1
Luận văn Công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho thanh niên của đảng cộng sản việt nam 1996 - 2006
Hà Nội – 2008
2
Mục lục
Trang
1
Mở đầu
Chương 1: Vị trớ, vai trũ của thanh niờn và cụng tỏc giỏo dục lý tưởng, đạo
7
đức, lối sống cho thanh niên trong cách mạng Việt Nam
1.1. Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam về thanh niờn và việc xừy dựng lý tưởng, đạo
đức, lối sống trong thanh niên
7
1.2. Thực trạng thanh niên trong những năm gần đây
28
Chương 2: Đảng Cộng sản Việt Nam lónh đạo công tác giáo dục lý tưởng,
38
đạo đức, lối sống cho thanh niên 1996-2006
2.1. Bước chuyển của đất nước và nhiệm vụ của thanh niên trong thời kỳ mới
38
2.2. Đảng Cộng sản Việt Nam với cụng tỏc giỏo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống
cho thanh niên trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
1996-2006
43
2.3. Những kinh nghiệm rút ra trong công tác giáo dục thanh niên của Đảng
1996-2006
67
73
Kết luận
76
Danh mục tài liệu tham khảo
80
phụ lục
3
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, tầng lớp thanh niên có vai trò
vô cùng to lớn đối với tiến trình phát triển của xã hội. Thanh niên là một lực
lượng to lớn, chiếm tỷ lệ đông đảo trong dân cư, là chủ thể xây dựng xã hội,
lớp người sáng tạo ra tương lai, lực lượng có vai trò quan trọng thúc đẩy lịch
sử phát triển. V.I Lênin đã chỉ ra rằng: “Ai nắm được thanh niên, người đó
làm chủ thế giới và theo một nghĩa nào đó nhiệm vụ xây dựng xã hội cộng
sản chủ nghĩa đó chính là thanh niên”. Quan tâm, chăm sóc, bồi dưỡng,
giáo dục thế hệ trẻ, đặt niềm tin vào thanh niên, đánh giá đúng vai trò của
thanh niên chính là việc làm cần thiết để đi tới xây dựng xã hội tương lai.
Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng trong bất cứ thời kì
nào thanh niên cũng là lực lượng cách mạng hùng hậu, có chí tiến thủ và
hoài bão lớn lao, với lòng yêu nước nồng nàn đã luôn đi đầu đáp ứng yêu
cầu của dân tộc và trở thành những chiến sĩ cách mạng kiên cường. Hàng
triệu thanh niên đã ngã xuống vì độc lập tự do cho dân tộc, ghi nên những
trang sử vẻ vang, tạo nên những thế hệ thanh niên anh hùng của một dân tộc
anh hùng. Với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, “Xẻ dọc Trường
Sơn đi cứu nước”, hăng hái tham gia các phong trào “Ba sẵn sàng”, “Ba đảm
đang”…thanh niên Việt Nam đã trở thành lực lượng tiên phong trong cuộc
đấu tranh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, khi đất nước đang chuyển mình
đi lên với những thành tựu bước đầu của công cuộc đổi mới do Đảng Cộng
sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, nhiệm vụ nặng nề đó lại được giao
phó cho thế hệ thanh niên. Hiện tại và tương lai nước nhà hoàn toàn phụ
thuộc vào khả năng, sự sáng tạo, niềm đam mê…của các thế hệ thanh niên
hôm nay, đúng như Bác Hồ đã đánh giá: “Thanh niên là người chủ tương lai
4
của nước nhà, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần là do các
thanh niên”. Tuy nhiên, các thế lực thù địch cũng đang ra sức phá hoại công
cuộc đổi mới của chúng ta bằng âm mưu “diễn biến hoà bình”, chúng coi
thanh niên là đối tượng trước tiên cần lôi kéo, tác động nhằm làm cho thế hệ
thanh niên hiện nay xa rời lý tưởng cách mạng, xa rời sự lãnh đạo của Đảng,
gieo rắc tâm lý hoài nghi, mơ hồ về chính trị, tư tưởng bất mãn với chế độ,
bên cạnh đó còn truyền bá lối sống đồi truỵ, thực dụng để làm tha hoá thanh
niên nhằm phá hoại thành quả cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Thực tế
đó không thể không ảnh hưởng, tác động tới niềm tin, lý tưởng của thế hệ
thanh niên hiện nay mà còn làm băng hoại những giá trị văn hoá, đạo đức
truyền thống, thay đổi lối sống và nếp sống của một bộ phận không nhỏ
thanh niên. Do vậy, công tác thanh niên đang là vấn đề có tính cấp thiết của
công cuộc cách mạng hiện nay, công tác này đòi hỏi phải có sự quan tâm,
chăm sóc giáo dục toàn diện của toàn Đảng, của các tổ chức chính trị xã
hội…đặt niềm tin sâu sắc vào thế hệ thanh niên, coi công tác thanh niên là
vấn đề sống còn của dân tộc. Bên cạnh đó phải tăng cường chăm lo, quan tâm
tới lợi ích của chính đáng của thanh niên, giúp đỡ thanh niên rèn luyện lý
tưởng, ý chí, đạo đức và lối sống tốt đẹp nhằm phát huy tiềm năng to lớn của
thanh niên trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
hiện nay đúng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng
khoá VII đã khẳng định: “Thanh niên là lực lượng xung kích trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất
nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay
không, cách mạng Việt Nam có vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa
hay không phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên và việc bồi dưỡng, rèn
luyện thanh niên. Công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc”.
Trong suốt tiến trình cách mạng cũng như trong giai đoạn 1996 -
2006, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thường xuyên coi trọng và tiến hành việc
5
rèn luyện, giáo dục thanh niên về lý tưởng, đạo đức, lối sống - coi đây là
nhiệm vụ chiến lược, thường xuyên của Đảng và đã thu được nhiều kết quả,
kinh nghiệm. Tuy nhiên, công tác giáo dục thanh niên đã qua, thực trạng
giáo dục thanh niên hiện nay đang có nhiều vấn đề phức tạp, bất cập cần
luận giải. Bên cạnh đó, giai đoạn 1996 - 2006 cũng là giai đoạn phát triển
mới của đất nước trong tình hình thế giới có những biến động phức tạp, xu
hướng toàn cầu hoá lan rộng, các thế lực thù địch tăng cường chống phá
Đảng và Nhà nước ta bằng các thủ đoạn khác nhau trong đó đặc biệt là nhằm
vào thế hệ trẻ, tương lai của đất nước. Với lý do đó, tôi đã chọn đề tài:
“Cụng tỏc giỏo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho thanh niên của Đảng
Cộng sản Việt Nam 1996 - 2006” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên
ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho các thế hệ thanh
niên là một việc làm quan trọng trong hoạt động của Đảng ta từ khi ra đời
cho đến nay. Vì vậy đã có rất nhiều tác giả quan tâm đi sâu nghiên cứu. Một
số tác giả nhìn nhận thanh niên với tư cách là lực lượng xung kích đi đầu
trong mọi hoạt động của cách mạng như: Lê Duẩn, Thanh niên với cách
mạng xã hội chủ nghĩa, Nxb Thanh niên; Thanh niên trong sự nghiệp chống
Mỹ, cứu nước, Nxb Thanh niên …Các tác phẩm trên đã khái quát quá trình
ra đời, trưởng thành và phát triển của các thế hệ thanh niên Việt Nam cũng
như ghi nhận những đóng góp của thanh niên đối với tiến trình lịch sử của
dân tộc. Khẳng định vai trò của thanh niên cũng như quá trình phấn đấu học
tập và rèn luyện vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, coi lý
tưởng cách mạng là cội nguồn sức mạnh của thanh niên.
Phát huy vai trò xung kích của thanh niên, hoạt động giáo dục, tổ chức
thanh niên luôn là nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị
xã hội thường xuyên quan tâm nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ
6
chức thanh niên cũng như xây dựng cho thanh niên lý tưởng sống cao đẹp.
Các tác giả đã đưa ra thực trạng và hướng giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng công tác giáo dục cho thanh niên như:
- Phạm Văn Đồng, Đào tạo thế hệ trẻ của dân tộc thành những chiến
sĩ cách mạng dũng cảm, thông minh, sáng tạo, Nxb Sự thật, Hà Nội,1969.
- Trần Quy Nhơn, Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò thanh niên trong
cách mạng Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2004.
- Quang Vinh, Hồ Chí Minh về giáo dục và tổ chức thanh niên, Nxb
Thanh niên, Hà Nội 2000…
Các tác phẩm dù đề cập ở khía cạnh nào cũng đều khẳng định vai trò
của thanh niên và tầm quan trọng của công tác giáo dục cho các thế hệ
thanh niên.
Một số luận án sau Đại học chuyên ngành Lịch sử Đảng, Tư tưởng Hồ
Chí Minh, CNXH KH...trong những năm gần đây đã trực tiếp nghiên cứu về
vấn đề giáo dục thanh niên của Đảng như:
- Tô Thành Phát, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác thanh
niên trong thời kỳ đổi mới, Luận văn thạc sĩ lịch sử, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, 2002.
- Đặng Thanh Phương, Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho thanh niên –
sinh viên ở thủ đô trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ lịch sử, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Thị Bình. Một số suy nghĩ về đổi mới tăng cường công tác
bồi dưỡng, giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên của Đảng trong
thời kỳ hiện nay, Luận văn thạc sĩ lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, 1995.
7
- Trần Thị Mỹ Hường, Đảng lãnh đạo công tác giáo dục lý tưởng
cách mạng cho thanh niên ở miền Bắc thời kỳ 1954 - 1975, Luận văn thạc sĩ
lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2006.
- Trần Thị Nhơn, Tư tưởng Hồ chí Minh về vai trò của thanh niên và
sự vận đụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc xây dựng đất
nước 1975 - 1996, Luận án tiến sĩ lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, 2001...
Các tác giả đều đã trình bày quá trình lãnh đạo của Đảng đối với công
tác giáo dục thanh niên trong các giai đoạn cách mạng trước đây, các công
trình đã phản ánh được phần nào những thành quả đã đạt được trong quá
trình Đảng lãnh đạo công tác thanh niên và đưa ra những giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả của công tác này trong các giai đoạn tiếp theo. Đây
chính là cơ sở tư liệu để tác giả tham khảo, kế thừa trong quá trình thực
hiện luận văn.
Mặc dù đã có nhiều tác phẩm, nhiều công trình nghiên cứu về đề tài
thanh niên trong những năm qua nhưng dưới góc độ khoa học Lịch sử Đảng,
chưa có công trình nào nghiên cứu hệ thống, chi tiết và tổng kết kinh nghiệm
của Đảng trong quá trình lãnh đạo công tác giáo dục thanh niên trong giai
đoạn 1996 - 2006.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
- Làm rõ quá trình Đảng lãnh đạo công tác giáo dục thanh niên 1996 -
2006 với những ưu, nhược điểm, đánh giá thành tựu cũng như những hạn
chế của quá trình. Khẳng định vai trò to lớn của thanh niên trong cách mạng
Việt Nam và đưa ra những giải pháp cần thiết để phát triển công tác thanh
niên trong những năm tiếp theo.
8
- Rút ra những bài học kinh nghiệm có ý nghĩa lịch sử và thực tiễn
trong việc giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho thanh niên trong các giai
đoạn cách mạng tiếp theo.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu hệ thống các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về thanh niên và công tác giáo dục thanh niên.
- Làm rõ quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác giáo
dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho thanh niên giai đoạn 1996 - 2006.
- Đánh giá thành tựu, hạn chế từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm
về công tác giáo dục thanh niên cho các giai đoạn cách mạng tiếp theo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
- Những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt
Nam về thanh niên, vai trò của thanh niên cũng như công tác giáo dục thanh
niên của Đảng.
- Quá trình Đảng lãnh đạo và tổ chức thực hiện công tác giáo dục
thanh niên trong giai đoạn 1996 - 2006.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng trong công tác giáo dục lý tưởng,
đạo đức, lối sống cho thế hệ thanh niên giai đoạn 1996 - 2006 nhằm làm rõ vai
trò của thanh niên và công tác thanh niên, bên cạnh đó chỉ ra những mặt hạn
chế cần khắc phục trong việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác thanh niên của Đảng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được xây dựng dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về thanh niên và công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho
thế hệ thanh niên.
9
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic.
Ngoài ra tác giả đã vận dụng một số phương pháp khác như thống kê, so
sánh, phân tích, tổng hợp…
- Luận văn chủ yếu dựa vào nguồn tư liệu là các văn kiện, nghị quyết
của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, tài
liệu lưu trữ tại trung ương Đoàn, Uỷ ban Thanh thiếu niên của Quốc hội…
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn lần đầu tiên góp phần làm rõ hơn nội dung, phương thức
và quá trình lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công tác giáo
dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho thanh niên trong giai đoạn 1996 -2006.
Từ những thành quả đã đạt được trong quá trình đó, rút ra những kinh
nghiệm lý luận và thực tiễn của Đảng trong các giai đoạn tiếp theo.
- Khẳng định vai trò của thanh niên và công tác thanh niên cũng như
việc cần thiết phải tăng cường công tác giáo dục thanh niên về lý tưởng, đạo
đức, lối sống của Đảng ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 2 chương, 5 tiết.
10
Chương 1
vị trí, vai trò của thanh niên và công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối
sống cho thanh niên
trong cách mạng Việt Nam
1.1. Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam về thanh niên và việc xây dựng lý tưởng, đạo đức, lối sống
trong thanh niên
1.1.1. Một số vấn đề về khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm lý tưởng
Lý tưởng là mục đích cao đẹp mà con người lựa chọn hoặc tự xây
dựng nên từ những hình mẫu cụ thể trong hiện thực, nó có tác dụng lối cuốn
toàn bộ cuộc sống của con người nhằm đạt được mục tiêu mà mình đang
nhắm tới. Trong sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, Đảng và Bác hồ đã nhận
ra sức mạnh to lớn của dân tộc, trong đó có sự đóng góp của các thế hệ
thanh niên mà động lực tạo nên sức mạnh to lớn đó chính là lý tưởng cách
mạng đã thôi thúc lớp lớp thanh niên chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do, vì
chủ nghĩa xã hội. Lý tưởng chính là cái đích mà ta hướng tới, vì lý tưởng
cách mạng mà người ta sống, học tập, chiến đấu và dưới ánh sáng của lý
tưởng, con người hiểu được ý nghĩa sâu sắc của cuộc đời. Lý tưởng chẳng
khác nào ngôi sao dẫn đường cho con người bước tới, chỉ hướng cho con
người hành động. Lý tưởng là động lực thúc đẩy, điều khiển toàn bộ hoạt
động của con người, thôi thúc nguyện vọng tự trau dồi, tự tu dưỡng. Lý
tưởng tạo cho con người niềm tin sắt đã vào thắng lợi cuối cùng và một sức
mạnh phi thường để hoàn thành các nục tiêu đề ra. Lý tưởng trở thành niềm
tin, một lòng tin khoa học trên cơ sở phát triển của lịch sử xã hội chứ không
phải ở lòng tin mù quáng. Đồng chí Trường Chinh khẳng định: “Lý tưởng là
cái gì cao quý, cái gì tốt đẹp mà mình hằng mơ ước và có thể thực hiện được
11
nhưng phải đấu tranh gian khổ mới có”, “Trước đây hy sinh chiến đấu cứu
nước là anh hùng. Ngày nay hy sinh, phấn đấu để nhân dân ta được ăn no,
mặc đủ, có nhà ở, được học hành là sự nghiệp anh hùng. Phấn đấu không
mệt mỏi để trong vòng 15, 20 năm nữa biến nước ta thành một nước xã hội
chủ nghĩa giàu mạnh là sự nghiệp anh hùng, là lý tưởng của thanh niên”.
Thắp sáng niềm tin, lý tưởng cách mạng cho thanh niên trong hai cuộc
kháng chiến thần thánh của dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn coi
việc thanh niên xác định được lý tưởng đúng đắn là vấn đề rất quan trọng.
Lý tưởng cách mạng chính là mục tiêu phấn đấu của cách mạng. Ngay từ khi
Đảng ta ra đời, Đảng và Bác hồ đã chỉ rõ mục tiêu phấn đấu cuối cùng là
thực hiện chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản ở nước ta. Mục tiêu cách
mạng đó của Đảng cũng chính là lý tưởng cách mạng của các thế hệ thanh
niên Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đông đảo thế hệ thanh niên Việt Nam đã
viết tiếp truyền thống anh hùng của dân tộc, đánh thắng hai tên đế quốc hùng
mạnh, giành độc lập tự do cho Tổ quốc và ngày nay đang bước tiếp trên con
đường đổi mới mà Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo nhằm mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, tiến lên chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản.
1.1.1.2. Khái niệm đạo đức
Trong lịch sử Việt Nam và khu vực á đông theo tư tưởng Nho giáo,
phạm trù đạo đức được luận giải tập trung ở cương thường và mở rộng tới
luân thường. Đạo chính là năm mối quan hệ cơ bản của con người: vua tôi,
cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè; gọi chung là ngũ luân. Trong đó ba mối
quan hệ quan trọng nhất là vua tôi, cha con, vợ chồng được gọi là tam
cương. Đức theo Khổng Tử là trí, nhân, dũng. Sau đó các học trò của ông
mở rộng thành ngũ thường (nhân, lễ nghĩa, trí, tín). Đạo đức chính là sự kết
12
hợp tam cương với ngũ thường thành cương thường (nghĩa hẹp) hoặc kết
hợp ngũ luân với ngũ thường thành luân thường (nghĩa rộng). Cương thường
và luân thường là nguyên tắc chi phối mọi suy nghĩ và hành động của con
người, đó là cốt lõi của tư tưởng, đạo đức và luân lý Nho giáo. ở phương
Tây, thuật ngữ đạo đức xuất phát từ phạm trù luân lý, bao quát các nguyên
tắc hoạt động và ứng xử của con người trong cộng đồng. Đạo đức gắn liền
với những thói quen, tập quán sống nên ý nghĩa của nó thường xuyên biến
đổi theo tiến trình phát triển của nhân loại.
Đạo đức chính là phép ứng xử có nhân phẩm giữa người này với
người khác. Đạo đức luôn luôn là một quan hệ hai chiều, là một thể chế đặc
thù của xã hội nhằm điều chỉnh các hành vi của con người trong các lĩnh vực
đời sống xã hội. C.Mác cho rằng đạo đức chính là lực lượng bản chất của
con người trong sự phát triển của nó theo hướng ngày càng đạt tới giá trị
đích thực của cái thiện. Còn Ph.Ăngghen xác định ý thức đạo đức là sự phản
ánh thực tiễn đạo đức của xã hội, là sản phẩm của tình hình kinh tế xã hội.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là phải “kính yêu nhân dân. Phải
thực sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân…Phải nắm vững quan điểm
giai cấp, đi đúng đường lối quân chúng, thành tâm học hỏi quần
chúng…Phải thật thà, ngay thẳng, không được giấu dốt, giấu khuyết điểm,
sai lầm. Phải khiêm tốn, gần gũi quần chúng, không được kiêu ngạo; phải
thực sự cầu thị, không được chủ quan. Phải luôn chăm lo đến đời sống của
quần chúng. Phải “chí công vô tư” và có tinh thần “lo trước thiên hạ, vui
sau thiên hạ”. Tức là Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là sự thống nhất tư
tưởng và phong cách sống. ở Người đạo đức đóng vai trò như là lẽ sống
thấm vào tư tưởng và lối sống.
ý thức đạo đức xã hội cơ bản là sự phản ánh tồn tại xã hội, cho nên
mỗi hình thái kinh tế - xã hội hay mỗi giai đoạn lịch sử đều định hình những
13
nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức tương ứng. Trong đó, ngoài những giá trị
chung nó cũng hàm chứa các nét đặc thù, kể cả cái đơn nhất trong giá trị đạo
đức. Đây là cơ sở hình thành các thang bậc đạo đức của mỗi giai đoạn lịch
sử hoặc mỗi hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Từ những lập luận trên, có thể thấy rằng: đạo đức chính là một hình
thái ý thức xã hội bao gồm những nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực xã
hội mà nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi
ích, hạnh phúc của mình và sự tiến bộ xã hội trong mối quan hệ giữa
người với người.
1.1.1.3. Khái niệm lối sống
Khi bàn về khái niệm lối sống, các nhà nghiên cứu đã có rất nhiều ý
kiến khác nhau song hầu hết đều gặp nhau và thống nhất trên những vấn đề
cơ bản như: lối sống là phạm trù bao gồm tất cả các lĩnh vực hoạt động sống
cơ bản của con người như lao động, sinh hoạt, hoạt động xã hội, chính trị và
giải trí. Chính vì thế nó mang tính lịch sử sâu sắc.
Theo quan điểm của Mác và Ăngghen, phương thức sản xuất là cơ sở
vật chất của lối sống. Lối sống được hình thành trên cơ sở tổng hợp toàn bộ
mối quan hệ xã hội có liên quan đến cơ cấu của hình thái kinh tế xã hội. Mỗi
một lối sống nhất định phù hợp với một hình thái kinh tế xã hội nhất định.
Khi quá độ từ hình thái kinh tế này sang hình thái kinh tế khác, lối sống
cũng sẽ biến đổi cơ bản cả về hình thức và chất lượng.
ở Việt Nam cũng có nhiều cách định nghĩa khác nhau về lối sống.
Song về cơ bản khái niệm lối sống được xem xét với một góc nhìn tổng hợp,
trong đó nói đến mối quan hệ giữa mặt chủ quan và khách quan, giữa hoạt
động sản xuất và hoạt động phi sản xuất. Từ đó có thể hiểu lối sống của con
người là kết quả hoạt động và tổ chức của con người trong quá trình thích
nghi và biến đổi hoàn cảnh sống mà con người vừa là sản phẩm của hoàn
14
cảnh, vừa là chủ thể sáng tạo ra hoàn cảnh sống của chính nó. Tác động của
phương thức sản xuất và những điều kiện sống khác đối với lối sống bao giờ
cũng phải thông qua các hoạt động của chủ thể và mang dấu ấn khúc xạ bởi
các chủ thể. Lối sống là biểu hiện của cái xã hội trong cá nhân, cho nên nó
có tính linh hoạt và cơ động cao. Lối sống phản ánh mối liên hệ biện chứng
giữa cái phổ biến với cái đặc thù và cái đơn nhất, cho nên nội dung và phạm
vi của nó rộng lớn và đa tầng, đa nghĩa.
Một số khái niệm gần gũi với lối sống như:
Lẽ sống: là thuật ngữ triết học, đạo đức, tâm lý để chỉ mặt ý thức của
lối sống. Lẽ sống có vai trò dẫn dắt, định hướng và định tính nhằm làm cho
lối sống ổn định. Lẽ sống dựa vào lý tưởng và các giá trị xã hội phản ánh
tính chủ thể của lối sống.
Mức sống: là thuật ngữ kinh tế - xã hội để đánh giá các nhu cầu vật
chất và tinh thần đã được thoả mãn và có thể đo lường trực tiếp bằng số
lượng. Thông thường mức sống phản ánh trình độ con người đạt được trong
hoạt động sản xuất. Mức sống được nâng cao là điều kiện vật chất cần thiết
và có tính khách quan để cải htiện lối sống. Tuy nhiên, không thể đồng nhất
mức sống với lối sống, vì lối sống còn chịu sự định hướng và định tính của
lẽ sống, định hướng giá trị và môi trường sống.
Chất lượng sống: là thuật ngữ triết học - xã hội để chỉ mức độ thoã
mãn nhu cầu vật chất và tinh thần nhưng không thể đo lường trực tiếp về số
lượng. Chất lượng sống là thước đo thiên về việc thể hiện mức độ tự do về
mặt xã hội cũng như điều kiện phát triển của cá nhân. Chất lượng sống cho
biết lối sống đạt tới trình độ nào, tính chất và phạm vi nào.
Phong cách sống: là thuật ngữ tâm lý - xã hội để đánh giá và nhận
định thái độ và hành vi ứng xử hàng ngày của cá nhân và các nhóm xã hội.
Nó chính là hình thức biểu hiện của lối sống trong hoạt động xã hội và sinh
hoạt của cá nhân và của các nhóm xã hội.
15
Nhịp (độ) sống: là thuậ ngữ tâm lý - xã hội để đánh giá cách thức và
tính chất sử dụng thời gian trong hoạt động và sinh hoạt của cá nhân và của
các nhóm xã hội. Đó là sự đo lường về mặt thời gian của lối sống, tức là một
khía cạnh quan trọng đánh giá chất lượng sống.
Môi trường sống: gồm môi trường thiên nhiên, môi trường vật thể văn
minh (hay còn gọi là tự nhiên thứ hai, tức là cái tự nhiên do con người tạo
ra) và môi trường xã hội…
Tóm lại có thể coi các khái niệm trên đây là những hàm nghĩa của
phạm trù lối sống.
1.1.2. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về thanh niên và việc xây dựng
lý tưởng, đạo đức, lối sống trong thanh niên
1.1.2.1. Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, thanh niên luôn là một
lực lượng hùng hậu, chiếm tỷ lệ đông đảo trong dân cư, có vị trí quan trọng
trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - chính trị - xã hội của bất cứ một
quốc gia nào trên thế giới. Họ chính là chủ thể xây dựng nên xã hội mới, lớp
người sáng tạo ra tương lai, là mắt xích quan trọng trong sợi dây phát triển
của nhân loại. Một trong những phát hiện vĩ đại nhất của chủ nghĩa xã hội
khoa học - học thuyết giải phóng và phát triển con người - là học thuyết về
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân mà theo đó giai cấp công nhân sẽ tự
giải phóng mình và giải phóng toàn xã hội khỏi áp bức, bất công để xây
dựng lên một xã hội mới tốt đẹp hơn. Để thực hiện được sứ mệnh lịch sử đó
cần có sự tham gia của các lực lượng trong xã hội, đặc biệt là vai trò của
tầng lớp thanh niên. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đề cập
nhiều tới vị trí, vai trò của thanh niên và công tác giáo dục thanh niên đối
với vận mệnh lịch sử của mỗi dân tộc, của nhân loại và thời đại. C.Mác cho
16
rằng “tương lai của giai cấp công nhân và tương lai của nhân loại hoàn
toàn phụ thuộc và thế hệ công nhân đang lớn lên”[27, 263]. Chính C.Mác
đã gọi thanh niên là cội nguồn sức sống của dân tộc và giai cấp công nhân là
bộ xương của mỗi cơ thể dân tộc. Khi đánh giá vai trò của thanh niên trong
đấu tranh cách mạng, các nhà kinh điển Mác xít cho rằng chỉ có con đường
cách mạng vô sản và việc xây dựng chủ nghĩa xã hội mới thực sự làm cho
các thế hệ thanh niên phát huy được vai trò to lớn của mình một cách tích
cực, chủ động và sáng tạo. Do vậy, việc giáo dục thanh niên được coi là
nhiệm vụ hàng đầu để đào tạo con người mới xã hội chủ nghĩa - con người
phát triển toàn diện, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá nhân hài hoà,
phong phú. Các ông cũng chỉ rõ công tác giáo dục, đào tạo những người chủ
tương lai của đất nước, những người trực tiếp xây dựng xã hội mới là một
vấn đề có ý nghĩa to lớn, quan hệ mật thiết tới sự tồn tại của bản thân nền
chuyên chính vô sản và thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Dưới nền chuyên
chính vô sản, Đảng của giai cấp công nhân đặc biệt coi trọng việc giáo dục,
đào tạo thế hệ trẻ vì một trong những nhiệm vụ trọng yếu của của Đảng
trong thời kỳ chuyên chính vô sản là phát triển công tác cải tạo các thế hệ cũ
và giáo dục các thế hệ mới theo tinh thần chuyên chính vô sản và chủ nghĩa
xã hội. Các Mác có ý tưởng sâu sắc về thanh niên và giáo dục thanh niên,
theo ông thanh niên là một lực lượng “đang phát triển” trong đấu tranh cách
mạng, chính ở đây thanh niên sẽ tích luỹ tri thức và kinh nghiệm mở rộng
các mối liên hệ xã hội mà nhờ đó, thế hệ trẻ đạt được sự phong phú của con
người, của nhân cách. C.Mác và Ăngghen kịch liệt phản đối nền giáo dục
kiểu phong kiến và giáo dục tư sản, nền giáo dục ấy làm cho thanh niên, học
sinh, sinh viên phát triển què quặt và các ông đòi hỏi phải có sự thay đổi triệt
để về giáo dục, làm cho giáo dục mang tính nhân đạo bao gồm: Trí lực, thể
lực, kỹ thuật. Ăngghen đặt niềm tin vào thế hệ những người trẻ tuổi của giai
17
cấp vô sản giác ngộ, có học vấn, được giáo dục theo tinh thần của chủ nghĩa
cộng sản. Nó đảm bảo quyền được phát triển đầy đủ những tài năng của
mình và vì thế cần quan tâm giáo dục cẩn thận thế hệ đang lớn lên. Mác và
Ăngghen luôn đánh giá cao vai trò của thanh niên trong đời sống chính trị -
xã hội. Từ các phong trào cách mạng cuối thế kỷ XIX ở Đức, áo, Nga...với
sự tham gia của tầng lớp thanh niên các ông đã nhận thấy cũng như công
nhân, tầng lớp thanh niên khi được tổ chức sẽ trở thành hạt nhân của đội
quân cách mạng, là lực lượng hùng hậu có khả năng hoàn thành xuất sắc vai
trò của mình trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung. Ăngghen khẳng định
thanh niên không thể đứng ngoài chính trị, chính cuộc sống hiện thực đã,
đang và sẽ cuốn hút tuổi trẻ vào đời sống chính trị.
1.1.2.1. Quan điểm của Lênin
Lênin lại đặc biệt đánh giá cao vai trò của thanh niên công nhân, coi
đó là “nguồn sinh lực chiến đấu của cách mạng”. Người đã quan sát thấy
trong thanh niên công nhân một khát vọng nồng cháy không gì kìm hãm
được sự vươn tới lý tưởng dân chủ và CNXH, thành công của phong trào
thanh niên chính là chỗ biết gắn liền nhận thức lý luận của chủ nghĩa Mác -
tri thức khoa học với sự tham gia trực tiếp của họ vào cuộc đấu tranh chính
trị của giai cấp vô sản. Người đã khẳng định: “Ai nắm được thanh niên,
người đó làm chủ thế giới và theo một nghĩa nào đó nhiệm vụ xây dựng xã
hội cộng sản chủ nghĩa, đó chính là của thanh niên”. Thấu hiểu những đặc
trưng của lớp người trẻ tuổi, Lênin đặt niềm tin vào vai trò và sức sáng tạo
của thế hệ thanh niên cách mạng một cách sâu sắc, nhất quán. Ông cho rằng:
“Nhiệm vụ thực sự sáng tạo ra xã hội cộng sản chủ nghĩa chính là của
thanh niên”. Cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới là nhiệm vụ quan
trọng nhất của Đoàn thanh niên cộng sản cho nên phải động viên thanh niên
tích cực tham gia xây dựng kinh tế và văn hoá. Muốn kiến thiết kinh tế,
muốn tăng năng suất lao động để chiến thắng chủ nghĩa tư bản thì cần phải
18
có tri thức, cần phải nắm được khoa học - kỹ thuật, thanh niên phải chiếm
lấy thành trì khoa học thì mới thật sự trở thành chủ nhân của đất nước:
Thật sai lầm khi nghĩ rằng chỉ cần thấm nhuần những khẩu
hiệu cộng sản, những kết luận của khoa học cộng sản mà không
cần phải thấm nhuần tổng số kiến thức mà chính bản thân chủ
nghĩa cộng sản là kết quả. Nếu không có một nền học vấn hiện đại
thì chủ nghĩa cộng sản chỉ là một nguyện vọng mà thôi [24, tr.365].
Để thanh niên phát huy được vai trò của mình, thực hiện được nhiệm
vụ cao cả đó, Lênin chủ trương cải tổ triệt để công tác tổ chức và giáo dục
thanh niên với những nội dung giáo dục cụ thể, toàn diện. Đó là giáo dục
cho thanh niên tinh thần khắc phục khó khăn: “Nếu sợ khó khăn thì Đoàn
thanh niên cộng sản sẽ không phải là Đoàn thanh niên cộng sản nữa”. Đoàn
thanh niên cộng sản “không thể hành động như những kẻ hèn yếu vốn quen
trốn tránh khó khăn và đi tìm những việc dễ làm”. Phải giáo dục lòng tin
tưởng tuyệt đối vào thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, giáo
dục cho thanh niên tinh thần kiên cường và chí khí bền vững để có thể vượt
qua những thất bại buổi đầu, tiến thẳng tới mục đích lớn lao. Lênin cũng chỉ
rõ rằng nhiệm vụ của thanh niên trong đó thanh niên sinh viên là phải học
tập, học chủ nghĩa cộng sản. Phải tiêu hoá những tri thức sách vở biến nó
thành phương pháp để làm việc một cách sáng tạo, tập làm quen với những
công tác thực tế, khắc phục những biểu hiện nhà trường tách với cuộc sống,
trong học tập chỉ biết tiếp thu tri thức một cách thụ động, máy móc và giáo
điều, không có đầu óc phê phán. Người nhấn mạnh, nhà trường mới, nền
giáo dục của chế độ mới phải giúp thanh niên thanh toán triệt để những hậu
quả tiêu cực của nền giáo dục tư sản để lại. Toàn bộ sự nghiệp giáo dục cho
thanh niên phải hướng vào việc phát triển đạo đức trong thanh niên để họ trở
thành những con người tốt, những con người có văn hoá phục vụ cho sự
19
nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Ngoài vấn đề học tập, trau dồi đạo
đức, thấm nhuần chủ nghĩa cộng sản, Lênin còn nhấn mạnh vấn đề thanh
niên phải không ngừng bồi dưỡng sức khoẻ, nâng cao thị hiếu thẩm mỹ và
văn hoá, chỉ có như vậy thanh niên mới tránh được những tác động không
lành mạnh của xã hội đối với cuộc sống, từ đó phục vụ hiệu quả cho sự
nghiệp xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Thanh niên cần phải được tươi vui, yêu đời và có tinh thần
sảng khoái. Họ cần những môn thể thao lành mạnh, những ngón
tay khéo léo. Có nghĩa là được luyện tập để các bắp thịt được nhẹ
nhàng và nhanh nhẹn đáp ứng lại những đòi hỏi của lao động tinh
xảo và cao [25, tr.269].
Các nhà kinh điển còn vạch rõ việc giáo dục thanh niên không phải
theo lối cũ, tách rời cuộc sống, tách rời đấu tranh. Đoàn thanh niên cộng sản
phải gắn việc giáo dục, học tập, thực tập của mình với lao động của những
người công nhân và nông dân, không nên chỉ giam mình trong việc đọc
sách báo và tài liệu của cộng sản. Phải biết đặt vấn đề như thế nào để hàng
ngày ở mỗi làng mạc, mỗi thành phố, thanh niên giải quyết đước một cách
thực tiễn vần đề này hay vấn đề khác của lao động tập thể, dù là nhỏ bé
nhất, đơn giản nhất.
1.1.2.3. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
Việt Nam
Kế thừa những di sản quý báu của chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ tịch Hồ
Chí Minh đã phát triển luận điểm mácxít về vai trò của thanh niên trong xã
hội, về nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ của Đảng thông qua tổ chức Đoàn thanh
niên trong điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Nếu như các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác luôn gắn thanh niên với giai cấp công nhân, với
đảng tiên phong của nó thì Hồ Chí Minh cho rằng thanh niên không những
20
gắn với giai cấp công nhân mà còn gắn với dân tộc. Muốn hồi sinh dân tộc
trước hết phải hồi sinh thanh niên. Việc tổ chức Việt Nam cách mạng Thanh
niên để chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và ra Báo
“Thanh niên” đă chứng tỏ Hồ Chí Minh có một tầm nhìn chiến lược khi nhìn
nhận vai trò của thanh niên, chỉ thanh niên mới có thể “nắm vai trò là người
châm ngòi lửa đầu tiên cho cách mạng Việt Nam”. Người coi thanh niên là
hạt giống quý của cách mạng, là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh
niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai.
Xác định vị trí, vai trò của thanh niên đối với tương lai của đất nước, Người
khẳng định:
Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do
các thanh niên, thanh niên muốn làm chủ tương lai cho xứng đáng
thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình,
phải làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó [33, tr.185].
Để giúp thanh niên thực hiện vai trò của mình, Hồ Chí Minh đặc bịêt
nhấn mạnh tới công tác giáo dục thanh niên coi đó là vai trò của người công
dân đối với nhà nước, với chế độ, vai trò của người chiến sĩ cách mạng đối
với lý tưởng và sự nghiệp mà mình theo đuổi. Từ đó, thanh niên phải biết
trau dồi đạo đức cách mạng, hết lòng phục vụ cách mạng, suốt đời phấn đấu,
hy sinh cho lý tưởng cao quý: độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Người chỉ
rõ: “Nhiệm vụ của thanh niên là phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà?
Mình phải làm gì cho lợi ích nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước
nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào?”. Đó cũng chính là yêu cầu về giáo
dục và tự giáo dục ở thanh niên theo tư tưởng của Hồ Chí Minh. Trong rất
nhiều tác phẩm của mình, chủ tịch Hồ Chí Minh đều đề cập tới vấn đề giáo
dục đạo đức cách mạng cho thanh niên. Theo Người, giáo dục thanh niên
không thể tách rời mà phải liên hệ với các cuộc đấu tranh xã hội, giáo dục
21
thanh niên là nhiệm vụ của gia đình, nhà trường, Đoàn thanh niên và các
đoàn thể cách mạng khác nhằm biến nguồn lực dồi dào của tuổi trẻ ở dạng
tiềm năng trở thành hiện thực. Người viết:
Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng
hái xung phong, không ngại khó khăn, có ý chí tiến thủ. Đảng cần
chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành
những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa
chuyên. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc quan
trọng và cần thiết [34, tr.498].
Với quan điểm cho rằng “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, ngay
sau khi cách mạng tháng Tám thành công năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nghĩ ngay tới việc xây dựng nước nhà giàu mạnh, sánh kịp các nước anh
em, bạn bè trên thế giới mà lực lượng gánh vác công việc đó không ai khác
ngoài các thế hệ thanh niên, học sinh, sinh viên: “Non sông Việt Nam có trở
nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để
sánh vai với các cường quốc năm châu hay không, chính là nhờ một phần
lớn ở công học tập của các em”. Hồ Chí Minh luôn cho rằng việc bồi dưỡng
cho đời sau là công việc hết sức công phu, bền bỉ. Người coi giáo dục và đào
tạo, rèn luyện thế hệ trẻ là sự nghiệp “trồng người”. Người nêu tư tưởng
chiến lược: “Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải
trồng người”[35,tr222] và để sự nghiệp này đạt kết quả tốt thì phải có sự
phối hợp của nhiều lực lượng trong xã hội, trước hết là của Đảng, Nhà nước,
gia đình và các đoàn thể xã hội. Người đề ra phương châm “giáo dục là sự
nghiệp của quần chúng”. Trường học, gia đình và các đoàn thể thanh niên
…cần phải chú ý đến giáo dục tư tưởng, thái độ, hoạt động và sinh hoạt hàng
ngày của thanh niên để kịp thời khuyến khích, uốn nắn và sửa chữa. Về
phương pháp giáo dục thanh niên, Người nhấn mạnh:
22
Giáo dục thanh niên không thể tách rời mà phải liên hệ chặt
chẽ với những cuộc đấu tranh của xã hội, lực lượng của chính phủ
để ngăn ngừa những cái gì có thể ảnh hưởng xấu đến thanh niên,
để nâng cao tính cảnh giác của thanh niên”[33,tr456]
Về nội dung giáo dục thanh niên, Hồ Chí Minh chủ trương giáo dục
toàn diện:
Giáo dục phải phục vụ đường lối chính trị của Đảng và Chính
phủ, gắn liền với sản xuất và đời sống của nhân dân. Học phải đi
đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế. Trong việc giáo dục
và học tập phải chú trọng đủ các mặt: Đạo đức cách mạng, giác
ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hoá kỹ thuật, lao động và sản
xuất”[36,tr190].
Người nhắc nhở phải coi trọng việc giáo dục truyền thống dân tộc và
truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ:
Chúng ta cần ghi chép và thường nhắc nhở lại những sự tích
ấy, để giáo dục nhân dân ta chịu đựng gian khổ, vượt mọi khó
khăn, quyết tâm làm tròn nhiệm vụ xây dựng lại nước nhà. Để giáo
dục thanh niên ta rèn luyện một ý chí kiên quyết, quật cường, một
tâm lý quả cảm xung phong, tin tưởng vào tương lai của Tổ quốc,
vào lực lượng của nhân dân, hy sinh lợi ích riêng cho lợi ích chung
của dân tộc”[33,tr387]
Khi yêu cầu thế hệ đi trước xung phong trong công việc, Hồ Chí Minh
không quên nhấn mạnh vai trò của cán bộ đảng viên phải luôn luôn nêu tấm
gương sáng, làm khuôn mẫu cho thanh niên học tập. Sau cách mạng tháng
Tám Người đề nghị với các bậc cao tuổi:
Con cháu ta, thanh niên thì gánh việc nặng, chúng ta già cả,
không làm được công việc nặng nề thì khua gậy đi trước, để
23
khuyến khích thanh niên và san sẻ những kinh nghiệm của chúng
ta cho họ. Chúng ta là bậc phụ lão cần phải tinh thần đoàn kết
trước để làm gương cho con cháu ta theo[33,tr89]
Người đề nghị đảng viên, nhất là đảng viên lâu năm cần có tinh thần
trách nhiệm cao trong viẹc dìu dắt thế hệ trẻ. Người nói: “Các đồng chí già
là rất quý, là gương bền bỉ đấu tranh, dìu dắt bồi dưỡng, đào tạo thêm đồng
chí trẻ, dồng chí già phải có thái độ độ lượng, dìu dắt đồng chí trẻ. Đó cũng
là một tiêu chuẩn đạo đức Cộng sản chủ nghĩa”. Người nhắc nhở cán bộ và
đảng viên lâu năm không nên có thái độ ích kỷ gia trưởng đối với thế hệ trẻ
mà ngược lại càng đào tạo thanh niên cho họ làm hơn mình: “Nếu thế hệ già
khôn hơn thế hệ trẻ thì không tốt. Thế hệ già thua thế hệ trẻ mới là tốt”. Đó
là quan điểm đúng đắn, hợp quy luật, truyền thống dân tộc “tre già măng
mọc”, về việc chuyển giao thế hệ “con hơn cha là nhà có phúc” và sự phát
triển liên tục đi lên của xã hội loài người.
Từ đó Hồ Chí Minh yêu cầu các cấp bộ Đảng phải làm tốt công tác
thanh niên, chú ý đến việc phát triển đảng viên trẻ tuổi nhằm tăng sinh lực
cho Đảng, bảo đảm sự kế thừa giữa các thế hệ và tạo điều kiện cơ hội cho
thanh niên trưởng thành. Đảng cần giúp đỡ Đoàn thanh niên cộng sản phát
triển tốt, đồng thời cần phải chọn ra nhữngđồng chí doàn viên đã kinh qua
thử thách và đủ điều kiện đưa họ vào Đảng. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng
yêu cầu, đòi hỏi sự đóng góp, cống hiến của tuổi trẻ đối với sự nghiệp cách
mạng của đất nước. Người đề nghị Đảng và Chính phủ cần quan tâm tới lợi
ích chính đáng của thanh niên. Theo đó sự quan tâm phải được thể hiện một
cách thiết thực từ việc nắm bắt nhu cầu,nguyện vọng, xu hướng của thanh
niên đến việc giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng họ. Người cho rằng muốn phát
huy vai trò thanh niên trước tiên Đảng và Nhà nước phải đề ra đường lối chủ
trương, chính sách đúng đắn, phù hợp nguyện vọng chính đáng của nhân dân
24
và tuổi trẻ, sẽ có sức thu hút lớn ủng hộ của thanh niên tham gia hành động
cách mạng một cách tự giác. Người viết:
Những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân
và thanh niên xung phong đều đã được rèn luyện trong chiến đấu
đều tỏ ra dũng cảm. Đảng và Chính phủ cần chon một số ưu tú nhất
cho các cháu ấy đi học thêm các ngành, các nghề để đào tạo thành
những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lâph
trường cách mạng vững chắc. Đó là đội quân chủ lực trong công
cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta.[37,tr504].
Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ lãnh đạo “cần phải đi sâu vào đời sống,
hiểu rõ tâm lý của các lớp thanh niên và giúp đỡ họ giả quyết các vấn đề một
cách thiết thực”. Người đề nghị Đảng và Chính phủ phải có chính sách đãi
ngộ thoả đáng đối với những thanh niên có công đối với cách mạng. Trong
Di chúc để lại trước lúc đi xa, Người viết:
Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương
máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung
phong…) Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho
họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy
nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cách
sinh” [37, tr.503].
Với tư tưởng cách mạng, sự hiểu biết và tầm nhìn xa của mình, Hồ
Chí Minh đã luôn quan tâm tới các thế hệ thanh niên, quan tâm tới công tác
giáo dục, bồi dưỡng thanh niên nhằm xây dựng lên một đội ngũ thanh niên
cách mạng giỏi về chuyên môn, có đạo đức, có lý tưởng cao đẹp để thực
hiện được nguyện vọng thiết tha của Người là giành độc lập tự do cho dân
tộc, tiến bước trên con đường xã hội chủ nghĩa, xây dựng đất nước Việt Nam
ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.
25
Kế tục sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã luôn coi trọng và đánh giá cao vai trò của thanh niên
đối với sự nghiệp cách mạng ở nước ta. Ngay từ khi mới thành lập, qua các
phong trào cách mạng Đảng ta đã thấy được thanh niên là một lực lượng
cách mạng to lớn, vị trí của thanh niên trong phong trào giải phóng dân tộc
rất quan trọng, biểu thị qua việc thanh niên hăng hái tham gia vào các cuộc
đấu tranh, biểu tình…của nhân dân lao động chống áp bức, bất công, đòi độc
lập tự do cho dân tộc. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ
nhất (10/1930) đã thông qua án nghị quyết về Cộng sản thanh niên vận động
để tiến tới thành lập Đoàn TNCS, giúp Đảng tiến hành công tác vận động và
giáo dục thanh niên. Điều này đã chứng tỏ Đảng ta đánh giá cao vai trò của
thanh niên trong cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong kiến tay sai những
năm đầu thành lập. Tháng 3 năm 1931, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
họp hội nghị lần hai nhằm thực hiện nhiệm vụ: Cần kíp tổ chức ra Cộng sản
Thanh niên Đoàn, hội nghị cũng thông qua chương trình hành động của
Cộng sản Thanh niên đoàn. Dưới ánh sáng của Hội nghị TW 2, sau một thời
gian ngắn trên cả nước, nhiều tổ chức Đoàn cơ sở được thành lập. Sự ra đời
và phát triển cảu tổ chức Đoàn đã đáp ứng kịp thời đòi hỏi cấp bách của
phong trào thanh niên, phong trào cách mạng nước ta lúc đó. Từ 1931 đến
1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng qua các phong trào cách mạng, thanh niên
đèu anh dũng đứng đầu trong các cuộc đấu tranh. Thanh niên công nhân,
nông dân, học sinh, tiểu tư sản là lực lượng châm ngòi pháo, mở đầu và dẫ
đầu trong phong trào đấu tranh biểu tình, đình công, bãi khoá, chống sưu cao
thuế nặng, chống đàn áp khủng bố, chống chiến tranh, đòi hoà bình, đòi
quyền tự do dân chủ. Thanh niên cũng chính là lực lượng chủ yếu trong các
đội vũ trang tuyên truyền, giải phóng quân, là những người xung kích cùng
toàn dân vùng dậy khởi nghĩa giành thắng lợi to lớn trong cách mạng tháng
26
Tám 1945 lịch sử, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhà nước dân
chủ đầu tiên ở khu vực Đông nam á. Tiếp sau cách mạng tháng Tám, khi
thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, thanh niên Việt
Nam lại lên đường tòng quân chiến đấu nhằm bảo vệ thành quả cách mạng
mà Đảng và nhân dân đã giành được. Với tinh thần “Thà hy sinh tất cả chứ
nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” thanh niên
cả nước đã đứng lên cầm súng, tầm vông để chiến đấu, bảo vệ chính quyền
cách mạng non trẻ, bảo vệ Tổ quốc. Hàng triệu thanh niên đi dân công, tham
gia các đội thanh niên xung phong làm công tác phục vụ tiền tuyến. Thanh
niên ở vùng tự do, vùng căn cứ du kích ngày đêm kiên cường chống giặc càn
quét, tăng gia sản xuất, cung cấp lương thực cho bộ đội ăn no đánh thắng.
Những tấm gương tiêu biểu như Võ Thị Sáu, Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót,
La Văn Cầu, Cù Chính Lan…cùng hàng triệu thanh niên dũng cảm khác đã
cống hiến tuổi thanh xuân của mình cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Bác Hồ vĩ đại, thanh niên nói riêng và
dân tộc Việt Nam nói chung đã đoàn kết một lòng làm nên chiến thắng Điện
Biên lững lẫy năm châu chấn động địa cầu, buộc thực dân Pháp phải ký vào
hiệp định Giơnevơ, làm phá sản sự thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ ở
Đông Dương. Từ năm 1954, khi đất nước tạm thời chia làm hai miền, trong
lúc thanh niên miền Bắc bắt tay vào hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi
phục kinh tế và bước đầu xây dựng những cơ sở vật chất kỹ thuật đầu tiên
của chủ nghĩa xã hội thì thanh niên miền Nam tiếp tục tiến hành cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân chống chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ và
tay sai cho tới thắng lợi cuối cùng. Phong trào “Ba sẵn sàng” đã cuốn hút 4
triệu thanh niên miền Bắc bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
với khí thế cách mạng sôi sục, quyết chiến quyết thắng. Với ý chí “tiền
tuyến gọi thanh niên sẵn sàng”, “có lệnh là đi, có giặc là đánh”, “đã đánh là
27
thắng”, hàng triệu lượt thanh niên đã hăng hái lên đường ra tiền tuyến giết
giặc lập công. Hoà với khí thế cách mạng của thanh niên miền Bắc, ở miền
Nam hàng triệu thanh niên dũng cảm đi đầu trong các cuộc đấu tranh chính
trị, đấu tranh vũ trang với kẻ thù trong phong trào “Đồng khởi”. Hơn 3 triệu
thanh niên sôi nổi tham gia phong trào “năm xung phong”. Bằng tinh thần
dũng cảm. mưu trí và sự thông minh của mình, các nữ thanh niên đã đống
góp tích cực vào các cuộc đấu tranh của “đội quân tóc dài”. Trong các đô thị
vùng Mỹ – nguỵ kiểm soát, các cuộc xuống đường vang lời ca “Dậy mà đi”,
phong trào “hát cho đồng bào tôi nghe”…phát triển rộng khắp.
Với tinh thần “Nước Việt Nam là một. Dân tộc Việt Nam là một. Sông
có thể cạn, núi có thể mòn. Song chân lý đó không bao giờ thay đổi”, lớp
lớp thanh niên Việt Nam lại tiếp tục lên đường “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu
nước. Mà lòng phơi phới dậy tương lai” nhằm giải phóng hoàn toàn miền
Nam, thống nhất đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa. Đã có hàng vạn lượt
thanh niên miền Bắc nhập ngũ, hàng vạn tấn hàng được vận chuyển vào
chiến trường miền Nam, rất nhiều phong trào thi đua như: “Ba đảm đang.
Ba sẵn sàng” ở miền Bắc, “Thi đua ấp Bắc, giết giặc lập công” ở miền
Nam đã được đông đảo thanh niên tham gia để “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho
nguỵ nhào”. Chiến công và sự trưởng thành của tuổi trẻ cả nước trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước xứng đáng với lời khen ngợi của Chủ tịch
Hồ Chí Minh:
Trong sự nghiệp vĩ đại ấy, thanh niên ở miền Bắc được sự
giáo dục của Đảng và sự dìu dắt của Đoàn đã tỏ ra rất xững đáng là
thế hệ của cách mạng tháng Tám vẻ vang…Trong sự nghiệp chống
Mỹ, cứu nước hiện nay, theo tiếng gọi của Tổ quốc, thanh niên cả
nước ta càng giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, lập nhiều thành tích xuất sắc. Hàng triệu thanh niên miền
28
Bắc đã hăng hái tham gia phong trào “Ba sẵn sàng”. Hàng vạn
cháu trai và gái đã tình nguyện vào các đội thanh niên xung phong
chống Mỹ cứu nước. Thanh niên miền Nam sinh ra và lớn lên
trong hai cuộc đấu tranh yêu nước. Ngày nay dưới ngọn cờ của
Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam đã được rèn luyện thành
một thế hệ thanh niên vô cùng gan dạ thông minh, không sợ gian
khổ, hy sinh, quyết chiến, quyết thắng, noi gương oanh liệt của các
anh hùng Nguyễn Văn Trỗi, Trần Văn Đang và nhiều liệt sĩ khác,
khắp thành thị, nông thôn, miền xuôi, miền núi thanh niên ta ngày
nay đã thành một đội quân to lớn, hăng hái tiến lên, quyết tâm phấn
đấu hy sinh vì Tổ quốc thân yêu, vì tiến bộ xã hội. [38,tr503]
Với đại thắng mùa xuân năm 1975, nhân dân ta đã giành được thắng
lợi trọn vẹn và triệt để trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước, nêu cao tinh thần của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và là tấm
gương đi đầu trong phong trào chống chủ nghĩa thực dân mới ở khu vực và
thế giới. Thắng lợi này cũng đã mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước ta -
kỷ nguyên cả nước thống nhất đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bước vào
thời kỳ mới xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ của thanh niên phải đáp
ứng được những yêu cầu mới của cách mạng. Đoàn thanh niên phải được
xây dựng và củng cố vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xứng
đáng là trường học cộng sản chủ nghĩa của lớp người trẻ tuổi, là cánh tay
đắc lực và đội hậu bị tin cậy của Đảng. Do đó Đoàn phải giáo dục rèn luyện
thanh niên một cách toàn diện trong thực tế đấu tranh cách mạng, phát huy
những truyền thống tốt đẹp của thanh niên, bồi dưỡng thanh niên cả nước
thành những con người mới xã hội chủ nghĩa có lý tưởng cao đẹp, có khí
phách anh hùng. Thanh niên phải làm tròn vai trò xung kích trong 3 cuộc
cách mạng, trong phong trào thi đua lao động sản xuất và bảo vệ Tổ quốc,
29
“Sống, chiến đấu và học tập theo tấm gương Bác hồ vĩ đại”, trở thành lớp
người kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng
và của dân tộc.
Năm 1986, Đảng và nhân dân ta bắt tay vào công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước. Để phát huy vai trò của thanh niên, Đảng ta đã ban hành
nhiều nghị quyết quan trọng về thanh niên và công tác giáo dục thanh
niên, điều này đã khẳng định sự quan tâm đặc biệt đến thanh niên và công
tác giáo dục thanh niên của Đảng ta. Đó là các Nghị quyết của Bộ Chính
trị TW Đảng: Nghị quyết 26 (khoá V), Nghị quyết 25 (khoá VI), Nghị
quyết TW 4 (khoá VII)…trong đó Đảng ta chỉ rõ: “Thanh niên là lực
lượng xã hội to lớn có khả năng hùng hậu. Thanh niên là vấn đề sống còn
của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách
mạng”; “Đảng đặt niềm tin sâu sắc vào thanh niên, phát huy vai trò làm
chủ và tiềm năng to lớn của thanh niên để thanh niên thực hiện sứ mệnh
của lịch sử”. Bên cạnh đó, ý thức tầm quan trọng của lực lượng thanh
niên trong công cuộc xây dựng xã hội mới, Đảng ta cũng chủ trọng tới
việc giáo dục thế hệ trẻ nhằm tạo nên một lớp người mới “có lý tưởng cao
đẹp, có ý thức, trách nhiệm công dân, có tri thức, sức khoẻ và lao động
giỏi. Sống có văn hoávà tình nghĩa, giàu lòng yêu nước và có tinh thần
quốc tế chân chính. Cổ vũ thanh niên Việt Nam nuôi dưỡng hoài bão lớn,
tự cường dân tộc, năng động, sáng tạo, làm chủ được khoa học và công
nghệ vươn lên ngang tầm với thời đại…hình thành một lớp thanh niên
vững vàng về chính trị, kiên điịnh con đường xã hội chủ nghĩa, trở thành
những nhà lãnh đạo, quản lý kinh doanh giỏi, những chuyên gia xuất sắc
trên mọi hoạt động xã hội…”.
Cách mạng là sự nghiệp lâu dài đầy khó khăn, thử thách của rất nhiều
thế hệ, do vậy việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là quy luật của
30
cách mạng, của vận động lịch sử. Quan tâm giáo dục, bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau chính là thực hiện quy luật khách quan nhằm đưa sự
nghiệp cách mạng đi tới thắng lợi cuối cùng. Tuy nhiên, đây là công việc lâu
dài, công phu, cần có sự phối hợp của nhiều lực lượng có trách nhiệm trong
xã hội trong việc giáo dục toàn diện thế hệ trẻ để họ có thể vươn lên đáp ứng
được yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng. Thanh niên ngày nay đang
đứng trước tương lai tốt đẹp với rất nhiều cơ hội thuận lợi cũng như thách
thức, do đó đòi hỏi thế hệ thanh niên không ngừng bồi dưỡng, nâng cao trình
độ chuyên môn, tình cảm cách mạng để có thể phục vụ tốt hơn nữa nhiệm vụ
của mình, xứng đáng với kỳ vọng của Đảng và nhân dân đã tin tưởng, giao
phó trong sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay.
1.2. Thực trạng thanh niên trong những năm gần đây
Việt Nam là một quốc gia có cơ cấu dân số trẻ, dân số thanh niên (từ
16 đến 30 tuổi) trong những năm gần đây dao động khoảng 22 - 23,8 triệu
người. Mỗi năm dân số thanh niên tăng khoảng 500 - 700 ngìn người, chiếm
khoảng hơn 20% dân số cả nước. Trong những năm gần đây sự khác biệt về
giới tính trong cơ cấu thanh niên ngày càng tăng theo hướng theo chiều nam
nhiều hơn nữ. Tính đến nay, tỷ lệ thanh niên nam đạt 51,5% trong tổng số
thanh niên, cao hơn so với cơ cấu giới tính chung của dân số cả nước (cơ cấu
nam giới chiếm 49,1% so với 50,9% nữ giới). Cùng với công cuộc đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì quá trình đô thị hoá cũng đã phát
triển nhanh chóng, tác động không nhỏ tới việc thanh niên nông thôn chuyển
dịch đi làm ăn và sinh sống tại các đô thị tăng cao. Đánh giá về tư tưởng,
thái độ chính trị của thanh niên trong giai đoạn hiện nay có thể thấy những
chuyển biến tích cực. Đa số thanh niên tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng,
vào thành công của công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo. Thanh niên gương mẫu tham gia thực hiện các chủ trương, đường
31
lối của Đảng, các chủ trương chính sách và pháp luật của Nhà nước. Bên
cạnh đó, với tinh thần xung phong tình nguyện của mình, thanh niên tích cực
tham gia vào các phong trào mang tính xã hội như đền ơn đáp nghĩa, uống
nước nhớ nguồn…Với ý chí tự lập tự cường, không cam chịu đói nghèo, lạc
hậu, thanh niên hiện nay đang nỗ lực vươn lên học tập, phát triển kinh tế,
tiếp thu các tiến bộ khoa học kỹ thuật của thế giới nhằm làm giàu cho bản
thân, gia đình và cho xã hội. Hoạt động của tổ chức Đoàn ngày càng được
mở rộng với rất nhiều phong trào, thu hút được đông đảo đoàn viên thanh
niên tham gia và đạt chất lượng tốt. Số lượng thanh niên được kết nạp vào
Đoàn và đoàn viên được vinh dự đứng trong hàng ngũ của Đảng ngày càng
tăng. Thanh niên hiện nay quan tâm nhiều tới các vấn đề như việc làm, nghề
nghiệp, học tập, tình hình phát triển kinh tế xã hội, các tệ nạn xã hội, tình
hình chính trị trong và ngoài nước, hiểu rõ trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước, sẵn sàng tham gia
các hoạt động tình nguyện tại địa phương hay ở những vùng sâu, vùng xa.
Trong xu hướng biến đổi của xã hội hiên jnay, thanh niên nhìn chung vẫn
giữ được những điểm tích cực trong lối sống của mình, tự ý thức về năng lực
cá nhân, mong muốn thể hiện và khẳng định mình nhưng vẫn quan tâm,
chăm lo tới lợi ích chung. Đa số thanh niên cho rằng ý nghĩa của cuộc sống
được khẳng định qua lao động, đồng thời thanh niên đang càng quan tâm
nhiều hơn đến những giá trị tinh thần của lao động. Điều này tạo nên một sự
cân bằng trong nhìn nhận và đánh giá về lao động giữa nội dung giá trị tinh
thần và giá trị vật chất của lao động hơn trước kia. Chính những nhận thức
đúng đắn về giá trị lao động đã có ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề nghiệp
của thanh niên hiện nay.
Có thể nói rằng, thanh niên ngày nay có trình độ học vấn cao hơn
trước, thông minh, nhanh nhạy, có năng lực tiếp cận và sáng tạo công nghệ
32
mới, tích cực đi trước đón đầu ở những ngành khoa học, công nghệ mũi
nhọn. Đa số thanh niên tự giác học tập, chủ động học thêm nhiều ngành,
nghề, nhất là ngoại ngữ, tin học, các kiến thức khoa học kỹ thuật. Bên cạnh
đó, thanh niên ngày nay tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước nồng nàn
của dân tộc: có lòng tự tôn dân tộc, chí tiến thủ và khát vọng vươn lên lập
thân, lập nghiệp, mong muốn xây dựng đất nước theo mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh”. Tuy nhiên bên cạnh
những ưu điểm trên cũng diễn ra một thực tế là quan niệm về cuộc sống của
một bộ phận thanh niên còn lệch lạc, có lối sống thực dụng, không có lý
tưởng, coi trọng giá trị vật chất hơn giá trị văn hoá tinh thần. Một bộ phận
thanh niên bản lĩnh chính trị còn non kém, dao động về lập trường, tư tưởng,
thờ ơ chính trị, dễ bị kích động, lôi kéo tham gia các hoạt động trái với pháp
luật. Sự phân hoá giàu nghèo, một số biểu hiện xuống cấp về đạo đức xã hội
đã tác động mạnh tới một bộ phận thanh niên hiện nay dẫn tới lối sống thực
dụng, chạy theo đồng tiền, coi thường các giá trị truyền thống của dân tộc.
Trên đây là những biểu hiện sai lệch đó:
1.2.1. Những sai lệch về lý tưởng
Thanh niên là lứa tuổi giàu mơ ước, hoài bão đối với cuộc sống tương
lai của mình. Để hình thành lý tưởng sống cho bản thân, mỗi thanh niên đều
hình thành cho mình một hình mẫu lý tưởng để vươn tới, trong đó có sự
thống nhất hài hoà giữa nhận thức tình cảm và ý chí. Chính nhờ sự thống
nhất này mà lý tưởng có tác dụng như một động lực to lớn, thúc đẩy cá nhân
vượt qua khó khăn vươn tới mục đích cuối cùng. Trong hoàn cảnh đất nước
ta hiện nay, trước những biến đổi to lớn và nhanh chóng của tình hình kinh
tế - xã hội đã có tác động không nhỏ tới tư tưởng, tình cảm niềm tin và lý
tưởng của thanh niên.
33
Trong lúc tình hình thế giới hiện nay có nhiều biến động phức tạp, kẻ
địch tiếp tục tấn công ta trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, đặc biệt là
chúng tấn công vào thế hệ trẻ, tương lai của đất nước bằng âm mưu “diễn
biến hoà bình” thì một bộ phận thanh niên của ta tỏ ra bi quan, chán nản,
giảm sút ý chí phấn đấu, mất lòng tin đối với tổ chức Đoàn và Đảng, mất
lòng tin vào lý tưởng cộng sản, không tin vào thành công của sự nghiệp đổi
mới mà Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Những biểu hiện của lối sống buông
thả như: nạn cờ bạc, rượu chè, chạy theo đồng tiền, chạy theo những cái lợi
trước mắt…đang ngày một phát triển nhanh chóng trong thanh niên hiện
nay. Họ tranh thủ hưởng thụ, sống gấp mà không thấy được trách nhiệm của
thanh niên đối với đất nước, đối với gia đình. Mặc dù đa số thanh niên hiện
nay đều mong muốn được đóng góp sức mình cho việc xây dựng quê hương
đất nước nhưng một bộ phận thanh niên vẫn thờ ơ với chính trị, có xu hướng
thực dụng trong việc lựa chọn giá trị, họ quan tâm nhiều tới lợi ích của các
nhân hơn là lợi ích của tập thể, coi các giá trị kinh tế hơn các giá trị tinh
thần, những giá trị trước mắt hơn những giá trị tương lai, những giá trị hiện
đại lấn át gía trị truyền thống… Xu hướng hướng ngoại và đòi hỏi sức tiêu
dùng ngày càng cao theo lối sống Mỹ và phương Tây đang có chiều hướng
phát triển mạnh trong khi mức sống của ta còn thấp, thậm chí còn nghèo và
lạc hậu. ở bộ phận thanh niên này thì sự mơ hồ về chính trị là rất rõ nét, họ
không quan tâm tới chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước mà chỉ quan tâm tới những gì liên quan trực tiếp tới mình. (Số
liệu tổng hợp từ 31 báo cáo nhanh và báo cáo điều tra chuyên đề về dư luận
xã hội trong năm 1995 của Vụ Tuyên truyền, Ban Tư tưởng - Văn hoá TW
cho biết: 43% thanh niên không quan tâm tới các ngày lễ kỷ niệm lớn; 68%
sinh viên không quan tâm đến nội dung gắn với những ngày kỷ niệm lớn…).
Chính vì điều này đã dẫn tới hệ quả là nhận thức xã hội của số thanh niên
34
này hết sức nghèo nàn, nông cạn, đặc biệt là trước các vấn đề được cả xã hội
quan tâm…Bên cạnh đó, thanh niên hiện nay cũng quan tâm mạnh mẽ tới
vấn đề việc làm, lựa chọn nghề nghiệp lý tưởng cho bản thân mình. Tuy thế,
xu hướng chọn nghề của thanh niên có thiên hướng nặng về yếu tố vật chất,
miễn sao kiếm được nhiều tiền cho bản thân và gia đình. Tuy chỉ là suy nghĩ
rất thực tế nhưng từ đó để đi tới lối sống thực dụng là khoảng cách rất gần,
từ đó thanh niên dễ có lối sống coi trọng đồng tiền, xem thường tình nghĩa.
Thanh niên được đào tạo có trình độ thì luôn muốn ở lại làm việc tại các
trung tâm đô thị lớn mà không quay về xây dựng quê hương làm cho tình
trạng thiếu việc làm ở thành phố tăng nhanh, trong khi ở nông thôn lại rất
thiếu lao động có tay nghề. Trong thanh niên sinh viên hiện nay, nảy sinh xu
hướng chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân với tiêu chí chọn lựa ngành nghề có
thu nhập cao, thích làm cho doanh nghiệp nước ngoài hơn là làm trong cơ
quan nhà nước. Khi được phân công công tác sau khi tốt nghiệp ra trường,
nhiều sinh viên ngại đi tới những nơi vùng sâu vùng xa còn nhiều khó khăn
đang rất cần đến họ; tìm mọi cách để ở lại thành phố, sẵn sàng làm việc trái
nghề, thậm chí chấp nhận bỏ chuyên môn nghề nghiệp được đào tạo. Cùng
với nó, nạn “chảy máu chất xám” đang diễn ra một cách tự phát, một số
không nhỏ thanh niên sinh viên Việt Nam du học ở nước ngoài “một đi
không trở về” phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đó cũng
chính là những định hướng lý tưởng nghề nghiệp sai lệch trong một bộ phận
đông đảo thanh niên hiện nay. Nghị quyết TW 4 khoá VII đã đánh giá về
tình hình sai lệch về lý tưởng chính trị - xã hội của thanh niên như sau:
“Trong giai đoạn hiện nay có một bộ phận thanh niên đang gặp nhiều khó
khăn về định hướng chính trị trong khi tình hình kinh tế xã hội ở nước ta
chưa ra khỏi khủng hoảng…Một bộ phận thanh niên ít quan tâm đến sinh
hoạt chính trị, coi thường truyền thống cách mạng, trốn tránh nghĩa vụ quân
35
sự. Một số dao động, thiếu niềm tin ở chủ nghĩa xã hội”. Những biến động
phức tạp và có phần bất lợi của tình hình chính trị thế giới, khu vực cùng
những ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường đã và đang tác động tiêu cực
đến quá trình xây dựng lý tưởng cho tầng lớp thanh niên nước ta hiện nay,
làm cho một bộ phận không nhỏ thanh niên có những biểu hiện dao động,
giảm sút niềm tin vào lý tưởng cách mạng của Đảng, vào con đường chủ
nghĩa xã hội. Do nhận thức mơ hồ về chủ nghĩa Mác - Lênin, đã có một số
thanh niên do bất mãn về một khía cạnh nào đó đã đặt lợi ích của cá nhân
cao hơn lợi ích của Đảng, xâm hại lợi ích của tập thể, thậm chí phản bội Tổ
quốc. Hiện tượng thanh thiếu niên thờ ơ với các hoạt động chính trị, với
truyền thống cách mạng và truyền thống dân tộc đang trở nên phổ biến làm
nguy hiểm tới sự tồn vong của chế độ.
1.2.2. Những sai lệch về đạo đức, lối sống
Đạo đức và lối sống là phạm trù xã hội rộng lớn, thể hiện qua các hoạt
động thực tiễn như hành vi ứng xử, sinh hoạt văn hoá, trong học tập, trong
tình yêu hôn nhân và gia đình của thanh niên hiện nay. Thực tế xã hội ta cho
thấy dưới ảnh hưởng của văn hoá Mỹ và phương Tây cùng với hệ quả của
nền kinh tế thị trường là lối sống thực dụng, ở một bộ phận thanh niên đã
xuất hiện những lệch lạc về đạo đức, lối sống trái với những giá trị đạo đức
truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Lối sống buông thả, sống gấp, hưởng thụ,
lãng phí trong thanh niên không thể phù hợp với điều kiện sống còn khá
nhiều khó khăn của chúng ta hiện nay. Các tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ
bạc …cũng thường xuyên xảy ra trong sinh hoạt của thanh niên, làm nguy
hại tới môi trường giáo dục lành mạnh. Nó không những làm thanh niên sa
sút về học tập, lao động mà còn gây ảnh hưởng xấu tới quá trình trau dồi đạo
đức và hình thành nhân cách của thanh niên. Tệ nạn nghiện hút cũng phát
triển nhanh chóng trong những năm gần đây đã khiến bao gia đình tan vỡ
36
hạnh phúc, đặc biệt số lượng con nghiện chủ yếu tập trung vào lứa tuổi
thanh niên, lứa tuổi lao động, là gánh nặng của gia đình và cả xã hội. Rất
nhiều thanh niên trước khi rơi vào hoàn cảnh nghiện ngập đã là những con
ngoan, trò giỏi, khi đi theo tiếng gọi của ma tuý đã đánh mất mình, làm băng
hoại các giá trị đạo đức của gia đình, gây nên sự mất ổn định cho xã hội.
Tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng ta chủ trương mở cửa giao lưu,
hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm đưa nước ta thoát
khỏi tình trạng lạc hậu kém phát triển. Cùng với quá trình mở cửa, các luồng
văn hoá ngoại lai cũng du nhập vào nước ta đã và đang làm mất đi những giá
trị văn hoá truyền thống. Một bộ phận thanh niên đã quay lưng lại với văn
hoá dân tộc, quay lưng lại với văn hoá truyền thống mà tiếp thu những luồng
văn hoá lai căng, thác loạn thậm chí là phản động. Thay vào việc tham gia
vào việc sinh hoạt trong các hoạt động văn hoá truyền thống ở các trung tâm
văn hoá, số thanh niên này lại tham gia vào các hoạt động hưởng thụ tại các
vũ trường, nhà hàng, sử dụng các loại ma tuý tổng hợp để thấy phấn khích
hơn, cảm giác tự do hơn…Vụ việc vũ trường New Centery tại phố Tràng
Thi, Hà Nội đã là bài học cảnh tỉnh đối với các bậc làm cha, làm mẹ về sự
giáo dục và quản lý con cái trong các hoạt động vui chơi giải trí cũng như là
hồi chuông cảnh báo đối với xã hội về sự xuống cấp trong việc hưởng thụ
các giá trị văn hoá trong giới trẻ hiện nay.
Đối với lứa tuổi thanh niên thì tình yêu và hôn nhân cũng là một lĩnh
vực được đông đảo các bạn trẻ quan tâm bởi nó định hướng cho hạnh phúc
của các bạn trong tương lai. Bên cạnh những tình yêu trong sáng, hồn nhiên
và cao thượng của đao số thanh niên thì vẫn còn có những quan niệm sai lầm
về tình yêu, hôn nhân và gia đình trong giới trẻ hiện nay. Họ cho rằng tình
yêu và hôn nhân là hai lĩnh vực tách biệt, không có quan hệ với nhau, rằng
thì là “yêu cho biết”, quan niệm “yêu 100, chọn 10, lấy 1”…Yêu không nhất
37
thiết phải đi tới hôn nhân. Hơn thế nữa là các tình yêu tính toán kiểu kinh tế
thị trường, tình yêu vụ lợi nhằm có thể thay đổi cuộc đời bằng những sự tính
toán, đánh đổi sự trong sáng, cao đẹp của tình yêu chân chính để lấy một
cuộc sống đầy đủ hơn, giàu có hơn mà không cần phải có tình yêu. Một số
thanh niên quan niệm về tình yêu và tình dục một cách giản đơn, cho rằng đã
yêu là phải dâng hiến tất cả, tình yêu sẽ vững bền hơn nếu có sự đảm bảo về
tiền bạc…Họ sẵn sàng chỉ vì những cái lợi trước mắt mà tự đánh mất đi
nhân phẩm, tình yêu và cả hạnh phúc của cuộc đời bởi những quan niệm sai
lầm về cuộc sống, tình yêu và hôn nhân. Theo số liệu thống kê của Toà án
nhân dân tối cao, ở toàn án sơ thẩm cấp huyện đến hết tháng 9 năm 2004 số
cặp vợ chồng ly hôn là 7.786 cặp, tăng 446 cặp so với năm 2003. Đã có
không ít kiểu tình yêu vụ lợi phải trả giá cho quan niệm sai lầm, tỷ lệ nạo
phá thai, ly hôn ngày càng gia tăng trong xã hội ta, đặc biệt nguy hiểm hơn
là tỷ lệ này lại đa số nằm trong lứa tuổi thanh niên. Lối sống tự do cá nhân vị
kỷ đang đặt ra những thách thức mới trong quan hệ giữa các thành viên
trong gia đình, sự gắn bó với nhau giữa các thành viên trong gia đình trở nên
lỏng lẻo hơn. Xu hướng thích ra ở riêng ngay từ khi mới lập gia đình ngày
càng trở nên phổ biến, mô hình gia đình truyền thống nhiều thế hệ trong đó
cùng chung sống với cả ông bà, cha mẹ lẫn con cái ngày càng giảm đi, mối
quan hệ huyết thống theo đó cũng dần phai nhạt. Không ít người già bị cô
đơn, bị ngược đãi, bị hành hạ về tinh thần, âm thầm cắn răng chịu đựng, xa
lạ trong chính ngôi nhà của mình, bị chính đứa con mình dứt ruột đẻ ra “báo
hiếu” bằng sự ngược đãi, bỏ rơi khi mình già yếu. Từ sự biến đổi trong quan
niệm sống, đề cao giá trị vật chất, coi nhẹ giá trị tinh thần, chỉ thấy cái lợi
trước mắt không thấy cái lợi lâu dài đã dẫn đến hiện tượng trong mỗi gia
đình, tập thể, xóm làng xuất hiện sự xung đột tâm lý mà nguyên nhân mâu
thuẫn chủ yếu vẫn là về lợi ích. ở nhiều địa phương vấn đề tranh chấp lợi
38
ích, va chạm xô xát án mạng đã xảy ra làm mất đi tình làng nghĩa xóm, để
lại những hậu quả nặng nề về mặt pháp lý, sức khoẻ, tinh thần cho gia đình
và xã hội. Trong thời buổi kinh tế thị trường, có thể nói tình yêu của lứa tuổi
thanh niên đang bị tác động, ảnh hưởng sâu sắc bởi sự coi nhẹ các giá trị đạo
đức, các giá trị truyền thống của dân tộc của các bạn trẻ thời @. Đây thực sự
là hồi chuông báo động cho các bậc phụ huynh, các thầy cô giáo, các nhà
quản lý và các đơn vị chức năng có liên quan về thực trạng lối sống, đạo đức
của giới trẻ trong giai đoạn hiện nay và sau này bởi tuổi trẻ chính là mùa
xuân, là tương lai của đất nước.
1.2.3. Nguyên nhân
Những biểu hiện sai lệch về lý tưởng, đạo đức, lối sống của thanh niên
hiện nay xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản: đó là sự tác động tiêu cực
của nền kinh tế thị trường lên một bộ phận không nhỏ thanh niên, lối sống
ích kỷ, chạy theo đồng tiền, lấy đồng tiền làm thước đo nhân cách, chạy theo
sự hưởng thụ các giá trị văn hoá thấp hèn. Không thể phủ nhận những thành
quả của nền kinh tế thị trường đã mang lại cho đời sống xã hội, góp phần bồi
đắp hình thành nhân cách con người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, thúc đẩy trí tuệ và năng lực sáng tạo cá nhân, tạo
điều kiện cho con người phát triển toàn diện. Tuy nhiên cơ chế thị trường lại
lấy cạnh tranh và lợi ích làm nguyên tắc cơ bản, đề cao các giá trị, hiệu quả
và lợi ích kinh tế dễ làm cho con người tuyệt đối hoá giá trị vật chất, lợi ích
các nhân đối lập với lợi ích xã hội và giá trị tinh thần chân chính. Để đạt
được lợi ích cá nhân vị kỷ, nhiều người đã quay lưng lại, thậm chí chà đạp
lên lợi ích tập thể, xã hội; làm đảo lộn các giá trị, chuẩn mực đạo dức xã hội,
biểu hiện ở sự xuống cấp đạo đức, lối sống, phai nhạt lý tưởng, niềm tin vào
chủ nghĩa xã hội. Mặt trái của cơ chế thị trường cũng đã làm gia tăng về
khoảng cách giàu - nghèo, sự phân hoá sâu sắc trong xã hội đã dẫn tới sự
39
xuống cấp về đạo đức, lối sống của thanh niên. Cơ chế thị trường đã tạo ra
sự mất cân đối trong xã hội khi mà “kẻ ăn không hêt, người lần chẳng ra”,
khoảng cách giàu nghèo cứ bị kéo dài mãi khiến tư tưởng muốn “đổi đời”
của một bộ phận thanh niên đi theo chiều hướng tiêu cực, ngược lại với các
giá trị truyền thống của dân tộc. Hội nhập kinh tế, văn hoá quốc tế trong nền
kinh tế thị trường tất yếu sẽ dẫn đến sự đụng độ, pha tạp các giá trị chuẩn
mực đạo đức, lối sống phi xã hội chủ nghĩa gây cản trở định hình các chuẩn
mực đạo đức xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Để đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong nền kinh tế thị trường, xu
hướng mở cửa giao lưu quốc tế, hội nhập kinh tế thế giới luôn là đòi hỏi
khách quan của sự nghiệp đổi mới. Bên cạnh những mặt tích cực do quá
trình này đem lại cũng có không ít tác động tiêu cực đến đời sống văn hoá
của đất nước nói chung và đạo đức nói riêng. Sự du nhập ồ ạt lối sống và
văn hoá, đạo đức phi xã hội chủ nghĩa mâu thuẫn với đạo đức truyền thống
của dân tộc đã và đang trực tiếp đánh vào những giá trị thiêng liêng của đạo
đức và bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam được vun đắp qua hàng ngàn
năm lịch sử. Những văn hoá phẩm xấu, độc hại, phản động, đồi truỵ, kích
động bạo lực và khiêu dâm đã tràn vào nước ta qua sách báo, video đen, đĩa
Compach nhập lậu, internet…của các nước tư bản tràn ngập thị trường Việt
Nam làm vẩn đục môi trường đạo đức truyền thống của dân tộc. Điều đó đã
tác động nhanh chóng vào cuộc sống của thanh niên, tầng lớp thích ứng rất
nhanh với các luồng văn hoá mới. Từ đó, lối sống đua đòi, tâm lý tiêu xài,
hưởng thụ phát triển nhanh chóng trong thanh niên. Để có thể đắm mình
trong cuộc sống hưởng thụ kiểu tư bản, đã có không ít thanh niên có hoàn
cảnh gia đình nghèo khó phải đánh đổi nhân cách, nhân phẩm, thậm chí là cả
cuộc sống của mình nhằm tìm thấy một cuộc sống xa hoa, không tưởng. Tệ
nạn xã hội gia tăng trong đó bộ phận thanh niên dính vào nghiện ma tuý, mại
40
dâm ngày càng nhiều. Đa số trong số họ đều chỉ vì ham muốn một cuộc sống
hưởng thụ mà không muốn lao động.
Sự quan tâm của gia đình, nhà trường và xã hội tới thế hệ trẻ còn chưa
thật sự thoả đáng. Đặc biệt là tìm hiểu nhu cầu và định hướng phát triển
nhân cách cho thanh niên. Một số gia đình do mải kiếm tiền nên đã phó mặc
vai trò giáo dục nhân cách con trẻ cho nhà trường mà quên rằng, giáo dục
gia đình mới là nền tảng cho sự phát triển nhân cách của con trẻ. Sự xuống
cấp về đạo đức, lối sống, chạy theo đồng tiền ở một bộ phận các thầy cô giáo
hiện nay cũng khiến cho công tác giáo dục, bồi dưỡng đạo đức, lý tưởng cho
thanh niên bị buông lỏng. Cuộc sống xa gia đình, tự do cũng là một nguyên
nhân khiến thanh niên dễ bị lôi kéo, tham gia vào các tệ nạn xã hội.
Sự buông lỏng quản lý của các cấp, các ngành, đoàn thể cũng như sự
phối kết hợp trong công tác tuyên truyền, giáo dục thanh niên còn chồng
chéo, chưa hợp lý, hiệu quả giáo dục chưa cao. Hơn nữa, một số địa phương
tổ chức cơ sở Đoàn còn yếu, số lượng đoàn viên ưu tú còn ít, thanh niên
chưa được thu hút vào các hoạt động của Đoàn, đội ngũ cán bộ làm công tác
Đoàn và thanh niên còn thiếu và yếu, nội dung, hình thức, phương pháp
công tác Đoàn chậm được đổi mới và nâng cao. Bên cạnh đó, nhiều cấp uỷ
Đảng và chính quyền cũng chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng chiến lược
của công tác vận động và giáo dục thanh niên cho nên coi thường và buông
lỏng công tác này. Nhiều cán bộ đảng viên thiếu ý thức trách nhiệm, có thái
độ hẹp hòi, không đánh giá đúng bản chất của thanh niên, thường chỉ thấy
mặt non kém của một số thanh niên, chưa coi trọng và phát huy năng lực
sáng tạo của thanh niê, chưa cố gắng đáp ứng nhu cầu phát triển lành mạnh
của tuổi trẻ. Đảng chưa chỉ đạo tốt sự phân công và phối hợp giữa các tổ
chức trong hệ thống chính trị để chăm sóc và bồi dưỡng thế hệ trẻ, chưa phát
huy đầy đủ vai trò chính trị của tổ chức Đoàn. Nhiều cơ quan Nhà nước chỉ
41
nặng về động viên, sử dụng thanh niên mà coi nhẹ việc đào tạo, bồi dưỡng
thanh niên. Một số cán bộ đảng viên thoái hoá biến chất cũng như sự thiếu
trách nhiệm của nhiều gia đình đã ảnh hưởng xấu tới công tác giáo dục thanh
thiếu niên. Bản thân thanh niên cũng không có ý thức vươn lên trong học
tập, trong cuộc sống, không tự rèn luyện phẩm chất đạo đức, coi nhẹ các giá
trị lao động, thích hưởng thụ, ăn chơi đua đòi, tham gia vào các tệ nạn xã hội
để làm mình nổi bật với người khác…đã dẫn tới những sai lệch về lý tưởng,
đạo đức và lối sống. Đã có không ít thanh niên phải trả giá cho những việc
làm sai trái của mình khi tham gia vào các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật,
trốn tránh nghĩa vụ đối với Tổ quốc, lười lao động và học tập…phải trá giá
bằng tuổi thanh xuân của mình, có khi là chính cuộc đời mình bởi lối sống
đua đòi, hưởng thụ.
Cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, Đảng, Nhà nước và toàn xã
hội phải từng bước xây dựng và hoàn thiện nền tảng chính trị xã hội, nâng
cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, chuẩn mực đạo đức cho cán bộ đảng viên
và nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Hết sức chăm lo bồi dưỡng các giá trị
truyền thống cao đẹp của dân tộc, kiên quyết đấu tranh đẩy lùi nạn tham
nhũng, buôn lậu, cửa quyền và các hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Có như
vậy chúng ta mới phát huy được những tác động tích cực và ngăn ngừa hạn
chế tối đa những ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thị trường. Có thể nói rằng
hiện nay, sự sai lệch về lý tưởng, đạo đức, lối sống trong thanh niên đang có
những biểu hiện hết sức phức tạp, có xu hướng lan rộng không chỉ ở các
trung tâm thành phố lớn mà trên địa bàn cả nước. Đây chính là hậu quả của
việc buông lỏng quản lý, giáo dục, bồi dưỡng thanh niên của gia đình, nhà
trường và của toàn xã hội. Mặt khác, những sai lệch này cũng là hệ quả của
nền kinh tế thị trường mở cửa mà chúng ta đang tiến hành. Đây chính là hồi
chuông cảnh tỉnh đối với sự tồn vong của chế độ, của đất nước vì nếu không
42
ngăn chặn được sự suy thoái của đạo đức, lối sống và các chuẩn giá trị xã
hội sẽ làm lây lan các “căn bệnh” khác nhau vào văn hoá của dân tộc ta.
Chương 2 Đảng cộng sản Việt Nam với công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho thanh niên 1996 - 2006
2.1. Bước chuyển của đất nước và nhiệm vụ của thanh niên trong thời kỳ mới
Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã tạo ra bước ngoặt lịch sử có ý nghĩa
quan trọng đối với dân tộc Việt Nam, nó mở ra kỷ nguyên độc lập, thống
nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Ngay sau khi giành được thắng lợi, Đảng và
nhân dân ta đã bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới với niềm tin
chắc chắn về một tương lai tươi sáng khi nước nhà hoàn toàn độc lập,
thống nhất, hoà bình. Sau 10 năm tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa
trên cả nước, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta khắc phục được một bước sự
lạc hậu và phân tán của nền kinh tế, cải tiến một phần cơ cấu nền kinh tế -
xã hội, đặt những cơ sở đầu tiên cho sự phát triển mới, đồng thời giành
thêm những thắng lợi to lớn trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ
an ninh chính trị và làm nghĩa vụ quốc tế. Bên cạnh những thành quả đạt
được, nền kinh tế xã hội nước ta vẫn đứng trước những khó khăn mới gay
gắt và phức tạp. Đến giữa thập kỷ 80, đất nước ta rơi vào tình trạng khủng
hoảng kinh tê - xã hội, sản xuất tăng chậm, hiệu quả sản xuất và đầu tư
thấp, lạm phát ở mức độ cao, ngân sách thâm hụt, phân phối lưu thông rối
ren…dẫn tới đời sống của nhân dân lao dộng còn nhiều khó khăn, hiện
tượng tiêu cực xảy ra ở nhiều nơi, quần chúng nhân dân giảm lòng tin đối
với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước. Nguyên nhân chủ
yếu đưa đến tình trạng đó là do những sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo
43
kinh tế, xã hội, bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng,
tổ chức và công tác cán bộ của Đảng.
Để làm xoay chuyển tình thế, tạo sự chuyển biến có ý nghĩa trên bước
đường đi lên chủ nghĩa xã hội, tháng 12 năm 1986, Đảng tổ chức Đại hội
toàn quốc lần thứ VI. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự
thật, Đại hội đã đánh giá đúng đúng mức những thành tựu đạt được trong 10
năm xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, những tồn tại và nghiêm
khắc tự phê bình những sai lầm khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý
của Đảng và Nhà nước. Đại hội đã đề xướng chủ trương đổi mới toàn diện
và sâu sắc đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở nước
ta. Đại hội là bước đột phá, đánh dấu sự phát triển vượt bậc trong tư duy của
Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ mới. Tại Đại hội,
Đảng ta cũng đã thể hiện cách nhìn nhận mới về vai trò của thanh niên trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội:
Thanh niên phải được đảm bảo việc làm khi bước vào đời và
được quan tâm giáo dục về nhân cách, bản lính, lý tưởng theo
phương châm “sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương
Bác Hồ vĩ đại”. Phải có ý thức đầy đủ rằng chính thanh niên là lớp
người có sứ mệnh lịch sử xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Mạnh dạn giáo trách nhiệm cho thanh niên và thông qua các hoạt
động xã hội mà đào tạo và bồi dưỡng họ [2, tr.116].
Tuy nhiên, chúng ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước trong giai
đoạn các nước xã hội chủ nghĩa đã bộc lộ sự khủng hoảng với những khó
khăn, trì trệ về chính trị và kinh tế, đã ảnh hưởng sâu sắc tới sự nghiệp cách
mạng của nước ta. Đó là những sai lầm, khuyết điểm của các Đảng cầm
quyền trong quá trình lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt là khi
mô hình chủ nghĩa xã hội sụp đổ thành hệ thống ở Liên Xô và Đông Âu thì ở
44
Việt Nam, các thế lực phản động đứng đầu là Mỹ vẫn điên cuồng chống phá
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta. Đất nước đứng trước
những thử thách mới với rất nhiều khó khăn, đòi hỏi Đảng và nhân dân ta,
trong đó có tuổi trẻ phải thể hiện được bản lĩnh của mình, chèo lái con
thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh. Để hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới đòi hỏi sự phấn đấu nỗ lực vượt
bậc của Đảng, của nhân dân, đòi hỏi ý chí, nghị lực và trí tuệ của cả dân tộc,
của tất thảy mọi người lao động trong đó có lực lượng thanh niên.
Tháng 6 năm 1991, Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng được tiến
hành vào thời điểm đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra đã biến thành
phong trào cách mạng của quần chúng, tạo nên sự chuyển biến rõ rệt trong
đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Đại hội VII của Đảng khẳng
định kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn duy nhất đúng. Đại
hội cũng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, tổng kết quá trình cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng và nêu ra quan niệm về xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân
ta xây dựng. Đó là xã hội có đặc trưng:
- Do nhân dân lao động làm chủ
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột và bất công, làm
theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng
tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
45
Đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội đã mở ra một chân trời mới đối với
thế hệ trẻ nước ta. Từ nhiệm vụ chiến đấu, phục vụ chiến đấu, từ chỗ học tập
lao động trong hoàn cảnh có chiến tranh trong các giai đoạn trước, thanh
niên được sống và, học tập và lao động trong hoà bình. Chế độ mới đã cho
phép tuổi trẻ phát huy cao độ những tiềm năng vốn có, được vươn tới đỉnh
cao của sáng tạo, ước mơ, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
Một điều rất quan trọng mà thanh niên ta phải nhận rõ là dưới
chế độ tư bản đế quốc và phong kiến, quyết không thể có một
phong trào thanh niên tốt đẹp. Chỉ có dưới chế độ xã hội chủ nghĩa
chúng ta thì mới phát động được lực lượng và tài năng của nhân
dân, của thanh niên và biến họ thành con người mới xây dựng chủ
nghĩa xã hội [34, tr.106].
Cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ tạo ra môi trường thuận lợi cho tuổi
trẻ học tập, phấn đấu trưởng thành, đồng thời đòi hỏi cao sự cố gắng của họ,
đòi hỏi mỗi một thanh niên phải rèn luyện mình để trở thành con người mới
xã hội chủ nghĩa. Đó là con người có lý tưởng cách mạng, có đạo đức trong
sáng, có trình độ chính trị, văn hoá, khoa học kỹ thuật cao, có tay nghề vững
vàng, có sức khoẻ dồi dào đủ sức làm tròn những nhiệm vụ nặng nề và vẻ
vang của mình như lời căn dặn của đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười tại Đại
hội Đoàn toàn quốc lần VI: “Ngày nay, thanh niên nước ta đang đứng
trước những nhiệm vụ to lớn và đầy vinh quang là cùng nhân dân cả nước
tiến hành công cuộc đổi mới nhằm phấn đấu thực hiện dân giàu, nước
mạnh, xây dựng xã hội lành mạnh, văn minh, bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước. Để có đủ khả năng hoàn thành
nhiệm vụ trọng đại đó, tuổi trẻ Việt Nam mà nòng cốt là Đoàn Thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh, phải xây dựng cho mình hoài bão, trí tuệ, đạo đức
và ý chí cách mạng”.
46
Đất nước chuyển sang một giai đoạn mới, cũng đồng thời xuất hiện
nhiều vấn đề mới mẻ đặt ra từ phía thanh niên:
- Niềm tin bị giảm sút trong nhiều bộ phận thanh niên, lý tưởng xã hội
chủ nghĩa của họ bị tác động mạnh bởi sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô và Đông Âu… Nhiều thanh niên mất phương hướng chính trị,
không muốn vào sinh hoạt trong tổ chức Đoàn, một số đoàn viên không
muốn hoặc ngại tham gia sinh hoạt đoàn, sinh hoạt chính trị. Một bộ phận
thanh niên sống bàng quan, vô trách nhiệm với xã hội, lười lao động, trồn
tránh nghĩa vụ, thích ăn chơi, hưởng thụ, một số lao vào kiếm tiền với bất cứ
giá nào, coi thường các giá trị nhân văn, kỷ cương, đạo đức.
- Trình độ học vấn và nghề nghiệp của thanh niên còn thấp, chưa
tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Tình trạng thất học, mù chữ trong thanh thiếu niên đang tăng lên, chủ
yếu là ở các khu vực miền núi, dân tộc thiểu số…
- Các lực lượng phản động trong và ngoài nước tìm mọi cách dụ dỗ,
mua chuộc lôi kéo thanh niên làm cho một bộ phận thế hệ trẻ có biểu hiện
xa rời lý tưởng cách mạng và các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của
dân tộc.
- Tâm lý, nhu cầu, sở thích của thanh niên có nhiều biến đổi so với
các giai đoạn trước. Thanh niên mong muốn được học tập, vui chơi giải trí,
tự do phát triển, được giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nghĩa vụ và
quyền lợi…
- Nhu cầu về việc làm, nghề nghiệp để đảm bảo cuộc sống cho bản
thân và gia đình cũng là mong muốn cháy bỏng của thanh niên. Thanh niên
thiếu việc làm khién đời sống khó khăn. Hàng năm có khoảng 1,5 triệu thanh
niên không có việc làm và hàng triệu thanh niên khác không có việc làm đầy
đủ. Số có việc làm phần đông có thu nhập thấp và không ổn định.
47
- Tình trạng sức khoẻ và các tệ nạn xã hội như ma tuý, mại dâm và các
biểu hiện vi phạm Pháp luật không ngừng gia tăng ở mức báo động. Số
thanh niên nghiện rượu, thuốc phiện, tiêm chích xì ke, ma tuý tăng nhanh.
Chiều cao, cân nặng và thể lực của thanh niên đang giảm và thấp hơn so với
nhiều nước trong khu vực…
Tất cả những vấn đề trên đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần có những chủ
trương và chính sách phù hợp với đặc điểm của thế hệ trẻ trong thời kỳ mới,
bên cạnh đó cũng đặt ra yêu cầu cho công tác vận động thanh niên phải có
nội dung và phương pháp thích hợp nhằm tổ chức đoàn kết, tập hợp thanh
niên có hiệu quả, phát huy cao nhất tiềm năng của tuổi trẻ vào sự nghiệp
cách mạng.
Bước vào thời kỳ mới, với nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, Đảng ta không thể lãnh đạo theo phương thức cũ mà cũng phải đổi
mới sự lãnh đạo trong tất cả các lĩnh vực, trong đó có việc đổi mới phương
pháp lãnh đạo công tác thanh niên. Mặt khác, do bất cứ lĩnh vực nào của đời
sống xã hội cũng có sự đóng góp của thanh niên, đòi hỏi thanh niên không
những có tinh thần hăng hái xung phong mà còn phải có trình độ học vấn,
trình độ chuyên môn và quản lý để có thể đảm đương những trọng trách trên
các mặt trận lao động, sản xuất, sáng tạo khoa học kỹ thuật, văn hoá xã hội,
an ninh quốc phòng…Hơn nữa, trong điều kiện mới, yêu cầu và nguyện
vọng của thanh niên nước ta trở nên đa dạng, vấn đề lợi ích của thanh niên
không còn đơn giản như trước. Đảng và Nhà nước ta trước hết đòi hỏi sự
cống hiến của thanh niên nhưng đồng thời cũng chủ trương giải quyết hợp lý
mối quan hệ giữa quyền và nghĩ vụ chính đáng của thanh niên nhằm tạo ra
động lực tinh thần và vật chất cần thiết. Có được như vậy thì công cuộc đổi
48
mới của Đảng mới giành được những thắng lợi to lớn, thực hiện được mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
2.2 công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho thanh niên của Đảng
cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước 1996 -
2006
2.2.1. Giai đoạn 1996 - 2001
Tháng 6 năm 1996, Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII tại thủ đô Hà Nội. Đại hội có nhiệm vụ đánh giá
5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, tổng kết 10 năm Đảng lãnh đạo
công cuộc đổi mới đất nước và đề ra những mục tiêu, biện pháp cho thời kỳ
phát triển mới của đất nước. Đại hội đã khẳng định:
Công cuộc đổi mới 10 năm qua đã thu được những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội lần thứ VII
đề ra cho 5 năm 1991 - 1995 đã hoàn thành về cơ bản. Nước ta đã
ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa
vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá
độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành
cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá [6, tr.67-68].
Báo cáo chính trị đã trình bày những đặc điểm của tình hình thế giới
hiện nay, chỉ ra những xu thế của thời đại, vạch rõ những thời cơ và thách
thức đối với cách mạng nước ta. Trên cơ sở đó, Báo cáo chính trị đã xác
định mục tiêu, nhiệm vụ của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta đến
năm 2020:
Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước
ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện
đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình
49
độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần
cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội [6,
tr.19].
Để thực hiện được mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
Đại hội đã nêu lên 6 nguyên tắc cơ bản:
- Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế. Dựa vào
nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của các
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.
- Phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản để phát triển bền vững.
- Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Lấy hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương hướng
phát triển.
- Kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh.
Đại hội chỉ rõ, bằng các chính sách cụ thể đối với các giai cấp, các
tầng lớp, các dân tộc trong nước, tạo ra những động lực mới thúc đẩy phong
trào cách mạng của nhân dân. Đối với thanh niên, tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh ở mọi cấp, mọi
ngành. Coi trọng hơn nữa việc giáo dục rèn luyện thế hệ trẻ về chính trị, tư
tưởng, văn hoá, nghề nghiệp, đạo đức, lối sống. Quan tâm đào tạo nghề và
giải quyết việc làm, đáp ứng nhu cầu học tập, lao động sáng tạo, hoạt động
văn hoá, nghệ thuật, thể thao và giải trí lành mạnh cho thanh thiếu niên. Tạo
điều kiện cho Đoàn thanh niên thực hiện tốt trách nhiệm đối với Đội Thiếu
niên tiền phong Hồ Chí Minh. Tạo môi trường xã hội lành mạnh, ngăn ngừa
các tệ nạn xã hội và văn hoá phẩm độc hại. Chăm lo giáo dục, đào luyện thế
50
hệ trẻ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính
trị, của gia đình và của toàn xã hội. Nghiên cứu ban hành Luật Thanh niên.
Để thực hiện nhiệm vụ do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đề ra,
tháng 12 năm 1996 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ
hai, thông qua 2 nghị quyết quan trọng: Nghị quyết “Về định hướng chiến
lược phát triển giáo dục đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và nhiệm vụ đến năm 2000”; Nghị quyết “Về định hướng chiến lược phát
triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
nhiệm vụ đến năm 2000”. Trong Nghị quyết “Về định hướng chiến lược
phát triển giáo dục đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
nhiệm vụ đến năm 2000” Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã xác định
những tư tưởng chỉ đạo phát triển công tác giáo dục - đào tạo:
- Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng con
người và các thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, biết giữ gìn và
phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, có năng lực tiếp thu
tinh hoa văn hoá nhân loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và con người
Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm
chủ tri thức khoa học hiện đại, có tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành giỏi,
có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khoẻ vừa
“hồng” vừa “chuyên”. Giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong nội dung,
giáo dục, đào tạo trong chính sách, nhất là chính sách công bằng xã hội, phát
huy tính tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, chống khuynh
hướng “thương mại hóa” trong giáo dục đào tạo, đề phòng khuynh hướng
phi chính trị hoá giáo dục - đào tạo.
- Thực sự coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu.
51
- Giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của
nhân dân.
- Phát triển giáo dục đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế – xã
hội. Những tiến bộ khoa học công nghệ và củng cố quốc phòng an ninh. Coi
trọng cả 3 mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả.
- Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục đào tạo. Tạo điều kiện ai
cũng được học hành. Bảo đảm điều kiện cho những người học giỏi phát triển
tài năng.
- Giữ vững vai trò nòng cốt của các trường công lập đi đôi với đa dạng
hoá loại hình giáo dục - đào tạo trên cơ sở Nhà nước thống nhất quản lý về
nội dung, chương trình, quy chế học, thi cử, văn bằng, tiêu chuẩn giáo
viên…Mở rộng các hình thức đào tạo không tập trung, đào tạo từ xa, từng
bước hiện đại hoá hình thức giáo dục.
Từ những định hướng trên, Nghị quyết chỉ ra những nhiệm vụ và mục
tiêu phát triển chủ yếu của giáo dục - đào tạo từ nay đến năm 2000 và những
giải pháp chủ yếu để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đó. Nghị quyết nhấn
mạnh: Đảng phải tăng cường sự lãnh đạo giáo dục đào tạo thể hiện không
chỉ trên chủ trương, đường lối mà còn thể hiện ở những việc cụ thể. Đồng
thời mỗi gia đình, mỗi người đều phải có trách nhiệm đóng góp vào sự
nghiệp phát triển giáo dục - đào tạo. Đóng góp vào sự nghiệp giáo dục đào
tạo không chỉ là trách nhiệm là nghĩa vụ của mỗi gia đình, mỗi người dân
đối với đất nước, với dân tộc mà còn là lợi ích thiết thân của mỗi người, vì
tương lai của con em mình.
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ hai của Đảng
có ý nghĩa cực kỳ quan trọng về định hướng chiến lược và mục tiêu nhiệm
vụ đến năm 2000 trên 2 lĩnh vực giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ.
52
Đây là yếu tố cơ bản, là khâu đột phá trong giai đoạn mới về công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, là điều kiện quyết định để thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII. Nghị quyết đã đề ra những quyết định
hữu hiệu để khắc phục những hạn chế của lĩnh vực giáo dục - đào tạo và chỉ
rõ định hướng nhiệm vụ, giải pháp cho giáo dục làm tốt nhiệm vụ đào tạo
nguồn nhân lực cho đất nước, đội ngũ lao động cho khoa học công nghệ.
Nghị quyết đã thể hiện sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về tầm quan trọng của
sự nghiệp giáo dục và phát triển khoa học kỹ thuật trong quá trình xây dựng
xã hội mới: Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng
phức tạp, gian khổ và lâu dài, tiến lên chủ nghĩa xã hội không thể vội vàng,
nôn nóng. Đây là một quá trình bao gồm “công tác tổ chức và giáo dục” và
để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì nhân dân ta phải ra sức thi đua
tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm, không ngừng nâng cao trình độ văn
hoá kỹ thuật. Muốn phát triển khoa học kỹ thuật, hình thành con người mới
xã hội chủ nghĩa trước hết phải đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, “dù khó khăn
đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt”, phải tổ chức và quản
lý đời sống vật chất và tinh thần ở các trường học ngày càng tốt hơn. Người
nhắc nhở: “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải phát huy đầy đủ
dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thất chặt chẽ
giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa học trò với nhau, giữa cán bộ các
cấp, giữa nhà trường và nhân dân để hoàn thành thắng lợi đó”.
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai có
ý nghĩa lớn đối với thế hệ trẻ Việt Nam. Nó tạo cơ hội và điều kiện cho
thanh niên thực hiện nhu cầu học tập, vươn lên nhằm đào tạo nguồn nhân
lực trẻ có trình độ học vấn và tay nghề cao, có đạo đức và nhiệt tình cách
mạng, có khả năng đảm dương và hoàn thành mọi nhiệm vụ bảo đảm sự
thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
53
Dưới ánh sáng của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và Nghị quyết
Hội nghị Ban chấp hành TW lần hai về giáo dục và khoa học công nghệ, từ
ngày 26 đến 29/11/1997, Đại hội đại biểu toàn quốc Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh đã diễn ra tại thủ đô Hà Nội với sự tham dự của 899 đại
biểu, đại diện cho trí tuệ, niềm tin của hàng triệu đoàn viên thanh niên từ
mọi miền đất nước. Đây là sự kiện chính trị trọng đại của tuổi trẻ Việt Nam.
Những đại biểu ưu tú nhất của phong trào Đoàn và thanh niên cả nước trên
tất cả các lĩnh vực thuộc nhiều dân tộc đã mang về cho Đại hội sức sống trẻ
trung và trí tuệ sâu sắc, sáng tạo. Đại hội đã tổng kết những thành tích to lớn
cùng những bài học kinh nghiệm quý giá của nhiệm kỳ VI đồng thời đề ra
phương hướng hoạt động trong nhiệm kỳ khoá VII (1997 - 2002) nhằm huy
động đầy đủ sức mạnh của tuổi trẻ cho sự nghiệp đổi mới của đất nước. Để
hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ của Đảng giao cho, Đại hội đã đề ra phương
hướng, nhiệm vụ cơ bản của công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi
trong nhiệm kỳ VII và:
- Tăng cường giáo dục lý tưởng, đạo đức cộng sản chủ nghĩa, lòng yêu
nước, truyền thống cách mạng của Đảng, của dân tộc; Xây dựng nếp sống,
lối sống lành mạnh cho thanh thiếu nhi, khơi dậy trong ý thức tự tôn dân tộc,
ý chí tự lực, tự cường không cam chịu đói nghèo, lạc hậu; có tinh thần khắc
phục khó khăn, xung phong tình nguyện, gương mẫu trong xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
- Chăm lo bồi dưỡng, nâng cao trình độ về mọi mặt về thể lực của
thanh thiếu nhi; động viên và tổ chức thanh thiếu nhi học tập, rèn luyện,
vươn lên làm chủ khoa học công nghệ, góp phàn phát triển và nâng cao chất
lượngnguồn nhân lực trẻ phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
54
- Cổ vũ tinh thần xung phong tình nguyện của thanh niên, hướng dẫn
và tổ chức cho thanh niên xung kích thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh
tế xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh ở mỗi địa phương, cơ sở.
- Xây dựng Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, xứng đáng là môi trường cho thanh niên phán
đấu rèn luyện, cống hiến và trưởng thành, là hạt nhân đoàn kết mọi tầng lớp
thanh thiếu nhi xung quanh Đảng; góp phần xây dựng Đảng và chính quyền
nhân dân; làm tốt công tác chăm sóc giáo dục thanh thiếu niên nhi đồng.
Xuất phát từ mục tiêu, phương hướng nhiệm vụ cơ bản đó, trên cơ sở
những kinh nghiệm của công tác Đoàn và phong trào thanh thêíu nhi trong
nhiệm kỳ qua, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VII quyết định tiếp tục phát
triển hai phong trào lớn “Thanh niên lập nghiệp” và “Tuổi trẻ giữ nước” lên
tầm cao mới nhằm tổ chức động viên Đoàn viên thanh niên tình nguyện “lên
rừng xuống biển”, đem tài năng sức trẻ đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã
hội của đất nước, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền văn hoá
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Phong trào “Thanh niên lập nghiệp” trong thời kỳ mới thể hiện ý chí
và quyết tâm của tuổi trẻ Việt Nam tập trung sức cho mục tiêu phát triển đất
nước, nó động viên và tổ chức cho tuổi trẻ ra sức học tập, rèn luyện tiến
quân vào làm chủ khoa học công nghệ, góp phần nhanh chóng nâng cao
nguồn lực trẻ, phát huy tiềm năng sáng tạo và thế mạnh thanh niên xung
kích thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá làm giàu cho bản thân và đất
nước.
Phong trào “Tuổi trẻ giữ nước”cũng thể hiện quyết tâm và ý chí của
tuổi trẻ tham gia bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của
đất nước nhằm giữ vững ổn định chính trị và an toàn xã hội, đảm bảo quốc
phòng an ninh vững mạnh, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống. Đó cũng
55
chính là tình cảm và trách nhiệm của tuổi trẻ ngày nay trong việc bảo vệ, giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, xây dựng nếp sống mới, bài trừ các
tệ nạn xã hội, góp phần tạo ra môi trường văn hoá xã hội lành mạnh để mỗi
thanh niên có cơ hội phát triển và hoàn thiện nhân cách. Khẩu hiệu của
thanh niên là: Thanh niên Việt Nam xung kích, sáng tạo vì sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì tương lai tươi sáng của tuổi trẻ.
Để thực hiện phương hướng, nhiệm vụ cơ bản của công tác Đoàn và
phong trào thanh niên, Đại hội đã đề ra 7 chương trình hành động cách mạng
xuyên thế kỷ của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và tuổi trẻ Việt
Nam tham gia phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chương trình 1: “Giáo dục lý tưởng cho thanh niên; tham gia xây
dựng nến văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Mục tiêu của chương
trình là giáo dục lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng
nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, hình
thành bản lĩnh chính trị, ý thức tự tôn dân tộc, đạo đức cách mạng, lối sống,
nếp sống cho thanh thiếu nhi. Động viên tuổi trẻ tham gia tích cực xây dựng
nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Nội dung và biện pháp thực
hiện:
- Tăng cường tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mac - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, lòng yêu nước cho thanh thiếu nhi.
- Tăng cường giáo dục nâng cao hiểu biết cho thanh thiếu nhi về các
giá trị văn hoá truyền thống; lòng tự hào dân tộc, góp phần giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hoá Việt Nam; tiếp thu văn hoá nhân loại trong ý thức, nếp
sống, lối sống và hành vi của thanh thiếu nhi.
- Coi trọng đẩy mạnh các hoạt động giáo dục đạo đức cách mạng
trong thanh thiếu niên.
56
Chương trình 2: “Thanh niên học tập, sáng tạo, làm chủ khoa học -
công nghệ”. Mục tiêu: chăm lo bồi dưỡng để nâng cao trình độ học vấn,
khoa học kỹ thuật, công nghệ, chuyên môn, nghề nghiệp cho thanh thiếu nhi.
Vì sự phát triển của thanh thiếu nhi, góp phần nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực trẻ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nội dung và
biện pháp thực hiện:
- Cổ vũ và thúc đẩy phong trào học tập, rèn luyện trong thanh thiếu
nhi cả nước ở trong và ngoài nhà trường, thực hiện mục tiêu xoá mù chữ và
phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000; phổ cập giáo dục THCS cho thanh
niên ở đô thị và các vùng kinh tế phát triển. Phấn đấu để mỗi thanh niên vào
đời biết ít nhất 1 nghề.
- Tăng cường công tác giáo dục hướng nghiệp cà đào tạo nghề nghiệp
cho thanh thiếu nhi, hình thành thái độ và phong cách nghề nghiệp đúng đắn
cho thanh niên.
- Tổ chức và động viên thanh niên tiến quân vào khoa học - công
nghệ.
Chương trình 3: “Thanh niên tình nguyện thực hiện các chương trình,
dự án trọng điểm quốc gia”. Mục tiêu: động viên đông đảo đoàn viên thanh
niên tình nguyện tham gia xây dựng các công trình, chương trình trọng điểm
của dịa phương và cả nước qua đó rèn luyện, bồi dưỡng thanh niên. Nội
dung và biện pháp thực hiện:
- Khơi dậy trong thanh niên khí thế “Ba sẵn sàng”, “Năm xung
phong”, tinh thần “Đâu Đảng cần thanh niên có, việc gì khó thì thanh niên
làm”, sẵn sàng đi bất cứ nới đâu để làm giàu cho đất nước.
- Toàn Đoàn tích cực hưởng ứng tham gia trồng rừng, góp phần thực
hiện mục tiêu phủ xanh đất trống đồi núi trọc.
- Chủ động xây dựng các đề án phù hợp để Đoàn thanh niên khai thác
và phát triển kinh tế biển, nhất là các vùng biển xa…
57
Chương trình 4: “Thanh niên giúp nhau lập nghiệp, tham gia phát
triển kinh tế - xã hội”. Mục tiêu: Động viên, tổ chức và hướng dẫn đoàn viên
thanh niên tham gia thực hiện các chương trình phát triển kinh tế – xã hội
của đất nước và từng địa phương. Góp phần giải quyết vấn đề việc làm, nâng
cao thu nhập và xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, tiến bộ. Nội dung
và biện pháp thực hiện:
- Phát triển rộng rãi mô hình trí thức trẻ tình nguyện tham gia phát
triển nông thôn, vùng sâu vùng xa. Đoàn thanh niên sẽ phối hợp với các Bộ,
ngành, các cấp chính quyền tham gia phát triển kinh tế xã hội tại các xã
vùng sâu, vùng xa, miền núi đặc biệt khó khăn.
- Tăng cường hướng dẫn và vận động thanh niên tự giúp nhau lập
nghiệp, phát triển các loại quỹ qua các chương trình, dự án, khuyến khích
thanh niên tự góp vốn và tự giúp nhau phát triển kinh tế gia đình..
- Tích cực tham gia thực hiện chương trình quốc gia về giải quyết việc
làm, cùng Nhà nước và xã hội tạo việc làm cho hơn 1 triệu lao động mỗi
năm, giảm tỷ lệ thất nghiệp cho thanh niên…
- tiếp tục nâng cao chất lượng và mở rộng các hoạt động giáo dục cho
thanh thiếu niên về dân số, sức khoẻ, môi trường.
- Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn tổ chức
thanh niên tham gi phòng chống các tiêu cực, tệ nạn xã hội, các cơ sở đoàn
phấn đấu đạt danh hiệu “Đoàn trường không có ma tuý”; “chi đpàn, chi đội
không có ma tuý và tệ nạn xã hội”…
- Phát triển rộng rãi các hoạt động xã hội, nhân đạo, từ thiện giúp đỡ
thanh thiếu niên nghèo, trẻ em mồ côi, tàn tật, thiên tai hoạn nạn…
Chương trình 5: “Thanh niên thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc”.
Mục tiêu: phát huy vai trò tuổi trẻ tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn
58
dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nội dung và biện pháp thực hiện:
- Động viên tổ chức thanh niên tham gia xây dựng nền quốc phòng
toàn dân
- Tăng cường các hoạt động thanh niên tham gia giữ gìn an ninh và
trật tự xã hội.
- Đẩy mạnh các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ
nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, cói đó vừa là trách nhiệm, vừa là tình
cảm của thế hệ trẻ với cha anh đi trước.
- Phát triển phong trào thanh niên khoẻ để lập nghiệp và giữ nước, góp
phần nâng cao sức khoẻ cho thanh niên.
Chương trình 6: “Bảo vệ chăm sóc và giáo dục thiếu niên nhi đồng”.
Mục tiêu: hình thành lớp thiếu nhi Việt Nam giàu có về trí tuệ, khoẻ mạnh
về thể lực, trong sáng về đạo đức, có lối sống lành mạnh. Nội dung và biện
pháp thực hiện:
- Tổ chức tốt các phong trào và hoạt động thiếu nhi trong và ngoài nhà
trường, giúp đỡ trẻ em ở các vùng khó khăn.
- Làm tốt công tác tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện tốt Luật
bảo vệ và chăm sóc trẻ em và Luật phổ cập giáo dục tiểu học, hình thành ý
thức cộng đồng trách nhiệm của xã hội trong bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em.
Chương trình 7: “Hội nhập quốc tế thanh niên và tăng cường công
tác quốc tế của Đoàn”. Mục tiêu: tạo điều kiện và cơ hội cho tuổi trẻ Việt
Nam hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở của Đảng và
Nhà nước ta, tạo nguồn lực phục vụ cho công tác Đoàn và phong trào thanh
niên. Nội dung và biện pháp thực hiện:
59
- Giáo dục tinh thần quốc tế chân chính cho tuổi trẻ, giáo dục ý thức
cảnh giác chống âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.
- Đẩy mạnh đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ quốc tế của
Đoàn, các hoạt động giao lưu, hợp tác để tranh thủ sự giúp đỡ về kinh
nghiệm, khoa học công nghệ…cho các hoạt động của Đoàn.
- Tổ chức tốt các hoạt động tuyên truyền đối ngoại thanh niên Việt
Nam ở nước ngoài hướng về và góp sức xây dựng quê hương.
Trên tinh thần đó tháng 2 năm 1998, Hội nghị Ban chấp hành TW
Đoàn lần thứ hai đã thảo luận và xây dựng công tác Đoàn và phong trào
thanh niên, thiếu niên. Ngay từ đầu năm 1998, các cấp bộ Đoàn đã tổ chức
nghiên cứu, thảo luận đẻ quán triệt nghị quyết Đại hội Đoàn lần thứ VII thu
hút đông đảo đoàn viên tham gia với nhiều hình thức phong phú, phù hợp
với các đối tượng thanh niên. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, định
hướng lý tưởng cho thanh niên, giáo dục pháp luật đã được các cấp bộ đoàn
triển khai rộng khắp với nhiều hình thức và chủ đề gần gũi với đoàn viên
thanh niên như: “Tôi - người đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh”;
“Lý tưởng của thanh niên ngày nay”; “Hành trang và thế hệ mới”. Công tác
giáo dục truyền thống, đạo đức cách mạng, giáo dục lòng yêu nước, xây
dựng nếp sống mới có nhiều nét mới, hấp dẫn và hiệu quả hơn trước.
Bên cạnh đó các cấp bộ đoàn đã chủ động đẩy mạnh tuyên truyền,
giáo dục để quán triệt các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước như quán triệt các Nghị quyết, hội nghị Ban Chấp hành TW Đảng
lần thứ 5, lần thứ 6, lần thứ 7, lần thứ 8 (khoá VIII).
Để nâng cao nhận thức chính trị và giác ngộ lý tưởng cho đoàn viên
thanh niên, Ban Thường vụ TW Đoàn đã quyết định lấy năm 1999 là năm
mở đầu học ấy luận chính trị cho đoàn viên thanh niên và tổ chức biên soạn
phát hành cuốn sách “Năm bài học lý luận chính trị”. Đến cuối năm năm
60
1999, tất cả các Tỉnh, Thành Đoàn và Đoàn trực thuộc đã triển khai việc học
tập 5 bài học lý luận chính trị cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên
các cấp, chỉ đạo điểm rút kinh nghiệm và tổ chức triển khai học tập cho đông
đảo đoàn viên thanh niên. Trong năm 1999, công tác giáo dục truyền thống
tiếp tục được triển khá rộng, nổi bật là các hoạt động mừng Đảng, mừng
xuân, kỷ niệm ngày thành lập Đoàn 26/3, kỷ niệm 45 năm chiến thắng lịch
sử Điện Biên Phủ, 24 năm ngày giải phóng miền Nam, 30 năm thực hiện Di
chúc của Bác Hồ, 55 năm ngày thành lập quân đội nhân dân Việt Nam …
Hưởng ứng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống
mới trên điạn bàn dân cư” do Uỷ ban TW Mặt trân Tổ quốc Việt Nam phát
động, đông đảo thanh niên đã tham gia và đạt hiệu quả cao. Công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật, phòng chống tệ nạn xã hội được tăng cường. Các
mô hình như câu lạc bộ “Sức khoẻ sinh sản vị thành niên”, phòng chống tệ
nạn xã hội và HIV/AIDS được phát triển rộng khắp các cơ sở đoàn. Đặc biệt
là mô hình trung tâm tư vấn khá phát triển. Từ 2 trung tâm tư vấn do Trung
ương thí điểm xây dựng năm 1998, đến cuối năm 1999 đã có thêm 7 trung
tâm tư vấn trải dọc chiều dài từ Bắc vào Nam. Các trung tâm này đã tư vấn
qua điện thoại và trực tiếp cho hơn 50.000 trường hợp…Cuộc thi “Vì sức
khỏe và hạnh phúc của bạn” trong năm 1999 đã nhận được hơn 1,3 triệu bài
dự thi. Có thể nói sau 2 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đoàn lần thứ VII,
công tác xây dựng và củng cố tổ chức Đoàn và công tác đoàn kết tập hợp
thanh niên đã có bước tiến vượt bậc, đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ
trong hoạt động Đoàn và phong trào thanh niên.
Ngày 10/1/2000, trong văn bản số 378 – CV/TW của Ban Chấp hành
TW Đảng gửi Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh ghi rõ: “Thường vụ Bộ
Chính trị đồng ý với đề nghị của Ban Bí thư TW Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
về việc lấy năm 2000 là Năm thanh niên”(tờ trình số 122/TT/TWĐTN ngày
61
2/12/1999 và công văn số 124/TWĐTN ngày 15/12/1999). Khắp nơi trên cả
nước, tuổi trẻ dấy lên các phong trào thi đua sôi nổi với tinh thần xung
phong tình nguyện, đem hết tài năng của mình để thực hiện thắng lợi mọi
nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước tin cậy giao cho.
Ngày 15/1/2000 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Hội Liên hiệp
thanh niên Việt Nam đã họp tại Hà Nội. Đại hội đã vinh dự được đón đồng
chí Lê Khả Phiêu, Tổng Bí thư Ban Chấp hành TW Đảng đến dự và phát
biểu: “Kết thúc một thế kỷ đấu tranh oanh liệt là năm thanh niên. Vinh dự và
tự hào! Năm thanh niên là năm học tập và truyền thụ lý tưởng yêu nước,
nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực nghiệp vụ; là năm nâng cao chất
lượng toàn diện về học tập và nghiên cứu. Thanh niên có nghề và tiến lên
đuổi kịp trình độ hiện đại của thế giới; là năm tình nguyện, xông pha đem
hết sức trẻ và hoài bão cách mạng hoàn thành bất cứ nhiệm vụ nào của Đảng
và Nhà nước giao cho…là năm các nhà khoa học trẻ, các nhà doanh nghiệp
trẻ có nhiều sáng tạo mới, cống hiến mới góp phần giải quyết các vấn đề
thực tiễn của nền kinh tế – xã hội nước ta; là năm thanh niên giữ nghiêm
phép nước, rèn luyện sức khoẻ, đời sống lành mạnh, sinh hoạt văn hoá đậm
đà bản sắc dân tộc”. Tuổi trẻ cả nước dấy lên một phong trào thi đua sôi nổi
với tinh thần xung phong tình nguyện đem hết tài năng và tâm huyết thực
hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước tin cậy giao cho.
Năm 2000 cũng là năm kỷ niệm nhiều ngày lễ trọng đại của dân tộc
như 75 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, 110 năm ngày sinh Chủ
tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, 55 năm thành lập nước..Các địa phương, các cấp bộ
đoàn đã phát động phong trào thi đua chào mừng những ngày lễ lớn của dân
tộc. Phong trào tình nguyện được phát triển rộng khắp với 500 tri thức tình
nguyện về 125 xã nghèo, vùng sâu vùng xa hẻo lánh, mang ánh sáng văn hoá
của Đảng đến với các đồng bào vùng sâu vùng xa. Chiến dịch “Mùa hè
62
xanh” của thành đoàn thành phố Hồ Chí Minh cũng như chiến dịch “ánh
sáng văn hoá” của thành đoàn thành phố Hà Nội đã thu hút được hàng vạn
thanh niên, đoàn viên tham gia. Trong nhiệm kỳ Đoàn này, đã có 81.700
thanh niên tình nguyện tham gia chiến dịch ánh sáng văn hoá; 600 thanh
niên tình nguyện đi dạy xoá mù chữ tại các vùng khó khăn từ 1-2 năm; trên
toàn quốc đã tổ chức được 34.555 lớp xoá mù chữ cho hơn 740.000 người.
Đến năm 2000 Việt Nam đã hoàn thành chương trình xoá mù chữ và phổ cập
giáo dục tiểu học trên phạm vi cả nước và được thế giới công nhận.
Phong trào thanh niên tình nguyện dấy lên từ năm thanh niên được
triển khai toàn diện đẩy lên thành cao trào, bằng các hoạt động tham gia xoá
đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phát triển kết cấu hạ tầng cơ sở,
tham gia xây dựng và chi viện cho tuyến đường Hồ Chí Minh, triển khai dự
án đưa 500 tri thức trẻ tham gia phát triển nông thôn, miền núi, triển khai
chương trình xoá cầu khỉ, xây cầu mới ở đồng bằng sông Cửu Long, triển
khai dự án đưa 500 y bác sĩ trẻ về vùng sâu, vùng xa, tham gia trồng rừng và
xây dựng các cụm dân cư dọc tuyến đường Hồ Chí Minh…Việc tham gia
thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án trọng điểm quốc gia và địa
phương trên khẳng định một tư duy mới về chỉ đạo và tính mục tiêu của các
phong trào thanh niên, đó là đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của
đất nước, chăm lo quyền lợi của đoàn viên thanh niên và củng cố tổ chức
đoàn, góp phần khẳng định tầm cao mới của phong trào thanh niên lập
nghiệp trong thời kỳ mới.
Phong trào “giành ba đỉnh cao quyết thắng” (lý tưởng đẹp - trách
nhiệm cao, học tập tốt - hành động giỏi, đoàn kết tốt - kỷ luật nghiêm) trong
thanh niên quân đội và phong trào thi đua học tập và thực hiện 6 điều Bác
Hồ dạy Công an nhân dân trong thanh niên công an tiếp tục được đẩy mạnh,
63
góp phần tạo ra môi trường để thanh niên các lực lượng vũ trang rèn luyện
bản lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng và trưởng thành về mọi mặt.
Bên cạnh đó các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn
được đẩy mạnh, thu hút sự tham gia tự nguyện, tự giác của các đối tượng
thanh niên. Các cấp bộ Đoàn trong cả nước đã xây dựng được 2.621 ngôi
nhà tình nghĩa trí giá 39,9 tỷ đồng; năm 2000 nhận phụng dưỡng đến cuối
đời 3.264 bà mẹ Việt Nam anh hùng, nhận chăm sóc thường xuyên 6.104
mẹ. Nhìn chung các hoạt động xã hội nhân đạo, từ thiện, các cuộc vận động
của Đoàn phát triển ngày càng sâu rộng, thu hút sự tham gia tự giác của
đông đảo đoàn viên, thanh niên, thiếu nhi, được xã hội, các cấp, các ngành
đánh giá cao và ủng hộ, góp phần đoàn kết, tập hợp, giáo dục thanh niên.
Phong trào “khoẻ để lập nghiệp giữ nước” được duy trì thông qua các giải
thể thao và phong trào thể dục thể thao quần chúng thu hút đông đảo thanh
thiếu niên tham gia. Năm 2000 đã có gần 1,5 triệu đoàn viên, thanh niên đã
tích cực phấn đấu dạt danh hiệu thanh niên khoẻ, 34.160 chi đoàn, chi hội
được công nhận là chi đoàn, chi hội khoẻ.
Có thể nói, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VIII và 15 năm đất nước tiến hành đổi mới, các phong trào thanh
niên đã có sự biến đổi cả về chất và lượng. Hàng loạt các công trình thanh
niên được xây dựng, hàng trăm phong trào thanh niên được tuyên truyền,
phổ biến rộng rãi tới các thế hệ thanh thiếu niên và đã được đông đảo thanh
niên nhiệt tình tham gia có hiệu qủa. Các hoạt động đoàn trên đã mang lại
hiệu quả giáo dục to lớn, đặc biệt là cuộc vận động “nghĩa tình biên giới hải
đảo”, phong trào “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn” cùng các
phong trào trong cac lực lượng vũ trang đã góp phần khẳng định tầm cao
mới của phong trào thanh niên lập nghiệp và tuổi trẻ giữ nước trong nhiệm
kỳ qua.
64
* Hạn chế:
- Công tác chỉ đạo của các cấp bộ Đoàn còn thụ động, dàn trải, thiếu
trọng tâm, trọng điểm. Chưa được tổ chức thường xuyên đều khắp trong các
đối tượng, lĩnh vực; phong trào trong khối công nhân, hành chính thanh niên
đô thị vẫn khó khăn, các hoạt động phong chống tệ nạn xã hội chưa đến với
thanh niên chậm tiến, các tệ nạn xã hội có xu hướng tăng.
- Các chính sách đối với thanh niên, đặc biệt là Luật Thanh niên chưa đi
vào cuộc sống, gây khó khăn cho việc triển khai các phong trào thanh niên.
- Công tác tuyên truyền giáo dục được tiến hành thường xuyên nhưng
hiệu quả chưa cao, nội dung và hình thức còn nghèo nàn, thiếu những hình
thức thiết thực có tính hiệu quả cao.
- Hoạt động của tổ chức cơ sở đoàn tuy có nhiều cố gắng nhưng kết
quả đạt được chưa cao, đặc biệt là ở các khu vực vùng sâu, vùng xa.
- Sự lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp uỷ Đảng có nơi có lúc chưa chặt
chẽ và thường xuyên.
- Chính quyền các cấp ở một số địa phương chưa có chương trình kế
hoạch cụ thể hoá Nghị quyết của Đảng về thanh niên và công tác thanh niên,
chứ quan tâm đầu tư thích đáng cho hoạt động Đoàn.
* Nguyên nhân:
- Đội ngũ cán bộ Đoàn tuy đã được đào tạo, bồi dưỡng nhưng đôi chỗ,
đôi lúc trong công việc vẫn còn lúng túng, thiếu linh hoạt trong xử lý công
tác. Cá biệt có một số cán bộ Đoàn thiếu nhiệt tình trong các hoạt động,
tham gia các phong trào theo kiểu hình thức, trên chỉ đạo như thế nào thì
thực hiện theo thế đó, thiếu sự sáng tạo của tuổi trẻ…
- Công tác kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng chưa
thường xuyên, chặt chẽ, liên tục. Có nơi buông lỏng, phó mặc công tác cho
tổ chức Đoàn thanh niên, do đó hiệu quả chưa cao.
65
- Kinh phí đầu tư cho hoạt động Đoàn còn thấp, chế độ ưu đãi đối với
cán bộ đoàn còn gặp khá nhiều khó khăn nên đã ảnh hưởng không nhỏ tới
chất lượng, hiệu quả của các phong trào đoàn.
- Chính quyền các cấp ở cơ sở một số nơi chưa có chương trình, kế
hoạch để cụ thể hoá các Nghị quyết của Đảng về thanh niên và công tác giáo
dục thanh niên. Chưa có sự đầu tư thích đáng cho các hoạt động Đoàn…
2.2.2. Giai đoạn 2001 - 2006
Tháng 4 năm 2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
được triệu tập tại Hà Nội. Đại hội đã đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại
hội VIII; kiểm điểm, đánh giá việc thực hiện chiến lược ổn định và phát triển
kin h tế- xã hội 1991 – 2000; tổng kết những thành tựu bài học chủ yếu của
15 năm đổi mới; hoạch định đường lối phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
Sau khi đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII trong 5 năm
1996 - 2000, Đại hội IX đã tập trung Tổng kết 10 năm thực hiện “Chiến lược
ổn định và phát triển kinh tế xã hội dến năm 2000”. Kết quả là đến năm
2000, tổng sản phẩm trong nước tăng hơn gấp đôi so với năm 1990. Kết cấu
hạ tầng kinh tế xã hội và năng lực sản xuất tăng nhiều. Nền kinh tế từ tình
trạng khan hiếm nghiêm trọng đã chuyển sang sản xuất đáp ứng được các
nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế; từ cơ chế quản lý tập trung
quan liêu, bao cấp đã chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; từ chỗ chủ yếu chỉ có hai thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế tập
thể đã chuyển sang có nhiều thành phần trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai
trò chủ đạo. Đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Đất nước ra
khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, vượt qua được cơn chấn động chính trị ở
Liên Xô và Đông Âu gây ra; phá được thế bao vây cấm vận, mở rộng được
quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; không để bị cuốn
sâu vào khủng hoảng tài chính kinh tế ở một số nước châu á mặc dù hậu quả
66
của nó đối với nước ta khá nặng nề. Tình hình chính trị xã hội cơ bản ổn
định. Quốc phòng và an ninh được tăng cường. Sức mạnh về mọi mặt của
nước ta đã lớn hơn nhiều so với 10 năm trước.
Đại hội đánh giá tổng quát: Phần lớn các mục tiêu chủ yếu đề ra trong
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 1991-2000 đã được thực
hiện. Nền kinh tế có bước phát triển mới về lực lượng sản xuất, quan hệ sản
xuất và hội nhập kinh tế quốc tế; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân
được cải thiện rõ rệt, văn hoá xã hội không ngừng tiến bộ; thế và lực của đất
nước hơn hẳn 10 năm trước; khả năng độc lập tự chủ được nâng lên, tạo
thêm điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đại hội khẳng định những kinh nghiệm, bài học đổi mới mà các Đại hội
VI, VII, VIII của Đảng đúc rút vẫn có giá trị, nhất là các bài học chủ yếu sau:
- Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập và chủ
nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Hai là, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân phù
hợp với thực tiễn và luôn luôn sáng tạo.
- Ba là, đổi mới kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
- Bốn là, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành
công của sự nghiệp đổi mới.
Thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được của 15 năm đổi
mới đã chứng minh tính đúng đắn của Cương lĩnh được thông qua tại Đại
hội VII của Đảng, đồng thời giúp Đảng ta nhận thức ngày càng rõ hơn về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa
những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa đặc
67
biệt về khoa học công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất xây dựng
nền kinh tế hiện đại. Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự
nghiệp khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài
với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất
quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu
tranh giữa cái cũ và cái mới.
Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển
văn hoá và giáo dục, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai
trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục
và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
Trên cơ sở tổng kết những thành tựu, khuyết điểm, bài học của 15
năm đổi mới và dự báo tình hình phát triển trong những năm tiếp theo, Đại
hội IX đã hoạch định Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 với
mục tiêu tổng quát là: đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng
cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng,
tiềm lực kinh tế quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản, vị thế của
nước ta trên trường quốc tế được nâng cao.
Đối với công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong thời kỳ mới,
Đại hội IX chỉ rõ: “Đối với thế hệ trẻ chăm lo giáo dục, bồi dưỡng đào tạo,
phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hoá, sức
68
khoẻ, nghề nghiệp, giải quyết việc làm, phát triển tài năng và sức sáng tạo,
phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Với tinh thần “Đoàn kết, sáng tạo, xung kích, tình nguyện”, Đại hội
Đoàn toàn quốc lần thứ VIII tháng 12 - 2002 được triệu tập tại Hà Nội đã
mở ra một trang mới trong lịch sử phát triển của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
Đại hội đã đánh giá thực trạng và công tác Đoàn, phong trào thanh niên
trong nhiệm kỳ trước, những mặt còn tồn tại và phương hướng phát triển
trong thời gian tới. đồng thời phát động rộng rãi trong toàn Đoàn và thanh
thiếu nhi cả nước phong trào lớn “Thi đua, tình nguyện xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc”. Ban Chấp hành Trung ương đoàn khoá VIII đã thông qua chương
trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội, trong đó đề ra 6 chương trình
hành động cách mạng của tuổi trẻ, xác định nhiệm vụ xây dựng Đoàn TNCS
Hồ Chí Minh vững mạnh, xứng đáng đóng vai trò nòng cốt trong phong trào
thanh thiếu niên, lực lượng dự bị tin cậy của Đảng, chỗ dựa vững chắc của
chính quyền nhân dân. Đại hội đã phát động các phong trào lớn “Thi đua,
tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” và kêu gọi tuổi trẻ Việt Nam cùng
siết chặt tay dưới lá cờ vinh quang của Đoàn, nguyện đi theo con đường
cách mạng của Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn, nắm chắc thời cơ,
vượt qua thử thách, góp phần to lớn vào sự nghiệp đổi mới đất nước.
Phong trào mới với sức sống mới, hàng triệu thanh niên thi đua học
tập, tiến quân vào khoa học công nghệ; thi đua lao động sáng tạo để lập thân
lập nghiệp; xung phong tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng; góp phần giữ
vững an ninh, chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Các cuộc vận động,
phong trào mới được triển khai rộng rãi: “Sáng tạo trẻ”, “Bốn mới”(kỹ thuật
mới, ngành nghề mới, thị trường mới, mô hình mới), “cán bộ công chức trẻ
với cải cách hành chính”, “học tập tốt, rèn luyện tốt”;…đã góp phần khơi
69
sức thanh niên trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra nhiều mô hình
hay, cách làm sáng tạo từ thực tiễn.
Đặc biệt, với sinh hoạt chính trị “Tuổi trẻ với tư tưởng Hồ Chí Minh”,
cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam sống, chiến đấu và học tập theo gương
Bác Hồ vĩ đại” được Ban Bí thư TW Đoàn phát động đúng vào dịp kỷ niệm
115 năm ngày sinh nhật Bác đã tạo nên sự chuyển biến cả trong nhận thức
và hành độnh của đông đảo Đoàn viên thanh niên. Đợt sinh hoạt “Tiếp lửa
truyền thống – Mãi mãi tuổi hai mươi”, “Tuổi trẻ sống đẹp, sống có ích” đã
có sức lôi cuốn và lan toả mạnh mẽ, tạo hiệu ứng xã hội sâu rộng góp phần
quan trọng nâng cao nhận thức, bồi đắp lý tưởng cách mạng và niềm tin cho
thế hệ trẻ.
Với mục tiêu nâng cao chất lượng chính trị, củng cố niềm tin, bồi
dưỡng lý tưởng, đạo đức cách mạng, lối sống văn hoá và ý thức công dân
cho đoàn viên, thanh niên. Bằng nhiều hình thức và biện pháp sáng tạo, các
cấp bộ Đoàn đã tổ chức tốt việc học tập các Nghị quyết của Đảng, của Đoàn.
Việc cung cấp thông tin, tình hình thời sự, chính trị đặc biệt là những sự kiện
nổi bật trong nước và quốc tế, về âm mưu chống phá nước ta của các thế lực
thù địch cho cán bộ đoàn viên, thanh niên được chú trọng. Các cấp bộ Đoàn
đã chủ động tìm tòi, tổ chức nhiều nội dung và cách làm sáng tạo để đưa chủ
trương, Nghị quyết của Đảng, của Đoàn đến với Đoàn viên, thanh niên như:
tổ chức thi báo cáo viên, tuyên truyền viên trẻ về Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX, tổ chức thi viết tìm hiểu về tư tưởng Hồ Chí
Minh…Thực hiện chỉ thị số 23 - CT/TW ngày 27/3/2003 của Ban Bí thư
TW Đảng về: “Đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ
Chí Minh trong giai đoạn mới”; phát động trong toàn Đoàn triển khai cuộc
vận động: “Tuổi trẻ Việt Nam Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo
gương Bác Hồ vĩ đại”…Tổ chức tập huấn cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên
70
truyền viên và cán bộ làm công tác tư tưởng văn hoá ở các tỉnh, thành đoàn,
đoàn trực thuộc về các chuyên đề tư tưởng Hồ Chí Minh; biên tập tài liệu
học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cho thanh niên; hướng dẫn chỉ đạo cơ sở tổ
chức cho đoàn viên thanh niên xem, trao đổi và thuyết trình về nội dung bộ
phim “Hồ Chí Minh chân dung một con người”, thi tuyên truyền viên trẻ,
diễn đàn, trao đổi, thi viết liên hoan văn nghệ các công tác khúc viết về Bác
Hồ…
Trên cơ sở kết quả và bài học kinh nghiệm trong việc triển khai học
tập 5 bài lý luận chính trị cho Đoàn viên, thanh niên nhiệm kỳ VII, Ban Bí
thư TW Đoàn phối hợp với Ban Tư tưởng văn hoá TW Đảng biên soạn tài
liệu “6 bài học lý luận chính trị cho Đoàn viên, thanh niên ” đồng thời phối
hợp chỉ đạo việc triển khai học tập lý luận chính trị cho cán bộ Đoàn viên,
thanh niên. Tổ chức sinh hoạt chính trị : “ Nghị quyết Đại hội Đoàn VIII và
hành động của tuổi trẻ” và sinh hoạt chính trị “ Tuổi trẻ với tư tưởng Hồ Chí
Minh ” với nhiều nội dung phong phú, hình thức sáng tạo…Đặc biệt các cấp
bộ Đoàn đã tích cực hưởng ứng triển khai đợt sinh hoạt chính trị “ Tiếp lửa
truyền thống – Mãi mãi tuổi 20” do Ban Bí thư TW Đoàn phát động. Đoàn
viên cả nước đã sôi nỏi tham gia các phong trào hoạt động quyên góp xây
dựng bệnh xá Đặng Thuỳ Trâm, đọc và tìm hiểu 2 cuốn sách Mãi mãi tuổi
20 của Nguyễn Văn Thạc và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm. Đây là đợt sinh hoạt
chính trị có sức lan toả trong thanh niên, trở thành một hiện tượng trong đời
sông văn hoá tư tưởng của giới trẻ và toàn xã hội, có tác dụng sâu sắc về
giáo dục lý tưởng, truyền thống cách mạng của cha anh, khẳng định niềm
tin, tình cảm và trách nhiệm của tuổi trẻ đối với đất nước, góp phần làm thay
đổi suy nghĩ, cách nhìn nhận của một bộ phận đối với thế hệ trẻ hôm nay.
Đồng thời đặt ra cho các cấp bộ đoàn những suy nghĩ và yêu cầu tiếp tục đổi
mới công tác giáo dục hiện nay sao cho thiết thực và hiệu quả thông qua
71
gương người tốt việc tốt, những điển hình trong mọi mặt đời sống xã hội,
tránh lối giáo dục phô trương, hình thức giáo dục theo lối một chiều không
phát huy được trí tuệ của đoàn viên thanh niên.
Công tác giáo dục truyền thống thông qua các hoạt động lớn, thông
qua các cuộc thi, thông qua các hoạt động xã hội đền ơn đáp nghĩa, uống
nước nhớ nguồn cũng được tăng cường cả về chiều rộng và chiều sâu, được
đông đảo đoàn viên thanh niên tham gia tích cực. Qua các hoạt động như mít
tinh, hội trại, các hoạt động về nguồn, thăm chiến trường xưa, gặp gỡ các
chứng nhân lịch sử, kể chuyện truyền thống …đã thu hút được hàng chục
triệu lượt thanh niên tham gia. Công tác giáo dục vè truyền thống vẻ vang
của Đoàn và của tuổi trẻ Việt Nam cho thanh thiếu niên đã có sự chuyển
biến tích cực thông qua việc triển khai các hoạt động trong “Tháng Thanh
niên”, kết hợp giữa các hoạt động tuyên truyền, giáo dục truyền thống với
các phong trào hành động cách mạng của tuổi trẻ, thể hiện sự sáng tạo của
Đoàn trước yêu cầu của tình hình mới. Trung ương Đoàn đã tổ chức nhiều
cuộc thi tìm hiểu truyển thống do Đoàn, Hội tổ chức như cuộc thi “Âm vang
Điện Biên”; “Sáng mãi phẩm chất bộ đội cụ Hồ”; “Tìm hiểu 75 năm ngày
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam”; “Tìm hiểu 60 năm, nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam”; “Tìm hiểu 75 năm lịch sử vẻ vang của Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh”…Nhiều cấp bộ đoàn đã nhận phụng dưỡng các bà mẹ
Việt Nam anh hùng, xây nhà tình nghĩa, ủng hộ nguyên vật liệu, ngày công
giúp đỡ các gia đình chính sách, thăm hỏi tặng quà ngày lễ tết…Thông qua
các hoạt động trong “Tháng Thanh niên”, công tác giáo dục truyền thống đã
được đẩy mạnh, các liên hoan văn nghệ, các buổi giao lưu kết nghĩa, các
hoạt động tình nguyện vì cộng đồng trong đó có các nộidung giúp đỡ các gia
đình chính sách là sự kết hợp nhuần nhuyễn giáo dục truyền thống với
phong trào hành động cách mạng của tuổi trẻ. Riêng trong tháng Thanh niên
72
2005 với chủ đề “Tự hào tuổi trẻ thế hệ Bác Hồ” đã có 34.922 công trình
phần việc thanh niên được thực hiện với tổng trị giá trên 103 tỷ đồng;
415.093 ngày công và trên 5 tỷ đồng giúp đỡ các gia đình chính sách, 2 tỷ
737 triệu đồng ủng hộ cuộc vận động “Nghĩa tình biên giới hải đảo”; 3.938
đội thanh niên tình nguyện tham gia tuyên truyền giữ gìn trật tự an toàn giao
thông; trên 40 ngìn cuộc giao lưu, biểu diễn văn nghệ và diễn đàn, toạ đàm
về lối, nếp sống; 11.110 buổi xem, thuyết trình, thi tìm hiểu các bộ phim về
tư tưởng Hồ Chí Minh; 2.390 lượt đội tuyên truyền thanh niên về tư tưởng
Hồ Chí Minh đến với cơ sở; 12.036 cuộc giao lưu giữa cấp uỷ, chính quyền
và các Ban ngành đoàn thể với thanh niên; 10.629 đoàn viên thanh niên
được vay vốn sản xuất kinh doanh với số vốn 11 tỷ 336 triệu đồng; kết nạp
205.851 đoàn viên mới, đưa số đoàn viên cả nước đạt trên 5 triệu; 1.465 cơ
sở đoàn được củng cố, thành lập mới; 10.788 đoàn viên được vinh dự đứng
trong hàng ngũ của Đảng...Các hoạt động giáo dục đạo đức, lối sống, nếp
sống và tổ chức các hoạt động văn hoá - thể dục, thể thao trong thanh thiếu
nhi được mở rộng. Giáo dục đạo dức cách mạng cho thanh niên được triển
khai gắn với nội dung sinh hoạt chính trị “Tuổi trẻ với tư tưởng Hồ Chí
Minh ” và cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác”.
Nhiều diễn đàn được tổ chức như: Tuổi trẻ học tập và làm theo đạo đức, tác
phong Hồ Chí Minh; Cần, kiệm là nếp sống đẹp của thanh niên. Bên cạnh đó
là các phong trào thực hiện lời Bác Hồ dạy đối với thanh niên, thiếu niên nhi
đồng nói chung và thanh niên các lực lượng vũ trang nói riêng. Các cấp bộ
đoàn đã chú trọng hơn trong việc triển khai cuộc vận động cưới văn minh -
tiết kiệm trong thanh niên thông qua việc ban hành văn bản hướng dẫn, trao
đổi về việc cưới gắn với nội dung sinh hoạt “Cần kiệm là nếp sống đẹp của
thanh niên”. Cuộc vận động cưới văn minh - tiết kiệm đã được thanh niên
đồng tình hưởng ứng, từng bước đi vào đời sống sinh hoạt của thanh niên.
73
Đoàn thanh niên còn vận động thanh niên giúp đỡ, hỗ trợ các cặp vợ chồng
trẻ ngay khi lập gia đình về tiền vốn, giống cây trồng, vật nuôi để lập
nghiệp.
Các hoạt động văn hoá thể dục thể thao được tổ chức thường xuyên,
chất lượng hoạt động được nâng cao, tiêu biểu là hội thi các nhà thiếu nhi
toàn quốc nhằm vừa góp phần nâng cao đời sống văn hoá tinh thần lành
mạnh cho thanh thiếu niên vừa giáo dục truyền thống cách mạng, nâng cao
khả năng cảm thụ nghệ thuật cho thanh niên, đồng thời vừa là cách thức để
tập hợp thanh thiếu niên đến với tổ chức đoàn, hội.
Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, ý thức công
dân cho thanh thiếu nhi; giáo dục ý thức quốc phòng toàn dân, nâng cao
cảnh giác cách mạng và trách nhiệm của thanh niên trong bảo vệ Tổ quốc
cũng được quan tâm đẩy mạnh. Các hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp
luật tập trung và các văn bản luật liên quan trực tiếp tới thanh thiếu nhi, xây
dựng ý thức công dân, chấp hành pháp luật. Các vấn đề bức xúc của thanh
thiếu nhi được giải đáp và lồng ghép với các chương trình giáo dục khác.
Hoạt động của các đội, nhóm thanh niên tình nguyện tư vấn pháp luật, trung
tâm trợ giúp pháp lý cho thanh thiếu niên và nhân dân tại các vùng sâu, vùng
xa là nét mới trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật do đoàn tổ chức.
Nhiều mô hình, cách làm hay được duy trì và phát huy hiệu quả ở cơ sở, góp
phần nâng cao kiến thức pháp luật, hình thành lối sống, hành vi pháp luật
tích cực trong thanh thiếu niên như: Tuyên truyền trên bản tin công tác thanh
niên; hệ thống thông tin của đoàn, tờ rơi, panô, áp phích, trang thông tin điện
tử; thi tìm hiểu kiến thức pháp luật…Ngoài ra tại các tỉnh cũng thành lập
những đội thanh niên xung kích an ninh, tập huấn công tác phòng chống tội
phạm có hiệu quả, tạo đà cho hoạt động ở cơ sở đi lên. Nhiều mô hình đã
hoạt động có hiệu quả và phát triển ở hầu hết các tỉnh, thành như: “Câu lạc
74
bộ pháp luật”, hòm thư tố giác tội phạm, tiếng kẻng thanh niên, khu phố
không có tệ nạn xã hội…tổ chức cho thanh thiếu niên tham gia các chiến
dịch, các đợt cao điểm phòng chống ma tuý, mại dâm, đua xe trái
phép…Phối hợp phòng ngừa, phát hiện, tố giác tội phạm, giúp đỡ người
phạm tội và tệ nạn xã hội hoàn lương ở cộng đồng dân cư.
Với nhận thức bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay là bảo vệ biên
cương, lãnh thổ, chủ quyền của Tổ quốc, bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của
Đảng, bảo vệ hệ thống chính trị và giữ vững an ninh tư tưởng, các cấp bộ
đoàn đã tổ chức nhiều hoạt động thiết thực về ý thức quốc phòng, nâng cao
tinh thần cảnh giác cách mạng cho thanh niên. Các hoạt động tăng cường
nâng cao nhận thức cho đoàn viên thanh niên về đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước, về tình hình nhiệm vụ mới, về nghĩa vụ tham gia xây
dựng nền quốc phòng toàn dân và dân quân tự vệ, dự bị động viên, về âm
mưu diễn biến hoà bình của kẻ thù…Nghiên cứu học tập Nghị quyết TW
Đảng lần thứ 8 (khoá IX) về Chiến lược bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới,;
thủ đoạn của các thế lực thù địch trong âm mưu diễn biến hoà bình.
Các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn”, thực hiện
chính sách hậu phương quân đội đã trở thành phong trào tự nguyện và rộng
khắp trong thanh thiếu nhi cả nước. Có thể nói, công tác giáo dục ý thức
quốc phòng - an ninh cho thanh niên đã được coi trọng và đạt được những
kết quả thiết thực, góp phần nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của tuổi
trẻ đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Các chương trình thanh niên xung kích, tình nguyện tham gia phát
triển kinh tế – xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng cũng được quan tâm
triển khai rộng khắp trong thanh niên cả nước. Các hoạt động trong tháng
Thanh niên thường xuyên được sự quan tâm của các cấp uỷ Đảng, các cấp
bộ đoàn, sự tham gia tích cực của các lực lượng xã hội, đã đạt được kết quả
75
toàn diện trên các mặt công tác, là động lực thúc đẩy sự phát triển của công
tác đoàn và phong trào thanh niên hàng năm. Tính riêng tháng thanh niên từ
năm 2003 đến năm 2006, toàn Đoàn đã thực hiện 149.939 công trình, phần
việc thanh niên với tổng trị giá 732 tỷ đồng, huy động hàng triệu lượt thanh
niên và các lực lượng xã hội khác tham gia, kết nạp 957.360 đoàn viên mới,
giới thiệu cho Đảng 161.321 đoàn viên ưu tú, được Đảng xem xét kết nạp
38.729 đảng viên trẻ. Phong trào thanh niên thi đua học tập, đi đầu xây dựng
xã hội học tập và tiến quân vào khoa học công nghệ được đẩy mạnh. Thông
qua Đoàn thanh niên và Hội sinh viên, phong trào sinh viên nghiên cứu và
tập sự nghiên cứu khoa học, chủ động tham gia chương trình cải cách giáo
dục, góp phần xây dựng học đường văn minh, lành mạnh…xây dựng các
quỹ khuyến học, khuyến tài. Đến nay 100% Đoàn các cấp huyện và hầu hết
các Đoàn trường học có quỹ khuyến học, khuyến tài…
* Hạn chế:
- Việc tổ chức các hình thức giáo dục cho đoàn viên thanh niên vẫn
còn hình thức, rập khuôn, máy móc. Việc tổ chức học tập, quán triệt các chủ
trương, Nghị quyết của Đảng, Đoàn vẫn theo hình thức các báo cáo viên độc
thoại về nội dung, vai trò chủ động của học viên không được phát huy.
- Khả năng cụ thể hoá các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, của Đoàn, Hội ở một số địa phương cơ sở còn hạn chế. Công tác chỉ
đạo, kiểm tra, hướng dẫn của các cấp uỷ Đảng, của Đoàn thanh niên còn
chưa thường xuyên, chưa phát huy được hết sức mạnh của các lực lượng xã
hội trong công tác giáo dục thanh thiếu niên. Nội dung giáo dục đạo đức
cách mạng, lối sống, nếp sống; giáo dục ý thức cảnh giác cách mạng cho
thanh thiếu niên; việc nắm và xử lý tư tưởng và dư luận xã hội trong thanh
niên nhất là ở địa bàn, khu vực trọng điểm, đối tượng đặc thù còn nhiều hạn
chế, mọt số vấn đề mới trong thanh niên như các diễn đàn, blog…trên mạng
76
thực hiện chưa hiệu quả, còn lúng túng trong việc xác định cả về nội dung
cũng như hình thức thực hiện.
- Công tác giáo dục đạo đức, lối sống và nhân cách cho thanh niên,
nhất là thanh niên các khu đô thị lớn chưa được quan tâm tương xứng với
công tác giáo dục chính trị tư tưởng và giáo dục truyền thống; điều kiện cơ
sở vật chất còn nhiều hạn chế; việc phát hiện, xây dựng và nhân rộng các
điển hình tiên tiến chưa thường xuyên.
- Đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên còn thiếu và yếu, chưa đáp
ứng được yêu cầu công tác giáo dục của Đảng và Đoàn hiện nay. Việc tổ
chức học tập 6 bài học chính trị ở nhiều địa phương, cơ sở chưa được quan
tâm, đầu tư chỉ đạo đúng mức nên chưa đạt chỉ tiêu nghị quyết Đại hội Đoàn
toàn quốc lần thứ VIII đã đề ra. s
- Các hoạt động của Đoàn có hiệu quả chủ yếu ở các địa bàn và những
đối tượng thanh niên có thuận lợi, thanh niên tiên tiến, chưa đầu tư quan tâm
đến các đối tượng thanh niên chậm tiến. Hình thức triển khai một số nội
dung giáo dục cho thanh thiếu niên còn giản đơn, xơ cứng, thiếu hấp dẫn với
thanh thiếu niên. Một số mô hình giáo dục tại cộng đồng hoạt động chưa
hiệu quả, thiếu tin bền vững. Đội ngũ cán bộ tư tưởng – văn hoá của đoàn
chưa đáp ứng được với yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục thanh thiếu niên trong
tình hình mới.
- Mặt trái của cơ chế thị trường, lối sống thực dụng, vị kỷ có chiều
hướng tác động tiêu cực trong giới trẻ, sự xuống cấp về đạo đức của một bộ
phận xã hội tác động không nhỏ tới đoàn viên thanh niên dẫn đến một bộ
phận thanh niên sống thiếu lý tưởng, hoài bão, thờ ơ với sinh hoạt chính trị
và các hoạt động xã hội do Đoàn tổ chức. Trình độ văn hoá, chuyên môn,
nghề nghiệp của một bộ phận thanh niên còn hạn chế; lực lượng đoàn viên,
77
thanh niên ở nông thôn biến động mạnh do khó khăn về việc làm. Số thanh
thiếu nhi mắc tệ nạn xã hội và vi phạm pháp luật có chiều hướng gia tăng.
- Cuộc cách mạng khoa học công nghệ, quá trình toàn cầu hoá, giao
lưu văn hoá và bùng nổ thông tin tác động nhiều chiều tới tư tưởng, tình cảm
của thanh niên; tác động tới cơ cấu xã hội của thanh niên, chi phối nhận
thức, tư tưởng và hành động của thanh niên.
- Các thế lực thù địch ngày càng ra sức chống phá, lôi kéo thanh niên;
tiếp tục đẩy mạnh các chiêu bài về “diễn bién hoà bình”, tuyên truyền về dân
chủ, nhân quyền…Đặc biệt là việc truyền đạo trái phép trong thanh niên,
học sinh, sinh viên diễn ra phức tạp. Các lực lượng phản động lợi dụng
mạng thông tin điện tử (Internet), lợi dụng kích động khiếu kiện trong nhân
dân để truyền bá thông tin phản động, kích động, chia rẽ làm phai nhạt lý
tưởng trong thanh thiếu niên.
* Nguyên nhân:
- Sự lãnh đạo của Đảng từ Trung ương đến các cấp Đảng bộ vẫn chưa
thoát ra khỏi phương thức cũ, hành chính quan liêu mệnh lệnh. Tính gương
mẫu, tiên tiến, nhân cách của không ít cán bộ, đảng viên còn nhiều thiếu sót,
chưa thuyết phục, thu hút được đông đảo nhân dân.
- Nhận thức và tổ chức công tác thanh niên trong thời kỳ mới vẫn chỉ
chú trọng về mặt chính trị, trong khi vấn đề thanh niên đã trở thành vấn đề
xã hội lớn và phức tạp, cần có sự quản lý của Nhà nước. Nhiều yêu cầu sửa
đổi cơ chế, chính sách đối với thanh niên trong học tập, kinh doanh, sản xuất,
đi nước ngoài chậm được thực hiện, ảnh hưởng đến lòng tin của tuổi trẻ vào
chế độ xã hội mới, những vấn đề xã hội của thanh niên chậm được giải quyết.
- Đoàn thanh niên có nhiều cố gắng trong công tác nhưng vẫn bộc lộ
những yếu kém.
78
+ Hệ thống tổ chức, bộ máy và đội ngũ cán bộ của Đoàn còn yếu,
chưa đủ sức tiếp cận quá trình đổi mới của đất nước.
+ Số lượng và chất lượng đoàn viên, uy tín của Đoàn trong xã hội và
sức hấp dẫn đối với tuổi trẻ giảm sút.
+ Đoàn chậm đổi mới về cơ cấu tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động
trong điều kiện cơ chế quản lý kinh tế - xã hội đang chuyển biến nhanh chóng.
+ Cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động của Đoàn còn nghèo nàn thiếu thốn.
2.3. Những kinh nghiệm rút ra trong công tác giáo dục thanh niên của Đảng
1996 -2006
Qua 10 năm đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước từ
1996 – 2006, có thể thấy rằng công tác giáo dục thanh niên của Đảng ta đã
đạt được những thành tựu đáng tự hào. Thông qua hoạt động thực tiễn 10
năm qua, bước đầu rút ra một số kinh nghiệm:
2.3.1 Khẳng định vai trò, vị trí tầm quan trọng của thanh niên và
công tác giáo dục thanh niên trong công tác của Đảng. Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng trong công tác thanh niên
Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước có vững bước
trên con đường xã hội chủ nghĩa hay không hoàn toàn phụ thuộc vào lực
lượng thanh niên và công tác giáo dục, rèn luyện thanh niên của Đảng. Do
đó phải luôn coi trọng công tác thanh niên và giáo dục thanh niên của Đảng
nhằm xây dựng một lớp người mới có đạo đức, có trình độ đáp ứng nhiệm
vụ cách mạng đặt ra. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
thanh niên là nhiệm vụ cấp bách, giữ vị trí trung tâm trong chiến lược con
người của Đảng. Điều đó quyết định sự phát triển đi lên của xã hội. Đảng
phải có chính sách đúng về công tác thanh niên, công tác đó phải được tiến
hành bằng sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị, các tổ chức
đoàn thể xã hội...Đảng phải nắm lấy thanh niên, đào tạo bồi dưỡng giáo dục
79
thanh niên trở thành lực lượng cách mạng hùng hậu, hướng tuổi trẻ lập thân,
lập nghiệp, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
2.3.2. Đảng phải có sự chỉ đạo cụ thể đối với từng phong trào thanh
niên, nhân rộng điển hình tiên tiến, làm hạt nhân cho phong trào phát triển
trên diện rộng cả về hình thức lẫn nội dung
Từ các Nghị quyết lần thứ 26 của Bộ Chính trị khoá V, Nghị quyết 25
của Bộ Chính trị khoá VI và Nghị quyết 04 của Ban Chấp hành TW Đảng
khoá VII, công tác thanh niên của Đảng đã có sự phát triển vượt bậc với
hàng loạt các phong trào xuất hiện như phong trào sản xuất kinh doanh giỏi
ở nông thôn; phong trào luyện tay nghề thi thợ giỏi ở trung tâm các thành
phố lớn…Các phong trào thanh niên làm theo lời Bác, uống nước nhớ
nguồn, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…được đông đảo thanh niên tham gia.
Trên cơ sở đó, hội nghị Ban Chấp hành TW Đoàn lần thứ hai khoá VI đã
quyết định phát động sâu rộng trong toàn thể đoàn viên thanh niên hai phong
trào lớn là “Thanh niên lập nghiệp” và “Tuổi trẻ giữ nước”, đáp ứng nguyện
vọng mong mỏi của các thế hệ thanh niên đang muốn cống hiến cho sự
nghiệp cách mạng của đất nước. Phong trào đã diễn ra sôi nổi và thu được
những thắng lợi to lớn.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và Đại hội Đoàn toàn quốc
lần thứ VII, hàng loạt phong trào thi đua của thanh niên được phát triển
mạnh mẽ. Các phong trào tình nguyện như: thanh niên tham gia chiến dịch
ánh sáng văn hoá giúp đỡ đồng bào miền núi, vùng sâu, vùng xa; thanh niên
tham gia phát triển kinh tế - xã hội, làm giàu cho bản thân, gia đình và xã
hội; thanh niên tham gia phòng chống tệ nạn xã hội; tiếp lửa truyển thống,
học tập tấm gương Bác Hồ vĩ đại.. đã nhanh chóng đi sâu vào quần chúng lôi
cuốn hàng triệu lượt đoàn viên thanh niên tham gia. Qua các hoạt động này
Đảng ta đã rút ra được kinh nghiệm quý báu trong công tác thanh niên là từ
80
những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, Đảng phải làm tốt vai
trò chỉ đạo thực hiện những chủ trương chính sách đó thông qua tổ chức
Đoàn thanh niên xuống tới từng đoàn viên thanh niên bằng các hình thức tổ
chức vận động phong phú, đa dạng nhằm nhân rộng các điển hình tiên tiến
để làm hạt nhân cho phong trào phát triển rộng khắp.
2.3.3. Đảng quan tâm giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chăm
lo, bồi dưỡng, tạo điều kiện cho thanh niên phát triển, cống hiến và
trưởng thành, vừa phát huy cao độ tiềm năng, lực lượng thanh niên
hướng vào mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Phổ cập giáo dục, nâng cao dân trí, nâng cao tri thức cho thanh niên là
một nhiệm vụ của công tác thanh niên của Đảng. Thông qua các tổ chức
Đoàn, Hội, Đảng ta phát động sâu rộng trong thanh niên các phong trào rèn
đức luyện tài, học tập vì ngày mai lập nghiệp. Xây dựng các quỹ hỗ trợ tài
năng trẻ, quỹ khuyến học, khuyến tài, giúp bạn nghèo vượt khó. Trong việc
hoạch đinh đường lối chính sách phát triển kinh tế đất nước, Đảng luôn coi
giáo dục là quốc sách hàng đầu, chăm lo phát triển giáo dục đào tạo nhằm
đào tạo nên thế hệ trẻ vừa có đức vừa có tài, vừa Hồng là vừa Chuyên. Bên
cạnh đóm Đảng ta cũng luôn có kế hoạch bồi dưỡng giáo dục phát huy nhân
tố con người, phát triển con người toàn diện, chăm lo tới sự nghiệp “trồng
người”, góp phần nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Giáo
dục đaog tạo là chìa khoá mở cửa để tiến vào tương lai. Thanh niên sẽ là
những người vừa được thừa hưởng lâu dài những kết quả của sự đầu tư đó,
họ vừa là lực lượng chính trong việc tạo ra những kết quả tốt đẹp đó. Không
ai khác mà chính là thanh niên sẽ giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát
huy nhân tố và nguồn lực con người của Đảng.
81
Đảng phải thường xuyên chăm lo tới việc nâng cao nhận thức cho
thanh niên, tạo điều kiện cho thanh niên phát huy nội lực khai thác tối đa
tiềm năng của tuổi trảitong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Muốn được như vậy, Đảng phải xây dựng và hoàn thiện hệ
thống các chính sách đối với thanh niên nhằm phát huy tiềm năng sáng tạo
của tuổi trẻ, vừa tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để thanh niên cống
hiến tốt nhất, cổ vũ thanh niên hăng say lập thân lập nghiệp, chấn hưng đất
nước và bảo về vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa. Những chính sách đó
phải bao gồm các vấn đề sử dụng tốt nguồn lực trẻ, tạo việc làm, bồi dưỡng
các mặt trí, đức, thể, mỹ,phát huy tài năng trẻ, chăm lo tới các vấn đề xã hội
của thanh niên.
Bên cạnh đó Đảng phải thường xuyên chăm lo xây dựng tổ chức Đoàn
thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và
tổ chức, xứng đáng là môi trường thanh niên rèn luyện cống hiến và trưởng
thành, là hạt nhân đoàn kết mọi tầng lớp thanh thiếu niên xung quanh Đảng.
Hơn thế nữa còn góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đủ sức
gánh vác những nhiệm vụ to lớn mà Đảng và nhân dân giao phó.
2.3.4. Đảng thường xuyên tiến hành kiểm tra, đánh giá tổng kết
lãnh đạo chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với công tác thanh niên
Các cấp uỷ Đảng từ Trung ương đến cơ sở phải có chương trình công
tác thanh niên trong từng nhiệm kỳ và phải được cụ thể hoá thành kế hoạch
công tác thanh niên trong từng tháng, từng quý, từng năm. Xây dựng chương
trình công tác thanh niên và cụ thể hoá thành kế hoạch công tác thanh niên
của các cấp uỷ Đảng, coi đó là tiêu chuẩn để đánh giá Đảng bộ trong sạch,
vững mạnh.
Trong quá trình xây dựng các chương trình, phong trào đối với công
tác thanh niên, Đảng phải thường xuyên lãnh đạo và tổ chức tốt công tác
82
kiểm tra.Làm tốt được chức năng này thì phong trào thanh niên mới thực sự
đi vào cuộc sống, nếu không những chủ trương, chính sách của Đảng đối với
phong trào thanh niên sẽ chỉ mang tính hình thức, không có hiệu quả. Các
chính sách đối với côngtác thanh niên có tác dụng như động lực thúc đẩy
phong trào thanh niên phát triển hoặc ngược lại, do đó Đảng cần phải có sự
kiểm tra, đánh giá nhằm bổ xung những thiếu xót trong quá trình thực hiện
những chủ trương, chính sách, phong trào của mình đề ra.
Đảng viên phải là hạt nhân trong mọi phong trào, phải là tầm gương
sáng cho quần chúng noi theo, do vậy Công tác giáo dục đảng viên của Đảng
phải được quan tâm đúng mức, phát huy tinh thần tự phê bình và phê bình
trong mỗi Đảng viên, để đảng viên luôn là tấm gương cho các thế hệ trẻ học
tập phấn đấu. Đổi mới công tác xây dựng chính đốn Đảng đòi hỏi Đảng phải
coi công tac thanh niên là công tác tự thân của Đảng. Đảng phải tự toả sáng
trong bản chất cách mạng và khoa học của mình. Chỉ có như vậy thanh niên
mới thực sự tin tưởng theo Đảng, đi theo Đảng và phấn đấu để được đứng
trong hàng ngũ của Đảng.
2.3.5. Đảng phải quan tâm xây dựng tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh vững mạnh; mở rộng mặt trận tập hợp, đoàn kết thanh niên, tích
cực tham gia công tác xây dựng Đảng
Trong thời kỳ phát triển mới của đất nước đòi hỏi Đảng phải luôn
quan tâm tới việc xây dựng phát triển tổ chức Đoàn vững mạnh, làm cho tổ
chức Đoàn là tổ chức cộng sản trẻ của thanh niên, phải thực sự là tổ chức vì
thanh niên. Bên cạnh đó là hạt nhân trong tập hợp, giáo dục thanh niên, là
người bạn, người đồng chí, đồng hành cùng thanh niên trên con đường lập
thân, lập nghiệp, xung kích phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Trong công tác này, Đảng phải xác định “chất lượng cơ sở là trọng tâm, cán
bộ là then chốt, tập hợp đoàn kết thanh niên là nhiệm vụ hàng đầu”.
83
2.3.6 Đảng luôn quan tâm tới việc xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn
để đáp ứng yêu cầu của công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu niên
Đây là công việc quan trọng của Đảng bởi xây dựng đội ngũ cán bộ
Đoàn trong giai đoạn hiện nay là quá trình tạo dựng đội ngũ cán bộ trẻ, giỏi,
thực sự là những người bạn, người đồng chí có khả năng hướng dẫn tổ chức
hoạt động cho thanh thiếu niên. Trong quá trình đó, Đảng phải thường xuyên
phối hợp với Đoàn, Đội, Hội tiến hành đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ cho công tác Đoàn, nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác
thanh niên. Đổi mới mạnh mẽ phong cách làm việc và phương pháp công tác
của cán bộ Đoàn sao cho vừa phù hợp với tâm lý, nhu cầu, nguyện vọng của
thanh niên, vừa đáp ứng được các yêu cầu chỉ đạo và phối hợp liên ngành
trong công tác Đoàn và phong trào thanh niên.
2.3.7. Đổi mới nội dung, phương thức, cách thức giáo dục, tuyên
truyền đường lối chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước
Trong tuyên truyền, giáo dục chính trị cho thanh niên Đảng phải lấy
tuyên truyền, vận động thuyết phục thanh niên là phương thức quan trọng
nhất. Cách thức tiến hành tuyên truyền giáo dục cần ngắn gọn, cụ thể, thiết
thực, hấp dẫn, sinh động phù hợp với từng lĩnh vực công tác, từng đối tượng
thanh niên. Đồng thời kết hợp nhuần nhuyễn với giáo dục thông qua các
phong trào hành động cách mạng, phong trào thi đua yêu nước.
2.4. Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục thanh
niên trong giai đoạn tiếp theo
* Phương hướng:
- Tăng cường giáo dục chính trị, truyền thống lý tưởng, đạo đức và lối
sống cho thanh thiếu niên. đổi mới mạnh mẽ công tác tư tưởng, văn hoá,
thông tin, truyền thông của Đoàn; phối hợp với chính quyền các cấp, các tổ
84
chức đoàn thể nhân dân và huy động các nguồn lực xã hội nhằm chăm lo
giáo dục, bồi dưỡng thanh thiếu nhi.
- Nâng cao chất lượng rổ chức cơ sở Đoàn, chất lượng đoàn viên, chất
lượng cán bộ; tăng cường tập hợp, đoàn kết thanh niên, phát triển Hội liên
hiệp thanh niên Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam và các tổ chức thanh
niên khác do Đoàn làm nòng cốt; đề cao trách nhiệm của Đoàn trong việc
phụ trách Đội TNTP Hồ Chí Minh và tổ chức các hoạt động thiếu nhi, xây
dựng Đảng chính quyền và đoàn thể nhân dân.
- Chăm lo bồi dưỡng nguồn nhân lực trẻ có chất lượng, phát huy cao
độ vai trò xung kích, sáng tạo và tiềm năng to lớn của tuổi trẻ trong phát
triển kinh tế xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
* Giải pháp:
- Tăng cường giáo dục chính trị, truyền thống, lý tưởng, đạo đức và
lối sống cho thanh niên góp phần xây dựng lớp thanh niên tiên tiến và phát
triển toàn diện
Trong giai đoạn mới, nhiệm vụ của toàn Đảng là cùng cả xã hội chăm
lo xây dựng lớp thanh niên tiên tiến, phát triển toàn diện, giầu lòng yêu
nước, biết đặt lợi ích của mình trong lợi ích thống nhất của quốc gia, dân
tộc; có lý tưởng cách mạng và bản lĩnh chính trị vững vàng; có tri thức,
chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng lao động giỏi; có văn hoá và lối sống
tình nghĩa; có sức khoẻ thể chất và tinh thần lành mạnh; giàu nhiệt huyết
sáng tạo và tinh thần tình nguyện. Người thanh niên của thời kỳ mới vừa biết
gìn giữ và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vừa biết làm
giàu văn hoá dân tộc bằng những giá trị, những tinh hoa văn hoá nhân loại,
là hiện thân tiêu biểu của các giá trị văn hoá Việt Nam.
+ Triển khai có hiệu quả cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam học tập
và làm theo lời Bác”, đây là cuộc vận động có ý nghĩa quan trọng, là quá
trình tuổi trẻ không ngừng rèn luyện, tu dưỡng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ
85
về đạo đức, lối sống nhằm hình thành những phẩm chất tốt đẹp của thế hệ trẻ
Việt Nam.
+ Các cấp bộ Đoàn cần cụ thể hoá các nội dung của cuộc vận động:
Xây dựng tình đoàn kết, tương thân tương ái vì cộng đồng, chống bàng
quan, vị kỷ cá nhân; xây dựng thái độ học tập say mê, nghiêm túc, làm việc
gì cũng phải học, học suốt đời, tiến quân vào khoa học công nghệ, chống
tiêu cực gian dối, không trung thực; xây dựng tinh thần lao động cần cù,
sáng tạo, chống ỷ lại, lười lao động; xây dựng ý thức tiết kiệm….
- Đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao hiệu quả công tác giáo
dục của Đoàn
Trước hết là đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo
dục chính trị, coi đây là quá trình bồi dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị cho
đoàn viên thanh niên. nội dung giáo dục phải gần gũi thiết thực, phương
thức giáo dục phải phát huy được dân chủ, trí tuệ của đoàn viên thanh niên,
kết hợp giáo dục thông qua các phong trào thi đua yêu nước và xây dựng
củng cố tổ chức Đoàn.
Trong giáo dục truyền thống, coi trọng giáo dục truyền thống vẻ vang
của dân tộc, của Đảng, của Đoàn, truyền thống đoàn kết, ý chí tự cường tự
tôn dân tộc, xây dựng khát vọng chiến thắng nghèo nàn lạc hậu, tinh thần
xung kích, tình nguyện vì cộng đồng.
Trong giáo dục đạo đức, lối sống đề cao giáo dục cho thanh niên lòng
yêu lao động, biết hưởng thụ chính đáng chống lười biếng, lối sống thực
dụng. Kịp thời định hướng hướng dẫn thanh niên trước những loại hình văn
hoá mới trong âm nhạc, game online, blog…
- Tiếp tục đổi mới công giáo dục ý thức pháp luật và ý thức công dân
cho thanh thiếu nhi, góp phần hình thành lối sống “sống và làm viẹc theo
hiến pháp và pháp luật” giúp cho thanh niên thực hiện tốt hơn quyền và
86
nghĩa vụ công dân, đồng thời vận động thanh niên g]ơng mẫu chấp hành luật
pháp, tuân thủ nội quy, quy định của tổ chức.
- Giáo dục ý thức quốc phòng toàn dân và tinh thần đoàn kết quốc tế
chân chính cho thanh thiếu niên là một trong những nội dung quan trọng
trong công tác giáo dục của Đảng, Đoàn, góp phần giáo dục cho mỗi thanh
niên nhận thức rõ trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay, hiểu
rõ bản chất các sự kiện, các quá trình quốc tế, xây dựng cho mính bản lĩnh
chính trị vững vàng, chủ động sáng tạo trong quá trình hội nhập.
- Tăng cường đầu tư nâng cao năng lực thực tiễn cho đội ngũ cán bộ
chuyên trách, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên các cấp của đoàn,
đồng thời phát triển đội ngũ cộng tác viên; củng cố bộ máy tổ chức làm công
tác tư tưởng văn hoá của Đảng, Đoàn; khai thác tốt các nguồn lực và phối
hợp với các lực lượng xã hội trong công tác giáo dục thanh niên.
- Phát huy vai trò của báo chí và các thiết chế do Đảng, Đoàn quản lý
trong giáo dục thanh thiếu nhi, đồng thời chủ động phối hợp chặt chẽ với gia
đình, nhà trường, các tổ chức, các cấp chính quyền trong công tác giáo dục,
bồi dưỡng thế hệ trẻ.
- Xây dựng tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vững
mạnh; mở rộng mặt trận tập hợp, đoàn kết thanh niên; tích cực tham gia xây
dựng Đảng và chính quyền nhân dân.
87
kết luận
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Một năm bắt đầu
từ mùa xuân, một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã
hội”. Thanh niên ngày nay chính là người chủ tương lai của đất nước,
Người khẳng định: nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là
do thanh niên. Thực tiễn lịch sử nước ta đã cho thấy những quan điểm của
Hồ Chí Minh về thanh niên và vai trò của thanh niên là hoàn toàn đúng
đắn. Trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc trước đây cũng như
trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay, vai trò của thanh
niên là không thể phủ nhận. Nếu như trước đây, các thế hệ thanh niên sống,
chiến đấu và hy sinh vì lý tưởng độc lập tự do cho dân tộc, khát khao cho
hoà bình, thống nhất đất nước để Nam - Bắc một nhà đi lên chủ nghĩa xã
hội thì trong giai đoạn cách mạng hiện nay, lý tưởng đó cũng không hề
thay đổi, chỉ khác là thanh niên hiện nay có khát khao cháy bỏng làm sao
để nước nhà đổi mới, có nền kinh tế phát triển, làm giàu cho bản thân, gia
đình và xã hội nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ văn minh. ở thời kỳ nào thì thanh niên cũng là lực lượng xung kích đi
đầu trong các phong trào và khẳng định to lớn của mình. Họ chính là những
người làm rạng danh dân tộc Việt Nam, viết nên những trang sử, những
mốc son chói lọi trong cuộc cách mạng chống lại áp bức, bạo lực, bất công.
Ngày nay, thế hệ trẻ lại đang bước tiếp những bước đi của cha anh chống
lại nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên phát triển kinh tế, dám nghĩ, dám làm, tiếp
thu khoa học công nghệ tiên tiến để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế thị trường cùng với những luồng tư
tưởng, văn hoá ngoại lai đang xâm nhập vào nước ta hiện nay đã khiến một
88
bộ phận không nhổ thanh niên đi chệch con đường mà Đảng và nhân dân ta
đã chọn. Lối sống buông thả, thực dụng, chạy theo đồng tiền, coi đồng tiền
là thước đo giá trị đang phát triển mạnh trong thanh niên. Sự nhạt phai lý
tưởng xã hội chủ nghĩa, suy thoái về đạo đức xã hội và nhân cách con
người đang là hồi chuông cảnh tỉnh đối với thế hệ trẻ nói riêng và toàn xã
hội nói chung. Làm thế nào để thanh niên nhận thức đúng đắn về vai trò
của mình đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước là một việc làm đang
được toàn Đảng, toàn dân ta quan tâm bởi thanh niên chính là tương lai của
đất nước. Nếu không được quan tâm một cách đúng mức, không có những
biện pháp hiệu quả trong việc giáo dục, định hướng cho thanh niên thì
tương lai, sự tồn vong của đất nước sẽ bị đe doạ, công cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa sẽ khó có thể thực hiện thành công. Do đó, công tác giáo dục
lý tưởng, đạo đức, lối sống cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay là một
việc làm cấp bách đòi hỏi sự quan tâm của toàn xã hội.
Trong suốt những năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không
ngừng quan tâm phát triển công tác giáo dục thanh niên và đã nhận được sự
đồng thuận của toàn xã hội. Các phong trào thanh niên tình nguyện giúp đỡ
nhau học tập, phát triển kinh tế, đẩy lùi tệ nạn xã hội…đã được các ban,
ngành quan tâm, cổ vũ động viên và đã đem lại những thành quả to lớn cho
toàn xã hội. Cũng qua các phong trào đó, đoàn viên thanh niên được rèn
luyện, trau dồi kiến thức, trình độ nhận thức chính trị, hoàn thiện nhân cách
của mình, đem tới những tác động tích cực cho toàn xã hội. Có được những
thành tựu to lớn đó phải kể tới sự quan tâm sâu sát của Đảng, Nhà nước và
tổ chức Đoàn Thanh niên đã luôn ý thức được trách nhiệm của mình trong
công tác giáo dục thanh niên. Công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống
cho thanh niên của Đảng cộng sản Việt Nam giai đoạn 1996 - 2006 đã đạt
được nhiều kết quả đáng khích lệ, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của
89
công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng nên
một thế hệ thanh niên nhiệt huyết cách mạng, hăng hái đi đầu trong mọi
công việc. Tuy nhiên trong quá trình đó đôi lúc, đôi chỗ, sự quan tâm của
các cấp uỷ Đảng, chính quyền cơ sở còn chưa sâu sát, sự chống phá của kẻ
thù ngày càng tinh vi… nên công tác giáo dục thanh niên của Đảng vẫn còn
nhiều khó khăn, thử thách. Nỗ lực phấn đấu vươn lên trở thành công dân có
ích cho đất nước đang là nguyện vọng thiết tha cháy bỏng của thanh niên
hiện nay. Quan tâm chăm sóc thế hệ trẻ để ngày mai họ có thể đảm đương
được trọng trách gánh vác sự nghiệp cách mạng của đất nước là việc làm
cần thiết không những của Đảng và Nhà nước ta hiện nay mà đó còn là
công việc của mỗi chúng ta, từ đó xây dựng một đội ngũ tri thức trẻ có bản
lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có lối sống
đẹp, ý chí vươn lên lập thân lập nghiệp góp phần vào sự nghiệp xây dựng
và phát triển đất nước giàu đẹp.
90
Danh mục Tài liệu tham khảo
1. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2000), Một số văn kiện của Đảng
về công tác tư tưởng - văn hoá, tập 1 (1930 - 1986), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
2. Bảo tàng Hồ Chí Minh (2007), Học tập tấm gương đạo đức Bác Hồ,
Nxb Thanh niên.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1990), Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ 8, khoá VI.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị giữa nhiệm kỳ
khoá VII.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương lần thứ 5, khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương lần 2, khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần 3, khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
13. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương lần 4, khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
91
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành
TW lần 5, khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
15. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI, Nxb Thanh niên, Hà Nội
16. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (1992), Quá trình tự đổi mới,
Nxb Thanh niên, Hà Nội
17. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (1996), Tự giới thiệu từ Đại
hội đến phong trào, Nxb Thanh niên, Hà Nội
18. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII, Nxb Thanh niên, Hà Nội
19. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2001), Văn kiện Đoàn từ
1995 đến 2001, Nxb Thanh niên, Hà Nội
20. Phạm Văn Đồng (1979), Sự nghiệp giáo dục trong chế độ xã hội chủ
nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội
21. Phạm Văn Đồng (1986), Mấy vấn đề về văn hoá giáo dục, Nxb Sự thật,
Hà Nội.
22. Phạm Văn Đồng (1999), Mấy vấn đề về giáo dục đào tạo, Nxb Sự thật,
Hà Nội.
23. Nguyễn Hữu Đức (chủ biên), Giáo dục, rèn luyện thanh niên theo tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
24. Hội Sinh viên Việt Nam (2003), Lịch sử phong trào học sinh, sinh viên
Việt Nam và Hội sinh viên Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội
25. V.I. Lênin (1959), Nhiệm vụ của Đoàn thanh niên, Tuyển tập, quyển 2,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
26. V.I. Lênin (1979), Những nhiệm vụ của thanh niên cách mạng, Toàn
tập, tập 7, Nxb Tiến bộ, Mátxơcơva.
27. V.I. Lênin (1981), Bàn về thanh niên, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
28. C.Mác và Ph.Ăngghen (1978), Toàn tập, tập 16, Nxb Sự thật, Hà Nội
92
29. C. Mác và Ph.Ăngghen (1978), Về thanh niên, Nxb Sự thật, Hà Nội.
30. Trần Văn Miều (2001), Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh 70
năm xây dựng và trưởng thành, Nxb Thanh niên, Hà Nội
31. Hồ Chí Minh (1972), Bàn về công tác giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.
32. Hồ Chí Minh (1973), Về giáo dục thanh niên, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
33. Hồ Chí Minh, Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội thanh niên ta hăng
hái tiến lên, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
34. Hồ Chí Minh (1987), Những sự kiện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
35. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
36. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
37. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
38. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
39. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
40. Hồ Chí Minh (1995), Thư gửi các bạn thanh niên, Toàn tập, tập 5, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Hồ Chí Minh (1996), Việt Nam dân chủ cộng hoà, Toàn tập, tập 10,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Đỗ Mười (1993), Tuổi trẻ Việt Nam phải xây dựng cho mình hoài bão
trí tuệ, đạo đức và ý chí cách mạng, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
43. Vũ Oanh (1995), Tập hợp đoàn kết rộng rãi thanh niên vì mục tiêu dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
44. Vũ Oanh (1990), Nói chuyện về Đảng với thanh niên, Nxb Thanh niên,
Hà Nội.
45. Nguyễn Trọng Phúc (1998), Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Nguyễn Trọng Phúc (2006), Các Đại hội đại biểu toàn quốc và Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 -
2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93
47. Vũ Quang, Giáo dục cho thanh niên lý tưởng cộng sản và lập trường tư
tưởng, đạo đức của giai cấp công nhân, Hồ sơ 1197, lưu trữ Trung
ương Đoàn.
48. Vũ Quang, Lưu Minh châu, Tạ Quang Chiến (1969), Bốn bài giáo dục
chính trị cơ bản cho đoàn viên, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
49. Vũ Quang (1990), Đảng là người giáo dục và rèn luyện thanh niên ta,
Nxb Thanh niên, Hà Nội.
50. Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (1996), Báo cáo
công tác Đoàn và phong trào thiếu nhi năm 1996, Chương trình
công tác Đoàn và phong trào thiếu nhi năm 1997 của Ban Chấp
hành TW Đoàn.
51. Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (1998), Báo cáo
công tác Đoàn và phong trào thiếu nhi năm 1997. Chương trình
công tác Đoàn và phong trào thiếu nhi năm 1998 của Ban Chấp
hành TW Đoàn.
52. Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2007), tổng quan
tình hình thanh niên, công tác đoàn và phong trào thanh thiếu nhi
nhiệm kỳ 2002 – 2007, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
53. Lê Văn Tu (1997), "Công nhgiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là sự
nghiệp tất yếu của thanh niên", Tạp chí Thông tin khoa học thanh
niên, (12), tr.35.
54. Hồ Đức Việt (1996), Thanh niên với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
55. Quang Vinh (Tuyển chọn) (2002), Hồ Chí Minh về giáo dục và tổ chức
thanh niên, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
56. GS, TSKH Huỳnh Khái Vinh(2001), Một số vấn đề về lối sống, đạo đức
chuẩn giá trị xã hội, Nxb CTQG, Hà Nội
57. Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự (2006), Chuẩn mực đạo đức
con người vn hiện nay, Nxb QĐND.
94
Phụ lục
Phụ lục 1 ý kiến của thanh niên – sinh viên về sự cần thiết tăng cường công tác giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên trong tình hình nước ta hiện nay
STT Mức độ Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Rất cần thiết 82 21,13
2 Cần thiết 214 55,15
3 Chưa thật cần thiết 70 18,04
4 Không cần thiết 22 5,67
Nguồn: Đảng uỷ khối cơ quan TW về công tác tư tưởng [2005]: Bồi
dưỡng lý tưởng cách mạng cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay, Kỷ yếu
hội thảo khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
95
Phụ lục 2
ý kiến của cán bộ và thanh niên – sinh viên về trách nhiệm
giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên – sinh viên
của một số cơ quan, tổ chức
STT Cơ quan tổ chức Sinh viên Cán bộ
1 Nhà trường 100,0 96,74
2 Đoàn thanh niên 88,92 89,30
3 Hội sinh viên 77,06 70,23
4 Tổ chức Đảng 100,0 100,0
5 Công đoàn 45,10 42,33
6 Hội Phụ nữ 38,66 28,84
7 Hội cựu chiến binh 73,45 51,63
8 Các cơ quan truyền thông 82,47 65,12
Nguồn: Đảng uỷ khối cơ quan TW về công tác tư tưởng [2005]: Bồi
dưỡng lý tưởng cách mạng cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay, Kỷ yếu
hội thảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
96
Phụ lục 3
ý kiến của sinh viên về những chủ đề quan tâm thảo luận
trong các buổi học tập, toạ đàm về giáo dục lý tưởng cách mạng
trong sinh viên
Chủ đề
STT
Tỷ lệ (%)
Thứ hạng
1
Sự giác ngộ lý tưởng cách mạng theo con đường mà Đảng
99,48 1
và Bác Hồ đã lựa chọn
Niềm tin lý tưởng
96,91
2
2
Thái độ và trách nhiệm của sinh viên trong sự nghiệp xây
3
88,66
3
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
Giáo dục truyền thống cách mạng
79,89
4
4
Tiêu chuẩn người đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí
5
45,10
9
Minh
Con đường phấn đấu trở thành người Đảng viên cộng sản
47,68
8
6
Những gương điển hình
53,09
7
7
Hình mẫu lý tưởng của thanh niên Việt Nam hiện nay
76,80
5
8
Các phong trào hành động cách mạng của thanh niên
70,62
6
9
10
Phong trào học sinh, sinh viên tình nguyện
88,66
3
11 Khác
21,13
10
Nguồn: Đảng uỷ khối cơ quan TW về công tác tư tưởng [2005]: Bồi
dưỡng lý tưởng cách mạng cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay, Kỷ yếu
hội thảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
97
Phụ lục 4
Kết quả sinh viên trả lời câu hỏi “Mẫu người lý tưởng mà thanh niên học sinh, sinh viên cần phấn đấu
trong thế kỷ XXI” là như thế nào?
STT
Tiêu chí
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Thứ hạng
Có chuyên môn nghề nghiệp vững vàng
1
387
99,84
1
Có hiểu biết xã hội rộng
2
386
99,48
2
Có sức khoẻ tốt
3
376
96,91
5
Có ý chí, nghị lực
4
320
82,47
7
Có niềm tin, lý tưởng cách mạng vững vàng
5
384
98,97
4
Có lòng nhân ái, vị tha
6
298
76,80
9
Năng động sáng tạo
7
344
88,66
6
Có chí khí, dũng cảm đấu tranh chống tiêu cực xã hội
8
310
79,89
8
9
Biết làm giàu chính đáng
385
99,23
3
10
Sống trung thực, thẳng thắn
375
96,91
5
11 Khác
82
21,13
10
Nguồn: Đảng uỷ khối cơ quan TW về công tác tư tưởng [2005]: Bồi
dưỡng lý tưởng cách mạng cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay, Kỷ yếu
hội thảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
98
Phụ lục 5
ý kiến của cán bộ và sinh viên về những hình thức có hiệu quả cao trong công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho thanh niên - sinh viên
STT
Hình thức
Các hoạt động giáo dục chính khoá trong nhà trường
Sinh viên (%) 96,39
Cán bộ (%) 95,35
1
Tổ chức cuộc thi (viết chuyên đề, tuyên truyền
2
27,84
51,16
viên…)
Các hoạt động giáo dục của Đoàn, Hội
90,21
88,37
3
Tổ chức các nhóm tu dưỡng, rèn luyện
39,95
33,02
4
Tổ chức phong trào thanh niên tình nguyện
96,91
82,79
5
Tổ chức hoạt động giao lưu kết nghĩa
17,01
22,32
6
Tổ chức các diễn đàn thanh niên
31,19
23,26
7
Nguồn: Đảng uỷ khối cơ quan TW về công tác tư tưởng [2005]: Bồi
dưỡng lý tưởng cách mạng cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay, Kỷ yếu
hội thảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.