cùng khó khăn. Điều này cho thấy sự cần thiết phải có những nghiên cứu nhân học đầy đủ trong tương lai về mối tương đồng và khác biệt dân tộc. Mặc dù được sự quan tâm đầu tư thích đáng của Đảng và Nhà nước, song đến nay vùng dân tộc thiểu số và miền núi nước ta vẫn là khu vực chậm phát triển về mọi mặt. Khoảng cách chênh lệch phát triển giữa miền núi và miền xuôi có xu hướng ngày càng tăng. Tính bền vững của quá trình phát triển giữa các vùng miền chưa được bảo đảm bởi còn nhiều hạn chế, yếu kém. Hiện nay, đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đang phải đối mặt với nhiều cam go, thách thức, trước hết là đói nghèo: ba vùng nghèo nhất là Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ và miền núi phía Bắc. Đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, nhất là đồng bào vùng cao, vùng sâu, vùng xa vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Đói nghèo, học vấn thấp, thiếu nước sinh hoạt, thiếu dịch vụ xã hội, dân số tăng nhanh, bướu cổ, suy dinh dưỡng với tỷ lệ cao là những vấn đề xã hội cấp bách cần phải được giải quyết trong quá trình phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi ngày nay. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đói nghèo, lạc hậu ở hầu hết các vùng dân tộc thiểu số và miền núi nước ta là: sự khác biệt về năng lực, và sự khác biệt về ngôn ngữ * Sự khác biệt về năng lực: - Rào cản lớn nhất để đạt tới sự thành công chính là giáo dục. Các dân tộc thiểu số và miền núi được tiếp cận ít hơn tới giáo dục có chất lượng. Do vậy, kết quả học tập của họ cũng thấp hơn. Tỷ lệ học sinh bỏ học vẫn còn cao trong cộng đồng các dân tộc thiểu số và miền núi. Họ có xu hướng đi học muộn hơn ở bậc tiểu học và còn thiếu tiếp cận giáo dục bậc mầm non. Kết quả là tỷ lệ mù chữ và không thông thạo tiếng Việt ở người dân tộc thiểu số cao, từ đó cản trở khả năng tương tác của họ. Nhiều người dân tộc thiểu số, đặc biệt là người nghèo và phụ nữ, không biết đọc biết viết, thậm chí không biết nói tiếng Việt.
- Điều này hạn chế khả năng tiếp cận và chia sẻ thông tin; đồng thời là trở ngại nghiêm trọng tới năng lực của họ trong suốt cả cuộc đời. - Rào cản khác ngăn cản khả năng mở rộng năng lực là việc thiếu tính di chuyển và ít kinh nghiệm hòa nhập về một thế giới rộng lớn. Các dân tộc thiểu số và miền núi ít di chuyển hơn so với người Kinh. Điều đó hạn chế tới khả năng quan sát, học hỏi các ý tưởng và công nghệ mới của họ. - Khả năng hành động cũng có thể bị hạn chế bởi yếu tố văn hóa. Nhiều người dân tộc thiểu số cho biết có nhiều khác biệt về văn hóa giữa người Kinh và người dân tộc thiểu số thể hiện trong các hoạt động giao dịch mua bán ở chợ, ở trường học hay ở các hoạt động khác. * Sự khác biệt về ngôn ngữ: - Trong "các cuộc thảo luận nhóm tập trung trên khắp cả nước, các nhóm dân tộc thiểu số thường bày tỏ rằng họ "không tự tin" và "e ngại" khi lui tới các khu chợ, đòi giá cao hơn cho hàng hóa của mình, đòi hỏi các dịch vụ của Chính phủ mà họ được quyền hưởng lợi" [48, tr. 13]. Sự e ngại này được liên hệ lại với các yếu tố được đề cập trước đó: thiếu tiếp cận giáo dục ở người dân tộc thiểu số đã làm họ cảm thấy bị hạn chế về khả năng ngôn ngữ. Cùng với đó, việc thiếu tính di chuyển cũng khiến cho họ ít kinh nghiệm và ít sẵn sàng tiếp cận với thế giới xung quanh hơn. Một rào cản nữa có tính khách quan định kiến ngăn cản việc tăng tiếng nói và quyền tự quyết của các dân tộc thiểu số là lối suy nghĩ rập khuôn phổ biến hiển thị về sự kém cỏi của người dân tộc thiểu số trong con mắt của những người khác. Lối suy nghĩ rập khuôn này có thể dẫn tới những hậu quả xấu, đặc biệt là ảnh hưởng nghiêm trọng đến lòng tự trọng và sự tự tin của người dân tộc thiểu số trong việc sử dụng tiếng nói và quyền lực riêng của họ. Thay đổi nhận thức của số đông về người dân tộc thiểu số đòi hỏi phải chú ý đến sự đại diện của các dân tộc thiểu số trong những công trình nhân học, đặc biệt trong các phương tiện truyền thông đại chúng. 1.2.2. Vị trí, vai trò, mục tiêu, nhiệm vụ
- Vị trí Ngay từ khi mới ra đời, vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc được nhà nước ta đặt ở vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã đề ra chính sách dân tộc và công tác dân tộc ở nước ta phù hợp với từng giai đoạn lịch sử và đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần vào thắng lợi chung của các nước. Cùng với sự phát triển của cách mạng, báo chí nước ta ngày càng khẳng định được vai trò là cầu nối tin cậy giữa Đảng với dân, dân với Đảng. Nước ta có 54 dân tộc anh em, trong đó có 53 dân tộc thiểu số sống trải đều từ Bắc vào Nam. Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn coi miền núi dân tộc thiểu số có tầm quan trọng chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Vì thế, dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng trong mọi thời điểm phát triển, Đảng và Nhà nước vẫn tập trung mọi nguồn lực để đầu tư phát triển miền núi và vùng đồng bào dân tộc. Cách mạng xã hội, đó là sự nghiệp của quần chúng. Vì vậy, về cơ bản mọi chính sách của Đảng và Nhà nước đến với các vùng và đồng bào các dân tộc là nhằm hỗ trợ, giúp đỡ, tạo điều kiện để đồng bào các dân tộc phát huy được nội lực, phấn đấu vượt qua đói nghèo, vươn lên từng bước hòa nhập vào sự phát triển chung của cả nước. Để đạt được mục tiêu như đã đề ra, Nghị quyết 22/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 27/11/1989 "Về chủ trương chính sách lớn phát triển kinh tế- xã hội miền núi" đánh dấu bước chuyển biến mạnh mẽ trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách dân tộc và miền núi của Đảng và Nhà nước. Để thể chế hóa Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã có quyết định số 72/QĐ-HĐBT, ngày 13/3/1990 "Về một số chủ trương, chính sách cụ thể phát triển kinh tế - xã hội miền núi" quy định rõ những nội dung đổi mới cơ cấu kinh tế và tổ chức sản xuất ở miền núi theo hướng chuyển sang kinh tế hàng hóa phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng tiểu vùng, từng dân tộc. Gắn phát triển kinh tế với vấn đề dân tộc, thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và củng cố an ninh, quốc phòng.
- Từ yêu cầu thực tế trên, ngày 31 tháng 12 năm 2001, Thủ tướng chính phủ đã ký Quyết định số 1637/QĐ-TTg về việc cấp một số loại báo, tạp chí của 17 tòa soạn báo được Chính phủ cấp kinh phí xuất bản để phát ngôn không thu tiền đến với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Ngày 20 tháng 7 năm 2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 975/QĐ-TTg thay thế Quyết định 1637 nhưng nội dung không thay đổi. Đến nay, các báo, tạp chí phục vụ riêng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi thuộc diện thụ hưởng của Quyết định 975 đang phát huy hiệu quả tuyên truyền, được đồng bào đón nhận. Có thể nói, thông tin nói chung và thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi nói riêng luôn được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các cơ quan báo chí và sự hưởng ứng của đông đảo nhân dân. Từ khi đất nước còn đang trong thời kỳ chiến tranh và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày nay, thông tin về lĩnh vực này luôn được coi trọng và góp phần vào sự thành công chung của cả nước. Thông tin đã góp phần rút ngắn khoảng cách giữa miền ngược và miền xuôi. Thông tin giúp đồng bào nắm bắt được chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; giúp đồng bào nhanh chóng xóa đói, giảm nghèo, từng bước vươn lên làm giàu,… Vai trò Sau khi thành lập, Đảng ta trên cơ sở nguyên lý của chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã coi trọng vấn đề dân tộc, coi công tác dân tộc là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn nhất quán quan điểm coi công tác dân tộc thiểu số là một phần hữu cơ, có vai trò quan trọng của cách mạng Việt Nam. Nghị quyết hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (2003) đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong mọi đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về dân tộc miền núi. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng xác định: "Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển" [33, tr.127].
- Gần đây, Văn kiện Đảng khóa X (2006) đã khẳng định lại quan điểm của Đảng ta về vấn đề dân tộc, miền núi trong thời kỳ mới: "Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng; làm tốt công tác định canh định cư và xây dựng vùng kinh tế mới. Quy hoạch, phân bố, sắp xếp lại dân cư, gắn phát triển kinh tế với đảm bảo an ninh, quốc phòng. Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; động viên những người tiêu biểu trong các dân tộc. Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tri thức là người dân tộc thiểu số. Cán bộ công tác ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải gần gũi, hiểu phong tục tập quán, tiếng nói của đồng bào dân tộc, làm tốt công tác dân vận. Chống các biểu hiện kỳ thị hẹp hòi chia rẽ dân tộc [35]. Mục tiêu Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc đưa ra mục tiêu đến năm 2010: Phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống đồng bào các dân tộc. Đến năm 2010, các vùng dân tộc và miền núi cơ bản không còn hộ đói, giảm hộ nghèo xuống dưới 10%; giảm dần khoảng cách mức sống giữa các dân tộc, các vùng,; trên 90% hộ dân có đủ điện, nước sinh hoạt; xóa tình trạng nhà tam, nhà dột nát; 100% xã có đường ôtô đến trung tâm xã; cơ bản không còn xá đặc biệt khó khăn.
- Nâng cao trình độ dân trí, chăm sóc sức khỏe, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của đồng bào: hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở; nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, đào tạo; đẩy mạnh việc dạy và học tiếng dân tộc. Hầu hết đồng bào nghèo vùng sâu, vùng xa được tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe; tiếp tục khống chế, tiến tới loại bỏ dịch bệnh ở vùng dân tộc. Phấn đấu 90% đồng bào được xem truyền hình; 100% được nghe đài phát thanh; các giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số được bảo tồn và phát triển [34]. Thực hiện mục tiêu trên, Nghị quyết nêu nhiệm vụ: Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình phủ sóng phát thanh, truyền hình, tăng cường các hoát động văn hóa, thông tin tuyên truyền hướng về cơ sở; tăng thời lượng và nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh, truyền hình bằng các tiếng dân tộc thiểu số; làm tốt công tác nghiên cứu, sưu tầm, giữ gìn và phát huy các giá trị, truyền thống tốt đẹp trong văn hóa các dân tộc [34]. Một trong những giải pháp được Nghị quyết đưa ra là: Tiếp tục thực hiện tốt chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi; rà soát, điều chỉnh, bổ sung để hoàn chỉnh những chính sách đã có và nghiên cứu ban hành những chính sách mới, để đáp ứng yêu cầu phát triển của các vùng dân tộc và nhiệm vụ công tác dân tộc trong giai đoạn mới … Đổi mới nội dung và phương pháp công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc; quán triệt phương châm: chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị, vững chắc; sử dụng nhiều phương thức phù hợp với đặc thù của từng dân tộc, từng địa phương. Cán bộ công tác dân tộc ở vùng dân tộc và miền núi phải quán triệt và thực hiện thật tốt phong cách công tác dân vận: "Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân".
- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã nêu: "Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các hoạt động thông tin, báo chí, phát thanh, truyền hình, xuất bản và phát hành sách trên tất cả các vùng, chú ý nhiều hơn đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số" [35]. Những năm gần đây, việc nâng cao mức hưởng thụ văn hóa tinh thần cho nhân dân, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc được Đảng và Nhà nước, các cấp, các ngành quan tâm hơn, thể hiện trong việc ban hành các chủ trương, đường lối, chính sách, xây dựng và phát triển bộ máy ngành văn hóa-thông tin, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và phát triển các loại hình văn hóa. Chủ trương phủ sóng phát thanh, truyền hình được triển khai khắp các địa phương miền núi, kể cả các vùng xa xôi hẻo lánh. Hiện nay, tỷ lệ phủ sóng phát thanh đạt hơn 90% lãnh thổ, truyền hình khoảng 85%. Các xã miền núi được trang bị các thiết bị thông tin hiện đại như video, máy thu hình, thu thanh, điện thoại, intơnet… và có thêm nhiều loại hình văn hóa truyền thống phù hợp với nhân dân các dân tộc; mở rộng chương trình phát thanh, truyền hình bằng nhiều thứ tiếng phù hợp với nguyện vọng đông đảo của đồng bào các dân tộc. Bằng sự nỗ lực của các cơ quan báo chí dưới sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của Đảng và Nhà nước, công tác thông tin về đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi đã góp phần thay đổi diện mạo nông thôn miền núi. Mục tiêu của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi rất rõ, đó là ngày càng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào. Nhiệm vụ Từ yêu cầu thực hiện chính sách dân tộc, chăm lo cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số là trách nhiệm và nghĩa vụ của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đây là yêu cầu tất yếu nhằm bồi dưỡng lực lượng cách mạng ở những địa bàn chiến lược của đất nước, vừa xuất phát từ truyền thống và đạo lý của các dân tộc, vừa thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Đề cập đến vấn đề dân tộc và miền núi, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã nhấn mạnh trong Đại hội đại biểu khóa VIII Hội Nhà báo Việt Nam: Nhiệm vụ đặt ra cho chúng
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn tốt nghiệp “Thực trạng sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam”
84 p | 1096 | 460
-
Luận văn đề tài: Chương trình Dân tộc và Miền núi trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam
91 p | 203 | 30
-
LUẬN VĂN: Chương trình truyền hình dành cho người Việt Nam ở nước ngoài
116 p | 117 | 24
-
Luận án Tiến sĩ Văn học: Văn học Đàng Trong thế kỷ XVII-XVIII trong tiến trình phát triển của văn học dân tộc
156 p | 76 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Dân tộc học: Các tộc người xuyên biên giới và vấn đề phát triển vùng biên Việt – Trung từ 1990 đến nay
213 p | 36 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học kinh tế: Nghiên cứu tác động của Chương trình 135 đến sinh kế của đồng bào Dân tộc ít người huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị
107 p | 85 | 11
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp khoa Văn hóa dân tộc thiểu số: Tác động chương trình 135 tới đời sống của đông bào dân tộc Nùng ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn
12 p | 93 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Báo chí: Tác động của truyền hình tiếng dân tộc của đài PT-TH Lạng Sơn đối với cộng đồng dân tộc địa phương
132 p | 39 | 10
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp khoa Văn hóa dân tộc thiểu số: Nạn tảo hôn và tác động của nó đến chương trình Dân số/Kế hoạch hoá gia đình ở vùng người Hmông huyện Mộc Châu, Sơn La
10 p | 106 | 9
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp ngành Bảo tàng học: Chương trình giáo dục của bảo tàng dân tộc học (2005 -2008)
8 p | 77 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam: Vấn đề vận dụng lí luận về chủ nghĩa hiện thực trong Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du (Lê Đình Kỵ)
103 p | 46 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ ngành Quốc tế học: Tìm hiểu quan hệ giữa các dân tộc thiểu số ở vùng biên giới Trung-Việt qua quá trình giao lưu văn hóa (khu vực Vân Nam, Lào Cai, Hà Giang)
110 p | 50 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Truyền thông đại chúng: Chương trình dân tộc và miền núi trên sóng VTV1 Đài Truyền hình Việt Nam
129 p | 22 | 7
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp khoa Văn hóa dân tộc thiểu số: Đánh giá tác động của chương trình 135 tới sự phát triển kinh tế- xã hội của đồng bào Thái xã Thanh Hòa, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa
11 p | 78 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Phát triển nông thôn: Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chương trình 135 đối với đồng bào dân tộc thiểu số tại huyện Yên Châu
86 p | 19 | 4
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp khoa Văn hóa dân tộc thiểu số: Tác động của Chương trình nông thôn mới tới văn hóa tộc người Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh
9 p | 67 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý thiết bị dạy học ở các trường phổ thông dân tộc bán trú trung học cơ sở huyện Tu Mơ Rông tỉnh Kon Tum
140 p | 2 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn