ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM VI THỊ THUẬN TỪ NGỮ VỀ NGHỆ THUẬT RỐI CẠN CỦA NGƯỜI TÀY Ở ĐỊNH HÓA, THÁI NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2019

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM VI THỊ THUẬN TỪ NGỮ VỀ NGHỆ THUẬT RỐI CẠN CỦA NGƯỜI TÀY Ở ĐỊNH HÓA, THÁI NGUYÊN Ngành: Ngôn ngữ Việt Nam

Mã số: 8 22 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Lê Văn Trường

THÁI NGUYÊN - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai

công bố trong bất kì một công trình nào khác.

Thái Nguyên, ngày 15 tháng 6 năm 2019

Tác giả

Vi Thị Thuận

i

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, em chân thành cảm ơn tới các quý Thầy Cô giáo, cán bộ khoa

Ngữ văn, phòng quản lý và Đào tạo sau Đại học trường Đại học Sư phạm - ĐHTN

đã tạo điều kiện cho em có một môi trường học tập và nghiên cứu thuận lợi để

hoàn thành tốt luận văn của mình. Em xin chân thành cảm ơn các Giáo sư, Phó

Giáo sư, Tiến sĩ đã tham gia giảng dạy tận tình lớp Cao học Ngôn ngữ Việt Nam

K25 - Trường Đại học sư phạm - ĐH Thái Nguyên. Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng

kính trọng và gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới TS. Lê Văn Trường - người đã tạo

mọi điều kiện động viên và tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập, thực

hiện và hoàn thành luận văn. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình và

bạn bè đã tận tình giúp đỡ trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn.

Em xin chân thành cảm ơn !

Thái Nguyên, tháng 9 năm 2019

Tác giả luận văn

Vi Thị Thuận

ii

MỤC LỤC

Trang

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii

MỤC LỤC .......................................................................................................... iii

DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH ......................................................................... iv

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1

2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 4

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 4

5. Tư liệu và phương pháp nghiên cứu ................................................................ 5

6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài ............................................................. 6

7. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 7

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ............................................ 8

1.1. Khái niệm hình vị, từ, ngữ, nghĩa ................................................................. 8

1.1.1. Hình vị ....................................................................................................... 8

1.1.2. Từ ............................................................................................................. 10

1.1.3. Ngữ .......................................................................................................... 13

1.1.4. Nghĩa ........................................................................................................ 15

1.2. Khái niệm về trường nghĩa ......................................................................... 18

1.3. Khái niệm từ nghề nghiệp .......................................................................... 21

1.3.1. Vị trí của từ nghề nghiệp trong lớp từ vựng của một ngôn ngữ .............. 21

1.3.2. Phân biệt từ nghề nghiệp với các từ khác ................................................ 22

1.4. Khái niệm định danh và các phương thức định danh ................................. 24

1.4.1. Khái niệm định danh................................................................................ 24

1.4.2. Các phương thức định danh ..................................................................... 25

1.5. Khái niệm ngôn ngữ sân khấu và sân khấu rối cạn .................................... 25

iii

1.6. Khái niệm văn hóa, biểu tượng văn hóa và mối quan hệ giữa ngôn ngữ

và văn hóa .......................................................................................................... 27

1.6.1. Khái niệm văn hóa ................................................................................... 27

1.6.2. Biểu tượng văn hóa .................................................................................. 28

1.6.3. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa .................................................. 29

1.7. Khái quát chung về dân tộc Tày, tiếng Tày và nghệ thuật múa rối cạn tại

huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên ................................................................... 30

1.7.1. Khái quát chung về người Tày tại huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên .. 30

1.7.2. Sơ lược về tiếng Tày ................................................................................ 31

1.7.3. Nghệ thuật múa rối cạn tại huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên .............. 35

Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 38

Chương 2: ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO VÀ PHƯƠNG THỨC ĐỊNH DANH

CỦA TỪ NGỮ MÚA RỐI CẠN CỦA NGƯỜI TÀY Ở ĐỊNH HÓA,

THÁI NGUYÊN ............................................................................................... 39

2.1. Dẫn nhập ..................................................................................................... 39

2.2. Tình hình tư liệu ......................................................................................... 39

2.3. Đặc điểm từ ngữ múa rối cạn về cấu tạo .................................................... 40

2.3.1. Thống kê từ ngữ múa rối cạn ................................................................... 40

2.3.2. Đặc điểm cấu tạo ..................................................................................... 41

2.4. Đặc điểm từ ngữ múa rối cạn về phương thức định danh .......................... 44

2.4.1. Phương thức định danh dựa vào hình thức .............................................. 45

2.4.2. Phương thức định danh dựa vào chức năng ............................................ 46

2.4.3. Phương thức định danh dựa vào đặc điểm, tính chất .............................. 47

Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 48

Chương 3: MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA TIÊU BIỂU CỦA

NGƯỜI TÀY QUA TỪ NGỮ MÚA RỐI CẠN Ở ĐỊNH HÓA, THÁI

NGUYÊN .......................................................................................................... 50

3.1. Dẫn nhập ..................................................................................................... 50

iv

3.2. Đặc trưng văn hóa của người Tày phản ánh qua công cụ chế tác và tạo

hình con rối trong múa rối cạn .......................................................................... 51

3.3. Đặc trưng văn hóa của người Tày phản ánh qua tên gọi nhân vật và công

cụ biểu diễn trong múa rối cạn .......................................................................... 54

3.4. Đặc trưng văn hóa của người Tày phản ánh qua hoạt động diễn xướng

và biểu diễn trong múa rối cạn .......................................................................... 55

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 76

PHỤ LỤC ......................................................................................................... 80

v

DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH

Trang

Hình ảnh 3.1. Cây thừng mực ............................................................................ 51

Hình ảnh 3.2: Các quân rối cổ truyền của phường Thẩm Rộc .......................... 53

Hình ảnh 3.3: Cách điều khiển rối của phường Thẩm Rộc ............................... 54

iv

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Sự phát triển của ngôn ngữ diễn ra liên tục và không đồng đều giữa

các vùng miền, tầng lớp dân cư, các ngành nghề trong xã hội và tạo nên sự đa

dạng trong vốn từ. Những biểu hiện này được phản ánh qua ngôn ngữ. Hệ quả

của quá trình này là bên cạnh ngôn ngữ chung của toàn dân thì có rất nhiều những

biến thể ngôn ngữ. Trong những biến thể ngôn ngữ đó, có vốn từ của những

người làm nghề gắn với một nghề nào đó - từ nghề nghiệp. Vì vậy, việc xem xét

lớp từ này sẽ giúp cho làm rõ bức tranh ngôn ngữ của dân tộc nói chung và đặc

trưng ngôn ngữ - văn hóa của một nhóm người nói riêng.

1.2. Trong hệ thống từ vựng tiếng Việt, từ ngữ nghề nghiệp là một tiểu hệ

thống và là một trong những bộ phận quan trọng góp phần bổ sung và làm phong

phú vốn từ. Đặc trưng cơ bản của từ nghề nghiệp là gắn với sự ra đời của một

ngành nghề nhất định. Múa rối là một ngành nghệ thuật sân khấu biểu diễn độc

đáo, là bộ môn nghệ thuật có nguồn gốc bản địa và truyền thống lâu đời của dân

tộc Việt Nam, mang đậm bản sắc văn hóa, nếp sống của dân tộc. Vì vậy, múa rối

là một trong những lĩnh vực góp phần lưu giữ rõ nét về tiến trình lịch sử văn hóa

của xã hội. Đồng thời, từ ngữ trong nghề múa rối mang trong nó nét văn hóa, tư

duy của người sáng tạo ra nó.

1.3. Nghiên cứu về từ nghề nghiệp là lĩnh vực đã có nhiều nhà nghiên cứu

quan tâm tìm hiểu. Tuy nhiên, các nghiên cứu mới chỉ khai thác ở tầng bề mặt

của từ nghề nghiệp. Tức là, mới chỉ khảo sát, sưu tầm tư liệu, phân tích cấu tạo,

phạm vi sử dụng… để phân biệt với các nhóm từ khác như: từ địa phương, tiếng

lóng, thuật ngữ… mà chưa đi sâu tìm hiểu lớp nghĩa ẩn sâu mang đặc trưng tư

duy - văn hóa trong việc định danh. Vì vậy, những đóng góp của lớp từ này vào

hệ thống ngôn ngữ toàn dân thể hiện tư duy, văn hóa dân tộc chưa được làm rõ.

Đặc biệt lĩnh vực từ ngữ trong nghề múa rối cạn thì sự quan tâm còn rất mờ nhạt.

1.4. Múa rối là một loại hình nghệ thuật dân gian có từ bao đời nay. Ở Việt

1

Nam, có hai loại hình chính là múa rối nước và múa rối cạn. Tùy theo cách điều

khiển con rối mà người ta chia rối cạn thành: rối que, rối dây, rối tay (lồng con

rối vào bàn tay, biểu diễn bằng cách di chuyển bàn tay và cử động các ngón tay).

Nghệ thuật múa rối được coi là tiêu biểu cho múa rối truyền thống Việt Nam, đã

được lưu diễn nhiều nước trên thế giới.

Múa rối cạn là một nét nghệ thuật độc đáo của văn hóa dân tộc Tày nói

riêng và cộng đồng văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung. Rối Tày

thuộc loại hình rối que, được coi là ra đời từ 200 năm trước và thường được biểu

diễn vào dịp đầu năm, trong ngày lễ Lồng tồng (lễ Xuống đồng), nhằm mục đích

mua vui cho công chúng, cùng với đó là thể hiện ước vọng cầu mong mưa thuận

gió hòa, mùa màng tốt tươi, cuộc sống no đủ, ước nguyện về sự đỗ đạt vinh danh

bảng vàng của người dân.

Nét độc đáo của nghệ thuật rối cạn xuất phát từ cách thức làm ra con rối.

Vật liệu làm rối thường bằng gỗ thừng mực, một loại cây thân gỗ phổ biến ở

miền núi, mềm, nhẹ dễ chế tác lại không bị mối mọt. Các con rối chủ yếu mô

phỏng hình ảnh vua quan, lão nông, muông thú.

Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định: Văn hóa là nền tảng tinh thần, vừa

là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động

văn hóa nghệ thuật phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên

tiến và đậm đà bản sắc dân tộc. Đó là trở về cội nguồn truyền thống dân tộc, tiếp

thu di sản tinh hoa dân tộc và không ngừng học tập kinh nghiệm tiên tiến của bạn

bè khắp năm châu.Trên tinh thần đó huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên đã chủ

trương thực hiện đề án “Khôi phục, bảo tồn và phát huy tinh hoa văn hóa truyền

thống các dân tộc huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên”. Hiện nay huyện Định Hóa

tỉnh Thái Nguyên còn bảo lưu hai phường rối cạn Ru Nghệ và Thẩm Rộc tiêu biểu

của dân tộc Tày. Đây là một trong những giá trị văn hóa dân tộc cần được bảo tồn

và phát triển.

Thực hiện đề tài, chúng tôi hi vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ bé vào việc

2

lưu giữ, bảo tồn và phát huy vốn từ ngữ một nghề cổ truyền, cụ thể là từ ngữ

trong nghề múa rối cạn dưới góc độ như một thành tố văn hóa.

Vì những lí do trên, chúng tôi chọn vấn đề: “Từ ngữ về nghệ thuật rối cạn

của người Tày ở Định Hóa - Thái Nguyên” làm đề tài nghiên cứu của mình.

2. Lịch sử vấn đề

Qua tìm hiểu của chúng tôi, có thể nói hiện tại việc nghiên cứu về múa rối

cạn tại Định Hóa mới chỉ dừng lại ở phạm vi nghiên cứu chung nhằm bảo tồn

một hoạt động văn hóa nghệ thuật. Việc nghiên cứu từ ngữ nghề múa rối cạn ở

địa phương này chưa được tìm hiểu. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng trong công

trình của mình vẫn rất cần thiết kế thừa những kết quả nghiên cứu của tác giả đi

trước này.

Có thể điểm qua một số công trình tiêu biểu như: Nhà nghiên cứu về múa

rối - Nguyễn Huy Hồng đã tìm hiểu về múa rối cạn Tày - Nùng từ những năm 60

của thế kỷ trước. Các tư liệu của ông sưu tầm được về múa rối cạn có giá trị lịch

sử và là tư liệu quý cho các thế hệ sau làm căn cứ để khôi phục, bảo tồn và phát

triển múa rối cạn truyền thống theo đúng nguyên bản mà nó vốn có. Với hai cuốn

sách có tên: “nghệ thuật múa rối Việt Nam” (xuất bản năm 1974) và “Nghệ thuật

múa rối Tày - Nùng” (xuất bản năm 2003) [29, tr.13], tác giả đã giới thiệu về múa

rối cạn của dân tộc Tày ở huyện Định Hóa.

Cuốn sách “Múa rối Việt Nam những điều nên biết” của tác giả Hoàng

Kim Dung (xuất bản năm 1997) [18, tr.28] cũng đề cập chung đến múa rối cạn

truyền thống và tác giả đưa ra một số giải pháp (03 giải pháp) chung cho việc

bảo tồn loại hình nghệ thuật biểu diễn này.

“Nghệ thuật múa rối với công tác giáo dục thiếu nhi ở Việt Nam hiện nay”

- Luận văn tốt nghiệp của sinh viên Nguyễn Hữu Hoa, khoa Văn hóa quần chúng

trường Đại học văn hóa Hà Nội năm 1998 có đề cập đến múa rối cạn truyền thống

dân tộc Tày - Nùng ở miền núi.

Ngoài ra còn có một số bài viết đáng chú ý đề cập đến múa rối truyền

3

thống ở một số tạp chí của các tác giả như: Thảo Dung với bài viết “Phải có một

chiến lược đào tạo dài hơi cho múa rối” (đăng trên tạp chí “Toàn cảnh sự kiện -

dư luận” số 189 năm 2006). Và bài viết của tác giả Đỗ Trọng Quang “Nghệ thuật

múa rối Việt Nam và các nước Châu Á” (đăng trên tạp chí “Dân tộc và thời đại”

số 85 năm 2005)…

Như vậy, xuất phát từ việc tổng quan tài liệu, chúng tôi nhận thấy: chưa

có công trình nghiên cứu nào đề cập đến việc nghiên cứu về từ ngữ trong múa

rối cạn tại huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên. Đề tài chúng tôi lựa chọn không

trùng lặp với các công trình, bài viết đã được công bố.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là toàn bộ từ ngữ trong múa rối cạn

của người Tày ở Định Hóa, Thái Nguyên, bao gồm: công đoạn chế tác và quá

trình biểu diễn.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Đề tài phản ánh những đặc điểm hình thức và nội dung của từ ngữ múa

rối cạn của người Tày ở Định Hóa, Thái Nguyên.

- Đề tài tìm hiểu phương thức định danh của từ ngữ múa rối cạn của người

Tày ở Định Hóa, Thái Nguyên.

- Đề tài cũng tìm hiểu một số biểu hiện đặc trưng văn hóa của người Tày

qua từ ngữ trong múa rồi cạn.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu

- Nghiên cứu đề tài từ ngữ trong múa rồi cạn ở Định Hóa - Thái Nguyên, luận

văn hướng đến mục đích tìm hiểu cấu trúc hình thức, ngữ nghĩa và phương thức định

danh của lớp từ này; từ đó thấy được một số đặc trưng văn hóa của người Tày phản

ánh qua tên gọi lớp từ chỉ công đoạn chế tác và quá trình biểu diễn.

Ngoài ra, chúng tôi coi việc sưu tầm, lưu giữ những từ ngữ về nghệ thuật

4

rối cạn của người Tày ở Định Hóa - Thái Nguyên cũng là một mục đích hết sức

quan trọng của đề tài.

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện nhiệm vụ mà đề tài đặt ra, luận văn đề ra những nhiệm vụ

sau:

- Trình bày một số vấn đề lý thuyết về cấu tạo từ (hình vị, từ, ngữ nghĩa…).

- Trình bày một số vấn đề lý thuyết về định danh.

- Trình bày về khái niệm ngôn ngữ sân khấu.

- Trình bày về một số vấn đề lý thuyết về khái niệm văn hóa, biểu tượng

văn hóa và mối quan hệ ngôn ngữ và văn hóa.

- Trình bày khái quát về người Tày, tiếng Tày ở Việt Nam nói chung và

người Tày ở Định Hóa, Thái Nguyên nói riêng.

- Nhận diện và xác lập danh sách từ ngữ trong múa rối cạn, bao gồm từ

ngữ chỉ công đoạn chế tác và từ ngữ quá trình biểu diễn của múa rối cạn.

- Định nghĩa danh sách từ ngữ trong múa rối cạn cho phần phụ lục.

- Miêu tả đặc điểm cấu trúc, ngữ nghĩa và phương thức định danh lớp từ

ngữ chỉ công đoạn chế tác và quá trình biểu diễn của múa rối cạn.

- Trình bày một số đặc trưng văn hóa của người Tày được phản ánh qua

công đoạn chế tác và quá trình biểu diễn của múa rối cạn.

5. Tư liệu và phương pháp nghiên cứu

5.1. Tư liệu nghiên cứu

Tư liệu nghiên cứu của luận văn là lớp từ ngữ trong múa rối cạn của người

Tày ở thôn Thẩm Rộc, xã Bình Yên và thôn Ru Nghệ, xã Đồng Thịnh, huyện

Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên bao gồm từ ngữ ở công đoạn chế tác và từ ngữ của

quá trình biểu diễn, được người viết trực tiếp thu thập qua điều tra điền dã và

phỏng vấn.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

5

Để thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:

5.2.1. Phương pháp điều tra điền dã

Phương pháp này được chúng tôi xác định là phương pháp chính và quan

trọng trong việc thu thập danh sách từ chỉ công đoạn chế tác cũng như quá trình

biểu diễn của múa rối cạn. Việc áp dụng triệt để phương pháp này sẽ cho một

danh sách từ có độ tin cậy cao. Trong nghiên cứu điền dã, chúng tôi chú trọng

các thao tác quan sát, phỏng vấn nhằm làm rõ các đặc điểm về hình thức và chức

năng của các công đoạn chế tác và biểu diễn múa rối cạn để có những cơ sở tin

cậy trong nghiên cứu tiếp theo.

5.2.2. Phương pháp miêu tả

Phương pháp này được chúng tôi áp dụng với các thủ pháp bên trong như:

thủ pháp phân loại và hệ thống hóa; thủ pháp phân tích thành tố trực tiếp; thủ

pháp phân tích nghĩa từ nhằm tìm hiểu những đặc điểm về cấu trúc, ngữ nghĩa

và phương thức định danh lớp từ ngữ đang xét.

5.2.3. Phương pháp so sánh - đối chiếu

Phương pháp này được chúng tôi sử dụng trong những trường hợp cần có

sự so sánh - đối chiếu giữa vấn đề đang xem xét với những vấn đề tương ứng

trong những ngôn ngữ khác như tiếng Việt, tiếng Nùng…

6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài

6.1. Ý nghĩa lí luận

Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần đóng góp về mặt lí luận cho cách

thức xác lập và tiến hành nghiên cứu một lớp từ vựng cụ thể của một ngôn ngữ.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

- Góp phần cho việc giữ gìn, bảo tồn lớp từ vựng thuộc một nghề truyền

thống cổ truyền của đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi Phía Bắc - Nghề múa

rồi cạn ở Định Hóa, Thái Nguyên.

- Danh sách lớp từ ngữ múa rồi cạn ở Định Hóa, Thái Nguyên (được thu thập

6

theo hướng bách khoa) có thể làm tư liệu cho việc biên soạn Bách khoa thư nghề

truyền thống các dân tộc Việt Nam hoặc Từ điển từ nghề nghiệp nói riêng.

- Làm tài liệu cho việc học tập, giảng dạy bộ môn múa rối cạn trong các

trường nghệ thuật nói riêng và giảng dạy tiếng Tày nói chung.

- Thông qua nội dung nghiên cứu của luận văn giúp cho nghệ nhân nghề

múa rối, người dân huyện Định Hóa và cộng đồng có cái nhìn sâu sắc và toàn

diện hơn về một nghề - một hoạt động nghệ thuật đặc sắc của người Tày tại Định

Hóa nói riêng và cộng đồng người Việt nói chung.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

luận văn dự kiến gồm 3 chương:

- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn

- Chương 2: Đặc điểm cấu tạo, ngữ nghĩa và phương thức định danh trong

múa rối cạn của người Tày ở Định Hóa, Thái Nguyên

- Chương 3: Một số đặc trưng văn hóa tiêu biểu của người Tày qua từ ngữ

múa rối cạn ở Định Hóa, Thái Nguyên.

7

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Khái niệm hình vị, từ, ngữ, nghĩa

1.1.1. Hình vị

Trong ngôn ngữ học đại cương, hình vị (“morpheme” mooc- phem/ từ tố/

nguyên vị/ hình tố…) và từ tố được coi là những dạng thức cụ thể của hình vị

trong những hoàn cảnh nhất dịnh với vai trò cấu tạo nên các đơn vị lớn hơn (từ).

Hình vị là một trong những nội dung thu hút được sự quan tâm của các nhà

nghiên cứu. Khi tìm hiểu về vấn đề này, chúng tôi nhận thấy có một số quan

niệm của các tác giả trên thế giới về hình vị như sau:

Quan niệm thứ nhất, coi hình vị là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của từ. Tiêu

biểu cho quan niệm này là phát biểu của Baudouin de Courtnay: “Chuỗi lời nói

chia ra câu hay mệnh đề, câu chia ra thực từ, từ chưa ra hình vị. Như vậy, hình

vị là bộ phận của từ và là bộ phận có nghĩa nhỏ nhất”.

Quan niệm thứ hai, coi hình vị là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ. Tiêu biểu

cho quan niệm này là phát biểu của L. Bloomfield: “Hình vị là một nhát cắt âm

thanh nhỏ nhất có sự tương ứng giữa âm và nghĩa, phân biệt được với nhát cắt

khác cũng là hình vị; hình vị là hình thức đơn vị nhỏ nhất có nghĩa”. Theo quan

niệm này, hình vị được xem là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ và ngôn ngữ gồm ba

bậc cơ bản là: âm vị, hình vị và kết cấu.

Quan niệm thứ ba, coi hình vị có nội dung rộng hơn cách hiểu của quan

niệm thứ nhất nhưng hẹp hơn cách hiểu của quan niệm thứ hai. Theo đó, hình vị

là đơn vị có nghĩa nhỏ nhất của ngôn ngữ không được sử dụng độc lập về mặt cú

pháp. Những nhà nghiên cứu theo quan điểm này coi từ là đơn vị cơ bản của

ngôn ngữ.

Đi sâu tìm hiểu các quan niệm về hình vị của các nhà Việt ngữ học, chúng

tôi nhận thấy một số tác giả với các quan niệm có tính khuynh hướng như:

8

Tác giả Nguyễn Tài Cẩn trong công trình “Ngữ pháp tiếng Việt: Tiếng

- từ ghép - đoản ngữ” đã cho rằng: “Hình vị là đơn vị nhỏ nhất, đơn giản nhất

về mặt tổ chức mà lại có giá trị về mặt ngữ pháp” [11]. Như vậy hình vị được

coi là tiếng và là đơn vị gốc của ngữ pháp tiếng Việt. Tuy nhiên, tác giả không

đồng nhất tiếng là từ mà có sự phân biệt: tiếng độc lập và tiếng không độc lập.

Các tiếng độc lập được coi là từ còn các tiếng không độc lập được coi là các

hình vị tự do. Như vậy, Nguyễn Tài Cẩn đã lấy tính độc lập/ không độc lập là

tiêu chuẩn để phân biệt từ và hình vị. Rất rõ ràng để thấy các lí giải về hình vị

tiếng Việt của Nguyễn Tài Cẩn thuộc vào quan niệm thứ hai.

Tác giả Cao Xuân Hạo khi bàn về hình vị, một mặt tán đồng quan điểm

hình vị trùng với âm tiết của Nguyễn Tài Cẩn, mặt khác ông đi sâu tìm hiểu cách

tổ chức tôn tin của các đơn vị mang nghĩa và các quy tắc cú pháp của tiếng Việt.

Trong các công trình nghiên cứu của mình, tác giả đã chứng mình: trong tiếng

Việt, đơn vị có cương vị ngôn ngữ học của âm vị là tiếng chứ không phải là âm

tố như trong các ngôn ngữ Châu Âu. Từ những phân tích cụ thể, tác giả đi đến

kết luận: “Trong tiếng Việt, tiếng vừa là âm vị, vừa là hình vị, vừa là từ, và nếu

có thể hình dung một ngôn ngữ Âu châu như một cơ chế hoạt động trên ba cái

trục chính: âm vị - hình vị và từ, tiếng Việt dường như gộp ba cái trục ấy lại làm

một: cái trục hợp nhất ấy là tiếng” [26]. Chính điều này đã tạo ra hiện tượng

“một thể ba ngôi” trong tiếng Việt.

Tiếp thu các quan điểm đi trước, các tác giả Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn

Kim Thản, Đỗ Hữu Châu,… cho rằng: từ mới là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ.

Nếu quan niệm hình vị là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ thì từ tiếng Việt trùng

với hình vị. Điều này dẫn đến nhận định có thể coi từ tiếng Việt trùng với hình

vị và âm tiết. Tuy nhiên, không phải âm tiết nào cũng là hình vị và từ bởi có

những âm tiết vô nghĩa và không thể coi là hình vị.

Từ việc tìm hiểu các quan niệm trên, chúng tôi nhận thấy có thể coi “hình

9

vị” là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ. Theo đó, hình vị có 2 đặc điểm

chính:

- Là đơn vị có nghĩa.

- Không thể phân chia thành đơn vị có nghĩa nhỏ hơn.

1.1.2. Từ

Từ là một khái niệm cơ bản của ngôn ngữ học và đã được các nhà nghiên

cứu quan tâm tìm hiểu, nghiên cứu trong suốt quá trình lịch sử của ngôn ngữ học.

Nói như F.de. Saussure thì: “… từ là một đơn vị luôn luôn ám ảnh tư tưởng của

chúng ta như một cái gì đó trung tâm trong toàn bộ cơ cấu ngữ nghĩa, mặc dù

khái niệm này khó định nghĩa” [36]. Có lẽ vì thế mà đến nay đã có hàng trăm

định nghĩa về từ đã được đưa ra những chưa có định nghĩa nào thỏa mãn được

các nhà nghiên cứu. Nhận định này là hoàn toàn dễ hiểu, bởi vì hiện nay trên thế

giới có khoảng hơn 6000 ngôn ngữ đang được sử dụng và ở mỗi ngôn ngữ từ lại

được biểu hiện ở những hình thái khác nhau. Để thấy được sự đa dạng trong định

nghĩa về từ, chúng tôi dẫn ra một số định nghĩa thường được nhắc đến như sau:

F. de Saussure cho rằng: “Từ là một đơn vị luôn luôn ám ảnh tư tưởng của chúng

ta như một cái gì đó trung tâm trong toàn bộ cơ cấu ngôn ngữ…” [36, tr.111]. Trong

định nghĩa về từ, K. Bukher chú ý đến mặt ngữ âm của từ và cho rằng: “Các từ là

kí hiệu âm thanh của một ngôn ngữ được cấu tạo từ các âm vị và có thể tạo thành

trường”. Nhìn nhận từ góc độ thuộc tính phổ quát của từ.

M.Solnxev nhận định: “a) Từ là đơn vị ngôn ngữ có tính hai mặt: âm và

nghĩa; b) Có khả năng độc lập về cú pháp khi sử dụng trong lời” . Theo tác giả, khi

nói từ là đơn vị ngôn ngữ là đã có hàm ý phân biệt từ với hình vị, với câu; nói tính

hai mặt (âm và nghĩa) là muốn khẳng định tính hoàn chỉnh của từ. Tức là từ có cả

hình thái và ngữ nghĩa. Vì vậy, trong lời nói từ có khả năng hoạt động độc lập về cú

pháp.

Tiếp thu các nghiên cứu của các tác giả trên thế giới, ở Việt Nam, các nhà

nghiên cứu cũng đã dành sự quan tâm cho vấn đề này. Có thể kể đến các tác giả

10

với các nhận định về từ được nhiều người đồng thuận như: Tác giả Nguyễn Thiện

Giáp khi nghiên cứu về từ đã so sánh từ của các ngôn ngữ Ấn Âu và từ của tiếng

Việt [24, tr.76-77]. Tác giả chỉ ra:

1) Từ tiếng Việt là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa. Trong các ngôn ngữ Ấn Âu, từ

có thể là đơn tiết, có thể là đa tiết. Trong Việt ngữ, mỗi từ là một âm tiết, nếu phân

tích từ thành những bộ phận nhỏ hơn nữa thì chỉ có thể thu được những âm vô nghĩa.

Như vậy, từ của tiếng Việt là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa. Đây là một đặc điểm khác

hẳn với các ngôn ngữ Ấn Âu.

2) Từ tiếng Việt có thể có biến thể ngữ âm (ví dụ: lời và nhời, trăng và giăng,

nhăn và dăn), biến thể từ vựng - ngữ nghĩa (ví dụ: các ý nghĩa khác nhau của từ

ăn…) nhưng không thể có biến thể hình thái học. Dù đứng trong câu hay đứng lẻ

một mình, bao giờ chúng cũng giữ nguyên một hình thức.

3) Ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp gắn bó chặt chẽ với nhau ở từ trong

tiếng Việt. Vì vậy, ý nghĩa của từ tiếng Việt thường có tính chất trừu tượng, khái quát.

Chỉ khi kết hợp với các từ khác ý nghĩa của nó mới được cụ thể hóa.

Từ những phân tích trên, tác giả tác giả Nguyễn Thiện Giáp trong công đưa

ra định nghĩa về từ như sau: “Từ của tiếng Việt là một chỉnh thể nhỏ nhất có ý

nghĩa dùng để tạo câu nói; nó có hình thức của một ấm tiết, một khối viết liền”

[24, tr.61].

Các tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến trong

công trình nghiên cứu“Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt” nhận định: “Từ là đơn

vị nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ, được vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong

lời nói để xây dựng nên câu” [17, tr. 136].

Khi nghiên cứu đối tượng là từ, tác giả Đỗ Hữu Châu đưa ra định nghĩa về

từ như: “Từ tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định, bất biến, mang những

đặc điểm ngữ pháp nhất định, nằm trong những kiểu cấu tạo nhất định, tất cả

ứng với một kiểu ý nghĩa nhất định, lớn nhất trong tiếng Việt và nhỏ nhất trong

cấu tạo câu [12, tr.16]. Đây được coi là định nghĩa về từ được nhiều nhiều chấp

11

nhận nhất bởi: định nghĩa này đã chỉ ra được những đặc điểm khái quát cơ bản

nhất của từ như sau:

1) Từ là đơn vị hoàn chỉnh có cả hình thức (vỏ âm thanh) và nghĩa.

2) Từ có khả năng hoạt động độc lập và tạo ra câu trong lời nói.

Trong phạm vi luận văn, chúng tôi sử dụng quan niệm của Đỗ Hữu Châu để

nghiên cứu từ ngữ trong múa rối cạn của người Tày ở Định Hóa, Thái Nguyên.

Xét về mặt cấu tạo, từ tiếng Việt được chia thành: từ đơn, từ ghép và

từ láy.

Từ đơn là “từ chỉ chứa một từ tố”[6, tr.40]. Các từ đơn như: nhà, bàn,

lớp, lúa, ngô, chạy, nhảy, cười, khóc, vui, buồn,…

Từ ghép là “Từ chứa hai (hoặc hơn hai) từ tố và trong đó nhìn chung

không có hiện tượng “hòa phối ngữ âm tạo nghĩa” [6, tr. 43]. Căn cứ theo

cấu tạo, từ ghép chia thành: từ ghép đẳng lập và từ ghép chính phụ.

Từ ghép đẳng lập là từ ghép mà “quan hệ ngữ pháp giữa các từ tố

trong nó là quan hệ bình đẳng; ý nghĩa ngữ pháp do cơ chế ghép đẳng lập

tạo ra nó là ý nghĩa tổng hợp, ý nghĩa chỉ loại sự vật, đặc trưng (hành động,

trạng thái, tính chất, quan hệ) chung” [6, tr. 43]. Ví dụ: điện nước, xăng dầu,

sống chết, nghe nhìn, tốt đẹp, núi non, tìm kiếm,…

Từ ghép chính phụ là từ ghép mà “quan hệ ngữ pháp giữa các từ tố

trong nó là quan hệ bất bình đẳng; kiểu ý nghĩa của từ ghép chính phụ là

kiểu ý nghĩa không tổng hợp và khi cần cụ thể hóa thì có thể phân biệt trong

đó ý nghĩa dị biệt và ý nghĩa sắc thái hóa” [6, tr.47]. Ví dụ: xe đạp, dưa hấu,

ngủ gật, vui miệng, nhiệt kế, xã viên, dưa bở, làm việc, cốt bông, xã tít, sung

mọng,…

Từ láy là “từ phức được tạo ra bằng phương thức láy âm có tác dụng

tạo nghĩa” [6, tr. 51]. Ví dụ: đu đủ, đo đỏ, đèm đẹp, người người, đâu đâu,

lơ thơ, khấn khứa, ấp úng, kề cà,…

Các phương thức cấu tạo từ: Khi bàn về phương thức cấu tạo từ, các tác

giả Hoàng Văn Hành, Hà Quang Năng, Nguyễn Văn Khang nhận định: “Cấu tạo

12

từ là một cơ trình diễn ra trong những điều kiện, theo những quy tắc nhất định

trong đó với những điều kiện cần và đủ. Nói cách khác, cấu tạo từ là một cơ chế”

[25, tr.65].

Nhận định trên đã nhắc tới 3 thành tố cơ bản để tạo nên từ: 1. Có một hệ

thống những đơn vị có khả năng làm thành tố của từ (hình vị); 2. Có một hệ

những yếu tố có giá trị hình thái (đó là những yếu tố thuần túy hình thức, dùng

làm phương tiện để nối kết các thành tố, trong quá trình tạo lập từ hoặc dùng làm

tiêu chí để xác định tính độc lập của từ); 3. Có một hệ quy tắc cấu tạo từ. Trong

tiếng Việt, hệ quy tắc cấu tạo từ bao gồm những tiểu hệ thống là: hệ qui tắc cấu

tạo từ suy phỏng, hệ qui tắc cấu tạo từ láy, hệ qui tắc cấu tạo là từ ghép, hệ qui

tắc cấu tạo từ phái sinh [25, tr.66-67].

Từ cơ chế sản sinh trên, chúng tôi nhận thấy phương thức cấu tạo từ có ba

con đường: từ hóa hình vị, ghép và láy.

- Từ đơn là những từ được cấu tạo theo phương thức giữ nguyên hình vị

gốc. Cấu tạo của từ đơn chỉ có một hình vị. Ví dụ: tre, trúc, gậy, rối, đèn, mèn,

sênh, sáo, phách,…

- Từ ghép là những từ được tạo ra từ việc ghép các hình vị độc lập với nhau. Ví

dụ: cày bừa, săn bắt, leo trèo, hát múa, ăn uống, cúng lễ, nghệ nhân, uốn éo,…

- Từ láy là những từ được tạo ra thêm một hình vị láy từ một hình vị gốc.

Ví dụ: nhún nhảy, nhịp nhàng, đo đỏ, thập thò, leng keng,…,

1.1.3. Ngữ

Khi sự vật, hiện tượng mới trong xã hội xuất hiện ngày càng nhiều và nhu

cầu được gọi tên ngày càng trở nên cấp thiết mà vốn từ vựng không đủ để biểu

thị thì xuất hiện những đơn vị được cấu tạo trên cơ sở những đơn vị từ vựng đã

có. Những đơn vị được cấu tạo đó có giá trị tương đương với từ và được gọi là

ngữ.

Theo “Từ điển khái niệm ngôn ngữ học” thì: Ngữ (phrasal lexeme) là

“Cụm từ có sẵn trong ngôn ngữ, có giá trị tương đương với từ, có nhiều đặc điểm

13

giống với từ:

- Chúng có thể tái hiện trong lời nói như các từ,

- Về mặt ngữ pháp, chúng cũng có thể làm thành phần câu, cũng có thể là

cơ sở để cấu tạo từ mới,

- Về mặt ngữ nghĩa, chúng cũng biểu hiện những hiện tượng của thực tế

khách quan, gắn liền với những kiểu hoạt động khác nhau của con người.

Tính cố định và tình thành ngữ là hai đặc trưng cơ bản của ngữ. Có nhiều

kiểu ngữ khác nhau như đặc ngữ, thành ngữ, quán ngữ” [23, tr.316].

Như vậy, ngữ được hiểu đơn giản là sự kết hợp của hai từ hoặc nhiều thực

từ (không hoặc có cùng với các hư từ có quan hệ với chúng gắn bó về ý nghĩa và

ngữ pháp). Ngữ diễn đạt một khái niệm thống nhất và là tên gọi biểu thị các hiện

tượng của thực tại khách quan.

Ngữ là một kết cấu cú pháp được tạo thành bởi hai hoặc nhiều thực từ trên

cơ sở liên hệ ngữ pháp phụ thuộc - theo quan hệ phù hợp, chi phối hay liên hợp.

Trong một số ngữ có từ đóng vai trò chủ yếu về mặt ngữ nghĩa và ngữ pháp gọi

là thành tố chính, các từ phụ thuộc vào thành tố chính gọi là thành tố phụ. Thành

tố chính của ngữ có thể là danh từ (tạo nên danh ngữ), động từ (tạo nên động

ngữ), tính từ (tạo nên tính ngữ), ngữ còn được gọi là cụm từ, từ tổ.

Ngữ được chia thành 4 nhóm: ngữ định danh, thành ngữ, ngữ láy âm và

quán ngữ. Trong phạm vi đề tài, chúng tôi đi sâu vào ngữ định danh.

1.1.3.1. Ngữ định danh

Theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp thì: “ngữ định danh là những cụm từ biểu

thị các sự vật, hiện tượng hay khái niệm nào đó của thực tế. Nó bao gồm những

cụm từ thường được gọi là từ ghép như: xe đạp, máy tiện, cá vàng, cà chua, áo

dài,… và những cụm từ thường được gọi là ngữ cố định như: đường đồng mức,

phương nằm ngang, máy hơi nước…” [24, tr.77-78].

Ngữ định danh chia thành các loại: ngữ định danh kết hợp: quân rối, giáo

trống, đàn đáy, trống bản, trống cơm,…; Ngữ định danh hòa kết: ngây thơ, chân

14

thực, sân khấu, khấn cầu, thờ cúng,…

1.1.3.2. Thành ngữ

“Thành ngữ là những cụm từ cố định vừa có tính hoàn chỉnh về nghĩa vừa

có tính gợi cảm. Ví dụ: chó ngáp phải ruồi, hồn siêu phách lạc, nói thánh nói

tướng, thắt lung buộc bụng, giật gấu vá vai, lanh chanh như hành không muối,

lừ lừ như ông từ vào đền” [24, tr. 83].

Thành ngữ được chia thành 2 loại: thành ngữ hợp kết như áo mảnh quần

manh, mẹ góa con côi, mèo mả gà đồng,…; thành ngữ hòa kết như nuôi ong tay

áo, cõng rắn cắn gà nhà, chó có váy lĩnh, nước đổ lá khoai, nước đổ đầu vịt,…

Thành ngữ khác với ngữ định danh ở các điểm sau: 1. Về nội dung: ngữ

định danh là tên gọi thuần túy của sự vật, còn thành ngữ là tên gọi gợi cảm của

hiện tượng nào đó; Do tính tượng trưng nên ý nghĩa của thành ngữ luôn luôn có

tính cụ thể. Nó không có khả năng diễn đạt đồng thời quan hệ chủng và loại,

không có cả diện chung lẫn diện riêng của ý nghĩa như ngữ định danh; Thành

ngữ chỉ hình thành ở những phạm vi mà sự phản ánh đòi hỏi cần có sự bình giá

và biểu cảm. 2. Về cấu trúc ngữ pháp: ngữ định danh hầu như rất ít gặp quan hệ

tường thuật, ở thành ngữ thì quan hệ này chiếm tới 7%; thành ngữ có cấu trúc

đẳng lập khác với ngữ định danh cùng kiểu cấu trúc về cả lượng lẫn chất...

1.1.3.3. Ngữ láy âm

“Ngữ láy âm là những đơn vị được hình thành do sự lặp lại hoàn toàn hay

lặp lại có kèm theo sự biến đổi ngữ âm nào đó của từ đã có. Chúng vừa có sự

hài hòa về ngữ âm, vừa có sự gợi cảm, gợi tả” [24, tr.92].

Các hình thức láy của ngữ láy âm: 1. Láy đôi với các kiểu láy như: láy

hoàn toàn như xinh xinh, oang oang, rầm rầm, đùng đùng, ...; láy bộ phận như

lác đác, lưa thưa, co ro, xập xình, lênh khênh, thiêm thiếp,...; 2. láy ba như khít

khìn khịt, tẻo tèo teo, tí tì ti, sạch sành sanh,...; 3. Láy tư như: hớt ha hớt hải,

lủng cà lủng củng, hấp ta hấp tấp, bù lu bù loa,...

1.1.4. Nghĩa

Nghĩa của từ là một trong những khái niệm quan trọng của ngôn ngữ học.

15

Liên quan đến vấn đề này có rất nhiều các quan điểm được đưa ra:

Quan điểm thứ nhất, một số số người cho rằng nghĩa của từ là “sự vật hay

hiện tượng do từ biểu thị” [24, tr. 125]. Ví dụ: bàn là bản thân cái bàn đã tồn tại

trong thực tế,...

Quan điểm thứ hai, là quan điểm được rất nhiều người chấp nhận khi họ

cho rằng: “nghĩa của từ là đồng nhất nghĩa với khái niệm logic hay biểu tượng

tâm lí có liên hệ với từ ấy” [24, tr.125].

Quan điểm thứ ba là quan niệm do F.de. Saussure nêu ra: “Dấu hiệu ngôn

ngữ kết liền thành một không phải một sự vật với một tên gọi, mà là một khái

niệm với một hình ảnh âm thanh” [24, tr. 125]. Theo đó, ông cũng đề xuất thay

đổi: khái niệm thay bằng sở biểu, hình ảnh âm thanh bằng năng biểu, ý nghĩa

bằng sở biểu.

Quan điểm thứ tư lại cho rằng nghĩa của từ ““là sự lệ thuộc của nó với sự

vật, hiện tượng của thế giới hiện thực”, “nghĩa của từ là mối liên hệ của từ với

sự vật của thực tế” [24, tr. 127-128].

Quan điểm thứ năm cũng xem xét nghĩa của từ là “quan hệ, nhưng không

phải quan hệ giữa từ với đối tượng mà là quan hệ giữa từ và khái niệm, biểu

tượng” [24, tr.128].

Có thể nhận thấy, các quan điểm trên hướng đến hai khuynh hướng:

- Cho nghĩa của từ là một bản thể nào đó (đối tượng, khái niệm, sự phản

ánh,...

- Cho nghĩa của từ là một quan hệ nào đó (quan hệ của từ với đối tượng,

hoặc quan hệ của từ với khái niệm,...)

Cùng với các quan điểm đã nêu thì có không ít định nghĩa về nghĩa, đặc

biệt về nghĩa của từ. Sở dĩ như vậy là vì khái niệm nghĩa rất trừu tượng (so với

từ và các đơn vị ngôn ngữ khác). Về mặt lý thuyết, căn cứ để hiểu nghĩa là: các

đơn vị đang xét (từ và hình vị) được sử dụng trong sự quy chiếu về một sự vật

hiện tượng nào đó, với yêu cầu người nói, người nghe phải cùng nghĩ về sự vật

16

hiện tượng ấy. Nhờ sự quy chiếu như vậy, sự sử dụng các đơn vị này trong cấu

tạo nên các đơn vị lớn hơn nó mới không gây nên sự lẫn lộn.

Nghĩa các đơn vị đang xét mang tính quy ước là nhờ người nói và người

nghe (sử dụng cùng một ngôn ngữ) ước định với nhau: âm thanh này biểu thị sự

vật hiện tượng này, âm thanh kia biểu thị sự vật hiện tượng kia v.v… Như vậy,

mặt vật chất và ý nghĩa có liên hệ mật thiết, quy định ràng buộc và là điều kiện

tồn tại của nhau. Đồng thời, cũng như các đơn vị ngôn ngữ, nghĩa của các đơn vị

này (từ và hình vị) cũng chỉ tồn tại trong hệ thống ngôn ngữ. Tách ra khỏi hệ

thống, chúng không tồn tại.

Từ sự phân tích trên có thể chấp nhận một quan niệm chung: Hiện thực

được phản ánh vào nhận thức, tạo nên mối quan hệ liên tưởng thường trực liên

tục với một hình thức âm thanh nhất định, nhờ đó sự phản ánh này được hiện

thực hoá bằng ngôn ngữ. Mối liên hệ này được hiểu là nghĩa.

Khi xem xét các đơn vị ngôn ngữ thì các đơn vị ngôn ngữ bao gồm hai mặt:

cái biểu hiện và cái được biểu hiện, hay hình thức và nội dung, nghĩa thuộc mặt

thứ hai, tức nội dung.

Mô hình tín hiệu ngôn ngữ:

Từ ngữ âm

Ý nghĩa (cái biểu hiện) Sự vật (cái biểu vật)

Khi nói về nghĩa của từ (và hình vị), người ta phân biệt các thành phần

như: nghĩa biểu vật (là liên hệ giữa “hình thức âm thanh” với sự vật hiện tượng

cụ thể mà nó chỉ ra); nghĩa biểu niệm (là liên hệ giữa “hình thức âm thanh” với

ý niệm - cái biểu niệm, bao gồm các thuộc tính của sự vật hiện tượng được phản

17

ánh vào ý thức con người)… Ngoài ra, người ta còn phân biệt nghĩa cấu trúc -

là mối liên hệ giữa các đơn vị khác nhau trong hệ thống; nghĩa ngữ dụng - là

mối liên hệ giữa các đơn vị đang xét với tình cảm, thái độ của người sử dụng.

Khi phân tích nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ trên, người ta đề xuất nhiều

cách, trong đó cách thường được sử dụng hơn cả là làm cho các đơn vị này bộc

lộ ý nghĩa của mình qua ngữ cảnh. Ngữ cảnh được hiểu là chuỗi các đơn vị ngôn

ngữ kết hợp với đơn vị đang xét hoặc bao xung quanh nó, làm cho nó được cụ

thể hóa hơn và được xác định về nghĩa. Ngữ cảnh, có thể là tối thiểu (đơn giản

nhất) và tối đa (mở rộng đến mức có thể).

Mặt khác, khi tìm hiểu nghĩa của hình vị, phải xem xét trong quá trình

hành chức của nó (tham gia cấu tạo từ và thể hiện ở cơ cấu nghĩa của từ). Đối

với từ cũng vậy, không thể tách rời nó khỏi hoạt động ngôn ngữ, trong đó nó có

vai trò tái hiện tự do tạo thành câu. Như vậy, chỉ trong sự hành chức, nghĩa mới

được hiện thực hóa và xác định. Hơn thế, trong thực tế hoạt động của ngôn ngữ,

nghĩa của đơn vị ngôn ngữ có thể bị giảm thiểu hoặc gia tăng so với các yếu tố

cấu thành nó (các nét nghĩa), đồng thời người nói cũng có thể tạo nên hàng loạt

các quan hệ về nghĩa khác trong hệ thống ngôn ngữ của mình: đồng âm, đồng

nghĩa và trái nghĩa, nghĩa phái sinh...

Nghĩa của từ còn được hiểu là nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp. Xét về

nghĩa thì từ và hình vị không khác nhau (đều là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa) sự

khác nhau ở chúng chỉ là chức phận của chúng. Tuy nhiên vì từ là đơn vị trực

tiếp cấu thành lời nói và là sự kiện tâm lý ngôn ngữ tương đối hiển nhiên thường

trực đối với nguời bản ngũ.Vì vậy trong tài liệu nghiên cứư về ngôn ngữ học,

người ta thường chú ý đến ý nghĩa của từ. Điều đó lý giải vì sao từ được chú ý

hơn so với hình vị.

1.2. Khái niệm về trường nghĩa

Trên thế giới, khái niệm về trường và lí thuyết trường ngữ nghĩa xuất hiện

từ rất sớm nhưng chỉ thực sự được quan tâm nghiên cứu từ những năm 20 của

18

thế kỉ XX từ những lí thuyết ngôn ngữ học của W. Humboldt và F. de Saussure.

Các nhà nghiên cứu như G. Ipsen (1924), A. Jolles (1934), W. Porzig (1934)…

Đặc biệt là J. Trier (1934) được coi như đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch

sử ngữ nghĩa học.

Tác giả J. Trier là nhà nghiên cứu đầu tiên nêu ra thuật ngữ “trường” trong

ngôn ngữ học. Tác giả không dùng khái niệm trường ngữ nghĩa mà chỉ nói tới

trường khái niệm và trường từ vựng. Trường khái niệm là một hệ thống rộng

gồm những khái niệm có quan hệ với nhau, được tổ chức lại xung quanh một

khái niệm trung tâm. Trường từ vựng là tập hợp các từ phủ lên trên một trường

khái niệm.

Khi bàn về giá trị của lí thuyết trường cuar J.Trier, tác giả Đỗ Hữu Châu

đã cho rằng: những giá trị lí thuyết “trường” của Trier cũng chỉ dừng ở mức là

những gợi ý. Lí giải điều này, tác giả đã chỉ ra: sự không phân biệt ý nghĩa với

khái niệm, các lớp ý nghĩa, từ với khái niệm và quan niệm quá dứt khoát về ranh

giới giữa các trường khái niệm và các “vùng” khái niệm của từ với nhau đặc biệt

là cách sử dụng thiếu thận trọng tư liệu cổ để đối chiếu hai trạng thái khác nhau

của cùng một trường khiến cho những kết luận của Trier dễ bị phản bác và

phương pháp của ông không được vận dụng một cách có hiệu quả. Mặc dù vậy,

quan điểm của Trier về trường là những gợi ý ban đầu cho việc nghiên cứu ngôn

ngữ nói chung và trường từ vựng nói riêng.

Kế thừa các kết quả nghiên cứu của J. Trier, các nhà nghiên cứu như:

Weisgerber, J. Lyons,… trong công trình “Nhập môn ngôn ngữ học lí thuyết” đã

đưa ra những nội dung quan trọng bổ sung cho lí thuyết trường. Cụ thể, tác giả

J.Lyons đã đưa ra được một định nghĩa về ý nghĩa của từ (sense) có phần khoa học

hơn: “Cái mà ta cho là ý nghĩa của một đơn vị từ vựng là toàn bộ tập hợp các quan

hệ ý nghĩa giữa nó với các đơn vị khác trong từ vựng”[12, tr. 244]. Đặc biệt, một

số nhà ngôn ngữ học sau này đã chia hệ thống từ vựng của một ngôn ngữ thành

trường nghĩa ở nhiều cấp độ lớn nhỏ khác nhau dựa vào nét nghĩa phạm trù chung

nhất đến các nét nghĩa phạm trù nhỏ hơn rồi các nét nghĩa loại, hạng và nét nghĩa

riêng biệt. Như vậy, các nghà nghiên cứu vừa nêu đã xem xét trường nghĩa theo

19

quan hệ dọc của ngôn ngữ, tức là xem xét các trường nghĩa theo tính hệ thống

của ngôn ngữ.

Khác với các tác giả trên, W. Porig lại tìm hiểu trường từ dựa trên quan hệ

ngang giữa các tín hiệu ngôn ngữ để đề xuất lí thuyết về trường nghĩa. Theo đó,

ông xem xét các trường nghĩa dựa trên cơ sở các mối quan hệ về nghĩa giữa các

cặp từ có quan hệ ngữ đoạn với nhau (quan hệ ngang). Với Porzig, ý nghĩa của

từ có thể được chỉ ra một cách độc lập trong những trường hợp sử dụng cú pháp

khác biệt. Với cách nhìn nhận như vậy, Porzig xác định sự sắp xếp của những từ

có đặc điểm ngữ pháp giống nhau (có khả năng kết hợp giống nhau với các từ

khác) tạo thành trường từ vựng - cú pháp.

Kế thừa các kết quả nghiên cứu của các tác giả trên thế giới, ở Việt Nam,

từ những năm 70 của thế kỉ XX, có rất nhiều các nhà nghiên cứu đã dành sự quan

tâm nhất định về vấn để này như:

Tác giả Đỗ Hữu Châu trong một loạt công trình nghiên cứu đã đưa ra

những phân tích, nhận định, đánh giá về các quan niệm về trường nghĩa của các

tác giả trên thế giới và nêu ra quan niệm riêng của mình về trường nghĩa: “Mỗi

tiểu hệ thống ngữ nghĩa được gọi là một trường nghĩa. Đó là tập hợp từ đồng

nhất với nhau về ngữ nghĩa” [12, tr.159].

Các tác giả của cuốn Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học cho rằng:

“Một loạt các từ được liên kết lại nhờ sự đồng nhất của một nét nghĩa còn gọi là

xêri từ vựng, dãy từ vựng” [51, tr.327].

Nhìn chung các nhà nghiên cứu nói trên đều dựa trên cơ sở quan điểm của

các nhà ngôn ngữ học nước ngoài đi trước và căn cứ vào thực tế tiếng Việt để

đưa ra cách nhìn của mình về trường nghĩa.

Phân loại trường nghĩa: mỗi nhà nghiên cứu khi đưa ra quan niệm riêng

về trường nghĩa cũng đồng thời có cách phân loại riêng. Trong phạm vi luận án,

chúng tôi nêu ra cách phân loại trường nghĩa của tác giả Đỗ Hữu Châu và coi

đây là căn cứ để phân loại tư liệu của đề tài. Theo đó, trường nghĩa được chia

thành các loại: trường nghĩa dọc, trường nghĩa ngang và trường liên tưởng.

20

Trường nghĩa dọc được chia thành hai tiểu trường nhỏ là: trường nghĩa

biểu vật và trường nghĩa biểu niệm. Trường biểu vật là những tập hợp từ đồng

nhất về ý nghĩa biểu vật. Muốn đưa các nghĩa biểu vật của từ về trường thích hợp

chúng ta phải chọn các danh từ làm gốc. Các danh từ này phải có tính khái quát

cao, gần như tên gọi của các phạm trù biểu vật như: người, động vật, thực vật,

vật thể, chất liệu….; trường nghĩa biểu niệm là tập hợp các từ có chung một cấu

trúc biểu niệm. Các trường biểu niệm có thể giao thoa với nhau và cũng có lõi

trung tâm với các từ điển hình và những từ ở lớp kế cận trung tâm, những từ ở

lớp ngoại vi.

Trường nghĩa ngang (trường nghĩa tuyến tính) là những trường nghĩa xuất

phát từ một từ làm gốc rồi tìm tất cả những từ có thể kết hợp với nó thành những

chuỗi tuyến tính (cụm từ, câu) chấp nhận được trong ngôn ngữ. Các từ trong một

trường tuyến tính là những từ thường xuất hiện với từ trung tâm trong các loại

ngôn bản.

Trường liên tưởng là trường nghĩa xuất phát mỗi từ là trung tâm có thể xây

dựng các lớp từ liên quan có mối quan hệ nhất định với từ gốc. Các từ trong một

trường liên tưởng là sự hiện thực hóa, sự cố định bằng từ các ý nghĩa có thể có

của từ trung tâm. Trước hết đó phải là các từ cùng nằm trong trường biểu vật,

trường biểu niệm và trường tuyến tính, tức là những từ có quan hệ cấu trúc đồng

nhất và đối lập về ngữ nghĩa với từ trung tâm.

1.3. Khái niệm từ nghề nghiệp

1.3.1. Vị trí của từ nghề nghiệp trong lớp từ vựng của một ngôn ngữ

Từ vựng tiếng Việt bao gồm nhiều lớp hạng khác nhau. Nếu căn cứ vào

phạm vi sử dụng của các từ có thể chia từ vựng tiếng Việt thành: từ vựng toàn

dân và từ vựng hạn chế về mặt xã hội và lãnh thổ.

Từ vựng toàn dân là những từ được toàn dân hiểu và sử dụng. Hay, đó là

những từ thuộc vốn từ chung của tất cả những ai nói và sử dụng tiếng Việt. Lớp

từ vựng cơ bản và quan trọng nhất của mỗi ngôn ngữ.

21

Từ vựng hạn chế về mặt xã hội và lãnh thổ là những từ chỉ được dùng ở

một hoặc một vài địa phương. Các từ vựng hạn chế không đối lập với các từ vựng

toàn dân mà có sự tương tác qua lại trong việc sử dụng ngôn ngữ của cộng đồng.

Cụ thể, các từ địa phương tồn tại bên cạnh từ vựng toàn dân nhằm góp phần đáp

ứng sự đa dạng của sự vật tồn tại trong cộng đồng. Các nhóm từ vựng hạn chế

về mặt xã hội và lãnh thổ như: từ địa phương, từ nghề nghiệp, tiếng lóng, thuật

ngữ.

Từ nghề nghiệp là một trong những bộ phận của từ vựng tiếng Việt. Chính

vì vậy, từ nghề nghiệp cũng được nhiều nhà nghiên cứu tại Việt Nam quan tâm

tìm hiểu.

Trước tiên, để hiểu có cái nhìn chung về từ nghề nghiệp, chúng tôi xin dẫn

ra quan niệm của Nguyễn Thiện Giáp về từ nghề nghiệp “Từ ngữ nghề nghiệp là

những từ ngữ biểu thị những công cụ, sản phẩm lao động và quá trình sản xuất

của một nghề nào đó trong xã hội. Những từ ngữ này thường được những người

cùng trong ngành nghề đó biết và sử dụng. Những người không làm nghề ấy tuy

ít nhiều cũng có thể biết những từ ngữ nghề nghiệp nhưng ít hoặc hầu như không

sử dụng chúng. Do đó, từ ngữ nghề nghiệp cũng là lớp từ vựng được dùng hạn

chế về mặt xã hội” [24, tr. 309].

Từ việc phân tích trên có thể thấy vị trí của từ nghề nghiệp trong lớp từ

vựng của một ngôn ngữ như:

- Từ nghề nghiệp là một lớp từ trong từ vựng tiếng Việt.

- Từ nghề nghiệp được những người cũng trong một ngành nghề sử dụng.

Vì vậy, nó hạn chế về mặt xã hội.

- Tuy hạn chế về mặt xã hội nhưng từ nghề nghiệp là những tên gọi duy

nhất của hiện tượng thực tế. Nó không có từ đồng nghĩa trong ngôn ngữ toàn

dân. Vì vậy, từ nghề nghiệp dễ dàng trở thành từ vựng toàn dân khi những khái

niệm riêng của nghề nào đó trở thành phổ biến rộng rãi trong toàn xã hội.

1.3.2. Phân biệt từ nghề nghiệp với các từ khác

22

Từ nghề nghiệp là một lớp từ nằm trong hệ thống từ vựng tiếng Việt và nó

những điểm tương đồng và khác biệt so với các lớp từ khác trong tiếng Việt. Để

thấy rõ đặc điểm của từ nghề nghiệp thì cần phân biệt nó với các lớp từ vựng

khác như: từ vựng toàn dân, từ địa phương, tiếng lóng và thuật ngữ.

- Từ vựng toàn dân và từ nghề nghiệp: nếu từ toàn dân là vốn từ chung của

toàn dân hiểu và sử dụng còn thì từ nghề nghiệp lại thường được những người

cùng làm trong một ngành nghề đó sử dụng. Như vậy, phạm vi sử dụng của từ

vựng toàn dân lớn hơn từ nghề nghiệp. Đồng thời, từ nghề nghiệp sẵn sàng bổ

sung lượng từ nhất định trong vốn từ của mình cho từ toàn dân trong trường hợp

không có từ đồng nghĩa.

- Từ địa phương và từ nghề nghiệp: điểm giống nhau là cả hai đều thuộc

lớp từ vựng dùng hạn chế. Cụ thể, các lớp từ này chỉ được dùng trong một phạm

vi, một vùng ngôn ngữ nhất định và chúng có khả năng bổ sung vốn từ của mình

cho từ toàn dân khi cần. Điểm khác nhau, nếu từ địa phương được dùng ở phạm

vi rộng (vùng dân cư) thì từ nghề nghiệp lại có phạm vi nhỏ hơn bởi trong một

vùng dân cư có rất nhiều ngành nghề khác nhau cùng tồn tại.

- Tiếng lóng và từ nghề nghiệp: điểm giống nhau là cả hai đều thuộc lớp

từ vựng dùng hạn chế. Nếu từ nghề nghiệp là từ được dùng trong phạm vi một

nhóm đối tượng cùng một ngành nghề sử dụng thì tiếng lóng lại là bộ phận từ

vựng tồn tại trong tất cả các nhóm đối tượng. Điểm khác nhau: tiếng lóng ra đời

do mục đích của một bộ phận người tạo ra để chỉ những sự vật, hiện tượng bên

cạnh các từ toàn dân đã có. Tiếng lóng tồn tại phụ thuộc vào môi trường, hoàn

cảnh và bản thân những tầng lớp xã hội tạo ra nó và nội hàm ý nghĩa biểu hiện

của tiếng lóng là để giữ bí mật. Từ nghề nghiệp là tên gọi duy nhất của hiện

tượng thực tế và vì thế nó không có từ đồng nghĩa trong ngôn ngữ toàn dân.

- Thuật ngữ và từ nghề nghiệp: điểm giống nhau là cả hai đều thuộc lớp từ

vựng hạn chế và được dùng trong một ngành nhất định. Điểm khác nhau: nếu

23

như từ nghề nghiệp có tính cụ thể và gợi hình cao hơn bởi nó gắn với hoạt động

sản xuất trực tiếp thì thuật ngữ lại chỉ mang ý nghĩa khái quát. Tuy nhiên, từ nghề

nghiệp do mức độ mang ý nghĩa khái quát thấp nên không mang tính quốc tế còn

thuật ngữ có khả năng biểu thị khái niệm cho một ngành khoa học, kĩ thuật,…

nên mang tính quốc tế. Đồng thời, từ nghề nghiệp mang tính khẩu ngữ, hội thoại

thì thuật ngữ lại mang tính khoa học, phong cách nói.

1.4. Khái niệm định danh và các phương thức định danh

1.4.1. Khái niệm định danh

Định danh là chức năng gọi tên sự vật, hiện tượng của đơn vị cơ bản của ngôn

ngữ, đó là từ. Chức năng định danh được coi là một trong các tiêu chí để xác định

từ. Sự hình thành những đơn vị ngôn ngữ có chức năng định danh nghĩa là dùng

để gọi tên sự vật và chia tách những khúc đoạn của thực tại khách quan để tạo nên

những khái niệm tương ứng về sự vật, hiện tượng dưới hình thức là các từ, tổ hợp

từ, thành ngữ, câu. Thuật ngữ “định danh” có nguồn gốc từ tiếng la tinh có nghĩa

là “tên gọi”. Thuật ngữ này biểu thị kết quả của quá trình gọi tên. Đó là chức năng

của đơn vị có nghĩa của ngôn ngữ. Đối tượng của lý thuyết định danh là nghiên

cứu mô tả những quy luật về cách cấu tạo những đơn vị ngữ nghĩa, về tác động

qua lại giữa tư duy - ngôn ngữ - hiện thực khách quan trong quá trình định danh.

Tìm hiểu vai trò của nhân tố con người trong việc lựa chọn các dấu hiệu làm cơ

sở cho sự định danh xuất phát từ mối quan hệ hiện thực - khái niệm - tên gọi. Lý

thuyết định danh phải nghiên cứu, mô tả cấu trúc của đơn vị định danh, từ đó xác

định những tiêu chí hoặc những đặc trưng cần và đủ để phân biệt đơn vị định danh

này với đơn vị định danh khác. Hiện thực khách quan được hình dung như là cái

biểu vật của tên gọi, nghĩa là như toàn bộ các thuộc tính được chia tách ra trong

các hành vi định danh ở tất cả các lớp sự vật do tên gọi đó biểu thị khái niệm, khi

lựa chọn những thuộc tính có tính chất phạm trù tham gia như là cái biểu nghĩa

của tên gọi. Còn tên gọi được nhận thức như là một dãy âm thanh được phân đoạn

trong nhận thức tương ứng với một cấu trúc cụ thể của ngôn ngữ đó. Chính mối

24

tương quan giữa cái biểu nghĩa, cái biểu vật và xu hướng của mối quan hệ này

trong những hành vi định danh cụ thể sẽ tạo nên cấu trúc cơ sở của sự định danh.

1.4.2. Các phương thức định danh

Có thể quy phương thức định danh thành hai loại lớn: Định danh dựa trên

hình thức và định danh dựa trên nội dung.

Định danh dựa trên hình thức phản ánh đặc điểm hình thức của công cụ

được con người nhận biết. Những đặc điểm hình thức bao gồm các thuộc tính:

to, nhỏ, lớn, bé, dài, ngắn, cong, thẳng... và màu sắc.

Định danh dựa trên nội dung phản ánh đặc điểm về chức năng của công

cụ được con người nhận biết.

Từ ngữ có thể được định danh theo phương thức hình thức, có thể được

định danh theo phương thức nội dung và cũng có thể được định danh theo sự kết

hợp của cả hình thức và nội dung.

1.5. Khái niệm ngôn ngữ sân khấu và sân khấu rối cạn

Sân khấu là nghệ thuật mang tính tổng hợp cao. Trong một tác phẩm sân

khấu hội tụ giá trị văn học, diễn xuất, hội họa, âm nhạc, múa... Nói một cách hình

tượng, sân khấu như một cái lò luyện nên hợp kim, từ những nguyên liệu khác

nhau song liên kết với nhau bởi một số thuộc tính cần.

Thuộc tính sân khấu là một từ trường mạnh để chi phối, hút những thành

tố nghệ thuật cần để tạo nên ngôn ngữ sân khấu. Vũ đạo trong một tác phẩm sân

khấu là vũ đạo sân khấu; hội họa, kiến trúc trên sân khấu trở thành nghệ thuật

của không gian sân khấu - không phải không gian thuần túy; nghệ thuật biểu diễn

không còn mang nghĩa chung của sự trình diễn, biểu diễn, mà sẽ phải là nghệ

thuật diễn xuất sân khấu của diễn viên trong sự thể hiện nhân vật; kịch bản văn

học phải trở thành kịch bản sân khấu.

Mỗi nghệ thuật đều có phương tiện ngôn ngữ biểu đạt riêng của mình.

Phương tiện nghệ thuật loại hình luôn là điểm tựa để người tiếp nhận, hay nghiên

cứu nghệ thuật nhận thức được bản chất vấn đề đang tiếp cận. Phương tiện nghệ

25

thuật quyết định đặc tính loại hình nghệ thuật.

Với sân khấu, hành động là phương tiện nghệ thuật. Hành động là phương

tiện nghệ thuật của sân khấu nói chung. Nghệ thuật sân khấu tồn tại dưới hai

dạng: kịch bản văn học và vở diễn trên sân khấu.

Xét về mặt nội dung: múa rối cạn là nghệ thuật hành động điều khiển. Xét

về mặt biểu hiện thì hành động điều khiển là nghệ thuật của hành động sân khấu.

Hành động điều khiển vừa là đối tượng mô tả, vừa là phương tiện miêu tả. Hành

động toàn vở diễn được hình thành từ hàng loạt hành động nhỏ. Là ngôn ngữ

nghệ thuật của sân khấu, hành động sân khấu được chuyển tải bằng hệ thống

động tác điều khiển của nghệ nhân con rối như một hệ thống tín hiệu trong một

không gian - thời gian sân khấu. Vì vậy, nghệ thuật điều khiển là thành phần

trung tâm sự biểu đạt của sân khấu.

Một kịch bản trở nên sống động, được khắc họa vào không gian - thời gian

bằng đời sống tâm hồn, bằng trái tim nóng với nhịp đập đời sống tươi mới của

những con người chỉ có thể dựa vào nghệ thuật điều khiển con rối của nghệ nhân

trên sân khấu. Một ý tưởng, một hình tượng nghệ thuật trong cấu tứ của tác giả

và đạo diễn cũng chỉ có thể được thể hiện và biểu đạt bằng nghệ thuật điều khiển

của người nghệ nhân.

Trên sân khấu, người nghệ nhân thể hiện được nhân vật của mình thông

qua điều khiển con rối và hát. Hành động điều khiển và lời hát có mối quan hệ

chặt chẽ với nhau: hành động chi phối, điều hành động tác, động tác biểu hiện

điều khiển con rối và khớp với lời hát. Sân khấu là nghệ thuật miêu tả hành động

của con người bằng động tác.

Hệ thống hành động sân khấu được coi là hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật

diễn xuất (điều khiển), biểu hiện ngữ nghĩa của sân khấu. Hệ thống hành động

bao gồm hành động điều khiển, hành động ngôn ngữ... của người nghệ nhân.

Hành động điều khiển gồm những động tác tạo nên dáng vẻ cho con rối. Hành

động ngôn ngữ là đối thoại, độc thọai, lời nói riêng.

Nếu sân khấu là sự phản ánh đời sống bằng hành động sân khấu qua ngôn

26

ngữ - người diễn viên, thì nghệ thuật điều khiển con rối của diễn viên chính là sự

khám phá, nghiên cứu, tìm tòi và sáng tạo nên những hình thức hành động, những

động tác cụ thể, tạo nên hệ thống ngôn ngữ biểu đạt, tạo nên ngữ nghĩa cho một

tác phẩm sân khấu.

1.6. Khái niệm văn hóa, biểu tượng văn hóa và mối quan hệ giữa ngôn ngữ

và văn hóa

1.6.1. Khái niệm văn hóa

Trước tiên, văn hóa xuất hiện phổ quát cả ở phương Đông lẫn phương Tây.

Ở phương Đông, theo lịch sử cổ đại Trung Quốc, văn hóa được cho là cách hành

xử trong xã hội của tầng lớp thống trị. Ở phương Tây, văn hóa có nguồn gốc từ

chữ Cultus (gieo trồng) và sau này phát triển theo nhiều nghĩa khác nhau tạo ra

sự phong phú về nội dung cho từ văn hóa.

Theo đó, thuật ngữ văn hóa là một phạm trù rộng và hiện nay có trên 500

cách định nghĩa khác nhau về văn hóa. Tiếp cận từ các góc độ khác nhau nên

mỗi định nghĩa lại có cách nhìn nhận và đánh giá văn hóa khác nhau.

Để có cái nhìn chung và bao quát về khái niệm văn hóa, trong phạm vi

luận văn, chúng tôi trình bày một số khái niệm văn hóa được cộng đồng thế giới

cũng như người Việt chấp nhận như:

Ở phạm vi thế giới, khái niệm về văn hóa của UNESCO đưa ra trong

“Tuyên bố chung của Unesco về tính đa dạng của văn hóa” được công đồng thế

giới đồng thuận: “Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc

trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người

trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương

thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin".

Ở Việt Nam, khái niệm văn hóa cũng được rất nhiều các nhà nghiên cứu

quan tâm. Tác giả Trần Ngọc Thêm định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa là

một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và

tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người và

27

môi trường tự nhiên và xã hội của mình" [38, tr.10]. Từ việc nhận định, tác giả

đã đi sâu phân tích ba đặc trưng của văn hóa là: tính hệ thống, tính giá trị, tính

nhân sinh để khẳng định chức năng và vai trò của văn hóa trong đời sống cộng

đồng.

Cùng bàn về vấn đề này nhưng tác giả Nguyễn Văn Chiến không đưa ra

một định nghĩa về văn hóa của riêng mình và chỉ tập trung lí giải khái niệm bằng

một số vấn đề:

- Văn hóa là một hiện tượng, một phạm trù thuộc về con người, do con

người làm nên. Vì vậy, văn hóa là tiêu chuẩn, tiêu chí hiển nhiên khu biệt con

người với con vật;

- Văn hóa là sản phẩm đặc thù của xã hội loài người;

- Một hiện tượng văn hóa luôn tồn tại với những lí do riêng của nó;

- Thành tựu của nền văn hóa là con người. Văn hóa không phải là các vật

đơn thuần ta sờ thấy được một cách cụ thể. Hiện tượng văn hóa hiện diện trước

mặt ta, trong ta như một thế giới được vật thể hóa, một thế giới được khúc xạ rõ

ràng [15, tr.17].

Từ các quan niệm trên chúng tôi nhận thấy: văn hóa là sản phẩm của con

người. Nó được tạo ra, phát triển trong cộng đồng người. Đồng thời, chính văn

hóa lại tham gia vào việc tạo ra thế giới quan và nhân cách của con người, giúp

duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Như vậy, văn hóa được truyền từ thế hệ này

sang thế hệ khác và tồn tại có tính biện chứng trong quá trình lao động và tương

tác xã hội của con người.

1.6.2. Biểu tượng văn hóa

Trong cuốn “Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới”, các tác giả Jean

Chevalier và cộng sự đã nhận định: “Thời đại không có biểu tượng là thời đại

chết, xã hội thiếu biểu tượng là xã hội chết. Một nền văn minh không còn có biểu

tượng thì sẽ chết, nó chỉ còn thuộc về lịch sử”.

Biểu tượng là hình thức cao của nhận thức, giúp ta lưu giữ lại trong đầu

óc sau khi tác động của sự vật vào giác quan ta đã chấm dứt. Biểu tượng không

28

nhất thiết phải mang ý nghĩa chính trị hay tư tưởng cao siêu mà nhiều khi là ước

mong, hy vọng bình thường của loài người. Chẳng hạn, chim bồ câu là biểu tượng

của hoà bình hay một công trình kiến trúc là “hình ảnh sáng tạo nghệ thuật có ý

nghĩa tượng trưng”. Như vậy, một đặc trưng tự nhiên tiêu biểu cho nơi nào đó

hay thậm chí là một món ăn độc đáo… đều có thể được coi là biểu tượng. Qua

thời gian nhiều biểu tượng đã trở thành di sản văn hóa quốc gia hoặc di sản thế

giới.

Trong quá trình nhận thức của con người, mặc dù biểu tượng chỉ là hình

thức phản ánh cảm tính của cá nhân nhưng con người có mối quan hệ một cách

gián tiếp qua hình thái ngôn ngữ mang nội dung xã hội, luôn tri nhận được. Vì

vậy, theo tác giả Nguyễn Văn Chiến thì việc nghiên cứu văn hóa học, trong một

số những từ văn hóa điển hình cần tập trung vào các biểu tượng văn hóa liên

quan đến quá trình biểu trưng hóa bằng hình ảnh liên tưởng. Điều này, một mặt

xác định vị trí của sự hiện diện các sự kiện ngôn ngữ nói chung; mặt khác xác

định cấu trúc ngữ nghĩa của từ phản ánh những đặc trưng văn hóa tộc người trong

chính những từ cụ thể.

1.6.3. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa

Một ngôn ngữ nhất định tồn tại luôn có mối quan hệ chặt chẽ với ngôn

cảnh văn hóa - xã hội. Nếu người tham gia giao tiếp không chú ý tới yếu tố văn

hóa trong ngôn ngữ, rất khó để giao tiếp thành công ngôn ngữ đó.

Để hiểu rõ mối quan hệ này, trước tiên chúng tôi xin đưa ra quan niệm về

ngôn ngữ và văn hóa:

Ngôn ngữ là công cụ của hoạt động giao tiếp, là phương tiện tư duy của

con người. Nói như tác giả Emmitt & Pollock (1990) thì: “Ngôn ngữ là một hiện

tượng phức tạp và trừu tượng mà có thể được nhận biết thông qua các mã bằng

lời nói và không bằng lời nói”. Điều này chỉ rõ, ngôn ngữ được sử dụng để giao

tiếp, truyền đạt nghĩa tới người nghe, thiết lập và duy trì các mối quan hệ giữa

con người với con người. Theo đó, tác giả Halliday (1985), phân loại ngôn ngữ

29

thành ba chức năng chính: Chức năng tư tưởng (ideational function): liên quan

đến trải nghiệm của người nói hoặc người viết về thế giới thực; Chức năng liên

nhân (interpersonal function): để thiết lập các mối quan hệ xã hội giữa con người

với nhau; Chức năng ngôn bản (textual function): liên quan đến các ngôn bản nói

hoặc viết phù hợp với một tình huống cụ thể.

Có rất nhiều quan niệm về văn hóa được nêu. Trong phạm vi luận văn,

chúng tôi đưa ra quan niệm của tác giả Trần Ngọc Thêm: “Văn hóa là một hệ

thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con nguời sáng tạo và tích lũy

trong quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi

trường tự nhiên và xã hội của mình” [38, tr.27].

Dựa trên các quan niệm về ngôn ngữ và văn hóa nêu trên, chúng tôi nhận

thấy: mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa có một mối quan hệ tương tác lẫn

nhau và được xác định một cách cụ thể. Nói như Sapir thì đó là mối quan hệ “vô

cùng chặt chẽ, tới mức mà ta không thể hiểu và đánh giá đúng được cái này nếu

không có kiến thức về cái kia” (Sapir, 1991).

Theo tác giả Brown (1996), ngôn ngữ là một phần của văn hóa và văn hóa

là một phần của ngôn ngữ, cả hai đan xen nhau để cái nọ không tách khỏi cái kia

mà không mất đi ý nghĩa của ngôn ngữ hay văn hóa.

1.7. Khái quát chung về dân tộc Tày, tiếng Tày và nghệ thuật múa rối cạn

tại huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên

1.7.1. Khái quát chung về người Tày tại huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên

Định Hoá là huyện miền núi phía bắc của tỉnh Thái Nguyên, có diện tích

520km2, tiếp giáp với 6 huyện. Định Hoá có vị trí địa lý ở trung tâm khu Việt

Bắc xưa, được Đảng và Nhà nước chọn làm căn cứ địa cách mạng trong cuộc

kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Điều kiện tự nhiên phong phú với hệ động thực vật đa dạng. Rừng núi

rậm rạp, nhiều khe suối nhỏ tuy không có tiềm năng về giao thông thuỷ lợi song

lại cung cấp nguồn nước khá đầy đủ cho nông nghiệp toàn huyện.

Định Hoá có thành phần dân tộc khá phong phú như: Tày, Nùng, Kinh,

30

Cao lan, San Chí, Dao, H’mông... trong đó dân tộc Tày chiếm số dân đông nhất.

Dân tộc Tày ở Định Hoá có truyền thống văn hoá lâu đời, đa dạng, có

những nét chung của đồng bào dân tộc Tày, đồng thời cũng có nhiều điểm riêng

của người Tày ở Định Hoá do vị trí địa lý và môi trường kinh tế, văn hoá hình

thành nên. Nói chung đời sống tinh thần của người Tày Định Hoá khá phong phú

và đa dạng, bao gồm nhiều yếu tố tích cực, trong sáng, lành mạnh cần được phát

huy.

Dân tộc Tày ở Định Hoá có vốn văn nghệ dân tộc khá phong phú, đủ các

thể loại thơ, ca, múa nhạc... Tục ngữ, ca dao chiếm một khối lượng đáng kể được

lưu truyền qua các thế hệ. Các điệu dân ca phổ biến nhất là hát lượn, hát then,

hát đám cưới, ru con. Đặc biệt người Tày Định Hóa còn có một vốn văn hoá cổ

truyền đặc sắc là múa rối cạn ở hai thôn Thẩm Rộc (xã Bình Yên) và Ru Nghệ

(xã Đồng Thịnh). Đây là hai xã miền núi, người dân sinh sống ở hai thôn Thẩm

Rộc và Ru Nghệ hầu hết là đồng bào Tày, có nền văn hóa truyền thống lâu đời,

có sự giao lưu văn hóa với các dân tộc xung quanh. Chính từ các yếu tố địa lý tự

nhiên, từ nền nông nghiệp lúa nương, từ văn hóa tín ngưỡng mà đồng bào Tày

Định Hóa đã du nhập rối cạn, biến rối cạn thành văn hóa riêng của dân tộc mình.

1.7.2. Sơ lược về tiếng Tày

1.7.2.1. Đặc điểm về cội nguồn

Các nhà ngôn ngữ học gần như nhất trí về sự phân định cội nguồn đối với

các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Tai-Ka đai. Ngữ hệ này gồm các chi Tai, Hlai-Lê và

Ka-đai. Chi Tai gồm các nhánh Lạc Kia, Kam Thuỷ (Đồng Thuỷ), Bê, Tày -

Thái. Ở Việt Nam chỉ có đại diện các nhánh Tày - Thái và Cam Thuỷ.

Nhánh Tày - Thái ở Việt Nam gồm các nhóm sau:

- Nhóm Tai trung tâm

- Nhóm Tai Tây Nam

- Nhóm Tai Bắc

31

Tiếng Tày thuộc nhóm Tai trung tâm của nhánh Tày - Thái, Chi Tai, họ

Tai-Ka đai. Nhóm này gồm các ngôn ngữ: Tày, Nùng, Cao Lan, Thu Lao.

1.7.2.2. Đặc điểm về loại hình

Tiếng Tày được xác định thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, với những đặc

trưng sau:

- Về ngữ âm: Tiếng Tày là một ngôn ngữ âm tiết tính. Trong tiếng Tày âm

tiết có tổ chức chặt chẽ, gồm một số lượng nhất định. Các yếu trong một âm tiết

kết hợp với nhau theo một quy tắc nhất định và số lượng âm tiết trong ngôn ngữ

này là hữu hạn. Âm tiết thường là hình thức chính của hình vị và đa số trong các

trường hợp là vỏ của từ. Trong tiếng Tày cũng có thuật ngữ "tiếng" (âm tiết - từ

- hình vị) như trong tiếng Việt.

- Về loại hình: Các ngôn ngữ có đặc tính âm tiết tính thường được coi là

những ngôn ngữ thuộc tiểu loại hình “trung”. Các ngôn ngữ âm tiết tính triệt để

thuộc tiểu loại hình “trung” như nhiều ngôn ngữ thuộc họ Tai - Kađai, Hmông -

Miền, Hán, Tạng của họ Nam Á là những ngôn ngữ có thanh điệu. Tiếng Tày

cũng được coi là thuộc tiểu loại hình “trung” này. Đây là ngôn ngữ không thấy

có các tổ hợp phụ âm giữ chức năng âm đầu trong âm tiết; hệ thống phụ âm cuối

tương đối nghèo nàn; có thanh điệu; âm tiết tính triệt để.

Từ trong tiếng Tày không có hiện tượng biến đổi hình thái. Đặc điểm

không biến đổi hình thái trong tiếng Tày được thể hiện ở chỗ trong thành phần

cấu tạo của từ tiếng Tày không có các yếu tố hình thái chuyên dùng để biểu thị ý

nghĩa và chức năng ngữ pháp của các biến tố, trong câu từ tiếng Tày vẫn giữ

nguyên hình thức ngữ âm của mình.

Tiếng Tày là một trong những ngôn ngữ của 54 dân tộc anh em. Việc

nghiên cứu tìm hiểu qua việc thống kê những từ ngữ chỉ về múa rối cạn của người

Tày ở Định Hóa, Thái Nguyên sẽ giúp ta làm sáng tỏ nhiều vấn đề, trong đó việc

bảo lưu các yếu tố cổ của tiếng Tày có thể góp thêm phần cứ liệu soi sáng lịch

sử tiếng Tày.

1.7.2.3. Đặc điểm về chữ viết

Mặc dù là một ngôn ngữ thống nhất nhưng cũng như các ngôn ngữ khác ở

32

Việt Nam, tiếng Tày đang tồn tại nhiều biến thể. Các biến thể đó có khi thuộc về

ngữ âm, có khi thuộc từ vựng hoặc cả hai nhưng chủ yếu là thuộc về ngữ âm.

Tiếng Tày vùng “chuẩn” gồm Hoà An (Cao Bằng), Bạch Thông (Thái Nguyên).

Giai đoạn cổ đại người Tày chưa có chữ viết, giai đoạn cận đại người Tày mới

có chữ viết nhưng đó mới chỉ là chữ Nôm. Sau này người Tày mới có chữ viết

dạng La tinh [21, tr.194].

a) Chữ Nôm Tày

Chữ Nôm Tày ra đời vào khoảng thế kỉ thứ XV. Có học giả cho rằng chữ

Nôm Tày đã xuất hiện thế kỉ II sau Công nguyên (thời Sĩ Nhiếp). Tuy nhiên đây

cũng chỉ là giả thuyết, chưa có cơ sở chắc chắn. Qua các văn bản được ghi chép

bằng chữ Nôm Tày thì có thể thấy loại chữ này được hoàn chỉnh và được sử dụng

rộng rãi vào thời nhà Mạc (trong thời gian nhà Mạc cố thủ tại Cao Bằng non một

thế kỉ). Chữ Nôm Tày chưa được dùng phổ biến trong cộng đồng Tày mà chỉ

được một số người sử dụng. Về cơ bản chữ Nôm Tày đã sử dụng các cách ghi

của chữ Hán (chữ ghi ý) với những thay đổi bổ sung nhất định để ghi âm tiếng

Tày. Chữ viết Nôm Tày thường được dùng để ghi chép các truyện thơ, chẳng

hạn: 5 tập truyện thơ Nôm - in trong Tổng tập truyện thơ Nôm các dân tộc thiểu

số Việt Nam... Chữ Nôm Tày còn được dùng để ghi các bài hát (then), bài cúng,

gia phả, hiện đang lưu truyền trong nhân dân.

Có thể nói, chữ Nôm Tày đã góp phần bảo lưu và gìn giữ một kho tàng tri

thức và văn nghệ truyền thống rất quan trọng của người Tày.

b) Chữ viết Tày tự dạng La tinh

Chữ viết Tày tự dạng Latinh đã xuất hiện tự phát từ thời kì kháng chiến

chống Pháp và đã được dùng trong cuộc vận động nhân dân Tày tham gia kháng

chiến, giành độc lập. Đến năm 1961, phương án chữ viết Tày mới được nghiên

cứu hoàn chỉnh và được Chính phủ phê chuẩn. Từ đó, chữ viết Tày được sử dụng

và phát triển mạnh vào những năm sáu mươi của thế kỉ XX. Phong trào học và

sử dụng tiếng nói, chữ viết Tày phát triển rầm rộ ở Khu tự trị Việt Bắc. Đây là

thời kì phát triển nhất của tiếng Tày. Khi đó, tiếng nói và chữ viết Tày đã được

sử dụng rộng rãi trong các văn bản phát thanh, tài liệu tuyên truyền, văn học nghệ

33

thuật… Đã có các tạp chí văn nghệ, báo chí bằng chữ Tày xuất hiện. Học sinh

phổ thông được học chữ Tày… Sau khi được ban hành, chữ Tày đã phát huy

được chức năng của mình trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong giáo

dục, tiếng và chữ Tày (tự dạng Latinh) được giảng dạy từ năm học 1962 - 1963

với hàng ngàn học sinh và hàng trăm lớp học. Năm học 1967 - 1968, thời điểm

này phong trào học tiếng và chữ Tày lên cao, có tới hơn 1000 lớp học, trên 37.000

học sinh cấp 1 và 25.000 học sinh vỡ lòng.

Tuy nhiên, đến năm 1969 - 1970 phong trào dạy và học tiếng và chữ viết

Tày giảm dần. Việc dạy và học chữ Tày còn được duy trì ở một số trường của

huyện Bạch Thông (Thái Nguyên), Tràng Định của Lạng Sơn. Năm 1978, việc

dạy tiếng và chữ Tày trong các trường phổ thông chấm dứt.

Trong lĩnh vực văn hoá văn nghệ, tình trạng sử dụng chữ Tày cũng như

vậy. Thời kì đầu, chữ Tày được dùng trong sáng tác văn học, in ấn trên các báo

và ghi các tác phẩm văn học, nghệ thuật của địa phương như: Tiểng lượn Pác Bó

của Cao Bằng, Văn nghệ Lạng Sơn của Lạng Sơn… Nhưng vào cuối những năm

70, phong trào lắng dần.

Thực tế cho đến nay, chữ Tày tự dạng latinh vẫn được sử dụng để ghi chép

hàng ngày và đặc biệt là được dùng trong sáng tác văn học nghệ thuật và dịch

thuật. Bản dịch Truyện Kiều bằng tiếng Tày của dịch giả Thân Văn Lư (xuất bản

năm 2006) đã được ghi lại bằng chữ Tày tự dạng Latinh.

Trong luận văn này các ví dụ tiếng Tày sẽ được trình bày bằng chữ Tày tự

dạng Latinh nói trên.

1.7.2.4. Đặc điểm về từ vựng

Xét về nguồn gốc, kho từ vựng tiếng Tày có hai bộ phận cơ bản: bộ phận

thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái và bộ phận từ vay mượn. Cụ thể:

Bộ phận thứ nhất: từ ngữ thuần Tày.

Đây là lớp từ ngữ cơ bản nhất, chiếm vị trí chủ đạo, được dùng để gọi tên các

sự vật, hiện tượng... như tha vằn “mặt trời”, đin “đất”, hin “đá”, phân “mưa”, …

Bộ phận thứ hai: từ ngữ vay mượn.

34

Từ ngữ vay mượn vào tiếng Tày chủ yếu trực tiếp từ tiếng Hán. Ví dụ:

“hài xảo “giầy cỏ”, cảng chá “mặc cả”, tảo lị “đạo lí”…

Từ vay mượn của tiếng Việt, hoặc được vay mượn qua tiếng Việt. Ví dụ:

chính phủ, mít tinh, năng suất, sinh vật, đạ “đã”, sẹ “sẽ”, hòm “cái hòm”,...

1.7.2.5. Đặc điểm về tình hình sử dụng ngôn ngữ

Từ lâu, tiếng Việt đã được các dân tộc thiểu số trong nước, trong đó có

người Tày sử dụng như một ngôn ngữ chung, là phương tiện giao tiếp giữa các

dân tộc. Trên thực tế, đến nay, tiếng Việt đã đi vào mọi mặt đời sống của dân tộc

Tày. Ở đa số các vùng, năng lực song ngữ Tày - Việt của người Tày khá tốt, đặc

biệt lớp trẻ có trình độ tiếng Việt khá thành thạo. Kết quả khảo sát của Ban dân

tộc tỉnh Lạng Sơn năm 2007 cho biết: ở huyện Lục Bình tỉnh Lạng Sơn, số người

Tày sử dụng thành thạo tiếng Việt chiếm 87% (trong đó có 19% sử dụng tiếng

Việt thành thạo hơn tiếng mẹ đẻ). Đó là một thông tin đáng mừng đồng thời cũng

rất đáng lo ngại. Rõ ràng ở đây có một lời cảnh báo rằng, hiện nay, nhiều thanh

thiếu niên Tày không biết sử dụng tiếng mẹ đẻ. Vì vậy, tiếng Tày đang trong tình

trạng cần được bảo tổn trước khi có những biện pháp thúc đẩy nó phát triển. Đó

cũng là tình trạng chung ở nhiều vùng người Tày hiện nay.

1.7.3. Nghệ thuật múa rối cạn tại huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên

Múa rối cạn của người Tày ở Định Hóa được biểu diễn trong ngày hội

Lồng tồng (Lễ hội Xuống đồng) của bản hoặc biểu diễn trong những dịp hội làng,

hội đình, chùa hàng năm. Trong ngày tết có tổ chức lễ hội Lồng tồng. Hội Lồng

Tồng thường tổ chức 3 ngày và gồm hai phần: phần lễ và phần hội. Phần lễ thể

hiện “cái tinh thần” còn phần hội thể hiện “cái tinh hoa”. Mở đầu hội nhất thiết

phải lễ cúng trời đất để cầu mưa thuận gió hoà, nhà nhà ấm no, hạnh phúc của

thầy Tào, sau đó là phần thầy cúng sẽ chọn những thửa ruộng tốt, con trâu béo

để mở những luống cày đầu tiên. Lễ tế thần nông được chuẩn bị sớm. Sau khi tế

song thì hạ bàn, mời mọi người tham dự cùng ăn, nó thể hiện tính đoàn kết cộng

đồng. Trong lễ hội Lồng tồng xưa không thể thiếu hai trò chơi dân gian truyền

35

thống của người Tày là “Tung còn” và “Múa rối cạn”.

Hoạt động diễn xướng “múa rối cạn” được diễn ra trên khoảng đất rộng đủ

cho dựng buồng trò, sân múa, dàn nhạc ngồi và người xem.

Mở đẩu buổi diễn là dàn nhạc gồm bốn người đánh trống bản, hai người vỗ

trống cơm ra ngồi vào chiếu để thu hút người xem. Một vị trong ban tổ chức hội

địa phương được mời đến cầm chầu bằng trống cái. Vị cầm chầu ngồi trên hàng

đầu người xem. Tiếng trống bản, trống cơm, hòa tấu rộn rã với tiếng trống cái

tạo không khí lôi cuốn cho buổi diễn.

Trong mỗi buổi diễn của phường thường có: hai người mặc áo dài thâm,

quần trắng, quấn xiêm gồm nhiều dải vải thêu, tay cầm hai cặp sênh tre, ra giáo

pháo. Họ vừa múa, vừa hát, vừa đánh sênh, theo nhịp trống của dàn nhạc, để mở

đầu, để dẹp đám; Ông trùm hội hay một người có giọng hát mừng, vừa giáo, vừa

đánh mèn làm nhịp, có dàn nhạc phụ họa. Các bài giáo gồm: Giáo Trống cơm và

Trống cái; Giáo Phách; Giáo Ràn rạt; ... Múa giáo trống có hai điệu: Múa giáo

trống cơm và múa giáo trống cái. Phần múa này đều do nhạc công tự trình diễn

cả lời lẫn động tác. Điệu múa trống cái thực ra là múa trống bản, còn trống cái

dùng để dàm chầu không được sử dụng tới. Trong điệu múa trống, các nghệ nhân

đeo trống trước ngực, đứng hàng ngang, tay vỗ vào mặt trống. Họ cùng làm động

tác tiến, lui, quay, thay hàng, đổi lối và cùng đồng thanh giáo lời. Hết phần múa

trống, ông trùm phường cầm mèn bước vào sân múa, vừa gõ mèn làm nhịp, vừa

giáo các nhạc cụ: phách, ràn rạt, xiêm...

Phần múa rối: Những người điểu khiển con rối, diễn trò đều ở trong buồng

kín và điều khiển các con rối trên đầu theo lời người giáo trò. Người điều khiển

quân rối không giáo lời mà do ông trùm gõ mèn giáo ngoài sân múa. Cứ khi nào

ông trùm giáo đến quân rối nào thì người điều khiển mang quân rối đó ra đưa

qua, đưa lại, xoay phải, xuay trái...không theo trình tự nào, không khớp với lời

giáo.

36

Sau trò múa rối, người giáo trò lại tiếp tục kể chuyện thơ với nhịp mèn, nhịp

trống …. Các câu chuyện kể về: Chu Mãi Thần, Lưu Bình- Dương Lễ, Tiền Hán,

Hậu Hán. Hết phần múa rối, giáo trò nghỉ. Bộ phận Nhà tơ hát kết thúc.

Múa rối cạn ngày nay biểu diễn tuy không cầu kỳ như ngày trước nhưng

vẫn thu hút đông đảo khán giả đến xem. Và tuy nó không đóng vai trò quan trọng

trong đời sống văn hoá của người dân như trước đây (lúc đó người dân chủ yếu

sống bằng nghề nông, nên rất coi trọng việc cầu mưa; và còn vì phương tiện giải

trí của họ khá ít ỏi nên người dân rất thích những trò biểu diễn mua vui trong

những ngày hội hè, nông nhàn) nhưng ngày nay trò múa rối cạn vẫn được người

dân quan tâm, tìm hiểu về vốn văn hoá cổ truyền của dân tộc.

37

Tiểu kết chương 1

Trong chương 1, luận văn đã trình bày sơ lược một số khái niệm ngôn ngữ

học khái niệm từ, cấu tạo từ, ngữ, khái niệm nghĩa, khái niệm phương thức định

danh, nghệ thuật sân khấu v.v... Đây là những cơ sở lý thuyết để người viết dựa

vào đó triển khai nghiên cứu những vấn đề tiếp theo cho mục đích của luận văn.

Cũng trong chương 1, sự tìm hiểu sơ lược về dân tộc Tày và tiếng Tày với

những đặc điểm về chữ viết, về tình trạng song ngữ Tày - Việt, về dân tộc Tày ở

huyện Định Hóa, Thái Nguyên và nghệ thuật múa rối cạn ở Định Hóa, Thái

Nguyên đã trang bị cho người viết những kiến thức nền tảng trong việc thực hiện

đề tài.

38

Chương 2

ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO VÀ PHƯƠNG THỨC

ĐỊNH DANH CỦA TỪ NGỮ MÚA RỐI CẠN CỦA NGƯỜI TÀY

Ở ĐỊNH HÓA, THÁI NGUYÊN

2.1. Dẫn nhập

Ở Việt Nam, người Tày là dân tộc xuất hiện sớm và chiếm số lượng thứ

hai trong 54 dân tộc. Người Tày sống chủ yếu ở vùng Trung du và Miền núi phía

Bắc. Thái Nguyên là một trong những nơi có người Tày sinh sống chiếm số lượng

lớn thứ hai sau người Kinh và tập trung nhiều ở huyện Định Hóa.

Tiếng Tày nằm trong ngữ hệ Thái - Kadai thuộc nhóm ngôn ngữ Tày -

Thái. Tiếng Tày thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, âm tiết tính. Về mặt ngữ pháp,

tiếng Tày thường có cấu tạo theo trật tự chính trước - phụ sau. Về mặt mặt từ

ngữ, số lượng từ vựng cơ bản thuộc nhóm Thái khá lớn. Về mặt ngữ dụng, tiếng

Tày được sử dụng là ngôn ngữ chính và phản ánh tư duy, văn hóa của cộng đồng

dân tộc Tày. Ngày nay, do quá trình thay đổi của xã hội, tiếng Tày thu hẹp phạm

vi và tồn tại song cùng với tiếng Việt.

Xuất phát từ những đặc trưng trên và dựa vào quan niệm của tác giả Đỗ Hữu

Châu sử dụng trong phân loại từ và tìm hiểu đặc điểm cấu tạo từ tiếng Việt [11],

[12], chúng tôi nhận thấy: để xác định các từ đơn vị từ và ngữ của múa rối cạn của

người Tày ở Định Hóa cần xuất phát từ tiêu chí ngữ nghĩa.

Dựa trên kết quả phân loại từ ngữ múa rối cạn, chúng tôi chỉ ra đặc điểm

từ ngữ múa rối cạn về cấu tạo và về phương thức định danh. Qua đó, thử tìm hiểu

về một vài đặc điểm văn hóa của người Tày ở huyện Định Hóa thông qua một

góc nhìn khá hạn hẹp từ về ngữ múa rối cạn của họ.

2.2. Tình hình tư liệu

Xuất phát từ những tiêu chí nêu trên, chúng tôi tiến hành khảo sát và thu được

308 từ ngữ về múa rối cạn của người Tày ở Định Hóa, Thái Nguyên. Dựa trên cứ

39

liệu thu được, chúng tôi tiến hành phân loại các nhóm từ ngữ múa rối cạn của người

Tày và kết quả cụ thể như sau:

- Nhóm từ ngữ chỉ công cụ chế tác: 51.

- Nhóm từ ngữ chỉ công đoạn chế tác: 65.

- Nhóm từ ngữ chỉ con rối: 118.

- Nhóm từ ngữ chỉ quá trình biểu diễn: 106

(Bảng phân loại cụ thể xin xem phụ lục b).

2.3. Đặc điểm từ ngữ múa rối cạn về cấu tạo

2.3.1. Thống kê từ ngữ múa rối cạn

Dựa vào kết quả thống kê và phân loại các từ ngữ múa rối cạn của người

Tày ở Định Hóa, Thái Nguyên. Chúng tôi tiến hành phân loại từ ngữ múa rối cạn

theo đặc điểm cấu tạo, kết quả cụ thể:

Từ

Cụm từ

Từ đơn

Từ phức

Các nhóm từ ngữ

Tổng

Số

Tỉ lệ

Số

Tỉ lệ

Số

Tỉ lệ

lượng

(%)

lượng

(%)

lượng

(%)

Công cụ chế tác

4.22

28

9.09

2.92

9

13

50

Công đoạn chế tác

9.09

26

8.44

3.25

10

28

64

Con rối

12.99

34

11.04

5.19

16

40

90

Quá trình biểu diễn

5.85

58

18.83

9.09

28

18

104

32.15

146

47.4

20.45

63

99

308

Tổng

(100%)

Từ bảng thống kê, phân loại các từ ngữ múa rối cạn, chúng tôi có thể nhận

định:

Các đơn vị là từ đơn ít hơn so hẳn so với các đơn vị định danh bằng hình

thức ghép. Cụ thể, từ đơn có 99 từ /308 từ ngữ, chiếm 32.15%; từ phức có 146

từ/308 từ ngữ, chiếm 47.4%; cụm từ có 63 cụm từ/308 từ ngữ, chiếm 20.45%.

40

Ví dụ như:

- Các từ đơn: bủa “cái búa”, khoan “cái rìu”, Pja “con dao”, tủi “cái dùi”,

xét “búa đinh”, xích “thước”, síu “đục”, vẳn “khoét”, thơm “sơn”, pổi “quét”,

vài “trâu”, thưa “hổ”, Pùa “vua”, mổn “quân rối”, loọc “cái mõ”, Fục “chiếu”,

tàn “đàn”, mèn “thanh la”, mủa “múa”,…

- Các đơn vị phức: bút vè “bút vẽ”, cửa mặy “cưa gỗ”, mặng lắm “gỗ

tươi”, mì vừn “than củi”, slíu mẻ “đục chàng”, slíu mồn “đục tròn”, xích vẹp

“thước kẻ”, tổng đèn “phao dầu”, hắt việc “tạo hình”, khôn sàu “lông mày”, Pú

ké “ông già”, pu kấy/ tắc kè “tắc kè”, loỏng tắc kè/ pu kấy “bắt tắc kè”, pái mưa

“sân múa”,…

- Các cụm từ: cọ mạy mục “cây thừng mực”, tua tò hua “con rối đầu”, tua

tò đăm “con rối đen”, phuối cằm tò “giáo trò mồi”, tải éc vài “cái óc ách trâu”, cần

lỉn nhạc “người chơi nhạc”, mủa phuổi tò choang “Múa giáo trống cơm”,…

2.3.2. Đặc điểm cấu tạo

Về đặc điểm cấu tạo, các từ ngữ múa rối cạn của người Tày có các

hình thái khác nhau như:

- Từ chỉ gồm một thành tố (từ đơn): Pja “con dao”, tủi “cái dùi”, phón

“vôi”, phun “gọt”, xích “thước”, síu “đục”, vẳn “khoét”, thơm “sơn”, pổi

“quét”, tha “mắt, vài “trâu”, lủa 2 “máng gỗ”, rứa “áo”, thưa “hổ”, rọi “xiên”,

pưa “mũi tên”, Pùa “vua”, mổn “quân rối”, chược “dây thừng”,… Có 99 từ thuộc

loại này.

Các từ đơn tiết trong bản thân từ không có các quan hệ ngữ pháp. Xét trên

phương diện cấu tạo từ thì phần lớn các từ đơn tiết trên đều có khả năng trở thành

những hình vị để tạo thành những đơn vị phức. Chẳng hạn, từ đơn pja (dao) khi

trở thành hình vị và tham gia vào phương thức ghép sẽ tạo nên là các từ ngữ chỉ

các loại dao như: pja boỏng (dao chuôi liềm), pja phay (dao phay), pja sliểm (dao

nhọn), pja kho (dao quắm), pja cap (dao rựa)….

41

- Từ gồm nhiều thành tố chỉ múa rối cạn của người Tày ở Định Hóa xét về

phương diện nghĩa đều thuộc loại ghép phân nghĩa, trong đó một thành tố chính

(TTC - C) và một hoặc nhiều thành tố phụ (TTP - P). Theo đó, có thể đưa ra mô

hình cấu tạo chung là: C - P hoặc C - P1 - P2 hoặc, C - P1 - P2 - P3,…. Trong

các mô hình trên: Thành tố chính biểu thì chủng loại, thành tố phụ biểu thị các

đặc điểm cụ thể, có vai trò phân nghĩa (màu sắc, hình dáng, kích thước, chức

năng,…). Hay các đơn vị được cấu tạo thuộc loại ghép này thường được tạo nên

từ cách ghép phụ nghĩa: thành tố phụ bổ sung hoặc giải thích cho thành tố chính.

Để chứng minh cho nhận xét trên, có thể đưa ra một số kiểu cấu tạo các từ

ngữ chỉ múa rối cạn của người Tày ở Định Hóa như sau:

Kiểu 1: ghép một thành tố chính với một thành tố phụ.

Mô hình:

C P

Slíu (đục) mẻ (chàng)

Slíu (đục) tậc (con)

Thửa (áo) đeng (đỏ)

Tua (con) tò (rối)

Lao (lão) thầu (trùm)

Trong mô hình trên, TTC (slíu, thửa, tua, lao,…) đứng phía trước so với thành tố

phụ; thành tố phụ (mẻ, tậc, đeng, tò, thầu,…) đứng vị trí phía sau so với thành tố

chính. Các thành tố phụ là các đặc điểm cụ thể, bổ sung ý nghĩa và đặc điểm cho

thành tố chính.

Các ví dụ khác như: slíu mẻ “đục con”, tủa toóc “cái búa”, theo lếch “que

sắt”, tua lình “con khỉ”, tua mả “con ngựa”, pín khửu “leo lên”, pín lòng “leo

xuống”, pín Mảy “leo cây”, mủa choang “cái trống”, tuyển tò “tích trò”,…

Kiểu 2: ghép một thành tố chính C với một thành tố phụ P, trong đó P

42

gồm có P1 và P2.

Mô hình:

C - P (P1 - P2)

Lễ (lễ) [lồng (xuống) tồng (đồng)]

Mủa (múa) [tò (rối) lần (dây)]

Tua (con) [tò (rối) đăm (đen)]

Ở kiểu ghép này, thành tố chính đứng trước; thành tố phụ bao gồm một

tổ hợp gồm hai thành tố phụ khác nhau kết hợp để bổ sung ý nghĩa, đặc điểm cho

thành tố chính. Các ví dụ khác như: theo phiay eng “que tre nhỏ”, cọ thừng mục

“cây thừng mực”, tua tò hua “con rối đầu”, tua tò khao “con rối trắng”, tải éc

vài “cái ách trâu”, rứa rì căm “áo dài thâm”, mạy múa tò “que điều khiển”,

mủa tò mư “múa rối tay”, kín lao keo “hút thuốc lào”,…

Kiểu 3: ghép một thành tố chính C với một thành tố phụ P, trong đó P

gồm có P1, P2 và P3.

Mô hình:

C - P1 - P2 (P2.1 - P2.2)

Mủa (múa) phuối (giáo) choang (trống) khẩu (cơm)

Tua (con) tò (rối) hua (đầu) tàn (đàn)

Kiểu ghép này có trật tự gốm: thành tố chính đứng trước; thành tố phụ 1

(P1) bổ sung ý nghĩa trực tiếp cho thành tố chính; thành tố phụ 2 (P2) gồm 1

thành tố phụ giữ vai trò chính trong tổ hợp (P2.1) và thành tố phụ giữa vai trò

thành tố phụ 2.2 (P2.2.) nhằm bổ sung ý nghĩa cho P2.1. TTP2 là tổ hợp bổ sung

ý nghĩa, đặc điểm cho tổ hợp C + P1. Các ví dụ khác: mủa phuối choang cải

“múa giáo trống cái”, pài cần lỉn nhạc “bộ phận chơi nhạc”, pài cần mủa tò “bộ

phận diễn trò”,…

Như vậy, qua khảo sát, phân loại và phân tích các từ ngữ múa rối cạn của

43

người Tày ở Định Hóa, Thái Nguyên có thể rút ra nhận xét như sau:

Thứ nhất, các từ ngữ múa rối cạn của người Tày ở Định Hóa có thể được

cấu tạo bằng 3 kiểu ghép: C + P; C + P (P1 + P2); C + P1 + P2 (P2.1 + P2.2).

Các mô hình trên đều được cấu tạo theo kiểu ghép C - P, trong đó các thành tố

chính đều là các hình vị có nghĩa. Các thành tố phụ thường là có nghĩa bổ sung

cho thành tố phụ và các hình vị này thường có nghĩa. Tuy nhiên có một số

trường hợp thành tố phụ mất nghĩa hoặc không có nghĩa trong tổ hợp định danh

này.

Thứ hai, thành tố chính giữ vai trò là thành tố gốc chỉ sự vật. Vì vậy, thành

tố chính luôn là các danh từ chỉ loài/ giống chung. Các thành tố phụ giữ vai trò là

các thành tố làm rõ một trong các đặc điểm của thành tố chính nhằm làm rõ và khu

biệt thành tố chính. Vì thế, thành tố phụ nhỏ hơn thành tố chính và thường là các

đơn vị chỉ đặc điểm, tính chất, trạng thái,…

Thứ ba, kiểu kết hợp thứ 3 thường xuất hiện ở nhóm từ chỉ quá trình biểu

diễn. Trong đó, thành tố phụ thứ 2 luôn là một tổ hợp trong đó thành tố phụ 2.1

có đặc điểm giống thành tố chính, thành tố phụ 2.2. có đặc điểm giống thành tố

phụ 1. Cả thành tố phụ 2.1 và thành tố phụ 2.2 làm thành tổ hợp thành tố phụ 2

bổ sung nghĩa cho tổ hợp thành tố chính và thành tố phụ 1. Hay, hai tổ hợp thành

tố chính - thành tố phụ 1 và thành tố phụ 2 (thành tố phụ 2.2 - thành tố phụ 2.2)

là các tổ hợp chỉ sự vật cụ thể được ghép với nhau để tạo ra mọt tổ hợp có tính

cụ thể hơn.

2.4. Đặc điểm từ ngữ múa rối cạn về phương thức định danh

Phương thức định danh là cách gọi tên sự vật, hiện tượng, quá trình, hoạt

động… Tìm hiểu phương thức định danh, tức là tìm hiểu những quy luật mang

tính phổ biến trong việc cấu tạo các đơn vị ngữ nghĩa. Nghiên cứu về phương

thức định danh các từ ngữ múa rối cạn của người Tày ở Định Hóa, Thái Nguyên

để tìm ra mối quan hệ giữa hiện thực khách quan - tư duy - ngôn ngữ mang tính

quy luật của các từ ngữ chỉ loại hình mùa rối cạn của đồng bào dân tộc Tày ở

44

Định Hóa, Thái Nguyên.

Tìm hiểu đặc điểm từ ngữ múa rối cạn của người Tày về phương thức định

danh được chúng tôi tiến hành theo cách:

- Căn cứ vào các từ ngữ múa rối cạn theo 4 nhóm phân loại gồm: nhóm từ

ngữ chỉ công cụ chế tạc; nhóm từ ngữ chỉ công đoạn chế tác; nhóm từ ngữ chỉ

con rối; nhóm từ ngữ chỉ quá trình biểu diễn, chúng tôi tiến hành phân tích các

TTC và TTP. Các TTC được xác định là các danh từ chung chỉ loài/ giống hoặc

loại lớn; các TTP được xác định là các từ chỉ đặc điểm, tính chất, trạng thái, màu

sắc, cách thức, vị trí,…

Tuy nhiên, để làm rõ các đặc điểm của từ ngữ múa rối cạn, chúng tôi tiến

hành phân tích các từ ngữ múa rối cạn theo ba phương thức: phương thức định

danh dựa vào hình thức, phương thức định danh dựa vào chức năng và phương

thức định danh dựa vào đặc điểm, tính chất.

2.4.1. Phương thức định danh dựa vào hình thức

Trong phương thức định danh này gồm hai thành tố: thành tố thứ nhất

(TT1) và thành tố thứ 2 (TT2). TT1 là các thành tố chỉ loại lớn. TT2 bổ sung và

làm rõ nghĩa cho TT1 về đặc điểm hình thức như: hình dáng, kích thước, màu

sắc, đường nét,… Chẳng hạn:

- Nhóm từ ngữ chỉ công cụ chế tác. Ví dụ:

Cứa thành toòn (cưa + khúc) “cưa khúc”

Pja sliểm (dao + nhọn) “dao nhọn”.

Slíu tấc (đục + con) “đục con”.

Xích vẹp (thước + gỗ) “thước gỗ.

- Nhóm từ ngữ chỉ công đoạn chế tác. Ví dụ:

Mạy oón (Gỗ + mềm) “gỗ mềm”.

Theo Phiay eng (que tre + nhỏ) “que tre nhỏ”

- Nhóm từ ngữ chỉ con rối. Ví dụ:

Tua tò vừa (con rối + cỡ trung) “con rối cỡ trung”.

45

Nạ đăm (mặt + đen) “mặt đen”.

Nạ đeng (mặt + đỏ) “mặt đỏ”.

Pú ké (ông + già) “ông già”.

Thửa đeng (áo + đỏ) “áo đỏ”

Thửa kheo (áo + xanh) “áo xanh”

- Nhóm từ ngữ chỉ quá trình biểu diễn. Ví dụ:

Choang cải (trống + cái) “trống cái”

Choang tấc (trống + con) “trống con”

2.4.2. Phương thức định danh dựa vào chức năng

Ở phương thức định danh dựa vào chức năng, các thành tố phụ trong từ

ngữ múa rối cạn là các từ chỉ đặc điểm: chất liệu, chức năng, mục đích sử dụng

gắn với các nhóm từ ngữ múa rối.

- Nhóm từ ngữ chỉ công cụ chế tác:

S’líu pền roỏng (đục - rãnh) “đục rãnh”

Xáng pú (búa - đục gỗ) “búa đục gỗ”.

Loọc vài (mõ - trâu) “mõ trâu”

Loọc mò (mõ - bò) “mõ bò”

Tua tò hua tàn (con rối - múa đầu) “con rối múa đầu”

- Nhóm từ ngữ công đoạn chế tác:

Gọn lót (giồng - quay sợi) “guồng quây sợi”

Tủi toọc 2 (dùi đập) “dìu đập”

- Nhóm từ ngữ chỉ con rối:

Thứa bào (áo - bào) “áo bào”

Tua tò (con - rối) “múa rối”

Mạy múa tò (que - điều khiển) “que điểu khiển”.

- Nhóm từ ngữ chỉ quá trình biểu diễn:

Ngoay thua (quay + đầu) “quay đầu”

Pây thây (đi + cày) “đi cày”

46

Pài cần lỉn nhạc (bộ phận - chơi nhạc) “bộ phận chơi nhạc”

Pài cần mủa tò (bộ phận - diễn trò) “bộ phận diễn trò”

2.4.3. Phương thức định danh dựa vào đặc điểm, tính chất

Phương thức định danh trên được dựa trên đặc điểm, tính chất của sự vật.

Xét về mặt cấu tạo, thành tố thứ nhất chỉ loại; thành tố thứ hai bổ sung nghĩa cho

thành tố thứ nhất về chất liệu, cách thức... Chẳng hạn:

- Nhóm từ ngữ chỉ công cụ chế tác:

Boóc dang (ống - nhựa) “ống nhựa”

Bút vè (bút - vẽ) “bút vẽ”

Cửa mặy (cưa - gỗ) “cưa gỗ”

Mì vừa (than - củi) “than củi”

Mỉ nỏ (nhọ - nồi) “nhọ nồi”.

- Nhóm từ ngữ chỉ công đoạn chế tác:

Theo lếch (que - sắt) “que sắt”

Tủi toóc 2 (dùi - đâp) “dìu đập”

- Nhóm từ ngữ chỉ con rối:

Lục báo (chàng - trai) “chàng trai”

Lục Xao (cô - gái) “cô gái”

Cần lắt nà (người - nông dân/ lão - nông) “người nông dân/ lão nông”

47

Tiểu kết chương 2

Trong chương này, chúng tôi tập trung nghiên cứu và chỉ ra các đặc

điểm về cấu tạo và phương thức định danh của các từ ngữ múa rối cạn của

người Tày ở Định Hoa, Thái Nguyên. Qua phân tích, có thể rút ra một vài

nhận định như sau:

- Các từ ngữ chỉ múa rối cạn của người Tày ở Định Hóa có số lượng tương

đối lớn (308 từ ngữ) và thuộc nhiều loại (quy về bốn nhóm). Điều này bước đầu

phản ánh đặc điểm văn hóa của người Tày ở Định Hóa về cuộc sống xã hội, quan

hệ giao tiếp, cách thức lao động, tư duy cộng đồng đa dạng và được truyền lại

qua nhiều đời.

- Các từ ngữ chỉ múa rối cạn của người Tày ở Định Hóa có cấu tạo là từ

đơn có 99 từ /308 từ ngữ, chiếm 32.15%; từ phức có 146 từ/308 từ ngữ, chiếm

47.4%; cụm từ có 63/308 từ ngữ, chiếm 20.45%. Các từ đơn luôn có xu hướng

trở thành các hình vị có nghĩa để tạo thành các cấu trúc phức. Các cấu trúc phức

bên cạnh các quan hệ ngữ nghĩa còn ràng buộc nhau bởi các quan hệ ngữ pháp

(quan hệ chính phụ). Các đơn vị có cấu trúc phức được xếp vào ba kiểu:

C - P; C - P (P1 + P2); C + P1 - P2 (P2.1 + P2.2). Như vậy, các thành tố chính

luôn đứng trước các thành tố phụ trong các từ ngữ có cấu trúc phúc.

Dựa trên sự phân tích về đặc điểm cấu tạo và đặc điểm ngữ nghĩa của các

thành tố, chúng tôi đã tiến hành tìm hiểu từ ngữ múa rối cạn của người Tày ở Định

Hóa, Thái Nguyên về phương thức định danh ở các phương diện sau:

+ Phương thức định danh dựa trên đặc điểm hình thức của từ ngữ chỉ múa

rối cạn;

+ Phương thức định danh dựa trên chức năng, mục đích sử dụng của từ

ngữ chỉ múa rối cạn;

+ Phương thức định danh dựa trên đặc điểm tính chất của từ ngữ chỉ múa

rối cạn;

48

Bên cạnh chức năng định danh, các từ ngữ múa rối cạn của người Tày ở

Định Hóa, Thái Nguyên còn phản ánh một phần những đặc điểm văn hoá kinh tế

và xã hội, các mối quan hệ giữa con người với con người và con người với thiên

nhiên, các phong tục tập quán… của người Tày tại Định Hóa, Thái Nguyên nói

riêng và cộng đồng người Tày ở Trung du miền núi phía Bắc nói chung. Hay, 308

đơn vị từ ngữ được khảo sát đã phản ánh dấu ấn văn hoá nông nghiệp trồng cấy

lúa nước là chính, khép kín và tự cung tự cấp, kết hợp với săn bắt, hái lượm ở miền

núi. Đồng thời, các từ ngữ này còn cho thấy một phần những suy nghĩ, ước mong

và niềm vui lao động của những người dân lao động, trong cộng đồng xã hội Tày

truyền thống tại Định Hóa, Thái Nguyên.

49

Chương 3

MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA TIÊU BIỂU

CỦA NGƯỜI TÀY QUA TỪ NGỮ MÚA RỐI CẠN

Ở ĐỊNH HÓA, THÁI NGUYÊN

3.1. Dẫn nhập

Múa rối cạn của người Tày ở Định Hóa, Thái Nguyên là nét văn hóa dân

gian độc đáo trong kho tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam. Rối Tày thuộc loại

hình rối que, ra đời từ 200 năm trước. Trài qua thời gian, từ ngữ múa rối cạn của

người Tày ở Định Hóa ngoài chức năng định danh còn phản ánh bên trong những

đặc điểm văn hoá, các mối quan hệ xã hội, nền kinh tế, các phong tục tập quán…

Vì vậy bên cạnh việc nghiên cứu các từ ngữ này về mặt hình thức cấu tạo và định

danh, việc tìm hiểu phần nào nền văn hoá của dân tộc Tày được phản ánh qua

chúng cũng là một nhiệm vụ rất quan trọng.

Ở chương hai, chúng tôi đã phân tích đặc điểm cấu tạo và các phương thức

định danh từ ngữ múa rối cạn của người Tày ở Định Hóa. Xuất phát từ kết quả khảo

sát, phân tích ở chương 2, chúng tôi tiếp tục tìm hiểu những nét tiêu biểu nhất của văn

hoá dân tộc Tày qua từ ngữ múa rối cạn ở Định Hóa, Thái Nguyên.

Khảo sát 308 đơn vị từ ngữ, chúng tôi nhận thấy các từ ngữ này tập hợp

thành những trường từ vựng - ngữ nghĩa riêng, phản ánh cách gọi tên (định danh)

những từ ngữ chỉ nghề nghiệp (nghề múa rối cạn). Đồng thời, trong các từ ngữ

ít nhiều chứa đựng những đặc điểm của nền văn hoá nông nghiệp của người Tày.

Các lớp từ ngữ chỉ công cụ chế tác đã thể hiện nơi cư trú, công cụ canh tác và

sản xuất của cư dân nông nghiệp miền núi. Qua đó, các đặc điểm văn hoá ấy

phản ánh những suy nghĩ, ước mong của cộng đồng người Tày ở Định Hóa, Thái

Nguyên nói riêng và cộng đồng người Tày sinh sống trên đất nước Việt Nam nói

chung.

50

3.2. Đặc trưng văn hóa của người Tày phản ánh qua công cụ chế tác và tạo

hình con rối trong múa rối cạn

Qua khảo sát các trường từ vựng ngữ nghĩa của từ ngữ múa rối của người

Tày ở Định Hóa, chúng tôi nhận thấy những giá trị văn hóa vật chất và văn hóa

tinh thần được biểu hiện trong một số trường nghĩa tiêu biểu như: trường nghĩa

chỉ tên gọi nhân vật; trường nghĩa chỉ công cụ biểu diễn.

Định cư ở vùng rừng núi nơi có những cánh rừng đại ngàn gắn liền với

hoạt động săn bắn và làm nương rẫy, người Tày vùng Định Hóa, Thái Nguyên

cũng như các cộng đồng anh em cộng cư trên địa bàn đã dựa vào các đặc điểm

tự nhiên để sinh sống. Bên cạnh việc trồng lúa trên nương và săn bắn hái lượm,

những ngày nông nhàn người Tày đã sớm sáng tạo ra múa rối cạn - hình thức

nghệ thuật được làm từ vật liệu tự nhiên và công cụ dùng trong sinh hoạt hàng

ngày. Chẳng hạn:

Sử dụng cọ mạy mục “cây thừng mực” hay mặng mỵ “gỗ mít”, cọ mét

“cây tre”,… những loại cây sinh trưởng ở vùng rừng núi, có nhiều ưu điểm: thân

cao, thẳng, (tre). Gỗ mềm, màu trắng sáng như ngà voi (thừng nựi); mặng lắm

“gỗ tươi”, mạy oón “gỗ mềm”; có thở mặy (thớ gỗ) đẹp hoặc dễ pha thành theo

phiay “que tre”,… để làm vật liệu tạo hình cho con rối cạn.

Hình ảnh 3.1. Cây thừng mực

51

Sử dụng các công cụ sinh hoạt có hàng ngày như: mac pja “con dao”, ăn

cứ “cái cưa”, bủa tay “búa con”, khoan “cái rìu”, liêm “cái liềm”, pja boỏng

“dao chuôi liềm”, pja cap “dao rựa”, pja phay “dao phay”, pja sliểm “dao

nhọn”, tào (ỷ) “dao con”, xét “cái búa đóng đinh”, xích “thước”,… để làm

công cụ tạo hình cho con rối.

Sử dụng các công cụ dùng trong nghề mộc như: cứa mạy “cưa gỗ”, cứa

thành toòn “cưa khúc”, slíu mẻ “đục chàng”, slíu pền roỏng “đục rãnh”, slíu

tậc “đục con”, slíu mồn “đục tròn”, tủi “cái dùi đục”, tào lửa “cái giũa”, tủi

toóc 2 “dùi dập”, tổng đén “phao dầu”, xích vẹp “thước vẹt,”,…

Sử dụng các đồ vật để tạo hình, tạo màu sắc và công cụ tô màu cho con rối:

theo phiay eng “que tre nhỏ”, theo lếch “que sắt”, bút vè “bút vẽ", mỉ mỏ “nhọ

nồi”, phón “vôi”, dàng pản “hộp dây mực”, mì vừn “than củi”,…

Bên cạnh việc lựa chọn và sử dụng các công cụ chế tác con rối thì khâu

tạo hình cũng là một khâu quan trọng, phản ánh đặc điểm tư duy, văn hóa của

người Tày ở Định Hóa thông qua nghệ thuật múa rối cạn. Chẳng hạn:

Sử dụng Cọ mạy mục “cây thừng mực” - một loại cây thân gỗ phổ biến ở

miền núi, vừa dễ chế tác lại ít bị mối mọt. Để tạo ra một con rối cỡ trung bình

các nghệ nhân phải mất vài ngày, trải qua nhiều công đoạn như lựa chọn vật liệu,

tạo hình bằng tay, phơi khô, sơn mầu và may quần áo cho nhân vật.

Các quân rối được chế tác thô nhằm định hướng tạo hình cơ bản. Tiếp đó,

các nghệ nhân tạo hình bằng tay (hắt việc tằng mứ) cụ thể bằng cách:

Các con rối được tạo hình hình dáng của con người: ăn nả “khuôn mặt”, cò

khen “cổ tay”, đẳng “mũi”, hả “mắt”, hua “đầu”, khuân sàu “lông mày”, khuân

chàu ha “lông mày”, khuân pìn ha “lông mi”, mừ “tay”, phả mừ “bàn tay”, thắt

lăng “thắt lưng”, xâm “tóc”, xủ “tai”,… và được quét sơn “siu thơn”.

Tiếp theo, các nghệ nhân may y phục (may slửa khóa) cho con rối. Tùy

theo mục đích và tạo hình của con rối, mỗi con rối sẽ được may trang phục phù

hợp. Đó là các trang phục: khoa “quần”, khoa khao “quần trắng”, khoen “váy”,

lẩn yểm “dải yếm”,…

52

Để làm nên những bộ trang phục cho con rối, ngoài bàn tay khéo léo và óc

sáng tạo đầy tính thẩm mỹ của nghệ nhân, còn có sự tham gia của khá nhiều loại

công cụ lao động trong việc chế tác thông qua các công đoạn chế tác như (kí húc

"máy dệt", công phải "cái bật bông", pài tồng "guồng sợi") hoặc chế biến thuốc

nhuộm từ nguyên liệu tự nhiên - một nét hết sức đặc trưng của đồng bào dân tộc

miền núi. Điều này thể hiện những yếu tố truyền thống mang tính đặc trưng tộc

người đã, đang và sẽ tồn tại bền vững trong sự đa dạng về bản sắc văn hoá các

dân tộc Việt Nam

Tuy nhiên, việc tạo hình con rối của người Tày ở Định Hóa còn hạn chế

do nhiều nguyên nhân tác động nên việc điêu khắc tạo hình quân rối còn hạn chế

như: hốc mắt có nhưng mắt, lông mày, lông mi thì dùng bút vẽ để phân biệt tuổi

tác, giới tính…

Bên cạnh các con rối có hình dáng con người, các nghệ nhân còn chế tác

các đồ vật phù hợp với đặc điểm của con rối.

Hình ảnh 3.2: Các quân rối cổ truyền của phường Thẩm Rộc

[Tạo hình và điều khiển con rối]. Nguồn: Ma Thị Thủy

Tìm hiểu các công cụ chế tác và tạo hình con rối cạn của người Tày ở Định

Hóa, chúng tôi nhận thấy rất khó phân biệt đâu là công cụ được sử dụng chế tác

53

con rối đâu là công cụ dùng trong sinh hoạt hay công cụ lao động. Chẳng hạn

như: pja “dao”, liêm “liềm”, tủi toóc “cái búa”,…. Tuy nhiên, có những công

cụ dùng riêng vào công đoạn chế tác con rồi như: slíu mẻ “đục chàng”, slíu pền

roỏng “đục rãnh”, slíu tậc “đục con”, slíu mồn “đục tròn”, tủi “cái dùi đục”,

tào lửa “cái giũa”, tủi toóc 2 “dùi dập”, tổng đén “phao dầu”, xích vẹp “thước

vẹt,”,… Điều này phản ánh đặc điểm linh hoạt, sinh động trong việc sử dụng các

công cụ trong đời sống của người Tày nhằm thích ứng với tự nhiên và tập quán

cộng đồng.

3.3. Đặc trưng văn hóa của người Tày phản ánh qua tên gọi nhân vật và

công cụ biểu diễn trong múa rối cạn

Trong múa rồi, quân rối là một trong những yếu tố đóng vai trò chủ thể.

Sau công đoạn chế tác, tạo hình các con rối dần hình thành và hoàn chỉnh. Mỗi

phường rối của người Tày ở Định Hóa tự dựng cho mình một bộ rối với số lượng

con rối khác nhau, chẳng hạn:

Phường Thẩm Rộc có bộ quân rối “mổn” gồm có: 32 quân, con rối nhỏ;

tay chân rối được gắn vào thân bằng dây đay; trang phục của rối được khâu tay

từ các mảnh vải màu sắc.

Hình ảnh 3.3: Cách điều khiển rối của phường Thẩm Rộc

[Tạo hình và điều khiển con rối]. Nguồn: Minh Tâm

54

Các con rối có hình dáng người như: binh mạ/ cần lườn quan “quân lính”,

lục báo “chàng trao”, lục xao “cô gái”, Pú ké “ông già”, quan “quan”, cằn hắt

nà “lão nông", mè vua “hoàng hậu”,… Các con rối trong các phường rối là

những nhân vật được "kí thác" bởi bản thân nghệ nhân cũng như cộng đồng người

Tày. Các quân rối khá đa dạng, từ tầng lớp bình dân đến tầng lớp vua quan, từ

trẻ đến già, từ nam đến nữ,… điều này phản ánh sự bao quát rộng lớn về đời sống

xã hội của người Tày trước đây.

Bên cạnh các con rối là người, các con rối là con vật cũng rất được các

nghệ nhân quan tâm như: chựa rườn “con thạch sùng”, tua ma “con chó” pu pấy

“tắc kè”, tua thưa “con hổ”, tua lình “con khỉ”, tua vài “con trâu”,…

Các con vật trên gắn liền với đời sống hàng ngày của người Tày từ trong

gia đình đến nương rẫy và sinh hoạt cộng đồng.

3.4. Đặc trưng văn hóa của người Tày phản ánh qua hoạt động diễn xướng

và biểu diễn trong múa rối cạn

Rối cạn Định Hóa còn là một phương tiện thể hiện thế giới tâm linh của

người Tày ở Định Hóa cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Múa

rối cạn của Định Hóa thường được trình diễn trong các lễ hội ở Định Hóa như lễ

lồng tồng (lễ Xuống đồng). Nói cách khác, rối và lễ hội ở Định Hóa có quan

khăng khít, có rối thì có lễ hội, và có lễ hội rối mới được thể hiện hết những giá

trị của nó.

Múa rối cạn ở Định Hóa là sáng tạo của người Tày ở Thẩm Rộc và Ru Nghệ

nhằm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng của người Tày ở Định Hóa. Tín

ngưỡng của người Tày là một thành tố quan trọng của văn hóa dân tộc Tày Định

Hóa và múa rối cạn của họ cũng chính là một biểu hiện cụ thể của văn hóa cộng

đồng của đồng bào Tày Định Hóa. Vì vậy ở múa rối cạn Định Hóa đã hàm chứa

đầy đủ những giá trị văn hóa của cộng đồng, đó là nhằm thỏa mãn những nhu

cầu hưởng thụ văn hóa, nhu cầu sinh hoạt văn hóa tâm linh của người Tày ở Định

Hóa. Những giá trị văn hóa này sẽ trường tồn trong đời sống văn hóa của cộng

55

đồng người Tày ở Định Hóa và theo thời gian giá trị ấy nếu được bảo vệ sẽ có

sức lan tỏa đến các dân tộc khác không chỉ ở Định Hóa mà còn ở địa phương

khác nữa.

Từ múa rối cạn dân tộc Tày ở Định Hóa khán giả nhận thức thấy múa rối

cạn đã gắn với tín ngưỡng thờ cúng thần nông. Các câu truyện kể hay lời giáo

đều nói về con người từ thuở hồng hoang bước vào lao động nông nghiệp và nhờ

ơn vua, chúa, thần thánh mà biết mổ cây để làm cày, bừa, dạy dân làm ruộng…

( bài giáo của phường Ru Nghệ) Cũng từ múa rối cạn Định Hoá mà ta biết được

sự tích của các vật dụng phổ biến như: Xiêm, đèn, pháo…

Múa rối cạn Định Hóa là nơi chứa đựng những kinh nghiệm sản xuất nông

nghiệp: Tháng ba tháng tư; Bắt đầu làm ruộng (bươn tham, bươn thí; Có khí hắt

na). Theo quan niệm dân gian của đồng bào Tày khi tắc kè kêu là trời mưa. Có

lẽ trong trò diễn, tắc kè được coi là biểu tượng của thiên nhiên còn người bắt tắc

kè là tượng trưng cho loài người. Cuộc rình đuổi bắt tắc kè có lẽ cũng thể hiện

việc con người muốn chinh phục tự nhiên, để tự nhiên phục vụ con người và như

vậy có lúc con tắc kè ( có lẽ do tức giận trước việc con người cứ rình bắt mình)

nên đã tấn công lại con người (pú cấy) và buộc con người phải lùi lại. Nhưng

cuối cùng con người nhờ sự khéo léo và kiên trì cũng đã bắt được tắc kè, đó là

sự dung hoà, hoà hợp giữa con người và tự nhiên. Kết thúc trò diễn như vậy đem

lại cho người xem một tâm trạng thoải mái, yên tâm.

Thông qua múa rối cạn Định Hoá, khán giả cũng nhận thức được rằng các

nghệ nhân múa rối cạn truyền thống ở Định Hoá là những người nông dân sản

xuất nông nghiệp nên thường đem kinh nghiệm lao động sản xuất của mình lồng

ghép vào các câu hát và để biểu diễn để phục vụ cho bà con nhân dân với khát

vọng cầu mong mùa màng tươi tốt. Chính điều này làm cho múa rối cạn ở đây

tuy ít điêu luyện nhưng lại thu hút được lòng yêu mến của đồng bào. Biểu diễn

dù chỉ là một trò ( như ở Ru Nghệ) và trong diễn xuất còn sơ lược, vụng về, chất

phác, nhưng vẫn được đồng bào khán giả tán thưởng vì họ không lấy nghệ thuật

56

làm cứu cánh mà chủ yếu để làm vui người, vui mình trong những ngày hội hè,

đình đám.

Rối cạn Định Hoá mang tính địa phương rõ rệt và có đối tượng phục vụ

rộng rãi. Trong phường Ru Nghệ, lời giáo được viết bằng tiếng Tày, đôi lúc có

xen lẫn các câu tiếng Kinh nhưng người nghe vẫn có thể hiểu được ý nghĩa, tình

tiết của câu chuyện qua các động tác của người diễn. Ở phường Thẩm Rộc, tuy

lời văn hoàn toàn bằng tiếng Kinh nhưng các nghệ nhân lại đều là người Tày vì

phường rối biểu diễn một cách chuyên nghiệp hơn, được nhiều nơi mời đến hơn

nên việc dùng tiếng phổ thông là thuận tiện và cũng vì đối tượng phục vụ của

phường thường là tầng lớp trên (là các vị chức sắc trong làng, xã). Phường rối

cạn dân tộc Tày không những chỉ phục vụ cho đồng bào Tày mà cả dân tộc Kinh,

Nùng, Dao, San Chí, Cao Lan … xung quanh cũng đều yêu thích.

Hàng năm hội Lồng Tồng (hội Xuống đồng) là lễ hội lớn nhất của người Tày

ở Định Hóa. Phần lễ là hoạt động tín ngưỡng cầu trời cho mưa thuận, gió hòa, cây

cối tươi tốt, mùa màng bội thu, đời sống ấm no. Để tham gia, mỗi gia đình chuẩn bị

một mâm cỗ theo khả năng của mình (có nhà làm tới vài chục mâm). Mâm cỗ ngoài

bánh kẹo còn có các món ăn được chế biến công phu với những mâm xôi ngũ sắc,

quả còn bằng vải màu, gà trống luộc, “péng ho” (bánh chưng)…Xôi đỏ tượng trưng

cho mặt trời, xôi vàng tượng trưng cho mặt trăng, hộp ngũ sắc đựng những hạt giống

mong cho mùa xuân mới được ấm no, sinh sôi nảy nở, an lành…Buổi sáng hôm

diễn ra lễ hội Lồng tồng các gia đình đội mâm ra thửa ruộng lớn nhất trên cánh đồng

của bản để cúng.

Phần lễ bắt đầu bằng lễ cầu mùa, cầu cho mùa màng tươi tốt, mưa thuận

gió hòa. Sau đó là lễ cầu phúc và lễ kỳ yên, lễ tịch điền - nghi thức bắt đầu xuống

đồng cày cấy. Lễ cầu mùa của người Tày ở Định Hóa có thầy mo trịnh trọng

khấn: “Đất thánh đầu xuân đốt nén nhang, khói dâng lễ vật khắp muôn phương,

niệm cầu thần chú thông thiên địa, phúc xuống toàn dân rọi muôn đời” (Hua pi mà

lềnh chút cai hương, ấu bân mà khắp ti há phương, càm so phuân tén thâng buôn

57

đin, phúc lộc tằng dân rọi tằng tời). Sau lời khấn, tiếng chiên của bốn người (do thày

cúng chọn hai nam, hai nữ) đi sau thày cầu khấn tiếp: Mong thần nông phù hộ cho

dân làng. Bài khấn khá dài và bằng tiếng Tày.

Phần hội là phần vui chơi gồm có hát then, hát lượn đối đáp, múa lân, múa

sư tử, kéo co, đẩy gậy, ném còn, chọi gà, đánh đu… đặc biệt là có múa rối cạn.

Buổi diễn của phường được diễn ra trên khoảng đất rộng đủ cho dựng

buồng trò, sân múa, dàn nhạc ngồi và người xem.

Hoạt động biểu diễn của múa rối cạn được chia thành:

Cách điều khiển con rối: Nghệ nhân đứng trong buồng trò (puồng tò) và

dùng que điều khiển quân rối trên cao. Tuy là loại rối que nhưng được nghệ nhân

sử dụng khá độc đáo: Nghệ nhân dùng que dài xâu vào mình quân rối rồi cắm đầu

gốc que vào thắt lưng hoặc có thể bỏ vào túi áo (kiểu áo bà ba). Mỗi tay điều khiển

một tay quân rối cử động (nghệ nhân nhìn vào mặt quân rối mà điều khiển, quay

lưng ra phía người xem). Lối diễn rối que này chỉ xuất hiện ở Bình Yên vì các cơ

sở rối que cổ truyền khác đều dùng que ngắn điều khiển, một tay cầm que (cắm

vào mình) giữ toàn thân quân rối, một tay điều khiển các que tay quân rối được

giữ chếch về phía phải. Lối diễn của Bình Yên tuy giải phóng được cả hai tay điều

khiển quân rối của nghệ nhân nhưng toàn thân quân rối lại luôn luôn ở một tư thế,

không có sự điều khiển cử động. Trò rối Bình Yên diễn theo lối giáo trò của ông

trùm đứng ngoài buồng trò còn ở mức hạn chế minh họa cho lời giáo, động tác

của quân rối còn nghèo, đơn điệu. (Con hạc chỉ có cái cổ và đầu chỉ há mỏ, khép

mỏ, quay đầu qua lại. Hai ông rối to bằng đầu người, cũng chỉ cử động từ cổ trở

lên. Trò “Vua ra” hoàn toàn không có quân rối nào cử động, cả năm quân đều bị

cắm chặt trong một mảnh gỗ).

Trong trò phường Thẩm Rộc sinh động hơn cả là hoạt động của các con

rồng, con ngựa, con tắc kè và người leo bắt nó. Hai con rồng vươn đầu, co mình,

quấn đuôi, uốn khúc linh hoạt; ba con ngựa quay đầu, cúi cổ…

58

Các bài giáo: Một trong những điểm nhấn quan trọng trong múa rối cạn

của người Tày ở Định Hóa, nội dung và hình thức văn học của phường rối Thẩm

Rộc chủ yếu mang tính dân gian của thời đại Phong kiến thịnh và thường gồm

có 5 bài giáo và các bài giáo trò. Lời giáo trò bao gồm lời hát mừng, lời kể

chuyện, lời giáo các trò ngày hội, lời giáo các nhạc cụ, lời giáo các trang bị sân

khấu, lời giáo các trang phục và lời giáo các trò rối. Nội dung ca tụng, cầu khấn

thần thánh, chúc tụng vua quan khang thọ, dân làng giỏi giang, thi đậu, giàu có,

đất nước phồn vinh, thái bình và kể sự tích các trò rối, các vật dụng, các nhân vật

rối:

Giáo rối: (117 câu): Giới thiệu trò rối, lịch sử của rối và các trò của rối.

Giáo trò Tiên (23 câu): Giới thiệu cô gái là người hầu hạ vua chúa, ra chúc

dân làng một năm mới tốt lành, mừng dân làng được phú quý. Quân rối Tiên da

trắng, môi đỏ, mặc áo xanh thể hiện sự trong sáng, tươi vui của các cô thôn nữ.

Ngoài bài giáo rối mang tính chung, bốn bài giáo sau đều đi vào giới thiệu

nhân vật đứng tên trò. Bài nào cũng có lời chúc tụng, cầu mong cuộc sống giàu

sang, hạnh phúc và lời văn xen kẽ giữa câu ngắn bốn chữ với câu lục bát hoặc

câu nhiều chữ… một cách tự do.

Lối văn này còn được thể hiện trong các bài giáo:

- Bài giáo Pháo (260 câu) nói về nguồn gốc ra đời của pháo, ý nghĩa của việc

dùng pháo: để mừng tuổi làng, mừng tuổi quan (trước đây), để thờ Đức Thánh…

qua giáo pháo kể công ơn vua chúa, Đức Thánh, chúc dân làng “vật thịnh, nhân

khang”.

- Múa giáo trống:

+ Bài giáo trống cơm (24 câu) là các câu chúc mừng tuổi vua chúa khang

thọ:

“Trống bé đánh kêu thay

Quận công rước chạ về đây

Nam nữ già trẻ đều khang thái

59

Mừng quan viên sức khoẻ bình an”

+ Bài giáo trống cái (37 câu) nói về nguồn gốc của trống. Trống cái tượng

trưng cho vợ, trống cơm tượng trưng cho chồng, đầy tớ là phách, ràn rạt là em.

Bài giáo nói về tầm quan trọng của trống cái trong lễ hội.

Âm nhạc trong múa rối cạn dân tộc Tày biểu hiện trong lời giáo, lời hát,

lời thoại và nhạc gõ, nhạc gẩy… Âm nhạc trong rối cạn dân tộc Tày mang đậm

tính chất tâm linh bằng việc dùng mèn đánh thành từng hồi dài (mèn thường được

các thầy cúng, mo, then dùng trong cúng bái) và còn mang âm hưởng của Lượn

- một loại hình dân ca của đồng bào Tày Định Hóa.

Âm nhạc trong phường trò mang đậm nét văn hóa dân tộc Tày với đàn

tính, sáo đệm theo các lời giáo của ông trùm phường. Trong khi biểu diễn ông

trùm bao giờ cũng cầm mèn điểm nhịp và trước khi bắt đầu trò diễn, trùm phường

thường đánh một hồi mèn dài để thu hút sự chú ý của người xem và theo quan

niệm của người Tày, đánh mèn còn để đánh thức các thần linh đến chứng giám.

Các nhạc cụ của phường gồm: Trống cái (chooang cải), trống cơm

(choang khẩu), mèn (thanh la), sênh, sáo, đàn tính (tán tỉnh), …

Trong phần giáo Pháo, các nghệ nhân vừa múa, vừa giáo, vừa đánh sênh

để mở đầu, dẹp đám. Phần giáo Trò do ông trùm hoặc một người trong phường

có giọng hát hay ra giáo chúc và đánh mèn làm nhịp. Các phần giáo sau (gồm

giáo Màn, giáo Xiêm, giáo Đèn, giáo Múa…) và kể chuyện thơ đều có mèn và

trống phụ họa.

Trong mỗi phần giáo đều có hai nghệ nhân vừa múa, vừa giáo và bao giờ

cũng có hai câu mở đầu:

“Ớ vậy!

Mà Sao!

Nhịn lặng mà nghe tôi giáo…”

Người múa mặc áo dài thâm, quần trắng, quấn xiêm gồm nhiều dải vải

màu, mỗi tay cầm một cặp sênh tre. Hai người vừa làm điệu bộ, vừa gõ sênh

60

làm nhịp. (Sênh của phường Thẩm Rộc làm từ tre hoặc gỗ mít được kẹp ở

ngón cái và một mảnh để lỏng ở lòng bàn tay. Khi gõ sênh nghệ nhân chỉ việc

nắm tay lại sẽ phát ra tiếng). Điệu bộ hai người rất đăng đối, lúc tiến, lúc lui,

lúc quay vòng, lúc đổi chỗ, hai tay vừa gõ sênh đưa lên, hạ xuống, đưa ra trước

mặt… mình cũng uốn éo, lúc ngửa ra sau, lúc nhô lên trước, lúc nghiêng bên

phải, lúc nghiêng bên trái. Người múa còn làm động tác gây cười với điệu bộ

khật khưỡng, tay trái đưa ra sau, chân phải đá ra đằng trước. Còn người kia

bước rón rén, chậm chạp bằng những bước dài, chéo, hai người quay mặt vào

nhau. Các điệu múa giáo đã thể hiện cái đẹp, cái uyển chuyển, cái mạnh mẽ

và khỏe khoắn của toàn bộ cơ thể con người trong nhiều tư thế khác nhau cùng

với tiếng giáo dứt khoát, nhịp sênh trong trẻo đã kéo đông đảo người dân đến

dự hội.

Sau lời giáo ông trùm đánh mèn, sau một hồi mèn dài dồn dập nữa thì hai

nghệ nhân khác mang hai quân rối que điều khiển cho hai tay rối vung lên, hạ

xuống để mở đầu, dẹp đám.

Một số tiết mục tiêu biểu của rối Định Hóa:

Phường rối Thẩm Rộc biểu diễn nhằm phục vụ cho bà con đến chơi hội ở

Đình, Chùa và diễn phục vụ theo yêu cầu riêng của từng gia đình, làng xã nên

trong các tiết mục chủ yếu là các lời chúc tụng: Chúc vua khang thọ, thần thánh

hiển linh, vua quan từ mẫu, nhân dân no đủ, vinh hiển đỗ đạt…Chủ đề chính

trong các lời giáo được lấy từ các tích truyện lịch sử Trung Quốc. Qua các tích

truyện người giáo muốn thể hiện sự tôn kính của phường với làng xã, khuyên

người dân kính Chúa, yêu Vua, tôn thờ thần thánh, chăm chỉ làm ăn.

Chương trình trò rối Thẩm Rộc gồm có các tiết mục: Các bài giáo (Giáo

Trống cơm và Trống cái; Giáo Phách; Giáo Ràn rạt; Giáo Xiêm; Giáo Màn; Giáo

Đèn; Giáo Múa; Giáo Pháo); Phần múa rối (Tiên - tràng - Táp - Nhồi - Thích - Thêm

và bốn trò rối không lời: Dẹp đám - Vua ra - Sản xuất - Tắc kè); Kể chuyện lịch sử

Trung Quốc (Chu Mãi Thần, Tiền Hán, Hậu Hán…); Phần hát Nhà tơ.

61

Phường Ru Nghệ: Khác với phường Thẩm Rộc, phường Ru Nghệ tiết mục

múa rối đơn giản hơn cả về trò diễn và lời giáo:

Trò diễn: Phường chỉ có một trò duy nhất là “Loỏng tắc kè” (Bắt tắc kè

cầu mưa) gồm có lời giáo, phần minh họa lời giáo bằng người thật và con rối.

Lời giáo: Bằng tiếng Tày, kể về công ơn đức Thánh, công ơn vua, ơn cha

mẹ; Về cuộc sống lao động cày cấy vất vả…

Trong trò diễn của phường Ru Nghệ hình ảnh của người nông dân được

khắc họa rõ nét bằng các câu giáo tả về người cày cấy, mò cua, bắt ốc…

Trò diễn của phường là để cụ thể hóa tín ngưỡng cầu mưa của dân tộc Tày

Định Hóa bằng việc con người bắt tắc kè kêu để có nước cấy trồng vì theo truyền

thuyết khi tắc kè kêu trời sẽ làm mưa xuống.

Trò rối tắc kè trong hội lồng tồng của phường Ru Nghệ, xã Đồng Thịnh:

Trò rối tắc kè của phường Ru Nghệ còn được gọi là “tắc kè - pú cấy” hay “loỏng

tắc kè”.

Vào ngày hội Lồng tồng, cả bản Ru Nghệ đều sửa soạn tấp nập từ đêm

trước. Nhà nào cũng lo nấu nướng món ăn, thổi xôi, làm bánh để có một mâm cỗ

sang đóng góp với bà con. Tài “ tài tề gia nội trợ” của các bà, các chị được dồn

cả vào đấy để sao cho dân bản và khách tới dự hội thấy được cái ngon, cái khéo,

cái đẹp, cái lạ, cái giàu của sản vật địa phương.

Từ sáng, trai bản đã giúp ông Lềnh, người được cử ra trông coi việc cúng

hội hè, bày bàn thờ. Họ chặt cây, dựng một bàn thờ nhỏ, bày lên đó một mâm gỗ

tròn trên có hai ống hương, giương hai cái lọng dựng hai bên. Ông Lềnh đốt

hương và dân bản mang mâm cỗ nhà mình bày ra trước bàn thờ. Ông Lềnh cúng

theo lệ thường. Nhân dân toàn bản ăn mặc tươm tất có mặt ở đấy đông đủ. Người

các nơi quanh vùng cũng kéo về dự tấp nập, nhiều nhất là nam nữ thanh niên và

trẻ em. Phường trò chuẩn bị đã xong cũng đứng dự lễ.

Ông lềnh cúng xong, trò diễn bắt đầu. Ông trùm phường tay cầm mèn đứng

ra giáo trò. Lời giáo được đọc với giọng đều đều, có tiếng mèn gõ điểm nhịp.

Dứt đoạn, ông gõ nhiều hồi mèn dài.

62

Giáo đến đây thì một người trong phường khoác cái vai cày (mới làm đơn

sơ bằng một khúc cành cây) có hai dây rừng làm chão nối vào ách đầu bắp cày.

Bắp cày cũng mắc liền vào cái cày. Tất cả mới được phường đẽo đục lắp thành để

dùng cho diễn trò. Cày do một người khác cầm. Cả “trâu” và người cày vào sân

khấu. Trâu làm ra vẻ dáng điệu kéo cày, có lúc đi loạng choạng có vẻ nặng nề.

Người cày tay cầm cày dong trâu cũng tỏ ra khó nhọc, chật vật. Cứ vậy, công việc

cày ruộng này diễn ra nhiều vòng trong lời giáo trò của ông trùm.

Tiếp theo người cày là người bừa (người làm trâu kéo, người cầm bừa). Bừa

và vai, chão đều được làm mới sơ sài, nhẹ nhàng, tượng trưng. Người và trâu làm

động tác bừa ruộng trong khi ông trùm đánh mèn giáo lên đoạn lời mới.

Tới đây khi công việc bừa ruộng chấm dứt và ba người quần áo sắn buộc gọn

gàng, người nào cũng đeo giỏ, có người cầm vợt bước ra. Họ làm động tác mò cua,

bắt ốc, vớt cá. Bắt vớt một lúc lại giả đò nhặt bỏ vỏ. Họ lúc thưa, lúc mau, lúc dồn

lại một chỗ, lúc tỏa rộng ra, chộp cá, đuổi cá, tìm cua… như kiểu vẫn làm thường

ngày ngoài suối vậy. Trong khi ấy ông trùm vừa đánh mèn, vừa giáo.

Đợt biểu diễn cuối cùng được coi là phần chính của ngày hội. Đây là một

trò múa rối, loại rối máy gọi là “bắt tắc kè”(loỏng tắc kè).

Theo tín ngưỡng địa phương thì bao giờ tắc kè kêu thì trời mưa (ở vùng

đồng bằng xưa thì cóc kêu trời mưa), mới có nước để sản xuất. Nhân dân muốn

trong năm mới mưa thuận gió hòa thì phải bắt tắc kè kêu. Trò được diễn ra bằng

quân rối: Đây là một đoạn thân cây trúc (tre) thẳng, dài khoảng 3m, có con tắc

kè ở trên ngọn, một cụ già leo lên bắt. Nghệ nhân đứng ở dưới gốc kéo đẩy hai

que thép luồn trong một cây trúc có đầu buộc vào hai tay và hai chân người bắt

và làm động tác, co tay, duỗi chân, vươn mình khi leo lên, khi đó một nghệ nhân

khác kéo đẩy một que sắt khác có đầu buộc vào con tắc kè điều khiển cho nó thò

ra, thụt vào trong tổ.

Các quân rối đều đẽo bằng gỗ bôi màu hóa trang. Các nghệ nhân mang

quân trò tắc kè ra giữa sân khấu, hai người ngồi giữ cho cây đứng, còn hai người

khác thì điều khiển cho quân rối hoạt động.

63

Tắc kè cứ thập thò ở cửa tổ. Người bắt ở gốc cây đã sẵn sàng. Ông trùm

gõ mèn giáo.

Khi người bắt leo lên gần đến nơi thì tắc kè lại thụt vào tổ, người bắt lại

tụt xuống, tắc kè lại chui ra bò xuống, người bắt lại leo lên và tắc kè lại lui về

tổ… Có những lúc tưởng như tắc kè nằm ngủ không biết người đang lặng lẽ nhẹ

nhàng leo lên sát đến nơi, nhưng cũng không bắt được, khi người vừa tụt xuống

tắc kè lại bò xuống theo như trêu ngươi, thách thức… Trò diễn ra khá sinh động

làm người xem thích thú). Nhưng lời giáo đã hết, cỗ đang chờ, nên tắc kè cũng

bị người bắt được để trò diễn kết thúc.

Dân làng phấn khởi, thỏa mãn bưng các mâm cỗ, bày ra cùng nhau ăn

uống. Nếu có ai là khách các nơi về không khó tính, vui vẻ nhận lời mời của chủ

thì tiệc càng vui thêm. Cả bản kết thúc ngày hội trong cơm no, rượu say.

Quân rối “Leo cây bắt tắc kè kêu” của phường trò Ru Nghệ tuy còn sơ

lược trong hành động, đơn điệu trong động tác (chỉ có leo lên, tụt xuống), diễn

đi diễn lại trong ngày hội Lồng tồng vào tháng giêng (âm lịch) nhưng lại hấp dẫn

bà con trong bản và quanh vùng.

Phải thừa nhận rằng trò tắc kè được diễn ra để minh họa tiếp nối đoạn kết

nghi lễ “ cầu mưa”, đã đáp ứng đúng lúc đợi, ước mong của người dự hội. Nó

làm mờ nhạt đi những cảnh người kéo cày, bắt cá, mò ốc… trong khốn khó vì

hạn hán kéo dài (theo truyền thuyết) vì con người trong trò đã leo được cây, rình

bắt được tắc kè để bắt nó phải kêu lên cho trời mưa xuống lấy nước cấy cày sinh

sống. Trò thêm phần hấp dẫn vì đã đi đúng vào tâm tư nguyện vọng của tất cả

mọi người.

Lối diễn kết hợp giữa người thật với quân rối ở Ru Nghệ trước đây là một

thủ pháp nghệ thuật độc đáo trong lối diễn rối cổ truyền của Định Hóa. Các

phường rối cạn, rối nước cổ truyền xưa của các nơi khác đều không có sự biểu

diễn phối hợp trong một tích trò như vậy mà chỉ bố trí quân rối diễn trò, diễn tích

riêng và người thật diễn trò, diễn tích riêng. Ngay ở phường trò Bình Yên cũng

vậy, các trò hoàn toàn được sử dụng bằng con rối để biểu diễn.

64

Rối cạn Định Hóa trong đời sống văn hóa của nhân dân:

Rối Định Hóa ra đời từ thiên nhiên, địa lý và con người Định Hóa. Như

chúng ta đã biết người Tày ở Định Hóa ngay từ buổi bình minh đã được đắm

mình trong phong cảnh núi rừng hữu tình, chính màu xanh ấy đã gây nguồn cảm

hứng sáng tạo văn hóa nghệ thuật cho người Tày. Họ đã tiếp nhận và cảm thụ

thiên nhiên một cách hồn nhiên và sáng tạo theo thế giới thiên nhiên của họ. Có

thể nói rằng môi trường tự nhiên đã tạo nên nền “văn hóa núi rừng” trong đó có

múa rối cạn. Cùng với điều kiện tự nhiên là môi trường lao động sản xuất, phương

thức canh tác sản xuất trên những thửa ruộng bậc thang, làm nương, săn bắt, hái

lượm… sinh hoạt văn hóa cộng đồng, làng bản như bếp lửa hồng, cọn nước, chợ

phiên, những điệu lượn làm đắm say lòng người… tất cả đều là nguồn cội cho

người Tày Định Hóa sáng tạo văn học nghệ thuật, trong đó có rối cạn Thẩm Rộc

và Ru Nghệ. Chính nhờ những điều kiện hoàn cảnh và môi trường đó kết hợp

với phong tục tập quán lễ nghi, niềm tin vào các thần thánh, các đấng thiên nhiên

đã tạo ra được những đặc thù riêng của rối cạn Định Hóa.

Rối cạn Định Hóa còn là một phương tiện thể hiện thế giới tâm linh của

người Tày ở Định Hóa về mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Bằng những câu

giáo, lời chúc của phường rối thể hiện khát vọng của người dân mong muốn được

thần thánh, vua chúa phù hộ độ trì cho được mùa màng bội thu, học hành đỗ đạt,

vinh hiển, phù hộ cho được có sức khỏe, bình an… Đây là những khát vọng chung

chính đáng mà người dân muốn gửi gắm đến các đấng siêu nhiên.

Lễ hội của người dân Định Hóa trước đây mang nặng yếu tố tâm linh,

nên không thể thiếu các tiết mục rối cạn. Rối cạn Định Hóa được hình thành từ

thời phong kiến thịnh, bằng chứng là các lời giáo đều hướng tới chúc tụng vua,

quan thần thánh. Các nghệ nhân của phường rối đã từ những khát vọng, mong

ước của người dân mà đã sáng tạo ra nhiều câu chúc từ vua chúa, thánh thần đến

người dân đúng với tâm tư, nguyện vọng của mỗi người, đem lại cho người dân

đến lễ hội một tâm lý thoải mái với các tiết mục diễn rối gây cười, mọi người đến

65

với lễ hội để được vui chơi, được giao lưu gặp gỡ, được trao đổi kinh nghiệm lao

động sản xuất. Đồng bào Tày ở Định Hóa quan niệm đầu năm mới phải có nhiều

điều tốt thì cả năm mới gặp may mắn, vì thế mà khi đến chúc tết ở nhà nào đồng

bào cũng đều có những câu chúc “chậm pi mâứ” (mừng năm mới) giữa chủ nhà

và khách. Đồng bào Tày Định Hóa rất hiếu khách, khách đến nhà đều được đón

tiếp chu đáo bằng mâm cơm đầy rượu thịt, của ngon, vật lạ. Vì thế lễ hội đầu

năm ai cũng muốn đi dự hội, xem múa rối cạn để được nghe nhiều lời chúc tốt

đẹp và hơn hết cả là được thấy lễ tắc kè để yên tâm rằng một năm mới mùa màng

tươi tốt sẽ đến với dân bản. Vì vậy tuy rối cạn có ở hai thôn Thẩm Rộc và Ru

Nghệ nhưng nó đã vượt khỏi địa phương để trở thành rối của cả huyện Định Hoá

và ở bất cứ lễ hội nào trong huyện đều có các tiết mục múa rối xuất hiện.

Rối cạn Định Hoá mang tính địa phương rõ rệt và có đối tượng phục vụ

rộng rãi. Trong phường Ru Nghệ, lời giáo được viết băng tiếng Tày, đôi lúc có

xen lẫn các câu tiếng Kinh nhưng người nghe vẫn có thể hiểu được ý nghĩa, tình

tiết của câu chuyện qua các động tác của người diễn. Ở phường Thẩm Rộc, tuy

lời văn hoàn toàn bằng tiếng Kinh nhưng các nghệ nhân lại đều là người Tày vì

phường đã biểu diễn chuyên hơn, được mời đi đến nhiều nơi hơn nên việc dùng

tiếng phổ thông thuận tiện và cũng vì đối tượng phục vụ của phường thường là

tầng lớp trên (là các vị chức sắc trong làng, xã). Phường rối cạn dân tộc Tày

không những chỉ phục vụ cho đồng bào Tày mà cả dân tộc Kinh, Nùng, Dao, San

Chí, Cao Lan … xung quanh cũng đều yêu thích. Chẳng thế mà các dân tộc anh

em sống xen kẽ với đồng bào Tày ở Định Hóa đều có thể nói được tiếng Tày một

cách lưu loát.

Nhân dân đối với phường Thẩm Rộc: Trò diễn ở phường Thẩm Rộc đã

mang tính chuyên nghiệp hơn trò ở xã Đồng Thịnh về phường trò, về nhạc cụ,

về con rối...

Múa rối Thẩm Rộc tuy cùng nằm chung trong một chương trình diễn

xướng của phường, nhưng có sân khấu riêng và phần biểu diễn riêng nên nghệ

66

thuật biểu diễn rối của Thẩm Rộc đã được chuyên sâu giúp cho các tiết mục được

hoàn chỉnh, phong phú.

Nghệ thuật biểu diễn rối Thẩm Rộc thu hút người xem nhờ có nhiều trò

khác nhau, nhiều quân rối khác nhau. Hơn nữa trò rối được diễn ra trong một

chương trình tập hợp nhiều loại hình văn nghệ khác nhau: Nhảy múa, kể chuyện

thơ, giáo các trò, các vật dùng quen thuộc (giáo màn, giáo xiên, giáo đèn, giáo

trống, giáo pháo, giáo ràn rạt, giáo múa…), hát Nhà tơ và được biểu diễn chủ

yếu ở các đình, chùa nên phần đông khán giả là các vị chức sắc trong làng, hoặc

là các gia đình, làng bản giàu có.

Nhân dân đối với phường Ru Nghệ: Phường rối Ru Nghệ có tính “quần

chúng” hơn phường Thẩm Rộc nhờ vào lời giáo bằng tiếng Tày, trong trò diễn

có nhiều cảnh gần gũi với cuộc sống của người dân lao động như đi cày, đi cuốc,

tát ao bắt cá, leo cây bắt tắc kè… nên khán giả phần đông là người dân lao động.

Tuy là phần tiếp của lễ cầu mùa cho làng bản nhưng các hoạt cảnh và trò

rối của phường lại rất vui nhộn, hài hước như cảnh bà chửa đi xúc cá (do đàn ông

đóng), người thay trâu kéo cày và làm các động tác ngộ nghĩnh mô tả cuộc sống

lao động vì vậy gây cười cho người xem.

Do tổ chức của phường gọn nhẹ (chỉ có 8 người), quân rối không nhiều

(2 quân rối chủ đạo), sân khấu đơn giản (là bãi đất trống) nên rối Ru Nghệ có thể

đến diễn ở nhiều nơi, lượng khán giả cũng vì vậy mà nhiều hơn. Hơn nữa phần

rối “loỏng tắc kè” có ý nghĩa là cầu được mưa thuận gió hòa để có nước cấy trồng

đã đáp ứng đúng nhu cầu và nguyện vọng của người nông dân vì vậy trò diễn

càng thu hút đông đảo người dân đến dự.

Những giá trị văn hóa của rối cạn Định Hóa: Văn hóa là một lĩnh vực

rộng với nhiều quan niệm khác nhau được nảy sinh trong những môi trường khác

nhau. Văn hóa là sự kết tinh những tri thức, hiểu biết của từng cộng đồng. Nó là

kho tàng tri thức của con người được phát triển theo chiều dài lịch sử. Văn hóa

là sự kết tinh, hội tụ những giá trị sáng tạo, giá trị thẩm mỹ, giá trị nghệ

thuật…Múa rối cạn Định Hóa chính là một biểu hiện văn hóa của người Tày.

67

Múa rối cạn ở Định Hóa là sáng tạo của người Tày ở Thẩm Rộc và Ru

Nghệ nhằm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng của người Tày ở Định

Hóa. Tín ngưỡng của người Tày là một thành tố quan trọng của văn hóa dân tộc

Tày Định Hóa và múa rối cạn của họ cũng chính là một biểu hiện cụ thể của văn

hóa cộng đồng của đồng bào Tày Định Hóa. Vì vậy ở múa rối cạn Định Hóa đã

hàm chứa đầy đủ những giá trị văn hóa của cộng đồng, đó là nhằm thỏa mãn

những nhu cầu hưởng thụ văn hóa, nhu cầu sinh hoạt văn hóa tâm linh của người

Tày ở Định Hóa. Những giá trị văn hóa này sẽ trường tồn trong đời sống văn hóa

của cộng đồng người Tày ở Định Hóa và theo thời gian giá trị ấy nếu được bảo

vệ sẽ có sức lan tỏa đến các dân tộc khác không chỉ ở Định Hóa mà còn ở địa

phương khác nữa.

Giá trị xã hội: Xã hội là một thiết chế tổ chức cộng đồng người khá chặt

chẽ. Xã hội có tác động quan trọng trong mỗi con người. Xã hội được tổ chức

theo từng tộc người. Trong từng tộc người đó ngoài thiết chế xã hội có tính quốc

gia thì xã hội trong từng tộc người rất quan trọng. Xã hội của từng tộc người nói

chung và của người Tày Định Hoá nói riêng được thể hiện qua luật tục, phong

tục, tập quán, lễ nghi, thiết chế dòng họ, gia đình. Những điều ấy tạo nên một

thiết chế xã hội mang tính tộc người, mang tính cộng đồng. Trong xã hội hình

thành nhiều loại văn hoá, văn nghệ có giá trị phục vụ xã hội như múa rối cạn

người Tày ở Định Hoá là gắn bó với phong tục, tập quán, lễ nghi, luật tục mà xã

hội đòi hỏi phải có, nó trở thành nhu cầu cho xã hội. Trong các lễ hội của người

Tày ở Định Hoá đã luôn có sự hiện diện của múa rối cạn. Điều đó chứng tỏ múa

rối ở Định Hoá đã có giá trị xã hội, nó đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng, tâm

linh, phong tục, tập quán của người Tày Định Hoá. Múa rối cạn ở Định Hoá đã

trở thành một di sản văn hoá có giá trị đặc sắc, đặc trưng của người Tày ở Định

Hoá.

Giá trị nhận thức: Múa rối cạn Định Hóa là nơi chứa đựng những kinh

nghiệm sản xuất nông nghiệp: Tháng ba tháng tư; Bắt đầu làm ruộng (bươn tham,

bươn thí; Có khí hắt na). Theo quan niệm dân gian của đồng bào Tày khi tắc kè kêu

68

là trời mưa. Có lẽ trong trò diễn, tắc kè được coi là biểu tượng của thiên nhiên còn

người bắt tắc kè là tượng trưng cho loài người. Cuộc rình đuổi bắt tắc kè có lẽ cũng

thể hiện việc con người muốn chinh phục tự nhiên, để tự nhiên phục vụ con người

và như vậy có lúc con tắc kè (có lẽ do tức giận trước việc con người cứ rình bắt

mình) nên đã tấn công lại con người (pú cấy) và buộc con người phải lùi lại. Nhưng

cuối cùng con người nhờ sự khéo léo và kiên trì cũng đã bắt được tắc kè, đó là sự

dung hoà, hoà hợp giữa con người và tự nhiên. Kết thúc trò diễn như vậy đem lại

cho người xem một tâm trạng thoải mái, yên tâm.

Thông qua múa rối cạn Định Hoá, khán giả cũng nhận thức được rằng

các nghệ nhân múa rối cạn truyền thống ở Định Hoá là những người nông dân

sản xuất nông nghiệp nên thường đem kinh nghiệm lao động sản xuất của mình

lồng ghép vào các câu hát và để biểu diễn để phục vụ cho bà con nhân dân với

khát vọng cầu mong mùa màng tươi tốt. Chính điều này làm cho múa rối cạn ở

đây tuy ít điêu luyện nhưng lại thu hút được lòng yêu mến của đồng bào. Biểu

diễn dù chỉ là một trò (như ở Ru Nghệ) và trong diễn xuất còn sơ lược, vụng về,

chất phác, nhưng vẫn được đồng bào khán giả tán thưởng vì họ không lấy nghệ

thuật làm cứu cánh mà chủ yếu để làm vui người, vui mình trong những ngày hội

hè, đình đám.

Giá trị giáo dục: Rối cạn dân tộc Tày Định Hóa biểu diễn hàng năm

không chỉ là để giải trí, hay cầu mùa, để thờ thần thánh mà qua các tiết mục biểu

diễn rối Định Hóa còn có ý nghĩa giáo dục sâu sắc.

Trong các lời giáo và lời hát Nhà tơ của các phường rối cạn Định Hóa

đều đề cao chữ “Đức”, khuyên răn con người nên lấy đức làm đầu, khuyên người

dân biết giữ đạo “uống nước nhớ nguồn”, biết nhớ công ơn của vua, ơn ma, ơn

thánh, ơn bố mẹ, thầy cô đã có công dưỡng dục.

Trò diễn rối cạn ở Định Hóa còn giáo dục khán giả yêu nông nghiệp, biết

vượt lên hoàn cảnh để làm ra những mùa bội thu. Khuyên con người nên chăm

chỉ lao động, học tập để làm người có ích. Trong phần diễn trò, các nghệ nhân

69

của phường rối tuy đề cập đến công việc cấy cày, lao động vất vả, nặng nhọc,

nhưng người xem hầu như không cảm thấy cuộc sống vất vả như vậy vì nhờ vào

cách nghệ nhân đã lồng ghép đưa yếu tố gây cười dể thu hút người xem giúp họ

quên đi cảnh ngày mùa mệt nhọc.

Giá trị thẩm mỹ: Nghệ thuật là hình thức cao nhất của hoạt động thẩm

mỹ. Cái đẹp thể hiện trong nghệ thuật vừa là nội dung, vừa là hình thức. Con

người sáng tạo nghệ thuật bao giờ cũng từ cơ sở cảm xúc thẩm mỹ và khán giả

cảm thụ nghệ thuật cũng bằng cảm xúc thẩm mỹ. Sáng tạo và thưởng thức cái

đẹp đã trở thành nhu cầu muôn thuở của mọi người dân.

Xuất phát từ đó, thông qua nghệ thuật rối cạn ở Định Hóa ta thấy người

Tày đã không phản ánh hiện thực xã hội theo một cách đơn thuần là truyền miệng

hay ghi chép mà đã phản ánh bằng lăng kính cảm xúc thẩm mỹ nghệ thuật bằng

múa rối. Họ cũng không đơn giản chỉ hoạt động tín ngưỡng bằng nghi thức cầu

cúng thông thường mà đã thực hiện bằng cả một hệ thống giá trị nghệ thuật: diễn,

nói, giáo, múa, hát... đây là diễn xướng tổng hợp. Vì vậy khán giả đến với múa

rối cạn Định Hóa không chỉ vì sự ngưỡng mộ trời, đất, thánh thần mà còn đến để

thưởng thức, cảm nhận cái hay, cái đẹp của múa rối. Thông quan múa rối ở Thẩm

Rộc, Ru Nghệ, người Tày Định Hóa đã đưa vào múa rối nhiều giá trị thẩm mỹ

và nghệ thuật ẩn chứa trong đó. Giá trị thẩm mỹ ấy là tình yêu thương con người,

lòng thủy chung trong tình yêu, là chân lý, lẽ phải, là cái thiện thắng cái ác, cái

tốt thắng cái xấu, là cuộc sống ấm no, hạnh phúc, mưa thuận gió hòa...

Các trò diễn của múa rối cạn Định Hoá vốn là các trò lẻ, và vì thế nó thu

hút được đông đảo khán giả đến xem trong các ngày hội hè, đình đám. Trước đây

khi các loại hình giải trí cho người dân còn hiếm (hoặc không có) thì các trò diễn

của các phường múa rối cạn dân tộc Tày ở Định Hoá nhận được nhiều lời mời

biểu diễn, và được coi trọng, được khoản đãi hậu khi diễn xong. Các trò diễn

không chỉ mua vui cho mọi người mà còn là hình thức bộc lộ tài năng của các

nghệ nhân trong hội hè trước công chúc. Qua đó còn giúp cho con người thêm

yêu lao động, có niềm tin vào cuộc sống, kính chúa, yêu vua, đoàn kết.

70

Quan niệm về cái hay, cái đẹp, cái ý nghĩa của mỗi người, mỗi dân tộc có

thể khác nhau, nhưng không ai có thể phủ nhận những giá trị thẩm mỹ, giá trị

nghệ thuật, giá trị giáo dục... mà múa rối cạn mang lại. Những giá trị ấy đã làm

cho múa rối cạn dân tộc Tày ở Định Hóa được khẳng định những nét bản sắc

riêng và chiếm được cảm tình của người dân qua nhiều thế hệ.

71

Tiểu kết chương 3

Dựa trên các kết quả ở chương 2, trong chương này, chúng tôi đã tiến hành

phân tích và chỉ ra các đặc trưng văn hóa của người Tày ở Định Hóa, Thái

Nguyên từ đặc điểm từ ngữ múa rối cạn. Đặc trưng văn hóa của dân tộc Tày được

xuất phát từ nghĩa biểu trưng mà đơn vị từ ngữ biểu hiện. Từ việc miêu tả các

đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ múa rối cạn của người Tày ở Định Hóa, Thái

Nguyên, chúng tôi phân thành 3 trường nghĩa sau:

- Trường từ ngữ chỉ công cụ chế tác và tạo hình trong múa rối cạn

- Trường từ ngữ chỉ tên gọi nhân vật và công cụ biểu diễn trong múa rối

cạn

- Trường từ ngữ chỉ hoạt động diễn xướng và biểu diễn trong múa rối cạn

Các từ ngữ thuộc các trường từ vựng trên là những từ ngữ thể hiện và phản

ánh đời sống xã hội, tâm tư nguyện vọng và quan niệm về nghệ thuật của cộng

đồng người Tày ở Định Hóa, Thái Nguyên. Đó là những cư dân sinh sống trên

mảnh đât rừng núi, thiên nhiên và khí hậu khắc nghiệt. Những đặc điểm văn hóa

của người Tày, được lưu giữ, củng cố và phát triển từ thế hệ này đến thế hệ khác

nên văn hóa vật chất cũng như văn hoá tinh thần bên cạnh việc giữ gìn bản sắc

văn hóa của cộng đồng cũng tạo ra sự hòa kết với các cộng đồng dân cư khác

cùng sinh sống trên địa bàn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên.

72

KẾT LUẬN

1. Tiếng Tày là tiếng nói của người Tày - một thứ ngôn ngữ thuộc chi Thái

trong hệ ngôn ngữ Tai - Kadai. Tiếng Tày là ngôn ngữ của cộng đồng dân tộc

Tày sử dụng và có vùng cư trú truyền thống là Bắc bộ Việt Nam. Tiếng Tày là

ngôn ngữ có chữ viết cổ dựa trên cơ sở chữ Hán (chữ Nôm Tày). Chữ viết tiếng

Tày được La tinh hoá bằng cách dùng chữ quốc ngữ ghi âm tiếng Tày. Tiếng Tày

tuy là một ngôn ngữ tương đối phát triển nhưng hiện nay vẫn tồn tại nhiều

phương ngữ khác nhau.

Là ngôn ngữ thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, tiếng Tày cũng mang

những đặc điểm của ngôn ngữ thuộc tiểu loại hình như: ngôn ngữ có thanh điệu,

từ không có hình thái, có hiện tượng đơn vị cấu tạo từ - hình vị trùng với âm tiết.

Các ý nghĩa ngữ pháp và quan hệ ngữ pháp nằm ở ngoài từ và được biểu

thị bằng phương thức trật tự từ và hư từ. Nghiên cứu tìm hiểu qua các từ ngữ

múa rối cạn của người Tày ở Định Hóa, Thái Nguyên không chỉ là minh chứng

cho lí luận mà còn có góp phần làm rõ vẻ đẹp văn hóa tộc người thông qua các

từ ngữ múa rối cạn - một loại hình nghệ thuật truyền thống của người Tày ở Định

Hóa, Thái Nguyên.

2. Múa rối là một bộ môn nghệ thuật có nguồn gốc bản địa và truyền thống

lâu dài của dân tộc Việt Nam, mang đậm bản sắc văn hóa, nếp sống của dân tộc.

Hiện nay múa rối đã và đang được phát huy giá trị và tác dụng của nó, là bộ môn

nghệ thuật không thể thiếu trong đại gia đình sân khấu dân tộc. Múa rối cạn của

dân tộc Tày Định Hóa không chỉ là các tiết mục biểu diễn mua vui đơn thuần mà

trong nó có ý nghĩa về tín ngưỡng văn hóa, gắn với tín ngưỡng cầu mưa trong

sản xuất nông nghiệp.

3. Qua việc nghiên cứu đặc điểm của lớp từ ngữ múa rối cạn của người

Tày ở Định Hóa, Thái Nguyên, có thể nêu một số nhận xét:

- Các từ ngữ chỉ múa rối cạn của người Tày ở Định Hóa, Thái Nguyên có

số lượng tương đối lớn, thuộc nhiều loại. Theo thống kê, có 308 từ ngữ, trong

đó: từ đơn có 99 từ /308 từ ngữ, chiếm 32.15%; từ phức có 146 từ/308 từ ngữ,

73

chiếm 47.4%; cụm từ có 63/308 từ ngữ, chiếm 20.45%. Khảo sát các đơn vị phức,

chúng tôi phân loại và đưa ra 3 mô hình: C - P; C - P1 - P2; C - P1 - P2 (P2.1 -

P2.2). Các thành tố chính luôn đứng trước các thành tố phụ. Với cách cấu trúc

này, các từ ngữ có mô hình C - P xuất hiện với số lượng rất lớn.

- Dựa trên kết quả phân loại, phân tích từ ngữ múa rối cạn của người Tày

ở Định Hóa ở chương 2, trong chương 3, chúng tôi phân tích và chỉ ra đặc đặc

điểm văn hóa của đồng bào Tày. Đặc biệt là cuộc sống xã hội, sự lao động với

các hình thái muôn màu muôn vẻ, nhiều đối tượng tác động và không ít kinh

nghiệm tích luỹ từ bao đời nay.

4. Về phương thức định danh, các từ ngữ múa rối cạn của người Tày ở

Định Hóa thường được định danh dựa trên đặc điểm ngữ nghĩa mà thành tố phụ

đảm nhiệm, đó là:

+ Phương thức định danh dựa trên đặc điểm hình thức;

+ Phương thức định danh dựa trên chức năng, mục đích sử dụng;

+ Phương thức định danh dựa trên đặc điểm tính chất.

- Ngoài chức năng định danh, các từ ngữ múa rối cạn của người Tày ở Định

Hóa còn phản ánh một phần những đặc điểm văn hoá kinh tế và xã hội, các mối

quan hệ giữa con người với con người và con người với thiên nhiên, các phong

tục tập quán… của người Tày ở Định Hóa, Thái Nguyên. Hay, 308 đơn vị từ ngữ

được khảo sát đã cho thấy dấu ấn văn hoá nông nghiệp trồng cấy lúa nước là chính,

khép kín và tự cung tự cấp, kết hợp với săn bắt, hái lượm ở miền núi. Đồng thời,

các từ ngữ này còn thể hiện vẻ đẹp tài hoa của các nghệ nhân và những suy nghĩ,

ước mong của những người dân trong cộng đồng xã hội Tày.

3. Đặc trưng văn hoá của dân tộc Tày được tạo thành trên cơ sở biểu trưng.

Khai thác cặn kẽ thấu đáo những đặc trưng ngữ nghĩa của từ ngữ múa rối cạn của

người Tày ở Định Hóa, chúng tôi góp phần làm rõ thêm nét văn hoá Tày ở Định

Hóa, Thái Nguyên nói riêng và người Tày ở Việt Nam nói chung.

Xét theo trường nghĩa, các từ ngữ múa rối cạn của người Tày ở Định Hóa,

74

Thái Nguyên được phân thành 3 nhóm:

Cũng như nhiều dân tộc miền núi khác, dân tộc Tày có hệ thống công cụ

lao động, xét theo trường nghĩa, thuộc 3 nhóm trường nghĩa:

- Trường từ ngữ chỉ công cụ chế tác và tạo hình trong múa rối cạn

- Trường từ ngữ chỉ tên gọi nhân vật và công cụ biểu diễn trong múa rối cạn

- Trường từ ngữ chỉ hoạt động diễn xướng và biểu diễn trong múa rối cạn

Thông qua các trường nghĩa này, nghệ thuật múa rối cạn làm sáng tỏ và

phản ánh sự thích nghi, tài năng - tinh hoa của người Tày trong đời sống xã hội.

Những đặc điểm văn hóa của người Tày, do được củng cố từ thế hệ này đến thế

hệ khác nên văn hóa vật chất cũng như văn hoá tinh thần được hình thành và lưu

giữ. Vì vậy, các đặc điểm trong vẻ đẹp văn hóa ẩn sâu trong tầm tích của đồng

bào Tày đều bắt đầu từ lao động, vui chơi, ca múa. Một trong những điều đó là

nghệ thuật múa rối cạn với những giá trị văn hóa quý báu của một dân tộc cần

được giữ gìn bảo lưu và phát triển.

75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. A Phê đô tốp, Tô Kỳ Hoàng dịch (1964), Cách làm con rối và tổ chức sân

khấu múa rối, Nxb Văn hoá nghệ thuật, Hà Nội.

2. Nguyễn Văn An (2011), Từ ngữ gốm Thổ Hà, Luận văn thạc sỹ, Đại học

Thái Nguyên.

3. Lương Vĩnh An (1998), Vốn từ chỉ nghề cá ở tỉnh Quảng Nam và thành phố

Đà Nẵng, Luận văn thạc sỹ, Đại học Vinh.

4. Nguyễn Hoàng Anh (2011), Trường từ vựng ngữ nghĩa gà chọi ở Việt Nam,

Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Hồng Đức.

5. Diệp Quang Ban (2006), Ngữ pháp tiếng Việt (tập 2), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

6. Nguyễn Duy Bắc (2001), Lễ hội Tày - Nùng, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

7. Lương Bèn (Chủ biên) (2015), Tiếng Tày cơ sở, Nxb Đại học Thái Nguyên.

8. Nguyễn Thị Bích (2009), Từ ngữ chỉ lúa gạo và sản phẩm từ lúa gạo trong

tiếng Tày (có so sánh với tiếng Việt), Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Thái

Nguyên.

9. Hoàng Trọng Canh (2004), "Một vài nhóm từ chỉ nghề cá và trồng lúa trong

phương ngữ Nghệ Tĩnh", Ngữ học trẻ, Đà Lạt - Hội Ngôn ngữ học Việt

Nam, tr. 27 - 30.

10. Hoàng Trọng Canh (2008), "Từ ngữ gọi tên các công cụ trong tiếng Nghệ

Tĩnh", Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 5, tr.6 -10.

11. Nguyễn Tài Cẩn (1997), Ngữ pháp tiếng Việt. Tiếng - Từ ghép - Đoản ngữ,

Nxb Đại học & Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

12. Đỗ Hữu Châu (1999), Các bình diện của từ và từ tiếng Việt, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội.

13. Đỗ Hữu Châu (2001), Đại cương ngôn ngữ học, tập 2: Ngữ dụng học, Nxb

Giáo dục.

14. Hoàng Thị Châu (2004), Phương ngữ học tiếng Viêt, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội

76

15. Nguyễn Văn Chiến (2004), Tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hóa Việt, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

16. Lê Viết Chung (2011), Từ ngữ chỉ công cụ lao động trong tiếng Tày, Luận

văn thạc sỹ, Đại học Thái Nguyên.

17. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (1992), Cơ sở ngôn

ngữ học và tiếng Việt, Nxb Đại học & Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

18. Hoàng Kim Dung (1997), Múa rối Việt Nam những điều nên biết, Nxb Văn hóa Thể

thao, Hà Nội.

19. Nguyễn Văn Dũng (2016), Từ ngữ nghề nghiệp nghề biển ở Thanh Hóa (Từ

bình diện ngôn ngữ - văn hóa), Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học

Vinh.

20. Lạc Dương (1996), “Tính phong phú của tiếng Tày - Nùng”, Việt Nam độc

lập, V. Bắc.

21. Đinh Văn Đức (1986), Ngữ pháp tiếng Việt - Từ loại, Nxb. Đại học và Trung

học chuyên nghiệp, Hà Nội.

22. Nguyễn Thiện Giáp (1996), Từ và nhận diện từ tiếng Việt, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

23. Nguyễn Thiện Giáp (2010), 777 khái niệm ngôn ngữ học, Nxb Đại học Quốc

gia, Hà Nội.

24. Nguyễn Thiện Giáp (2015), Từ và từ vựng học tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc

gia, Hà Nội.

25. Hoàng Văn Hành, Hà Quang Năng, Nguyễn Văn Khang (1998), Từ tiếng

Việt: Hình thái - cấu trúc - từ láy - từ ghép - chuyển loại, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

26. Cao Xuân Hạo (1998), Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

27. Phạm Thị Thanh Hoài (2011), Từ ngữ nghề thuốc lào ở huyện Vĩnh Bảo,

Hải Phòng, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Hải Phòng.

77

28. Nguyễn Huy Hồng (2003), Nghệ thuật múa rối Tày - Nùng, Nxb Văn hóa nghệ

thuật, Hà Nội.

29. Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện Định Hóa - Báo Bắc

Thái (1995), Định Hóa 50 năm đấu tranh, xây dựng và trưởng thành (đặc

san).

30. Nguyễn Văn Khang (1999), Ngôn ngữ học xã hội - Những vấn đề cơ bản,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

31. Vũ Ngọc Khánh (2004), Truyền thống văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam T1,

T2, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.

32. Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo (1984), Từ điển Việt – Tày – Nùng, Nxb Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

33. Cung Nữ Phương Mai (1999), Bước đầu tìm hiểu việc khai thức giá trị văn

hoá các dân tộc nhóm ngôn ngữ Tày - thái vào hoạt động du lịch, Luận văn

tốt nghiệp chuyên ngành Du lịch. trường Đại học văn hoá Hà Nội.Hoàng Phê

(Chủ biên) (2000), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

34. Nguyễn Chí Quang (2011), Từ nghề đúc đồng, đúc nhôm trong tiếng Thanh

Hoá, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Hồng Đức.

35. Ferdinan de Saussure (1973), Giáo trình Ngôn ngữ học đại cương, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

36. Lý Toàn Thắng (2009), Ngôn ngữ học tri nhận - Từ lí thuyết đại cương đến

thực tiễn tiếng Việt, Nxb Phương Đông, Tp. Hồ Chí Minh.

37. Trần Ngọc Thêm (1998), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Tp Hồ Chí

Minh.

38. Đỗ Thị Thảo (2011), Từ ngữ nghề nông ở một số vùng trồng lúa của Thanh

Hóa, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Vinh.

39. Lê Ái Thơ (1998), Tìm hiểu tín ngưỡng của dân tộc Tày ở huyện Định Hoá,

tỉnh Thái Nguyên, Luận văn tốt nghiệp khoa quản lý phương pháp trường

Đại học văn hoá Hà Nội.

40. Bùi Minh Toán (1988), Từ trong hoạt động giao tiếp tiếng Việt, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

78

41. Nguyễn Đức Tồn (2008), Đặc trưng Văn hóa - Dân tộc của Ngôn ngữ và

Tư duy, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

42. Nguyễn Thị Quỳnh Trang (2004), Khảo sát vốn từ chỉ nghề cá trong phương

ngữ Nghệ Tĩnh, Luận văn thạc sỹ Ngữ văn, Trường Đại học Vinh.

43. Đinh Thị Trang (2015), Từ ngữ nghề biển của ngư dân Đà Nẵng, Luận văn

thạc sỹ, Trường Đại học Đà Nẵng.

44. Nguyễn Văn Tu (1976), Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại, Nxb Đại học

&Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

45. Nguyễn Văn Tu (1986), Từ vựng học tiếng Việt hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

46. Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ ngữ nghề gốm sứ Bát Tràng, Đề tài khoa học

cấp Viện (Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Văn Khang), Hà Nội.

47. Viện văn hoá dân gian (1990), Văn hoá dân gian - những phương pháp

nghiên cứu, nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

48. Phạm Hùng Việt (1989), Về từ ngữ nghề gốm, Viện Ngôn ngữ học (đề tài

khoa học cấp Viện), Hà Nội.

49. Hồ Sỹ Vịnh (2006), “Từ đặc điểm sân khấu múa rối cổ tuyền đến công chúng

hôm nay”, T/c Văn hoá nghệ thuật, Số 2, tr 49 - 50, 55.

50. Trần Quốc Vượng (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội

51. Nguyễn Như Ý, Hà Quang Năng, Đỗ Việt Hùng, Đặng Ngọc Lệ (1998), Từ

điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

52. Nguyễn Hồng Yến (2010), Từ nghề nông trong tiếng Hà Tĩnh, Luận văn

thạc sỹ, Trường Đại học Vinh.

53. Uỷ ban khoa học xã hội - Viện dân tộc (1978), Các dân tộc ít người ở Việt

Nam (các tỉnh phía bắc), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội

54. Hồng Tâm - Tiến Chinh (2011). Rối cạn kêu cứu,

http://www.baomoi.com/Home/GiaiTri/danviet.vn/Roi-can-keu-cuu

55. Tô Văn Binh (2011), Rối cạn của dòng tộc Ma Quang,

http://www.baomoi.com/Roi-can-cua-dong-toc-Ma-Quang

56. http://dinhhoa.com/forums/

79

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1a:

DANH SÁCH TỪ NGỮ VỀ NGHỆ THUẬT MÚA RỐI CẠN CỦA NGƯỜI TÀY Ở ĐỊNH HÓA, THÁI NGUYÊN

Từ, ngữ (tiếng Tày) Từ ngữ (tiếng Việt)

ăn cứ ăn nả ăn tính sloỏng

1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. 11. 12. 13. 14. 15. 16. 17. 18. bá bài tò bản con béc binh mạ/ cần lườn quan bít (bẩu) boóc dang boóng lù bủa bủa tay bút vè càng cần căm phưa cần cằm vợt cảm phưa

19. cằm phuối tò

20. 21. 22. 23. 24. 25. 26. 27. 28. 29. càn cần căm thây cần cốc tò/ cần giặng hua cần lỉn nhạc cần mủa tua tò cần phuối cằm tò cần tỏng het vai căm cằm phuối tò cằm phuối tò cổ cái cưa mặt/ khuôn mặt đàn tính 2 dây vai tiết mục bản làng vác quân lính cấu, véo ống nhựa đục lỗ cái búa búa con bút vẽ cằm người cầm bừa người cầm vợt gọng bừa lời giáo/ lời nói hoặc hát trong quá trình biểu diễn rối cạn kể về một phần hoặc toàn bộ nội dung của trò rối đang được biểu diễn, do nghệ nhân rối đảm nhiệm đòn gánh người vác vai cày trưởng phường rối người chơi nhạc cụ (ông kép) người điều khiển con rối người giáo (xem: giáo) người đóng vai trâu cầm lời giáo mới lời giáo cổ

80

Từ, ngữ (tiếng Tày) Từ ngữ (tiếng Việt)

cần hắt nà cắp kinh cạp thây chà phi chái chộc choóng choong choong cải choong khẩu chựa rườn chược chúp co cứa con sléc cổ cò khen (cò mừ) cọ mạy mục co mảy trúc cốm khồ con lồm cọn lếch coóc nác coóc tha coong cuôi cứa cửa mạy cứa thành toòn

30. 31. 32. 33. 34. 35. 36. 37. 38. 39. 40. 41. 42. 43. 44. 45. 46. 47. 48. 49. 50. 51. 52. 53. 54. 55. 56. 57. 58. 59. 60. 61. 62. 63. 64. 65. 66. 67. 68. dả din dáng dàng pản doát đẳng đén điểu đông khau éc fục lão nông mõ bắp cày trừ ma 1.cái cưa, 2.cưa, 3.xẻ cối cái bồ trống trống cái trống cơm con thạch sùng dây thừng cái nón đàn nhị quyển sách cổ cổ tay cây thừng mực cây trúc cúi đầu cái quạt hòm làm rèn/ nghề rèn tời hốc mắt sân/ cái sân cái sọt cái nhị cưa gỗ cưa khúc mụ phù thủy thanh gươm hộp dây mực nhảy nhót mũi đèn cái điếu rừng núi cái vai cày chiếc chiếu

81

Từ, ngữ (tiếng Tày) Từ ngữ (tiếng Việt)

fướng gàn thây gọn lót hả ham hân khút hẳn mạy hắt việc tằng mứ heo hết khươi hua kha khai lục slao khân khân cộ khẩu khao lưởm khẻo khêm mây khô gần khoa khòa khoa khao khoan khỏe cò khoen khoẻn khôn sàu khun cáy khuân pìn ha khửn

69. 70. 71. 72. 73. 74. 75. 76. 77. 78. 79. 80. 81. 82. 83. 84. 85. 86. 87. 88. 89. 90. 91. 92. 93. 94. 95. 96. 97. 98. 99. 100. khưởng 101. khương eng 102. kí húc 103. kín lao keo 104. 105. 106. 107. lam lằm phái lăn thang lần yểm phường bát âm tay cày guồng quay sợi mắt khiêng chồn khút chặt gỗ tạo hình bằng tay cái roi làm rể đầu chân gả con gái khăn khăn xếp vào trắng bóng răng kim chỉ co mình quần cào quần trắng cái rìu cái vòng cổ váy treo/ móc lông mày chăn gà/ nuôi gà lông mi lên giỏ giỏ bé khung cửi hút thuốc lào buộc dải vải thêu quấn đuôi dải yếm

82

Từ, ngữ (tiếng Tày) Từ ngữ (tiếng Việt)

108. lạo thầu 109. lăng 110. lễ Lồng tồng 111. liêm 112. lịn 113. loà khẩu thoóc 114. tiền ổi, hậu ca 115. loọc 116. loọc vài, mò 117. oỏng tắc kè 118. lồng 119. lủa 1 120. lủa 2 121. lục báo 122. lục xao 123. lưởm 124. ma 125. ma điếng 126. mac pja 127. mảc puôn 128. mảc sloá 129. mạc thây 130. mặng lắm 131. mặng mét 132. mặng mỵ 133. mảy đíp 134. mạy múa tò 135. mạy oón 136. mảy phay 137. may rứa khoa 138. mèn 139. mè vua 140. mỉ mỏ 141. mì vừn 142. mò 143. mòn hết slướng 144. mô pú 145. mổn 146. moỏng ông trùm lưng lễ Xuống đồng cái liềm lưỡi cái cào thóc lời trong quá trình biểu diễn mõ mõ trâu, bò bắt tắc kè xuống cái mai máng gỗ chàng trai cô gái mịn con chó cà kheo con dao cái rìu cái cưa xẻ cái cày gỗ tươi thanh tre gỗ mít gỗ tươi que điều khiển gỗ mềm thân tre may quần áo thanh la hoàng hậu nhọ nồi than củi con bò đồ trang sức mò cùa quân rối cái mõ

83

Từ, ngữ (tiếng Tày) Từ ngữ (tiếng Việt)

147. mừ 148. mủa 149. mủa choong cải 150. mủa choong khẩu 151. mủa đén 152. mủa ràn rạt 153. mủa tò lần 154. mủa tò mạng 155. mủa tò mảy 156. mủa tò mừ 157. mjèm mừ 158. nả 159. nạ đăm 160. nạ đeng 161. ngoay thua 162. nhặp slửa 163. nung 164. oóc 165. pác 166. pài cần lỉn nhạc 167. pài cần mủa tò 168. pái mưa 169. pàng 170. pằng dạu 171. pây thây 172. phả mừ 173. phải cát 174. phải đăm 175. phải đeng 176. phải nháng 177. phải lài 178. phẳn phoẻo 179. phẹt 180. phi 181. phi ngược 182. phi đin 183. phi mác 184. phí tha 185. phón bàn tay múa múa trống cái múa trống cơm múa đèn mua ràn rạt múa rối dây múa rối que múa rối máy múa rối tay vòng tay cái nỏ mặt đen mặt đỏ quay đầu khâu áo mặc ra mồm bộ phận chơi nhạc bộ phận diễn trò sân múa đẽo bạn bè đi cày bàn tay vải vóc vải đen vải đỏ vải thô vải có hoa văn cong vênh cái chum ma ma thuồng luồng ma đất môi lông mi vôi

84

Từ, ngữ (tiếng Tày) Từ ngữ (tiếng Việt)

186. phun 187. phuối tò 188. phuổi tò mẻ 189. phuối tò mủa 190. phuối tò nhồi 191. phuối tò táp 192. phuối tò tiên 193. phuối tò tò 194. phuối cằm tò Bời 195. phúc lần khẩu mừ tua tò 196. phúc lần quoeng thắt lăng 197. phúc lần teo khẩu èo 198. phjác 199. phjôm 200. pín khửn 201. pín lồng 202. pín Mảy 203. pja 204. pja boỏng 205. pja cap 206. pja kho 207. pja phay 208. pja sliểm 209. pổi 210. pú 211. pù cần hát cằm ổi tò 212. pu cấy 213. pú cấy/ “loỏng tắc kè”. 214. pu kấy (kắc kè) 215. pu ké 216. pu ké (chựa ké) 217. pùa 218. pưa 219. pưn công 220. puồng tò 221. quan 222. quằng xẻ 223. 224. rằng rọi gọt bài giáo bài giáo chàng bài giáo múa bài giáo nhồi bài giáo táp bài giáo tiên bài giáo rối bài giáo trò Nhồi quàng vào tay rối quàng dây quanh lưng rối quàng dây vào cổ trán tóc leo lên tụt xuống leo cây con dao dao chuôi liền dao rựa dao quắm dao phay dao nhọn quét ông bộ phận hát Nhà Tơ tắc kè giáo trò tắc kè tắc kè ông già cụ già vua mũi tên cung tên buồng trò quan quấn tổ xiên

85

Từ, ngữ (tiếng Tày) Từ ngữ (tiếng Việt)

rooc vài roỏng rẻnh rứa rứa Rì căm rườn sản sa hoi siu slân slấy slấy tao slỉn slíu mẻ slíu mồn slíu pền roỏng slíu tậc slửa khóa tải éc vài tán tàn tàn tỉnh (tính tẩu) tàu tắm phải tào (ỷ) tào lửa tẳng tậu lào keo tẩư tèo tềnh/ nưa tò tọt còn toọng toòng tha thác háo than khau (lần) hắt thiểu tháo thắt lăng theo lếch 225. 226. 227. 228. 229. 230. 231. 232. 233. 234. 235. 236. 237. 238. 239. 240. 241. 242. 243. 244. 245. 246. 247. 248. 249. 250. 251. 252. 253. 254. 255. 256. 257. 258. 259. 260. 261. 262. 263. mõ trâu dây óng trâu áo áo dài thâm nhà sàn bắt ốc đục xâu thầy thầy tào váy đục chàng đục tròn đục rãnh đục con (đục lưỡi nhỏ) y phục/ quần áo cái óc ách trâu/ cái ách trâu cuốc đàn đàn tính quan dệt vải dao con cái giũa dựng điếu cày dưới nhảy trên tìm tung còn bụng đồng mắt phơi khô dây rừng làm chão sáo thắt lưng que sắt

86

Từ, ngữ (tiếng Tày) Từ ngữ (tiếng Việt)

264. 265. 266. 267. 268. 269. 270. 271. 272.

273.

274.

theo phiay eng thở mặy thơn thơn màu thưa thứa bào thưa cúng thửa đeng thửa Kheo tò chàng hua cuôn tò(thưa kheo, nả đăm thứa đeng) tò táp(mừ căm mèn, nả đăm thứa đeng) toóc choòng toóc tổng đén tù tua tua cắng tua Lình tua mạ tua rồng tua tò túa tò tua tò đăm tua tò eng tua tò hua tàn tua tò khao tua tò vừa tủi tủi toóc 1 tủi toóc 2 tuổn tuyển tò tức slấc

275. 276. 277. 278. 279. 280. 281. 282. 283. 284. 285. 286. 287. 288. 289. 290. 291. 292. 293. 294. 295. 296. 297. vài 298. vẳn 299. vuồng táy 300. xáng pú que tre nhỏ thớ gỗ sơn sơn màu hổ áo bào báo áo đỏ áo xanh giáo trò chàng (đầu đội mũ, áo xanh, mặt đỏ) giáo trò táp (tay cầm thanh la, mặt đen, áo đỏ đóng bàn đóng/ gõ phao dầu cái mũ thân con vượn con khỉ con ngựa con rồng con rối quân rối con rối đen con rối cỡ nhỏ con rối đầu đàn con rối trắng con rối cỡ trung cái dùi đục cái búa cái dùi đục cưa cắt tích trò đánh giặc trâu khoét vua búa đục gỗ

87

Từ, ngữ (tiếng Tày) Từ ngữ (tiếng Việt)

tóc xẻ xẻ gỗ cái búa đinh thước thước bẹt tai vươn đầu 301. xâm 302. xé 303. xé mạy 304. xét 305. xích 306. xích vẹp 307. xủ 308. ziệt thua

88

Phụ lục 2: PHỤ LỤC ẢNH

Ảnh : Nghệ nhân Ma Quang Mai - trưởng phường rối Thẩm Rộc, xã Bình Yên

[Các nghệ nhân]. Nguồn: Minh Tâm

Ảnh 2: Nghệ nhân Hoàng Văn Nguyên - Trưởng phường rối Ru Nghệ,

xã Đồng Thịnh

[ Các nghệ nhân]. Nguồn : Tuấn Anh

89

Ảnh 3: Các quân rối cổ truyền của phường Thẩm Rộc

[Tạo hình và điều khiển con rối]. Nguồn: Ma Thị Thủy

Ảnh 4: Cách điều khiển rối của phường Thẩm Rộc

[Tạo hình và điều khiển con rối]. Nguồn: Minh Tâm

90

Ảnh 5: Sắp xếp con rối chuẩn bị biểu diễn trong hội Lồng Tổng

[Hoạt động rối trong các lễ hội]. Nguồn: Thanh Thảo.

Ảnh 6: Tiết mục rối cạn Định Hóa luôn thu hút khán giả

[Rối cạn Định Hóa trong đời sống văn hóa của người dân]. Nguồn: Minh Tâm

91

Ảnh 7: Nghệ nhân Ma Thị Đề 77 tuổi, xã Phú Đình - Cô Đàu (Đào) của phường

[ Các nghệ nhân]. Nguồn: Ma Thị Thủy

Ảnh 8: Nghệ nhân Hoàng Văn Lê, xã Đồng Thịnh - “đạo diễn” của phường rối Ru Nghệ

[Các nghệ nhân]. Nguồn: Tuấn Anh

92

PHỤ LỤC 3 Các bài giáo của phường rối cạn dân tộc Tày ở Định Hóa, Thái Nguyên [Văn học trong nghệ thuật múa rối] Bài 1: GIÁO TRÒ TẮC KÈ PHƯỜNG RỐI RU NGHỆ 1. Kính chiềng thượng hạ

Khắp tuyến gần xa Năm cũ đã qua Bước sang năm mới Xã ta có việc Mở phúc cầu yên Kể nghề nông phụ Thì nông công cổ Học nghiệp thờ vua Giám chúc tuổi vua Xiên xu vạn tuế (thiên thu vạn tuế).

2. Kính chiềng thường hạ

Lệnh lão quan viên Tự thuở di lai Tạo thiên lập địa Bày trò tứ quý Xuân, hè, thu, đông Lại vần mà thâng Bươn tham, bươn thí Có khí bắt na Hắp gằn vạt cha Mò voài hang éc Thây phưa pạt diệt Nà chá nà đăm Tua thì phát gằn Tua thì giai nhá Phạ đét í lai Hát việc thâng toại chùa Căn mừa kín khấu Lườn hầu cầu nấy

93

Hắt bái, hắt be Khá mu khá pất Bươn sốc nhằng hắt Bươn chất dú đai Ca dầu mì mò Mì goài hắt khoăn pèng tái

3. Nhớ xua đức thánh Mờ nước lỳ nhân Toan trước trong lòng Đêm ngày bàn bạc Lo dân đói khát Vào rừng mổ cây Mới dựng cày bừa Dạy dân làm ruộng Lúa sớm, lúa muộn Xem đất cấy trồng Xuân hạ canh vân Xu xu đông tàng Hòa khắp kéo đều Canh nông tế thế Dọi dọi giàu sang Thọ phúc xiên bươn Vạn vạn tàng tồn 4. Kính chiềng thượng hạ Lệnh lão người nghe Kể từ tiểu nhi Nhằng eng nhằng nọi Bởi chúng po me Khói thỉnh lục chài Đeo liệng lục voài Thai liệng khum voài má Dựng đồ thoa cạ Bách nghệ tinh thông Chẳng đâu xa gần Thầy đâu thông hồ Ống không liệng lộ

94

Chẳng pây lặp mà Liệng lục tùng góa Vừa lòng hầu khói Nhằng đếch nhằng eng Sằng chắc cầm lăng Tạch đáy âm câm Vừa lòng bướng khói 5. Kính chiềng thượng hạ Lệnh lão người nghe Kể từ tiểu nhi Nhằng eng nhằng nọi Vởi chủng pò me Khói thinh lục chài Đeo việc lăng ná hắt Nghe dìu căm phất Cằm khậm lầm tứu căm Xâm mạy pều phất khấu Cà dắc cà dầu Cà dầu khứu mừa Lộn lạo pầu tưa Tứn khuân nhắm nhúc Cạ màu pầu hâu khút Mầu dụ lao co Cạ mầu pầu hâu moòng Khuân đeng cà nhát Pác phù cả xứ bố Chắc mầu pầu tua mòn Pầu linh kè khuân đen nhắm nhúc Bươn chiêng xuân hè Lính kè líu khua Muốn khứn chầu vua Đáy mùa lạy lạy 6. Kính chiềng thượng hạ

Đáy nghìn mè phạ Xét hắp gần thây phưa Nà thây thâng gằn

95

Phưa nà mì nặm Khói chăng pây chùa Báu tầu tằng lai Vằn chục hắp phai Ăn nặm lồng chá Tòng thi bốc quá Nặm bấu khứu mương Kắc kẹ dìu thương Mầu chăng lắng lẻ Tam tiếng cá hé Lình kè liền khua Muốn khấu chầu vua Đáy mùa lạy lạy.

Bài 2: MÚA GIÁO PHÁO PHƯỜNG THẨM RỘC

Ớ vậy Mà sao ? Lẳng lặng mà nghe tôi giáo pháo Ri bế ri bồng

5. Có tài dẹp đảm

Trong sinh diên tán thuốc dễ dàng Ngoài hộ pháo đua xe làm tướng Đốt pháo lên sáng soi ràng rật Xem tướng ấy biết thật cơ mưu 10. Trong quan binh tập cung gươm mộc Chỉ lá lơn bắn lạt chằng chằng Vin cành quế mùi thơm hăng hẳng Trời còn tựa thánh đề quốc gia Dừng có, pháo bởi người Tào - mật

15. Thất thượng thiên

Trời tựa cửu trùng Nhị hạ địa Pháo thinh vận vận Tam thinh nhân

96

20. Nữ chức yêu thương Vạn sự thịnh Chạ này giàu thực Ông cống phủ ngựa xe ràn rạt Bà nội hoàng võng giá đùn đùn

25. Để ngỏ một cửa

Gọi rằng khai thiên môn Buộc lại đôi bên Gọi rằng bế địa hộ Cửa trong cửa ngoài 30. Nói gọi rằng thiên quỷ tâm Pháo đốt đình trung Là pháo quỷ lộ Hòa bay ngoài cửa Gọi răng lưu nhân gian

35. Tiền hiền xưa tạo

Hỏa khí thiên huy Đột rẫy trong ngoài Giặc kinh mà chạy Từ xưa nẻo ấy

40. Chưa có pháo này

Trúc lở lá bay Vì chưng có pháo Các thập tam đạo Thiên hạ đế vương

45. Thánh thọ vô cương

Hoàng đô cách cú Hình sinh quốc phú Viết thọ viết khang Kính lại truyền làng

50. Nghe tôi phong pháo

Tán pháo mừng tuổi vua làng Ngai vàng lồ lộ ! Ngai vàng lồ lộ ! Quốc tộ dân an

97

55. Mừng tuổi vua quan

Vạn vạn vạn tuế Quả này có ý Mừng tuổi đức vua Thứ nhất đã qua

60. Thứ nhì đem ra

Đốt thờ đức thánh Xưa vua ti mệnh Nối nghiệp thành công Con phượng cháu rồng

65. Trời sinh đức thành

Quân bền tướng mạnh Hơn nữa hán gia Trăm năm trải qua Nhị thành đế nghiệp

70. Tán pháo mừng đức vua rằng:

Thang quốc quyền hành! Thang quốc quyền hành! Như thủy bao binh Lục thao tam lược

75. Đức vua trị nước

Thực tướng trời sinh Lộ lộ tướng tinh Quả này lại tiến Bông bay ứng hiện

80. Vĩnh phúc tưa nay

Thứ ba quả này Pháo tôi lại chúc Lai lâm giáng phúc Vâng hộ truyền đình

85. Tạc tạc quyết linh

Thác phòng thượng đẳng Tán pháo mừng đức đại vương rằng: Trào vị dương dương! Trào vị dương dương !

98

90. Thị phi thất kiếm

Sự lành đem đến Giáng phúc đình trung Tống ác chỉ hung Tống ra hải ngoại

95. Đại vương yên vị

Thứ tư mạnh mẽ Lại mừng đức ông Hào kiệt anh hùng Dẹp đông, đánh bắc

100. Thắng trận thành công

Mừng tuổi đức ông Thành bằng non thái Thứ năm đem lại Đức bà thong dong

105. Phụ hạc tăng lòng

Vững hậu tần cung Các chư vương tử Thứ sáu vô trong Mừng ông cai xã

110. Dân được ứng bàu

Hào thang hào gàu Năm tài cầm luận Tán pháo mừng cai xã rằng: Cầm luận trong ngoài

115. Cầm luận trong ngoài Văn vũ kiêm tài Thực là nên giai Mừng ông cai xã Đốt chầu một quả

120. Thứ bảy thức giá

Mừng thầy đương cai Quả này đắc tài Lại thêm đắc lộc Tự tài tứ mộc

99

125. Vĩnh phúc từ nay

Thứ tám quả này Mừng ông hương lão Toàn làng thọ khảo Bụt tựa trời vâng

130. Tuổi thọ tăng long

Lại thêm ngũ phúc Giàu lúa giàu thóc Con cháu khê lê Hầu để làm chi

135. Thứ chín nho nhỏ

Đốt chầu văn võ Văn thì thi đôc Tiến sĩ trạng nguyên Văn thì thăng lên

140. Quận công, đô đốc

Thứ mười lại chúc Lai lâm giáng phúc Vâng hộ toàn làng Các ông kẻ sang

145. Cơ đồ mưu trí

Các cô, các chị Các thím, các dì Rèm hát thì nghe Ngồi hào chớ rứa

150. Bà bên này nữ đức

Bà bên này nữ công Bà bên này kính chồng Bà bên kia kính tộc Thấy con có khóc

155. Ấn riết vú vào

Chớ khóc lao xao Hòa làng đàn lợn Tán pháo mừng các cụ bà rằng: Rén rén nết na

100

160. Rén rén nết na

Thưa việc đề ra Hớn hớn bằng hòa Mừng các cụ các bà Sống lâu sức khỏe

165. Tán pháo mừng toàn xã rằng:

Tiệc mở hoa diên Tiệc mở hoa diên Chủ ngọc khách hiền Đứng đầu ràn rạt

170. Văn thì thi đỗ

Tiến sĩ, trạng nguyên Võ thì thăng lên Quận công hầu tước Bàn nhất bàn nhì

175. Cho đến bàn ba

Thượng mục hạ hòa Sống lâu sức khỏe. Tán pháo lại có chữ pháo rằng: Vua quan thời chính ngự cửu trùng

180. Đức sở trị Nam, Bắc, Tây, Đông

Tỏ mới mặt vương tướng đức ông Chạ này đất tốt thịnh càng thêm thịnh Sinh con tiên nở những cháu rồng Vào chầu chực hoàng đề thánh quân

185. Giai phù vua, gái thời hoàng hậu

Ấy xã giở ra nghe tôi vông pháo Tầm vông, tập vông, tập tầm vông là tầm vông tập Nay lời tôi vông Tôi chúc văn võ quan liêu

190. Văn thịnh nhiều sửa sang đồ tịch Vũ hùng dẹp bắc đánh đông Văn có trí án sắc đê hình Võ có tài thăng lên quận quốc Văn cùng võ so tài tướng địch

101

195. Tường tướng đều phụ đập hán gia

Ấy xá giở ra nghe tôi vông pháo Tầm vông, tập vông, tập tầm vông là tầm vông tập Pháo này tôi gông, Đức đức đại vương

200. Biến hóa đương ngự chi thần Thị nhi phất kiến Thính nhi phất văn Đình phùng thờ từ cổ chí kim dõi truyền Nối những trai lành gái tốt

205. Hộ tứ giáp mỗi của mỗi nên Vật thịnh nhân khang Giáng phúc toàn làng Niên niên thịnh vượng Nguyệt nguyệt tự tống

210. Tai ách tha phương

Ấy xá giở ra Nghe tôi vông pháo Tầm vông, vông tập tầm vông, là tầm vông tập. Một mừng chạ tử tôn hưng thịnh

215. Hai mừng chạ tống ách trừ tai

Thóc một nhà nghìn gian để chật Trâu một nhà mười chín đôi mươi Giàu sách bằng Thạch Sùng, Vương Khải Sống bằng ông Bành Tổ truyền đời

220. Sinh con trai tựa châu tựa ngọc

Sinh con gái bằng phượng bằng loan Đi ra đường xe xe ngưạ ngựa Ra ngoài cửa chân hán, chân hài Chẳng khác nào cầm sắt no đôi

225. Ấy xá giở ra

Ấy tôi vông váo Tầm vông tập, vông tập tầm vông, là tầm vông tập Soi xem cõi miền có ai tày Văn cùng võ khác đứng sắp bày

102

230. Văn là văn, dù che ngàn ngạt Võ là võ, áo tía hây hây Văn viển đạt tướng hiền tài lạ Vũ lực cử thắng trận thành công Thừa là thừa hàn lâm xuất trị

235. Khuya là khuya gọi lính đức ông Lâu là lâu bằng mặt trời lên Biển là biển dâng lên thiên tuế Vạn là vạn vua vạn vạn tuế

240. Chúc là chúc vua vạn vạn niên

Lộc là lộc châu báu dõi truyền Ấy xá giở ra Nghe tôi vông pháo Tầm vông tập, vông tập tầm vông, là tầm vông tập

245. Này lời tôi chúc

Ấy lời tôi khải Mừng đình trùng hữu dư vạn vạn Mừng thái bình hải hán hà thanh Thiên hạ hòa khang cù kích nhưỡng

250. Tài độ lượng lại mừng đức ông

Mừng đình trung thượng hòa hạ mục Đắc vị đắc lộc Mừng chạ này viết thị viết khang Kính lạy toàn làng

255. Nghe tôi vông váo

Vậy có thơ pháo rằng Đốt ba tiếng pháo cho dậy đình trung Văn tiến sĩ, võ lại quận công Chạ nghe thướng thăng quan tiến chức

260. Trừ tà trừ quỷ đổ xuống sông.

Bài 3: GIÁO TIÊN

Nhịn lặng nghe tôi giáo tiên Chạ mở tiệc cầu yên Cho chại được hay Đôi ả toà nay

103

5. Nàng Tiên, nàng Huệ

Tốt tươi thanh quế Nó ở bắc biên Ấy mới gọi rằng Nàng tiên Thái Hiệu

10. Thơ tiên rằng:

Nhịn lặng nghe tôi xướng tiên Một cách kể cổ hoa diên Một cách thần linh cảm ứng phó linh xà Hà hải sơn xuyên

15. Kim niên là kim niên hảo

Chạ mở tiệc này vinh bảo kahng ninh Kim nhật là kim nhật tinh Ấy vận ngũ hành, lục giáp làm nơi Thân tý thìn là tỵ dậu sửu 20. Hợi mèo mùi hoả hợp dấu nhau

Chính ty chính già chính tề nhân Đất tốt xoay nên đầu có nhân 23. Mừng làng phú quý thọ thiên xuân

Bài 4: GIÁO CHÀNG

Nhịn lặng nghe tôi giáo chàng Một cách nhớ xưa Vua Hán Cao Tổ Người là ở đất Bái nhân

5. Thụ lệnh Hoài âm

Dẹp an Tần quốc Hạng Vũ đổi nước Hội ẩm Hồng Môn Hạng vũ cậy khôn

10. Một mai khai hạ

Trong dinh vương bá Phu giập quốc gia Cấp thưởng Tiêu Hà Dụng binh khi ấy

104

15. Chẳng ngờ đêm ấy

Có giặc Tiệm Phu Quân nó hãm tù Bọc dinh nhà hán Cao Tổ phải khốn

20. Ở Bạch Đang Thành

Giáo khắp chư dinh Lo làm sao được Trần Bình trở lại Toan trước hoà dùng

25. Ngả ấy cây vông

Tạc làm mỹ nữ Màn che thắc thở Tay múa xênh sang Trống đánh nhịp đàng

30. O trong cùng ấy

Tiệm Phu thấy vậy Ngoảnh cổ liền coi Quân Hán đôi bên Vậy thì rút khỏi 35. Vậy có thơ chàng rằng

Chàng này dựng bởi người Trần Bình Múa chầu Thiện tử thọ tràng sinh Hái án hà thanh, trẻ khang thái Nay rôi xá diên chàng

40. Tôi thức chàng thửa đâu là đâu

Tôi thức chàng thửa lầu chín khăn Tôi thức chàng thửa sông ngân hán Mạ là Triều cờ phất tàn che

45. Mình chàng mặc mà rồng xiêm phượng

Đầu chàng đội mũ dở hướng về Nam Trong chàng nhường tam nhường tái Chắm chắm đứng trước mặt đại vương Khi chàng bước lên chầu quan

105

50. Tay tả cầm quạt khoan khoan cho lành

Tay hữu động máy như kinh

Coi như tiên nữ tốt lành nhà Ngu

Chắm chắm đứng bằng cây khô

Hữu nhân bất động như đồ vẽ tranh

55. Bước lên đông giáp càng thanh

Tự nhiên giáp nổi công khanh khoa đài

Bước lên nam giáp càng dài

Tự nhiên nam giáp nổi tài thượng thư

Bước lên tây giáp càng dư

60. Tự nhiên tây giáp nổi thượng thư quan thầy

Bước lên bắc giáp ngày rầy

Tự nhiên bắc giáp nổi tày quận công

Chính ti, chính giả, chính tề nhân

Đất tốt xoay nên đều có nhân

65. Mừng làng phú quý thọ thiên xuân

Bài 5: GIÁO TÁP

Nhịn lặng nghe tôi giáo Táp Táp mên Táp man Táp chua Táp chúa Táp hoà hay múa

5. Táp chúa hay ca

Chân chuốc hài hoà Vậy có thơ Táp rằng: Múa lên, múa xuống, múa phải gái giai Vua về vực nước tựa thiên thai

10. Vua xuống cho làng kẻo táp nhai

Chạ này thăng chức nẻo khoa đài Táp tôi mang về cùng tiên Thấy đây đất tốt Táp nên mừng làng Mừng ông tên chiếm bảng vàng

106

15. Thấy cây bách phúc là làng sống lâu

Hiền thao giả vượn đôi đầu Ấy chúc làng giàu võ dập văn nhai Hiền thao lưng thắt đai Ấy chúc khoa đài chạ đỗ thượng thư

20. Hàn lâm đông các đi thi

Một khoa bảy, tám, chín, mười ông rước về Rập rập, rìu rìu, ngựa ngựa, xe xe Ông cưỡi ngựa tía bà che tàn vàng

25. Trạng nguyên tiến sĩ rước về chạ ta

Ông thăng trưởng phủ kim hoa Ông thăng trưởng vệ chạ ta khoa đài Ông làm quan trong quan ngoài Thái sư, thái uý ông làm cai tri

30. Ông thăng chữ phú chữ uy

Này nhời tôi chúc thọ xướng y thờ thần Chữ thọ là làng sống lâu Chữ phú làng giàu, chữ quý làng sang Chạ này được dư trăm nén vàng

35. Chúc cho toàn chạ xau lại toàn làng nổi những quan sang

Mừng vua tôi lại mừng làng Phú quý năm nay chạ giàu sang Ơn ai ơn bởi đức đại vương

39. Giáng phú gái trai già trẻ thọ diên tràng.

107