LUẬN VĂN:

Những vấn đề lý luận thực tiễn về đổi mới

sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

trong thực hiện cải cách tư pháp ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay

Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài

Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do

nhân dân, vì nhân dân nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những nội

dung quan trọng và căn bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện

nay.

Đảng ta lãnh đạo từng bước đổi mới tổ chức và hoạt động của cả hệ thống chính

trị, trong đó Đảng lãnh đạo xây dựng hoàn thiện, Nhà nước là trung tâm. Đảng đã lãnh

đạo nhà nước một cách toàn diện cả tổ chức và hoạt động của các cơ quan lập pháp,

hành pháp và tư pháp. "Từ thực tiễn đổi mới, Đảng và Nhà nước ta càng tích luỹ thêm

nhiều kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý" như dự thảo báo cáo chính trị tại Đại hội X của

Đảng đã tổng kết: "Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và

cách làm phù hợp... Từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý Nhà nước đến hoạt động

cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị", "nâng cao năng lực lãnh đạo và sức

chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị xây dựng và từng bước

hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân". Cần

khẳng định tư duy chính trị pháp lý của Đảng đã ở một tầm cao mới phù hợp với yêu

cầu, đòi hỏi cấp thiết của việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam hiện nay. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ

Chính trị (khoá IX) về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam

đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng

02 năm 2005 của Bộ Chính trị (khoá IX) về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020

đã ra đời trong bối cảnh nêu trên.

Để đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị nêu trên, Ban Chỉ đạo

cải cách tư pháp (thuộc Ban Chấp hành Trung ương) do đồng chí Nguyễn Minh Triết,

Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam làm trưởng ban đã xác định

"Chương trình trọng tâm của công tác tư pháp từ nay đến năm 2008 (số 6-CTr/CCTP

ngày 19/9/2007). Cụ thể hơn sự lãnh đạo của Đảng về cải cách tư pháp, Bộ Chính trị

BCHTW đã ra chỉ thị về sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật

trong công tác điều tra, xử lý các vụ án và công tác bảo vệ Đảng (số 15-CT/TW ngày

07/7/2007).

Cải cách tư pháp đang được triển khai cả bề rộng và chiều sâu, cả về tổ chức và

phương thức hoạt động của các cơ quan tư pháp từ Trung ương tới địa phương. Đây là

một quá trình, phải được tiến hành từng bước dưới sự lãnh đạo của Đảng (các cấp uỷ

Đảng từ Trung ương đến địa phương).

Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Đảng ta phải đổi mới phương thức lãnh

đạo, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng. Đảng lãnh đạo cải cách tư pháp không

ngoài phương hướng trên. Như Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung

ương khoá X nhấn mạnh: "Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp uỷ Đảng đối

với hoạt động của hệ thống chính trị ở địa phương. Thành lập ban cán sự Đảng: Uỷ ban

nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân" [10, tr.134].

Vì thế khâu mấu chốt cần tập trung hiện nay là đổi mới phương thức lãnh đạo

của Đảng đối với Nhà nước nói chung và đối với các cơ quan tư pháp ở cấp Trung ương

và ở địa phương nói riêng.

Chế độ chính trị nước ta được vận hành theo cơ chế: "Đảng lãnh đạo, Nhà nước

quản lý và nhân dân làm chủ"... Đảng Cộng sản Việt Nam là "Đảng cầm quyền". Chính

vì vậy, trong định hướng xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nghị quyết số 48-

NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005, Bộ Chính trị chỉ rõ: "Xây dựng và hoàn thiện pháp

luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu

cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì

nhân dân". "Đổi mới và không ngừng hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng, bảo

đảm hoạt động của Đảng phù hợp với Hiến pháp và pháp luật, tăng cường vai trò lãnh

đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội...".

Như vậy, vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước đang

đặt ra yêu cầu đòi hỏi công tác lý luận về xây dựng Đảng cầm quyền và lý luận nhà

nước pháp luật. Về việc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và việc tổ chức

hoạt động của Nhà nước nói chung và đổi mới tổ chức hoạt động của các cơ quan tư pháp

phải chịu sự lãnh đạo của Đảng.

Mối quan hệ giữa các cơ quan của Đảng với các cơ quan nhà nước đã được quy

định ở tầm Hiến pháp: "Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiền phong của giai cấp công

nhân, lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội...

Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật" (điều 4 Hiến pháp năm

1992).

Đảng lãnh đạo các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương, cũng như

sự lãnh đạo của các ban cán sự Đảng trong khối nội chính (Công an, Viện Kiểm sát, Toà

án) đối với cải cách tư pháp ở nước ta.

Thực tiễn 20 năm đổi mới ở nước ta nói chung và thực tiễn hoạt động lãnh đạo

của Đảng đối với cải cách tư pháp ở địa phương (cấp tỉnh) nói riêng cho thấy không ít

những vấn đề cần được lý giải trên một cơ sở lý luận chính thống và vững chắc hơn,

đảm bảo hơn cho việc cải cách tư pháp thực sự có bước chuyển biến căn bản ổn định và

hoạt động có hiệu quả.

Sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng trong việc thực hiện cải cách tư pháp ở tỉnh

Bắc Ninh đã đạt được những kết quả khả quan. Song phương thức lãnh đạo của Đảng

vận dụng vào thực hiện thực tiễn còn nhiều bất cập, lúng túng. Hiện tượng buông lỏng

hoặc can thiệp, bao biện, làm thay các công việc của các cơ quan nhà nước nói chung và

các cơ quan tư pháp nói riêng.

Những vấn đề trên đòi hỏi Đảng ta phải được xác định rõ vị trí, vai trò, chức

năng, quyền hạn của mình trong cơ chế Đảng lãnh đạo Nhà nước. Từ đó đòi hỏi tổ chức

của Đảng phải được kiện toàn, các cơ quan Đảng phải được xác định rõ chức năng,

quyền hạn, nhiệm vụ cụ thể trong mối quan hệ với các cơ quan tư pháp...

Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: "Những vấn đề lý luận thực tiễn về đổi

mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thực hiện cải cách tư pháp ở

tỉnh Bắc Ninh hiện nay" làm luận văn thạc sĩ luật học chuyên ngành Lý luận và lịch sử

Nhà nước và pháp luật.

2. Tình hình nghiên cứu

Sự lãnh đạo của Đảng đối với việc hoàn thiện Nhà nước pháp quyền nói chung

và đối với cải cách nền tư pháp nói riêng là một lĩnh vực thuộc đối tượng nghiên cứu

của nhiều bộ môn khoa học chuyên ngành như: triết học, chính trị học, luật học... Sự

lãnh đạo của Đảng được xem là nhân tố quan trọng để thực hiện thành công mục tiêu

xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN vững mạnh, hoạt động có hiệu quả

và hiệu lực. Tại các nước phương Tây, sự lãnh đạo của chính đảng cầm quyền đã được

luật hoá, các chính đảng phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật, đặc biệt là luật bầu cử

Nghị viện, bầu cử tổng thống... Trong thời kỳ đổi mới, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng

sản cả lý luận và thực tiễn đang đặt ra những vấn đề cần giải quyết. Có thể nói đây là

vấn đề lớn, quan trọng, thu hút được sự nghiên cứu của nhiều tác giả trong và ngoài

nước. Trong phạm vi đề tài và các vấn đề đã được nghiên cứu có liên quan đến đề tài

được công bố mà tác giả biết có thể liệt kê sơ bộ như sau:

- Đinh Văn Mậu và Phạm Hồng Thái (1997): Lịch sử các học thuyết chính trị -

pháp lý. Nxb.TP.Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh;

- Phạm Ngọc Quang và Nguyễn Viết Thông (2000): Góp phần tìm hiểu sự phát

triển tư duy lãnh đạo của Đảng ta trong công cuộc đổi mới trên các lĩnh vực chủ yếu, Nxb.

chính trị Quốc gia, Hà Nội;

- Hồ Văn Thông (1998): Hệ thống chính trị ở các nước tư bản phát triển hiện

nay, Nxb. chính trị Quốc gia, Hà Nội;

- Lê Cảm và Nguyễn Ngọc Chí (2004), Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai

đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

- Ngô Huy Cương: Góp phần bàn về cải cách pháp luật ở Việt Nam, Nxb. Tư

pháp, Hà Nội;

- Đặng Đình Tân (chủ biên - 2004): Thể chế Đảng cầm quyền - Một số vấn đề lý

luận và thực tiễn, Nxb. chính trị Quốc gia, Hà Nội;

- Phùng văn Tửu (1999): Xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp luật của dân, do

dân, vì dân, Nxb. chính trị Quốc gia, Hà Nội;

- Lê Minh Quân (2003): Xây dựng Nhà nước pháp quyền đáp ứng yêu cầu phát

triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb chính trị Quốc gia,

Hà Nội;

- Trần Hậu Thành (2005): Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, Nxb. Lý luận chính trị. Hà Nội;

- Đức Vượng (2002), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà

nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

- Nguyễn Đăng Dung (chủ biên - 2004): Thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp

quyền, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.

Có thể đánh giá khái quát các công trình nghiên cứu có tính điển hình kể trên cho

thấy vấn đề hoàn thiện Nhà nước pháp quyền và sự lãnh đạo của Đảng đã được bàn

thảo, luận giải và đã đạt được những thành tựu đáng kể, đánh dấu sự phát triển của khoa

học pháp lý. Nội dung của các đề tài trên đã ít nhiều liên quan đến đề tài này, song chưa

có một công trình nào nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam về cải

cách tư pháp ở địa phương cấp tỉnh.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

a. Đối tượng nghiên cứu:

- Sự phân công phân nhiệm trong thực hiện quyền tư pháp và những yêu cầu cải

cách tư pháp ở nước ta.

- Những vấn đề lý luận như quan điểm chủ trương chiến lược của Đảng về cải

cách tư pháp.

- Nguyên tắc, phương thức lãnh đạo của Đảng nói chung và phương thức lãnh

đạo của các cấp uỷ Đảng ở địa phương trong thực hiện cải cách tư pháp ở nước ta nói

chung và ở tỉnh Bắc Ninh nói riêng.

- Tổng kết thực tế, đánh giá vai trò lãnh đạo của Đảng, chủ yếu là hoạt động thực

hiện sự lãnh đạo của Đảng ở Bắc Ninh trong cải cách tư pháp.

b. Phạm vi nghiên cứu:

Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về sự lãnh đạo của Đảng đối

với cải cách tư pháp. Không nghiên cứu toàn diện về sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà

nước nói chung.

- Tư pháp và cải cách tư pháp nói chung được nghiên cứu ở mức độ nhất định để

xác định nó với tư cách là đối tượng, nội dung, mục tiêu của sự lãnh đạo của Đảng

nhằm vào và đạt được.

- Về cơ sở thực tế luận văn chỉ đánh giá những văn kiện của Đảng hiện hành lãnh

đạo cải cách tư pháp ở nước ta.

Phạm vi khảo sát hoạt động thực hiện sự lãnh đạo của Đảng được giới hạn ở tỉnh

Bắc Ninh trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến nay (các cấp uỷ Đảng các cơ quan

của Đảng ở tỉnh Bắc Ninh).

4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

a. Mục đích của luận văn:

- Góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về sự lãnh đạo của Đảng đối với

quá trình cải cách tư pháp ở cấp tỉnh.

- Khảo sát thực tế rút ra những bài học kinh nghiệm trên cơ sở đó xác định

phương hướng giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong cải cách tư pháp ở tỉnh

Bắc Ninh.

b. Nhiệm vụ của luận văn:

Làm rõ hơn về khái niệm tư pháp, cải cách tư pháp theo yêu cầu hoàn thiện nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

- Luận chứng nội dung, phương pháp và vai trò lãnh đạo của Đảng trong thực

hiện cải cách tư pháp ở trung ương và địa phương nước ta.

- Tổng kết (có tính khái quát) thực tiễn về sự lãnh đạo của Đảng trong thực hiện

cải cách tư pháp ở tỉnh Bắc Ninh từ năm 2005 đến nay.

- Phương hướng chung và giải pháp đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trong thực

hiện cải cách tư pháp ở tỉnh Bắc Ninh.

5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu

a. Cơ sở lý luận:

- Nghiên cứu đề tài này dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản

đối với Nhà nước nói chung và phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền đối với tiến

trình cải cách tư pháp.

- Quan điểm, nội dung, phương hướng cải cách tư pháp và việc tổ chức thực hiện

cải cách tư pháp của Đảng.

b. Phương pháp nghiên cứu:

Thực hiện luận văn này sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống như

phân tích tổng hợp các mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố lãnh đạo của Đảng, xây

dựng nhà nước và dân chủ xã hội trong hoạt động tư pháp. Phương pháp so sánh, khảo

sát thực tế, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp hệ thống lô-gíc.

6. Những đóng góp mới của luận văn

- Khái quát hoá những mối quan hệ tất yếu giữa hoạt động lãnh đạo của Đảng với

quá trình tổ chức, hoạt động tư pháp của Nhà nước.

- Làm rõ được cơ sở lý luận của việc hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng

đối với quá trình hoàn thiện nền tư pháp của Nhà nước gắn với việc hoàn thiện pháp

luật hoạt động của Đảng.

7. ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn

- ý nghĩa lý luận: Từ góc độ lý luận chung và ở lĩnh vực cải cách tư pháp sẽ có ý

nghĩa góp vào lý luận về Đảng cầm quyền.

- ý nghĩa thực tiễn ở chỗ luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho cán bộ Đảng, cán

bộ tư pháp và cho công tác nghiên cứu, giảng dạy ở các trường Đảng tỉnh, thành phố.

8. Kết cấu của luận văn

Ngoài lời nói đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3

chương.

Chương 1: Cơ sở lý luận về sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong thực

hiện cải cách tư pháp ở nước ta.

Chương 2: Thực trạng hoạt động lãnh đạo của Đảng trong thực hiện cải cách tư

pháp ở tỉnh Bắc Ninh.

Chương 3: Quan điểm chỉ đạo và giải pháp đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trong

thực hiện cải cách tư pháp ở tỉnh Bắc Ninh.

Chương 1

Cơ sở lý luận về sự lãnh đạo của đảng cộng sản việt nam trong thực hiện cải cách tư pháp ở nước ta

1.1. quan niệm và nội dung cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay

1.1.1. Quan niệm về tư pháp và cải cách tư pháp

1.1.1.1. Quan niệm về tư pháp

- Theo Từ điển tiếng Việt thì “tư pháp” có nghĩa là “việc xét xử các hành vi phạm

pháp và các vụ kiện tụng trong nhân dân” [45, tr.1034].

- Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) thì:

Với nghĩa chung nhất, tư pháp được quan niệm như là một ý tưởng về

một nền công lý, đòi hỏi việc giải quyết những tranh chấp xảy ra trong xã hội

phải đúng pháp luật, phù hợp với lẽ công bằng, bảo đảm lòng tin của nhân

dân và xã hội vào pháp luật, góp phần duy trì trật tự pháp luật, bảo đảm sự an

toàn pháp lý cho cá nhân, sự ổn định và phát triển của xã hội [41, tr.828].

Tư pháp với nghĩa là phán xử, trông coi, bảo vệ pháp luật đã xuất hiện từ rất

sớm, và nó trở thành một nhu cầu hết sức quan trọng trong đời sống của xã hội.

Trong xã hội tồn tại nhiều quan hệ giữ con người với nhau, trong quá trình giao tiếp

với nhau đó sẽ không tránh khỏi những tranh chấp cần có sự giải quyết công bằng

giữa các bên, cần có những định chế bảo vệ lợi ích, tính mạng của các cá nhân trong

xã hội. Trong trường hợp không tự hoà giải được, không tự bảo vệ được quyền lợi,

tính mạng của mình, họ cần phải nhờ đến những định chế khác, mà họ cho là vô tư,

công tâm để giải quyết. Định chế đóng vai trò có thể phán xử một cá nhân, tổ chức

nào đó là Toà án. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay nói tư pháp là nói tới công tác xét

xử và những hoạt động phục vụ hoặc liên quan trực tiếp tới hoạt động xét xử. Những

hoạt động này phải được thực hiện trên cơ sở của Hiến pháp và pháp luật.

Một trong những nguyên tắc quan trọng không thể thiếu của hoạt động tư pháp

đó là tính khách quan, vô tư giữa các chủ thể tham gia tố tụng; vi phạm nguyên tắc này

thì phán quyết của cơ quan tư pháp sẽ không đảm bảo được tính công bằng, khi đó các

bên tranh chấp sẽ không cần đến các cơ quan tư pháp nữa. Chính vì vậy, những người

tham gia vào các hoạt động tư pháp phải được coi là những người đại diện và bảo vệ

công lý.

Trong nhà nước pháp quyền, tư pháp đóng một vai trò hết sức quan trọng trong

việc đảm bảo tính thượng tôn của pháp luật và thực hiện quyền làm chủ, quyền giám sát

tối cao của nhân dân đối với bộ máy nhà nước. Hoạt động tư pháp không chỉ thuần tuý

là việc xem xét tư pháp đối với các hoạt động của các tổ chức, hành vi của cá nhân

trong xã hội, mà nó còn bao gồm cả việc xem xét tư pháp đối với các văn bản pháp luật

của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền đòi

hỏi tư pháp phải đáp ứng được các yêu cầu sau:

Quyền tư pháp phải là một quyền độc lập. Một trong những nguyên tắc quan

trọng của tư pháp là tính độc lập trong hoạt động, chỉ khi nào tư pháp độc lập thì tính

tối cao của Hiến pháp và pháp luật mới được đảm bảo, mới có khả năng kiểm soát

được quyền lực của các cơ quan nhà nước khác và cũng là điều kiện quan trọng để

đảm bảo thực hiện các quyền con người. Có thể nói rằng, phần lớn các cuộc cải cách

tư pháp của các quốc gia đều tập trung vào việc đảm bảo và nâng cao tính độc lập của tư

pháp trong cơ cấu bộ máy nhà nước.

Tính tối cao của pháp luật được tôn trọng, tư pháp phải trở thành biểu tượng của

công lý để giải quyết các tranh chấp trong xã hội. Trong nhà nước pháp quyền, tính tối

cao của pháp luật đóng vai trò quan trọng; vì vậy, các tranh chấp xảy ra trong xã hội cần

thiết được xem xét tại Toà án, và Toà án được coi là nơi có kết luận cuối cùng đối với

các tranh chấp phát sinh và phán quyết này có tính chất bắt buộc thi hành đối với các

chủ thể. ở góc độ là một thiết chế quan trọng cấu thành bộ máy nhà nước, một loại

quyền lực trong cơ cấu quyền lực nhà nước, quyền tư pháp phải được xem như một biểu

tượng của công lý bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích của

nhân dân, là chỗ dựa vững chắc, nơi gửi gắm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà

nước.

Tóm lại, chúng ta có thể hiểu tư pháp theo nghĩa chung nhất, đó là ý tưởng về

một nền công lý, bảo đảm những nguyên tắc trong việc giải quyết những tranh chấp dân

sự, hôn nhân gia đình, lao động thương mại và kinh doanh đúng người, đúng việc, đúng

pháp luật và điều tra, công tố, xét xử các án hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp

luật, không làm oan người ngay, không bỏ lọt tội phạm. Toà án là cơ quan trung tâm

thực hiện quyền tư pháp. Vấn đề bảo đảm cho hoạt động xét xử của Toà án được độc

lập và chỉ tuân theo pháp luật đặt ra yêu cầu về sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền đối với

việc không ngừng cải cách tư pháp ở Việt Nam.

1.1.1.2. Quan niệm về cải cách tư pháp

Theo Từ điển tiếng Việt thì cải cách có nghĩa là: “Sửa đổi những bộ phận cũ

không hợp lý cho thành mới, đáp ứng yêu cầu của tình hình khách quan” [45, tr.100]

Thuật ngữ cải cách được xem xét trên nhiều góc độ khác nhau. Theo quan niệm

của Tổ chức an ninh và hợp tác châu Âu thì (OECD):

Cải cách tư pháp được sử dụng trong công trình của OECD đề cập tới

những sự thay đổi nhằm cải thiện chất lượng của các qui định, đó là, thúc đẩy

sự thực hiện, giảm chi phí, hoặc chất lượng pháp lý của các qui định và các

thủ tục liên quan của chính quyền. Cải cách có thể có nghĩa sửa đổi một qui

định đơn lẻ, loại bỏ và xây dựng lại toàn bộ một chế độ pháp luật và các chế

định của nó, hoặc cải thiện qui trình làm luật và quản lý cải cách [21, tr.6].

Quan niệm cải cách tư pháp theo cách hiểu này có nghĩa rất rộng, nó không chỉ

bao hàm việc “sửa đổi các qui định đơn lẻ, loại bỏ và xây dựng lại toàn bộ một chế độ

pháp luật” mà nó còn bao hàm nhiều vấn đề như “giảm chi phí” và “các thủ tục liên

quan đến chính quyền”. Vì vậy, cải cách tư pháp xét đến cùng được hiểu là sự sửa đổi,

xây dựng pháp luật theo một chế độ mới, đối tượng của cải cách tư pháp có thể là các

qui định pháp luật, mà chưa nói tới các định chế thực hiện.

ở nước ta, cải cách tư pháp nằm trong tổng thể việc thực hiện xây dựng và hoàn

thiện nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Do đó, tư pháp với tư cách

là người bảo vệ pháp luật cũng phải được đề cao, có vị trí xứng đáng trong cơ cấu quyền

lực nhà nước. Xét trong một quan hệ nhất định, tư pháp sẽ thực hiện chức năng kiểm

soát cần thiết đối với lập pháp và hành pháp trong trường hợp hoạt động của lập pháp và

hành pháp vi phạm Hiến pháp, làm tổn hại tới các quyền tự do, dân chủ của công dân.

Do đó, cải cách tư pháp sẽ tăng cường việc giám sát quyền hành pháp và hoạt động lập

pháp. Việc cải cách tư pháp cần hướng tới việc đề cao vai trò của tư pháp, tạo ra khả

năng, cơ chế để thực hiện những quyền năng vốn có của tư pháp, tăng cường pháp chế

XHCN, làm cho quyền lực nhà nước trở nên thống nhất, hiệu lực và hiệu quả. Vì vậy,

cải cách tư pháp cần hướng tới đối tượng và mục tiêu sau:

Về đối tượng của cải cách tư pháp. Theo nghĩa hẹp, đối tượng của cải cách tư

pháp ở Việt Nam hiện nay đó là toàn bộ hệ thống và hoạt động thực tiễn của Toà án, của

đội ngũ thẩm phán và các qui định của pháp luật có liên quan mà cải cách tư pháp tác

động đến để đạt được kết quả cuối cùng với tính chất là các chế định pháp lý và các giá trị

tinh thần. Theo nghĩa rộng thì đối tượng của cải cách tư pháp là toàn bộ hệ thống Toà án, hệ

thống các cơ quan bảo vệ pháp luật khác như cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, các cơ quan

bổ trợ tư pháp và xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức tư pháp, cũng

như các qui định mà cải cách tư pháp tác động đến để đạt hiệu quả cuối cùng.

Về mục tiêu của cải cách tư pháp hiện nay, tức là kết quả cuối cùng với tính chất

là các giá trị cuối cùng mà chúng ta hướng tới trong cải cách tư pháp là: (1) Góp phần

nâng cao ý thức pháp luật về vai trò, chức năng của các cơ quan tư pháp trong xây dựng

nhà nước pháp quyền; (2) Làm cho nhánh quyền lực tư pháp được tổ chức một cách

khoa học, độc lập, hoạt động có hiệu quả và hiệu lực; (3) Làm cho cơ sở của quyền lực

Nhà nước thực sự là ý chí của nhân dân; (4) Góp phần đổi mới và làm cho hệ thống

pháp luật Việt Nam ngày càng hoàn thiện, phát huy hiệu quả trong cuộc sống.

1.1.2. Nội dung cải cách tư pháp theo chiến lược cải cách tư pháp của Đảng

Cộng sản Việt Nam

1.1.2.1. Hoàn thiện chớnh sỏch, phỏp luật hỡnh sự, phỏp luật dõn sự và tố

tụng tư pháp

Hoàn thiện chớnh sỏch, phỏp luật hỡnh sự theo hướng đề cao tính nhân đạo trong

xử lý tội phạm; trong phỏp luật dõn sự phải xỏc định rừ, cụ thể quyền và nghĩa vụ về tài

sản của Nhà nước, cá nhân, tổ chức. Hoàn thiện thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng nâng

cao tính dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người; đề cao

trỏch nhiệm phỏp lý của cỏc cỏn bộ cú chức danh tư pháp trong hoạt động tố tụng.

- Hoàn thiện chớnh sỏch, phỏp luật hỡnh sự và phỏp luật dõn sự:

Việc hoàn thiện chớnh sỏch, phỏp luật về hỡnh sự. Cần tiến hành sửa đổi Bộ luật

hỡnh sự theo hướng phi tội phạm hoá một số hành vi hiện nay Bộ luật coi là tội phạm

như: tội vụ ý gõy thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ của người khỏc, tội kinh doanh

trỏi phộp, tội chiếm giữ trỏi phộp tài sản, tội vụ ý gõy thiệt hại đến tài sản... Những

hành vi này có thể áp dụng các biện pháp khác để xử lý thay cho cỏc biện phỏp hỡnh sự

khi cỏc hành vi đú khụng cũn nguy hiểm cho xó hội, phự hợp với cỏc thụng lệ, luật

phỏp quốc tế trong điều kiện phát triển mới của đất nước, hội nhập quốc tế và khu vực.

Bên cạnh đó cần điều chỉnh áp dụng loại hỡnh phạt mà người phạm tội phải cỏch

ly với xó hội và loại hỡnh phạt khụng phải cỏch ly với cộng đồng. Tăng số lượng loại

tội phạm mà mức cao nhất của khung hỡnh phạt là từ 5 đến 7 năm và giảm bớt mức

hỡnh phạt tự tối đa cũn quỏ cao như hiện nay đối với một số loại tội phạm. Giảm ỏp

dụng hỡnh phạt tự mà chủ yếu là ỏp dụng hỡnh phạt tiền, hỡnh phạt cải tạo khụng giam

giữ đối với một số loại tội, như: các tội phạm về môi trường; một số loại tội xâm phạm

chế độ hôn nhân và gia đỡnh; xõm phạm an toàn cụng cộng; xõm phạm trật tự quản lý

hành chớnh; xõm phạm trật tự quản lý kinh tế. Việc điều chỉnh về loại hỡnh phạt ỏp

dụng và mức hỡnh phạt đối với một số loại tội phạm, vừa đảm bảo tính răn đe đối với

người phạm tội, vừa tạo điều kiện cho họ phục thiện, khắc phục hậu quả gây ra.

Trong xu thế nhân đạo về hỡnh phạt hiện nay, cần phải nghiờn cứu về việc ỏp

dụng hỡnh phạt tước sinh mạng của người phạm tội theo hướng hạn chế ỏp dụng hỡnh

phạt tử hỡnh; nghiờn cứu những cỏch thi hành ỏn tử hỡnh phự hợp. Việc tước sinh

mạng của người phạm tội chỉ áp dụng đối với một số ít tội phạm đặc biệt nghiêm trọng

như một số tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội giết người, tội chống loài người, tội

phạm chiến tranh, tội buụn bỏn trỏi phộp chất ma tuý... Nghiờn cứu bổ sung thờm đối

tượng khụng bị ỏp dụng hỡnh phạt tử hỡnh hoặc khụng phải thi hành ỏn tử hỡnh.

Cùng với việc phi tội phạm hoá và nhân đạo hoỏ hỡnh phạt, thỡ phải nghiờn cứu

tội phạm hoỏ đối với những hành vi nguy hiểm cho xó hội mới xuất hiện trong lĩnh vực

kinh tế, trong lĩnh vực thụng tin… do quỏ trỡnh phỏt triển kinh tế thị trường, hội nhập

khu vực và quốc tế.

Bộ luật hỡnh sự cần sửa đổi theo hướng quy định trỏch nhiệm hỡnh sự nghiờm

khắc hơn đối với những người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi

dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội, kẻ tham nhũng. Người cú chức vụ càng cao mà lợi

dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội thỡ càng phải xử lý nghiờm khắc hơn để làm gương

cho người khác.

Tiếp tục nghiên cứu nhằm hoàn thiện chế định sở hữu theo hướng làm rừ đối

tượng, nội dung và phạm vi của cỏc hỡnh thức sở hữu, đặc biệt là sở hữu toàn dân, sở

hữu Nhà nước. Xác định rừ, cụ thể quyền sở hữu nhà nước về đất đai và quyền quản lý

kinh doanh bất động sản của Nhà nước; quy định rừ về thị trường bất động sản để đảm

bảo các quyền, lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, tạo cơ sở phỏp lý chặt chẽ, ngăn

ngừa có hiệu quả các tội phạm phát sinh từ việc buôn bán bất động sản.

Nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện một cách đầy đủ, đồng bộ khung phỏp lý về

quyền sở hữu trớ tuệ. Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng

xó hội chủ nghĩa và mở rộng hội nhập quốc tế, khu vực thỡ vấn đề hết sức quan trọng là

cần xây dựng và tổ chức thi hành tốt pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ. Nghiên cứu hoàn

thiện pháp luật về hợp đồng, tạo nên sự thống nhất về chế định hợp đồng, tạo ra hành

lang phỏp lý cho cỏc giao dịch dõn sự, kinh tế; đảm bảo sự ổn định, bền vững trong các

giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại, lao động; hạn chế những tranh chấp; bảo vệ kịp

thời quyền, lợi ích hợp phỏp của cỏc bờn ký kết, thực hiện hợp đồng.

Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các chế định bồi thường, bồi hoàn, nhất là việc

bồi hoàn của Nhà nước cho cỏ nhõn, tổ chức bị thiệt hại do lỗi của nhõn viờn cụng

quyền gõy ra trong quỏ trỡnh thực thi cụng vụ.

- Hoàn thiện pháp luật về tố tụng tư pháp

Nghiên cứu việc mở rộng quyền hạn về tố tụng hỡnh sự cho điều tra viên, kiểm

sát viên và thẩm phán để họ chủ động thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu

trách nhiệm trước pháp luật về các quyết định và hành vi trong điều tra, truy tố, xét xử.

Tiến tới giao cho điều tra viên, kiểm sát viên thực hiện các quyền hạn tố tụng, trừ quyết

định quan trọng, như khởi tố bị can, quyết định áp dụng biện pháp tạm giam, quyết định

truy tố... Thẩm phán có quyền áp dụng thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; ra

quyết định thi hành ỏn; cho hoón việc chấp hành ỏn, tạm đỡnh chỉ thi hành ỏn phạt tự,

quyết định xoá án tích...

Thu hẹp diện người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng biện pháp tạm giam;

xác định rừ ràng căn cứ tạm giam. Hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với

một số loại tội.

Tiếp tục hoàn thiện tố tụng dân sự theo hướng đề cao trách nhiệm và quyền tự

định đoạt và chứng minh của các bên đương sự trong việc giải quyết các tranh chấp và

yêu cầu hợp pháp của họ trước Toà án. Tiến tới thực hiện cơ chế Toà án không xác

minh, thu thập chứng cứ trong các vụ án dân sự. Các đương sự cú quyền và phải cú

nghĩa vụ xuất trỡnh chứng cứ để tự chứng minh. Toà án chỉ ra phán quyết trên cơ sở các

chứng cứ do đương sự đưa ra và kết quả tranh tụng tại phiờn toà. Do vậy phải nghiờn

cứu tổ chức và phỏt triển cỏc loại hỡnh dịch vụ từ phớa Nhà nước để tạo điều kiện cho

các đương sự chủ động thu thập chứng cứ để tự chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ớch

hợp phỏp của mỡnh.

Các tranh chấp dõn sự là tranh chấp phỏt sinh giữa cỏc bờn trong quan hệ kinh tế

- xó hội. Do vậy, nờn chỳ trọng và khuyến khớch cơ chế tự thoả thuận của cỏc bờn

trong giải quyết cỏc vụ ỏn dõn sự hoặc thụng qua cỏc hỡnh thức giải quyết tranh chấp

ngoài Toà án phù hợp với xu thế hội nhập khu vực và quốc tế hiện nay như hoà giải,

trọng tài. Bên cạnh đó chú trọng nghiên cứu xây dựng cơ chế hỗ trợ tư pháp (hỗ trợ của

Toà án) đối với việc giải quyết các tranh chấp ngoài Toà án theo hướng các bên tự thoả

thuận với nhau và đến Toà án yêu cầu ra quyết định công nhận sự thoả thuận này để làm

cơ sở phỏp lý cho việc cú thể cưỡng chế thi hành trong thực tế.

Mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án đối với các khiếu kiện hành chính. Đổi

mới mạnh mẽ thủ tục tố tụng hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân

tham gia tố tụng, bảo đảm sự bỡnh đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước

Toà án trong việc đưa ra những đề nghị, yêu cầu, tài liệu, chứng cứ và tranh luận dân

chủ tại phiên toà; nâng cao chất lượng và hiệu lực của các bản án, quyết định về hành

chính của Toà án.

Sửa đổi cơ chế xét xử tập thể. Đối với một số vụ ỏn hỡnh sự ớt nghiờm trọng,

tỡnh tiết đơn giản, chứng cứ rừ ràng, đầy đủ; những vụ án dân sự có giá trị tài sản tranh

chấp thấp, tranh chấp kinh tế, thương mại... thỡ ỏp dụng cơ chế một thẩm phán xét xử.

Tiếp tục hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm để thực hiện nghiêm chỉnh

nguyên tắc hai cấp xét xử theo hướng quy định chặt chẽ những căn cứ để kháng nghị

theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; quy định rừ trỏch nhiệm của người ra khỏng nghị

theo trỡnh tự giỏm đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Toà án đó cú hiệu lực

phỏp luật trỏnh khỏng nghị thiếu căn cứ.

Toà án phải mẫu mực trong việc tiếp nhận và giải quyết các khiếu nại của cá

nhân, tổ chức. Nghiên cứu cơ chế, xác định rừ trỏch nhiệm của Toà án nhõn dõn cỏc

cấp trong việc thụ lý đơn, xem xét, giải quyết đầy đủ, đúng đắn các khiếu nại của người

dõn theo trỡnh tự giỏm đốc thẩm, tái thẩm.

Từng bước công khai hoá các bản án đặc biệt đối với các bản án dân sự, kinh tế,

lao động và hành chính; trừ những bản án về tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia hoặc

liên quan đến thuần phong, mỹ tục để người dân có điều kiện tiếp cận với cụng lý. Xõy

dựng cơ chế để bảo đảm mọi bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật phải

được thi hành; các cơ quan hành chính nhà nước vi phạm, bị xử lý theo phỏn quyết của

Toà án phải nghiêm chỉnh chấp hành.

Chương trỡnh trọng tâm công tác tư pháp từ nay đến hết năm 2008 của Ban chỉ

đạo cải cách tư pháp Trung ương xác định việc tiếp tục hoàn thiện thể chế nhằm đáp

ứng yêu cầu cải cách tư pháp như sau:

"- Xây dựng và hoàn thiện dự thảo trỡnh Quốc hội đối với các dự án luật đặc xá,

luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hỡnh sự, Luật Tương trợ tư pháp,

Luật bồi thường Nhà nước, Bộ Luật xử lý vi phạm hành chính, Bộ Luật tố tụng hành

chính, Luật dẫn độ, Luật chống khủng bố.

- Xây dựng và hoàn thiện dự thảo trỡnh Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đối với các

dự án pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh thi hành án phạt tù, pháp

lệnh thủ tục bắt giữ tàu biển, pháp lệnh thủ tục bắt giữ tàu bay, pháp lệnh án phí, lệ phí

tại Toà án nhân dân; pháp lệnh chi phí giám định, định giá trong tố tụng dẫn độ và tố

tụng hành chính; pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh tổ chức điều tra

hỡnh sự. Và các văn bản hướng dẫn thi hành các bộ luật mà Quốc hội đó và sẽ ban

hành".

1.1.2.2. Hoàn thiện về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, bộ máy của các cơ quan

tư pháp

Thực hiện xây dựng các cơ quan tư pháp theo hướng xác định rừ chức năng,

nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp trong đó đề cao vai trũ trung tõm của Toà án; tổ chức

và hoạt động của các cơ quan tư pháp khác phục vụ cho công tác xét xử của Toà án.

Từng bước xó hội hoỏ một số hoạt động tư pháp, giao cho các cá nhân, tổ chức xó hội

thực hiện.

-Toà án nhân dân:

Tổ chức nghiên cứu về phạm vi thẩm quyền của Toà án theo hai hướng. Một là,

nghiên cứu cơ chế thực hiện xó hội húa việc giải quyết một số tranh chấp nhằm giảm số

lượng vụ việc mà Toà án phải thụ lý. Xõy dựng cơ chế khuyến khích người dân tự giải

quyết hoặc các tổ chức hoà giải, trọng tài giải quyết những tranh chấp đơn giản, có giá

trị thấp. Hai là, mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án đối với các khiếu kiện hành

chính. Cần nghiên cứu cơ chế bảo đảm các khiếu kiện về hành chính phải được Toà án

phán quyết, nếu người dân yêu cầu.

Nghiên cứu xác định hợp lý phạm vi thẩm quyền xột xử của Toà ỏn Quõn sự

theo hướng Toà án Quân sự chủ yếu xét xử những vụ án về các tội xâm phạm nghĩa vụ,

trách nhiệm của quân nhân, những vụ án liên quan đến bí mật quân sự...

Nghiên cứu cơ chế tổ chức hệ thống Toà án không phụ thuộc vào đơn vị hành

chính mà theo thẩm quyền xét xử gồm: Toà án sơ thẩm được tổ chức ở một hoặc một số

đơn vị hành chính cấp huyện (Toà án khu vực); Toà án phúc thẩm được đặt theo đơn vị

hành chính cấp tỉnh có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số

vụ án; toà thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc

thẩm; Toà án tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng

thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm.

Nghiên cứu thành lập một số toà chuyên trách, như: Toà vị thành niên, Toà hôn

nhân và gia đỡnh... cho phự hợp với tớnh chất, đặc điểm của những vụ việc mà Toà án

phải xử lý và bảo đảm tính chuyên sâu của thẩm phán. Việc thành lập toà chuyên trách

phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp Toà án, từng khu vực, không nhất thiết ở

cấp nào, địa phương nào cũng thành lập các toà chuyên trách giống nhau.

Nghiên cứu đổi mới tổ chức Toà án nhân dân tối cao tinh gọn với đội ngũ thẩm

phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật có bề dầy kinh nghiệm lâu năm trong

ngành.

Đổi mới việc tổ chức phiên toà xét xử, xác định rừ hơn chức năng, quyền hạn,

trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm

tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà. Hội

đồng xét xử phán quyết về vụ án trên cơ sở phỏp luật và chứng cứ, lý lẽ của cụng tố

viờn (người buộc tội) và bị cáo, luật sư, bào chữa viên (người gỡ tội).

- Viện Kiểm sát nhân dân:

Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức của Viện Kiểm sát được định hướng xây đựng

theo hai giai đoạn. Trước mắt, giữ nguyên chức năng của Viện Kiểm sát là thực hành

quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp như nêu trong Nghị quyết 08-NQ/TW của

Bộ Chính trị, theo quy định của Hiến pháp 1992, Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân.

Cùng với sự thay đổi về bộ máy Toà án thỡ tổ chức của Viện Kiểm sát nhân dân được

thay đổi cho phù hợp.

Cần xác định rừ nhiệm vụ của Viện Kiểm sát trờn cỏc lĩnh vực tố tụng hỡnh sự,

tố tụng dõn sự, kiểm sỏt hoạt động xét xử, thi hành án; quan hệ giữa Viện Kiểm sát với

cơ quan điều tra, với Toà án và với cơ quan thi hành án. Đối với cơ quan điều tra, Viện

Kiểm sát có quyền hạn và trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc, yêu cầu cơ quan điều tra và

điều tra viên đề cao trách nhiệm thực hiện đúng các quy định trong việc khởi tố, bắt,

giam, giữ, điều tra, chứng minh hành vi phạm tội theo đúng các quy định của pháp luật

bảo đảm không để lọt tội phạm và không có oan, sai. Đối với Toà án, Viện Kiểm sát là

cơ quan truy tố, buộc tội bị cáo, người bào chữa... đưa ra. Nếu cho rằng Toà án xột xử

sai thỡ Viện Kiểm sát có quyền yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm, Toà án giám đốc thẩm

thụ lý, giải quyết.

Việc xét xử các vụ án dân sự theo nguyên tắc tự định đoạt của các dương sự,

người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự sẽ tự

đánh giá việc xét xử của Toà án có căn cứ và có đúng pháp luật không. Nếu cho rằng

Toà án xét xử không đỳng thỡ cỏc đương sự cú quyền khỏng cỏo theo trỡnh tự phỳc

thẩm hoặc yờu cầu khỏng nghị xột xử giỏm đốc thẩm, tái thẩm.

Trong lĩnh vực thi hành án, các bản án, quyết định của Toà án và các quy định

của pháp luật về thi hành án do các cơ quan thi hành án, cơ quan quản lý cụng tỏc thi

hành ỏn, cỏc đương sự thực hiện, nếu cú vi phạm thỡ cỏc cơ quan cú liờn quan sẽ kiểm

tra, xử lý, cỏc đương sự sẽ khiếu nại, tố cáo.

Để thực hiện đúng trách nhiệm, quyền hạn của Viện Kiểm sát (viện công tố) đối

với việc đấu tranh chống tội phạm, không để lọt tội phạm và khụng xử lý oan người vụ

tội, thỡ phải nghiờn cứu làm rừ và xỏc định đỳng vai trũ, mối quan hệ của viện cụng tố

với cơ quan điều tra. Viện công tố phải có đủ khả năng để quyết định việc điều tra, việc

truy tố bị can; có quyền hạn để cơ quan điều tra thực hiện theo yờu cầu của mỡnh. Do

vậy cần nghiờn cứu về mối quan hệ tổ chức, nhõn sự giữa viện cụng tố và cơ quan điều

tra.

- Cơ quan điều tra:

Tiến hành xác định rừ nhiện vụ của cơ quan điều tra trong mối quan hệ với các cơ

quan khác được giao một số hoạt động điều tra theo hướng cơ quan điều tra điều tra tất cả

cỏc vụ ỏn hỡnh sự, một số cơ quan khỏc (kiểm lõm, biờn phũng, hải quan, cảnh sỏt biển,

cảnh sỏt giao thụng, cảnh sỏt phũng chỏy, chữa chỏy...) chỉ tiến hành một số hoạt động

điều tra sơ bộ, như: lập biên bản về sự việc tội phạm xảy ra; bảo vệ hiện trường, thu giữ

tang vật, giữ người phạm tội... và chuyển mọi tài liệu, tang vật, người bị bắt giữ cho cơ

quan điều tra để điều tra vụ án. Có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan điều tra và cơ

quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra sơ bộ; giữa các cơ quan điều tra với

nhau với trung tâm là Viện Kiểm sát để kiểm soát được tỡnh hỡnh đấu tranh chống tội

phạm; xử lý nhanh chúng, kịp thời cỏc vụ ỏn đó phỏt hiện, điều tra.

Tiếp tục nghiên cứu cụ thể và chuẩn bị điều kiện để tổ chức lại các cơ quan điều

tra theo hướng thu gọn đầu mối, kết hợp chặt chẽ giữa công tác trinh sát và hoạt động

điều tra tố tụng hỡnh sự. Cơ quan điều tra được tổ chức phù hợp với tổ chức của Toà án,

Viện Kiểm sát, không bắt buộc với đơn vị hành chính.

- Cơ quan thi hành án:

Thực hiện việc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan thi hành án; giao

cho Bộ Tư phỏp thống nhất quản lý cụng tỏc thi hành ỏn. Chuẩn bị điều kiện về tổ

chức, cán bộ, cơ sở vật chất để Bộ tư pháp thực hiện nhiệm vụ đó trong vài năm tới.

Xây đựng cơ chế phối hợp giữa cơ quan thi hành án của Bộ Tư pháp và cơ quan công

an, cơ quan điều tra để phục vụ yêu cầu đấu tranh phũng, chống tội phạm, bảo đảm

an ninh, an toàn cho công tác thi hành án.

Nghiên cứu hoàn thiện về tổ chức các cơ quan thi hành án phạt tù, thi hành án

dân sự. Các trại giam không phải là nơi chỉ để trừng phạt người bị phạt tù mà phải là nơi

cải tạo, giáo dục tốt phạm nhân, tạo điều kiện cho họ học tập, lao động, sớm được tái

hoà nhập với gia đỡnh, cộng đồng, xó hội. Nghiờn cứu cỏch phõn loại những trại giam;

thành lập cỏc trại giam cho phạm nhõn là người chưa thành niên. Tổ chức các cơ quan

thi hành án dân sự cần bảo đảm cho tính chủ động của các chấp hành viên khi thi hành

các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án.

Bên cạnh đó tiếp tục xác định rừ trỏch nhiệm của UBND cấp xó và của cơ quan

chuyờn mụn của UBND cấp tỉnh trong việc thi hành cỏc hỡnh phạt khụng phải là hỡnh

phạt tự để thực hịên nghiêm túc các bản án của Toà án.

Nghiờn cứu xó hội hoỏ hoạt động thi hành án dân sự và một số công việc trong

thi hành ỏn hỡnh sự; như việc giám sát, giáo dục người phạm tội bị toà tuyờn phạt hỡnh

phạt khụng phải cỏch ly với xó hội; thụng bỏo, tống đạt cho các bên đương sự các quyết

định thi hành án dân sự; định giá; bán đấu giá tài sản bảo đảm thi hành án; cung ứng

một số dịch vụ cho việc nuôi dưỡng, giáo dục phạm nhân; giúp người được tha tù nhanh

chóng tái hoà nhập cộng đồng...; lập các chức danh hoặc tổ chức để thực hiện một số

công việc trong thi hành các bản án, quyết định về dân sự.

Từ nay đến hết năm 2008 cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện tổ chức các cơ

quan tư pháp theo lộ trỡnh Nghị quyết 49-NQ/TW đó đề ra như sau:

Triển khai nghiên cứu, xây dựng Đề án thành lập Toà án sơ thẩm khu

vực, Toà án phúc thẩm, Toà án thượng thẩm; Đề án đổi mới tổ chức và hoạt

động của Toà án nhân dân tối cao; Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của

Toà án quân sự các cấp...

Tổng kết việc thực hiện chủ trương tăng thẩm quyền xét xử cho toà án

cấp huyện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hỡnh sự (sửa đổi) năm 2003 và

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.

Triển khai nghiên cứu xây dựng đề án về mô hỡnh tổ chức bộ máy và

chức năng nhiệm vụ của Viện Kiểm sát trong tiến trỡnh cải cách tư pháp.

Triển khai nghiên cứu, xây dựng Đề án về mô hỡnh cơ quan điều tra

cấp huyện và cơ quan điều tra trong quân đội cho phù hợp với việc đổi mới

mô hỡnh tổ chức Toà án theo thẩm quyền xét xử sẽ được thực hiện sau năm

2010.

Triển khai nghiên cứu xây dựng Đề án về việc chuẩn bị các điều kiện

cần thiết để giao Bộ Tư pháp thống nhất quản lý nhà nước về công tác thi

hành án.

Xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển các cơ quan tư pháp từ nay đến

2020, trước mắt cụ thể hơn cho giai đoạn đến năm 2010 để trỡnh các cơ quan

có thẩm quyền phê duyệt [2].

1.1.2.3. Hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp

Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp theo hướng phục

vụ tốt hơn yêu cầu của hoạt động tư pháp nói chung, của hoạt động xét xử nói riêng.

Trong đó, đặc biệt chỳ ý đến tổ chức và hoạt động của luật sư; cần xác định rừ vị trớ của

luật sư trong hoạt động tố tụng, nhất là khi thực hiện việc tranh tụng trong xét xử. Việc

đổi mới tổ chức và hoạt động bổ trợ tư pháp cần được tiến hành theo tính nâng cao tính

chuyên sâu, đồng thời xó hội hoỏ rộng rói đối với những hoạt động cú thể xó hội hoỏ

được.

- Hoàn thiện chế định luật sư:

Từng bước phân định rừ và hợp lý giữa cụng tỏc quản lý nhà nước về luật sư

và chế độ tự quản của tổ chức luật sư. Nhà nước tạo điều kiện phỏp lý để phát huy

chế độ tự quản của tổ chức luật sư; đề cao trách nhiệm của các tổ chức luật sư đối

với cỏc thành viờn của mỡnh. Nghiờn cứu thành lập tổ chức luật sư toàn quốc để

tăng cường tính tự quản và trách nhiệm của tổ chức luật sư.

Giải quyết tốt mối quan hệ giữa quản lý nhà nước và chế độ tự quản của tổ chức

luật sư nhằm tạo điều kiện phát triển đội ngũ luật sư Việt Nam đủ về số lượng, mạnh về

chất lượng và phỏt huy vai trũ của họ trong quỏ trỡnh dõn chủ hoỏ hoạt động tố tụng,

bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân.

Nghiên cứu để hoàn thiện cơ chế tranh tụng dân chủ, có cơ chế phỏp lý và bảo

đảm trên thực tế các quyền của luật sư trong việc bào chữa cho bị can, bị cáo, bảo vệ

quyền và lợi ích cho các đương sự.

Xây dựng, phát triển đội ngũ luật sư ngày càng đông đảo, có phẩm chất chính trị,

đạo đức nghề nghiệp, năng lực chuyên môn cao. Tiếp tục nghiên cứu mở rộng, đa dạng

hoỏ cỏc hỡnh thức hành nghề của luật sư để thu hút, tạo điều kiện cho những người có

kiến thức, tâm huyết theo nghề luật sư đáp ứng nhu cầu tư vấn phỏp luật, bào chữa, trợ

giỳp phỏp lý của nhõn dõn.

Trước mắt hoàn thành và triển khai Đề án thành lập tổ chức luật sư toàn quốc.

- Tiếp tục hoàn thiện chế định giám định tư pháp

Giám định tư pháp là hoạt động khoa học, có tính chuyên môn cao. Kết luận

giám định là ý kiến của nhà chuyờn mụn đánh giá về sự kiện, về bản chất vụ việc dưới

góc độ khoa học chứ khụng mang tớnh phỏp lý. Việc đỏnh giỏ về mặt phỏp lý kết luận

giỏm định là công việc các cơ quan và cán bộ tư pháp có thẩm quyền. Việc hoàn thiện

các chế định giám định tư pháp cần tập trung vào một số vấn đề sau:

Đối với một số lĩnh vực giám định có nhu cầu lớn, chưa có điều kiện xó hội hoỏ

được thỡ Nhà nước cần đầu tư để đáp ứng thường xuyên và kịp thời cho hoạt động tố

tụng (phỏp y, phỏp y tõm thần, kỹ thuật hỡnh sự...).

Đối với các lĩnh vực có nhu cầu giám định không lớn, không thường xuyên (tài

chính - kế toán, văn hoá, xây dựng, môi trường, khoa học - cụng nghệ...) thỡ cần xó hội

hoỏ bằng cơ chế thu hút các cơ quan, tổ chức chuyên môn, các chuyên gia giỏi trong

khu vực nhà nước cũng như ngoài khu vực nhà nước tham gia vào hoạt động giám định

tư pháp.

Quy định chặt chẽ, rừ ràng về trỡnh tự, thủ tục, cơ quan tiến hành, thời hạn trưng

cầu và thực hiện giám định. Trên cơ sở những quy định chung đó, tiến hành ban hành

quy chuẩn thực hiện giám định cụ thể phù hợp với những đặc thù riêng của lĩnh vực đó

để làm cơ sở đánh giá và sử dụng những kết luận giám định được chính xác.

Xác định rừ cơ chế giải quyết xung đột kết luận giám định trong trường hợp kết

luận giám định là nguồn chứng cứ chủ yếu làm căn cứ cho việc định tội, lượng hỡnh

trong tố tụng hỡnh sự hoặc làm căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu của

đương sự, xác định lỗi, trách nhiệm của các đương sự trong tố tụng dân sự.

Nghiờn cứu cỏc chế tài xử lý, bồi thường trong trường hợp tổ chức, cá nhân giám

định sai sót. Nghiên cứu quy định quyền giám định tư pháp của một số người tham gia

tố tụng, đặc biệt là quyền tự mỡnh yờu cầu giỏm định của các bên đương sự trong tố

tụng dân sự nhằm bảo đảm dân chủ, công bằng trong hoạt động tố tụng. Nghiên cứu xây

dựng cơ chế yêu cầu người giám định có mặt tại phiên toà để họ trỡnh bày về kết luận

giỏm định - nguồn chứng cứ mang tính khoa học để làm sáng tỏ những vấn đề cần phải

xác định tại phiên toà.

Thành lập và kiện toàn các tổ chức giám định tư pháp, theo quy định của Pháp lệnh

Giám định tư pháp, nhất là thành lập Viện Pháp y Quốc gia; các tổ chức giám định ở các

tỉnh, thành phố để phục vụ cho công tác điều tra, xét xử.

- Hoàn thiện chế định công chứng:

Nghiên cứu để xác định rừ phạm vi của cụng chứng, chứng thực; phõn biệt rừ

cụng chứng nội dung và cụng chứng hỡnh thức; giỏ trị phỏp lý của văn bản công chứng.

Xõy dựng mụ hỡnh quản lý nhà nước về công chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ

chức cơ quan công chứng thích hợp và có bước đi phù hợp để từng bước xó hội hoỏ

cụng việc này.

Trước tiên phải nghiên cứu tách công chứng với chứng thực hành chính, tiến tới

bỏ hẳn công chứng bản sao..., thu hẹp phạm vi những hợp đồng, giấy tờ cần phải công

chứng, chứng thực.

Trên cơ sở nghiờn cứu làm rừ bản chất của cụng chứng là chứng nhận tớnh xỏc

thực của hành vi và tớnh đúng đắn của giao dịch dân sự; xác định tính chất của công

chứng là dịch vụ công để thiết kế mô hỡnh cụng chứng và tiến hành xó hội hoỏ hoạt

động công chứng.

Trước mắt cần chuyển giao việc chứng thực cho các cơ quan hành chớnh (UBND

cấp xó hoặc cơ quan chuyên môn của UBND các cấp). Có thể thành lập các Văn phũng

cụng chứng (Một cụng chứng viờn) hoặc chi nhỏnh của phũng cụng chứng ở cấp huyện

để phục vụ nhu cầu cụng chứng của nhõn dõn. Nghiờn cứu chuyển cỏc phũng cụng

chứng sang chế độ tự trang trải về tài chớnh (Phũng cụng chứng là đơn vị sự nghiệp có

thu). Tiến tới nghiên cứu giao một số hoạt động công chứng cho một số tổ chức không

phải là Nhà nước thực hiện. Quy định trỏch nhiệm nghề nghiệp cụ thể cho cụng chứng

viờn. Xõy dựng tiờu chuẩn cụng chứng viờn, quy trỡnh và cỏch thức bổ nhiệm cụng

chứng viờn khi tiến hành xó hội hoỏ trong lĩnh vực này.

1.1.2.4. Xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp trong

sạch, vững mạnh

Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp theo hướng nâng cao và cụ thể

hoá tiêu chuẩn đối với từng loại cán bộ về chính trị, phẩm chất đạo đức, chuyên môn

nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xó hội.

Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào tạo cán bộ

nguồn của các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp; bồi dưỡng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư

pháp theo hướng cập nhật các kiến thức mới về chính trị, phỏp luật, kinh tế, xó hội; cú

kỹ năng nghề nghiệp cao và kiến thức thực tiễn, có phẩm chất đạo đức, dũng cảm đấu

tranh vỡ cụng lý, bảo vệ phỏp chế xó hội chủ nghĩa. Cỏc cơ quan tư pháp, cơ quan bổ

trợ tư pháp phối hợp chặt chẽ với Học viện Tư pháp để chủ động xây dựng kế hoạch,

nội dung đào tạo và bố trí, sử dụng có hiệu quả những cán bộ đó được đào tạo. Xây

dựng chương trỡnh đào tạo chung về những kiến thức cơ bản, sau đó đào tạo chuyên sâu

về từng nghiệp vụ cụ thể. Chương trỡnh đào tạo phải theo hướng đào tạo nghề, bảo đảm

ra trường có thể làm việc tại vị trí mà khi đào tạo đó xỏc định. Tăng cường bồi dưỡng

ngắn ngày trong quỏ trỡnh cụng tỏc.Thường xuyên tổ chức việc đào tạo lại cho các cán

bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp.

Xây dựng cơ chế thu hút, tuyển chọn những người có tâm huyết, đủ đức, tài vào

làm việc tại các cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp. Mở rộng nguồn để bổ trợ vào các chức

danh tư pháp không chỉ là các cán bộ trong các cơ quan tư phỏp, mà cũn là cỏc luật gia,

luật sư...

Đổi mới việc tuyển chọn, bổ nhiệm các chức danh tư pháp. Nghiên cứu chế độ

thi tuyển đối với một số chức danh. Có thể tổ chức các kỳ thi quốc gia để tuyển chọn

nguồn chức danh tư pháp. Tăng thời hạn bổ nhiệm hoặc thực hiện chế độ bổ nhiệm

không có kỳ hạn đối với cán bộ có chức danh tư pháp.

Tăng cường kiểm tra, thanh tra việc thực thi nhiệm vụ, đạo đức của cán bộ tư

pháp và bổ trợ tư pháp. Bên cạnh đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả của việc tự kiểm tra,

thanh tra của các cơ quan tư phỏp, của cỏc tổ chức xó hội, nghề nghiệp của cỏn bộ bổ

trợ tư pháp, phải xây dựng, hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát của Quốc

hội, Hội đồng nhõn dõn, của cỏc tổ chức xó hội, của nhõn dõn đối với cán bộ tư pháp;

tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra của Nhà nước đối với các hoạt động của các

chức danh bổ trợ tư pháp.

Xây dựng chế độ, chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp với lao động,

cống hiến của cán bộ tư pháp. Khen thưởng, tôn vinh các cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp

giỏi, có nhiều cống hiến, dũng cảm đấu tranh chống tội phạm, chống tham nhũng, tiờu

cực, bảo vệ cụng lý, bảo vệ nhõn dõn. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh kịp thời với các

biểu hiện tham ô, tham nhũng, tiêu cực khác trong đội ngũ cán bộ tư pháp.

1.2. phương thức lãnh đạo của đảng cộng sản việt nam trong thực hiện cải

cách tư pháp ở Việt Nam

1.2.1. Nhận thức chung về Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo Nhà nước

Quan niệm về Đảng chính trị:

Vấn đề Đảng chính trị, Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo "đã có nhiều ý kiến cho

rằng, đây là vấn đề khó, phức tạp...". Theo điều 4 Hiến pháp năm 1992 quy định "Đảng

Cộng sản Việt Nam, đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung

thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ

nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.

Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật".

Trong Thảo luận của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 5 kháo X có ý

kiến cho rằng như Điều 4 của Hiến pháp đã khẳng định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng

đối với nhà nước và xã hội về mặt pháp lý. Đối với loại ý kiến cho rằng cần có luật

hoạt động của Đảng để cụ thể hoá Điều 4 của Hiến pháp; vì Đảng lãnh đạo nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân nên "cần phải

có luật về hệ thống chính trị và về Đảng". Bộ Chính trị cho rằng: "Đây là vấn đề hệ

trọng và nhạy cảm Bộ Chính trị đã thảo luận, cân nhắc kỹ, quyết định không đưa vấn

đề này vào đề án" [10, tr.94-95].

Rõ ràng đây là vấn đề cần được nhận thức từ góc độ Chính trị học và Luật học

(chính trị pháp lý).

Trước hết có thể nhận thức rõ ràng rằng: Đảng ta là một Đảng chính trị hay còn

gọi là chính Đảng, đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam đại biểu trung thành

lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, là một tổ chức có

tư cách pháp nhân (hoạt động hợp hiến) hoạt động liên tục, từ khi thành lập đến nay

(1930) thực hiện mục tiêu giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.

Đặc trưng cơ bản của Đảng ta là:

Thứ nhất: Là tổ chức chính trị thể hiện ý chí của giai cấp công nhân đại diện

cho lợi ích của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và nhân dân

lao động nói chung và đại diện lợi ích của cả dân tộc Việt Nam. Đặc trưng này thể

hiện tính giai cấp sâu sắc và tính nhân dân, tính xã hội rộng lớn.

Thứ hai: Đảng Cộng sản Việt Nam là một Đảng mác xít, theo chủ nghĩa Mác -

Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng đường lối đổi mới toàn diện đất nước ngày

càng tạo ra sự đồng thuận cao giữa Đảng và nhân dân, dân tộc, thông qua hoạt động của

Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam.

Thứ ba: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cả dân tộc giành độc lập dân tộc toàn

vẹn lãnh thổ và giành chính quyền về tay nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng

cầm quyền "độc tôn lãnh đạo" trực tiếp toàn diện đối với nhà nước. Đảng không buông

lỏng sự lãnh đạo của mình và cũng không can thiệp, làm thay công việc của Nhà nước.

Đồng thời coi trọng "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở

chính trị của chính quyền nhân dân".

Thứ tư: Đảng Cộng sản Việt Nam là một hệ thống tổ chức chặt chẽ từ Trung

ương đến cơ sở với một lực lượng đảng viên đông đảo.

Thứ năm: Trong cơ chế vận hành chung của cả xã hội Đảng là lực lượng lãnh

đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Như vậy, trong tổ chức hoạt động của cả

hệ thống chính trị, Nhà nước pháp quyền XHCN là trung tâm. Đảng lãnh đạo nhà nước

được phân biệt với hoạt động quản lý nhà nước và bảo đảm quyền làm chủ của nhân

dân.

Quan niệm về Đảng cầm quyền:

Đảng cầm quyền là một phạm trù chính trị pháp lý phản ánh hiện tượng xã hội về

quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp nhân dân trong đời sống chính trị của các quốc

gia. Quyền lực nhà nước trong Hiến pháp của các nhà nước theo chính thể cộng hoà

(Cộng hoà Đại nghị, Cộng hoà Tổng thống, Cộng hoà XHCN) đều thừa nhận quyền lực

nhà nước thuộc về nhân dân. Vì vậy, các Đảng chính trị đại diện cho giai cấp, tầng lớp

nhân dân nhất định, hoặc đại diện cho cả dân tộc đều thực hiện việc nắm giữ quyền lực

nhà nước để thông qua nhà nước thực hiện ý chí vai trò của Đảng trong đời sống đất

nước.

Trong các chế độ chính trị, đa đảng hay độc đảng thì chính quyền (nhà nước) bao

giờ cũng do một Đảng hay liên minh một số đảng nắm giữ. Đó là hiện thực của đời sống

chính trị đương đại.

Các Đảng cầm quyền hoặc liên minh cầm quyền đều nắm trong tay chính quyền

bao gồm cả quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Đảng muốn nắm quyền lập pháp thì Đảng phải nắm được đa số ghế trong Quốc

hội (Nghị viện, Đuma quốc gia).

Đảng muốn nắm được quyền hành pháp Đảng đó phải được quyền lập Chính

phủ, đặc biệt là nắm giữ chức vụ của người đứng đầu Chính phủ và được bổ nhiệm

người đứng đầu cơ quan tư pháp.

Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo đất nước

chủ yếu thông qua nhà nước. Đảng lập các tổ chức đảng hoạt động trong các

cơ quan nhà nước và giới thiệu những đảng viên ưu tú vào các vị trí lãnh đạo

chủ chốt của bộ máy nhà nước để lãnh đạo thể chế hoá và tổ chức thực hiện

đúng đắn cương lĩnh, nghị quyết, chỉ thị của Đảng [10, tr.91-92].

Quan niệm về Đảng lãnh đạo Nhà nước khái niệm "Đảng lãnh đạo" được sử

dụng rộng rãi trong các văn kiện của Đảng Cộng sản. Khái niệm "lãnh đạo" được hiểu là

"I. Dẫn dắt tổ chức phong trào theo đường lối cụ thể... II. Cơ quan lãnh đạo bao gồm

những người có khả năng tổ chức dẫn dắt phong trào..." [45, tr.979].

Theo nghĩa này, đối với Đảng chính trị, một Đảng cầm quyền "lãnh đạo" còn bao

hàm các nghĩa "thuyết phục", "gây ảnh hưởng", "khả năng huy động và hướng các nỗ

lực của một tập thể vào việc thực hiện một mục tiêu nào đó". Như vậy, từ "lãnh đạo"

luôn gắn với phương thức cụ thể, với những biện pháp, cách thức, hình thức tác động

đối với đối tượng của sự lãnh đạo. Đảng lãnh đạo Nhà nước phát sinh mối quan hệ giữa

Nhà nước với Đảng cầm quyền, Nhà nước trở thành đối tượng của sự lãnh đạo. Vì vậy,

tổ chức và hoạt động của Nhà nước phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Điều đó được

coi là nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong tổ chức hoạt động của Nhà nước.

Trong chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010

định hướng đến năm 2020 Đảng ta chỉ rõ: "1.1. Đổi mới và không ngừng hoàn thiện

phương thức lãnh đạo của Đảng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng phù hợp với Hiến

pháp, pháp luật, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, nâng

cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước, phát huy tính tích cực, chủ

động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân".

1.2.2. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ở Việt Nam

Bất kỳ một đảng chính trị nào muốn lãnh đạo xã hội thì phải giành được chính

quyền nhà nước và thực hiện sự lãnh đạo của mình thông qua bộ máy nhà nước. Đảng

cộng sản cũng không nằm ngoài qui luật đó. Là một đảng cầm quyền, ý chí của đảng

phải trở thành ý chí và hành động của xã hội và điều này được thực hiện thông qua hoạt

động của bộ máy nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước được thể hiện qua

nội dung lãnh đạo; phương thức lãnh đạo và tác phong, lề lối làm việc. ở nước ta, sau

khi lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền, Đảng cộng sản Việt nam đã tiếp tục

lãnh đạo xây dựng chính quyền, xây dựng nhà nước và lãnh đạo cả xã hội. Sự lãnh đạo

đối với xã hội, sự lãnh đạo đó được thể hiện qua những nội dung sau đây:

- Đảng đề ra đường lối, chủ trương về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá-xã

hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại…

- Đảng lãnh đạo nhà nước thể chế hoá đường lối, chủ trương của mình thành các

qui định pháp luật, chiến lược, chính sách, kế hoạch và phương hướng phát triển kinh tế

-xã hội.

- Đảng lãnh đạo nhà nước bằng công tác tổ chức và cán bộ. Đảng thống nhất

quản lý và quyết định tổ chức bộ máy và cán bộ trong các cơ quan nhà nước trên cơ sở

của chế độ bầu và cử, thông qua Nhà nước thực hiện quyền bãi nhiệm, miễn nhiệm

những cán bộ là đảng viên trong bộ máy nhà nước.

- Đảng thực hiện chức năng kiểm tra và giám sát hoạt động của nhà nước thông

qua tổ chức đảng, đảng viên, bằng việc lãnh đạo các cơ quan thanh tra nhà nước; tổ

chức, lãnh đạo,động viên quần chúng kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà

nước và cán bộ, công chức; phối hợp xây dựng qui chế kiểm tra giữa cấp uỷ với cơ quan

nhà nước và các đoàn thể.

Đảng lãnh đạo nhà nước bao gồm hai yếu tố có mối quan hệ mật thiết với nhau,

đó là: nội dung và cách thức thực hiện nội dung (phương thức). Nội dung Đảng lãnh đạo

nhà nước là những công việc, những nhiệm vụ mà Đảng phải làm với tư cách là người

lãnh đạo. Phương thức lãnh đạo của Đảng hiểu theo nghĩa chung nhất đó là hệ thống các

phương pháp và những hình thức mà Đảng sử dụng để tác động vào những đối tượng

lãnh đạo để thực hiện các nội dung và mục tiêu lãnh đạo của mình. Phương thức lãnh

đạo phụ thuộc vào nội dung lãnh đạo, hoàn cảnh lịch sử thế giới và đất nước ở mỗi một

giai đoạn cụ thể.

Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do

dân, vì dân ở nước ta hiện nay đòi hỏi Đảng phải không ngừng hoàn thiện nội dung và

phương thức lãnh đạo, đặc biệt là phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước,

trong đó có các cơ quan tư pháp. Đây là một trong những nhân tố quan trọng, có tác

động rất lớn đến thành công và thất bại của nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền

hiện nay.

1.2.3. Phương thức lãnh đạo của Đảng trong thực hiện cải cách tư pháp ở

Việt Nam hiện nay

Phương thức lãnh đạo là một trong những nhân tố quan trọng quyết định chất

lượng và hiệu quả lãnh đạo của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn

luôn không ngừng đổi mới và hoàn thiện phương thức của mình cho phù hợp với đặc

điểm, chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống chính trị và yêu cầu của

thực tiễn cuộc sống. Đồng thời, đây cũng là một nội dung hết sức quan trọng của công

tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nâng cao hiệu quả, hiệu lực trong hoạt động của nhà

nước trong giai đoạn hiện nay.

Cơ quan tư pháp đóng một vai trò hết sức quan trọng trong cơ cấu quyền lực nhà

nước. Tăng cường và đổi mới phương thứ lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư

pháp là một yêu cầu hết sức quan trọng đối với công cuộc xây dựng nhà nước pháp

quyền ở nước ta hiện nay. Sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp nhằm đạt

tới mục tiêu: đảm bảo hoạt động của các cơ quan tư pháp theo đúng định hướng chính

trị xã hội chủ nghĩa, giữ vững bản chất tốt đẹp của nhà nước là nhà nước của dân, do

dân, vì dân; phát huy hiệu lực hiệu quả của bộ máy nhà nước, giữ gìn trật tự và pháp chế

xã hội chủ nghĩa; đảm bảo sự công bằng, tính nghiêm minh trong thực thi pháp luật.

Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp là lãnh đạo toàn diện, gồm nhiều nội dung như lãnh

đạo về chính trị, tư tưởng; công tác tổ chức và cán bộ; định hướng công tác của ngành.

sự lãnh đạo đó được thể hiện thông qua việc đưa ra các nguyên tắc, quan điểm chỉ đạo

định hướng công tác tư pháp, thông qua việc kiểm tra và giám sát các hoạt động tư

pháp. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp trước hết

cần tập trung vào các nội dung chủ yếu sau đây:

Thứ nhất: Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp phải được

thiết lập phù hợp với đặc điểm tổ chức và hoạt động của ngành tư pháp. Sự lãnh đạo của

Đảng đối với các cơ quan tư pháp phải đảm bảo được tính độc lập trong các hoạt động

điều tra, tính nghiêm minh trong xét xử, đảm bảo nguyên tắc xét xử đúng người, đúng

tội, "quân pháp bất vị thân". Đây là những yêu cầu hết sức quan trọng, là một trong

những nguyên tắc cơ bản trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền. Cấp uỷ Đảng

không trực tiếp can thiệp vào công tác xét xử, không chỉ thị quyết định tội danh cũng

như khung hình phạt. Khi cần thiêt, có thể chỉ đạo phối hợp với các cơ quan khác cho ý

kiến về việc xét xử các vụ án liên quan đến an ninh quốc phòng, an ninh chính trị và

những vụ án gây dư luận, sự chỉ đạo này phải dựa trên những qui định của pháp luật. Cụ

thể, Bộ Chính trị quyết định chủ trương, chính sách xử lý các loại tội phạm xâm phạm

an ninh quốc gia; đề ra chủ trương và nhiệm vụ chống tham nhũng và các vụ án nghiêm

trọng khác liên quan đến cán bộ, đảng viên thuộc diện quản lý của mình. Phối hợp với

các cấp uỷ Đảng, Đảng đoàn tạo điều kiện cho các cơ quan tư pháp thực hiện đúng chức

năng của mình trong việc điều tra, truy tố và xét xử đúng người, đúng tội. Sự lãnh đạo

này không phải nhằm can thiệp vào tính độc lập trong xét xử của các cơ quan tư pháp, mà

nhằm tạo điều kiện để các cơ quan tư pháp thực hiện đúng chức năng của mình, xét xử

đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đặc biệt đối với các vụ án nghiêm trọng và phức tạp.

Thứ hai: Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp

trước hết cần phải xây dựng cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ, nâng cao năng lực và

trách nhiệm của đội ngũ cán bộ tư pháp. Sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư

pháp được thực hiện thông qua các Ban Cán sự Đảng đoàn, Bộ Chính trị là cơ quan có

thẩm quyền quyết định việc thành lập các Ban Cán sự Đảng đoàn trong các cơ quan tư

pháp. Ban Cán sự Đảng đoàn có trách nhiệm lãnh đạo ngành mình thực hiện đúng chủ

trương, đường lối, nghị quyết của Đảng; thực hiện các nghị quyết của Đảng về những

vấn đề tổ chức và cán bộ. Ban cán sự Đảng đoàn hoạt động dựa trên nguyên tắc tập thể

lãnh đạo, cá nhân phụ trách, quyết định theo đa số. Cần xây dựng qui chế qui định rõ

trách nhiệm, quyền hạn của các cấp uỷ và từng đồng chí cấp uỷ viên và qui chế làm việc

giữa lãnh đạo cấp uỷ với lãnh đạo các cơ quan tư pháp. Thực hiện nghị quyết của Bộ

Chính trị về cải cách tư pháp, để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các cơ

quan tư pháp, chúng ta cần phải tiếp tục thực hiện việc cải cách tổ chức, nâng cao chất

lượng hoạt động của cơ quan tư pháp và đội ngũ cán bộ tư pháp. Theo đó, từng bước

sắp xếp lại hệ thống Toà án nhân dân theo hướng thành lập các Toà án khu vực, tăng

thẩm quyền của Toà án; xây dựng đội ngũ thẩm phán, thư ký toà đủ về số lượng và đảm

bảo về chất lượng. Đối với Viện Kiểm sát nhân dân, từng bước phân định rõ chức năng

của có quan kiểm sát theo hướng cơ quan kiểm sát chỉ thực hiện quyền công tố và kiểm

tra giám sát các hoạt động tư pháp. Thực hiện tổ chức lại cơ quan điều tra theo hướng

sắp xếp, thu gọn đầu mối cơ quan điều tra, phân định rõ thẩm quyền của các cơ quan

điều tra; xây dựng đội ngũ cảnh sát tư pháp đủ mạnh và chuyên nghiệp; sắp xếp lại cơ

quan thi hành án, phân định rõ cơ quan quản lý thi hành án dân sự và thi hành án hình

sự; thực hiện việc chuẩn hoá các chức danh tư pháp.

Thứ ba: Thực hiện tốt chế độ kiểm tra thường xuyên và định kỳ đối với các cơ

quan tư pháp và đội ngũ cán bộ tư pháp trong việc chất hành quan điểm, đường lối,

chính sách và chủ trương của Đảng. Để thực hiện tốt công tác kiểm tra, các cấp uỷ Đảng

cần phải xây dựng chương trình kiểm tra, xác định rõ các nội dung cần kiểm tra. Trong

quá trình kiểm tra cần phải dựa vào tổ chức Đảng và cán bộ đảng viên trong ngành; đối

với việc kiểm tra những vấn đề mang tính chuyên môn khi đưa ra kết luận phải đảm bảo

tính chính xác và không can thiệp đến nguyên tắc độc lập của tư pháp theo qui định của

pháp luật. Tăng cường phối hợp việc kiểm tra của cấp uỷ với việc kiểm tra của ngành;

xây dựng cơ chế giám sát xã hội đối với hoạt động của ngành tư pháp và đội ngũ cán bộ

tư pháp.

Đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương: ở cấp tỉnh, Ban Thường vụ tỉnh uỷ,

thành uỷ thực hiện sự lãnh đạo trực tiếp đối với Toà án nhân dân tỉnh và Viện Kiểm sát

nhân dân tỉnh trong việc kiểm tra, giám sát công tác truy tố, xét xử theo đúng đường lối,

chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Thực hiện sự lãnh đạo cơ quan tư pháp

địa phương thông qua việc giới thiệu nhân sự giữ các cương vị chủ chốt lãnh đạo ngành

Toà án và Kiểm sát; phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc bố trí sắp xếp tổ

chức bộ máy và đào tạo đội ngũ cán bộ, đảng viên cho các cơ quan này. Phối hợp với

Toà án, Viện Kiểm sát và cơ quan điều tra trong việc xử lý các cán bộ do mình quản lý

có vi phạm pháp luật; cho ý kiến chỉ đạo đường lối xét xử đối với các các vụ án chính

trị, những vụ án hình sự nguy hiểm có ảnh hưởng đến an ninh chính trị và trật tự an toàn

xã hội; những vụ án mà giữa cơ quan điều tra, cơ quan công tố và cơ quan xét xử có ý

kiến khác nhau về quan điểm, đường lối xử lý.

ở cấp quận, huyện: Ban Thường vụ huyện uỷ thực hiện sự lãnh đạo của mình đối

với cơ quan Công an, Toà án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân huyện thông qua Ban

Cán sự Đảng và đảng viên trong các cơ quan này. Các cấp uỷ Đảng tiến hành kiểm tra

việc chấp hành các nghị quyết của Đảng, việc chấp hành các qui định pháp luật về đấu

tranh phòng chống tội phạm và công tác truy tố, xét xử. Trên cơ sở qui định của pháp

luật, thực hiện việc cho ý kiến chỉ đạo đối với các vụ án mà người phạm tội là cán bộ

thuộc diện tỉnh và huyện quản lý, là nhân sỹ, trí thức, chức sắc tôn giáo có ảnh hưởng

trong xã hội; những vụ án chính trị, hình sự phức tạp mà các cơ quan điều tra, truy tố và

xét xử có ý kiến khác nhau trong quan điểm xử lý.

1.3. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong thực hiện cải cách tư pháp ở nước ta

1.3.1. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc định ra đường lối, nội

dung cải cách tư pháp làm cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ

chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp

Xây dựng, hoạch định đường lối, nội dung cải cách tư pháp là một trong những

nội dung quan trọng trong quá trình lãnh đạo cải cách tư pháp của Đảng. Trong quá

trình xây dựng bộ máy nhà nước Việt Nam, ở mỗi một giai đoạn lịch sử, Đảng Cộng sản

Việt Nam đều có những chủ trương hết sức đúng đắn, kịp thời lãnh đạo việc xây dựng

bộ máy nhà nước nói chung và cải cách tư pháp nói riêng.

Tại Hội nghị lần thứ 14 (tháng 11 năm 1958), Đảng ta đã chủ trương tăng cường

việc xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với bộ

máy nhà nước nói chung và đối với Toà án nói riêng. Thực hiện chủ trương đó, công tác

tư pháp đã có những thay đổi đáng kể, cơ quan xét xử và cơ quan công tố đã tách ra

khỏi Bộ Tư pháp, đây là mốc quan trọng đánh dấu sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ

quan tư pháp nói chung và cải cách tư pháp nói riêng.

Tiếp đó, nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, bọn

phản động, ngày 20 tháng 01 năm 1962, Bộ Chính trị đã có Nghị quyết 39- NQ/TW về

đấu tranh trấn áp bọn phản cách mạng, hoạt động tổ chức phản cách mạng và hoạt động

chiến tranh tâm lý. Để phân định hơn nữa chức năng, quyền hạn của ngành công an và

tổ chức Đảng trong công tác bảo vệ Đảng, tháng 3 năm 1979, Ban Bí thư đã ban hành

Chỉ thị số 68/CT-TW về vấn đề này. Chỉ thị đã qui định nếu cán bộ, đảng viên là cấp uỷ

viên phạm pháp cần phải tiến hành điều tra, tuỳ theo từng trường hợp cụ thể mà xử lý

thích hợp. Tháng 12 năm 1980, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 31- NQ-TW về

nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn an toàn trật tự xã hội trong tình hình mới. Chỉ

thị đã qui định những nguyên tắc chỉ đạo công tác đấu tranh bảo vệ an ninh chính trị, an

toàn xã hội dưới sự lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện của Đảng, trên cơ sở phát huy quyền

làm chủ tập thể, tinh thần sáng tạo của nhân dân.

Bước vào thời kỳ đổi mới, hệ thống chính trị, trong đó có các cơ quan tư pháp đã

bộc lộ nhiều bất cập so với tình hình thực tế của đất nước, chưa đáp ứng được những

đòi hỏi đặt ra từ thực tiễn cuộc sống. Nhận thức rõ tầm quan trọng của sự lãnh đạo của

Đảng đối với công tác tư pháp, các cấp uỷ đảng từ Trung ương đến cơ sở đã quan tâm

nhiều đến công tác tư pháp, đã ban hành và chỉ đạo thực hiện nhiều chỉ thị, nghị quyết

về công tác tư pháp hoặc có liên quan đến công tác tư pháp nhằm tăng cường sự lãnh

đạo của Đảng và tạo điều kiện cho các cơ quan tư pháp thực hiện tốt chức năng, nhiệm

vụ. Đảng đã chủ trương xây dựng chiến lược cải cách các cơ quan tư pháp theo hướng

tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật làm cơ sở cho tổ chức

và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp. Phân định lại thẩm quyền xét xử của

Toà án; đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân các cấp, các cơ quan

điều tra, thi hành án và bổ trợ tư pháp; xây dựng và kiện toàn đội ngũ thẩm phán, thư ký

tòa, điều tra viên, chấp hành viên, công chứng viên, giám định viên, luật sư… có phẩm

chất chính trị và đạo đức nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.

Nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác cải cách tư pháp, Đảng đã tiến hành tổng kết,

đánh giá quá trình thực hiện các chủ trương về cải cách tư pháp và kịp thời đề ra các

chương trình, kế hoạch đẩy mạnh cải cách tư pháp. Năm 2002, Bộ Chính trị đã ra Nghị

quyết 08- NQ/TW về cải cách tư pháp; tiếp đó để đẩy mạnh hơn nữa quá trình xây dựng

nhà nước pháp quyền, năm 2006, Bộ Chính trị lại ra Nghị quyết 49- NQ/TW về chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

1.3.2. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc chỉ đạo thực hiện cải

cách tư pháp

Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng Việt

Nam là một tất yếu lịch sử và là tất yếu khách quan. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng

đối với Nhà nước là nhằm giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước, bảo

đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, đưa sự nghiệp đổi mới đi đúng định

hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong quá trình chỉ đạo thực hiện cải cách tư pháp, vai trò lãnh đạo của Đảng

được thể hiện trên những nội dung trọng yếu sau đây:

- Đảng lãnh đạo các cơ quan nhà nước thể chế hoá đường lối, chủ trương của

Đảng thành pháp luật; đảm bảo cho đường lối, chủ trương, chính sách đó trở thành hiện

thực sinh động trong đời sống toàn xã hội. Trong điều kiện Đảng lãnh đạo thực hiện cải

cách tư pháp hiện nay, việc thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng phải tập trung

vào một số vấn đề hết sức then chốt như thực hiện cho được quyền làm chủ của nhân

dân; xây dựng cơ quan tư pháp, đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh; đảm bảo

tính độc lập và tính minh bạch của các cơ quan tư pháp trong hoạt động điều tra, truy tố,

xét xử...

- Đảng thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo của mình đối với các cơ quan tư pháp

thông qua đội ngũ đảng viên. Do đó, Đảng phải lãnh đạo chăm lo xây dựng đội ngũ cán

bộ, công chức trong ngành tư pháp đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân nói chung và cải

cách tư pháp nói riêng. Đảng phải tăng cường quản lý đội ngũ cán bộ, công chức trong

sạch, vững mạnh. Muốn vậy, Đảng phải lãnh đạo công tác quy hoạch và chiến lược cán

bộ nói chung trong đó có cán bộ nhà nước, từ đó chăm lo công tác đào tạo kể cả việc

đào tạo lại, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà nước theo yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình

mới theo hướng đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước ta thực sự vừa là người lãnh đạo,

vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân, theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

- Đảng thực hiện lãnh đạo công cuộc cải cách tư pháp thông qua công tác kiểm

tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước. Đảng phải tăng cường công tác

kiểm tra các tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước,

đảm bảo cho các cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước thực hiện đúng

đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ công tác này, Đảng phải hết sức chú ý phát huy vai

trò, trách nhiệm của đội ngũ đảng viên và tổ chức đảng trong các cơ quan tư pháp.

Bên cạnh đó, Đảng cần phải phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các

thành viên của Mặt trận trong việc kiểm tra, giám sát các hoạt động của các cơ quan

nhà nước nói chung và cơ quan tư pháp nói riêng; bảo đảm quyền làm chủ của nhân

dân, thu hút sự tham gia ngày càng rộng rãi của nhân dân vào công việc quản lý của

nhà nước, đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu và những hiện tượng tiêu cực khác

trong bộ máy nhà nước cũng như trong đời sống xã hội, làm cho xã hội ngày càng

lành mạnh, sống có trật tự, kỷ cương, từng bước thực hiện xã hội công bằng, dân

chủ, văn minh.

1.3.3. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công tác xây dựng cán bộ

tư pháp

Cán bộ là nhân tố quan trọng, có vai trò quyết định đến thành công hay thất bại

của công cuộc cải cách tư pháp. Sự lãnh đạo của Đảng đối với cải cách tư pháp thể hiện

trước hết ở vai trò của Đảng trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, thể hiện qua

một số điểm sau đây:

- Đảng đề ra chủ trương, nghị quyết và lãnh đạo thực hiện công tác tổ chức, cán

bộ đảm bảo đúng tiêu chuẩn, quy trình và thẩm quyền trong việc sắp xếp, quản lý, đào

tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ trong các cơ

quan tư pháp. Thực hiện việc định hướng, phối hợp với các cơ quan liên quan khác cho

ý kiến trong việc bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo cơ quan tư pháp. Cụ thể, Đảng lãnh đạo việc

rà soát đội ngũ cán bộ tư pháp; xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cả về

chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị; lãnh đạo việc qui hoạch, luân chuyển, bổ

nhiệm, miễn nhiệm cán bộ và các chức danh tư pháp; lãnh đạo việc khen thưởng và kỷ

luật cán bộ, đảng viên trong các cơ quan tư pháp.

- Đảng thực hiện việc giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên nêu cao vai trò tiền

phong, gương mẫu, thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao; xây dựng kế hoạch và tạo

điều kiện để đảng viên thực hiện nhiệm vụ học tập, không ngừng nâng cao trình độ về

mọi mặt.

- Đảng lãnh đạo xây dựng kế hoạch, biện pháp quản lý đảng viên, kiểm tra đảng

viên, phân công nhiệm vụ và tạo điều kiện cho đảng viên hoàn thành nhiệm vụ được

giao; thực hiện tốt việc giới thiệu đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối quan

hệ với chi uỷ đảng cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú. Làm tốt

công tác động viên, khen thưởng, kỷ luật đảng viên; biểu dương, khen thưởng kịp thời

những cán bộ, đảng viên có thành tích xuất sắc, xử lý nghiêm, kịp thời những cán bộ,

đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Chương 2

Thực trạng hoạt động lãnh đạo của đảng trong thực hiện cải cách tư pháp ở tỉnh Bắc Ninh

2.1. Thực trạng tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp ở tỉnh Bắc

Ninh hiện nay

2.1.1. Tổng quan tình hình kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng của tỉnh

Bắc Ninh

Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ, nằm trong vùng tam giác kinh tế

động lực Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, tiếp giáp với các tỉnh Bắc Giang (phía

Bắc), Hà Nội (Tây - Nam), Hưng Yên (phía Đông), là địa bàn có nhiều tuyến quốc lộ

quan trọng chạy qua như Quốc lộ 1A, Quốc lộ 18, Quốc lộ 38, đường sắt xuyên Việt...

đây là tỉnh có vị trí chiến lược hết sức quan trọng. Tỉnh Bắc Ninh có 7 huyện, 1 thành phố, với 109 xã, 9 phường và 7 thị trấn, diện tích tự nhiên 822,7 km2, mật độ dân số trung bình 1.214 người/km2 [4, tr.7].

Kể từ sau khi tách tỉnh đến nay, kinh tế của Bắc Ninh không ngừng tăng trưởng

với tốc độ cao, giai đoạn 1997-2005 đạt 13%, vượt mức tăng trưởng bình quân 7% của

cả nước, xếp thứ hai về tốc độ tăng trưởng kinh tế ở vùng đồng bằng sông Hồng (sau

Vĩnh Phúc 16,86%); năm 1998, kim ngạch xuất khẩu đạt 25,67 triệu USD, năm 2000 đạt

47,8 triệu USD và năm 2005 đạt 95,7 triệu USD, bình quân mỗi năm kim ngạch xuất khẩu

tăng trung bình 18,7% [4, tr.14].

Bắc Ninh là một trong những địa phương đi đầu trong việc phát triển sự nghiệp

giáo dục - đào tạo và y tế; toàn tỉnh có 145/312 trường đạt danh hiệu trường chuẩn quốc

gia, năm 2000 tỉnh được Bộ Giáo dục và đào tạo công nhận hoàn thành chương trình

phổ cập giáo dục tiểu học, chương trình giáo dục phổ cập trung học cơ sở năm 2002 và

dự kiến năm 2008 tỉnh sẽ hoàn thành việc phổ cập giáo dục trung học phổ thông; hàng

năm tỷ lệ học sinh tốt nhiệp tiểu học vào lớp 6 đạt 99,6%, tốt nghiệp trung học phổ

thông cơ sở đạt 85%, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học thi đỗ cao đẳng, đại học chiếm

khoảng 30%. Chất lượng đội ngũ giáo viên ở các ngành học, các cấp học không ngừng

được nâng cao; tỷ lệ giáo viên phổ thông các cấp đạt chuẩn trở lên đều tăng, năm học

2004 - 2005 có 3.800 giáo viên tiểu học đạt chuẩn, chiếm 98,7%; cấp trung học cơ sở có

3.597 người, chiếm 93,9% và cấp trung học phổ thông là 1.986 người, đạt 99,3%. Năm

2005, toàn tỉnh có 151 cơ sở khám chữa bệnh, trong đó có 13 bệnh viện các loại, 7

phòng khám đa khoa và khu vực, 126 trạm y tế xã, phường, thị trấn; với 1955 giường

bệnh, đạt tỷ lệ 19,5 giường bệnh trên 1 vạn dân [4, tr.176-177].

Là vùng đất có truyền thống văn hoá và lịch sử lâu đời, hằng năm ngành văn hoá

của tỉnh đã triển khai nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá bổ ích, góp phần vào việc giữ

gìn, phát triển văn hoá truyền thống, nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân trong

tỉnh. Phong trào toàn dân xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư tiếp tục được đẩy

mạnh, đến nay toàn tỉnh có 553 làng, khu dân phố đạt danh hiệu làng/ khu phố văn hoá,

vượt 18% so với mục tiêu đã đề ra; nhờ có những hoạt động này, các tệ nạn xã hội, hủ

tục lạc hậu đã giảm đi đáng kể, các giá trị văn hoá truyền thống được giữ gìn và phát

huy bản sắc. Phong trào thể dục, thể thao không ngừng được đẩy mạnh, góp phần

quan trọng vào việc nâng cao sức khoẻ nhân dân; chất lượng thể thao thành tích cao

được quan tâm, giai đoạn 1997-2005, các vận động viên của tỉnh đã giành được 486

huy chương các loại tại các giải thi đấu trong nước và quốc tế, có lượt 250 vận động

viên được Uỷ ban Thể dục - Thể thao phong các danh hiệu đẳng cấp quốc gia, trong

đó 83 vận động viên được phong danh hiệu kiện tướng quốc gia.

An ninh trật tự, an toàn xã hội của tỉnh được giữ vững và thu được nhiều kết quả

quan trọng. An ninh chính trị được giữ vững, công tác quân sự địa phương được tăng

cường, quản lý nhà nước về trật tự xã hội có chuyển biến tích cực; chương trình quốc

gia phòng chống tội phạm đã được triển khai đồng bộ, có tác dụng lớn trong việc ngăn

ngừa tội phạm, số vụ phạm pháp hình sự giảm 4,4%, tỷ lệ các vụ cháy, nổ giảm...;

phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc đã được phát động mạnh mẽ, với nhiều

hình thức hoạt động phong phú, đã duy trì hoạt động 14 cụm an ninh giáp ranh, 18 câu

lạc bộ hướng thiện, 1250 tổ liên gia, 192 tổ, ngõ xóm an toàn [38, tr.20]. Tuy nhiên,

diễn biến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong những năm qua diễn

biến hết sức phức tạp, tội phạm có xu hướng ngày càng tinh vi, tình trạng tai nạn giao

thông ngày càng tăng..., đây là những thách thức lớn đối với các cơ quan tư pháp trong

giai đoạn hiện nay. Công tác quốc phòng quân sự địa phương được tăng cường nhằm

đáp ứng yêu cầu của tình hình mới; lực lượng vũ trang địa phương vững mạnh về mọi

mặt, không ngừng nâng cao khả năng chiến đấu. Tỉnh đã làm tốt công tác bồi dưỡng

quốc phòng cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; hoàn thành chương trình huấn luyện

cho lực lượng thường trực, lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên; lực lượng vũ

trang của tỉnh đã tham gia tích cực, có hiệu quả công tác phòng chống lụt bão, thực hiện

tốt chính sách hậu phương quân đội.

2.1.2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp ở tỉnh Bắc

Ninh

2.1.2.1. Một số thành tựu cơ bản

Thực hiện chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước, ngành tư pháp

tỉnh Bắc Ninh đã có nhiều chuyển biến hết sức quan trọng, góp phần vào việc bảo đảm

công lý, các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xây dựng nhà nước pháp quyền và

thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng các cấp, các đề

án cải cách tư pháp đã được xây dựng và triển khai đối với từng cơ quan cụ thể; trong

đó, các đề án đều chú trọng tập trung vào việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ

quan tư pháp, xem đó là cơ sở vững chắc cho việc cải cách một cách toàn tiện và đồng

bộ các cơ quan tư pháp của tỉnh. Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 08- NQ/TW của Bộ

Chính trị, Chỉ thị số 10/2002/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Kế hoạch số 16-

KH/TU của Ban Thường vụ tỉnh uỷ và chương trình cải cách tư pháp hằng năm của Ban

chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương, các cơ quan tư pháp tỉnh Bắc Ninh đã thực hiện

có hiệu quả một số công tác sau:

- Tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra.

Công an tỉnh là lực lượng quan trọng, đi đầu trong việc giữ gìn trật tự, trị an trên

địa bàn địa phương, thực hiện chủ trương cải cách tư pháp, lực lượng công an đã đề ra

nhiều biện pháp quan trọng nhằm nâng cao năng lực hoạt động của mình.

Về công tác tổ chức: Dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng các cấp, thực hiện công

tác cải cách tư pháp, công an tỉnh Bắc Ninh đã thường xuyên thực hiện việc rà soát đội

ngũ cán bộ trong ngành, lựa chọn, bố trí những cán bộ, chiến sỹ giỏi về nghiệp vụ, có tư

cách đạo đức tốt đảm nhận các chức vụ lãnh đạo các cơ quan điều tra và các đội điều

tra. Để nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ cán bộ, nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng

lực lượng công an, công an tỉnh đã không ngừng tổ chức cho cán bộ đi học nhằm đào

tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn; cụ thể, đã tổ chức tập huấn về Bộ luật Tố tụng

hình sự năm 2003 cho các điều tra viên trong toàn tỉnh, cử cán bộ, chiến sỹ tham dự các

lớp đại học do Học viện An ninh nhân dân, Học viện Cảnh sát nhân dân và các trường

trung học an ninh tổ chức... Về công tác tổ chức, dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng,

lực lượng công an tỉnh đã thực hiện việc sắp xếp tổ chức bộ máy một cách khoa học

theo hướng đơn giản và hiệu quả, hiệu lực; tiến hành xây dựng qui chế phối hợp hoạt

động giữa cơ quan điều tra với các lực lượng khác có liên quan trong công an tỉnh (cảnh

sát hình sự, kinh tế, phòng chống ma tuý, kỹ thuật hình sự…) và sự phối hợp giữa công

an tỉnh với công an các huyện và thành phố. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc

chấp hành pháp luật, điều lệ công an nhân dân được tăng cường, vì vậy các vụ việc tiêu

cực trong lực lượng công an được nhanh chóng phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm

minh.

Về công tác chuyên môn, nghiệp vụ: Trong những năm vừa qua tình hình an ninh

chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh vẫn diễn biến hết sức phức tạp. Năm

1997, các cơ quan điều tra đã khởi tố 12 vụ tham nhũng với tổng số tiền thất thoát lên

đến 29,5 tỷ đồng, bắt giữ 6 vụ vận chuyển ma tuý, phát hiện và thu giữ 15 quả lựu đạn,

215 viên đạn, 4 khẩu súng các loại...; năm 1999, toàn tỉnh xảy ra 352 vụ phạm pháp

hình sự, phát hiện và bắt giữ 125 đối tượng... Qua tổng kết 4 năm thực hiện Kế hoạch

16 KH/TU, cơ quan điều tra đã thụ lý 1460 vụ, điều tra làm rõ 934 vụ, bắt giữ 1251 đối

tượng; tạm đình chỉ điều tra 469 vụ; đề nghị truy tố 1902 vụ, 2825 đối tượng [36, tr.3].

Nhìn chung công tác điều tra đạt chất lượng tốt, các vụ án đều có kết luận điều tra, đề

nghị truy tố được thực hiện trong thời gian luật định; các vụ án đình chỉ được thực hiện

theo đúng trình tự và qui định của pháp luật; không có vụ nào oan, sai. Nhằm làm tốt

công tác phát hiện tội phạm, nâng cao chất lượng hoạt động điều tra phục vụ công tác

đấu tranh phòng, chống tội phạm, lực lượng công an tỉnh đã tiến hành tổng kết 10 năm

công tác tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm; tổng kết 12 năm thực hiện Pháp lệnh

điều tra hình sự; tổng kết, rút kinh nghiệm và nhân rộng các điển hình tiên tiến về đấu

tranh, phòng chống tội phạm trên địa bàn tỉnh.

- Tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố.

Về công tác tổ chức - cán bộ: Thực hiện chủ trương cải cách tư pháp và các qui

định pháp luật về tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp đã

được từng bước kiện toàn. Ngành kiểm sát đã sắp xếp lại tổ chức, tiến hành chuyển đội

ngũ cán bộ làm công tác kiểm sát việc chấp hành pháp luật sang làm nhiệm vụ mới phù

hợp với việc thay đổi chức năng của ngành. Tăng cường đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ

thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, giải quyết tồn đọng án dân

sự. Để phù hợp với chức năng, nhiệm vụ theo qui định của pháp luật về kiểm sát, Viện

Kiểm sát nhân dân tỉnh đã lập mới 2 phòng là Phòng kiểm sát giam giữ, cải tạo và

Phòng kiểm sát thi hành án; sáp nhập 4 phòng nghiệp vụ là Kiểm sát điều tra án trị an -

an ninh, Kiểm sát điều tra án kinh tế, Kiểm sát giải quyết khiếu tố và phòng Tổ chức -

cán bộ thành 2 phòng nghiệp vụ là Phòng thực hành quyền công tố - kiểm sát điều tra và

xét xử sơ thẩm hình sự và Phòng tổ chức - cán bộ, khiếu tố. Nhằm kiện toàn đội ngũ cán

bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, Viện đã phối hợp với tỉnh uỷ, Viện Kiểm sát nhân dân

tối cao tiến hành bổ nhiệm 01 Viện trưởng, 01 Phó Viện trưởng, 02 trưởng phòng, 04

phó trưởng phòng của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh; 04 Viện trưởng và 08 Phó Viện

trưởng Viện Kiểm sát nhân dân huyện, thành phố. Thường xuyên thực hiện việc rà soát

đội ngũ cán bộ; xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cả về chuyên môn và

chính trị; để tăng cường lực lượng cán bộ, ngành kiểm sát đã tuyển dụng mới 24 cán bộ,

thực hiện điều động, luân chuyển 27 cán bộ, kiểm sát viên. Có thể nói rằng, cho đến nay

tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ của ngành kiểm sát tỉnh Bắc Ninh về cơ bản đã đi vào

ổn định, đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới.

Về công tác chuyên môn, nghiệp vụ: Viện Kiểm sát nhân dân đã thực hiện tốt

chức năng thực hiện quyền công tố và kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động

tư pháp. Hoạt động công tố được thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả trong tố tụng,

đảm bảo việc điều tra, truy tố và xét xử theo đúng qui định pháp luật, không để xảy ra

oan, sai và bỏ lọt tội phạm. Ngành đã chú trọng đẩy mạnh hoạt động kiểm sát điều tra

ngay từ đầu, thực hiện việc nâng cao chất lượng hoạt động kiểm sát điều tra nên chất

lượng điều tra ngày càng tốt hơn, biểu hiện qua việc số lượng hồ sơ phải trả lại cơ quan

điều tra để điều tra bổ sung ngày càng giảm, từ 33 vụ năm 2002, xuống 21 vụ năm

2003, 19 vụ năm 2004 và năm 2005 chỉ còn 3 vụ. Bên cạnh đó, ngành cũng đã thực hiện

tốt công tác hồ sơ nên tỷ lệ hồ sơ từ Toà án chuyển sang yêu cầu khởi tố bổ sung, hoàn

thiện hồ sơ cũng giảm, từ 16 vụ năm 2002 xuống còn 15 vụ năm 2003 và năm 2005 chỉ

còn 3 vụ; án đình chỉ điều tra cũng giảm từ 11 vụ năm 2001 xuống còn 6 vụ năm 2002,

9 vụ năm 2003 và chỉ còn 3 vụ vào năm 2005. Viện Kiểm sát các cấp cũng đã trực tiếp

khởi tố 01 vụ với 03 bị can, yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố 03 vụ với 02 bị can; huỷ

quyết định khởi tố của cơ quan điều tra với 13 bị can, yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố

bổ sung 14 bị can và đề nghị thay đổi 01 điều tra viên. Trong giai đoạn từ năm 2002 đến

năm 2005, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp đã khởi tố hình sự 1991 người, xử lý hành

chính 16 người, từ chối phê chuẩn 13 lệnh tạm giam của cơ quan điều tra; riêng năm

2006, ngành kiểm sát đã khởi tố 183 vụ, 364 bị can với các tội danh xâm phạm tính

mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự người khác, khởi tố 92 vụ, 97 bị can phạm tội về

ma tuý. Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, hành chính, kinh tế, lao

động đã có những chuyển biến rõ nét, các chỉ tiêu về kiểm sát thụ lý, lập hồ sơ, kháng

nghị, tham gia phiên toà đã được cải tiến; chất lượng kháng nghị ngày càng được nâng

cao, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp đã kháng nghị phúc thẩm 18 vụ, trong đó, Toà án

xét xử 15 vụ, chấp nhận kháng nghị 10 vụ, không chấp nhận kháng nghị 5 vụ, Viện rút

kháng nghị 3 vụ [36, tr.4].

Nhằm đẩy mạnh công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ và cải tạo, Viện Kiểm sát

nhân dân các cấp đã thực hiện tốt chế độ kiểm tra, giám sát thường xuyên và định kỳ

đối với hệ thống nhà tạm giam, nhằm đảm bảo việc bắt và giam giữ người của các cơ

quan có thẩm quyền theo đúng các qui định của pháp luật; đảm bảo sự tôn trọng danh

dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền trong tố tụng của người bị giam giữ; phát hiện và

xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong giam giữ.

Nhằm tăng cường hơn nữa chất lượng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và

kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp,

Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh đã phối hợp với các cơ quan tư pháp khác cùng với Nội

chính tỉnh uỷ và Mặt trận tổ quốc tỉnh thực hiện kiểm tra, rà soát và phân loại các khiếu

nại, tố cáo của công dân về hoạt động tư pháp. Hoạt động này đã góp phần giải quyết

một cách dứt điểm và đồng bộ những khiếu nại của người dân về hoạt động tư pháp,

không có trường hợp nào chậm trễ, gây bất bình trong dư luận, chính vì vậy toàn tỉnh

chưa xảy ra trường hợp nào phải bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có

thẩm quyền của cơ quan hoạt động tố tụng hình sự gây ra.

- Tổ chức và hoạt động của cơ quan xét xử.

Về công tác tổ chức - cán bộ: Thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, trong đó có

việc sắp xếp lại tổ chức của hệ thống Toà án nhân dân, Toà án nhân dân tỉnh đã phối

hợp với Sở Tư pháp triển khai thực hiện việc nhận bàn giao nhiệm vụ quản lý Toà án

cấp huyện về tổ chức theo đúng hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp;

thực hiện việc kiện toàn tổ chức các toà chuyên trách, các phòng theo qui định của Luật

Tổ chức Toà án nhân dân (sửa đổi). Hiện nay, Toà án nhân dân tỉnh có 43 cán bộ, trong

đó có 15 thẩm phán, 33/43 người có trình độ cử nhân luật trở lên, 15 % có trình độ cao

cấp chính trị; Toà án cấp huyện có 82 cán bộ, trong đó có 35 thẩm phán, 73 cán bộ có

trình độ cử nhân luật trở lên và 09 cán bộ có trình độ trung cấp luật. Để tăng cường hơn

nữa năng lực xét xử, Toà án nhân dân tỉnh thường xuyên tiến hành việc rà soát, sắp xếp

lại đội ngũ cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu công tác; tổ chức đào tạo cho tất cả thẩm phán

và thư ký toà theo qui định, mở các lớp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho hội thẩm

nhân dân như lớp tập huấn kỹ năng xét xử, cung cấp xử lý tài liệu, cập nhật văn bản

pháp luật mới... Đã thực hiện việc bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo các toà chuyên

trách như chánh toà hình sự, chánh toà hành chính, chánh văn phòng và phó chánh văn

phòng Toà án nhân dân tỉnh; làm các thủ tục trình Toà án nhân dân tối cao tái bổ nhiệm

06 thẩm phán cho toà cấp tỉnh, bổ nhiệm mới 06 thẩm phán cho các Toà án nhân dân

cấp huyện nhiệm kỳ 2003-2008. Công tác cán bộ có những bước chuyển biến tích cực

theo hướng đề cao trách nhiệm cá nhân của thẩm phán, hội thẩm nhân dân và thư ký

toà; việc đánh giá, sắp xếp cán bộ đã gắn với việc hoàn thành các nhiệm vụ chuyên môn

được giao.

Về công tác xét xử: Giai đoạn 2002-2006, ngành Toà án tỉnh Bắc Ninh đã xét xử

2.344 vụ án hình sự, trong đó có 06 vụ tham nhũng, 44 vụ án kinh tế; Toà án nhân dân

tối cao đã xử phúc thẩm 186 vụ án hình sự của Toà án nhân dân tỉnh, trong đó đã y án

139 vụ, sửa án 45 vụ; Toà án nhân dân tỉnh đã xét xử phúc thẩm 330 bị cáo, y án 223 bị

cáo, sửa án cho 98 bị cáo, huỷ án cho 09 bị cáo. Nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng

công tác xét xử, ngành Toà án phối hợp chặt chẽ với các ngành công an và kiểm sát xác

định 108 vụ án trọng điểm và kịp thời điều tra, truy tố, xét xử, đảm bảo đúng người,

đúng tội và kịp thời. Để tăng cường việc giáo dục, tuyên truyền pháp luật, răn đe các đối

tượng phạm tội, trong giai đoạn 2002-2006, ngành Toà án đã xét xử 57 vụ án hình sự

điển hình về ma tuý, giết người, cố ý gây thương tích [36, tr.5]... Toà án nhân dân tỉnh

và Toà án cấp huyện đã tổ chức các phiên toà theo đúng tinh thần Nghị quyết 08-

NQ/TW của Bộ Chính trị, chất lượng xét xử các vụ án, thực hiện đúng các qui định về

thủ tục tố tụng và thời hạn xét xử; nhìn chung các vụ án về hình sự, dân sự, kinh tế và

lao động đã được đưa ra xét xử kịp thời, đúng thời hạn luật định. Chất lượng tranh tụng

tại các phiên toà, trong các phiên toà hình sự đã có được sự phối hợp khá tốt với Viện

Kiểm sát; quyền và nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng cũng như người tiến hành tố

tụng được đảm bảo theo các qui định của pháp luật, quyền bào chữa của luật sư, bị cáo

được tôn trọng. Những phán quyết của Hội đồng xét xử đưa ra có tính chính xác cao,

đúng người, đúng tội; các phán quyết này được đưa ra trên cơ sở tranh tụng tại phiên

toà, do đó tình trạng oan sai, bỏ lọt người, lọt tội về cơ bản đã được khắc phục; tỷ lệ các

bản án của Toà án hai cấp bị huỷ, sửa đã giảm, số các vụ án bị kháng nghị theo thủ tục

giám đốc thẩm, tái thẩm cũng ít so với trước khi cải cách tư pháp.

- Tổ chức và hoạt động của Sở Tư pháp và các phòng Tư pháp cấp huyện.

Về công tác tổ chức - cán bộ: Sau khi tiến hành bàn giao nhiệm vụ quản lý Toà

án cấp huyện cho Toà án nhân dân tỉnh, Sở đã triển khai củng cố tổ chức bộ máy theo

Nghị định số 62/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ thông qua việc tiến hành

xây dựng đề án tinh giảm biên chế; sáp nhập một số phòng chuyên môn trên cơ sở qui

định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng phòng; tham mưu cho UBND tỉnh kiện toàn Ban

chỉ đạo thi hành án dân sự các cấp; sắp xếp lại tổ chức và hoạt động của các cơ quan

giám định tư pháp, Đoàn luật sư theo qui định pháp luật... Để nâng cao hơn nữa năng

lực của đội ngũ cán bộ, ngành đã tiến hành kiện toàn đội ngũ lãnh đạo sở và các phòng

ban; thực hiện việc rà soát và đánh giá, xây dựng phương án kiện toàn, bố trí lại đội ngũ

cán bộ, công chức phù hợp với yêu cầu công tác đến năm 2010. Nhìn chung hiện nay,

hệ thống cơ quan tư pháp từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở đã tương đối hoàn chỉnh, ổn định,

cấp huyện có Phòng Tư pháp, cấp cơ sở có Ban Tư pháp với chức năng, nhiệm vụ rõ

ràng, đáp ứng được các yêu cầu đặt ra.

Về hoạt động chuyên môn: Nhằm đẩy mạnh hoạt động thi hành án dân sự, Sở Tư

pháp đã thực hiện việc tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn 1995-2005; đưa

các cơ quan thi hành án dân sự vào hoạt động theo qui định của Chính phủ. Kết quả thi

hành án giai đoạn 2002-2006 cho thấy ngành tư pháp đã có những chuyển biến tích cực,

thu hồi nộp ngân sách nhà nước và hoàn trả cho người được thi hành án đúng qui định;

năm 2002 tỷ lệ thi hành án về việc đạt 58,6%, về tiền 81% (vượt chỉ tiêu của Bộ Tư

pháp đưa ra về tiền là 31% và về việc là 8,6%), năm 2003 tỷ lệ này là 80% và 84,7%,

năm 2004 tỷ lệ này là 79,0% và 89,4%, năm 2005 là 84,9% và 89,7% (vượt 39,4% về

việc và 37,9% về tiền theo qui định của Bộ Tư pháp) [36, tr.6]. ở cấp cơ sở, một số xã,

phường đã làm tốt việc thi hành các bản án có mức tiền phải thi hành không quá

500.000 đồng, một số xã thi hành xong 100% số lượng án đã nhận bàn giao.

Công tác phổ biến, giáo dục, tuyên truyền pháp luật và hoạt động bổ trợ tư

pháp đã được quan tâm đúng mức và đẩy mạnh thông qua việc mở các lớp tập huấn

văn bản pháp luật mới ban hành; tuyên truyền qua hệ thống truyền thông của tỉnh và

các địa phương (hệ thống cơ quan báo chí, truyền thông, các trang tin điện tử của

tỉnh và huyện, hệ thống phát thanh ở cấp cơ sở); tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý;

đầu tư và khai thác có hiệu quả tủ sách pháp luật tại xã, phường, thị trấn; tổ chức các

cuộc thi như: thi tìm hiểu pháp luật, thi hoà giải viên giỏi... Giai đoạn 2002-2005,

Đoàn luật sư tỉnh Bắc Ninh đã nhận bào chữa cho các bị can, bị cáo, bảo vệ quyền,

lợi ích hợp pháp cho các đương sự trong 1.247 vụ việc; trong đó có 572 vụ hình sự,

655 vụ dân sự, 12 vụ hành chính và 188 vụ tranh chấp đất đai [36, tr.6]. Theo qui

định của pháp luật hiện nay ở Bắc Ninh có 3 tổ chức có chức năng giám định tư pháp

là Giám định pháp y, Giám định pháp y tâm thần, Giám định kỹ thuật hình sự - pháp

y; với tổng số 16 giám định viên, giai đoạn 2002-2006, các tổ chức giám định tư

pháp đã giám định được 2.347 vụ việc, góp phần cùng với các cơ quan tố tụng điều

tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

2.1.2.2. Một số hạn chế, tồn tại

Từ khi thực hiện chủ trương cải cách tư pháp theo Nghị quyết 08 - NQ/TW của

Bộ Chính trị, ngành tư pháp tỉnh Bắc Ninh đã thu được những thành tựu hết sức quan

trọng, song bên cạnh đó vẫn còn một số điểm tồn tại, hạn chế sau đây:

- Tỡnh trạng một số ớt trường hợp bắt giữ hỡnh sự nhưng chuyển xử lý hành

chớnh vẫn cũn xẩy ra; cỏc vụ ỏn chưa rừ đối tượng điều tra phá án tỷ lệ chưa cao, cỏ

biệt trong quỏ trỡnh điều tra cú huyện cũn để lọt tội phạm; chất lượng điều tra đó cú

chuyển biển, song ở một số huyện chuyển biến chưa rừ nột. Đỏng chỳ ý vẫn cũn tỡnh

trạng bị can chết trong trại giam, nhà tạm giữ và trốn khỏi nơi giam, giữ.

Trong công tỏc xột xử vẫn cũn tỡnh trạng bản ỏn, quyết định bị sửa, huỷ do lỗi

của Hội đồng xét xử; có trường hợp Viện Kiểm sát truy tố, Toà án xử tuyên không

phạm tội; chất lượng xét xử án dân sự chưa cao.

Chủ trương mở rộng tranh tụng tại các phiên toà là chủ trương đúng đắn, nâng

cao tinh thần trách nhiệm và chất lượng công việc của các cơ quan tư pháp. Tuy nhiên,

việc thực hiện chủ trương "mở rộng tranh tụng" cũn mang tớnh hỡnh thức, chưa đáp

ứng được yêu cầu là "các bản án, phán quyết của Toà án chủ yếu phải dựa trên kết quả

tranh tụng dân chủ tại phiên toà". Nhiều thẩm phán, kiểm sát viên khi thực hiện xét xử,

thực hành quyền công tố tại phiên toà theo "nếp cũ", chưa kịp thời đổi mới tư duy và

phương thức thực hiện để đáp ứng chủ trương này. Bên cạnh đó, một số luật sư trỡnh độ

cũn hạn chế, chưa tương xứng với vị trớ, vai trũ đó được đề cao trong việc tranh tụng tại

phiên toà.

Hiệu quả thi hành án dân sự tuy đạt khá cao, song vẫn tồn đọng nhiều, chủ yếu là

do đối tượng thi hành án không có khả năng thi hành. Phần lớn trong số này là ỏn phớ

và phần thi hành ỏn dõn sự trong hỡnh sự, thường là hỡnh phạt tiền đối với các đối

tượng liên quan đến ma tuý.

- Đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp đa số đó đáp ứng được yêu cầu nhiệm

vụ trước mắt nhưng cũn thiếu về số lượng, nhất là cán bộ làm công tác điều tra (điều tra

viờn); một số trỡnh độ chuyên môn yếu; chậm đổi mới nhận thức, ý thức trỏch nhiệm

chưa cao nên không đáp ứng được yêu cầu thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp;

thậm chí có một số ít cán bộ sa sút về phẩm chất đạo đức, vi phạm phỏp luật bị xử lý

hành chớnh và truy cứu trỏch nhiệm hỡnh sự.

- Cơ sở vật chất và trang thiết bị, phương tiện làm việc của các cơ quan tư phỏp,

nhất là ở cấp huyện vẫn cũn khú khăn, chưa đáp ứng đầy đủ so với yêu cầu của nhiệm

vụ. Một số trụ sở Viện Kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân, đội thi hành án cấp huyện

chưa thực đáp ứng được yờu cầu cụng tỏc, vẫn cũn tỡnh trạng thiếu trụ sở hoặc trụ sở bị dột

nỏt cần được nâng cấp, sửa chữa lại.

- Công tác tuyên truyền và thông tin về cải cách tư phỏp cũn chưa tương xứng

với tầm quan trọng và tính chất của công cuộc cải cách tư phỏp hiện nay. Nhiều hỡnh

thức thụng tin, tuyờn truyền chưa phự hợp, nhiều khi cũn mang tớnh chung chung, chưa

thực sự thuyết phục được đối tượng cần tuyên truyền. Trên thực tế, cải cách tư pháp dù

đó được nhõn dõn và xó hội biết đến song chưa rộng khắp, mới chỉ thực sự tác động

trong cán bộ, cơ quan tư pháp và một bộ phận nhân dân có công việc liên quan đến công

tác tư pháp. Công tác tư pháp chưa được đánh giá và biết đến với tác dụng thúc đẩy cải

cỏch kinh tế, cải cỏch xó hội, làm lành mạnh mụi trường kinh doanh mà dường như chỉ

đơn thuần là công việc của các cơ quan tư pháp. Công tác tư pháp nói chung và cải cách

tư pháp nói riêng, chưa thực sự trở thành công việc chung của toàn xó hội, chưa dành

được sự quan tâm xứng đáng của các cơ quan, tổ chức và nhân dân.

Những hạn chế, tồn tại trên đây bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, có cả nguyên

nhân khách quan và chủ quan.

Về nguyên nhân khách quan: Nghị quyết 08- NQ/TW đề ra nhiều việc, việc nào

cũng bức xúc, phải làm ngay, có những việc đũi hỏi phải cú sự phối hợp của nhiều cơ

quan ban ngành địa phương và trung ương. Thời gian thực hiện Nghị quyết mới được

gần 4 năm chỉ đủ để giải quyết những cụng việc bức xỳc, tỡnh thế; chưa đủ thời gian để

tiến hành những công việc mang tính chiến lược, lâu dài như nâng cao năng lực đội ngũ

cán bộ; bảo đảm đầy đủ về cơ sở vật chất... cho các cơ quan tư pháp. Ngân sách nhà

nước nói chung, trong đó ngân sách dành cho công tác tư pháp và chế độ, chính sách

cho cán bộ tư pháp tuy đó cú sự đầu tư, quan tâm hơn trước song vẫn cũn hạn hẹp so

với yờu cầu của nhiệm vụ.

Về nguyên nhân chủ quan: Sự chuyển biến nhận thức của một số cấp uỷ đảng,

chính quyền địa phương, cơ sở về vị trớ, vai trũ của cỏc cơ quan tư pháp chưa theo kịp

tỡnh hỡnh nờn sự lónh đạo, chỉ đạo và kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức thực hiện Nghị

quyết cũn hạn chế; cũn coi nhẹ cụng tỏc tư pháp, chưa thấy rừ được tác dụng tích cực

của công tác tư pháp đối với sự phỏt triển kinh tế - xó hội của địa phương. Ban chỉ đạo

cải cách tư pháp tỉnh được thành lập tháng 6 năm 2003, chưa có bộ phận chuyên trách

(Tổ thư ký) giỳp việc Ban chỉ đạo; Phũng nội chớnh - Văn phũng tỉnh uỷ giỳp lónh đạo

Văn phũng (thường trực Ban chỉ đạo) theo dừi cụng tỏc cải cách tư pháp nhưng do ít

người, kiờm nhiệm cả cỏc cụng việc của phũng nờn cụng tỏc tham mưu cũng như đôn

đốc, tổng hợp cũn hạn chế. Sự phối hợp giữa cỏc cơ quan tư pháp với nhau và giữa các

cơ quan tư pháp với các cấp uỷ đảng, chính quyền trong một số trường hợp cũn thiếu

chặt chẽ và thống nhất nờn cú những vướng mắc, khó khăn trong quỏ trỡnh thực hiện

Nghị quyết 08-NQ/TW chậm được khắc phục, tháo gỡ nhất là trong việc rà soát, kiểm

tra, đánh giá và bố trí cán bộ tư pháp.

2.2. Sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ trong thực hiện cải cách tư pháp ở tỉnh Bắc

Ninh - Thành tựu và kinh nghiệm

2.2.1. Thực trạng tổ chức của Đảng trực tiếp lãnh đạo cải cách tư pháp ở

tỉnh Bắc Ninh

- Lãnh đạo việc triển khai công tác cải cách tư pháp

Xác định được vai trò, tầm quan trọng của công tác cải cách tư pháp, thực hiện

chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp được đề ra trong Nghị quyết 08- NQ/TW của

Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp trong

thời gian tới”, Chỉ thị số 52- CT/TW ngày 16/3/2000 của Bộ Chính trị “Về phạm vi,

trách nhiệm, quyền hạn giữa cấp uỷ Đảng với Đảng uỷ Công an, Ban cán sự đảng Viện

Kiểm sát nhân dân, Ban cán sự đảng Toà án nhân dân trong công tác bảo vệ Đảng và xử

lý tội phạm liên quan đến cán bộ, đảng viên”, Chỉ thị số 10/2002/CT-TTg của Thủ

tướng Chính phủ..., ngay sau hội nghị triển khai Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính

trị do Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương tổ chức tại Hà Nội vào tháng 4 năm

2002, Tỉnh uỷ đã xây dựng kế hoạch số 16 KH/TU chỉ đạo các huyện uỷ, thị uỷ, đảng

uỷ trực thuộc, ban cán sự Đảng và thủ trưởng các cơ quan tư pháp tỉnh xây dựng

chương trình, kế hoạch thực hiện Nghị quyết 08- NQ/TW cho đơn vị mình, ngành mình.

Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ theo kế hoạch số 16 KH/TU, tính đến hết tháng

7 năm 2002, các cơ quan thuộc khối nội chính và các huyện uỷ, thị uỷ đã xây dựng xong

kế hoạch, chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết 08- NQ/TW của Bộ

Chính trị. Để cụ thể hoá kế hoạch, chương trình hành động của mình theo từng lộ trình

thời gian cụ thể, hằng năm, các ngành công an, Toà án, kiểm sát và tư pháp đều xây

dựng kế hoạch, chương trình hành động cụ thể, xác định nhiệm vụ trọng tâm và triển

khai đến các đơn vị, cán bộ, công chức; gắn việc thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư

pháp với kế hoạch công tác của ngành mình, gắn trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ với

việc đánh giá, nhận xét cán bộ.

Năm 2006, thực hiện Nghị quyết 49- NQ/TW của Bộ Chính trị về “Chiến lược

cải cách tư pháp đến năm 2020”, Tỉnh uỷ Bắc Ninh đã xây dựng chương trình hành

động số 08- Ctr/TU nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác cải cách tư pháp. Chương trình

hành động của Tỉnh uỷ đã chỉ rõ các cấp uỷ đảng cần: Tổ chức phổ biến, quán triệt Nghị

quyết 49- NQ/TW cho cán bộ chủ chốt và lãnh đạo các ban, ngành cấp tỉnh và cán bộ

chủ chốt huyện thành phố..., các huyện uỷ, thành uỷ cần xây dựng chương trình thực

hiện Nghị quyết 49- NQ/TW; chỉ đạo các ngành tư pháp tỉnh xây dựng chương trình

thực hiện Nghị quyết 49- NQ/TW. Thông qua chương trình hành động này, Tỉnh uỷ

cũng đã chỉ ra mục tiêu, yêu cầu, quan điểm và các nhiệm vụ của cải cách tư pháp ở tỉnh

Bắc Ninh từ nay đến năm 2020.

- Kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết công tác cải cách tư pháp

Sự kiểm tra, giám sát của các cấp uỷ đảng đối với công tác cải cách tư pháp là

hết sức cần thiết, hoạt động này đảm bảo cho việc cải cách tư pháp được thực hiện đúng

định hướng, đúng yêu cầu và tiến độ. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, Ban chỉ đạo cải

cách tư pháp đã thường xuyên thực hiện việc kiểm tra, giám sát, cho ý kiến chỉ đạo đối

với huyện uỷ, các ban cán sự đảng trong khối nội chính. Công tác kiểm tra của các cấp

uỷ đảng đã có tác dụng tốt, góp phần tích cực vào công tác xây dựng Đảng và thực hiện

các nhiệm vụ chính trị của các cơ quan tư pháp. Nhờ làm tốt công tác kiểm tra, giám sát

của các cấp uỷ đảng, những hiện tượng tiêu cực trong ngành tư pháp đã được hạn chế,

tình trạng oan sai trong tố tụng được khắc khục. Qua công tác kiểm tra, giám sát các cấp

uỷ đã kịp thời phát hiện những điển hình tốt, phát hiện kịp thời các sai sót, đúc rút kinh

nghiệm, qua đó giúp cho việc lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp ngày càng

tốt hơn, khắc phục tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo hoặc bao biện, làm thay.

Trong quá trình lãnh đạo công tác cải cách tư pháp, các cấp uỷ đảng luôn gắn

liền với việc tổng kết, rút kinh nghiệm qua đó đưa ra những chỉ đạo kịp thời. Thực hiện

sự chỉ đạo của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương tại văn bản số 01-HD/BCĐ-

CCTP ngày 18 tháng 11 năm 2003 về việc sơ kết 2 năm thực hiện cải cách tư pháp,

ngày 01 tháng 12 năm 2003, Ban chỉ đạo cải cách tư pháp đã có công văn số 668-

CV/BCĐ-CCTP hướng dẫn các huyện uỷ, thị uỷ; đảng uỷ, ban cán sự đảng và lãnh đạo

ngành tư pháp của tỉnh báo cáo kết quả 2 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 08-

NQ/TW ở địa phương, ngành mình, đồng thời, Tỉnh uỷ cũng đã thực hiện việc sơ kết 2

năm (2002-2003) thực hiện Nghị quyết 08- NQ/TW của Bộ Chính trị. Tiếp đó, tháng 5

năm 2006, Tỉnh uỷ đã tổ chức việc tổng kết 4 năm thực hiện Nghị quyết 08- NQ/TW

của Bộ Chính trị nhằm đánh giá quá trình thực hiện chủ trương cải cách tư pháp, qua đó

chỉ ra những khuyết điểm, hạn chế, tồn tại của công tác cải cách tư pháp, rút ra các bài

học kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động này.

- Lãnh đạo công tác tổ chức và xây dựng đội ngũ cán bộ

Công tác tổ chức - cán bộ giữ một vị trí hết sức quan trọng trong xây dựng bộ

máy nhà nước nói chung và trong cải cách tư pháp nói riêng. Xây dựng đội ngũ cán bộ

tư pháp trong sạch, có năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, vững mạnh về tư tưởng, chính

trị, có ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức chính trị, thái độ phục vụ nhân dân tốt luôn là mục

tiêu hàng đầu trong công tác cải cách tư pháp. Nhận thức được tầm quan trọng của công

tác cán bộ trong cải cách tư pháp, Tỉnh uỷ Bắc Ninh đã phối hợp chặt chẽ với Đảng uỷ,

Ban cán sự đảng và lãnh đạo các cơ quan tư pháp Trung ương trong công tác tổ chức và

cán bộ. Tỉnh uỷ đã thành lập Ban chỉ đạo cải cách tư pháp do đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ,

Chủ tịch HĐND tỉnh làm trưởng ban và đồng chí Phó Bí thư thường trực làm phó ban

nhằm giúp Ban thường vụ lãnh đạo công tác cải cách tư pháp. Đảng uỷ, Ban cán sự

đảng, thủ trưởng các ngành nội chính đã tăng cường công tác xây dựng Đảng, quản lý,

kiểm tra các hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên; chăm lo công tác qui hoạch,

đào đạo, luân chuyển và sử dụng cán bộ, thực hiện tốt chính sách cán bộ. Lãnh đạo công

tác nhận xét, phân loại và đánh giá cán bộ, nhất là đối với cán bộ chủ chốt của các cơ

quan tư pháp và cán bộ có các chức danh tư pháp; kiên quyết xử lý nghiêm minh những

cán bộ vi phạm đạo đức nghề nghiệp và pháp luật.

Đối với cơ quan điều tra: Tỉnh uỷ đã lãnh đạo việc sắp xếp lại tổ chức và cán

bộ của cơ quan điều tra theo tinh thần cải cách tư pháp. Theo đó, cơ cấu tổ chức của

Công an tỉnh đã được củng cố thông qua việc thành lập Phòng cảnh sát phòng chống

tội phạm về ma tuý, Phòng cảnh sát 113; kiện toàn lãnh đạo các đơn vị: Thanh tra

Công an tỉnh, Phòng Cảnh sát hình sự, Phòng Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp,

Phòng Cảnh sát giao thông, Phòng An ninh kinh tế, Phòng Hồ sơ, Phòng Kỹ thuật

nghiệp vụ, Phòng Hậu cần; lãnh đạo công an thành phố Bắc Ninh và công an huyện

Từ Sơn. Cùng với việc kiện toàn về tổ chức, công tác cán bộ cũng đã có nhiều

chuyển biến tích cực, dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, công tác luân chuyển

cán bộ, đặc biệt là cán bộ ở các đơn vị chiến đấu được thực hiện một cách thường

xuyên.

Đối với cơ quan xét xử: Tỉnh uỷ đã lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ Toà án mà

trọng tâm là đội ngũ Thẩm phán theo hướng đủ về số lượng, nâng cao tiêu chuẩn chính

trị, phẩm chất đạo đức, chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm công tác; đề cao quyền

hạn trách nhiệm của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Lãnh đạo Toà án nhân dân các

cấp rà soát, lựa chọn, đào tạo và bổ nhiệm Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân theo qui định

của pháp luật.

Đối với cơ quan kiểm sát: Thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, Ban cán sự

Đảng, lãnh đạo Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị

trong ngành quán triệt và thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương,

của Tỉnh uỷ và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Tăng cường công tác quản lý, giáo dục,

rèn luyện đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên về chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực công

tác chuyên môn, ý thức trách nhiệm trong công tác và tổ chức kỷ luật. Nhìn chung đội

ngũ cán bộ trong ngành kiểm sát đã hoàn thành nhiệm vụ được giao, không có cán bộ,

kiểm sát viên nào vi phạm kỷ luật, pháp luật bị xử lý.

Đối với Sở Tư pháp và phòng Tư pháp cấp huyện: Hoàn thiện cơ cấu, tổ chức,

xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp vững mạnh là nhiệm vụ quan trọng của ngành tư pháp.

Trên cơ sở hướng dẫn của Bộ Tư pháp, Tỉnh uỷ Bắc Ninh đã lãnh đạo Sở Tư pháp, các

đảng bộ địa phương tiến hành sắp xếp lại tổ chức của ngành tư pháp. Phối hợp với các

cơ quan liên quan thực hiện việc tuyển chọn, bổ nhiệm, kiện toàn các chức danh tư pháp

đủ tiêu chuẩn và điều kiện theo qui định của Nhà nước; lãnh đạo việc rà soát, kiểm tra,

giám sát, và đào tạo cán bộ, thực hiện việc chuẩn hoá công chức tư pháp các cấp về lý

luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu đủ về số lượng và chất lượng

theo qui định của ngạch công chức.

- Lãnh đạo xét xử các vụ án lớn, phức tạp

Việc lãnh đạo xét xử các vụ án lớn, phức tạp của các cấp uỷ Đảng là vấn đề hết

sức phức tạp, đặc biệt là đối với các vụ án tham nhũng, các vụ án mà bị can, bị cáo là

người có ảnh hưởng lớn trong xã hội. Nhận thức được tính phức tạp và nhạy cảm của

vấn đề, cấp uỷ đảng các cấp đã chỉ đạo sâu sát, kịp thời nên mặc dù có nhiều vụ án phức

tạp nhưng đã được giải quyết một cách dứt điểm, xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp

luật. Trong thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử, nhiều cấp uỷ đảng là chỗ dựa tinh thần

quan trọng để các cơ quan bảo vệ pháp luật chống lại sự bao che, can thiệp làm sai lệch

tính chất vụ án. Sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đều dựa trên cơ sở các qui định của

pháp luật, đảm bảo tính độc lập của tư pháp; thực hiện nghiêm túc chủ trương, chính

sách, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về đấu tranh chống tội phạm.

2.2.2. Kết quả việc triển khai chương trình cải cách tư pháp của Đảng ở tỉnh

Bắc Ninh thông qua hoạt động lãnh đạo của Đảng

Đánh giá kết quả tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp từ khi triển khai

thực hiện Nghị quyết 08- NQ/TW “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp

trong thời gian tới”, ngành tư pháp tỉnh Bắc Ninh đã thu được những thành tựu cơ bản

sau:

Thứ nhất, tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp đã có những thay đổi

tích cực; chức năng nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp được kiện toàn, đã tạo ra sự

chuyển biến tích cực trong nhận thức của các cấp, ban, ngành và trong nhân dân về vai

trò, tầm quan trọng của các cơ quan tư pháp và cải cách tư pháp trong quá trình xây

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong sự nghiệp đổi mới phát triển kinh tế

của cả nước nói chung và của tỉnh Bắc Ninh nói riêng. Thực hiện chủ trương của Đảng

về cải cách tư pháp, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ Bắc Ninh, tổ chức bộ máy của các cơ

quan tư pháp đã từng bước được kiện toàn. Cụ thể, Tỉnh uỷ đã lãnh đạo thành công việc

sắp xếp lại bộ máy của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh và các Viện Kiểm sát cấp huyện;

theo đó, các cơ quan kiểm sát đã được thay đổi, điều chỉnh tổ chức bộ máy và chức

năng nhiệm vụ, chỉ tập trung vào việc thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư

pháp. Cơ quan điều tra đã được sắp xếp lại các đầu mối, hoạt động điều tra được gắn

liền với hoạt động trinh sát, tạo ra sự kết hợp một cách liên hoàn giữ các đầu mối trong

cơ quan điều tra. Thẩm quyền xét xử của các Toà án đã được mở rộng, Tỉnh uỷ đã lãnh

đạo tốt việc tổ chức các phiên toà theo tinh thần cải cách tư pháp, tỷ lệ án oan sai, tỷ lệ

án bị kháng nghị xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đã giảm đáng kể. Công tác

thi hành án đã cải tiến đáng kể, đặc biệt là trong lĩnh vực thi hành án hình sự; công tác

tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đã đi vào chiều sâu và có nhiều chuyển biến

tích cực. Kể từ khi thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, các cơ quan tư pháp đã góp

phần không nhỏ vào việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy sự

phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Thứ hai, chất lượng công tác tư pháp ở các khâu điều tra, truy tố, xét xử, bắt,

giam, giữ, thi hành án và các hoạt động bổ trợ tư pháp đã có bước chuyển biến rõ nét.

Công tác bắt, giam giữ đã được xem xét, kiểm tra thường xuyên từ cấp tỉnh đến cơ sở,

đã từng bước khắc phục tình trạng lạm dụng bắt khẩn cấp, hình sự hoá các quan hệ kinh

tế, dân sự; không để xảy ra việc bắt oan, sai. Tỷ lệ bắt, giam, giữ và đưa ra truy tố hình

sự cao; công tác kiểm sát được triển khai toàn diện và sâu rộng, nhất là đối với việc bắt,

giam, giữ; công tác xét xử được xem xét một cách nghiêm túc, đảm bảo sự công minh,

tính công khai trong tranh tụng, xét xử đúng người, đúng đúng tội, đúng pháp luật.

Công tác phối hợp giải quyết các vụ án trọng điểm và đấu tranh chống tội phạm đã được

đẩy nhanh tiến độ, một số vụ án nghiêm trọng đã được điều tra, xét xử nghiêm, bước

đầu đã thu được những thành quả đáng khích lệ, tạo được niềm tin trong nhân dân.

Thứ ba, thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, hệ thống các cơ quan tư pháp từ

tỉnh đến cơ sở đã được củng cố, kiện toàn cả về tổ chức bộ máy lẫn công tác cán bộ.

Một số cơ quan tư pháp đã được điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ cho phù hợp với Hiến

pháp 1992 (sửa đổi), Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi), Luật Tổ chức Toà

án nhân dân (sửa đổi). Công tác cán bộ trong ngành tư pháp đã được đẩy mạnh, thông

qua việc rà soát, sắp xếp, phân loại cán bộ, trên cơ sở đó ngành đã có kế hoạch đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới. Công tác kiểm tra, phân loại,

giải quyết các khiếu kiện về tư pháp đã được triển khai đồng loạt ở các cơ quan tư pháp

từ cấp tỉnh đến cơ sở, do đó đã giải quyết kịp thời và hạn chế được những khiếu nại

trong hoạt động tư pháp.

Đội ngũ cán bộ tư pháp đã có bước phát triển, trưởng thành, trước kia, đội ngũ

cán bộ tư pháp còn nhiều hạn chế, nhất là về năng lực, nghiệp vụ; phần lớn là những

người chuyển ngành từ nhiều cơ quan khác nhau chưa được đào tạo về pháp luật,

nghiệp vụ tư pháp, thiếu kinh nghiệm thực tiễn. Dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng,

ban ngành, hiện nay, đội ngũ cán bộ tư pháp đã được đào tạo với nhiều hình thức; tại

chức, chuyên tu, chính qui, tập huấn nghiệp vụ... Nhìn chung, dưới sự lãnh đạo của các

cấp uỷ đảng về công tác cán bộ trong thời gian vừa qua, đội ngũ cán bộ tư pháp ở tỉnh

Bắc Ninh phần lớn đã đáp ứng được những đòi hỏi về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,

trình độ lý luận chính trị, có phẩm chất đạo đức và có khả năng hoàn thành nhiệm vụ

được giao.

Thứ tư, các cơ quan tư pháp góp phần vào việc giữ gìn an ninh trật tự, thúc đẩy

sự phát triển kinh tế - xã hội. Mặc dù trong những năm vừa qua, trên địa bàn tỉnh Bắc

Ninh tình hình tội phạm diễn biến rất phức tạp, song với sự vững mạnh của mình cơ

quan tư pháp đã góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn an ninh - trật tự trên địa bàn tỉnh,

đây là điều kiện hết sức quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Có thể nói

rằng, sự trưởng thành và phát triển của các cơ quan tư pháp đã góp phần không nhỏ vào

việc phát triển kinh tế - xã hội, chính nền kinh tế thị trường đã tạo ra điều kiện và yêu

cầu phải thúc đẩy cải cách tư pháp, đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó

quan trọng nhất là pháp luật về kinh tế, thương mại, dân sự... Nhận thức được vấn đề

này, trong phạm vi và chức năng của mình, Tỉnh uỷ Bắc Ninh đã có nhiều chủ trương,

giải pháp quan trọng thúc đẩy tiến trình cải cách các cơ quan tư pháp. Thông qua cải

cách tư pháp, các cơ quan tư pháp từng bước được kiện toàn, hoạt động dân chủ, hiệu

lực và hiệu quả, chính điều này đã tạo ra những hiệu ứng tích cực, quan trọng thúc đẩy

sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh trong những năm vừa qua.

2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế từ sự lãnh đạo của Đảng về cải cách

tư pháp ở tỉnh Bắc Ninh

2.2.3.1. Nhận thức, quan niệm về công tác tư pháp chưa đầy đủ, đúng đắn

Thực hiện các nghị quyết của Đảng về xây dựng Nhà nước, nhất là Nghị quyết

08-NQ/TW của Bộ Chính trị nêu trên, thời gian qua, công tác tư pháp đã có một số

thành tựu, kết quả như đã đề cập. Tuy nhiên cải cách tư pháp vẫn chưa đáp ứng yêu cầu

của công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước. Một trong những nguyên nhân của tình hình

đó là do chưa có nhận thức đầy đủ, đúng mức về vị trí, vai trò của công tác tư pháp nói

chung và của các cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp nói riêng.

Một số cấp uỷ, chính quyền địa phương chưa thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo

công tác tư pháp; chưa gắn kết chặt chẽ được quản lý kinh tế, xã hội với phòng chống vi

phạm, tội phạm, ngăn ngừa tham nhũng, lãng phí. Có cán bộ lãnh đạo vẫn còn cho rằng

việc xử lý một số vụ án cụ thể của các cơ quan tư pháp là cản trở sản xuất, kinh doanh,

là “hình thức hoá” các tranh chấp dân sự, kinh tế. So với các cơ quan tư pháp thì sự

quan tâm của cấp uỷ, chính quyền đối với các cơ quan bổ trợ tư pháp còn hạn chế hơn

nhiều. Điều đó cũng là nguyên nhân của tình trạng hẫng hụt cán bộ lãnh đạo, thiếu

nguồn bổ sung cán bộ; cơ sở làm việc, kinh phí thiếu thốn của nhiều cơ quan tư pháp,

bổ trợ tư pháp hiện nay.

Nhận thức chưa đúng về các cơ quan tư pháp hiện nay còn thể hiện qua việc một số

cán bộ lãnh đạo còn có ý kiến can thiệp vào công việc cụ thể, thậm chí cản trở việc xử lý

một số vụ án của cơ quan điều tra, kiểm sát, Toà án, thi hành án. Một số cán bộ, công chức

thiếu sự hợp tác, không quan tâm giúp đỡ các cơ quan tư pháp, cơ quan bổ trợ tư pháp thực

thi nhiệm vụ của mình, nhất là cung cấp tài liệu, tiến hành giám định, phối hợp tổ chức

cưỡng chế thi hành án.

2.2.3.2. Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức của một số cơ quan tư pháp chưa được

xác định phù hợp, rõ ràng, thống nhất

Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã có sự điều chỉnh bước đầu về chức năng,

nhiệm vụ, tổ chức của một số cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, về chức năng, nhiệm vụ, tổ

chức và mối quan hệ giữa các cơ quan tư pháp với nhau, giữa các cơ quan tư pháp với

các cơ quan Nhà nước khác còn nhiều vấn đề chưa được điều chỉnh hoặc quy định thật

cụ thể, rõ ràng, thống nhất, đây là một trong những nguyên nhân làm giảm sút hiệu quả

lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp.

Trước tiên là về chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân. Hiến pháp 1992 sửa đổi

và Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân xác định chức năng của Viện Kiểm sát là thực

hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Từ nhiều năm nay, kiểm sát xét xử

của Toà án và thi hành các bản án, quyết định của Toà án có vấn đề chưa đúng với vị trí

của Viện Kiểm sát nhân dân và không phù hợp với điều kiện hiện nay. Liên quan đến

Viện Kiểm sát, thì mối quan hệ giữa Viện Kiểm sát và cơ quan điều tra cũng còn có vấn

đề phải nghiên cứu, xác định cho phù hợp. Viện Kiểm sát chỉ đạo cơ quan điều tra.

Nhưng thực tế vai trò của Viện Kiểm sát đối với cơ quan điều tra còn hạn chế. Điều đó

vừa do khả năng của kiểm sát viên, vừa do Viện Kiểm sát không đủ điều kiện về tổ

chức để chỉ đạo.

Một trong những nguyên nhân của việc kém hiệu quả trong công tác thi hành án

hiện nay là sự phân tán, thiếu thống nhất trong tổ chức cơ quan thi hành án. Nhiều bản

án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng không được thi hành, chậm thi

hành hoặc thi hành không đạt được mục đích là do thiếu sự phối hợp, hợp tác của các cơ

quan có trách nhiệm. Từ năm 1997, Ban chấp hành Trung ương (khoá VIII) đã định

hướng về chuẩn bị điều kiện để giao cho một cơ quan quản lý tập trung thống nhất công

tác quản lý thi hành án. Tuy nhiên cho đến nay điều đó chưa triển khai thực hiện được.

2.2.3.3. Đội ngũ cán bộ tư pháp chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ

Mặc dù được quan tâm xây dựng, kiện toàn và đã đạt được nhiều kết quả trong

công tác, nhưng nhìn chung cán bộ tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu của Đảng, Nhà

nước và nhân dân.

Sự bất cập đầu tiên của đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu về số lượng. Trong điều

kiện kinh tế thị trường, tội phạm, tranh chấp trong xã hội tăng và phức tạp hơn. Do vậy

công việc của các cơ quan tư pháp ngày càng khó khăn và nặng nề hơn. Số vụ việc mà

chấp hành viên phải giải quyết trong mấy năm gần đây cũng tăng nhiều. Bình quân một

chấp hành viên một năm phải giải quyết từ 200 đến 300 vụ; thậm chí có nơi chấp hành

viên phải giải quyết trên 1000 vụ việc.

Số lượng cán bộ tư pháp thiếu như vậy, nhưng ở một số nơi tuyển dụng cán bộ

cho cơ quan điều tra, viện kiểm sát, Toà án, cơ quan thi hành án cũng gặp khó khăn về

nguồn. Một số Toà án, Viện Kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự chưa đủ cán bộ theo

biên chế, nhưng cũng không dễ tiếp nhận một sinh viên tốt nghiệp đại học luật chính

quy vào làm việc. Những quy định về thâm niên công tác hoặc yêu cầu về đào tạo nghề

nghiệp làm cho nhiều Toà án cấp huyện, cấp tỉnh chưa có cán bộ đủ tiêu chuẩn để bổ

nhiệm chức danh tư pháp. Điểm hạn chế lớn nhất của đội ngũ cán bộ tư pháp là trình độ,

năng lực còn yếu. Điều đó do công tác tuyển dụng, bố trí cán bộ trước đây và công tác

đào tạo, bồi dưỡng hiện nay.

Sự cập nhật không thường xuyên, đầy đủ, có hệ thống những thông tin, kiến thức

về kinh tế, xã hội cũng dẫn đến sự lúng túng, khó khăn của cán bộ tư pháp trong việc

điều tra, truy tố, xét xử một số vụ án hình sự và giải quyết một số vụ án dân sự, kinh tế.

Nhiều vụ án xử lý kéo dài, xét xử nhiều lần với những quyết định trái ngược nhau là do

nhận thức của điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán chưa thống nhất, vừa do thiếu

hiểu biết của cán bộ tư pháp về những lĩnh vực có liên quan.

Những hạn chế, bất cập, yếu kém về tổ chức và cán bộ của các cơ quan tư pháp

nêu trên là một trong những nguyên nhân làm hạn chế chất lượng hoạt động của các cơ

quan đó, đặc biệt là đối với cơ quan thi hành án. Một trong những nguyên nhân của tình

trạng tồn đọng không thi hành được một số lượng lớn bản án, quyết định của Toà án

hiện nay là sự bất hợp lý của một số bản án. Có một số bản án dân sự khi hội đồng xét

xử tuyên thì đã thấy sự bất khả thi. Tính thiếu rõ ràng, không sát thực tiễn của một số

bản án đã làm cho việc thi hành bản án đó là không thể được hoặc rất khó khăn.

Do nhiều nguyên nhân nên hiện nay ở nước ta còn rất nhiều bản án, quyết định

dân sự chưa thi hành được. Điều đó dẫn đến sự bức xúc, căng thẳng trong xã hội, hạn

chế phát triển kinh tế, tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức. Có

thể nói thi hành án dân sự là khâu yếu nhất trong công tác tư pháp hiện nay. Chất lượng

hạn chế của công tác thi hành án dân sự làm giảm hiệu lực của Toà án, giảm lòng tin

của cá nhân, tổ chức đối với các cơ quan tư pháp. Không những cá nhân, tổ chức trong

nước mà nhiều nhà đầu tư, tổ chức nước ngoài đều chú ý đến tình hình thi hành các bản

án, quyết định dân sự của Toà án, trọng tài Việt Nam và Toà án, trọng tài nước ngoài tại

nước ta. Sự hạn chế trong thi hành án dân sự của nước ta hiện nay là mối quan tâm của

họ trong việc quyết định đầu tư hoặc hợp tác kinh doanh với các doanh nghiệp Việt

Nam.

Chương 3 QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG THỰC HIỆN CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở TỈNH BẮC NINH

3.1. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG

THỰC HIỆN CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở NƯỚC TA NÓI CHUNG VÀ Ở TỈNH BẮC

NINH NÓI RIÊNG

Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị đó xỏc định: "Đảng lónh đạo các cơ

quan tư pháp chặt chẽ về chính trị, tổ chức và cán bộ, bảo đảm cho hoạt động tư

pháp thực hiện đúng quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tiếp tục hoàn

thiện nội dung, phương thức lónh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp, khắc phục

tỡnh trạng cấp ủy buụng lỏng lónh đạo hoặc cấp ủy viên can thiệp không đúng vào

hoạt động tư pháp". Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá X ra

Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 30/7/2007 về tiếp tục đổi mới phương thức lónh đạo

của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị, xác định mục tiêu: "Tiếp tục đổi

mới phương thức lónh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị nhằm giữ vững và tăng

cường vai trũ lónh đạo, nâng cao tính khoa học, năng lực và hiệu quả lónh đạo của Đảng

đối với nhà nước" [10, tr.113]. Do đó, đổi mới sự lónh đạo của Đảng đối với cải cách tư

pháp cần phải quán triệt và thấm nhuần cũng như vận dụng các quan điểm chỉ đạo sau đây:

Một là, "đổi mới phương thức lónh đạo của Đảng trong thực hiện cải cách tư

pháp phải được đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi mới chỉnh đốn Đảng, tiến hành đồng bộ

đối với các mặt của công tác xây dựng Đảng với đổi mới tổ chức hoạt động của cả hệ

thống chính trị, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức viên chức; đồng bộ với

đổi mới kinh tế, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, thích ứng với

những đũi hỏi của quá trỡnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước".

Hai là, đổi mới phương thức lónh đạo của Đảng trong thực hiện cải cách tư pháp

"phải trên cơ sở kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; thực hiện

nguyên tắc tập trung dân chủ; thực hành dân chủ rộng rói trong Đảng và trong xó hội,

đẩy mạnh phân cấp, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân nhất là người đứng đầu".

Ba là, đổi mới phương thức lónh đạo của Đảng trong thực hiện cải cách tư pháp

"là công việc hệ trọng, đũi hỏi phải chủ động tích cực, có quyết tâm chính trị cao, đồng

thời cần thận trọng, có bước đi vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm".

Bốn là, đổi mới phương thức lónh đạo của Đảng trong thực hiện cải cách tư pháp

ở mỗi ngành, mỗi cấp phải quán triệt nguyên tắc chung, vừa phải phù hợp với đặc điểm,

yêu cầu, nhiệm vụ lónh đạo của từng cấp, từng ngành.

Năm là, đổi mới sự lónh đạo của Đảng đối với cải cách tư phỏp gắn liền với sự

lónh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa của dõn, do dõn, vỡ dõn.

Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân

chủ cộng hũa ra đời. Một nền tư pháp kiểu mới - nền tư pháp nhân dân đó từng bước

được thiết lập. Hơn sáu thập kỷ qua, các cơ quan tư pháp đó vượt qua nhiều khó khăn,

thử thách, nỗ lực phấn đấu để hoàn thành trọng trách mà Đảng và nhân dân giao phó, đó

đóng góp không nhỏ vào thắng lợi chung của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Việt Nam xó hội chủ nghĩa, gúp phần thực hiện mục tiờu dõn giàu, nước mạnh, xó hội

cụng bằng, dõn chủ, văn minh.

Trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, yêu

cầu khách quan đặt ra là Đảng phải đổi mới sự lónh đạo đối với cải cách bộ máy nhà

nước, điều chỉnh phạm vi nội dung và phương thức hoạt động của Nhà nước cho phù

hợp. Nguyên tắc quản lý nhà nước, quản lý xó hội bằng phỏp luật, tăng cường pháp chế

xó hội chủ nghĩa phải được đề cao hơn bao giờ hết. Trong cải cách bộ máy nhà nước,

cải cách tư pháp có vị trí rất quan trọng. Bởi vỡ, cỏc cơ quan tư pháp là công cụ quan

trọng của Đảng và Nhà nước để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ nhân

dân, các quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng của người dân, bảo đảm kỷ cương xó

hội. Từ khi công cuộc đổi mới bắt đầu, thực hiện chủ trương cải cách bộ máy nhà nước,

các cấp uỷ đảng luôn coi trọng đổi mới sự lónh đạo đối với các cơ quan tư pháp nhằm

xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, từng bước nâng

cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân. Nhờ đó, các cơ quan tư pháp đó luụn luụn

đứng ở tuyến đầu của nhiệm vụ bảo vệ pháp chế và trật tự pháp luật xó hội chủ nghĩa,

đấu tranh có hiệu quả với tội phạm và các vi phạm pháp luật, giải quyết nhanh chóng,

kịp thời và đúng pháp luật các tranh chấp nảy sinh trong các lĩnh vực của đời sống xó

hội, gúp phần ổn định xó hội, phỏt triển kinh tế, phỏt huy tớnh chủ động, sáng tạo của

mọi tầng lớp nhân dân trong quá trỡnh đổi mới. Có thể nói, quyền lực tư pháp đó được

thực hiện có hiệu quả với sự đóng góp lớn lao của toàn bộ hệ thống tư pháp.

Sáu là, đổi mới sự lónh đạo của Đảng đối với cải cách tư pháp một cách toàn

diện, đồng bộ, kịp thời phù hợp với yêu cầu bảo vệ pháp luật, tăng cường pháp chế xó

hội chủ nghĩa.

Để hoạt động của các cơ quan tư pháp đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống,

Đảng ta đó cú nhiều nghị quyết về vấn đề này như: Nghị quyết Trung ương 8 (khóa

VII), Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII). Xây dựng nhà

nước pháp quyền dưới sự lónh đạo của Đảng, càng đề cao Hiến pháp và pháp luật, pháp

chế trong tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước và trong đời sống xó hội. Nhà nước

pháp quyền là nhà nước được tổ chức và quản lý theo phỏp luật và đề cao các giá trị

nhân văn, tôn trọng và bảo đảm quyền của con người, quyền công dân. Do đó, nhiệm vụ

cấp bách hàng đầu hiện nay là phải tiếp tục sự lónh đạo của các cấp uỷ đảng trong việc

đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật nghiêm minh. "Cải cách tổ

chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp" là một trong những

đũi hỏi bức xỳc hiện nay, là một đũi hỏi tự thõn của nền cụng lý và dõn chủ xó hội chủ

nghĩa dưới sự lónh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Theo Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 2-1-2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm

vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, cải cách công tác tư pháp cần được

thực hiện những nội dung sau:

+ Công tác tư pháp phải thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng, bám sát

và phục vụ có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn, bảo đảm quyền lực

nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong

thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; phát huy dân chủ, tăng cường pháp

chế; giữ vững bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa của

nhõn dõn, do nhõn dõn và vỡ nhõn dõn.

+ Công tác tư pháp phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiờm minh

cỏc loại tội phạm hỡnh sự, đặc biệt là các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội tham

nhũng và các loại tội phạm có tổ chức; bảo vệ trật tự kỷ cương; bảo đảm và tôn trọng

quyền dân chủ, quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân.

+ Phỏt huy sức mạnh tổng hợp của toàn xó hội tham gia vào cụng tỏc tư pháp.

Các cơ quan tư pháp phải dựa vào nhân dân để hoạt động, đồng thời phải là chỗ dựa

vững chắc của nhân dân trong đấu tranh phũng, chống tội phạm, cỏc hành vi vi phạm

phỏp luật và giải quyết tranh chấp.

+ Xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh và từng bước hiện đại,

góp phần xây dựng, bảo vệ Đảng và Nhà nước.

Trên tinh thần những quan điểm chỉ đạo cơ bản đó, cần xác định bước đi và

phương thức thực hiện cải cách tư pháp cho thích hợp. Trước hết, cải cách tư pháp phải

được tiến hành tổng thể trong cải cách bộ máy nhà nước, trong sự liên hệ mật thiết với

cải cỏch hành chớnh. Quỏ trỡnh cải cỏch đó không thể tách rời việc đổi mới hệ thống

chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa của dõn, do dõn, vỡ dõn.

Thứ hai, cải cách tư pháp phải hướng tới việc thực hiện đầy đủ các nguyên tắc cơ bản về

tổ chức và hoạt động tư pháp như: mỗi cơ quan thực hiện từng khâu của tiến trỡnh tố

tụng phải chịu trỏch nhiệm độc lập về kết luận của mỡnh; bảo đảm tính khách quan của

việc xét xử hai cấp; thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét

xử; mọi công dân đều bỡnh đẳng trước pháp luật; quyền bào chữa của bị can, bị cáo

được bảo đảm; nhân dân tham gia, kiểm tra và giám sát hoạt động tư pháp... Thứ ba, cải

cách tư pháp là một nhiệm vụ bao quát nhiều lĩnh vực trên một phạm vi khá rộng. Thực

hiện nhiệm vụ này phải tiến hành từng bước, nhanh chóng nhưng phải thận trọng và

hiệu quả, cần lựa chọn những vấn đề cấp bách để triển khai trước. Không thể quan niệm

rằng, cải cách tư pháp chỉ cần điều chỉnh một đôi chỗ về thiết chế và thể chế là đủ.

Chúng ta phải nghiờn cứu, tiến hành cuộc cải cỏch này theo tinh thần mới, tinh thần tự

phờ phỏn. Cần thấy rừ những mặt được, chưa được, những bất cập của hệ thống tư pháp

hiện nay để cuộc cải cách đi đúng hướng và có trọng tâm, trọng điểm. Thứ tư, trong việc

tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, cần khách quan, thận trọng bám sát thực tế nước ta.

Bảy là, đổi mới sự lónh đạo của Đảng trong lĩnh vực cải cách tư pháp là đổi mới

cách thức, nội dung sự lónh đạo của các cấp uỷ đảng đối với cải cách tổ chức và phương

thức hoạt động của các cơ quan tư pháp (bao gồm tũa ỏn, Viện Kiểm sát, cơ quan điều

tra, cơ quan thi hành án, các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp như công chứng, giám định

tư pháp, hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư pháp, luật sư, tư vấn pháp luật...).

Về phương pháp tiến hành, cần chọn cải cỏch tũa ỏn là khõu đột phá trong cải

cách tư pháp, bởi vỡ trong hệ thống cỏc cơ quan tư pháp, tũa ỏn cú vai trũ đặc biệt quan

trọng. Phán quyết của tũa ỏn thể hiện kết quả cuối cựng của tiến trỡnh tố tụng: tuyờn bố

một cụng dõn cú tội hoặc không có tội, đúng hoặc sai. Vỡ lẽ đó, tũa ỏn là nơi thể hiện

sâu sắc nhất bản chất của nhà nước và nền công lý nước ta; đồng thời thể hiện chất

lượng hoạt động và uy tín của hệ thống tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xó hội chủ

nghĩa. Sứ mạng của tũa ỏn được thể hiện ở chỗ nó là công cụ để bảo vệ công lý và sự

cụng bằng xó hội. Cải cỏch tũa ỏn là tạo ra cỏc điều kiện và các phương tiện tố tụng tối

ưu để giải quyết các vụ án đúng pháp luật, kịp thời và nghiêm minh.

Tám là, đổi mới sự lónh đạo của Đảng đối với cải cách tư pháp nhằm giải quyết

kịp thời các tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài.

Trong quỏ trỡnh hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới, cỏc quan hệ kinh tế,

dõn sự giữa cỏ nhõn, tổ chức trong nước (đặc biệt là các doanh nghiệp Việt Nam) với cá

nhân, tổ chức nước ngoài ngày càng phát triển đa dạng, phức tạp cả về tính chất, mức

độ, phạm vi về chủ thể, khách thể của các quan hệ đó. Trong khi đó, trỡnh độ pháp luật

của đội ngũ cán bộ trong ngành tư pháp cũn hạn chế nhiều mặt, nhất là ngoại ngữ, sự

am hiểu hệ thống pháp luật quốc tế, kinh nghiệm giải quyết các tranh chấp quan hệ kinh

tế, dân sự, hôn nhân có yếu tố nước ngoài… Đảng và Nhà nước ta xác định toàn cầu hoá

là tất yếu khách quan, chúng ta phải tích cực, chủ động hội nhập nền kinh tế thế giới.

Đó là quá trỡnh chỳng ta vừa cú những thời cơ lớn và đứng trước những thách thức lớn.

Trước những yêu cầu thực tiễn phải giải quyết các quan hệ pháp luật có yếu tố

nước ngoài đũi hỏi cụng tỏc cải cỏch tư pháp ở các địa phương phải được tiến hành

đồng bộ, toàn diện về tổ chức bộ máy, cơ chế; năng lực, trỡnh độ, trí tuệ, bản lĩnh của

đội ngũ cán bộ trong ngành tư pháp. Quá trỡnh đó cần được sự lónh đạo, chỉ đạo kịp

thời của các cấp uỷ đảng từ Trung ương đến địa phương. Trong đó, đũi hỏi sự năng

động, chủ động, tích cực của tỉnh uỷ, ban cán sự đảng trong các cơ quan tư pháp ở các

tỉnh.

3.2. CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG

THỰC HIỆN CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở TỈNH BẮC NINH

3.2.1. Nâng cao chất lượng nghị quyết của các cấp uỷ đảng đối với các cơ

quan tư pháp

Để thực hiện chức năng lónh đạo của mỡnh đối với các cơ quan nhà nước và

đoàn thể chính trị ở địa phương nói chung và đối với các cơ quan tư pháp nói riêng,

Tỉnh uỷ Bắc Ninh sử dụng cỏc hỡnh thức văn bản như nghị quyết, chỉ thị, thông tri, kết

luận, chương trỡnh hành động… Trong đó chất lượng Nghị quyết của Tỉnh uỷ có vai trũ

rất lớn. Vỡ vậy, trong quỏ trỡnh lónh đạo xây dựng NNPQ XHCN, một mặt, nội dung

các văn bản chỉ đạo của cấp uỷ đũi hỏi phải thực sự khoa học, trớ tuệ, đáp ứng yêu cầu

định hướng hoạt động của cơ quan tư pháp ở địa phương; mặt khác nội dung của văn

bản phải bảo đảm đúng chức năng lónh đạo của Đảng, tránh tỡnh trạng lấn sõn của cơ

quan nhà nước, của cơ quan tư pháp cấp trên. Điều 4 Hiến pháp 1992 quy định “tổ chức

đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Vỡ vậy, cỏc tổ

chức đảng và đảng viên càng phải gương mẫu trong việc thực hiện pháp chế XHCN.

Văn bản chỉ đạo của Tỉnh uỷ Bắc Ninh cần hướng tới việc lónh đạo các tổ chức

đảng và đảng viên hoạt động trong lĩnh vực tư pháp nhằm bảo đảm việc bắt giữ, điều

tra, truy tố, xét xử được tiến hành đúng pháp luật; lónh đạo về đường lối xét xử mà

không chỉ đạo về tội danh và mức hỡnh phạt. Cỏc cấp uỷ đảng của đảng bộ tỉnh lónh

đạo bảo đảm nguyên tắc Hiến định: khi xét xử, thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp

luật.

Đối với các vụ án có tính chất chính trị (xét xử các tổ chức chính trị phản động

chống Tổ quốc, bọn phản động đội lốt tôn giáo...), đũi hỏi sự cõn nhắc toàn diện về ảnh

hưởng đối nội và đối ngoại, Tỉnh uỷ cần chỉ đạo Đảng ủy, Ban Cán sự Đảng trong các

cơ quan công an, kiểm sát, tũa ỏn bỏo cỏo về phương hướng xử lý. Tỉnh uỷ cho ý kiến

về định hướng, cũn xử lý cụ thể là do cỏc cơ quan tư pháp quyết định và chịu trách

nhiệm theo chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền luật định.

Đối với các vụ án khác, các cơ quan tư pháp xử lý theo chức năng và trỏch nhiệm

của mỡnh và cú trỏch nhiệm bỏo cỏo với cấp uỷ đảng theo quy định của Điều lệ Đảng.

Khi phát hiện làm sai quy định của pháp luật, vi phạm quyền và lợi ích hợp phỏp của

cụng dõn hoặc quyền lợi của quốc gia, Tỉnh uỷ lónh đạo các ban của cấp ủy, tổ chức

đảng trong các cơ quan tư pháp để kiểm tra, uốn nắn.

Tránh lẫn lộn chức năng lónh đạo chính trị của Tỉnh uỷ với chức năng điều tra,

truy tố, xét xử, hỗ trợ tư pháp của các cơ quan tư pháp, khắc phục tỡnh trạng cỏc tổ

chức đảng can thiệp quá sâu vào hoạt động của các cơ quan chức năng này, đồng thời

tránh tỡnh trạng Nghị quyết, chỉ thị của cỏc cấp uỷ đảng mất dần tính định hướng. Tuy

nhiên, sự phân biệt này cũng chỉ mang tính tương đối, bởi lẽ tuyệt đối hoá chúng có thể

cô lập sự lónh đạo của các cấp uỷ đảng đối với cơ quan nhà nước nói chung và các

cơ quan tư pháp nói riêng, khu biệt hoạt động của Đảng trong phạm vi soạn thảo

đường lối và kiểm tra Đảng, khiến cho vai trũ lónh đạo của cấp uỷ đảng bị lu mờ và

trở nên hỡnh thức, lệ thuộc vào chớnh quyền. Muốn vậy, cần xỏc định rừ những loại

việc nào cấp uỷ địa phương trực tiếp quyết định, những việc quan trọng nào cần có

định hướng của cấp uỷ để các cơ quan tư pháp tổ chức thực hiện. Những công việc

cụ thể nào do các cơ quan tư pháp quyết định theo thẩm quyền.

Để xây dựng được những văn bản chỉ đạo, lónh đạo của các cấp uỷ trong Đảng

bộ tỉnh Bắc Ninh đũi hỏi phải nõng tầm trớ tuệ và bản lĩnh chớnh trị của toàn Đảng bộ

nói chung và của các cấp uỷ lên cao hơn những đũi hỏi của cuộc sống và của sự nghiệp

xõy dựng NNPQ XHCN. Muốn vậy, một mặt cỏc cấp uỷ đảng phải thật sự cầu thị, tôn

trọng và lắng nghe các ý kiến khỏc nhau, dõn chủ thật sự trong tranh luận và bày tỏ

chớnh kiến, mở rộng và phát huy dân chủ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước, trong

toàn xó hội trờn cơ sở khối đại đoàn kết toàn dân; mặt khác, cần nghiêm trị những phần

tử cơ hội, lợi dụng dân chủ với mục đích xấu.

3.2.2. Kiện toàn các tổ chức đảng trong các cơ quan tư pháp

Thực hiện chương trỡnh cải cỏch tư pháp của Bộ Chính trị, Nghị quyết của Quốc

hội về tăng thẩm quyền cho Toà án nhân dân cấp huyện đang đặt ra nhiều vấn đề cần

phải giải quyết về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp,

nhất là các tổ chức đảng trong các cơ quan này phù hợp yêu cầu của cải cách tư

pháp, của quá trỡnh hội nhập kinh tế thế giới của nước ta. Đối với ban cán sự đảng,

đảng đoàn, Hội nghị Trung ương 4 khoỏ X chỉ rừ:

Kiện toàn tổ chức các ban cán sự đảng, đảng đoàn để các tổ chức đảng

này thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng.

Nơi không lập ban cán sự đảng, đảng đoàn thỡ tăng thẩm quyền, trách nhiệm

của đảng uỷ cơ quan… phân định rừ giữa chức năng, nhiệm vụ của ban cán

sự đảng, đảng đoàn với chức năng, nhiệm vụ của lónh đạo cơ quan, đơn vị [6,

tr.29-30].

Đối với các chi bộ trong các cơ quan tư pháp cần thực hiện tốt chức năng, nhiệm

vụ theo Quy định 98-QĐ/TW ngày 22 tháng 3 năm 2004 của Ban Bí thư về chức năng,

nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ quan.

Trước mắt, các cấp uỷ đảng cần tiếp tục xây dựng kế hoạch hành động cụ thể để

thực hiện chủ trương của cấp trên về cải cách tư pháp, kịp thời kiện toàn hệ thống cơ

quan tư pháp khi có sự biến động về tổ chức bộ máy, về nhân sự. Trong giai đoạn đầu

thực hiện cải cách tư pháp, việc tách và nhập một số tổ chức bộ máy trong cơ quan tư

pháp là điều không tránh khỏi. Ví dụ, việc thành lập cảnh sát môi trường, cảnh sát tư

pháp, bỏ chức năng kiểm sát chung của cơ quan Viện Kiểm sát… hoặc tiến tới thành lập

Toà án khu vực… những thay đổi đó dẫn đến sự biến động về tổ chức, nhân sự - một

trong những vấn đề cực kỳ nhạy cảm và phức tạp. Chính vỡ vậy, cấp uỷ địa phương cần

có sự thống nhất về tư tưởng, chủ trương trong toàn đảng bộ từ tỉnh xuống huyện và tổ

chức lónh đạo thực hiện kiên quyết, kịp thời.

Hiện nay, Toà án cấp huyện được tăng thẩm quyền dẫn đến có sự thay đổi chức

năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện.

Điều đó, đũi hỏi việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của những cơ quan này về chuyên môn,

nghiệp vụ phải nhanh chóng hơn, khẩn trương hơn nhưng phải thiết thực, gắn với những

nội dung, yêu cầu mới phù hợp với từng chức danh.

+ Lónh đạo xây dựng quy chế làm việc giữa cấp uỷ và thủ trưởng cơ quan. Trong

đó, đảng bộ, chi bộ, cấp uỷ bảo đảm và tạo điều kiện để thủ trưởng cơ quan thực hiện

trách nhiệm, quyền hạn được giao; thủ trưởng cơ quan bảo đảm và tạo điều kiện để tổ

chức cơ sở đảng thực hiện quy định 97 của Ban Bí thư. Cấp uỷ cơ quan thường xuyên

phản ánh với ban cán sự đảng, đảng đoàn, lónh đạo cơ quan ý kiến của đảng viên, quần

chúng về việc thực hiện các nhiệm vụ, chính sách và chế độ trong cơ quan; thực hiện

việc báo cáo của thủ trưởng cơ quan với cấp uỷ và Đại hội chi bộ, đảng bộ cơ quan theo

định kỳ 3 tháng, 6 tháng, 1 năm hoặc vào dịp Đại hội Đảng theo quy định của Ban Bí

thư.

3.2.3. Đổi mới sự chỉ đạo của cấp uỷ đảng với các cơ quan tư pháp

Hoạt động tư pháp là hoạt động có mục đích chung nhằm "bảo vệ phỏp chế xó

hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xó hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ

tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân

phẩm của công dân" (Điều 126, Hiến pháp năm 1992). Vỡ vậy, cỏc cơ quan Tũa ỏn,

Viện Kiểm sát và điều tra đều là những cơ quan thể hiện trực tiếp bản chất của Nhà

nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa của dõn, do dõn và vỡ dõn, dưới sự lónh đạo của các

cấp uỷ đảng cùng cấp và cấp trên.

Thực tiễn xây dựng bộ máy nhà nước cho thấy, hệ thống tư pháp hiện nay ở nước

ta chưa đảm đương được đầy đủ vị trí, vai trũ. Cú thể núi, ở tất cả cỏc khõu từ điều tra,

truy tố, đến xét xử và phũng ngừa, hệ thống tư pháp chưa thực sự là một hệ thống vận

dụng và áp dụng thành thạo pháp luật. Trong nhiều trường hợp, quyền lực nhà nước bị

biến dạng qua hoạt động cụ thể của Tũa ỏn và Viện Kiểm sát. Uy tín của các cơ quan

bảo vệ pháp luật giảm sút trong dư luận của quần chúng. Vỡ vậy, tiếp tục đổi mới, cải

cách hệ thống các cơ quan tư pháp theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xó

hội chủ nghĩa của dõn, do dõn và vỡ dõn, đũi hỏi phải nõng cao năng lực áp dụng pháp

luật và năng lực đề xuất, kiến nghị sáng kiến đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật

vỡ con người, cho con người đối với đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán.

Thực tiễn cho thấy rằng, quỏ trỡnh đổi mới, cải cách đó của các cơ quan tư pháp phải có

sự lónh đạo, chỉ đạo của Đảng, trước hết là cấp uỷ địa phương.

Tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp trong nhà nước pháp quyền phải

tuân thủ nghiêm ngặt một hệ thống các quy tắc tố tụng rất đầy đủ, minh bạch và chặt

chẽ... Vỡ thế, lónh đạo công cuộc cải cách tư pháp, đũi hỏi cấp uỷ địa phương phải lónh

đạo các cơ quan tư pháp góp ý hoàn thiện hệ thống cỏc thủ tục tố tụng tư pháp rừ ràng,

minh bạch, chặt chẽ, vừa đề cao nhân tố con người trong mối quan hệ với các cơ quan

tư pháp, vừa đề cao trách nhiệm của các cơ quan và cá nhân có thẩm quyền trong hoạt

động tư pháp. Hơn nữa, độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc xuyên suốt quá

trỡnh tổ chức và hoạt động tư pháp. Đây là công thức pháp lý chứa đựng các giá trị

được thừa nhận chung trong nhà nước pháp quyền đối với không chỉ trong hoạt động

xét xử của thẩm phán và hội thẩm nhân dân mà cả trong hoạt động điều tra, truy tố của

điều tra viên và kiểm sát viên; chống khuynh hướng phủ nhận tính độc lập trong hoạt

động tư pháp, lợi dụng nguyên tắc Đảng lónh đạo để một số cá nhân có chức, có quyền

trong tổ chức đảng hoặc cơ quan nhà nước tác động hoặc gây ảnh hưởng xấu đến hoạt

động tư pháp.

Thực tiễn cho thấy, thực hiện nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong

hoạt động tư pháp không có nghĩa là các cơ quan tư pháp thoát ly sự lónh đạo của Đảng,

áp dụng pháp luật một cách máy móc, cứng nhắc, hỡnh thức. Vỡ vậy, vấn đề cơ bản là

xuất phát từ đặc trưng của hoạt động tư pháp mang tính độc lập và chỉ tuân theo pháp

luật mà tỡm kiếm cỏc hỡnh thức và phương thức lónh đạo của Đảng phù hợp, vừa bảo

đảm nguyên tắc Đảng lónh đạo tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, vừa giữ

vững nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Cần thể chế hóa bằng pháp luật

phương thức lónh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm

Đảng lónh đạo tư pháp nhưng tôn trọng nguyên tắc tư pháp độc lập - nguyên tắc và là

đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền.

Về tổ chức, Đảng lónh đạo các cơ quan tư pháp thông qua ban cán sự, cấp ủy và

các đảng viên có trong các cơ quan đó. Mối quan hệ giữa cấp ủy đảng với các đảng

đoàn, ban cán sự cùng cấp, các đảng viên là theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

Ban Cán sự, đảng ủy và các đảng viên trong các cơ quan tư pháp cần nêu cao

tính đảng, ý thức tổ chức kỷ luật, núi và làm theo nghị quyết của Đảng. Với những chủ

trương, quan điểm mang tính nguyên tắc, cấp ủy đảng ra nghị quyết hoặc có kết luận để

ban cán sự và đảng viên thực hiện. Cũn về chủ trương, biện pháp, kế hoạch cụ thể, ban

cán sự bàn bạc cùng thủ trưởng của cơ quan. Các cơ quan tư pháp ra quyết định và chịu

trách nhiệm về quyết định của mỡnh. Tuy nhiờn, cũng cần làm rừ trỏch nhiệm của Ban

Cỏn sự đảng ở cơ quan đến đâu, cá nhân đồng chí cấp ủy viên được phân công làm thủ

trưởng cơ quan tư pháp chịu trách nhiệm trước cấp ủy đến đâu?.

Ngoài chỉ đạo bằng nghị quyết, chỉ thị, các cấp uỷ đảng mà trước hết là tỉnh uỷ

cần tiếp tục đổi mới sự lónh đạo bằng công tác kiểm tra, sự gương mẫu của cán bộ, đảng

viên. Trong đó, tăng cường công tác kiểm tra luôn được xem là công cụ hữu hiệu để

Đảng lónh đạo cơ quan tư pháp. Trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCN, công tác

kiểm tra của Đảng cần được đổi mới theo định hướng dân chủ và công khai; tránh việc

xử lý nội bộ với những cán bộ, đảng viên trong ngành tư pháp bị kỷ luật; đồng thời, có

cơ chế bảo vệ cán bộ, đảng viên trước sự vu khống, tố cáo sai sự thật. Đồng thời, các

hỡnh thức kiểm tra phải được vận dụng một cách linh hoạt, mềm dẻo và đặc biệt, tránh

sự chồng chéo với công tác thanh tra, kiểm tra của Nhà nước.

3.2.4. Đổi mới công tác cán bộ nhằm xây dựng được đội ngũ cán bộ trong

các cơ quan tư pháp có đức, có tài đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị địa

phương

Trong NNPQ XHCN, sự lónh đạo tập trung thống nhất vê công tác cán bộ là một

đặc quyền chính đáng của Đảng được xó hội thừa nhận và ủng hộ. Theo đó, Đảng xác

định quan điểm, nguyên tắc về công tác cán bộ, tiêu chuẩn cán bộ; có quyền giới thiệu

những cán bộ giỏi, có uy tín của mỡnh ứng cử những chức vụ lónh đạo của bộ máy nhà

nước nói chung và của cơ quan tư pháp nói riêng. Tỉnh uỷ, Ban thường vụ tỉnh uỷ nhất

thiết phải cử những cán bộ, đảng viên có năng lực và uy tín lónh đạo các cơ quan tư

pháp của tỉnh. Vấn đề là ở chỗ những người được giới thiệu ứng cử đó phải là những

người ưu tú nhất chưa? Đó đủ phẩm chất và tài năng cho cương vị mà họ ứng cử chưa?

họ đó phải là người tiên phong trong lý luận và hành động chưa?… Nếu câu trả lời là

chưa thỡ chắc chắn, sự hiện diện của họ trong cơ quan tư pháp sẽ tạo ra dư luận không

tốt cho công tác cán bộ của tỉnh uỷ. Đồng thời, không phải bất kỳ vị trí nào trong cơ

quan tư pháp cũng phải do cấp uỷ viên hoặc đảng viên đảm nhận. Tiêu chuẩn cán bộ

lónh đạo quản lý trong các cơ quan tư pháp khác với tiêu chuẩn cán bộ làm công tác

đảng; hơn nữa, không phải cấp uỷ viên hoặc đảng viên nào cũng có đủ trỡnh độ, năng

lực thực hiện chức năng điều tra, truy tố, xét xử, bào chữa…Vỡ thế, khụng nờn lấy tiờu

chuẩn cỏn bộ đảng để bố trí cán bộ của các cơ quan tư pháp.

Hồ Chí Minh khẳng định “Cán bộ là gốc của mọi công việc”. Do đó, trong lónh

đạo cải cách tư pháp, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, ban cán sự Đảng của các cơ quan tư

pháp, các cơ quan tham mưu phải xây dựng được chiến lược cán bộ cho cả hệ thống

chính trị nói chung và đối với các cơ quan tư pháp nói riêng - những cơ quan trực tiếp

liên quan đến sinh mệnh chính trị của con người. Trong các cơ quan tư pháp, mặc dù

nhiều chức danh do cấp có thẩm quyền của trung ương bổ nhiệm theo nhiệm kỳ, nhưng

các cấp uỷ đảng cần có chương trỡnh bổ sung về đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ

cán bộ tư pháp, có ý kiến nhận xét, đánh giá đối với những cán bộ lónh đạo, quản lý chủ

chốt của cơ quan tư pháp làm cơ sở giúp cấp có thẩm quyền nắm rừ được đức, tài của

đội ngũ cán bộ này trước khi được bổ nhiệm.

Hàng năm, trong hệ thống cơ quan tư pháp thường có kế hoạch đào tạo, bồi

dưỡng chuyên môn cụ thể cho đội ngũ cán bộ trong ngành. Vỡ vậy, đối với cấp uỷ địa

phương xây dựng kế hoạch quán triệt về những chủ trương, chính sách mới của địa

phương cho đội ngũ cán bộ tư pháp, đồng thời, quy hoạch đào tạo kiến thức lý luận

chính trị cho đội ngũ cán bộ này.

Trong công cuộc xây dựng đất nước, chúng ta đang thực hiện một nền kinh tế thị

trường định hướng xó hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường chứa đựng cả mặt tích cực

và tiêu cực. Kinh tế thị trường thúc đẩy chủ nghĩa cá nhân phát triển, thúc đẩy xu hướng

"thương mại hóa" các quan hệ xó hội, thỳc đẩy con người chạy theo đồng tiền bằng mọi

giá. Đó cú những cỏn bộ tư pháp lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mỡnh, thực hiện

những hành vi vi phạm pháp luật đang gây nhiều bức xúc trong nhân dân. Trong môi

trường kinh tế - xó hội hiện nay, chủ nghĩa cỏ nhõn trong hàng ngũ cỏn bộ, viờn chức

nhà nước đang có cơ hội phát triển. Tỡnh trạng tham nhũng trong cơ quan tư pháp đang

trở nờn bức xỳc. Nú lại gắn liền với quan liờu cửa quyền, hỏch dịch, lóng phớ... Nhiều

hiện tượng sa sút phẩm chất, chạy theo quyền lực bằng mọi cách như xu nịnh, tạo phe

cánh để ngoi lên, lừa đảo về bằng cấp, chứng chỉ, thành tích... thậm chí có cả việc hối

lộ, mua quan bán tước cũng đó diễn ra. Điều đó, đang đặt ra những yêu cầu bức thiết đối

với cấp uỷ địa phương trong việc lónh đạo các cơ quan tư pháp tăng cường pháp chế

XHCN, xử lý kỷ luật nghiờm những cỏn bộ, cụng chức, đảng viên vi phạm pháp luật;

đồng thời tăng cường ngăn ngừa hành vi phạm tội xảy ra đối với đội ngũ cán bộ, đảng

viên.

Vấn đề xây dựng đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công chức cho đội ngũ cán bộ

tư pháp đang trở thành vấn đề hàng đầu trong quá trỡnh cải cỏch tư pháp hiện nay.

Trong đó, việc chống chủ nghĩa cá nhân, xây dựng tinh thần tập thể, cộng đồng phải

là phương hướng cơ bản của công tác tư tưởng. Chống chủ nghĩa cá nhân không có

nghĩa là chà đạp lên cá nhân con người, phủ nhận vai trũ to lớn của cỏ nhõn trong

đời sống xó hội mà là chống cái ác, cái xấu của chủ nghĩa cá nhân, làm cho cá nhân

con người phát triển lành mạnh luôn luôn hành động vỡ lợi ớch của tập thể, của cộng

đồng và của bản thân. Phải hết sức coi trọng giáo dục đạo đức nhưng cũng không

biến quá trỡnh giỏo dục thành một quỏ trỡnh đạo đức đơn thuần mà đi đôi với giáo

dục phải xử lý nghiờm minh mọi sự vi phạm luật phỏp của bất cứ ai.

Công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên phải lồng ghép với việc

chống các hiện tượng tiêu cực của bản thân người cán bộ, tiêu cực trong xó hội; phải

xõy dựng dõn chủ và kỷ luật làm hai yếu tố cơ bản để hỡnh thành nhõn cỏch con người;

hỡnh thành bầu khụng khớ chớnh trị đạo đức xó hội chủ nghĩa và đặc biệt là xây dựng

tính gương mẫu về đạo đức của người cán bộ, đảng viên trong ngành tư pháp.

Hơn nữa, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp có đức, có tài gắn liền với

nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp đủ về số lượng.

Đây là nội dung rất quan trọng và cấp bách. Thực trạng đội ngũ cán bộ tư pháp

của ta hiện nay về chất lượng và số lượng chưa thật đáp ứng với yêu cầu xây dựng Nhà

nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa. Nếu khụng cú sự quan tõm đầu tư, đẩy mạnh việc

đào tạo đội ngũ cán bộ tư pháp thỡ cú thể núi sẽ ảnh hưởng rất lớn tới nhiệm vụ xây

dựng Nhà nước pháp quyền. Bởi lẽ yêu cầu và nhiệm vụ mới đặt ra nhiều vấn đề đũi hỏi

phải cú đội ngũ cán bộ tư pháp có đủ năng lực trỡnh độ mới giải quyết được những vấn

đề thực tế đặt ra, không những ở các cơ quan, ban, ngành trung ương mà cả ở các cơ sở.

Vỡ vậy, vấn đề đặt ra là phải sớm có quy hoạch phù hợp, có kế hoạch tuyển chọn, đào

tạo. sử dụng đúng khả năng, yêu cầu. Đồng thời, phải coi trọng và tăng cường việc quản

lý, kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ tư pháp để họ thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

3.2.5. Tăng cường sự lónh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ đối với việc kiện toàn tổ

chức bộ máy của các cơ quan tư pháp tỉnh Bắc Ninh

Thực hiện chương trỡnh cải cỏch tư pháp của Bộ Chính trị, Nghị quyết của Quốc

hội về tăng thẩm quyền cho Toà án nhân dân cấp huyện đang đặt ra nhiều vấn đề cần

phải giải quyết về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp. Trước

mắt cần kiến nghị phân định rừ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan tư

pháp của tỉnh (Tũa ỏn nhõn dõn, Viện Kiểm sát nhân dân, các cơ quan điều tra và các

cơ quan, tổ chức tư pháp bổ trợ như: luật sư, công chứng, giám định, tư vấn pháp

luật...).

Tăng cường sự lónh đạo của cấp uỷ Đảng đối với sự phối hợp hoạt động giữa các

cơ quan tư pháp, giữa ban cán sự đảng và tổ chức cơ sở đảng trong các cơ quan tư pháp.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khoá X của Đảng đưa ra quan điểm: “Việc đổi mới,

kiện toàn tổ chức bộ máy phải phù hợp với đặc điểm của hệ thống chính trị nước ta vận

hành theo cơ chế Đảng lónh đạo, Nhà nước quản lý, nhõn dõn làm chủ do một đảng duy

nhất lónh đạo; phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội

nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, giữ vững và tăng cường

vai trũ lónh đạo của Đảng.

Kiện toàn tổ chức bộ máy nhằm bảo đảm các cơ quan trong hệ thống chính trị

hoạt động cú hiệu lực, hiệu quả, tinh gọn, khắc phục tỡnh trạng quan liờu, trựng lặp,

chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ hoặc tổ chức không phù hợp với chức năng, nhiệm vụ.

Phân định rừ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của mỗi tổ chức, bảo đảm hiệu lực, hiệu

quả hoạt động của cả hệ thống chính trị.

Kiện toàn tổ chức bộ máy phải bảo đảm tính đồng bộ, hệ thống, bảo

đảm sự lónh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị nước ta; vừa xây dựng các

cơ quan của Đảng vững mạnh, đủ sức thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, vừa

phát huy vai trũ, trỏch nhiệm của cỏc tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ

quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xó hội [9, tr.26-27].

Việc kiện toàn tổ chức và hoạt động đối với ban cán sự đảng, đảng đoàn, Hội

nghị Trung ương 4 khoá X đó chỉ rừ: Kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng

công tác xét xử của Toà án các cấp, bảo đảm tính chuyên sâu, phù hợp với yêu cầu công

tác xét xử hiện nay. Tích cực chuẩn bị để lập Toà án khu vực. Kiện toàn Toà án hành

chính để giải quyết các khiếu nại về hành chính của công dân. Tiếp tục đổi mới tổ chức,

sắp xếp lại các đơn vị kiểm sát theo hướng đồng bộ, nâng cao hiệu quả hoạt động để

thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, nâng cao chất lượng

tranh tụng tại phiên toà [9, tr.33].

Các cấp uỷ đảng từ tỉnh đến huyện của tỉnh cần tiếp tục xây dựng kế hoạch hành

động cụ thể để thực hiện chủ trương của cấp trên về cải cách tư pháp, kịp thời kiện toàn

hệ thống cơ quan tư pháp khi có sự biến động về tổ chức bộ máy, về nhân sự.

Trong giai đoạn đầu thực hiện cải cách tư pháp, việc tách và nhập một số tổ chức

bộ máy trong cơ quan tư pháp là điều không tránh khỏi. Ví dụ, việc thành lập cảnh sát

môi trường, cảnh sát tư pháp, bỏ chức năng kiểm sát chung của cơ quan Viện Kiểm

sát… hoặc tiến tới thành lập Toà án khu vực… những thay đổi đó dẫn đến sự biến động

về tổ chức, nhân sự - một trong những vấn đề cực kỳ nhạy cảm và phức tạp. Chính vỡ

vậy, cấp uỷ địa phương cần có sự thống nhất về tư tưởng, chủ trương trong toàn đảng bộ

từ tỉnh xuống huyện và tổ chức lónh đạo thực hiện kiên quyết, kịp thời.

Hiện nay, Toà án cấp huyện được tăng thẩm quyền dẫn đến có sự thay đổi chức

năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện.

Điều đó, đũi hỏi việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của những cơ quan này về chuyên môn,

nghiệp vụ phải nhanh chóng hơn, khẩn trương hơn nhưng phải thiết thực, gắn với những

nội dung, yêu cầu mới phù hợp với từng chức danh.

3.2.6. Tăng cường sự lónh đạo của Đảng đối với công tác phổ biến, giáo dục

pháp luật

Nhằm nâng cao hơn nữa năng lực, trách nhiệm thực thi pháp luật cho cán bộ,

công chức, đặc biệt là ở xó, phường, thị trấn và các tầng lớp nhân dân, UBND tỉnh xây

dựng kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2007 như sau: Tiếp tục tập trung tuyên

truyền các văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến cuộc sống của nhân dân như: Luật

Cư trú, Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Đất đai năm 2003, Nghị định 158/2005/NĐ-CP

về đăng ký và quản lý hộ tịch; Nghị định 136/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 quy định

chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo và các luật sửa

đổi, bổ xung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo; Nghị định 182/2004/NĐ-CP ngày

29/10/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai; Nghị định

150/2005/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự... phù

hợp từng địa bàn, đối tượng, thời điểm làm cho nhân dân hiểu rừ cỏc quyền và nghĩa vụ

của mỡnh để thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Tỉnh uỷ lónh đạo các cấp uỷ đảng cơ quan tư pháp phối hợp với chính quyền và

đoàn thể quần chúng trong hệ thống chính trị của địa phương trong việc tăng cường phổ

biến quán triệt và học tập các quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, các văn bản

có liên quan đến chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, công chức: Phỏp lệnh cỏn bộ cụng

chức; Luật Thực hành tiết kiệm, chống lóng phớ; Luật Phũng, chống tham nhũng, cỏc

quy định pháp luật chuyên ngành gắn với chuyên môn, nghiệp vụ của từng cán bộ, công

chức thuộc từng ngành cụ thể...

Bên cạnh đó, các cấp uỷ đảng đẩy mạnh việc chỉ đạo các cơ quan tư pháp phối

hợp với các trường phổ thông, dạy nghề, cao đẳng, đại học trên địa bàn thực hiện tốt

chương trỡnh phổ biến cỏc quy định pháp luật gắn trực tiếp đến cuộc sống, quyền và

nghĩa vụ của thanh niên, thiếu niên và nhi đồng, nhất là phỏp luật về giao thụng, phũng,

chống ma tỳy, tệ nạn xó hội, nghĩa vụ quõn sự; Luật Giỏo dục; Luật Bảo vệ, chăm sóc

và giáo dục trẻ em; Luật Thanh niên; Luật Nghĩa vụ quân sự; Luật Phũng, chống ma

tỳy; Luật Giao thụng đường bộ, Bộ luật Hỡnh sự... Đồng thời, cấp uỷ xây dựng kế

hoạch lónh đạo công tác phổ biến giáo dục cho người lao động, người quản lý và cỏn bộ

cụng đoàn trong doanh nghiệp; phổ biến giáo dục pháp luật trong lực lượng vũ trang

nhân dân. Làm tốt công tác lónh đạo này có ý nghĩa quan trọng đối với pháp chế XHCN

cũng như hiệu quả tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp của tỉnh.

Căn cứ vào đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật và điều kiện cụ thể của từng

ngành, địa phương, các cấp uỷ đảng lónh đạo các phương tiện thông tin đại chúng đẩy

mạnh phổ biến giáo dục pháp luật bằng các hỡnh thức chủ yếu: Tuyờn truyền miệng,

thụng qua hội nghị tuyờn truyền, cỏc lớp tập huấn hoặc lồng ghộp trong cỏc hội nghị

khỏc của ngành, đơn vị; thông qua truyền hỡnh, bỏo, đài, hệ thống loa truyền thanh ở cơ

sở; thông qua sinh hoạt các câu lạc bộ; tổ chức các cuộc thi tỡm hiểu phỏp luật; phỏt tờ

rơi, tờ gấp có nội dung pháp luật; thông qua tủ sách pháp luật trong cơ quan, tổ chức,

đơn vị; tủ sách pháp luật ở xó, phường, thị trấn. Trong quá trỡnh triển khai công tác phổ

biến, giáo dục pháp luật, các đơn vị địa phương phải phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ

quốc, Hội Liên hiệp phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh và

các cơ quan, tổ chức khác; tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan, tổ chức đó phát huy

vai trũ, tham gia tớch cực vào cụng tỏc phổ biến, giỏo dục phỏp luật, vận động các tầng

lớp nhân dân chấp hành pháp luật.

Thực tiễn của tỉnh Bắc Ninh cho thấy, việc thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW và

Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị không thể có kết quả nếu thiếu sự phối hợp

đồng bộ và chặt chẽ giữa các cơ quan tư pháp trong việc tuyên truyền, phổ biến đường

lối, chủ trương cải cách tư pháp của Đảng. Sự phối hợp đó là một trong những điều kiện

quan trọng, bảo đảm cho Nghị quyết đi vào thực tiễn sống động của hoạt động tư pháp

hiện nay.

Kết luận

Ngày nay trước những yêu cầu của công cuộc đổi mới, xây dựng một nền kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh các quá trình công nghiệp hoá hiện

đại hoá, dân chủ hoá mọi mặt đời sống xã hội đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế đòi

hỏi bộ máy nhà nước phải có những thay đổi quan trọng để thích nghi với tình hình.

Tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước theo hướng Nhà nước

pháp quyền là một yêu cầu hết sức quan trọng. Trong đó, cần xác định rõ vai trò, ranh

giới lãnh đạo của đảng cầm quyền, đảm bảo quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng

sản Việt Nam, đồng thời đảm bảo quyền chủ động của Nhà nước theo đúng quan điểm

của Lê nin: "Đảng lãnh đạo nhà nước, nhưng không làm thay, bao biện nhà nước". Tăng

cường năng lực lãnh đạo của Đảng, đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước,

trong đó có các cơ quan tư pháp là yêu cầu hết sức quan trọng hiện nay.

Trong những năm vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, hệ thống các cơ quan tư

pháp đã có những bước chuyển biến tích cực, góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn an

ninh - trật tự, phát huy dân chủ trong đời sống của người dân và thúc đẩy sự phát triển

của nền kinh tế.

Bắc Ninh là một tỉnh đất chật, người đông ở vùng đồng bằng sông Hồng, dưới sự

lãnh đạo của Tỉnh uỷ, ngành tư pháp Bắc Ninh trong những năm vừa qua đã có nhiều

cải cách hết sức mạnh mẽ. Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện Nghị quyết 49- NQ/TW

của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp, Tỉnh uỷ Bắc Ninh đang thực hiện sự chỉ đạo một

cách hết sức sát sao công tác cải cách tư pháp tại địa phương.

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Phạm Ngọc Anh, Bùi Đình Phong (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước

pháp quyền kiểu mới ở Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội.

2. Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương (4/9/2007), Chương trình trọng tâm cải

cách tư pháp từ nay đến hết năm 2008.

3. Lê Cảm - Nguyễn Ngọc Chí (2004), Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn

xây dựng nhà nước pháp quyền, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

4. Cục thống kê tỉnh Bắc Ninh (2006), Động thái kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh 1997-

2005, Nxb. Thống kê, Hà Nội.

5. Ngô Huy Cương (2006), Góp phần bàn về cải cách pháp luật ở Việt Nam hiện nay,

Nxb. Tư pháp, Hà Nội.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết 08- NQ/TW của Bộ Chính trị về “Một

số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, Hà Nội.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 49- NQ/TW của Bộ Chính trị về

“Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị BCH Trung ương 4, khoá X,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị BCH Trung ương 5, khoá X,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Đảng Đoàn Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2006), Báo cáo kết quả thực hiện

Nghị quyết 08- NQ/TW của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công

tác tư pháp trong thời gian tới”; Kế hoạch thực hiện Nghị quyết 49- NQ/TW

của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”.

13. Đoàn Luật sư tỉnh Bắc Ninh (2006), Báo cáo Chương trình, kế hoạch thực hiện

Nghị quyết 49- NQ/TW giai đoạn 2006-2010, Bắc Ninh.

14. Lê Văn Hoè (2001), "Về sửa đổi, bổ sung các qui định về tổ chức quyền lực nhà nước

trong Hiến pháp 1992", Tạp chí Lý luận chính trị, (10).

15. Trần Đình Huỳnh (2001), Phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước, Nxb. Hà Nội, Hà

Nội.

16. Nguyễn Đình Lộc (1998), Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân và

vì dân, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Phạm Văn Lợi (2004), Chế định thẩm phán - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn,

Nxb.Tư pháp, Hà Nội.

18. Cao Văn Lượng (2000), "Nhìn lại quá trình xây dựng nhà nước Việt Nam kiểu

mới", Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, (4).

19. Nguyễn Văn Mạnh (2003), Chủ trương, quan điểm của Đảng về đổi mới tổ chức

và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong kỷ yếu đề tài khoa học KHBĐ

2003-2004, Sự lãnh đạo của Đảng trong định hướng đổi mới với cải cách tư

pháp, Hà Nội.

20. Trần Quang Minh (1992), "Thống nhất và phân định quyền lập pháp, hành pháp, tư

pháp - Phương thức thực hiện quyền lực thống nhất của nhân dân", Tạp chí Nhà

nước và Pháp luật, (01).

21. OECD, The OECD report on regulatory reform: Synthesis, Pari, 1997, p.6.

22. Nguyễn Quang Minh (2003), "Vai trò của nhân dân trong xây dựng pháp luật", Tạp

chí Cộng sản, (42).

23. Lê Minh Quân (2000), "Vấn đề đổi mới và hoàn thiện nhà nước theo hướng xây

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Triết học, (2/114).

24. Nguyễn Duy Quí (1992), "Một số suy nghĩ về xây dựng nhà nước pháp quyền ở

nước ta hiện nay", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (2-1992).

25. Nguyễn Duy Quí (2002), "Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng trong điều kiện nước ta hiện

nay", Tạp chí Triết học, (số 10/137).

26. Nguyễn Văn Sáu (2001), "Sự lãnh đạo của Đảng đối với việc phát huy dân chủ

trong xã hội", Tạp chí Lý luận chính trị, (8).

27. Sở Tư pháp tỉnh Bắc Ninh (2006), Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 49- NQ/TW

của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, giai đoạn

2006-2010, Bắc Ninh.

28. Nguyễn Xuân Tế (1999), Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp

luật, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Trần Thị Băng Thanh (2001), Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước “của dân,

do dân và vì dân” - Phương hướng chủ yếu để nâng cao hiệu quả tác động của

nhà nước tới việc thực hiện quyền dân chủ nhân dân ở nước ta hiện nay, tạp chí

Triết học, số 2-2001 (120).

30. Trần Hậu Thành (2000), "Dân chủ và mối quan hệ giữa nhà nước pháp quyền với

dân chủ", Tạp chí Dân chủ pháp luật, (10).

31. Nguyễn Văn Thảo (2001), "Nhân tố nhà nước pháp quyền, thống nhất quyền lực

trong nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà sau cách mạng tháng Tám", Tạp chí

Cộng sản, (2).

32. Nguyễn Văn Thảo (2001), "Suy nghĩ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến

pháp 1992", Tạp chí Cộng sản, (3).

33. Trần Gia Thắng (2002), Hiến pháp Việt Nam và các luật về tổ chức bộ máy nhà

nước, Nxb. Lao động, Hà Nội.

34. Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2006), Chương trình thực hiện cải cách tư pháp

đến năm 2010 và kế hoạch công tác cải cách tư pháp năm 2006 của ngành Toà

án tỉnh Bắc Ninh, Bắc Ninh.

35. Tỉnh uỷ Bắc Ninh (2003), Sơ kết 2 năm (2003-2004) thực hiện Nghị quyết 08-

NQ/TW của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp

trong thời gian tới”.

36. Tỉnh uỷ Bắc Ninh (2006), Báo cáo Tổng kết 4 năm thực hiện Nghị quyết 08-

NQ/TW của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp

trong thời gian tới”.

37. Tỉnh uỷ Bắc Ninh (2006), Báo cáo tóm tắt dự thảo đề án “Nâng cao năng lực lãnh

đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên ở

Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh thời kỳ 2006-2010.

38. Tỉnh uỷ Bắc Ninh (2005), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 17, Bắc Ninh.

39. Tỉnh uỷ Bắc Ninh (2006), Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 49-

NQ/TW của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Bắc

Ninh.

40. Đào Trí úc (2005), Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì

dân, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

41. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Tư pháp, Nxb. Từ điển

bách khoa, Hà Nội.

42. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý (2000), "Chuyên đề tổng hợp các kiến nghị

khoa học góp phần đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp", Tạp

chí Thông tin khoa học pháp lý, (10).

43. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2006), Báo cáo kết quả công tác kiểm sát

năm 2006 và phương hướng, nhiệm vụ 2007, Bắc Ninh.

44. Nguyễn Văn Vĩnh (2007), Đảng lãnh đạo nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà

nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

45. Nguyễn Như ý (1997), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học,

Hà Nội - Đà Nẵng.