VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ THỊ CÚC
ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG Ở SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI DƢƠNG HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI, 2018
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ THỊ CÚC
ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG Ở SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI DƢƠNG HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
Ngành: Triết học Mã số: 82 29 001
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. HỒ SĨ QUÝ HÀ NỘI, 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Vũ Thị Cúc
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG .......................... 8
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu .......................................... 8
1.2. Đạo đức môi trường ở sinh viên ..................................................................... 28
Chƣơng 2 . THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ ĐẠO ĐỨC MÔI
TRƢỜNG Ở SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI DƢƠNG ....................... 38
2.1. Đặc điểmTrường Đại học Hải Dương ............................................................ 38
2.2. Thực trạng và những vấn đề về đạo đức môi trường ở sinh viên Trường Đại
học Hải Dương ........................................................................................................ 41
Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG Ở
SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI DƢƠNG ............................................... 63
3.1. Nâng cao hoạt động của Nhà trường trong giáo dục đạo đức môi trường cho
sinh viên đại học Hải Dương .................................................................................. 63
3.2. Tăng cường các hình thức ngoại khóa, các hoạt động ngoài giờlên lớpcho
sinh viên về đạo đức môi trường ............................................................................ 68
3.3. Đẩy mạnh hình thức khen thưởng và kỷ luật sinh viên về đạo đức môi
trường ....................................................................................................................... 71
3.4. Huy động các nguồn kinh phí chi cho hoạt động bảo vệ môi trường ........... 73
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 80
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một đất nước đang phát triển mạnh với thành tựu kinh tế - xã hội
được cộng đồng thế giới đánh giá cao. Những năm gần đây cùng với sự tăng trưởng
cao của nền kinh tế, sự phát triển nhanh chóng của đời sống xã hội cũng đã ít nhiều
để lại những hệ lụy về bảo vệ môi trường. Ô nhiễm môi trường chất thải, kể cả chất
thải khí, chất thải rắn, và chất thải hóa chất đều đã xảy ra. Tai nạn và sự cố môi
trường ở một số địa phương đã trở thành hiểm họa đe dọa sự phát triển. Rác thải công
nghiệp thế hệ cũ đã tràn vào Việt Nam. Môi trường thực phẩm cũng trở nên không an
toàn…Trên thực tế, ô nhiễm môi trường đã và đang là vấn đề báo động ở Việt Nam.
Vấn đề đặt ra là phải làm sao để ngăn chặn vấn nạn đó? Câu hỏi này đặt ra
không chỉ đối với sự quản lý vĩ mô của chính phủ, mà còn đặt ra đối với hoạt động
của các ngành các cấp, với thái độ và hành vi của toàn thể cộng đồng. Đặc biệt, câu
hỏi đặt ra không chỉ về phương diện kinh tế - xã hội hay pháp luật, mà còn đặt ra về
phương diện văn hóa và đạo đức. Đạo đức môi trường ngày nay là giá trị tinh thần
không thể thiếu để các xã hội phát triển bền vững.
Thế hệ trẻ nước ta chiếm tỉ lệ khoảng 27% dân số và đây cũng chính là những
chủ nhân tương lai của đất nước, là những người sẽ góp phần thúc đẩy đất nước phát
triển theo hướng hiện đại hóa, công nghiệp hóa. Để thúc đẩy được đất nước phát triển
thì một điều không thể thiếu là cần ngăn không cho môi trường tiếp tục bị ô nhiễm,
giải quyết được vấn nạn ô nhiễm môi trường. Điều này ở một mức độ lớn, phụ thuộc
vào ý thức, văn hóa và đạo đức của cộng đồng cũng như của mỗi người thông qua
hành động của họ với việc bảo vệ môi trường.
Nói đến thế hệ trẻ, cần thiết phải chú ý đến lớp người rất có ý nghĩa đối với sự
phát triển đất nước là những bạn trẻ còn đang ngồi trên ghế nhà trường, những sinh
viên đầy nhiệt huyết, đang mang trong mình những ước mơ, những hoài bão lớn. Đây
cũng là lực lượng có ý nghĩa lớn trong việc góp phần giải quyết ô nhiễm môi trường
1
hiện nay. Nghĩa là đạo đức môi trường ở lớp người trẻ tuổi đang là diều được xã hội
kỳ vọng. Trên thực tế, việc xây dựng đạo đức môi trường cho từng sinh viên, biến ý
thức thân thiện với tự nhiên thành hành động để bảo vệ môi trường, những năm qua
đã đến được với tầng lớp sinh viên và bước đầu đã có kết quả tương đối tích cực.
Hải Dương là một tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng Bắc Bộ,
được biết là vùng đất ít nhiều có tiếng về tinh thần hiếu học, tôn sư trọng đạo. Vùng
đất này đã sinh ra và nuôi dưỡng nhiều bậc hiền tài cho đất nước. Hải Dương hiện có
3 trường đại học là Đại học Sao Đỏ, Đại học Thành Đông và Đại học Hải Dương
cùng một số trường cao đẳng và trung cấp.
Trường Đại học Hải Dương là trường đại học công lập duy nhất của tỉnh Hải
Dương. Sinh viên của trường được chiêu sinh từ các tỉnh Thái Bình, Quảng Ninh,
Bắc Giang và một số tỉnh miền núi phía Bắc. Thực ra, ý thức và hành vi đạo đức môi
trường ở sinh viên Hải Dương có được là từ nhiều kênh khác nhau; ít nhiều cũng
không tự giác. Do vậy, bên cạnh những sinh viên có ý thức bảo vệ môi trường thì vẫn
còn không ít những em chưa có thực sự có ý thức, thái độ và hành vi bảo vệ môi
trường.
Để góp phần bảo vệ môi trường, giảm thiểu ô nhiễm môi trường nói chung, ở
môi trường tỉnh Hải Dương và Đại học Hải Dương nói riêng, thì việc nghiên cứu về
thực trạng đạo đức môi trườngcủa sinh viên Trường Đại học Hải Dương, đánh giá
thực trạng và tìm các giải pháp phát huy đạo đức môi trường ở mỗi sinh viên là việc
làm vô cùng có ý nghĩa.
Với những lý do nêu trên tôi chọn đề tài: “Đạo đức môi trường ở sinh viên
Trường Đại học Hải Dương hiện nay: Thực trạng và những vấn đề” là đề tài nghiên
cứu luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Môi trường là hệ vấn đề đã được khá nhiều tác giả nghiên cứu, tìm hiểu và đề
cập tới bởi tính cần thiết và cấp bách ngày càng nghiêm trọng của nó. Đã có nhiều
công trình nghiên cứu đi vào cả chiều sâu và chiều rộng của vấn đề, đi từ chuyên
2
ngành đến đa ngành và liên ngành với nhau. Trong đó, từ góc độ khoa học xã hội
nhân văn và từ chuyên ngành triết học, chúng tôi thấy có một số công trình nghiên
cứu đáng chú ý sau đây:
Trước tiên cần phải nhắc đến: “Báo cáo môi trường quốc gia”. Đây là những
báo cáo hàng năm về vấn đề môi trường do Bộ tài nguyên và Môi trường thực hiện.
Từ báo cáo môi trường quốc gia năm 2016 với chủ đề là môi trường đô thị cho biết
tình trạng ô nhiễm môi trường ở các khu đô thị của Việt Nam đang diễn ra rất phức
tạp với sự ô nhiễm tiêu biểu hàng đầu là hoạt động của ngành giao thông vận tải,
ngành xây dựng, ngành công nghiệp... gây ra.Ô nhiễm môi trường không khí, chủ
yếu là bụi gây ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng đến sức khỏe của người dân sinh
sống tại chính khu đô thị đó. Đặc biệt là trẻ em với sức đề kháng còn yếu. Bên cạnh ô
nhiễm không khí là ô nhiễm môi trường nước do việc xử lý nước thải chưa đúng quy
định và do việc vứt rác thải xuống sông, hồ ven khu đô thị gây nên tình trạng bốc mùi
hôi thối, nước sông hồ chuyển màu đen làm ảnh hưởng tới đời sống sinh hoạt của
người dân và làm xấu đi hình ảnh đẹp của khu đô thị. Ngoài ra còn ô nhiễm do chất
thải rắn gây ra, đó là hiện tượng thu gom và vận chuyển rác thải chưa nhanh chóng và
kịp thời làm bốc mùi hôi thối và mất mỹ quan đô thị. Cuối cùng là ô nhiễm môi
trường đất do nước thải chưa qua xử lý hoặc xử lý chưa đúng theo quy định, các bãi
chôn lấp rác thải gây ra...
Báo cáo môi trường quốc gia năm 2017 với nội dung chính đề cập tới là quản
lý chất thải. Theo báo cáo vấn đề quản lý chất thải còn nhiều bất cập, chỉ tính về nước
thải mới giải quyết được trên 10% tổng lượng nước thải, còn lại vẫn thải ra môi
trường chưa qua xử lý hoặc chỉ mới xử lý ở mức độ đơn giản. Qua đây có thể thấy,
môi trường đang bị ô nhiễm rất nghiêm trọng. Những việc làm đó đã góp phần làm
cho nguồn nước, nguồn đất, không khí ngày càng ô nhiễm hơn. Chất thải rắn cũng là
vấn đề đau đầu với các cơ quan quản lý bởi khối lượng lớn. Từ đó, kéo theo hệ lụy là
hiện tượng biến đổi khí hậu đang diễn ra phức tạp, hiện tượng nước biển dâng và xâm
3
nhập mặn đang đe dọa những khu đô thị, những tỉnh và thành phố ven biển...
Bên cạnh các báo cáo của các tổ chức chính trị - xã hội về bảo vệ môi trường,
các tác giả khác với các bài viết đã công bố khá nhiều và đề cập rất chi tiết đến vấn đề
đạo đức môi trường, bảo vệ môi trường, giáo dục bảo vệ môi trường như: Nguyễn
Thị Lan Hương[19],“Đạo đức môi trường và truyền thống mục đích luận”, Tạp chí
Triết học số 12; Nguyễn Văn Phúc[30], “Bảo vệ môi trường nhìn từ góc độ đạo
đức”, Tạp chí triết học số 4; Phạm Thị Ngọc Trầm, “Vấn đề xây dựng đạo đức sinh
thái trong điều kiện kinh tế thị trường”, Triết học, số 3/2002; Phạm Thị Ngọc Trầm
(Chủ biên), Quản lý nhà nước đối với tài nguyên và môi trường vì sựphát triển bền
vững dưới góc nhìn xã hội – nhân văn[48], Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006; Hồ
Sỹ Quý[36], “Về đạo đức môi trường”, Triết học, số 9/2005; Hồ Sĩ Quý (Chủ biên)
(2000)[32], Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong sự phát triển xã hội, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội; Lê Văn Khoa[23] (chủ biên), Môi trường và giáo dục bảo
vệ môi trường, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2008; Hội thảo quốc gia“Giáo dục môi
trường trong các trường học”, Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường
cùng Đại học quốc gia Hà Nội phối hợp thực hiện...
Những công trình nêu trên đều khẳng định, môi trường có vai trò quan trọng
như thế nào với cuộc sống thường ngày của mỗi người dân, chính vì vậy mà nhiệm
vụ bảo vệ môi trường, phòng chống ô nhiễm môi trường đang vô cùng cấp bách. Để
bảo vệ môi trường đạt kết quả tốt thì không thể thiếu được việc giáo dục ý thức, trách
nhiệm và đạo đức môi trường đến từng thành viên trong xã hội từ trẻ đến già, không
phân biệt tuổi tác, trình độ. Vì đạo đức môi trường được thể hiện ở tất cả các phương
diện của xã hội từ sản xuất, du lịch, giải trí, học tập đến sinh hoạt hàng ngày của con
người. Hiện nay ô nhiễm môi trường không chỉ tập trung ở thành phố, các khu đô thị,
công nghiệp mà đã len lỏi về tận thôn quê và trường học. Điều đó đòi hỏi càng phải
đẩy nhanh giáo dục đạo đức môi trường cho từng người dân. Các công trình nghiên
cứu trên đã nhấn mạnh đến thực trạng môi trường hiện nay, các vấn đề cần giải quyết
4
và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao đạo đức môi trường để bảo vệ môi trường
đang bị suy thoái. Các giải pháp đó thể hiện ở tầm quốc gia và được thực hiện trên
phạm vi cả nước với tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong số những nghiên cứu có liên quan đến đạo đức môi trường, chúng tôi
thấy một số công trình ít nhiều có nghiên cứu sâu hơn, hệ thống hơn về đạo đức môi
trường như: Vũ Dũng, “Đạo đức môi trường ở nước ta: lí luận và thực tiễn”, Nxb.
Từ điển bách khoa, Hà Nội 2010; Dự án điều tra cơ bản “Đánh giá đạo đức môi
trườngở nước ta hiện nay”, do Viện Khoa học xã hội Việt Nam thực hiện (2009 –
2010); Nguyễn Văn Phúc, “Đạo đức môi trường”, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội
2013; “Xây dựng đạo đức môi trường ở Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ Triết
học của Hoàng Thị Thanh chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, Hà Nội, 2017. Đây là những công trình đề cập đến cả mặt lý luận và
nhận thức về đạo đức môi trường với những khái niệm cụ thể và chi tiết bao gồm:
khái niệm môi trường, đạo đức, đạo đức môi trường và các tiêu chí để đánh giá đạo
đức môi trường... Ví dụ: Các tiêu chí để đánh giá đạo đức môi trường thể hiện như
sau: Đạo đức môi trường là những hành vi mang tính chuẩn mực (thông qua các văn
bản pháp luật, các quy định, nghị định hiện hành của Đảng và Nhà nước về môi
trường); Ý thức về nghĩa vụ của con người đối với việc bảo vệ môi trường; Ý thức tự
giác, tự nguyện của chủ thể đối với việc bảo vệ môi trường; Sự tác động của lương
tâm chủ thể đối với việc bảo vệ môi trường; Việc bảo vệ môi trường gắn với việc hài
hào về lợi ích giữa con người và tự nhiên; Chia sẻ trách nhiệm để duy trì sự toàn vẹn
của môi trường toàn cầu...
Nhiều tác giả cũng đã tập trung phân tích thực trạng đạo đức môi trường đang
diễn ra hiện nay và những vấn đề cần giải quyết để từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể
để khắc phục những hạn chế còn tồn tại. Tuy nhiên các giải pháp đó mang tầm quốc
gia, xã hội. Hiện tại chưa có công trình nào nghiên cứu về đạo đức môi trường ở sinh
viên Trường Đại học Hải Dương: thực trạng và những vẫn đề. Tuy vậy, các công
trình trên chính là những tiền đề, căn cứ và cơ sở để chúng tôi vận dụng trong nghiên
5
cứu nội dung đạo đức môi trường ở sinh viên Trường Đại học Hải Dương: Thực
trạng và những vẫn đề. Chúng tôi sẽ tập trung đi làm rõ về đạo đức môi trường ở sinh
viên Trường Đại học Hải Dương đã và đang diễn ra như thế nào? Thực trạng và
những vấn đề đạo đức môi trường ở sinh viên Trường Đại học Hải Dương cần được
giải quyết là gì? Trên cơ sở đó sẽ đưa ra các giải pháp khắc phục những tồn tại hạn
chế để phát huy những ưu điểm về đạo đức môi trường ở sinh viên Trường Đại học
Hải Dương góp phần cho Trường Đại học Hải Dương và quê hương Hải Dương có
môi trường làm việc, học tập và sinh hoạt xanh – sạch và đẹp hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng đạo đức môi trường ở sinh viên Trường Đại học Hải
Dương hiện nay; đánh giá những nét tích cực và hạn chế của thực trạng đó; trên cơ sở
đó đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế và nâng cao nhận thức, thái
độ, hành vi đạo đức môi trường cho sinh viên Trường Đại học Hải Dương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận vềđạo đức, đạo đức môi trường, đạo đức
môi trường ở sinh viên làm cơ sở lý luận của đề tài.
- Nghiên cứu và phân tích thực trạng đạo đức môi trường ở sinh viên đại học
Hải Dương. Xác định những vấn đề đặt ra.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao đạo đức môi trường ở sinh viên đại
học trong học tập và trong cuộc sống.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đạo đức môi trường (trong luận văn chủ yếu nghiên cứu môi trường tự nhiên)
ở sinh viên Trường Đại học Hải Dương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu đạo đức môi trường (luận
văn chủ yếu nghiên cứu môi trường tự nhiên) ở sinh viên đại học đang học tập tại
6
Trường Đại học Hải Dương trong những năm gần đây.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, chủ yếu là về quan hệ con người với tự
nhiên, về môi trường và về đạo đức môi trường.
Luận văn có sự kế thừa những quan điểm và thành tựu nghiên cứu của các nhà
khoa học đi trước về môi trường và đạo đức môi trường… trong đời sống xã hội và
trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hơn 30 năm qua.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài kết hợp sử dụng các phương pháp phân tích - tổng hợp; logic - lịch sử;
hệ thống - cấu trúc, phân tích tài liệu thứ cấp và liên ngành khoa học xã hội .
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm rõ lý luận và những vấn đề đạo đức môi trường ở sinh
viên đại học hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, trong giảng dạy về đạo đức môi
trường cho sinh viên đại học; luận văn cũng có ý nghĩa khuyến nghị đối với công tác
xây dựng đạo đức môi trường cho sinh viên Trường Đại học Hải Dương hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận và danh mục TLTK luận văn còn có 3 chương
8 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận về đạo đức môi trường ở sinh viên đại học
Chương 2: Thực trạng và những vấn đề về đạo đức môi trường ở sinh viên
Trường Đại học Hải Dương
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao đạo đức môi trường ở sinh viên
7
Trường Đại học Hải Dương
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu
1.1.1. Đạo đức
● Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một từ Hán Việt dùng để chỉ một thành tố trong tính cách và giá
trị của một con người, những tư tưởng về đạo đức học đã xuất hiện hơn 26 thế kỷ
trước đây trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp cổ đại. Theo nghĩa Hán Việt
có thể hiểu: đạo là con đường, đức là tính tốt. Khi nói một người có đạo đức tức là
nói người đó đã có sự rèn luyện thực hành các lời răn dạy về đạo đức, sống có
chuẩn mực và có nét đẹp trong đời sống và tâm hồn. Hiện nay, đạo đức là một vấn
đề được nhiều tác giả nghiên cứu, chúng ta có thể thấy đạo đức là một hiện tượng
xã hội được hình thành trong quá trình lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất,
trong mối quan hệ giữa con người với con người nhằm điều chỉnh hành vi của mình
để đảm bảo sự hoạt động của cộng đồng nói chung. Đạo đức được hình thành dựa
trên cơ sở tự giác, tự nguyện không mang tính cưỡng ép, bắt buộc. Chỉ có những
hành vi được thực hiện trên cơ sở tự giác, tự nguyện và phù hợp với lợi ích xã hội
mới được coi là hành vi đạo đức.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “đạo đức” là “những tiêu chuẩn, nguyên tắc được
dư luận xà hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và
đối với xã hội phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn
nhất định mà có” [39, tr.464].
Theo Giáo trình đạo đức học của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh:
“Đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc nhằm
điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau, với xã
hội, với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá khứ cũng như tương lai. Chúng được thực
hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.” [17,
8
tr.116].
Như vậy có thể hiểu đạo đức theo các khía cạnh sau:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, trong đó tập hợp những qui tắc,
chuẩn mực xã hội và từ những quy tắc, chuẩn mực đó con người sẽ tự giác điều
chỉnh hành vi của bản thân mình để phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con
người, với tiến bộ xã hội.
Đạo đức là hệ thống những qui tắc, nguyên tắc, chuẩn mực thể hiện sự tự
giác của con người trong mối quan hệ giữa con người với con người, con người với
cộng đồng xã hội, con người với tự nhiên và con người với chính bản thân mình.
Cấu trúc của đạo đức
Với tư cách là một bộ phận của triết học, đạo đức là một hiện tượng xã hội
có cấu trúc phức tạp, gồm các thành phần sau: ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và
quan hệ đạo đức.
Ý thức đạo đức: Là hệ thống những quan niệm, nguyên tắc, tri thức và những
cảm xúc, tình cảm chung của các cộng đồng người về các giá trị thiện, ác, lương
tâm, trách nhiệm, hạnh phúc và công bằng… Mặt khác nó còn bao gồm cả những
quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân
với cá nhân trong xã hội.
Hành vi đạo đức: Là một hành động được thực hiện một cách tự giác, tự
nguyện và được xuất phát bởi một động cơ có ý nghĩa về mặt đạo đức. Hay có thể
hiểu hành vi đạo đức là những cử chỉ, hành động và việc làm của con người trong
các mối quan hệ xã hội mà phù hợp với các chuẩn mực đạo đức.
Quan hệ đạo đức: Là tổng hợp những quan hệ xã hội, tác động qua lại với
nhau, đó là quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân và xã hội xét về mặt đạo
đức. Quan hệ đạo đức có tính tự giác và tự nguyện, nó vận động, biến đổi theo quá
trình phát triển của xã hội, trong phạm vi một hình thái kinh tế - xã hội hay hệ giá trị
đạo đức của một giai cấp cũng có sự vận động, phát triển.
Ý thức đạo đức, quan hệ đạo đức và hành vi đạo đức là những yếu tố tạo nên
9
cấu trúc của đạo đức, chúng không tồn tại độc lập, mà có quan hệ biện chứng tác
động qua lại với nhau. Cấu trúc đạo đức không thể thiếu một tỏng ba yếu tố này. Ý
thức đạo đức được hình thành trong quan hệ đạo đức và là điều kiện để hình thành
hành vi đạo đức. Hành vi đạo đức là quá trình hiện thực hóa ý thức đạo đức và
không thể tách rời quan hệ đạo đức.
Chức năng của đạo đức
Tương tự như cấu trúc của đạo đức, chức năng của đạo đức cũng có ba chức
năng bao gồm: chức năng điều chỉnh hành vi, chức năng giáo dục và chức năng
nhận thức.
Chức năng điều chỉnh hành vi: Đây được coi là chức năng quan trọng nhất
của đạo đức, mặc dù là chức năng quan trọng nhất nhưng đó không phải là cái đặc
quyền của đạo đức, bởi vì trong xã hội, con người tạo ra rất nhiều phương thức điều
chỉnh hành vi của mình như: pháp luật, tôn giáo, chính trị, nghệ thuật, nhận thức
khoa học...Chức năng này nhằm bảo đảm hài hòa quan hệ lợi ích cộng đồng và cá
nhân. Nếu như sức mạnh của pháp luật là sự cưỡng chế, bắt buộc phải thực hiện thì
sức mạnh của đạo đức chính là niềm tin cá nhân, là truyền thống và dư luận xã hội.
Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức được thực hiện bằng hai phương
thức chủ yếu như sau: Thứ nhất là xã hội tạo ra sức mạnh dư luận để khen ngợi,
động viên những người có đạo đức và có những hành vi tốt đẹp. Đồng thời cũng lên
án, phê phán những hành vi gây ảnh hưởng xấu đến mọi người xung quanh và đến
cộng đồng xã hội. Thứ hai là bản thân mỗi người phải tự giác, xuất phát từ chính ý
thức của mình để điều chỉnh hành vi thông qua những chuẩn mực đạo đức xã hội và
bản thân cũng phải tham gia các hoạt động thực tiễn để bổ sung nhận thức, rèn
luyện ý chí.
Chức năng giáo dục: Đây cũng là một trong những chức năng cơ bản của
đạo đức, chức năng này có tác dụng hình thành những nguyên tắc, quy tắc và
chuẩn mực đạo đức trong từng con người cụ thể và phát triển nhân cách của họ.
Đây cũng là con đường đặc trưng cơ bản để loài người tồn tại và phát triển. Có
10
thể hiểu, chức năng giáo dục của đạo đức chính là làm cho “tính người” ở mỗi
người được nhiều lên để ngày càng có nhiều hành động đẹp cho những người khác
học tập và noi theo.
Về thực chất chức năng này là đạo đức hóa con người và xã hội loài người.
Hiệu quả của chức năng này phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế, xã hội, vào
mức độ tự giác của mỗi người trong quá trình giáo dục đạo đức để hướng tới nhân
cách và phẩm chất cần có.
Chức năng nhận thức: Ngoài hai chức năng nêu trên, đạo đức còn có chức
năng nhận thức. Chức năng này bao gồm: nhận thức và tự nhận thức. Nhận thức của
đạo đức là một quá trình vừa có hướng nội, vừa có hướng ngoại. Nhận thức hướng
nội lấy bản thân chủ thể đạo đức làm đối tượng để nhận thức. Đây là quá trình chủ
thể đạo đức tự đánh giá bản thân, tự đối chiếu nhận thức cũng như những hành vi
của mình với chuẩn mực đạo đức xem đã phù hợp chưa? Nhận thức hướng ngoại là
lấy chuẩn mực đạo đức làm đối tượng để nhận thức. Trên cơ sở đó, chủ thể nhận
thức làm gia tăng thêm tính hướng nội của mình. Còn tự nhận thức là quá trình bản
thân tự thẩm định, tự đánh giá những nhận thức, hành vi đạo đức của mình với
chuẩn mực giá trị chung của cộng đồng, xã hội. Từ hai quá trình nhận thức trên con
người sẽ đi đến phân biệt những giá trị như: đúng - sai, tốt - xấu, thiện - ác... và
hướng tới giá trị bao quátmà con người muốn vươn tới là chân, thiện, mỹ.
Các chức năng của đạo đức đều có một vai trò nhất định, nhưng không phải
vì thế mà chúng tách rời nhau, không có ràng buộc với nhau mà ngược lại chúng
đều có quan hệ chặt chẽ với nhau, sự vận hành của chức năng này là tiền đề, điều
kiện của sự vận hành chức năng đạo đức khác. Hơn nữa chúng đều hướng tới một
mục đích chung của xã hội đó là nhân đạo hóa con người và xã hội loài người.
1.1.2. Môi trường
Khái niệm môi trường
Môi trường là khái niệm rộng, bao quát nhiều nội dung và được sử dụng
trong rất nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, giáo dục.... theo định nghĩa thông
11
thường thì môi trường được hiểu: “là toàn bộ nói chung những điều kiện tự nhiên
và xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn tại, phát triển trong mối quan hệ
với con người hay sinh vật ấy. [39, tr.618].
Về mặt pháp lý, theo Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII, kì họp thứ 7 thông qua ngày
23/6/2014 thì môi trường được định nghĩa là: "hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên
và nhân tạo có tác động đối với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật”.
Từ cách định nghĩa này của Luật Bảo vệ môi trường có thể hiểu môi trường là tập
hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và nhân tạo bao quanh con người và nó có ảnh hưởng
lớn tới các hoạt động sống của con người như: sinh hoạt, sản xuất, học tập... Nghĩa
là có thể thấy, con người chính là trung tâm của mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên. Thành phần của môi trường theo Điều 1 của Luật này bao gồm: "là yếu tố
vật chất tạo thành môi trường gồm đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh
vật và các hình thái vật chất khác".
Hiện nay có hai cách hiểu đơn giản về môi trường, đó là hiểu theo nghĩa
rộng và hiểu theo nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, môi trường bao gồm tất cả các nhân
tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho hoạt động sinh hoạt, lao động, sản xuất của con
người như: nước, không khí, đất, ánh sáng... Theo nghĩa hẹp, không xét tới tài
nguyên thiên nhiên môi trường chỉ bao gồm các nhân tố tự nhiên và xã hội tác động
trực tiếp tới chất lượng cuộc sống con người. Ví dụ: môi trường của giảng viên bao
gồm nhà trường với sinh viên, đồng nghiệp, nội quy của trường, lớp học, phòng làm
việc, tổ chức xã hội như Đảng, Đoàn với các điều lệ hay gia đình, họ tộc với những
quy định chỉ truyền miệng nhưng vẫn được công nhận, thi hành và các cơ quan
hành chính các cấp với luật pháp, nghị định, thông tư...
Nếu chia theo chức năng có thể chia môi trường sống của con người như sau:
Một là môi trường tự nhiên bao gồm ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả,
không khí, động, thực vật, đất, nước... chúng tồn tại bên ngoài ý muốn của con
người, nhưng không phải như vậy mà không chịu sự tác động của con người mà
12
ngược lại chúng vẫn chịu ít nhiều chịu tác động.
Hai là môi trường xã hội đó là tổng thể các quan hệ giữa người với người
bao gồm: luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định... ở các cấp khác nhau
như: quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng xã, họ tộc, gia đình, tổ chức đoàn thể...
Môi trường xã hội giúp cho hoạt động của con người được đi theo một khuôn
khổ nhất định, từ đó dần dần hình thành sức mạnh tập thể to lớn tạo thuận lợi
cho sự phát triển, và đây cũng là điểm khác biệt giữa cuộc sống của con người và
các sinh vật khác.
Ngoài ra, người ta còn phân biệt khái niệm môi trường nhân tạo, đó là tất cả
các nhân tố do con người tạo ra, làm thành những tiện nghi trong cuộc sống, như xe
máy, ôtô, máy bay, nhà ở, công sở, các khu đô thị, khu công nghiệp, các khu công
viên nhân tạo phục vụ cho vui chơi giải trí...
Từ những trình bày ở trên có thể hiểu môi trường sống là tất cả những gì có
xung quanh con người, đem lại cho con người điều kiện, cơ sở để tồn tại, để sống
và phát triển, như C.Mác đã từng trình bày trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết
học năm 1844: “Giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người, và chính nó là giới
tự nhiên trong chừng mực của bản thân nó không phải là thân thể con người. Con
người sống dựa vào tự nhiên. Như thế nghĩa là tự nhiên là thân thể của con người;
để khỏi chết, con người phải ở trong quá trình giao dịch thường xuyên với thân thể
đó. Sinh hoạt vật chất và tinh thần của con người liên hệ khăng khít với tự nhiên,
điều đó chẳng qua chỉ có nghĩa là tự nhiên liên hệ khăng khít với bản thân tự nhiên,
vì con người là một bộ phận của tự nhiên”[7, tr.91-92].
Chức năng của môi trường
Môi trường chính là không gian sống của con người và sinh vật. Vậy môi
trường có chức năng gì? Môi trường cho chúng ta không khí để thở và duy trì sự
sống, cho đất đai để trồng trọt chăn nuôi và xây dựng nhà cửa, ngoài ra môi trường
còn có rất nhiều loại khoáng sản ở cả trên mặt đất và trong lòng đất, đó là nguồn tài
nguyên rất quý phục vụ cho nhu cầu sản xuất. Không chỉ phục vụ cho nhu cầu sinh
13
hoạt, sản xuất mà môi trường còn có rất nhiều danh lam thắng cảnh đẹp là nơi du
lịch, nghỉ mát cho con người sau những ngày làm việc vất vả, cho cuộc sống của
con người tưoi đẹp và sinh động hơn. Tuy nhiên khả năng cung cấp của môi trường
tự nhiên phục vụ các nhu cầu đó của con người là có giới hạn và nó phụ thuộc vào
trình độ phát triển của mỗi quốc gia và ở mỗi giai đoạn khác nhau.
Ngoài ra môi trường còn là nơi chứa đựng, đồng hóa các chất thải của con
người trong quá trình sinh hoạt, lao động sản xuất và sử dụng các tài nguyên thiên
nhiên thải vào môi trường dưới dạng các chất thải. Chất thải có loại ở dạng rắn, có
loại ở dạng lỏng và một số loại qua thời gian được hân hủy thành các chất vô cơ, vi
sinh có thể phục vụ lại nhu cầu cầu của con người. Ví dụ chất thải của lợn có thể sử
dụng thành ga phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của con người hay chất thải của các
loại gia súc, gia cầm có thể ủ mục thành phân bón cho các loại cây trồng được xanh
tốt Các tài nguyên sau khi hết hạn sử dụng, chúng bị thải vào môi trường dưới dạng
các chất thải. Tuy nhiên với chức năng là nơi chứa đựng chất thải của môi trường
không phải là vô hạn mà là có giới hạn. Nếu con người vượt quá giới hạn này thì sẽ
gây ra tình trạng mất cân bằng sinh thái và dấn đến hiện tượng ô nhiễm môi trường.
Lúc này lại cần sự chung tay góp sức của con người để chống lại hiện tượng ô
nhiễm môi trường, để bảo vệ môi trường.
1.1.3. Đạo đức môi trường
Khái niệm đạo đức môi trường
Thuật ngữ đạo đức môi trường không phải xuất hiện ngay từ thời cổ đại, thời
cổ đại đạo đức môi trường mới chỉ thể hiện ở tình yêu thương của con người với
thiên nhiên, với cỏ cây hoa lá và vạn vật xung quanh nơi họ sinh sống. Cho đến khi
nền kinh tế thị trường hình thành và phát triển cùng với các cuộc cách mạng khoa
học công nghệ đem theo sự ra đời ngày càng nhiều các loại máy móc hiện đại từ đó
làm cho đời sống của con người ngày càng đòi hỏi cao hơn, họ không bằng lòng với
những gì sẵn có hiện tại của tự nhiên. Họ bắt đầu khai thác sâu hơn vào nguồn tài
nguyên thiên nhiên của môi trường để tìm ra những nguồn nguyên nhiên vật liệu
14
phục vụ cho công việc của mình, lâu dần làm cho nguồn tài nguyên thiên nhiên bị
cạn kiệt dẫn đến việc môi trường tự nhiên không thể tự điều chỉnh, tự cân bằng
được và gây ra hiện tượng ô nhiễm môi trường. Với tình trạng ô nhiễm môi trường
như hiện nay việc bảo vệ môi trường không chỉ là trách nhiệm của từng quốc gia
riêng lẻ mà nó mang tính toàn cầu, mang tính quốc tế với mọi quốc gia trên thế
giới.Từ sự ô nhiễm môi trường đang diễn ra nghiêm trọng như hiện nay chúng ta
nhận thấy rằng mỗi quốc gia nên có thay đổi về chiến lược, chính sách, cách thức và
mô hình phát triển về kinh tế để từ đó đảm bảo được sự cân bằng, hài hòa giữa con
người với xã hội và tự nhiên.
Ph.Ăngghen từng phân tích: “Khi đốt rừng trên các triền núi và lấy số phân
tro đủ để bón cho một đời cây cà phê đem lại một số thu hoạch rất lớn, thì những
người chủ đồn điền Tây Ban Nha ở Cu Ba có cần gì phải suy nghĩ rằng sau này,
những trận mưa rào ở vùng nhiệt đới sẽ cuốn sạch lớp đất bên trên không có sự che
chở và chỉ để lại những lớp đá trơ trụi”[8, tr. 658]. Có thể thấy, từ trong lịch sử con
người vì lợi ích kinh tế cũng đã bất chấp làm những hành động tàn phá tự nhiên.
Do vậy, để đảm bảo được sự cân bằng, hài hòa giữa con người với tự nhiên
thì bên cạnh việc khai thác tự nhiên con người cũng cần phải bảo vệ tự nhiên, bảo
vệ môi trường. Muốn bảo vệ môi trường thì phải có những hành động, việc làm về
bảo vệ môi trường ví dụ như: vứt rác đúng nơi quy định kể cả ở nhà hay ở trường
học, bệnh viện, nơi công cộng; không đưa nước thải chưa qua xử lý ra môi trường;
không bẻ cành cây, hái hoa hay dẫm lên cỏ ở những khuôn viên trường học, công
viên, khu đô thị làm xấu cảnh quan môi trường; hay rộng hơn là trồng cây phủ xanh
đất trống, trồng cây gây rừng, không chặt phá rừng bừa bãi, săn bắn trái phép những
loài vật quý đang trong danh sách cần được bảo tồn.... Những hành động và việc
làm đó phải xuất phát từ trong suy nghĩ, nhận thức, thái độ của mỗi người và phải
mang tính tự nguyện, tự giác không bắt buộc phải thực hiện. Đây chính là cơ sở để
hình thành và cho ra đời một cách ứng xử mới đối với môi trường thuộc về phạm
15
trù đạo đức được mang tên là đạo đức môi trường.
Khái niệm về đạo đức môi trường được rất nhiều tác giả trong và ngoài nước
nhắc tới. Đầu tiên không thể không nhắc tới một luận điểm nổi tiếng và đó cũng là
quan niệm đầu tiên về đạo đức môi trường đưa ra năm 1949 của triết gia người Mỹ
mang tên Aldo Leopold trong 5 tập tiểu luận The Land Ethic đã đăng trên A Sand
County Almanac (Niên giám một vùng đất): “Một hành động chỉ được coi là đúng
nếu nó nhằm bảo vệ sự toàn vẹn, ổn định và vẻ đẹp của cộng đồng sinh vật; ngược
lại thì là sai lầm” [Trích theo: 36].
Theo tác giả Ernest Partridge trong tác phẩm Giới thiệu về đạo đức môi
trường, Trường Đại học tổng hợp California, Mỹ (2008), có nhấn mạnh: “đạo đức
môi trường được hiểu là, sự thể hiện trách nhiệm của con người đối với việc tôn
trọng đất đai, thực vật, tài nguyên, sinh vật không phải là con người”.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu ở ngoài nước thì trong nước cũng có rất
nhiều công trình nghiên cứu về đạo đức môi trường, trong đó tiêu biểu có:
Trong công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Phúc với tác phẩm
“Đạo đức môi trường”, tác giả đã đưa ra định nghĩa về đạo đức môi trường như sau:
“Đạo đức môi trường là một hệ thống các chuẩn mực đạo đức điều chỉnh quan hệ
giữa con người (xã hội) và tự nhiên vì sự phát triển bền vững” [30, tr.73].
Tác giả Hồ Sĩ Quý trong bài viết về môi trường ở tạp trí Triết học số 9 với
nội dung “Về đạo đức môi trường” tác giả cũng khẳng định: “Đạo đức môi trường
là một khái niệm rộng, phong phú, nhưng không quá đa nghĩa. Trên những nét lớn,
có thể hiểu và sử dụng khái niệm này như sau:
- Đạo đức môi trường là những chuẩn mực tự nhiên, bình thường ngấm
sâu trong hành vi và trong phong cách sinh hoạt, ứng xử của mỗi người và mỗi
cộng đồng - Con người bảo vệ môi trường, tôn trọng giới tự nhiên và cẩn trọng
trước hệ sinh thái một cách tự nhiên, không cần ai ra lệnh, không vì mục đích vụ
16
lợi nào khác.
- Đạo đức môi trường biểu hiện thiết thực trong hành vi của mỗi người, mỗi
cộng đồng. Trình độ cao của đạo đức môi trường biểu hiện ở ý thức và kỹ năng xử
lý những vấn đề môi trường.
- Có thể trong tư tưởng, trong suy nghĩ của mình, những người dân bình
thường không hề biết các lý thuyết cao siêu nào đó về hệ sinh thái và bảo vệ môi
trường; song, không hẳn vì thế mà họ kém ý thức về mặt đạo đức môi trường. Đạo
đức môi trường, trước hết, được biểu hiện ở tình cảm tự nhiên của con người - con
người biết ửng xử thân thiện và biết tôn trọng môi trường sống quanh họ.
- Đạo đức môi trường độc lập nhất định với học vấn. Người có học vấn cao
chưa chắc đã có đạo đức môi trường ở trình độ cao. Người có học vấn thấp vẫn có
thể có đạo đức môi trường đáng tôn trọng” [36].
Từ những định nghĩa về đạo đức môi trường của các tác giả trong và ngoài
nước, khái niệm đạo đức môi trường được xác định như sau: Đạo đức môi trường
là một hệ thống bao gồm các quan điểm, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức để trên cơ
sở đó con người sẽ tự điều chỉnh những hành vi của bản thân một cách tự giác, tự
nguyện, không cần ai chỉ đạo với môi trường nhằm hướng đến sự phát triển hài
hòa, ổn định và bền vững giữa con người với môi trường tự nhiên.
Như vậy, khái niệm đạo đức môi trường gồm một số nội dung cơ bản đáng
chú ý như sau:
1) Đạo đức môi trường là một hệ thống các quan điểm, quy tắc, chuẩn mực
đạo đức để hướng dẫn con người và điều chỉnh hành vi của con người đối với môi
trường nhằm thực hiện những mục đích của mình với môi trường nhưng cũng vẫn
bảo vệ môi trường để tạo ra sự phát triển hài hòa và bền vững giữa con người với
môi trường.
2) Trên cơ sở các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức con người đã tự giác và
chủ động điều chỉnh hành vi của mình với môi trường sa cho phù hợp với chuẩn
17
mực đạo đức môi trường.
3) Đạo đức môi trường thể hiện trách nhiệm của mỗi con người với môi
trường, đó là trách nhiệm vừa khai thác vừa kiến tạo và bảo vệ môi trường. Cũng là
thể hiện mối quan hệ đề cao môi trường của con người trong xã hội hiện đại.
Qua đây, có thể coi đạo đức môi trường là một sự đánh giá mang tính hệ
thống các mối quan hệ đạo đức giữa con người và môi trường tự nhiên xung quanh
con người. Từ đó xác lập lên các chuẩn mực nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên theo hướng hài hòa lợi ích giữa con người và tự nhiên. Nói cách
khác là đảm bảo lợi ích của con người mà không làm tổn hại giới tự nhiên. Và đạo
đức môi trường là sự thể hiện hành vi của con người thông qua ý thức của họ đối
với môi trường, nó vừa mang tính tất yếu lại vừa mang tính tự giác.
Tại sao đạo đức môi trường lại có ý nghĩa và vai trò quan trọng trong đời
sống con người và xã hội? Vì nó là những chuẩn mực dành cho tất cả mọi người
không phân biệt tầng lớp trí thức hay nông dân, là người giàu hay người nghèo,
là người già hay người trẻ, là ngưoif theo tôn giáo hay không theo tôn giáo.
Những chuẩn mực đó mang tính cộng đồng và xã hội vì môi trường là của tất cả
mọi người không phải là của riêng ai. Như vậy thực hiện các hành vi với môi
trường theo những chuẩn mực đó được coi là trách nhiệm, là nghĩa vụ của mỗi
người đối với môi trường, xuất phát từ ý thức, suy nghĩ và lương tâm của mọi
người với môi trường.
Bên cạnh tính tất yếu đạo đức môi trường còn mang tính tự giác. Tính tự giác
ở đây là thể hiện sự tự bản thân mỗi người tự có những hành động đối với môi
trường chứ không do tổ chức xã hội hay người nào khác ép buộc họ thực hiện các
hành vi với môi trường. Hành động của mỗi người đối với môi trường ở đây xuất
phát từ trong suy nghĩ, trong lương tâm của họ. Nếu những người yêu môi trường,
muốn bảo vệ môi trường họ sẽ có những hành động để bảo vệ môi trường như:
không vứt rác bừa bãi, không bẻ cành, hái hoa hay dẫm lên cỏ ở những nơi công
18
cộng... và ngược lại là những người không muốn bảo vệ môi trường. Để nhận biết
được một người có đạo đức môi trường hay không chỉ cần thông qua hành động và
việc làm của họ đối với môi trường.
Như vậy để thực hiện được đạo đức môi trường đòi hỏi mỗi người cần trang
bị cho mình những tri thức khoa học không chỉ về lĩnh vực môi trường mà còn bao
gồm các lĩnh vực khác, từ đó phát huy sức sáng tạo của mình để khai thác và bảo vệ
tự nhiên sao cho hợp lý và mỗi con người cũng cần đạo đức và tinh thần trách
nhiệm với hành động của mình.
Những chuẩn mực cơ bản của đạo đức môi trường
Nói đến đạo đức không thể không nói đến chuẩn mực đạo đức. Chuẩn mực
đạo đức có tư cách là sự thể hiện những yêu cầu, những đòi hỏi của xã hội đối với
hành vi cá nhân và chuẩn mực đạo đức thể hiện một cách tập trung chức năng điều
chỉnh của đạo đức. Vai trò điều chỉnh của các chuẩn mực đạo đức biểu hiện như
sau: những đòi hỏi, những yêu cầu của xã hội (ngăn cấm hoặc khuyến khích) thể
hiện trong chúng tạo nên giới hạn cho hành vi, xác định điều gì cần làm và điều gì
không được làm trong những hoàn cảnh, những tình huống cụ thể nhất định. Chuẩn
mực đạo đức, do vậy, là yếu tố trung tâm của ý thức đạo đức. Đồng thời nó cũng
phản ánh những yêu cầu về mặt đạo đức của xã hội đối với con người. Bởi vậy, một
hệ chuẩn mực đạo đức nhất định sẽ xác định đặc trưng của một nền đạo đức nói
chung hay một lĩnh vực đạo đức cụ thể.
Ở đây, có thể thấy đạo đức môi trường là một lĩnh vực đạo đức đặc thù, vì
vậy đi kèm với nó là một hệ thống chuẩn mực đạo đức đặc thù phản ánh những đặc
thù của việc bảo vệ môi trường. Mặc dù mang tính đặc thù nhưng chuẩn mực đạo
đức môi trường không biệt lập với các chuẩn mực đạo đức khác mà vẫn có mối liên
hệ với các chuẩn mực đạo đức đó. Như đã biết mọi quan hệ trong xã hội đều là
quan hệ động, chính vì vậy quan hệ giữa con người và môi trường, xã hội và tự
nhiên cũng là quan hệ động. Vì vậy, các chuẩn mực đạo đức môi trường cũng biến
đổi theo chiều hướng mở rộng về nội dung và gia tăng về số lượng do tính phức tạp
19
của quan hệ này ngày càng gia tăng. Vị trí, vai trò, chức năng của mỗi chuẩn mực
đạo đức môi trường trong hệ thống các chuẩn mực đạo đức môi trường không phải
lúc nào cũng cố định mà có sự biến đổi theo từng thời kỳ, từng địa vực nhất định
khác nhau. Có những chuẩn mực sẽ tồn tại rất lâu nhưng có những chuẩn mực sẽ
nhanh bị thay đổi do tồn tại xã hội thay đổi, chính trị, văn hóa thay đổi. Ở mỗi thời
kỳ, mỗi địa vực nhất định vấn đề môi trường nào nổi lên cấp bách thì những chuẩn
mực đạo đức điều chỉnh việc giải quyết vấn đề môi trường đó trở thành chuẩn mực
chủ yếu và cấp bách nhất. Mặc dù vậy, cũng như những lĩnh vực đạo đức khác, đạo
đức môi trường có những chuẩn mực chung chi phối các phương diện cụ thể của
quan hệ giữa con người và môi trường. Nhưng quan hệ đạo đức trong đạo đức môi
trường có tính chất đặc biệt, đó là nó phải vượt lên trên mối quan hệ giữa người với
người để vươn tới quan hệ đối với giới tự nhiên. Trong điều kiện môi trường hiện
nay, những chuẩn mực sau đây có thể coi là những chuẩn mực chung căn bản nhất:
* Tôn trọng và bảo vệ sự hài hoà của hệ thống con người - xã hội
- tự nhiên
Chuẩn mực này có thể coi là chuẩn mực chung nhất, chi phối, định hướng
các chuẩn mực đạo đức môi trường khác, tạo cơ sở, nền tảng cho quan hệ đạo đức
của con người đối với tự nhiên. Những chuẩn mực khác trong hệ thống chuẩn mực
đạo đức môi trường đều là sự cụ thể hoá, chi tiết hóa chuẩn mực này với mới những
mức độ khác nhau. Chuẩn mực này có cơ sở khách quan là quá trình hình thành,
quá trình tiến hóa một cách tự nhiên của hệ thống con người – xã hội – tự nhiên.
Trước khi có con người, tự nhiên là một hệ thống thuần túy, có cơ chế tự
điều chỉnh. Nhưng từ khi con người xuất hiện hệ thống đó không còn là hệ thống tự
nhiên thuần túy nữa mà đã thay vào đó là hệ thống con người - xã hội - tự nhiên.
Con người khác với các thành tố khác của tự nhiên là họ có ý thức, có lí trí và có
năng lực để cải biến tự nhiên. Tuy nhiên với sự tác động của con người tới tự nhiên
trong suốt thời gian dài đã và đang gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Cùng với
nhận thức của mình, con người phải có những hành động thực tiễn nhằm bảo đảm
20
sự hài hoà, cân bằng của hệ thống con người- xã hội- tự nhiên. Bằng lí trí, ý thức và
bằng thực tiễn, con người sẽ nhận ra tôn trọng vàbảo vệ sự hài hoà của hệ thống
con người- xã hội- tự nhiên là một yêu cầu,một chuẩn mực đạo đức.
Thái độ, tình cảm tôn trọng, bảo vệ sự hài hoà của hệ thống con người - xã
hội- tự nhiên sẽ định hướng cho con người có sự tự giác và tự nguyện bảo vệ sự đa
dạng sinh học, bởi chính sự đa dạng sinh học là một trong những nhân tố, điều kiện
đảm bảo cho sự hài hòa của hệ thống con người – xã hội – tự nhiên luôn luôn được
bền vững. Và cũng chính thái độ, tình cảm đó sẽ định hướng cho chúng ta tự giác và
tự nguyện giải quyết một cách tối ưu những vấn đề đang tồn tại của con người, của
xã hội. Bởi vì, những vấn đề của môi trường không thể độc lập giải quyết mà không
giải quyết những vấn đề của con người, xã hội và những vấn đề của xã hội, con
người cũng chỉ có thể giải quyết được triệt để khi giải quyết được các vấn đề của
môi trường, của tự nhiên. Chính vì vậy, tôn trọng và bảo vệ sự hài hoà của hệ thống
con người - xã hội- tự nhiên là chuẩn mực đạo đức phổ quát, đồng thời cũng là sự
phản ánh về mặt đạo đức của bản thân quá trình phát triển bền vững lấy kinh tế, xã
hội và môi trường cùng làm mục tiêu để hướng tới.
Như vậy, đạo đức môi trường không những đòi hỏi bản thân mỗi người phải
biết tôn trọng môi trường tự nhiên mà còn phải biết đấu tranh chống lại các quan
niệm lạc hậu cho rằng con người là tất cả, “trời sinh voi, trời sinh cỏ” và môi trường
tự nhiên chỉ là vô tri vô giác, từ đó, con người phải biết đấu tranh với các biểu hiện
xâm hại đến môi trường, từ đó cùng chung tay bảo vệ môi trường.
* Sử dụng tài nguyên tiết kiệm và có hiệu quả
Đây là chuẩn mực chủ yếu liên quan chính đến lĩnh vực sản xuất. Vì lĩnh vực
này tập trung khai thác các nguồn nguyên nhiên liệu sẵn có của tự nhiên. Ngày nay
với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ cho ra đời nhiều máy móc hiện
đại làm cho quy mô sản xuất ngày càng được mở rộng và nhu cầu khai thác tài
nguyên ngày càng cao. Đến nay, nhân loại đã khai thác hết hơn 40% nguồn tài
nguyên không tái tạo được. Và với sự phát triển của xã hội, sự gia tăng về dân số
21
đòi hỏi vẫn phải đẩy mạnh việc khai thác hơn nữa. Trước thực trạng này thì việc sử
dụng tài nguyên tiết kiệm và có hiệu quả trở thành yêu cầu của sự phát triển kinh
tế bền vững và do đó trở thành chuẩn mực về mặt đạo đức. Tiết kiệm và sử dụng
có hiệu quả nguồn tài nguyên không chỉ dừng lại ở việc không lãnh phí tài
nguyên trong sản xuất mà còn phải tiến hành áp dụng những tiến bộ của khoa
học công nghệ để sao cho mỗi đơn vị sản phẩm làm ra tiêu hao ít nhất nguyên
liệu và nhiên liệu.
Trong điều kiện xã hội ngày nay, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả là yêu cầu
không chỉ với nguồn tài nguyên không tái tạo được mà còn là yêu cầu với cả những
nguồn tài nguyên tái tạo được. Và cần phải coi chuẩn mực này là một trong những
chuẩn mực căn bản của đạo đức môi trường. Người có đạo đức môi trường không
chỉ không tham gia phá rừng, khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên, săn bắt động vật
hoang dã…, mà còn phải biết đấu tranh chống lại, kiên quyết không tiếp tay cho
những hành vi sai trái đó.
* Tự giác và tự nguyện nâng các yêu cầu pháp lí về bảo vệ môi trường thành
các yêu cầu đạo đức và tuân thủ các yêu cầu đó
Những yêu cầu bảo vệ môi trường đã được thể chế hóa trong các cam kết
quốc tế và luật môi trường của các quốc gia cũng như những quy định mang tính
pháp lí về bảo vệ môi trường của các tổ chức, các thiết chế xã hội, các đơn vị sản
xuất là những yêu cầu căn bản và tối thiểu đối với con người trong quan hệ với môi
trường. Nếu không may vi phạm các yêu cầu này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc bảo
vệ môi trường, đó là gây ô nhiễm môi trường. Hiện nay nước ta đã có các quy định,
các văn bản pháp lý và đã ban hành Luật Môi trường năm 1993 và có sửa đổi, bổ
sung vào năm 2005. Mặc dù vậy: Quản lý nhà nước về tài nguyên, bảo vệ
môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu nhiều mặt còn hạn chế; pháp luật, chính
sách thiếu đồng bộ; thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm chưa nghiêm. Điều
tra cơ bản và quy hoạch sử dụng tài nguyên chưa đáp ứng yêu cầu. Việc giao quyền
quản lý, khai thác, sử dụng đất đai, khoáng sản, rừng, nguồn nước chưa phù hợp
22
với kinh tế thị trường và hiệu quả chưa cao; vẫn còn tình trạng khai thác trái phép
tài nguyên, khoáng sản. Tình trạng ô nhiễm môi trường chậm được cải thiện; ô
nhiễm môi trường ở nhiều nơi còn nghiêm trọng” [26, tr.168]. Hiện tượng chặt
phá rừng bừa bãi, săn bắn các loài thú quý, khai thác khoáng sản trái phép vẫn
đang lộng hành và một số cơ sở sản xuất kinh doanh vẫn ngang nhiên đưa nước
thải chưa qua xử lý hoặc mới xử lý ở mức đơn giản ra môi trường gây nên hiện
tượng ô nhiễm nguồn nước, nguồn đất, không khí. Trong cuộc sống sinh hoạt
của từng hộ gia đình vẫn còn nhiều hiện tượng đưa rác thải, nước thải ra môi
trường chưa đúng theo quy định.Sạt lở ven biển, ven sông và xâm nhập mặn diễn
biến ngày càng phức tạp...
Từ những hành động nêu trên cho thấy việc nâng những yêu cầu pháp lí về
bảo vệ môi trường lên thành những yêu cầu đạo đức tối thiểu và thực hiện chúng
một cách tự giác, tự nguyện thông qua hành vi của bản thân mỗi người là một trong
những chuẩn mực đạo đức môi trường cơ bản trong điều kiện bảo vệ môi trường
hiện nay.
* Công bằng trong khai thác và bảo vệ môi trường
Trái đất và những thành phần bên trong trái đất là là ngôi nhà và là tài sản
chung của toàn nhân loại. Chính vì vậy, con người phải cùng nhau chia sẻ một cách
công bằng các lợi ích từ khai thác cũng như chia sẻ một cách công bằng trách nhiệm
bảo vệ và phát triển môi trường.
Với sự tăng trưởng về kinh tế sẽ liên quan đến quy mô khai thác tài nguyên
của môi trường và từ đó sẽ liên quan đến chất thải, khí thải. Hiện nay với sự phát
triển về kinh tế kéo theo đó là sự gia tăng về chất thải, khí thải. Trên thế giới hiện
nay nếu chia theo sự phát triển kinh tế thì có các nước phát triển và các nước đang
phát triển. Vấn đề công bằng hiện nay là ưu tiên cho các nước đang phát triển được
khai thác tài nguyên, đẩy mạnh hoạt động sản xuất vật chất để nhanh chóng theo kịp
các nước phát triển về kinh tế - xã hội. Nhưng một nghịch lý đặt ra là tăng trưởng
kinh tế sẽ lại dẫn đến tăng chất thải và khí thải vào môi trường. Và lúc này, sự chia
23
sẻ của các nước phát triển với các nước đang phát triển sẽ là việc chuyển giao công
nghệ thân thiện với môi trường cùng sự hỗ trợ về tài chính, máy móc, trang thiết bị
hiện đại... để giải quyết vấn đề chất thải và khí thải đặt ra. Công bằng ở đây được
thể hiện bằng việc các nước phát triển tự nguyện cam kết cắt giảm khí thải, chất thải
và chấp nhận một mức độ tăng trưởng tương ứng. Nhưng thực tế lại không diễn ra
như vậy, nhiều quốc gia phát triển không hoàn toàn chia sẻ quan điểm đó.
Chính vì vậy, ở cấp độ toàn cầu, vấn đề đặt ra là các quốc gia phát triển và
các quốc gia đang phát triển cần đi tới sự thống nhất trong cách hiểu về công bằng
trong khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường. Sự công bằng ở đây chính là sự
nhượng bộ, sự hi sinh và san sẻ nhất định về những lợi ích trước mắt để vì lợi ích
chung và lợi ích lâu dài của toàn nhân loại trong ngôi nhà chung của mình.
Trong phạm vi một quốc gia, công bằng trong bảo vệ môi trường đó là sự
chia sẻ trách nhiệm với các doanh nghiệp, các công ty. Trong đó, các doanh nghiệp
với tư cách là cở sở sản xuất chính sẽ gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường. Vì vậy,
nếu các doanh nghiệp vi phạm các quy định pháp quy liên quan đến môi trường thì
phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm pháp lý tức là trách nhiệm trước Nhà nước, pháp
luật, đồng thời còn phải thực hiện trách nhiệm xã hội trong bảo vệ môi trường. Đây
chính là sự chia sẻ trách nhiệm một cách tự giác và tự nguyện. Như vậy mới tạo ra
được sự công bằng trong khai thác và bảo vệ môi trường.
* Nâng cao tinh thần tương trợ và phối hợp hành động giải quyết các sự cố
môi trường
Các sự cố môi trường, đặc biệt là các sự cố nghiêm trọng đã từng gây ra
những tổn thất vô cùng to lớn về tính mạng con người, tài sản và môi trường. Di hại
của những sự cố đó có thể kéo dài nhiều năm, qua nhiều thế hệ (từ thế hệ này sang
thế hệ khác). Một số thảm họa gây ô nhiễm môi trường và để lại hậu quả lâu dài
như: “Năm 1932 - 1968, một thảm họa nước biển nhiễm độc xảy ra tại Nhật Bản do
nhà máy hóa chất Chisso xả trực tiếp nước thải chứa thủy ngân chưa qua xử lý ra
vịnh Minamata và biển Shiranui gây hậu quả nghiêm trọng. Theo Med.org.jp: “chất
24
thải đã tích tụ sinh học trong hải sản ở khu vực biển này, khiến người dân và súc vật
địa phương ăn vào bị nhiễm độc thủy ngân. Chứng bệnh do nhiễm độc thủy ngân ở
đây được gọi là bệnh Minamata. Vụ nuôhiễm độc đầu tiên được phát hiện năm
1956 nhưng phải đến năm 1968, chính quyền mới chính thức kết luận nguyên nhân
bệnh Minamata là do nhà máy Chisso xả thải gây ô nhiễm. Hậu quả của nó kéo dài
suốt 36 năm sau. Người nhiễm độc bị co giật, chân tay co quắp, không nói được.
Thai nhi đẻ ra bị dị dạng. Gần 2.000 người chết, 10.000 người bị ảnh hưởng. Chó,
mèo bị nhiễm độc cũng phát điên rồi chết. Cá biển chết dạt đầy bờ, phủ kín mặt
biển. Đến năm 2004, tập đoàn Chisso đã trả 86 triệu USD tiền bồi thường cho các
nạn nhân và bị yêu cầu phải làm sạch khu vực biển bị ô nhiễm”[51]. Gần đây nhất,
thảm họa kép động đất, sóng thần và sự cố lò phản ứng hạt nhân ở Nhật Bản đã làm
thiệt mạng 15.846 người và 3.317 người vẫn đang mất tích. Thiệt hại về vật chất
ước tính là 300 tỉ USD. Việc giải quyết sự cố môi trường ở Nhật Bản đã nhận được
sự giúp đỡ của nhiều quốc gia và hàng trăm tổ chức từ thiện. Nhưng những di hại
của nó thì chưa biết bao giờ có thể giải quyết dứt điểm được. Mới đây, ở nước ta
vào tháng 4 năm 2016, nhà máy Formosa xả thải chứa độc tố: bao gồm cyanide,
phenols và hydroxide sắt; làm cá chết dọc bờ biển dài hơn 200 km và di hại của
biến cố này khiến cho cuộc sống của hàng trăm ngư dân và dân chúng tại 4 tỉnh Bắc
Trung Bộ bị xáo trộn. Hàng ngàn chiếc tàu nằm phơi bờ không thể ra khơi đánh bắt
cá và hải sản cũng như hơn 40 ngàn công ăn việc làm tại khu vực này bị ảnh hưởng
và 250 ngàn người lao động cả nước bị tác động suốt hơn một năm. Sau đó
Formosa đã đền bù 500 triệu USD để hỗ trợ người dân bị thất nghiệp. Người dân cả
nước cũng đã tổ chức quyên góp để giúp đỡ ngư dân vượt qua khó khăn.
Yêu cầu giảm thiểu tối đa những thiệt hại đáng tiếc xảy ra về tính mạng con
người, về tài sản cùng tác hại đối với môi trường đòi hỏi phải có sự tương trợ, sự
giúp đỡ và sự phối hợp hành động để giải quyết các sự cố môi trường. Một sự cố
môi trường nào đó xảy ra có thể chỉ thuộc phạm vi trách nhiệm trực tiếp của một tổ
chức, một quốc gia nhất định, nhưng việc khắc phục hậu quả của nó đòi hỏi phải có
25
sự tham gia của tất cả những quốc gia, những tổ chức, những đơn vị có khả năng.
Chính vì vậy, nâng cao tinh thần tương trợ, giúp đỡ và phối hợp hành động giải
quyết các sự cố môi trường là một trong những yêu cầu, một trong những chuẩn
mực hàng đầu của đạo đức môi trường.
* Giữ gìn môi trường sống xanh, sạch, đẹp trong đời sống thường nhật
Đây là chuẩn mực nhấn mạnh đến trách nhiệm, thói quen sinh hoạt trong
cuộc sống hàng ngày của mọi người. Thói quen sinh hoạt là một hình thức biểu hiện
của lối sống, vì vậy nó bị quy định bởi tổng thể những điều kiện sinh sống của con
người: phương thức sản xuất xã hội và truyền thống văn hóa có vai trò cơ bản nhất.
Mặc dù bị quy định như vậy, nhưng một khi đã định hình, các thói quen sinh hoạt
có tính độc lập nhất định và tác động ngược trở lại cơ sở kinh tế, xã hội đã sản sinh
ra chúng. Tuy nhiên cũng do tính độc lập đó mà trong đời sống luôn tồn tại cả thói
quen tích cực và thói quen tiêu cực. Vì vậy mỗi người cần khắc phục những thói
quen tiêu cực, đẩy mạnh, phát huy những thói quen tích cực bằng cách tự giác, tự
nguyện thực hiện yêu cầu giữ gìn môi trường sống xung quanh mình xanh, sạch,
đẹp và nâng yêu cầu đó lên thành chuẩn mực đạo đức môi trường.
Mỗi người nên biết hoà mình vào thiên nhiên, làm bạn với cỏ cây, hoa lá;
thay việc sử dụng thuốc trừ sâu bằng cách nuôi các loài thiên địch của sâu bọ; quý
trọng và tiết kiệm khi sử dụng điện, nước; biết làm ra của cải vật chất bằng cách tái
chế rác thải, phế liệu như sản xuất phân bón từ rác hữu cơ, làm lò Biogas từ phân
gia súc, hạn chế mua đồ lấy nhiều túi nilon…
Chuẩn mực này nhắc nhở mỗi người cần có ý thức giữ gìn vệ sinh chung;
đồng thời cũng nên tích cực tham gia vào các hoạt động làm xanh, sạch đẹp đường
làng, ngõ xóm, khu dân cư, nơi làm việc, nơi vui chơi công cộng… Việc thường
xuyên có ý thức tham gia vào những hoạt động như vậy sẽ tạo cho con người thái
độ, thói quen thân thiện và yêu quý môi trường, từ đó càng có những hành động tích
cực để bảo vệ môi trường.
* Thực hành lối sống văn hóa, thể hiện quan hệ hài hòa giữa mức sống và
26
lối sống
Trái với lối sống tiêu thụ, lối sống văn hóa được định hướng bởi nững giá trị
cao đẹp. Đó là lối sống mà mỗi người vừa ra sức phát triển nhân cách của mình vừa
góp phần tạo ra những điều kiện cho sự phát triển nhân cách của người khác và của
toàn thể cộng đồng. Là lối sống có sự cân đối giữa việc thỏa mãn những nhu cầu vật
chất và những nhu cầu tinh thần. Một trong những nhu cầu không thể thiếu để làm
nên ý nghĩa cuộc sống đó là quan tâm đến mọi người xung quanh mình và quan tâm
đến cộng đồng. Cốt lõi của sự quan tâm đó là quan tâm về mặt lợi ích, là sự giải
quyết hài hòa lợi ích giữa con người với con người trên tất cả các phạm vi.
Việc bảo vệ môi trường đòi hỏi phải giải quyết các lợi ích đó và từ việc giải
quyết các lợi ích đó sẽ tạo điều kiện cho việc bảo vệ môi trường. Trong điều kiện
môi trường hiện nay việc giữ gìn môi trường sống xanh, sạch, đẹp trong đời sống
thường nhật đó là thực hiện lối sống xanh, đây là lối sống đáp ứng được nhu cầu
hiện tại mà không phải hi sinh hay ảnh hưởng đến việc các thế hệ tương lai.
Trên đây là những chuẩn mực cơ bản của đạo đức môi trường và các
chuẩn mực này chủ yếu nhấn mạnh về việc điều chỉnh hành vi của con người.
Các chuẩn mực đó có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau, mỗi chuẩn mực đều
có vai trò và chức năng của mình. Chính vì vậy không nên coi trọng chuẩn mực
này, từ bỏ chuẩn mực khác, như vậy sẽ không phát huy được hết khả năng trong
việc bảo vệ môi trường.
Ngoài ra các Hội nghị thượng đỉnh trên thế giới về chủ đề môi trường cũng
chú trọng các nội dung sau:
Thứ nhất, các hành vi môi trường trước hết phải đảm bảo khả năng tái tạo và
phục hồi tự nhiên, cụ thể là các hệ động vật, thực vật. Đồng thời phải khai thác sử
dụng hợp lý các nguồn tài nguyên không tái tạo được như: khoáng sản, các nguyên,
nhiên liệu hóa thạch.
Thứ hai, việc sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng sinh thái (đảm bảo các
tiêu chuẩn sinh thái) tiêu chí này phải được coi là một trong những chuẩn mực đạo
27
đức đặc biệt đối với các tổ chức doanh nghiệp. Đồng thời là tiêu chuẩn để điều
chỉnh hành vi sản xuất của con người. Kiên quyết không sản xuất những sản phẩm
phi sinh thái. Tẩy chay những sản phẩm không đảm bảo tiêu chuẩn sinh thái.
Thứ ba, sản xuất tiêu dùng phải đảm bảo an toàn chất lượng môi trường sống
như: đảm bảo tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái, đảm bảo tình trạng sức khỏe
của con người trong vùng mà họ đang sống. Cũng như đảm bảo các tiêu chí môi
trường như: tiêu chuẩn về khí thải, tiếng ồn, bụi, rác thải, nước thải... đảm bảo cho
chúng ta đuợc sống trong lành.
Thứ tư, sống thân thiện với môi trường. Điều này được thể hiện qua hành
động trong cuộc sống thường ngày như: sử dụng bóng đèn tiết kiệm điện; tắt khi
không sử dụng: tivi, máy tính, điện, quạt; sử dụng năng lượng mặt trời; trồng cây
cảnh trong nhà; hạn chế sử dụng túi nilon; tận dụng nước thải để tưới cây; sử dụng
tiết kiệm nước…
Bốn chuẩn mực vừa nêu trên là những chuẩn mực mang tính mặc định đối
với tất cả mọi người, nhằm hướng tới một môi trường không còn ô nhiễm, một môi
trường trong lành, một môi trường xanh – sạch – đẹp để từ đó bảo đảm sức khỏe
cho con người và sự sinh sôi phát triển của các loài sinh vật trên phạm vi toàn cầu.
1.2. Đạo đức môi trƣờng ở sinh viên
1.2.1. Một số đặc điểm tâm, sinh lý của sinh viên
Một số đặc điểm tâm lý của sinh viên
Sinh viên là thuật ngữ dùng để chỉ những người đang học tập tại các trường
đại học, cao đẳng. Họ có độ tuổi trong khoảng từ 18 đến 24 tuổi, là độ tuổi đã và
đang có những hoàn thiện về mặt sinh học và xã hội. Đây là thời kỳ phát triển đầy
đủ các chức năng tâm lý, sự hài hòa của con người gắn liền với năng lực làm việc
được nâng cao một cách rõ rệt, nhân cách cơ bản cũng đã được hình thành và luôn
có tính độc lập cao.
Sinh viên có đặc điểm tâm lý lứa tuổi nổi bật là sự phát triển khả năng tự ý
thức. Tự ý thức bao gồm tự quan sát, tự phân tích, tự đánh giá, tự kiểm tra... là một
28
loại đặc biệt của ý thức trong đời sống cá nhân có chức năng tự điều chỉnh nhận
thức, thái độ, sự đánh giá toàn diện đối với bản thân và vị trí của mình trong cuộc
sống. Qua quá trình tự ý thức, cá nhân điều chỉnh hành vi và cử chỉ của mình, đó là
điều kiện phát triển có ý thức và nhân cách, để xây dựng tương lai và tổ chức toàn
bộ thế giới nội tâm của nhân cách đó và từ đó cũng dần dần hoàn thiện nhân cách,
lối sống theo các yêu cầu của xã hội. Do đó có thể thấy, hiệu quả giáo dục không
chỉ phụ thuộc vào khí chất, năng lực, tính cách, động cơ, mà còn phụ thuộc vào đặc
điểm ý thức của của mỗi sinh viên. Khi học ở trường đại học, việc xây dựng con
đường sống trong tương lai của sinh viên có ảnh hưởng rất lớn đến ý thức của họ
trước tiên là ảnh hưởng đến tính tích cực bên trong sinh viên. Mức độ tích cực của
tự ý thức của sinh viênphụ thuộc vào thời hạn đạt tới mục đích được vạch ra và cho
thấy việc chuyển sang dự kiến lâu dài của cuộc sống sẽ làm tăng cường tính tích
cực bên trong thuộc phạm vi nhận thức. Một trong những thành phần có ý nghĩa
nhất tạo nên sự phát triển ý thức của sinh viênlà năng lực tự đánh giá. Tự đánh giá
là kết quả bên ngoài hình thành nên lòng tự trọng của cá nhân. Lòng tự trọng, tự tin
phản ánh trạng thái tâm lý đạo đức của con người và tạo nên thái độ tốt đối với bản
thân. Trong thời kỳ học tập tại các trường Đại học sinh viên bắt đầu cuộc sống lao
động trí tuệ học tập căng thẳng, nhận được sự thỏa mãn nhu cầu cơ bản của con
người là nhận thức về thế giới xung quanh. Cùng với sự tăng lên về ý thức trong
quá trình học tập thì các chức năng tâm lý cũng được phát triển như tư duy trừu
tượng, trí nhớ, khả năng phán đoán, chú ý... học tập và giao tiếp là hai hoạt động
tích cực biểu hiện trong nhân cách sinh viên.
Nhìn chung, đặc điểm tâm lý của lứa tuổi sinh viên là thích cái mới lạ, thích
học hỏi và ưa tìm tòi khám phá, sáng tạo. Bên cạnh đó sinh viên còn có tính nhạy
bén cao cập nhật nhanh những cái mới về khoa học công nghệ, kiến thức trong đời
sống và kỹ năng sống. Những đặc điểm này chính là cơ sơ quan trọng cho quá trình
học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên.
29
Một số đặc điểm sinh lý của sinh viên
Ở tuổi này, về cơ bản các cơ quan và hệ thống cơ quan quan trọng nhất của
cơ thể ngừng phát triển, với chiều cao vì phần sụn nằm ở đầu xương đã được xương
hóa, nên nói chung chiều cao gần như cố định, tuy nhiên lại phát triển theo chiều
ngang và tăng trọng lượng cơ thể. Bộ não đã đạt trọng lượng tối đa, khoảng 1400gr,
các tổ chức của hệ thần kinh vẫn còn phát triển và đi đến hoàn thiện. Các trung khu
thần kinh có những nhiệm vụ chuyên biệt riêng, khả năng tư duy, khả năng phân
tích tổng hợp và trừu tượng hóa tăng lên tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành
phản xạ có điều kiện. Đây là cơ sở sinh lý của việc nhanh chóng tiếp thu và hoàn
thiện kỹ thuật..
Lứa tuổi này cũng là lứa tuổi có giai đoạn dậy thì gần hoàn thành, các chức
năng sinh sản đã hoàn thiện. Chính vì vậy nên bản thân các em cũng muốn mở rộng
các mối quan hệ với bạn bè, thích giao lưu học hỏi các bạn cùng trang lứa.
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến đạo đức môi trường ở sinh viên
Ảnh hưởng từ gia đình
Sinh viên là lớp người đang mang trong mình nhiệt huyết của tuổi trẻ, có
nhiệt tình cách mạng, nhạy cảm với cái mới, cái tiến bộ. Là lứa tuổi với những ước
mơ, những hoài bão lớn và bản thân các em rất muốn chinh phục ước mơ ấy, hoài
bão ấy.
Như đã biết, gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng và giáo dục
nhân cách cho mỗi thành viên trong gia đình. Từ nhận định này cho thấy gia đình có
vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành nhân cách, đạo đức của mỗi con
người, trong đó có sinh viên. Chúng ta có thể thấy, nếu gia đình hạnh phúc, bố mẹ
yêu thương nhau, bố mẹ kính trọng, chăm sóc ông bà, yêu thương con cái, gia đình
không có xô xát, cãi nhau trước mặt con trẻ, thì gia đình đó sẽ có những đứa con
ngoan ngoãn, vâng lời ông bà, bố mẹ và sau này lớn lên sẽ có những đức tính tốt, có
ý thức đạo đức và cũng sẽ có ý thức đạo đức môi trường. Và ngược lại nếu gia đình
bố mẹ hay cãi nhau trước mặt con trẻ, bố mẹ không kính trọng ông bà, không chăm
30
sóc ông bà, bố mẹ hay la mắng con cái thì gia đình đó con cái sẽ học những đức tính
của bố mẹ, sẽ trở thành những đứa trẻ thiếu giáo dục, những đứa trẻ không ngoan
và có thể sau này chúng cũng sẽ đối xử với bố mẹ như bố mẹ đối xử với ông bà.
Khi ra ngoài xã hội chúng sẽ không tôn trọng người khác và sẽ có những hành vi
thiếu đạo đức và cũng có thể sẽ thiếu ý thức đạo đức môi trường
Kinh tế gia đình cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến mối quan hệ giữa cha mẹ
và con cái. Điều đó thể hiện như sau: có thể cha mẹ chỉ lo làm kinh tế, không có
thời gian quan tâm tới quá trình hình thành nhân cách, phẩm chất đạo đức của con
em mình, hoặc một số gia đình có điều kiện kinh tế đầy đủ, cha mẹ chỉ cung cấp
tiền (tiền có thể lo được) không quan tâm đến việc học tập, cuộc sống sinh hoạt
hàng ngày của con mình và việc giáo dục, xây dựng phẩm chất đạo đức thì chủ yếu
để cho nhà trường trang bị cho nên dẫn đến tình trạng nhiều sinh viên không được
trang bị những kỹ năng sống tối thiểu, không có những phẩm chất đạo đức tối thiểu.
Nhiều sinh viên gia đình có điều kiện kinh tế đã trở thành cậu ấm cô chiêu sống
theo kiểu hưởng thụ, dùng tiền để giải quyết mọi việc. Các em chạy theo lối sống
thực dụng, coi trọng đồng tiền và ý thức đạo đức của các em không có. Từ đó các
em cũng không coi trọng những hành động bảo vệ môi trường. Bản thân các em coi
những hành động vứt rác bừa bãi, dẫm lên cỏ, hái hoa, bẻ cành, hút thuốc lá nơi
đông người, thậm chí có em còn sử dụng chất kích thích như ma túy tổng hợp, ma
túy đá… là bình thường không ảnh hưởng gì đến mọi người xung quanh và cũng
không ảnh hưởng tới môi trường.
Từ đây có thể thấy giáo dục của gia đình trong việc hình thành nhân cách, ý
thức đạo đức cho con em mình có vai trò rất quan trọng. Mỗi gia đình nên sắp xếp
thời gian cho công việc và cho con một cách hợp lý để quan tâm, yêu thương đến
com mình để giúp các em có ý thức đạo đức tốt, có những hành động thể hiện mình
là người có văn hóa, có đạo đức. Đặc biệt sinh viên phần lớn các em đều sống xa
nhà, xa vòng tay bố mẹ nên càng thiếu thốn tình cảm của gia đình và càng cần sự
quan tâm hơn của gia đình để các em không bị sa ngã vào những tệ nạn xã hội,
31
không sống buông thả và trong tương lai không xa các em sẽ góp sức mình vào xây
dựng đất nước, sẽ trở thành những người vừa có tài vừa có đức như sinh thời chủ
tịch Hồ Chí Minh vẫn mong muốn.
Ảnh hưởng từ bạn bè
Sinh viên là chỉ đối tượng sẽ học tại các trường đại học, cao đẳng. Có thể học
tại các trường đại học, cao đẳng ở tỉnh thì sẽ học ở trên thành phố (nếu nhà ở thành
phố thì sẽ đi đi về về, còn nhà ở quê thì có thể ở ký túc xá của trường hoặc ở trọ bên
ngoài), nếu học ở các trường đại học, cao đẳng khác tỉnh thì sẽ phải đi xa và bắt
buộc là phải ở trọ hoặc ở ký túc xá của nhà trường. Đi học trên lớp các em sẽ học
cùng khoảng 30 đến 40 bạn khác, ngoài giờ học sẽ có giờ giải lao, đó là lúc các em
giao lưu, vui chơi cùng nhau. Như vậy có thể thấy, các em sẽ sống trong môi trường
tập thể, nếu ở kí túc xá, ở trên lớp sẽ là môi trường tập thể lớn còn ở trọ thì sẽ ở môi
trường tập thể nhỏ. Chính vì ở trong môi trường tập thể như vậy nên có nhiều đối
tượng khác nhau, có bạn nhà giàu, có bạn nhà bình thường, có bạn nhà khó khăn; có
bạn chăm học, có bạn lười học; có bạn chăm lao động, có bạn lười lao động; có bạn
đi làm thêm, có bạn không đi làm thêm; có bạn học ngành này, có bạn học ngành
kia ở cùng xóm với nhau hay ở cùng ký túc xá với nhau. Và sinh viên là lứa tuổi
đang thích khám phá, tìm tòi và thể hiện mình nên các bạn sẽ bộc lộ tính cách, môi
trường tập thể như vậy cũng sẽ học tập cả những đức tính tốt và đức tính chưa tốt.
Ví dụ về hành vi đạo đức môi trường, bạn này vứt rác bừa bãi nhưng không bị ai
nhắc nhở, bạn kia thấy vậy liền nghĩ vậy việc gì mình phải mang ra tận thùng rác
vứt cho mất công, mình cũng vứt luôn ở đây như bạn kia cho nhanh. Nhiều lần như
vậy sẽ hình thành thói quen xấu là vứt rác không đúng nơi quy định. Hay khi ở xóm
trọ, ở ký túc xá tiến hành dọn vệ sinh tập trung, có bạn không tham gia cũng không
sao lần sau sẽ có bạn cũng sẽ không tham gia. Hoặc khi Nhà trường triển khai việc
dọn vệ sinh khuôn viên trường, có bạn không tham gia, có bạn tham gia nhưng
không làm việc tích cực nhưng cũng không bị khiển trách, nhắc nhở, những bạn
làm tốt cũng không được tuyên dương, lần sau những bạn làm tốt cũng sẽ không
32
tham gia hoặc tham gia không nhiệt tình. Ngược lại những bạn làm tốt được tuyen
dương, những bạn làm chưa tốt được nhắc nhở chỉ ra những thiếu xót để lần sau các
bạn sửa chữa thì sẽ là những hình ảnh tốt cho các bạn khác học tập đức tính tốt và
tránh những hành vi chưa tốt.
Từ những ví dụ trên chúng ta thấy bạn bè có ảnh hưởng rất lớn đến nhận
thức và hành vi đạo đức của sinh viên trong đó có hành vi đạo đức môi trường, ảnh
hưởng này có thể theo hai hướng là tích cực hoặc tiêu cực. Vì đặc điểm tâm lý của
sinh viên như đã phân tích ở trên là các em thích cái mới lạ, thích học hỏi và sáng
tạo, thích thể hiện mình và điều đó cũng ảnh hưởng lớn đến ý thức đạo đức của các
em , trong đó có đạo đức môi trường. Một trong những nguyên nhân chính gây nên
thực trạng đạo đức môi trường ở sinh viên hiện nay là do sinh viên bị những ảnh
hưởng tiêu cực từ bạn bè có tư cách đạo đức không tốt, từ những bạn bè không có
văn hóa. Qua đây, chúng ta cũng thấy được việc giáo dục đạo đức môi trường cho
sinh viên rất có ý nghĩa và cần được phổ biến rộng rãi trong các trường học, không
chỉ trường đại học, cao đẳng mà còn phải phổ biến cả ở các bậc học thấp hơn từ
mầm non, tiểu học, trung học cơ sở đến trung học phổ thông để hướng tới một môi
trường thân thiện, không khí trong lành, xanh mát ở tất cả các trường học trên khắp
mọi miền tổ quốc thân yêu!
Ảnh hưởng từ nhà trường
Nhà trường không chỉ là nơi truyền tri thức cho các em sinh viên, mà còn là
nơi giáo dục kĩ năng sống cho các em. Khi các em bước chân vào cánh cổng đại
học, đồng nghĩa với việc các em bắt đầu mọt khởi đầu mới với nội dung các môn
học mới, phương pháp giảng dạy mới và nề nếp, cách quản lý của thầy cô cũng
mới. Vì trên bậc đại học các thầy cô không còn sử dụng phương pháp đọc chép và
giải thích cặn kẽ cho các em như bậc học phổ thông, mà các thầy cô chỉ với tư cách
là người định hướng, hướng dẫn các em các kỹ năng tự học tập, tự trau dồi kiến
thức còn chính các em mới là trung tâm. Đây là một đặc điểm quan trọng trong
nhận thức và hoạt động học tập của sinh viên và có ảnh hưởng lớn đến việc phát
33
triển về nhận thức và đạo đức nghề nghiệp của các em sau này.
Có thể khẳng định rằng, trong nhà trường thì thầy cô giáo chính là những
tấm gương cho các em sinh viên học tập và noi theo. Vì vậy nhà trường cần lựa
chọn những thầy cô giáo vừa có tâm vừa có tầm, vừa có kiến thức giảng dạy
vững chắc vừa có nhân cách đạo đức tốt, đặc biệt trong xã hội hiện đại khi đang
có rất nhiều yếu tố tiêu cực về đạo đức len lỏi vào các trường đại học. Một hành
động nhỏ của thầy cô cũng có thể làm các em học tập và làm theo. Ví dụ: sau
một giờ giảng dạy, thầy cô có giấy nháp thừa sau khi hết giờ ra ngoài lớp thầy cô
vứt luôn ra hành lang mà không vứt vào thùng rác, có thể do thầy cô sơ tâm
không để ý nhưng vô tình việc làm này sẽ ảnh hưởng đến không chỉ một sinh
viên mà rất nhiều sinh viên khác. Các em sẽ nghĩ rằng: đến thầy cô còn chẳng
vứt rác vào thùng rác thì mình cần gì phải làm như vậy. Hay có một số thầy đến
trường, nơi công cộng nhưng vẫn hút thuốc ở chỗ có sinh viên qua lại, việc làm
này cũng ảnh hưởng đến các em sinh viên, đặc biệt là các em nam sinh viên sẽ
nghĩ thầy hút thuốc ở đây được chắc mình cũng hút được, một bạn, hai bạn và sẽ
có nhiều bạn làm như vậy….
Có thể thấy nhà trường có vai trò rất lớn trong quá trình giáo dục các em,
nhà trường không chỉ dạy kiến thức mà còn dạy cả đạo đức để cung cấp cho xã
hội những người vừa có tài vừa có đức để phục vụ đất nước, thúc đẩy đất nước
ngày càng phát triển để sánh vai cùng bạn bè quốc tế như sinh thời chủ tịch Hồ
Chí Minh vĩ đại vẫn hằng mong muốn. Vì vậy trong nhà trường rất cần những
thầy cô gương mẫu để các em học tập và noi theo.
1.2.3. Đặc điểm của sinh viên về đạo đức môi trường
Xét về tổng thể, đa phần sinh viên đại học cả nước đều đã và đang có ý
thức đạo đức môi trường. Điều đó thể hiện qua hành động của các em khi ở
trường học hay ở phòng trọ hoặc ở nhà bản thân mỗi em đã ý thức được tác hại
của việc vứt rác bừa bãi gây ô nhiễm môi trường và mất mỹ quan nơi sinh sống
nên hầu như rác thải đã được vứt đúng nơi quy định hay ở xóm trọ đều có chỗ để
34
rác và mỗi phòng của các em đều có xọt để đựng rác, mỗi địa phương đã có dịch
vụ đến nhà lấy rác sinh hoạt để mang đến nơi tập kết. Là sinh viên việc học tập
luôn được để lên hàng đầu nên các em hầu như đều được bố mẹ trang bị cho máy
tính phục vụ học tập và hầu như các em đều học xa nhà nên bố mẹ cũng trang bị
cho các em điện thoại để liên lạc và giải trí sau khi học tập căng thẳng, các em
hầu như đều đã ý thức được nên tắt máy tính khi không dùng nữa và không để
chế độ ngủ; rút sạc pin điện thoại, máy tính khi đầy. Nước sinh hoạt cũng được
các em sử dụng một cách hợp lý và tiết kiệm không dùng lãng phí, bất hợp lý.
Nhiều phòng trọ được các em mua thêm cây cảnh về trang trí phòng vừa phục vụ
nhu cầu thẩm mĩ vừa tạo không gian xanh cho phòng ở, hút khí độc cho phòng.
Một số xóm trọ có khoảng đất thừa được các em tận dụng trồng rau, trồng hoa và
lấy nước vo gạo, rửa rau tưới cho cây vừa cung cấp chất dinh dưỡng cho cây vừa
tiết kiệm nước và giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Ngoài ý thức đạo đức ở xóm trọ các em cũng thể hiện đạo đức môi trường
ở trường học như: vứt rác đúng nơi quy định; không để túi nilon, rác đồ ăn sáng,
vỏ chai đồ uống trong ngăn bàn học hay ghế đá sân trường; tham gia các buổi
dọn vệ sinh do nhà trường và đoàn trường tổ chức, tham gia trồng cây và chăm
sóc cây xanh bảo vệ môi trường; tham dự các cuộc thi tìm hiểu về môi trường và
bảo vệ môi trường; thực hiện tiết kiệm điện nước không chỉ trong nhà trường mà
còn ở các nơi công cộng, trước khi ra về kiểm tra và tắt hết điện quạt…
Song song với việc thực hiện ý thức đạo đức môi trường ở trường học,
xóm trọ, ký túc xá thì các em còn thực hiện các hành động đạo đức môi trường ở
chính địa phương nơi các em và gia đình đang sinh sống. Bằng những hành
động, việc làm nhỏ nhưng lại có ý nghĩa to lớn và thiết thực. Đó chỉ là để rác thải
vào túi nilon rồi mang ra nơi tập kết, là không đưa nước thải chưa qua xử lý ra
ao, hồ, sông, suối, là dọn vệ sinh đường làng ngõ xóm, là trồng cây xanh, rau
sạch nếu nhà có đất trống… để cho không khí được trong lành hơn.
Bên cạnh những sinh viên tích cực thì vẫn còn một vài sinh viên chưa có ý
35
thức đạo đức môi trường, còn thờ ơ và ngoài cuộc với những hành động bảo vệ
môi trường (nghĩ đó không phải là việc của mình). Chính vì vậy, công tác giáo
dục đạo đức môi trường ở các trường đại học, cao đẳng cho sinh viên cần được
thực hiện một cách khẩn trương hơn, nhiều hơn, nghiêm túc hơn và chất lượng
hơn nữa.
Xuất phát từ ý thức bản thân mỗi em sinh viên đều có thể tự khắc phục
những hạn chế của mình, tự mình ý thức hơn nữa về đạo đức, lối sống bao gồm
cả đạo đức môi trường để từ đó góp sức vào công tác tuyên truyền ý thức đạo
đức môi trường cho từng người dân để mọi người có thêm những kiến thức, kinh
nghiệm về đạo đức môi trường và bảo vệ môi trường, ngăn chặn ô nhiễm môi
trường. Mỗi người dân có thêm một chút ý thức thì cộng đồng xã hội sẽ giảm bớt
được những hành động vô ý thức trong việc bảo vệ môi trường và môi trường
sống của chúng ta sẽ được xanh – sạch và đẹp hơn.
Tiểu kết chương
Như đã trình bày ở trên, có thể thấy, đạo đức môi trường có vai trò quan
trọng như thế nào đối với môi trường hiện nay. Điều đó đặt ra mỗi người dân cần
tuân thủ theo những chuẩn mực đạo đức môi trường cơ bản đã nêu để hạn chế tối
đa việc ô nhiễm môi trường đang hoành hành, để cùng nhau chung tay đem lại
cho cuộc sống một môi trường xanh, trong lành và điều kiện quan trọng cho sự
phát triển bền vững, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước.
Để thực hiện việc bảo vệ môi trường không thể không cần đến sự chung
tay góp sức của các em sinh viên trên mọi miền tổ quốc thân yêu. Các em chính
là thế hệ trẻ, là những những chủ nhân tương lai của đất nước. Ngày mai đây khi
kết thúc những ngày tháng đèn sách trên ghế nhà trường, các em sẽ đem những
kiến thức, những kinh nghiệm đã học được bước vào cuộc sống. Mỗi em sẽ có
một công việc nhất định và nếu các em có đạo đức môi trường thì không chỉ bản
36
thân các em bảo vệ môi trường mà các em còn làm gương cho bạn bè, đồng
nghiệp của các em làm điều đó. Chính vì vậy giáo dục đạo đức môi trường cho
các em là một việc làm hết sức cần thiết và ý nghĩa.
Trên cơ sở những nôi dung đã trình bày ở chương 1, đến chương 2 luận
văn sẽ đi vào tìm hiểu thực trạng, những vấn đề về đạo đức môi trường đang tồn
tại ở sinh viên Trường Đại học Hải Dương là gì? Thực trạng đó có những ưu điểm,
37
hạn chế như thế nào và nguyên nhân của những hạn chế đó do đâu gây ra?
Chương 2
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG Ở
SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI DƢƠNG
2.1. Đặc điểmTrƣờng Đại học Hải Dƣơng
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Trường Đại học Hải Dương
Trường Đại học Hải Dương là trường Đại học công lập đầu tiên của Tỉnh
được nâng cấp trên cơ sở trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Hải Dương, tiền thân
là trường Trung học Kinh tế Hải Dương. Trường được thành lập theo Quyết định
số1258/QĐ-TTg ngày 26/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số
378/QĐ-TTg ngày 01/3/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc đổi tên trường
Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Hải Dương thành Trường Đại học Hải Dương.
Trường Đại học Hải Dương là đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm một
phần chi phí hoạt động, trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, là cơ sở đào tạo thuộc hệ
thống giáo dục quốc dân; thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình
độ đại học, các trình độ thấp hơn đại học trong lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật theo quy
định; tổ chức nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng khoa học, công nghệ
phục vụ việc đào tạo và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh; tổ chức cung
cấp các dịch vụ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Trường theo quy định của
pháp luật.
Trải qua quá trình 55 năm xây dựng, trưởng thành và phát triểnvới phương
châm “đào tạo đạt chất lượng gắn liền với tiết kiệm chi phí cho người học”,ngày
nay Nhà trường đã trở thành một trung tâm đào tạo đa ngành nghề, lĩnh vực: kinh
tế, chính trị, xã hội, ngoại ngữ …đa cấp Cao đẳng, Đại học và sau đại học có uy tín
trong tỉnh và khu vực. Tập thể Nhà trường, nhiều đơn vị và cá nhân trực thuộc đã
được Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội ghi nhận và tặng thưởng nhiều
38
phần thưởng cao quý.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo, sự quan tâm giúp đỡ tạo điều kiện
nhiều mặt của đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh nhà, cùng các cấp, các ngành
và các đơn vị bạn, Nhà trường luôn bám sát nhiệm vụ chính trị của mình, khắc phục
mọi khó khăn do mới nâng cấp lên đại học, luôn bền bỉ phấn đấu để xây dựng cơ sở
vật chất, đội ngũ cán bộ, giảng viên và chương trình đào tạo theo quy định của Bộ
Giáo dục và Đào tạo, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong mọi giai đoạn phát triển.
Quy mô, chất lượng và hiệu quả đào tạo của Nhà trường đã và đang được nâng lên,
đáp ứng yêu cầu của tỉnh Hải Dương, các tỉnh lân cận và của xã hội.
Trường hiện nay được phép đào tạo các ngành đại học: Kế toán, quản trị
kinh doanh, tài chính ngân hàng, phát triển nông thôn, chăn nuôi thú y, quản trị dịch
vụ du lịch và lữ hành, kinh tế tổng hợp, chính trị học, kỹ thuật điện – điện tử, điện
tử viễn thông. Trong đó mũi nhọn của trường là ngành kỹ thuật và kế toán. Nếu
trước đây, trường có nôi là nơi đào tạo chuyên về kế toán tài chính với đặc thù chủ
yếu là nữ thì nay, với tình hình thực tiễn và nhu cầu của thị trường lao động, trường
đã đi theo hướng bổ sung đào tạo nguồn nhân lực về kỹ thuật để cung ứng cho thị
trường lao động trong toàn tỉnh Hải Dương và các tỉnh lân cận.
2.1.2. Đội ngũ cán bộ, giảng viên và sinh viên
Đội ngũ cán bộ, giảng viên
Đội ngũ giảng viên của Nhà trường đang có sự phát triển rất nhanh cả về số
lượng và chất lượng. Từ khi trường nâng cấp lên đại học đến nay hiện tại trường
đang có tổng số cán bộ, giảng viên, viên chức, lao động là 329 người, trong đó: Cán
bộ chủ chốt là 80 người; Đội ngũ giảng viên cơ hữu đảm bảo cả về cơ cấu lẫn chất
lượng với chuyên môn đa ngành kinh tế, kỹ thuật, xã hội; trong đó 03 Phó giáo sư,
16 Tiến sỹ, 16 Nghiên cứu sinh, 238 thạc sỹ và đang học cao học. Ngoài ra, Nhà
trường hiệncó trên 30 Tiến sỹ là giảng viên thỉnh giảng giàu tâm huyết, có học hàm,
học vị hoặc chuyên gia đã trải nghiệm qua thực tiễn và giảng dạy đến từ các cơ sở
đào tạo đại học, sau đại học, cơ quan, doanh nghiệp ở trong nước và quốc tế đang
39
tích cực tham gia xây dựng, phản biện nội dung, chương trình đào tạo, hợp tác
nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ phù hợp với thực tiễn của tỉnh Hải
Dương, khu vực đồng bằng Sông Hồng và trên cả nước.
Các thầy cô giáo của Nhà trường với tâm huyết yêu nghề, yêu trò luôn trau
dồi, nâng cao kiến thức để truyền tri thức cho các em sinh viên, cập nhật những kiến
thức mới để trang bị kịp thời và liên tục cho sinh viên Nhà trường.
Sinh viên
Hầu hết sinh viên của trường xuất thân ở các gia đình nông nghiệp lao động,
với nhiều giải pháp khả thi phù hợp với tình hình thực tiễn nên sinh viên học tại
Nhà trường được thụ hưởng một môi trường học tập an toàn. Ngoài những kiến
thức phục vụ cho chuyên ngành, các em còn được ôn lại nhiều kiến thức cơ sở, phổ
thông và bổ sung nhiều kiến thức cuộc sống để khi học xong ra ngoài làm việc các
em không bị bỡ ngỡ; được sống và sinh hoạt tại khu Ký túc xá khép kín, tiện nghi
đạt tiêu chuẩn quốc tế; được tham gia các phong trào Đoàn, Hội, các hoạt động
chính trị - xã hội, văn hóa thể thao lành mạnh. Nhiều sinh viên đã được kết nạp
Đảng tại Trường...;Năm học 2016 -2017 trường đã tổ chức kết nạp Đảng cho 8 sinh
viên (chủ yếu là các em khóa cuối) có thành tích xuất sắc trong các hoạt động do
Ban Giám hiệu Nhà trường và Đoàn thanh niên tổ chức, đồng thời các em cũng có
thành tích học tập cao và ý thức kỷ luật tốt. Nhận thức được vấn đề đó nên năm học
2017 – 2018 các em sinh viên trong toàn trường càng cố gắng phấn đấu hơn nữa cả
về học tập và các hoạt động tập thể, trong đó có hoạt động bảo vệ môi trường nên
số lượng sinh viên được kết nạp Đảng năm học vừa qua cao hơn năm trước. Tổng
số em được kết nạp Đảng năm học 2017 – 2018 là 11 sinh viên. Khi được đứng
trong hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam các em không quên nhiệm vụ mà
ngày càng tích cực tham gia mọi hoạt động do Nhà trường và Đoàn trường tổ chức.
Hoạt động đó ngày càng khích lệ tinh thần vì hoạt động tập thể và vì thành tích học
tập của tất cả các sinh viên trong toàn trường.
Đại học Hải Dương từ khi nâng cấp lên đại học từ 26/7/2011 đến nay đã
40
được 8 năm, đã và đang đào tạo 7 khóa đại học chính quy. Hiện nay khóa 1, khóa 2
và khóa 3 đã ra trường, trường đang đào tạo hệ đại học chính quy khóa 4, khóa 5,
khóa 6, khóa 7 và tuyển sinh đại học chính quy khóa 8. Nhà trường đã tuyển sinh
được nhiều sinh viên với nhiều ngành học khác nhau, trong đó tập trung đông sinh
viên vẫn là ngành kế toán, tài chính ngân hàng và kỹ thuật điện – điện tử. Các em
sinh viên đã ra trường nhiều em đi làm tại các doang nghiệp có tiếng, nhiều em xin
được vào các sở, ban ngành của tỉnh Hải Dương và các tỉnh lân cận để làm việc. Đa
phần các em đều được đánh giá là ngoan, có tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình với
công việc, ham tìm tòi, học hỏi và tính cầu thị cao.
2.2. Thực trạng và những vấn đề về đạo đức môi trƣờng ở sinh viên
Trƣờng Đại học Hải Dƣơng
2.2.1. Thực trạng về đạo đức mội trường ở sinh viên Trường Đại học Hải
Dương
●Việc thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước về bảo vệ môi trường
Đạo đức môi trường, đặc biệt là đạo đức môi trường cho sinh viên luôn được
Đảng, Nhà nước ta quan tâm và đã có nhiều quyết định thể hiện sự quan tâm đó
như: ngày 17/10/2001, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1363/QĐ-TTG
phê duyệt Dự án "Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào hệ thống giáo dục Quốc
dân"; mục đích của việc này là nhằm giáo dục cho học sinh, sinh viên ở các cấp
học, bậc học và trình độ đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân có những hiểu
biếtvề pháp luật cùng những chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo vệ
môi trường, đồng thời có kiến thức về môi trường để từ đó sẽ tự giác, tự nguyện
thực hiện bảo vệmôi trường ngay chính tại nơi mình đang học và sinh sống; tiếp
theo, ngày 15/11/2004, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 41/NQ/TW về"Bảo vệ môi
trường trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Nội dung
của Nghị quyết này xác định việc bảo vệ môi trường là một trong những vấn đềsống
còn của nhân loại; là nhân tố để đảm bảo sức khoẻ và chất lượng cuộc sống của mọi
41
người dân trên cả nước; góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế theo hướng
bền vững, ổn định về chính tri, đảm bảo an ninh quốc gia và thúc đẩy đưa đất nước
hội nhập với kinh tế quốc tế; bảo vệ môi trường ở đây chính là quyền lợi và nghĩa
vụ không chỉ của một người mà của cất cả mọi người, mọi tổ chức xã hội, là biểu
hiện của nếp sống văn hóa, đạo đức và tiến bộ, là một trong những tiêu chí quan
trọng của xã hội văn minh và cũng là sự nối tiếp truyền thống của ông cha ta để lại,
đó là sống gần gũi với thiên nhiên, yêu thiên nhiên, yêu cỏ cây, hoa lá, sống hài hòa
với tự nhiên…
Để việc bảo vệ môi trường được thực hiện tốt ở các trường học, ngày
31/05/2005, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra Chỉ thị về tăng cường công
tác giáo dục bảo vệ môi trường bằng các hình thức phù hợp và thông qua hoạt động
ngoại khóa, ngoài giờ lên lớp, xây dựng môi trường xanh – sạch – đẹp phù hợp với
các vùng miền. Chỉ thì này nhằm tăng cường công tác bảo vệ môi trường ở các
trường học nói chung từ bậc mẫu giáo tới đại học trên tất cả các vùng miền của đất
nước tùe miền ngược tới miền xuôi để hướng tới việc xây dựng môi trường xanh –
sạch – đẹp, môi trường trong lành và cùng nhau chung tay, chung sức, đồng lòng
bảo vệ môi trường. Để thực hiện được điều đó, thông qua Chỉ thị Bộ Giáo dục và
Đào tạo cũng nhấn mạnh các hình thức bảo vệ môi trường không chỉ ở giờ học trên
lớp mà thông qua các giờ học ngoại khóa, ngoài giờ để cho học sinh, sinh viên hình
thành trong bản thân mỗi em về ý thức đạo đức môi trường và từ đó các em sẽ tích
cực tham gia hoạt động bảo vệ môi trường, phòng chống ô nhiễm môi trường không
chỉ tại trường mà tại cả những nơi các em đang sống...
Thực hiện tinh thần bảo vệ môi trường của Đảng, Nhà nước và các Bộ ngành
liên quan thông qua các văn bản đã nêu, hàng năm trường Đại học Hải Dương mỗi
khi bắt đầu năm học mới đều cho sinh viên học giáo dục đầu khóa 2 tuần áp dụng
cho cả sinh viên mới vào và cho cả sinh viên đang học tập tại trường, sau khi học
xong viết bài thu hoạch về các nội quy, quy chế học sinh sinh viên trong đó có cả
nội quy về bảo vệ môi trường, về công tác vệ sinh môi trường. Ý nghĩa của việc học
42
tập này đối với sinh viên mới vào cho các em nắm được những quy chế học sinh
sinh viên nói chung theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và những quy định
do Nhà trường ban hành để khi bắt đầu học tập tại trường các em sẽ không bỡ ngỡ
và không mắc phải những sai lầm không theo quy chế và nội quy của Nhà trường,
còn đối với sinh viên cũ nhằm cho các em ôn lại những nội quy, quy chế đó để các
em không bị quên sau thời gian nghỉ hè. Từ việc học tập đó các em sẽ viết bài thu
hoạch và phòng Công tác học sinh sinh viên của nhà trường sẽ thu bài và chấm
điểm để xem ý thức của từng em. Nếu em nào làm bài thiếu ý thức sẽ tiến hành
nhắc nhở để các em rút kinh nghiệm và chú ý các nội quy, quy định đã được học.
Từ việc tổ chức học tuần giáo dục công dân đầu khóa đó, Nhà trường nhận
thấy tình trạng ô nhiễm môi trường hiện nay đang diễn biến rất phức tạp nên đã
nhấn mạnh đến vai trò, chức năng của môi trường quan trọng như thế nào với cuộc
sống hàng ngày của mỗi chúng ta. Sinh viên hiểu được môi trường là một phần
không thể thiếu trong cuộc sống học tập và sinh hoạt của mỗi người, từ đó thúc đẩy
các em có ý thức, suy nghĩ tìm cách bảo vệ môi trường xung quanh các em; chủ
động và tích cực tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường; có thái độ ứng xử
thân thiện với môi trường. Qua đó hình thành nhân cách, hình thành đạo đức môi
trường trong mỗi sinh viên. Những hành động tích cực để bảo vệ môi trường của
các em sinh viên như: trong lớp học các em không vứt rác vào ngăn bàn, không vứt
rác ra sàn nhà học hay hành lang, cầu thang, khuôn viên trường học. Để tránh tình
trạng sinh viên vứt rác bừa bãi không đúng nơi quy định vì có nhiều em lười, không
chịu quan sát xem thùng rác ở chỗ nào liền vứt ngay xuống đất chỗ mình đang đứng
nên nhà trường đã để ở mỗi phòng học một xọt rác nhỏ bằng nhựa để các em học
xong vứt rác vào đó. Và ngay dưới tầng học nhà trường đều để một thùng chứa rác
to, là nơi tập kết rác của tầng học đó luôn. Việc làm này của nhà trường rất phù hợp
với tình hình lớp học và giảm thiểu tình trạng vứt rác bừa bãi của các em sinh viên.
Sinh viên sau mỗi buổi học xong đều phân công lần lượt từng bạn có nhiệm vụ cầm
xọt rác ở dưới góc lớp mang ra thùng chứa rác to ở ngoài hành lang tầng một của
43
lớp học. Hành động này vừa giữ sạch cho lớp mình học lại giữ sạch cho khuôn viên
của nhà trường được sạch đẹp và cũng thể hiện tinh thần đoàn kết, chung tay bảo vệ
môi trường của tất cả sinh viên trong lớp. Ngoài ra, để ngăn tình trạng sinh viên đi
vệ sinh vứt giấy vào bồn cầu gây tắc bồn cầu, ảnh hưởng đến môi trường lớp học,
nhà trường cũng đã mua mỗi nhà vệ sinh một xọt đựng rác để các em đi vệ sinh
xong bỏ rác vào xọt rác và hàng ngày có cô lao công đi thu gom rác thải đó đưa ra
nơi tập kết theo quy định...
●Hoạt động của Đoàn Thanh niên Nhà trường trong việc bảo vệ môi
trường
Bên cạnh việc tổ chức học tuần giáo dục công dân đầu khóa nói về nội quy,
quy chế của nhà trường nói chung và quy định bảo vệ môi trường trong nhà trường
và nơi các em sinh sống nói riêng, Ban Giám hiệu nhà trường đã chỉ đạo Đoàn
Thanh niên của nhà trường chọn ra ở mỗi lớp một vài em có sức khỏe tốt, có tinh
thần trách nhiệm trong công việc được giao và đặc biệt là yêu thích các hoạt động
tình nguyện để tham gia vào Đội Thanh niên xung kích của nhà trường. Nhiệm vụ
của Đội Thanh niên xung kích là tham gia trực tiếp vào các hoạt động tình nguyện
của nhà trường và của Tỉnh Đoàn Hải Dương nếu có yêu cầu. Các hoạt động đó bao
gồm: bảo vệ môi trường, tết trồng cây, tiếp sức mùa thi, mùa hè xanh, hiến máu
nhân đạo, tấm lòng nhân ái... Các em được khoác trên mình màu áo xanh tình
nguyện, nơi nào cần các em có mặt, những việc làm khó các em xuất hiện. Nhà
trường cũng khích lệ tinh thần các em bằng việc trao bằng khen cho những sinh
viên ưu tú, tích cực trong hoạt động tình nguyện cho nhà trường và tỉnh nhà, đồng
thời cũng tổ chức kết nạp những em sinh viên tình nguyện xuất sắc vào trong hàng
ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với nhũng giải thưởng cao quý đó cùng tinh
thần hoạt động hăng say đã có nhiều em được kết nạp Đảng ở năm học thứ ba và
năm cuối của quãng đời sinh viên.
Các em sinh viên trong Đội thanh niên xung kíchchính là hạt nhân quan
trọng trong quátrình bảo vệ môi trường của nhà trường cũng như của Tỉnh Đoàn
44
Hải Dương. Các em được Đoàn Thanh niên nhà trường tổ chức hướng dẫn các hoạt
động tình nguyện trong đó nhấn mạnh đến hoạt động bảo vệ môi trường trong nhà
trường, từ việc hướng dẫn đó các em sẽ về tuyên truyền cho các bạn trong lớp mình
và là tấm gương sáng cho các bạn trong lớp học tập và noi theo. Các hoạt động bảo
vệ môi trường của Đội Thanh niên xung kích của nhà trường đầu tiên không thể
thiếu là vứt rác đúng chỗ, tập kết rác đúng nơi quy định; tham gia vệ sinh lớp học và
khuôn viên nhà trường hàng tuần, hàng tháng và hàng quý; tham gia hoạt động
trồng cây xanh do Đoàn trường và Ban Giám hiệu nhà trường phát động... Do nhà
trường có 2 cơ sở, một cơ sở đang trong quá trình hoàn thiện nên hoạt động trồng
cây xanh phủ xanh đất trống của nhà trường đang được tiến hành rất khẩn trương và
nhanh chóng, chính Đội thanh niên xung kích đã góp rất nhiều công sức trong quá
trình thực hiện chương trình đó. Các cây xanh đã được trồng ở rất nhiều khu đất
trống trong khuôn viên của nhà trường và đều được sự chung tay góp sức của các
em. Mùa mưa bão hàng năm do ảnh hưởng của các đợt bão lớn đổ bộ vào Hải
Phòng, Quảng Ninh gây ảnh hưởng đến khuôn viên của nhà trường như: lá cây,
cành cây rụng nhiều, cây mới trồng đổ do gió to của bão... Sau mỗi đợt bão như vậy
thì chính các em trong Đội Thanh niên xung kích cùng Đoàn trường đã cùng nhau
chung tay khắc phục hậu quả của mưa bão gây ra: thu dọn lá cây rụng, cành cây gãy
cùng nâng những cây mới trồng lên trồng lại cho vững chắc hơn.
Ngoài những việc làm ở trong trường, Đội Thanh niên xung kích còn tích
cực tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường ở ngoài trường khi có sự chỉ đạo của
Đoàn Thanh niên Nhà trường hoặc có sự phối hợp với Tỉnh Đoàn Hải Dương như:
mỗi năm đến ngày 27/7, ngày thương binh, liệt sĩ, ngày nhớ ơn các anh hùng liệt sĩ
đã hi sinh vì Tổ quốc. Và để tri ân các anh hùng liệt sĩ của quê hương Hải Dương đã
anh dũng hi sinh vì màu cờ Tổ quốc, Đoàn Thanh niên Trường Đại Học Hải Dương
đã cùng Đội Thanh niên xung kích về nghĩa trang thành phố Hải Dương và nghĩa
trang xã Liên Hồng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương (địa chỉ cơ sở 2 của Nhà
trường) để chăm sóc mộ các anh hùng liệt sĩ. Đây là một việc làm vô cùng ý nghĩa
45
và mang tính nhân văn thể hiện lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam. Qua đây cũng
giáo dục tinh thần yêu nước cho các em và truyền thống“uống nước nhớ nguồn”,
“ăn quả nhớ người trồng cây”,hướng về cội nguồn dân tộc để các em biết trân
trọng hơn những tháng ngày hòa bình mà chúng ta có được hôm nay. Hay hàng
năm đến mùa lễ hội Côn Sơn – Kiếp Bạc (tại Chí Linh – Hải Dương) Đoàn trường
phối hợp cùng Tỉnh Đoàn Hải Dương cho các em sinh viên trong đội xung kích
cùng các em sinh viên ưu tú, thích hoạt động tình nguyện xuống di tích lịch sử Côn
Sơn – Kiếp Bạc cùng Ban Chấp hành Đoàn cơ sở dọn vệ sinh khuôn viên của đền,
chùa và chuẩn bị những đồ dùng cho lễ hội.
Những việc làm trên của Đội Thanh niên xung kích đã góp phần to lớn vào
công cuộc bảo vệ môi trường của nhà trường. Qua đây cũng rèn luyện tính tự giác,
tinh thần trách nhiệm với công việc được giao và góp phần cung cấp các kiến thức
thực tế về bảo vệ môi trường cho các em để các em có thể tự tin làm tốt công việc
trong công tác tuyên truyền bảo vệ môi trường tại lớp học và tại địa phương cũng
như củng cố tinh thần sẵn sàng đảm nhận, xung kích, tình nguyện bảo vệ môi
trường, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục ý thức, trách nhiệm bảo vệ môi
trường vì cuộc sống xanh – sạch – đẹp của Nhà trường cũng như của quê hương
tỉnh nhà.
Đoàn Thanh niên nhà trường sau khi xây dựng lên Đội Thanh niên xung kích
thành hạt nhân tốt cho hoạt động bảo vệ môi trường đã cho các hạt nhân đó về lớp
mình và tổ chức nhiều hoạt động về bảo vệ môi trường như:
* Giữ gìn vệ sinh môi trường trong lớp học, khuôn viên nhà trường, nơi ở và
nơi cư trú
Đây là hoạt động thường xuyên được tiến hành hàng tuần, hàng tháng cùng
với các hoạt động lao động khác với mục đích hình thành ở các em ý thức, thói
quen về việc giữ gìn vệ sinh trong trường, lớp, nơi ở được sạch sẽ, đẹp và thoáng
mát. Thông qua hoạt động giữ gìn vệ sinh môi trường đó sinh viên sẽ hiểu được giá
trị của lao động, thành quả lao động của các em được chính bản thân các em nhìn
46
thấy và được các thầy cô ghi nhận, từ đó các em nhân thức được mặc dù mình còn
sinh viên nhưng vẫn góp phần vào việc cải thiện môi trường không chỉ ở lớp học
của mình mà còn ở trong khuôn viên của nhà trường, ở cả nơi mình sinh sống và tạo
nên tinh thần hứng khởi trong lao động và học tập. Việc làm này thường được Đoàn
trường tổ chức vào các ngày nghỉ thứ 7, chủ nhật hàng tuần để sau khi lao động dọn
vệ sinh xong xong các em được về nghỉ ngơi lấy lại sức khỏe cho ngày hôm sau đi
học. Việc bố trí như vậy vừa không làm ảnh hưởng đến việc học tập của các em vừa
tạo được không khí hăng say lao động trong toàn trường. Các lớp sinh viên được
tập trung lại (điểm danh quân số lớp để làm cơ sở cho việc đánh giá điểm rèn luyện
vào cuối kì học) nghe phổ biến nội dung của buổi lao động ngày hôm đó và được
chia theotừng lớp để thực hiện từng công việc đã được phân công dưới sự giám sát
của giáo viên chủ nhiệm các lớp. Các công việc giữ gìn vệ sinh môi trường bao
gồm:mỗi lớp sẽ tiến hành dọn vệ sinh từ trong phòng học lớp mình ra đến sân
trường và khuôn viên trường phía trước lớp các em học, các em sẽ quét dọn phòng
học, lau bàn, ghế, bảng ghi, cửa sổ, cửa ra vào, quét dọn hành lang bên ngoài lớp
học, cầu thang lên xuống, sân trường phía trước lớp học; Nhổ cỏ quanh bồn hoa
trước lớp học, cắt tỉa lá vàng, cành cây khô héo, làm cỏ quanh gốc cây to, vun đất,
bón phân cho cây...; Quét dọn và thu gom rác thải ra nơi tập kết rác tại đường đi,
sân trường, sân vận động, sân bóng chuyền, sân tập thể dục, sân cầu lông, khu ký
túc xá sinh viên, xung quanh khu làm việc của thầy cô, trước cổng nơi ra vào
trường....; Dọn và vệ sinh hòn non bộ, nơi nuôi cá cảnh của nhà trường, cho cá ăn...;
Bảo vệ, giữ gìn nguồn nước, vệ sinh cống thoát nước để nước thoát ra nhanh chóng,
tránh tắc nước, vệ sinh hệ thống nước thải; Tổ chức phát quang bụi rậm, làm thông
thoáng môi trường tránh được các loài ký sinh trùng gây bệnh sinh sôi, phát triển
làm ảnh hưởng đến sức khỏe của mọi người.
Ngoài việc triển khai sinh viên dọn vệ sinh lớp học, khuôn viên Nhà trường,
Đoàn Thanh niên còn phổ biến và hướng dẫn các em tích cực tham gia các buổi vệ
sinh cảnh quan đường làng, ngõ xóm do chính quyền địa phương nơi các em đang
47
sinh sống tổ chức bằng sự nhiệt tình của tuổi trẻ các em đang có sẵn, không nên ỉ lại
để cho bố mẹ mình tham gia. Đây cũng là việc làm giáo dục ý thức đạo đức môi
trường cho các em. Không chỉ thể hiện đạo đức môi trường ở nơi mình đang học do
có sự kèm cặp của thầy cô giáo mà còn phải thể hiện tinh thần ấy ở mọi lúc, mọi nơi
đặc biệt là ở nơi công cộng để thể hiện nếp sống văn minh, văn hóa.
Khi được hỏi: Hàng ngày bạn có vứt rác đúng nơi quy định không? Có
294/300 phiếu trả lời: Có, chiếm 98%, 6/300 phiếu trả lời: không, chiếm 2%
Khi được hỏi: Ở trường học bạn đã làm gì để thể hiện mình là người có ý
thức đạo đức môi trường? Có 223 sinh viên trả lời: Không vứt rác bừa bãi, tích cực
tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường: dọn vệ sinh toàn trường, các buổi ngoại
khóa về môi trường..., chiếm 74,3%; Có 87 sinh viên trả lời: Không vứt rác bừa bãi,
chiếm 25,7%.
Khi được hỏi: Bạn đã tham gia vào hoạt động bảo vệ môi trường do Nhà
trường tổ chức bao nhiêu lần? Có 179/300 phiếu trả lời là một vài lần, chiếm
59,7%; 102/300 phiếu trả lời là 1 lần, chiếm 34%; 19/300 phiếu trả lời không lần
nào, chiếm 6,3%.
Như vậy, có thể khẳng định được rằng: đa phần các em đã hiểu được hành
động của việc bảo vệ môi trường là gì, tác hại của việc vứt rác bừa bãi như thế nào,
và đã có ý thức tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường do Nhà trường tổ chức.
Mặc dù còn một vài thành viên tham gia chưa tích cực và chưa tham gia
* Trồng cây phủ xanh đất trống cũng được Đoàn trường triển khai rộng rãi
Do cơ sở mới của nhà trường có diện tích đất đai là 21,7 ha; Giai đoạn 01:
14,7 ha, Nhà trường đã giải phóng mặt bằng và nhận bàn giao xong. Do diện tích
lớn và chưa xây dựng hết luôn nên Đoàn Thanh niên của Nhà trường căn cứ vào
tình hình thực tiễn phân chia khu đất trống chia cho mỗi lớp một khoảng nhất định,
mua cây xanh về cho các em trồng và chăm sóc. Đồng thời cũng cho mỗi lớp một
biển tên lớp mình để cắm và tiến hành tổ chức cuộc thi xem lớp nào chăm cây tốt sẽ
đạt giải thưởng và tuyên dương trước toàn trường để cho các lớp khác học tập và
48
noi theo. Các cây Nhà trường tập trung cho các lớp trồng chủ yếu là cây hoa ngũ
sắc, cây chuỗi ngọc trồng xung quanh các cây ăn quả và cây lâu năm như: xà cừ,
cây sưa, muồng hoàng yến, bằng lăng tím, phượng vĩ, lộc vừng, xoài, mít, sấu,...
vừa đem lại bóng mát cho sân trường để các em vui chơi, giải trí sau mỗi giờ học
căng thẳng; vừa hút khí CO2 và thải khí O2 cho không khí trong lành và lại cho cả
quả chín sạch để các em thu hoạch thành phẩm. Hoa ngũ sắc với các màu xen kẽ
nhau cùng hoa bằng lăng màu tím và muồng hoàng yến với những chùm hoa vàng
dài lại thêm những chùm phượng vĩ đỏ thắm tạo lên cảnh đẹp cho không gian của
Nhà trường và cũng góp phần tăng lên sự hứng thú trong học tập và thư giãn của
sinh viên.
Hàng năm mỗi đợt tết đến xuân về, thực hiện sự chỉ đạo của Ban Giám hiệu
nhà trường, Đoàn Thanh niên đã thực hiện chương trình Tết trồng cây theo lời kêu
gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Mùa xuân là tết trồng cây. Làm cho đất nước càng
ngày càng xuân”; “Vì lợi ích mười năm trồng cây. Vì lợi ích trăm năm trồng
người”. Tết trồng cây được thực hiện sau khi toàn trường nghỉ tết xong bắt đầu
quay trở lại làm việc và học tập vì lúc này thời tiết còn mưa xuân, thuận lợi cho cây
đâm chồi, nảy lộc. Đoàn trường chọn ngày thứ bảy hoặc chủ nhật sinh viên được
nghỉ học để không ảnh hưởng đến việc học tập của các em. Đối tượng tham gia là
Ban Giám hiệu nhà trường, thầy cô giáo trong toàn trường, Đội Thanh niên xung
kích cùng các bạn sinh viên có thành tích tốt trong hoạt động bảo vệ môi trường
cùng chung tay trồng các cây lâu năm, cây ăn quả với ước muốn cho ngôi trường
của mình được xanh tốt và trong lành hơn. Đây là một việc làm rất có ý nghĩa trong
mỗi dịp đầu năm, vừa là học tập tấm gương của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại vừa có
ý nghĩa cho sự phát triển của Nhà trường, vừa có ý nghĩa cho môi trường được xanh
hơn, đẹp hơn, mát hơn và không lãng phí những khu đất trống chưa có kế hoạch
xây dựng.
* Tổ chức thi tiểu phẩm tìm hiểu và tuyên truyền về nội dung bảo vệ môi
49
trường
Căn cứ vào tình hình thực tiễn môi trường của Nhà trường và tình hình các
em sinh viên, Đoàn trường phát động cuộc thi với nhiềunội dung phong phú, đa
dạng thu hút được đông đảo các lớp sinh viên tham gia với nhiều hình thức và thể
loại khác nhau: Tiểu phẩm về chức năng và vai trò không thể thiếu của môi trường
với cuộc sống con người; Tiểu phẩm ca ngợi những việc làm tốt góp phần bảo vệ
môi trường như: vứt rác đúng nơi quy định, tích cực trồng cây xanh, không bẻ cành,
chặt cây, hút thuốc hay dẫm đạp lên thảm cỏ nơi công cộng... hay tuyên truyền cho
mọi người hiểu được tác dụng của hành động bảo vệ môi trường; Tiểu phẩm phê
phán những hành động không tốt gây tác hại xấu đến môi trường: vứt rác bừa bãi,
hút thuốc lá nơi công cộng; chặt phá rừng, săn bắn các loài thú quý hiếm, sử dụng
các loại chất hoá học cho cây trồng, vật nuôi và môi trường sinh thái, khai thác cạn
kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên…; Tiểu phẩm về sựphát triển của công nghiệp,
các khu công nghiệp, khu đô thị ngày càng nhiều, phát triển của giao thông gây ảnh
hưởng lớn đến môi trường, làm ô nhiễm môi trường, rác thải, chất thải công nghiệp
đưa ra môi trương với số lượng ngày càng lớn, thậm chí còn chưa qua xử lý hoặc
mới xử lý sơ qua; Tiểu phẩm về thời trang sử dụng các đồ dùng đã dùng rồi với
mục đích tái chế, tái sử dụng nhằm nhấn mạnh sự tiết kiệm và bảo vệ môi trường.
Qua cuộc thi đều được chấm điểm công bằng và dựa trên ý nghĩa của từng tiểu
phẩm để trao giải cho đội nào có tiểu phẩm ấn tượng nhất, công phu nhất và ý nghĩa
nhất để giáo dục tinh thần bảo vệ môi trường, phê phán các hành vi gây ô nhiễm
môi trường cho các em và trên cơ sở đó tuyên truyền cho các em về hành động, việc
làm góp phần bảo vệ môi trường đang bị chính con người làm cho ô nhiễm.
● Hoạt động của giảng viên nhà trường trong việc giáo dục đạo đức môi
trường cho sinh viên
Một thành phần không thể thiếu trong công cuộc bảo vệ môi trường của Nhà
trường đó là đội ngũ cán bộ giảng viên, những người thầy giáo, cô giáo đứng trên
bục giảng truyền kiến thức, kinh nghiệm trong cuộc sống và cả nhiệt huyết cho sinh
50
viên. Nhận thấy tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng nghiêm trọng
trên địa bàn tỉnh Hải Dương, Trường Đại Học Hải Dương là trường hiện tại có
khoảng 3000 sinh viên, cũng góp một phần vào việc làm nên tình trạng ô nhiễm
môi trường đó, và để ngăn chặn được tình trạng ô nhiễm môi trường, bảo vệ được
môi trường khỏi các tác hại của nó thì không thể thiếu được việc giáo dục ý thức
đạo đức về môi trường cho các em. Hiểu được việc làm quan trọng đó nên các
thầy cô đã nghiên cứu để có những hình thức phù hợp cho việc đưa nội dung bảo
vệ môi trường vào chương trình học một cách hợp lý bằng cách lồng ghép nội
dung đó và các môn học khác vì hiện nay Nhà trường chưa có môn học đạo đức
môi trường. Hình thức lồng ghép này là vô cùng sáng tạo và hợp lýphù hợp với
thực tiễn của Nhà trường đồng thời cũng tạo được tính liên môn, liên ngành, liên
lĩnh vực. Việc lồng ghép nội dung bảo vệ môi trường vào các môn học khác cũng
tạo điều kiện cho thầy cô không phải sắp xếp lại khung chương trình học của các
em. Các môn được thầy cô lồng ghép nội dung này là: Những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác – Lênin, Pháp luật đại cương, kinh tế môi trường (đối với sinh
viên ngành kinh tế tổng hợp)... Mặc dù là lồng ghép nhưng không có nghĩa là
giảng viên giảng dạy cứ tập trung nhấn mạnh nội dung bảo vệ môi trường mà
quên đi nội dung chính của môn học hoặc giảng viên chỉ chú ý đến nội dung của
môn học mà không nhắc tới vấn đề môi trường, mà lồng ghép ở đây là sự đan xen
hợp lý hai nội dung đó sao cho sinh viên hiểu được nội dung của môn học và hiểu
được tầm quan trọng của môi trường đối với cuộc sống hàng ngày của các em và
của gia đình các em, hiểu được nguyên nhân và tác hại của ô nhiễm môi trường để
từ đó đánh thức nhận thức của các em, thúc đẩy các em có những hành động ngăn
chặn ô nhiễm môi trường và bảo vệ bản thân trước tác hại của ô nhiễm môi trường
như: bỏ rác đúng nơi quy định; không hái hoa, bẻ cành, dẫm lên cỏ quanh các bồn
cây, khuôn viên trường, không hút thuốc trong giờ học hay giờ giải lao gây ô
nhiễm môi trường; tích cực tham gia các buổi lao động dọn vệ sinh, chăm sóc cây
51
xanh do Đoàn trường tổ chức...
Bên cạnh hoạt động lồng ghép nội dung đạo đức môi trường đan xen với các
môn học khác trong những giờ học chính khóa, các thầy cô giáo còn tổ chức cho
các em các hoạt động ngoại khóa về với các nội dung có liên quan đến chủ đề đạo
đức môi trường. Với việc tổ chức hoạt động ngoại khóa này có ý nghĩa rất lớn đối
với các em. Thứ nhất là làm cho tình bạn của các em gắn bó hơn, hiểu nhau hơn và
cùng giúp đỡ nhau trong học tập cũng như trong cuộc sống vì học chính khóa với số
thời gian ít ỏi các em ít có thời gian trò chuyện và tâm sự cùng nhau. Thứ hai là việc
học ngoại khóa chính là cơ hội cho các em đem những kiến thức đã học trong sách
vở ra ngoài thực tế để thực hành thực tập và cũng là cơ hội cho các em tìm tòi,
khám phá thế giới bên ngoài. Và đặc biệt với nội dung ngoại khóa về chủ đề môi
trường các em sẽ có điều kiện để quan sát môi trường xung quanh các em, các em
sẽ hiểu được tại sao phải cùng nhau bảo vệ môi trường, tại sao phải vứt rác đúng nơi
quy định, tại sao phải trồng cây xanh, tại sao phải tiết kiệm điện, nước...Qua hoạt
động ngoại khóa này các em sẽ hiểu được mối quan hệ giữa con người với môi
trường, những vấn đề nảy sinh do các hoạt động của con người gây ra với môi
trường và cách xử lý các vấn đề đó như thế nào cho phù hợp với tình hình hiện tại.
Phần lớn sinh viên trong trường là các ngành kế toán, tài chính ngân hàng,
quản trị kinh doanh và kỹ thuật điện – điện tử nên các thầy cô có tổ chức cho các
em đi ngoại khóa trong các nhà máy, xí nghiệp, công ty đóng trên địa bàn thành phố
Hải Dương như: khu công nghiệp Đại An, khu công nghiệp Tân Trường, khu công
nghiệp Phúc Điền, khu công nghiệp Nam Sách... với các công ty: Công ty TNHH
Brother, Công ty TNHH Sumidenso,Công ty TNHH Việt Nam Toyo Denso, Công
ty TNHH Điện tử Towada Việt Nam, Công ty TNHH Điện tử Umc Việt Nam,... để
một mặt mang kiến thức đã được học trên lớp vào thực tế và một mặt xem xét cách
thức họ phân loại rác và xử lý rác thải, nước thải đưa ra môi trường... Còn với
ngành quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành các thầy cô cho các em đi ngoại khóa tại
các khách sạn, các danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Hải Dương như: khách sạn
52
Nam Cường, di tích lịch sử Côn Sơn – Kiếp Bạc, Văn miếu Mao Điền, di tích Đền
Cao Kinh Môn. Qua đây các em được vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế
và tuyên truyền cho mọi người thấy tác hại của việc vứt rác bừa bãi nhất là ở những
nơi công cộng, vừa xấu cảnh quan du lịch vừa ảnh hưởng tới môi trường.
Song song với việc lồng ghép nội dung đạo đức môi trường vào cùng các
môi học chính khóa và cho sinh viên đi ngoại khóa về chủ đề môi trường thì các
thầy cô Trường Đại học Hải Dương còn tìm hiểu tình hình thực tế, các em sinh
viên của Nhà trường chủ yếu xuất thân từ vùng nông thôn, cha mẹ các em đều làm
nghề nông là chính và với ước mơ mong các con mình được đổi đời nên đã cho
các em lên thành phố học tập. Vì là ở nông thôn nên cha mẹ các em phần lớn là
nhận thức nhiều vấn đề hiện tại còn chưa sâu, nên rất cần sự giải thích, hướng dẫn
của các em về các công việc, đặc biệt là công việc bảo vệ môi trường. Ở nông
thôn hiện tại vẫn làm nông nghiệp và chăn nuôi gia súc, gia cầm là chính nên
nhiều gia đình còn để rác thải bừa bãi, mùa thu hoạch đến còn để rơm dạ tràn lan
ra đường đi lại rồi mưa xuống lâu ngày gây mùi khó chịu, sử dụng thuốc trừ sâu,
trừ cỏ chưa đúng theo quy định, chất thải của gia súc gia cầm, nước thải sinh hoạt
chưa được xử lý đưa ra môi trường gây ảnh hưởng đến các gia đình xung quanh....
Hiểu được thực trạng đó nên các thầy cô đãtích cực giáo dục, hướng dẫn các em
xử lý các tình huống về môi trường và tuyên truyền nội dung bảo vệ môi trường
cho các thành viên trong gia đình các em, cho hàng xóm, láng giềng nơi các em
sinh sống. Đồng thời bản thân các em cũng phải là một tấm gương về bảo vệ môi
trường để mọi người noi theo, tích cực tham gia các chương trình do xã phường
phát động để cho thông thoáng và sạch đẹp đường làng, ngõ xóm để địa phương
các em cũng trở thành những nơi xanh – sạch – đẹp, để dần đẩy lùi tình trạng ô
nhiễm đang lan tràn xuống thôn quê. Từ những hành động và việc làm đó của các
em dần dần hình thành trong mỗi em khả năng nhận biết và phát hiện các tình
huống có vấn đề môi trường để từ đó xây dựng các kế hoạch hành động vì môi
53
trường và kiên định thực hiện kế hoạch đã đề ra.
Khi được hỏi: Ở địa phương nơi cư trú bạn đã làm gì để góp phần nâng cao
ý thức đạo đức môi trường của bản thân? Có 102/300 phiếu trả lời: Vứt rác đúng
nơi quy định, tham gia dọn vệ sinh nơi công cộng, tuyên truyền cho mọi người cùng
chung tay bảo vệ môi trường, thực hiện đúng các quy định về bảo vệ môi trường
của chính quyền địa phương, chiếm 34%; Có 122/300 phiếu trả lời: Vứt rác đúng
nơi quy định, tham gia dọn vệ sinh nơi công cộng, chiếm 40,7%; Có 72/300 phiếu
trả lời: Vứt rác đúng nơi quy định, chiếm 24%; Có 4/300 phiếu trả lời: không tham
gia, chiếm 1,3%.
Kết quả trả lời của câu hỏi trên cho thấy: ở địa phương nơi cư trú phần lớn
các em cũng đã ý thức được hoạt động của bản thân góp phần bảo vệ môi trường là
gì, mặc dù bên cạnh đó vẫn còn một vài hạt sạn chưa có ý thức về việc bảo vệ môi
trường ở địa phương nơi cư trú.
Các thầy cô luôn gương mẫu chấp hành tốt các nội quy, quy định nói chung
của Nhà trường và các nội quy định về đạo đức môi trường. Đồng thời các thầy cô
cũng tích cực tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường do Nhà trường tổ chức
dành cho cán bộ giảng viên và cả những buổi lao động dọn vệ sinh khuôn viên Nhà
trường của các em sinh viên để các em thấy rằng các thầy cô không chỉ là những
người đứng trên bục giảng mà ngoài giờ giảng dạy cho các em các thầy cô cũng
tham gia lao động bà cũng để cho các em thấy các thầy cô không phải chỉ là những
người giảng lý thuyết xuông, là những người chỉ nói mà không làm. Từ những việc
làm này sẽ thúc đẩy suy nghĩ của các em và thôi thúc các em có những hành động
bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó bản thân các thầy cô cũng luôn trau dồi kiến thức
để hoàn thiện mình và Nhà trường cũng cho các thầy cô đi dự hội thảo, đi tập huấn,
bồi dưỡng về chủ đề môi trường để cập nhật những tình hình môi trường ở trong
nước nói riêng và trên thế giới nói chung để nắm được xu thế bảo vệ môi trường
của nhân loại để từ đó góp phần xây dựng trường mình thành ngôi trường xanh –
54
sạch – đẹp.
● Đạo đức môi trường của sinh viên Trường Đại học Hải Dương qua kết
quả điều tra 2018
Để biết được chính xác ý thức, suy nghĩ và nhận thức của sinh viên về vấn đề
đạo đức môi trường, tác giả luận văn đã tiến hành làm phiếu điều tra sinh viên hệ
đại học chính quy của tất cả các ngành hiện đang học tập tại Trường Đại học Hải
Dương từ năm thứ nhất đến năm thứ tư với số lượng điều tra là 300 sinh viên.
Khi được hỏi: Đạo đức môi trường là gì? Có 182/300 phiếu trả lời: Đạo đức
môi trường là một hệ thống các chuẩn mực đạo đức điều chỉnh quan hệ giữa con
người (xã hội) và tự nhiên vì sự phát triển bền vững, chiếm 60,7%; Có 97/300
phiếu trả lời: Đạo đức môi trường là một hệ thống bao gồm các quan điểm, nguyên
tắc, chuẩn mực đạo đức điều chỉnh những hành vi của bản thân một cách tự giác, tự
nguyện, môi trường nhằm hướng đến sự phát triển hài hòa, ổn định và bền vững
giữa con người với môi trường tự nhiên, chiếm 32,3%; Có 11/300 phiếu trả lời: đạo
đức môi trường là ý thức của mỗi người về môi trường theo hướng bảo vệ và gìn
giữ môi trường, chiếm 3,7%.
Khi được hỏi: Bảo vệ môi trường là gì? Có 228/300 phiếu trả lời: Bảo vệ
môi trường là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, ngăn chặn,
khắc phục các hậu quả xấu do con người gây ra cho môi trường, chiếm 66%; Có
102/300 phiếu trả lời: Bảo vệ môi trường là giữ cho môi trường trong lành, sạch
đẹp, chiếm 34%.
Khi được hỏi: Theo bạn nâng cao ý thức đạo đức môi trường có quan trọng
không? Có 258/300 phiếu trả lời là có, chiếm 86%; 39/300 phiếu trả lời là bình
thường, chiếm 12,3%; 3/300 phiếu trả lời không, chiếm 1%.
Khi được hỏi: Ô nhiễm môi trường là gì? Có 182/300 phiếu trả lời:Ô nhiễm
môi trường là việc đưa các chất thải vào môi trường quá mức quy định, có khả năng
gây hại đến sức khoẻ con người, đến sự phát triển sinh vật hoặc làm suy giảm chất
lượng môi trường, chiếm 60,7%; Có 78/300 phiếu trả lời: Ô nhiễm môi trường là
55
việc đưa các chất thải vào môi trường quá mức quy định, có khả năng gây hại đến
sức khoẻ con người, chiếm 26%; Có 40/300 phiếu trả lời: Ô nhiễm môi trường là
chất lượng môi trường bị suy giảm, chiếm 13,3%.
Khi được hỏi: Hàng ngày bạn có vứt rác đúng nơi quy định không? Có
294/300 phiếu trả lời: Có, chiếm 98%, 6/300 phiếu trả lời: không, chiếm 2%.
Khi được hỏi: Ở trường bạn đã làm gì để thể hiện mình là người có ý thức
đạo đức môi trường? Có 223 sinh viên trả lời: Không vứt rác bừa bãi, tích cực tham
gia các hoạt động bảo vệ môi trường: dọn vệ sinh toàn trường, các buổi ngoại khóa
về môi trường..., chiếm 74,3%; Có 87 sinh viên trả lời: Không vứt rác bừa bãi,
chiếm 25,7%.
Khi được hỏi: Bạn đã tham gia vào hoạt động bảo vệ môi trường do Nhà
trường tổ chức bao nhiêu lần? Có 179/300 phiếu trả lời là một vài lần, chiếm
59,7%; 102/300 phiếu trả lời là 1 lần, chiếm 34%; 19/300 phiếu trả lời không lần
nào, chiếm 6,3%.
Khi được hỏi: Tại sao không nên sử dụng nhiều túi nilon? Có 92/300 phiếu
trả lời: Túi nilon ra môi trường lâu phân hủy, khi rơi vào nước sẽ gây ô nhiễm nước;
rơi vào đất sẽ ngăn cản hoạt động của sinh vật đất; khi đốt sẽ gây mùi độc hại đối
với sức khỏe con người và sinh vật, chiếm 30,7%; Có 124/300 phiếu trả lời: Túi
nilon khó phân hủy, chiếm 41,3%; Có 84/300 phiếu trả lời: Gây nhiều rác thải,
chiếm 28%.
Khi được hỏi: Ở địa phương nơi cư trú bạn đã làm gì để góp phần nâng cao
ý thức đạo đức môi trường của bản thân? Có 102/300 phiếu trả lời: Vứt rác đúng
nơi quy định, tham gia dọn vệ sinh nơi công cộng, tuyên truyền cho mọi người cùng
chung tay bảo vệ môi trường, thực hiện đúng các quy định về bảo vệ môi trường
của chính quyền địa phương, chiếm 34%; Có 122/300 phiếu trả lời: Vứt rác đúng
nơi quy định, tham gia dọn vệ sinh nơi công cộng, chiếm 40,7%; Có 72/300 phiếu
trả lời: Vứt rác đúng nơi quy định, chiếm 24%; Có 4/300 phiếu trả lời: không tham
56
gia, chiếm 1,3%.
Khi được hỏi: Môi trường sống gồm có những thành phần nào? Có 288/300
phiếu trả lời: Môi trường sống gồm có: Nước, không khí, đất, tài nguyên thiên
nhiên, ánh sáng, quan hệ xã hội, chiếm 96%; Có 12/300 phiếu trả lời: Môi trường
sống gồm có: Nước, không khí, đất, chiếm 4%.
Qua khảo sát có thể thấy, phần lớn sinh viên trong trường đã có những hiểu
biết nhất định về môi trường, về bảo vệ môi trường và về mối quan hệ giữa con
người với các yếu tố tự nhiên của môi trường. Các em cũng đã hiểu cần phải làm gì
để bảo vệ môi trường, tác hại của việc ô nhiễm môi trường đối với con người và
sinh vật. Đặc biệt các em cũng hiểu được tác hại của việc sử dụng nhiều túi nilon,
nhất là khi đi mua hàng, hầu như mọi người đều tiện tay xin thêm cái túi nilon và về
lại vứt đi mà không biết rằng đó là loại rác khó phân hủy, hoặc biết nhưng vẫn bàng
quang... Và hầu hết các em đều ý thức được việc phải vứt rác đúng nơi quy định, đó
được coi là việc làm tối thiểu trong nội dung bảo vệ môi trường.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy, hầu hết sinh viên đều có ý thức, suy nghĩ và
có sự tu dưỡng đạo đức môi trường. Điều đó thể hiện qua hành động của các em
như: thói quen tiết kiệm điện, nước, giữ gìn vệ sinh chung, tích cực tham gia vào
các hoạt động làm cho môi trường xanh – sạch – đẹp không chỉ ở trường nơi các em
đang học tập mà còn ở cả địa phương nơi các em đã và đang sinh sống.
Để có được những thành tựu như trên không chỉ do bản thân các em tự cố
gắng mà còn do sự cố gắng của toàn trường từ Đảng ủy, Ban Giám hiệu, đội ngũ
giảng viên, Đoàn thanh niên, Hội sinh viên và các phòng ban khác đã cùng nhau
chung tay góp sức tạo nên sức mạnh đoàn kết to lớn hướng vào mục tiêu bảo vệ
môi trường.
2.2.2. Đạo đức môi trường ở sinh viên trường Đại học Hải Dương: những
vấn đề đặt ra.
Từ kết quả khảo sát ở trên cũng phản ánh, bên cạnh những thành tựu đạt
57
được là đa số sinh viên trong trường đề có ý thức đạo đức môi trường, nhưng bên
cạnh đó vẫn còn một vài hạt sạn gây ảnh hưởng không tốt đến đạo đức môi trường
của Nhà trường, làm nên mặt hạn chế của đạo đức môi trường, các hạn chế đó là:
Về phía Nhà trường
* Nhà trường đang trong quá trình xây dựng, môi trường còn nhiều hạn chế
Trường mới nâng cấp lên Đại học được 7 năm và có 2 cơ sở, cơ sở 2 mới
đang trong giai đoạn xây dựng và san lấp mặt bằng cơ sở vật chất còn sơ sài, cảnh
quan môi trường còn bừa bộn nên vấn đề bảo vệ môi trường ở cơ sở 2 còn nhiều
hạn chế. Nguyên vật liệu cho xây dựng còn để xen lẫn với các bồn cây đã hoàn
thiện và trồng hoa; xe chở nguyên vật liệu còn đi lại nhiều ảnh hưởng đến các cây
cảnh, cây ăn quả đã được trồng trong trường; khói bụi của xe tải, của đất, cát, đá do
đang xây dựng cũng gây ảnh hưởng tới môi trường.
* Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên hoạt động chưa tích cực
Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên chưa có nhiều hoạt động cho bảo vệ môi
trường. Hàng năm, Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên đều có phong trào cho hoạt
động bảo vệ môi trường như: Tết trồng cây, phủ xanh đất trống; giữ gìn vệ sinh môi
trường trong lớp học, khuôn viênnhà trường, nơi ở và nơi cư trú; cuộc thi tìm hiểu
và tuyên truyền bảo vệ môi trường... Tuy nhiên các hoạt động này chưa được chú
trọng nhiều, tổ chức còn rời rạc, chưa có sự đoàn kết của sinh viên giữa các ngành
với nhau, không được tổ chức thường xuyên, chưa có tính nhất quán. Số lượng sinh
viên tham gia các hoạt động đó chưa thực sự cao, chưa đạt 100% sinh viên tham
gia. Khi khảo sát còn 29/300 phiếu trả lời chưa tham gia lần nào, chiếm 9,7%.
* Nhà trường chưa có khoa Môi trườngvà giảng viên chuyên trách về giảng
dạy về môi trường
Đội ngũ giảng viên trong Nhà trường, ngoài khoa Nông nghiệp có chuyên
môn về môi trường (nhưng số lượng giảng viên ở khoa ít), còn lại phần lớn giảng
viên trong trường không có chuyên môn về môi trường, chưa được đào tạo về giảng
58
dạy môi trường, đạo đức môi trường nên trong hoạt động tổ chức lồng ghép nội
dung đạo đức môi trường với các nội dung của các môn học khác, sự truyền kiến
thức của thầy cô cho các em còn có phần các em chưa hiểu được.
Mỗi môn học đều có đặc thù riêng và có phương pháp giảng dạy phù hợp với
từng môn và đạo đức môi trường cũng không ngoại lệ. Môn học này yêu cầu sự cập
nhật liên tục về tình hình môi trường không chỉ ở phạm vi tỉnh Hải Dương mà còn ở
trên phạm vi cả nước và thế giới, đồng thời môn học cũng đòi hỏi phải được gắn
cùng các hoạt động thực tiễn. Phải cho các em nắm được tình hình thực tiễn thì từ
đó mới kích thích ý thức đạo đức môi trường trong mỗi em và thôi thúc các em có
những hành động vì môi trường, có những hành động đạo đức môi trường. Nhưng
do trường mới nâng cấp lên Đại học được 7 năm, lại có 2 cơ sở và cơ sở 2 đang
trong giai đoạn xây dựng nên kinh phí đầu tư cho hoạt động môi trường và môn
học đạo đức môi trường còn nhiều hạn chế.
Các hoạt động ngoại khóa về môi trường của Nhà trường cũng gặp phải
một vài khó khăn như: kinh phí đi lại, tổ chức, sự liên kết với các địa điểm ngoại
khóa… vì vậy chưa được tổ chức một cách thường xuyên mà diễn ra rời rạc,
không được tổ chức thường xuyên và không có hệ thống nên chưa thu hút được
đông đảo sinh viên tham gia.
* Kinh phí cho hoạt động bảo vệ môi trường chưa hợp lý
Kinh phí Nhà trường chi cho hoạt động bảo vệ môi trường, đạo đức môi
trường chưa nhiều. Do cơ sở 2 của Nhà trường đang trong giai đoạn xây dựng
nên nhiều chi phí cho hoạt động đó và hoạt động bảo vệ môi trường chưa có số
kinh phí phù hợp để đạt kết quả cao. Mặt khác Nhà trường cũng lấy số ngân sách
tự có để chi cho hoạt động bảo vệ môi trường nên số lượng chi chưa nhiều. Là
trường Đại học công lập duy nhất của tỉnh Hải Dương lập ra nên bên cạnh số
vốn tự có chi cho hoạt động bảo vệ môi trường cần phải có sự hỗ trợ của các Sở,
ban ngành đóng trên địa bàn thành phố.
59
Về phía sinh viên
Bên cạnh những thành tựu sinh viên Nhà trường đạt được về lĩnh vực đạo
đức môi trường thì vẫn còn một vài hạn chế nhất định. Đó là sự chưa nhận thức
được tầm quan trọng của môi trường và sự thiếu ý thức của một số em trong các
hoạt động bảo vệ môi trường do Ban Giám hiệu Nhà trường, Đoàn Thanh niên,
Hội sinh viên và các thầy cô trong trường tổ chức. Các em nghĩ việc vứt rác ra
bừa bãi, việc dọn vệ sinh lớp học, dọn cỏ quanh bồn hoa, cây cảnh, việc trồng
cây xanh... là của các cô lao công, là của các bạn trong Đội Thanh niên xung
kích, là của Đoàn trường và Nhà trường, không phải phận sự và nhiệm vụ của
mình nên thờ ơ, bàng quan trước các hoạt động đó. Đồng thời do các em có ý
nghĩ hiện tại môi trường mình đang ở là bình thường, không phải bị ô nhiễm và
hoạt động bảo vệ môi trường chỉ mang tính hình thức, làm mất thời gian nên thờ
ơ, không quan tâm.
Nguyên nhân
Mặc dù thành tựu của hoạt động bảo vệ môi trường của Nhà trường có
nhiều thành tích nhưng bên cạnh đó vẫn còn một vài hạn chế. Có nhiều nguyên
nhân gây ra các hạn chế đó. Và xét về mặt chủ quan và khách quan ta có nguyên
nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan.
* Nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân của những hạn chế trên là do nhận thức của các em về bảo
vệ môi trường còn hạn chế và các em thiếu ý thức trong việc giữ gìn môi trường
vệ sinh lớp học. Đó xuất phát từ thói quen lười biếng (nhất là những bạn nhà
giàu quen sống ỉ lại, những cậu ấm cô chiêu được chiều chuộng từ bé, nhiều bạn
ở nhà còn có người giúp việc nên ở nhà không phải làm gì, ra trường cũng không
muốn lao động), lối sống ích kỷ nghĩ đến quyền lợi cá nhân của một số em chỉ
muốn sạch mình, bẩn người nên nhiều em ăn sáng xong để luôn rác tại ghế đá,
uống nước xong vứt vỏ chai nước ra ngay hành lang, mặc dù thùng rác cách đó
chỉ vài bước chân. Các em nghĩ rằng, những nơi công cộng như trường học, lớp
60
học không phải nhà mình, chính vì vậy trong giờ học nhiều em ăn quà vặt như:
hoa quả, bánh kẹo, đồ ăn sáng, kẹo cao su, nước ngọt... dùng xong để rác luôn
trong ngăn bàn. Cách suy nghĩ ấu trĩ như vậy vô cùng thiển cận và nguy hại
không chỉ cho bản thân các em mà còn cả cho chỗ tập thể, chỗ công cộng. Rồi
nữa, đó là do thói quen có từ lâu, những thói quen hình thành ở nhà như:
nhiều bạn nhà ở quê nên rộng rãi, có nhiều đất thừa, các bạn tiện vứt rác ra
đường hoặc ra vườn sau nhà lâu dần gây ô nhiễm., khó sửa đổi khi ở các lớp
học, mặc dù các thầy cô giáo và ban cán sự lớp phải thường xuyên nhắc nhở
nhưng vẫn không thể nào giữ cho lớp học sạch đẹp.
* Nguyên nhân khách quan
Kinh phí của Nhà trường chi cho hoạt động bảo vệ môi trường chưa
nhiều, do chưa tìm được nhiều nguồn tài trợ từ phía các công ty, doanh
nghiệp. Nguồn ngân sách Ủy ban nhân dân tỉnh chi cho Nhà trường còn hạn
chế và nhiều lúc chưa kịp thời nên dẫn đến sự rời rạc trong quá trình tổ chức
các hoạt động bảo vệ môi trường. Đặc biệt hiện nay trường có 2 cơ sở nên
kinh phí chi cho hoạt động bảo vệ môi trường đòi hỏi phải tăng gấp đôi so với
trước đây. Nhiều hoạt động bảo vệ môi trường phải tổ chức đồng thời ở cả 2
cơ sở như hoạt động don vệ sinh phòng học, khuôn viên trường…
Do có 2 cơ sở ở cách nhau 7km nên việc tổ chức hoạt động bảo vệ môi
trường còn gặp nhiều khó khăn, chưa có sự đồng nhất về hình thức tổ chức, về
phương tiện đi lại. Cơ sở 1 ở phường Hải Tân, thành phố Hải Dương nên mật
độ dân cư đông đúc, nhiều quán nước dựng lên hai bên đường vào trường nên
rác thải do ăn sáng, ăn trưa và đồ uống rất nhiều, gây mất cảnh quan ngoài
cổng trường. Cơ sở 2 ở phía Nam, cầu Lộ Cương (xã Liên Hồng, huyện Gia
Lộc, tỉnh Hải Dương) do mới san lấp mặt bằng nên mật độ dân cư còn thưa
thớt nhưng diện tích của trường ở đây nhiều nên cần số lượng đông bao gồm
cả thầy cô giáo cùng các em tham gia trong công tác trồng cây phủ xanh đất
61
trống để hạn chế phần đất thừa chưa đưa vào xây dựng.
Tiểu kết chương
Đại học Hải Dương là trường công lập duy nhất của tỉnh Hải Dương và
mới được nâng cấp lên Đại học nhưng đã gặt hái được nhiều thành công. Nhà
trường không chỉ tập trung vào việc truyền tri thức cho các em mà còn chú trọng
đến việc giáo dục đạo đức, lối sống cho các em, trong đó có cả đạo đức môi
trường với nhiều việc làm rất có ý nghĩa và mang lại hiệu quả tốt như: triển khai
học giáo dục đầu khóa, lồng ghép việc giáo dục đạo đức môi trường cho các em;
Tổ chức dọn vệ sinh lớp học, khuôn viên Nhà trường và nơi cư trú; Trồng cây
phủ xanh đất trống trong trường; cuộc thi tìm hiểu và tuyên truyền nội dung đạo
đức môi trường; Lồng ghép nội dung đạo đức môi trường cùng các môn học
chính khóa khác; Tổ chức hoạt động ngoại khóa với chủ đề bảo vệ môi trường…
Các hoạt động trên phần lớn đều gặt hái được thành công với số lượng các
em tham gia đông và có tinh thần trách nhiệm. Các em đã ý thức được những
việc làm góp phần bảo vệ môi trường như: không vứt rác bừa bãi; tích cực tham
gia các buổi dọn vệ sinh lớp học, khuôn viên Nhà trường và ở địa phương cư trú;
tích cự tham gia hoạt động trồng cây phủ xanh đất trống do Đoàn trường phát
động; tham gia các cuộc thi tìm hiểu và tuyên truyền nội dung đạo đức môi
trường và các buổi ngoại khóa về chủ đề bảo vệ môi trường… Nhưng bên cạnh
đó vẫn còn một số em chưa ý thức được việc bảo vệ môi trường nên còn vứt rác
chưa đúng nơi quy định, hút thuốc trong trường, không tham gia hoặc tham gia
chưa đầy đủ các buổi vệ sinh và các hoạt động bảo vệ môi trường do Đoàn
trường, các thầy cô giáo tổ chức. Đó là những em có sự nhận thức vấn đề chưa
tốt hoặc biết nhưng làm ngơ, nghĩ đó không phải việc của mình nên không làm.
Để phát huy những thành tựu và khắc phục những hạn chế nêu trên thì cần
có những giải pháp nhằm nâng cao đạo đức môi trường cho sinh viên Trường Đại
học Hải Dương, và trong chương 3 của luận văn tác giả sẽ nêu ra một số giải pháp
62
cơ bản để áp dụng cho Trường Đại học Hải Dương trong giai đoạn hiện nay.
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG
Ở SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI DƢƠNG
3.1. Nâng cao hoạt động của Nhà trƣờng trong giáo dục đạo đức môi
trƣờng cho sinh viên đại học Hải Dƣơng
Chúng ta muốn phát huy những thành tựu và khắc phục những hạn chế về
đạo đức môi trường ở sinh viên Trường Đại học Hải Dương thì giải pháp đầu tiên
và không thể thiếu trong việc nâng cao đạo đức môi trường ở sinh viên Trường Đại
học Hải Dương đó chính là: Nâng cao hoạt động của Nhà trường trong giáo dục đạo
đức môi trường cho sinh viên đại học Hải Dương. Tại sao cần phải nâng cao hoạt
động của Nhà trường trong giáo dục đạo đức môi trường cho sinh viên đại học Hải
Dương? Đạo đức môi trường là một bộ phận của đạo đức, và khi nhắc tới đạo đức
chính là nhắc tới ý thức của mỗi người. Đặc biệt sinh viên đang ngồi trên ghế nhà
trường, nhà trường với tư cách là chủ thể giáo dục thì không thể bỏ qua việc nâng
cao hoạt động của Nhà trường trong giáo dục đạo đức môi trường cho sinh viên. Ý
thức về sự cần thiết phải bảo vệ môi trường là tiền đề để hình thành quan hệ và hành
vi đạo đức đối với môi trường. Để thực hiện giải pháp nêu trên cần phải có sự tham
gia của Ban giám hiệu Nhà trường, Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên và các thầy cô
giáo trong trường. Đây là giải pháp cơ bản nhất và cũng là giải pháp chi phối, tạo
nền tảng cho các giải pháp khác trong việc nâng cao đạo đức môi trường của sinh
viên Nhà trường.
Ban Giám hiệu Nhà trường với tư cách là chủ thể lãnh đạo toàn trường bao
gồm cả các thầy cô giáo trong trường và toàn bộ các em sinh viên các khóa hiện
đang học tập tại trường. Ban Giám hiệu chính là quản lý chung có trách nhiệm
chung đối với tất cả các công việc trong trường, trong đó có công tác giáo dục đạo
63
đức môi trường cho sinh viên toàn trường. Để thực hiện được trách nhiệm đó, Ban
Giám hiệu sẽ thể hiện thông qua các chủ trương, phương hướng phát triển và chức
năng quản lý toàn bộ hoạt động của nhà trường nhằm hướng đến sự bảo vệ môi
trường, thân thiện với môi trường, hài hòa với môi trường và chống lại ô nhiễm môi
trường. Đồng thời Ban Giám hiệu Nhà trường luôn luôn phải thực hiện đầy đủ,
nhanh chóng khẩn trương và chính xác các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước đối với công tác giáo dục đạo đức môi trường trong Nhà tường. Trong thời
gian qua những chủ trương, phương hướng của Ban Giám hiệu Nhà trường nhiều
khi còn rời rạc, còn mang tính chung chung, chưa cụ thể và chưa được triển khai
ngay trong diện rộng, hoặc đã được triển khai nhưng còn chưa có sự quản lý sát sao
dẫn đến hoạt động bảo vệ môi trường trong Nhà trường còn nhiều hạn chế. Để khắc
phục những hạn chế này, trong thời gian tới Ban Giám hiệu Nhà trường cần có
những chủ trương cụ thể, chi tiết hơn, phương hướng rõ ràng và khẩn trương hơn,
chức năng quản lý cần được thực hiện một cách nghiêm túc, chính xác hơn theo
phương châm: đúng người đúng việc. Có như vậy thì việc nâng cao ý thức đạo đức
môi trường ở sinh viên trường Đại học Hải Dương mới có thể thành công được.
Đây là nhiệm vụ vô cùng cấp thiết trong giai đoạn hiện nay khi không chỉ nước ta
mà toàn nhân loại đã và đang phải đối mặt với hiện tượng biến đổi khí hậu, hiện
tượng ô nhiễm nguồn nước, đất, không khí, nước biển dâng cao, thiên tai bão lụt,
hiệu ứng nhà kính....
Để nâng cao đạo đức môi trường ở sinh viên Đại học Hải Dương, Ban Giám
hiệu Nhà trường cần triển khai tổ chức mở các buổi bồi dưỡng cho giảng viên giảng
dạy của Nhà trường để trau dồi và học tập các kiến thức, kỹ năng và nội dung về
giáo dục đạo đức môi trường cho sinh viên từ đó sẽ giúp cho giảng viên giảng dạy
trên lớp lồng ghép nội dung đạo đức môi trường cùng với các nội dung môn học
khác trong giờ lên lớp một cách khéo léo và hợp lý hơn để không gây sự nhàm chán
cho sinh viên, cùng cáchoạt động ngoại khóa ngoài giờ lên lớp. Đồng thời, do
trường không phải là trường chuyên đào tạo sinh viên chuyên ngành môi trường
64
nên các thầy cô giảng dạy cũng cần khắc phục những hạn chế về giáo dục đạo đức
môi trường trong giảng dạy như: dùng các thuật ngữ khoa học chuyên ngành về môi
trường gây khó hiểu cho sinh viên; các thông tin giáo dục về môi trường không
mang tính thực tế còn ở mức lý thuyết suông; nội dung môi trường không vừa sức
với sinh viên của từng ngành cũng như thực tiễn của nhà trường và của địa bàn tỉnh
Hải Dương.
Các thầy cô giáo, những người truyền lửa cho sinh viên, những người đứng
trên bục giảng với những bài giáo án của mình nhằm mang đến cho sinh viên những
kiến thức mình đã và đang có để với mong muốn các em sẽ thành công trong tương
lai phía trước. Và cũng chính các thầy cô cũng là hạt nhân để nâng cao đạo đức môi
trường cho sinh viên Truờng Đại học Hải Dương. Vì các thầy cô bên cạnh môn học
chính khóa trên lớp sẽ lồng ghép thêm nội dung đạo đức môi trường thông qua các
hành động và việc làm cụ thể. Cùng với giáo dục tri thức thì việc giáo dục những
chuẩn mực đạo đức môi trường là rất cần thiết. Chuẩn mực đạo đức là hình thức
biểu hiện xác định và cụ thể về những yêu cầu của xã hội đối với con người nhằm
bảo vệ môi trường và sự phát triển bền vững. Chuẩn mực đạo đức môi trường giúp
con người ứng xửa hợp lý và hợp đạo đức trong các quan hệ và hành vi cụ thể. Vì
vậy rất cần có sự giảng dạy, phân tích và hướng dẫn của giảng viên đứng lớp để
sinh viên hiểu được điều đó. Và để bài giảng có sự phối hợp hai nội dung về bài học
chính và nội dung đạo đức môi trường không đơn điệu và thu hút được sự chú ý của
sinh viên đòi hỏi mỗi thầy cô giáo phải luôn trau dồi kiến thức về đạo đức môi
trường để đưa kiến thức đó vào bài giảng một cách hợp lý, hài hòa, có sức thuyết
phục không gây khó hiểu, nhàm chán cho sinh viên. Để làm được điều đó đòi hỏi
các thầy cô tham gia một cách đầy đủ và sôi nổi các buổi bồi dưỡng về nội dung
đạo đức môi trường do Ban Giám hiệu Nhà trường triển khai tổ chức, đồng thời tích
lũy kiến thức từ cuộc sống hàng ngày thông qua hành động, việc làm và những gì
quan sát được trên báo, đài, ti vi, mạng internet… để từ đó rút ra được bài học kinh
65
nghiệm và truyền đạt lại cho các em sao cho ý thức trách nhiệm của các em về đạo
đức môi trường được nâng cao hơn nữa để chống lại hiện tượng biến đổi khí hậu và
ô nhiễm môi trường đang diễn ra.
Bên cạnh việc truyền kiến thức cho các em về đạo đức môi trường thì mỗi
thầy cô giáo với trách nhiệm là người đứng lớp cần là tấm gương sáng cho các em
học tập và noi theo và các thầy cô cũng rèn cho các em những thói quen tốt để bảo
vệ môi trường như: không vứt rác trong phòng học, trong ngăn bàn học hay ngoài
sân trường, trên đường đi về hay đi chơi cũng không vứt rác ra đó, khi các em đi
học hay đi chơi thấy rác trước mặt phải nhặt và đổ rác đúng nơi quy định, không
phải bằng khẩu hiệu hay lời khuyên mà quy định bắt buộc mỗi lớp học phải có một
rỏđựng rác đặt ở góc lớp và mỗi buổi học phân công từng bạn đi đổ rác. Khi nhìn
thấy bạn trong trường vứt rác không đúng chỗ, nên đến góp ý nhắc nhở lịch sự để
bạn vứt rác đúng nơi quy định góp phần giữ gìn mô trường chung của nhà trường
luôn sạch đẹp, vệ sinh. Ngoài ra trong cuộc sống sinh hoạt thường ngày của các em,
khi đi chợ hay đi siêu thị mua hàng tiêu dùng phục vụ nhu cầu sinh hoạt của bản
thân và gia đình, các thầy cô cũng nhắc nhở và giáo dục các em giảm thiểu việc
dùng túi nilon, hoặc mua những loại hàng hóa có bao bì dễtiêu hủy trong tự nhiên
hoặc có thể dùng lại nhiều lần, hay có thể dùng làn, túi đi chợ để đựng được nhiều
loại đồ khô. Các thầy cô cũng khuyên các em nên sử dụng điện, nước tiết kiệm để
tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên bằng cách sử dụng bóng đèn tiết kiệm điện,
tận dụng ánh sáng tự nhiên; không để ti vi, máy tính ở chế độ sleep,rút sạc pin máy
tính, điện thoại khi pin đầy; dùng nước khi thấy cần thiết, sử dụng nước thải để tưới
cây, tận dụng nước mưa; ở trường không nên nghĩ là của chùa mà sử dụng điện
nước một cách lãng phí, tận dụng phương châm: “tắt khi không sử dụng”, khi tan
học ra về kiểm tra các công tắc điện xem đã tắt hết chưa? Khuyên các em nếu ở gần
trường thì nên đi xe đạp hoặc đi bộ, nếu đi xe máy có thể đi chung nhau để tiết kiệm
xăng và hạn chế được chất thải vào không khí...
Công tác nâng cao đạo đức môi trường cho sinh viên Đại học Hải Dương,
66
Nhà trường cần phải luôn được đồng hành cùng với công tác tuyên truyền phổ biến
pháp luật trong nhà trường như: Luật giáo dục, luật phòng chống ma túy,... Chính vì
vậy trong quá trình truyền tri thức cho các em sinh viên các thầy cô cũng nên tuyên
truyền cho các em các điều luật về bảo vệ môi trường, luật phòng chống ma túy,
luật giáo dục.... theo tinh thần Nghị quyết 41-NQ-TƯ của Bộ Chính trị về “Bảo vệ
môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” để
hướng tới mục tiêu xây dựng trường học an toàn, thân thiện với thiên nhiên, hướng
tới một môi trường xanh và không khí trong lành hơn.
Một hạt nhân không thể thiếu trong công tác nâng cao đạo đức môi trường
cho sinh viên Đại học Hải Dương đó chính là Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên.
Đoàn Thanh niên của Nhà trường là tổ chức của lực lượng trẻ, là thế hệ năng
động, nhiệt tình và sáng tạo, chính vì thế mà Đoàn thanh niên có vai trò xung kích
trong mọi hoạt động và vận động được các em sinh viên tham gia thực hiện các
nhiệm vụ của Nhà trường, của địa phương và của xã hội. Đối với hoạt động bảo vệ
môi trường nhằm nâng cao đạo đức môi trường của sinh viên, Đoàn đã phát động
được một số phong trào với đông đảo sinh viên tham gia bảo vệ môi trường rất tích
cực và đạt hiệu quả tốt. Tuy nhiên, đướng trước những thực tế ô nhiễm môi trường,
trước tình hình biến đổi khí hậu đang diễn ra hiện nay thì như vậy vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu ngày càng cao của giáo dục đạo đức môi trường cho sinh viên Nhà
trường. Bởi vậy, phát huy hơn nữa vai trò của Đoàn Thanh niên là một trong những
giải pháp rất cần thiết để nâng cao ý thức đạo đức môi trường cho các em sinh viên.
Đoàn Thanh niên Nhà trường cần tổ chức nhiều chương trình với chủ đề bảo vệ môi
trường, nâng cao đạo đức môi trường nhiều hơn nữa vì thông qua mỗi lần tổ chức
dọn vệ sinh lớp học, khuôn viên nhà trường, làm cỏ bồn hoa, chăm sóc cây xanh,
trồng cây phủ xanh đất trống, “ngày thứ bảy tình nguyện”, “ngày chủ nhật xanh”
sau mỗi buổi làm việc các em nhìn thấy thành quả của mình sẽ càng kích thích tinh
thần hăng hái tham gia rèn luyện nâng cao ý thức của bản thân các em.
Hội sinh viên là tổ chức đoàn kết, khuyến khích, giúp đỡ những hội viên,
67
sinh viên trong hội về học tập cũng như rèn luyện bản thân để hoàn thành các nhiệm
vụ của sinh viên từ đó góp phần xây dựng Nhà trường ngày càng vững mạnh hơn.
Hội sinh viên cũng góp phần giáo dục lý tưởng, truyền thống đạo đức, lối sống và ý
thức pháp luật và đạo đức môi trường cho hội viên, sinh viên. Trong thời gian qua
hoạt động của Hội sinh viên về nâng cao ý thức đạo đức môi trường cho sinh viên
Nhà trường chưa được chú trọng nhiều, còn buông lỏng nên cần đẩy mạnh hơn nữa
việc triển khai thực hiện các chương trình hành động bảo vệ môi trường một cách
cụ thể và chi tiết hơn để phù hợp với tình hình thực tiễn và đặc thù của Nhà trường.
Đồng thời cũng cần nhận thức được việc nâng cao đạo đức môi trường cho sinh
viên cần phải đi đôi với giáo dục kỹ năng sống cho các em. Do đó Hội sinh viên
trong thời gian tới cũng cần tập trung có các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho
các em sinh viên để từ đó giúp các em nâng cao ý thức đạo đức môi trường cũng
như ý thức đạo đức của bản thân được hoàn thiện hơn.
Như vậy, có thể thấy để nâng cao đạo đức môi trường của sinh viên Trường
Đại học Hải Dương thì không chỉ có sự giảng dạy của thầy cô giáo mà cần phải có
sự phối hợp hài hòa của tất cả các thành phần trong Nhà trường từ Ban Giám hiệu
Nhà trường đến thầy cô giáo giảng dạy, cùng Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên cùng
các phòng chức năng khác mới có được kết quả tốt.
3.2. Tăng cƣờng các hình thức ngoại khóa, các hoạt động ngoài giờlên
lớpcho sinh viên về đạo đức môi trƣờng
Đứng trước tình hình ô nhiễm môi trường như hiện nay Nhà trường chưa có
môn học riêng về đạo đức môi trường mà nội dung đạo đức môi trường cũng chỉ
được lồng ghép cùng các môn học khác nên bên cạnh hình thức lồng ghép ấy thì
Nhà trường cũng cần có các hoạt động ngoại khóa, các hoạt động ngoài giờ học cho
sinh viên về đạo đức môi trường nhằm giáo dục thêm cho các em lòng yêu thiên
nhiên, sống hòa nhập, thân thiện với thiên nhiên, tinh thần bảo vệ môi trường.
Phương thức ngoại khóa này được vận dụng để giải quyết khó khăn về quỹ thời
gian học tập trên lớp của các em sinh viên. Hoạt động ngoại khóa có ưu điểm là
68
sinh động, dễ gắn liền với thực tế, vừa cung cấp được kiến thức, kỹ năng, vừa có tác
dụng rèn luyện ý thức, thái độ cho từng cá nhân sinh viên từ đó sẽ thúc đẩy các em
có những hành vi đúng đắn góp phần bảo vệ môi trường. Thời gian qua Nhà trường
cũng đã tổ chức được một số hoạt động ngoại khóa cho sinh viên. Tuy nhiên các
hoạt động đó còn diễn ra rời rạc, không liên tục, chưa có tính khoa học và còn bị
động bởi nhiều nhân tố bên ngoài ảnh hưởng tới.
Trong thời gian tới Nhà trường cần khắc phục những hạn chế trên và cần đầu
tư thêm để hoạt động ngoại khóa diễn ra có được kết quả cao hơn. Cần có nhiều
hơn nữa các buổi thảo luận về chủ đề môi trường, bảo vệ môi trường, đạo đức môi
trường, các buổi đi thực tế trên địa bàn tỉnh Hải Dương để các em được chứng kiến
những hình ảnh thật về ô nhiễm môi trường đang diễn ra ở tỉnh mình nói riêng như
thế nào chứ không chỉ dừng lại ở các hình ảnh trên các trang mạng mang tính lý
thuyết, nhiều khi chưa có sức thuyết phục. Qua những buổi thực tế như vậy hướng
dẫn các em viết bài thu hoạch, phát biểu ý kiến và suy nghĩ của bản thân về tình
hình thực tiễn được quan sát và đưa ra một số giải pháp của bản thân để khắc phục
về hiện tượng ô nhiễm môi trường đã và đang diễn ra để qua đó các em càng ghi
nhớ hơn những hình ảnh ô nhiễm môi trường, những hành động mà mọi người làm
gây ra ô nhiễm môi trường để bản thân các em không mắc phải như họ. Đây cũng là
việc làm nhằm góp phần nâng cao đạo đức môi trường ở bản thân mỗi em sinh viên.
Việc làm đó có ý nghĩa giáo dục trên phạm vi rộng hơn, không còn giới hạn ở trong
khu vực của Nhà trường mà còn ra phạm vi tỉnh Hải Dương, để các em thấy được
không phải chỉ ở trong trường mình mới cần có ý thức đạo đức môi trường mà cả ra
bên ngoài, đặc biệt những nơi công cộng thì ý thức đó càng cần phải được nâng cao
hơn nữa, vừa thể hiện mình là người có đạo đức vừa góp phần bảo vệ môi trường.
Bên cạnh đó cũng cần tổ chức nhiều cuộc thi hơn nữa về chủ đề môi trường
để thu hút sinh viên các lớp tham gia như: “Tái chế sản phẩm”, các giáo viên cũng
đã tổ chức cho các em sinh viên thực hiện làm các sản phẩm tái chế từ hộp sữa đã
uống, ống hút, thùng giấy, chai nước đã uống hết, túi nilon… “Tiếng gọi thiên nhiên
69
và hành động của chúng ta” với những hình ảnh của thiên nhiên đang bị tổn thương
sâu sắc như: động vật quý hiếm không còn, rừng bị chặt phấ tàn khốc, xói mòn đất
xảy ra liên tục, nước sông bị ô nhiễm do sự vứt rác bừa bãi và nước thải đưa ra; sử
dụng thuốc trừ cỏ, trừ sâu, phân hóa học không đúng quy định làm đất nông nghiệp
chai sạn… và hành động của chúng ta như: không chặt phá rừng, ngăn chặn các
hành động đó, trồng cây gây rừng, trồng cây phủ xanh đất trống, bảo vệ động vật
quý hiếm, không sử dụng thuốc trừ sâu, trừ cỏ bừa bãi, không vút rác xuống sông,
hồ, ao và thải nước thải sinh hoạt chưa qua xử lý ra đó…; “Hành động nhỏ, lợi ích
lớn”: vứt rác vào thùng nhìn quang cảnh sạch đẹp hơn; tưới nước, bắt sâu, hái
những cành khô, lá úa, nhổ cỏ cho cây; không hút thuốc nơi công cộng, không dẫm
lên thảm cỏ, bẻ cành cây tươi; “Sống tiết kiệm vì môi trường bền vững” với các vở
kịch vềtiết kiệm điện, nước sinh hoạt, hạn chế sử dụng túi nilon; “Vì màu xanh quê
hương”: tích cực chăm sóc cây xanh và tham gia trồng cây xanh, nâng niu từng cây
như chính là bạn của mình….
Tổ chức các hoạt động văn nghệ: các hình thức ca, múa, nhạc mang nội dung
giáo dục môi trường sẽ có giá trị cao nếu được tổ chức tốt.
Ngoài ra cũng hưởng ứng và tuyên truyền ngày môi trường thế giới được tổ
chức thường niên vào ngày 5/6 hàng năm và Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam (từ
ngày 1 đến 8-6) và Ngày Đại dương thế giới (8-6) tổ chức các buổi ngoại khóa vào
các ngày đó nhằm giải thích cho các em ý nghĩa của những ngày và khích lệ tinh
thần trách nhiệm của các em và kêu gọi tất cả sinh viên các lớp cùng tham gia kèm
theo các phần thi về các chủ đề của từng ngày như: “Vì một thế giới sạch”; “Vì biển
đảo quê hương”; “Vì Đại dương xanh”… từ đó giáo dục cho các em cùng chung
sức bảo vệ môi trường cả Việt Nam cũng như môi trường chung của nhân loại.
Từ những hoạt động ngoại khóa trên nếu được tiến hành một cách liên tục
với tinh thần trách nhiệm cao thì sẽ có ý nghĩa giáo dục sinh viên thấy được trách
70
nhiệm của mình trong việc bảo vệ môi trường.
3.3. Đẩy mạnh hình thức khen thƣởng và kỷ luật sinh viên về đạo đức
môi trƣờng
Để khuyến khích và tạo điều kiện cho sinh viên tích cực, chủ động trong qua
trình tự giáo dục đạo đức, đạo đức môi trường, Ban Giám hiệu Nhà trường, Đoàn
trường cũng cần chú ý đến các biện pháp khen thưởng và kỉ luật một cách kịp thời
và chính xác. Mục đích của việc khen thưởng và kỷ luật sinh viên về đạo đức môi
trường là: Khuyến khích sinh viên phấn đấu vươn lên, noi theo những tấm gương
tốt để tu dưỡng và rèn luyện bản thân, nhìn vào các tấm gương đó các em thấy
những hạn chế của mình và tự điều chỉnh mình cho hoàn thiện hơn. Ngăn chặn
không để các hiện tượng xấu, những hiện tượng sai trái phát triển, giáo dục các sinh
viên phạm sai lầm, giúp các sinh viên ấy phấn đấu trở thành sinh viên tốt, có những
hành vi đạo đức, đạo đức môi trường tốt. Thúc đẩy sinh viên tự giác thực hiện quy
định về quyền hạn, nhiệm vụ của mình nhằm nâng cao ý thức góp phần xây dựng
mọi nền nếp, kỷ cương trong nhà trường.
Khen thưởng là một hoạt động nhằm tuyên dương, động viên một cá nhân
sinh viên hay một nhóm hoặc nhiều nhóm, một lớp hoặc nhiều lớp sinh viên, có
nhiều sáng kiến, nhiều thành tích trong việc tìm hiểu môi trường, trong bảo vệ môi
trường, tuyên truyền và vận động mọi người xung quanh mình tham gia bảo vệ môi
trường, đólà những việc làm rất có ý nghĩa và cần được khen thưởng kịp thời để
làm gương cho các bạnn khác và cũng để nhân rộng những tấm gương đó ra hơn
nữa. Đó là sự ghi nhận, sự cổ vũ tích cực đối với những hành vi đúng đắn, tốt đẹp
và đáng ghi nhận của sinh viên. Nó giúp sinh viên nhận ra giá trị đích thực của các
hoạt động vì môi trường của mình; đó chính là động lực mạnh mẽ giúp họ phát huy
hơn nữa tính chủ động, tích cực trong việc xác lập quan hệ thân thiện với môi
trường, bảo vệ môi trường từ góc độ đạo đức.
Bên cạnh hình thức khen thưởng, Nhà trường cũng cần chú ý đến các hình
thức kỉ luật phù hợp đối với các hành vi, các cá nhân sinh viên, các nhóm sinh viên
71
có những biểu hiện tiêu cực trong việc bảo vệ môi trường cũng như trong các hoạt
động thực hiện đạo đức môi trường như: Vứt rác bừa bãi, bẻ cành cây, hái hoa trong
khuôn viên trường, hút thuốc trong trường, không tham gia các buổi lao động dọn
vệ sinh lớp học, khuôn viên trường, các buổi trồng cây phủ xanh đất trống, các buổi
ngoại khóa về chủ đề môi trường, bảo vệ môi trường. Kỉ luật sinh viên với những
mức độ thích hợp sẽ góp phần nâng cao nhận thức cho các em về đạo đức môi
trường. Tại vì sao kỷ luật lại nâng cao nhận thức cho sinh viên về đạo đức môi
trường? Vì việc thực hiện kỉ luật sinh viên như vậy không chỉ có tác dụng răn đe,
mà còn là sự thể hiện sự không đồng tình của Nhà trường, của xã hội đối với những
hành vi lệch chuẩn của sinh viên không chỉ về đạo đức môi trường mà còn cả về
đạo đức nói chung. Từ đó sẽ giúp sinh viên nhận thức lại và đi đến nhận thức đúng
sau đó sẽ có những hành động đúng đắn trong học tập, trong rèn luyện, tu dưỡng
bản thân và thể hiện thái độ cũng như hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo đức vầ
đạo đức môi trường.
Việc khen thưởng và kỷ luật sinh viên về đạo đức môi trường, Nhà trường
cần chú trọng và dựa vào các quy tắc đã được Nhà trường thống nhất về đạo đức
môi trường và dựa vào các điều trong Luật Bảo vệ môi trường. Đồng thời cũng cần
phổ biến rộng rãi các quy tắc đã được Nhà trường thống nhất về đạo đức môi
trường và bảo vệ môi trường, Luật Bảo vệ môi trường cho các em sinh viên trong
toàn trường nắm được để các em học tập và tuân theo.
Đồng thời việc khen thưởng và kỷ luật sinh viên về đạo đức môi trường cần
tiến hành theo các nguyên tắc sau: Đảm bảo tính chính xác,khách quan, công bằng,
vô tư, không định kiến, hẹp hòi, tùy tiện. Đảm bảo tính dân chủ, bình đẳng, có lý có
tình đối với mọi sinh viên. Việc kỷ luật lấy giáo dục làm chính, đồng thời cũng phải
giữ nghiêm kỷ luật. Phát huy các ưu điểm của sinh viên, bồi dưỡng những nhân tố
tích cực trong các em và lấy đó làm chỗ dựa để khắc phục những thiếu sót, những
hạn chế, những biểu hiện tiêu cực. Khen thưởng và kỷ luật cần được tiến hành kịp
thời, nhanh chóng bằng những hình thức phù hợp với điều kiện Nhà trường. Đồng
72
thời khen thưởng và kỷ luật cũng cần tạo ra trong Nhà trường và ngoài xã hội một
dư luận đúng đắn, công minh ủng hộ cái tốt, cái đẹp phê phán cái sai, cái xấu. Nhà
trường cần có kế hoạch theo dõi sát sao sự tiến bộ và sửa chữa của những sinh viên
vi phạm lỗi. Khen phải kèm theo hình thức thưởng một cách thích đáng, hợp lý.
3.4. Huy động các nguồn kinh phí chi cho hoạt động bảo vệ môi trƣờng
Qua tìm hiểu được biết Nhà nước cũng đã có những chính sách, cơ chế tài
chính hỗ trợ công tác bảo vệ môi trường. Nhưng những chính sách và cơ chế tài
chính ấy mới chỉ hướng đến các doanh nghiệp. Vì các doanh nghiệp là các đơn vị
sản xuất ra các sản phẩm, thiết bị để phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu sang
các nước khác nên lượng rác thải, nước thải và khói bụi thảo ra môi trường rất nhiều
và rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước để giúp doanh nghiệp thực hiện được công tác
bảo vệ môi trường theo kịp với yêu cầu phát triển của đất nước cũng như chuẩn
mực quốc tế và giảm thiểu được ô nhiễm mỗi trường. Nhà nước cũng chưa có sự
đầu tư thích đáng cho công tác giáo dục đạo đức môi trường trong các trường học từ
bậc mầm non tới đại học, hay có thể nói, kinh phí dành cho giáo dục đạo đức môi
trường nói chung còn rất hạn hẹp so với các hợp phần khác của bảo vệ môi trường
như trang bị kỹ thuật hay qui trình sản xuất...
Hiện nay trong lĩnh vực giáo dục đạo đức môi trường cho sinh viên thì
nguồn kinh phí còn rất hạn hẹp, chưa có một sự đầu tư thích đáng cho hoạt động
này mà để xây dựng được ý thức đạo đức bảo vệmôi trường cho con người cần
nhiều thời gian với nhiều hoạt động cụ thể vàđể làm được những điều đó rất cần
phải có được nguồn kinh phí hợp lý để chi cho những hoạt động này. Căn cứ vào
thực trạng đạo đức môi trường ởsinh viên Đại học Hải Dương và những vấn đề
đang đặt ra, chúng tôi cho rằng, để có được nguồn kinh phí hợp lý cho hoạt động
giáo dục đạo đức môi trường cho sinh viên cần có những biện pháp sau:
Thứ nhất, chúng tacần huy động kinh phí từ các nguồn như: Ủy ban Nhân
dân tỉnh Hải Dương,các doanh nghiệp, cá nhân đầu tư cho hoạt động bảo vệ môi
trường và giáo dục đạo đức môi trường cho sinh viên của trường. Trường Đại học
73
Hải Dương là trường trực thuộc của tỉnh Hải Dương, nhiều năm qua Trường được
Ủy ban nhân dân tỉnh hỗ trợ về nhiều khoản kinh phí phục vụ cho hoạt động của
Nhà trường, trong đó có hoạt động bảo vệ môi trường và giáo dục đạo đức môi
trường. Nhờ có sự hỗ trợ của Ủy ban nhân dân tỉnh nên chất lượng công tác bảo vệ
môi trường và công tác tuyên truyền về bảo vệ môi trường đã có được những kết
quả rất đáng tự hào, tình trạng ô nhiễm môi trường đã giảm đi đáng kể và ý thức của
sinh viên vè bảo vệ môi trường ngày càng được nâng cao. Bên cạnh đó nhà trường
có số lượng sinh viên các ngành phong phú, phục vụ nhu cầu cung ứng thị trường
lao động cho các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh nên cũng đã nhận được sự hỗ trợ
từ các doanh nghiệp đó để phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường và giáo dục đạo
đức môi trường cho sinh viên. Mặc dù nguồn kinh phí đó chưa nhiều nhưng rất quý
báu và đáng trân trọng. Và theo chúng tôi, để nâng cao chất lượng bảo vệ môi
trường và giáo dục đạo đức môi trường cho sinh viên trường Đại học Hải Dương,
rất mong sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng, của các sở ban ngành cấp và của các
doanh nghiệp về nguồn kinh phí hợp lý để phục vụ công tác tuyên truyền, thông tin
mới đem lại hiệu quả cao việc bảo vệ môi trường và giáo dục đạo đức môi trường
cho nhà trường và để trang bị thêm cho cơ sở vật chất của Nhà trường để phục vụ
công tác bảo vệ môi trường được nhanh chóng hơn và tốt hơn nữa.
Thứ hai, bên cạnh việc xin hỗ trợ nguồn kinh phí từ các cơ quan chức năng,
các sở, ban ngành và của các doanh nghiệpphục vụ cho công tác bảo vệ môi trường
và công tác giáo dục đạo đức môi trường, Ban Giám hiệu Nhà trường cũng cần
quan tâm và cấp kinh phí cho công tác giảng dạy của các giảng viên đứng lớp một
cách hợp lý, cũng như cấp kinh phí cho sinh viên được tham gia thực hành thực tập
nhiều hơn chứ không đơn thuần chỉ dừng lại ở học lý thuyết lý thuyết suông. Trong
thời gian qua Nhà trường cũng đã tổ chức cho các em đến các nhà máy, xí nghiệp,
các khu công nghiệp nhưng do kinh phí hạn chế nên hoạt động đó chưa được triển
khai thường xuyên và liên tục. Trong thời gian tới khi có nguồn kinh phí hợp lý Nhà
trường cần có nhiều chương trình đưa các em ở các ngành học đi thực tâp, thực
74
hành ở các nhà máy, xí nghiệp, doanh nghiệp và các khu công nghiệp nhiều hơn
nữa để các em được trải nghiệm thực tế nhiều hơn, để các em được mang những
kiến thức mình đã học trong sách vở vào thực hành nhiều hơn nữa, từ đó các em sẽ
ý thức được sự ô nhiễm môi trường từ các nhà máy, xí nghiệp, các doanh nghiệp và
các khu công nghiệp thải ra môi trường và chính từnhững giờ thực hành, thực tập
đó sẽ thôi thúc các em có ý thức, có trách nhiệm đạo đức đối với việc bảo vệ môi
trường, để môi trường được xanh sạch hơn.
Thứ ba, để công tác bảo vệ môi trường và giáo dục đạo đức môi trường đem
lại hiệu quả cao Ban Giám hiệu Nhà trường cũng cần hỗ trợ kinh phí cho các hoạt
động của Đoàn thanh niên, Hội sinh viên và các tổ chức đoàn thể trong trường. Bởi
vì, đây là lực lượng hùng hậu, có sức trẻ và có nhiệt huyết, sẵn sàng cống hiến hết
mình cho hoạt động của Nhà trường, họ là đội ngũ có vai trò rất quan trọng, họ
chiếm một số lượng lớn trong Nhà trường. Nhưng trong thời gian qua Ban Giám
hiệu Nhà trường chưa có sự quan tâm đúng mức đến các hoạt động của Đoàn
Thanh niên, Hội Sinh viên nên hoạt động của các tổ chức này còn đơn điệu, chưa có
tính chuyên nghiệp và khẩn trương. Trong thời gian tới, để khắc phục tình trạng đó
Nhà trường cần có sự quan tâm và có kinh phí hợp lý cho các hoạt động của Đoàn,
Hội, để các hoạt động đó được diễn ra nhanh chóng, khẩn trương và đạt hiệu quả
cao, đặc biệt là các hoạt động về bảo vệ môi trường, giáo dục đạo đức môi trường.
Tiểu kết chương
Để công tác bảo vệ môi trường, nâng cao ý thức đạo đức môi trường ở
Trường Đại học Hải Dương đạt được kết quả cao hơn, Nhà trường cần thực hiện
đồng bộ các giải pháp nêu trên. Mỗi giải pháp đều có một vị trí, vai trò và chức
năng nhất định, trong đó giải pháp nâng cao không nên coi trọng giải pháp này mà
không thực hiện giải pháp khác.
Giáo dục đạo đức, trong đó có đạo đức môi trường là một việc làm cần tiến
hành lâu dài và liên tục, không phải việc làm một vài lần là nhìn thấy kết quả luôn.
Vì vậy đòi hỏi tính kiên trì của tất cả các thầy cô giáo và của toàn trường. Ban Giám
75
hiệu nhà trường cần tạo điều kiện cho Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên nhà trường
hoạt động nhiều hơn trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và giáo dục đạo đức môi
trường. Đồng thời cũng tạo điều kiện cho thầy cô giáo đứng trên bục giảng phát huy
tài năng của bản thân và cho các em sinh viên được trải nghiệm thực tế nhiều hơn
để các em có được nhiều kiến thức về bảo vệ môi trường.
Công tác khen thưởng và kỷ luật cũng cần thực hiện một cách nghiêm túc, rõ
ràng và chính xác theo tinh thần: “đúng người, đúng việc”, để từ đó nhằm khích lệ ý
thức của các em trong công tác bảo vệ môi trường và trong việc rèn luyện đạo đức
môi trường. Bên cạnh công tác khen thưởng và kỷ luật, Nhà trường cũng đầu tư
thêm các khoản kinh phí cho hoạt động bảo vệ môi trường và hoạt động giáo dục
đạo đức môi trường cho sinh viên. Có như vậy, hoạt động mới được tiến hành liên
tục, không bị ngắt quãng, bỏ giữa chừng không có kết quả như mong muốn.
Nếu Nhà trường thực hiện tốt các giải pháp trên thì trong tương lai không xa
Trường Đại học Hải Dương sẽ trở nên xanh hơn với màu xanh của lá, sạch hơn vì
không có hiện tượng vứt rác bừa bãi và việc thường xuyên tổ chức các hoạt động vệ
sinh trường lớp, đẹp hơn với các màu của hoa và chắc chắn rằng, các em sinh viên
sẽ càng thấy yêu trường, yêu lớp hơn. Các em sẽ coi trường là ngôi nhà thứ hai của
mình để sau mỗi giờ học căng thẳng các em được thư giãn hít thở không khí trong
lành, được vui chơi giải trí trước những bóng mát của cây với những hàng ghế đá
xung quanh cùng những bông hoa đủ sắc màu đang khoe sắc và các em cũng sẽ
76
thấy yêu thiên nhiên hơn, yêu cây cảnh và thấy cuộc sống tươi đẹp hơn.
KẾT LUẬN
Sinh viên là thế hệ trẻ của mỗi quốc gia, là chủ nhân tương lai của đất
nước nên không thể đứng ngoài cuộc nhìn môi trường đang ngày càng bị hủy
hoại bởi chính bàn tay con người. Sinh viên mỗi quốc gia nói chung và sinh
viên mỗi tỉnh thành của một quốc gia nói riêng cần tích cực hơn nữa, hăng hái
hơn nữa trong công tác bảo vệ môi trường của bản thân và trong công tác tuyên
truyền cho mọi người dân trong đó bao gồm cả các thành viên trong gia đình
mình hiểu được vị trí, vai trò, chức năng vô cùng quan trọng của môi trường
đối với cuộc sống của con người để từ đó mỗi thành viên trong gia đình sẽ tích
cực tham gia công tác bảo vệ môi trường từ việc nhỏ nhất như: vứt rác đúng
nơi quy định; hạn chế sử dụng túi nilon trong việc mua sắm hàng hóa; sử dụng
tiết kiệm điện, nước sinh hoạt; không hút thuốc, bẻ cành cây, hái hoa, dẫm lên
thảm cỏ, sử dụng bừa bãi điện nước nơi công cộng; không xả nước thải, rác
thải bừa bãi ra sông hồ gây ô nhiễm nguồn nước; tích cực tham gia công tác
bảo vệ môi trường do địa phương nơi cư trú tổ chức như: dọn vệ sinh đường
làng ngõ xóm, trồng cây xanh quanh nhà...
Trường Đại học Hải Dương là trường công lập duy nhất của tỉnh Hải
Dương, với số lượng sinh viên nhiều ngành khác nhau và có hai cơ sở, diện tích
của hai cơ sở của Nhà trường là 21,7 ha đang trong quá trình xây dựng và hoàn
thiện nên công tác bảo vệ môi trường càng cần đặt lên hàng đầu. Vì trong quá
trình xây dựng có nhiều chất thải rắn, lỏng và khói bụi thải ra nên cần được dọn
vệ sinh thường xuyên và liên tục. Công tác chăm sóc cây xanh trong Nhà
trường cũng cần chú ý hơn nữa để các em sinh viên vừa không ảnh hưởng đến
công việc học tập cũng như vui chơi giải trí của các em. Đồng thời Đoàn Thanh
niên và Hội sinh viên Nhà trường cũng cần tổ chức nhiều hơn nữa các cuộc thi
77
về chủ đề môi trường để các em sinh viên ngày càng hiểu sâu hơn tầm quan
trọng của môi trường đối với cuộc sống hàng ngày không chỉ của riêng các em
mà còn đối với toàn xã hội nói chung.
Đứng trước thực trạng đạo đức môi trường đã và đang diễn ra ở Trường
Đại học Hải Dương, có thể thấy được sinh viên giữ vị trí không thể thiếu trong
công tác bảo vệ môi trường. Sinh viên là thành phần không thể thiếu trong việc
bảo vệ môi trường không chỉ tại trường học mà còn tại nơi các em đang trọ và
nơi các em đang sinh sống. Nếu bản thân mỗi chúng ta, bản thân mỗi sinh viên
có được đạo đức môi trường đúng đắn, lành mạnh thì không những môi trường
được bảo vệ, thiên nhiên được tôn tạo, được chăm sóc để ngày càng giàu, càng
đẹp hơn mà bản tính tự nhiên của con người được bảo toàn, con người được
sống khỏe mạnh hơn, hạnh phúc hơn, trong lành hơn và từ đó xã hội càng có
điều kiện để phát triển phồn thịnh hơn.
Để cho sinh viên phát huy được ý thức đạo đức môi trường, tự giác tham
gia các hoạt động bảo vệ môi trường do Nhà trường và địa phương nơi cư trú tổ
chức, chúng ta có thể thấy công tác giáo dục nhà trường có vai trò vô cùng
quan trọng trong hình thành nhân cách cho sinh viên. Điều đó đòi hỏi sự tận
tâm và gương mẫu của các thầy cô giáo, của các cán bộ Đoàn Thanh niên, của
Hội Sinh viên. Trong giáo dục nhà trường, các tổ chức đoàn, hội sinh viên có
vai trò quan trọng trong việc tổ chức các phong trào, các cuộc thi, các hoạt
động bảo vệ môi trường khích lệ tinh thần tham gia của các em sinh viên, qua
đó nhằm giáo dục, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm về đạo đức môi
trường cho sinh viên từ đó thúc đẩy các em sinh viên có những hành động bảo
vệ môi trường, phê phán những hành động gây ô nhiễm môi trường. Vì vậy,
theo chúng tôi, các nhà trường trong đó có Trường Đại học Hải Dương với tư
cách là chủ thể giáo dục cần quan tâm và xúc tiến mạnh mẽ hơn nữa các giải
pháp nêu trên, và cần thực hiện các giải pháp đó một cách triệt để, có sự phối
hợp hài hòa, khéo léo giữa các giải pháp với nhau để công tác giáo dục đạo đức
78
môi trường và công tác bảo vệ môi trường ở các em sinh viên Trường Đại học
Hải Dương ngày càng có được những kết quả tốt, đáng được tự hào và ghi
nhận. Đồng thời Nhà trường cũng cần kịp thời có những hình thức khen
thưởng, tuyên dương và nhân rộng cho toàn trường cũng như toàn tỉnh Hải
Dương những tấm gương tiêu biểu về đạo đức môi trường để mọi người học
tập và noi theo những tấm gương đó và quê hương Hải Dương Thành Đông của
tổ quốc sẽ trở nên xanh hơn – sạch hơn và đẹp hơn vì có bàn tay của các em
79
sinh viên giúp sức.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ở Việt Nam (2003), Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
2. Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1998),
Về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong tình hình mới, Chỉ thị 36-
CT/TW ngày 25/06/1998, Hà Nội.
3. Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2004),
Về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ CNH, HĐH đất
nước, NQ số 41-NQ/T W ngày 15/11/2000, Hà Nội.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1998), Những vấn đề về chiến lược phát triển giáo
dục trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb.Giáo dục, Hà Nội.
5. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2003), Tài liệu tập huấn bồi dưỡng nâng cao
nhận thức môi trường, Hà Nội.
6. Bộ tài nguyên và Môi trường (2016; 2017), Báo cáo hiện trạng môi trường
Việt Nam.
7. C.Mác (1962), Bản thảo kinh tế triết học, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
8. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
9. Các quy định pháp luật về môi trường (tập I) (1995), Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
10. Cục Bảo vệ môi trường (2002), Sổ tay hướng dẫn thực hiện chiến dịch
truyền thông môi trường, Hà Nội.
11. Cục Môi trường (2002), Hành trình vì sự phát triển bền vững, Nxb.Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
12. Cứu lấy trái đất chiến lược cho cuộc sống bền vững (1993), Nxb. Khoa học
và kỹ thuật, Hà Nội.
13. Nguyễn Thị Minh Chiến (2009), Giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên,
80
Nxb. Đại học sư phạm, Hà Nội.
14. Lê Thị Kim Dung (2007), “Giải quyết vấn đề môi trường trong quy hoạch
phát triển: Từ văn bản pháp quy đến thực tiễn quản lý”, Tạp chí Kinh tế và
dự báo, số 12.
15. Vũ Dũng (2010), Đạo đức môi trường ở nước ta: Lí luận và thực tiễn, Nxb.
Từ điển bách khoa, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015.
17. Học viện chính trị Quốc gia (2000), Giáo trình đạo đức học, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
18. Lê Văn Hồng (Chủ biên), Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thăng. Tâm lý học lứa
tuổi và tâm lý học sư phạm, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1998.
19. Nguyễn Thị Lan Hương (2010), “Đạo đức môi trường và truyền thống mục
đích luận”, Tạp chí Triết học số 12.
20. Hội thảo quốc gia (2001), “Giáo dục môi trường trong các trường học”,
Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học quốc gia Hà Nội.
21. Kỉ yếu hội thảo khoa học (2008), Giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên ở
nước ta: Thực trạng và giải pháp, Hội khoa học tâm lí – giáo dục Việt Nam.
22. Trần Hậu Kiêm, Đoàn Đức Hiếu (2004), Hệ thống phạm trù đạo đức và vấn
đề giáo dục đạo đức cho sinh viên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Lê Văn Khoa (2010), Khoa học môi trường, Hà Nội.
24. Nguyễn Đức Khiển (2002), Quản lý môi trường, Nxb. Lao động – xã hội, Hà
Nội.
25. Đỗ Thị Ngọc Lan (1996), Môi trường tự nhiên trong hoạt động sống của con
người, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
26. Luật bảo vệ môi trường (1994), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27. Hồ Chí Minh (1993), Về Đạo đức, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Nguyễn Văn Phúc (1995),"Khía cạnh đạo đức của sự nghiệp công nghiệp
81
hoá, hiện đại hoá ở nớc ta hiện nay", Triết học số 3.
29. Nguyễn Văn Phúc (2010), “Bảo vệ môi trường nhìn từ góc độ đạo đức”,
Tạp chí triết học số 4.
30. Nguyễn Văn Phúc (2013), Đạo đức môi trường, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội.
31. Hồ Sĩ Quý (1999) Về triết lý “Con người chinh phục tự nhiên”, Triết học số
6.
32. Hồ Sĩ Quý (Chủ biên) (2000), Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong
sự phát triển xã hội, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
33. Hồ Sĩ Quý (2002) Triết lý Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên. Nghiên cứu con người số 1.
34. Hồ Sĩ Quý (2004) Thực trạng môi trường: vài số liệu đáng quan tâm về môi
sinh toàn cầu và môi sinh ở Việt Nam. Nghiên cứu con người số 2.
35. Hồ Sĩ Quý (2004) Đông và Tây: Về triết lý con người chinh phục tự nhiên và
con người hoà hợp với tự nhiên. Nghiên cứu châu Âu số 6.
36. Hồ Sĩ Quý (2005), “Về đạo đức môi trường”, Tạp chí triết học số 9.
37. Trần Đăng Sinh, Nguyễn Thị Thọ (2011), “Đạo đức học”, Nxb. Đại học Sư
Phạm, Hà Nội.
38. Bùi Cách Tuyên (2009), Vai trò của giáo dục đào tạo và nâng cao nhận thức
về môi trường cho các đối tượng trong xã hội. Tổng cục môi trường. Bộ Tài
nguyên và Môi trường xuất bản.
39. Bùi Cách Tuyên (2009), Vai trò của giáo dục đào tạo và nâng cao nhận thức
về môi trường cho các đối tượng trong xã hội. Tổng cục môi trường. Bộ Tài
nguyên và Môi trường xuất bản.
40. Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2007.
41. Từ điển triết học (1986), Nxb. Tiến bộ Mát-xcơ-va.
42. Hoàng Thị Thanh (2017), Xây dựng đạo đức môi trường ở Việt Nam hiện
82
nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.
43. Trịnh Thị Thanh (2004), Sức khỏe môi trường, Nxb. Đại học quốc gia, Hà
Nội.
44. Trịnh Thị Thanh, Trần Yêm, Đồng Kim Loan (2004), Giáo trình Công nghệ
môi trường, Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội.
45. Hà Huy Thành (chủ biên) (2001), Một số vấn đề xã hội, nhân văn trong việc
sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường ở Việt Nam,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Nguyễn Thế Thôn, Hà Văn Hành (2007), “Môi trường và phát triển”, Nxb.
Xây dựng, Hà Nội.
47. Phạm Thị Ngọc Trầm (1999), “Đạo đức sinh thái: từ lý luận đến thực tiễn”,
Tạp chí triết học số 2.
48. Phạm Thị Ngọc Trầm (Chủ biên) (2006), Quản lý nhà nước đối với tài
nguyên và môi trường vì sự phát triển bền vững dưới góc nhìn xã hội – nhân
văn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
49. Phạm Thị Ngọc Trầm (1997), Môi trường sinh thái: Vấn đề và giải pháp,
Nxb. Chính trị Quốc gia.
50. Huỳnh Khái Vinh (2001), Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị
xã hội, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. https://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/cac-tham-hoa-xa-thai-gay-o-nhiem-
83
nguon-nuoc-tren-the-gioi-3427531.html