LUẬN VĂN:
Những vấn đề lý luận thực tiễn về đổi mới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong thực hiện cải cách tư pháp ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những nội
dung quan trọng và căn bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện
nay.
Đảng ta lãnh đạo từng bước đổi mới tổ chức và hoạt động của cả hệ thống chính
trị, trong đó Đảng lãnh đạo xây dựng hoàn thiện, Nhà nước là trung tâm. Đảng đã lãnh
đạo nhà nước một cách toàn diện cả tổ chức và hoạt động của các cơ quan lập pháp,
hành pháp và tư pháp. "Từ thực tiễn đổi mới, Đảng và Nhà nước ta càng tích luỹ thêm
nhiều kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý" như dự thảo báo cáo chính trị tại Đại hội X của
Đảng đã tổng kết: "Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và
cách làm phù hợp... Từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý Nhà nước đến hoạt động
cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị", "nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị xây dựng và từng bước
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân". Cần
khẳng định tư duy chính trị pháp lý của Đảng đã ở một tầm cao mới phù hợp với yêu
cầu, đòi hỏi cấp thiết của việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam hiện nay. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ
Chính trị (khoá IX) về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng
02 năm 2005 của Bộ Chính trị (khoá IX) về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
đã ra đời trong bối cảnh nêu trên.
Để đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị nêu trên, Ban Chỉ đạo
cải cách tư pháp (thuộc Ban Chấp hành Trung ương) do đồng chí Nguyễn Minh Triết,
Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam làm trưởng ban đã xác định
"Chương trình trọng tâm của công tác tư pháp từ nay đến năm 2008 (số 6-CTr/CCTP
ngày 19/9/2007). Cụ thể hơn sự lãnh đạo của Đảng về cải cách tư pháp, Bộ Chính trị
BCHTW đã ra chỉ thị về sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật
trong công tác điều tra, xử lý các vụ án và công tác bảo vệ Đảng (số 15-CT/TW ngày
07/7/2007).
Cải cách tư pháp đang được triển khai cả bề rộng và chiều sâu, cả về tổ chức và
phương thức hoạt động của các cơ quan tư pháp từ Trung ương tới địa phương. Đây là
một quá trình, phải được tiến hành từng bước dưới sự lãnh đạo của Đảng (các cấp uỷ
Đảng từ Trung ương đến địa phương).
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Đảng ta phải đổi mới phương thức lãnh
đạo, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng. Đảng lãnh đạo cải cách tư pháp không
ngoài phương hướng trên. Như Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung
ương khoá X nhấn mạnh: "Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp uỷ Đảng đối
với hoạt động của hệ thống chính trị ở địa phương. Thành lập ban cán sự Đảng: Uỷ ban
nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân" [10, tr.134].
Vì thế khâu mấu chốt cần tập trung hiện nay là đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước nói chung và đối với các cơ quan tư pháp ở cấp Trung ương
và ở địa phương nói riêng.
Chế độ chính trị nước ta được vận hành theo cơ chế: "Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý và nhân dân làm chủ"... Đảng Cộng sản Việt Nam là "Đảng cầm quyền". Chính
vì vậy, trong định hướng xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nghị quyết số 48-
NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005, Bộ Chính trị chỉ rõ: "Xây dựng và hoàn thiện pháp
luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu
cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân". "Đổi mới và không ngừng hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng, bảo
đảm hoạt động của Đảng phù hợp với Hiến pháp và pháp luật, tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội...".
Như vậy, vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước đang
đặt ra yêu cầu đòi hỏi công tác lý luận về xây dựng Đảng cầm quyền và lý luận nhà
nước pháp luật. Về việc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và việc tổ chức
hoạt động của Nhà nước nói chung và đổi mới tổ chức hoạt động của các cơ quan tư pháp
phải chịu sự lãnh đạo của Đảng.
Mối quan hệ giữa các cơ quan của Đảng với các cơ quan nhà nước đã được quy
định ở tầm Hiến pháp: "Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiền phong của giai cấp công
nhân, lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội...
Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật" (điều 4 Hiến pháp năm
1992).
Đảng lãnh đạo các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương, cũng như
sự lãnh đạo của các ban cán sự Đảng trong khối nội chính (Công an, Viện Kiểm sát, Toà
án) đối với cải cách tư pháp ở nước ta.
Thực tiễn 20 năm đổi mới ở nước ta nói chung và thực tiễn hoạt động lãnh đạo
của Đảng đối với cải cách tư pháp ở địa phương (cấp tỉnh) nói riêng cho thấy không ít
những vấn đề cần được lý giải trên một cơ sở lý luận chính thống và vững chắc hơn,
đảm bảo hơn cho việc cải cách tư pháp thực sự có bước chuyển biến căn bản ổn định và
hoạt động có hiệu quả.
Sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng trong việc thực hiện cải cách tư pháp ở tỉnh
Bắc Ninh đã đạt được những kết quả khả quan. Song phương thức lãnh đạo của Đảng
vận dụng vào thực hiện thực tiễn còn nhiều bất cập, lúng túng. Hiện tượng buông lỏng
hoặc can thiệp, bao biện, làm thay các công việc của các cơ quan nhà nước nói chung và
các cơ quan tư pháp nói riêng.
Những vấn đề trên đòi hỏi Đảng ta phải được xác định rõ vị trí, vai trò, chức
năng, quyền hạn của mình trong cơ chế Đảng lãnh đạo Nhà nước. Từ đó đòi hỏi tổ chức
của Đảng phải được kiện toàn, các cơ quan Đảng phải được xác định rõ chức năng,
quyền hạn, nhiệm vụ cụ thể trong mối quan hệ với các cơ quan tư pháp...
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: "Những vấn đề lý luận thực tiễn về đổi
mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thực hiện cải cách tư pháp ở
tỉnh Bắc Ninh hiện nay" làm luận văn thạc sĩ luật học chuyên ngành Lý luận và lịch sử
Nhà nước và pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu
Sự lãnh đạo của Đảng đối với việc hoàn thiện Nhà nước pháp quyền nói chung
và đối với cải cách nền tư pháp nói riêng là một lĩnh vực thuộc đối tượng nghiên cứu
của nhiều bộ môn khoa học chuyên ngành như: triết học, chính trị học, luật học... Sự
lãnh đạo của Đảng được xem là nhân tố quan trọng để thực hiện thành công mục tiêu
xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN vững mạnh, hoạt động có hiệu quả
và hiệu lực. Tại các nước phương Tây, sự lãnh đạo của chính đảng cầm quyền đã được
luật hoá, các chính đảng phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật, đặc biệt là luật bầu cử
Nghị viện, bầu cử tổng thống... Trong thời kỳ đổi mới, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản cả lý luận và thực tiễn đang đặt ra những vấn đề cần giải quyết. Có thể nói đây là
vấn đề lớn, quan trọng, thu hút được sự nghiên cứu của nhiều tác giả trong và ngoài
nước. Trong phạm vi đề tài và các vấn đề đã được nghiên cứu có liên quan đến đề tài
được công bố mà tác giả biết có thể liệt kê sơ bộ như sau:
- Đinh Văn Mậu và Phạm Hồng Thái (1997): Lịch sử các học thuyết chính trị -
pháp lý. Nxb.TP.Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh;
- Phạm Ngọc Quang và Nguyễn Viết Thông (2000): Góp phần tìm hiểu sự phát
triển tư duy lãnh đạo của Đảng ta trong công cuộc đổi mới trên các lĩnh vực chủ yếu, Nxb.
chính trị Quốc gia, Hà Nội;
- Hồ Văn Thông (1998): Hệ thống chính trị ở các nước tư bản phát triển hiện
nay, Nxb. chính trị Quốc gia, Hà Nội;
- Lê Cảm và Nguyễn Ngọc Chí (2004), Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai
đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
- Ngô Huy Cương: Góp phần bàn về cải cách pháp luật ở Việt Nam, Nxb. Tư
pháp, Hà Nội;
- Đặng Đình Tân (chủ biên - 2004): Thể chế Đảng cầm quyền - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn, Nxb. chính trị Quốc gia, Hà Nội;
- Phùng văn Tửu (1999): Xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp luật của dân, do
dân, vì dân, Nxb. chính trị Quốc gia, Hà Nội;
- Lê Minh Quân (2003): Xây dựng Nhà nước pháp quyền đáp ứng yêu cầu phát
triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb chính trị Quốc gia,
Hà Nội;
- Trần Hậu Thành (2005): Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, Nxb. Lý luận chính trị. Hà Nội;
- Đức Vượng (2002), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Đăng Dung (chủ biên - 2004): Thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp
quyền, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
Có thể đánh giá khái quát các công trình nghiên cứu có tính điển hình kể trên cho
thấy vấn đề hoàn thiện Nhà nước pháp quyền và sự lãnh đạo của Đảng đã được bàn
thảo, luận giải và đã đạt được những thành tựu đáng kể, đánh dấu sự phát triển của khoa
học pháp lý. Nội dung của các đề tài trên đã ít nhiều liên quan đến đề tài này, song chưa
có một công trình nào nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam về cải
cách tư pháp ở địa phương cấp tỉnh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu:
- Sự phân công phân nhiệm trong thực hiện quyền tư pháp và những yêu cầu cải
cách tư pháp ở nước ta.
- Những vấn đề lý luận như quan điểm chủ trương chiến lược của Đảng về cải
cách tư pháp.
- Nguyên tắc, phương thức lãnh đạo của Đảng nói chung và phương thức lãnh
đạo của các cấp uỷ Đảng ở địa phương trong thực hiện cải cách tư pháp ở nước ta nói
chung và ở tỉnh Bắc Ninh nói riêng.
- Tổng kết thực tế, đánh giá vai trò lãnh đạo của Đảng, chủ yếu là hoạt động thực
hiện sự lãnh đạo của Đảng ở Bắc Ninh trong cải cách tư pháp.
b. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về sự lãnh đạo của Đảng đối
với cải cách tư pháp. Không nghiên cứu toàn diện về sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà
nước nói chung.
- Tư pháp và cải cách tư pháp nói chung được nghiên cứu ở mức độ nhất định để
xác định nó với tư cách là đối tượng, nội dung, mục tiêu của sự lãnh đạo của Đảng
nhằm vào và đạt được.
- Về cơ sở thực tế luận văn chỉ đánh giá những văn kiện của Đảng hiện hành lãnh
đạo cải cách tư pháp ở nước ta.
Phạm vi khảo sát hoạt động thực hiện sự lãnh đạo của Đảng được giới hạn ở tỉnh
Bắc Ninh trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến nay (các cấp uỷ Đảng các cơ quan
của Đảng ở tỉnh Bắc Ninh).
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
a. Mục đích của luận văn:
- Góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về sự lãnh đạo của Đảng đối với
quá trình cải cách tư pháp ở cấp tỉnh.
- Khảo sát thực tế rút ra những bài học kinh nghiệm trên cơ sở đó xác định
phương hướng giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong cải cách tư pháp ở tỉnh
Bắc Ninh.
b. Nhiệm vụ của luận văn:
Làm rõ hơn về khái niệm tư pháp, cải cách tư pháp theo yêu cầu hoàn thiện nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Luận chứng nội dung, phương pháp và vai trò lãnh đạo của Đảng trong thực
hiện cải cách tư pháp ở trung ương và địa phương nước ta.
- Tổng kết (có tính khái quát) thực tiễn về sự lãnh đạo của Đảng trong thực hiện
cải cách tư pháp ở tỉnh Bắc Ninh từ năm 2005 đến nay.
- Phương hướng chung và giải pháp đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trong thực
hiện cải cách tư pháp ở tỉnh Bắc Ninh.
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu
a. Cơ sở lý luận:
- Nghiên cứu đề tài này dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
đối với Nhà nước nói chung và phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền đối với tiến
trình cải cách tư pháp.
- Quan điểm, nội dung, phương hướng cải cách tư pháp và việc tổ chức thực hiện
cải cách tư pháp của Đảng.
b. Phương pháp nghiên cứu:
Thực hiện luận văn này sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống như
phân tích tổng hợp các mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố lãnh đạo của Đảng, xây
dựng nhà nước và dân chủ xã hội trong hoạt động tư pháp. Phương pháp so sánh, khảo
sát thực tế, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp hệ thống lô-gíc.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Khái quát hoá những mối quan hệ tất yếu giữa hoạt động lãnh đạo của Đảng với
quá trình tổ chức, hoạt động tư pháp của Nhà nước.
- Làm rõ được cơ sở lý luận của việc hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với quá trình hoàn thiện nền tư pháp của Nhà nước gắn với việc hoàn thiện pháp
luật hoạt động của Đảng.
7. ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
- ý nghĩa lý luận: Từ góc độ lý luận chung và ở lĩnh vực cải cách tư pháp sẽ có ý
nghĩa góp vào lý luận về Đảng cầm quyền.
- ý nghĩa thực tiễn ở chỗ luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho cán bộ Đảng, cán
bộ tư pháp và cho công tác nghiên cứu, giảng dạy ở các trường Đảng tỉnh, thành phố.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3
chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong thực
hiện cải cách tư pháp ở nước ta.
Chương 2: Thực trạng hoạt động lãnh đạo của Đảng trong thực hiện cải cách tư
pháp ở tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3: Quan điểm chỉ đạo và giải pháp đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trong
thực hiện cải cách tư pháp ở tỉnh Bắc Ninh.
Chương 1
Cơ sở lý luận về sự lãnh đạo của đảng cộng sản việt nam trong thực hiện cải cách tư pháp ở nước ta
1.1. quan niệm và nội dung cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay
1.1.1. Quan niệm về tư pháp và cải cách tư pháp
1.1.1.1. Quan niệm về tư pháp
- Theo Từ điển tiếng Việt thì “tư pháp” có nghĩa là “việc xét xử các hành vi phạm
pháp và các vụ kiện tụng trong nhân dân” [45, tr.1034].
- Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) thì:
Với nghĩa chung nhất, tư pháp được quan niệm như là một ý tưởng về
một nền công lý, đòi hỏi việc giải quyết những tranh chấp xảy ra trong xã hội
phải đúng pháp luật, phù hợp với lẽ công bằng, bảo đảm lòng tin của nhân
dân và xã hội vào pháp luật, góp phần duy trì trật tự pháp luật, bảo đảm sự an
toàn pháp lý cho cá nhân, sự ổn định và phát triển của xã hội [41, tr.828].
Tư pháp với nghĩa là phán xử, trông coi, bảo vệ pháp luật đã xuất hiện từ rất
sớm, và nó trở thành một nhu cầu hết sức quan trọng trong đời sống của xã hội.
Trong xã hội tồn tại nhiều quan hệ giữ con người với nhau, trong quá trình giao tiếp
với nhau đó sẽ không tránh khỏi những tranh chấp cần có sự giải quyết công bằng
giữa các bên, cần có những định chế bảo vệ lợi ích, tính mạng của các cá nhân trong
xã hội. Trong trường hợp không tự hoà giải được, không tự bảo vệ được quyền lợi,
tính mạng của mình, họ cần phải nhờ đến những định chế khác, mà họ cho là vô tư,
công tâm để giải quyết. Định chế đóng vai trò có thể phán xử một cá nhân, tổ chức
nào đó là Toà án. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay nói tư pháp là nói tới công tác xét
xử và những hoạt động phục vụ hoặc liên quan trực tiếp tới hoạt động xét xử. Những
hoạt động này phải được thực hiện trên cơ sở của Hiến pháp và pháp luật.
Một trong những nguyên tắc quan trọng không thể thiếu của hoạt động tư pháp
đó là tính khách quan, vô tư giữa các chủ thể tham gia tố tụng; vi phạm nguyên tắc này
thì phán quyết của cơ quan tư pháp sẽ không đảm bảo được tính công bằng, khi đó các
bên tranh chấp sẽ không cần đến các cơ quan tư pháp nữa. Chính vì vậy, những người
tham gia vào các hoạt động tư pháp phải được coi là những người đại diện và bảo vệ
công lý.
Trong nhà nước pháp quyền, tư pháp đóng một vai trò hết sức quan trọng trong
việc đảm bảo tính thượng tôn của pháp luật và thực hiện quyền làm chủ, quyền giám sát
tối cao của nhân dân đối với bộ máy nhà nước. Hoạt động tư pháp không chỉ thuần tuý
là việc xem xét tư pháp đối với các hoạt động của các tổ chức, hành vi của cá nhân
trong xã hội, mà nó còn bao gồm cả việc xem xét tư pháp đối với các văn bản pháp luật
của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền đòi
hỏi tư pháp phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
Quyền tư pháp phải là một quyền độc lập. Một trong những nguyên tắc quan
trọng của tư pháp là tính độc lập trong hoạt động, chỉ khi nào tư pháp độc lập thì tính
tối cao của Hiến pháp và pháp luật mới được đảm bảo, mới có khả năng kiểm soát
được quyền lực của các cơ quan nhà nước khác và cũng là điều kiện quan trọng để
đảm bảo thực hiện các quyền con người. Có thể nói rằng, phần lớn các cuộc cải cách
tư pháp của các quốc gia đều tập trung vào việc đảm bảo và nâng cao tính độc lập của tư
pháp trong cơ cấu bộ máy nhà nước.
Tính tối cao của pháp luật được tôn trọng, tư pháp phải trở thành biểu tượng của
công lý để giải quyết các tranh chấp trong xã hội. Trong nhà nước pháp quyền, tính tối
cao của pháp luật đóng vai trò quan trọng; vì vậy, các tranh chấp xảy ra trong xã hội cần
thiết được xem xét tại Toà án, và Toà án được coi là nơi có kết luận cuối cùng đối với
các tranh chấp phát sinh và phán quyết này có tính chất bắt buộc thi hành đối với các
chủ thể. ở góc độ là một thiết chế quan trọng cấu thành bộ máy nhà nước, một loại
quyền lực trong cơ cấu quyền lực nhà nước, quyền tư pháp phải được xem như một biểu
tượng của công lý bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích của
nhân dân, là chỗ dựa vững chắc, nơi gửi gắm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước.
Tóm lại, chúng ta có thể hiểu tư pháp theo nghĩa chung nhất, đó là ý tưởng về
một nền công lý, bảo đảm những nguyên tắc trong việc giải quyết những tranh chấp dân
sự, hôn nhân gia đình, lao động thương mại và kinh doanh đúng người, đúng việc, đúng
pháp luật và điều tra, công tố, xét xử các án hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, không làm oan người ngay, không bỏ lọt tội phạm. Toà án là cơ quan trung tâm
thực hiện quyền tư pháp. Vấn đề bảo đảm cho hoạt động xét xử của Toà án được độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật đặt ra yêu cầu về sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền đối với
việc không ngừng cải cách tư pháp ở Việt Nam.
1.1.1.2. Quan niệm về cải cách tư pháp
Theo Từ điển tiếng Việt thì cải cách có nghĩa là: “Sửa đổi những bộ phận cũ
không hợp lý cho thành mới, đáp ứng yêu cầu của tình hình khách quan” [45, tr.100]
Thuật ngữ cải cách được xem xét trên nhiều góc độ khác nhau. Theo quan niệm
của Tổ chức an ninh và hợp tác châu Âu thì (OECD):
Cải cách tư pháp được sử dụng trong công trình của OECD đề cập tới
những sự thay đổi nhằm cải thiện chất lượng của các qui định, đó là, thúc đẩy
sự thực hiện, giảm chi phí, hoặc chất lượng pháp lý của các qui định và các
thủ tục liên quan của chính quyền. Cải cách có thể có nghĩa sửa đổi một qui
định đơn lẻ, loại bỏ và xây dựng lại toàn bộ một chế độ pháp luật và các chế
định của nó, hoặc cải thiện qui trình làm luật và quản lý cải cách [21, tr.6].
Quan niệm cải cách tư pháp theo cách hiểu này có nghĩa rất rộng, nó không chỉ
bao hàm việc “sửa đổi các qui định đơn lẻ, loại bỏ và xây dựng lại toàn bộ một chế độ
pháp luật” mà nó còn bao hàm nhiều vấn đề như “giảm chi phí” và “các thủ tục liên
quan đến chính quyền”. Vì vậy, cải cách tư pháp xét đến cùng được hiểu là sự sửa đổi,
xây dựng pháp luật theo một chế độ mới, đối tượng của cải cách tư pháp có thể là các
qui định pháp luật, mà chưa nói tới các định chế thực hiện.
ở nước ta, cải cách tư pháp nằm trong tổng thể việc thực hiện xây dựng và hoàn
thiện nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Do đó, tư pháp với tư cách
là người bảo vệ pháp luật cũng phải được đề cao, có vị trí xứng đáng trong cơ cấu quyền
lực nhà nước. Xét trong một quan hệ nhất định, tư pháp sẽ thực hiện chức năng kiểm
soát cần thiết đối với lập pháp và hành pháp trong trường hợp hoạt động của lập pháp và
hành pháp vi phạm Hiến pháp, làm tổn hại tới các quyền tự do, dân chủ của công dân.
Do đó, cải cách tư pháp sẽ tăng cường việc giám sát quyền hành pháp và hoạt động lập
pháp. Việc cải cách tư pháp cần hướng tới việc đề cao vai trò của tư pháp, tạo ra khả
năng, cơ chế để thực hiện những quyền năng vốn có của tư pháp, tăng cường pháp chế
XHCN, làm cho quyền lực nhà nước trở nên thống nhất, hiệu lực và hiệu quả. Vì vậy,
cải cách tư pháp cần hướng tới đối tượng và mục tiêu sau:
Về đối tượng của cải cách tư pháp. Theo nghĩa hẹp, đối tượng của cải cách tư
pháp ở Việt Nam hiện nay đó là toàn bộ hệ thống và hoạt động thực tiễn của Toà án, của
đội ngũ thẩm phán và các qui định của pháp luật có liên quan mà cải cách tư pháp tác
động đến để đạt được kết quả cuối cùng với tính chất là các chế định pháp lý và các giá trị
tinh thần. Theo nghĩa rộng thì đối tượng của cải cách tư pháp là toàn bộ hệ thống Toà án, hệ
thống các cơ quan bảo vệ pháp luật khác như cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, các cơ quan
bổ trợ tư pháp và xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức tư pháp, cũng
như các qui định mà cải cách tư pháp tác động đến để đạt hiệu quả cuối cùng.
Về mục tiêu của cải cách tư pháp hiện nay, tức là kết quả cuối cùng với tính chất
là các giá trị cuối cùng mà chúng ta hướng tới trong cải cách tư pháp là: (1) Góp phần
nâng cao ý thức pháp luật về vai trò, chức năng của các cơ quan tư pháp trong xây dựng
nhà nước pháp quyền; (2) Làm cho nhánh quyền lực tư pháp được tổ chức một cách
khoa học, độc lập, hoạt động có hiệu quả và hiệu lực; (3) Làm cho cơ sở của quyền lực
Nhà nước thực sự là ý chí của nhân dân; (4) Góp phần đổi mới và làm cho hệ thống
pháp luật Việt Nam ngày càng hoàn thiện, phát huy hiệu quả trong cuộc sống.
1.1.2. Nội dung cải cách tư pháp theo chiến lược cải cách tư pháp của Đảng
Cộng sản Việt Nam
1.1.2.1. Hoàn thiện chớnh sỏch, phỏp luật hỡnh sự, phỏp luật dõn sự và tố
tụng tư pháp
Hoàn thiện chớnh sỏch, phỏp luật hỡnh sự theo hướng đề cao tính nhân đạo trong
xử lý tội phạm; trong phỏp luật dõn sự phải xỏc định rừ, cụ thể quyền và nghĩa vụ về tài
sản của Nhà nước, cá nhân, tổ chức. Hoàn thiện thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng nâng
cao tính dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người; đề cao
trỏch nhiệm phỏp lý của cỏc cỏn bộ cú chức danh tư pháp trong hoạt động tố tụng.
- Hoàn thiện chớnh sỏch, phỏp luật hỡnh sự và phỏp luật dõn sự:
Việc hoàn thiện chớnh sỏch, phỏp luật về hỡnh sự. Cần tiến hành sửa đổi Bộ luật
hỡnh sự theo hướng phi tội phạm hoá một số hành vi hiện nay Bộ luật coi là tội phạm
như: tội vụ ý gõy thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ của người khỏc, tội kinh doanh
trỏi phộp, tội chiếm giữ trỏi phộp tài sản, tội vụ ý gõy thiệt hại đến tài sản... Những
hành vi này có thể áp dụng các biện pháp khác để xử lý thay cho cỏc biện phỏp hỡnh sự
khi cỏc hành vi đú khụng cũn nguy hiểm cho xó hội, phự hợp với cỏc thụng lệ, luật
phỏp quốc tế trong điều kiện phát triển mới của đất nước, hội nhập quốc tế và khu vực.
Bên cạnh đó cần điều chỉnh áp dụng loại hỡnh phạt mà người phạm tội phải cỏch
ly với xó hội và loại hỡnh phạt khụng phải cỏch ly với cộng đồng. Tăng số lượng loại
tội phạm mà mức cao nhất của khung hỡnh phạt là từ 5 đến 7 năm và giảm bớt mức
hỡnh phạt tự tối đa cũn quỏ cao như hiện nay đối với một số loại tội phạm. Giảm ỏp
dụng hỡnh phạt tự mà chủ yếu là ỏp dụng hỡnh phạt tiền, hỡnh phạt cải tạo khụng giam
giữ đối với một số loại tội, như: các tội phạm về môi trường; một số loại tội xâm phạm
chế độ hôn nhân và gia đỡnh; xõm phạm an toàn cụng cộng; xõm phạm trật tự quản lý
hành chớnh; xõm phạm trật tự quản lý kinh tế. Việc điều chỉnh về loại hỡnh phạt ỏp
dụng và mức hỡnh phạt đối với một số loại tội phạm, vừa đảm bảo tính răn đe đối với
người phạm tội, vừa tạo điều kiện cho họ phục thiện, khắc phục hậu quả gây ra.
Trong xu thế nhân đạo về hỡnh phạt hiện nay, cần phải nghiờn cứu về việc ỏp
dụng hỡnh phạt tước sinh mạng của người phạm tội theo hướng hạn chế ỏp dụng hỡnh
phạt tử hỡnh; nghiờn cứu những cỏch thi hành ỏn tử hỡnh phự hợp. Việc tước sinh
mạng của người phạm tội chỉ áp dụng đối với một số ít tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
như một số tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội giết người, tội chống loài người, tội
phạm chiến tranh, tội buụn bỏn trỏi phộp chất ma tuý... Nghiờn cứu bổ sung thờm đối
tượng khụng bị ỏp dụng hỡnh phạt tử hỡnh hoặc khụng phải thi hành ỏn tử hỡnh.
Cùng với việc phi tội phạm hoá và nhân đạo hoỏ hỡnh phạt, thỡ phải nghiờn cứu
tội phạm hoỏ đối với những hành vi nguy hiểm cho xó hội mới xuất hiện trong lĩnh vực
kinh tế, trong lĩnh vực thụng tin… do quỏ trỡnh phỏt triển kinh tế thị trường, hội nhập
khu vực và quốc tế.
Bộ luật hỡnh sự cần sửa đổi theo hướng quy định trỏch nhiệm hỡnh sự nghiờm
khắc hơn đối với những người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi
dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội, kẻ tham nhũng. Người cú chức vụ càng cao mà lợi
dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội thỡ càng phải xử lý nghiờm khắc hơn để làm gương
cho người khác.
Tiếp tục nghiên cứu nhằm hoàn thiện chế định sở hữu theo hướng làm rừ đối
tượng, nội dung và phạm vi của cỏc hỡnh thức sở hữu, đặc biệt là sở hữu toàn dân, sở
hữu Nhà nước. Xác định rừ, cụ thể quyền sở hữu nhà nước về đất đai và quyền quản lý
kinh doanh bất động sản của Nhà nước; quy định rừ về thị trường bất động sản để đảm
bảo các quyền, lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, tạo cơ sở phỏp lý chặt chẽ, ngăn
ngừa có hiệu quả các tội phạm phát sinh từ việc buôn bán bất động sản.
Nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện một cách đầy đủ, đồng bộ khung phỏp lý về
quyền sở hữu trớ tuệ. Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng
xó hội chủ nghĩa và mở rộng hội nhập quốc tế, khu vực thỡ vấn đề hết sức quan trọng là
cần xây dựng và tổ chức thi hành tốt pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ. Nghiên cứu hoàn
thiện pháp luật về hợp đồng, tạo nên sự thống nhất về chế định hợp đồng, tạo ra hành
lang phỏp lý cho cỏc giao dịch dõn sự, kinh tế; đảm bảo sự ổn định, bền vững trong các
giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại, lao động; hạn chế những tranh chấp; bảo vệ kịp
thời quyền, lợi ích hợp phỏp của cỏc bờn ký kết, thực hiện hợp đồng.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các chế định bồi thường, bồi hoàn, nhất là việc
bồi hoàn của Nhà nước cho cỏ nhõn, tổ chức bị thiệt hại do lỗi của nhõn viờn cụng
quyền gõy ra trong quỏ trỡnh thực thi cụng vụ.
- Hoàn thiện pháp luật về tố tụng tư pháp
Nghiên cứu việc mở rộng quyền hạn về tố tụng hỡnh sự cho điều tra viên, kiểm
sát viên và thẩm phán để họ chủ động thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu
trách nhiệm trước pháp luật về các quyết định và hành vi trong điều tra, truy tố, xét xử.
Tiến tới giao cho điều tra viên, kiểm sát viên thực hiện các quyền hạn tố tụng, trừ quyết
định quan trọng, như khởi tố bị can, quyết định áp dụng biện pháp tạm giam, quyết định
truy tố... Thẩm phán có quyền áp dụng thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; ra
quyết định thi hành ỏn; cho hoón việc chấp hành ỏn, tạm đỡnh chỉ thi hành ỏn phạt tự,
quyết định xoá án tích...
Thu hẹp diện người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng biện pháp tạm giam;
xác định rừ ràng căn cứ tạm giam. Hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với
một số loại tội.
Tiếp tục hoàn thiện tố tụng dân sự theo hướng đề cao trách nhiệm và quyền tự
định đoạt và chứng minh của các bên đương sự trong việc giải quyết các tranh chấp và
yêu cầu hợp pháp của họ trước Toà án. Tiến tới thực hiện cơ chế Toà án không xác
minh, thu thập chứng cứ trong các vụ án dân sự. Các đương sự cú quyền và phải cú
nghĩa vụ xuất trỡnh chứng cứ để tự chứng minh. Toà án chỉ ra phán quyết trên cơ sở các
chứng cứ do đương sự đưa ra và kết quả tranh tụng tại phiờn toà. Do vậy phải nghiờn
cứu tổ chức và phỏt triển cỏc loại hỡnh dịch vụ từ phớa Nhà nước để tạo điều kiện cho
các đương sự chủ động thu thập chứng cứ để tự chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ớch
hợp phỏp của mỡnh.
Các tranh chấp dõn sự là tranh chấp phỏt sinh giữa cỏc bờn trong quan hệ kinh tế
- xó hội. Do vậy, nờn chỳ trọng và khuyến khớch cơ chế tự thoả thuận của cỏc bờn
trong giải quyết cỏc vụ ỏn dõn sự hoặc thụng qua cỏc hỡnh thức giải quyết tranh chấp
ngoài Toà án phù hợp với xu thế hội nhập khu vực và quốc tế hiện nay như hoà giải,
trọng tài. Bên cạnh đó chú trọng nghiên cứu xây dựng cơ chế hỗ trợ tư pháp (hỗ trợ của
Toà án) đối với việc giải quyết các tranh chấp ngoài Toà án theo hướng các bên tự thoả
thuận với nhau và đến Toà án yêu cầu ra quyết định công nhận sự thoả thuận này để làm
cơ sở phỏp lý cho việc cú thể cưỡng chế thi hành trong thực tế.
Mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án đối với các khiếu kiện hành chính. Đổi
mới mạnh mẽ thủ tục tố tụng hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân
tham gia tố tụng, bảo đảm sự bỡnh đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước
Toà án trong việc đưa ra những đề nghị, yêu cầu, tài liệu, chứng cứ và tranh luận dân
chủ tại phiên toà; nâng cao chất lượng và hiệu lực của các bản án, quyết định về hành
chính của Toà án.
Sửa đổi cơ chế xét xử tập thể. Đối với một số vụ ỏn hỡnh sự ớt nghiờm trọng,
tỡnh tiết đơn giản, chứng cứ rừ ràng, đầy đủ; những vụ án dân sự có giá trị tài sản tranh
chấp thấp, tranh chấp kinh tế, thương mại... thỡ ỏp dụng cơ chế một thẩm phán xét xử.
Tiếp tục hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm để thực hiện nghiêm chỉnh
nguyên tắc hai cấp xét xử theo hướng quy định chặt chẽ những căn cứ để kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; quy định rừ trỏch nhiệm của người ra khỏng nghị
theo trỡnh tự giỏm đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Toà án đó cú hiệu lực
phỏp luật trỏnh khỏng nghị thiếu căn cứ.
Toà án phải mẫu mực trong việc tiếp nhận và giải quyết các khiếu nại của cá
nhân, tổ chức. Nghiên cứu cơ chế, xác định rừ trỏch nhiệm của Toà án nhõn dõn cỏc
cấp trong việc thụ lý đơn, xem xét, giải quyết đầy đủ, đúng đắn các khiếu nại của người
dõn theo trỡnh tự giỏm đốc thẩm, tái thẩm.
Từng bước công khai hoá các bản án đặc biệt đối với các bản án dân sự, kinh tế,
lao động và hành chính; trừ những bản án về tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia hoặc
liên quan đến thuần phong, mỹ tục để người dân có điều kiện tiếp cận với cụng lý. Xõy
dựng cơ chế để bảo đảm mọi bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật phải
được thi hành; các cơ quan hành chính nhà nước vi phạm, bị xử lý theo phỏn quyết của
Toà án phải nghiêm chỉnh chấp hành.
Chương trỡnh trọng tâm công tác tư pháp từ nay đến hết năm 2008 của Ban chỉ
đạo cải cách tư pháp Trung ương xác định việc tiếp tục hoàn thiện thể chế nhằm đáp
ứng yêu cầu cải cách tư pháp như sau:
"- Xây dựng và hoàn thiện dự thảo trỡnh Quốc hội đối với các dự án luật đặc xá,
luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hỡnh sự, Luật Tương trợ tư pháp,
Luật bồi thường Nhà nước, Bộ Luật xử lý vi phạm hành chính, Bộ Luật tố tụng hành
chính, Luật dẫn độ, Luật chống khủng bố.
- Xây dựng và hoàn thiện dự thảo trỡnh Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đối với các
dự án pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh thi hành án phạt tù, pháp
lệnh thủ tục bắt giữ tàu biển, pháp lệnh thủ tục bắt giữ tàu bay, pháp lệnh án phí, lệ phí
tại Toà án nhân dân; pháp lệnh chi phí giám định, định giá trong tố tụng dẫn độ và tố
tụng hành chính; pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh tổ chức điều tra
hỡnh sự. Và các văn bản hướng dẫn thi hành các bộ luật mà Quốc hội đó và sẽ ban
hành".
1.1.2.2. Hoàn thiện về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, bộ máy của các cơ quan
tư pháp
Thực hiện xây dựng các cơ quan tư pháp theo hướng xác định rừ chức năng,
nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp trong đó đề cao vai trũ trung tõm của Toà án; tổ chức
và hoạt động của các cơ quan tư pháp khác phục vụ cho công tác xét xử của Toà án.
Từng bước xó hội hoỏ một số hoạt động tư pháp, giao cho các cá nhân, tổ chức xó hội
thực hiện.
-Toà án nhân dân:
Tổ chức nghiên cứu về phạm vi thẩm quyền của Toà án theo hai hướng. Một là,
nghiên cứu cơ chế thực hiện xó hội húa việc giải quyết một số tranh chấp nhằm giảm số
lượng vụ việc mà Toà án phải thụ lý. Xõy dựng cơ chế khuyến khích người dân tự giải
quyết hoặc các tổ chức hoà giải, trọng tài giải quyết những tranh chấp đơn giản, có giá
trị thấp. Hai là, mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án đối với các khiếu kiện hành
chính. Cần nghiên cứu cơ chế bảo đảm các khiếu kiện về hành chính phải được Toà án
phán quyết, nếu người dân yêu cầu.
Nghiên cứu xác định hợp lý phạm vi thẩm quyền xột xử của Toà ỏn Quõn sự
theo hướng Toà án Quân sự chủ yếu xét xử những vụ án về các tội xâm phạm nghĩa vụ,
trách nhiệm của quân nhân, những vụ án liên quan đến bí mật quân sự...
Nghiên cứu cơ chế tổ chức hệ thống Toà án không phụ thuộc vào đơn vị hành
chính mà theo thẩm quyền xét xử gồm: Toà án sơ thẩm được tổ chức ở một hoặc một số
đơn vị hành chính cấp huyện (Toà án khu vực); Toà án phúc thẩm được đặt theo đơn vị
hành chính cấp tỉnh có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số
vụ án; toà thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc
thẩm; Toà án tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng
thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm.
Nghiên cứu thành lập một số toà chuyên trách, như: Toà vị thành niên, Toà hôn
nhân và gia đỡnh... cho phự hợp với tớnh chất, đặc điểm của những vụ việc mà Toà án
phải xử lý và bảo đảm tính chuyên sâu của thẩm phán. Việc thành lập toà chuyên trách
phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp Toà án, từng khu vực, không nhất thiết ở
cấp nào, địa phương nào cũng thành lập các toà chuyên trách giống nhau.
Nghiên cứu đổi mới tổ chức Toà án nhân dân tối cao tinh gọn với đội ngũ thẩm
phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật có bề dầy kinh nghiệm lâu năm trong
ngành.
Đổi mới việc tổ chức phiên toà xét xử, xác định rừ hơn chức năng, quyền hạn,
trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm
tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà. Hội
đồng xét xử phán quyết về vụ án trên cơ sở phỏp luật và chứng cứ, lý lẽ của cụng tố
viờn (người buộc tội) và bị cáo, luật sư, bào chữa viên (người gỡ tội).
- Viện Kiểm sát nhân dân:
Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức của Viện Kiểm sát được định hướng xây đựng
theo hai giai đoạn. Trước mắt, giữ nguyên chức năng của Viện Kiểm sát là thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp như nêu trong Nghị quyết 08-NQ/TW của
Bộ Chính trị, theo quy định của Hiến pháp 1992, Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân.
Cùng với sự thay đổi về bộ máy Toà án thỡ tổ chức của Viện Kiểm sát nhân dân được
thay đổi cho phù hợp.
Cần xác định rừ nhiệm vụ của Viện Kiểm sát trờn cỏc lĩnh vực tố tụng hỡnh sự,
tố tụng dõn sự, kiểm sỏt hoạt động xét xử, thi hành án; quan hệ giữa Viện Kiểm sát với
cơ quan điều tra, với Toà án và với cơ quan thi hành án. Đối với cơ quan điều tra, Viện
Kiểm sát có quyền hạn và trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc, yêu cầu cơ quan điều tra và
điều tra viên đề cao trách nhiệm thực hiện đúng các quy định trong việc khởi tố, bắt,
giam, giữ, điều tra, chứng minh hành vi phạm tội theo đúng các quy định của pháp luật
bảo đảm không để lọt tội phạm và không có oan, sai. Đối với Toà án, Viện Kiểm sát là
cơ quan truy tố, buộc tội bị cáo, người bào chữa... đưa ra. Nếu cho rằng Toà án xột xử
sai thỡ Viện Kiểm sát có quyền yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm, Toà án giám đốc thẩm
thụ lý, giải quyết.
Việc xét xử các vụ án dân sự theo nguyên tắc tự định đoạt của các dương sự,
người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự sẽ tự
đánh giá việc xét xử của Toà án có căn cứ và có đúng pháp luật không. Nếu cho rằng
Toà án xét xử không đỳng thỡ cỏc đương sự cú quyền khỏng cỏo theo trỡnh tự phỳc
thẩm hoặc yờu cầu khỏng nghị xột xử giỏm đốc thẩm, tái thẩm.
Trong lĩnh vực thi hành án, các bản án, quyết định của Toà án và các quy định
của pháp luật về thi hành án do các cơ quan thi hành án, cơ quan quản lý cụng tỏc thi
hành ỏn, cỏc đương sự thực hiện, nếu cú vi phạm thỡ cỏc cơ quan cú liờn quan sẽ kiểm
tra, xử lý, cỏc đương sự sẽ khiếu nại, tố cáo.
Để thực hiện đúng trách nhiệm, quyền hạn của Viện Kiểm sát (viện công tố) đối
với việc đấu tranh chống tội phạm, không để lọt tội phạm và khụng xử lý oan người vụ
tội, thỡ phải nghiờn cứu làm rừ và xỏc định đỳng vai trũ, mối quan hệ của viện cụng tố
với cơ quan điều tra. Viện công tố phải có đủ khả năng để quyết định việc điều tra, việc
truy tố bị can; có quyền hạn để cơ quan điều tra thực hiện theo yờu cầu của mỡnh. Do
vậy cần nghiờn cứu về mối quan hệ tổ chức, nhõn sự giữa viện cụng tố và cơ quan điều
tra.
- Cơ quan điều tra:
Tiến hành xác định rừ nhiện vụ của cơ quan điều tra trong mối quan hệ với các cơ
quan khác được giao một số hoạt động điều tra theo hướng cơ quan điều tra điều tra tất cả
cỏc vụ ỏn hỡnh sự, một số cơ quan khỏc (kiểm lõm, biờn phũng, hải quan, cảnh sỏt biển,
cảnh sỏt giao thụng, cảnh sỏt phũng chỏy, chữa chỏy...) chỉ tiến hành một số hoạt động
điều tra sơ bộ, như: lập biên bản về sự việc tội phạm xảy ra; bảo vệ hiện trường, thu giữ
tang vật, giữ người phạm tội... và chuyển mọi tài liệu, tang vật, người bị bắt giữ cho cơ
quan điều tra để điều tra vụ án. Có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan điều tra và cơ
quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra sơ bộ; giữa các cơ quan điều tra với
nhau với trung tâm là Viện Kiểm sát để kiểm soát được tỡnh hỡnh đấu tranh chống tội
phạm; xử lý nhanh chúng, kịp thời cỏc vụ ỏn đó phỏt hiện, điều tra.
Tiếp tục nghiên cứu cụ thể và chuẩn bị điều kiện để tổ chức lại các cơ quan điều
tra theo hướng thu gọn đầu mối, kết hợp chặt chẽ giữa công tác trinh sát và hoạt động
điều tra tố tụng hỡnh sự. Cơ quan điều tra được tổ chức phù hợp với tổ chức của Toà án,
Viện Kiểm sát, không bắt buộc với đơn vị hành chính.
- Cơ quan thi hành án:
Thực hiện việc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan thi hành án; giao
cho Bộ Tư phỏp thống nhất quản lý cụng tỏc thi hành ỏn. Chuẩn bị điều kiện về tổ
chức, cán bộ, cơ sở vật chất để Bộ tư pháp thực hiện nhiệm vụ đó trong vài năm tới.
Xây đựng cơ chế phối hợp giữa cơ quan thi hành án của Bộ Tư pháp và cơ quan công
an, cơ quan điều tra để phục vụ yêu cầu đấu tranh phũng, chống tội phạm, bảo đảm
an ninh, an toàn cho công tác thi hành án.
Nghiên cứu hoàn thiện về tổ chức các cơ quan thi hành án phạt tù, thi hành án
dân sự. Các trại giam không phải là nơi chỉ để trừng phạt người bị phạt tù mà phải là nơi
cải tạo, giáo dục tốt phạm nhân, tạo điều kiện cho họ học tập, lao động, sớm được tái
hoà nhập với gia đỡnh, cộng đồng, xó hội. Nghiờn cứu cỏch phõn loại những trại giam;
thành lập cỏc trại giam cho phạm nhõn là người chưa thành niên. Tổ chức các cơ quan
thi hành án dân sự cần bảo đảm cho tính chủ động của các chấp hành viên khi thi hành
các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án.
Bên cạnh đó tiếp tục xác định rừ trỏch nhiệm của UBND cấp xó và của cơ quan
chuyờn mụn của UBND cấp tỉnh trong việc thi hành cỏc hỡnh phạt khụng phải là hỡnh
phạt tự để thực hịên nghiêm túc các bản án của Toà án.
Nghiờn cứu xó hội hoỏ hoạt động thi hành án dân sự và một số công việc trong
thi hành ỏn hỡnh sự; như việc giám sát, giáo dục người phạm tội bị toà tuyờn phạt hỡnh
phạt khụng phải cỏch ly với xó hội; thụng bỏo, tống đạt cho các bên đương sự các quyết
định thi hành án dân sự; định giá; bán đấu giá tài sản bảo đảm thi hành án; cung ứng
một số dịch vụ cho việc nuôi dưỡng, giáo dục phạm nhân; giúp người được tha tù nhanh
chóng tái hoà nhập cộng đồng...; lập các chức danh hoặc tổ chức để thực hiện một số
công việc trong thi hành các bản án, quyết định về dân sự.
Từ nay đến hết năm 2008 cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện tổ chức các cơ
quan tư pháp theo lộ trỡnh Nghị quyết 49-NQ/TW đó đề ra như sau:
Triển khai nghiên cứu, xây dựng Đề án thành lập Toà án sơ thẩm khu
vực, Toà án phúc thẩm, Toà án thượng thẩm; Đề án đổi mới tổ chức và hoạt
động của Toà án nhân dân tối cao; Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của
Toà án quân sự các cấp...
Tổng kết việc thực hiện chủ trương tăng thẩm quyền xét xử cho toà án
cấp huyện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hỡnh sự (sửa đổi) năm 2003 và
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.
Triển khai nghiên cứu xây dựng đề án về mô hỡnh tổ chức bộ máy và
chức năng nhiệm vụ của Viện Kiểm sát trong tiến trỡnh cải cách tư pháp.
Triển khai nghiên cứu, xây dựng Đề án về mô hỡnh cơ quan điều tra
cấp huyện và cơ quan điều tra trong quân đội cho phù hợp với việc đổi mới
mô hỡnh tổ chức Toà án theo thẩm quyền xét xử sẽ được thực hiện sau năm
2010.
Triển khai nghiên cứu xây dựng Đề án về việc chuẩn bị các điều kiện
cần thiết để giao Bộ Tư pháp thống nhất quản lý nhà nước về công tác thi
hành án.
Xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển các cơ quan tư pháp từ nay đến
2020, trước mắt cụ thể hơn cho giai đoạn đến năm 2010 để trỡnh các cơ quan
có thẩm quyền phê duyệt [2].
1.1.2.3. Hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp
Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp theo hướng phục
vụ tốt hơn yêu cầu của hoạt động tư pháp nói chung, của hoạt động xét xử nói riêng.
Trong đó, đặc biệt chỳ ý đến tổ chức và hoạt động của luật sư; cần xác định rừ vị trớ của
luật sư trong hoạt động tố tụng, nhất là khi thực hiện việc tranh tụng trong xét xử. Việc
đổi mới tổ chức và hoạt động bổ trợ tư pháp cần được tiến hành theo tính nâng cao tính
chuyên sâu, đồng thời xó hội hoỏ rộng rói đối với những hoạt động cú thể xó hội hoỏ
được.
- Hoàn thiện chế định luật sư:
Từng bước phân định rừ và hợp lý giữa cụng tỏc quản lý nhà nước về luật sư
và chế độ tự quản của tổ chức luật sư. Nhà nước tạo điều kiện phỏp lý để phát huy
chế độ tự quản của tổ chức luật sư; đề cao trách nhiệm của các tổ chức luật sư đối
với cỏc thành viờn của mỡnh. Nghiờn cứu thành lập tổ chức luật sư toàn quốc để
tăng cường tính tự quản và trách nhiệm của tổ chức luật sư.
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa quản lý nhà nước và chế độ tự quản của tổ chức
luật sư nhằm tạo điều kiện phát triển đội ngũ luật sư Việt Nam đủ về số lượng, mạnh về
chất lượng và phỏt huy vai trũ của họ trong quỏ trỡnh dõn chủ hoỏ hoạt động tố tụng,
bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân.
Nghiên cứu để hoàn thiện cơ chế tranh tụng dân chủ, có cơ chế phỏp lý và bảo
đảm trên thực tế các quyền của luật sư trong việc bào chữa cho bị can, bị cáo, bảo vệ
quyền và lợi ích cho các đương sự.
Xây dựng, phát triển đội ngũ luật sư ngày càng đông đảo, có phẩm chất chính trị,
đạo đức nghề nghiệp, năng lực chuyên môn cao. Tiếp tục nghiên cứu mở rộng, đa dạng
hoỏ cỏc hỡnh thức hành nghề của luật sư để thu hút, tạo điều kiện cho những người có
kiến thức, tâm huyết theo nghề luật sư đáp ứng nhu cầu tư vấn phỏp luật, bào chữa, trợ
giỳp phỏp lý của nhõn dõn.
Trước mắt hoàn thành và triển khai Đề án thành lập tổ chức luật sư toàn quốc.
- Tiếp tục hoàn thiện chế định giám định tư pháp
Giám định tư pháp là hoạt động khoa học, có tính chuyên môn cao. Kết luận
giám định là ý kiến của nhà chuyờn mụn đánh giá về sự kiện, về bản chất vụ việc dưới
góc độ khoa học chứ khụng mang tớnh phỏp lý. Việc đỏnh giỏ về mặt phỏp lý kết luận
giỏm định là công việc các cơ quan và cán bộ tư pháp có thẩm quyền. Việc hoàn thiện
các chế định giám định tư pháp cần tập trung vào một số vấn đề sau:
Đối với một số lĩnh vực giám định có nhu cầu lớn, chưa có điều kiện xó hội hoỏ
được thỡ Nhà nước cần đầu tư để đáp ứng thường xuyên và kịp thời cho hoạt động tố
tụng (phỏp y, phỏp y tõm thần, kỹ thuật hỡnh sự...).
Đối với các lĩnh vực có nhu cầu giám định không lớn, không thường xuyên (tài
chính - kế toán, văn hoá, xây dựng, môi trường, khoa học - cụng nghệ...) thỡ cần xó hội
hoỏ bằng cơ chế thu hút các cơ quan, tổ chức chuyên môn, các chuyên gia giỏi trong
khu vực nhà nước cũng như ngoài khu vực nhà nước tham gia vào hoạt động giám định
tư pháp.
Quy định chặt chẽ, rừ ràng về trỡnh tự, thủ tục, cơ quan tiến hành, thời hạn trưng
cầu và thực hiện giám định. Trên cơ sở những quy định chung đó, tiến hành ban hành
quy chuẩn thực hiện giám định cụ thể phù hợp với những đặc thù riêng của lĩnh vực đó
để làm cơ sở đánh giá và sử dụng những kết luận giám định được chính xác.
Xác định rừ cơ chế giải quyết xung đột kết luận giám định trong trường hợp kết
luận giám định là nguồn chứng cứ chủ yếu làm căn cứ cho việc định tội, lượng hỡnh
trong tố tụng hỡnh sự hoặc làm căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu của
đương sự, xác định lỗi, trách nhiệm của các đương sự trong tố tụng dân sự.
Nghiờn cứu cỏc chế tài xử lý, bồi thường trong trường hợp tổ chức, cá nhân giám
định sai sót. Nghiên cứu quy định quyền giám định tư pháp của một số người tham gia
tố tụng, đặc biệt là quyền tự mỡnh yờu cầu giỏm định của các bên đương sự trong tố
tụng dân sự nhằm bảo đảm dân chủ, công bằng trong hoạt động tố tụng. Nghiên cứu xây
dựng cơ chế yêu cầu người giám định có mặt tại phiên toà để họ trỡnh bày về kết luận
giỏm định - nguồn chứng cứ mang tính khoa học để làm sáng tỏ những vấn đề cần phải
xác định tại phiên toà.
Thành lập và kiện toàn các tổ chức giám định tư pháp, theo quy định của Pháp lệnh
Giám định tư pháp, nhất là thành lập Viện Pháp y Quốc gia; các tổ chức giám định ở các
tỉnh, thành phố để phục vụ cho công tác điều tra, xét xử.
- Hoàn thiện chế định công chứng:
Nghiên cứu để xác định rừ phạm vi của cụng chứng, chứng thực; phõn biệt rừ
cụng chứng nội dung và cụng chứng hỡnh thức; giỏ trị phỏp lý của văn bản công chứng.
Xõy dựng mụ hỡnh quản lý nhà nước về công chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ
chức cơ quan công chứng thích hợp và có bước đi phù hợp để từng bước xó hội hoỏ
cụng việc này.
Trước tiên phải nghiên cứu tách công chứng với chứng thực hành chính, tiến tới
bỏ hẳn công chứng bản sao..., thu hẹp phạm vi những hợp đồng, giấy tờ cần phải công
chứng, chứng thực.
Trên cơ sở nghiờn cứu làm rừ bản chất của cụng chứng là chứng nhận tớnh xỏc
thực của hành vi và tớnh đúng đắn của giao dịch dân sự; xác định tính chất của công
chứng là dịch vụ công để thiết kế mô hỡnh cụng chứng và tiến hành xó hội hoỏ hoạt
động công chứng.
Trước mắt cần chuyển giao việc chứng thực cho các cơ quan hành chớnh (UBND
cấp xó hoặc cơ quan chuyên môn của UBND các cấp). Có thể thành lập các Văn phũng
cụng chứng (Một cụng chứng viờn) hoặc chi nhỏnh của phũng cụng chứng ở cấp huyện
để phục vụ nhu cầu cụng chứng của nhõn dõn. Nghiờn cứu chuyển cỏc phũng cụng
chứng sang chế độ tự trang trải về tài chớnh (Phũng cụng chứng là đơn vị sự nghiệp có
thu). Tiến tới nghiên cứu giao một số hoạt động công chứng cho một số tổ chức không
phải là Nhà nước thực hiện. Quy định trỏch nhiệm nghề nghiệp cụ thể cho cụng chứng
viờn. Xõy dựng tiờu chuẩn cụng chứng viờn, quy trỡnh và cỏch thức bổ nhiệm cụng
chứng viờn khi tiến hành xó hội hoỏ trong lĩnh vực này.
1.1.2.4. Xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp trong
sạch, vững mạnh
Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp theo hướng nâng cao và cụ thể
hoá tiêu chuẩn đối với từng loại cán bộ về chính trị, phẩm chất đạo đức, chuyên môn
nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xó hội.
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào tạo cán bộ
nguồn của các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp; bồi dưỡng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư
pháp theo hướng cập nhật các kiến thức mới về chính trị, phỏp luật, kinh tế, xó hội; cú
kỹ năng nghề nghiệp cao và kiến thức thực tiễn, có phẩm chất đạo đức, dũng cảm đấu
tranh vỡ cụng lý, bảo vệ phỏp chế xó hội chủ nghĩa. Cỏc cơ quan tư pháp, cơ quan bổ
trợ tư pháp phối hợp chặt chẽ với Học viện Tư pháp để chủ động xây dựng kế hoạch,
nội dung đào tạo và bố trí, sử dụng có hiệu quả những cán bộ đó được đào tạo. Xây
dựng chương trỡnh đào tạo chung về những kiến thức cơ bản, sau đó đào tạo chuyên sâu
về từng nghiệp vụ cụ thể. Chương trỡnh đào tạo phải theo hướng đào tạo nghề, bảo đảm
ra trường có thể làm việc tại vị trí mà khi đào tạo đó xỏc định. Tăng cường bồi dưỡng
ngắn ngày trong quỏ trỡnh cụng tỏc.Thường xuyên tổ chức việc đào tạo lại cho các cán
bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp.
Xây dựng cơ chế thu hút, tuyển chọn những người có tâm huyết, đủ đức, tài vào
làm việc tại các cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp. Mở rộng nguồn để bổ trợ vào các chức
danh tư pháp không chỉ là các cán bộ trong các cơ quan tư phỏp, mà cũn là cỏc luật gia,
luật sư...
Đổi mới việc tuyển chọn, bổ nhiệm các chức danh tư pháp. Nghiên cứu chế độ
thi tuyển đối với một số chức danh. Có thể tổ chức các kỳ thi quốc gia để tuyển chọn
nguồn chức danh tư pháp. Tăng thời hạn bổ nhiệm hoặc thực hiện chế độ bổ nhiệm
không có kỳ hạn đối với cán bộ có chức danh tư pháp.
Tăng cường kiểm tra, thanh tra việc thực thi nhiệm vụ, đạo đức của cán bộ tư
pháp và bổ trợ tư pháp. Bên cạnh đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả của việc tự kiểm tra,
thanh tra của các cơ quan tư phỏp, của cỏc tổ chức xó hội, nghề nghiệp của cỏn bộ bổ
trợ tư pháp, phải xây dựng, hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát của Quốc
hội, Hội đồng nhõn dõn, của cỏc tổ chức xó hội, của nhõn dõn đối với cán bộ tư pháp;
tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra của Nhà nước đối với các hoạt động của các
chức danh bổ trợ tư pháp.
Xây dựng chế độ, chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp với lao động,
cống hiến của cán bộ tư pháp. Khen thưởng, tôn vinh các cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp
giỏi, có nhiều cống hiến, dũng cảm đấu tranh chống tội phạm, chống tham nhũng, tiờu
cực, bảo vệ cụng lý, bảo vệ nhõn dõn. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh kịp thời với các
biểu hiện tham ô, tham nhũng, tiêu cực khác trong đội ngũ cán bộ tư pháp.
1.2. phương thức lãnh đạo của đảng cộng sản việt nam trong thực hiện cải
cách tư pháp ở Việt Nam
1.2.1. Nhận thức chung về Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo Nhà nước
Quan niệm về Đảng chính trị:
Vấn đề Đảng chính trị, Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo "đã có nhiều ý kiến cho
rằng, đây là vấn đề khó, phức tạp...". Theo điều 4 Hiến pháp năm 1992 quy định "Đảng
Cộng sản Việt Nam, đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung
thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.
Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật".
Trong Thảo luận của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 5 kháo X có ý
kiến cho rằng như Điều 4 của Hiến pháp đã khẳng định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với nhà nước và xã hội về mặt pháp lý. Đối với loại ý kiến cho rằng cần có luật
hoạt động của Đảng để cụ thể hoá Điều 4 của Hiến pháp; vì Đảng lãnh đạo nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân nên "cần phải
có luật về hệ thống chính trị và về Đảng". Bộ Chính trị cho rằng: "Đây là vấn đề hệ
trọng và nhạy cảm Bộ Chính trị đã thảo luận, cân nhắc kỹ, quyết định không đưa vấn
đề này vào đề án" [10, tr.94-95].
Rõ ràng đây là vấn đề cần được nhận thức từ góc độ Chính trị học và Luật học
(chính trị pháp lý).
Trước hết có thể nhận thức rõ ràng rằng: Đảng ta là một Đảng chính trị hay còn
gọi là chính Đảng, đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam đại biểu trung thành
lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, là một tổ chức có
tư cách pháp nhân (hoạt động hợp hiến) hoạt động liên tục, từ khi thành lập đến nay
(1930) thực hiện mục tiêu giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.
Đặc trưng cơ bản của Đảng ta là:
Thứ nhất: Là tổ chức chính trị thể hiện ý chí của giai cấp công nhân đại diện
cho lợi ích của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và nhân dân
lao động nói chung và đại diện lợi ích của cả dân tộc Việt Nam. Đặc trưng này thể
hiện tính giai cấp sâu sắc và tính nhân dân, tính xã hội rộng lớn.
Thứ hai: Đảng Cộng sản Việt Nam là một Đảng mác xít, theo chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng đường lối đổi mới toàn diện đất nước ngày
càng tạo ra sự đồng thuận cao giữa Đảng và nhân dân, dân tộc, thông qua hoạt động của
Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam.
Thứ ba: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cả dân tộc giành độc lập dân tộc toàn
vẹn lãnh thổ và giành chính quyền về tay nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng
cầm quyền "độc tôn lãnh đạo" trực tiếp toàn diện đối với nhà nước. Đảng không buông
lỏng sự lãnh đạo của mình và cũng không can thiệp, làm thay công việc của Nhà nước.
Đồng thời coi trọng "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân".
Thứ tư: Đảng Cộng sản Việt Nam là một hệ thống tổ chức chặt chẽ từ Trung
ương đến cơ sở với một lực lượng đảng viên đông đảo.
Thứ năm: Trong cơ chế vận hành chung của cả xã hội Đảng là lực lượng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Như vậy, trong tổ chức hoạt động của cả
hệ thống chính trị, Nhà nước pháp quyền XHCN là trung tâm. Đảng lãnh đạo nhà nước
được phân biệt với hoạt động quản lý nhà nước và bảo đảm quyền làm chủ của nhân
dân.
Quan niệm về Đảng cầm quyền:
Đảng cầm quyền là một phạm trù chính trị pháp lý phản ánh hiện tượng xã hội về
quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp nhân dân trong đời sống chính trị của các quốc
gia. Quyền lực nhà nước trong Hiến pháp của các nhà nước theo chính thể cộng hoà
(Cộng hoà Đại nghị, Cộng hoà Tổng thống, Cộng hoà XHCN) đều thừa nhận quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân. Vì vậy, các Đảng chính trị đại diện cho giai cấp, tầng lớp
nhân dân nhất định, hoặc đại diện cho cả dân tộc đều thực hiện việc nắm giữ quyền lực
nhà nước để thông qua nhà nước thực hiện ý chí vai trò của Đảng trong đời sống đất
nước.
Trong các chế độ chính trị, đa đảng hay độc đảng thì chính quyền (nhà nước) bao
giờ cũng do một Đảng hay liên minh một số đảng nắm giữ. Đó là hiện thực của đời sống
chính trị đương đại.
Các Đảng cầm quyền hoặc liên minh cầm quyền đều nắm trong tay chính quyền
bao gồm cả quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Đảng muốn nắm quyền lập pháp thì Đảng phải nắm được đa số ghế trong Quốc
hội (Nghị viện, Đuma quốc gia).
Đảng muốn nắm được quyền hành pháp Đảng đó phải được quyền lập Chính
phủ, đặc biệt là nắm giữ chức vụ của người đứng đầu Chính phủ và được bổ nhiệm
người đứng đầu cơ quan tư pháp.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo đất nước
chủ yếu thông qua nhà nước. Đảng lập các tổ chức đảng hoạt động trong các
cơ quan nhà nước và giới thiệu những đảng viên ưu tú vào các vị trí lãnh đạo
chủ chốt của bộ máy nhà nước để lãnh đạo thể chế hoá và tổ chức thực hiện
đúng đắn cương lĩnh, nghị quyết, chỉ thị của Đảng [10, tr.91-92].
Quan niệm về Đảng lãnh đạo Nhà nước khái niệm "Đảng lãnh đạo" được sử
dụng rộng rãi trong các văn kiện của Đảng Cộng sản. Khái niệm "lãnh đạo" được hiểu là
"I. Dẫn dắt tổ chức phong trào theo đường lối cụ thể... II. Cơ quan lãnh đạo bao gồm
những người có khả năng tổ chức dẫn dắt phong trào..." [45, tr.979].
Theo nghĩa này, đối với Đảng chính trị, một Đảng cầm quyền "lãnh đạo" còn bao
hàm các nghĩa "thuyết phục", "gây ảnh hưởng", "khả năng huy động và hướng các nỗ
lực của một tập thể vào việc thực hiện một mục tiêu nào đó". Như vậy, từ "lãnh đạo"
luôn gắn với phương thức cụ thể, với những biện pháp, cách thức, hình thức tác động
đối với đối tượng của sự lãnh đạo. Đảng lãnh đạo Nhà nước phát sinh mối quan hệ giữa
Nhà nước với Đảng cầm quyền, Nhà nước trở thành đối tượng của sự lãnh đạo. Vì vậy,
tổ chức và hoạt động của Nhà nước phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Điều đó được
coi là nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong tổ chức hoạt động của Nhà nước.
Trong chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010
định hướng đến năm 2020 Đảng ta chỉ rõ: "1.1. Đổi mới và không ngừng hoàn thiện
phương thức lãnh đạo của Đảng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng phù hợp với Hiến
pháp, pháp luật, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước, phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân".
1.2.2. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ở Việt Nam
Bất kỳ một đảng chính trị nào muốn lãnh đạo xã hội thì phải giành được chính
quyền nhà nước và thực hiện sự lãnh đạo của mình thông qua bộ máy nhà nước. Đảng
cộng sản cũng không nằm ngoài qui luật đó. Là một đảng cầm quyền, ý chí của đảng
phải trở thành ý chí và hành động của xã hội và điều này được thực hiện thông qua hoạt
động của bộ máy nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước được thể hiện qua
nội dung lãnh đạo; phương thức lãnh đạo và tác phong, lề lối làm việc. ở nước ta, sau
khi lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền, Đảng cộng sản Việt nam đã tiếp tục
lãnh đạo xây dựng chính quyền, xây dựng nhà nước và lãnh đạo cả xã hội. Sự lãnh đạo
đối với xã hội, sự lãnh đạo đó được thể hiện qua những nội dung sau đây:
- Đảng đề ra đường lối, chủ trương về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá-xã
hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại…
- Đảng lãnh đạo nhà nước thể chế hoá đường lối, chủ trương của mình thành các
qui định pháp luật, chiến lược, chính sách, kế hoạch và phương hướng phát triển kinh tế
-xã hội.
- Đảng lãnh đạo nhà nước bằng công tác tổ chức và cán bộ. Đảng thống nhất
quản lý và quyết định tổ chức bộ máy và cán bộ trong các cơ quan nhà nước trên cơ sở
của chế độ bầu và cử, thông qua Nhà nước thực hiện quyền bãi nhiệm, miễn nhiệm
những cán bộ là đảng viên trong bộ máy nhà nước.
- Đảng thực hiện chức năng kiểm tra và giám sát hoạt động của nhà nước thông
qua tổ chức đảng, đảng viên, bằng việc lãnh đạo các cơ quan thanh tra nhà nước; tổ
chức, lãnh đạo,động viên quần chúng kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà
nước và cán bộ, công chức; phối hợp xây dựng qui chế kiểm tra giữa cấp uỷ với cơ quan
nhà nước và các đoàn thể.
Đảng lãnh đạo nhà nước bao gồm hai yếu tố có mối quan hệ mật thiết với nhau,
đó là: nội dung và cách thức thực hiện nội dung (phương thức). Nội dung Đảng lãnh đạo
nhà nước là những công việc, những nhiệm vụ mà Đảng phải làm với tư cách là người
lãnh đạo. Phương thức lãnh đạo của Đảng hiểu theo nghĩa chung nhất đó là hệ thống các
phương pháp và những hình thức mà Đảng sử dụng để tác động vào những đối tượng
lãnh đạo để thực hiện các nội dung và mục tiêu lãnh đạo của mình. Phương thức lãnh
đạo phụ thuộc vào nội dung lãnh đạo, hoàn cảnh lịch sử thế giới và đất nước ở mỗi một
giai đoạn cụ thể.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân ở nước ta hiện nay đòi hỏi Đảng phải không ngừng hoàn thiện nội dung và
phương thức lãnh đạo, đặc biệt là phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước,
trong đó có các cơ quan tư pháp. Đây là một trong những nhân tố quan trọng, có tác
động rất lớn đến thành công và thất bại của nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền
hiện nay.
1.2.3. Phương thức lãnh đạo của Đảng trong thực hiện cải cách tư pháp ở
Việt Nam hiện nay
Phương thức lãnh đạo là một trong những nhân tố quan trọng quyết định chất
lượng và hiệu quả lãnh đạo của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn
luôn không ngừng đổi mới và hoàn thiện phương thức của mình cho phù hợp với đặc
điểm, chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống chính trị và yêu cầu của
thực tiễn cuộc sống. Đồng thời, đây cũng là một nội dung hết sức quan trọng của công
tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nâng cao hiệu quả, hiệu lực trong hoạt động của nhà
nước trong giai đoạn hiện nay.
Cơ quan tư pháp đóng một vai trò hết sức quan trọng trong cơ cấu quyền lực nhà
nước. Tăng cường và đổi mới phương thứ lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư
pháp là một yêu cầu hết sức quan trọng đối với công cuộc xây dựng nhà nước pháp
quyền ở nước ta hiện nay. Sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp nhằm đạt
tới mục tiêu: đảm bảo hoạt động của các cơ quan tư pháp theo đúng định hướng chính
trị xã hội chủ nghĩa, giữ vững bản chất tốt đẹp của nhà nước là nhà nước của dân, do
dân, vì dân; phát huy hiệu lực hiệu quả của bộ máy nhà nước, giữ gìn trật tự và pháp chế
xã hội chủ nghĩa; đảm bảo sự công bằng, tính nghiêm minh trong thực thi pháp luật.
Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp là lãnh đạo toàn diện, gồm nhiều nội dung như lãnh
đạo về chính trị, tư tưởng; công tác tổ chức và cán bộ; định hướng công tác của ngành.
sự lãnh đạo đó được thể hiện thông qua việc đưa ra các nguyên tắc, quan điểm chỉ đạo
định hướng công tác tư pháp, thông qua việc kiểm tra và giám sát các hoạt động tư
pháp. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp trước hết
cần tập trung vào các nội dung chủ yếu sau đây:
Thứ nhất: Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp phải được
thiết lập phù hợp với đặc điểm tổ chức và hoạt động của ngành tư pháp. Sự lãnh đạo của
Đảng đối với các cơ quan tư pháp phải đảm bảo được tính độc lập trong các hoạt động
điều tra, tính nghiêm minh trong xét xử, đảm bảo nguyên tắc xét xử đúng người, đúng
tội, "quân pháp bất vị thân". Đây là những yêu cầu hết sức quan trọng, là một trong
những nguyên tắc cơ bản trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền. Cấp uỷ Đảng
không trực tiếp can thiệp vào công tác xét xử, không chỉ thị quyết định tội danh cũng
như khung hình phạt. Khi cần thiêt, có thể chỉ đạo phối hợp với các cơ quan khác cho ý
kiến về việc xét xử các vụ án liên quan đến an ninh quốc phòng, an ninh chính trị và
những vụ án gây dư luận, sự chỉ đạo này phải dựa trên những qui định của pháp luật. Cụ
thể, Bộ Chính trị quyết định chủ trương, chính sách xử lý các loại tội phạm xâm phạm
an ninh quốc gia; đề ra chủ trương và nhiệm vụ chống tham nhũng và các vụ án nghiêm
trọng khác liên quan đến cán bộ, đảng viên thuộc diện quản lý của mình. Phối hợp với
các cấp uỷ Đảng, Đảng đoàn tạo điều kiện cho các cơ quan tư pháp thực hiện đúng chức
năng của mình trong việc điều tra, truy tố và xét xử đúng người, đúng tội. Sự lãnh đạo
này không phải nhằm can thiệp vào tính độc lập trong xét xử của các cơ quan tư pháp, mà
nhằm tạo điều kiện để các cơ quan tư pháp thực hiện đúng chức năng của mình, xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đặc biệt đối với các vụ án nghiêm trọng và phức tạp.
Thứ hai: Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp
trước hết cần phải xây dựng cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ, nâng cao năng lực và
trách nhiệm của đội ngũ cán bộ tư pháp. Sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư
pháp được thực hiện thông qua các Ban Cán sự Đảng đoàn, Bộ Chính trị là cơ quan có
thẩm quyền quyết định việc thành lập các Ban Cán sự Đảng đoàn trong các cơ quan tư
pháp. Ban Cán sự Đảng đoàn có trách nhiệm lãnh đạo ngành mình thực hiện đúng chủ
trương, đường lối, nghị quyết của Đảng; thực hiện các nghị quyết của Đảng về những
vấn đề tổ chức và cán bộ. Ban cán sự Đảng đoàn hoạt động dựa trên nguyên tắc tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách, quyết định theo đa số. Cần xây dựng qui chế qui định rõ
trách nhiệm, quyền hạn của các cấp uỷ và từng đồng chí cấp uỷ viên và qui chế làm việc
giữa lãnh đạo cấp uỷ với lãnh đạo các cơ quan tư pháp. Thực hiện nghị quyết của Bộ
Chính trị về cải cách tư pháp, để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các cơ
quan tư pháp, chúng ta cần phải tiếp tục thực hiện việc cải cách tổ chức, nâng cao chất
lượng hoạt động của cơ quan tư pháp và đội ngũ cán bộ tư pháp. Theo đó, từng bước
sắp xếp lại hệ thống Toà án nhân dân theo hướng thành lập các Toà án khu vực, tăng
thẩm quyền của Toà án; xây dựng đội ngũ thẩm phán, thư ký toà đủ về số lượng và đảm
bảo về chất lượng. Đối với Viện Kiểm sát nhân dân, từng bước phân định rõ chức năng
của có quan kiểm sát theo hướng cơ quan kiểm sát chỉ thực hiện quyền công tố và kiểm
tra giám sát các hoạt động tư pháp. Thực hiện tổ chức lại cơ quan điều tra theo hướng
sắp xếp, thu gọn đầu mối cơ quan điều tra, phân định rõ thẩm quyền của các cơ quan
điều tra; xây dựng đội ngũ cảnh sát tư pháp đủ mạnh và chuyên nghiệp; sắp xếp lại cơ
quan thi hành án, phân định rõ cơ quan quản lý thi hành án dân sự và thi hành án hình
sự; thực hiện việc chuẩn hoá các chức danh tư pháp.
Thứ ba: Thực hiện tốt chế độ kiểm tra thường xuyên và định kỳ đối với các cơ
quan tư pháp và đội ngũ cán bộ tư pháp trong việc chất hành quan điểm, đường lối,
chính sách và chủ trương của Đảng. Để thực hiện tốt công tác kiểm tra, các cấp uỷ Đảng
cần phải xây dựng chương trình kiểm tra, xác định rõ các nội dung cần kiểm tra. Trong
quá trình kiểm tra cần phải dựa vào tổ chức Đảng và cán bộ đảng viên trong ngành; đối
với việc kiểm tra những vấn đề mang tính chuyên môn khi đưa ra kết luận phải đảm bảo
tính chính xác và không can thiệp đến nguyên tắc độc lập của tư pháp theo qui định của
pháp luật. Tăng cường phối hợp việc kiểm tra của cấp uỷ với việc kiểm tra của ngành;
xây dựng cơ chế giám sát xã hội đối với hoạt động của ngành tư pháp và đội ngũ cán bộ
tư pháp.
Đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương: ở cấp tỉnh, Ban Thường vụ tỉnh uỷ,
thành uỷ thực hiện sự lãnh đạo trực tiếp đối với Toà án nhân dân tỉnh và Viện Kiểm sát
nhân dân tỉnh trong việc kiểm tra, giám sát công tác truy tố, xét xử theo đúng đường lối,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Thực hiện sự lãnh đạo cơ quan tư pháp
địa phương thông qua việc giới thiệu nhân sự giữ các cương vị chủ chốt lãnh đạo ngành
Toà án và Kiểm sát; phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc bố trí sắp xếp tổ
chức bộ máy và đào tạo đội ngũ cán bộ, đảng viên cho các cơ quan này. Phối hợp với
Toà án, Viện Kiểm sát và cơ quan điều tra trong việc xử lý các cán bộ do mình quản lý
có vi phạm pháp luật; cho ý kiến chỉ đạo đường lối xét xử đối với các các vụ án chính
trị, những vụ án hình sự nguy hiểm có ảnh hưởng đến an ninh chính trị và trật tự an toàn
xã hội; những vụ án mà giữa cơ quan điều tra, cơ quan công tố và cơ quan xét xử có ý
kiến khác nhau về quan điểm, đường lối xử lý.
ở cấp quận, huyện: Ban Thường vụ huyện uỷ thực hiện sự lãnh đạo của mình đối
với cơ quan Công an, Toà án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân huyện thông qua Ban
Cán sự Đảng và đảng viên trong các cơ quan này. Các cấp uỷ Đảng tiến hành kiểm tra
việc chấp hành các nghị quyết của Đảng, việc chấp hành các qui định pháp luật về đấu
tranh phòng chống tội phạm và công tác truy tố, xét xử. Trên cơ sở qui định của pháp
luật, thực hiện việc cho ý kiến chỉ đạo đối với các vụ án mà người phạm tội là cán bộ
thuộc diện tỉnh và huyện quản lý, là nhân sỹ, trí thức, chức sắc tôn giáo có ảnh hưởng
trong xã hội; những vụ án chính trị, hình sự phức tạp mà các cơ quan điều tra, truy tố và
xét xử có ý kiến khác nhau trong quan điểm xử lý.
1.3. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong thực hiện cải cách tư pháp ở nước ta
1.3.1. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc định ra đường lối, nội
dung cải cách tư pháp làm cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ
chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp
Xây dựng, hoạch định đường lối, nội dung cải cách tư pháp là một trong những
nội dung quan trọng trong quá trình lãnh đạo cải cách tư pháp của Đảng. Trong quá
trình xây dựng bộ máy nhà nước Việt Nam, ở mỗi một giai đoạn lịch sử, Đảng Cộng sản
Việt Nam đều có những chủ trương hết sức đúng đắn, kịp thời lãnh đạo việc xây dựng
bộ máy nhà nước nói chung và cải cách tư pháp nói riêng.
Tại Hội nghị lần thứ 14 (tháng 11 năm 1958), Đảng ta đã chủ trương tăng cường
việc xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với bộ
máy nhà nước nói chung và đối với Toà án nói riêng. Thực hiện chủ trương đó, công tác
tư pháp đã có những thay đổi đáng kể, cơ quan xét xử và cơ quan công tố đã tách ra
khỏi Bộ Tư pháp, đây là mốc quan trọng đánh dấu sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ
quan tư pháp nói chung và cải cách tư pháp nói riêng.
Tiếp đó, nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, bọn
phản động, ngày 20 tháng 01 năm 1962, Bộ Chính trị đã có Nghị quyết 39- NQ/TW về
đấu tranh trấn áp bọn phản cách mạng, hoạt động tổ chức phản cách mạng và hoạt động
chiến tranh tâm lý. Để phân định hơn nữa chức năng, quyền hạn của ngành công an và
tổ chức Đảng trong công tác bảo vệ Đảng, tháng 3 năm 1979, Ban Bí thư đã ban hành
Chỉ thị số 68/CT-TW về vấn đề này. Chỉ thị đã qui định nếu cán bộ, đảng viên là cấp uỷ
viên phạm pháp cần phải tiến hành điều tra, tuỳ theo từng trường hợp cụ thể mà xử lý
thích hợp. Tháng 12 năm 1980, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 31- NQ-TW về
nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn an toàn trật tự xã hội trong tình hình mới. Chỉ
thị đã qui định những nguyên tắc chỉ đạo công tác đấu tranh bảo vệ an ninh chính trị, an
toàn xã hội dưới sự lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện của Đảng, trên cơ sở phát huy quyền
làm chủ tập thể, tinh thần sáng tạo của nhân dân.
Bước vào thời kỳ đổi mới, hệ thống chính trị, trong đó có các cơ quan tư pháp đã
bộc lộ nhiều bất cập so với tình hình thực tế của đất nước, chưa đáp ứng được những
đòi hỏi đặt ra từ thực tiễn cuộc sống. Nhận thức rõ tầm quan trọng của sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác tư pháp, các cấp uỷ đảng từ Trung ương đến cơ sở đã quan tâm
nhiều đến công tác tư pháp, đã ban hành và chỉ đạo thực hiện nhiều chỉ thị, nghị quyết
về công tác tư pháp hoặc có liên quan đến công tác tư pháp nhằm tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng và tạo điều kiện cho các cơ quan tư pháp thực hiện tốt chức năng, nhiệm
vụ. Đảng đã chủ trương xây dựng chiến lược cải cách các cơ quan tư pháp theo hướng
tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật làm cơ sở cho tổ chức
và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp. Phân định lại thẩm quyền xét xử của
Toà án; đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân các cấp, các cơ quan
điều tra, thi hành án và bổ trợ tư pháp; xây dựng và kiện toàn đội ngũ thẩm phán, thư ký
tòa, điều tra viên, chấp hành viên, công chứng viên, giám định viên, luật sư… có phẩm
chất chính trị và đạo đức nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
Nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác cải cách tư pháp, Đảng đã tiến hành tổng kết,
đánh giá quá trình thực hiện các chủ trương về cải cách tư pháp và kịp thời đề ra các
chương trình, kế hoạch đẩy mạnh cải cách tư pháp. Năm 2002, Bộ Chính trị đã ra Nghị
quyết 08- NQ/TW về cải cách tư pháp; tiếp đó để đẩy mạnh hơn nữa quá trình xây dựng
nhà nước pháp quyền, năm 2006, Bộ Chính trị lại ra Nghị quyết 49- NQ/TW về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
1.3.2. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc chỉ đạo thực hiện cải
cách tư pháp
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng Việt
Nam là một tất yếu lịch sử và là tất yếu khách quan. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước là nhằm giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước, bảo
đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, đưa sự nghiệp đổi mới đi đúng định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình chỉ đạo thực hiện cải cách tư pháp, vai trò lãnh đạo của Đảng
được thể hiện trên những nội dung trọng yếu sau đây:
- Đảng lãnh đạo các cơ quan nhà nước thể chế hoá đường lối, chủ trương của
Đảng thành pháp luật; đảm bảo cho đường lối, chủ trương, chính sách đó trở thành hiện
thực sinh động trong đời sống toàn xã hội. Trong điều kiện Đảng lãnh đạo thực hiện cải
cách tư pháp hiện nay, việc thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng phải tập trung
vào một số vấn đề hết sức then chốt như thực hiện cho được quyền làm chủ của nhân
dân; xây dựng cơ quan tư pháp, đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh; đảm bảo
tính độc lập và tính minh bạch của các cơ quan tư pháp trong hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử...
- Đảng thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo của mình đối với các cơ quan tư pháp
thông qua đội ngũ đảng viên. Do đó, Đảng phải lãnh đạo chăm lo xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức trong ngành tư pháp đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân nói chung và cải
cách tư pháp nói riêng. Đảng phải tăng cường quản lý đội ngũ cán bộ, công chức trong
sạch, vững mạnh. Muốn vậy, Đảng phải lãnh đạo công tác quy hoạch và chiến lược cán
bộ nói chung trong đó có cán bộ nhà nước, từ đó chăm lo công tác đào tạo kể cả việc
đào tạo lại, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà nước theo yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình
mới theo hướng đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước ta thực sự vừa là người lãnh đạo,
vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân, theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Đảng thực hiện lãnh đạo công cuộc cải cách tư pháp thông qua công tác kiểm
tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước. Đảng phải tăng cường công tác
kiểm tra các tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước,
đảm bảo cho các cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước thực hiện đúng
đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ công tác này, Đảng phải hết sức chú ý phát huy vai
trò, trách nhiệm của đội ngũ đảng viên và tổ chức đảng trong các cơ quan tư pháp.
Bên cạnh đó, Đảng cần phải phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các
thành viên của Mặt trận trong việc kiểm tra, giám sát các hoạt động của các cơ quan
nhà nước nói chung và cơ quan tư pháp nói riêng; bảo đảm quyền làm chủ của nhân
dân, thu hút sự tham gia ngày càng rộng rãi của nhân dân vào công việc quản lý của
nhà nước, đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu và những hiện tượng tiêu cực khác
trong bộ máy nhà nước cũng như trong đời sống xã hội, làm cho xã hội ngày càng
lành mạnh, sống có trật tự, kỷ cương, từng bước thực hiện xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
1.3.3. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công tác xây dựng cán bộ
tư pháp
Cán bộ là nhân tố quan trọng, có vai trò quyết định đến thành công hay thất bại
của công cuộc cải cách tư pháp. Sự lãnh đạo của Đảng đối với cải cách tư pháp thể hiện
trước hết ở vai trò của Đảng trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, thể hiện qua
một số điểm sau đây:
- Đảng đề ra chủ trương, nghị quyết và lãnh đạo thực hiện công tác tổ chức, cán
bộ đảm bảo đúng tiêu chuẩn, quy trình và thẩm quyền trong việc sắp xếp, quản lý, đào
tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ trong các cơ
quan tư pháp. Thực hiện việc định hướng, phối hợp với các cơ quan liên quan khác cho
ý kiến trong việc bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo cơ quan tư pháp. Cụ thể, Đảng lãnh đạo việc
rà soát đội ngũ cán bộ tư pháp; xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cả về
chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị; lãnh đạo việc qui hoạch, luân chuyển, bổ
nhiệm, miễn nhiệm cán bộ và các chức danh tư pháp; lãnh đạo việc khen thưởng và kỷ
luật cán bộ, đảng viên trong các cơ quan tư pháp.
- Đảng thực hiện việc giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên nêu cao vai trò tiền
phong, gương mẫu, thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao; xây dựng kế hoạch và tạo
điều kiện để đảng viên thực hiện nhiệm vụ học tập, không ngừng nâng cao trình độ về
mọi mặt.
- Đảng lãnh đạo xây dựng kế hoạch, biện pháp quản lý đảng viên, kiểm tra đảng
viên, phân công nhiệm vụ và tạo điều kiện cho đảng viên hoàn thành nhiệm vụ được
giao; thực hiện tốt việc giới thiệu đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối quan
hệ với chi uỷ đảng cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú. Làm tốt
công tác động viên, khen thưởng, kỷ luật đảng viên; biểu dương, khen thưởng kịp thời
những cán bộ, đảng viên có thành tích xuất sắc, xử lý nghiêm, kịp thời những cán bộ,
đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Chương 2
Thực trạng hoạt động lãnh đạo của đảng trong thực hiện cải cách tư pháp ở tỉnh Bắc Ninh
2.1. Thực trạng tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp ở tỉnh Bắc
Ninh hiện nay
2.1.1. Tổng quan tình hình kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng của tỉnh
Bắc Ninh
Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ, nằm trong vùng tam giác kinh tế
động lực Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, tiếp giáp với các tỉnh Bắc Giang (phía
Bắc), Hà Nội (Tây - Nam), Hưng Yên (phía Đông), là địa bàn có nhiều tuyến quốc lộ
quan trọng chạy qua như Quốc lộ 1A, Quốc lộ 18, Quốc lộ 38, đường sắt xuyên Việt...
đây là tỉnh có vị trí chiến lược hết sức quan trọng. Tỉnh Bắc Ninh có 7 huyện, 1 thành phố, với 109 xã, 9 phường và 7 thị trấn, diện tích tự nhiên 822,7 km2, mật độ dân số trung bình 1.214 người/km2 [4, tr.7].
Kể từ sau khi tách tỉnh đến nay, kinh tế của Bắc Ninh không ngừng tăng trưởng
với tốc độ cao, giai đoạn 1997-2005 đạt 13%, vượt mức tăng trưởng bình quân 7% của
cả nước, xếp thứ hai về tốc độ tăng trưởng kinh tế ở vùng đồng bằng sông Hồng (sau
Vĩnh Phúc 16,86%); năm 1998, kim ngạch xuất khẩu đạt 25,67 triệu USD, năm 2000 đạt
47,8 triệu USD và năm 2005 đạt 95,7 triệu USD, bình quân mỗi năm kim ngạch xuất khẩu
tăng trung bình 18,7% [4, tr.14].
Bắc Ninh là một trong những địa phương đi đầu trong việc phát triển sự nghiệp
giáo dục - đào tạo và y tế; toàn tỉnh có 145/312 trường đạt danh hiệu trường chuẩn quốc
gia, năm 2000 tỉnh được Bộ Giáo dục và đào tạo công nhận hoàn thành chương trình
phổ cập giáo dục tiểu học, chương trình giáo dục phổ cập trung học cơ sở năm 2002 và
dự kiến năm 2008 tỉnh sẽ hoàn thành việc phổ cập giáo dục trung học phổ thông; hàng
năm tỷ lệ học sinh tốt nhiệp tiểu học vào lớp 6 đạt 99,6%, tốt nghiệp trung học phổ
thông cơ sở đạt 85%, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học thi đỗ cao đẳng, đại học chiếm
khoảng 30%. Chất lượng đội ngũ giáo viên ở các ngành học, các cấp học không ngừng
được nâng cao; tỷ lệ giáo viên phổ thông các cấp đạt chuẩn trở lên đều tăng, năm học
2004 - 2005 có 3.800 giáo viên tiểu học đạt chuẩn, chiếm 98,7%; cấp trung học cơ sở có
3.597 người, chiếm 93,9% và cấp trung học phổ thông là 1.986 người, đạt 99,3%. Năm
2005, toàn tỉnh có 151 cơ sở khám chữa bệnh, trong đó có 13 bệnh viện các loại, 7
phòng khám đa khoa và khu vực, 126 trạm y tế xã, phường, thị trấn; với 1955 giường
bệnh, đạt tỷ lệ 19,5 giường bệnh trên 1 vạn dân [4, tr.176-177].
Là vùng đất có truyền thống văn hoá và lịch sử lâu đời, hằng năm ngành văn hoá
của tỉnh đã triển khai nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá bổ ích, góp phần vào việc giữ
gìn, phát triển văn hoá truyền thống, nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân trong
tỉnh. Phong trào toàn dân xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư tiếp tục được đẩy
mạnh, đến nay toàn tỉnh có 553 làng, khu dân phố đạt danh hiệu làng/ khu phố văn hoá,
vượt 18% so với mục tiêu đã đề ra; nhờ có những hoạt động này, các tệ nạn xã hội, hủ
tục lạc hậu đã giảm đi đáng kể, các giá trị văn hoá truyền thống được giữ gìn và phát
huy bản sắc. Phong trào thể dục, thể thao không ngừng được đẩy mạnh, góp phần
quan trọng vào việc nâng cao sức khoẻ nhân dân; chất lượng thể thao thành tích cao
được quan tâm, giai đoạn 1997-2005, các vận động viên của tỉnh đã giành được 486
huy chương các loại tại các giải thi đấu trong nước và quốc tế, có lượt 250 vận động
viên được Uỷ ban Thể dục - Thể thao phong các danh hiệu đẳng cấp quốc gia, trong
đó 83 vận động viên được phong danh hiệu kiện tướng quốc gia.
An ninh trật tự, an toàn xã hội của tỉnh được giữ vững và thu được nhiều kết quả
quan trọng. An ninh chính trị được giữ vững, công tác quân sự địa phương được tăng
cường, quản lý nhà nước về trật tự xã hội có chuyển biến tích cực; chương trình quốc
gia phòng chống tội phạm đã được triển khai đồng bộ, có tác dụng lớn trong việc ngăn
ngừa tội phạm, số vụ phạm pháp hình sự giảm 4,4%, tỷ lệ các vụ cháy, nổ giảm...;
phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc đã được phát động mạnh mẽ, với nhiều
hình thức hoạt động phong phú, đã duy trì hoạt động 14 cụm an ninh giáp ranh, 18 câu
lạc bộ hướng thiện, 1250 tổ liên gia, 192 tổ, ngõ xóm an toàn [38, tr.20]. Tuy nhiên,
diễn biến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong những năm qua diễn
biến hết sức phức tạp, tội phạm có xu hướng ngày càng tinh vi, tình trạng tai nạn giao
thông ngày càng tăng..., đây là những thách thức lớn đối với các cơ quan tư pháp trong
giai đoạn hiện nay. Công tác quốc phòng quân sự địa phương được tăng cường nhằm
đáp ứng yêu cầu của tình hình mới; lực lượng vũ trang địa phương vững mạnh về mọi
mặt, không ngừng nâng cao khả năng chiến đấu. Tỉnh đã làm tốt công tác bồi dưỡng
quốc phòng cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; hoàn thành chương trình huấn luyện
cho lực lượng thường trực, lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên; lực lượng vũ
trang của tỉnh đã tham gia tích cực, có hiệu quả công tác phòng chống lụt bão, thực hiện
tốt chính sách hậu phương quân đội.
2.1.2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp ở tỉnh Bắc
Ninh
2.1.2.1. Một số thành tựu cơ bản
Thực hiện chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước, ngành tư pháp
tỉnh Bắc Ninh đã có nhiều chuyển biến hết sức quan trọng, góp phần vào việc bảo đảm
công lý, các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xây dựng nhà nước pháp quyền và
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng các cấp, các đề
án cải cách tư pháp đã được xây dựng và triển khai đối với từng cơ quan cụ thể; trong
đó, các đề án đều chú trọng tập trung vào việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ
quan tư pháp, xem đó là cơ sở vững chắc cho việc cải cách một cách toàn tiện và đồng
bộ các cơ quan tư pháp của tỉnh. Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 08- NQ/TW của Bộ
Chính trị, Chỉ thị số 10/2002/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Kế hoạch số 16-
KH/TU của Ban Thường vụ tỉnh uỷ và chương trình cải cách tư pháp hằng năm của Ban
chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương, các cơ quan tư pháp tỉnh Bắc Ninh đã thực hiện
có hiệu quả một số công tác sau:
- Tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra.
Công an tỉnh là lực lượng quan trọng, đi đầu trong việc giữ gìn trật tự, trị an trên
địa bàn địa phương, thực hiện chủ trương cải cách tư pháp, lực lượng công an đã đề ra
nhiều biện pháp quan trọng nhằm nâng cao năng lực hoạt động của mình.
Về công tác tổ chức: Dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng các cấp, thực hiện công
tác cải cách tư pháp, công an tỉnh Bắc Ninh đã thường xuyên thực hiện việc rà soát đội
ngũ cán bộ trong ngành, lựa chọn, bố trí những cán bộ, chiến sỹ giỏi về nghiệp vụ, có tư
cách đạo đức tốt đảm nhận các chức vụ lãnh đạo các cơ quan điều tra và các đội điều
tra. Để nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ cán bộ, nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng
lực lượng công an, công an tỉnh đã không ngừng tổ chức cho cán bộ đi học nhằm đào
tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn; cụ thể, đã tổ chức tập huấn về Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003 cho các điều tra viên trong toàn tỉnh, cử cán bộ, chiến sỹ tham dự các
lớp đại học do Học viện An ninh nhân dân, Học viện Cảnh sát nhân dân và các trường
trung học an ninh tổ chức... Về công tác tổ chức, dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng,
lực lượng công an tỉnh đã thực hiện việc sắp xếp tổ chức bộ máy một cách khoa học
theo hướng đơn giản và hiệu quả, hiệu lực; tiến hành xây dựng qui chế phối hợp hoạt
động giữa cơ quan điều tra với các lực lượng khác có liên quan trong công an tỉnh (cảnh
sát hình sự, kinh tế, phòng chống ma tuý, kỹ thuật hình sự…) và sự phối hợp giữa công
an tỉnh với công an các huyện và thành phố. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc
chấp hành pháp luật, điều lệ công an nhân dân được tăng cường, vì vậy các vụ việc tiêu
cực trong lực lượng công an được nhanh chóng phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm
minh.
Về công tác chuyên môn, nghiệp vụ: Trong những năm vừa qua tình hình an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh vẫn diễn biến hết sức phức tạp. Năm
1997, các cơ quan điều tra đã khởi tố 12 vụ tham nhũng với tổng số tiền thất thoát lên
đến 29,5 tỷ đồng, bắt giữ 6 vụ vận chuyển ma tuý, phát hiện và thu giữ 15 quả lựu đạn,
215 viên đạn, 4 khẩu súng các loại...; năm 1999, toàn tỉnh xảy ra 352 vụ phạm pháp
hình sự, phát hiện và bắt giữ 125 đối tượng... Qua tổng kết 4 năm thực hiện Kế hoạch
16 KH/TU, cơ quan điều tra đã thụ lý 1460 vụ, điều tra làm rõ 934 vụ, bắt giữ 1251 đối
tượng; tạm đình chỉ điều tra 469 vụ; đề nghị truy tố 1902 vụ, 2825 đối tượng [36, tr.3].
Nhìn chung công tác điều tra đạt chất lượng tốt, các vụ án đều có kết luận điều tra, đề
nghị truy tố được thực hiện trong thời gian luật định; các vụ án đình chỉ được thực hiện
theo đúng trình tự và qui định của pháp luật; không có vụ nào oan, sai. Nhằm làm tốt
công tác phát hiện tội phạm, nâng cao chất lượng hoạt động điều tra phục vụ công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm, lực lượng công an tỉnh đã tiến hành tổng kết 10 năm
công tác tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm; tổng kết 12 năm thực hiện Pháp lệnh
điều tra hình sự; tổng kết, rút kinh nghiệm và nhân rộng các điển hình tiên tiến về đấu
tranh, phòng chống tội phạm trên địa bàn tỉnh.
- Tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố.
Về công tác tổ chức - cán bộ: Thực hiện chủ trương cải cách tư pháp và các qui
định pháp luật về tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp đã
được từng bước kiện toàn. Ngành kiểm sát đã sắp xếp lại tổ chức, tiến hành chuyển đội
ngũ cán bộ làm công tác kiểm sát việc chấp hành pháp luật sang làm nhiệm vụ mới phù
hợp với việc thay đổi chức năng của ngành. Tăng cường đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, giải quyết tồn đọng án dân
sự. Để phù hợp với chức năng, nhiệm vụ theo qui định của pháp luật về kiểm sát, Viện
Kiểm sát nhân dân tỉnh đã lập mới 2 phòng là Phòng kiểm sát giam giữ, cải tạo và
Phòng kiểm sát thi hành án; sáp nhập 4 phòng nghiệp vụ là Kiểm sát điều tra án trị an -
an ninh, Kiểm sát điều tra án kinh tế, Kiểm sát giải quyết khiếu tố và phòng Tổ chức -
cán bộ thành 2 phòng nghiệp vụ là Phòng thực hành quyền công tố - kiểm sát điều tra và
xét xử sơ thẩm hình sự và Phòng tổ chức - cán bộ, khiếu tố. Nhằm kiện toàn đội ngũ cán
bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, Viện đã phối hợp với tỉnh uỷ, Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao tiến hành bổ nhiệm 01 Viện trưởng, 01 Phó Viện trưởng, 02 trưởng phòng, 04
phó trưởng phòng của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh; 04 Viện trưởng và 08 Phó Viện
trưởng Viện Kiểm sát nhân dân huyện, thành phố. Thường xuyên thực hiện việc rà soát
đội ngũ cán bộ; xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cả về chuyên môn và
chính trị; để tăng cường lực lượng cán bộ, ngành kiểm sát đã tuyển dụng mới 24 cán bộ,
thực hiện điều động, luân chuyển 27 cán bộ, kiểm sát viên. Có thể nói rằng, cho đến nay
tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ của ngành kiểm sát tỉnh Bắc Ninh về cơ bản đã đi vào
ổn định, đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới.
Về công tác chuyên môn, nghiệp vụ: Viện Kiểm sát nhân dân đã thực hiện tốt
chức năng thực hiện quyền công tố và kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động
tư pháp. Hoạt động công tố được thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả trong tố tụng,
đảm bảo việc điều tra, truy tố và xét xử theo đúng qui định pháp luật, không để xảy ra
oan, sai và bỏ lọt tội phạm. Ngành đã chú trọng đẩy mạnh hoạt động kiểm sát điều tra
ngay từ đầu, thực hiện việc nâng cao chất lượng hoạt động kiểm sát điều tra nên chất
lượng điều tra ngày càng tốt hơn, biểu hiện qua việc số lượng hồ sơ phải trả lại cơ quan
điều tra để điều tra bổ sung ngày càng giảm, từ 33 vụ năm 2002, xuống 21 vụ năm
2003, 19 vụ năm 2004 và năm 2005 chỉ còn 3 vụ. Bên cạnh đó, ngành cũng đã thực hiện
tốt công tác hồ sơ nên tỷ lệ hồ sơ từ Toà án chuyển sang yêu cầu khởi tố bổ sung, hoàn
thiện hồ sơ cũng giảm, từ 16 vụ năm 2002 xuống còn 15 vụ năm 2003 và năm 2005 chỉ
còn 3 vụ; án đình chỉ điều tra cũng giảm từ 11 vụ năm 2001 xuống còn 6 vụ năm 2002,
9 vụ năm 2003 và chỉ còn 3 vụ vào năm 2005. Viện Kiểm sát các cấp cũng đã trực tiếp
khởi tố 01 vụ với 03 bị can, yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố 03 vụ với 02 bị can; huỷ
quyết định khởi tố của cơ quan điều tra với 13 bị can, yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố
bổ sung 14 bị can và đề nghị thay đổi 01 điều tra viên. Trong giai đoạn từ năm 2002 đến
năm 2005, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp đã khởi tố hình sự 1991 người, xử lý hành
chính 16 người, từ chối phê chuẩn 13 lệnh tạm giam của cơ quan điều tra; riêng năm
2006, ngành kiểm sát đã khởi tố 183 vụ, 364 bị can với các tội danh xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự người khác, khởi tố 92 vụ, 97 bị can phạm tội về
ma tuý. Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, hành chính, kinh tế, lao
động đã có những chuyển biến rõ nét, các chỉ tiêu về kiểm sát thụ lý, lập hồ sơ, kháng
nghị, tham gia phiên toà đã được cải tiến; chất lượng kháng nghị ngày càng được nâng
cao, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp đã kháng nghị phúc thẩm 18 vụ, trong đó, Toà án
xét xử 15 vụ, chấp nhận kháng nghị 10 vụ, không chấp nhận kháng nghị 5 vụ, Viện rút
kháng nghị 3 vụ [36, tr.4].
Nhằm đẩy mạnh công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ và cải tạo, Viện Kiểm sát
nhân dân các cấp đã thực hiện tốt chế độ kiểm tra, giám sát thường xuyên và định kỳ
đối với hệ thống nhà tạm giam, nhằm đảm bảo việc bắt và giam giữ người của các cơ
quan có thẩm quyền theo đúng các qui định của pháp luật; đảm bảo sự tôn trọng danh
dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền trong tố tụng của người bị giam giữ; phát hiện và
xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong giam giữ.
Nhằm tăng cường hơn nữa chất lượng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và
kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp,
Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh đã phối hợp với các cơ quan tư pháp khác cùng với Nội
chính tỉnh uỷ và Mặt trận tổ quốc tỉnh thực hiện kiểm tra, rà soát và phân loại các khiếu
nại, tố cáo của công dân về hoạt động tư pháp. Hoạt động này đã góp phần giải quyết
một cách dứt điểm và đồng bộ những khiếu nại của người dân về hoạt động tư pháp,
không có trường hợp nào chậm trễ, gây bất bình trong dư luận, chính vì vậy toàn tỉnh
chưa xảy ra trường hợp nào phải bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có
thẩm quyền của cơ quan hoạt động tố tụng hình sự gây ra.
- Tổ chức và hoạt động của cơ quan xét xử.
Về công tác tổ chức - cán bộ: Thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, trong đó có
việc sắp xếp lại tổ chức của hệ thống Toà án nhân dân, Toà án nhân dân tỉnh đã phối
hợp với Sở Tư pháp triển khai thực hiện việc nhận bàn giao nhiệm vụ quản lý Toà án
cấp huyện về tổ chức theo đúng hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp;
thực hiện việc kiện toàn tổ chức các toà chuyên trách, các phòng theo qui định của Luật
Tổ chức Toà án nhân dân (sửa đổi). Hiện nay, Toà án nhân dân tỉnh có 43 cán bộ, trong
đó có 15 thẩm phán, 33/43 người có trình độ cử nhân luật trở lên, 15 % có trình độ cao
cấp chính trị; Toà án cấp huyện có 82 cán bộ, trong đó có 35 thẩm phán, 73 cán bộ có
trình độ cử nhân luật trở lên và 09 cán bộ có trình độ trung cấp luật. Để tăng cường hơn
nữa năng lực xét xử, Toà án nhân dân tỉnh thường xuyên tiến hành việc rà soát, sắp xếp
lại đội ngũ cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu công tác; tổ chức đào tạo cho tất cả thẩm phán
và thư ký toà theo qui định, mở các lớp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho hội thẩm
nhân dân như lớp tập huấn kỹ năng xét xử, cung cấp xử lý tài liệu, cập nhật văn bản
pháp luật mới... Đã thực hiện việc bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo các toà chuyên
trách như chánh toà hình sự, chánh toà hành chính, chánh văn phòng và phó chánh văn
phòng Toà án nhân dân tỉnh; làm các thủ tục trình Toà án nhân dân tối cao tái bổ nhiệm
06 thẩm phán cho toà cấp tỉnh, bổ nhiệm mới 06 thẩm phán cho các Toà án nhân dân
cấp huyện nhiệm kỳ 2003-2008. Công tác cán bộ có những bước chuyển biến tích cực
theo hướng đề cao trách nhiệm cá nhân của thẩm phán, hội thẩm nhân dân và thư ký
toà; việc đánh giá, sắp xếp cán bộ đã gắn với việc hoàn thành các nhiệm vụ chuyên môn
được giao.
Về công tác xét xử: Giai đoạn 2002-2006, ngành Toà án tỉnh Bắc Ninh đã xét xử
2.344 vụ án hình sự, trong đó có 06 vụ tham nhũng, 44 vụ án kinh tế; Toà án nhân dân
tối cao đã xử phúc thẩm 186 vụ án hình sự của Toà án nhân dân tỉnh, trong đó đã y án
139 vụ, sửa án 45 vụ; Toà án nhân dân tỉnh đã xét xử phúc thẩm 330 bị cáo, y án 223 bị
cáo, sửa án cho 98 bị cáo, huỷ án cho 09 bị cáo. Nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng
công tác xét xử, ngành Toà án phối hợp chặt chẽ với các ngành công an và kiểm sát xác
định 108 vụ án trọng điểm và kịp thời điều tra, truy tố, xét xử, đảm bảo đúng người,
đúng tội và kịp thời. Để tăng cường việc giáo dục, tuyên truyền pháp luật, răn đe các đối
tượng phạm tội, trong giai đoạn 2002-2006, ngành Toà án đã xét xử 57 vụ án hình sự
điển hình về ma tuý, giết người, cố ý gây thương tích [36, tr.5]... Toà án nhân dân tỉnh
và Toà án cấp huyện đã tổ chức các phiên toà theo đúng tinh thần Nghị quyết 08-
NQ/TW của Bộ Chính trị, chất lượng xét xử các vụ án, thực hiện đúng các qui định về
thủ tục tố tụng và thời hạn xét xử; nhìn chung các vụ án về hình sự, dân sự, kinh tế và
lao động đã được đưa ra xét xử kịp thời, đúng thời hạn luật định. Chất lượng tranh tụng
tại các phiên toà, trong các phiên toà hình sự đã có được sự phối hợp khá tốt với Viện
Kiểm sát; quyền và nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng cũng như người tiến hành tố
tụng được đảm bảo theo các qui định của pháp luật, quyền bào chữa của luật sư, bị cáo
được tôn trọng. Những phán quyết của Hội đồng xét xử đưa ra có tính chính xác cao,
đúng người, đúng tội; các phán quyết này được đưa ra trên cơ sở tranh tụng tại phiên
toà, do đó tình trạng oan sai, bỏ lọt người, lọt tội về cơ bản đã được khắc phục; tỷ lệ các
bản án của Toà án hai cấp bị huỷ, sửa đã giảm, số các vụ án bị kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm cũng ít so với trước khi cải cách tư pháp.
- Tổ chức và hoạt động của Sở Tư pháp và các phòng Tư pháp cấp huyện.
Về công tác tổ chức - cán bộ: Sau khi tiến hành bàn giao nhiệm vụ quản lý Toà
án cấp huyện cho Toà án nhân dân tỉnh, Sở đã triển khai củng cố tổ chức bộ máy theo
Nghị định số 62/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ thông qua việc tiến hành
xây dựng đề án tinh giảm biên chế; sáp nhập một số phòng chuyên môn trên cơ sở qui
định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng phòng; tham mưu cho UBND tỉnh kiện toàn Ban
chỉ đạo thi hành án dân sự các cấp; sắp xếp lại tổ chức và hoạt động của các cơ quan
giám định tư pháp, Đoàn luật sư theo qui định pháp luật... Để nâng cao hơn nữa năng
lực của đội ngũ cán bộ, ngành đã tiến hành kiện toàn đội ngũ lãnh đạo sở và các phòng
ban; thực hiện việc rà soát và đánh giá, xây dựng phương án kiện toàn, bố trí lại đội ngũ
cán bộ, công chức phù hợp với yêu cầu công tác đến năm 2010. Nhìn chung hiện nay,
hệ thống cơ quan tư pháp từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở đã tương đối hoàn chỉnh, ổn định,
cấp huyện có Phòng Tư pháp, cấp cơ sở có Ban Tư pháp với chức năng, nhiệm vụ rõ
ràng, đáp ứng được các yêu cầu đặt ra.
Về hoạt động chuyên môn: Nhằm đẩy mạnh hoạt động thi hành án dân sự, Sở Tư
pháp đã thực hiện việc tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn 1995-2005; đưa
các cơ quan thi hành án dân sự vào hoạt động theo qui định của Chính phủ. Kết quả thi
hành án giai đoạn 2002-2006 cho thấy ngành tư pháp đã có những chuyển biến tích cực,
thu hồi nộp ngân sách nhà nước và hoàn trả cho người được thi hành án đúng qui định;
năm 2002 tỷ lệ thi hành án về việc đạt 58,6%, về tiền 81% (vượt chỉ tiêu của Bộ Tư
pháp đưa ra về tiền là 31% và về việc là 8,6%), năm 2003 tỷ lệ này là 80% và 84,7%,
năm 2004 tỷ lệ này là 79,0% và 89,4%, năm 2005 là 84,9% và 89,7% (vượt 39,4% về
việc và 37,9% về tiền theo qui định của Bộ Tư pháp) [36, tr.6]. ở cấp cơ sở, một số xã,
phường đã làm tốt việc thi hành các bản án có mức tiền phải thi hành không quá
500.000 đồng, một số xã thi hành xong 100% số lượng án đã nhận bàn giao.
Công tác phổ biến, giáo dục, tuyên truyền pháp luật và hoạt động bổ trợ tư
pháp đã được quan tâm đúng mức và đẩy mạnh thông qua việc mở các lớp tập huấn
văn bản pháp luật mới ban hành; tuyên truyền qua hệ thống truyền thông của tỉnh và
các địa phương (hệ thống cơ quan báo chí, truyền thông, các trang tin điện tử của
tỉnh và huyện, hệ thống phát thanh ở cấp cơ sở); tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý;
đầu tư và khai thác có hiệu quả tủ sách pháp luật tại xã, phường, thị trấn; tổ chức các
cuộc thi như: thi tìm hiểu pháp luật, thi hoà giải viên giỏi... Giai đoạn 2002-2005,
Đoàn luật sư tỉnh Bắc Ninh đã nhận bào chữa cho các bị can, bị cáo, bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp cho các đương sự trong 1.247 vụ việc; trong đó có 572 vụ hình sự,
655 vụ dân sự, 12 vụ hành chính và 188 vụ tranh chấp đất đai [36, tr.6]. Theo qui
định của pháp luật hiện nay ở Bắc Ninh có 3 tổ chức có chức năng giám định tư pháp
là Giám định pháp y, Giám định pháp y tâm thần, Giám định kỹ thuật hình sự - pháp
y; với tổng số 16 giám định viên, giai đoạn 2002-2006, các tổ chức giám định tư
pháp đã giám định được 2.347 vụ việc, góp phần cùng với các cơ quan tố tụng điều
tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
2.1.2.2. Một số hạn chế, tồn tại
Từ khi thực hiện chủ trương cải cách tư pháp theo Nghị quyết 08 - NQ/TW của
Bộ Chính trị, ngành tư pháp tỉnh Bắc Ninh đã thu được những thành tựu hết sức quan
trọng, song bên cạnh đó vẫn còn một số điểm tồn tại, hạn chế sau đây:
- Tỡnh trạng một số ớt trường hợp bắt giữ hỡnh sự nhưng chuyển xử lý hành
chớnh vẫn cũn xẩy ra; cỏc vụ ỏn chưa rừ đối tượng điều tra phá án tỷ lệ chưa cao, cỏ
biệt trong quỏ trỡnh điều tra cú huyện cũn để lọt tội phạm; chất lượng điều tra đó cú
chuyển biển, song ở một số huyện chuyển biến chưa rừ nột. Đỏng chỳ ý vẫn cũn tỡnh
trạng bị can chết trong trại giam, nhà tạm giữ và trốn khỏi nơi giam, giữ.
Trong công tỏc xột xử vẫn cũn tỡnh trạng bản ỏn, quyết định bị sửa, huỷ do lỗi
của Hội đồng xét xử; có trường hợp Viện Kiểm sát truy tố, Toà án xử tuyên không
phạm tội; chất lượng xét xử án dân sự chưa cao.
Chủ trương mở rộng tranh tụng tại các phiên toà là chủ trương đúng đắn, nâng
cao tinh thần trách nhiệm và chất lượng công việc của các cơ quan tư pháp. Tuy nhiên,
việc thực hiện chủ trương "mở rộng tranh tụng" cũn mang tớnh hỡnh thức, chưa đáp
ứng được yêu cầu là "các bản án, phán quyết của Toà án chủ yếu phải dựa trên kết quả
tranh tụng dân chủ tại phiên toà". Nhiều thẩm phán, kiểm sát viên khi thực hiện xét xử,
thực hành quyền công tố tại phiên toà theo "nếp cũ", chưa kịp thời đổi mới tư duy và
phương thức thực hiện để đáp ứng chủ trương này. Bên cạnh đó, một số luật sư trỡnh độ
cũn hạn chế, chưa tương xứng với vị trớ, vai trũ đó được đề cao trong việc tranh tụng tại
phiên toà.
Hiệu quả thi hành án dân sự tuy đạt khá cao, song vẫn tồn đọng nhiều, chủ yếu là
do đối tượng thi hành án không có khả năng thi hành. Phần lớn trong số này là ỏn phớ
và phần thi hành ỏn dõn sự trong hỡnh sự, thường là hỡnh phạt tiền đối với các đối
tượng liên quan đến ma tuý.
- Đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp đa số đó đáp ứng được yêu cầu nhiệm
vụ trước mắt nhưng cũn thiếu về số lượng, nhất là cán bộ làm công tác điều tra (điều tra
viờn); một số trỡnh độ chuyên môn yếu; chậm đổi mới nhận thức, ý thức trỏch nhiệm
chưa cao nên không đáp ứng được yêu cầu thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp;
thậm chí có một số ít cán bộ sa sút về phẩm chất đạo đức, vi phạm phỏp luật bị xử lý
hành chớnh và truy cứu trỏch nhiệm hỡnh sự.
- Cơ sở vật chất và trang thiết bị, phương tiện làm việc của các cơ quan tư phỏp,
nhất là ở cấp huyện vẫn cũn khú khăn, chưa đáp ứng đầy đủ so với yêu cầu của nhiệm
vụ. Một số trụ sở Viện Kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân, đội thi hành án cấp huyện
chưa thực đáp ứng được yờu cầu cụng tỏc, vẫn cũn tỡnh trạng thiếu trụ sở hoặc trụ sở bị dột
nỏt cần được nâng cấp, sửa chữa lại.
- Công tác tuyên truyền và thông tin về cải cách tư phỏp cũn chưa tương xứng
với tầm quan trọng và tính chất của công cuộc cải cách tư phỏp hiện nay. Nhiều hỡnh
thức thụng tin, tuyờn truyền chưa phự hợp, nhiều khi cũn mang tớnh chung chung, chưa
thực sự thuyết phục được đối tượng cần tuyên truyền. Trên thực tế, cải cách tư pháp dù
đó được nhõn dõn và xó hội biết đến song chưa rộng khắp, mới chỉ thực sự tác động
trong cán bộ, cơ quan tư pháp và một bộ phận nhân dân có công việc liên quan đến công
tác tư pháp. Công tác tư pháp chưa được đánh giá và biết đến với tác dụng thúc đẩy cải
cỏch kinh tế, cải cỏch xó hội, làm lành mạnh mụi trường kinh doanh mà dường như chỉ
đơn thuần là công việc của các cơ quan tư pháp. Công tác tư pháp nói chung và cải cách
tư pháp nói riêng, chưa thực sự trở thành công việc chung của toàn xó hội, chưa dành
được sự quan tâm xứng đáng của các cơ quan, tổ chức và nhân dân.
Những hạn chế, tồn tại trên đây bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, có cả nguyên
nhân khách quan và chủ quan.
Về nguyên nhân khách quan: Nghị quyết 08- NQ/TW đề ra nhiều việc, việc nào
cũng bức xúc, phải làm ngay, có những việc đũi hỏi phải cú sự phối hợp của nhiều cơ
quan ban ngành địa phương và trung ương. Thời gian thực hiện Nghị quyết mới được
gần 4 năm chỉ đủ để giải quyết những cụng việc bức xỳc, tỡnh thế; chưa đủ thời gian để
tiến hành những công việc mang tính chiến lược, lâu dài như nâng cao năng lực đội ngũ
cán bộ; bảo đảm đầy đủ về cơ sở vật chất... cho các cơ quan tư pháp. Ngân sách nhà
nước nói chung, trong đó ngân sách dành cho công tác tư pháp và chế độ, chính sách
cho cán bộ tư pháp tuy đó cú sự đầu tư, quan tâm hơn trước song vẫn cũn hạn hẹp so
với yờu cầu của nhiệm vụ.
Về nguyên nhân chủ quan: Sự chuyển biến nhận thức của một số cấp uỷ đảng,
chính quyền địa phương, cơ sở về vị trớ, vai trũ của cỏc cơ quan tư pháp chưa theo kịp
tỡnh hỡnh nờn sự lónh đạo, chỉ đạo và kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức thực hiện Nghị
quyết cũn hạn chế; cũn coi nhẹ cụng tỏc tư pháp, chưa thấy rừ được tác dụng tích cực
của công tác tư pháp đối với sự phỏt triển kinh tế - xó hội của địa phương. Ban chỉ đạo
cải cách tư pháp tỉnh được thành lập tháng 6 năm 2003, chưa có bộ phận chuyên trách
(Tổ thư ký) giỳp việc Ban chỉ đạo; Phũng nội chớnh - Văn phũng tỉnh uỷ giỳp lónh đạo
Văn phũng (thường trực Ban chỉ đạo) theo dừi cụng tỏc cải cách tư pháp nhưng do ít
người, kiờm nhiệm cả cỏc cụng việc của phũng nờn cụng tỏc tham mưu cũng như đôn
đốc, tổng hợp cũn hạn chế. Sự phối hợp giữa cỏc cơ quan tư pháp với nhau và giữa các
cơ quan tư pháp với các cấp uỷ đảng, chính quyền trong một số trường hợp cũn thiếu
chặt chẽ và thống nhất nờn cú những vướng mắc, khó khăn trong quỏ trỡnh thực hiện
Nghị quyết 08-NQ/TW chậm được khắc phục, tháo gỡ nhất là trong việc rà soát, kiểm
tra, đánh giá và bố trí cán bộ tư pháp.
2.2. Sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ trong thực hiện cải cách tư pháp ở tỉnh Bắc
Ninh - Thành tựu và kinh nghiệm
2.2.1. Thực trạng tổ chức của Đảng trực tiếp lãnh đạo cải cách tư pháp ở
tỉnh Bắc Ninh
- Lãnh đạo việc triển khai công tác cải cách tư pháp
Xác định được vai trò, tầm quan trọng của công tác cải cách tư pháp, thực hiện
chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp được đề ra trong Nghị quyết 08- NQ/TW của
Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp trong
thời gian tới”, Chỉ thị số 52- CT/TW ngày 16/3/2000 của Bộ Chính trị “Về phạm vi,
trách nhiệm, quyền hạn giữa cấp uỷ Đảng với Đảng uỷ Công an, Ban cán sự đảng Viện
Kiểm sát nhân dân, Ban cán sự đảng Toà án nhân dân trong công tác bảo vệ Đảng và xử
lý tội phạm liên quan đến cán bộ, đảng viên”, Chỉ thị số 10/2002/CT-TTg của Thủ
tướng Chính phủ..., ngay sau hội nghị triển khai Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính
trị do Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương tổ chức tại Hà Nội vào tháng 4 năm
2002, Tỉnh uỷ đã xây dựng kế hoạch số 16 KH/TU chỉ đạo các huyện uỷ, thị uỷ, đảng
uỷ trực thuộc, ban cán sự Đảng và thủ trưởng các cơ quan tư pháp tỉnh xây dựng
chương trình, kế hoạch thực hiện Nghị quyết 08- NQ/TW cho đơn vị mình, ngành mình.
Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ theo kế hoạch số 16 KH/TU, tính đến hết tháng
7 năm 2002, các cơ quan thuộc khối nội chính và các huyện uỷ, thị uỷ đã xây dựng xong
kế hoạch, chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết 08- NQ/TW của Bộ
Chính trị. Để cụ thể hoá kế hoạch, chương trình hành động của mình theo từng lộ trình
thời gian cụ thể, hằng năm, các ngành công an, Toà án, kiểm sát và tư pháp đều xây
dựng kế hoạch, chương trình hành động cụ thể, xác định nhiệm vụ trọng tâm và triển
khai đến các đơn vị, cán bộ, công chức; gắn việc thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư
pháp với kế hoạch công tác của ngành mình, gắn trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ với
việc đánh giá, nhận xét cán bộ.
Năm 2006, thực hiện Nghị quyết 49- NQ/TW của Bộ Chính trị về “Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020”, Tỉnh uỷ Bắc Ninh đã xây dựng chương trình hành
động số 08- Ctr/TU nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác cải cách tư pháp. Chương trình
hành động của Tỉnh uỷ đã chỉ rõ các cấp uỷ đảng cần: Tổ chức phổ biến, quán triệt Nghị
quyết 49- NQ/TW cho cán bộ chủ chốt và lãnh đạo các ban, ngành cấp tỉnh và cán bộ
chủ chốt huyện thành phố..., các huyện uỷ, thành uỷ cần xây dựng chương trình thực
hiện Nghị quyết 49- NQ/TW; chỉ đạo các ngành tư pháp tỉnh xây dựng chương trình
thực hiện Nghị quyết 49- NQ/TW. Thông qua chương trình hành động này, Tỉnh uỷ
cũng đã chỉ ra mục tiêu, yêu cầu, quan điểm và các nhiệm vụ của cải cách tư pháp ở tỉnh
Bắc Ninh từ nay đến năm 2020.
- Kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết công tác cải cách tư pháp
Sự kiểm tra, giám sát của các cấp uỷ đảng đối với công tác cải cách tư pháp là
hết sức cần thiết, hoạt động này đảm bảo cho việc cải cách tư pháp được thực hiện đúng
định hướng, đúng yêu cầu và tiến độ. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, Ban chỉ đạo cải
cách tư pháp đã thường xuyên thực hiện việc kiểm tra, giám sát, cho ý kiến chỉ đạo đối
với huyện uỷ, các ban cán sự đảng trong khối nội chính. Công tác kiểm tra của các cấp
uỷ đảng đã có tác dụng tốt, góp phần tích cực vào công tác xây dựng Đảng và thực hiện
các nhiệm vụ chính trị của các cơ quan tư pháp. Nhờ làm tốt công tác kiểm tra, giám sát
của các cấp uỷ đảng, những hiện tượng tiêu cực trong ngành tư pháp đã được hạn chế,
tình trạng oan sai trong tố tụng được khắc khục. Qua công tác kiểm tra, giám sát các cấp
uỷ đã kịp thời phát hiện những điển hình tốt, phát hiện kịp thời các sai sót, đúc rút kinh
nghiệm, qua đó giúp cho việc lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp ngày càng
tốt hơn, khắc phục tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo hoặc bao biện, làm thay.
Trong quá trình lãnh đạo công tác cải cách tư pháp, các cấp uỷ đảng luôn gắn
liền với việc tổng kết, rút kinh nghiệm qua đó đưa ra những chỉ đạo kịp thời. Thực hiện
sự chỉ đạo của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương tại văn bản số 01-HD/BCĐ-
CCTP ngày 18 tháng 11 năm 2003 về việc sơ kết 2 năm thực hiện cải cách tư pháp,
ngày 01 tháng 12 năm 2003, Ban chỉ đạo cải cách tư pháp đã có công văn số 668-
CV/BCĐ-CCTP hướng dẫn các huyện uỷ, thị uỷ; đảng uỷ, ban cán sự đảng và lãnh đạo
ngành tư pháp của tỉnh báo cáo kết quả 2 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 08-
NQ/TW ở địa phương, ngành mình, đồng thời, Tỉnh uỷ cũng đã thực hiện việc sơ kết 2
năm (2002-2003) thực hiện Nghị quyết 08- NQ/TW của Bộ Chính trị. Tiếp đó, tháng 5
năm 2006, Tỉnh uỷ đã tổ chức việc tổng kết 4 năm thực hiện Nghị quyết 08- NQ/TW
của Bộ Chính trị nhằm đánh giá quá trình thực hiện chủ trương cải cách tư pháp, qua đó
chỉ ra những khuyết điểm, hạn chế, tồn tại của công tác cải cách tư pháp, rút ra các bài
học kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động này.
- Lãnh đạo công tác tổ chức và xây dựng đội ngũ cán bộ
Công tác tổ chức - cán bộ giữ một vị trí hết sức quan trọng trong xây dựng bộ
máy nhà nước nói chung và trong cải cách tư pháp nói riêng. Xây dựng đội ngũ cán bộ
tư pháp trong sạch, có năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, vững mạnh về tư tưởng, chính
trị, có ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức chính trị, thái độ phục vụ nhân dân tốt luôn là mục
tiêu hàng đầu trong công tác cải cách tư pháp. Nhận thức được tầm quan trọng của công
tác cán bộ trong cải cách tư pháp, Tỉnh uỷ Bắc Ninh đã phối hợp chặt chẽ với Đảng uỷ,
Ban cán sự đảng và lãnh đạo các cơ quan tư pháp Trung ương trong công tác tổ chức và
cán bộ. Tỉnh uỷ đã thành lập Ban chỉ đạo cải cách tư pháp do đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ,
Chủ tịch HĐND tỉnh làm trưởng ban và đồng chí Phó Bí thư thường trực làm phó ban
nhằm giúp Ban thường vụ lãnh đạo công tác cải cách tư pháp. Đảng uỷ, Ban cán sự
đảng, thủ trưởng các ngành nội chính đã tăng cường công tác xây dựng Đảng, quản lý,
kiểm tra các hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên; chăm lo công tác qui hoạch,
đào đạo, luân chuyển và sử dụng cán bộ, thực hiện tốt chính sách cán bộ. Lãnh đạo công
tác nhận xét, phân loại và đánh giá cán bộ, nhất là đối với cán bộ chủ chốt của các cơ
quan tư pháp và cán bộ có các chức danh tư pháp; kiên quyết xử lý nghiêm minh những
cán bộ vi phạm đạo đức nghề nghiệp và pháp luật.
Đối với cơ quan điều tra: Tỉnh uỷ đã lãnh đạo việc sắp xếp lại tổ chức và cán
bộ của cơ quan điều tra theo tinh thần cải cách tư pháp. Theo đó, cơ cấu tổ chức của
Công an tỉnh đã được củng cố thông qua việc thành lập Phòng cảnh sát phòng chống
tội phạm về ma tuý, Phòng cảnh sát 113; kiện toàn lãnh đạo các đơn vị: Thanh tra
Công an tỉnh, Phòng Cảnh sát hình sự, Phòng Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp,
Phòng Cảnh sát giao thông, Phòng An ninh kinh tế, Phòng Hồ sơ, Phòng Kỹ thuật
nghiệp vụ, Phòng Hậu cần; lãnh đạo công an thành phố Bắc Ninh và công an huyện
Từ Sơn. Cùng với việc kiện toàn về tổ chức, công tác cán bộ cũng đã có nhiều
chuyển biến tích cực, dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, công tác luân chuyển
cán bộ, đặc biệt là cán bộ ở các đơn vị chiến đấu được thực hiện một cách thường
xuyên.
Đối với cơ quan xét xử: Tỉnh uỷ đã lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ Toà án mà
trọng tâm là đội ngũ Thẩm phán theo hướng đủ về số lượng, nâng cao tiêu chuẩn chính
trị, phẩm chất đạo đức, chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm công tác; đề cao quyền
hạn trách nhiệm của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Lãnh đạo Toà án nhân dân các
cấp rà soát, lựa chọn, đào tạo và bổ nhiệm Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân theo qui định
của pháp luật.
Đối với cơ quan kiểm sát: Thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, Ban cán sự
Đảng, lãnh đạo Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị
trong ngành quán triệt và thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương,
của Tỉnh uỷ và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Tăng cường công tác quản lý, giáo dục,
rèn luyện đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên về chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực công
tác chuyên môn, ý thức trách nhiệm trong công tác và tổ chức kỷ luật. Nhìn chung đội
ngũ cán bộ trong ngành kiểm sát đã hoàn thành nhiệm vụ được giao, không có cán bộ,
kiểm sát viên nào vi phạm kỷ luật, pháp luật bị xử lý.
Đối với Sở Tư pháp và phòng Tư pháp cấp huyện: Hoàn thiện cơ cấu, tổ chức,
xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp vững mạnh là nhiệm vụ quan trọng của ngành tư pháp.
Trên cơ sở hướng dẫn của Bộ Tư pháp, Tỉnh uỷ Bắc Ninh đã lãnh đạo Sở Tư pháp, các
đảng bộ địa phương tiến hành sắp xếp lại tổ chức của ngành tư pháp. Phối hợp với các
cơ quan liên quan thực hiện việc tuyển chọn, bổ nhiệm, kiện toàn các chức danh tư pháp
đủ tiêu chuẩn và điều kiện theo qui định của Nhà nước; lãnh đạo việc rà soát, kiểm tra,
giám sát, và đào tạo cán bộ, thực hiện việc chuẩn hoá công chức tư pháp các cấp về lý
luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu đủ về số lượng và chất lượng
theo qui định của ngạch công chức.
- Lãnh đạo xét xử các vụ án lớn, phức tạp
Việc lãnh đạo xét xử các vụ án lớn, phức tạp của các cấp uỷ Đảng là vấn đề hết
sức phức tạp, đặc biệt là đối với các vụ án tham nhũng, các vụ án mà bị can, bị cáo là
người có ảnh hưởng lớn trong xã hội. Nhận thức được tính phức tạp và nhạy cảm của
vấn đề, cấp uỷ đảng các cấp đã chỉ đạo sâu sát, kịp thời nên mặc dù có nhiều vụ án phức
tạp nhưng đã được giải quyết một cách dứt điểm, xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật. Trong thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử, nhiều cấp uỷ đảng là chỗ dựa tinh thần
quan trọng để các cơ quan bảo vệ pháp luật chống lại sự bao che, can thiệp làm sai lệch
tính chất vụ án. Sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đều dựa trên cơ sở các qui định của
pháp luật, đảm bảo tính độc lập của tư pháp; thực hiện nghiêm túc chủ trương, chính
sách, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về đấu tranh chống tội phạm.
2.2.2. Kết quả việc triển khai chương trình cải cách tư pháp của Đảng ở tỉnh
Bắc Ninh thông qua hoạt động lãnh đạo của Đảng
Đánh giá kết quả tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp từ khi triển khai
thực hiện Nghị quyết 08- NQ/TW “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới”, ngành tư pháp tỉnh Bắc Ninh đã thu được những thành tựu cơ bản
sau:
Thứ nhất, tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp đã có những thay đổi
tích cực; chức năng nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp được kiện toàn, đã tạo ra sự
chuyển biến tích cực trong nhận thức của các cấp, ban, ngành và trong nhân dân về vai
trò, tầm quan trọng của các cơ quan tư pháp và cải cách tư pháp trong quá trình xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong sự nghiệp đổi mới phát triển kinh tế
của cả nước nói chung và của tỉnh Bắc Ninh nói riêng. Thực hiện chủ trương của Đảng
về cải cách tư pháp, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ Bắc Ninh, tổ chức bộ máy của các cơ
quan tư pháp đã từng bước được kiện toàn. Cụ thể, Tỉnh uỷ đã lãnh đạo thành công việc
sắp xếp lại bộ máy của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh và các Viện Kiểm sát cấp huyện;
theo đó, các cơ quan kiểm sát đã được thay đổi, điều chỉnh tổ chức bộ máy và chức
năng nhiệm vụ, chỉ tập trung vào việc thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp. Cơ quan điều tra đã được sắp xếp lại các đầu mối, hoạt động điều tra được gắn
liền với hoạt động trinh sát, tạo ra sự kết hợp một cách liên hoàn giữ các đầu mối trong
cơ quan điều tra. Thẩm quyền xét xử của các Toà án đã được mở rộng, Tỉnh uỷ đã lãnh
đạo tốt việc tổ chức các phiên toà theo tinh thần cải cách tư pháp, tỷ lệ án oan sai, tỷ lệ
án bị kháng nghị xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đã giảm đáng kể. Công tác
thi hành án đã cải tiến đáng kể, đặc biệt là trong lĩnh vực thi hành án hình sự; công tác
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đã đi vào chiều sâu và có nhiều chuyển biến
tích cực. Kể từ khi thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, các cơ quan tư pháp đã góp
phần không nhỏ vào việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Thứ hai, chất lượng công tác tư pháp ở các khâu điều tra, truy tố, xét xử, bắt,
giam, giữ, thi hành án và các hoạt động bổ trợ tư pháp đã có bước chuyển biến rõ nét.
Công tác bắt, giam giữ đã được xem xét, kiểm tra thường xuyên từ cấp tỉnh đến cơ sở,
đã từng bước khắc phục tình trạng lạm dụng bắt khẩn cấp, hình sự hoá các quan hệ kinh
tế, dân sự; không để xảy ra việc bắt oan, sai. Tỷ lệ bắt, giam, giữ và đưa ra truy tố hình
sự cao; công tác kiểm sát được triển khai toàn diện và sâu rộng, nhất là đối với việc bắt,
giam, giữ; công tác xét xử được xem xét một cách nghiêm túc, đảm bảo sự công minh,
tính công khai trong tranh tụng, xét xử đúng người, đúng đúng tội, đúng pháp luật.
Công tác phối hợp giải quyết các vụ án trọng điểm và đấu tranh chống tội phạm đã được
đẩy nhanh tiến độ, một số vụ án nghiêm trọng đã được điều tra, xét xử nghiêm, bước
đầu đã thu được những thành quả đáng khích lệ, tạo được niềm tin trong nhân dân.
Thứ ba, thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, hệ thống các cơ quan tư pháp từ
tỉnh đến cơ sở đã được củng cố, kiện toàn cả về tổ chức bộ máy lẫn công tác cán bộ.
Một số cơ quan tư pháp đã được điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ cho phù hợp với Hiến
pháp 1992 (sửa đổi), Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi), Luật Tổ chức Toà
án nhân dân (sửa đổi). Công tác cán bộ trong ngành tư pháp đã được đẩy mạnh, thông
qua việc rà soát, sắp xếp, phân loại cán bộ, trên cơ sở đó ngành đã có kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới. Công tác kiểm tra, phân loại,
giải quyết các khiếu kiện về tư pháp đã được triển khai đồng loạt ở các cơ quan tư pháp
từ cấp tỉnh đến cơ sở, do đó đã giải quyết kịp thời và hạn chế được những khiếu nại
trong hoạt động tư pháp.
Đội ngũ cán bộ tư pháp đã có bước phát triển, trưởng thành, trước kia, đội ngũ
cán bộ tư pháp còn nhiều hạn chế, nhất là về năng lực, nghiệp vụ; phần lớn là những
người chuyển ngành từ nhiều cơ quan khác nhau chưa được đào tạo về pháp luật,
nghiệp vụ tư pháp, thiếu kinh nghiệm thực tiễn. Dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng,
ban ngành, hiện nay, đội ngũ cán bộ tư pháp đã được đào tạo với nhiều hình thức; tại
chức, chuyên tu, chính qui, tập huấn nghiệp vụ... Nhìn chung, dưới sự lãnh đạo của các
cấp uỷ đảng về công tác cán bộ trong thời gian vừa qua, đội ngũ cán bộ tư pháp ở tỉnh
Bắc Ninh phần lớn đã đáp ứng được những đòi hỏi về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,
trình độ lý luận chính trị, có phẩm chất đạo đức và có khả năng hoàn thành nhiệm vụ
được giao.
Thứ tư, các cơ quan tư pháp góp phần vào việc giữ gìn an ninh trật tự, thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội. Mặc dù trong những năm vừa qua, trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh tình hình tội phạm diễn biến rất phức tạp, song với sự vững mạnh của mình cơ
quan tư pháp đã góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn an ninh - trật tự trên địa bàn tỉnh,
đây là điều kiện hết sức quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Có thể nói
rằng, sự trưởng thành và phát triển của các cơ quan tư pháp đã góp phần không nhỏ vào
việc phát triển kinh tế - xã hội, chính nền kinh tế thị trường đã tạo ra điều kiện và yêu
cầu phải thúc đẩy cải cách tư pháp, đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó
quan trọng nhất là pháp luật về kinh tế, thương mại, dân sự... Nhận thức được vấn đề
này, trong phạm vi và chức năng của mình, Tỉnh uỷ Bắc Ninh đã có nhiều chủ trương,
giải pháp quan trọng thúc đẩy tiến trình cải cách các cơ quan tư pháp. Thông qua cải
cách tư pháp, các cơ quan tư pháp từng bước được kiện toàn, hoạt động dân chủ, hiệu
lực và hiệu quả, chính điều này đã tạo ra những hiệu ứng tích cực, quan trọng thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh trong những năm vừa qua.
2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế từ sự lãnh đạo của Đảng về cải cách
tư pháp ở tỉnh Bắc Ninh
2.2.3.1. Nhận thức, quan niệm về công tác tư pháp chưa đầy đủ, đúng đắn
Thực hiện các nghị quyết của Đảng về xây dựng Nhà nước, nhất là Nghị quyết
08-NQ/TW của Bộ Chính trị nêu trên, thời gian qua, công tác tư pháp đã có một số
thành tựu, kết quả như đã đề cập. Tuy nhiên cải cách tư pháp vẫn chưa đáp ứng yêu cầu
của công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước. Một trong những nguyên nhân của tình hình
đó là do chưa có nhận thức đầy đủ, đúng mức về vị trí, vai trò của công tác tư pháp nói
chung và của các cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp nói riêng.
Một số cấp uỷ, chính quyền địa phương chưa thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo
công tác tư pháp; chưa gắn kết chặt chẽ được quản lý kinh tế, xã hội với phòng chống vi
phạm, tội phạm, ngăn ngừa tham nhũng, lãng phí. Có cán bộ lãnh đạo vẫn còn cho rằng
việc xử lý một số vụ án cụ thể của các cơ quan tư pháp là cản trở sản xuất, kinh doanh,
là “hình thức hoá” các tranh chấp dân sự, kinh tế. So với các cơ quan tư pháp thì sự
quan tâm của cấp uỷ, chính quyền đối với các cơ quan bổ trợ tư pháp còn hạn chế hơn
nhiều. Điều đó cũng là nguyên nhân của tình trạng hẫng hụt cán bộ lãnh đạo, thiếu
nguồn bổ sung cán bộ; cơ sở làm việc, kinh phí thiếu thốn của nhiều cơ quan tư pháp,
bổ trợ tư pháp hiện nay.
Nhận thức chưa đúng về các cơ quan tư pháp hiện nay còn thể hiện qua việc một số
cán bộ lãnh đạo còn có ý kiến can thiệp vào công việc cụ thể, thậm chí cản trở việc xử lý
một số vụ án của cơ quan điều tra, kiểm sát, Toà án, thi hành án. Một số cán bộ, công chức
thiếu sự hợp tác, không quan tâm giúp đỡ các cơ quan tư pháp, cơ quan bổ trợ tư pháp thực
thi nhiệm vụ của mình, nhất là cung cấp tài liệu, tiến hành giám định, phối hợp tổ chức
cưỡng chế thi hành án.
2.2.3.2. Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức của một số cơ quan tư pháp chưa được
xác định phù hợp, rõ ràng, thống nhất
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã có sự điều chỉnh bước đầu về chức năng,
nhiệm vụ, tổ chức của một số cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, về chức năng, nhiệm vụ, tổ
chức và mối quan hệ giữa các cơ quan tư pháp với nhau, giữa các cơ quan tư pháp với
các cơ quan Nhà nước khác còn nhiều vấn đề chưa được điều chỉnh hoặc quy định thật
cụ thể, rõ ràng, thống nhất, đây là một trong những nguyên nhân làm giảm sút hiệu quả
lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp.
Trước tiên là về chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân. Hiến pháp 1992 sửa đổi
và Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân xác định chức năng của Viện Kiểm sát là thực
hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Từ nhiều năm nay, kiểm sát xét xử
của Toà án và thi hành các bản án, quyết định của Toà án có vấn đề chưa đúng với vị trí
của Viện Kiểm sát nhân dân và không phù hợp với điều kiện hiện nay. Liên quan đến
Viện Kiểm sát, thì mối quan hệ giữa Viện Kiểm sát và cơ quan điều tra cũng còn có vấn
đề phải nghiên cứu, xác định cho phù hợp. Viện Kiểm sát chỉ đạo cơ quan điều tra.
Nhưng thực tế vai trò của Viện Kiểm sát đối với cơ quan điều tra còn hạn chế. Điều đó
vừa do khả năng của kiểm sát viên, vừa do Viện Kiểm sát không đủ điều kiện về tổ
chức để chỉ đạo.
Một trong những nguyên nhân của việc kém hiệu quả trong công tác thi hành án
hiện nay là sự phân tán, thiếu thống nhất trong tổ chức cơ quan thi hành án. Nhiều bản
án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng không được thi hành, chậm thi
hành hoặc thi hành không đạt được mục đích là do thiếu sự phối hợp, hợp tác của các cơ
quan có trách nhiệm. Từ năm 1997, Ban chấp hành Trung ương (khoá VIII) đã định
hướng về chuẩn bị điều kiện để giao cho một cơ quan quản lý tập trung thống nhất công
tác quản lý thi hành án. Tuy nhiên cho đến nay điều đó chưa triển khai thực hiện được.
2.2.3.3. Đội ngũ cán bộ tư pháp chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
Mặc dù được quan tâm xây dựng, kiện toàn và đã đạt được nhiều kết quả trong
công tác, nhưng nhìn chung cán bộ tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu của Đảng, Nhà
nước và nhân dân.
Sự bất cập đầu tiên của đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu về số lượng. Trong điều
kiện kinh tế thị trường, tội phạm, tranh chấp trong xã hội tăng và phức tạp hơn. Do vậy
công việc của các cơ quan tư pháp ngày càng khó khăn và nặng nề hơn. Số vụ việc mà
chấp hành viên phải giải quyết trong mấy năm gần đây cũng tăng nhiều. Bình quân một
chấp hành viên một năm phải giải quyết từ 200 đến 300 vụ; thậm chí có nơi chấp hành
viên phải giải quyết trên 1000 vụ việc.
Số lượng cán bộ tư pháp thiếu như vậy, nhưng ở một số nơi tuyển dụng cán bộ
cho cơ quan điều tra, viện kiểm sát, Toà án, cơ quan thi hành án cũng gặp khó khăn về
nguồn. Một số Toà án, Viện Kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự chưa đủ cán bộ theo
biên chế, nhưng cũng không dễ tiếp nhận một sinh viên tốt nghiệp đại học luật chính
quy vào làm việc. Những quy định về thâm niên công tác hoặc yêu cầu về đào tạo nghề
nghiệp làm cho nhiều Toà án cấp huyện, cấp tỉnh chưa có cán bộ đủ tiêu chuẩn để bổ
nhiệm chức danh tư pháp. Điểm hạn chế lớn nhất của đội ngũ cán bộ tư pháp là trình độ,
năng lực còn yếu. Điều đó do công tác tuyển dụng, bố trí cán bộ trước đây và công tác
đào tạo, bồi dưỡng hiện nay.
Sự cập nhật không thường xuyên, đầy đủ, có hệ thống những thông tin, kiến thức
về kinh tế, xã hội cũng dẫn đến sự lúng túng, khó khăn của cán bộ tư pháp trong việc
điều tra, truy tố, xét xử một số vụ án hình sự và giải quyết một số vụ án dân sự, kinh tế.
Nhiều vụ án xử lý kéo dài, xét xử nhiều lần với những quyết định trái ngược nhau là do
nhận thức của điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán chưa thống nhất, vừa do thiếu
hiểu biết của cán bộ tư pháp về những lĩnh vực có liên quan.
Những hạn chế, bất cập, yếu kém về tổ chức và cán bộ của các cơ quan tư pháp
nêu trên là một trong những nguyên nhân làm hạn chế chất lượng hoạt động của các cơ
quan đó, đặc biệt là đối với cơ quan thi hành án. Một trong những nguyên nhân của tình
trạng tồn đọng không thi hành được một số lượng lớn bản án, quyết định của Toà án
hiện nay là sự bất hợp lý của một số bản án. Có một số bản án dân sự khi hội đồng xét
xử tuyên thì đã thấy sự bất khả thi. Tính thiếu rõ ràng, không sát thực tiễn của một số
bản án đã làm cho việc thi hành bản án đó là không thể được hoặc rất khó khăn.
Do nhiều nguyên nhân nên hiện nay ở nước ta còn rất nhiều bản án, quyết định
dân sự chưa thi hành được. Điều đó dẫn đến sự bức xúc, căng thẳng trong xã hội, hạn
chế phát triển kinh tế, tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức. Có
thể nói thi hành án dân sự là khâu yếu nhất trong công tác tư pháp hiện nay. Chất lượng
hạn chế của công tác thi hành án dân sự làm giảm hiệu lực của Toà án, giảm lòng tin
của cá nhân, tổ chức đối với các cơ quan tư pháp. Không những cá nhân, tổ chức trong
nước mà nhiều nhà đầu tư, tổ chức nước ngoài đều chú ý đến tình hình thi hành các bản
án, quyết định dân sự của Toà án, trọng tài Việt Nam và Toà án, trọng tài nước ngoài tại
nước ta. Sự hạn chế trong thi hành án dân sự của nước ta hiện nay là mối quan tâm của
họ trong việc quyết định đầu tư hoặc hợp tác kinh doanh với các doanh nghiệp Việt
Nam.
Chương 3 QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG THỰC HIỆN CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở TỈNH BẮC NINH
3.1. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG
THỰC HIỆN CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở NƯỚC TA NÓI CHUNG VÀ Ở TỈNH BẮC
NINH NÓI RIÊNG
Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị đó xỏc định: "Đảng lónh đạo các cơ
quan tư pháp chặt chẽ về chính trị, tổ chức và cán bộ, bảo đảm cho hoạt động tư
pháp thực hiện đúng quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tiếp tục hoàn
thiện nội dung, phương thức lónh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp, khắc phục
tỡnh trạng cấp ủy buụng lỏng lónh đạo hoặc cấp ủy viên can thiệp không đúng vào
hoạt động tư pháp". Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá X ra
Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 30/7/2007 về tiếp tục đổi mới phương thức lónh đạo
của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị, xác định mục tiêu: "Tiếp tục đổi
mới phương thức lónh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị nhằm giữ vững và tăng
cường vai trũ lónh đạo, nâng cao tính khoa học, năng lực và hiệu quả lónh đạo của Đảng
đối với nhà nước" [10, tr.113]. Do đó, đổi mới sự lónh đạo của Đảng đối với cải cách tư
pháp cần phải quán triệt và thấm nhuần cũng như vận dụng các quan điểm chỉ đạo sau đây:
Một là, "đổi mới phương thức lónh đạo của Đảng trong thực hiện cải cách tư
pháp phải được đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi mới chỉnh đốn Đảng, tiến hành đồng bộ
đối với các mặt của công tác xây dựng Đảng với đổi mới tổ chức hoạt động của cả hệ
thống chính trị, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức viên chức; đồng bộ với
đổi mới kinh tế, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, thích ứng với
những đũi hỏi của quá trỡnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước".
Hai là, đổi mới phương thức lónh đạo của Đảng trong thực hiện cải cách tư pháp
"phải trên cơ sở kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ; thực hành dân chủ rộng rói trong Đảng và trong xó hội,
đẩy mạnh phân cấp, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân nhất là người đứng đầu".
Ba là, đổi mới phương thức lónh đạo của Đảng trong thực hiện cải cách tư pháp
"là công việc hệ trọng, đũi hỏi phải chủ động tích cực, có quyết tâm chính trị cao, đồng
thời cần thận trọng, có bước đi vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm".
Bốn là, đổi mới phương thức lónh đạo của Đảng trong thực hiện cải cách tư pháp
ở mỗi ngành, mỗi cấp phải quán triệt nguyên tắc chung, vừa phải phù hợp với đặc điểm,
yêu cầu, nhiệm vụ lónh đạo của từng cấp, từng ngành.
Năm là, đổi mới sự lónh đạo của Đảng đối với cải cách tư phỏp gắn liền với sự
lónh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa của dõn, do dõn, vỡ dõn.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hũa ra đời. Một nền tư pháp kiểu mới - nền tư pháp nhân dân đó từng bước
được thiết lập. Hơn sáu thập kỷ qua, các cơ quan tư pháp đó vượt qua nhiều khó khăn,
thử thách, nỗ lực phấn đấu để hoàn thành trọng trách mà Đảng và nhân dân giao phó, đó
đóng góp không nhỏ vào thắng lợi chung của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xó hội chủ nghĩa, gúp phần thực hiện mục tiờu dõn giàu, nước mạnh, xó hội
cụng bằng, dõn chủ, văn minh.
Trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, yêu
cầu khách quan đặt ra là Đảng phải đổi mới sự lónh đạo đối với cải cách bộ máy nhà
nước, điều chỉnh phạm vi nội dung và phương thức hoạt động của Nhà nước cho phù
hợp. Nguyên tắc quản lý nhà nước, quản lý xó hội bằng phỏp luật, tăng cường pháp chế
xó hội chủ nghĩa phải được đề cao hơn bao giờ hết. Trong cải cách bộ máy nhà nước,
cải cách tư pháp có vị trí rất quan trọng. Bởi vỡ, cỏc cơ quan tư pháp là công cụ quan
trọng của Đảng và Nhà nước để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ nhân
dân, các quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng của người dân, bảo đảm kỷ cương xó
hội. Từ khi công cuộc đổi mới bắt đầu, thực hiện chủ trương cải cách bộ máy nhà nước,
các cấp uỷ đảng luôn coi trọng đổi mới sự lónh đạo đối với các cơ quan tư pháp nhằm
xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, từng bước nâng
cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân. Nhờ đó, các cơ quan tư pháp đó luụn luụn
đứng ở tuyến đầu của nhiệm vụ bảo vệ pháp chế và trật tự pháp luật xó hội chủ nghĩa,
đấu tranh có hiệu quả với tội phạm và các vi phạm pháp luật, giải quyết nhanh chóng,
kịp thời và đúng pháp luật các tranh chấp nảy sinh trong các lĩnh vực của đời sống xó
hội, gúp phần ổn định xó hội, phỏt triển kinh tế, phỏt huy tớnh chủ động, sáng tạo của
mọi tầng lớp nhân dân trong quá trỡnh đổi mới. Có thể nói, quyền lực tư pháp đó được
thực hiện có hiệu quả với sự đóng góp lớn lao của toàn bộ hệ thống tư pháp.
Sáu là, đổi mới sự lónh đạo của Đảng đối với cải cách tư pháp một cách toàn
diện, đồng bộ, kịp thời phù hợp với yêu cầu bảo vệ pháp luật, tăng cường pháp chế xó
hội chủ nghĩa.
Để hoạt động của các cơ quan tư pháp đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống,
Đảng ta đó cú nhiều nghị quyết về vấn đề này như: Nghị quyết Trung ương 8 (khóa
VII), Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII). Xây dựng nhà
nước pháp quyền dưới sự lónh đạo của Đảng, càng đề cao Hiến pháp và pháp luật, pháp
chế trong tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước và trong đời sống xó hội. Nhà nước
pháp quyền là nhà nước được tổ chức và quản lý theo phỏp luật và đề cao các giá trị
nhân văn, tôn trọng và bảo đảm quyền của con người, quyền công dân. Do đó, nhiệm vụ
cấp bách hàng đầu hiện nay là phải tiếp tục sự lónh đạo của các cấp uỷ đảng trong việc
đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật nghiêm minh. "Cải cách tổ
chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp" là một trong những
đũi hỏi bức xỳc hiện nay, là một đũi hỏi tự thõn của nền cụng lý và dõn chủ xó hội chủ
nghĩa dưới sự lónh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Theo Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 2-1-2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, cải cách công tác tư pháp cần được
thực hiện những nội dung sau:
+ Công tác tư pháp phải thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng, bám sát
và phục vụ có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn, bảo đảm quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; phát huy dân chủ, tăng cường pháp
chế; giữ vững bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa của
nhõn dõn, do nhõn dõn và vỡ nhõn dõn.
+ Công tác tư pháp phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiờm minh
cỏc loại tội phạm hỡnh sự, đặc biệt là các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội tham
nhũng và các loại tội phạm có tổ chức; bảo vệ trật tự kỷ cương; bảo đảm và tôn trọng
quyền dân chủ, quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân.
+ Phỏt huy sức mạnh tổng hợp của toàn xó hội tham gia vào cụng tỏc tư pháp.
Các cơ quan tư pháp phải dựa vào nhân dân để hoạt động, đồng thời phải là chỗ dựa
vững chắc của nhân dân trong đấu tranh phũng, chống tội phạm, cỏc hành vi vi phạm
phỏp luật và giải quyết tranh chấp.
+ Xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh và từng bước hiện đại,
góp phần xây dựng, bảo vệ Đảng và Nhà nước.
Trên tinh thần những quan điểm chỉ đạo cơ bản đó, cần xác định bước đi và
phương thức thực hiện cải cách tư pháp cho thích hợp. Trước hết, cải cách tư pháp phải
được tiến hành tổng thể trong cải cách bộ máy nhà nước, trong sự liên hệ mật thiết với
cải cỏch hành chớnh. Quỏ trỡnh cải cỏch đó không thể tách rời việc đổi mới hệ thống
chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa của dõn, do dõn, vỡ dõn.
Thứ hai, cải cách tư pháp phải hướng tới việc thực hiện đầy đủ các nguyên tắc cơ bản về
tổ chức và hoạt động tư pháp như: mỗi cơ quan thực hiện từng khâu của tiến trỡnh tố
tụng phải chịu trỏch nhiệm độc lập về kết luận của mỡnh; bảo đảm tính khách quan của
việc xét xử hai cấp; thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét
xử; mọi công dân đều bỡnh đẳng trước pháp luật; quyền bào chữa của bị can, bị cáo
được bảo đảm; nhân dân tham gia, kiểm tra và giám sát hoạt động tư pháp... Thứ ba, cải
cách tư pháp là một nhiệm vụ bao quát nhiều lĩnh vực trên một phạm vi khá rộng. Thực
hiện nhiệm vụ này phải tiến hành từng bước, nhanh chóng nhưng phải thận trọng và
hiệu quả, cần lựa chọn những vấn đề cấp bách để triển khai trước. Không thể quan niệm
rằng, cải cách tư pháp chỉ cần điều chỉnh một đôi chỗ về thiết chế và thể chế là đủ.
Chúng ta phải nghiờn cứu, tiến hành cuộc cải cỏch này theo tinh thần mới, tinh thần tự
phờ phỏn. Cần thấy rừ những mặt được, chưa được, những bất cập của hệ thống tư pháp
hiện nay để cuộc cải cách đi đúng hướng và có trọng tâm, trọng điểm. Thứ tư, trong việc
tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, cần khách quan, thận trọng bám sát thực tế nước ta.
Bảy là, đổi mới sự lónh đạo của Đảng trong lĩnh vực cải cách tư pháp là đổi mới
cách thức, nội dung sự lónh đạo của các cấp uỷ đảng đối với cải cách tổ chức và phương
thức hoạt động của các cơ quan tư pháp (bao gồm tũa ỏn, Viện Kiểm sát, cơ quan điều
tra, cơ quan thi hành án, các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp như công chứng, giám định
tư pháp, hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư pháp, luật sư, tư vấn pháp luật...).
Về phương pháp tiến hành, cần chọn cải cỏch tũa ỏn là khõu đột phá trong cải
cách tư pháp, bởi vỡ trong hệ thống cỏc cơ quan tư pháp, tũa ỏn cú vai trũ đặc biệt quan
trọng. Phán quyết của tũa ỏn thể hiện kết quả cuối cựng của tiến trỡnh tố tụng: tuyờn bố
một cụng dõn cú tội hoặc không có tội, đúng hoặc sai. Vỡ lẽ đó, tũa ỏn là nơi thể hiện
sâu sắc nhất bản chất của nhà nước và nền công lý nước ta; đồng thời thể hiện chất
lượng hoạt động và uy tín của hệ thống tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xó hội chủ
nghĩa. Sứ mạng của tũa ỏn được thể hiện ở chỗ nó là công cụ để bảo vệ công lý và sự
cụng bằng xó hội. Cải cỏch tũa ỏn là tạo ra cỏc điều kiện và các phương tiện tố tụng tối
ưu để giải quyết các vụ án đúng pháp luật, kịp thời và nghiêm minh.
Tám là, đổi mới sự lónh đạo của Đảng đối với cải cách tư pháp nhằm giải quyết
kịp thời các tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài.
Trong quỏ trỡnh hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới, cỏc quan hệ kinh tế,
dõn sự giữa cỏ nhõn, tổ chức trong nước (đặc biệt là các doanh nghiệp Việt Nam) với cá
nhân, tổ chức nước ngoài ngày càng phát triển đa dạng, phức tạp cả về tính chất, mức
độ, phạm vi về chủ thể, khách thể của các quan hệ đó. Trong khi đó, trỡnh độ pháp luật
của đội ngũ cán bộ trong ngành tư pháp cũn hạn chế nhiều mặt, nhất là ngoại ngữ, sự
am hiểu hệ thống pháp luật quốc tế, kinh nghiệm giải quyết các tranh chấp quan hệ kinh
tế, dân sự, hôn nhân có yếu tố nước ngoài… Đảng và Nhà nước ta xác định toàn cầu hoá
là tất yếu khách quan, chúng ta phải tích cực, chủ động hội nhập nền kinh tế thế giới.
Đó là quá trỡnh chỳng ta vừa cú những thời cơ lớn và đứng trước những thách thức lớn.
Trước những yêu cầu thực tiễn phải giải quyết các quan hệ pháp luật có yếu tố
nước ngoài đũi hỏi cụng tỏc cải cỏch tư pháp ở các địa phương phải được tiến hành
đồng bộ, toàn diện về tổ chức bộ máy, cơ chế; năng lực, trỡnh độ, trí tuệ, bản lĩnh của
đội ngũ cán bộ trong ngành tư pháp. Quá trỡnh đó cần được sự lónh đạo, chỉ đạo kịp
thời của các cấp uỷ đảng từ Trung ương đến địa phương. Trong đó, đũi hỏi sự năng
động, chủ động, tích cực của tỉnh uỷ, ban cán sự đảng trong các cơ quan tư pháp ở các
tỉnh.
3.2. CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG
THỰC HIỆN CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở TỈNH BẮC NINH
3.2.1. Nâng cao chất lượng nghị quyết của các cấp uỷ đảng đối với các cơ
quan tư pháp
Để thực hiện chức năng lónh đạo của mỡnh đối với các cơ quan nhà nước và
đoàn thể chính trị ở địa phương nói chung và đối với các cơ quan tư pháp nói riêng,
Tỉnh uỷ Bắc Ninh sử dụng cỏc hỡnh thức văn bản như nghị quyết, chỉ thị, thông tri, kết
luận, chương trỡnh hành động… Trong đó chất lượng Nghị quyết của Tỉnh uỷ có vai trũ
rất lớn. Vỡ vậy, trong quỏ trỡnh lónh đạo xây dựng NNPQ XHCN, một mặt, nội dung
các văn bản chỉ đạo của cấp uỷ đũi hỏi phải thực sự khoa học, trớ tuệ, đáp ứng yêu cầu
định hướng hoạt động của cơ quan tư pháp ở địa phương; mặt khác nội dung của văn
bản phải bảo đảm đúng chức năng lónh đạo của Đảng, tránh tỡnh trạng lấn sõn của cơ
quan nhà nước, của cơ quan tư pháp cấp trên. Điều 4 Hiến pháp 1992 quy định “tổ chức
đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Vỡ vậy, cỏc tổ
chức đảng và đảng viên càng phải gương mẫu trong việc thực hiện pháp chế XHCN.
Văn bản chỉ đạo của Tỉnh uỷ Bắc Ninh cần hướng tới việc lónh đạo các tổ chức
đảng và đảng viên hoạt động trong lĩnh vực tư pháp nhằm bảo đảm việc bắt giữ, điều
tra, truy tố, xét xử được tiến hành đúng pháp luật; lónh đạo về đường lối xét xử mà
không chỉ đạo về tội danh và mức hỡnh phạt. Cỏc cấp uỷ đảng của đảng bộ tỉnh lónh
đạo bảo đảm nguyên tắc Hiến định: khi xét xử, thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật.
Đối với các vụ án có tính chất chính trị (xét xử các tổ chức chính trị phản động
chống Tổ quốc, bọn phản động đội lốt tôn giáo...), đũi hỏi sự cõn nhắc toàn diện về ảnh
hưởng đối nội và đối ngoại, Tỉnh uỷ cần chỉ đạo Đảng ủy, Ban Cán sự Đảng trong các
cơ quan công an, kiểm sát, tũa ỏn bỏo cỏo về phương hướng xử lý. Tỉnh uỷ cho ý kiến
về định hướng, cũn xử lý cụ thể là do cỏc cơ quan tư pháp quyết định và chịu trách
nhiệm theo chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền luật định.
Đối với các vụ án khác, các cơ quan tư pháp xử lý theo chức năng và trỏch nhiệm
của mỡnh và cú trỏch nhiệm bỏo cỏo với cấp uỷ đảng theo quy định của Điều lệ Đảng.
Khi phát hiện làm sai quy định của pháp luật, vi phạm quyền và lợi ích hợp phỏp của
cụng dõn hoặc quyền lợi của quốc gia, Tỉnh uỷ lónh đạo các ban của cấp ủy, tổ chức
đảng trong các cơ quan tư pháp để kiểm tra, uốn nắn.
Tránh lẫn lộn chức năng lónh đạo chính trị của Tỉnh uỷ với chức năng điều tra,
truy tố, xét xử, hỗ trợ tư pháp của các cơ quan tư pháp, khắc phục tỡnh trạng cỏc tổ
chức đảng can thiệp quá sâu vào hoạt động của các cơ quan chức năng này, đồng thời
tránh tỡnh trạng Nghị quyết, chỉ thị của cỏc cấp uỷ đảng mất dần tính định hướng. Tuy
nhiên, sự phân biệt này cũng chỉ mang tính tương đối, bởi lẽ tuyệt đối hoá chúng có thể
cô lập sự lónh đạo của các cấp uỷ đảng đối với cơ quan nhà nước nói chung và các
cơ quan tư pháp nói riêng, khu biệt hoạt động của Đảng trong phạm vi soạn thảo
đường lối và kiểm tra Đảng, khiến cho vai trũ lónh đạo của cấp uỷ đảng bị lu mờ và
trở nên hỡnh thức, lệ thuộc vào chớnh quyền. Muốn vậy, cần xỏc định rừ những loại
việc nào cấp uỷ địa phương trực tiếp quyết định, những việc quan trọng nào cần có
định hướng của cấp uỷ để các cơ quan tư pháp tổ chức thực hiện. Những công việc
cụ thể nào do các cơ quan tư pháp quyết định theo thẩm quyền.
Để xây dựng được những văn bản chỉ đạo, lónh đạo của các cấp uỷ trong Đảng
bộ tỉnh Bắc Ninh đũi hỏi phải nõng tầm trớ tuệ và bản lĩnh chớnh trị của toàn Đảng bộ
nói chung và của các cấp uỷ lên cao hơn những đũi hỏi của cuộc sống và của sự nghiệp
xõy dựng NNPQ XHCN. Muốn vậy, một mặt cỏc cấp uỷ đảng phải thật sự cầu thị, tôn
trọng và lắng nghe các ý kiến khỏc nhau, dõn chủ thật sự trong tranh luận và bày tỏ
chớnh kiến, mở rộng và phát huy dân chủ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước, trong
toàn xó hội trờn cơ sở khối đại đoàn kết toàn dân; mặt khác, cần nghiêm trị những phần
tử cơ hội, lợi dụng dân chủ với mục đích xấu.
3.2.2. Kiện toàn các tổ chức đảng trong các cơ quan tư pháp
Thực hiện chương trỡnh cải cỏch tư pháp của Bộ Chính trị, Nghị quyết của Quốc
hội về tăng thẩm quyền cho Toà án nhân dân cấp huyện đang đặt ra nhiều vấn đề cần
phải giải quyết về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp,
nhất là các tổ chức đảng trong các cơ quan này phù hợp yêu cầu của cải cách tư
pháp, của quá trỡnh hội nhập kinh tế thế giới của nước ta. Đối với ban cán sự đảng,
đảng đoàn, Hội nghị Trung ương 4 khoỏ X chỉ rừ:
Kiện toàn tổ chức các ban cán sự đảng, đảng đoàn để các tổ chức đảng
này thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng.
Nơi không lập ban cán sự đảng, đảng đoàn thỡ tăng thẩm quyền, trách nhiệm
của đảng uỷ cơ quan… phân định rừ giữa chức năng, nhiệm vụ của ban cán
sự đảng, đảng đoàn với chức năng, nhiệm vụ của lónh đạo cơ quan, đơn vị [6,
tr.29-30].
Đối với các chi bộ trong các cơ quan tư pháp cần thực hiện tốt chức năng, nhiệm
vụ theo Quy định 98-QĐ/TW ngày 22 tháng 3 năm 2004 của Ban Bí thư về chức năng,
nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ quan.
Trước mắt, các cấp uỷ đảng cần tiếp tục xây dựng kế hoạch hành động cụ thể để
thực hiện chủ trương của cấp trên về cải cách tư pháp, kịp thời kiện toàn hệ thống cơ
quan tư pháp khi có sự biến động về tổ chức bộ máy, về nhân sự. Trong giai đoạn đầu
thực hiện cải cách tư pháp, việc tách và nhập một số tổ chức bộ máy trong cơ quan tư
pháp là điều không tránh khỏi. Ví dụ, việc thành lập cảnh sát môi trường, cảnh sát tư
pháp, bỏ chức năng kiểm sát chung của cơ quan Viện Kiểm sát… hoặc tiến tới thành lập
Toà án khu vực… những thay đổi đó dẫn đến sự biến động về tổ chức, nhân sự - một
trong những vấn đề cực kỳ nhạy cảm và phức tạp. Chính vỡ vậy, cấp uỷ địa phương cần
có sự thống nhất về tư tưởng, chủ trương trong toàn đảng bộ từ tỉnh xuống huyện và tổ
chức lónh đạo thực hiện kiên quyết, kịp thời.
Hiện nay, Toà án cấp huyện được tăng thẩm quyền dẫn đến có sự thay đổi chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện.
Điều đó, đũi hỏi việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của những cơ quan này về chuyên môn,
nghiệp vụ phải nhanh chóng hơn, khẩn trương hơn nhưng phải thiết thực, gắn với những
nội dung, yêu cầu mới phù hợp với từng chức danh.
+ Lónh đạo xây dựng quy chế làm việc giữa cấp uỷ và thủ trưởng cơ quan. Trong
đó, đảng bộ, chi bộ, cấp uỷ bảo đảm và tạo điều kiện để thủ trưởng cơ quan thực hiện
trách nhiệm, quyền hạn được giao; thủ trưởng cơ quan bảo đảm và tạo điều kiện để tổ
chức cơ sở đảng thực hiện quy định 97 của Ban Bí thư. Cấp uỷ cơ quan thường xuyên
phản ánh với ban cán sự đảng, đảng đoàn, lónh đạo cơ quan ý kiến của đảng viên, quần
chúng về việc thực hiện các nhiệm vụ, chính sách và chế độ trong cơ quan; thực hiện
việc báo cáo của thủ trưởng cơ quan với cấp uỷ và Đại hội chi bộ, đảng bộ cơ quan theo
định kỳ 3 tháng, 6 tháng, 1 năm hoặc vào dịp Đại hội Đảng theo quy định của Ban Bí
thư.
3.2.3. Đổi mới sự chỉ đạo của cấp uỷ đảng với các cơ quan tư pháp
Hoạt động tư pháp là hoạt động có mục đích chung nhằm "bảo vệ phỏp chế xó
hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xó hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ
tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân
phẩm của công dân" (Điều 126, Hiến pháp năm 1992). Vỡ vậy, cỏc cơ quan Tũa ỏn,
Viện Kiểm sát và điều tra đều là những cơ quan thể hiện trực tiếp bản chất của Nhà
nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa của dõn, do dõn và vỡ dõn, dưới sự lónh đạo của các
cấp uỷ đảng cùng cấp và cấp trên.
Thực tiễn xây dựng bộ máy nhà nước cho thấy, hệ thống tư pháp hiện nay ở nước
ta chưa đảm đương được đầy đủ vị trí, vai trũ. Cú thể núi, ở tất cả cỏc khõu từ điều tra,
truy tố, đến xét xử và phũng ngừa, hệ thống tư pháp chưa thực sự là một hệ thống vận
dụng và áp dụng thành thạo pháp luật. Trong nhiều trường hợp, quyền lực nhà nước bị
biến dạng qua hoạt động cụ thể của Tũa ỏn và Viện Kiểm sát. Uy tín của các cơ quan
bảo vệ pháp luật giảm sút trong dư luận của quần chúng. Vỡ vậy, tiếp tục đổi mới, cải
cách hệ thống các cơ quan tư pháp theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xó
hội chủ nghĩa của dõn, do dõn và vỡ dõn, đũi hỏi phải nõng cao năng lực áp dụng pháp
luật và năng lực đề xuất, kiến nghị sáng kiến đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật
vỡ con người, cho con người đối với đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán.
Thực tiễn cho thấy rằng, quỏ trỡnh đổi mới, cải cách đó của các cơ quan tư pháp phải có
sự lónh đạo, chỉ đạo của Đảng, trước hết là cấp uỷ địa phương.
Tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp trong nhà nước pháp quyền phải
tuân thủ nghiêm ngặt một hệ thống các quy tắc tố tụng rất đầy đủ, minh bạch và chặt
chẽ... Vỡ thế, lónh đạo công cuộc cải cách tư pháp, đũi hỏi cấp uỷ địa phương phải lónh
đạo các cơ quan tư pháp góp ý hoàn thiện hệ thống cỏc thủ tục tố tụng tư pháp rừ ràng,
minh bạch, chặt chẽ, vừa đề cao nhân tố con người trong mối quan hệ với các cơ quan
tư pháp, vừa đề cao trách nhiệm của các cơ quan và cá nhân có thẩm quyền trong hoạt
động tư pháp. Hơn nữa, độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc xuyên suốt quá
trỡnh tổ chức và hoạt động tư pháp. Đây là công thức pháp lý chứa đựng các giá trị
được thừa nhận chung trong nhà nước pháp quyền đối với không chỉ trong hoạt động
xét xử của thẩm phán và hội thẩm nhân dân mà cả trong hoạt động điều tra, truy tố của
điều tra viên và kiểm sát viên; chống khuynh hướng phủ nhận tính độc lập trong hoạt
động tư pháp, lợi dụng nguyên tắc Đảng lónh đạo để một số cá nhân có chức, có quyền
trong tổ chức đảng hoặc cơ quan nhà nước tác động hoặc gây ảnh hưởng xấu đến hoạt
động tư pháp.
Thực tiễn cho thấy, thực hiện nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong
hoạt động tư pháp không có nghĩa là các cơ quan tư pháp thoát ly sự lónh đạo của Đảng,
áp dụng pháp luật một cách máy móc, cứng nhắc, hỡnh thức. Vỡ vậy, vấn đề cơ bản là
xuất phát từ đặc trưng của hoạt động tư pháp mang tính độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật mà tỡm kiếm cỏc hỡnh thức và phương thức lónh đạo của Đảng phù hợp, vừa bảo
đảm nguyên tắc Đảng lónh đạo tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, vừa giữ
vững nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Cần thể chế hóa bằng pháp luật
phương thức lónh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm
Đảng lónh đạo tư pháp nhưng tôn trọng nguyên tắc tư pháp độc lập - nguyên tắc và là
đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền.
Về tổ chức, Đảng lónh đạo các cơ quan tư pháp thông qua ban cán sự, cấp ủy và
các đảng viên có trong các cơ quan đó. Mối quan hệ giữa cấp ủy đảng với các đảng
đoàn, ban cán sự cùng cấp, các đảng viên là theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Ban Cán sự, đảng ủy và các đảng viên trong các cơ quan tư pháp cần nêu cao
tính đảng, ý thức tổ chức kỷ luật, núi và làm theo nghị quyết của Đảng. Với những chủ
trương, quan điểm mang tính nguyên tắc, cấp ủy đảng ra nghị quyết hoặc có kết luận để
ban cán sự và đảng viên thực hiện. Cũn về chủ trương, biện pháp, kế hoạch cụ thể, ban
cán sự bàn bạc cùng thủ trưởng của cơ quan. Các cơ quan tư pháp ra quyết định và chịu
trách nhiệm về quyết định của mỡnh. Tuy nhiờn, cũng cần làm rừ trỏch nhiệm của Ban
Cỏn sự đảng ở cơ quan đến đâu, cá nhân đồng chí cấp ủy viên được phân công làm thủ
trưởng cơ quan tư pháp chịu trách nhiệm trước cấp ủy đến đâu?.
Ngoài chỉ đạo bằng nghị quyết, chỉ thị, các cấp uỷ đảng mà trước hết là tỉnh uỷ
cần tiếp tục đổi mới sự lónh đạo bằng công tác kiểm tra, sự gương mẫu của cán bộ, đảng
viên. Trong đó, tăng cường công tác kiểm tra luôn được xem là công cụ hữu hiệu để
Đảng lónh đạo cơ quan tư pháp. Trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCN, công tác
kiểm tra của Đảng cần được đổi mới theo định hướng dân chủ và công khai; tránh việc
xử lý nội bộ với những cán bộ, đảng viên trong ngành tư pháp bị kỷ luật; đồng thời, có
cơ chế bảo vệ cán bộ, đảng viên trước sự vu khống, tố cáo sai sự thật. Đồng thời, các
hỡnh thức kiểm tra phải được vận dụng một cách linh hoạt, mềm dẻo và đặc biệt, tránh
sự chồng chéo với công tác thanh tra, kiểm tra của Nhà nước.
3.2.4. Đổi mới công tác cán bộ nhằm xây dựng được đội ngũ cán bộ trong
các cơ quan tư pháp có đức, có tài đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị địa
phương
Trong NNPQ XHCN, sự lónh đạo tập trung thống nhất vê công tác cán bộ là một
đặc quyền chính đáng của Đảng được xó hội thừa nhận và ủng hộ. Theo đó, Đảng xác
định quan điểm, nguyên tắc về công tác cán bộ, tiêu chuẩn cán bộ; có quyền giới thiệu
những cán bộ giỏi, có uy tín của mỡnh ứng cử những chức vụ lónh đạo của bộ máy nhà
nước nói chung và của cơ quan tư pháp nói riêng. Tỉnh uỷ, Ban thường vụ tỉnh uỷ nhất
thiết phải cử những cán bộ, đảng viên có năng lực và uy tín lónh đạo các cơ quan tư
pháp của tỉnh. Vấn đề là ở chỗ những người được giới thiệu ứng cử đó phải là những
người ưu tú nhất chưa? Đó đủ phẩm chất và tài năng cho cương vị mà họ ứng cử chưa?
họ đó phải là người tiên phong trong lý luận và hành động chưa?… Nếu câu trả lời là
chưa thỡ chắc chắn, sự hiện diện của họ trong cơ quan tư pháp sẽ tạo ra dư luận không
tốt cho công tác cán bộ của tỉnh uỷ. Đồng thời, không phải bất kỳ vị trí nào trong cơ
quan tư pháp cũng phải do cấp uỷ viên hoặc đảng viên đảm nhận. Tiêu chuẩn cán bộ
lónh đạo quản lý trong các cơ quan tư pháp khác với tiêu chuẩn cán bộ làm công tác
đảng; hơn nữa, không phải cấp uỷ viên hoặc đảng viên nào cũng có đủ trỡnh độ, năng
lực thực hiện chức năng điều tra, truy tố, xét xử, bào chữa…Vỡ thế, khụng nờn lấy tiờu
chuẩn cỏn bộ đảng để bố trí cán bộ của các cơ quan tư pháp.
Hồ Chí Minh khẳng định “Cán bộ là gốc của mọi công việc”. Do đó, trong lónh
đạo cải cách tư pháp, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, ban cán sự Đảng của các cơ quan tư
pháp, các cơ quan tham mưu phải xây dựng được chiến lược cán bộ cho cả hệ thống
chính trị nói chung và đối với các cơ quan tư pháp nói riêng - những cơ quan trực tiếp
liên quan đến sinh mệnh chính trị của con người. Trong các cơ quan tư pháp, mặc dù
nhiều chức danh do cấp có thẩm quyền của trung ương bổ nhiệm theo nhiệm kỳ, nhưng
các cấp uỷ đảng cần có chương trỡnh bổ sung về đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ tư pháp, có ý kiến nhận xét, đánh giá đối với những cán bộ lónh đạo, quản lý chủ
chốt của cơ quan tư pháp làm cơ sở giúp cấp có thẩm quyền nắm rừ được đức, tài của
đội ngũ cán bộ này trước khi được bổ nhiệm.
Hàng năm, trong hệ thống cơ quan tư pháp thường có kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng chuyên môn cụ thể cho đội ngũ cán bộ trong ngành. Vỡ vậy, đối với cấp uỷ địa
phương xây dựng kế hoạch quán triệt về những chủ trương, chính sách mới của địa
phương cho đội ngũ cán bộ tư pháp, đồng thời, quy hoạch đào tạo kiến thức lý luận
chính trị cho đội ngũ cán bộ này.
Trong công cuộc xây dựng đất nước, chúng ta đang thực hiện một nền kinh tế thị
trường định hướng xó hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường chứa đựng cả mặt tích cực
và tiêu cực. Kinh tế thị trường thúc đẩy chủ nghĩa cá nhân phát triển, thúc đẩy xu hướng
"thương mại hóa" các quan hệ xó hội, thỳc đẩy con người chạy theo đồng tiền bằng mọi
giá. Đó cú những cỏn bộ tư pháp lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mỡnh, thực hiện
những hành vi vi phạm pháp luật đang gây nhiều bức xúc trong nhân dân. Trong môi
trường kinh tế - xó hội hiện nay, chủ nghĩa cỏ nhõn trong hàng ngũ cỏn bộ, viờn chức
nhà nước đang có cơ hội phát triển. Tỡnh trạng tham nhũng trong cơ quan tư pháp đang
trở nờn bức xỳc. Nú lại gắn liền với quan liờu cửa quyền, hỏch dịch, lóng phớ... Nhiều
hiện tượng sa sút phẩm chất, chạy theo quyền lực bằng mọi cách như xu nịnh, tạo phe
cánh để ngoi lên, lừa đảo về bằng cấp, chứng chỉ, thành tích... thậm chí có cả việc hối
lộ, mua quan bán tước cũng đó diễn ra. Điều đó, đang đặt ra những yêu cầu bức thiết đối
với cấp uỷ địa phương trong việc lónh đạo các cơ quan tư pháp tăng cường pháp chế
XHCN, xử lý kỷ luật nghiờm những cỏn bộ, cụng chức, đảng viên vi phạm pháp luật;
đồng thời tăng cường ngăn ngừa hành vi phạm tội xảy ra đối với đội ngũ cán bộ, đảng
viên.
Vấn đề xây dựng đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công chức cho đội ngũ cán bộ
tư pháp đang trở thành vấn đề hàng đầu trong quá trỡnh cải cỏch tư pháp hiện nay.
Trong đó, việc chống chủ nghĩa cá nhân, xây dựng tinh thần tập thể, cộng đồng phải
là phương hướng cơ bản của công tác tư tưởng. Chống chủ nghĩa cá nhân không có
nghĩa là chà đạp lên cá nhân con người, phủ nhận vai trũ to lớn của cỏ nhõn trong
đời sống xó hội mà là chống cái ác, cái xấu của chủ nghĩa cá nhân, làm cho cá nhân
con người phát triển lành mạnh luôn luôn hành động vỡ lợi ớch của tập thể, của cộng
đồng và của bản thân. Phải hết sức coi trọng giáo dục đạo đức nhưng cũng không
biến quá trỡnh giỏo dục thành một quỏ trỡnh đạo đức đơn thuần mà đi đôi với giáo
dục phải xử lý nghiờm minh mọi sự vi phạm luật phỏp của bất cứ ai.
Công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên phải lồng ghép với việc
chống các hiện tượng tiêu cực của bản thân người cán bộ, tiêu cực trong xó hội; phải
xõy dựng dõn chủ và kỷ luật làm hai yếu tố cơ bản để hỡnh thành nhõn cỏch con người;
hỡnh thành bầu khụng khớ chớnh trị đạo đức xó hội chủ nghĩa và đặc biệt là xây dựng
tính gương mẫu về đạo đức của người cán bộ, đảng viên trong ngành tư pháp.
Hơn nữa, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp có đức, có tài gắn liền với
nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp đủ về số lượng.
Đây là nội dung rất quan trọng và cấp bách. Thực trạng đội ngũ cán bộ tư pháp
của ta hiện nay về chất lượng và số lượng chưa thật đáp ứng với yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa. Nếu khụng cú sự quan tõm đầu tư, đẩy mạnh việc
đào tạo đội ngũ cán bộ tư pháp thỡ cú thể núi sẽ ảnh hưởng rất lớn tới nhiệm vụ xây
dựng Nhà nước pháp quyền. Bởi lẽ yêu cầu và nhiệm vụ mới đặt ra nhiều vấn đề đũi hỏi
phải cú đội ngũ cán bộ tư pháp có đủ năng lực trỡnh độ mới giải quyết được những vấn
đề thực tế đặt ra, không những ở các cơ quan, ban, ngành trung ương mà cả ở các cơ sở.
Vỡ vậy, vấn đề đặt ra là phải sớm có quy hoạch phù hợp, có kế hoạch tuyển chọn, đào
tạo. sử dụng đúng khả năng, yêu cầu. Đồng thời, phải coi trọng và tăng cường việc quản
lý, kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ tư pháp để họ thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
3.2.5. Tăng cường sự lónh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ đối với việc kiện toàn tổ
chức bộ máy của các cơ quan tư pháp tỉnh Bắc Ninh
Thực hiện chương trỡnh cải cỏch tư pháp của Bộ Chính trị, Nghị quyết của Quốc
hội về tăng thẩm quyền cho Toà án nhân dân cấp huyện đang đặt ra nhiều vấn đề cần
phải giải quyết về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp. Trước
mắt cần kiến nghị phân định rừ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan tư
pháp của tỉnh (Tũa ỏn nhõn dõn, Viện Kiểm sát nhân dân, các cơ quan điều tra và các
cơ quan, tổ chức tư pháp bổ trợ như: luật sư, công chứng, giám định, tư vấn pháp
luật...).
Tăng cường sự lónh đạo của cấp uỷ Đảng đối với sự phối hợp hoạt động giữa các
cơ quan tư pháp, giữa ban cán sự đảng và tổ chức cơ sở đảng trong các cơ quan tư pháp.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khoá X của Đảng đưa ra quan điểm: “Việc đổi mới,
kiện toàn tổ chức bộ máy phải phù hợp với đặc điểm của hệ thống chính trị nước ta vận
hành theo cơ chế Đảng lónh đạo, Nhà nước quản lý, nhõn dõn làm chủ do một đảng duy
nhất lónh đạo; phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội
nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, giữ vững và tăng cường
vai trũ lónh đạo của Đảng.
Kiện toàn tổ chức bộ máy nhằm bảo đảm các cơ quan trong hệ thống chính trị
hoạt động cú hiệu lực, hiệu quả, tinh gọn, khắc phục tỡnh trạng quan liờu, trựng lặp,
chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ hoặc tổ chức không phù hợp với chức năng, nhiệm vụ.
Phân định rừ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của mỗi tổ chức, bảo đảm hiệu lực, hiệu
quả hoạt động của cả hệ thống chính trị.
Kiện toàn tổ chức bộ máy phải bảo đảm tính đồng bộ, hệ thống, bảo
đảm sự lónh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị nước ta; vừa xây dựng các
cơ quan của Đảng vững mạnh, đủ sức thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, vừa
phát huy vai trũ, trỏch nhiệm của cỏc tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ
quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xó hội [9, tr.26-27].
Việc kiện toàn tổ chức và hoạt động đối với ban cán sự đảng, đảng đoàn, Hội
nghị Trung ương 4 khoá X đó chỉ rừ: Kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng
công tác xét xử của Toà án các cấp, bảo đảm tính chuyên sâu, phù hợp với yêu cầu công
tác xét xử hiện nay. Tích cực chuẩn bị để lập Toà án khu vực. Kiện toàn Toà án hành
chính để giải quyết các khiếu nại về hành chính của công dân. Tiếp tục đổi mới tổ chức,
sắp xếp lại các đơn vị kiểm sát theo hướng đồng bộ, nâng cao hiệu quả hoạt động để
thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, nâng cao chất lượng
tranh tụng tại phiên toà [9, tr.33].
Các cấp uỷ đảng từ tỉnh đến huyện của tỉnh cần tiếp tục xây dựng kế hoạch hành
động cụ thể để thực hiện chủ trương của cấp trên về cải cách tư pháp, kịp thời kiện toàn
hệ thống cơ quan tư pháp khi có sự biến động về tổ chức bộ máy, về nhân sự.
Trong giai đoạn đầu thực hiện cải cách tư pháp, việc tách và nhập một số tổ chức
bộ máy trong cơ quan tư pháp là điều không tránh khỏi. Ví dụ, việc thành lập cảnh sát
môi trường, cảnh sát tư pháp, bỏ chức năng kiểm sát chung của cơ quan Viện Kiểm
sát… hoặc tiến tới thành lập Toà án khu vực… những thay đổi đó dẫn đến sự biến động
về tổ chức, nhân sự - một trong những vấn đề cực kỳ nhạy cảm và phức tạp. Chính vỡ
vậy, cấp uỷ địa phương cần có sự thống nhất về tư tưởng, chủ trương trong toàn đảng bộ
từ tỉnh xuống huyện và tổ chức lónh đạo thực hiện kiên quyết, kịp thời.
Hiện nay, Toà án cấp huyện được tăng thẩm quyền dẫn đến có sự thay đổi chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện.
Điều đó, đũi hỏi việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của những cơ quan này về chuyên môn,
nghiệp vụ phải nhanh chóng hơn, khẩn trương hơn nhưng phải thiết thực, gắn với những
nội dung, yêu cầu mới phù hợp với từng chức danh.
3.2.6. Tăng cường sự lónh đạo của Đảng đối với công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật
Nhằm nâng cao hơn nữa năng lực, trách nhiệm thực thi pháp luật cho cán bộ,
công chức, đặc biệt là ở xó, phường, thị trấn và các tầng lớp nhân dân, UBND tỉnh xây
dựng kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2007 như sau: Tiếp tục tập trung tuyên
truyền các văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến cuộc sống của nhân dân như: Luật
Cư trú, Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Đất đai năm 2003, Nghị định 158/2005/NĐ-CP
về đăng ký và quản lý hộ tịch; Nghị định 136/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo và các luật sửa
đổi, bổ xung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo; Nghị định 182/2004/NĐ-CP ngày
29/10/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai; Nghị định
150/2005/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự... phù
hợp từng địa bàn, đối tượng, thời điểm làm cho nhân dân hiểu rừ cỏc quyền và nghĩa vụ
của mỡnh để thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Tỉnh uỷ lónh đạo các cấp uỷ đảng cơ quan tư pháp phối hợp với chính quyền và
đoàn thể quần chúng trong hệ thống chính trị của địa phương trong việc tăng cường phổ
biến quán triệt và học tập các quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, các văn bản
có liên quan đến chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, công chức: Phỏp lệnh cỏn bộ cụng
chức; Luật Thực hành tiết kiệm, chống lóng phớ; Luật Phũng, chống tham nhũng, cỏc
quy định pháp luật chuyên ngành gắn với chuyên môn, nghiệp vụ của từng cán bộ, công
chức thuộc từng ngành cụ thể...
Bên cạnh đó, các cấp uỷ đảng đẩy mạnh việc chỉ đạo các cơ quan tư pháp phối
hợp với các trường phổ thông, dạy nghề, cao đẳng, đại học trên địa bàn thực hiện tốt
chương trỡnh phổ biến cỏc quy định pháp luật gắn trực tiếp đến cuộc sống, quyền và
nghĩa vụ của thanh niên, thiếu niên và nhi đồng, nhất là phỏp luật về giao thụng, phũng,
chống ma tỳy, tệ nạn xó hội, nghĩa vụ quõn sự; Luật Giỏo dục; Luật Bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em; Luật Thanh niên; Luật Nghĩa vụ quân sự; Luật Phũng, chống ma
tỳy; Luật Giao thụng đường bộ, Bộ luật Hỡnh sự... Đồng thời, cấp uỷ xây dựng kế
hoạch lónh đạo công tác phổ biến giáo dục cho người lao động, người quản lý và cỏn bộ
cụng đoàn trong doanh nghiệp; phổ biến giáo dục pháp luật trong lực lượng vũ trang
nhân dân. Làm tốt công tác lónh đạo này có ý nghĩa quan trọng đối với pháp chế XHCN
cũng như hiệu quả tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp của tỉnh.
Căn cứ vào đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật và điều kiện cụ thể của từng
ngành, địa phương, các cấp uỷ đảng lónh đạo các phương tiện thông tin đại chúng đẩy
mạnh phổ biến giáo dục pháp luật bằng các hỡnh thức chủ yếu: Tuyờn truyền miệng,
thụng qua hội nghị tuyờn truyền, cỏc lớp tập huấn hoặc lồng ghộp trong cỏc hội nghị
khỏc của ngành, đơn vị; thông qua truyền hỡnh, bỏo, đài, hệ thống loa truyền thanh ở cơ
sở; thông qua sinh hoạt các câu lạc bộ; tổ chức các cuộc thi tỡm hiểu phỏp luật; phỏt tờ
rơi, tờ gấp có nội dung pháp luật; thông qua tủ sách pháp luật trong cơ quan, tổ chức,
đơn vị; tủ sách pháp luật ở xó, phường, thị trấn. Trong quá trỡnh triển khai công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật, các đơn vị địa phương phải phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ
quốc, Hội Liên hiệp phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh và
các cơ quan, tổ chức khác; tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan, tổ chức đó phát huy
vai trũ, tham gia tớch cực vào cụng tỏc phổ biến, giỏo dục phỏp luật, vận động các tầng
lớp nhân dân chấp hành pháp luật.
Thực tiễn của tỉnh Bắc Ninh cho thấy, việc thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW và
Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị không thể có kết quả nếu thiếu sự phối hợp
đồng bộ và chặt chẽ giữa các cơ quan tư pháp trong việc tuyên truyền, phổ biến đường
lối, chủ trương cải cách tư pháp của Đảng. Sự phối hợp đó là một trong những điều kiện
quan trọng, bảo đảm cho Nghị quyết đi vào thực tiễn sống động của hoạt động tư pháp
hiện nay.
Kết luận
Ngày nay trước những yêu cầu của công cuộc đổi mới, xây dựng một nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh các quá trình công nghiệp hoá hiện
đại hoá, dân chủ hoá mọi mặt đời sống xã hội đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế đòi
hỏi bộ máy nhà nước phải có những thay đổi quan trọng để thích nghi với tình hình.
Tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước theo hướng Nhà nước
pháp quyền là một yêu cầu hết sức quan trọng. Trong đó, cần xác định rõ vai trò, ranh
giới lãnh đạo của đảng cầm quyền, đảm bảo quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng
sản Việt Nam, đồng thời đảm bảo quyền chủ động của Nhà nước theo đúng quan điểm
của Lê nin: "Đảng lãnh đạo nhà nước, nhưng không làm thay, bao biện nhà nước". Tăng
cường năng lực lãnh đạo của Đảng, đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước,
trong đó có các cơ quan tư pháp là yêu cầu hết sức quan trọng hiện nay.
Trong những năm vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, hệ thống các cơ quan tư
pháp đã có những bước chuyển biến tích cực, góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn an
ninh - trật tự, phát huy dân chủ trong đời sống của người dân và thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế.
Bắc Ninh là một tỉnh đất chật, người đông ở vùng đồng bằng sông Hồng, dưới sự
lãnh đạo của Tỉnh uỷ, ngành tư pháp Bắc Ninh trong những năm vừa qua đã có nhiều
cải cách hết sức mạnh mẽ. Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện Nghị quyết 49- NQ/TW
của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp, Tỉnh uỷ Bắc Ninh đang thực hiện sự chỉ đạo một
cách hết sức sát sao công tác cải cách tư pháp tại địa phương.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Phạm Ngọc Anh, Bùi Đình Phong (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước
pháp quyền kiểu mới ở Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội.
2. Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương (4/9/2007), Chương trình trọng tâm cải
cách tư pháp từ nay đến hết năm 2008.
3. Lê Cảm - Nguyễn Ngọc Chí (2004), Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn
xây dựng nhà nước pháp quyền, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
4. Cục thống kê tỉnh Bắc Ninh (2006), Động thái kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh 1997-
2005, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
5. Ngô Huy Cương (2006), Góp phần bàn về cải cách pháp luật ở Việt Nam hiện nay,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết 08- NQ/TW của Bộ Chính trị về “Một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 49- NQ/TW của Bộ Chính trị về
“Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị BCH Trung ương 4, khoá X,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị BCH Trung ương 5, khoá X,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng Đoàn Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2006), Báo cáo kết quả thực hiện
Nghị quyết 08- NQ/TW của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công
tác tư pháp trong thời gian tới”; Kế hoạch thực hiện Nghị quyết 49- NQ/TW
của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”.
13. Đoàn Luật sư tỉnh Bắc Ninh (2006), Báo cáo Chương trình, kế hoạch thực hiện
Nghị quyết 49- NQ/TW giai đoạn 2006-2010, Bắc Ninh.
14. Lê Văn Hoè (2001), "Về sửa đổi, bổ sung các qui định về tổ chức quyền lực nhà nước
trong Hiến pháp 1992", Tạp chí Lý luận chính trị, (10).
15. Trần Đình Huỳnh (2001), Phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước, Nxb. Hà Nội, Hà
Nội.
16. Nguyễn Đình Lộc (1998), Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân và
vì dân, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Phạm Văn Lợi (2004), Chế định thẩm phán - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb.Tư pháp, Hà Nội.
18. Cao Văn Lượng (2000), "Nhìn lại quá trình xây dựng nhà nước Việt Nam kiểu
mới", Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, (4).
19. Nguyễn Văn Mạnh (2003), Chủ trương, quan điểm của Đảng về đổi mới tổ chức
và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong kỷ yếu đề tài khoa học KHBĐ
2003-2004, Sự lãnh đạo của Đảng trong định hướng đổi mới với cải cách tư
pháp, Hà Nội.
20. Trần Quang Minh (1992), "Thống nhất và phân định quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp - Phương thức thực hiện quyền lực thống nhất của nhân dân", Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, (01).
21. OECD, The OECD report on regulatory reform: Synthesis, Pari, 1997, p.6.
22. Nguyễn Quang Minh (2003), "Vai trò của nhân dân trong xây dựng pháp luật", Tạp
chí Cộng sản, (42).
23. Lê Minh Quân (2000), "Vấn đề đổi mới và hoàn thiện nhà nước theo hướng xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Triết học, (2/114).
24. Nguyễn Duy Quí (1992), "Một số suy nghĩ về xây dựng nhà nước pháp quyền ở
nước ta hiện nay", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (2-1992).
25. Nguyễn Duy Quí (2002), "Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng trong điều kiện nước ta hiện
nay", Tạp chí Triết học, (số 10/137).
26. Nguyễn Văn Sáu (2001), "Sự lãnh đạo của Đảng đối với việc phát huy dân chủ
trong xã hội", Tạp chí Lý luận chính trị, (8).
27. Sở Tư pháp tỉnh Bắc Ninh (2006), Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 49- NQ/TW
của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, giai đoạn
2006-2010, Bắc Ninh.
28. Nguyễn Xuân Tế (1999), Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp
luật, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Trần Thị Băng Thanh (2001), Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước “của dân,
do dân và vì dân” - Phương hướng chủ yếu để nâng cao hiệu quả tác động của
nhà nước tới việc thực hiện quyền dân chủ nhân dân ở nước ta hiện nay, tạp chí
Triết học, số 2-2001 (120).
30. Trần Hậu Thành (2000), "Dân chủ và mối quan hệ giữa nhà nước pháp quyền với
dân chủ", Tạp chí Dân chủ pháp luật, (10).
31. Nguyễn Văn Thảo (2001), "Nhân tố nhà nước pháp quyền, thống nhất quyền lực
trong nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà sau cách mạng tháng Tám", Tạp chí
Cộng sản, (2).
32. Nguyễn Văn Thảo (2001), "Suy nghĩ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến
pháp 1992", Tạp chí Cộng sản, (3).
33. Trần Gia Thắng (2002), Hiến pháp Việt Nam và các luật về tổ chức bộ máy nhà
nước, Nxb. Lao động, Hà Nội.
34. Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2006), Chương trình thực hiện cải cách tư pháp
đến năm 2010 và kế hoạch công tác cải cách tư pháp năm 2006 của ngành Toà
án tỉnh Bắc Ninh, Bắc Ninh.
35. Tỉnh uỷ Bắc Ninh (2003), Sơ kết 2 năm (2003-2004) thực hiện Nghị quyết 08-
NQ/TW của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới”.
36. Tỉnh uỷ Bắc Ninh (2006), Báo cáo Tổng kết 4 năm thực hiện Nghị quyết 08-
NQ/TW của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới”.
37. Tỉnh uỷ Bắc Ninh (2006), Báo cáo tóm tắt dự thảo đề án “Nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên ở
Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh thời kỳ 2006-2010.
38. Tỉnh uỷ Bắc Ninh (2005), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 17, Bắc Ninh.
39. Tỉnh uỷ Bắc Ninh (2006), Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 49-
NQ/TW của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Bắc
Ninh.
40. Đào Trí úc (2005), Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì
dân, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Tư pháp, Nxb. Từ điển
bách khoa, Hà Nội.
42. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý (2000), "Chuyên đề tổng hợp các kiến nghị
khoa học góp phần đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp", Tạp
chí Thông tin khoa học pháp lý, (10).
43. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2006), Báo cáo kết quả công tác kiểm sát
năm 2006 và phương hướng, nhiệm vụ 2007, Bắc Ninh.
44. Nguyễn Văn Vĩnh (2007), Đảng lãnh đạo nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
45. Nguyễn Như ý (1997), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học,
Hà Nội - Đà Nẵng.