ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM VƢƠNG THÚY HÒA NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BẮC SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

THÁI NGUYÊN, 2013

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

VƢƠNG THÚY HÒA NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BẮC SƠN

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM

MÃ SỐ: 60220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS - TS. Tôn Thảo Miên

THÁI NGUYÊN, 2013

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các nội

dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố trong

bất cứ một công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 5 năm 2013

Học viên

Vương Thúy Hòa

i

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, cán bộ khoa Ngữ văn, phòng

Quản lý và Đào tạo Sau đại học trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã tạo điều

kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu.

Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS Tôn Thảo Miên, người cô đã

luôn tận tình giúp đỡ và động viên rất nhiều để tôi có thể hoàn thành luận văn trong

suốt thời gian qua.

Lời cuối cùng, tôi xin cảm ơn những người thân, bạn bè đã động viên và tạo

điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học.

Thái Nguyên, tháng 5 năm 2013

Học viên

ii

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Vương Thúy Hòa

MỤC LỤC

Trang Trang bìa phụ

Lời cam đoan ................................................................................................................. i

Lời cảm ơn .................................................................................................................... ii

Mục lục ........................................................................................................................ iii

MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1

NỘI DUNG ................................................................................................................ 11

Chƣơng 1: KHÁI QUÁT VỀ NGHỆ THUẬT TỰ SỰ VÀ SÁNG TÁC CỦA

NGUYỄN BẮC SƠN ................................................................................................ 11

1.1. Khái quát về nghệ thuật tự sự............................................................................ 11

1.1.1. Lịch sử nghiên cứu ..................................................................................... 11

1.1.2. Khái niệm nghệ thuật tự sự ........................................................................ 14

1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Bắc Sơn .......................................................... 18

1.2.1. Vài nét về tiểu sử Nguyễn Bắc Sơn ........................................................... 18

1.2.2. Sáng tác của Nguyễn Bắc Sơn ................................................................... 19

1.2.3. Quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Bắc Sơn ............................................. 20

Chƣơng 2: NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN VÀ XÂY DỰNG

NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BẮC SƠN .............................. 27

2.1. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện ........................................................................... 27

2.1.1.Khái niệm cốt truyện ................................................................................... 27

2.1.2. Vai trò của cốt truyện trong tiểu thuyết ..................................................... 28

2.1.3. Cốt truyện trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn ........................................... 28

2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật........................................................................... 33

2.2.1. Khái niệm nhân vật văn học và nhân vật trong tiểu thuyết ........................ 33

2.2.2. Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn ............................... 35

2.2.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ................................................................... 47

Chƣơng 3: NGƢỜI KỂ CHUYỆN, NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRONG

TIỂU THUYẾT NGUYỄN BẮC SƠN .................................................................... 63

iii

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

3.1. Người kể chuyện trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn ....................................... 63

3.1.1. Khái niệm người kể chuyện ....................................................................... 63

3.1.2. Điểm nhìn trần thuật .................................................................................. 63

3.2. Ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn ................................... 73

3.2.1. Ngôn ngữ chính trị - xã hội ........................................................................ 73

3.2.2. Ngôn ngữ bình dân đậm chất khẩu ngữ ..................................................... 79

3.2.3. Ngôn ngữ hài hước, dí dỏm ....................................................................... 83

3.3. Giọng điệu trần thuật ......................................................................................... 86

3.3.1. Giọng điệu triết lí ....................................................................................... 86

3.3.2. Giọng điệu hài hước mỉa mai ..................................................................... 90

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 94

iv

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 97

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Tự sự học là ngành nghiên cứu còn non trẻ. Nó được định hình từ những

năm 1960 - 1970 ở Pháp nhưng đã nhanh chóng vượt biên giới, trở thành một trong

những lĩnh vực học thuật được quan tâm trên thế giới. Ở Việt Nam, các công trình về

tự sự học xuất hiện khá muộn và không đồng đều. Tuy nhiên, bước đầu đã có thể

cung cấp một số công cụ hữu hiệu cho người nghiên cứu. Một trong những hướng

nghiên cứu thi pháp học hiệu quả vào việc tiếp nhận tác phẩm văn học Việt Nam

chính là vận dụng các khái niệm tự sự học.

Ngày nay, cùng với sự vận động của đời sống xã hội Việt Nam là sự vận động

của tư duy văn học với những biên độ thẩm mĩ mới. Tiểu thuyết là nơi hội tụ nhiều

khát vọng cách tân và cho thấy khá rõ những mới mẻ trong nghệ thuật tự sự. Đặc biệt

trong những năm gần đây, xuất hiện một số tiểu thuyết gây được tiếng vang lớn và để

lại những ấn tượng sâu sắc cho người đọc bởi sự mới mẻ ở đề tài, cách đặt vấn đề của

nhà văn. Do vậy, tiểu thuyết được coi là mảnh đất hấp dẫn mời gọi người nghiên cứu

vận dụng lí thuyết về tự sự học giải mã tác phẩm.

1.2. Nguyễn Bắc Sơn là một nhà văn nổi tiếng và được đánh giá cao trong

dòng văn học Việt Nam đương đại. Nguyễn Bắc Sơn từng là nhà giáo, nhà quản lý

giáo dục, quản lý báo chí. Ông có sự từng trải và quan trọng hơn là tha thiết với cuộc

đời, bởi thế những trang viết của ông ấm nóng hơi thở của cuộc sống đương đại. Ông

viết nhiều thể loại như truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, bút ký, tiểu luận và cả

báo chí. Nhưng có lẽ bạn đọc biết đến nhà văn Nguyễn Bắc Sơn nhiều hơn ở thể loại

tiểu thuyết, khi đã chín về tuổi đời tuy vẫn trẻ về tuổi nghề.

Dấn mình vào thể loại tiểu thuyết, ông đã đến với thực tế đời sống, cọ xát và

va đập đến tận cùng với cuộc đời, chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng trong tiến

trình đổi mới của đất nước. Cơ chế thị trường đang xuất hiện, nhiều giá trị bị đảo lộn,

đời sống con người, tư duy và bản lĩnh cũng phải đổi thay để thích ứng với thời cuộc.

Cũng chính ở thể loại này, nhà văn Nguyễn Bắc Sơn đã gặt hái được những thành

công ngay từ cuốn tiểu thuyết đầu tay Luật đời và cha con ra mắt bạn đọc cả nước

vào năm 2005. Tiểu thuyết Luật đời và cha con gây được tiếng vang trong dư luận vì

1

sự mới mẻ ở đề tài, ở cách đặt vấn đề của nhà văn. Đó là các vấn đề xã hội với những

bất cập của cơ chế, độ vênh giữa lý luận và thực tiễn đời sống. Hay nhiều vấn đề

nóng trong cuộc sống hiện đại cũng được thể hiện trong tác phẩm như: chuyện gia

đình, chuyện hôn nhân, chuyện tình dục trong cuộc sống hiện đại…Đặc biệt tác phẩm

có tính thời sự cao ở chỗ đặt ra vấn đề: Cần phải thay đổi phương thức Đảng lãnh đạo

sao cho có hiệu quả cao. Chính vì điểm mới lạ đó, tiểu thuyết Luật đời và cha con đã

được tổ chức tọa đàm tại báo Văn nghệ, được báo chí viết bài bình luận, phỏng vấn

rất nhiều, chủ yếu là khen ngợi (khoảng 20 bài). Tiểu thuyết còn được tái bản tới 3

lần trong sáu tháng (NXB Hội nhà văn 8/2005, NXB Văn học tái bản 10/2005,

3/2006), được giải thưởng của Uỷ ban toàn quốc liên hiệp các hội văn hóa nghệ thuật

Việt Nam. Liền sau đó, hãng phim truyện truyền hình Việt Nam dựng thành phim

“Luật đời” (26 tập) được khán giả nhiệt tình đón nhận và bình chọn là phim truyền

hình hay nhất năm 2007.

Sau thành công đầu tay đến năm 2008, Nguyễn Bắc Sơn lại tiếp tục cho ra

mắt tiểu thuyết Lửa đắng. Lần này, hiệu ứng của nó lại còn cao hơn cả Luật đời và

cha con. Bởi vì Lửa đắng vẫn tiếp tục dòng cảm hứng tiểu thuyết luận đề, mổ xẻ trực

diện những vấn đề liên quan đến quá trình đổi mới toàn diện trong xã hội, sự đấu tranh

quyết liệt giữa cái cũ và cái mới. Những vấn đề Lửa đắng đặt ra gai góc mà hấp dẫn.

Hai cuốn tiểu thuyết trên có nội dung chính trị sâu sắc, cho thấy nhà văn

Nguyễn Bắc Sơn đã có sự tiếp nối nguồn mạch tiểu thuyết luận đề của Nguyễn Mạnh

Tuấn. Nhiều nhà phê bình văn học đã so sánh lối viết của Nguyễn Bắc Sơn với

Nguyễn Mạnh Tuấn - tác giả của những Đứng trước biển, Cù lao Tràm… làm sôi nổi

văn đàn thời “tiền đổi mới”. Lựa chọn khuynh hướng này, Nguyễn Bắc Sơn chứng tỏ

ông là một công dân có ‎ý thức cao vì đề cập đến những vấn đề chính trị “nóng” mà

dường như mọi người biết nhưng ngại đụng chạm vì nhiều lí do khác nhau.

1.3. Đến nay tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn đã được tiếp cận trên nhiều phương

diện khác nhau, nhưng chưa có công trình chuyên sâu về nghệ thuật tự sự. Vì vậy

mục đích của đề tài là từ những tri thức lí luận về tự sự, tìm hiểu nghệ thuật tự sự của

tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn. Chọn đề tài Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Nguyễn

Bắc Sơn, chúng tôi muốn nhận diện một hiện tượng đáng chú ý trong đời sống văn

chương nước ta mấy năm gần đây, qua đó tìm hiểu con đường vận động cùng những

2

thể nghiệm cách tân của tiểu thuyết Việt Nam đương đại.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Những ý kiến bàn chung về nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Việt Nam

đương đại

Trong văn học Việ t Nam đương đ ại, tiể u thuyế t chiế m mộ t v ị trí quan trọng.

Thể tài này được coi là “cỗ trọng pháo” trong nền văn học. Chính vì thế từ giữa thậ p

kỷ 90, trong bối cảnh hộ i nhậ p, tiể u thuyế t đã có s ự tìm tòi theo mộ t hướng mới, ở đó

“hình thức của tiể u thuyế t đã trở thành chủ đề quan trọng”.

Tiểu thuyết Việt Nam đương đại đã có cách tân cả về nội dung lẫn nghệ thuật,

nhất là giai đoạn từ sau đổi mới đến nay. Đây là giai đoạn mà văn học nói chung và

tiểu thuyết nói riêng có những bước tiến đáng ghi nhận, đội ngũ sáng tác ngày càng

đông đúc, số lượng tác phẩm dồi dào, trong đó có những tác phẩm thực sự có giá trị.

Thực tế đó đòi hỏi giới nghiên cứu phải có sự quan tâm thích đáng đối với thể loại

văn học chủ soái này.

Trong công trình Văn học Việt Nam sau năm 1975 - những vấn đề nghiên

cứu và giảng dạy do Nguyễn Văn Long và Lã Nhâm Thìn chủ biên, tập hợp khá

nhiều ý kiến khác nhau về tiểu thuyết. Xin được điểm qua một số bài viết sau:

Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 - nhìn từ góc độ thể loại của Bùi Việt Thắng; Một

cách lý giải về thực trạng tiểu thuyết Việt Nam đương đại của Nguyễn Hòa; Ý thức

cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 của Nguyễn Bích Thu; Về một

hướng thử nghiệm của tiểu thuyết Việt Nam từ cuối thập kỷ 80 đến nay của

Nguyễn Thị Bình…

Những công trình, bài viết trên đây đề cập khái quát về nghệ thuật tự sự trong

tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Qua các công trình, bài viết đó, chúng tôi nhận thấy

tiểu thuyết Việt Nam đang nỗ lực làm mới thể loại cho thích hợp với hiện thực mới

phức tạp, đa chiều. Dư luận bạn đọc có chỗ thống nhất, cũng có chỗ xung đột, có cả

cái nhìn hoài nghi bi quan nhưng không thể phủ nhận được một thực tế là các nhà văn

nước ta đang rất giàu khát vọng cách tân tiểu thuyết. Trên cơ sở đó, chúng tôi nhận

diện đóng góp của tác giả Nguyễn Bắc Sơn với hai cuốn tiểu thuyết Luật đời và cha

con và Lửa đắng được đông đảo bạn đọc yêu thích.

2.2. Những ý kiến bàn về tiểu thuyết Luật đời và cha con và Lửa đắng

Sau khi xuất hiện trên văn đàn văn học đương đại, hai tiểu thuyết Luật đời và

3

cha con và Lửa đắng đã được bạn đọc và khán giả đón nhận như một “hiện tượng

mới”. Các nhà nghiên cứu phê bình văn học, đạo diễn điện ảnh và cả những bạn đọc

yêu thích văn chương đều có những bài nhận xét, đánh giá. Đặc biệt đã có rất nhiều

tờ báo có bài phỏng vấn trực tiếp nhà văn Nguyễn Bắc Sơn như : báo Văn nghệ, An

ninh thủ đô, Nhà báo và công luận, Người lao động... Mỗi tác giả quan tâm đến

những khía cạnh khác nhau của tác phẩm.

Là một nhà văn được yêu mến, một “hiện tượng” đang diễn ra, nên những bài

viết tìm hiểu về sáng tác của Nguyễn Bắc Sơn được đăng tải nhiều trên các phương

tiện truyền thông. Số lượng bài viết dồi dào, sắc thái, “cấp độ” tình cảm khác nhau,

người viết có thể là nhà nghiên cứu, nhà phê bình văn học chuyên nghiệp hay đơn

thuần chỉ là một độc giả yêu thích văn chương.

2.2.1. Về tiểu thuyết Luật đời và cha con

Các nhà nghiên cứu phê bình văn học đánh giá tác phẩm ở nhiều khía cạnh

nhưng đều thống nhất đánh giá cao thành công nổi bật của tác giả trong việc lựa chọn

đề tài sáng tác mới, xông thẳng vào những vấn đề nóng bỏng, thậm chí có thể là mạo

hiểm của cuộc sống hiện đại. Chúng tôi xin giới thiệu tóm tắt một số bài viết đó:

Nhà thơ, đạo diễn Đỗ Minh Tuấn trên báo Văn nghệ Trẻ số 40 (462)

ngày 2/10/2005 đã khẳng định: “Luật đời và cha con là cuốn tiểu thuyết Việt Nam

đầu tiên mổ xẻ sự vận động của toàn xã hội trong quá trình đổi thay cơ chế , một sự

vận động đụng chạm đến từng gia đình, từng số phận” [47, tr.541]. Trong bài viết tác

giả cũng thẳng thắn chỉ ra một vài nhược điểm của tác phẩm là một số chương đoạn

còn lan man, xô bồ, dễ dãi, chạy theo sự vụ, mượn mồm nhân vật để kể chuyện đời...

Nhưng kết luận cuối cùng của bài viết là một lời khen ngợi: “Luật đời và cha con là

một cuốn tiểu thuyết thuyết tình ái - chính trị gai góc và sinh động, một bước cố gắng

thể hiện những vấn đề của cuộc sống và con người hiện đại ở góc nhìn mới mang tính

luận đề, một cái nhìn trực diện về những diễn biến theo hướng suy đồi của xã hội

hôm nay và chia sẻ những khó khăn của những người lãnh đạo có tầm nhìn mới, bản

lĩnh mới và năng lực mới” [47, tr.543 - 544 ].

Bài viết Luật đời và cha con của nhà văn Hoàng Minh Tường (Báo Văn nghệ

số 49 ngày 3/12/2005) cho rằng câu chuyện của tiểu thuyết Luật đời và cha con xoay

quanh chuyện của một gia đình song cũng là chuyện của xã hội. Những tha hóa của

4

các thành viên trong một gia đình nhìn bề ngoài mẫu mực, những mối quan hệ nhằng

nhịt trong hôn nhân, những vấn đề tham nhũng, tệ nạn xã hội...tất cả đều được phản

ánh trong tác phẩm. Từ đó Hoàng Minh Tường khẳng định: “Ở lĩnh vực nào, ngòi bút

của Nguyễn Bắc Sơn cũng tỏ ra hoạt náo và giàu chi tiết đời sống” [47, tr.549].

Trong bài Cái nhìn hiện thực và con người trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn

in trên Tạp chí Nhà văn số 3/2006, nhà nghiên cứu Bích Thu đã nhận định về thành

công của tác phẩm: Đề tài mới mẻ mang tính thời sự “Luật đời và cha con là cuốn

tiểu thuyết mang tính thời sự cập nhật đầy ắp chất liệu của đời sống và con người

đương đại” [47, tr.551]; biết cách xây dựng nhân vật “trong sự soi chiếu từ nhiều

điểm nhìn, tạo góc cạnh và chiều sâu cho nhân vật” [47, tr.553]; về kết cấu “thể hiện

rõ cái nhìn mới của Nguyễn Bắc Sơn về cuộc đời và con người” [47, tr.556] thông

qua hai mảng chính : chuyện gia đình với bao phức tạp do sự tác động của xã hội,

chuyện xã hội với bao đề tài nhức nhối về tham nhũng, cơ chế...; Cách xây dựng các

tình tiết “bất ngờ, mang đậm yếu tố bi hài làm nổi bật sự đa chiều, đa diện của hiện

thực và con người” [47, tr.557]. Bên cạnh những thành công tác giả cũng chỉ ra một

số hạn chế của nhà văn như: có những trang tác giả còn nói hộ nhân vật, văn viết có

lúc thô, chưa thật uyển chuyển.

Trong chương trình Tác giả và tác phẩm do Đài phát thanh và truyền hình Hà

Nội 1 giới thiệu nhà văn Bắc Sơn, phát sóng 8/8/2009, nhà nghiên cứu Bích Thu cũng

phát biểu về tiểu thuyết Luật đời và cha con như sau: “Với cuốn tiểu thuyết này nhà

văn Nguyễn Bắc Sơn đã đem lại cho người đọc sự hấp dẫn và mang được những vấn

đề mà tiểu thuyết đương đại mặc dù không có những cách tân lớn lao, tác phẩm được

viết theo lối tiểu thuyết truyền thống nhưng tính hấp dẫn, hiện đại của đề tài, những

thủ pháp nghệ thuật rất chừng mực của anh làm cho tiểu thuyết đến được bạn đọc”.

Bài Đi qua ranh giới để tồn tại của Nguyễn Đăng Điệp in trên báo Văn nghệ

ngày 1/4/2006 nhấn mạnh đến đề tài mới mẻ, đến tổ chức và sự lựa chọn cách kể hợp

lí của nhà văn Nguyễn Bắc Sơn. Bài viết cũng khẳng định ý nghĩa thực tiễn và những

thành công ban đầu của Nguyễn Bắc Sơn: “Vấn đề anh đặt ra trong tác phẩm này

gai góc hơn nhiều: Cần có sự chuyển đổi phương thức lãnh đạo đất nước trong đội

ngũ Đảng viên sao cho phù hợp với những thay đổi của đời sống, phải nhanh chóng

xem lại văn hóa Đảng trong điều kiện kinh tế thị trường. Đây là vấn đề nóng. Nóng

5

đến mức nhiều người chỉ bàn mà ngại đụng bút... Đọc Luật đời và cha con, vì thế ta

như được tiếp xúc trực tiếp với những luồng điện nằm sẵn trong đời, được thấy phù

sa đời sống chạm vào xúc giác của mình, được hít thở vị mặn của cuộc sống đang

diễn ra trước mắt ta từng phút giây” [47, tr.563 - 567].

Tác giả cũng có ý kiến phát biểu trực tiếp, đánh giá thỏa đáng những thành

công của nhà văn: về mặt tư duy tiểu thuyết, tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn là tiểu

thuyết mang tính luận đề, thông thường những tiểu thuyết luận đề thì khô khan nhưng

Nguyễn Bắc Sơn đã biết mềm mại hóa, biết làm cho nó có khả năng chinh phục

người đọc. Bởi lẽ cách tổ chức các tuyến sự kiện, tuyến nhân vật, ngôn ngữ rất gần

gũi với đời sống. Chính điều này mang lại sự tươi mới cho tiểu thuyết của Nguyễn

Bắc Sơn.

Nhà phê bình văn học Nguyễn Chí Hoan có bài Một cuốn tiểu thuyết về đổi

mới in trên báo Người Hà Nội ngày 31/3/2006 nói về những điểm đổi mới của Luật

đời và cha con gồm: Vấn đề xã hội mới được nói đến, tác phẩm được triển khai theo

hình mẫu ngôn ngữ tiểu thuyết hiện thực “truyền thống” - “Cuốn tiểu thuyết này đặt

trọng tâm và dựa cả vào nhân vật và cốt truyện, trong đó phần của các nhân vật có

vai trò lấn át” [47, tr.573], điểm nhìn mới của cuốn tiểu thuyết “chính là nhìn vào

một khía cạnh hiển nhiên nhưng không phải lúc nào cũng được chú ý”.

Trong buổi thảo luận về tiểu thuyết Luật đời và cha con do báo Văn nghệ tổ

chức ngày 26/12/2006 có rất nhiều ý kiến phát biểu trực tiếp, khen ngợi thành công

của cuốn tiểu thuyết. Nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam phát biểu:

“Tác phẩm của nhà văn Nguyễn Bắc Sơn đã thành công về mặt thể loại” [47, tr.580].

Nhà phê bình Lê Quang Trang cho rằng: “Thành công đáng chú ý nhất của cuốn tiểu

thuyết là tác giả dũng cảm và sắc sảo trong việc phô bày những vấn đề của xã hội.

Tác giả đã thông qua hình tượng nghệ thuật để nêu những bất cập của cơ chế, nêu độ

vênh giữa lý luận và thực tiễn đời sống” [47, tr.581]. Nhà văn Phạm Ngọc Tiến đánh

giá cao ý nghĩa thời sự của tác phẩm, theo ông: “Văn đàn năm nay có một số sự kiện,

trong đó có cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn. Lâu lắm mới có một cuốn tiểu

thuyết thế sự, xông thẳng vào đời sống chính trị như thế này” [47, tr.582]. Nhà thơ,

nhà phê bình Nguyễn Hoàng Sơn đánh giá: “ Luật đời và cha con dễ đọc, đọc được

một mạch. Tác giả hiểu biết nhiều, không lên gân. Viết thành thực” [47, tr.583].

6

Cùng với quan điểm trên là quan điểm của nhà văn Dạ Ngân: “… cũng như Luật đời

và cha con của Nguyễn Bắc Sơn được đọc hiện nay là nhờ vấn đề gai cạnh, nóng sốt”

[47, tr.584].

2.2.2. Về tiểu thuyết Lửa đắng

Lửa đắng chỉ được giải ba trong cuộc thi tiểu thuyết lần thứ ba (2006-2010),

nhưng nó là một trong những tác phẩm được dư luận quan tâm nhiều nhất. Các nhà

văn, nhà nghiên cứu phê bình đều đánh giá cao thành công của tác phẩm, và cho rằng

nét nổi bật là sự mới mẻ về đề tài. Nhà văn đã đề cập đến những vấn đề bất cập trong

cơ chế hành chính và những vấn đề xã hội ở nước ta, vấn đề này đã được triển khai ở

Luật đời và cha con , nhưng được khai thác sâu hơn trong Lửa đắng.

Nhà văn Vũ Duy Thông, khi viết thay lời giới thiệu cho cuốn sách Lửa đắng

đã viết: “Những nhân vật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn đều đại diện cho một

loại cán bộ, đảng viên, công chức nào đó. Nhưng vượt lên những ước lệ mòn sáo,

những nhân vật này không chỉ gánh vác trách nhiệm đại diện của mình mà còn tồn

tại như một con người cụ thể, có vui buồn, yêu, ghét; khát vọng cao cả và dục vọng

thấp hèn; tự tin và tự ti; thành công và thất bại… Các nhân vật của ông tồn tại như

người đang sống quanh ta, bởi thế, có lẽ là lần đầu tiên một cách có hệ thống, trong

tiểu thuyết đương đại, người đọc được hé mở tấm màn của chủ nghĩa sơ lược để tiếp

cận với lớp người vẫn thường được gọi là “quan” trong xã hội với tấm chân dung

chân thực của nó” [51, tr.8 - 9].

Phạm Xuân Nguyên khi giới thiệu Sách hay - lan toả tri trức đã có bài

“Lửa đắng và tiểu thuyết chính trị”. Bài viết khẳng định Lửa đắng là một tiểu thuyết

chính trị. Tiểu thuyết đã “đưa người cán bộ đảng viên làm nhân vật trung tâm, và có

thể nói ông là người đầu tiên dựng nên hình tượng người Tổng bí thư Đảng trong tác

phẩm văn học”.

Bích Thu cũng có lời nhận xét khích lệ, biểu dương: “Nguyễn Khoa Điềm có

tập thơ tên “Ngôi nhà có ngọn lửa ấm” nhưng đây lại là Lửa đắng. Nó đặt ra trước

mắt chúng ta rất nhiều vấn đề nóng, nhiều vấn đề bức xúc về cơ chế, về đổi mới tư

duy, về cải cách hành chính mà anh Nguyễn Bắc Sơn đã đưa tất cả vào trong tác

phẩm của mình. Nói là tiểu thuyết chính trị, có thể nói là tiểu thuyết luận đề, ngay tên

Lửa đắng đã là tiểu thuyết luận đề, hoặc những vấn đề đặt ra đã mang tính luận đề.

7

Cái điều đáng nói ở đây là những nhân vật trong Lửa đắng không phải là cái loa

phát ngôn của tác giả. Những nhân vật hiện lên rất sống động, là những hình tượng

nghệ thuật đều nói lên điều mà nhà văn tâm huyết”.

Bài Cuộc trở dạ đau đớn của Đào Thị Mĩ Dung in trên báo Văn nghệ số 39 ra

ngày 26/9/2009 đã đề cập tới một số khía cạnh chính của tác phẩm: Đó là vị đắng của

cuộc sống được phản ánh qua Lửa đắng. Vị đắng của cơ chế mua bán càng ngày

càng ngấm sâu vào lòng độc giả, chà sát bao nhiêu tấc lòng còn nặng trĩu ưu tư về

tương lai đất nước. Đó là trận chiến cải cách xã hội được thể hiện qua hình tượng

nhân vật Trần Kiên - người đã thực hiện: “ nhất thể hoá hai vai trò trong một cương

vị trở thành một giải pháp tránh những bất cập trong công tác quản lí, lãnh đạo;

đồng thời bắt buộc người lãnh đạo phải luôn ý thức vai trò của mình trước Đảng và

chính quyền” [7].

Trong cuộc tọa đàm về cuốn tiểu thuyết Lửa đắng của nhà văn Nguyễn Bắc

Sơn (ngày 5/9/2011) do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức, có rất nhiều nhà văn, nhà

thơ, nhà nghiên cứu phê bình từ các nơi đến dự như: Nguyễn Trí Huân, Nguyễn

Quang Thiều, Phong Lê, Trần Đình Sử, Lê Thành Nghị, Bích Thu, Nguyễn Khắc

Trường, Nguyễn Hoàng Sơn, Phạm Xuân Nguyên… nhiều bản tham luận đã được

trình bày, nhiều ý kiến trao đổi về đề tài, về nội dung của Lửa đắng đã diễn ra. Cụ

thể: Tham luận của nhà phê bình Lê Thành Nghị cho rằng đây là cuốn tiểu thuyết viết

về đời sống hiện đại với nỗi đau trước cái ác và sự lộng hành của đồng tiền đang làm

biến dạng một bộ phận xã hội, nhưng không làm độc giả mất niềm tin vào cuộc đời.

Nhà thơ Hữu Thỉnh nhận định, nhà văn Nguyễn Bắc Sơn đã dám dũng cảm “xông

vào” thể nghiệm một đề tài mang tính thời sự nóng bỏng hiện nay: cơ chế thị trường

đã xâm nhập một cách mạnh mẽ vào các phương diện: quản lí - tri thức và giáo dục.

Lửa đắng là một tác phẩm tiên phong đưa ra cái nhìn mới về những giá trị cũ, hệ tư

duy cũ, cơ chế cũ… như một điều đáng báo động vẫn còn đang tiếp diễn trong cuộc

sống hiện nay. Có tham luận lại nói về cách dàn dựng các tuyến nhân vật đối lập nhau

của cuốn tiểu thuyết trong thế cờ cải cách hành chính.

Nhà văn Ma Văn Kháng có bài Lửa đắng bức toàn cảnh hôm nay in trên báo

Văn nghệ số 19(12/5/2012). Bài viết nhận định Lửa đắng viết về rất nhiều vấn đề của

cuộc sống hôm nay, về chuyện của một gia đình, chuyện của toàn xã hội: “Đọc Lửa

8

đắng có cái thú vị là gặp gỡ ở đây một cuộc sống thật phong phú trên rất nhiều bình

diện…Nói thế là để đi đến một nhận xét căn bản nữa: Lửa đắng qua miêu tả hiện

thực một đơn vị thành phố mang tên Thanh Hoa có cái vóc dáng và tham vọng trở

nên một bức họa toàn cuộc ngày hôm nay” [19]. Nhà văn cũng ghi nhận, với Lửa

đắng, Nguyễn Bắc Sơn đã “đẩy cuốn sách vào giữa dòng đời sôi sục đổi mới của

ngày hôm nay”.

Bên cạnh đó còn có một số bài phỏng vấn trực tiếp nhà văn Nguyễn Bắc Sơn

về Lửa đắng như : Sức khoẻ và đời sống có bài Nhà văn Nguyễn Bắc Sơn: ngọn lửa

văn chương là thuốc đắng, Việt Báo.vn có bài Lửa đắng sẽ bùng cháy,

Tuanvietnam.net có bài Tiểu thuyết Lửa đắng - bức tranh tha hoá quyền lực, An ninh

thủ đô với bài Sau Luật đời và cha con là Lửa đắng,…Các bài phỏng vấn đó đều có

sự động viên, khích lệ nhà văn. Đồng thời thông qua những tâm sự của chính tác giả

để làm rõ nội dung tác phẩm về đề tài, cách xây dựng nhân vật, ý đồ sáng tác…

Điểm lại những bài nghiên cứu, phê bình, những ý kiến phát biểu, thảo luận về

hai tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn, chúng tôi nhận thấy:

Hầu hết các bài viết đều khẳng định tài năng và giá trị tác phẩm của Nguyễn

Bắc Sơn, tuy còn đôi chỗ khác biệt nhưng về cơ bản là thống nhất. Hầu như các khía

cạnh thành công của tác giả về cả nội dung và nghệ thuật đều được đề cập. Song vì

mới chỉ dừng lại ở phạm vi các bài nghiên cứu, bài báo, ý kiến phát biểu, phỏng

vấn… nên các tác giả chưa có điều kiện để đi sâu lí giải toàn diện, cụ thể về đặc điểm

tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn và những đóng góp của ông cho sự phát triển của tiểu

thuyết Việt Nam đương đại. Chúng tôi xin tiếp thu tất cả ý kiến của các nhà nghiên

cứu, các nhà văn, nhà báo, bạn đọc về tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn. Đó là những

gợi mở quý báu để chúng tôi tiếp tục nghiên cứu trong luận văn của mình.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ đặc điểm

nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn về các mặt nghệ thuật tổ chức cốt

truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật và nghệ thuật tổ chức trần thuật. Qua đó góp

phần làm sáng rõ những đặc điểm cơ bản, những nét độc đáo, đặc sắc của nghệ thuật

tự sự trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

9

- Xác định những khái niệm liên quan đến nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết.

- Tìm hiểu về nghệ thuật tổ chức cốt truyện và xây dựng nhân vật trong tiểu

thuyết Nguyễn Bắc Sơn.

- Tìm hiểu về người kể chuyện, ngôn ngữ và giọng điệu trong tiểu thuyết

Nguyễn Bắc Sơn.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu nghệ thuật tự sự trong

tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn qua nghệ thuật tổ chức cốt truyện, nghệ thuật xây dựng

nhân vật và nghệ thuật tổ chức trần thuật.

4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn khảo sát chủ yếu hai cuốn tiểu thuyết gây

tiếng vang của Nguyễn Bắc Sơn, đó là Luật đời và cha con (Nhà xuất bản Văn học,

2008) và Lửa đắng (Nhà xuất bản Lao động, 2011), đồng thời có so sánh với một số

tiểu thuyết cùng thời của một số tác giả khác.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi chủ yếu sử dụng những phương pháp sau:

5.1. Phương pháp thống kê - phân loại.

5.2. Phương pháp so sánh - đối chiếu.

5.3. Phương pháp hệ thống - loại hình.

5.4. Phương pháp phân tích- tổng hợp.

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Thư mục tham khảo, phần Nội dung được

chia làm ba chương:

Chương 1: Khái quát về nghệ thuật tự sự và sáng tác của Nguyễn Bắc Sơn.

Chương 2: Nghệ thuật tổ chức cốt truyện và xây dựng nhân vật trong tiểu

thuyết Nguyễn Bắc Sơn.

Chương 3: Người kể chuyện, ngôn ngữ và giọng điệu trong tiểu thuyết Nguyễn

Bắc Sơn.

7. Đóng góp của luận văn

Luận văn tìm hiểu Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn nhằm

chỉ ra những đặc điểm cơ bản, những nét độc đáo, đặc sắc của nghệ thuật tự sự trong

10

tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn.

NỘI DUNG

Chƣơng 1

KHÁI QUÁT VỀ NGHỆ THUẬT TỰ SỰ VÀ SÁNG TÁC

CỦA NGUYỄN BẮC SƠN

1.1. Khái quát về nghệ thuật tự sự

1.1.1. Lịch sử nghiên cứu

Hội thảo tự sự học đầu tiên ở nước ta (2001- khoa văn, ĐHSPHN) và sau đó là

việc xuất bản công trình Tự sự học - một số vấn đề lí luận và lịch sử (Nxb. ĐHSP,

2003) dường như đã góp phần chính danh trong tiếng Việt tên gọi một chuyên ngành

nghiên cứu văn học quan trọng ở Âu - Mĩ, chuyên ngành Tự sự học - Narratology.

Tự sự học là một lĩnh vực tri thức rộng lớn, có lịch sử lâu đời. Tuy chủ nghĩa

cấu trúc và tiền thân của nó là trường phái hình thức Nga đã làm cho lý thuyết tự sự

trở thành một học vấn có hệ thống chặt chẽ, nhưng kiến thức về tự sự đã không

ngừng được khám phá từ xưa đến nay.

Tự sự học vốn là một nhánh của thi pháp học hiện đại, nghiên cứu cấu trúc của

văn bản tự sự và các vấn đề liên quan, hay nói cách khác là nghiên cứu đặc điểm nghệ

thuật trần thuật của văn bản tự sự nhằm tìm một cách đọc. Tên gọi Tự sự học -

Narratology, Narratologie, là do nhà nghiên cứu Pháp gốc Bungari Tezvetan Todorov

đề xuất năm 1969, trong sách Ngữ pháp “Chuyện mười ngày”. Cái mà Todorov gọi

là ngữ pháp ở đây chính là kết cấu tự sự của tác phẩm. Thực ra nghiên cứu cấu trúc tự

sự là một truyền thống lâu đời trong văn học phương Tây. Hoàn toàn có thể xem Thi

pháp học của Aristotle là một trong những khởi đầu của truyền thống đó. Trong quá

trình phát triển, nó đã khẳng định vai trò quan trọng của mình trong ngành tự sự học,

trong khoa văn học và trong các khoa học nhân văn; là một bộ môn nghiên cứu liên

ngành, có tính quốc tế.

Bản chất của tự sự ngày nay được hiểu là một sự truyền đạt thông tin, là quá

trình phát ra đơn phương trong quá trình giao tiếp, văn bản tự sự là cụm thông tin

được phát ra, và tự sự có thể thực hiện bằng nhiều phương thức, con đường. Song

trong các hình thức tự sự, có thể nói tự sự trong văn học là phức tạp nhất và là đối

tượng nghiên cứu chủ yếu của tự sự học. Nó không chỉ có trong truyện ngắn, tiểu

11

thuyết mà còn có trong thơ, kịch.

Lý thuyết tự sự ngày càng được quan tâm hơn trên phạm vi thế giới bởi nó là

công cụ cơ bản nhất, sắc bén nhất để giúp ta có thể đi sâu vào các lĩnh vực nghiên

cứu điện ảnh, giao tiếp, phương tiện truyền thông, nghiên cứu văn hóa. Lý thuyết tự

sự có thể coi như một bộ phận không thể thiếu trong hành trang nghiên cứu văn học

ngày nay. Nó là một bộ phận cấu thành của hệ hình lí luận hiện đại.

Tự sự học hiện đại cho thấy rõ vai trò của chủ thể trong trần thuật khi phân

biệt kể cái gì và kể như thế nào. Lần đầu tiên nó làm cho người trần thuật vô hình vốn

ít được người ta chú ý phân tích, được hiện ra như là một hệ thống biểu đạt. Lý thuyết

tự sự cũng chỉ ra kết cấu của các tầng bậc trần thuật và theo đó xuất hiện các kiểu

người trần thuật khác nhau. Lý thuyết tự sự hiện đại đã nêu ra các khái niệm về góc

nhìn, điểm nhìn…điều đó giúp phân tích, nhận dạng hình thức tự sự. Tự sự học hiện

đại có thể được chia làm ba thời kì: tự sự học trước chủ nghĩa cấu trúc, tự sự học cấu

trúc chủ nghĩa và tự sự học hậu cấu trúc chủ nghĩa.

Trước cấu trúc chủ nghĩa, tự sự học nghiên cứu các thành phần và chức năng

của tự sự. B.Tomasepxi, năm 1925, đã nghiên cứu các yếu tố và đơn vị của tự sự.

V.Shklovski chia truyện thành hai lớp: chất liệu và hình thức. V.Propp nghiên cứu

cấu trúc và chức năng tự sự trong truyện cổ tích (1928). Từ những năm 20 của thế kỉ

trước, Bakhtin đã nghiên cứu mối quan hệ giữa tác giả và nhân vật, ngôn từ trần thuật

và tính đối thoại của nó. Họ trở thành những người mở đường cho tự sự học hiện đại.

Ở phương Tây, với sáng tác của Flaubert ở thế kỉ XIX, cũng như sáng tác của Henry

James (Mĩ) và M.Proust (Pháp) ở đầu thế kỉ XX, người ta đã biết rằng trong tiểu

thuyết sự kiện không phải là cái quan trọng nhất, mà quan trọng nhất là ý thức, là

phản ánh tâm lí của nhân vật đối với sự kiện, từ đó người ta quan tâm tới “trung tâm

ý thức”, chi tiết trong tiểu thuyết phải lọc qua trung tâm ý thức của nhân vật mới bộc

lộ ý nghĩa. Từ đó, các vấn đề điểm nhìn, dòng ý thức được đặc biệt quan tâm với

Percy Lubock (1921), K.Friedemann (1910). Về sau các vấn đề này còn được phát

triển bởi một loạt tác giả Âu, Mĩ khác như J.Pouillon, A.Tate, CI.Brooks, T.Todorov,

G.Gennette… Những tìm tòi này gắn với ý thức về kĩ thuật của tiểu thuyết.

Giai đoạn thứ hai của lí thuyết tự sự là chủ nghĩa cấu trúc, đi tìm mô hình cho

hình thức tự sự, mở đầu với công trình Dẫn luận phân tích tác phẩm tự sự của

12

R.Barthes năm 1968 và “S/Z” năm 1970 (tác phẩm này đã bắt đầu chuyển sang hậu

cấu trúc chủ nghĩa); T.Todorov có tác phẩm Ngữ pháp “Chuyện mười ngày”… Sơ

khởi của quan niệm này là hình thái học truyện cổ tích của Propp, tiếp theo là nghiên

cứu cấu trúc thần thoại của Claude Levi-Strauss và mô hình hành vi ngôn ngữ của

Roman Jakobson. Đặc điểm của lí thuyết tự sự chủ nghĩa cấu trúc là lấy ngôn ngữ học

làm hình mẫu, xem tự sự học là sự mở rộng của cú pháp học, còn trữ tình là sự mở

rộng của ẩn dụ. Todorov xem nhân vật như danh từ, tình tiết là động từ, trong chủ

nghĩa hiện thực thì tình tiết thuộc thức chủ động, còn trong thần thoại là thuộc thức bị

động… A.J.Greimas vận dụng sự đối lập trục liên kết và trục lựa chọn để nghiên cứu

cấu trúc tự sự. G.Genette tuyên bố mỗi câu chuyện là sự mở rộng của một câu - chủ

yếu là vị ngữ động từ vì ông sử dụng tràn lan các thuật ngữ ngôn ngữ học. R.Barthes

cũng tán thành quan điểm đó. Mục đích của chủ nghĩa cấu trúc là nghiên cứu bản chất

ngôn ngữ, bản chất ngữ pháp của tự sự nhằm tìm một cách đọc tự sự mà không cần

đối chiếu giản đơn tác phẩm tự sự với hiện thực khách quan. Mặc dù không phủ nhận

được mối quan hệ văn học với đời sống, nhưng họ đã góp phần làm sáng tỏ bản chất

biểu đạt và giao tiếp của tự sự. Song sự lạm dụng mô hình ngôn ngữ học đã làm cho

tự sự học gặp khó khăn, và chính Todorov cũng vấp phải thất bại, bởi ông chỉ quan

tâm ngữ pháp tự sự hơn là văn bản tự sự.

Giai đoạn thứ ba của tự sự học là gắn liền với kí hiệu học, một bộ môn quan

tâm tới các phương thức biểu đạt ý nghĩa khác nhau, lấy văn bản làm cơ sở (Jean -

Claude Coquet). Ở đây, hình thức tự sự là phương tiện biểu đạt ý nghĩa của tác phẩm.

Tư tưởng này gắn với việc phân tích ý thức hệ của M.Bakhtin. Các tác giả như

Iu.Lotman, B.Uspenski, cũng theo hướng này, nhìn thấy đằng sau điểm nhìn một lập

trường quan điểm xã hội thẩm mĩ nhất định. Đặc điểm của lý thuyết tự sự hiện nay,

tuy cũng coi trọng phân tích hình thức nhưng không tán thành việc sao phỏng giản

đơn các mô hình ngôn ngữ học mà đi theo kí hiệu học và siêu kí hiệu học. Pierre

Macherey, nhà mácxít Pháp cho rằng bất cứ sự đồng nhất nào giữa phê bình văn học

với ngôn ngữ học đều sẽ thất bại, bởi nó bỏ qua vai trò tác động của hình thái ý thức,

còn Iu.Lotman cho rằng thông tin ngôn ngữ là thông tin phi văn bản, mà điểm xuất

phát của văn bản lại chính là chỗ bất cập của ngôn ngữ khiến nó trở thành văn bản.

Nếu văn bản trở về với ý nghĩa của ngôn ngữ học thì có nghĩa là sự sụp đổ của văn

13

hóa. Như thế lý thuyết tự sự phải gắn với chức năng nhận thức và giao tiếp.

Tổng quan quá trình phát triển của lý thuyết tự sự, nhà lí luận tự sự Mĩ Gerald

Prince chia làm ba nhóm theo ba loại hình. Nhóm một là những nhà tự sự học chịu

ảnh hưởng của các nhà hình thức chủ nghĩa Nga như V.Propp, trong số này có

Greimas, ông đã giản lược số chức năng của Propp xuống tới con số 20 và làm nổi

bật lôgic tự sự. Các tác giả như Todovov, Barthes, Remak, Norman Friedman,

Northrop Frye, Etienne Souriau…, mỗi người một cách, chú ý tới cấu trúc của câu

chuyện được kể, đi tìm mẫu cổ của tự sự, chức năng của biến cố và quy luật của tổ

hợp, lôgic phát triển và loại hình cốt truyện… Khi cực đoan nhất họ cho rằng tác

phẩm tự sự không chi phối bởi chất liệu. Một câu chuyện có thể kể bằng văn học,

điện ảnh, ba lê, hội họa…đều được, do đó bỏ qua hoặc không đi sâu vào đặc trưng

biểu đạt của chất liệu. Nhóm thứ hai lấy G.Genette làm tiêu biểu đã xem nguồn gốc

của tự sự là dùng ngôn ngữ nói hay viết mà biểu đạt, cho nên vai trò của người trần

thuật được coi là quan trọng nhất. Họ chú ý lớp ngôn từ của người trần thuật với các

yếu tố cơ bản như điểm nhìn, giọng điệu… Đây là nhóm đông nhất thu hút nhiều nhà

nghiên cứu như Dolezel, Micke Bal. Nhóm thứ ba đại diện là Gerald Prince và

Seymour Chatman, họ coi trọng phương pháp nghiên cứu tổng thể, hay dung hợp.

J.Culler cũng thuộc phái này, ông coi trọng cả cấu trúc sự kiện lẫn cấu trúc lời văn.

Nghiên cứu tự sự đang là một xu thế có nhiều triển vọng trong lý luận văn học và có

ý nghĩa văn hóa rộng lớn.

1.1.2. Khái niệm nghệ thuật tự sự

Trong Từ điển tự sự học (University of Nebraska Press xuất bản 1987), mục từ

Narratology của Gerand Prince có hai định nghĩa:

Định nghĩa 1: Lí thuyết về tác phẩm tự sự ra đời dưới ảnh hưởng của Chủ

nghĩa cấu trúc. Narratology nghiên cứu hình thức, quy luật vận động, tính chất của

các tác phẩm tự sự với các chất liệu khác nhau, nghiên cứu năng lực tự sự của chủ thể

sản sinh và đối tượng tiếp nhận tác phẩm tự sự. Các bình diện mà nó tìm hiểu bao gồm

“nội dung câu chuyện” và “hình thức trần thuật” cùng mối quan hệ giữa hai cái đó.

Định nghĩa 2: Nghiên cứu tác phẩm tự sự trong tính cách là một biểu đạt văn

tự đối với sự kiện câu chuyện (tiêu biểu là G.Genette). Trong nghĩa hạn định này,

narratology không quan tâm bản thân câu chuyện, mà tập trung sự chú ý vào thoại

14

ngữ tự sự.

Như vậy có thể thấy, Narratology trong định nghĩa thứ nhất chính là một lí

luận tổng quát liên quan đến mọi tác phẩm tự sự trong một trọn vẹn chỉnh thể và quá

trình. Chúng ta có thể hiểu bao quát rằng, mọi tác phẩm tự sự ở đây là chỉ tất cả các

loại hình và dạng thức tự sự, cho dù là tự sự trên/bằng/với chất liệu/phương tiện nào

chứ không chỉ là ngôn từ lời nói. Nó cũng nghiên cứu hai đầu của cái quá trình giao

tiếp tự sự đó - chủ thể sản sinh tự sự và kẻ tiếp nhận tự sự. Đó không chỉ là hình ảnh

một người nói/viết và bên kia, hình ảnh người đọc/người nghe. Tất cả các tác phẩm tự

sự đều vật chất hoá thành một dạng “văn bản” bởi những chủ thể tác giả tồn tại/hiển

hiện trên những cấp độ bao hàm nhau “kể” cho những đối tượng thụ nhận cũng tồn

tại /hiển hiện trên những cấp độ bao hàm tương ứng một “câu chuyện”.

Narratology trong định nghĩa thứ hai có một sở chỉ hạn định hơn. Nó nghiên

cứu văn học tự sự ( tiểu thuyết, truyện kể là thực liệu điển hình). Thậm chí nó còn

tiếp tục giới hạn sự quan tâm trong phạm vi hình thức biểu đạt câu chuyện bằng lời

văn tự. Ở đây nhắc đến G. Genette như là đại diện tiêu biểu của khuynh hướng tự sự

học này. Ta đều biết tác phẩm đại biểu của Gérard Genette là Thoại ngữ tự sự

(Discours du recit. Seuil, 1972. J.E.Lewin dịch ra tiếng Anh Narrative Discourse.

Ithaca: Cornell Univ. Press, 1980). Trong đó Genette đề xuất khái niệm ngữ thái,

phân xuất thoại ngữ trần thuật và hành động trần thuật từ cái thực thể mà chẳng hạn

Mieke Bal (Hà Lan) cũng gọi bằng tiếng Pháp là văn bản tự sự (texte narratif).

Những tác phẩm tự sự bằng/trên chất liệu khác dĩ nhiên không liên quan đến khái

niệm ngữ thái của Genette.

Tự sự học hiện đại cố gắng khu biệt narrative và naration như là khu biệt giữa

“chuyện kể ra” và “hoạt động kể chuyện”. Người ta giả định rằng mọi chuyện trên

đời cho tới trước lúc được kể nên lời là cứ tồn tại trong trạng thái “vốn thế”. Và

những sự - việc tồn tại “vốn thế” đó không phải là narrative (tạm gọi là truyện kể,

hoặc chuyện kể - trong cách nói “chuyện kể rằng...”) mà là story (tạm gọi là chuyện,

câu chuyện, trong cách nói “có một câu chuyện...”). Các học giả Trung Quốc gọi cái

này là “cố sự” (với nghĩa “chuyện đã xảy ra” - nhấn mạnh yếu tố “cố” (tạm lấy đầu

đề Cố sự tân biên dịch theo cách của Trương Chính - Chuyện cũ viết lại để minh

hoạ cho ý này). Sau khi ta thuật ra/kể nên “chuyện đã xảy ra” đó thì mới có kết quả

15

hiện trình narrative, tức là một câu chuyện do hình tượng một người trần thuật

hướng về độc - thính giả từ một góc độ nào đó, tồn tại trong một kết cấu ngôn từ nhất

định. Công việc đó trở nên có khả năng chính là nhờ hoạt động naration. Chung quy,

naration dịch thành “thuật kể/trần thuật/kể chuyện” chỉ hoạt động, còn narrative dịch

thành “tự sự/ truyện kể”, chỉ kết quả của hoạt động narration, cái kết quả “chuyện

kể ra” hoặc nói chính xác hơn “chuyện có được nhờ kể, chuyện nhờ kể mà nên”. Vì

nói “câu chuyện” sợ người ta vẫn nghĩ đến “chuyện đã xảy ra” chưa từng kể đến chứ

không phải là những “chuyện xưa kể rằng” - sản phẩm thường thấy trong nền văn

hoá đọc. Thế nhưng, những rào đón như thế này thường cũng khó mà tự mình kín kẽ.

Ta hoàn toàn có thể cật vấn rằng, vậy làm thế nào để biết đến những “cố sự ” đó?

Huống hồ có cho đó là “sự cố” hay không lại còn là một chuyện khác. Làm thế nào

để biết đó là những sự - việc tồn tại “vốn thế” (sự - việc dưới “dạng bản lai chân

diện mục”) trong “thực tế hiện thực”. Cái “câu chuyện/story/histoire/cố sự” theo

nghĩa này phải được hiểu là những kết cấu sự kiện có tính cách “khách quan” chưa

từng kinh qua bất cứ biểu thuật nào và vì thế không chịu bất cứ ảnh hưởng của một

lập trường quan điểm hay sự “nhào nặn” của hình thức biểu thuật. Trên thực tế

những câu chuyện ta đọc được, nghe được không thể còn có “tính khách quan” giả

tưởng đó được nữa. Tự sự học giải cấu trúc dường như muốn đi đến cùng trong vấn

đề này. Các nhà tự sự học giải cấu trúc cho rằng chúng ta (cả độc giả lẫn nhà viết

truyện) chỉ có thể tiếp xúc với câu chuyện thông qua thoại ngữ tự sự đã sản sinh nên

nó. Họ cho rằng tự sự học giả định sự kiện tồn tại trước thoại ngữ nói về hoặc biểu

đạt chúng. Vì vậy đã kiến lập nên một trật tự tầng bậc. Thế nhưng tác phẩm tự sự

trong quá trình vận tác thường lật nhào trật tự đó. Các tác phẩm tự sự không phải là

biểu đạt sự kiện như là biểu đạt sự thực đã biết, mà là biểu đạt chúng như là sản vật

của sức mạnh hay yêu cầu của thoại ngữ.

Lí thuyết tự sự học hiện đại lần đầu tiên cho người ta thấy sự phức tạp của cấu

trúc tự sự. Nó quan tâm đến nhiều vấn đề khác nhau của tác phẩm.

Tác giả không bao giờ hiện diện trong tác phẩm như là một người kể, người

phát ngôn, mà chỉ xuất hiện như là một tác giả hàm ẩn, một cái “Tôi” thứ hai của nhà

văn, với tư cách là người mang hệ thống quan niệm và giá trị trong tác phẩm. Tác giả

thực sự xuất hiện chỉ như người ghi, người sao lục lời kể hoặc là người nghe trộm

16

người kể. Người trần thuật là kẻ được sáng tạo ra để mang lời kể. Và hành vi trần

thuật là hành vi của người trần thuật đó mà sản phẩm là văn bản tự sự. Người trần

thuật trong văn bản văn học là một hiện tượng nghệ thuật phức tạp nhất mà ngôi kể

chỉ là hình thức biểu hiện ước lệ. Người trần thuật vốn không có gì là ngôi kể, mà chỉ

là chủ thể kể. Sự khác biệt của “ngôi thứ nhất”, “ngôi thứ ba” chỉ là khác nhau về

mức độ bộc lộ và ẩn dấu của người trần thuật mà thôi. Sự ẩn dấu của ngôi kể thứ ba

làm cho nó gần như là vô nhân xưng. Ngôi kể là yếu tố tạo thành tiếng nói, giọng

điệu. Điều quan trọng nữa là kể theo điểm nhìn nào. Đây là vấn đề tiêu cự trần thuật

làm phân biệt các hình thức tự sự khác nhau.

Ý thức chủ thể tự sự cũng là một hiện tượng phức tạp, nhiều tầng, bao gồm tác

giả hàm ẩn, người trần thuật (có thể nhiều vai) và nhân vật (có thể nhiều người). Từ

đó, cấu trúc tự sự có nhiều tiếng nói, nhiều giọng điệu, có tính đối thoại, một vấn đề

đã được M.Bakhtin nêu lên.

Lí thuyết tự sự hiện đại lần đầu tiên làm cho người trần thuật vô hình vốn ít

được người ta chú ý phân tích, được hiện ra như một hệ thống biểu đạt. Nó cho người

ta thấy người trần thuật đã can dự vào tiến trình tự sự như thế nào, từ hình thức đến

bình luận.

Lí thuyết tự sự đã chỉ ra kết cấu và tầng bậc trần thuật, mà người trần thuật ở

bậc càng cao thì càng xuất hiện sau. Nhiệm vụ của nó là cung cấp, giới thiệu người

trần thuật ở bậc thấp, phân biệt trần thuật chính, trần thuật phụ, siêu tự sự (super

narative) là biện pháp che giấu tính hư cấu và do đó, gia tăng khả năng hư cấu cho

tiểu thuyết. Tự sự càng phát triển thì siêu tự sự cũng phát triển theo, xuất hiện các

kiểu người trần thuật khác nhau.

Lí thuyết tự sự cho thấy rõ sự biến dạng thời gian bằng các biện pháp rút gọn,

tỉnh lược, kéo dài, dừng lại, lặp lại và các hình thức đổi thay tính liên tục của sự kiện.

Từ đó nó giúp quan sát cụ thể cơ chế của nghệ thuật tự sự.

Lí thuyết tự sự học hiện đại đã nêu ra vấn đề phương vị hay nói cách khác là

góc nhìn (narrative perspective) với điểm nhìn, tiêu cự trần thuật với mô hình trần

thuật. Nó cũng nghiên cứu sâu về hành vi ngôn ngữ tự sự và các hình thức của nó.

Bao gồm việc phân loại các cách chuyển thuật ngôn ngữ người khác, như trực tiếp,

gián tiếp tự do, các hình thức độc thoại nội tâm, dòng ý thức. Tự sự học gắn chặt với

17

phong cách học tiểu thuyết. Ngày nay người ta không thể nghiên cứu phong cách học

tiểu thuyết mà bỏ qua các vấn đề của tự sự học. Tự sự học hiện đại đang tiếp tục

nghiên cứu cấu trúc tình tiết, đơn vị cơ bản của tự sự, các kiểu tổ hợp tình tiết, loại

hình hóa cốt truyện.

Như vậy nghiên cứu tự sự học có ý nghĩa văn hóa rộng lớn. Nó mở ra khả

năng nghiên cứu truyền thống tự sự trong mỗi nền văn học. Nó cho ta thấy không chỉ

là kĩ thuật trần thuật của các thể loại, các nhà văn, mà còn cho ta thấy cả truyền thống

văn hóa ở đằng sau nó. Nó cho ta thấy cả ưu điểm và chỗ yếu của các truyền thống

văn học, từ đó có cái nhìn sâu sắc và toàn diện về truyền thống văn học ấy.

1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Bắc Sơn

1.2.1. Vài nét về tiểu sử Nguyễn Bắc Sơn

Nhà văn Nguyễn Bắc Sơn có tên khai sinh Nguyễn Công Bác. Sinh năm 1941.

Quê quán : Hữu Bằng, Thạch Thất, Hà Nội. Sinh ra ở Nam Định, kháng chiến chống

Pháp, gia đình ông tản cư lên Phú Thọ, ở xã Tân Phong, huyện Hạ Hòa. Ở đây ngay

từ tuổi thiếu niên, ông đã tham gia đoàn thiếu nhi nghệ thuật Lưu Hữu Phước, trong

trại Thiếu nhi Bác Hồ, biểu diễn múa hát phục vụ kháng chiến. Năm 1955, ông trở về

Hà Nội, tốt nghiệp đại học Sư phạm năm 1962 trở thành thầy giáo dạy Văn trường

THPT Hoàn Kiếm trong 10 năm. Ông kể, hồi còn học phổ thông, cũng đã từng ấp ủ

mộng văn chương vì cũng có chút năng khiếu, nhưng rồi theo thời gian, cái mộng văn

chương ấy cũng tắt ngấm. Năm 1972 ông vào bộ đội, tham gia kháng chiến chống Mỹ

cứu nước, từ năm 1981 đến 1992 ông là phó hiệu trưởng trường Chu văn An danh

tiếng, được bổ nhiệm làm hiệu trưởng nhưng ông từ chối sau đó vui vẻ về làm trưởng

phòng quản lý báo chí, xuất bản của sở Văn hoá thông tin Hà Nội, bởi vì: “Nghề báo

chí xuất bản, gắn với sách vở chữ nghĩa” là niềm đam mê từ lâu của ông. Chính

trong quãng thời gian 10 năm ở Sở Văn hoá thông tin Hà Nội, ông đã đến với thực tế

đời sống, cọ sát và va đập đến tận cùng với cuộc đời của một anh công chức ngành

văn hoá, chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng trong tiến trình đổi mới của đất nước.

Cơ chế thị trường đang xuất hiện, nhiều giá trị bị đảo lộn, đời sống con người, tư duy

và bản lĩnh cũng phải đổi thay chóng mặt để thích ứng với thời cuộc, vì thế có biết

bao bi kịch đau đớn trong cái đời sống phức tạp ấy. Nguyễn Bắc Sơn đã sống đến tận

18

cùng cuộc sống đang sở hữu, làm việc hết mình và tích lũy vốn sống hết mình.

1.2.2. Sáng tác của Nguyễn Bắc Sơn

Nguyễn Bắc Sơn là một nhà văn đa tài. Ông đã thử bút với nhiều thể loại văn

học, từ bút ký, đến truyện ngắn, truyện vừa rồi tiểu thuyết,… Ở thể loại nào ông cũng

gặt hái được những thành công nhất định.

Với những thành công trong sáng tạo nghệ thuật của mình, Nguyễn Bắc Sơn

đã vinh dự nhận được nhiều giải thưởng văn học lớn: Giải Ba viết về giao thông vận

tải của Hội Nhà văn Việt Nam và Bộ Giao thông Vận tải; Giải Nhì và hai giải Nhất

(2001, 2002, 2003) cuộc thi Cả nước viết về Thăng Long - Hà Nội của báo Hà Nội

mới; Tặng thưởng của NXB Thanh niên viết về tập truyện vừa và ngắn Luật đời

(2004); Giải thưởng của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật

Việt Nam tiểu thuyết Luật đời và cha con ( 2005); Giải Ba cuộc thi tiểu thuyết lần thứ

ba (2006 - 2010) của Hội Nhà văn Việt Nam cho tiểu thuyết Lửa đắng; Phim Luật đời

26 tập, chuyển thể từ tiểu thuyết Luật đời và cha con đoạt giải nhất phim truyền hình

nhiều tập năm 2007 do khán giả bình chọn.

Đánh dấu thành công lớn nhất cho sự nghiệp của nhà văn Nguyễn Bắc Sơn

chính là tiểu thuyết. Các tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn đều là tiểu thuyết luận đề,

trong đó đề cập đến nhiều vấn đề như chuyện gia đình, chuyện thế hệ, chuyện tình

yêu và đáng kể nhất là chuyện thay đổi cơ chế. Có thể nói ông là một nhà văn dũng

cảm, dám đối diện với những vấn đề thời sự chính trị đang diễn ra ở Việt Nam.

Cái tên Nguyễn Bắc Sơn cùng lối viết thẳng thắn, sâu sắc và gần cuộc sống,

con người hiện tại, thể hiện sinh động những vấn đề chính trị nhạy cảm làm giới mê

đọc nhớ mỗi khi nhắc đến tiểu thuyết Luật đời và cha con và Lửa đắng. Càng ngạc

nhiên hơn khi biết rằng đó là những tác phẩm đầu tay được ví như những bông hoa

nở muộn.

Nghỉ hưu, rời bỏ đời sống công chức mà thời gian cứ bị xé vụn ra bởi những

công việc hành chính sự vụ, ông chợt nhận ra mình đang sở hữu một nguồn tư liệu vô

cùng phong phú đã tích lũy được, lại được sống theo sở thích, sống cho mình. Lúc ấy

cái thú văn chương mới được thoả chí tang bồng. Thế là lao vào viết, viết như chưa

bao giờ được viết. Những bức xúc về cơ chế, những nỗi đau nhân tình thế thái trong

cơ chế còn nhiều bất cập đã được ông mổ xẻ một cách kỹ lưỡng, không né tránh

19

nhưng cũng đầy trách nhiệm dựng xây. Ở gần cái tuổi xưa nay hiếm, con người ta

mới càng có được cái nhìn chín chắn và bản lĩnh, đặc biệt là đối với chuyện chính trị

xã hội.

Lần đầu tiên trong các tác phẩm văn học Việt Nam có sự xuất hiện của những

nhân vật như Tổng Bí thư, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy… được xây dựng

một cách có chiều sâu, cá tính, có trăn trở và suy tư. Những cuộc tranh luận giữa cái

mới và cái cũ, cái cứng nhắc bảo thủ, mà đại diện là nhân vật “Cụ”, cũng chính là sự

phản biện xã hội, để cuối cùng là đề xuất những gì cần phải thay đổi mang tính thực

tiễn cao hơn ở tầm vĩ mô như đổi mới cơ chế, cải cách hành chính, nhẹ hơn thì cũng

là những vấn đề về hôn nhân gia đình xã hội, chứ không chỉ đơn giản giải quyết một

vấn đề nhỏ trong phạm vi hẹp. Đó cũng chính là sự dũng cảm, thể hiện một nhãn

quan chính trị sâu sắc của nhà văn. Có thể nói sự ra đời liên tục của 2 tác phẩm Luật

đời và cha con và Lửa đắng thực chất đã là một quá trình thai nghén từ những trải

nghiệm cuộc sống của ông đã được độc giả đón nhận nồng nhiệt với gần chục lần tái

bản, thực sự gây tiếng vang trên văn đàn và đoạt giải thưởng của Hội Liên hiệp Văn

học nghệ thuật Việt Nam năm 2005. Cũng do tính thời sự của tác phẩm nên bộ phim

Luật đời được chuyển thể từ Luật đời và cha con đã được khán giả bình chọn là

Phim truyền hình nhiều tập hay nhất năm 2007. Đó là sự ghi nhận xứng đáng dành

cho lao động không mệt mỏi của “lão nhà văn trẻ” Nguyễn Bắc Sơn.

Ông nói rằng, có sức khỏe để được viết là hạnh phúc lớn nhất của ông. Cũng

vì lẽ đến với văn chương muộn nên ông thực sự tiếc thời gian. Vẫn còn rất nhiều điều

trăn trở mà nhà văn Nguyễn Bắc Sơn muốn viết ra nên người đọc vẫn đang chờ đợi trong

thời gian tới sẽ được gặp lại phong cách viết thẳng thắn và cái nhìn sắc sảo của ông.

1.2.3. Quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Bắc Sơn

Theo cuốn Từ điển thuật ngữ văn học thì “Quan niệm nghệ thuật là nguyên

tắc cắt nghĩa thế giới và con người vốn có của hình thức nghệ thuật, đảm bảo cho nó

khả năng thể hiện đời sống với một chiều sâu nào đó” [14, tr.273]. Thực chất, đây là

quan niệm của một nhà văn về thế giới và con người qua lăng kính riêng của chủ thể

sáng tạo. Quan niệm nghệ thuật có mở rộng và không ngừng vươn tới giới hạn tối đa

trong cách hiểu thế giới và con người. Có như vậy, nhà văn mới có thể hiểu và phản

ánh sâu sắc bộ mặt đa sắc diện của đời sống và âm thanh muôn điệu của tâm hồn con

20

người. Tìm hiểu quan niệm nghệ thuật của một nhà văn chính là tìm hiểu sự thâm

nhập của họ đối với hiện thực đời sống và nội tâm con người, sự lý giải thấu tình đạt

lý bằng các phương tiện nghệ thuật phù hợp cho các hiện tượng đó. Như vậy: “Quan

niệm nghệ thuật là hình thức bên trong của sự chiếm lĩnh đời sống, là hệ quy chiếu

ẩn chìm trong hình thức nghệ thuật” [14, tr.275].

Là một người viết không chỉ dựa vào bản năng thiên bẩm mà còn luôn quan

sát và suy nghĩ về chính công việc của mình và đồng nghiệp, Nguyễn Bắc Sơn đã

hình thành ý thức nghệ thuật khá nhất quán trong hành trình sáng tạo của mình. Do

vậy, muốn tìm hiểu nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn, theo

chúng tôi, trước hết cần phải tìm hiểu quan niệm của chính tác giả về cuộc đời và

nghệ thuật. Nhà văn không thể miêu tả, phản ánh, lý giải sâu sắc hiện thực nếu thiếu

một tư tưởng riêng xác định về hiện thực ấy bởi những quan niệm ấy sẽ chi phối sáng

tác của nhà văn.

Tốt nghiệp khoa Văn, trường ĐHSP Hà Nội năm 1962, ông trở thành thầy giáo

dạy văn. Ông kể, hồi còn học phổ thông, cũng đã từng ấp ủ mộng văn chương vì cũng

có chút năng khiếu, nhưng rồi theo thời gian, cái mộng văn chương ấy cũng tắt ngấm.

Thời gian làm quản lý giáo dục, ông bắt đầu say mê nghiên cứu, viết báo. Là một

người ham tìm tòi và chịu khó tư duy, có óc quan sát tinh tế nên những chuyện đời,

chuyện người, chuyện quê hương đất nước đã dồn nén buộc ông phải viết. Lúc đầu là

bút ký và các bài báo, rồi những công trình nghiên cứu về nhiều vấn đề khoa học như

tay phải, tay trái, sự ra đời của bàn tính gẩy Trung Quốc... Ông “giật” một giải nhì,

hai giải nhất trong cuộc thi cả nước viết về Thăng Long - Hà Nội. Ông cũng từng có

kiến giải hay về cách thi công trận địa cọc Bạch Đằng, điều đó chứng tỏ ông vô cùng

chịu khó tìm tòi. Thành quả cho những nỗ lực không mệt mỏi đó của nhà văn chính là

5 tập bút ký, 2 cuốn sách viết về ngôn ngữ, giáo dục, văn hóa. Luật đời và cha con là

cuốn tiểu thuyết đầu tay nhưng là mốc son thành công cho sự nghiệp tiểu thuyết của

Nguyễn Bắc Sơn. Ông cho rằng, con đường sáng tác như thế là phù hợp với quy luật.

Từ bút ký, đến truyện ngắn, truyện vừa rồi tiểu thuyết. Ông bảo văn chương thì cần

phải có thời gian suy ngẫm, đó là cả một quá trình tìm tòi, mày mò, thể nghiệm và rèn

luyện. Thời gian công tác trong ngành giáo dục giúp ông tích lũy vốn sống. Hơn 10

21

năm cuối cùng làm việc bên ngành văn hoá với chức trưởng phòng Quản lý báo chí

xuất bản, ông tiếp xúc nhiều hơn, đi nhiều hơn, cọ xát, va đập với đời sống hằng ngày

mà báo chí vừa là nguồn tư liệu, vừa là cầu nối.

Hành trình sáng tác của Nguyễn Bắc Sơn chính là cả một quá trình dài tích lũy

kiến thức và kinh nghiệm sống, kinh nghiệm viết. Quá trình tích lũy ấy đã được nhà

văn tâm sự rất nhiều qua các bài phỏng vấn trên các báo. Cụ thể:

Trong bài trả lời phỏng vấn của nhà thơ Vũ Duy Thông trên Báo Văn nghệ khi

được hỏi ông mê văn từ bao giờ và viết như thế nào? Nguyễn Bắc Sơn đã tâm sự: cái

mộng văn chương bắt đầu từ hồi học phổ thông nhưng dần tắt ngấm bởi học xong đi

dạy học, đi bộ đội rồi lại về dạy học, làm cán bộ quản lý ở một trường cấp 3, hơn

chục năm cuối cùng mới sang ngành Văn hóa - Thông tin. Nhưng cuối cùng “rồi thấy

nhiều chuyện quá. Không viết không được. Lúc đầu, ký là hấp dẫn tôi nhất. Bao

nhiêu chuyện người, chuyện đời, chuyện quê hương đất nước dồn cho ký. Đi máy bay

viết về người lái máy bay, người dẫn đường máy bay, xuống nước gặp anh thợ lặn,

viết gian nan nghề thợ lặn. Mấy bước ra Bờ Hồ, gặp cây lộc vừng liền viết về cây lộc

vừng chín gốc bên Hồ Gươm. Thế rồi sang truyện ngắn, tiểu thuyết lúc nào không

hay. Năm 1999, tôi ra cùng lúc 4 cuốn sách với gần 1.700 trang. Báo Văn nghệ Trẻ

khen và đặt câu hỏi: “Phải chăng đây là hiện tượng xuất bản của năm nay?”. Tôi

thành “nhà văn trẻ tóc bạc” từ đấy” [57]. Đến với văn chương khá muộn nên

Nguyễn Bắc Sơn chỉ thực sự thành danh khi mái đầu đã pha sương, ông cũng lí giải

điều này: “Đến khi nghỉ hưu, thời gian là của mình, được sống theo sở thích, sống

cho mình, lúc ấy cái chí viết văn mới thực sự trỗi dậy. Thế là lao vào viết. Càng viết

càng ham. Viết chí chết. Mình là một người của cơ chế, cơ chế ấy do mình góp phần

đẻ ra. Là người của cơ chế nhưng lại thấy cơ chế nhiều bất cập quá. Nó buộc mình

phải viết, phải mổ xẻ” [57]. Ông cũng khẳng định mục đích viết văn và khuynh

hướng viết tiểu thuyết của mình: “Với tôi, viết văn là sự giải tỏa những bức xúc cuộc

đời, là góp một tiếng đời cho đời. Tôi, anh, hay nhiều người khác, thất bại trong việc

này, không thành công trong việc kia, kém cỏi so với thiên hạ ở nhiều việc khác, là

bởi mình làm không đúng luật, chơi không đúng luật, ứng xử không đúng luật. Thế

nên trời còn cho viết được, thì những cuốn khác của tôi dù đặt tên là gì, vẫn nằm

22

trong bộ Luật đời” [57]. Và “Có viết tiểu thuyết mới có cơ hội lôi được vốn sống trực

tiếp, gián tiếp, vốn hiểu biết của mình vào trang viết. Cũng là nhờ tính tò mò, hay

quan sát, năng nhặt chặt bị” [57].

Trong bài phỏng vấn Có thứ luật bất thành văn in trên báo VNEXPRESS Tin

nhanh Việt Nam, khi được phóng viên hỏi về những kinh nghiệm sống đóng góp bao

nhiêu phần trăm cho sự thành công của Luật đời và cha con ? Nhà văn đã không ngần

ngại trả lời: “Gọi là vốn sống thì đúng hơn. Bởi nói chung, tôi không trải nghiệm qua

số phận các nhân vật. Nhưng vốn sống trực tiếp thời cải cách ruộng đất, thời quan

liêu bao cấp, thời trong quân ngũ và một đời làm công chức đã được huy động vào

đây, cộng với vốn sống trực tiếp làm nên máu thịt tác phẩm. Nhiều bạn bè trong giới

cũng bất ngờ trước điều này. Không có nó thì không có cuốn tiểu thuyết này. Nó đóng

góp khoảng 70 - 80% sự thành công của tác phẩm”.

Hay trong bài Lửa đắng sẽ bùng cháy in trên Báo Người lao động chủ nhật,

khi được hỏi ông đã chuẩn bị những gì cho sự ra đời của Lửa đắng ? Nguyễn Bắc Sơn

đã tâm sự: “Thực ra thì không có sự chuẩn bị gì cả, đơn giản đó là vốn sống, là trải

nghiệm mà tôi tích lũy rồi sau đó trải nó lên trang viết. Đây cũng có thể xem là phần 2

của Luật đời và cha con. Phần 1 kết thúc mở, còn dang dở nên bây giờ tiếp tục. Khác

với phần 1, sang Lửa đắng các nhân vật đi đến tận cùng với số phận của mình” [36].

Làm nên thành công trong bộ tiểu thuyết liên hoàn của mình, không chỉ là vốn

sống ngồn ngộn, vốn văn chương phong phú của nhà văn mà còn là việc nhà văn đã

lựa chọn được đề tài phù hợp được nhiều người quan tâm hiện nay - đề tài về cơ chế.

Đây là một vấn đề nóng bỏng trong xã hội đương đại. Trong một bài phỏng vấn chính

nhà văn cũng đã khẳng định: “Về thành công của Luật đời và cha con, tôi thấy trước

hết nhờ việc chọn lựa đề tài. “Đề tài cơ chế” - tạm gọi như thế, ai chả biết. Ai chả

bàn thảo. Đi đâu, ngồi đâu cũng bàn thảo. Nhưng sao không ai viết. Một đàn anh bảo

tôi: “Họ biết cả đấy nhưng ngại viết”. Vì sao họ ngại là chuyện phải nghĩ. Có lý do

cả đấy. Tôi liều. Có điều, tôi là người trong cuộc, tôi mổ xẻ, chứ không đứng ngoài

dẩu mỏ chửi vào, cũng không chửi đổng. Tôi viết với tất cả đau đớn, vật vã khổ sở và

với ý thức xây dựng, tháo gỡ. Có lẽ vì thế mà về chủ đề đặt ra trong tác phẩm, tôi

được dư luận trong ngoài, trên dưới đồng tình” [57]. Vậy bộ tiểu thuyết liên hoàn ấy

23

được viết ra với động cơ nào? Đây là bức xúc của cá nhân tác giả mà cũng là của

chung mọi người về các vấn đề xã hội, về số phận của đất nước. Cho nên Nguyễn

Bắc Sơn không ngại, không sợ không có ai hiểu cho mình là vì thế: “Mỗi người có

một vùng mỏ sáng tác hay quê hương sáng tác. Tôi không có vùng quê sáng tác nào

đó vì tôi sống ở đô thị mà cụ thể đây là thủ đô. Thủ đô vừa là tinh hoa nhưng đồng

thời tập trung tất cả những phức tạp của cả nước dồn về. Thế cho nên đấy chính là

thế mạnh của tôi và tôi nghĩ là mình nên phát huy thế mạnh ấy. Thêm vào đó, đề tài

này có một ưu thế là chưa ai động bút. Tôi viết về đề tài này vì tôi hiểu rõ nó. Tôi

nghĩ, thành công trước hết ở đề tài chứ không phải ở văn phong đổi mới hay cách tân

gì khác” [36].

Đề tài ông chọn phản ánh trực tiếp là chính trị, là thể chế, thiết chế, cơ chế.

Đấy là chuyện liên quan đến mọi người dân cộng đồng, nên ai cũng biết. Chỉ có quan

tâm nhiều hay ít thôi. Dễ là thế, mà khó cũng là thế. Dễ bởi ai cũng biết, cũng bàn

luận, cũng có chính kiến cả đấy. Khó là bởi không mấy ai viết ra điều mình nghĩ. Cái

khó nữa là phải tiểu thuyết hoá những nghĩ suy của mình bằng cốt truyện tiểu thuyết,

nhân vật tiểu thuyết, ngôn ngữ tiểu thuyết, nghệ thuật tiểu thuyết. Vẫn những ý tứ ấy,

nếu viết dưới dạng những bài báo thì nhàn hơn đấy, nhưng có thể khó được chấp

nhận, nhất là khó có sức thuyết phục. Vì phải nói thẳng, mà nói thẳng thì dễ mếch

lòng. Ông chọn tiểu thuyết để gửi gắm, nhắn nhe đến bạn đọc, như thế tự nhiên hơn,

vào tình cảm người đọc hơn, từ đó mới tác động đến lí trí họ. Như vậy, việc lựa chọn

thể loại thích hợp để truyền tải thành công đề tài cũng chính là một thành công đáng

ghi nhận của Nguyễn Bắc Sơn.

Trong bài trả lời phỏng vấn của nhà báo Thiên Kim trên báo CAND.com.vn,

Nguyễn Bắc Sơn đã tâm sự chân thành: “Nói như cách nói thông thường, người ta

vẫn cho rằng, tôi là người may mắn và có duyên với giải thưởng, nhưng không hẳn

như thế. Để viết được hai cuốn tiểu thuyết này, tôi đã tích lũy gần hết cả một đời công

chức, tóc thì rõ ràng, không còn một sợi nào đen. Và đó là những vốn liếng cả đời

học, đọc sách cần mẫn mới có được”. Hay còn có những dòng lý giải rất hay của nhà

văn về vốn tư liệu để viết sách: “Tôi là một công chức cần mẫn, chăm chỉ, sáng ý

trong công việc, nhưng điều quan trọng nhất là cái thói quen quan sát, nhận xét, cái

24

lối suy nghĩ đến cùng tận một sự việc, một hiện tượng, hoài nghi, phản biện nó, cái

lối tò mò theo dõi đường đời của những người xung quanh (và không ngừng ngẫm

nghĩ về họ), cái lối vơ vào mình những chuyện đẩu đâu… và cộng với một chút vốn

văn chương được trang bị suốt cả quãng đường đã đi qua, những điều học hỏi được ở

bè bạn và thời gian vô biên của một người hưu trí đã thôi thúc tôi phải viết”. Và còn

là những lời bộc bạch chân thành với một chút hài hước về tâm huyết nghề nghiệp

của mình: “Tôi nghi ngờ điều ai đó nói rằng, viết văn như là một cuộc chơi. Tôi khổ

sở với từng con chữ, nghĩ ngợt một chi tiết, một lời thoại thật sự khó nhọc, nhất là với

hơn 70 nhân vật trong cuốn tiểu thuyết Lửa đắng, tôi gần như kiệt lực sau khi hoàn

thiện nó”.

Ngoài những lời tâm sự chân thành, Nguyễn Bắc Sơn còn mạnh dạn chỉ rõ cái

nhìn chưa trực diện của các nhà văn, cũng như rào cản lớn nhất đối với các nhà văn

và sự phản chiếu hiện thực của tiểu thuyết hiện nay. Ông nói: “Gần đây ông trưởng

ban tuyên giáo trung ương cũng nói “Các nhà văn phải tự cởi trói cho mình”. Không

biết có phải tôi đã dám cởi trói cho mình không. Nhưng ngay cả với tôi, cái dây trói

vô hình vẫn lởn vởn trong đầu…Nhiều người khen dũng cảm đấy, bởi chưa ai dám

mổ xẻ cơ chế như thế. Nhưng không ít người lại muốn nhà văn phải nói thẳng, nói

thật, nói hết suy nghĩ, đi đến tận cùng suy nghĩ trong ý đồ sáng tác, trong tư tưởng

chính trị của mình. Ai cũng có bản lĩnh chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp của mình. Giá

mà hai tư tưởng ấy gặp nhau” [13]. Và phải là một nhà văn giàu tâm huyết với ý

thức và trách nhiệm công dân cao mới nêu vấn đề thẳng thắn không né tránh: “Nhưng

điều dễ thấy, như nhiều người đã thấy là, chiếm một phần không nhỏ tác phẩm, nhất

là của các cây viết trẻ ít chịu đi vào hiện thực trung tâm, chính yếu của cuộc sống.

Họ thích thể hiện cái tôi của mình hơn… Nhưng có lẽ bạn đọc còn cần thiết hơn

những tác phẩm phản ánh đời sống xã hội hôm nay. Đòi hỏi ấy là chính đáng, bởi nó

cũng là sứ mệnh phải gánh của văn học nói chung, tiểu thuyết nói riêng” [13].

Những ý kiến của nhà văn Nguyễn Bắc Sơn trên các báo đã cho chúng ta thấy

rõ quan niệm nghệ thuật của ông. Đối với ông viết văn là một sự giải tỏa để bộc lộ

những điều mắt thấy tai nghe, để mổ xẻ sự bất cập của cơ chế nhằm mục đích tháo

gỡ, gây dựng theo chiều hướng tích cực hơn. Theo ông văn chương chính là ngọn lửa

25

đắng - ngọn lửa ấy “là thuốc đắng, là liều kháng sinh đặc trị những căn bệnh xã hội

trầm kha, tưởng như không thuốc nào chữa khỏi” [51, tr.597]. Hơn nữa, nhà văn lại

viết tác phẩm bằng “trái tim của một nhà văn đảng viên, một người trong cuộc với

tâm thế xây dựng rất có ích cho đất nước, cho Đảng không chỉ ngày hôm nay” [60].

Tất cả cho thấy quan niệm nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Bắc Sơn rất mới mẻ, táo

bạo. Nó có ý nghĩa khích lệ, động viên tinh thần người cầm bút dũng cảm dấn thân

vào những vấn đề gai góc, nhức nhối trong xã hội. Đó là những vấn đề chính trị nóng

bỏng của xã hội đương đại Việt Nam - vấn đề cơ chế. Nhà phê bình Lê Quang Trang

nhận định: “Thành công đáng chú ý nhất của cuốn tiểu thuyết là tác giả dũng cảm và

sắc sảo trong việc phô bày những vấn đề của xã hội” [47, tr.581]. Song do quá chú

tâm vào nội dung, nhà văn chưa thực sự trăn trở với việc đổi mới cách viết. Nhà thơ

Hữu Thỉnh nhận xét: “Anh Nguyễn Bắc Sơn có nhiều cố gắng. Tuy nhiên về nghệ

thuật thể loại, Luật đời và cha con vẫn còn hiền lành, vẫn nặng về truyền thống. Thể

loại tiểu thuyết cho phép nhà văn cách tân táo bạo” [47, tr.580].

Qua những lời phát biểu trực tiếp của nhà văn, cũng như qua những nhận xét,

đánh giá của các nhà nghiên cứu, phê bình, cho thấy những quan niệm trên đã chi

phối và dường như có ý nghĩa quyết định đến quá trình sáng tác của nhà văn Nguyễn

Bắc Sơn, từ cách tổ chức cốt truyện, xây dựng nhân vật, đến ngôn ngữ, giọng điệu,

26

người kể chuyện trong tác phẩm.

Chƣơng 2

NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN VÀ XÂY DỰNG

NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BẮC SƠN

2.1. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện

2.1.1.Khái niệm cốt truyện

Cốt truyện (plot) là “Hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu tư

tưởng và nghệ thuật nhất định tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình

thức động của các tác phẩm tự sự” [14,]. Có thể hiểu đơn giản cốt truyện là truyện

được cô đúc lại, là cái cốt lõi liên quan đến nhân vật chính. Cốt truyện là yếu tố quan

trọng bậc nhất, không thể thiếu trong bất kì hình thức tự sự nào. Nó là cái khung để

đỡ cho toàn bộ tòa nhà nghệ thuật của tác phẩm tự sự đứng vững.

Cốt truyện có hai tính chất cơ bản. Một là tính liên tục hữu hạn trong trật tự

thời gian, sự kiện này đặt sau sự kiện trước và cứ thế cho đến kết thúc. Hai là các sự

kiện trong chuỗi có mối quan hệ nhân quả hoặc quan hệ bộc lộ ý nghĩa. Các sự kiện

trong đời sống có vô vàn mối quan hệ và không biết đâu là mở đầu, đâu là kết thúc.

Hai tính chất nêu trên là thuộc tính nghệ thuật làm cho cốt truyện văn học tách ra khỏi

mối quan hệ chằng chịt trong cuộc đời để tập trung thể hiện ý nghĩa nào đó mà nhà

văn muốn thể hiện [53, tr.56].

Cần phân biệt hai khái niệm truyện (story) và cốt truyện (plot). “Truyện là

chuỗi những sự kiện về một vấn đề (hoặc nhiều vấn đề) nào đó diễn ra theo trật tự tự

nhiên, tuân thủ thời gian tuyến tính, nương theo sự chảy trôi của cuộc sống theo

quan hệ nhân quả mà không có sự đảo lộn sắp đặt của người kể. Cốt truyện là sự sắp

xếp thẩm mĩ, không tuân theo trật tự biên niên của sự kiện và quan hệ nhân quả

nghiêm nhặt, thống nhất theo ý đồ chủ quan của người kể về những sự kiện của một

câu chuyện nào đó, nhằm mục đích nêu bật được tư tưởng chủ đề và tạo sức hấp dẫn

tối đa tới người đọc” [14].

Nói chung, cốt truyện là hệ thống sự kiện (biến cố) xảy ra trong đời sống của

nhân vật, có tác dụng bộc lộ tính cách, số phận nhân vật. Cái phần lõi của truyện đó

có thể tóm tắt, thuật lại hay vay mượn để sáng tạo ra tác phẩm khác. Trải qua hàng

27

ngàn năm tồn tại và phát triển, cốt truyện có những biến đổi không ngừng. Bởi văn

học là cuộc vận động không ngừng nên nhà văn muốn tồn tại cũng phải không ngừng

sáng tạo. Nhà văn Nguyễn Bắc Sơn đã vận dụng những yếu tố mới vào cốt truyện

song về cơ bản là những cốt truyện truyền thống.

2.1.2. Vai trò của cốt truyện trong tiểu thuyết

Từ xưa, cốt truyện vẫn bị coi là thành phần “bảo thủ”. Song trên con đường

phát triển của thể loại, nó đã vận động khá mạnh mẽ, thậm chí bỏ qua lý thuyết cốt

truyện truyền thống, dù chưa thật đồng bộ. Cốt truyện được coi là yếu tố đặc biệt

quan trọng, là nơi xuất phát và quyết định của sự sáng tạo nghệ thuật. Nhà văn sáng

tác là sáng tác cốt truyện và người thưởng thức chủ yếu là thưởng thức cốt truyện.

Do vậy, cốt truyện thực hiện các chức năng rất quan trọng trong tác phẩm: một

là nó gắn kết các sự kiện thành một chuỗi và tạo thành lịch sử của một nhân vật; hai

là bộc lộ các xung đột, mâu thuẫn của con người (xã hội, tâm lý, đạo đức,…), ba là

tạo ra một ý nghĩa về nhân sinh. Nắm bắt đúng chuỗi các sự kiện là bước khởi đầu để

hiểu nhân vật, hiểu bức tranh đời sống và hiểu ý nghĩa của tác phẩm.

Cốt truyện có chức năng thứ tư, rất quan trọng là gây hấp dẫn. Nhiều tác phẩm

thuộc loại phiêu lưu, võ hiệp, tình ái, truyện cười…nhờ cốt truyện có nhiều biến cố

ngẫu nhiên, bất ngờ mà có sức hấp dẫn mạnh đối với người đọc [53, tr.57].

2.1.3. Cốt truyện trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn

Cốt truyện trong bộ tiểu thuyết liên hoàn của Nguyễn Bắc Sơn phần lớn là cốt

truyện liền mạch, tuyến tính. Ở đó thời gian cốt truyện trùng với thời gian trần thuật,

các sự kiện được triển khai liên tục theo mạch thời gian từ trước đến sau, quan hệ

nhân quả được duy trì, kịch tính được chú trọng. Cuốn hút bằng những chi tiết đắt

giá, những yếu tố ngoài cốt truyện được xây đắp công phu, được đan cài một cách

khéo léo mà tự nhiên. Đây là kiểu cốt truyện truyền thống, ra đời từ thời cổ đại còn

tồn tại đến ngày nay, dễ đọc, dễ nắm bắt. Bằng cách ấy, Nguyễn Bắc Sơn, dù đi trên

lối cũ, vẫn để lại dấu ấn của riêng mình.

Kiểu trần thuật phổ biến trong tiểu thuyết được viết theo lối truyền thống là

thường mở đầu bằng cách giới thiệu về một địa điểm, địa danh nào đó, nói chính xác

thì đó chính là bối cảnh không gian của truyện, hoặc mở đầu bằng bối cảnh xảy ra câu

chuyện. Trước khi tham gia vào các sự kiện, tình huống truyện, nhân vật thường được

28

giới thiệu khái quát về lai lịch, diện mạo, tính tình. Mở đầu Luật đời và cha con là bối

cảnh xảy ra câu chuyện: “Ngôi nhà hai tầng giữa một con phố cũ, nằm ở khu trung

tâm thành phố, vốn của một quan chức thời thuộc Pháp. Hàng rào sắt lửng, nửa dưới

là tường gạch phủ đầy hoa tigôn… Ngôi nhà vuông vắn lành lặn, không phình trước

đẻ sau, không cơi nới. Cổng sắt gần như còn nguyên vẹn. Chỉ tấm sắt bưng phía dưới

bị nước mưa ăn mòn, chứng tỏ chủ nhân ngôi nhà sống nguyên tắc đến mức nào”

[47, tr.1]. Vậy là ngay từ đầu tác giả đã đi theo kiểu trần thuật phổ biến truyền thống.

Ngôi nhà được giới thiệu ở đây chính là của gia đình ông Hòe - những nhân vật liên

quan đến câu chuyện “Luật đời” trong tác phẩm.

Ngay sau khi giới thiệu bối cảnh câu chuyện, trước khi để cho các nhân vật tham

gia vào hệ thống các sự kiện, nhà văn đã phác họa khái quát về từng nhân vật. Chẳng

hạn như, ngay ở chương 1 cuốn Luật đời và cha con nhà văn đã miêu tả khái quát về

nhân vật ông Hòe. Ông Hòe là một người lính thời chống Pháp, rất phục tùng mệnh

lệnh cấp trên. Bây giờ ông là cán bộ cao cấp trung ương, làm công tác tuyên giáo, phổ

biến đường lối chính sách của Đảng. Ngoại hình của ông được giới thiệu qua “bộ mặt

chữ điền” [47, tr.11], “gương mặt to, quắc thước” [47, tr.7], đặc biệt là “cặp lông

mày lưỡi mác” [47,tr.10]. Tính tình của ông “hiền lành, cả ngày chả nói một câu”

[47, tr.7 - 8]. Bà vợ giễu ông là “ông nghị quyết” bởi theo bà suốt ngày ông chỉ biết

giảng về nghị quyết. Hay nhân vật Kim Phụng - vợ của ông Hòe cũng được miêu tả

khái quát ở chương 3 của tiểu thuyết này. Bà “là một phụ nữ mặt hơi sát xương, tóc

phi dê, áo sơ mi dài tay cổ bẻ có in ba chữ MDV (mậu dịch viên)” [47, tr.65]. Tính

tình đanh đá, chua ngoa, thực dụng. Tuy nhiên, bà Phụng “là người biết cách tổ chức

gia đình” [47, tr.73]. Bà quán xuyến tất tần tật mọi chuyện trong nhà, ngoài nhà. Đặc

biệt, bà là người biết sử dụng triệt để những mối quan hệ của mình để đạt được mục

đích. Cứ như vậy, tác giả bao giờ cũng để ra một vài trang sách để giới thiệu khái

quát về nhân vật của mình trước khi cho nhân vật tham gia vào quá trình diễn biến

của câu chuyện. Điều đó khiến cho người đọc có những hình dung khái quát nhưng

cụ thể, chân thực về chân dung, tính cách của nhân vật. Từ đó góp phần nhận diện về

nhân vật cũng như có thể có những dự kiến, kiến giải xác đáng cho cách hành xử

trước mọi biến cố, sự kiện xảy ra đối với nhân vật.

Cốt truyện truyền thống luôn tuân theo trật tự thời gian, vì thế thường bắt đầu

29

bằng một thời điểm trong quá khứ với cái nhìn hồi cố của người kể chuyện rồi kể

ngược trở lại về phía hiện tại theo dòng tuyến tính. Không khó để gặp trong tiểu

thuyết Nguyễn Bắc Sơn những kết cấu như thế. Lối kể chuyện trùng khít thời gian cốt

truyện và thời gian trần thuật ấy làm cho câu chuyện trở nên dễ hiểu, dễ nắm bắt, phù

hợp với khả năng tiếp nhận của số đông người đọc. Ở chương 2 của Luật đời và cha

con sau cuộc “ghé về thăm bố mẹ vợ” [47, tr.29] của anh con rể Trần Kiên, ông Hòe

đã “nhớ tới thằng con trai đầu của người vợ trước ở quê. Giá mà Lê Hồi còn…”. Sau

đó, nhà văn đã dành khoảng 27 trang sách còn lại của chương 2 [47, tr.34 - 61] để hồi

tưởng lại chuyện về mẹ con thằng Hồi. Câu chuyện ấy đã là chuyện của quá khứ

nhưng nhờ có nó mà ta biết rõ hơn về gia cảnh của ông Hòe cũng như những day dứt,

ân hận của ông vì theo ông: “Tôi đã giết hai mẹ con nó” [47, tr.61]. Đến chương 4,

mở đầu cũng là những trang sách hồi cố lại sự việc xảy ra trong quá khứ. Đó là

chuyện ông Hòe được mời về phổ biến nghị quyết ở quận Hoàng Long và được “xin

ý kiến về một vấn đề do thực tiễn công tác đặt ra mà họ còn lúng túng không biết làm

thế nào để gỡ” [47, tr.81]. Vấn đề đó là việc xem xét để kết nạp Đảng cho Trần Kiên

- phân xưởng trưởng phân xưởng Cơ khí Động lực. Trần Kiên là một kĩ sư trẻ mới ra

trường mấy năm, có trách nhiệm trong công việc, thẳng thắn, dám nghĩ dám làm. Anh

đã kiên quyết không để ba công nhân “một người đã có tuổi, hai người trung niên” đi

họp chi bộ khi đang trong giờ làm việc. Việc làm này đã khiến anh bị gọi lên văn

phòng Đảng ủy để khiển trách, rồi cả việc xem xét kết nạp Đảng của anh cũng bị ảnh

hưởng. Song cuối cùng, lẽ công bằng đã thuộc về anh, anh được kết nạp Đảng. Chỉ

khoảng 8 trang sách, tác giả đã giúp ta hình dung khái quát về một trong những nhân

vật trung tâm của bộ tiểu thuyết liên hoàn với những phẩm chất rất đáng quý trọng.

Khảo sát số chương sách có hồi cố trong Luật đời và cha con , chúng ta có được tỉ lệ

50%, chiếm 10/20 chương. Như vậy, có thể nhận thấy, nhà văn Nguyễn Bắc Sơn khá

dụng công trong việc sử dụng cái nhìn hồi cố. Cách viết này khiến câu chuyện được

kể diễn ra tự nhiên, theo trình tự thời gian. Đồng thời nhờ nó bạn đọc có thể nắm bắt,

theo kịp với diễn tiến của câu chuyện.

Hầu hết những câu chuyện trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn là câu chuyện về

cơ chế, về xã hội, về cuộc sống với những con người rất người và rất đời. Cốt truyện

mang tính truyền thống của Nguyễn Bắc Sơn cuốn hút người ta bởi cái duyên ngầm.

30

Nét duyên ấy ẩn hiện trong mỗi tiểu thuyết của ông, do vậy, tuy nói về những vấn đề

chính trị nhưng không khô khan, nhàm chán mà còn hấp dẫn, lôi cuốn người đọc.

Trong bộ tiểu thuyết liên hoàn của mình, Nguyễn Bắc Sơn đã vẽ lên được gần như toàn

cảnh cuộc sống hôm nay với những chuyện về gia đình, về xã hội và cơ chế hiện tại.

Luật đời và cha con chủ yếu xoay quanh câu chuyện về một gia đình - những

con người thật bằng xương bằng thịt trong xã hội mới. Đại gia đình ông Hòe có tới 3

thế hệ: thế hệ thứ nhất: Ông Hòe, bà Kim Phụng; thế hệ thứ hai: Lê Đại, Thụy

Miên,Trần Kiên, Thảo Tần (những đứa con); thế hệ thứ ba: Lê Cường, Thùy Dương,

cu Thành (những đứa cháu). Ba thế hệ ấy với tuổi tác, công việc, cách nhìn đời, nhìn

người khác nhau nên đã có những hành xử khác nhau trước sóng gió cuộc đời. Không

thể nói rằng ông Hòe là trụ cột của gia đình vì ông có một bà vợ tháo vát, biết quán

xuyến mọi công việc của gia đình. Nhưng có thể khẳng định chỗ dựa tinh thần vững

chắc nhất, nơi để các con tìm thấy bình yên sau những xô đẩy của dòng đời chính là

ông bố Lê Hòe. Lê Hòe vốn từng là lính trong kháng chiến chống Pháp, sau này ông

là cán bộ Tuyên giáo. Do vậy, ông bố này là người sống có nguyên tắc và có vốn hiểu

biết, tầm nhìn khá sâu rộng. Điều này đã khiến các con luôn tìm đến ông để hỏi ý

kiến, bàn luận về những vấn đề quan trọng và họ cũng luôn nhận được những câu trả

lời thỏa đáng từ phía ông. Tuy nhiên, là lớp người của thế hệ trước, ông không tránh

khỏi có những hạn chế trong tư tưởng, suy nghĩ. Chẳng hạn như trước việc con trai

Lê Đại xin ra khỏi Đảng, ông Hòe đã có những phản ứng rất mạnh: “Con tôi xin ra

khỏi Đảng? Anh có còn để cho tôi nhìn mặt mọi người không? Có để cho tôi sống

nữa không đây?” [47, tr.166]. Anh con trai Lê Đại là một trong những người cấp tiến

trước thời cuộc, thích ứng nhanh với guồng máy cơ chế thị trường. Lê Đại vốn là

lính, sau đó anh xin ra quân về một cơ quan kinh tế thành phố Thanh Hoa, rồi xin ra

khỏi Đảng. Trước việc xin ra khỏi Đảng của mình, suy nghĩ của anh rất giản đơn:

mình xin ra khỏi Đảng không phải vì mình không tán thành cương lĩnh, lí tưởng hằng

theo đuổi mà chỉ vì một hình thức như nó đang có anh không theo được. Sau này, tích

lũy đủ kinh nghiệm làm ăn, vốn liếng, anh thành lập Công ty cổ phần Sao Việt. Anh

đã rủ những người bạn trong quân ngũ ngày xưa cùng tham gia, góp vốn làm ăn.

Chẳng mấy chốc công ty làm ăn phát đạt, ngày càng mở rộng phạm vi kinh doanh.

Anh đã cưới Kiều Linh - người tình cũ của con trai về làm vợ. Cuộc sống của hai vợ

31

chồng thuận bồm xuôi gió, công việc ngày càng phát triển. Lê Đại đã có cuộc sống

sung túc, hạnh phúc - là niềm ao ước của rất nhiều người trong xã hội. Lê Đại chính

là đại diện tiêu biểu cho những con người tích cực trong xã hội mới với cơ chế mới.

Lửa đắng không còn là câu chuyện về một gia đình mà ở đây là chuyện của toàn

xã hội, chuyện cơ chế. Hay nói khác đi, vấn đề được nói đến trong Lửa đắng rộng

hơn, bao quát hơn ở Luật đời và cha con. Qua hơn 600 trang sách, ta thấy các nhân

vật đổi vị trí liên tục. Trần Kiên được xóa án kỉ luật, khôi phục chức bí thư Quận ủy

đồng thời kiêm chức chủ tịch quận, được bầu vào Trung ương, được đề bạt phó chủ

tịch thành phố. Đoàn Hùng từ thư kí trở thành Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận.

Thảo Tần xin từ chức Phó hiệu trưởng trở về với nghề dạy học quen thuộc. Thanh

Diệu từ chức Phó Chủ tịch Ủy ban để về công tác tại Hội Liên hiệp phụ nữ thành phố.

Sán leo lên đến chức phó giám đốc Sở thì bị vạch rõ chân tướng,…qua những nhân

vật này, nhà văn khiến người đọc hình dung được sự sắp xếp nhân sự đang diễn ra

khẩn trương, nhanh chóng ở cấp thành phố và trên thành phố. Sự sắp xếp nhân sự này

là sự chuyển đổi, xáo trộn tất nhiên của những cá nhân trong cơ chế mới của thời kì

đổi mới. Nói như Vũ Duy Thông: “Không thể có một dàn nhân sự hoàn hảo trong

một hệ thống tổ chức không có chút bất hợp lý nào, nhưng qui luật của cuộc sống đòi

hỏi phải tiến tới sự hợp lý và nhất định sẽ tiến tới sự hợp lý, cho dù sự hợp lý luôn chỉ

là một cái đích, không bao giờ hoàn toàn đạt được, đó là điều tác giả muốn nhắn gửi

tới bạn đọc và đó cũng là tính luận đề ẩn sâu trong Lửa đắng” [51, tr.7]. Tiểu thuyết

nói về những bảo thủ, hạn chế trong bộ máy hành chính thời hiện đại - tất cả qui cho

trách nhiệm tập thể, cho cơ chế, cho người tiền nhiệm. Vậy là, tất cả đều có liên quan

nhưng bản thân mình chỉ là một mắt xích nhỏ trong hệ thống gây ra những sai lầm,

khuyết điểm ấy. Chính vì vậy, cơ chế xã hội rơi vào tình trạng trì trệ, bảo thủ. Đó còn

là tình trạng dối trên chèn dưới, yếu kém, vô trách nhiệm của nhiều cấp cơ quan bảo

vệ pháp luật,…Tuy có những con sâu tạo nên trì trệ, yếu kém trong xã hội, song

người đọc không hề thất vọng mà còn bị lôi cuốn vào những câu chuyện chính trị ấy.

Đây chính là duyên ngầm trong cách kể chuyện của nhà văn. Bởi lẽ nhà văn đã biết

đưa vào trong câu chuyện của mình những âm hưởng lạc quan, những phẩm chất cao

đẹp đó là Tổng Bí thư, là Kiên, là Đại, là Đoàn Hùng, Thanh Diệu, Thảo Tần và một

32

số nhân vật khác. Họ chính là những con người tích cực của thời đại mới.

Có thể nói rằng, Nguyễn Bắc Sơn luôn trung thành với lối viết truyền thống, cốt

truyện cổ điển với mạch tuyến tính, trật tự nhân quả. Cốt truyện ấy khiến câu chuyện

rất dài mà vẫn logic, liền mạnh. Đồng thời giúp người đọc có thể nắm bắt, theo kịp

với nội dung, diễn biến của câu chuyện.

2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

2.2.1. Khái niệm nhân vật văn học và nhân vật trong tiểu thuyết

2.2.1.1. Nhân vật trong tác phẩm văn học

Trong tác phẩm văn học, nhân vật chiếm vị trí rất quan trọng. Nhà văn sáng

tạo nhân vật để thể hiện nhận thức của mình về một cá nhân nào đó, về một loại

người nào đó, về một vấn đề nào đó của hiện thực. Nhân vật chính là người dẫn dắt

người đọc vào một thế giới riêng của đời sống trong một thời kì lịch sử nhất định. Do

đó, mỗi sáng tác văn học không thể thiếu nhân vật. Nhân vật văn học có thể là những

con người giống như thật hoặc có nguyên mẫu ở ngoài đời. Nhưng có khi nhân vật

văn học chỉ là những sự vật, hiện tượng.

Các tác giả cuốn Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng: “Nhân vật văn học là

con người cụ thể được miêu tả trong các tác phẩm văn học. Nhân vật văn học có thể

có tên riêng (Tấm Cám, chị Dậu, anh Pha), cũng có thể không có tên riêng như

“thằng bán tơ”, “một mụ nào” trong Truyện Kiều” [14, tr.162].

Còn theo cuốn Giáo trình Lý luận văn học thì nhân vật văn học được quan

niệm rộng hơn: Đó không chỉ là con người có tên hoặc không có tên, mà có thể là

những sự vật, loài vật khác nhau, ít nhiều mang bóng dáng tính cách của con người,

được dùng như những phương thức khác nhau để biểu hiện con người. Đó là nhân

vật dế mèn, võ sĩ bọ ngựa, con mèo lười trong truyện thiếu nhi của Tô Hoài; là vầng

trăng, bông hoa hồng trong thơ Bác v.v… Cũng có khi đó không phải là những con

người, sự vật cụ thể mà chỉ là một hiện tượng về con người hoặc có liên quan đến

con người, được thể hiện nổi bật trong tác phẩm [23, tr.126].

Nhân vật văn học là sản phẩm tinh thần của nhà văn, là nơi thể hiện quan niệm

nghệ thuật và lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn về con người. Nhân vật văn học là một

chỉnh thể vận động, có tính cách, được bộc lộ dần trong không gian, thời gian và

33

mang tính quá trình. Muốn xây dựng nhân vật thành công, nhà văn phải có một quá

trình thai nghén, có một khả năng đồng cảm, có quá trình thâm nhập thực tế. Nghĩa là

quá trình sáng tạo ra một nhân vật đòi hỏi nhà văn phải huy động toàn bộ tư cách

nghệ sĩ và năng lực tinh thần của cá nhân.

Nhân vật văn học thường được xây dựng từ những nguyên mẫu ngoài đời, có

khi là từ những điển hình xã hội, nhưng nó được xây dựng qua trí tưởng tượng, sự

sáng tạo và tài năng của người nghệ sĩ, phục vụ cho dụng ý nghệ thuật của mình,

mang phong cách riêng của mình. Vì vậy, khi tìm hiểu nhân vật văn học, cần lưu ý:

Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất nó

với con người có thật trong đời sống.

Như vậy, nhân vật văn học là một hình tượng nghệ thuật do nhà văn sáng tạo

nên. Nhân vật văn học rất phong phú, nó có thể là loài vật, đồ vật…nhưng chủ yếu là

con người. Sự thể hiện nhân vật cũng ở những hình thức rất đa dạng. Dù nhân vật là

thế giới loài người hay loài vật nó đều có vai trò rất quan trọng trong sáng tác của nhà

văn, nó làm nên linh hồn của tác phẩm. Nhân vật văn học thể hiện cách hiểu của nhà

văn về con người theo một quan điểm nhất định, là nơi để nhà văn gửi gắm, kí thác

những tâm tư, ước vọng, cùng những vấn đề triết lí nhân sinh. Qua hệ thống nhân vật,

người đọc thấy được tư tưởng nghệ thuật và phong cách nghệ thuật của nhà văn.

Nhân vật văn học không chỉ là hình thức đơn thuần mà là một sáng tạo nghệ thuật

độc đáo gắn liền với ý đồ, tư tưởng của nhà văn về con người, về thế giới.

2.2.1.2. Nhân vật trong tiểu thuyết

Nhân vật là yếu tố nghệ thuật quan trọng bậc nhất của thể loại tự sự (trong đó

có tiểu thuyết). Không có nhân vật sẽ không có tiểu thuyết. Tiểu thuyết hay phải có

nhân vật hay và độc đáo. Những cách tân đổi mới về nghệ thuật tiểu thuyết hầu như

đều gắn với vấn đề thể hiện nhân vật. Nhân vật chính là quan niệm nghệ thuật về con

người của nhà văn thể hiện trong tác phẩm, là nơi tập trung thể hiện tư tưởng nghệ

thuật của nhà văn.

Nhân vật tiểu thuyết thuộc loại hình nhân vật tự sự. Đó là những nhân vật được

khắc hoạ đầy đặn, rõ nét, nhiều mặt, rất sinh động và đa dạng.

Nhân vật tiểu thuyết là kết quả năng động của quá trình sáng tạo mang tính cá

34

nhân của nhà văn. Nhân vật tiểu thuyết có thể được hư cấu hoàn toàn, có thể bắt

nguồn từ một nguyên mẫu ngoài cuộc đời, nhưng nó đều là những “nhân vật sống”.

Nó không chỉ có các yếu tố ngoại hình, ngôn ngữ, hành động… mà còn có đời sống

nội tâm phong phú và bản thân nhân vật luôn có sự phát triển nội tại. Ở nhân vật tiểu

thuyết có thể chứa đựng cả nhân vật kịch, nhân vật trữ tình ở những phần nhất định. Có

thể nói nhân vật tiểu thuyết bao hàm rất nhiều kiểu, loại nhân vật văn học khác nhau.

Trong tiểu thuyết, số lượng nhân vật nhiều. Trong một chỉnh thể thế giới nghệ

thuật tác phẩm, tiểu thuyết có khả năng kể về nhiều số phận, nhiều con người, đặt ra

nhiều vấn đề nhân sinh. Thế giới nhân vật là hệ thống các nhân vật được tổ chức tạo

thành một chỉnh thể nghệ thuật, trong đó mỗi nhân vật là một yếu tố của chỉnh thể.

Thế giới nhân vật tiểu thuyết có thể rất đồ sộ. Các nhân vật tiểu thuyết tạo nên một xã

hội vô cùng phong phú, phức tạp với nhiều quan hệ, hành động, ý nghĩ, tư tưởng,

giọng điệu… Nó phong phú nh chính cuộc sống.

“Nói đến tiểu thuyết là nói đến nhân vật. Tài nghệ của nhà tiểu thuyết cũng chủ

yếu khúc xạ qua nhân vật vì nó là con đẻ của tinh thần nhà văn” [56, tr.110]. Trong

tiểu thuyết, nhân vật không phải là nơi duy nhất nhưng lại là nơi thể hiện một cách

tập trung nhất, sâu đậm nhất quan niệm về con người của tác giả. “Tiểu thuyết thường

được ví là máy cái của văn học” [56, tr.98] - là mảnh đất lưu giữ bóng hình cuộc đời

con người, vì thế nhân vật luôn được xem là sức nổ, là sự sống của tiểu thuyết từ xưa

đến nay. Nhân vật tiểu thuyết làm nên sức sống của mỗi cuốn tiểu thuyết.

Qua nhân vật, ta thấy được cả tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm và ý đồ sáng

tạo của nhà văn. Những nhân vật như Giăng Van Giăng, Phăng Tin,… trong Những

người khốn khổ của V. Huy Gô; Anđrây, Pie,… trong Chiến tranh và hoà bình của

Lep Tônxtôi; Võ Tòng, Lỗ Trí Thâm,… trong Thuỷ Hử của Thi Nại Am là những linh

hồn của tác phẩm, làm nên sức sống của mỗi cuốn tiểu thuyết.

2.2.2. Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn

Nghiên cứu nhân vật, chính là nghiên cứu cách nhà văn nhìn nhận, cắt nghĩa

về con người như thế nào và bằng cách nào trong văn chương của mình. Bởi lẽ, “Nhà

văn sáng tạo nhân vật để thể hiện nhận thức của mình về một cá nhân nào đó, về một

loại người nào đó, về một vấn đề nào đó của hiện thực. Nhân vật chính là người dẫn

35

dắt người đọc vào một thế giới riêng của đời sống trong một thời kì lịch sử nhất

định” [34, tr.126]. Xét từ góc độ trần thuật: nhân vật là một chất liệu có tính bản thể

của văn bản tự sự. Chất liệu đó có thể được soi chiếu từ nhiều góc độ khác nhau (như

một thực thể sống, có số phận riêng tư và đời sống tâm lý cá biệt; như một hình chiếu

thế giới tư tưởng của tác giả hoặc của đời sống xã hội…), song dù ở góc độ nào, đó

vẫn là một hệ thống có quan hệ nội tại và thống nhất sâu sắc với cấu trúc tự sự của

tác phẩm. Với những người nghiên cứu tiểu thuyết đương đại, đây cũng là vấn đề

chứa đựng những mời gọi hấp dẫn, thú vị.

Luật đời và cha con và Lửa đắng là bộ tiểu thuyết liên hoàn đặc sắc của

Nguyễn Bắc Sơn nói riêng và của nền tiểu thuyết Việt Nam đương đại nói chung.

Trong hai tác phẩm này Nguyễn Bắc Sơn đã phản ánh tình hình xã hội Việt Nam vào

những thời điểm gay cấn (có vấn đề): thời điểm canh tân đất nước, chuyển sang cơ

chế thị trường. Nói như Nguyễn Đăng Điệp: “Nguyễn Bắc Sơn đã làm sống lại không

khí của đời sống đất nước trong suốt mấy chục năm qua, từ thời cải cách ruộng đất

đến thời kinh tế thị trường” [10]. Vì vậy mà thế giới nhân vật trong bộ tiểu thuyết này

rất rộng lớn, bao quát nhiều tầng lớp xã hội (quan chức, cán bộ, thường dân), có các

quan hệ kinh tế, chính trị, tình yêu, hôn nhân, gia đình,… có trai gái, nam, nữ, già,

trẻ…Tất cả như đời sống thật. Nhân vật có sức khái quát lớn và đều rõ nét, sống động

từ hình thể đến hành động, suy nghĩ, cảm xúc, ứng xử, nói năng… Thế giới nhân vật

trong tiểu thuyết Luật đời và cha con và Lửa đắng của Nguyễn Bắc Sơn là thế giới

nhân vật vô cùng đa dạng, phong phú và sinh động, được xây dựng rất công phu, bao

gồm nhiều hạng người, nhiều lứa tuổi, nghề nghiệp khác nhau. Nếu ở Luật đời và cha

con có khoảng hơn 10 nhân vật thì đến Lửa đắng có thêm hơn 50 nhân vật mới. Hệ

thống nhân vật ấy cùng thể hiện nội dung, chủ đề của bộ tiểu thuyết gia đình, xã hội

và cơ chế. Cả một thế giới nhân vật rộng lớn như vậy nhưng không hề chồng chéo, ô

hợp. Các nhân vật được đặt trong nhiều mối quan hệ soi chiếu lẫn nhau: mối quan hệ

gia tộc; mối quan hệ tình yêu, hôn nhân, gia đình, đồng nghiệp, cô - trò… Các nhân

vật luôn được soi chiếu ở nhiều góc độ, làm nổi bật chủ đề tác phẩm.

Xét về nội dung phản ánh của tác phẩm, có thể thấy nhân vật trong bộ tiểu

thuyết liên hoàn Luật đời và cha con và Lửa Đắng được chia làm hai tuyến rõ rệt,

một bên là những nhân vật thể hiện lý tưởng thẩm mỹ của thời đại, một bên là những

36

nhân vật đi ngược lại lý tưởng đó (nhân vật tha hóa). Cách phân loại nhân vật trên

chỉ là tương đối, nhưng đã cho ta một cái nhìn hệ thống về thế giới nhân vật trong

hai cuốn tiểu thuyết.

Điểm đặc biệt của Nguyễn Bắc Sơn khi xây dựng tuyến nhân vật là cốt

truyện được bố cục theo sự xuất hiện của các nhân vật. Vì vậy, bố cục truyện có

thể cơi nới, linh hoạt đặc biệt là ở những chỗ có sự xuất hiện của các nhân vật phụ

khi tham gia vào câu chuyện. Trong bộ tiểu thuyết liên hoàn này, có sự xuất hiện

của hàng loạt nhân vật “mang vấn đề”. Đó là những Đảng viên, cán bộ lãnh đạo.

Họ không chỉ thuộc về một tuyến nhân vật mà có những con người thể hiện lý

tưởng thẩm mỹ của thời đại và cả những con người đi ngược lại lý tưởng đó.

2.2.2.1. Nhân vật mang lý tưởng thẩm mỹ của thời đại

Trong văn học cách mạng, nhân vật mang lý tưởng thẩm mỹ của thời đại

(nhân vật tích cực) chính là những con người mang phẩm chất cách mạng, con người

mới xã hội chủ nghĩa, có lập trường tư tưởng vững vàng, có nhiệt tình cống hiến. Còn

ở thời bình, nhất là thời đại ngày nay khi đất nước đang trong quá trình hội nhập và

phát triển thì quan niệm về con người cũng có những thay đổi nhất định. Đó là những

con người vừa có ý thức công dân cao cả, vừa có tài năng và trí tuệ để đáp ứng những

đòi hỏi cấp thiết của xã hội. Loại nhân vật mang lý tưởng thẩm mỹ của thời đại trong

tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn có thể kể tên như: Lê Hoè, Lê Đại, Trần Kiên, Phạm

Năng Triển, Thanh Diệu, Thu Phong, Thảo Tần, Kiều Linh, Đoàn Hùng, Bội Trân,

… Đặc biệt có những nhân vật lần đầu tiên xuất hiện trong tiểu thuyết Việt Nam. Đó

là những nhà lãnh đạo cấp cao của trung ương như: ông Thụ - Trưởng ban Tư tưởng

văn hoá Trung ương, Tổng bí thư, “Cụ”, ông Trân - Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư

(mới) Thành uỷ.

Những nhân vật này có khác biệt về giới, lứa tuổi, ngành nghề, địa vị xã

hội,… Nhưng họ có nhiều điểm tương đồng, đó là những Đảng viên tiêu biểu; những

con người có tài năng, trí tuệ và trách nhiệm công dân cao. Họ đều góp phần là tác

nhân và động lực của quá trình chuyển đổi xã hội. Chúng tôi xin điểm qua một số

nhân vật tiêu biểu:

Lê Hoè là nhân vật có vai trò nổi bật trong bộ tiểu thuyết liên hoàn và được tác

37

giả khắc hoạ khá thành công. Từ một người lính chuyển sang một cán bộ chuyên

trách công tác tuyên huấn, cả cuộc đời ông gắn với những bài giảng về nghị quyết, về

đường lối chính sách và phấn đấu không mệt mỏi cho lí tưởng Đảng. Ngay ở chương

1, hình tượng nhân vật này đã được nhà văn đặc tả khá chân thực và sắc nét. Nhà văn

đặc biệt chú ý đến Lê Hòe không phải chỉ là ở ngoại hình mà là ở những phẩm chất

tốt đẹp trong con người ông. Là một người lính, một cán bộ tuyên giáo trước tiên ông

sống rất có nguyên tắc, có kỉ luật. Minh chứng là trong lần được mời về phổ biến

nghị quyết cho hội nghị cán bộ chủ chốt ngành Giáo dục Đào tào của thành phố biển

Hải An, ông đã lên lớp cho Giám đốc sở một bài học về kỉ luật giờ giấc: “Đã là một

tổ chức thì phải có kỉ luật. Mà kỉ luật đầu tiên là kỉ luật giờ giấc. Giờ giấc là một

biểu hiện của tính tổ chức, tính khoa học trong công việc” [47, tr.10]. Với công việc,

ông là một người có nhiệt huyết, say mê với nghề, có trách nhiệm và niềm tin nghề

nghiệp. Khi đứng trước đám đông, tập thể để giảng về nghị quyết, đường lối chính

sách của Đảng, ông luôn hưng phấn, phấn kích có thể nói cả ngày không chán, không

mệt. Lời nói của ông hào sảng, mạch lạc, dứt khoát. Ông còn biết nhấn mạnh những

từ, nhóm từ cần thiết, biết kết hợp với những cử chỉ, điệu bộ khiến hàng trăm, hàng

ngàn con người chăm chú lắng nghe, nuốt từng lời nói của ông. Bao giờ cũng vậy,

ông đến với đám đông trong tiếng vỗ tay ròn dã và rời khỏi diễn đàn cũng là trong

những tràng pháo tay ràn rạt. Và sau những phút giây ấy, Lê Hòe cảm thấy: “Người

rân rân như vừa được tiếp một liều tăng lực kỳ diệu. Ông thấy mình như trẻ ra, khỏe

lên. Máu trong người chảy rần rật” [47, tr.14]. Ông thấy rất tự hào khi đã hoàn thành

nhiệm vụ của mình là thổi bùng lên tinh thần cách mạng, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã

hội của mọi người, trước hết là của Đảng viên.

Tuy vậy điểm yếu của ông đó chính là bệnh xa rời thực tế. Nghề nghiệp đã

khiến ông giải quyết công việc theo những công thức có sẵn. Cuộc sống luôn thay đổi

trong khi những bài giảng của ông lại quá xa rời thực tiễn. Ông không thể hiểu được

vì sao có những nơi đã được ông quán triệt nghị quyết rồi lại không chịu làm theo.

Đó là khi ông biết bên Sở Giáo dục và Đào tạo Hải An chưa quán triệt nghị quyết đến

Đảng viên. Với một người luôn đem nghị quyết vào công việc như ông thì không có

cách gì có thể lí giải được sự việc trên, bởi nghị quyết là “đường lối, là phương

38

hướng. Mất phương hướng thì như thằng mù rồi còn gì” [47, tr.23]. Ông trở thành

cầu nối giữa tư duy chỉ đạo của cấp trên với thực tế hành động của cấp dưới. Cấp

dưới thì thờ ơ với nghị quyết, cấp trên thì liên tục điều chỉnh cho ra những nghị quyết

mới, người phải chóng mặt chính là ông. Tuy nhiên, là một cán bộ tâm huyết, có

trách nhiệm, ông đã trăn trở suy nghĩ, tìm hiểu để tìm phương thức quán triệt nghị

quyết trung ương có hiệu quả hơn ở các cấp cơ sở. Cuộc nói chuyện của ông với Trần

Vân - giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Hải An đã khiến ông được mở mắt. Ông

nhận ra: “Nó nói thẳng, nói thật và điều quan trọng nhất là nó nói đúng. Thực tế

chứng minh là nó nói đúng” [47, tr.27]. Sau này, ông còn tìm hiểu ý kiến của nhiều

cán bộ làm công tác Đảng ở nhiều nơi khác, ông nhận thấy những điều Trần Vân bộc

lộ có lí và đã viết báo cáo “Thử bàn về việc quán triệt nghị quyết Đảng ở các cấp cơ

sở”, báo cáo này được đánh giá cao, giúp các đồng chí có trách nhiệm nghiên cứu tiếp.

Trong mắt vợ, Lê Hoè chỉ là “ông nghị quyết”, chẳng biết đến chuyện gì khác:

“Vì ông chỉ biết có mỗi việc giảng nghị quyết nên tôi gọi ông là “ông nghị quyết”,

chứ tôi có động đến nghị quyết bao giờ” [47, tr.7]. Còn trong mắt các con Lê Đại,

Thảo Tần, Trần Kiên (con rể) thì ông lại là chỗ dựa tinh thần, là “đấng cứu thế” mỗi

khi họ gặp phải những khổ đau, bế tắc trong cuộc sống. Có thể kiểm chứng bằng mối

quan hệ giữa hai cha con Lê Hòe và Lê Đại. Với Lê Đại, Lê Hòe không chỉ là người

cha đáng kính mà còn là một quân sư đáng tin cậy và là một người đồng hành “tâm

đầu ý hợp” luôn sát cánh với anh trên con đường tới thành công. Lê Đại đã từng nói

với bố: “Những chuyện lớn của đời con, con đều tin cậy hỏi bố. không phải nhờ bố

quyết định giúp, bởi, thật ra, con đã quyết rồi. Con hỏi, chỉ để chứng tỏ, bố vẫn là

chỗ dựa tin cậy của con, để chia sẻ” [47, tr.227]. Ngay từ khi còn nhỏ, Lê Hòe đã

định hướng để cho con trai Lê Đại theo binh nghiệp. Lê Hòe đã học trường Thiếu

sinh quân, rồi học trường sĩ quan, rồi tham gia vào quân đội. Sau khi ra quân, anh về

công tác ở một cơ quan kinh tế. Sau một thời gian, khi đã có đủ kinh nghiệm, vốn

liếng, Đại đã tách ra thành lập công ty riêng. Anh đã mời ông bố Lê Hòe về làm cố

vấn cho công ty của mình. Từ đây mà hai bố con càng được tiếp xúc với nhau nhiều

nên họ hiểu nhau không chỉ như bố - con mà còn như những người bạn. Chẳng thế

mà Đại rất hiểu bố mình như những người đàn ông với nhau. Đại biết, Lê Hòe vẫn có

39

nhu cầu tình cảm trong khi bà Kim Phụng lại không còn nhu cầu gần gụi ông nữa.

Nên Lê Đại đã khéo léo bố trí để ông bố có một đêm “vỡ lòng” tận hưởng khoái lạc.

Trong công việc, Lê Hòe đúng là một cố vấn, một quân sư đắc lực cho anh con trai.

Ông rất chịu khó đọc, nghiên cứu sách báo có liên quan đến lĩnh vực làm ăn của con

để đưa ra được những chủ kiến hợp lí cho công ty. Còn trong chuyện tình cảm của Lê

Đại, nếu không có sự cảm thông và sự thấu hiểu, vị tha của ông thì anh đã không có

được hạnh phúc. Bà Kim Phụng phản đối kịch liệt cô con dâu tương lai Kiều Linh vì

cô chính là người yêu cũ đã ăn ngủ và từng mang thai giọt máu của Lê Cường - con

trai của Lê Đại. Còn Lê Hòe nhìn chuyện này bằng con mắt rất công bằng. Ông

khuyên con trai tìm hiểu kĩ càng mọi chuyện để xem phẩm chất, nhân cách của Kiều

Linh thực sự như thế nào để lựa chọn một giải pháp cho phù hợp. Rồi ông còn tự

mình nói chuyện với Kiều Linh, tìm hiểu cho rõ sự tình. Khi biết rõ sự việc, ông đã

chủ động đồng ý cho Kiều Linh lấy Lê Đại. Từ đây, con trai ông đã có một gia đình

mới, sống yên ấm, hạnh phúc.

Có thể khẳng định, Lê Hoè được nhà văn phác hoạ khá thành công ở chương

đầu. Tác giả xây dựng nhân vật Lê Hoè tiêu biểu cho lớp cán bộ có phẩm chất tốt,

đầy trách nhiệm với công việc, có niềm tin, lúc còn đương nhiệm chỉ biết tới lí thuyết

xa rời thực tế nhưng khi rời khỏi chốn công đường về sống với vợ con, với làng xóm

láng giềng, được sống trong thực tế nên ông Hoè đã “ngộ” ra nhiều điều, nhờ đó ông

có những ý kiến khá sắc sảo.

Nhân vật trung tâm nhất được nhà văn dày công sáng tạo và gửi gắm tư tưởng

tác phẩm chính là Trần Kiên. Có thể nói Trần Kiên là mẫu cán bộ Đảng tiêu biểu

trong xã hội hiện nay. Ở anh hội tụ đầy đủ phẩm chất của một công chức mẫn cán,

của một Đảng viên và của một con người cũng rất đời thường. Anh là một tấm gương

phấn đấu không mệt mỏi, đầy nhiệt huyết với Đảng. Anh tiêu biểu cho lớp người mới

muốn thay đối chế độ cũ, là người lãnh đạo kiểu mới. Ngay ở chương 4 của Luật đời

và cha con, nhà văn đã khắc họa khá sâu sắc về nhân vật này. Trần Kiên là một kĩ sư

trẻ mới ra trường được vài năm, vừa chuyển đến công tác tại phân xưởng cơ khí

Động lực ở nhà máy Thắng Lợi. Tuy vậy, anh là người rất nhiệt tình, nghiêm túc

trong công việc, dám nghĩ dám làm, biết đặt lợi ích chung lên hàng đầu. Đang trong

40

thời gian đợi để xét kết nạp Đảng nhưng với tư cách là phân xưởng trưởng, anh đã

kiên quyết không để cho ba công nhân, ba đảng viên không đi họp chi bộ khi đang

trong giờ làm việc. Việc làm này của anh đã ảnh hưởng đến việc vào Đảng của bản

thân nhưng anh chỉ nghĩ mình làm như thế là đúng chức trách, nhiệm vụ. Như vậy,

ngay lần xuất hiện đầu tiên, tác giả đã như muốn dự báo cho người đọc biết Kiên

chính là hình mẫu lí tưởng của người cán bộ, người đảng viên mẫn cán, gương mẫu,

tiêu biểu. Và chứng minh cho dự báo đầu tiên ấy chính là sự vươn lên trong công tác

cũng như trong các vị trí lãnh đạo Đảng của Kiên.

Sau vụ việc không để ba công nhân - đảng viên đi họp chi bộ khi đang trong

giờ làm việc, hồ sơ vào Đảng của Kiên đã bị găm lại. Song cuối cùng, với việc bỏ

phiếu kín, Kiên đã được kết nạp đảng, được đề bạt phó giám đốc rồi lên thay giám

đốc kiêm Bí thư Đảng ủy công ty. Hiện tại, anh là Bí thư quận ủy Lâm Du. Để có

được những bước nhảy ấy là cả một quá trình phấn đấu không mệt mỏi của Kiên.

Anh đã không ngừng nâng cao tay nghề, mày mò tìm tòi, học tập nâng cao trình độ

(học tiếng Anh trong giờ giải lao). Anh đã chủ động, đề xuất ra được những hướng

giải quyết mới có hiệu quả cao trong công việc. Chẳng hạn như để giải quyết vấn đề

cơn sốt đất của quận Lâm Du, Trần Kiên đã đề xuất ra việc cải tiến cơ chế lãnh đạo

của quận. Quận ủy vẫn lãnh đạo, chỉ đạo, ủy ban vẫn quản lí, điều hành. Nhưng việc

phối hợp công tác giữa hai bên cần thiết điều chỉnh cho nhanh hơn, kịp thời hơn, hiệu

quả hơn. Hàng tháng tiến hành công tác giao ban định kì giữa Quận ủy và Ủy ban

nhân dân quận một lần. Nếu có việc đột xuất, cần giải quyết thì sẽ tiến hành giao ban

đột xuất. Đề xuất của anh được thường vụ biểu quyết với 100% số phiếu tán thành.

Từ đây các vấn đề nóng của quận đã được giải quyết nhanh chóng, hiệu quả.

Bằng kinh nghiệm sống và làm việc của bản thân, Kiên nhận thấy những bất

cập của mô hình giữa lãnh đạo và quản lý thường là chồng chéo về việc ra nhiệm vụ

nhưng lại không rõ ràng về trách nhiệm. Điều này có lúc khiến công việc bị chậm trễ,

hiệu quả không cao. Để tránh tình trạng chậm trễ và chồng chéo trong sự phối hợp

công tác giữa cơ quan Đảng và chính quyền, anh đã đề xuất ý định cải tiến phương

thức lãnh đạo bí thư kiêm luôn chủ tịch nhằm xây dựng một nền hành chính sạch. Ý

kiến của anh đã được lãnh đạo cấp trên ủng hộ, cho phép thí điểm mô hình làm việc

41

mới nơi anh là Bí thư kiêm Chủ tịch quận tại quận Lâm Du, thành phố Thanh Hoa.

Mô hình này đã thu được thành công, xứng đáng là nơi tiên phong cho việc đổi mới

cách thức làm việc. Trần Kiên đã được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng,

giữ vị trí Ủy viên dự khuyết. Kết thúc truyện, Kiên đã trở thành Chủ tịch và rồi sẽ

đảm nhận luôn chức Bí thư Thành phố Thanh Hoa.

Như vậy, Trần Kiên chính là một mô hình nhân vật cán bộ Đảng kiểu mới hội

tụ đầy đủ những phẩm chất cần thiết của một đảng viên chân chính. Đó là một cán bộ

Đảng gương mẫu, nhiệt huyết, tận tâm với Đảng. Một con người tiêu biểu cho lớp

người muốn cải biến những hạn chế trong xã hội để vươn tới những thứ tốt đẹp hơn.

Tuyến nhân vật tích cực này còn có sự xuất hiện của một loạt các nhân vật cao

nhất của Đảng và bộ máy chính quyền. Trong số đó nổi bật lên nhân vật Tổng bí thư.

Ông là người có tư tưởng chính trị, lập trường, tầm suy nghĩ bao quát. Ông là người

lãnh đạo mẫu mực của thời mở của hội nhập. Ông là người dám chấp nhận cái mới,

nếu nó có lợi cho đất nước. Một người cán bộ như thế rất cần cho nhân dân, cho Đảng.

Ngoài ra còn có rất nhiều nhân vật được nhà văn Nguyễn Bắc Sơn gửi gắm

tâm tư, suy nghĩ của mình như: Thảo Tần là một cô giáo hết lòng vì học sinh, một

người mẹ, người vợ đảm đang, yêu thương chồng con. Thanh Diệu vừa giỏi trong

công tác chính trị, vừa có uy tín với đồng nghiệp và có ý thức sống trong sạch. Có

những số phận có ý chí vượt lên hoàn cảnh như Loan số 9, từ một cô cave bỏ nghề

lập gia đình và trở thành bà chủ kinh doanh; Kiều Linh từ một cô sinh viên bị người

yêu phụ bạc đã tự trang bị kiến thức, trở thành thư kí giỏi, lập gia đình và giúp chồng

gánh vác công việc, sống cuộc sống hạnh phúc; …

Tóm lại, những nhân vật mang lý tưởng thẩm mỹ của thời đại hiện lên trong

cả hai cuốn tiểu thuyết Luật đời và cha con và Lửa đắng đều là những con người có

hoài bão, lý tưởng, quả quyết, luôn hành động. Sống mạnh mẽ, có chí khí, dám nghĩ,

dám làm. Họ đã biến những ước mơ của họ thành hiện thực, đem lại sự tốt lành cho

bản thân, cho gia đình và quê hương đất nước. Họ là những người có khả năng chèo

chống cả gánh nặng gia đình và đất nước trên vai. Họ là những con người mang vẻ

đẹp vừa lớn lao, vừa bình dị, gần gũi. Họ chính là những nhân vật làm nên linh hồn

hai tác phẩm. Hình ảnh họ in đậm nét trong trái tim độc giả: cả diện mạo, tâm hồn và

42

tính cách sắc nét.

2.2.2.2. Nhân vật tha hóa

Trong thế giới nhân vật của Nguyễn Bắc Sơn, ngoài những nhân vật thể hiện

vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách con người, còn xuất hiện những nhân vật phản ánh phần

khuất lấp, tăm tối và biến chất trong con người, đó là những nhân vật tha hoá.

Tha hoá là làm cho khác đi, biến thành xấu đi hay biến thành cái khác, đối

nghịch với cái ban đầu của mình, của cộng đồng, nguồn gốc đã sinh ra mình. Nó thể

hiện sự xuống cấp của con người mà nguyên nhân sâu xa nằm ở phía xã hội. Hiện

thực của nền kinh tế thị trường đã làm cho con người biến đổi, lún sâu vào những

cám dỗ vật chất, địa vị, quyền lực. Luật đời và cha con và Lửa đắng thẳng tay mổ xẻ

những nhân vật thuộc các cơ quan công quyền và đoàn thể, những người đang vận

hành cơ chế nhưng vi phạn cơ chế. Đó là những nhân vật như Vũ Sán, Trần Đương,

Lê Việt Bắc và một số nhân vật được nhắc đến bằng chức danh như: Trưởng ban tổ

chức thành uỷ (mới), chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra thành uỷ, thanh tra xây dựng quận

Lâm Du, thẩm phán toà án nhân dân Thanh Hoa. Tham nhũng và tha hoá là hai vấn

đề nhức nhối mà mỗi công dân có ý thức trách nhiệm với xã hội đều muốn tẩy chay,

đều muốn làm trong sạch bộ máy nhà nước bằng cách loại bỏ những công chức tha

hoá như vậy.

Nền kinh tế thị trường đã đem lại những khởi sắc, những đổi thay tốt đẹp

trong cuộc sống. Song mặt trái của nó là cũng để lại những nhức nhối, những ung

nhọt trong xã hội. Điển hình cho sự sa đọa bởi những cám dỗ của tiền tài, địa vị, chức

tước trong truyện chính là nhân vật Vũ Sán. Có thể nói cuộc đời của Vũ Sán chính là

một cuộc chạy đua maratông để được thăng quan tiến chức. Sán không phải là không

có thực lực, anh đã tốt nghiệp đại học, làm việc đúng với chuyên ngành học. Song

trong thời buổi cơ chế thị trường này vẫn có những lỗ hổng để “đồng tiền đi trước là

đồng tiền khôn” giúp cho những người như Sán có thể leo lên chức trưởng phòng

một cách nhanh chóng, hiệu quả. Chức trưởng phòng kiến trúc sư hiện Sán đang giữ

thực ra là một cuộc chạy đua ngầm giữa hai vận động viên maratông phó trưởng

phòng Sán và Ngân. Cuộc chạy đua, đấu giá này đối phương không hề biết cái giá đặt

ra là bao nhiêu bởi nó là chạy đua ngầm, đấu giá ngầm nên diễn ra vô cùng quyết liệt.

Thế nên các vận động viên tha hồ trổ tài trong những dịp như: “khánh thành nhà mới

43

này, tết nguyên đán này, sinh nhật này…Đấy là lệ thường, là thông lệ” [47, tr.241].

Ngân và Sán sử dụng các cách chạy đua cũng không giống nhau: “Trong khoảng trên

dưới một năm, cái tủ rượu nhà Ngân hết nhẵn, chủ yếu chạy vào tủ rượu nhà trưởng

phòng. Còn két sắt đựng các loại tiền và kim loại quý của nhà anh Sán vơi đi bao

nhiêu, ta không thể biết” [47, tr.244]. Chiêu bài cuối cùng của Ngân cao tay hơn Sán

nên Ngân đã thắng. Chức trưởng phòng đã về tay của Ngân.

Nhưng sự việc ấy vẫn chưa dừng lại bởi đối thủ bị thua vẫn đang tiếp tục tiến

hành cuộc đấu tranh ngầm để lật đổ người đã từng thắng cuộc. Sở dĩ Sán làm được

điều đó là bởi anh ta đã móc nối được với một người nước ngoài nói sõi tiếng Việt.

Người nước ngoài đó được nhà văn gọi là “người lơ lớ”. Ông ta đã đầu tư dài hạn

cho Sán cả về tiền bạc lẫn mưu kế để Sán có thể leo được lên chức trưởng phòng kiến

trúc sư thành phố. Con người ấy mặc dù là người ngoại quốc nhưng lại hiểu rất rõ cơ

chế hành chính, tổ chức của đất nước Việt Nam cũng như tâm lí của người Việt Nam:

“Nhưng mà sao nó thông tỏ mọi đường đi nước bước của ta đến thế. Rành rẽ tâm lý

người mình còn hơn cả mình. Chứng tỏ nó nghiên cứu rất kĩ phong tục tập quán, đọc

rất nhiều sách báo, thậm chí nghiên cứu cả văn kiện của ta thì mới hiểu ta đến thế”

[47, tr335 - 336]. Kết cục, với những mưu cao kế hiểm và tiền bạc của người lơ lớ

đầu tư, Sán đã ngồi ở vị trí trưởng phòng kiến trúc sư thành phố Thanh Hoa. Nghe và

làm theo lời của người lơ lớ, Sán còn quyết định đi học nghiên cứu sinh, để có bằng

phó tiến sĩ để có thể leo đến cái chức phó thủ trưởng cơ quan. Thực chất để làm được

tất cả những việc của người lơ lớ đã vạch ra và giúp đỡ mình, Vũ Sán lại tiếp tục

“chạy”. Hắn ta chạy đủ người, theo nhẩm tính, trên chục người phải “đi lại”. Hắn

chạy đủ thứ, cả bằng tiến sĩ, cả chức đảng ủy viên, rồi chức phó giám đốc cơ quan.

Trong thời gian đương nhiệm của mình, Vũ Sán đã khéo léo lợi dụng chức vụ của

mình để thực hiện các vụ làm ăn với nhiều mối quan hệ mờ ám. Anh ta dùng nhẫn

vàng để mua chức quyền nhưng thu được những viên kim cương lấp láp. Khi sự việc

bị bại lộ, báo chí phanh phui sự thật, Sán đã thuê bọn đầu gấu bắt cóc con gái của

tổng biên tập tờ báo Thời luận để đe dọa, trả thù. Song kẻ phạm tội tày trời ấy khi

phải đối mặt với sự thật, tội ác của mình gây ra thì lại nhát gan, sợ chết.

Qua câu chuyện của Vũ Sán, có thể thấy nhà văn đã mạnh dạn đề xuất đến

những vấn đề nóng của xã hội Việt Nam thời hiện đại. Đó là hiện tượng cán bộ biến

44

chất, suy thoái về nhân cách, đạo đức; đó là nạn chạy chọt, đút lót, tham ô, tham

nhũng, cậy quyền, cậy thế. Đồng thời cũng là lời cảnh báo các âm mưu chống phá,

xâm phạm của các thế lực đen tối từ bên ngoài đối với nền kinh tế của đất nước ta.

Nhân vật chức sắc nữa cũng tha hóa không kém đó là Trần Thanh Định - Phó

chủ tịch thường trực Ủy ban nhân dân thành phố Thanh Hoa. Dù chỉ xuất hiện khi xét

xử vụ án thủy cung Thần Tiên nhưng vị quan chức này chính là người ăn hối lộ, lạm

dụng chức quyền nhiều nhất trong vụ án. Ông ta đã ký công văn để công ty trách

nhiệm hữu hạn Thiên Thai sử dụng đất ở bán đảo Kim Ngưu, trong vòng năm mươi

năm làm công viên nước và thủy cung. Sau đó còn kí thay Chủ tịch Ủy ban Nhân dân

thành phố Thanh Hoa, kính đề nghị các cơ quan hữu quan Trung ương xem xét quyết

định. Làm những việc ấy ông ta đã nhận hối lộ, đút lót của Phạm Tấn - Giám đốc

công ty trách nhiệm hữu hạn Thiên Thai: một chiếc xe máy Honda SH. Đấy là theo

lời khai có chứng cứ, còn những thứ như tiền mặt, chiêu đãi ăn uống thì không có

chứng cứ nên không biết rõ thực hư ra sao. Ông ta bị buộc tội thiếu tinh thần trách

nhiệm và nhận hối lộ. Mức án cuối cùng dành cho ông ta dù tác giả bỏ lửng nhưng

theo dư luận xử như vậy chỉ là gãi ghẻ, là quá nhẹ so với tội trạng của ông ta,... Còn

có những nghi vấn xung quanh việc xử án này: “Báo Pháp luật với thời đại giật tít

bằng một câu hỏi: Tòa án xử theo luật pháp hay theo chỉ đạo của ...?” [51, tr.589].

Quả thực đúng là đã có sự can dự của vị lãnh đạo cựu bí thư thành ủy Thanh Hoa mà

người lơ lớ gọi là “người ngoài hành tinh”. Mặc dù người ngoài hành tinh không

được nói đến trực tiếp mà chỉ qua lời của người lơ lớ nhưng cũng đủ để người ta thấy

quyền uy của ông ta đến đâu: “Bàn tay người ngoài hành tinh đây. Chỉ ông ta mới

làm được thế. Cho dù không còn đứng đầu thành phố này, nhưng ảnh hưởng của ông

ta còn lớn lắm. Ngay cả sau Đại hội này, nghỉ hưu hẳn, cái đầu ấy vẫn còn được việc

cho ta” [51, tr.592]. Như vậy, qua câu chuyện xử Trần Thanh Định, nhà văn không

những cho chúng ta thấy việc quan chức thiếu trách nhiệm trong công việc, nhận hối lộ

như Trần Thanh Định mà còn cho thấy có những quan chức còn lợi dụng chức quyền

và uy thế của mình để chỉ thị cho cấp dưới như nhân vật người ngoài hành tinh.

Một nhân vật tha hóa về nhân cách, đạo đức nữa chính là Lê Việt Bắc - Giám

đốc Sở Giao thông Công chính. Để mở rộng lòng đường hai bên cổng trường, vị

giám đốc này đã đề nghị phó chủ tịch Ủy ban thành phố Thanh Hoa gợi ý các trường

45

trong quận, gom góp chút ít bồi dưỡng cho công nhân bằng cách mỗi học sinh bỏ ra

bữa quà sáng. Lại còn dặn dò là để phụ huynh học sinh thu cho khỏi mang tiếng nhà

trường. Rồi sau đó, hắn gọi cho Giám đốc Công ty Hè đường thông báo là mình đã

gợi ý các trường thu tiền bồi dưỡng cho công nhân nhằm để “cấp trên đã làm cho

mày sướng thì...đố mày dám quên cấp trên đấy” [51, tr.362]. Rồi qua cuộc nói

chuyện của hắn ta với cô gái trẻ tên Thùy, ta còn thấy hắn đã có cách lấy tiền của nhà

nước rất khoa học. Đấy là bịa ra các đề tài nghiên cứu khoa học với những tên rất kêu

nhưng thực chất vô bổ, không có hiệu quả cao: “Cây bóng mát và chặt tỉa cây bóng

mát đường phố Thanh Hoa”,“Gạch lát vỉa hè Thanh Hoa - vấn đề và giải pháp”,

“Đồng hồ nước Thanh Hoa - vấn đề và giải pháp” [51, tr.365]. Qua câu chuyện làm

giàu chính đáng của ông giám đốc sở này, ta thấy dường như quan chức không bỏ

qua bất cứ thủ đoạn nào để có thể tham ô, làm giàu cho bản thân. Và để làm được

điều đó, không phải chỉ là một cá nhân mà nguy hiểm hơn có tới cả đường dây góp

sức: “Thằng duyệt đề tài ăn một lần... Đến lúc nghiệm thu lại ăn lần nữa này. Mà hai

lần nghiệm thu nhé... Thằng cấp kinh phí thì đương nhiên rồi. Cái thằng, trên hai

thằng này, cũng phải có phần chứ. Luật chơi nó thế” [51, tr.365]. Và không chỉ có

Bắc mới có chiêu bài lấy tiền của nhà nước một cách khoa học như thế bởi hắn học

bài này từ ông bạn Trưởng ban Tuyên giáo. Và chắc hẳn ông bạn Trưởng ban Tuyên

giáo ấy cũng đã học được cách làm ấy từ một ông bạn quan chức khác.

Qua việc phân tích một số nhân vật tha hóa như trên, ta nhận thấy tham nhũng

và tham ô là hai vấn đề nóng của xã hội hiện nay. Trước trực trạng này, tất cả mọi

công dân đều muốn tẩy chay, làm trong sạch bộ máy nhà nước bằng cách loại bỏ

những quan chức, công chức tha hóa, biến chất về đạo đức, nhân cách này.

Như vậy các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn thật phong

phú, đa màu sắc. Có nhân vật tốt, có cả nhân vật xấu. Duờng như nhà văn đã đem

được cả hiện thực cuộc sống đa sắc màu vào trong truyện thông qua dàn nhân vật của

mình. Qua đó nhà văn muốn gửi gắm tâm sự của mình tới bạn đọc: “ Tôi muốn thông

qua các nhân vật để nói lên suy nghĩ của mình về thời cuộc, từ chuyện đấu tranh

chống tiêu cực trong lĩnh vực đất đai; sự trù dập trả thù những người dám đấu tranh

chống các thủ đoạn xã hội đen trên báo chí; công tác tổ chức cán bộ, công tác xét xử

của tòa án... Tiểu thuyết Lửa đắng tuy vẫn tiếp tục phanh phui, phê phán nhiều tiêu

46

cực của đời sống xã hội nhưng tôi tin nó sẽ không làm người đọc thất vọng. Bởi vì

bên cạnh số người đang tạo ra những trì trệ, cản trở... tiểu thuyết vẫn toát lên âm

hưởng lạc quan từ những phẩm cách của người cán bộ các cấp” [1].

2.2.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

Thế giới nhân vật trong tác phẩm văn học đặc biệt là trong tiểu thuyết thường

rất đa dạng, phong phú. Vì vậy, xây dựng một thế giới nhân vật như thế nào để truyền

tải được hết ý nghĩa tác phẩm là quá trình đã được nhà văn nghiền ngẫm, suy tính kỹ

lưỡng. Đó là tài năng, tâm huyết và vốn hiểu biết của nhà văn.

Sức hấp dẫn của tác phẩm đến đâu là nhờ vào cách thể hiện nhân vật của nhà

văn trong tác phẩm đó. Nhà văn là người tổ chức, thiết kế để tạo ra những nhân vật

sống động cho tác phẩm của mình. Phải xây dựng nhân vật như thế nào và xử lý các

mối quan hệ nhân vật ra sao trong mỗi tác phẩm để nhân vật thực sự sống trong lòng

độc giả là điều quan trọng quyết định sự thành công của tác phẩm. Vì thế, việc lựa

chọn các biện pháp, cách thức để xây dựng nhân vật là vô cùng có ý nghĩa. Nhất là,

với những cuốn tiểu thuyết có số lượng nhân vật lớn như Luật đời và cha con và Lửa

đắng thì nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tác phẩm càng có ý nghĩa quyết định tới

sự thành công của bộ tiểu thuyết.

2.2.3.1. Nghệ thuật khắc họa chân dung nhân vật

Nghệ thuật xây dựng nhân vật là một trong những yếu tố thể hiện tài năng của

một cây bút tự sự và góp phần không nhỏ vào thành công của tác phẩm. Bởi vẻ bề

ngoài, ngoại hình của một con người đôi khi có vai trò như là một dấu hiệu giúp ta

nhận biết được bản chất bên trong của họ. Thậm chí, những đặc điểm về nhân tướng

còn giúp ta đoán biết trước được số phận và cuộc đời nhân vật. Trong tiểu thuyết

đương đại, các nhà văn thường ít đi sâu vào việc miêu tả từng chi tiết cụ thể mà chỉ

bằng vài nét phác hoạ tiêu biểu, đặc tả thì chân dung và tính cách nhân vật đã hiện ra

rõ nét.

Nguyễn Bắc Sơn đã sử dụng nghệ thuật miêu tả truyền thống, chú ý đến khuôn

mặt và đôi mắt của nhân vật (ngoại trừ một số nhân vật nữ như: Thảo Tần, Thanh

Diệu…được chú ý miêu tả ngoại hình trọn vẹn), thông qua đó báo hiệu cho người

đọc về tính cách nhân vật. Thế giới nhân vật dù chỉ qua ngoại hình đã có sự nhận

47

diện về nhân vật rõ ràng.

Một nhân vật trung tâm được nhà văn chú ý tới đầu tiên để khắc họa chân

dung chính là ông Hòe. Nhân vật này xuất hiện ngay ở chương đầu của Luật đời và

cha con. Nhà văn tập trung miêu tả khuôn mặt của ông: gương mặt to, quắc thước,

đôi lông mày rậm. Khuôn mặt ấy mang vẻ chững chạc, nghiêm nghị của một cán bộ

tuyên giáo, chuyên viên cao cấp chính trị. Khi nói về nhân vật này nhà văn đặc tả đến

đôi lông mày của nhân vật bởi đôi lông mày ấy nhất quán với tính cách của nhân vật,

biểu hiện được thái độ của chủ nhân. Trong cuộc đối thoại ở chương một, hai vợ

chồng ông Hòe bà Phụng đã có cuộc đối thoại. Bà vợ phê phán ông Hòe và mang

nghị quyết ra để giễu ông. Ông đã tỏ thái độ rất tức giận bởi với ông nghị quyết, chỉ

thị của Đảng chính là lẽ sống. Lúc này đôi lông mày rậm của ông trợn ngược lên để

tỏ thái độ cáu giận cùng với câu nói: “Tôi cấm bà động đến nghị quyết” [47, tr.7].

Cũng ở chương này, khi kể lại lần được mời về phổ biến nghị quyết cho hội

nghị cán bộ chủ chốt ngành Giáo dục Đào tạo của thành phố biển Hải An, khi được

giám đốc sở cho biết là chưa tổ chức học được nghị quyết trước, ông Hòe đã rất ngạc

nhiên. Và nhà văn lại chú ý tới đôi lông mày của nhân vật: “Cặp lông mày lưỡi mác

dướn lên. Đôi lông mày lạ lùng này chỉ có trong sân khấu tuồng cổ, trong vai Trương

Phi. Không hiểu sao lại đầu thai vào con người này? Hai lưỡi mác to, rậm, đến cuối

chân mày lại dựng ngược hẳn lên 90 độ. Trông thật dữ tướng... Đôi lông mày càng

làm cho đối phương không dám nhìn thẳng vào mặt ông ” [47, tr.10 - 11]. Như vậy,

đôi lông mày ấy cho thấy ông Hòe là một người thẳng thắn, trung thực, cương nghị

rất phù hợp với một người làm công tác chính trị như ông. Khuôn mặt ấy, đôi lông

mày ấy, kết hợp với lời nói mạch lạc, sang sảng âm vang, cách nói lôi cuốn có điểm

nhấn, cùng với những động tác kèm lời đã khiến hàng trăm, hàng ngàn con người

ngồi im phăng phắc để nghe lấy, nuốt lấy từng lời ông nói.

Còn rất nhiều lần tác giả vẫn chủ ý miêu tả đôi lông mày ấy. Đặc biệt là trong

những tình huống quan trọng như những lúc ông được các con hỏi ý kiến về một việc

gì đó “Khuôn mặt to, quắc thước với đôi lông mày lưỡi mác của ông nhướn lên” [47,

tr.165]. Hay khi ông bị dằn vặt ghê gớm sau cái hôm Đại đưa ông đi mát xa thì khuôn

mặt và đôi lông mày ấy lại biểu lộ rõ rệt: “Đôi lông mày Trương Phi rậm rì, vểnh

ngược ở cuối chân mày, không động đậy, không nhíu lại, vô cảm trên hàng mi chậm

48

chạp mỗi khi phải chớp” [47, tr.300]. Hay là khi ông thể hiện tình yêu thương dành

cho cô gái đáng thương Kiều Linh, khuôn mặt với đôi lông mày lưỡi mác ấy đã bộc

lộ rất rõ: “gương mặt có bộ lông mày lưỡi mác vểnh ngược đã trìu mến cúi xuống

bên cô” [47, tr.365]. Hoặc là khi tò mò, đôi lông mày ấy cũng bộc lộ cảm xúc: “Đôi

lông mày lưỡi mác vểnh ngược ở phía đuôi, ngẩng lên nhìn con dâu tò mò” [51, tr.24].

Ngoài chân dung của ông Hòe, các nhân vật khác khi xuất hiện cũng lần lượt

được nhà văn miêu tả ngoại hình. Khi nói về người lính hăng hái, dũng cảm, luôn

phấn đấu, có ý chí vươn lên để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, nhà văn đã dựng lên

chân dung của Lê Hồi với vẻ đẹp của một thân hình cường tráng: “Lê Hồi đã phổng

phao hẳn lên. Bắp tay, bắp chân săn chắc. Vòng ngực nhô hẳn lên khoe sức trai

cường tráng... sắp tới con sẽ được tham gia hội thao toàn quân khu”[47, tr.40]. Còn

nghịch tử thời @ Lê Cường lại được nhà văn khắc họa bằng việc nhấn mạnh tới cách

ăn mặc và lối sống chơi bời kiểu cậu ấm. Cường xuất hiện với trang phục “quần bò,

áo phông, giày Adidas trắng” [47, tr.97]. Chiếc xe hắn đi là chiếc @ đời mới, với

biển số xe chơi cấp số nhân không số nào đẹp bằng số này, to bằng số này: 9981. Sở

thích đặc biệt của chàng thanh niên năm thứ tư đại học ngoại ngữ khoa Anh này là

những cuộc đi dự sinh nhật bạn bởi sẽ được ăn uống vui vẻ, được ngắm, được làm

quen với các em. Khi tán tỉnh các cô gái thì: “đôi mắt đa tình ướt rượt của hắn, xoáy

vào mắt các cô... Không biết Lê Cường thuổng được ở đâu những lời bay bướm, như

những viên đạn có sức xuyên thủng tất cả lỗ tai con gái” [47, tr.103]. Cách tặng quà

sinh nhật cho bạn của hắn cũng rất đặc biệt: “Hắn rút ví, lấy ra một tờ đô la trần, tức

là không có phong bì. Ai cũng nhận ra con số 100 trên mầu xanh lá mạ, đặc trưng

của tiền Mỹ” [47, tr.104]. Do vậy, hắn được thể hiện quyền uy của mình một kẻ to

con và quan trọng hơn cả là to tiền trước mặt bạn bè. Cách khoe mẽ để lấy lòng bạn

gái của hắn cũng rất đặc biệt: “Lê Cường nhẩy một mình, cốt phô diễn những động

tác hình thể được luyện tập công phu, chả kém gì ca sĩ nhạc sến thời thượng Ngọc

San...tất cả mọi người quanh sàn nhảy đều chú mục vào hắn - tâm điểm của cuộc

chơi” [47, tr.107 - 108]. Bằng cách ấy, hắn đã làm siêu lòng biết bao cô gái. Rồi chi

tiết hắn chở Kiều Linh đến khách sạn Chiều Tím để làm tình với những động tác và

thái độ của một kẻ “sành sỏi trong nghệ thuật làm tình”[47, tr.120] cho ta thấy rõ

49

sự từng trải của hắn trong tình trường như thế nào. Cậu ấm này đúng theo kiểu thời

@ chỉ biết có mỗi việc ăn chơi, tiêu tiền và bao gái, còn “Ông bà nó làm gì, nó

cũng không quan tâm. Bố hắn làm gì ra nhiều tiền cho hắn tiêu, hắn cũng không

cần biết” [47, tr.119].

Trong Luật đời và cha con nhà văn còn đặc tả những người phụ nữ đẹp cả

ngoại hình lẫn nhân cách. Đó là Kiều Linh, Thụy Miên, Thảo Tần, Thanh Diệu. Cả

bốn người phụ nữ này đều đẹp nhưng vẻ đẹp của họ lại mang những dáng vẻ khác

nhau. Cuộc đời của họ lại có những cảnh ngộ khác nhau.

Trước tiên, vẻ đẹp của Kiều Linh là vẻ đẹp của một cô gái đồng quê, hương

đồng gió nội: “cô bé đồng quê cực xinh...bông hoa rực rỡ của hương đồng gió nội”

[47, tr.103 - 104]. Chính vẻ đẹp thuần khiết ấy, lập tức đã làm cho cậu ấm Lê Cường

say như điếu đổ, tìm mọi cách để chinh phục người đẹp. Song cuộc tình với Lê

Cường lại là quả đắng. Kiều Linh đã ngậm đắng nuốt cay, nhận một số tiền và phải

phá đi cái thai trong bụng. Nhưng cô gái đẹp ấy đã biết vươn lên, theo đuổi ước mơ

của mình. Sau này cô đã có việc làm, lấy được người chồng biết yêu thương, được

gia đình nhà chồng quý mến, sống cuộc sống hạnh phúc, sung túc.

Còn Thụy Miên - vợ trước của Lê Đại lại mang một vẻ đẹp kiêu sa, đài các.

Ngay cái tên Thụy Miên đã thể hiện vẻ đẹp đài các ấy. Còn khuôn mặt của chị: “thấy

có nét kiêu sa, bí hiểm của “người đàn bà xa lạ” trong bức danh họa nổi tiếng của

Nga...tấm thân thon thả với những đường cong tuyệt mỹ” [47, tr.96]. Với cách tả này,

tác giả cho ta thấy đây là một người phụ nữ đẹp, biết chiều chồng, chăm con. Chẳng

thế mà, chồng là quân nhân, quanh năm suốt tháng vắng nhà, chị một mình chăm sóc

con cái, quán xuyến nhà cửa. Khi chồng về nhà hết lòng chiều chuộng, kì lưng, gãi

ngứa cho chồng,... Song người phụ nữ tài sắc ấy lại có cuộc đời ngắn ngủi.

Một người phụ nữ khác tài sắc không kém chính là Thanh Diệu. Chị là Phó

chủ tịch Ủy ban nhân dân quận Lâm Du, được khen là “hoa khôi” trong số nữ quan

chức của quận. Chị có một gương mặt xinh xắn đáng yêu, dáng người thon gọn khiến

ai cũng muốn nhìn ngắm: “Được cả dáng, cả da, cả gương mặt mỏng mày hay hạt”

[47, tr.265]. Cách ăn mặc của chị vừa lịch lãm, sang trọng vừa quyến rũ mê hồn:

“Váy ngắn mầu sôcôla bó gọn dưới gối, để lộ cặp chân dài thẳng đi tất mỏng màu da

50

chân. Giầy cao gót màu da bò. Áo sơ mi không cổ, mầu nâu non, ống tay lửng, bó

khít tấm thân thon thả gọn gàng” [47, tr.398 - 399]. Dáng đi mới đẹp làm sao: “Vừa

quý phái, vừa chính khách, vừa nữ tính” [47, tr.399]. Đặc biệt, chị có một đôi mắt

đẹp mê hồn: “Anh ngắm chị, nhìn sâu vào đôi mắt lá răm đẹp mê hồn của chị” [47,

tr.400]. Còn trong công việc, chị luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Chị giải quyết công việc một cách khéo léo, tế nhị, cách xưng hô vẫn giữ nguyên như

hồi còn là một chuyên viên của phòng Tài chính, chị xưng em với tất cả, kể cả cấp

dưới của mình miễn là họ hơn tuổi chị. Tất cả những điều đó đã giúp chị thành công

trong công việc, có được địa vị trong xã hội, song nó cũng ngầm ẩn chứa rằng cuộc

sống gia đình của chị không được hạnh phúc. Thật vậy, chồng của chị là Vũ Sán -

Trưởng phòng kiến trúc sư thành phố Thanh Hoa. Lúc đầu anh ta rất yêu chị, khi

chứng kiến một gã hau háu nhìn vợ mình như muốn ăn tươi nuốt sống, anh ta đã bộc

lộ thái độ: “Đi thôi em, đâu có thứ đàn ông thô lỗ, thấy đàn bà cứ dán mắt vào là

nghĩa làm sao” [47, tr.265]. Song dần dần, anh ta chán chị bởi chị là người: “thông

minh hơn chồng, sắc sảo hơn chồng...sẽ tiến bộ nhanh trong công tác. Mà khoảng

cách càng xa thì mâu thuẫn càng lớn” [47, tr.267]. Cuộc sống gia đình của họ giống

như những người xa lạ nhưng họ không chia tay nhau chỉ vì con cái. Như vậy, người

phụ nữ xinh đẹp, tài năng ấy có được cuộc sống viên mãn trong công việc, được mọi

người yêu mến, nể trọng nhưng lại bị rạn nứt hạnh phúc gia đình.

Nhân vật phụ nữ tài sắc, có cuộc sống yên bình, hạnh phúc nhất trong tác

phẩm có lẽ là Thảo Tần - vợ của Trần Kiên. Chị là giáo viên dạy toán, sau đó là hiệu

phó của trường phổ thông nổi tiếng nhất Thanh Hoa. Trong mắt học trò cô giáo Thảo

Tần đẹp cả về hình thức và tâm hồn: “váy bó lửng xanh đen ô vuông kẻ chỉ đặt chéo,

sơ mi vét cổ bẻ, chiếc khăn voan hoa nâu thắt hờ như cánh bướm chập chờn dưới

ngấn cổ trắng ngần. Cặp chân thẳng trong đôi tất như có như không, nổi bật trên đôi

giày cao gót đen, mũi tù” [51, tr.54]. Với dáng vẻ ấy cùng với cách nói chuyện cởi

mở, cách giảng bài dễ hiểu, gây hứng thú, học sinh vô cùng yêu mến, kính trọng cô

giáo dạy toán của mình: “Người đẹp, mặc đẹp, lại dạy hay nữa thì chúng thích

lắm…Cả bốn bảy cặp mắt tròn xoe. Bốn bảy cái miệng há ra. Chưa bao giờ. Chưa ở

đâu. Chưa nghe nói. Chưa nhìn thấy một người viết bằng cả hai tay như thế bao giờ.

51

Phục lắm” [51, tr.62 - 63]. Còn với cương vị của một phụ nữ trong gia đình, chị là

một người vợ yêu chiều chồng, biết chăm lo cho con cái, biết vun vén hạnh phúc gia

đình. Như vậy, người phụ nữ này có một cuộc sống khá yên ấm, hạnh phúc.

Có thể nói trong tác phẩm của mình, Nguyễn Bắc Sơn đã xây dựng hàng loạt

các nhân vật chức sắc, quan chức ở nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề. Điều này khiến

hiện thực cuộc sống hiện ra sinh động hơn bao giờ hết trong tác phẩm. Trước tiên, đó

là hàng loạt quan chức có năng lực, phẩm chất đạo đức tốt, có trách nhiệm và nhiệt

tình trong công việc. Đó là Trần Kiên - Bí thư Quận ủy quận Lâm Du với một

“khuôn mặt đàn ông thông minh, cương nghị” [47, tr.292], “bước đi rắn rỏi, chững

chạc tự tin” [47, tr.294]; đôi mắt nhìn như thấu tỏ. Anh chính là điển hình cho người

cán bộ, đảng viên kiểu mới trong xã hội.

Đó là hình ảnh Tổng bí thư giản dị trong cuộc sống “Ông ngồi kia, mái tóc

hoa râm cắt ngắn không rẽ ngôi. Bộ Comple xám giản dị, áo sơ mi trắng không

cravát” [51, tr.181]. Vẻ bề ngoài bình dị ấy sẽ làm cho các nhà tường số vô cùng

nhầm lẫn, ngay đến bản thân ông cũng bất ngờ khi được bầu vào cương vị này.

Người lãnh đạo với vẻ ngoài rất bình dị, giản đơn ấy, khi làm việc lại rất tận tụy,

nghiêm túc, thẳng thắn, công tư phân minh rõ ràng. Nhà văn đã điểm nhãn để phác

họa thành công hình ảnh một lãnh đạo cao cấp của Đảng. Đó là những cái bắt tay

“Không lỏng. Không chặt. Không nhanh. Không lâu. Đó là những cái bắt tay vừa đủ

để gọi là lịch sự” [51, tr.176]; qua bước đi “hơi nện gót” của người lính; qua ánh

mắt nhìn; qua cách nói chậm “sau mỗi câu dừng lại một tí. Câu nào ra câu ấy, chắc

như đinh đóng cột” [51, tr.177]; qua lối nói mộc; qua những câu hỏi trực diện, sau

này có người gọi là những câu hỏi chết người, bởi trả lời câu hỏi ấy sự thật sẽ hiện ra;

qua lời cảnh báo,...Khi nghe cấp dưới báo cáo công việc, ông không cắt ngang mà chỉ

bộc lộ thái độ qua “cái đầu tóc muối tiêu khẽ lắc lắc hai cái. Vẻ mặt không hề thay

đổi. Chiếc bút bi vẫn xoay xoay trên tay như một động tác vô thức” [51, tr.195], qua “Vẻ

không bằng lòng hiện rõ trên gương mặt ngăm đen. Ông lắc đầu liền mấy cái” [51,

tr.195], qua động tác “nhíu trán, cau mày. Đôi mắt chớp liền mấy cái” [51, tr.196],…

Bên cạnh những quan chức tốt, lại cũng là hàng loạt chức sắc thoái hóa, biến

chất. Điểm đặc biệt là hầu hết những nhân vật thuộc loại này đều được tác giả phác

52

họa về chân dung. Những chân dung ấy dù khác nhau ở khuôn mặt, đôi mắt, dáng

đi,… nhưng đều giống nhau ở chỗ toát lên hình ảnh của những kẻ tha hóa, vô đạo

đức. Đó là ông Hoàn - giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo. Dù nhân vật này chỉ được

nhà văn nói đến vẻn vẹn ở phần đầu chương ba của Lửa đắng song bản chất của nhân

vật lại hiện lên rất rõ. Theo lời của Tần, ông niềm nở và “Trông ông cũng được”.

Song điểm bộc lộ duy nhất, đúng bản chất của nhân vật này chính là kiểu nhìn liếc

ngang “Nó có cái gì đấy không đàng hoàng. Hơi gian gian” [51, tr.54]. Quả thật, vị

lãnh đạo này đúng là gian khi đưa ra một lí do không thuyết phục trước việc viết đơn

xin từ chức của Thảo Tần “vừa rồi, phiếu tín nhiệm của chị không cao lắm nên sở

không bổ nhiệm chị” [51, tr.195]. Nói như ông ta hóa ra đổi trắng thành đen, hóa ra

không phải Tần chủ động xin từ chức mà là do không đủ phiếu tín nhiệm của đồng

nghiệp. Rồi chuyện trước đây ông leo lên được chức Giám đốc Sở cũng bằng cách bỏ

phiếu tín nhiệm; nhưng số phiếu tín nhiệm của ông còn thua xa số phiếu của Phó

giám đốc Sở cũ. Vậy mà ông vẫn ngồi được vào vị trí giám đốc, tại sao vậy ? Lí do

cũng được nhà văn nói rất cụ thể, là do phụ huynh học sinh đáp lễ thầy (lúc ấy ông

Hoàn còn là Hiệu trưởng trường Cao đẳng sư phạm) về vụ con gái ông ta thiếu điểm

mà vẫn được nhập học và còn do “tổ chức thì thiếu gì mẹo vô tổ chức” [51, tr.59].

Đó là Trần Đương - nguyên Phó giám đốc kiêm Bí thư Đảng ủy của Sở Quy

hoạch và Kiến trúc. Nhân vật này không được nhà văn miêu tả bằng khuôn mặt, ánh

mắt, dáng đi,…giống các nhân vật khác mà đặc tả một thói quen đã thành lệ: “sau

khi đóng cửa… Lại thò tay xuống ngăn dưới bàn nước, cầm túi quà lên… Những tờ

bạc trên tay người nhấm nước bọt đếm, vẫn màu xanh lá mạ” [51, tr.146]. Thói quen

ấy cứ được lặp đi lặp lại đến 3 lần trong cùng một chương và cùng một việc: Sán đến

để nhờ ông bày cách xin ngồi vào ghế đảng ủy viên. Nó cho thấy ông Đương đúng là

có những quái chiêu làm việc rất đúng thủ tục, đủ các bước. Qua đó bức chân dung

tha hóa, ăn của đút dơ bẩn của ông ta hiện ra rất rõ.

Đó là ông Lưu - Phó bí thư Quận ủy Lâm Du với: “Đôi lông mày trắng dã,

trên bộ mặt lưỡi cày mở to hết cỡ, tưởng như sắp rách mắt đến nơi… Nước da tai

tái…hai má ông phồng lên, khi đôi môi mỏng ám đầy khói thuốc” [51, tr.309]. Qua

cách miêu tả đó, ta thấy đây là kiểu người khó chịu, hay đâm người từ đằng sau,

53

“ném đá dấu tay”. Bằng chứng là việc ông ta viết đơn kiện Trần Kiên nhưng lại kí

tên của ông X - cán bộ phòng Tổ chức Quận ủy. Hơn nữa, ông ta còn tạo ra những

chứng cứ giả, bịa toàn những việc không có thực trong đơn kiện. Sở dĩ ông làm vậy

là vì ghanh ghét, đố kị với người giỏi hơn mình: “Không có ông, làm sao Kiên có

ngày hôm nay. Vậy mà bây giờ, nó đã leo lên đầu ông” [51, tr.309]. Câu nói cuối

cùng của Hùng trong cuộc giao ban đã cho thấy rõ bản chất thực của ông Phó bí thư

này: “Rất tiếc là các cuộc thi thể thao các nước ASEAN không có môn ném đá giấu

tay. Nếu có, dứt khoát cơ quan ta có kẻ vô địch” [51, tr.317].

Tóm lại, qua việc phân tích chân dung một số nhân vật trên, ta thấy Nguyễn

Bắc Sơn đã miêu tả nhân vật theo lối truyền thống, nhà văn thường chú ý nhiều tới

khuôn mặt và đôi mắt của nhân vật. Một vài nhân vật cũng được nhà văn chú ý miêu

tả qua hành động, cử chỉ. Nhưng dù thế nào nhà văn cũng đã thành công trong nghệ

thuật khắc họa chân dung nhân vật. Bởi qua cách miêu tả ấy, người đọc có thể hình

dung được tính cách và một phần số phận của nhân vật. Sự đa dạng về chân dung

nhân vật ấy khiến người ta cảm nhận rõ hơn về sự phức tạp của hiện thực đời sống.

2.2.3.2. Nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật

Phân tích tâm lí nhân vật qua xung đột

Xung đột là “Sự đối lập, sự mâu thuẫn được dùng như một nguyên tắc để xây

dựng các mối quan hệ tương tác giữa các hình tượng của tác phẩm nghệ thuật” [58,

tr.431]. Xét mối quan hệ giữa các nhân vật trong bộ tiểu thuyết liên hoàn của Nguyễn

Bắc Sơn, người đọc thấy rõ một số xung đột điển hình: xung đột giữa các thế hệ,

xung đột giữa các lực lượng xã hội, …

Đó là xung đột giữa các thế hệ trong một gia đình với những con người ở độ

tuổi, trình độ, môi trường xã hội, học vấn, ngành nghề,…khác nhau dẫn đến những

quan điểm sống, lối sống khác nhau. Chẳng hạn sự khác nhau về quan điểm sống

giữa hai cha con Lê Hoè, Lê Đại. Hai cha con này không hề xảy ra xung đột gay gắt

mà chỉ là cách suy nghĩ, cách nhìn một số vấn đề chưa có tiếng nói chung. Song họ

rất thẳng thắn, dám nói lên ý kiến, quan điểm, lập trường của mình. Từ đó, nhận thức

của ai đúng đắn với thời cuộc thì theo, còn của ai chưa đúng thì có sự điều chỉnh.

Những bất đồng về các vấn đề của cuộc sống được đem ra mổ sẻ, quan niệm của Đại

54

thường phù hợp với cơ chế thị trường hơn là của ông bố. Điều này cũng dễ hiểu, một

phần bởi ông Hòe là lớp người của thời đại trước - thời bao cấp, còn Lê Đại là người

của thời hiện tại - thời kinh tế thị trường. Chẳng hạn như trước việc Lê Đại xin ra

khỏi Đảng, với Lê Hòe đây là việc sống còn, là việc không thể chấp nhận được. Lê

Hòe vốn là người lính, một đảng viên, lại là một cán bộ tuyên giáo nên ông quan niệm

phải sống với Đảng, phải phục vụ Đảng hết mình vì lí tưởng của Đảng. Nay nghe con

nói thế, thử hỏi làm sao ông không khỏi khổ sở, đau đớn và “sốc” đến như vậy!

Còn Lê Đại cũng là một người lính, một đảng viên nhưng là đại diện cho lớp

đảng viên trẻ của ngày hôm nay. Ngày hôm nay không còn chiến tranh nên người ta

quan tâm nhiều hơn đến chuyện riêng tư, đến chuyện gia đình, nhất là chuyện làm

giàu, Đại cũng như vậy. Theo anh, chuyện sinh hoạt chi bộ hàng tháng chỉ mang

tính hình thức mà hiệu quả thấp. Do vậy, việc mình xin ra khỏi Đảng không phải vì

“mình không tán thành cương lĩnh, lí tưởng hằng theo đuổi” [47, tr.169] mà vì việc

làm ăn của anh phải đi nước ngoài thường xuyên thì làm sao có thể đảm bảo sinh

hoạt chi bộ được.

Vậy quan niệm của ai là đúng, phù hợp với thực tế lúc này? Cái thói quen ghi

vào sổ công tác của ông Hòe đã giúp chúng ta lí giải điều đó: “Cái ác là những

chuyện con mình nói đều là sự thật, đều đúng…Mình không biết phải trả lời nó thế

nào” [47, tr.169].

Song cũng có lúc tầm nhìn của ông Hòe rộng và xa khiến Lê Đại hoàn toàn

tâm phục khẩu phục. Đó là khi ông chỉ ra được sai lầm của con trai là không chú ý

đến chiến lược con người. Hay nói cách khác là Lê Đại đang thiếu lớp người kế cận,

chưa tính đến người tin cậy, chắc chắn. Điều này đã khiến Lê Đại phải thừa nhận

“Ông cụ quả thật sáng suốt” [51, tr.392].

Trong cùng một thế hệ cũng có sự khác nhau về lối sống, quan điểm sống như

hai vợ chồng Lê Hòe và Kim Phụng. Lê Hòe là một cán bộ tuyên huấn nên quan

điểm sống của ông là gắn bó trung thành với Đảng, phấn đấu vì lí tưởng của Đảng.

Do vậy cuộc đời của ông luôn gắn với các nghị quyết, chủ trương của Đảng. Đến nỗi,

vợ ông gọi giễu cợt ông bằng cái tên “ông nghị quyết”. Ngược lại bà Kim Phụng

trước đây vốn là mậu dịch viên. Công việc của bà gắn với miếng ăn, cái mặc. Do vậy,

55

lúc nào trong đầu của bà cũng chỉ có thực tế, đó là đồng tiền. Hai con người ấy, hễ

nói chuyện với nhau là xảy ra đấu khẩu bởi quan điểm sống của họ khác xa nhau. Và

người nhún nhường bao giờ cũng là ông Hòe.

Còn trong môi trường xã hội thì sự khác nhau, mâu thuẫn về kiểu sống, lối

sống cũng vô cùng phong phú. Đó chính là sự đối lập giữa các nhân vật mang lí

tưởng thẩm mĩ của thời đại như Lê Hòe, Kiên, Đại, Phạm Năng Triển, Tổng Bí thư,

Thảo Tần, Thanh Diệu,… với các nhân vật tha hóa như Sán, Trần Đương, ông Lưu,

ông Hoàn,Trần Thanh Định… Một bên là những con người vừa tài năng vừa đức độ,

đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng với một bên là những kẻ ham danh vọng, vụ

lợi bản thân, quên mất lợi ích của cộng đồng. Bên thứ hai ấy tuy không nhiều nhưng

chúng chính là những con sâu mọt khiến cho xã hội rơi vào tình trạng thụt lùi, trì trệ.

Do vậy, theo quy luật chúng sẽ bị cả xã hội lên án, đào thải. Còn những người mang

lí tưởng thẩm mĩ của thời đại sẽ được xã hội tôn vinh, chào đón bằng những điều tốt

đẹp nhất.

Đó là xung đột giữa các lực lượng xã hội (bảo thủ - tiên tiến). Trong tác phẩm,

đó là xung đột về tư tưởng chính trị giữa những cán bộ có tư tưởng lạc hậu, bảo thủ

với những cán bộ có trình độ, tầm nhìn ở tầm “vĩ mô”. Sự xung đột này được thể

hiện qua sự đối đầu giữa các nhân vật, các phe cánh. Trong tác phẩm có nói đến việc

chuẩn bị lực lượng của Bí thư Đảng ủy Nguyễn Văn Hải. Sở dĩ ông ta phải lôi kéo

phe cánh vì để dìm vụ vào Đảng của Trần Kiên. Kiên là một kĩ sư trẻ có năng lực, có

phẩm chất đạo đức tốt, có kinh nghiệm trong công tác, hoàn thành xuất sắc mọi

nhiệm vụ được giao. Song anh đã dám không để cho ba đảng viên đi họp chi bộ khi

đang trong giờ làm việc. Việc làm ấy chưa từng xảy ra ở nhà máy và bị quy kết vào

tội chống đối Đảng. Vì thế ông Hải tìm mọi cách để lôi kéo phe cánh hòng để anh

không có đủ số phiếu kết nạp Đảng. Nhưng cuối cùng, Trần Kiên vẫn đủ số phiếu để

được kết nạp Đảng. Kết quả ấy chứng minh rằng những rào cản, bảo thủ trong xã hội

dần dần sẽ bị loại bỏ khỏi xã hội.

Những cán bộ chậm tiến, có tư tưởng cố hữu bảo thủ như nhân vật “Cụ” cũng

sẽ là rào cản cho sự phát triển của xã hội. “Cụ” vốn là thủ trưởng của Tổng Bí thư,

song cách suy nghĩ, quan điểm của hai người gần như hoàn toàn trái ngược nhau

56

trước thời cuộc. Tổng Bí thư là người cấp tiến, ông đã rất ủng hộ, khuyến khích việc

đổi mới cải cách hành chính ở quận Lâm Du. Nhưng “Cụ” lại không đồng tình bằng

lời khuyên, lời cảnh báo: “đừng có nóng vội, cần có bước đi phù hợp… Đốt cháy giai

đoạn thì sẽ bị chính giai đoạn đốt cháy” [51, tr.220]. Nhất là sau vụ việc truyền hình

trực tiếp một cuộc xử án ở Thanh Hoa, “Cụ” đã hẹn gặp Tổng Bí thư để hỏi chuyện.

Nào là chuyện cho thí điểm bí thư kiêm chủ tịch, chuyện tổ chức trưng cầu dân ý,

chuyện truyền hình trực tiếp một vụ xử án, chuyện cổ vũ thanh niên làm giàu,…Tất

cả những việc ấy “Cụ” đều phản đối bởi theo quan điểm của “Cụ” đó là những việc

“đốt cháy giai đoạn”. Không thể hiểu nổi vì sao “Cụ” lại có thái độ như vậy? Vì thiếu

thông tin. Hay còn do hạn chế trong khả năng phân tích, đánh giá tình hình và xu

hướng thời đại. Hay còn vì điều gì khác? Trước thái độ quyết liệt ấy của “Cụ”, Tổng

Bí thư cũng cương quyết không nhượng bộ: “Nếu phải trả giá bằng sự quyết liệt đáp

lại thì cũng là vì công việc, vì sự bền vững lâu dài của Đảng này, đất nước này” [51,

tr.598]. Như vậy cuộc đối thoại giữa cái cũ và cái mới, giữa những tư tưởng bảo thủ

với những tư tưởng tiến bộ phù hợp với thời đại đã có hồi kết. Cuối cùng, cái mới - tư

tưởng tiến bộ sẽ chiến thắng, đạp đổ thành lũy cố hữu của cái cũ - tư tưởng bảo thủ.

Đó còn là mâu thuẫn khi nhà văn đặt nhân vật của mình trong những tình

huống để nhân vật tự bộc lộ sự đối lập trong suy nghĩ và hành động của bản thân.

Chẳng hạn, Thanh Diệu trong lần hẹn với Trần Kiên ở quán cà phê Bằng Lăng đã có

sự mâu thuẫn giữa suy nghĩ và hành động rất rõ ràng. Khi Kiên chủ động nắm tay chị

ấp vào giữa hai bàn tay của mình nhẹ nhàng ve vuốt thì chị đã có ý nghĩ: “Chị nhào

vào anh muốn ra sao thì ra. Đời người, được một phút sống với người mình yêu,

người xứng đáng cho mình yêu, người ta lại cũng yêu mình thế này… Thế là thỏa

rồi” [47, tr.402]. Song hành động của chị lại ngược lại: “Nhưng chị không dám…

Không ai dám vượt qua ranh giới mỏng manh vô hình này” [47, tr.402]. Trước khi

chia tay, chị lại có ý nghĩ: “…Chỉ hôn nhau một lần duy nhất này thôi anh nhé. Em

dành nụ hôn thiêng liêng này cho anh, coi như đã trao tất cả cho anh rồi đấy, anh

yêu ạ” [47, tr.403]. Song những ý nghĩ ấy không làm sao bứt ra khỏi miệng chị được.

Còn Kiều Linh rất yêu và tôn thờ chồng mình như đấng cứu mạng. Vậy mà trong một

lần ân ái với chồng thì đầu óc của cô lại hiện về hình bóng của kẻ sở khanh ngày

57

trước. Cô cố đuổi hắn đi nhưng không được. Hắn từ từ chậm rãi mơn man da thịt cô,

đi sâu vào trong cô. Cô cũng nhũn người, toàn thân căng lên, người ưỡn cong rồi rơi

phịch xuống. Rồi sau đó, mỗi lần buộc chồng phải làm nghĩa vụ, Linh đều nghĩ đến

“người ấy”. Thế là, ngày thì công việc xua “người ấy” đi, đêm hắn lại lẻn về. Như

vậy, trong sâu thẳm con người cô vẫn còn một góc nào đấy cho kẻ bạc tình. Chính

điều ấy khiến có lúc cô rơi vào tình cảnh như hiện tại.

Qua việc đặt nhân vật trong các xung đột, nhà văn đã khiến nhân vật hiện lên

có chiều sâu, tạo được điểm nhấn trong lòng độc giả. Đồng thời, giúp bạn đọc nhận

diện rõ hơn đâu là nhân vật mang lý tưởng thẩm mỹ của thời đại, đâu là nhân vật tha

hóa, đi ngược lại sự phát triển của xã hội, của thời đại.

Phân tích tâm lí nhân vật qua độc thoại nội tâm

Độc thoại nội tâm là “lời phát ngôn của nhân vật nói với chính mình, thể hiện

trực tiếp quá trình tâm lí nội tâm, mô phỏng hoạt động cảm xúc, suy nghĩ của con

người trong dòng chảy trực tiếp của nó” [3, tr.122]. Cùng với lời đối thoại, độc thoại

nội tâm là thủ pháp nghệ thuật cơ bản và hiệu quả để miêu tả tâm lí nhân vật. Hình

thức biểu hiện của nó rất phong phú:

Thứ nhất là độc thoại hướng tới người khác. Loại này có thể nói thầm, nói

thành tiếng hay viết thành văn. Đối tượng có thể là một người hay đám đông, không

yêu cầu đáp lại tức thời.

Thứ hai là độc thoại một mình. Đây là những phát ngôn trong cô đơn hay

trong trạng thái tâm lí cô độc như ghi nhật kí, nói thầm một mình,… Lời độc thoại

nội tâm thường rút gọn, ít mạch lạc, liên kết. Đây là kiểu giao tiếp trong quan hệ “tôi

- tôi” chứ không phải quan hệ “tôi - nó”.

Độc thoại nội tâm tạo cho nhân vật có chiều sâu. Những dòng độc thoại như

giải phóng sự kìm hãm, đè nén, như một sự giải toả đối với trạng thái tâm lí bị dồn

nén trước đó của nhân vật. Đây là hình thức rất phù hợp để nhân vật thể hiện con

người bên trong của chính mình.

Trong bộ tiểu thuyết liên hoàn của Nguyễn Bắc Sơn, có thể thấy nhà văn diễn

tả tâm trạng nhân vật dưới dạng độc thoại một mình với hai hình thức trở đi trở lại

trong tác phẩm là ghi nhật kí và nói thầm một mình.

Người ghi nhật kí nhiều nhất trong bộ tiểu thuyết này chính là ông Hòe. Thực

58

ra việc ghi nhật kí ấy được viết ở trong cuốn sổ công tác của ông. Không phải đây là

việc ghi nhật kí hằng ngày mà chỉ mỗi khi có sự kiện gì đáng nhớ ông mới ghi vào

cuốn sổ tay ấy. Đó là những lời tự vấn của ông trước những vấn đề riêng tư cũng như

trong công việc của mình. Và rất nhiều lần ông Hòe đã ghi vào cuốn sổ ấy. Đây chính

là một dụng ý, một điểm nhấn của nhà văn khi xây dựng nhân vật này. Điểm nhấn ấy

khiến nhân vật có chiều sâu, được soi chiếu từ nhiều chiều, nhiều điểm nhìn khác

nhau. Nó đã góp phần không nhỏ vào việc xây dựng thành công hình ảnh cho nhân

vật. Đầu tiên là việc trong lần ông về công tác ở Sở Giáo dục và Đào Tạo Hải An,

được biết giám đốc Sở đã không cho triển khai tổ chức học nghị quyết, ông đã ghi

vào cuốn sổ công tác: “Công tác Đảng ở đây thế nào? Sự lãnh đạo của Đảng ở đây

thế nào? Nghị quyết trung ương mà không quán triệt đến từng cấp ủy, từng chi bộ,

từng đảng viên thì làm ăn thế nào? Đấy là đường lối, là phương hướng. Mất phương

hướng thì như thằng mù rồi còn gì. Vậy mà ở đây “chúng nó” xếp xó có chết không

cơ chứ. Thế thì ở đây người ta lãnh đạo như thế nào? Cấp ủy làm gì? Người ta điều

hành công việc ra sao? Chi bộ có họp không, hay cũng thôi nốt” [47, tr.23]. Sau đó,

ông đã tìm hiểu thêm qua cuộc nói chuyện riêng với giám đốc Sở và lại ghi vào cuốn

sổ công tác: “Đấy là kẻ vô nguyên tắc, hay là người đã mở mắt cho mình” [47, tr.28].

Từ đó, ông Hòe dụng công tìm hiểu phương thức để quán triệt nghị quyết Đảng có

hiệu quả hơn ở các cấp cơ sở qua việc lấy ý kiến của nhiều cán bộ Đảng ở nhiều nơi.

Qua những lời bộc bạch trong cuốn sổ tay ấy, người ta nhận thấy Lê Hòe là một cán

bộ tận tụy, nhiệt tình, có trách nhiệm trong công việc.

Còn trong cuộc sống, chuyện đời tư, ông Hòe cũng bộc lộ trong cuốn nhật kí

ấy. Trước tiên là cái chết của Lê Hồi - con trai của ông với người vợ cả. Người vợ cả

ấy xuất thân thôn quê nên mộc mạc và vụng dại. Bà đã nghe lời xúi bẩy đi tố điêu địa

chủ cưỡng dâm mình. Việc làm ấy, đã khiến ông xa rời hai mẹ con. Dù vậy, trong

thâm tâm ông vẫn yêu thương Hồi. Hồi là một anh lính trẻ đầy nhiệt huyết phấn đấu.

Anh đã nỗ lực và đáp lại là việc sẽ được tham gia hội thao toàn quân khu. Nhưng thật

trớ trêu, trong cuộc chạy đua vũ trang 10.000 mét, chỉ còn hai mươi mét nữa thôi là

Hồi về đích thì anh đã gặp nạn. Anh chỉ kịp nhìn mặt bố lần cuối rồi ra đi mãi mãi.

Sau cái chết đột ngột của con, Lê Hòe đã hối hận vô cùng vì đã đối xử không tốt với

59

hai mẹ con. Ông đã ghi vào cuốn sổ: “Tôi đã giết cả hai mẹ con nó” [47, tr.61].

Dòng chữ ấy cho ta hình dung về một người chồng, người cha đang mặc cảm về một

tội lỗi không thể cứu vãn được.

Hay là khi ông tìm hiểu xem xét vụ xét kết nạp Trần Kiên. Qua tìm hiểu, ông

nhận ra sự không thống nhất ý kiến giữa bí thư và giám đốc. Từ đó, ông mạnh dạn đề

xuất ý kiến giám đốc kiêm luôn Bí thư Đảng ủy với cấp trên và được khen, khuyến

khích. Ông lại ghi vào cuốn sổ công tác: “Vậy là, ngay những cái đã hình thành, đã

ổn định trong đời sống, vẫn có thể phải thay đổi, nếu phát hiện ra cái bất hợp lí.

Không biết có còn ai phát hiện vấn đề này không, hay chỉ mình ngẫu nhiên phát hiện

được trong lần đi phổ biến nghị quyết ở khu nhà” [47, tr.143]. Một lần nữa đây lại là

lời lẽ của một cán bộ hết lòng vì sự nghiệp, lí tưởng của Đảng.

Khi nghe tin Lê Đại làm đơn xin ra khỏi Đảng, Lê Hòe đã rất sốc. Với ông

Đảng là cuộc sống. Cả đời ông đều phấn đấu vì lí tưởng của Đảng. Song khi nghe

con bày tỏ quan điểm của mình, ông cũng có sự đồng thuận và thay đổi cách nhìn.

Điều này lại được ghi vào cuốn sổ tay: “Cái ác là những chuyện con mình nói đều là

sự thật, đều đúng. Ở chi bộ phường mình sinh hoạt có khác gì? Mình không biết phải

trả lời nó thế nào” [47, tr.172]. Đây là những lời tâm sự của một người bố dũng cảm,

dám công nhận sự thật: lời con nói đều đúng; là lời của một Đảng viên đang tự vấn

để tìm ra lời giải đáp cho bản thân.

Khi bà Phụng mua rẻ được căn nhà của ông Huy, nhờ thời cơ bà đã bán được

căn nhà với giá hời cao. Ông Hòe đã ghi vào sổ công tác: “Mình vẫn không thể nào

tin được một số tiền lớn như thế lại thuộc sở hữu của nhà mình. Lương cả đời mình,

cả đời vợ chồng con cái cộng lại cũng không sao bằng được. Không thể nào chính

sách lại sai? Nhưng tự dưng lại được một số tiền lớn đến thế thì nghĩa làm sao? Đến

ông trời cũng không thể nào cho không như thế?... Mình thấy thế nào ấy. Nó có cái

gì bất nhẫn khi nhớ đến nhiều người đồng đội đã ngã xuống. Ngay cả với những

người bây giờ và không bao giờ có nhà cửa. Mà không biết là phúc hay họa đây”

[47, tr.228]. Đây là cách suy nghĩ, trăn trở của một người chưa theo kịp với sự thay

đổi chóng mặt của nền kinh tế mới - kinh tế thị trường. Ông vẫn còn nhìn sự việc

theo con mắt của lớp người trong xã hội trước.

Rồi sau khi ông nói chuyện với Kiều Linh để hiểu rõ hơn về nhân phẩm của

60

cô, ông cũng đã lại ghi vào cuốn sổ: “Nếu không làm như thế, mình sẽ không còn là

con người” [47, tr.365]. Kiều Linh trước đây đã từng là bạn gái và từng mang giọt

máu của Lê Cường. Song vì Cường là gã sở khanh, cô đã phải trả giá đắt. Sau này,

oái ăm thay cô lại yêu Đại - bố của Cường và cũng đang mang trong người giọt máu

của anh. Sự thực cô không hề hay biết Đại và Cường là hai cha con. Ông Hòe đã tìm

hiểu kĩ và nhận ra Kiều Linh không hề có lỗi trong chuyện này mà còn rất đáng

thương. Và ông đã đồng ý cho cô kết hôn với Lê Đại. Đây là một quyết định rất đúng

đắn, tiến bộ của một ông bố hết lòng yêu thương con cái.

Trong Lửa đắng, duy nhất có một lần ông Hòe ghi vào sổ tay. Đó là khi công

ty cổ phần Sao Việt tổ chức Đại hội, Đại là người đứng ra tổ chức. Anh đã không cho

đại hội hát bài Quốc tế ca. Việc làm này là trái với quy định, chưa ai làm như thế. Bà

Đào - đại diện quận ủy đã chất vấn anh việc này. Đại đã mạnh dạn đưa ra ý kiến của

mình. Trước sự việc ấy, ông Hòe đã phải công nhận trong cuốn sổ tay: “Con mình

bản lĩnh hơn mình, và điều quan trọng, khó lòng bắt bẻ được nó” [51, tr.324]. Ông

bố này quả là rất dũng cảm, một lần nữa ông lại khẳng định con mình bản lĩnh hơn

mình và lập luận của nó rất chắc chắn, không ai bắt bẻ được.

Như vậy, những lần ông Hòe ghi vào cuốn sổ công tác đều là những việc quan

trọng để bộc lộ suy nghĩ, trăn trở, để bày tỏ quan điểm của bản thân. Cách ghi sổ tay

ấy đã bộc lộ rất rõ đời sống nội tâm của nhân vật. Qua đó, người ta thấy nhân vật Lê

Hòe không chỉ hiện lên qua ngoại hình mà còn có nội tâm sâu sắc. Đây chính là

thành công của nhà văn khi khắc họa nhân vật của mình.

Thanh Diệu là một phụ nữ trẻ đẹp, có tài. Chị luôn hoàn thành tốt trách nhiệm

của mình, được mọi người yêu mến, vị nể. Song cuộc sống gia đình chị lại có sự rạn

nứt. Chị được khắc họa trong tâm trạng của một phụ nữ đang yêu, yêu chân thành

nhưng không dám hé mở lòng mình một cách trực diện: “Chị thì tự hỏi, thế này là

thế nào nhỉ? Chỉ có trai gái yêu nhau mới hẹn hò thế này, ở những nơi thế này.

Không thể được! Sao không thể được?... Không thể tự dối lòng mình được. Miễn là

không phá vỡ hạnh phúc của anh là được rồi” [47, tr.399]. Và vì không dám hé mở

lòng mình nên tình yêu đó chỉ được thể hiện trong ý nghĩ của chị: “Chị nhào vào

anh, muốn ra sao thì ra. Đời người, được một phút sống với người mình yêu, người

61

xứng đáng cho mình yêu, người ta lại cũng yêu mình thế này… Với chị bây giờ, đấy

là chiếc phao cứu sinh, khi chiếc thuyền nan hôn nhân nhỏ bé đã bục vỡ, không thể bịt

lại, không thể tát nước ra, không thể chèo chống. Nó đang chìm dần…” [47, tr.402].

Trong Lửa đắng nhà văn cũng đã dành khoảng ba trang sách để Thanh Diệu tự

bộ bạch lòng mình. Đó là những dòng cảm xúc của chị trước những sự kiện xảy ra

với Trần Kiên - người chị yêu mà không dám thổ lộ vì cả hai đều đã có gia đình.

Trước tiên đó là sự mừng vui trước tin Trần Kiên được xóa án kỉ luật. Chị liệt kê ra

hàng loạt những việc chị sẽ làm khi gặp anh: “Em sẽ bắt tay chúc mừng đồng chí Bí

thư của em. Em sẽ hôn lên vầng trán thông minh, cương nghị, quyết đoán của anh, và

em sẽ dũng cảm, vượt qua tất cả, hôn lướt lên cặp môi đàn ông đầy đặn của anh, nếu

anh hưởng ứng, tại sao anh lại không hưởng ứng nhỉ? Ta sẽ hôn nhau như một người

đàn bà hôn một người đàn ông khi yêu nhau” [51, tr.262]. Sau đó, đến việc anh báo

tin, được mời đến gặp Tổng Bí thư. Với anh đây là một sự kiện, một bước ngoặt rất

lớn trong cuộc đời. Và chị cũng sung sướng như đó chính là cuộc gặp của mình với

Tổng Bí thư vậy. Chị đã tự thưởng cho mình bằng cách đến ngồi ở quán cà phê Bằng

Lăng, vào đúng căn phòng hai người đã ngồi để đắm mình trong nỗi nhớ anh, ôn lại

những kí ức đẹp của họ. Qua những dòng độc thoại này, Thanh Diệu đã nói lên tất cả

tình yêu chân thành, mãnh liệt của mình với Trần Kiên. Làm như vậy có lẽ sẽ khiến

cho cô thấy mình được yêu anh mà không vượt quá giới hạn, không phá vỡ hạnh

phúc gia đình của anh. Nhà văn đã rất khéo léo khi chọn hình thức độc thoại nội tâm

để nói lên tâm trạng của một người đang yêu nhưng tình yêu đó là quả ngọt chín

muộn không được phép hái. Đây chính là điểm khiến cho nhân vật có thể tỏa sáng

trong tác phẩm.

Và còn biết bao tâm trạng, bao nỗi niềm khác cũng đã được thể hiện chân thực

qua các nhân vật trong cả hai tác phẩm, dựng lên một thế giới nhân vật vô cùng sống

động, đa dạng, hấp dẫn.

Tóm lại, miêu tả những quá trình tâm lý phức tạp với nhiều cung bậc cảm xúc,

nhiều trăn trở giằng xé trong thế giới tâm hồn nhân vật đã đem lại thành công cho

Nguyễn Bắc Sơn trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Qua những nhân vật của ông,

người đọc không chỉ được thấy diện mạo, cử chỉ, hay hành động… mà điều thú vị là

ta còn được sống với thế giới tâm hồn sâu kín bên trong nhân vật, khơi dậy trong ta

những cảm xúc sâu sắc. Các nhân vật trong Luật đời và cha con và Lửa đắng vì thế

62

mà có sức hấp dẫn, cuốn hút độc giả.

Chƣơng 3

NGƢỜI KỂ CHUYỆN, NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU

TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BẮC SƠN

3.1. Ngƣời kể chuyện trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn

3.1.1. Khái niệm người kể chuyện

Trong văn chương đương đại từ sau Đổi mới (1986) có nhiều tác giả trần thuật

ở ngôi thứ nhất, xưng “tôi” hoặc “chúng tôi”. Ngoài ra tác giả còn trần thuật ở ngôi

thứ ba dưới hình thức người kể chuyện (do tác giả sáng tạo ra), lời trần thuật ở đây

mang tính khách quan hoá và trung tính.

Trong tác phẩm tự sự, người kể chuyện đóng vai trò vô cùng quan trọng.

Người kể chuyện là một công cụ do nhà văn hư cấu nên để kể chuyện. Người kể

chuyện là một nhân vật nhưng là một dạng nhân vật đặc biệt có chức năng tổ chức

các nhân vật khác, tổ chức kết cấu tác phẩm. Giữa người kể chuyện và tác giả có mối

liên hệ mật thiết với nhau. Qua nhân vật người kể chuyện ta có thể thấy được tư

tưởng, quan niệm của tác giả nhưng không được đồng nhất người kể chuyện với bản

thân tác giả.

Có hai kiểu người kể chuyện: Người kể chuyện tường minh và người kể

chuyện hàm ẩn.

Người kể chuyện tường minh còn gọi là người kể chuyện ở ngôi thứ nhất bởi

sự xuất hiện trực tiếp bằng các hình thức của đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất: “tôi”,

“chúng tôi”.

Người kể chuyện thuộc thế giới của nhân vật được miêu tả. Một trong những

tiêu chí quan trọng hàng đầu để nhận diện người kể chuyện là điểm nhìn kể chuyện.

3.1.2. Điểm nhìn trần thuật

Trong tác phẩm tự sự, tương quan giữa nhà văn và chủ đề trần thuật hay giữa

điểm nhìn của người trần thuật với những gì anh ta kể là điều đặc biệt quan trọng.

Điểm nhìn trần thuật là một trong những yếu tố hàng đầu của sáng tạo nghệ thuật.

Thuật ngữ “điểm nhìn” đã trở nên quen thuộc trong nghiên cứu văn học nói

chung và nghiên cứu tự sự học nói riêng. Tuy nhiên tầm quan trọng, vị trí và vai trò

63

của nó trong việc tạo dựng, xác lập mô hình cấu trúc tác phẩm, sự chi phối của điểm

nhìn trong nghệ thuật kể chuyện đến mức độ nào thì vẫn là một vấn đề còn gây nhiều

tranh luận khá gay gắt.

Điểm nhìn là một khái niệm đã được đề cập khá sớm, đặc biệt ở Anh và Mĩ.

Theo M.H. Abrahams (Từ điển thuật ngữ văn học,A Glossary of Literature terms),

điểm nhìn chỉ ra “những cách thức mà một câu chuyện được kể đến, một hay nhiều

phương thức được thiết lập bởi tác giả bằng ý nghĩa mà độc giả được giới thiệu với

những cá tính, đối thoại, những hành động, sự sắp đặt và những sự kiện mà trần

thuật cấu thành trong một tác phẩm hư cấu”.

Còn Trần Đình Sử trong cuốn giáo trình Dẫn luận thi pháp học (NXB Giáo

dục, 2004) cho rằng: “Điểm nhìn văn bản là phương thức phát ngôn trình bày, miêu

tả phù hợp với cách nhìn, cách cảm thụ thế giới của tác giả. Khái niệm điểm nhìn mang

tính ẩn dụ, bao gồm mọi nhận thức, đánh giá, cảm thụ của chủ thể đối với thế giới”.

Tựu chung lại, có thể hiểu điểm nhìn là phương thức phát ngôn, trình bày,

miêu tả phù hợp với cách nhìn, cách cảm thụ thế giới của người trần thuật. Nó là vị

trí dùng để quan sát, cảm nhận, đánh giá.

Vai trò quan trọng của điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm tự sự đã được

Pospelov khẳng định: “Trong tác phẩm tự sự, điều quan trọng là tương quan giữa

các nhân vật với chủ thể trần thuật, hay nói cách khác, điểm nhìn của người trần

thuật đối với những gì mà anh ta miêu tả”.

Lí thuyết tự sự học tạm chia ba kiểu nhìn (gắn với ba kiểu điểm nhìn) phổ biến

ở người kể chuyện:

- Thứ nhất, nhìn “từ đằng sau” (gắn với điểm nhìn toàn tri) khi người kể

chuyện có vai trò toàn năng với cái nhìn thông suốt tất cả.

- Thứ hai, nhìn “từ bên trong” (gắn với điểm nhìn bên trong) khi người kể

chuyện là nhân vật. Người kể chuyện hạn chế điểm nhìn tự sự của mình vào điểm nhìn

của nhân vật. Người kể chuyện theo điểm nhìn bên trong thường có hai dạng cơ bản:

Dạng thứ nhất, người kể chuyện xưng tôi, tự thú nhận, bộc bạch về mình, kể

về những tâm trạng, cảm giác mà mình đã nếm trải. Ví dụ: Bộ ba tự truyện của

64

Macxim Gorki.

Dạng thứ hai, người kể chuyện đứng ở ngôi thứ ba từ bên ngoài nhưng lại tựa

vào điểm nhìn nhân vật để kể. Do vậy mà khoảng cách giữa người kể chuyện và nhân

vật bị thu hẹp.

- Thứ ba, nhìn “từ bên ngoài” (gắn với điểm nhìn bên ngoài): Người kể

chuyện theo điểm nhìn bên ngoài hoàn toàn xa lạ với thế giới mà anh ta kể, anh ta chỉ

có thể kể về những hành động, lời nói thể hiện ra bên ngoài nhân vật chứ không có

khả năng am hiểu nội tâm của họ.

Sự phân biệt trên đây hoàn toàn mang tính tương đối vì hầu như không có tác

phẩm nào chỉ sử dụng một điểm nhìn mà các điểm nhìn được di động, sử dụng linh

hoạt, phối hợp với nhau phục vụ cho ý đồ sáng tạo của người nghệ sĩ.

Bộ tiểu thuyết liên hoàn của Nguyễn Bắc Sơn có sự kết hợp của hai kiểu điểm

nhìn “từ bên ngoài” và điểm nhìn “từ bên trong”.

3.1.2.1. Điểm nhìn khách quan, điểm nhìn bên ngoài

Nhìn từ bên ngoài, người kể chuyện lặng lẽ đứng vào một góc để quan sát và

kể lại chuyện với sự kiện và con người như vốn có. Hay nói cách khác, người kể

chuyện hoàn toàn xa lạ với thế giới mà anh ta kể, anh ta chỉ có thể kể về những hành

động, lời nói thể hiện ra bên ngoài nhân vật chứ không có khả năng am hiểu nội tâm

của họ.

Nguyễn Bắc Sơn từng là nhà báo nên có thể nói ông được đi nhiều, hiểu biết

nhiều. Những hiểu biết ấy chính là kinh nghiệm được trải nghiệm, đúc rút qua thực

tế. Để có được những vốn sống ngồn ngộn ấy, ông đã nhìn, quan sát để suy ngẫm.

Chính vì vậy, ông thường dùng điểm nhìn khách quan, điểm nhìn bên ngoài để tái

hiện, phản ánh hiện thực. Người đọc có thể dễ dàng nhận thấy trong bộ tiểu thuyết

liên hoàn của Nguyễn Bắc Sơn vốn kiến thức phong phú, vốn sống ngồn ngộn của

nhà văn. Đó là hiện thực của cuộc sống hôm nay với bao chuyện đáng bàn như

chuyện gia đình, chuyện xã hội, chuyện cơ chế,… Đó là các vấn đề như: nhà ở, chạy

chức, chạy quyền, tuyển dụng cán bộ, cơ cấu, sắp xếp cán bộ, … Chọn vị trí từ bên

ngoài, tạo một khoảng cách nhất định với những sự kiện, nhân vật được kể, người kể

chuyện đã có một thái độ khách quan khi trần thuật.

Trước tiên là vấn đề về nhu cầu nhà ở ngày một cao. Đất chật người đông là

65

một bài toán khá nan giải, đặc biệt là ở những thành phố lớn. Ở Thành phố Thanh

Hoa này, quỹ nhà của thành phố đã không thể nào đáp ứng nổi nhu cầu nhà ở. Chủ

trương của thành phố, một là xây những khu cao tầng để tiết kiệm quỹ đất. Hai là,

cấp đất cho cán bộ tự xây nhà. Vậy là, người ta tranh giành, đổ xô nhau để mua được

những mảnh đất có vị trí đẹp. Mục đích cũng rất khác nhau, có người mua để xây nhà

ở, nhà nghỉ,… có kẻ mua vào để lại bán đi nhằm kiếm hời. Cơn sốt đất đang trở

thành vấn đề nóng của toàn xã hội, dẫn đến cảnh: “Thế là những cuộc chạy xin cấp

đất bắt đầu. Tuỳ vị thế cơ quan xin đất, tuỳ mối quan hệ với các cơ quan chức năng,

giúp thành phố quản lý quỹ đất. Nếu quan hệ với chính quan chức thành phố thì tốt

quá rồi. Nhưng nếu không biết đường, lại phớt lờ các cơ quan chức năng thì cũng xôi

hỏng bỏng không. Nhưng xét cho cùng thì lại tuỳ thuộc vào thủ tục đầu tiên - tiền

đâu” [47, tr.209]. Giọng văn lạnh lùng, khách quan của người trần thuật giúp ta hình

dung một thực trạng chung trong xã hội là chạy đua xin cấp đất: “Cả thành phố nháo

nhào lo chạy đất. Cơn sốt đất bắt đầu nóng dần lên. Nóng lên từng ngày. Đi đâu

cũng thấy nói chuyện đất. Chuyện bản đồ quy hoạch đất” [47, tr.209]. Cuộc chạy đua

này khiến cho một số cán bộ, quan chức đã làm trái, làm sai quy định để hưởng lợi:

“Ngay cả các cơ quan trung ương cũng xin được. Cơ quan nào cũng xin được, nếu

tìm đúng địa chỉ và biết lễ độ khi làm thủ tục đầu tiên ấy. Nói không ngoa, bất kỳ cơ

quan cán bộ nào cũng xin được, không kể anh ta đang ở nhà do nhà nước cấp, miễn

là có tiền đóng góp” [47, tr.209]. Và nguy hiểm hơn là ở chỗ không chỉ là cá nhân vị

phạm mà còn có cả một tập thể, đường dây chạy cấp đất. Với thực trạng này, nếu

không giải quyết triệt để thì hậu quả sẽ rất khó lường. Các cơ quan hữu quan, các nhà

chức trách có thẩm quyền cần đưa ra những con tính để giải bài toán nan giải này,

phải chăng đó là thông điệp nhà văn muốn gửi gắm qua câu chuyện ấy?

Vấn đề tuyển dụng cán bộ cũng còn nhiều bất cập. Đó là chuyện bổ

nhiệm cán bộ đi ngược quy trình có bằng cấp rồi mới bổ nhiệm: “Người ta,

phải có đủ bằng cấp rồi mới nói đến chuyện bổ nhiệm, đằng này lại bổ nhiệm

rồi mới đi học để lấy bằng thì hèn gì chẳng đỗ” [51, tr.245]. Chết nhất là

chuyện: “một số không nhỏ lại chẳng có chuyên môn gì. Hoặc có chuyên môn

nhưng yếu, hoặc trái nghề” [51, tr.245]. Chính những điều đó đã dẫn đến

những chuyện khá khôi hài trong giới công chức: “Một “người lính gác dưới

66

ánh đèn nê ông” lấy cô đánh máy Quận uỷ rồi đi học tại chức, bây giờ thành

Phó trưởng ban Kiểm tra. Còn cô đánh máy ấy, học tại chức đại học Luật, leo

đến chức Thẩm phán Toà án nhân dân Thành phố” [51, tr.245]. Toàn là những

thực trạng đáng báo động. Với cách tuyển dụng ấy, thử hỏi những cán bộ, công

chức này có phát huy được năng lực chuyên môn và hoàn thành tốt công việc

được giao không? Hay càng ngày họ sẽ càng bị thui chột về chuyên môn và

không làm tốt nhiệm vụ?

Chuyện cơ cấu cũng là vấn đề đáng bàn, đáng nhìn lại. Chỉ một đoạn văn

ngắn, không lời bình, không bộc lộ cảm xúc cá nhân, người kể chuyện chỉ ra lối mòn

cố hữu trong việc xắp xếp, tổ chức cán bộ: “Đã ngồi vào ghế trưởng ban tuyên giáo,

trưởng ban kiểm tra, trưởng ban tổ chức… thì phải là thường vụ quận uỷ rồi. Mà đã

ở trong cấp uỷ thì mọi chuyện đều khác, có thể vượt qua mọi thông lệ, chả kể gì

chuyện học tại chức hay cao học. Vì thế, xét về mặt chuyên môn thì đấy không phải là

những người có chuyên môn cao. Nhưng dưới góc độ chính trị, thì đấy là những

người có “uy tín” cao nhất” [51, tr.245]. Chính cách làm việc ấy đã kìm hãm sự phát

triển của đất nước, không thu hút được nhân tài phụng sự cho sự nghiệp phát triển

chung của dân tộc. Lối mòn lạc hậu trong cơ chế tuyển dụng ấy cần phải được xóa bỏ

thì xã hội mới phát triển đi lên.

Nhìn từ bên ngoài, tỏ ra không có quan hệ gì với các sự kiện, vấn đề được kể,

người kể chuyện đã khiến hiện thực được hiện ra khách quan và chân thật trong tác

phẩm. Trong mạch trần thuật ấy, điểm đáng lưu ý là nhà văn thường sử dụng những

câu hỏi tu từ, những lời trữ tình ngoại đề nhằm rẽ ngang để tâm sự, để làm rõ hơn các

vấn đề, các nhân vật được nói tới. Chẳng hạn như cuộc gặp của Thảo Tần với ông

Hoàn - Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo, tuy ngắn nhưng chân dung của ông Hoàn

được người kể chuyện khắc họa độc đáo. Bằng đoạn văn trần thuật ngắn, kết hợp với

hai câu hỏi tu từ chân dung ông giám đốc ấy hiện ra rất ấn tượng: “Ông Hoàn đưa

mắt liếc ngang một cái, làm chị càng khó chịu. Tại sao cái nghề dạy học lại có những

người liếc ngang là thế nào nhỉ? Nói chuyện với ai, nhìn ai cũng phải nhìn thẳng vào

mắt người ta chứ. Sao lại có thói nhìn… gian ấy. Không biết khi dạy học trò, ông này

67

đã có tật ấy chưa, hay lên giám đốc mới… đốc chứng ra thế?” [51, tr.54]. Cái liếc

ngang ấy chứng tỏ đây là một con người có gì đó không đàng hoàng, hơi gian gian.

Quả thật, câu chuyện của họ đã chứng minh cho cái ấn tượng ban đầu đó về nhân vật.

Ông ta không đàng hoàng khi nói là vì không đủ phiếu tin nhiệm nên Tần không

được bổ nhiệm. Trong khi, thực chất Tần đã tự làm đơn xin từ chức. Và ông gian khi

ngồi được vào chiếc ghế giám đốc này. Khi Tần nói rằng ông ta thua phiếu tín nhiệm

của Phó giám đốc cũ, mà vẫn ngồi được vào ghế giám đốc, người kể chuyện đã đưa

ra những câu hỏi tu từ ngắn gọn để bộc lộ thái độ của con người này: “Mặt Hoàn tái

đi. Vì xấu hổ? Vì giận? Hay vì cả hai?” [51, tr.58].

Trong mạch trần thuật của mình, người kể chuyện hầu như đều thêm vào đó

các đoạn trữ tình ngoại đề. Trữ tình ngoại đề là hình thức ngôn từ tác giả kiêm người

trần thuật bị chệch ra ngoài việc miêu tả các sự kiện trong cốt truyện, không gắn trực

tiếp tới hành động tác phẩm. Trong đó tác giả hoặc người kể chuyện trực tiếp bộc lộ

những tư tưởng, tình cảm, quan niệm của mình nhằm bình luận hoặc đánh giá đối với

cuộc sống và nhân vật trong cốt truyện. Trữ tình ngoại đề thường xuất hiện khi tác

giả miêu tả một cảnh vật, một hiện tượng, một nhân vật nào đó. Trong quan hệ với

tác giả, trữ tình ngoại đề trực tiếp thể hiện tư tưởng tác giả, giúp cho việc xây dựng

hình tượng tác giả như một người trò chuyện tâm giao với độc giả. Do đó, trữ tình

ngoại đề là phương tiện giúp soi sáng nội dung tư tưởng của tác phẩm: bộc lộ đầy đủ

và trực tiếp hơn thái độ, sự đánh giá nhân vật, cũng như quan niệm nhân sinh của tác

giả. Qua trữ tình ngoại đề, người ta thấy trực tiếp hình tượng tác giả.

Chẳng hạn đoạn văn kể về tài tháo vát của bà Phụng, người kể đã xen kẽ

đoạn trữ tình ngoại đề: “Thứ hỏi, nếu bà không sử dụng mối quan hệ của mình

để xây dựng một loạt đường dây mua rau này, thịt, cá, đậu này, nước mắm

này, đến cả nửa cân tóp mỡ này thì làm sao có bữa ăn hàng ngày tươm tất như

thế?” [47, tr.78]. Hay khi anh cảnh sát đọc xong biển số xe của Lê Cường -

9981, người trần thuật đã chêm vào đoạn trữ tình ngoại đề: “Cũng ghê. Phải

công nhận là ghê! Phải thần thế lắm, phải quen biết thế nào, phải mất bao

nhiêu tiền mới có tấm biển này” [47, tr.100]. Hay là sau cuộc chạy đua chức

trưởng phòng với kết quả bất ngờ, xuất hiện dòng trữ tình ngoại đề của người

kể: “Thật, không gì vô tổ chức bằng công tác tổ chức của cơ quan này” [47,

68

tr.246]. Câu cuối cùng của Luật đời và cha con cũng là một lời trữ tình ngoại

đề: “Để xem con tạo xoay vần đến đâu” [47, tr.533].

Cũng có khi tác giả mượn lời nhân vật để thể hiện thái độ của mình. Trong

Lửa đắng rất nhiều lần nhà văn thông qua lời của nhân vật để bộc lộ thái độ trước

những vấn đề nóng của thời cuộc. Chẳng hạn như khi Sán bảo vệ luận án tiến sĩ có

người phản biện tự do nói: “Thì đã có bao nhiêu luận án không khoa học thế này,

chứ có phải của một tiến sĩ giấy này đâu” [51, tr.136]. Hay là khi tường thuật trực

tiếp cuộc xử án ở Thanh Hoa, thiên hạ đã tha hồ đưa ra những lời bàn tán: “- Ngày

xưa cứ bảo quan toà mặt sắt đen sì. Bây giờ, cha nào cũng mập mạp, mũm mĩm, mỡ

màng - Ăn của đút mới được thế chứ - Đương nhiên! Thế mới có đường dây chạy án

chứ. Chạy cả công an, cả kiểm sát, chạy cả toà án. Vào tù thì chạy cả quản giáo, nên

ở tù mà vẫn chửa được mới tài chứ” [51, tr.573]. Hoặc là những lời bình luận của

mọi người sau khi xử án Trần Thanh Định: “Xử như thế thì còn ai tin vào pháp luật

nữa, Đảng phải xem lại mấy cái ông toà án này đi. Có vấn đề đấy! Không phải ngẫu

nhiên mà các ông ấy bàn nhau chỉ xử thế này đâu. Lẽ công bằng ở đâu? Nhà toàn xe

tay ga thôi. Sâu mọt là đây, chứ đâu nữa? - Quan bé ăn bé, quan to ăn to. Xử thế này

chỉ là gãi ghẻ. Quá bằng nống bọn tham nhũng lên” [51, tr.588].

Như vậy, sử dụng điểm nhìn khách quan, điểm nhìn bên ngoài giúp người kể

chuyện kể lại câu chuyện một cách khách quan, đúng sự thực. Song lại kết hợp với

những câu hỏi tu từ, những dòng trữ tình ngoại đề lại giúp người trần thuật bộc bạch

được tâm sự, thể hiện được quan điểm, thái độ của mình với sự kiện, nhân vật. Đây

chính là điểm độc đáo trong lời trần thuật của Nguyễn Bắc Sơn.

3.1.2.2. Dịch chuyển điểm nhìn vào nội tâm nhân vật

Theo lí thuyết tự sự học, người kể chuyện mang điểm nhìn bên trong (điểm

nhìn nhân vật) khi anh ta/chị ta là nhân vật ngay trong câu chuyện. Khảo sát tiểu

thuyết Việt Nam thời kì sau đổi mới, người ta nhận thấy sự cách tân nghệ thuật trần

thuật tập trung ở dạng thức người kể chuyện với điểm nhìn bên trong này. Trần thuật

theo điểm nhìn nhân vật là cách thức trần thuật theo cá tính, địa vị, tâm lí nhân vật.

Điểm nhìn bên trong cho phép trần thuật qua lăng kính của một tâm trạng cụ thể, tái

69

hiện đời sống nội tâm của nhân vật một cách sâu sắc.

Với điểm nhìn nhân vật từ bên trong, nhà văn đã có một cái nhìn dân chủ,

không áp đặt về nhân vật làm cho nhân vật gần với đời thực hơn và nhân văn hơn.

Chẳng hạn như khi Lê Hồi mất, Lê Hòe nhận được lệnh thủ trưởng mời lên cơ quan

ngay có việc gấp, người kể đã nhìn sâu vào tận tâm can của ông: “Linh tính báo anh

biết có chuyện chẳng lành xẩy ra với con rồi. Thảo nào, suốt ngày hôm qua, cứ bứt

rứt không yên” [47, tr.60]. Hay là sau cái lần tận hưởng khoái lạc trong “cái đêm vỡ

lòng khốn nạn” ông Hòe đã bị dày vò, dằn vặt ghê gớm: “Ông thấy mình chả ra sao.

Cũng cậy có tiền, dày vò cơ thể người ta. Nó chỉ đáng tuổi cháu mình. Không biết rồi

nó có lấy chồng, có sinh con không? Đời nó sẽ ra sao? Chỉ mươi năm nữa là cùng.

Khi cơ thể nó nhầu nát đi, mặt mũi nhăn nheo đi, da thịt nhẽo nhèo đi, còn ai thiết

nữa. Mình nhẫn tâm quá! Nỗi dày vò cứ ám ảnh, cứ làm ông bần thần, bứt rứt, khó

chịu, không yên. Mấy ngụm cà phê càng làm ông tỉnh táo” [47, tr.301]. Hoặc là khi

Kiên hẹn gặp Diệu ở quán cà phê, nhìn thấy Kiên, Diệu mang rất nhiều tâm trạng:

“Ngượng ngùng. Lo nữa. Nhưng không át được niềm vui sướng cứ muốn bật khỏi

lồng ngực” [47, tr.398]. Rồi khi cô một mình vào lại cà phê ấy để: “đắm mình trong

nỗi nhớ anh, nhớ như in hai bàn tay anh, ấp chặt hai bàn tay em, vuốt nhẹ” [51,

tr.264]. Đó còn là tâm trạng của Kiều Linh khi bị gã bội tình lừa gạt: “Đau quá. Hận

quá. Em căm thù anh. Em nguyền rủa anh ngàn lần” [51, tr.298]. Hay là sự vững

tâm của Trần Thanh Định khi ông ta chẳng để lại dấu vết gì: “Định rất vững tâm.

Chẳng để lại dấu vết gì, chẳng ký tá gì, chẳng nhân chứng, vật chứng gì. Thằng chó

chết kia đừng hòng làm gì được tao” [51, tr.577]. Hay khi người kể thâm nhập vào

tâm trạng của ông Lưu sau khi nghe Kiên nói: “Trong thâm tâm Lưu thừa nhận

thằng cha này đúng. Nó hơn mình. Nhưng rõ ràng là nó tìm cách đẩy mình đi. Nó kéo

bè kéo cánh. Nó chọn những người ăn cánh với mình. Nó đề cao mình. Nó hạ nhục

người khác” [51, tr.314].

Tuy trần thuật từ ngôi thứ ba nhưng Nguyễn Bắc Sơn luôn di chuyển điểm

nhìn trần thuật từ người trần thuật khách quan sang điểm nhìn của nhân vật. Việc

phối hợp và di chuyển điểm nhìn bên ngoài vào bên trong sẽ giúp cho nhà văn có

điều kiện trổ nhiều ô cửa để khám phá đời sống từ nhiều góc độ khác nhau. Theo đó,

70

nhà văn có đủ điều kiện để đào sâu vào cả tầng vô thức cũng như miêu tả một cách

sinh động những đường quành tâm trạng đầy tinh vi của nhân vật. Từ phương diện

nào đó, có thể nói, sự đan xen và dịch chuyển liên tục điểm nhìn cũng là một cách

thức để tạo nên tính phức điệu của tiểu thuyết. Theo đó, văn bản nghệ thuật trở thành

một cấu trúc đa tầng, có khả năng phá vỡ tính đơn âm và cùng lúc vang lên nhiều

tiếng nói khác nhau.

Nguyễn Bắc Sơn cũng đã rất khéo léo khi dịch chuyển điểm nhìn vào nội tâm

của nhân vật. Chính vì vậy, ông khá thành công khi thể hiện những phức tạp, giằng

xé trong thế giới nội tâm và sự vận động tự thân của nhân vật. Cách trần thuật này tạo

nên ở độc giả cảm giác gần gũi với nhân vật và câu chuyện được kể cũng chân thực,

sinh động hơn. Chẳng hạn đoạn văn miêu tả Lê Hòe sau khi nhận được lệnh mời của

cấp trên lên ngay có việc gấp, có điểm nhìn khách quan: “Lê Hoè vội xọc xọc cái bàn

chải vào mồm mấy cái qua loa gọi là, rửa mặt qua quít, rồi chạy bổ về phòng, mặc

quần áo ngoài” [47, tr.60], có sự dịch chuyển điểm nhìn vào nội tâm của nhân vật Lê

Hòe: “Linh tính báo anh biết có chuyện chẳng lành xẩy ra với con rồi. Thảo nào,

suốt ngày hôm qua, cứ bứt rứt không yên” [47, tr.60].

Hay như đoạn văn trần thuật lần ra mắt cô vợ tương lai của Lê Đại đan xen

điểm nhìn khách quan với điểm nhìn của nhiều nhân vật. Trước tiên là điểm nhìn

khách quan của người trần thuật: “Nghe tiếng đóng cửa xe, cả bốn người dồn mắt

nhìn ra” [47, tr.351]. Tiếp đến là điểm nhìn của nhân vật Thảo Tần: “thầm khen ông

anh kiếm được cô gái vừa trẻ, vừa xinh, nghe nói được việc lắm” [47, tr.351]. Rồi

điểm nhìn của Trần Kiên: “Tập một đã hay, tập hai còn hay hơn” [47, tr.351].

Nguyễn Bắc Sơn đã cực kì khéo léo khi để Thảo Tần và Kiên bày tỏ thái độ với Kiều

Linh trước bởi họ chưa hề gặp mặt cô, không hề biết câu chuyện của cô với Lê

Cường nên cách nhìn của họ là khách quan. Chưa vội để Lê Hòe và bà Phụng bộc lộ

thái độ, nhà văn trở lại với điểm nhìn của người kể: “Cô gái líu ríu theo người yêu

bước vào nhà. Ông Hoè hơi nhổm người lên” [47, tr.351]. Rồi thì ông Hòe bàng

hoàng: “Mắt bỗng tối sầm lại rơi người xuống thành sa lông, tay phải vội đưa lên

ngực trái. Chỗ ấy nhói liền mấy cái làm ông co rúm người lại” [47, tr.351]. Bà

Phụng cũng không kém gì ông: “Bà Phụng đứng hẳn người lên, để nhìn cho rõ, rồi

71

cứ đờ người ra như thế” [47, tr.351]. Đến đây, cô gái dẫn về ra mắt ấy cũng không

thể hồi hộp, lo lắng như khi chưa gặp mặt mọi người nữa mà: “Cô gái sợ hãi lôi lại,

kéo tay người yêu nép vào sau anh như trốn tránh” [47, tr.351]. Thấy thái độ của

người yêu và cha mẹ, Lê Đại ngạc nhiên: “Đại hết nhìn bố mẹ lại nhìn người yêu.

Không hiểu chuyện gì xảy ra” [47, tr.351]. Và vợ chồng Kiên cũng cùng tâm trạng

như Lê Đại. Với một đoạn văn ngắn, cùng với cách kết hợp, dịch chuyển điểm nhìn

hợp lí, tác giả đã dựng lên rất rõ ràng không khí của cuộc gặp mặt cô dâu tương lai

qua nội tâm của các nhân vật. Nhờ sử dụng hợp lí các điểm nhìn ấy mà nhà văn

tường thuật cuộc gặp ấy vừa cụ thể chi tiết, vừa lôgic. Người đọc có cảm giác như

được chứng kiến câu chuyện đó vậy.

Hay đoạn văn nói về cuộc gặp của Kiên và Diệu ở quán cà phê Bằng Lăng,

hầu như toàn là điểm nhìn chủ quan, điểm nhìn nhân vật, trong đó lại có cả sự dịch

chuyển điểm nhìn nhân vật với nhân vật. Điểm nhìn từ nhân vật Kiên: “Anh nhìn chị

đi vào. Những bước đi dài, dứt khoát. Mỗi cái đặt gót là một lần thể hiện sự khẳng

định, tự tin như chứng tỏ sự có mặt của mình. Váy ngắn mầu sôcôla bó gọn dưới gối,

để lộ cặp chân dài thẳng đi tất mỏng mầu da chân. Giầy cao gót màu da bò, áo sơ mi

không cổ mầu nâu non, ống tay lửng, bó khít tấm thân thon thả gọn gàng. Chiếc xắc

nhỏ mầu gan gà. Chưa bao giờ anh được thoả thích ngắm chị kỹ càng, đang từng

bước chững chạc tiến lại với mình thế này. Dáng đi mới đẹp làm sao. Vừa quý phái,

vừa chính khách, vừa nữ tính” [47, tr.398 - 399]. Điểm nhìn lại dịch chuyển sang

Thanh Diệu: “Chị thì tự hỏi, thế này là thế nào nhỉ? Chỉ có trai gái yêu nhau mới

hẹn hò thế này, ở những nơi thế này. Không thể được! Sao không thể được? Làm việc

gần một người đàn ông thế này mà không yêu thì thật vô lý” [47, tr.399]. Rồi điểm

nhìn lại dịch chuyển sang cho Kiên: “Anh ngắm chị, nhìn sâu vào đôi mắt lá răm đẹp

mê hồn của chị… Phải thừa nhận đẹp hơn mắt Thảo Tần. Một sự cảm thông, chia sẻ

thế này chưa bao giờ mình dành cho ai” [47, tr.400]. Và lại là điểm nhìn của Thanh

Diệu: “… Chỉ hôn nhau một lần duy nhất này thôi anh nhé. Em dành nụ hôn thiêng

liêng này cho anh, coi như đã trao tất cả cho anh rồi đấy, anh yêu ạ. Chứ không cho,

không bao giờ cho chồng em nữa đâu, kể từ cái tát ấy” [47, tr.403]. Có thể thấy, phải

là người tâm lí thì nhà văn mới chọn cách trần thuật qua điểm nhìn của nhân vật để

72

kể về cuộc gặp gỡ ấy. Và chọn cách làm ấy, tác giả đã khiến nhân vật của mình tự

bộc lộ cảm xúc, tâm trạng của bản thân một cách khách quan chứ không hề theo sự

sắp đặt của người kể chuyện.

Như vậy, việc sử dụng nghệ thuật trần thuật từ ngôi thứ ba sẽ đảm bảo được

độ tin cậy của hiện thực khách quan bởi anh ta không phải là người biết trước câu

chuyện rồi kể lại, mà chỉ lần theo bước chân nhân vật và sự phát triển của các sự

kiện. Sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật vào nội tâm nhân vật khiến lời trần thuật

chân thực và sinh động hơn. Khoảng cách giữa tác giả và nhân vật được rút ngắn tối

đa, khó phân biệt được giọng kể của người trần thuật và giọng kể của nhân vật. Qua

đó, người đọc hiểu rõ và sâu sắc hơn về đời sống nội tâm của nhân vật.

3.2. Ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn

Ngôn ngữ trong tất cả tính chất thẩm mĩ của nó là chất liệu, là phương tiện

biểu hiện mang tính đặc trưng của văn học. Không có ngôn từ thì không thể có tác

phẩm văn học. Trong tác phẩm văn học, ngôn từ là phương tiện để cụ thể hóa và vật

chất hóa sự biểu hiện chủ đề và tư tưởng tác phẩm, tính cách nhân vật và cốt

truyện,… Ngôn từ của tác phẩm văn học là một hiện tượng nghệ thuật.

Trong tiểu thuyết của mình, Nguyễn Bắc Sơn sử dụng ngôn ngữ trần thuật khá

đa dạng. Trước tiên nó là bộ tiểu thuyết luận đề nên ngôn ngữ đặc trưng đầu tiên

chính là ngôn ngữ chính trị - xã hội. Song nó lại phản ánh những con người thật, việc

thật trong xã hội nên ngôn ngữ còn bình dân đậm chất khẩu ngữ. Giọng văn của nhà

văn khi viết về các vấn đề nóng, về các nhân vật đôi khi khôi hài nên ngôn ngữ còn

hài hước, dí dỏm.

3.2.1. Ngôn ngữ chính trị - xã hội

Tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn là tiểu thuyết luận đề chính trị, vì vậy trong

tác phẩm xuất hiện dày đặc các từ ngữ thuộc lớp từ ngữ chính trị - xã hội. Lớp từ ngữ

đó xuất hiện ngay ở lời kể của người kể chuyện, lời của nhân vật qua các đoạn độc

thoại, đối thoại. Với tham vọng phản ánh và bám sát hiện thực đời sống xã hội đương

đại, nhà văn đã đưa vào tác phẩm những dữ liệu lịch sử có thật để minh chứng và

mang lại hiệu quả thuyết phục cao cho người đọc. Những dữ liệu lịch sử mà nhà văn

đưa vào đều được vận dụng trong những trường hợp cụ thể để học tập, để suy ngẫm,

để có hướng đúng đắn cho hiện tại và tương lai. Số lượng từ ngữ mang tính chính trị

73

- xã hội rất nhiều. Đôi khi nhà văn dành cả trang văn để viết về một vấn đề nhất định.

Tất cả chứng minh một vốn liếng về lịch sử, xã hội sâu rộng cùng một khả năng nắm

bắt các dữ kiện lịch sử chắc chắn và biết vận dụng vào những tình huống cụ thể làm

tăng tính thuyết phục.

Trước tiên, nhà văn có gợi nhắc cho chúng ta những dấu hiệu của một thời quá

khứ - thời cải cách ruộng đất - thời bao cấp. Đầu tiên là màn đấu tố điêu địa chủ của

vợ ông Hòe. Nghe lời xúi bẩy của anh đội cải cách, cô Mận đã làm theo kịch bản của

anh ta. Đó là dựng chuyện địa chủ hiếp dâm cô: “- Mày lại còn hiếp dâm bà nữa,

mày có nhớ không? - A à! Mày còn chối à? Kim đâm vào thịt thì đau. Thịt đâm vào

thịt nhớ nhau suốt đời! Mày còn chối nữa không?” [47, tr.50]. Với những lời lẽ ấy,

tên địa chủ chỉ còn cách cúi đầu nhận tội. Với một đoạn văn ngắn, nhà văn đã dựng

lên được không khí sôi sục của một thời cải cách ruộng đất với những cuộc đấu tố địa

chủ của nông dân. Cuộc cải cách và đấu tố này đã phân chia lại ruộng đất công bằng

cho đa số nông dân miền Bắc, xóa bỏ giai cấp địa chủ phong kiến. Song việc áp đặt

giáo điều các biện pháp đã gây ra nhiều phương hại. Cuộc cải cách và đấu tố này đã

gây ra không khí căng thẳng tại nông thôn miền Bắc lúc ấy, và tác hại mạnh đến sự

đoàn kết dân tộc của người Việt. Suốt một năm sau đó, chính phủ Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa đã phải tổ chức chiến dịch nhận khuyết điểm và sửa sai, phục hồi danh dự -

tài sản cho các trường hợp oan sai, cũng như cách chức nhiều cán bộ cấp cao chịu

trách nhiệm về những sai lầm này.

Chuyện cơ cực nhất của những người sống trong thời kỳ tem phiếu là phải xếp

hàng mua lương thực, thực phẩm tại các cửa hàng mậu dịch. Người thì đông, các cửa

hàng mậu dịch lại ít. Bởi vậy mà trước cửa hàng, lúc nào người cần mua lương thực

cũng xếp hàng nối đuôi nhau dài dằng dặc như chơi trò rồng rắn. Có những người

nhà lỡ hết gạo hoặc có công buổi giỗ chạp, muốn mua được sớm phải đến đứng từ 3 -

4 giờ sáng, thậm chí nửa đêm. Gặp hôm nhiều người cùng “tư tưởng lớn”, khi trời

còn tối thui, đã đến xếp hàng đứng, ngồi vật vờ trước cửa hàng mậu dịch như những

bóng ma. Đứng xếp hàng lâu thế nhưng chắc gì đã mua được. Chờ mãi mới đến lượt

mình thì cô nhân viên mậu dịch dõng dạc tuyên bố hết hàng rồi đóng sập cửa xuống.

Tất cả những người còn lại đành lủi thủi quay lưng ra về trong sự mệt mỏi rã rời.

Ngày mai, họ lại ra xếp hàng... Cũng chính thời bao cấp đã đẻ ra một loạt cán bộ mậu

74

dịch viên có quyền hành, giảo hoạt như Kim Phụng.

Nhà văn đã giúp người đọc quay ngược thời gian về thời đã qua, nhìn lại

những sai lầm của quá khứ, có lẽ là để suy ngẫm và rút kinh nghiệm cho thực tế ngày

hôm nay.

Thực tế ngày hôm nay thì sao? Không dấu diếm nhà văn đã đưa ra rất nhiều

vấn đề, nhiều cái có thực trong cuộc sống đương đại này. Chúng ta có thể liệt kê theo

thứ tự một số dữ liệu lịch sử có thực như sau:

(1) Tại phiên họp thường vụ Đảng ủy, để bảo vệ Trần Kiên trước những lời

phê phán của Bí thư đảng ủy, giám đốc đã dẫn lời của Tố Hữu vào trong lời nói của

mình: “Ông Tố Hữu có nói trái tim ông chia ba phần, phần cho Đảng nhiều hơn cả,

còn hai phần kia chia đôi, một phần cho thơ và một phần cho vợ, là một cách nói

hình ảnh thôi, chứ làm sao chia ngăn, chia ô ra được…” [47, tr.137]. Dẫn như vậy, ý

của ông là Trần Kiên đã làm đúng nhiệm vụ của một kĩ sư quản lí điều hành và

không hề tách biệt ra khỏi ý thức Đảng.

(2) Để nói lên chính kiến của ông về chuyện thành phần, giám đốc cũng đã

đưa ra lời dạy của Bác: “Thì Bác Hồ đã bảo: “Đảng ta phải làm sao cho ai cũng có

cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” là gì?” [47, tr.137].

(3) Tại cuộc họp Ban chấp hành mở rộng, việc xét kết nạp Đảng của Trần

Kiên được đem ra xét. Phe của Bí thư Đảng ủy áp đảo, để công bằng ông đã viện dẫn

lời của Bác Hồ: “Chúng ta không bao giờ quên được lời dạy của Bác Hồ, người sáng

lập ra Đảng ta: “Phải giữ gìn sự đoàn kết của Đảng như gìn giữ con ngươi của

tròng mắt mình” [47, tr.196] và quyết định cho bỏ phiếu kín.

(4) Hay trong lần sang Nga cùng con trai, ông Lê Hòe đã nhớ lại câu nói của

vị nguyên thủ Nga: “ Nếu ai không luyến tiếc một thời Liên bang Xô Viết thì người

ấy không có tim. Nếu ai muốn khôi phục lại Liên bang Xô Viết thì người ấy không có

óc” [47, tr.330].

(5) Lê Hòe đã động viên con rể Trần Kiên là anh sẽ cải chính trong thực tế

câu người ta vẫn cứ giễu không oan: “mất mùa là tại thiên tai. Được mùa là tại thiên

tài Đảng ta” [47, tr.442].

(6) Rồi khi bàn công việc với Kiên, Hùng đã đưa ra những con số cụ thể về

75

mức độ nhiễm bẩn của nền hành chính nước ta: “Tổ chức Minh bạch Quốc tế đưa ra

mấy trăm tiêu chí để xếp loại, thì chỉ số tham nhũng ở ta đứng thứ 102/145 nước.

Các khoản chi ngoài pháp luật trong xuất nhập khẩu của ta đứng thứ 100, trong khi

đó Thái Lan là 72, Trung Quốc là 54, còn thu thuế xuất nhập khẩu của ta thì đứng

thứ 97, dịch vụ công là 91” [47, tr.471]. Và hình thức xử phạt đối với quan chức

chính phủ tham nhũng ở Trung Quốc: “Ở Trung Quốc, người ta đã kết án tử hình cả

uỷ viên Bộ Chinh trị, bí thư Thành uỷ Bắc Kinh Trần Hy Đồng kia mà. Đến cả phó

chủ tịch Quốc hội Thành Khắc Kiệt cũng bị thì hành án tử hình bằng một mũi tiêm

thuốc độc kia mà. Em nghĩ mình cũng chả khác họ bao nhiêu. Có chăng là chỉ kém

họ ở mức độ, quy mô thôi” [47, tr.474]. Rồi Hùng còn nói ra điều đã nghiền ngẫm từ

lâu: “Ngày xưa thời chống Pháp, Bác Hồ có một quyển sách mỏng ký tên là X.Y.Z,

nhan đề: Sửa đổi lề lối làm việc” [47, tr.478].

(7) Câu vè kiểu Bút Tre giễu mấy bố miền Bắc đi công tác: “Không đi không

biết Sài Gòn /Đi về trong túi không còn một xu /Nói ra thì bảo rằng ngu /Cái mồm ăn

một, thằng cu ăn mười /Nói ra sợ thủ trưởng cười /Hoá ra thủ trưởng gấp mười lần

em” [51, tr.41].

(8) Trịnh Trân được cử về Thanh Hoa thay Bí thư thành ủy cũ. Khi chuẩn bị

công tác nhân sự nhiệm kì tới: “Ông nhớ đến phương pháp của một người rất xa lạ

với ông - Bôrít Enxin. Ông ta đã làm nhiều phép thử để loại trừ dần. Cuối cùng nhắm

vào một người khiêm nhường, không đến gần mình bao giờ, thậm chí không hào

hứng ngồi vào cái chỗ mà nhiều người nghển cổ, kiềng chân nhăm nhe. Sự lựa chọn của

Enxin nhờ thế, cũng là lựa chọn của nước Nga. Putin đã chứng tỏ cho nước Nga và cho

thế giới thấy rằng, sự lựa chọn ấy là điều kỳ diệu, đúng tuyệt đối” [51, tr.216].

(9) Cuộc giao ban đầu tuần, Kiên phản bác lại câu hỏi của ông Lưu với những

ý kiến phát biểu rành rẽ: “Tôi muốn nhắc đến chuyện ngày xưa, thời Kinh tế mới, Lê

nin đã nói: “Tôi cần một nhà buôn giỏi hơn mười người cộng sản tồi”... Tôi muốn

nhắc đến ông Xuxlôp, người phụ trách công tác tổ chức của Đảng Cộng sản Liên Xô,

trong một thời gian dài, đã tổng kết: “Kinh nghiệm công tác tổ chức của Đảng Cộng

sản Liên Xô là “Càng ngày càng không phân biệt người trong Đảng và người ngoài

Đảng”… Tôi muốn nhắc đến chuyện Bác Hồ đã từng nói với ông Nguyễn Văn Huyên

76

- Bộ trưởng Bộ Giáo dục, ông Phan Anh - Bộ trưởng Bộ Ngoại thương rằng: “Chú ở

ngoài Đảng có lợi cho Đảng hơn chú ở trong Đảng. Chú yên tâm phục vụ đất

nước”... Tôi muốn nhắc đến chuyện, bây giờ, Đảng Cộng sản Trung Quốc còn chủ

trương kết nạp cả những nhà tư sản, miễn là họ tán thành Điều lệ Đảng. Dĩ nhiên

Điều lệ ấy phải sửa đi cho phù hợp. Họ còn bổ nhiệm cả những người ngoài Đảng

làm bộ trưởng nữa kia. Bởi một điều đơn giản, đấy là những người đang góp một

phần không nhỏ cho dân giàu nước mạnh, làm Trung Quốc mở mày mở mặt ra với

thế giới” [51, tr.311 - 312].

(10) Về xây mộ ở quê, ông Hòe nhớ đến câu đối của vua Lê Thánh Tông:

“Khoác một áo bào, đảm đương khó khăn thiên hạ/ Xách ba thước kiếm, tận thu lòng

dạ thế gian” [51, tr.337].

(11) Khi cần ủng hộ những việc làm mới, những nhân tố mới, người Tổng bí

thư nhắc tới chuyện của anh Kim Ngọc - Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc: “Đồ Sơn khoán

chui. Anh Kim Ngọc cũng khoán chui mà bị kỷ luật. Mình vừa gánh trọng trách này. Còn

đang thời kỳ làm quen với qui mô công việc mới. Hãy học anh Kim Ngọc” [51, tr.543].

(12) Nói đến việc đổi mới công tác xét xử của tòa án bằng cách truyền hình

trực tiếp một cuộc xử án, nghe lời phàn nàn về những khó khăn, Tổng bí thư có ý

kiến: “Trời ơi, làm cách mạng mà chỉ hành động theo đường mòn, lối cũ, theo thói

quen thì… đồng chí định đi tới đâu? Sự nghiệp của chúng ta bây giờ, có phải là công

cuộc đổi mới do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh khởi xướng không” [51, tr.545]. Và:

“Không biết có ai định chụp cho tôi cái mũ ca ngợi pháp quyền tư sản không, khi tôi

nói, đất nước ta phải cảm ơn luật sư Loseby, người đã cãi thành công để Bác Hồ

chúng ta không bị toà án Hồng Công kết tội, và cũng chính nhờ vị ân nhân này tổ

chức cho Bác trốn, nên mật thám Pháp mới không bắt được Bác đưa về Việt Nam xét

xử. Nếu toà án Hồng Công không chịu lý lẽ của ông Loseby thì không biết tình hình

sẽ như thế nào” [51, tr.548].

(13) Bài phỏng vấn của phóng viên Thu Phong với Bí thư kiêm Chủ tịch quận

Trần Kiên về vấn đề người dân phải thực sự làm chủ có đoạn: “Từ xa xưa các cụ đã

chỉ ra: phải lấy dân làm gốc. Rằng “Chở thuyền là dân, làm lật thuyền cũng là dân.

Thế mới biết sức dân mạnh như nước”. Đã một thời chúng ta nêu khẩu hiệu: làm chủ

tập thế. Gần đây không nói đến nữa, mà đưa ra khẩu hiệu thiết thực hơn: Dân biết,

77

dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” [51, tr.558].

Và còn rất nhiều những dữ liệu lịch sử khác nữa cũng được nói tới trong tác

phẩm. Các dữ liệu ấy nếu chỉ được đưa vào để liệt kê thì sẽ không có gì đặc biệt.

Nhưng ở trong truyện, Nguyễn Bắc Sơn đã lồng ghép chúng một cách khéo léo, tinh

tế nhằm nhấn mạnh, khẳng định hay làm rõ hơn một vấn đề, sự việc nào đấy. Tất cả

những sự việc đã được liệt kê ở trên đều có ý nghĩa như vậy.

Dữ liệu lịch sử (1) nhằm để nhấn mạnh việc làm của Trần Kiên là đúng. Để

minh họa cho việc không thể tách rời ý thức đảng với nhiệm vụ của một kĩ sư quản lí,

còn gì thuyết phục bằng lấy ý thơ giàu hình ảnh của Tố Hữu.

Dữ liệu lịch sử (6) với những con số cụ thể để khẳng định mức độ nhiễm bẩn

của nền hành chính nước ta. Dẫn ra những hình thức xử phạt các cán bộ cao cấp ở

Trung Quốc để khẳng định tính nghiêm minh của luật pháp. Và Hùng nhớ lại nhan đề

cuốn sách mỏng của Bác là: “Sửa đổi lề lối làm việc”. Từ nhan đề đó gợi mở một

sáng kiến trong công việc: phải sửa đổi lại lề lối làm việc ở Lâm Du, bắt đầu từ việc

xây dựng một nền hành chính sạch.

Hay như ở dữ liệu (7) dẫn ra bài vè đó nhằm để khẳng định một thực trạng

đáng xấu hổ: “khi bên công an đã thống kê, một tỉ lệ không nhỏ những người mua

dâm là công chức nhà nước” [51, tr.41].

Dữ liệu lịch sử còn phản ánh hiện thực chính trị - xã hội qua một số vấn đề cụ

thể. Cuộc tranh luận giữa Kiên và Lưu có một vấn đề được bàn tới là vai trò của

người trong Đảng và người ngoài Đảng. Ở dữ liệu (9) Kiên đã dẫn lời của Lênin,

Xuxlôp, Bác Hồ làm dẫn chứng cụ thể nhằm khẳng định quần chúng là lực lượng có

vai trò quan trọng đối với Đảng. Họ có những đóng góp nhất định cho Đảng và đất

nước. Trong xã hội hiện nay không nên phân biệt khắt khe giữa người trong Đảng

và người ngoài Đảng. Bằng chứng là: “Còn ở ta, bây giờ đất nước đã tôn vinh

những doanh nhân, những con người đại diện cho trí tuệ Việt Nam. Đất nước khoác

lên ngực họ những vòng nguyệt quế. Hằng năm, Thủ tướng đều gặp họ, lắng nghe

họ hiến kế. Trong số họ, hầu hết là người ngoài Đảng đấy anh Lưu ạ. Hoặc là từng

là đảng viên, sau đó xin ra khỏi Đảng để làm giàu cho mình, làm giàu cho đất

nước” [51, tr.312].

Việc sử dụng nhuần nhuyễn và có hiệu quả những dữ liệu lịch sử trong tác

78

phẩm chứng tỏ Nguyễn Bắc Sơn có một vốn sống thực tế rất phong phú. Ông đã bộc

lộ sự am hiểu của mình cả trong những vấn đề của ngày hôm qua và cả trong những

vấn đề của ngày hôm nay. Mạnh dạn tiếp nối nguồn cảm hứng đã được Nguyễn

Mạnh Tuấn khơi mào cách đây hơn hai chục năm, Nguyễn Bắc Sơn đã dám đưa

những vấn đề gai góc vào trong tác phẩm của mình để nói về nó, để bàn bạc bằng

hình tượng nghệ thuật sống động, bằng ngôn từ mang tính chính trị - xã hội rõ nét. Số

lượng từ ngữ mang tính chính trị - xã hội là rất nhiều, cho thấy sự am hiểu sâu rộng

kiến thức về lịch sử, về xã hội của nhà văn. Và sự am hiểu ấy được vận dụng đúng

lúc, đúng chỗ khiến vấn đề có hiệu quả biểu đạt và tính thuyết phục cao.

3.2.2. Ngôn ngữ bình dân đậm chất khẩu ngữ

Để miêu tả cuộc sống một cách chân thực, sinh động, Nguyễn Bắc Sơn đã

khai thác tối đa kho thành ngữ, tục ngữ, khẩu ngữ của nhân dân. Lời nói của nhân

dân vốn nhiều ví von, nhân hoá, ẩn dụ, uyển chuyển và sáng tạo. Đó là nguồn tư liêu

giúp nhà văn thể hiện hiện thực đời sống như nó vốn có. Có thể thấy trong tác phẩm

tần số xuất hiện của khẩu ngữ, thành ngữ, tục ngữ tương đối nhiều ở cả ngôn ngữ

người kể chuyện, ngôn ngữ nhân vật. Việc vận dụng linh hoạt các thành ngữ, tục

ngữ, những cách nói dân gian chủ yếu trong ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ

nhân vật có tác dụng khắc hoạ tính cách nhân vật, lột tả bản chất nhân vật.

Trước tiên là ngôn ngữ dân gian được vận dụng một cách khéo léo trong ngôn

ngữ người kể chuyện. Chẳng hạn như khi đặt vấn đề tìm hiểu, biết Lê Hòe đã có vợ,

cô Kim Phụng ra điều kiện chỉ cần “cắt đứt” là được. Người kể chuyện đã dẫn ra

một câu khẩu ngữ trong nhân gian để nói về chuyện hôn nhân của Lê Hòe và thái độ

của ông: “Tài chính phân minh, ái tình dứt khoát” [47, tr.56]. Sau khi dẫn ra câu

khẩu ngữ đó, quyết định của ông Hòe là cắt đứt với vợ cũ, đúng với yêu cầu của

người yêu.

Trần Kiên - Phân xưởng trưởng của phân xưởng cơ khí Động lực, một kĩ sư

trẻ vừa ra trường vài năm đã gặp phải không ít khó khăn trong vai trò người lãnh đạo.

Nhất là lần anh không để cho ba công nhân - đảng viên đi họp chi bộ khi đang trong

giờ làm việc, thì giữa họ hình thành một sợi dây vô hình ngăn cách giữa lãnh đạo với

bị lãnh đạo, giữa công nhân ít chữ với kĩ sư nhiều chữ, giữa Đảng viên và quần

79

chúng, giữa trẻ và già, giữa người cũ với người mới. Dân gian tổng kết: “ma cũ bắt

nạt ma mới” [47, tr. 83]. Câu đó vận dụng trong trường hợp của Kiên lúc này là hoàn

toàn chính xác.

Ngôn ngữ dân gian còn được vận dụng nhiều trong lời nói của các nhân vật.

Việc vận dụng các thành ngữ, tục ngữ, những cách nói dân gian chủ yếu trong ngôn

ngữ nhân vật có tác dụng khắc họa tính cách nhân vật, lột tả bản chất nhân vật.

Sau sự việc Kiên dám không cho ba công nhân - đảng viên đi họp chi bộ khi

đang trong giờ làm việc, anh đã được mời lên văn phòng Đảng ủy và bị khiển trách.

Trước thái độ thẳng thắn, không xu nịnh của anh, Bí thư Đảng ủy đã rất tức tối: “Có

đứa nào dám đồng chí kiểu cá đối bằng đầu, cá mè một lứa như nó đâu… Tao sẽ làm

cho mày không thể mọc mũi sủi tăm được cho mà xem, con ạ” [47, tr.86 - 87].

Hay khi bỏ phiếu kín để kết nạp Trần Kiên, một trong năm kẻ thân tín của Bí

Thư Nguyễn Văn Hải đã bỏ phiếu cho Kiên nên anh vừa đủ số phiếu để kết nạp

Đảng, Bí thư chi bộ đã thầm nghĩ: “Quân xanh vỏ đỏ lòng! Đứa nào? Ông sẽ tìm kỳ

ra cho mà xem” [47, tr.198].

Việc truyền tải nội dung của vấn đề cũng được thể hiện qua việc sử dụng lời

ăn tiếng nói của dân tộc trong lời của các nhân vật. Chẳng hạn như việc bà Mận - vợ

cả của ông Hòe tố cáo điêu địa chủ hiếp dâm mình bằng câu thành ngữ: “Kim đâm

vào thịt thì đau /Thịt đâm vào thịt nhớ nhau suốt đời” [47, tr.50]. Đây là một cách

nói rất hình ảnh, người nói không phải nói toẹt sự việc mà người nghe vẫn có thể

hiểu được ý.

Nhà văn không chỉ sử dụng ngôn ngữ dân gian xưa mà còn sử dụng ngôn ngữ

dân gian hiện đại của thời hội nhập phát triển để đúc rút nhiều vấn đề của cuộc sống

thời hiện đại:

Tổng kết trong xã hội năm điều răn đối với quan chức: “Điều đầu tiên đối với

quan chức là: Không lơ là với nhà báo. Hai là: Không lếu láo với cấp trên. Ba là:

Không quên các bậc tiền bối. Bốn là: Không bối rối với chị em. Cuối cùng là: Không

lèm nhèm với cấp dưới”

Năm điều răn đối với công chức: “Một là: Không nghe ca-ve kể chuyện. Hai

là: Không nghe thằng nghiện trình bày. Ba là: Không dây với các nhà báo. Bốn là:

80

Không lếu láo với cấp trên. Năm là: Không đưa hết tiền cho vợ” [51, tr.407].

Những vấn đề ấy dường như là lời cảnh báo đối với tất cả mọi người. Trong

nền kinh tế thị trường này, guồng quay của nó có sức hút rất mạnh. Mỗi người phải

tự thích nghi với guồng quay ấy nhưng đừng xoáy sâu vào vòng quay của nó. Bởi nó

sẽ nhấn chìm ta với những dục vọng thấp hèn.

Bên cạnh thứ ngôn ngữ trong sáng, giản dị, thứ ngôn ngữ thô nhám, trần trụi

đời thường cũng được các nhân vật trong tác phẩm sử dụng. Dường như Nguyễn Bắc

Sơn muốn thâm nhập vào mọi ngõ ngách xã hội nên ngay cả những câu chuyện tình

dục cũng được đan xen trong tác phẩm. Nó nói lên phần nào đời sống tâm lí của con

người, chủ yếu thông qua lời kể của nhân vật.

Câu nói chua ngoa của bà Phụng trước lời khen anh rể hiền: “Lành, lành mà

cũng biết vành l…thổi sáo đấy!” [47, tr.8]. Trong lời của anh đội cải cách khi thuyết

phục Mận đấu tố địa chủ: “Nó có mà sợ thọt d… vào ấy chứ” [47, tr.46].

Một người vừa xinh đẹp vừa có tài như Diệu mà lại lấy Sán, thiên hạ đã có kẻ

bàn tán: “Lấy thằng này thật phí l… con bé” [47, tr.265].

Vũ Sán cũng có những lời mát mẻ với người tình: “Tưởng qua sông rồi thì

đấm “bướm” vào sóng” [47, tr.312].

Khi Trần Kiên bị kỉ luật xuất hiện những lời bình luận như: “Liều lắm cơ. Ai

bảo mó dái ngựa thì nó chả đá cho à?... không phải là mó mà là bóp. Bị đá thì đúng

rồi, nhưng chưa biết ai ngã ngựa” [47, tr.516].

Những vấn đề bức xúc nhất trong đời sống chính trị - xã hội rất nhạy cảm, rất

khó để nói thẳng ra nhưng nhà văn đã tạo ra những tình huống để khéo léo lồng vào.

Người ta thấy những luận điểm ấy như được rút ra rất tự nhiên từ thực tế cuộc sống

qua lời của nhân vật. Chẳng hạn như màn đối thoại, cãi nhau của các bà hàng cá,

hàng thịt: “Chưa chi đã sồn sồn như l… chấm muối ấy - Bà rõ là cái loại l… sành

ghe đá, l…vá sắt tây, l… xây xi măng, l… chăng dây thép - Này, nhà chị dí cái gì

đấy. Cho chị lên mà dí vào hàng tôi. Toàn đồ điện đấy. Tôi chỉ bật tách một cái là nó

giật tung “cái ấy” đi cho xong đời nhà chị - Cậy vốn to buôn to chứ gì? Tao là tao

đ… có sợ nhé” [51, tr.527 - 528].

Vấn đề tình dục là vấn đề nhạy cảm. Ít có nhà văn nào dám nói về nó một cách

81

trực tiếp như Nguyễn Bắc Sơn. Đời sống tình dục là một phần trong đời sống tâm lí

của con người. Đó là nhu cầu sinh lí bình thường của những con người rất đời

thường. Chính những câu chuyện về đời sống tình dục được đan xen rải rác trong tác

phẩm đã khiến cho nhân vật gần với đời thường hơn bao giờ hết.

Màn làm tình của Lê Cường với Kiều Linh được kể lại khá đầy đủ: “Và hắn từ

từ, chậm rãi, thong thả cởi từng thứ, từ ngoài vào trong. Vừa làm vừa nếm náp mỗi

thứ một tí của ngon vật lạ cứ lồ lộ ra trước mắt, trong tay. Mảnh vải cuối cùng đã tụt

khỏi người cô gái, vẫn thong thả, từ tốn hắn bế cô gái, nhẹ đặt lên giường. Đứng trên

giường phía chân cô gái, hắn cũng không vội vàng, bắt đầu lần lượt cởi từng thứ trên

người mình. Vừa làm, vừa chăm chú quan sát cô. Tấm thân trình nguyên, mơn mởn, rạo

rực, đắm đuối nhìn hắn, căng lên chờ đợi. Đến lúc ấy hắn mới nhập cuộc” [48, tr.120].

Thụy Miên thiếu thốn tình cảm của chồng vì chồng đi làm xa, lâu lâu mới về.

Khi gặp được một người biết động viên, chia sẻ, vốn thiếu thốn sinh hoạt vợ chồng,

cô đã phạm lỗi với chồng: “Anh nhẹ nhàng nằm lên người chị, nhẹ nhàng hôn trán,

hôn mắt, hôn má, hôn tai, hôn miệng. Anh hôn miệng chị rất lâu. Rồi anh hôn khắp

cơ thể Miên. Chị phải bảo “thôi, thôi” mấy lần, anh mới ngừng. Hình như lúc ấy,

Miên như con trăn, hết vặn mình bên này lại đến bên kia. Hình như lúc ấy mặt chị

nhăn nhó buồn cười lắm, vì mớ dây thần kinh chỗ ấy bị kích thích ghê gớm. Rồi chầm

chậm, anh đi vào miền ẩm ướt của Miên. Toàn thân chị tê dại, tưởng chết đến nơi

rồi. Sàn nhà gỗ rung lên từng nhịp… Cho đến khi anh dìu Miên đến một miền khác

lắm, mới lắm, lạ lắm. Chị chưa từng đến bao giờ… Mãi đến tận lúc ấy, Miên mới

biết, có một miền như thế trên cõi đời này:

- Miền cực lạc! Cực hoan! Cực mãn!” [47, tr.130].

Viết về đời sống tình dục tương đối nhiều nhưng nhà văn cũng sử dụng những

tiếng lóng để tránh gọi tên trực tiếp, không gây cảm giác thô trước người đọc. Qua

đó, tác giả muốn cho ta thấy đời sống tình cảm, tâm lí của con người là những nhu

cầu thiết yếu trong cuộc sống.

Có thể thấy ngôn ngữ sinh hoạt trong tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn rất

phong phú và đa dạng. Đó là sự vận dụng khéo léo ngôn ngữ dân gian lồng ghép

trong lời của người kể chuyện, đặc biệt là trong lời của nhân vật. Bên cạnh đó là thứ

82

ngôn ngữ bình dân, suồng sã vẫn hay được sử dụng trong cuộc sống thường ngày.

Điều đó tạo nên sự sinh động, uyển chuyển trong ngôn ngữ và nhân vật tạo được cá

tính riêng.

3.2.3. Ngôn ngữ hài hước, dí dỏm

Tiểu thuyết Việt Nam đương đại càng ngày càng gần với hiện thực đời sống.

Chất liệu đó khiến cho tiểu thuyết giống như bức tranh đa màu, đa sắc diện về cuộc

đời, về con người. Càng gần với hiện thực bao nhiêu thì những mặt trái, những

nghịch lí xã hội lại càng rõ bấy nhiêu. Phản ánh điều đó, tiểu thuyết đã đan xen tự nhiên

những câu chuyện hài hước với ngôn ngữ hài hước, dí dỏm. Nguyễn Bắc Sơn là một

trong số các nhà văn thành công với thứ ngôn ngữ này trong tiểu thuyết của mình.

Tiếng cười được bật ra trong tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn là từ những tình

tiết bất ngờ mang đậm yếu tố bi hài, từ những câu chuyện hài hước với ngôn ngữ hài

hước, dí dỏm. Ta có thể kể ra rất nhiều những mẩu chuyện hài hước, dí dỏm được kể

đan xen trong tiểu thuyết của ông. Mỗi câu chuyện đều được rút ra từ chính thực tế

cuộc sống, đều phản ánh cuộc sống, đều ngầm rút ra những ý nghĩa riêng: từ thời bao

cấp đến hiện nay, từ vấn đề xã hội đến vấn đề chính trị. Đằng sau tiếng cười cũng ẩn

chứa sự phê phán không trực diện của nhà văn. Chất hài hước đã tạo ra được sức hấp

dẫn của tác phẩm với bạn đọc. Trong bộ tiểu thuyết liên hoàn của ông, người đọc bắt

gặp những câu chuyện hài hước cười ra nước mắt. Đó là cái hài của ngôn từ, cái hài ở

nội dung câu chuyện, cái hài còn đọng lại dư vị khi ta gấp trang sách lại. Những câu

chuyện được cóp nhặt từ đời sống, được hình tượng hóa qua giọng văn đầy chất hài

hước của tác giả.

Đó là tình tiết: trong đợt đi công tác miền Nam thời bao cấp, nhân vật Lê Hòe

bên cạnh sự oai vệ, quan phương của người chuyên rao giảng chính trị, nghị quyết

còn là một con người rất đời thường, cũng có lúc cần đến mấy chai mỡ đem ra Hà

Nội, thậm chí phải cân đo đong đếm những chai mỡ mình đang sở hữu xem có bị ăn

bớt không?

Hay đó còn là câu chuyện đầy bất ngờ qua cách trả tiền thù lao cho thầy giáo

dạy con của bà Phụng. Vốn là người chặt chẽ, tính toán, bà Phụng đã nghĩ ra tuyệt

chiêu trả lương cho thầy giáo của con theo kiểu của một mậu dịch viên thời bao cấp:

83

cho thầy giáo của con cái chân giò rồi trừ vào tiền thù lao giảng dạy. Khi đưa cho

thầy giáo, bà không nói là trừ tiền chân giò vào tiền lương nên khiến cho thầy giáo

trẻ nhận món quà giấy báo không khỏi xúc động và tò mò: “vừa đạp xe, vừa với một

tay xuống cái túi vải đeo ở ghi đông nắn nắn, bóp bóp. Nó nằng nặng. Nó mềm mềm.

Nó nhũn nhũn. Nhưng nắn mạnh tay, lại thấy nó cưng cứng. Nó dài dài. Nó to to. Có

chỗ bằng cổ tay. Nắn tiếp xuống, có chỗ to hơn. Thầy giáo dạy toán đã vận dụng hết

trí tưởng tượng của môn hình học không gian mà vẫn không đoán nổi nó là cái gì.

Chả nhẽ lại dừng lại, mở ra xem thì kỳ quá” [47, tr.75]. Sau khi về nhà anh giáo trẻ

giải thích đầu đuôi câu chuyện cho vợ, bằng sự nhạy cảm của người phụ nữ, chị gọi

tên đích danh món quà: Đó là một cái chân giò. Và cuộc tranh luận giữa hai vợ chồng

diễn ra: vợ gọi là quà biếu, chồng nói là cho. Cuộc tranh luận thực sự đã ngã ngũ khi

người vợ xem đến món thù lao dạy học thấy thiếu. Như vậy, mọi thắc mắc đã được

giải đáp: bà Phụng đã bán lại cái chân giò - tiêu chuẩn của gia đình cho vợ chồng anh

giáo. Mẩu chuyện được đan xen với lời kể hấp dẫn của tác giả: từ ngôn ngữ đến tình

tiết câu chuyện, liên tiếp tạo những bất ngờ cho người đọc với từng “móc xích” của

câu chuyện. Đó là chuyện hài hước được nhặt nhạnh từ thời bao cấp. Qua mẩu

chuyện nhỏ đó tác giả đã phản ánh một thực trạng có thực trong cuộc sống: thời kì

một bộ phận nhỏ những cán bộ nhà nước như bà Phụng có quyền hành và lộng hành

dẫn đến cảnh: người ăn không hết, kẻ lần không ra.

Hoặc là chuyện cô ôsin Dự đã đem đến cảm giác bâng khuâng, khơi dậy bản

năng đàn ông trong cõi sâu kín của ông Hòe. Dự ngồi nhờ bán gạo ở nhà ông bà Lê

Hòe, thỉnh thoảng giúp làm một vài việc nhà, ông Hòe rất mến Dự. Sự khỏe khoắn

chất phác và lanh lợi của cô gợi lên trong cõi sâu thẳm lòng ông bóng dáng người vợ

cũ. Sự hiện diện của Dự với đường nét gợi cảm của gái một con không khỏi làm ông

bâng khuâng “phút chốc bản năng đàn ông trong cõi sâu kín, tưởng như đã chết bất

ngờ trỗi dậy đòi hỏi”. Từ việc nhờ đấm lưng ông đề nghị cô ngồi hẳn lên lưng ông

cho giãn xương cốt. Cái cảnh đầy chất bi hài ấy lọt vào mắt Lê Đại.

Những chuyện hài hước trong tác phẩm thường được kể theo điểm nhìn người

kể chuyện, có khi được lồng trong lời kể của nhân vật: trong một lần tắm bùn, Hùng

đã kể cho Kiên nghe một câu chuyện hài xảy ra ở quê anh. Bệnh viện huyện có bác sĩ

84

Khải chữa vô sinh giỏi: “Ca nào cũng chữa được mới tài…Chỉ có một nhược điểm

nhỏ là…con sản phụ hắn chữa đều giống hắn như đúc khuôn” [51, tr.475]. Lí do là

hắn đã lừa và đẩy những người phụ nữ nhẹ dạ, khát khao có con vào cảnh bất đắc dĩ.

Nhưng có ông chồng đã vác gậy vào bệnh viện hỏi tội Khải, hắn ta co giò chạy khắp

bệnh viện, chạy ra phố huyện, trốn vào nhà vệ sinh. Tức giận, Khải đã quyết định kỉ

luật mình: “Anh ta đưa tay xuống bóp d…Nhưng đố ai làm được việc ấy? Đau quá sẽ

phải thôi ngay. Người ta có thể tự treo cổ, tự nhảy xuống giếng chứ không thể tự bóp

d… để trừng phạt mình” [51, tr.476].

Câu chuyện do Hùng kể tưởng chỉ là giải khuây về mặt tinh thần nhưng thực

tế nó đề cập đến một vấn đề có tính chất chính trị - xã hội: Vấn đề chống tham

nhũng. Nếu có một cơ quan chống tham nhũng, cơ quan ấy phải độc lập, phải đứng

ngoài hệ thống thiết chế của cơ thể mình. Mẩu chuyện nhỏ đã đưa ra kết quả tất yếu:

các cơ quan hành pháp, luật pháp và tư pháp phải tách ra, cụ thể là ba cơ quan công

an, tòa án, viện kiểm soát.

Có thể kể ra rất nhiều những mẩu chuyện hài hước, dí dỏm được kể đan xen

trong tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn. Những câu chuyện hài làm giảm đi “độ

nóng” của một số vấn đề chính trị xã hội được đề cập đến trong tác phẩm. Mục đích

chính không phải chỉ giảm “độ nóng” của những vấn đề chính trị mà còn có ý nghĩa

phản ánh cuộc sống và tạo được sức hấp dẫn của tác phẩm với người đọc.

Tóm lại, nghệ thuật tổ chức trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn đã có

những thành công nhất định. Như lời nhận xét của nhà phê bình Bích Thu: nhà văn

đã có dụng ý tổng hợp trong nó các loại hình văn học ở nhiều dạng thức: các câu

chuyện tiếu lâm hiện đại, thơ dân gian thời đổi mới, các bài hát, các bức thư, các bài

báo, các ghi chép trong sổ tay. Để làm mới phương thức trần thuật, rút ngắn khoảng

cách giữa người trần thuật với nhân vật, cho phép người trần thuật có thái độ thân

mật, gần gũi với nhân vật. Các dạng thức kể trên góp phần làm cho những vấn đề của

cuộc đời với những quy luật nghiệt ngã của nó được giãn ra, đỡ căng thẳng, nặng nề

trong tâm lí tiếp nhận và thưởng thức của người đọc. Với cách trần thuật này, người

viết đã chuyển tải được những vấn đề, những thông tin nóng, kích thích cảm hứng

85

nghiên cứu của người đọc.

3.3. Giọng điệu trần thuật

3.3.1. Giọng điệu triết lí

Như ta đã biết, nhân vật trong bộ tiểu thuyết liên hoàn của nhà văn Nguyễn

Bắc Sơn hầu hết là những trí thức (nhà giáo, nhà báo), những nhà chính trị. Những

nhân vật trí thức, những chính trị gia đích thực của nhà văn luôn là người có học thức

uyên thâm, có tâm hồn tinh tế, nhạy cảm. Chính vì thế, người đọc nhận rõ sắc thái

giọng điệu triết lý suy tư. Giọng điệu này được nhà văn sử dụng khá đậm đặc và có

hiệu quả trên từng trang sách. Sắc thái ấy thường được sử dụng khi nhà văn đề cập

đến những vấn đề phức tạp trong cuộc sống; khi nhân vật đi tìm những giá trị tinh

thần đích thực vĩnh hằng; khi ông bày tỏ những suy tư về tình người, tình đời hoặc

khi nhà văn phân tích, lý giải, khái quát một hiện tượng nào đó trong cuộc sống.

Ngay cả nhan đề tác phẩm cũng chính là một tín hiệu thẩm mỹ giàu chất triết lí về

sống chết, phận người. Bộ tiểu thuyết liên hoàn của Nguyễn Bắc Sơn được nhà văn

đặt cho những cái tên đầy chất triết lí: Luật đời và cha con và Lửa đắng.

Trước tiên là cái tên Luật đời và cha con, nói như Đỗ Minh Tuấn: “Cái tiêu

đề Luật đời và cha con gợi lên một món nợ truyền kiếp nửa như nghiệp báo của nhà

phật, nửa như ân oán giang hồ” [47, tr.537]. Đúng là cuốn tiểu thuyết đầu tay ngồn

ngộn vốn sống chính trị này của nhà văn đã mô tả một guồng quay nghiệt ngã như

vòng quay của bánh xe luân hồi lăn qua ba thế hệ cha con một cán bộ tuyên huấn cấp

cao. Cái vòng quay ấy chính là sự vận hành của cơ chế tổ chức trong xã hội Việt

Nam mấy thập kỉ qua trong nhằng nhịt những mối quan hệ gia đình xã hội, trong bao

nhiêu biến tướng của cuộc đời. Cái luật đời ấy là: “Gia đình ông Hòe ngập ngụa

những ấu trĩ, loạn luân và dối trá: người trụ cột viển vông và rốt cục đầu hàng thực

tế, con trai đầu chết vì chủ nghĩa thành tích, con trai thứ hai say mê làm giàu để rồi

bị vợ phản bội, con dâu chết vì tai nạn xe cộ trên đường đi chơi với tình nhân, con

gái bất thành nhân dạng chỉ toàn những chuyện nhạt nhẽo chẳng ra vợ hiền chẳng ra

cán bộ, cháu đích tôn thì ngạo ngược núp bóng cha anh để ăn chơi trác táng và gieo

vạ cho cả bố và ông…Trong cái gia đình ấy cuối cùng cũng ló ra được một anh con

rể là Trần Kiên, Bí thư Đảng ủy quận Lâm Du dám dũng cảm đổi thay cơ chế, đòi

86

hợp nhất vai trò Bí thư với vai trò Giám đốc. Trong khi chưa làm được cuộc cải tổ tổ

chức này thì Kiên sẵn sàng nhận trách nhiệm trước mọi quyết định của mình trong tư

cách Bí thư Đảng ủy. Thật oái oăm, chính cái dũng cảm, cái cấp tiến của anh đã

khiến anh phải nhận lãnh kỷ luật về những bê bối sai lầm trong cơn sốt đầu cơ đất

của địa phương do báo chí khui ra. Cái cơ chế mà ông bố vợ kiên trì rao giảng, cái

thực tế mà bà mẹ vợ tích cực tham gia cuối cùng lại ụp mọi hậu quả lên đầu anh con

rể tử tế và cấp tiến. Thông điệp toát lên từ cái lôgic nghiệt ngã ấy là, đời cha ăn mặn

đời con khát nước, đời cha chỉ một sai lầm nhỏ, đời con phải trả giá theo nhiều cách

khác nhau” [47, tr.539 - 540].

Cái tên Lửa đắng cũng mang ý nghĩa triết lí. Trả lời phỏng vấn trong bài Lửa

đắng sẽ bùng cháy, nhà văn Nguyễn Bắc Sơn đã nói: “Cái tên Lửa đắng xuất phát từ

một đoạn nói về cuộc đấu khẩu mà thực chất là cuộc đấu tranh tư tưởng quyết liệt

giữa nhân vật “Cụ” và nhân vật “Tổng Bí thư” ở thời điểm cao trào. Cụm từ này chỉ

xuất hiện duy nhất một lần. Bạn đọc xem trang 597 thì sẽ hiểu ngay ý nghĩa của nó”

[36]. Như vậy, Lửa đắng chính là thuốc đắng, là liều kháng sinh đặc trị những căn

bệnh xã hội trầm kha, tưởng như không thuốc nào chữa khỏi. Trong tác phẩm của

mình, nhà văn đã đề cập đến rất nhiều căn bệnh xã hội trầm kha. Đó là căn bệnh chạy

chức, chạy quyền, chạy bằng cấp, chạy đôla,…thông qua câu chuyện Vũ Sán bảo vệ

luận án tiến sĩ cùng các mánh khóe gian lận, bẩn thỉu để leo lên chức phó giám đốc.

Đó là căn bệnh ăn hối lộ, tham ô qua thao tác ông Trần Đương - kẻ đương quyền mỗi

khi khách ra về lại vội vã ngồi vào chỗ khách vừa đứng dậy và trong một phản xạ tự

động lùa tay vào gầm bàn để túm lấy túi quà hối lộ,…

Trong tác phẩm, giọng điệu triết lí suy tư được thể hiện rất rõ khi nhà văn đề

cập đến những vấn đề phức tạp trong cuộc sống. Chẳng hạn như trước vấn đề quán

triệt nghị quyết Đảng đến các cơ sở, giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Hải An đã

không phổ biến nghị quyết cho cán bộ, công nhân viên. Lê Hòe là một cán bộ tuyên

huấn hết lòng vì sự nghiệp của Đảng đã không khỏi suy nghĩ, trăn trở. Ông đã ghi

vào cuốn sổ công tác những dòng suy tư đầy chất lí luận: “Công tác Đảng ở đây thế

nào? Sự lãnh đạo của Đảng ở đây thế nào? Nghị quyết Trung ương mà không quán

triệt đến từng cấp uỷ từng chi bộ, từng đảng viên thì làm ăn thế nào? Đấy là đường

87

lối, là phương hướng. Mất phương hướng thì như thằng mù rồi còn gì. Vậy mà ở đây

“chúng nó” xếp xó có chết không cơ chứ. Thế thì ở đây, người ta lãnh đạo thế nào?

Cấp uỷ làm gì? Người ta điều hành công việc ra sao? Chi bộ có họp không? Hay

cũng thôi nốt?” [47, tr.23].

Tham nhũng đang là một vấn đề nóng trong xã hội. Nó không chỉ tồn tại ở một

cá nhân hay một ngành mà tồn tại như một hệ thống trong toàn xã hội. Trong cuộc

làm việc với cán bộ lãnh đạo Thành ủy Thanh Hoa, Tổng Bí thư với con mắt chính trị

tinh tường đã nhìn thấu tim đen bọn quan tham, đã chỉ ra tính hệ thống của nạn tham

nhũng: “...đồng chí nói là chưa gây hậu quả nghiêm trọng chứ gì? Nhưng đã mất rồi.

Mất danh dự, mất uy tín của Đảng bộ, của chính quyền thành phố. Ai đời, một kẻ ất ơ

như báo chí gọi, chuyên phe vé máy bay ở Matxcơva, học hành nửa đời nửa đoạn,

mà chỉ bằng tiền - tiếng lóng gọi là đạn chứ gì, chắc ở đây phải là đạn khoan - mới

có sức xuyên thủng cả một hệ thống chính quyền từ phường, quận lên thành phố đến

tận Trung ương. Lẽ nào triết lí “cái gì không mua được bằng tiền thì có thể mua

được bằng rất nhiều tiền” lại đúng hả các đồng chí.... Đau quá các đồng chí ơi!”

[47, tr.198]. Tác giả thật khéo léo khi để cho người lãnh đạo cao nhất của Đảng lên

tiếng bởi nó cho thấy tham nhũng thực sự đã trở thành một vấn nạn của xã hội, cần cả

xã hội chung tay giải quyết.

Khi nhà văn bày tỏ những suy tư về tình người, tình đời hoặc khi phân tích lý

giải, khái quát một hiện tượng nào đó trong cuộc sống thì giọng điệu triết lí suy tư

cũng được sử dụng khá thành công. Trong chuyến đi công tác nước Nga với con, Lê

Hòe đã được con và bạn của nó dẫn đi thăm thành phố Matxcơva về đêm. Có một

đoạn văn ngắn là những dòng suy tư triết luận rất hay về Matxcơva: “Như bất cứ

thành phố nào về đêm, Matxcơva cổ kính và hiện đại trở nên huyền diệu, lung linh,

đẹp hơn hẳn ban ngày. Lạ thế đấy. Lẽ nào cái huyền ảo, lung linh lại là cái mờ ảo,

không rõ nét, không rõ mặt, không rõ ràng” [47, tr.327].

Giọng điệu triết lý còn được nhà văn dùng để lập luận khi cần đi sâu khẳng

định những giá trị chân chính nào đó. Cuộc nói chuyện giữa “Cụ” và Tổng Bí thư sau

việc tường thuật trực tiếp phiên xử án ở thành phố Thanh Hoa diễn ra căng thẳng.

“Cụ” phản đối tất cả những việc Tổng Bí thư đã làm. Tổng Bí thư kiên quyết khẳng

88

định lập trường, quan điểm đúng đắn của mình. Nhà văn đã rất thành công khi để cho

Tổng Bí thư có những dòng suy tư triết lí: “Cứ cái lối kỳ đà cản mũi thế này thì

không thế làm việc được. Không nói về thái độ. Anh ấy nhiều tuổi thế, lại vốn là cấp

trên mình. Khó chịu thế, chứ khó chịu nữa cũng phải chịu. Mà mình vẫn chịu đựng

đấy chứ.

Điều cốt lõi là ý kiến về công việc. Gần như anh ấy phản đối hầu hết những

việc mình làm. Tại anh ấy thiếu thông tin? Hay còn do hạn chế trong khả năng phân

tích, đáng giá tình hình và xu hướng thời đại? Tại không còn khả năng sáng suốt

trong tư duy nên cứ dựa vào kinh nghiệm cũ để xem xét tình hình mới.

Hay còn vì một điều gì khác?

Có thể lắm! Nếu thế, cũng là chuyện giải thích được. Người ta thường luyến

tiếc thời đã qua của mình. Khi phải rời bỏ nó vẫn cố níu kéo, cố chứng tỏ quyền uy

của mình bằng cách dùng thế lực cũ tác động vào tình hình mới.

Có lẽ cũng phải có quy định về việc này. Khoa học quản lý đã chỉ ra rồi.

Người ta không thể mãi sáng suốt khi ngồi ở một vị trí lãnh đạo. Ngồi mãi một ghế

đầu óc sẽ trì trệ, bảo thủ. Các nước phát triển tiến nhanh vì họ làm đúng quy luật của

kinh tế thị trường đã đành. Nhưng còn nhờ họ có cách lập ra một bộ máy và xây

dựng được một cơ chế khoa học cho bộ máy ấy vận hành. Một trong những nguyên

tắc xác lập bộ máy ấy là không ai ngồi ở vị trí lãnh đạo quá hai nhiệm kỳ.

Không biết có nên nêu vấn đề này ra không?

Xem ra, thái độ của anh ấy quyết liệt đấy. Nếu phải trá giá bằng sự quyết liệt

đáp lại thì cũng là vì công việc, vì sự bền vững lâu dài của Đảng này, đất nước này!”

[51, tr.597 - 598]. Người Tổng Bí thư ấy còn khẳng định lập trường quan điểm của

mình một lần nữa sau khi gặp ông Trịnh Trân, lại là những dòng suy tư đầy tính triết

luận: “Cuộc làm việc với anh Trân càng củng cố thêm suy nghĩ của mình. Đúng là

một lực cản đáng sợ. Cản tất cả những gì cản được, những ai cản được để chứng tỏ

sự tồn tại của mình trên đời này “người ta” đều làm.

Đang ra sức cản mình đây. Đang đà chạy mà có kẻ ngáng chân ngã … ? Chấp

nhận. Cái mất chỉ là của cá nhân ta. Cái được là của sự nghiệp chung.

Ta chấp nhận!” [51, tr.601].

Những dòng triết luận ấy làm hiện lên hình ảnh Tổng Bí thư là một cán bộ

lãnh đạo hết lòng vì sự nghiệp chung của dân tộc, biết đặt lợi ích chung lên trên quyền

89

lợi cá nhân, dám nghĩ dám làm, dám vượt qua mọi rào cản ngăn trở trong công việc.

Phải nói rằng Nguyễn Bắc Sơn lựa chọn giọng điệu triết lý suy tư trong bộ tiểu

thuyết liên hoàn của mình là rất phù hợp với cái nhìn, cách tư duy và hệ thống nhân

vật của tác giả. Chính sắc thái giọng điệu này đã góp phần làm cho những trang viết

của nhà văn có bề sâu trí tuệ, đưa người đọc tới sự cảm nhận sâu sắc thấm thía nhiều

điều từ cuộc sống còn bộn bề, phức tạp hôm nay.

3.3.2. Giọng điệu hài hước mỉa mai

Giọng điệu hài hước trong tiểu thuyết đương đại có nhiều cấp độ. Có giọng

châm biếm nhẹ nhàng nhưng sâu cay; có giọng trào lộng, châm chích; có giọng tự

trào; có giọng giễu nhại. Nhiều tác phẩm đã để lại ấn tượng sâu sắc nhờ người kể

chuyện “biết đùa”. Giọng điệu hài hước trở thành một giọng chủ, đem lại sắc thái

mới mẻ cho văn học nói chung và tiểu thuyết đương đại nói riêng.

Với cái nhìn hiện thực bộn bề đa dạng, với trách nhiệm của một cây bút chân

chính, Nguyễn Bắc Sơn trong bộ tiểu thuyết này đi sâu phát hiện nhiều điều bất cập

bất ổn trong cuộc sống hôm nay. Để đưa lên trang sách những điều bất cập bất ổn ấy,

nhà văn đã lựa chọn một phương tiện thật hữu hiệu. Đó là giọng điệu hài hước mang

sắc thái mỉa mai phê phán. Dưới cái nhìn của nhà văn, giọng điệu hài hước được sử

dụng để phơi bày những thói tật còn tiềm ẩn sâu xa trong mỗi con người. Nhờ sắc

thái giọng điệu này mà nhà văn đã phản ánh thật tinh tế tâm trạng khác thường của

một con người thật tầm thường, vụ lợi. Và cả khi miêu tả ngoại hình nhân vật với

hàm ý mỉa mai, tác giả cũng sử dụng giọng điệu hài hước này.

Có thể dẫn ra câu chuyện chạy chức trưởng phòng của hai vận động viên

maratông Sán và Ngân làm minh chứng cho vấn đề bất cập của cuộc sống, được nhà

văn kể bằng giọng điệu hài hước mỉa mai. Ngay cách gọi “cuộc chạy đua ngầm” tác

giả đã hàm ý mỉa mai trong đó. Cuộc chạy đua cho chiếc ghế trưởng phòng ấy đã tốn

kém không biết bao nhiêu tiền của, công sức của cả hai vận động viên maratông.

Trong cuộc chạy đua này, nhà văn chú trọng kể về ngày ăn mừng con sếp vào đại

học. Tiếng cười đã được bật lên khi một nhân viên tếu táo nói thủng thẳng: “Các cụ

bảo: Đẻ con khôn mát… người rười rượi, đẻ con dại thảm hại cả… người! Thế nên

em tưởng sếp bà có con vào đại học thì không cần điều hoà cũng mát lắm rồi” [47,

90

tr.243]. Nhà văn còn giải thích rõ hơn cho dấu ba chấm bằng một đoạn văn hài hước

phía sau: “Vấn đề là ở chỗ khi đọc đến tiếng “mát” anh ta ngừng lại một tí, rồi đến

tiếng “cả” cũng lại ngừng một chữ như ngần ngừ, rồi Bờm mới đọc tiếp tiếng

“người”, nên ai cũng nhận ra, thế vào tiếng “người” ấy lẽ ra phải là tiếng khác cơ,

rất tục cơ, nên mọi người đều cười” [47, tr.243]. Chưa dừng ở đó, tác giả không chỉ

cười mà còn có ý mỉa mai phê phán khi bồi thêm một đoạn văn hài hước nữa: “Thật

ra công tử con sếp đã phải làm lại toàn bộ học bạ phổ thông trung học để du học tự

túc đại học Ôxtrâylia. Bởi con sếp học kém tất cả các môn, trừ giáo dục thể chất và

đã trót nghiện hút, chích choác rồi. Bây giờ phải tách ra khỏi đám bạn xấu để cách

ly. Làm lại học bạ, không có nghĩa là anh phải đến từng giáo viên bộ môn, giáo viên

chủ nhiệm xin một điểm trung bình khác, một lời phê khác, chữ ký khác. Có người lo

trọn gói cho anh, kể cả chữ ký giám hiệu, dấu đỏ đàng hoàng. Đây là một việc làm

nhân đạo thay đổi môi trường xã hội và giáo dục. Ai cũng sẵn lòng giúp đỡ” [47,

tr.243 - 244]. Đến đây, người đọc đã hiểu bản chất việc được đi học đại học của con

sếp. Tiếng cười được bật ra nhưng không phải vì vui, vì sung sướng mà vì cay đắng,

chua xót trước một thực tế phũ phàng.

Giọng điệu hài hước còn được Nguyễn Bắc Sơn sử dụng để phơi bày những

thói tật còn tiềm ẩn sâu xa trong mỗi con người thông qua việc miêu tả chân dung

nhân vật.

Đây là chân dung nhân vật Nguyễn Văn Hải - Bí thư Đảng ủy: “Cái mặt đầy

những múi thịt dưới làn da bóng nhẫy đỏ tía tai như đang cãi nhau” [47, tr.86],

“Hôm nay bí thư ăn mặc rất chỉnh tề. Lại thắt cả cravát nữa. Chỉ có điều, nó lại

được đưa ra ngoài áo len cộc tay. Và giầy đen, quần sẫm mầu lại đi tất trắng” [47,

tr.194]. Sau khi đọc mảnh giấy ghi kết quả kiểm phiếu, mặt của ông ta cũng thay đổi

sắc độ rõ rệt: “Mặt đang đỏ lựng mà tái dại ngay như miếng thịt trâu ôi chợ chiều”

[47, tr.197]. Rõ ràng là nhờ sắc thái giọng điệu hài hước mỉa mai này mà tác giả đã

thể hiện thái độ coi thường, khinh bỉ của mình trước một con người đầy mưu mô,

nham hiểm.

Một chân dung nhân vật khác cũng được khắc họa rất thành công nhờ giọng

văn hài hước mang tính mỉa mai ấy chính là ông Lưu: “Đôi tròng mắt trắng dã, trên

91

bộ mặt lưỡi cày mở to hết cỡ, tưởng như sắp rách mắt đến nơi, chứng tỏ người nói

giận dữ tột độ. Nước da tai tái, dù đã huy động tối đa cho máu dồn lên mặt, mà tái

vẫn hoàn tái” [51, tr.309]. Đây là một con người nham hiểm, lòng dạ hẹp hòi, là kẻ

ném đá dấu tay.

Giọng văn hài hước ấy còn được nhà văn sử dụng khá thành công để diễn tả

một đặc điểm nào đó của nhân vật. Đó là đặc điểm rất khôi hài của Đại, thích được

vợ kỳ lưng hơn là làm tình với vợ: “Không hiểu sao, mỗi khi về nhà, tớ lại phát ra

cái bệnh ngứa mới kỳ. Ở đây có bị thế đâu? Đi công tác có bị thế đâu? Nghĩ cũng

buồn cười. Vợ thì thèm lắm rồi, mà chồng thì cứ bắt gãi cái đã. “Sang trái một tí,

chưa trúng, dịch lên một tí, sang phải tí nữa. Trúng rồi, hoan hô!” Cứ như hiệu

chỉnh cho pháo ta nã vào tầu giặc ấy.“Gãi nữa đi em, gãi khoẻ vào, cào chảy máu ra

cũng được. Thích quá! Sướng quá! Rộng ra tí nữa. Được đấy. Thôi, em gãi cả lưng

đi, cứ mười móng tay mà cào, như nhà quê đi bừa ấy, đi chang thóc phơi trên sân

gạch ấy. Thế, thế, sướng ơi là sướng, thích ơi là thích”” [47, tr.97]. Khi đã thỏa thê

sau màn gãi ngứa, Đại mới chuyển sang “cái màn kia” nhưng lại đánh nhanh thắng

nhanh, tốc chiến tốc thắng: “Khổ thế, tớ cứ phải xong cái màn gãi mới sang cái màn

kia. Mà cái màn kia của tớ thì, cũng như phương châm đánh nhanh thắng nhanh

truyền thống của quân đội ta. Đúng không các cậu?” [47, tr.97]. Cái giọng điệu hài

hước mỉa mai của người kể chuyện ở đây chính là đoạn văn được vợ ngứa lưng của

Đại chứa đầy cảm xúc, giống như là những khoái cảm sau một cuộc ân ái. Còn đoạn

văn nói về cuộc làm tình của hai vợ chồng lại khô khan, không hề có một câu văn

nào diễn đạt khoái cảm nhục dục. Với giọng văn hài hước có phần mỉa mai, có lẽ

người kể chuyện muốn nói rằng đặc điểm này của Đại chính là một trong những

nguyên nhân khiến cho vợ anh đi ngoại tình với người đàn ông khác.

Giọng văn này còn thành công trong việc miêu tả chân dung của kẻ có tật giật

mình: “Vừa nhận ra tiếng mình, Sán đã tái mặt, rùng mình. Từ đâu đó sau gáy như

có viên đá lạnh chạy suốt dọc sống lưng. Mồ hôi đổ ra như tắm. Rồi đũng quần ướt

nóng, theo ống quần chảy xuống, lênh láng sàn nhà” [51, tr.482].

Hay khi miêu tả một hành động lặp đi lặp lại thể hiện bản chất của nhân vật thì

giọng văn hài hước mỉa mai ấy đã được Nguyễn Bắc Sơn vận dụng rất thành công.

92

Đó là hành động đáng ghê tởm của Lê Cường - tên sở khanh sành sỏi trong tình

trường: “Hắn rời khỏi người cô. Cô vẫn nhắm nghiền mắt chịu đựng, nên không biết

hắn làm gì. Rồi hắn trở lại, tiếp tục hành cô. Lát sau hắn lại: “Nghỉ một tí em nhé”.

Rồi lại trở lại tiếp tục. Mỗi lần như thế, hắn lại dùng một tư thế khác mà hắn học

được trong sách Tố nữ kinh và buộc cô phải làm theo yêu cầu của mình” [47, tr.394].

Đó là hành động luồn tay xuống gầm bàn và đếm tiền hối lộ của Trần Đương - Phó

giám đốc Sở Quy hoạch và kiến trúc. Hành động ấy đã vạch trần bộ mặt thật của

Trần Đương: một cán bộ thoái hóa, biến chất về đạo đức, chuyên ăn của hối lộ.

Ngay cả những câu văn ngắn trong tác phẩm cũng có đan xen giọng điệu hài

hước mỉa mai. Sau cuộc chạy đua ngầm cho chức trưởng phòng của hai vận động

viên maratông Sán và Ngân, nhà văn đã kết luận lại bằng một câu văn ngắn: “Thật,

không gì vô tổ chức bằng công tác tổ chức của cơ quan này” [47, tr.246]. Câu văn

khẳng định nhưng khiến người đọc bật lên tiếng cười chua chát, đắng cay bởi thật

không ai ngờ rằng, công tác tổ chức của một cơ quan lại là nơi vô tổ chức nhất. Cái

kết luận ấy thật sâu sắc và thấm thía.

Hay chỉ một câu văn ngắn: “Nhưng tổ chức thì thiếu gì mẹo vô tổ chức?” [51,

tr.59] cũng ẩn chứa rất nhiều điều. Một câu hỏi tu từ nhưng ngầm ý là để khẳng định:

tổ chức chính là nơi vô tổ chức nhất. Khẳng định như vậy ắt hẳn tiếng cười bật ra.

Nhưng cái cười ấy chua xót, đau đớn. Nguyễn Bắc Sơn đúng là đã rất thâm thúy, tài

hoa khi sử dụng những câu văn giàu sắc thái giọng điệu như vậy.

Sắc thái giọng điệu hài hước mỉa mai là một trong những sắc thái giọng điệu

được Nguyễn Bắc Sơn sử dụng có hiệu quả trong tiểu thuyết Luật đời và cha con và

Lửa đắng. Nhờ sắc thái giọng điệu này mà những gam màu lạ trong dòng chảy của

cuộc sống hôm nay được tác giả soi chiếu một cách thật tinh tế nhiều chiều và dễ

dàng đưa lên trang sách. Sau tiếng cười, mỗi bạn đọc đều cảm nhận rõ sự băn khoăn,

93

trăn trở của tác giả trước những bất cập bất ổn trong cuộc sống hôm nay.

KẾT LUẬN

Cùng với một số nhà văn đương đại, Nguyễn Bắc Sơn đã góp phần mang lại

cho văn xuôi Việt Nam hiện đại một làn gió mới và khẳng định vị thế riêng, khó lẫn

của mình. Ông đã đem đến cho bạn đọc những hiện thực về cuộc sống và con người

thời đại hôm nay. Tìm hiểu Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn, đề tài

nhằm khám phá cái tài, cái tâm, sự sáng tạo của một nhà văn trẻ về tuổi nghề nhưng

già dặn kinh nghiệm, những yếu tố đã làm nên dấu ấn Nguyễn Bắc Sơn trong nền văn

xuôi Việt Nam hiện đại. Khảo sát tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn, có thể rút ra những

kết luận sau:

1. Mặc dù đến với tiểu thuyết khá muộn, song Nguyễn Bắc Sơn đã khẳng định

những đóng góp của mình đối với nền văn học Việt Nam đương đại. Với cách khai

thác đề tài mới mẻ (chính trị), tập trung vào những bất cập trong cơ chế xã hội,

những vấn đề của cuộc sống hôm nay, ông đã mang đến cho văn chương hiện đại một

luồng gió mới ở cả phương diện nội dung lẫn hình thức nghệ thuật, bằng những hiểu

biết sâu rộng và kinh nghiệm sống phong phú của mình.

2. Chất cổ điển chi phối toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Bắc Sơn, điều này có

thể thấy ngay ở cách tổ chức cốt truyện cũng như trong văn phong của nhà văn. Đó là

kiểu cốt truyện liền mạch, tuyến tính. Ở đó thời gian cốt truyện trùng với thời gian

trần thuật, các sự kiện được triển khai liên tục theo mạch thời gian từ trước đến sau,

quan hệ nhân quả được duy trì, kịch tính được chú trọng. Cuốn hút bằng những chi

tiết đắt giá, những yếu tố ngoài cốt truyện được xây đắp công phu, được đan cài một

cách khéo léo mà tự nhiên. Nguyễn Bắc Sơn không đánh mất cá tính sáng tạo của

mình và vẫn hoà nhịp kịp thời cùng xu thế đổi mới chung với một giọng kể linh hoạt

và mê say. Điều đó đã chinh phục nhiều thế hệ độc giả.

Xông thẳng vào những vấn đề nóng bỏng, mạo hiểm của cuộc sống hiện tại,

Nguyễn Bắc Sơn đã xây dựng được những cốt truyện chặt chẽ, sinh động với một dàn

nhân vật đồ sộ. Các sự kiện xảy ra với mỗi nhân vật đều góp phần làm sáng tỏ và

phong phú thêm cho những sự kiện chung gắn với sự phát triển của cốt truyện.

Bên cạnh thành công về cốt truyện, Nguyễn Bắc Sơn cũng đã kịp ghi lại

94

những dấu ấn riêng trong tiểu thuyết của mình bằng việc xây dựng nhân vật phong

phú, đa dạng. Kiểu nhân vật nào cũng được ông thể hiện một cách đầy đặn và có

những nét đặc sắc riêng. Xét về nội dung phản ánh của tác phẩm, có thể thấy nhân

vật trong bộ tiểu thuyết liên hoàn Luật đời và cha con và Lửa Đắng được chia làm

hai tuyến rõ rệt, một bên là những nhân vật thể hiện lý tưởng thẩm mỹ của thời đại,

một bên là những nhân vật đi ngược lại lý tưởng đó (nhân vật tha hóa). Mỗi kiểu

nhân vật được nhà văn thể hiện bằng nhiều loại người với ngành nghề, địa vị, chức

vụ, độ tuổi khác nhau. Tất cả hiện lên đầy sức thuyết phục qua biệt tài xây dựng nhân

vật của tác giả. Nhiều biện pháp nghệ thuật, từ khắc hoạ chân dung nhân vật cho đến

khắc hoạ tính cách và tâm lí nhân vật đã được vận dụng một cách tự nhiên.

3. Với dung lượng lớn, hệ thống nhân vật đồ sộ, sự kiện dày dặc, tiểu thuyết

đòi hỏi nhà văn phải có một nghệ thuật tổ chức trần thuật phù hợp. Trong tiểu thuyết

của mình, Nguyễn Bắc Sơn đã đáp ứng được yêu cầu đó. Đó là sự thành công của

người kể chuyện với những điểm nhìn linh hoạt. Đó là ngôn ngữ trần thuật phong

phú với dày đặc ngôn ngữ chính trị - xã hội; ngôn ngữ bình dân đậm chất khẩu ngữ

và ngôn ngữ hài hước, dí dỏm. Đó còn là sự đan cài nhiều giọng điệu trần thuật. Tất

cả góp phần vào thành công cho nghệ thuật tự sự của nhà văn.

Đó là thành công của người kể chuyện với điểm nhìn khách quan, điểm nhìn

bên ngoài. Sử dụng điểm nhìn khách quan, điểm nhìn bên ngoài giúp người kể

chuyện kể lại câu chuyện một cách khách quan, đúng sự thực. Song điểm độc đáo

trong lời trần thuật của Nguyễn Bắc Sơn chính là điểm nhìn đó được kết hợp với

những câu hỏi tu từ, những dòng trữ tình ngoại đề lại giúp người trần thuật bộc bạch

được tâm sự, thể hiện được quan điểm, thái độ của mình với sự kiện, nhân vật.

Thành công của nhà văn ở điểm nhìn nữa chính là sự dịch chuyển điểm nhìn

vào nội tâm nhân vật. Sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật vào nội tâm nhân vật

khiến lời trần thuật chân thực và sinh động hơn. Khoảng cách giữa tác giả và nhân

vật được rút ngắn tối đa, khó phân biệt được giọng kể của người trần thuật và giọng kể

của nhân vật. Qua đó, người đọc hiểu rõ và sâu sắc hơn đời sống nội tâm của nhân vật.

Trong tiểu thuyết của mình, Nguyễn Bắc Sơn sử dụng ngôn ngữ trần thuật khá

đa dạng. Trước tiên nó là bộ tiểu thuyết luận đề nên ngôn ngữ đặc trưng đầu tiên

95

chính là ngôn ngữ chính trị - xã hội. Song nó lại phản ánh những con người thật, việc

thật trong xã hội nên ngôn ngữ còn đậm chất khẩu ngữ, bình dân. Giọng văn của nhà

văn khi viết về các vấn đề nóng, về các nhân vật được thể hiện bởi ngôn ngữ hài

hước, dí dỏm.

Giọng điệu trần thuật cũng là một thành công lớn trong tiểu thuyết của

Nguyễn Bắc Sơn. Nguyễn Bắc Sơn lựa chọn giọng điệu triết lý suy tư trong bộ thuyết

liên hoàn của mình là rất phù hợp với cái nhìn, cách tư duy và hệ thống nhân vật của

tác giả. Chính sắc thái giọng điệu này đã góp phần làm cho những trang viết của nhà

văn có bề sâu trí tuệ, đưa người đọc tới sự cảm nhận sâu sắc, thấm thía nhiều điều từ

cuộc sống còn bộn bề, phức tạp hôm nay. Để giảm đi độ “nóng” của các vấn đề và

tạo được sức hấp dẫn cho câu chuyện, giọng điệu hài hước mỉa mai là sự lựa chọn

sáng suốt của nhà văn. Nhờ sắc thái giọng điệu này mà những gam màu lạ trong dòng

chảy của cuộc sống hôm nay được tác giả soi chiếu một cách thật tinh tế, nhiều chiều.

Sau tiếng cười, mỗi bạn đọc đều cảm nhận rõ sự băn khoăn, trăn trở của tác giả trước

những bất cập, bất ổn trong cuộc sống hôm nay.

Trong khuôn khổ một luận văn Thạc sĩ, người viết mới chỉ dừng lại ở việc tìm

hiểu một số phương diện của nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn.

Những vấn đề khác hy vọng sẽ được nghiên cứu trong các công trình tiếp theo để có

cái nhìn toàn diện hơn về giá trị của tác phẩm và đóng góp của tác giả cho nền văn

96

học Việt Nam đương đại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoàng Anh (2008), “Sẽ có phim nhựa Lửa đắng ?”, Điện ảnh kịch trường

(số 392), tr.18.

2. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại - Nhận thức và thẩm

định, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

3. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, NHX Đại học Quốc gia, Hà Nội.

4. Nguyễn Lê Bách (tháng 10/2008), “Đọc Lửa đắng nghĩ về luật đời”, Báo

Văn hoá văn nghệ, tr.16 - 17.

5. Lê Huy Bắc (25/11/2012), Cốt truyện trong tự sự,

http://violet.vn/vubichquyen1980/entry/showprint/entry_id/8482661.

6. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi Việt Nam 1975 – 1995 - Những đổi mới

cơ bản, NXB Giáo dục, Hà Nội.

7. Đào Thị Mỹ Dung (2009), “Cuộc trở dạ đau đớn”, Báo Văn nghệ (26/9).

8. Phan Cự Đệ (2001), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội.

9. Phan Cự Đệ (1997), Văn học đổi mới và giao lưu văn hoá, NXB chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

10. Nguyễn Đăng Điệp (2006), “Đi qua ranh giới để tồn tại”, Báo Văn nghệ (01/4).

11. Hà Minh Đức (chủ biên) (1998), Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Văn học,

Hà Nội.

12. Hà Minh Đức (chủ biên) (2002), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

13. Thiên Hà (07/12/2008), “Nhà văn Nguyễn Bắc Sơn: Cơ chế là đề tài tôi quan tâm

nhất khi sáng tạo tác phẩm”, Báo Pháp luật Việt Nam (số 293), tr.6.

14. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển thuật ngữ

văn học, NXB ĐHQG, Hà Nội.

15. Nguyễn Chí Hoan (2006), “Một cuốn tiểu thuyết về đổi mới”, Báo Người

Hà Nội (31/3).

16. Lê Hùng (2005), “Cuốn tiểu thuyết dự báo”, Báo Hà Nội mới (09/12).

17. Trần Hoàng Thiên Kim, (11/7/2008), “Nhà văn Bắc Sơn: Tiếp tục với Luật

đời”, Báo Thể thao và văn hóa.

97

18. Ma Văn Kháng (2003), Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy

giá thú, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

19. Ma Văn Kháng (2012), “Lửa đắng bức toàn cảnh hôm nay”, Báo Văn nghệ

(12/5).

20. Chu Lai (2009), Ăn mày dĩ vãng, NXB Lao động, Hà Nội.

21. Phong Lê (chủ biên), Văn học và hiện thực, NXB KHXH, Hà Nội.

22. Thạch Linh (2005), “Luật đời và cha con”, Báo Thể thao và Văn hóa (07/10).

23. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam (2002), Lí luận văn học,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

24. Nguyễn Đăng Mạnh (2004), Nhà văn - tư tưởng và phong cách, NXB Đại

học Quốc gia , Hà Nội.

25. Nguyễn Đăng Mạnh (2012), Văn học Việt Nam hiện đại - Những gương

mặt tiêu biểu, NXB Phụ nữ, Hà Nội.

26. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà

văn, NXB Giáo dục, Hà Nội.

27. Công Minh (2005), “Một bức tranh sống động”, Báo An ninh Thủ đô

(12/11).

28. Công Minh (2009), “Tiểu thuyết Lửa đắng - Bức tranh tha hoá quyền lực”,

Báo Nhà báo và công luận (Số 19, tr.14).

29. Phạm Xuân Nguyên (2006), “Chuyện không chỉ của thời nay”, Báo Lao

động (11/3).

30. Phạm Xuân Nguyên (24-30/4/2009), “Lửa đắng và tiểu thuyết chính trị”,

Báo Nhà báo và công luận (Số 17, tr.14).

31. Nhiều tác giả (1986), Lí luận văn học tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội.

32. Nhiều tác giả (1987), Lí luận văn học tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội.

33. Nhiều tác giả (1987), Lí luận văn học tập 3, NXB Giáo dục, Hà Nội.

34. Nhiều tác giả (1997), Lý luận văn học (ĐHKHXH & NV), NXB Giáo dục,

Hà Nội.

98

35. Nhiều tác giả (2007), Giáo trình lý luận văn học, NXB ĐHSP, Hà Nội.

36. Hồ Huy Sơn (07/9/2008), “Lửa đắng sẽ bùng cháy”, Báo Người lao động chủ

nhật, tr.9.

37. Nguyễn Bắc Sơn (1998), Thực hư, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

38. Nguyễn Bắc Sơn (1999), Người dẫn đường trời, NXB Văn hoá thông tin,

Hà Nội.

39. Nguyễn Bắc Sơn (1999), Tản mạn với văn hoá thông tin-Tiểu luận và

những bài báo, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.

40. Nguyễn Bắc Sơn (1999), Hoa lộc vừng, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

41. Nguyễn Bắc Sơn (2000), Hồng Hà ơi, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

42. Nguyễn Bắc Sơn (2000), Quyền được không yêu, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

43. Nguyễn Bắc Sơn (2000), Người đàn ông quỳ, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

44. Nguyễn Bắc Sơn (2001), Nghề đi mây về gió, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

45. Nguyễn Bắc Sơn (2003), Luật đời, NXB Thanh Niên, Hà Nội.

46. Nguyễn Bắc Sơn (2004), Đá dậy thì, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

47. Nguyễn Bắc Sơn (2008), Luật đời và cha con, NXB Văn học, Hà Nội.

48. Nguyễn Bắc Sơn (2010), Truyện ngắn, NXB Văn học, Hà Nội.

49. Nguyễn Bắc Sơn (2010), Gót thời gian, NXB Văn học, Hà Nội.

50. Nguyễn Bắc Sơn (2010), Người trong tôi, NXB Văn học, Hà Nội.

51. Nguyễn Bắc Sơn (2011), Lửa đắng, NXB Lao động, Hà Nội.

52. Đỗ Minh Tuấn (2005), “Luật đời và cha con”, Báo Văn nghệ Trẻ (02/10).

53. Hoàng Minh Tường (2005), “Luật đời và cha con”, Báo Văn nghệ (03/12).

54. Hồ Anh Thái (2002), Cõi người rung chuông tận thế, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.

55. Hồ Anh Thái (2002), Người và xe chạy dưới ánh trăng, NXB Đà Nẵng,

Đà Nẵng.

56. Bùi Việt Thắng (2005), Tiểu thuyết đương đại, NXB Quân đội Nhân dân,

Hà Nội.

57. Vũ Duy Thông (04/9/2006), “Tôi viết để mổ sẻ sự bất cập của cơ chế”, Báo Văn

99

nghệ (Số 39), tr.10.

58. Bích Thu (2006), “Cái nhìn hiện thực và con người trong tiểu thuyết

Nguyễn Bắc Sơn”, Tạp chí nhà văn.

59. Nguyễn Khắc Trường (2000), Mảnh đất lắm người nhiều ma, NXB Hội nhà

văn, Hà Nội.

60. Diệu Yến (05/8/2008), “Ngọn lửa văn chương là thuốc đắng”, Báo Sức khỏe và

100

đời sống.