ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ VĂN HƢỞNG

KIÓM SO¸T TµI S¶N, THU NHËP CñA C¸N Bé, C¤NG CHøC,

Tõ THùC TIÔN TØNH H¶I D¦¥NG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ VĂN HƢỞNG

KIÓM SO¸T TµI S¶N, THU NHËP CñA C¸N Bé, C¤NG CHøC, Tõ THùC TIÔN TØNH H¶I D¦¥NG Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và luật hành chính Mã số: 8380101.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS PHẠM HỒNG THÁI HÀ NỘI - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong

bất kỳ công trình nào khác. Các thông tin, số liệu và trích dẫn trong

luận văn này được lấy từ nguồn hợp lệ, chính xác và có độ tin cậy.

Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học cũng như đã hoàn

thành tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật

Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để

tôi có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Vũ Văn Hƣởng

LỜI CẢM ƠN

Em xin trân trọng cảm ơn sâu sắc Giáo sƣ, Tiến sĩ Phạm Hồng Thái, đã

đồng hành và hƣớng dẫn em tận tình để em hoàn thành luận văn này.

Em cũng xin trân trọng cảm ơn các thầy cô Khoa Luật – Đại học Quốc

gia Hà Nội đã luôn hỗ trợ, giúp đỡ để em sớm hoàn thành bản luận văn này.

Em cũng chân thành cảm ơn gia đình, ngƣời thân và bạn bè đã luôn

động viên, giúp đỡ em để em hoàn thành luận văn này.

NGƢỜI CAM ĐOAN

Vũ Văn Hƣởng

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT TÀI

SẢN, THU NHẬP CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC ......................... 7

1.1. Khái niệm, vai trò của kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ,

công chức ............................................................................................. 7

1.1.1. Khái niệm kiểm soát thu nhập của cán bộ, công chức ......................... 7

1.1.2. Vai trò của kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức ......... 11

1.2. Nội dung pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ,

công chức ........................................................................................... 15

1.2.1. Pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức ....... 15

1.2.2. Mô hình cơ quan kiểm soát kiểm soát tài sản, thu nhập của cán

bộ, công chức ..................................................................................... 18

1.2.3. Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức .............................................. 20

1.2.4. Kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức ............................... 22

1.2.5. Xác minh tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức ............................ 26

1.2.6. Công bố thông tin về tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức .......... 28

1.2.7. Kiểm soát hành vi rửa tiền và các hành vi khác nhằm che giấu

hoặc hợp pháp hoá tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức ............. 29

1.2.8. Xử lý vi phạm trong kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ,

công chức ........................................................................................... 30

1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu quả kiểm soát tài sản, thu

nhập của cán bộ, công chức ............................................................. 31

1.3.1. Yếu tố chủ quan .................................................................................. 31

1.3.2. Yếu tố khách quan .............................................................................. 33

1.4. Kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức của một số

quốc gia trên thế giới, giá trị tham khảo ........................................ 33

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 .................................................................................. 37

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN KIỂM

SOÁT TÀI SẢN, THU NHẬP CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƢƠNG ........................................... 38

2.1. Thực trạng pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán

bộ, công chức..................................................................................... 38

2.1.1. Khái quát chung về các quy định của pháp luật hiện hành về kiểm

soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức ..................................... 38

2.1.2. Các quy định của pháp luật về cơ quan kiểm soát tài sản, thu

nhập của cán bộ, công chức ............................................................... 40

2.1.3. Các quy định của pháp luật về quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức ....... 42

2.1.4. Các quy định của pháp luật về kê khai tài sản, thu nhập của cán

bộ, công chức ..................................................................................... 48

2.1.5. Các quy định về xác minh tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức ....... 54

2.1.6. Các quy định về công bố thông tin về tài sản, thu nhập của cán

bộ, công chức ..................................................................................... 56

2.1.7. Các quy định về kiểm soát hành vi rửa tiền và các hành vi khác

nhằm che giấu hoặc hợp pháp hoá tài sản, thu nhập của cán bộ,

công chức ........................................................................................... 57

2.1.8. Các quy định về xử lý vi phạm trong kiểm soát tài sản, thu nhập của

cán bộ, công chức ............................................................................... 58

2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về kiểm soát

tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh

Hải Dƣơng ........................................................................................ 60

2.2.1. Đánh giá chung về thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật

về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức trên địa bàn

tỉnh Hải Dƣơng ................................................................................... 60

2.2.2. Nguyên nhân của những vƣớng mắc trong thực tiễn áp dụng các

quy định của pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ,

công chức trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng ............................................. 64

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 .................................................................................. 69

CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, NÂNG CAO

HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT TÀI

SẢN, THU NHẬP CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TRÊN ĐỊA

BÀN TỈNH HẢI DƢƠNG ................................................................. 71

3.1. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về

kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức ....................... 71

3.1.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về quy tắc ứng xử của cán

bộ, công chức ..................................................................................... 71

3.1.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về kê khai tài sản, thu

nhập của cán bộ, công chức ............................................................... 73

3.1.3. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về xác minh tài sản, thu

nhập của cán bộ, công chức ............................................................... 75

3.1.4. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về công bố thông tin tài

sản, thu nhập của cán bộ, công chức .................................................. 76

3.1.5. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về kiểm soát hành vi rửa

tiền và các hành vi khác nhằm che giấu hoặc hợp pháp hoá tài

sản, thu nhập của cán bộ, công chức .................................................. 77

3.1.6. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm trong

kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức ............................ 78

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định của

pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công

chức trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng .................................................. 85

3.2.1. Nâng cao năng lực, hiệu quả làm việc của cơ quan kiểm soát tài

sản, thu nhập của cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng .... 85

3.2.2. Hoàn thiện cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, kênh thông tin trong

công tác kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức trên

địa bàn tỉnh Hải Dƣơng ...................................................................... 86

3.2.3. Nâng cao ý thức pháp luật, tính tự giác của các cán bộ, công chức

trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng ............................................................... 87

3.2.4. Tạo điều kiện tối đa để quần chúng nhân dân tham gia kiểm soát tài

sản, thu nhập của cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng ....... 88

TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 .................................................................................. 90

KẾT LUẬN .................................................................................................... 92

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 95

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức là một trong những

biện pháp hiệu quả nhằm phòng ngừa tham nhũng. Hệ thống các quy định

pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức của Việt Nam

ngày càng hoàn thiện. Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc trong công tác xây

dựng pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức của Việt

Nam, từ thực tiễn áp dụng cho thấy pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập

của cán bộ, công chức vẫn còn bộc lộ những hạn chế sau đây:

Cho đến nay Việt Nam chƣa có một cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập

của cán bộ, công chức thống nhất. Hiện nay, mỗi hệ thống cơ quan (cơ quan

lập pháp, cơ quan hành pháp, toà án, viện kiểm sát, kiểm soát nhà nƣớc) đều

tự kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức thuộc hệ thống cơ quan

mình. Trong hệ thống cơ quan hành pháp, cơ quan thanh tra có nhiệm vụ

kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức thuộc hệ thống cơ quan

hành pháp nhƣng không phải tất cả các cán bộ, công chức thuộc hệ thống cơ

quan hành pháp đều thuộc thẩm quyền kiểm soát về tài sản, thu nhập của cơ

quan thanh tra.

Tiếp đến, các quy định trực tiếp về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán

bộ, công chức cũng còn nhiều vƣớng mắc, chung chung, còn nhiều điểm thiếu

thống nhất. Ví dụ, các quy định về xử lý quà biếu, quà tặng vẫn còn chung

chung. Các quy định về xử lý hành vi vi phạm trong kiểm soát tài sản, thu

nhập của các bộ, công chức chƣa cụ thể nên khó áp dụng trên thực tiễn. Hiện

nay, pháp luật vẫn còn khoảng trống khi chƣa quy định cán bộ, công chức

phải kê khai tài sản, thu nhập khi nghỉ hƣu hoặc thôi giữ chức vụ, quyền hạn.

Thực trạng này đƣợc thể hiện rất rõ trong thực tiễn áp dụng các quy

định của pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức ở các

1

địa phƣơng, trong đó có Hải Dƣơng. Thực tiễn ở các địa phƣơng trong đó có

địa bàn tỉnh Hải Dƣơng cho thấy bên cạnh những vƣớng mắc, hạn chế của

quy định của pháp luật thì năng lực của cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập

của cán bộ, công chức, cơ sở vật chất kỹ thuật, ý thức của cán bộ, công chức

và quần chúng nhân dân cũng có ảnh hƣởng không nhỏ đến hiệu quả của công

tác kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức ở địa phƣơng.

Vì vậy, để nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát tài sản, thu nhập của

cán bộ, công chức ở địa phƣơng, pháp luật cần phải tiếp tục hoàn thiện. Đồng

thời, cần tiếp tục nâng cao năng lực của cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập

của cán bộ, công chức, cơ sở vật chất kỹ thuật, ý thức của cán bộ, công chức

và quần chúng nhân dân.

Những vấn đề này cần đƣợc tiếp tục nghiên cứu và làm sáng tỏ. Vì vậy,

học viên lựa chọn đề tài: “Kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công

chức, từ thực tiễn tỉnh Hải Dương”.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Cho đến nay, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về kê khai

tài sản của cán bộ, công chức dƣới góc độ pháp lý:

Đề tài khoa học cấp bộ “Kiểm soát thu nhập của người có chức vụ,

quyền hạn” do Cục Phòng, chống tham nhũng của Thanh tra Chính phủ thực

hiện [37]; tài liệu Hội thảo khoa học “Những định hướng lớn sửa đổi, bổ sung

toàn diện Luật Phòng chống tham nhũng” do Uỷ ban Tƣ pháp tổ chức năm

2016 [44]; Luận án tiến sĩ luật học “Các tội phạm tham nhũng theo Luật hình

sự Việt Nam” đƣợc Trần Văn Đạt bảo vệ thành công năm 2012 tại Viện khoa

học Xã hội Việt Nam [11]; Sách “Thuế thu nhập cá nhân trên thế giới và

định hướng hoàn thiện ở Việt Nam” của Lê Văn Ái [1]; … Theo đó, các định

nghĩa, khái niệm về thu nhập, về tài sản, về ngƣời có chức vụ, quyền hạn đã

đƣợc các tác giả đƣa ra và phân tích khá sâu sắc trên cơ sở nội dung, đặc điểm

2

của từng vấn đề. Qua định nghĩa kiểm soát tài sản, thu nhập của ngƣời có

chức vụ, quyền hạn đã đƣợc các tác giả phân tích và qua tổng hợp cho thấy,

chúng có một số đặc điểm nhƣ (1) là tập hợp các biện pháp mà nhà nƣớc sử

dụng (các quy định của pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập); (2) nhằm

theo dõi về biến động tài sản, thu nhập của ngƣời có chức vụ, quyền hạn; (3)

nhằm ngăn chặn việc sử dụng quyền lực công để tƣ lợi [37, tr.106]; mục đích,

vai trò của kiểm soát tài sản, thu nhập là nhằm phòng chống tham nhũng,

phòng ngừa xung đột lợi ích, tăng cƣờng tính minh bạch và trách nhiệm giải

trình, thể hiện quyết tâm chính trị của đảng cầm quyền [37, tr.104]. Tuy

nhiên, đến nay chƣa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến định nghĩa, đặc

điểm, tính chất, nội dung của pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của

ngƣời có chức vụ, quyền hạn, tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật

về kiểm soát tài sản, thu nhập của ngƣời có chức vụ, quyền hạn ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, có một số công trình khoa học đã nghiên cứu những khía

cạnh nhất định về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Một số

công trình tiêu biểu nhƣ:

Bài viết: “Pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức

vụ, quyền hạn kiến nghị sửa đổi luật phòng, chống tham nhũng” của Hoàng

Nam Hải đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 19 năm 2017 [18].

Bài viết: “Về thẩm quyền kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức

vụ, quyền hạn trong luật phòng, chống tham nhũng (sửa đổi)” của Hoàng

Nam Hải đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số (19) năm 2018 [19].

Bài viết: “Quy định về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công

chức trong luật phòng, chống tham nhũng sửa đổi: Các quan điểm khác nhau

và giải pháp lựa chọn” của Đỗ Thu Huyền đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập

pháp số (11) năm 2018 [24].

3

Bài viết: “Pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức

vụ, quyền hạn trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay” của Vũ Công Giao & Đỗ

Thu Huyền đăng trên Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số (12) năm 2016 [15].

Các nghiên cứu đã công bố này đã giải quyết đƣợc một số vấn đề lý

luận và thực tiễn về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Tuy

nhiên, cho đến nay chƣa có công trình nào nghiên cứu về kiểm soát tài sản,

thu nhập của cán bộ, công chức từ thực tiễn tỉnh Hải Dƣơng. Vì vậy, đề tài:

“Kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, từ thực tiễn tỉnh Hải

Dương” vẫn có tính mới và thời sự.

3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn

Luận văn có mục đích là nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp luật

về kiểm soát tài sản của cán bộ, công chức; phân tích thực trạng thực hiện

pháp luật về kiểm soát tài sản của cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Hải

Dƣơng; đƣa ra đề xuất nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về kiểm soát

tài sản của cán bộ, công chức; nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về kiểm

soát tài sản thu nhập của cán bộ, công chức.

Để thực hiện đƣợc mục đích trên, luận văn sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, về lý luận: luận văn sẽ làm sáng tỏ vai trò của kiểm soát tài

sản, thu nhập của cán bộ, công chức; nội dung của pháp luật về kiểm soát tài

sản của cán bộ, công chức; và các yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu quả kiểm soát

tài sản của cán bộ, công chức.

Thứ hai, về thực tiễn: luận văn chỉ ra những kết quả đạt đƣợc cũng nhƣ

những vƣớng mắc, tồn tại trong thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật

về kiểm soát tài sản của cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng.

Thứ ba, luận văn đƣa ra một số giải pháp hoàn thiện quy định của pháp

luật và nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định của pháp luật về kiểm soát

tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng.

4

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật về

kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức và thực tiễn thực hiện các

quy định của pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức

trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng.

Phạm vi nghiên cứu: Về không gian: trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng. Về

thời gian: từ năm 2015 cho đến nay.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy

vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí

Minh về phòng chống tham nhũng, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về

đấu tranh phòng, chống tham nhũng.

Để thực hiện các nội dung của luận văn, học viên sử dụng các phƣơng

pháp nhƣ: phƣơng pháp phân tích, tổng hợp; phƣơng pháp thống kê; phƣơng

pháp nghiên cứu thực tế; phƣơng pháp so sánh và các phƣơng pháp khác.

6. Tính mới và những đóng góp của luận văn

Luận văn có những điểm mới và đóng góp sau đây:

Thứ nhất, trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu của những ngƣời đi

trƣớc, học viên đã xây đƣợc một cách có hệ thống nội dung pháp luật về kiểm

soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức: (1) Mô hình cơ quan kiểm soát

tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức; (2) Quy tắc ứng xử của cán bô, công

chức (ứng xử với quà biếu, quà tặng; xung đột lợi ích); (3) Kê khai, xác minh

tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức; (4) Phòng, chống rửa tiền; (5) Xử lý

vi phạm pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.

Thứ hai, luận văn chỉ ra đƣợc những kết quả đạt đƣợc cũng nhƣ những

tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại đó trong thực tiễn thực hiện các quy

định của pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.

5

Thứ ba, luận văn đƣa ra đƣợc một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về

kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức và một số giải pháp nâng

cao hiệu quả thực hiện quy định của pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập

của cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội

dung của luận văn gồm 3 chƣơng:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán

bộ, công chức.

Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn kiểm soát tài sản, thu nhập

của cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng.

Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện

các quy định của pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công

chức trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng.

6

CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT TÀI SẢN, THU NHẬP

CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC

1.1. Khái niệm, vai trò của kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ,

công chức

1.1.1. Khái niệm kiểm soát thu nhập của cán bộ, công chức

Tài sản, thu nhập những thuật ngữ đƣợc sử dụng phổ biến, nhƣng tùy

theo cách tiếp cận khác nhau,mà có những quan điểm khác nhau. Tài sản là

“Các vật có giá trị bằng tiền và là đối tƣợng của quyền tài sản và các lợi ích

vật chất khác. Tài sản bao gồm vật có thực, vật đang tồn tại và sẽ có nhƣ hoa

lợi, lợi tức, vật sẽ đƣợc chế tạo theo mẫu đã đƣợc thỏa thuận giữa các bên,

tiền và các giấy tờ trị giá đƣợc bằng tiền và quyền tài sản” [8, tr. 834]; tài sản

“Thuật ngữ chỉ tất cả những gì có giá trị tiền tệ thuộc sở hữu của một cá nhân,

một đơn vị hoặc nhà nƣớc, có thể dùng đƣợc để trả nợ, sản xuất ra hàng hóa

hay tạo ra lợi nhuận bằng cách nào đó” [21, tr. 32]; tài sản đƣợc hiểu là “vật,

tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động

sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành

trong tƣơng lai” (Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015). Từ những quan điểm

nêu trên có thể thấy, có hai yếu tố tạo nên tài sản:i) những giá trị vật chất tính

đƣợc, quyền tài sản hoặc lợi ích đƣợc hình thành trong tƣơng lai ii) đƣợc

kiểm soát bởi cá nhân, tổ chức hợp pháp, trong đó quyền chủ thể đối với tài

sản là yếu tố quan trọng nhất tạo nên khái niệm về tài sản. Nhƣ vậy, có thể

hiểu: tài sản là những giá trị vật chất – các lợi ích do một thực thể chiếm hữu

nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, kinh doanh.

Về thu nhập cũng có nhiều quan niệm khác nhau. Thu nhập là “... nhận

đƣợc tiền nong, của cải từ một hoạt động nào đó để chi dùng cho cuộc sống”

7

[29, tr. 234]; thu nhập là: “khoản của cải thƣờng đƣợc tính thành tiền mà một cá

nhân, một doanh nghiệp hoặc một nền kinh tế nhận đƣợc trong một khoảng thời

gian nhất định từ công việc, dịch vụ hoặc hoạt động nào đó” [54, tr. 725, 726]

Nhƣ vậy, có thể hiểu thu nhập là tất cả các giá trị vật chất mà một chủ thể

nhận đƣợc, thu đƣợc trong một một khoảng thời gian nhất định, không phân

biệt nguồn phát sinh thu nhập.

Giữa tài sản và thu nhập của một chủ thể có mối liên hệ mật thiết,

nhƣng không đồng nhất. Thu nhập là giá trị, lợi ích nhận đƣợc do lao động

chính đáng mang lại, hoặc đƣợc tặng cho, thừa kế trong một khoảng thời gian

nhất định, là nguồn vật chất tạo nên tài sản, ngoài ra tài sản có đƣợc còn có

thể do đƣợc tặng cho, đƣợc thừa kế v.v. Đối với cán bộ, công chức, những

ngƣời hƣởng lƣơng từ ngân sách nhà nƣớc là nguồn thu căn bản, ngoài ra có

thể có những nguồn thu hợp pháp khác. Do đó tài sản mà họ có đƣợc về

nguyên tắc phải tƣơng xứng với thu nhập hợp pháp của họ. Nhƣ vậy, có thể

so sánh giữa tài sản đang có với thu nhập hợp pháp mà một cán bộ, công chức

có thể nhận đƣợc trong khoảng thời gian nhất định để tìm ra mối tƣơng đồng

giữa tài sản và thu nhập, qua đó thấy đƣợc những tài sản có nguồn gốc từ thu

nhập bất hợp pháp (có thể là do tham nhũng mà có) và áp dụng các biên pháp

xử lý phù hợp, góp phần phòng ngừa, ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng.

Theo Khoản 1 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2008:

Cán bộ là công dân Việt Nam, đƣợc bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm

giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng

Cộng sản Việt Nam, Nhà nƣớc, tổ chức chính trị - xã hội ở trung

ƣơng, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng (sau đây gọi chung

là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây

gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hƣởng lƣơng từ ngân

sách nhà nƣớc.

8

Theo Khoản 3 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2008:

Cán bộ xã, phƣờng, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công

dân Việt Nam, đƣợc bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong

Thƣờng trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thƣ, Phó Bí

thƣ Đảng ủy, ngƣời đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội.

Theo khoản 2 Điều 4 Luật cán bộ, công chức năm 2008, đã đƣợc sửa

đổi, bổ sung năm 2019:

Công chức là công dân Việt Nam, đƣợc tuyển dụng, bổ nhiệm vào

ngạch, chức vụ, chức danh tƣơng ứng với vị trí việc làm trong cơ

quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nƣớc, tổ chức chính trị -

xã hội ở trung ƣơng, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị

thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân

chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc

Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan phục vụ

theo chế độ chuyên nghiệp, công nhân công an, trong biên chế và

hƣởng lƣơng từ ngân sách nhà nƣớc. Công chức cấp xã là công dân

Việt Nam đƣợc tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp

vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hƣởng lƣơng từ

ngân sách nhà nƣớc.

Theo chủ đề của luận văn, tất cả các đối tƣợng này đều chịu sự kiểm

soát tài sản, thu nhập.

Theo Từ điển Tiếng Việt, “kiểm soát” là “xem xét để phát hiện, ngăn

chặn những gì trái với quy định” [53, tr. 674]. Điều đó có nghĩa việc kiểm

soát đƣợc tiến hành dựa trên co sở những chuẩn mực đã đƣợc định trƣớc.

Đồng thời căn cứ vào các quy định để xác định các đối tƣợng thuộc phạm vi

kiểm soát và chủ động tiến hành theo dõi các hành vi của chủ thể nhằm phát

hiện những dấu hiệu vi phạm các quy tắc chung đã thừa nhận. Nếu chủ thể có

9

hành vi vi phạm, gây ảnh hƣởng đến các nguyên tắc kiểm soát đã đặt ra thì

tùy từng trƣờng hợp sẽ bị áp dụng các chế tài hình sự, hành chính, kỷ luật,

hoặc dân sự để xử lý. Thuật ngữ “kiểm soát” rất gần gũi với “giám sát”. Giám

sát đƣợc hiểu là:

Sự theo dõi, kiểm tra việc thực hiện những điều đã quy định [53, tr. 507],

hay là: sự theo dõi mang tính chủ động thƣờng xuyên của cơ quan,

tổ chức hoặc nhân dân với hoạt động của các đối tƣợng chịu sự

giám sát và tác động bằng các biện pháp tích cực để hƣớng các hoạt

động đó đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt đƣợc mục đích, hiệu

quả đã đƣợc xác định từ trƣớc [52, tr. 292].

Những không đồng nhất giữa “kiểm soát” và “giám sát”, đây là những

hiện tƣợng có những khác biệt. Khi giám sát, chủ thể giám sát thƣờng hƣớng

các đối tƣợng chịu sự giám sát thực hiện đúng các quy định để đạt đƣợc kết

quả. Trong khi đó, kiểm soát không chỉ dừng lại ở việc yêu cầu thực hiện

các hệ quả đƣợc mô tả mà còn xem xét hành động dựa trên lẽ phải, sự công

bằng và trong trƣờng hợp nhất định sẽ thực hiện mục đích ngăn chặn, loại bỏ

những hoạt động sai trái, vi phạm. Mặt khác, giám sát thƣờng chỉ dừng lại ở

việc phát hiện các hành vi và khuyến nghị đối tƣợng chịu sự giám sát thực

hiện đúng pháp luật, trƣờng hợp có vi phạm nghiêm trọng thì kiến nghị cơ

quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý; còn trong kiểm soát, chủ thể

thực hiện chức năng kiểm soát sẽ trực tiếp xem xét, áp dụng một số biện

pháp ngăn chặn và đƣa ra hoặc kiến nghị xử lý theo thẩm quyền và đúng quy

định của pháp luật.

Khái niệm kiểm soát rộng hơn giám sát, bao hàm giám sát. Ngoài giám

sát, kiểm soát còn bao hàm cả kiểm tra, thanh tra [34, tr. 290 - 291]. Giám sát,

kiểm tra, thanh tra là những phƣơng thức đƣợc sử dụng để kiểm soát.

10

Trên cơ sở những vấn đề nêu trên về tài sản, thu nhập, cán bộ, công

chức, về kiểm soát có thể hiểu: Kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công

chức là tổng thể những biện pháp, cách thức mà cơ quan, tổ chức, người có

thẩm quyền sử dụng để theo dõi, nhận biết, đánh giá sự biến động, nguồn gốc

tài sản, thu nhập của một cán bộ, công chức trong một khoảng thời gian nhát

định, qua đó áp dụng hoặc đề nghị áp dụng biện pháp phòng ngừa, ngăn

chặn, xử lý vi phạm.

1.1.2. Vai trò của kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức

Khi hoạt động công vụ, cán bộ, công chức đƣợc giao quyền tƣơng xứng

với nhiệm vụ, hay nói cách khác khi thực thi công vụ, công chức có những

phƣơng tiện nhất định để thực hiện nhiệm vụ đƣợc giao. Phƣơng tiện đó chính

là các quyền năng mà cán bộ, công chức có đƣợc. Ví dụ, công chức phòng

đăng ký kinh doanh có quyền trả lại hồ sơ của ngƣời nộp nếu xét thấy hồ sơ

không phù hợp với quy định của pháp luật. Thanh tra văn hoá có quyền lập

biên bản đối với cơ sở kinh doanh lắp đặt biển quảng cáo lấn chiếm vỉa hè…

Trong nhiều trƣờng hợp, việc thực hiện các quyền đó đƣợc thể hiện bởi các

quyết định, hành vi hành chính có tính mệnh lệnh, bắt buộc và cƣỡng chế. Đối

tƣợng chịu tác động của quyết định, hành vi hành chính phải phục tùng mệnh

lệnh. Với những cán bộ, công chức chí công vô tƣ, thực hiện quyền lực vì kỷ

cƣơng, phép nƣớc, tuân thủ và thƣợng tôn pháp luật thì rõ ràng các quyết định

hành vi, hành chính nghiêm minh, đúng đắn sẽ góp phần tạo lập và duy trì

một nền hành chính công minh bạch, lành mạnh. Một nền hành chính công

minh bạch, lành mạnh sẽ góp phần tạo niềm tin cho công chúng, thúc đẩy

phát triển kinh tế, lành mạnh hoá và nâng cao đời sống xã hội. Ngƣợc lại, nếu

cán bộ, công chức lợi dụng hoặc lạm dụng quyền lực để trục lợi sẽ ảnh hƣởng

nghiêm trọng đến uy tín của nhà nƣớc, làm xói mòn nền hành chính công, làm

mất niềm tin của quần chúng nhân dân. Cán bộ, công chức tha hoá sẽ lợi dụng

11

hoặc lạm dụng quyền lực để trục lợi, thu vén cho bản thân và gia đình mà gây

thiệt hại cho Nhà nƣớc và xã hội về vật chất và tinh thần. Vì lẽ đó, kiểm soát

tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức là một trong những công cụ cần thiết

để: kiểm soát xung đột lợi ích của cán bộ, công chức khi thi hành công vụ;

bảo đảm tính minh bạch khi thi hành công vụ; tạo niềm tin của nhân dân đối

với ngƣời thi hành công vụ; và ngăn ngừa và kiểm soát tham nhũng. Vai trò

của kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức đƣợc thể hiện ở những

điểm căn bản sau đây:

Một là: Kiểm soát xung đột lợi ích khi thi hành công vụ

Xung đột lợi ích phát sinh khi lợi ích cá nhân của cán bộ, công chức

xung đột với nhiệm vụ thực hiện công vụ [60, tr. xviii]. Về mặt nguyên tắc,

cán bộ, công chức không đƣợc có xung đột lợi ích khi thực hiện công vụ.

Trong thực thi công vụ, lợi ích của nhà nƣớc (lợi ích công cộng) phải là lợi

ích cao nhất mà công chức phải phục vụ. Ví dụ, cán bộ, công chức Lợi ích cá

nhân của cán bộ, công chức có thể là lợi ích vật chất nhƣ một khoản tiền, một

tài sản mà cán bộ, công chức nhận đƣợc hoặc sẽ nhận đƣợc. Lợi ích cá nhân

của cán bộ, công chức cũng có thể là lợi ích phi vật chất, nhƣ việc sắp xếp

cho ngƣời thân thích của cán bộ, công chức vào học một trƣờng víp hoặc vào

một vị trí công việc “màu mỡ”. Có thể nói rằng những khoản lợi ích vật chất

có sức hấp dẫn khó thể cƣỡng lại đƣợc bởi không ít ngƣời. Trong sự so sánh

tƣơng quan với mức thu nhập chính của công chức (lƣơng + phụ cấp +

thƣởng (nếu có)) với nhu cầu sinh hoạt hàng ngày, không ít ngƣời không

tránh khỏi những cám dỗ của vật chất. Trong nhiều trƣờng hợp, do không

thắng nổi sức hấp dẫn của vật chất, một số cán bộ, công chức đã đánh đổi uy

tín, danh dự của cá nhân cũng nhƣ uy tín của cơ quan, Nhà nƣớc để đạt đƣợc

lợi ích vật chất. Trong trƣờng hợp này, thay vì thực hiện nghiêm chỉnh quy

định của pháp luật khi thi hành công vụ, cán bộ, công chức đã vi phạm để làm

12

lợi cho mình hoặc ngƣời khác. Ví dụ: một công chức thuế nhận hối lộ để bỏ

qua cho hành vi gian lận thuế của doanh nghiệp.Ví dụ khác, công chức quản

lý văn hoá hợp tác với cá nhân khác mở quán karaoke ở trên địa bàn thuộc

thẩm quyền mình quản lý. Về mặt logic, với mức thu nhập chính thức do ngân

sách nhà nƣớc chi trả (trừ khi cán bộ, công chức đƣợc ngƣời thân để lại tài

sản thừa kế hoặc tặng cho tài sản), cán bộ, công chức khó mà có một khối tài

sản có giá trị lớn hơn so với thu nhập chính thức của mình. Vì vậy, việc kiểm

soát tài sản, thu nhập của công chức nhằm ngăn chặn phát hiện ra hiện tƣợng

xung đột lợi ích để từ đó chấn chỉnh lề lối, tác phong và trách nhiệm của cán

bộ, công chức.

Hai là: Bảo đảm tính minh bạch khi thi hành công vụ

Minh bạch là một trong những nguyên tắc căn bản trong thực hành

công vụ. Minh bạch có nghĩa là khi đƣa ra các quyết định và thực hành các

quyết định, nhà nƣớc phải tuân thủ các luật lệ và quy tắc [14, tr. 16]. Sự

minh bạch đƣợc thể hiện ở chỗ các thông tin về quá trình ra cũng nhƣ thực

hiện quyết định phải đƣợc công khai, đặc biệt là công khai cho đối tƣợng

chịu tác động trực tiếp của quyết định. Sự minh bạch cũng đòi hỏi, mọi căn

cứ bao gồm cơ sở pháp lý, chứng cứ để ra và thực hiện quyết định phải đầy

đủ, rõ ràng và công khai. Nhƣ vậy, mọi hành vi quyết định hành chính của

cán bộ, công chức khi thực hành công vụ phải tƣờng minh, rõ ràng và công

khai. Sự minh bạch góp phần ngăn chặn các hành vi sai trái khi thi hành

công vụ của công chức. Nhƣ vậy, việc kiểm soát tài sản, thu nhập của công

chức góp phần làm minh bạch hoá các khoản lợi ích, tài sản của cán bộ,

công chức. Sự minh bạch tài sản và các khoản thu nhập của công chức cũng

góp phần làm cho cán bộ, công chức phải tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật

thi hành công vụ, tƣờng minh và công khai các quyết định, hành vi của mình

theo đúng quy định của pháp luật.

13

Ba là: Tạo niềm tin của nhân dân đối với người thi hành công vụ

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói cán bộ là “công bộc của nhân dân”.

Câu nói này vẫn hoàn toàn đúng cho đến ngày nay. Trong xã hội, Nhà nƣớc là

một thiết chế có chức năng quản lý xã hội nhằm bảo đảm xã hội vận hành

theo một trật tự nhất định. Bộ máy nhà nƣớc đƣợc vận hành bởi những ngƣời

chuyên nghiệp, đó chính là cán bộ, công chức. Họ thực hiện những nhiệm vụ

quyền hạn do Nhà nƣớc giao để quản lý xã hội. Những cán bộ, công chức

chuyên nghiệp này đƣợc hƣởng lƣơng từ ngân sách nhà nƣớc. Trong khi

nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nƣớc là từ thuế do nhân dân đóng góp

theo quy định của pháp luật. Nhƣ vậy, cuối cùng, chính nhân dân là ngƣời

“nuôi” cán bộ, công chức. Vì vậy, nhân dân phải có quyền giám sát cán bộ,

công chức. Nhân dân cần phải biết rằng cán bộ, công chức có tận tâm, mẫn

cán, có trách nhiệm khi thi hành công vụ vì lợi ích của công cộng hay không?

Nhƣ vậy, ngoài việc minh bạch hoạt động công vụ thì việc minh bạch hoá tài

sản và thu nhập của cán bộ, công chức cũng giúp cho nhân dân hiểu đƣợc sự

liêm khiết, cần kiệm của cán bộ, công chức. Từ đó, nhân dân thêm tin tƣởng

và ủng hộ ngƣời thi hành công vụ.

Bốn là: Ngăn ngừa và kiểm soát tham nhũng

Theo khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018,“Tham

nhũng là hành vi của ngƣời có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền

hạn đó vì vụ lợi”, có những tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế - xã hội:

Thứ nhất, tham nhũng tạo ra lợi thế cạnh tranh không công bằng, không

bình đẳng giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế, có một hoặc

nhóm chủ thể kinh doanh đƣợc bảo trợ bởi cán bộ, công chức thoái hoá, biến

chất sẽ có lợi thế cạnh tranh không công bằng so với các chủ thể khác.

Thứ hai, tham nhũng có nguy cơ gây ra những khiếm khuyết trong trật

tự quản lý hành chính, cán bộ, công chức thoái hoá, biến chất vì vụ lợi có thể

14

thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hoặc lợi dụng sơ hở của pháp luật gây

thực hiện các quyết định, hành vi làm lợi bất chính cho một chủ thể cụ thể

nhƣng gây ảnh hƣởng xấu đến lợi ích chung. Ví dụ, cán bộ, công chức địa

phƣơng làm ngơ cho quán karaoke chứa chấp mại dâm gây ảnh hƣởng đến an

ninh trật tự địa phƣơng.

Thứ ba, tham nhũng làm mất niềm tin của nhân dân đối với Nhà nƣớc

và chế độ.

Vì vậy, phòng và chống tham nhũng có liên quan đến sự tồn vong của

chế độ. Do đó, phòng và chống tham nhũng là nhiệm vụ quan trọng và cấp

thiết của Đảng và Nhà nƣớc ta. Liên quan đến phòng và chống tham nhũng,

kiểm soát tài sản và thu nhập của cán bộ, công chức có mục tiêu: Minh bạch

hoá thu nhập và tài sản của cán bộ, công chức, bắt buộc cán bộ, công chức

phải kê khai đầy đủ tài sản và nguồn thu nhập của mình; trên cơ sở thông tin

tài sản của cán bộ, công chức, cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, tổ chức

chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và nhân dân nắm phát hiện đƣợc tham

nhũng; Chính sách bắt buộc kê khai tài sản và thu nhập cũng góp phần ngăn

ngừa tham nhũng. Bởi lẽ, việc tham nhũng có thể sẽ bị bại lộ khi toàn bộ các

nguồn thu nhập và tài sản của cán bộ, công chức phải đƣợc công khai chính

xác và đầy đủ.

1.2. Nội dung pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ,

công chức

1.2.1. Pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức

Cơ chế kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức không thể chỉ

là những nội dung chung chung mang tính định hƣớng mà phải đƣợc thể chế

hoá bằng hệ thống các quy định của pháp luật. Nhƣ vậy, tổng thể các quy

phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ pháp luật về kiểm soát tài sản, thu

nhập của cán bộ, công chức là pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của

cán bộ, công chức.

15

1.2.1.1. Pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức

Pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức điều

chỉnh mối quan hệ giữa cơ quan nhà nƣớc, ngƣời có thẩm quyền với cán bộ,

công chức trong kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Vì vậy,

nguồn luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức bao gồm:

Thứ nhất, Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nƣớc. Hiến pháp đƣa

ra các nguyên tắc cơ bản điều chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nƣớc và công dân.

Trong đó, Hiến pháp đƣa ra nguyên tắc về chuẩn mực hành vi của cán bộ,

công chức làm kim chỉ nam cho mọi hành động của cán bộ, công chức.

Nguyên tắc này là cơ sở để xây dựng các quy phạm pháp luật về kiểm soát tài

sản của cán bộ, công chức.

Thứ hai, trên cơ sở Hiến pháp, Quốc hội sẽ ban hành các đạo luật quy

định về chuẩn mực hành vi của cán bộ, công chức. Thông thƣờng các quy

định này đƣợc quy định trong luật cán bộ, công chức. Vấn đề đặt ra là các quy

định về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức nên nằm trong đạo

luật về cán bộ, công chức hay cần thiết đƣa vào trong một đạo luật độc lập.

Về vấn đề này, không có một công thức chung. Tuỳ từng quốc gia mà sẽ lựa

chọn giải pháp các quy định về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công

chức là một bộ phận nằm trong luật cán bộ, công chức hay là nằm trong một

đạo luật độc lập. Tuy nhiên, việc đƣa quy định về kiểm soát tài sản, thu nhập

của cán bộ, công chức vào luật chung về cán bộ, công chức hay tách riêng

thành một đạo luật không phải là vấn đề quá quan trọng, vấn đề quan trọng là

chất lƣợng của các quy định đó nhƣ thế nào.

Thứ ba, trên cơ sở các quy định về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán

bộ, công chức ở cấp độ văn bản luật, Chính phủ sẽ ban hành Nghị định và

Bộ quản lý chuyên ngành sẽ ban hành Thông tƣ hoặc phối hợp với các Bộ có

liên quan ban hành Thông tƣ liên tịch về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán

bộ, công chức.

16

Thứ tƣ, bên cạnh các văn bản quy phạm pháp luật đƣợc nêu ở trên, còn

có các án lệ của Toà án. Các án lệ này đƣợc hình thành trong quá trình toà án

xét xử các vụ án hành chính liên quan đến kiểm soát tài sản, thu nhập của cán

bộ, công chức.

1.2.1.2. Nội dung pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ,

công chức

Nội dung đầu tiên của pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán

bộ, công chức là mô hình kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.

Có nghĩa là pháp luật phải trả lời đƣợc câu hỏi cơ quan nào chịu trách nhiệm

kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức? Việc kiểm soát, tài sản

thu nhập của cán bộ, công chức nên tập trung vào một cơ quan hay là phân

bổ cho nhiều cơ quan? Cơ quan kiểm soát thu nhập, tài sản của cán bộ, công

chức nên thuộc hệ thống cơ quan hành chính nhà nƣớc hay cần là một cơ

quan độc lập? cơ quan quan kiểm soát thu nhập, tài sản của cán bộ, công

chức nên là cơ quan thuộc chính phủ hay là một cơ quan nằm trong một cơ

quan bộ hoặc ngang bộ?

Tiếp theo, pháp luật cần quy định rõ cán bộ, công chức nào có nghĩa vụ

kê khai tài sản, thu nhập. Về vấn đề này, pháp luật có nên quy định tất cả các

cán bộ, công chức đều phải kê khai tài sản, thu nhập hay một số chức danh

cán bộ, công chức đƣợc miễn nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập? Ngoài ra,

ngƣời thân thích, những ngƣời có mối quan hệ gắn bó với cán bộ, công chức

có phải kê khai tài sản, thu nhập không?

Pháp luật cần quy định chế tài đối với hành vi không kê khai hoặc kê

khai không đầy đủ, không đúng các thông tin về tài sản của cán bộ, công chức.

Tiếp đến, pháp luật cần giải đáp câu hỏi, cán bộ, công chức phải kê

khai những nội dung gì? Tất cả các tài sản và thu nhập, nguồn gốc của tài sản,

thu nhập, nội dung giao dịch? Ngƣời giao dịch?

17

Thủ tục kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức: Pháp luật cần

xây dựng quy trình bao gồm thủ tục, mẫu văn bản, giấy tờ kê tài sản, thu nhập

của cán bộ, công chức. Việc kê khai đƣợc thực hiện định kỳ hay bất thƣờng,

các bƣớc tiến hành kê khai. Ngoài ra, pháp luật cũng cần thiết kế cơ chế xác

minh tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.

Vấn đề tiếp theo, liệu rằng thông tin về tài sản, thu nhập của cán bộ,

công chức có đƣợc công bố ra công chúng không? Theo thủ tục nào? Những

thông tin nào đƣợc công bố cho công chúng và những thông tin nào không

đƣợc công bố cho công chúng.

Cuối cùng là thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo và giải quyết tranh

chấp hành chính liên quan đến việc kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ,

công chức.

1.2.2. Mô hình cơ quan kiểm soát kiểm soát tài sản, thu nhập của cán

bộ, công chức

Về mô hình kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, hiện nay

trên thế giới có 2 mô hình phổ biến: Mô hình kiểm soát bên trong (internal

arrangement) và mô hình kiểm soát bên ngoài (outside arrangement).

Mô hình kiểm soát bên trong: Theo mô hình này thì ngƣời đứng đầu

cơ quan, đơn vị sẽ là chủ thể có thẩm quyền kiểm soát tài sản, thu nhập của

cán bộ, công chức thuộc biên chế của đơn vị. Mô hình này có thuận tiện là

cán bộ, công chức sẽ kê khai tài sản, thu nhập trực tiếp với ngƣời quản lý

của mình. Ngƣời quản lý trực tiếp cán bộ, công chức là ngƣời gần gũi cán

bộ, công chức nên hiểu đƣợc hoàn cảnh thực tế của cán bộ, công chức và từ

đó có thể đánh giá đƣợc tính trung thực của thông tin đƣợc kê khai. Tuy

nhiên, điểm hạn chế của mô hình này là sẽ không tránh đƣợc những trƣờng

hợp ngƣời quản lý bao che cho cấp dƣới của mình vì vậy mục đích của kiểm

soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức không đạt đƣợc. Mô hình kiểm

18

soát bên trong phù hợp việc kiểm soát tài sản, thu nhập của đại biểu quốc hội,

nghị viên, thành viên nội các,…

Mô hình kiểm soát bên ngoài: Mô hình kiểm soát bên ngoài là mô hình

mà tồn tại một cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức độc

lập với cơ quan, đơn vị nơi cán bộ, công chức có biên chế và làm việc. Vấn đề

đặt ra là cơ quan này là cơ quan thuộc hệ thống cơ quan hành pháp hay là một

cơ quan độc lập với cơ quan hành pháp. Rõ ràng, nếu tồn tại một cơ quan kiểm

soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức thì để bảo đảm khách quan, cơ

quan này phải là cơ quan độc lập với cơ quan hành pháp và cơ quan tƣ pháp.

Nhƣ vậy, cơ quan này phải là cơ quan do Quốc hội hoặc Nghị viện thành lập.

Ngoài ra có mô hình hỗn hợp, theo đó ở mỗi nhánh quyền lực sẽ có có

bộ máy kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức riêng [15, tr. 28].

Một vấn đề lý luận cần đặt ra là liệu rằng cơ quan thuế có tham gia vào

hoạt động kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức không? Nói cách

khác, cơ quan quản lý thuế có tham gia, phối hợp với các cơ quan có thẩm

quyền trong kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức là đối tƣợng

nộp thuế hay không? Theo nguyên tắc, tài sản hoặc thu nhập phát sinh của

cán bộ, công chức có thể là đối tƣợng chịu thuế. Vì vậy, cơ quan quản lý thuế

cũng tham gia quản lý tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức với tƣ cách là

đối tƣợng chịu thuế. Vì vậy, cơ quan thuế cũng nắm rất rõ thông tin về tài sản,

thu nhập chịu thuế: Giá trị của tài sản, thu nhập, nguồn gốc của tài sản, thu

nhập, … Vì vậy, sự phối hợp của cơ quan thuế là rất cần thiết. Vấn đề đặt ra

là cơ quan thuế sẽ tham gia chủ động hay thụ động. Nếu cơ quan thuế tham

gia chủ động thì sẽ tạo một kênh thông tin tích cực giữa cơ quan thuế và cơ

quan có thẩm quyền kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Theo

đó, mọi thông tin về thuế thu nhập và các thuế khác liên quan đến tài sản và

thu nhập của cán bộ, công chức sẽ tự động chuyển cho cơ quan có thẩm

19

quyền kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Nếu cơ quan thuế

tham gia thụ động thì chỉ khi có yêu cầu, các thông tin về thuế liên quan đến

tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức mới đƣợc cung cấp cho cơ quan có

thẩm quyền kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Có lẽ, nên quy

định cơ quan thế phải chủ động tham gia kiểm soát tài sản, thu nhập của cán

bộ, công chức. Hơn nữa, các hồ sơ, tài liệu mà cán bộ, công chức hoặc ngƣời

thân thích nộp cho cơ quan thuế đƣợc sử dụng để xác minh tài sản, thu nhập

của cán bộ, công chức.

1.2.3. Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức

Khoản 2 Điều 8 Hiến pháp năm 2013 quy định:

Các cơ quan nhà nƣớc, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng

Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân

dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết

đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu,

hách dịch, cửa quyền.

Đây là nguyên tắc Hiến định trong việc xây dựng chuẩn mực ứng xử

của cán bộ, công chức, trong đó nêu rõ cán bộ, công chức phải “kiên quyết

đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch,

cửa quyền”.

Các quy tắc ứng xử đối với cán bộ, công chức trong đó các quy tắc cụ

thể hoá nguyên tắc hiến định: “kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng

phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền” là công cụ giáo dục,

ngăn ngừa cán bộ, công chức khỏi hành vi tham nhũng. Rõ ràng, Đảng, Nhà

nƣớc và nhân dân không mong muốn phải xử lý cán bộ, công chức trong quá

trình kiểm tra, thanh tra tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Điều mà

Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân mong muốn là các cán bộ, công chức nghiêm

chỉnh thực hiện chuẩn mực ứng xử. Những tài sản, thu nhập của cán bộ, công

20

chức có nguồn gốc hợp pháp, chính đáng, phù hợp với nỗ lực của cán bộ,

công chức. Vì lẽ đó, bộ quy tắc ứng xử là sổ tay hành động của cán bộ, công

chức. Trong mọi hành vi của mình cán bộ, công chức đều phải nhất tuân theo

cuốn sổ tay hành động. Nếu đƣợc nhƣ vậy, việc kiểm tra tài sản, thu nhập của

cán bộ, công chức chỉ mang tính đánh giá sự nỗ lực tuân thủ chuẩn mực ứng

xử của cán bộ, công chức mà thôi. Và nhƣ vậy một nền hành chính trong

sạch, vững mạnh không phải là câu chuyện trong mơ.

Về mặt nguồn gốc, bộ quy tắc ứng xử đƣợc Hiến pháp thừa nhận về mặt

nguyên tắc. Trên cơ sở đó, luật cán bộ, công chức và luật về phòng chống tham

nhũng sẽ khái quát hoá những chuẩn mực. Tiếp đến, tuỳ theo đặc thù mỗi

ngành mà ngƣời đứng đầu ngành sẽ ban hành ra các quy tắc ứng xử cụ thể.

Về mặt nội dung, liên quan đến việc cụ thể hoá nguyên tắc “kiên quyết

đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch,

cửa quyền”, quy tắc ứng xử đòi hỏi:

Thứ nhất, cán bộ, công chức phải có nghĩa vụ từ chối nhận quà biếu,

quà tặng dƣới bất kỳ hình thức nào. Cán bộ, công chức khi thi hành công vụ

là đang nhân danh Nhà nƣớc để thực hiện các hành vi nhất định. Vì vậy, để

tránh các hành vi của cán bộ, công chức bị ảnh hƣởng bởi quà biếu, quà tặng

hoặc lời hứa tặng quà, biếu quà, quy tắc không cho phép cán bộ, công chức

nhận quà biếu, quà tặng tại bất kỳ thời điểm nào và vì bất kỳ lý do nào.

Thứ hai, cán bộ, công chức không đƣợc đƣa mình vào tình trạng xung

đột lợi ích khi thi hành công vụ. Khi xét thấy mình trong tình trạng xung đột

lợi ích, cán bộ, công chức phải báo cáo với cấp trên để có phƣơng án xử lý

(thay thế, tạm đình chỉ, đình chỉ ngƣời có xung đột lợi ích thực hành công

vụ). Nếu trong hoàn cảnh, không thể có ngƣời thay thế, tạm đình chỉ hoặc

đình chỉ cán bộ, công chức thì cán bộ, công chức phải thi hành nhiệm vụ một

cách vô tƣ, khách quan và mẫn cán nhƣ không có xung đột lợi ích. Ví dụ,

21

công chức làm thủ tục đăng ký nhà đất đƣợc giao xử lý hồ sơ đăng ký quyền

sử dụng đất của ngƣời thân thích thì trƣớc hết công chức này phải báo cáo với

cấp trên trực tiếp để có phƣơng án tìm ngƣời thay thế. Nếu không thể tìm

ngƣời thay thế thì công chức phải xử lý hồ sơ của ngƣời thân thích nhƣ hồ sơ

của những ngƣời khác theo đúng quy định của pháp luật mà không đƣợc có

bất kỳ thiên vị nào.

1.2.4. Kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức

Trong phần này sẽ làm rõ về mặt lý luận những tài sản, thu nhập nào

của cán bộ, công chức phải kê khai.

Thu nhập: Về mặt bản chất, thu nhập chính là nguồn chính tạo ra tài

sản của cán bộ, công chức. Vì vậy, việc kê khai thu nhập là bắt buộc để nhằm

mục đích: (1) Đánh giá đƣợc đời sống kinh tế của cán bộ, công chức; (2)

Đánh giá đƣợc các nguồn thu nhập của cán bộ, công chức; (3) Đánh giá đƣợc

mối quan hệ giữa cán bộ, công chức với nguồn thu nhập (quan hệ với ngƣời

chi trả thu nhập, tính chất công việc, dịch vụ mà công chức thực hiện để đƣợc

hƣởng thu nhập); và (4) phát hiện ra xung đột lợi ích (nếu có).

Về nguyên lý, tất cả các thu nhập (bao gồm giá trị và nguồn) phải đƣợc

kê khai một cách chính xác và trung thực: lƣơng, phí, lợi ích, cổ tức, khoản

thu từ bán hoặc cho thuê tài sản, tiền bảo hiểm; trúng thƣởng xổ số, thừa kế,

tặng cho,… [59, tr. 62] Tuy nhiên, pháp luật cũng có thể quy định một mức

thu nhập mà nếu cán bộ, công chức có mức thu nhập trên đó phải kê khai.

Việc quy định nhƣ vậy có thuận tiện là giảm bớt thủ tục, tránh việc cán bộ,

công chức phải kê khai thu nhập dù mức thu nhập đó rất nhỏ. Tuy nhiên, quy

định mức thu nhập bắt buộc phải kê khai chỉ phù hợp với kê khai bất thƣởng.

Đối với trƣờng hợp kê khai định kỳ, nên quy định cán bộ, công chức phải kê

khai toàn bộ thu nhập trong kỳ mà không phân biệt mức và nguồn thu nhập.

22

Tài sản: Bên cạnh thu nhập, cán bộ, công chức cũng phải kê khai tài

sản thuộc sở hữu của mình bao gồm cả tài sản thuộc sở hữu chung của cán bộ,

công chức với ngƣời khác. Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 định nghĩa và

phân loại tài sản nhƣ sau: “1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài

sản. 2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản

có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tƣơng lai”.

Nhƣ vậy, bất kỳ tài sản nào thuộc sở hữu riêng hoặc sở hữu chung của

cán bộ, công chức đều phải đƣợc kê khai. Các bất động sản bao gồm quyền sử

dụng đất, nhà ở, căn hộ chung cƣ, bất động sản trong khu nghỉ dƣỡng; các

động sản hữu hình nhƣ: xe ô tô, xe mô tô, xe đạp, du thuyền, …; các tài sản

vô hình nhƣ: quyền sở hữu trí tuệ; cổ phần; trái phiếu; sổ tiết kiệm; chứng chỉ

tiền gửi, … đều phải đƣợc kê khai.

Tƣơng tự nhƣ thu nhập, khi kê khai, cán bộ, công chức phải kê khai

đầy đủ và trung thực đặc điểm của tài sản, giá trị của tài sản tại thời điểm mua

bán, nhận chuyển nhƣợng, đƣợc tặng cho hoặc thừa kế và giá trị hiện thời của

tài sản (nếu có thể xác định đƣợc). Quan trọng hơn, cán bộ, công chức phải kê

khai rõ nguồn gốc của tài sản, ngƣời bán, chuyển nhƣợng, tặng cho tài sản, để

lại thừa kế căn cứ bán, chuyển nhƣợng, tặng cho tài sản, thừa kế tài sản…

Việc xác định đƣợc chính xác giá trị tài sản, nguồn gốc tài sản và mối

quan hệ giữa cán bộ, công chức với ngƣời ngƣời bán, chuyển nhƣợng, tặng cho

tài sản cũng sẽ giúp (1) Đánh giá đƣợc đời sống kinh tế của cán bộ, công chức;

(2) Đánh giá đƣợc các nguồn gốc tài sản của cán bộ, công chức; (3) Đánh giá

đƣợc mối quan hệ giữa cán bộ, công chức với ngƣời bán, chuyển nhƣợng, tặng

cho, để lại thừa kế, căn cứ để công chức đƣợc bán, chuyển nhƣợng, tặng cho,

để lại thừa kế); và (4) phát hiện ra xung đột lợi ích (nếu có).

Lợi ích đƣợc thụ hƣởng: Thực tiễn ngày nay cho thấy, không phải

trƣờng hợp nào cán bộ, công chức thụ hƣởng các lợi ích vật chất dƣới hình

23

thái tài sản. Trong nhiều trƣờng hợp, cán bộ, công chức đƣợc hƣởng các

khoản lợi ích vật chất mà nếu chỉ đánh giá qua thì không phải là tài sản. Ví

dụ: cán bộ, công chức (hoặc ngƣời thân thích) đƣợc cho mƣợn mặt bằng để

kinh doanh; đƣợc cho thuê mặt bằng với giá ƣu đãi bất thƣờng so với ngƣời

khác để kinh doanh; cán bộ, công chức đƣợc tặng thẻ chơi goft định kỳ, đƣợc

tặng thẻ spa định kỳ; con của cán bộ, công chức đƣợc học trƣờng VIP mà

không phải trả học phí; … Những khoản lợi ích này thƣờng không thể chuyển

nhƣợng vì đây là “ƣu đãi” dành cho bản thân cán bộ, công chức hoặc ngƣời

thân thích. Nhƣng nếu một ngƣời không phải là cán bộ, công chức, không có

vị trí công việc để có thể đƣa ra những quyết định có ảnh hƣởng đến ngƣời

tặng cho hoặc cấp ƣu đãi cho cán bộ, công chức thì rõ ràng sẽ phải trả một

khoản tiền không nhỏ, nếu không muốn nói là lớn để đƣợc thụ hƣởng. Vậy

những lợi ích này có cần phải kê khai không? Rõ ràng, cần phải kê khai cả

các lợi ích này. Bởi vì xung đột lợi ích cũng có thể ẩn mình và phát sinh từ

những khoản lợi ích này. Khi kê khai, cán bộ, công chức phải kê khai đầy đủ

đặc điểm, giá trị (nếu có) của lợi ích ƣu đãi, chủ thể cung cấp ƣu đãi, lý do

đƣợc hƣởng ƣu đãi.

Chi phí: Cuối cùng, ngoài việc phải kê khai những gì mà cán bộ, công

chức nhận đƣợc, cán bộ, công chức còn phải kê khai những chi phí phục vụ

sinh hoạt, cuộc sống, gia đình và công việc. Việc buộc cán bộ, công chức kê

khai chi phí giúp cho cơ quan quản lý nắm đƣợc: (1) Cán bộ, công chức có

thực sự cần kiệm không? Nếu công chức đang rơi vào tình trạng chi tiêu vƣợt

quá khả năng thu nhập, cơ quan phải có biện pháp nhắc nhở và buộc cán bộ,

công chức chi tiêu tiết kiệm phù hợp điều kiện thu nhập. (2) Cán bộ, công

chức có các khoản nợ đáng kể nào không? Liệu các khoản nợ đó có nguy cơ

ảnh hƣởng đến hoạt động thi hành công vụ của cán bộ, công chức hay không?

(3) Mức chi tiêu cũng có thể phản ánh ngƣợc lại mức thu nhập của cán bộ,

24

công chức, giúp cơ quan quản lý tìm ra những điểm bất hợp lý trong nội dung

kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.

Nhƣ vậy, cán bộ, công chức phải kê khai đầy đủ và chính xác các

khoản mục chi phí, mức chi phí, lý do chi phí, các khoản nợ, mức dƣ nợ,

nguyên nhân nợ, quan hệ với chủ nợ, lộ trình trả nợ, … Những thông tin này

sẽ giúp cơ quan quản lý có sự quan tâm đúng mực đến cán bộ, công chức

tránh cán bộ, công chức bị tha hoá, biến chất.

Sau khi làm rõ các thông tin phải kê khai, trong nội dung dƣới đây sẽ

làm rõ các thủ tục kê khai và thu thập thông tin liên quan đến tài sản, thu nhập

của cán bộ, công chức.

Trƣớc hết, pháp luật phải làm rõ việc kê khai cần phải thực hiện định

kỳ hay bất thƣờng. Trƣớc hết, trƣớc khi đƣợc bầu cử, bầu, bổ nhiệm hoặc đảm

nhiệm một vị trí công việc hoặc chuyển sang vị trí công việc mới, cán bộ,

công chức phải kê khai thu nhập, tài sản, lợi ích và chi phí hiện thời của mình.

Việc công khai là cần thiết nhằm giúp cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền nắm

đƣợc thực trạng đời sống kinh tế của cán bộ, công chức trƣớc khi đảm nhiệm

vị trí công việc. Số liệu này sẽ đƣợc dùng để so sánh với tình hình kinh tế của

cán bộ, công chức trong thời gian và khi kết thúc nhiệm kỳ đảm nhiệm vị trí

công việc. Sau đó, trong suốt thời gian đảm nhiệm vị trí công việc, hàng năm,

cán bộ, công chức phải kê khai tài sản, thu nhập, lợi ích và chi phí. Ngoài ra,

cũng cần thiết phải thiết kế cơ chế kê khai bất thƣờng đối với trƣờng hợp cán

bộ, công chức có một khoản thu nhập, xác lập sở hữu tài sản, thụ hƣởng một

lợi ích, phát sinh một khoản chi phí, phát sinh một khoản nợ, chi trả một phần

hoặc toàn bộ khoản nợ mà giá trị của khoản thu nhập, tài sản, lợi ích, chi phí,

khoản nợ hoặc một phần khoản nợ đó vƣợt một mức nhất định hoặc có ảnh

hƣởng đáng kể đến việc thi hành công vụ của cán bộ, công chức (ví dụ: ngƣời

tặng cho tài sản hoặc khoản lợi ích hoặc chủ nợ hoặc ngƣời thân thích của

25

ngƣời này là đối tƣợng hoặc hoạt động kinh doanh hoặc nghề nghiệp của này

là đối tƣợng thuộc thẩm quyền quản lý của cán bộ, công chức). Cuối cùng,

khi cán bộ, công chức chấm dứt vị trí công việc thì cũng phải kê khai tài sản,

thu nhập, lợi ích và chi phí.

Tiếp đến, cần xây dựng mẫu kê khai và quy trình kê khai bảo đảm sự

thuận tiện và chính xác trong việc kê khai và thu thập thông tin. Ngày nay,

công nghệ thông tin đã phát triển mạnh mẽ. Vì vậy, việc kê khai và thu thập

thông tin cũng dễ dàng hơn rất nhiều. Vì vậy, việc kê khai tài sản, thu nhập,

lợi ích và chi phí của cán bộ, công chức cần đƣợc điện tử hoá.

1.2.5. Xác minh tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức

Về cơ bản, phần lớn các cán bộ, công chức sẽ trung thực trong việc kê

khai tài sản, thu nhập. Tuy nhiên, cũng có không ít những trƣờng hợp cán bộ,

công chức cố tình che giấu hoặc kê khai không đúng sự thật về tài sản, thu

nhập của mình. Một nghiên cứu chỉ ra rằng này nếu không có cơ chế xác

minh tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức thì họ sẽ cung cấp những thông

tin không có giá trị [59, tr. 71]. Vì vậy, vẫn cần có cơ chế kiểm tra, xác minh

các thông tin về tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Về mặt lý thuyết, có

hai cơ chế xác minh tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.

Cơ chế thứ nhất: Xác minh tất cả các thông tin về tài sản, thu nhập của

tất cả các cán bộ, công chức. Cơ chế này có ƣu điểm là không có cán bộ, công

chức nào thoát khỏi thủ tục xác minh tài sản, thu nhập. Vì vậy, buộc mỗi cán

bộ, công chức phải kê khai trung thực nếu không muốn bị phát hiện gian lận

và xử lý. Tuy nhiên, cơ chế này có thực hiện đƣợc trên thực tế nếu đội ngũ

cán bộ, công chức đông đảo. Hầu nhƣ các hệ thống chính trị trên thế giới hiện

nay không có khả năng áp dụng cơ chế này.

Cơ chế thứ hai: Cơ chế này không xác minh tài sản, thu nhập của tất cả

các cán bộ, công chức mà chỉ đƣa ra các trƣờng hợp xác minh cụ thể nhƣ sau:

26

- Xác minh tài sản, thu nhập của ngƣời đứng đầu và cấp phó của các cơ

quan, tổ chức từ trung ƣơng đến cấp cơ sở;

- Xác minh tài sản, thu nhập theo lựa chọn: cơ quan có thẩm quyền sẽ

bất ngờ lựa chọn bất kỳ cán bộ, công chức thuộc bất kỳ cơ quan, đơn vị nào

để xác minh;

- Xác minh tài sản, thu nhập trong trƣờng hợp khi có căn cứ nghi ngờ

sự không trung thực về thông tin kê khai của một cán bộ, công chức nào đó;

- Xác minh tài sản, thu nhập trong trƣờng hợp cán bộ, công chức đang

bị xử lý vi phạm liên quan đến hành vi tham nhũng;

- Xác minh tài sản, thu nhập khi có thông tin về hành vi tham nhũng

của cán bộ, công chức;

- Xác minh tài sản, thu nhập khi có đơn tố cáo của công dân đối với

hành vi tham nhũng của cán bộ, công chức.

Nhƣ vậy, cơ chế thứ hai tỏ ra hợp lý và khả thi hơn. Cơ chế này cho

thấy tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức có thể bị xác minh tại bất kỳ lúc

nào. Do đó, cán bộ, công chức cần nghiêm túc và trung thực trong việc kê

khai tài sản, thu nhập. Tuy nhiên, cơ chế này đòi hỏi cơ quan có thẩm quyền

phải thực hiện nghiêm túc và thƣờng xuyên công tác xác minh tài sản, thu

nhập của cán bộ, công chức. Nếu không sẽ dẫn đến sự “nhờn” trong công tác

kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.

Khi xác minh thông tin về tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, cơ

quan có thẩm quyền có quyền yêu cầu cơ quan thuế, cơ quan quản lý tài sản,

ngân hàng và các cơ quan, tổ chức có liên quan khác cung cấp thông tin về tài

sản, thu nhập, tài khoản của cán bộ, công chức. Cơ quan có thẩm quyền có

quyền yêu cầu ngân hàng cung cấp lịch sử giao dịch tài khoản ngân hàng của

cán bộ, công chức. Ngoài ra, cơ quan có thẩm quyền cũng có thể yêu cầu cơ

quan tài chính phối hợp trong việc xác định giá trị của tài sản. Các cơ quan, tổ

27

chức chuyên môn khác cũng có thể đƣợc yêu cầu phối hợp để xác định giá trị

sử dụng và đặc điểm của tài sản nếu cần thiết.

1.2.6. Công bố thông tin về tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức

Đoạn đầu của Khoản 2 Điều 8 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Các cơ

quan nhà nƣớc, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy

phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự

giám sát của Nhân dân…”. Điều 25 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận quyền tiếp

cận thông tin của công dân. Nhƣ vậy pháp luật cần bảo đảm ngƣời dân đƣợc

tiếp cận thông tin về tài sản và thu nhập của cán bộ, công chức. Vấn đề cần

phải làm rõ là liệu rằng có nên công bố thông tin về tài sản và thu nhập của tất

cả cán bộ, công chức ra công chúng hay không?

Nếu toàn bộ thông tin về tài sản và thu nhập của tất cả cán bộ, công

chức đƣợc công bố rộng rãi ra công chúng thì tính minh bạch về tài sản, thu

nhập của cán bộ, công chức đƣợc bảo đảm tuyệt đối. Tuy nhiên, vấn đề công

khai toàn bộ thông tin về tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức có ảnh

hƣởng đến quyền riêng tƣ của cán bộ, công chức hay không? Liệu rằng sự an

toàn của cán bộ, công chức có bị ảnh hƣởng khi toàn bộ thông tin về tài sản,

thu nhập của cán bộ, công chức đƣợc công bố rộng rãi ra công chúng.

Trƣớc hết, khi chƣa đủ khả năng bảo đảm an toàn cá nhân cho cá nhân

cán bộ, công chức và gia đình họ, không nên công bố rộng rãi thông tin tài

sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Thông tin về tài sản, thu nhập của cán

bộ, công chức chỉ đƣợc công bố ở mức độ hạn chế:

Thứ nhất, chỉ công khai thông tin về tài sản, thu nhập của một số chức

danh quan trọng nhƣ các thành viên trong cơ quan dân cử, ngƣời đứng đầu cơ

quan quản lý nhà nƣớc, toà án, … Trong trƣờng hợp này, chỉ công khai thông

tin chung chung, không công khai thông tin quá chi tiết.

Thứ hai, chỉ công khai thông tin tài sản, thu nhập của cán bộ, công

chức trong nội bộ cơ quan, đơn vị, nơi cán bộ, công chức làm việc. Trong

28

trƣờng hợp cần đánh giá năng lực, đạo đức của cán bộ, công chức thì phải

công khai thông tin chi tiết về tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức đó.

Thứ ba, trong một số trƣờng hợp nhất định, chỉ công khai thông tin về

tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức theo yêu cầu của công dân trong

trƣờng hợp công dân có đơn tố cáo về hành vi tham nhũng của cán bộ, công

chức và thông tin nhân thân của ngƣời tố cáo rõ ràng, chính xác và đƣợc xác

thực, đồng thời công dân đƣa ra đƣợc căn cứ thuyết phục về hành vi phạm

nhũng của cán bộ, công chức.

1.2.7. Kiểm soát hành vi rửa tiền và các hành vi khác nhằm che giấu

hoặc hợp pháp hoá tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức

Trên thực tế, nhiều cán bộ, công chức tham nhũng sẽ áp dụng nhiều

biện pháp nhằm làm hợp pháp hoá nguồn thu nhập bất hợp pháp hoặc che

giấu tài sản, thu nhập bất chính của mình thông qua nhiều giao dịch khác

nhau. Vì vậy, bên cạnh cơ chế kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công

chức, cần xây dựng các quy định và cơ chế kiểm soát hành vi rửa tiền và các

giao dịch khác nhằm che giấu hoặc hợp pháp hoá tài sản, thu nhập của cán

bộ, công chức.

Trƣớc hết, cần phải xây dựng các quy định của pháp luật về phòng,

chống rửa tiền nhằm kiểm soát hành vi rửa tiền.

Tiếp đó, pháp luật quy định về kiểm soát các giao dịch về tài sản của

cán bộ, công chức với ngƣời thân thích và giữa ngƣời thân tích của cán bộ,

công chức với ngƣời thứ ba. Bởi vì, trên thực tế, cán bộ, công chức thƣờng

nhờ ngƣời thân thích nhƣ cha, mẹ, anh, chị, em ruột, con đã thành niên đứng

tên sở hữu tài sản hoặc đứng tên nhận thu nhập. Vì vậy, việc kiểm soát giao

dịch tài sản của những ngƣời này là rất cần thiết nhằm ngăn chặn tình trạng

cán bộ, công chức nhờ ngƣời khác đứng tên quyền sở hữu tài sản, thu nhập.

29

1.2.8. Xử lý vi phạm trong kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ,

công chức

Để bảo đảm cán bộ, công chức thực hiện nghiêm chỉnh các quy định

của pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ công chức, đặc biệt là

nghĩa vụ kê khai đúng, đầy đủ và trung thực tài sản, thu nhập của mình, pháp

luật cần có chế tài phù hợp. Kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức là

quan hệ hành chính giữa cơ quan có thẩm quyền với ngƣời có nghĩa vụ kê

khai. Vì vậy, chế tài phù hợp là các chế tài hành chính.

Trƣớc hết, hành vi vi phạm trong kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ,

công chức bao gồm:

- Không kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức theo quy định

của pháp luật;

- Chậm kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức theo quy định

của pháp luật;

- Kê khai không đúng thông tin về tài sản, thu nhập theo quy định của

pháp luật; và

- Kê khai không đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập theo quy định của

pháp luật.

Chế tài áp dụng đối với hành vi vi phạm sẽ phụ thuộc vào vị trí của cán

bộ, công chức. Đối với, cán bộ đƣợc bầu cử, bầu thì biện pháp chế tài có thể là

xoá tên khỏi danh sách ứng cử, bãi nhiệm. Đối với các chức danh lãnh đạo,

quản lý thì biện pháp chế tài có thể là không bổ nhiệm, không bổ nhiệm lại,

cách chức hoặc bãi nhiệm. Đối với các vị trí công việc khác biện pháp chế tài

có thể là khiển trách, hạ bậc lƣợng, giáng chức, cách chức hoặc buộc thôi việc.

Ngoài chế tài áp dụng cho cán bộ, công chức vi phạm nghĩa vụ kê khai

tài sản, thu nhập, pháp luật cần có quy định về các chế tài áp dụng cho cán bộ,

công chức có thẩm quyền kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức

30

nhƣng có hành vi bao che. Các chế tài có thể là chế tài hành chính, nhƣng đối

với một số hành vi nhất định phải áp dụng chế tài hình sự. Trong trƣờng hợp

hành vi bao che gây thiệt hại cho Nhà nƣớc thì phải bồi thƣờng thiệt hại.

1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu quả kiểm soát tài sản, thu nhập

của cán bộ, công chức

1.3.1. Yếu tố chủ quan

Hiệu quả kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức chịu ảnh

hƣởng bởi các yếu tố chủ quan, đó chính là ý thức của cán bộ, công chức, cấp

trên của họ và cơ quan có thẩm quyền kiểm soát tài sản.

Trƣớc hết, hiệu quả kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức

chịu ảnh hƣởng bởi ý thức của đội ngũ cán bộ, công chức là đối tƣợng phải kê

khai tài sản, thu nhập. Nếu đội ngũ cán bộ, công chức có ý thức cao, nhận

thức một cách đúng đắn và đầy đủ mục tiêu và ý nghĩa của kiểm soát tài sản,

thu nhập của cán bộ, công chức thì hiệu quả kiểm soát tài sản, thu nhập của

cán bộ, công chức sẽ cao. Theo đó, cán bộ, công chức sẽ nghiêm chỉnh chấp

hành đầy đủ các yêu cầu của việc kê khai tài sản của cán bộ, công chức. Các

thông tin về tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức sẽ trung thực, đầy đủ và

hữu ích trong công tác phòng, chống tham nhũng. Ngƣợc lại, nếu có một bộ

phận không nhỏ cán bộ, công chức có ý thức coi thƣờng pháp luật, không coi

trọng kỷ cƣơng, phép nƣớc, luôn có khuynh hƣớng đối phó, bệnh hình thức,

thì việc kê khai tài sản, thu nhập chỉ mang tính hình thức. Những cán bộ, công

chức này sẽ tìm mọi cách che giấu tài sản, thu nhập và kê khai tài sản, thu

nhập một cách hình thức và đối phó. Kết quả là những thông tin đƣợc cung

cấp không trung thực và đầy đủ, không phản ánh đúng tình trạng kinh tế và

các mối quan hệ liên quan đến tài sản và thu nhập của những cán bộ, công

chức này. Nhƣ vậy, nếu ý thức của một phận không nhỏ cán bộ, công chức

không tốt sẽ ảnh hƣởng đáng kể đến hiệu quả kiểm soát tài sản, thu nhập của

cán bộ, công chức.

31

Ngoài ra, ý thức và trách nhiệm của ngƣời đứng đầu cơ quan, đơn vị

nơi công chức làm việc cũng ảnh hƣởng không nhỏ đến hiệu quả kiểm soát tài

sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Trƣớc tiên, bản thân ngƣời đứng đầu cơ

quan, đơn vị nơi công chức làm việc cũng là đối tƣợng phải kê khai tài sản,

thu nhập. Nếu ngƣời đứng đầu cơ quan, đơn vị gƣơng mẫu, nghiêm túc kê

khai một cách trung thực và đầy đủ tài sản và thu nhập của mình thì các cán

bộ, công chức dƣới quyền sẽ noi gƣơng theo và thực hiện nghiêm chỉnh.

Ngƣợc lại, ngƣời đứng đầu cơ quan, đơn vị sẽ nêu gƣơng xấu cho cấp dƣới.

Yếu tố này làm ảnh hƣởng đến hiệu quả. Ngoài ra, trong trƣờng hợp ngƣời

đứng đầu cơ quan đơn vị có nhiệm vụ đôn đốc cán bộ, công chức dƣới quyền

thực hiện kê khai tài sản thu nhập, nếu ngƣời đứng đầu là ngƣời nghiêm túc,

có trách nhiệm và kỷ luật trong công việc thì hiệu quả kê khai tài sản, thu

nhập của cán bộ, công chức sẽ cao. Nếu ngƣợc lại thì kết quả sẽ thấp, thậm

chí ngƣời đứng đầu còn vẽ đƣờng cho hƣơu chạy thì càng không tốt.

Cơ quan có thẩm quyền kiểm soát tài sản của cán bộ, công chức đóng

vai trò quan trọng trong hoạt động kiểm soát tài sản của cán bộ, công chức.

Nếu ngƣời đứng đầu và toàn thể nhân lực của bộ máy kiểm soát tài sản của

cán bộ, công chức thực sự nghiêm túc, chí công, vô tƣ, có trách nhiệm cao

trong công tác thì hoạt động kiểm soát tài sản của cán bộ, công chức sẽ hiệu

quả. Tuy nhiên, nếu bộ máy kiểm soát tài sản của cán bộ, công chức có sự nể

nang, bao che thì hiệu quả kiểm soát tài sản của cán bộ, công chức sẽ rất thấp

và chỉ mang tính hình thức.

Cuối cùng, ý thức của quần chúng nhân dân cũng rất quan trọng. Nếu

quần chúng nhân dân có hiểu biết, tích cực tham gia vào công tác kiểm soát

tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức thì hoạt động này sẽ càng hiệu quả

hơn. Với tai mắt của nhân dân, cơ quan có thẩm quyền sẽ thu thập đƣợc nhiều

thông tin có giá trị liên quan đến tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.

32

1.3.2. Yếu tố khách quan

Trƣớc hết, pháp luật ảnh hƣởng nhiều nhất đến hiệu quả kiểm soát tài

sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Nếu hệ thống pháp luật hợp lý, thống

nhất, minh bạch, rõ ràng và đầy đủ thì sẽ tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho

hoạt động kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Ngƣợc lại, nếu

pháp luật có nhiều khiếm khuyết, thiếu tính thống nhất thì se làm giảm hiệu

quả rõ rệt trong công tác kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.

Bên cạnh đó, văn hoá cũng có ảnh hƣởng không nhỏ đến hiệu quả kiểm

soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Nếu trong nền hành chính công

vụ vẫn tồn tại văn hoá cả nể, bao che lẫn nhau theo kiểu tình đồng liêu thì rất

khó đạt hiệu quả trong kiểm soát tải sản, thu nhập của cán bộ, công chức.

Ngƣợc lại, văn hoá công sở hiện đại với sự phân định rạch ròi giữa công việc,

trách nhiệm và tình đồng nghiệp thì hiệu quả kiểm soát tài sản của cán bộ,

công chức sẽ hiệu quả hơn.

Ngoài ra, cơ sở hạ tầng kỹ thuật cũng ảnh hƣởng đến hiệu quả kiểm

soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Ngày này, khoa học công nghệ

phát triển sẽ góp phần không nhỏ trong việc kê khai, xác minh tài sản, thu

nhập của cán bộ, công chức. Ngƣời dân cũng dễ dàng giám sát tài sản, cán bộ

công chức hơn. Thực tiễn cho thấy nhiều vụ tham ô đƣợc đƣa ra ánh sáng do

phản ánh của quần chúng nhân dân về tài sản giá trị lớn bất thƣờng của một

số cán bộ, công chức trên mạng xã hội.

1.4. Kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức của một số

quốc gia trên thế giới, giá trị tham khảo

Phần này sẽ khái quát về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công

chức của một số quốc gia trên thế giới.

Mô hình kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức: Trên thế

giới hiện nay, có hai mô hình kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công

33

chức, đó là mô hình kiểm soát bên trong (mô hình kiểm soát nội bộ) và mô

hình kiểm soát bên ngoài (mô hình kiểm soát từ bên ngoài).

Mô hình kiểm soát nội bộ đƣợc áp dụng đối với thành viên hoặc nhân

viên làm việc tại Quốc hội, Nghị viện của nhiều nƣớc nhƣ Đức, Tây Ban Nha,

Vƣơng quốc Anh và một số nƣớc khác. Theo mô hình này thì, ngƣời đứng

đầu cơ quan sẽ có thẩm quyền kiểm soát thu nhập của cán bộ, công chức

trong đơn vị.

Mô hình kiểm soát từ bên ngoài đƣợc áp dụng ở một số nƣớc nhƣ

Kosovo, Montenegro, Serbia and Slovenia. Theo mô hình này thì thẩm quyền

kiểm soát tài sản, cán bộ công chức sẽ đƣợc giao cho một cơ quan chuyên

trách, độc lập với cơ quan, đơn vị nơi mà cán bộ, công chức làm việc. Một số

quốc gia thành lập cơ quan chuyên trách để kiểm soát tài sản, thu nhập của

cán bộ, công chức nhƣ: cơ quan chuyên trách chống tham nhũng (An-ba-ni,

Rumani, Kosovo, Montenegro, Sebria, Slovenia,…); thành lập các đơn vị đặc

biệt trong cơ quan bảo vệ pháp luật (Toà án, Viện kiểm sát) nhƣ ở Ai Cập,

Đài Loan…; Giao nhiệm vụ này cho một số cơ quan chức năng khác tiến

hành (Ca-dắc-xtan giao cho cơ quan thuế, Gióoc-đa-ni giao cho Bộ tƣ pháp,

Bun-ga-ri giao cho cơ quan Kiểm toán tối cao,…) [19, tr. 28].

Về phạm vi đối tƣợng có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập, pháp luật

các nƣớc có quy định khác nhau. Một số nƣớc phát triển nhƣ Đức, Đan Mạch,

Thuỵ Điển thì họ chỉ buộc thành viên Nghị viện và thành viên Chính phủ phải

kê khai tài sản, thu nhập. Một số nƣớc mở rộng phạm vi đến các chức danh

cao cấp. Theo pháp luật Bồ Đào Nha, thành viên Nghị viện, Tổng thống, Chủ

tịch Nghị viện, thủ tƣớng, thành viên Chính phủ, thành viên cơ quan đại diện

ở địa phƣơng, thành viên Nghị viên Châu Âu, thẩm phán Toà án Hiến pháp,

những ngƣời đứng đầu cơ quan hiến pháp và các cơ quan công quyền độc lập

(cơ quan quản lý truyền thông, uỷ ban bầu cử, uỷ ban dữ liệu và các cơ quan

34

khác) [59, tr. 50]. Ngoài ra, một số vị trí cao cấp cụ thể nhƣ thành viên Hội

đồng quản trị công ty nhà nƣớc, tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, thành viên

Ban quản trị của tổ chức nhà nƣớc phải kê khai tài sản, thu nhập [59, tr. 51].

Cũng có một số nƣớc, ví dụ nhƣ Latvia quy định tất cả các cán bộ, công chức

phải kê khai tài sản, thu nhập.

Ngoài ra, nhiều quốc gia còn mở rộng đối tƣợng là ngƣời thân thích

của cán bộ, công chức phải kê khai tài sản, thu nhập khi có dấu hiệu tham

nhũng. [18, tr. 31]

Một số nƣớc quy định tất cả tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức

đều phải kê khai đầy đủ. Ví dụ pháp luật của hầu hết các nƣớc Đông Âu quy

định phải kê khai đầy đủ và chính xác tất cả tài sản, thu nhập. Trong khi đó,

một số nƣớc chỉ quy định nghĩa vụ kê khai đối với thu nhập cao hơn mức quy

định. Ví dụ, thành viên Nghị viện CHLB Đức phải kê khai thu nhập cùng với

tài liệu giao dịch liên quan nếu nhƣ tổng thu nhập cho một giao dịch vƣợt

1.000 EUR/tháng hoặc 10.000 EUR/năm. [59, tr. 62] Một số nƣớc, nhƣ Latvia,

còn quy định cán bộ, công chức phải kê khai chi phí.

Hầu hết các nƣớc đều quy định về thời điểm kê khai tài sản, thu nhập

bao gồm: trƣớc khi nhận chức; kê khai hàng năm và khi kết thúc nhiệm vụ. Ví

dụ, theo pháp luật của Hoa Kỳ thì cán bộ, công chức phải kê khai tài sản, thu

nhập 30 ngày trƣớc khi nhận chức;15/05 hàng năm phải kê khai thu nhập, và

trƣớc khi hoặc vào ngày kết thúc nhiệm vụ. Trong khi đó, một số nƣớc, nhƣ

Vƣơng quốc Anh còn bắt buộc phải kê khai tài sản, thu nhập khi giá trị tài sản

có biến động đáng kể hoặc khi phát sinh tài sản mới. Các nƣớc đều quy định

về cơ chế xác minh tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Về cơ bản, hầu

hết các quốc gia đều không quy định xác minh tài sản, thu nhập của tất cả các

cán bộ, công chức mà chỉ đặt ra việc xác minh tài sản, thu nhập của cán bộ,

công chức trong các trƣờng hợp cụ thể.

35

Về chế tài đối với hành vi vi phạm trong kiểm soát tài sản, thu nhập của

cán bộ, công chức, các nƣớc khác nhau thì có quy định khác nhau về các biện

pháp chế tài. Ví dụ, theo pháp luật của Hoa Kỳ thì ngƣời cố ý kê khai không

đúng thông tin về tài sản, thu nhập sẽ bị xử phạt hành chính đến 50.000 đô la

Mỹ. (Điều 104(a)(1) Luật Đạo đức công vụ năm 1978 của Hoa Kỳ). Đối với

hành vi vi phạm nghiêm trọng thì cán bộ, công chức có thể bị truy cứu trách

nhiệm hình sự với hình phạt là phạt tiền hoặc phạt tù đến 01 năm. (Điều

104(a)(2) Luật Đạo đức công vụ năm 1978 của Hoa Kỳ). Nhƣ vậy, pháp luật

Hoa Kỳ quy định cả chế tài hành chính và chế tài hình sự đối với vi phạm

nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập. Ngƣợc lại, các nƣớc Đông Âu lại không

hình sự hoá hành vi không kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.

Theo quy định của các nƣớc này thì hành vi vi phạm nghĩa vụ kê khai tài sản,

thu nhập của cán bộ, công chức sẽ bị xử phạt hành chính. Hầu hết các nƣớc

đều áp dụng hình thức kỷ luật hành chính đối với cán bộ, công chức nhƣ cách

chức, hạ bậc lƣơng, buộc thôi việc, … .

36

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1

Khi hoạt động công vụ, cán bộ, công chức đƣợc giao những quyền năng

nhất định. Thực tiễn cho thấy xung đột lợi ích, tham nhũng có thể phát sinh từ

hoạt động thực thi công vụ của cán bộ, công chức. Bởi lẽ, có không ít cán bộ,

công chức lợi dụng hoặc lạm dụng quyền năng đƣợc trao để trục lợi. Vì vậy, để

ngăn ngừa xung đột lợi ích, phòng và chống tham nhũng, kiểm soát tài sản, thu

nhập của cán bộ, công chức là một trong những giải pháp hữu hiệu.

Kết quả nghiên cứu của chƣơng 1 cho thấy pháp luật về kiểm soát tài

sản, thu nhập của cán bộ, công chức là tổng thể các quy phạm pháp luật điều

chỉnh các quan hệ pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công

chức là pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.

Nội dung của pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ công

chức phải làm rõ đƣợc mô hình của cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập của

cán bộ, công chức. Đây là một nội dung rất quan trọng. Hiện nay, trên thế giới

có hai mô hình chủ đạo: mô hình kiểm soát bên trong và mô hình kiểm soát

bên ngoài. Ngoài ra, còn có mô hình hỗn hợp.

Tiếp đến, pháp luật cần có quy định về quy tắc ứng xử của cán bộ, công

chức đối với quà biếu, quà tặng. Theo đó, cán bộ, công chức không đƣợc

nhận quà biếu, quà tặng dƣới bất kỳ hình thức nào.

Quan trọng nữa là cán bộ, công chức phải kê khai thu nhập, tài sản của mình.

Pháp luật phải trả lời đƣợc các câu hỏi: ai có nghĩa vụ kê khai thu nhập, tài sản; các

thu nhập, tài sản phải kê khai; hình thức kê khai thu nhập, tài sản; xác minh tài sản,

thu nhập; và công khai thông tin về tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.

Pháp luật cũng cần quy định về phòng chống rửa tiền, để ngăn ngừa và

xử lý hành vi cán bộ, công chức thực hiện các giao dịch nhằm làm hợp pháp

hoá các nguồn thu nhập bất chính.

Cuối cùng, pháp luật cần có các biện pháp chế tài đủ mạnh để xử lý các

hành vi vi phạm pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.

37

CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN KIỂM SOÁT TÀI SẢN,

THU NHẬP CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TRÊN ĐỊA BÀN

TỈNH HẢI DƢƠNG

2.1. Thực trạng pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán

bộ, công chức

2.1.1. Khái quát chung về các quy định của pháp luật hiện hành về

kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức

Ở Việt Nam, khi mà tham nhũng đƣợc đánh giá là nghiêm trọng, diễn

biến phức tạp, thì việc bảo đảm thực hiện cơ chế kiểm soát tài sản, thu nhập

của cán bộ, công chức đóng vai trò vô cùng quan trọng vào từng bƣớc kiềm

chế, đẩy lùi tham nhũng [18, tr. 32].

Ở Việt Nam, các quy định về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ,

công chức đƣợc quy định trong Luật phòng, chống tham nhũng và các văn

bản quy phạm pháp luật có liên quan nhƣ Luật phòng, chống rửa tiền và các

văn bản quy phạm pháp luật có liên quan khác.

Trƣớc đây Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 (đƣợc sửa đổi, bổ

sung năm 2007, 2012) đƣa ra chế định minh bạch tài sản, thu nhập. Nội dung

các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập đƣợc quy định tại các Điều từ 44

đến 53 và một số Điều luật liên quan khác trong Luật phòng, chống tham

nhũng năm 2005 (đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2012). Theo đánh giá của

tác giả Hoàng Nam Hải về Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 (đƣợc

sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2012) liên quan đến kiểm soát tài sản, thu nhập

của cán bộ, công chức thì:

Luật PCTN hiện hành cũng đã có một số quy định về minh bạch tài

sản, thu nhập, tặng quà và nộp lại quà tặng… Đồng thời, trong hệ

thống pháp luật cũng có các biện pháp hỗ trợ khác cho việc kiểm

38

soát tài sản, thu nhập của ngƣời có chức vụ, quyền hạn nhƣ kiểm

soát thuế TNCN (trong Luật Thuế TNCN); thanh toán không sử

dụng tiền mặt (trong Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Quyết định

số 291/2006/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ về việc phê duyệt

đề án thanh toán không sử dụng tiền mặt giai đoạn 2006-2010, định

hƣớng đến năm 2020; Quyết định số 2453/QĐ-TTg của Thủ tƣớng

Chính phủ phê duyệt đề án đẩy mạnh thanh toán không sử dụng tiền

mặt giai đoạn 2011-2015) … Tuy nhiên, nhiều quy định trong pháp

luật hiện hành còn thiếu tính khả thi, thiếu tính đồng bộ, chƣa phù

hợp với thực tiễn… nên việc áp dụng pháp luật về kê khai tài sản,

thu nhập của ngƣời có chức vụ, quyền hạn trong thời gian qua đƣợc

đánh giá là còn hình thức, chƣa thực sự là biện pháp quan trọng góp

phần PCTN nhƣ kỳ vọng. [18, tr. 33]

Cùng với nhiều hạn chế, vƣớng mắc khác trong Luật phòng, chống

tham nhũng năm 2005 (đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2012), Nhà nƣớc đã

ban hành Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018. Luật phòng, chống tham

nhũng năm 2018 đã thay thế chế định minh bạch tài sản, thu nhập trong luật

cũ thành chế định kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Theo đó,

chế định kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức trong luật hiện

hành có nhiều điểm mới nhƣ:

Thứ nhất, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 có nhiều sửa đổi,

bổ sung liên quan đến hệ thống cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập của cán

bộ, công chức.

Thứ hai, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định tất cả các

cán bộ, công chức phải kê khai tài sản, thu nhập. Đây là điểm mới so với Luật

phòng, chống tham nhũng năm 2005.

39

Thứ ba, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định cụ thể hơn

về hình thức, nội dung kê khai; quy định cụ thể hơn về căn cứ, thủ tục xác

minh tài sản, thu nhập.

2.1.2. Các quy định của pháp luật về cơ quan kiểm soát tài sản, thu

nhập của cán bộ, công chức

Trong Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 (đƣợc sửa đổi bổ sung

năm 2007, 2012) không quy định về cơ quan chuyên trách kiểm soát tài sản,

thu nhập của cán bộ, công chức. Việc thiếu một cơ quan chuyên trách kiểm

soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức dẫn đến thẩm quyền bị dàn trải,

nhiều đầu mối và làm giảm hiệu quả cơ chế kiểm soát tài sản, thu nhập của cán

bộ, công chức [24, tr. 31]. Khắc phục hạn chế này của luật cũ, Luật phòng,

chống tham nhũng năm 2018 đã có quy định cụ thể về cơ quan chuyên trách

kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.

Trƣớc hết, cơ quan thanh tra là cơ quan chuyên trách kiểm soát tài

sản, thu nhập của cán bộ, công chức thuộc hệ thống cơ quan hành chính nhà

nƣớc. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành vẫn chƣa mạnh dạn giao cho thanh tra

kiểm soát tài sản, thu nhập của tất cả các cán bộ, công chức thuộc hệ thống

cơ quan hành chính nhà nƣớc mà mới mới giao thẩm quyền kiểm soát tài

sản, thu nhập của nhóm cán bộ, công chức nhất định trong hệ thống cơ quan

hành chính nhà nƣớc.

Theo Khoản 1 Điều 30 Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy

định Thanh tra Chính phủ kiểm soát tài sản, thu nhập của ngƣời giữ chức vụ

từ Giám đốc sở và tƣơng đƣơng trở lên công tác tại Bộ, cơ quan ngang Bộ,

cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa phƣơng, đơn vị sự nghiệp công

lập, cơ quan, tổ chức do Thủ tƣớng Chính phủ quyết định thành lập, doanh

nghiệp nhà nƣớc; ngƣời có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập thuộc thẩm

quyền quản lý của mình.

40

Thanh tra tỉnh kiểm soát tài sản, thu nhập của ngƣời có nghĩa vụ kê

khai công tác tại cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp nhà nƣớc thuộc thẩm

quyền quản lý của chính quyền địa phƣơng, trừ những những cán bộ, công

chức thuộc thẩm quyền kiểm soát của Thanh tra Chính phủ. Ví dụ, tài sản, thu

nhập của Giám đốc Sở, Chủ tịch UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp tỉnh

thuộc thẩm quyền kiểm soát của Thanh tra Chính phủ.

Đối với, công chức cấp Bộ chỉ công chức có hàm vụ trƣởng, cục trƣởng

hoặc chức danh khác tƣơng đƣơng Giám đốc Sở trở lên mới thuộc thẩm

quyền kiểm soát tài sản, thu nhập của Thanh tranh Chính phủ, các công chức

còn lại sẽ thuộc thẩm quyền kiểm soát của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan

thuộc Chính phủ. Ví dụ: Bộ Tƣ pháp có thẩm quyền kiểm soát tài sản, thu

nhập của chuyên viên thuộc Tổng Cục thi hành án dân sự.

Có thể thấy, mặc dù Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã bƣớc

đầu giao cho hệ thống cơ quan thanh tra kiểm soát tài sản, thu nhập của cán

bộ, công chức thuộc hệ thống cơ quan hành pháp, nhƣng các quy định hiện

hành cho thấy nhà làm luật vẫn còn dè dặt. Vì vậy, thẩm quyền kiểm soát tài

sản, thu nhập của cán bộ, công chức thuộc hệ thống cơ quan hành pháp vẫn

chƣa hoàn toàn thuộc về cơ quan thanh tra mà vẫn bị phân tán cho các cơ

quan hành chính khác nhƣ Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.

Cơ quan thanh tra không có thẩm quyền kiểm soát tài sản, thu nhập của

cán bộ, công chức thuộc hệ thống cơ quan khác cũng nhƣ tổ chức chính trị, tổ

chức chính trị - xã hội. Khoản 4, 5, 6, 7 và 8 Điều 30 Luật phòng, chống tham

nhũng năm 2018 quy định:

4. Cơ quan giúp Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội về công tác đại biểu

kiểm soát tài sản, thu nhập của đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên

trách và ngƣời có nghĩa vụ kê khai khác thuộc thẩm quyền quản lý

cán bộ của Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội.

41

5. Văn phòng Quốc hội kiểm soát tài sản, thu nhập của ngƣời có

nghĩa vụ kê khai công tác tại cơ quan thuộc Ủy ban Thƣờng vụ

Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, trừ trƣờng hợp quy định tại khoản

4 Điều này.

6. Văn phòng Chủ tịch nƣớc kiểm soát tài sản, thu nhập của ngƣời

có nghĩa vụ kê khai công tác tại Văn phòng Chủ tịch nƣớc.

7. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm

toán nhà nƣớc kiểm soát tài sản, thu nhập của ngƣời có nghĩa vụ kê

khai công tác tại Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm

toán nhà nƣớc.

8. Cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, cơ quan

trung ƣơng của các tổ chức chính trị - xã hội kiểm soát tài sản, thu

nhập của ngƣời có nghĩa vụ kê khai công tác trong hệ thống cơ

quan, tổ chức đó.

Nói tóm lại, về hệ thống cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập của cán

bộ, công chức, hiện nay Việt Nam không hoàn toàn theo mô hình kiểm soát

nội bộ hay mô hình kiểm soát từ bên ngoài. Nói cách khác, Việt Nam chỉ áp

dụng mô hình kiểm soát từ bên ngoài một phần đối với hệ thống cơ quan hành

pháp. Đối với hệ thống cơ quan khác, Việt Nam vẫn áp dụng mô hình kiểm

soát nội bộ. Việt Nam vẫn chƣa có mô hình cơ quan kiểm soát tài sản của cán

bộ, công chức tồn tại độc lập với hệ thống các cơ quan khác. Vì vậy, hiệu quả

kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức nhiều khi sẽ phụ thuộc vào

quan điểm, cách tiếp cận của ngƣời đứng đầu mỗi hệ thống cơ quan.

2.1.3. Các quy định của pháp luật về quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức

Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức đƣợc thể hiện ở hai nội dung, đó

là: quy tắc ứng xử đối với quà biếu, quà tặng và quy tắc về xung đột lợi ích.

42

Khoản 2 Điều 22 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định:

Cơ quan, tổ chức, đơn vị, ngƣời có chức vụ, quyền hạn không đƣợc

trực tiếp hoặc gián tiếp nhận quà tặng dƣới mọi hình thức của cơ

quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan đến công việc do mình

giải quyết hoặc thuộc phạm vi quản lý của mình.

Nghị định số 59/2019/NĐ-CP đã dự liệu đƣợc phƣơng án xử lý khi cán

bộ, công chức không thể từ chối quà biếu, quà tặng. Trong trƣờng hợp này, cán

bộ, công chức phải báo cáo với ngƣời có thẩm quyền và giao nộp theo quy định

của pháp luật. Đối với quà tặng là tiền hoặc giấy tờ có giá thì sẽ đƣợc nộp vào

ngân sách nhà nƣớc. Nếu tài sản là hiện vật thì sẽ tiến hành bán công khai, số

tiền thu đƣợc sau sau khi trừ đi chi phí liên quan đến việc xử lý quà tặng sẽ đƣợc

nộp vào ngân sách nhà nƣớc. Đối với quà tặng là dịch vụ thăm quan, du lịch, y tế,

giáo dục - đào tạo, thực tập, bồi dƣỡng trong nƣớc hoặc ngoài nƣớc, dịch vụ khác

thì Thủ trƣởng cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thông báo đến cơ quan, tổ chức, đơn

vị cung cấp dịch vụ về việc không sử dụng dịch vụ đó. Đối với quà tặng là động

vật, thực vật, thực phẩm tƣơi, sống và hiện vật khác khó bảo quản thì Thủ trƣởng

cơ quan, tổ chức, đơn vị căn cứ tình hình cụ thể và quy định của pháp luật về xử lý

tang vật trong các vụ việc vi phạm hành chính để quyết định xử lý theo thẩm

quyền hoặc báo cáo Cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định xử lý.

Khoản 2 Điều 28 Nghị định số 59/2019/NĐ-CP quy định về chế tài

áp dụng đối với Thủ trƣởng đơn vị vi phạm quy định về xử lý quà biếu, quà

tặng nhƣ sau:

Ngƣời đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị vi phạm quy định về nhận

quà tặng, xử lý quà tặng, ngƣời có chức vụ, quyền hạn vi phạm quy

định về nhận quà tặng, báo cáo, nộp lại quà tặng thì tùy theo tính

chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý theo quy định của pháp luật về

xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức và xử phạt vi

phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài nhà nƣớc.

43

Mặc dù vậy, pháp luật hiện hành chƣa làm rõ kể từ thời điểm tài sản

đƣợc chuyển giao từ ngƣời biếu, tặng sang cán bộ, công chức thì quà tặng đã

mang số phận của tài sản công chƣa? Hay thời điểm nào thì quà tặng, quà biếu

đƣợc coi là tài sản công. Hiện nay hành vi vi phạm hành chính liên quan đến

quản lý, sử dụng tài sản công đƣợc quy định tại Nghị định số 63/2019/NĐ-CP.

Tuy nhiên, không có một quy định cụ thể nào xác định hành vi vi phạm quy

định về nhận quà tặng, xử lý quà tặng, ngƣời có chức vụ, quyền hạn vi phạm

quy định về nhận quà tặng, báo cáo, nộp lại quà tặng là vi phạm hành chính

và biện pháp chế tài đối với hành vi này. Nhƣ vậy, trong bối cảnh, chƣa đủ

căn cứ để xác định quà biếu là tài sản công thì rất khó áp dụng các quy định

trong Nghị định số 63/2019/NĐ-CP để xử lý.

Ngoài ra, liệu rằng theo quy định này thì hành vi nhận quà biếu, quà

tặng nhƣng không báo cáo với thủ trƣởng đơn vị, không nộp tài sản theo quy

định của pháp luật đƣợc coi là hành vi nhận hối lộ hay là hành vi vi phạm quy

định về nhận quà tặng, xử lý quà tặng? Nếu hành vi nhận quà biếu, quà tặng

là tài sản có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên có phải là hành vi nhận hối lộ và

bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội nhận hối lộ không? Nếu hành vi nhận

quà biếu, quà tặng có giá trị dƣới 2.000.000 đồng thì sao? Nhƣ PGS.TS. Vũ

Công Giao & Đỗ Thu Huyền đã nêu ranh giới giữa quà tặng và tài sản hối lộ

chƣa đƣợc làm rõ [15, tr. 83].

Khoản 3 Điều 3 Nghị định số 34/2011/NĐ-CP có quy định hành vi vi

phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng bị xử lý kỷ luật. Điều 8 Nghị

định số 34/2011/NĐ-CP quy định:

1. Áp dụng đối với công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý:

a) Khiển trách; b) Cảnh cáo; c) Hạ bậc lƣơng; d) Buộc thôi việc. 2.

Áp dụng đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý: a) Khiển

trách; b) Cảnh cáo; c) Hạ bậc lƣơng; d) Giáng chức; đ) Cách chức;

e) Buộc thôi việc.

44

Hình thức kỷ luật đƣợc áp dụng sẽ phụ thuộc vào mức độ vi phạm. Tuy

nhiên, tại Nghị định 34/2011/NĐ-CP còn quy định rất chung chung về các

mức độ vi phạm:

- Vi phạm quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng

- Vi phạm ở mức độ nghiêm trọng quy định của pháp luật về phòng,

- Vi phạm ở mức độ đặc biệt nghiêm trọng quy định của pháp luật về

phòng, chống tham nhũng

Vấn là cho đến này, các văn bản pháp luật hiện hành vẫn chƣa làm rõ

thế nào là “nghiêm trọng”, “rất nghiêm trọng”, “đặc biệt nghiêm trọng”. Hơn

nữa, khoản 8 Điều 10 Nghị định 34/2011/NĐ-CP quy định cảnh cáo áp dụng

đối với công chức vi phạm ở mức độ nghiêm trọng quy định của pháp luật về

phòng, chống tham nhũng. Trong khi đó Khoản 3 Điều 11 Nghị định

34/2011/NĐ-CP quy định hạ bậc lƣơng áp dụng đối với công chức có hành vi

vi phạm ở mức độ nghiêm trọng quy định của pháp luật về phòng, chống

tham nhũng. Với hai quy định trên, một công chức đƣợc coi là vi phạm

nghiêm trọng quy định về quà biếu, quà tặng thì sẽ áp dụng hình thức cảnh

cáo hay là hạ bậc lƣơng. Tƣơng tự, khoản 2 Điều 12 Nghị định 34/2011/NĐ-

CP quy định hình thức kỷ luật giáng chức áp dụng đối với công chức giữ chức

vụ lãnh đạo, quản lý. Điểm d khoản 1 Điều 13 Nghị định 34/2011/NĐ-CP

hình thức kỷ luật cách chức áp dụng đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo,

quản lý vi phạm ở mức độ rất nghiêm trọng quy định của pháp luật về phòng,

chống tham nhũng. Với hai quy định trên, nếu một Giám đốc Sở vi phạm quy

định về xử lý quà biếu, quà tặng ở mức độ rất nghiêm trọng thì sẽ bị giáng

chức hay cách chức?

Khoản 8 Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã đƣa định

nghĩa về xung đột lợi ích nhƣ sau: “Xung đột lợi ích là tình huống mà trong

đó lợi ích của ngƣời có chức vụ, quyền hạn hoặc ngƣời thân thích của họ tác

45

động hoặc sẽ tác động không đúng đến việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ.”

Theo Điều 29 Nghị định số 59/2019/NĐ-CP thì cán bộ, công chức đƣợc coi là

có xung đột lợi ích nếu thuộc một trong các trƣờng hợp sau:

1. Nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích khác của cơ quan, tổ chức, đơn vị,

cá nhân liên quan đến công việc do mình giải quyết hoặc thuộc

phạm vi quản lý của mình;

2. Thành lập, tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp tƣ nhân,

công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh,

hợp tác xã, trừ trƣờng hợp luật có quy định khác;

3. Tƣ vấn cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khác ở trong nƣớc và

nƣớc ngoài về công việc có liên quan đến bí mật nhà nƣớc, bí mật công

tác, công việc thuộc thẩm quyền giải quyết hoặc tham gia giải quyết;

4. Sử dụng những thông tin có đƣợc nhờ chức vụ, quyền hạn của

mình để vụ lợi hoặc để phục vụ lợi ích của tổ chức hoặc cá nhân khác;

5. Bố trí vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột của mình

giữ chức vụ quản lý về tổ chức nhân sự, kế toán, làm thủ quỹ, thủ

kho trong cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc giao dịch, mua bán hàng

hóa, dịch vụ, ký kết hợp đồng cho cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình

là ngƣời đứng đầu hoặc cấp phó của ngƣời đứng đầu;

6. Góp vốn vào doanh nghiệp hoạt động trong phạm vi ngành, nghề

do mình trực tiếp thực hiện việc quản lý nhà nƣớc hoặc để vợ hoặc

chồng, bố, mẹ, con kinh doanh trong phạm vi ngành, nghề do mình

trực tiếp thực hiện việc quản lý nhà nƣớc;

7. Ký kết hợp đồng với doanh nghiệp thuộc sở hữu của vợ hoặc

chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột hoặc để doanh nghiệp thuộc

sở hữu của vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột tham dự

các gói thầu của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình khi đƣợc giao thực

46

hiện các giao dịch, mua bán hàng hóa, dịch vụ, ký kết hợp đồng cho

cơ quan, tổ chức, đơn vị đó;

8. Có vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột là ngƣời có

quyền, lợi ích trực tiếp liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ, công

vụ của mình;

9. Can thiệp hoặc tác động không đúng đến hoạt động của cơ quan,

tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền vì vụ lợi.

Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 theo nguyên tắc xung đột lợi

ích phải đƣợc công khai, minh bạch. Ngƣời đƣợc giao thực hiện nhiệm vụ,

công vụ nếu biết hoặc buộc phải biết nhiệm vụ, công vụ đƣợc giao có xung

đột lợi ích thì phải báo cáo ngƣời có thẩm quyền để xem xét, xử lý. Ngoài ra,

cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân khi phát hiện có xung đột lợi ích của cán bộ,

công chức thì phải thông tin, báo cáo cho ngƣời trực tiếp quản lý, sử dụng

ngƣời đó để xem xét, xử lý.

Theo Khoản 3 Điều 23 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018,

ngƣời trực tiếp quản lý, sử dụng cán bộ, công chức khi phát hiện có xung đột

lợi ích và nếu thấy việc tiếp tục thực hiện nhiệm vụ, công vụ không bảo đảm

tính đúng đắn, khách quan, trung thực thì phải xem xét, áp dụng một trong

các biện pháp sau đây:

a) Giám sát việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ đƣợc giao của ngƣời

có xung đột lợi ích;

b) Đình chỉ, tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ đƣợc

giao của ngƣời có xung đột lợi ích;

c) Tạm thời chuyển ngƣời có xung đột lợi ích sang vị trí công tác khác.

Các quy định về kiểm soát xung đột lợi ích cần có thời gian đƣa vào

thực tiễn để đánh giá tính hiệu quả, cũng nhƣ tìm ra đƣợc những điểm tiến bộ

và những điểm còn hạn chế. Tuy nhiên, công tác quản lý và bố trí cán bộ,

47

công chức trong thi hành công vụ không đơn giản nhƣ sắp xếp đồ đạc. Không

phải trƣờng hợp nào cũng có thể tạm đình chỉ, đình chỉ ngƣời có xung đột lợi

ích thi hành công vụ. Trong trƣờng hợp này, rõ ràng thủ trƣởng đơn vị sẽ

giám sát việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ đƣợc giao của ngƣời có xung đột

lợi ích, nhƣng ngƣời có xung đột lợi ích sẽ phải thực hiện nhiệm vụ đƣợc giao

theo chuẩn mực thế nào thì các quy định pháp luật hiện hành chƣa làm rõ.

2.1.4. Các quy định của pháp luật về kê khai tài sản, thu nhập của

cán bộ, công chức

Khoản 1 Điều 44 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định:

Những ngƣời sau đây phải kê khai tài sản:

a) Cán bộ từ Phó trƣởng phòng của Uỷ ban nhân dân huyện, quận,

thị xã, thành phố thuộc tỉnh trở lên và tƣơng đƣơng trong các cơ

quan, tổ chức, đơn vị;

b) Một số cán bộ, công chức tại xã, phƣờng, thị trấn; ngƣời làm

công tác quản lý ngân sách, tài sản của Nhà nƣớc hoặc trực tiếp tiếp

xúc và giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân;

c) Ngƣời ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.

Điều 7 Nghị định số 78/2013/NĐ-CP liệt kê các cán bộ, công chức phải

kê khai tài sản, thu nhập nhƣ sau:

1. Đại biểu Quốc hội chuyên trách, đại biểu Hội đồng nhân dân

chuyên trách, ngƣời ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng

nhân dân, ngƣời đƣợc dự kiến bầu, phê chuẩn tại Quốc hội, Hội

đồng nhân dân.

2. Cán bộ, công chức từ Phó trƣởng phòng của Ủy ban nhân dân

cấp huyện trở lên và ngƣời đƣợc hƣởng phụ cấp chức vụ tƣơng

đƣơng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.

3. Sĩ quan chỉ huy từ cấp Phó tiểu đoàn trƣởng, ngƣời hƣởng phụ

48

cấp chức vụ tƣơng đƣơng phó tiểu đoàn trƣởng trở lên trong Quân

đội nhân dân; sĩ quan chỉ huy từ cấp Phó tiểu đoàn trƣởng, Phó

trƣởng công an phƣờng, thị trấn, Phó đội trƣởng trở lên trong Công

an nhân dân.

4. Ngƣời giữ chức vụ tƣơng đƣơng Phó trƣởng phòng trở lên tại

bệnh viện, viện nghiên cứu, cơ quan báo, tạp chí, ban quản lý dự án

đầu tƣ xây dựng có sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nƣớc, ban

quản lý dự án đầu tƣ xây dựng sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính

thức (ODA).

5. Hiệu trƣởng, Phó hiệu trƣởng trƣờng mầm non, tiểu học, trƣờng

trung học cơ sở, trung học phổ thông, trung tâm giáo dục thƣờng

xuyên, ngƣời giữ chức vụ tƣơng đƣơng Phó trƣởng phòng trở lên

trong các trƣờng đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, dạy

nghề của Nhà nƣớc.

6. Thành viên hội đồng quản trị, thành viên hội đồng thành viên,

thành viên ban kiểm soát, kiểm soát viên, ngƣời giữ chức danh

quản lý tƣơng đƣơng từ Phó trƣởng phòng trở lên trong doanh

nghiệp nhà nƣớc, ngƣời là đại diện phần vốn của Nhà nƣớc, phần

vốn của doanh nghiệp nhà nƣớc và giữ chức danh quản lý từ Phó

trƣởng phòng trở lên trong doanh nghiệp có vốn đầu tƣ của Nhà

nƣớc, của doanh nghiệp nhà nƣớc.

7. Bí thƣ, Phó bí thƣ Đảng ủy, Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng nhân

dân, Chủ tịch, Phó chủ tịch, Ủy viên Ủy ban nhân dân xã, phƣờng,

thị trấn; Trƣởng công an, chỉ huy trƣởng quân sự, cán bộ địa chính,

xây dựng, tài chính, tƣ pháp - hộ tịch xã, phƣờng, thị trấn.

8. Điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm tra viên, thẩm phán, thƣ ký tòa

án, kiểm toán viên nhà nƣớc, thanh tra viên, chấp hành viên, công

chứng viên nhà nƣớc.

49

9. Ngƣời không giữ chức vụ quản lý trong các cơ quan nhà nƣớc,

cơ quan của Đảng, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp công

lập, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân làm công tác

quản lý ngân sách, tài sản của Nhà nƣớc hoặc trực tiếp tiếp xúc và

giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong các

lĩnh vực quy định tại Danh mục ban hành kèm theo Nghị định này.

Nhƣ vậy, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 không quy định tất

cả các cán bộ, công chức phải kê khai tài sản, thu nhập. Tính đến tháng 10-

2017 hệ thống kê khai tài sản, thu nhập ở Việt Nam đã bao phủ đƣợc

1.116.000 đối tƣợng kê khai trên cơ sở danh sách do cơ quan Đảng và Nhà

nƣớc tổng hợp, hệ thống kê khai bao phủ đƣợc diện rộng các công chức của

ba nhánh quyền lực và vƣơn tới các cán bộ không chỉ ở cấp cao [38, tr. 44].

Tuy nhiên, việc không quy định tất cả các cán bộ, công chức phải kê khai tài

sản, thu nhập đã bỏ lọt một số lƣợng không nhỏ các cán bộ, công chức làm

việc trong môi trƣờng dễ có khả năng tham nhũng, nhƣ đăng ký kinh doanh,

thuế, hải quan, đất đai, … Vì vậy, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018

đã quy định tất cả các cán bộ, công chức đều phải kê khai tài sản, thu nhập

(Điều 34 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018). Ngoài ra, theo quy định

tại Khoản 1 Điều 33 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, cán bộ, công

chức cũng phải kê khai tài sản, thu nhập và biến động về tài sản, thu nhập của

mình, của vợ hoặc chồng, con chƣa thành niên. Quy định nhƣ này là hợp lý và

tƣơng đối tƣơng thích với pháp luật về phòng, chống tham nhũng của nhiều

nƣớc trên thế giới.

Pháp luật không bắt buộc cán bộ, công chức phải kê khai tất cả các tài

sản, thu nhập. Khoản 1 Điều 35 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 chỉ

quy định những tài sản, thu nhập sau đây phải kê khai:

50

a) Quyền sử dụng đất, nhà ở, công trình xây dựng và tài sản khác

gắn liền với đất, nhà ở, công trình xây dựng;

b) Kim khí quý, đá quý, tiền, giấy tờ có giá và động sản khác mà

mỗi tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng trở lên;

c) Tài sản, tài khoản ở nƣớc ngoài;

d) Tổng thu nhập giữa 02 lần kê khai.

Đƣơng nhiên, quyền sử dụng đất, nhà ở, công trình xây dựng là những

tài sản lớn thì cán bộ, công chức phải kê khai. Pháp luật của hầu hết các

nƣớc trên thế giới đều bắt buộc cán bộ, công chức phải kê khai bất động sản.

Tuy nhiên, cho đến nay, pháp luật Việt Nam chƣa thực sự rõ ràng về tài sản

gắn liền với đất, nhà ở, công trình xây dựng. Ví dụ, đƣờng dây điện chạy

ngầm trong nhà ở, công trình xây dựng, máy điều hoà nhiệt độ, các đồ nội

thất gắn với nhà ở. Trong nhiều trƣờng hợp, nếu chi kê khai nhà ở (xây thô

không có nội thất) thì giá trị không quá lớn, nhƣng nếu kê khai thêm cả toàn

bộ những tài sản (đồ nội thất) gắn với nhà ở thì giá trị của nhà ở lại lớn. Vì

vậy, liệu rằng cán bộ, công chức có buộc phải kê khai cả đồ nội thất kèm

theo quyền sử dụng đất, nhà ở, công trình xây dựng hay không? Pháp luật

hiện hành chƣa làm rõ.

Đối với động sản, pháp luật không buộc cán bộ, công chức phải kê khai

tất cả các động sản mà chỉ kê khai động sản có giá trị từ 50.000.000 đồng trở

lên. Quy định này có điểm khả thi là sẽ không dẫn đến tình trạng, cán bộ,

công chức phải kê khai từng cây kim, sợi chỉ. Nhƣng quy định này lại có khả

năng bỏ lọt tài sản. Ví dụ: một công chức có khối tài sản lớn, nếu chia nhỏ tài

sản thành từng động sản độc lập thì giá trị không quá 50.000.000 đồng nhƣng

nếu tính tổng động sản thì tổng giá trị động sản lên đến 5 tỷ đồng. Ví dụ,

ngƣời dân Việt Nam có thói quen dự trữ vàng, họ thƣờng chia vàng thành các

đơn vị nhỏ nhƣ chỉ hoặc lƣợng. Nhƣ vậy, nếu giá trị một lƣợng vàng nhỏ hơn

51

50.000.000 đồng thì họ không phải kê khai. Đặc biệt hơn nữa, họ sẽ không

phải kê khai các chỉ vàng (mặc dù họ có tổng số vàng có giá trị hơn 5 tỷ

đồng). Một vấn đề nữa, làm thế nào để xác định đƣợc giá trị của tài sản. Ví

dụ, một bức tranh mà công chức mua đƣợc từ một hoạ sĩ có giá 100.000.000

đồng nhƣng giữa hoạ sĩ và công chức không có hoá đơn, chứng từ, không có

hợp đồng bằng văn bản. Nhƣ vậy không ai có thể biết đƣợc giá trị thật của

bức tranh và đƣơng nhiên công chức sẽ không kê khai vì công chức này sẽ

không dại gì vạch áo cho ngƣời xem lƣng. Nếu công chức không kê khai thì

cơ quan quản lý cũng không thể biết là công chức có sở hữu một bức tranh.

Một vấn đề nữa là Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 chƣa quy

định về nghĩa vụ kê khai đối với chi phí và các khoản nợ của cán bộ, công chức.

Về phƣơng thức và thời điểm kê khai, Luật Phòng, chống tham nhũng

năm 2018 quy định các thời điểm kê khai nhƣ sau: Kê khai lần đầu; kê khai

bổ sung; kê khai hàng năm; và kê khai phục vụ công tác cán bộ.

Kê khai lần đầu: Khi cán bộ, công chức lần đầu giữ vị trí công tác. Việc

kê khai phải hoàn thành chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày đƣợc tiếp nhận,

tuyển dụng, bố trí vào vị trí công tác. Quy định này là hợp lý, phù hợp với

pháp luật của nhiều nƣớc trên thế giới.

Kê khai bổ sung: Kê khai bổ sung đƣợc thực hiện khi ngƣời có nghĩa vụ

kê khai có biến động về tài sản, thu nhập trong năm có giá trị từ 300.000.000

đồng trở lên. Việc kê khai phải hoàn thành trƣớc ngày 31 tháng 12 của năm

có biến động về tài sản, thu nhập, trừ trƣờng hợp đã kê khai hàng năm. Nếu

lấy con số 300.000.000 đồng/12 tháng thì bình quân một tháng cán bộ, công

chức có biến động tài sản hoặc thu nhập tƣơng đƣơng 25 triệu đồng. Con số

này so với mức lƣơng và thu nhập trung bình của công chức là rất cao. Vì

vậy, việc quy định chỉ kê khai bổ sung khi có biến động về tài sản, thu nhập

trong năm có giá trị từ 300.000.000 đồng trở lên có còn ý nghĩa phòng ngừa

52

tham nhũng không? Vấn đề nữa là biến động ở đây đƣợc hiểu là biến động

tăng hay biến động giảm? Ví dụ nếu giá trị bất động sản mà công chức sở hữu

giảm quá 300.000.000 đồng thì công chức có phải kê khai không? Công chức

có khoản vay có giá trị 300.000.000 đồng thì có phải kê khai không? Vấn đề

này pháp luật chƣa làm rõ.

Kê khai hàng năm: Khá ngạc nhiên là, không phải tất cả các cán bộ,

công chức phải kê khai tài sản, thu nhập hàng năm. Theo quy định tại Khoản

3 Điều 36 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 chỉ:

a) Ngƣời giữ chức vụ từ Giám đốc sở và tƣơng đƣơng trở lên. Việc

kê khai phải hoàn thành trƣớc ngày 31 tháng 12;

b) Ngƣời không thuộc quy định tại điểm a khoản này làm công tác

tổ chức cán bộ, quản lý tài chính công, tài sản công, đầu tƣ công

hoặc trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức,

đơn vị, cá nhân khác theo quy định của Chính phủ. Việc kê khai

phải hoàn thành trƣớc ngày 31 tháng 12.

Nhƣ vậy, với các quy định này có rất nhiều cán bộ, công chức không

phải kê khai hàng năm. Nhƣ vậy, nếu cán bộ, công chức không thuộc diện

đƣợc quy định tại Khoản 3 Điều 36 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018

mà có biến động tài sản dƣới 300.000.000 đồng sẽ không phải kê khai hàng

năm và cũng thoát việc kê khai bổ sung. Họ chỉ phải kê khai lần đầu. Đây là

một khoảng trống không nhỏ của pháp luật.

Kê khai phục vụ công tác cán bộ đƣợc áp dụng trong trƣờng hợp:

- Cán bộ, công chức khi dự kiến bầu, phê chuẩn, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại,

cử giữ chức vụ khác. Việc kê khai phải hoàn thành chậm nhất là 10 ngày trƣớc

ngày dự kiến bầu, phê chuẩn, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, cử giữ chức vụ khác.

- Ngƣời ứng cử đại biểu Quốc hội, ngƣời ứng cử đại biểu Hội đồng

nhân dân

53

Pháp luật hiện nay đang bỏ qua trƣờng hợp khi cán bộ, công chức nghỉ

hƣu hoặc thôi giữ chức vụ, quyền hạn thì phải kê khai tài sản, thu nhập.

Về thủ tục kê khai thì cho đến nay pháp luật chƣa quy định về việc kê

khai trên hệ thống mạng điện tử.

2.1.5. Các quy định về xác minh tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức

Nhìn chung, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã làm rõ các

trƣờng hợp xác minh tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Điều 41 Luật

Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định:

1. Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập xác minh tài sản, thu nhập

khi có một trong các căn cứ sau đây:

a) Có dấu hiệu rõ ràng về việc kê khai tài sản, thu nhập không trung thực;

b) Có biến động tăng về tài sản, thu nhập từ 300.000.000 đồng trở

lên so với tài sản, thu nhập đã kê khai lần liền trƣớc đó mà ngƣời có

nghĩa vụ kê khai giải trình không hợp lý về nguồn gốc;

c) Có tố cáo về việc kê khai tài sản, thu nhập không trung thực và

đủ điều kiện thụ lý theo quy định của Luật Tố cáo;

d) Thuộc trƣờng hợp xác minh theo kế hoạch xác minh tài sản, thu

nhập hằng năm đối với ngƣời có nghĩa vụ kê khai đƣợc lựa chọn

ngẫu nhiên;

đ) Có yêu cầu hoặc kiến nghị của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân

có thẩm quyền theo quy định tại Điều 42 của Luật này.

Trong các căn cứ nêu trên đáng chú ý là các căn cứ sau:

Thứ nhất, có dấu hiệu rõ ràng về việc kê khai tài sản, thu nhập không

trung thực. Thực ra việc nghi ngờ việc kê khai tài sản, thu nhập không trung

thực sẽ phụ thuộc vào đánh giá chủ quan của cơ quan kiểm soát tài sản, thu

nhập của cán bộ, công chức. Do vậy, căn cứ này là hợp lý, tạo cơ sở pháp lý

cho cơ quan có thẩm quyền kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức

54

tiến hành xác minh tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức thuộc thẩm quyền

kiểm soát. Đáng tiếc là pháp luật không làm rõ đƣợc câu hỏi cơ quan kiểm

soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức có bắt buộc đƣa ra chứng cứ về

“có dấu hiệu rõ ràng về việc kê khai tài sản, thu nhập không trung thực” hay

chỉ cần có nghi ngờ là đủ.

Thứ hai, có biến động tăng về tài sản, thu nhập từ 300.000.000 đồng

trở lên so với tài sản, thu nhập đã kê khai lần liền trƣớc đó mà ngƣời có nghĩa

vụ kê khai giải trình không hợp lý về nguồn gốc. Nhƣ vậy, theo quy định này,

chỉ khi có biến động tăng về tài sản và biến động tăng về tài sản phải từ

300.000.000 đồng trở lên so với tài sản, thu nhập đã kê khai lần liền trƣớc đó

mà ngƣời có nghĩa vụ kê khai giải trình không hợp lý về nguồn gốc thì mới

tiến hành xác minh tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Liệu rằng mức

300.000.000 đồng trở lên quá cao so với thu nhập bình quân của cán bộ, công

chức hiện nay?

Thứ ba, có tố cáo về việc kê khai tài sản, thu nhập không trung thực

và đủ điều kiện thụ lý theo quy định của Luật Tố cáo. Thực ra căn cứ nhƣ

thế này là đủ. Trong trƣờng hợp không đủ điều kiện thụ lý tố cáo theo quy

định của Luật Tố cáo thì cơ quan kiểm soát tài sản có thể vận dụng căn cứ

“có dấu hiệu rõ ràng về việc kê khai tài sản, thu nhập không trung thực”

với điều kiện căn cứ này cần đƣợc hƣớng dẫn theo hƣớng cho phép cơ quan

kiểm soát tài sản đƣợc quyền nghi ngờ và xác minh mà không phải chứng

minh có dấu hiệu rõ ràng.

Thứ tƣ, thuộc trƣờng hợp xác minh theo kế hoạch xác minh tài sản, thu

nhập hằng năm đối với ngƣời có nghĩa vụ kê khai đƣợc lựa chọn ngẫu nhiên.

Về căn cứ này, vẫn chƣa có hƣớng dẫn cụ thể việc việc lập kế hoạch xác minh

tài sản, thu nhập, các căn cứ để đƣa cán bộ, công chức vào danh sách xác

minh tài sản, thu nhập.

55

Điều 43 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định về nội

dung xác minh bao gồm: “1. Tính trung thực, đầy đủ, rõ ràng của bản kê khai.

2. Tính trung thực trong việc giải trình về nguồn gốc của tài sản, thu

nhập tăng thêm.”

Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 cũng đã quy định khá đầy đủ

về quy trình, các bƣớc tiến hành xác minh tài sản, thu nhập và kết quả của quá

trình xác minh, tài sản thu nhập là kết luận xác minh tài sản, thu nhập. Kết luận

xác minh tài sản, thu nhập bao gồm các nội dung: a) Tính trung thực, đầy đủ, rõ

ràng của việc kê khai tài sản, thu nhập; b) Tính trung thực trong việc giải trình

về nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm; c) Kiến nghị ngƣời có thẩm

quyền xử lý vi phạm quy định của pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập.

Trong quá trình xác minh tài sản, thu nhập có thể sẽ phải tiến hành

thẩm định giá trị tài sản, đánh giá tài sản. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành

không quy định cụ thể về nghĩa vụ và trách nhiệm của các cơ quan có chức

năng thẩm định, đánh giá tài sản. Nhƣ vậy, nếu các cơ quan này không hợp

tác thì cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập gặp khó khăn trong việc xác minh

tính trung thực của nội dung kê khai về tài sản, thu nhập.

2.1.6. Các quy định về công bố thông tin về tài sản, thu nhập của cán

bộ, công chức

Điều 39 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 có quy định về công

khai thông tin về tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.

Thứ nhất, thông tin về tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức phải

đƣợc công khai tại tại cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi ngƣời đó thƣờng xuyên

làm việc. Quy định nhƣ vậy là hợp lý. Tuy nhiên, vẫn chƣa có hƣớng dẫn

hình thức công khai là gì? Công khai thông qua thông tin tại các cuộc họp ở

đơn vị hay là niêm yết công khai bản kê khai hoặc bản kết luận về tài sản, thu

nhập của cán bộ, công chức? Nếu niêm yết liệu rằng có đủ không gian không?

Liệu có thể công khai trên mạng nội bộ hoặc mạng internet của đơn vị không?

56

Thứ hai, thông tin về tài sản, thu nhập của ngƣời dự kiến đƣợc bổ

nhiệm giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý tại cơ quan, tổ chức, đơn vị phải đƣợc

công khai tại cuộc họp lấy phiếu tín nhiệm. Vấn đề đặt ra là thông tin này sẽ

đƣợc cung cấp cho tất cả những ngƣời dự họp trƣớc cuộc họp hay là chỉ công

khai tại cuộc họp? Những ai đƣợc cung cấp thông tin? Vấn đề này chƣa đƣợc

pháp luật làm rõ.

Thứ ba, thông tin về tài sản, thu nhập của ngƣời ứng cử đại biểu Quốc

hội, ngƣời ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân phải đƣợc công khai theo quy

định của pháp luật về bầu cử.

Thứ tƣ, thông tin của ngƣời dự kiến bầu, phê chuẩn tại Quốc hội, Hội

đồng nhân dân phải đƣợc công khai với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng

nhân dân trƣớc khi bầu, phê chuẩn. Thời điểm, hình thức công khai đƣợc thực

hiện theo quy định của Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội.

Các quy định của pháp luật hiện hành chƣa tạo cơ sở pháp lý để ngƣời

dân đƣợc tiếp cận thông tin về tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.

2.1.7. Các quy định về kiểm soát hành vi rửa tiền và các hành vi khác

nhằm che giấu hoặc hợp pháp hoá tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức

Nhìn chung hiện nay khung pháp lý về kiểm soát hành vi rửa tiền tƣơng

đối đầy đủ bao gồm Luật phòng chống rửa tiền năm 2012, Bộ luật hình sự

năm 2015 (đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2017) và các văn bản hƣớng dẫn thi

hành. Tuy nhiên, thói quen mua vàng, tích trữ vàng, thói quen sử dụng tiền

mặt trong giao dịch hiện nay gây khó khăn rất lớn trong việc kiểm soát các

hành vi che giấu hoặc hợp pháp hoá tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.

Hiện nay các quy định về thanh toán không dùng tiền mặt đƣợc quy

định tại Nghị định số 101/2012/NĐ-CP (đã đƣợc sửa đổi, bổ sung theo Nghị

định số 80/2016/NĐ-CP và Nghị định số 16/2019/NĐ-CP) và nhiều văn bản

quy phạm pháp luật khác. Tuy nhiên, việc thanh toán không dùng tiền mặt

57

chủ yếu mới đƣợc thực hiện trong chi trả lƣơng và các khoản phụ cấp cho các

đối tƣợng lao động trong khu vực công và một số doanh nghiệp [15, tr. 82].

Nguyên nhân chủ yếu là do các văn bản pháp luật hiện hành vẫn chƣa đủ sức

nặng để buộc ngƣời dân phải thanh toán không tiền mặt trong các giao dịch,

vì vậy, họ vẫn lựa chọn hình thức giao dịch bằng tiền mặt.

2.1.8. Các quy định về xử lý vi phạm trong kiểm soát tài sản, thu nhập

của cán bộ, công chức

Điều 51 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã quy định về các biện

pháp xử lý đối với hành vi vi phạm trong kiểm soát tài sản, thu nhập nhƣ sau:

Ngƣời ứng cử đại biểu Quốc hội, ngƣời ứng cử đại biểu Hội đồng nhân

dân mà kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, giải trình nguồn gốc của

tài sản, thu nhập tăng thêm không trung thực thì bị xóa tên khỏi danh sách

những ngƣời ứng cử.

Ngƣời đƣợc dự kiến bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, phê chuẩn, cử giữ chức vụ

mà kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, giải trình nguồn gốc của tài

sản, thu nhập tăng thêm không trung thực thì không đƣợc bổ nhiệm, bổ nhiệm

lại, phê chuẩn, cử vào chức vụ đã dự kiến.

Cán bộ, công chức không thuộc hai trƣờng hợp nêu trên mà kê khai tài

sản, thu nhập không trung thực, giải trình nguồn gốc của tài sản, thu nhập

tăng thêm không trung thực thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, bị xử lý

kỷ luật bằng một trong các hình thức cảnh cáo, hạ bậc lƣơng, giáng chức,

cách chức, buộc thôi việc hoặc bãi nhiệm; nếu đƣợc quy hoạch vào các chức

danh lãnh đạo, quản lý thì còn bị đƣa ra khỏi danh sách quy hoạch; trƣờng

hợp xin thôi làm nhiệm vụ, từ chức, miễn nhiệm thì có thể xem xét không kỷ

luật. Quy định liên quan đến việc áp dụng biện pháp xử lý kỷ luật bằng một

trong các hình thức cảnh cáo, hạ bậc lƣơng, giáng chức, cách chức, buộc thôi

việc hoặc bãi nhiệm đối với vi phạm về kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ,

công chức rất khó áp dụng bởi các lý do sau:

58

Nghị định 34/2011/NĐ-CP còn quy định rất chung chung về các mức

độ vi phạm:

- Vi phạm quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng

- Vi phạm ở mức độ nghiêm trọng quy định của pháp luật về phòng,

chống tham nhũng

- Vi phạm ở mức độ nghiêm trọng quy định của pháp luật về phòng,

chống tham nhũng

- Vi phạm ở mức độ rất nghiêm trọng quy định của pháp luật về phòng,

chống tham nhũng

- Vi phạm ở mức độ rất nghiêm trọng quy định của pháp luật về phòng,

chống tham nhũng

- Vi phạm ở mức độ đặc biệt nghiêm trọng quy định của pháp luật về

phòng, chống tham nhũng

Vấn là cho đến này, các văn bản pháp luật hiện hành vẫn chƣa làm rõ

thế nào là “nghiêm trọng”, “rất nghiêm trọng”, “đặc biệt nghiêm trọng”. Hơn

nữa, khoản 8 Điều 10 Nghị định 34/2011/NĐ-CP quy định cảnh cáo áp dụng đối

với công chức vi phạm ở mức độ nghiêm trọng quy định của pháp luật về phòng,

chống tham nhũng. Trong khi đó Khoản 3 Điều 11 Nghị định 34/2011/NĐ-CP

quy định hạ bậc lƣơng áp dụng đối với công chức có hành vi vi phạm ở mức độ

nghiêm trọng quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Với hai

quy định trên, một công chức đƣợc coi là vi phạm nghiêm trọng quy định về

kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức thì sẽ áp dụng hình thức cảnh

cáo hay là hạ bậc lƣơng. Tƣơng tự, khoản 2 Điều 12 Nghị định 34/2011/NĐ-

CP quy định hình thức kỷ luật giáng chức áp dụng đối với công chức giữ chức

vụ lãnh đạo, quản lý. Điểm d khoản 1 Điều 13 Nghị định 34/2011/NĐ-CP

hình thức kỷ luật cách chức áp dụng đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo,

quản lý vi phạm ở mức độ rất nghiêm trọng quy định của pháp luật về phòng,

chống tham nhũng. Với hai quy định, nếu một Giám đốc Sở vi phạm quy định

59

về kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức ở mức độ rất nghiêm trọng

thì sẽ bị giáng chức hay cách chức?

Một điều đáng tiếc nữa là luật chƣa làm rõ nếu cán bộ, công chức,

ngƣời đứng đầu hoặc ngƣời có thẩm quyền của cơ quan kiểm soát tài sản, thu

nhập của cán bộ, công chức có hành vi bao che trong kiểm soát tài sản, thu

nhập sẽ bị xử lý nhƣ thế nào? Có lẽ phải suy đoán gián tiếp từ điểm h Khoản

1 Điều 94 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 để xác định hành vi bao

che là vi phạm khác về kiểm soát tài sản, thu nhập để áp dụng Khoản 2 Điều

94 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 để áp dụng biện pháp chế tài là:

tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành

chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi

thƣờng theo quy định của pháp luật. Việc suy đoán này sẽ không tạo cơ sở

pháp lý chắc chắn cho cơ quan có thẩm quyền xử lý. Hơn nữa, cho đến nay

chƣa có Nghị định quy định về xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi này.

Về trách nhiệm hình sự, tuỳ từng trƣờng hợp, nếu đủ các yếu tố cấu thành tội

phạm thì ngƣời vi phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lợi

dụng, chức vụ quyền hạn trong thi hành công vụ; tội lạm dụng chức vụ, quyền

hạn trong thi hành công vụ hoặc tội giả mạo trong công tác. Tuy nhiên vấn đề

khó nhất đó là cơ sở pháp lý cụ thể nào để xác định cán bộ, công chức, ngƣời

đứng đầu hoặc ngƣời có thẩm quyền của cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập

của cán bộ, công chức có hành vi bao che trong kiểm soát tài sản, thu nhập là

hành vi trái pháp luật.

2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về kiểm soát tài

sản, thu nhập của cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng

2.2.1. Đánh giá chung về thực tiễn áp dụng các quy định của pháp

luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh

Hải Dương

Trong 05 năm (từ năm 2015 cho đến nay), tình hình áp dụng các quy

60

định của pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức trên

địa bàn Hải Dƣơng đã đạt đƣợc những kết quả sau đây:

Thứ nhất, đối với việc kê khai thu nhập, tài sản của cán bộ, công chức

trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh đã giao cho

Chánh thanh tra tỉnh làm đầu mối, hƣớng dẫn, đôn đốc, tổng hợp kết quả

minh bạch tài sản, thu nhập trên địa bàn tỉnh [42], [40], [41], [43]. Mặc dù

trƣớc khi Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 có hiệu lực, cơ quan

thanh tra không có thẩm quyền kiểm soát tài sản, thu nhập của ngƣời có nghĩa

vụ kê khai công tác tại cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp nhà nƣớc thuộc

thẩm quyền quản lý của chính quyền địa phƣơng. Tuy nhiên, Chủ tịch Uỷ ban

nhân dân tỉnh vẫn mạnh dạn giao cho Chánh thanh tra tỉnh làm đầu mối trong

công tác minh bạch, kê khai thu nhập, tài sản của cán bộ, công chức trên địa

bàn. Đây là quyết định đúng đắn và có tính đi trƣớc. Hiện nay, Luật Phòng,

chống tham nhũng năm 2018 quy định thanh tra tỉnh kiểm soát tài sản, thu

nhập của ngƣời có nghĩa vụ kê khai công tác tại cơ quan, tổ chức, đơn vị,

doanh nghiệp nhà nƣớc thuộc thẩm quyền quản lý của chính quyền địa

phƣơng trừ trƣờng hợp quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật Phòng, chống tham

nhũng năm 2018.

Thứ hai, quyết định nêu trên của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh đã tạo

ra kết quả tích cực trong công tác kê khai, minh bạch thu nhập, tài sản của cán

bộ, công chức trên địa bàn tỉnh. Rõ ràng, với việc giao cho Chánh thanh tra

tỉnh làm đầu mối đã bảo đảm cho công tác kê khai, minh bạch thu nhập, tài

sản của cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh đƣợc thống nhất, kịp thời và hiệu

quả. Nhƣ theo Báo cáo năm 2018 của Uỷ ban nhân dân tỉnh thì:

Trên cơ sở hƣớng dẫn của Thanh tra tỉnh các cơ quan, đơn vị, địa

phƣơng đã xây dựng kế hoạch kê khai, công khai để triển khai thực

hiện thống nhất nên công tác kê khai tài sản, thu nhập của các cơ

61

quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh cơ bản đƣợc thực hiện theo đúng quy

định của Nghị định 78/2013/NĐ-CP; Thông tƣ 08/2013/TT-TTCP

của Thanh tra Chính phủ và hƣớng dẫn của Thanh tra tỉnh về thời

gian tiến hành, cách thức tổ chức [43].

Thanh tra tỉnh luôn sát sao trong việc hƣớng dẫn và nhắc nhở các cơ

quan, đơn vị hoàn thành công tác kê khai, minh bạch tài sản. Ví dụ, theo báo

cáo, trong công tác kê khai, minh bạch thu nhập, tài sản của cán bộ, công chức:

Ngày 02/11/2017, Thanh tra tỉnh có Công văn số 647/TTr-P.V gửi

các cơ quan, đơn vị, địa phƣơng hƣớng dẫn việc thực hiện kê khai

tài sản, thu nhập năm 2017 và quy định thời gian gửi báo cáo kết

quả minh bạch tài sản thu nhập.

Ngày 09/4/2018, Thanh tra tỉnh có Công văn số 163/TTr-PCTN về

việc đôn đốc các cơ quan, đơn vị, địa phƣơng về việc báo cáo công

tác minh bạch tài sản, thu nhập năm 2017 [41].

Thứ ba, về cơ bản các cán bộ, công chức thuộc diện phải kê khai thu

nhập, tài sản đều nghiêm chỉnh thực hiện việc kê khai. Số liệu của các năm

2015, 2016, 2017 và 2018 thể hiện nhƣ sau:

Năm

Số ngƣời phải kê khai

Số ngƣời đã kê khai

Số ngƣời không kê khai

Tỷ lệ số ngƣời đã kê khai

11.204

11.202

99,98%

2015

02 (01 trƣờng hợp ốm chết)

6.259

6.259

00

100%

2016

10.949

10.948

01

99,99%

2017

10.747

10.745

100%

2018

02 (do ốm chết và nghỉ hƣu)

(Nguồn: Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương (2016), Báo cáo kết quả minh bạch tài sản, thu nhập năm 2015; Uỷ ban nhân dân dân tỉnh Hải Dương (2017), Báo cáo kết quả minh bạch tài sản, thu nhập năm 2016; Uỷ ban nhân dân dân tỉnh Hải Dương (2018), Báo cáo kết quả minh bạch tài sản, thu nhập năm 2017; Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương (2019), Báo cáo kết quả minh bạch tài sản, thu nhập năm 2018)

62

Thứ tƣ, Từ năm 2015 cho đến nay, không có trƣờng hợp nào phải giải

trình về thu nhập, tài sản cũng nhƣ không có trƣờng hợp nào mà cơ quan nhà

nƣớc có thẩm quyền phải tiến hành xác minh thu nhập, tài sản. Đồng thời

cũng chƣa có trƣờng hợp bị xử lý vi phạm về kê khai thu nhập, tài sản.

Thứ năm, về công khai bản kê khai: Các cơ quan, đơn vị đều thực

nghiêm túc hƣớng dẫn của Thanh tranh Chính phủ và Thanh tra tỉnh về đối

tƣợng phải công khai, thời gian tiến hành công khai, hình thức công khai, địa

điểm công khai, thành phần dự hợp công khai (trong trƣờng hợp công khai

thu nhập, tài sản tại hội nghị), phân công ngƣời tiếp nhận, tổng hợp ý kiến

phản ánh của cán bộ, công chức sau công khai.

Số liệu các năm 2015, 2016, 2017 và 2018 cho thấy:

Năm

Tổng số bản kê khai đã công khai

Tỷ lệ số bản kê khai đã công khai

Số bản kê khai đã công khai theo hình thức niêm yết

Số bản kê khai đã công khai theo hình thức công bố tại cuộc họp

6.808

4.394

11.202

100%

2015

3.059

3.200

5.579

100%

2016

6.664

4.284

10.948

100%

2017

5.859

4.886

10.745

100%

2018

(Nguồn: Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương (2016), Báo cáo kết quả minh bạch tài sản, thu nhập năm 2015; Uỷ ban nhân dân dân tỉnh Hải Dương (2017), Báo cáo kết quả minh bạch tài sản, thu nhập năm 2016; Uỷ ban nhân dân dân tỉnh Hải Dương (2018), Báo cáo kết quả minh bạch tài sản, thu nhập năm 2017; Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương (2019), Báo cáo kết quả minh bạch tài sản, thu nhập năm 2018)

Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc nhƣ trên, trong công tác áp dụng các

quy định của pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức

trên địa bàn Hải Dƣơng đã bộc lộ những khó khăn, vƣớng mắc sau đây:

63

Thứ nhất, vẫn còn có một số rất ít trƣờng hợp không kê khai thu nhập,

tài sản. Bên cạnh, một số trƣờng hợp do nghỉ hƣu hoặc ốm chết, vẫn còn 01

đến 02 trƣờng hợp không kê khai mà không rõ nguyên nhân.

Thứ hai, vẫn còn hiện tƣợng thực hiện việc kê khai, công khai thu

nhập, tài sản một cách hình thức. Theo báo cáo về tình hình kê khai, minh

bạch tài sản năm 2016 thì:

Tuy nhiên, công tác minh bạch tài sản, thu nhập chƣa đƣợc thủ trƣởng

một số cơ quan, đơn vị, địa phƣơng quan tâm, đến hết ngày 26/4/2017

chỉ có 26 cơ quan, đơn vị, địa phƣơng gửi báo cáo kết quả minh bạch

tài sản, thu nhập năm 2016 về Thanh tra tỉnh. Có 02 đơn vị báo cáo,

nội dung công khai thiếu số liệu công số cuộc họp, số đơn vị tổ chức

họp, niêm yết, số cuộc họp; số điểm niêm yết (thành phố Hải Dƣơng,

huyện Thanh Miện, huyện Ninh Giang) [40].

Theo báo cáo về tình hình kê khai, minh bạch tài sản năm 2017 thì:

Tuy nhiên, công tác minh bạch tài sản, thu nhập nhất là thực hiện

chế độ báo cáo kết quả minh bạch tài sản, thu nhập chƣa đƣợc thủ

trƣởng một số cơ quan, đơn vị, địa phƣơng quan tâm, có cơ quan

lập báo cáo sơ sài, không đúng mẫu; nhiều cơ quan, đơn vị gửi báo

cáo thiếu số liệu về tiêu chí quy định; thiếu biểu thống kê kèm theo;

gửi báo cáo chậm so với quy định phải đôn đốc nên khó khăn cho

việc tổng hợp, báo cáo [41].

2.2.2. Nguyên nhân của những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng

các quy định của pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công

chức trên địa bàn tỉnh Hải Dương

2.2.2.1. Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, về phía cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ công

chức: Mặc dù, Thanh tra tỉnh đƣợc giao nhiệm vụ làm đầu mối hƣớng dẫn,

64

đôn đốc, tổng hợp kết quả minh bạch tài sản, thu nhập trên địa bàn tỉnh.

Nhƣng nhiệm vụ này không đƣợc quy định chính thức trong Luật Phòng,

chống tham nhũng năm 2005. Vì vậy, vai trò của cơ quan tranh tra tỉnh chỉ

nhƣ là cơ quan tham mƣu của Uỷ ban nhân dân giúp Uỷ ban nhân dân hƣớng

dẫn, đôn đốc, tổng hợp kết quả minh bạch tài sản, thu nhập trên địa bàn tỉnh.

Vì vậy, Thanh tra tỉnh không có nhiều quyền năng trong việc yêu cầu các cơ

quan, đơn vị nghiêm chỉnh chấp hành công tác kê khai và công khai thu nhập,

tài sản của cán bộ, công chức. Đến nay, Luật Phòng, chống tham nhũng năm

2018 đã quy định rõ thẩm quyền của thanh tra tỉnh. Hy vọng trong thời gian

tới, Thanh tra tỉnh sẽ có đầy đủ quyền năng hơn.

Thứ hai, về ý thức và trách nhiệm của mỗi cán bộ, công chức: Trên

thực tế, vẫn tồn tại một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức vẫn chƣa nhận

thức đúng đắn về ý nghĩa của việc kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ,

công chức. Vì vậy, họ vẫn có thái độ chƣa nghiêm túc trong việc kê khai tài

sản, thu nhập. Thái độ này có ảnh hƣởng dây chuyền, từ ngƣời này sang

ngƣời khác, từ thủ trƣởng xuống nhân viên, từ cơ quan này sang cơ quan

khác. Thái độ này của một bộ phận không nhỏ các cán bộ, công chức đã góp

phần làm giảm hiệu quả công ty kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công

chức. Hơn nữa, một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức thoái hoá, biến

chất cố ý tìm mọi cách che giấu tài sản dƣới nhiều hình thức mà rất khó kiểm

soát. Ví dụ, nhiều ngƣời để con đã thành niên, anh, chị, em ruột, ngƣời họ

hàng đứng tên sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất hoặc cổ phần trong các công

ty thuộc khu vực tƣ nhân… Hiện tƣợng này không thiếu nhƣng rất khó xác

minh và chứng minh. Cuối cùng, vẫn đâu đó tồn tại tình trạng một số cán bộ,

công chức thuộc cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức có

biểu hiện dễ dãi, nể nang đồng nghiệp theo kiểu “tình đồng liêu” vì vậy công

tác kê khai, xác minh tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức vẫn còn hình

thức mà chƣa thực chất và hiệu quả.

65

Thứ ba, về ý thức và trách nhiệm của quần chúng nhân dân. Trong thời

đại ngày nay, dân trí ngày càng. Với sự hỗ trợ của nhân dân, nhiều khuất tật

của cán bộ, công chức trong thi hành công vụ đã đƣợc phanh phui. Ở một số

địa bàn tỉnh bạn, nhiều biệt phủ, tài sản lớn của cán bộ, công chức bị phanh

phui bởi chính ngƣời dân. Bên cạnh những yếu tố tích cực đó thì vẫn còn tồn

tại một bộ phận không nhỏ ngƣời dân có sợ sệt, không dám tố cáo, chỉ ra

những khối tài sản bất thƣờng của cán bộ, công chức. Bởi vì trong suy nghĩ

của họ, đó không phải việc của mình, đụng phải chẳng may tay bay vạ gió thì

không bõ. Sự rụt rè, thiếu tích cực của một bộ phận không nhỏ ngƣời dân

cũng làm giảm hiệu quả công tác kiểm soát, xác minh tài sản, thu nhập của

cán bộ, công chức.

2.2.2.2. Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, pháp luật còn nhiều vƣớng mắc, hạn chế. Nhƣ đã phân tích

ở trên, pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ còn nhiều hạn chế,

vƣớng mắc. Những hạn chế, vƣớng mắc này là một trong những nguyên nhân

chính dẫn đến khó khăn trong kê khai, xác minh tài sản, thu nhập của cán bộ,

công chức. Có thể tóm tắt những vƣớng mắc của pháp luật về kiểm soát tài

sản, thu nhập của cán bộ, công chức nhƣ sau:

- Thẩm quyền kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức vẫn

chƣa tập trung mà vẫn bị phân tán. Pháp luật vẫn duy trì mô hình kiểm soát

nội bộ đối với hệ thống cơ quan lập pháp, cơ quan tƣ pháp, bộ, cơ quan ngang

bộ, cơ quan thuộc chính phủ (trừ cán bộ, công chức thuộc thẩm quyền kiểm

soát của Thanh tra chính phủ).

- Các quy định về kiểm soát quà tặng, quà biếu còn một số vƣớng mắc:

pháp luật chƣa làm rõ thời điểm quà biếu, quà tặng là tài sản công; khó xác

định cơ sở pháp lý để xử lý hành vi vi phạm quy định về nhận quà tặng, xử lý

quà tặng, ngƣời có chức vụ, quyền hạn vi phạm quy định về nhận quà tặng,

66

báo cáo, nộp lại quà tặng; chƣa phân định đƣợc hành vi nhận quà biếu, quà

tặng không báo cáo, nộp lại với hành vi nhận hối lộ; mức độ vi phạm chƣa

đƣợc định lƣợng, thế nào là nghiêm trọng, thế nào rất nghiêm trọng và thế nào

là đặc biệt nghiêm trọng; các quy định còn chồng chèo, một vi phạm không

biết phải áp dụng chế tài nào mới đúng.

- Các quy định về kiểm soát xung đột lợi ích chƣa đƣa ra chuẩn mực

ứng xử của ngƣời có xung đột lợi ích nhƣng không thể tạm đình chỉ, đình chỉ

ngƣời này thi hành công vụ.

- Về tài sản phải kê khai, pháp luật vẫn chƣa làm rõ nội thất có phải là

tài sản gắn liền với đất đai, nhà ở, công trình xây dựng không; quy định kê

động sản có giá trị từ 50.000.000 đồng trở lên sẽ dễ dàng tạo cơ hội cho

những cán bộ, công chức thoái hoá, biến chất lách luật, lẩn tránh kê khai;

pháp luật chƣa có quy định bắt buộc kê khai đối với chi phí và khoản nợ của

cán bộ, công chức; việc quy định cán bộ, công chức chỉ phải kê khai biến

động tài sản từ 300.000.000 đồng trở lên chƣa thực sự bảo đảm đƣợc việc

phòng ngừa, kiểm soát tham nhũng; vẫn chƣa triển khai kê khai hàng năm đối

với tất cả cán bộ, công chức. Điều này dẫn đến thực trạng, nhiều công chức

thoát khỏi nghĩa vụ kê khai.

- Chƣa có hƣớng dẫn cụ thể về các trƣờng hợp xác minh tài sản, thu

nhập của cán bộ, công chức: chƣa xác định rõ cơ quan kiểm soát tài sản thu

nhập, thu nhập của cán bộ, công chức phải có căn cứ hay chỉ cần nghi ngờ

việc kê khai tài sản, thu nhập không trung thực thì sẽ có quyền tiến hành xác

minh tài sản, thu nhập; chƣa có hƣớng dẫn cụ thể về xác minh tài sản, thu

nhập ngẫu nhiên; pháp luật chƣa có quy định cụ thể về nghĩa vụ và trách

nhiệm phối hợp và hợp tác của các cơ quan khác trong xác minh tài sản, thu

nhập của cán bộ, công chức.

- Về công bố thông tin về tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, pháp

luật hiện hành chƣa làm rõ hình thức công khai, ngƣời đƣợc cung cấp thông tin.

67

- Các quy định của pháp luật hiện hành vẫn chƣa tạo cơ sở pháp lý bắt

buộc để chấm dứt việc thanh toán bằng tiền mặt.

- Các quy định về xử lý vi phạm còn rất chung chung, chồng chéo, dẫn

đến khó áp dụng trên thực tiễn.

Thứ hai, về thói quen mua vàng tích trữ và giao dịch bằng tiền mặt.

Một thực tế, là ngƣời Việt Nam có thói quen mua vàng tích trữ. Khi mua

vàng, các cơ sở bán vàng thƣờng không ghi đầy đủ tên, địa chỉ của ngƣời mua

vì vậy rất khó xác định đƣợc nhân thân của ngƣời mua vàng. Sau khi mua

vàng, ngƣời dân thƣờng cất trữ vào chỗ kín đáo, khó phát hiện. Không ít cán

bộ, công chức và gia đình cũng có thói quen nhƣ vậy. Vì vậy, cơ quan kiểm

soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức gặp rất nhiều khó khăn trong việc

xác minh tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Bên cạnh đó, trong các giao

dịch, ngƣời dân vẫn sử dụng tiền mặt. Vì vậy, rất khó để kiểm soát thu nhập

và tài sản của ngƣời dân cũng nhƣ các cán bộ, công chức.

68

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2

Ở Việt Nam, các quy định về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ,

công chức đƣợc quy định trong Luật phòng, chống tham nhũng và các văn

bản quy phạm pháp luật có liên quan nhƣ Luật phòng, chống rửa tiền và các

văn bản quy phạm pháp luật có liên quan khác. Về cơ bản, các quy định của

pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức của Việt Nam

ngày càng hoàn thiện. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã quy định

rõ về cơ quan chuyên trách kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.

Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định tất cả các cán bộ, công

chức phải kê khai tài sản, thu nhập. Đây là điểm mới so với Luật phòng,

chống tham nhũng năm 2005. Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy

định cụ thể hơn về hình thức, nội dung kê khai; quy định cụ thể hơn về căn

cứ, thủ tục xác minh tài sản, thu nhập.

Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về kiểm

soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức cho thấy pháp luật hiện hành vẫn

còn bộc lộ những vƣớng mắc nhất định:

Thứ nhất, mặc dù pháp luật quy định trao cho cơ quan thanh tra kiểm

soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức thuộc hệ thống cơ quan hành

pháp. Nhƣng thẩm quyền kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức

thuộc hệ thống cơ quan hành pháp vẫn chƣa hoàn toàn thuộc về cơ quan thanh

tra mà vẫn bị phân tán cho các cơ quan hành chính khác nhƣ Bộ, cơ quan

ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.

Thứ hai, các quy định về quà biếu, quà tặng vẫn còn nhiều vƣớng mắc

và nhiều khoảng trống. Đặc biệt, các quy định về xử lý đối với hành vi vi

phạm về xử lý quà biếu, quà tặng vẫn còn rất chung chung và chƣa thống

nhất. Vì vậy, rất khó áp dụng các quy định này trong thực tiễn.

Thứ ba, các quy định về kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức

69

vẫn còn một số vƣớng mắc: việc quy định cán bộ, công chức kê khai động sản

có giá trị từ 50.000.000 đồng trở lên nhƣng chƣa có hƣớng dẫn cụ thể gây

nhiều khó khăn trong áp dụng; vẫn còn nhiều quy định chƣa rõ ràng liên quan

đến xác minh tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.

Thứ tƣ, các quy định về xử lý hành vi vi phạm về kiểm soát thu nhập,

tài sản của cán bộ, công chức còn rất chung chung, nên rất khó có cơ sở pháp

lý đầy đủ để xử lý các hành vi vi phạm.

Bên cạnh đó, lực lƣợng cán bộ làm công tác kiểm soát thu nhập, tài sản

của cán bộ, công chức mỏng, cùng với ý thức và trách nhiệm của một bộ phận

không nhỏ cán bộ, công chức và quần chúng nhân dân chƣa cao cũng ảnh

hƣởng đến hiệu quả của việc áp dụng các quy định của pháp luật về kiểm soát

tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.

70

CHƢƠNG 3

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT TÀI SẢN, THU NHẬP

CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƢƠNG

3.1. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về

kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức

3.1.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về quy tắc ứng xử của

cán bộ, công chức

Về nguyên tắc, khi thi hành công vụ, cán bộ, công chức là ngƣời đại

diện của nhà nƣớc. Pháp luật không cho phép cán bộ, công chức nhận quà

biếu, quà tặng vì lý do công vụ. Trong mọi trƣờng hợp, nếu cán bộ, công

chức nhận quà biếu, quà tặng thì quà biếu, quà tặng phải đƣợc coi là tài sản

công. Nhƣ vậy ngay từ thời điểm cán bộ, công chức nhận qùa biếu, quà tặng

thì tài sản đã là tài sản công. Vì vậy, cán bộ, công chức phải báo cáo và nộp

lại quà biếu, quà tặng theo quy định của pháp luật. Để bảo đảm cho việc áp

dụng pháp luật một cách thuận lợi và chắc chắn, cần có hƣớng dẫn cụ thể

trong một Nghị định một cách rõ ràng rằng: trong bất kỳ trƣờng hợp nào,

ngay từ thời điểm cán bộ, công chức nhận quà biếu, quà tặng thì tài sản đƣợc

biếu, tặng là tài sản công và cán bộ, công chức có nghĩa vụ giao nộp tài sản

này cho Nhà nƣớc.

Với quy định quà biếu, quà tặng là tài sản công thì hành vi vi phạm quy

định về nhận quà tặng, xử lý quà tặng, ngƣời có chức vụ, quyền hạn vi phạm

quy định về nhận quà tặng, báo cáo, nộp lại quà tặng là vi phạm quy định về

quản lý, sử dụng tài sản công và sẽ bị xử lý vi phạm bởi chế tài tƣơng ứng.

Với quy định xác định quà biếu, quà tặng là tài sản công thì sẽ cần có

hƣớng dẫn bằng một văn bản liên tịch của các cơ quan nhà nƣớc ở trung ƣơng

71

về phân định hành vi vi phạm quy định về quà biếu, quà tặng và hành vi nhận

hối lộ. Nếu hành vi nhận quà biếu, quà tặng để làm hoặc không làm một việc

vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của ngƣời biếu, tặng quà thì đây là hành vi nhận

hối lộ. Nếu có đầy đủ yếu tố cấu thành tội nhận hối lộ thì sẽ xử lý hình sự đối

với tội nhận hối lộ (ví dụ giá trị quà biếu, quà tặng từ 2.000.000 đồng trở lên).

Nếu không xác định đƣợc động cơ, mục đích của việc nhận quà biếu, quà tặng

thì đây là hành vi vi phạm về qùa biếu, quà tặng nếu cán bộ, công chức nhận

quà biếu, quà tặng nhƣng không báo cáo và giao nộp tài sản đƣợc biếu, tặng

theo đúng quy định của pháp luật. Nếu tài sản có giá trị từ 2.000.000 đồng trở

lên hoặc có đủ các dấu hiệu của tội tham ô thì có thể bị truy cứu trách nhiệm

hình sự về tội tham ô.

Đối với vấn đề kiểm soát xung đột lợi ích: Cần có hƣớng dẫn cụ thể về

quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức khi có xung đột lợi ích và hoàn cảnh

bắt buộc phải thi hành công vụ. Trên thực tế, đối với một số cơ quan, đơn vị

khi mà biên chế công chức chuyên môn không nhiều. Ví dụ: ông A là giám

đốc sở xây dựng ở tỉnh N, em trai ông A có công ty xây dựng hoạt động ở

tỉnh N. Trƣờng hợp này rõ ràng là có xung đột lợi ích. Nhƣng rất khó có thể

thay thế giám đốc sở xây dựng trong trƣờng hợp này. Vì vậy, cần có quy định

chi tiết về chuẩn mực ứng xử của cán bộ, công chức trong thi hành công vụ

khi có xung đột lợi ích:

- Cán bộ, công chức phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp

luật trong thi hành công vụ

- Không đƣợc dành ƣu tiên không đúng quy định của pháp luật cho

ngƣời thân hoặc ngƣời có liên quan

- Không đƣợc phân biệt đối xử trái pháp luật khi thi hành công vụ

- Không đƣợc đối xử với ngƣời thứ ba kém thuận lợi hơn ngƣời thân

thích hoặc ngƣời liên quan khác của cán bộ, công chức khi thi hành công vụ

72

- Mọi quyết định, hành vi của cán bộ, công chức phải dựa trên căn cứ

pháp luật

3.1.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về kê khai tài sản, thu

nhập của cán bộ, công chức

Trƣớc hết, cần có hƣớng dẫn cụ thể buộc cán bộ, công chức kê khai bất

động sản bao gồm:

- Quyền sử dụng đất

- Nhà ở

- Công trình xây dựng

- Cây trồng gắn với đất lâu dài (có nhiều cây trồng có giá trị rất lớn)

- Nội thất gắn với đất, nhà, công trình xây dựng

- Các tài sản khác gắn với đất, nhà, công trình xây dựng

Tiếp theo, cần có hƣớng dẫn buộc cán bộ, công chức phải kê khai các

động sản mà không có căn cứ (tài liệu) để xác định giá trị của tài sản. Đối với

các tài sản cùng loại, nếu tách từng đơn vị nhỏ thì có giá trị nhỏ hơn 50.000.000

đồng nhƣng nếu gộp lại thì tổng giá trị tài sản trên 50.000.000 đồng, trong

trƣờng hợp này cán bộ, công chức phải kê khai tài sản này. Ví dụ, cán bộ,

công chức có tủ rƣợu ngoại có giá trị một chai khoảng 3 triệu, nhƣng nếu tính

cả tủ rƣợu thì giá trị lên đến 60 triệu đồng. Trong trƣờng hợp này, cán bộ,

công chức phải kê khai. Một trƣờng hợp khác, công chức cất trữ 100 chỉ

vàng, mỗi chỉ vàng giá trị 4,3 triệu đồng. Nếu xét từng chỉ vàng thì công chức

không phải kê khai nhƣng nếu tính cả 100 chỉ vàng thì tổng giá trị sẽ là

430.000.000 đồng. Nhƣ vậy, công chức phải kê khai. Việc hƣớng dẫn nhƣ này

là cần thiết vì thực trạng hiện nay ở Việt Nam, ngƣời dân có thói quen tích trữ

vàng, kim khí quý, đá quý, các tài sản này thƣờng đƣợc chia nhỏ thành các

đơn vị nhƣ chỉ, cây (lƣợng), viên, hột, … Thƣờng giá trị của từng đơn vị nhỏ

hơn 50.000.000 đồng nhƣng nếu tỉnh tổng từng loại nhƣ tính tổng số vàng, số

73

ngọc trai, … thì lại lớn hơn 50.000.000 đồng rất nhiều. Hơn nữa, thói quen

mua bán của ngƣời Việt Nam nhiều khi không ghi bằng văn bản, chứng từ.

Do đó, rất khó xác định giá trị của tài sản.

Trong tƣơng lai, cần quy định bắt buộc cán bộ, công chức kê khai cả

các khoản chi và nợ. Bởi vì các khoản chi lớn và nợ dẫn đến nguy cơ hao hụt

tài sản của cán bộ, công chức và ảnh hƣởng đến việc thi hành công vụ của cán

bộ, công chức.

Cần có hƣớng dẫn làm rõ biến động về tài sản phải kê khai bổ sung là

biến động tăng hay biến động giảm hay bao gồm cả biến động tăng và biến

động giảm. Có lẽ, cần kê khai cả biến động tăng và biến động giảm. Vì biến

động giảm cho thấy cán bộ, công chức đang gặp khó khăn về kinh tế. Sự khó

khăn về kinh tế có ảnh hƣởng không nhỏ đến thái độ và trách nhiệm của cán

bộ, công thức trong thi hành công vụ. Trong thời gian này việc sửa đổi mức

quy định “biến động tài sản từ 300.000.000 đồng trở lên” không khả thi. Vì

vậy, cần thời gian áp dụng để xem tác động của quy định này nhƣ thế nào

trong thực tiễn. Trong tƣơng lai, cần xem xem điều chỉnh lại mức quy định

này cho phù hợp với thu nhập từ ngân sách nhà nƣớc của cán bộ, công chức.

Quy định hiện hành không buộc tất cả cán bộ, công chức phải kê khai

hàng năm. Tuy nhiên, trong tƣơng lai cần quy định tất cả các cán bộ, công

chức phải kê khai hàng năm khi các điều kiện về cơ sở vật chất và nhân lực

đã bảo đảm:

- Đã phát triển đƣợc hệ thống kê khai, xác minh tài sản, thu nhập của

cán bộ, công chức trực tuyến. Các thông tin đƣợc xử lý hoàn toàn bởi máy

móc mà không cần thiết có sự tham gia của quá nhiều nhân lực.

- Hệ thống các cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ công

chức đã thống nhất thành một mối với đội ngũ đủ về lực lƣợng, thực sự

chuyên nghiệp, có năng lực chuyên môn đáp ứng đƣợc nhu cầu công việc

74

Trong tƣơng lai, cần bổ sung quy định về việc cán bộ, công chức phải kê

khai tài sản, thu nhập trƣớc khi nghỉ hƣu, thôi giữ chức vụ. Quy định này là cần

thiết và nhiều nƣớc trên thế giới áp dụng. Quy định này đặc biệt có ý nghĩa

trong việc kiểm soát tham nhũng đối với ngƣời ở vị trị quản lý. Quy định này

cũng giúp ngăn chặn tâm lý “chuyến tàu cuối” của cán bộ, công chức. Theo đó,

trƣớc khi đến cuối nhiệm kỳ, cán bộ, công chức thoái hoá, biến chất tìm mọi

cách thu vén cho cá nhân gây ảnh hƣởng đến việc thi hành công vụ.

3.1.3. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về xác minh tài sản, thu

nhập của cán bộ, công chức

Thứ nhất, cần có hƣớng dẫn cụ thể về kế hoạch xác minh tài sản, thu

nhập của cán bộ, công chức đƣợc lựa chọn ngẫu nhiên. Việc lựa chọn ngẫu

nhiên phải khách quan không nhằm mục đích trù dập hay lật đổ một cá nhân

nào. Về cách lựa chọn ngẫu nhiên, trƣớc hết lựa chọn cơ quan, đơn vị mục

tiêu. Việc lựa chọn đơn vị mục tiêu sẽ thông qua hình thức bốc thăm hoặc

hình thức khác bảo đảm tính khách quan. Sau khi chọn đƣợc cơ quan, đơn vị

mục tiêu thì chọn bất kỳ một nhóm cán bộ, công chức trong cơ quan, đơn vị

đó để xác minh tài sản. Thủ trƣởng cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập của

cán bộ, công chức sẽ thành lập tổ xác minh tài sản để tiến hành xác minh tài

sản. Việc xác minh tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức theo lựa chọn

ngẫu nhiên phải đƣợc thông báo trƣớc cho cán bộ, công chức và cơ quan, đơn

vị nơi ngƣời này công tác.

Cần có quy định trong Nghị định về nghĩa vụ hợp tác của các cơ quan,

tổ chức, cá nhân khi đƣợc:

- Kiến nghị áp dụng biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để

ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại, chuyển dịch tài sản, thu nhập hoặc hành vi

khác cản trở hoạt động xác minh tài sản, thu nhập;

- Yêu cầu ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác cung cấp thông tin về

lịch sử giao dịch của tài khoản của ngƣời bị xác minh tài sản;

75

- Đề nghị định giá, thẩm định giá, giám định tài sản, thu nhập phục vụ

cho việc xác minh

Nếu cơ quan, tổ chức, cá nhân không hợp tác thì sẽ bị xử lý vi phạm

hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự nếu gây hậu quả nghiêm trọng.

3.1.4. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về công bố thông tin tài

sản, thu nhập của cán bộ, công chức

Việc niêm yết thông tin về tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức đã

không còn phù hợp với ngày nay. Bởi vì không gian của trụ sở làm việc

không đủ để có thể niêm yết thông tin về tài sản, thu nhập của tất cả cán bộ,

nhân viên của cơ quan, đơn vị. Vì vậy, cần thực hiện hình thức công khai

thông tin về tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức trực tuyến trên hệ thống

mạng của cơ quan, đơn vị đối với cơ quan, đơn vị có trang thông tin điện tử

riêng hoặc trong hệ thống mạng điện tử của cơ quan chủ quản của cơ quan,

đơn vị. Tuy nhiên, thông tin này bƣớc đầu không công khai ra công chúng. Vì

vậy, chỉ cán bộ, công chức có tài khoản và mật khẩu mới có thể vào để tra

cứu thông tin. Dần dần, khi minh bạch hoá thông tin tài sản, thu nhập của cán

bộ, công chức thì các thông tin chung về tài sản, thu nhập của cán bộ, công

chức có thể đƣợc công khai. Tuy nhiên, các thông tin chi tiết thì chỉ công khai

trong nội bộ cơ quan, đơn vị.

Về việc ai có quyền truy cập thông tin về tài sản, thu nhập của cán bộ,

công chức dự kiến đƣợc bổ nhiệm giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý tại cơ quan,

tổ chức, đơn vị. Đối với trƣờng hợp này, cán bộ, công chức làm việc tại cơ

quan, đơn vị nơi ngƣời có thông tin tài sản đƣợc công khai sẽ đƣợc bổ nhiệm

giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý đƣợc quyền truy cập thông tin về tài sản, thu

nhập của ngƣời này.

Dân biết, dân bàn, dân kiểm tra là một nguyên tắc Hiến định ở nƣớc ta.

76

Vì vậy, trong tƣơng lai, cần cho phép công khai những thông tin về tài sản,

thu nhập của cán bộ, công chức trên mạng thông tin điện tử của cơ quan, đơn

vị hoặc cơ quan chủ quản của cơ quan, đơn vị. Các thông tin chi tiết chỉ đƣợc

cung cấp cho ngƣời dân trong trƣờng hợp đặc biệt theo quyết định của thủ

trƣởng cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Ví dụ:

trong trƣờng hợp, luật sƣ bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của cán bộ, công

chức có quyền truy cập thông tin; ngƣời tố cáo cán bộ, công chức có hành vi

tham nhũng và đơn tố cáo đã đƣợc thụ lý đƣợc quyền truy cập thông tin;

ngƣời khởi kiện cán bộ, công chức và đơn khởi kiện đã đƣợc thụ lý đƣợc

quyền truy cập thông tin, …

3.1.5. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về kiểm soát hành vi

rửa tiền và các hành vi khác nhằm che giấu hoặc hợp pháp hoá tài sản, thu

nhập của cán bộ, công chức

Một trong những điểm khó nhất trong kiểm soát tài sản, thu nhập của

cán bộ, công chức là làm thế nào để kiểm soát đƣợc giao dịch mua bán vàng,

bạc, kim khí quý, đá quý. Bởi vì, ngƣời dân cũng nhƣ các cán bộ, công chức

có thói quen cất trữ các tài sản này. Thực thế hiện nay cho thấy khi mua vàng,

bạc, đồ trang sức các cơ sở kinh doanh mặc dù xuất hoá đơn, chứng từ nhƣng

trên hoá đơn, chứng từ không ghi rõ tên, địa chỉ của ngƣời mua. Giả sử ông A

có địa chỉ tại phố N, phƣờng M, quận Q, thành phố H mua vàng tại cửa hàng

kinh doanh vàng bạc, đá quý RS. Khi ghi hoá đơn thì cửa hàng này chỉ ghi tên

của ngƣời mua (ví dụ anh A, mà không ghi đầy đủ họ tên) cũng nhƣ không ghi

địa chỉ (nhiều khi họ chỉ ghi địa chỉ: quận Q, thành phố H). Thói quen này dẫn

đến các cơ quan chức năng không thể nào nhận diện đƣợc ai là ngƣời mua. Vì

vậy, đề nghị sửa đổi, bổ sung các quy định về hoá đơn, chứng theo hƣớng buộc

các cơ sở kinh doanh phải ghi đầy đủ tên, địa chỉ của ngƣời mua tài sản nếu

không hoá đơn, chứng từ đƣợc coi là hoá đơn, chứng từ không hợp lệ.

77

Đối với thanh toán không tiền mặt: Việc bắt buộc thanh toán không bằng

tiền mặt đối với tất cả các giao dịch là không khả thi. Tuy nhiên có thể

khuyến khích và dần tiến tới bắt buộc các giao dịch giữa thƣơng nhân với

ngƣời dân bằng thẻ hoặc các hình thức không tiền mặt khác khi cơ sở hạ tầng

đã phát triển. Ví dụ các giao dịch mua bán tại siêu thị, cửa hàng sẽ tiến tới

bằng thẻ và không dùng tiền mặt; giao dịch mua ô tô hoặc tài sản khác tại các

cơ sở kinh doanh cũng bằng hình thức không tiền mặt, … Giao dịch tài sản

lớn nhƣ nhà đất, ô tô bắt buộc phải thông qua hình thức không tiền mặt để

kiểm soát nghĩa vụ thuế……Mặc dù khó bắt buộc toàn bộ nhân dân thực hiện

thanh toán không tiền mặt nhƣng cần buộc toàn bộ cán bộ, công chức phải

thanh toán thông qua tài khoản (nhận lƣơng, sử dụng tài khoản để thanh toán

cho các giao dịch,…).

Rõ ràng việc bắt buộc sẽ gây phản ứng mạnh mẽ từ nhân dân khi mà

thói quen sử dụng tiền mặt đã ăn sâu vào tiềm thức và hành động của mỗi

ngƣời. Nhƣng thanh toán không tiền mặt thực sự văn minh, an toàn và có thể

kiểm soát đƣợc giao dịch bất chính. Vì vậy cần phải khuyến khích và khi thấy

chín muồi có thể bắt buộc cho đến khi ngƣời dân không còn thói quen tiêu

tiền mặt. Có thể việc này sẽ mất rất nhiều thời gian nhƣng đây là việc nên làm

và cần làm.

3.1.6. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm trong

kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức

Theo quy định hiện hành thì kỷ luật hành chính đƣợc áp dụng đối với

cán bộ, công chức vi phạm quy định về nhận, xử lý quà biếu, quà tặng và kê

khai, giải trình tài sản của cán bộ, công chức. Vì vậy, các chế tài này đƣợc áp

dụng theo quy định của Luật cán bộ, công chức và các văn bản hƣớng dẫn thi

hành. Nghị định 34/2011/NĐ-CP quy định cụ thể các chế tài kỷ luật hành

chính. Tuy nhiên, các quy định trong văn bản này vẫn còn rất chung chung rất

78

khó áp dụng trong thực tiễn. Vì vậy, cần có văn bản hƣớng dẫn về các nội

dung sau trong Nghị định:

Thứ nhất, cần có hƣớng dẫn cụ thể để định lƣợng hoá: vi phạm; vi

phạm ở mức độ nghiêm trọng; vi phạm ở mức độ rất nghiêm trọng; vi phạm ở

mức độ đặc biệt nghiêm trọng.

Trƣớc hết: Đối với vi phạm liên quan đến quà tặng: Bởi vì hành vi

nhận quà tặng, quà biếu có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên mà không báo

cáo, bàn giao lại cho Nhà nƣớc có thể là căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình

sự về tội nhận hối lộ hoặc tội tham ô. Vì vậy, mức độ vi phạm và chế tài áp

dụng nên đƣợc xác định nhƣ sau:

Cán bộ, công chức (kể cả thủ trƣởng đơn vị) nhận quà biếu, quà tặng có

giá trị dƣới 500.000 đồng (bao gồm một tài sản hoặc nhiều tài sản) liên quan

đến công vụ mà không báo cáo và giao lại tài sản cho Nhà nƣớc theo quy định

của pháp luật thì đƣợc coi là vi phạm quy định của pháp luật về phòng, chống

tham nhũng và bị áp dụng hình thức kỷ luật khiển trách. Tƣơng tự, thủ trƣởng

đơn vị vi phạm quy định về xử lý quà biếu, quà tặng có giá trị đến 500.000

đồng bao gồm một tài sản hoặc nhiều tài sản) thì đƣợc coi là vi phạm quy

định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng và bị áp dụng hình thức kỷ

luận khiển trách.

Cán bộ, công chức (kể cả thủ trƣởng đơn vị) nhận quà biếu, quà tặng có

giá trị từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng (bao gồm cả một tài sản hoặc

nhiều tài sản) mà không báo cáo và giao lại tài sản cho Nhà nƣớc theo quy

định của pháp luật thì đƣợc coi là vi phạm ở mức độ nghiêm trọng quy định

của pháp luật về phòng, chống tham nhũng và bị áp dụng hình thức kỷ luật

cảnh cáo. Cán bộ, công chức (kể cả thủ trƣởng đơn vị) đã bị xử lý kỷ luật

khiển trách về hành vi nhận quà biếu, quà tặng mà tiếp túc tái phạm với tài

sản có giá trị dƣới 500.000 đồng (bao gồm một tài sản hoặc nhiều tài sản)

79

cũng đƣợc coi là vi phạm ở mức độ nghiêm trọng quy định của pháp luật về

phòng, chống tham nhũng và bị áp dụng hình thức kỷ luật cảnh cáo. Thủ

trƣởng đơn vị vi phạm quy định về xử lý quà biếu, quà tặng có giá trị từ

500.000 đồng đến 1.000.000 đồng (bao gồm cả một tài sản hoặc nhiều tài sản)

thì đƣợc coi là vi phạm ở mức độ nghiêm trọng quy định của pháp luật về

phòng, chống tham nhũng và bị áp dụng hình thức kỷ luật cảnh cáo. Thủ

trƣờng đơn vị đã bị xử lý kỷ luật khiển khách về hành vi vi phạm quy định về

xử lý quà biếu, quà tặng mà tiếp tục có hành vi vi phạm quy định về xử lý quà

biếu, quà tặng có giá trị dƣới 500.000 đồng (bao gồm một tài sản hoặc nhiều tài

sản) thì cũng đƣợc coi là vi phạm ở mức độ nghiêm trọng quy định của pháp

luật về phòng, chống tham nhũng và bị áp dụng hình thức kỷ luật cảnh cáo.

Cán bộ, công chức (kể cả thủ trƣởng đơn vị) nhận quà biếu, quà tặng có

giá trị từ 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng mà không báo cáo và giao lại tài

sản cho Nhà nƣớc theo quy định của pháp luật thì đƣợc coi là vi phạm mức độ

nghiêm trọng quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng và bị áp

dụng hình thức kỷ luật hạ bậc lƣơng (đối với cán bộ, công chức không giữ

chức vụ lãnh đạo, quản lý) và đƣợc coi là vi phạm ở mức độ rất nghiêm trọng

và bị áp dụng hình thức kỷ luật giáng chức (đối với cán bộ, công chức giữ

chức vụ lãnh đạo, quản lý). Cán bộ, công chức (kể cả thủ trƣởng đơn vị) đã bị

xử lý kỷ luật cảnh cáo về hành vi vi phạm quy định về nhận quà biếu, quà

tặng mà tiếp tục vi phạm quy định về nhận quà biếu, quà tặng có giá trị dƣới

1.000.000 đồng cũng đƣợc coi là vi phạm mức độ nghiêm trọng quy định của

pháp luật về phòng, chống tham nhũng và bị áp dụng hình thức kỷ luật hạ bậc

lƣơng (đối với cán bộ, công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý) và

đƣợc coi là vi phạm ở mức độ rất nghiêm trọng và bị áp dụng hình thức kỷ

luật giáng chức (đối với cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý).

Thủ trƣởng đơn vị vi phạm quy định về xử lý quà biếu, quà tặng có giá trị từ

80

1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng đƣợc coi là vi phạm ở mức độ rất nghiêm

trọng quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng và bị áp dụng hình

thức kỷ luật cách chức. Thủ trƣờng đơn vị đã bị xử lý kỷ luật cảnh cáo mà

tiếp tục vi phạm quy định về xử lý quà biếu, quà tặng có giá trị dƣới

1.000.000 đồng thì cũng đƣợc coi là vi phạm ở mức độ rất nghiêm trọng quy

định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng và bị áp dụng hình thức kỷ

luật cách chức.

Cán bộ, công chức (kể cả thủ trƣởng đơn vị) nhận quà biếu, quà tặng có

giá trị trên 1.500.000 đồng mà không báo cáo và giao lại tài sản cho Nhà nƣớc

theo quy định của pháp luật thì đƣợc coi là vi phạm ở mức độ đặc biệt nghiêm

trọng quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng và bị áp dụng hình

thức kỷ luật buộc thôi việc. Cán bộ, công chức (kể cả thủ trƣởng đơn vị) đã bị

xử lý kỷ luật hạ bậc lƣơng hoặc giáng chức mà vẫn tiếp tục vi phạm quy định

về nhận quà biếu, quà tặng mà không quan trọng giá trị tài sản là bao nhiêu

đƣợc coi là vi phạm ở mức độ đặc biệt nghiêm trọng quy định của pháp luật về

phòng, chống tham nhũng và bị áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi việc. Thủ

trƣởng đơn vị vi phạm quy định về xử lý quà tặng có giá trị trên 1.500.000

đồng đƣợc coi là vi phạm ở mức độ đặc biệt nghiêm trọng quy định của pháp

luật về phòng, chống tham nhũng và bị áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi

việc. Thủ trƣởng đơn vị đã bị xử lý kỷ luật cách chức về hành vi vi phạm quy

định về xử lý quà biếu, quà tặng mà tiếp tục có bất kỳ hành vi nào vi phạm về

nhận, xử lý quà biếu, quà tặng mà không quan trọng giá trị tài sản là bao nhiêu

đƣợc coi là vi phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định của pháp luật về phòng,

chống tham nhũng và bị áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi việc.

Khoản 2 Điều 28 Nghị định số 59/2019/NĐ-CP quy định về chế tài áp

dụng đối với vi phạm quy định về nhận, xử lý quà biếu, quà tặng nhƣ sau:

Ngƣời đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị vi phạm quy định về nhận

81

quà tặng, xử lý quà tặng, ngƣời có chức vụ, quyền hạn vi phạm quy

định về nhận quà tặng, báo cáo, nộp lại quà tặng thì tùy theo tính

chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý theo quy định của pháp luật về

xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức và xử phạt vi

phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài nhà nƣớc.

Điềm (d) Khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012

quy định: “Chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành

chính do pháp luật quy định.” Đồng thời Điều 4 Luật Xử lý vi phạm hành

chính năm 2012 quy định:

Căn cứ quy định của Luật này, Chính phủ quy định hành vi vi

phạm hành chính; hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc

phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm hành chính; thẩm

quyền xử phạt, mức phạt tiền cụ thể theo từng chức danh và thẩm

quyền lập biên bản đối với vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực

quản lý nhà nƣớc; chế độ áp dụng các biện pháp xử lý hành chính

và quy định mẫu biên bản, mẫu quyết định sử dụng trong xử phạt

vi phạm hành chính.

Nhƣ vậy, theo các quy định này thì nếu nhƣ hành vi vi phạm và chế tài

cụ thể đối với hành vi vi phạm chƣa đƣợc quy định bởi Nghị định thì không

có cơ pháp pháp lý để xử lý. Nghiên cứu Nghị định số 63/2019/NĐ-CP,

không thấy quy định cụ thể nào về hành vi vi phạm về nhận, xử lý quà biếu,

quà tặng. Vì vậy, rất cần một hƣớng dẫn bởi cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền

trong trƣờng hợp có vi phạm về nhận, xử lý quà biếu, quà tặng thì áp dụng

quy định nào trong Nghị định số 63/2019/NĐ-CP để xử lý. Về lâu dài, nên

sửa đổi, bổ sung Nghị định 63/2019/NĐ-CP theo hƣớng quy định rõ hành vi

vi phạm về nhận, xử lý quà biếu, quà tặng và các chế tài tƣơng ứng.

Tiếp đến: Đối với vi phạm về kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ,

82

công chức: Khoản 3 Điều 51 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy

định nhƣ sau:

Ngƣời có nghĩa vụ kê khai không thuộc trƣờng hợp quy định tại

khoản 1 và khoản 2 Điều này mà kê khai tài sản, thu nhập không

trung thực, giải trình nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm

không trung thực thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, bị xử lý kỷ

luật bằng một trong các hình thức cảnh cáo, hạ bậc lƣơng, giáng

chức, cách chức, buộc thôi việc hoặc bãi nhiệm; nếu đƣợc quy

hoạch vào các chức danh lãnh đạo, quản lý thì còn bị đƣa ra khỏi

danh sách quy hoạch; trƣờng hợp xin thôi làm nhiệm vụ, từ chức,

miễn nhiệm thì có thể xem xét không kỷ luật.

Theo quy định trên thì rõ ràng các hành vi vi phạm về kê khai, giải

trình tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức là vi phạm ở mức độ nghiêm

trọng trở lên các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Vì vậy,

về mức độ vi phạm, cần hƣớng dẫn nhƣ sau:

Cán bộ, công chức lần đầu kê khai, giải trình tải sản, thu nhập không

trung thực mà tài sản đƣợc kê khai, giải trình không trung thực có giá trị dƣới

500.000.000 đồng (hoặc mức khác nhỏ hơn) thì đƣợc coi là vi phạm ở mức độ

nghiêm trọng quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng và bị áp

dụng hình thức kỷ luật cảnh cáo.

Cán bộ, công chức lần đầu kê khai, giải trình tài sản, thu nhập không

trung thực mà tài sản đƣợc kê khai, giải trình không trung thực có giá trị từ

500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng (hoặc mức khác nhỏ hơn) thì đƣợc

coi là vi phạm ở mức độ nghiêm trọng quy định của pháp luật về phòng,

chống tham nhũng và bị áp dụng hình thức kỷ luật hạ bậc lƣơng (đối với cán

bộ, công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý) hoặc đƣợc coi là vi phạm

ở mức độ rất nghiêm trọng quy định của pháp luật về phòng, chống tham

83

nhũng và bị áp dụng hình thức kỷ luật giáng chức hoặc cách chức tuỳ thuộc

vào giá trị của tài sản đƣợc kê khai không trung thực (đối với cán bộ, công

chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý). Cán bộ, công chức (kể cả ngƣời giữ

chức vụ lãnh đạo, quản lý) đã bị xử lý kỷ luật cảnh cáo về hành vi kê khai,

giải trình tài sản, thu nhập không trung thực mà tiếp tục kê khai, giải trình tài

sản, thu nhập không trung thực mà tài sản đƣợc kê khai, giải trình không trung

thực có giá trị dƣới 500.000.000 đồng thì đƣợc coi là vi phạm ở mức độ

nghiêm trọng quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng và bị áp

dụng hình thức kỷ luật hạ bậc lƣơng (đối với cán bộ, công chức không giữ chức

vụ lãnh đạo, quản lý) hoặc đƣợc coi là vi phạm ở mức độ rất nghiêm trọng quy

định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng và bị áp dụng hình thức kỷ

luật giáng chức hoặc cách chức tuỳ thuộc vào giá trị của tài sản kê khai không

trung thực (đối với cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý).

Cán bộ, công chức lần đầu kê khai, giải trình tài sản, thu nhập không

trung thực mà tài sản đƣợc kê khai, giải trình không trung thực có giá trị từ

1.000.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng (hoặc mức khác nhỏ hơn) thì

đƣợc coi là vi phạm ở mức độ đặc biệt nghiêm trọng quy định của pháp luật

về phòng, chống tham nhũng và bị áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi việc.

Cán bộ, công chức đã bị xử lý kỷ luật với hình thức hạ bậc lƣơng, giáng chức

hoặc cách chức mà tiếp tục có hành vi kê khai, giải trình tài sản, thu nhập

không trung thực mà không phụ thuộc vào giá trị của tài sản đƣợc kê khai,

giải trình không trung thực thì đƣợc coi là ở mức độ đặc biệt nghiêm trọng

quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng và bị áp dụng hình thức

kỷ luật buộc thôi việc.

Thứ hai, cần ban hành một Nghị định quy định về xử phạt vi phạm

hành chính đối với hành vi phạm về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ,

công chức. Trong đó nêu rõ xử lý nghiêm đối với hành vi kê khai, giải trình

84

không trung thực tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức; hành vi bao che cho

cán bộ, công chức trong kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức;

hành vi không hợp tác trong xác minh tài sản, thu nhập của cán bộ, công

chức; hành vi chậm kê khai, giải trình tài sản của cán bộ, công chức, … Bên

cạnh đó, cần quy định trong một Nghị định hƣớng dẫn các quy định của Luật

Phòng, chống tham nhũng về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công

chức: cấm hành vi bao che cho cán bộ, công chức trong kiểm soát tài sản, thu

nhập của cán bộ, công chức.

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định của pháp

luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức trên địa bàn

tỉnh Hải Dƣơng

3.2.1. Nâng cao năng lực, hiệu quả làm việc của cơ quan kiểm soát

tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Hải Dương

Khi Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 có hiệu lực (từ ngày

01/07/2019), dự kiến số cán bộ, công chức thuộc trƣờng hợp phải kê khai thu

nhập, tài sản sẽ tăng lên. Tuy nhiên, lực lƣợng trực tiếp đảm nhiệm công tác

quản kiểm soát thu nhập, tài sản của cán bộ, công chức vẫn còn rất mỏng. Vì

vậy để đáp ứng đƣợc nhu cầu nhiệm vụ đặt ra, cần phải tiếp tục thực hiện các

giải pháp sau:

Thứ nhất, thƣờng xuyên đào tạo, bồi dƣỡng để nâng cao trình độ và

năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức làm nhiệm vụ kiểm soát thu nhập, tài

sản của cán bộ, công chức. Nội dung đào tạo, bồi dƣỡng bao gồm: cập nhật

kiến thức pháp luật về kiểm soát thu nhập, tài sản của cán bộ, công chức; cập

nhật các thông tin liên quan đến giá trị tài sản trên thị trƣờng; cập nhật các

kiến thức và thông tin về các nguồn thu nhập phổ biến ở địa phƣơng; bồi

dƣỡng nghiệp vụ phát hiện các bất thƣờng liên quan đến thu nhập, tài sản của

cán bộ, công chức; và các kiến thức và kỹ năng khác.

85

Thứ hai, cần có cơ chế điều động, biệt phái cán bộ, công chức làm

nhiệm vụ kiểm soát thu nhập, tài sản từ địa phƣơng khác đến để tránh xung

đột lợi ích, dẫn đến hiện tƣợng bao che.

Thứ ba, cần xây quy tắc đạo đức nghề nghiệp đối với ngƣời làm nhiệm

vụ kiểm soát thu nhập, tài sản. Điều này là rất cần thiết. Bởi vì, bản thân cán

bộ, công chức có nhiệm vụ kiểm soát thu nhập, tài sản của cán bộ, công chức

cũng không tránh khỏi những cám dỗ vật chất nếu không có bản lĩnh vực

vàng. Vì vậy, quy tắc đạo đức nghề nghiệp vừa là cuốn sổ tay hƣớng dẫn ứng

xử cho ngƣời làm nhiệm vụ kiểm soát thu nhập, tài sản cán bộ, công chức vừa

là một công cụ pháp lý quan trọng để ngăn ngừa và xử lý các vi phạm trong

kiểm soát thu nhập, tài sản của cán bộ, công chức.

3.2.2. Hoàn thiện cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, kênh thông tin

trong công tác kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức trên địa

bàn tỉnh Hải Dương

Để nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ,

công chức, cần tiếp tục hoàn thiện cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật và kênh

thông tin.

Về cơ sở vật chất: Hiện nay về cơ bản, cơ sở vật chất của cơ quan kiểm

soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng khá

tốt. Tuy nhiên, các phƣơng tiện làm việc nhƣ máy vi tính, máy in, … vẫn cần

đƣợc tiếp tục nâng cấp để đáp ứng nhu cầu công việc ngày càng tăng.

Về hạ tầng kỹ thuật và kênh thông tin: Các dữ liệu và thông tin liên

quan đến kiểm soát thu nhập, tài sản của cán bộ, công chức chủ yếu đƣợc

chuyển tải, lƣu trữ trên internet và lƣu trữ trong máy vi tính. Vì vậy các thiết

bị máy tính, hạ tầng internet phải đƣợc nâng cấp để đáp ứng nhu cầu nhiệm

vụ. Bên cạnh đó, cần phát triển các kênh tiếp nhận thông tin từ quần chúng

nhân dân nhƣ facebook và các trang mạng xã hội để cán bộ, công chức kiểm

86

soát thu nhập, tài sản của cán bộ, công chứng tiếp cận nhanh đƣợc thông tin

để phục vụ công tác.

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống ngân hàng để bảo đảm tiến tới toàn thể cán

bộ, công chức trên toàn tỉnh Hải Dƣơng có tài khoản ngân hàng và sử dụng tài

khoản ngân hàng tiến hành các giao dịch. Các giao dịch đƣợc tiến hành thông

qua tài khoản ngân hàng bao gồm: nhận lƣơng, thanh toán tiền mua hàng hoá,

dịch vụ, nhận tiền từ ngƣời khác,…

3.2.3. Nâng cao ý thức pháp luật, tính tự giác của các cán bộ, công

chức trên địa bàn tỉnh Hải Dương

Ý thức pháp luật, tinh thần tự giác là một trong những yếu tố ảnh

hƣởng đến hiệu quả của công tác kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công

chức. Vì vậy, cần nâng cao ý thức pháp luật và tinh thần tự giác của cán bộ,

công chức Hải Dƣơng theo hƣớng sau đây:

Phải thƣờng xuyên tổ chức các hoạt động tuyên truyền, đào tạo kiến

thức pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức nhằm

quán triệt quan điểm phải nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật

về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Trong công tác tuyên

truyền, đào tạo pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công

chức, cần lồng ghép những tấm gƣơng nghiêm chỉnh tuân thủ pháp luật, cũng

nhƣ thẳng thắn phê phán những biểu hiểu của bệnh hình thức, chống đối. Các

hình thức tuyên truyền, đào tạo kiến thức pháp luật về kiểm soát tài sản, thu

nhập của cán bộ, công chức cần đƣợc đa dạng hoá: làm tờ rơi; tổ chức các

khoá đào tạo, tập huấn; tổ chức các buổi học hƣớng dẫn kê khai tài sản, thu

nhập của cán bộ, công chức,…

Đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ, công chức thuộc hệ thống cơ quan

kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức hoặc đƣợc phân công nhiệm

vụ kiểm soát tài sản, thu nhập phải đƣợc đào tạo kiến thức và tinh thần trách

87

nhiệm trong công việc. Những cán bộ, công chức này cần đƣợc quán triệt tinh

thần không nể nang tình đồng liêu, phải thƣợng tôn pháp luật trong công tác

xác minh và xử lý vi phạm trong kê khai, giải trình về tài sản, thu nhập của

cán bộ, công chức. Đội ngũ cán bộ, công chức đƣợc giao nhiệm vụ kiểm soát

tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức phải có kiến thức vững vàng và sâu về

pháp luật và nghiệp vụ kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.

Đồng thời, họ cũng phải có khả năng huy động, phối hợp với các cơ quan, tổ

chức, cá nhân trong công tác xác minh tài sản, thu nhập của cán bộ, công

chức. Để bảo đảm đƣợc các yếu tố này, các cán bộ, công chức này phải có

trình độ Đại học luật hoặc tài chính. Bên cạnh đó, họ phải đƣợc thƣờng xuyên

đào tạo, tự đào tạo và tập huấn để nâng cao chuyên môn và nghiệp vụ. Đồng

thời, cần có chính sách khen thƣờng cũng nhƣ xử lý nghiêm minh các cán bộ,

công chức có biểu hiện nể nang, bao che cho ngƣời khác.

3.2.4. Tạo điều kiện tối đa để quần chúng nhân dân tham gia kiểm

soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Hải Dương

Quần chúng nhân dân là lực lƣợng đông đảo nhất, sức mạnh lớn nhất

trong xã hội. Vì vậy, việc tạo điều kiện tối đa để quần chúng nhân dân tham

gia kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức là rất cần thiết nhằm

nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.

Trƣớc hết, cần tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân phản ánh về

đời sống vật chất, lề lối sinh hoạt của cán bộ, công chức. Các ý kiến của

ngƣời dân đƣợc phản ánh trên các mạng xã hội, mặc dù chỉ tin có đầy đủ cơ

sở, nhƣng cần coi đó là thông tin tham khảo, có tính gợi ý để tiến hành xác

minh tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức để từ đó tìm ra dấu hiệu của

tham nhũng (nếu có). Nếu không phát hiện ra dấu hiệu tham nhũng mà quá

trình tìm hiểu thấy rằng cán bộ, công chức thự sự liêm khiết, tận tâm, mẫn cán

thì đó là một bài kiểm tra về đạo đức của cán bộ, công chức.

88

Tiếp đến, cán bộ, công chức đƣợc giao nhiệm vụ kiểm soát tài sản, thu

nhập của cán bộ, công chức không nên có lối việc đút chân gầm bàn, chỉ đọc

tài liệu để đƣa ra quyết định mà họ phải đi vào cuộc sống, gần gũi nhân dân

để tìm hiểu các thông tin từ nhân dân về lối sống của cán bộ, công chức để từ

đó tìm đƣợc những dấu hiệu bất thƣờng trong đời sống kinh tế của cán bộ,

công chức. Việc kiểm soát chủ động sẽ hiệu quả hơn là kiểm soát thụ động.

Ngoài ra, trong tƣơng lai, khi pháp luật có quy định thì cần tạo điều

kiện để ngƣời dân có thể tham gia trực tiếp vào các hoạt động xác minh tài

sản, thu nhập của cán bộ, công chức thông qua thủ tục tố cáo, đƣợc ngƣời có

thẩm quyền mời tham gia các cuộc họp xác minh tài sản, thu nhập của cán bộ,

công chức, đề nghị ngƣời dân tham gia, hỗ trợ bằng việc cung cấp các thông

tin hợp pháp (nếu có).

89

TIỂU KẾT CHƢƠNG 3

Để nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật về kiểm soát

tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng, trƣớc hết

cần phải hoàn thiện các quy định của pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập

của cán bộ, công chức theo hƣớng sau:

Thứ nhất, hoàn thiện các quy định của pháp luật về quy tắc ứng xử của

cán bộ, công chức: Trong bất kỳ trƣờng hợp nào, ngay từ thời điểm cán bộ,

công chức nhận quà biếu, quà tặng thì tài sản đƣợc biếu, tặng là tài sản công

và cán bộ, công chức có nghĩa vụ giao nộp tài sản này cho Nhà nƣớc. Ngoài

ra, cần có hƣớng dẫn cụ thể: Nếu hành vi nhận quà biếu, quà tặng để làm hoặc

không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của ngƣời biếu, tặng quà thì

đây là hành vi nhận hối lộ; Nếu không xác định đƣợc động cơ, mục đích của

việc nhận quà biếu, quà tặng thì đây là hành vi vi phạm về qùa biếu, quà tặng

nếu cán bộ, công chức nhận quà biếu, quà tặng nhƣng không báo cáo và giao

nộp tài sản đƣợc biếu, tặng theo đúng quy định của pháp luật.

Thứ hai, về kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức: cần có

hƣớng dẫn cụ thể về việc kê tài sản gắn liền với đất, nhà, công trình xây dựng;

cán bộ, công chức có nghĩa vụ kê khai động sản cùng loại có tổng giá trị từ

50.000.000 đồng trở lên; Trong tƣơng lai, cần quy định bắt buộc cán bộ, công

chức kê khai cả các khoản chi và nợ; Trong tƣơng lai, cần bổ sung quy định

về việc cán bộ, công chức phải kê khai tài sản, thu nhập trƣớc khi nghỉ hƣu,

thôi giữ chức vụ.

Thứ ba, hoàn thiện các quy định về xử lý hành vi vi phạm về kiểm soát

tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức: Một là, cần có hƣớng dẫn cụ thể để

định lƣợng hoá: vi phạm; vi phạm ở mức độ nghiêm trọng; vi phạm ở mức độ

rất nghiêm trọng; vi phạm ở mức độ đặc biệt nghiêm trọng; Hai là, cần ban

hành một Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi

phạm về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.

90

Bên cạnh đó, cần tiếp tục: Nâng cao năng lực, hiệu quả làm việc của

cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh

Hải Dƣơng; Hoàn thiện cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, kênh thông tin trong

công tác kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh

Hải Dƣơng; Nâng cao ý thức pháp luật, tính tự giác của các cán bộ, công

chức trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng; Tạo điều kiện tối đa để quần chúng nhân

dân tham gia kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức trên địa bàn

tỉnh Hải Dƣơng

91

KẾT LUẬN

Kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức là một trong những

công cụ hiểu quả để ngăn ngừa tham nhũng. Để có đầy đủ cơ sở pháp lý chắc

chắn nhằm kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, cần xây dựng

pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ công chức với những nội

dung sau đây: (1) Mô hình của cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập của cán

bộ, công chức; Việc lựa chọn mô hình nào sẽ phụ thuộc vào thực tiễn của mỗi

quốc gia. (2) Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức đối với quà biếu, quà

tặng. Theo đó, cán bộ, công chức không đƣợc nhận quà biếu, quà tặng dƣới

bất kỳ hình thức nào; (3) Kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ công chức (đối

tƣợng có nghĩa vụ kê khai, phạm vi kê khai, hình thức và thủ tục kê khai, xác

minh tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, và công khai thông tin kê khai

tài sản, thu nhập của cán bộ công chức); (4) Phòng, chống rửa tiền, để ngăn

ngừa và xử lý hành vi cán bộ, công chức thực hiện các giao dịch nhằm làm

hợp pháp hoá các nguồn thu nhập bất chính; (5) Xử lý đối với hành vi vi

phạm pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.

Ở Việt Nam, các quy định về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ,

công chức đƣợc quy định trong Luật phòng, chống tham nhũng và các văn

bản quy phạm pháp luật có liên quan nhƣ Luật phòng, chống rửa tiền và các

văn bản quy phạm pháp luật có liên quan khác. Về cơ bản, các quy định của

pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức của Việt Nam

ngày càng hoàn thiện.

Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về kiểm

soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức cho thấy pháp luật hiện hành vẫn

còn bộc lộ những vƣớng mắc nhất định:

Thứ nhất, việc kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức theo

mô hình hỗn hợp. Cơ quan thanh tra đƣợc giao nhiệm vụ kiểm soát tài sản,

92

thu nhập của cán bộ, công chức thuộc hệ thống cơ quan hành pháp. Tuy

nhiên, vẫn còn một số chức danh thuộc cơ quan hành pháp không thuộc thẩm

quyền kiểm soát của cơ quan thanh tra.

Thứ hai, các quy định về quà biếu, quà tặng vẫn còn nhiều vƣớng mắc,

chung chung và nhiều khoảng trống.

Thứ ba, các quy định về kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức

vẫn còn một số vƣớng mắc, chƣa có hƣớng dẫn cụ thể.

Thứ tƣ, các quy định về xử lý hành vi vi phạm về kiểm soát thu nhập,

tài sản của cán bộ, công chức còn rất chung chung, nên rất khó có cơ sở pháp

lý đầy đủ để xử lý các hành vi vi phạm.

Bên cạnh đó, lực lƣợng cán bộ làm công tác kiểm soát thu nhập, tài sản

của cán bộ, công chức mỏng, cùng với ý thức và trách nhiệm của một bộ phận

không nhỏ cán bộ, công chức và quần chúng nhân dân chƣa cao cũng ảnh

hƣởng đến hiệu quả của việc áp dụng các quy định của pháp luật về kiểm soát

tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.

Để khắc phục những hạn chế, vƣớng mắc trên, học viên đề xuất:

Thứ nhất, hoàn thiện các quy định của pháp luật về quy tắc ứng xử của

cán bộ, công chức: Về nguyên tắc, cán bộ, công chức phải từ chối nhận quà

biếu, quà tặng. Nếu cán bộ, công chức nhận quà biếu, quà tặng vì lý do công

vụ, thì quá biếu, quà tặng đƣợc coi là tài sản của nhà nƣớc kể từ thời điểm cán

bộ, công chức nhận quà biếu, quà tặng. Bên cạnh đó, cần có văn bản hƣớng

dẫn cụ thể để xác định trong trƣờng hợp nào thì hành vi nhận quà, biếu quà

tặng đƣợc coi là hành vi nhận hối lộ, trƣờng hợp nào đƣợc coi là vi phạm

pháp luật về xử lý quà biếu, quà tặng, trƣờng hợp nào đƣợc coi là hành vi

tham ô tài sản.

Thứ hai, về kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức: cần có

hƣớng dẫn cụ thể về tài sản phải kê khai; Trong tƣơng lai, cần quy định bắt

93

buộc cán bộ, công chức kê khai cả các khoản chi và nợ; Trong tƣơng lai, cần

bổ sung quy định về việc cán bộ, công chức phải kê khai tài sản, thu nhập

trƣớc khi nghỉ hƣu, thôi giữ chức vụ.

Thứ ba, hoàn thiện các quy định về xử lý hành vi vi phạm về kiểm soát

tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức để có cơ sở pháp lý đầy đủ nhằm xử

lý ngƣời có hành vi phạm pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ,

công chức.

Bên cạnh đó, cần tiếp tục nâng cao năng lực của cơ quan kiểm soát tài

sản, thu nhập cán bộ, công chức; nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ, công

chức cũng nhƣ quần chúng nhân dân.

94

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tiếng Việt

1. Lê Văn Ái (2001), Thuế thu nhập cá nhân trên thế giới và định hướng

hoàn thiện ở Việt Nam, Nxb Bộ Tài Chính.

2. Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng (2003), Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 0/12/2003,

Công tác phổ biến giáo dục pháp luật nâng cao ý thức chấp thành pháp

luật của cán bộ, nhân dân, Hà Nội.

3. Ban Nội chính Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Kinh

nghiệm phòng, chống tham nhũng của một số nước trên thế giới, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

4. Bộ Chính trị (1996), Nghị quyết số 14-NQ/TW ngày 15/5/1996 về lãnh

đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng, Hà Nội.

5. Hoàng Thị Quỳnh Chi, Trịnh Phƣơng Thảo (2018), “Bàn về một số nội

dung lớn của dự thảo luật phòng, chống tham nhũng (sửa đổi)”, Tạp chí

Kiểm sát, (8), tr. 6-13.

6. Chính phủ (2012), Tài liệu hội nghị tổng kết 5 năm thực hiện luật

phòng, chống tham nhũng và sơ kết giai đoạn thứ nhất chiến lược Quốc

gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2010, Hà Nội.

7. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh (2008), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb

Đại học Quốc Gia TP HCM.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Báo cáo chính trị của Ban Chấp

hành Trung ương Đảng khoá X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XI của Đảng, Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Báo cáo chính trị của Ban Chấp

hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XII của Đảng, Hà Nội.

95

10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ

VIII, Hà Nội.

11. Trần Văn Đạt (2012), Các tội phạm tham nhũng theo Luật hình sự Việt

Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội.

12. Nguyễn Minh Đoan (2004), “Bàn về tham nhũng”, Tạp chí nghiên cứu

lập pháp, 2(37), tr.35-41.

13. Nguyễn Đình Gấm (2002), “Tệ nạn tham nhũng: căn nguyên sâu xa và

biện pháp phòng, chống”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 1(165), tr.57-64.

14. Vũ Công Giao (2017), “Một số vấn đề lý luận về quản trị tốt”, Tạp chí

Nghiên cứu Lập, (1+2).

15. Vũ Công Giao & Đỗ Thu Huyền (2016), “Pháp luật về kiểm soát tài

sản, thu nhập của ngƣời có chức vụ, quyền hạn trên thế giới và ở Việt

Nam hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (12).

16. Phạm Thanh Hà (2017), “Kê khai tài sản, thu nhập góp phần phòng,

chống tham nhũng ở Việt Nam: Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp”,

Tạp chí Tổ chức Nhà nước, 3, tr. 44-47.

17. Tô Tử Hạ (2003), Công chức và các vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ,

công chức hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

18. Hoàng Nam Hải (2017), “Pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của

ngƣời có chức vụ, quyền hạn kiến nghị sửa đổi luật phòng, chống tham

nhũng”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 19 (347), tr. 29 - 36.

19. Hoàng Nam Hải (2018), “Về thẩm quyền kiểm soát tài sản, thu nhập

của ngƣời có chức vụ, quyền hạn trong luật phòng, chống tham nhũng

(sửa đổi)”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 19 (371), tr. 27 - 31.

20. Ngọc Hoa (2017), “Sự cần thiết và định hƣớng sửa đổi, bổ sung Luật

Phòng, chống tham nhũng”, Tạp chí Cộng sản, (124).

21. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam

(2005), Từ điển bách khoa Việt Nam, Nxb Từ điển Bách khoa.

96

22. Nguyễn Thị Hồi (2006), “Kinh nghiệm chống tham nhũng của một số

nƣớc”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (219), tr.44-49.

23. Bùi Quang Huy (2008), Tham nhũng và vấn đề phòng, chống tham

nhũng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện

nay, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

24. Đỗ Thu Huyền (2018), “Quy định về kiểm soát tài sản, thu nhập của

cán bộ, công chức trong luật phòng, chống tham nhũng sửa đổi: Các

quan điểm khác nhau và giải pháp lựa chọn”, Tạp chí Nghiên cứu

Lập pháp, (11).

25. Nguyễn Văn Kim (2003), Pháp luật chống tham nhũng của các nước

trên thế giới, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

26. Lê Văn Lân (2012), Tham luận tại hội thảo “Vai trò của Quốc hội

trong phòng chống tham nhũng” do Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội tổ

chức ngày 9-10/8/2012, Ban Chỉ đạo Trung ƣơng về phòng, chống

tham nhũng, Hà Nội.

27. Đinh Văn Minh (2006), Một số vấn đề về tệ nạn tham nhũng và những

nội dung cơ bản của Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

28. Hoàng Phê (chủ biên) (2000), Từ điển tiếng Việt, Viên ngôn ngữ, Nxb

Đà Nẵng.

29. Hoàng Phê (chủ biên) (2013), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

30. Nguyễn Thiện Phú (2007), Phòng chống tham nhũng ở Việt Nam và thế

giới, Nxb Công An nhân dân, Hà Nội.

31. Hoàng Thị Kim Quế (2008), Tham nhũng- những khía cạnh xã hội,

pháp lý và các giải pháp phòng chống trong giai đoạn hiện nay ở nước

ta, Đề tài nghiên cứu khoa học, Khoa Luật-Đại học Quốc gia Hà Nội.

32. Nguyễn Văn Quyền (2005), Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng

của một số nước trên thế giới, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.

97

33. Phan Xuân Sơn, Hoàng Thế Lực (2010), Nhận diện tham nhũng và các

giải pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

34. Phạm Hồng Thái và Nguyễn Minh Hà (Chủ biên) (2017), Luật hành

chính Việt Nam, Nxb ĐHQGHN.

35. Thanh tra Chính phủ (2005), Giới thiệu các Công ước quốc tế về phòng

chống tham nhũng, Nxb Tƣ pháp, Hà Nội.

36. Thanh tra Chính phủ (2013), Đối thoại về phòng chống tham nhũng

(PCTN) lần thứ 12 giữa Chính phủ Việt Nam với cộng đồng các nhà tài

trợ, đối tác phát triển quốc tế, Thanh tra Chính phủ, Hà Nội.

37. Thanh tra Chính phủ, Cục Phòng, chống tham nhũng (2012), Đề tài khoa

học cấp bộ “Kiểm soát thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn”.

38. Tăng Thị Thu Trang (2018), “Phát huy tác dụng của kê khai tài sản, thu

nhập trong phòng, chống tham nhũng”, Tạp chí Lý Luận chính trị, (11).

39. Trần Anh Tuấn (2006), Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham

nhũng ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện

Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

40. Uỷ ban nhân dân dân tỉnh Hải Dƣơng (2017), Báo cáo kết quả minh

bạch tài sản, thu nhập năm 2016, Hải Dƣơng.

41. Uỷ ban nhân dân dân tỉnh Hải Dƣơng (2018), Báo cáo kết quả minh

bạch tài sản, thu nhập năm 2017, Hải Dƣơng.

42. Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dƣơng (2016), Báo cáo kết quả minh bạch

tài sản, thu nhập năm 2015, Hải Dƣơng.

43. Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dƣơng (2019), Báo cáo kết quả minh bạch

tài sản, thu nhập năm 2018, Hải Dƣơng.

44. Ủy ban Tƣ pháp (2016), Hội thảo khoa học, Những định hướng lớn sửa

đổi toàn diện Luật Phòng, chống tham nhũng, Đà nẵng 8/2016.

98

45. Hồng Vĩ (2004), Các biện pháp chống tham nhũng ở Trung Quốc, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

46. Viện Khoa học Pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb Bách khoa – Nxb

Tƣ pháp.

47. Viện Khoa học thanh tra – Thanh tra Chính phủ (2008), Một số vấn đề

về tham nhũng và những nội dung chủ yếu của Luật phòng, chống tham

nhũng & các văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb Chính trị Quốc gia.

48. Viện khoa học Thanh tra (2011), Những nghĩa vụ chủ yếu và vấn đề đặt

ra với Việt Nam sau khi phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về

chống tham nhũng, Thông tin khoa học thanh tra và chống tham nhũng.

49. Viện Khoa học Thanh tra và Ngân hàng thế giới (2006), Đương đầu với

tham nhũng ở Châu Á - những bài học thực tế và khuôn khổ hành động,

Nhà xuất bản Tƣ pháp, Hà Nội.

50. Viện khoa học Thanh tra-Thanh tra Chính phủ (2005), Một số vấn đề

cơ bản về phòng ngừa và chống tham nhũng, Nxb Tƣ pháp, Hà Nội.

51. Viện Khoa học Thanh tra, Thanh tra Chính phủ (2004), Một số vấn đề

cơ bản về phòng ngừa và thống tham nhũng, Nxb Tƣ pháp, Hà Nội.

52. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb Bách

Khoa, Nxb Tƣ pháp.

53. Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội (2018),

Pháp luật về PCTN, những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Tƣ pháp.

54. Viện Thông tin khoa học Xã hội (1997), Tham nhũng và, tệ nạn của

mọi tệ nạn.

55. Nguyễn Cửu Việt (2013), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb

Đại học quốc gia Hà Nội.

56. Trần Đăng Vinh (2012), Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham

nhũng ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sỹ Luật học, Trƣờng Đại học

Luật Hà Nội, Hà Nội.

99

57. Nguyễn Xuân Yêm, Nguyễn Hòa Bình, Bùi Minh Thanh, (2007),

Phòng chống tham nhũng ở Việt Nam và Thế giới, Nxb Công an nhân

dân, Hà Nội.

58. Nguyễn Văn Yểu, Lê Hữu Nghĩa (2006), Xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

II. Tài liệu tiếng Anh

59. OECD (2011), Asset Declarations for Public Officials: A Tool to Prevent

Corruption (Kê khai tài sản của cán bộ, công chức: Công cụ để phòng

ngừa tham nhũng), OECD Publishing.

60. Yahong Zhang & Cecilia Lavena (2015), Government anticorruption

stategies (Chiến lược chống tham nhũng của Chính phủ), Taylor &

Francis Group

61. https://ec.europa.eu/home-affairs/what-we-do/policies/organized-

crime-and-human-trafficking/corruption_en.

100