VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ THỊ CÚC

ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG Ở SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI DƢƠNG HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI, 2018

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ THỊ CÚC

ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG Ở SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI DƢƠNG HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ

Ngành: Triết học Mã số: 82 29 001

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC

GS.TS. HỒ SĨ QUÝ HÀ NỘI, 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số

liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa

từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Vũ Thị Cúc

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1

Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG .......................... 8

1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu .......................................... 8

1.2. Đạo đức môi trường ở sinh viên ..................................................................... 28

Chƣơng 2 . THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ ĐẠO ĐỨC MÔI

TRƢỜNG Ở SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI DƢƠNG ....................... 38

2.1. Đặc điểmTrường Đại học Hải Dương ............................................................ 38

2.2. Thực trạng và những vấn đề về đạo đức môi trường ở sinh viên Trường Đại

học Hải Dương ........................................................................................................ 41

Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG Ở

SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI DƢƠNG ............................................... 63

3.1. Nâng cao hoạt động của Nhà trường trong giáo dục đạo đức môi trường cho

sinh viên đại học Hải Dương .................................................................................. 63

3.2. Tăng cường các hình thức ngoại khóa, các hoạt động ngoài giờlên lớpcho

sinh viên về đạo đức môi trường ............................................................................ 68

3.3. Đẩy mạnh hình thức khen thưởng và kỷ luật sinh viên về đạo đức môi

trường ....................................................................................................................... 71

3.4. Huy động các nguồn kinh phí chi cho hoạt động bảo vệ môi trường ........... 73

KẾT LUẬN ................................................................................................................. 77

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 80

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Việt Nam là một đất nước đang phát triển mạnh với thành tựu kinh tế - xã hội

được cộng đồng thế giới đánh giá cao. Những năm gần đây cùng với sự tăng trưởng

cao của nền kinh tế, sự phát triển nhanh chóng của đời sống xã hội cũng đã ít nhiều

để lại những hệ lụy về bảo vệ môi trường. Ô nhiễm môi trường chất thải, kể cả chất

thải khí, chất thải rắn, và chất thải hóa chất đều đã xảy ra. Tai nạn và sự cố môi

trường ở một số địa phương đã trở thành hiểm họa đe dọa sự phát triển. Rác thải công

nghiệp thế hệ cũ đã tràn vào Việt Nam. Môi trường thực phẩm cũng trở nên không an

toàn…Trên thực tế, ô nhiễm môi trường đã và đang là vấn đề báo động ở Việt Nam.

Vấn đề đặt ra là phải làm sao để ngăn chặn vấn nạn đó? Câu hỏi này đặt ra

không chỉ đối với sự quản lý vĩ mô của chính phủ, mà còn đặt ra đối với hoạt động

của các ngành các cấp, với thái độ và hành vi của toàn thể cộng đồng. Đặc biệt, câu

hỏi đặt ra không chỉ về phương diện kinh tế - xã hội hay pháp luật, mà còn đặt ra về

phương diện văn hóa và đạo đức. Đạo đức môi trường ngày nay là giá trị tinh thần

không thể thiếu để các xã hội phát triển bền vững.

Thế hệ trẻ nước ta chiếm tỉ lệ khoảng 27% dân số và đây cũng chính là những

chủ nhân tương lai của đất nước, là những người sẽ góp phần thúc đẩy đất nước phát

triển theo hướng hiện đại hóa, công nghiệp hóa. Để thúc đẩy được đất nước phát triển

thì một điều không thể thiếu là cần ngăn không cho môi trường tiếp tục bị ô nhiễm,

giải quyết được vấn nạn ô nhiễm môi trường. Điều này ở một mức độ lớn, phụ thuộc

vào ý thức, văn hóa và đạo đức của cộng đồng cũng như của mỗi người thông qua

hành động của họ với việc bảo vệ môi trường.

Nói đến thế hệ trẻ, cần thiết phải chú ý đến lớp người rất có ý nghĩa đối với sự

phát triển đất nước là những bạn trẻ còn đang ngồi trên ghế nhà trường, những sinh

viên đầy nhiệt huyết, đang mang trong mình những ước mơ, những hoài bão lớn. Đây

cũng là lực lượng có ý nghĩa lớn trong việc góp phần giải quyết ô nhiễm môi trường

1

hiện nay. Nghĩa là đạo đức môi trường ở lớp người trẻ tuổi đang là diều được xã hội

kỳ vọng. Trên thực tế, việc xây dựng đạo đức môi trường cho từng sinh viên, biến ý

thức thân thiện với tự nhiên thành hành động để bảo vệ môi trường, những năm qua

đã đến được với tầng lớp sinh viên và bước đầu đã có kết quả tương đối tích cực.

Hải Dương là một tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng Bắc Bộ,

được biết là vùng đất ít nhiều có tiếng về tinh thần hiếu học, tôn sư trọng đạo. Vùng

đất này đã sinh ra và nuôi dưỡng nhiều bậc hiền tài cho đất nước. Hải Dương hiện có

3 trường đại học là Đại học Sao Đỏ, Đại học Thành Đông và Đại học Hải Dương

cùng một số trường cao đẳng và trung cấp.

Trường Đại học Hải Dương là trường đại học công lập duy nhất của tỉnh Hải

Dương. Sinh viên của trường được chiêu sinh từ các tỉnh Thái Bình, Quảng Ninh,

Bắc Giang và một số tỉnh miền núi phía Bắc. Thực ra, ý thức và hành vi đạo đức môi

trường ở sinh viên Hải Dương có được là từ nhiều kênh khác nhau; ít nhiều cũng

không tự giác. Do vậy, bên cạnh những sinh viên có ý thức bảo vệ môi trường thì vẫn

còn không ít những em chưa có thực sự có ý thức, thái độ và hành vi bảo vệ môi

trường.

Để góp phần bảo vệ môi trường, giảm thiểu ô nhiễm môi trường nói chung, ở

môi trường tỉnh Hải Dương và Đại học Hải Dương nói riêng, thì việc nghiên cứu về

thực trạng đạo đức môi trườngcủa sinh viên Trường Đại học Hải Dương, đánh giá

thực trạng và tìm các giải pháp phát huy đạo đức môi trường ở mỗi sinh viên là việc

làm vô cùng có ý nghĩa.

Với những lý do nêu trên tôi chọn đề tài: “Đạo đức môi trường ở sinh viên

Trường Đại học Hải Dương hiện nay: Thực trạng và những vấn đề” là đề tài nghiên

cứu luận văn của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Môi trường là hệ vấn đề đã được khá nhiều tác giả nghiên cứu, tìm hiểu và đề

cập tới bởi tính cần thiết và cấp bách ngày càng nghiêm trọng của nó. Đã có nhiều

công trình nghiên cứu đi vào cả chiều sâu và chiều rộng của vấn đề, đi từ chuyên

2

ngành đến đa ngành và liên ngành với nhau. Trong đó, từ góc độ khoa học xã hội

nhân văn và từ chuyên ngành triết học, chúng tôi thấy có một số công trình nghiên

cứu đáng chú ý sau đây:

Trước tiên cần phải nhắc đến: “Báo cáo môi trường quốc gia”. Đây là những

báo cáo hàng năm về vấn đề môi trường do Bộ tài nguyên và Môi trường thực hiện.

Từ báo cáo môi trường quốc gia năm 2016 với chủ đề là môi trường đô thị cho biết

tình trạng ô nhiễm môi trường ở các khu đô thị của Việt Nam đang diễn ra rất phức

tạp với sự ô nhiễm tiêu biểu hàng đầu là hoạt động của ngành giao thông vận tải,

ngành xây dựng, ngành công nghiệp... gây ra.Ô nhiễm môi trường không khí, chủ

yếu là bụi gây ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng đến sức khỏe của người dân sinh

sống tại chính khu đô thị đó. Đặc biệt là trẻ em với sức đề kháng còn yếu. Bên cạnh ô

nhiễm không khí là ô nhiễm môi trường nước do việc xử lý nước thải chưa đúng quy

định và do việc vứt rác thải xuống sông, hồ ven khu đô thị gây nên tình trạng bốc mùi

hôi thối, nước sông hồ chuyển màu đen làm ảnh hưởng tới đời sống sinh hoạt của

người dân và làm xấu đi hình ảnh đẹp của khu đô thị. Ngoài ra còn ô nhiễm do chất

thải rắn gây ra, đó là hiện tượng thu gom và vận chuyển rác thải chưa nhanh chóng và

kịp thời làm bốc mùi hôi thối và mất mỹ quan đô thị. Cuối cùng là ô nhiễm môi

trường đất do nước thải chưa qua xử lý hoặc xử lý chưa đúng theo quy định, các bãi

chôn lấp rác thải gây ra...

Báo cáo môi trường quốc gia năm 2017 với nội dung chính đề cập tới là quản

lý chất thải. Theo báo cáo vấn đề quản lý chất thải còn nhiều bất cập, chỉ tính về nước

thải mới giải quyết được trên 10% tổng lượng nước thải, còn lại vẫn thải ra môi

trường chưa qua xử lý hoặc chỉ mới xử lý ở mức độ đơn giản. Qua đây có thể thấy,

môi trường đang bị ô nhiễm rất nghiêm trọng. Những việc làm đó đã góp phần làm

cho nguồn nước, nguồn đất, không khí ngày càng ô nhiễm hơn. Chất thải rắn cũng là

vấn đề đau đầu với các cơ quan quản lý bởi khối lượng lớn. Từ đó, kéo theo hệ lụy là

hiện tượng biến đổi khí hậu đang diễn ra phức tạp, hiện tượng nước biển dâng và xâm

3

nhập mặn đang đe dọa những khu đô thị, những tỉnh và thành phố ven biển...

Bên cạnh các báo cáo của các tổ chức chính trị - xã hội về bảo vệ môi trường,

các tác giả khác với các bài viết đã công bố khá nhiều và đề cập rất chi tiết đến vấn đề

đạo đức môi trường, bảo vệ môi trường, giáo dục bảo vệ môi trường như: Nguyễn

Thị Lan Hương[19],“Đạo đức môi trường và truyền thống mục đích luận”, Tạp chí

Triết học số 12; Nguyễn Văn Phúc[30], “Bảo vệ môi trường nhìn từ góc độ đạo

đức”, Tạp chí triết học số 4; Phạm Thị Ngọc Trầm, “Vấn đề xây dựng đạo đức sinh

thái trong điều kiện kinh tế thị trường”, Triết học, số 3/2002; Phạm Thị Ngọc Trầm

(Chủ biên), Quản lý nhà nước đối với tài nguyên và môi trường vì sựphát triển bền

vững dưới góc nhìn xã hội – nhân văn[48], Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006; Hồ

Sỹ Quý[36], “Về đạo đức môi trường”, Triết học, số 9/2005; Hồ Sĩ Quý (Chủ biên)

(2000)[32], Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong sự phát triển xã hội, Nxb.

Khoa học xã hội, Hà Nội; Lê Văn Khoa[23] (chủ biên), Môi trường và giáo dục bảo

vệ môi trường, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2008; Hội thảo quốc gia“Giáo dục môi

trường trong các trường học”, Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường

cùng Đại học quốc gia Hà Nội phối hợp thực hiện...

Những công trình nêu trên đều khẳng định, môi trường có vai trò quan trọng

như thế nào với cuộc sống thường ngày của mỗi người dân, chính vì vậy mà nhiệm

vụ bảo vệ môi trường, phòng chống ô nhiễm môi trường đang vô cùng cấp bách. Để

bảo vệ môi trường đạt kết quả tốt thì không thể thiếu được việc giáo dục ý thức, trách

nhiệm và đạo đức môi trường đến từng thành viên trong xã hội từ trẻ đến già, không

phân biệt tuổi tác, trình độ. Vì đạo đức môi trường được thể hiện ở tất cả các phương

diện của xã hội từ sản xuất, du lịch, giải trí, học tập đến sinh hoạt hàng ngày của con

người. Hiện nay ô nhiễm môi trường không chỉ tập trung ở thành phố, các khu đô thị,

công nghiệp mà đã len lỏi về tận thôn quê và trường học. Điều đó đòi hỏi càng phải

đẩy nhanh giáo dục đạo đức môi trường cho từng người dân. Các công trình nghiên

cứu trên đã nhấn mạnh đến thực trạng môi trường hiện nay, các vấn đề cần giải quyết

4

và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao đạo đức môi trường để bảo vệ môi trường

đang bị suy thoái. Các giải pháp đó thể hiện ở tầm quốc gia và được thực hiện trên

phạm vi cả nước với tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Trong số những nghiên cứu có liên quan đến đạo đức môi trường, chúng tôi

thấy một số công trình ít nhiều có nghiên cứu sâu hơn, hệ thống hơn về đạo đức môi

trường như: Vũ Dũng, “Đạo đức môi trường ở nước ta: lí luận và thực tiễn”, Nxb.

Từ điển bách khoa, Hà Nội 2010; Dự án điều tra cơ bản “Đánh giá đạo đức môi

trườngở nước ta hiện nay”, do Viện Khoa học xã hội Việt Nam thực hiện (2009 –

2010); Nguyễn Văn Phúc, “Đạo đức môi trường”, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội

2013; “Xây dựng đạo đức môi trường ở Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ Triết

học của Hoàng Thị Thanh chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

duy vật lịch sử, Hà Nội, 2017. Đây là những công trình đề cập đến cả mặt lý luận và

nhận thức về đạo đức môi trường với những khái niệm cụ thể và chi tiết bao gồm:

khái niệm môi trường, đạo đức, đạo đức môi trường và các tiêu chí để đánh giá đạo

đức môi trường... Ví dụ: Các tiêu chí để đánh giá đạo đức môi trường thể hiện như

sau: Đạo đức môi trường là những hành vi mang tính chuẩn mực (thông qua các văn

bản pháp luật, các quy định, nghị định hiện hành của Đảng và Nhà nước về môi

trường); Ý thức về nghĩa vụ của con người đối với việc bảo vệ môi trường; Ý thức tự

giác, tự nguyện của chủ thể đối với việc bảo vệ môi trường; Sự tác động của lương

tâm chủ thể đối với việc bảo vệ môi trường; Việc bảo vệ môi trường gắn với việc hài

hào về lợi ích giữa con người và tự nhiên; Chia sẻ trách nhiệm để duy trì sự toàn vẹn

của môi trường toàn cầu...

Nhiều tác giả cũng đã tập trung phân tích thực trạng đạo đức môi trường đang

diễn ra hiện nay và những vấn đề cần giải quyết để từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể

để khắc phục những hạn chế còn tồn tại. Tuy nhiên các giải pháp đó mang tầm quốc

gia, xã hội. Hiện tại chưa có công trình nào nghiên cứu về đạo đức môi trường ở sinh

viên Trường Đại học Hải Dương: thực trạng và những vẫn đề. Tuy vậy, các công

trình trên chính là những tiền đề, căn cứ và cơ sở để chúng tôi vận dụng trong nghiên

5

cứu nội dung đạo đức môi trường ở sinh viên Trường Đại học Hải Dương: Thực

trạng và những vẫn đề. Chúng tôi sẽ tập trung đi làm rõ về đạo đức môi trường ở sinh

viên Trường Đại học Hải Dương đã và đang diễn ra như thế nào? Thực trạng và

những vấn đề đạo đức môi trường ở sinh viên Trường Đại học Hải Dương cần được

giải quyết là gì? Trên cơ sở đó sẽ đưa ra các giải pháp khắc phục những tồn tại hạn

chế để phát huy những ưu điểm về đạo đức môi trường ở sinh viên Trường Đại học

Hải Dương góp phần cho Trường Đại học Hải Dương và quê hương Hải Dương có

môi trường làm việc, học tập và sinh hoạt xanh – sạch và đẹp hơn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu thực trạng đạo đức môi trường ở sinh viên Trường Đại học Hải

Dương hiện nay; đánh giá những nét tích cực và hạn chế của thực trạng đó; trên cơ sở

đó đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế và nâng cao nhận thức, thái

độ, hành vi đạo đức môi trường cho sinh viên Trường Đại học Hải Dương.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận vềđạo đức, đạo đức môi trường, đạo đức

môi trường ở sinh viên làm cơ sở lý luận của đề tài.

- Nghiên cứu và phân tích thực trạng đạo đức môi trường ở sinh viên đại học

Hải Dương. Xác định những vấn đề đặt ra.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao đạo đức môi trường ở sinh viên đại

học trong học tập và trong cuộc sống.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đạo đức môi trường (trong luận văn chủ yếu nghiên cứu môi trường tự nhiên)

ở sinh viên Trường Đại học Hải Dương.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu đạo đức môi trường (luận

văn chủ yếu nghiên cứu môi trường tự nhiên) ở sinh viên đại học đang học tập tại

6

Trường Đại học Hải Dương trong những năm gần đây.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Cơ sở lý luận của luận văn là triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và

quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, chủ yếu là về quan hệ con người với tự

nhiên, về môi trường và về đạo đức môi trường.

Luận văn có sự kế thừa những quan điểm và thành tựu nghiên cứu của các nhà

khoa học đi trước về môi trường và đạo đức môi trường… trong đời sống xã hội và

trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hơn 30 năm qua.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài kết hợp sử dụng các phương pháp phân tích - tổng hợp; logic - lịch sử;

hệ thống - cấu trúc, phân tích tài liệu thứ cấp và liên ngành khoa học xã hội .

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn góp phần làm rõ lý luận và những vấn đề đạo đức môi trường ở sinh

viên đại học hiện nay.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, trong giảng dạy về đạo đức môi

trường cho sinh viên đại học; luận văn cũng có ý nghĩa khuyến nghị đối với công tác

xây dựng đạo đức môi trường cho sinh viên Trường Đại học Hải Dương hiện nay.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận và danh mục TLTK luận văn còn có 3 chương

8 tiết.

Chương 1: Cơ sở lý luận về đạo đức môi trường ở sinh viên đại học

Chương 2: Thực trạng và những vấn đề về đạo đức môi trường ở sinh viên

Trường Đại học Hải Dương

Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao đạo đức môi trường ở sinh viên

7

Trường Đại học Hải Dương

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG

1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu

1.1.1. Đạo đức

● Khái niệm đạo đức

Đạo đức là một từ Hán Việt dùng để chỉ một thành tố trong tính cách và giá

trị của một con người, những tư tưởng về đạo đức học đã xuất hiện hơn 26 thế kỷ

trước đây trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp cổ đại. Theo nghĩa Hán Việt

có thể hiểu: đạo là con đường, đức là tính tốt. Khi nói một người có đạo đức tức là

nói người đó đã có sự rèn luyện thực hành các lời răn dạy về đạo đức, sống có

chuẩn mực và có nét đẹp trong đời sống và tâm hồn. Hiện nay, đạo đức là một vấn

đề được nhiều tác giả nghiên cứu, chúng ta có thể thấy đạo đức là một hiện tượng

xã hội được hình thành trong quá trình lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất,

trong mối quan hệ giữa con người với con người nhằm điều chỉnh hành vi của mình

để đảm bảo sự hoạt động của cộng đồng nói chung. Đạo đức được hình thành dựa

trên cơ sở tự giác, tự nguyện không mang tính cưỡng ép, bắt buộc. Chỉ có những

hành vi được thực hiện trên cơ sở tự giác, tự nguyện và phù hợp với lợi ích xã hội

mới được coi là hành vi đạo đức.

Theo Từ điển Tiếng Việt, “đạo đức” là “những tiêu chuẩn, nguyên tắc được

dư luận xà hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và

đối với xã hội phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn

nhất định mà có” [39, tr.464].

Theo Giáo trình đạo đức học của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh:

“Đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc nhằm

điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau, với xã

hội, với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá khứ cũng như tương lai. Chúng được thực

hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.” [17,

8

tr.116].

Như vậy có thể hiểu đạo đức theo các khía cạnh sau:

 Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, trong đó tập hợp những qui tắc,

chuẩn mực xã hội và từ những quy tắc, chuẩn mực đó con người sẽ tự giác điều

chỉnh hành vi của bản thân mình để phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con

người, với tiến bộ xã hội.

 Đạo đức là hệ thống những qui tắc, nguyên tắc, chuẩn mực thể hiện sự tự

giác của con người trong mối quan hệ giữa con người với con người, con người với

cộng đồng xã hội, con người với tự nhiên và con người với chính bản thân mình.

 Cấu trúc của đạo đức

Với tư cách là một bộ phận của triết học, đạo đức là một hiện tượng xã hội

có cấu trúc phức tạp, gồm các thành phần sau: ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và

quan hệ đạo đức.

Ý thức đạo đức: Là hệ thống những quan niệm, nguyên tắc, tri thức và những

cảm xúc, tình cảm chung của các cộng đồng người về các giá trị thiện, ác, lương

tâm, trách nhiệm, hạnh phúc và công bằng… Mặt khác nó còn bao gồm cả những

quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân

với cá nhân trong xã hội.

Hành vi đạo đức: Là một hành động được thực hiện một cách tự giác, tự

nguyện và được xuất phát bởi một động cơ có ý nghĩa về mặt đạo đức. Hay có thể

hiểu hành vi đạo đức là những cử chỉ, hành động và việc làm của con người trong

các mối quan hệ xã hội mà phù hợp với các chuẩn mực đạo đức.

Quan hệ đạo đức: Là tổng hợp những quan hệ xã hội, tác động qua lại với

nhau, đó là quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân và xã hội xét về mặt đạo

đức. Quan hệ đạo đức có tính tự giác và tự nguyện, nó vận động, biến đổi theo quá

trình phát triển của xã hội, trong phạm vi một hình thái kinh tế - xã hội hay hệ giá trị

đạo đức của một giai cấp cũng có sự vận động, phát triển.

Ý thức đạo đức, quan hệ đạo đức và hành vi đạo đức là những yếu tố tạo nên

9

cấu trúc của đạo đức, chúng không tồn tại độc lập, mà có quan hệ biện chứng tác

động qua lại với nhau. Cấu trúc đạo đức không thể thiếu một tỏng ba yếu tố này. Ý

thức đạo đức được hình thành trong quan hệ đạo đức và là điều kiện để hình thành

hành vi đạo đức. Hành vi đạo đức là quá trình hiện thực hóa ý thức đạo đức và

không thể tách rời quan hệ đạo đức.

 Chức năng của đạo đức

Tương tự như cấu trúc của đạo đức, chức năng của đạo đức cũng có ba chức

năng bao gồm: chức năng điều chỉnh hành vi, chức năng giáo dục và chức năng

nhận thức.

Chức năng điều chỉnh hành vi: Đây được coi là chức năng quan trọng nhất

của đạo đức, mặc dù là chức năng quan trọng nhất nhưng đó không phải là cái đặc

quyền của đạo đức, bởi vì trong xã hội, con người tạo ra rất nhiều phương thức điều

chỉnh hành vi của mình như: pháp luật, tôn giáo, chính trị, nghệ thuật, nhận thức

khoa học...Chức năng này nhằm bảo đảm hài hòa quan hệ lợi ích cộng đồng và cá

nhân. Nếu như sức mạnh của pháp luật là sự cưỡng chế, bắt buộc phải thực hiện thì

sức mạnh của đạo đức chính là niềm tin cá nhân, là truyền thống và dư luận xã hội.

Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức được thực hiện bằng hai phương

thức chủ yếu như sau: Thứ nhất là xã hội tạo ra sức mạnh dư luận để khen ngợi,

động viên những người có đạo đức và có những hành vi tốt đẹp. Đồng thời cũng lên

án, phê phán những hành vi gây ảnh hưởng xấu đến mọi người xung quanh và đến

cộng đồng xã hội. Thứ hai là bản thân mỗi người phải tự giác, xuất phát từ chính ý

thức của mình để điều chỉnh hành vi thông qua những chuẩn mực đạo đức xã hội và

bản thân cũng phải tham gia các hoạt động thực tiễn để bổ sung nhận thức, rèn

luyện ý chí.

Chức năng giáo dục: Đây cũng là một trong những chức năng cơ bản của

đạo đức, chức năng này có tác dụng hình thành những nguyên tắc, quy tắc và

chuẩn mực đạo đức trong từng con người cụ thể và phát triển nhân cách của họ.

Đây cũng là con đường đặc trưng cơ bản để loài người tồn tại và phát triển. Có

10

thể hiểu, chức năng giáo dục của đạo đức chính là làm cho “tính người” ở mỗi

người được nhiều lên để ngày càng có nhiều hành động đẹp cho những người khác

học tập và noi theo.

Về thực chất chức năng này là đạo đức hóa con người và xã hội loài người.

Hiệu quả của chức năng này phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế, xã hội, vào

mức độ tự giác của mỗi người trong quá trình giáo dục đạo đức để hướng tới nhân

cách và phẩm chất cần có.

Chức năng nhận thức: Ngoài hai chức năng nêu trên, đạo đức còn có chức

năng nhận thức. Chức năng này bao gồm: nhận thức và tự nhận thức. Nhận thức của

đạo đức là một quá trình vừa có hướng nội, vừa có hướng ngoại. Nhận thức hướng

nội lấy bản thân chủ thể đạo đức làm đối tượng để nhận thức. Đây là quá trình chủ

thể đạo đức tự đánh giá bản thân, tự đối chiếu nhận thức cũng như những hành vi

của mình với chuẩn mực đạo đức xem đã phù hợp chưa? Nhận thức hướng ngoại là

lấy chuẩn mực đạo đức làm đối tượng để nhận thức. Trên cơ sở đó, chủ thể nhận

thức làm gia tăng thêm tính hướng nội của mình. Còn tự nhận thức là quá trình bản

thân tự thẩm định, tự đánh giá những nhận thức, hành vi đạo đức của mình với

chuẩn mực giá trị chung của cộng đồng, xã hội. Từ hai quá trình nhận thức trên con

người sẽ đi đến phân biệt những giá trị như: đúng - sai, tốt - xấu, thiện - ác... và

hướng tới giá trị bao quátmà con người muốn vươn tới là chân, thiện, mỹ.

Các chức năng của đạo đức đều có một vai trò nhất định, nhưng không phải

vì thế mà chúng tách rời nhau, không có ràng buộc với nhau mà ngược lại chúng

đều có quan hệ chặt chẽ với nhau, sự vận hành của chức năng này là tiền đề, điều

kiện của sự vận hành chức năng đạo đức khác. Hơn nữa chúng đều hướng tới một

mục đích chung của xã hội đó là nhân đạo hóa con người và xã hội loài người.

1.1.2. Môi trường

 Khái niệm môi trường

Môi trường là khái niệm rộng, bao quát nhiều nội dung và được sử dụng

trong rất nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, giáo dục.... theo định nghĩa thông

11

thường thì môi trường được hiểu: “là toàn bộ nói chung những điều kiện tự nhiên

và xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn tại, phát triển trong mối quan hệ

với con người hay sinh vật ấy. [39, tr.618].

Về mặt pháp lý, theo Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội nước

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII, kì họp thứ 7 thông qua ngày

23/6/2014 thì môi trường được định nghĩa là: "hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên

và nhân tạo có tác động đối với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật”.

Từ cách định nghĩa này của Luật Bảo vệ môi trường có thể hiểu môi trường là tập

hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và nhân tạo bao quanh con người và nó có ảnh hưởng

lớn tới các hoạt động sống của con người như: sinh hoạt, sản xuất, học tập... Nghĩa

là có thể thấy, con người chính là trung tâm của mối quan hệ giữa con người với tự

nhiên. Thành phần của môi trường theo Điều 1 của Luật này bao gồm: "là yếu tố

vật chất tạo thành môi trường gồm đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh

vật và các hình thái vật chất khác".

Hiện nay có hai cách hiểu đơn giản về môi trường, đó là hiểu theo nghĩa

rộng và hiểu theo nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, môi trường bao gồm tất cả các nhân

tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho hoạt động sinh hoạt, lao động, sản xuất của con

người như: nước, không khí, đất, ánh sáng... Theo nghĩa hẹp, không xét tới tài

nguyên thiên nhiên môi trường chỉ bao gồm các nhân tố tự nhiên và xã hội tác động

trực tiếp tới chất lượng cuộc sống con người. Ví dụ: môi trường của giảng viên bao

gồm nhà trường với sinh viên, đồng nghiệp, nội quy của trường, lớp học, phòng làm

việc, tổ chức xã hội như Đảng, Đoàn với các điều lệ hay gia đình, họ tộc với những

quy định chỉ truyền miệng nhưng vẫn được công nhận, thi hành và các cơ quan

hành chính các cấp với luật pháp, nghị định, thông tư...

Nếu chia theo chức năng có thể chia môi trường sống của con người như sau:

Một là môi trường tự nhiên bao gồm ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả,

không khí, động, thực vật, đất, nước... chúng tồn tại bên ngoài ý muốn của con

người, nhưng không phải như vậy mà không chịu sự tác động của con người mà

12

ngược lại chúng vẫn chịu ít nhiều chịu tác động.

Hai là môi trường xã hội đó là tổng thể các quan hệ giữa người với người

bao gồm: luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định... ở các cấp khác nhau

như: quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng xã, họ tộc, gia đình, tổ chức đoàn thể...

Môi trường xã hội giúp cho hoạt động của con người được đi theo một khuôn

khổ nhất định, từ đó dần dần hình thành sức mạnh tập thể to lớn tạo thuận lợi

cho sự phát triển, và đây cũng là điểm khác biệt giữa cuộc sống của con người và

các sinh vật khác.

Ngoài ra, người ta còn phân biệt khái niệm môi trường nhân tạo, đó là tất cả

các nhân tố do con người tạo ra, làm thành những tiện nghi trong cuộc sống, như xe

máy, ôtô, máy bay, nhà ở, công sở, các khu đô thị, khu công nghiệp, các khu công

viên nhân tạo phục vụ cho vui chơi giải trí...

Từ những trình bày ở trên có thể hiểu môi trường sống là tất cả những gì có

xung quanh con người, đem lại cho con người điều kiện, cơ sở để tồn tại, để sống

và phát triển, như C.Mác đã từng trình bày trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết

học năm 1844: “Giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người, và chính nó là giới

tự nhiên trong chừng mực của bản thân nó không phải là thân thể con người. Con

người sống dựa vào tự nhiên. Như thế nghĩa là tự nhiên là thân thể của con người;

để khỏi chết, con người phải ở trong quá trình giao dịch thường xuyên với thân thể

đó. Sinh hoạt vật chất và tinh thần của con người liên hệ khăng khít với tự nhiên,

điều đó chẳng qua chỉ có nghĩa là tự nhiên liên hệ khăng khít với bản thân tự nhiên,

vì con người là một bộ phận của tự nhiên”[7, tr.91-92].

 Chức năng của môi trường

Môi trường chính là không gian sống của con người và sinh vật. Vậy môi

trường có chức năng gì? Môi trường cho chúng ta không khí để thở và duy trì sự

sống, cho đất đai để trồng trọt chăn nuôi và xây dựng nhà cửa, ngoài ra môi trường

còn có rất nhiều loại khoáng sản ở cả trên mặt đất và trong lòng đất, đó là nguồn tài

nguyên rất quý phục vụ cho nhu cầu sản xuất. Không chỉ phục vụ cho nhu cầu sinh

13

hoạt, sản xuất mà môi trường còn có rất nhiều danh lam thắng cảnh đẹp là nơi du

lịch, nghỉ mát cho con người sau những ngày làm việc vất vả, cho cuộc sống của

con người tưoi đẹp và sinh động hơn. Tuy nhiên khả năng cung cấp của môi trường

tự nhiên phục vụ các nhu cầu đó của con người là có giới hạn và nó phụ thuộc vào

trình độ phát triển của mỗi quốc gia và ở mỗi giai đoạn khác nhau.

Ngoài ra môi trường còn là nơi chứa đựng, đồng hóa các chất thải của con

người trong quá trình sinh hoạt, lao động sản xuất và sử dụng các tài nguyên thiên

nhiên thải vào môi trường dưới dạng các chất thải. Chất thải có loại ở dạng rắn, có

loại ở dạng lỏng và một số loại qua thời gian được hân hủy thành các chất vô cơ, vi

sinh có thể phục vụ lại nhu cầu cầu của con người. Ví dụ chất thải của lợn có thể sử

dụng thành ga phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của con người hay chất thải của các

loại gia súc, gia cầm có thể ủ mục thành phân bón cho các loại cây trồng được xanh

tốt Các tài nguyên sau khi hết hạn sử dụng, chúng bị thải vào môi trường dưới dạng

các chất thải. Tuy nhiên với chức năng là nơi chứa đựng chất thải của môi trường

không phải là vô hạn mà là có giới hạn. Nếu con người vượt quá giới hạn này thì sẽ

gây ra tình trạng mất cân bằng sinh thái và dấn đến hiện tượng ô nhiễm môi trường.

Lúc này lại cần sự chung tay góp sức của con người để chống lại hiện tượng ô

nhiễm môi trường, để bảo vệ môi trường.

1.1.3. Đạo đức môi trường

 Khái niệm đạo đức môi trường

Thuật ngữ đạo đức môi trường không phải xuất hiện ngay từ thời cổ đại, thời

cổ đại đạo đức môi trường mới chỉ thể hiện ở tình yêu thương của con người với

thiên nhiên, với cỏ cây hoa lá và vạn vật xung quanh nơi họ sinh sống. Cho đến khi

nền kinh tế thị trường hình thành và phát triển cùng với các cuộc cách mạng khoa

học công nghệ đem theo sự ra đời ngày càng nhiều các loại máy móc hiện đại từ đó

làm cho đời sống của con người ngày càng đòi hỏi cao hơn, họ không bằng lòng với

những gì sẵn có hiện tại của tự nhiên. Họ bắt đầu khai thác sâu hơn vào nguồn tài

nguyên thiên nhiên của môi trường để tìm ra những nguồn nguyên nhiên vật liệu

14

phục vụ cho công việc của mình, lâu dần làm cho nguồn tài nguyên thiên nhiên bị

cạn kiệt dẫn đến việc môi trường tự nhiên không thể tự điều chỉnh, tự cân bằng

được và gây ra hiện tượng ô nhiễm môi trường. Với tình trạng ô nhiễm môi trường

như hiện nay việc bảo vệ môi trường không chỉ là trách nhiệm của từng quốc gia

riêng lẻ mà nó mang tính toàn cầu, mang tính quốc tế với mọi quốc gia trên thế

giới.Từ sự ô nhiễm môi trường đang diễn ra nghiêm trọng như hiện nay chúng ta

nhận thấy rằng mỗi quốc gia nên có thay đổi về chiến lược, chính sách, cách thức và

mô hình phát triển về kinh tế để từ đó đảm bảo được sự cân bằng, hài hòa giữa con

người với xã hội và tự nhiên.

Ph.Ăngghen từng phân tích: “Khi đốt rừng trên các triền núi và lấy số phân

tro đủ để bón cho một đời cây cà phê đem lại một số thu hoạch rất lớn, thì những

người chủ đồn điền Tây Ban Nha ở Cu Ba có cần gì phải suy nghĩ rằng sau này,

những trận mưa rào ở vùng nhiệt đới sẽ cuốn sạch lớp đất bên trên không có sự che

chở và chỉ để lại những lớp đá trơ trụi”[8, tr. 658]. Có thể thấy, từ trong lịch sử con

người vì lợi ích kinh tế cũng đã bất chấp làm những hành động tàn phá tự nhiên.

Do vậy, để đảm bảo được sự cân bằng, hài hòa giữa con người với tự nhiên

thì bên cạnh việc khai thác tự nhiên con người cũng cần phải bảo vệ tự nhiên, bảo

vệ môi trường. Muốn bảo vệ môi trường thì phải có những hành động, việc làm về

bảo vệ môi trường ví dụ như: vứt rác đúng nơi quy định kể cả ở nhà hay ở trường

học, bệnh viện, nơi công cộng; không đưa nước thải chưa qua xử lý ra môi trường;

không bẻ cành cây, hái hoa hay dẫm lên cỏ ở những khuôn viên trường học, công

viên, khu đô thị làm xấu cảnh quan môi trường; hay rộng hơn là trồng cây phủ xanh

đất trống, trồng cây gây rừng, không chặt phá rừng bừa bãi, săn bắn trái phép những

loài vật quý đang trong danh sách cần được bảo tồn.... Những hành động và việc

làm đó phải xuất phát từ trong suy nghĩ, nhận thức, thái độ của mỗi người và phải

mang tính tự nguyện, tự giác không bắt buộc phải thực hiện. Đây chính là cơ sở để

hình thành và cho ra đời một cách ứng xử mới đối với môi trường thuộc về phạm

15

trù đạo đức được mang tên là đạo đức môi trường.

Khái niệm về đạo đức môi trường được rất nhiều tác giả trong và ngoài nước

nhắc tới. Đầu tiên không thể không nhắc tới một luận điểm nổi tiếng và đó cũng là

quan niệm đầu tiên về đạo đức môi trường đưa ra năm 1949 của triết gia người Mỹ

mang tên Aldo Leopold trong 5 tập tiểu luận The Land Ethic đã đăng trên A Sand

County Almanac (Niên giám một vùng đất): “Một hành động chỉ được coi là đúng

nếu nó nhằm bảo vệ sự toàn vẹn, ổn định và vẻ đẹp của cộng đồng sinh vật; ngược

lại thì là sai lầm” [Trích theo: 36].

Theo tác giả Ernest Partridge trong tác phẩm Giới thiệu về đạo đức môi

trường, Trường Đại học tổng hợp California, Mỹ (2008), có nhấn mạnh: “đạo đức

môi trường được hiểu là, sự thể hiện trách nhiệm của con người đối với việc tôn

trọng đất đai, thực vật, tài nguyên, sinh vật không phải là con người”.

Bên cạnh các công trình nghiên cứu ở ngoài nước thì trong nước cũng có rất

nhiều công trình nghiên cứu về đạo đức môi trường, trong đó tiêu biểu có:

Trong công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Phúc với tác phẩm

“Đạo đức môi trường”, tác giả đã đưa ra định nghĩa về đạo đức môi trường như sau:

“Đạo đức môi trường là một hệ thống các chuẩn mực đạo đức điều chỉnh quan hệ

giữa con người (xã hội) và tự nhiên vì sự phát triển bền vững” [30, tr.73].

Tác giả Hồ Sĩ Quý trong bài viết về môi trường ở tạp trí Triết học số 9 với

nội dung “Về đạo đức môi trường” tác giả cũng khẳng định: “Đạo đức môi trường

là một khái niệm rộng, phong phú, nhưng không quá đa nghĩa. Trên những nét lớn,

có thể hiểu và sử dụng khái niệm này như sau:

- Đạo đức môi trường là những chuẩn mực tự nhiên, bình thường ngấm

sâu trong hành vi và trong phong cách sinh hoạt, ứng xử của mỗi người và mỗi

cộng đồng - Con người bảo vệ môi trường, tôn trọng giới tự nhiên và cẩn trọng

trước hệ sinh thái một cách tự nhiên, không cần ai ra lệnh, không vì mục đích vụ

16

lợi nào khác.

- Đạo đức môi trường biểu hiện thiết thực trong hành vi của mỗi người, mỗi

cộng đồng. Trình độ cao của đạo đức môi trường biểu hiện ở ý thức và kỹ năng xử

lý những vấn đề môi trường.

- Có thể trong tư tưởng, trong suy nghĩ của mình, những người dân bình

thường không hề biết các lý thuyết cao siêu nào đó về hệ sinh thái và bảo vệ môi

trường; song, không hẳn vì thế mà họ kém ý thức về mặt đạo đức môi trường. Đạo

đức môi trường, trước hết, được biểu hiện ở tình cảm tự nhiên của con người - con

người biết ửng xử thân thiện và biết tôn trọng môi trường sống quanh họ.

- Đạo đức môi trường độc lập nhất định với học vấn. Người có học vấn cao

chưa chắc đã có đạo đức môi trường ở trình độ cao. Người có học vấn thấp vẫn có

thể có đạo đức môi trường đáng tôn trọng” [36].

Từ những định nghĩa về đạo đức môi trường của các tác giả trong và ngoài

nước, khái niệm đạo đức môi trường được xác định như sau: Đạo đức môi trường

là một hệ thống bao gồm các quan điểm, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức để trên cơ

sở đó con người sẽ tự điều chỉnh những hành vi của bản thân một cách tự giác, tự

nguyện, không cần ai chỉ đạo với môi trường nhằm hướng đến sự phát triển hài

hòa, ổn định và bền vững giữa con người với môi trường tự nhiên.

Như vậy, khái niệm đạo đức môi trường gồm một số nội dung cơ bản đáng

chú ý như sau:

1) Đạo đức môi trường là một hệ thống các quan điểm, quy tắc, chuẩn mực

đạo đức để hướng dẫn con người và điều chỉnh hành vi của con người đối với môi

trường nhằm thực hiện những mục đích của mình với môi trường nhưng cũng vẫn

bảo vệ môi trường để tạo ra sự phát triển hài hòa và bền vững giữa con người với

môi trường.

2) Trên cơ sở các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức con người đã tự giác và

chủ động điều chỉnh hành vi của mình với môi trường sa cho phù hợp với chuẩn

17

mực đạo đức môi trường.

3) Đạo đức môi trường thể hiện trách nhiệm của mỗi con người với môi

trường, đó là trách nhiệm vừa khai thác vừa kiến tạo và bảo vệ môi trường. Cũng là

thể hiện mối quan hệ đề cao môi trường của con người trong xã hội hiện đại.

Qua đây, có thể coi đạo đức môi trường là một sự đánh giá mang tính hệ

thống các mối quan hệ đạo đức giữa con người và môi trường tự nhiên xung quanh

con người. Từ đó xác lập lên các chuẩn mực nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa con

người với tự nhiên theo hướng hài hòa lợi ích giữa con người và tự nhiên. Nói cách

khác là đảm bảo lợi ích của con người mà không làm tổn hại giới tự nhiên. Và đạo

đức môi trường là sự thể hiện hành vi của con người thông qua ý thức của họ đối

với môi trường, nó vừa mang tính tất yếu lại vừa mang tính tự giác.

Tại sao đạo đức môi trường lại có ý nghĩa và vai trò quan trọng trong đời

sống con người và xã hội? Vì nó là những chuẩn mực dành cho tất cả mọi người

không phân biệt tầng lớp trí thức hay nông dân, là người giàu hay người nghèo,

là người già hay người trẻ, là ngưoif theo tôn giáo hay không theo tôn giáo.

Những chuẩn mực đó mang tính cộng đồng và xã hội vì môi trường là của tất cả

mọi người không phải là của riêng ai. Như vậy thực hiện các hành vi với môi

trường theo những chuẩn mực đó được coi là trách nhiệm, là nghĩa vụ của mỗi

người đối với môi trường, xuất phát từ ý thức, suy nghĩ và lương tâm của mọi

người với môi trường.

Bên cạnh tính tất yếu đạo đức môi trường còn mang tính tự giác. Tính tự giác

ở đây là thể hiện sự tự bản thân mỗi người tự có những hành động đối với môi

trường chứ không do tổ chức xã hội hay người nào khác ép buộc họ thực hiện các

hành vi với môi trường. Hành động của mỗi người đối với môi trường ở đây xuất

phát từ trong suy nghĩ, trong lương tâm của họ. Nếu những người yêu môi trường,

muốn bảo vệ môi trường họ sẽ có những hành động để bảo vệ môi trường như:

không vứt rác bừa bãi, không bẻ cành, hái hoa hay dẫm lên cỏ ở những nơi công

18

cộng... và ngược lại là những người không muốn bảo vệ môi trường. Để nhận biết

được một người có đạo đức môi trường hay không chỉ cần thông qua hành động và

việc làm của họ đối với môi trường.

Như vậy để thực hiện được đạo đức môi trường đòi hỏi mỗi người cần trang

bị cho mình những tri thức khoa học không chỉ về lĩnh vực môi trường mà còn bao

gồm các lĩnh vực khác, từ đó phát huy sức sáng tạo của mình để khai thác và bảo vệ

tự nhiên sao cho hợp lý và mỗi con người cũng cần đạo đức và tinh thần trách

nhiệm với hành động của mình.

 Những chuẩn mực cơ bản của đạo đức môi trường

Nói đến đạo đức không thể không nói đến chuẩn mực đạo đức. Chuẩn mực

đạo đức có tư cách là sự thể hiện những yêu cầu, những đòi hỏi của xã hội đối với

hành vi cá nhân và chuẩn mực đạo đức thể hiện một cách tập trung chức năng điều

chỉnh của đạo đức. Vai trò điều chỉnh của các chuẩn mực đạo đức biểu hiện như

sau: những đòi hỏi, những yêu cầu của xã hội (ngăn cấm hoặc khuyến khích) thể

hiện trong chúng tạo nên giới hạn cho hành vi, xác định điều gì cần làm và điều gì

không được làm trong những hoàn cảnh, những tình huống cụ thể nhất định. Chuẩn

mực đạo đức, do vậy, là yếu tố trung tâm của ý thức đạo đức. Đồng thời nó cũng

phản ánh những yêu cầu về mặt đạo đức của xã hội đối với con người. Bởi vậy, một

hệ chuẩn mực đạo đức nhất định sẽ xác định đặc trưng của một nền đạo đức nói

chung hay một lĩnh vực đạo đức cụ thể.

Ở đây, có thể thấy đạo đức môi trường là một lĩnh vực đạo đức đặc thù, vì

vậy đi kèm với nó là một hệ thống chuẩn mực đạo đức đặc thù phản ánh những đặc

thù của việc bảo vệ môi trường. Mặc dù mang tính đặc thù nhưng chuẩn mực đạo

đức môi trường không biệt lập với các chuẩn mực đạo đức khác mà vẫn có mối liên

hệ với các chuẩn mực đạo đức đó. Như đã biết mọi quan hệ trong xã hội đều là

quan hệ động, chính vì vậy quan hệ giữa con người và môi trường, xã hội và tự

nhiên cũng là quan hệ động. Vì vậy, các chuẩn mực đạo đức môi trường cũng biến

đổi theo chiều hướng mở rộng về nội dung và gia tăng về số lượng do tính phức tạp

19

của quan hệ này ngày càng gia tăng. Vị trí, vai trò, chức năng của mỗi chuẩn mực

đạo đức môi trường trong hệ thống các chuẩn mực đạo đức môi trường không phải

lúc nào cũng cố định mà có sự biến đổi theo từng thời kỳ, từng địa vực nhất định

khác nhau. Có những chuẩn mực sẽ tồn tại rất lâu nhưng có những chuẩn mực sẽ

nhanh bị thay đổi do tồn tại xã hội thay đổi, chính trị, văn hóa thay đổi. Ở mỗi thời

kỳ, mỗi địa vực nhất định vấn đề môi trường nào nổi lên cấp bách thì những chuẩn

mực đạo đức điều chỉnh việc giải quyết vấn đề môi trường đó trở thành chuẩn mực

chủ yếu và cấp bách nhất. Mặc dù vậy, cũng như những lĩnh vực đạo đức khác, đạo

đức môi trường có những chuẩn mực chung chi phối các phương diện cụ thể của

quan hệ giữa con người và môi trường. Nhưng quan hệ đạo đức trong đạo đức môi

trường có tính chất đặc biệt, đó là nó phải vượt lên trên mối quan hệ giữa người với

người để vươn tới quan hệ đối với giới tự nhiên. Trong điều kiện môi trường hiện

nay, những chuẩn mực sau đây có thể coi là những chuẩn mực chung căn bản nhất:

* Tôn trọng và bảo vệ sự hài hoà của hệ thống con người - xã hội

- tự nhiên

Chuẩn mực này có thể coi là chuẩn mực chung nhất, chi phối, định hướng

các chuẩn mực đạo đức môi trường khác, tạo cơ sở, nền tảng cho quan hệ đạo đức

của con người đối với tự nhiên. Những chuẩn mực khác trong hệ thống chuẩn mực

đạo đức môi trường đều là sự cụ thể hoá, chi tiết hóa chuẩn mực này với mới những

mức độ khác nhau. Chuẩn mực này có cơ sở khách quan là quá trình hình thành,

quá trình tiến hóa một cách tự nhiên của hệ thống con người – xã hội – tự nhiên.

Trước khi có con người, tự nhiên là một hệ thống thuần túy, có cơ chế tự

điều chỉnh. Nhưng từ khi con người xuất hiện hệ thống đó không còn là hệ thống tự

nhiên thuần túy nữa mà đã thay vào đó là hệ thống con người - xã hội - tự nhiên.

Con người khác với các thành tố khác của tự nhiên là họ có ý thức, có lí trí và có

năng lực để cải biến tự nhiên. Tuy nhiên với sự tác động của con người tới tự nhiên

trong suốt thời gian dài đã và đang gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Cùng với

nhận thức của mình, con người phải có những hành động thực tiễn nhằm bảo đảm

20

sự hài hoà, cân bằng của hệ thống con người- xã hội- tự nhiên. Bằng lí trí, ý thức và

bằng thực tiễn, con người sẽ nhận ra tôn trọng vàbảo vệ sự hài hoà của hệ thống

con người- xã hội- tự nhiên là một yêu cầu,một chuẩn mực đạo đức.

Thái độ, tình cảm tôn trọng, bảo vệ sự hài hoà của hệ thống con người - xã

hội- tự nhiên sẽ định hướng cho con người có sự tự giác và tự nguyện bảo vệ sự đa

dạng sinh học, bởi chính sự đa dạng sinh học là một trong những nhân tố, điều kiện

đảm bảo cho sự hài hòa của hệ thống con người – xã hội – tự nhiên luôn luôn được

bền vững. Và cũng chính thái độ, tình cảm đó sẽ định hướng cho chúng ta tự giác và

tự nguyện giải quyết một cách tối ưu những vấn đề đang tồn tại của con người, của

xã hội. Bởi vì, những vấn đề của môi trường không thể độc lập giải quyết mà không

giải quyết những vấn đề của con người, xã hội và những vấn đề của xã hội, con

người cũng chỉ có thể giải quyết được triệt để khi giải quyết được các vấn đề của

môi trường, của tự nhiên. Chính vì vậy, tôn trọng và bảo vệ sự hài hoà của hệ thống

con người - xã hội- tự nhiên là chuẩn mực đạo đức phổ quát, đồng thời cũng là sự

phản ánh về mặt đạo đức của bản thân quá trình phát triển bền vững lấy kinh tế, xã

hội và môi trường cùng làm mục tiêu để hướng tới.

Như vậy, đạo đức môi trường không những đòi hỏi bản thân mỗi người phải

biết tôn trọng môi trường tự nhiên mà còn phải biết đấu tranh chống lại các quan

niệm lạc hậu cho rằng con người là tất cả, “trời sinh voi, trời sinh cỏ” và môi trường

tự nhiên chỉ là vô tri vô giác, từ đó, con người phải biết đấu tranh với các biểu hiện

xâm hại đến môi trường, từ đó cùng chung tay bảo vệ môi trường.

* Sử dụng tài nguyên tiết kiệm và có hiệu quả

Đây là chuẩn mực chủ yếu liên quan chính đến lĩnh vực sản xuất. Vì lĩnh vực

này tập trung khai thác các nguồn nguyên nhiên liệu sẵn có của tự nhiên. Ngày nay

với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ cho ra đời nhiều máy móc hiện

đại làm cho quy mô sản xuất ngày càng được mở rộng và nhu cầu khai thác tài

nguyên ngày càng cao. Đến nay, nhân loại đã khai thác hết hơn 40% nguồn tài

nguyên không tái tạo được. Và với sự phát triển của xã hội, sự gia tăng về dân số

21

đòi hỏi vẫn phải đẩy mạnh việc khai thác hơn nữa. Trước thực trạng này thì việc sử

dụng tài nguyên tiết kiệm và có hiệu quả trở thành yêu cầu của sự phát triển kinh

tế bền vững và do đó trở thành chuẩn mực về mặt đạo đức. Tiết kiệm và sử dụng

có hiệu quả nguồn tài nguyên không chỉ dừng lại ở việc không lãnh phí tài

nguyên trong sản xuất mà còn phải tiến hành áp dụng những tiến bộ của khoa

học công nghệ để sao cho mỗi đơn vị sản phẩm làm ra tiêu hao ít nhất nguyên

liệu và nhiên liệu.

Trong điều kiện xã hội ngày nay, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả là yêu cầu

không chỉ với nguồn tài nguyên không tái tạo được mà còn là yêu cầu với cả những

nguồn tài nguyên tái tạo được. Và cần phải coi chuẩn mực này là một trong những

chuẩn mực căn bản của đạo đức môi trường. Người có đạo đức môi trường không

chỉ không tham gia phá rừng, khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên, săn bắt động vật

hoang dã…, mà còn phải biết đấu tranh chống lại, kiên quyết không tiếp tay cho

những hành vi sai trái đó.

* Tự giác và tự nguyện nâng các yêu cầu pháp lí về bảo vệ môi trường thành

các yêu cầu đạo đức và tuân thủ các yêu cầu đó

Những yêu cầu bảo vệ môi trường đã được thể chế hóa trong các cam kết

quốc tế và luật môi trường của các quốc gia cũng như những quy định mang tính

pháp lí về bảo vệ môi trường của các tổ chức, các thiết chế xã hội, các đơn vị sản

xuất là những yêu cầu căn bản và tối thiểu đối với con người trong quan hệ với môi

trường. Nếu không may vi phạm các yêu cầu này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc bảo

vệ môi trường, đó là gây ô nhiễm môi trường. Hiện nay nước ta đã có các quy định,

các văn bản pháp lý và đã ban hành Luật Môi trường năm 1993 và có sửa đổi, bổ

sung vào năm 2005. Mặc dù vậy: Quản lý nhà nước về tài nguyên, bảo vệ

môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu nhiều mặt còn hạn chế; pháp luật, chính

sách thiếu đồng bộ; thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm chưa nghiêm. Điều

tra cơ bản và quy hoạch sử dụng tài nguyên chưa đáp ứng yêu cầu. Việc giao quyền

quản lý, khai thác, sử dụng đất đai, khoáng sản, rừng, nguồn nước chưa phù hợp

22

với kinh tế thị trường và hiệu quả chưa cao; vẫn còn tình trạng khai thác trái phép

tài nguyên, khoáng sản. Tình trạng ô nhiễm môi trường chậm được cải thiện; ô

nhiễm môi trường ở nhiều nơi còn nghiêm trọng” [26, tr.168]. Hiện tượng chặt

phá rừng bừa bãi, săn bắn các loài thú quý, khai thác khoáng sản trái phép vẫn

đang lộng hành và một số cơ sở sản xuất kinh doanh vẫn ngang nhiên đưa nước

thải chưa qua xử lý hoặc mới xử lý ở mức đơn giản ra môi trường gây nên hiện

tượng ô nhiễm nguồn nước, nguồn đất, không khí. Trong cuộc sống sinh hoạt

của từng hộ gia đình vẫn còn nhiều hiện tượng đưa rác thải, nước thải ra môi

trường chưa đúng theo quy định.Sạt lở ven biển, ven sông và xâm nhập mặn diễn

biến ngày càng phức tạp...

Từ những hành động nêu trên cho thấy việc nâng những yêu cầu pháp lí về

bảo vệ môi trường lên thành những yêu cầu đạo đức tối thiểu và thực hiện chúng

một cách tự giác, tự nguyện thông qua hành vi của bản thân mỗi người là một trong

những chuẩn mực đạo đức môi trường cơ bản trong điều kiện bảo vệ môi trường

hiện nay.

* Công bằng trong khai thác và bảo vệ môi trường

Trái đất và những thành phần bên trong trái đất là là ngôi nhà và là tài sản

chung của toàn nhân loại. Chính vì vậy, con người phải cùng nhau chia sẻ một cách

công bằng các lợi ích từ khai thác cũng như chia sẻ một cách công bằng trách nhiệm

bảo vệ và phát triển môi trường.

Với sự tăng trưởng về kinh tế sẽ liên quan đến quy mô khai thác tài nguyên

của môi trường và từ đó sẽ liên quan đến chất thải, khí thải. Hiện nay với sự phát

triển về kinh tế kéo theo đó là sự gia tăng về chất thải, khí thải. Trên thế giới hiện

nay nếu chia theo sự phát triển kinh tế thì có các nước phát triển và các nước đang

phát triển. Vấn đề công bằng hiện nay là ưu tiên cho các nước đang phát triển được

khai thác tài nguyên, đẩy mạnh hoạt động sản xuất vật chất để nhanh chóng theo kịp

các nước phát triển về kinh tế - xã hội. Nhưng một nghịch lý đặt ra là tăng trưởng

kinh tế sẽ lại dẫn đến tăng chất thải và khí thải vào môi trường. Và lúc này, sự chia

23

sẻ của các nước phát triển với các nước đang phát triển sẽ là việc chuyển giao công

nghệ thân thiện với môi trường cùng sự hỗ trợ về tài chính, máy móc, trang thiết bị

hiện đại... để giải quyết vấn đề chất thải và khí thải đặt ra. Công bằng ở đây được

thể hiện bằng việc các nước phát triển tự nguyện cam kết cắt giảm khí thải, chất thải

và chấp nhận một mức độ tăng trưởng tương ứng. Nhưng thực tế lại không diễn ra

như vậy, nhiều quốc gia phát triển không hoàn toàn chia sẻ quan điểm đó.

Chính vì vậy, ở cấp độ toàn cầu, vấn đề đặt ra là các quốc gia phát triển và

các quốc gia đang phát triển cần đi tới sự thống nhất trong cách hiểu về công bằng

trong khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường. Sự công bằng ở đây chính là sự

nhượng bộ, sự hi sinh và san sẻ nhất định về những lợi ích trước mắt để vì lợi ích

chung và lợi ích lâu dài của toàn nhân loại trong ngôi nhà chung của mình.

Trong phạm vi một quốc gia, công bằng trong bảo vệ môi trường đó là sự

chia sẻ trách nhiệm với các doanh nghiệp, các công ty. Trong đó, các doanh nghiệp

với tư cách là cở sở sản xuất chính sẽ gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường. Vì vậy,

nếu các doanh nghiệp vi phạm các quy định pháp quy liên quan đến môi trường thì

phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm pháp lý tức là trách nhiệm trước Nhà nước, pháp

luật, đồng thời còn phải thực hiện trách nhiệm xã hội trong bảo vệ môi trường. Đây

chính là sự chia sẻ trách nhiệm một cách tự giác và tự nguyện. Như vậy mới tạo ra

được sự công bằng trong khai thác và bảo vệ môi trường.

* Nâng cao tinh thần tương trợ và phối hợp hành động giải quyết các sự cố

môi trường

Các sự cố môi trường, đặc biệt là các sự cố nghiêm trọng đã từng gây ra

những tổn thất vô cùng to lớn về tính mạng con người, tài sản và môi trường. Di hại

của những sự cố đó có thể kéo dài nhiều năm, qua nhiều thế hệ (từ thế hệ này sang

thế hệ khác). Một số thảm họa gây ô nhiễm môi trường và để lại hậu quả lâu dài

như: “Năm 1932 - 1968, một thảm họa nước biển nhiễm độc xảy ra tại Nhật Bản do

nhà máy hóa chất Chisso xả trực tiếp nước thải chứa thủy ngân chưa qua xử lý ra

vịnh Minamata và biển Shiranui gây hậu quả nghiêm trọng. Theo Med.org.jp: “chất

24

thải đã tích tụ sinh học trong hải sản ở khu vực biển này, khiến người dân và súc vật

địa phương ăn vào bị nhiễm độc thủy ngân. Chứng bệnh do nhiễm độc thủy ngân ở

đây được gọi là bệnh Minamata. Vụ nuôhiễm độc đầu tiên được phát hiện năm

1956 nhưng phải đến năm 1968, chính quyền mới chính thức kết luận nguyên nhân

bệnh Minamata là do nhà máy Chisso xả thải gây ô nhiễm. Hậu quả của nó kéo dài

suốt 36 năm sau. Người nhiễm độc bị co giật, chân tay co quắp, không nói được.

Thai nhi đẻ ra bị dị dạng. Gần 2.000 người chết, 10.000 người bị ảnh hưởng. Chó,

mèo bị nhiễm độc cũng phát điên rồi chết. Cá biển chết dạt đầy bờ, phủ kín mặt

biển. Đến năm 2004, tập đoàn Chisso đã trả 86 triệu USD tiền bồi thường cho các

nạn nhân và bị yêu cầu phải làm sạch khu vực biển bị ô nhiễm”[51]. Gần đây nhất,

thảm họa kép động đất, sóng thần và sự cố lò phản ứng hạt nhân ở Nhật Bản đã làm

thiệt mạng 15.846 người và 3.317 người vẫn đang mất tích. Thiệt hại về vật chất

ước tính là 300 tỉ USD. Việc giải quyết sự cố môi trường ở Nhật Bản đã nhận được

sự giúp đỡ của nhiều quốc gia và hàng trăm tổ chức từ thiện. Nhưng những di hại

của nó thì chưa biết bao giờ có thể giải quyết dứt điểm được. Mới đây, ở nước ta

vào tháng 4 năm 2016, nhà máy Formosa xả thải chứa độc tố: bao gồm cyanide,

phenols và hydroxide sắt; làm cá chết dọc bờ biển dài hơn 200 km và di hại của

biến cố này khiến cho cuộc sống của hàng trăm ngư dân và dân chúng tại 4 tỉnh Bắc

Trung Bộ bị xáo trộn. Hàng ngàn chiếc tàu nằm phơi bờ không thể ra khơi đánh bắt

cá và hải sản cũng như hơn 40 ngàn công ăn việc làm tại khu vực này bị ảnh hưởng

và 250 ngàn người lao động cả nước bị tác động suốt hơn một năm. Sau đó

Formosa đã đền bù 500 triệu USD để hỗ trợ người dân bị thất nghiệp. Người dân cả

nước cũng đã tổ chức quyên góp để giúp đỡ ngư dân vượt qua khó khăn.

Yêu cầu giảm thiểu tối đa những thiệt hại đáng tiếc xảy ra về tính mạng con

người, về tài sản cùng tác hại đối với môi trường đòi hỏi phải có sự tương trợ, sự

giúp đỡ và sự phối hợp hành động để giải quyết các sự cố môi trường. Một sự cố

môi trường nào đó xảy ra có thể chỉ thuộc phạm vi trách nhiệm trực tiếp của một tổ

chức, một quốc gia nhất định, nhưng việc khắc phục hậu quả của nó đòi hỏi phải có

25

sự tham gia của tất cả những quốc gia, những tổ chức, những đơn vị có khả năng.

Chính vì vậy, nâng cao tinh thần tương trợ, giúp đỡ và phối hợp hành động giải

quyết các sự cố môi trường là một trong những yêu cầu, một trong những chuẩn

mực hàng đầu của đạo đức môi trường.

* Giữ gìn môi trường sống xanh, sạch, đẹp trong đời sống thường nhật

Đây là chuẩn mực nhấn mạnh đến trách nhiệm, thói quen sinh hoạt trong

cuộc sống hàng ngày của mọi người. Thói quen sinh hoạt là một hình thức biểu hiện

của lối sống, vì vậy nó bị quy định bởi tổng thể những điều kiện sinh sống của con

người: phương thức sản xuất xã hội và truyền thống văn hóa có vai trò cơ bản nhất.

Mặc dù bị quy định như vậy, nhưng một khi đã định hình, các thói quen sinh hoạt

có tính độc lập nhất định và tác động ngược trở lại cơ sở kinh tế, xã hội đã sản sinh

ra chúng. Tuy nhiên cũng do tính độc lập đó mà trong đời sống luôn tồn tại cả thói

quen tích cực và thói quen tiêu cực. Vì vậy mỗi người cần khắc phục những thói

quen tiêu cực, đẩy mạnh, phát huy những thói quen tích cực bằng cách tự giác, tự

nguyện thực hiện yêu cầu giữ gìn môi trường sống xung quanh mình xanh, sạch,

đẹp và nâng yêu cầu đó lên thành chuẩn mực đạo đức môi trường.

Mỗi người nên biết hoà mình vào thiên nhiên, làm bạn với cỏ cây, hoa lá;

thay việc sử dụng thuốc trừ sâu bằng cách nuôi các loài thiên địch của sâu bọ; quý

trọng và tiết kiệm khi sử dụng điện, nước; biết làm ra của cải vật chất bằng cách tái

chế rác thải, phế liệu như sản xuất phân bón từ rác hữu cơ, làm lò Biogas từ phân

gia súc, hạn chế mua đồ lấy nhiều túi nilon…

Chuẩn mực này nhắc nhở mỗi người cần có ý thức giữ gìn vệ sinh chung;

đồng thời cũng nên tích cực tham gia vào các hoạt động làm xanh, sạch đẹp đường

làng, ngõ xóm, khu dân cư, nơi làm việc, nơi vui chơi công cộng… Việc thường

xuyên có ý thức tham gia vào những hoạt động như vậy sẽ tạo cho con người thái

độ, thói quen thân thiện và yêu quý môi trường, từ đó càng có những hành động tích

cực để bảo vệ môi trường.

* Thực hành lối sống văn hóa, thể hiện quan hệ hài hòa giữa mức sống và

26

lối sống

Trái với lối sống tiêu thụ, lối sống văn hóa được định hướng bởi nững giá trị

cao đẹp. Đó là lối sống mà mỗi người vừa ra sức phát triển nhân cách của mình vừa

góp phần tạo ra những điều kiện cho sự phát triển nhân cách của người khác và của

toàn thể cộng đồng. Là lối sống có sự cân đối giữa việc thỏa mãn những nhu cầu vật

chất và những nhu cầu tinh thần. Một trong những nhu cầu không thể thiếu để làm

nên ý nghĩa cuộc sống đó là quan tâm đến mọi người xung quanh mình và quan tâm

đến cộng đồng. Cốt lõi của sự quan tâm đó là quan tâm về mặt lợi ích, là sự giải

quyết hài hòa lợi ích giữa con người với con người trên tất cả các phạm vi.

Việc bảo vệ môi trường đòi hỏi phải giải quyết các lợi ích đó và từ việc giải

quyết các lợi ích đó sẽ tạo điều kiện cho việc bảo vệ môi trường. Trong điều kiện

môi trường hiện nay việc giữ gìn môi trường sống xanh, sạch, đẹp trong đời sống

thường nhật đó là thực hiện lối sống xanh, đây là lối sống đáp ứng được nhu cầu

hiện tại mà không phải hi sinh hay ảnh hưởng đến việc các thế hệ tương lai.

Trên đây là những chuẩn mực cơ bản của đạo đức môi trường và các

chuẩn mực này chủ yếu nhấn mạnh về việc điều chỉnh hành vi của con người.

Các chuẩn mực đó có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau, mỗi chuẩn mực đều

có vai trò và chức năng của mình. Chính vì vậy không nên coi trọng chuẩn mực

này, từ bỏ chuẩn mực khác, như vậy sẽ không phát huy được hết khả năng trong

việc bảo vệ môi trường.

Ngoài ra các Hội nghị thượng đỉnh trên thế giới về chủ đề môi trường cũng

chú trọng các nội dung sau:

Thứ nhất, các hành vi môi trường trước hết phải đảm bảo khả năng tái tạo và

phục hồi tự nhiên, cụ thể là các hệ động vật, thực vật. Đồng thời phải khai thác sử

dụng hợp lý các nguồn tài nguyên không tái tạo được như: khoáng sản, các nguyên,

nhiên liệu hóa thạch.

Thứ hai, việc sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng sinh thái (đảm bảo các

tiêu chuẩn sinh thái) tiêu chí này phải được coi là một trong những chuẩn mực đạo

27

đức đặc biệt đối với các tổ chức doanh nghiệp. Đồng thời là tiêu chuẩn để điều

chỉnh hành vi sản xuất của con người. Kiên quyết không sản xuất những sản phẩm

phi sinh thái. Tẩy chay những sản phẩm không đảm bảo tiêu chuẩn sinh thái.

Thứ ba, sản xuất tiêu dùng phải đảm bảo an toàn chất lượng môi trường sống

như: đảm bảo tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái, đảm bảo tình trạng sức khỏe

của con người trong vùng mà họ đang sống. Cũng như đảm bảo các tiêu chí môi

trường như: tiêu chuẩn về khí thải, tiếng ồn, bụi, rác thải, nước thải... đảm bảo cho

chúng ta đuợc sống trong lành.

Thứ tư, sống thân thiện với môi trường. Điều này được thể hiện qua hành

động trong cuộc sống thường ngày như: sử dụng bóng đèn tiết kiệm điện; tắt khi

không sử dụng: tivi, máy tính, điện, quạt; sử dụng năng lượng mặt trời; trồng cây

cảnh trong nhà; hạn chế sử dụng túi nilon; tận dụng nước thải để tưới cây; sử dụng

tiết kiệm nước…

Bốn chuẩn mực vừa nêu trên là những chuẩn mực mang tính mặc định đối

với tất cả mọi người, nhằm hướng tới một môi trường không còn ô nhiễm, một môi

trường trong lành, một môi trường xanh – sạch – đẹp để từ đó bảo đảm sức khỏe

cho con người và sự sinh sôi phát triển của các loài sinh vật trên phạm vi toàn cầu.

1.2. Đạo đức môi trƣờng ở sinh viên

1.2.1. Một số đặc điểm tâm, sinh lý của sinh viên

 Một số đặc điểm tâm lý của sinh viên

Sinh viên là thuật ngữ dùng để chỉ những người đang học tập tại các trường

đại học, cao đẳng. Họ có độ tuổi trong khoảng từ 18 đến 24 tuổi, là độ tuổi đã và

đang có những hoàn thiện về mặt sinh học và xã hội. Đây là thời kỳ phát triển đầy

đủ các chức năng tâm lý, sự hài hòa của con người gắn liền với năng lực làm việc

được nâng cao một cách rõ rệt, nhân cách cơ bản cũng đã được hình thành và luôn

có tính độc lập cao.

Sinh viên có đặc điểm tâm lý lứa tuổi nổi bật là sự phát triển khả năng tự ý

thức. Tự ý thức bao gồm tự quan sát, tự phân tích, tự đánh giá, tự kiểm tra... là một

28

loại đặc biệt của ý thức trong đời sống cá nhân có chức năng tự điều chỉnh nhận

thức, thái độ, sự đánh giá toàn diện đối với bản thân và vị trí của mình trong cuộc

sống. Qua quá trình tự ý thức, cá nhân điều chỉnh hành vi và cử chỉ của mình, đó là

điều kiện phát triển có ý thức và nhân cách, để xây dựng tương lai và tổ chức toàn

bộ thế giới nội tâm của nhân cách đó và từ đó cũng dần dần hoàn thiện nhân cách,

lối sống theo các yêu cầu của xã hội. Do đó có thể thấy, hiệu quả giáo dục không

chỉ phụ thuộc vào khí chất, năng lực, tính cách, động cơ, mà còn phụ thuộc vào đặc

điểm ý thức của của mỗi sinh viên. Khi học ở trường đại học, việc xây dựng con

đường sống trong tương lai của sinh viên có ảnh hưởng rất lớn đến ý thức của họ

trước tiên là ảnh hưởng đến tính tích cực bên trong sinh viên. Mức độ tích cực của

tự ý thức của sinh viênphụ thuộc vào thời hạn đạt tới mục đích được vạch ra và cho

thấy việc chuyển sang dự kiến lâu dài của cuộc sống sẽ làm tăng cường tính tích

cực bên trong thuộc phạm vi nhận thức. Một trong những thành phần có ý nghĩa

nhất tạo nên sự phát triển ý thức của sinh viênlà năng lực tự đánh giá. Tự đánh giá

là kết quả bên ngoài hình thành nên lòng tự trọng của cá nhân. Lòng tự trọng, tự tin

phản ánh trạng thái tâm lý đạo đức của con người và tạo nên thái độ tốt đối với bản

thân. Trong thời kỳ học tập tại các trường Đại học sinh viên bắt đầu cuộc sống lao

động trí tuệ học tập căng thẳng, nhận được sự thỏa mãn nhu cầu cơ bản của con

người là nhận thức về thế giới xung quanh. Cùng với sự tăng lên về ý thức trong

quá trình học tập thì các chức năng tâm lý cũng được phát triển như tư duy trừu

tượng, trí nhớ, khả năng phán đoán, chú ý... học tập và giao tiếp là hai hoạt động

tích cực biểu hiện trong nhân cách sinh viên.

Nhìn chung, đặc điểm tâm lý của lứa tuổi sinh viên là thích cái mới lạ, thích

học hỏi và ưa tìm tòi khám phá, sáng tạo. Bên cạnh đó sinh viên còn có tính nhạy

bén cao cập nhật nhanh những cái mới về khoa học công nghệ, kiến thức trong đời

sống và kỹ năng sống. Những đặc điểm này chính là cơ sơ quan trọng cho quá trình

học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên.

29

 Một số đặc điểm sinh lý của sinh viên

Ở tuổi này, về cơ bản các cơ quan và hệ thống cơ quan quan trọng nhất của

cơ thể ngừng phát triển, với chiều cao vì phần sụn nằm ở đầu xương đã được xương

hóa, nên nói chung chiều cao gần như cố định, tuy nhiên lại phát triển theo chiều

ngang và tăng trọng lượng cơ thể. Bộ não đã đạt trọng lượng tối đa, khoảng 1400gr,

các tổ chức của hệ thần kinh vẫn còn phát triển và đi đến hoàn thiện. Các trung khu

thần kinh có những nhiệm vụ chuyên biệt riêng, khả năng tư duy, khả năng phân

tích tổng hợp và trừu tượng hóa tăng lên tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành

phản xạ có điều kiện. Đây là cơ sở sinh lý của việc nhanh chóng tiếp thu và hoàn

thiện kỹ thuật..

Lứa tuổi này cũng là lứa tuổi có giai đoạn dậy thì gần hoàn thành, các chức

năng sinh sản đã hoàn thiện. Chính vì vậy nên bản thân các em cũng muốn mở rộng

các mối quan hệ với bạn bè, thích giao lưu học hỏi các bạn cùng trang lứa.

1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến đạo đức môi trường ở sinh viên

 Ảnh hưởng từ gia đình

Sinh viên là lớp người đang mang trong mình nhiệt huyết của tuổi trẻ, có

nhiệt tình cách mạng, nhạy cảm với cái mới, cái tiến bộ. Là lứa tuổi với những ước

mơ, những hoài bão lớn và bản thân các em rất muốn chinh phục ước mơ ấy, hoài

bão ấy.

Như đã biết, gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng và giáo dục

nhân cách cho mỗi thành viên trong gia đình. Từ nhận định này cho thấy gia đình có

vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành nhân cách, đạo đức của mỗi con

người, trong đó có sinh viên. Chúng ta có thể thấy, nếu gia đình hạnh phúc, bố mẹ

yêu thương nhau, bố mẹ kính trọng, chăm sóc ông bà, yêu thương con cái, gia đình

không có xô xát, cãi nhau trước mặt con trẻ, thì gia đình đó sẽ có những đứa con

ngoan ngoãn, vâng lời ông bà, bố mẹ và sau này lớn lên sẽ có những đức tính tốt, có

ý thức đạo đức và cũng sẽ có ý thức đạo đức môi trường. Và ngược lại nếu gia đình

bố mẹ hay cãi nhau trước mặt con trẻ, bố mẹ không kính trọng ông bà, không chăm

30

sóc ông bà, bố mẹ hay la mắng con cái thì gia đình đó con cái sẽ học những đức tính

của bố mẹ, sẽ trở thành những đứa trẻ thiếu giáo dục, những đứa trẻ không ngoan

và có thể sau này chúng cũng sẽ đối xử với bố mẹ như bố mẹ đối xử với ông bà.

Khi ra ngoài xã hội chúng sẽ không tôn trọng người khác và sẽ có những hành vi

thiếu đạo đức và cũng có thể sẽ thiếu ý thức đạo đức môi trường

Kinh tế gia đình cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến mối quan hệ giữa cha mẹ

và con cái. Điều đó thể hiện như sau: có thể cha mẹ chỉ lo làm kinh tế, không có

thời gian quan tâm tới quá trình hình thành nhân cách, phẩm chất đạo đức của con

em mình, hoặc một số gia đình có điều kiện kinh tế đầy đủ, cha mẹ chỉ cung cấp

tiền (tiền có thể lo được) không quan tâm đến việc học tập, cuộc sống sinh hoạt

hàng ngày của con mình và việc giáo dục, xây dựng phẩm chất đạo đức thì chủ yếu

để cho nhà trường trang bị cho nên dẫn đến tình trạng nhiều sinh viên không được

trang bị những kỹ năng sống tối thiểu, không có những phẩm chất đạo đức tối thiểu.

Nhiều sinh viên gia đình có điều kiện kinh tế đã trở thành cậu ấm cô chiêu sống

theo kiểu hưởng thụ, dùng tiền để giải quyết mọi việc. Các em chạy theo lối sống

thực dụng, coi trọng đồng tiền và ý thức đạo đức của các em không có. Từ đó các

em cũng không coi trọng những hành động bảo vệ môi trường. Bản thân các em coi

những hành động vứt rác bừa bãi, dẫm lên cỏ, hái hoa, bẻ cành, hút thuốc lá nơi

đông người, thậm chí có em còn sử dụng chất kích thích như ma túy tổng hợp, ma

túy đá… là bình thường không ảnh hưởng gì đến mọi người xung quanh và cũng

không ảnh hưởng tới môi trường.

Từ đây có thể thấy giáo dục của gia đình trong việc hình thành nhân cách, ý

thức đạo đức cho con em mình có vai trò rất quan trọng. Mỗi gia đình nên sắp xếp

thời gian cho công việc và cho con một cách hợp lý để quan tâm, yêu thương đến

com mình để giúp các em có ý thức đạo đức tốt, có những hành động thể hiện mình

là người có văn hóa, có đạo đức. Đặc biệt sinh viên phần lớn các em đều sống xa

nhà, xa vòng tay bố mẹ nên càng thiếu thốn tình cảm của gia đình và càng cần sự

quan tâm hơn của gia đình để các em không bị sa ngã vào những tệ nạn xã hội,

31

không sống buông thả và trong tương lai không xa các em sẽ góp sức mình vào xây

dựng đất nước, sẽ trở thành những người vừa có tài vừa có đức như sinh thời chủ

tịch Hồ Chí Minh vẫn mong muốn.

 Ảnh hưởng từ bạn bè

Sinh viên là chỉ đối tượng sẽ học tại các trường đại học, cao đẳng. Có thể học

tại các trường đại học, cao đẳng ở tỉnh thì sẽ học ở trên thành phố (nếu nhà ở thành

phố thì sẽ đi đi về về, còn nhà ở quê thì có thể ở ký túc xá của trường hoặc ở trọ bên

ngoài), nếu học ở các trường đại học, cao đẳng khác tỉnh thì sẽ phải đi xa và bắt

buộc là phải ở trọ hoặc ở ký túc xá của nhà trường. Đi học trên lớp các em sẽ học

cùng khoảng 30 đến 40 bạn khác, ngoài giờ học sẽ có giờ giải lao, đó là lúc các em

giao lưu, vui chơi cùng nhau. Như vậy có thể thấy, các em sẽ sống trong môi trường

tập thể, nếu ở kí túc xá, ở trên lớp sẽ là môi trường tập thể lớn còn ở trọ thì sẽ ở môi

trường tập thể nhỏ. Chính vì ở trong môi trường tập thể như vậy nên có nhiều đối

tượng khác nhau, có bạn nhà giàu, có bạn nhà bình thường, có bạn nhà khó khăn; có

bạn chăm học, có bạn lười học; có bạn chăm lao động, có bạn lười lao động; có bạn

đi làm thêm, có bạn không đi làm thêm; có bạn học ngành này, có bạn học ngành

kia ở cùng xóm với nhau hay ở cùng ký túc xá với nhau. Và sinh viên là lứa tuổi

đang thích khám phá, tìm tòi và thể hiện mình nên các bạn sẽ bộc lộ tính cách, môi

trường tập thể như vậy cũng sẽ học tập cả những đức tính tốt và đức tính chưa tốt.

Ví dụ về hành vi đạo đức môi trường, bạn này vứt rác bừa bãi nhưng không bị ai

nhắc nhở, bạn kia thấy vậy liền nghĩ vậy việc gì mình phải mang ra tận thùng rác

vứt cho mất công, mình cũng vứt luôn ở đây như bạn kia cho nhanh. Nhiều lần như

vậy sẽ hình thành thói quen xấu là vứt rác không đúng nơi quy định. Hay khi ở xóm

trọ, ở ký túc xá tiến hành dọn vệ sinh tập trung, có bạn không tham gia cũng không

sao lần sau sẽ có bạn cũng sẽ không tham gia. Hoặc khi Nhà trường triển khai việc

dọn vệ sinh khuôn viên trường, có bạn không tham gia, có bạn tham gia nhưng

không làm việc tích cực nhưng cũng không bị khiển trách, nhắc nhở, những bạn

làm tốt cũng không được tuyên dương, lần sau những bạn làm tốt cũng sẽ không

32

tham gia hoặc tham gia không nhiệt tình. Ngược lại những bạn làm tốt được tuyen

dương, những bạn làm chưa tốt được nhắc nhở chỉ ra những thiếu xót để lần sau các

bạn sửa chữa thì sẽ là những hình ảnh tốt cho các bạn khác học tập đức tính tốt và

tránh những hành vi chưa tốt.

Từ những ví dụ trên chúng ta thấy bạn bè có ảnh hưởng rất lớn đến nhận

thức và hành vi đạo đức của sinh viên trong đó có hành vi đạo đức môi trường, ảnh

hưởng này có thể theo hai hướng là tích cực hoặc tiêu cực. Vì đặc điểm tâm lý của

sinh viên như đã phân tích ở trên là các em thích cái mới lạ, thích học hỏi và sáng

tạo, thích thể hiện mình và điều đó cũng ảnh hưởng lớn đến ý thức đạo đức của các

em , trong đó có đạo đức môi trường. Một trong những nguyên nhân chính gây nên

thực trạng đạo đức môi trường ở sinh viên hiện nay là do sinh viên bị những ảnh

hưởng tiêu cực từ bạn bè có tư cách đạo đức không tốt, từ những bạn bè không có

văn hóa. Qua đây, chúng ta cũng thấy được việc giáo dục đạo đức môi trường cho

sinh viên rất có ý nghĩa và cần được phổ biến rộng rãi trong các trường học, không

chỉ trường đại học, cao đẳng mà còn phải phổ biến cả ở các bậc học thấp hơn từ

mầm non, tiểu học, trung học cơ sở đến trung học phổ thông để hướng tới một môi

trường thân thiện, không khí trong lành, xanh mát ở tất cả các trường học trên khắp

mọi miền tổ quốc thân yêu!

 Ảnh hưởng từ nhà trường

Nhà trường không chỉ là nơi truyền tri thức cho các em sinh viên, mà còn là

nơi giáo dục kĩ năng sống cho các em. Khi các em bước chân vào cánh cổng đại

học, đồng nghĩa với việc các em bắt đầu mọt khởi đầu mới với nội dung các môn

học mới, phương pháp giảng dạy mới và nề nếp, cách quản lý của thầy cô cũng

mới. Vì trên bậc đại học các thầy cô không còn sử dụng phương pháp đọc chép và

giải thích cặn kẽ cho các em như bậc học phổ thông, mà các thầy cô chỉ với tư cách

là người định hướng, hướng dẫn các em các kỹ năng tự học tập, tự trau dồi kiến

thức còn chính các em mới là trung tâm. Đây là một đặc điểm quan trọng trong

nhận thức và hoạt động học tập của sinh viên và có ảnh hưởng lớn đến việc phát

33

triển về nhận thức và đạo đức nghề nghiệp của các em sau này.

Có thể khẳng định rằng, trong nhà trường thì thầy cô giáo chính là những

tấm gương cho các em sinh viên học tập và noi theo. Vì vậy nhà trường cần lựa

chọn những thầy cô giáo vừa có tâm vừa có tầm, vừa có kiến thức giảng dạy

vững chắc vừa có nhân cách đạo đức tốt, đặc biệt trong xã hội hiện đại khi đang

có rất nhiều yếu tố tiêu cực về đạo đức len lỏi vào các trường đại học. Một hành

động nhỏ của thầy cô cũng có thể làm các em học tập và làm theo. Ví dụ: sau

một giờ giảng dạy, thầy cô có giấy nháp thừa sau khi hết giờ ra ngoài lớp thầy cô

vứt luôn ra hành lang mà không vứt vào thùng rác, có thể do thầy cô sơ tâm

không để ý nhưng vô tình việc làm này sẽ ảnh hưởng đến không chỉ một sinh

viên mà rất nhiều sinh viên khác. Các em sẽ nghĩ rằng: đến thầy cô còn chẳng

vứt rác vào thùng rác thì mình cần gì phải làm như vậy. Hay có một số thầy đến

trường, nơi công cộng nhưng vẫn hút thuốc ở chỗ có sinh viên qua lại, việc làm

này cũng ảnh hưởng đến các em sinh viên, đặc biệt là các em nam sinh viên sẽ

nghĩ thầy hút thuốc ở đây được chắc mình cũng hút được, một bạn, hai bạn và sẽ

có nhiều bạn làm như vậy….

Có thể thấy nhà trường có vai trò rất lớn trong quá trình giáo dục các em,

nhà trường không chỉ dạy kiến thức mà còn dạy cả đạo đức để cung cấp cho xã

hội những người vừa có tài vừa có đức để phục vụ đất nước, thúc đẩy đất nước

ngày càng phát triển để sánh vai cùng bạn bè quốc tế như sinh thời chủ tịch Hồ

Chí Minh vĩ đại vẫn hằng mong muốn. Vì vậy trong nhà trường rất cần những

thầy cô gương mẫu để các em học tập và noi theo.

1.2.3. Đặc điểm của sinh viên về đạo đức môi trường

Xét về tổng thể, đa phần sinh viên đại học cả nước đều đã và đang có ý

thức đạo đức môi trường. Điều đó thể hiện qua hành động của các em khi ở

trường học hay ở phòng trọ hoặc ở nhà bản thân mỗi em đã ý thức được tác hại

của việc vứt rác bừa bãi gây ô nhiễm môi trường và mất mỹ quan nơi sinh sống

nên hầu như rác thải đã được vứt đúng nơi quy định hay ở xóm trọ đều có chỗ để

34

rác và mỗi phòng của các em đều có xọt để đựng rác, mỗi địa phương đã có dịch

vụ đến nhà lấy rác sinh hoạt để mang đến nơi tập kết. Là sinh viên việc học tập

luôn được để lên hàng đầu nên các em hầu như đều được bố mẹ trang bị cho máy

tính phục vụ học tập và hầu như các em đều học xa nhà nên bố mẹ cũng trang bị

cho các em điện thoại để liên lạc và giải trí sau khi học tập căng thẳng, các em

hầu như đều đã ý thức được nên tắt máy tính khi không dùng nữa và không để

chế độ ngủ; rút sạc pin điện thoại, máy tính khi đầy. Nước sinh hoạt cũng được

các em sử dụng một cách hợp lý và tiết kiệm không dùng lãng phí, bất hợp lý.

Nhiều phòng trọ được các em mua thêm cây cảnh về trang trí phòng vừa phục vụ

nhu cầu thẩm mĩ vừa tạo không gian xanh cho phòng ở, hút khí độc cho phòng.

Một số xóm trọ có khoảng đất thừa được các em tận dụng trồng rau, trồng hoa và

lấy nước vo gạo, rửa rau tưới cho cây vừa cung cấp chất dinh dưỡng cho cây vừa

tiết kiệm nước và giảm thiểu ô nhiễm môi trường.

Ngoài ý thức đạo đức ở xóm trọ các em cũng thể hiện đạo đức môi trường

ở trường học như: vứt rác đúng nơi quy định; không để túi nilon, rác đồ ăn sáng,

vỏ chai đồ uống trong ngăn bàn học hay ghế đá sân trường; tham gia các buổi

dọn vệ sinh do nhà trường và đoàn trường tổ chức, tham gia trồng cây và chăm

sóc cây xanh bảo vệ môi trường; tham dự các cuộc thi tìm hiểu về môi trường và

bảo vệ môi trường; thực hiện tiết kiệm điện nước không chỉ trong nhà trường mà

còn ở các nơi công cộng, trước khi ra về kiểm tra và tắt hết điện quạt…

Song song với việc thực hiện ý thức đạo đức môi trường ở trường học,

xóm trọ, ký túc xá thì các em còn thực hiện các hành động đạo đức môi trường ở

chính địa phương nơi các em và gia đình đang sinh sống. Bằng những hành

động, việc làm nhỏ nhưng lại có ý nghĩa to lớn và thiết thực. Đó chỉ là để rác thải

vào túi nilon rồi mang ra nơi tập kết, là không đưa nước thải chưa qua xử lý ra

ao, hồ, sông, suối, là dọn vệ sinh đường làng ngõ xóm, là trồng cây xanh, rau

sạch nếu nhà có đất trống… để cho không khí được trong lành hơn.

Bên cạnh những sinh viên tích cực thì vẫn còn một vài sinh viên chưa có ý

35

thức đạo đức môi trường, còn thờ ơ và ngoài cuộc với những hành động bảo vệ

môi trường (nghĩ đó không phải là việc của mình). Chính vì vậy, công tác giáo

dục đạo đức môi trường ở các trường đại học, cao đẳng cho sinh viên cần được

thực hiện một cách khẩn trương hơn, nhiều hơn, nghiêm túc hơn và chất lượng

hơn nữa.

Xuất phát từ ý thức bản thân mỗi em sinh viên đều có thể tự khắc phục

những hạn chế của mình, tự mình ý thức hơn nữa về đạo đức, lối sống bao gồm

cả đạo đức môi trường để từ đó góp sức vào công tác tuyên truyền ý thức đạo

đức môi trường cho từng người dân để mọi người có thêm những kiến thức, kinh

nghiệm về đạo đức môi trường và bảo vệ môi trường, ngăn chặn ô nhiễm môi

trường. Mỗi người dân có thêm một chút ý thức thì cộng đồng xã hội sẽ giảm bớt

được những hành động vô ý thức trong việc bảo vệ môi trường và môi trường

sống của chúng ta sẽ được xanh – sạch và đẹp hơn.

Tiểu kết chương

Như đã trình bày ở trên, có thể thấy, đạo đức môi trường có vai trò quan

trọng như thế nào đối với môi trường hiện nay. Điều đó đặt ra mỗi người dân cần

tuân thủ theo những chuẩn mực đạo đức môi trường cơ bản đã nêu để hạn chế tối

đa việc ô nhiễm môi trường đang hoành hành, để cùng nhau chung tay đem lại

cho cuộc sống một môi trường xanh, trong lành và điều kiện quan trọng cho sự

phát triển bền vững, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất

nước.

Để thực hiện việc bảo vệ môi trường không thể không cần đến sự chung

tay góp sức của các em sinh viên trên mọi miền tổ quốc thân yêu. Các em chính

là thế hệ trẻ, là những những chủ nhân tương lai của đất nước. Ngày mai đây khi

kết thúc những ngày tháng đèn sách trên ghế nhà trường, các em sẽ đem những

kiến thức, những kinh nghiệm đã học được bước vào cuộc sống. Mỗi em sẽ có

một công việc nhất định và nếu các em có đạo đức môi trường thì không chỉ bản

36

thân các em bảo vệ môi trường mà các em còn làm gương cho bạn bè, đồng

nghiệp của các em làm điều đó. Chính vì vậy giáo dục đạo đức môi trường cho

các em là một việc làm hết sức cần thiết và ý nghĩa.

Trên cơ sở những nôi dung đã trình bày ở chương 1, đến chương 2 luận

văn sẽ đi vào tìm hiểu thực trạng, những vấn đề về đạo đức môi trường đang tồn

tại ở sinh viên Trường Đại học Hải Dương là gì? Thực trạng đó có những ưu điểm,

37

hạn chế như thế nào và nguyên nhân của những hạn chế đó do đâu gây ra?

Chương 2

THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG Ở

SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI DƢƠNG

2.1. Đặc điểmTrƣờng Đại học Hải Dƣơng

2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Trường Đại học Hải Dương

Trường Đại học Hải Dương là trường Đại học công lập đầu tiên của Tỉnh

được nâng cấp trên cơ sở trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Hải Dương, tiền thân

là trường Trung học Kinh tế Hải Dương. Trường được thành lập theo Quyết định

số1258/QĐ-TTg ngày 26/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số

378/QĐ-TTg ngày 01/3/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc đổi tên trường

Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Hải Dương thành Trường Đại học Hải Dương.

Trường Đại học Hải Dương là đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm một

phần chi phí hoạt động, trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, là cơ sở đào tạo thuộc hệ

thống giáo dục quốc dân; thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình

độ đại học, các trình độ thấp hơn đại học trong lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật theo quy

định; tổ chức nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng khoa học, công nghệ

phục vụ việc đào tạo và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh; tổ chức cung

cấp các dịch vụ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Trường theo quy định của

pháp luật.

Trải qua quá trình 55 năm xây dựng, trưởng thành và phát triểnvới phương

châm “đào tạo đạt chất lượng gắn liền với tiết kiệm chi phí cho người học”,ngày

nay Nhà trường đã trở thành một trung tâm đào tạo đa ngành nghề, lĩnh vực: kinh

tế, chính trị, xã hội, ngoại ngữ …đa cấp Cao đẳng, Đại học và sau đại học có uy tín

trong tỉnh và khu vực. Tập thể Nhà trường, nhiều đơn vị và cá nhân trực thuộc đã

được Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội ghi nhận và tặng thưởng nhiều

38

phần thưởng cao quý.

Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo, sự quan tâm giúp đỡ tạo điều kiện

nhiều mặt của đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh nhà, cùng các cấp, các ngành

và các đơn vị bạn, Nhà trường luôn bám sát nhiệm vụ chính trị của mình, khắc phục

mọi khó khăn do mới nâng cấp lên đại học, luôn bền bỉ phấn đấu để xây dựng cơ sở

vật chất, đội ngũ cán bộ, giảng viên và chương trình đào tạo theo quy định của Bộ

Giáo dục và Đào tạo, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong mọi giai đoạn phát triển.

Quy mô, chất lượng và hiệu quả đào tạo của Nhà trường đã và đang được nâng lên,

đáp ứng yêu cầu của tỉnh Hải Dương, các tỉnh lân cận và của xã hội.

Trường hiện nay được phép đào tạo các ngành đại học: Kế toán, quản trị

kinh doanh, tài chính ngân hàng, phát triển nông thôn, chăn nuôi thú y, quản trị dịch

vụ du lịch và lữ hành, kinh tế tổng hợp, chính trị học, kỹ thuật điện – điện tử, điện

tử viễn thông. Trong đó mũi nhọn của trường là ngành kỹ thuật và kế toán. Nếu

trước đây, trường có nôi là nơi đào tạo chuyên về kế toán tài chính với đặc thù chủ

yếu là nữ thì nay, với tình hình thực tiễn và nhu cầu của thị trường lao động, trường

đã đi theo hướng bổ sung đào tạo nguồn nhân lực về kỹ thuật để cung ứng cho thị

trường lao động trong toàn tỉnh Hải Dương và các tỉnh lân cận.

2.1.2. Đội ngũ cán bộ, giảng viên và sinh viên

 Đội ngũ cán bộ, giảng viên

Đội ngũ giảng viên của Nhà trường đang có sự phát triển rất nhanh cả về số

lượng và chất lượng. Từ khi trường nâng cấp lên đại học đến nay hiện tại trường

đang có tổng số cán bộ, giảng viên, viên chức, lao động là 329 người, trong đó: Cán

bộ chủ chốt là 80 người; Đội ngũ giảng viên cơ hữu đảm bảo cả về cơ cấu lẫn chất

lượng với chuyên môn đa ngành kinh tế, kỹ thuật, xã hội; trong đó 03 Phó giáo sư,

16 Tiến sỹ, 16 Nghiên cứu sinh, 238 thạc sỹ và đang học cao học. Ngoài ra, Nhà

trường hiệncó trên 30 Tiến sỹ là giảng viên thỉnh giảng giàu tâm huyết, có học hàm,

học vị hoặc chuyên gia đã trải nghiệm qua thực tiễn và giảng dạy đến từ các cơ sở

đào tạo đại học, sau đại học, cơ quan, doanh nghiệp ở trong nước và quốc tế đang

39

tích cực tham gia xây dựng, phản biện nội dung, chương trình đào tạo, hợp tác

nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ phù hợp với thực tiễn của tỉnh Hải

Dương, khu vực đồng bằng Sông Hồng và trên cả nước.

Các thầy cô giáo của Nhà trường với tâm huyết yêu nghề, yêu trò luôn trau

dồi, nâng cao kiến thức để truyền tri thức cho các em sinh viên, cập nhật những kiến

thức mới để trang bị kịp thời và liên tục cho sinh viên Nhà trường.

 Sinh viên

Hầu hết sinh viên của trường xuất thân ở các gia đình nông nghiệp lao động,

với nhiều giải pháp khả thi phù hợp với tình hình thực tiễn nên sinh viên học tại

Nhà trường được thụ hưởng một môi trường học tập an toàn. Ngoài những kiến

thức phục vụ cho chuyên ngành, các em còn được ôn lại nhiều kiến thức cơ sở, phổ

thông và bổ sung nhiều kiến thức cuộc sống để khi học xong ra ngoài làm việc các

em không bị bỡ ngỡ; được sống và sinh hoạt tại khu Ký túc xá khép kín, tiện nghi

đạt tiêu chuẩn quốc tế; được tham gia các phong trào Đoàn, Hội, các hoạt động

chính trị - xã hội, văn hóa thể thao lành mạnh. Nhiều sinh viên đã được kết nạp

Đảng tại Trường...;Năm học 2016 -2017 trường đã tổ chức kết nạp Đảng cho 8 sinh

viên (chủ yếu là các em khóa cuối) có thành tích xuất sắc trong các hoạt động do

Ban Giám hiệu Nhà trường và Đoàn thanh niên tổ chức, đồng thời các em cũng có

thành tích học tập cao và ý thức kỷ luật tốt. Nhận thức được vấn đề đó nên năm học

2017 – 2018 các em sinh viên trong toàn trường càng cố gắng phấn đấu hơn nữa cả

về học tập và các hoạt động tập thể, trong đó có hoạt động bảo vệ môi trường nên

số lượng sinh viên được kết nạp Đảng năm học vừa qua cao hơn năm trước. Tổng

số em được kết nạp Đảng năm học 2017 – 2018 là 11 sinh viên. Khi được đứng

trong hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam các em không quên nhiệm vụ mà

ngày càng tích cực tham gia mọi hoạt động do Nhà trường và Đoàn trường tổ chức.

Hoạt động đó ngày càng khích lệ tinh thần vì hoạt động tập thể và vì thành tích học

tập của tất cả các sinh viên trong toàn trường.

Đại học Hải Dương từ khi nâng cấp lên đại học từ 26/7/2011 đến nay đã

40

được 8 năm, đã và đang đào tạo 7 khóa đại học chính quy. Hiện nay khóa 1, khóa 2

và khóa 3 đã ra trường, trường đang đào tạo hệ đại học chính quy khóa 4, khóa 5,

khóa 6, khóa 7 và tuyển sinh đại học chính quy khóa 8. Nhà trường đã tuyển sinh

được nhiều sinh viên với nhiều ngành học khác nhau, trong đó tập trung đông sinh

viên vẫn là ngành kế toán, tài chính ngân hàng và kỹ thuật điện – điện tử. Các em

sinh viên đã ra trường nhiều em đi làm tại các doang nghiệp có tiếng, nhiều em xin

được vào các sở, ban ngành của tỉnh Hải Dương và các tỉnh lân cận để làm việc. Đa

phần các em đều được đánh giá là ngoan, có tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình với

công việc, ham tìm tòi, học hỏi và tính cầu thị cao.

2.2. Thực trạng và những vấn đề về đạo đức môi trƣờng ở sinh viên

Trƣờng Đại học Hải Dƣơng

2.2.1. Thực trạng về đạo đức mội trường ở sinh viên Trường Đại học Hải

Dương

●Việc thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà

nước về bảo vệ môi trường

Đạo đức môi trường, đặc biệt là đạo đức môi trường cho sinh viên luôn được

Đảng, Nhà nước ta quan tâm và đã có nhiều quyết định thể hiện sự quan tâm đó

như: ngày 17/10/2001, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1363/QĐ-TTG

phê duyệt Dự án "Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào hệ thống giáo dục Quốc

dân"; mục đích của việc này là nhằm giáo dục cho học sinh, sinh viên ở các cấp

học, bậc học và trình độ đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân có những hiểu

biếtvề pháp luật cùng những chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo vệ

môi trường, đồng thời có kiến thức về môi trường để từ đó sẽ tự giác, tự nguyện

thực hiện bảo vệmôi trường ngay chính tại nơi mình đang học và sinh sống; tiếp

theo, ngày 15/11/2004, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 41/NQ/TW về"Bảo vệ môi

trường trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Nội dung

của Nghị quyết này xác định việc bảo vệ môi trường là một trong những vấn đềsống

còn của nhân loại; là nhân tố để đảm bảo sức khoẻ và chất lượng cuộc sống của mọi

41

người dân trên cả nước; góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế theo hướng

bền vững, ổn định về chính tri, đảm bảo an ninh quốc gia và thúc đẩy đưa đất nước

hội nhập với kinh tế quốc tế; bảo vệ môi trường ở đây chính là quyền lợi và nghĩa

vụ không chỉ của một người mà của cất cả mọi người, mọi tổ chức xã hội, là biểu

hiện của nếp sống văn hóa, đạo đức và tiến bộ, là một trong những tiêu chí quan

trọng của xã hội văn minh và cũng là sự nối tiếp truyền thống của ông cha ta để lại,

đó là sống gần gũi với thiên nhiên, yêu thiên nhiên, yêu cỏ cây, hoa lá, sống hài hòa

với tự nhiên…

Để việc bảo vệ môi trường được thực hiện tốt ở các trường học, ngày

31/05/2005, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra Chỉ thị về tăng cường công

tác giáo dục bảo vệ môi trường bằng các hình thức phù hợp và thông qua hoạt động

ngoại khóa, ngoài giờ lên lớp, xây dựng môi trường xanh – sạch – đẹp phù hợp với

các vùng miền. Chỉ thì này nhằm tăng cường công tác bảo vệ môi trường ở các

trường học nói chung từ bậc mẫu giáo tới đại học trên tất cả các vùng miền của đất

nước tùe miền ngược tới miền xuôi để hướng tới việc xây dựng môi trường xanh –

sạch – đẹp, môi trường trong lành và cùng nhau chung tay, chung sức, đồng lòng

bảo vệ môi trường. Để thực hiện được điều đó, thông qua Chỉ thị Bộ Giáo dục và

Đào tạo cũng nhấn mạnh các hình thức bảo vệ môi trường không chỉ ở giờ học trên

lớp mà thông qua các giờ học ngoại khóa, ngoài giờ để cho học sinh, sinh viên hình

thành trong bản thân mỗi em về ý thức đạo đức môi trường và từ đó các em sẽ tích

cực tham gia hoạt động bảo vệ môi trường, phòng chống ô nhiễm môi trường không

chỉ tại trường mà tại cả những nơi các em đang sống...

Thực hiện tinh thần bảo vệ môi trường của Đảng, Nhà nước và các Bộ ngành

liên quan thông qua các văn bản đã nêu, hàng năm trường Đại học Hải Dương mỗi

khi bắt đầu năm học mới đều cho sinh viên học giáo dục đầu khóa 2 tuần áp dụng

cho cả sinh viên mới vào và cho cả sinh viên đang học tập tại trường, sau khi học

xong viết bài thu hoạch về các nội quy, quy chế học sinh sinh viên trong đó có cả

nội quy về bảo vệ môi trường, về công tác vệ sinh môi trường. Ý nghĩa của việc học

42

tập này đối với sinh viên mới vào cho các em nắm được những quy chế học sinh

sinh viên nói chung theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và những quy định

do Nhà trường ban hành để khi bắt đầu học tập tại trường các em sẽ không bỡ ngỡ

và không mắc phải những sai lầm không theo quy chế và nội quy của Nhà trường,

còn đối với sinh viên cũ nhằm cho các em ôn lại những nội quy, quy chế đó để các

em không bị quên sau thời gian nghỉ hè. Từ việc học tập đó các em sẽ viết bài thu

hoạch và phòng Công tác học sinh sinh viên của nhà trường sẽ thu bài và chấm

điểm để xem ý thức của từng em. Nếu em nào làm bài thiếu ý thức sẽ tiến hành

nhắc nhở để các em rút kinh nghiệm và chú ý các nội quy, quy định đã được học.

Từ việc tổ chức học tuần giáo dục công dân đầu khóa đó, Nhà trường nhận

thấy tình trạng ô nhiễm môi trường hiện nay đang diễn biến rất phức tạp nên đã

nhấn mạnh đến vai trò, chức năng của môi trường quan trọng như thế nào với cuộc

sống hàng ngày của mỗi chúng ta. Sinh viên hiểu được môi trường là một phần

không thể thiếu trong cuộc sống học tập và sinh hoạt của mỗi người, từ đó thúc đẩy

các em có ý thức, suy nghĩ tìm cách bảo vệ môi trường xung quanh các em; chủ

động và tích cực tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường; có thái độ ứng xử

thân thiện với môi trường. Qua đó hình thành nhân cách, hình thành đạo đức môi

trường trong mỗi sinh viên. Những hành động tích cực để bảo vệ môi trường của

các em sinh viên như: trong lớp học các em không vứt rác vào ngăn bàn, không vứt

rác ra sàn nhà học hay hành lang, cầu thang, khuôn viên trường học. Để tránh tình

trạng sinh viên vứt rác bừa bãi không đúng nơi quy định vì có nhiều em lười, không

chịu quan sát xem thùng rác ở chỗ nào liền vứt ngay xuống đất chỗ mình đang đứng

nên nhà trường đã để ở mỗi phòng học một xọt rác nhỏ bằng nhựa để các em học

xong vứt rác vào đó. Và ngay dưới tầng học nhà trường đều để một thùng chứa rác

to, là nơi tập kết rác của tầng học đó luôn. Việc làm này của nhà trường rất phù hợp

với tình hình lớp học và giảm thiểu tình trạng vứt rác bừa bãi của các em sinh viên.

Sinh viên sau mỗi buổi học xong đều phân công lần lượt từng bạn có nhiệm vụ cầm

xọt rác ở dưới góc lớp mang ra thùng chứa rác to ở ngoài hành lang tầng một của

43

lớp học. Hành động này vừa giữ sạch cho lớp mình học lại giữ sạch cho khuôn viên

của nhà trường được sạch đẹp và cũng thể hiện tinh thần đoàn kết, chung tay bảo vệ

môi trường của tất cả sinh viên trong lớp. Ngoài ra, để ngăn tình trạng sinh viên đi

vệ sinh vứt giấy vào bồn cầu gây tắc bồn cầu, ảnh hưởng đến môi trường lớp học,

nhà trường cũng đã mua mỗi nhà vệ sinh một xọt đựng rác để các em đi vệ sinh

xong bỏ rác vào xọt rác và hàng ngày có cô lao công đi thu gom rác thải đó đưa ra

nơi tập kết theo quy định...

●Hoạt động của Đoàn Thanh niên Nhà trường trong việc bảo vệ môi

trường

Bên cạnh việc tổ chức học tuần giáo dục công dân đầu khóa nói về nội quy,

quy chế của nhà trường nói chung và quy định bảo vệ môi trường trong nhà trường

và nơi các em sinh sống nói riêng, Ban Giám hiệu nhà trường đã chỉ đạo Đoàn

Thanh niên của nhà trường chọn ra ở mỗi lớp một vài em có sức khỏe tốt, có tinh

thần trách nhiệm trong công việc được giao và đặc biệt là yêu thích các hoạt động

tình nguyện để tham gia vào Đội Thanh niên xung kích của nhà trường. Nhiệm vụ

của Đội Thanh niên xung kích là tham gia trực tiếp vào các hoạt động tình nguyện

của nhà trường và của Tỉnh Đoàn Hải Dương nếu có yêu cầu. Các hoạt động đó bao

gồm: bảo vệ môi trường, tết trồng cây, tiếp sức mùa thi, mùa hè xanh, hiến máu

nhân đạo, tấm lòng nhân ái... Các em được khoác trên mình màu áo xanh tình

nguyện, nơi nào cần các em có mặt, những việc làm khó các em xuất hiện. Nhà

trường cũng khích lệ tinh thần các em bằng việc trao bằng khen cho những sinh

viên ưu tú, tích cực trong hoạt động tình nguyện cho nhà trường và tỉnh nhà, đồng

thời cũng tổ chức kết nạp những em sinh viên tình nguyện xuất sắc vào trong hàng

ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với nhũng giải thưởng cao quý đó cùng tinh

thần hoạt động hăng say đã có nhiều em được kết nạp Đảng ở năm học thứ ba và

năm cuối của quãng đời sinh viên.

Các em sinh viên trong Đội thanh niên xung kíchchính là hạt nhân quan

trọng trong quátrình bảo vệ môi trường của nhà trường cũng như của Tỉnh Đoàn

44

Hải Dương. Các em được Đoàn Thanh niên nhà trường tổ chức hướng dẫn các hoạt

động tình nguyện trong đó nhấn mạnh đến hoạt động bảo vệ môi trường trong nhà

trường, từ việc hướng dẫn đó các em sẽ về tuyên truyền cho các bạn trong lớp mình

và là tấm gương sáng cho các bạn trong lớp học tập và noi theo. Các hoạt động bảo

vệ môi trường của Đội Thanh niên xung kích của nhà trường đầu tiên không thể

thiếu là vứt rác đúng chỗ, tập kết rác đúng nơi quy định; tham gia vệ sinh lớp học và

khuôn viên nhà trường hàng tuần, hàng tháng và hàng quý; tham gia hoạt động

trồng cây xanh do Đoàn trường và Ban Giám hiệu nhà trường phát động... Do nhà

trường có 2 cơ sở, một cơ sở đang trong quá trình hoàn thiện nên hoạt động trồng

cây xanh phủ xanh đất trống của nhà trường đang được tiến hành rất khẩn trương và

nhanh chóng, chính Đội thanh niên xung kích đã góp rất nhiều công sức trong quá

trình thực hiện chương trình đó. Các cây xanh đã được trồng ở rất nhiều khu đất

trống trong khuôn viên của nhà trường và đều được sự chung tay góp sức của các

em. Mùa mưa bão hàng năm do ảnh hưởng của các đợt bão lớn đổ bộ vào Hải

Phòng, Quảng Ninh gây ảnh hưởng đến khuôn viên của nhà trường như: lá cây,

cành cây rụng nhiều, cây mới trồng đổ do gió to của bão... Sau mỗi đợt bão như vậy

thì chính các em trong Đội Thanh niên xung kích cùng Đoàn trường đã cùng nhau

chung tay khắc phục hậu quả của mưa bão gây ra: thu dọn lá cây rụng, cành cây gãy

cùng nâng những cây mới trồng lên trồng lại cho vững chắc hơn.

Ngoài những việc làm ở trong trường, Đội Thanh niên xung kích còn tích

cực tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường ở ngoài trường khi có sự chỉ đạo của

Đoàn Thanh niên Nhà trường hoặc có sự phối hợp với Tỉnh Đoàn Hải Dương như:

mỗi năm đến ngày 27/7, ngày thương binh, liệt sĩ, ngày nhớ ơn các anh hùng liệt sĩ

đã hi sinh vì Tổ quốc. Và để tri ân các anh hùng liệt sĩ của quê hương Hải Dương đã

anh dũng hi sinh vì màu cờ Tổ quốc, Đoàn Thanh niên Trường Đại Học Hải Dương

đã cùng Đội Thanh niên xung kích về nghĩa trang thành phố Hải Dương và nghĩa

trang xã Liên Hồng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương (địa chỉ cơ sở 2 của Nhà

trường) để chăm sóc mộ các anh hùng liệt sĩ. Đây là một việc làm vô cùng ý nghĩa

45

và mang tính nhân văn thể hiện lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam. Qua đây cũng

giáo dục tinh thần yêu nước cho các em và truyền thống“uống nước nhớ nguồn”,

“ăn quả nhớ người trồng cây”,hướng về cội nguồn dân tộc để các em biết trân

trọng hơn những tháng ngày hòa bình mà chúng ta có được hôm nay. Hay hàng

năm đến mùa lễ hội Côn Sơn – Kiếp Bạc (tại Chí Linh – Hải Dương) Đoàn trường

phối hợp cùng Tỉnh Đoàn Hải Dương cho các em sinh viên trong đội xung kích

cùng các em sinh viên ưu tú, thích hoạt động tình nguyện xuống di tích lịch sử Côn

Sơn – Kiếp Bạc cùng Ban Chấp hành Đoàn cơ sở dọn vệ sinh khuôn viên của đền,

chùa và chuẩn bị những đồ dùng cho lễ hội.

Những việc làm trên của Đội Thanh niên xung kích đã góp phần to lớn vào

công cuộc bảo vệ môi trường của nhà trường. Qua đây cũng rèn luyện tính tự giác,

tinh thần trách nhiệm với công việc được giao và góp phần cung cấp các kiến thức

thực tế về bảo vệ môi trường cho các em để các em có thể tự tin làm tốt công việc

trong công tác tuyên truyền bảo vệ môi trường tại lớp học và tại địa phương cũng

như củng cố tinh thần sẵn sàng đảm nhận, xung kích, tình nguyện bảo vệ môi

trường, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục ý thức, trách nhiệm bảo vệ môi

trường vì cuộc sống xanh – sạch – đẹp của Nhà trường cũng như của quê hương

tỉnh nhà.

Đoàn Thanh niên nhà trường sau khi xây dựng lên Đội Thanh niên xung kích

thành hạt nhân tốt cho hoạt động bảo vệ môi trường đã cho các hạt nhân đó về lớp

mình và tổ chức nhiều hoạt động về bảo vệ môi trường như:

* Giữ gìn vệ sinh môi trường trong lớp học, khuôn viên nhà trường, nơi ở và

nơi cư trú

Đây là hoạt động thường xuyên được tiến hành hàng tuần, hàng tháng cùng

với các hoạt động lao động khác với mục đích hình thành ở các em ý thức, thói

quen về việc giữ gìn vệ sinh trong trường, lớp, nơi ở được sạch sẽ, đẹp và thoáng

mát. Thông qua hoạt động giữ gìn vệ sinh môi trường đó sinh viên sẽ hiểu được giá

trị của lao động, thành quả lao động của các em được chính bản thân các em nhìn

46

thấy và được các thầy cô ghi nhận, từ đó các em nhân thức được mặc dù mình còn

sinh viên nhưng vẫn góp phần vào việc cải thiện môi trường không chỉ ở lớp học

của mình mà còn ở trong khuôn viên của nhà trường, ở cả nơi mình sinh sống và tạo

nên tinh thần hứng khởi trong lao động và học tập. Việc làm này thường được Đoàn

trường tổ chức vào các ngày nghỉ thứ 7, chủ nhật hàng tuần để sau khi lao động dọn

vệ sinh xong xong các em được về nghỉ ngơi lấy lại sức khỏe cho ngày hôm sau đi

học. Việc bố trí như vậy vừa không làm ảnh hưởng đến việc học tập của các em vừa

tạo được không khí hăng say lao động trong toàn trường. Các lớp sinh viên được

tập trung lại (điểm danh quân số lớp để làm cơ sở cho việc đánh giá điểm rèn luyện

vào cuối kì học) nghe phổ biến nội dung của buổi lao động ngày hôm đó và được

chia theotừng lớp để thực hiện từng công việc đã được phân công dưới sự giám sát

của giáo viên chủ nhiệm các lớp. Các công việc giữ gìn vệ sinh môi trường bao

gồm:mỗi lớp sẽ tiến hành dọn vệ sinh từ trong phòng học lớp mình ra đến sân

trường và khuôn viên trường phía trước lớp các em học, các em sẽ quét dọn phòng

học, lau bàn, ghế, bảng ghi, cửa sổ, cửa ra vào, quét dọn hành lang bên ngoài lớp

học, cầu thang lên xuống, sân trường phía trước lớp học; Nhổ cỏ quanh bồn hoa

trước lớp học, cắt tỉa lá vàng, cành cây khô héo, làm cỏ quanh gốc cây to, vun đất,

bón phân cho cây...; Quét dọn và thu gom rác thải ra nơi tập kết rác tại đường đi,

sân trường, sân vận động, sân bóng chuyền, sân tập thể dục, sân cầu lông, khu ký

túc xá sinh viên, xung quanh khu làm việc của thầy cô, trước cổng nơi ra vào

trường....; Dọn và vệ sinh hòn non bộ, nơi nuôi cá cảnh của nhà trường, cho cá ăn...;

Bảo vệ, giữ gìn nguồn nước, vệ sinh cống thoát nước để nước thoát ra nhanh chóng,

tránh tắc nước, vệ sinh hệ thống nước thải; Tổ chức phát quang bụi rậm, làm thông

thoáng môi trường tránh được các loài ký sinh trùng gây bệnh sinh sôi, phát triển

làm ảnh hưởng đến sức khỏe của mọi người.

Ngoài việc triển khai sinh viên dọn vệ sinh lớp học, khuôn viên Nhà trường,

Đoàn Thanh niên còn phổ biến và hướng dẫn các em tích cực tham gia các buổi vệ

sinh cảnh quan đường làng, ngõ xóm do chính quyền địa phương nơi các em đang

47

sinh sống tổ chức bằng sự nhiệt tình của tuổi trẻ các em đang có sẵn, không nên ỉ lại

để cho bố mẹ mình tham gia. Đây cũng là việc làm giáo dục ý thức đạo đức môi

trường cho các em. Không chỉ thể hiện đạo đức môi trường ở nơi mình đang học do

có sự kèm cặp của thầy cô giáo mà còn phải thể hiện tinh thần ấy ở mọi lúc, mọi nơi

đặc biệt là ở nơi công cộng để thể hiện nếp sống văn minh, văn hóa.

Khi được hỏi: Hàng ngày bạn có vứt rác đúng nơi quy định không? Có

294/300 phiếu trả lời: Có, chiếm 98%, 6/300 phiếu trả lời: không, chiếm 2%

Khi được hỏi: Ở trường học bạn đã làm gì để thể hiện mình là người có ý

thức đạo đức môi trường? Có 223 sinh viên trả lời: Không vứt rác bừa bãi, tích cực

tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường: dọn vệ sinh toàn trường, các buổi ngoại

khóa về môi trường..., chiếm 74,3%; Có 87 sinh viên trả lời: Không vứt rác bừa bãi,

chiếm 25,7%.

Khi được hỏi: Bạn đã tham gia vào hoạt động bảo vệ môi trường do Nhà

trường tổ chức bao nhiêu lần? Có 179/300 phiếu trả lời là một vài lần, chiếm

59,7%; 102/300 phiếu trả lời là 1 lần, chiếm 34%; 19/300 phiếu trả lời không lần

nào, chiếm 6,3%.

Như vậy, có thể khẳng định được rằng: đa phần các em đã hiểu được hành

động của việc bảo vệ môi trường là gì, tác hại của việc vứt rác bừa bãi như thế nào,

và đã có ý thức tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường do Nhà trường tổ chức.

Mặc dù còn một vài thành viên tham gia chưa tích cực và chưa tham gia

* Trồng cây phủ xanh đất trống cũng được Đoàn trường triển khai rộng rãi

Do cơ sở mới của nhà trường có diện tích đất đai là 21,7 ha; Giai đoạn 01:

14,7 ha, Nhà trường đã giải phóng mặt bằng và nhận bàn giao xong. Do diện tích

lớn và chưa xây dựng hết luôn nên Đoàn Thanh niên của Nhà trường căn cứ vào

tình hình thực tiễn phân chia khu đất trống chia cho mỗi lớp một khoảng nhất định,

mua cây xanh về cho các em trồng và chăm sóc. Đồng thời cũng cho mỗi lớp một

biển tên lớp mình để cắm và tiến hành tổ chức cuộc thi xem lớp nào chăm cây tốt sẽ

đạt giải thưởng và tuyên dương trước toàn trường để cho các lớp khác học tập và

48

noi theo. Các cây Nhà trường tập trung cho các lớp trồng chủ yếu là cây hoa ngũ

sắc, cây chuỗi ngọc trồng xung quanh các cây ăn quả và cây lâu năm như: xà cừ,

cây sưa, muồng hoàng yến, bằng lăng tím, phượng vĩ, lộc vừng, xoài, mít, sấu,...

vừa đem lại bóng mát cho sân trường để các em vui chơi, giải trí sau mỗi giờ học

căng thẳng; vừa hút khí CO2 và thải khí O2 cho không khí trong lành và lại cho cả

quả chín sạch để các em thu hoạch thành phẩm. Hoa ngũ sắc với các màu xen kẽ

nhau cùng hoa bằng lăng màu tím và muồng hoàng yến với những chùm hoa vàng

dài lại thêm những chùm phượng vĩ đỏ thắm tạo lên cảnh đẹp cho không gian của

Nhà trường và cũng góp phần tăng lên sự hứng thú trong học tập và thư giãn của

sinh viên.

Hàng năm mỗi đợt tết đến xuân về, thực hiện sự chỉ đạo của Ban Giám hiệu

nhà trường, Đoàn Thanh niên đã thực hiện chương trình Tết trồng cây theo lời kêu

gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Mùa xuân là tết trồng cây. Làm cho đất nước càng

ngày càng xuân”; “Vì lợi ích mười năm trồng cây. Vì lợi ích trăm năm trồng

người”. Tết trồng cây được thực hiện sau khi toàn trường nghỉ tết xong bắt đầu

quay trở lại làm việc và học tập vì lúc này thời tiết còn mưa xuân, thuận lợi cho cây

đâm chồi, nảy lộc. Đoàn trường chọn ngày thứ bảy hoặc chủ nhật sinh viên được

nghỉ học để không ảnh hưởng đến việc học tập của các em. Đối tượng tham gia là

Ban Giám hiệu nhà trường, thầy cô giáo trong toàn trường, Đội Thanh niên xung

kích cùng các bạn sinh viên có thành tích tốt trong hoạt động bảo vệ môi trường

cùng chung tay trồng các cây lâu năm, cây ăn quả với ước muốn cho ngôi trường

của mình được xanh tốt và trong lành hơn. Đây là một việc làm rất có ý nghĩa trong

mỗi dịp đầu năm, vừa là học tập tấm gương của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại vừa có

ý nghĩa cho sự phát triển của Nhà trường, vừa có ý nghĩa cho môi trường được xanh

hơn, đẹp hơn, mát hơn và không lãng phí những khu đất trống chưa có kế hoạch

xây dựng.

* Tổ chức thi tiểu phẩm tìm hiểu và tuyên truyền về nội dung bảo vệ môi

49

trường

Căn cứ vào tình hình thực tiễn môi trường của Nhà trường và tình hình các

em sinh viên, Đoàn trường phát động cuộc thi với nhiềunội dung phong phú, đa

dạng thu hút được đông đảo các lớp sinh viên tham gia với nhiều hình thức và thể

loại khác nhau: Tiểu phẩm về chức năng và vai trò không thể thiếu của môi trường

với cuộc sống con người; Tiểu phẩm ca ngợi những việc làm tốt góp phần bảo vệ

môi trường như: vứt rác đúng nơi quy định, tích cực trồng cây xanh, không bẻ cành,

chặt cây, hút thuốc hay dẫm đạp lên thảm cỏ nơi công cộng... hay tuyên truyền cho

mọi người hiểu được tác dụng của hành động bảo vệ môi trường; Tiểu phẩm phê

phán những hành động không tốt gây tác hại xấu đến môi trường: vứt rác bừa bãi,

hút thuốc lá nơi công cộng; chặt phá rừng, săn bắn các loài thú quý hiếm, sử dụng

các loại chất hoá học cho cây trồng, vật nuôi và môi trường sinh thái, khai thác cạn

kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên…; Tiểu phẩm về sựphát triển của công nghiệp,

các khu công nghiệp, khu đô thị ngày càng nhiều, phát triển của giao thông gây ảnh

hưởng lớn đến môi trường, làm ô nhiễm môi trường, rác thải, chất thải công nghiệp

đưa ra môi trương với số lượng ngày càng lớn, thậm chí còn chưa qua xử lý hoặc

mới xử lý sơ qua; Tiểu phẩm về thời trang sử dụng các đồ dùng đã dùng rồi với

mục đích tái chế, tái sử dụng nhằm nhấn mạnh sự tiết kiệm và bảo vệ môi trường.

Qua cuộc thi đều được chấm điểm công bằng và dựa trên ý nghĩa của từng tiểu

phẩm để trao giải cho đội nào có tiểu phẩm ấn tượng nhất, công phu nhất và ý nghĩa

nhất để giáo dục tinh thần bảo vệ môi trường, phê phán các hành vi gây ô nhiễm

môi trường cho các em và trên cơ sở đó tuyên truyền cho các em về hành động, việc

làm góp phần bảo vệ môi trường đang bị chính con người làm cho ô nhiễm.

● Hoạt động của giảng viên nhà trường trong việc giáo dục đạo đức môi

trường cho sinh viên

Một thành phần không thể thiếu trong công cuộc bảo vệ môi trường của Nhà

trường đó là đội ngũ cán bộ giảng viên, những người thầy giáo, cô giáo đứng trên

bục giảng truyền kiến thức, kinh nghiệm trong cuộc sống và cả nhiệt huyết cho sinh

50

viên. Nhận thấy tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng nghiêm trọng

trên địa bàn tỉnh Hải Dương, Trường Đại Học Hải Dương là trường hiện tại có

khoảng 3000 sinh viên, cũng góp một phần vào việc làm nên tình trạng ô nhiễm

môi trường đó, và để ngăn chặn được tình trạng ô nhiễm môi trường, bảo vệ được

môi trường khỏi các tác hại của nó thì không thể thiếu được việc giáo dục ý thức

đạo đức về môi trường cho các em. Hiểu được việc làm quan trọng đó nên các

thầy cô đã nghiên cứu để có những hình thức phù hợp cho việc đưa nội dung bảo

vệ môi trường vào chương trình học một cách hợp lý bằng cách lồng ghép nội

dung đó và các môn học khác vì hiện nay Nhà trường chưa có môn học đạo đức

môi trường. Hình thức lồng ghép này là vô cùng sáng tạo và hợp lýphù hợp với

thực tiễn của Nhà trường đồng thời cũng tạo được tính liên môn, liên ngành, liên

lĩnh vực. Việc lồng ghép nội dung bảo vệ môi trường vào các môn học khác cũng

tạo điều kiện cho thầy cô không phải sắp xếp lại khung chương trình học của các

em. Các môn được thầy cô lồng ghép nội dung này là: Những nguyên lý cơ bản

của chủ nghĩa Mác – Lênin, Pháp luật đại cương, kinh tế môi trường (đối với sinh

viên ngành kinh tế tổng hợp)... Mặc dù là lồng ghép nhưng không có nghĩa là

giảng viên giảng dạy cứ tập trung nhấn mạnh nội dung bảo vệ môi trường mà

quên đi nội dung chính của môn học hoặc giảng viên chỉ chú ý đến nội dung của

môn học mà không nhắc tới vấn đề môi trường, mà lồng ghép ở đây là sự đan xen

hợp lý hai nội dung đó sao cho sinh viên hiểu được nội dung của môn học và hiểu

được tầm quan trọng của môi trường đối với cuộc sống hàng ngày của các em và

của gia đình các em, hiểu được nguyên nhân và tác hại của ô nhiễm môi trường để

từ đó đánh thức nhận thức của các em, thúc đẩy các em có những hành động ngăn

chặn ô nhiễm môi trường và bảo vệ bản thân trước tác hại của ô nhiễm môi trường

như: bỏ rác đúng nơi quy định; không hái hoa, bẻ cành, dẫm lên cỏ quanh các bồn

cây, khuôn viên trường, không hút thuốc trong giờ học hay giờ giải lao gây ô

nhiễm môi trường; tích cực tham gia các buổi lao động dọn vệ sinh, chăm sóc cây

51

xanh do Đoàn trường tổ chức...

Bên cạnh hoạt động lồng ghép nội dung đạo đức môi trường đan xen với các

môn học khác trong những giờ học chính khóa, các thầy cô giáo còn tổ chức cho

các em các hoạt động ngoại khóa về với các nội dung có liên quan đến chủ đề đạo

đức môi trường. Với việc tổ chức hoạt động ngoại khóa này có ý nghĩa rất lớn đối

với các em. Thứ nhất là làm cho tình bạn của các em gắn bó hơn, hiểu nhau hơn và

cùng giúp đỡ nhau trong học tập cũng như trong cuộc sống vì học chính khóa với số

thời gian ít ỏi các em ít có thời gian trò chuyện và tâm sự cùng nhau. Thứ hai là việc

học ngoại khóa chính là cơ hội cho các em đem những kiến thức đã học trong sách

vở ra ngoài thực tế để thực hành thực tập và cũng là cơ hội cho các em tìm tòi,

khám phá thế giới bên ngoài. Và đặc biệt với nội dung ngoại khóa về chủ đề môi

trường các em sẽ có điều kiện để quan sát môi trường xung quanh các em, các em

sẽ hiểu được tại sao phải cùng nhau bảo vệ môi trường, tại sao phải vứt rác đúng nơi

quy định, tại sao phải trồng cây xanh, tại sao phải tiết kiệm điện, nước...Qua hoạt

động ngoại khóa này các em sẽ hiểu được mối quan hệ giữa con người với môi

trường, những vấn đề nảy sinh do các hoạt động của con người gây ra với môi

trường và cách xử lý các vấn đề đó như thế nào cho phù hợp với tình hình hiện tại.

Phần lớn sinh viên trong trường là các ngành kế toán, tài chính ngân hàng,

quản trị kinh doanh và kỹ thuật điện – điện tử nên các thầy cô có tổ chức cho các

em đi ngoại khóa trong các nhà máy, xí nghiệp, công ty đóng trên địa bàn thành phố

Hải Dương như: khu công nghiệp Đại An, khu công nghiệp Tân Trường, khu công

nghiệp Phúc Điền, khu công nghiệp Nam Sách... với các công ty: Công ty TNHH

Brother, Công ty TNHH Sumidenso,Công ty TNHH Việt Nam Toyo Denso, Công

ty TNHH Điện tử Towada Việt Nam, Công ty TNHH Điện tử Umc Việt Nam,... để

một mặt mang kiến thức đã được học trên lớp vào thực tế và một mặt xem xét cách

thức họ phân loại rác và xử lý rác thải, nước thải đưa ra môi trường... Còn với

ngành quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành các thầy cô cho các em đi ngoại khóa tại

các khách sạn, các danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Hải Dương như: khách sạn

52

Nam Cường, di tích lịch sử Côn Sơn – Kiếp Bạc, Văn miếu Mao Điền, di tích Đền

Cao Kinh Môn. Qua đây các em được vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế

và tuyên truyền cho mọi người thấy tác hại của việc vứt rác bừa bãi nhất là ở những

nơi công cộng, vừa xấu cảnh quan du lịch vừa ảnh hưởng tới môi trường.

Song song với việc lồng ghép nội dung đạo đức môi trường vào cùng các

môi học chính khóa và cho sinh viên đi ngoại khóa về chủ đề môi trường thì các

thầy cô Trường Đại học Hải Dương còn tìm hiểu tình hình thực tế, các em sinh

viên của Nhà trường chủ yếu xuất thân từ vùng nông thôn, cha mẹ các em đều làm

nghề nông là chính và với ước mơ mong các con mình được đổi đời nên đã cho

các em lên thành phố học tập. Vì là ở nông thôn nên cha mẹ các em phần lớn là

nhận thức nhiều vấn đề hiện tại còn chưa sâu, nên rất cần sự giải thích, hướng dẫn

của các em về các công việc, đặc biệt là công việc bảo vệ môi trường. Ở nông

thôn hiện tại vẫn làm nông nghiệp và chăn nuôi gia súc, gia cầm là chính nên

nhiều gia đình còn để rác thải bừa bãi, mùa thu hoạch đến còn để rơm dạ tràn lan

ra đường đi lại rồi mưa xuống lâu ngày gây mùi khó chịu, sử dụng thuốc trừ sâu,

trừ cỏ chưa đúng theo quy định, chất thải của gia súc gia cầm, nước thải sinh hoạt

chưa được xử lý đưa ra môi trường gây ảnh hưởng đến các gia đình xung quanh....

Hiểu được thực trạng đó nên các thầy cô đãtích cực giáo dục, hướng dẫn các em

xử lý các tình huống về môi trường và tuyên truyền nội dung bảo vệ môi trường

cho các thành viên trong gia đình các em, cho hàng xóm, láng giềng nơi các em

sinh sống. Đồng thời bản thân các em cũng phải là một tấm gương về bảo vệ môi

trường để mọi người noi theo, tích cực tham gia các chương trình do xã phường

phát động để cho thông thoáng và sạch đẹp đường làng, ngõ xóm để địa phương

các em cũng trở thành những nơi xanh – sạch – đẹp, để dần đẩy lùi tình trạng ô

nhiễm đang lan tràn xuống thôn quê. Từ những hành động và việc làm đó của các

em dần dần hình thành trong mỗi em khả năng nhận biết và phát hiện các tình

huống có vấn đề môi trường để từ đó xây dựng các kế hoạch hành động vì môi

53

trường và kiên định thực hiện kế hoạch đã đề ra.

Khi được hỏi: Ở địa phương nơi cư trú bạn đã làm gì để góp phần nâng cao

ý thức đạo đức môi trường của bản thân? Có 102/300 phiếu trả lời: Vứt rác đúng

nơi quy định, tham gia dọn vệ sinh nơi công cộng, tuyên truyền cho mọi người cùng

chung tay bảo vệ môi trường, thực hiện đúng các quy định về bảo vệ môi trường

của chính quyền địa phương, chiếm 34%; Có 122/300 phiếu trả lời: Vứt rác đúng

nơi quy định, tham gia dọn vệ sinh nơi công cộng, chiếm 40,7%; Có 72/300 phiếu

trả lời: Vứt rác đúng nơi quy định, chiếm 24%; Có 4/300 phiếu trả lời: không tham

gia, chiếm 1,3%.

Kết quả trả lời của câu hỏi trên cho thấy: ở địa phương nơi cư trú phần lớn

các em cũng đã ý thức được hoạt động của bản thân góp phần bảo vệ môi trường là

gì, mặc dù bên cạnh đó vẫn còn một vài hạt sạn chưa có ý thức về việc bảo vệ môi

trường ở địa phương nơi cư trú.

Các thầy cô luôn gương mẫu chấp hành tốt các nội quy, quy định nói chung

của Nhà trường và các nội quy định về đạo đức môi trường. Đồng thời các thầy cô

cũng tích cực tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường do Nhà trường tổ chức

dành cho cán bộ giảng viên và cả những buổi lao động dọn vệ sinh khuôn viên Nhà

trường của các em sinh viên để các em thấy rằng các thầy cô không chỉ là những

người đứng trên bục giảng mà ngoài giờ giảng dạy cho các em các thầy cô cũng

tham gia lao động bà cũng để cho các em thấy các thầy cô không phải chỉ là những

người giảng lý thuyết xuông, là những người chỉ nói mà không làm. Từ những việc

làm này sẽ thúc đẩy suy nghĩ của các em và thôi thúc các em có những hành động

bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó bản thân các thầy cô cũng luôn trau dồi kiến thức

để hoàn thiện mình và Nhà trường cũng cho các thầy cô đi dự hội thảo, đi tập huấn,

bồi dưỡng về chủ đề môi trường để cập nhật những tình hình môi trường ở trong

nước nói riêng và trên thế giới nói chung để nắm được xu thế bảo vệ môi trường

của nhân loại để từ đó góp phần xây dựng trường mình thành ngôi trường xanh –

54

sạch – đẹp.

● Đạo đức môi trường của sinh viên Trường Đại học Hải Dương qua kết

quả điều tra 2018

Để biết được chính xác ý thức, suy nghĩ và nhận thức của sinh viên về vấn đề

đạo đức môi trường, tác giả luận văn đã tiến hành làm phiếu điều tra sinh viên hệ

đại học chính quy của tất cả các ngành hiện đang học tập tại Trường Đại học Hải

Dương từ năm thứ nhất đến năm thứ tư với số lượng điều tra là 300 sinh viên.

Khi được hỏi: Đạo đức môi trường là gì? Có 182/300 phiếu trả lời: Đạo đức

môi trường là một hệ thống các chuẩn mực đạo đức điều chỉnh quan hệ giữa con

người (xã hội) và tự nhiên vì sự phát triển bền vững, chiếm 60,7%; Có 97/300

phiếu trả lời: Đạo đức môi trường là một hệ thống bao gồm các quan điểm, nguyên

tắc, chuẩn mực đạo đức điều chỉnh những hành vi của bản thân một cách tự giác, tự

nguyện, môi trường nhằm hướng đến sự phát triển hài hòa, ổn định và bền vững

giữa con người với môi trường tự nhiên, chiếm 32,3%; Có 11/300 phiếu trả lời: đạo

đức môi trường là ý thức của mỗi người về môi trường theo hướng bảo vệ và gìn

giữ môi trường, chiếm 3,7%.

Khi được hỏi: Bảo vệ môi trường là gì? Có 228/300 phiếu trả lời: Bảo vệ

môi trường là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, ngăn chặn,

khắc phục các hậu quả xấu do con người gây ra cho môi trường, chiếm 66%; Có

102/300 phiếu trả lời: Bảo vệ môi trường là giữ cho môi trường trong lành, sạch

đẹp, chiếm 34%.

Khi được hỏi: Theo bạn nâng cao ý thức đạo đức môi trường có quan trọng

không? Có 258/300 phiếu trả lời là có, chiếm 86%; 39/300 phiếu trả lời là bình

thường, chiếm 12,3%; 3/300 phiếu trả lời không, chiếm 1%.

Khi được hỏi: Ô nhiễm môi trường là gì? Có 182/300 phiếu trả lời:Ô nhiễm

môi trường là việc đưa các chất thải vào môi trường quá mức quy định, có khả năng

gây hại đến sức khoẻ con người, đến sự phát triển sinh vật hoặc làm suy giảm chất

lượng môi trường, chiếm 60,7%; Có 78/300 phiếu trả lời: Ô nhiễm môi trường là

55

việc đưa các chất thải vào môi trường quá mức quy định, có khả năng gây hại đến

sức khoẻ con người, chiếm 26%; Có 40/300 phiếu trả lời: Ô nhiễm môi trường là

chất lượng môi trường bị suy giảm, chiếm 13,3%.

Khi được hỏi: Hàng ngày bạn có vứt rác đúng nơi quy định không? Có

294/300 phiếu trả lời: Có, chiếm 98%, 6/300 phiếu trả lời: không, chiếm 2%.

Khi được hỏi: Ở trường bạn đã làm gì để thể hiện mình là người có ý thức

đạo đức môi trường? Có 223 sinh viên trả lời: Không vứt rác bừa bãi, tích cực tham

gia các hoạt động bảo vệ môi trường: dọn vệ sinh toàn trường, các buổi ngoại khóa

về môi trường..., chiếm 74,3%; Có 87 sinh viên trả lời: Không vứt rác bừa bãi,

chiếm 25,7%.

Khi được hỏi: Bạn đã tham gia vào hoạt động bảo vệ môi trường do Nhà

trường tổ chức bao nhiêu lần? Có 179/300 phiếu trả lời là một vài lần, chiếm

59,7%; 102/300 phiếu trả lời là 1 lần, chiếm 34%; 19/300 phiếu trả lời không lần

nào, chiếm 6,3%.

Khi được hỏi: Tại sao không nên sử dụng nhiều túi nilon? Có 92/300 phiếu

trả lời: Túi nilon ra môi trường lâu phân hủy, khi rơi vào nước sẽ gây ô nhiễm nước;

rơi vào đất sẽ ngăn cản hoạt động của sinh vật đất; khi đốt sẽ gây mùi độc hại đối

với sức khỏe con người và sinh vật, chiếm 30,7%; Có 124/300 phiếu trả lời: Túi

nilon khó phân hủy, chiếm 41,3%; Có 84/300 phiếu trả lời: Gây nhiều rác thải,

chiếm 28%.

Khi được hỏi: Ở địa phương nơi cư trú bạn đã làm gì để góp phần nâng cao

ý thức đạo đức môi trường của bản thân? Có 102/300 phiếu trả lời: Vứt rác đúng

nơi quy định, tham gia dọn vệ sinh nơi công cộng, tuyên truyền cho mọi người cùng

chung tay bảo vệ môi trường, thực hiện đúng các quy định về bảo vệ môi trường

của chính quyền địa phương, chiếm 34%; Có 122/300 phiếu trả lời: Vứt rác đúng

nơi quy định, tham gia dọn vệ sinh nơi công cộng, chiếm 40,7%; Có 72/300 phiếu

trả lời: Vứt rác đúng nơi quy định, chiếm 24%; Có 4/300 phiếu trả lời: không tham

56

gia, chiếm 1,3%.

Khi được hỏi: Môi trường sống gồm có những thành phần nào? Có 288/300

phiếu trả lời: Môi trường sống gồm có: Nước, không khí, đất, tài nguyên thiên

nhiên, ánh sáng, quan hệ xã hội, chiếm 96%; Có 12/300 phiếu trả lời: Môi trường

sống gồm có: Nước, không khí, đất, chiếm 4%.

Qua khảo sát có thể thấy, phần lớn sinh viên trong trường đã có những hiểu

biết nhất định về môi trường, về bảo vệ môi trường và về mối quan hệ giữa con

người với các yếu tố tự nhiên của môi trường. Các em cũng đã hiểu cần phải làm gì

để bảo vệ môi trường, tác hại của việc ô nhiễm môi trường đối với con người và

sinh vật. Đặc biệt các em cũng hiểu được tác hại của việc sử dụng nhiều túi nilon,

nhất là khi đi mua hàng, hầu như mọi người đều tiện tay xin thêm cái túi nilon và về

lại vứt đi mà không biết rằng đó là loại rác khó phân hủy, hoặc biết nhưng vẫn bàng

quang... Và hầu hết các em đều ý thức được việc phải vứt rác đúng nơi quy định, đó

được coi là việc làm tối thiểu trong nội dung bảo vệ môi trường.

Kết quả khảo sát cũng cho thấy, hầu hết sinh viên đều có ý thức, suy nghĩ và

có sự tu dưỡng đạo đức môi trường. Điều đó thể hiện qua hành động của các em

như: thói quen tiết kiệm điện, nước, giữ gìn vệ sinh chung, tích cực tham gia vào

các hoạt động làm cho môi trường xanh – sạch – đẹp không chỉ ở trường nơi các em

đang học tập mà còn ở cả địa phương nơi các em đã và đang sinh sống.

Để có được những thành tựu như trên không chỉ do bản thân các em tự cố

gắng mà còn do sự cố gắng của toàn trường từ Đảng ủy, Ban Giám hiệu, đội ngũ

giảng viên, Đoàn thanh niên, Hội sinh viên và các phòng ban khác đã cùng nhau

chung tay góp sức tạo nên sức mạnh đoàn kết to lớn hướng vào mục tiêu bảo vệ

môi trường.

2.2.2. Đạo đức môi trường ở sinh viên trường Đại học Hải Dương: những

vấn đề đặt ra.

Từ kết quả khảo sát ở trên cũng phản ánh, bên cạnh những thành tựu đạt

57

được là đa số sinh viên trong trường đề có ý thức đạo đức môi trường, nhưng bên

cạnh đó vẫn còn một vài hạt sạn gây ảnh hưởng không tốt đến đạo đức môi trường

của Nhà trường, làm nên mặt hạn chế của đạo đức môi trường, các hạn chế đó là:

 Về phía Nhà trường

* Nhà trường đang trong quá trình xây dựng, môi trường còn nhiều hạn chế

Trường mới nâng cấp lên Đại học được 7 năm và có 2 cơ sở, cơ sở 2 mới

đang trong giai đoạn xây dựng và san lấp mặt bằng cơ sở vật chất còn sơ sài, cảnh

quan môi trường còn bừa bộn nên vấn đề bảo vệ môi trường ở cơ sở 2 còn nhiều

hạn chế. Nguyên vật liệu cho xây dựng còn để xen lẫn với các bồn cây đã hoàn

thiện và trồng hoa; xe chở nguyên vật liệu còn đi lại nhiều ảnh hưởng đến các cây

cảnh, cây ăn quả đã được trồng trong trường; khói bụi của xe tải, của đất, cát, đá do

đang xây dựng cũng gây ảnh hưởng tới môi trường.

* Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên hoạt động chưa tích cực

Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên chưa có nhiều hoạt động cho bảo vệ môi

trường. Hàng năm, Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên đều có phong trào cho hoạt

động bảo vệ môi trường như: Tết trồng cây, phủ xanh đất trống; giữ gìn vệ sinh môi

trường trong lớp học, khuôn viênnhà trường, nơi ở và nơi cư trú; cuộc thi tìm hiểu

và tuyên truyền bảo vệ môi trường... Tuy nhiên các hoạt động này chưa được chú

trọng nhiều, tổ chức còn rời rạc, chưa có sự đoàn kết của sinh viên giữa các ngành

với nhau, không được tổ chức thường xuyên, chưa có tính nhất quán. Số lượng sinh

viên tham gia các hoạt động đó chưa thực sự cao, chưa đạt 100% sinh viên tham

gia. Khi khảo sát còn 29/300 phiếu trả lời chưa tham gia lần nào, chiếm 9,7%.

* Nhà trường chưa có khoa Môi trườngvà giảng viên chuyên trách về giảng

dạy về môi trường

Đội ngũ giảng viên trong Nhà trường, ngoài khoa Nông nghiệp có chuyên

môn về môi trường (nhưng số lượng giảng viên ở khoa ít), còn lại phần lớn giảng

viên trong trường không có chuyên môn về môi trường, chưa được đào tạo về giảng

58

dạy môi trường, đạo đức môi trường nên trong hoạt động tổ chức lồng ghép nội

dung đạo đức môi trường với các nội dung của các môn học khác, sự truyền kiến

thức của thầy cô cho các em còn có phần các em chưa hiểu được.

Mỗi môn học đều có đặc thù riêng và có phương pháp giảng dạy phù hợp với

từng môn và đạo đức môi trường cũng không ngoại lệ. Môn học này yêu cầu sự cập

nhật liên tục về tình hình môi trường không chỉ ở phạm vi tỉnh Hải Dương mà còn ở

trên phạm vi cả nước và thế giới, đồng thời môn học cũng đòi hỏi phải được gắn

cùng các hoạt động thực tiễn. Phải cho các em nắm được tình hình thực tiễn thì từ

đó mới kích thích ý thức đạo đức môi trường trong mỗi em và thôi thúc các em có

những hành động vì môi trường, có những hành động đạo đức môi trường. Nhưng

do trường mới nâng cấp lên Đại học được 7 năm, lại có 2 cơ sở và cơ sở 2 đang

trong giai đoạn xây dựng nên kinh phí đầu tư cho hoạt động môi trường và môn

học đạo đức môi trường còn nhiều hạn chế.

Các hoạt động ngoại khóa về môi trường của Nhà trường cũng gặp phải

một vài khó khăn như: kinh phí đi lại, tổ chức, sự liên kết với các địa điểm ngoại

khóa… vì vậy chưa được tổ chức một cách thường xuyên mà diễn ra rời rạc,

không được tổ chức thường xuyên và không có hệ thống nên chưa thu hút được

đông đảo sinh viên tham gia.

* Kinh phí cho hoạt động bảo vệ môi trường chưa hợp lý

Kinh phí Nhà trường chi cho hoạt động bảo vệ môi trường, đạo đức môi

trường chưa nhiều. Do cơ sở 2 của Nhà trường đang trong giai đoạn xây dựng

nên nhiều chi phí cho hoạt động đó và hoạt động bảo vệ môi trường chưa có số

kinh phí phù hợp để đạt kết quả cao. Mặt khác Nhà trường cũng lấy số ngân sách

tự có để chi cho hoạt động bảo vệ môi trường nên số lượng chi chưa nhiều. Là

trường Đại học công lập duy nhất của tỉnh Hải Dương lập ra nên bên cạnh số

vốn tự có chi cho hoạt động bảo vệ môi trường cần phải có sự hỗ trợ của các Sở,

ban ngành đóng trên địa bàn thành phố.

59

 Về phía sinh viên

Bên cạnh những thành tựu sinh viên Nhà trường đạt được về lĩnh vực đạo

đức môi trường thì vẫn còn một vài hạn chế nhất định. Đó là sự chưa nhận thức

được tầm quan trọng của môi trường và sự thiếu ý thức của một số em trong các

hoạt động bảo vệ môi trường do Ban Giám hiệu Nhà trường, Đoàn Thanh niên,

Hội sinh viên và các thầy cô trong trường tổ chức. Các em nghĩ việc vứt rác ra

bừa bãi, việc dọn vệ sinh lớp học, dọn cỏ quanh bồn hoa, cây cảnh, việc trồng

cây xanh... là của các cô lao công, là của các bạn trong Đội Thanh niên xung

kích, là của Đoàn trường và Nhà trường, không phải phận sự và nhiệm vụ của

mình nên thờ ơ, bàng quan trước các hoạt động đó. Đồng thời do các em có ý

nghĩ hiện tại môi trường mình đang ở là bình thường, không phải bị ô nhiễm và

hoạt động bảo vệ môi trường chỉ mang tính hình thức, làm mất thời gian nên thờ

ơ, không quan tâm.

 Nguyên nhân

Mặc dù thành tựu của hoạt động bảo vệ môi trường của Nhà trường có

nhiều thành tích nhưng bên cạnh đó vẫn còn một vài hạn chế. Có nhiều nguyên

nhân gây ra các hạn chế đó. Và xét về mặt chủ quan và khách quan ta có nguyên

nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan.

* Nguyên nhân chủ quan

Nguyên nhân của những hạn chế trên là do nhận thức của các em về bảo

vệ môi trường còn hạn chế và các em thiếu ý thức trong việc giữ gìn môi trường

vệ sinh lớp học. Đó xuất phát từ thói quen lười biếng (nhất là những bạn nhà

giàu quen sống ỉ lại, những cậu ấm cô chiêu được chiều chuộng từ bé, nhiều bạn

ở nhà còn có người giúp việc nên ở nhà không phải làm gì, ra trường cũng không

muốn lao động), lối sống ích kỷ nghĩ đến quyền lợi cá nhân của một số em chỉ

muốn sạch mình, bẩn người nên nhiều em ăn sáng xong để luôn rác tại ghế đá,

uống nước xong vứt vỏ chai nước ra ngay hành lang, mặc dù thùng rác cách đó

chỉ vài bước chân. Các em nghĩ rằng, những nơi công cộng như trường học, lớp

60

học không phải nhà mình, chính vì vậy trong giờ học nhiều em ăn quà vặt như:

hoa quả, bánh kẹo, đồ ăn sáng, kẹo cao su, nước ngọt... dùng xong để rác luôn

trong ngăn bàn. Cách suy nghĩ ấu trĩ như vậy vô cùng thiển cận và nguy hại

không chỉ cho bản thân các em mà còn cả cho chỗ tập thể, chỗ công cộng. Rồi

nữa, đó là do thói quen có từ lâu, những thói quen hình thành ở nhà như:

nhiều bạn nhà ở quê nên rộng rãi, có nhiều đất thừa, các bạn tiện vứt rác ra

đường hoặc ra vườn sau nhà lâu dần gây ô nhiễm., khó sửa đổi khi ở các lớp

học, mặc dù các thầy cô giáo và ban cán sự lớp phải thường xuyên nhắc nhở

nhưng vẫn không thể nào giữ cho lớp học sạch đẹp.

* Nguyên nhân khách quan

Kinh phí của Nhà trường chi cho hoạt động bảo vệ môi trường chưa

nhiều, do chưa tìm được nhiều nguồn tài trợ từ phía các công ty, doanh

nghiệp. Nguồn ngân sách Ủy ban nhân dân tỉnh chi cho Nhà trường còn hạn

chế và nhiều lúc chưa kịp thời nên dẫn đến sự rời rạc trong quá trình tổ chức

các hoạt động bảo vệ môi trường. Đặc biệt hiện nay trường có 2 cơ sở nên

kinh phí chi cho hoạt động bảo vệ môi trường đòi hỏi phải tăng gấp đôi so với

trước đây. Nhiều hoạt động bảo vệ môi trường phải tổ chức đồng thời ở cả 2

cơ sở như hoạt động don vệ sinh phòng học, khuôn viên trường…

Do có 2 cơ sở ở cách nhau 7km nên việc tổ chức hoạt động bảo vệ môi

trường còn gặp nhiều khó khăn, chưa có sự đồng nhất về hình thức tổ chức, về

phương tiện đi lại. Cơ sở 1 ở phường Hải Tân, thành phố Hải Dương nên mật

độ dân cư đông đúc, nhiều quán nước dựng lên hai bên đường vào trường nên

rác thải do ăn sáng, ăn trưa và đồ uống rất nhiều, gây mất cảnh quan ngoài

cổng trường. Cơ sở 2 ở phía Nam, cầu Lộ Cương (xã Liên Hồng, huyện Gia

Lộc, tỉnh Hải Dương) do mới san lấp mặt bằng nên mật độ dân cư còn thưa

thớt nhưng diện tích của trường ở đây nhiều nên cần số lượng đông bao gồm

cả thầy cô giáo cùng các em tham gia trong công tác trồng cây phủ xanh đất

61

trống để hạn chế phần đất thừa chưa đưa vào xây dựng.

Tiểu kết chương

Đại học Hải Dương là trường công lập duy nhất của tỉnh Hải Dương và

mới được nâng cấp lên Đại học nhưng đã gặt hái được nhiều thành công. Nhà

trường không chỉ tập trung vào việc truyền tri thức cho các em mà còn chú trọng

đến việc giáo dục đạo đức, lối sống cho các em, trong đó có cả đạo đức môi

trường với nhiều việc làm rất có ý nghĩa và mang lại hiệu quả tốt như: triển khai

học giáo dục đầu khóa, lồng ghép việc giáo dục đạo đức môi trường cho các em;

Tổ chức dọn vệ sinh lớp học, khuôn viên Nhà trường và nơi cư trú; Trồng cây

phủ xanh đất trống trong trường; cuộc thi tìm hiểu và tuyên truyền nội dung đạo

đức môi trường; Lồng ghép nội dung đạo đức môi trường cùng các môn học

chính khóa khác; Tổ chức hoạt động ngoại khóa với chủ đề bảo vệ môi trường…

Các hoạt động trên phần lớn đều gặt hái được thành công với số lượng các

em tham gia đông và có tinh thần trách nhiệm. Các em đã ý thức được những

việc làm góp phần bảo vệ môi trường như: không vứt rác bừa bãi; tích cực tham

gia các buổi dọn vệ sinh lớp học, khuôn viên Nhà trường và ở địa phương cư trú;

tích cự tham gia hoạt động trồng cây phủ xanh đất trống do Đoàn trường phát

động; tham gia các cuộc thi tìm hiểu và tuyên truyền nội dung đạo đức môi

trường và các buổi ngoại khóa về chủ đề bảo vệ môi trường… Nhưng bên cạnh

đó vẫn còn một số em chưa ý thức được việc bảo vệ môi trường nên còn vứt rác

chưa đúng nơi quy định, hút thuốc trong trường, không tham gia hoặc tham gia

chưa đầy đủ các buổi vệ sinh và các hoạt động bảo vệ môi trường do Đoàn

trường, các thầy cô giáo tổ chức. Đó là những em có sự nhận thức vấn đề chưa

tốt hoặc biết nhưng làm ngơ, nghĩ đó không phải việc của mình nên không làm.

Để phát huy những thành tựu và khắc phục những hạn chế nêu trên thì cần

có những giải pháp nhằm nâng cao đạo đức môi trường cho sinh viên Trường Đại

học Hải Dương, và trong chương 3 của luận văn tác giả sẽ nêu ra một số giải pháp

62

cơ bản để áp dụng cho Trường Đại học Hải Dương trong giai đoạn hiện nay.

Chương 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG

Ở SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI DƢƠNG

3.1. Nâng cao hoạt động của Nhà trƣờng trong giáo dục đạo đức môi

trƣờng cho sinh viên đại học Hải Dƣơng

Chúng ta muốn phát huy những thành tựu và khắc phục những hạn chế về

đạo đức môi trường ở sinh viên Trường Đại học Hải Dương thì giải pháp đầu tiên

và không thể thiếu trong việc nâng cao đạo đức môi trường ở sinh viên Trường Đại

học Hải Dương đó chính là: Nâng cao hoạt động của Nhà trường trong giáo dục đạo

đức môi trường cho sinh viên đại học Hải Dương. Tại sao cần phải nâng cao hoạt

động của Nhà trường trong giáo dục đạo đức môi trường cho sinh viên đại học Hải

Dương? Đạo đức môi trường là một bộ phận của đạo đức, và khi nhắc tới đạo đức

chính là nhắc tới ý thức của mỗi người. Đặc biệt sinh viên đang ngồi trên ghế nhà

trường, nhà trường với tư cách là chủ thể giáo dục thì không thể bỏ qua việc nâng

cao hoạt động của Nhà trường trong giáo dục đạo đức môi trường cho sinh viên. Ý

thức về sự cần thiết phải bảo vệ môi trường là tiền đề để hình thành quan hệ và hành

vi đạo đức đối với môi trường. Để thực hiện giải pháp nêu trên cần phải có sự tham

gia của Ban giám hiệu Nhà trường, Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên và các thầy cô

giáo trong trường. Đây là giải pháp cơ bản nhất và cũng là giải pháp chi phối, tạo

nền tảng cho các giải pháp khác trong việc nâng cao đạo đức môi trường của sinh

viên Nhà trường.

Ban Giám hiệu Nhà trường với tư cách là chủ thể lãnh đạo toàn trường bao

gồm cả các thầy cô giáo trong trường và toàn bộ các em sinh viên các khóa hiện

đang học tập tại trường. Ban Giám hiệu chính là quản lý chung có trách nhiệm

chung đối với tất cả các công việc trong trường, trong đó có công tác giáo dục đạo

63

đức môi trường cho sinh viên toàn trường. Để thực hiện được trách nhiệm đó, Ban

Giám hiệu sẽ thể hiện thông qua các chủ trương, phương hướng phát triển và chức

năng quản lý toàn bộ hoạt động của nhà trường nhằm hướng đến sự bảo vệ môi

trường, thân thiện với môi trường, hài hòa với môi trường và chống lại ô nhiễm môi

trường. Đồng thời Ban Giám hiệu Nhà trường luôn luôn phải thực hiện đầy đủ,

nhanh chóng khẩn trương và chính xác các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà

nước đối với công tác giáo dục đạo đức môi trường trong Nhà tường. Trong thời

gian qua những chủ trương, phương hướng của Ban Giám hiệu Nhà trường nhiều

khi còn rời rạc, còn mang tính chung chung, chưa cụ thể và chưa được triển khai

ngay trong diện rộng, hoặc đã được triển khai nhưng còn chưa có sự quản lý sát sao

dẫn đến hoạt động bảo vệ môi trường trong Nhà trường còn nhiều hạn chế. Để khắc

phục những hạn chế này, trong thời gian tới Ban Giám hiệu Nhà trường cần có

những chủ trương cụ thể, chi tiết hơn, phương hướng rõ ràng và khẩn trương hơn,

chức năng quản lý cần được thực hiện một cách nghiêm túc, chính xác hơn theo

phương châm: đúng người đúng việc. Có như vậy thì việc nâng cao ý thức đạo đức

môi trường ở sinh viên trường Đại học Hải Dương mới có thể thành công được.

Đây là nhiệm vụ vô cùng cấp thiết trong giai đoạn hiện nay khi không chỉ nước ta

mà toàn nhân loại đã và đang phải đối mặt với hiện tượng biến đổi khí hậu, hiện

tượng ô nhiễm nguồn nước, đất, không khí, nước biển dâng cao, thiên tai bão lụt,

hiệu ứng nhà kính....

Để nâng cao đạo đức môi trường ở sinh viên Đại học Hải Dương, Ban Giám

hiệu Nhà trường cần triển khai tổ chức mở các buổi bồi dưỡng cho giảng viên giảng

dạy của Nhà trường để trau dồi và học tập các kiến thức, kỹ năng và nội dung về

giáo dục đạo đức môi trường cho sinh viên từ đó sẽ giúp cho giảng viên giảng dạy

trên lớp lồng ghép nội dung đạo đức môi trường cùng với các nội dung môn học

khác trong giờ lên lớp một cách khéo léo và hợp lý hơn để không gây sự nhàm chán

cho sinh viên, cùng cáchoạt động ngoại khóa ngoài giờ lên lớp. Đồng thời, do

trường không phải là trường chuyên đào tạo sinh viên chuyên ngành môi trường

64

nên các thầy cô giảng dạy cũng cần khắc phục những hạn chế về giáo dục đạo đức

môi trường trong giảng dạy như: dùng các thuật ngữ khoa học chuyên ngành về môi

trường gây khó hiểu cho sinh viên; các thông tin giáo dục về môi trường không

mang tính thực tế còn ở mức lý thuyết suông; nội dung môi trường không vừa sức

với sinh viên của từng ngành cũng như thực tiễn của nhà trường và của địa bàn tỉnh

Hải Dương.

Các thầy cô giáo, những người truyền lửa cho sinh viên, những người đứng

trên bục giảng với những bài giáo án của mình nhằm mang đến cho sinh viên những

kiến thức mình đã và đang có để với mong muốn các em sẽ thành công trong tương

lai phía trước. Và cũng chính các thầy cô cũng là hạt nhân để nâng cao đạo đức môi

trường cho sinh viên Truờng Đại học Hải Dương. Vì các thầy cô bên cạnh môn học

chính khóa trên lớp sẽ lồng ghép thêm nội dung đạo đức môi trường thông qua các

hành động và việc làm cụ thể. Cùng với giáo dục tri thức thì việc giáo dục những

chuẩn mực đạo đức môi trường là rất cần thiết. Chuẩn mực đạo đức là hình thức

biểu hiện xác định và cụ thể về những yêu cầu của xã hội đối với con người nhằm

bảo vệ môi trường và sự phát triển bền vững. Chuẩn mực đạo đức môi trường giúp

con người ứng xửa hợp lý và hợp đạo đức trong các quan hệ và hành vi cụ thể. Vì

vậy rất cần có sự giảng dạy, phân tích và hướng dẫn của giảng viên đứng lớp để

sinh viên hiểu được điều đó. Và để bài giảng có sự phối hợp hai nội dung về bài học

chính và nội dung đạo đức môi trường không đơn điệu và thu hút được sự chú ý của

sinh viên đòi hỏi mỗi thầy cô giáo phải luôn trau dồi kiến thức về đạo đức môi

trường để đưa kiến thức đó vào bài giảng một cách hợp lý, hài hòa, có sức thuyết

phục không gây khó hiểu, nhàm chán cho sinh viên. Để làm được điều đó đòi hỏi

các thầy cô tham gia một cách đầy đủ và sôi nổi các buổi bồi dưỡng về nội dung

đạo đức môi trường do Ban Giám hiệu Nhà trường triển khai tổ chức, đồng thời tích

lũy kiến thức từ cuộc sống hàng ngày thông qua hành động, việc làm và những gì

quan sát được trên báo, đài, ti vi, mạng internet… để từ đó rút ra được bài học kinh

65

nghiệm và truyền đạt lại cho các em sao cho ý thức trách nhiệm của các em về đạo

đức môi trường được nâng cao hơn nữa để chống lại hiện tượng biến đổi khí hậu và

ô nhiễm môi trường đang diễn ra.

Bên cạnh việc truyền kiến thức cho các em về đạo đức môi trường thì mỗi

thầy cô giáo với trách nhiệm là người đứng lớp cần là tấm gương sáng cho các em

học tập và noi theo và các thầy cô cũng rèn cho các em những thói quen tốt để bảo

vệ môi trường như: không vứt rác trong phòng học, trong ngăn bàn học hay ngoài

sân trường, trên đường đi về hay đi chơi cũng không vứt rác ra đó, khi các em đi

học hay đi chơi thấy rác trước mặt phải nhặt và đổ rác đúng nơi quy định, không

phải bằng khẩu hiệu hay lời khuyên mà quy định bắt buộc mỗi lớp học phải có một

rỏđựng rác đặt ở góc lớp và mỗi buổi học phân công từng bạn đi đổ rác. Khi nhìn

thấy bạn trong trường vứt rác không đúng chỗ, nên đến góp ý nhắc nhở lịch sự để

bạn vứt rác đúng nơi quy định góp phần giữ gìn mô trường chung của nhà trường

luôn sạch đẹp, vệ sinh. Ngoài ra trong cuộc sống sinh hoạt thường ngày của các em,

khi đi chợ hay đi siêu thị mua hàng tiêu dùng phục vụ nhu cầu sinh hoạt của bản

thân và gia đình, các thầy cô cũng nhắc nhở và giáo dục các em giảm thiểu việc

dùng túi nilon, hoặc mua những loại hàng hóa có bao bì dễtiêu hủy trong tự nhiên

hoặc có thể dùng lại nhiều lần, hay có thể dùng làn, túi đi chợ để đựng được nhiều

loại đồ khô. Các thầy cô cũng khuyên các em nên sử dụng điện, nước tiết kiệm để

tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên bằng cách sử dụng bóng đèn tiết kiệm điện,

tận dụng ánh sáng tự nhiên; không để ti vi, máy tính ở chế độ sleep,rút sạc pin máy

tính, điện thoại khi pin đầy; dùng nước khi thấy cần thiết, sử dụng nước thải để tưới

cây, tận dụng nước mưa; ở trường không nên nghĩ là của chùa mà sử dụng điện

nước một cách lãng phí, tận dụng phương châm: “tắt khi không sử dụng”, khi tan

học ra về kiểm tra các công tắc điện xem đã tắt hết chưa? Khuyên các em nếu ở gần

trường thì nên đi xe đạp hoặc đi bộ, nếu đi xe máy có thể đi chung nhau để tiết kiệm

xăng và hạn chế được chất thải vào không khí...

Công tác nâng cao đạo đức môi trường cho sinh viên Đại học Hải Dương,

66

Nhà trường cần phải luôn được đồng hành cùng với công tác tuyên truyền phổ biến

pháp luật trong nhà trường như: Luật giáo dục, luật phòng chống ma túy,... Chính vì

vậy trong quá trình truyền tri thức cho các em sinh viên các thầy cô cũng nên tuyên

truyền cho các em các điều luật về bảo vệ môi trường, luật phòng chống ma túy,

luật giáo dục.... theo tinh thần Nghị quyết 41-NQ-TƯ của Bộ Chính trị về “Bảo vệ

môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” để

hướng tới mục tiêu xây dựng trường học an toàn, thân thiện với thiên nhiên, hướng

tới một môi trường xanh và không khí trong lành hơn.

Một hạt nhân không thể thiếu trong công tác nâng cao đạo đức môi trường

cho sinh viên Đại học Hải Dương đó chính là Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên.

Đoàn Thanh niên của Nhà trường là tổ chức của lực lượng trẻ, là thế hệ năng

động, nhiệt tình và sáng tạo, chính vì thế mà Đoàn thanh niên có vai trò xung kích

trong mọi hoạt động và vận động được các em sinh viên tham gia thực hiện các

nhiệm vụ của Nhà trường, của địa phương và của xã hội. Đối với hoạt động bảo vệ

môi trường nhằm nâng cao đạo đức môi trường của sinh viên, Đoàn đã phát động

được một số phong trào với đông đảo sinh viên tham gia bảo vệ môi trường rất tích

cực và đạt hiệu quả tốt. Tuy nhiên, đướng trước những thực tế ô nhiễm môi trường,

trước tình hình biến đổi khí hậu đang diễn ra hiện nay thì như vậy vẫn chưa đáp ứng

được yêu cầu ngày càng cao của giáo dục đạo đức môi trường cho sinh viên Nhà

trường. Bởi vậy, phát huy hơn nữa vai trò của Đoàn Thanh niên là một trong những

giải pháp rất cần thiết để nâng cao ý thức đạo đức môi trường cho các em sinh viên.

Đoàn Thanh niên Nhà trường cần tổ chức nhiều chương trình với chủ đề bảo vệ môi

trường, nâng cao đạo đức môi trường nhiều hơn nữa vì thông qua mỗi lần tổ chức

dọn vệ sinh lớp học, khuôn viên nhà trường, làm cỏ bồn hoa, chăm sóc cây xanh,

trồng cây phủ xanh đất trống, “ngày thứ bảy tình nguyện”, “ngày chủ nhật xanh”

sau mỗi buổi làm việc các em nhìn thấy thành quả của mình sẽ càng kích thích tinh

thần hăng hái tham gia rèn luyện nâng cao ý thức của bản thân các em.

Hội sinh viên là tổ chức đoàn kết, khuyến khích, giúp đỡ những hội viên,

67

sinh viên trong hội về học tập cũng như rèn luyện bản thân để hoàn thành các nhiệm

vụ của sinh viên từ đó góp phần xây dựng Nhà trường ngày càng vững mạnh hơn.

Hội sinh viên cũng góp phần giáo dục lý tưởng, truyền thống đạo đức, lối sống và ý

thức pháp luật và đạo đức môi trường cho hội viên, sinh viên. Trong thời gian qua

hoạt động của Hội sinh viên về nâng cao ý thức đạo đức môi trường cho sinh viên

Nhà trường chưa được chú trọng nhiều, còn buông lỏng nên cần đẩy mạnh hơn nữa

việc triển khai thực hiện các chương trình hành động bảo vệ môi trường một cách

cụ thể và chi tiết hơn để phù hợp với tình hình thực tiễn và đặc thù của Nhà trường.

Đồng thời cũng cần nhận thức được việc nâng cao đạo đức môi trường cho sinh

viên cần phải đi đôi với giáo dục kỹ năng sống cho các em. Do đó Hội sinh viên

trong thời gian tới cũng cần tập trung có các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho

các em sinh viên để từ đó giúp các em nâng cao ý thức đạo đức môi trường cũng

như ý thức đạo đức của bản thân được hoàn thiện hơn.

Như vậy, có thể thấy để nâng cao đạo đức môi trường của sinh viên Trường

Đại học Hải Dương thì không chỉ có sự giảng dạy của thầy cô giáo mà cần phải có

sự phối hợp hài hòa của tất cả các thành phần trong Nhà trường từ Ban Giám hiệu

Nhà trường đến thầy cô giáo giảng dạy, cùng Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên cùng

các phòng chức năng khác mới có được kết quả tốt.

3.2. Tăng cƣờng các hình thức ngoại khóa, các hoạt động ngoài giờlên

lớpcho sinh viên về đạo đức môi trƣờng

Đứng trước tình hình ô nhiễm môi trường như hiện nay Nhà trường chưa có

môn học riêng về đạo đức môi trường mà nội dung đạo đức môi trường cũng chỉ

được lồng ghép cùng các môn học khác nên bên cạnh hình thức lồng ghép ấy thì

Nhà trường cũng cần có các hoạt động ngoại khóa, các hoạt động ngoài giờ học cho

sinh viên về đạo đức môi trường nhằm giáo dục thêm cho các em lòng yêu thiên

nhiên, sống hòa nhập, thân thiện với thiên nhiên, tinh thần bảo vệ môi trường.

Phương thức ngoại khóa này được vận dụng để giải quyết khó khăn về quỹ thời

gian học tập trên lớp của các em sinh viên. Hoạt động ngoại khóa có ưu điểm là

68

sinh động, dễ gắn liền với thực tế, vừa cung cấp được kiến thức, kỹ năng, vừa có tác

dụng rèn luyện ý thức, thái độ cho từng cá nhân sinh viên từ đó sẽ thúc đẩy các em

có những hành vi đúng đắn góp phần bảo vệ môi trường. Thời gian qua Nhà trường

cũng đã tổ chức được một số hoạt động ngoại khóa cho sinh viên. Tuy nhiên các

hoạt động đó còn diễn ra rời rạc, không liên tục, chưa có tính khoa học và còn bị

động bởi nhiều nhân tố bên ngoài ảnh hưởng tới.

Trong thời gian tới Nhà trường cần khắc phục những hạn chế trên và cần đầu

tư thêm để hoạt động ngoại khóa diễn ra có được kết quả cao hơn. Cần có nhiều

hơn nữa các buổi thảo luận về chủ đề môi trường, bảo vệ môi trường, đạo đức môi

trường, các buổi đi thực tế trên địa bàn tỉnh Hải Dương để các em được chứng kiến

những hình ảnh thật về ô nhiễm môi trường đang diễn ra ở tỉnh mình nói riêng như

thế nào chứ không chỉ dừng lại ở các hình ảnh trên các trang mạng mang tính lý

thuyết, nhiều khi chưa có sức thuyết phục. Qua những buổi thực tế như vậy hướng

dẫn các em viết bài thu hoạch, phát biểu ý kiến và suy nghĩ của bản thân về tình

hình thực tiễn được quan sát và đưa ra một số giải pháp của bản thân để khắc phục

về hiện tượng ô nhiễm môi trường đã và đang diễn ra để qua đó các em càng ghi

nhớ hơn những hình ảnh ô nhiễm môi trường, những hành động mà mọi người làm

gây ra ô nhiễm môi trường để bản thân các em không mắc phải như họ. Đây cũng là

việc làm nhằm góp phần nâng cao đạo đức môi trường ở bản thân mỗi em sinh viên.

Việc làm đó có ý nghĩa giáo dục trên phạm vi rộng hơn, không còn giới hạn ở trong

khu vực của Nhà trường mà còn ra phạm vi tỉnh Hải Dương, để các em thấy được

không phải chỉ ở trong trường mình mới cần có ý thức đạo đức môi trường mà cả ra

bên ngoài, đặc biệt những nơi công cộng thì ý thức đó càng cần phải được nâng cao

hơn nữa, vừa thể hiện mình là người có đạo đức vừa góp phần bảo vệ môi trường.

Bên cạnh đó cũng cần tổ chức nhiều cuộc thi hơn nữa về chủ đề môi trường

để thu hút sinh viên các lớp tham gia như: “Tái chế sản phẩm”, các giáo viên cũng

đã tổ chức cho các em sinh viên thực hiện làm các sản phẩm tái chế từ hộp sữa đã

uống, ống hút, thùng giấy, chai nước đã uống hết, túi nilon… “Tiếng gọi thiên nhiên

69

và hành động của chúng ta” với những hình ảnh của thiên nhiên đang bị tổn thương

sâu sắc như: động vật quý hiếm không còn, rừng bị chặt phấ tàn khốc, xói mòn đất

xảy ra liên tục, nước sông bị ô nhiễm do sự vứt rác bừa bãi và nước thải đưa ra; sử

dụng thuốc trừ cỏ, trừ sâu, phân hóa học không đúng quy định làm đất nông nghiệp

chai sạn… và hành động của chúng ta như: không chặt phá rừng, ngăn chặn các

hành động đó, trồng cây gây rừng, trồng cây phủ xanh đất trống, bảo vệ động vật

quý hiếm, không sử dụng thuốc trừ sâu, trừ cỏ bừa bãi, không vút rác xuống sông,

hồ, ao và thải nước thải sinh hoạt chưa qua xử lý ra đó…; “Hành động nhỏ, lợi ích

lớn”: vứt rác vào thùng nhìn quang cảnh sạch đẹp hơn; tưới nước, bắt sâu, hái

những cành khô, lá úa, nhổ cỏ cho cây; không hút thuốc nơi công cộng, không dẫm

lên thảm cỏ, bẻ cành cây tươi; “Sống tiết kiệm vì môi trường bền vững” với các vở

kịch vềtiết kiệm điện, nước sinh hoạt, hạn chế sử dụng túi nilon; “Vì màu xanh quê

hương”: tích cực chăm sóc cây xanh và tham gia trồng cây xanh, nâng niu từng cây

như chính là bạn của mình….

Tổ chức các hoạt động văn nghệ: các hình thức ca, múa, nhạc mang nội dung

giáo dục môi trường sẽ có giá trị cao nếu được tổ chức tốt.

Ngoài ra cũng hưởng ứng và tuyên truyền ngày môi trường thế giới được tổ

chức thường niên vào ngày 5/6 hàng năm và Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam (từ

ngày 1 đến 8-6) và Ngày Đại dương thế giới (8-6) tổ chức các buổi ngoại khóa vào

các ngày đó nhằm giải thích cho các em ý nghĩa của những ngày và khích lệ tinh

thần trách nhiệm của các em và kêu gọi tất cả sinh viên các lớp cùng tham gia kèm

theo các phần thi về các chủ đề của từng ngày như: “Vì một thế giới sạch”; “Vì biển

đảo quê hương”; “Vì Đại dương xanh”… từ đó giáo dục cho các em cùng chung

sức bảo vệ môi trường cả Việt Nam cũng như môi trường chung của nhân loại.

Từ những hoạt động ngoại khóa trên nếu được tiến hành một cách liên tục

với tinh thần trách nhiệm cao thì sẽ có ý nghĩa giáo dục sinh viên thấy được trách

70

nhiệm của mình trong việc bảo vệ môi trường.

3.3. Đẩy mạnh hình thức khen thƣởng và kỷ luật sinh viên về đạo đức

môi trƣờng

Để khuyến khích và tạo điều kiện cho sinh viên tích cực, chủ động trong qua

trình tự giáo dục đạo đức, đạo đức môi trường, Ban Giám hiệu Nhà trường, Đoàn

trường cũng cần chú ý đến các biện pháp khen thưởng và kỉ luật một cách kịp thời

và chính xác. Mục đích của việc khen thưởng và kỷ luật sinh viên về đạo đức môi

trường là: Khuyến khích sinh viên phấn đấu vươn lên, noi theo những tấm gương

tốt để tu dưỡng và rèn luyện bản thân, nhìn vào các tấm gương đó các em thấy

những hạn chế của mình và tự điều chỉnh mình cho hoàn thiện hơn. Ngăn chặn

không để các hiện tượng xấu, những hiện tượng sai trái phát triển, giáo dục các sinh

viên phạm sai lầm, giúp các sinh viên ấy phấn đấu trở thành sinh viên tốt, có những

hành vi đạo đức, đạo đức môi trường tốt. Thúc đẩy sinh viên tự giác thực hiện quy

định về quyền hạn, nhiệm vụ của mình nhằm nâng cao ý thức góp phần xây dựng

mọi nền nếp, kỷ cương trong nhà trường.

Khen thưởng là một hoạt động nhằm tuyên dương, động viên một cá nhân

sinh viên hay một nhóm hoặc nhiều nhóm, một lớp hoặc nhiều lớp sinh viên, có

nhiều sáng kiến, nhiều thành tích trong việc tìm hiểu môi trường, trong bảo vệ môi

trường, tuyên truyền và vận động mọi người xung quanh mình tham gia bảo vệ môi

trường, đólà những việc làm rất có ý nghĩa và cần được khen thưởng kịp thời để

làm gương cho các bạnn khác và cũng để nhân rộng những tấm gương đó ra hơn

nữa. Đó là sự ghi nhận, sự cổ vũ tích cực đối với những hành vi đúng đắn, tốt đẹp

và đáng ghi nhận của sinh viên. Nó giúp sinh viên nhận ra giá trị đích thực của các

hoạt động vì môi trường của mình; đó chính là động lực mạnh mẽ giúp họ phát huy

hơn nữa tính chủ động, tích cực trong việc xác lập quan hệ thân thiện với môi

trường, bảo vệ môi trường từ góc độ đạo đức.

Bên cạnh hình thức khen thưởng, Nhà trường cũng cần chú ý đến các hình

thức kỉ luật phù hợp đối với các hành vi, các cá nhân sinh viên, các nhóm sinh viên

71

có những biểu hiện tiêu cực trong việc bảo vệ môi trường cũng như trong các hoạt

động thực hiện đạo đức môi trường như: Vứt rác bừa bãi, bẻ cành cây, hái hoa trong

khuôn viên trường, hút thuốc trong trường, không tham gia các buổi lao động dọn

vệ sinh lớp học, khuôn viên trường, các buổi trồng cây phủ xanh đất trống, các buổi

ngoại khóa về chủ đề môi trường, bảo vệ môi trường. Kỉ luật sinh viên với những

mức độ thích hợp sẽ góp phần nâng cao nhận thức cho các em về đạo đức môi

trường. Tại vì sao kỷ luật lại nâng cao nhận thức cho sinh viên về đạo đức môi

trường? Vì việc thực hiện kỉ luật sinh viên như vậy không chỉ có tác dụng răn đe,

mà còn là sự thể hiện sự không đồng tình của Nhà trường, của xã hội đối với những

hành vi lệch chuẩn của sinh viên không chỉ về đạo đức môi trường mà còn cả về

đạo đức nói chung. Từ đó sẽ giúp sinh viên nhận thức lại và đi đến nhận thức đúng

sau đó sẽ có những hành động đúng đắn trong học tập, trong rèn luyện, tu dưỡng

bản thân và thể hiện thái độ cũng như hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo đức vầ

đạo đức môi trường.

Việc khen thưởng và kỷ luật sinh viên về đạo đức môi trường, Nhà trường

cần chú trọng và dựa vào các quy tắc đã được Nhà trường thống nhất về đạo đức

môi trường và dựa vào các điều trong Luật Bảo vệ môi trường. Đồng thời cũng cần

phổ biến rộng rãi các quy tắc đã được Nhà trường thống nhất về đạo đức môi

trường và bảo vệ môi trường, Luật Bảo vệ môi trường cho các em sinh viên trong

toàn trường nắm được để các em học tập và tuân theo.

Đồng thời việc khen thưởng và kỷ luật sinh viên về đạo đức môi trường cần

tiến hành theo các nguyên tắc sau: Đảm bảo tính chính xác,khách quan, công bằng,

vô tư, không định kiến, hẹp hòi, tùy tiện. Đảm bảo tính dân chủ, bình đẳng, có lý có

tình đối với mọi sinh viên. Việc kỷ luật lấy giáo dục làm chính, đồng thời cũng phải

giữ nghiêm kỷ luật. Phát huy các ưu điểm của sinh viên, bồi dưỡng những nhân tố

tích cực trong các em và lấy đó làm chỗ dựa để khắc phục những thiếu sót, những

hạn chế, những biểu hiện tiêu cực. Khen thưởng và kỷ luật cần được tiến hành kịp

thời, nhanh chóng bằng những hình thức phù hợp với điều kiện Nhà trường. Đồng

72

thời khen thưởng và kỷ luật cũng cần tạo ra trong Nhà trường và ngoài xã hội một

dư luận đúng đắn, công minh ủng hộ cái tốt, cái đẹp phê phán cái sai, cái xấu. Nhà

trường cần có kế hoạch theo dõi sát sao sự tiến bộ và sửa chữa của những sinh viên

vi phạm lỗi. Khen phải kèm theo hình thức thưởng một cách thích đáng, hợp lý.

3.4. Huy động các nguồn kinh phí chi cho hoạt động bảo vệ môi trƣờng

Qua tìm hiểu được biết Nhà nước cũng đã có những chính sách, cơ chế tài

chính hỗ trợ công tác bảo vệ môi trường. Nhưng những chính sách và cơ chế tài

chính ấy mới chỉ hướng đến các doanh nghiệp. Vì các doanh nghiệp là các đơn vị

sản xuất ra các sản phẩm, thiết bị để phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu sang

các nước khác nên lượng rác thải, nước thải và khói bụi thảo ra môi trường rất nhiều

và rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước để giúp doanh nghiệp thực hiện được công tác

bảo vệ môi trường theo kịp với yêu cầu phát triển của đất nước cũng như chuẩn

mực quốc tế và giảm thiểu được ô nhiễm mỗi trường. Nhà nước cũng chưa có sự

đầu tư thích đáng cho công tác giáo dục đạo đức môi trường trong các trường học từ

bậc mầm non tới đại học, hay có thể nói, kinh phí dành cho giáo dục đạo đức môi

trường nói chung còn rất hạn hẹp so với các hợp phần khác của bảo vệ môi trường

như trang bị kỹ thuật hay qui trình sản xuất...

Hiện nay trong lĩnh vực giáo dục đạo đức môi trường cho sinh viên thì

nguồn kinh phí còn rất hạn hẹp, chưa có một sự đầu tư thích đáng cho hoạt động

này mà để xây dựng được ý thức đạo đức bảo vệmôi trường cho con người cần

nhiều thời gian với nhiều hoạt động cụ thể vàđể làm được những điều đó rất cần

phải có được nguồn kinh phí hợp lý để chi cho những hoạt động này. Căn cứ vào

thực trạng đạo đức môi trường ởsinh viên Đại học Hải Dương và những vấn đề

đang đặt ra, chúng tôi cho rằng, để có được nguồn kinh phí hợp lý cho hoạt động

giáo dục đạo đức môi trường cho sinh viên cần có những biện pháp sau:

Thứ nhất, chúng tacần huy động kinh phí từ các nguồn như: Ủy ban Nhân

dân tỉnh Hải Dương,các doanh nghiệp, cá nhân đầu tư cho hoạt động bảo vệ môi

trường và giáo dục đạo đức môi trường cho sinh viên của trường. Trường Đại học

73

Hải Dương là trường trực thuộc của tỉnh Hải Dương, nhiều năm qua Trường được

Ủy ban nhân dân tỉnh hỗ trợ về nhiều khoản kinh phí phục vụ cho hoạt động của

Nhà trường, trong đó có hoạt động bảo vệ môi trường và giáo dục đạo đức môi

trường. Nhờ có sự hỗ trợ của Ủy ban nhân dân tỉnh nên chất lượng công tác bảo vệ

môi trường và công tác tuyên truyền về bảo vệ môi trường đã có được những kết

quả rất đáng tự hào, tình trạng ô nhiễm môi trường đã giảm đi đáng kể và ý thức của

sinh viên vè bảo vệ môi trường ngày càng được nâng cao. Bên cạnh đó nhà trường

có số lượng sinh viên các ngành phong phú, phục vụ nhu cầu cung ứng thị trường

lao động cho các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh nên cũng đã nhận được sự hỗ trợ

từ các doanh nghiệp đó để phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường và giáo dục đạo

đức môi trường cho sinh viên. Mặc dù nguồn kinh phí đó chưa nhiều nhưng rất quý

báu và đáng trân trọng. Và theo chúng tôi, để nâng cao chất lượng bảo vệ môi

trường và giáo dục đạo đức môi trường cho sinh viên trường Đại học Hải Dương,

rất mong sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng, của các sở ban ngành cấp và của các

doanh nghiệp về nguồn kinh phí hợp lý để phục vụ công tác tuyên truyền, thông tin

mới đem lại hiệu quả cao việc bảo vệ môi trường và giáo dục đạo đức môi trường

cho nhà trường và để trang bị thêm cho cơ sở vật chất của Nhà trường để phục vụ

công tác bảo vệ môi trường được nhanh chóng hơn và tốt hơn nữa.

Thứ hai, bên cạnh việc xin hỗ trợ nguồn kinh phí từ các cơ quan chức năng,

các sở, ban ngành và của các doanh nghiệpphục vụ cho công tác bảo vệ môi trường

và công tác giáo dục đạo đức môi trường, Ban Giám hiệu Nhà trường cũng cần

quan tâm và cấp kinh phí cho công tác giảng dạy của các giảng viên đứng lớp một

cách hợp lý, cũng như cấp kinh phí cho sinh viên được tham gia thực hành thực tập

nhiều hơn chứ không đơn thuần chỉ dừng lại ở học lý thuyết lý thuyết suông. Trong

thời gian qua Nhà trường cũng đã tổ chức cho các em đến các nhà máy, xí nghiệp,

các khu công nghiệp nhưng do kinh phí hạn chế nên hoạt động đó chưa được triển

khai thường xuyên và liên tục. Trong thời gian tới khi có nguồn kinh phí hợp lý Nhà

trường cần có nhiều chương trình đưa các em ở các ngành học đi thực tâp, thực

74

hành ở các nhà máy, xí nghiệp, doanh nghiệp và các khu công nghiệp nhiều hơn

nữa để các em được trải nghiệm thực tế nhiều hơn, để các em được mang những

kiến thức mình đã học trong sách vở vào thực hành nhiều hơn nữa, từ đó các em sẽ

ý thức được sự ô nhiễm môi trường từ các nhà máy, xí nghiệp, các doanh nghiệp và

các khu công nghiệp thải ra môi trường và chính từnhững giờ thực hành, thực tập

đó sẽ thôi thúc các em có ý thức, có trách nhiệm đạo đức đối với việc bảo vệ môi

trường, để môi trường được xanh sạch hơn.

Thứ ba, để công tác bảo vệ môi trường và giáo dục đạo đức môi trường đem

lại hiệu quả cao Ban Giám hiệu Nhà trường cũng cần hỗ trợ kinh phí cho các hoạt

động của Đoàn thanh niên, Hội sinh viên và các tổ chức đoàn thể trong trường. Bởi

vì, đây là lực lượng hùng hậu, có sức trẻ và có nhiệt huyết, sẵn sàng cống hiến hết

mình cho hoạt động của Nhà trường, họ là đội ngũ có vai trò rất quan trọng, họ

chiếm một số lượng lớn trong Nhà trường. Nhưng trong thời gian qua Ban Giám

hiệu Nhà trường chưa có sự quan tâm đúng mức đến các hoạt động của Đoàn

Thanh niên, Hội Sinh viên nên hoạt động của các tổ chức này còn đơn điệu, chưa có

tính chuyên nghiệp và khẩn trương. Trong thời gian tới, để khắc phục tình trạng đó

Nhà trường cần có sự quan tâm và có kinh phí hợp lý cho các hoạt động của Đoàn,

Hội, để các hoạt động đó được diễn ra nhanh chóng, khẩn trương và đạt hiệu quả

cao, đặc biệt là các hoạt động về bảo vệ môi trường, giáo dục đạo đức môi trường.

Tiểu kết chương

Để công tác bảo vệ môi trường, nâng cao ý thức đạo đức môi trường ở

Trường Đại học Hải Dương đạt được kết quả cao hơn, Nhà trường cần thực hiện

đồng bộ các giải pháp nêu trên. Mỗi giải pháp đều có một vị trí, vai trò và chức

năng nhất định, trong đó giải pháp nâng cao không nên coi trọng giải pháp này mà

không thực hiện giải pháp khác.

Giáo dục đạo đức, trong đó có đạo đức môi trường là một việc làm cần tiến

hành lâu dài và liên tục, không phải việc làm một vài lần là nhìn thấy kết quả luôn.

Vì vậy đòi hỏi tính kiên trì của tất cả các thầy cô giáo và của toàn trường. Ban Giám

75

hiệu nhà trường cần tạo điều kiện cho Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên nhà trường

hoạt động nhiều hơn trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và giáo dục đạo đức môi

trường. Đồng thời cũng tạo điều kiện cho thầy cô giáo đứng trên bục giảng phát huy

tài năng của bản thân và cho các em sinh viên được trải nghiệm thực tế nhiều hơn

để các em có được nhiều kiến thức về bảo vệ môi trường.

Công tác khen thưởng và kỷ luật cũng cần thực hiện một cách nghiêm túc, rõ

ràng và chính xác theo tinh thần: “đúng người, đúng việc”, để từ đó nhằm khích lệ ý

thức của các em trong công tác bảo vệ môi trường và trong việc rèn luyện đạo đức

môi trường. Bên cạnh công tác khen thưởng và kỷ luật, Nhà trường cũng đầu tư

thêm các khoản kinh phí cho hoạt động bảo vệ môi trường và hoạt động giáo dục

đạo đức môi trường cho sinh viên. Có như vậy, hoạt động mới được tiến hành liên

tục, không bị ngắt quãng, bỏ giữa chừng không có kết quả như mong muốn.

Nếu Nhà trường thực hiện tốt các giải pháp trên thì trong tương lai không xa

Trường Đại học Hải Dương sẽ trở nên xanh hơn với màu xanh của lá, sạch hơn vì

không có hiện tượng vứt rác bừa bãi và việc thường xuyên tổ chức các hoạt động vệ

sinh trường lớp, đẹp hơn với các màu của hoa và chắc chắn rằng, các em sinh viên

sẽ càng thấy yêu trường, yêu lớp hơn. Các em sẽ coi trường là ngôi nhà thứ hai của

mình để sau mỗi giờ học căng thẳng các em được thư giãn hít thở không khí trong

lành, được vui chơi giải trí trước những bóng mát của cây với những hàng ghế đá

xung quanh cùng những bông hoa đủ sắc màu đang khoe sắc và các em cũng sẽ

76

thấy yêu thiên nhiên hơn, yêu cây cảnh và thấy cuộc sống tươi đẹp hơn.

KẾT LUẬN

Sinh viên là thế hệ trẻ của mỗi quốc gia, là chủ nhân tương lai của đất

nước nên không thể đứng ngoài cuộc nhìn môi trường đang ngày càng bị hủy

hoại bởi chính bàn tay con người. Sinh viên mỗi quốc gia nói chung và sinh

viên mỗi tỉnh thành của một quốc gia nói riêng cần tích cực hơn nữa, hăng hái

hơn nữa trong công tác bảo vệ môi trường của bản thân và trong công tác tuyên

truyền cho mọi người dân trong đó bao gồm cả các thành viên trong gia đình

mình hiểu được vị trí, vai trò, chức năng vô cùng quan trọng của môi trường

đối với cuộc sống của con người để từ đó mỗi thành viên trong gia đình sẽ tích

cực tham gia công tác bảo vệ môi trường từ việc nhỏ nhất như: vứt rác đúng

nơi quy định; hạn chế sử dụng túi nilon trong việc mua sắm hàng hóa; sử dụng

tiết kiệm điện, nước sinh hoạt; không hút thuốc, bẻ cành cây, hái hoa, dẫm lên

thảm cỏ, sử dụng bừa bãi điện nước nơi công cộng; không xả nước thải, rác

thải bừa bãi ra sông hồ gây ô nhiễm nguồn nước; tích cực tham gia công tác

bảo vệ môi trường do địa phương nơi cư trú tổ chức như: dọn vệ sinh đường

làng ngõ xóm, trồng cây xanh quanh nhà...

Trường Đại học Hải Dương là trường công lập duy nhất của tỉnh Hải

Dương, với số lượng sinh viên nhiều ngành khác nhau và có hai cơ sở, diện tích

của hai cơ sở của Nhà trường là 21,7 ha đang trong quá trình xây dựng và hoàn

thiện nên công tác bảo vệ môi trường càng cần đặt lên hàng đầu. Vì trong quá

trình xây dựng có nhiều chất thải rắn, lỏng và khói bụi thải ra nên cần được dọn

vệ sinh thường xuyên và liên tục. Công tác chăm sóc cây xanh trong Nhà

trường cũng cần chú ý hơn nữa để các em sinh viên vừa không ảnh hưởng đến

công việc học tập cũng như vui chơi giải trí của các em. Đồng thời Đoàn Thanh

niên và Hội sinh viên Nhà trường cũng cần tổ chức nhiều hơn nữa các cuộc thi

77

về chủ đề môi trường để các em sinh viên ngày càng hiểu sâu hơn tầm quan

trọng của môi trường đối với cuộc sống hàng ngày không chỉ của riêng các em

mà còn đối với toàn xã hội nói chung.

Đứng trước thực trạng đạo đức môi trường đã và đang diễn ra ở Trường

Đại học Hải Dương, có thể thấy được sinh viên giữ vị trí không thể thiếu trong

công tác bảo vệ môi trường. Sinh viên là thành phần không thể thiếu trong việc

bảo vệ môi trường không chỉ tại trường học mà còn tại nơi các em đang trọ và

nơi các em đang sinh sống. Nếu bản thân mỗi chúng ta, bản thân mỗi sinh viên

có được đạo đức môi trường đúng đắn, lành mạnh thì không những môi trường

được bảo vệ, thiên nhiên được tôn tạo, được chăm sóc để ngày càng giàu, càng

đẹp hơn mà bản tính tự nhiên của con người được bảo toàn, con người được

sống khỏe mạnh hơn, hạnh phúc hơn, trong lành hơn và từ đó xã hội càng có

điều kiện để phát triển phồn thịnh hơn.

Để cho sinh viên phát huy được ý thức đạo đức môi trường, tự giác tham

gia các hoạt động bảo vệ môi trường do Nhà trường và địa phương nơi cư trú tổ

chức, chúng ta có thể thấy công tác giáo dục nhà trường có vai trò vô cùng

quan trọng trong hình thành nhân cách cho sinh viên. Điều đó đòi hỏi sự tận

tâm và gương mẫu của các thầy cô giáo, của các cán bộ Đoàn Thanh niên, của

Hội Sinh viên. Trong giáo dục nhà trường, các tổ chức đoàn, hội sinh viên có

vai trò quan trọng trong việc tổ chức các phong trào, các cuộc thi, các hoạt

động bảo vệ môi trường khích lệ tinh thần tham gia của các em sinh viên, qua

đó nhằm giáo dục, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm về đạo đức môi

trường cho sinh viên từ đó thúc đẩy các em sinh viên có những hành động bảo

vệ môi trường, phê phán những hành động gây ô nhiễm môi trường. Vì vậy,

theo chúng tôi, các nhà trường trong đó có Trường Đại học Hải Dương với tư

cách là chủ thể giáo dục cần quan tâm và xúc tiến mạnh mẽ hơn nữa các giải

pháp nêu trên, và cần thực hiện các giải pháp đó một cách triệt để, có sự phối

hợp hài hòa, khéo léo giữa các giải pháp với nhau để công tác giáo dục đạo đức

78

môi trường và công tác bảo vệ môi trường ở các em sinh viên Trường Đại học

Hải Dương ngày càng có được những kết quả tốt, đáng được tự hào và ghi

nhận. Đồng thời Nhà trường cũng cần kịp thời có những hình thức khen

thưởng, tuyên dương và nhân rộng cho toàn trường cũng như toàn tỉnh Hải

Dương những tấm gương tiêu biểu về đạo đức môi trường để mọi người học

tập và noi theo những tấm gương đó và quê hương Hải Dương Thành Đông của

tổ quốc sẽ trở nên xanh hơn – sạch hơn và đẹp hơn vì có bàn tay của các em

79

sinh viên giúp sức.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ở Việt Nam (2003), Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

2. Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1998),

Về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong tình hình mới, Chỉ thị 36-

CT/TW ngày 25/06/1998, Hà Nội.

3. Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2004),

Về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ CNH, HĐH đất

nước, NQ số 41-NQ/T W ngày 15/11/2000, Hà Nội.

4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1998), Những vấn đề về chiến lược phát triển giáo

dục trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb.Giáo dục, Hà Nội.

5. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2003), Tài liệu tập huấn bồi dưỡng nâng cao

nhận thức môi trường, Hà Nội.

6. Bộ tài nguyên và Môi trường (2016; 2017), Báo cáo hiện trạng môi trường

Việt Nam.

7. C.Mác (1962), Bản thảo kinh tế triết học, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

8. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

9. Các quy định pháp luật về môi trường (tập I) (1995), Nxb. Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

10. Cục Bảo vệ môi trường (2002), Sổ tay hướng dẫn thực hiện chiến dịch

truyền thông môi trường, Hà Nội.

11. Cục Môi trường (2002), Hành trình vì sự phát triển bền vững, Nxb.Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

12. Cứu lấy trái đất chiến lược cho cuộc sống bền vững (1993), Nxb. Khoa học

và kỹ thuật, Hà Nội.

13. Nguyễn Thị Minh Chiến (2009), Giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên,

80

Nxb. Đại học sư phạm, Hà Nội.

14. Lê Thị Kim Dung (2007), “Giải quyết vấn đề môi trường trong quy hoạch

phát triển: Từ văn bản pháp quy đến thực tiễn quản lý”, Tạp chí Kinh tế và

dự báo, số 12.

15. Vũ Dũng (2010), Đạo đức môi trường ở nước ta: Lí luận và thực tiễn, Nxb.

Từ điển bách khoa, Hà Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII,

Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015.

17. Học viện chính trị Quốc gia (2000), Giáo trình đạo đức học, Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

18. Lê Văn Hồng (Chủ biên), Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thăng. Tâm lý học lứa

tuổi và tâm lý học sư phạm, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1998.

19. Nguyễn Thị Lan Hương (2010), “Đạo đức môi trường và truyền thống mục

đích luận”, Tạp chí Triết học số 12.

20. Hội thảo quốc gia (2001), “Giáo dục môi trường trong các trường học”,

Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học quốc gia Hà Nội.

21. Kỉ yếu hội thảo khoa học (2008), Giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên ở

nước ta: Thực trạng và giải pháp, Hội khoa học tâm lí – giáo dục Việt Nam.

22. Trần Hậu Kiêm, Đoàn Đức Hiếu (2004), Hệ thống phạm trù đạo đức và vấn

đề giáo dục đạo đức cho sinh viên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

23. Lê Văn Khoa (2010), Khoa học môi trường, Hà Nội.

24. Nguyễn Đức Khiển (2002), Quản lý môi trường, Nxb. Lao động – xã hội, Hà

Nội.

25. Đỗ Thị Ngọc Lan (1996), Môi trường tự nhiên trong hoạt động sống của con

người, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

26. Luật bảo vệ môi trường (1994), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

27. Hồ Chí Minh (1993), Về Đạo đức, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

28. Nguyễn Văn Phúc (1995),"Khía cạnh đạo đức của sự nghiệp công nghiệp

81

hoá, hiện đại hoá ở nớc ta hiện nay", Triết học số 3.

29. Nguyễn Văn Phúc (2010), “Bảo vệ môi trường nhìn từ góc độ đạo đức”,

Tạp chí triết học số 4.

30. Nguyễn Văn Phúc (2013), Đạo đức môi trường, Nxb. Khoa học xã hội, Hà

Nội.

31. Hồ Sĩ Quý (1999) Về triết lý “Con người chinh phục tự nhiên”, Triết học số

6.

32. Hồ Sĩ Quý (Chủ biên) (2000), Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong

sự phát triển xã hội, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

33. Hồ Sĩ Quý (2002) Triết lý Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa con người và tự

nhiên. Nghiên cứu con người số 1.

34. Hồ Sĩ Quý (2004) Thực trạng môi trường: vài số liệu đáng quan tâm về môi

sinh toàn cầu và môi sinh ở Việt Nam. Nghiên cứu con người số 2.

35. Hồ Sĩ Quý (2004) Đông và Tây: Về triết lý con người chinh phục tự nhiên và

con người hoà hợp với tự nhiên. Nghiên cứu châu Âu số 6.

36. Hồ Sĩ Quý (2005), “Về đạo đức môi trường”, Tạp chí triết học số 9.

37. Trần Đăng Sinh, Nguyễn Thị Thọ (2011), “Đạo đức học”, Nxb. Đại học Sư

Phạm, Hà Nội.

38. Bùi Cách Tuyên (2009), Vai trò của giáo dục đào tạo và nâng cao nhận thức

về môi trường cho các đối tượng trong xã hội. Tổng cục môi trường. Bộ Tài

nguyên và Môi trường xuất bản.

39. Bùi Cách Tuyên (2009), Vai trò của giáo dục đào tạo và nâng cao nhận thức

về môi trường cho các đối tượng trong xã hội. Tổng cục môi trường. Bộ Tài

nguyên và Môi trường xuất bản.

40. Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2007.

41. Từ điển triết học (1986), Nxb. Tiến bộ Mát-xcơ-va.

42. Hoàng Thị Thanh (2017), Xây dựng đạo đức môi trường ở Việt Nam hiện

82

nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.

43. Trịnh Thị Thanh (2004), Sức khỏe môi trường, Nxb. Đại học quốc gia, Hà

Nội.

44. Trịnh Thị Thanh, Trần Yêm, Đồng Kim Loan (2004), Giáo trình Công nghệ

môi trường, Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội.

45. Hà Huy Thành (chủ biên) (2001), Một số vấn đề xã hội, nhân văn trong việc

sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường ở Việt Nam,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

46. Nguyễn Thế Thôn, Hà Văn Hành (2007), “Môi trường và phát triển”, Nxb.

Xây dựng, Hà Nội.

47. Phạm Thị Ngọc Trầm (1999), “Đạo đức sinh thái: từ lý luận đến thực tiễn”,

Tạp chí triết học số 2.

48. Phạm Thị Ngọc Trầm (Chủ biên) (2006), Quản lý nhà nước đối với tài

nguyên và môi trường vì sự phát triển bền vững dưới góc nhìn xã hội – nhân

văn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

49. Phạm Thị Ngọc Trầm (1997), Môi trường sinh thái: Vấn đề và giải pháp,

Nxb. Chính trị Quốc gia.

50. Huỳnh Khái Vinh (2001), Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị

xã hội, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội.

51. https://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/cac-tham-hoa-xa-thai-gay-o-nhiem-

83

nguon-nuoc-tren-the-gioi-3427531.html