ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------------------------------
NGUYỄN THỊ THƢƠNG
NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TRUYỆN CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Hà Nội - năm 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------------------------------
NGUYỄN THỊ THƢƠNG
NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TRUYỆN CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lý luận văn học Mã số: 60 22 01 20 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Khánh Thành
Hà Nội - năm 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS Trần Khánh Thành. Các nội dung nghiên cứu, kết
quả trong đề tài được thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu
tham khảo.
Ngoài ra, trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số
liệu của các tác giả khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc.
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến PGS.TS
Trần Khánh Thành, người đã tận tình hướng dẫn, định hướng cho tôi trong suốt
quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy, cô giáo trong Khoa
Văn học, đặc biệt là các thầy cô trong Tổ Lý luận văn học, Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy và tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian 02 năm tham gia học tập của khóa
học (2014 - 2016).
Tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã tạo điều kiện giúp đỡ,
động viên tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, ngày 20 tháng 10 năm 2016
Học viên
Nguyễn Thị Thƣơng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 3
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................... 3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề........................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................. 9
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 9
5. Phƣơng pháp nghiên cứu .......................................................................... 10
6. Cấu trúc luận văn ...................................................................................... 10
Chƣơng 1: NGHỆ THUẬT XÂY ỰNG NHÂN VẬT ....................................... 11
TRONG TRUYỆN NGUYỄN NHẬT ÁNH ......................................................... 11
1.1. Nghệ thuật y dựng nh n vật ngƣời kể chuyện ............................. 12
1.1.1. Khái quát về nhân vật n i hu n .......................................... 12
1.1.2. Nhân vật n i k chuy n trong truy n Nguyễn Nhật Ánh ........... 16
1.1.2.1. Nhân vật người kể chuyện ở ngôi kể thứ nhất ............................ 16
1.1.2.2. Nhân vật người kể chuyện ở ngôi kể thứ ba ............................... 19
1.1.3. i nh n tr n thuật ........................................................................ 20
1.1.3.1. Điểm nhìn không gian ................................................................. 22
1.1.3.2. Điểm nhìn thời gian .................................................................... 25
1.1.3.3. Điểm nhìn bên trong, bên ngoài ................................................. 26
1.2. Nh n vật đƣợc kể trong truyện Nguyễn Nhật Ánh ......................... 30
1.2.1. Khái quát về nhân vật “đ ợc k ’’ .................................................... 30
1.2.2. Cá ph ơn thứ và thủ pháp n h thuật xâ dựng nhân vật “đ ợc
k ” ..................................................................................................................... 33
1.2.2.1. h c h a nhân vật qua ngo i hình ............................................. 33
1.2.2.2. h c h a nhân vật qua nội tâm .................................................. 37
1.2.2.3. h c h a nhân vật qua ời n i và hành ộng ............................. 40
1
1.3. Tiểu kết .................................................................................................... 44
Chƣơng 2: NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC KẾT CẤU VÀ XÂY ỰNG CỐT
TRUYỆN TRONG TRUYỆN NGUYỄN NHẬT ÁNH ....................................... 45
2.1. Nghệ thuật t chức kết cấu ..................................................................... 45
2.1.1. Khái quái về ngh thuật tổ chức kết cấu ......................................... 45
2.1.2. Ngh thuật tổ chức kết cấu trong truy n Nguyễn Nhật Ánh .......... 49
2.2. Nghệ thuật y dựng cốt truyện ............................................................ 56
2.2.1. Khái quát n h thuật xâ dựng cốt truy n ...................................... 56
2.2.2. Ngh thuật xâ dựng cốt truy n trong truy n Nguyễn Nhật Ánh .. 60
2.2.2.1. Nghệ thuật t o tình huống truyện ầy kịch tính ......................... 60
2.2.2.2. Nghệ thuật tổ chức diễn trình vận ộng cốt truyện .................... 63
2.3. Tiểu kết .................................................................................................... 67
Chƣơng 3: NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU ......................................................... 69
TRONG TRUYỆN NGUYỄN NHẬT ÁNH ......................................................... 69
3.1. Ngôn ngữ trần thuật ............................................................................... 69
3.1.1. Khái quát về ngh thuật sử dụn n ôn n ữ .................................... 69
3.1.2. Khái quát về ngh thuật sử dụn n ôn n ữ nhân vật .................... 70
3.1.3. Ngh thuật sử dụn n ôn n ữ nhân vật trong truy n Nguyễn Nhật
Ánh .................................................................................................................... 71
3.2. Giọng điệu trần thuật ............................................................................. 79
3.2.1. Khái quát về giọn đi u tr n thuật .................................................. 79
3.2.2. Giọn đi u tr n thuật trong truy n của Nguyễn Nhật Ánh ............ 82
3.2.2.1. Gi ng iệu hài hước, tinh nghịch, h m hỉnh .............................. 82
3.2.2.2. Gi ng iệu ối tho i hồn nhiên, ngộ nghĩnh .............................. 85
3.2.2.3. Gi ng iệu triết ý, chiêm nghiệm và suy tư ............................... 89
3.3. Tiểu kết .................................................................................................... 95
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 99
2
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Xuất hiện trên văn đàn như một hiện tượng văn học đặc sắc, Nguyễn Nhật
Ánh là một cây bút tài năng với nỗ lực cách tân nghệ thuật. Mỗi tác phẩm của anh
ra đời đều mang đến một ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc. Với giọng văn hài hước
nhẹ nhàng cùng nghệ thuật phân tích tâm lý sâu sắc những trang văn của anh thực
sự hấp dẫn các độc giả không chỉ là trẻ em mà cả những ai “từng là trẻ em”.
Nguyễn Nhật Ánh là cây bút trẻ đa tài, viết ở nhiều lĩnh vực nhưng có thể
khẳng định thành công nhất của tác giả vẫn là văn xuôi với những sáng tác cho
thiếu nhi. Anh đã từng vinh dự nhận nhiều giải thưởng: giải văn học Trẻ hạng A
(1995) do Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trao tặng cho
truyện dài Chú bé r c rối, giải thưởng văn học (2002) của Hội Nhà văn Việt Nam
cho bộ ính v n hoa, huy chương Vì thế hệ trẻ (2003) của Trung ương Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, giải thưởng Văn h c của Hội Nhà văn Việt Nam và
giải Sách hay của Hội xuất bản Việt Nam (2008) cho tác phẩm Cho tôi xin một vé i
tuổi thơ, giải thưởng Văn h c ASEAN (2010) tại Thái Lan, giải thưởng FAHASA
(2012)... Năm 1995, Nguyễn Nhật Ánh còn được bầu chọn là nhà văn được yêu
thích nhất trong 20 năm (1975 - 1995) và sau này (2005) là 30 năm (1975- 2005) do
Thành đoàn thành phố Hồ Chí Minh và báo Tuổi trẻ tổ chức.
Trân trọng, ngưỡng mộ tài năng và ấn tượng với những tác phẩm tự sự của
Nguyễn Nhật Ánh viết về thế giới tuổi thơ, từng là người giáo viên giảng dạy bộ môn
Ngữ Văn, tôi nhận thức được sự ảnh hưởng của tác giả đối với các em học sinh bậc
Trung học cơ sở khi học môn Ngữ Văn nên tôi quyết định chọn đề tài: Ngh thuật tự
sự trong truy n của Nguyễn Nhật Ánh với một mong muốn sẽ giải mã được phần
nào nghệ thuật tự sự của Nguyễn Nhật Ánh và góp thêm cảm nhận của cá nhân về
nhà văn này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nguyễn Nhật Ánh sinh ngày 07 tháng 5 năm 1955, tại huyện Thăng Bình,
3
tỉnh Quảng Nam. Anh đến với diễn đàn văn học trước hết bằng những tập thơ trữ
tình ngọt ngào lãng mạn: Thành phố tháng Tư (in chung với Lê Thị Kim, 1984),
Đầu xuân ra sông giặt áo (1986), Thơ tình Nguyễn Nhật Ánh (1988), Lễ hội của
êm en (1994) và Tứ tuyệt cho nàng (1994).
Truyện dài đầu tiên của Nguyễn Nhật Ánh là Trước vòng chung kết (Nhà
xuất bản Măng Non 1984) và từ đó anh mải mê viết những tập truyện cho thanh
thiếu niên như: Cô gái ến từ hôm qua (1987), Chú bé r c rối (1989), Cho tôi xin
một vé i tuổi thơ (2008), Đảo mộng mơ (2009), Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh
(2010), C hai con mèo ngồi bên cửa sổ (2012), Ngồi kh c trên cây (2013), Chúc
một ngày tốt ành (2014), Bảy bước tới mùa hè (2015) và Con ch nhỏ mang giỏ
hoa hồng (2016)...
Tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh đã thu hút sự quan tâm của độc giả và các
nhà phê bình văn học. Đến nay độc giả đã biết được nhiều bài viết về tác phẩm của
Nguyễn Nhật Ánh trên các phương diện nội dung và nghệ thuật. Tất cả các tác giả
khi viết về Nguyễn Nhật Ánh đều giành những lời có cánh cho cây bút tài năng này.
Đó là những bài nhận xét, bài báo ph ng vấn, những bản tin được in trong các cuốn
sách tư liệu, đăng trên báo, tạp chí, cập nhật trên mạng Internet... Chính những bài
viết này đã chứng minh được rằng: Nguyễn Nhật Ánh đã gây được thiện cảm và sự
yêu mến từ những tác phẩm văn chương, mộc mạc, tự nhiên, đời thường... nhưng
chứa đựng nhiều ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Trên báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí inh số 273 ra ngày 26 tháng 12 năm
1996, Nguyễn Thị Thanh Xuân đã viết: “Đi sâu vào các cảm xúc mạnh mẽ và tâm
trạng khắc khoải nặng nề không phải là chủ trương mà cũng không phải là sở
trường của Nguyễn Nhật Ánh. Anh nắm bắt rất tinh những trạng thái mong manh,
niềm vui, nỗi buồn thoáng qua của tuổi mới lớn.... Nguyễn Nhật Ánh viết về cái gì
vậy Anh viết về cái đang diễn ra, cái quen thuộc và gần gũi trong thế giới trẻ thơ:
những cuộc học, cuộc chơi, những mối tình thơ dại... Trong tiểu thuyết của anh,
không gian không rộng lắm, thời gian không dài lắm. Những câu chuyện chẳng có
gì là ly k để kích thích trí tưởng tượng của độc giả trẻ thơ như các truyện cổ tích,
4
truyện phiêu lưu viễn tưởng thế mà trẻ thơ vẫn “say anh như điếu đổ” [61, tr.35].
Hồng Loan trên trang hongloan1103@gmail.com: “Phong cách viết của
Nguyễn Nhật Ánh thật trong trẻo, hồn nhiên, đã đưa người đọc về gần với tuổi thơ
của mình hơn”.
Trong lời giới thiệu sách trên trang: wwwlazada.vn nhận xét: “Có thể không
ngoa khi nói rằng Nguyễn Nhật Ánh là nhà văn của tuổi mới lớn và là nhà văn
thành công nhất khi khai thác nghệ thuật tự sự trong truyện. Nhiều thế hệ trẻ đã lớn
lên cùng các tác phẩm hồn nhiên, trong sáng của anh".
Lã Thị Bắc Lý trong bài Nguyễn Nhật Ánh người gi ửa cho văn h c
thiếu nhi đã nhận xét, nổi bật ở Nguyễn Nhật Ánh là tính dí d m, hài hước, lạc
quan. Tính hài hước bắt nguồn từ thái độ lạc quan, nhẹ nhõm với cuộc đời: “Tôi
quan niệm cuộc đời con người vốn éo le, chẳng việc gì mình phải bi kịch hóa nó
thêm lần nữa. Nhìn mọi sự bằng con mắt hài hước, tôi cho rằng chúng ta sẽ thấy
yêu đời hơn, vượt qua những nghịch cảnh cũng dễ dàng hơn...” [41, tr.15,16].
Trên trang Bình uận văn nghệ quân ội http://vannghequandoi.com.vn,
Thụy Anh có viết: Trước đây, tôi cho rằng Nguyễn Nhật Ánh là nhà văn biết cách
đáp ứng nhu cầu của người đọc. Ông tìm hiểu bọn trẻ rất kĩ. Theo tôi được biết, nhà
văn dành tương đối nhiều thời gian để trò chuyện với tuổi teen, lên mạng đọc, thậm
chí, mở diễn đàn để lắng nghe và đối thoại với các em. Vì thế, Nguyễn Nhật Ánh
hiểu đứa trẻ cần gì, mong gì khi đến với một cuốn sách. Bên cạnh những khao khát
phiêu lưu, tìm hiểu thế giới, đứa trẻ còn có nhu cầu tìm hiểu chính bản thân mình:
những cảm xúc kì lạ không tên, những xáo trộn trong các mối quan hệ đang bình ổn
bỗng một ngày trở nên rối tung khiến chúng hoảng sợ, những mong muốn nho nh
một ngày bỗng trở nên nhức nhối, bức xúc khiến chúng không hiểu nổi mình.
Nguyễn Nhật Ánh luôn tìm nhiều cách diễn đạt mới, và tiến hành các thử nghiệm
nho nh , tuy khá thận trọng. Các tác phẩm gần đây ẩn dụ nhiều hơn, chiêm nghiệm
nhiều hơn dù vẫn giữ cách viết hài hước, trong sáng.
Trang tài liệu Thanh niên diễn àn Hội thanh niên Việt Nam, nhà báo Dương
Thành Truyền nhận định: Xét về mặt tâm lý - giáo dục, có một điều hết sức quý giá
của hệ thống tác phẩm viết cho thanh thiếu niên của Nguyễn Nhật Ánh, vốn rất lớn
5
về số lượng, đa dạng về thể loại, từ truyện tâm lý, tình cảm đến truyện pháp thuật,
truyện phiêu lưu, truyện thể thao và phong phú về không gian biểu hiện từ làng đến
phố, từ gia đình đến lớp học: đó là chúng có thể đồng hành theo quá trình phát triển
tâm lý lứa tuổi của các bạn trẻ.
Trên trang văn http://Tôn vinh văn h a c.com.vn có bài viết: Nguyễn Nhật
Ánh - nh Bồ câu a tài. Đọc bài viết này, Nguyễn Nhật Ánh đã được độc giả đánh
giá là một trong những nhà văn viết cho thiếu nhi thành công nhất hiện nay ở nước
ta. Nhưng không chỉ có thế các tác phẩm tự sự của Nguyễn Nhật Ánh còn được
đánh giá là giúp trẻ “lớn lên” theo từng nấc thang của cuộc đời với một thế giới trẻ
thơ hết sức trong sáng, không có cái ác, cái xấu, cái thấp hèn, chỉ ngập tràn yêu
thương và tôn trọng con người, như chính cái khát khao mà mỗi con người luôn muốn
hướng tới dù ở lứa tuổi nào. Chính nghệ thuật tự sự của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đã
giúp các bạn trẻ yêu đời hơn, tự tin hơn, bình thản hơn trong cuộc sống thường nhật
hôm nay vốn đầy ắp những bộn bề lo toan và không thiếu những khắc nghiệt.
Vân Thanh, nhà nghiên cứu văn học thiếu nhi, trên T p chí Văn h c đã
từng nhận xét: Truyện của Nguyễn Nhật Ánh có khả năng đi vào lòng người bởi
tình cảm nồng hậu của tác giả đối với các lứa tuổi trẻ thơ mà anh luônyêu quý và
tôn trọng. Có trái ngược chăng, ở tuổi trưởng thành, Nguyễn Nhật Ánh đã phải chịu
đựng biết bao gian lao, vất vả và cay đắng, nhưng viết về lứa tuổi này, anh lại
không hề đi vào những chua chát, mỉa mai, oán hận đời. Anh luôn muốn truyền cho
các em lòng tin vào cuộc sống và nghị lực vượt mọi khó khăn. Lòng tin yêu cuộc
sống và nghị lực vượt khó khăn là những đức tính tốt đẹp của thiếu nhi đã được nhà
văn Nguyễn Nhật Ánh truyền tải qua câu chuyện của mình một cách gần gũi với
thiếu nhi nhất.
Lê Phương Liên trong bài viết Văn xuôi và trẻ em đã nhận xét: “Nhà văn
Nguyễn Nhật Ánh là một tác giả thành công với bạn đọc trẻ, anh là người có một
“khóe văn” riêng. Anh chiếm được tình cảm của hàng triệu người đọc cũng không
ngoài quy luật tự sự và đối thoại nội tâm của tuổi thơ, không ngoài sự tự phát hiện
6
ra chất hài hước của chính mình” [38, tr.39].
Nhà nghiên cứu Vân Thanh đã từng nhiều lần nhắc đến thành công của
Nguyễn Nhật Ánh trong sáng tác dành cho thiếu nhi. Trong bài viết Nguyễn Nhật
Ánh nhà văn ôi cuốn trẻ thơ, tác giả đã đề cập đến đề tài, chủ đề, nhân vật, giọng
điệu và giới thiệu khái quát về tập truyện ính v n hoa. Nguyễn Nhật Ánh đã làm
được một điều kì diệu, đó là đem đến cho bạn đọc trẻ thơ sự thú vị và niềm vui háo
hức mong chờ những tác phẩm tiếp theo của anh. Và quả nhiên, Nguyễn Nhật Ánh
đã không làm bạn đọc thất vọng. Anh tiếp tục trình làng Cho tôi xin một vé i tuổi
thơ. Vẫn với lối viết dí d m kiểu ính v n hoa, Tôi à Bêtô nhưng dấu ấn tâm trạng
tác giả đã in đậm nét hơn, tâm trạng của con người càng đi xa tuổi thơ càng da diết
nhớ về tuổi thơ. Đây là tập sách được giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam và
giảithưởng ASEAN, 2010. Cùng với Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh và Lá
nằmtrong á, C hai con mèo ngồi bên cửa sổ… Nguyễn Nhật Ánh đã thể hiện sức
viết bền bỉ của mình.
Nguyễn Thị Thúy Hằng (ThS. Trường PTTH u Lạc, thành phố Hồ Chí
Minh), có bài Tâm hồn tuổi thơ trên trang sách Nguyễn Nhật Ánh. Mở đầu bài viết,
cô đã giới thiệu về Nguyễn Nhật Ánh như sau: Nguyễn Nhật Ánh đến với văn học
thiếu nhi như một lẽ tự nhiên. Đó là sự trở về của ký ức, của những hoài niệm, là sự
thôi thúc của ý tưởng và hơn hết là tấm lòng của nhà văn. Trong một lần trả lời
ph ng vấn trên báo Sài Gòn Giải Phóng, Nguyễn Nhật Ánh nói rằng: “Nhà văn viết
cho thiếu nhi bao giờ cũng đồng thời là nhà giáo dục”, thậm chí là “nhà giáo dục
bẩm sinh”. Ông viết với trách nhiệm của một người thầy, người nuôi dưỡng tâm
hồn trẻ thơ” [31, tr.70].
Nhà văn Lê Minh Khuê trên báo Tiền phong đã nhận xét: “Nguyễn
Nhật Ánh trong sáng từ cách nghĩ, cách cảm, từ ngôn ngữ đối thoại, từ cách miêu tả
đến xây dựng nhân vật. Tất cả đều đầy sức khơi gợi tới cái đẹp. Anh khơi dậy sự tự
tin, tin vào sức mạnh của trí tuệ, tin vào con đường của mỗi người trong đời. Tác
phẩm của Nguyễn Nhật Ánh in hàng chục ngàn bản mỗi cuốn, là sự chờ đợi háo
hức như chờ đợi người “hò hẹn” của các em. Mấy ai được hạnh phúc như anh” [35,
7
tr.17]. Nhà văn có một khoảng trời riêng và thực sự làm chủ khoảng đất sáng tạo
của mình đó chính là lý do người đọc háo hức chờ đón tác phẩm mới của Nguyễn
Nhật Ánh. “Mỗi cuốn truyện là một tuổi thơ trọn vẹn, lần nào cũng như bắt đầu lại
từ đầu, với những ký ức lung linh hoa lá và những trải nghiệm khóc cười rất thật
tưởng chừng không có bóng dáng của “hư cấu văn học”. Cũng vì thế mà khó có thể
xác định nhà văn viết cho hế hệ nào, về thời đại nào. Có cảm tưởng, người đọc sau
trăm năm nữa vẫn sẽ có được một Nguyễn Nhật Ánh đồng hành với ký ức tuổi thơ
của mình như thế này mà thôi” [35, tr.17].
Bên cạnh các ấn phẩm trên, các bài viết về Nguyễn Nhật Ánh và các tác
phẩm của anh còn xuất hiện trên các báo như báo Lao ộng, Thanh niên,các tạp chí
và nhiều trang thông tin điện tử như Evan.net, Phongdiep.net... bộ truyện ính v n
hoa đã được dựng thành phim truyền hình nhiều tậpcho thiếu nhi, các tác phẩm
khác cũng được dựng thành phim như Cô gái ến từ hôm qua, Tôi thấy hoa vàng
trên cỏ xanh và một số truyện của Nguyễn Nhật Ánh đang có dự án chuyển thể
thành truyện tranh. Có thể thấy Nguyễn Nhật Ánh là tác giả đang rất được quan tâm
và giành được nhiều tình cảm ưu ái của độc giả ở mọi lứa tuổi.
Đặc biệt là sức hút, sự ảnh hưởng rất lớn của truyện Nguyễn Nhật Ánh đối
với độc giả trẻ tuổi ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Thống kê kết quả khảo sát ở
khu vực thành phố Hồ Chí Minh tại các trường trung học cơ sở (83,33 học sinh
biết và yêu thích nhà văn Nguyễn Nhật Ánh), trung học phổ thông (93,87 học
sinh biết và yêu thích nhà văn Nguyễn Nhật Ánh)... Có thể khẳng định rằng: “Thành
công của Nguyễn Nhật Ánh chính là lối kể chuyện hấp dẫn, rất hay, dễ đi vào lòng
người, trong mỗi mẩu chuyện mang một ý nghĩa giáo dục sâu sắc” (Theo nh hưởng
của truyện Nguyễn Nhật Ánh ối với ộc giả trẻ ở thành phố Hồ Chí inh [22,
tr.128]).
Trong bài viết Nguyễn Nhật Ánh và truyện thiếu nhi của Lê Huy Bắc có đoạn
viết: “Phải thừa nhận, ở thời điểm thực tại, viết truyện cho trẻ em (thiếu nhi) ở Việt
Nam, chẳng ai sánh bằng Nguyễn Nhật Ánh. Ông không chỉ viết kh e mà còn viết
hay và rất đều tay. Đã rất lâu, bạn đọc Việt Nam mới có thể tiếp xúc được với một
cây bút truyện thiếu nhi có một phông văn hóa, một nền tảng kiến văn rộng, cộng
8
với một cảm xúc trẻ thơ chân thành, sâu sắc với lối tư duy đậm chất triết lí, đầy ngỗ
nghịch và mang tính đột biến cao”.
Một ý kiến khác về cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Nhật Ánh: Trong
truyện, Nguyễn Nhật Ánh sử dụng ngôn ngữ rất dễ hiểu. Ở đó, ngôn ngữ trần thuật
thường được biểu hiện bằng những câu văn ngắn, đơn giản nhưng vẫn biểu đạt được
các sắc thái tình cảm rõ rệt..
Dù đứng ở góc độ nào, chúng ta nghiên cứu ở nội dung nào thì chúng ta cũng
đều khẳng định được tài năng độc đáo của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Vì vậy trên cơ
sở tiếp thu những ý kiến đi trước, tôi mong muốn ở đề tài này phần nào lý giải được
Nghệ thuật tự sự trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh và hiểu hơn nữa về các tác phẩm
tự sự của anh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đối với đề tài này, tôi tập trung khám phá nghệ thuật tự sự trong truyện của
Nguyễn Nhật Ánh với các phương diện: Nghệ thuật xây dựng nhân vật, điểm nhìn
trần thuật, nghệ thuật tổ chức kết cấu, xây dựng cốt truyện, ngôn ngữ và giọng điệu
trần thuật. Từ đó xác định và khẳng định được những đóng góp độc đáo của
Nguyễn Nhật Ánh cho văn học thiếu nhi.
Chỉ ra những nét độc đáo trong nghệ thuật tự sự của Nguyễn Nhật Ánh đồng
thời giúp người đọc thấy được những đóng góp tích cực cũng như lý tưởng sống, tài
năng và tấm lòng nhân hậu của nhà văn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng luận văn hướng đến là Nghệ thuật tự sự
trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh.
- Phạm vi: Sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Nhật Ánh vô cùng phong phú
song ở đề tài này, tôi chủ yếu tập trung khảo sát nghệ thuật tự sự của anh qua một
số tác phẩm như: Cho tôi một vé i tuổi thơ, ính v n hoa, Đảo mộng mơ, Tôi thấy
hoa vàng trên cỏ xanh, Bảy bước tới mùa hè, Thằng qu nhỏ, Tôi à Bêtô... đồng
thời tham khảo thêm những bài viết của các nhà khoa học về Nguyễn Nhật Ánh. Từ
9
đó có thể thấy rõ nghệ thuật tự sự trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh cũng như
những đóng góp của anh cho văn học nước nhà.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Ở luận văn này tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Phương pháp liên ngành: đối tượng miêu tả trong truyện Nguyễn Nhật Ánh
là tuổi thơ và tuổi mới lớn - những đối tượng phức tạp trong văn chương và ngoài
đời thực. Do vậy, khi thực hiện đề tài, tôi kết hợp với phương pháp của các ngành
khoa học khác như: văn hóa học, giáo dục học...
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học và lý thuyết tự sự: Khám phá thế giới
nghệ thuật nhà văn từ các yếu tố hình thức đến nội dung, tìm hiểu đặc điểm nổi
bật trong nghệ thuật tự sự của tác giả.
- Phương pháp so sánh: nhằm chỉ ra những nét chung và nét độc đáo riêng
của Nguyễn Nhật Ánh về nghệ thuật tự sự so với các nhà văn khác ở các giai đoạn
văn học khác nhau và đặc biệt là nhà văn khác cùng viết cho thiếu nhi.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Luận văn được triển khai
trên ba chương:
Chương 1: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh.
Chương 2: Nghệ thuật tổ chức kết cấu và xây dựng cốt truyện trong truyện
Nguyễn Nhật Ánh.
Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện Nguyễn Nhật Ánh.
10
Chƣơng 1: NGHỆ THUẬT XÂY ỰNG NHÂN VẬT
TRONG TRUYỆN NGUYỄN NHẬT ÁNH
Đặc điểm của tác phẩm tự sự là phản ánh cuộc sống thông qua các yếu tố sự
kiện biến cố và hành vi con người; thường có cốt truyện gắn với hệ thống nhân vật.
Loại hình tự sự thể hiện tâm trạng, tư tưởng của chủ thể thông qua phản ánh hiện
thực khách quan, tức là cái chủ quan ẩn đi hoặc hoà vào cái khách quan. Nhà văn
phải dùng đến các yếu tố như sự kiện, nhân vật trong một thời gian và không gian
nghệ thuật nhất định. Chính vì thế truyện phải có chuyện và nhà văn phải sáng tạo
ra hình tượng người kể chuyện, các yếu tố nghệ thuật khác như điểm nhìn, ngôn
ngữ, giọng điệu,… làm nên những đặc trưng riêng cho loại hình tự sự.
Theo Từ iển thuật ng văn h c của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi đồng chủ biên thì: “trần thuật là phương diện cơ bản của phương thức tự
sự, là việc giới thiệu khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn
cảnh, sự vật theo cách nhìn của người trần thuật. Trần thuật không chỉ là lời kể mà
còn bao hàm cả việc miêu tả đối tượng, phân tích hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân
vật, lời bình luận, lời ghi chú của tác giả… Ngôn ngữ trần thuật do vậy là nơi bộc lộ
ý thức sử dụng ngôn ngữ có chủ ý của nhà văn, bộc lộ cách lý giải cuộc sống từ
cách nhìn riêng và cá tính sáng tạo của tác giả” [26, tr.275].
Trần thuật là phương diện cấu trúc của tác phẩm tự sự thể hiện mối quan hệ
chủ thể, khách thể trong loại hình nghệ thuật này. Nhà văn kể lại, tả lại những gì
xảy ra bên ngoài mình khiến cho người đọc có cảm giác rằng hiện thực được phản
ánh trong tác phẩm tự sự là một thế giới tạo hình xác định đang tự phát triển, tồn tại
bên ngoài nhà văn, không phụ thuộc vào tình cảm, ý muốn của nhà văn.
Nói đến nghệ thuật tự sự là nói đến nghệ thuật kể chuyện hay nghệ thuật trần
thuật, một phương thức nhằm làm cho các sự việc, tình tiết trong tác phẩm được
diễn ra và sống dậy.
Để tạo nên phong cách riêng cho các tác phẩm của mình, các nhà văn phải
tạo dựng được nghệ thuật kể chuyện riêng của mình. Và nghệ thuật kể chuyện chính
là phương thức kể, mà được xây dựng lên bởi lời kể, lời nhân vật... được thể hiện
11
bằng các biện pháp nghệ thuật phục vụ cho việc kể. Để xây dựng được nhân vật kể
chuyện trong sáng tác của mình các nhà văn đã sử dụng nhiều hình thức tự sự khác
nhau. Có khi đó là người hoàn toàn bên ngoài tác phẩm nhưng cũng có khi nhân vật
xưng “tôi”. Tuy nhiên với từng loại văn, từng kiểu nhân vật, đặc biệt với từng dụng
ý nghệ thuật và từng tài năng sáng tạo riêng, mỗi nhà văn lại có cách sử dụng biện
pháp thể hiện nghệ thuật riêng. Song mục đích cuối cùng của nghệ thuật tự sự -
nghệ thuật kể chuyện là làm nổi bật nên nhân vật tự sự trong mỗi tác phẩm để từ đó
ta hiểu được tư tưởng, quan điểm sáng tác của mỗi nhà văn.
1.1. Nghệ thuật y dựng nh n vật ngƣời kể chuyện
1.1.1. Khái quát về nhân vật n i hu n
Thuật ngữ người kể chuyện trong tác phẩm tự sự tương ứng với thuật ngữ
người trần thuật, người thuật chuyện, người mang thông iệp, chủ thể trần thuật,
chủ thể kể chuyện…
Theo Từ iển thuật ng văn h c của Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Trần
Đình Sử thì người kể chuyện có thể là hình tượng của chính tác giả, có thể là một
nhân vật đặc biệt do tác giả sáng tạo ra.
Hình tượng người kể chuyện đem lại cho tác phẩm một cái nhìn và một sự
đánh giá bổ sung về mặt tâm lý, nghề nghiệp hay lập trường xã hội cho cái nhìn
tác giả, làm cho sự trình bày, tái tạo con người và đời sống trong tác phẩm thêm
phong phú.
Hay: “Người kể chuyện là sản phẩm của quá trình hư cấu của nhà văn, nó
khác với người kể chuyện thực tế trong đời sống” [22, tr.197].
Hoặc “Người kể chuyện là chủ thể của lời kể chuyện, là người đứng ra kể
trong tác phẩm văn học”.
Nguyễn Thái Hoà thì cho rằng: “người kể là người biết tất cả, biết hết cả cốt
truyện, nhân vật và dẫn nhân vật hành động”. Tuy nhiên anh ta có thể là người
thuyết minh, là một nhân chứng hoặc giả vờ không dính líu đến câu chuyện kể tu
vào mức độ khác nhau, tức là “tạo một khoảng cách giữa người kể và chuyện”. Để
kể chuyện, người kể phải có một điểm nhìn bao quát để lựa chọn, điều khiển các
12
nhân vật hành động và một khi đã có chuyện thì không thể thiếu người kể chuyện
và tất yếu sẽ phải có điểm nhìn. Sự lựa chọn điểm nhìn và ngôi kể sẽ chi phối đến
việc viết cái gì và viết như thế nào của nhà văn để đạt được hiệu quả tối ưu cho tác
phẩm tự sự.
Người kể chuyện là một công cụ do nhà văn hư cấu nên để kể chuyện. Nếu
như người kể chuyện thực tế trong đời sống là những con người cụ thể, hữu hình, có
hình hài, giọng nói, điệu bộ… thì đến người kể chuyện trong tác phẩm tự sự, tất cả
những yếu tố hữu hình, cụ thể này đều được chuyển vào trong văn bản thông qua
các thủ pháp nghệ thuật. Chính vì thế, khác với người nghe - đối tượng của người
kể chuyện trong tác phẩm tự sự sẽ có điều kiện phát huy tối đa khả năng liên tưởng
của mình, có khả năng thâm nhập, đồng sáng tạo với người kể chuyện. Điểm khác
biệt thứ hai giữa người kể chuyện trong tác phẩm tự sự với người kể chuyện thực tế
là người kể chuyện trong thực tế hoàn toàn có thể điều chỉnh câu chuyện theo phản
ứng của người nghe còn người kể chuyện trong tác phẩm nghệ thuật thì hầu như
không có cái quyền đó. Câu chuyện mà họ kể ra đã được cố định trong văn bản,
không thể thêm bớt hay sửa chữa gì… Thứ ba, người kể chuyện thực tế trong đời
sống thường kể câu chuyện theo tuần tự thời gian, theo trật tự tuyến tính để cho
người nghe dễ theo dõi còn người kể chuyện trong tác phẩm nghệ thuật thì có thể sử
dụng lối kể đảo tuyến, đan xen giữa hiện tại, quá khứ và tương lai để làm tăng sức
hấp dẫn cho câu chuyện.
Người kể chuyện là một nhân vật đặc biệt trong tác phẩm tự sự. Tính chất
đặc biệt của nhân vật người kể chuyện được thể hiện cụ thể như: Người kể chuyện
không chỉ là nhân vật tham gia trong tác phẩm như các nhân vật khác mà còn có
chức năng tổ chức các nhân vật khác, đánh giá về các nhân vật khác. Người kể
chuyện thống nhất nhưng không đồng nhất với tác giả. Người kể chuyện thống nhất
với tác giả bởi người kể chuyện là người nêu quan điểm của tác giả. Đặc biệt trong
tác phẩm tự truyện, sự thống nhất giữa người kể chuyện và tác giả lại càng bộc lộ
rõ. Người kể chuyện và tác giả không đồng nhất với nhau. Tác giả viết truyện bao
giờ cũng có tư tưởng rộng hơn tư tưởng của người kể chuyện. Nếu chúng ta chỉ dựa
13
vào cách kể của người kể chuyện để đánh giá, phán xét thì sẽ là cực đoan, phiến
diện. Ngay cả trong những tác phẩm có tính tự truyện thì giữa người kể chuyện với
tác giả vẫn có những nét khác nhau. Những hành động, tâm trạng, cảm giác mà
người kể chuyện kể lại trong tác phẩm tự truyện có thể là của nhà văn nhưng đó là
những gì đã xảy ra với nhà văn trong quá khứ chứ không phải ở thời khắc hiện tại
bây giờ...
Có thể khẳng định rằng: Người kể chuyện là một sản phẩm của sự sáng tạo
nghệ thuật, là một công cụ do nhà văn hư cấu nên để kể chuyện. Người kể chuyện
có các chức năng như: tổ chức kết cấu tác phẩm, môi giới, dẫn dắt người đọc tiếp
cận thế giới nghệ thuật và thay mặt nhà văn trình bày những quan điểm về cuộc
sống, nghệ thuật. Giữa người kể chuyện với tác giả có một mối liên hệ mật thiết với
nhau nhưng ta tuyệt đối không đồng nhất giữa hai đối tượng này.
Với việc trần thuật ở ngôi thứ nhất, tác giả viết về những điều mình đã trải
qua, đã chứng kiến và nếm trải, chiêm nghiệm. Và tất nhiên, với tính chất hư cấu,
“tôi” không hẳn là tác giả mà chỉ là một nhân vật của truyện. Lời trần thuật ở đây
vừa là ngôn ngữ trần thuật của tác giả vừa là ngôn ngữ trần thuật của nhân vật, tức
vừa là lời trực tiếp, vừa là lời gián tiếp (của nhân vật).
Ngoài ra tác giả còn trần thuật ở ngôi thứ ba dưới hình thức người kể chuyện
(do tác giả sáng tạo ra), lời trần thuật ở đây mang tính khách quan hoá và trung tính.
Người trần thuật được chứng kiến câu chuyện và có khả năng kể lại toàn bộ câu
chuyện theo cách riêng của mình. Lời trần thuật ở đây còn có nhiệm vụ tái hiện và
phân tích, lý giải thế giới khách quan vật chất, sự việc, con người… tái hiện và phân
tích, lý giải lời nói ý thức người khác. Theo Bakhtin, lời văn trần thuật gián tiếp này
(khác với lời văn trực tiếp của nhân vật) có thể chia làm hai loại: loại thứ nhất là
gián tiếp một giọng, là lời trần thuật tái hiện, phẩm bình các hiện tượng của thế giới
trong ý nghĩ khách quan vốn có của chúng. Loại thứ hai là lời gián tiếp hai giọng, là
lời trần thuật có hấp thu lời nhân vật, tức là trong phát ngôn của người trần thuật
cùng lúc có thể có cả lời trực tiếp hay những suy tư gián tiếp của nhân vật, nó thể
hiện sự đối thoại với ý thức khác của cùng một đối tượng miêu tả. Loại thứ hai này
14
cho phép tác giả di chuyển “điểm nhìn” trần thuật và tạo nên tính chất đa thanh
trong ngôn ngữ trần thuật, ngôn ngữ tiểu thuyết.
Ngoài việc tác giả trần thuật theo hai dạng thức nói trên, nhân vật còn có vai
trò là người trần thuật. Trong tiểu thuyết, nhân vật có vị trí rất quan trọng, là then
chốt của cốt truyện, giữ vị trí trung tâm trong việc thể hiện đề tài, chủ đề và tư
tưởng tác phẩm. Có nhân vật thì có ngôn ngữ nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật là một
trong những phương tiện quan trọng được nhà văn sử dụng nhằm thể hiện cuộc
sống và cá tính nhân vật.
Tác giả của tác phẩm tự sự là một giả định, không cần thiết cho một tổ chức
trần thuật. Trong trần thuật, viết mang tính chất văn học. Tư cách của người trần
thuật là kết quả của hành vi trần thuật của chính mình, là sản phẩm của bản thân
hành vi của mình, là một người trần thuật được trần thuật ra.
Người trần thuật được chứng kiến câu chuyện và có khả năng kể lại toàn bộ
câu chuyện theo cách riêng của mình. Lời trần thuật ở đây còn có nhiệm vụ tái hiện
và phân tích, lý giải thế giới khách quan vật chất, sự việc, con người…, tái hiện và
phân tích, lý giải lời nói ý thức người khác. Lời văn trần thuật gián tiếp này (khác
với lời văn trực tiếp của nhân vật) có thể chia làm hai loại: loại thứ nhất là gián tiếp
một giọng, là lời trần thuật tái hiện, phẩm bình các hiện tượng của thế giới trong ý
nghĩ khách quan vốn có của chúng, loại thứ hai là lời gián tiếp hai giọng, là lời trần
thuật có hấp thu lời nhân vật, tức là trong phát ngôn của người trần thuật cùng lúc
có thể có cả lời trực tiếp hay những suy tư gián tiếp của nhân vật, nó thể hiện sự đối
thoại với ý thức khác của cùng một đối tượng miêu tả. Loại thứ hai này cho phép
tác giả di chuyển “điểm nhìn” trần thuật và tạo nên tính chất đa thanh trong ngôn
ngữ trần thuật, ngôn ngữ tiểu thuyết.
Có thể chia ra thành người trần thuật lộ diện và người trần thuật ẩn tàng.
Theo thuật ngữ thông dụng thì người trần thuật lộ diện là người trần thuật theo“ngôi
thứ nhất” còn người trần thuật ẩn tàng là người trần thuật theo“ngôi thứ ba”. Nhưng
hai thuật ngữ này ngày nay không có ý nghĩa chặt chẽ. Bởi vì bất cứ người kể nào
và bất cứ ai nói về mình đều xưng “tôi” ở ngôi thứ nhất mà không dùng ngôi thứ ba,
còn cái gọi là kể theo ngôi thứ ba chỉ có ý nghĩa là không nói đến mình mà thôi.
15
Để kể chuyện, người kể phải có một điểm nhìn bao quát để lựa chọn, điều
khiển các nhân vật hành động. Vì thế, một khi đã có chuyện thì không thể thiếu
người kể chuyện và tất yếu sẽ phải có điểm nhìn. “Điểm nhìn” theo Nguyễn Thái
Hòa là tọa độ thời gian được lựa chọn cho hành động kể chuyện, phát triển nội
dung, sắp xếp bố cục, hư cấu thành truyện.
1.1.2. Nhân vật n i k chuy n trong truy n Nguyễn Nhật Ánh
1.1.2.1. Nhân vật người kể chuyện ở ngôi kể thứ nhất
Trong truyện dài Cho tôi xin một vé i tuổi thơ, Nguyễn Nhật Ánh không
giới thiệu tên hay những đặc điểm về ngoại hình, tính cách của nhân vật ngay khi
nhân vật xuất hiện mà mở đầu tác phẩm bằng một cảm giác của người trần thuật
xuất hiện ở ngôi thứ nhất xưng là tôi: “Một ngày tôi chợt nhận thấy cuộc sống thật
buồn chán và tẻ nhạt. Năm đó tôi lên tám” [1, tr.10].
“Tôi” ở đây là nhân vật trung tâm trong tác phẩm. “Tôi” chính là thằng cu
Mùi và cùng với nó là Tý sún, Hải cò, con Tủn làm nên những cuộc phiêu lưu k
thú cho riêng mình: Đặt tên cho thế giới, lập trang trại chó hoang... Nhân vật cu Mùi
đã tham gia và kể lại diễn biến những trò chơi, những kỷ niệm vui buồn vì thế mà
tính chất sự việc thật hơn. Người đọc chúng ta cảm thấy sự chính xác trong những
lời kể đó. Nhân vật “tôi” - thằng cu Mùi đã rất quả quyết khẳng định rằng: “Tôi
không phải là trái đất. Tôi là thằng cu Mùi” [1, tr.98].
Tham gia là vai trò người kể chuyện còn có một nhân vật xưng là cu Mùi khi
đã ở tuổi trưởng thành. Cu Mùi dẫn dắt câu chuyện về quá khứ. Thêm vào đó là sự
so sánh dí d m đã làm nổi bật lên sự khác biệt giữa hai thế giới trẻ em và người lớn:
“Với người lớn ý nghĩa và giá trị của mọi thứ trên đời đều thu gọn vào hai chữ chức
năng... Trẻ con không quan tâm đến chức năng. Đơn giản vì trẻ con có kho báu vô
giá: óc tưởng tượng”.
Sử dụng ngôi kể thứ nhất để kể chuyện, nhưng dường như Nguyễn Nhật Ánh
không phải chỉ kể về riêng mình, về thời thơ ấu của bản thân mà nói đến một thằng
cu Mùi nào đó. Có thể nói, Nguyễn Nhật Ánh đã sáng tạo nên một nhân vật “tôi” trẻ
hóa và rất điển hình với mong ước cũng rất điển hình của trẻ nh . Nhân vật “tôi”
16
thằng cu Mùi không bị chi phối bởi cái nhìn của một người lớn đang hình dung về
tuổi thơ của mình. Cái hay của nhân vật “tôi” - cu Mùi là ở chỗ nó vừa là “tôi” lại
vừa là nhân vật độc lập - một đứa trẻ với tất cả những đặc thù và tính cách của lứa
tuổi thiếu nhi.
Cũng như truyện Cho tôi xin một vé i tuổi thơ, truyện Tôi thấy hoa vàng
trên cỏ xanh, người kể chuyện bộc lộ ngay từ nhan đề tác phẩm. “Tôi” ở đây là
nhân vật chính trong truyện và nhân vật chính này đã kể lại diễn biến câu chuyện.
Nhân vật chính - Thiều đã tham dự vào cốt truyện và chứng kiến mọi chuyện:
Chuyện xem hoa tay, chuyện ma, chuyện mối tình đầu, chuyện đánh nhau... Trong
khi kể chuyện chính Thiều đã bộc lộ cảm xúc một cách trực tiếp: “Tôi không nói gì
chỉ gật đầu lặng lẽ rời kh i nhà. Tôi giống như một phạm nhân vừa được tòa tuyên
bố tha bổng. Vậy mà khi đã thoát nạn rồi tôi ngạc nhiên chẳng thấy lòng mình vui
sướng” [2, tr.25].
Trong tác phẩm này, Nguyễn Nhật Ánh đã lựa chọn một nghệ thuật tự sự hấp
dẫn, phù hợp với lứa tuổi thiếu nhi. Điểm độc đáo và thành công nhất chính là nghệ
thuật y dựng nh n vật ngƣời kể chuyện mang cái nhìn trẻ thơ, mang tâm hồn
trẻ thơ. Có thể nói, làm lạ hóa thế giới hiện thực từ cái nhìn trẻ thơ là điểm thành
công trong nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Nhật Ánh. Để viết được truyện này,
Nguyễn Nhật Ánh luôn giữ trong tâm hồn mình một chú bé chưa chịu lớn và khi
viết thì luôn hồn nhiên như cậu học trò ngồi kể chuyện về đời mình. Chính Nguyễn
Nhật Ánh đã từng bộc bạch: Có lẽ trong tôi luôn luôn sống mãi tuổi mười lăm. Mỗi
lần tôi viết một tác phẩm tuổi mới lớn cũng giống như một cậu học trò ngồi viết
nhật ký đời mình vậy, rất tự nhiên, không có gì phải lên gân hay gượng gạo cả. Có
lẽ do tâm hồn tôi gần gũi với tâm hồn của các em nên những gì tôi viết ra, các em
cảm thấy như chuyện của chính mình”. Ở đây Thiều đã cảm nhận về cái vất vả, đói
kém của gia đình sau mùa lũ: “Tôi có thể nhìn thấy sự đói kém hiển hiện từng ngày
trong mân cơm. Nồi cơm lưng hơn. Thức ăn ít đi. Cá thịt thưa thớt dần, có hôm mất
tích hẳn. Thỉnh thoảng có bữa tôm rang thì con nào con nấy mặn chát, muối bám
xung quanh con tôm trắng xóa như tuyết. Chỉ với một con tôm đó, tôi ăn ba chén
17
cơm. Dĩ nhiên thằng Tường và con Mận, tôi đều không hề than vãn nhưng nhìn vẻ
mặt kém tươi của tụi tôi, có lẽ mẹ tôi nghe được những thở dài chạy quanh mâm
cơm và cảm giác đó khiến bà vô cùng xót ruột” [2, tr.137]. Là tâm trạng ân hận của
Thiều khi làm Tường bị thương vì trò chơi chọi đá: “Tôi đáp, bụng ngập tràn hối
hận. Tôi đã lừa em tôi, tôi đã làm nó bị thương... Tôi tự hứa với mình: mai mốt nếu
thằng Tường có gặp phải hoạn nạn gì, bị ba tôi phạt đánh đòn vì tội ham chơi b bê
bài vở chẳng hạn, tôi sẽ xung phong nhận tội thay nó, tôi sẽ nói với ba tôi là chính
tôi xúi thằng Tường đi chơi...” [2, tr.138]. Có lẽ nếu không hóa thân trọn vẹn vào
trẻ thơ, không sống thật sâu với tâm hồn trẻ thơ... thì Nguyễn Nhật Ánh không thể
nào diễn tả những suy nghĩ, cảm xúc từ trong sâu thẳm trái tim của Thiều một cách
chân thực, cảm động như thế. Có thể nói, chính với điểm nhìn trong trẻo của nhân
vật người kể chuyện xưng “tôi”, tác phẩm đã trở nên rất đỗi thân thương với trẻ
thơ. Việc tác giả lựa chọn người kể chuyện là một nhân vật trong truyện xưng tôi
tự kể lại chuyện mình đã tạo nên được sự gần gũi giữa độc giả và người kể
chuyện. Nguyễn Nhật Ánh từng nói rằng: khi đặt chữ “tôi” vào ngòi bút của
mình. Và khi ông hóa thân vào “tôi”, đó là cách hữu hiệu nhất để ông tìm về kí
ức tuổi thơ.
Câu chuyện qua lời kể của người trần thuật tham gia vào cốt truyện “ tôi cảm
giác mùa hè khắc nghiệt sắp sửa trôi qua” [2, tr.376]... Chính cách kể chuyện này đã
làm cho câu chuyện hấp dẫn hơn, lôi cuốn người đọc hơn.
Câu chuyện hay và hấp dẫn không kém với người đọc là cách sử dụng ngôi
kể thứ nhất xưng “tôi” được thể hiện ngay trong nhan đề và cách xưng tên nhân vật
trong Tôi à Bêtô.
“Tôi là Bêtô. Đó là cái tên chị Ni đặt cho tôi Bêtô. Đúng ra cái tên ban đầu là
Bêbêtô”[6, tr.1] - tên của một cầu thủ bóng đá đội Brazil. Người kể chuyện xưng
“tôi” - ngôi kể thứ nhất gắn với những quan sát, suy nghĩ và hành động của chú cún
con. Lựa chọn người kể chuyện đặc biệt như thế, tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh
đã bắc một nhịp cầu quen thuộc với kiểu truyện đồng thoại vốn rất gần gũi với trẻ
em trong sáng tác của Võ Quảng, Tô Hoài...
18
Ở đây người kể không chỉ kể mà còn đóng vai nhân vật. Do vậy câu chuyện
càng trở nên hấp dẫn hơn. Với lối kể này hiện thực sáng tạo nghệ thuật trở nên gần
gũi với người đọc và giá trị thẩm mỹ của tác phẩm cũng dễ dàng đến với họ hơn.
1.1.2.2. Nhân vật người kể chuyện ở ngôi kể thứ ba
Đối lập với loại truyện kể ở ngôi thứ nhất - người kể xuất hiện trực tiếp
xưng “tôi” hoặc “chúng tôi” là loại truyện kể mà người kể chuyện không được biểu
thị trực tiếp bằng đại từ ở ngôi thứ nhất - thường được gọi là “truyện kể ở ngôi thứ
ba” và người kể chuyện trong trường hợp này là “người kể chuyện ở ngôi thứ
ba” hay “người kể à nhân vật”.
H ỏ của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh làm người đọc mê say. Mỗi lần giở
sách, người đọc như mơ màng nhớ về tuổi học trò của mình! Qua lời kể của
Chương, hình ảnh phượng đ đã khiến người đọc hình dung khá rõ về tâm trạng
nôn nao, hòa quyện những kỷ niệm của nhân vật trong năm tháng ngồi trên ghế nhà
trường.
Nguyễn Nhật Ánh đã dẫn người đọc trở về những chuyến nghỉ hè thú vị
được vui cùng bạn bè, gia đình. Khi người kể chuyện kể về mùa hè đến mang theo
niềm vui của những tháng ngày vô tư nô đùa trên đồng ruộng, bên cạnh con suối
nh vẫn thường là nơi tập kích đánh nhau hay những buổi trưa hè nơi vườn trái cây
mát rượi. Anh khắc hoạ một tình bạn gắn bó, một cử chỉ đẹp mà Chương đã mang
lại cho những đứa trẻ làng Hà Xuyên. Chương mang đến sự thuận hòa, cho Út
Thêm một niềm vui giản dị, ấm áp.
Bao giờ cũng thế, truyện của Nguyễn Nhật Ánh luôn mang đến cho người
đọc những cung bậc cảm xúc thật nhẹ nhàng, êm ái, sâu lắng. Khi kể về hình ảnh cô
bạn Út Thêm xuất hiện, Nguyễn Nhật Ánh miêu tả cảm giác trong Chương khiến
lòng chúng ta cũng lâng lâng. Út Thêm xuất hiện như một làn gió mát nhẹ, thoảng
qua trên những bông lúa non ngoài đồng ruộng mênh mông. Tất cả đã mang đến
một luồng gió mát lành cho Chương, cho Út Thêm, cho những đứa trẻ làng Hà
Xuyên, cho cả những bạn nh khi đọc các truyện của anh hay nói rộng hơn là cho
19
chúng ta - những người đang cầm trên tay quyển truyện này, nâng niu, trân trọng nó
với cảm xúc bay bổng.
Người đọc thích câu chuyện này còn ở cái mơ mơ màng màng của tuổi mới
lớn, tuổi sắp làm người lớn. Phải chăng vì thế mà ai cũng thích nhân vật Chương.
Cậu đã trải qua một mùa hè đáng nhớ với bao cung bậc cảm xúc: vui, buồn hòa lẫn
với cái lơ lơ lửng lửng trong cảm xúc của mối tình đầu tiên. Nụ cười của Út Thêm
chỉ mãi là hình ảnh trong những giấc mơ đêm về của Chương. Người đọc còn xúc
động bởi đằng sau mùa hạ đ là nỗi buồn của những đứa trẻ nơi quê nghèo. Mùa hạ
là phượng đ , là nắng gắt, là vui chơi sau một năm học căng thẳng, còn đối với
những đứa trẻ sớm tảo tần, mùa hạ là phụ giúp cha mẹ, mùa nắng cháy trên những
cánh đồng khô nẻ chân chim. Mùa hạ vui chơi thật xa vời...
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều đưa ra những nhận định gần như tương
đồng nhau khi nói về tầm quan trọng của người kể chuyện và điểm nhìn.
Người kể chuyện là một hình tượng do tác giả hư cấu, đại diện cho phát ngôn
của tác giả; là chủ thể của lời kể, nhân tố trung tâm chi phối đến việc tổ chức, kết
cấu của văn bản tự sự; là người giữ vai trò trung gian giữa tác giả, tác phẩm và
người đọc. Bất kì một tác phẩm tự sự nào cũng có người kể chuyện và người đọc
cần phải căn cứ vào điểm nhìn, ngôi kể và lời kể trong tác phẩm để đánh giá tác
phẩm tự sự đó.
1.1.3. i nh n tr n thuật
Điểm nhìn là điểm rơi ở cái nhìn của người kể chuyện vào đối tượng trần
thuật, vào thế giới khách quan được tái hiện trong sáng tác. Điểm nhìn nghệ thuật
biểu hiện qua các phương tiện nghệ thuật: ngôi kể, cách dùng từ, kiểu câu… Điểm
nhìn không bao hàm các quan điểm chính trị xã hội của nhà văn mà chỉ xét riêng về
kĩ thuật chọn chỗ đứng để nhìn và kể. Nếu như điểm nhìn là nơi để người trần thuật
nhìn, miêu tả sự vật trong tác phẩm thì toàn bộ nội dung, diễn biến của câu chuyện
cũng sẽ được soi chiếu từ điểm nhìn này.
Điểm nhìn trần thuật có vai trò rất quan trọng trong nghệ thuật trần thuật của
20
mỗi nhà văn. Việc tìm chỗ đứng, vị trí thích hợp để xác lập cho người kể một điểm
nhìn trần thuật để từ đó câu chuyện bắt đầu có ý nghĩa quan trọng. Phùng Văn Tửu
quan niệm “Điểm nhìn là kỹ thuật chọn chỗ đứng để nhìn và kể”. Trong mỗi tác
phẩm, mỗi nhà văn có sự lựa chọn riêng nhưng ý nghĩa chung, nó quy định và chi
phối các thành tố khác của nghệ thuật: nhịp điệu, thời gian, không gian, giọng điệu,
ngôn ngữ trần thuật... Thông qua điểm nhìn trần thuật, người đọc có dịp đi sâu vào
tìm hiểu cấu trúc tác phẩm và nhận ra đặc điểm phong cách, cá tính sáng tạo của
nhà văn.
Trong mối tương quan khác với người kể chuyện, điểm nhìn là một trong
những yếu tố để nhận dạng người kể chuyện và là yếu tố được đặt lên hàng đầu so
với yếu tố ngôi kể, lời văn nghệ thuật của tác phẩm. Vậy đồng nghĩa với quá trình
hình thành và biến đổi hình tượng người kể chuyện là sự xuất hiện và biến đổi linh
hoạt của điểm nhìn trong loại hình tự sự.
Trong truyện kể, vấn đề ai kể chuyện và câu chuyện được kể như thế nào bao
giờ cũng quan trọng hơn ai là người viết nên truyện kể ấy. “Điểm nhìn” trở thành cơ
sở để phân biệt người kể chuyện và tác giả. Người kể chuyện có thể mang điểm
nhìn của tác giả, song tác giả không phải là trung tâm của truyện kể và không có vai
trò đáng kể trong việc tổ chức truyện. Điểm nhìn và người kể chuyện trở thành hai
phương diện không thể tách rời.
Truyện bao giờ cũng được kể từ một điểm nhìn nhất định và bởi một người
kể chuyện nào đó. Pospelov khẳng định vai trò quan trọng của điểm nhìn trần thuật
trong tác phẩm tự sự: “Trong tác phẩm tự sự, điều quan trọng là tương quan giữa
các nhân vật với chủ thể trần thuật, hay nói cách khác điểm nhìn của người trần
thuật đối với những gì mà anh ta miêu tả” [25, tr. 90].
Trong mối tương quan khác với người kể chuyện, điểm nhìn là một trong
những yếu tố để nhận dạng người kể chuyện và là yếu tố được đặt lên hàng đầu so
với yếu tố ngôi kể, lời văn nghệ thuật của tác phẩm. Vậy đồng nghĩa với quá trình
hình thành và biến đổi hình tượng người kể chuyện là sự xuất hiện và biến đổi linh
21
hoạt của điểm nhìn trong loại hình tự sự. Ngoài ra tác giả còn trần thuật ở ngôi thứ
ba dưới hình thức người kể chuyện (do tác giả sáng tạo ra), lời trần thuật ở đây
mang tính khách quan hoá và trung tính.
Người kể chuyện là một hình tượng do tác giả hư cấu, đại diện cho phát ngôn
của tác giả; là chủ thể của lời kể, nhân tố trung tâm chi phối đến việc tổ chức, kết
cấu cấu trúc của văn bản tự sự; là người giữ vai trò trung gian giữa tác giả, tác phẩm
và người đọc. Bất kì một tác phẩm tự sự nào cũng có người kể chuyện và người đọc
cần phải căn cứ vào điểm nhìn, ngôi kể và lời kể trong tác phẩm tự sự.
Trong bài viết của Cao Kim Lan “Lý thuyết về iểm nhìn nghệ thuật của R.
Scho esvà R.Kellogg” thì thuật ngữ “điểm nhìn” đã trở nên quen thuộc trong nghiên
cứu văn học nói chung và nghiên cứu tự sự học nói riêng. Hiểu một cách đơn giản
nhất, điểm nhìn chính là một “mánh khóe” thuộc về kỹ thuật, một phương tiện để
chúng ta có thể tiến đến cái đích tham vọng nhất: sức quyến rũ của truyện kể. Và dù
có sử dụng cách thức nào, phương pháp hay kỹ thuật nào thì mục đích cuối cùng
của người sáng tạo cũng chỉ là mê hoặc độc giả, buộc anh ta phải đọc. Điểm nhìn là
điểm xuất phát của một cấu trúc nghệ thuật chứ không phải là bản thân cấu trúc đó.
Cấu trúc nghệ thuật vốn là hằng số không đổi của những quan hệ của các yếu tố
nghệ thuật được lựa chọn để đưa vào tác phẩm. Điểm nhìn nghệ thuật chiếu cái nhìn
vào các yếu tố được lựa chọn, thêm bớt hoặc nhấn mạnh và chỉ được suy ra từ cái
nhìn tổng thể đối với tác phẩm nghệ thuật, theo yêu cầu của người tiếp nhận.
So với các loại hình nghệ thuật khác, tác phẩm văn học nói chung và tác
phẩm tự sự nói riêng thì sự biểu hiện của điểm nhìn có sự khác biệt rất rõ nét, đặc
biệt là điểm nhìn về thời gian và không gian.
1.1.3.1. Điểm nhìn không gian
Không gian nghệ thuật là một hình tượng nghệ thuật, một phạm trù thuộc
hình thức nghệ thuật, là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ.
Trong điêu khắc cũng như trong hội họa, không gian được người nghệ sĩ
miêu tả là không gian tĩnh, còn không gian trong văn học nói chung và tác phẩm tự
sự nói riêng là không gian có sự vận động, biến đổi. Trong truyện Tôi thấy hoa vàng
22
trên cỏ xanh, Nguyễn Nhật Ánh đã tạo nên một không gian riêng, một thế giới
riêng, một giá trị riêng. Đó là không gian của làng quê yên bình, trong trẻo, nơi đó
có gia đình, trường lớp, có đồi c Úa và xóm Miễu… Không gian làng quê bình dị,
thân thiết gắn với hình ảnh con sông, cây cầu đồng lúa mênh mông, con đường làng
thân quen… Cảnh vật nơi làng quê luôn gợi lại trong Thiều những kí ức đẹp đẽ của
tuổi thơ.Nơi đó bọn trẻ th a sức chơi đùa với biết bao trò chơi tinh nghịch. Trên
những khoảng đất trống, những đứa con trai lại say sưa với trò bắn bi, ném đá. Con
đường làng quen thuộc là nơi bọn trẻ đến trường, vui chơi, chạy nhảy… Không gian
làng quê trong trẻo như một xứ sở thần tiên nuôi dưỡng bao tâm hồn trẻ thơ: “Nắng
mùa hè rơi xuống, hong vàng lá giòn nhà ông bà Huấn, lá nhãn lồng nhà thầy Nhãn,
lá vú sữa trong vườn nhà bà tôi và hong vàng tóc hai chị em tôi”. Có thể nói, không
gian làng quê yên bình được nhà văn khắc họa rất sinh động đã trở thành một nét
nổi bật, làm nên điểm đặc sắc trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh.
Qua truyện này ta thấy, Nguyễn Nhật Ánh đã sử dụng nhiều điểm nhìn để thể
hiện nhân vật tôi vừa là “bản ngã” vừa là “tha nhân”. Lúc thì đích thị là một đứa trẻ
khờ khạo, ngây ngô, khi lại là một người lớn với nhiều trăn trở về cuộc sống.
Nhưng dù đứng ở góc nhìn nào, Nguyễn Nhật Ánh cũng vẫn bày t được suy nghĩ
của mình khi viết về không gian nghệ thuật mà tại không gian đó luôn đầy ắp tiếng
cười và tâm trạng của trẻ thơ.
Nguyễn Nhật Ánh đã khoanh vùng không gian để nhân vật nhí xuất hiện.
Đảo mông mơ (không gian sân vườn), Cho tôi một vé i tuổi thơ (không gian khu
vườn),... Không gian ở đây là không gian mở không bị bó buộc trong gian phòng
chật chội. Đặc biệt ta thấy sự gần gũi thân thiết của các nhân vật trong truyện đều
do không gian tạo ra. Cu Mùi, Hải cò, con Tủn, Tí sống gần nhau nên chúng dễ
dàng tập trung thành một nhóm trong khu vườn hay trước sân.
Tin đã thuyết phục được ba mẹ, các bạn trong lớp, hàng xóm công nhận đống
cát được xem là một hòn đảo nh . Chúng sung sướng tận hưởng niềm vui khi bước
vào một hòn đảo hoang và rồi nỗi buồn cũng đến khi công trình của ba mẹ Tin
chuẩn bị được xây dựng. Song người lớn cũng hiểu được niềm vui của trẻ nh , hòn
đảo vẫn còn. Niềm vui của bọn trẻ được trở lại. Đảo ôbinsơn được đổi thành Đảo
23
Cát, thế là thế giới mộng mơ tiếp tục được mở ra.
Hay trong ính v n hoa không gian của thế giới học đường đã được mở ra.
Trước hết là là ở hình ảnh lớp học với những gương mặt học trò và những hoạt
động học tập. Từ ba nhân vật Quý ròm, Tiểu Long, nh Hạnh - các học sinh lớp
8A4, trường Tự Do dần dần độc giả được làm quen với cả tập thể lớp với cái tên,
gương mặt trở nên quen thuộc và định hình rõ nét hơn trong lòng độc giả. Lên lớp
9, mặc dù có sự thay đổi về một số thành viên nhưng “cơ cấu nhân sự” lớp 9A4 vẫn
như lớp 8A4, chỉ khác một điều là các em bây giờ đã lớn hơn một tuổi, trở thành
những học sinh cuối cấp và là những đàn anh, đàn chị trong trường. Thế giới học
đường còn được gắn với những hình ảnh thầy cô giáo và những giờ lên lớp, như cô
Trinh chủ nhiệm đồng thời là cô giáo dạy Văn, cô Nga dạy Lịch sử, thầy Đoàn dạy
Thể dục… Ngao du trong thế giới ính v n hoa, có thể nhận thấy rằng: Với ngòi
bút dồi dào và cách lựa chọn điểm nhìn không gian riêng biệt, Nguyễn Nhật Ánh đã
lột tả được thế giới học đường phong phú với những cậu học trò lém lỉnh, tinh
nghịch; những thầy cô giáo nghiêm khắc nhưng rất đỗi bao dung.
Qua H ỏ, Nguyễn Nhật Ánh đã dẫn ta về với con đường làng của miệt
vườn xinh xắn: “Dẫn vào làng là một ngõ trúc quanh co, sâu hút, đẹp như tranh vẽ.
Trưa đứng bóng, luồn qua ngõ trúc vẫn mát rượi. Nắng bị chặn lại trên những ngọn
tre trúc cong cong, chỉ rụng xuống con đường làng đầy lá khô và phân bò lốm đốm.
Không có nắng những ngõ trúc đầy tiếng chim. Từ sáng đến chiều, lúc chim sẻ,
chim sâu và chào mào đua nhau hót líu lo trên những cành nhánh lúc nào cũng đung
đưa theo gió”. Con đường dẫn về xóm Miễu “rợp bóng sầu đông, những trái sầu
đông rụng đầy mặt đất” [11, tr.126].
Một đặc điểm nổi bật của thời gian và không gian văn học là tính quan niệm
của chúng. Không gian và thời gian không chỉ là môi trường, là quá trình tồn tại của
nhân vật mà còn là sự cảm nhận của chính chủ thể hoạt động ấy về thế giới. Mỗi tác
giả với mỗi giai đoạn sáng tác khác nhau thì việc vận dụng không gian, thời gian
vào trong sáng tác của mình là khác nhau. Qua đây độc giả chúng ta nhận thấy
Nguyễn Nhật Ánh đã có sự lựa chọn điểm nhìn rất riêng khi miêu tả đời sống
hiện thực trong trang văn của mình.
24
1.1.3.2. Điểm nhìn thời gian
Thời gian trong truyện Nguyễn Nhật Ánh là thời gian ở hiện tại. Từ hiện tại
mà nhân vật có thể nhớ về quá khứ hay hướng tới tương lai.
Thời gian nghệ thuật trong truyện Đảo mộng mơ được đánh dấu bắt đầu từ
thời điểm mà đống cát xuất hiện trên sân nhà Tin - lý do có đống cát trên sân là do
bố của Tin mua về để xây nhà kho ở phía sau: “Trong công trình xây cất chưa bắt
đầu, vào một đêm tối trời nọ, Tin nai nịt gọn gàng, một mình lẻn ra kh i nhà đánh
chiếm đống cát...”. Từ thời điểm hiện tại câu chuyện được phát triển theo trật tự
tuyến tính. Đảo mộng mơ bắt đầu từ thời điểm mà đống cát xuất hiện trên sân nhà
Tin - lý do có đống cát là do bố Tin mua về để xây dựng công trình nhà kho.
Trong Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, có sự đan cài giữa thời gian quá khứ
và thời gian hiện tại. Điểm nhìn trong Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh cũng như vậy.
Phần đầu là “hoa tay”- à “nh ng vân tay hình tròn ầu mỗi ng n tay” [2, tr.10],
chú Đàn xem hoa tay cho Thiều, rồi tiếp là hàng loạt các nhân vật xuất hiện: chị
Vinh, thằng Tường,...
Từ hiện tại Thiều mộng mơ về một tương lai xa xôi, tương lai mà khả năng
chú Đàn và chị Vinh quay về làng là rất cao..., còn thằng Sơn và bé Ba thì chịu,
không thể biết hậu vận của bọn nó....
Các nhân vật trong truyện như Thiều, Tường, Mận, Nhi...đều là những người
sống thiên về nội tâm, giàu cảm xúc, nhạy cảm với thế giới xung quanh. Nhân vật
hồi tưởng, nhớ lại những năm tháng đã qua, những kỷ niệm đã có với nhau. Trong
truyện xuất hiện nhiều dạng câu h i như: “Tôi nhớ...”, “Tôi nhớ hồi tôi còn bé...”,
“Tôi bồi hồi...” [2, tr.320]... Quá khứ đã qua đi nhưng nó còn sống mãi, nó đã trở
thành một phần thiêng liêng không thể thiếu trong cuộc sống hiện tại của các nhân
vật trẻ thơ.
Cách đan xen giữa thời gian quá khứ và hiện tại cũng chính là điểm nhìn
được thể hiện trong Cho tôi một vé i tuổi thơ. Từ hiện tại người đàn ông lớn tuổi
đã dẫn bạn đọc về những kỷ niệm tuổi thơ trong trẻo của mình...
Như vậy điểm nhìn thời gian, không gian đã tạo cho câu chuyện thêm hấp
dẫn, cách trần thuật này rất phù hợp với tư duy tiếp nhận của trẻ em.
25
1.1.3.3. Điểm nhìn bên trong, bên ngoài
Hai mặt của điểm nhìn vật lý (bên trong, bên ngoài) cho phép nhà văn trần
thuật, tái hiện thế giới bên trong của nhân vật là nhờ thế nhân vật được khắc họa sâu
sắc và chân thực.
“Điểm nhìn” là một khái niệm đã được đề cập khá sớm, đặc biệt ở Anh và
Mĩ. Theo M.H. Abrahams (Từ iển thuật ng văn h c - A Glossary of Literature
terms), iểm nhìn chỉ ra “những cách thức mà một câu chuyện được kể đến - một
hay nhiều phương thức được thiết lập bởi tác giả bằng ý nghĩa mà độc giả được giới
thiệu với những cá tính, đối thoại, những hành động, sự sắp đặt và những sự kiện
mà trần thuật cấu thành trong một tác phẩm hư cấu [43, tr.165].
Theo lí thuyết tự sự học, có ba kiểu điểm nhìn (gắn với ba kiểu điểm nhìn)
phổ biến ở người kể chuyện:
Nhìn “từ ằng sau” (gắn với điểm nhìn toàn tri) khi người kể chuyện có vai
trò toàn năng với cái nhìn thông suốt tất cả.
Nhìn “từ bên trong” (gắn với điểm nhìn bên trong) khi người kể chuyện là
nhân vật. Điểm nhìn bên trong thường thể hiện qua độc thoại nội tâm của nhân vật.
Nhìn“từ bên ngoài” (gắn với điểm nhìn bên ngoài): Đây là điểm nhìn của
người kể chuyện khi anh ta đứng ngoài, chỉ kể “chuyện” chứ không hiểu rõ tâm lí
nhân vật. Đây cũng là điểm nhìn từ các nhân vật khác.
Thật ra, trong các tác phẩm văn học, chọn kiểu nhìn nào, xuất phát từ điểm
nhìn nào để người kể chuyện kể lại“chuyện” chính là do cách tổ chức “truyện” có
dụng ý của nhà văn. Dù nhà văn kể với tư cách là người kể chuyện hàm ẩn hay trao
quyền cho nhân vật, dù từ điểm nhìn nhân vật hay điểm nhìn của chính bản thân,
mọi cách nhìn, xuất phát từ mọi điểm nhìn đều thể hiện được (trực tiếp hay gián
tiếp) quan niệm, tư tưởng, thái độ của chủ thể sáng tạo. Trong nghệ thuật kể chuyện
có những tác phẩm chỉ có một kiểu điểm nhìn từ đầu đến cuối, có những tác phẩm
phối ghép nhiều kiểu điểm nhìn hoặc luân phiên trượt điểm nhìn.
Trên cơ sở của lý luận chung như vậy, đọc truyện Cho tôi xin một vé i tuổi
thơ ta thấy tác giả đã rất khéo léo kết hợp giữa hai điểm nhìn này. Điểm nhìn bên
26
trong là suy nghĩ, những cách lý giải sự việc rất “trẻ con”, những cảm giác vui buồn
của bọn trẻ. Điểm nhìn bên ngoài là câu chuyện xung quanh cuộc sống của cu Mùi
cùng các bạn Hải Cò, con Tủn... Nguyễn Nhật Ánh có những phát hiện rất tinh tế về
tâm lý trẻ em. Ông có những phát hiện rất sâu sắc: “Tất cả mọi người đều uống
nước trong ly nên tôi mới uống nước trong chai”. Hay ước muốn của bọn trẻ trong
phiên tòa mà bọn trẻ lập ra: “Chúng tôi cảm thấy lấy lại được sự công bằng, đã xả
được bao nhiêu là ấm ức....” hay “Hải cò vẫn tấm tắc: - Hay quá! Kiểu mới à - Ừ,
kiểu mới! Thích lắm! [1, tr.100].
Hay trong Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, Nguyễn Nhật Ánh đã nhập vai
vào nhân vật để nói lên những tâm tư, tình cảm, cảm xúc rất chân thực: “Tôi nhìn
đôi mắt nhắm nghiền của nó, thấy vẫn còn vài giọt lệ chưa khô còn hoen trên má.
Chắc hôm qua nó khóc suốt đêm...”.
Dù phân tích ở bất k khía cạnh nào thì ta đều thấy người kể chuyện và điểm
nhìn tự sự là những phương thức vô cùng quan trọng trong cách thức tổ chức tự sự
của nhà văn. Mối quan hệ giữa điểm nhìn và người kể chuyện trong truyện của
Nguyễn Nhật Ánh đã có sự khác biệt so với những cách tân nghệ thuật tiểu thuyết
của các nhà văn viết về đề tài lịch sử sau năm 1986. Điểm nhìn xuyên suốt trong tiểu
thuyết Oan khuất là điểm nhìn của người kể chuyện xưng “ta”, đồng thời là nhân vật
chính - Nguyễn Trãi. Vì vậy, điểm nhìn của nhân vật này cần được xem xét ở cả hai vị
trí: vị trí người kể chuyện và vị trí nhân vật trung tâm của câu chuyện.
Tháng 3- 2015, truyện dài mới nhất của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh:“Bảy
bước tới mùa hè” tiếp tục đưa người đọc đến với thế giới tuổi thơ hồn nhiên, nghịch
ngợm, xen lẫn những xao xuyến bâng khuâng của tuổi mới lớn. Cũng viết về tuổi
thơ nhưng Bảy bước tới mùa hè có những điểm khác biệt so với các tác phẩm trước
của Nguyễn Nhật Ánh. Câu chuyện đơn thuần là những ký ức tuổi thơ ngọt ngào,
trong veo, không lồng ghép những suy tư, trải nghiệm của người lớn như “Cho tôi
xin một vé i tuổi thơ”, “Ngồi kh c trên cây”, “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh”…
Ở “Bảy bước tới mùa hè”, các nhân vật được kể dưới cái nhìn khách quan. Người
đọc thường xuyên tủm tỉm cười theo từng diễn biến ngộ nghĩnh và những câu thoại
27
ngu ngơ, hài hước đúng chất Nguyễn Nhật Ánh. Nhân vật trong truyện có sự thay
đổi tích cực từ tính tình đến nhận thức qua những tình tiết đơn giản nhưng ý nghĩa.
Mừng là một ví dụ điển hình. Ban đầu, Mừng giúp ông ngoại của Đào đi chơi chỉ vì
muốn Đào để ý nhưng càng ngày, cậu giúp ông vì thật lòng, vì thương ông già yếu
đi lại khó khăn. Mừng b học vì cha mẹ mất sớm, bà nội già yếu và cũng vì lười
nhưng trước những lời khuyên của ông ngoại Đào và những việc làm ý nghĩa của
ông, cậu quyết tâm sẽ đi học trở lại…
Nguyễn Nhật Ánh đã sử dụng nhiều điểm nhìn để thể hiện nhât vật “tôi”. Kết
quả của những chuyến hẹn hò mà bọn trẻ (cu Mùi, con Tủn...) từng làm là: Chiều
hôm đó chỉ có mình tôi lên giường. Tôi leo lên giường nằm sấp xuống cho ba tôi đét
vào mông. Chỉ vì cái tội...mà thực ra tôi không hề mắc phải: Mới nứt mắt đã bày đặt
lăng nhăng.... Buồn ơi là sầu” [1, tr.82]. Với giọng điệu hồn nhiên, ngây ngô vừa
vui, vừa tội này, Nguyễn Nhật Ánh đã khiến người đọc cảm thấy vui hơn khi hiểu
thêm được tâm hồn của nhân vật trong truyện. Nhờ sự di chuyển điểm nhìn liên tục
mà hiện thực được soi chiếu ở nhiều góc độ khác nhau, bản chất của sự việc, đời
sống con người được phản ánh toàn diện hơn.
Mở rộng nghệ thuật lựa chọn điểm nhìn trần thuật, ta thấy sự mới mẻ và khác
biệt giữa Nguyễn Nhật Ánh và các nhà văn khác. Khi tự sự ngôi thứ ba theo điểm
nhìn phức hợp, người kể chuyện giấu mặt, điểm nhìn bao quát vẫn thuộc về người
kể chuyện hàm ẩn nhưng câu chuyện có thể được tái hiện qua sự trao đổi điểm nhìn
liên tục giữa người kể chuyện và các nhân vật khác. Người kể chuyện không hoàn
toàn đứng bên ngoài câu chuyện, cái nhìn của anh ta nhiều khi hướng vào nội tâm
của nhân vật, để cho nhân vật tự bộc lộ những suy nghĩ, nhận xét của bản thân.
Truyện ngắn Đôi b n của nhà văn Nguyễn Thi được kể xoay quanh câu
chuyện giữa người con gái và người con trai gồm những lời h i thăm, lời chúc, lời
mời về quê. Trong vai trò là người trần thuật, tác giả như người thư ký ghi chép
những lời đối thoại của họ theo điểm nhìn của mình. Tuy nhiên có lúc tác giả -
người kể lại hòa nhập trong cảm xúc và tâm trạng của nhân vật chứ không hoàn
toàn đứng bên ngoài câu chuyện kể. Người đọc không còn phân biệt đâu là lời của
28
tác giả, đâu là lời của nhân vật tự kể:
“Cho đến bây giờ, ở cái làng quê nh nhắn ấy bà mẹ già đã đến là lẩn thẩn.
Đêm đêm, mùa đông cũng như mùa hè, cái chăn che kín lấy người mẹ. Ban ngày
mẹ cũng chẳng thấy gì rộng rãi hơn ngoài mấy gian cầu ngói thu lấy bóng mẹ hôm
sớm ra đồng. Cho nên, anh ấy mất từ năm nào rồi mà mẹ còn hay nhắc. Đến là kh e
chắc! Mẹ bảo em rằng mẹ hay nằm mơ. Làm như rằng mẹ sống bằng mơ nhiều hơn
bằng thực trên cõi đời này. Nói ra thì, mẹ lại chửi. Một người con trai đã dám cầm
súng đi đánh giặc, ai còn sợ gì cái nghĩa hy sinh. Có thế thôi! Mẹ lại bảo nó mất vào
ngày tết nên tao mới nhắc. Dễ thường nhắc mà ngồi dậy được chắc Eo ơi, nếu thế
thì ai chả mong ngày nào cũng tết để lôi anh ấy trở về.”
Cũng sử dụng mạch tự sự trong cách kể nhưng không phải được kể liên tục
bằng lời trần thuật của tác giả mà xen kẽ lời đối thoại, độc thoại của các nhân vật
trong truyện:
“Trong lúc mọi người đang vui vẻ, mẹ già kéo cô xuống một góc bếp, thầm
thì: mày có thấy nó về nó bảo gì không hở Tỵ Đã bảo mày tối qua giỗ nó thì mày
phải nằm riêng ra, mày lại cứ leo sang nằm chung với u. Nó về nó giận mày đấy!”
Rồi trở lại với vai trò của người kể chuyện ở ngôi thứ ba bằng điểm nhìn
của mình:
“Sáng hôm sau, hiên nhà hé nắng, cô gái mới choàng tỉnh dậy, mẹ già đã
ngồi chờ dưới chân. Đôi mắt nhăn nheo của mẹ có một niềm vui vô hạn. Mẹ cười
với cô rất lâu. Lát sau, cô nói:
- U này, Anh ấy bảo với con thế này nhá, nhà mày phải tích cực công tác, xã
đã cử nhà mày đi làm đường tàu thì nhà mày phải làm cho nhiều, nếu b về thì anh
sẽ đét vào đít cho ba roi!
Mẹ già chẳng tin. Cô gái lại cười. Mãi đến lúc từ giã mẹ cô gái mới nói lại rằng:
- U ạ, anh ấy bảo trước đây u thương anh ấy mồ côi đã cho con gái lại cho ở
rễ, u quý như con trai trong nhà, ân nghĩa của u anh ấy xin nhớ mãi. Anh ấy bảo anh
ấy chết theo đời sống mới, con mà lấy chồng thì anh ấy càng thương con hơn, chẳng
giận đâu. Này, anh ấy còn bảo tết sau u đừng làm cổ nữa, anh ấy chẳng về nữa đâu.
29
Anh ấy lại biết cả u đang ao ước cái cáo bông, dặn con phải dành dụm mua cho u
một cái để mặc. U thích nhá! Có đúng không nào .
Mẹ già nửa tin nửa ngờ. Cô gái lại ra đi.”
Người kể chuyện lại hòa vào dòng tâm tư của nhân vật người con trai sau khi
nghe câu chuyện của cô gái với bà mẹ già:
“- Ừ, cô bạn gái của anh sẽ lấy chồng. Một người chồng độ lượng và hay
khuyến khích những gì tốt đẹp trong con người vợ. Anh nghĩ thế. Chẳng hiểu sao
anh lại buộc miệng nói ra với cô bạn gái.”
Đến lúc, người kể chuyện lại hoàn toàn đứng bên ngoài câu chuyện để trần
thuật, tạo một sự bao quát và bổ sung thêm những điều chưa được kể:
“Đúng ra, cô gái còn giấu người bạn trai câu chuyện sau đây:
Tháng vừa rồi mẹ nhờ người đánh giấy lên. Mẹ nói rằng: “Ơ cái con Tỵ! Mẹ
nghe nói mày đã lấy chồng thật ư con Sao mà mày chẳng đánh giấy về để cho mẹ
mày làm mâm cúng nó …”. Cô gái liền viết thư về “U ơi, tết này, hai vợ chồng con
sẽ về chơi với u! U ra cầu ngói đón chúng con nhá! U này, anh chàng này trước
cũng là bộ đội đấy!”…
Dù so sánh ở bất k góc độ nghệ thuật nào thì ta đều có thể thấy: Nguyễn
Nhật Ánh luôn dành tặng cho các em những tình cảm ưu ái cùng cái nhìn bênh vực,
bảo vệ mà ít nhà văn làm được.
1.2. Nh n vật đƣợc kể trong truyện Nguyễn Nhật Ánh
1.2.1. Khái quát về nhân vật “đ ợc k ’’
M. Gorki có lần khuyên một nhà văn trẻ: “Anh hãy b nghề viết đi. Đấy
không phải là việc của anh, có thể thấy rõ như thế. Anh hoàn toàn không có khả
năng miêu tả con người cho sinh động, mà đấy là điều chủ yếu”. Miêu tả con người,
đó chính là công việc chủ yếu trong nhiệm vụ xây dựng nhân vật của nhà văn (Lao
ộng nhà văn, tập 2, Nxb Văn học, H.1968, tr.6). Vì quan niệm như vậy mà M.
Gorki cho rằng: “Văn h c à nhân h c”. Ðối tượng chung của văn học là cuộc sống
nhưng trong đó con người luôn giữ vị trí trung tâm. Những sự kiện kinh tế, chính
trị, xã hội, bức tranh thiên nhiên đều góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng cho
30
tác phẩm nhưng cái quyết định chất lượng tác phẩm văn học chính là việc xây dựng
nhân vật.
Văn học bao giờ cũng thể hiện cuộc sống của con người. Nói đến nhân vật
văn học à n i ến con người ư c nhà văn miêu tả thể hiện trong tác ph m bằng
phương tiện văn h c. Nhân vật văn học được tác giả mô tả rất đa dạng. Nhân vật có
khi là những con người có họ tên như: Từ Hải, Thúy Kiều, chị Dậu, cu Mùi, thằng
Tưởng... Nhân vật văn học cũng có khi là những con người không họ không tên
như: anh trai cày, tên cai lệ..., có khi là loài vật, đồ vật, hiện tượng trong tự nhiên....
mang ý nghĩa biểu tượng cho số phận, cho tư tưởng, tình cảm của con người. Có thể
nói nhân vật là phương tiện để phản ánh đời sống, khái quát hiện thực. Chức năng
của nhân vật là khái quát những quy luật của cuộc sống và của con người, thể hiện
những hiểu biết, những ước mơ, k vọng về đời sống.
Nhà văn sáng tạo nên nhân vật là để thể hiện những cá nhân xã hội nhất định
và quan niệm về các cá nhân đó. Nhân vật văn học được tạo nên bởi nhiều thành tố
gồm hạt nhân tinh thần của cá nhân như ý chí, khát vọng, lý tưởng; các biểu hiện
của thế giới cảm xúc, các lợi ích đời sống, các hình thái ý thức xã hội, các hành
động trong quá trình sống... Vì vậy, nhân vật còn là phương tiện khái quát các tính
cách, số phận con người và các quan niệm về chúng.
Ngoài ra nhân vật còn là phương tiện thể hiện tư tưởng, tình cảm của nhà
văn. Thông qua việc xây dựng nhân vật, nhà văn bộc lộ tư tưởng tình cảm của mình
đối với từng loại người trong xã hội đồng thời dẫn dắt người đọc đi vào thế giới
riêng với đủ mọi khát vọng cùng với cảm xúc yêu thương hay lòng căm giận.
Nhân vật cũng là yếu tố cơ bản của thể loại tự sự. Đó là nhân vật có tên tuổi,
có lịch sử, có quá trình, có số phận. Khác với nhân vật trữ tình, nhân vật tự sự được
tập trung khắc họa tương đối cụ thể ở nhiều phương diện: ngoại hình, hành động,
nội tâm và đặc biệt là trong mối quan hệ với các nhân vật khác. Chỉ có trong mối
quan hệ với các nhân vật khác thì nhân vật mới bộc lộ hết bản chất của mình, cũng
như những biến đổi trong cuộc đời nhân vật.
Tác phẩm tự sự không thể thiếu nhân vật, vì đó là phương tiện cơ bản để nhà
văn khái quát hiện thực một cách hình tượng. Nhà văn sáng tạo nhân vật để thể hiện
31
nhận thức của mình về một cá nhân nào đó, về một vấn đề nào đó của hiện thực.
Nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc, người nghe vào một thế giới riêng của
đời sống hiện thực.
Xét về vai trò của nhân vật trong tác phẩm, có thể nói tới nhân vật chính,
nhân vật phụ, nhân vật trung tâm. Nhân vật chính là nhân vật xuất hiện nhiều hơn cả
trong tác phẩm, đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện tập trung làm sáng t
chủ đề và tư tưởng tác phẩm. Ví dụ trong Truyện iều của Nguyễn Du, nhân vật
chính là Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải, Thúc Sinh...
Xét về hệ tư tưởng, về quan hệ đối lý với lý tưởng xã hội của nhà văn, lại có
thể phân chia thành nhân vật chính diện, nhân vật phản diện. Nhân vật chính diện
thường được tác giả đề cao khẳng định, đó là nhân vật mang lý tưởng, quan điểm tư
tưởng và đạo đức tốt đẹp. Còn nhân vật phản diện nằm trong sự phê phán, phủ định
của tác giả. Ví dụ trong truyện L c Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, có thể dễ
dàng nhận thấy hai tuyến nhân vật này, đó là Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Hớn
Minh, Tử Trực, Bùi Kiệm, Trịnh Hâm...
Ta cũng cần phân biệt nhân vật trong tác phẩm tự sự với nhân vật trong tác
phẩm thơ ca. Trong tác phẩm thơ ca bao giờ cũng đặt ra hai đối tượng: nhân vật trữ
tình và cái tôi trữ tình. Nhân vật trữ tình chính là con người được nhà thơ miêu tả
qua một số sự kiện nhất định. Ví dụ hình ảnh người con gái an n n chuốt từng s i
giang, hình ảnh cô em gái hái măng một mình trong bài thơ Việt B c của Tố Hữu...
Còn cái tôi trữ tình chỉ là sự hiện diện bộ mặt tinh thần của nhà thơ.
Nhân vật trong tác phẩm tự sự được xem là yếu tố quan trọng tạo nên cốt
truyện, sự kiện của truyện. Ngoại hình và ngôn ngữ nhân vật là hai chi tiết tạo nên
đặc điểm của nhân vật tự sự. Nhà văn có thể khắc họa ngoại hình nhân vật một cách
trực tiếp thông qua ngôn ngữ người kể chuyện, chẳng hạn Nam Cao miêu tả văn sĩ
Hoàng: “Anh Hoàng đi ra. Anh vẫn bước khệnh khạng, thong thả bởi vì người khi
to béo quá, vừa bước vừa bơi hai cánh tay...” (Đôi m t). Có khi ngoại hình nhân vật
được miêu tả gián tiếp qua cái nhìn của nhân vật khác trong tác phẩm (ngoại hình
Kim Trọng qua ánh mắt của Kiều trong buổi gặp gỡ đầu tiên....).
Có rất nhiều kiểu nhân vật trong văn học: nhân vật thần thoại, cổ tích, nhân
32
vật văn học cổ đại, trung đại, hiện đại, nhân vật tự sự, kịch, trữ tình...
Trong tác phẩm tự sự, dựa vào vị trí cốt truyện, với nội dung cụ thể, nhân vật
được chia thành nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm. Nhân vật chính
giữ vị trí quan trọng, then chốt trong cốt truyện, liên quan đến các sự kiện chủ yếu
của tác phẩm, là cơ sở để triển khai chủ đề, tư tưởng tác phẩm. Nhân vật phụ giữ vai
trò phụ trợ trong truyện, đôi khi có vai trò bộc lộ tư tưởng của tác phẩm. Nhân vật
trung tâm là nhân vật chính xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, kết nối mọi tuyến cốt
truyện, các sự kiện, xung đột chủ yếu đều liên quan đến nó.
Trong quan hệ với lý tưởng xã hội thẩm mỹ của nhà văn và xã hội ở bình
diện ý thức, có thể chia nhân vật văn học thành thành nhân vật chính diện, phản
diện. Mỗi một thời đại văn học, mỗi một quan điểm sáng tác thì nhân vật được bộc
lộ khác nhau.
Trên bình diện cấu trúc có thể chia nhân vật theo các tiêu chí: nhân vật chức
năng, nhân vật loại hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng...
1.2.2. Cá ph ơn thứ và thủ pháp n h thuật xâ dựng nhân vật “đ ợc k ”
Nguyễn Nhật Ánh xuất hiện như một “hiện tượng tác giả” của văn học thiếu
nhi Việt Nam những năm gần đây. Nguyễn Nhật Ánh chủ yếu viết bằng văn xuôi.
Qua mỗi trang văn Nguyễn Nhật Ánh đã làm sống dậy một thế giới trẻ thơ với sự
góp mặt của nhiều loại, nhiều kiểu, như: nhân vật trẻ em, nhân vật người lớn, nhân
vật là loài vật, nhân vật dị biệt…. Nhân vật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh vô cùng
phong phú. Các loại hình nhân vật này trở nên hấp dẫn và tác động mạnh vào tâm
trí người đọc là vì nhà văn đã sử dụng tất cả các thủ pháp nghệ thuật để khắc họa
nhân vật, đặc biệt là các thủ pháp nghệ thuật sau đây:
1.2.2.1. h c h a nhân vật qua ngo i hình
Với các thủ pháp nghệ thuật, nhà văn làm hiển hiện lên trước mắt người đọc
hình dáng, diện mạo, tuổi tác của nhân vật. Ở phương diện này nhà văn thường
chọn lấy và mô tả những chi tiết độc đáo để gây ấn tượng với người đọc. Tên gọi
ngoài chức năng định danh thì còn có chức năng khác như thẩm mỹ, tự vệ... Đặt tên
như thế nào là hoàn toàn phụ thuộc vào ý đồ nghệ thuật của nhà văn.
33
Trong văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Nhật Ánh là một nhân vật nổi bật
với rất nhiều tác phẩm cho thiếu nhi. Thực tế cho thấy mỗi tác phẩm của anh đều
chứa đựng một khả năng lôi cuốn tạo sự hấp dẫn với người đọc. Nhận xét về ính
v n hoa, nhà thơ Trần Đăng Khoa cho rằng: “nhân vật là một thành công quan trọng
của ngòi bút Nguyễn Nhật Ánh”. (Theo Trần Đăng Khoa, Lá bùa của nhà ảo
thuật, báo Lao ộng cuối tuần, ngày 28 6 2009). Nhận định này rất đúng với
trường hợp Chúc một ngày tốt ành, một truyện đồng thoại đặc sắc của nhà văn,
xuất bản năm 2014.
Nguyễn Nhật Ánh đã kể về cuộc sống hằng ngày của con người cũng như
loài vật ở một làng quê theo một cách hết sức riêng biệt. Sau chó Bê tô (Tôi à Bê
tô), mèo Gấu, Áo Hoa (C hai con mèo ngồi bên cửa sổ), nhà văn thấy vẫn có hứng
thú với việc viết tiếp về loài vật. Cụ thể những loài vật như chú heo Lọ Nồi, bạn chó
Mõm Ngắn con chị Vện, mẹ Nái Sề, anh Đuôi Xoăn, Cánh Cụt và bọn gà chíp nhà
chị Mái Hoa... đã được nhà văn lựa chọn để xây dựng nên thế giới nghệ thuật đầy
ngộ nghĩnh của thiên đồng thoại Chúc một ngày tốt ành.
Đọc truyện Nguyễn Nhật Ánh, ta thấy mỗi nhân vật của anh luôn có một tên
gọi, và tên gọi đó luôn gắn với một đặc điểm nhất định. Cụ thể trong Chúc một ngày
tốt ành, đó là heo Lọ Nồi thông minh, Đuôi Xoăn hay tập tò bắt chước... Trên cơ sở
nguyên tắc xây dựng nhân vật, Nguyễn Nhật Ánh đã chủ động tạo ra những cái tên
gọi rất thú vị, gây được ấn tượng mạnh ngay từ đầu đối với bạn đọc trẻ em.
Chúc một ngày tốt ành khắc họa một xã hội vật nuôi mang đặc điểm và tính
cách khác nhau, đáng yêu vô cùng. Chú heo tên Lọ Nồi là một nhân vật thông minh,
nghịch ngợm và đầy tình cảm. Chú được miêu tả với một vẻ bề ngoài không có gì
đặc biệt nếu không nói là xấu: chiếc mũi màu hồng, nom rất giống chiếc mũi bằng
nhựa dẻo, bộ lông màu hồng sáng, trông như con heo đất vừa chui ra từ lò lung".
Đặc biệt, trên mặt chú còn có một cái bớt trông như một vết mực bẩn trên trang
giấy. Điều này không mấy ảnh hưởng đến trí thông minh và khả năng nghịch phá
của chú, nó chỉ thật sự khiến Lọ Nòi buồn khi vào tuổi biết yêu. Điểm đặc biệt của
truyện dài này, là năng lực ngoại ngữ siêu đẳng của Lọ Nồi cùng đám gia súc, gia
34
cầm và khả năng thẩm thấu thứ ngoại ngữ k lạ đó cũng trên cả tuyệt vời của con
người. Lọ Nồi giống như một nguời anh cả trong sứ sở k thú của mình, một người
anh không hề kiêu ngạo mà lại rất đỗi quan tâm và ân cần chỉ dạy cho các em. Tình
yêu thương của Lọ Nồi dành cho đứa em trai Đuôi Xoăn là một thứ tình cảm đáng
được trân trọng.
Điều đặc biệt là Nguyễn Nhật Ánh đã dành cho nhân vật của mình những
trang văn miêu tả ngoại hình những nhân vật “dị biệt” cũng khá tỉ mỉ. Theo Từ iển
tiếng Việt, “dị” có nghĩa là khác người một cách đáng chê cười; “biệt” có nghĩa là
rời, lìa người hoặc nơi nào đó có quan hệ gắn bó, thân thiết để bắt đầu sống xa
nhau. Nội hàm nhân vật “dị biệt” trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh ở đây ta hiểu
đơn giản là nhân vật xuất hiện như những cá biệt, khác người ở cả hình hài và cá
tính. Những nhân vật dị biệt về nhân hình trong các sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh
được thể hiện rõ nét qua những đặc điểm ngoại hình k dị. Đó là những khiếm
khuyết do bẩm sinh hoặc do tai ương.
Hình ảnh ông Năm Ve có sáu ngón tay, chú Đàn cụt một tay. Tay phải của
chú cụt đến tận khuỷu, lúc chú đi ngoài đường một ống tay áo phất phơ như tay áo
thằng bù nhìn giữ dưa” (Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, [2, tr.22]). Hình ảnh chú
Đàn, ông Năm Ve hiện lên trong tác phẩm là những người có dị tật ở tay nhưng
không làm cho bọn trẻ con trong xóm khiếp sợ. Ngược lại những đứa trẻ còn gần
gũi để được nghe kể chuyện, nghe thổi kèn và đặc biệt là bọn trẻ còn tự nguyện làm
“cánh tay” để phụ giúp việc. Hay thân hình bất thường của thằng Dưa - một đứa trẻ
còi đẹn được xác định là “bị bệnh còi… mười hai tuổi nhưng trông nó như bé lên
tám, chín tuổi” (Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, [2, tr.225]).
Cô bé Thơ Hoa trong ính v n hoa không nhìn thấy gì do bị mù lòa hai mắt.
Những nhân vật này đều mang lỗi sai của tạo hóa với những căn bệnh đã được định
đoạt bởi số phận. Sự trớ trêu của tạo hóa, sự không may mắn của số phận khiến cho
họ phải mang hình hài khác biệt, dị thường và sống trong sự chiêm nghiệm đầy
chua xót theo giáo lý của Phật giáo “đời là bể khổ do nghiệp chướng gây ra”.
Ngồi kh c trên cây là cuốn sách mà ở đó thiên nhiên như đuợc mở ra thật tự
35
nhiên, sống động. Thông điệp bảo vệ môi trường, bảo vệ các loài đông vật được gửi
gắm hết sức thấm thía qua từng câu nói, hành động của nhân vật. Thế giới loài vật
gần gũi được Nguyễn Nhật Ánh vẽ ra thật đẹp, mỗi con vật mang một cái tên ngộ
nghĩnh và đáng yêu: Con Tập Tễnh, thằng Cổ Dài, con Đít Đ , thằng Miếng Vá,…
Mỗi tên gọi gắn liền với mỗi đặc điểm, tính cách riêng. Con Cổ Dài là con ngỗng cổ
dài thường suốt ngày quẩn quanh lùng sục kiếm ăn bên ao rau muống. Nó mổ rất
đau. Nó là bạn của con Rùa trong những ngày cô bé nằm dưỡng bệnh, khi không ai
chơi với Rùa thì chính nó đã nghe tâm sự của em. Còn con Tập Tễnh là một con Nai
con màu vàng nâu với những chấm trắng lốm đốm trên tòan thân, hai tai to như
chiếc lá bàng.
Thằng qu nhỏ cũng được xem là truyện khá hấp dẫn trong nghệ thuật xây
dựng nhân vật. Đặc điểm ngoại hình k dị của Qu nh “có hai vành tai to khác
thường và cái mũi cũng to không kém. Cái mũi to lại còn đ ửng, mồ hôi lấm tấm
trán” [7, tr.16 . Với đôi tai k dị lại có thể ve vẩy như cái quạt nên Qu nh bị lôi ra
làm trò cười cho cả lớp. Dường như Qu nh bất lực trong việc điều khiển cái tai của
mình, nhưng Qu nh lại có những điểm mạnh khác như: “là học sinh gi i” [7, tr.12 ;
có nhiều tài vặt; là một con ngoan; là một người anh gần gũi.
H ỏ cũng được chia thành các phần nh , tuy không có tiêu đề như Tugumi
cuả Y. Banama nhưng mỗi phần cũng là một câu chuyện gọn gàng, dễ thương trong
cuộc sống thường ngày của nhân vật. Những tác phẩm trôi chảy theo dòng nội tâm
nhẹ nhàng của nhân vật chính nhiều mơ mộng và miêu tả chi tiết nh nhặt trong đời
sông thường ngày được phân chia thành các chương các phần ngắn gọn theo chúng
tôi là phù hợp. Cách bố cục này sẽ tạo điểm nhấn cho từng phần, giúp người đọc dễ
theo dõi.
Nhân vật của H ỏ và Tugumi cũng mang đậm những nét khá tương đồng
với nhân vật của thể loại manga shoujo. Nhân vật nữ trong Tugumi chính là
Tugumi, cô bé có một vẻ đẹp mong manh: mái tóc đen dài, làn da trắng sáng, hàng
mi dài, rậm, mỗi khi nhìn xuống thì che rợp đôi mắt to. Cánh tay và chân dài, mảnh
36
mai mổ cả mạch máu, thân hình nh nhắn, có vẻ bề ngoài thanh nhã như con búp bê
do thần thánh tạo ra” [62, tr.36]. Út Thêm trong H ỏ cũng là cô gái rất xinh đẹp.
Vẻ đẹp ngoại hình của cô bé có nét tương đồng với những cô gái trong
mangashouio, nhưng vẫn có vẻ đẹp của các thiếu nữ Nam Bộ. Cô có đôi mắt đen
láy, nụ cười dễ thương với chiếc răng khểnh. Vóc dáng mảnh mai trong bộ đồ vàng
hoa mướp, mái tóc dài thắt thành hai bím lúc lắc trên vai. Cậu bé Chương có tâm
hồn nhạy cảm, mơ mộng, trái tim nhân hậu, láu lỉnh cũng được các cô bé yêu quý.
1.2.2.2. h c h a nhân vật qua nội tâm
Nội tâm của nhân vật là toàn bộ tư tưởng tình cảm của con người đối với
cuộc sống. Việc mô tả nội tâm nhân vật cũng là sự thể hiện vốn sống và tài năng
nghệ thuật của nhà văn. Ở phương diện này nhà văn chú ý tới các chi tiết thể hiện
đời sống bên trong, các trạng thái cảm xúc, các quá trình diễn biến tâm lý nhân vật.
Vì thế người đọc hiểu được tính cách nhân vật, biết được những tư tưởng cao quý,
những tình cảm tốt đẹp của nhân vật.
Dù xuất hiện trong những con người mang dị biệt nhưng tất cả họ (chú Đàn,
ông Năm Ve, cô bé Thơ Hoa...) đều hiện lên với những vẻ đẹp bản thể của mình. Là
một cô gái bị mù cả hai mắt suốt ngày chỉ gắn bó loanh quanh với căn phòng nh ,
nhưng Thơ Hoa ( ính v n hoa) mang trong mình một nghị lực sống phi thường. Cô
kể về ước mơ của mình – một ước mơ rất giản dị: ao ước được đi đây đó để thưởng
thức những cảnh đẹp khắp nơi,…cũng thích ra sân xem đá bóng, vào rạp xem
phim..” [5, tr.1106 . Khi được tặng một chiếc “kính vạn hoa”, Thơ Hoa đã nhìn
thấy “những bông hoa trong trí tưởng tượng của mình… đã trông thấy hằng
nghìn bông hoa rực rỡ và đúng là không bông nào giống bông nào” [5, tr.1123 .
Những bông hoa như tiếp thêm nghị lực; mang lại niềm vui, niềm tin về cuộc
sống tươi đẹp cho cô bé.
Với dị tật sáu ngón tay nhưng ông Năm Ve (Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh)
sống rất hiền lành và thương con. Ông suốt ngày lang thang các bờ bãi để bắt cóc
đem về tầm bổ cho thằng con quặt quẹo” [2, tr.225 . Trong con mắt của anh em
37
Thiều thì chú Đàn là một người thổi “acmonica hay nhất làng” [2, tr.23 , là người
có tài viết thư tình nồng nàn. Như vậy, có thể thấy, những con người dị biệt do “sai
lỗi” của tạo hóa được biểu hiện nhiều cách khác nhau nhưng các nhân vật đều là
người với những phẩm chất, tâm hồn rất nhân hậu.
Vẻ ngoài k dị của Qu nh dường như vô hại đối với bọn trẻ trong xóm; sự
khéo léo đôi bàn tay của Qu nh làm cho bọn trẻ trong xóm vừa quý mến, vừa cảm
phục. Đứng trước bọn trẻ, Qu nh nhanh nhẹn hơn, tự tin hơn về bản thân mình.
Nhân vật Qu nh làm cho người đọc liên tưởng đến hình ảnh của chàng Quasimodo
(Nhà thờ Đức bà ari - Victor Hugo) - người gác chuông bất hạnh nhưng tốt bụng.
Mô tuýp nhân vật có hình hài dị biệt được xem là mô tuýp khá phổ biến của
nghệ thuật xây dựng nhân vật trong các tác phẩm tự sự. Thị Nở trong Chí hèo xấu
xí đến ma chê quỷ hờn nhưng bát cháo hành của Thị đã làm thức tỉnh phần n i
trong tâm hồn Chí.
Không chỉ dừng lại ở việc khắc họa những dị biệt về nhận dạng, Nguyễn
Nhật Ánh còn tái hiện cả những con người mang trong mình những dị biệt với
những bấn loạn và sự căng thẳng cảm xúc, của tâm lý và nỗi niềm thân phận. Nhân
vật trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh họ luôn mặc cảm, luôn sợ hãi…
Nhân vật chú Đàn trong Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh cũng nuôi trong
mình một nỗi buồn vô tận bởi “thầy Vinh không muốn chị Vinh lấy chồng cụt tay”
[2, tr.111 . Chú thương thằng Tình vì làm chim xanh cho cuộc tình mà bị ăn đòn…
Trong sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh, nhân vật dị biệt về tâm lý được hiện
ra trong hình dạng những người điên. Nhân vật Nhi trong Tôi thấy hoa vàng trên cỏ
xanh là con ông Tám Tàng ở xóm Miễu bên đồi C Úa. Theo lời giải thích của ông
thì Nhi bị mắc bệnh ngớ ngẩn. Do một lần đi xem xiếc có diễn viên mô tô bay đóng
vai công chúa, Đức vua, Nhi phấn khích đã nắm tay “công chúa” khiến cả hai cùng
bị rơi xuống “chiếc mô tô rơi đánh “u nh” như động đất, tay lái va vào đầu con Nhi
một cú như trời giáng” [2, tr.339]. Vì thương con nên ông Tám Tàng đã cất nhà bên
đồi C Úa hoang vắng, dựng lên câu chuyện về ma cọp để cô bé Nhi được sống
trong một không gian hoàn toàn tách biệt.
38
Trong sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh, nhân vật dị biệt về tâm lý đôi khi
cũng là những con người sống nội tâm rất rõ rệt. Hằng ngày, Nhi mặc đồ công chúa
“áo đầm xanh, tay bồng, có tua ren màu hồng. Mái tóc cô cũng thắt nơ hồng. Trên
cổ có đeo một xâu chuỗi ngọc màu tím” [2, tr.308]. Trong tiềm thức và nội tâm của
cô chỉ tồn tại cô và Đức vua. Đức vua chính là ông Tám Tàng.
Rõ ràng mang hình hài con người nhưng không thể thuộc về cộng đồng trong
những mối tương giao. Mô tả những hành động điên loạn và những suy nghĩ phi lý
của kiểu nhân vật này, Nguyễn Nhật Ánh đã khơi gợi trong lòng độc giả sự cảm
thông đối với “họ”. Những kiểu nhân vật dị biệt xuất hiện trong sáng tác của anh
luôn khiến độc giả suy nghĩ: Hãy đánh thức và nuôi dưỡng tình yêu thương, trân
trọng về một tồn tại khác với những nỗ lực để tôn trọng và thấu hiểu, đồng thời
chính những cảnh ngộ bất thường đã giúp hình thành ở trẻ thơ những kỹ năng sống,
những trải nghiệm trong sự căng thẳng của cảm xúc, từ đó làm rộng rãi và sâu sắc
thêm cho thế giới tâm hồn.
Thế giới tình cảm của các nhân vật trong tác phẩm H ỏ hết sức phong phú
và được tái hiện qua những dòng tâm sự, lời kể của Chương. Qua lời kể, qua những
suy ngẫm, mơ mộng của Chương, thế giới tình cảm phong phú của cậu bé đang ở
tuổi hoa niên hiện lên rất sinh động. Đó là bài ca về tình bạn chân thành, trong sáng
được biểu hiện qua nhiều cung bậc, sắc thái khác nhau. Nguyễn Nhật Ánh cũng dẫn
dắt độc giả nh tuổi trải nghiệm những câu chuyện cảm động về tình bạn, tình thân
giữa những người trong gia đình, tình làng nghĩa xóm ở một miệt vườn êm ả. Chỉ
trong một mùa hè ngắn ngủi, Chương đã được làm quen và kết tình bằng hữu với
những người bạn đáng yêu ở làng Hà Xuyên. Tất cả họ đều dành cho Chương
những tình cảm mộc mạc, chân tình. Anh Thoảng đã dạy Chương võ mỗi trưa.
Nhạn, Dế nhanh chóng giúp Chương hòa nhập với cuộc sống nông thôn. Chung
luôn quan tâm tới Chương từ việc gọt hoa quả mời Chương ăn, rủ Chương tham gia
những trò chơi thật thú vị những tâm tư, tình cảm, nỗi lòng riêng tư của Chương.
Chương đã rất bất ngờ khi biết chị em Út Thêm và Dư không biết chữ. Sự thực bí
mật này đã giúp Chương hiểu ra vì sao trẻ con xóm Miễu và trẻ con xóm ngoài hay
đánh nhau. Đó là do trẻ con xóm Miễu ghen tị với trẻ con xóm ngoài vì chúng
39
không được đi học, không được cắp sách tới trường, không được đùa vui với bạn bè
và đặc biệt không được lưu giữ kỷ niệm tuổi thơ của mình.
Về quê ngoại, Chương lại được sống trong tình yêu giản dị của dì Sáu, của
Nhạn và Dế, trong tình làng nghĩa xóm đầy cảm động. Trong cảm nhận của
Chương, mẹ Chương và dì Sáu rất yêu thương nhau. Dì Sáu vẫn thường giúp đỡ nhà
Chương mươi cân gạo những lúc túng bấn. Đối với mọi người trong làng, dì Sua là
một phụ nữ nhân hậu và tốt bụng. Dì chữa bệnh cho mọi người trong làng nhưng
không bao giờ lấy tiền. Đáp lại, mọi người tạ ơn bằng nải chuối, con gà sẵn có trong
vườn. Trước những tình cảm chất phác đó, Chương đã ngẹn ngào, xúc động: “Từ
ngày về chơi nhà dì đến nay, tôi đã chứng kiến nhiều cảnh lạ lùng và cảm động,
những mối quan hệ đầy tình nghĩa từ lâu đã vắng bóng trong nếp sinh hoạt của
người thành thị” [11, tr.81].
1.2.2.3. h c h a nhân vật qua ời n i và hành ộng
Ngôn ngữ là cái v của tư duy, lối nói bao giờ cũng chứa đựng một tư tưởng,
tình cảm con người. Vĩ lẽ đó, Nguyễn Nhật Ánh rất chú ý đến khắc họa nhân vật
qua lời nói. Xét cho cùng thì hành động là thước đo chính xác nhất tư cách con
người. Thông qua hành động của nhân vật ta thấy được bản chất của nhân vật. Vì
vậy, trong khi xây dựng nhân vật, Nguyễn Nhật Ánh bao giờ cũng dành một phần
để khắc họa hành động.
Thế giới học trò dường như thể hiện trước hết ở hình ảnh lớp học với những
gương mặt học trò và những hoạt động học tập. Những lớp học trong truyện
Nguyễn Nhật Ánh hiện lên gần gũi và sống động đến mức khi đọc tác phẩm, độc
giả có cảm giác rằng mình đang trực tiếp sống trong bầu không khí đó.
Trong ính v n hoa, các em thể hiện rõ mình là thiếu nhi của thế kỷ mới đầy
năng động, chủ động với sáng tạo. Với các em, mỗi chuyến đi cũng là cơ hội để học
tập, là sự trải nghiệm để hiểu biết, khám phá một vùng đất mới (Thám tử nghiệp dư,
B t ền hoa sứ, ùa hè bận rộn, Cỗ xe ngựa kỳ bí…). Có nhiều ưu điểm nhưng các
em cũng có không ít các trò nghịch ngợm dại dột. Quới Lương, vì bị điểm kém,
trong lúc nóng vội đã lấy trộm toàn bộ giấy tờ sổ sách và đặc biệt là tập giáo án của
40
cô giáo Trinh với ý định "trả thù" cô (Cô giáo Trinh). Hay những học sinh b học
lấy danh nghĩa "bảo kê" nhưng thực chất là chấn lột các bạn trong trường như Há
Chảy, Bò Lục, Dũng Cò (Theo dấu chim ưng, Tiền Chuộc). Mặc dù đề cập những
mảng tối như vậy nhưng đọc truyện Nguyễn Nhật Ánh, hầu như không thấy sự xuất
hiện của cái ác. Điều này xuất phát từ chính quan niệm của nhà văn: Trong thế giới
của tuổi hoa niên, tôi nghĩ không có cái ác được đẩy tới tận cùng như trong thế giới
của người lớn, nếu có cũng chỉ là trường hợp cá biệt, còn hầu hết là những trò quậy
phá tuổi học trò.
Không chỉ có vậy mà nhà văn Nguyễn Nhật Ánh còn nhắc đến rất nhiều con
vật lạ lẫm khác, tác giả không cần miêu tả tỉ mỉ, chỉ vài nét họa ấn tượng, chúng đã
kịp lưu lại trong cõi lòng nhiều hiếu k , thích khám phá của trẻ thơ: Những con
chồn với những bước đi rụt rè, chiếc đuôi dài quét đất làm vang lên những tiễng sột
soạt mỗi khi băng qua một đám lá khô; Những con thú hoang đang rón rén bám sau
lưng những người mà chúng tin yêu; Bầy khỉ vô cùng hiếu động, đánh đu trên cây
vảy ốc, vừa chí chóe vừa hái trái ném nhau một cách phấn khích; Con Nhím khi xù
lông thì trông như một quả cầu gai, khi lông rạp xuống thì trông như một ngọn giáo
được xếp gọn gàng; Lũ gà rừng trên cành cây hân hoan gáy chào mặt trời ban trưa;
Con rắn màu xanh lè đong đưa chiếc đầu hình tam giác như một mũi tên chuẩn bị
bắn ra…
Con heo Đuôi Xoăn quá gầy, thường cười híp mắt. Hai mẹ con chị Vện và
Mõm Ngắn thì luôn thè lưỡi đ và dài. Đặc biệt, Đeo Nơ được hiện lên qua đôi mắt
của Lọ Nồi - một kẻ đang ngây ngất ái tình nên nàng heo hiện lên thật đẹp. Trong
truyện này Nguyễn Nhật Ánh không có ý biến các con vật trở nên xa lạ, quái đản
mà trái lại còn làm cho chúng trở nên ngộ nghĩnh, đáng yêu hơn. Đứng trước cảnh
ngộ này, mỗi nhân vật đều bộc lộ những nét riêng trong hành động của mình.
Với mảng đề tài loài vật nhưng luôn vang vọng tiếng nói, tiếng cười trẻ thơ,
ta sẽ không võ đoán nói rằng Nguyễn Nhật Ánh sinh ra là để viết truyện cho trẻ thơ.
Ông thấu hiểu tâm lý trẻ con, đặt suy nghĩ, tình cảm của mình vào từng nhân vật
41
một cách tự nhiên. Trải nghiệm bao nhiêu buồn vui từ thế giới lẫn lộn giữa thực tại
và cổ tích này, bạn đọc, nhất là độc giả nh tuổi sẽ nhận ra rằng có vô vàn những
điều thú vị cuộc sống cố tình giấu kín ở ngóc ngách nào đó trong tâm hồn mỗi
người. "Khám phá những điều thú vị đó, hay tìm thấy những món quà đó, chính là
làm giàu thêm ý nghĩa cuộc sống và bổ sung thêm lý do để cuộc sống trở lên đáng
sống" - Chính là nhà hiền triết Binô trong Tôi à Bêtô đã nói thế.
Cũng là cách chọn nhân vật là loài vật, Nguyễn Đình Thi lại có cách xây
dựng nhân vật Mèo con (Cái tết của mèo con) rất riêng. Chuyện kể về một chú mèo
con về nhà mới trong dịp cuối năm. Từ lúc nhìn cảnh vật và cái Tết sắp đến bằng
đôi mắt trong veo ngơ ngác, dần dần, cũng tới lúc mèo ta “người lớn” hơn, biết yêu
ghét rõ ràng, biết vượt qua nỗi sợ của bản thân để căm thù cái ác... Giản dị nhưng
trong trẻo và đầy cảm xúc, Cái tết của mèo con là tác phẩm duy nhất mà cố nhà văn
Nguyễn Đình Thi viết tặng thiếu nhi trong suốt cuộc đời cầm bút của mình.
Cách thổi hồn người hòa thế giới loài vật, Nguyễn Nhật Ánh đã khiến truyện
của mình mang đậm phong cách ngụ ngôn, cổ tích hiện đại. Qua lăng kính k ảo,
những bài học mà nhà văn gửi cho trẻ thơ là hết đỗi thân thiết và đời thường.
Không chỉ có những nhân vật là trẻ em, nhân vật là loài vật mà ngay cả
những nhân vật người lớn trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh cũng mang đậm sắc
màu hành động riêng và khác biệt so với các nhà văn khác.
Người lớn nào cũng trải qua cái tuổi đến trường nhưng điều đó không có
nghĩa là ai cũng có thể hiểu hết về lứa tuổi "nhất quỷ nhì ma" ấy. Với tấm lòng yêu
quý thiếu nhi cùng với khả năng quan sát của một nhà văn và kinh nghiệm của một
người từng đi dạy học, Nguyễn Nhật Ánh t ra am hiểu đời sống học trò. Đọc
truyện Nguyễn Nhật Ánh, các bạn nh thấy mình trong đó, còn người lớn lại thấy
những năm tháng tuổi thơ, những ký ức mà "càng đi xa tuổi thơ càng da diết nhớ về
tuổi thơ". Song song hình ảnh các bạn học sinh, thế giới hình như không thể vắng
bóng hình ảnh các thầy cô giáo và các giờ lên lớp. Dõi theo hành trình học tập của
các bạn nh , độc giả được "tiếp xúc" với đầy đủ nhóm giáo viên dạy lớp 8A4, từ
42
giáo viên chủ nhiệm đến giáo viên bộ môn như: Cô Trinh giáo viên chủ nhiệm đồng
thời là giáo viên dạy Văn, cô Nga dạy Sử, thầy Đoàn dạy Thể dục, cô Kim Anh dạy
Hóa, thầy Thừa dạy Tiếng Anh, cô Diệu dạy Vật lý, cô Hạ Huệ dạy Sinh, thầy
Quảng dạy Địa, thầy Hiếu dạy Toán, thầy Đại dạy Giáo dục công dân, thầy Sơn
Cước dạy Kĩ thuật, thầy Đang giám thị. Lên lớp 9, cùng gương mặt một số bạn bè
mới, các em đồng thời được làm quen với thầy cô giáo mới. Đón các em ở lớp 9 là
thầy Vĩnh Long chủ nhiệm, cô Vĩnh Bình dạy Văn và cô Vĩnh An dạy Ngoại ngữ,
cô Lan Anh dạy Giáo dục công dân… Nếu như các bạn học sinh mỗi người một
tính cách thì các thầy cô giáo cũng để lại một ấn tượng rất riêng trong lòng học trò.
Thầy Hiếu dạy Toán có đặc điểm là "không bao giờ dùng khăn lau bảng,
toàn chùi bằng tay cho nhanh, sau đó hết giờ, hai tay thầy luôn dính đầy phấn
trắng", lại thêm câu nói quen thuộc đầy tính "hình sự" mỗi khi học trò làm bài sai:
"Trời ơi! Em làm toán như thế này là giết tôi rồi còn gì". Để dẹp nạn ồn ào trong
lớp, mỗi cô giáo một cách: Cô Nga dạy Sử thường vờ mượn dầu gió của học trò:
"Ôi cô nhức đầu quá! Em nào có mang theo dầu gió, cho cô mượn xem nào"; cô
giáo chủ nhiệm thân thuộc của cả lớp lại hay h i: "Con công trang sức bằng bộ
lông, còn con người trang sức bằng gì hả các em " để được nghe học sinh đồng loạt
trả lời: "Thưa cô, con người trang sức bằng học vấn!". Cách vào bài hóm hỉnh của
thầy cô giáo cũng được các học sinh lớp 8A4 nhớ như in. Quốc n bước ra sân khấu
với "dáng đi mạnh mẽ" thể hiện vai thầy Đoàn và dõng dạc: "thầy nói cho các em
biết thể dục không phải là môn học phụ các em không được lơ là. Mỗi thầy cô giáo
dạy lớp 8A4 đều được các em tặng một hoạt cảnh đặc trưng. Đó chắc chắn là những
món quà vô giá mà đến người khó tính và nghiêm khắc nhất cũng phải hài lòng.
Các thầy cô còn vui hơn nữa khi nhân vật vừa bước ra sân khấu, cất lên vài lời thoại
là ở dưới lớp các em đã đồng thanh hô to tên các thầy cô. Rõ ràng các em không chỉ
nhớ mà còn rất yêu quý các thầy cô giáo của mình, dù không thiếu các em làm cho
các thầy cô giáo phải phiền lòng hay cáu giận.
Như vậy, có thể thấy những nhân vật đặc biệt là những nhân vật trẻ thơ trong
43
truyện Nguyễn Nhật Ánh đều là những cô bé, cậu bé giàu lòng yêu thương mọi
người và có nhiều ước mơ, hoài bão. Những tâm hồn đẹp ấy đã giúp chúng ta nhận
ra nhiều điều mà đôi khi do cuộc sống bận rộn khiến ta không bận tâm. Và chỉ có
Nguyễn Nhật Ánh, một nhà văn đầy tâm huyết, có vốn sống phong phú, yêu
thương thấu hiểu tâm lý trẻ thơ mới có thể sáng tạo nên những hình tượng nhân
vật đẹp và chân thực đến vậy.
1.3. Tiểu kết
Một đặc điểm vô cùng độc đáo trong nghệ thuật tự sự của Nguyễn Nhật Ánh
là lối kể chuyện mang đậm tính điện ảnh - gia tăng lời thoạt, giảm thiểu lời kể, tả,
bình luận. Đi cùng với sự phát triển của văn học, đặc biệt ở loại hình tự sự, hình
tượng người kể chuyện có nhiều biến chuyển song song với sự thay đổi linh hoạt
của điểm nhìn nghệ thuật. Điều này cho thấy vai trò, tầm quan trọng của hai phương
diện nghệ thuật và sự tìm tòi sáng tạo nghệ thuật không ngừng của các nhà văn
trong nghệ thuật tự sự. Nhân vật người kể chuyện, nhận vật được kể có sự lựa chọn
điểm nhìn nghệ thuật rất rõ ràng và sắc nét. Với lối nghệ thuật “điện ảnh”, Nguyễn
Nhật Ánh đã kể lại những câu chuyện giàu ý nghĩa nhân văn. Mỗi câu chuyện, mỗi
tập truyện như một thước phim quay chậm để chở bạn đọc (người lớn) quay lại với
hành trình tuổi thơ, được sống lại những giây phút trong sáng, hạnh phúc của cuộc
đời. Phải chăng, tác giả muốn nhắn nhủ với bạn đọc rằng: hãy trân trọng những ký
ức tuổi thơ của chính mình mỗi khi nhìn lại nó, hãy đồng cảm và chia sẻ với những
mảnh đời trẻ thơ bất hạnh xung quanh bạn. Vì vậy, khi đọc truyện của Nguyễn Nhật
Ánh, tôi đã hiểu vì sao chúng lại hấp dẫn các độc giả trẻ em và người lớn đến thế.
44
Chƣơng 2: NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC KẾT CẤU VÀ XÂY ỰNG CỐT TRUYỆN TRONG TRUYỆN NGUYỄN NHẬT ÁNH
2.1. Nghệ thuật t chức kết cấu
2.1.1. Khái quái về ngh thuật tổ chức kết cấu
Tác giả Đoàn Đức Phương trong cuốn Lý uận văn h c đã nhấn mạnh: “Kết
cấu là một yếu tố của hình thức, vì thế vai trò của nó chủ yếu được khẳng định trong
việc thực hiện nhiệm vụ đối với các yếu tố của nội dung như chủ đề, tư tưởng, tính
cách, cốt truyện, các yếu tố ngoài cốt truyện, v.v.” [24, tr. 179]. Còn theo Từ iển
thuật ng văn h c của Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội, 1992 thì kết cấu là toàn bộ tổ
chức phức tạp và sinh động của tác phẩm, kết cấu thể hiện nội dung rộng rãi phức
tạp hơn. Tổ chức tác phẩm không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương
quan bên ngoài giữa các bộ phận chương đoạn mà còn bao hàm sự liên kết bên
trong, nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của tác phẩm. Kết cấu là phương tiện cơ
bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật; kết cấu phải đảm nhiệm chức năng đa dạng
bộc lộ tốt chủ đề và tư tưởng của tác phẩm; triển khai trình bày hấp dẫn cốt truyện,
tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả tạo nên tính toàn vẹn của tác phẩm như một
hiện tượng thẩm mỹ.
Kết cấu là một yếu tố thuộc về hình thức của tác phẩm. Một tác phẩm văn
học dù dung lượng lớn hay nh cũng đều là một chỉnh thể nghệ thuật, được cấu tạo
bởi nhiều bộ phận, yếu tố và phải được sắp xếp, tổ chức theo một trật tự, hệ thống
nhất định. Vì vậy, khi đề cập đến tác phẩm văn học nói chung hay tác phẩm tự sự
nói riêng, không thể b qua yếu tố kết cấu. Kết cấu là một phương tiện cơ bản của
sáng tác nghệ thuật. Khi người ta nói xây dựng tác phẩm, xây dựng cốt truyện, xây
dựng tính cách, xây dựng cấu tứ trong thơ, thì đã xem tác phẩm như một công trình
kiến trúc. Bản thân thuật ngữ kết cấu cũng mượn từ kiến trúc, hội hoạ. Từ những
vật liệu khác nhau, người ta có thể xây nên những công trình hợp mục đích và hợp
lí tối đa.
Lâu nay trong cách diễn đạt có trường hợp khái niệm kết cấu dùng lẫn với
khái niệm bố cục. Cần phân biệt và thống nhất các khái niệm đó thật xác đáng. Kết
45
cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm, kết cấu thể hiện nội
dung rộng rãi phức tạp hơn. Tổ chức tác phẩm không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề
mặt, ở những tương quan bên ngoài giữa các bộ phận, chương đoạn mà còn bao
hàm sự liên kết bên trong, nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của tác phẩm. Kết
cấu đảm nhiệm chức năng đa dạng “bộc lộ tốt chủ đề, tư tưởng của tác phẩm; triển
khai trình bày hấp dẫn cốt truyện, tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả tạo nên
tính toàn vẹn của tác phẩm như là một hiện tượng thẩm mĩ”, còn bố cục là “sắp xếp
phân bố các chương đoạn, các bộ phận của tác phẩm theo một trình tự nhất định”,
“bố cục là một phương diện của kết cấu”. Đúng như tác giả Đoàn Đức Phương đã
xác định: “Kết cấu là sự tạo thành và liên kết các bộ phận trong bố cục của tác
phẩm, là sự tổ chức, sắp xếp các yếu tố, các chất liệu tạo thành nội dung của tác
phẩm trên cơ sở đời sống khách quan và theo một chiều hướng tư tưởng nhất
định ” [24, tr.179 . Ta có thể hiểu kết cấu chính là việc phân bố các thành phần
hình thức nghệ thuật; tức là sự cấu tạo tác phẩm, tu theo nội dung và đề tài, “là
kết quả của nhận thức thẩm mĩ, phản ánh những liên hệ bề sâu của của thực tại”.
Hay nói cách khác, kết cấu được hiểu là toàn bộ tổ chức nghệ thuật phức tạp và
sinh động của tác phẩm.
Kết cấu có vai trò tổ chức, liên kết các yếu tố nghệ thuật khác nhau như: sắp
xếp các sự kiện, biến cố, hành động của các nhân vật, tổ chức hệ thống các hình
tượng, lựa chọn về không gian, thời gian hay tổ chức ngôn ngữ, câu văn… theo ý đồ
nghệ thuật của nhà văn. Người đọc không thể tự ý tách rời hay cắt rời bất cứ yếu tố
nào trong tác phẩm vì đã được nhà văn kết cấu chặt chẽ. Có thể nói kết cấu là kĩ
thuật, kĩ xảo của nghệ thuật. Kết cấu tạo nên một kiểu kiến trúc đa tầng chứa đựng
nội dung của tác phẩm. Mỗi nhà văn sẽ có sở trường, dụng ý riêng về mặt kết cấu
để chuyển tải được thông điệp về nghệ thuật trong tác phẩm nên kết cấu còn thể
hiện được nhận thức, tài năng và phong cách của nhà văn.
Ngoài ra kết cấu còn đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện sự
thống nhất chặt chẽ giữa chủ đề - tư tưởng với hệ thống tính cách, nói cách khác, nó
phải tổ chức sự phát triển của từng tính cách một cách nhất quán dưới ánh sáng chủ
46
đề - tư tưởng. Ở T t èn, chính tình huống bọn cường hào cho tay chân đến trói anh
Dậu vừa ốm dậy, tính cách phản kháng của chị Dậu mới biểu hiện sự mạnh mẽ,
kiên quyết: “Thà ngồi tù. Để chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu
được!” Cho nên về phương diện nào đó, nghệ thuật kết cấu chính là nghệ thuật tạo
tình huống.
Bên cạnh các yếu tố nghệ thuật khác kết cấu cũng có những biến chuyển qua
các thời kì văn học, đi cùng với bước tiến của nền văn học thế giới nói chung và nền
văn học Việt Nam nói riêng. Chẳng hạn, kết cấu trong trong các tác phẩm văn học
truyền thống thường tuân theo trật tự thời gian trần thuật “cái gì xảy ra trước thì kể
trước” và truyện có mở đầu, phát triển, kết thúc rõ ràng.
Trong truyện ngắn hiện đại, kết cấu ngày càng phức tạp hơn và thường được
xây dựng ở dạng: kết cấu tương phản, kết cấu đơn tuyến, kết cấu đa tuyến, kết cấu
truyện lồng truyện, kết cấu tâm lí, kết cấu vòng tròn, kết cấu mở. Đặc biệt là trong
truyện của các nhà văn trong thời kì đổi mới hay các nhà văn đương đại thì kết cấu
mở là chủ yếu và còn có kiểu kết cấu ghép mảnh, kết cấu đảo tuyến. Nhìn chung
những hình thức kết cấu này chứa đựng, dồn nén được nhiều sự kiện, nhân vật, tình
tiết hơn kiểu kết cấu trong các tác phẩm văn học truyền thống, đồng thời còn mở ra
trường đối thoại bình đẳng giữa độc giả với người kể chuyện, làm cho câu chuyện
trở nên sinh động, khách quan hơn. Có nhiều cách tổ chức cốt truyện, chúng ta có
thể nêu lên một vài kiểu sau đây:
- Kết cấu cốt truyện lồng trong truyện:
Với truyện ngắn Việt Nam đầu thế kỷ XX, kết cấu truyện lồng trong truyện
là một lối kết cấu mới mẻ, thể hiện việc chịu ảnh hưởng phương Tây rõ nét, mà tác
phẩm đầu tiên cần kể tới là truyện Thầy Lazarô hiền của Nguyễn Trọng Quản.
Trong truyện Thầy Lazarô hiền có tới 2 chuyện: chuyện thứ nhất là của nhân vật
“tôi” kể cho bạn đọc nghe (việc mình đã gặp thầy Phiền như thế nào, thầy Phiền đã
kể lại chuyện đời mình cho nhân vật “tôi” nghe ra sao, nhân vật “tôi” đã biết được
kết cục cuộc đời thầy thế nào…). Chuyện thứ hai là của thầy Phiền kể cho nhân vật
47
“tôi” nghe (việc thầy đã lấy được một người vợ đáng yêu như thế nào, thầy đã nghi
ngờ và tìm cách giết vợ, để rồi giờ đây đớn đau và hối hận ra sao …).
Kết cấu truyện tâm lý:
Trong truyện ngắn Việt Nam đầu thế kỷ XX có một loại cốt truyện hầu như
chưa thấy xuất hiện trong văn học trung đại, đó là những truyện không có cốt truyện
- còn gọi là cốt truyện tâm lý như Trằn tr c êm xuân của Mân Châu, Giấc
mộng của Công Bình, Gi t ệ hồng âu của Hoàng Ngọc Phách, Tuyết Nga của
Tùng Toàn,...
Nhiệm vụ quan trọng nhất của kết cấu là “phải tổ chức tác phẩm sao cho chủ
đề tập trung, tư tưởng thống nhất và thấm sâu vào toàn bộ các bộ phận của tác
phẩm, kể cả những chi tiết nh nhất”. Kết cấu còn có nhiệm vụ tổ chức bố cục của
cốt truyện thành các phần, chương, đoạn, sắp xếp các chi tiết, các sự kiện thành
những bộ phận hữu cơ của một quá trình phát triển mà mà cái đích cuối cùng là thể
hiện chủ đề tư tưởng và bộc lộ tính cách nhân vật. Bố cục chỉ là phương diện của
kết cấu.
Mục đích của kết cấu là xây dựng nên một thế giới nghệ thuật bộc lộ rõ cảm
quan của nhà văn về đời sống, đồng thời vạch ra con đường giúp độc giả có thể theo
đó mà nhận ra ý nghĩa của thế giới nghệ thuật vừa được tạo nên và tự xác lập được
một cái nhìn đời theo gợi ý của tác giả. Quan niệm này đã chi phối cách thức xây
dựng nhân vật và kết cấu trong tác phẩm.
Thủ pháp nghệ thuật trong tác phẩm văn học mang dấu ấn cá nhân cũng như
cá tính sáng tạo của nhà văn. Nguyễn Nhật Ánh một mặt đã tuân thủ theo những
nguyên tắc sáng tác chung của thể loại tự sự, một mặt có cách viết, cách xây dựng
hình tượng, tổ chức các yếu tố nghệ thuật theo chủ ý của mình. Có thể nói một trong
những thành công về nghệ thuật tự sự trong truyện của Nguyễn Ánh là việc xây
dựng kết cấu và cốt truyện.
Khái niệm kết cấu được xác định như trên sẽ đặt cơ sở cho việc tìm hiểu về
kiểu tổ chức đặc thù trong tác phẩm tự sự nói chung và truyện của Nguyễn Nhật
Ánh nói riêng.
48
2.1.2. Ngh thuật tổ chức kết cấu trong truy n Nguyễn Nhật Ánh
Trong nghệ thuật, kết cấu là một hiện tượng chức năng, chỉ có thông qua phân
tích trực tiếp mới phát hiện được giá trị thực sự và vẻ đẹp độc đáo của nó, cũng chỉ
thông qua sự phân tích trực tiếp đó chúng ta mới giải thích được ý nghĩa của sự tồn
tại của kết cấu tác phẩm. Trong Chương VI - hái quát kết cấu tác ph m tự sự
(Giáo trình Dẫn luận Tự sự học), Lê Thời Tân đã viết: „Kết cấu là liên hệ cơ bản
trong quan hệ giữa hình thức và nội dung tác phẩm văn học. Trong tác phẩm tự sự,
kết cấu là cơ sở của hình thức truyện mà đồng thời cũng là một cách bao quát của
nội dung câu chuyện: [49, tr.107]. Đặt trong mối quan hệ này thì truyện của Nguyễn
Nhật Ánh không có cấu trúc tự sự phức tạp. Do viết cho thiếu nhi nên nội dung kể
được chú ý hơn cách kể. Nguyễn Nhật Ánh cũng hiếm khi tạo ra những vai kể khác
thường mang đậm tính ẩn dụnhư kiểu nhân vật bào thai, người điên, con người tí
hon… đóng vai trò kể chuyện trong nhiều tiểu thuyết dành cho người lớn... Một
dạng thức khác trong cốt truyện của các sáng tác Nguyễn Nhật Ánh là sự nối ghép
của các mảnh hồi ức. Với cơ chế thông thường, con người chỉ lưu giữ lại những sự
kiện quan trọng, ấn tượng và có ý nghĩa đối với cuộc đời mình. Do đó, hồi ức tồn tại
dưới dạng thể những mảnh vỡ, rời rạc và hồi tưởng là sự gắn kết các sự kiện có ý
nghĩa đó. Được xây dựng từ hồi ức, nhiều sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh xét về
tổng thể sắp xếp theo trình tự tuyến tính nhưng giữa các sự kiện riêng biệt lại không
có sự kết nối chặt chẽ như: Cho tôi xin một vé i tuổi thơ, Tôi à Bêtô, ính v n
hoa, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, Bảy bước tới mùa hè, Đảo mộng mơ...
Cho tôi xin một vé i tuổi thơ là truyện dài của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh.
Tác phẩm là một trong những sáng tác thành công nhất của ông và nhận được Giải
thưởng Văn học ASEAN của năm 2010. Nguyễn Nhật Ánh viết ở mặt sau cuốn
sách: "Tôi viết cuốn sách này không dành cho trẻ em. Tôi viết cho những ai đã từng
là trẻ em". Trả lời ph ng vấn của báo Người ao ộng, ông nói "đối tượng cảm thụ
mà tôi muốn nhắm tới là người lớn", với Cho tôi xin một vé i tuổi thơ Nguyễn
Nhật Ánh "cho phép mình mở rộng biên độ đề tài và hình ảnh đến tối đa vì tôi viết
về trẻ em nhưng là cho những ai từng là trẻ em đọc". Ông chia sẻ, "tôi muốn người
lớn thông cảm với trẻ em hơn".
49
Tác phẩm gồm những câu chuyện nh xoay xung quanh 4 đứa trẻ trong cùng
một khu xóm là con Tủn, con Tí sún, thằng Hải còi và thằng cu Mùi. Trong đó,
người kể chuyện là cu Mùi dưới hình thức kể song song của "thằng cu Mùi" lúc bé
và nhận xét, đánh giá của "ông Mùi" khi đã gần 50 tuổi. Tác phẩm gồm 12 chương
là 12 câu chuyện khác nhau mỗi chương đều có nhan đề gắn với một sự kiện của
nhân vật. Kết cấu này giúp tác phẩm có được chiều sâu tư tưởng và vấn đề đặt ra
trong cuộc sống được soi chiếu dưới nhiều góc nhìn khác nhau. Kết cấu lô gic của
truyện được thể hiện qua các sự kiện, cụ thể như sau:
Chương 1. “Cuộc sống thật à buồn chán và tẻ nh t”, đây là nhận xét của
“thằng cu Mùi” - một cậu bé lên tám tuổi khi một ngày tiêu biểu của cậu bé luôn
bắt đầu bằng việc ngủ nướng cần mẹ gọi dậy, ăn bữa sáng mà cậu bé không thích,
xếp sách vở rồi vội vã đến trường, thích ngồi cuối lớp để không bị gọi kiểm tra
hoặc trả lời câu h i của thầy cô,… và kết thúc một ngày bằng giấc ngủ.
Chương 2. Bố mẹ tuyệt vời: Cuộc tạo dựng trò chơi vợ chồng của cu Mùi, vợ
là Tí sún, hai đứa con là Tủn và Hải cò
Chương 3. Đặt tên cho thế giới: Bọn đứa trẻ tiếp tục nghĩ ra trò chơi gọi đảo
lộn tên của tất cả mọi thứ mà chúng gọi là trò đặt lại tên cho thế giới, ví dụ như cái
chân là cái đầu, cu Mùi là hiệu trưởng, nhưng sau đó chúng nhận ra cũng không
nên làm cuộc sống của bọn chúng trở nên khác lạ nữa.
Chương 4. Buồn ơi à sầu: Lí do cu Mùi kiên quyết không chọn Tí sún làm
vợ nếu nó có lấy vợ lúc tám tuổi: vì Tí sún úp mì gói rất tệ, nó thích bạn Tủn hơn vì
Tủn xinh hơn…
Chương 5. hi người ta lớn: “Ông” Hải cò khi này đã là giám đốc một công
ty lớn, con Tủn ngày nào đã là bà hiệu trưởng đến gặp “ông” Mùi khi nghi nói ông
Mùi định viết cái gì đó liên quan đến thời thơ ấu của “tụi mình” vào lúc tám tuổi,
yêu cầu ông Mùi gạch b chi tiết “đáng xấu hổ” liên quan hoặc đổi tên nhân vật.
Chương 6. Tôi à thằng cu ùi: Liên quan đến vụ tin nhắn với con Tủn. Cu
Mùi đã hiểu tại sao khi gửi tin nhắn đó đi thì nó lại bị đánh, bị cấm dùng điện thoại
và không còn được nhắn tin cho con Tủn. Dù buồn, nhưng cu Mùi nhanh chóng
50
tạođược niềm vui trong chuyện chuyển uống nước bằng ly sang uống nước bằng
chai xá xị,...
Chương 7. Tôi ngoan trong bao âu: Cu Mùi tự dưng ngoan ngoãn khiến ba,
mẹ, cô giáo lo. Nó kiếm những điểm mười dễ dàng, học gi i hơn nhưng cũng mau
chán làm học sinh gi i, đơn giản vì nó không muốn cuộc sống đơn điệu của học
sinh gi i hoặc học sinh dốt và trái tim nó tổn thương trước tình yêu với con Tủn
khiến nó không còn muốn ngoan nữa.
Chương 8. Chúng tôi trở thành ũ giết người như thế nào: Tí sún nay đã là
mẹ của những đứa trẻ đến, lại về chuyện bản thảo về tuổi thơ, nhưng là để khuyên
ông Mùi nên giữ nguyên, không sửa đổi chuyện tuổi thơ. Tiếp tục là chuyện của
năm tám tuổi, những đứa trẻ đi khai quật kho báu trong vườn nhà Hải cò, đào xới
những gốc cây thành hang, hố, những cây mận quắt lại và chết dần. Bố Hải rất tức
giận, mẹ thì đau buồn, còn bà Hải cò thì rên lên “lũ giết người”.
Chương 9. i c biết bây giờ à mấy giờ rồi không: Sau sự việc phá hoại một
cách vô ý vườn mận nhà Hải cò, Hải ăn trận đòn no, cu Mùi gò má cũng sung vù, Tí
sún và Tủn cũng mặt mày nhàu nhò. Lũ trẻ ấm ức phán xét cha mẹ khi trẻ con luôn
bị phạt còn người lớn dù làm sai, không giữ lời cũng không hề bị phạt. Chúng tự
mở phiên tòa xét xử cha mẹ mình bằng cách đứa này đóng vai cha mẹ của đứa khác
và cảm thấy hân hoan khi lấy lại được công bằng. Chỉ tiếc, phiên tòa đó là giấc mơ
trẻ con mà thôi, khi trở về nhà, cu Mùi đã được ba đón bằng tiếng quát “Con có biết
bây giờ là mấy giờ rồi không ”
Chương 10. Và tôi ã chìm: Ở chương này nội dung câu chuyện chủ yếu là
những suy nghĩ của ông Mùi về chuyện trẻ con - người lớn, đó là những lí do mà
ông Mùi tại đưa ra để quyết định giữ nguyên bản thảo và in thành sách để cho cả
thế giới này biết...
Chương 11. Trang tr i ch hoang: Cuốn sách đã được viết xong. Lại tiếp
chuyện từ ngày con Tủn ra đi, cu Mùi đã bắt đầu thấy cuộc sống có mùi vị. Ba đứa
trẻ còn lại tiếp tục nghĩ ra nhiều trò để chơi, trong đó có trò nuôi chó hoang. Chúng
mở trang trại huấn luyện chó tại nhà Tí sún với mong muốn kiếm được tiền mà
51
không cần xin cha mẹ. Ba của Hải cò đã trách mắng về chuyện lấy đồ ăn đem đi, ba
của Tí sún thì không nói gì, nhưng lại âm thầm bán tuốt lũ chó vào quán thịt chó.
Trang trại chó giải tán.
Chương 12. Cuối cùng à chuyến tàu không c người soát vé: Lại nói về
tranh cãi giữa những người ăn thịt chó và những người yêu chó. Theo đúc kết của
ông Mùi thì thịt lợn, bò, gà là ngon nhất là lựa chọn sáng suốt nhất, còn chó thì nên
để làm bạn với con người và đặc biệt là trẻ con, cũng giống như ngựa để cưỡi, trâu
để cày và mèo để bắt chuột vậy... Khi cuốn sách xuất bản được hai ngày thì ba
người bạn đến, nhưng không phải để mắng giận mà chúc mừng về cuốn sách. Cuốn
sách này được xem là vé tàu về tuổi thơ dành cho người lớn và bất cứ lúc nào ta
cũng có thể đi mà không có người soát vé.
Thành công hơn nữa là truyện Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh - truyện dài
mới nhất của nhà văn vừa nhận giải văn chương ASEAN Nguyễn Nhật Ánh - đã
được Nhà xuất bản Trẻ mua tác quyền và giới thiệu đến độc giả cả nước.Cuốn sách
viết về tuổi thơ nghèo khó ở một làng quê, bên cạnh đề tài tình yêu quen thuộc, lần
đầu tiên Nguyễn Nhật Ánh đưa vào tác phẩm của mình những nhân vật phản diện
và đặt ra vấn đề đạo đức như sự vô tâm, cái ác. 81 chương ngắn là 81 câu chuyện
nh của những đứa trẻ xảy ra ở một ngôi làng: chuyện về con cóc Cậu trời, chuyện
ma, chuyện công chúa và hoàng tử, bên cạnh chuyện đói ăn, cháy nhà, lụt lội,... Đặc
biệt hơn nữa trong việc đan xen giữa những tình huống gây cấn, bất ngờ là những
đoạn trữ tình đậm chất thơ, là những chương truyện có cảm giác được sắp xếp theo
kiểu nhảy cóc, đang nói về truyện này lại nhảy sang truyện khác. Ví dụ chương 56
đang nói về truyện thầy Nhãn qua nhà Thiều, chương 57 lại nói về thằng Dưa
những ngày đói, hoặc chương 80 đang kể dở về chuyện con Nhi tỉnh lại, đến
chương 81, mạch chuyện lại triển khai theo hướng khác, để rồi đến giữa chương 81,
người kể chuyện “tôi” sực nhớ về câu chuyện dở dang của mình và lại kể nốt diễn
biến sau khi con Nhi tỉnh lại như thế nào. Đây không phải một sự lộn xộn, mà
ngược lại nó phản ánh rất rõ tư duy hiện đại của tiểu thuyết - câu chuyện được triển
52
khai theo dòng mạch tâm lý của nhân vật, và đặc biệt ở đây nhân vật kể chuyện là
một cậu bé đang tuổi thiếu niên, mạch chuyện, tư duy có thể lộn xộn, cái trật tự của
lý tính đôi khi được thay bằng những phút cao trào của cảm xúc. Sự đan xen giữa
chất thơ, chất đời thường truyện đã đem đến những điều thú vị với cả bạn đọc nh
tuổi và người lớn bằng. Vì thế cuốn sách đã có sức ám ảnh, thu hút, hấp dẫn không
thể b qua đối với độc giả.
Tôi à Bêtô là cuốn sách được ra đời năm 2007 và ngay lập tức nhận được
giải thưởng văn học của Hội nhà văn thành phố Hồ Chí Minh. Tác phẩm mở đầu
bằng lời giới thiệu: Tôi à Bêt... Nếu coi nhan đề là cánh cửa đầu tiên dẫn dắt người
đọc đi vào khám phá thế giới đầy hấp dẫn của tác phẩm. Tôi à Bêtô lại là câu xưng
danh, lời giới thiệu để từ đó, toàn bộ mạch truyện sẽ được triển khai xoay quanh
cuộc đời nhân vật này. Lựa chọn cấu trúc tác phẩm đầu cuối tương ứng, Nguyễn
Nhật Ánh không chỉ đem đến cho đứa con tinh thần của mình sự cân đối, nhịp
nhàng mà còn thể hiện khả năng thấu hiểu, thái độ cảm mến đối tượng mà tác giả
đang hướng tới. Truyện kết cấu gồm 102 phần, mỗi phần giống như một đoản khúc
gắn với từng câu chuyện nh xoay quanh không gian hẹp là ngôi nhà của cô bé Ni.
Thỉnh thoảng không gian có mở rộng hơn ở nhà bà Cố và nghĩa trang nhưng cũng
không nhiều. Đối với nhà văn, trẻ thơ là một thế giới đích thực với tất cả sự nghịch
ngợm, trong sáng và thậm chí ngay cả những sai lầm cũng cần phải được người
lướn tôn trọng. Đây là mạch nguồn xuyên suốt sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh. Tôi
à Bêtô - Cuốn sách đã thực sự vượt thoát ra kh i khuôn khổ câu chuyện của một
chú cún, của những cô bé, cậu bé mới lớn để vươn tới những khía cạnh khác nhau
của cuộc sống mỗi chúng ta.
Một điểm dễ dàng nhận thấy trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh, đó là cách
xây dựng nhân vật và nghệ thuật tổ chức kết cấu truyện mang tính hiện đại hơn so
với những trang văn của các tác giả khác. Tính hiện đại ở chỗ, Nguyễn Nhật Ánh
biết đan xen trong mô hình cấu trúc truyền thống ấy những mẩu chuyện riêng với
những đoạn thắt nút - cởi nút, những cao trào lên xuống khác nhau, khiến câu
chuyện không bị nhàm chán. Những tình huống bất ngờ liên tiếp xuất hiện giữa
53
những câu chuyện tưởng lẻ tẻ, vụn vặt của đời thường: việc chị Vinh mất tích, bí
mật căn nhà gác nhà con Mận,... Mô hình kết cấu ba nhân vật đồng hành cùng tham
gia vượt qua thử thách, khó khăn, đó là Thiều - Tường - Mận rồi sau là Thiều -
Tường - Nhi, mô hình kết cấu này gợi chúng ta nhớ đến bộ ba nhân vật Hạnh -
Long - Quý trong ính v n hoa và nhóm bạn nh trong Chuyện xứ Lang Biang.
Chương 46 của tác phẩm với cái tên Xác con Vện ghi lại hành trình ba nhân vật
Thiều, Tường, Mận đi tìm chỗ chôn cất con Vện và xác định ra bộ xương chó đã
biến mất, cách nhân vật Thiều lý giải về bộ xương chó đã biến mất cũng như sự
mất tích của ba Mận giống như một đoạn trích trong truyện phiêu lưu, trinh thám
thực thụ. Những tình huống bất ngờ ấy tạo nên tính hồi hộp gây cấn li k của câu
chuyện. Sự đan xen của yếu tố trinh thám, phiêu lưu vào trong cách kể truyền thống
khiến truyện mang màu sắc hiện đại.
Hay một kết cấu đặc biệt trong truyện C hai con mèo ngồi bên của sổ đó là:
đan xen giữa các phần đầu mỗi chương là cách dẫn truyện bằng lời văn và dẫn
truyện bằng thơ.
Chương 1
Sáng nay cũng như mười bốn buổi sáng trước...
Chương 2
èo Gấu thừa biết hoàng hậu Năm Ngoái ang buồn phiền về mình...
Chương 4
Bài thơ ầu tiên èo Gấu tặng Áo Hoa
ù rù rù... eo
Meo meo meo
ù rù rù...
Vẫn hồn nhiên và trong trẻo như bao truyện khác của Nguyễn Nhật Ánh,
dường như truyện Ngồi kh c trên cây được xem là truyện có kết cấu khá đặc
biệt. Sự hấp dẫn của kết cấu truyện là sự đan xen những tình huống gây hồi hộp,
tiếc nuối:
Lần thứ nhất: Đông tưởng thật cái tin Rùa là người em con của chú mình
54
(thời trai trẻ ông nội Đông với bà nội Rùa có chung một người con), do vậy Đông
đã tránh gặp Rùa suốt ba năm thay vì lời hẹn sẽ về thăm sau ba tháng. Đông bứt rứt,
buồn thương áy náy với tất cả cung bậc tình cảm của cậu con trai mới lớn mang
cảm giác tội lỗi khi trở về thăm quê mà thực ra không dứt được Rùa.
Lần thứ hai: Sau khi cởi b được nỗi niềm oan trái ấy (bà nội Rùa phải tráo
con cho người khác để làm việc nghĩa), Đông lại về thăm Rùa như một người sắp từ
biệt người yêu khi mang trong mình mầm bệnh ung thư máu. Đông không muốn
cho Rùa biết, nên Rùa nghĩ Đông thay đổi. Rùa không biết rằng Đông cũng tái tê
chẳng kém.
Lần thứ ba: Khi Đông được bác sĩ hội chẩn khẳng định kết quả xét nghiệm
sai. Rằng cậu chỉ suy nhược cơ thể, Đông hối hả về thăm Rùa, thì trớ trêu thay, Rùa
mới mất cách đó hai hôm do cứu người rồi bị lũ cuốn trôi. Lần này thì Đông leo lên
cây Rùa thường ngồi và khóc thầm thương Rùa bất hạnh.
Các tình tiết được xây dựng theo tình cảm non trong đầu đời của tuổi tập làm
người lớn của trẻ con. Một thực tế không thể nói là không có trong tuổi trẻ, nhất là
hiện nay. Có lẽ câu chuyện khiến những người làm công tác giáo dục không thể
nhắm mắt làm ngơ, để trẻ lúng túng với những tình cảm tự nhiên như một tội đồ.
Thật sự thú vị khi đặt C hai con mèo ngồi bên cửa sổ của Nguyễn Nhật Ánh
bên cạnh Chuyện con mèo d y con hải âu bay của nhà văn người Chi Lê Luis
Sepu‟lved. Cả hai đều được viết theo thể đồng thoại, một thể văn nhân cách hóa loài
vật rất được trẻ em ở mọi thời đại ưa thích. Quan trọng hơn, hai nhà văn đều có
cách lập tứ, dựng truyện rất đặc biệt. Họ xây dựng kết cấu truyện trên những hiện
thực phi lí, những hoàn cảnh có tính ngược đời để rồi qua đó gửi gắm một thông
điệp đầy ý nghĩa nhân văn. Luis Sepu‟lved, ngay từ nhan đề, đã khiến cho người
đọc thắc mắc rằng, cớ làm sao mà con mèo vốn không biết bay lại đi dạy cho con
hải âu bay. Tương tự, Nguyễn Nhật Ánh cũng khiến người đọc đi từ bất ngờ này
đến bất ngờ khác, vừa thú vị, vừa khó tin chuyện Mèo Gấu đánh bạn với chuột Tí
Hon, Út Hoa… và hằng ngày mang cơm cho chúng. “Thật dễ dàng để chấp nhận và
yêu thương một kẻ nào đó giống mình, nhưng để yêu thương ai đó khác mình thực
55
sự rất khó khăn” (Chuyện con mèo d y con hải âu bay). “Một tình yêu như vậy từ
một con mèo (hay một con người) luôn t a ra thứ ánh sáng lóng lánh mà với nó bất
cứ ai cũng có thể tạo nên phép màu cho thế giới này” (C hai con mèo ngồi bên
cửa sổ). Không hẹn mà gặp, Nguyễn Nhật Ánh và Luis Sepu‟lved đã đem tới cho
các em những câu chuyện thật cảm động về mối quan hệ giữa các con vật. Đọc
họ, chúng ta dễ dàng đồng tình với quan điểm sau đây về một cuộc sống cần có:
Thế giới này vốn đầy nghịch lý, khác biệt, nhưng nếu biết b qua những định
kiến, biết tôn trọng sự đa dạng và đối xử với nhau bằng tình yêu, tình thương thì
chắc chắn cuộc sống của con người cũng như muôn loài sẽ thay đổi, sẽ trở nên
tốt đẹp hơn rất nhiều.
Kết cấu là một yếu tố quan trọng trong tác phẩm tự sự. Kết cấu là một khái
niệm thuộc phạm trù hình thức của tác phẩm văn học. Toàn bộ các yếu tố thuộc về
hình thức như hệ thống nhân vật, sự kiện, không gian thời gian, câu, đoạn, hệ thống
điểm nhìn, mở đầu, kết thúc,… đều tham gia vào kết cấu. Kết cấu đảm nhiệm vai
trò tổ chức các yếu tố trên thành một chỉnh thể theo phương thức: dùng một chuỗi
phương tiện ngôn từ kế tiếp nhau theo thời gian làm sống dậy thế giới hình tượng
trong mọi chiều kích và thiết lập một trật tự nghệ thuật cho nó. Điều đáng quý hơn
cả ở đây là Nguyễn Nhật Ánh đã xây dựng kết cấu truyện tự sự rất hợp lý và phù
hợp với tâm lý của trẻ thơ.
2.2. Nghệ thuật t chức cốt truyện
2.2.1. Khái quát n h thuật tổ chức cốt truy n
Vấn đề cốt truyện trong truyện kể từ lâu đã được ngành Tự sự học coi là một
trong những yếu tố cơ bản để tìm ra cấu trúc đích thực của tác phẩm văn xuôi, một
mắt xích quan trọng tạo nên kết cấu tác phẩm tự sự. Đã có nhiều công trình nghiên
cứu triển khai khá công phu như: Cốt truyện (Nh ng yếu tố của ối viết hư ấu) của
A. Dibell, Sự giải thích về cốt truyện: cách s p xếp và m c ích của hình thức kể
chuyện của P. Brooks,... hay trong một số công trình về Tự sự học như: Tự sự h c
(Narrative) của P. Cobley, Nxb Routledge, 2001; Thi pháp cấu trúc (Structuralist
Poetics) của J. Culler (NXB Routledge, xuất bản lần đầu 1975)... cốt truyện luôn
56
là một yếu tố cần khảo sát. Giới hạn ở vấn đề lý thuyết về cốt truyện chúng tôi
muốn có cái nhìn tương đối đầy đủ về việc nghiên cứu cũng như tiếp cận, triển
khai vấn đề này ở ta như là một hình thức tạo nên tác phẩm tự sự. Mặt khác, khi
đặt nó trước một đối tượng văn học cụ thể hy vọng sẽ đưa ra một “cách đọc” mà ở
đó chúng tôi cố gắng chỉ ra những phương thức đã tạo nên “hiệu quả” cho tác
phẩm văn học.
Cốt truyện là một hệ thống cụ thể những sự kiện, biến cố, hành động trong
tác phẩm tự sự và tác phẩm kịch thể hiện mối quan hệ qua lại giữa các tính cách
trong một hoàn cảnh xã hội nhất định nhằm thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Cốt truyện đi theo quá trình diễn biến: trình bày, khai đoan, phát triển, đỉnh
điểm và kết thúc. Nó luôn là mối quan tâm hàng đầu của nhà văn, được coi như
“xương sống”, lõi diễn biến của truyện, định hướng người đọc. Các tác phẩm tự sự
đều được triển khai trên cơ sở của cốt truyện. Người kể chuyện dựa vào cốt truyện
để kể, thông qua đó bộc lộ nội dung tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
Cốt truyện là một hiện tượng phức tạp. Xoay quanh vấn đề này có rất nhiều ý
kiến bàn luận, nhiều định nghĩa khác nhau. Theo Từ iển thuật ng văn h c do Lê
Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên thì cốt truyện là hệ thống
sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo
thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học
thuộc thể loại tự sự và kịch. Còn theo Lê Huy Bắc “Cốt truyện là toàn bộ những sự
kiện được nhà văn kể trong văn bản tự sự (và văn bản kịch) mà người đọc có thể kể
lại”, “là cái khung để đỡ cho toàn bộ toà nhà nghệ thuật ngôn từ đứng vững” [17,
tr.179 . Tuy nhiên, Trần Đình Sử nhìn nhận cốt truyện ở phạm vi rộng hơn. Cốt
truyện là hệ thống những biến cố, sự kiện được hình thành từ các hành động nhân
vật hay nói cách khác là sự vận động không gian, thời gian của cái được miêu tả.
Cùng nhấn mạnh về tầm quan trọng của sự kiện. Cốt truyện trong tác phẩm tự sự
bao gồm “một hệ thống sự kiện, hành động mà trong quá trình vận động tạo nghĩa
của chúng tạo nên cái khung của sự kể.
57
Theo Tự sự h c - Một số vấn ề í uận và ịch sử (tập 2) do Trần Đình Sử
(Chủ biên) thì cốt truyện (fabula) là một chuỗi các sự kiện được cấu trúc theo một
nguyên tắc nhất định, nói cách khác, là logic của sự kiện. Những yếu tố cơ bản cấu
thành nên cốt truyện gồm có sự kiện, nhân vật, thời gian, ịa iểm.
Sự kiện là sự chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác, được gây ra và
trải nghiệm bởi nhân vật. Cơ sở xác định sự kiện là sự thay đổi, sự lựa chọn, sự
đương đầu. Các sự kiện được liên hệ với nhau bởi những nguyên tắc giống như
những nguyên tác chi phối hành vi và tư tưởng của con người như: vòng tròn nhân
quả (khả năng, sự kiện, kết quả), các sự kiện cũng có thể được tập hợp trên cơ sở sự
đồng nhất hay sự đối lập của các nhân vật tham gia, có thể được đặt trong sự kiện
cách quãng về thời gian…
Thời gian là tiến trình thay đổi, phát triển của các sự kiện. Sự kiện nào cũng
xảy ra trong một khoảng thời gian nào đó, theo một trật tự nào đó (có thể là trật tự
niên đại hoặc chuỗi logic).
Các vai hành ộng được xem xét trong mối quan hệ với chuỗi sự kiện mà
chúng gây ra hay chịu sự tác động. Những vai hành động không có vai trò chức
năng trong cấu trúc của một cốt truyện, bởi chúng không gây ra cũng không chịu
ảnh hưởng của các sự kiện chức năng, bị gạt ra ngoài đối tượng nghiên cứu.
Địa iểm là nơi xảy ra các sự kiện, có thể cụ thể, tường minh, cũng có thể
người đọc phải tự suy ra.Địa điểm có thể được cấu trúc theo các nguyên tác đối lập
hoặc được cấu trúc trên cơ sở sự di chuyển của các phương tiện như tàu, thuyền,
máy bay…
Tất cả các yếu tố của cốt truyện có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, trong đó,
sự kiện và nhân vật là hai yếu tố quan trọng nhất.
Nhìn chung, các định nghĩa về cốt truyện trong tác phẩm tự sự đều thừa nhận
chất liệu cơ bản tạo nên cốt truyện là hệ thống các sự kiện và yếu tố đầu tiên, quan
trọng bậc nhất của tác phẩm tự sự là cốt truyện. Nó là phương tiện đắc lực để nhà
văn tái hiện các xung đột xã hội hay xung đột nội tại trong tính cách của con người,
gắn với việc tổ chức tình huống. Từ đó, chủ đề, tư tưởng tác phẩm được soi sáng.
Mọi cốt truyện đều là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, biểu thị được tài
58
năng hư cấu và cả thế giới quan của tác giả. Cốt truyện được xây dựng, biến hoá
như thế nào là phụ thuộc vào năng lực sáng tạo và dụng ý nghệ thuật của nhà văn.
Khái niệm “cốt truyện” cần được khẳng định rõ hơn trong sự phân biệt với
khái niệm “câu chuyện” và khái niệm “sườn chuyện”. Khái niệm “câu chuyện”
thường được dùng trong trường hợp có yêu cầu kể lại một sự việc nào đó đã xảy ra
trong đời sống mà người kể là người trực tiếp chứng kiến hay đã nghe kể lại. Còn
khái niệm “sườn chuyện” thường được hiểu với một phạm vi hẹp hơn khái niệm cốt
truyện rất nhiều, nó chỉ là cái khung bao gồm các biến cố chính cắm mốc cho sự
phát triển của cốt truyện, chứ không bao gồm cả các tình tiết, chi tiết cụ thể như
trong cốt truyện.
Trong bài viết Cốt truyện trong tự sự, Lê Huy Bắc đã khái quát về sự vận
động và phát triển của cốt truyện tự sự. Ông cho rằng, có thể dựa vào ba tiêu chí để
phân loại:
Dựa trên sự kiện có cốt truyện phân đoạn (chương hồi – Episodic)
Dựa theo thời gian có cốt truyện tuyến tính (Linear)
Dựa vào nhân vật có cốt truyện đơn tuyến (Simple).
Tự sự học xem nghiên cứu cốt truyện là một trong những yếu tố cơ bản tạo
ra cấu trúc đích thực của tác phẩm văn xuôi. các nhà văn tâm huyết không ngừng
cách tân trong việc xây dựng cốt truyện để thể hiện quan niệm của mình về con
người, về cuộc đời nhằm phục vụ nhu cầu thẩm mĩ đổi mới không ngừng của con
người trong thời đại hôm nay. Vậy “cuộc phiêu lưu của cốt truyện sẽ không bao giờ
có hồi kết”. Một cơ hội, một chân trời rộng mở để các nhà văn thể hiện được mình
và còn là dịp các nhà nghiên cứu tìm hiểu, phát hiện về tài năng và phong cách của
nhà văn.
Nhìn một cách tổng quát, cốt truyện có ba đặc điểm chính: tính lịch sử - cụ
thể, tính kịch và tính hoàn chỉnh. Nói cụ thể hơn, cốt truyện với tư cách là một hệ
thống sự kiện, phải được tổ chức một cách chặt chẽ, tránh tình trạng phân tán, rời
rạc, thừa hoặc thiếu, sao cho các sự kiện trước là nguyên nhân của sự kiện sau, sự
kiện này phát triển thông qua sự kiện khác.
59
2.2.2. Ngh thuật tổ chức cốt truy n trong truy n Nguyễn Nhật Ánh
Trong sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh có sự nới l ng của cốt truyện bởi sự
chi phối của tâm lí nhân vật đối với các sự kiện được kể trên chất liệu hồi ức.Cốt
truyện được nới l ng tạo nên sự giãn trùng cần thiết, tạo nên sự đa dạng trong cách
kể, phù hợp với cơ chế hồi tưởng trong truyện kể. Cốt truyện đóng vai trò quan
trọng trong việc cấu thành tác phẩm. Tác phẩm Nguyễn Nhật Ánh là những câu
chuyện được tạo nên từ kí ức và hoài nhớ nên cốt truyện cũng có những nét riêng so
với truyền thống. Cốt truyện giản dị, l ng lẻo được ghép từ các mảnh nh , nghiêng
về tâm trạng, cùng sự hiện hữu giấc mơ. Trong luận văn này, tôi xin trình bày một
vài đặc điểm trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện của Nguyễn Nhật Ánh, cụ thể
như sau:
2.2.2.1. Nghệ thuật t o tình huống truyện ầy kịch tính
Tình huống truyện là những sự kiện có ý nghĩa thử thách đối với số phận, đối
với những đặc điểm bản chất của tính cách, ở đó tính cách buộc phải hành động,
phải phơi bày diễn biến tâm lí của nó, phải bộc lộ tư tưởng, tình cảm của nó với các
tính cách khác. Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đã sử dụng kết hợp các tình huống
nhận thức, tâm lí, hành động, tạo ra những sự kiện, tình huống bất ngờ,
những “thử thách” để nhân vật có cơ hội thể hiện mình. Các chi tiết gây hiểu lầm,
cách bố trí cho nhân vật xuất hiện đạt hiệu quả tối đa trong việc gây bất ngờ cho
câu chuyện.
Ngồi kh c trên cây có cốt truyện hấp dẫn với khá nhiều tình tiết bất ngờ, dẫn
dắt người đọc đi từ đầu đến cuối tác phẩm với một sức hút thật lớn. Tôi tin rằng khi
đã cầm cuốn sách trên tay, ai cũng không thể dừng lại. Bởi nó chạm tới những sợi
dây nhạy cảm nhất trong tâm hồn con người. Nhũng cảm xúc tinh khôi, trong trẻo
được diễn ra một cách tự nhiên:
Đông - một chàng thanh niên 18 tuổi đa sầu đa cảm. Cuộc sống ở thành phố,
chỉ trở về quê hương vào dịp lễ tết hoặc những k nghỉ hè ngắn ngủi. Đông trở
thành một đứa con trai thành phố, hoàn toàn đánh mất sự sự ngơ ngác đáng yêu của
một tâm hồn mộc mạc.
60
K nghỉ hè năm đó về quê Đông đã gặp Rùa một cô bé thông minh, hồn
nhiên nhưng có nhiều bí ẩn khác lạ. Nhưng bù lại Rùa lại có một sự tinh tế, nhạy
cảm khác thường. Cô có khả năng đọc được ý nghĩ của người khác, trò chuyện và
thấu hiểu được tiếng nói của loài vật. Lần đầu tiên Đông được Rùa đưa đến khu
rừng bên kia đồi - nơi sinh sống của bầy thú nh . Về phía Đông cũng đem đến cho
Rùa bao điều k diệu: hơi ấm dịu dàng của sự đồng cảm, chia sẻ, những hiểu biết xa
rộng từ sách vở... Đông chia tay Rùa với bao lưu luyến nhớ mong và hẹn ước.
Đông mặc cảm và trái tim luôn rớm máu bởi không muốn Rùa bị đau khổ vì
mình. Song như có một phép nhiệm màu, Đông qua cơn nguy kịch và thoát kh i
bệnh hiểm nghèo. Song thật trớ trêu Rùa lại ra đi vĩnh viến như một trò đùa nghiệt
ngã của số phận. Cô gửi mình vào dòng sông Kiếp Bạc quê hương - nơi cha cô đã
chết vì cứu bầy khỉ trong rừng. Còn Rùa chết vì cứu lũ trẻ trong làng thoát kh i cơn
lũ quét.
Một kết thúc thật đau buồn nhưng không tuyệt vọng. Chúng ta đã được
chứng kiến những khoảnh khắc tận cùng của sự mất mát, đau đớn của nhân vật.
Chúng ta chạm tới những nỗi đau ở khoảng cách rất gần. Ở đây Nguyễn Nhật Ánh
đã gửi tới tâm hồn độc giả một trái tim giàu tình cảm của một nhà văn am hiểu tâm
lý tuổi mới lớn.
Trong Tôi à Bêtô thì những sự kiện mang tính chất thử thách rất ít, đa
số là những tình huống nh để nhân vật bộc lộ suy nghĩ của mình hoặc tình cảm
của mình. Ví như tình huống người bạn Binô bị viêm phổi phải nằm cách li, Bêtô đã
rất buồn bã, thương Binô và cầu mong cho Binô sớm kh i, tình huống đã giúp thể
hiện tình bạn sâu đậm giữa Bêtô và Binô. Hay tình huống chị Ni bị đánh vì tội đi
chơi về muộn và câu chuyện chị Ni kể cho Bêtô nghe về ông Bá Du đã thể hiện
được cá tính, sự dũng cảm và hiếu thảo của nhân vật Ni. Đó là một cô bé làm sai thì
chịu nhận đòn phạt, không hề oán trách cha mẹ, trái lại còn t ra vui mừng vì cha
mẹ còn kh e mạnh.
Hay trong truyện Thằng qu nhỏ, ta thấy sự khác biệt trong việc xây dựng
kết cấu và cốt truyện. Đây quả là một câu chuyện rất hay. Truyện không bắt đầu
61
bằng sự xuất hiện của nhân vật chính là thằng quỷ nh ngay mà thông qua lời giới
thiệu của Hạnh. Truyện cũng có nhiều tình huống bất ngờ, đối với những ai khi đã
từng đọc truyện thì đều thấy bất ngờ nhất là chi tiết Luận nhận ra Qu nh là thằng
phụ chở xe ba gác kia.
Ở bộ truyện ính v n hoa, tác giả đã xây dựng được rất nhiều tình huống
mang tính chất thử thách để các nhân vật bộc lộ được phẩm chất và cá tính của
mình. Trong tập Nh ng con gấu bông, tình huống xuất hiện khi em gái Tiểu Long
thích con gấu bông, tình huống Tiểu Long gặp tên cướp, tình huống ông chủ ở công
viên nước ra yêu cầu ném trúng năm phát liên tiếp mới được thưởng con gấu bông
khiến cho người đọc nhận ra nhân vật Tiểu Long là một người thương em gái vô
cùng, dù em gái không đòi h i nhưng nó cũng tìm mọi cách đạt được nguyện vọng
cho em, không những thế Tiểu Long còn là đứa trẻ kiên trì, có lòng tốt và có lòng tự
trọng. Cũng qua tình huống nh Oanh thích những con gấu bông mà Quý cũng bộc
lộ ra tính cách hết lòng vì bạn bè. Quý ròm đã nhiệt tình giúp đỡ bạn bằng cách bán
vé xem ảo thuật cho lũ trẻ trong xóm. Trong những thời khắc đi ném phi tiêu, nó
cũng luôn đi cùng Tiểu Long để cổ vũ và an ủi bạn. Trong tập B t ền hoa sứ, gặp
phải tình huống ba đứa trẻ bắt nạt một cậu nhóc ốm nhom, Tiểu Long đã buộc phải
ra tay giải thoát cho cậu bé và không may rơi vào tình huống khó xử khi đắc tội với
Tắc Kè Bông, chính là con riêng của người mợ mình. Trước những gây hấn từ Tắc
Kè Bông, Quý ròm t ra mất kiên nhẫn và bực tức thay cho người bạn, nhưng Tiểu
Long lại càng nhẫn nhịn. Trước những tâm sự của Tiểu Long và hành động nhẫn
nhịn đó, không chỉ Quý ròm mà bạn đọc càng thêm yêu mến Tiểu Long hơn bởi suy
nghĩ “người lớn”, sâu sắc của cậu bé.
Khi đối mặt với nỗi buồn năm lên 8 tuổi, cậu bé Mùi trong tác phẩm Cho tôi
xin một vé i tuổi thơ đã phải tìm cách cho cuộc sống buồn tẻ của mình vui lên. Cu
Mùi với ba người bạn là Tí sún, Tủn, Hải cò nào là chơi trò làm cha mẹ, con cái, vợ
chồng, tập làm người lớn với suy nghĩ trẻ con; đặt tên lại cho thế giới, tìm kho báu
hay nuôi chó hoang đã không chỉ khiến những bậc cha mẹ của bốn đứa trẻ phải đau
đầu mà chính bạn đọc cũng phải bật cười trước những suy nghĩ luôn muốn làm trái
62
ngược, làm khác đi hoặc bắt chước người lớn bằng suy nghĩ trẻ con. Sau những tình
huống tự đặt ra, lũ trẻ phải đối mặt với tình huống người lớn xử phạt và những trò
mà lũ trẻ nghĩ ra luôn được kết thúc bằng mấy roi tre, bằng cuộc họp phụ huynh và
lũ trẻ đã dần nhận ra không nên làm xáo trộn trật tự thế giới.
Trước vòng chung kết là một tập truyện được kết cấu bởi 13 chương. Truyện
được xây dựng trên cơ sở cốt truyện đầy kịch tính - một không gian sôi động sự
huyên náo bùng nổ và lan truyền trong đám đông. Trên các gương mặt, niềm vui và
nỗi buồn đã có lúc đổi chỗ cho nhau. Như một đứa trẻ, ông già dù đen bay vút lên
kh i chỗ ngồi, còn bay cao hơn thằng Tân khi nãy. Ông già dù như thể chim đập
cánh, hăng hái đến nỗi rớt một chiếc dép xuống "trần gian". Và như thể để hòa vào
hạnh phúc tươi tắn của chủ, chiếc dép vui vẻ đập "bốp" một cái lên đầu cô gái ngồi
dưới thấp. Cô gái giật bắn người, tưởng trời sập, cục cà-rem văng ra kh i miệng,
hớn hở chui tọt vào cổ áo của một anh chàng ngồi dưới…
Truyện của Nguyễn Nhật Ánh có rất nhiều tình huống hay để khi các nhân
vật phải tự mình giải quyết, không chỉ bộc lộ ra nhiều phẩm chất, tính cách các nhân
vật mà còn khiến cho bạn đọc nhận ra được những bài học vô cùng ý nghĩa rút ra từ
việc giải quyết các tình huống ấy. Về phần những đứa trẻ, qua những tình huống
truyện đặt ra, không chỉ giúp các em thấy mình một lần nữa trong đó bởi đứa trẻ
nào cũng đều đã từng làm những chuyện khiến bố mẹ cho ăn đòn. Các em vừa nhận
được tiếng cười vui từ chính nhân vật và cũng là từ chính mình rồi sau đó là nhận ra
những giá trị cuộc sống về tình cảm gia đình, tình bạn bè, tình cảm với những người
có cuộc sống khó khăn và cách cư xử đầy nhân văn mà tác giả đưa ra.
2.2.2.2. Nghệ thuật tổ chức diễn trình vận ộng cốt truyện
Các bước diễn biến của cốt truyện cũng giống như quá trình vận động của
một xung đột, nghĩa là có mở đầu, thắt nút, phát triển và vươn tới cao điểm rồi đi
đến giải quyết cụ thể và kết thúc. Tuy nhiên, không nhất thiết bất cứ cốt truyện nào
cũng có đầy đủ các bước diễn biến hoặc được sắp xếp theo đúng trình tự tự nhiên
trong đời sống của chúng. Cách tổ chức, triển khai các sự kiện của Nguyễn Nhật
Ánh luôn gây được sự ngạc nhiên, hấp dẫn bạn đọc một cách tự nhiên. Phần trình
63
bày: bao giờ nhà văn cũng để cho nhân vật chính xuất hiện đầu tiên, giới thiệu sơ
lược lai lịch cá nhân (tên, tuổi, nghề nghiệp, hoàn cảnh sống, các mối quan hệ bạn
bè, gia đình) của nhân vật chính ở ngay mở đầu truyện hoặc bối cảnh chính mà câu
chuyện sắp tới sẽ diễn ra.
Trong Tôi à Bêtô, ngay từ chương 1, chú cún đã tự giới thiệu về xuất xứ cái
tên của mình là do chị Ni đặt theo tên một cầu thủ Brazil mà chị hâm mộ, gia đình
có bố, mẹ và chị Ni và mọi chuyện tiếp theo trong cuộc đời chú cún chắc chắn sẽ ở
căn nhà, này.
Có khi cốt truyện lại được ghép nối từ những mảnh hồi ức, các sự kiện hầu
hết đã được lược b tính chất trật tự thời gian, nên có thể đảo xếp, đan cài, mối quan
hệ giữa các sự kiện được nới l ng. Những mảnh hồi ức được kết nối tạo nên cốt
truyện cho tác phẩm trong Cho tôi xin một vé i tuổi thơ là những câu chuyện rời
theo từng chương đoạn. Trừ chương 1 có vai trò khai mở về cuộc sống nhàm chán
và nguyên nhân cho những ý tưởng "cải tạo" thế giới của các bạn nh , các chương
còn lại của tác phẩm đều là những phần rời rạc, mảnh vỡ của kỉ niệm hồi tám tuổi
với các trò chơi riêng lẻ. Chẳng hạn, hồi ức về cuộc vui đóng vai ba mẹ ở chương 2,
đặt tên cho thế giới trong chương 3, lập trang trại chó hoang ở chương 11,… Các
chương đoạn ngoài chương 10, nhân vật Tủn chuyển nhà và câu chuyện về trang
trại chó hoang vắng bóng nhân vật này, các chương còn lại đều có thể coi như
những mảnh rời, không có sự gắn kết chặt chẽ về mặt thời gian giữa các sự kiện.
Tính chất về mặt trước sau của thời gian đã được lược b , thay vào đó là sự kiện
mang tính tức thời. Kết tạo từ những mảnh ghép riêng lẻ nên có thể chắp nối, sắp
xếp đảo vị trí các sự kiện mà không làm thay đổi nội dung tổng thể của cốt truyện.
Tác phẩm còn có sự đan cài của câu chuyện hiện tại với hình ảnh của cu Mùi trong
hiện tại đã trở thành một nhà văn, Tí sún là hiệu trưởng,… cùng sự việc viết cuốn
sách kể lại kỉ niệm thuở ấu thơ của các bạn nh . Trong truyện, Nguyễn Nhật Ánh
cũng để phần vận động là những trò chơi, trò nghịch ngợm và những suy nghĩ khác
thường của lũ trẻ qua mỗi chương truyện. Từ trò đặt lại tên cho thế giới, gọi tên sự
vật, sự việc này bằng tên sự vật sự việc khác đến trò đi tìm kho báu, nuôi chó
64
hoang, yêu đương trẻ con và trò tập làm vợ chồng, cha con, mở phiên tòa định tội
người lớn… Tất cả toàn là những trò chơi mà chỉ có trẻ con mới có thể nghĩ ra.
Các sự kiện được chắp ghép theo một trình tự thời gian nhất định cũng mang
tính chất tương đối trong xếp đặt. Thời gian không phải là yếu tố nòng cốt chi phối
đến kết nối các sự kiện. Tôi ã thấy hoa vàng trên cỏ xanh được kể với các sự kiện
được sắp xếp theo trình tự thời gian song được tách rời thành từng mảnh ghép. Mỗi
mảnh ghép tập trung về một số sự việc nhất định, như chuyện xem hoa tay, chuyện
ma của chú Đàn, chuyenj nhà của Mận.... Đây là những câu chuyện của các nhân
vật khác nhau được kể bằng hồi ức của "tôi" với góc nhìn riêng. Mỗi sự kiện chính
đều được đặt trong tiêu đề chương mục của tác phẩm. Yếu tố thời gian trong trật tự
trước sau của các sự kiện vẫn được thể hiện nhưng không thật sự nổi trội và có vai
trò chi phối chính yếu trong sự sắp đặt của các sự kiện. Câu chuyện tình của chú
Đàn, vụ tai nạn do nhân vật “tôi” gây ra cho Tường,… hay những sự kiện nh khác
không bị chi phối nhiều bởi yếu tố thời gian. Bởi vậy, sự sắp đặt các sự kiện bị nới
l ng, không có sự ràng buộc và kết nối chặt chẽ.
Các sự kiện có tính chất thử thách nhân vật được nhà văn tạo ra một cách tự
nhiên từ chính hoàn cảnh, tính tò mò của lũ trẻ, từ đó dẫn đến hàng loạt các sự kiện
khác tiếp nối. Với tác phẩm hầu như không có sự kiện nổi bật như: Tôi à Bêtô thì ở
phần này chủ yếu là những mẩu chuyện vụn vặt mà chú chó Bêtô trải qua hoặc
chứng kiến, cái hay chính là những suy nghĩ có phần ngây ngô, hành động bản năng
như một cậu bé chuẩn bị lớn và triết lí mà chú cún này rút ra cho chính mình.
Trong ính v n hoa, mỗi tập lại là một chuỗi sự kiện mới với phần vận động
căng thẳng, đầy chất trinh thám. Trong tập H a mi một mình, để tiếp cận với Hiền
Hòa, Quý ròm đã phải bày mưu tạo một trận cướp giả để mình và các bạn lọt được
vào nhà Hiền Hòa và trong nhiều ngày liền đến để vừa giúp đỡ cô bạn vừa tìm ra
được chân tướng sau những lời nói dối vòng vo của Hiền Hòa. Còn ở tập Chiếc ba
ô màu xanh, ba người bạn lại không ngừng phải giải các câu đố, tìm tới chỗ chỉ dẫn
câu đố mới để lấy lại chiếc balo, và từ bất ngờ này đến bất ngờ khác khi nhóm Hải
u lấy trộm chiếc balo để thử thách ba bạn trẻ nhưng chiếc balo lại bị trộm lại một
65
cách thần bí khiến ba người bạn lẫn cả nhóm Hải u nháo nhào đi tìm kẻ trộm. Hay
như trong tập nh và em, Quý ròm đã làm rất nhiều việc để giúp đỡ nh Diệp và
làm cho nh vui trong lúc bị ốm. Vốn là đứa vô tâm và lười nhác nhưng Quý ròm
đã tình nguyện nhận việc chép bài cho em gái, giảng bài mới cho em không bị tụt
lại kiến thức, thậm chí còn mượn sách Truyện cổ Grim, Truyện cổ Andecxen để về
đọc cho em gái nghe. Quý ròm để ý từng nét mặt của em gái, nó cảm thấy lo lắng
khi mà em gái vẫn chưa kh i, rồi biết chắc là nh Diệp cũng đang buồn vì
không có chiếc máy ảnh, nó bấm bụng mà nhường cho em gái vui.
Cũng có khi đó là mối quan hệ tương đồng giữa hiện tại và quá khứ. Cho tôi
xin một vé i tuổi thơ là sự ghép nối của các trò chơi tuổi thơ từ sự hồi tưởng của
nhân vật cu Mùi hiện tại nhờ những dấu ấn kỉ niệm đậm nét.
Kết thúc các truyện, Nguyễn Nhật Ánh luôn gây bất ngờ cho người đọc. Kết
thúc cũng thường là kết thúc mở tạo cho người đọc cảm giác về những cuộc hành
trình, tình yêu, tình bạn không bao giờ chấm dứt. Gấp lại trang sách nhưng khoảng
trời mộng mơ trong các em vẫn luôn mở ra. Trong tập Cô giáo Trinh ( ính v n
hoa), chính Quới Lương đã cãi nhau với Lâm, người bạn thân lâu nay của nó, mặc
cho Lâm đe dọa sẽ tố cáo chuyện xấu của Quới Lương, nó đã tự đến nhà cô Trinh
và thú nhận mọi chuyện. Hành động của Quới Lương khiến cho nhóm ba người bạn
vô cùng bất ngờ. Hay trong tập Nh ng con gấu bông, bất ngờ lớn xảy đến với bản
thân Long nói riêng và cả gia đình nói chung khi không chỉ những chú công an
mang gấu bông đến tặng cho nó mà cả ông chủ quán ném phi tiêu ở công viên và
người phụ nữ trước đó đã được Long giúp đỡ cũng mang gấu đến tặng. Hành trình
của ba người bạn sẽ không bao giờ ngừng lại, sẽ luôn đồng hành cùng các em nh
và đợi chờ, biết đâu, một ngày nào đó, sẽ tái hợp lại trong trang văn của Nguyễn
Nhật Ánh. Những cô cậu bé tám tuổi như cu Mùi, Tí sún, Tủn, Hải cò còn làm bao
nhiêu trò “khác thường” khiến chúng phải thường xuyên bị ăn đòn hay khiến người
lớn đau đầu nữa không Cuốn sách xuất bản xong rồi và liệu có còn những cuốn
sách tiếp, những tấm vé tàu miễn phí để thêm chặng về chuyến hành trình tuổi thơ
những năm 9 tuổi, rồi 15 tuổi nữa không Nguyên và Kăply không bao giờ nghĩ
66
rằng việc che giấu thân phận, sống dưới lốt người khác của hai đứa từ lâu đã nằm
trong sự sắp xếp của K‟Tub và đã được ngài hiệu trưởng N‟Trang Long biết được.
Và chúng cũng không ngờ chính mình lại là người cứu cả vương quốc, cả phe Ánh
Sáng thoát kh i nạn xâm chiếm vài trăm năm xảy đến một lần từ phe Hắc Ám.
Nguyễn Nhật Ánh đã dừng lại ở đó, còn bạn đọc thì băn khoăn không biết sau đó
hai cậu bé sẽ như thế nào Nguyên và Kăply sẽ tiếp tục ở lại thế giới phù thủy như
những vị anh hùng hay trở về thế giới con người, nơi sinh ra hai cậu bé, có người
thân, có trường học hoặc cũng có thể bằng sức mạnh của mình mà Nguyên và
Kăply sẽ đi đi lại lại giữa hai thế giới? Lời băn khoăn b ng ấy luôn mở ra trong
trí tưởng tượng mỗi bạn đọc và cũng cho thấy cái tài của nhà văn.
Bảy bước tới mùa hè là câu chuyện xây dựng trên cơ sở của một cốt truyện
mang đậm tính lịch sử - cụ thể. Đó là hiện thực cuộc sống của bọn trẻ trong một
mùa hè ngọt ngào, những trò chơi nghịch ngợm và bâng khuâng tình cảm tuổi mới
lớn. Chỉ đơn giản vậy thôi nhưng đã phần nào chứng t được Nguyễn Nhật Ánh
đúng là một nhà kể chuyện rất hay và hóm hỉnh. Tài năng này đã cuốn hút người
đọc từ lời tựa cho đến trang cuối cùng của truyện. Chính giọng văn giản dị và trong
trẻo của Nguyễn Nhật Ánh cùng với cách lựa chọn kết thúc có hậu đầy thuyết phục
đã khiến bạn đọc đọc xong là thấy tràn ngập tiếng cười và niềm vui.
2.3. Tiểu kết
Truyện của Nguyễn Nhật Ánh là thế, bao giờ cũng dí d m, bao giờ cũng vui
tươi nhưng ẩn sau mỗi nụ cười luôn là những bài học bổ ích cho các bạn nh . Đặt
trong một chỉnh thể của một tác phẩm thì kết cấu và cốt truyện luôn có một mối
tương quan chặt chẽ với nhau. Mối tương quan này quyết định sự hấp dẫn của tác
phẩm. Kết cấu là sự tạo thành và liên kết các bộ phận trong bố cục của tác phẩm, là
sự tổ chức, sắp xếp các yếu tố, các chất liệu tạo thành nội dung của tác phẩm trên cơ
sở đời sống khách quan và theo một chiều hướng tư tưởng nhất định.
Kết cấu là một yếu tố của hình thức, vì thế vai trò của nó chủ yếu được
khẳng định trong việc thực hiện nhiệm vụ đối với các yếu tố của nội dung tác phẩm
như chủ đề, tư tưởng, tính cách, cốt truyện, các yếu tố ngoài cốt truyện….
67
Trong mối quan hệ giữa kết cấu với chủ đề - tư tưởng thì chủ đề - tư tưởng
bao giờ cũng đóng vai trò chỉ đạo và chi phối kết cấu, thông qua ý thức năng động
của chủ quan nhà văn, nó sẽ quy định hình thức kết cấu của tác phẩm. Ngược lại,
kết cấu thay đổi thì chủ đề - tư tưởng cũng chịu ảnh hưởng nhất định. Những nhiệm
vụ quan trọng nhất của kết cấu là phải tổ chức tác phẩm sao cho chủ đề tập trung tư
tưởng thống nhất, sao cho tư tưởng chủ đề thấm sâu vào từng bộ phận của tác phẩm.
Thực tế sáng tác văn học tự sự phong phú hơn rất nhiều những kiểu kết cấu
và cốt truyện mà ta vừa đề cập ở trên. Tác phẩm sẽ có kết cấu như thế nào, điều này
phụ thuộc vào đối tượng phản ánh và tài năng cũng như phong cách của người
người nghệ sĩ. Đúng vậy, Nguyễn Nhật Ánh đã giúp độc giả chúng ta tìm hiểu sâu
hơn nữa, khám phá được những đặc sắc trong thế giới nghệ thuật tự sự. Từ đó ta
thấy đượ những nét độc đáo trong phong cách của nhà văn. Với mục đích viết cho
tất cả “những ai từng là trẻ em”, Nguyễn Nhật Ánh đã chọn cách tổ chức kết cấu và
xây dựng cốt truyện rất phù hợp với cách tiếp cận của trẻ em. Vì thế những trang
văn của anh không chỉ đáp ứng được những đòi h i của công cuộc đổi mới văn học
dân tộcmà còn đáp ứng yêu cầu thị hiếu của tuổi trẻ. Những trang văn ngày một
hiện đại, cách tân đã phản ánh sự vận động tích cực của đời sống cũng như văn học,
để hướng đến một nền văn học dân tộc vừa giàu giá trị truyền thống vừa có khả
năng hội nhập, thích ứng với thế giới hiện đại. Nếu ai đó từng có cơ hội được cầm
trên tay và thưởng thức một tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh, ắt hẳn sẽ đều thấy đâu
đó có xuất hiện hình dáng của chính mình. Từng áng văn, câu chữ như thấm đượm,
cuốn theo tâm trí, để rồi làm cho ta như muốn đọc mãi... bởi cách tổ chức kết cấu
cũng như cách xây dựng cốt truyện độc đáo, chân thực và gần gũi của anh.
68
Chƣơng 3: NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRONG TRUYỆN NGUYỄN NHẬT ÁNH
3.1. Ngôn ngữ trần thuật
3.1.1. Khái quát về ngh thuật sử dụn n ôn n ữ
Ngôn ngữ là một hệ thống phức tạp con người sử dụng để liên lạc hay giao
tiếp với nhau cũng như chỉ chính năng lực của con người có khả năng sử dụng
một hệ thống như vậy. Bất k ngôn ngữ nào cũng có thể được mã hóa thành phương
tiện truyền thông sử dụng các giác quan thính giác, thị giác, xúc giác hoặc kích
thích - ví dụ: bằng văn bản, đồ họa, chữ nổi, hoặc huýt sáo. Điều này là do ngôn
ngữ của con người là độc lập với phương thức biểu đạt. Khi được sử dụng như là
một khái niệm chung, "ngôn ngữ" có thể nói đến các khả năng nhận thức để học h i
và sử dụng hệ thống thông tin liên lạc phức tạp, hoặc để mô tả các bộ quy tắc tạo
nên các hệ thống này, hoặc tập hợp các lời phát biểu có thể được tạo thành từ những
quy tắc.
Ngôn ngữ của con người có các tính tự tạo, tính đệ quy, tính di chuyển, và
phụ thuộc hoàn toàn vào các nhu cầu của xã hội và học tập. Cấu trúc phức tạp của
nó cho phép thể hiện cảm xúc rộng rãi hơn so với bất k hệ thống thông tin liên lạc
được biết đến của động vật. Ngôn ngữ được cho là có nguồn gốc khi loài người
thượng cổ (homo sapiens) dần dần thay đổi hệ thống thông tin liên lạc sơ khai của
họ, bắt đầu có được khả năng hình thành một lý thuyết về tâm trí của những người
xung quanh và một chủ ý muốn chia sẻ thông tin.
Ngôn ngữ trong cuộc sống có rất nhiều loại thể, nhưng đừng vì thế mà sử
dụng một cách vô tư thiếu suy nghĩ. Đừng đưa ngôn ngữ này chêm vào ngôn ngữ
kia gây nên sự phản cảm không nên có. Dù thế nào đi nữa, bạn hãy sử dụng ngôn
ngữ của mình một cách có trách nhiệm nhất. Chịu trách nhiệm với những lời nói
của mình là bạn đang sống có trách nhiệm với bản thân và những người xung
quanh! Đừng để người khác nhìn bạn với cái nhìn coi thường bạn chỉ vì lời nói
69
không đúng chỗ. Lời ăn tiếng nói chính là chìa khóa để bạn bước vào cuộc sống
một cách thuận tiện hơn, vì thế đừng đánh mất chìa khóa quan trọng này!
3.1.2. Khái quát về ngh thuật sử dụn n ôn n ữ nhân vật
Ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của văn
học. Không có ngôn ngữ thì không có tác phẩm văn học. Ngôn ngữ là yếu tố đầu
tiên mà nhà văn sử dụng trong quá trình chuẩn bị và sáng tạo tác phẩm, nó cũng là
yếu tố xuất hiện đầu tiên trong sự tiếp xúc của người đọc với tác phẩm. Cũng chính
vì thế, M.Gorki đã từng viết: “Yếu tố ầu tiên của văn h c à ngôn ng , công c chủ
yếu của n và cùng với các sự kiện, các hiện tư ng của cuộc sống à chất liệu của
văn h c” [42, tr.206].
Ngôn ngữ nhân vật là một trong những phương tiện quan trọng được nhà văn
sử dụng nhằm thể hiện cuộc sống và cá tính nhân vật.
Ngôn ngữ trần thuật của nhân vật là lời trực tiếp của nhân vật trong tác
phẩm, là thứ ngôn ngữ được miêu tả. Đó thực chất cũng là ngôn ngữ của tác giả
nhưng tác giả để cho nhân vật tự giải bày về mình.
Trong văn học hiện đại, ngôn ngữ của nhân vật có vị trí ưu trội nhất định
trong tác phẩm, là phương diện quan trọng nhất của tính tạo hình khách thể trong
tác phẩm tự sự.
Ngôn ngữ của nhân vật có thể là đối thoại hay độc thoại. Đối thoại gắn liền
với việc những người nói hướng vào nhau và tác động vào nhau còn độc thoại
không nhằm hướng đến người khác và tác động qua lại giữa người và người. Ngôn
ngữ trần thuật của nhân vật có nhiều chức năng khác nhau như: chức năng phản ánh
hiện thực, chức năng tự bộc lộ của nhân vật, chức năng là đối tượng miêu tả của tác
giả hoặc chức năng thể hiện nội tâm…. Tổng hợp những chức năng đó, thông qua
trần thuật, nhân vật kể lại cuộc đời của mình, bộc lộ tâm tư, suy nghĩ, chiêm nghiệm
về cuộc đời, lẽ sống, giúp người đọc lĩnh hội được tư tưởng, quan niệm của nhà
văn. Cùng với trần thuật tác giả, trần thuật của nhân vật góp phần hoàn thiện bức
tranh đời sống trong tác phẩm.
Lời nói của những nhân vật chính trong tiểu thuyết - những nhân vật ít nhiều
70
có tính độc lập về mặt tư tưởng, ngôn từ, có nhãn quan của mình - vốn là tiếng nói
của người khác bằng ngôn ngữ khác, đồng thời có thể khúc xạ cả những ý chí của
tác giả và do đó, đến một mức độ nhất định, có thể được coi làngôn ngữ thứ hai của
tác giả.
Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong tác phẩm văn học chủ yếu là nghệ thuật
sử dụng từ ngữ. Xét về mức độ ý nghĩa, vốn từ được sử dụng trong tác phẩm bao
gồm hai loại chính là thực từ và hư từ, cũng có thể nói tới các loại từ phổ biến như:
từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, từ Hán - Việt, từ cổ, từ mới… Không thể gợi được
không khí lịch sử trong Vũ Như Tô (Nguyễn Huy Tưởng), nếu không dùng các từ cổ
như tr m, chiếu chỉ, ấn tín, tâu, b m… Không thể làm sống dậy cuộc sống giang hồ
nếu nhưu không dùng các tiếng lóng kiểu như: “So quéo đương mổ ở hậu đởm tễ
bướu lắm đấy!”… Có thể nói như nhà văn Tô Hoài: Mỗi chữ đều soi bóng hoàn
cảnh và tình hính xã hội lúc chữ ấy ra đời… Người viết văn không thể ngồi bóp
óc nghĩ cách trau dồi câu chữu mà phải đi thực tế đời sống mới bồi bổ được chữ
nghĩa cho ngòi bút.
3.1.3. Ngh thuật sử dụng n ôn n ữ nhân vật trong truy n Nguyễn Nhật Ánh
Trong truyện dài của Nguyễn Nhật Ánh, mạch kể và mạch tả thường đan cài,
xen lẫn một cách tự nhiên tạo nên mạch chuyện hết sức linh hoạt. Ấn tượng đầu tiên
ta thấy trong truyện, Nguyễn Nhật Ánh miêu tả ngoại hình nhân vật. Tác giả đã bán
theo dòng cảm xúc của nhân vật chính để miêu tả.
Đặc điểm ngôn ngữ trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh được thể hiện ở
ngôn ngữ nhân vật. Ngôn ngữ chính là phương tiện hiệu quả bộc lộ tính cách nhân
vật. Trong hai tập truyện trên, các nhân vật có cá tính rõ nét thể hiện qua lời nói,
hành động. Và điều đặc biệt là ngôn ngữ nhân vật rất hiện đại, chính là ngôn ngữ
của trẻ em thời đại ngày nay.
Truyện dài Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh viết về “tuổi thơ nghèo khó của
trẻ ở một làng quê” thông qua cách kể của Thiều xưng “tôi” trong tác phẩm.
Truyện được bắt đầu từ chuyện xem hoa tay... Với cách lựa chọn nhân vật người kể
chuyện như vậy, nhà văn đã khai thác thứ ngôn ngữ hồn nhiên, trong trẻo của trẻ
71
thơ. Bằng những lời văn nhẹ nhàng, giàu chất trữ tình, nhà văn đã đưa độc giả của
mình đến gần hơn với thế giới tuổi mới lớn. Mở đầu tác phẩm với hai câu thơ:
“Ngồi im trong gi nghe êm rớt
Ch t thấy hoa vàng trên cỏ xanh”
Có thể thấy một điều rằng: Nguyễn Nhật Ánh thật nhẹ nhàng và sâu lắng khi
đưa ngòi bút của mình đi dưới những màu xanh của lá, màu vàng của hoa...Tâm hồn
chúng ta không kh i bâng khuâng khi đọc những câu văn khắc họa tình cảm trong
sáng củ lứa tuổi học trò mà Thiều dành cho Mận: Khi trả lời tôi, gương mặt con
Mận rạng lên như thể đang tắm trong nắng mai khiến tôi không thể nào rời mắt nhìn
đi nơi khác... Có lẽ Nguyễn Nhật Ánh không giữ cho mình một tâm hồn trong sáng,
không nhìn cuộc sống bằng đôi mắt trẻ thơ thì không thể viết nên những câu chuyện
hay đến vậy.
Ngôn ngữ tự sự trong ính v n hoa được thể hiện ngay trong việc Nguyễn
Nhật Ánh đặt tên, miêu tả các nhân vật. Đây là một bộ truyện dài nhiều tập kể về
những chuyện vui buồn trong giới học trò, những trò nghịch ngợm, những trò chơi
thú vị, những bài học cuộc sống sâu sắc và đầy ý nghĩa. Mỗi tập là một câu chuyện
khác nhau xung quanh ba cô cậu bé này. ính v n hoa có thể coi là những cuốn
sách tâm lý của tuổi học trò, ính v n hoa hiện nay đã được dựng thành phim và 3
phần của bộ phim (sản xuất năm 2005, 2006, 2008) đều đã được chiếu trên kênh
HTV9, Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh.
Quý ròm là thần đồng các môn Toán - Lý - Hóa của trường Tự Do và rất
được thầy cô yêu quý. Nhiệt tình vì bạn bè, tự trọng cao đến nỗi nhiều khi thành tự
ái vặt, lém lỉnh, mồm mép và thỉnh thoảng ba hoa quá trớn, có tài nói phét trơn như
bôi mỡ, đó là những đặc điểm nổi bật của cậu. Tuy rất tốt, nhưng cậu lại có tính hay
nôn nóng, mỗi khi giảng bài cho thằng bạn Tiểu Long khù khờ là quát tháo om sòm,
khiến Tiểu Long rất sợ.
Tiểu Long, tên thật là Nguyễn Minh Long. Khi Quý ròm nghe cậu mơ ước
trở thành võ sư quốc tế, Quý đã trêu chọc Tiểu Long bằng cách đổi tên thành Tiểu
72
Long. Là võ sinh huyền đai đệ nhị đẳng Taekwondo, rất gi i võ, tay chân cứng như
thép nguội, nổi tiếng với môn "thiết đầu công" - đưa đầu ra đỡ đòn của đối thủ. Tuy
gi i võ như vậy nhưng sức học chỉ thuộc loại trung bình yếu, trừ môn thể dục ra thì
các môn còn lại đều yếu…
Sức hút của truyện Nguyễn Nhật Ánh còn nằm ở ngôn ngữ truyện kể. Trong
nhiều tác phẩm ngôn ngữ truyện kể là thứ ngôn ngữ của trẻ con, mà “đối với người
lớn thì ngôn ngữ trẻ con cũng giống như một thứ ngoại ngữ”. Các chú chó Binô và
Bêtô trong Tôi à Bêtô đã tìm cách cắt nghĩa cách nói lạ lùng của cô bé Ni: “Mẹ ơi,
con nhức đầu”. (có nghĩa) Mẹ ơi, con muốn nghỉ h c sáng nay; Mẹ ơi, hôm nay
tháng mấy rồi? (có nghĩa) Mẹ ơi, s p ến sinh nhật con rồi ; Mẹ ơi, ngày mai trời
có mưa không hở mẹ? (có nghĩa) Mẹ ơi, mai mẹ d n con i siêu thị nha mẹ.…
Nguyễn Nhật Ánh hiểu và kể chuyện bằng thứ ngoại ngữ dành cho người lớn ấy
nên hiển nhiên truyện Nguyễn Nhật Ánh là tiếng nói của thiếu nhi. Cũng chỉ
Nguyễn Nhật Ánh mới “bênh vực” cho những hành động ngược đời, ngổ ngáo, trở
chứng của trẻ (như ăn cơm trong thau, uống nước bằng chai, gọi cái nón là cuốn
tập, tivi là quạt máy, đi ngủ là đi chợ hay tìm kho báu trong vườn nhà…) và xem nó
như là “những cuộc cách tân táo bạo” hay những “sáng tạo” gắn liền với tâm lí, óc
tưởng tượng phong phú và nhu cầu làm cho cuộc sống của trẻ thú vị, mới mẻ hơn
(Cho tôi xin một vé i tuổi thơ).
Có thể nói, truyện Nguyễn Nhật Ánh là những câu chuyện không hề xa lạ,
khó hiểu. Truyện Nguyễn Nhật Ánh thu hút tất cả mọi người một phần do “ngôn
ngữ trẻ thơ” tươi tắn đó.
Trong truyện Nguyễn Nhật Ánh, sắc màu trẻ thơ thể hiện ngay ở nhan đề, ở
cách nhà văn đặt tên các chương mục. Trong Cho tôi xin một vé i tuổi thơ, tên 12
chương truyện thật gợi, đủ để làm thành thế giới tuổi thơ: T m i à ã hết một
ngày; Bố mẹ tuyệt vời; Đặt tên cho thế giới; Buồn ơi à sầu; hi người ta lớn; Tôi
à thằng cu ùi; Tôi ngoan trong bao âu; Chúng tôi trở thành ũ giết người như
thế nào; i c biết bây giờ à mấy giờ rồi không?; Và tôi ã chìm; Trang tr i ch
hoang; Cuối cùng là Chuyến tàu không c người soát vé… Nhưng đấy mới chỉ là bề
73
mặt văn bản; cái hồn của truyện Nguyễn Nhật Ánh nằm ở cái nhìn trẻ thơ của tác
giả. Hay nói cách khác, Nguyễn Nhật Ánh nhìn mọi chuyện bằng nụ cười trẻ thơ.
Đó là trường nhìn thuận lợi để nhà văn khơi sâu vào tâm lí tuổi thơ với những trạng
thái cảm xúc “cắc cớ” (nhất là lứa tuổi mới lớn). Dù kể chuyện từ ngôi thứ ba khách
quan, trung tính (Thằng qu nhỏ, N sinh, Bồ câu không ưa thư, Trước vòng
chung kết…) hay hóa thân thành một cậu bé, cô bé “tuổi teen” để “nhìn ngắm” thế
giới (Chú bé r c rối, Tr i hoa vàng, Bàn c năm chỗ ngồi, Đi qua hoa cúc…), ngôn
ngữ của người kể chuyện trong truyện Nguyễn Nhật Ánh luôn tường thuật chi tiết
sự việc, sự kiện từ cái nhìn của thiếu nhi/thiếu niên. Trong Cho tôi xin một vé i
tuổi thơ, bằng việc di chuyển điểm nhìn từ cái tôi tác giả - người kể chuyện ở hiện
tại, về cái tôi – cu Mùi tám tuổi những ngày thơ ấu, Nguyễn Nhật Ánh đã làm một
phép liên tưởng bất ngờ, thú vị. Nhà văn đã tạo nên một vùng thẩm mỹ - thế giới
thật sự của thiếu nhi - trong những tác phẩm của ông. Đó là gia đình, trường lớp,
làng quê; là những giấc mơ tuổi nh , là những miền tưởng tượng ngay trong thế
giới quen thuộc xung quanh nhưng chỉ riêng trẻ nh mới “thấy” (Đảo mộng mơ;
Chuyện xứ Lang Biang)… Được kể, tả qua ngôn ngữ tự sự từ cái nhìn thơ trẻ,
không gian trong truyện Nguyễn Nhật Ánh vừa thơ mộng vừa ngộ nghĩnh, và là cả
một thế giới lộng lẫy và bí ẩn.
Trong những lần giao lưu, ký tặng sách, nhà văn Nguyễn Nhật Ánh chia sẻ:
Bảy bước tới mùa hè được gợi lên từ câu chuyện về những người bạn, những người
hàng xóm và những kỷ niệm tuổi thơ của tôi ở quê ngoại. Dưới ngòi bút hóm hỉnh
của nhà văn, ngôn ngữ kể chuyện nh dị đã đưa câu chuyện trở nên hấp dẫn, gần
gũi...Chuyện kể về những mùa hè của Khoa ở quê ngoại. Ngoài bắn chim, tắm sông
và vô số những trò nghịch ngợm khác, Khoa cùng đám bạn trong làng thường lấy
trò bắt nạt con gái để chứng t bản lĩnh với nhau. Nạn nhân của Khoa là Trang, cô
bé hàng xóm hiền lành, nhút nhát. Cho đến k nghỉ hè năm lớp 9, Khoa về quê chơi
và bất ngờ nhận ra cô bé Trang gầy gò đen đúa năm nào giờ đã phổng phao, xinh
đẹp hẳn lên. Kể từ đó, tâm hồn của cậu bị xao động theo từng dáng đi, ánh mắt và
nụ cười của cô bé. Đồng hành với Khoa là Mừng, cậu bạn chí cốt trong những trò
nghịch ngợm. Cả hai lại có chung nỗi đồng cảm khi Mừng cũng bắt đầu để ý đến
74
nh Đào trong xóm. Khoa và Mừng nghĩ đủ trò để làm thân với Trang và Đào, gây
nên những tình huống dở khóc, dở cười…
Khai thác đề tài tình cảm trẻ thơ, Nguyễn Nhật Ánh đã sử dụng thành công
kiểu diễn ngôn gương soi. Một tấm gương lớn di dộng qua gần 150 trang của nửa
sau tác phẩm với những hoán đổi linh hoạt. Có khi con Lọ Nồi là ảnh của thằng Cu,
có khi thằng Cu là ảnh của Lọ Nồi. Nói đúng lời của tác giả, thằng Cu rất giống
thằng Lọ Nồi phiên bản 1.0. Chuyện tình của Lọ Nồi và nàng Đeo Nơ, của thằng Cu
và nh Hà cứ nắm tay nhau, song song nhịp bước. Nhân vật này dù là hướng ngoại
thì cũng sẽ gặp chính sự tình con tim mình. Những gì xảy ra với Lọ Nồi gần như
trùng khít hoàn toàn với cậu chủ nó. Cả hai đều lóng ngóng, ngượng ngịu, đều khổ
sở vì cái tên xấu xí của mình trước "bạn gái". Trái tim chàng heo con "rỉ máu" rồi
"tắt thở hoàn toàn" khi nàng Đeo Nơ rót vào tai nó từng tiếng: "Mặt bạn giống như
trang giấy bị mực vấy ấy. Trông bẩn bẩn thế nào". Thằng Cu bị nh Hà "đóng mẩu
đinh cuối cùng trên lắp quan tài định mệnh": "Tôi gét những người nói dối lắm đó".
Hai mối tình bé con đã được "khâm niệm", "mặc dù thực tế có vẻ như chuyện tình
đó chưa kịp chào đời". Một tấm gương ngôn ngữ chung được dựng lên thể hiện rõ
sự tương thông k diệu giữa người và vật: "Hai chủ tớ lếch thếch rời khu vườn ảo
mộng", "Hai chủ tớ đều gánh nỗi buồn trên vai mà đi", "Cả hai im lặng lùa chân trên
c , chậm chạp tiến về bờ suối". Sự đồng điệu đến đỉnh diểm khi thằng Cu dịch chuỗi
âm thanh thoát ra từ nỗi tuyệt vọng trong lồng ngực chú heo Lọ Nồi: "Gố gồ… gồ
un… ủn gô… ô… ô… ô" thành "thế là… tình ta… vỡ tan… n… n… n…". "Thằng Cu
dịch câu nói của con heo hay tự dịch lòng mình, chỉ có trời (các bạn đang đọc cuốn
sách này) mới biết".
Lọ Nồi, Đuôi Xoăn cảm thấy thế giới xung quanh mình tuần tự diễn ra một
cách đơn điệu và nhạt nhẽo hết ngày này, ngày nọ. Đó là cảm giác chung của mọi
đứa trẻ nên chúng luôn muốn cải cách và thay đổi cuộc sống của mình theo cách
riêng của chúng. Việc giả tiếng kêu cho thấy các nhân vật rất động, rất nhạy. Chúng
còn thoải mái trò chuyện với con người bằng một hình thức kí hiệu mới mang
những ý nghĩa đặc biệt, kiểu như:
75
- “Un un gô - gô un un.” = Chào buổi sáng.
- “Chiếp un un ” = Anh có kh e không?
- “Un un - chiếp un un ” = Tôi kh e. Còn anh
- “Un un.” = Kh e ạ.
- “Un gô gô.” = Chúc ngủ ngon.
- “Ăng gô gô.” = Chúc một ngày tốt lành.
- “Chiếp chiếp gô.” = Cảm ơn.
Trong Tôi à Bêtô, với việc chọn nhân vật chính là một chú cún - loài thú
nuôi gần gũi, quen thuộc và thông minh nhất của con người, tác giả đương nhiên
phải rất thông hiểu tính cách, sinh hoạt và cả… ngôn ngữ của cún. Trong vai cún để
nhìn đời, người viết cho thấy mình rất thuộc tâm sinh lý của tuổi mới lớn, gián tiếp
nói với người lớn mình cần ứng sử thế nào đối với trẻ từ ấu thơ sang bước ngoặt
trưởng thành, cái bước ngoặt quan trọng nếu không nói là quan trọng nhất trong
đường đời con người. Ngoài những sự hoạt bát, nghịch ngợm, ngây thơ, Bêtô còn là
chú cún với suy nghĩ chín chắn. Theo Bêtô, "mỗi người sinh ra đều có một cái tên.
Cái tên là dấu hiệu phân biệt người này với người khác. Không có tên, người ta gọi
là vô danh. Vô Danh thì không đọng được trong tâm trí bất k ai. Nó không có hình
thù chỉ là một khối nhờ nhờ". Tuy nhiên, tên gọi chỉ là điều kiện cần, còn điều kiện
đủ để con người lưu dấu chân mình trên cõi đời này lại là cái khác: "Cái tên đôi khi
được cha mẹ đặt cho một cách ngẫu nhiên, nhưng cách sống của bạn đã không
ngừng chưng cất lên cái tên của mình qua năm tháng, giúp nó t a hương".
Khác hẳn với những chú cún đáng yêu trong Tôi à Bêtô, trong Cho tôi xin
một vé i tuổi thơ, Nguyễn Nhật Ánh đưa vào truyện cả một trang trại chó hoang.
Những con chó đi lạc vào thị trấn “có khi hai ba con lếch thếch cặp kè nhau như
một lũ trẻ đi bụi”, lang thang khắp các ngả đường, lê la và sục sạo trong chợ được
bọn trẻ trong xóm như Tí sún, Hải cò, cu Mùi đem về để thuần dưỡng, huấn luyện
với hi vọng rất thực tế mà cũng khá… hão huyền: kiếm thêm ít tiền mà chẳng phải
thò tay ra xin bố mẹ.
C hai con mèo bên cửa sổ là một câu chuyện về một tình yêu đẹp hơn hết
thảy mọi thứ trên đời. Chuyện không kịch tính, không có gì cao siêu nhưng chắc
76
hẳn ai đã đọc không thể nào quên được. Tác phẩm có thể nói là phù hợp với tất cả
các lứa tuổi từ trẻ em đến người lớn: Trẻ con thì thấy có gì đó đáng yêu, hài ước và
hơi mơ mộng; Còn người lớn chắc thấy phảng phất hương vị cuộc sống, tình yêu
hay xa hơn là cách một người nên lựa chọn để sống. Truyện kể về tình yêu của mèo
với mèo, chuột với chuột, về con mèo biết làm thơ, con chuột biết vẽ tranh như một
họa sĩ, chuyện chim dạy chuột hót, chuyện mèo để một phần cơm nuôi một đàn
chuột,… Tất cả đã mở ra truớc mắt người đọc một thế giới khác, lung linh và trong
trẻo. "Ngày xửa ngày xưa" không được ghi trong truyện, nhưng với trang đầu tiên
của quyển sách, khi hoàng hậu và công chúa hiện ra cạnh mèo Gấu, người đọc đã
nhận thấy một tấm vé để lên tàu chạy suốt về thế giới thần tiên.
Một điều nữa cũng làm nên sức hút các tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh
chính là sự hiện diện của diễn ngôn giới tính. “Điểm trúng huyệt” những tâm hồn
mới lớn luôn là tài nghệ của Nguyễn Nhật Ánh. Rung động đầu đời đẹp đẽ của hai
trái tim khác giới đã được tác giả ghi lại tinh tế, nên thơ trong nhiều tập truyện của
ính v n hoa. Với tác phẩm này, diễn ngôn giới tính chính thức xuất hiện vào thời
điểm con Lọ Nồi nghịch ngợm tình cờ chui ra kh i khu vườnqua một lỗ hổng ở
chân rào. Trong truyện tác giả đã khéo léo dẫn dắt bằng những câu văn giàu chất
thơ: khoảnh khắc nằm giữa buổi sáng và buổi trưa, thằng Lọ Nồi nhận ra ở cánh
đồng bên ngoài có nhiều hoa đẹp, chưa bao giờ nó thấy một nàng heo đẹp thế. Nàng
trạc tuổi nó, toàn thân trắng hồng, rèm mi như tơ nõn mỗi khi nàng chớp mắt, đặc
biệt cổ nàng đeo một chiếc nơ đ . Mỗi khi nàng thong thả cất bước bên kia hàng
rào, trông nàng mới uyển chuyển làm sao. Chiếc nơ đ rung rung theo từng bước
chân khiến Lọ Nồi ngẩn ngơ nhìn. Nó có cảm giác mỗi bước đi của nàng như nở
một bông hoa". Thế là, Lọ Nồi bị cuốn ngay vào ma trận tâm lý: Ngẩn ngơ nhìn,
xao xuyến nhai, cảm giác hồi hộp, lúng túng nằm bẹp xuống c , nghệt mặt ra nhìn,
bụng dạ rối bời, lòng nó đang réo rắt…
"- Tên tôi là… là… - Lọ Nồi lắp bắp, cái lưỡi như thụt đi đâu mất".
"- Nhớ chứ! - Lọ Nồi quyết định nói dối - Tên tôi là… là Nắng Vàng".
"- Nó cào chân lên c , lúng túng: - À… à… tôi muốn nói là… tôi cảm ơn lời
khen của bạn".
77
"- Ờ…ờ… - Lọ Nồi ngượng nghịu, hai tai đột nhiên nóng bừng, trong
khoảnh khắc đó nó ước giá mà nó có thể biến thành vô hình".
Các giới từ hỗ trợ cùng danh từ, động từ tiếp tục khắc họa chân dung nhân
vật nữ, kẻ đã đánh thức những xúc cảm về tình yêu trong chú heo.
Từ những đặc điểm trên của diễn ngôn trong Chúc một ngày tốt ành,
Nguyễn Nhật Ánh cho ta thấy những điều khả dĩ của văn học thiếu nhi so với văn
học người lớn. Chưa bao giờ có những chú heo đáng yêu đến thế xuất hiện ở vị trí
trung tâm "địa hạt" văn học "chiếu trên". Nguyễn Nhật Ánh đã thổi bạt đi những
quan điểm cố hữu về hình tượng này đã được khắc ghi trong từ iển biểu tư ng thế
giới. Qua câu chuyện, Nguyễn Nhật Ánh cũng đồng thời phá vỡ giới hạn khái niệm
văn học thiếu nhi như trong quan niệm thông thường lâu nay. Cách viết của tác giả
đã chính thức làm "phá sản" ý tưởng hạn định, phân luồng đối tượng tiếp nhận cho
bộ phận văn học này. Đây là tác phẩm có khả năng đi sâu vào đời sống tâm hồn của
trẻ em và của những ai từng là trẻ em. Làm được những điều đó phải là người như
Nguyễn Nhật Ánh, người có thể tự tin nhận mình là nhà văn mãi mãi tuổi 15.
Cùng đề tài viết truyện cho thiếu nhi nhưng mỗi nhà văn có những ngôn ngữ
và cách kể chuyện khác nhau. Cuộc sống của những chú dế trong Dế èn phiêu ưu
ký đã được Tô Hoài khắc sâu bằng ngôn ngữ của nhân vật loài vật: Dế Mèn, Dế
Choắt, Chị Cốc, Bọ Ngựa. Hay cuộc chu du của chú mèo máy Đôrêmon từ Nhật
Bản sang Việt Nam qua ngôn ngữ kể chuyện tự sự hấp dẫn để rồi tạo được nên một
cơn sốt dài, làm thay đổi thị hiếu độc giả trẻ thơ.
Với trái tim tha thiết yêu thương con người, Nguyên Hồng đã viết thiên tự
truyện Nh ng ngày thơ ấu và ghi lại "những rung động cực điểm của một linh hồn
trẻ dại" quãng đời thơ ấu đầy tủi cực của chính mình, cậu bé mười hai tuổi mồ côi.
Trong tác phẩm này hiển hiện rõ nét hình ảnh người mẹ hiền hậu phải chịu những
bất công và những định kiến nặng nề của lề thói phong kiến.
Đặt trong mối tương quan với các tác giả khác, Nguyễn Nhật Ánh thực sự đã
tạo nên được một quyền ực văn chương đối với công chúng tiếp nhận. Ngòi bút của
anh hướng về hiện thực cuộc sống, nhưng không phải là hiện thực như cuộc sống
loài vật trong truyện của Tô Hoài, không phải như những chuyến chu du của chú
78
mèo Đôrêmon, không phải như hiện thực trong quá khứ đau buồn của chú bé Hồng
mà trang văn của anh là một hiện thực như Vân Thanh quan niệm: Hiện thực trong
truyện của Nguyễn Nhật Ánh không phải hoàn toàn màu hồng, nhưng cũng không
quá dấn sâu vào những điều nhức nhối của xã hội đang còn lắm bất công.
Phần lớn truyện của Nguyễn Nhật Ánh đều được kể với ngôn ngữ của nhân
vật chính, tức là ngôn ngữ trẻ, chứ không phải ngôn ngữ của một người kể nào đó ở
ngôi kể thứ ba... (Theo Báo Thanh niên 27 5 2007). Một thứ văn phong rất riêng của
Nhật Ánh, khác so với Tô Hoài, Nguyên Hồng…đó là cách kể tự nhiên giàu sức
triết lý. Cái riêng và hay của Nguyễn Nhật Ánh còn thể hiện ở sự hòa quyện giữa
giá trị giáo dục và chức năng giải trí.
Có thể nói đặc sắc và thành công ngôn ngữ trong truyện của Nguyễn Nhật
Ánh là thể hiện ở ngôn ngữ nhân vật. Ngôn ngữ chính là phương tiện hiệu quả bộc
lộ tính cách nhân vật. Các nhân vật trong truyện có cá tính rõ nét thể hiện qua lời
nói, hành động. Và điều đặc biệt là ngôn ngữ rất đời thường, rất hiện đại, đó chính
là ngôn ngữ của trẻ em thời đại ngày hôm nay.
3.2. Giọng điệu trần thuật
3.2.1. Khái quát về giọn đi u tr n thuật
Trong đời sống hàng ngày, giọng điệu là giọng nói, ngữ điệu, lối nói… biểu
thị thái độ tình cảm của người phát ngôn.
Trong nghệ thuật tự sự, giọng điệu có thể được hiểu là thái độ, tình cảm, lập
trường, tư tưởng đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện
trong lời văn qui định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm
thụ xa gần, thân sơ thành kính hay suồng sã ngợi ca châm biếm. Còn theo Nguyễn
Thái Hoà thì “giọng điệu chính là mối quan hệ giữa chủ thể và hiện thực khách
quan thể hiện bằng hành vi ngôn ngữ trong đó bao hàm cả việc định hướng, đánh
giá và thói quen cá nhân sử dụng ngôn từ trong những tình huống cụ thể” [27,
tr.154 . Ông còn nhấn mạnh rằng: “Giọng kể trong truyện là hiệu quả của giọng văn
đem sử dụng vào việc kể chuyện, định hướng bởi loại thể (kể, tả, lập luận, đưa đẩy),
bởi đối tượng và nội dung được kể. Nó là biến thiên của giọng trong trường hợp bị
79
khúc xạ vào hoàn cảnh cụ thể, tuy vậy mỗi truyện cũng có một cấu trúc giọng kể
riêng và người kể phải giữ nhất quán” [27, tr.160]. Như vậy không thể xét một văn
bản tự sự mà không đề cập đến giọng điệu trong tác phẩm đó. Giọng điệu là một
yếu tố quan trọng, nếu thiếu giọng điệu thì tác phẩm sẽ trở nên mờ nhạt và thiếu
“văn khí”, “hơi văn”như không có hơi thở, linh hồn trong một sinh thể sống.
Nếu như trong đời sống giọng điệu giúp nhận ra con người cụ thể thì trong
văn học giọng điệu giúp nhận ra tác giả. Giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ trong
tác phẩm văn học thể hiện thái độ, tình cảm, lập trường, tư tưởng đạo đức của nhà
văn đối với vấn đề được thể hiện trong tác phẩm. Khi trần thuật tác giả thường sử
dụng nhiều giọng điệu, sắc thái khác nhau trên một giọng điệu chủ đạo cơ bản, điều
này thường thấy trong những truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại. Mỗi thể loại đều có
giọng kể khác nhau và qua các thời kì cũng thay đổi. Nếu như giọng điệu tự sự
trong văn học dân gian chưa mang đậm nét bản ngã sáng tạo thì trong văn học trung
đại, giọng điệu dần dần biến hoá mang cá tính sáng tạo và đến văn học hiện đại thì
giọng điệu thiên về cái tôi cá nhân đậm nét.
Trong Tiểu thuyết Việt Nam hiện i, Phan Cự Đệ đã dành một chương nói
về Ngôn ng trong tiểu thuyết, đặc biệt nêu lên vấn đề giọng điệu như một phương
diện quan trọng tạo thành màu sắc cá tính trong ngôn ngữ của người kể chuyện:
“người kể chuyện bằng một giọng nói đặc biệt, gợi ý một cách kín đáo cho độc giả
nên có thái độ cảm tình hay căm ghét đối với nhân vật” [23, tr.332].
Trong văn học, giọng điệu thể hiện ở các cấp độ sau: giọng điệu tác phẩm,
giọng điệu nhà văn, giọng điệu thời đại. Giọng điệu là một yếu tố đặc trưng của
hình tượng tác giả trong tác phẩm. Người đọc có thể nhận thấy tất cả các chiều sâu
tư tưởng, thái độ, vị thế, phong cách, tài năng cũng như sở trường ngôn ngữ, cảm
hứng sáng tạo của người nghệ sĩ thông qua giọng điệu. Nền tảng của giọng điệu là
cảm hứng chủ đạo của nhà văn.
Khi trần thuật, tác giả sử dụng nhiều giọng điệu, nhiều sắc thái trên cơ sở
một giọng điệu cơ bản chủ đạo, chứ không đơn điệu. Chẳng hạn trong văn xuôi giai
đoạn 1945-1975, giọng hào hùng sảng khoái, giọng ngợi ca, trữ tình thống thiết là
80
thường thấy trong những tác phẩm sử thi. Bởi vì những tác phẩm ấy như những bài
ca ca ngợi về cuộc sống, cuộc chiến đấu vĩ đại của dân tộc còn tâm thế của nhà văn
là tâm thế của người ca sĩ hát lên những khúc ca đẹp nhất dâng tặng quê hương xứ
sở mình. Đây là sự đa dạng nhưng lại thống nhất trong tiểu thuyết giai đoạn này.
Đọc tiểu thuyết sử thi 1945 - 1975, ta thấy đó là những bài ca về cuộc sống vĩ đại
của dân tộc. Giọng điệu hào hùng, ngợi ca đôi khi thể hiện qua nhan đề tác phẩm:
Đất nước ứng ên, ặt trận trên cao. Để nhấn mạnh tính hào hùng của cách mạng,
Nguyên Hồng sử dụng rất nhiều động từ, tính từ có sắc thái biểu cảm, thể hiện sự
mãnh liệt: giật giật, bùng bùng, ngùn ngụt, bão lửa... Bên cạnh đó nhà văn có ý thức
tạo nhịp qua sự lặp lại: đã bị đạp đổ, đã được đưa lên máy chém. Cách nói này giúp
người đọc cảm nhận rõ hơn về sức mạnh bão cuốn của cách mạng. Để xác định con
đường đi tới nhà văn đã tạo nên tính dồn dập của hơi văn bằng cách thiết lập nhiều
câu văn ngắn cạnh nhau, giữa các câu có sự lặp từ để tạo trùng điệp. Những thủ
pháp mà Nguyên Hồng sử dụng trong tác phẩm đã làm S ng gầm cất lên tiếng
“gầm” dũng mãnh trên con đường hướng tới tương lai. Lối tạo nhịp này ta cũng bắt
gặp trong Dấu chân người ính” của Nguyễn Minh Châu:
- Thề chiến đấu để trả thù cho các đồng chí hy sinh!
- Xin thề!
- Xin thề!
Tuy nhiên, trong những tác phẩm văn xuôi thời kì đổi mới hay những tác
phẩm văn xuôi thời kì đương đại, giọng điệu không chỉ thiên về ca ngợi hay phê
phán mà còn có sự đan xen, biến đổi thiên về chiêm nghiệm, suy tư, tự vấn, triết lí
thậm chí giễu nhại về thế sự và nhân sinh. Sở trường trong những kiểu tự sự với
giọng điệu đa dạng, phức tạp này là các nhà văn: Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn
Kháng, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Ngọc Tư…Họ đã tạo được những dấu ấn và
phong cách cho riêng mình.Ma Văn Kháng là một trong những nhà văn có nhiều
đóng góp cho nền văn học Việt Nam thời k đổi mới. Với sự chuyển hướng từ cái
nhìn sử thi sang cái nhìn hiện thực đa diện, đa chiều, phức tạp...Chính từ cái nhìn đa
dạng, đa chiều như thế, tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời k đổi mới đã đem đến
81
nhiều sắc thái giọng điệu và yếu tố thẩm mỹ này đã góp phần quan trọng vào thành
công của mỗi tác phẩm. Giọng điệu trữ tình sâu lắng được Ma Văn Kháng sử dụng
khi nhân vật bộc lộ lòng thành kính biết ơn cuộc đời. Người đọc không kh i bùi
ngùi chứng kiến lúc ông Bằng ( ùa á r ng trong vườn) đứng trước bàn thờ tổ tiên
xúc động thể hiện lòng tôn kính: “Thưa thầy mẹ đã cách trở nghìn trùng mà vẫn
hằng sống cùng con cháu. Con vẫn văng vẳng nghe đâu đây lời giáo huấn của ông
cha, tổ tiên. Con vẫn đinh ninh ghi khắc công ơn sinh thành dưỡng dục của thầy mẹ,
gia tộc, ông bà, cha mẹ, tổ tiên, con như thấy trong tâm linh, huyết mạch sự sinh sôi
nảy nở, phúc thọ an khang...”
Nhìn chung, sự thành công của một tác phẩm văn học phụ thuộc vào tài năng
sáng tạo của tác giả. Đối với văn tự sự, nhà văn cần phải linh hoạt trong việc lựa
chọn cách thức trần thuật, nghĩa là biết xây dựng kết cấu, cốt truyện cho ấn tượng,
nắm rõ vai trò của người kể chuyện, có điểm nhìn trần thuật tinh tế, có giọng điệu
trần thuật phù hợp để tạo nên sự hấp dẫn trong việc dẫn dắt người đọc vào câu
chuyện kể của mình.
Điểm đáng chú ý là hành động và ngôn ngữ của nhân vật luôn luôn gắn liền
với giọng điệu khi kể chuyện. Mối quan hệ này sẽ giúp ta hiểu rõ hơn được nội tâm
của nhân vật. Nhà văn có khi biểu hiện trực tiếp nội tâm nhân vật (qua ngôn ngữ
người kể chuyện, ví dụ hình ảnh người lính trong Dấu chân người ính của Nguyễn
Minh Châu). Cũng có khi nhà văn để nhân vật tự biểu hiện độc thoại nội tâm và đối
thoại trong nội tâm nhân vật.
3.2.2. Giọn đi u tr n thuật trong truy n của Nguyễn Nhật Ánh
3.2.2.1. Gi ng iệu hài hước, tinh nghịch, h m hỉnh
Đọc những tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh ta thấy mặt mạnh trong giọng
điệu của nhà văn, đó là giọng điệu hài hước, hóm hỉnh.Tin nơm nớp thò tay xuống
dưới mông lo lắng: có bao giờ chúng chui lên rồi đớp vào mông mình không nhỉ?.
Chính những trang văn của Nguyễn Nhật Ánh đã đã đem đến cho độc giả nhiều
tiếng cười sảng khoái. Để tạo nên giọng điệu hóm hỉnh, tinh nghịch, tác giả đã xây
dựng dày đặc những chi tiết hài hước.
Chính giọng điệu hài hước này đã gây hứng thú, tiếng cười cho người đọc.
82
Chúng ta sẽ xa rời những toan tính, vụ lợi để trở về với tiếng cười trong trẻo của
tuổi thơ. Đó là lý do vì sao bộ truyện dài ính v n hoa của ông có sức hấp dẫn đến
vậy. Những chi tiết hài trong truyện gây ra tiếng cười đủ mọi cung bậc. Có khi là
tiếng cười rúc rích như những chuyện tiếu lâm lẫn bài học của Tiểu Long: “Hình
bình hành lúc nào cũng nghiêng nghiêng một bên như người vẹo cột sống, còn hình
thang thì nằm chẹp bẹp, đầu nh , đít to” [5, tr.2]; có khi là nụ cười thú vị trước
những câu nói dí d m của cậu học trò thông minh Quý ròm hoặc tiếng cười sảng
khoái khi các cậu nhóc phát hiện ra một cái gì đó ngồ ngộ (chẳng hạn: Văn Châu
không phải là con trai mà là con gái, Thùy Vân có biểu hiện “tí tách” vì hồi nh
thường hay đái dầm,...) Những chi tiết này cứ xuất hiện một cách bất ngờ, như
những móc xích xâu chuỗi câu chuyện lại với nhau, làm cho mỗi trang sách thêm
phần mới lạ, người đọc không cảm thấy nhàm chán.
Hay nhân vật Tiểu Long tính tình hiền lành, nhường nhịn, điềm đạm, trái ngược
hẳn với tính cách nóng như lửa của ông bạn ròm, nhưng lại khá cù lần nên thường bị
Quý ròm át giọng và chỉ huy. Tuy cù lần nhưng đôi khi nhờ phương châm "chậm mà
chắc", lại giúp cả bọn giải quyết vấn đề.
Nối tiếp ính v n hoa, Chuyện xứ Lang Biang của anh lại tiếp tục chinh
phục hàng triệu thiếu nhi Việt Nam đang đứng trước cơn bão mang tên Harry potter
lúc bấy giờ. Nói về bộ truyện của mình, Nguyễn Ánh Nhật chia sẻ: “ Đây là tác
phẩm mà tôi phải phát huy tối đa sức tưởng tượng và tính tổ chức. Phải viết sao cho
hay, cho hấp dẫn mà vẫn đảm bảo tính logic, đặc biệt khi tình tiết quá nhiều và quá
rắc rối. Mặt khác, truyện phải vui vẻ, nhẹ nhàng không nhiều quá yếu tố gây sốc và
không đi chệch kh i yêu cầu của giáo dục”. Trên tinh thần đó, chuyến phiêu lưu của
Nguyên và Kăply ở xứ Lang Biang diễn ra như một hành trình nhiều thú vị, khám
phá những giá trị đích thực của cái Thiện - các Ác, Tình bạn - Tình yêu. Nó không
nặng nề tính chất quyết thắng, đấu tranh gay gắt giữa Chính và Tà như Harry Potter
của J.K.Rowling. Bởi thế, truyện không bị ám ảnh.
Sự hài hước diễn ra trong môi trường lớp học, trong những bài học về cách
83
sử dụng thần chú, trong những giờ học thực hành cho phép biến hình. Ví như Kan
Tô biến chiếc ghế của thầy Hailixiro đang ngồi thành quả mít: “Trong khi quả mít
bị đè dẹp lép, múi mít xì tứ phía còn hột mít văng tùm lum, thì thầy Hailixiro nhảy
tưng tưng vì bị mớ gai nhọn chích vô mông. Trông thầy lúc này y chang một con
voi đang khiêu vũ” [32, tr.23].
Ví như Kan Tô biến chiếc ghế của thầy Hailixiro đang ngồi thành quả mít:
“Trong khi quả mít bị đè dẹp lép, múi mít xì tứ phía còn hột mít văng tùm lum, thì
thầy Hailixiro nhảy tưng tưng vì bị mớ gai nhọn chích vô mông. Trông thầy lúc này
y chang một con voi đang khiêu vũ” [32, tr.23] khiến cả lớp cười nghiêng ngả;
Kăply muốn biến con thằn lằn thành con chim nhưng kết quả lại thành “một đống
bẩn thỉu những v và long, nằm cực k hỗn độn” khiến tụi bạn cười hô hố… Biết
bao nhiệu chi tiết hóm hỉnh được diễn tả bằng một thứ ngôn ngữ tiinh nghịch, dí
d m tạo nên giọng kể tự nhiên, dung dị, và chính cái dung dị, hồn nhiên ấy là con
đường ngắn nhất đi thẳng vào tâm hồn người đọc.
Ở Tôi à Bêtô, tính chất dễ thương, dí d m được bộc lộ qua giọng điệu của
một chú cún. Nhân vật tôi - Bêtô tự nói về cuộc đời của mình với sự thú vị khi được
kết bạn với thằng Laica ra sao, sức cuốn hút mà thằng Bino đem đến cho cậu như
thế nào, sự ân cần, yêu thương của chị Ni và bố mẹ chị Ni dành cho chú ta nhiều
đến đâu, và những trò k quái mà Bêtô đã làm để khiến cuộc sống của mình bớt tẻ
nhạt đi.
Ngay cả cách Bêtô tự khoe về thành tích phá phách của mình cũng đậm chất
hài hước: “Tôi đã phá h ng rất nhiều thứ: Giầy dép, sách vở, những đôi vớ. Và cả
những chiếc đồng hồ. À, sẽ không thừa nếu tôi bổ sung thêm vào bảng liệt kê đầy
ấn tượng của mình thành tích mới nhất: Mới hôm qua đây thôi, tôi đã kịp biến chiếc
điện thoại cầm tay của bà chị Ni thành một thứ thích hợp nằm trong thùng rác” [6,
tr.4]. Điều quan trọng ở đây là, truyện kể bằng giọng điệu của một chú cún nhưng
thực chất là nhà văn đang cố nhìn, hiểu và cảm nhận bằng chính tâm hồn cùng
những suy nghĩ của những cô bé, cậu bé.
“Đảo mộng mơ” mang giọng văn nhẹ nhàng, hồn nhiên và ít kịch tính - đúng
84
theo “chất văn Nguyễn Nhật Ánh”. Lấy cảm hứng từ nhân vật Robinson Crusoe,
câu chuyện mở đầu bằng việc Tin, một cậu bé lên mười - nhân vật xưng “tôi” nhận
ra mình lạc trên một đảo hoang, trong khi cậu chỉ có chai xiro chanh và cuốn
truyện. “Đảo” này, thực ra là một đống cát trong sân nhà, nhưng qua trí tưởng tượng
của “tiểu Robinson”, thì lại rất đẹp và thơ mộng. Khi còn một mình trên đảo hoang,
cậu đã nghĩ ra đủ tình huống có thể xảy ra, và cố tìm cách giải quyết. Dần dần,
Bảy - người bạn gần nhà Tin, và Thắm - cô bạnhọc cùng bàn; cũng quyết định nhảy
ra “đại dương” để lên đảo hoang. Và cũng từ giờ phút đó, Tin trở thành Chúa đảo
Robinson, Bảy mang tên Thứ Bảy - phó chúa đảo, còn Thắm được phong Chúa đảo
phu nhân sau nụ hôn lên má của Tin! Bỗng chốc, chị Hai của Tin, hay Phàn - thằng
bé chuyên ăn hiếp mấy đứa nh đã trở thành... hải tặc. Tin ghét mọi người gọi đảo
Robinson là “đống cát”, và rất hãnh diện khi được ba tặng cho chiếc ống nhòm để
ngắm cảnh và dõi xem có “tàu” nào đến cứu kh i đảo không. Cuộc sống trên đảo
thật là mộng mơ, với ba cô cậu học sinh và một chú “sư tử” tên là Pig (vốn là chú
cún của Thắm), dĩ nhiên là sau khi bọn chúng đi học về!
Giọng điệu nổi bật trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh là giọng hồn
nhiên, hóm hỉnh. Có thể nhận thấy rằng, chính giọng điệu hồn nhiên, hóm hỉnh, hài
hước đã giúp tác giả thể hiện được một cách sinh động thế giới xung quanh các em, để
từ đó khắc chạm những bức tranh cuộc sống lung linh, sáng trong trong tâm hồn trẻ
nh : “Tôi len lén ngồi vào chỗ, không dám nhìn con Xin. Nhưng qua khóe mắt tôi vẫn
hồi hộp theo dõi nó và gần như nín thở khi thấy nó sè sẹ mở phong bì rút lá thư ra đọc.
Tất nhiên tôi không biết được con Xin nó làm gì...” [2, tr.323].
3.2.2.2. Gi ng iệu ối tho i hồn nhiên, ngộ nghĩnh
Giọng điệu đối thoại là giọng điệu phổ biến trong văn xuôi thời k đổi mới.
Đối thoại là phương thức tạo nên cấu trúc mở của tác phẩm và tạo nên giọng phức
điệu, đa thanh của ngôn ngữ trong cuộc sống hôm nay.
Nguyễn Nhật Ánh sử dụng giọng điệu đối thoại rất đắc địa. Chính qua đối
thoại mà tính cách nhân vật được bộc lộ. Vì đối tượng mà các nhân vật được nói
đến trong tác phẩm là các nhân vật nhí và kết cấu của tác phẩm phân thành các
85
phần, các chương nh nên sử dụng giọng điệu đối thoại là rất hợp lý.
Người đọc hẳn rất ấn tượng với đoạn đối thoại
- “Hai cò âu? – tôi kêu ớn.
- D , ba g i con - Hải cò on ton ch y tới
Tôi ra oai.
- t cho ba miếng nước”
Trong truyện Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, ta thấy ngôn ngữ đối thoại
chiếm tỉ trọng khá lớn. Thông qua những lời đối thoại hồn nhiên, ngộ nghĩnh, nhân
vật trẻ thơ sẽ bộc lộ rất rõ tính cách của mình. Đây là một đoạn đối thoại giữa Thiều
và Mận:
“Có lần con Mận qua nhà tôi chơi, thấy tôi đang thò tay ra bên ngoài cửa sổ,
liền trố mắt:
- Bạn đang làm gì vậy?
- Tôi đang phơi những ngón tay. Mày có bao giờ phơi những ngón tay không?
- Không.
- Thế khi tay mày bị ướt mày làm gì
- Mình lau vào quần.
Tôi kêu lên:
- Eo ơi, ai lại lau tay vào quần!
Mấy hôm sau tôi qua nhà con Mận, thấy nó ngồi trong nhà thò tay ra ngoài
cửa sổ y hệt tôi, tôi sung sướng h i:
- Mày đang phơi hai bàn tay đấy à
Để nghe nó sung sướng đáp:
- Ờ, mình vừa rửa chén xong.
Trong Chương 51, Nỗi buồn của thằng Tường, giọng điệu đối thoại cũng
được thể hiện khá rõ nét cùng dòng cảm xúc của thằng Tường.
Tôi vừa hả hê vừa cảm thấy xấu hổ về sự hả hê của mình. Khi nghe ông nói
"Bác về nhé", tôi gật đầu he hé mắt ra, rất muốn kêu lên đó là con cóc của em con,
bác đừng bắt nó nhưng sự ấm ức tích tụ lâu nay đã giống như một con đê chắn
86
ngang cổ họng khiến âm thanh tôi phát ra giống như những tiếng ú ớ vô nghĩa.
Ngay buổi trưa, thằng Tường đã phát hiện ra sự mất tích của Cu Cậu.
Nó và con Mận lo lắng đi vòng quanh nhà, sục vào các xó tối, miệng kêu tên
Cu Cậu inh i.
Kêu chán, Tường chạy ra sân trước chỗ tôi đang vờ ngồi chơi bi một mình,
níu vai tôi, mếu máo h i:
- Anh có thấy con Cu Cậu đâu không, anh Hai
- Con cóc của mày hả - Tôi giương mắt, giọng thật như đếm - Lúc nãy tao
vẫn thấy nó đây mà.
- Nhưng bây giờ nó đi đâu rồi. - Giọng Tường như khóc.
Tôi ngó lơ chỗ khác:
- Tao nghĩ chắc nó chui dưới gầm giường!
- Không có đâu, anh Hai. Em kêu rát cả cổ mà nó vẫn không ra như mọi lần.
Tường vừa sụt sịt vừa lay vai tôi, động tác mà những người bệnh nặng trong
làng vẫn làm mỗi khi cầu cứu ông Xung.
Tôi tặc lưỡi:
- Hay là nó ngủ say rồi
Nghe tôi nói, Tường ba chân bốn cẳng chạy vào nhà, lần này nó và con Mận
khệ nệ khiêng cái giường qua một bên, rồi hai đứa cầm cây đèn soi khắp nơi. Tụi nó
chõ miệng xuống hang cóc, thi nhau gào nhức cả tai.
Cuối cùng thằng Tường quyết định chạy ra hè xách cây cuốc vào hì hục đào
tung hang cóc. Đến khi biết chắc Cu Cậu đã biến mất, nó đã buông cuốc xuống, òa
ra khóc.
Qua những đoạn đối thoại này, ta cũng có thể thấy khá rõ những cảm xúc,
suy nghĩ của từng nhân vật. Lời trực tiếp của các nhân vật trong truyện không dài
dòng, cầu kì mà ngắn gọn, rõ ràng.
Ngoài những cuộc đối thoại trực tiếp giữa các nhân vật, tác giả còn xây dựng
lời đối thoại ngầm bên trong của nhân vật. Tác giả đã nhập thân vào nhân vật để
trực tiếp nói lên lời đối thoại bên trong. Thiều trong truyện Tôi thấy hoa vàng trên
87
cỏ xanh là nhân vật hay tự đối thoại nhất.
Cậu luôn biết hối lỗi và xỉ vả mình, nhưng do bản tính của trẻ con, nhưng
ngay sau đó lại quên béng lời mình nghĩ và lại tiếp tục phạm lỗi. Nhưng đáng trân
trọng là Thiều đã nhận ra - với một đứa trẻ biết nhận ra lỗi lầm là điều đáng quý.
“Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” là câu chuyện của người anh kể về người
em, hay nói khác đi, là số phận của người em dưới cái nhìn của người anh. Cậu bé
Tường dường như sinh ra để hy sinh và nhường nhịn người khác và cuộc đời đã ban
tặng cậu hạnh phúc ngọt ngào mà cậu mong m i.
Trong khi Thiều, anh trai cậu, một cậu bé ích kỷ, hẹp hòi tưởng có được tất
cả thì hoá ra chẳng có gì. Bài học đó thú vị ở chỗ nó do chính người anh ích kỷ, hẹp
hòi rút ra chứ không phải ai khác.
Với một giọng kể chân chất hồn hậu, khi dí d m khi ngọt ngào, cả tếu táo và
nghịch ngợm nữa, mỗi cuốn sách của Nguyễn Nhật Ánh giống như một ống kính
vạn hoa. Với các em, chỉ cần xoay khẽ một chút các em sẽ thấy biết bao quen thân
và lạ lẫm để rồi ngồi cười khúc khích với nhau, hoặc lặng đi, nhìn nhau rưng rưng
tiếc thương một cái gì đã mất.
Còn với người lớn, mỗi lần xoay khẽ kính vạn hoa kia, cả tuổi thơ lộng lẫy
và đau đớn tưởng đã chìm sâu khuất lấp vào lãng quên bỗng rực lên trước mắt làm
cho người ta lắm khi khó cầm được nước mắt. "Ðược tắm mình trong dòng sông
trong trẻo của tuổi thơ sẽ giúp bạn gột rửa những bụi bặm của thế giới người lớn
một cách diệu k ", Nguyễn Nhật Ánh đã nói vậy và anh đã đúng.
Có thể nói mỗi cuốn sách của Nguyễn Nhật Ánh như mỗi chuyến tàu về tuổi
thơ, ở đó có nhiều toa, mỗi toa là một bất ngờ, một thú vị, một háo hức, một say mê.
Có khi làm ta bật cười có khi làm ta rưng rưng hoặc ngồi lặng đi suy ngẫm.“Tôi
thấy hoa vàng trên cỏ xanh” cũng vậy. Ở đây ta gặp những câu chuyện hài hước vui
nhộn, chuyện ông Cả Hớn trúng xổ số, chuyện cu Tường làm chim xanh hay
chuyện lá thư tình đầu đời của cu Thiều chẳng hạn.
Ở đây ta lại gặp những câu chuyện ngậm ngùi, thương xót. Chuyện cha của
bé Mận bị bạo bệnh đã trốn nhà ra đi vì không muốn vợ con khốn khổ vì mình,
chuyện ông Tám Tàng giả điên làm vua vì đứa con gái tâm thần luôn nghĩ mình là
88
công chúa. Ai đã đọc rồi dù muốn quên đi cũng rất khó.
3.2.2.3. Gi ng iệu triết ý, chiêm nghiệm và suy tư
Trong văn học nói chung và văn xuôi nói riêng, giọng triết lý, chiêm nghiêm
thường xuất hiện ở những nhà văn “ưa” suy tư, trăn trở với đời. Những nhà văn có
nhiều trải nghiệm trong cuộc sống luôn muốn khái quát quy luật cuộc đời và văn
chương qua những chiêm nghiệm. Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu có thể xem là
những nhà văn có giọng điệu triết lý như vậy.
Nguyễn Nhật Ánh là một trường hợp đặc biệt. Ông thuộc thế hệ nhà văn
trưởng thành sau năm 1975 chỉ chuyên viết về thiếu nhi nhưng văn phong của ông
đậm đà những cung bậc cảm xúc. Không dừng lại ở tiếng cười tinh nghịch, dí d m,
truyện của Nguyễn Nhật Ánh còn đem đến cho ta những khoảng lặng đáng quý toát
ra từ giọng điệu triết lý hồn nhiên của trẻ thơ.
Suy tư và chiệm nghiệm là sự suy nghĩa, xem xét và phán đoán biết con
người ngờ sự trải nghiệm của bản thân.Các nhân vật nhí có rất nhiều trải nghiệm
sau mỗi lần vấp ngã. Những triết lý nho nh rất thú vị.
Trong truyện Cho tôi xin một vé i tuổi thơ, nhà văn hóa thân vào hai vai:
một người lớn đang nhìn về quá khứ, kể về câu chuyện thuở thiếu thời của mình và
một đứa trẻ tự do thích làm việc theo ý mình. Cu Mùi – nhân vật chính trong truyện
luôn quan sát, phân tích cuộc sống xung quanh, đôi khi đưa ra những triết lý sắc bén
về các quan hệ xã hội, về các khái niệm đối nghịch như con ngoan - con hư, sự đơn
điệu - sự ổn định, sự êm đềm - vô vị, sự giống nhau - khác nhau... Với đặc tính này
cu Mùi xuất hiện rất đặc biệt thông qua một cảm giác, một nhận xét về cuộc đời:
“cuộc sống thật là buồn chán và tẻ nhạt” [1, tr.10].
Mùi từng có suy nghĩ trong kinh nghiệm khi ngồi bàn cuối: Trong lớp tôi
luôn ngồi bàn chót. Ngồi bàn chót thì tha hồ tán gẫu, cãi cọ, cấu véo hay giở đủ trò
nghịch ngợm mà không sợ cô giáo phát hiện. Nhưng điều hấp dẫn ở vị trí tối tăm đó
là ít khi bị kêu lên bảng. Trong quá trình cải cách thế giới cũ kĩ, già nua của những
đứa trẻ, chúng nhận ra những triết lý hồn nhiên nhưng không kém phần sâu sắc.
Thằng cu Mùi giải thích vì sao nó lại thích ngồi bàn chót theo một quy luật rõ ràng
là “bộ nhớ của chúng ta quá nh để chứa cùng lúc nhiều khuôn mặt hay nhiều cái
89
tên” nên cô giáo không thể nhớ tới và kêu cu Mùi lên bảng trả bài nếu cô không vô
tình gặp mặt nó. Cũng như cái cách nó nói về giờ ra chơi: “có nghĩa là những lời
vàng ngọc của thầy cô tuột kh i trí nhớ nhanh như gió, hết sức trơn tru”. Còn trên
thế giới này, “có lẽ có rất nhiều đứa nh trạc tuổi tôi đều bị các bậc phụ huynh cột
chặt vào giấc ngủ trưa theo cách người ta cột bò vào cọc”. Trong tâm trí đứa trẻ tám
tuổi - dĩ nhiên chưa có những triết lý như người lớn - cu Mùi cũng đã lờ mờ nhận ra
“khi ba tôi đi ngủ thì buộc lòng phải đi ngủ, giống như một con cừu còn thứcthì
người chăn cừu không yên tâm chợp mắt được”. Sự kiểm soát này làm đứa cảm
thấy “cuộc sống đối với tôi thật là đơn điệu, nếu sự lặp đi lặp lại là biểu hiện chính
xác và rõ rệt nhất của sự đơn điệu”. Cuộc sống đơn điệu ấy trong mắt người lớn là
sự ổn đinh, nghĩa là mọi công việc đều được sắp đặt trước nhưng với con trẻ chỉ là
sự lặp lại buồn tẻ.
Đọc Tôi thấy hoa vàng tren cỏ xanh (Chương 13), thì việc đan xen giữa
giọng điệu hội thoại là giọng suy tư và sâu lắng là khá rõ nét.
Chú Đàn coi việc chuyển thư của người con trai đến người con gái là "làm
chim xanh".
Chú khen Tường "Con là con chim xanh gi i nhất thế gian" lời khen của chú
làm thằng nhóc sướng rên.Nhưng con chim xanh gi i nhất thế gian đó cũng có ngày
gặp nạn.
Chuyện Tường gặp nạn, cả tuần lễ sau nó mới bẽn lẽn kể cho tôi nghe. Tôi
đã nói rồi, thằng này chẳng có chuyện gì nó chịu kể dứt một lần.
Hôm đó, như mọi lần Tường nhét lá thư của chú Đàn vào lưng quần rồi vù
qua nhà thầy Nhãn.
- Chị Vinh ơi, chị Vinh!
Tường đứng ngoài sân, kêu lớn. Nhưng lần này nó không thấy chị Vinh đâu.
Người từ trong nhà đi ra là thầy Nhãn.
Nhìn bộ mặt khó đăm đăm của thầy, lúc đó Tường mới biết thế nào là sợ hãi.
Nó hoàn toàn bất ngờ, ruột gan như trôi tuột đi đâu mất. Nó chợt nhớ đến con rồng
hai đầu canh giữ vườn táo vàng trong câu chuyện nó vừa đọc và nhìn lom lom vào
90
cổ áo thầy, hồi hộp chờ một chiếc đầu thứ hai mọc ra từ chỗ đó.
- Con tìm chị Vinh làm gì vậy con
Thầy Nhãn lại gần và cất tiếng h i, giọng lạnh tanh.
Mỗi nhà văn đều có có sẵn một tín niệm nghệ thuật khi sáng tác. Và Nguyễn
Nhật Ánh đã tạo được một giọng điệu trần thuật cho riêng mình qua suy nghĩ và
giọng lý nhí của thằng Tường.
Tường lấm lét liếc xuống vạt áo rồi ngước nhìn thầy:
- Dạ, con h i xin cho mẹ con quả chanh.
Ánh mắt thằng Tường đã tố cáo nó. Thằng Tường nói với tôi như vậy. Bàn
tay thầy Nhãn lần theo tia nhìn của nó, mò vào dưới vạt áo.
Thầy rút lá thư ra kh i lưng quần Tường rồi quay gót trở vào nhà, không nói
một tiếng nào.
Mặt xanh như tàu lá, Tường đứng trơ giữa sân nắng có đến vài phút, tay chân
cứng đờ, chỉ muốn khuỵu xuống.
Đến khi có thể nhúc nhích được, nó bất chợt òa ra khóc.
Tường chạy về nhà, vẫn không ngừng nức nở cho đến khi chú Đàn đang chờ
sẵn ở bụi chuối sau hè dang tay ôm lấy nó.
- Nín đi con. Có chuyện gì thế
Điều đặc biệt ở đây là ngôn ngữ đối thoại xen kẽ giọng kể đa dạng và hấp
dẫn chiếm tỉ lệ khá lớn.
Nghe chú Đàn h i, Tường càng khóc to hơn. Câu h i giống như mũi dao
khoét vào vết thương lòng của nó, nếu có thể xem tai nạn của nó xứng đáng để
gọi là "vết thương lòng". Và thế là nó khóc tức tưởi, khóc tồ tồ như vòi nước bị
h ng khóa.
Chú Đàn vén áo nó lên, không thấy lá thư đâu, ngẫm nghĩ một lát rồi khẽ
giọng h i:
- Con không gặp chị Vinh hở
- Dạ... không... Tường đáp qua tiếng khóc.
Chú Đàn thở ra:
- Con đừng khóc nữa.
91
Tường vẫn tiếp tục khóc, có thể nó cũng muốn ngưng lại nhưng không được.
Con người ta khóc cũng giống như trời mưa. Chỉ khi nào hết nước thì trời mới thôi
mưa và chúng ta mới thôi khóc.
Thằng Tường cũng vậy thôi. Nó khóc, khóc hoài. Nhưng dần dần tiếng khóc
yếu đi, một hồi sau chuyển qua thút thít. Rồi tạnh hẳn.
Lúc đó nó mới rảnh rỗi để lắp bắp:
- Thầy Nhãn...
Chú Đàn xoa đầu nó:
- Chú biết rồi. Con không cần kể nữa.
Rồi chú đứng lên:
- Để chú xé giấy xếp cho con chiếc máy bay.
Chiếc máy bay giấy của chú Đàn khiến mặt thằng Tường nở ra. Nó phóng
máy bay lượn vòng vèo trong vườn và quên rất nhanh những giọt nước mắt vừa tắm
ướt hai gò má nó.
Tôi tặc lưỡi, khi Tường kể xong:
- Mày ngu quá. Không phải đợi đến khi nhìn ánh mắt của mày thầy Nhãn
mới biết mày để thư dưới vạt áo đâu.
Tường ngơ ngác:
- Thầy biết từ trước hở anh
Tôi đá vào chân nó, giọng hiểu biết:
- Tao nghĩ thầy biết lâu rồi. Chả ai lại xin ớt, xin chanh, xin xì dầu hoài như
thế. Có họa là hâm!
Sức hút của văn chương Nguyễn Nhật Ánh trước hết là triết lý sống vì nhau
xuyên suốt trong tác phẩm của anh, với các em nó là bài học luân lý, là sự khám
phá về cái gọi là tình người; với người lớn nó là chìa khóa mở ra biết bao nỗi ăn
năn. Ai cũng vậy thôi, ít nhất một lần trong đời gây khổ đau cho người khác vì sự
vô tâm, tắc trách của mình. Chìa khóa sống vì nhau đã giúp tâm hồn con người tìm
về những nỗi ăn năn để thao thức cùng với nó.
Trong Tôi à Bêtô những triết lý của chú chó bé con trở nên thú vị. Hãy nghe
92
chú chó Binô nói về nỗi sợ hãi “như một điều thích thú”: “Được sợ hãi, đó là thứ
cảm giác mà nhiều người sẵn sàng trả tiền được thưởng thức” [6, tr.48]. Con người
ta cũng thường b tiền ra để mua nỗi sợ hãi như đọc truyện ma, xem phim kinh dị
nhưng không mấy ai ngồi suy ngẫm, nhấm nháp về ý nghĩa của hành động đó.
Và đây, những triết lí về cuộc đời của Bê tô tuy chưa có sự từng trải nhưng
lại hiện sự sắc sảo, thông minh. Người lớn chúng ta đừng tưởng trẻ con chỉ có sự
ngây thơ hồn nhiên. Sự nhạy cảm với cuộc sống giúp trẻ con có những nhận xét
chính xác về cuộc đời, về con người: “Bạn thấy chưa, càng lớn tuổi, con người ta
càng nó ít đi. Họ nghĩ nhiều hơn” [6, tr.7 ; “Lời ăn tiếng nói của người già mới sâu
sắc làm sao!” [6, tr.18 ; “Dưới những tia nắng ngược, những ngôi nhà bỗng nhiên
t a sáng… Những người đi lại trên phố nom cũng hồn nhiên và hiền lành hơn…
Những đăm chiêu, mưu mô tính toán không còn chút dấu vết trên mặt họ. Trông họ
thoải mái lạ lùng….” [6, tr.122].
Những trang sách của Nguyễn Nhật Ánh nói với chúng ta rằng anh đã ăn năn
như thế đấy, còn bạn thì sao Cậu bé Thiều trong cuốn sách có thể không phải là
Nguyễn Nhật Ánh thuở bé thơ nhưng chắc chắn đó là một nỗi ăn năn của chính anh,
chính thế hệ của anh. Khi bạn tước đi niềm vui của người khác thì một phần trong
trẻo trong tâm hồn bạn cũng sẽ chết theo, vì thế nó sẽ ám ảnh bạn đến trọn đời. Nào
ai có dám chắc trong đời không một lần vô tình hay hữu ý tước đi niềm vui của
người khác
Khi đọc“Bảy bước tới mùa hè”, ta thấy giọng điệu kể chuyện của Nguyễn
Nhật Ánh không lồng ghép những suy tư, trải nghiệm của người lớn như ở một số
sáng tác trong những năm gần đây của Nguyễn Nhật Ánh như: “Cho tôi xin một vé
i tuổi thơ” hay “Ngồi kh c trên cây”... Thay vào đó, nhân vật xuất hiện ở ngôi thứ
ba, cái tôi tác giả gần như vắng bóng hoàn toàn trong suốt chiều dài cuốn truyện.
Sách có phụ bản màu là bốn bài thơ của Nguyễn Nhật Ánh, được trình bày trên
tranh của họa sỹ Hoàng Tường. Mỗi bài thơ gợi liên tưởng đến một tình tiết trong
tác phẩm. Câu chuyện về một mùa hè ngọt ngào, những trò chơi nghịch ngợm và
93
bâng khuâng tình cảm tuổi mới lớn. Chỉ vậy thôi nhưng chứng t tác giả đúng là
nhà kể chuyện hóm hỉnh, khiến độc giả cuốn hút từ trang đầu đến trang cuối cùng.
Chúng ta sẽ bắt gặp giọng văn giản dị, trong trẻo của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh và
một kết thúc có hậu đầy thuyết phục ở cuối truyện. Câu chuyện về tuổi học trò đầy ắp
những kỷ niệm thơ bé ngọt ngào với tình thầy trò, bè bạn, tình xóm giềng, họ hàng qua
cách nhìn đời nhẹ nhàng, rộng lượng.
Trong diễn từ đọc tại lễ trao giải thưởng văn học ASEAN tại Thái Lan,
Nguyễn Nhật Ánh đã nói: " ỗi dân tộc ều c treo một quả chuông trước cửa sổ
tâm hồn của mình. Nhà văn c sứ m ng phải rung nh ng quả chuông ên bằng
văn chương." Và thế là với “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh”, quả chuông của
Nguyễn Nhật Ánh lại rung lên. Khi đã theo con tàu của Nguyễn Nhật Ánh để đi về
tuổi thơ một lần, tôi tin mỗi lần Nguyễn Nhật Ánh rung chuông, người ta khó lòng
b qua một tấm vé để lại được cùng anh háo hức lên tàu.
Bằng giọng điệu tinh nghịch, hóm hỉnh và giọng triết lý, chiêm nghiệm đậm
chất trẻ thơ, Nguyễn Nhật Ánh đã tạo ra một thế giới tràn đầy niềm tin, tiếng cười
trong các tác phẩm của mình. Sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh khám phá thế giới
trẻ thơ sinh động nhiều màu sắc. Những suy tư, chiêm nghiệm được tác giả diễn
đạt bằng giọng điệu hài hước, hóm hỉnh khiến những bài học giáo dục trong tác
phẩm nhẹ nhàng mà vẫn sâu sắc.
Giọng văn của Nguyễn Nhật Ánh đã quá thân quen với chúng ta qua những
tác phẩm như: t biếc, Bàn c 5 chỗ ngồi, Đi qua hoa cúc, Chú bé r c rối, Buổi
chiều vindown, Quán gò i ên… Năm 2003, bộ truyện nhiều tập “Kính vạn hoa”
được Trung ương Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh trao huy chương “Vì
thế hệ trẻ” và được Hội nhà văn Việt Nam trao tặng thưởng. Năm 2004, Nguyễn
Nhật Ánh kí hợp đồng với Nhà xuất bản Kim Đồng tiếp tục cho xuất bản bộ truyện
dài gồm 28 tập mang tên“Chuyện xứ Lang Biang” nói về hai cậu bé lạc vào thế giới
phù thủy. Năm 2008 Nguyễn Nhật Ánh tác phẩm viết “Cho tôi xin một vé i tuổi
thơ” rất được độcgiả ưa thích. Ngày 9-12-2010 tác phẩm “Tôi ã thấy hoa vàng
94
trên cỏ xanh” là truyện dài mới nhất của Nguyễn Nhật Ánh được nhận giải văn
chương ASEAN. Nhưng có một điều mà chúng cảm thấy rất gần gủi với nhà văn
Nguyễn Nhật Ánh vì anh là người Thăng Bình, Quảng Nam.
3.3. Tiểu kết
Mở rộng và so sánh phương diện nghệ thuật tự sự này ta thấy sự khác biệt rõ
nét trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh với tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI.
Xu hướng thứ nhất chủ yếu vẫn bám sát khung thể loại truyền thống nhưng có gia
tăng một số yếu tố như sự thay đổi điểm nhìn trần thuật, sử dụng yếu tố huyền ảo,
yếu tố trào lộng… Nhìn chung, xu hướng này vẫn thu hút được đông đảo độc giả
bởi nó có những cách tân thú vị mà lại không gây nhiều khó khăn cho sự tiếp nhận
của bạn đọc. Thuộc xu hướng này có nhiều cây bút thuộc các thế hệ đã sáng tác từ
trước 1975, trong đó có các nhà văn lão làng như Tô Hoài, Ma Văn Kháng...; các
nhà văn trưởng thành từ thời kì kháng chiến chống Mỹ và sau khi kết thúc chiến
tranh như Lê Lựu, Chu Lai,… Đây là xu hướng cách tân theo tinh thần hiện đại.
Những nhà văn thuộc xu hướng này đã đổi mới hình thức thể loại bằng cách vận
dụng những kĩ thuật tự sự hiện đại phương Tây, trên cơ sở đổi mới quan niệm về
tiểu thuyết.
Ngôn ngữ của nhân vật có thể là đối thoại hay độc thoại. Đối thoại gắn liền
với việc những người nói hướng vào nhau và tác động vào nhau còn độc thoại
không nhằm hướng đến người khác và tác động qua lại giữa người và người. Ngôn
ngữ trần thuật của nhân vật có nhiều chức năng khác nhau như: chức năng phản ánh
hiện thực, chức năng tự bộc lộ của nhân vật, chức năng là đối tượng miêu tả của tác
giả hoặc chức năng thể hiện nội tâm…. Tổng hợp những chức năng đó, thông qua
trần thuật, nhân vật kể lại cuộc đời của mình, bộc lộ tâm tư, suy nghĩ, chiêm nghiệm
về cuộc đời, lẽ sống, giúp người đọc lĩnh hội được tư tưởng, quan niệm của nhà
văn. Cùng với trần thuật tác giả, trần thuật của nhân vật góp phần hoàn thiện bức
tranh đời sống trong tác phẩm. Mỗi nhân vật đều có ngôn ngữ trần thuật của mình,
làm phân hoá ngôn ngữ tiểu thuyết, đưa vào tiểu thuyết nhiều tiếng nói khác nhau,
95
đa thanh, đa giọng điệu.
Dù so sánh ở bất k phương diện nào độc giả khi đọc những trang viết của
Nguyễn Nhật Ánh ta luôn tìm thấy những hình ảnh bình dị của quê hương ta đẹp
hơn, lung linh hơn. Nguyễn Nhật Ánh là một nhà văn có sức sáng tạo rất dồi dào.
Ngôn ngữ của nhân vật được cá thể hóa cao độ, phù hợp tính cách mà nhân vật sở
hữu. Không thể lẫn con vật này với con vật khác bởi mỗi con vật đều có hành động
kèm theo ngôn ngữ riêng biệt. Thế giới nghệ thuật ngôn ngữ và giọng điệu người kể
chuyện trong tác phẩm của anh luôn luôn thu hút người đọc. Giọng điệu nhẹ nhàng
nhưng sâu lắng và ý nghĩa. Với tài năng nghệ thuật khi sử dụng ngôn ngữ kể chuyện
hấp dẫn, với tài năng quan sát tinh tế, với một trái tim đồng cảm trẻ thơ, Nguyễn
Nhật Ánh đã để lại trong mỗi tác phẩm một bài học nhân sinh vô cùng ý nghĩa.
96
KẾT LUẬN
Nằm trong mạch chảy văn học thiếu nhi Việt Nam, nghệ thuật tự sự trong
truyện Nguyễn Nhật Ánh được rất nhiều người ưa chuộng. Nhà văn viết cho trẻ thơ
như lần giở kí ức của chính mình. Thông qua màn sương kỉ niệm, anh đã tạo dựng
một thế giới tuổi thơ k diệu, đắm say trong những trò chơi hồn nhiên, thơ dại. Thế
giới tuổi thơ tràn đầy khát khao đẹp đẽ và tình yêu thương được nhìn qua trái tim
bao dung, lòng nhiệt thành con trẻ. Viết cho tuổi mới lớn, truyện Nguyễn Nhật Ánh
không chỉ có sự hồn nhiên, ngây thơ mà còn chất chứa nhiều xúc cảm mới mẻ, mơ
hồ, mong manh của trái tim lần đầu rung động trước người khác giới. Để tạo được
niềm say mê, thích thú cho độc giả, Nguyễn Nhật Ánh đã rất quan tâm các yếu tố
nghệ thuật tự sự như: Kết cấu, cốt truyện, người kể chuyện, giọng điệu và ngôn ngữ
Truyện Nguyễn Nhật Ánh không có cấu trúc tự sự phức tạp. Do viết cho
thiếu nhi và tuổi mới lớn nên nội dung kể được chú ý hơn cách kể. Nguyễn Nhật
Ánh cũng hiếm khi tạo ra những vai kể khác thường mang đậm tính ẩn dụ (kiểu như
bào thai, người điên, con người tí hon… đóng vai trò kể chuyện trong nhiều tiểu
thuyết dành cho người lớn). Trong truyện Nguyễn Nhật Ánh, người kể chuyện hoặc
là tác giả ẩn tàng hoặc là tác giả hiển thị đều là hình tượng mang bóng dáng của
chính tác giả Nguyễn Nhật Ánh. Đặc biệt, nhà văn thường chọn cách kể từ ngôi thứ
nhất- người kể chuyện “tôi”, khiến cho truyện Nguyễn Nhật Ánh có tính chất hồi
ức. Ngay cả khi người kể là một nhân vật “tôi” được trao quyền kể chuyện (“tôi” có
khi là các em nh , các cô bé cậu bé tuổi mới lớn, có khi là chú chó Bêtô kể về thế
giới ngộ nghĩnh của các chú cún…) thì thấp thoáng đằng sau những cái “tôi” ấy vẫn
là bóng dáng của nhà văn. Tác giả như đã hóa thân vào thế giới trẻ thơ, nhìn vạn vật
bằng cái nhìn của trẻ thơ, thậm chí như sống cùng với các em nh để rồi kể chuyện
về thiếu nhi cho chính thiếu nhi. Nguyễn Nhật Ánh được coi như là người kể
chuyện mang điểm nhìn trẻ thơ, và trở thành người kể chuyện của thiếu nhi chính
bởi sự hóa thân, nhập vai khéo léo này.
Dẫu không quá chú ý đến cách kể, đến kĩ thuật dựng truyện, Nguyễn Nhật
97
Ánh vẫn có một “nghệ thuật” kể chuyện riêng. Cái hấp dẫn, cái “duyên” của truyện
Nguyễn Nhật Ánh chủ yếu nhờ vào sự hồn nhiên, tươi tắn ở ngôn ngữ, giọng điệu
trần thuật. Thông qua những trang văn dí d m với những chi tiết, tình huống bất
ngờ, thú vị Nguyễn Nhật Ánh đã làm sống dậy một “miền tuổi thơ” đáng yêu, đáng
nhớ trong cuộc đời của mỗi người. Đây là lí do khiến không chỉ thiếu nhi mà người
lớn cũng yêu thích truyện Nguyễn Nhật Ánh.
Có thể xem Nguyễn Nhật Ánh là người kể chuyện của thiếu nhi, nhưng là
một người lớn ngoái nhìn về tuổi thơ, dùng con mắt của tuổi thơ để kể chuyện. Điều
này khiến một số truyện của Nguyễn Nhật Ánh khó xếp vào văn học thiếu nhi.
Sự mở rộng biên độ này là bởi Nguyễn Nhật Ánh không có ý định giấu giọng tác
giả, “giọng người lớn” (ngay cả trong các truyện kể chỉ dành riêng cho thiếu nhi).
Xen giữa những lời kể mang cái nhìn trẻ thơ là những ngẫm nghĩ mang đậm chất
triết lí. Nhiều triết lí trong truyện là những nhắn nhủ của tác giả với thiếu nhi, và với
cả người lớn: “Nhìn thấy nắng sau những ngày mưa là một điều thú vị. Đôi khi
những triết lí “sặc mùi của lí thuyết” của các cô bé, cậu bé không che giấu hết quan
niệm của nhà văn nhưng những thông điệp được gửi gắm (nếu có) cũng chỉ mang
tính chất gợi ý, nhắc nhở chứ không trở thành những lời rao giảng, những luận đề.
Chất hài hước, dí d m khiến cái nhìn, giọng điệu người lớn của nhà văn Nguyễn
Nhật Ánh không bị “vênh lệch” với ý nghĩ, lời nói của trẻ em. Phải chăng nhờ vậy
mà truyện Nguyễn Nhật Ánh đã trở thành một hiện tượng văn học nói chung chứ
không bị giới hạn bởi ranh giới của văn học thiếu nhi.
Nguyễn Nhật Ánh không chỉ là tác giả dành cho trẻ em, hay tuổi mới lớn.
Sách của anh đến với hàng triệu độc giả, khiến mọi người say mê. Có hẳn một thế
hệ người đọc của Nguyễn Nhật Ánh. Họ lớn lên, lập gia đình và con cái của họ tiếp
tục yêu những trang viết của anh.
Nguyễn Nhật Ánh đã chở những dòng chảy dài năm tháng, làm tươi mát tâm
hồn học trò, xoa dịu niềm thương nhớ của người đọc đã qua tuổi thần tiên. Tìm đến
truyện của Nguyễn Nhật Ánh, suy ngẫm và trải nghiệm nghệ thuật tự sự của anh ta
luôn cảm thấy tâm hồn mình được thanh lọc để yêu đời và yêu cuộc sống hơn.
98
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Nhật Ánh (2008), Cho tôi xin một vé i tuổi thơ, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí
Minh.
2. Nguyễn Nhật Ánh (2010), Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí
Minh.
3. Nguyễn Nhật Ánh (2014), Chúc một ngày tốt ành, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
4. Nguyễn Nhật Ánh (2014), Bảy bước tới mùa hè, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
5. Nguyễn Nhật Ánh (2008), ính v n hoa, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
6. Nguyễn Nhật Ánh (2015), Tôi à Bêtô, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
7. Nguyễn Nhật Ánh (2002), Thằng qu nhỏ, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
8. Nguyễn Nhật Ánh (2009), Đảo mộng mơ, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
9. Nguyễn Nhật Ánh (1982), Trước vòng chung kết,Nxb. Măng non, Tp. Hồ Chí
Minh.
10. Nguyễn Nhật Ánh (1984), Thành phố tháng Tư (in chung với Lê Thị Kim), Nxb.
Măng non, Tp. Hồ Chí Minh.
11. Nguyễn Nhật Ánh (2002), H ỏ, Nxb. Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
12. Nguyễn Nhật Ánh (2013), C hai con mèo ngồi bên cửa số, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí
Minh.
13. Nguyễn Nhật Ánh (2013), Ngồi kh c trên cây, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
14. Nguyễn Nhật Ánh (2007), Chuyện xứ Lang Biang, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí
Minh.
15. Thái Phan Vàng Anh (2013), Nguyễn Nhật Ánh, người kể chuyện của thiếu nhi,
T p chí Nghiên cứu sáng tác phê bình văn h a, văn h c nghệ thuật, (số187), tr.
2-5.
99
16. A. Xâytlin (1968), Lao ộng nhà văn, tập 2, Nxb. Văn hóa.
17. Lê Huy Bắc (2015), Nguyễn Nhật Ánh hiệp sĩ của tuổi thơ, Nguyễn Nhật Ánh và
truyện thiếu nhi, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.39-49.
18. Nam Cao (tái bản 2014), Chí hèo, Nxb. Văn học.
19. Nam Cao (tái bản 2013), Đôi m t, Nxb. Văn học.
20. Nguyễn Minh Châu (2001), Truyện ngắn, Nxb. Văn học.
21. Nguyễn Du (2008), Truyện Kiều, Nxb. Văn học.
22. Văn Giá (2015), Nguyễn Nhật Ánh hiệp sĩ của tuổi thơ, Nxb. Đại học Quốc gia
Hà Nội.
23. Phan Cự Đệ (2008), Tiểu thuyết Việt Nam hiện i, Nxb. Giáo dục Việt Nam
24. Hà Minh Đức (Chủ biên), Lí uận văn h c, (tái bản, 2012), Nxb. Giáo dục Việt
Nam
25. G. N. Pospelov (1998), D n luận nghiên cứu văn h c, Trần Đình Sử-Lại
Nguyên n-Lê Ngọc Trà dịch, Nxb. Giáo dục Việt Nam.
26. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên, 1997), Từ iển
thuật ng văn h c, Nxb. Giáo dục Việt Nam.
27. Nguyễn Thái Hòa (2000), Nh ng vấn ề thi pháp của truyện, Nxb. Giáo dục Việt
Nam
28. Tô Hoài, V chồng A Phủ, Ngữ Văn 12, Nxb. Giáo dục Việt Nam.
29. Tô Hoài (tái bản 2014), Dế èn phiêu ưu ký, Nxb. Kim Đồng.
30. Nguyên Hồng (1985), Nh ng ngày thơ ấu, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội
31.Nguyễn Thị Thúy Hằng (Trường PTTH u Lạc, thành phố Hồ Chí Minh),
Nguyễn Nhật Ánh hiệp sĩ của tuổi thơ, Tâm hồn tuổi thơ trên trang sách Nguyễn
Nhật Ánh, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 70-74
32. J.K.Rwling (2007), Harry Potter 7, Lý Lan dịch, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh
33. Hongloan1103@gmail.com,http://hongloan1103.blogspot.com/2013/10/
ngoi-khoc-tren-cay-truyen-dai-cua.html.
34.Trần Đăng Khoa (2009), Lá bùa của nhà ảo thuật, Báo Lao ộng cuối tuần (số
6), tr.8-10.
100
35. Lê Minh Khuê, Báo Tiền phong, http://baotienphong.com.vn.
36. Cao Kim Lan, “Lý thuyết về iểm nhìn nghệ thuật của R.scholes và .
Kellogg”.http://khoanguvan.com.vn/nghien-cuu/ly-luan-va-phe-binh-van-
hoc/315-2015-01-10-11-37-12.html.
37. Phong Lê (1984), Trên hành trình bốn mươi năm văn xuôi, Ngôn ng và gi ng
iệu, TCVN (số 5-6).
38. Lê Phương Liên, Văn xuôi và tuổi trẻ, http://vanxuoivatuoitre.com.vn.
39. Phương Lựu (chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam (2006), Lí uận văn
h c, Nxb. Giáo dục Việt Nam.
40. wwwLazada.vn.
41. Lã Thị Bắc Lý (2015), Nguyễn Nhật Ánh hiệp sĩ của tuổi thơ, Nguyễn Nhật
Ánh người gi ửa cho văn h c thiếu nhi,Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.
14-28.
42. M. Gorki (1970), Bàn về văn h c, Nxb. Văn học.
43. M.H. Abrahams (2014), Từ iển thuật ng văn h c - A Glossary of Literature
terms, Nxb. Giáo dục Việt Nam.
44. Nguyễn Đăng Mạnh (2006), Con ường i vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,
Nxb Giáo dục Việt Nam
45. Lê Minh Quốc (2012), Nguyễn Nhật Ánh – Hoàng tử trong thế giới tuổi thơ,
Nxb. Kim Đồng.
46. Trần Đình Sử (Chủ biên), (2008), Tự sự h c - Một số vấn ề í uận và ịch sử,
(tập 1) Nxb. Đại học Sư phạm Hà Nội.
47. Trần Đình Sử (Chủ biên) (2008), Tự sự h c - Một số vấn ề í uận và ịch sử, (tập
2) Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
48. Trần Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam, Lý uận văn h c, (tập 2)
(1987). Nxb. Giáo dục Việt Nam.
49. Lê Thời Tân (2014), Giáo trình d n uận tự sự h c, Nxb. Đại học Quốc gia Hà
Nội.
101
50. Bùi Việt Thắng (2007), Truyện ng n nh ng vấn ề về ý thuyết và thực tiễn thể lo i,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
51. Nguyễn Đình Thi (1998), Cái tết của mèo con, Văn học 6, Nxb Giáo dục Việt
Nam.
52. Nguyễn Huy Tưởng (1941), Vũ Như Tô, Ngữ Văn 11, Nxb Giáo dục Việt
Nam.
53. Trần Mạnh Thường (2003), Từ iển tác gia Văn h c Việt Nam thế k XX,
Nxb Giáo dục Việt Nam.
54. Ngô Tất Tố (Tái bản 2014), T t èn, Nxb Văn học.
55. Dương Thành Truyền (Chủ tịch Hội đồng thành viên Nhà xuất bản Trẻ),
Thanh niên diễn àn Hội thanh niên Việt Nam,http://thanhniendiendan.
56. Bùi Thanh Truyền (2015), Nguyễn Nhật Ánh hiệp sĩ của tuổi thơ, nh hưởng
của truyện Nguyễn Nhật Ánh ối với ộc giả trẻ ở thành phố Hồ Chí inh hiện
nay, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 169-187.
57. http://Nxb.tre.com.vn,Chúc một ngày tốt ành -Tác ph m mới nhất của Nguyễn
Nhật Ánh.
58. http://123doc.org/document/2436848-gia-tri-noi-dung-va-nghe-thuat-cua-tac-
pham-cho-toi-xin-mot-ve-di-tuoi-tho-cua-nguyen-nhat-anh.
59. http://vannghequandoi.com.vn, Bình uận văn nghệ quân ội.
60. VictorHuygo (2010), Nhà thờ ức bà ari, Nhị Ca dịch, Nxb. Văn học.
61. Nguyễn Thị Thanh Xuân (1996), Văn nghệ thành phố Hồ Chí inh, (số 273), tr
3-4.
62. Y.Banama (2007), Tugumi, Vũ Hoa dịch, Nxb. Hội Nhà văn - Công ty Nhã
Nam.
102