ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

VIỆN VIỆT NAM HỌC & KHOA HỌC PHÁT TRIỂN

---------------------------------

LÊ THỊ MỸ HUYỀN

ĐỀN, CHÙA TRONG KHÔNG GIAN VĂN HÓA

LÀNG PHẤN VŨ (XÃ THỤY XUÂN,

HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH)

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Việt Nam học

Mã số: 60.22.01.13

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Văn Lợi

Hà Nội - 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố

trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả

Lê Thị Mỹ Huyền

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tôi xin trân trọng bày tỏ lòng

biết ơn sâu sắc đến thầy giáo TS. Phạm Văn Lợi – người đã hướng dẫn tận

tình và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn thạc sĩ này.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ủy ban nhân dân xã Thụy Xuân, Ban Quản

lý cụm di tích, các cụ cao niên trong làng xã và đặc biệt là ông Lê Xuân

Hưng - Trưởng Ban Quản lý di tích lịch sử văn hóa đền, chùa làng Phấn Vũ

và ông Nguyễn Văn Sang - Trưởng Ban Khánh Tiết di tích lịch sử văn hóa

đền, chùa làng Phấn Vũ đã cung cấp cho tôi những tư liệu quý báu và tạo mọi

điều kiện thuận lợi trong suốt thời gian tôi thực hiện luận văn tốt nghiệp.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo cùng các giảng viên, cán bộ

Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển - Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo

những điều kiện thuận lợi nhất về mọi mặt để tôi hoàn thành khóa học.

Cuối cùng, xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, người thân, thầy cô và

bạn bè đã giúp đỡ, động viên tôi hoàn thành luận văn này.

Tác giả

Lê Thị Mỹ Huyền

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 4

CHƯƠNG 1: KHÔNG GIAN VĂN HÓA LÀNG PHẤN VŨ ................... 11

1.1. Điều kiện tự nhiên ................................................................................ 11

1.1.1. Vị trí địa lý ..................................................................................................... 11

1.1.2. Địa hình .......................................................................................................... 11

1.1.3. Khí hậu ........................................................................................................... 12

1.1.4. Thủy văn ......................................................................................................... 13

1.1.5. Thổ nhưỡng .................................................................................................... 14

1.1.6. Động thực vật ................................................................................................. 14

1.2. Một số vấn đề lịch sử và cư dân ........................................................... 15

1.2.1. Lịch sử hình thành làng .................................................................................. 15

1.2.2. Quá trình phát triển cư dân ............................................................................. 16

1.3. Các hoạt động kinh tế ........................................................................... 19

1.3.1. Thủ công nghiệp ............................................................................................ 19

1.3.2. Nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản .................................................................. 20

1.3.3. Diêm nghiệp ................................................................................................... 22

1.3.4. Kết cấu hạ tầng ............................................................................................... 23

1.4. Một vài vấn đề về xã hội ....................................................................... 24

1.4.1. Dân số, lao động và việc làm ......................................................................... 24

1.4.2. Tổ chức xã hội ................................................................................................ 24

1.5. Đôi nét về văn hóa ................................................................................ 26

1.5.1. Văn hóa ẩm thực ............................................................................................. 26

1.5.2. Văn hóa ở ........................................................................................................ 28

1.5.3. Văn hóa mặc ................................................................................................... 30

1.5.4. Văn hóa ứng xử với môi trường biển............................................................. 30

1.5.5. Tôn giáo, tín ngưỡng ...................................................................................... 32

1

Tiểu kết ........................................................................................................ 38

CHƯƠNG 2: CỤM DI TÍCH ĐỀN, CHÙA LÀNG PHẤN VŨ ................ 39

2.1. Lịch sử khu di tích ................................................................................ 39

2.1.1. Chùa Phấn Vũ (Minh Đồng tự) ...................................................................... 39

2.1.2. Đền Mẫu ......................................................................................................... 39

2.1.3. Đền Quan Lớn Thống .................................................................................... 40

2.2. Kiến trúc ............................................................................................... 40

2.2.1. Kiến trúc chùa Phấn Vũ ................................................................................. 40

2.2.2. Kiến trúc đền Mẫu .......................................................................................... 41

2.2.3. Kiến trúc đền Quan Lớn Thống ..................................................................... 42

2.3. Điêu khắc .............................................................................................. 44

2.4. Đối tượng thờ tự ................................................................................... 44

2.4.1. Chùa Phấn Vũ ................................................................................................. 44

2.4.2. Đền Mẫu ......................................................................................................... 45

2.4.3. Đền Quan Lớn Thống .................................................................................... 49

2.5. Lễ hội .................................................................................................... 50

2.5.1. Phần lễ ............................................................................................................. 50

2.5.2. Phần hội .......................................................................................................... 53

Tiểu kết ........................................................................................................ 61

CHƯƠNG 3: ĐỀN CHÙA LÀNG PHẤN VŨ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT

RA VÀ KHUYẾN NGHỊ GIẢI PHÁP ....................................................... 63

3.1. Mối quan hệ giữa cụm di tích và không gian văn hóa làng ................ 63

3.1.1. Vai trò của không gian văn hóa làng với cụm di tích .................................... 63

3.1.2. Vai trò của cụm di tích với không gian văn hóa làng ........................... 65

3.2. Một số vấn đề đặt ra ............................................................................. 69

3.2.1. Hiện trạng di tích ............................................................................................ 69

3.2.2. Vấn đề khách tham quan ................................................................................ 71

2

3.2.3. Vấn đề quản lý, tổ chức hướng dẫn/ phục vụ khách tham quan ................... 73

3.2.4. Vấn đề tổ chức lễ hội ...................................................................................... 75

3.2.5. Hoạt động mê tín dị đoan tại cụm di tích ....................................................... 76

3.3.2. Nhóm giải pháp hoạt động thực tiễn .............................................................. 83

Tiểu kết ........................................................................................................ 92

KẾT LUẬN .................................................................................................. 93

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 96

PHỤ LỤC ....................................................................................................... 1

3

MỞ ĐẦU

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Văn hoá là một thực thể sống động, có sự vận động cả trong không gian

và thời gian. Nhìn theo chiều thời gian, văn hoá Việt Nam là một diễn trình

lịch sử có những quy luật phát triển của nó. Nhìn trong không gian, văn hoá

Việt Nam có sự khác biệt qua các vùng miền. Mỗi miền quê, mỗi vùng đất

đều tự nó mang trong mình dấu ấn văn hoá riêng biệt, vừa có những nét đặc

thù, lại vừa thống nhất trong tính chỉnh thể của nền văn hoá dân tộc Việt

Nam. Thụy Xuân – một miền quê biển, một quê hương giàu truyền thống

cách mạng, một vùng đất đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử hình thành và

phát triển, chứa đựng trong đó cốt cách bản chất của cư dân vùng ven biển.

Bên cạnh những nếp sinh hoạt văn hóa truyền thống của cư dân vùng đồng

bằng Bắc Bộ, Thụy Xuân còn mang đặc trưng nếp sinh hoạt của cư dân vùng

biển, thể hiện sức mạnh“Chèo sóng, chém gió”, ý chí kiên cường bất khuất,

chinh phục cải tạo thiên nhiên, chống lại các thế lực cường quyền, áp bức và

giặc ngoại xâm. Mang những nét đặc trưng của vùng đất Thụy Xuân, Thái

Thụy, Thái Bình, làng Phấn Vũ là linh hồn của vùng đất, là không gian văn

hóa thu nhỏ của miền quê biển Thụy Xuân.

Có thể thấy văn hoá làng xã có một vị trí đặc biệt quan trọng trong quá

trình hình thành và phát triển nền văn hoá Việt Nam. Trong đó, đền, chùa lại

là nhân tố phổ biến góp phần tạo nên hệ thống văn hoá làng xã truyền thống

của cộng đồng người Việt (Kinh), có tác động sâu sắc, toàn diện đến nhiều

mặt của xã hội. Đền, chùa ở Việt Nam không đồ sộ nguy nga như ở Ấn Độ,

Trung Hoa, Nhật Bản hay Thái Lan, Campuchia nhưng ở nơi đâu cũng có. Từ

những thảo am trong thôn xóm hẻo lánh đến những ngôi chùa, ngôi đền kiến

trúc bằng vật liệu kiên cố tại các đô thị, tất cả đều mang sắc thái gọn nhẹ,

4

thanh thoát và tĩnh mịch. Chúng hòa quyện lại với nhau tạo thành những gam

màu chủ đạo trong bức tranh văn hóa Việt sống động, đa dạng và phong phú.

Mỗi ngôi đền, ngôi chùa được xây dựng là quá trình lao động sáng tạo nghệ

thuật của các thế hệ cư dân, thể hiện từ những tảng đá kê chân cột đến những

tàu đao lá mái. Đối với người Việt, đền, chùa không chỉ là không gian tôn

giáo, là nơi diễn ra các hoạt động tâm linh, thể hiện lòng thành kính của con

người mà còn là nơi sinh hoạt cộng đồng, in dấu những giá trị văn hóa dân

tộc, là nơi mỗi người con khi xa quê luôn hướng về:

“Chuông vẳng nơi nao nhớ lạ lùng

Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung

Mái chùa che chở hồn dân tộc

Nếp sống muôn đời của tổ tông”

(“Nhớ chùa” – Huyền Không)

Cũng như bao di sản văn hóa trong mỗi làng quê Việt Nam, những ngôi

đình, đền, chùa trên địa bàn xã Thụy Xuân nói chung, làng Phấn Vũ nói riêng

đã được hình thành và đồng hành tồn tại với quá trình lập đất, giữ làng. Trải

qua bao thăng trầm lịch sử, cụm di tích đền chùa làng Phấn Vũ đã thực sự trở

thành biểu hiện sinh động các giá trị văn hóa tinh thần của người dân Phấn

Vũ; là nơi gặp gỡ của mỗi thành viên vào dịp hội hè, lễ tết, là sợi dây vô hình

cố kết con người trong làng, trong xóm. Chùa Phấn Vũ, đền Mẫu, đền Quan

Lớn Thống mang trong mình những giá trị văn hóa đặc sắc. Sắc phong của

các triều đại từ nhà Lê đến nhà Nguyễn cho thấy: Đền Mẫu làng Phấn Vũ

phụng thờ Đức Nam Hải Thánh Mẫu - vị thần cai quản 12 cửa biển Bắc Bộ và

Bắc Trung Bộ. Đền Quan Lớn Thống là nơi người dân tổ chức cúng lễ cầu an

mong Quan Lớn phù hộ cho mùa màng tôm cá bội thu. Chùa Phấn Vũ đã gắn

bó mật thiết với người dân nơi đây với những sinh hoạt tôn giáo, sinh hoạt

văn hóa cộng đồng qua các thời kỳ. Chùa Phấn Vũ còn đóng góp quan trọng

5

trong công cuộc đấu tranh giải phóng quê hương, là nơi hoạt động của các bậc

tiền bối cách mạng, của du kích làng Phấn Vũ góp phần tô thêm trang sử vẻ

vang của quê hương đất biển Anh Hùng.

Là một người con sinh ra trên mảnh đất Thụy Xuân, tôi chọn đề tài

“Đền, chùa trong không gian văn hóa làng Phấn Vũ (xã Thụy Xuân, huyện

Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)” làm luận văn thạc sĩ với hi vọng hiểu rõ thêm về

những giá trị của cụm di tích; thấy được mối quan hệ giữa cụm di tích và

không gian văn hóa làng Phấn Vũ; giúp người dân Thụy Xuân, đặc biệt là thế

hệ trẻ biết trân trọng văn hóa truyền thống ngay trên mảnh đất quê hương.

2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

Từ lâu hệ thống đền, chùa Việt Nam nói chung và hệ thống đền, chùa ở

vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng đã trở thành đối tượng quan tâm của các

nhà nghiên cứu dưới nhiều góc độ: văn hoá dân gian, kiến trúc, điêu khắc, tôn

giáo, khảo cổ học, dân tộc học, lịch sử... Có thể kể đến một số công trình sau:

Công trình nghiên cứu đầu tiên cần phải kể đến là cuốn “Chùa Việt”

của tác giả Trần Lâm Biền [8]. Cuốn sách đã khái quát quá trình phát triển

của ngôi chùa Việt, phân tích giá trị văn hoá, hướng, bố cục chung và khảo tả

về hệ thống tượng thờ trong chùa.

Cuốn Đình chùa lăng tẩm nổi tiếng ở Việt Nam của tác giả Trần Mạnh

Thường [59] giới thiệu về các công trình kiến trúc cổ, những thành, lũy, đền,

tháp, đình, chùa, miếu… ở Việt Nam được xếp hạng cấp quốc gia trên phạm

vi cả nước.

Cuốn 250 đình chùa nổi tiếng Việt Nam của tác giả Ngô Thị Kim

Doan [13] nghiên cứu về những ngôi chùa ở Việt Nam từ xưa đến nay,

cùng với phong cách nghệ thuật chùa của Việt Nam từ thế kỷ X đến chùa

đất, chùa gỗ cho tới phong cách nghệ thuật, chùa của người Khơ me,

người Hoa, người Chǎm.

6

Cuốn Nghi lễ thờ cúng tổ tiên, đền chùa, miếu phủ của tác giả Trương

Thìn [53] tìm hiểu về việc thờ cúng gia tiên, về tín ngưỡng lên chùa lễ Phật, lễ

Thánh thần ở các đình, đền, miếu phủ.

Tiếp theo, cuốn Chùa Việt Nam của tác giả Hà Văn Tấn [46] đã giới

thiệu về 118 ngôi chùa trong cả nước, trong đó có hai dạng chùa mới ít thấy

xuất hiện là chùa miền núi và chùa miền hải đảo. Đây là công trình nghiên

cứu kết tinh các hình ảnh và giá trị của khối di sản văn hoá và tôn giáo - tín

ngưỡng, được các tác giả thể hiện tinh tế, súc tích qua bài dẫn luận công phu

về toàn cảnh chùa Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử và quá trình du nhập đạo

Phật từ Ấn Độ vào Việt Nam.

Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu, tìm hiểu về đền chùa cụ thể ở

một địa phương, một làng xã thì chưa có nhiều.

Cụm di tích đền, chùa làng Phấn Vũ cũng đã được một số nhà khoa học

quan tâm nghiên cứu nhưng chưa thật sự sâu sắc, cụ thể. Các nhà nghiên cứu

đã đề cập đến cụm di tích đến chùa làng Phấn Vũ trên từng lĩnh vực và khía

cạnh khác nhau, một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, như cuốn Địa chí Thái

Bình do Nguyễn Quang Ân và Phạm Minh Đức chủ biên [2] đã thống kê danh

sách các di tích thuộc tỉnh Thái Bình được xếp hạng cấp tỉnh và cấp Quốc gia.

Cuốn Lịch sử Đảng bộ xã Thụy Xuân (1927 – 1975) [33], Lịch sử Đảng bộ

huyện Thái Thụy (1927 - 2005) [32] cung cấp thêm một số tư liệu khái quát về

điều kiện tự nhiên, xã hội, truyền thống đấu tranh bất khuất quật cường của

nhân dân làng Phấn Vũ, trong đó đề cập đến chùa làng Phấn Vũ là di tích lịch

sử, là nơi hoạt động cách mạng của các chiến sỹ yêu nước. Năm 2012, một số

tư liệu nghiên cứu về cụm di tích của Ban Quản lý di tích tỉnh Thái Bình như:

Lý lịch di tích đền, chùa làng Phấn Vũ, xã Thụy Xuân, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình; Báo cáo điều tra giá trị lịch sử đền, chùa làng Phấn Vũ; Bản vẽ

kiến trúc di tích đền, chùa làng Phấn Vũ nhằm đề nghị xếp hạng cụm di tích

Phấn Vũ là di tích lịch sử văn hóa cấp Tỉnh. Với những tư liệu đó, ngày 10

7

tháng 10 năm 2012, Uỷ ban Nhân dân tỉnh Thái Bình đã ra quyết định công

nhận cụm di tích này là di tích lịch sử văn hóa cấp Tỉnh. Tuy nhiên, những tư

liệu này chỉ mới tập trung vào khai thác giá trị lịch sử văn hóa cách mạng

nhưng cũng chưa thực sự chuyên sâu, trong khi đó còn nhiều vấn đề chưa

được đề cập đến hoặc đề cập còn ít và sơ sài như: Lịch sử hình thành làng,

hình thành cụm di tích; lễ hội, kiến trúc; công tác bảo tồn, tôn tạo,... Bên cạnh

đó, các nguồn tư liệu này mới chỉ nghiên cứu về cụm di tích; các nhà nghiên

cứu chưa đặt cụm di tích trong mối quan hệ qua lại với các hoạt động kinh tế,

văn hóa, xã hội của cư dân làng Phấn Vũ (hay chính xác hơn) các công trình

nghiên cứu đó chưa đặt cụm di tích (đền chùa) trong không gian văn hóa làng

Phấn Vũ. Vì vậy, có thể thấy đề tài luận văn “Đền, chùa trong không gian

văn hóa làng Phấn Vũ (xã Thụy Xuân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)” là

một công trình nghiên cứu hoàn toàn mới, cấp thiết, có ý nghĩa khoa học và

thực tiễn.

3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

 Hệ thống lại toàn bộ các nguồn tư liệu nghiên cứu về làng Phấn Vũ và

cụm di tích đền chùa làng Phấn Vũ.

 Đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu cụm di tích đền, chùa làng trong mối quan hệ

với không gian văn hóa làng Phấn Vũ.

 Xác định một số vấn đề đang đặt ra và khuyến nghị một số giải pháp

nhằm bảo tồn, phát triển cụm di tích đền chùa làng Phấn Vũ trong thời điểm

hiện tại và tương lai.

4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

4.1. Đối tượng

Cụm di tích đền, chùa làng Phấn Vũ (bao gồm: chùa Phấn Vũ, đền

Mẫu, đền Quan Lớn Thống) trong mối quan hệ với không gian văn hóa làng

Phấn Vũ.

8

4.2. Phạm vi nghiên cứu

 Phạm vi không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu cụm di tích đền chùa

trong không gian làng Phấn Vũ, xã Thụy Xuân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái

Bình, nhưng có mở rộng ra trong mối quan hệ với một số làng, xã xung quanh.

 Phạm vi thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu cụm di tích đền chùa

làng Phấn Vũ từ năm 1986 - 2014, nhưng có quan tâm đến các vấn đề lịch sử

từ khi đền, chùa được xây dựng cho đến hiện nay (2014)

 Phạm vi vấn đề: Luận văn nghiên cứu cụm di tích đền, chùa làng Phấn Vũ

trên các góc độ kiến trúc, điêu khắc, đối tượng thờ tự và các hoạt động thờ

cúng, lễ hội, tín ngưỡng tôn giáo… diễn ra tại cụm di tích trong mối quan hệ

qua lại với không gian văn hóa làng Phấn Vũ.

5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

 Phương pháp tiếp cận khu vực học và liên ngành:

Luận văn đặt cụm di tích đền, chùa trong không gian văn hóa làng Phấn

Vũ - một không gian văn hóa có sự giao thoa giữa những yếu tố văn hóa Việt

vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ và những yếu tố văn hóa Việt vùng ven biển

trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập hiện nay. Luận văn

sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể của các ngành sử học, dân tộc

học, xã hội học,… để thu thập và xử lý tư liệu khi viết luận văn.

 Phương pháp Lịch sử:

Nghiên cứu tài liệu, các công trình nghiên cứu đã được công bố (xuất

bản) để xác định các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong luận văn và xác

định các tài liệu về đền, chùa, về không gian văn hóa làng Phấn Vũ trong quá

khứ và hiện tại có thể sử dụng trong luận văn.

 Phương pháp Dân tộc học/ Nhân học

Phương pháp khảo sát thực địa của ngành Dân tộc học bao gồm một

loạt phương pháp nghiên cứu cụ thể như quan sát (quan sát tham dự và không

tham dự), phỏng vấn (phỏng vấn sâu, phỏng vấn hồi cố), thảo luận nhóm,

9

chụp ảnh, quay video,… được sử dụng để thu thập tư liệu trên thực địa về

kiến trúc, điêu khắc, cách thức bố trí không gian thờ cúng của cụm di tích và

các hoạt động thờ cúng, lễ hội, tín ngưỡng tôn giáo diễn ra trong cụm di tích

và mối quan hệ giữa cụm di tích với không gian văn hóa làng Phấn Vũ trong

lịch sử và hiện tại. Đây là phương pháp khai thác và cung cấp nguồn tư liệu

định tính chủ yếu để hoàn thành luận văn.

 Phương pháp thống kê:

Khai thác và sử dụng nguồn tư liệu định lượng (các số liệu thống kê) về

điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội,… của cư dân làng Phấn

Vũ, xã Thụy Xuân đã và đang được lưu giữ tại địa phương.

 Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh:

Phân tích, tổng hợp, đối chiếu các nguồn tư liệu. Đây là phương pháp

được sử dụng để viết luận văn.

6. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI

 Cung cấp nguồn tư liệu chi tiết, cụ thể và hệ thống về cụm di tích trên các

góc độ kiến trúc, điêu khắc, đối tượng thờ tự và các hoạt động thờ cúng, lễ

hội, tín ngưỡng tôn giáo diễn ra tại cụm di tích, trong mối quan hệ, tác động

qua lại với không gian văn hóa làng Phấn Vũ.

 Chỉ ra những vấn đề đang đặt ra với cụm di tích trong quá trình tồn tại và

phát triển.

 Đưa ra một số khuyến nghị giải pháp góp phần gìn giữ, bảo tồn và phát

triển cụm di tích.

7. BỐ CỤC ĐỀ TÀI

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài bao

gồm 3 chương, trong đó:

Chương 1: Không gian văn hóa làng Phấn Vũ

Chương 2: Cụm di tích đền, chùa làng Phấn Vũ

Chương 3: Đền chùa làng Phấn Vũ - một số vấn đề đặt ra và khuyến nghị giải pháp

10

CHƯƠNG 1:

KHÔNG GIAN VĂN HÓA LÀNG PHẤN VŨ

1.1. Điều kiện tự nhiên

1.1.1. Vị trí địa lý

Làng Phấn Vũ thuộc xã Thụy Xuân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Nằm ở vị trí trung tâm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương, có

điểm nút giao thông quan trọng của tuyến đường liên xã, liên huyện đi các

tỉnh biên giới phía Bắc sang Trung Quốc và các vùng miền trên cả nước,

thuận lợi cho việc giao lưu, trao đổi buôn bán: Phía Đông giáp với biển. Phía

Tây giáp thôn Xuân Bàng, làng Bình Lạng và đường đi đến xã Thụy An. Phía

Nam giáp làng Vạn Xuân, xã Thụy Xuân. Phía Bắc giáp xã Thụy Trường,

huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Làng Phấn Vũ cách thị trấn Diêm Điền 7km, cách thành phố Thái Bình

khoảng 40km, cách thành phố Hải Phòng 80km, cách thủ đô Hà Nội 120km.

Từ làng đến biển chỉ khoảng 1km rất thuận lợi cho người dân ra biển đánh bắt

hải sản. Năm 2013, xã Thụy Xuân đã xây dựng xong đường đêpan càng tạo

điều kiện thuận lợi hơn nữa cho giao thông đường bộ. Cùng với giao thông

đường bộ thì đường thủy khá phát triển, tạo điều kiện cho Phấn Vũ trong việc

giao lưu kinh tế, văn hoá - xã hội cũng như việc tiếp thu các thành tựu khoa

học, công nghệ và tăng khả năng thu hút vốn đầu tư của các tổ chức trong và

ngoài nước.

1.1.2. Địa hình

Nền địa hình Thái Bình là đồng bằng được hình thành cách đây không

lâu. "Đường bờ biển chỉ mới được bồi đắp trong vòng 100-200 năm trở lại

đây" [2, tr. 30]. Về tổng thể, Thái Bình là một tỉnh đồng bằng, không có đồi

núi, bao gồm các cánh đồng bằng phẳng, xen kẽ các khu dân cư, mạng lưới

11

sông ngòi chằng chịt, độ cao trung bình của tỉnh không quá 3m so với mực

nước biển. Địa hình Thái Bình được chia thành các khu vực: "Loại hình ven

sông; loại hình đất cao phía Tây Bắc; loại hình đất thấp ven sông Hóa; loại

hình đất trũng ở giữa tỉnh và loại hình đất tương đối cao ven biển" [2, tr. 35].

Loại hình đất tương đối cao ven biển gọi là vùng tiếp giáp biển gồm các xã

phía Đông Nam huyện Tiền Hải và Đông Nam huyện Thái Thụy, trong đó có

xã Thụy Xuân. Theo đó, làng Phấn Vũ nằm trên vùng đất cao, chịu tác động

trực tiếp của sóng gió biển Đông. Bờ biển Thái Thụy luôn biến động theo thời

gian, có sự bồi đắp và tiến ra xa biển nên diện tích có sự thay đổi theo chiều

hướng tăng dần lên. Đoạn bờ biển từ cửa sông Trà Lý đến cửa sông Diêm Hộ

cho đến năm 1936 vẫn chưa được bồi đắp. Đến những năm cuối của thế kỷ

XX, nhân dân đã chinh phục bờ biển ở đây và diện tích được bồi đắp tiến xa

ra biển khoảng 3km.

1.1.3. Khí hậu

Khí hậu của làng Phấn Vũ nói riêng và Thụy Xuân nói chung mang tính chất cơ bản là nhiệt đới ẩm gió mùa, với nhiệt độ trung bình năm là 23 - 24oC,

số giờ nắng 1600 - 1800 h, tổng lượng mưa trong năm 1700 - 2200 mm, độ

ẩm không khí 80 - 90%. Gió mùa mang đến cho Phấn Vũ một mùa đông lạnh

mưa ít, mùa hạ nóng mưa nhiều và hai thời kỳ chuyển tiếp ngắn.

Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, chế độ nhiệt của Phấn Vũ đạt tiêu chuẩn nhiệt đới với nhiệt độ trung bình hàng năm là 23,3oC. Có sự

phân hóa của chế độ nhiệt thành hai mùa rõ rệt. Mùa hè, nhiệt độ trung bình trong tháng lớn hơn 25o C, kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, trong đó tháng 7 là tháng nóng nhất với nhiệt độ trung bình là 29,2oC. Trong mùa hè, có những

ngày gió đông nam mát mẻ, có ngày có gió tây nam khô nóng. Hoạt động của

các dải hội tụ nhiệt đới gây mưa lớn và giông bão bất thường. Mùa đông có nhiệt độ trung bình trong tháng dưới 20oC kéo dài từ tháng 12 năm trước đến

12

tháng 3 năm sau. Tuy nhiệt độ có lúc thấp đến 4,1oC nhưng do ảnh hưởng của

biển nên không xảy ra hiện tượng sương muối. Trong mùa đông, thường gặp

các kiểu thời tiết hanh khô, nồm, nắng ấm, lạnh ẩm và mưa phùn. Sự điều hòa

nhiệt ẩm ở vùng ven biển Thái Thụy rõ rệt hơn những vùng xa biển, biên độ nhiệt trung bình trong năm là 12,8oC, trong khi ở thành phố Thái Bình là 13,1oC.

Khí hậu nhiệt đới gió mùa tạo thuận lợi cho cây trồng vật nuôi. Những

tháng mùa đông, có thể gieo trồng các loại cây cận nhiệt đới và ôn đới, tạo

sản phẩm tiêu thụ trong vùng và xuất khẩu. Song vùng đất này cũng có những

khó khăn do thời tiết đem lại, là nơi đầu sóng ngọn gió nên mùa bão nổi

thường tràn qua Thụy Xuân, gây nhiều thiệt hại. Tác động bất lợi của tự nhiên

gây ra ngập lụt, vỡ đê, nước mặn xâm nhập vào sâu đất liền gây thiệt hại mùa

màng, nhà cửa, đôi khi còn cướp đi sinh mạng con người. "Trận bão ngày

24/6/1929 còn ghi đậm dấu ấn sâu sắc trong lòng người dân Thụy Xuân; tiếp

đó là cơn bão tháng 7/1955 kèm theo gió lớn, mưa nhiều, sóng to, nước biển

dâng tràn đã xóa đi dấu vết của nhiều xóm bãi ngoài đê Ngự Hàm, dọc bờ

biển Thụy Xuân - Thụy Trường - Thụy Hải" [2, tr. 49]. Tuy vậy, để sống hòa

hợp với thiên nhiên, tận dụng các điều kiện thuận lợi và hạn chế tác hại của tự

nhiên, người dân đã biết huy động trí tuệ, sức lực của mình đắp đê, đào hệ

thống kênh mương chống úng ngập, tưới tiêu, dùng các biện pháp thủy lợi để

thau chua, rửa mặn, cải tạo đất đai phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất.

1.1.4. Thủy văn

Hàng năm đón nhận lượng mưa lớn (1700 - 2200 mm). Hệ thống sông

ngòi dày đặc, các ao hồ, đầm nhỏ nằm rải rác, xen kẽ với với làng xóm hoặc

ven đê, lại tiếp nhận một lượng nước lớn từ các sông: Sông Trà Lý, sông Hóa,

sông Diêm Hộ, sông Hệ tạo nên một hệ thống thủy văn phong phú. Lượng

nước biển lớn với chế độ thủy triều ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông

13

nghiệp và vận tải, nhiều nhất vào các tháng 1, 2, 3. Các tháng này mực nước

ngầm, nước mặt trong đất liền thấp. Khi triều cường, nước mặn thâm nhập

vào đồng ruộng làm cho đồng ruộng bị nhiễm mặn. Mặt khác, thủy triều dâng

có tác dụng làm cho nguồn nước mặt dâng cao, có lợi cho các vùng lấy nước

ngọt tưới cho đồng ruộng. Về các tháng mùa mưa, khi triều thấp có thể tiêu

nước từ các vùng ngập úng ra biển. Khi tiêu úng ra biển, dòng nước đem theo

nhiều tác nhân bất lợi cho mùa màng, giúp thau chua rửa mặn, giải phóng môi

trường nước bị ô nhiễm.

1.1.5. Thổ nhưỡng

Đất của làng Phấn Vũ là loại đất nhiễm mặn, đất thường chưa ổn định,

phân tầng chưa rõ rệt, thường có tầng hữu cơ là xác thực vật. Điều này do ảnh

hưởng của nước biển ngầm và kênh rạch ven biển. Mức độ nhiễm mặn thay

đổi theo mùa lũ cạn và ở các độ sâu khác nhau. Đất mặn có hàm lượng hữu cơ

cao, dinh dưỡng khá. Tuy nhiên độ mặn lại là yếu tố khống chế sản xuất, cũng

chính vì thế nên Phấn Vũ trồng trọt rất ít, người dân chủ yếu làm nghề nuôi

trồng và đánh bắt, khai thác thủy hải sản.

1.1.6. Động thực vật

1.1.6.1. Thực vật

Phấn Vũ nói riêng và Thái Bình nói chung không có đồi núi nên các

nhóm cây tự nhiên rất nghèo nàn, chủ yếu là cây trồng. Trong đó, cây lương

thực là nhóm cây chủ đạo, bao gồm lúa, ngô, khoai, sắn. Rau quả bao gồm rau

quả vụ đông như: Su hào, bắp cải, xà lách, súp lơ, cà chua, đậu, đỗ... và rau

quả vụ hè: Rau muống, cải xanh, rau đay, bí ngô, bí đao, cà, mướp. Vụ đông

và vụ đông xuân rau rất phong phú. Bên cạnh đó, thực vật ngập mặn như: Vẹt,

bần, sú rất phát triển cùng với các loại sinh vật biển tạo nên hệ sinh thái rừng

ngập mặn đa dạng, phong phú.

14

1.1.6.2. Động vật

Xã Thụy Xuân nói chung và làng Phấn Vũ nói riêng là nơi ít có quỹ đất

cho thực vật tự nhiên phát triển, vì vậy chỗ trú ẩn cho các loài động vật tự

nhiên cũng rất ít. Chỉ có một số loại chim như: Cò, diệc, chích chòe; các loài

động vật biển như: Tôm, cá, mực, cua, còng, cáy, don, día, ngao… Còn lại,

động vật chủ yếu là động vật nuôi, bao gồm: Động vật nuôi trên cạn như trâu,

bò, lợn, gà, vịt, ngan; động vật nuôi dưới nước như ngao, cua, cá, tôm nước

lợ, nước ngọt: Tôm sú, cá song, cá bớp, cá vược.

1.2. Một số vấn đề lịch sử và cư dân

1.2.1. Lịch sử hình thành làng

Căn cứ vào kết quả nghiên cứu trong cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện Thái

Thụy, cuốn Địa chí Thái Bình, có thể thấy cũng như các xã ven biển nằm ở

phía Đông Bắc huyện Thái Thụy, làng Phấn Vũ, xã Thụy Xuân không nằm

ngoài quá trình hình thành trải qua hàng chục vạn năm của vùng đồng bằng

ven biển Bắc Bộ. Trải qua quá trình lấn biển, đất đai xã Thụy Xuân nói

chung, làng Phấn Vũ nói riêng đã nhiều lần chìm nổi. Khoảng 2500 năm

trước, địa chất khu vực mới ổn định, mực nước biển rút dần, để lộ ra các vùng

đất với nhiều gò đống, đầm lầy, đất đai Thụy Xuân dần hình thành và bắt đầu

xuất hiện luồng cư dân di cư theo đường biển về đây hội tụ sinh sống. Tuy

nhiên, do sự khó khăn hiếm hoi về mặt tư liệu nên chưa đủ điều kiện làm rõ

được tên tuổi, địa bàn hành chính của Thái Thụy (trong đó có Phấn Vũ - Thụy

Xuân) trong thời kỳ dựng nước trước công nguyên và nghìn năm Bắc thuộc.

"Đến thế kỷ thứ X từ các triều đại Đinh - Lê - Lý - Trần trở đi cùng với thắng lợi

trong đấu tranh chống ngoại xâm, củng cố nền độc lập thì cương vực Thái Thụy

mới dần rõ nét" [5, tr. 8]. Cuối thế kỷ XVIII, Thái Thụy nằm trong 3 huyện

của 2 phủ: "huyện Thụy Anh, huyện Đông Quan của phủ Thái Bình (đời Tây

Sơn gọi là phủ Thái Ninh) và huyện Thanh Lan (hoặc Thanh Quan) của phủ

15

Tiên Hưng" [5, tr. 9]. Tên tuổi, địa bàn hành chính của làng Phấn Vũ trải qua

các thời kỳ này đều nằm trong tên tuổi chung, địa giới hành chính chung của

Thái Thụy với các tên gọi khác nhau qua tiến trình lịch sử.

Theo cuốn “Các Tổng trấn xã danh bị lãm” thì Phấn Vũ nằm trong 9

tổng với 59 xã của huyện Thụy Anh với tên gọi xã Phấn Vũ thuộc tổng Vạn

Xuân (cũng có lúc đổi thành làng Phấn Vũ hoặc xã Minh Vũ của tổng Vạn

Xuân) và tên gọi đó được duy trì đến Cách mạng tháng 8/1945. Theo điều tra

thực địa của một người Pháp có tên P.Gourou vào giữa năm 1930 thì tổng dân số của xã Phấn Vũ là 1947 người, diện tích đất tự nhiên 0,28 km2.

Tháng 4/1946, thực hiện chủ trương chung, Hội đồng nhân dân tỉnh xóa

bỏ đơn vị tổng, đổi phủ thành huyện. Lúc này Minh Vũ có tên là làng Phấn

Vũ, thuộc xã Xuân Trường, huyện Thụy Anh, tỉnh Thái Bình. Đến 1956,

Xuân Trường được tách thành 2 xã Thụy Xuân và Thụy Trường. Minh Vũ

cùng 2 làng Vạn Xuân, Bình Lạng thuộc xã Thụy Xuân, huyện Thụy Anh,

tỉnh Thái Bình. "Ngày 17/6/1969, huyện Thụy Anh được sáp nhập với huyện

Thái Ninh lấy tên gọi huyện Thái Thụy" [3, tr. 2]. Năm 1969, làng Phấn Vũ

gồm 5 xóm: 7, 8, 9, 10, 11 đến năm 2003 chỉ gồm hai xóm 8 và 9.

Quá trình lịch sử lâu đời của đất và người làng Phấn Vũ xưa còn được

khẳng định qua thực tế quá trình hình thành đất đai, dân cư và truyền thống

khai hoang lấn biển. Trong đó làng Phấn Vũ nằm trên dải cồn cát được dồn tụ

sóng biển bắt đầu từ đỉnh Gồ Gai xã Thụy Trường gối nhau chạy qua các xã

Thụy Xuân, Thụy Hải, Thụy Hà có chiều dài gần 15 km.

1.2.2. Quá trình phát triển cư dân

Các cứ liệu về khảo cổ học đã chứng minh đậm nét về dấu vết cư trú từ

rất sớm của con người trên vùng đất Tổng Vạn Xuân gồm: Vạn Xuân, Tam

Tri, Lỗ Trường, Tri Trỉ, Chỉ Bồ, Bình Lạng, Phấn Vũ. Năm 1973, Bảo tàng

Thái Bình đã phát hiện được nhiều di chỉ khảo cổ học tại mép biển Thụy

16

Xuân như: Mũi tuyết đồng, ngôi mộ cổ có quan tài hình thuyền hay như ở các

khu gò đống của Phất Lộc (xã Thái Giang, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)

cũng tìm được một số mộ gạch lớn kết cấu hình vòm mang đặc trưng của

những ngôi mộ Hán, đó là những căn cứ có thể xác định ngôi mộ tìm thấy tại

ven biển Thụy Xuân cũng là ngôi mộ có niên đại từ rất sớm vì dải đất đều

nằm chung trong đất đai ven biển huyện Thụy Anh.

Bên cạnh những dấu vết còn khiêm tốn trên sự hình thành đất đai, dân

cư của làng Phấn Vũ còn được minh chứng bổ sung sống động bằng nếp sinh

hoạt văn hoá độc đáo mang sắc thái riêng của cư dân ven biển trong đó văn

hoá tâm linh và tín ngưỡng thờ Thánh Mẫu đóng vai trò hết sức quan trọng

trong đời sống tâm linh của nhân dân.

"Công cuộc khai khoang, trị thuỷ của các xã Bình Lãng, Phấn Vũ, Vạn

Xuân, Chỉ Bồ, Lổ Trường, Tam Chi, Tri Chỉ thuộc Tổng Vạn Xuân đặc biệt

sôi động khi nhà nước phong kiến Đại Việt giành quyền tự chủ, từ thời Lý Bí

hai cha con Lý Thiên Bảo, Lý Bảo Quốc đã lấy nơi đây lập trại, đóng đồn, lập

ấp để huấn luyện quân sỹ tích trữ lương thảo phục vụ cho cuộc khởi nghĩa

đánh đuổi quân Lương ra khỏi bờ cõi dựng lên nước Vạn Xuân" [5, tr.12].

Thời gian tiếp theo luồng cư dân di cư theo đường biển từ nhiều nguồn gốc,

thành phần khác nhau: Có trường hợp đến đây do muốn thoát khỏi cảnh đè

nén, tù túng ở quê cũ; có người phiêu bạt do loạn lạc chiến tranh; có người

phải thay đổi tên họ để tránh sự truy bức của triều đình; có người là nô tì, gia

nhân tự nguyện đi theo công thần về mở mang điền trang, thái ấp.

Đến thời nhà Trần, tổng Vạn Xuân là hậu căn cứ quan trọng để nhà

Trần xây dựng tuyến phòng trữ tích trữ lương thảo, rèn luyện quân sỹ trấn giữ

cửa Đại Bàng. Khi cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông thắng lợi, Đốc Hậu

đại tướng quân Ngô Đạt đã đem theo gia nhân, binh lính thuộc hạ và vận động

17

trai tráng đắp đê ngăn mặn và con trai cả của tướng quân Nguyễn Liệu Công

đã về tổng Vạn Xuân lập ấp.

Cuối thế kỷ XIV, trước sự lấn át của Hồ Quý Ly, nhiều thân tộc nhà

Trần lánh về Thái Thụy núp dưới danh nghĩa khai khẩn vùng ven biển để

chiêu mộ lực lượng chờ thời cơ khôi phục lại nhà Trần.

Dưới thời Lê sơ, chính sách trị thủy của nhà nước có tác động thuận lợi

đến công cuộc khẩn hoang, mở mang làng xã, đắp đê biển để chắn lũ, ngăn

nước mặn, tiêu biểu cho thời kỳ này là việc khẩn hoang những bãi bồi hoang

hóa ven biển do ông nghè Nguyễn Công Định (Đỗ tiến sỹ khoa Quý Mùi -

1463) khởi xướng.

Dưới triều Minh Mệnh (1820-1840) hoạt động bồi trúc đê ngăn lũ mặn,

khẩn hoang có qui mô lớn do Đinh điền sứ Nguyễn Công Trứ đề xuất và tổ

chức. Người dân tổng Vạn Xuân, đặc biệt vùng Ba Gia - Lỗ Trường đã truyền

đời câu răn:

“Đã là con mẹ con cha

Đừng sinh ở đất Ba Gia- Lỗ Trường”.

Câu răn ấy để nói về nhiều lần thất bại, gian nan trong việc bám đất, lập

làng, sự khắc nghiệt của miền đất đầu sóng ngọn gió, bão lũ luôn đe dọa ập

đến bất ngờ chôn vùi những nỗ lực của con người. Trong khi đó, nhiều ngư

dân và thuyền bè vẫn chưa dứt khỏi nỗi ám ảnh về sóng dữ, vực sâu ở các

vùng cửa biển, cửa sông “Sóng cửa Trà, ma cửa Hộ” hoặc “Cửa Tuần Vường

phải nhường của Cun”. Tuy nhiên không chịu lùi bước trước thiên nhiên,

quyết tâm trị thủy, quai đê, lấn biển người dân 7 xã thuộc tổng Vạn Xuân đã

biến miền đất đầy rẫy gò đống và đầm lầy lau lách nhiễm mặn trở thành vùng

đất trù phú như ngày nay.

Hiện nay, làng Phấn Vũ có 298 hộ, 1054 khẩu, có 11 dòng họ bao gồm:

họ Hoàng, Trần, Hà, Nguyễn, Phạm, Lê, Bùi, Vũ, Đỗ, Trịnh, Khúc. Những

18

dòng họ này phần nhiều từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Ninh Bình, Nam

Định di cư đến.

Cộng đồng cư dân Phấn Vũ qua nhiều lớp dân cư, nhiều thế hệ, nhiều

cội nguồn đã kế tiếp nhau, kề vai sát cánh, hợp cư hòa bình cùng bám đất bám

biển vượt qua sự khắc nghiệt của thiên nhiên cải tạo vùng đất sình lầy, lau

lách um tùm thành vùng đất cư trú đông đúc, giàu có như ngày nay.

1.3. Các hoạt động kinh tế

1.3.1. Thủ công nghiệp

1.3.1.1. Nghề đan lát mây, tre

Hầu hết các làng xã ở Thái Bình đều có nghề đan lát mây tre. "Theo ghi

chép của người Pháp, vào khoảng năm 1930 - 1932 số người làm nghề đan

lát ở Thái Bình có khoảng 8800 người trong tổng số 42000 người trên toàn

Bắc Bộ. Gần như làng nào cũng có 10 - 15 người làm nghề đan lát" [2, tr.

797]. Dụng cụ của nghề này rất đơn giản, chỉ cần một con dao mác sắc và một

số cây tre, mây là có thể tạo nên các sản phẩm rổ, rá, nong, nia, sàng, quang

gánh, các dụng cụ đánh bắt cá như lờ, nơm. Những người già hoặc những lao

động chính lúc rỗi việc cũng đều tranh thủ đan các thứ đồ để dùng trong nhà

hoặc để bán. Tuy nhiên, hiện nay nghề này hầu như không còn nữa vì thu

nhập thấp, nhiều người đã chuyển sang nghề đan lưới đánh bắt cá hoặc buôn

bán nhỏ tại khu vực chợ Bàng.

1.3.1.2. Nghề đan lưới đánh bắt cá

Trước cách mạng tháng 8/1945, theo ghi chép của người Pháp thì nghề

đan lưới đánh bắt cá ở Thái Bình phát triển hơn so với các tỉnh khác thuộc

vùng đồng bằng Bắc Bộ, có 1200 thợ đan lưới trong số 3000 thợ của toàn Bắc

Kỳ. Thợ đan lưới tập trung ở các làng Phú Lạc (Hưng Nhân), Nam Huân

(Kiến Xương), Tu Trình, Vọng Hải, Vạn Đồn, Vạn Xuân, Đông Dương,

Phương Man (Thụy Anh). Tuy nhiên, trước năm 1945, nghề đánh bắt cá ở

19

Thái Bình nói chung, ở các huyện ven biển (Tiền Hải, Thụy Anh, Thái Ninh)

nói riêng chỉ được xem là nghề phụ, "chưa nơi nào tỏ ra là một làng đánh cá thực thụ" 1. Hiện nay, phát triển kinh tế biển được xem là ngành kinh tế mũi

nhọn của các huyện Thái Thụy, Tiền Hải trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn Thái Bình. Điều này góp phần tạo

điều kiện cho nghề đan lưới đánh bắt cá phát triển.

1.3.2. Nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản

Nghề chính của làng là nuôi trồng, đánh bắt và buôn bán hải sản. Hiện nay, làng có 25 hộ gia với trên 48 ha diện tích đất nuôi trồng2 các loại hải sản

xuất khẩu như: Tôm, cua, cá (cá vược, cá song, cá thu…) thu hút hàng trăm

lao động cho thu nhập giá trị kinh tế cao, trên 400 triệu đồng/ha đầm nuôi,

chiếm 35% tổng thu nhập kinh tế của thôn. Diện tích nuôi trồng ngày càng

được đầu tư mở rộng. Nhiều đồng muối không còn, phần vì giá muối quá thấp

mà làm ra hạt muối rất vất vả, phần vì chuyển đổi diện tích sang nuôi trồng

thủy hải sản. Bên cạnh việc nuôi trồng thì hoạt động khai thác hải sản phát

triển với 3 tàu đánh bắt hải sản tầm trung và hàng trăm lao động hàng ngày

khai thác hải sản ven bờ.

Các bô lão trong làng truyền lại rằng: Ngày xưa vùng biển Xuân

Trường còn sâu, nước triều lên xuống tôm, cá rất nhiều, cả vùng bờ biển chạy

dài từ sông Hóa lên tới sông Diêm Hộ rất thuận tiện cho nghề đánh cá. Thời

kỳ đó dân cư ở đây còn rất thưa thớt, nghề đánh cá có xuất xứ từ những cư

dân di cư theo đường biển về đây. Lúc đầu, họ dùng mấy cây tre đóng thành

mảng để chở lưới và người rồi chèo ra thả lưới kéo vào bờ gọi là nghề “lưới

1 P. Gourou: Les paysans du delta tonkinois, Paris, 1936 2 Báo cáo thực trạng kinh tế của các thôn trong xã Thụy Xuân (2012), tr.9

bồ”, làm xong hết ngày họ lại kéo mảng lên bờ.

20

Đến sau này, từ những kinh nghiệm đi biển của các lão ngư, Mảng đã

dần dần được thay thế bằng phương tiện thuyền (thuyền được đan bằng tre

sơn vỏ cây sắn chét lại, dùng tranh cói để làm cánh buồm). Phương thức đánh

bắt này gọi là Reo Kheo. Nghề Reo Kheo đánh bắt cá ở mực nước sâu hơn,

dựa theo chiều gió mà thả vây lưới (lưới được đan bằng tơ gai) phải cần tới

trên 20 người cùng hợp sức. Khi đánh cá họ thả người xuống nước chia từng

khoảnh thành vòng tròn. Mỗi người đi Kheo có một cây sào dài khoảng 3 mét

vừa lội vừa reo đập sào đuổi cá về phía thuyền lưới. Phương thức này có thể

giúp 20 ngư dân thu hoạch 5 -7 tấn cá/ngày. Càng đánh bắt xa bờ càng được

nhiều tôm cá, từ đó đã phát triển sang nghề Reo Khua. Nghề Reo Khua yêu

cầu phải có nhiều người, nhiều thuyền, đặc biệt lưới phải to, dài và rộng.

Ngoài 2 thuyền lưới ra phải có 8 – 12 thuyền Khua. Phương thức đánh bắt này

cho phép đánh được các loại cá to như cá Thủ, cá Gúng, cá vàng Kép, có mẻ

lưới thu được trên chục tấn cá. Những ngày biển động nghề Reo Khua không

làm được các bạn thuyền tập trung lại 2 thuyền cái để đi đánh Lưới Hà. Nghề

Lưới Hà là nghề lưới thả rê bắt các loại cá Chim, Thu, Nhụ, Đé. Hai nghề

“Lưới hà” và “Reo khua” chỉ khai thác vào thời vụ từ tháng giêng đến trung

tuần tháng 4 (âm lịch), ngoài thời gian này cá đẻ xong nuôi ra ngoài khơi xa

vì thế chỉ đánh cá có thời vụ [3, tr.4]. Năm 1958 đã hình thành các tập đoàn

đánh cá, phương tiện khai thác được cải tiến, thuyền gỗ to buồm vải lưới nghề

làm bằng Ny lon, cải tiến lối đánh bắt, xây dựng phương thức khai thác đa

dạng, phát triển ngư cụ tạo điều kiện để đánh cá quanh năm với nghề lưới rê,

giả đôi, giả tôm, lưới vó mành đánh bằng ánh sáng vào giữa thập niên 60. Đầu

thập kỷ 60 thành lập hợp tác xã đánh cá Vũ Tiến, đến năm 1982 chia tách

thành 02 Hợp tác xã là Xuân Thành và Xuân Tiến. Hiện nay nghề khai thác

thuỷ hải sản được tổ chức quy mô hiện đại hơn với hệ thống tàu to, máy lớn

để vươn ra khơi xa và do các cá nhân đầu tư.

21

Dù đánh bắt bằng phương thức nào thì cuộc sống của ngư dân nơi đây

cũng đầy gian lao. Người đàn ông ra khơi lênh đênh trên biển, phải đối mặt

với sóng to gió lớn, đối mặt với chuyện sinh tử thường ngày. Còn những

người vợ, người mẹ ở nhà luôn phải chịu cảnh: “Ăn với chồng một bữa, ngủ

với chồng nửa đêm”. Nhưng những gian lao đó không khuất phục được ngư

dân nơi đây, họ vẫn ra khơi mang theo những kinh nghiệm được đúc kết qua

nhiều thế hệ:

“Con ơi giữ lấy lời cha

Đôi mươi tháng chín thật là bão rươi

Mùng năm của những tháng Mười Thì con vào lộng ra khơi mặc lòng”3

Dân làng kể lại vào trước năm 1890 có cụ Lê Văn Ưng là người đánh

cá rất giỏi. Khi đi đánh cá, cụ Ưng nhìn trời đất mà đoán biết được mưa gió

hoặc có bão để tránh. Căn cứ vào thời tiết, hướng gió và tính theo con nước,

cụ sẽ tìm ra đúng bãi cá, đoán biết hướng di chuyển của cá. Ví dụ: Hôm nay

chầu 3 con nước, gió nam cấp 2, cá sẽ di chuyển lui vào và lên phía Bắc.

Những kinh nghiệm đi biển đó vẫn còn được lưu giữ đến ngày nay.

1.3.3. Diêm nghiệp

Xã Thụy Xuân có nghề làm muối từ năm 1958 bao gồm 2,14 ha đất làm muối, mỗi năm cho thu hoạch hàng trăm tấn4. Những hạt muối mặn mà thơm

trắng được kết tinh từ biển, phơi cùng nắng gió cũng tăng thêm thu nhập cho

người dân trong xã nói chung và người dân làng Phấn Vũ nói riêng. Tuy

nhiên, làm muối là nghề hết sức vất vả. Để sản xuất ra hạt muối, người dân

3 Nói đến kinh nghiệm đi biển của ngư dân Phấn Vũ. Nếu là 20/9 thì không nên ra khơi đánh bắt vì mùa này thường xuất hiện nhiều bão gió to. Còn từ 5/ 10 thì ra khơi không phải lo lắng.

4 Báo cáo thực trạng kinh tế của các thôn trong xã Thụy Xuân (2012), tr.7

phải làm sân, ruộng phơi và hệ thống kênh mương dẫn nước vào đồng muối.

22

Ruộng muối nằm ngoài đê biển, được thiết kế theo ô, dùng cát rải trên mặt

ruộng để lấy nước biển vào phơi. Nước biển từ kênh mương được tát vào các

ruộng muối và thường phải tát nhiều lần trong ngày để phơi cho nước bay hơi,

muối đọng lại lẫn vào cát được gọi là chạt. Khi chạt được phơi đủ lượng

muối, dùng trang vun gọn lại thành đống. Sau đó, xúc chạt vào bể lắng, cho

nước vào khuấy đều và gạn lấy nước trong đem ra sân phơi. Bể lắng được xây

bằng gạch hình trụ có đường kính khoảng 1,5m, cao 1m, trên có mái che

thường được lợp bằng cói để che mưa. Sân phơi được làm bằng xi măng,

xung quanh có bờ để giữ nước muối. Muối được phơi trên sân cho đến khi

khô, dùng trang vun gọn thành đống, đóng vào bao để đưa vào kho hoặc đem

đi tiêu thụ.

Cùng với ngư nghiệp, diêm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp thì các ngành

nghề buôn bán hải sản xuất khẩu, thương mại dịch vụ, buôn bán lớn nhỏ phát

triển khá đồng đều thu hút hàng trăm lao động tạo thu nhập ổn định. Nhiều hộ

gia đình buôn bán tại chợ Bàng - chợ lớn của xã và là chợ đầu mối buôn bán của

các xã lân cận như: Thụy Hải, Thụy Trường. Trong thôn phát triển nhiều dịch

vụ, các đại lý lớn, nhỏ buôn bán các loại hàng hóa đa dạng, phong phú tạo nên

khu giao lưu, thông thương buôn bán sầm uất của địa phương và tiểu vùng.

1.3.4. Kết cấu hạ tầng

Hệ thống điện chiếu sáng trong thôn được hoàn thiện, hai bên đường

đều chiếu sáng, 100% số hộ dân trong làng sử dụng điện lưới quốc gia. Hiện

tại địa phương đã tiếp nhận dự án RE2 nâng cấp, cải tạo lưới điện sinh hoạt

của điện lực Thái Bình, chất lượng điện cung cấp cho sản xuất và sinh hoạt đã được nâng cao5. Mạng Internet cũng đã được các hộ sử dụng rộng rãi chiếm

5 Đề án xây dựng nông thôn mới xã Thụy Xuân giai đoạn 2011 - 2015, định hướng 2020 (tr.6)

khoảng 30%.

23

Đường thôn ngõ xóm được cứng hóa, hệ thống cống rãnh thoát nước

được người dân tự nguyện đóng góp tu sửa nâng cấp. Công tác vệ sinh môi

trường đảm bảo thường xuyên, có 01 vệ sinh viên thu gom rác thải, nhân dân

làm vệ sinh công cộng vào ngày 24 hàng tháng.

Nhà văn hóa thôn được xây dựng kiên cố, khang trang với tổng diện tích 572m2, phục vụ hội họp, sinh hoạt văn hóa cộng đồng của nhân dân và

đáp ứng hoạt động văn hóa, văn nghệ, Thể dục Thể thao như: Luyện tập thể

dục thể thao thường xuyên, tập dưỡng sinh, đánh cầu lông, hoạt động hè của

thanh thiếu niên.

1.4. Một vài vấn đề về xã hội

1.4.1. Dân số, lao động và việc làm

Dân số có 1054 người, trong đó nam là 485 người (chiếm 46,1%),

nữ có 569 người (chiếm 53,9%). Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,01%/

năm. Tất cả đều là người Kinh. Trong đó, 100% trẻ em đến độ tuổi đều

được đến trường.

Lao động trong độ tuổi chiếm khoảng 61,5 % dân số; trong đó có 7%

người lao động không có việc làm ổn định. Người dân chủ yếu làm nghề nuôi

trồng và khai thác thủy hải sản (chiếm khoảng 85%), còn lại là Tiểu thủ công

nghiệp và buôn bán hàng hóa tại chợ Bàng. Bình quân thu nhập đầu người

khoảng 2.586.000 đồng/tháng, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt từ 11 -

16%. Lao động không trong độ tuổi chiếm khoảng 38,5 %. Người già chiếm

17%, trẻ em chiếm khoảng 21,5%.

1.4.2. Tổ chức xã hội

Làng Phấn Vũ có một chi bộ Đảng gồm 22 Đảng viên. Chi bộ lãnh đạo

toàn diện trên tất cả các mặt về xây dựng, phát triển kinh tế xã hội. Trong đó,

có một ban công tác mặt trận gồm 15 thành viên và các đoàn thể: Nông dân,

Phụ nữ, đoàn thanh niên, cựu chiến binh, người cao tuổi, chữ thập đỏ, hội

24

phật giáo... thực hiện nhiệm vụ xây dựng các phong trào, tuyên truyền vận

động đoàn viên, hội viên cùng toàn thể nhân dân nêu cao tinh thần đoàn kết

xóm làng, thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà

nước, nội quy quy định của địa phương. Trong làng có công an viên, trật tự an

toàn xã hội ổn định, không có hiện tượng khiếu kiện, tình hình an ninh chính

trị luôn được giữ vững; người dân trong thôn sống hoà thuận, cùng giúp nhau

phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo. Nhân dân tích cực tham gia các phong

trào xã hội, luôn chấp hành tốt mọi chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật

của Nhà nước.

Phấn Vũ có một vị trí địa lý thuận lợi nên hàng ngày lượng người cùng

lượng hàng hóa đến trao đổi, buôn bán tại trung tâm sầm uất chợ Bàng rất lớn.

Vì vậy làng Phấn Vũ có điều kiện xã hội khá phức tạp bởi những tiêu cực của

nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn các tệ nạn xã hội, các luồng văn hóa

không lành mạnh xâm nhập vào đời sống nhân dân. Nhưng dưới sự lãnh đạo

của Đảng, của chính quyền địa phương, sự vào cuộc tích cực của các ban

ngành đoàn thể trong thôn, nhân dân luôn nêu cao tinh thần cảnh giác trước

những âm mưu của các thế lực thù địch, tích cực tham gia phong trào "Toàn

dân bảo vệ an ninh Tổ quốc", cùng giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn

vùng biên giới biển.

Hàng năm thôn làng đều thực hiện đủ chỉ tiêu khám tuyển nghĩa vụ

quân sự và kêu gọi thanh niên lên đường nhập ngũ. Phấn Vũ duy trì tốt mọi

hoạt động, tham gia tích cực huấn luyện dân quân tự vệ. Các chính sách hậu

phương quân đội đều được quan tâm giải quyết có hiệu quả, đảm bảo công

khai, dân chủ, hợp thời, đúng đối tượng theo các quyết định số 47/2002/QĐ -

TTg ngày 11/4/2012, Quyết định số 290/2005/QĐ - TTg ngày 8/11/2005,

Quyết định số 142/2008/QĐ - TTg ngày 27/10/2008, Quyết định số

62/2011/QĐ - TTg ngày 9/11/2011… đối với những người là dân quân, du

25

kích, thanh niên xung phong, bộ đội, công an tham gia các cuộc kháng chiến,

chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ Quốc tế.

Phấn Vũ còn là một trong những làng đi đầu trong phong trào xây dựng

nông thôn mới tại xã Thụy Xuân. Hàng năm có trên 90% gia đình đăng ký

xây dựng gia đình văn hoá và qua bình xét cuối năm 2012 có trên 82% số hộ

đạt tiêu chuẩn. Phong trào xây dựng thôn làng văn hóa, khu dân cư tiên tiến,

thực hiện nếp sống văn hóa trong việc cưới, việc tang, lễ hội ngày một phát

triển cả bề rộng và chiều sâu. Năm 2007, 2008, 2010 Phấn Vũ đã đạt danh hiệu “Khu dân cư tiên tiến”6. Tháng 4/2012, thực hiện sự chỉ đạo của Ủy ban

nhân dân huyện Thái Thụy về phong trào đăng ký xây dựng "Xã đạt chuẩn

văn hóa nông thôn mới", cùng với thôn Bình An, Phấn Vũ được công nhận là

thôn làng văn hóa lần đầu. Phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao

ngày một phát triển thu hút mọi tầng lớp nhân dân tham gia góp phần nâng

cao đời sống tinh thần của nhân dân. Nhà văn hóa thôn đã cơ bản đáp ứng yêu

cầu trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng.

1.5. Đôi nét về văn hóa

Làng Phấn Vũ nằm trong vùng Bắc Bộ, mang đặc điểm của vùng đồng

bằng châu thổ, nhưng do nằm gần biển nên cũng chứa đựng những nét rất

riêng mang yếu tố văn hóa biển thể hiện trong cả văn hóa vật chất lẫn văn hóa

tinh thần.

1.5.1. Văn hóa ẩm thực

Phấn Vũ là làng quê có nhiều món ăn ngon, từ những món ăn dân dã

trong ngày thường đến những món ăn cầu kì trong ngày Tết. Món ăn của làng

6 Báo cáo thực trạng kết quả xây dựng nông thôn mới, UBND xã Thụy Xuân (2013), tr. 5

Phấn Vũ không quá cay, quá ngọt, quá chua hay quá thiên về lựa chọn nguyên

26

liệu, gia vị, công đoạn chế biến... mà sức hấp dẫn chủ yếu đến từ hương vị

tươi ngon thuần khiết của sản vật tự nhiên.

1.5.1.1. Món ăn thường ngày

Lương thực chính là gạo, bao gồm cả gạo tẻ và gạo nếp. Thức ăn hàng

ngày chủ yếu được chế biến từ các loại cá biển, tôm, canh don, canh ngao,

riêu cua… Canh don, canh ngao như đặc tính của người Phấn Vũ, không cầu

kỳ, không đắt đỏ, cái ngon tự nhiên đến từ vị ngọt thanh lạ trên mảnh đất quê

hương đã tạo nên một đặc sản, một niềm tự hào của ẩm thực Phấn Vũ. Vì gần

biển nên các món ăn ở đây được nấu khá mặn, hương vị rất đậm đà. Đặc biệt,

nước mắm là gia vị không thể thiếu vì theo thói quen ăn uống của người vùng

biển, một khúc cá rán, một miếng thịt hay một đĩa rau luộc mà lại vắng nước

mắm thì thật kém ngon. Chính vì vậy, có một số gia đình đã tự mình làm

nước mắm đựng trong chum vại làm gia vị hay nước chấm để phục vụ bữa ăn

hàng ngày.

Ngày thường mà có khách quý đến chơi hay khách từ phương xa về,

người dân sẽ chế biến thêm những món ăn ngon, đặc sản của vùng quê như:

Gỏi nhệch, bún cá, sứa biển chấm mắm tôm, cua biển hấp. Những món ăn này

được chế biến khá lâu, cần nhiều gia vị và khi được thưởng thức những món

ăn này, thực khách sẽ không dễ gì quên được bởi ẩn chứa trong đó là cả sức

sáng tạo tài tình trong ẩm thực của con người làng Phấn Vũ. Dù có khách đến

hay chỉ những người trong gia đình với nhau thì mọi người đều ngồi quây

quần trên chiếu, ăn uống rất vui vẻ, thoải mái, cùng nhau trao đổi về cách chế

biến các món ăn.

1.5.1.2. Món ăn ngày lễ, Tết

Người dân Phấn Vũ rất coi trọng việc ăn uống trong dịp Lễ, Tết, nhất là

tết Thanh minh, rằm Tháng bảy và tết Nguyên đán. Đây là các kỳ nghỉ lao

động, sản xuất. Do vậy, bà con thường chuẩn bị thực phẩm hết sức công phu,

27

cách chế biến món ăn cũng đa dạng và cầu kỳ. Một số món ăn trong dịp này

như món nộm sứa biển, sam biển. Đây còn là những món ăn không thể thiếu

trong dịp cưới hỏi. Sam biển chế biến ra rất nhiều món ăn ngon và lạ khác

nhau như: Tiết canh sam, gỏi sam, chân sam xào chua ngọt, sam xào xả ớt,

trứng sam chiên giòn, trứng sam xào lá lốt… Tuy nhiên, không phải dễ dàng

bắt được sam như bắt cá, vì chúng có mùa, ngư dân phải tính con nước và

định ngày ra khơi, từ tháng 3 đến tháng 9 sẽ có nhiều sam nhất.

Trong các món ăn mừng năm mới, bên cạnh bánh chưng, thịt mỡ, dưa

hành, họ còn chế biến thêm nhiều đồ ăn ngon mà ngày thường không có thời

gian để làm như: chả cá, chả mực, nem día. Ngày Tết ăn nhiều đồ mỡ, nhiều

thịt nên người dân rất thích ăn những thức ăn có vị ngọt thanh, thơm mát như

các loại lẩu cá, riêu cá. Trong đó, cá khoai là lựa chọn hàng đầu. Cá khoai có

thể chế biến thành nhiều món ăn đơn giản mà lại bổ dưỡng và hấp dẫn như

cháo cá khoai, lẩu cá khoai, và nhất là canh cá khoai. Ăn bát canh cá khoai

ngày Tết sẽ thấy vị chua thanh mát của cà chua lẫn với vị ngọt bùi nhuốm mùi

mặn mòi của biển cả trong từng miếng cá khoai, thêm chút vị cay rân rân, tê

tê đầu lưỡi của ớt. Tất cả hoà quyện vào nhau thành món ăn dân dã mà say

lòng người.

1.5.2. Văn hóa ở

Do nằm cạnh biển, trước bão gió thường xuyên nên nhà ở của cư dân

thường thấp, nhỏ, chắc chắn như bám chặt vào đất. Một vài ngôi nhà lớn có

tới 5 gian, còn đa số các ngôi nhà thường chỉ có 3 gian. Trong nhà chỗ trang

trọng nhất ngay gian giữa vẫn là ban thờ gia tiên. Phía trước ban thờ thường

dành làm nơi tiếp khách, nơi gia đình ngồi bàn việc hay sum họp hàng ngày.

Từ dáng dấp bên ngoài mặt nhà, mái nhà… cho đến cửa, đều thể hiện ý

thức tránh hướng gió bão. Nhà thường quay hướng Nam - Tây Nam hoặc

Nam - Đông Nam chính là tránh hướng gió đông từ biển vào. Tường bốn mặt

28

nhà thường chia hai lớp, lớp trên đã dày, lớp dưới còn dày hơn và là tường

đất. Nền nhà thấp, các cửa ra vào, cửa sổ nằm sâu vào bề dày của tường. Mái

nhà cũng chắc chắn và kín đáo như vậy. Nếu là mái ngói thì ngói được chít

vữa các mạch cho gắn chặt với nhau. Có nơi còn đắp thêm những tấm đá lên

mái để gió không làm tốc mái được. Nếu là mái rạ hay cói bổi thì trên đỉnh

nóc còn chặn thêm những ụ rạ thật to nhưng phủ ngoài thật trơn tròn để gió

trượt qua chứ không bóc lên được. Bên trong bộ khung mái cũng được làm

chắc chắn với những giằng tre khóa lại với nhau và ghì chặt mái rạ vào khung

nhà. Mái lợp cỏ hay cói dày tới 0,4 - 0,5 mét, độn thật nhiều vào chân mái.

Nước mưa từ nóc mái chảy xuống rất nhanh, vì mái dốc, đến chân mái đổi

chiều vọt ra xa để đỡ hại nhà, nhất là không vào chân tường đất.

Ngày xưa, mái được lợp bổi (là cây cói được trồng nhiều ở các vùng đất

bãi mặn, lợ ven biển). Khi thu hoạch, những cây cói thân nhỏ nuột, dài 1,50-

1,60m được dùng để dệt chiếu. Nhưng cây cói thân to, ngắn người ta cắt,

phơi trên bờ bãi cho khô rồi đem về dùng để lợp nhà. Nhà lợp bằng mái bổi

mát về mùa hè và ấm về mùa đông do thân cây bổi xốp, chứa không khí bên

trong tạo thành lớp cách nhiệt [2, tr.143]. Hơn nữa người dân nơi đây thường

lợp mái bổi khá dầy. Đa số mái nhà lợp bổi dầy từ 0,70 - 1,0m; trọng lượng

mái bổi thường khoảng vài ba chục tấn. Hệ thống các đòn tay, dui, mè bằng

luồng đều được lựa chọn kỹ lưỡng, dây buộc đều bằng mây. Nhà lợp bổi càng

nặng thì càng chắc chắn, không sợ mưa, gió. Quá trình tồn tại gắn bó với đời

sống, sinh hoạt của người dân, nhà mái bổi đã vượt lên công dụng che mưa,

che nắng, trở thành nét văn hóa đặc sắc của cư dân vùng biển, đọng lại trong

tâm thức những người con xa quê một nét hồn quê sâu lắng. Ngày nay, nhà

mái bổi đã không còn, phần vì không còn diện tích để trồng cói, phần vì người

dân đã dựng những ngôi tường xây, mái ngói chắc chắn và ở lâu dài hơn.

29

1.5.3. Văn hóa mặc

Trang phục giống như trang phục của người Kinh ở đồng bằng Bắc Bộ.

Trước đây, đàn ông mặc áo cánh nâu, xẻ ngực, cổ tròn, xẻ tà và có hai túi phía

dưới. Đây là loại áo ngắn mặc với quần lá tọa ống rộng hoặc loại quần có cạp,

dùng dây rút. Trong các ngày lễ, tết, trang phục chủ yếu mà Nam giới thường

mặc là áo dài đen hoặc vải the có lót trắng ở bên trong, đầu đội khăn xếp,

quần tọa màu trắng. Đó là loại áo dài, xẻ nách phải, không trang trí hoa văn,

nếu có chỉ là loại hoa văn dệt cùng màu tinh tế trên vải. Chân đi guốc mộc.

Phụ nữ mặc váy (loại váy kín, váy ống), áo là áo cánh cách ngắn vải nâu - loại

áo cổ tròn, viền nhỏ, tà mở, phía trong mặc yếm. Khi ra đường họ thường

mang khăn vuông đội theo lối "mỏ quạ" hoặc các loại nón: thúng, ba tầm.

Chiếc váy đã gắn với phụ nữ Phấn Vũ nói riêng, phụ nữ Thái Bình nói chung

trong suốt thời gian rất dài, mãi tới kháng chiến chống Pháp, khi chị em tham

gia du kích thì chiếc quần thuận tiện hơn trong sinh hoạt và là lựa chọn của

chị em.

Ngày nay, trang phục của cả nam giới và phụ nữ rất phong phú về kiểu

dáng, chất liệu: quần bò, áo sơ mi, áo phông… Váy của phụ nữ cũng rất đa

dạng như váy nơi công sở, váy cưới cô dâu với màu sắc trang nhã, lịch sự.

Người dân Phấn Vũ khi lao động, đi biển hay làm muối, họ còn đội nón

chóp vành rộng, cứng. Đặc biệt, người đi te có nón chóp vành to, cứng để đeo

thêm nắm cơm, đèn dùng ban đêm. Nón chóp có khung tre, mái dốc, chóp

nhọn, khâu bằng sợi móc chắc. Giữa hai lần lá cọ lợp còn lót mo nang cho

bền. Loại nón này một phần do người dân Phấn Vũ tự làm, còn lại chủ yếu

mua tại các xã thuộc huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.

1.5.4. Văn hóa ứng xử với môi trường biển

"Hải tính" trong tâm thức người dân Phấn Vũ đậm dần, cuộc sống của

họ ngày một thiết tha hơn với biển. Họ thể hiện sự linh hoạt của mình trong

30

thế ứng xử với thiên nhiên. Biển hiện hữu trong tâm thức ngư dân suốt chu kì

một đời người. Biển vừa là nguồn sống, vừa là nơi gửi gắm biết bao tâm tư

tình cảm của cộng đồng. Biển gắn bó với con người từ khi sinh ra đến khi từ

biệt cõi trần:

"Lắng tai nghe mẹ giãi bày

Cha sinh mẹ dưỡng sánh tày bể Đông"

So sánh công ơn cha mẹ không gì rõ hơn bằng cách đặt tương quan với

độ mênh mông, rộng lớn của biển cả. Và biển cũng đem lại nguồn sống, đáp

ứng nhu cầu cuộc sống hàng ngày của người dân Phấn Vũ.

Biển là môi trường để con người sống và lao động, biển cũng là nơi con

người gửi gắm tâm tư, tình cảm và khát vọng của cộng đồng. Biển trở thành

triết lý sống, là nơi con người trải nghiệm và hun đúc bản lĩnh, là nguồn cảm

hứng sáng tạo vô tận. Văn hoá biển của người dân Phấn Vũ đậm nét trong

những câu hò, những làn điệu dân ca. Biển là hình ảnh con tàu diễn tả nỗi nhớ

day dứt, khắc khoải đợi chờ của cô gái đợi người yêu, của những người vợ

đợi chồng nơi bến đậu. Biển là tiếng hát ru của mẹ dành cho con; là tiếng giao

duyên, đối đáp của tình yêu đôi lứa; là nỗi nhớ của những người con đi xa

luôn hướng về. Sống trong môi trường biển, người dân Phấn Vũ tận dụng mọi

nguyên liệu lấy từ biển để chế tác những sản phẩm văn hoá vật chất phục vụ

cho đời sống của mình. Và ngay trong lúc thực hiện những sản phẩm đó,

người dân nơi đây đã đưa hình ảnh của biển vào kỹ thuật lúc làm nhà ở hay

kín đáo hơn là trong các nét hoa văn, màu sắc thể hiện. Biển chính là phần

hồn của các sản phẩm vật chất được chế tạo qua bàn tay tài hoa của người dân

Phấn Vũ. Chính vì vậy, biển đã tác động và tạo nên những giá trị trong văn

hoá Phấn Vũ, phản ánh văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần, quan niệm nghệ

thuật, nhân sinh quan của cộng đồng Phấn Vũ trong quá trình tồn tại và phát

triển ở vùng đất Thái Thụy, Thái Bình.

31

Một cách vô thức, yếu tố biển góp phần kiến tạo nên tâm hồn cư dân,

trong đó tinh thần nhân văn trong ứng xử giữa con người với con người, con

người với thiên nhiên, biển cả là một biểu hiện bao trùm, tiêu biểu nhất. Đó

chính là tình yêu thương con người, tinh thần tương thân, tương ái, hướng tới

điều thiện, lên án cái ác, nuôi dưỡng mối giao cảm giữa các cư dân; đó còn là

đạo lý uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa, gắn kết cộng đồng trong quan

hệ xã hội. Trong quan hệ với biển, con người thể hiện rõ tinh thần tôn trọng,

đề cao và bảo vệ. Đây là nét đẹp tâm hồn, văn hóa truyền thống cao quý, làm

nên giá trị lớn trong bản sắc văn hóa Việt. Người dân Phấn Vũ nói riêng và

người dân Thụy Xuân nói chung đã tiếp thu và bồi đắp truyền thống hướng

biển, vừa có cái nhìn sâu sắc về biển, vừa có thái độ e dè trước thiên nhiên

cùng cách nói bộc trực, thẳng thắn mà dân gian vẫn quen gọi là "Ăn sóng nói

gió”. Tính biển đã tạo cho người dân nơi đây bản lĩnh lao động cần cù và

thông minh. "Có cứng mới đứng trước gió", không cần cù và thông minh thì

không thể đứng trụ được ở miền đất cửa biển - nơi mà nước và trời vừa là

bạn, là môi trường sống, lại vừa là đối thủ phải chống chọi hàng ngày. Không

cần cù và thông minh thì không thể có được một hệ thống đê điều, sông đào,

mương máng chằng chịt ở khắp nơi và cũng không thể có miếng ăn trong

nghề biển với những đòi hỏi cao về kinh nghiệm và đầu tư sức lao động. Môi

trường biển và quá trình ứng xử với môi trường đó không chỉ tạo nên tính

cộng đồng, cộng cảm, cộng mệnh mà còn làm cho cư dân Phấn Vũ nói riêng,

cư dân Thụy Xuân nói chung sớm hình thành và định hình truyền thống bất

khuất, sáng tạo, nhạy cảm với những biến động lịch sử.

1.5.5. Tôn giáo, tín ngưỡng

1.5.5.1. Thờ Phật

Phật giáo là một thành tố quan trọng trong dòng chảy lịch sử Việt Nam.

Gần hai ngàn năm có mặt ở nước ta, tư tưởng triết lý Phật giáo đã thấm sâu

32

vào đời sống của đông đảo nhân dân. Ngôi chùa càng ngày càng phổ biến ở

những làng quê Việt: “Đất vua chùa làng, phong cảnh Bụt”.

Phật giáo đã thấm nhuần vào cách suy tư và sinh hoạt của người Việt

nói chung, người làng Phấn Vũ nói riêng nên dấu vết Phật giáo trong văn hóa

của người dân nơi đây cũng khá đậm nét. Họ tiếp thu những giá trị đạo đức

hợp với tinh thần Việt Nam. Nói về "Thập nhị nhân duyên", dân gian chỉ còn

quan niệm: "Tham thì thâm, Bụt bảo thì thầm rằng chớ có tham". Nói về luật

nhân quả thì: "Ở hiền gặp lành", "Gieo gió gặt bão", "Ác giả ác báo''. Phật

khuyên đủ mọi điều nhẫn thì dân chỉ tổng kết: "Một sự nhịn là chín sự lành".

Phật dạy phải từ bi thì dân tổng kết "Thương người như thể thương thân",…

Có thể thấy, người dân nơi đây đã sùng Phật theo tâm thức Việt và nhiều

người theo lệ ăn chay vào những ngày mồng một hay ngày rằm.

Do tính nhân văn, khoan dung và phù hợp với lối sống của người Việt,

ngay từ đầu khi Phật giáo truyền vào nước ta đã được người dân chấp nhận và

càng ngày ngôi chùa càng trở nên yêu dấu hơn, gắn bó với người dân mỗi

làng quê. Chùa Phấn Vũ đã gắn bó mật thiết với người dân làng Phấn Vũ, trở

thành một phần không thể thiếu trong sinh hoạt tôn giáo, sinh hoạt văn hóa

cộng đồng của người dân Phấn Vũ.

1.5.5.2. Thờ Mẫu

Cùng với việc thờ phụng đức Nam Hải Thánh Mẫu tại đền Mẫu - vị

thần cai quản 12 cửa biển Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ; tại chùa Phấn Vũ còn

phối thờ cả Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian

thuần Việt, có lịch sử lâu đời, biến chuyển thích ứng với sự thay đổi của xã

hội Việt Nam.

Tín ngưỡng thờ Mẫu hướng đến cuộc sống thực tại của con người với

ước vọng sức khỏe, tài lộc, là một nhu cầu trong đời sống tâm linh của người

Việt, mang lại cho họ sức mạnh, niềm tin và có sức thu hút mọi tầng lớp trong

33

xã hội. Người đi lễ cầu mong đạt được những điều nằm ở chính cuộc sống

này, là tài lộc, thành công, may mắn và đều thể hiện tấm lòng thành kính từ

khi dâng lễ vật đến khi chắp tay vái lạy khẩn cầu. Chính vì thế, tín ngưỡng

thờ Mẫu thu hút được đông đảo người dân làng Phấn Vũ nói riêng và người

dân Thụy Xuân nói chung. Mẫu là đại diện của sự che chở, bao bọc. Mẫu

cũng là đại diện của sự sinh sôi, nảy nở, trù phú. Bởi thế, mỗi khi con người

cảm thấy cô đơn, thấy bơ vơ, không có nơi nương tựa, việc họ tìm về mẫu để

nhận được sự quan tâm, cứu giúp như một phản ứng rất đỗi tự nhiên.

Những giá trị của đạo Mẫu được gói gọn trong ba chữ “Tâm – Đẹp –

Vui”. Tâm là giá trị cốt lõi của tín ngưỡng thờ Mẫu. Mẫu dạy con người sống

hướng thiện, có cái tâm trong sáng, biết đối nhân xử thế, thờ phụng ông bà tổ

tiên và biết ơn những người có công với dân, với nước. Còn Đẹp và Vui trong

tín ngưỡng thờ Mẫu được thể hiện qua chính lễ hầu đồng. Lễ hầu đồng đẹp ở

âm nhạc, mỗi khi nhạc chầu cất lên là người lên đồng như được tiếp thêm sinh

lực để “nhập đồng”, còn người đi xem hầu cũng thêm vui vẻ, hứng khởi. Lễ

hầu đồng còn đẹp ở những bộ trang phục của các ông đồng, bà đồng, đẹp ở

tượng Mẫu, đẹp ở chính cảnh lên đồng biểu diễn của các nghệ sĩ dân gian

nhưng rất chuyên nghiệp. Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, hầu đồng là nghi lễ

chính mang tính nghệ thuật sân khấu. Hầu đồng của người dân Phấn Vũ diễn

ra tại đền Mẫu vào ngày lễ hội của cụm di tích hoặc vào dịp lễ cuối năm và

đầu năm. Những người lên đồng hóa thân thành các vị Thánh Mẫu, thể hiện

sắc diện và động thái đặc trưng trong không gian văn hóa linh thiêng. Người

đến tham dự trải nghiệm, cảm nhận được vẻ đẹp của các vị Thánh Mẫu, ngắm

nhìn những bộ trang phục lộng lẫy, nghe hát Văn kể về sự tích công trạng của

các vị Thánh Mẫu trong không gian nghi lễ với nhiều sắc màu rực rỡ. Sự

tương tác giữa người hầu đồng, cung văn và những người tới dự trong không

gian buổi lễ khiến con người thăng hoa, quên đi phiền muộn trong cuộc sống

34

hàng ngày. Họ rất vui mừng khi nhận được lộc Thánh Mẫu ban phát. Sau nghi

lễ hầu đồng, người đi lễ được thụ lộc ngay tại chỗ, được phát lộc là những vật

phẩm quen thuộc, gần gũi của cuộc sống.

Thờ Mẫu không chỉ là một tín ngưỡng tôn giáo, đó còn là văn hóa.

Thông qua nghi lễ lên đồng, qua lễ hội, phong tục gắn liền với nó, nó trở

thành một bảo tàng sống của văn hóa Việt Nam. Đó là các phong tục tập quán

có từ lâu đời từng hun đúc lên sức mạnh của nhân dân trong lịch sử dựng

nước và giữ nước; là nền tảng đạo đức trong cách thức ứng xử giữa con người

với con người, được thể hiện ở sự kính trọng với những người đã sinh thành

ra mình, những người có công với dân, với nước. Tất cả những nghi lễ, tập

tục cổ truyền tốt đẹp cần phải được giữ gìn và phát huy trong xu thế toàn cầu

hóa trên mọi lĩnh vực đang phát triển nhanh, mạnh và rộng khắp nhưng không

làm mất đi những giá trị văn hóa truyền thống.

Đạo Mẫu cũng vẫn chịu ảnh hưởng của đạo Phật cho nên trên cùng của

điện thờ Mẫu có tượng phật để thờ thêm. Trong quá trình tín ngưỡng thờ Phật

du nhập vào nước ta, các bộ phận quan trọng của tín ngưỡng này đã phát triển

theo khuynh hướng dân gian hóa giữa tín ngưỡng thờ Phật và tín ngưỡng thờ

Mẫu có sự thâm nhập và tiếp thu ảnh hưởng lẫn nhau. Điều dễ nhận biết nhất

là ở hầu hết các ngôi chùa hiện nay ở nông thôn đều có điện thờ Mẫu. Trong

đó phổ biến nhất là dạng “tiền Phật hậu Mẫu”. Người dân Phấn Vũ đi chùa

vừa để lễ Phật, vừa để cúng Mẫu. Sự thâm nhập và ảnh hưởng lẫn nhau giữa

đạo Phật và tín ngưỡng thờ Mẫu theo khuynh hướng dân gian hóa là điều dễ

hiểu bởi lẽ, đó là tín ngưỡng dân dã của người dân, cùng hướng về cái từ bi

bác ái, tinh thần cộng đồng, khuyến thiện trừ ác vốn là nền tảng trong nguyên

tắc ứng xử của xã hội cổ truyền. Hai thứ tín ngưỡng này bổ sung cho nhau

đáp ứng nhu cầu tâm linh của người dân: Theo Phật để tu nhân tích đức cho

đời, kiếp sau được lên cõi Niết Bàn để cuộc sống tươi sáng hơn, tự do hơn,

35

còn theo đạo Mẫu là mong được sự phù hộ độ trì đem lại sức khỏe, tài lộc,

may mắn cho đời sống thường ngày.

1.5.5.3. Tín ngưỡng của cư dân vùng biển

Biển và những sự kiện liên quan đến cuộc sống mưu sinh của con

người trên biển luôn hiện hữu trong tâm thức cư dân Phấn Vũ suốt chu kỳ một

đời người. Trong nghề lưới đăng, tàu thuyền, ngư dân quan niệm mọi việc

đều phải hết sức cẩn trọng và mang tính linh thiêng. Xưa nay, ngư dân kiêng

cữ lời nói, những điều cấm kỵ trong sinh hoạt với niềm tin nhờ đó việc hành

nghề được suôn sẻ, may mắn. Họ kiêng không gọi đích danh các vị thần linh

biển cả trước khi đi biển. Khi bưng thúng đựng lưới hay dây câu, họ tránh

không đi qua dưới dây cột võng hoặc dây phơi quần áo. Dù ở nhà hay trên

ghe, thúng đựng lưới hay dây câu phải để ở chỗ không ai bước ngang qua

được. Họ không để người lạ chạm vào hai con mắt vẽ trước mũi thuyền vì sợ

bị ếm đối. Họ kiêng kỵ trong việc ăn cá, ăn xong một bên không được lật lại

mà phải gỡ xương rồi ăn tiếp (để tránh lật tàu thuyền); nấu cơm không để bị

khê, khét hoặc cháy. Người có tang hoặc có vợ đang mang thai không thể là

người đầu tiên vịn tay đẩy thuyền hoặc lưới. Trong khi hành nghề, nếu có gì

bất thường xảy ra, như trong nhiều ngày liền không đánh được cá thì họ phải

nhuộm lại lưới hoặc xông lưới, sắc thuốc bắc tưới lên lưới hoặc dọn rửa

thuyền và cúng kiếng để giải trừ.

Về tinh thần, những giá trị văn hoá tinh thần đặc trưng của ngư dân nơi

đây được lắng đọng trong nhiều tín ngưỡng dân gian đi kèm với các lễ hội đặc

trưng và có sức lan tỏa mạnh mẽ. Lễ hội cầu ngư, đua thuyền, bơi chải,…

không chỉ thể hiện văn hóa tín ngưỡng của cư dân miền biển, sự tôn vinh

nghề nghiệp mà còn thể hiện khát vọng bình yên trong đời sống và lao động

sản xuất.

36

Từ bao đời nay, trong các cộng đồng ngư dân trên cả nước nói chung và

ngư dân Thụy Xuân nói riêng luôn lưu truyền những truyền thuyết, giai thoại

về ông Nam Hải (cá Voi). Cốt lõi của những truyền thuyết ấy là cá Voi

thường cứu giúp người bị nạn ngoài biển khơi khi sóng to gió lớn, đồng thời

cho ngư dân được mùa biển. Các lão ngư kể lại rằng, khi lâm nạn hoặc khi

thuyền giăng lưới ngoài khơi, người ta thường van xin "Ông" giúp đỡ. "Ông"

như nghe được lời khẩn cầu mà phun nước phì phì, lùa cả bầy cá vào lưới. Từ

đức tin ấy, cá Voi đã trở thành một vị Phúc Thần trong đời sống tâm linh của

cư dân ven biển, được dân gian thành kính gọi bằng nhiều danh xưng trân

trọng như: ông Khơi, ông Lộng, ông Nam Hải,... Lúc biển đói, ngư dân cúng

cầu Ông, khi biển no họ lại làm lễ cúng tạ Ông.

Cư dân Phấn Vũ rất tôn thờ các linh vật như: cá Ông, hà bá, bà chúa xứ,

bà chúa muối. Họ thờ Đức Nam Hải Thánh Mẫu, thờ Quan Lớn Thống và

nhận thấy các ngài rất linh ứng. Đến mùa làm ăn sông nước, các chủ tàu

thuyền đều về đền tổ chức cúng lễ cầu an mong Quan Lớn Thống, Đức Nam

Hải phù hộ cho trời yên, biển lặng, cho tàu thuyền ra khơi thuận buồm xuôi

gió, tôm cá đầy khoang, cuộc sống dân làng ngày càng sung túc. Trước khi ra

khơi đánh cá họ đều làm lễ cúng cầu cho chuyến đi an toàn, thu được thành

quả tốt. Đó trở thành tập tục sinh hoạt, thành tín ngưỡng dân gian trước biển

cả trùng khơi. Thông qua đó, còn thắt chặt thêm tình đoàn kết gắn bó giữa các

ngư dân làng chài ven biển để thuyền bè đi khơi về lộng an toàn.

37

Tiểu kết

Từ những nét khái quát về tự nhiên, con người, tình hình kinh tế, văn

hóa, xã hội của làng Phấn Vũ, xã Thụy Xuân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái

Bình, có thể thấy đây là một vùng đất giàu truyền thống cách mạng. Cùng với

những nét văn hóa mang đặc điểm của vùng châu thổ sông Hồng thì nơi đây

còn mang đặc điểm của vùng văn hóa biển.

Tính biển đã góp phần tạo cho người dân bản lĩnh lao động cần cù và

thông minh. Môi trường biển và quá trình ứng xử với môi trường đó không

chỉ tạo nên tính cộng đồng, cộng cảm, cộng mệnh mà còn làm cho cư dân

Phấn Vũ nói riêng, cư dân Thụy Xuân nói chung sớm hình thành và định hình

truyền thống bất khuất, sáng tạo, nhạy cảm với những biến động lịch sử. Sinh

hoạt văn hóa tinh thần, tín ngưỡng, tôn giáo của cư dân làng Phấn Vũ mang

đặc điểm của tín ngưỡng làng xã người Việt nói chung, cùng với tín ngưỡng

của cư dân miền biển có sức lan tỏa mạnh mẽ đến người dân làng Phấn Vũ.

Đó là sự tồn tại và phổ biến loại hình tôn giáo tín ngưỡng thờ Phật, thờ Mẫu,

thờ thành hoàng làng,... Bên cạnh đó, họ thờ Đức Nam Hải Thánh Mẫu, thờ

Quan Lớn Thống, cầu mong các ngài phù hộ cho trời yên, biển lặng, cho tàu

thuyền ra khơi thuận buồm, xuôi gió.

Như vậy, với những nét đặc thù trên, cụm di tích đền, chùa làng Phấn

Vũ không chỉ là nơi để người dân thể hiện văn hóa tín ngưỡng linh thiêng,

hướng con người đến ước vọng sức khỏe, tài lộc, mà còn là nơi gặp gỡ, giao

lưu giữa nhân dân trong vùng. Từ đó, mái chùa, ngôi đền sống mãi với lịch sử

dân tộc, với con người Phấn Vũ, làm nên bản sắc văn hóa Phấn Vũ nói riêng,

góp phần vào bức tranh làng xã Việt Nam nói chung.

38

CHƯƠNG 2:

CỤM DI TÍCH ĐỀN, CHÙA LÀNG PHẤN VŨ

Cụm di tích đền chùa làng Phấn Vũ bao gồm: Chùa Phấn Vũ, đền Mẫu

và đền Quan Lớn Thống. Cụm di tích nằm trên địa bàn làng Phấn Vũ - xã

Thụy Xuân, cách trung tâm văn hóa xã (ngã tư trung tâm chợ Bàng) khoảng

100m lối đi về hướng Đông. Ngày 10/10/2012, Ủy ban nhân dân Tỉnh đã xếp

hạng cụm di tích đền chùa làng Phấn Vũ là di tích lịch sử văn hóa cấp Tỉnh.

2.1. Lịch sử khu di tích

2.1.1. Chùa Phấn Vũ (Minh Đồng tự)

Tại chùa Đồng Bát thuộc làng Vạn Xuân, xã Thụy Xuân, huyện Thái

Thụy, tỉnh Thái Bình có 7 tấm bia đá, trong đó có 1 tấm được xác định có

niên đại từ thời Lý. Qua tấm bia này cùng với ghi nhớ của những người cao tuổi trong làng thì chùa Phấn Vũ và chùa Đồng Bát7 được xây dựng cùng

nhau, cùng vào cuối nhà Lý đầu nhà Trần [3, tr.17]. Ngôi chùa ban đầu nằm ở

ven biển. Do hiện tượng bãi biển bị xói lở, bào mòn nên đến triều Nguyễn

chùa được di chuyển vào vị trí hiện nay (cách vị trí cũ khoảng 3km).

Ngôi chùa hiện nay vẫn giữ được nguyên vẹn kiến trúc của ngôi chùa được

trùng tu, tôn tạo vào niên hiệu Bảo Đại năm thứ 4 (1929).

2.1.2. Đền Mẫu

Theo các bô lão trong làng Phấn Vũ kể lại thì Đền Mẫu được xây dựng lần

đầu tiên vào thế kỷ XV. Lúc đó chỉ dựng đơn giản bằng những tranh tre, nằm ở vị

trí cửa biển về phía Đông Nam làng Phấn Vũ. Đến năm 1729, gặp cơn bão lớn,

nước biển dâng cao, đền bị cuốn trôi đi mất. Đến năm 1896 ngư dân làng Phấn Vũ

xây dựng lại ngôi đền [3, tr.19]. Trải qua thời gian, cùng với sự hủy hoại của thiên

7 Chùa Đồng Bát thuộc làng Vạn Xuân, xã Thụy Xuân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

nhiên, ngôi đền bị xuống cấp nghiêm trọng. Năm 1990, với tấm lòng thành kính

39

biểu hiện tâm linh sâu sắc một lần nữa nhân dân trong làng đã chung tay, tích cực

góp tiền của công sức khôi phục, tu tạo, nâng cấp đền trên nền móng cũ đất xưa.

2.1.3. Đền Quan Lớn Thống

Tương truyền, đền được xây dựng vào cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ

XVIII. Nhưng do sự khắc nghiệt của thiên nhiên vùng ven biển luôn phải chịu

bão lụt, sóng to ngôi đền ban đầu đã bị hư hỏng nặng. Ngôi đền hiện nay là

ngôi đền được xây dựng lại vào năm 1990 trên nền móng cũ đất xưa của ngôi

đền ban đầu và vẫn được dựng theo đúng ngôi đền cũ.

2.2. Kiến trúc

2.2.1. Kiến trúc chùa Phấn Vũ

Chùa Phấn Vũ nằm liền kề với đền Mẫu, cùng được xây theo hướng

Tây Bắc. Từ ngoài vào bao gồm các công trình: Cổng chùa, bức chấn phong,

sân chùa, chùa, nhà thờ tổ, nhà khách.

Chùa được xây tường gạch bao quanh, để mở hai cổng: Cổng chính và

cổng phụ. Cổng chính nằm trước chùa được xây theo kiểu "tam quan" gồm

hai tầng, tầng 2 đặt một gác chuông. Sau cổng chính là bức chấn phong, gồm

4 trụ biểu, 2 trụ biểu lồng đèn, 2 trụ biểu hoa sen. Giữa bức chấn phong trổ

hình chữ Thọ hình tròn. Sân chùa được lát gạch đỏ, dài 14,5 m, rộng 9,8 m.

Kiến trúc chùa Phấn Vũ gồm hai tòa: Tòa Tiền đường (5 gian) và tòa

Phật điện (3 gian) hợp với nhau theo kiến trúc chữ Đinh [3, tr.18].

Tòa Tiền đường xây theo kiểu hồi văn 5 đấu, mái chảy lợp ngói mũi,

trên đại bờ đắp bức cuốn thư ghi dòng chữ Hán: Minh Đồng tự - 明童寺. Bậc

hiên và hiên chùa được lát bằng những phiến đá to. Tiền đường để ba cửa ra

vào, ba cửa đều được làm theo kiểu cửa bức bàn chân quay, cao 2,8m, rộng

2,0m. Hai gian bên xây bưng kín trổ cửa sổ hình chữ Thọ. Tòa nhà được đỡ

bởi kết cấu bằng 6 bộ vì kèo gỗ. Mỗi bộ vì gồm 2 cột cái (cao 3,86m), 2 cột

quân (cao 2,83m). Các cột cái liên kết với nhau bằng 2 xà dọc thượng ở trước

40

và sau. Các cột quân liên kết với nhau bằng 2 xà dọc hạ. Các vì hạ có sự khác

nhau, những vì hạ phía trong đều theo kiểu ván mê, 2 vì hạ gian giữa phía

trước theo kiểu chồng rường, 2 vì hạ gian giáp hồi kiểu ván mê. Gian giáp hồi

bên phải đặt bài vị, ngai thờ, tượng thờ Đức ông. Gian giáp hồi bên trái đặt

bài vị, ngai thờ, tượng mẫu Liễu Hạnh, hai gian bên thờ tượng hộ pháp

khuyến thiện và trừ ác. Gian giữa là nơi đặt hương án dùng cho việc cầu kinh

niệm phật.

Tòa Phật điện được nâng đỡ bởi hai vì kèo gỗ và hệ thống tường gạch

bao quanh. Hai bộ vì cùng được làm theo kiểu “thượng giá chiêng, hạ chồng

rường”. Chính giữa là nơi đặt hệ thống tượng, hai bên để hai hành lang đặt

các tượng thập điện (mỗi bên 5 tượng, nằm trong một khung gỗ), cũng là nơi

để nhân dân vào thắp hương phật.

2.2.2. Kiến trúc đền Mẫu

Theo bản đồ địa chính xã Thụy Xuân, đền Mẫu và chùa Phấn Vũ nằm

liền kề nhau trên cùng thửa đất số 889, thuộc tờ bản đồ số 02, với tổng diện tích: 832m2 (trong đó diện tích xây dựng của đền là 76,6m2; chùa là 216m2,

còn lại là sân và các công trình phụ trợ khác). Hai di tích này nằm ở giữa làng

Phấn Vũ, được xây theo hướng Tây Bắc. Phía Đông giáp nhà văn hóa Minh

Vũ, phía Tây giáp khu dân cư, phía Nam và phía Bắc giáp đường liên thôn.

Trong thời kháng chiến chống thực dân Pháp, do vị trí chiến lược của

đền Mẫu nằm tại trung tâm làng, cách bốt Bình Lạng 300m, rất thuận lợi cho

lực lượng du kích, bộ đội tổ chức trinh sát quấy rối địch. Vì vậy, giặc Pháp đã

điên cuồng tàn phá, làm cho ngôi đền không còn được nguyên vẹn, nhất là các

kiến trúc cổ. Nhưng được sự quan tâm của Đảng và nhà nước về việc giữ gìn,

khôi phục, phát huy giá trị di tích lịch sử văn hoá cùng với sự giúp đỡ của

Bảo tàng tỉnh Thái Bình, sự chỉ đạo của Đảng, chính quyền địa phương và đặc

biệt là của nhân dân địa phương với lòng sùng bái, thành tâm đã tích cực đóng

41

góp tiền của, công sức để khôi phục, tu tạo, nâng cấp đền Mẫu trên nền móng

cũ mỗi ngày một khang trang hơn.

Hiện tại đền Mẫu gồm 2 tòa: Tiền đường (5 gian), hợp với tòa Hậu

cung (3 gian) theo kiểu chữ Đinh. Phía trước đền là sân đền được lát gạch đỏ. Sân rộng 9,6m, dài 12,35m với diện tích 118,56 m2.

Tòa Tiền đường xây theo kiểu hồi văn 3 đấu, mái chảy lợp ngói mũi.

Phần mái hiên làm theo kiểu chồng diêm, hai bên đắp rồng chầu tạo dáng mỹ

thuật, kết cấu hoành tráng, đường nét khá sắc sảo, tỉ mỉ. Hiên trước của đền

mở 3 cửa chính, hai bên xây bưng kín để cửa trổ hình chữ Thọ tròn. Hai đầu

hồi phần trên có đắp đèn lồng, trên hai trụ biểu gian giữa đặt hai con nghê

bằng bê tông cùng chầu vào bức cuốn thư ở phần trên của hiên giữa. Trên bức

cuốn thư có dòng chữ Hán: “Tống Hậu Linh Từ - 宋后靈祠”. Bốn hàng cột

hiên có trang trí đôi câu đối chữ Hán với nội dung ca ngợi cảnh đẹp và công

đức của Thánh Mẫu.

Nội thất tòa Tiền đường với 4 bộ vì kèo được làm bằng xi măng cốt

thép giả gỗ. Hai gian bên đặt ngai thờ, bài vị, sắc phong và tượng Thành

hoàng (được chuyển từ đình Chính và đình Mụa về phối thờ, do hai đình bị

phá trong chiến tranh chống thực dân Pháp). Gian giữa là nơi nhân dân đặt lễ

và làm lễ cúng Mẫu.

Tòa Hậu cung được ngăn với tòa Tiền đường bằng hai cột bê tông để

một cửa chính và hai hành làng vào thắp hương. Hậu cung có hai bộ vì kèo

bằng bê tông giả gỗ. Hậu cung là nơi đặt ban thờ, bài vị, sắc phong, và tượng

Tống Thái Hậu, cùng hai công chúa và thị nữ [3, tr.17].

2.2.3. Kiến trúc đền Quan Lớn Thống

Đền Quan Lớn Thống nằm cách Đền Mẫu và chùa Phấn Vũ khoảng

100m về phía Đông. Phía Đông và phía Nam giáp đường liên thôn, phía Tây

và phía Bắc giáp khu dân cư. Đền Quan Lớn Thống có tổng diện tích là 336,3m2, trong đó diện tích xây dựng là 57,2m2 còn lại là sân và các công

42

trình phụ trợ khác. Các công trình của đền Quan Lớn Thống gồm: Cổng đền,

sân đền, đền và nhà khách [3, tr.19].

Đền được xây tường gạch bao quanh để một cổng ra vào. Cổng đền

được làm theo kiểu chồng diêm “hai tầng tám mái”. Hai trụ dưới của cổng có

câu đối chữ Hán:

“Oanh Liệt tâm trung vì tổ quốc

Anh hùng chí khí động sơn hà”

Sân đền được lát gạch đỏ, dài 12,8m, rộng 8,6m.

Đền Quan Lớn Thống gồm 3 tòa: Tòa Tiền đường (3 gian), tòa Trung

đường (3 gian) và tòa Hậu cung (2 gian), hợp với nhau theo kiểu “Tiền chữ

nhất, hậu chữ Đinh”.

Tòa Tiền đường, xây theo kiểu hồi văn 5 đấu, mái chảy lợp ngói mũi.

Tiền đường để ba cửa ra vào, ba cửa đều được làm theo kiểu bức bàn chân

quay. Hai gian bên xây bưng lại trổ cửa sổ hình chữ Thọ. Toà nhà được nâng

đỡ bởi hai bộ vì kèo gỗ, theo kiểu “thượng giá chiêng, hạ chồng rường”. Bên

trong nhà đặt bát hương thờ công đồng và trang trí các đại tự, câu đối chữ

Hán có nội dung ca ngợi Quan Lớn Thống.

Tòa Trung đường xây theo kiểu“hồi văn cánh bản”, mái chảy lợp ngói

mũi. Bên trong nhà đặt bát hương bằng đồng, bức đại tự, hai câu đối và hai lọ

lục bình to đặt hai bên.

Tòa hậu cung gồm 2 gian nối với Tòa Trung đường thành hình chuôi

vồ. Hệ thống 2 vì kèo theo kiểu "thượng giá chiêng, hạ chồng rường" [3,

tr.19]. Khung kiến trúc gỗ lim, dàn mái gỗ lợp ngói vây cá. Một gian bên

ngoài tiếp giáp với Tòa Trung là một vì kèo chạm tứ linh, vì kèo thứ hai giáp

gian hậu cung kiến trúc chồng rường có ván mê. Bên trong nhà là ban thờ xây

tường gạch cao 0,8m x 1,2m lát gạch hoa, đặt ngai thờ, tượng và bài vị thờ

Quan Lớn Thống.

43

Ngoài các công trình chính ở đền, chùa làng Phấn Vũ còn có vườn cây,

vườn hoa được các tăng ni, phật tử hoặc những người có trách nhiệm chăm

chút nên quanh năm tươi tốt.

2.3. Điêu khắc

Dù kiến trúc mỗi di tích có đặc điểm riêng nhưng về điêu khắc lại khá

giống nhau. Nhìn chung, các công trình di tích ở đây đều có nghệ thuật điêu

khắc đơn giản, mộc mạc vì người dân địa phương ưa sự mộc mạc giản dị nên

việc chạm khắc cầu kỳ được coi là không cần thiết, quan trọng là phải đảm

bảo sự bền vững, cũng như sự đảm bảo về yếu tố tâm linh, chẳng hạn như là

địa thế, hướng nhìn của các di tích. Nói như vậy, không có nghĩa là các di tích

ở Phấn Vũ thiếu tính đặc sắc của nghệ thuật điêu khắc mà trái lại nó vẫn thể

hiện một phong cách riêng đó là không có sự xuất hiện con người mà chủ yếu

theo đề tài truyền thống, các bộ Tứ linh: "Long, Ly, Quy, Phượng" hoặc lá

cành: "Tùng, Cúc, Trúc, Mai, Sen". Tất cả đều thể hiện sự gần gũi giữa con

người với thiên nhiên xung quanh. Đền Mẫu, đền Quan Lớn Thống được xây

dựng với những nét điêu khắc, trạm trổ tinh tế cùng hoa văn, đục theo tứ linh,

đấu vì hoa sen rỗng, bảy tầu trạm Long, Ly, Quy, Phượng. Mái đền cong,

cuộn tròn lượn vòng rất cổ kính. Chùa Phấn Vũ có nghệ thuật điêu khắc tương

đối tinh xảo. Bên trong khán thờ bằng gỗ chân cao được thể hiện dưới dạng

chạm nổi, mặt của hương án được chia thành nhiều dạng trang trí khác nhau,

được chạm trổ các linh vật hoặc hoa thường.

2.4. Đối tượng thờ tự

2.4.1. Chùa Phấn Vũ

Cũng như nhiều ngôi chùa khác ở vùng đồng bằng sông Hồng, chùa

Phấn Vũ thờ Phật theo thiền phái Bắc Tông gồm các tượng như: Tượng Tam

Thế, tượng Thiên thủ thiên nhãn, Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu… Bộ

tượng Tam Thế Chư Phật bao gồm 3 pho tượng phật giống hệt nhau chỉ khác

44

ở bảo vật cầm trên tay. Ba tượng phật là tượng trưng cho quá khứ, hiện tại và

tương lai. Theo Từ điển Phật học Hán Việt (Hà Nội, 1994) thì Phật Quá Khứ

như đức Phật Ca Diếp, Phật Hiện Tại là đức Phật Thích Ca Mầu Ni và Phật

Vị Lai như đức Phật Di Lặc còn gọi là Từ Thị. Tượng Bồ Tát Thiên Thủ Thiên

Nhãn với hình ảnh mỗi bàn tay đều có con mắt trí tuệ, trong tay cầm nhiều

pháp khí dùng hàng phục ma chướng. Những cánh tay cầm kiếm, búa, tràng

hoa, châu báu, vải lụa gấm vóc, hoa sen, bánh xe pháp, bình tịnh thủy, chày

kim cang,… cũng tượng trưng cho mọi ngành nghề trong cuộc sống trên thế

gian này. Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn còn có danh hiệu là Đức Quan Âm.

Qua hình tượng Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn có thể thấy được ý nghĩa Công

Đức và Phước Đức của Bồ Tát Hạnh.

Tại chùa còn có tượng thập điện được thờ ở hai bên hành lang tòa Phật

điện. Các tượng này đều được tạc bằng gỗ. Theo quan niệm của Phật giáo Á

Đông, trong đó có Việt Nam, đây là các vị thần linh cai quản cõi chết và phán

xét con người ở Địa ngục căn cứ vào công hay tội họ đã tạo ra khi còn sống.

2.4.2. Đền Mẫu

Đền Mẫu làng Phấn Vũ thờ phụng Đức Đại Càn Nam Hải Thánh Mẫu -

vị thần cai quản 12 cửa biển Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Đối chiếu với thần

tích, sắc phong qua các thời kỳ của Đền Mẫu thì sự tích của đức Nam Hải

Thánh Mẫu [5, tr.32] được lưu truyền như sau: Vào thế kỷ XIII thời Trần tại

nước Đại Việt (Việt Nam ngày nay) tương đương với nhà Nam Tống và sau

đó là nhà Nguyên bên Trung Quốc. Tại quận Phiên Ngung, tỉnh Quảng Đông,

có một thanh niên họ Triệu tên Đan xuất thân từ tầng lớp bình dân gia đình

nghèo song rất có trí học hành. Trước nhà ông là biển Đông, sau nhà là rừng.

Vợ ông ban ngày làm nghề kiếm củi, ban đêm làm nghề đăng đó kiếm cá đổi

lấy gạo để nuôi chồng học hành. Nhà tuy nghèo song vợ chồng tình nghĩa rất

đằm thắm lại đều có lòng nhân hậu thường hay giúp người nghèo khó hơn

45

mình. Triệu Đan học hành ngày càng tiến tới. Đến khi nhà Vua mở khoa thi,

qua 2 lần thi (thi Hương, thi Hội) ông đều đỗ. Đến kỳ thi Đình do chính Vua

Tống ra đề, ông đã đỗ Trạng Nguyên và ra làm quan. Ông được vua Tống

giao cho quản việc khai sông và các công trình thủy lợi khác. Triệu Đan luôn

hoàn thành tốt mọi việc vua giao, được nhà Vua phong chức ''Ngự Sử Trung

Thừa'' (là chức quan cao trong triều, quản lý các quan ở Ngự Sử Đài, tập hợp

các vụ án để tâu trình lên Vua). Tuy làm quan cao trong triều đình nhưng vợ

chồng Triệu Đan với lối sống thanh bạch, giản dị, liêm khiết đã phò tá giúp

Vua, chống lại quan tham ức hiếp dân, được nhà Vua khen là tôi hiền. Trong

thời gian làm quan vợ chồng ông bà Triệu Đan đã sinh hạ được một người

con gái đặt tên là Hồng Nương. Hồng Nương càng lớn, nhan sắc tuyệt đẹp, lại

là con một gia đình gia giáo, tiếng đồn về nhan sắc và đức hạnh của nàng làm

vang động cả kinh thành nhà Tống. Thái tử Đế Bính nhà Tống đã say vì nhan

sắc và đức hạnh của nàng, kén nàng vào cung phong nàng làm đệ nhất phu

nhân. Đến khi Đế Bính lên làm vua phong cho nàng làm chính cung Hoàng

Hậu. Một đêm, Hồng Nương Hoàng Hậu nằm mơ thấy bắt được một con rùa

biển. Tỉnh dậy nàng kể lại cho chồng nghe. Vua cười và bảo: ''Rùa là vật dưới

nước thuộc về âm lại là một trong bốn loài vật thiêng: Long, Ly, Quy,

Phượng. Đó là điềm lành chẳng có chi''. Hồng Nương cảm thấy vui mừng và

hết băn khoăn. Sau đêm đó Hồng Nương thụ thai, đến kỳ mãn nguyệt khai

hoa nàng sinh hạ hai người con gái vào ngày 12 tháng 8. Khi sinh ra, các con

đã có tư chất khác thường, văn võ bá quan trong triều dâng biểu chúc mừng,

nhà Vua mở yến tiệc, xá tô thuế cho dân để làm phúc. Nhà Vua đặt tên cho

hai con kế theo tên mẹ là: Mai Nương và Hạnh Nương (tức cô Mai và cô

Hạnh). Đến khi hai cô 13 tuổi, nhà vua tìm một người con gái cùng quận

Phiên Ngung vào trong cung cấm làm con nuôi để cai quản các phi tần, cung

nữ. Người con gái này vừa có nhan sắc đức hạnh, lại giỏi văn chương, thơ

46

phú, cầm, kỳ, thi, họa. Vua đặt tên cho nàng là Thị Nương. Thị Nương làm

nhiệm vụ quản các cung cấm, dạy dỗ công chúa, phi tần. Với hai công chúa

tuy tình thầy trò mà nghĩa như tình chị em. Hai công chúa được dạy dỗ trong

cung đình rất nghiêm ngặt. Sẵn có nhan sắc lại bẩm sinh có trí thông minh

nên việc học hành tấn tới, họ thường cùng Hoàng Hậu làm thơ phú, đàn hát.

Đến năm 1279 tại nước Đại Việt, vua Trần Thánh Tông lên ngôi Thái

Thượng Hoàng, nhường ngôi cho hoàng tử Khẩn (Trần Nhân Tông) lên làm

vua, trông coi việc nước. Một đêm, Thượng Hoàng cùng nhà Vua mở yến tiệc

chiêu đãi văn võ bá quan, chợt thấy trên trời về phương Bắc có một ngôi sao

to sa xuống biển và sau đó là hàng ngàn ngôi sao nhỏ sa theo xuống biển

Đông. Thượng Hoàng Trần Thánh Tông liền bảo: "Điều này ứng với đại quốc

(chỉ Trung Quốc) có biến động chứ không phải nước ta'' [5, tr.34].

Cũng quãng thời gian đó, quân nhà Nguyên đã chiếm Bắc Kinh (Trung

Quốc) đẩy lùi nhà Tống về phía nam. Đến năm 1279, quân Nguyên đánh úp

nhà Tống ở Nhai Sơn, quân Nam Tống thua trận. Tả thừa tướng là Lục Tú

Phu chỉ huy mặt trận thấy thế đem binh và thuyền đón vua Đế Bính cùng

hoàng hậu và các công chúa, phi tần, cung nữ, văn võ bá quan chạy ra biển

Đông. Quân Nguyên truy đuổi ráo riết. Để không rơi vào tay giặc Nguyên,

thừa tướng Lục Tú Phu đã cõng vua Đế Bính nhảy xuống biển tự tử. Hậu

cung và các quan chết theo rất nhiều. Lúc đó thuyền của Hồng Nương hoàng

hậu và các công chúa Mai Nương, Hạnh Nương cùng thị Nương không theo

kịp thuyền vua, vẫn còn lênh đênh trên biển. Nghe tin mẹ con Hoàng Hậu có

sắc đẹp tuyệt trần, vua nhà Nguyên lệnh cho quan quân đuổi theo bắt cho

bằng được Hoàng Hậu và các công chúa. Cùng đường Hồng Nương ngẩng

mặt lên trời than rằng: '' Nhà Tống đã mất, Vua đã tự tử, ta thân đàn bà không

thể khôi phục được đất nước, báo thù cho chồng, lại theo điều giáo lý, trung

thần không thờ hai chúa, liệt nữ không chung hai chồng, có quỷ thần chứng

47

giám cho lòng ta'' [5, tr.35]. Nói xong, bà nhảy xuống biển tự tử, các công

chúa và thị nữ liền nhảy theo. Mấy ngày sau xác mẹ con Hồng Nương, Mai

Nương, Hạnh Nương cùng Thị Nương trôi dạt vào cửa biển Càn Hải (Phủ

Diễn Châu, Nghệ An). Nhân dân trong vùng đã vớt xác lên và mai táng cho

hoàng hậu và các công chúa cùng Thị nữ. Mấy năm sau do sự áp bức thống trị

của nhà Nguyên, người Trung Quốc phải di cư sang Việt Nam ta. Từ đó họ đã

cùng nhân dân trong vùng cửa biển Càn Hải xây dựng đền thờ hoàng hậu, hai

công chúa và thị nữ.

Thế kỷ XV, khi giặc Minh sang xâm lược nước ta, khởi nghĩa Lam Sơn

do Lê Lợi làm chủ tướng đã huy động được sức mạnh của toàn dân tộc vùng

dậy kháng chiến giải phóng đất nước. Trải qua 10 năm bền bỉ nếm mật nằm

gai, cuối năm 1426 khi phái 3 đạo quân từ vùng Thanh - Nghệ ra Bắc để chặn

đánh đoàn quân cứu viện của nhà Minh do tướng giặc Vương Thông cầm đầu.

Lê Lợi đã thân đến đền Càn Hải và các ngôi đền khác thờ các vị công thần

khai quốc của các triều đại trước để tế lễ, nhằm mục đích động viên tinh thần

tướng sĩ. Cuối năm 1427, nước ta đã sạch bóng quân xâm lược nhà Minh. Lê

Lợi lên làm Vua lập ra nhà hậu Lê. Sau khi thảo thưởng công lao cho tướng

sĩ, nhà Lê cho sưu tầm, biên tập thần tích các vị thần có công âm phù thắng

giặc, ngôi đền Càn Hải thờ tứ vị Hồng Nương đã được nhà Lê phong sắc với

dòng mỹ tự là: ''Sắc phong Đại Càn Quốc Gia Nam Hải ngự trấn giang đầu

hộ quốc tế thế an dân thượng đẳng thần tối linh đại vương thần'' [5, tr.36] lại

hứa cho cai quản 12 cửa sông của nước Việt ta thời đó. Các đời vua từ thời Lê

cho đến Tây Sơn, thời Nguyễn đều có sắc phong, truy tặng thêu mỹ tự nêu

một tấm gương sáng cho đạo lý thời phong kiến ''Trung quân ái quốc''. Từ đó

trở đi trong dân gian vùng ven biển Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ đều xuất hiện tín

ngưỡng thờ phụng các nhân vật lịch sử trên. Các cửa sông vùng Bắc Bộ và

48

Bắc Trung Bộ đều có đền thờ. Đền Mẫu làng Phấn Vũ, xã Thụy Xuân là một

trong số đó. Trước khi ra khơi và khi trở về, ngư dân đều có lễ cáo yết và lễ tạ

tại những ngôi đền thờ này nhằm cầu mong mọi sự tốt đẹp trong việc làm ăn.

Tại đền Mẫu còn phối thờ hai vị bản cảnh Thành Hoàng làng. Trước

năm 1945, làng có hai ngôi đình gỗ to đẹp là đình Mụa (thờ vị thần Tung

Đăng La Cụ Chính Thần) và đình Chính (thờ vị thần Lẫm Tước Linh Ứng)

nhưng bị phá hủy hoàn toàn trong cuộc chiến tranh chống Pháp (năm 1951 bị

giặc Pháp ném bom sụt mất một góc đình; những năm sau đình Mụa, đình

Chính bị tháo dỡ lấy gỗ làm trường học phổ thông của xã). Hai ngôi đình trở

thành phế tích chỉ còn lại nền móng làm bằng đá, hai con Vọ bằng gỗ cao

khoảng 2m được bảo tàng tỉnh Thái Bình đem về nghiên cứu [5, tr.42]. Nhân

dân rước bài vị và sắc phong thần từ đình về đền Mẫu để phối thờ. Hai vị bản

cảnh Thành Hoàng được các triều vua Tự Đức, Đồng Khánh, Duy Tân, Khải

Định nhà Nguyễn ban cấp sắc phong. Tất cả đang được bảo quản được

nguyên vẹn tại đền Mẫu. Đây cũng chính là một trong những giá trị của di

tích cần được bảo tồn.

2.4.3. Đền Quan Lớn Thống

Theo Lưu ký của dòng họ Phí tại thôn Đại Đồng, xã Đông Á, huyện

Đông Hưng, tỉnh Thái Bình và sự lưu truyền của dân làng Phấn Vũ thì đền

Quan Lớn Thống là nơi thờ thủ lĩnh nghĩa quân dòng họ Phí có tên là Quảng

Bình. Vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, tại các vùng ven biển từ Quảng

Ninh, Hải Phòng đến Thái Bình có nhiều giặc giã hoành hành cướp phá. Cụ

Quảng Bình vốn là người có tài thao lược, dũng mãnh, văn võ song toàn đã

quy tụ dân các làng chống giặc. Tương truyền, nhiều lần nghĩa quân của cụ

đánh dẹp các toán cướp biển thuộc vùng hải phận Trân Châu, Xuân Đám,

Hiền Hào, Gia Luận (giáp đảo Cát Bà) làm cho chúng bạt vía, kinh hồn.

Trong một lần sau khi thắng giặc, cụ giao cho nghĩa quân ở lại giữ chốt. Lợi

49

dụng lúc nghĩa quân sơ hở bọn giặc quay lại phản công, chiếm lại chốt và giết

hết nghĩa quân. Sau đó cụ quay về tổ chức cúng lễ cho binh lính rồi nhảy

xuống biển tuẫn tiết, xác trôi dạt về miền ven biển từ làng Phấn Vũ đến

Quang Lang - Diêm Điền. Hôm đó, trời nổi cơn giông biển sóng to gió lớn.

Dân làng Phấn Vũ lập đền thờ cụ và gọi là đền “Quan Lớn Thống”.

Ngày giỗ Quan Lớn Thống được dòng họ Phí tổ chức tại đền vào ngày

mùng 1 tháng 7 âm lịch. Dân làng tổ chức cúng lễ vào ngày mùng 3 tháng 7

âm lịch. Niên Đời hiệu Tự Đức năm thứ 30, vua Tự Đức đã sắc phong cho

Quan Lớn Thống là “Uy liệt hộ trấn thượng đẳng chuẩn”.

Trong đền Quan Lớn Thống và đền Mẫu người dân còn thờ thuyền và

các mái chèo như để tưởng nhớ về nghề truyền thống của ông cha đã gắn bó

từ bao đời.

2.5. Lễ hội

2.5.1. Phần lễ

Lễ hội của cụm di tích được tổ chức từ ngày 10 đến 15 tháng 7 Âm lịch

hằng năm, trong đó lễ chính được tổ chức vào ngày 10 tháng 7. Các bô lão

trong làng phân công cụ thể công việc cho các giáp, các trai đinh (trai đinh

phải là người khỏe mạnh, nhanh nhẹn, tắm gội sạch sẽ), các giáp phải chuẩn

bị xôi, lợn, rượu, hoa quả làm lễ tế thần. Trong phần lễ, Rước và Tế là hai

nghi thức được chuẩn bị kỹ càng, công phu và tiêu biểu nhất.

2.5.1.1. Rước

Sáng ngày 10 tháng 7 (âm lịch), nhân dân làm lễ rước Mẫu, Quan Lớn

Thống và Thành hoàng bản cảnh (vị thần Tung Đăng La Cụ Chính Thần và vị

thần Lẫm Tước Linh Ứng). Đường rước bắt đầu từ bờ biển về đền Quan Lớn

Thống để các ngài ngự ở đó. Sau đó tiếp tục rước kiệu theo đường làng về đền

Mẫu rồi tổ chức tế lễ.

50

Trước đây, lễ rước được bắt đầu bằng việc bắc cầu bằng dải lụa trắng từ

biển vào. Hai bên có cắm cờ thần, cờ thánh và có thiếu nữ đứng hai bên,

tượng trưng cho việc đón Đức Nam Hải Thánh Mẫu và Quan Lớn Thống vào

đất liền. Đoàn rước mang theo lễ vật, kiệu, long đình, bát bửu cùng cờ quạt.

Đi đầu đoàn rước là những thiếu nữ đội mâm ngũ quả, tiếp theo là đoàn

chiêng trống, đội cờ thần/ thánh, đội kiệu bay, gồm kiệu Quan Lớn Thống và

kiệu Nam Hải Thánh Mẫu. Các thiếu nữ xinh tươi, khỏe mạnh được tuyển

chọn vào đội khiêng kiệu Nam Hải Thánh Mẫu. Những trai làng khoẻ mạnh

được xung vào đội khiêng kiệu Quan Lớn Thống và khiêng kiệu thành hoàng

làng [5, tr.52]. Trên đường rước, đôi lúc hai cỗ kiệu được hai đội khiêng kiệu

điều khiển cho chạy thật nhanh tượng trưng cho thần thánh bay. Kiệu đặt bài

vị Quan Lớn Thống đi trước; kiệu đặt bài vị Nam Hải Thánh Mẫu đi giữa;

cuối cùng là kiệu đặt bài vị thành hoàng làng. Đi cuối cùng trong đoàn

rước là dân làng.

Hiện nay, lễ rước đã được tổ chức đơn giản hơn trước, người dân không

còn bắc cầu bằng dải lụa trắng từ biển vào, nhưng nghi lễ vẫn giữ được nhưng

nét nghiêm trang, tôn kính như xưa, đoàn rước vẫn được giữ nguyên như cũ

từ đường rước cho đến các loại lễ vật, thành phần khiêng kiệu, đánh trống

chiêng, vác cờ thần,...

Để có được đoàn rước đó, dân làng đã phải chuẩn bị trong một thời

gian dài nghiêm túc và tận tâm. Từ người già đến thanh niên, thiếu niên trong

làng được lựa chọn tham gia vào đám rước, điều đó minh chứng cho lòng tôn

kính và ghi nhớ công lao của dân làng. Đám rước không chỉ hoành tráng bởi

những chiếc kiệu to, đẹp mà còn là sự tham gia của đông đảo nhân dân. Đám

rước chính là một trong những nội dung quan trọng nhất, là trung tâm của lễ

hội, biểu hiện tín ngưỡng thờ thần của cư dân trong vùng. Qua các nghi lễ đó,

51

dân làng cầu mong thần biển phù hộ độ trì, che chở cho một mùa sông nước

bội thu, tôm cá đầy thuyền, cuộc sống an khang thịnh vượng, phát tài phát lộc.

2.5.1.2. Tế lễ

Trong lễ hội có tổ chức tế lễ với hai đội tế. Tại đền Mẫu tổ chức tế Nữ

quan [5, tr.53]. Đội tế nữ gồm 25 người, trong đó có một chủ tế, 8 bồi tế, 8

người múa hát sau mỗi tuần tế. Chủ tế mặc quần trắng, áo đỏ, mũ đỏ, hài đỏ,

đai đỏ. Bốn bồi tế dưới mặc quần trắng, đai xanh, đầu đội xếp xanh, áo xanh

lục, hài đỏ. Bốn bồi tế trên mặc quần trắng, đai hồng, đầu đội xếp hồng, áo

hồng, hài đỏ. Hai xướng quan mặc áo đỏ, đai đỏ, đầu đội xếp đỏ, hài đỏ. Hầu

tế hai bên gồm hai cháu nhỏ cầm quạt màu vàng không đi giầy, chân quấn

theo kiểu xà cạp, búi tóc hai bên. Những người còn lại mặc quần trắng, áo

vàng, xếp vàng.

Tại đền Quan Lớn Thống tổ chức tế Nam quan. Đội tế gồm 13 người,

trong đó có 01 chủ tế, 4 bồi tế và 8 người múa hát sau mỗi tuần tế. Trang phục

của chủ tế, bồi tế và những người còn lại giống đội tế nữ. Trang phục của đội

tế: Đội tế nam quan có 13 người mặc quần trắng, áo xanh lơ. Chủ tế trang

phục gồm mũ đỏ, quần trắng, áo đỏ, giày đỏ. Hai bồi tế mặc quần trắng, áo

vàng, mũ đen, cân đai hoa văn màu sặc sỡ. Tất cả các trang phục này đều

được làm bằng loại vải satanh (loại satanh lụa, bề mặt ngoài bóng, mềm mại,

nhẹ nhàng, không nhăn). Trong lễ tế có múa hát xen vào mỗi tuần tế, có nhạc

bát âm. Ngày tế ở lễ hội, đoàn múa thường biểu diễn điệu múa chèo, hát chèo,

hát xướng và các làn điệu dân ca Bắc Bộ nhằm ca ngợi Thánh Mẫu và Quan

Lớn Thống.

Theo tục lệ có từ xa xưa, đến ngày mùng 8 tháng 7 Âm lịch, làng làm lễ

cáo yết. Dân làng khiêng Lợn sống lên đền để chủ tế thắp hương. Ngày 10

tháng 7 âm lịch các dòng họ trong làng Phấn Vũ đều mang lễ vật dâng thánh.

Lẽ vật có thể là lễ chay với xôi, oản, hoa quả hoặc lễ mặn với thủ lợn.

52

Ngoài ngày lễ hội chính, tại chùa Phấn Vũ, vào những ngày mồng Một,

Mười Rằm (âm lịch) hàng tháng, ngày Phật Đản (15/04 hằng năm) nhân dân

thường thắp nhang, dâng lễ hoa quả cúng phật. Vào ngày thương binh liệt sĩ

(27/7) nhà chùa làm lễ cầu siêu cho vong linh các anh hùng liệt sĩ. Còn tại đền

Quan Lớn Thống và đền Mẫu, ngày 20/2 hàng năm, ngư dân làm lễ cầu vạn,

cầu thời tiết thuận hòa, tôm cá bội thu.

2.5.2. Phần hội

Sau phần tổ chức tế lễ, làng mở hội với các trò chơi như đấu vật, tổ

chức chèo bơi truyền thống. Hiện nay, các trò chơi được mở rộng thêm để tạo

không khí sôi nổi trong ngày hội với các trò như: Tổ tôm điếm, cờ người, cờ

tướng, chọi gà cùng các hình thức biểu diễn nghệ thuật như hát dân ca, hát

tuồng, chèo cổ (từ 1 đến 2 tối). Có những trò chơi đã bị mai một, vì thế phần

hội đã và đang được khôi phục lại nhằm giữ gìn những nét đẹp văn hóa của

cộng đồng làng xã, trong đó có đấu vật, bơi chải.

2.5.2.1. Môn chèo bơi truyền thống

Ngày xưa, khi chưa đắp đê, nước biển vào sát khu vực làng, bãi biển

trước cửa làng nước rất sâu nhưng không có sóng (vì bên ngoài có cồn Thủ

chắn) là nơi cư dân tổ chức chèo bơi vào chiều ngày 15 tháng 7 Âm lịch.

Đường bơi có năm bắt đầu từ đầu làng Bình Lạng (Thôn Bình Xuân bây giờ)

đến giáp thôn Tam Đồng xã Thụy Hải (huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình). Có

năm đường bơi bắt đầu từ bờ biển làng Vạn Xuân đến bờ biển làng Phấn Vũ.

Chiều dài đường bơi khoảng 500m, chèo bơi từ 3-5 vòng. Thời kỳ đầu ngư

dân trong làng dùng thuyền nan đánh cá làm phương tiện dự thi. Gần đây, họ

sử dụng thuyền đánh cá bằng gỗ. Mỗi thuyền có 16 người mặc áo đỏ, thắt

lưng đỏ, chít khăn đỏ, một người ngồi mũi gõ cốc theo nhịp chèo, một người

53

đi lái8. Phần thưởng cho đội thắng là 10 vuông vải lụa, mỗi vuông vải có

chiều rộng và chiều dài khoảng 40 cm. Hiện nay, phần thưởng cho đội thắng

được thay bằng tiền mặt.

2.5.2.2. Môn vật truyền thống

Theo người dân làng Phấn Vũ và người dân quanh vùng kể lại thì:

"môn vật cổ truyền tại làng Phấn Vũ có xuất xứ từ thời Lý Bí" [3, tr.15] . Khi

đó Lý Thiên Bảo (anh trai của Lý Bí) lấy vùng bãi bồi Lỗ Trường – Phấn Vũ

làm nơi luyện tập quân sĩ và mở trường thi võ tìm người hiền tài đánh đuổi

quân Lương (Trung Quốc). Chính vì vậy, hội vật được tổ chức vào dịp lễ hội

tháng 7 âm lịch hàng năm hoặc vào mùng 4 Tết tại đình Chính, đình Mụa. Sau

khi cả hai ngôi đình bị phá thì hội vật được tổ chức trên bãi cát trước cửa chùa

Phấn Vũ. Hội vật thu hút các đô vật nổi tiếng quanh vùng về thi tài. Khi lên

đài, các đô vật cởi trần, đóng khố, đầu chít khăn trái màu nhau, màu xanh

hoặc đỏ. Người đánh trống đóng khố màu nâu và đầu chít khăn màu vàng.

Thời kỳ Pháp thuộc, người Pháp thường mở hội thi đấu vật giữa người

Pháp và người An Nam. Lúc đầu không một đô vật người Việt nào dám thi

đấu. Nhưng với tinh thần thượng võ, không chịu khuất phục quân xâm lược,

đã có nhiều đô vật làng Phấn Vũ thách đấu với các đô vật người Pháp. Điển

hình là các đô vật: Vũ Văn Thái, Lê Bá Muối, Nguyễn Văn Toại, Vũ Văn

Chứa… đặc biệt là đô vật Trịnh Quang Mơ đã chiến thắng nhiều đô vật người

Pháp, nhiều năm đạt giải quán quân, được tặng tượng đồng [3, tr.15]. Những

giai thoại về cụ vẫn còn lưu truyền đến ngày nay. Sau đó, môn vật bị mai một,

đến năm 2006 được sự giúp đỡ của trường năng khiếu Thể dục thể thao tỉnh

8 Ngày xưa đi lái vọt bằng nụ chứ không đi lái cần

Thái Bình, xã Thụy Xuân đã mở nhiều lớp năng khiếu đấu vật dành cho thiếu

54

niên nhằm khôi phục lại môn vật cổ truyền của làng Phấn Vũ. Từ đó, vào dịp

lễ hội, bên cạnh hội thi vật cho người trưởng thành, làng còn mở các giải vật

dành cho lứa tuổi thanh thiếu niên, được đông đảo người dân hưởng ứng. Hội

vật của làng đã thu hút được các đô vật từ trường năng khiếu Thể dục thể thao

Tỉnh và các lò vật từ huyện Vũ Thư, Tiền Hải9 về tham gia thi đấu.

2.5.2.3. Tổ tôm điếm

Vào ngày hội, người dân làng Phấn Vũ lại háo hức xem trò chơi tổ tôm

điếm - một thú chơi tao nhã với luật chơi nghiêm ngặt, nhưng thể hiện rõ nét

văn hóa dân gian, bởi tính quần chúng của nó. Thông qua hình thức tổ chức,

lối chơi và đặc biệt là những câu thơ được ứng dụng linh hoạt, tài tình từ

những tác phẩm văn học như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên… hoặc những câu

ứng khẩu của người trung quân hay còn gọi là người chạy bài - một nhân vật

không thể thiếu trong thú chơi này.

Để tiến hành trò chơi tổ tôm điếm cần phải có hai bộ bài với hai mầu

khác nhau. Tổ tôm điếm được tổ chức thi trên sân đền Quan Lớn Thống. Chủ

điếm của mỗi ngôi điếm và 4 hay 5 người chơi ngồi trong 5 ngôi điếm (ngôi

chòi nhỏ) khác nhau (đơn giản nhất cũng là 5 bộ bàn ghế. Năm điếm hoặc 5

bộ bàn ghế cách xa nhau, mỗi điếm có một trống con và 6 lá cờ làm phương

tiện truyền tin giữa người chơi với nhau và với người trung quân, ở giữa có

một bàn để chia quân.

Khi thi đấu, mỗi điếm cử ra một người chia bài và phát bài, một trung

quân giám sát bài, trọng tài điều khiển thi đấu công bằng, đúng luật. Người thi

đấu phải chơi tổ tôm ở trình độ cao mới hi vọng chiến thắng. Khi chơi không

được dùng lời nói để ăn quân bài. Trống và cờ hiệu trong thi đấu tổ tôm điếm

9 Huyện Vũ Thư, huyện Tiền Hải là hai huyện thuộc tỉnh Thái Bình

rất quan trọng, các điếm bạn và người tham dự chỉ cần nghe tiếng trống và cờ

55

hiệu là biết tình hình đường đi nước bước của ván bài, hoặc biết kết quả bài.

Chỉ cần ai đó trong 5 điếm phạm luật sẽ bị phát hiện và bị phạt.

Do các điếm được bố trí cách xa nhau nên vai trò của người trung quân

với những câu rao gọi bài hết sức quan trọng. Khi bốc ra một quân bài, để

tăng thêm phần chú ý và hồi hộp của người chơi cũng như người xem, người

trung quân có nhiều động tác hài hước với những câu thơ được nói lối hay được

ngâm nga kéo dài như đánh đố người nghe về tên quân bài mình vừa bốc:

Anh ơi! Tay chống tay chèo, lấy ai dựng cột kéo lèo cho em. Đó là cây

Tiện đây mận mới hỏi đào, vườn hồng đã có ai vào hay chưa? Đó là

Rút dây thì phải động rừng, anh mắng em chịu người dưng chê cười.

ngũ sách. cây nhị vạn. Đó là cây tam sách. Trò chơi tổ tôm điếm đã góp phần vui không nhỏ vào lễ hội làng Phấn

Vũ, đem lại một không khí sinh động từ ngày khai hội đến khi kết thúc lễ hội.

Phần thưởng dành cho đội thắng cuộc là số tiền được lấy từ chính những

người tham gia trò chơi: Mỗi người chơi sẽ mua vé để vào chơi, cũng chính vì

thế số tiền thưởng không cố định, nhiều hay ít phụ thuộc vào số người tham

gia. Giải thưởng được phân làm 3 mức: Nhất, nhì, ba và mang tính chất khích

lệ là chính.

2.5.2.4. Cờ tướng

Cờ tướng là trò chơi trí tuệ, một thú chơi bình dân, ai cũng có thể học

và chơi. Ván cờ được tiến hành giữa hai người, một người cầm quân Trắng

(hay Đỏ), một người cầm quân Đen (hay Xanh). Mục đích của mỗi người là

tìm mọi cách đi quân trên bàn cờ (theo đúng luật) để chiếu bí hay bắt Tướng (hay

Soái, hoặc Suý) của đối phương, giành thắng lợi. Cờ tướng được tổ chức từ năm

2000, vào 12/7 âm lịch hàng năm tại đền Quan Lớn Thống. Giải thưởng được tính

bằng tiền mặt và tùy thuộc vào quy mô từng năm.

56

2.5.2.5. Cờ người

Cờ người là một trong số những trò chơi dân gian đặc sắc diễn ra trong

lễ hội làng Phấn Vũ. Trò chơi này không đơn thuần chỉ để giải trí mà còn là

một cuộc đấu đầy trí tuệ, mang đậm bản sắc dân tộc Việt.

Cách đánh cờ người cũng như cách đánh cờ tướng, nhưng khác là với

cờ người bàn cờ được vẽ trên sân đền, mỗi quân cờ do một người cụ thể điều

khiển. Hay nói cách khác, cờ người là cờ tướng do người đóng thế thành các

quân cờ, gồm 16 nam và 16 nữ. Đây là những nam thanh, nữ tú của các gia

đình nề nếp được dân làng quý trọng và lựa chọn. Ở vị trí tướng ông và tướng

bà là những người có ngoại hình đẹp, nổi bật nhất trong số 32 quân cờ. Ngoài

32 người đóng vai quân cờ trên sân, để triển khai một ván cờ không thể thiếu

người tổng cờ, trọng tài của bàn cờ. Đây là người trực tiếp giúp Ban giám

khảo theo dõi việc điều quân, khiển tướng và thắng, thua của cuộc đấu.

Trang phục của các “quân cờ” trên sân thường có màu đỏ hoặc vàng

(16 chàng trai) và màu đen hoặc xanh (16 thiếu nữ). Trang phục của “quân

cờ” phải chỉnh tề và thống nhất. Tướng được đội mũ tướng soái, mặc triều,

chân đi hài, có lọng che. Sĩ đội mũ cánh chuồn có tua vàng ... Trước khi cuộc

thi diễn ra, các “quân cờ” phải được tiến hành tập luyện các thế đi, biểu diễn

cho từng thế cờ.

Khi vào vị trí trên sân cờ, cả đội múa theo tiếng trống và đội ngũ âm.

Sau khi quân cờ đã vào vị trí, một hồi trống dài nổi lên, hai đấu thủ mặc áo

dài, khăn xếp xuất hiện, giới thiệu danh tính. Mỗi người cầm một cây cờ đuôi

nheo ngũ sắc nhỏ để chỉ huy trận đánh. Theo quy định, đấu thủ cầm quân đỏ

(hoặc vàng) đi trước, sau đó đến quân đen (hoặc xanh). Cứ thế, ván cờ diễn ra

trong không khí tưng bừng của ngày hội. Mỗi lần ăn quân của đối phương thì

quân cờ thể hiện bằng 1 bài biểu diễn song đấu hoặc một bài tự vệ. Các “quân

57

cờ” phải trải qua sự tập luyện lâu dài và gian khổ vì các đòn thế biểu diễn

không phải dễ dàng.

Trong không khí tưng bừng của ngày hội, Cờ người góp phần tô điểm

cho phần hội thêm phong phú. Đây là một trò chơi dân gian đầy tính trí tuệ,

thể hiện nét văn hóa cộng đồng cũng như tái hiện lại kiểu đấu trí thời xưa.

Tiến trình diễn ra Cờ người mang đậm dấu ấn diễn xướng dân gian thông qua

các điệu múa kèm theo những bài vè đặc trưng. Có thể nói, đây là một trò

chơi dân gian đặc sắc đã, đang và sẽ tiếp tục phát triển hơn nữa trong các lễ

hội của làng Phấn Vũ, thu hút hàng nghìn người đến thưởng thức và cổ vũ.

2.5.2.6. Biểu diễn nghệ thuật dân gian

Năm nào cũng vậy, cứ đến hội làng Phấn Vũ lại tổ chức biểu diễn hát

chèo và hát dân ca. Người dân Phấn Vũ không chỉ lao động giỏi mà đời sống

tinh thần cũng vô cùng phong phú. Những lời ca giản dị đệm nhịp bằng tiếng

trống da quen thuộc cùng đàn tranh, phách tre tạo nên sức quyến rũ lớn. Tai

nghe tiếng trống chèo đều đều đệm nhịp, mắt nhìn những bộ áo mớ ba mớ

bảy, áo the khăn xếp, du khách như bị say trong một không gian vừa xa xôi

vừa gần gũi. Hội diễn được bắt đầu tổ chức từ năm 2012 và vào đêm 13, 14

tháng 7 âm lịch.

a) Hát chèo

Thái Bình được biết đến như một cái nôi của những làn điệu hát chèo. Làng

Phấn Vũ không phải là làng chèo, nhưng luôn có những người yêu và say mê

chèo, cùng cất lên những làn điệu dân ca mượt mà, sâu lắng trong dịp lễ hội.

Chèo miêu tả cuộc sống bình dị của người dân nông thôn. Nhiều vở

chèo còn thể hiện cuộc sống vất vả của người phụ nữ sẵn sàng hy sinh bản

thân vì người khác. Nội dung của các vở chèo lấy từ những truyện cổ tích,

được nâng lên một mức cao bằng nghệ thuật sân khấu mang giá trị hiện thực

và tư tưởng sâu sắc. Trong chèo, cái thiện luôn thắng cái ác, các sỹ tử tốt

58

bụng, hiền lành luôn đỗ đạt, làm quan; những người vợ tiết nghĩa, cuối cùng

sẽ được đoàn tụ với chồng. Chèo thường diễn những việc vui cười, những thói

xấu của người đời như các vai: Thầy mù, Hương câm, Đồ điếc, Quan Âm Thị

Kính. Ngoài ra, chèo còn thể hiện tính nhân đạo, như trong vở Trương Viên.

Chèo luôn gắn với chất "trữ tình", thể hiện những xúc cảm và tình cảm cá

nhân của con người, phản ánh mối quan tâm chung của nhân loại: tình yêu,

tình bạn, tình thương. Các cô đào mặc váy lụa đen, áo tứ thân, thắt lưng bao

xanh, đầu đội nón quai thao, chân đi giày vải, tay cầm quạt giấy. Còn kép hát,

nhạc công mặc áo the, quần trắng, đầu đội nón dứa, chân đi giày Gia Định,

giày Ký Long. Đào kép múa dẻo, hát hay, cuốn hút đông đảo bà con các làng

đến xem càng làm ngày hội thêm sôi nổi. Chèo ở làng Phấn Vũ không tổ chức

thi mà để biểu diễn, giao lưu với dân làng và du khách.

b) Hò chèo thuyền

Cùng với việc tổ chức biểu diễn hát chèo, hò chèo thuyền cũng được tổ

chức trong đêm giao lưu văn nghệ ngày 13, 14 tháng 7 âm lịch. Hò chèo

thuyền đánh cá hình thành trên cơ sở xướng và xô. Xướng là người bắt cái,

người khởi xướng câu hò đầu tiên để vào cuộc. Người bắt cái giữ vai trò nòng

cốt từ đầu đến cuối cuộc hò. Vì thế, người xướng phải có giọng hò hay, sáng

tạo, ứng tác kịp thời để gây không khí hào hứng, lôi cuốn tập thể hưởng ứng,

gọi là Xô. Có hai cách hò là hò kép và hò đơn.

- Hò đơn

Là cách hò do người xướng dùng hai tiếng một tách ra từ một câu hay

một bài, sao cho mỗi nhịp đôi ăn khớp với nhịp hò "Dô ta này" [2, tr.334].

Ngay từ khi chuẩn bị vào cuộc hò, các tay chèo đẩy đã sẵn sàng chờ khi người

bắt dứt cái tiếng "Dô ta này" thì cả cái và con cùng đồng loạt nhấn mạnh vào

âm "Dô" để chèo đẩy cho khớp nhịp và thống nhất động tác. Khi thuyền gần

tới đích thì tiết tấu của câu hò chậm dần rồi dừng lại ở nơi thuyền đậu. Các cụ

59

già cho biết đây là cách hò xưa nhất chỉ còn lại ở cư dân vùng biển Thụy

Xuân và Diêm Điền. Ví dụ câu:

Muốn ăn cá bống cá hiên

Chạy về bảo mẹ đóng thuyền mà đi

được cắt nhịp như sau:

Muốn ăn! Dô ta này! Dô ta này!

Cá bống ------------------------------

Cá hiên ------------------------------

Chạy về ------------------------------

Bảo mẹ ------------------------------

Đóng thuyền -----------------------

Mà đi ------------------------------

- Hò kép

Về cơ bản hò kép cũng hò giống như nhịp điệu của hò đơn. Điểm khác

duy nhất là khi người xướng ngắt hết ba tiếng "Dô ta này" thì tập thể "xô"

bằng bốn tiếng "Dô ta, dô ta". Do sự liên kết về ngữ nghĩa, nên số từ ở nhiều

câu hò có thể tăng lên ba hoặc bốn, nhưng vẫn đảm bảo đúng nhịp. Như vậy,

nếu không tính âm láy đệm nhẹ "này" ở cách xô đơn "Dô ta này", thì xô kép

có số âm phát ra gấp hai xô đơn. Hò kép cần dài hơn, dẻo sức hơn, thường sử

dụng khi kéo thuyền mắc cạn nhẹ trên bãi bùn hoặc lúc thuyền buồm đi đều

trên một chặng đường dài, hay những buổi chiều cập bến thuyền đầy ắp cá,

như mang tin vui về cho những người đợi bến. Có những bài ca tính lịch con

nước, tính những địa điểm để thuyền chèo qua đã được sử dụng làm thành bài

hò để người đi biển dễ nhớ, rất thuận tiện.

10 Cửa Hộ: Tức cửa sông Diêm Hộ, nay thuộc xã Thụy Hà, huyện Thái Thụy

Chèo từ cửa Hộ 10chèo ra Chèo qua lạch Lộng, chèo qua bãi Bàng11

60

Qua cồn Ngao bắt sang Cổ Ngựa Tới lạch Chè12 anh lựa xem sao

Chờ cho mực nước lên cao Tới cửa Cái Giếng13 bắt vào không xa

Kể từ sông Cấm mà ra Theo kênh Bò Lội bắt qua Rái Đàn29

Tiểu kết

Cụm di tích đền chùa làng Phấn Vũ bao gồm: Chùa Phấn Vũ, đền

Mẫu, đền Quan Lớn Thống. Mỗi di tích được xây dựng vào thời gian khác

nhau, với những đặc trưng khác nhau về kiến trúc nhưng nhìn chung, các

công trình này không quá phức tạp đồ sộ và vẫn giữ nguyên vẹn nét kiến trúc

cổ, tao nhã thích hợp với phong cảnh thiên nhiên. Về cơ bản lối kiến trúc của

đền, chùa đa số được thiết kế theo kiểu chữ Nhất, chữ Đinh. Về nghệ thuật

điêu khắc thể hiện sự mộc mạc giản đơn. Điều đó không chỉ có giá trị về mặt

nghệ thuật mà qua lối kiến trúc, điêu khắc đã lột tả khá tròn vẹn lối sống, ý

nguyện, ước vọng của cư dân nơi đây. Đó chính là phẩm chất siêng năng

trong lao động, đoàn kết trong cuộc sống và chiến đấu chống giặc ngoại

xâm, sự hòa đồng về lối sống, về văn hóa tinh thần, hòa quyện gắn bó với

thiên nhiên.

Mỗi di tích lại có những đối tượng thờ tự khác nhau: Chùa thờ Phật,

đền thờ thánh/thần. Chùa Phấn Vũ là nơi tri ân Phật tổ, người có ân đức lớn

với nhân loại, một tấm gương sáng trọn lành để khuôn rập tư tưởng, lời nói và

hành động, hướng con người tới chân, thiện, mỹ. Đền Mẫu thờ phụng Đức

11 Lạch Lộng, bãi Bàng: Tên bãi, lạch trên đường đi của thuyền đánh cá từ Thụy Hà đến Thụy Xuân ngày nay. 12 Cổ Ngựa, lạch Chè: Tên bãi, lạch nay thuộc Tiên Lãng, Hải Phòng 13 Cái Giếng, sông Cấm thuộc đất Hải Phòng

Đại Càn Nam Hải Thánh Mẫu, đền Quan Lớn Thống thờ thủ lĩnh nghĩa quân

61

Phí Quảng Bình, nơi ngư dân, các chủ tàu thuyền tổ chức cúng lễ cầu an

mong Quan Lớn Thống và Đức Nam Hải phù hộ cho tàu thuyền ra khơi thuận

buồm xuôi gió, tôm cá đầy khoang, cuộc sống dân làng ngày càng sung túc.

Tuy không có những nét điêu khắc, chạm trổ thể hiện dấu ấn của biển

cả nhưng bên trong đền Mẫu, đền Quan Lớn Thống có thờ các mái chèo và

cụm di tích đã có tác động lớn, sâu sắc tới đời sống tinh thần, tâm linh của

người dân, trong đó có các ngư dân. Trước khi ra khơi đánh bắt hải sản, họ

đến làm lễ cầu cho chuyến đi an toàn, cho đánh bắt được nhiều tôm cá. Họ

đến với tấm lòng thành kính, tôn vinh, với cái tâm thiện, mỹ. Cụm di tích giúp

cho họ xích lại gần nhau bởi họ có chung niềm tin, tín ngưỡng, có chung ngày

lễ hội. Sự phong phú về cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo phản ánh vai trò quan

trọng của sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo trong đời sống cư dân làng Phấn Vũ,

góp phần điều hòa các mối quan hệ xã hội, tạo nên một diện mạo văn hóa vật

chất phong phú, là nhân tố quan trọng làm cho đời sống văn hóa tinh thần,

tâm linh của cư dân Phấn Vũ thêm phong phú, đa dạng và giàu tính nhân văn.

62

CHƯƠNG 3:

ĐỀN CHÙA LÀNG PHẤN VŨ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ

KHUYẾN NGHỊ GIẢI PHÁP

3.1. Mối quan hệ giữa cụm di tích và không gian văn hóa làng

3.1.1. Vai trò của không gian văn hóa làng với cụm di tích

3.1.1.1. Làng Phấn Vũ - pháo đài chống giặc ngoại xâm, nơi hun đúc lòng

yêu nước

Nằm ở vị trí quan trọng bên bờ biển Đông, nơi có nhiều cửa sông, cửa

biển trọng yếu, chạy dài theo dải đất ven biển huyện Thái Thụy, Phấn Vũ

cũng như cả địa bàn tổng Vạn Xuân và huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình từ

rất sớm phải đương đầu và trải qua biết bao hiểm họa thử thách trước nạn

ngoại xâm cũng như các thế lực phản động [33, tr.12]. Nhiều nguồn sử liệu

khác nhau như gia phả dòng họ, sắc phong qua các triều đại phong kiến, các

cổ vật, các truyền thuyết còn lưu giữ tại địa phương đã ghi nhận hình ảnh một

làng Phấn Vũ liên tục, bền bỉ, quật cường trong đấu tranh bảo vệ quê hương,

đất nước và được khắc họa phong phú, sinh động trong tiến trình lịch sử, từ

thuở các vua Hùng dựng nước đến thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống

Mỹ. Nhân dân làng Phấn Vũ – Thụy Xuân đã cùng quân dân Thái Thụy bền

bỉ, kiên cường cùng dân tộc ghi những mốc son lịch sử trong quá trình đấu

tranh giải phóng dân tộc, chống lại áp bức cường quyền.

Làng Phấn Vũ còn là một trong những nơi ra đời sớm nhất của hội Việt

Nam cách mạng thanh niên tại Thái Bình, nơi ra mắt của tổ chức bí mật trong

phong trào Mặt trận dân chủ Đông Dương (1936 – 1939). Lịch sử Đảng Bộ

huyện Thái Thụy đã khẳng định: làng Phấn Vũ là “Cái nôi cách mạng của

Thụy Anh”[32, tr. 127]. Xã Thụy Xuân có 38 lão thành cách mạng thì có 37

người thuộc làng Phấn Vũ. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ

63

cứu nước, nhân dân làng Phấn Vũ đã anh dũng chiến đấu, và trong giờ phút

lịch sử của dân tộc Việt Nam, người con thân yêu làng Phấn Vũ – đồng chí

Bùi Quang Thận là người đầu tiên mang lá cờ giải phóng Miền Nam Việt

Nam cắm trên nóc dinh độc lập, đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ

Ngụy quyền, đất nước thu về một mối, nước Việt Nam đã thực sự trở thành

một nước “Tự do và Độc lập”.

3.1.1.2. Làng Phấn Vũ - nơi cố kết cộng đồng

Cũng như bao ngôi làng Việt ở đồng bằng Bắc Bộ, làng Phấn Vũ là nơi

bao đời nay cư dân Việt cư trú, lao động, sản xuất và tổ chức mọi sinh hoạt

văn hóa, sinh hoạt tinh thần; đồng thời là nơi cố kết quan hệ dòng tộc, xóm

giềng. Mỗi làng thường có đình, miếu, đền, chùa; có làng về sau còn có chợ.

Đây không đơn giản chỉ là nơi duy trì hoạt động bình thường của làng, mà

còn là sự hiện diện, sự vật chất hóa đời sống tinh thần, đạo đức và tính cộng

đồng,... của các thành viên trong làng. Chính ở đây các hoạt động văn hóa

tinh thần của làng cũng được hình thành, nuôi dưỡng và phát triển. Văn hóa

làng là hệ thống những giá trị hình thành qua bao đời trong toàn bộ các hoạt

động đó. Nó đi vào ký ức người Việt Nam bằng hàng loạt những giá trị vật

chất và tinh thần rất gần gũi và thân thương. Thế giới đầy mầu sắc của văn

hóa làng được quy ước thành lệ làng, đúc kết trong hương ước, bộc lộ một

cách phong phú qua hội làng. Sau lũy tre làng, bên giếng làng, dưới mái chùa

làng, trong bầu khí thân thương của những ngày hội làng, mọi người sống với

nhau nặng tình nặng nghĩa, giúp đỡ nhau lúc tắt lửa tối đèn.

Cụm di tích đền chùa Phấn Vũ không chỉ của riêng người dân làng

Phấn Vũ mà còn là nơi để tất cả người dân Thụy Xuân tụ về nơi đây trong dịp

lễ hội, là nơi thể hiện truyền thống quý báu của dân tộc, đó là truyền thống

“Uống nước nhớ nguồn”; là nơi mà mọi người dân cùng tham gia các sinh

hoạt văn hóa, giao lưu cộng cảm trong không khí thiêng liêng nhưng cũng

64

không kém phần nhộn nhịp. Đó còn là nơi lưu giữ các giá trị văn hóa đặc sắc

về nhiều mặt của đời sống (chính trị, văn hóa xã hội, tôn giáo tín ngưỡng,...)

của cư dân vùng biển. Lễ hội đền, chùa Phần Vũ là một hình thức tái hiện lại

cuộc sống quá khứ và hiện tại bằng các hình thức tế lễ và trò diễn. Đó là cuộc

sống lao động sáng tạo được thể hiện dưới dạng những hoạt động văn hoá tinh

thần vô cùng sinh động như các hình thức tế lễ, trang phục truyền thống,

những bài văn tế, những món ăn cổ truyền, những điệu múa, hát, nhạc cụ, trò

chơi dân gian,... Cũng thông qua lễ hội, các kinh nghiệm lao động sản xuất,

kinh nghiệm sống của ông cha được tái hiện để con cháu học tập, noi theo.

Như vậy, lễ hội càng phát triển, dân làng càng có điều kiện tái hiện cuộc sống

của mình bằng các hình thức nghệ thuật diễn xướng và càng có điều kiện bảo

tồn các di sản văn hoá truyền thống như trang phục, ẩm thực, ca múa nhạc,

các trò chơi dân gian. Nhờ những hoạt động tâm linh, tôn giáo tín ngưỡng và

văn nghệ dân gian đó mà các kiến trúc đình, chùa, đền, miếu của dòng họ, của

làng cũng trở nên có hồn hơn. Đền chùa làng ngày thường uy nghi, trầm mặc

bên những tán cây cổ thụ, giờ đây chan hòa âm thanh, sắc màu cùng với lòng

người trong ngày hội. Vì thế các thành viên của làng càng có ý thức cùng

nhau giữ gìn, trùng tu và tôn tạo các công trình kiến trúc đặc sắc của làng.

3.1.2. Vai trò của cụm di tích với không gian văn hóa làng

3.1.2.1. Cụm di tích - nơi lưu giữ một phần lịch sử làng

Nếu làng Phấn Vũ là“cái nôi cách mạng của Thụy Anh” [32, tr.127] thì

khu di tích là căn cứ vững chắc của cái nôi ấy, nơi chứng kiến nhiều sự kiện

lịch sử trọng đại của huyện Thụy Anh nói riêng, tỉnh Thái Bình nói chung.

Từ những tư liệu của huyện, của những vị lão thành cách mạng trực tiếp

tham gia vào các sự kiện lịch sử đã nêu lên giá trị lịch sử cách mạng nổi bật

của cụm di tích.

65

 Là nơi tuyên truyền giác ngộ cách mạng, thành lập nên chi bộ thanh niên

Phấn Vũ

Đầu năm 1928, Chi bộ Thanh Niên Phấn Vũ được thành lập [3, tr.9].

Đồng chí Vũ Khế và Bùi Hồng Nghĩa [32, tr.72] đã tận dụng vị trí thuận lợi ở

trung tâm làng của chùa và đền Quan Lớn Thống làm nơi liên lạc tổ chức họp

kín của Chi bộ, làm địa điểm liên lạc với Ban Chấp hành Tỉnh bộ Thanh niên và các Chi bộ lân cận14. Đầu năm 1930, Chi bộ Đảng Phấn Vũ ra đời, các tổ chức đoàn thể được xây dựng15, trở thành nòng cốt trong việc vận động nhân

dân đứng lên đấu tranh cách mạng.

 Là một trong những nơi phục hồi lại cơ sở cách mạng huyện Thụy Anh; là

nơi luyện tập quân sự của đội du kích làng Phấn Vũ.

Sau cuộc khủng bố của địch ở Tiền Hải vào tháng 5/1942, đồng chí Nguyễn Đình Bảng16 cùng với các đồng chí Phạm Ngọc Thắng, Lê Bá Cầu, Vũ Thị Dần17 đã lấy chùa làng Phấn Vũ, đền Quan Lớn Thống làm nơi liên

lạc, tuyên truyền cách mạng và là một trong những nơi phục hồi lại cơ sở cách

mạng huyện Thụy Anh [32, tr.127].

Thời gian từ 1946 - 1949, cụm di tích là địa điểm sinh hoạt của các

đoàn thể như: Hội Nông dân, Hội Phụ Lão, Hội Phụ Nữ, Đoàn Thanh niên

cứu quốc,… trong các phong trào vận động diệt giặc đói, giặc dốt, chống giặc

14 Xác nhận của lão thành cách mạng Phạm Ngọc Thắng người làng Phấn Vũ – nguyên tổ trưởng phòng mật miền duyên hải Thái Bình, nguyên phó bí thư huyện Tiền Hải, nguyên phó giám đốc sở Nông nghiệp Thái Bình

15 Các tổ chức đoàn thể như: Hội tự vệ đỏ, nông hội đỏ, nông dân tương tế, phụ nữ tương tế

16 Lão thành cách mạng làng Phấn Vũ, nguyên Bí thư chi bộ xã Xuân Trường

17 Ba đồng chí: Phạm Ngọc Thắng, Lê Bá Cầu, Vũ Thị Dần đều là người làng Phấn Vũ, đã được Đảng và nhà nước công nhận lão thành cách mạng

ngoại xâm, triển khai và thực hiện lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh tham

66

gia vào các phong trào: “Hũ gạo kháng chiến”,“Bình dân học vụ”,“Tuần lễ

vàng” [3, tr.11]. Bước sang năm 1947, cụm di tích Phấn Vũ trở thành nơi

luyện tập quân sự của đội du kích, xây dựng làng kháng chiến [32, tr.135].

 Là nơi tổ chức hội họp, quan sát mặt biển; là nơi tập kết của bộ đội và là

trạm sơ cứu cho thương binh

Từ năm 1950 – 1953, đền, chùa làng Phấn Vũ là nơi tập kết của bộ đội

chủ lực huyện Thụy Anh, huyện Hải Kiến; là nơi cất giấu tài liệu, quan sát

mặt biển, tập trung lực lượng phối hợp với du kích làng Vạn Xuân, Tri Chỉ,

Chỉ Bồ, An Cố chống trả các cuộc hành binh của Pháp [3, tr.12]. Cũng thời

gian này, cụm di tích còn là trạm trung chuyển để sơ cứu cho thương binh rồi

chuyển đi nơi khác.

Đền chùa Phấn Vũ tiếp tục làm căn cứ điểm trong kháng chiến chống

Mỹ, cùng với quân và dân Thụy Xuân “vững tay lưới, tay súng” sẵn sàng

chiến đấu đập tan chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, lập nên

chiến công bắn rơi 01 máy bay AD6 bảo vệ vững chắc vùng trời, vùng biển quê hương18.

3.1.2.2. Cụm di tích - Nơi lưu giữ giá trị văn hóa truyền thống của làng

Đền chùa Phấn Vũ là nơi lưu giữ các giá trị văn hóa truyền thống, nơi

các hoạt động văn hóa cộng đồng được tổ chức và cũng là nơi tạo nguồn cảm

hứng cho người dân sáng tạo nên các giá trị văn hóa làng. Cụm di tích gắn bó

mật thiết với đời sống tinh thần của mỗi người dân làng Phấn Vũ. Nó không

chỉ có vị trí đặc biệt trong văn hóa làng mà còn có tác động sâu sắc, toàn diện

đến xã hội. Đó là không gian tôn giáo, là nơi phục vụ các hoạt động thờ cúng

tâm linh, thể hiện lòng hiếu mộ của con người; Là nơi sinh hoạt cộng đồng, in

18 Ngày 03/11/2004 nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho Đảng bộ và nhân dân xã Thụy Xuân vì đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược

dấu những hương ước, lệ làng, những thiết chế lâu đời. Đây là cơ sở quan

67

trọng, là nền tảng để xây dựng nên một truyền thống văn hóa đa dạng, phong

phú nhưng cũng rất thống nhất. Đó chính là sự quy tụ của nền văn hóa dân

tộc, trong đó văn hóa làng xã - đền - chùa - đình làng là một điển hình.

Với ý nghĩa đó, cụm di tích là trung tâm văn hóa, là bảo tàng sống về

văn hóa làng của người dân Phấn Vũ. Đồng thời còn là nơi nhận diện một

cách sống động mô hình chính trị đặc thù với tính chất tự trị dân chủ làng xã,

một thiết chế văn hóa tín ngưỡng tổng hợp, một không gian văn hóa tiêu biểu

trong đó có những giá trị đặc sắc về nghệ thuật tạo hình, biểu diễn. Trong khía

cạnh kiến trúc, đền chùa được tạo dựng bởi những bàn tay tài hoa của nghệ

nhân người Việt mang nặng tấm lòng với văn hoá Việt Nam, chúng ta có thể

cảm nhận được sự hài hoà tinh tế giữa kiến trúc ngôi chùa, ngôi đền với cảnh

quan thiên nhiên của không gian làng, và thể hiện được văn hoá ứng xử với

môi trường tự nhiên của người dân qua việc xây dựng đền chùa.

3.1.2.3. Cụm di tích - Nơi hội tụ và lan tỏa, nơi gắn kết khối cộng đồng xã hội

Cư dân làng Phấn Vũ chủ yếu sống bằng nghề biển, phụ thuộc nhiều

vào thiên nhiên và trong lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm, nơi đây đã

phải gánh chịu sự tàn phá ác liệt của quân thù cũng như thiên tai đem lại.

Nhưng chính lịch sử và tạo hóa đã ban tặng cho nơi đây một quần thể di tích

văn hóa chứa đựng những giá trị sâu sắc, làm tăng thêm sức hấp dẫn đối với

du khách thập phương, đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu nghiên cứu về

giá trị văn hóa lịch sử tại những điểm di tích đó. Những sự tích về Đại Càn

Nam Hải Thánh Mẫu phù hộ cho ngư dân, những câu chuyện về Quan Lớn

Thống đánh đuổi lũ cướp biển lưu truyền mãi đến đời sau, có sức lan tỏa

mạnh mẽ tới dân cư trong và ngoài vùng. Nhân dân đến cúng cầu mưa thuận

gió hòa, trời yên biển lặng, tôm cá đầy khoang, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Họ cũng không tiếc công, tiếc của đóng góp, xây dựng, tu sửa đền chùa.

Trong các dịp lễ hội, cư dân thường tổ chức nhiều hoạt động văn hóa thể thao,

68

trò chơi dân gian tạo nên sức hấp dẫn đối với đông đảo cư dân trong vùng và

du khách. Bởi họ đến nơi đây, chứng tỏ họ là những người có tâm hồn cởi

mở, hòa đồng, cộng cảm, khi được chung vui trong lễ hội họ càng có cơ hội

để xích lại gần nhau hơn. Trong đó cũng không ít người đến với lễ hội đem

theo lễ vật cúng tiến lên đền chùa với ước muốn cầu cho mưa thuận gió hòa,

hạnh phúc ấm no, đất nước phồn thịnh, đồng thời tỏ lòng biết ơn, uống nước

nhớ nguồn của mình.

Bên cạnh các ngôi đền thì chùa cũng có vai trò tương tự, chỉ khác là

chùa để thờ Phật. Chùa là của làng, của vùng, nên ở chùa ngoài một số lễ hội

Phật giáo thống nhất trong các chùa, còn có lễ hội theo tín ngưỡng địa

phương. Đông đảo cư dân theo lệ cứ ngày Rằm, mồng một lại lên chùa lễ

Phật. Theo quan niệm của nhà Phật thì "Phật tại tâm", họ đem lễ chay lên

chùa cúng phật, nhiều "con nhang phật tử" cúng tiến tiền vàng, vật liệu để

làm chùa, điều này thể hiện lòng "từ bi, hỷ xả" trong tâm hồn mỗi người dân.

Trong cuộc sống đầy những bộn bề lo toan trĩu nặng, người ta bước vào chùa

với tấm lòng thanh tịnh, thành kính, những vất vả lo toan của cuộc sống

thường nhật dường như tan biến. Bởi họ vào chùa là để tĩnh tâm, cầu lành,

cầu phúc cho mình, cho gia đình và đất nước. Điều này không nằm ngoài tinh

thần "Phục quốc an dân" của nhà chùa, đồng thời hướng tới sự hòa đồng với

các tôn giáo khác trong một khuôn phép sao cho tốt đời, đẹp đạo.

3.2. Một số vấn đề đặt ra

3.2.1. Hiện trạng di tích

Trải qua những thăng trầm của lịch sử, những biến cố của thời gian,

những bất thường của thời tiết, nhiều chi tiết, bộ phận kiến trúc của cụm di

tích bị xuống cấp đã được tu sửa, phục dựng, trùng tu. Năm 1729, gặp cơn

bão lớn làm đền Mẫu bị đổ. Năm 1896 đền được phục dựng lại [3, tr.16].

Năm 1990, đền được tu sửa lại. Công việc tu sửa, tôn tạo luôn được chú trọng

69

trong thời gian gần đây: Năm 1999, tu tạo nâng cấp toàn bộ công trình hết

khoảng 120 triệu đồng; năm 2006 tu sửa toà tiền tế 05 gian ngoài trị giá

khoảng 150 triệu đồng. Đền Quan Lớn Thống cũng đã được tu sửa nhiều lần.

Năm 2010 mới được tu sửa gian ngoài. Hiện nay, về cơ bản, đền đã hoàn

chỉnh, không cần tu sửa thêm.

Chùa Phấn Vũ bị xuống cấp trầm trọng nhất. Hệ thống móng, hệ thống

tường gạch bị mọt hỏng gần như hoàn toàn; trụ cột, vì kèo bị mối mọt, mục

nát, ngói bị vỡ, bị lệch nhiều có nguy cơ đổ sập vào mùa mưa bão. Qua nhiều

lần tu sửa nhưng vẫn chưa hoàn thiện, đến ngày 19/10/2012, Ban Quản lý di

tích đã tiến hành hội nghị gồm các cụ cao niên trong làng; các thành viên

trong Ban Quản lý di tích; các đồng chí Bí thư chi bộ, Trưởng ban công tác

mặt trận khu dân cư; các đồng chí Trưởng thôn Minh Vũ, Phấn Vũ Nam, Vũ

Đông, Xuân Bàng và các đại diện cho nhân dân làng Phấn Vũ cùng với sự

chứng kiến của Đại diện Ủy ban Nhân dân xã để họp bàn tu sửa chùa. Hội

nghị đã nhất trí cao, đưa đơn đề nghị các cấp có thẩm quyền tiến hành tu bổ,

tôn tạo chùa Phấn Vũ. Đến nay, chùa đã được tu sửa lại, khuôn viên được mở

rộng, nhà khách được xây dựng thêm. Có thể nói, trong cụm di tích, chùa

Phấn Vũ tuy đã phải sửa chữa, nâng cấp nhiều lần nhưng vẫn giữ nguyên

được kiến trúc ban đầu, còn đền Mẫu và đền Quan Lớn Thống đã ít nhiều

thay đổi do những người đảm nhận nhiệm vụ trùng tu, sửa chữa chưa tuân thủ

nguyên tắc giữ nguyên hiện trạng.

Từ trước đến nay, nhân dân làng Phấn Vũ rất tích cực đóng góp công

sức và tiền của để tu sửa cụm di tích. Đặc biệt, năm 2012 toàn bộ số tiền tu

sửa, nâng cấp lên đến 700 triệu đồng, nhưng vẫn chưa đủ để tu sửa, hoàn

thiện cụm di tích. Bộ cánh cửa phía trước của đền Quan Lớn Thống đang cần

được thay; khuôn viên cũng cần được chú ý chăm chút hơn nữa,... Ba di tích

thì chỉ có chùa Phấn Vũ có nhà khách nhưng diện tích rất nhỏ hẹp, vào những

70

ngày lễ hội không đủ chỗ để khách lưu trú lại; quy mô của lễ hội cũng đang

dần bị thu nhỏ, nhiều trò chơi bị mai một, giản lược do thiếu kinh phí tổ chức.

Vì thế, nhân dân đang kiến nghị với các cấp chính quyền để mong nhận được

sự quan tâm, hỗ trợ, đầu tư kinh phí từ Sở, của Bộ Văn hóa Thể thao và Du

lịch. Đặc biệt, hiện nay cụm di tích đã được công nhận là Di tích lịch sử văn

hóa cấp Tỉnh, rất cần được đầu tư kinh phí để tu sửa, tôn tạo, chống xuống

cấp để phục vụ sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo cư dân địa phương và khách

tham quan. Tất nhiên, vẫn rất cần sự đóng góp cả về kinh tế, cả về công sức

và trí tuệ của người dân địa phương và những nhà hảo tâm.

3.2.2. Vấn đề khách tham quan

Vào những ngày mùng một, ngày Rằm, ngày lễ Phật Đản, người dân đi

vãn cảnh tại chùa Phấn Vũ, cầu phúc - lộc - may mắn. Đặc biệt vào dịp lễ hội

Rằm tháng 7, cả ba di tích hấp dẫn du khách bởi sự hòa quyện giữa nghi thức

tôn giáo truyền thống và các hoạt động văn nghệ dân gian, sinh hoạt văn hóa

hiện đại. Những nghi thức tôn giáo và những hoạt động sinh hoạt văn hóa dân

gian tại cụm di tích phản ánh rõ nét đời sống tâm linh, văn hóa và những ước

vọng của cư dân sông nước. Ngày mùng Một, hôm Rằm tại chùa Phấn Vũ đều

có lễ Phật, có sự tham gia của 260 người trong Hội Phật giáo, thu hút được

đông đảo người dân tham gia. Ngày 20/2, tại đền Quan Lớn Thống còn diễn

ra Lễ cầu vạn - cầu thời tiết thuận hòa, tôm cá được mùa, thu hút đông đảo

nhân dân tham dự [3, tr.16] từ người dân trong làng, trong xã, trong huyện

như: Thụy Trường, Thụy Hải, Diêm Điền, Thái Hưng; người dân trong tỉnh

như Tiền Hải, Hưng Hà, Vũ Thư đến người dân từ các tỉnh thành khác như Hà

Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh và những người con

làm ăn xa xứ trở về để dâng lễ, cầu bình an. Tuy nhiên, khách tham quan cụm

di tích chưa nhiều, những ngày thường đền chùa rất vắng bóng. Phần vì ít

71

người ở nơi khác biết đến cụm di tích, phần vì cơ sở lưu trú chưa đáp ứng nhu

cầu khách tham quan.

Nhận xét về cụm di tích, ông Lê Bá Kiểm (65 tuổi, cán bộ hưu trí) -

một người dân của làng Phấn Vũ cho biết: "Cụm di tích chứa đựng rất nhiều ý

nghĩa. Đó không chỉ là nơi để người dân đến đây cầu bình an, cầu cho thuyền

bè thuận lợi mà còn là nơi minh chứng cho lịch sử hào hùng của làng quê.

Tuy nhiên, không phải người dân Phấn Vũ nào cũng hiểu về giá trị cụm di

tích này hoặc có người hiểu nhưng rất mơ hồ và chưa hiểu hết". Chị Lê Thị

Hiền (23 tuổi, sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Thái Bình) không giấu nổi

sự xúc động: "Mình là một người con của Phấn Vũ nhưng cũng chưa hiểu

nhiều về cụm di tích này, có thể do thế hệ của mình còn quá trẻ. Nhưng mình

thực sự vui sướng và tự hào khi cụm di tích được công nhận là Di tích lịch sử

văn hóa cấp Tỉnh". Ông Nguyễn Văn Sang - Trưởng ban khánh tiết cho biết:

"Từ khi xóa bỏ bao cấp, đời sống tâm linh của người dân ngày càng nâng

cao, người dân chú trọng hơn đến việc đầu tư để sửa chữa, trùng tu di tích".

Ông cũng thể hiện mong muốn: "Tôi mong sao cụm di tích không chỉ dừng lại

ở Di tích cấp Tỉnh mà sẽ trở thành Di tích cấp Quốc gia trong thời gian tới.

Đó không chỉ là mong muốn của riêng tôi mà còn của cả người dân Thụy

Xuân nói chung".

Chị Lê Thị Hòa (25 tuổi, sinh viên trường Đại học Khoa học xã hội và

nhân văn, Hà Nội) về tham quan đã nhận xét: “Lần đầu tiên tôi đến tham

quan cụm di tích. Đến đây, tôi càng hiểu rõ hơn về truyền thống văn hóa, đời

sống của những con người miền quê biển. Thật tiếc là giờ tôi mới biết làng

Phấn Vũ có cụm di tích này. Tôi rất muốn biết nhiều hơn về cụm di tích

nhưng người dân ở đây dường như cũng không am hiểu nhiều lắm về các di

tich này”. Anh Nguyễn Quang Hoàng (25 tuổi, nhân viên Tư vấn bán xe ô tô,

xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) thích thú cho biết: “Tôi vô

72

cùng ngạc nhiên khi được tận mắt ngắm nhìn cụm di tích. Đó là nét đặc sắc

kết tinh văn hóa lâu đời của một làng quê có bản sắc văn hóa đa dạng, phong

phú. Tôi hy vọng nơi đây sẽ được sự quan tâm đầu tư hơn nữa để tôi và các

bạn được học hỏi và hiểu biết nhiều hơn”.

Ý kiến nhận xét của người dân Phấn Vũ và khách tham quan là những

đóng góp quý báu để đặt ra giải pháp nhằm thu hút hơn nữa du khách đến

tham quan. Đồng thời cũng cho thấy một thực trạng đáng buồn là người dân

địa phương, đặc biệt là thế hệ trẻ ít nắm được nguồn gốc giá trị của cụm di

tích, không biết về lịch sử di tích, về đối tượng thờ tự mà chỉ đến thắp hương,

đến cầu nguyện, đến theo phong trào. Ngay chính người dân ở đây còn không

rõ về di tích thì cũng rất khó để nói cho du khách biết, để đáp ứng nhu cầu

muốn tìm hiểu, khám phá về đền, chùa Phấn Vũ như trường hợp của chị Lê

Thị Hòa ở trên.

3.2.3. Vấn đề quản lý, tổ chức hướng dẫn/ phục vụ khách tham quan

Khi chưa được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Tỉnh thì cụm di

tích trực thuộc sự quản lý của Ủy ban nhân dân xã Thụy Xuân và Ban Quản lý

di tích do dân bầu ra gồm 17 thành viên. Đến khi được công nhận là di tích

lịch sử văn hóa cấp Tỉnh theo Quyết định số 2415/QĐ - UBND của Ủy ban

nhân dân tỉnh Thái Bình ngày 10/10/2012, Ủy ban nhân dân xã Thụy Xuân đã

ra hai Quyết định: Ngày 26/11/2012, Ủy ban nhân dân xã Thụy Xuân ra

Quyết định thành lập Ban quản lý di tích lịch sử văn hóa đền, chùa làng Phấn

Vũ. Ban quản lý gồm 15 thành viên, trong đó ông Lê Xuân Hưng là trưởng

ban. Đến ngày 27/11/2012, Ủy ban nhân dân xã Thụy Xuân ra Quyết định

thành lập Ban khánh tiết di tích lịch sử văn hóa đền, chùa làng Phấn Vũ. Ban

khánh tiết gồm 20 thành viên, trong đó ông Nguyễn Văn Sang là trưởng ban.

Ban Khánh tiết có nhiệm vụ quản lý, điều hành, tổ chức hoạt động cụm di tích

dưới sự điều hành của Ban Quản lý di tích làng Phấn Vũ. Ban Quản lý cụm di

73

tích có nhiệm vụ quản lý, điều hành, tổ chức hoạt động cụm di tích dưới sự

điều hành của Ủy ban nhân dân xã Thụy Xuân. Dưới sự điều hành của Ban

Quản lý, trực tiếp là đồng chí Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân nhưng đại đa số

các thành viên của Ban Quản lý và Ban Khánh tiết di tích đều là các cụ cao

niên trong làng được bầu ra. Tuy nhiên các cụ mới chỉ làm việc theo tấm lòng

nhiệt tình, tính tự giác còn về phương pháp khoa học quản lý chưa được đào

tạo bài bản, chưa nắm vững quy định của quản lý Nhà nước trong điều hành

hoạt động của di tích, hướng dẫn chi tiết theo Luật Di sản Văn hóa.

Di tích có hai người trông coi là Cụ Trịnh Văn Hoẹt và bà Trịnh Thị

Thoa. Ông Hoẹt có trách nhiệm trông coi đền Quan Lớn Thống; bà Thoa có

trách nhiệm trông coi đền Mẫu và chùa Phấn Vũ. Đây cũng là 2 người cao

tuổi nhưng chưa được đào tạo về chuyên môn, còn hiểu biết ít về cụm di tích.

Khi được hỏi về các giá trị, về lễ hội hay kiến trúc của cụm di tích thì họ trả

lời được rất ít hoặc đề nghị đến gặp ông Nguyễn Văn Sang để tìm hiểu thêm.

Vì thế, cụm di tích cần tổ chức đào tạo thêm người hướng dẫn, xây dựng tổ

hướng dẫn khách tham quan, thuyết minh phục vụ khách tại đền, chùa hoặc

có nhiều bảng, biển chỉ dẫn, giới thiệu để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu của khách

tham quan không chỉ trong ngày hội mà cả những ngày thường.

Vào ngày lễ hội, khách đến tham quan rất đông, nhu cầu nghỉ lại của du

khách nhiều nhưng trong ba di tích mới chỉ có chùa Phấn Vũ có nhà khách,

được xây dựng năm 2012, nhưng diện tích còn hẹp, chỉ có một phòng và một

giường. Chị Vũ Quỳnh Nga (27 tuổi, giáo viên, đến từ thị trấn Diêm Điền,

huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) đã dừng chân rất lâu bên khuôn viên chùa

Phấn Vũ cho biết: "Rất ít di tích trong xã Thụy Xuân có được một diện tích và

thiên nhiên đẹp như ở đây. Đây là nơi lý tưởng để tìm hiểu về bản sắc văn hóa

làng Phấn Vũ. Tiếc là nhà khách còn nhỏ hẹp không đủ để tôi và các bạn trú

lại". Nhà nghỉ, khách sạn ở xã Thụy Xuân không có, khách phương xa muốn

74

lưu trú lại lâu phải lên thị trấn Diêm Điền (cách Thụy Xuân 7km). Vì thế, làng

Phấn Vũ nói riêng, xã Thụy Xuân nói chung cần xây dựng thêm cơ sở lưu trú

để đáp ứng vấn đề chỗ ăn nghỉ cho du khách. Với điều kiện hiện nay của xã

nên xây dựng từ 1 đến 2 nhà nghỉ theo TCVN 7799: 2009 do Ban kỹ thuật

tiêu chuẩn quốc gia TCVN/TC 228 "Du lịch và các dịch vụ có liên quan" biên

soạn trên cơ sở dự thảo đề nghị của Tổng cục Du lịch - Bộ Văn hóa, Thể thao

và Du lịch, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng đề nghị, Bộ Khoa học

và Công nghệ công bố.

3.2.4. Vấn đề tổ chức lễ hội

Lễ hội - cầu nối quá khứ với hiện tại, bao đời nay đã trở thành một bộ

phận không thể thiếu trong đời sống văn hóa cộng đồng. Lễ hội di tích đền,

chùa làng Phấn Vũ được tổ chức từ mùng 10 đến 15/7 Âm lịch, nhưng chủ

yếu tập trung vào phần lễ, phần hội còn đơn giản, ít trò chơi. Nhiều trò chơi

đã bị mai một như bơi chải, vật, phần vì do chiến tranh làm gián đoạn, nhiều

năm không được tổ chức, mãi đến năm 1990 mới được khôi phục lại, phần vì

bãi biển bị phù sa bồi lấp, không còn rạch sông như xưa để tổ chức bơi chải,

một trò chơi đặc trưng của cư dân miền biển.

Lễ hội là của nhân dân, từ nhân dân mà ra và tồn tại phục vụ nhu cầu

văn hóa của nhân dân. Điều đó cũng có nghĩa là mỗi một lễ hội sẽ có một đặc

trưng riêng, thể hiện sinh động đời sống văn hóa, tinh thần của người dân tại

địa phương đó. Vì thế, Ban quản lý di tích lịch sử văn hóa đền, chùa làng

Phấn Vũ cần tổ chức lễ hội phù hợp với đặc trưng và yếu tố văn hóa, lịch sử

cũng như tâm linh vốn có trong lễ hội. Phần hội cần có sự đa dạng, phong

phú. Ban quản lý cần có kế hoạch khôi phục lại trò vật, còn trò bơi chải rất

khó có thể khôi phục lại do hiện nay xã Thụy Xuân không còn sông ngòi. Tuy

có biển, nhưng khúc gần bờ rất cạn, không thể tổ chức bơi chải được. Bên

cạnh các trò chơi đã được tổ chức như cờ người, cờ tướng, tổ tôm điếm, có

75

thể tổ chức thêm các trò chơi như: Bắt chạch trong chum, trói cua, thi đan

lưới, thi gánh cá, nặn tò he, kéo co, thổi cơm thi, chọi gà,... Để lễ hội mang

nhiều sắc thái, vừa mang đậm nét văn hóa truyền thống làng quê vừa kết hợp

với các loại hình văn hóa hiện đại, cần tổ chức thêm các chương trình ca múa

nhạc kết hợp với các làn điệu hò chèo thuyền, hò đối đáp nam nữ, hát chèo,

hát tuồng,... các chương trình giao lưu, chương trình văn nghệ thiếu nhi,... đáp

ứng nhu cầu giải trí cho cư dân sau một năm lao động vất vả. Lễ hội có tổ

chức quy mô và đa dạng như vậy mới thu hút đông đảo du khách tham gia.

3.2.5. Hoạt động mê tín dị đoan tại cụm di tích

Sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo dựa trên cơ sở quan trọng nhất là niềm

tin về đối tượng thờ phụng. Tuy nhiên, do sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo có

tính lan truyền cảm xúc cao trong cộng đồng nên cũng là điểm yếu dễ bị kích

động và lợi dụng theo những mục đích khác nhau của một hay nhiều nhóm

người, đặc biệt là những nhóm người hành nghề mê tín dị đoan.

Chùa Phấn Vũ là điểm có khá nhiều người hành nghề bói toán. Vào đầu

năm hay dịp lễ hội, khu vực ngã tư cách chùa khoảng 600m tụ tập gần chục

"thầy" bói để giải quẻ thẻ kiêm xem bói: xem bói bài tây, lá trầu, hay lòng bàn

tay, xem vận hạn cả năm,… cho khách. Rồi những người bán lá số tử vi, bán

các loại sách mê tín dị đoan tiên đoán vận mệnh tràn lan, chào mời xô bồ.

Người bán hàng ngụy trang dưới rất nhiều hình thức: Mở sạp bán hàng tạp

hóa, bánh kẹo; cho sách vào thùng xốp. Sách có bìa hình bát quái, ngũ hành

với đủ loại nhan đề như “Bói toàn thư, “Đoán mộng, giải mộng”, “Tử vi

tướng pháp trọn đời”. Thậm chí, nhiều sách còn núp bóng “khoa học” với

những cái tên rất “kêu” như: “Tử vi dưới ánh sáng khoa học”, “Tử vi lý học”,

“Khoa học về đường chỉ tay”, “Khoa học về tướng số”,... Hầu hết đều là sách

photocopy hoặc in màu sơ sài, không có tên tác giả và nơi xuất bản, hình vẽ

mờ, nhiều chỗ còn viết sai chính tả,… nhưng vẫn được rất nhiều người mua.

76

Hiện nay, mặt hàng bán chạy nhất là những tờ tử vi nói trước vận hạn trong

năm theo từng tuổi, với giá 2.000 – 5.000 đồng/tờ. Những quầy bán sách này

làm cho nhiều người bước vào cổng chùa hoa mắt. Chị Thanh Loan (xã Thụy

Lương) vào chùa cầu bình an, may mắn, được đội bán sách chào mời nhiệt

tình. Dù đã từ chối mãi nhưng vẫn bị bám theo, chị đành phải bỏ ra 20 ngàn

đồng để mua “một chút bình yên”.

Việc hành nghề bói toán và bán sách mê tín dị đoan diễn ra ở đền, chùa

không chỉ vi phạm pháp luật mà còn gây nhiều khó chịu cho du khách, làm

ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục của dân tộc, ảnh hưởng đến sự tôn

nghiêm, thành kính nơi cửa Phật và gây tác hại xấu cho nhiều du khách nhẹ

dạ, cả tin. Em Tuấn Anh (18 tuổi, thôn Bình An) học lớp 12, đang chuẩn bị dự

thi vào Cao đẳng, trong một lần đi lễ tại chùa Phấn Vũ cùng bạn bè, em đã

gieo quẻ và nghe lời thầy phán “có quý nhân phù trợ đường công danh, cầu

được ước thấy, thi đâu đỗ đó, con đường tương lai vô cùng sáng rạng”. Mừng

như bắt được vàng, Tuấn Anh về nhà thoải mái đăng ký thi vào trường chuẩn,

những khi đến trường em ung dung trốn học đi chơi bi-a; khi về nhà em thoải

mái đóng cửa phòng luyện chơi game. Vì vậy mà kết quả học tập của Tuấn

Anh ngày càng kém, khi thi không đủ điểm sàn,… Năm nay Tuấn Anh tiếp

tục ôn để thi lại, trong khi nhiều bạn bè của em đã là sinh viên đại học.

Bên cạnh đó, người đến cúng bái tại đền, chùa Phấn Vũ đốt nhang từng

bó lớn, với ý nghĩ đốt nhang càng nhiều thì lời cầu nguyện càng thiêng, khấn

vái ở đủ mọi nơi, mọi chỗ, từ hòn đá đến gốc cây, cắm nhang la liệt, khói bốc

mù mịt rồi nhét tiền lẻ vào tượng Phật, tượng Bồ Tát, tượng hộ pháp… Vào lễ

dịp lễ hội, những ngày đầu năm hay ngày Rằm, mùng một hàng tháng tiền

giấy, vàng mã đốt nghi ngút, bập bùng suốt ngày. Những năm gần đây, việc

đốt vàng mã trở nên phức tạp với nhiều đồ ma được mô phỏng theo các vật

77

dụng hàng ngày từ kích thước đến hình dáng bên ngoài như ti vi, tủ lạnh, xe

máy, xe hơi, nhà lầu... với giá đắt đỏ. Họ đốt thật nhiều vàng mã với nhiều lý

do khác nhau, với những mô hình đồ sộ. Có người mong cho “người âm” có

cuộc sống sung túc; có người khi đốt vàng mã chỉ vì buôn bán thua lỗ nên đốt

để giải xui, cầu xin các “cô hồn” cho buôn may bán đắt; có người đốt vàng

mã để toại nguyện ước muốn có một vật dụng nào đó và họ đốt mô hình đồ

vật mong ước. Trong những ngày lễ hội, có người chi hết cả chục triệu đồng

để mua đồ vàng mã. Số lượng vàng mã nhiều quá tín chủ đốt không xuể,

người phục vụ trong nhà chùa kêu gọi xếp thành đống, nhà chùa sẽ đốt hộ,

như trường hợp của chị Linh (32 tuổi, xã Thụy Hải, có chồng là chủ tàu). Hiện

tượng đốt vàng mã quá nhiều, quá lớn gây lãng phí tiền của, gây ô nhiễm môi

trường và thiếu thẩm mỹ, cần được loại bỏ.

3.3. Giải pháp

3.3.1. Nhóm giải pháp về nhận thức

3.3.1.1. Nâng cao nhận thức của Ban Quản lý di tích trong việc giữ gìn, trùng

tu, tôn tạo cụm di tích

Như phần thực trạng đã nêu, đại đa số các thành viên của Ban Quản lý

và Ban Khánh tiết di tích đều là các cụ cao niên trong làng được bầu ra nhưng

chỉ làm việc theo tấm lòng nhiệt tình, tính tự giác còn về phương pháp khoa

học quản lý chưa được đào tạo bài bản. Hồ Chủ Tịch đã từng dạy để có phong

cách lãnh đạo, quản lý khoa học đòi hỏi người cán bộ phải "đặt kế hoạch rõ

ràng, tỉ mỉ, thiết thực", đồng thời phải có "óc tổ chức", chia công, xếp việc, tổ

chức động viên "toàn dân ra thi hành" và phải "khéo kiểm soát" để tổng kết

"rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng" (trích trong tác phẩm “Sửa đổi lối

làm việc”của Hồ Chủ Tịch, năm 1947). Vì thế để giữ nguyên giá trị di tích,

cần nâng cao nhận thức của Ban Quản lý, Ban Khánh tiết di tích bằng cách

cung cấp cho họ Luật Di sản, các loại sách báo đề cập đến các vấn đề di tích

78

và quản lý di tích, lễ hội,…; mở những lớp đào tạo, tập huấn về cách quản lý

di tích, cách bảo tồn, giữ gìn hiện trạng di tích,...

Công tác quản lý quá trình triển khai các dự án xây dựng, tu bổ, tôn tạo

di tích là hoạt động có tính chất chuyên ngành. Do đó tất yếu phải có cơ chế

quản lý mang tính chuyên biệt trên cơ sở tuân thủ nghiêm túc các quy định

của Luật Di sản văn hoá và Luật Xây dựng.

3.3.1.2. Phối hợp giữa chính quyền địa phương với Mặt trận Tổ Quốc, các

ban ngành đoàn thể, mặt trận khu dân cư trong việc giữ gìn, bảo vệ, tôn tạo

cụm di tích

Các tổ chức này phải thu hút được đông đảo tầng lớp nhân dân trong

làng, trong xã thực hiện một cách năng động, sáng tạo các chủ trương, chính

sách của Bộ, của Sở, của Ban quản lý trong việc giữ gìn, bảo vệ, tôn tạo cụm

di tích. Đây là công việc khó khăn và lâu dài, cần sự kiên trì, bền bỉ bởi phần

nhiều nhân dân đều cho rằng công việc quản lý, bảo vệ di tích là của xã, của

huyện, của Tỉnh, còn bản thân họ không có trách nhiệm, nghĩa vụ hay quyền

lợi gì ở công tác quản lý này và nếu tham gia, họ cũng không biết bản thân

mình phải làm gì. Vì thế, mặt trận Tổ quốc cần xây dựng khối đại đoàn kết

toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân;

tuyên truyền, vận động nhân dân phát huy quyền làm chủ, giám sát hoạt động

của Ban quản lý; tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để cùng đưa ra cách

bảo vệ và gìn giữ di tích hiệu quả nhất.

Trong ngày lễ hội, nhiều khách đến tham quan nên rất cần sự phối hợp

giữa các ban ngành đoàn thể. Lực lượng công an xã phối hợp với Hội thanh

niên, đội ngũ thanh niên tình nguyện để điều tiết giao thông và tăng cường

kiểm tra, nhắc nhở, xử lý những vi phạm diễn ra trong lễ hội như tệ nạn đánh

bạc, lạm dụng tín ngưỡng để hành nghề mê tín dị đoan. Kiên quyết không để

79

các hoạt động đó làm biến tướng lễ hội, góp phần đưa hoạt động lễ hội đi vào nề

nếp, nhằm bảo đảm an ninh trật tự, an toàn cho du khách và người hành hương

3.3.1.3. Nâng cao nhận thức của người dân địa phương về giá trị của cụm di

tích; vai trò của người dân trong việc giữ gìn, bảo vệ, tôn tạo cụm di tích

Tuyên truyền để người dân hiểu rõ về cụm di tích, về đối tượng thờ tự,

về lịch sử di tích, về các giá trị để tạo niềm tự hào cho nhân dân đồng thời

khuyến khích sự tham gia của cộng đồng địa phương vào các hoạt động bảo

tồn di tích, phục hồi các giá trị văn hoá truyền thống và phát triển du lịch văn

hoá. Có thể tuyên truyền bằng cách in tờ rơi, in sách phát cho dân, cho khách;

viết bài đọc trên phát thanh của làng, xã, đọc ở cụm di tích. Ban quản lý di

tích có thể phối hợp với các trường học, cho học sinh đi tham quan, điền dã

tại di tích để nghe các cụ kể chuyện, giúp giới trẻ dần tiếp cận và có sự hiểu

biết về di tích.

Bên cạnh đó, tích cực bài trừ buôn thần bán thánh, tuyên truyền để

người dân nâng cao nhận thức, không tin vào bói toán hay những tờ tử vi tiên

đoán vận mệnh không rõ nguồn gốc, xuất xứ, tránh bị những đối tượng hành

nghề bói toán lợi dụng. Giải thích cho dân hiểu đâu là tín ngưỡng tâm linh của

dân tộc, đâu là mê tín dị đoan, vạch ra hậu quả nghiêm trọng, kể ra các trường

hợp có thật ở trong làng xã hoặc xung quanh đã phải gánh chịu hậu quả ấy

như thế nào khi tin vào mê tín, bói toán.

Về vấn đề đốt đồ mã, vàng mã đang diễn ra tại di tích hiện nay thì đây

là một phần của nghi thức truyền thống trong tín ngưỡng tôn giáo của người

Việt Nam, là một phương tiện giao tiếp giữa người còn sống với thế giới siêu

nhiên. Đây vốn xuất phát từ truyền thống hiếu thảo, luôn hướng về tổ tiên của

dân tộc Việt Nam. Trong các dịp lễ trọng của cá nhân, gia đình hay cộng đồng

đều có phần cung tiến và đốt đồ mã, vàng mã, nhưng hiểu biết về nghi thức, ý

nghĩa cũng như cách thức thực nghi lễ này không phải ai cũng hiểu hết. Vì

80

vậy phải đặc biệt chú trọng đến công tác giáo dục cho người dân hiểu rõ ý

nghĩa của việc đốt vàng mã, còn ý nghĩ cung tiến càng nhiều, đốt càng nhiều

thì được lộc càng nhiều là tư duy thực dụng, người dân cần nâng cao nhận

thức, kỹ năng thực hành nghi lễ, nếp sống văn minh trong cung tiến và đốt nó

như thế nào. Bên cạnh đó, cũng phải nhấn mạnh là trong giáo lý của đạo Phật

không khuyến khích đốt vàng mã. Vì vậy, để hoạt động tín ngưỡng diễn ra

đúng với bản chất, góp phần tiết kiệm thời gian, tiền bạc, bài trừ mê tín dị

đoan tại lễ hội thì cần có cái nhìn đúng đắn về chùa chiền và giáo lý đạo Phật.

Cùng với đó, rất cần sự quản lý của Ban Quản lý khu di tích với các

quy định và thực thi các quy định như: Mỗi người chỉ đốt một nén nhang hoặc

vào ngày hội, ngày lễ đầu năm đông người đến dự thì cụm di tích thắp hương

vòng loại 1 ngày hoặc 3 ngày và cấm nhân dân không thắp hương trong

những ngày đó để tránh tình trạng hương khói nghi ngút, dẫn đến hỏa hoạn

xảy ra. Những năm gần đây, dù Ban quản lý đã tích cực nghiêm cấm, ngăn

chặn và xử lý, xử phạt hoạt động bói toán diễn ra trong khuôn viên đền, chùa

và đạt hiệu quả tối đa, nhưng hoạt động đó vẫn diễn ra ở nơi khác, đặc biệt là

khu vực ngã tư với nhiều hình thức trá hình. Ban quản lý di tích cần tích cực

công tác kiểm tra hơn nữa, phối hợp với lực lượng an ninh xã kiên quyết dẹp

bỏ, bài trừ hoàn toàn không cho hiện tượng bói toán lưu hành hay bán các loại

sách mê tín di đoạn dưới bất kỳ hình thức nào. Còn về vấn đề đốt vàng mã

nhiều và lan tràn, cần có quy định cụ thể, đốt những đồ vật gì, đốt như thế nào

và người trông coi sẽ là người trực tiếp đốt giúp tín chủ.

Tự do tín ngưỡng là một quyền của công dân được Nhà nước bảo vệ.

Tuy nhiên người dân cũng cần phải trang bị cho mình kiến thức về tôn giáo,

tín ngưỡng, có như vậy mới không rơi vào mê tín dị đoan. Đồng thời có sự

hiểu biết và trân trọng các giá trị văn hóa của việc đi chùa lễ Phật, đến Đền

cầu may mắn. Tuyên truyền để người dân thấy rằng cần phải sống và làm việc

81

theo hiến pháp, pháp luật, theo đúng đạo lý. Muốn ấm no, hạnh phúc không

có gì khác ngoài việc phải làm việc, lao động chân chính. Đức Phật là một bậc

Giác ngộ, một nhà tư tưởng, không phải là một vị thần có nhiều quyền năng

để có thể ban phúc cho tất cả mọi người. Phật dạy chúng ta về nhân quả, con

người tạo nhân tốt lành thì quả tốt lành nhất định đến.

3.3.1.4. Quán triệt cho cán bộ và nhân dân nhận thức đầy đủ được ý nghĩa

của việc bảo tồn, tôn tạo di tích, gắn liền với xây dựng nếp sống văn hóa

trong lễ hội

Cùng với việc nhận thức về giá trị, về ý nghĩa của việc giữ gìn, trùng

tu, tôn tạo cụm di tích, cần gắn liền với xây dựng nếp sống văn hóa trong lễ

hội, thực hiện tốt Quyết định 17/2012/QĐ-UBND ngày 20/11/2012 của Uỷ

ban nhân dân Tỉnh về việc ban hành quy định thực hiện nếp sống văn hóa trên

địa bàn tỉnh Thái Bình. Việc xây dựng nếp sống văn hóa có ý nghĩa thiết thực

cho chính người dân và cộng đồng làng trong việc nâng cao đời sống vật chất

và tinh thần.

3.3.1.5. Cần nhận thức đúng đắn việc xây dựng nếp sống văn hóa, làng văn

hóa là một quá trình lâu dài, liên tục và trước hết là phải xây dựng nếp văn

hóa trong lễ hội của di tích

Việc phát huy các giá trị văn hóa truyền thống vốn có đồng thời xây

dựng những giá trị văn hóa mới tiến bộ phù hợp với làng xã nhằm thúc đẩy

quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở nông thôn là một quá trình lâu

dài, liên tục, mang tính toàn diện, vừa có thuận lợi, vừa đầy khó khăn, thách

thức, cần sự bên bỉ, kiên trì, nhẫn nại. Vì thế, bên cạnh kế hoạch chung mang

tính tổng thể và lâu dài, làng cần có những bước đi cụ thể trong từng giai đoạn

nhất định; tích cực tìm tòi sáng tạo các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu

quả xây dựng đời sống văn hóa.

82

3.3.1.6. Phát huy ý thức chủ động, tự giác của dân làng cũng như của chính

quyền làng xã trong việc bảo tồn và trùng tu cụm di tích

Việc bảo tồn, trùng tu di tích là công việc chung của cả làng, do chính

làng tổ chức thực hiện. Vì vậy, làng cần phát huy cao độ tính tích cực, chủ

động của lãnh đạo, của nhân dân trong làng đồng thời đưa ra các ý tưởng, ý

kiến trong việc đóng góp công sức, kinh phí,… không nên trông chờ ỷ lại vào

sự hỗ trợ kinh phí hay sự thúc giục, áp đặt của cấp trên. Đồng thời, mỗi người

dân phải có ý thức tự giác cao, có tình yêu quê hương làng xóm, nhiệt tình

trong hoạt động chung của làng xã, cùng nhau nêu cao tinh thần phê bình và

tự phê bình cũng như tích cực nâng cao sự hiểu biết về cụm di tích, về văn

hóa để góp phần nâng cao trình độ dân trí của làng. Điều này, cần có sự hỗ trợ

của Mặt trận Tổ quốc và các ban ngành đoàn thể tích cực tuyên truyền tới

nhân dân.

3.3.2. Nhóm giải pháp hoạt động thực tiễn

3.3.2.1. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các

cấp, các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể; kiên quyết bài trừ các tệ nạn, hoạt

động mê tín dị đoan, buôn thần bán thánh

Cần xác định rõ vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, của lãnh đạo cơ quan,

đơn vị, ban chấp hành đoàn thể,… trong việc bài trừ các tệ nạn, hoạt động mê

tín dị đoan; cần có quy định cụ thể hơn trong việc quản lý di tích. Đồng thời,

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phải là đơn vị chỉ đạo, hướng dẫn chứ không

phải là phối hợp với các ban quản lý di tích ở cơ sở trong việc giải quyết các

vấn đề liên quan đến di tích, nếu không chính bộ máy này lại gây khó cho các

ban quản lý cấp cơ sở. Cụ thể:

 Lấy chi bộ làm trọng tâm, trọng điểm để tổ chức thực hiện việc quản lý di

tích. Ban hành chính sách thu hút và tập hợp quần chúng vì sự nghiệp bảo vệ

di sản văn hoá.

83

 Thực hiện tốt công tác vận động, xây dựng khối đoàn kết, thống nhất, đồng

thuận trong việc quản lý, giữ gìn di tích. Mở lớp tập huấn về công tác quản lý

điều hành cho các thành viên trong Ban quản lý di tích thông qua sự giúp đỡ

hỗ trợ của Ban Quản lý di tích Tỉnh, phòng Văn hóa Thông tin huyện kết hợp

với ban văn hóa xã.

 Tăng cường tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác dân vận cho

các đồng chí phụ trách. Tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền và phổ

biến Luật di sản văn hóa và các quy định khác của pháp luật liên quan đến

hoạt động bảo tồn di sản văn hóa. Khuyến khích các nhà trường trên địa bàn

nhận chăm sóc, bảo vệ di tích.

 Quản lý công tác tu bổ di tích theo đúng Quy chế bảo quản, tu bổ và phục

hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh của Bộ Văn hóa - Thông

tin. Ban hành chính sách quản lý và sử dụng các nguồn tài chính của di tích

(tiền công đức, tiền bán vé, tiền tài trợ, tiền kinh doanh dịch vụ tại di tích...)

theo định hướng ưu tiên sử dụng các nguồn thu của di tích cho việc tu bổ, tôn

tạo di tích.

 Mở các cuộc họp nhằm tìm giải pháp bảo tồn khu di tích. Những góp ý, đề

xuất của một số chuyên gia và cán bộ văn hóa địa phương cần được bổ sung

cụ thể, chặt chẽ hơn. Nhất là trong mô hình, cơ cấu quản lý các di tích,

cũng như phải quy định rõ hơn về trách nhiệm của lực lượng trông coi trực

tiếp di tích.

Về hoạt động mê tín đang diễn ra hiện nay, thực tế, chúng ta không thể

bài trừ hoàn toàn tệ nạn này. Tuy nhiên, để hạn chế phần nào mê tín dị đoan,

cần sự vào cuộc của các cấp, các ngành, thực hiện đồng bộ một số biện pháp

như tăng cường tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân tham gia thực

hiện phong trào: Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư,

như xây dựng gia đình văn hóa; làng, thôn, xã; cơ quan, đơn vị văn hóa. Phát

84

huy vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội

để xây dựng môi trường văn hóa ở cơ sở trong sạch, lành mạnh. Tăng cường

công tác giáo dục cho nhân dân hiểu về pháp luật do Đảng, Nhà nước quy

định về việc phòng chống các hoạt động mê tín dị đoan để nhân dân có biện

pháp ngăn chặn và kịp thời báo với cơ quan chức năng xử lý theo quy định

của pháp luật. Liên tục tăng cường công tác kiểm tra; bổ sung, tăng cường lực

lượng công an trong những dịp lễ hội, lễ Tết. Từ đó góp phần phát triển văn

hóa – nền tảng tinh thần của xã hội, giúp nhân dân yên tâm trong lao động,

sản xuất và đời sống.

Bên cạnh đó, việc đưa ra giải pháp quản lý đốt đồ mã, vàng mã ở di tích

không phải là để bài trừ mà là đưa ra định hướng đúng cho cộng đồng trước

sự bùng nổ cũng như những sai lệch về tâm linh với những ý tưởng, ý nghĩ

mới mà người ta gắn cho nghi thức này. Ban quản lý di tích nên bố trí bàn ghi

công đức, đặt hòm công đức đúng quy định, khoa học, thuận tiện cho du

khách để hiện tượng thắp hương nhiều trong di tích, dâng lễ mặn, cài tiền vào

tay phật, đặt, rải, quăng ném tiền không đúng chỗ,… ngày càng giảm đi.

Trong những năm gần đây, công tác quản lý di tích đã được các ban

ngành, chính quyền địa phương và nhân dân quan tâm giữ gìn, kịp thời phát

hiện xử lý các hành vi xâm hại di tích, các hành vi mê tín dị đoan, đốt vàng

mã triền miên. Việc tuyên truyền nâng cao nhận thức của nhân dân về các

giá trị di sản văn hóa được chú trọng. Công tác kiểm tra được tăng cường

và có nhiều biện pháp xử lý kịp thời, góp phần thực hiện nghiêm Luật Di

sản văn hóa.

3.3.2.2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá hình ảnh cụm di tích;

đồng thời cần tôn vinh giá trị người đi biển

Cụm di tích Phấn Vũ chưa trở thành một điểm du lịch thu hút khách du

lịch. Vì thế địa phương cần tiến hành thường xuyên công tác tuyên truyền,

85

quảng cáo, xúc tiến du lịch, giới thiệu hình ảnh của địa phương, con người,

của cụm di tích với những nét độc đáo, đặc sắc và hấp dẫn để tạo ra sức thu

hút khách du lịch. Tuyên truyền và quảng cáo trên nhiều loại phương tiện

khác nhau, thông qua các hình thức nghe, nhìn, đọc và cảm quan. Ví dụ: Kiến

trúc, khuôn viên đền chùa được thể hiện bằng hình ảnh đẹp, sống động trên

các tờ gấp, đĩa CD, phim, ảnh trên truyền hình, trên mạng Internet… Lời văn

cổ động, súc tích và ấn tượng trên các trang báo, tạp chí, trên các cuốn sách

và các ấn phẩm khác. Hay giọng nói truyền cảm lúc trầm, lúc thanh thuyết

minh về cụm di tích trên Đài Phát thanh của xã, sẽ thu hút và kích thích nhu

cầu về du lịch của con người. Các món ăn, đồ uống được trưng bày trong tủ

kính, được trình diễn cách thức chế biến nơi đông người để cho du khách

được xem, được nếm thử (cảm quan) sẽ tạo ra những ấn tượng khó quên đối

với du khách. Chủ động phối hợp với các cơ quan thông tấn báo chí để xây

dựng tư liệu quảng bá cho cụm di tích như: Xây dựng chuyên trang đặc biệt

trên Website. Website giúp các thông tin du lịch, các sản phẩm và dịch vụ du

lịch đến với du khách một cách nhanh chóng mà không có giới hạn về thời

gian, không gian hay đối tượng.

Để thực hiện được điều này, rất cần sự tăng cường, quan tâm nhiều hơn

nữa của Bộ, của Sở Văn hóa, cùng sự đồng hành của các doanh nghiệp du

lịch, góp phần thu hút du khách, tạo ấn tượng đối với khách du lịch không chỉ

bằng những giá trị quý báu của cụm di tích, bằng phong tục tập quán đặc sắc

mà còn bằng chất lượng dịch vụ, sự thân thiện hiếu khách của người dân.

Bên cạnh đó, cần tích cực tuyên truyền, giáo dục cho người dân biết giá

trị lịch sử văn hóa, tôn vinh giá trị người đi biển bằng cách kể về sự tích Quan

Lớn Thống đã đánh giặc ngoại xâm, đánh đuổi hải tặc ra sao và tuyên truyền

về ý nghĩa của cụm di tích để nâng cao ý thức tự giác, khơi dậy lòng tự hào,

hướng người dân chủ động bảo tồn, gìn giữ cụm di tích. Ngoài việc phổ biến

86

các quy định, cần thiết phải giải thích và cụ thể hóa, thể chế hóa các quy định

chung của Nhà nước và của địa phương. Các văn bản hướng dẫn phải rõ ràng,

ngắn gọn, dễ hiểu để mọi người dân dễ dàng tiếp thu và tự giác chấp hành.

Ngoài ra, cần phải làm rõ và gắn lợi ích của người dân khi tham gia các hoạt

động bảo tồn; biểu dương, có chính sách, chế độ cho cá nhân, gia đình và tập

thể có công sức giữ gìn, trùng tu, tôn tạo di tích. Đây cũng là cách thức thu

hút đông đảo người dân tham gia gìn giữ cụm di tích. Trong điều kiện kinh tế

thị trường hiện nay, việc vận động, tuyên truyền để nâng cao ý thức tự giác của

người dân cần gắn với cuộc vận động xã hội hóa trong công tác bảo tồn. Chỉ khi

người dân có ý thức trong việc bảo tồn thì mọi khó khăn đều có thể được giải

quyết nhanh chóng và hiệu quả. Người dân sẽ không tiếc công sức, thời gian

mà họ còn có thể đóng góp tiền bạc, của cải để phục vụ cho các hoạt động bảo

tồn di tích.

3.3.2.3. Phải đảm bảo kinh phí cho hoạt động tôn tạo di tích

Việc giữ gìn, trùng tu, tôn tạo di tích và mở rộng lễ hội nhằm thu hút

khách tham quan cần số kinh phí không nhỏ. Vì thế, cần có kiến nghị với cấp

có thẩm quyền điều chỉnh về tài chính để có kinh phí cho các hoạt động này.

Hiện nay, kinh phí tu sửa, trùng tu, tôn tạo di tích hoàn toàn do nhân dân địa

phương tự nguyện đóng góp nên chính quyền địa phương cùng nhân dân rất

mong các cơ quan có trách nhiệm ở cấp tỉnh quan tâm, xem xét đầu tư kinh

phí cho việc bảo tồn, tôn tạo di tích, thực hiện phương châm “Trung ương và địa phương, Nhà nước và nhân dân cùng làm”19.

Ngoài ra, chính quyền xã cũng cần tích cực hơn trong kế hoạch kêu gọi

sự hỗ trợ tự nguyện của dân trong làng và con em xa xứ góp sức tạo nguồn để

19 Thông tư của Bộ văn hóa số 3011-VH/TT ngày 28 tháng 10 năm 1985 về phân cấp quản lý bảo quản và tu bổ di tích lịch sử và văn hóa

phục vụ cho việc gìn giữ cụm di tích, cùng xây dựng và phát triển làng xã.

87

3.3.2.4. Tổ chức mở rộng lễ hội

Lễ hội là cây cầu nối quá khứ với hiện tại, là nơi để người dân gửi gắm

những ước nguyện về cuộc sống và trên hết là giá trị văn hóa của cha ông truyền

lại tới hôm nay. Chính vì vậy, việc mở rộng tạo sự phong phú trong lễ hội tại

cụm di tích là điều vô cùng cần thiết. Điều đáng mừng là phần lễ vẫn được giữ

nguyên, tuy nhiên có phần giản lược hơn so với trước. Phần hội còn đơn giản, ít

trò chơi, trong khi đó một số trò chơi đã bị mai một như chèo bơi, vật truyền

thống. Xưa, các cụ đã tổng kết một câu để nói về sự thành công hay thất bại

của một lễ hội truyền thống: “Vui xem hát, nhạt xem bơi, tả tơi xem hội”. "Tả

tơi xem hội" nghĩa là người xem hội phải vui hết mức; không được như vậy

tức là hội nhạt. Vì thế, ngay ở trong cấu trúc của lễ hội, bên cạnh những lễ

nghi nghiêm ngặt, những trò diễn/diễn xướng thì bao giờ cũng có vô số những

trò vui khác (từ trò chơi dân gian, đến văn nghệ dân gian, đến thi đấu thể thao

và văn hóa ẩm thực). Nay, quan điểm ấy vẫn hoàn toàn đúng và nó còn trở

thành nguyên lý quan trọng nhất dẫn đến sự thành công toàn diện của một

lễ hội. Tuy nhiên, khách du lịch, đặc biệt là giới trẻ sẽ không thể thỏa mãn

nhu cầu của mình nếu lễ hội chỉ có những trò chơi dân gian hoặc chỉ có

những tiết mục văn nghệ, thể thao đơn giản. Vì thế, cần tổ chức nhiều trò

chơi hơn nữa, tạo sự phong phú, đa dạng trong lễ hội, chỉ có như thế mới

thu hút được đông đảo du khách tham gia.

Để làm được điều đó cần dựa vào truyền thuyết, văn hóa làng xưa

qua lời kể của các cụ ông, lão bà để nghiên cứu, chắt lọc nét đẹp của lễ hội

với trò chơi văn hóa truyền thống, có kế hoạch trước mắt và lâu dài để khôi

phục trò chơi dân gian kết hợp trò chơi hiện đại tạo sự phong phú của lễ

hội. Năm 2006, được sự giúp đỡ của trường Năng khiếu Thể dục thể thao

tỉnh Thái Bình, địa phương đã mở nhiều lớp năng khiếu vật cho thiếu niên

88

nhằm khôi phục lại môn vật cổ truyền. Vào dịp Tết, dịp hội đã mở các giải

vật giành cho lứa tuổi thanh thiếu niên, thu hút các đô vật từ trường năng

khiếu Thể dục thể thao Tỉnh và các lò vật từ huyện Vũ Thư, Tiền Hải về

tham gia thi đấu, được đông đảo người dân đồng tình hưởng ứng.

Việc tổ chức lễ hội không chỉ tập trung kinh phí, trí tuệ, nhân lực vào

công tác tuyên truyền, PR, tiếp thị, chạy tài trợ và quảng bá cho lễ hội trên

các phương tiện truyền thông đại chúng, trên internet mà còn cần có kiến

thức về lễ hội, có năng lực thẩm định nghệ thuật và tuân thủ quy trình của

khoa học tổ chức sự kiện (từ khâu nghiên cứu, đánh giá hiện trạng về tiềm

năng, thế mạnh, cơ hội, thách thức, những điểm yếu… đến việc thảo luận

để tìm ra ý tưởng độc đáo, đến khâu quản lý, điều hành và những kỹ năng

truyền thông). Mặt khác, phải chủ động trong công tác truyền thông, quảng

bá, tiếp thị để lễ hội được truyền bá rộng rãi và tăng cường khả năng thu

hút tài lực từ các nguồn khác nhau.

3.3.2.5. Tổ chức phục vụ khách tham quan cụm di tích

Để có được lượng khách đông đảo đến tham quan và tìm hiểu về cụm

di tích, chính quyền địa phương và Ban quản lý đã có các hoạt động trùng tu,

tôn tạo di tích lịch sử, tuyên truyền cho nhân dân địa phương hiểu rõ giá trị

lịch sử, nghệ thuật của các di tích, đồng thời cùng ngành chức năng giữ gìn và

bảo vệ các di tích. Tại các điểm di tích, cũng đã thực hiện tốt công tác vệ sinh,

chăm sóc cây xanh, phục vụ chu đáo khách tham quan. Tuy nhiên, cụm di tích

thiên về du lịch tâm linh, chủ yếu là người dân địa phương và những người

con xa quê trở về để cúng bái, cầu khấn. Vì vậy, cần xây dựng kế hoạch quản

lý, khai thác sử dụng hiệu quả sản phẩm du lịch gắn với đầu tư xây dựng nơi

lưu trú đạt tiêu chuẩn để thu hút các nguồn khách khác nhau. Đồng thời, chú

trọng đào tạo đội ngũ làm công tác du lịch có phong cách chuyên nghiệp, có

kiến thức lịch sử, văn hóa, giao tiếp. Người trông coi tại cụm di tích cần hiểu

89

biết hơn nữa về cụm di tích. Tổ chức các chương trình vui chơi, giải trí lành

mạnh gắn với giới thiệu, quảng bá hình ảnh, giá trị cụm di tích.

Tại các điểm tham quan này, ngoài việc tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa,

giá trị thẩm mỹ của cụm di tích, cần để du khách trải nghiệm, tìm hiểu về văn

hóa của cộng đồng ngư dân ven biển thông qua các hình thức tham quan độc

đáo, mới lạ, hấp dẫn như chèo thuyền, nghe hát chèo, nghe hò và thưởng thức

đặc sản của nơi đây: Canh don, canh cá khoai, gỏi nhệch… Đồng thời cần

thiết kế các tour du lịch như: Bắt đầu tham quan từ cụm di tích đến biển Thụy

Xuân, đến cồn Đen (thuộc xã Thái Đô, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, cách

Thị trấn Diêm Điền 15 km về phía Nam, nằm trong khu vực dự trữ sinh quyển

châu thổ sông Hồng, đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển

thế giới ngày 2/12/2004. Đến nay khung cảnh tự nhiên trên cồn vẫn hoang sơ,

với vùng cảnh quan trải dài bao gồm các bãi cát mịn và khu vực nuôi ngao).

Hoặc gắn kết các tour du lịch biển với các điểm du lịch sinh thái, văn hóa,

làng nghề để tăng số lượng khách đến tham quan. Ngoài ra, có thể thiết kế

tour tham quan các đền chùa: Bắt đầu từ đền chùa Phấn Vũ đến đền Chòi hay

còn gọi là đền Dinh, đền Tam Toà (xã Thụy Trường, huyện Thái Thụy, tỉnh

Thái Bình) được biết đến là chốn linh thiêng, có rất nhiều du khách trong và

ngoài tỉnh ghé thăm. Tiếp đó, đến đình An Cố (một trong 3 ngôi đình cổ kính

nhất ở các huyện ven biển duyên hải Bắc bộ, thuộc xã Thụy An, huyện Thái

Thụy, tỉnh Thái Bình).

3.3.2.6. Xây dựng và hoàn thiện các thiết chế văn hóa cơ sở, cùng chung tay

xây dựng "Làng văn hóa"

Thiết chế văn hóa là một trong những yếu tố quan trọng góp phần thúc

đẩy phong trào văn hóa phát triển. Hiện nay, làng Phấn Vũ đã xây dựng nhà

văn hóa - nơi quy tụ những hoạt động văn hóa và tinh thần đoàn kết trong thời

hiện đại của làng, nơi hội họp, truyền tải, phổ biến chủ trương, đường lối,

90

nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tới nhân dân. Qua

đó, người dân không chỉ được tham gia sinh hoạt, hưởng thụ văn hóa, mà còn

nắm bắt được các kiến thức, thông tin kinh tế - xã hội của địa phương; hình

thành các phong trào thi đua sôi nổi. Tuy nhiên, phải đầu tư hơn nữa vào việc

nâng cấp cơ sở vật chất cùng với việc tổ chức các đội văn nghệ, các hội,

các câu lạc bộ, cùng trưng cầu dân ý các vấn đề về xã hôi, các biện pháp

bảo vệ di tích, cùng nhau xây dựng làng văn hóa, góp phần tích cực hoàn

thành tiêu chí 16 - tiêu chí về văn hóa trong 19 tiêu chí xây dựng nông thôn

mới tại địa phương.

Để làm tốt những giải pháp trên, các cấp, các ban ngành, đặc biệt là Sở

Văn hóa Thể thao và Du lịch cần chú trọng quan tâm hơn nữa đến cụm di

tích. Bên cạnh đó, vấn đề then chốt là cần nâng cao nhận thức, ý thức tự giác

lưu giữ giá trị di tích của mỗi người dân. Người dân địa phương đóng một vai

trò rất quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di tích. Họ là kho tàng

“văn hóa dân gian”, là nơi lưu giữ lại những lễ hội truyền thống đặc trưng, là

phần hồn, cái ẩn sau kiến trúc để tăng thêm phần hấp dẫn của đền chùa Phấn

Vũ. Vì vậy các cơ quan quản lí cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo

dục ý thức người dân, có chính sách đúng đắn, hợp lòng dân, được toàn dân

và các cấp, các ngành tham gia, hưởng ứng. Khi hội tụ đủ sức mạnh tổng hợp

ấy công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa sẽ đạt được nhiều thành tựu mới,

góp phần nâng cao đời sống văn hóa nhân dân, cùng nhau xây dựng làng văn

hóa, phấn đấu đạt được 19 tiêu chí về xây dựng nông thôn mới hiện nay.

91

Tiểu kết

Theo dòng chảy của thời gian, đền, chùa làng Phấn Vũ đã bị xuống cấp.

Với sự nỗ lực đóng góp của người dân, cụm di tích đã được trùng tu, tôn tạo

nhiều lần. Cụm di tích là nơi diễn ra các sinh hoạt lễ hội truyền thống, là môi

trường nuôi dưỡng nếp sống đạo đức, văn hóa tốt đẹp của địa phương. Hàng

năm vào những ngày mồng một, ngày rằm, ngày lễ hội, nhân dân trong xã và

khách thập phương đều về đền Mẫu, đền Quan Lớn Thống, chùa Phấn Vũ

thắp nén nhang tưởng nhớ, đi lễ, thăm quan cảnh đẹp của xã. Nhưng lễ hội

chưa thực sự phong phú để thu hút đông đảo lượng khách đến tham quan. Để

duy trì và bảo tồn được những nét tốt đẹp, lành mạnh trong lễ hội và khắc

phục, bài trừ những hành động có xu hướng lợi dụng sinh hoạt tín ngưỡng tôn

giáo cần có sự định hướng và quản lý của chính quyền địa phương. Do vậy,

rất mong các cơ quan ban ngành hữu trách quan tâm đầu tư hơn nữa cả về

kinh phí lẫn vấn đề tổ chức lễ hội, tổ chức phục vụ khách tham quan để cụm

di tích được nhiều người biết đến, để truyền thống văn hóa không bị mai một

theo thời gian.

Bên cạnh đó, cần có định hướng và quản lý đối với các hoạt động tín

ngưỡng tôn giáo, tạo sự thúc đẩy cho phát triển kinh tế - xã hội nhưng vẫn

đảm bảo được quyền tự do tín ngưỡng của mỗi người dân theo chính sách của

Đảng và Nhà nước. Từ sự quan tâm của các cấp chính quyền dành cho cụm di

tích sẽ góp phần giáo dục cho nhân dân làng Phấn Vũ nói riêng, xã Thụy

Xuân nói chung truyền thống đoàn kết một lòng xây dựng quê hương đất

nước giàu mạnh, cùng nuôi dưỡng và phát huy truyền thống "Uống nước nhớ

nguồn", cùng phát huy những chuẩn mực đạo đức, truyền đạt và tác động trực

tiếp đến nhận thức của thế hệ trẻ. Từ đó, nâng cao dân trí, ý thức tự giác trong

việc bảo vệ, giữ gìn các di tích lịch sử văn hóa trên quê hương giàu truyền

thống cách mạng.

92

KẾT LUẬN

Làng Phấn Vũ thuộc xã Thụy Xuân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

có vị trí địa lý thuận lợi và điều kiện tự nhiên khá phong phú. Vì vậy, người

Việt sớm chọn nơi đây để lập làng lập xóm, sinh cơ lập nghiệp. Không chỉ

mang sắc thái của vùng đồng bằng Bắc Bộ, nơi đây còn chứa đựng cả những

yếu tố biển, là nền tảng xây dựng nên một truyền thống văn hóa đa dạng,

phong phú nhưng cũng rất thống nhất. Đó chính là sự quy tụ của nền văn hóa

dân tộc, trong đó văn hóa làng với đền - chùa - đình làng là một điển hình.

Đền, chùa, đình làng cùng cây đa, bến nước mang biểu tượng của thôn

quê Việt Nam luôn gắn bó mật thiết với người dân và tồn tại cùng thăng trầm

lịch sử của quê hương, đất nước. Cụm di tích đền chùa làng Phấn Vũ được

hình thành và đồng hành tồn tại với quá trình lập đất, giữ làng, chứa đựng

trong đó nhiều giá trị văn hóa cổ truyền, được hun đúc, chắt lọc bởi tâm hồn

ông cha, biểu hiện tinh hoa trí tuệ, tài năng qua từng thế hệ, đồng thời gửi

gắm vào đó những tình cảm thiết tha, sâu nặng với quê hương, làng xóm. Đây

chính là nơi sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh, nơi tưởng niệm các vị

nhân thần, nhiên thần – những người có công với dân, với nước, được dân

làng tôn thờ làm thành hoàng bản cảnh với lòng tôn kính, ngưỡng mộ. Cụm di

tích là nơi linh thiêng nhưng cũng rất gần gũi với con người. Trong dịp lễ hội,

các trò chơi dân gian được tổ chức, mọi người háo hức, sôi nổi tham gia cùng

tiếng hò reo cổ vũ. Đó là điều kiện để cư dân trong và ngoài địa bàn giao lưu

cộng cảm, cùng tìm hiểu về văn hóa, phong tục của mỗi làng, mỗi thôn, mỗi

địa phương. Những nét đẹp của lễ hội đã tạo nên sức hấp dẫn, cuốn hút mỗi

người vào lối sống lành mạnh, đặc biệt đối với lớp trẻ, với thế hệ tương lai.

Sức mạnh của nền văn hóa truyền thống như một liều kháng giúp họ vượt qua

những cám dỗ từ những mặt trái của xã hội.

93

Cụm di tích còn mang những giá trị đặc sắc của một miền quê biển và

gắn liền với sự nghiệp cách mạng giải phóng quê hương, trở thành niềm tự

hào về truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Thụy Xuân khi cụm

di tích là nơi ghi dấu ấn hoạt động của Ban Chấp hành Tỉnh bộ thanh niên

Thái Bình, của Chi bộ Đảng Phấn Vũ cũng như quá trình hoạt động của 37

thanh niên yêu nước người làng Phấn Vũ đã được Đảng, Nhà nước công nhận

là lão thành cách mạng, được Đảng bộ huyện Thái Thụy khẳng định làng

Phấn Vũ là cái nôi cách mạng của huyện Thụy Anh giai đoạn 1927-1945.

Cụm di tích còn là địa điểm minh chứng cho tinh thần chiến đấu anh dũng,

kiên cường của quân và dân xã Thụy Xuân trong trường kì kháng chiến chống

thực dân Pháp và Mỹ.

Về kiến trúc và điêu khắc, cụm di tích mang nét chung theo lối kiến

trúc điêu khắc của người Việt, đặc biệt là ảnh hưởng của văn hóa vùng đồng

bằng Bắc Bộ như cách chọn đất dựng đền, chùa theo thuật phong thủy, cách

trang trí theo các bộ Tứ linh, Tứ quý,... Chùa, đình, đền,… được dựng lên bởi

các vì kèo, được kết nối với nhau bởi các thanh xà, thanh hoành chắc chắn.

Tùy theo điều kiện mà các công trình được xây dựng với quy mô khác nhau

nhưng đều thể hiện nét kiến trúc tinh tế, độc đáo và gần gũi với tự nhiên và

con người làng Phấn Vũ.

Hiện nay, di tích đã được trùng tu, tôn tạo, xây dựng khuôn viên khá

đẹp. Nhưng di tích luôn cần được gìn giữ, bảo tồn và phát huy giá trị. Cần

tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân về giá trị của cụm di tích, vai trò của

cụm di tích đối với không gian làng Phấn Vũ và ngược lại. Lễ hội cần được

nâng cấp, mở rộng, kết hợp giữa yếu tố tâm linh và các trò chơi đua tài, giải

trí, có kế hoạch khôi phục lại những trò chơi truyền thống để thu hút du

khách, đáp ứng nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá vật chất

và tinh thần của mọi tầng lớp dân cư. Cần tăng cường công tác nghiên cứu

94

khoa học, lập hồ sơ lưu giữ, quản lý di tích, đảm bảo các thông tin đầy đủ

nhằm phục vụ cho công tác nghiên cứu và học tập. Đồng thời, cùng chung tay

bài trừ những hủ tục lạc hậu, tệ nạn mê tín dị đoan, biết chọn lọc, kế thừa,

sáng tạo những giá trị văn hóa mới trên cơ sở trân trọng, chắt chiu những tinh

hoa văn hóa của cha ông, cùng nhau xây dựng làng văn hóa, nếp sống văn

hóa, phấn đấu hoàn thành tiêu chí 16 (tiêu chí về Văn hóa) và đạt được 19 tiêu

chí Nông thôn mới của toàn xã Thụy Xuân hiện nay, góp phần xây dựng nền

văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Từ những giá trị khoa học, thẩm mỹ, kiến trúc nghệ thuật, văn hóa dân

gian và lịch sử cách mạng đã được Ban quản lý di tích tỉnh Thái Bình nghiên

cứu thiết lập hồ sơ, cùng với sự giúp đỡ của các cơ quan có thẩm quyền, ngày

10/10/2012 Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Bình đã xếp hạng cụm di tích đền chùa

làng Phấn vũ là Di tích lịch sử văn hóa cấp Tỉnh. Đây là niềm vinh dự, tự hào

của nhân dân xã Thụy Xuân nói chung, người dân Phấn Vũ nói riêng, là lời

khẳng định giá trị trường tồn của văn hóa truyền thống, những tài sản vô giá

mà ông cha ta để lại cho đời đời con cháu; đó cũng là lời nhắc nhở mỗi thế hệ

phải biết trân trọng giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa Việt trong sự nghiệp

xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp văn minh, xây dựng Thụy Xuân phát

triển toàn diện.

95

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Văn An (2011), Ghe bầu trong đời sống văn hóa ở Hội An - Quảng

Nam, Nhà xuất bản dân trí.

2. Nguyễn Quang Ân – Phạm Minh Đức (2010), Địa chí Thái Bình, Nhà xuất

bản Văn hóa thông tin, Thái Bình

3. Ban quản lý di tích tỉnh Thái Bình (2012), Báo cáo điều tra giá trị lịch sử

đền, chùa làng Phấn Vũ.

4. Ban quản lý di tích tỉnh Thái Bình (2012), Bản vẽ kiến trúc di tích đền,

chùa làng Phấn Vũ.

5. Ban quản lý di tích tỉnh Thái Bình (2012), Lý lịch di tích đền, chùa làng

Phấn Vũ, thôn Minh Vũ, xã Thụy Xuân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

6. Ban quản lý di tích tỉnh Thái Bình (2012), Tập ảnh khảo tả di tích đền,

chùa làng Phấn Vũ.

7. Gia Bảo (2009), Văn hóa Chùa - đi chùa lễ Phật, Nhà xuất bản Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

8. Trần Lâm Biền (1996), Chùa Việt, Nhà xuất bản thông tin, Hà Nội

9. Trần Lâm Biền (2003), Đồ thờ trong di tích của người Việt, Nhà xuất bản

Văn hoá thông tin, Hà Nội.

10. Vũ Thế Bình (2010), Non nước Việt Nam, Nhà xuất bản Tổng cục Du lịch

- Trung tâm thông tin du lịch.

11. Nguyễn Thị Phương Châm (2009), Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện

nay, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, Hà Nội.

12. Đoàn Văn Chúc (1997), Văn hoá học, Viện Văn hoá, Nhà xuất bản Văn

hoá thông tin, Hà Nội.

13. Ngô Thị Kim Doan (2004), 250 đình chùa nổi tiếng Việt Nam, Nhà xuất

bản Văn hóa thông tin, Hà Nội.

96

14. Phan Đại Doãn (2004), Mấy vấn đề về văn hóa làng xã Việt Nam trong

lịch sử, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

15. Nguyễn Đăng Duy (2001), Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam,

Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, Hà Nội.

16. Nguyễn Đăng Duy (2001), Văn hóa tâm linh, Nhà xuất bản Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

17. Bùi Xuân Đính (1985), Lệ làng phép nước, Nhà xuất bản pháp lý, Hà Nội.

18. Lê Cao Đoàn (1999), Đổi mới và phát triển vùng kinh tế ven biển, Nhà

xuất bản Chính trị Quốc gia.

19. Phạm Minh Đức, Bùi Duy Lan (2010), Đất và người Thái Bình, Nhà xuất

bản Văn hóa thông tin, Hà Nội.

20. Phạm Minh Đức (2014), Những làng văn hóa văn nghệ dân gian đặc sắc

Thái Bình, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, Hà Nội.

21. Hoàng Quốc Hải (2001), Văn hóa phong tục, Nhà xuất bản Văn hóa

Thông tin, Hà Nội.

22. Mai Thanh Hải (2004), Địa chí tôn giáo – lễ hội Việt Nam, Nhà xuất bản

Văn hóa thông tin, Hà Nội.

23. Mai Thanh Hải (2005), Tìm hiểu tín ngưỡng truyền thống Việt Nam, Nhà

xuất bản Văn hóa thông tin, Hà Nội.

24. Nguyễn Duy Hinh (1996), Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam, Nhà xuất

bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

25. Nguyễn Duy Hinh (1997), Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, Nhà xuất bản

Khoa học xã hội, Hà Nội.

26. Hồ Hoàng Hoa (1998), Lễ hội - Một nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng

đồng, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

27. Lê Như Hoa (2001), Tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam, Nhà xuất bản Văn

hóa Thông tin Hà Nội.

97

28. Tô Duy Hợp (chủ biên) (2003), Định hướng phát triển làng - xã đồng

bằng sông Hồng ngày nay, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

29. Vũ Ngọc Khánh (1994), Tín ngưỡng làng xã, Nhà xuất bản Văn hóa dân

tộc, Hà Nội.

30. Vũ Ngọc Khánh (2002), Thành hoàng làng Việt Nam, Nhà xuất bản

Thanh niên, Hà Nội.

31. Luật di sản văn hóa năm 2001 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Nhà xuất bản

chính trị Quốc gia.

32. Lịch sử Đảng bộ huyện Thái Thụy (1927 - 2005), Nhà xuất bản chính trị

Quốc gia Hà Nội, 2000.

33. Lịch sử Đảng bộ xã Thụy Xuân (1927 -1975), Ban chấp hành Đảng bộ xã

Thụy Xuân, 1998.

34. Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Thụy Xuân (1927 - 2014), Nhà xuất bản

thời đại, 2014.

35. Trần Hồng Liên (2004), Cộng đồng ngư dân Việt ở Nam Bộ, Nhà xuất bản

Khoa học xã hội, Hà Nội.

36. Đặng Văn Lung (2004), Văn hóa thánh Mẫu, Nhà xuất bản Văn hóa -

Thông tin.

37. Hoàng Lương (2002), Lễ hội truyền thống của các dân tộc Việt Nam khu

vực phía Bắc, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội

38. Nguyễn Đức Lữ (2005), Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt

Nam, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.

39. Đỗ Hoài Nam (2003), Phát triển kinh tế, xã hội và môi trường các tỉnh

ven biển Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

40. Lê Hữu Nghĩa, Nguyễn Đức Lữ (chủ biên) (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh

về tôn giáo và công tác tôn giáo, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.

98

41. Nhiều tác giả (1999), Phong tục tập quán các dân tộc Việt Nam, Nhà xuất

bản Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

42. Phan Ngọc (2004), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hóa

Thông tin, Hà Nội.

43. Nguyễn Thu Phương (2005), Trang phục Việt Nam từ truyền thống đến

hiện đại, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội.

44. Nguyễn Minh San (1999), Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam, Nhà

xuất bản Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

45. Đặng Kim Sơn - Hoàng Thu Hòa (2002), Một số vấn đề về phát triển

nông nghiệp và nông thôn, Nhà xuất bản Thống kê.

46. Hà Văn Tấn (2009), Chùa Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội.

47. Nguyễn Chí Tình (2009), Văn hóa và thời đại, Nhà xuất bản Khoa học xã

hội, Hà Nội.

48. Nguyễn Thanh (1998), Nhận diện văn hóa làng Thái Bình, Sở Văn hóa

Thông tin và Thể thao Thái Bình.

49. Nhất Thanh - Vũ Văn Khiếu (2005), Phong tục làng xóm Việt Nam, Nhà

xuất bản phương Đông, TP. Hồ Chí Minh.

50. Phạm Ninh Thảo, Trần Thị An, Bùi Xuân Mỹ (1997), Thành hoàng Việt

Nam, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

51. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản

Thành phố Hồ Chí Minh.

52. Trần Ngọc Thêm (2005), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục.

53. Trương Thìn (2007), Nghi lễ thờ cúng tổ tiên, đền chùa, miếu phủ, Nhà

xuất bản Hà Nội.

54. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2000), Văn hoá dân gian làng ven biển, Nhà

xuất bản Văn hoá Dân tộc, Hà Nội.

99

55. Ngô Đức Thịnh (2001), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam,

Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

56. Ngô Đức Thịnh (2003), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam,

Nhà xuất bản Trẻ.

57. Hồ Đức Thọ (2005), Nghi lễ thờ cúng truyền thống của người Việt tại nhà

và chùa, đình, đền, miếu, phủ, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

58. Nguyễn Tài Thư (1997), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối

với con người Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

59. Trần Mạnh Thường (1999), Đình chùa lăng tẩm nổi tiếng Việt Nam, Nhà

xuất bản Văn hóa – thông tin, Hà Nội.

60. Thùy Trang (2009), Văn hóa làng xã: Tín ngưỡng, tục lệ và hội làng, Nhà

xuất bản Thời đại.

61. Nguyễn Viết Trung - Nguyễn Xuân Phong (2012), Nghề biển truyền thống

ở một số tỉnh ven biển Việt Nam, Nhà xuất bản Thanh niên.

62. Chu Quang Trứ (2001), Sáng giá chùa xưa - mỹ thuật Phật giáo, Nhà xuất

bản mỹ thuật, Hà Nội.

63. Nguyễn Quốc Tuấn (2001), Tín ngưỡng và mê tín, Nhà xuất bản Thanh

niên, Hà Nội.

64. Võ Văn Tường (2007), Chùa Việt Nam xưa và nay, Nhà xuất bản Giáo

dục, Hà Nội.

65. Lê Thế Vịnh - Nguyễn Hoài Sơn (sưu tầm, 2011), Phong tục, tín ngưỡng

dân gian làng biển Đông Tác, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc.

66. Lưu Trung Vũ, Nguyễn Hồng Dương (1997), Lịch lễ hội, Nhà xuất bản

Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

67. Bùi Văn Vượng (2005), Văn hóa Việt Nam, tìm hiểu và suy ngẫm, Nhà

xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

100

PHỤ LỤC

1

PHỤ LỤC 1

CHÚC VĂN, BẢN ĐỒ VÀ MỘT VÀI SỐ LIỆU

THỐNG KÊ

2

1. Chúc văn

''Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quốc.

Tuế thứ.... niên, thất nguyệt, sơ thập nhật...thời.

Chúng con đoàn tế nữ quan cùng toàn dân nam phụ lão ấu: Ngụ cư tại Thái

Bình tỉnh, Thái Thụy huyện, Thụy Xuân xã, Vạn Xuân thôn.

Chủ tế con.... cùng đoàn tế chúng con trước án tiền một lễ kính dâng.

Hương 3 nén khói thơm ngào ngạt.

Quả năm màu đặt trước mâm son.

Cúc cung rượu hiến 3 lần.

Trầu cách phượng cau vừa tới hạt.

Lễ vật thành tâm chi nghi đẳng vật.

Dâng lên ngài thượng đẳng tối linh.

Nhớ xưa Thánh liệt tướng trung quân, đức độ tam quan rực rỡ. Tài năng chí

khí tiêu tinh, văn võ thần thông a-Thánh! Lập chiến công xưa hiển hách một

thời uy danh bốn cõi. Ơn sâu thấm gợi muôn thuở còn ghi, sử sách ghi lại

ngàn năm thắm đẹp.

Nhân ngày lễ cuối hạ sang thu khách thập phương về lễ hội đông vui, chúng

con xin bày tỏ đôi lời chân thành bái thỉnh.

Cung thỉnh Nam Hải Đại Vương liệt vị tiền...

Cung thỉnh Đế Thích Đại Vương liệt vị tiền...

Cung thỉnh Tứ vị Hồng Nương liệt vị tiền....

Bản xứ Thành Hoàng;Thần linh; Thổ địa liệt vị tiền....

Kính thỉnh chư tiền linh các họ tùng vị hậu vị, tòng tư vị, các anh hùng lịêt sĩ

đã hy sinh vì nước vì dân, các văn võ tao lưu đồng cộng hưởng...

Cuối xin người cao minh chứng giám xá cho những điều khiếm khuyết, che

chở trợ phù cho lão già, an nhi ích tráng, trẻ ấu thơ chăm học chăm làm, nam

nữ thanh niên khoẻ sức hùng cường.

3

Trai thời việc nước việc nhà hiếu trung trọn vẹn.

Gái thời trung hậu đảm đang, câu tiết hạnh như tấm gương từ Mẫu.

Trật tự tôn ty kỷ cương gìn giữ, đạo lý nhân tâm trên thuận dưới hoà, mặt trận

đoàn kết chung ý chí....

Tứ thời bái tiết.

Mưa thuận gió lành.

Cây cối quanh năm xanh cành tốt lá, nẩy lộc đâm chồi sai hoa kết quả. Cầu

xin Người: các nghề nông , ngư, diêm, thương nghiệp tăng năng xuất bội thu,

gia súc gia cầm đông đàn thêm lứa, cảnh vật phong quang trong thôn xã dựng

lên những công trình trọng đại.

Dân ấm no nhà cửa khang trang tầng thấp tầng cao, nông thôn đổi mới, điện

sáng lung linh toả khắp xóm làng.

Thực tế: Ơn Người hạnh phúc vinh quang, tiếng hát xênh sang nghiêng đường

trong cõi thọ.

Dồi dào phúc lộc thơ tứ nguyệt ca.

Trước thánh đường chúng con khăn áo cuối đầu làm lễ tế lên Thánh Mẫu.''

4

2. Bản đồ hành chính

2.1. Bản đồ hành chính tỉnh Thái Bình

(Nguồn: Thư viện khoa học tổng hợp tỉnh Thái Bình)

2.2. Bản đồ hành chính xã Thụy Xuân, huyện Thái Thụy

(Nguồn: Cổng thông tin điện tử huyện Thái Thụy)

5

3. Một vài số liệu thống kê

Bảng 1.1. Hiện trạng đường chính của các Thôn

STT

Tên Thôn

Chiều dài

Mặt đường

Loại đường

(m)

(m)

Vạn Xuân Nam- Vạn Xuân Đông

2.5 -3.0

Bê tông

800

1

Bình Xuân-Bình An

2.5 -3.0

Bê tông

1080

2

Minh Vũ

2.5 -3.0

Bê tông

270

3

Vũ Đông – Vạn Xuân Nam

3,5 - 4,0

Đất

1300

4

Trạm xá - Bình An

5

Bê tông

440

5

3890

Tổng

(Nguồn: Báo cáo thực trạng kết quả xây dựng nông thôn mới của xã Thụy Xuân năm 2013)

Bảng 1.2. Hiện trạng nhà văn hoá các Thôn

STT

Thôn

Năm xây dựng Diện tích (m2)

Hiện trạng

Thôn Bình xuân

1

2007

263

Tốt

Thôn Bình An

2

2007

1466

Tốt

Thôn Vạn Xuân Nam

3

2010

848

Tốt

Thôn Vạn Xuân Đông

4

2011

382

Tốt

5

Thôn Phấn Vũ Nam

2009

768

Tốt

Thôn Minh Vũ

6

2007

572

Tốt

Thôn Vũ Đông

7

2010

669

Tốt

Thôn Xuân Bàng

8

2007

397

Tốt

(Nguồn: Báo cáo thực trạng kết quả xây dựng nông thôn mới của xã Thụy Xuân năm 2013)

6

Bảng 1.3. Giao thông trục chính của xã

TT

Tuyến

Ký hiệu Chiều

Mặt

Nền

Loại

dài

đường

đường

đường

Từ Thụy Hải –Thụy Trường

TX1

3.5

15

Đá Nhựa

2.25

1

Từ Cầu Hồ – Chợ Bàng

0.98

3

6

Đá Nhựa

TX2

2

Từ Nhà VH -Thụy Trường

0.63

3

6

Đá Nhựa

TX3

3

Tổng

3.86

(Nguồn: Báo cáo thực trạng kết quả xây dựng nông thôn mới của xã Thụy Xuân năm 2013)

Bảng 1.4. Hệ thống trạm biến áp của xã

STT

Tên trạm

Công suất

Vị trí

Đánh giá

(Kw)

TBA1 (Bình Xuân )

Thôn Bình Xuân

Tốt

100

1

TBA2 (Bình An)

Thôn Bình An

Tốt

100

2

TBA3 (Vạn Xuân Đông)

Thôn Vạn Xuân Đông

Tốt

320

3

TBA4 (Vạn Xuân Đông)

Thôn Vạn Xuân Đông

Tốt

320

4

TBA5 (Vũ Đông)

Thôn Vũ Đông

Tốt

200

5

TBA6 (Vũ Đông)

Thôn Vũ Đông

Tốt

200

6

Tốt

Cộng

420

7

(Nguồn: Báo cáo thực trạng kết quả xây dựng nông thôn mới của xã Thụy Xuân năm 2013)

7

Bảng 3.1. Các thành viên trong Ban Khánh tiết

Nguyễn Văn Sang Thôn Minh Vũ Trưởng ban 1

Lê Xuân Ruối Thôn Minh Vũ Phó ban 2

Nguyễn Thị Tuyết Thôn Xuân Bàng Phó ban 3

Vũ Văn Tép Thôn Minh Vũ Ủy viên 4

Lâm Văn Mãi Thôn Minh Vũ Ủy viên 5

Nguyễn Thị Hòa Thôn Minh Vũ Ủy viên 6

Lê Thị Bông Thôn Minh Vũ Ủy viên 7

Nguyễn Văn Toàn Thôn Minh Vũ Ủy viên 8

Nguyễn Thị Tuyến Thôn Minh Vũ Ủy viên 9

Lê Bá Nhượng Thôn Phấn Vũ Nam Ủy viên 10

Nguyễn Văn Hùng Thôn Phấn Vũ Nam Ủy viên 11

Lê Bá Sơn Thôn Phấn Vũ Nam Ủy viên 12

Lê Thị Dung Thôn Phấn Vũ Nam Ủy viên 13

Lâm Thị Kỳ Thôn Vũ Đông Ủy viên 14

Vũ Thị Ân Thôn Vũ Đông Ủy viên 15

Nguyễn Thị Nhài Thôn Vũ Đông Ủy viên 16

Phạm Ngọc Cẩn Thôn Vũ Đông Ủy viên 17

Hà Thị My Thôn Xuân Bàng Ủy viên 18

Lê Thị Thanh Thôn Xuân Bàng Ủy viên 19

(Nguồn: Quyết định thành lập ban khánh tiết di tích lịch sử đền,chùa làng Phấn Vũ của Uỷ

ban nhân dân xã Thụy Xuân 27/11/2012)

Hà Văn Chấn Thôn Minh Vũ Ủy viên 20

8

Bảng 3.2. Các thành viên trong Ban Quản lý

Lê Xuân Hưng Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân Trưởng 1

ban

Nguyễn Văn Hiến Công chức Văn hóa - xã hội Phó ban 2

Phạm Hồng Năng Trưởng Ban công tác Mặt trận Phó ban 3

khu dân cư thôn Minh Vũ

Nguyễn Văn Sang Đại diện dân làng Phấn Vũ Phó ban 4

5 Nguyễn Quốc Vương Trưởng thôn Minh Vũ Ủy viên

Lê Mạnh Thắng Trưởng Ban công tác Mặt trận Ủy viên 6

khu dân cư thôn Phấn Vũ Nam

Hà Hồng Dương Trưởng thôn Phấn Vũ Nam Ủy viên 7

Trịnh Quang Dũng Trưởng Ban công tác Mặt trận Ủy viên 8

khu dân cư thôn Vũ Đông

Nguyễn Thị Mọn Trưởng thôn Vũ Đông Ủy viên 9

Nguyễn Đắc Sang Trưởng Ban công tác Mặt trận Ủy viên 10

khu dân cư thôn Xuân Bàng

11 Nguyễn Hồng Huynh Trưởng thôn Xuân Bàng Ủy viên

Lê Xuân Ruối Đại diện dân làng Phấn Vũ Ủy viên 12

Lâm Văn Mãi Đại diện dân làng Phấn Vũ Ủy viên 13

Nguyễn thị Tuyết Đại diện dân làng Phấn Vũ Ủy viên 14

(Nguồn: Quyết định thành lập ban quản lý di tích lịch sử đền,chùa làng Phấn Vũ của Uỷ

ban nhân dân xã Thụy Xuân ngày 26/11/2012)

Lâm Thị Kỳ Đại diện dân làng Phấn Vũ Ủy viên 15

9

PHỤ LỤC 2

BẢN DỊCH 12 SẮC PHONG TẠI DI TÍCH

10

6 bản dịch sắc phong đức Nam Hải Đại Càn Thánh Mẫu

(Người dịch: Hà Văn Phú - cán bộ phiên dịch tư liệu Hán Nôm

của Ban quản lý Di tích tỉnh Thái Bình)

1. Vua Cảnh Hưng phong: ''Đại càn Quốc gia Nam hải thần chiêu'' năm

1783, tứ thập tứ niên, ngũ nguyệt thập lục nhật (có nghĩa: Niên hiệu Cảnh

Hưng năm thứ 44, tháng 5, ngày 16).

2. Vua Quang Trung phong: ''Đại càn Quốc Gia Nam Hải thần chiêu" năm

1792, Quang Trung ngũ niên, thất nguyệt sơ nhị nhật (có nghĩa: Niên hiệu

Quang Trung năm thứ 5, tháng 7, ngày mùng 2).

3. Vua Tự Đức phong: ''Đại càn Quốc Gia Nam hải tứ vị tôn thần'' năm 1853,

Tự Đức lục niên Thập nguyệt, nhị thập tam nhật (có nghĩa: Niên hiệu Tự Đức

năm thứ 6, tháng 10, ngày 23).

4. Vua Tự Đức phong: ''Đại càn Quốc Gia Nam hải, tứ vị thượng đẳng thần''

năm 1880, Tự Đức tam thập tam niên, thập nhất nguyệt nhị thập tứ nhật (có

nghĩa: Niên hiệu Tự Đức năm thứ 33 tháng 11 ngày 24).

5. Vua Đồng Khánh phong: ''Đại Càn Quốc Gia Nam hải, tứ vị thượng đẳng

thần'' năm 1887, Đồng Khánh nhị niên, thất nguyệt sơ nhất nhật (có nghĩa:

Niên hiệu Đồng Khánh năm thứ 2, tháng 7, ngày mùng 1).

6. Vua Duy Tân phong: ''Trung Hưng Đại càn quốc gia Nam Hải tứ vị thượng

đẳng thần'' năm 1909, Duy Tân tam niên bát nguyệt thập nhất nhật (có nghĩa:

6 bản dịch sắc phong thành hoàng, quan bản thổ làng Phấn Vũ

(Người dịch: Hà Văn Phú - cán bộ phiên dịch tư liệu Hán Nôm của Ban quản lý Di tích

tỉnh Thái Bình)

Niên hiệu Duy Tân năm thứ 3, tháng 8, ngày 11).

1. Vua Tự Đức phong cho quan bản thổ xã Minh Vũ: "Sắc chỉ Nam Định tỉnh

Thụy Anh huyện Minh Vũ xã Trung Tiền Phung Sự Bảo Hộ", “Quảng Thi Bác

11

Huệ Đôn Ngưng Bản Thổ Chi Thần Tiết kinh ban cấp”, năm 1880, Tự Đức

tam thập tam niên, thập nhất nguyệt nhị thập tứ nhật (có nghĩa: Niên hiệu Tự

Đức năm thứ 33 tháng 11 ngày 24).

2. Vua Đồng Khánh phong quan bản thổ xã Phấn Vũ: ''Sắc bảo hộ quảng thi

phổ huệ đôn ngưng bản thổ chi thần hướng lai”,“ Hộ quốc tý dân nhẫn trứ

linh ứng tiết mông ban cấp”, năm 1887, Đồng Khánh nhị niên, thất nguyệt sơ

nhất nhật (có nghĩa: Niên hiệu Đồng Khánh năm thứ 2, tháng 7, ngày 1).

3. Vua Duy Tân phong Thành hoàng làng Phấn Vũ: ''Sắc chỉ Thái Bình tỉnh

Thụy Anh, huyện Phấn Vũ, xã Thung Tiền Phụng Sự", “ Linh Phù Dực Bảo

Chung Hưng Bản Cảnh Thành hoàng Chi thần bảo hộ quản thi bác huệ đôn

nhưng dực bảo chung hưng bản thổ chi thần tiết kinh ban cấp”, năm 1909,

Duy Tân tam niên bát nguyệt thập nhất nhật (có nghĩa: Niên hiệu Duy Tân

năm thứ 3, tháng 8, ngày 11).

4. Vua Khải Định phong cho quan bản thổ Trung đẳng thần xã Phấn Vũ: ''Sắc

chỉ Thái Bình Tỉnh Thụy Anh huyện Phấn Vũ xã Thung Tiền Phụng Sự

nguyên", “Tặng bảo hộ quản thi bác huệ đôn ngưng dực bảo chung hưng bản

thổ”, năm 1924, Khải Định cửu niên, thất nguyệt, nhị thập ngũ nhật (có

nghĩa: Niên hiệu Khải Định năm thứ 9, tháng 7, ngày 25).

5. Vua Khải Định phong cho thành hoàng làng Phấn Vũ: ''Sắc Thái Bình Tỉnh

Thụy Anh huyện Phấn Vũ xã Thung Tiền Phụng Sự nguyên", “ Tặng linh phù

dực bảo chung hưng bản cảnh thành hoàng tôn thần hộ quốc”, năm 1924,

Khải Định cửu niên, thất nguyệt, nhị thập ngũ nhật (có nghĩa: Niên hiệu Khải

Định năm thứ 9, tháng 7, ngày 25).

6. Sắc phong cho đương cảnh thành hoàng làng Phấn Vũ (mất niên hiệu triều

đại chỉ còn lại ngày tháng): “Sắc Nam Định tỉnh Thụy Anh huyện Phấn Vũ xã

phụng sự đương cảnh- Thành hoàng chi thần nhẫm trứ linh ứng hướng lai vị

hữu đính phong” vào ngày 18 tháng 11.

12

PHỤ LỤC 3

MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ

CỤM DI TÍCH ĐỀN, CHÙA LÀNG PHẤN VŨ

13

3.1. ĐỀN QUAN LỚN THỐNG

1. Đền Quan Lớn Thống trước khi tu sửa

(Người chụp: Hoàng Nguyễn Chiều - Cán bộ văn hóa xã Thụy Xuân, chụp tháng 7/2011)

2. Đền Quan Lớn Thống hiện nay

(Người chụp: Lê Thị Mỹ Huyền - Tác giả luận văn,chụp tháng 4/2014)

14

3. Ban thờ Quan Lớn Thống tại tòa hậu cung đền Quan Lớn Thống

(Người chụp: Hoàng Nguyễn Chiều - Cán bộ văn hóa xã Thụy Xuân, chụp tháng 7/2011)

4. Ban thờ công đồng tòa Trung đường đền Quan Lớn Thống

(Người chụp: Lê Thị Mỹ Huyền - Tác giả luận văn, chụp tháng 4/2014)

15

5. Cổng đền và nơi hóa vàng tại đền Quan Lớn Thống

(Người chụp: Lê Thị Mỹ Huyền - Tác giả luận văn, chụp tháng 4/2014)

6. Khuôn viên đền Quan Lớn Thống

(Người chụp: Lê Thị Mỹ Huyền - Tác giả luận văn,chụp tháng 4/2014)

16

3.2. CHÙA PHẤN VŨ

1. Chùa Phấn Vũ trước khi tu sửa

(Người chụp: Hoàng Nguyễn Chiều - Cán bộ văn hóa xã Thụy Xuân, chụp tháng 7/2011)

2. Chùa Phấn Vũ hiện nay

(Người chụp: Lê Thị Mỹ Huyền - Tác giả luận văn, chụp tháng 4/2014)

17

3. Đền Mẫu và chùa Phấn Vũ trên cùng thửa đất

(Người chụp: Lê Thị Mỹ Huyền - Tác giả luận văn,chụp tháng 4/2014)

4. Cổng chùa Phấn Vũ

(Người chụp: Lê Thị Mỹ Huyền - Tác giả luận văn,chụp tháng 4/2014)

18

5. Khuôn viên chùa Phấn Vũ

(Người chụp: Lê Thị Mỹ Huyền - Tác giả luận văn,chụp tháng 4/2014)

6. Khuôn viên chùa Phấn Vũ

(Người chụp: Lê Thị Mỹ Huyền - Tác giả luận văn, chụp tháng 4/2014)

19

7. Khuôn viên chùa Phấn Vũ

(Người chụp: Lê Thị Mỹ Huyền - Tác giả luận văn, chụp tháng 4/2014)

8. Tượng Phật Bà tại chùa Phấn Vũ

(Người chụp: Lê Thị Mỹ Huyền - Tác giả luận văn, chụp tháng 4/2014)

20

9. Hệ thống tượng trong Tòa phật điện chùa Phấn Vũ

(Người chụp: Hoàng Nguyễn Chiều - Cán bộ văn hóa xã Thụy Xuân, chụp tháng 7/2011)

10. Ban thờ Mẫu tại chùa Phấn Vũ

(Người chụp: Lê Thị Mỹ Huyền - Tác giả luận văn, chụp tháng 4/2014)

21

11. Ban thờ Đức Ông tại chùa Phấn Vũ

(Người chụp: Lê Thị Mỹ Huyền - Tác giả luận văn, chụp tháng 4/2014)

12. Tượng hộ pháp tại chùa Phấn Vũ

(Người chụp: Lê Thị Mỹ Huyền - Tác giả luận văn, chụp tháng 4/2014)

22

13. Hệ thống tượng thập điện tại chùa Phấn Vũ

(Người chụp: Lê Thị Mỹ Huyền - Tác giả luận văn, chụp tháng 4/2014)

23

14. Bia đá do người dân công đức

(Người chụp: Lê Thị Mỹ Huyền - Tác giả luận văn, chụp tháng 4/2014)

15. Nhà khách tại chùa Phấn Vũ

(Người chụp: Lê Thị Mỹ Huyền - Tác giả luận văn, chụp tháng 4/2014)

24

16. Nhà thờ tổ tại chùa Phấn Vũ

(Người chụp: Lê Thị Mỹ Huyền - Tác giả luận văn, chụp tháng 4/2014)

17. Nơi hóa vàng

(Người chụp: Lê Thị Mỹ Huyền - Tác giả luận văn, chụp tháng 4/2014)

25

3.3. ĐỀN MẪU

1. Đền Mẫu hiện nay

(Người chụp: Lê Thị Mỹ Huyền - Tác giả luận văn, chụp tháng 4/2014)

2. Ban thờ Mẫu

(Người chụp: Lê Thị Mỹ Huyền - Tác giả luận văn, chụp tháng 4/2014)

26

3. Ban thờ công đồng tại đền Mẫu

(Người chụp: Lê Thị Mỹ Huyền - Tác giả luận văn, chụp tháng 4/2014)

27

4. Ban thờ, bát hương tại đền Mẫu

(Người chụp: Hoàng Nguyễn Chiều - Cán bộ văn hóa xã Thụy Xuân, chụp tháng 7/2011)

5. Ban thờ, bát hương tại đền Mẫu

(Người chụp: Lê Thị Mỹ Huyền - Tác giả luận văn, chụp tháng 4/2014)

28