BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ------------------------- Nguyễn Thái Liên Chi NGHIÊN CỨU ĐỊA DANH TỈNH ĐỒNG NAI
Chuyên ngành : Ngôn ngữ học Mã số
: 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. LÊ TRUNG HOA
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu địa danh là một lĩnh vực không mới với thế giới nhưng lại khá mới
mẻ với nước ta. Những bí ẩn của ngành địa danh học cùng với niềm háo hức muốn
khám phá vẻ đẹp của quê hương dưới góc nhìn ngôn ngữ học thông qua hệ thống
địa danh của tỉnh khiến tôi mạnh dạn đăng ký làm luận văn với đề tài: “Nghiên cứu
địa danh tỉnh Đồng Nai”.
Qua đây, tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến PGS. TS. Lê Trung Hoa - giảng viên
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh - đã tận tâm chỉ
bảo cho tôi từng li từng tí một trong quá trình thực hiện luận văn và cung cấp cho
tôi nhiều tài liệu khoa học quý báu.
Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô thuộc ngành Ngôn ngữ học, trường Đại
học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh đã giảng dạy và truyền cho tôi những kiến thức sâu
sắc, hướng dẫn cho tôi về cách thực hiện luận văn tốt nghiệp một cách nhiệt tình.
Cảm ơn phòng Sau Đại học trường Đại học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh đã tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu luận văn.
Cảm ơn UBND tỉnh Đồng Nai, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Đồng
Nai, Ban Tôn giáo và ban Dân tộc tỉnh Đồng Nai đã giúp đỡ tôi trong việc tìm kiếm
những tư liệu cần thiết để hoàn thành nội dung luận văn.
Cảm ơn ông Nguyễn Thành Trí - Giám đốc Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch
tỉnh Đồng Nai đã hỗ trợ cho tôi một số tư liệu về địa danh; và xin cảm ơn gia đình,
bạn bè, đặc biệt là người cha kính yêu của tôi đã ủng hộ về tinh thần lẫn vật chất
giúp tôi hoàn thành luận văn.
Vẫn còn nhiều thiếu sót trong luận văn này, vì vậy, kính mong quý thầy cô tiếp
tục chỉ dẫn để luận văn đạt kết quả tốt. Xin chân thành cảm ơn!
Biên Hòa, ngày 3 tháng 8 năm 2009
Nguyễn Thái Liên Chi
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. Ký hiệu
- [x, tr.y]: x là tên tác phẩm, tài liệu trích dẫn ghi theo số thứ tự trong phần Tài
liệu tham khảo ở cuối luận văn, tr.y là số trang. Trường hợp tác phẩm có từ hai
trang trở lên thì số trang được ngăn cách với nhau bằng dấu gạch ngang. Ví dụ: [99,
tr.14], [59, tr.14-15].
- → : biến đổi thành.
- / / : phiên âm âm vị học.
- [ ] : phiên âm ngữ âm học.
2. Quy ước về cách viết tắt
- BH : thành phố Biên Hòa.
- cf : dẫn theo tác giả.
- CM : huyện Cẩm Mỹ.
tỉnh Đồng Nai. - ĐN :
- ĐQ : huyện Định Quán.
- LT : huyện Long Thành.
- NT : huyện Nhơn Trạch.
- TB : huyện Trảng Bom.
- TN : huyện Thống Nhất.
- TP : huyện Tân Phú.
- TT : thị trấn.
- TXLK : thị xã Long Khánh.
- VC : huyện Vĩnh Cửu.
- XL : huyện Xuân Lộc.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Địa danh là một bộ phận đặc biệt của từ vựng, có nguồn gốc và ý nghĩa riêng,
nằm trong đối tượng của bộ môn từ vựng học. Bên cạnh việc nhận biết, hiểu rõ
những đặc điểm ngôn ngữ trong các phương thức cấu tạo của hàng loạt tên gọi, địa
danh còn cung cấp nguồn tư liệu quý giá cho nhiều ngành khoa học khác như dân
tộc học, địa lý học, lịch sử học, khảo cổ học, văn hóa học… Vì vậy, công việc
nghiên cứu địa danh có ý nghĩa và có giá trị rất lớn.
Giống như một “đài kỷ niệm”, nghiên cứu địa danh có thể giúp phác thảo
được bức tranh toàn cảnh về sự ra đời của một tộc người, một dân tộc; về sự giao
thoa, tiếp xúc, bảo lưu những giá trị lịch sử, văn hóa của một địa bàn trong những
giai đoạn, thời kỳ khác nhau. Không những góp phần phản ánh đời sống ngôn ngữ,
nghiên cứu địa danh còn phản ánh những biểu hiện của sự biến đổi và phát triển
tiếng Việt.
Địa danh ở Đồng Nai cũng mang những đặc điểm chung đó. Trên bước đường
hình thành và phát triển, vùng Đồng Nai đã sản sinh ra những tên đất, tên làng xóm
tạo thành một hệ thống địa danh phản ánh những nét đặc trưng của vùng đất “gian
lao mà anh dũng”. Theo quy luật tất yếu của cuộc sống, nhiều tên gọi vẫn tồn tại
bền vững mặc bao thăng trầm của lịch sử nhưng cũng có những địa danh ít được
nhắc tới hoặc bị trôi vào quên lãng. Quá trình khảo sát, sưu tầm, phân tích, giải
thích địa danh tỉnh Đồng Nai giúp chúng tôi hiểu rõ hơn về lịch sử, văn hóa, địa
hình, những di tích, thắng cảnh… của địa phương. Bên cạnh đó, nghiên cứu địa
danh tỉnh Đồng Nai còn nhằm bổ sung một phần tư liệu cho ngành địa danh học của
Việt Nam - vốn chưa có một công trình nghiên cứu về toàn bộ địa danh cả nước.
Sự phong phú, đa dạng của địa danh tỉnh Đồng Nai đã thu hút sự quan tâm
của khá nhiều người trong và ngoài tỉnh thể hiện qua nhiều công trình, bài viết khác
nhau. Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu địa danh ở Đồng
Nai dưới góc độ ngôn ngữ. Dẫu biết rằng đây là một đề tài không đơn giản, còn
nhiều vấn đề lý luận phức tạp, nhiều ý kiến chưa thống nhất, nhưng với mong muốn
được thỏa mãn những thắc mắc bấy lâu nay về những cái tên rất gần gũi với nơi
mình sinh sống, và trên hết là góp một phần nhỏ nhoi về những tiền đề lý luận và
thực tiễn trong việc nghiên cứu địa danh nói chung, nên chúng tôi chọn đối tượng
này để nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Nghiên cứu địa danh ở Việt Nam
Ở nước ta, giai đoạn phôi thai, có một số bộ sách sử, địa chí ghi chép và giải
thích nhiều địa danh, nhưng chủ yếu chỉ giải thích địa danh ở góc độ địa lý - lịch sử
hay dưới một góc độ nào đó. Những tác phẩm nổi bật là Dư địa chí (soạn năm
1435) của Nguyễn Trãi, Đại Việt sử ký toàn thư (thế kỷ XV) của Ngô Sĩ Liên, Ô
châu cận lục (1553) của Dương Văn An, Phủ biên tạp lục (1776) của Lê Quý Đôn,
Hoàng Việt nhất thống dư địa chí (1806) của Lê Quang Định, Lịch triều hiến
chương loại chí (soạn trong 10 năm 1809 - 1819) của Phan Huy Chú, Gia Định
thành thông chí (1820) của Trịnh Hoài Đức, Đại Nam nhất thống chí (soạn xong
năm 1882) của Quốc sử quán triều Nguyễn, Nomenclature des communes du Tonkin
(classées par cantons, phu, huyen ou chau et par provinces) (Tự vựng làng xã ở Bắc
Kỳ) (1928) do Ngô Vĩ Liên biên soạn và cuốn Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX
(thuộc các tỉnh từ Nghệ An trở ra) do Dương Thị The và Phạm Thị Thoa dịch và
biên soạn (1981).
Có thể xem giai đoạn hình thành của địa danh học Việt Nam bắt đầu từ những
năm 60, khi mà các vấn đề liên quan đến địa danh và lý luận về địa danh đã được sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khác nhau như lịch sử, địa lý,
văn hóa, ngôn ngữ… Tác giả Thái Văn Kiểm tiếp cận địa danh ở góc độ lịch sử -
văn hóa trong tác phẩm Đất Việt trời Nam (1960). Đào Duy Anh sử dụng phương
pháp nghiên cứu địa lý học lịch sử trong tác phẩm Đất nước Việt Nam qua các đời
(1964) đã xác lập, phân định lãnh thổ và từng khu vực, bàn về quá trình diên cách,
thay đổi địa danh trong lịch sử… Người đầu tiên nghiên cứu địa danh dưới góc độ
ngôn ngữ học là Hoàng Thị Châu với bài Mối liên hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông
Nam Á qua một vài tên sông (1964). Hai tác giả Trần Thanh Tâm trong bài Thử bàn
về địa danh Việt Nam (1976) và Nguyễn Văn Âu trong Một số vấn đề về địa danh
học ở Việt Nam (2000) đã nêu một số vấn đề cơ bản về địa danh và địa danh học
Việt Nam.
Ngoài những công trình trên, còn có thể kể đến những tác phẩm có liên quan
đến địa danh học như Đinh Văn Nhật với Phương pháp vận dụng địa danh học
trong nghiên cứu địa lý học, lịch sử cổ đại Việt Nam (1984); Sự hình thành và diễn
biến của các tên làng người Việt cho đến năm 1945 (1987) của Bùi Thiết; Nguyễn
Quang Ân với Việt Nam, những thay đổi địa danh và địa giới các đơn vị hành chính
1945-1997 (1997)…
Nổi cộm nhất trong giai đoạn hình thành là sự xuất hiện của những luận án
nghiên cứu địa danh học ở Việt Nam xuất phát từ bình diện ngôn ngữ học và sự ra
đời của nhiều từ điển địa danh.
Với luận án Phó Tiến sĩ Những đặc điểm chính của địa danh ở thành phố Hồ
Chí Minh (1990) và sau đó in thành sách Nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu
địa danh (địa danh thành phố Hồ Chí Minh) (1991), tác giả Lê Trung Hoa đã trình
bày khá hệ thống những vấn đề về địa danh mang tính thiết thực bao gồm định
nghĩa địa danh, nguyên tắc, phân loại địa danh, phương thức đặt địa danh, cấu tạo
địa danh, ý nghĩa và nguồn gốc địa danh, giá trị phản ánh hiện thực.
Tác giả Nguyễn Kiên Trường đã vận dụng những lý luận cơ bản của địa danh
học hiện đại để hoàn thành luận án Phó Tiến sĩ Những đặc điểm chính của địa danh
Hải Phòng (sơ bộ so sánh với một số vùng khác) (1996). Luận án đưa ra cách phân
loại địa danh theo chức năng giao tiếp và hệ quy chiếu đồng đại - lịch đại, một nét
mới trong nghiên cứu địa danh.
Ngoài hai luận án trên, Lê Trung Hoa và Nguyễn Kiên Trường còn có hàng
loạt bài viết trình bày cụ thể về địa danh của một số địa phương khác hay những
khía cạnh khác trong nghiên cứu địa danh. Chẳng hạn như Lê Trung Hoa với Tìm
hiểu ý nghĩa và nguồn gốc một số thành tố chung trong địa danh Nam Bộ (1983),
Tìm hiểu ý nghĩa và nguồn gốc chung “Cái” trong địa danh Nam Bộ (1988), Địa
danh bằng chữ và địa danh bằng số (1999), Chung quanh thuật ngữ “địa danh”
(2000), Nghĩ về công việc của người nghiên cứu địa danh và biên soạn từ điển địa
danh (2000), Những nguyên nhân làm thay đổi và sai lệch một số địa danh Việt
Nam trong tiếng dân tộc (2002), Địa danh hành chính ở Việt Nam (2002), Địa danh
học Việt Nam (2006)… Một số bài viết của Nguyễn Kiên Trường đó là Vài suy nghĩ
về việc khảo sát hệ thống tên riêng địa lý ở Việt Nam (1993), Tìm hiểu về địa danh
học (1994), Thử tìm hiểu sự bảo lưu tên Nôm làng xã dưới góc độ ngôn ngữ và văn
hóa (1994), Vài vấn đề liên quan đến công tác thống nhất hóa cách ghi địa danh ở
Việt Nam (1995), Địa danh biên giới Tây nam và những dữ liệu cơ bản để nghiên
cứu, hoạch định, xây dựng đường biên (1996)…
Gần đây là hai luận án tiến sĩ của Từ Thu Mai Nghiên cứu địa danh Quảng Trị
(2003) và Những đặc điểm chính của địa danh Dak Lăk (2005) của Trần Văn Dũng;
cùng với hai luận văn thạc sĩ: Văn hóa qua địa danh Việt ở tỉnh Đồng Nai (2006)
của Võ Nữ Hạnh Trang, và Những đặc điểm chính của địa danh ở Vĩnh Long (sơ bộ
có so sánh với địa danh một số vùng khác) (2008) của Nguyễn Tấn Anh.
Bên cạnh đó là bốn cuốn từ điển địa danh đáng chú ý: Sổ tay địa danh Việt
Nam (1995) của Đinh Xuân Vịnh, Sổ tay địa danh Việt Nam (1998) của Nguyễn
Dược - Trung Hải, Từ điển bách khoa địa danh Hải Phòng (1998) do Ngô Đăng Lợi
chủ biên và Từ điển địa danh thành phố Sài Gòn - Hồ Chí Minh (2003) do Lê Trung
Hoa chủ biên.
Như vậy, tính đến thời điểm hiện nay, các công trình về địa danh học ở nước
ta đã xác lập được cơ sở lý luận, cũng như đối tượng và phương pháp nghiên cứu
địa danh.
2.2. Nghiên cứu địa danh ở Đồng Nai
Nhìn chung, các công trình viết về những địa danh ở Đồng Nai không nhiều.
Một số công trình thiên về việc giải thích những địa danh như cù lao Phố, Đồng
Nai… Những địa danh khác cũng được nhắc đến nhưng còn sơ sài. Có thể kể ra một
số tác phẩm sau đây:
Cuốn sách xưa nhất đề cập đến địa danh ở Đồng Nai là Phủ biên tạp lục
(1776) của Lê Quý Đôn. Tác giả đã đồng nhất đất Đồng Nai với cả vùng Nam Bộ.
Tác phẩm thứ hai là Gia Định thành thông chí (1820) của Trịnh Hoài Đức đã giải
thích nguồn gốc địa danh núi Nữ Tăng (tục danh núi Thị Vãi ở Long Thành) và Đại
phố Châu (tục danh cù lao Phố ở Biên Hòa).
Năm 1875, Trương Vĩnh Ký trong Petit cours de géographie de la Basse
Cochinchine (Tiểu giáo trình địa lý Nam Kỳ) giới thiệu một số khái niệm lịch sử về
Nam Kỳ xưa. Trong đó, tác giả hệ thống hóa địa lý hành chính Nam Kỳ vào thế kỷ
XIX và đưa ra bảng so sánh giữa tục danh và tên chữ Hán của tỉnh Biên Hòa qua
các địa danh về hải khẩu, sông rạch, cù lao và núi non bên cạnh những tỉnh khác.
Đại Nam nhất thống chí (biên soạn xong năm 1882) của Quốc sử quán triều
Nguyễn cũng nhắc đến và giải thích một số địa danh của tỉnh Biên Hòa như tên núi
(núi Đất, núi Đỏ, núi Kí Sơn…), tên sông (sông Phước Long, sông Bối Diệp, sông
Thất Kỳ…), tên chợ (chợ Lộc Dã, chợ Bình Thảo, chợ Thiết Tượng…), tên cầu (cầu
Vạc, cầu Tân Bản, cầu Ván…). Còn Nguyễn Siêu trong Phương Đình dư địa chí
(1960) nêu lý giải mới về Biên Hòa.
Lương Văn Lựu qua tác phẩm Biên Hòa sử lược toàn biên (1960 - 1972) gồm
5 tập đã giới thiệu một cách khái quát lịch sử, địa lý, nhân vật ở tỉnh Đồng Nai từ
trước đến nay, trong đó tác giả có đưa ra và giải thích một số địa danh ở Đồng Nai.
Trong Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn - Biên Hòa (Đồng Nai, Sông Bé, Bà
Rịa, Vũng Tàu) (1994), Nguyễn Đình Đầu trình bày những thay đổi về địa danh
hành chính của tỉnh Đồng Nai (khi ấy còn gọi là trấn Biên Hòa, rồi đến tỉnh Biên
Hòa) từ năm 1808 đến năm 1994. Tác giả đã thống kê những địa danh làng bắt đầu
bằng những chữ như An, Bình, Chánh, Hưng, Long… và giải thích ý nghĩa của
chúng.
Tại cuộc hội thảo “Biên Hòa 300 năm” (6/1997), hai tác giả Đỗ Quyên với bài
viết Danh xưng Đồng Nai trong Miền Đông Nam Bộ lịch sử và phát triển và Lê
Trung Hoa trong tham luận Nguồn gốc, ý nghĩa và quá trình phát triển của địa danh
Đồng Nai đã giải thích về xuất xứ và nguồn gốc của địa danh Đồng Nai khá thuyết
phục.
Vương Hồng Sển trong Tự vị tiếng Việt miền Nam (1993) nói đến khá nhiều
địa danh xưa ở Đồng Nai như núi Lò Thổi, rạch Nước Lộn, suối Đồng Heo… và
giải thích một số tên gọi như rạch Đông, rạch Bà Ký, cù lao Phố…
Một số công trình khác đề cập đến những địa danh ở Đồng Nai như Huỳnh
Ngọc Trảng với bài vè Các đường sông lục tỉnh (1998), Bùi Đức Tịnh với Lược
khảo nguồn gốc địa danh Nam Bộ (1999)… Gần đây là cuốn Truyện kể về đất nước
và con người Đồng Nai (1996) của Nguyễn Yên Tri, Nhớ Biên Hòa (2005) của
Khôi Vũ, Biên Hòa sử lược diễn ca (2005) của Đinh Quang Dữa…
Ngoài những công trình kể trên, còn có một số bài báo, hay sách địa chí cũng
đề cập đến địa danh ở Đồng Nai và một vài địa danh khác.
Như vậy, cho đến nay, vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách
hệ thống về khía cạnh ngôn ngữ của địa danh tỉnh Đồng Nai. Hiện tại chỉ có công
trình nghiên cứu địa danh ở Đồng Nai về mặt văn hóa của tác giả Võ Nữ Hạnh
Trang (luận văn Thạc sĩ, 2006). Vì vậy, nghiên cứu địa danh tỉnh Đồng Nai về mặt
ngôn ngữ hiện nay là điều cần thiết phải làm.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là toàn bộ hệ thống địa danh tỉnh Đồng
Nai. Luận văn sẽ tập trung khảo sát tên gọi các đối tượng địa lý tồn tại trên địa bàn.
Cụ thể đó là địa danh chỉ các đối tượng tự nhiên hay còn gọi là địa danh chỉ địa hình
(núi, đồi, gò, sông, rạch…), địa danh chỉ các công trình xây dựng (cầu, đường, bến
phà, bến đò, chợ…), địa danh hành chính (thành phố, thị trấn, thị xã, phường, xã,
ấp…), địa danh vùng (khu công nghiệp, giáo xứ…).
Về phạm vi nghiên cứu, luận văn chủ yếu mô tả, khảo sát những địa danh về
mặt ngôn ngữ trên diện đồng đại và bước đầu tìm hiểu về một số nguồn gốc và ý
nghĩa của địa danh thuộc vùng dân tộc thiểu số trên địa bàn Đồng Nai.
4. Mục đích nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi tập trung tìm hiểu về phương thức đặt địa danh,
phương thức cấu tạo, những chuyển biến về mặt ngữ âm, ngữ nghĩa, cũng như một
số nguồn gốc, ý nghĩa của địa danh tỉnh Đồng Nai. Nội dung được trình bày một
mặt mô tả những địa danh thuần Việt, Hán Việt, địa danh dân tộc thiểu số và ngoại
lai nhằm minh họa thêm một số vấn đề có tính chất lý luận về địa danh học; một
mặt làm sáng rõ những giá trị phản ánh hiện thực của địa danh. Qua đó, thấy được
mối quan hệ giữa địa danh học với các ngành khoa học khác như địa lý học, khảo cổ
học, văn hóa học, nhân chủng học, xã hội học, dân tộc học…
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thu thập và xử lý tư liệu
Thu thập tư liệu là công việc đầu tiên của người nghiên cứu địa danh. Tư liệu
chúng tôi thu thập được bao gồm nhiều nguồn tư liệu khác nhau.
5.1.1. Tư liệu lưu trữ hành chính từ trước đến nay của các tỉnh, thành phố,
huyện, xã, ấp… Tư liệu này tồn tại dưới dạng các công báo, niên giám, tác phẩm,
hoặc có thể là văn bản đánh máy, viết tay của các viên chức địa phương còn lưu trữ
lại. Những tư liệu này có tính pháp lý, tính chính xác cao, có thể cho biết sự ra đời,
biến đổi hoặc mất đi của các địa danh, nhất là địa danh hành chính.
5.1.2. Bản đồ các loại về địa hình, hành chính, kinh tế, quân sự… của tỉnh
Đồng Nai và các huyện thị trong tỉnh là tư liệu quý giúp cho việc xác định tọa độ, vị
trí, địa điểm của từng địa danh. Qua việc khảo sát bản đồ, chúng tôi phát hiện được
những loại địa danh nào xuất hiện nhiều ở địa bàn nào, từ đó xác định nguồn gốc, ý
nghĩa của từng nhóm địa danh đó. Việc đối chiếu các bản đồ qua từng thời điểm
khác nhau có thể giúp xác định được sự ra đời, chuyển biến của các địa danh về mặt
ngữ âm hay ngữ nghĩa. Có những địa danh cũ mất đi và có những địa danh mới xuất
hiện.
5.1.3. Các báo địa phương, sách địa phương chí về địa bàn, các bài báo viết về
địa phương, một số tác phẩm văn học viết về địa phương… giúp người nghiên cứu
địa danh đỡ mất thì giờ trong việc tìm hiểu địa danh. Đây là những tư liệu do chính
người địa phương viết hay người am hiểu về địa phương thực hiện.
5.1.4. Các sách lý luận về địa danh học và ngôn ngữ học cũng như nguồn tư
liệu từ các loại từ điển khác nhau rất cần thiết cho việc nghiên cứu địa danh. Sách
viết về ngôn ngữ học và địa danh học ở trong và ngoài nước là những nguồn tư liệu
cơ bản, cần thiết để giúp người nghiên cứu xác định đúng hướng và ít tốn thời gian
trong công việc của mình. Còn các từ điển viết về địa danh, từ điển từ cổ, từ điển
phương ngữ… giúp xác định được thời điểm và thời gian ra đời của các địa danh.
5.1.5. Tư liệu điền dã được người nghiên cứu quan sát, thu thập, ghi chép và
chọn lọc trong quá trình đi thực tế. Những tư liệu này phục vụ cho việc lập bảng
thống kê, phân loại từng nhóm địa danh và giúp giải thích nguồn gốc, ý nghĩa, thời
điểm ra đời cũng như những biến đổi của địa danh một cách chính xác.
5.2. Phương pháp thống kê, phân loại, miêu tả
Đây là phương pháp bắt buộc phải có khi bắt tay vào nghiên cứu địa danh và
cũng là phương pháp chủ yếu được vận dụng trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Dựa vào nguồn tư liệu đã được thu thập, chúng tôi tiến hành thống kê, phân loại và
miêu tả các địa danh để thấy rõ số lượng từng loại. Từ đó, có thể rút ra đặc điểm
riêng của từng loại và đặc điểm chung của địa danh toàn vùng. Chẳng hạn sau khi
thống kê, phân loại, chúng tôi chia địa danh thành các loại như địa danh chỉ địa
hình, địa danh chỉ công trình xây dựng, địa danh hành chính, địa danh thuần Việt,
địa danh Hán Việt… Trên kết quả phân loại, tiếp theo người nghiên cứu sẽ miêu tả
những phương thức định danh, cách cấu tạo địa danh, những chuyển biến của nó.
5.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu
5.3.1. So sánh, đối chiếu đồng đại
Phương pháp so sánh đối chiếu đồng đại là phương pháp tìm ra những nét
tương đồng và dị biệt của địa danh vùng này so với địa danh vùng khác. Chẳng hạn,
nếu như ở Vĩnh Long, yếu tố Cái xuất hiện nhiều trong địa danh thì ở Đồng Nai rất
khó tìm thấy địa danh mang yếu tố này (ngoại trừ hai di tích Cái Lăng và Cái Vạn
thuộc huyện Long Thành). Hoặc do sự khác biệt về địa lý mà Hải Phòng có nhiều
đối tượng địa lý ở vùng biển và ven biển (như biển, bãi biển, cửa biển, đá ngầm,
cát, bán đảo…) nhưng lại có ít từ chỉ sông nước. Còn ở Đồng Nai, sông rạch là chủ
yếu, điển hình là con sông Đồng Nai lớn nhất tỉnh và vì vậy mà cũng có nhiều từ chỉ
sông nước hơn so với Hải Phòng (như sông, rạch, bàu, vàm, lòng tắt, hóc, tắt…).
5.3.2. So sánh, đối chiếu lịch đại
Sử dụng phương pháp này để xác định nguồn gốc và ý nghĩa ban đầu của địa
danh, tức là quan tâm đến mặt ngữ âm của tiếng Việt và quy luật biến đổi của nó
trong lịch sử. Tuy nhiên, ở phương pháp này, chúng tôi chỉ chú ý đối với một số đối
tượng nhất định nếu có cứ liệu cụ thể.
Địa danh vốn mang trong mình nhiều mặt khác nhau về ngôn ngữ, văn hóa,
lịch sử, xã hội… vì vậy, nghiên cứu địa danh cần áp dụng phương pháp nghiên cứu
tổng hợp, liên ngành, đa ngành. Có như vậy, kết quả nghiên cứu mới đầy đủ, rõ ràng
và mang tính khoa học hơn.
6. Bố cục của luận văn
Luận văn chia làm ba phần. Ngoài phần dẫn luận và phần kết luận, phần chính
của luận văn có bốn chương:
Chương 1: Những tiền đề lý luận và thực tiễn
Chương 2: Cấu tạo địa danh tỉnh Đồng Nai
Chương 3: Đặc điểm về mặt chuyển biến
Chương 4: Nguồn gốc - ý nghĩa của một số địa danh ở Đồng Nai và giá trị
phản ánh hiện thực.
Chương 1
NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Những tiền đề lý luận
1.1.1. Định nghĩa
Theo tác giả An Chi thì Toponymie là một danh từ của tiếng Pháp hiện đại, có
nghĩa là địa danh học. Đây là một từ phái sinh bằng hậu tố “-ie” từ danh từ
toponyme, có nghĩa là địa danh. Toponyme gồm hai hình vị căn tố (top(o) và onyme)
bắt nguồn từ hai danh từ Hy Lạp cổ là topos (có nghĩa là nơi chốn) và onoma (có
nghĩa là tên) [20, tr.47-48]. Vậy địa danh là gì? Có phải nó chỉ đơn giản được hiểu
là tên nơi chốn, hay tên các đối tượng địa lý hoặc tên đất?
Thực tế, vấn đề định nghĩa địa danh cho đến nay vẫn còn nhiều bàn cãi, không
thống nhất, mỗi nhà nghiên cứu đều tùy theo phương pháp tiếp cận mà đưa ra
những định nghĩa khác nhau. Dưới đây là một vài định nghĩa về địa danh của các
tác giả trong và ngoài nước.
“Địa danh là tên gọi các địa điểm được biểu thị bằng những từ riêng. Đó là các
tên gọi địa lý, địa danh hay toponymia” [98, tr.1]. Đây là định nghĩa của A. V.
Superanskaja. Bà giải thích “Những địa điểm, mục tiêu địa lý đó là những vật thể tự
nhiên hay nhân tạo với sự định vị xác định trên bề mặt trái đất, từ những vật thể lớn
nhất (các lục địa và đại dương) cho đến những vật thể nhỏ nhất (những ngôi nhà,
vườn cây đứng riêng rẽ) đều có tên gọi” [98, tr.13].
Theo G. M. Kert thì: “Địa danh là tên gọi được đặt cho các đối tượng địa lý, ra
đời trong một khu vực có người sinh sống, được tạo ra bởi một cộng đồng dân cư,
một tộc người. Chúng là một phần không thể thiếu được trong cuộc sống hàng ngày
và các hoạt động chính trị - xã hội ở nơi đó” (cf. Nguyễn Tấn Anh) [4, tr.16].
Tác giả cuốn [104, tr.11] cho rằng: “Địa danh của một vùng hay của một nước
là tổng thể các tên riêng đặt ra để gọi các đơn vị địa lý tự nhiên hay nhân văn của
vùng ấy hay nước ấy”.
Nhìn chung, các tác giả nước ngoài chỉ mô tả một cách khái quát địa danh và
xem địa danh là tên gọi các đối tượng địa lý.
Còn ở nước ta, một số nhà nghiên cứu cũng đã đưa ra định nghĩa về địa danh
theo cách hiểu của mình. Chẳng hạn như tác giả Nguyễn Văn Âu tiếp cận địa danh
theo góc độ địa lý - văn hóa và quan niệm: “Địa danh học (toponymie) là một môn
khoa học chuyên nghiên cứu về tên địa lý các địa phương” [6, tr.5], “Địa danh là tên
đất, gồm tên sông, núi, làng mạc… hay là tên các địa phương, các dân tộc” [5, tr.5].
Tác giả Bùi Đức Tịnh cho rằng: “Địa danh là một danh từ có nghĩa tổng quát
để chỉ tên gọi các loại vật thể tự nhiên được phân biệt về phương diện địa lý, các vị
trí cần phân biệt trong sinh hoạt xã hội và các đơn vị được xác định trong tổ chức
hành chính hay quân sự” [110, tr.10].
Tiếp cận từ góc độ ngôn ngữ học có các tác giả sau:
Hoàng Thị Châu định nghĩa: “Địa danh hay là tên địa lý (toponym,
geographical name) là tên vùng, tên sông, tên núi, là tên gọi các đối tượng địa hình
khác nhau, tên nơi cư trú, tên hành chính,… được con người đặt ra” [139].
Tác giả Lê Trung Hoa sau khi phân loại địa danh theo các đối tượng địa lý
(theo tiêu chí tự nhiên và không tự nhiên) và theo nguồn gốc ngữ nguyên của địa
danh, đã đưa ra định nghĩa như sau: “Địa danh là những từ hoặc ngữ, được dùng
làm tên riêng của các địa hình thiên nhiên, các đơn vị hành chánh, các vùng lãnh thổ
và các công trình xây dựng thiên về không gian hai chiều. Trước địa danh ta có thể
đặt một danh từ chung chỉ tiểu loại địa danh đó: sông Hương, huyện Mộ Đức
(Quảng Ngãi), vùng Ba Vì, thành phố Cần Thơ, đường Nguyễn Du…” [53, tr.18].
Trong luận án Phó Tiến sĩ khoa học ngữ văn năm 1996, Nguyễn Kiên Trường
viết: “Địa danh là tên riêng chỉ các đối tượng địa lý tự nhiên và nhân văn có vị trí
xác định trên bề mặt trái đất” [122, tr.16].
Từ Thu Mai hiểu địa danh theo cách hiểu của A. V. Superanskaja: Địa danh là
những từ ngữ chỉ tên riêng của các đối tượng địa lý có vị trí xác định trên bề mặt
trái đất. Mặc dù nằm trong hệ thống những loại hình khác nhau nhưng các đối tượng
địa lý bao giờ cũng xuất hiện trong thực tế với những cá thể độc lập [72, tr.19].
Trần Văn Dũng quan niệm: “Địa danh là tên gọi những đối tượng địa lý tự
nhiên và địa lý do con người kiến tạo” và “Các đối tượng do con người kiến tạo (có
thể gọi là địa lý nhân văn) bao gồm: địa lý nơi cư trú, địa lý chỉ các công trình xây
dựng” [30, tr.15].
Hoàng Tất Thắng với bài Địa danh học và việc nghiên cứu địa danh các tỉnh
Trung Trung Bộ, tác giả cho rằng: “Địa danh là tên gọi của địa hình thiên nhiên, các
công trình xây dựng, các đơn vị hành chính, các vùng lãnh thổ nào đó” [143].
Trong một số từ điển của nước ta, các tác giả thường giải thích địa danh theo
lối chiết tự có nghĩa là tên đất. Như Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh cho rằng địa
danh là “tên các miền đất (nom de terre)” [2, tr.268]. Hoàng Phê trong Từ điển tiếng
Việt cũng định nghĩa: “Địa danh là tên đất, tên địa phương” [85, tr.314].
Từ điển bách khoa Việt Nam giải thích: “Địa danh là tên gọi các lãnh thổ, các
điểm quần cư (làng, xã, huyện, tỉnh, thành phố), các điểm kinh tế (vùng nông thôn,
khu công nghiệp), các quốc gia, các châu lục, các núi, đèo, cao nguyên, thung lũng,
đồng bằng, châu thổ, sông, hồ, vũng, vịnh, biển, eo biển, đại dương có tọa độ địa lý
nhất định ghi lại trên bản đồ. Địa danh có thể phản ánh quá trình hình thành, đặc
điểm của các yếu tố địa lý tự nhiên và lịch sử với những nét đặc sắc về kinh tế, xã
hội của các lãnh thổ” [127, tr.780].
Rõ ràng, mỗi tác giả đều có cách hiểu, cách lý giải khác nhau về khái niệm địa
danh. Tuy nhiên, điều đầu tiên có thể thấy là khái niệm địa danh nếu chỉ hiểu theo
cách lý giải như trong Hán Việt từ điển hay Từ điển tiếng Việt thì quá đơn giản. Địa
danh không chỉ là tên gọi của các đối tượng địa lý, dùng riêng cho tên đất mà còn là
tên gọi của các đối tượng chỉ địa hình thiên nhiên, công trình xây dựng, các vùng
lãnh thổ…
Còn định nghĩa theo như Từ điển bách khoa Việt Nam lại không có tính khái
quát, tuy dài nhưng lại thiếu. Chẳng hạn thiếu tên các đơn vị hành chính như quận,
thôn, ấp…, tên các khu kinh tế như khu thương mại, khu du lịch…, tên các công
trình xây dựng như cầu, đường, công viên…
Nguyễn Văn Âu thì chỉ quan tâm đến các đối tượng tự nhiên. Thực ra, trong
địa danh, bên cạnh các đối tượng tự nhiên còn có các đối tượng nhân tạo chiếm một
tỉ lệ khá lớn.
Cách giải thích của Hoàng Thị Châu lại quá thiên về chức năng định danh
trong ngôn ngữ.
Định nghĩa của hai tác giả Trần Văn Dũng và Từ Thu Mai có nhiều nét tương
đồng với Nguyễn Kiên Trường.
Địa danh rất gần gũi với con người, do con người đặt ra, như vậy có địa danh
chỉ các đối tượng địa lý tự nhiên và nhân tạo. Ở đây, chúng tôi không đưa ra một
định nghĩa riêng về địa danh mà chấp nhận định nghĩa theo tiêu chí loại hình của tác
giả Lê Trung Hoa.
1.1.2. Đối tượng nghiên cứu của địa danh học
Địa danh học là một ngành của ngôn ngữ học, chuyên nghiên cứu ý nghĩa,
nguồn gốc và những biến đổi của địa danh. Bên cạnh đó, nghiên cứu địa danh học
còn cần phải chỉ ra được các phương thức đặt địa danh và phân tích cách cấu tạo địa
danh, phát hiện những nguyên nhân chi phối sự ra đời, hành chức và tiêu vong của
địa danh. Như vậy, đối tượng của địa danh học chính là địa danh.
Như đã trình bày ở trên, địa danh bao gồm các đối tượng tự nhiên và các đối
tượng nhân tạo.
Tuy nhiên, có một điểm cần lưu ý là đối với những tên đình, chùa, miếu, miễu,
nhà thờ, nhà hát, công ty, trường học, cơ quan, viện, khách sạn… chúng ta có nên
xem là địa danh hay không? Một số tác giả cho là có (như các tác giả trong Từ điển
bách khoa địa danh Hải Phòng, Từ điển Hà Nội - Địa danh) nhưng phần lớn, nhiều
nhà nghiên cứu lại không đồng tình với quan điểm này.
Thực ra, ngành từ vựng học có một ngành nhỏ là danh xưng học
(onomasiologie) chuyên nghiên cứu tên riêng chia ra ba nhánh nhỏ là nhân danh
học, hiệu danh học và địa danh học. Trong đó, nhân danh học chuyên nghiên cứu
tên riêng của con người gồm họ, tên chính, tên đệm, tự, hiệu, bút danh… Còn hiệu
danh học chuyên nghiên cứu tên các thiên thể, nhãn hiệu, biển hiệu, tổ chức… Địa
danh học cũng nghiên cứu tên riêng nhưng liên quan đến một vùng lãnh thổ nhất
định và có tính bền vững. Như đã nói ở trên, địa danh học chuyên nghiên cứu về
nguồn gốc, ý nghĩa và những chuyển biến của địa danh; tức là lấy những từ, ngữ
được dùng để đặt tên riêng của địa hình thiên nhiên, các đơn vị hành chính, các
công trình xây dựng, các vùng lãnh thổ về không gian hai chiều làm đối tượng
nghiên cứu. Điều này có nghĩa là giữa địa danh học và hiệu danh học có đối tượng
nghiên cứu khác nhau. Vì vậy, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả Lê Trung
Hoa rằng “Tên các công trình thiên về không gian hai chiều là địa danh (như tên
cầu, đường, công viên..), còn tên các công trình thiên về không gian ba chiều (như
tên chùa, nhà thờ, trường học, cơ quan…) là hiệu danh” [47, tr.14-15].
1.1.3. Phân loại địa danh
Để có thể giúp cho việc nghiên cứu địa danh diễn ra thuận lợi và đạt kết quả
cao, người ta thường tiến hành phân loại địa danh thành các kiểu, nhóm khác nhau.
Tuy nhiên, đây cũng là vấn đề phức tạp mà cho đến nay vẫn chưa có được một cách
phân loại thống nhất giữa các nhà nghiên cứu địa danh.
Các nhà nghiên cứu địa danh học phương Tây và Xô Viết thường phân loại địa
danh dựa trên hai tiêu chí ngữ nguyên và đối tượng.
Theo tài liệu của tác giả Lê Trung Hoa cung cấp [53, tr.9-11], thì hai nhà địa
danh học người Pháp là A. Dauzat và Charles Rostaing không phân loại địa danh
một cách cụ thể nhưng các tác giả đều chia địa danh thành nhiều loại dựa vào tiêu
chí ngữ nguyên. A. Dauzat trong cuốn La toponymie francaise đã chia địa danh làm
bốn phần: 1. Vấn đề những cơ sở tiền Ấn - Âu; 2. Các danh từ tiền La tinh về nước
trong thủy danh học; 3. Các từ nguyên Gô-loa - La Mã của vùng Auvergne và
Velay. Còn Charles Rostaing trong cuốn Les noms de lieux ngoài việc dựa vào ngữ
nguyên ông còn kết hợp với đối tượng địa lý để chia địa danh ra làm 11 loại: 1.
Những cơ sở tiền Ấn - Âu; 2. Các lớp tiền Xên-tích; 3. Lớp Gô-loa; 4. Những phạm
vi Gô-loa - La Mã; 5. Các sự hình thành La Mã; 6. Những đóng góp của tiếng Giéc
- manh; 7. Các hình thức của thời phong kiến; 8. Những danh từ có nguồn gốc tôn
giáo; 9. Những hình thái hiện đại; 10. Các địa danh và tên đường phố; 11. Tên sông
và núi.
Hai tác giả G. P. Smolicnaja và M. V. Gorbanevskij trong cuốn Toponimija
Moskvy chia địa danh làm bốn loại: 1. Phương danh (tên các địa phương); 2. Sơn
danh (tên núi, đồi, gò…); 3. Thủy danh (tên các dòng chảy, ao, vũng…); 4. Phố
danh (tên các đối tượng trong thành phố). Trong khi đó, A. V. Superanskaja với
Chto takoe toponimika? lại chia địa danh thành bảy loại: 1. Phương danh; 2. Thủy
danh; 3. Sơn danh; 4. Phố danh; 5. Viên danh (tên các quảng trường); 6. Lộ danh
(tên các đường phố); 7. Đạo danh (tên các đường giao thông trên đất, dưới đất, trên
nước, trên không). Như vậy, nhóm các tác giả Xô-viết này đã chia địa danh dựa vào
tiêu chí đối tượng mà địa danh biểu thị.
Nhìn chung cách phân loại địa danh của các tác giả nước ngoài vẫn còn thiếu
tính khái quát, chưa xác định rõ ràng tiêu chí phân loại.
Ở Việt Nam, Đặng Xuân Bảng (1828 - 1910) là người đã đề cập đến vấn đề
phân loại địa danh từ rất sớm qua cuốn Sử học bị khảo, phần Địa lý khảo. Sau đó,
tác giả Hoàng Thị Châu trong bài viết Về việc tìm sử liệu trong ngôn ngữ dân tộc
[16, tr.44-47] cũng nói đến việc phân loại địa danh thành hai hệ thống là tiểu địa
danh (gồm: tên thôn xóm, gò đồi, khe suối, đầm hồ…) và đại địa danh (gồm: tên lục
địa, đại dương, nước, vùng, thủ đô, thành phố, sông, biển…).
Năm 1976, Trần Thanh Tâm trong Thử bàn về địa danh Việt Nam [99, tr.60-
73] đã chia địa danh Việt Nam thành sáu loại: 1. Loại đặt theo địa hình và đặc điểm;
2. Loại đặt theo vị trí không gian và thời gian; 3. Loại đặt theo tín ngưỡng, tôn giáo,
lịch sử; 4. Loại đặt theo hình thái, đất đai, khí hậu; 5. Loại đặt theo đặc sản, nghề
nghiệp và tổ chức kinh tế; 6. Loại đặt theo sinh hoạt xã hội.
Tiếp theo là hai cuốn Nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu địa danh [50,
tr.24-27] và Địa danh học Việt Nam [53, tr.15-16] của Lê Trung Hoa. Dựa vào hai
tiêu chí tự nhiên/không tự nhiên (tức là theo đối tượng) và tiêu chí ngữ nguyên, tác
giả đã phân địa danh thành những loại sau:
Theo đối tượng gồm có: 1. Địa danh chỉ các đối tượng tự nhiên (còn gọi là địa
danh chỉ địa hình); 2. Địa danh chỉ các đối tượng nhân tạo gồm có ba loại: địa danh
chỉ các công trình xây dựng thiên về không gian hai chiều, địa danh hành chính và
địa danh vùng (không có ranh giới rõ ràng).
Theo ngữ nguyên gồm có: 1. Địa danh thuần Việt; 2. Địa danh Hán Việt; 3.
Địa danh bằng các ngôn ngữ dân tộc thiểu số (Chăm, Khmer, Ba Na, Ê Đê, Gia Rai,
Tày, Thái, Mường…); 4. Địa danh ngoại ngữ (chủ yếu là địa danh gốc Pháp, ngoài
ra còn có gốc Indonesia, Malaysia).
Nguyễn Văn Âu [5], [6] phân địa danh theo ba cấp: loại, kiểu và dạng. Trong
đó, có 2 loại (tự nhiên và kinh tế - xã hội), 7 kiểu (thủy danh, sơn danh, lâm danh,
làng xã, huyện thị, tỉnh, thành phố và quốc gia) và 12 dạng (sông ngòi; hồ đầm; đồi
núi; hải đảo; rừng rú; truông, trảng; làng, xã; huyện, quận; thị trấn; tỉnh; thành phố
và quốc gia).
Tác giả Nguyễn Kiên Trường phân loại địa danh Hải Phòng dựa vào ba tiêu
chí. Tiêu chí loại hình gồm nhóm địa danh chỉ đối tượng địa lý tự nhiên và nhóm
địa danh chỉ đối tượng địa lý nhân văn (gồm các tiểu nhóm: 1. nhóm địa danh cư trú
- hành chính và các địa danh gắn với hoạt động của con người, do con người tạo
nên; 2. nhóm địa danh đường phố và địa danh chỉ công trình xây dựng). Theo tiêu
chí nguồn gốc ngữ nguyên, tác giả chia địa danh thành các tiểu loại có nguồn gốc
khác nhau: nguồn gốc Hán Việt, nguồn gốc thuần Việt, nguồn gốc từ tiếng Pháp,
nguồn gốc từ phương ngữ Quảng Đông, nguồn gốc khác như Tày - Thái, Việt -
Mường…, nguồn gốc hỗn hợp và địa danh chưa xác định được nguồn gốc. Ngoài
ra, tác giả còn bổ sung thêm tiêu chí thứ ba là chức năng giao tiếp (biệt xưng, tự
xưng, giản xưng, tục xưng…) và theo hệ quy chiếu đồng đại - lịch đại (cổ, cũ, hiện
nay) [122, tr.41-50].
Tiếp thu ý kiến của những người đi trước, tác giả Trần Văn Dũng chia địa
danh Dak Lăk thành hai nhóm lớn: nhóm địa danh chỉ các đối tượng tự nhiên và
nhóm địa danh chỉ các đối tượng do con người kiến tạo (gồm hai loại nhỏ là địa
danh chỉ đối tượng nơi cư trú và địa danh chỉ các công trình xây dựng). Theo ngữ
nguyên, tác giả chia địa danh làm năm loại: 1. Loại địa danh gốc bản địa (đặt theo
cách và tiếng của các dân tộc thiểu số tại chỗ - các cư dân sống lâu đời trên địa
bàn); 2. Loại địa danh thuần Việt; 3. Loại địa danh Hán - Việt; 4. Loại địa danh gốc
khác; 5. Loại địa danh chưa xác định được nguồn gốc. Ngoài ra, xét về mặt ý nghĩa,
tác giả còn phân địa danh thành hai loại: loại địa danh có ý nghĩa rõ ràng và địa
danh mang tính võ đoán hoặc còn ý kiến bàn luận [30, tr.21-22].
Có thể thấy, cách phân loại của Hoàng Thị Châu và Trần Thanh Tâm chưa
mang tính cụ thể, rõ ràng, nhất là giữa phương thức đặt địa danh và cách phân loại.
Còn Nguyễn Văn Âu dựa vào đặc điểm địa lý - xã hội để phân loại nhưng trùng lặp,
rối rắm và thiếu tính lôgic. Trần Văn Dũng cho rằng các tổ chức cơ sở dưới phường,
xã, thị trấn như buôn, ấp đều không phải là đơn vị hành chính, vì vậy, tác giả không
dùng tiêu đề địa danh hành chính trong khi phân loại. Hơn nữa, tên gọi và cách đặt
tên gọi các điểm dân cư (dù là đơn vị hành chính hay không, dù là tên dân gian hay
tên do chính quyền đặt) đều có những đặc điểm cơ bản giống nhau. Thật ra, giữa địa
danh do dân gian đặt và các địa danh ghi trong văn bản nhà nước có điểm khác
nhau. Địa danh do dân gian đặt không xác định được ranh giới, diện tích và dân số.
Ngược lại, địa danh do chính quyền trung ương hay địa phương đặt có ranh giới rõ
ràng, có thể xác định được diện tích, dân số.
Cách phân loại địa danh của Lê Trung Hoa và Nguyễn Kiên Trường có nhiều
điểm đáng lưu ý, mang tính hợp lý, có tiêu chí rõ ràng có thể áp dụng cho mọi vùng
địa danh.
Dựa vào hai tác giả này, chúng tôi phân loại địa danh Đồng Nai theo hai tiêu
chí sau:
Theo đối tượng, dựa vào tiêu chí tự nhiên/không tự nhiên, có hai nhóm địa
danh: 1. Địa danh chỉ các đối tượng tự nhiên (địa danh chỉ địa hình); 2. Địa danh chỉ
các đối tượng nhân tạo. Ở nhóm thứ hai này, chúng tôi lại chia thành ba loại nhỏ
hơn là địa danh chỉ các công trình xây dựng thiên về không gian hai chiều (địa danh
chỉ công trình xây dựng); địa danh chỉ các vùng lãnh thổ không có ranh giới rõ ràng
(địa danh vùng) và địa danh chỉ các đơn vị hành chính (địa danh hành chính).
Theo ngữ nguyên, chúng tôi chia địa danh thành hai loại lớn: Địa danh thuần
Việt và địa danh không thuần Việt. Trong loại địa danh không thuần Việt, chúng tôi
lại chia nhỏ thành các tiểu loại: 1. Địa danh có nguồn gốc Hán Việt; 2. Địa danh có
nguồn gốc hỗn hợp; 3. Địa danh có nguồn gốc từ tiếng dân tộc thiểu số (như Chăm,
Khmer, Chơro, S’tiêng…); 4. Địa danh có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài (như địa
danh gốc Pháp, gốc Malaysia…); 5. Địa danh chưa xác định được nguồn gốc.
Ngoài hai tiêu chí chính như trên, trong quá trình khảo cứu, chúng tôi cũng
quan tâm đến những địa danh được dùng làm tên chính thức trong các văn bản hàng
ngày và những địa danh dân gian (tên nôm) do nhân dân tự đặt. Những địa danh dân
gian vốn trước đây không được thừa nhận trên văn bản nhưng lại được nhân dân sử
dụng hàng ngày một cách không chính thức; càng về sau, những địa danh này lại
càng giữ một vai trò quan trọng và trở thành chính thức.
Cũng có thể phân loại địa danh theo tiêu chí cũ/mới: 1. Tên cổ, tên cũ; 2. Tên
hiện nay.
1.2. Những tiền đề thực tiễn
1.2.1. Vài nét về lịch sử và địa giới hành chính tỉnh Đồng Nai
1.2.1.1. Lịch sử
Nếu lấy thời điểm năm 1698, năm mà Chưởng cơ Lễ thành hầu Nguyễn Hữu
Cảnh vâng lệnh chúa Nguyễn Phúc Chu vào xây dựng thiết chế hành chánh ở vùng
đất mới - vùng Đồng Nai làm cột mốc, thì tính đến nay, tỉnh Đồng Nai đã có số tuổi
là 311 năm. Tuy nhiên, qua các di chỉ tìm được ở Hàng Gòn, Dốc Mơ, Dầu Giây,
Cầu Sắt, Suối Linh, Bình Đa, Dốc Chùa, Cái Vạn… các nhà khảo cổ học và nhân
chủng học đã xác minh dấu tích của con người cổ trên đất Đồng Nai xuất hiện cách
đây hàng vạn năm. Từ hậu kỳ đồ đá mới, người Việt cổ từ miền gò đồi đã đi xuống
chinh phục lưu vực sông Đồng Nai và tạo dựng nền văn minh Đồng Nai.
Cũng giống như lịch sử khẩn hoang của người Việt ở Nam Bộ, vùng đất Đồng
Nai chỉ mới thực sự được khai phá khoảng vài ba trăm năm gần đây bởi những lưu
dân miền Thuận Quảng, Bắc Hà liều mình vượt biển tìm đất sống từ thế kỷ XVI.
Nguyên do là các tập đoàn vua quan Lê - Mạc rồi các chúa Trịnh - Nguyễn vì quyền
lợi ích kỷ của dòng họ đã gây ra nhiều trận đánh làm cho nhân dân khổ sở, điêu
đứng. Bên cạnh đó là nạn quan lại tham nhũng, các địa chủ lớn nhỏ bóc lột người
nông dân lao động quá mức nên nỗi khổ càng chồng chất. Vì vậy, vùng Đồng Nai
khi ấy đã tiếp nhận một làn sóng di cư của người dân miền Thuận Quảng, Bắc Hà
vào đất Đồng Nai sinh sống. Nơi đầu tiên mà các lưu dân này dừng chân là Mọi
Xoài (Mô Xoài) ở Bà Rịa và tiếp theo là nhiều nhóm người ngược sông Đồng Nai
đến khai phá vùng Long Thành, Bến Gỗ, Bình Đa, cù lao Phố, chợ Đồn…
Năm 1679, nhà Minh ở Trung Quốc sụp đổ. Nhóm người Hoa gồm Dương
Ngạn Địch, Huỳnh Tấn, Trần Thượng Xuyên không khuất phục nhà Thanh đã đem
50 chiến thuyền, 3.000 binh lính thân tín và gia quyến đến xin thuần phục chúa
Nguyễn ở Thuận Hóa. Chúa Nguyễn Phúc Chu đã thu nhận họ và cho vào khai
khẩn, mở mang vùng đất phương nam. Nhóm Dương Ngạn Địch, Huỳnh Tấn đến
Mỹ Tho (Tiền Giang). Nhóm người Hoa theo Trần Thượng Xuyên đầu tiên định cư
và buôn bán ở Bến Gỗ (nay thuộc xã An Hòa, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai),
nhưng sau xét thấy Đông Phố (còn gọi là Nông Nại Đại Phố, tức cù lao Phố ngày
nay) có vị trí thuận lợi hơn cho việc buôn bán, nên ông đã quyết định di chuyển cả
đoàn đến Đông Phố sinh sống.
Như vậy, những lưu dân người Việt đã kề vai sát cánh cùng các bà con dân tộc
bản địa Chơro, Mạ, S’tiêng và những người Hoa tị nạn biến vùng đất hoang trở
thành vùng đất sống.
Khi rừng hoang lùi dần, xóm làng ngày càng tăng thêm, thì tất yếu cần phải có
một tổ chức chính quyền chặt chẽ để dễ bề cai trị, bảo đảm an ninh cho dân chúng.
Sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, tập 2, viết: “Năm Mậu Dần
(1698), chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu sai ông Nguyễn Hữu Kính làm kinh lược
đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố (Giản Phố) ra làm dinh, làm huyện, lấy Đồng Nai
làm huyện Phúc Long và Sài Gòn làm huyện Tân Bình. Đặt Trấn Biên dinh (tức
Biên Hòa) và Phiên Trấn dinh (tức Gia Định) sai quan vào cai trị…” [64, tr.81]. Hai
huyện Phước Long và Tân Bình đều thuộc phủ Gia Định. Mỗi huyện gồm một số
tổng, mỗi tổng có nhiều xã hoặc làng. Mỗi đơn vị phủ, huyện, tổng, xã, làng đều cử
người đứng đầu. Chúa Nguyễn còn cho những người có vật lực ở Ngũ Quảng chiêu
mộ thêm người vào mở mang đất đai, đặt thôn làng, lân, ấp; chuẩn định thuế đinh
điền; lúc ấy, dân số của Trấn Biên và Phiên Trấn hơn 40.000 hộ. Người Hoa ở Trấn
Biên lập xã Thanh Hà, người Hoa ở Phiên Trấn lập xã Minh Hương.
Như vậy, huyện Phước Long lúc bấy giờ rất rộng bao gồm các tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu, Bình Dương và một phần tỉnh Bình Phước ngày nay.
Năm 1747, nhóm Hoa kiều Lý Văn Quang làm phản, tụ tập 300 người đánh
cướp dinh Trấn Biên, giết Nguyễn Cư Cẩn; Cai cơ Tống Phước Đại đánh dẹp, bắt
được Lý Văn Quang và đồng đảng 57 người, giải về Trung Quốc.
Năm 1776, quân Tây Sơn đánh chiếm thành Gia Định, trấn giữ đất Đồng Nai.
Trong hai năm 1782 và 1783, hai lần quân Tây Sơn đã đánh bại đoàn quân của
Nguyễn Ánh ở cửa sông Cần Giờ và sông Lòng Tàu
Tháng 9 năm 1787, châu Đại Phố (cù lao Phố) bị quân Tây Sơn chiếm đóng.
Nhân Tây Sơn bận đối phó với chúa Trịnh phía Bắc, Nguyễn Ánh với sự giúp
đỡ của Thiên Địa Hội (Trung Quốc) và súng đạn tàu đồng do Pigneaux de Béhaine
cầu viện từ phương Tây, Nguyễn Ánh khôi phục lực lượng, chiếm lại Trấn Biên
năm 1788; xây thành Bát quái ở Gia Định năm 1790; củng cố hệ thống phòng thủ,
tích trữ lương thực, lập đồn điền cày cấy ở Đồng Môn, Bà Rịa. Đến năm 1792,
Nguyễn Ánh hoàn toàn làm chủ đất Trấn Biên, Gia Định.
Sau khi chấm dứt nhà Tây Sơn (1802), Nguyễn Ánh lên ngôi vua, đổi phủ Gia
Định thành trấn Gia Định, Trấn Biên dinh thành Biên Hòa trấn.
Năm 1832 Lê Văn Duyệt mất. Nguyễn Văn Quế và bố chánh Bạch Xuân
Nguyên vốn có hiềm thù, dựng vụ án Lê Văn Duyệt. Vua Minh Mạng cho xiềng mộ
Lê Văn Duyệt, bãi bỏ chức tổng trấn, chia các trấn thành lục tỉnh. Tỉnh Biên Hòa có
từ đây.
Giận vì Lê Văn Duyệt bị ngược đãi, năm 1833 Lê Văn Khôi (con nuôi của Lê
Văn Duyệt) tạo phản chiếm thành Phiên An; mãi đến năm 1835, Lê Văn Khôi bệnh
mất, nhà Nguyễn mới dập tắt được cuộc binh biến, bắt giết cả thảy 1.831 người đem
chôn chung gọi là mả ngụy. Hai lần Lê Văn Khôi đánh chiếm Biên Hòa.
Như vậy, thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, dưới sự thống trị của triều đình
nhà Nguyễn, nước Việt Nam, trong đó có vùng Đồng Nai trở thành một miếng mồi
ngon cho thực dân Pháp đang rắp tâm chiếm đoạt.
Ngày 25 tháng 2 năm 1861, đại đồn Chí Hòa thất thủ, Nguyễn Tri Phương bị
thương, rút về Biên Hòa. Ngày 18 tháng 12 năm 1861, giặc Pháp chiếm Biên Hòa.
Mặc dù triều đình đã ký nhượng ba tỉnh miền Đông cho thực dân Pháp (Hòa
ước Nhâm Tuất, 1862) nhưng ở Biên Hòa - Đồng Nai, các sĩ phu yêu nước vẫn lãnh
đạo nhiều phong trào đấu tranh chống lại giặc Pháp dưới nhiều hình thức khác nhau.
Như cuộc đấu tranh của “Bình Tây đại nguyên soái” Trương Định, nghĩa sĩ Đoàn
Văn Cự xây dựng Bưng Kiệu thành căn cứ, chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang
(1905), hay như Trại Lâm Trung - Biên Hòa, một tổ chức yêu nước có vũ trang đã
mở cuộc tiến công đồng loạt vào các nhà làng, khám đường Biên Hòa, dinh chủ tỉnh
Biên Hòa giải thoát nhiều thanh niên bị thực dân Pháp cưỡng ép đi lính… Tuy vậy,
những cuộc nổi dậy đó đều bị dìm trong biển máu. Với tinh thần yêu nước mãnh liệt
lại gặp được những tư tưởng cách mạng vô sản của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, từ
những năm 1925, 1926 trở đi, nhân dân Biên Hòa Đồng Nai đã đứng dậy, với Phú
Riềng đỏ, với Bình Phước - Tân Triều bất khuất, cùng cả nước làm nên cách mạng
tháng tám - 1945 thành công.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, lịch sử Đồng Nai đã
ghi lại những biến cố trọng đại, những chiến công vang dội như các trận đánh ở La
Ngà (1-3-1948), ở cầu Bà Kiên, dọc các quốc lộ 1, 15, ở khám Tân Hiệp (2-12-
1956), ở Nhà Xanh (B.I.F) (7-7-1959), ở sân bay Biên Hòa (31-10-1964), Tổng kho
Long Bình (tháng 6, 10, 11, 12 - 1966; tháng 2-1967; 1968 và tháng 8-1972), chiến
thắng rừng Sác… Đặc biệt là với chiến dịch Xuân Lộc, giải phóng thị xã Long
Khánh tháng 4 năm 1975, quân và dân Đồng Nai đã đập tan nơi phòng thủ cuối
cùng của chính quyền Mỹ - ngụy ở hướng đông nam Sài Gòn, góp phần làm nên đại
thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
1.2.1.2. Địa giới hành chính
a. Giai đoạn 1698 - 1861
Địa giới hành chính của Đồng Nai được xác định kể từ năm 1698, khi Nguyễn
Hữu Cảnh theo lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong, thành lập dinh
Trấn Biên (huyện Phước Long) và dinh Phiên Trấn (huyện Tân Bình) thuộc phủ Gia
Định. Từ đó đến nay, hệ thống hành chính ấy đã nhiều lần thay đổi theo sự biến
thiên của lịch sử.
Dinh Trấn Biên là tiền thân của tỉnh Biên Hòa sau này. Còn huyện Phước
Long có 4 tổng (Bình An, Long Thành, Phước An và Tân Chánh), lúc bấy giờ là
vùng đất rộng lớn bao gồm các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Bà Rịa -
Vũng Tàu và một phần tỉnh Bình Thuận, các quận 2, 9, Thủ Đức, thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay.
Năm 1776, Đông Định Vương Nguyễn Lữ đánh bại chúa Nguyễn, trấn giữ đất
Đồng Nai, đổi dinh Trấn Biên thành Biên Trấn.
Đầu thế kỷ XIX (1802), dưới thời vua Gia Long, phủ Gia Định được đổi thành
trấn Gia Định.
Năm 1808, nhà Nguyễn đổi phủ Gia Định ra Gia Định thành, các dinh đổi ra
trấn, đơn vị hành chánh có tính quân quản cấp tỉnh. Dinh Trấn Biên đổi thành trấn
Biên Hòa (tức là tỉnh ở nơi bờ cõi không có xung đột). Huyện Phước Long thành
phủ Phước Long. Bốn tổng: Phước Chánh, Bình An, Long Thành, Phước An nâng
thành bốn huyện.
Đến đời Minh Mạng (1832), trấn đổi thành tỉnh - đơn vị hành chánh có tính
dân sự. Trấn Biên Hòa thành tỉnh Biên Hòa, gồm một phủ Phước Long và 4 huyện.
Miền đất Nam Bộ thời kỳ này có tên gọi là Nam Kỳ lục tỉnh, đó là các tỉnh: Biên
Hòa, Gia Định, Định Tường, Long Hồ (còn gọi là Vĩnh Long), An Giang và Hà
Tiên.
Năm 1837, ngoài phủ Phước Long, tỉnh Biên Hòa đặt thêm phủ Phước Tuy và
thêm hai huyện: Long Khánh (cắt từ một phần huyện Phước An cũ) và Ngãi An
(tách từ huyện Bình An cũ ra).
Năm 1838, phủ Phước Long có thêm huyện Phước Bình (cắt từ huyện Phước
Chánh và Bình An).
Năm 1851, bỏ 3 huyện: Phước Bình, Long Khánh và Ngãi An.
b. Giai đoạn 1861 - 1954
Sau hòa ước Nhâm Tuất (1862), Biên Hòa cùng với Gia Định, Định Tường trở
thành nhượng địa thuộc Pháp; thực dân Pháp nhiều lần thay đổi đơn vị hành chính
vì mục tiêu quân sự và khai thác thuộc địa, đến cuối năm 1899 mới tạm ổn định với
các tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Đồng Nai Thượng được thành lập từ địa
bàn tỉnh Biên Hòa cũ.
Năm 1863, công báo Pháp ghi tỉnh Biên Hòa gồm 2 phủ và 4 huyện, 23 tổng,
281 thôn, xã.
Năm 1864, đô đốc Lagrandière chia tỉnh Biên Hòa thành 2 tiểu khu: Biên Hòa
và Bà Rịa.
Năm 1865, soái phủ Nam Kỳ chia tỉnh Biên Hòa thành 5 sở tham biện: Biên
Hòa, Thủ Dầu Một, Bà Rịa, Long Thành, Bảo Chánh.
Năm 1866, tỉnh Biên Hòa được chia làm 6 địa hạt: Biên Hòa, Bà Rịa, Long
Thành, Thủ Đức, Bình An, Bảo Chánh.
Năm 1867, tỉnh Biên Hòa có 5 sở tham biện (Biên Hòa, Bà Rịa, Bình An,
Long Thành, Ngãi An), 34 tổng, 368 thôn, xã.
Năm 1868, xóa bỏ Tòa Tham biện Thủ Đức, nhập vào Tòa Tham biện Sài
Gòn. Từ đó Thủ Đức tách khỏi Biên Hòa.
Theo bản đồ Boilloux in năm 1881, tỉnh Biên Hòa có 9 tổng, 126 làng.
Theo lịch An Nam thông dụng năm 1897, tỉnh Biên Hòa có 14 tổng, 168 làng.
Năm 1901, tỉnh Biên Hòa có 14 tổng, 151 làng (theo Monographie de la
province de Biên Hòa, 1901).
Năm 1924, Biên Hòa có 17 tổng, 172 làng (theo Monographie de la province
de Biên Hòa, 1924).
Năm 1939, tỉnh Biên Hòa có 5 quận: Châu Thành, Long Thành, Xuân Lộc,
Tân Uyên và núi Bà Rá, 16 tổng, 119 xã (theo Thời sự cẩm nang, trong Tự vị tiếng
Việt miền Nam, Vương Hồng Sển, 1992).
Như vậy, hệ thống hành chính từ nửa cuối thập niên 20 của thế kỷ XX là tỉnh -
quận - tổng - xã.
Năm 1950, Biên Hòa được chia làm 6 quận: Châu Thành, Tân Uyên, Long
Thành, Sông Bé (núi Bà Rá), Xuân Lộc và núi Chứa Chan.
Trong chống Pháp, do yêu cầu chỉ đạo chiến trường, tháng 5 năm 1951, hai
tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu Một hợp thành tỉnh Thủ Biên; Bà Rịa và Chợ Lớn hợp
thành tỉnh Bà Chợ. Tỉnh Thủ Biên có hai thị xã: Biên Hòa và Thủ Dầu Một và 7
huyện.
c. Giai đoạn 1954 - 1975
Địa bàn tỉnh Biên Hòa cũ thay đổi rất nhiều lần từ sau hiệp định Genève tháng
7 - 1954.
Tháng 5 - 1955, tỉnh Thủ Biên tách thành hai tỉnh: Biên Hòa và Thủ Dầu Một.
Từ tháng 10 - 1960 đến tháng 3 - 1963, tỉnh Biên Hòa tách thành hai tỉnh:
Biên Hòa và Long Khánh (theo ranh giới do chính quyền Sài Gòn phân vạch).
Từ tháng 9 - 1960 đến tháng 7 - 1961, lập lại tỉnh Thủ Biên do sáp nhập tỉnh
Biên Hòa (mới) và tỉnh Thủ Dầu Một. Và từ tháng 7 - 1961, tỉnh Thủ Biên tách
thành ba tỉnh: Biên Hòa, Thủ Dầu Một và Phước Thành.
Từ tháng 3 đến tháng 12 năm 1963, chính quyền cách mạng hợp nhất ba tỉnh
Biên Hòa, Long Khánh và Bà Rịa gọi là tỉnh Bà Biên, nhưng đến cuối năm lại tách
ra như cũ, rồi nhập lại vào năm 1966. Đến năm 1967, ba tỉnh trên lại tách thành tỉnh
Bà Rịa - Long Khánh và tỉnh Biên Hòa.
Tháng 9 - 1965, lập tỉnh U1 gồm thị xã Biên Hòa, huyện Vĩnh Cửu và huyện
Trảng Bom. Như vậy, Đồng Nai có tỉnh Bà Rịa - Long Khánh, Biên Hòa và U1.
Tháng 12 - 1966, tách Long Thành, Nhơn Trạch, Bình Sơn Ship, quận 9 và
Nam Thủ Đức thành Phân khu 4. Đồng Nai gồm có Bà Rịa - Long Khánh, U1, Phân
khu 4.
1971, sáp nhập Phân khu 4, Bà Rịa - Long Khánh thành Phân khu Bà Rịa.
Tháng 10 năm 1972, lập lại tỉnh Bà Rịa - Long Khánh và Biên Hòa.
Sau hiệp định Paris năm 1973, tỉnh Biên Hòa lại chia ra gồm Biên Hòa nông
thôn và Biên Hòa thị xã.
Tháng 10 năm 1973, lập tỉnh căn cứ Tân Phú.
Nhìn chung, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, địa giới hành
chính Đồng Nai đã bị thay đổi nhiều lần theo ý đồ quân sự của cả hai bên. Các tỉnh
được chia nhỏ ra, cấp tổng tồn tại thêm ít năm rồi bị bãi bỏ, các quận cũng bị chia
nhỏ.
d. Giai đoạn 1975 đến nay
Ngày 1/1/1976, Chính phủ quyết định sáp nhập 3 tỉnh: Biên Hòa, Bà Rịa -
Long Khánh và Tân Phú thành tỉnh Đồng Nai (*).
Từ năm 1978 đến nay, thêm nhiều lần điều chỉnh đơn vị hành chính nữa, đến
năm 1995 tỉnh Đồng Nai mới được ổn định như hiện nay.
Ngày 29 tháng 12 năm 1978, cắt huyện Duyên Hải nhập về thành phố Hồ Chí
Minh.
Ngày 30 tháng 5 năm 1979, thành lập Đặc khu Vũng Tàu Côn Đảo, tách Thị
xã Vũng Tàu và xã Long Sơn huyện Châu Thành khỏi địa phận tỉnh Đồng Nai.
Ngày 9 tháng 12 năm 1982, lập huyện Trường Sa thuộc tỉnh Đồng Nai.
Ngày 28 tháng 12 năm 1982 sáp nhập huyện Trường Sa vào tỉnh Phú Khánh
(sau này thuộc tỉnh Khánh Hòa).
Ngày 12 tháng 8 năm 1991, thành lập tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu gồm Đặc khu
Vũng Tàu - Côn Đảo và 3 huyện của tỉnh Đồng Nai là Long Đất, Châu Thành,
* Theo phân chia của Chính phủ cách mạng miền Nam. Còn theo sự phân chia của chính
quyền Sài Gòn thì tỉnh Đồng Nai được sáp nhập từ 3 tỉnh Biên Hòa, Long Khánh và Phước
Tuy.
Xuyên Mộc.
Ngày 26 tháng 3 năm 1994, chia huyện Long Thành ra 2 huyện: Long Thành
và Nhơn Trạch.
Ngày 29 tháng 8 năm 1994, lập lại huyện Vĩnh Cửu từ thị xã Vĩnh An.
Ngày 10 tháng 5 năm 1995, thành phố Biên Hòa thuộc tỉnh Đồng Nai được
công nhận là đô thị loại II.
Lập thêm 2 huyện mới là Trảng Bom và Cẩm Mỹ. Đồng thời địa giới một số
xã, phường, ấp có sự điều chỉnh phù hợp.
Như vậy, thực trạng các đơn vị hành chánh cơ sở của tỉnh Đồng Nai cơ bản ổn
định với 1 thành phố Biên Hòa, 1 thị xã Long Khánh, 9 huyện: Long Thành, Nhơn
Trạch, Thống Nhất, Vĩnh Cửu, Xuân Lộc, Định Quán, Tân Phú, Trảng Bom, Cẩm
Mỹ và 173 xã, phường, thị trấn.
Việc thay đổi địa giới hành chính nhiều lần như vậy chứng tỏ vùng đất Đồng
Nai luôn được chính quyền chú trọng, do đó địa danh tỉnh, huyện, làng xã cũng có
nhiều biến đổi và xáo trộn theo các sự kiện lịch sử. Hầu hết những tên đất, tên làng,
tên huyện vẫn còn đó và mỗi tên gọi đều có một giá trị và ý nghĩa riêng.
1.2.2. Tổng quan về địa lý, kinh tế, xã hội Tỉnh Đồng Nai có tổng diện tích là 5.903.940 km2, chiếm 1,76% diện tích toàn
quốc và chiếm 25,5% diện tích tự nhiên của vùng Đông Nam Bộ. Phía đông tỉnh
Đồng Nai giáp với tỉnh Bình Thuận, phía đông bắc giáp tỉnh Lâm Đồng, tây bắc
giáp tỉnh Bình Dương và tỉnh Bình Phước, nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây
giáp với thành phố Hồ Chí Minh. Địa phận tỉnh Đồng Nai được giới hạn trong
phạm vi tọa độ địa lý sau: từ 10 độ 30 phút đến 11 độ 36 phút vĩ độ bắc, từ 106 độ
46 phút đến 107 độ 36 phút kinh độ đông.
1.2.2.1. Nằm trên vùng trung du, Đồng Nai có địa hình theo hướng thấp dần từ
bắc xuống nam, từ đông sang tây. Điểm cao nhất là đỉnh núi Chứa Chan với 836m
so với mực nước biển, thuộc địa phận huyện Xuân Lộc. Nhìn chung đất của Đồng
Nai có địa hình tương đối bằng phẳng với ba dạng địa hình chính:
Dạng địa hình núi thấp có độ cao thay đổi từ 200m - 800m, chiếm khoảng 8%
diện tích tự nhiên của tỉnh, phân bố chủ yếu ở phía bắc của tỉnh và một phần phía
đông của huyện Xuân Lộc.
Dạng địa hình lượn sóng có độ cao thay đổi từ 20m - 200m, chiếm khoảng
80% diện tích tự nhiên của tỉnh và có xu hướng giảm dần từ đông sang tây.
Dạng địa hình đồng bằng có độ cao nhỏ hơn 20m, chiếm 12% diện tích tự
nhiên của tỉnh, phân bố tập trung ở phía tây và tây nam của tỉnh.
1.2.2.2. Đất đai của tỉnh phì nhiêu, toàn tỉnh có tổng diện tích 589.473 ha. Dựa
vào nguồn gốc và chất lượng đất, có thể chia thành ba nhóm chung sau: (1) Các loại
đất hình thành trên đá bazan gồm đất đá bọt, đất đen, đất đỏ có độ phì nhiêu cao,
chiếm 39,1% diện tích tự nhiên (229.416 ha), phân bố ở phía bắc và đông bắc của
tỉnh. Các loại đất này thích hợp cho các cây công nghiệp ngắn và dài ngày như: cao
su, cà phê, tiêu… (2) Các loại đất hình thành trên phù sa cổ và trên đá phiến sét
như: đất xám, nâu xám, loang lổ chiếm 41,9% diện tích tự nhiên (246.380 ha), phân
bố ở phía nam, đông nam của tỉnh. Các loại đất này thường có độ phì nhiêu kém,
thích hợp cho các loại cây ngắn ngày như đậu, đỗ… và một số cây ăn trái, cây công
nghiệp dài ngày như cây điều… (3) Các loại đất hình thành trên phù sa mới như đất
phù sa, đất cát phân bố chủ yếu ven sông Đồng Nai, sông La Ngà, thích hợp với
nhiều loại cây trồng như cây lương thực, hoa màu, rau quả…
Tình hình sử dụng đất của tỉnh những năm qua có biến động ít nhiều, nhưng
đến nay, Đồng Nai vẫn là tỉnh có quy mô đất nông nghiệp lớn nhất Đông Nam Bộ.
1.2.2.3. Đồng Nai có khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, phân làm hai
mùa tương phản nhau: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô kéo dài từ
tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Tháng 4 và tháng 11 là thời kỳ chuyển tiếp giữa mùa
khô sang mùa mưa và ngược lại giữa mùa mưa sang mùa khô. Nhiệt độ bình quân năm là 25o-26oC. Lượng mưa tương đối cao khoảng 1.500mm đến 2.700mm phân
bố theo vùng và theo vụ. Số giờ nắng trung bình trong năm 2007 là: 2.183 giờ. Độ
ẩm trung bình năm 2007 là 81%. Với những đặc điểm trên, Đồng Nai đã sớm hình
thành những vùng chuyên canh cây công nghiệp ngắn và dài ngày, những vùng cây
ăn quả nổi tiếng… có giá trị xuất khẩu cao.
1.2.2.4. Lòng đất Đồng Nai chứa nhiều khoáng sản quý, nổi tiếng như vàng,
thiếc, nhôm, chì kẽm đa kim; nhiều mỏ đá, có các loại đá quý, đá ốp lát, cao lanh,
sét màu, sét gạch ngói, đá vôi, than bùn, cát sông,… dùng làm vật liệu xây dựng và
làm hàng xuất khẩu; thạch anh mạch được sử dụng trong luyện kim, hình thành
những làng gốm, lu, gạch, ngói nổi tiếng như Tân Vạn, Bửu Hòa, Hóa An…
1.2.2.5. Mật độ sông suối của tỉnh Đồng Nai khá dày 0,5 - 1,2 km/km2, song
phân phối không đều. Phần lớn sông suối tập trung ở phía bắc và dọc theo sông
Đồng Nai về hướng tây nam. Sông Đồng Nai là sông lớn nhất ở miền Đông Nam
Bộ, bắt nguồn từ cao nguyên Lâm Viên, đoạn chảy qua tỉnh dài 220 km. Các phụ
lưu lớn của sông Đồng Nai bao gồm sông La Ngà, sông Bé, sông Sài Gòn. Hệ thống sông rạch của vùng ngập mặn Nhơn Trạch khá dày, bình quân 1,2 km/km2. Ngoài
ra, Đồng Nai còn có nhiều sông suối nội tỉnh như sông Mã Đà, sông Lá Buông,
sông Ray, sông Thị Vải, suối Rết, suối Tre… Không chỉ cung cấp nước phục vụ cho
nông nghiệp, sinh hoạt, sông Đồng Nai còn cung cấp cho tỉnh nhiều tiềm năng thủy
điện. Trị An là một trong những công trình thủy điện lớn của đất nước, có công suất
khoảng 400 MW. Ở Đồng Nai không có hồ tự nhiên, chỉ có một số đầm lầy và hồ
nhân tạo, nhằm điều tiết cho sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt là hồ Trị An có diện tích 323 km2 được sử dụng khai thác tổng hợp cho các nhu cầu: phát điện, cấp nước,
nuôi trồng thủy sản, du lịch sinh thái.
1.2.2.6. Rừng Đồng Nai thuộc loại rừng nhiệt đới, diện tích rừng chiếm
khoảng 45% diện tích tự nhiên, tiêu biểu là vườn Quốc Gia Cát Tiên mà ngày nay
vẫn còn giữ lại được những loài quý hiếm như tê giác một sừng, bò Ben Teng, nai
Catoong, sóc bay... Hệ động thực vật của rừng ở Đồng Nai phong phú đa dạng với
nhiều loại gỗ quý như cẩm, gõ, trắc, căm xe, bằng lăng…; nhiều loại cây thuốc như
tô mộc, sa nhân…; các loại thú lớn như voi, tê giác, hổ, nai… và hàng trăm các loại
chim thú, loài bò sát khác.
Bên cạnh rừng nguyên thủy Nam Cát Tiên, Ðồng Nai còn có đủ loại sơn lâm.
Ðó là rừng đước, rừng tràm ven biển, rừng nguyên liệu giấy, rừng cây gỗ quý nhân
tạo, rừng tre, lồ ồ nguyên sinh, tái sinh rậm rạp thiên tạo, bạt ngàn rừng cao su, bạt
ngàn rừng trái cây và hàng ngàn đồi núi nhấp nhô khắp rừng già, cao nguyên, thành
phố, đồng bằng ven biển.
1.2.2.7. Đồng Nai có hệ thống đường giao thông thuận lợi, có nhiều tuyến
đường huyết mạch quốc gia đi qua. Hệ thống quốc lộ với tổng chiều dài 244,5 km
đã và đang được nâng cấp mở rộng thành tiêu chuẩn đường cấp I, II đồng bằng
(Quốc lộ 1 nối liền thành phố Hồ Chí Minh - miền Bắc qua Đồng Nai; quốc lộ 51
Biên Hòa đi Vũng Tàu), cấp III đồng bằng như QL 20. Ngoài ra Đồng Nai còn có
hệ thống đường liên tỉnh số 2, 3, 16, 24, 25 tạo điều kiện tốt cho giao thông vận
chuyển hàng kinh tế, quân sự. Trong tương lai, Đồng Nai còn có các tuyến đường
cao tốc như đường cao tốc TP. HCM - Long Thành - Dầu Giây; đường cao tốc Dầu
Giây - Đà Lạt; đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu. Ngoài ra, Đồng Nai còn mở
rộng phát triển giao thông nối với các tỉnh, thành phố lân cận như cầu đường quận 9
TP. HCM sang Nhơn Trạch; cầu Thủ Biên nối huyện Vĩnh Cửu với tỉnh Bình
Dương…
Bên cạnh hệ thống đường bộ có chiều dài 3.339 km, trong đó gần 700 km
đường nhựa, Đồng Nai còn có tuyến đường sắt Bắc - Nam xuyên ngang dài gần 100
km với 8 ga: Trảng Táo, Gia Ray, Bảo Chánh, An Lộc, Dầu Giây, Bàu Cá, Trảng
Bom, Long Khánh, Hố Nai và Biên Hòa.
Hệ thống cảng biển của Đồng Nai nằm trong quy hoạch cảng nhóm 5 đang
trình Chính phủ phê duyệt. Cảng biển nhóm 5 bao gồm khu vực thành phố Hồ Chí
Minh - Đồng Nai - Bà Rịa Vũng Tàu là nhóm cảng biển quan trọng trong khu vực
kinh tế trọng điểm phía nam, nằm trên sông Đồng Nai, Nhà Bè, Lòng Tàu, Thị Vải,
có sức thu hút lớn đối với các nhà đầu tư. Có thể kể ra một số cảng như sau: cảng
Đồng Nai, cảng Gò Dầu A, cảng Gò Dầu B, cảng Vedan…
Đường hàng không Đồng Nai có sân bay Biên Hòa - trước đây được Mỹ sử
dụng cho mục tiêu chiến tranh xâm lược Việt Nam. Cảng hàng không quốc tế Long
Thành trước mắt là hỗ trợ vận chuyển hàng không, tương lai là thay thế cảng hàng
không quốc tế Tân Sơn Nhất. Đây là cửa ngõ đường hàng không vào Việt Nam cho
khu vực Đông Nam Á và thế giới.
1.2.2.8. Vị trí địa lý và hệ thống giao thông thuận lợi đã tạo điều kiện cho hoạt
động kinh tế tỉnh Đồng Nai phát triển. Tính đến ngày 31/08/2008, Đồng Nai đã
được phê duyệt 29 khu công nghiệp với tổng diện tích là 9.076 ha, đã cho thuê được
4.647,81 ha. Trong số đó có 7 KCN có 100% đất đã được các nhà đầu tư thuê hết
như: KCN Biên Hòa I, KCN Biên Hòa II, KCN Gò Dầu, KCN Loteco, KCN Nhơn
Trạch II, KCN Tam Phước, KCN Định Quán. Các khu công nghiệp được bố trí
khắp các huyện, nhưng tập trung nhiều nhất ở TP. Biên Hòa và các huyện Trảng
Bom, Long Thành, Nhơn Trạch.
1.2.2.9. Về mặt văn hóa, Đồng Nai là vùng đất có nền văn minh cổ xưa. Nhiều
di tích phản ánh giai đoạn hình thành của các vương quốc cổ như: Đalắk (Tân Phú),
Nam Cát Tiên (Tân Phú), hay ở Rạch Đông (Thống Nhất) và các vùng đồi gò như
Cây Gáo, gò Bường, gò Ông Tùng… Khoảng thế kỷ XV, trên vùng trung lưu sông
Đồng Nai, một trung tâm văn hóa mới được hình thành và phát triển trên nền của
truyền thống văn hóa bản địa, được gọi là “Văn hóa Đại làng”.
Trong quá trình khẩn hoang, xây dựng và phát triển vùng đất Đồng Nai, các
bậc tiền nhân đã để lại một “Hào khí Đồng Nai” với nền văn hoá dung hợp phong
phú. Bất cứ người Đồng Nai nào cũng có quyền tự hào về một Văn miếu Trấn Biên
(xây dựng năm 1715) - biểu tượng của truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo ; tự
hào về một nhà văn hóa lớn Trịnh Hoài Đức, một trong “tam gia” của Gia Định với
tác phẩm nổi tiếng “Gia Định thành thông chí”. Trong thế kỷ XX, Đồng Nai đã xuất
hiện nhiều nhà văn, nhà thơ tiêu biểu như Huỳnh Văn Nghệ, Bình Nguyên Lộc,
Lương Văn Lựu, Lý Văn Sâm...
Văn hóa dân gian ở Đồng Nai có những nét độc đáo riêng được thể hiện qua
sinh hoạt dân gian như hát hò cấy lúa, hò chèo xuồng, điệu lý lu là, lý trèo lên, kể
vè, đồng dao, đờn ca tài tử, hát tuồng… hay được thể hiện qua những nghi lễ tôn
giáo như hát múa Địa - Nàng, bóng rỗi… Truyền thống văn hóa của Đồng Nai còn
được phản ánh thông qua những lễ hội cúng đình, lễ hội cúng Miếu Bà, lễ hội chùa
Bà Thiên Hậu, lễ hiến sinh, lễ Nhu R’he (lễ hội nông nghiệp lớn nhất trong năm).
Sáu tôn giáo lớn nhất của nước ta là Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Tin
Lành, Cao Đài, Hòa Hảo, đều có tín đồ ở Đồng Nai. Trong đó chiếm số lượng đông
nhất là các tín đồ Thiên Chúa giáo với 34, 81%; và đứng hàng thứ hai là Phật giáo
chiếm 29,7% dân số toàn tỉnh.
Hiện nay, Đồng Nai còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử, văn hóa khá nổi tiếng
như mộ cổ Hàng Gòn, chiến khu Đ, chiến thắng La Ngà, đặc công rừng Sác, văn
miếu Trấn Biên, đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh… Bên cạnh những di tích ấy là các
điểm du lịch có tiềm năng như vườn quốc gia Nam Cát Tiên, khu du lịch Bửu Long,
khu du lịch Làng Bưởi Tân Triều, thác Giang Điền, đảo Ó, Đá Ba Chồng…
1.2.3. Đặc điểm dân cư
Dân số toàn tỉnh theo số liệu thống kê năm 2007 là 2.281.705 người, mật độ dân số: 386,511 người/km2. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của toàn tỉnh năm 2007 là
1,162% (theo số liệu của Cục Thống kê Đồng Nai). Dân cư Đồng Nai phân bố
không đồng đều, sống tập trung ở các vùng đô thị và các dải đồng bằng dọc theo
triền sông và các vùng núi thấp.
Đồng Nai có 30 dân tộc anh em sinh sống. Người Kinh chiếm khoảng 92, 44%
dân số, còn 29 đồng bào dân tộc thiểu số có số lượng là 172.521 người (chiếm
7,56%). Trong đó, người Hoa đông thứ hai (103.320 người), chủ yếu phân bố ở các
huyện Định Quán, Trảng Bom, Cẩm Mỹ, Long Khánh (nguồn do Ban Dân Tộc cấp
năm 2007). Các dân tộc ít người khác sống rải rác xen kẽ rộng khắp địa bàn. Người
Mạ, S’tiêng, Kơho, Chơro tập trung đông tại các huyện Tân Phú, Định Quán, Xuân
Lộc, Trảng Bom, Cẩm Mỹ, thị xã Long Khánh. Người Khmer hiện ở Đồng Nai có
gốc từ miền Tây Nam Bộ và Tây Ninh, Bình Long về từ những năm 1960. Người
Chăm tới Xuân Lộc năm 1972. Các dân tộc Thái, Tày, Nùng, Mường đến cư trú sau
hiệp định Genève (7-1954) và sau ngày thống nhất đất nước.
Xét về nguồn gốc, có hai lớp cư dân ở Đồng Nai đó là lớp dân cư bản địa và
lớp dân cư di dân.
1.2.3.1. Về lớp cư dân bản địa
Hàng chục di chỉ khảo cổ được khai quật tại Đồng Nai cho thấy con người có
mặt ở lưu vực Đồng Nai từ nhiều nghìn năm trước. Tuy trình độ xã hội còn thấp
kém nhưng những con người ấy lại là chủ nhân của nền văn hóa rực rỡ với sáng tạo
phong phú và trình độ chế tác cao.
Tác giả Phan Xuân Biên trong bài Cư dân bản địa vùng Đồng Nai viết rằng
vùng đất Đông Nam Bộ và một phần Nam Tây Nguyên lúc bấy giờ, từ lâu đời đã là
địa bàn cư trú của các dân tộc người Mạ, Stiêng, Chơro, Mnông và Kơho. Đây cũng
là địa bàn cư trú của người tiền sử Đồng Nai [10, tr.3-4].
Theo truyền thuyết, người Mạ đã từng là chủ nhân của vùng đất thượng du dọc
sông Đồng Nai Thượng, từng có những cuộc buôn bán, giao tranh với người Chăm.
Sau đó họ phải nhường bước rút lên vùng cao, để lại những "Gò Mọi, Đạ Đờng, Đạ
Dung”... cho cư dân Việt làm chủ.
Các sách Phủ biên tạp lục [38]; Gia Định thành thông chí [41]; Đại Nam nhất
thống chí, tập 5 [89] đều có đề cập đến các cộng đồng dân tộc ít người mà họ gọi là
“Mọi”, “Man Sách”, “Máu”, có thể trong nhóm cộng đồng này có tộc người Mạ.
Tác giả Bình Nguyên Lộc viết như sau: “Nam Bộ, đặc biệt là từ Mỹ Tho lên
hết miền Đông xưa kia là địa bàn sinh sống của dân tộc Mạ”. “Nhưng ai làm chủ
khoảng rừng rậm mênh mông ấy, trên giấy tờ? Trên thực tế, thì đó là người Mạ,
người mà dân ta đã gặp” [68, tr.249].
Ngoài các dân tộc bản địa này, còn có người Khmer sinh sống rải rác trong
một vài sóc nhỏ, nằm heo hút trên các giồng đất cao. Họ là dân định cư từ Lục Chân
Lạp sang.
1.2.3.2. Về lớp cư dân di dân
Lớp di dân là lớp người Việt, nhóm người Hoa. Họ di dân vào vùng Đồng Nai
theo nhiều đợt khác nhau.
Theo Phan Khoang, từ năm 1630, vùng đất Prey Kôr trở ra Bắc đến biên giới
Chiêm Thành (tức Sài Gòn, Biên Hòa, Bà Rịa) đã có nhiều người Việt đến khai phá
đất đai. Người Việt đã ra công khai khẩn những vùng rừng rú bạt ngàn, những bãi
sình lầy thành những cánh đồng phì nhiêu. Gặp lúc mưa thuận gió hòa, nghề nông
phát triển, đời sống người dân khá lên trông thấy. Xóm làng mọc lên trù phú, thu
hút nhiều bà con ở Đàng Ngoài đến sinh cơ lập nghiệp [63, tr.310-311].
Những năm 30 của thế kỷ XVII, cuộc chiến tranh giữa hai tập đoàn phong
kiến Trịnh - Nguyễn, nạn bóc lột của vua quan… đã khiến người dân rơi vào cảnh
lầm than. Ngoài nông dân nghèo, còn có những người trốn tránh binh dịch, sưu
thuế, thầy thuốc, thầy đồ, và cả những người giàu có muốn vào vùng đất phương
Nam để kinh doanh. Từ các đời chúa Nguyễn Hoàng (1558-1613) đến chúa Nguyễn
Phúc Lan (1635-1648), lưu dân Việt Nam đã lần lượt tiến vào vùng Mọi Xoài (tức
Bà Rịa), vịnh biển Ô Trạm (gần Đất Đỏ Bà Rịa). Một bộ phận người Việt khác di
chuyển theo đường bộ hoặc theo dòng sông Đồng Nai ngược lên phía Bắc định cư ở
các vùng ven sông lập làng xóm mới như Bến Gỗ, Bến Đá, Cù Lao Rùa, Cù Lao
Phố… Cuối những năm 70 của thế kỷ XVII, ngoài người Việt và cư dân bản địa còn
có các nhóm người Hoa từ Quảng Đông, Quảng Tây chủ yếu là quan quân nhà
Minh chống đối sự xâm lăng của nhà Mãn Thanh đã trốn chạy qua Việt Nam, được
chúa Nguyễn cho ẩn náu và sinh sống ở Nam bộ. Đến Biên Hòa có nhóm Trần
Thượng Xuyên (1679) được phép định cư ở vùng Bàn Lân, Cù Lao Phố.
Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh cắt đặt phủ Gia Định, lập xứ Đồng Nai làm
huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên. Khi ấy đất đã mở rộng một nghìn dặm,
dân số hơn bốn vạn hộ; và sau đó, lại chiêu mộ những lưu dân từ châu Bố Chánh trở
vô Nam đến ở khắp nơi, đặt ra phường, ấp, xã, khóm… [41, tr.112].
Tiếp đó, nhiều đợt di dân từ Ngũ Quảng, từ châu thổ sông Hồng vào lập
nghiệp ở xứ Đồng Nai với nhiều lý do khác nhau.
Như vậy, những lớp cư dân người Việt vào đất Biên Hòa Đồng Nai là những
tầng lớp phản kháng mọi áp bức, hà khắc của chế độ phong kiến. Họ là những
người yêu lao động, muốn được phóng khoáng tự do, những lớp người này đã cùng
chống chọi với thiên nhiên tạo dựng nên một cuộc sống vật chất và tinh thần phong
phú.
Đầu thế kỷ 20, thực dân Pháp bắt đầu khai thác gỗ và trồng cao su ở Trảng
Bom, Dầu Giây. Đồng Nai lại tiếp nhận lớp người Việt di cư thuộc dạng nghèo khó,
hầu hết là người từ miền Trung, miền Bắc được mộ vào làm phu cao su.
Đợt di dân tiếp theo không kém phần quan trọng, diễn ra trong thời gian 1954
- 1955 đó là Mỹ - Diệm tổ chức đưa nhiều người theo đạo Thiên chúa vào Đồng
Nai. Tháng 9/1954, có khoảng 20 ngàn đồng bào miền Bắc di cư vào Biên Hòa, thị
xã Long Khánh, Trảng Bom, Thống Nhất và các xã dọc quốc lộ 1, quốc lộ 15, quốc
lộ 20. Ngày 12/2/1955, Mỹ Diệm đưa 7000 người di cư miền Bắc đến định cư tại
Liên Kim Sơn, Phước Lý, Ông Kèo (Long Thành).
1972, sau chiến dịch Xuân - Hè, hàng ngàn đồng bào từ miền Trung đã bỏ vào
Trảng Bom. Các làng Quảng Đà, Quảng Biên hình thành dân số huyện ngày một
đông lên.
Những năm 1976 - 1985, có gần 100.000 người được đưa từ các tỉnh miền Bắc
vào nhằm tăng cường đội ngũ cán bộ quản lý và phát triển sản xuất. Đến năm 1984
có tới 51 nông, lâm trường, trạm, trại và riêng công ty cao su Đồng Nai đã tiếp nhận
46.484 người. Dân đến Đồng Nai không theo kế hoạch (di dân tự do) từ năm 1986
đến nay là luồng di dân lớn nhất.
Trong vòng 20 năm (1976 - 1996) cả hai hình thức di dân đến Đồng Nai là
147.726 hộ với 768.842 nhân khẩu, phần lớn dân nhập cư là lực lượng lao động.
Thời kỳ trước năm 1990 dân nhập cư chủ yếu tập trung ở các vùng nông thôn
và vùng kinh tế mới. Sau năm 1990 trở lại đây dồn về các vùng đô thị, nhất là thành
phố Biên Hòa và các khu công nghiệp tập trung.
Qua những cuộc di dân kể trên, chúng ta thấy người Việt ở Đồng Nai gắn bó
với mảnh đất này chưa lâu. Dân cư ở Đồng Nai là tập hợp dân cư của nhiều vùng,
miền khác nhau như người miền Trung, miền Bắc, một số dân tộc vùng cao. Họ
mang theo những phong tục tập quán của quê mình đến vùng đất mới hòa nhập vào
tín ngưỡng bản địa, giao tiếp với người Hoa, với luồng văn hóa châu Âu và cùng
sống thuận hòa, nương tựa nhau trên vùng đất mới. Điều này góp phần làm nên tính
đa dạng và phong phú cho những giá trị văn hóa, ngôn ngữ... ở Đồng Nai.
1.2.4. Đặc điểm ngôn ngữ
Nằm trong vùng phương ngữ Nam Bộ, ngôn ngữ của tỉnh Đồng Nai mang
những đặc trưng ngữ âm của phương ngữ miền Nam. Hệ thống thanh điệu có 5
thanh vì thanh ngã với thanh hỏi trùng làm một. Xét về mặt điệu tính, thì đây là một
hệ thống khác với phương ngữ Trung và phương ngữ Bắc. Có 23 phụ âm đầu, có
các phụ âm uốn lưỡi /ş, z, / (chữ viết ghi là s, r, tr). Ở Nam Bộ có thể phát âm rung
lưỡi /r/, tuy thiếu phụ âm /v/ nhưng lại có thêm bán nguyên âm /w-/ đứng ở vị trí
phụ âm đầu; không có âm /z/ (chữ viết ghi là gi) nhưng được thay thế bằng âm /j/.
Âm đệm /-w-/ đang biến mất dần trong phương ngữ Nam, như doanh được nói
thành danh, chuyền được nói thành chiền… Hệ thống âm cuối thiếu các âm /-ŋ, k/,
chúng biến thành /-n, t/. Chẳng hạn như: lính được nói thành lứn, lênh đênh thành
lơn đơn, tịch mịch thành tựt mựt… Do các nguyên âm trở nên trung hòa thành nguyên âm dòng giữa nên cặp phụ âm cuối /-ngm, kp/ không còn ở thế bổ sung mà
trở thành những âm vị độc lập. Phương ngữ Nam Bộ cũng đồng nhất các vần “in”,
“it” với “inh”, “ich”; “un”, “ut” với “ung”, “uc”. Nguyên âm cuối /-y/ được phát âm
thành /-i/ (như may thành mai, tay thành tai). Vùng này cũng lẫn lộn s/x và tr/ch
như phương ngữ Bắc, và có thể phát âm rung lưỡi /r/.
Có hiện tượng một loạt vần vốn có trong phương ngữ Bắc Bộ và Trung Bộ bị
nhập thành một vần trong phương ngữ Nam như:
-iu, -êu, -iêu thành -iu
-ưu, -ươu thành -u
-im, -iêm, -êm thành -im
-ưi, -ươi thành -ưi
Nhìn chung, phương ngữ Đồng Nai có những đặc điểm giống với phương ngữ
Nam Bộ. Trong phát âm, người dân có xu hướng đơn giản hóa các âm tiết cho dễ
đọc (như các âm “d, gi, v” đều được đọc thành “d”, “s, x” thành “x”…). Cũng có
một số người phát âm /v/ thành /bj/ (như phát thanh viên, xướng ngôn viên). Trong
ngôn ngữ thông tin đại chúng, trong các hoạt động văn hóa giáo dục, sự phân biệt
các phụ âm này được duy trì rất có ý thức.
Có một điểm cần lưu ý là bên cạnh phương ngữ miền Nam, trong cách phát
âm của người dân Đồng Nai còn xen thêm phương ngữ của miền Bắc và miền
Trung. Vì như đã nói ở trên, đất Đồng Nai trong quá trình khai phá và hình thành đã
thu nạp dân cư từ khắp mọi miền tổ quốc đến đây, đặc biệt là cuộc di dân từ miền
Bắc vào. Họ đã mang theo ngôn ngữ của mình, phối hợp với từ ngữ, cách phát âm
của người địa phương và trải qua một thời gian dài giữ lại, biến đổi hoặc bỏ đi để
hình thành một hệ thống ngôn ngữ ở Đồng Nai. Cho nên, xét về mặt ngôn ngữ,
Đồng Nai là vùng đất đa dạng dân cư và đa dạng ngôn ngữ của các vùng miền. Tuy
nhiên, dù có nói gì thì Đồng Nai vẫn thuộc miền Đông Nam Bộ, vì vậy, đặc trưng
phương ngữ của Đồng Nai chủ yếu vẫn là phương ngữ Nam Bộ. Có thể thấy, ngày
nay, người dân trên địa bàn nói giọng Bắc hoặc giọng miền Trung đều có xu hướng
“pha giọng” miền Nam.
Trên đây là vài nét về ngôn ngữ của địa bàn Đồng Nai.
Tất cả những đặc điểm lịch sử, địa lý, dân cư, ngôn ngữ vừa nêu sẽ là những
nguyên nhân quan trọng làm hình thành và biến đổi hệ thống địa danh ở Đồng Nai.
1.2.5. Kết quả thu thập và phân loại địa danh ở tỉnh Đồng Nai
Qua quá trình khảo sát thực tế trên địa bàn và dựa vào những nguồn tư liệu đã
nêu, chúng tôi thu thập được 3019 địa danh được ghi bằng tiếng Việt với 73 tiểu
loại, trên địa bàn chủ yếu có người Việt sinh sống. Dưới đây chúng tôi sẽ tiến hành
phân loại các địa danh.
1.2.5.1. Phân loại theo đối tượng
a. Địa danh chỉ địa hình
Đồng Nai có 481 địa danh chỉ địa hình, chiếm 15,93%, gồm có 24 tiểu loại:
bàu, cù lao, dốc, đảo, đèo, đồi, giồng, gò, hang, hóc, hòn, hồ, lòng tắt, núi, rạch,
rừng, sông, suối, tắt, thác, trảng, trũng, vàm, vườn.
b. Địa danh hành chính
Theo kết quả thống kê thì số lượng địa danh hành chính của tỉnh Đồng Nai
chiếm tỷ lệ phần trăm cao nhất so với các địa danh chỉ đối tượng khác. Cụ thể là có
1236 địa danh, chiếm 40,94%, trong đó có 11 tiểu loại đứng sau các tiền từ ấp,
huyện, khu, khu phố, phường, thành phố, thị trấn, thị xã, thôn, tiểu khu, xã.
c. Địa danh chỉ công trình xây dựng
Tổng số địa danh chỉ công trình xây dựng là 1167, chiếm gần 38,66% với 36
tiểu loại bến, bến đò, bến phà, bến xe, bùng binh, cảng, cầu, chiến khu, chợ, công
viên, cống, cư xá, đập, địa đạo, đường, đường thủy, ga, hoa viên, hương lộ, kênh,
khu du lịch, làng cổ, lâm trường, ngã ba, ngã tư, ngã năm, nông trường, quảng
trường, quốc lộ, sân bay, sân vận động, thành cổ, tỉnh lộ, trại giam, trạm bơm, xa
lộ.
d. Địa danh vùng
Địa danh vùng có số lượng ít nhất với 135 địa danh, chiếm 4,47%, có 2 tiểu
loại là giáo xứ và khu công nghiệp.
Kết quả phân loại địa danh theo đối tượng được thể hiện ở bảng dưới đây.
Số lượng Tỷ lệ % STT Loại hình địa danh
1 Địa danh chỉ địa hình 481 15,93%
2 Địa danh hành chính 1236 40,94%
3 Địa danh chỉ công trình xây dựng 1167 38,66%
4 Địa danh vùng 135 4,47%
Cộng 3019 100%
1.2.5.2. Phân loại theo nguồn gốc ngữ nguyên
a. Địa danh thuần Việt
Số lượng địa danh thuần Việt so với tổng số địa danh của tỉnh Đồng Nai là
1267/3019 địa danh, chiếm 41,97%. Loại này tập trung nhiều nhất ở địa danh hành
chính (682 địa danh, chiếm 22,59%) và ít nhất là địa danh vùng (12 địa danh, chiếm
0,39%).
Có 594 địa danh thuần Việt là số hay số kết hợp với chữ cái (chiếm 19,67%).
b. Địa danh không thuần Việt
Có 1752 địa danh không thuần Việt, chiếm 58,03%.
Địa danh có nguồn gốc Hán Việt (chiếm 37,53%) xuất hiện chủ yếu trong địa
danh chỉ công trình xây dựng và địa danh hành chính. Ví dụ: ga Long Khánh,
đường Đồng Khởi, huyện Cẩm Mỹ…
Địa danh có nguồn gốc hỗn hợp (14,08%) phân bố chủ yếu trong địa danh chỉ
công trình xây dựng và địa danh hành chính. Ví dụ: xã Lộ 25, xã Núi Tượng, cầu
Kênh Xáng, đập Vũng Gấm…
Địa danh có nguồn gốc từ tiếng dân tộc thiểu số (4,93%) xuất hiện nhiều trong
địa danh chỉ địa hình và địa danh chỉ công trình xây dựng. Ví dụ: núi Chứa Chan,
sông Da Hop, cầu La Ngà…
Địa danh chưa xác định được nguồn gốc (1,26%), ví dụ như hồ Cản Đu, suối
Ram, cầu Năng Cô, đập Bỉnh…
Địa danh có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài chiếm tỷ lệ thấp nhất (0,23%)
phân bố rải rác trong các tiểu loại địa danh. Ví dụ: ấp Cấp Rang, cảng Unique Gas,
đồi Siph…
Những địa danh không thuần Việt này không có địa danh bằng số là từ đơn
tiết, mà chỉ có số là từ Hán Việt kết hợp với từ đơn tiết (hoặc ngữ) khác, nhưng số
lượng rất ít. Ví dụ: ấp Nhất Hòa (BH), ấp Nhị Hòa (BH), phường Tam Hiệp (BH)…
1.2.5.3. Phân loại theo số lượng âm tiết
a. Địa danh đơn tiết
Đây là những địa danh chỉ có một tiếng. Loại địa danh này phần lớn là địa
danh thuần Việt. Trong số 3019 địa danh, có 735 địa danh đơn tiết (chiếm 24,35%),
chủ yếu là địa danh thuần Việt. Ví dụ: gò Dầu (LT), đảo Ó (VC), núi Đất (LT), bàu
Sấu (TP)…
Có một điểm cần chú ý là địa danh đơn tiết có một bộ phận vốn là địa danh
song tiết nhưng lại bị rút gọn mà thành. Chẳng hạn: sông Lá Buông → sông Buông
(LT), suối Săng Máu → suối Máu (BH)…
b. Địa danh phức
Địa danh phức có từ hai tiếng trở lên. Đồng Nai có 2284 địa danh phức, chiếm
75,65%. Trong đó địa danh chỉ công trình xây dựng là 1124, chiếm tỷ lệ cao nhất so
với các loại địa danh khác (37,23%). Địa danh phức ở Đồng Nai bao gồm địa danh
hai âm tiết (ấp An Bình, cảng Đồng Nai…), địa danh ba âm tiết (xã Nam Cát Tiên,
suối Đại Úy Hùng…), địa danh bốn âm tiết (chợ Đại An - Tân An, đường Chiến
Thắng Long Khánh…), địa danh năm âm tiết (đường Năm Thương Ấp Bến Cộ, nông
trường Cao Su Thái Hiệp Thành…), địa danh sáu âm tiết (đường Xuân Thành - Suối
Cao - Xuân Bắc…), địa danh bảy âm tiết (ngã tư Nông Trường Thái Hiệp Thành -
Bàu Cạn) và nhiều nhất là địa danh tám âm tiết (công viên Tượng Đài Chiến Thắng
Sân Bay Biên Hòa).
1.3. Tiểu kết
Qua những tiền đề lý luận và thực tiễn về địa danh nói chung và những nét
khái quát về địa bàn Đồng Nai nói riêng, chúng tôi có một vài nhận xét sau:
Nghiên cứu địa danh là một vấn đề phức tạp. Nếu như địa danh học của thế
giới đã bước sang giai đoạn phát triển từ lâu thì ở Việt Nam, vấn đề nghiên cứu địa
danh vẫn đang trong giai đoạn hình thành. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu địa danh
học ở Việt Nam đã giúp cho chúng ta có một cái nhìn khác về địa danh đó là nó có
một vị trí riêng và không kém phần quan trọng so với các lĩnh vực khác trong xã
hội. Những cơ sở lý luận, đối tượng, phương pháp nghiên cứu về địa danh bước đầu
được xác lập khiến những ai quan tâm đến vấn đề này đều cảm thấy thú vị khi bước
vào tìm hiểu. Bởi địa danh học có mối liên hệ mật thiết với nhiều ngành thuộc lĩnh
vực khoa học xã hội, muốn hiểu được chúng, cần áp dụng phương pháp nghiên cứu
liên ngành.
Địa danh là một bộ phận đặc biệt của bộ môn từ vựng học. Vì vậy, nghiên cứu
địa danh sẽ góp phần phản ánh đời sống ngôn ngữ, thể hiện qua nhiều mặt khác
nhau như ngữ âm, ngữ pháp, phương ngữ. Nghiên cứu địa danh tỉnh Đồng Nai cũng
vậy. Qua những tiền đề thực tiễn về địa bàn có thể thấy rằng địa danh Đồng Nai
cũng thể hiện những nét đặc trưng riêng về lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ bên cạnh sự
giao thoa, tiếp xúc nhiều mặt với những địa bàn khác.
Những số liệu thống kê ban đầu cho thấy địa danh thuần Việt chiếm số lượng
nhiều hơn cả so với các địa danh thuộc loại không thuần Việt (như Hán Việt, tiếng
dân tộc, địa danh nước ngoài…). Tuy chỉ chiếm 19,67% trong tổng số địa danh
Đồng Nai nhưng loại địa danh thuần Việt là số thứ tự hay số và chữ cái kết hợp với
nhau chủ yếu phân bố ở các đơn vị hành chính như ấp, khu, tiểu khu, khu phố,
thôn… Điều này cho thấy xu hướng đơn giản hóa trong việc đặt địa danh ở Đồng
Nai. Trong khi đó, theo thống kê thì số lượng địa danh Hán Việt kém hơn loại thuần
Việt. Nhưng nếu loại trừ những địa danh bằng số thì loại địa danh hoàn toàn là từ
Hán Việt (như huyện Long Thành, xã Phú An…) lại chiếm số lượng “áp đảo” so
với địa danh thuần Việt (như bàu Chim, suối Cao…). Đó là chưa kể một số lượng
khá lớn những địa danh Hán Việt kết hợp với địa danh thuộc gốc khác. Như vậy, địa
danh Đồng Nai cũng không nằm ngoài quy luật chung của cả nước là sử dụng nhiều
yếu tố Hán Việt để tạo tên riêng, nhất là trong các đơn vị hành chính. Không những
thế, ngoài việc tiếp thu một số địa danh có nguồn gốc dân tộc thiểu số hay địa danh
gốc Pháp, gốc Mã Lai…, người Việt ở Đồng Nai vừa mượn vừa sáng tạo bằng cách
kết hợp các yếu tố thuần Việt - Hán Việt, thuần Việt - tiếng dân tộc… và ngược lại
để đặt địa danh.
Vốn là một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, trong quá trình hình thành và phát
triển, Đồng Nai đã tiếp nhận một luồng di dân khổng lồ từ nhiều vùng miền khác
nhau, ở trong nước và cả nước ngoài. Đây cũng là nguyên nhân giải thích vì sao số
lượng địa danh hành chính của vùng đất 311 tuổi này lại chiếm tỷ lệ cao nhất. Đa
dân tộc, đa tôn giáo, vì vậy Đồng Nai cũng là một tỉnh đa văn hóa và đa ngôn ngữ.
Điều này gây ảnh hưởng rất lớn đến sự ra đời của những địa danh ở Đồng Nai.
Chương 2
CẤU TẠO ĐỊA DANH TỈNH ĐỒNG NAI
2.1. Phương thức định danh
Định danh chính là cách cấu tạo các đơn vị ngôn ngữ dùng để gọi tên, là sự
chia tách các đoạn của hiện thực khách quan trên cơ sở đó hình thành những khái
niệm tương ứng về chúng [123, tr.63].
Phương thức định danh hay còn gọi là phương thức cấu thành, phương thức
đặt địa danh được nhiều nhà nghiên cứu địa danh học Việt Nam quan tâm. Tuy
nhiên, mỗi tác giả lại đưa ra những cách định danh khác nhau. Điều này cũng dễ
hiểu, vì mỗi địa bàn nghiên cứu bên cạnh những quy luật chung đều có những đặc
điểm riêng trong cách gọi tên sự vật cũng như cách cấu tạo địa danh.
Trần Thanh Tâm đưa ra 6 phương thức định danh: 1. Loại đặt theo địa hình và
đặc điểm; 2. Loại đặt theo vị trí không gian và thời gian; 3. Loại đặt theo tín
ngưỡng, tôn giáo, lịch sử; 4. Loại đặt theo hình thái, đất đai, khí hậu; 5. Loại đặt
theo đặc sản, nghề nghiệp và tổ chức kinh tế; 6. Loại đặt theo sinh hoạt xã hội [99,
tr.60-73]. Nhận xét về phương thức này, Trần Văn Dũng cho rằng: “Các loại địa
danh trên theo chúng tôi, chỉ mới là sản phẩm của phương thức tự tạo, còn các loại
địa danh được đặt theo các phương thức khác như vay mượn, chuyển hóa… thì tác
giả lại chưa đề cập đến” [30, tr.63].
Tác giả Bùi Đức Tịnh cho là có hai phương thức để đặt địa danh: 1. Phương
thức Việt hóa địa danh của ngôn ngữ một dân tộc khác (chủ yếu là ngôn ngữ
Campuchia); 2. Phương thức dùng những từ tố hoàn toàn Việt Nam. Phương thức
thứ nhất có ba cách: chỉ Việt hóa ngữ âm mà không quan tâm đến nội dung ý nghĩa;
dịch nghĩa; phối hợp hai lối vừa kể trên. Phương thức thứ hai, tác giả chia nhỏ thành
bốn loại: cách đặt địa danh cho các vật thể tự nhiên; cách đặt tên các vị trí liên hệ
đến giao thông; cách đặt tên các vị trí tập hợp cư dân; cách đặt tên các đơn vị hành
chính, quân sự [110, tr.38-67].
Tác giả Lê Trung Hoa xác định hai phương thức đặt địa danh ở thành phố Hồ
Chí Minh là: 1. Phương thức tự tạo; 2. Phương thức chuyển hóa. Trong mỗi
phương thức, tác giả lại chia ra thành nhiều tiểu loại khác nhau [53, tr.65-76].
Các nguyên tắc đặt tên mà Nguyễn Văn Âu đưa ra gồm có nguyên tắc chung
và nguyên tắc cụ thể. Về nguyên tắc cụ thể, tác giả phân làm hai loại. Loại thứ nhất
là địa danh tự nhiên, được xác định dựa vào các nguyên tắc: địa phương, hình dạng,
kích thước, màu sắc, mùi vị, âm thanh, đặc sản, thứ tự, phương hướng, vị trí, dân
tộc địa phương, tên người, lịch sử, kế thừa, truyền thuyết, đặc điểm chung. Loại thứ
hai là địa danh kinh tế xã hội, được xác định dựa vào các nguyên tắc: địa phương,
đặc sản, nghề nghiệp, tình cảm - nguyện vọng, huyết tộc, tên người, dân tộc địa
phương, lịch sử, tôn giáo, truyền thuyết, kế thừa, kích thước, thứ tự, phương hướng,
vị trí, đặc điểm chung [6, tr.13-19].
Ngoài phương thức truyền thống là gọi tên dựa vào các đặc điểm thuộc tính
của đối tượng, Nguyễn Kiên Trường còn trình bày ba phương thức chính trong cấu
tạo địa danh thời cận - hiện đại đó là: 1. Phương thức ghép số và ghép địa danh; 2.
Phương thức chuyển hóa; 3. Phương thức vay mượn [122, tr.76-86].
Đưa ra phương thức định danh cho địa danh ở Đồng Nai không phải dễ. Tiếp
thu ý kiến của những người đi trước, dựa vào đặc điểm lịch sử - địa lý của tỉnh
Đồng Nai, chúng tôi đưa ra bốn phương thức định danh như sau: phương thức tự
tạo, phương thức chuyển hóa, phương thức ghép và phương thức vay mượn.
2.1.1. Phương thức tự tạo
Đây là phương thức cơ bản nhất. Hầu như trong các công trình nghiên cứu về
địa danh của các tác giả kể trên đều sử dụng phương thức này, mặc dù cách đặt tên
cho phương thức có khác nhau ở mỗi người.
Đối với địa bàn Đồng Nai, phương thức tự tạo giữ vai trò chủ đạo để tạo ra
phần lớn địa danh của tỉnh.
2.1.1.1. Dựa vào các đặc điểm của chính bản thân đối tượng để đặt tên
Khi nhìn thấy hồ nước, cây cầu, hay ngọn núi có những đặc điểm của chính
bản thân đối tượng như hình dáng, kích thước, màu sắc, tính chất…, dân làng ta liền
đặt những địa danh ấy bằng những cái tên tương ứng.
a. Gọi theo tính chất của đối tượng
Đó là các địa danh như cầu Mới, bàu Nước Sôi (ĐQ) (vì nước ở bàu này sôi ở
nhiệt độ cao), rạch Nước Trong (LT), suối Đục (LT), suối Cạn (NT), suối Nóng
(XL), suối Sâu (CM), suối Phèn (LT), suối Mủ (TN)… Nhìn chung, gọi theo tính
chất của đối tượng chủ yếu là các địa danh mang tính chất thủy văn.
b. Gọi theo hình dáng của đối tượng
Ở đây, chủ yếu là những địa danh chỉ địa hình và công trình xây dựng như núi
Dốc (ĐQ), núi Bồ (ĐQ), ngã ba Mũi Tàu (BH), cầu Khỉ (TN), cống Hộp (XL), hòn
Dĩa (ĐQ) (có hình dáng như một chiếc dĩa), núi Tượng (TP), núi Quy (ĐQ)… Thác
có tên Ba Giọt (ĐQ) vì đổ xuống theo ba dòng nước, nhìn từ xa những dòng chảy
này có dáng dấp như ba giọt nước.
c. Gọi theo màu sắc của đối tượng
Loại này xuất hiện không nhiều trong tổng số địa danh toàn tỉnh, thường gặp ở
loại chỉ địa hình thiên nhiên. Có những màu sắc sau: màu xanh (sông Ngọc - BH),
màu hồng (tắt Hồng - NT), màu vàng (hồ Đá Vàng - LT), màu đỏ (núi Đỏ - LK,
suối Son - ĐQ), màu trắng (cầu Trắng - XL).
Đặc biệt là màu gấm trong các địa danh suối Gấm (TP), Vũng Gấm (NT).
Trịnh Hoài Đức đã chép lại: “Cẩm Đàm tục gọi là vũng Gấm, ở tổng An Phú, huyện
Phước An. Vũng này sâu rộng do các dòng chảy đến họp lại, có khi mặt trời chiếu
từ xa, ráng chiều phản chiếu xuống, sắc cây xanh tốt, sóng nước long lanh, xa trông
rất rực rỡ, nên mới đặt tên Gấm là như vậy” [41, tr.36].
d. Gọi theo kích thước của đối tượng
Đó là các địa danh như rạch Cụt (BH), cầu Bảy Bé (NT), cầu Bảy Lớn (NT),
cầu Bốn Thước (XL), cống Lớn (LT), cư xá Năm Tầng (BH), chợ Nhỏ Tân Bắc
(TB), ngã ba 107 (ĐQ), suối Cao (XL), sông Bé (VC), rạch Bến Lớn (NT)...
đ. Gọi theo vật liệu xây dựng đối tượng
Một số cây cầu như cầu Gỗ (LT), cầu Sắt (TB), cầu Mù U (NT)… trước đây
được làm bằng vật liệu bằng gỗ, sắt, hay các loại cây khác nhau, bắc qua suối, rạch.
Tuy hiện nay các cây cầu này đã được xây mới, được bêtông hóa hoàn toàn nhưng
chúng vẫn còn giữ tên xưa.
Gọi là cầu Mương Sao (BH) vì cầu này khi xưa bắc qua rạch nước nhỏ (chảy
ngang đường 15 cũ) bằng thân mấy cây sao nên có tên như vậy.
2.1.1.2. Dựa vào sự vật, yếu tố có quan hệ chặt chẽ với đối tượng để gọi
a. Gọi theo vị trí của đối tượng so với đối tượng khác
Các địa danh được xác định theo hướng không gian trước/sau, trên/dưới,
đông/tây, chủ yếu có trong các đơn vị hành chính. Ví dụ: xã Tây Hòa (TB), xã Đông
Hòa (TB), ấp Đông Bắc (TN), ấp Tây Nam (TN), rạch Đông (VC)…
b. Gọi theo công trình xây dựng gần đối tượng
Theo cách này có các địa danh: rạch Lò Gốm (BH), ngã ba Nông Trường
(CM), ngã ba Thành (BH), ngã tư Sở (ĐQ), bến đò Kho (NT), bến đò Trạm (BH),
đập Sân Bay (TXLK)…
Những công trình xây dựng bản thân nó vốn là hiệu danh (như tên các trường
học, nhà máy, đình, chùa, miếu, miễu…) cũng thuộc loại này. Chẳng hạn như
đường Trường Dân Tộc Nội Trú (TP), đường Chùa Gia Lào (XL), ấp Miễu (LT),
đường VMEP (BH), cầu Trường Học (NT)…
c. Gọi theo tên vật thể có nhiều ở nơi đó
Đó là các địa danh dốc Sỏi (BH), rạch Sỏi (BH), vàm Vôi (LT), suối Cát (XL),
suối Đá (LT)…
d. Gọi theo cầm thú sống hoặc nuôi ở đó
Phần lớn là các địa danh thủy văn và sơn danh. Trên cạn có suối Sóc (CM),
suối Cọp (VC), suối Chồn (TXLK), bàu Ngựa (ĐQ)… Dưới nước có rạch Cá (NT),
bàu Sấu (TP)… Các con vật bay được thì có tắt Le Le (NT), đảo Ó (VC), cầu Vạc
(LT), ấp Bàu Chim (TP)… Gọi là đồi Hang Dơi (TP) vì có dơi tụ tập rất nhiều trong
hang động này.
đ. Gọi theo tên thực vật mọc hoặc trồng nhiều ở đó
Việc dùng tên cây cỏ để đặt địa danh là một hiện tượng phổ biến. Lý do là cây
cỏ rất gần gũi, gắn bó với nơi ăn chốn ở, nơi sinh ra và lớn lên của con người. Con
người tri giác và đặt tên. Có thể kể ra hàng loạt cái tên như: đường Cây Chàm (BH),
suối Cây Đa (CM), suối Cây Sung (VC), ấp Bằng Lăng (ĐQ), ấp Cây Điệp (TB), ấp
Phượng Vỹ (XL), ấp Cọ Dầu (CM), khu Cam Xe (LT), suối Muồng (VC), suối
Săng Máu (BH), thác Bàng (VC), núi Le (XL), suối Tre (TB)…
Rạch Lá (NT) mang tên như vậy là do ở đây có nhiều lá dừa nước. Hay gọi là
thác Mai (ĐQ) vì vào mùa xuân, xung quanh thác, ngoài hoa bằng lăng còn có rất
nhiều hoa mai với những gốc mai cổ thụ quý hiếm.
e. Gọi theo tên người nổi tiếng trong vùng
Đây là tên của những nhân vật đã từng sinh sống trên vùng đất Đồng Nai và
gắn với các sự kiện, lịch sử, sự tích, truyền thuyết ở địa bàn. Đó là các địa danh như
sông Ông Kèo (NT), rạch Bà Chéo (LT), cầu Bà Xanh (BH), hóc Bà Thức (BH),
bưng Ông Văn (BH), rạch Thầy Kiềng (BH), rạch Thủ Huồng (BH), dốc Kim Liên
(VC), suối Đại Úy Hùng (XL), suối Cai Nha (VC)…
Gọi là bưng Ông Văn (BH) vì Ông Văn là người thôn Vĩnh Cửu, tham gia hội
kín Đoàn Văn Cự (1905) sống gần một cái bưng [116, tr.49].
g. Gọi theo các giai đoạn, biến cố lịch sử
Đó là các địa danh: đường 30 Tháng 4 (BH), đường Cách Mạng Tháng Tám
(BH), ấp 18 Gia Đình (TXLK), công viên Biên Hùng (BH), núi Đầu Tây (TXLK),
đường Chiến Thắng Long Khánh (XL), đồi Mỹ (ĐQ), cù lao Phố (BH), ngã ba Thái
Lan (LT)… Ngã ba Chốt Mỹ (CM) là nơi binh lính nước ngoài theo chân lính Mỹ
đánh thuê trong cuộc chiến Việt Nam đóng tại đây…
h. Gọi theo tên sản phẩm bán trên hoặc cạnh đối tượng
Tên gọi rạch Lò Gốm xuất hiện là do dọc theo một con rạch thuộc xã Hiệp
Hòa ngày nay có các lò gốm của người Chăm, Việt, Hoa ra đời trước năm 1698.
Ngoài ra còn có làng cổ Bến Gỗ (LT), làng cổ Bến Cá (VC), rạch Muối (NT),
chợ Rạch Lò Gốm (BH), chợ Lò Bò (BH), ấp Lò Than (CM)…
i. Gọi theo vật dụng của cư dân
Đây là những vật dụng quen thuộc của người dân dùng trong lao động, trong
sản xuất. Chẳng hạn trong địa danh ấp Bến Cộ (NT) thì “cộ” là đồ dùng trên đồng
với hai thanh gỗ trượt do một trâu kéo là đủ, loại này dùng để chở nặng, còn cộ nhỏ
để đập lúa do người kéo trên ruộng sụp, nơi không thể dùng sức kéo của trâu bò.
Hay trong ấp Sa Cá (LT) thì “sa” là vật dụng dùng để bắt cá, tôm… [116, tr.73].
k. Gọi theo tên của vùng dân tộc trong tỉnh
Đó là các địa danh ấp Dân Tộc (LT), đường Dân Tộc Tà Lài (TP), đường Sóc
- Ba Buông (XL), núi Sốc Lu (TN)...
2.1.1.3. Dùng số đếm hoặc chữ cái để đặt tên
Chủ yếu là địa danh hành chính và công trình giao thông. Địa danh dùng số từ
chiếm số lượng nhiều: đường 120 (ĐQ), quốc lộ 15, tỉnh lộ 760, ấp 57 (CM), chiến
khu Đ (VC)… Để chỉ số lượng, có các địa danh như ấp Ba Tầng (ĐQ), cầu 2 Cống
(XL), cư xá Năm Tầng (BH), ấp Ba Bàu Sen (NT)… Một vài địa danh dùng số là từ
Hán Việt: ấp Ngũ Phúc (TB), ấp Nhất Hòa (BH), ấp Nhị Hòa (TB), ấp Tam Hiệp
(XL)…
Trong số 111 làng thời Pháp thuộc (năm 1897) của tỉnh Biên Hòa xưa, chỉ có
bốn địa danh dùng số là làng Nhất Hòa (BH), làng Nhị Hòa (BH), làng Tam Hòa
(BH) và làng Tam Thiện (LT). Trong khi đó, địa danh hành chính của tỉnh Đồng
Nai ngày nay lại dùng rất nhiều số thứ tự để đặt địa danh. Điều này cũng dễ hiểu vì
số lượng các xã, huyện, khu phố, tổ dân phố ngày càng tăng.
2.1.2. Phương thức chuyển hóa
Chuyển hóa là phương thức chuyển một địa danh này thành một hoặc nhiều
địa danh khác. Trong quá trình chuyển hóa, địa danh mới có thể giữ nguyên dạng
của địa danh cũ, hoặc thêm một vài yếu tố mới. Sau khi chuyển hóa, địa danh cũ có
thể mất đi hoặc cùng tồn tại với địa danh mới [53, tr.69]. Chẳng hạn từ tỉnh Đồng
Nai, địa danh này đã có sự chuyển hóa theo kiểu tiếp nhận một danh từ chung khác
đi kèm với địa danh “Đồng Nai” như sông Đồng Nai, cầu Đồng Nai, cảng Đồng
Nai, bến xe Đồng Nai.
Hai hình thức chuyển hóa chủ yếu trong địa danh Đồng Nai là chuyển hóa
trong nội bộ một loại địa danh và chuyển hóa trong bốn loại địa danh với nhau.
2.1.2.1 Chuyển hóa trong nội bộ một loại địa danh
a. Địa danh chỉ địa hình thiên nhiên: suối Bí → hồ Suối Bí (TN), suối Rết →
hồ Suối Rết (XL), sông Ông Kèo → rạch Ông Kèo (NT), đồi Rìu → núi Đồi Rìu
(TXLK), suối Ram → núi Suối Ram (CM)…
b. Địa danh chỉ công trình xây dựng: ga Hố Nai → đường Ga Hố Nai (BH),
công viên Biên Hùng → bùng binh Biên Hùng (BH), chợ An Viễn → cầu An Viễn
(TB); cầu Hang → ngã tư Cầu Hang (BH); đường Hiệp Hòa → chợ Hiệp Hòa
(BH)…
c. Địa danh hành chính: xã Phú Lập → ấp Phú Lập (TP), xã Phú Tân → ấp
Phú Tân (ĐQ), huyện Long Thành → thị trấn Long Thành (LT), huyện Trảng Bom
→ thị trấn Trảng Bom (TB), …
d. Địa danh vùng: giáo xứ Dầu Giây → khu công nghiệp Dầu Giây (TN), giáo
xứ Long Thành → khu công nghiệp Long Thành (LT)…
2.1.2.2. Chuyển hóa từ loại địa danh này sang loại địa danh khác
a. Địa danh chỉ địa hình thiên nhiên chuyển sang ba loại địa danh kia
- Chuyển sang địa danh chỉ công trình xây dựng: rạch Sỏi → cầu Rạch Sỏi
(BH), sông Buông → cầu Sông Buông (LT), suối Linh → cầu Suối Linh (BH), suối
Son → cầu Suối Son (ĐQ), rạch Đông → chợ Rạch Đông (VC), suối Bí → đập
Suối Bí (TN)…
- Chuyển sang địa danh hành chính: đồi Rìu → ấp Đồi Rìu (TXLK), núi Tung
→ ấp Núi Tung (LK), rạch Bảy → ấp Rạch Bảy (NT), sông Thao → xã Sông Thao
(TB), giồng Ông Đông → ấp Giồng Ông Đông (NT)…
- Chuyển sang địa danh chỉ vùng: vườn Ngô → giáo xứ Vườn Ngô (TP), sông
La Ngà → giáo xứ La Ngà (ĐQ), rạch Ông Kèo → khu công nghiệp Ông Kèo
(NT)…
b. Địa danh hành chính chuyển sang ba loại địa danh kia
- Chuyển sang địa danh chỉ địa hình thiên nhiên: ấp 7 → cù lao Ấp 7 (ĐQ); xã
Trị An → hồ Trị An (VC), xã Giang Điền → hồ Giang Điền (TB)…
- Chuyển sang địa danh chỉ công trình xây dựng: thị xã Long Khánh → chợ
Thị Xã Long Khánh (TXLK), thị trấn Định Quán → chợ Thị Trấn Định Quán (ĐQ),
ấp Tam Hiệp → chợ Ấp Tam Hiệp (XL)…
- Chuyển sang địa danh vùng: ấp Bảo Thị → giáo xứ Ấp Bảo Thị (XL), huyện
Long Thành → khu công nghiệp Long Thành (LT), huyện Tân Phú → khu công
nghiệp Tân Phú (TP) ...
So với địa danh chỉ địa hình thiên nhiên và địa danh hành chính thì địa danh
chỉ công trình xây dựng ít có sự chuyển hóa sang các loại địa danh khác. Ví dụ
chuyển hóa sang địa danh hành chính chỉ có một trường hợp: cầu Hang → ấp Cầu
Hang (BH); và chuyển hóa sang địa danh chỉ địa hình cũng vậy: cầu Vạc → suối
Cầu Vạc (LT). Đối với loại địa danh vùng, không có trường hợp chuyển hóa ngược lại.
2.1.3. Phương thức ghép
2.1.3.1. Ghép chữ cái với số thứ tự và ngược lại
Ở cách ghép này, phần lớn là các địa danh chỉ công trình xây dựng: đường
K24, cầu C1 (TB), cầu C2 (TB), cầu C3 (TB), trại giam B5 (BH), trại giam K4
(TXLK), hồ K3 (XL), hồ M09 (XL)…; hay như các địa danh đường 600A (TP),
quốc lộ 1K, tỉnh lộ 25B…
2.1.3.2. Ghép địa danh với số thứ tự và ngược lại
Ghép địa danh với số thứ tự: trạm bơm Trị An 1 (VC), kênh Tập Đoàn 1 + 2
(LT), cầu Phú Tân 1 (NT), chợ Đồi 61 (TB), đập Bình Xuân 1 (XL), đập Gia Liêu 2
(XL), giáo xứ Kẻ Sặt 2 (BH), khu công nghiệp Biên Hòa 1 (BH)…
Trường hợp ngược lại, ghép số thứ tự với địa danh, ta có: cầu 12 Cống (XL),
cầu 4 Cống (CM), chợ 104 - Phú Ngọc (ĐQ), chợ 105 - Phú Ngọc (ĐQ), chợ 102 -
La Ngà (ĐQ), chợ 13 - Phú Lập (TP)…
2.1.3.3. Ghép địa danh với địa danh
Đó là các địa danh: chợ Ấp 3 - Hiệp Phước (NT), chợ KP7 - Tân Biên (BH),
chợ Ấp 2 - Xuân Đường (CM), chợ Ấp 10 - Xuân Tây (CM), chợ KP2 - Long Bình
(BH), chợ Đại An - Tân An (VC)…
2.1.3.4. Ghép các yếu tố Hán Việt
Cách này thường dùng để đặt tên các đơn vị hành chính, đặc biệt là tên xã, ấp,
và trước đây là tên làng, thôn. Các yếu tố Hán Việt này hầu hết đều mang ý nghĩa
tốt đẹp như Tân, An, Bình, Long, Phú, Thạnh, Lộc, Mỹ…
a. Ghép các thành tố đầu của các địa danh
Chẳng hạn như thời Pháp thuộc, làng Long Bình (thuộc tổng Long Vĩnh
Thượng, huyện Long Thành, tỉnh Biên Hoà) được ghép từ tên hai làng Long Khánh
và Bình Dương.
Làng Bình An (1957) được ghép từ hai địa danh ấp Bình Đa và ấp An Hảo.
b. Ghép các thành tố cuối của các địa danh
Đó là địa danh xã Phú Thạnh (quận Long Thành, tỉnh Biên Hòa cũ) được ghép
từ hai địa danh xã An Phú và xã Phước Thạnh.
c. Ghép các thành tố cùng có một chữ đầu tên giống nhau rồi thêm số từ
chỉ số lượng vào trước chữ ấy
Chẳng hạn như làng Tam An (thuộc tổng Long Vĩnh Thượng, quận Long
Thành, tỉnh Biên Hòa) được ghép tên của ba làng có cùng chữ “An” đứng đầu là An
Định, An Phước, An Xuân.
d. Ghép một số yếu tố Hán Việt như Thượng - Trung - Hạ, Đông - Tây -
Nam - Bắc, Nhất - Nhì - Tam - Tứ… vào cuối địa danh để nhằm mục đích phân
biệt các địa danh với nhau.
Một số tên làng như: Bình Kính Đông, Bình Kính Tây (trước thuộc tổng An
Thủy nay thuộc xã Hiệp Hòa - BH); Tân Triều Đông, Tân Triều Tây (trước thuộc
tổng Phước Vinh - trấn Biên Hòa nay thuộc xã Tân Bình - VC); Tân Hạnh Đông,
Tân Hạnh Tây (trước thuộc tổng Chánh Mỹ nay thuộc xã Tân Hạnh - BH); ấp
Thành Tuy Hạ (NT)…
2.1.4. Phương thức vay mượn
Phương thức vay mượn có hai cách chủ yếu: vay mượn địa danh nơi khác
thuộc lãnh thổ Việt Nam và vay mượn từ của ngôn ngữ khác.
2.1.4.1. Vay mượn địa danh nơi khác thuộc lãnh thổ Việt Nam để đặt địa danh
a. Cách vay mượn này không có gì lạ so với các tỉnh khác ở trong nước. Trong
quá trình di cư đến vùng đất mới, người dân thường tập trung thành một nhóm và
lấy tên làng xã cũ để đặt tên cho vùng đất mới. Theo thời gian, vùng đất Đồng Nai
cũng tiếp nhận nhiều đợt dân di cư khác nhau chủ yếu là người miền Bắc và miền
Trung. Vì vậy, có thể dễ dàng nhận ra những cái tên như khu Quảng Ngãi (LT) (tập
trung người dân ở tỉnh Quảng Ngãi), ấp Thanh Hóa (TB, chủ yếu là người Thanh
Hóa đến đây sinh sống), ấp Quảng Biên (TB), chợ Quảng Biên (TB), chợ Thái Bình
(BH)…
Phương thức này cũng được thấy rõ qua hàng loạt địa danh chỉ vùng, cụ thể là
các giáo xứ ở Đồng Nai như Bùi Chu (TB), Bắc Ninh (NT), Hà Nội (BH), Hải
Dương (BH), Kẻ Sặt (BH), Kẻ Sặt 2 (BH), Sài Quất (TB), Thanh Hóa (TB)…
Ngoài ra còn có một số địa danh khác như đường thủy Nhà Bè, ngã tư Vũng
Tàu (BH), khu phố Bình Dương (BH), xã Long An (LT), trạm bơm Bình Phước
(VC)…
b. Vay mượn địa danh nơi khác còn có thể hiểu là mượn nhân danh để đặt địa
danh, và nhân danh được nói đến ở đây là tên các anh hùng dân tộc, các vị vua
chúa, các danh nhân văn hóa, lịch sử. Thời xưa, vì kiêng húy nên người ta không
dùng tên của những vị ấy để đặt tên cho đường phố hoặc một công trình nào đó.
Nhân dân thường lấy tên làng xã, dinh thự, chợ búa, miếu mão, đình chùa, trường
học, bệnh viện… để đặt tên. Ngày nay, địa danh đường phố của Đồng Nai xuất hiện
nhiều tên các vị danh nhân, anh hùng dân tộc, các vua chúa không phải là người của
địa phương. Chẳng hạn như tên các con đường trong thành phố Biên Hòa: Nguyễn
Ái Quốc, Phan Đình Phùng, Hưng Đạo Vương, Lê Thánh Tông, Nguyễn Trãi, Lý
Thường Kiệt, Quang Trung, Nguyễn Trãi…
2.1.4.2. Vay mượn từ của ngôn ngữ khác
a. Mượn ngôn ngữ dân tộc thiểu số
Nhiều địa danh ở Đồng Nai vốn có nguồn gốc từ ngôn ngữ của một vài dân
tộc thiểu số trên địa bàn như tiếng Kơho (sông La Ngà (ĐQ)...), tiếng Chăm (núi
Chứa Chan (XL)…), tiếng Khmer (xã Tà Lài (TP), núi Sốc Lu (TN), ấp Vàm
(VC)…). Các địa danh có gốc Stiêng, Ba Na, Mnông có các sông: Đăk Lua (ĐQ),
Da Chanh (XL), Da Hop (ĐQ), Da Dam (TP), hay như suối Công Lo (TXLK), suối
Bà Rá (VC)…
b. Mượn từ Hán Việt
Địa danh Đồng Nai chủ yếu được tạo nên bằng cách mượn từ Hán Việt. Ví dụ:
kênh An Định (LT), ga Bảo Chánh (XL), huyện Nhơn Trạch, xã Phú Lập (TP),
thành phố Biên Hòa, khu Kim Sơn (LT), ấp Độc Lập (TB)…
c. Mượn tiếng Pháp
Địa danh được vay mượn từ tiếng Pháp chiếm tỷ lệ không nhiều. Như ấp Cấp
Rang (TXLK) phiên âm từ caporal nghĩa là viên cai. Hay chữ “Cua” trong ngã ba
Cua Heo (TXLK) có gốc là courbe (đường cong) dùng trong khẩu ngữ để chỉ khúc
ngoặt trên đường.
Trường hợp tên của một vài nông trường ở Đồng Nai hiện nay không có sự
thống nhất trên các văn bản hành chính. Có hai cách ghi: (1) nông trường Bình Lộc
(Xuân Thiện - TN), (2) nông trường Cao Su Bình Lộc (Xuân Thiện - TN). Nếu viết
theo cách thứ nhất thì địa danh này chỉ vay mượn từ Hán Việt. Theo cách (2) thì đây
là trường hợp địa danh hỗn hợp vừa mượn tiếng Pháp (cao su có gốc là caoutchouc)
vừa mượn từ Hán Việt (Bình Lộc).
d. Mượn từ Mã Lai
Loại này cũng không xuất hiện nhiều trong địa danh Đồng Nai. Ví dụ: ấp Cù
Lao (NT, trong đó Pulaw nghĩa là cồn, đảo), khu du lịch Cù Lao Giấy (NT)…
Ngoài các phương thức trên, còn có phương thức láy như: cầu Chôm Chôm
(TB), cầu Mù U (NT), tắt Le Le (NT), hóc Kênh Kênh (TP)… Cũng có thể kể đến
kiểu dùng từ tắt, tức là ghép các chữ cái ở đầu các từ trong tổ hợp định danh lại với
nhau. Ví dụ: khu công nghiệp Loteco (BH), “Loteco” là từ viết tắt của “Long Bình
techno park co-operation”; đường VMEP (BH), “VMEP” là từ viết tắt của
“Vietnam Manufacturing and Export Processing”…
2.2. Cấu tạo địa danh
Trước khi đi vào phần cấu tạo chính của địa danh, chúng tôi sẽ trình bày về
vấn đề danh từ chung, tên riêng và thành tố chung trong địa danh Đồng Nai.
2.2.1. Danh từ chung và tên riêng
Một số người xem những tổ hợp từ như “thành phố Biên Hòa”, “huyện Trảng
Bom”, “cầu Đồng Nai”… là địa danh. Theo đó thì địa danh gồm có hai thành tố:
danh từ chung (danh pháp) và tên riêng khu biệt đối tượng. Nhưng ý kiến thứ hai
được đa số các nhà nghiên cứu địa danh ủng hộ, trong đó có chúng tôi, đó là chỉ
“Biên Hòa”, “Trảng Bom” hay “Đồng Nai” mới là địa danh. Còn “thành phố”,
“huyện”, “cầu” là danh từ chung.
Chúng ta đã biết, ngành danh xưng học chuyên nghiên cứu về tên riêng, địa
danh học và địa danh cũng vậy. Giữa danh từ chung và tên riêng có sự khác nhau rõ
rệt. Theo Đái Xuân Ninh thì: "Danh từ riêng là tên gọi của một người, một vật, một
tập thể, một sự kiện riêng biệt. Danh từ riêng phân biệt rõ rệt với danh từ chung về
mặt chức năng ngữ nghĩa. Danh từ chung là tên gọi của một loạt sự vật, chứ không
phải của từng sự vật riêng biệt. Chúng khác với danh từ riêng ở chỗ bao giờ chúng
cũng chứa đựng một nội dung ý nghĩa nhất định, kể cả những trường hợp mà chúng
chỉ là tên gọi của một đối tượng duy nhất (mặt trời, quả đất...)" [84, tr.72-74].
Hoàng Thị Châu viết: “Địa danh thường đi kèm với danh pháp (geographical
nomenclature), tức là danh từ chung chỉ đối tượng địa hình (chỉ những nơi, những
vật cần được đặt tên): sông, núi, biển, đất nước, đường xá, cầu cống,…” [139].
Hoàng Phê định nghĩa: “Danh từ chung là danh từ dùng để gọi cùng một tên như
nhau những sự vật thuộc cùng một loại” [85, tr.242].
Như vậy, danh từ chung chứa đựng thông tin về loại hình của địa danh, dùng
để chỉ những địa danh cùng một loại, cùng một thuộc tính.
Nhưng càng ngày, số lượng các đối tượng cần được định danh xuất hiện càng
nhiều. Sông thì có nhiều con sông khác nhau và núi, đồi, cầu, cống… cũng vậy. Để
phân biệt các đối tượng này, bản thân mỗi đối tượng phải kèm theo một tên riêng.
Mà tên riêng có chức năng là “gọi tên để phân xuất và định danh riêng cho một đối
tượng cá biệt, đơn nhất so với các đối tượng cùng loại” [102, tr.350]. Và “ngoài
chức năng định danh, tên riêng (đặc biệt là địa danh) còn “mang” trong nó thông tin
phản ánh hiện thực, bảo lưu những sự kiện, tâm lý, văn hóa… trong cuộc sống của
con người” [30, tr.90]. Trong khi đó, tên chung được dùng gọi tên để thông báo, để
biểu niệm.
Và như vậy, tên riêng ở đây chính là địa danh.
Trong hệ thống địa danh Đồng Nai, có 73 danh từ chung chỉ các đối tượng về
loại hình của địa danh. Số lượng âm tiết trong danh từ chung của địa danh Đồng Nai
có nhiều loại: loại một âm tiết có 37/73 đối tượng, chiếm 50,69%, tập trung chủ yếu
ở loại chỉ địa hình (ấp, huyện, khu, phường, thôn, xã, bàu, dốc, đảo, đèo, đồi, giồng,
gò, hang, hóc, hòn, hồ, núi, rạch, rừng, sông, suối, tắt, thác, trảng, trũng, vàm,
vườn, bến, cảng, cầu, chợ, cống, đập, đường, ga, kênh); loại hai âm tiết có 33/73
đối tượng, chiếm 45,20%, tập trung nhiều nhất ở loại chỉ công trình xây dựng (khu
phố, thành phố, thị trấn, thị xã, tiểu khu, cù lao, lòng tắt, bến đò, bến phà, bến xe,
bùng binh, chiến khu, công viên, cư xá, địa đạo, đường thủy, hoa viên, hương lộ,
làng cổ, lâm trường, ngã ba, ngã năm, ngã tư, nông trường, quảng trường, quốc lộ,
sân bay, thành cổ, tỉnh lộ, trại giam, trạm bơm, xa lộ, giáo xứ); loại gồm ba âm tiết
có 3/73 đối tượng, chiếm 4,11% (khu du lịch, sân vận động, khu công nghiệp). Như
vậy, danh từ chung tối đa có ba âm tiết. Còn tên riêng của địa danh Đồng Nai như
đã nói ở trên, có nhiều nhất là tám âm tiết.
Về cấu tạo tên riêng trong địa danh Đồng Nai chúng tôi sẽ đề cập ngay sau
phần trình bày này.
Như vậy, có thể hình dung cấu trúc của một tổ hợp địa danh Đồng Nai qua sơ
đồ sau:
Tên riêng (địa danh) Danh từ chung
Số lượng âm tiết Số lượng âm tiết
1 2 3 1 2 3 4 5 6 7 8 n
Tuy nhiên, theo tác giả Trần Văn Dũng thì vấn đề phân biệt danh từ chung -
tên riêng cũng có sự phức tạp của nó. Người ta hoàn toàn có thể nói là “đi Hà Nội,
đi Huế, đến Hội An, về Hải Phòng…”. Nhưng đối với những địa danh mang tên
danh nhân, đặc biệt địa danh là một số đếm, khó có thể tách thành tố thứ nhất ra
khỏi tổ hợp của chúng. Chẳng hạn khó có thể chấp nhận trường hợp “đi (TP) Hồ
Chí Minh”, “đi qua (đường) Hùng Vương”, “đến (thôn) 3”, “đến (ấp) 4” [30, tr.18].
Chúng tôi cho rằng trường hợp những địa danh mang tên danh nhân vẫn có thể
nói tắt được. Chẳng hạn một hành khách đi xe buýt dễ dàng nói với bác tài rằng
“Cho em xuống đầu Phạm Văn Hai”, hay người ta cũng có thể nói: “Cậu có đi
ngang Nguyễn Huệ không, cho tớ đi nhờ với!”. Còn đối với “thành phố Hồ Chí
Minh” là một trường hợp đặc biệt. Cái tên này mới được đặt không lâu (từ ngày 2-
7-1976), trước đó và cho đến tận bây giờ, người ta vẫn quen gọi là Sài Gòn. Nếu có
thể nói Phạm Văn Hai thay vì đường Phạm Văn Hai cũng như Hải Phòng thay vì
thành phố Hải Phòng, Hà Nội thay vì thành phố Hà Nội, vậy thì vì sao không thể
nói tắt Hồ Chí Minh thay vì thành phố Hồ Chí Minh. Không phải vì không kính
trọng các vị danh nhân hay anh hùng dân tộc khác mà người ta thường lược bỏ
thành tố thứ nhất trong khi nói, mà đây chỉ là quy luật tiết kiệm của ngôn ngữ, thói
quen trong sử dụng. Riêng đối với Bác Hồ thì “Sự tôn kính Chủ tịch Hồ Chí Minh
chưa cho phép chúng ta gọi trổng như thế. Đối với người Việt Nam, ngoài phong
cách khoa học (chẳng hạn ta có thể viết: “Phan Bội Châu đã viết nhiều bài thơ yêu
nước”), gọi trổng là một cách gọi với ý xem thường” [53, tr.283]. Một vị “cha già
của dân tộc” thì khó mà nói là “đi Hồ Chí Minh” thay vì “đi thành phố Hồ Chí
Minh”. Trên thực tế, khi được hỏi là đi đâu, nhân dân vẫn quen dùng là “đi Sài
Gòn”, chứ ít ai dùng “đi thành phố Hồ Chí Minh” bởi do thói quen, do sự tiết kiệm
trong lời nói. Và như vậy thì đến một lúc nào đó có thể người ta cũng sẽ nói “đi Hồ
Chí Minh” mà không cần hai tiếng “thành phố” nữa.
Cũng có cách giải thích thứ hai về trường hợp này đó là xem cụm từ “Thành
Phố Hồ Chí Minh” là một địa danh chỉ vùng và viết hoa tất cả chữ đầu của địa danh
này. Lý do là “Thành Phố” Hồ Chí Minh không giống với “thành phố” Biên Hòa
(một thành phố nằm trong tỉnh Đồng Nai); mà Thành Phố Hồ Chí Minh cũng là một
cái tên riêng giống như Hải Phòng và Hà Nội. Và cả ba địa danh này có chức năng
ngang nhau, đều là những thành phố lớn của Việt Nam.
Trường hợp những địa danh là số chỉ mang tính tạm thời, nhất là đối với các
khu đô thị mới xây dựng hoặc quy hoạch. Bản thân những địa danh này giống như
cái xác không hồn, không phản ánh được những nét văn hóa hay thông tin về địa lý,
lịch sử của một vùng đất. Trong bất cứ trường hợp nào, người ta cũng không thể nói
“đến 3”, “đến 4” mà buộc phải nói “đến ấp 3”, “đến ấp 4” vì ngoài tên ấp còn có tên
phường, tên khu phố cũng mang số như “phường 3”, “phường 4” hay “khu phố 3”,
“khu phố 4”.
2.2.2. Thành tố chung
Theo Hoàng Thị Châu thì những địa danh đầu tiên từ thời cổ đại thường chính
là danh từ chung. Ở châu Âu, sông Đanuýp chảy qua Đức, Áo gọi là Donau, qua
Nga là Đunai với thượng nguồn là sông Đông có nghĩa là “nước (lã)”. Ở châu Á,
“Kông” trong tên sông Mêkông chính là từ “sông” (sông mẹ) và tên sông Trường
Giang theo từ điển Từ Hải thời cổ, tên chỉ đơn giản là Giang được ghi cách đọc
bằng chữ công. Như vậy là cả hai con sông này đều có tên gọi ban đầu là sông
nước. Nhưng vì mục đích của việc đặt tên địa danh là để phân biệt các đối tượng địa
hình, nên mỗi con sông, ngọn núi đều được đặt tên riêng, tránh sự trùng nhau.
Những địa danh chỉ các đối tượng địa hình như biển, đảo, eo, vịnh… thường kèm
theo danh pháp vì nhiều khi cùng chung một tên để gọi như Biển Java, Đảo Java;
Đảo Đài Loan, Eo Đài Loan…[139].
Ở các tỉnh Tây Nguyên, có hàng loạt từ ngữ chỉ sông, núi, ao, hồ… xuất hiện
trong địa danh như Êa (có nghĩa là nước: xã Êa Kao, xã Êa Pam…), Krông (có
nghĩa là sông: xã Krông Buk, xã Krông Năng…), Cư (có nghĩa là núi: xã Cư Kty,
huyện Cư Jut…) [53, tr.118].
Rõ ràng, có một bộ phận lớn danh pháp địa lý xuất hiện trong địa danh. Theo ý
kiến của chúng tôi thì loại danh từ chung nằm trong địa danh này thuộc dạng đặc
biệt, chúng chính là một trong những thành tố chung. Nếu là suối Bí thì “suối” là
danh từ chung. Nhưng hồ Suối Bí (TN) hay hồ Long Ẩn (BH) thì “Suối” trong hồ
Suối Bí không còn đóng vai trò chỉ loại mà trở thành một thành tố cấu tạo địa danh,
giống những thành tố khác như “Long” trong hồ Long Ẩn. Chúng tôi đồng ý với tác
giả Lê Trung Hoa khi quan niệm về thành tố chung như sau: “Thành tố chung là
thành tố xuất hiện ở nhiều địa danh và thường ở đầu địa danh, còn thành tố riêng là
thành tố chỉ xuất hiện ở một vài địa danh và thường ở cuối địa danh” [53, tr.120].
Giữa danh từ chung và thành tố chung có sự khác biệt về cương vị “một bên là
thành phần qui nhóm có mối quan hệ không bền chặt, một bên là “máu thịt” của địa
danh, có mối quan hệ mật thiết không thể tách rời. Tên chung (general names)
thường gắn với một lớp đối tượng cùng loại; còn tên riêng (proper namer) chỉ gọi
tên cho một đối tượng cá biệt, đơn nhất và xác định” [4, tr.64].
Áp dụng vào địa danh Đồng Nai, chúng tôi cho rằng thành tố chung là những
từ, ngữ có hiện tượng lặp lại, tương tự nhau trong toàn bộ địa danh, được nhân dân
quen dùng để tạo địa danh. Chúng nằm ở thành tố đầu của địa danh, được thể hiện
bằng một từ đơn tiết hay đa tiết có thể có một nghĩa hoặc nhiều ý nghĩa khác nhau.
Thành tố chung chia làm hai loại: loại đã chuyển hóa từ danh pháp địa lý sang (như
sông, suối, hồ, bàu…) và loại được lặp đi lặp lại nhiều lần đứng ở đầu tên riêng.
Như vậy thì trong tên riêng có cả thành tố chung vốn là danh pháp địa lý đã
chuyển hóa. Ví dụ: một số hồ như Suối Bí (TN), Suối Chà (XL), Suối Mơ (ĐQ),
Suối Gia Đức (TB)… có thành tố chung “Suối” đã được riêng hóa.
2.2.3. Giải thích một vài danh từ chung và thành tố chung trong địa danh
ở Đồng Nai
Trong phần này, chúng tôi chỉ giải thích một số danh từ chung và thành tố
chung để minh họa cho phần trình bày trên. Tiêu chí lựa chọn là những từ ngữ ít
được nhắc đến, một số từ ngữ mà chúng tôi cho là tiêu biểu trong địa danh Đồng
Nai và nhóm từ ngữ đang còn gây tranh cãi. Những nhóm từ ngữ khác xin xem
phần phụ lục 2.
2.2.3.1. Về danh từ chung
BÀU: là chỗ đất trũng, thường ở trong đồng hay trong rừng, mưa đọng nước
sâu, còn khi nắng thì chỉ là những vũng nước nhỏ hay khô hẳn. Chẳng hạn như bàu
Lát (VC), bàu Ngứa (TP), bàu Ông Trụ (NT)…
CÙ LAO: gốc Mã Lai là pulaw, nghĩa là cồn, đảo, nơi có cồn đất to nổi lên
giữa sông, giữa biển [50, tr.54]. Ví dụ: cù lao Phố (BH), cù lao Giấy (NT), cù lao
Vàm Thượng (NT)…
GIỒNG: âm trại của “vồng”. Đây là chỗ đất cao hơn ruộng, thường có nhiều
cát, ít nước, “nhưng khi đào được giếng thì nước rất tốt, trong và ngọt” [92, tr.377].
Nơi đây thích hợp để trồng khoai đậu và các loại cây ăn quả. Ví dụ: giồng Ông
Đông (NT), giồng Dài (LT).
HÓC: Hóc là một từ cổ chỉ dòng nước nhỏ, đồng nghĩa với xẻo. Ví dụ: hóc Bà
Thức (BH), hóc Kênh Kênh (TP)… Tuy nhiên, hóc còn mang một nghĩa khác là góc
tối, khuất. Ví dụ: hóc Ông Che (BH).
TẮT: đường nước nhân tạo hoặc tự nhiên, có kích thước nhỏ, nối liền hai
dòng chảy để đi tắt từ dòng nước này đến dòng nước khác cho nhanh thay vì phải đi
vòng. Tắt vốn là tính từ chuyển hóa thành danh từ, thường viết nhầm, đọc chệch
thành tắc [4, tr.22]. Ví dụ: tắt Cầu Kho (NT), tắt Hồng (NT), tắt Le Le (NT)…
TRẢNG: là khoảng đất rộng nằm giữa rừng hoặc giữa hai khu rừng, trong đó
rải rác có những bụi cây nhỏ, loại thảo nguyên. Ví dụ: trảng Lá (VC).
TRŨNG: chỗ đất trũng, lõm sâu so với xung quanh. Ví dụ: trũng Vịt (VC)
VÀM: do từ Khmer “piam” (có người phiên păm, peam, piêm) là chỗ cửa rạch
đổ ra sông hay chỗ sông nhỏ đổ ra sông lớn. Phụ âm tắc môi - môi /p-/ chuyển thành
phụ âm xát môi - răng /v-/ là hiện tượng phổ biến: tỉnh Kampot (Campuchia) - Cần
Vọt (cách đọc của người Việt), ping pong (khmer) - (cây) tầm vông. Còn âm chính
/-ă-/ hay /-iê-/ chuyển đổi thành /-a-/ đã có nhiều tiền lệ: hằng - hàng (tháng), (đại)
bàng - (cánh) bằng, yên - an, kiền - càn (khôn)… [50, tr.121]. Ví dụ: vàm Bà Lồ
(BH), vàm Vôi (LT), vàm Ông Phượng (BH)…
KHU CÔNG NGHIỆP: khu vực tập trung các nhà máy, xí nghiệp, công ty có
nhiệm vụ khai thác, chế biến tài nguyên và các sản phẩm nông nghiệp thành tư liệu
sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Ví dụ: khu công nghiệp Amata (BH), khu công nghiệp
An Phước (LT), khu công nghiệp Sông Mây (TB)…
2.2.3.2. Về thành tố chung
BÀ: Một số địa danh mang thành tố Bà đó là đảo Bà Hào, núi Bà Hạo, núi Bà
Hiền, suối Bà Rá, hóc Bà Thức, hồ Bà Hào, rạch Bà Chéo, rạch Bà Ký, vàm Bà
Lồ… Theo khảo sát, có 32 địa danh ở Đồng Nai mang thành tố Bà.
Địa danh mang thành tố Bà không phải chỉ có nhiều trong địa danh ở Đồng
Nai mà còn có nhiều trong địa danh của Nam Bộ nói chung. Lê Trung Hoa đã giải
thích vấn đề này như sau “Có thể do phụ nữ Nam Bộ ít bị lễ giáo phong kiến ràng
buộc hơn nên họ tham gia hoạt động xã hội nhiều hơn phụ nữ ở miền Bắc và miền
Trung; do đó, tên tuổi của họ quen thuộc hơn. Các bà thường mở quán bên sông
rạch hoặc cầu đường nên tên của họ dễ đi vào địa danh. Vả lại, thành kiến “trọng
nam khinh nữ” ở Nam Bộ nhẹ hơn ở Bắc và Trung Bộ nên quần chúng dễ dàng
chấp nhận lấy tên các bà làm địa danh” [50, tr.108].
Thực tế ở Đồng Nai, có một số địa danh mang thành tố Bà vốn mang tên
người như cầu Bà Xanh (BH) là cầu lấy tên một bà sống gần đầu cầu từ rất lâu. Hay
hóc Bà Thức (xưa thuộc xã Tân Phong, nay thuộc thành phố Biên Hòa) lấy tên một
bà tên Thức “Tương truyền bà Thức người làng Tân Phong đi rừng kiếm củi bị ma
đem giấu trong một xó rừng, mấy hôm sau người nhà mới tìm thấy được, từ đó nơi
này có tên” [116, tr.49].
Bên cạnh đó, cũng có những địa danh do phiên âm từ tiếng dân tộc mà thành.
Như suối Bà Rá (VC) không nói về một “bà” nào, địa danh này vốn bắt nguồn từ
ngôn ngữ dân tộc Stiêng. Cuốn Stieng - English dictionary có giải thích Bra là “thần
linh” [132]. Tác giả cuốn Cửa sổ tri thức (tập 2) cho rằng từ Bra, phụ âm B được
âm tiết hóa thành Bà, còn Ra đọc chệch (được thanh điệu hóa) thành Rá (giống
Brahman = Bà la môn) [54, tr.98]..
Theo Tự vị tiếng Việt miền Nam của Vương Hồng Sển thì rạch Bà Kí trong
tiếng Khmer là: Tonlé prêk kompong koki. Chữ gọi Kí Giang, nhưng tên nôm là
rạch Bà Kí hay sông Bà Kí. Trong Tonlé prêk kompong koki: ba chữ tonlé prêk
kompong dồn lại dịch là vàm sông. Koki, sau này sách mới lại viết koky là cây sao
đen, cây sao. Vàm cây sao, nhưng dịch Rạch Bà Kí là để giữ âm tiếng Miên. Và tác
giả hiểu theo nghĩa là cây sao cổ thụ chỗ này, dân đã thờ làm thổ thần tại đây, nên
gọi kiêng là Bà Kí [92, tr.543].
Như vậy, thành tố Bà có nhiều nghĩa như để chỉ tên người, phiên âm tiếng
S’tiêng hay do kiêng kỵ...
BẾN: Ban đầu là chỗ có đủ điều kiện thuận tiện cho thuyền ghe ghé vào bờ.
Sau, bến chỉ chỗ nhiều ghe thuyền thường xuyên đậu lại do yêu cầu chuyên chở, lên
xuống hàng. Về sau, các bến dần được quản lý và được dựng lên, lúc này có bến xe,
bến đò…
Cũng như chợ, bến thường được phân biệt và đặt tên theo các loại hàng được
cất lên nhiều nhất. Chẳng hạn địa danh Bến Gỗ (An Hòa - LT) được Trịnh Hoài
Đức ghi lại như sau: “Sông An Hòa ở phía Bắc sông Phước Giang, cách trấn về phía
đông 19 dặm. Ngoài cửa sông là sông Đồng Chân, chảy ra bắc nửa dặm, đến chợ
(thôn) An Hòa, trước kia đây là bến để gỗ, cho nên còn gọi là Bến Gỗ” [41, tr.32].
Ngoài ra, cũng có cách đặt tên bến dựa vào loại cây cỏ hay động vật tập trung
nhiều ở đó. Ví dụ: ấp Bến Cam, ấp Bến Sắn, ấp Bến Cò…
BƯNG: Có gốc là tiếng Khmer “bâng” (nghĩa là hồ to), chỉ chỗ đất trũng giữa
đồng, đọng nước về mùa mưa, khô nước về mùa nắng, có nhiều cây mọc (như đưng,
đế, lác…). Bưng được dùng như một danh từ chung, chỉ một loại định hình, đứng
trước địa danh, đôi khi trở thành một yếu tố cấu tạo địa danh. Ở thế kỷ 19, người
Việt vừa đọc “bưng” vừa đọc “bâng”. Hai vần “âng” và “ưng” thường chuyển đổi
lẫn nhau: nâng - nưng, tầng - từng, vầng - vừng [50, tr.119-120]. Ví dụ: suối Bưng
Môn (LT), suối Bưng Cầu (XL).
ĐỒNG: Khoảng đất rộng và bằng, có thể là toàn ruộng; hoặc vừa ruộng vừa
đất hoang [110, tr.16]. Ví dụ: đảo Đồng Trường, núi Đồng Bắc, sông Đồng Kho,
sông Đồng Nai, sông Đồng Tranh, suối Đồng Hươu, cầu Đồng Tràm…
Tuy nhiên, “Đồng” trong (đường) Đồng Khởi là một yếu tố Hán Việt ghép
trước để cấu tạo danh từ, động từ, tính từ… có nghĩa là “cùng với nhau, cùng trong
một lúc, cùng có hoặc cùng làm với nhau”.
Ngoài ra, theo Vương Hồng Sển thì tên sông Đồng Môn (Phước Thiền - NT)
có gốc Khmer: Tonlé kompong chơ khmau. Đồng Mun tức cánh Đồng Đen (Mun),
trong đó kompong là bến; chơ là cây, gỗ; khmau là đen, mun. Như vậy, Tonlé
kompong chơ khmau là vàm sông cây đen (mun). Và khmau khi đọc lên nghe giống
môn [92].
GIA: Có lẽ là tiếng Gia Rai (Ia), trong đó, Gia có nghĩa là nước. Ví dụ: hồ Gia
Lào, hồ Gia Nhung, hồ Gia Ui, sông Gia Nhạn, suối Gia Liêu, suối Gia Đức, suối
Gia Man, suối Gia Dách…
HÀN: Là chỗ chắn ngang sông rạch, làm cản trở lưu thông. Vật chắn ngang có
thể là đá hay lòng cầu hay cây (nhân tạo). Nhiều người viết lầm thành “hàng”. Ví
dụ: thác Đá Hàn (TN)…
QUẢNG: Trong từ Hán Việt, quảng có nghĩa là “rộng”. Ví dụ: ấp Quảng Biên
(TB), ấp Quảng Ngãi (LT)…
LÁNG: là cánh đồng thấp, gần đường nước chảy nên thường bị ngập. Vì láng
có độ sâu ngang nhau ở bờ cũng như ở giữa nên ở xa trông như một vùng nước
trắng xóa, nhất là khi trời mưa [67, tr.25].
Ví dụ: ấp Láng Lớn (CM), ấp Láng Me 1 (CM)…
2.2.4. Cấu tạo địa danh Đồng Nai
Xét về mặt âm tiết, địa danh Đồng Nai có hai dạng cấu tạo: cấu tạo đơn và cấu
tạo phức.
2.2.4.1. Cấu tạo đơn
Địa danh có cấu tạo đơn nghĩa là địa danh đó chỉ có một thành tố, được thể
hiện bằng một từ đơn. Theo thống kê của chúng tôi, có 735/3019 địa danh có cấu
tạo đơn, chiếm 24,35%. Trong đó, địa danh hành chính chiếm đại đa số với 525 địa
danh (chiếm 17,39%), tiếp đến là 167 địa danh chỉ địa hình (chiếm gần 5,53%), 43
địa danh chỉ công trình xây dựng (1,43%). Địa danh vùng không thuộc kiểu cấu tạo
này.
Địa danh có cấu tạo đơn có cả ở địa danh thuần Việt lẫn địa danh không thuần
Việt. Tuy nhiên, số lượng địa danh đơn tiết không thuần Việt (1,66%) chiếm tỷ lệ
rất thấp so với địa danh thuần Việt (22,69%). Một số địa danh không thuần Việt là:
Địa danh gốc Hán: núi Phu (XL), núi Quy (ĐQ), cù lao Phố (BH), núi Tượng
(TP)…
Địa danh gốc Khmer: suối Bưng (ĐQ), ấp Vàm (VC)…
Xét về từ loại, địa danh đơn tiết ở Đồng Nai được tạo ra từ danh từ là phổ biến
nhất. Tuy nhiên, về cơ bản, các từ loại như động từ, tính từ, số từ đều chuyển hóa
thành danh từ khi làm chức năng gọi tên.
(1) Danh từ: sông Trầu (TB), suối Bí (TN), cầu Gỗ (LT), cầu Khỉ (TB), hang
Nai (NT), thác Trời (TXLK)…
(2) Động từ: núi Vác (ĐQ), cầu Sập (BH)…
(3) Tính từ: cầu Mới (BH), rạch Cụt (BH), cầu Ngang (LT), suối Nóng (XL),
suối Sâu (CM, TN), tắt Hồng (NT)…
(4) Số từ: ấp Bảy (VC), khu Bốn (TT. Tân Phú), đồi Hai (XL), khu phố Một
(BH)…
Những địa danh một âm tiết không phải là số có gốc là thuần Việt hay không
thuần Việt tuy chiếm số lượng không nhiều (309/3019, chiếm 10,24%) và đôi khi
các âm tiết này nếu đứng một mình thì khó có thể hiểu nghĩa của nó (núi Vác, sông
Cáp, cầu Mên…); nhưng những cái tên ấy thực ra lại gắn liền với cuộc sống sinh
hoạt, lao động của người dân, dân dã nhưng khó quên.
2.2.4.2. Cấu tạo phức
Địa danh có cấu tạo phức được hiểu là địa danh đa tiết, tức gồm có hai thành
tố trở lên. Trong hệ thống địa danh của Đồng Nai, có 2284 địa danh được cấu tạo
phức, chiếm 75,65%. Cụ thể, loại chỉ địa hình gồm 314 địa danh (chiếm 10,4%),
loại địa danh hành chính có 711 (chiếm 23,55%), loại địa danh chỉ công trình xây
dựng có 1124 (chiếm 37,23%) và 135 địa danh chỉ vùng (chiếm 4,47%).
Về mặt cú pháp, các thành tố của địa danh có cấu tạo phức được xem xét trong
ba quan hệ: quan hệ đẳng lập, quan hệ chính phụ và quan hệ chủ vị.
a. Quan hệ đẳng lập
Các thành tố trong quan hệ đẳng lập có đặc điểm từ loại gần nhau hoặc giống
nhau và cùng chức năng. Ở đây, các thành tố có vai trò tương đương nhau về mặt ý
nghĩa và về mặt tham gia vào các vị trí trong địa danh [72, tr. 85].
Địa danh thuần Việt có quan hệ đẳng lập chiếm số lượng rất ít. Ví dụ: suối
Bàu Hang (BH).
Có khá nhiều địa danh Hán Việt có quan hệ đẳng lập với nhau, chủ yếu là các
địa danh hành chính như thôn, làng, xã, ấp… Ví dụ: làng Bình An (BH), thôn
Phước Thạnh (NT), xã Xuân Thọ (XL), ấp An Hòa (TB), ấp Sơn Hà (NT), ấp Hòa
Bình (ĐQ), huyện Vĩnh Cửu …
Những địa danh Hán Việt được tạo thành theo phương thức ghép cũng được
xếp vào loại này. Ví dụ: xã Bình Lợi (VC) được ghép từ xã Bình Long và xã Lợi
Hòa; xã Thạnh Phú (VC) được ghép từ xã Bình Thạnh và xã Tân Phú…
Trật tự giữa các thành tố trong quan hệ đẳng lập này có thể thay đổi. Chẳng
hạn như ấp Bình Hòa (Xuân Phú - XL) với ấp Hòa Bình (Bảo Hòa - XL), xã An
Phước (LT) với xã Phước An (NT), xã Phú Thạnh (NT) với xã Thạnh Phú (VC)…
b. Quan hệ chính phụ
Hai thành tố có quan hệ không ngang bằng nhau được gọi là quan hệ chính
phụ. Như vậy, ở đây sẽ có một thành tố đóng vai trò chính, và một thành tố giữ vai
trò phụ, lệ thuộc vào thành tố chính. Thành tố chính mang nghĩa tổng loại chung (về
sự vật, thuộc tính) còn thành tố phụ có tác dụng phân hóa nghĩa.
Địa danh Đồng Nai được cấu tạo theo quan hệ chính phụ chiếm đại đa số.
b1. Địa danh thuần Việt
Trong địa danh thuần Việt, thông thường, thành tố chính đứng trước thành tố
phụ. Loại này có các kiểu kết cấu như sau:
(1) Danh từ + tính từ: rạch Nước Trong (NT), hồ Cầu Mới (LT), rạch Bến Lớn
(NT), hồ Đá Vàng (LT), ấp Ruộng Lớn (LK), ấp Suối Đục (ĐQ)…
(2) Danh từ + danh từ: kênh Cây Sung (LT), hồ Suối Mơ (ĐQ), sông Bến Gỗ
(LT), ngã ba Cây Chàm (BH), đồi Hang Dơi (TP), núi Đồi Rìu (LK), rạch Lò Gốm
(BH)…
(3) Danh từ + động từ: cầu Gió Bay (XL), bàu Nước Sôi (ĐQ), cầu Cây Ngã
(LT)…
(4) Danh từ + ngữ danh từ: khu du lịch Hồ Núi Le (XL), đập Suối Nước Trong
(XL), cầu Suối Đá Bàn (TB)…
(5) Danh từ + số từ: chợ Đồi 61 (TB), cầu Số 1 (LT), đường Xóm 8 (BH), đập
Cầu 3 (XL)…
(6) Ngữ danh từ + số từ: chợ Ngã Ba 107 (ĐQ), xã Hố Nai 3 (TB), ấp Dốc Mơ
2 (TN), cầu Suối Phèn 2 (LT)…
(7) Ngữ danh từ + tính từ: khu du lịch Bò Cạp Vàng (NT)…
b2. Địa danh không thuần Việt
* Địa danh Hán Việt
Trong loại này, có những kiểu kết hợp sau đây:
(1) Danh từ + động từ: làng Đông Thành (TT. TB), ấp Đoàn Kết (NT)…
(2) Danh từ + tính từ: xã Xuân Hòa (XL), phường Xuân Thanh (TXLK)…
(3) Động từ + danh từ: đập Kiểm Lâm (ĐQ), làng Thiên Quan (VC)…
(4) Động từ + tính từ: xã Hiệp Hòa (BH)…
(5) Động từ + số từ: huyện Thống Nhất, ấp Hiệp Nhất (TT. ĐQ)…
(6) Động từ + động từ: ấp Lập Thành (TN)…
(7) Tính từ + động từ: phường Tân Tiến (BH), ấp Trung Tiến (XL)…
(8) Tính từ + tính từ: xã Tân An (VC), xã Tân Bình (VC), huyện Tân Phú…
(9) Tính từ + danh từ: xã Thanh Sơn (ĐQ), xã Phú Xuân (TP), khu du lịch
Bửu Long (BH)…
(10) Số từ + danh từ: cầu Tam An (LT), xã Tam Phước (LT)…
(11) Số từ + tính từ: phường Tam Hòa (BH), ấp Nhất Hòa (BH), ấp Nhị Hòa
(BH)…
(12) Số từ + động từ: phường Tam Hiệp (BH)…
(13) Ngữ danh từ + tính từ: phường Long Bình Tân (BH)…
* Địa danh hỗn hợp
Tức là loại thành tố thuần Việt kết hợp với một thành tố Hán Việt hoặc thành
tố thuộc ngôn ngữ có gốc khác đã được Việt hóa. Các thành tố thuộc các ngôn ngữ
gốc khác kết hợp lại với nhau cũng là địa danh hỗn hợp. Loại này gồm có mấy kiểu
sau:
(1) Thuần Việt + Hán Việt: ấp Suối Tiên (TB), ngã tư Chợ Đồn (BH), xã Núi
Tượng (TP)…
(2) Thuần Việt + Khmer: ấp Xóm Vàm (VC)…
(3) Khmer + thuần Việt: ấp Bưng Môn (LT), suối Bưng Cầu (XL), ấp Rạch
Bảy (NT)…
(4) Khmer + Hán Việt: suối Rạch Đông (VC), cù lao Vàm Thượng (NT)…
(5) Mã Lai + thuần Việt: khu du lịch Cù Lao Giấy (NT)…
(6) Mã Lai + Hán Việt: khu du lịch Cù Lao Phố (BH)…
(7) Thuần Việt + Pháp: cầu Kênh Xáng (NT)…
(8) Pháp + thuần Việt: ngã ba Cua Heo (TXLK), đường Ga Hố Nai (BH)…
(9) Pháp + Hán Việt: chợ Ga Biên Hòa (BH), nông trường Cao Su Cẩm Mỹ
(CM)…
(10) Hán Việt + chữ cái: ấp Bảo Vinh A (TXLK), ấp Bảo Vinh B (TXLK),
cảng Gò Dầu A (LT), cảng Gò Dầu B (LT)…
Nhìn chung, có thể thấy trong quan hệ chính phụ, địa danh thuần Việt và địa
danh hỗn hợp thường có mô hình: X + x, trong đó X là thành tố chính, x là thành tố
phụ, cả X và x đều có thể là một từ đơn tiết hoặc một ngữ. Còn địa danh Hán Việt
thường có mô hình ngược lại: x + X, nghĩa là thành tố chính đứng sau còn thành tố
phụ đứng trước theo cấu trúc ngữ pháp tiếng Hán. Trong đó x có thể là một từ đơn
tiết hoặc đa tiết, còn X chỉ là từ đơn tiết mà thôi.
Trong một số trường hợp, địa danh thuần Việt cũng có cách cấu tạo ngược lại
nhưng không nhiều: x + X (địa danh thuần Việt). Ví dụ: ấp Ba Bàu Sen (NT), cầu 7
Cống (XL)…
Có thể thấy rằng, các địa danh được cấu tạo theo quan hệ chính phụ thường sử
dụng những từ chỉ số thứ tự, phương hướng, chữ cái. Những từ này được đặt ở hai
vị trí. Thứ nhất là đứng ở vị trí thứ hai hoặc thứ ba (vị trí cuối) của địa danh như
làng Tân Triều Đông, làng Tân Triều Tây, xã Xuân Đông (CM), cầu Phú Tân 1
(NT), cầu Phú Tân 2 (NT), ấp Bảo Vinh A (TXLK), ấp Bảo Vinh B (TXLK)… Khi
ấy, các thành tố chỉ số thứ tự “1”, “2” và các thành tố chỉ phương hướng như
“Đông, Tây, Nam, Bắc”, chỉ chữ cái “A”, “B” đóng vai trò là thành tố chính về
nghĩa, có chức năng hạn định. Thứ hai, những từ chỉ phương hướng, số thứ tự này
đứng ở vị trí đầu tiên của địa danh như xã Nam Cát Tiên (TP), xã Bắc Sơn (TB), ấp
Đông Hải (TB), cầu 12 Cống… thì khi ấy chúng lại trở về vị trí ban đầu là thành tố
phụ.
c. Quan hệ chủ vị
Chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số địa danh Đồng Nai và thường nằm ở địa
danh thuần Việt với những từ ngữ gần gũi, dễ nhớ nhưng cũng rất ấn tượng như đập
Suối Dê Chạy (VC), bàu Nước Sôi (ĐQ), núi Dốc Lở (VC), núi Gò Dập (VC), đèo
Mẹ Bồng Con (TXLK)…
Qua những điều vừa trình bày ở trên, có thể thấy rằng cấu trúc địa danh của
Đồng Nai được thể hiện qua hai loại cấu tạo đơn và cấu tạo phức. Cách cấu tạo này
cũng có nhiều điểm tương đồng với cách cấu tạo địa danh thuộc những nơi khác
trong nước và phần nào phản ánh cấu tạo từ tiếng Việt.
2.3. Tiểu kết
Từ việc phân loại, mô tả những đặc điểm trong phương thức định danh và cấu
tạo địa danh của tỉnh Đồng Nai, chúng tôi có những nhận xét sau:
2.3.1. Địa danh Đồng Nai được tạo nên từ bốn phương thức chủ yếu là phương
thức tự tạo, phương thức chuyển hóa, phương thức ghép và phương thức vay mượn.
Phương thức định danh chủ yếu trong địa danh Đồng Nai đó là phương thức tự tạo.
Chiếm phần lớn trong phương thức tự tạo là những địa danh được gọi theo tên
người nổi tiếng trong vùng, tên các loại thực vật, các loại động vật có nhiều trên địa
bàn. Cũng phải kể đến một số lượng không nhỏ những địa danh được tạo nên bằng
cách dùng số đếm trong các đơn vị hành chính. Bên cạnh bốn phương thức định
danh trên, còn có phương thức láy và đặc biệt là cách dùng từ tắt để tạo địa danh,
điều này đem lại màu sắc đa dạng, phong phú trong phương thức định danh của
những địa danh ở Đồng Nai.
2.3.2. Trong hệ thống địa danh Đồng Nai, địa danh chỉ địa hình rất dễ chuyển
hóa sang ba loại địa danh kia. Các địa danh chỉ công trình xây dựng và địa danh
vùng khó chuyển hóa qua các loại địa danh khác.
2.3.3. Cấu trúc của một địa danh hay nói đúng ra là cấu trúc của một tổ hợp
địa danh bao gồm hai phần: danh từ chung chỉ địa hình và tên riêng. Số lượng danh
từ chung chuyển hóa thành tên riêng trong địa danh Đồng Nai không nhiều nhưng
những thành tố chung ấy cùng với những thành tố chung khác lại có ý nghĩa quan
trọng trong việc tìm ra những đặc điểm ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng, ngữ nghĩa,
quá trình tiếp xúc giữa các ngôn ngữ…
2.3.4. Về mặt cấu tạo, số lượng địa danh ở Đồng Nai có cấu tạo đơn chiếm tỷ
lệ thấp, chủ yếu là cấu tạo phức. Địa danh có cấu tạo phức có nhiều nhất là tám âm
tiết, còn nhìn chung chủ yếu là các địa danh có hai hoặc ba âm tiết. Đây cũng là một
nét đặc trưng văn hóa trong cấu tạo địa danh ở Đồng Nai: có nhiều âm tiết và đôi
khi các âm tiết này lại tạo nên một cấu trúc hỗn hợp phức tạp kiểu như: ấp Đồi
Phước Khả, cảng Gas PVC Phước Thái, chợ Ấp 4 - Thừa Đức…
Ngoài ra, địa danh ở Đồng Nai phần lớn được thể hiện ở loại quan hệ chính
phụ. Đối với những địa danh Hán Việt thì yếu tố phụ đứng trước, yếu tố chính đứng
sau. Địa danh thuần Việt thì ngược lại. Như vậy, trật tự của các yếu tố trong địa
danh ở Đồng Nai cũng phản ánh được đặc điểm tư duy của người Việt trong cách
đặt tên. Bởi trật tự này giống như trật tự trong từ ghép chính phụ của tiếng Việt nói
chung.
2.3.5. Địa danh Đồng Nai cũng phần nào phản ánh đặc trưng, tính chất và sự
phát triển của tiếng mẹ đẻ thông qua các phương thức định danh và cấu tạo địa danh
được thấy rõ qua việc sử dụng những từ ngữ có sẵn trong tiếng Việt, vay mượn có
chọn lọc các ngôn ngữ dân tộc trong nước và nước ngoài, đồng thời kết hợp những
yếu tố lại với nhau tạo nên sự đa dạng, phong phú và mới mẻ cho vốn từ ngữ dân
tộc.
Chương 3
ĐẶC ĐIỂM VỀ MẶT CHUYỂN BIẾN
3.1. Một số nguyên nhân làm biến đổi địa danh
Con đường “sống” của một địa danh có thể được giữ nguyên theo dạng ban
đầu của nó, và có thể bị biến đổi theo thời gian. Có nhiều nguyên nhân khác nhau
dẫn đến sự biến đổi về địa danh. Theo chúng tôi, hai nguyên nhân chung nhất, cơ
bản nhất làm một địa danh biến đổi đó là nguyên nhân bên ngoài ngôn ngữ và
nguyên nhân bên trong ngôn ngữ.
3.1.1. Nguyên nhân bên ngoài ngôn ngữ
3.1.1.1. Nguyên nhân tồn tại hay mất đi của địa danh
Để phân biệt đối tượng địa lý này với đối tượng địa lý khác khi chúng xuất
hiện, người ta đặt cho các đối tượng ấy một cái tên thích hợp dựa theo nhiều cách
khác nhau. Trong quá trình phát triển lịch sử, địa danh có thể tồn tại hay không tồn
tại, có thể vẫn là chính nó nhưng cũng có thể thay đổi về ý nghĩa hoặc hình thức lẫn
ý nghĩa ban đầu của nó bởi nhiều lý do khác nhau. Nếu một đối tượng địa lý mất đi
thì có hai khả năng xảy ra. Một là địa danh tự tiêu vong dần dần, có chăng chỉ còn
trong trí nhớ của những người sống cùng thời với sự ra đời của địa danh ấy hoặc
được ghi lại trong sách vở cũ. Hai là địa danh vẫn còn nhưng ở dạng chuyển hóa,
tức là tên của đối tượng đã mất được dùng đặt cho tên một đối tượng khác.
Chẳng hạn như ở phía sau Câu lạc bộ hồ tắm Biên Hòa trước kia có địa danh
núi Đất, nhưng sau đó đã bị san bằng, vì vậy tên núi chỉ còn lưu lại trong sách vở.
Hay như cồn Gáo - một cồn đất và bãi cát trắng rất đẹp giữa sông Đồng Nai, trên có
trồng nhiều cây gáo đại thụ - đã bị ngập và chìm mất dạng vào đầu thập niên 40. Cái
tên cồn Gáo hiện nay không còn trên văn bản chính thức và ít người ở Đồng Nai
biết đến danh xưng này.
Nhiều địa danh không còn nữa như gò Dập, bến Lớn, ngọn Cái, đồng Kho
nhưng vẫn được lưu giữ trong các địa danh chỉ một đối tượng khác như núi Gò Dập
(VC), rạch Bến Lớn (NT), rạch Ngọn Cái (LT), sông Đồng Kho (NT)…
3.1.1.2. Pháp hóa địa danh
Người Pháp khi đến Đồng Nai đã phiên âm nhiều địa danh ở đây theo kiểu của
họ. Chẳng hạn khi họ phiên âm địa danh bắt đầu bằng âm đầu [d-], ta phải đọc là
[đ-], đối với các nguyên âm [-o-] và [-ou-], người Việt đọc là “ô”, “u”. Theo Tự vị
tiếng Việt miền Nam thì “Vùng này đời xưa ưa dùng: đồng Tranh, đồng Môn, đồng
Nai, đồng Xoài, đồng Cháy. Tây viết Done Chay, rồi gọi DonChay là một địa danh,
Đồng Nai: Donnai, Vàm Cỏ: Vai co;…, họ đã Pháp hóa tên cũ của ta gần hết” [92,
tr.693]. Bên cạnh đó, rất nhiều địa danh của Đồng Nai xuất hiện trên các bản đồ thời
Pháp thuộc đều bị mất dấu như Nhơn Trạch → Nhon Trach, Long Thành → Long
Thanh, Trị An → Tri An…
3.1.1.3. Hán hóa địa danh
Văn hóa Hán và chữ Hán đóng vai trò quan trọng ở nước ta dưới thời phong
kiến được thể hiện trong hàng loạt những văn bản hành chính, trong nhiều loại sách
khác nhau. Đối với lĩnh vực địa danh, xu hướng Hán hóa các địa danh khá phổ biến.
Để phiên dịch các địa danh thuần Việt, địa danh có nguồn gốc từ tiếng dân tộc thiểu
số đã được Việt hóa sang chữ Hán, có những cách sau đây:
Phiên âm: nghĩa là ghi lại cách phát âm của các thành tố cấu thành địa danh
Nôm bằng những từ Hán Việt có vỏ ngữ âm gần giống các thành tố ấy. Ví dụ địa
danh Đồng Nai được phiên âm thành Nông Nại.
Dịch nghĩa: là phương thức sử dụng những từ của ngôn ngữ đi vay nhưng
những từ này dịch lại gần như từng chữ một nghĩa của từ vay mượn [43, tr.128].
Đây là cách thức phổ biến nhất. Ví dụ Đồng Nai được dịch nghĩa thành Lộc Dã,
tương tự như vậy núi Nứa → Trúc sơn, sông Bé → Tiểu giang, cù lao Ngô → Ngô
châu, vũng Gấm → Cẩm đàm…
Một số địa danh Nôm có từ hai âm tiết trở lên khi dịch nghĩa hay bị tỉnh lược
thành địa danh đơn tiết, ví dụ rạch Bà Kí → Kí giang. Một vài địa danh Nôm có
một âm tiết khi được dịch nghĩa thường thêm vào một hay hai thành tố nhằm tạo ra
sự cân đối, hài hòa về ngữ âm như cù lao Phố → Đại Phố châu…
Vừa phiên âm vừa dịch nghĩa (hay gọi là sao phỏng bộ phận): cách này không
phổ biến nhiều, ví dụ: Đồng Nai → Lộc Động, sông La Ngà → La Nha giang…
Ngoài ra, còn có trường hợp chuyển hóa từ địa danh hành chính: chẳng hạn
như sông Đồng Nai là một sông lớn ở phủ Phước Long, nên lấy tên phủ đặt tên sông
thành Phước Long giang…
3.1.1.4. Nguyên nhân in ấn, vẽ bản đồ
Lần tìm trong các sách báo, bản đồ xưa, chúng tôi nhận thấy có nhiều địa danh
bị in sai so với địa danh gốc ban đầu, dẫn đến việc thay đổi hình thức bên ngoài của
địa danh. Điều này cũng dễ hiểu, bởi người làm sau chép của người làm trước, còn
người làm đầu tiên có thể chưa đủ thời gian, tiềm lực tài chính, kể cả hiểu biết để
đến tận nơi, hỏi thật kỹ từng tên đất, tên sông. Đôi khi họ chỉ nghe, chỉ viết theo
phương ngữ.
Cầu Gành (BH) bắt đầu xây dựng từ năm 1903, bắc qua khúc sông Đồng Nai
ở thành phố Biên Hòa nối liền cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa) và chợ Đồn (tức
phường Bửu Hòa ngày nay), phía dưới cầu, chỗ lòng sông bị thu hẹp và nông có đá
nằm chắn ngang làm dòng nước dồn lại và chảy xiết, nên gọi là “gành”. Nhưng
nhiều bản đồ hiện nay đều viết cầu Gành thành cầu Ghềnh. Tên Ghềnh là do người
miền Bắc không phát âm được tiếng địa phương của người miền Nam và gọi thành
tên như vậy cho đến nay. Bản đồ Tỉnh Biên Hòa (in vào tháng 4/ 1970 tại Liên đội 1
địa hình QLVNCH) có ghi địa danh suối Đồng Hựu (xã Long An, quận Long
Thành, nay thuộc thị trấn Long Thành). Thật ra địa danh này viết đúng phải là suối
Đồng Hươu, đây là ngọn suối chảy qua cánh đồng có nhiều hươu nai sinh sống. Tuy
nhiên, trên nhiều bản đồ và giấy tờ hành chính hiện nay, từ “Hươu” được viết thành
“Hưu” theo cách phát âm của người dân Nam Bộ ngay từ lúc đầu đặt tên cho cánh
đồng này.
Bản đồ du lịch Biên Hòa tỉnh Đồng Nai in vào tháng 4/2003 của Nhà xuất bản
Giao thông Vận Tải ghi sai nhiều địa danh như rạch Lái Bong → Lai Bồng (Tân
Hạnh - BH), rạch Thủ Huồng → Thủ Hường (Bửu Hòa - BH), rạch Sỏi → rạch Sói
(Hóa An - BH)…
3.1.1.5. Nguyên nhân tâm lý xã hội
a. Thích dùng địa danh Hán Việt thay cho các địa danh nôm dân dã hay địa
danh vay mượn từ ngôn ngữ của tiếng dân tộc thiểu số. Xu hướng này phát triển
mạnh mẽ dưới thời các triều đại phong kiến. Một mặt, thời kỳ này chữ Hán đóng vai
trò quan trọng; mặt khác, nếu như tiếng nôm bình dị, mộc mạc thì những địa danh
Hán Việt lại thể hiện tính triết lý cao siêu, phản ánh được tâm tư, nguyện vọng, tình
cảm của người dân địa phương và mang tính hệ thống cao. Đó là lý do khiến người
ta ưu tiên sử dụng những từ ngữ Hán Việt để đặt địa danh. Tên làng xã của tỉnh
Biên Hòa xưa được ghi trong Gia Định thành thông chí (1820) và địa bạ Biên Hòa
(1836) đều là tên Hán Việt như Bình Đức xã, Xuân Vinh thôn, Mỹ Thủy thôn, Thiết
Tượng hộ… Tuy nhiên, sau ngày thống nhất đất nước, người ta lại có xu hướng
dùng từ thuần Việt để đặt địa danh bởi tính giản dị, gần gũi và “đậm chất Việt
Nam” của những từ nôm dân dã ấy, chẳng hạn gọi Đồng Nai thay cho Biên Hòa…
b. Dùng địa danh bằng số thay cho địa danh bằng chữ
Cũng trong địa bạ tỉnh Biên Hòa của Nguyễn Đình Đầu, tác giả đã cho thấy
toàn bộ địa danh Đồng Nai trước ngày đất nước thống nhất đều được ghi bằng chữ.
Từ sau ngày 30/4/1975, toàn bộ các tên phường bằng chữ trong nội thành và tên
một số ấp ở một số huyện ngoại thành bị xóa bỏ và được thay bằng số. Dùng số thứ
tự để đặt địa danh là cách mà người Việt chịu ảnh hưởng từ văn hóa Pháp. Tỉnh
Đồng Nai cũng không nằm ngoài quy luật này, ví dụ: ấp Ba (Thạnh Phú - VC), khu
phố Chín (Hố Nai - BH), xã Đồi 61 (Xuân Bắc - XL)… Khi số lượng các địa danh
hành chính, địa danh chỉ công trình xây dựng tăng lên thì chính quyền địa phương
buộc phải tách thành nhiều làng, ấp, xã, khu phố… Những địa danh là số thứ tự ban
đầu chỉ mang tính tạm thời, nhưng sau do chính quyền chưa kịp đặt tên mới nên
chúng lại trở thành chính thức trong văn bản hành chính.
c. Ngoài ra, còn có thể kể đến tâm lý nhớ quê hương khi người dân di cư đến
vùng đất mới và sống tập trung với nhau. Họ đặt cho nơi ở mới bằng những cái tên
của chính mảnh đất họ đã từng sinh sống trước đây: ấp Bến Ngự (NT), ấp Thanh
Hóa (TB), giáo xứ Kẻ Sặt (BH), giáo xứ Hà Nội (BH)…
d. Một số từ Hán Việt bị đọc chệch âm do kiêng húy hay do nguyên nhân
thuộc về ngôn ngữ học cũng khiến cho nhiều địa danh ở Đồng Nai thay đổi về hình
dạng ban đầu của nó. Chẳng hạn: bảo - bửu, hợp - hiệp, quý - quới… Về vấn đề
này, chúng tôi sẽ trình bày ở phần đặc điểm chuyển biến của địa danh hành chính.
Nhìn chung do quá trình tiếp xúc, hội nhập văn hóa, đặc biệt là văn hóa Hán
đã khiến cho tâm lý người dân cũng “tiếp xúc, hội nhập” theo trong cách đặt địa
danh. Đó là sự ưa dùng những từ Hán Việt hoa mỹ, ưa dùng những số từ đơn giản,
tiện lợi. Ngoài ra còn có cách kết hợp giữa các yếu tố thuần Việt, Hán Việt,… với
nhau để tạo địa danh. Vì vậy, nhiều địa danh mới xuất hiện, thay đổi theo cách nghĩ
của con người, tạo thêm sự đa dạng, phong phú cho những tên làng, tên sông, tên
núi…
3.1.1.6. Nguyên nhân chia tách các đơn vị hành chính
Do nhiều nguyên nhân khác nhau trong tiến trình phát triển lịch sử, các địa
danh hành chính bị chia tách khiến cho chúng biến đổi hoặc là sáp nhập lại, hoặc là
tách ra hoặc là tiêu vong. Chẳng hạn như lịch sử hình thành phường Bình Đa (BH)
diễn ra như sau: năm 1928, nhà cầm quyền thực dân Pháp nhập Tân Mai, Vĩnh Cửu,
Bình Đa, An Hảo thành xã Tam Hiệp. Năm 1957, chỉ còn lại hai làng: Vĩnh Cửu và
Bình An. Bình Đa và An Hảo là hai ấp của Bình An. Năm 1976, Bình Đa thuộc
phường Tam Hòa. Năm 1988, Bình Đa lại tách ra thành một phường thuộc thành
phố Biên Hòa với diện tích tự nhiên là 42 ha, số dân 10.035 người. Một ví dụ khác,
đó là sau năm 1975, xã Hòa Hưng (LT) là sự hội nhập của nhiều xã: lúc đầu là hai
xã An Hòa và Tân Hưng, thành xã An Hòa Hưng; sau đó An Hòa Hưng hợp nhất
với xã Long Hưng thành xã Hòa Hưng; ngày nay, xã Hòa Hưng lại phân ra thành xã
An Hòa và xã Long Hưng.
3.1.1.7. Nguyên nhân chính trị
Quan điểm chính trị của một chế độ thay đổi (từ cũ thành mới) cũng khiến cho
các địa danh thay đổi. Chẳng hạn như ở Đồng Nai giai đoạn trước năm 1954, tên
đường thường mang tên người Pháp như đường Philastre (Rue Philastre nay là
đường Nguyễn Thái Học - BH), đường Auddéra (Rue Auddéra nay là đường 30/4 -
BH)… Từ năm 1954 đến năm 1975, toàn bộ tên đường mang tên người Pháp, tên
nước ngoài đã bị chính quyền tỉnh Biên Hòa thay bằng tên người Việt để nhằm xóa
bỏ ảnh hưởng của thực dân Pháp ở các lĩnh vực văn hóa - chính trị. Hầu hết những
đường phố lớn ở trung tâm đều được đặt theo tên các danh nhân văn hóa, các anh
hùng lịch sử… như đường Nguyễn Hữu Cảnh (trước là Palace de Champeaux, nay
là đường Cách Mạng Tháng Tám - BH), đường Trịnh Hoài Đức (trước là đường
Auddéra nay là đường 30/4 - BH)…
3.1.2. Nguyên nhân bên trong địa danh
Nguyên nhân bên trong địa danh còn được hiểu là nguyên nhân ngôn ngữ. Rõ
ràng, địa danh vốn thuộc ngành từ vựng học, vì vậy, nó cũng phải chịu sự tác động
của các quy luật ngôn ngữ. Từ khi hình thành cho đến khi được nhiều người quen
dùng với vỏ âm thanh như hiện nay, địa danh đã trải qua biết bao “thăng trầm” của
lịch sử, trải qua những sự biến đổi về ngữ âm, ngữ nghĩa, về cách phát âm, cách
viết… Ở phần dưới đây, chúng tôi sẽ trình bày một số nguyên nhân có liên quan đến
ngôn ngữ làm biến đổi địa danh.
3.1.2.1. Nguyên nhân biến đổi ngữ âm
Những biến đổi về mặt ngữ âm, nhất là ngữ âm địa phương trong các địa danh
ở Đồng Nai diễn ra do nhiều nguyên nhân khác nhau.
a. Viết sai thanh điệu
Núi Lang Giao (Bào Tra - LK) (trong đó “lang” là cái chái nhà) được nhiều
bản đồ ghi là núi Làng Giao.
Núi và sông Thị Vãi (có tục danh là Bà Vãi) ở huyện Long Thành bị người
dân đọc và viết sai thành Thị Vải. Theo Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài
Đức thì: “Xưa có người con gái họ Lê, gia tư giàu có, nhưng do kén chọn lỡ thì, sau
khi cha mẹ mất rồi mới có chồng nhưng không được bao lâu chồng cũng chết, bà
thề không tái giá, nhưng bị kẻ cường hào cậy mai mối thường đến quấy nhiễu, bà
bèn trốn đời xuống tóc, lập am ở đỉnh núi, tự làm bà thầy cả, kẻ ăn người ở làm đồ
đệ, giữ lòng tu tập, sau thành chánh quả, do đó người đời lấy từ bà vãi mà đặt tên
núi” [41, tr.26].
Sách Đại Nam nhất thống chí, lục tỉnh Nam Việt (bản dịch năm 1959 ở Sài
Gòn, tập thượng, trang 14) cho biết thêm bà vãi này tên thật là Lê Thị Nữ. Như vậy,
tên núi có trước, rồi do con sông chảy cạnh ngọn núi này nên người ta lấy tên núi
làm tên sông. Rồi từ Bà Vãi, Thị Vãi, người địa phương viết sai chính tả thành Thị
Vải.
b. Viết sai các âm đầu, âm giữa và âm cuối
* Viết sai âm đầu
- Lẫn lộn [d-], [v-] và [gi-]
Chẳng hạn như vồng Ông Đông (NT) bị biến thành giồng Ông Đông. Hay địa
danh Võ Dõng (nay thuộc xã Gia Kiệm - TN) theo Vương Hồng Sển có thể là Dỏ
Dõng do ngữ âm địa phương mà ra. Trong tác phẩm của mình, ông viết: “Dỏ là bến,
trạm nơi có đặt quân canh phòng trên đường thủy, sau này đổi lại không dùng Dỏ
nữa mà gọi là Bến” [92, tr.299]. Còn Đại Nam quốc âm tự vị định nghĩa “dỏ” như
sau: “xích hậu, trại thủ, trại sách trong mỗi một làng” [24, tr.237].
- Lẫn lộn [s-] và [x-]
Suối Săng Máu (BH) bị đọc sai thành Xăng Máu. Săng Máu là một loại cây có
mủ đỏ như máu mọc nhiều ở hai bên bờ suối vì vậy mới có tên trên. Theo Biên Hòa
sử lược toàn biên, tập 2 thì “Nếu Xăng (theo như tiếng Pháp “Sang” là máu) thì
càng vô lý. Vì danh từ Xăng Máu đã xuất phát từ xưa do giới khai thác lâm sản đặt
ra, chớ không phải sau khi người Pháp đến chiếm tỉnh Biên Hòa. Như thế không
phải là Xăng Máu” [71, tr.82-85].
* Viết sai âm giữa
- Lẫn lộn [-oa-] và [-a-]
Rạch Choại (Long Tân - LT) thường được viết thành Chại. Choại là loại dây
hay mọc theo đất bưng, hay chịu mưa nắng, thường dùng để bện đăng [24, tr.149].
- Lẫn lộn [-a-], [-e-], [-ie-]
Chẳng hạn cầu Gành bị đọc thành cầu Ghềnh (BH)…
Bến Mương Điều (NT) là tên gọi chệch của bến Mương Đào, xóm Mương
Đào xưa. Vì không có nước ngọt nên dân ở đây đào một con mương từ ven rừng
Sác tới ngọn rạch Cóc dài chừng 2 km để lấy nước lưu trữ làm ruộng và đi ghe theo
mương đào vào rạch Cóc lên bến chợ chở nước về uống. Tên Mương Đào đã ra đời
như thế.
* Viết sai âm cuối
- Lẫn lộn [-n] và [-ng]
Sông Lá Buôn (LT) được viết thành Lá Buông. Lá Buôn là loại cây rừng rất
to, lá rẻ quạt dùng làm buồm, nón, quạt, lá chằm, phát hoa rộng hơn hai mét [42]. Vì
hai bên bờ sông có nhiều cây này nên mới mang tên như vậy.
- Lẫn lộn [-t] và [-c]
Rừng Sác (NT) được viết thành Sát. Cuốn Biên Hòa sử lược toàn biên, tập 1
ghi như sau: “Rừng Sát ở hạ lưu sông Phước Long (Đồng Nai), nguyên là trại âm
của Đầm Nát. Đại Nam Nhất thống chí biên ghi là “Toái Đàm”, tục gọi là “Rừng
Tràm” (Cajeput)” [71, tr.214-215]. Thật ra không phải vậy. Ở huyện Long Thành có
địa danh Đầm Nát (tên chữ là Toái Đàm), đây là cái đầm có nhiều vật trộn lẫn nhau,
khác với địa danh Rừng Sác. Còn sác là rừng nước mặn (ở gần biển), và cây sác là
cây nước mặn [24, tr.891]. Rừng có trồng nhiều loại cây đẹt, mọc theo ven biển
nước mặn, rễ có chà chôm nhiều để kềm cho cát bùn không trôi, lâu ngày dẽ đặt và
đất đặc lại thành đất liền: đước, vẹt dà, bần, là cây rừng sác [92, tr.564]. Miêu tả về
khu rừng này, sách Gia Định thành thông chí ghi lại như sau: “… Cây ở đó gọi là
cây dà, đước, sú, vẹt (là những cây vùng rừng ngập mặn ở duyên hải) và những cây
tạp khác, rừng xanh cây rậm, tán nhánh giao nhau, che kín mặt trời. Người ta dùng
những cây ấy để làm nhà cửa, rào giậu, cột cọc, than củi, không ngày nào ngớt” [41,
tr.38].
3.1.2.2. Nguyên nhân biến đổi ngữ nghĩa
Về ngữ nghĩa, một số yếu tố cũ của địa danh bị thay thế vì ít quen thuộc, gần
gũi với quần chúng bằng các yếu tố mới. Ví dụ tổng Phước Vinh (phước: gặp nhiều
may mắn, vinh: có vinh dự) chuyển thành Phước Vĩnh (gặp may mắn mãi mãi) vào
thời Pháp thuộc. Tỉnh Biên Hòa năm 1917 có tổng Phước Vĩnh Thượng, Phước
Vĩnh Trung, Phước Vĩnh Hạ [36, tr.99]. Đó là do yếu tố “Vĩnh” quen thuộc với
quần chúng hơn so với yếu tố “Vinh”.
3.1.2.3. Mượn âm
Một số địa danh tiếng nước ngoài hay ngôn ngữ dân tộc thiểu số được người
Việt mượn âm dựa vào một từ có ngữ âm nghe gần giống với địa danh đó.
Chẳng hạn về tên sông La Ngà, thế kỷ XIX người ta viết là Là Ngà. Âm gốc
của địa danh này là Laghna. Người Việt đã mượn tên tre (là ngà) để phiên âm địa
danh Laghna, sau đọc chệch thành La Ngà.
3.1.2.4. Rút gọn
Nghĩa là một vài địa danh có hai hoặc ba yếu tố bị rút gọn yếu tố đầu hoặc yếu
tố sau.
Rút gọn yếu tố đầu: sông Lá Buông (LT) bị rút gọn đọc thành sông Buông,
suối Săng Máu → suối Máu (BH), thác Xuân Mai → thác Mai (ĐQ), rạch Cầu Ông
Phủ → rạch Ông Phủ (BH), cầu Đồng Nai Mới → cầu Mới…
Rút gọn yếu tố cuối: chợ Lò Sắt xưa ở Long Thành được dân địa phương gọi
tắt là chợ Lò, nay là ấp Thiết Tượng có nghĩa là Lò Thợ Rèn.
Trên đây là những nét chung nhất của quá trình chuyển biến địa danh ở Đồng
Nai. Phần tiếp theo, chúng tôi sẽ trình bày cụ thể đặc điểm chuyển biến của từng
loại địa danh. Tuy nhiên, tùy vào đặc điểm, tính chất, sự phát triển của mỗi loại đối
tượng địa lý mà chúng tôi sẽ nhấn mạnh hay chú trọng vào tiểu loại nào đó trong
khả năng cho phép.
3.2. Đặc điểm chuyển biến của địa danh chỉ địa hình
Địa danh chỉ địa hình vốn được “tạo hóa” khai sinh, dựng hình. Tên gọi các
đối tượng địa lý này chỉ có khi con người xuất hiện và từ đó địa danh cũng chịu ảnh
hưởng theo những biến chuyển thời gian. Ở Đồng Nai, tổng số địa danh chỉ địa hình
là 481, bao gồm 24 tiểu loại: bàu, cù lao, dốc, đảo, đèo, đồi, giồng, gò, hang, hóc,
hòn, hồ, lòng tắt, núi, rạch, rừng, sông, suối, tắt, thác, trảng, trũng, vàm, vườn.
Trong loại địa danh chỉ địa hình, chúng tôi chú ý nhiều hơn về tên sông rạch,
bởi vì tên sông “là một trong những tài liệu ngôn ngữ cổ xưa nhất” và “có thể vẽ lại
bản đồ khu vực cư trú của các giống người cổ” [15, tr.94].
3.2.1. Về nguồn gốc
Địa danh chỉ địa hình ở Đồng Nai gồm có nguồn gốc thuần Việt và không
thuần Việt.
Về địa danh thuần Việt, loại này chiếm nhiều nhất nhưng chủ yếu tập trung ở
địa danh chỉ sông rạch và núi như rạch Muối (NT), rạch Suối Tre (LT), sông Bé
(VC), sông Trong (LT), núi Đất (ĐQ), núi Đỏ (TXLK)…
Địa danh Hán Việt thường gặp trong tên núi, tên suối như núi Bạch Tượng
(ĐQ), núi Long Ẩn (BH), núi Phu (XL), suối Cai Nha (VC), suối Trà My (ĐQ)…
Địa danh có nguồn gốc từ tiếng dân tộc thiểu số gồm các tiếng Khmer, Ba Na,
Mnông, S’tiêng, Kơho, Chăm, Chơro… Loại này xuất hiện chủ yếu trong các thủy
danh và một số ít là sơn danh. Ví dụ: sông Đăk Lua (ĐQ), sông Da Chanh (XL),
sông Da Bitt (TP), suối Công Lo (TXLK), suối Dar Yoa (ĐQ), suối Bà Rá (VC),
núi Sốc Lu (TN), núi Chứa Chan (XL), sông Ray (XL)…
Địa danh có nguồn gốc từ tiếng Pháp chỉ có một đó là đồi SIPH (TXLK).
SIPH là tên viết tắt của Công ty Cao su Đông Dương (Société Indochinoise des
Plantations d’Hévéas) - công ty cao su đầu tiên ở Nam Kỳ thành lập năm 1906, khai
thác trồng cao su ở Biên Hòa, Long Khánh với các đồn điền trực thuộc như: Bình
Lộc, An Lộc, Suzannah, Long Thành, Heléna, Ông Quế…
Loại địa danh hỗn hợp nằm rải rác trong các địa danh chỉ địa hình, phần lớn là
theo công thức “thuần Việt + Hán Việt”, chẳng hạn như sông Cầu Quan (LT), thác
Suối Mai (ĐQ)… Ngoài ra còn có một số địa danh hỗn hợp khác như rạch Vàm Tàu
(BH), suối Rạch Đông (VC), suối Bưng Cầu (XL)…
Địa danh chưa xác định được nguồn gốc tập trung chủ yếu ở những tên gọi
phiên âm từ tiếng dân tộc thiểu số như suối Háp (TXLK), sông Căn Nôm (LT), núi
Xa Bi (XL), hồ Cản Đu (ĐQ)…
3.2.2. Đặc điểm chuyển biến của địa danh chỉ địa hình
Trước hết, cần thấy rằng địa danh chỉ địa hình thường ra đời rất sớm, tồn tại
lâu dài, ít có sự biến đổi như các loại địa danh khác.
Địa danh chỉ địa hình ở tỉnh Đồng Nai thể hiện được nét đặc trưng của vùng
đất Nam Bộ với tên các dòng chảy như: sông, suối, rạch, thác, hóc, tắt, lòng tắt…;
tên các dạng địa hình: giồng, gò, hang, bàu, cù lao, trảm, trũng…
Tên gọi của các đối tượng địa lý này chủ yếu được đặt dựa vào tên cây cỏ (61
địa danh, như thác Mai, sông Trầu), tên người địa phương (45 địa danh, như núi
Ông Thuộc, sông Bà Hào), tên cầm thú (32 địa danh, như tắt Le Le, núi Ngựa).
Ngoài ra, loại địa danh này còn được đặt theo tên các công trình xây dựng (bàu Sân
Bay, dốc Miếu Quan Âm) hay vật thể có nhiều ở địa phương (rạch Sỏi, núi Đá
Bạc)…
Nhiều địa danh chỉ địa hình đã chuyển hóa lẫn nhau, kết quả là địa danh mới
có thể giữ nguyên dạng của địa danh cũ hoặc thêm một vài yếu tố mới. Trước hết là
cùng một cái tên nhưng lại được dùng cho nhiều loại đối tượng: sông Ông Kèo →
rạch Ông Kèo (NT), sông Lá Buông → hồ Lá Buông (LT), sông Gia Lào → hồ Gia
Lào (XL)… Một số địa danh mới xuất hiện là do danh từ chung chuyển hóa sang:
suối Bí → hồ Suối Bí (TN), suối Ram → hồ Suối Ram (CM), đồi Rìu → núi Đồi
Rìu (TXLK)…
Trong địa danh chỉ địa hình, có sự song hành tồn tại giữa hai loại tên dân gian
(do một bộ phận dân cư sống tại nơi đó đặt và sử dụng trong giao tiếp hàng ngày) và
tên chính thức (thường là từ Hán Việt, do nhà nước đặt và dùng rộng rãi trên các
văn bản hành chính). Sông Đồng Nai trước có mỹ danh là sông Phước Long. Địa
danh hàn Bảy Đá (VC) nghĩa là bảy tảng đá chồng lên nhau có tên chữ là Thất
Thạch thang, nhưng còn gọi là hàn Ông Sâm (người được tương truyền đến đây lập
nghiệp đầu tiên).
Cũng có trường hợp địa danh chỉ địa hình mang nhiều tên gọi nhưng khác biệt
nhau ở âm đầu hoặc âm cuối hoặc phần vần hoặc thanh điệu. Chính sự khác biệt này
đã làm người ta hiểu sai về ý nghĩa của địa danh đó. Có thể lấy suối Săng Máu (BH)
làm ví dụ. Con suối này có nhiều tên gọi: Săng Máu, Xăng Máu, Sông Máu, Sơn
Máu, Săn Máu, Máu… Chẳng hạn, có người hiểu suối Sông Máu là do nơi đây tràn
đầy máu người hoặc máu thú thời xưa, máu nhuộm thành sông. Thực ra, tên gọi
đúng là Săng Máu hay Sơn Máu - một loại cây có mủ màu đỏ như máu mọc hai bên
suối.
Một nguyên nhân nữa đã được nhắc đến ở trên là quá trình in ấn và vẽ bản đồ
có thể làm thay đổi vỏ ngữ âm của địa danh chỉ địa hình. Tác giả Nguyễn Kiên
Trường cho rằng địa danh bị ghi sai có nhiều lý do: “a. Phương tiện chữ viết không
thể truyền đạt được cấu tạo ngữ âm; b. Người ghi không biết tiếng địa phương hoặc
không được đào tạo về lĩnh vực ngữ âm học; c. Dân địa phương không biết gì về ý
nghĩa của địa danh mà họ thừa hưởng, nhiều khi địa danh đó khác rất xa về hình
thức và cách phát âm so với nguồn gốc, trong khi có tình trạng thường được chấp
nhận: “dù sai vẫn được dùng”; d. Nguyên tắc thể hiện địa danh không nhất quán; đ.
Nguyên nhân in ấn…” [122, tr.156]. Nhìn chung, địa danh trên một số bản đồ của
tỉnh Đồng Nai trước năm 1975 thường ít sai lệch hơn so với những bản đồ hiện nay.
Có thể là do lực lượng cán bộ trẻ ở tỉnh Đồng Nai là dân di cư từ nơi khác đến đây
không lâu, và không biết tiếng địa phương. Cũng có thể do những người tham gia
làm bản đồ không được trang bị những kiến thức về ngữ âm một cách bài bản…
Đơn cử như rạch Sỏi ở xã Hóa An, Biên Hòa, vốn trước đây có nhiều sỏi đá nên
mới có tên trên. Đây là trường hợp đặt địa danh theo kiểu gọi tên vật thể có nhiều ở
nơi đó. Nhưng một số bản đồ lại “hóa phép” địa danh này thành một cái tên nghe
đáng sợ, “hoang dã” hơn đó là rạch Sói.
Như vậy, ngoài việc cho thấy nét quần cư đặc trưng của vùng đất phương
Nam, cụ thể là ở Đồng Nai, người dân chủ yếu sống ở ven sông rạch, những nơi có
gò giồng cao… thì loại địa danh chỉ địa hình còn mang tính dân gian, tính nguyên
sơ nhiều hơn so với các loại địa danh khác.
3.3. Đặc điểm chuyển biến của địa danh hành chính
Theo thống kê, Đồng Nai có 1236 địa danh hành chính, đứng sau các tiền từ
ấp, huyện, khu, khu phố, phường, thành phố, thị trấn, thị xã, thôn, tiểu khu, xã.
Không giống với địa danh chỉ địa hình vốn có lịch sử hình thành lâu đời và
phần lớn tồn tại vững bền từ đời này qua đời khác, địa danh hành chính ra đời muộn
hơn, chịu sự quy định của các chính sách nhà nước và có sự biến đổi phức tạp do
nhiều nguyên nhân như tùy thuộc vào chế độ chính trị khác nhau, tùy thuộc vào sự
biến động dân số và đất đai, cùng những điều kiện khách quan khác (thiên tai, chiến
tranh…).
3.3.1. Về nguồn gốc ngôn ngữ
a. Phần lớn địa danh hành chính ở Đồng Nai có nguồn gốc là các từ Hán Việt
và thuần Việt.
Vào thời các chúa Nguyễn và vua Nguyễn, tên các đơn vị hành chính ở Đồng
Nai đều dùng từ Hán Việt. Có thể thấy điều này qua 323 địa danh trong Gia Định
thành thông chí (1820) của Trịnh Hoài Đức, qua 312 địa danh hành chính trong
Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn tỉnh Biên Hòa (1836) của Nguyễn Đình Đầu. Từ
năm 1869, Pháp cải tổ lại các đơn vị hành chính kể cả địa danh (dùng nhiều tục
danh). Sau ngày 30/4/1975 đến nay, khuynh hướng dùng tiếng nôm, tiếng dân dã
xuất hiện ngày càng nhiều.
Có 682 địa danh hành chính là thuần Việt, tập trung nhiều ở đơn vị ấp (445) và
khu phố (160). Tuy nhiên, loại này chủ yếu được cấu tạo theo số đếm. Ví dụ: khu
phố Một (BH), khu phố Bảy (BH), ấp Bàu Cá (XL), ấp Cây Điệp (TB),... Còn địa
danh hành chính mang yếu tố Hán Việt có 391 địa danh, tập trung nhiều ở đơn vị ấp
(230) và xã (106). Nếu không tính đến những địa danh là số đếm thì số lượng địa
danh hành chính Hán Việt vẫn chiếm tỷ lệ cao hơn địa danh thuần Việt. Một số tên
Hán Việt hiện nay là ấp Hòa Hiệp (ĐQ), huyện Long Thành, phường Bửu Hòa
(BH), xã Long Thọ (NT), thị trấn Vĩnh An (VC)…
Ngoài ra còn có 137 địa danh hỗn hợp theo nhiều kiểu kết hợp khác nhau như:
ấp Đồi Phước Khả (LT), ấp Thanh Thọ 1 (TP), ấp Xóm Vàm (VC), xã Núi Tượng
(TP)…
Bên cạnh địa danh thuần Việt, Hán Việt là khoảng 22 địa danh hành chính có
nguồn gốc từ tiếng dân tộc thiểu số phân bố ở cấp thị xã, xã, ấp. Ví dụ: ấp Bà Ký
(LT), ấp Đa Tôn (TP), ấp Gia Ty (XL), xã Tà Lài (TP), xã La Ngà (ĐQ)… Địa danh
hành chính được vay mượn từ tiếng Pháp chỉ có 1 là ấp Cấp Rang (TXLK). Những
địa danh này hoặc được Việt hóa hoặc được phiên âm trực tiếp từ địa danh gốc.
b. Giống như những tỉnh khác thuộc vùng Nam Bộ, Đồng Nai khi xưa cũng sử
dụng hàng loạt mỹ tự Hán Việt phổ biến để đặt tên làng. Năm 1837, tỉnh Biên Hòa
có tổng cộng 238/361 làng bắt đầu bằng những tên An, Bình, Chánh, Hưng, Long,
Tân, Phước, Vĩnh, Mỹ, Xuân. Cụ thể như sau: 22 làng bắt đầu bằng chữ An, 56 làng
bắt đầu bằng chữ Bình, 6 làng bắt đầu bằng chữ Chánh, 5 làng bắt đầu bằng chữ
Hưng, 29 làng bắt đầu bằng chữ Long, 7 làng bắt đầu bằng chữ Mỹ, 36 làng bắt đầu
bằng chữ Phước, 61 làng bắt đầu bằng chữ Tân, 10 làng bắt đầu bằng chữ Vĩnh, 6
làng bắt đầu bằng chữ Xuân [36, tr.125-126]. Như vậy, có thể thấy các làng bắt đầu
bằng mỹ tự Tân, Bình, Phước, Long, An chiếm số lượng nhiều hơn so với các làng
bắt đầu bằng những mỹ tự khác. Đặc biệt, địa danh bắt đầu bằng chữ Tân có tần số
xuất hiện cao nhất, cho biết đây là vùng đất mới. Nhìn chung địa danh làng nào
cũng mang một cái tên rất đẹp, thể hiện được ước muốn ổn định, thiện mỹ, phát đạt,
bền vững của người dân.
Và không chỉ thời Nguyễn, mà ngày nay, rất nhiều địa danh hành chính ở
Đồng Nai vẫn dùng các yếu tố Tân (mới lập, bắt đầu), Bình (yên ổn, bằng phẳng),
An (bình yên), Mỹ (đẹp), Vĩnh (lâu dài), Phú (giàu có), Long (con rồng, thịnh
vượng), Phước (tốt lành, giàu sang)…
c. Về số lượng âm tiết, khảo sát trong địa bạ Biên Hòa năm 1836, tất cả địa
danh hành chính đều có từ hai đến ba âm tiết, và không có địa danh đơn tiết. Số
lượng địa danh ba âm tiết với các yếu tố thường thấy ở cuối địa danh như Đông,
Tây, Nam, Bắc, Trung, Hạ, Thượng, Chánh… càng về sau càng xuất hiện ít dần.
Chẳng hạn năm 1832 có 90 địa danh, năm 1917 có 21 địa danh và hiện nay chỉ có 1
địa danh là ấp Thành Tuy Hạ (Phú Thạnh, NT). Nguyên nhân là do địa bàn Biên
Hòa xưa chia ra khá phức tạp với nhiều lần tách nhập khác nhau, nhiều tên làng
được nhập chung với nhau, nhiều tên làng bị mất đi… Tuy nhiên, cho đến thời điểm
hiện nay, trong số 682 địa danh hành chính đã có tới 413 địa danh đơn tiết là số thứ
tự. Và số lượng các địa danh ba âm tiết trở lên có xu hướng tăng dần nhưng chủ yếu
có yếu tố cuối là số thứ tự: xã Gia Tân 1, Gia Tân 2, Gia Tân 3 (TN)...
Như vậy, việc sử dụng số thứ tự để đặt địa danh hành chính xuất hiện ngày
càng nhiều trong địa danh ở Đồng Nai bởi sự biến động dân số diễn ra trong thời
gian dài và không ngừng thay đổi. Khi chưa nghĩ ra được cái tên thích hợp, chính
quyền buộc phải dùng tạm những con số để đặt tên cho những khu phố, ấp, thôn…
Số lượng các địa danh ba âm tiết có sự thay đổi theo từng thời kỳ, và hiện nay càng
ngày càng tăng lên.
3.3.2. Đặc điểm về quá trình chuyển biến địa danh hành chính
Năm 1698, nhà Nguyễn chia đặt miền đất Nam Bộ ngày nay thành phủ Gia
Định gồm hai huyện Tân Bình và Phước Long. Vào thời các chúa Nguyễn (trước
năm 1802), sự thay đổi địa lý hành chính không xảy ra ở huyện Phước Long, mà chỉ
có huyện Tân Bình do được mở rộng nên chia thành nhiều dinh mới.
Theo cuốn Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển, làng xã ở
Đồng Nai ban đầu được thành lập tự phát theo chủ kiến của người khẩn hoang, về
sau dần tuân theo quy chế của nhà Nguyễn. Làng nhỏ (tiểu thôn) gọi là làng, ấp,
trang, trại, hoặc phố, phường (nếu là đô thị); làng trung bình gọi là thôn; làng lớn
(đại thôn) gọi là xã. Số lượng thôn của xã (cũng như làng, ấp của mỗi thôn) thường
bất định [8, tr.159].
Địa danh hành chính thay đổi dưới triều Nguyễn theo đúng nguyên tắc tổ chức
hệ thống hành chính đã có sẵn từ trước ở miền Trung: đơn vị hạ tầng cơ sở (nậu,
điếm, sóc, thuộc, bang, ấp, lân, giáp, phường, thôn, xã), lên tổng, huyện, phủ, đạo,
dinh, trấn, tỉnh [125, tr.11]. Ở Đồng Nai cũng vậy, ban đầu là dinh Trấn Biên, kế
đến là trấn Biên Hòa (1808) và sau đó là tỉnh Biên Hòa (1832). Còn huyện Phúc
Long cũng được thăng làm phủ Phúc Long, bốn tổng nâng thành bốn huyện.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau, địa danh hành chính tỉnh Đồng Nai đã
không ngừng thay đổi theo thời gian. Trong đó, có một nguyên nhân bắt nguồn từ
quá trình khai hoang lập nghiệp. Đa số lưu dân đến Đồng Nai - Gia Định là người
Thuận Quảng. Sống trên vùng đất mới, họ đã gặp nhiều khó khăn như thiên nhiên
khắc nghiệt, nhiều loại thú dữ luôn rình rập lại thêm trộm cướp khá nhiều mà con
người đi khai hoang gần như lẻ loi. Đó là lý do khiến nhiều gia đình ở hai ba đời mà
không định cư. Ngay cả khi người dân sống tập trung lại với nhau thành xóm - ấp -
thôn - xã, do tình hình sản xuất và đời sống, làm ăn được thì trụ lại, không làm ăn
được thì chuyển đi, nên nhiều làng phải xiêu tán lập đi lập lại nhiều lần, và tên làng
cũng nhiều lần thay đổi.
Dưới đây là một vài nguyên nhân khác:
a. Đổi tên vì nhà cầm quyền cải tổ lại đơn vị hành chính
Chính điều này đã dẫn đến sự tách - nhập hay sự diệt vong của hàng loạt địa
danh hành chính. Theo sách Gia Định thành thông chí (1820) của Trịnh Hoài Đức,
trấn Biên Hòa gồm 1 phủ, 4 huyện, 8 tổng, 310 thôn, xã, phường. Và theo địa bạ
tỉnh Biên Hòa năm 1836, tỉnh Biên Hòa có 1 phủ Phước Long, 4 huyện, 22 tổng,
285 thôn, xã. So sánh số tổng, thôn, xã giữa cuốn sách và địa bạ này, ta thấy số tổng
tăng lên 14; số thôn, xã, phường giảm từ 310 đơn vị còn 285 đơn vị, nguyên nhân là
do sự sáp nhập của một số thôn, làng nhỏ lại với nhau (thời đó, người ta ít phân biệt
khái niệm thôn và xã, có khi thôn lớn hơn xã).
Thực dân Pháp sau khi chiếm sáu tỉnh Nam Kỳ đã cải tổ, thay đổi các đơn vị
hành chính cho phù hợp với chế độ thuộc địa. Tỉnh Biên Hòa cũ có 3 tỉnh mới là
Biên Hòa, Thủ Dầu Một và Bà Rịa. Giai đoạn đầu, họ giữ lại cấp tổng, cấp làng xã
và bỏ cấp huyện. Nhưng sau đó họ gặp khó khăn trong việc điều hành nên phải tái
lập cấp huyện và gọi là quận. Đó là các quận Núi Chứa Chan, Phú Riềng, Võ Đắc,
Châu Thành, Long Thành và Tân Uyên. Từ khi Pháp cai trị đến năm 1945 nhiều
tổng, làng, xã ở tỉnh Biên Hòa có nhiều sự biến đổi. Số làng xã tăng lên nhanh: 151
làng thuộc 14 tổng năm 1901, đến năm 1925 đã có 172 làng, thuộc 17 tổng. Tổ chức
hành chính ngày càng chặt chẽ hơn, nhà cầm quyền Pháp đã cho sáp nhập một số
làng với nhau thành xã có quy mô lớn để giảm bớt số ban hội tề vào cuối thập niên
20. Chẳng hạn ba làng Nhất Hòa, Nhị Hòa, Tam Hòa ở cù lao Phố hợp thành xã
Hiệp Hòa; ba làng Tân Mai, Vĩnh Cửu, Bình An (Bình Đa + An Hảo) hợp thành xã
Tam Hiệp… Vì vậy, năm 1939 số xã của Biên Hòa chỉ còn 119, bớt 1 tổng cắt về
tỉnh Đồng Nai Thượng. Các quận (délégations) được thành lập ở khắp tỉnh. Như
vậy, ở Đồng Nai, hệ thống hành chính từ nửa cuối thập niên 20 trở đi là tỉnh - quận -
tổng - xã.
Để đặt tên các đơn vị hành chính, người ta thường dựa vào tên gốc của huyện.
Ví dụ năm 1863, tỉnh Biên Hòa có huyện Phước Chánh gồm 6 tổng. Tên của 6 tổng
này dựa vào hai chữ “Phước” và “Chánh” ở đầu: Phước Vinh Thượng, Phước Vinh
Trung, Phước Vinh Hạ, Chánh Mỹ Thượng, Chánh Mỹ Trung, Chánh Mỹ Hạ.
Huyện Long Thành có 4 tổng: Long Vĩnh Thượng, Long Vĩnh Hạ, Thành Tuy
Thượng, Thành Tuy Hạ. Hay dùng yếu tố đầu hoặc sau của tên huyện/xã để làm yếu
tố đầu của tên xã/ấp. Ví dụ huyện Tân Phú có 11 xã bắt đầu bằng chữ “Phú” (Phú
Lập, Phú Lâm, Phú Lộc, Phú Điền, Phú Sơn...), huyện Xuân Lộc có 10 xã bắt đầu
bằng chữ “Xuân” (Xuân Bắc, Xuân Hiệp, Xuân Hưng, Xuân Hòa…), xã Phú Bình
(TP) có 8 ấp bắt đầu bằng chữ “Phú” (Phú Cường, Phú Dũng, Phú Tân…).
Một phương thức chủ yếu được nhà cầm quyền sử dụng để đặt tên các đơn vị
hành chính là ghép các yếu tố Hán Việt. Có những cách ghép phổ biến như sau:
Ghép các thành tố đầu của các địa danh: Bình An (Bình Đa + An Hảo), Long
Bình (Long Khánh + Bình Dương).
Ghép các thành tố cuối của các địa danh: Phú Thạnh (An Phú + Phước Thạnh).
Ghép các thành tố cùng có một chữ đầu tên giống nhau rồi thêm số từ chỉ số
lượng vào trước chữ ấy: Tam An (An Định + An Phước + An Xuân).
Muốn lập thêm tổng mới, xã mới, thôn mới tách từ tổng, xã, thôn cũ và muốn
giữ nguồn gốc cũng như để tránh trùng tên, người ta thường thêm vào sau tên tổng,
xã, thôn cũ ấy từ Đông, Tây, Nam, Bắc, Thượng, Trung, Hạ, Nhất, Nhì, Tam… hoặc
thêm vào chữ cái A, B, C… số đếm 1, 2, 3… Ví dụ: tổng Chánh Mỹ, huyện Phước
Chánh, phủ Phước Long, tỉnh Biên Hòa chia thành 3 tổng mới thành Chánh Mỹ
Thượng, Chánh Mỹ Trung, Chánh Mỹ Hạ… Bên Pháp cũng có rất nhiều địa danh
được thêm mấy chữ như “ở cạnh sông Seine”, “ở cạnh biển”, ví dụ Epinay-Sur-
Seine, Ivry-Sur-Seine, Lion-Sur-Mer, Saint Aubin-Sur-Mer… Ở Nhật Bản ta cũng
tìm thấy thành phố Tokyo và Kyoto, viết theo hệ thống Hán tự Kanji của Nhật Bản,
nghĩa là Đông Kinh và Tây Kinh, tức là kinh thành phía đông và kinh thành phía tây
của kinh đô nơi nhà vua ngự trị, tên là Nara. Hay như trong truyện Thủy Hử, có thể
bắt gặp cách đặt địa danh này qua chi tiết Thát Tháp Thiên Vương Triệu Ái ở Đông
Khê Thôn, vì cao tay ấn nên ma quỷ sợ quá chạy sang Tây Khê Thôn hết.
Bên cạnh đó, đối với trường hợp phải hợp thôn thì tên thôn mới sẽ là tên một
thôn đã sáp nhập. Như thời Gia Long, hai thôn Tân Tịch và Tân Đức tổng Chánh
Mỹ, huyện Phước Chánh, trấn Biên Hòa nhập làm một thành thôn Tân Tịch…
Trên đại thể, hệ thống địa danh hành chính tỉnh Đồng Nai có tính chất đối
xứng nhau. Nếu một địa danh theo kiểu sau: ấp Ba A (XL), ấp Bạch Lâm 1 (TN)
được ra đời thì theo nguyên tắc cũng sẽ có một địa danh ấp Ba B (XL), ấp Bạch
Lâm 2 (TN) xuất hiện ngay sau đó. Có 49 trường hợp địa danh hành chính xuất hiện
theo kiểu có chữ cái A, B hoặc số thứ tự ở cuối địa danh. Trong 36 trường hợp có số
đếm ở cuối, có 20 trường hợp địa danh có số thứ tự từ 3 trở lên, và trường hợp số
thứ tự nhiều nhất là lên đến 6. Ví dụ như trường hợp của các khu phố Xuân An 1,
Xuân An 2, Xuân An 3, Xuân An 4, Xuân An 5, Xuân An 6 đều thuộc phường
Xuân An, thị xã Long Khánh. Một số ít địa danh có các từ “Trung, Hạ, Thượng…”
hay chữ cái hay số đếm nằm ở cuối hiện nay đã mất tính chất đối xứng, chẳng hạn
có ấp Thành Tuy Hạ (NT) nhưng không có ấp Thành Tuy Thượng; có khu phố 4A
(Tân Hòa - BH) mà không thấy 4B. Có xã Hố Nai 3 (TB) mà không có xã Hố Nai 1,
Hố Nai 2 là do hai xã này đã nhập vào thành phố Biên Hòa và chuyển thành hai
phường Hố Nai 1, Hố Nai 2 (theo quyết định của Hội đồng Chính phủ năm 1978).
b. Nguyên nhân chuyển hóa địa danh
Khoảng 25 địa danh hành chính được tạo thành do quá trình chuyển hóa từ địa
danh chỉ địa hình. Tuy chiếm số lượng nhỏ nhưng loại này lại cho thấy nét đặc
trưng dân dã trong cách đặt tên của địa danh của tỉnh Đồng Nai. Theo mô hình “địa
hình + tên cây”, hay “địa hình + tên thú” có những địa danh như ấp Bàu Chim (TP),
ấp Rạch Chiếc (LT), ấp Suối Chồn (TXLK), ấp Suối Sóc (CM), xã Sông Trầu
(TB)… Có 12 địa danh hành chính đặt theo tên người, đa số xuất hiện ở đơn vị ấp,
cấp xã chỉ có 1 địa danh, không thấy trong các đơn vị hành chính khác như: ấp
Giồng Ông Đông (NT), ấp Ngô Quyền (TN), ấp Nguyễn Thái Học (TN), ấp Ông
Hường (VC)…
Kết quả của quá trình chuyển hóa trong nội bộ một loại địa danh khiến cho
hàng loạt địa danh hành chính ở Đồng Nai có sự trùng lặp lẫn nhau. Chẳng hạn có
xã Phú Lập, cũng có ấp Phú Lập (TP), có huyện Long Thành, cũng có thị trấn Long
Thành (LT)… Hay huyện Xuân Lộc có tên ấp Bình Minh ở xã Xuân Hiệp, cũng có
ấp Bình Minh ở xã Suối Cát; huyện Vĩnh Cửu vừa có tên ấp Bình Chánh thuộc xã
Phú Lý vừa có tên ấp Bình Chánh thuộc xã Tân An… Có thể sự trùng tên này là do
những yếu tố Hán Việt thể hiện tâm tư nguyện vọng của người dân thì có hạn trong
khi nhu cầu đặt tên làng xã lại khá nhiều; cũng có thể đây là cách người dân lưu giữ
tên làng của mình khi di cư đến vùng đất mới. Sự trùng tên trong địa danh hành
chính còn cho thấy những địa danh Hán Việt tuy mang ý nghĩa tốt đẹp nhưng lại
không phản ánh được những đặc điểm của làng xã, vì vậy nó có thể đặt cho bất cứ
làng nào cũng được.
c. Nguyên nhân biến đổi ngữ nghĩa
Trước hết là cách đặt tên bằng chữ Tân vốn đã có từ lâu ở miền Nam Việt
Nam. Di dân, lưu dân khi định cư ở nơi mới (thường là đồng bào từ Bắc vào Nam),
họ lấy tên làng cũ và bổ sung thêm chữ Tân vào phía trước để đặt tên làng xã. Cách
đặt tên này không chỉ ở nước ta mới có mà thế giới cũng sử dụng, điển hình là ở
Mỹ. Thành phố New York chắc là do dân gốc người Ái Nhĩ Lan đặt ra. Ở miền nam
Ái Nhĩ Lan có một thành phố rất lớn tên là York. Ở Anh Quốc, ta có thành phố
Hamsphere vì thế ta mới có New Hamsphere bên Mỹ. Tương tự ta có New Orleans,
New Jersey, New Mexico… Tuy nhiên, Tân là một từ Hán Việt, có nhiều nghĩa như
“mới, bến, bãi…”. Sách Gia Định thành thông chí có nhắc đến chợ Ngự Tân - tức
chợ Bến Cá, còn gọi là chợ Bình Thảo, ở tổng Phước Vinh, khách buôn đông đúc,
cả đường thủy và đường bộ đều thông suốt tới bến, hàng nước ngoài, thổ sản địa
phương, sơn hào, hải vị không gì là không có, là một chợ miền núi rất đông đúc [41,
tr.239]. Như vậy, có hai cách hiểu đối với chữ Tân: nếu nó đứng ở phía trước thì
mang nghĩa “mới” (như ấp Tân Xuân, ấp Tân Triều…), còn nếu nó đứng ở sau lại
được hiểu là “bến” (như chợ Ngự Tân hay địa danh Sài Tân…).
Thứ hai, cách đặt tên theo chữ Long cũng xuất hiện nhiều trong địa danh Đồng
Nai. Chữ Long ban đầu có nghĩa là thịnh vốn có gốc từ tên huyện Phước Long (tên
gọi đầu tiên của vùng đất được thời Nguyễn Hữu Cảnh cắt đặt từ năm 1698). Khi
dân số tăng, diện tích khai hoang được mở rộng, các xã, thôn được tiếp tục chia tách
và khi chia tách thì chữ Long hay chữ Phước vẫn được dùng để ghép với một từ
khác cho tên xã, thôn mới. Tuy nhiên, lúc này Long lại được hiểu là rồng có quan
hệ với hai chữ “Gia Long”. Theo Diệp Đình Hoa, vấn đề lý thú là sự khác biệt giữa
cách viết chữ Nôm, và cách hiểu thông thường. “Chữ Long ở đây được viết với ký
tự Long, theo niên hiệu Gia Long. Trong số người hiện nay còn ở Tân Bình, có thể
viết và hiểu cách ghi theo ký tự này, thì họ viết Long là lên, giải thích là nguyên
nghĩa lên, nhưng ý tứ vẫn là rồng. Trong dân gian, họ không cần biết đến ký tự, thì
họ vẫn kiên trì và giải thích thoải mái, Long có nghĩa là rồng. Ý đồ khuôn vào sự
thống nhất của tầng lớp thống trị chỉ được dân chúng tuân thủ một cách hình thức,
nhưng về mặt nội dung họ vẫn hiểu là rồng” [46, tr.28].
Điều này cho thấy, chưa hẳn những từ như Tân, Bình, Long, An, Mỹ, Phú,
Đức… thuần nhất phản ánh tâm lý, nguyện vọng.
d. Đọc chệch âm
Ở đây có hai trường hợp, trường hợp thứ nhất là đọc chệch âm do kiêng húy,
tức là tránh phạm húy, phạm hèm. Về vấn đề kiêng húy, chúng tôi cho rằng nó chỉ
xảy ra ở một số ít trường hợp (như Hoa - Huê), tùy thuộc vào từng vùng miền
(người miền Bắc gọi là Phúc, không gọi Phước vì không phải kiêng kỵ húy) và
không có tính hệ thống. Đồng Nai có hai trường hợp kiêng húy rõ nhất là tên của
vua Nguyễn Phúc Ánh bị đọc chệch thành Phước, ví dụ: xã Phước Khánh (NT), ấp
Phước Hòa (LT), khu Phước Hải (LT)… Và tên của danh nhân văn hóa Nguyễn
Hữu Kính cũng bị đọc chệch thành Cảnh, nhưng trường hợp này lại rơi vào tên
đường, ví dụ: đường Nguyễn Hữu Cảnh (BH).
Thứ hai, một số địa danh hành chính bị đọc chệch âm có nguyên nhân chính là
thuộc về ngôn ngữ học trên hai phương diện phương ngữ và ngữ âm. Đây là kết quả
của sự chuyển đổi ngữ âm từ Hán Việt cổ sang Hán Việt thời Đường như cang -
cương, đàng - đường, tràng - trường... Ví dụ: quý thành quới (ấp Quới Thạnh - NT),
thịnh thành thạnh (xã Thạnh Phú - VC), hợp thành hiệp (ấp Hiệp Cường - ĐQ),
nhân thành nhơn (huyện Nhơn Trạch)…
đ. Đổi tên do viết sai chính tả dẫn đến hiểu sai ý nghĩa
Cát Lái vốn là tên bến trên sông Đồng Nai, nay có ấp Cát Lái (NT). Âm gốc
của địa danh này là Các Lái. Trong Đại nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Paulus
Của có ghi từ tổ này và giải thích như sau “các lái” là tiếng kêu chung các người đi
buôn, chẳng kỳ thủy bộ [24, tr.530]. Trước đây, tại bến này, các lái buôn thường tụ
tập nên bến mang tên trên.
3.4. Đặc điểm chuyển biến của địa danh chỉ công trình xây dựng
Đồng Nai có 1167 địa danh chỉ công trình xây dựng với 36 tiểu loại bến, bến
đò, bến phà, bến xe, bùng binh, cảng, cầu, chiến khu, chợ, công viên, cống, cư xá,
đập, địa đạo, đường, đường thủy, ga, hoa viên, hương lộ, kênh, khu du lịch, làng cổ,
lâm trường, ngã ba, ngã năm, ngã tư, nông trường, quảng trường, quốc lộ, sân bay,
sân vận động, thành cổ, tỉnh lộ, trại giam, trạm bơm, xa lộ. Trong đó tên đường là
nhiều nhất (284), rồi đến tên cầu (253), tên chợ (221).
Tên cầu và tên chợ ở Nam Bộ chiếm số lượng nhiều hơn các miền khác của
đất nước. Do hệ thống giao thông sông ngòi, kênh rạch khá dày đặc nên ở Đồng Nai
có nhiều cây cầu được xây dựng để phục vụ cho việc đi lại, buôn bán của người
dân. Còn về tên chợ thì theo Đại Nam nhất thống chí, vào giữa thế kỷ XIX, Nam Bộ
có 93 chợ lớn nhỏ, trong đó hai tỉnh có nhiều chợ nhất là tỉnh Biên Hòa (19 chợ) và
tỉnh Vĩnh Long (19 chợ). Sở dĩ có nhiều chợ và nhiều loại chợ khác nhau vì trước
đây, thương cảng cù lao Phố hoạt động sầm uất, là trung tâm giao dịch với giao
thông thuận tiện nên nhiều các lái tập trung ở đây, đi thu mua ở từng địa phương
hay rải rác ở những điểm khác, từ đó hình thành nên các chợ. Có nhiều chợ hình
thành rất sớm và khá trù mật như chợ Đồng Nai, chợ Bến Cá, chợ Đồng Sử, chợ Lò,
chợ Bàn Lân, chợ Dầu Miệt, chợ Đò, chợ Đồng Môn, chợ Lò Thiếc… thuộc trấn
Biên Hòa [70, tr.90]. Chợ ở Đồng Nai đa dạng, trước hết là hình thức chợ bến như
Bến Cá (Tân Bình - VC), là nơi tập kết các loại cá (cá nước ngọt) và cá đặc sản còn
tươi sống được rộng trong các ghe bầu từ các tỉnh miền Tây mang lên đây bán. Hay
chợ Rạch Lò Gốm (BH) là nơi nhiều ghe xuồng tập trung đến mua lu, hũ, trã,
trách... Tiếp theo là loại chợ đầu mối như chợ Chiếu (thôn Hưng Phú, tổng An
Thủy) là chợ chuyên phục vụ cho tàu buôn và dân đi biển, đi sông các sản phẩm
làm bằng cói, bàng và lá buôn như chiếu, đệm, buồm… Một số nơi tập trung đặc
sản của địa phương như Bà Rịa, Phước Thạnh (Long Thành xưa), Bình Quý (huyện
Bình An)…, các lái đến thu mua nhiều dần dần hình thành nên những tên chợ như
Tân Bản (lúa gạo), Phú Hội (trà), An Lợi (sầu riêng), Long Tân (chuối), Phước An
(tôm càng)… Như vậy, để đáp ứng nhu cầu trao đổi hàng hóa giữa các thôn làng,
các địa phương với nhau, nhiều loại chợ khác nhau đã ra đời. Có nhiều chợ mà nay
tên đã đổi thay như chợ Dinh ở Biên Hòa để chỉ tỉnh lỵ, ở gần dinh Trấn Biên xưa,
nay gọi là chợ Biên Hòa. Chợ Chiếu xưa (nay thuộc thành phố Biên Hòa) đổi thành
chợ Mới. Đầu thế kỷ XX, nơi đây có một số quán chuyên bán chiếu và một số mặt
hàng khác. Nhóm di dân miền Trung làm nghề dệt chiếu, nguyên liệu lác (cói) khai
thác ở cù lao Đôi. Tuy nhiên, sau đó cù lao này được khai phá trồng lúa nên nghề
dệt chiếu ở cù lao Phố tiêu vong. Sau đó việc bán chiếu chuyển qua chợ Đồn nên
chợ Chiếu mất tên cũ. Chợ Bình Tân, còn có tên gọi khác là chợ Lò Giấy, nhưng từ
khi có binh Tây Sơn vào đóng chợ này đổi thành chợ Đồn (BH). Chợ Đồn nay
không còn nữa nhưng vẫn được lưu lại trong ký ức của người dân qua hình thức
dùng tên chợ để chỉ cả một khu vực: Chợ Đồn.
Hiện nay, còn có chợ tự phát vào buổi chiều để phục vụ cho nhu cầu công
nhân đi làm về như chợ chiều Bàu Hàm (TN), chợ chiều Cầu Xéo (LT), chợ chiều
Phú Bình (TP); hay chợ đêm Biên Hùng (BH) hoạt động từ tối đến đêm…
Tuy nhiên, xét ở phương diện quá trình chuyển biến thì trong số 36 tiểu loại
địa danh chỉ công trình xây dựng, tên đường phố phản ánh khá rõ nét những đặc
điểm chuyển biến về địa danh. Vì vậy, phần tiếp theo đây, chúng tôi sẽ đi sâu hơn
về loại địa danh này.
3.4.1. Về nguồn gốc ngôn ngữ
284 tên đường ở Đồng Nai mà chúng tôi thu thập được phần lớn đều là từ Hán
Việt và thuần Việt. Những tên đường có nguồn gốc từ tiếng dân tộc thiểu số chỉ có
5 địa danh như đường Tà Lài (TP), đường Tà Lú (BH)…
Tên đường ở Đồng Nai đặt trước năm 1954 thường chọn tên các vị quan cai trị
như toàn quyền, công sứ, viên chức hàng tỉnh, chánh chủ tỉnh vốn là người Pháp
từng phụ trách tỉnh Biên Hòa như: rue Philastre (nay là đường Nguyễn Thái Học -
BH), rue Auddéra (nay là đường 30/4 - BH), rue Bataille (nay là đường Cô Giang -
BH), rue Henry, boulevard Picanon… Nhưng sau đó, những tên đường này đã bị
thay thế bằng tên người Việt. Hầu hết, tên đường ở tỉnh Đồng Nai hiện nay đều
mang tên người, tập trung nhiều nhất ở khu vực thành phố Biên Hòa (75 địa danh).
Đó là tên các danh nhân văn hóa, các nhân vật lịch sử có nhiều công lao với đất
nước và với địa phương như: đường Trịnh Hoài Đức (BH), đường Nguyễn Trãi
(BH), đường Lý Thường Kiệt (TXLK), đường Võ Tánh (BH)…
Một số tên đường được chuyển hóa trong nội bộ địa danh chỉ công trình xây
dựng như đường Bến Đò CoGiDo (BH), đường Bến Đò Trạm (BH), đường Ga Hố
Nai (BH)… hay chuyển hóa từ tên sông suối như đường Suối Mơ (TP), đường Sông
Thao (TB)… Ngoài ra, có một số lượng khá lớn tên đường ở Đồng Nai được đặt
theo số thứ tự như đường 13 (ĐQ), đường 319 (NT), đường Vành Đai 1 (TXLK)…
3.4.2. Về quá trình chuyển biến của tên đường phố
Cũng như địa danh hành chính, quá trình chuyển biến của tên đường phố ở
Đồng Nai cũng trải qua nhiều giai đoạn khác nhau với những biến đổi liên tục.
* Be: từ gốc Pháp beige (màu be, tức gần như màu cà phê sữa nhạt). Xe be là xe
chuyên chở cây gỗ ở trong rừng (loại gỗ phải còn nguyên thân cây, thẳng, có cây chỉ dài
hai mét, có cây dài chục mét). Đường có xe be chạy qua gọi là đường be.
Chẳng hạn như đường Trần Quốc Toản trước năm 1945 được gọi là đường be (*).
Sau năm 1945, đường be trở thành đường vào chiến khu Bình Đa, căn cứ du
kích của các cơ quan quận Châu Thành và nhiều lực lượng kháng Pháp ở Biên Hòa.
Đến năm 1954, chính quyền Sài Gòn xây dựng trại lính cho sư đoàn 5 từ miền Bắc
vào đóng, gọi tên là trại Trần Quốc Toản. Đường mang tên Trần Quốc Toản từ đó.
Quá trình chuyển biến tên đường ở Đồng Nai có thể chia làm ba giai đoạn sau:
trước năm 1954, từ năm 1954 đến năm 1975 và từ năm 1975 đến nay.
Thời các chúa Nguyễn và nhà Nguyễn, ở tỉnh Biên Hòa, đường thủy là
phương tiện giao thông chính, đường bộ kém phát triển, vì vậy người ta không nhắc
nhiều đến tên đường. Lúc ấy, chỉ có đoạn quan lộ thuộc tỉnh Biên Hòa đặt các trạm,
mỗi trạm có từ 20 đến 30 phu trạm chịu trách nhiệm chuyển tiếp sắc chỉ, công văn
của triều đình.
Atlas Đồng Nai có đoạn: “Ngay từ cuối thế kỷ XVII, Nông Nại Đại Phố (nay
là cù lao Phố thuộc xã Hiệp Hòa, Biên Hòa) đã là một trung tâm buôn bán sầm uất
của vùng Nam Bộ. Cảng cù lao Phố không chỉ là nơi ra vào của tàu thuyền trong
nước mà cả tàu thuyền nước ngoài, khi đó giao thông chủ yếu bằng đường thủy, tàu
thuyền từ cảng Cù Lao Phố đi Tân Uyên, Bình Minh, Tam An, Bến Gỗ, Bến Kẹo…
Phải đến năm 1863, đường Thiên Lý từ Gia Định đi Biên Hòa, Bà Rịa mới được
xây dựng nhưng cũng chỉ là đường đất có xe bò, xe ngựa đi lại được và đến năm
1878 đoạn đường từ Sài Gòn đi Biên Hòa mới được mở rộng và rải đá…” [94,
tr.193].
Khi người Pháp xuất hiện, hàng loạt tên đường ở Đồng Nai mang tên của các
vị quan cai trị như toàn quyền, công sứ, viên chức hàng tỉnh, chánh chủ tỉnh từng
phụ trách tỉnh Biên Hòa: rue Auddéra, rue Philatre, rue Henry…
Một số tên đường được đặt theo tên công trình xây dựng gần đó như L’avenue
à la Gare (đường đi vào Nhà Ga, nay là đường Hưng Đạo Vương - BH), Boulevard
Théâtre (đại lộ Nhà Hát, nay là đường Huỳnh Văn Lũy - BH)…
Cuối năm 1955, đầu năm 1956, chính quyền Sài Gòn đã ra nghị định về việc
đổi, đặt lại tên đường phố ở các đô thị miền Nam, trong đó có đoạn: “Tất cả các
đường phố ở Việt Nam cộng hòa (miền Nam) không được đặt tên người nước ngoài,
trừ đô thành Sài Gòn chỉ để lại 4 đường Alexandre de Rohodes, Yersin, Pasteur và
Calmette”…
Và như vậy thì từ năm 1954 trở đi, tất cả tên đường mang tên người Pháp đều
bị chính quyền tỉnh Biên Hòa thay bằng tên người Việt: đường Nguyễn Hữu Cảnh
(trước là Palace de Champeaux, nay là đường Cách Mạng Tháng Tám - BH), đường
Trịnh Hoài Đức (trước là đường Auddéra nay là đường 30/4 - BH), đường Trần
Thượng Xuyên (trước là đường La Plage Donnai nay là đường Nguyễn Văn Trị -
BH), đường Phan Đình Phùng (trước là đường Avenue d’ Aviasion), đường Võ
Tánh (trước là đường Barbé nay vẫn giữ nguyên tên), Lê Văn Lễ (trước là đường
Philatre, nay là đường Nguyễn Thị Hiền - BH)…
Ngày 30-4-1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng. Chính quyền cách mạng
tỉnh Biên Hòa và thành phố Biên Hòa được thành lập. Do nhiều yếu tố khách quan
và chủ quan nên việc điều chỉnh, sửa đổi một số tên đường ở thành phố Biên Hòa
chủ yếu tập trung ở khu vực nội ô thành phố Biên Hòa (5 khu, 8 ấp được điều chỉnh,
phân bố lại thành các phường). Một số tên đường cũ được thay thế bằng tên đường
mới như đường Bùi Văn Hòa (trước là Phan Văn Trị), đường Cách Mạng Tháng
Tám (trước là đường Nguyễn Hữu Cảnh và đường Hàm Nghi), đường 30/4 (trước là
đường Trịnh Hoài Đức), đường Nguyễn Văn Trị (trước là đường Trần Thượng
Xuyên), đường Huỳnh Văn Lũy (trước là đường Thành Thái), đường Nguyễn Thị
Hiền (trước là đường Lê Văn Lễ), đường Nguyễn Văn Trỗi được đặt năm 1975 nay
đổi thành đường quốc lộ 1K…
Trong đề án Đặt tên, đổi tên đường và công trình công cộng tại thành phố
Biên Hòa (manh nha hình thành từ năm 1998) do UBND thành phố Biên Hòa và
Hội khoa học lịch sử của tỉnh Đồng Nai thực hiện, một số tên đường cũ xét thấy
không phù hợp với thuần phong mỹ tục, với lịch sử đấu tranh cách mạng đã bị thay
thế. Chẳng hạn đường Lương Văn Thượng (BH) được đổi bằng đường Lữ Mành
(BH) vì Lữ Mành nguyên là chiến sĩ trong đội Xung phong cảm tử của quận Châu
Thành, tỉnh Biên Hòa thành lập cuối năm 1945, hi sinh năm 1948. Ông là liệt sĩ
cách mạng người Hoa đầu tiên hi sinh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
ở Biên Hòa. Đường này nằm trong khu vực sinh sống và hoạt động của Lữ Mành.
Đường mang tên Lữ Mành là phù hợp, đồng thời thể hiện chính sách đại đoàn kết
các dân tộc của Đảng và Nhà nước. Còn Lương Văn Thượng vốn là tay sai của thực
dân Pháp sau khi Pháp xâm lược nước ta; ông đã từng dẫn quân địch thực hiện
những cuộc hành quân giết hại nghĩa quân và đồng bào dân tộc ở Biên Hoà.
Ngoài tên danh nhân văn hóa lịch sử, lãnh tụ nghĩa quân chống Pháp, tên lãnh
tụ cách mạng Việt Nam hay lãnh tụ cách mạng ở địa phương… còn có tên của
những liệt sĩ, nhà văn, nhà báo của địa phương như liệt sĩ - nhà báo Dương Tử
Giang, nhà thơ - nhà cách mạng Huỳnh Văn Nghệ, nhà văn Lý Văn Sâm. Những cái
tên thoạt nghe đã ngân nga như một bài hát về tình thương yêu quê hương Đồng
Nai, Biên Hòa.
Trong số những tên đường là các danh nhân văn hóa, có tên đường Nguyễn
Hữu Cảnh (BH) là một trường hợp khá đặc biệt. Nguyễn Hữu Cảnh vốn nguyên
danh là Nguyễn Hữu Lễ, lại có tên là Nguyễn Hữu Kính. Người miền Nam hiểu
Kính và Kỉnh cùng nghĩa nên đã gọi kiêng (lần 1) tên Kính là Kỉnh, rồi gọi trại (lần
2) Kỉnh thành Kiểng, sau lại do hiểu rằng Kiểng và Cảnh cũng cùng một nghĩa nên
gọi trại (lần 3) là Cảnh. Và tên gọi Nguyễn Hữu Cảnh tồn tại cho đến ngày nay.
Ngoài những tên đường chính thức được lưu trong văn bản hành chính, ở
Đồng Nai còn có một bộ phận không nhỏ những tên đường do nhân dân địa phương
tự đặt như đường Chùa Bửu Long (BH), đường Tổ 32 Kp5 (BH), đường Nhà Mở
KP1 (BH)… Tuy nhiên, cũng có không ít con đường vì chưa được nhà nước đặt tên
nên gây ra phiền phức đối với người dân. Chẳng hạn con đường trung tâm chạy
trước trụ sở UBND huyện Tân Phú có chiều dài khoảng 2km, nhưng do chưa có tên
đường nên mỗi người gọi theo mỗi cách. Những người làm việc nhà nước thì gọi
theo dự án là đường B7A10; học sinh thì gọi đường Dân Tộc Nội Trú, vì con đường
này đi vào trường Dân Tộc Nội Trú liên huyện Tân Phú - Định Quán. Riêng người
dân thì gọi đó là đường Công Trình, vì có nhiều công trình được xây dựng trên
đường này. Những con đường khác cũng gọi theo cảm tính, đường đi vào công sở,
cơ quan nào thì gọi tên đường theo đó, như đường Trại Giam, đường Bệnh Viện,
đường Trường Mầm Non Minh Khai…
3.5. Tiểu kết
Quá trình biến đổi địa danh ở Đồng Nai cũng như nhiều tỉnh thành trong cả
nước có nhiều phức tạp, đa dạng.
Những chuyển biến trong địa danh ở Đồng Nai xuất phát từ hai nguyên nhân:
nguyên nhân bên trong ngôn ngữ và nguyên nhân bên ngoài ngôn ngữ. Trong đó
nguyên nhân Pháp hóa địa danh và Hán hóa theo lối phiên âm, dịch nghĩa, vừa
phiên âm vừa dịch nghĩa và cả chuyển hóa từ những địa danh hành chính là nguồn
cứ liệu quan trọng giúp ta tìm hiểu quá trình tiếp xúc ngôn ngữ và tiếp xúc văn hóa
Hán - Việt, Pháp - Việt.
Địa danh ở Đồng Nai có sự biến đổi giữa nội dung và cũng có sự biến đổi về
ngữ nghĩa; có sự biến đổi ở thanh điệu, phụ âm đầu, phần vần và âm cuối cũng có
sự thay đổi theo kiểu rút gọn âm và mượn âm.
Loại địa danh chỉ địa hình mang tính nguyên sơ, chiếm tỉ lệ không nhiều,
thường là từ thuần Việt và ngôn ngữ bản địa (tiếng Kơho, S’tiêng, Khmer...). Dân
số gia tăng kèm theo kinh tế xã hội phát triển là nguyên nhân làm cho các đơn vị
hành chính, các công trình xây dựng không ngừng thay đổi và chiếm số lượng lớn
trong tổng số địa danh ở Đồng Nai hiện nay. Riêng về địa danh chỉ vùng, chúng tôi
không trình bày ở phần trên vì loại này hầu như không có sự thay đổi nào mà chủ
yếu là gắn với đặc điểm: lấy địa danh đã có để đặt cho địa danh vùng mới. Cả ba
loại địa danh này phần lớn là từ Hán Việt.
Phức tạp nhất là địa danh chỉ công trình xây dựng mà tiêu biểu là tên đường
phố. Việc đặt tên đường không chỉ tạo ra bộ mặt văn minh, văn hóa đô thị mà còn
góp phần giáo dục truyền thống lịch sử cho người dân. Những con đường hiện nay
có xu hướng mang tên các danh nhân hoặc địa danh gắn liền với các sự kiện lịch sử.
Tuy nhiên, tên đường lại gây không ít tranh cãi, bởi một bên thuộc thẩm quyền nhà
nước nên phải đặt theo những tiêu chuẩn nhất định, một bên là do người dân tự đặt
theo cảm tính, theo những đặc điểm vốn có của nơi mình sinh sống.
Chương 4
NGUỒN GỐC - Ý NGHĨA CỦA MỘT SỐ ĐỊA DANH Ở
ĐỒNG NAI VÀ GIÁ TRỊ PHẢN ÁNH HIỆN THỰC
4.1. Nguồn gốc - ý nghĩa của một số địa danh ở Đồng Nai
Tỉnh Đồng Nai như đã nói ở trên là một vùng đất đa văn hóa, đa dân tộc.
Ngoài lớp cư dân bản địa bao gồm Mạ, S’tiêng, Kơho, Chơro và một vài dân tộc
thiểu số khác như Chăm, Khmer, Ba na, Mnông sống rải rác xen kẽ trên các địa bàn
Tân Phú, Định Quán, Xuân Lộc… Đồng Nai còn tiếp nhận một số lượng lớn lớp cư
dân di dân gồm người Việt và người Hoa đến từ khắp các vùng miền của Tổ quốc.
Tuy nhiên, trước đó từ rất lâu, người Việt đã đến khai hoang, lập ấp trên vùng đất
mới, họ cùng với các dân tộc anh em xây dựng nên một Đồng Nai hôm nay.
Quá trình sinh sống, giao lưu, tiếp xúc giữa các lớp cư dân dẫn đến sự đa ngôn
ngữ trên vùng đất Đồng Nai. Tìm hiểu mặt ngữ nghĩa của địa danh, nhất là đối với
những tiếng cổ, tiếng dân tộc thiểu số… không phải là chuyện dễ dàng nhưng lại
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và mong muốn hướng đến. Do năng lực có
hạn nên trong chương này, chúng tôi chỉ trình bày một số địa danh thuần Việt, Hán
Việt, địa danh có gốc là tiếng dân tộc thiểu số đã được Việt hóa có nguồn gốc ý
nghĩa rõ ràng và một vài địa danh đang còn tranh cãi. Đối với những địa danh chưa
truy tìm được nguồn gốc, chúng tôi xin hẹn lại trong những nghiên cứu tiếp theo.
4.1.1. Một số địa danh có nguồn gốc rõ ràng
a. CỦ CHỤP
Tên đồi Củ Chụp gợi nhớ những tháng ngày gian khổ trong cuộc kháng chiến
chống Pháp gắn liền với cuộc sống của dân làng Chơro (còn gọi là làng Lý Lịch)
thuộc xã Phú Lý huyện Vĩnh Cửu. Đó là vào năm 1952, một trận bão lớn nổi lên
kèm theo những ngày mưa dữ dội làm cho vùng này ngập chìm trong biển nước.
Mùa màng mất sạch. Làng rơi vào cơn đói. Nhưng dân làng vẫn một lòng giúp sức
Việt Minh làm cách mạng để đánh đuổi giặc cướp nước. Lúc ấy, ông Năm Nổi cùng
đám trai tráng trong làng mang gùi vào rừng đi tìm củ chụp, hái nấm, đào củ mài về
nuôi cán bộ. Họ tìm được một ngọn đồi có rất nhiều củ chụp. Nguồn lương thực này
đã nuôi sống dân làng và cán bộ cách mạng suốt những năm kháng chiến. Và cái tên
đồi Củ Chụp đã ra đời từ đó.
b. HỐ NAI
Hố Nai trước kia là một vùng rộng lớn, nay trở thành đơn vị hành chính cấp
phường thuộc thành phố Biên Hòa. Khi xưa, đây là vùng hố có nhiều nai sinh sống.
Địa danh này đã được nhà văn Lý Văn Sâm miêu tả như sau: “Vùng Hố Nai là
một miền rừng rậm nằm cheo leo bên quan lộ. Khu Sâm Lâm biệt lập này có tiếng
là nhiều nai và gấm. Đêm đến, tiếng cọp gầm như khít vào vách nhà. Cuộc đất hết
nghiêng xuống lại trườn lên thành hình võng treo. Dưới những trũng sâu, trên
“nệm” lá tre mục xao xác dấu chân nai. Cái tên “Hố Nai” vì đó mà có …” [129,
tr.7].
c. LONG THÀNH
Trước năm 1976, Long Thành là huyện thuộc tỉnh Biên Hòa, nay là một trong
9 huyện nằm ở phía nam tỉnh Đồng Nai. Long Thành có một thị trấn Long Thành và
18 xã: An Hòa, An Phước, Bàu Cạn, Bình An, Bình Sơn, Cẩm Đường, Lộc An,
Long An, Long Hưng, Long Đức, Long Phước, Phước Bình, Phước Tân, Phước
Thái, Suối Trầu, Tân Hiệp, Tam An, Tam Phước.
Về tên của địa danh này, có người cho rằng Long Thành có nghĩa là “thành
rồng”. Thật ra không phải như vậy.
Nếu chỉ căn cứ theo nghĩa phổ biến “long là rồng” thì kết quả nghiên cứu có
thể dẫn đến sai lệch. Bởi trong từ Hán Việt có nhiều từ đồng âm. Theo tác giả Lê
Trung Hoa trong cuốn Cửa sổ tri thức, tập 2, thì có bốn từ long, trong đó có hai từ
phổ biến nhất có nghĩa là “con rồng” và “thịnh vượng”. Có ba từ thành và hai từ
được nhiều người biết nhất, đó là “cái thành” và “thành công”. Trong các địa danh
Thăng Long, Hạ Long, “long” là “rồng”. Trong hai địa danh Vĩnh Long, Long An,
“long” là “thịnh vượng” [54, tr.136].
Trong địa bạ Biên Hòa (1836), chữ “long” được viết bằng chữ Hán mang
nghĩa “thịnh vượng”, còn “thành” là “thành công”. Hơn nữa, quá trình tìm hiểu trên
sách báo và đi thực tế, chúng tôi nhận thấy ở vùng này trước đây không có cái thành
nào. Vì vậy, Long Thành phải được hiểu là “thành công và thịnh vượng” chứ không
phải là “thành rồng”.
d. TRẤN BIÊN - BIÊN HÒA
Địa danh Biên Hòa ngày nay có xuất xứ từ tên của dinh Trấn Biên (huyện
Phước Long) được thành lập vào năm 1698, khi Nguyễn Hữu Cảnh theo lệnh chúa
Nguyễn kinh lược xứ Đàng Trong. Năm 1808, dinh Trấn Biên đổi thành trấn Biên
Hòa. Năm 1832, trấn Biên Hòa đổi thành tỉnh Biên Hòa. Năm 1976, ba tỉnh Biên
Hòa, Long Khánh và Phước Tuy nhập lại thành tỉnh Đồng Nai. Hiện nay, Biên Hòa
là một thành phố loại II thuộc tỉnh Đồng Nai, với 23 phường: An Bình, Bình Đa,
Bửu Hòa, Bửu Long, Hòa Bình, Hố Nai, Long Bình, Long Bình Tân, Quang Vinh,
Quyết Thắng, Tam Hiệp, Tam Hoà, Tân Biên, Tân Hiệp, Tân Hòa, Tân Mai, Tân
Phong, Tân Tiến, Tân Vạn, Thanh Bình, Thống Nhất, Trảng Dài, Trung Dũng và 3
xã: Hiệp Hòa, Hóa An, Tân Hạnh.
Tác giả Lương Văn Lựu đã giải thích địa danh Trấn Biên và trấn Biên Hòa
trong cuốn [71], tập 2 như sau: Dinh Trấn Biên vào năm Kỷ tỵ (1629) nguyên là
phủ Phú Yên, cương thổ cuối cùng của Đại Việt, giáp phía nam là nước Chiêm
Thành. Năm 1679, dân ta chiếm đất Đông Phố của Thủy Chân Lạp. Chúa Hiền Thái
Tông Hiếu triết Hoàng đế Nguyễn Phước Tần sắp đặt lại địa hạt hành chính và chia
đất Đông Phố ra làm hai dinh, trong số có Trấn Biên. Dinh là một căn cứ lãnh thổ,
theo binh chế cũ, gồm lối 500 người. Trấn Biên có nghĩa là trấn của biên cương
(giáp cận Thủy chân lạp quốc). Chữ “Biên” xuất phát từ đó và được lấy đặt tên cho
cương thổ miền Đông Nam Việt.
Còn về địa danh trấn Biên Hòa thì sau 24 năm (từ năm 1778 đến năm 1802)
chống Tây Sơn, Nguyễn Vương Phúc Ánh thống nhất sơn hà, xưng đế hiệu là Gia
Long, tổ chức lại nền hành chính quốc gia. Nhà vua chia địa giới hai dinh Trấn Biên
và Phiên Trấn ra làm nhiều trấn nữa. Nguyễn Vương đặt lại tên là “Biên Hòa” với ý
nghĩa: Trấn Biên, một doanh trấn ở biên cương sau thời binh biến nhiễu nhương tao
loạn, được phục hồi tình trạng an hòa thái lạc. Về sau, người Pháp gọi là “PORTE
DE LA PAIX”. Biên Hòa được chính thức xưng danh kể từ đó, trên phương diện
chính trị và hành chính [tr.3-4].
Nói tóm lại thì Trấn Biên có nghĩa là trấn của biên cương. Còn Biên Hòa có
liên quan đến chữ “Biên” trong địa danh trên, nghĩa là một trấn ở ven biên cương
nay được thái lạc, an hòa. Nếu nói ngắn gọn thì Biên Hòa là hòa bình ở biên giới.
4.1.2. Một số địa danh có nguồn gốc ý nghĩa đang còn tranh cãi
a. CHỨA CHAN
Núi thuộc thị trấn Gia Ray, huyện Xuân Lộc. Núi Chứa Chan cao 836m với
chùa Bửu Quang (thường gọi là chùa Gia Lào) trên gần đỉnh núi là điểm du lịch thu
hút nhiều du khách, vì vậy, người ta còn gọi tên núi là Gia Lào. Sách Đại Nam nhất
thống chí viết: “...Núi Chứa Chan có thế núi chót vót, trông xuống khe Da Lao, chỗ
giáp giới của hai huyện Long Khánh và Phước Binh có nhiều mây song gỗ lạt, lưng
núi có động đá và giếng đá...” [89, tr.50].
Tên núi gắn liền với một truyền thuyết sau: Vào thế kỷ XVII, có một viên
quan người Việt tên là Việt Hùng trong lúc giao chiến với quân Khmer, ông đã bị
bắt cùng vợ của mình. Sau đó ông bị giam lỏng trên núi này, còn vợ ông có nhan
sắc nên bị vua Khmer bắt ép làm vợ lẻ dù hắn biết bà đang mang thai. Bà hạ sinh
một bé gái, khi lớn lên bà đã kể cho con nghe tất cả sự thật. Cô gái quyết tâm đi tìm
cha ruột cùng một người hầu cận và họ đã tương phùng, hai cha con bị lính truy
đuổi ráo riết. Trong lúc hoảng loạn, cả ba đã gieo mình xuống thung lũng tự vẫn. Để
tưởng nhớ họ, trong chùa Gia Lào có tạc ba pho tượng gọi là: ông Vàng, cô Bạc,
cậu Chì. Câu chuyện làm cho mọi người đều cảm thấy xót xa nên ngọn núi này
mang tên là núi Chứa Chan.
Một giả thiết khác cho rằng: Ngày xưa vùng đất này có nhiều cảnh đẹp nên
tiên trên trời thường hay xuống đây du ngoạn. Một hôm có một nàng tiên vì quá say
mê cảnh đẹp nên không kịp bay về trời và đã bị đày ở lại trần gian. Trong thời gian
ở lại trần gian nàng tiên đã gặp và yêu một chàng tiều phu, tình cảm của họ ngày
càng gắn bó. Thế nhưng lúc này nàng tiên đã hết hạn bị đày và phải quay về trời
trong khi chuyện tình của họ vẫn chưa đi đến đâu. Hai người vì nhớ nhau nên đã
khóc rất nhiều, nước mắt của họ hòa quyện vào nhau tạo thành dòng nước gây ngập
lụt cả vùng cho nên người dân địa phương mới gọi núi này là núi Chứa Chan như
tình cảm của họ.
Tiếng Việt có từ chứa chan với nghĩa: 1. Có nhiều đến mức tràn ra. Nước mắt
chứa chan. 2. Có nhiều, chứa đầy (nói về tình cảnh). Hy vọng chứa chan [85,
tr.191]. Cả hai giả thuyết trên ít nhiều đều có liên quan đến nghĩa của từ chứa chan
này. Tuy nhiên, hai giả thuyết này nghe không ổn.
Cách lý giải có tính thuyết phục hơn là của tác giả Lê Trung Hoa: trong tiếng
Chăm, từ chỉ núi là “chơk” và “chơk chan” là núi non [105]. Đồng thời người Chăm
cũng dùng một từ của các ngôn ngữ Ê Đê và Gia Rai là “chư”, và gọi núi Chứa
Chan là “Chư Chan” (theo TS. Phú Văn Hẳn, người Chăm). Người Chăm cũng
dùng từ ghép “chư chăn” để chỉ ngọn núi mà chúng ta gọi là “Chứa Chan”. Sổ tay
địa danh Việt Nam của Đinh Xuân Vịnh ghi: Chử Chân (hay Chứa Chan). Có lẽ
Chử Chân là biến thể của Chư Chan. Chan (hay Chăn, Chân) trong tiếng Chăm hiện
nay đã mất nghĩa, có thể vốn là tên người, tên cây, tên thú…
Từ “Chư Chăn” chuyển thành Chứa Chan là hiện tượng mà chúng tôi gọi là
mượn âm, tức là từ ngữ nước ngoài khi được người Việt du nhập vào tiếng Việt mà
có ngữ âm na ná như từ ngữ tiếng Việt thì chúng khoác chiếc áo ngữ âm của từ ngữ
tiếng Việt. Vài thí dụ tương tự: đèo Rury (tên của một kỹ sư người Pháp có công
làm đèo này) thành đèo Rù Rì; huyện Ksach (tiếng Khmer, nghĩa là “cát”) thành Kế
Sách (Sóc Trăng); cái bừa cào mượn tên con bồ cào thành cái bồ cào; tỉnh Kampot
của nước Campuchia được người Việt gọi thành tỉnh Cần Vọt (mượn âm (gàu) cần
vọt, phương tiện lấy nước từ giếng sâu)… [52, tr.132-134].
Trong địa danh Đồng Nai cũng có hiện tượng mượn âm, giống như trường hợp
địa danh La Ngà (sông) trình bày ở phần dưới. Hơn nữa địa bàn Đồng Nai xưa kia
và hiện nay cũng có nhiều người Chăm sinh sống. Vì vậy, cách lý giải của Lê Trung
Hoa nghe hợp lý nhất.
Như vậy thì rất có thể địa danh Chứa Chan bắt nguồn từ từ tổ Chư Chan của
người Chăm. Chư là núi, Chan chưa rõ nghĩa. Chư Chan gần âm với chứa chan của
tiếng Việt nên người Việt đã mượn âm của từ này.
b. LA NGÀ
Tên sông thuộc huyện Định Quán. La Ngà là sông nhánh chảy qua các huyện
Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Tánh Linh, Đức Linh, tỉnh Bình Thuận, đổ vào
sông Đồng Nai ở huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai, dài 272 km.
Tên sông có hai cách lý giải. Thứ nhất, La Ngà có nguồn gốc từ tiếng Kơho, vì
sông này có dòng chảy băng qua các vùng cư trú của đồng bào Kơho. Vào mùa hạ,
sông khô nước, lòng sông nổi lên nhiều đá cuội đen trắng lấp lánh dưới ánh mặt trời
giống như một bãi phơi hạt mè màu trắng đen. Trong tiếng Kơho, Lơnga có nghĩa là
hạt mè (vừng) [96, tr.164]. Vì thế, người Kơho đặt tên con sông này là sông Lơnga -
sông Hạt Mè. Người Việt phiên âm thành La Ngà.
Theo cách hiểu thứ hai, La Ngà ở thế kỷ 19 [89] được viết là Là Ngà. Là Ngà
cũng là tên một loại tre. Âm gốc của địa danh này là Laghna [117, tr.54] hay Đa
R’Nga, Đa R’Gna, chưa rõ nghĩa. Vậy người Việt đã mượn tên tre (Là Ngà) để
phiên âm địa danh Laghna, sau đọc chệch thành La Ngà.
Ngoài ra, trong quyển [9, tr.46] có đoạn: “Chiến thắng Là Ngà (1/3/1948) mãi
mãi là niềm tự hào của quê hương Xuân Lộc. Sau này, đại đội 6, đứa con thân yêu
của đồng bào Xuân Lộc được vinh dự mang tên là đại đội La Nha. La Nha là theo
cách đọc của Pháp, vì họ không nói được hai chữ Là Ngà”.
Tác giả Vương Hồng Sển cũng cho rằng là ngà là tên một loại tre, một thứ như
tre lồ ồ, mọc nhiều tại vùng này [92, tr.440].
Theo trên, có hai cách lý giải về địa danh La Ngà: 1. La Ngà gốc Kơho Lơnga,
nghĩa là “hạt mè” vì ở lòng sông có nhiều viên đá trắng đen như hạt mè 2. Do gốc
Kơho Laghna hay Đa R’Nga, Đa R’Gna, chưa rõ nghĩa, được khoác tên tre la ngà
hoặc là ngà vì gần âm. Cách thứ hai thuyết phục hơn.
c. PHỐ
Đây là một cù lao nằm giữa sông Đồng Nai, thuộc xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa, có diện tích 6,6 km2. Tại đây, trong cuối thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII,
người Hoa đã xây dựng thành một khu thương mại sầm uất.
Tên chính thức trên bản đồ hành chính hiện nay của cù lao này là Hiệp Hòa.
Tuy nhiên, nhân dân vẫn thường gọi là cù lao Phố như một thói quen. Thật ra, cù
lao Phố còn có nhiều tên gọi khác như Đông Phố, Giản Phố, Cù Châu, Đại Phố hay
Nông Nại Đại Phố.
Thứ nhất, tên Đại Phố là tên gọi của nhóm người Hoa để chỉ một thành phố
buôn bán lớn, giống như tên Mỹ Tho đại phố mà nhóm Dương Ngạn Địch lập nên
[8, tr.80-81].
Nông Nại Đại Phố tức là “Phố lớn của xứ Đồng Nai”. Đồng Nai âm theo tiếng
Quảng Đông là Nông Nại, do họ không phát âm được chữ “Đ” trong địa danh Đồng
Nai.
Thứ hai, gọi là Cù Châu “bởi địa thế cù lao uốn mình khoanh duỗi hình như
con cù bông giỡn nước, nên có tên như vậy” [41, tr.28].
Vương Hồng Sển cũng ghi: “Gọi là Cù Châu bởi đuôi cù lao tựa đuôi chim
công, và mình uốn khúc như vóc rồng thêm có bông hoa trên lưng, gọi Hoa cù” [92,
tr.272].
Thứ ba, gọi là Đông Phố hay Giản Phố?
Gia Định thành thông chí có viết: “Cù lao này nguyên có tên là Giản Phố
châu, nhưng do chữ giản và chữ đông tự dạng trông rất dễ lầm nên có lẽ đã bị đọc
lầm” [41, tr.28].
Thái Văn Kiểm ghi như sau: “Con sông Đồng Nai đã đưa ta đến tỉnh Biên Hòa
(hòa bình ở biên cương), một trấn đã được sáp nhập vào nước ta năm 1658. Khoảng
đất này xưa được gọi là Đông Phố, đúng ra là Giãn Phố vì hai chữ Đông và Giãn
viết theo chữ Hán hơi giống nhau. Về sau, nơi này đã được triều đình Huế giao cho
bọn người Trung Hoa gốc Quảng Tây di cư theo hai tướng Trần Thượng Xuyên và
Trần An Bình đến khai khẩn và lập nghiệp năm 1679 tại cù lao Phố, sau khi nhà
Minh bị nhà Thanh lật đổ” [65, tr.24].
Một ý kiến khác cho rằng Đông Phố hay Giản Phố mà nhà Nguyễn nói đến
trước khi chỉ định cho nhóm Trần Thượng Xuyên đến ở là một vùng rộng lớn bao
gồm cả Đồng Nai và Gia Định. Cho đến năm 1698, khi Nguyễn Hữu Cảnh kinh
lược vùng đất phía Nam, chính thức sáp nhập đất Đông Phố vào bản đồ Việt Nam,
thì Đông Phố bao gồm cả Sài Gòn và Đồng Nai. Đến thế kỷ XIX, Đông Phố vẫn
còn nghĩa rộng là cả vùng Đông Nam Bộ. Tuy nhiên, tên Đông Phố vẫn thường
dùng để chỉ cù lao Phố nằm trong vùng rộng lớn nói trên, nhất là từ sau khi nơi đây
đã trở thành một trung tâm kinh tế trù phú, một trung tâm thượng mại và giao dịch
quốc tế của Đông Nam Bộ (tức sau năm 1698) [8, tr.80-81].
Tự vị tiếng Việt miền Nam có đoạn: “Năm Cảnh Hưng thứ 8 (1747), có bọn
khách thương gốc Phước Kiến, cầm đầu là Lý Văn Quang đến ở Đại Phố, hiệp đảng
hơn ba trăm người, xưng là Giản phố Đại vương. Về sau nhìn lầm đọc Đông Phố
Đại vương khiến đến nay cũng không sửa sai lại được, (cũng như trên đất Nam
Vang, từ đời Đường đã có tên là Giản Phố Trại, đọc giọng Trung Quốc là Kam Pu
tchai, cho đến nay họ mới xưng Quốc hiệu là Kằm Bù Chia chớ không có gì lạ)”
[92, tr.272-273].
Mang nhiều tên gọi khác nhau nhưng hiện nay, cái tên cù lao Phố lại thông
dụng nhất. Và theo chúng tôi, Phố là một từ Hán Việt nghĩa là “khu buôn bán đông
đúc”.
d. TRẢNG BOM
Tên một huyện của tỉnh Đồng Nai thành lập tháng 8-2003, được tách ra từ
huyện Thống Nhất, gồm một thị trấn Trảng Bom và 16 xã.
Có ý kiến cho rằng danh từ Trảng Bom phải chăng từ tiếng Pháp Transport
(vận chuyển) lâu ngày đọc trại thành? Vì nhà máy BIF (1907) lập riêng 2 nhánh
đường sắt từ ga Biên Hòa đến nhà máy và từ ga Trảng Bom đến Bến Nôm. Nhà
máy này sản xuất mặt hàng xuất khẩu là gỗ xẻ, đồ mộc… Sau còn sản xuất thêm
rượu và cao su [7, tr.14-15].
Một cách lý giải thú vị khác là vào lúc chiến tranh, quân đội Mĩ đã dùng máy
bay B52 oanh tạc vùng đất này. Bom sau khi nổ tạo thành những hố lớn, gọi là
chảng bom mà đọc trại đi là trảng bom. Từ đó tên gọi Trảng Bom đã trở thành đơn
vị hành chính nơi đây.
Theo chúng tôi, Trảng Bom hay Trảng Bôm là trảng có trồng nhiều cây bom.
Trong Đất Việt trời Nam có đoạn: “… Trảng Bôm (Trảng là một cái đồi bằng phẳng
và rộng rãi, plateau) có trồng nhiều cây chum-bao lom, đọc trạnh thành bom, sinh ra
một thứ dầu gọi là chaulmougra, dùng để trị phong hủi” [65, tr.24]. Bùi Đức Tịnh
cũng viết: “Trảng là chỗ trống trải vì không có cây mọc, ở giữa một khu rừng hay
bên cạnh một khu rừng… Ở Thủ Dầu Một có Trảng Bom, được gọi như thế có lẽ vì
ngày xưa gần trảng có cây bom; theo một bô lão, cây bom nay không còn nữa, là
một loại cây mà con tê giác thích ăn lá” [110, tr.22].
Ý kiến này có thể đúng vì các lý do sau: 1. Có người từng nói với chúng tôi là
đã thấy cây bom ở vùng Thủ Đức (TP. HCM); 2. Ở Phú Yên, Vĩnh Long có địa
danh Cây Bôm (Cây Bôm trong từ điển này, có lẽ nói chệch); 3. Loại địa danh
“Trảng + tên cây” khá phổ biến ở Nam Bộ: Trảng Bàng (cỏ bàng), Trảng Lớn,…
4.1.3. Một số địa danh là truyền thuyết, sự tích
a. BỬU LONG
Bửu Long là tên của một phường đồng thời cũng là tên một khu du lịch nổi
tiếng thuộc thành phố Biên Hòa. Danh thắng Bửu Long rộng hơn 84 héc ta. Độ cao
trung bình 100 mét so với mặt nước biển. Theo các nhà khoa học thì núi đá Bửu
Long có cách nay từ 100-150 triệu năm, do tác động của những biến đổi về khí hậu
nên bị bào mòn theo năm tháng, vô tình tạo thành những kiểu dáng đẹp, kích thích
trí tưởng tượng của người đời.
Truyền thuyết kể rằng: cách nay gần 400 năm, nơi đây còn là rừng núi hoang
vu, lác đác dăm mái nhà tranh. Một hôm có một vị sư đến ngoạn du vùng núi rừng
thâm u, thanh vắng này. Ông dừng chân ngắm cảnh và cảm thấy lưu luyến với cảnh
sắc nơi này. Ông quyết định ở lại và dựng lên một ngôi chùa nhỏ để tu niệm Phật và
đặt tên là Bửu Phong tự. Ông tự xưng là Bửu Phong thiền sư. Mỗi ngày tiếng mõ
sớm chuông chiều vang lên mời gọi dân chúng các nơi tụ tập về sinh sống đông dần
lên, nhà sư mới khai sinh cho địa danh này là Bửu Long (Bửu có nghĩa là quý, Long
là rồng).
Sách Đại Nam nhất thống chí có chép: núi Long Ẩn ở phía nam huyện Phước
Chánh 15 dặm, đất đá lộn nhau, cây cối xanh tốt, hình núi uốn cong và cao đẹp,
dưới có đá thủy tinh. Núi nầy làm hậu binh cho Văn Miếu. Bửu Phong ở phía nam
huyện Phước Chánh 13 dặm, phía Tây dòm xuống sông lớn, làm hậu vệ cho núi
Long Ẩn. Trên có chùa Bửu Phong, khói mây man mác, cây cối um tùm, là thắng
cảnh thú nhất trong tỉnh hạt. Khi xưa, có sư tăng hiệu Bửu Phong hòa thượng lập
chùa trên núi, nên gọi là núi Bửu Phong” [89, tr.43].
Đến đời nhà Nguyễn trung hưng, thôn sở tại mang tên là Bình Định Điện.
Ngọn núi được thôn dân gọi tắt là núi Bình Điện. Đến thời Pháp thuộc, Bình Điện
chỉ còn là một ấp và trọn vùng được nâng lên thành một làng, mang danh Bửu
Long, xuất xứ từ hình thể Long bàn, ẩn trong chỏm núi Bửu Phong. Ngọn núi Chùa
này lại được người phương xa gọi bằng thôn danh Bửu Long, theo tên làng (không
phân biệt với núi lấy đá Long Ẩn - người sở tại gọi nôm na là núi Lò Gạch - phân
nửa thuộc ấp Tân Lại, xã Tân Thành). Dân tụ về càng đông, xóm Bửu Long thành
lập mở thành ấp Bửu Long rồi xã Bửu Long… Mãi gần 150 năm sau, một thầy địa
lý đến thăm vùng đất này cho biết đây là nơi rồng ẩn (Long Ẩn). Ông giải thích
rằng: chùa Bửu Phong tọa lạc trên trái châu của rồng (tức núi Bình Điện), núi kế
bên hướng về trái châu là núi Long Ẩn hiện nay. Rồng uốn khúc qua bên kia sông
(Tân Ba) vòng qua mả chú Hỏa cuộn về núi Châu Thới là đuôi rồng. Rồng ẩn mình
trong lòng đất, có khúc ẩn, khúc hiện.
Cuốn Biên Hòa sử lược toàn biên, tập 1, ghi rằng: “Biên Hòa xuất xứ từ cốt
rồng nằm, tư thế đất giống con rồng nằm quay đầu về hướng Bắc. Rồng đây là rồng
quý, phần đầu là một vị trí tôn nghiêm, được quý trọng xem như một bửu vật, xưa
được lấy làm hậu binh cho Văn miếu tại thôn Tân Lại, thờ Đức Khổng Phu Tử và
các á thánh văn thần. Địa danh “Bửu Long” xuất phát từ khung cảnh này” [71,
tr.200].
Nói tóm lại, từ tên chùa Bửu Phong, có tên núi Bửu Phong. Sau đó, người
phương xa gọi ngọn núi ấy theo tên làng là núi Bửu Long.
b. CÁT TIÊN
Vườn quốc gia, nằm trên địa bàn ba huyện Tân Phú, Vĩnh Cửu (Đồng Nai),
Cát Tiên, Bảo Lộc (Lâm Đồng) và Bù Đăng (Bình Phước). Phần nằm trên địa bàn
Cát Tiên và Bảo Lộc thường được gọi là khu vực Cát Lộc. Phần trên địa bàn Tân
Phú và Vĩnh Cửu thường được gọi là khu vực Nam Cát Tiên. Phần trên địa bàn Bù
Đăng thường được gọi là Tây Cát Tiên. Năm 1998, ba khu vực này được sáp nhập
thành vườn quốc gia. Vườn rộng 71.920 ha, với tài nguyên thiên nhiên phong phú,
đa dạng, có nhiều động thực vật quý hiếm.
Cho đến nay, cổ dân Cát Tiên vẫn là chín buôn người Mạ, hai buôn của người
S’tiêng. Theo huyền thoại của đồng bào dân tộc S’tiêng, sông Đồng Nai chảy qua
khu vực Nam Cát Tiên này có tên là Dak Yang (dòng sông của Trời). Hàng năm
đúng vào ngày lễ cúng Yang, 12 nàng tiên mới được phép xuống tắm một lần, nơi
bãi cát trên thác Trời. Để ngăn không cho con người phá đàn con của mình, ông trời
vây dưới giếng thác nước gọi là thác Hòn Đá Dựng. Bãi cát do các nàng tiên ngọc
ngà xuống tắm gọi là bãi cát Tiên. Vì thế rừng Nam Cát Tiên còn có một tên gọi
đầy đủ hơn là Nam Bãi Cát Tiên.
Còn người Mạ - chủ nhân lâu đời của vùng đất này lại lưu truyền truyền
thuyết: Một bữa nọ, chàng thợ săn người Mạ giương cung bắn vào khối hình trụ
màu trắng lấp lánh, nước ào ra, ầm ầm đuổi theo chàng. Thần giận dữ tung dòng
nước cuồn cuộn đuổi theo chàng thợ săn. Chàng thợ săn hoảng loạn chạy miết,
chàng chạy nhanh nước thành thác ghềnh, chạy chậm nước thành bàu, dừng lại
nước ứ dưới chân thành hồ lớn. Đang đuổi bắt, thần nước và chàng đi săn bỗng giật
mình dừng lại trước cảnh trên các bãi cát vàng óng ả, các thiên tiên đang khoả thân
đùa nghịch trên bãi cát, họ còn vào rừng hái quả, hái lộc. Họ như bị chôn chân tại
chỗ và dòng nước cứ thế tuôn trào thành sông Đồng Nai. Bên bờ suối hươu nai đang
gặm những cọng cỏ non, bầy công xoè đuôi múa như thi thố sắc đẹp sặc sỡ với nắng
sớm. Cả vùng được ướp trong hương của bàu sen trắng. Hàng trăm loài chim ríu rít
chao liệng... Từ đó, vùng thượng nguồn của dòng sông - nơi các nàng tiên tắm có
tên gọi Cát Tiên. Vườn quốc gia Cát Tiên ngày nay ra đời từ huyền thoại xa xưa ấy
[111, tr.290].
Theo ý kiến của chúng tôi thì Cát Tiên có lẽ âm gốc là Các Tiên. Theo cách
nghĩ của người xưa, đây là nơi các vị tiên ở, rồi bị nói và viết sai chính tả, giống
như Các Lái (đã giải thích ở trên), Các Bà, Các Ông bị nói và viết chệch thành Cát
Lái, Cát Bà, Cát Ông. Hiện tượng lẫn lộn hai phụ âm cuối “c” và “t” đã có nhiều
tiền lệ, chẳng hạn: quần cộc - quần cụt; mắt mỏ (xưa) - mắc mỏ (nay); gấp rúc - gấp
rút…
c. ĐÁ BÀN
Suối, thuộc huyện Tân Phú.
Địa điểm Đá Bàn hiện nay nằm trong địa phận của lâm trường Tân Phú. Nơi
đây còn những hòn đá nằm rải rác trên bờ của một con suối. Trên những hòn đá có
in những vết tích của bàn tay khổng lồ - gắn liền với chuyện tích về một buổi chiểu
tối khi dân làng đang chia thịt thú rừng, bỗng nhiên trời sụp tối và trời như đè sập
lên mặt đất. Trong cơn nguy khốn đó, người khổng lồ K’-Yút đã ra tay chống đỡ để
trời đất không nhập làm một. Vì đứng chống đỡ lâu mà tay của người khổng lồ in
vào những hòn đá còn lưu vết tích cho đến ngày nay [115, tr.233].
d. THỀ
Suối ở xã Bảo Bình, huyện Xuân Lộc.
Tên con suối này dựa vào một sự tích của đồng bào Chơro, đó là sự tích suối
Thề. Có người đàn bà nghèo địu con trên lưng đi làm nương rẫy. Một hôm bà đi
thuốc cá ở một dòng suối nhỏ, để con ngồi chơi trên bờ suối. Cá chết, nổi lên, bà
lượm cho vào gùi. Khi gùi cá gần đầy, bà định lần vào bờ thì mò đụng xác con
mình. Bà kêu gào khóc thảm thiết và nhìn lên trời thề rằng “Yàng ơi, ta thề là không
bao giờ ăn cá ở con suối nầy nữa”. Từ đó con suối này mang tên suối Thề.
đ. THOÁT Y
Hang Thoát Y thuộc Vườn Quốc gia Cát Tiên. Sở dĩ hang mang tên này là vì
theo truyền thuyết, hang có ba cửa, mỗi cửa có hai con cá sấu lớn, vẩy mốc trắng,
mắt xanh lè canh giữ. Khi bước vào hang phải hoàn toàn khỏa thân và chỉ được
mang theo một ngọn đuốc bằng tre, nứa. Người nào mang trong tim tình yêu chung
thủy và thành tâm cầu xin điều tốt lành mới có thể tìm được đường ra khỏi hang,
bằng không sẽ làm mồi cho thú dữ. Ngoài cửa hang có bàu nước trong như ngọc,
dưới đáy là cát trắng trộn lẫn những vảy vàng, vảy bạc. Khi rời bàu nước, cơ thể
sẽ trở nên tuyệt đẹp bởi được “đính” nhiều vảy vàng, vảy bạc mỏng mảnh, sáng lấp
lánh [137].
4.2. Giá trị phản ánh hiện thực
Trong một bài viết, tác giả Thái Hoàng đã nêu ý nghĩa của tên làng như sau: 1.
Tên làng phản ánh cảnh trí thiên nhiên, đặc sản của địa phương; 2. Tên làng phản
ánh mối quan hệ xã hội, quá trình hình thành và xây dựng quê hương; 3. Tên làng
phản ánh những biến động xã hội, những sự kiện lịch sử đáng ghi nhớ đối với nhân
dân địa phương [55, tr.54-60].
Tác giả Lê Trung Hoa đã dành hẳn một chương trong tác phẩm của mình để
nói về giá trị phản ánh hiện thực của địa danh ở thành phố. Theo tác giả thì một
trong những giá trị to lớn của địa danh là phản ánh rõ nét hiện thực khách quan ở
thời điểm và địa điểm nó ra đời. Những phản ánh ấy được thể hiện qua các mặt lịch
sử, khảo cổ, địa lý, kinh tế, dân tộc, kiến trúc và ngôn ngữ [50, tr.128].
Còn Nguyễn Kiên Trường thì quan niệm “Nói đặc điểm phản ánh hiện thực
chính là nói tới ý nghĩa của các thành tố, của từng địa danh và hệ thống các địa
danh… còn đặc điểm về hiện thực trong tâm lý văn hóa con người thì việc “giải
mã” là rất khó khăn, nhất là đối với địa danh cổ. Do đó, chúng tôi thấy cần phải
phân chia hiện thực (mà địa danh phản ánh) ra hai loại sau: a) Hiện thực (khách thể)
tồn tại quanh ta với các đối tượng địa - vật lí vô tri vô giác. b) Hiện thực trong tâm
hồn, tư tưởng con người sống ở mỗi thời đại” [122, tr.91].
Rõ ràng, nghiên cứu về những giá trị phản ánh hiện thực của địa danh là một
công việc thú vị và không kém phần quan trọng. Bởi vì qua đó, ta có thể tìm ra
những ý nghĩa được phản ánh thông qua địa danh.
Địa danh ở Đồng Nai gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của vùng
đất và con người nơi đây, vì vậy, nó cũng thể hiện rõ nét những giá trị phản ánh
hiện thực qua các mặt sau:
4.2.1. Phản ánh lịch sử
a. K. A. Chetkarev cho rằng địa danh là những cứ liệu rất quan trọng, có thể
phục vụ cho quá trình nghiên cứu lịch sử di trú của các dân tộc (cf. Nguyễn Tấn
Anh) [4, tr.144]. Thật vậy, những cái tên như núi Gò Mọi (VC), rạch Mọi, gò Mả
Mọi (VC)… minh chứng cho sự có mặt từ rất lâu của các đồng bào dân tộc thiểu số
phương Nam. Gia Định thành thông chí viết rằng lúc ấy địa đầu Gia Định là Mọi
Xoài và Đồng Nai (tức là Biên Hòa trấn) đã có lưu dân của đất nước ta đến cùng với
dân Cao Miên khai khẩn ruộng đất [41, tr.109]. Và như đã nói ở chương một, hai
cuốn sách [38] và [89] đều có đề cập đến nhóm cộng đồng các dân tộc ít người này.
Trong nhóm “Mọi”, “Man sách” được nhắc đến ở đây có nhóm cư dân Chơro, Mạ -
một trong những cư dân bản địa của vùng Đồng Nai.
b. Địa danh ở Đồng Nai còn phản ánh các giai đoạn, biến cố về các sự kiện
lịch sử của dân tộc và trên địa bàn. Đó là một con đường mang tên 30 tháng 4 ở
Biên Hòa được đặt để kỷ niệm ngày thống nhất đất nước, hay con đường ghi lại sự
kiện lịch sử nhân dân nổi lên giành độc lập - đường Cách Mạng Tháng Tám (BH)…
Ngã ba Thái Lan (LT) là nơi mà trong thập niên 1960, có quân đội Thái Lan đóng
gần đây. Có địa danh núi Đầu Tây (TXLK) là do khoảng năm 1936, đồng bào dân
tộc Chơro ở Suối Tre (An Lộc) đã nổi dậy đấu tranh, bắt và chặt đầu một tên Pháp
gian ác Đờ-Lăng-Xoa đến cướp đất đuổi dân mở rộng đồn điền cao su An Lộc. Sau
đó, đồng bào đã đem đầu tên Tây này cắm bên trên một ngọn núi nhỏ sau làng Cấp
Rang để cảnh cáo bọn giặc và đặt tên núi là Đầu Tây [9, tr.19].
c. Nhiều nhân vật lịch sử của địa phương từng sinh sống trên vùng đất Đồng
Nai đã đi vào địa danh. Bên cạnh khá nhiều địa danh mang yếu tố ông, bà, thầy như
vàm Bà Lồ (BH), sông Ông Mai (NT), rạch Thầy Kiềng (BH)… là những cái tên
mà hễ nhắc đến, người Đồng Nai nào cũng cảm thấy tự hào đó là đường Nguyễn
Hữu Cảnh (BH), đường Trịnh Hoài Đức (BH), đường Huỳnh Văn Nghệ (BH),
đường Dương Tử Giang (BH)…
4.2.2. Phản ánh về mặt địa lý
a. Qua 63 con sông, 147 con suối, 58 con rạch và hàng loạt những bàu, hồ, tắt,
kênh… chúng ta biết được những tính chất, đặc điểm của dòng nước ở vùng Đồng
Nai. Chẳng hạn tính chất “trong” gồm có sông Nước Trong (LT), rạch Nước Trong
(NT), bàu Nước Trong (ĐQ)…; tính chất “đục” thì có suối Đục (LT), suối Đục
(ĐQ), suối Phèn (LT)…; tính chất “nóng”: suối Nóng (XL), đập Suối Nóng (XL),
bàu Nước Sôi (ĐQ)… Gọi là bàu Ngứa (TP) vì nước ở đây khi đụng vào vùng da
nào trên cơ thể đều gây ngứa ngáy, khó chịu…
Nhiều danh từ chung chỉ địa hình như sông, suối, kênh, hồ, thác… hay những
yếu tố như Đa - Da - Dar - Đar (tiếng Kơho), Đak - Dak (tiếng Ba Ma, Mnông,
Stiêng), Gia (có lẽ là tiếng Gia Rai) đều mang nghĩa là nước được chuyển hóa vào
địa danh, phản ánh đặc điểm sông ngòi, kênh rạch khá dày đặc, đảm bảo đủ nước
ngọt dùng trong sinh hoạt, trồng trọt của người dân Đồng Nai. Ví dụ: cầu Suối Hòn
(TN), cầu Suối Dâu (TB), thác Sông Nhạn (TB), cầu Kênh Xáng (NT), khu du lịch
Thác Ba Giọt (ĐQ), đường Hồ Núi Le (XL), hồ Đa Guy, hồ Gia Ui, hồ Gia Ray,
sông Da Kiot, sông Dak Bon Rê, suối Đak Lua…
Với điều kiện địa hình như trên cộng thêm giao thông thuận tiện khi đường sá
chưa mở… từ thuở sơ khai, địa bàn cù lao, gò, giồng ven sông rạch được xem là
loại hình cư trú phổ biến của cư dân Việt ở Đồng Nai. Các địa danh: khu du lịch Cù
Lao Phố (BH), Cù Lao Tân Triều (VC), ấp Giồng Ông Đông (NT)… minh chứng
cho điều trên. Một vài địa danh nay không còn nhưng vẫn tồn tại trong ký ức của
người dân như Gò Me, Gò Sim, Cồn Gáo... Dạng địa hình cao thì có núi, đồi như hồ
Núi Le (XL), ấp Núi Đỏ (TXLK), ấp Đồi Rìu (TXLK), xã Đồi 61 (TB), xã Núi
Tượng (TP)…
Theo trên có thể thấy ngoài những từ thuần Việt chỉ địa hình như sông, biển,
hồ, thác, núi… còn có những yếu tố Hán Việt hoặc vốn có gốc là tiếng dân tộc thiểu
số và đã được Việt hóa cũng đi vào địa danh như cù lao (pulaw: cồn, đảo); rạch
(prêk: sông nhỏ); bưng (bâng: hồ to) trong suối Bưng Cầu (XL); sơn (núi) trong ấp
Sơn Hà (NT), xã Thanh Sơn (ĐQ); hải (biển) trong khu Văn Hải (LT), ấp Đông Hải
(TB)…
Có thể thấy, 481 địa danh chỉ địa hình ở Đồng Nai phản ánh một cách khái
quát về địa hình, thủy văn ở nơi đây.
b. Mặt địa lý của địa danh còn được phản ánh qua hệ thống thực vật, động vật
đa dạng và phong phú sinh sống trên địa bàn Đồng Nai xưa và nay.
Về thực vật, Đồng Nai có 216 địa danh mang tên cây cỏ, trong đó có 70 loại
cây cỏ khác nhau đã đi vào địa danh. Ngoài những tên cây phổ biến (như suối Xoài,
suối Quýt, gò Me, suối Nho…), còn có những loại cây vốn là đặc sản của địa
phương Đồng Nai (như suối Săng Máu, suối Muồng, xã Cây Gáo, sông Buông…).
Có thể chia nhỏ những địa danh mang tên cây cỏ thành những nhóm sau:
- Nhóm thực vật được trồng ven sông suối, ven rạch, quanh thác hay nơi đất
trũng như suối Cây Sung (VC), suối Cây Đa (CM), sông Trầu (TB), sông Lá Buông
(LT), rạch Chại (NT), rạch Lá (NT), thác Xuân Mai (TP), thác Bàng (VC)…
- Nhóm thực vật sống ở vùng núi, đồi, gò như núi Mây Tào (XL) do trên núi
mọc nhiều cây mây tào (mây tàu), núi Le (XL), núi Nứa (TXLK), gò Me (BH)…
- Nhóm thực vật trồng ở khu vực dân cư, trên vùng bằng phẳng như ấp Mít
Nài (ĐQ), ấp Cây Điều (TB), đường Cây Chàm (BH), đường Cây Gáo (TB), ấp Cây
Điệp (TB), ấp Cọ Dầu (CM)…
Trên địa bàn Đồng Nai có 69 địa danh mang tên động vật, trong đó có 26 loại
động vật khác nhau. Các loại động vật có thể chia nhỏ thành:
- Động vật 4 chân: suối Sóc (CM), suối Cọp (VC), suối Chồn (TXLK), đập
Suối Dê Chạy (VC), bàu Ngựa (ĐQ), phường Hố Nai (BH), đập Suối Khỉ (XL), đập
Suối Heo (XL). Ngã ba Cua Heo (TXLK) là nơi mà các tài xế vận chuyển heo hay
trâu, bò từ miền Bắc và miền Trung ghé lại tắm cho các con vật trước khi chuyển
đến các nơi khác…
- Các gia cầm và loài chim: ấp Bàu Chim (TP) xưa các loài chim tụ tập ở đây
rất nhiều; gọi là đồi Hang Dơi (TP) vì có dơi tụ tập rất nhiều trong hang động này,
đảo Ó (VC), cầu Vạc (LT), cù lao Vịt (VC), trũng Vịt (VC)…
- Các con vật sống dưới nước: rạch Cá (NT), ấp Bàu Cá (XL), lòng tắt Cua
(NT), bàu Sấu (TP)…
- Các côn trùng nhỏ: cầu Bù Mắt (NT), suối Rết (XL), hồ Suối Rết (TN)…
Như vậy, có khá nhiều động vật quen thuộc và phổ biến trong dân gian, gắn
liền với cuộc sống lao động và sinh hoạt của con người. Bên cạnh đó, qua những địa
danh này, ta còn biết được một số loại động vật trước đây xuất hiện nhiều ở địa bàn,
và ngày nay chúng có thể không còn, hoặc có thể còn nhưng rất hiếm. Chẳng hạn
như: suối Cọp, bàu Ngựa, bàu Sấu, phường Hố Nai, Nhà Nai, Hang Nai, Đồng
Nai…
4.2.3. Phản ánh kinh tế
Những địa danh phản ánh về nông, lâm, ngư nghiệp, về công nghiệp, thương
nghiệp cho thấy hoạt động kinh tế ở Đồng Nai khá phát triển.
Có phần khác với các đô thị ở Hà Nội, Huế hay Hội An… các đô thị ở miền
Nam tuy bước đầu hình thành mang tính chất là trung tâm chính trị - hành chính -
quân sự nhưng không thể thiếu yếu tố là trung tâm kinh tế. Có thể nói tính chất chủ
yếu của đô thị Nam Bộ là thương mại và dịch vụ, là những “đô thị sông nước” với
các bến - chợ nổi tiếng, có hàng hóa phong phú, có sự giao lưu trao đổi buôn bán
tấp nập [141].
Cù lao Phố từng là một trong những trung tâm thương nghiệp nổi tiếng của đất
Đồng Nai, trong đó không thể không kể đến vai trò quan trọng của lưu dân người
Hoa. Một hoạt động kinh tế chính tại cảng thị này trong giai đoạn mới hình thành đó
là hoạt động thủ công nghiệp, nổi bật nhất là nghề làm gốm. Hiện nay, ở Đồng Nai,
chủ yếu là thành phố Biên Hòa vẫn còn lưu giữ nhiều địa danh phản ánh các ngành
nghề truyền thống, và nhiều ngành nghề khác từng một thời “làm mưa làm gió” cả
một vùng Nam Bộ: rạch Lò Gốm (BH), bến Đá (BH), chợ Chiếu (BH); hay chợ Bến
Cá (VC), chợ Bến Gỗ (LT). Ngoài ra còn có: xóm Lò Bò (BH), xóm Mạch Nha
(BH), xóm Lò Nồi (BH), xóm Lò Heo (BH), ấp Lò Than (CM), rạch Lái Bong
(BH), núi Lò Gạch (BH),…
Tiếp theo là tên của 21 nông trường như nông trường Cao Su An Viễn (LT),
nông trường Cao Su Cẩm Mỹ (CM), nông trường Cà Phê Châu Thành (CM)…
Cũng giống như ở Đăk Lăk, qua những địa danh này, ta có thể biết được một trong
những thế mạnh kinh tế của địa bàn là phát triển cây công nghiệp dài ngày như cao
su, cà phê, điều.
Cái tên chợ Khu Công Nghiệp (TB) phần nào phản ánh hoạt động kinh tế ở
tỉnh Đồng Nai với những khu công nghiệp đã và đang phát triển trên địa bàn, thu
hút lượng vốn đầu tư, số lượng dự án và lao động rất lớn. 29 khu công nghiệp hiện
nay chủ yếu tập trung ở vị trí trung tâm như Biên Hòa, Long Thành, Nhơn Trạch, là
những đầu mối giao thông quan trọng nối liền tỉnh nhà với các tỉnh khác, đặc biệt là
thành phố Hồ Chí Minh.
Các địa danh cũng có vai trò quan trọng đối với việc tạo nên một nhãn hiệu
thương mại nào đó. Trên thế giới, việc dùng địa danh để tạo dựng một nhãn hiệu rất
phổ biến và có lịch sử lâu đời. “Thậm chí những nền văn minh cổ đại như đế chế La
Mã đã đóng vai trò như những thương hiệu theo các giá trị văn hóa, những nét đồng
nhất và cả quyền lực của nó. Thỉnh thoảng, một hình ảnh nhân tạo về một địa danh
có thể xây dựng nên được cả một sự thống nhất xuyên suốt lịch sử. Những địa danh
đóng vai trò như các nhãn hiệu bởi vì mọi người đều muốn tự hào về nơi xuất xứ
của mình” [142]. Chẳng hạn như quần Jean Pepe London, Custo Barcelona và nước
khoáng Evian (đặt theo thị trấn của Evian-les-Bains). Trong ngành rượu vang,
người ta thường nói mua một chai Roija (một nhãn hiệu địa danh) chứ không phải
một chai Ramon Bibao (một nhãn hiệu thương mại).
Ở Việt Nam, nhiều doanh nghiệp cũng áp dụng cách làm này trong kinh
doanh. Chẳng hạn, địa danh Sài Gòn xuất hiện trong: bia Sài Gòn, “Bánh mì Sài
Gòn, một ngàn một ổ”, báo Sài Gòn giải phóng…
Người Đồng Nai cũng tự hào về nơi xuất xứ của nhiều sản phẩm khá nổi tiếng
và lấy chính tên địa danh của vùng đó làm thương hiệu. Mối quan hệ hai chiều giữa
nhãn hiệu và địa danh vừa làm nổi bật những địa danh của tỉnh, vừa cho chúng ta
biết được nhiều loại đặc sản có ở Đồng Nai như bò sữa Long Thành, bưởi Tân
Triều, trầu bai Bến Cá, thuốc lá Tân Huệ, gạo thơm Phước Khánh, tôm càng Tam
An, trà Phú Hội, sầu riêng An Lợi, chuối già Long Tân, cá buôi sò huyết Phước
An… Bản thân cái tên “Đồng Nai” cũng có sức hấp dẫn riêng của nó khi tham gia
vào vai trò của một nhãn hiệu thương mại chứ không chỉ riêng là một địa danh.
Người ta không chỉ biết đến tỉnh Đồng Nai, cầu Đồng Nai, sông Đồng Nai mà
người ta còn biết cả báo Đồng Nai, báo Lao Động Đồng Nai, nhà sách Đồng Nai…
Địa danh Biên Hùng cũng vậy. Nhân sự kiện Lê Văn Khôi nổi lên chống triều
Nguyễn, nhân dân Biên Hòa hưởng ứng, xưng hùng một cõi. Tác giả Lương Văn
Lựu trong cuốn [71], tập 2, ghi lại rằng, dân Biên Hòa coi mình như là vẫn còn
trong huyết quản hào khí của người xưa, nên thường thích gọi hoặc được gọi quê
hương là Biên Hùng để được hãnh diện với những quá trình và thành tích tranh đấu
vì chính nghĩa của tiền nhân. Với từ ngữ Biên Hùng này, từ năm 1952, Tòa Hành
chánh tỉnh nhà có mở một ấn quán, một tập báo ra hàng tháng lấy tên là “Biên Hùng
nguyệt báo” do một nhóm văn hữu công chức chủ trương biên tập. Một nhóm anh
em hâm mộ thể thao tại tỉnh nặng lòng yêu quê hương, mượn danh Biên Hùng để
thành lập đội bóng tròn được giới mộ điệu hoan nghênh ủng hộ và được tiếng khen
tặng của cầu giới miền Nam. Danh từ “Biên Hùng” cũng được nhà kinh doanh Lê
Văn Lộ mượn đặt cho một hí viện đồ sộ trên ngã năm Ga (đường Hưng Đạo Vương,
Trịnh Hoài Đức và quốc lộ 1) làm tăng vẻ thẩm mỹ về mặt kiến trúc tại tỉnh lỵ và
tạo sinh khí tấp nập cho thành phố. Một ban tân nhạc của các bạn trẻ, một xưởng
đắp vỏ xe, một quán ăn tại Biên Hòa, và nhiều cơ sở khác cũng chọn ngữ từ “Biên
Hùng” để đặt danh hiệu cho đoàn nhạc và công ty kỹ nghệ thương mãi” [tr.5-6].
4.2.4. Phản ánh về mặt dân tộc học
a. Ngoài những dân tộc bản địa, còn có nhiều cư dân khác từng sinh sống trên
vùng Đồng Nai. Điều này được thể hiện qua những địa danh có nhiều nguồn gốc
khác nhau như gốc Pháp (như ấp Cấp Rang - TXLK), gốc Mã Lai (như ấp Cù Lao -
NT), gốc Khmer (núi Sốc Lu - TN)… Một số địa danh khác cho biết nguồn gốc của
đa số cư dân đến sinh sống ở vùng đất ấy như: khu Quảng Ngãi (LT), ấp Thanh Hóa
(TB), ấp Thái Bình (LT), giáo xứ Bùi Chu (TB), chợ Quảng Biên (TB) (nơi tập
trung những người Huế buôn bán các món ăn Huế ngay trong chợ).
b. Về mặt tâm lý, như đã trình bày trong chương 2 (mục 3.3.), ở Nam Bộ nói
chung và ở Đồng Nai nói riêng, người ta thường có thói quen dùng từ Hán Việt để
đặt địa danh nhằm thể hiện những ước mơ về một cuộc sống bình an, giàu có: ấp An
Bình (LT), ấp Long Hiệu (NT), xã Phú Túc (ĐQ), xã Xuân Mỹ (CM), thị trấn Vĩnh
An…; thể hiện không khí chính trị với ý nghĩa tốt đẹp: ấp Đoàn Kết (NT), ấp Chiến
Thắng (XL), ấp Độc Lập (TB), phường Thống Nhất (BH), phường Quyết Thắng
(BH)... Bên cạnh từ Hán Việt là cách đặt tên theo kiểu dùng số thứ tự hay tên người,
tên cây cỏ, cầm thú sống trên địa bàn. Ví dụ: suối Bà Đội (TXLK), cầu Chà Là
(NT), cầu Khỉ (TN), lòng tắt Cua (NT), đồi Hai (XL)…
Tâm lý kiêng kỵ, tránh nói đến những điều phạm thượng, thiêng liêng cũng
được biểu hiện qua cách đặt địa danh. Khi vùng Đồng Nai còn hoang sơ, con người
đến khai phá gặp nhiều thú dữ đe dọa cuộc sống, đặc biệt là cọp, sấu và voi. Một
mặt, con người tiêu diệt chúng, mặt khác lại “sợ” chúng vì vậy họ xem những con
vật ấy là những con vật linh thiêng, có tính thần thánh, ma quái, ảnh hưởng đến
cuộc sống của họ. Người dân tin rằng dùng một cái tên khác để gọi tên những con
vật hung dữ như vậy sẽ giúp họ có cuộc sống tốt hơn, tránh những điều rủi ro. Một
số địa danh minh họa cho điều này đó là núi Bồ (ĐQ), núi Tượng (TP), trong đó các
từ Bồ, Tượng dùng để chỉ con voi. Trong rạch Ông Kèo (NT), từ Kèo nghĩa là
chuyên kèo (lôi) người đi ghe xuống té xuống sông để ăn thịt. Người ta dùng từ Ông
đi trước để thể hiện thái độ kiêng dè, đề cao đối với một con vật to lớn, hung dữ như
cọp và cá sấu ở chốn sơn lâm và vùng sông nước [116, tr.88]. Sự kiêng kỵ ở đây
còn thể hiện ở kiêng húy hoàng tộc và các gia tộc quan lại để tránh phạm húy đến
các bậc bề trên. Chẳng hạn nói phúc (Nguyễn Phúc Ánh) thành phước, kính
(Nguyễn Hữu Kính) thành cảnh trong các địa danh: ấp Phước Hòa (LT), xã Phước
Khánh (NT), đường Nguyễn Hữu Cảnh (BH)…
4.2.5. Phản ánh tín ngưỡng, tôn giáo
Về tín ngưỡng, bốn con vật Long, Lân, Quy, Phụng vốn là những con vật linh
thiêng trong thần thoại Trung Quốc với những đặc tính xuất chúng. Long (rồng)
thường được mượn danh dùng cho các bậc đế vương, tượng trưng cho uy quyền.
Lân là con vật đại diện cho sự thanh bình. Quy (rùa) đại diện cho tướng quý, sống
thọ. Phụng (phượng hoàng) thì đại diện cho hạnh phúc lứa đôi. Việt Nam cũng chịu
ảnh hưởng từ quan niệm này của nước bạn.
Đất Đồng Nai được ví như vùng đất địa tứ linh bao gồm có bốn con vật như
trên. Nhiều địa danh ở Đồng Nai phản ánh khá rõ nét ý nghĩa tín ngưỡng này như
núi Bửu Long (BH), hồ Long Ẩn (BH); địa danh Lân Thành nay thuộc phường Tân
Tiến - BH, do thế đất nên được đặt ra, do Lân mà thành; núi Quy (ĐQ), cù lao Rùa
(nay thuộc Bình Dương); cầu Phụng Kiều…
Về ý nghĩa tôn giáo, như đã nói ở chương đầu, Đồng Nai hội tụ đủ sáu tôn
giáo lớn nhất trong nước. Đặc biệt Thiên chúa giáo có tín đồ đông nhất ở Đồng Nai,
có thể thấy điều này qua 106 giáo xứ đang tồn tại trên địa bàn. Nhiều di dân là giáo
dân của các làng ở miền Bắc, khi đến vùng Đồng Nai, họ vẫn muốn giữ lại tên quê
hương làng xã thông qua các địa danh mới như giáo xứ Gia Cốc (BH), giáo xứ Kẻ
Sặt (BH), giáo xứ Sài Quất (TB), giáo xứ Ngô Xá (TB)... Địa danh ở Đồng Nai còn
phản ánh sinh hoạt tôn giáo của người dân thể hiện qua những thành tố như Chùa,
Đình, Miễu, Nhà Thờ, Am: trạm bơm Miếu Vạn (VC), chợ Hội Am (BH), ấp Miễu
(LT), ấp Bến Đình (NT), núi Chùa (VC), rạch Nhà Thờ (BH)…
4.2.6. Phản ánh văn học
Thông qua địa danh, ta còn biết được những truyền thuyết, sự tích, những
truyện cổ mang đậm màu sắc địa phương. Đó là truyện cổ kể về sông Ông Kèo
(NT) nơi có một con sấu to lớn, thường quật đuôi làm lật ghe xuống để bắt người ăn
thịt, oan hồn những người bị sấu ăn thịt bị khống chế giúp cho nó trở nên khôn lanh
đặc biệt trong việc hại người. Đó là truyền thuyết thác Vọng Phu (VC) kể về chuyện
tình cảm động của người vợ thương chồng than khóc ly biệt, tóc chảy thành suối,
tiếng khóc vang vọng thành tiếng thác về sau hóa đá. Truyền thuyết này là truyện
dân gian của người Việt, nhưng mang sắc thái hoang sơ của núi rừng Mạ - Chơn.
Đây chính là kết quả giao lưu văn hóa của người Việt ở Đồng Nai với cư dân bản
xứ trong quá trình cộng cư ở buổi đầu khai hoang đến khi thôn làng được thiết
lập… Hay sự tích về nhân vật Thủ Huồng mà ở Biên Hòa vẫn còn hai địa danh lưu
niệm về ông là rạch Thủ Huồng (BH) và cầu Thủ Huồng (BH). Một số sự tích,
truyền thuyết khác thể hiện qua địa danh là suối Thề (CM), suối Đá Bàn (CM), rừng
Nam Cát Tiên (ĐQ), thác Trị An (VC), núi Thị Vãi (LT), hóc Ông Che (BH)…
4.2.7. Phản ánh ngôn ngữ
a. Từ ngữ địa phương dùng hạn chế ở một hoặc vài địa phương tạo nên sắc
thái riêng cho từng vùng được thể hiện rõ qua nhiều nhóm địa danh khác nhau ở
Đồng Nai. Chẳng hạn để chỉ các địa hình thiên nhiên, địa danh ở Đồng Nai có các
từ bưng (suối Bưng Môn - LT, suối Bưng Cầu - XL), giồng (ấp Giồng Ông Đông -
NT), hàn (thác Đá Hàn - TN), cù lao (ấp Cù Lao - NT, khu du lịch Cù Lao Phố -
BH), láng (ấp Láng Lớn - CM, chợ Láng Me - CM), vàm (cù lao Vàm Thượng -
NT, cầu Vàm Mương - NT)… Về tên cây cỏ, có những loại cây đặc trưng sau: bù
cạp (dốc Bù Cạp - LT), chà là (cầu Chà Là - NT), gáo (xã Cây Gáo - TB), săng máu
(suối Săng Máu - BH), muồng (suối Muồng - VC), choại (rạch Choại - NT), chiêu
liêu (gò Chiêu Liêu - NT), su (suối Su - XL), củ chụp (đồi Củ Chụp - VC), chôm
chôm (cầu Chôm Chôm - TB), cao su (nông trường Cao Su Cẩm Đường - CM)…
Tên bộ phận của con vật có Cựa gà: nhánh sông trông như cựa con gà (sông Cựa Gà
Lầy - NT). Sản vật thì có bột bong. Bong là một từ cổ. Theo Đại Nam quốc âm tự
vị, bong tức là một loại bột. Bột bong: Vật tán mạt: nếp gạo tan ra như bụi [89,
tr.71-75]. Rạch Lái Bong (BH) là nơi mà các lái buôn đến mua và bán bột ngày xưa,
nổi tiếng về bột bánh tráng.
b. Bên cạnh lớp từ ngữ địa phương trên còn có những từ ngữ lịch sử được
phản ánh qua địa danh ở Đồng Nai. Những từ ngữ lịch sử là những từ ngữ đã trở
nên lỗi thời vì đối tượng biểu thị của chúng đã mất và chúng không có từ đồng
nghĩa trong tiếng Việt hiện đại như tên gọi các tước phẩm hàm thời xưa, tên gọi các
thứ thuế… [50, tr.62-63].
Ở Đồng Nai, lớp từ ngữ này tập trung ở nhóm địa danh có các từ chỉ các chức
vụ xuất hiện vào thời phong kiến, nay không còn nữa. Ví dụ:
Quận: từ gọi tắt của quận trưởng (người cai quản một đơn vị hành chính tương
đương một huyện): cống Ông Quận (TN).
Xã: Từ gọi tắt của xã trưởng - viên chức đứng đầu đơn vị hình sự một xã ở
Nam Kì thời Pháp thuộc, chủ yếu trông coi việc thuế má, tạp dịch [44, tr.268]. Ví
dụ: ấp Xã Hoàng (LT), cầu Xã Hoàng (LT).
Cai: Từ gọi tắt của nhiều loại chức vụ: cai đội (quan coi năm sáu mươi tên lính
trong binh đội, trên “bếp” nhưng dưới đội), cai bộ (quan coi về việc dân, chủ bộ
đinh, điền), cai lại (chức coi về việc thu thuế), cai tổng (chức quản một tổng), cai
thôn (chức việc làm), cai trường (chức cai quản một trường học), cai xã (xã
trưởng)… Thời Pháp thuộc, cấp bực hạ sĩ (caporal) trong quân đội cũng gọi là “chú
cai” [68, tr.131]. Ví dụ: suối Bà Cai (VC), suối Cai Hảo (TB), suối Cai Nha (VC)…
Đội: Từ gọi tắt của cai đội hay đội trưởng (quan coi năm sáu mươi lính) hoặc
chức vụ trong thời thực dân Pháp, tương đương với tiểu đội trưởng. Ví dụ: cống Đội
Sinh (TN).
Đồn: Từ gọi tắt của đồn trưởng chỉ huy một đồn quân đội (dưới thời Pháp
thuộc hoặc trong vùng tạm chiếm) khoảng 100 đến 120 binh lính (đồn nhỏ), hoặc
200 lính (đồn lớn) [44, tr.85]. Ví dụ: ngã ba Ông Đồn (XL).
Nhóm địa danh có các từ chỉ công trình xây dựng như: dinh, thành, văn
miếu…
Thành: Công trình xây đắp kiên cố bao quanh một khu vực dân cư trọng yếu
(thủ đô, thành phố lớn…) để phòng thủ [85, tr.914].
Văn miếu (Văn thánh): văn thánh miếu, là nơi thờ Khổng Tử. Đây là nơi tôn
vinh những giá trị văn hóa - giáo dục - chính trị ở vùng đất mới, cũng là biểu tượng
để tập đoàn phong kiến triều Nguyễn đề cao Nho gia. Ví dụ: đường Văn Miếu Trấn
Biên (BH) nay là đường Võ Trường Toản.
Dinh: nơi quân đội trú đóng thời phong kiến hoặc nơi quan lại ở: chợ Dinh
(nay là chợ Biên Hòa).
c. Địa danh ở Đồng Nai còn cho chúng ta biết được sự tiếp xúc ngôn ngữ của
các tộc người, các dân tộc từng có mặt tại đây như: Chăm, Khmer, S’tiêng, Kơho,
Ba Na, Mnông… Người Việt đã phiên âm các địa danh này theo cách nghe hoặc
cách ghi của mình. Chẳng hạn để phiên từ “nước” trong tiếng Kơho, người ta đã ghi
thành ba dạng: Đa, Đà, Đạ hay trong tiếng Ba Na, Mnông, Stiêng người ta ghi
thành: Dak, Dăk, Đăk, Đắc. Một số địa danh Khmer có: xã Tà Lài (TP) (tiếng
Khmer Tà có nghĩa là ông), núi Sốc Lu (TN)…
Địa danh Ba Na, Mnông, S’tiêng có các sông: Đak Lua (ĐQ), Da Chanh (XL),
Đa Kath (ĐQ), Da Bitt (TP), Da Liang (TP), Da Dam (TP), Da Hop (ĐQ), Da Kiot
(ĐQ), Dar Kaya (ĐQ)…; hay suối Công Lo (TXLK), Dar Yoa (ĐQ), suối Bà Rá
(VC)… Địa danh Chăm có: núi Chứa Chan (XL).
4.2.8. Phản ánh văn hóa
Mặt văn hóa được phản ánh trong địa danh ở Đồng Nai thể hiện qua nét đặc
trưng văn hóa dân tộc trong định danh. Khi định danh các đối tượng địa lý, mỗi dân
tộc lại có những cách tiếp nhận, lựa chọn đặc trưng, cách sáng tạo riêng, phù hợp
với văn hóa của từng vùng miền. Vì vậy, cùng một đối tượng nhưng mỗi dân tộc lại
có một cách gọi tên khác nhau.
Đối với địa danh ở Đồng Nai, nét đặc trưng văn hóa này được thể hiện qua
nhiều mặt khác nhau. Nhưng rõ nét nhất và tiêu biểu nhất là hai mặt sau:
a. Địa danh ở Đồng Nai sử dụng bốn phương thức định danh đó là: phương
thức tự tạo, phương thức chuyển hóa, phương thức ghép và phương thức vay mượn.
Trong bốn phương thức này thì phương thức tự tạo đóng vai trò chủ đạo. Bởi vì con
người luôn tri giác trước tiên những yếu tố như tính chất, hình dáng, màu sắc, kích
thước, vị trí… của một vật nào đó. Đặc biệt, trong địa danh ở Đồng Nai, gọi theo
tên thực vật hoặc tên cầm thú hoặc tên người trong vùng là cách định danh phổ biến
nhất. Ví dụ: khu Cam Xe (LT), suối Muồng (VC), suối Chồn (TXLK), ấp Bàu Chim
(TP), rạch Thầy Kiềng (BH), suối Đại Úy Hùng (XL)…
Có thể thấy, 32 thành tố chung Cây xuất hiện trong địa danh ở Đồng Nai phản
ánh nét văn hóa tri nhận của cư dân bản địa: lấy thiên nhiên làm tiêu điểm. Ví dụ:
rạch Cây Khô, suối Cây Đa, suối Cây Sung, ấp Cây Cầy, ấp Cây Da, ấp Cây Điệp,
ấp Cây Điều, ấp Cây Xoài… Các thành tố chung Ông, Bà cũng xuất hiện trong
nhiều địa danh, gồm 56 yếu tố Ông và 32 yếu tố Bà. Ví dụ: đảo Bà Hào, núi Bà
Hiền, gò Ông Sảnh, giồng Ông Đông, ấp Bà Trường, cầu Ông Giang… Đây là một
nét đặc trưng trong cấu tạo địa danh ở Đồng Nai nói riêng và Nam Bộ nói chung.
Khi đến vùng đất mới, người dân Nam Bộ thường dựa vào cách nhìn trực giác để
đặt địa danh, và vì vậy, họ lấy ngay tên của những người đầu tiên đến khai phá hoặc
có công với nhân dân trong vùng. Trong khi đó, vùng Bắc Bộ có rất ít địa danh
được cấu tạo theo kiểu này. “Nếu có, thường là tên các chủ trang trại, từ quá trình
chiếm hữu ruộng đất xưa kia như các trang trại thời Lý - Trần” [101, tr.227].
b. Lớp từ ngữ vay mượn phản ánh nét văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư
duy ở người Việt trong quá trình giao lưu tiếp xúc với các ngôn ngữ khác. Lớp từ
ngữ này khi đi vào tiếng Việt được thay đổi và chịu sự chi phối của hệ thống tiếng
Việt. Chính vì vậy mà những yếu tố vay mượn có thể hoạt động trong hệ thống
tiếng Việt giống như các yếu tố thuần Việt và đôi khi người bản ngữ không còn
nhận ra từ nào là thuần Việt hay không thuần Việt. Mặt khác, các yếu tố này cũng
vẫn duy trì ở một mức độ nhất định tính chất ngoại lai của chúng.
Khi vay mượn từ ngữ và đưa vào sử dụng trong ngôn ngữ của mình, người
Việt thường tiến hành theo những cách sau: (1) cải tổ cấu trúc ngữ âm của từ cho
phù hợp với ngữ âm tiếng Việt và đồng thời có thể rút ngắn từ lại; (2) cải tổ nghĩa
của từ, tức là vay mượn từ nhưng lại cấp cho nó một nghĩa khác với nghĩa vốn có
của nó; (3) vay mượn từ ngữ, nhưng không sử dụng tất cả các nghĩa của chúng, mà
chỉ dùng một số trong các nghĩa đó [22, tr.210].
Nhiều địa danh ở Đồng Nai được vay mượn từ tiếng Hán, một số ít là tiếng Ấn
Âu và cũng được xử lý cho phù hợp với bức tranh ngôn ngữ về thế giới của tiếng
Việt. Chẳng hạn, trong địa danh nông trường Cà Phê Châu Thành (CM) thì Cà Phê
vốn được Việt hóa bằng con đường phiên âm từ café [kafe] theo mẫu một dãy từ mà
tưởng rằng chúng thuộc cùng một loại cấu tạo như nhau: cà chua, cà pháo, cà dái
dê, cà gai, cà bát… Cấu trúc của từ gốc này là cấu trúc một hình vị cấu tạo từ gồm
hai âm tiết và các âm tiết đó không thể tách khỏi nhau để hoạt động độc lập. Nhưng
đối với tiếng Việt, điều này hoàn toàn có thể. Trước hết, từ gốc này được phân chia
thành những âm tiết tách rời và thêm thanh điệu cho phù hợp: cà và phê. Đó là sự
Việt hóa trên bình diện ngữ âm và chữ viết. Còn trên bình diện ngữ pháp, người
Việt cũng dễ dàng tách các âm tiết của café theo vài cách khác nhau như: cà phê cà
pháo, cà cà phê phê gì, cà phê cà phiếc… Rõ ràng, “cà” và “phê” là hai âm tiết vô
nghĩa nhưng trong trường hợp trên thì chúng lại có một ý nghĩa ngữ dụng nào đó, ví
dụ như thái độ tiêu cực về việc uống cà phê… Vì lý do đó, các từ ngoại lai du nhập
từ tiếng Ấn Âu (chủ yếu là tiếng Pháp) có thể hoạt động không khác gì một từ thuần
Việt. Như vậy, từ gốc Pháp muốn có đời sống thực trong tiếng Việt thì trước hết
buộc phải chịu sự chi phối bởi đặc điểm: nó đã được cấu trúc lại âm tiết và viết rời
và được thanh điệu hóa; đồng thời mỗi âm tiết của từ gốc Pháp này cũng có đời
sống riêng như mọi âm tiết trong tiếng Việt. Điều này có nghĩa là nó chịu sự chi
phối của hệ thống ngữ âm - ngữ pháp tiếng Việt để phù hợp với quy luật phát triển
ngôn ngữ và văn hóa người Việt.
Một ví dụ khác, trong các địa danh ở Đồng Nai hiện nay, đặc biệt là địa danh
hành chính như ấp Tân Bản (BH), ấp Tân Bình (TB), xã Tân An (VC)… ta thấy yếu
tố “tân” chỉ được dùng với một nghĩa là “mới” trong khi từ Hán Việt này vốn có
hơn 20 nghĩa khác nhau. Tương tự như vậy, nhiều địa danh mang yếu tố bình (yên
ổn), an (bình an), phú (giàu có)… vốn có nhiều nghĩa nhưng trong cấu tạo địa danh,
nó chỉ giữ lại một nghĩa nào đó.
Trường hợp cải tổ nghĩa của từ hiếm thấy trong địa danh ở Đồng Nai. Chẳng
hạn như yếu tố Hán Việt “Vinh” vốn có nghĩa là “có vinh dự” nhưng do ít gần gũi,
quen thuộc với người dân Việt nên nó đã được chuyển thành “Vĩnh” và lúc này nó
mang nghĩa là “mãi mãi”: tổng Phước Vinh → Phước Vĩnh.
4.2.9. Phản ánh giao thông
Tên bến bãi, tên cảng, tên cầu - đường… chiếm số lượng lớn trong số những
địa danh chỉ công trình xây dựng của tỉnh Đồng Nai. Những địa danh này cho thấy
hoạt động giao thông ở Đồng Nai khá phát triển, đánh dấu tiến trình lịch sử văn hóa
của tỉnh nhà.
Trước hết là tên những bến bãi phản ánh hệ thống giao thông đường thủy rất
phát triển ở vùng Đồng Nai xưa như Bến Tắm Ngựa, Bến Gỗ (chợ) và mé bờ sông
phía tây cù lao Phố là nơi ghe thuyền đậu san sát nhau, ra vào tấp nập với nhiều
hàng hóa được nhập cảng, xuất cảng. Địa danh Bến Cá (làng cổ) đóng vai trò quan
trọng trong cả hai mặt giao thông đường thủy và đường bộ, từ Bắc vào Nam. Còn
nhiều tên bến khác như rạch Bến Lớn (NT), ấp Bến Sắn (NT), ấp Bến Cò (NT)…
Ngày nay, Đồng Nai có nhiều bến đò, bến phà phục vụ việc đi lại cho người dân
như đường Bến Đò Cogido (BH), cầu Bến Đò Láng Lùng (LT), chợ Bến Phà 107
(ĐQ), chợ Bến Phà Thanh Sơn (ĐQ)…
Không chỉ có bến, Đồng Nai còn có nhiều cầu, đường như đường Cầu Trắng
(ĐQ), đường Cầu Ván (ĐQ), ngã tư Cầu Hang (BH), đập Cầu Cường (TN), đập Cầu
Ván (ĐQ)… đường bộ có: ngã ba Đường Đồng Khởi (VC), ngã ba Đường WB
(ĐQ), ngã tư Đường Ông Kèo (NT)… đường sắt có: chợ Ga Biên Hòa (BH), đường
Ga Hố Nai (BH)… đường hàng không có: đập Sân Bay (TXLK), công viên Tượng
Đài Chiến Thắng Sân Bay Biên Hòa (BH)…
Một vài nét chấm phá về giá trị phản ánh hiện thực của địa danh ở Đồng Nai
trên đây cho thấy vai trò quan trọng của địa danh đối với việc tìm hiểu một địa
phương, một đất nước. Và rõ ràng, địa danh chính là những tấm bia lịch sử - văn
hóa có ý nghĩa lớn lao, tồn tại từ đời này qua đời khác.
4.3. Tiểu kết
Qua phần trình bày về giá trị phản ánh hiện thực và nguồn gốc ý nghĩa của địa
danh ở Đồng Nai, chúng tôi có một vài nhận xét sau:
Phần lớn địa danh ở Đồng Nai ra đời đều có lý do, trừ một số ít trường hợp
nhầm lẫn địa danh, dẫn đến việc không phản ánh đúng hiện thực. Chẳng hạn cầu
Vạt (BH), xưa bắc qua rạch nhỏ (chảy ngang đường 15 cũ) thân làm bằng mấy cây
sao nên cầu có tên là cầu Mương Sao; sau năm 1954, do sự nhầm lẫn, chính quyền
đổi tên là cầu Vạt. Những địa danh thuần Việt (không kể địa danh bằng số hoặc chữ
cái), Hán Việt đa số rõ nghĩa, còn những địa danh có gốc dân tộc thiểu số đã được
Việt hóa khó tìm được ý nghĩa của nó bởi truy tìm từ nguyên là công việc “dài hơi”.
Địa danh không chỉ đơn thuần là cái tên được đặt ra để biểu thị một vùng đất
mà nó còn mang ý nghĩa khái quát hơn, thiêng liêng hơn. Mỗi địa danh thường phản
ánh một đặc điểm nào đó về địa bàn. Và địa danh ở Đồng Nai cũng phản ánh được
những giá trị hiện thực của nó bao gồm các mặt lịch sử, địa lý, kinh tế, dân tộc học,
văn học, văn hóa, ngôn ngữ, giao thông.
Từ ngữ cổ, từ ngữ lịch sử vẫn còn được bảo lưu qua địa danh ở Đồng Nai, tuy
chiếm số lượng không nhiều nhưng thể hiện tính lịch sử, tính văn hóa cao. Những từ
ngữ Hán Việt chủ yếu phân bố trong địa danh hành chính phản ánh tâm tư nguyện
vọng, nói như Nguyễn Kiên Trường là “mang đậm dấu ấn hồi tưởng, ước muốn, gắn
với tư duy trừu tượng nhiều hơn” [122, tr.129]. Trong khi đó, lớp từ ngữ thuần Việt
(thường tập trung ở loại địa danh chỉ địa hình) lại mang tính trực quan, cụ thể, giản
dị, gần gũi. Việc đưa tên các loài cây, tên cầm thú, tên người… vào trong địa danh
cho thấy điều này.
Nhìn chung, địa danh ở Đồng Nai là sự kết tinh của ngôn ngữ và văn hóa, của
cái trừu tượng và cái cụ thể. Đa dạng, phức tạp bởi nhiều tên gọi có nguồn gốc khác
nhau, nhưng cũng chính vì thế đã làm cho địa danh ở Đồng Nai sinh động, phong
phú. Giá trị phản ánh hiện thực của địa danh không chỉ có ý nghĩa đối với người
Đồng Nai mà còn có ý nghĩa đối với những ai quan tâm đến các mặt văn hóa, lịch
sử, ngôn ngữ của địa danh nói chung.
KẾT LUẬN
3019. Đó là con số địa danh có mặt ở Đồng Nai hiện nay mà chúng tôi đã tìm
được trong quá trình sưu tầm, nghiên cứu. Với con số này, chúng tôi đã phác thảo
một bức tranh khái quát về vùng Đồng Nai xưa và nay thông qua các mặt ngôn ngữ,
văn hóa - xã hội.
Địa danh Đồng Nai vận dụng bốn phương thức cơ bản để định danh: phương
thức tự tạo, phương thức chuyển hóa, phương thức ghép và phương thức vay mượn.
Nếu ở Đắc Lắc, phương thức chủ yếu để định danh địa danh là phương thức chuyển
hóa thì ở Đồng Nai là phương thức tự tạo. Điều này giống với địa danh của thành
phố Hồ Chí Minh, hay địa danh của tỉnh Vĩnh Long. Bởi Đồng Nai hay hai tỉnh trên
đều thuộc vùng Nam Bộ, khác với vùng cao nguyên Đắc Lắc. Tuy nhiên, ở đây
cũng có sự khác biệt. Chẳng hạn, địa danh hành chính ở Vĩnh Long rất dễ chuyển
hóa thành ba loại địa danh kia trong khi ở Đồng Nai, đó là địa danh chỉ địa hình.
Như vậy, mỗi vùng, bên cạnh những đặc điểm chung, còn có những nét riêng biệt
của nó. Đó là điều khiến cho công việc nghiên cứu địa danh không nhàm chán mà
ngược lại, rất lý thú và sinh động.
Cấu tạo của địa danh ở Đồng Nai được chia thành hai phần: cấu tạo đơn và
cấu tạo phức. Ba loại quan hệ trong cấu tạo phức gồm đẳng lập, chính phụ và chủ
vị, trong đó phần lớn các thành tố của địa danh ở Đồng Nai theo kiểu quan hệ chính
phụ. Và số lượng từ Hán Việt chiếm đại đa số trong toàn bộ địa danh Đồng Nai.
Còn những địa danh là từ thuần Việt xuất hiện nhiều sau năm 1975 lại chủ yếu là số
thứ tự hay chữ cái latinh. Điều này vừa cho thấy quá trình hội nhập, giao lưu tiếp
xúc của ta với Tàu, của ta với Tây - tức người Pháp; vừa chứng tỏ đất Đồng Nai có
sức hút lớn đối với cư dân di cư từ nhiều vùng khiến cho số lượng đơn vị hành
chính và công trình xây dựng ngày càng tăng trong khi đó tiêu chí để đặt tên các địa
danh do chính phủ đề ra thì có giới hạn, có quy định rõ ràng.
Cũng như nhiều nơi khác, thông qua phương thức định danh và cấu tạo từ, địa
danh ở Đồng Nai phần nào phản ánh đặc trưng và sự phát triển của tiếng Việt. Điều
này thể hiện qua số lượng từ ngữ phong phú, đa dạng bởi quá trình sử dụng những
từ ngữ sẵn có trong tiếng mẹ đẻ, vay mượn có chọn lọc các ngôn ngữ bản địa và
nước ngoài và sáng tạo bằng cách kết hợp nhiều yếu tố với nhau.
Xét về mặt chuyển biến thì địa danh ở Đồng Nai cũng có nhiều thay đổi phức
tạp trong quá trình phát triển lịch sử của nó mà nguyên nhân chính thuộc về những
yếu tố bên ngoài ngôn ngữ. Nhiều địa danh cũng bị Pháp hóa, Hán hóa theo lối
phiên âm, dịch nghĩa, vừa phiên âm vừa dịch nghĩa… Tất cả những tên gọi đã được
Việt hóa này là nguồn tư liệu có giá trị đối với việc nghiên cứu quá trình tiếp xúc
giữa tiếng nước ngoài, tiếng dân tộc thiểu số với tiếng Việt trong lịch sử; đồng thời
cũng cho chúng ta thấy lối tư duy ngôn ngữ, văn hóa của cộng đồng người tiếp nhận
địa danh. Địa danh hành chính và địa danh chỉ công trình xây dựng, tiêu biểu là tên
đường phố thay đổi liên tục theo từng giai đoạn. Tên đường gây nhiều tranh cãi
nhất. Những đường được đặt tên cũng khiến nhiều người dân băn khoăn, huống chi
là đối với đường không có tên gọi gây ảnh hưởng đáng kể đến cuộc sống, sinh hoạt
của người dân, nhất là đối với những gia đình buôn bán, làm ăn lớn.
Ít nhiều, địa danh ở Đồng Nai đã phản ánh được một số mặt lịch sử, kinh tế,
chính trị, ngôn ngữ, văn hóa, địa lý, dân tộc, giáo dục… cho chúng ta cái nhìn toàn
cục về vùng đất mới hơn 300 tuổi. Ngoài hầu hết những địa danh ra đời có lý do thì
những địa danh chưa rõ nguồn gốc hoặc đang còn tranh cãi đều xuất phát từ ngôn
ngữ bản địa của vùng, ngôn ngữ vay mượn từ tiếng dân tộc thiểu số. Những bí ẩn về
xuất xứ của một tên gọi là những bí ẩn thú vị, hấp dẫn đang cần chúng ta đào sâu
khám phá.
Không chỉ thể hiện ở mặt ngôn ngữ, địa danh tỉnh Đồng Nai còn biểu hiện tính
văn hóa đa dạng. Văn hóa Nam Bộ mang sắc thái của một vùng văn hóa đa dân tộc.
Đồng Nai cũng vậy, cũng tiếp nhận một lực lượng dân di cư khổng lồ mang theo
trong mình những phong tục tập quán, tín ngưỡng từ nhiều vùng miền khác nhau, có
cả trong nước lẫn ngoài nước. Nhưng yếu tố văn hóa Việt vẫn giữ vai trò chủ đạo.
Dấu ấn đó thể hiện rõ qua mặt ngôn ngữ của địa danh. Những từ Hán Việt, những
địa danh gốc Pháp, hay có gốc từ tiếng dân tộc bản địa, dân tộc thiểu số… đều được
người dân tiếp nhận một cách sáng tạo và đều được biến hóa theo kiểu của người
Việt. Từ ngữ cấu tạo nên địa danh một mặt thể hiện nét văn hóa vật chất, mặt khác
phản ánh nét văn hóa tinh thần, đó là những giá trị hiện thực quý giá mà địa danh ở
Đồng Nai đã có được.
Qua đặc điểm phản ánh hiện thực và nguồn gốc ý nghĩa của một số địa danh,
ta thấy tính dân gian, tính dân tộc được thể hiện khá rõ nét trong hàng loạt tên gọi ở
Đồng Nai. Trừ tên đơn vị hành chính và tên đường phố do chính quyền quyết định
thì những địa danh chỉ địa hình thiên nhiên, các công trình xây dựng, các vùng lãnh
thổ đều do nhân dân đặt ra. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà tên cây cỏ, tên cầm
thú, hay tên của các sự vật có quan hệ gần gũi với đối tượng như tên người, tên
công trình xây dựng gần đối tượng… xuất hiện nhiều trong địa danh ở Đồng Nai,
bởi đó là những gì gắn bó nhất và trực quan cụ thể nhất mà người dân tiếp nhận
được. Những cái tên ban đầu gắn với người dân khi đến khai hoang lập ấp vẫn còn
lưu giữ trong địa danh ở Đồng Nai. Đó là kết quả của sự bảo lưu, tồn giữ, hòa nhập
nhưng không hòa tan.
Còn nhiều thiếu sót và nhiều vấn đề ngôn ngữ học chưa được giải quyết thỏa
đáng nhưng chúng tôi hy vọng những gì đã trình bày ở trên sẽ góp một phần nhỏ
nhoi vào mặt bằng chung của ngành địa danh học nước ta. Qua đây, chúng tôi cũng
xin có vài ý kiến tham khảo về địa danh ở Đồng Nai như sau:
Trả lại tên đúng đối với những địa danh nổi tiếng ở Đồng Nai hiện nay. Chẳng
hạn cầu Gềnh thay bằng cầu Gành, sông Thị Vải thay bằng sông Thị Vãi… Nên
phục hồi những cái tên đã đi vào lịch sử, những cái tên mà nay chỉ những người
cùng thời mới biết về nó như Gò Me, Phước Lư, Hàng Dương, Lò Gốm, đất Thánh
Tây, Lò Chao, Cái Vạn, Hang Nai… Về tên đường phố và các công trình xây dựng,
thiết nghĩ, nếu chỉ theo tiêu chí định danh như dựa vào sự kiện lịch sử, tên các danh
nhân văn hóa, các di tích lịch sử văn hóa có giá trị tiêu biểu của đất nước và địa
phương… thì đến một lúc nào đó sẽ gây ra tình trạng cạn kiệt quỹ tên đường và
không tạo nên nét đặc trưng riêng cho từng con đường, từng công trình, từng vùng.
Bởi tên các danh nhân văn hóa thì nơi nào cũng có thể đặt được. Nên chăng, có thể
trồng nhiều loại cây xanh khác nhau và đặt theo tên cây, tên hoa gắn liền với một số
con đường. Còn địa danh hành chính thường sử dụng những con số vô hồn để đặt
tên, như vậy sẽ không tạo nên tính đặc trưng của địa danh, do đó nên đặt bằng tên
chữ. Việc sử dụng địa danh để làm thương hiệu thực ra không phải là công việc đơn
giản, mà đòi hỏi doanh nghiệp phải trân trọng, am hiểu cái tên của sản phẩm mình
làm ra. Nó không chỉ ảnh hưởng đến nội bộ doanh nghiệp ấy mà còn ảnh hưởng đến
sức tăng trưởng kinh tế của cả tỉnh. Và cuối cùng, chúng tôi hoàn toàn đồng ý với
Phó giáo sư Tiến sĩ Lê Trung Hoa là tên đường phố và địa danh hành chính có vai
trò quan trọng hơn vì được sử dụng nhiều trong giao tế hàng ngày, vì vậy để đặt tên
cho các địa danh này, cần có những tiêu chuẩn nhất định. Đó là tính dân tộc, tính
chính trị - đạo đức, tính tiện dụng - quần chúng, tính thẩm mỹ và cả tính giáo dục.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Phước An xã anh hùng (1985), Nxb Đồng Nai.
2. Đào Duy Anh (1932), Hán Việt từ điển, Nxb Imprimerie Tiếng Dân.
3. Đào Duy Anh (2005), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Văn hóa Thông tin.
4. Nguyễn Tấn Anh (2008), Những đặc điểm chính của địa danh ở Vĩnh Long(sơ
bộ có so sánh với địa danh một số vùng khác), Luận văn thạc sĩ khoa học
ngữ văn, Đại học KHXH&NV TP. HCM, TP. Hồ Chí Minh.
5. Nguyễn Văn Âu (1993), Địa danh Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Âu (2000), Một số vấn đề về địa danh học Việt Nam, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
7. Ban chấp hành đảng bộ huyện Thống Nhất tỉnh Đồng Nai (1995), Lịch sử đấu
tranh cách mạng của đảng bộ và nhân dân huyện Thống Nhất, Nxb
Đồng Nai.
8. Ban chỉ đạo lễ kỷ niệm 300 năm vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai (1998), Biên
Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển, Nxb Đồng Nai.
9. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai - Phòng nghiên cứu lịch sử Đảng (1984), Thị
trấn Xuân Lộc những chặng đường đấu tranh cách mạng vẻ vang, Nxb
Đồng Nai.
10. Phan Xuân Biên (1998), “Cư dân bản địa vùng Đồng Nai”, Kỷ yếu hội thảo 300
năm Biên Hòa - Đồng Nai, Sở Văn hóa Thông tin - Thể thao Đồng Nai,
tr.3-4.
11. Jean Boulbet (1999), Xứ người Mạ lãnh thổ của thần linh, dịch giả: Đỗ Văn
Anh, Nxb Đồng Nai.
12. Cao Văn Bổ, Tư liệu về tỉnh Biên Hòa, Tài liệu đánh máy lưu trữ ở Nhà bảo
tàng Đồng Nai.
13. Nguyễn Tài Cẩn (1997), Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (sơ thảo), Nxb
Giáo dục.
14. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb Giáo dục.
15. Hoàng Thị Châu (1964), “Mối liên hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á qua
một vài tên sông”, Thông báo khoa học Văn học - Ngôn ngữ (1964-1965),
tập 2, Đại học Tổng Hợp HN, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
16. Hoàng Thị Châu (1967), “Về việc tìm sử liệu trong ngôn ngữ dân tộc”, Nghiên
cứu lịch sử, (số 100), tr.44-47.
17. Hoàng Thị Châu (1989), Tiếng Việt trên các miền đất nước (phương ngữ học),
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
18. Hoàng Thị Châu (2004), Phương ngữ học tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
19. Chi hội văn nghệ dân gian Đồng Nai (1997), Người Châu Ro ở Đồng Nai, Nxb
Đồng Nai.
20. An Chi (2002), “Chuyện Đông chuyện Tây”, Tạp chí Kiến thức ngày nay, (số
561), tr.47-48.
21. Nguyễn Phương Chi, Hoàng Tử Quân (1984), “Tên gọi và cách gọi tên”, Ngôn
ngữ, (số 2), tr.22-24.
22. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (2003), Cơ sở ngôn ngữ
học và tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
23. Thiều Chửu (2000), Hán - Việt tự điển, Nxb TP. Hồ Chí Minh.
24. Huỳnh Tịnh Paulus Của (1895 - 1896), Đại Nam quốc âm tự vị, tập 1, 2,
Sài Gòn.
25. Cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp (2001), Nxb Đồng Nai.
26. Lê Xuân Diệm, Phạm Quang Sơn, Bùi Chí Hùng (1995), Khảo cổ Đồng Nai,
Nxb Đồng Nai.
27. Trần Trí Dõi (2001), Ngôn ngữ và sự phát triển văn hóa xã hội, Nxb Văn hóa
Thông tin.
28. Hoàng Dũng - Bùi Mạnh Hùng (2007), Giáo trình dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb
Đại học Sư Phạm.
29. Vũ Quang Dũng (2004), Tên làng xã Việt Nam nơi bảo lưu những yếu tố ngôn
ngữ, lịch sử và văn hóa, Nxb Khoa học Xã hội, tr.523-532.
30. Trần Văn Dũng (2004), Những đặc điểm chính của địa danh ở Dak Lăk, Luận
án Tiến sĩ ngữ văn, Đại học Vinh, Vinh.
31. Lý Việt Dũng (1999), “Góp ý một vài sai sót trong quyển “Tự vị tiếng Việt
miền Nam” của cụ Vương Hồng Sển”, Thông tin khoa học công nghệ, (số
26), tr.129-136.
32. Nguyễn Dược - Trung Hải (1998), Sổ tay địa danh Việt Nam, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
33. Hồ Sơn Đài (chủ biên) (1997), Lịch sử chiến khu Đ, Nxb Đồng Nai.
34. Địa chí Đồng Nai (2000), tập 1, 2, 3, 4, 5, Nxb Đồng Nai.
35. Địa danh học phương Đông (1974), M, KH.
36. Nguyễn Đình Đầu (1994a), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn Biên Hòa (Đồng
Nai, Sông Bé, Bà Rịa, Vũng Tàu), Nxb TP. Hồ Chí Minh.
37. Nguyễn Đình Đầu (1994b), Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ lục tỉnh, Nxb
TP. Hồ Chí Minh.
38. Lê Quý Đôn (1977), Phủ biên tạp lục, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
39. Đồng Nai 30 năm chiến tranh giải phóng (1986), Nxb Đồng Nai.
40. Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tĩnh, Lê Quang Định (2003), Gia định tam gia,
Nxb Tổng hợp Đồng Nai.
41. Trịnh Hoài Đức (2005), Gia Định thành thông chí, Lý Việt Dũng dịch và chú
giải, Huỳnh Văn Tới hiệu đính, Nxb Tổng hợp Đồng Nai.
42. Lê Văn Đức (1970), Việt Nam tự điển, S, Khai Trí.
43. Nguyễn Thiện Giáp (1998), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
44. Phạm Văn Hảo (chủ biên) (2008), Sổ tay từ ngữ lịch sử (quan chế), Nxb Khoa
học Xã hội.
45. Diệp Đình Hoa - Phan Đình Dũng (1995), Làng Bến Gỗ xưa và nay, Nxb
Đồng Nai.
46. Diệp Đình Hoa - Phan Đình Dũng (1998), Làng Bến Cá xưa và nay, Nxb
Đồng Nai.
47. Lê Trung Hoa (2000a), “Chung quanh thuật ngữ địa danh”, Xưa và nay (72B),
tr.14-15.
48. Lê Trung Hoa (2000b), “Hiện tượng đồng hóa trong một số từ ngữ song tiết
tiếng Việt”, Ngôn ngữ, (số 4), tr.52-58.
49. Lê Trung Hoa (2002a), “Hiện tượng dị hóa trong một số từ ngữ song tiết tiếng
Việt”, Ngôn ngữ, (số 2), tr.17-19.
50. Lê Trung Hoa (2003a), Nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu địa danh (địa
danh thành phố Hồ Chí Minh), Nxb Khoa học Xã hội.
51. Lê Trung Hoa (chủ biên) (2003b), Từ điển địa danh thành phố Sài Gòn - Hồ
Chí Minh, Nxb Trẻ.
52. Lê Trung Hoa (2005), Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam Bộ và tiếng Việt văn
học, Nxb Khoa học Xã hội.
53. Lê Trung Hoa (2006), Địa danh học Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội.
54. Lê Trung Hoa (2007), Cửa sổ tri thức, tập 1, 2, Nxb Trẻ.
55. Thái Hoàng (1983), “Bàn về tên làng ở Việt Nam”, Dân tộc học, (số 1),
tr.54-60.
56. Hoàng Học (1979), Từ điển Khơme - Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
57. Hội cổ học Ấn Trung (1901), Địa phương chí tỉnh Biên Hòa (Monographie de
la province de Bien Hoa).
58. Đào Văn Hội (1961), Lịch trình hành chánh Nam phần, Sài Gòn.
59. Lê Hương (1969), Người Việt gốc Miên, Sài Gòn.
60. Karpenko, I.A (1964), Về địa danh học đồng đại trong “Các nguyên tắc của địa
danh học” (tiếng Nga), Moskva, KH, tr.45-57.
61. Vũ Ngọc Khánh (Chủ biên) (2008), Lịch sử địa danh Việt Nam, Nxb Thanh
Niên.
62. Lê Trọng Khánh (1992), “Những tín hiệu thu nhận từ bản lược đồ địa danh
ngôn ngữ Việt cổ”, Nghiên cứu Đông Nam Á, (số 2), tr.40-61.
63. Phan Khoang (2001), Việt sử xứ Đàng trong, Nxb Văn học.
64. Trần Trọng Kim (1951), Việt Nam sử lược, tập 1, 2, Nxb Tân Việt, Hà Nội.
65. Thái Văn Kiểm (1960), Đất Việt trời Nam, Nxb Nguồn Sống.
66. Trương Vĩnh Ký (1997), Tiểu giáo trình địa lý xứ Nam Kỳ (Petit cours de
géographie de la Basse - Cochinchine), Nguyễn Đình Đầu lược dịch và chú
thích, Nxb Trẻ.
67. Trần Thị Ngọc Lang (1995), Phương ngữ Nam Bộ - những khác biệt về từ vựng
ngữ nghĩa so với phương ngữ Bắc Bộ, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
68. Bình Nguyên Lộc (1970), “Việc mãi nô dưới vòm trời Đông Phố”, Tập san sử
địa, (số 19), Sài Gòn, tr.249-258.
69. Vương Lộc (2001), Từ điển từ cổ, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học.
70. Huỳnh Lứa (1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, Nxb TP. Hồ Chí Minh.
71. Lương Văn Lựu (1972), Biên Hòa sử lược toàn biên, tập 1, 2, tác giả xuất bản.
72. Từ Thu Mai (2004), Nghiên cứu địa danh Quảng Trị, Luận án tiến sĩ ngữ văn,
Đại học KHXH&NV, Hà Nội.
73. Muzaev, E.M (1964), “Những khuynh hướng cơ bản trong việc nghiên cứu địa
danh”, Các nguyên tắc địa danh học, M, KH, tr.22-23.
74. Muzaev, E.M (1982), Địa lý học trong các tên gọi, M, KH.
75. Nam Bộ xưa và nay (2007), Nxb TP. HCM - Tạp chí Xưa & Nay.
76. Sơn Nam (1984), Đất Gia Định xưa, Nxb TP. Hồ Chí Minh.
77. Ngôn ngữ và địa danh học (1977), Tomsk.
78. Nhà Bảo tàng Đồng Nai (1995), Người Đồng Nai, Nxb Đồng Nai.
79. Nhà Bảo tàng Đồng Nai (1998a), Cù lao phố lịch sử và văn hóa, Nxb
Đồng Nai.
80. Nhà Bảo tàng Đồng Nai (1998b), Khái quát về lịch sử môi trường địa lý, kinh
tế, xã hội và văn hóa các tộc người thiểu số Môn - Khmer vùng Đông Nam
bộ, tài liệu Nhà Bảo tàng Đồng Nai.
81. Đinh Văn Nhật (1984), “Phương pháp vận dụng địa danh học trong nghiên cứu
địa lý học, lịch sử cổ đại Việt Nam”, Nghiên cứu lịch sử, (số 5), tr.72-80.
82. Những chặng đường đấu tranh cách mạng của công nhân cao su Đồng Nai
(1985), Công ty Cao su Đồng Nai xuất bản.
83. Nikonov, V.A (1964), Các cách nghiên cứu địa danh, M, KH, tr.58-86.
84. Đái Xuân Ninh (1978), Hoạt động của từ tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã Hội,
Hà Nội.
85. Hoàng Phê (chủ biên) (2002), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung Tâm Từ
Điển Học, Hà Nội - Đà Nẵng.
86. Phong trào công nhân cao su Bình Sơn (1993), Ban Tuyên huấn Đảng ủy -
Công ty cao su Đồng Nai xuất bản.
87. Thạch Phương, Nguyễn Trọng Minh (2005), Địa chí Bà Rịa - Vũng Tàu, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
88. Pospelov, E.M, Sử dụng phương pháp bản đồ để nghiên cứu trong địa danh
học, tr.100-121.
89. Quốc sử quán triều Nguyễn (1971), Đại Nam nhất thống chí, tập 5, Phạm Trọng
Điềm phiên dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
90. Đỗ Quyên (2002), “Danh xưng Đồng Nai trong miền Đông Nam Bộ lịch sử và
phát triển”, Bán nguyệt san Xưa và Nay, Nxb TP. Hồ Chí Minh, tr.105-108.
91. Nguyễn Ngọc San (2003), Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử, Nxb ĐH Sư Phạm.
92. Vương Hồng Sển (1999), Tự vị tiếng Việt miền Nam, Nxb TP. Hồ Chí Minh.
93. Simina, G.JA (1980), Địa danh, Moskva, Nauka.
94. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai (2005), Atlas Đồng Nai, Nxb
Bản đồ.
95. Sở Thương mại và Du lịch, sở Văn hóa Thông tin Thể thao Đồng Nai (1999),
Văn hóa du lịch Đồng Nai.
96. Sở Văn hóa và Thông tin Lâm Đồng (1983), Từ điển Việt - Kơho.
97. Sở Văn hóa Thông tin - Thể thao Đồng Nai (1997), Thơ văn Huỳnh Văn Nghệ,
Nxb Đồng Nai.
98. Superanskaja, A.V (2002), Địa danh học là gì?, Đinh Lan Hương dịch, Nguyễn
Xuân Hòa hiệu đính, Hà Nội.
99. Trần Thanh Tâm (1976), “Thử bàn về địa danh Việt Nam”, Nghiên cứu
lịch sử, (số 3 + 4), tr.60-73; tr.63-68.
100. Nguyễn Thái (1998), Huyền thoại về tên đất, Nxb Văn hóa Dân tộc.
101. Nguyễn Phương Thảo (1997), Văn hóa dân gian Nam Bộ những phác thảo,
Nxb Giáo dục.
102. Phạm Tất Thắng (2004), “Sự khác biệt giữa tên riêng và tên chung”, Ngôn
ngữ & đời sống, (số 6).
103. Lý Toàn Thắng (1984), “Tên gọi và cách gọi tên”, Ngôn ngữ, (số 2),
tr.22-24.
104. Dương Thị The và Phạm Thị Thoa dịch và biên soạn (1981), Tên làng xã
Việt Nam đầu thế kỷ XIX (thuộc các tỉnh từ Nghệ An trở ra gồm 10.994
đơn vị), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
105. Bùi Khánh Thế (chủ biên) (1996), Từ điển Việt - Chăm, Nxb Khoa học
Xã hội.
106. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP. Hồ
Chí Minh.
107. Bùi Thiết (1987), Sự hình thành và diễn biến các tên làng người Việt cho đến
năm 1945, Nghiên cứu lịch sử 1-2, (số 232-233), tr.16-25.
108. Tạ Văn Thông (1993), “Tên riêng trong tiếng Kơho”, Ngôn ngữ, (số 1),
tr.23-27, tr.31.
109. Huỳnh Công Tín (2000), “Hiện tượng biến âm trong phương ngữ Nam Bộ”,
Ngôn ngữ & đời sống, (số 2).
110. Bùi Đức Tịnh (1999), Lược khảo nguồn gốc địa danh Nam Bộ, Nxb Văn
nghệ TP. Hồ Chí Minh.
111. Trần Quang Toại (chủ biên) (2004), Đồng Nai di tích lịch sử văn hóa, Nxb
Tổng hợp Đồng Nai.
112. Vương Toàn (1992), Từ gốc Pháp trong tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã Hội,
Hà Nội.
113. Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ
và tư duy ở người Việt (Trong sự so sánh với những dân tộc khác), Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.
114. Huỳnh Văn Tới (1999), Bản sắc dân tộc và văn hóa Đồng Nai, Nxb
Đồng Nai.
115. Huỳnh Văn Tới, Phan Đình Dũng, Phan Xuân Biên (2005), Văn hóa Đồng
Nai (sơ thảo), Nxb Đồng Nai.
116. Võ Nữ Hạnh Trang (2006), Văn hóa qua địa danh Việt ở tỉnh Đồng Nai,
Luận văn thạc sĩ, Đại học KHXH&NV TP. HCM, TP. Hồ Chí Minh.
117. Nguyễn Hữu Tranh (2001), Đà Lạt năm xưa, Nxb TP. Hồ Chí Minh.
118. Nguyễn Yên Tri (1996), Truyện kể về đất nước và con người Đồng Nai, Nxb
Đồng Nai.
119. Lê Ngọc Trụ (1993), Tầm nguyên tự điển Việt Nam, Nxb TP. Hồ Chí Minh.
120. Nguyễn Kiên Trường (1994), “Thử tìm hiểu bảo lưu tên Nôm làng xã dưới
góc độ ngôn ngữ và văn hóa”, Văn hóa dân gian, tháng 3, tr.50-59.
121. Nguyễn Kiên Trường (1995), “Bước đầu tìm hiểu mối quan hệ tên Nôm và
tên Hán Việt qua cứ liệu địa danh làng xã”, Văn hóa dân gian, (số 1),
tr.83-89.
122. Nguyễn Kiên Trường (1996), Những đặc điểm chính của địa danh Hải
Phòng (sơ bộ so sánh với địa danh một số vùng khác), Luận án phó tiến
sĩ khoa học ngữ văn, Đại học KHXH&NV, Hà Nội.
123. Hồ Xuân Tuyên (2008), “Một số phương thức định danh trong phương ngữ
Nam Bộ”, Ngôn Ngữ, (số 8), tr.63-67.
124. Tuyển tập Lý Văn Sâm (1991), Bùi Quang Huy sưu tầm, tuyển chọn và giới
thiệu, Nxb Đồng Nai.
125. Nguyễn Đình Tư (2008), Từ điển địa danh hành chính Nam Bộ, Nxb Chính
trị Quốc gia.
126. Từ điển Bách khoa Nông nghiệp (1991), Trung tâm biên soạn từ điển bách
khoa Việt Nam.
127. Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), tập 1, Trung tâm biên soạn từ điển bách
khoa Việt Nam, Hà Nội.
128. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2002), tập 2, Trung tâm biên soạn từ điển bách
khoa Việt Nam, Hà Nội.
129. Lê Trí Viễn, Nguyễn Sĩ Bá (1994), Thơ văn Đồng Nai (tác phẩm chọn lọc
dùng trong nhà trường), Nxb Đồng Nai.
130. Đinh Xuân Vịnh (1996), Sổ tay địa danh Việt Nam, Nxb Lao Động.
131. Khôi Vũ (2005), Nhớ Biên Hòa, Nxb Tổng hợp Đồng Nai.
Tiếng nước ngoài
132. Lorraine Haupers, Ralph Haupers (1991), Stieng - English dictionary,
Summer Institute linguistics Manila, Thailand group.
133. Meillet, A (1932), La méthoque comparative en linguistique historique,
Paris.
134. Moussay. G (1971), Dictionnaire căm Vietnamien-Franscais (tự điển Chăm -
Việt - Pháp), TT Văn hóa Chăm, Phan Rang.
135. Rostaing, Ch. (1965), Les noms de lieux, Paris, P.U.F.
136. Taberd J. L. (1838), Dictionarium Anamitico - Latinum, J.C. Marshrman -
Serampore (Bengale), Ấn Độ.
Web
137. Kim Anh (2008), Hang Thoát Y những điều bí ẩn ở Cát Tiên,
http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=110324&Chan
nelID=7
138. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt,
http://vi.wikipedia.org/wiki/Trang_Ch%C3%ADnh
139. Hoàng Thị Châu (2007), Địa danh nước ngoài trên bản đồ thế giới: Khái
niệm, thuật ngữ và phương thức nhập nội địa danh”,
http://ngonngu.net/index.php?fld=tiengviet&sub=hientai&pst=diadanh_n
hapnoi_htchau
140. dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?
141. Nguyễn Thị Hậu (2008), Đô thị ở Nam Bộ thời cận đại,
http://www.newvietart.com/index4.341.html
142. Mối quan hệ hai chiều giữa nhãn hiệu và nơi khởi nguồn của nó,
http://bwportal.com.vn/?cid=4,4&txtid=3087.
143. Hoàng Tất Thắng (2008), Địa danh học và việc nghiên cứu địa danh các tỉnh
Trung Trung Bộ,
http://tapchisonghuong.com.vn/index.php?main=newsdetail&pid=2&cati
d=14&ID=32&shname=Dia-danh-h-c-va-viec-nghien-cuu-dia-danh-cac-
tinh-Trung-Trung-Bo
PHỤ LỤC 1
THỐNG KÊ ĐỊA DANH TỈNH ĐỒNG NAI
1. ĐỊA DANH CHỈ ĐỊA HÌNH
BÀU (9 địa danh)
1 Chim ĐakLua-TP 6 Nước Sôi Gia Canh-ĐQ
2 Chim Bàu Hàm-TB 7 Ông Trụ Nhơn Trạch
3 Lát Thiện Tân-VC 8 Sân Bay Phú Thanh-TP
4 Ngứa Phú Thanh-TP 9 Sấu ĐakLua-TP
5 Ngựa Phú Hòa-ĐQ
CÙ LAO (11 địa danh)
6 Ông Còn Đại Phước-NT 1 Ấp 7 Phú Tân-ĐQ
7 Ông Liêu Tam Phước-LT 2 Ba Xang
8 Phố Hiệp Hòa-BH 3 Ba Xê 9 Tân Triều Tân Bình-VC 4 Cỏ Long Bình Tân- BH Long Bình Tân- BH Thống Nhất-BH 10 Tân Vạn Tân Vạn-BH
5 Giấy 11 Vàm Thượng Phước An-NT Phước Khánh- NT
DỐC (15 địa danh)
9 Mặt Cật Tam Phước-LT 1 47 Phước Tân-LT
2 Ba Bành Tân Bình-VC 10 Xuân Lộc Miếu Quan Âm 3 Bù Cạp Tam Phước-LT 11 Ngô Quyền Trung Dũng-BH
12 Ông Hoàng Vĩnh Cửu 4 Đồn
13 Ông Phật Trị An-VC 5 Già Râu Bảo Quang- TXLK Tân Định-VC
14 Sỏi Quang Vinh-BH 6 Kim Liên Trị An-VC
7 Kỷ Niệm Trung Dũng-BH 15 Thái Bình Sơn Long Thành
8 Lê Thê Định Quán
ĐẢO (4 địa danh)
1 Bà Hào Mã Đà-VC 3 Đồng Trường TT.Vĩnh An-VC
2 Dừa Lửa Phú Hữu-NT 4 Ó TT.Vĩnh An-VC
ĐÈO (2 địa danh)
2 Con Rắn Long Giao-CM 1 Mẹ Bồng Con Xuân Lập-TXLK
ĐỒI (13 địa danh)
8 Mỹ Thanh Sơn-ĐQ 1 Bình Minh TXLK
Hàng Gòn-TXLK
2 Củ Chụp Phú Lý-VC 9 Rìu
3 Hai Xuân Tâm-XL 10 SIPH Suối Tre-TXLK
4 Hang Dơi Phú Lộc-TP 11 Tây Suối Tre-TXLK
5 La Ngà Định Quán 12 Trường Mã Đà-VC
6 Mai Suối Tre-TXLK 13 Phước Khả An Hòa-LT
7 Mặt Trăng Bảo Bình-CM
GIỒNG (1 địa danh)
1 Ông Đông Phú Đông-NT
GÒ (3 địa danh)
3 Ông Sảnh Bửu Hòa-BH 1 Dầu Phước Thái-LT
2 Dê Tân Bình - VC
HANG (3 địa danh)
1 Bạch Hổ TT. ĐQ-ĐQ 3 Dơi Bàu Hàm-TN
2 Dơi Bàu Sen-TXLK
HÓC (3 địa danh)
1 Bà Thức Trảng Dài-BH 3 Ông Che Hóa An-BH
2 Kênh Kênh ĐakLua-TP
HÒN (3 địa danh)
3 Voi Phục TT. ĐQ-ĐQ 1 Dĩa TT. ĐQ-ĐQ
2 Sư Tử TT. ĐQ-ĐQ
HỒ (54 địa danh)
20 Giang Điền Giang Điền-TB 1 Bà Hào Mã Đà-VC
2 Bà Long Hố Nai 3-TB 21 Hầm Đá Trảng Bom
3 Bàu Hàm Bàu Hàm-TB 22 K3 Xuân Lộc
4 Cà Rón Phú Ngọc-ĐQ 23 Lá Buông Bình An-LT
5 Cai Hào An Viễn-TB 24 Long Ẩn Bửu Long-BH
6 Cản Đu Phú Túc-ĐQ 25 Long Vân Bửu Long-BH
Hàng Gòn-TXLK
7 Cầu Dầu 26 M 09 Xuân Lộc
8 Cầu Mới CM, LT 27 Mo Nang Vĩnh An-VC
9 Đa Guy Tân Phú 28 Núi Chùa Bửu Long-BH
10 Đa Tôn Thanh Sơn-TP 29 Núi Hok Xuân Lộc
11 Đak Lua Đak Lua-TP 30 Núi Le TT.Gia Ray-XL
12 Đakaya Định Quán 31 Phú Bình Tân Phú
13 Đakhe Xuân Lộc 32 Phú Cường Tân Phú
14 Đá Vàng Phước Thái-LT 33 Phú Cường Phú Cường-ĐQ
15 Gia Lào Suối Cao-XL 34 Sông Mây Sông Trầu-TB
16 Gia Nhung Bàu Hàm 2-TB 35 Suối Bí Hưng Lộc-TN
17 Gia Oi Xuân Tâm-XL 36 Suối Chà Xuân Lộc
18 Gia Ray Suối Cao-XL 37 Suối Đá Bàn Trung Hòa-TB
19 Gia Ui Xuân Tâm-XL 38 Suối Đầm Bàu Hàm-TB
39 Suối Đôi 3 Lâm San-CM 48 Suối Vác Ngọc Định-ĐQ
49 Suối Vọng Xuân Bảo-CM 40 Thuận Hòa-TB
50 Suối Yon Xuân Thọ-XL Suối Gia Đức 41 Suối Mơ Trà Cổ-TP
51 Tam Bung Thống Nhất 42 Suối Oi Xuân Lộc
52 Thanh Niên Hố Nai 3-TB 43 Suối Rang Xuân Tây-CM
53 Trị An TT.Vĩnh An-VC 44 Suối Rắc Phú Cường-ĐQ
54 Xuân Phú Xuân Phú-XL 45 Suối Râm Long Giao-CM
46 Suối Rết Xuân Bắc-XL
47 Suối Tre Suối Tre-TXLK
LÒNG TẮT (1 địa danh)
1 Cua Phước An-NT
NÚI (55 địa danh)
15 Dốc Gia Canh-ĐQ 1 Bà Hạo Mã Đà-VC
2 Bà Hiền Hố Nai-TB 16 Dốc Lở Cây Gáo-VC
3 Bạch Tượng TT.ĐQ-ĐQ 17 Đá Bạc Lang Minh-XL
4 Bình Điện Bửu Long-BH 18 Đá Hang Phước Tân-LT
5 Bồ Phú Lợi-ĐQ 19 Đam Rêng Xuân Tâm-XL
6 Bùng Binh Bửu Long -BH 20 Đất Phú Cường-ĐQ
7 Bửu Long Bửu Long-BH 21 Đất Túc Trưng-ĐQ
8 Cà Rón Phú Ngọc-ĐQ 22 Đất Tam Phước-LT
9 Câu Trị An-VC 23 Đầu Tây TXLK
Xuân Bình- 10 Câu Khánh TXLK
24 Đỏ TXLK 11 Chứa Chan Gia Ray-XL
Hàng Gòn-TXLK
25 Đồi Rìu 12 Con Rắn Xuân Mỹ-CM
26 Đồng Bắc Gia Cang - ĐQ 13 Dang Car Định Quán
27 Gia Phú Vinh - ĐQ 14 Dô Bàu Sen-TXLK
28 Gian Tới Tân An - VC 42 Phu Xuân Tâm-XL
29 Giang Cu Định Quán 43 Phước Khê An Hòa-LT
30 Gò Dập Đại An-VC 44 Quy Túc Trưng-ĐQ
Quang Trung- 31 Hok Xuân Tâm-XL
45 Sốc Lu TN 32 Koop Phú Lý-VC
46 Suối Ram Xuân Tây-CM 33 Làng Giao Bào Tra-LK
47 Tầu Côn Gia Canh-ĐQ 34 Le Xuân Tâm-XL
48 Thị Suối Tre-TXLK 35 Lò Gạch Bửu Long-BH
49 Trân La Ngà-ĐQ 36 Long Ẩn Bửu Long-BH
50 Tung Suối Tre-TXLK 37 Mây Tào Xuân Hưng-XL
51 Tượng Tà Lài-TP 38 Môn Xuân Lộc
52 Vác Ngọc Định-ĐQ 39 Ngựa Bàu Sen-TXLK
53 Vải Lượng Long Thành Xuân Lập-
40 Nứa TXLK 54 Xa Bi Xuân Bắc-XL
41 Ông Tơ Hố Nai-TB 55 Xoài Gia Canh-ĐQ
RẠCH (58 địa danh)
1 Bà Bội Tân Mai-BH 12 Cạy Phú Đông-NT
2 Bà Chèo Tam An-LT 13 Cấm Sào Phước An-NT
3 Bà Ký Long Phước-LT 14 Cầu Mít Long An-LT
4 Bà Lồ Tân Vạn-BH 15 Cầu Đôi Phước An-NT
5 Bà Miên Thống Nhất-BH 16 Cây Khô Long Thọ-NT
6 Bảy Phú Hữu-NT 17 Chiếc Phước Tân-LT
7 Bến Cát Tân Bình-VC 18 Chìm Tàu Thống Nhất-BH
8 Bến Gỗ Long Hưng-LT 19 Choại Long Tân-NT
9 Bến Lớn Phước Thọ-NT 20 Cụt Hóa An-BH
10 Bùn An Bình-BH 21 Đá Hang Tân Vạn-BH
11 Cá Phú Hữu-NT 22 Đông Tân An-VC
23 Đồng Tràm Thống Nhất-BH 41 Ông Dầu Tân Vạn-BH
24 Giồng Đại Phước-NT 42 Ông Gia An Bình-BH
25 Gốc Bửu Long-BH 43 Ông Kèo
26 Hốc Mây Tân Vạn-BH 44 Ông Phủ Phước Khánh- NT Bửu Hòa-BH
27 Lá Vĩnh Thanh-NT 45 Ông Sắt Tam An-LT
28 Lái Bong Tân Hạnh-BH 46 Ông Thuộc Phú Đông-NT
29 Lò Gốm Hiệp Hòa-BH 47 Ông Tiếp Tân Hạnh-BH
30 Long Phú Tân Bình-VC 48 Ông Trung Tam Phước-LT
31 Lung Bửu Long-BH 49 Sỏi Tân Hạnh-BH
32 Mái Phước An-NT 50 Suối Cả Long Phước-LT
33 Muối Phước Hóa-NT 51 Suối Lớn Thống Nhất-BH
34 Mương Đại Phước-NT 52 Suối Tre Long Phước-LT
35 Ngã Ba Tân Hòa-NT 53 Thầy Kiềng Hóa An-BH
36 Ngọn Cái Long Thành 54 Thủ Huồng Bửu Hòa-BH
55 Tràm Phước An-NT 37 Nhà Thờ
38 Nước Trong 56 Trường Tàu Thống Nhất-BH Long Bình Tân- BH Phước Thiền-NT
39 Oan Lớn Phước An-NT 57 Vàm Tàu Thống Nhất-BH
40 Ông Án Hiệp Hòa-BH 58 Vũng Gấm Phước An-NT
RỪNG (6 địa danh)
1 Mã Đà Vĩnh Cửu 5 Tân Phú Định Quán
2 Lá Xuân Lộc 6 Thác Mai Định Quán
3 Nam Cát Tiên Định Quán
4 Sác Nhơn Trạch
SÔNG (63 địa danh)
1 Ba Gioi Phước An-NT 3 Bào Hang Tân Phong-BH
2 Bà Hào Phước An-NT 4 Bé Vĩnh Cửu
5 Bến Gỗ An Hòa-LT 33 Đồng Kho Phước An-NT
Phước Thiền-NT
6 Bến Ngự Phước Thái-LT 34 Đồng Môn
7 Buông Long Thành 35 Đồng Nai Đồng Nai
8 Cái Đại Phước-NT 36 Đồng Tranh Phước An-NT
9 Cáp Biên Hòa 37 Gia Lào Suối Cao-XL
Quang Trung-TN
10 Căn Nôm Bình An-LT 38 Gia Nhạn
11 Cầu Quan An Hòa-LT 39 Gò Gia Phước An-NT
Phước Thiền-NT
12 Cựa Gà Lầy 40 Kon Rin Tân Phú
13 Da Bitt Tân Phú 41 La Ngà Định Quán
14 Da Chanh Xuân Hòa-XL 42 Long Thành Phước Tân-LT
15 Da Cong Hoi Xuân Hòa-XL 43 Lòng Tàu Phú Đông-NT
16 Da Dam Tân Phú 44 Mây Bắc Sơn-TB
17 Da Hop Định Quán 45 Ngọc Bửu Hòa-BH
18 Da Hourr Định Quán 46 Nhạn Bình An-LT
Nam Cát Tiên-TP
19 Da HuoRu 47 Nước Trong Long Hưng-LT
20 Da Kin De Tân Phú 48 Ông Chóc Phú Hữu-NT
21 Da Kiot Định Quán 49 Ông Kèo
22 Da Liang Tân Phú 50 Ông Mai Phước Khánh- NT Phú Đông-NT
23 Da Lo Gha ĐakLua-TP 51 Phát Triển Tân Biên-BH
24 Da Ruo Tân Phú 52 Rạch Đông Vĩnh Cửu
25 Dak Bon Rê Gia Canh-ĐQ 53 Rết Trảng Bom
26 54 Thao Thống Nhất ĐakLua-TP
Dang Mun Mung 27 Dar Kapria Định Quán 55 Thao Sông Trầu-TB
28 Dar Kaya Định Quán 56 Thị Vãi Phước An-NT
29 Dar Lou Gia Canh-ĐQ 57 Trong Phước Tân-LT
30 Dar Tra Gia Canh-ĐQ 58 Trầu Sông Trầu-TB
31 Đa Kath Phú Lý-VC 59 Tre Trảng Bom
32 Đar Cha Tân Phú 60 Vàm Môn Long Tân-NT
61 Vi Xuân Tâm-XL 63 Xóm Mai Biên Hòa
62 Vọng Xuân Lộc
SUỐI (147 địa danh)
1 Ba Tân Hiệp-LT 24 Cả Thừa Đức-CM
2 Bà Bột Tam Hiệp-BH 25 Cai Hảo An Viễn-TB
3 Bà Cai Vĩnh Cửu 26 Cai Nha TT.Vĩnh An-VC
Xuân Lập-TXLK
4 Bà Đội 27 Cái
5 Bà Hào Mã Đà-VC 28 Cạn Xuân Trung- TXLK Phước Thọ-NT
6 Bà Lọng Thiện Tân-VC 29 Cạn Trảng Dài-BH
7 Bà Lúa 30 Cản Đu Phú Túc-ĐQ
8 Bà Rá Long Bình Tân- BH Tân An-VC 31 Cao Suối Cao-XL
9 Bà Son Lộ 25-TN 32 Cát Bảo Hòa-XL
10 Bàu Bông Phước An-NT 33 Cầu Ba Suối Cát-XL
11 Bàu Hang Tân Phong-BH 34 Cầu Bà Xuân Phú-XL
Bàu Tẩm 35 Cầu Hoàng Thống Nhất
12 Nhuận Bửu Long-BH 36 Cầu Mới Long Phước-LT
13 Bí Hưng Lộc-TN 37 Cầu Ông Xuân Phú-XL
14 Bộ Đội Phú Tân-ĐQ 38 Cầu Trắng TT.ĐQ-ĐQ
15 Bốn Phước Bình-LT 39 Cầu Vạc Tân Hiệp-LT
16 Bưng Định Quán 40 Cây Đa Sông Ray-CM
17 Bưng Cầu Xuân Phú-XL 41 Cây Sung Mã Đà-VC
18 Bưng Môn Long An-LT 42 Chồn TXLK
19 Bung Long Thành 43 Chùa Long Bình-BH
20 Cà Cóc Mã Đà-VC 44 Cọp Phú Lý-VC
21 Cả Bàu Cạn-LT 45 Công Lo TXLK
22 Cả Long Giao-CM 46 Dar Yoa Suối Nho-ĐQ
23 Cả Suối Trầu-LT 47 Dak Lua TT.ĐQ-ĐQ
48 Dui Túc Trưng-ĐQ 75 Gia Liêu
Đại Úy Xuân Trường- 76 Gia Liêu Hàng Gòn- TXLK Xuân Phú-XL 49 Hùng XL 77 Gia Man Xuân Hiệp-XL 50 ĐaKin Phú Lý-VC 78 Gia Nhạn Thuận Hòa-TB 51 Đam Thống Nhất 79 Gia Ray Xuân Hiệp-XL 52 Đarcha Định Quán
80 Suối Tre-TXLK 53 Đá Bàu Cạn-LT
Quang Trung-TN
Gia Rung Con 81 Gia Trấp Thừa Đức-CM 54 Đá 82 Gia Ui Xuân Hòa-XL 55 Đá Bảo Quang- TXLK Trung Hòa-TB 83 Hai Trảng Dài-BH 56 Đá Phước Thái-LT 84 Hai Cò 57 Đá Xuân Đông-CM 85 Háp Bình Lộc-LK 58 Đá Mã Đà-VC 86 Hố Ngựa Tân Hạnh-BH 59 Đá Xuân Bắc-XL 87 Le Long Thành 60 Đá Bàn Xuân Đông-CM 88 Linh Mã Đà-VC 61 Đá Bàng Bàu Sen-TXLK 89 Linh Tân Phú
62 Đá Bàng 90 Linh Tam Hiệp-BH
63 Đá Hàn Xuân Lập- TXLK Sông Trầu-TB 91 Long Thuận Long Thành
64 Đồng Hươu Long Thành 92 Lức Xuân Tây-CM
65 Đục Cẩm Đường-LT 93 Mã Đà Phú Lý-VC
66 Đục Phú Vinh-ĐQ 94 Mạch Bà Phú Hội-NT
67 Gấm Phú An-TP 95 Mè Suối Cao-XL
68 Gia Dách Xuân Lộc 96 Mon Coum Xuân Lộc
69 Gia Dục Xuân Thạnh-TN 97 Mơ Trà Cổ-TP
Quang Trung-TN
70 Gia Đức 98 Một Tân Hiệp-LT
71 Gia Đức Thuận Hòa-TB 99 Mủ Hưng Lộc-TN
72 Gia Hoét Xuân Lộc 100 Muồng Tân An-VC
73 Gia Huynh Xuân Thành-XL 101 Ngọn Xuân Quế-CM
74 Gia Lào Suối Cao-XL 102 Nhác Xuân Tây-CM
103 Nhàn Túc Trưng-ĐQ 126 Sâu Lộ 25-TN
104 Nho Thống Nhất 127 Sâu Xuân Tây-CM
105 Nóng Xuân Hòa-XL 128 Sâu Sông Nhạn-CM
106 Nước Trong Suối Cát-XL 129 Sấu Nhân Nghĩa-M
107 Ông Quế Long Thành 130 Sếch Xuân Tây-CM
108 Quản Thủ Long Thành 131 Sóc Xuân Mỹ-CM
Xuân Đường-CM
109 Quýt 132 Son Giang Điền-TB
110 Rạch Đông Tân An-VC 133 Son Phú Túc-ĐQ
111 Ram Xuân Tây-CM 134 Su Xuân Lộc
112 Ràng Phú Lý-VC 135 Tam Bung Phú Túc-ĐQ
113 Rậm Xuân Quế-CM 136 Tầm Bó Lâm San-CM
114 Rết Bảo Hòa-XL 137 Tân Cang Phước Tân-LT
Bàu Trâm-TXLK
115 Rết 138 Thề Sông Ray-CM
116 Rết Xuân Bắc-XL 139 Trà My Phú Ngọc-ĐQ
117 Rết Sông Trầu-TB 140 Trầu Sông Trầu-TB
118 Rộp TT.Vĩnh An-VC 141 Tre Đồi 61-TB
119 Rút Phú Túc-ĐQ 142 Tròng Xuân Tâm-XL
120 Sà Mách Phú Lý-VC 143 Ty Thanh Sơn-ĐQ
121 Sà Mách Thanh Sơn-ĐQ 144 Vác Ngọc Định-ĐQ
122 Sách Xuân Lộc 145 Vọng Bảo Bình-CM
123 Sai Mã Đà-VC 146 Xoài Xuân Hòa-XL
124 Sang Dốc TXLK 147 Yon Xuân Bắc-XL
125 Săn Máu Trảng Dài-BH
TẮT (4 địa danh)
1 Cầu Kho Phước An-NT 3 Hồng Phước An-NT
Phước Thiện-NT
2 Gò Đá 4 Le Le Phước An-NT
THÁC (18 địa danh)
1 An Viễn Long Thành 10 Mỏ Vẹt Tân Phú
2 Ba Giọt Phú Hòa-ĐQ 11 Nàng Giang Điền-TB
3 Bến Cự Tân Phú 12 Sông Nhạn Đồi 61-TB
4 Chàng Giang Điền-TB 13 Suối Mai Phú Ngọc-ĐQ
5 Đá Dựng Tân Phú 14 Tà Lài Phú Lộc-TP
6 Đá Hàn Sông Trầu-TB 15 Thanh Sơn Định Quán
7 Giang Điền Giang Điền-TB 16 Trị An Mã Đà-VC
8 Hòa Bình Phú Sơn-TP 17 Trời Tân Phú
9 Mai Định Quán 18 Trời Xuân Bắc-XL
TRẢNG (1 địa danh)
1 Lá Trị An-VC
TRŨNG (1 địa danh)
1 Vịt Thiện Tân-VC
VÀM (4 địa danh)
1 Bà Lồ Tân Vạn-BH 3 Ông Phượng Hiệp Hòa-BH
2 Ông Án Hiệp Hòa-BH 4 Vôi Tam An-LT
VƯỜN (2 địa danh)
1 Ngô Đồi 61-TB 2 Đaklua-TP Quốc Gia Cát Tiên
2. ĐỊA DANH HÀNH CHÍNH
ẤP (791 địa danh)
1 57 Xuân Quế-CM 27 Ba An Viễn-TB
2 114 TT.ĐQ-ĐQ 28 Ba Phước Bình-LT
3 An Bình Bình An-LT 29 Ba Phước Thái-LT
4 An Bình Trung Hòa-TB 30 Ba Bàu Cạn-LT
5 An Chu Bắc Sơn-TB 31 Ba Suối Trầu-LT
6 An Hòa Hóa An-BH 32 Ba An Hòa-LT
7 An Hòa Tây Hòa-TB 33 Ba An Phước-LT
8 An Lâm Long An-LT 34 Ba Tân Hiệp-LT
9 An Viễn Bình An-LT 35 Ba Long An-LT
10 An Xuân Long Hưng-LT 36 Ba Tam An-LT
11 Ba Tân Hạnh-BH 37 Ba
12 Ba Trị An-VC 38 Ba Nam Cát Tiên- TP Phú An-TP
13 Ba Tân An-VC 39 Ba Núi Tượng-TP
14 Ba Thạnh Phú-VC 40 Ba Đăk Lua-TP
15 Ba Bình Lợi-VC 41 Ba Trà Cổ-TP
16 Ba Hiếu Liêm-VC 42 Ba Tà Lài-TP
17 Ba Xuân Tâm-XL 43 Ba Phú Lập-TP
18 Ba Xuân Hòa-XL 44 Ba Phú Điền-TP
19 Ba Xuân Hưng-XL 45 Ba Phú Thịnh-TP
20 Ba Phú Thạnh-NT 46 Ba Phú Lộc-TP
21 Ba Long Thọ-NT 47 Ba Phú Sơn-TP
22 Ba 48 Ba Thanh Sơn-ĐQ
23 Ba Phước Khánh- NT Hiệp Phước-NT 49 Ba Phú Tân-ĐQ
24 Ba Lộ 25-TN 50 Ba Phú Ngọc-ĐQ
25 Ba Bình Lộc-TXLK 51 Ba Gia Canh-ĐQ
26 Ba Sông Trầu-TB 52 Ba Suối Nho-ĐQ
53 Ba La Ngà-ĐQ 81 Bàu Chim Phú Xuân-TP
54 Ba Phú Hòa-ĐQ 82 Bàu Cối
55 Ba Phú Vinh-ĐQ 83 Bàu Điền Bảo Quang- TXLK Mã Đà-VC
56 Ba Phú Lợi-ĐQ 84 Bàu Lùng Bình An-LT
57 Ba Sông Nhạn-CM 85 Bàu Mây Phú Thanh-TP
58 Ba Thừa Đức-CM 86 Bàu Nùng Lộ 25-TN
59 Ba Nhân Nghĩa-CM 87 Bàu Phụng Phú Lý-VC
60 Ba Xuân Tây-CM 88 Bàu Sầm Bàu Trâm-LK
61 Ba Lâm San-CM 89 Bàu Sen 62 Ba Sông Ray-CM 90 Bàu Sen Xuân Trường- XL Bàu Sen-TXLK 63 Ba A Xuân Bắc-XL 91 Bàu Sình Suối Cao-XL 64 Ba B Xuân Bắc-XL
92 Bàu Trâm 65 Ba Bàu Sen Phú Thạnh-NT
93 Bàu Tre Bàu Trâm- TXLK Bình An-LT 66 Ba Buông Xuân Hòa-XL
94 Bàu Trường Phước An-NT 67 Ba Tầng Phú Vinh-ĐQ
95 Bảy Thiện Tân-VC 68 Bà Ký Long Phước-LT
96 Bảy Thạnh Phú-VC 69 Bạch Lâm 1 Gia Tân 2-TN
97 Bảy Xuân Bắc-XL 70 Bạch Lâm 2 Gia Tân 2-TN
98 Bảy Sông Trầu-TB 71 Bảo Định Xuân Định-XL
99 Bảy An Phước-LT 72 Bảo Thị Xuân Định-XL
100 Bảy Phước Bình-LT 73 Bảo Vệ Giang Điền-TB
101 Bảy Bàu Cạn-LT 74 Bảo Vinh A Bảo Vinh- TXLK 102 Bảy 75 Bảo Vinh B Bảo Vinh-TXLK
103 Bảy Nam Cát Tiên- TP Phú An-TP 76 Bàu Ao Bàu Hàm 2-TN
104 Bảy Núi Tượng-TP 77 Bàu Bóng Phước An-NT
105 Bảy Đăk Lua-TP 78 Bàu Cá Xuân Bắc-XL
106 Bảy Tà Lài-TP 79 Bàu Cá Trung Hòa-TB
107 Bảy Phú Lập-TP 80 Bàu Cá An Phước-LT
108 Bảy Phú Thịnh-TP 136 Bình Minh Xuân Hiệp-XL
109 Bảy Phú Lộc-TP 137 Bình Minh Suối Cát-XL
110 Bảy Thanh Sơn-ĐQ 138 Bình Phú Long Tân-NT
111 Bảy Phú Tân-ĐQ 139 Bình Phước Tân Bình-VC
112 Bảy Phú Ngọc-ĐQ 140 Bình Tân Xuân Phú-XL
113 Bảy Gia Canh-ĐQ 141 Bình Thạnh Bình Hòa-VC
114 Bảy Nhân Nghĩa-CM 142 Bình Tiến Xuân Phú-XL
115 Bảy Xuân Quế-CM 143 Bình Trung Tân An-VC
116 Bảy Xuân Tây-CM 144 Bình Xuân 1 Xuân Phú-XL
117 Bảy Sông Ray - CM 145 Bình Xuân 2 Xuân Phú-XL
118 Bắc Hòa Bắc Sơn - TB 146 Bình Ý Tân Bình-VC
Quang Trung-TN
119 Bắc Sơn 147 Bốn An Phước-LT
120 Bằng Lăng La Ngà - ĐQ 148 Bốn Tân Hạnh-BH
121 Bể Bạc Xuân Đông-CM 149 Bốn Vĩnh Tân-VC
Phước Thiền-NT
122 Bến Cam 150 Bốn Trị An-VC
123 Bến Cộ Đại Phước-NT 151 Bốn Thạnh Phú-VC
124 Bến Đình Phú Đông-NT 152 Bốn Bình Lợi-VC
125 Bến Ngự Phú Đông-NT 153 Bốn Hiếu Liêm-VC
126 Bến Nôm 1 Phú Cường-ĐQ 154 Bốn Xuân Tâm-XL
127 Bến Nôm 2 Phú Cường-ĐQ 155 Bốn Xuân Hòa-XL
Phước Thiền-NT
128 Bến Sắn 156 Bốn Xuân Hưng-XL
129 Bình Chánh Phú Lý-VC 157 Bốn Long Thọ-NT
130 Bình Chánh Tân An-VC 158 Bốn Hiệp Phước-NT
131 Bình Hòa Xuân Phú-XL 159 Bốn Lộ 25-TN
132 Bình Hòa Phú Túc-ĐQ 160 Bốn Bình Lộc-LK
133 Bình Hóa Hóa An-BH 161 Bốn Sông Trầu-TB
134 Bình Lâm Lộc An-LT 162 Bốn An Viễn-TB
135 Bình Lục Tân Bình-VC 163 Bốn Phước Bình-LT
164 Bốn Bình Sơn-LT 191 Bốn Nhân Nghĩa-CM
165 Bốn Bàu Cạn-LT 192 Bốn Xuân Tây-CM
166 Bốn Tân Hiệp-LT 193 Bốn Lâm San-CM
167 Bốn Long An-LT 194 Bốn Sông Ray-CM
168 Bốn Tam An-LT 195 Bốn A Xuân Bắc-XL
Nam Cát Tiên- 196 Bốn B Xuân Bắc-XL
169 Bốn TP 197 Bùi Chu 1 Bắc Sơn-TB
170 Bốn Phú An-TP 198 Bùi Chu 2 Bắc Sơn-TB
171 Bốn Núi Tượng-TP 199 Bưng Cơ Lộc An-LT
172 Bốn Đăk Lua-TP 200 Bưng Cần Bảo Hòa-XL
173 Bốn Trà Cổ-TP 201 Bưng Môn Long An-LT
174 Bốn Tà Lài-TP 202 Cát Lái Phú Hữu-NT
175 Bốn Phú Lập - TP 203 Cẩm Đường Cẩm Đường-LT
176 Bốn Phú Điền - TP 204 Cẩm Sơn Xuân Mỹ-CM
Xuân Tân-TXLK
177 Bốn Phú Thịnh-TP 205 Cẩm Tân
178 Bốn Phú Lộc-TP 206 Cấp Rang Suối Tre-TXLK
179 Bốn Phú Sơn-TP 207 Câu Kê Phú Hữu-NT
180 Bốn Thanh Sơn-ĐQ 208 Cầu Hang Hóa An-BH
181 Bốn Phú Tân-ĐQ 209 Cầu Ván Phú Túc-ĐQ
182 Bốn Phú Ngọc-ĐQ 210 Cầu Xéo TT.LT-LT
183 Bốn Gia Canh-ĐQ 211 Cây Cầy Phú Lý-VC
184 Bốn Suối Nho-ĐQ 212 Cây Da Bình Lộc-TXLK
185 Bốn La Ngà-ĐQ 213 Cây Dầu Thanh Sơn-TP
186 Bốn Phú Hòa-ĐQ 214 Cây Đa Suối Cao-XL
187 Bốn Phú Vinh-ĐQ 215 Cây Điệp Cây Gáo-TB
188 Bốn Phú Lợi-ĐQ 216 Cây Điều Bàu Hàm-TB
Bàu Trâm-TXLK
189 Bốn Sông Nhạn-CM 217 Cây Tung
190 Bốn Thừa Đức-CM 218 Cây Xăng Phú Túc-ĐQ
219 Cây Xoài Tân An-VC 246 Đất Mới Long Phước-LT
220 Chà Rang Suối Cao-XL 247 Đoàn Kết Vĩnh Thanh-NT
248 Đoàn Kết Giang Điền-TB 221 Chín
249 Đoàn Trí Vĩnh Thanh-NT 222 Chín Nam Cát Tiên- TP Đăk Lua-TP
250 Độc Lập Giang Điền-TB 223 Chín Phú Thịnh-TP
251 Đồi Hai Xuân Tâm-XL 224 Chín Gia Canh-ĐQ
225 Chín An Hòa-LT Nhân Nghĩa-CM 252 Đồi Phước Khả
226 Chín Xuân Tây-CM 253 Đồi Rìu Hàng Gòn- TXLK 227 Chín Sông Ray-CM 254 Đồn Điền 1 Túc Trưng-ĐQ
Túc Trưng-ĐQ 255 Đồn Điền 2 Túc Trưng-ĐQ 228
256 Đồn Điền 3 Túc Trưng-ĐQ 229 Xuân Thạnh-TN Chín Mươi Tư Chín Tháng Tư 257 Đông Bắc Gia Kiệm-TN 230 Chiến Thắng Bảo Hòa-XL
258 Đông Hải Hố Nai 3-TB 231 Chính Nghĩa Vĩnh Thanh-NT
259 Đông Kim Gia Kiệm-TN 232 Chợ 260 Đông Minh Lang Minh-XL 233 Chợ Phước Thiền- NT Suối Nho-ĐQ 261 Đồng Phước Tân-LT 234 Chợ Phú Túc-ĐQ 262 Đồng Hiệp Phú Điền-TP 235 Cọ Dầu 1 Xuân Đông-CM 263 Đồng Nai Hóa An-BH 236 Cọ Dầu 2 Xuân Đông-CM 264 Đồng Tâm Xuân Mỹ-CM 237 Cù Lao Đại Phước-NT 265 Đồng Xoài Túc Trưng-ĐQ 238 Dốc Mơ 1 Gia Tân 1-TN 266 Đức Long Gia Tân 2-TN 239 Dốc Mơ 2 Gia Tân 1-TN 267 Đức Long 1 Gia Tân 2-TN 240 Dốc Mơ 3 Gia Tân 1-TN 268 Đức Long 2 Gia Tân 2-TN
241 Suối Tre -TXLK 269 Đức Long 3 Gia Tân 2-TN
Dưỡng Đường 242 Đa Tôn Thanh Sơn-TP 270 Túc Trưng-ĐQ 243 Đá Bàn Thừa Đức-CM
271 Túc Trưng-ĐQ 244 Đại Thắng Vĩnh Thanh-NT Đức Thắng 1 Đức Thắng 2
245 Đất Mới Phú Hội-NT 272 Gia Hòa Xuân Trường- XL
273 Gia Lào Suối Cao-XL 301 Hai Long Hưng-LT
274 Gia Ty Suối Cao-XL 302 Hai An Phước-LT
275 Gia Yên Gia Tân 2-TN 303 Hai Tân Hiệp-LT
276 Giang Điền Phú Thanh-TP 304 Hai Long An-LT
305 Hai Tam An-LT 277 Phú Đông-NT Giồng Ông Đông
Tân Hạnh-BH 306 Hai 278 Hai
Phú Lý-VC 307 Hai Nam Cát Tiên- TP Phú An-TP 279 Hai
Vĩnh Tân-VC 308 Hai Đăk Lua-TP 280 Hai
Trị An-VC 309 Hai Trà Cổ-TP 281 Hai
Tân An-VC 310 Hai Tà Lài-TP 282 Hai
Thạnh Phú-VC 311 Hai Phú Lập-TP 283 Hai
Bình Lợi-VC 312 Hai Phú Điền-TP 284 Hai
Xuân Tâm-XL 313 Hai Phú Thịnh-TP 285 Hai
Xuân Hòa-XL 314 Hai Phú Lộc-TP 286 Hai
Xuân Hưng-XL 315 Hai Phú Sơn-TP 287 Hai
Phú Thạnh-NT 316 Hai Thanh Sơn-ĐQ 288 Hai
289 Hai Long Thọ-NT 317 Hai Phú Tân-ĐQ
318 Hai Phú Ngọc-ĐQ 290 Hai
319 Hai Gia Canh-ĐQ Phước Khánh- NT Hiệp Phước-NT 291 Hai
320 Hai Suối Nho-ĐQ Lộ 25-TN 292 Hai
321 Hai Phú Hòa-ĐQ Bình Lộc-TXLK 293 Hai
322 Hai Phú Vinh-ĐQ Sông Trầu-TB 294 Hai
323 Hai Phú Lợi-ĐQ An Viễn-TB 295 Hai
324 Hai Xuân Quế-CM Phước Bình-LT 296 Hai
325 Hai Sông Nhạn-CM Cẩm Đường-LT 297 Hai
Bàu Cạn-LT 326 Hai 298 Hai
Xuân Đường- CM Nhân Nghĩa-CM Suối Trầu-LT 327 Hai 299 Hai
An Hòa-LT 328 Hai Xuân Tây-CM 300 Hai
329 Hai Lâm San-CM 356 Hòa Bình Đông Hòa-TB
330 Hai Sông Ray-CM 357 Hòa Bình Giang Điền-TB
331 Hai A Xuân Bắc-XL 358 Hòa Bình Túc Trưng-ĐQ
332 Hai A Núi Tượng-TP 359 Hòa Bình Vĩnh Thanh-NT
333 Hai B Xuân Bắc-XL 360 Hòa Đồng Ngọc Định-ĐQ
334 Hai B Núi Tượng-TP 361 Hòa Hiệp Ngọc Định-ĐQ
362 Hòa Hợp Bảo Hòa-XL 335 La Ngà -ĐQ Hai/Chín mươi bảy 363 Hòa Thành Ngọc Định-ĐQ 336 Hàng Cháo Hiếu Liêm-VC
364 Hòa Thuận Ngọc Định-ĐQ 337 Hàng Gòn 365 Hòa Trung Ngọc Định-ĐQ 338 Hàng Gòn Hàng Gòn- TXLK Lộc An-LT 366 Hoàn Quân Long Giao-CM 339 Hiền Đức Phước Thái-LT 367 Hưng Bình Hưng Thịnh-TB 340 Hiền Hòa Phước Thái-LT 368 Hưng Hiệp Hưng Lộc-TN 341 Hiệp Cường TT.ĐQ-ĐQ 369 Hưng Long Hưng Thịnh-TB 342 Hiệp Đồng TT.ĐQ-ĐQ 370 Hưng Nghĩa Hưng Lộc-TN 343 Hiệp Lợi TT.ĐQ-ĐQ 371 Hưng Nhơn Hưng Lộc-TN 344 Hiệp Lực TT.ĐQ-ĐQ 372 Hưng Phát Hưng Thịnh-TB 345 Hiệp Nghĩa TT.ĐQ-ĐQ 373 Hưng Thạnh Hưng Lộc-TN 346 Hiệp Nhất TT.ĐQ-ĐQ
374 Phước Tân-LT 347 Hiệp Phước Hiệp Phưóc-NT Hương Phước
375 K6 TT.Vĩnh An-VC 348 Hiệp Quyết TT.ĐQ-ĐQ
376 La Hoa Xuân Đông-CM 349 Hiệp Tâm 1 TT.ĐQ-ĐQ
Quang Trung-TN
Bảo Quang- 350 Hiệp Tâm 2 TT.ĐQ-ĐQ 377 Lác Chiếu TXLK 351 Hiệp Thuận TT.ĐQ-ĐQ 378 Lạc Sơn 352 Hiệp Thương TT.ĐQ-ĐQ 379 Láng Lớn Xuân Mỹ-CM
353 Hoa Sen 380 Láng Me 1 Xuân Đông-CM
354 Hòa Bình Bàu Trâm- TXLK Bảo Hòa-XL 381 Láng Me 2 Xuân Đông-CM
355 Hòa Bình 382 Lập Thành Xuân Thạnh-TN Bàu Trâm- TXLK
Quang Trung-TN
383 Lê Lợi 1 410 Một
Quang Trung-TN
384 Lê Lợi 2 411 Một Phước Khánh- NT Hiệp Phước-NT
385 Lều Xanh Xuân Hiệp-XL 412 Một Lộ 25-TN
386 Lò Than Xuân Bảo-CM 413 Một Bình Lộc-TXLK
387 Long An Mã Đà-VC 414 Một Sông Trầu-TB
388 Long Hiệu Long Tân - NT 415 Một An Viễn-TB
389 Long Đức 1 Tam Phước - LT 416 Một Cẩm Đường-LT
390 Long Đức 2 Tam Phước - LT 417 Một Phước Bình-LT
391 Long Đức 3 Tam Phước - LT 418 Một Bàu Cạn-LT
419 Một Suối Trầu-LT Tam Phước - LT 392
420 Một An Hòa-LT 393 Tam Phước - LT
421 Một Long Hưng-LT 394 Tam Phước - LT Long Khánh 1 Long Khánh 2 Long Khánh 3 422 Một An Phước-LT 395 Long Phúc Phước Thái - LT 423 Một Tân Hiệp-LT 396 Lộ 25 Bàu Hàm 2-TN 424 Một Long An-LT 397 Lộ Đức Hố Nai 3-TB 425 Một Tam An-LT 398 Lộc Hòa Tây Hòa-TB 426 Một Bình Sơn-LT 399 Lợi Hà Thanh Bình-TB
427 Một 400 Lý Lịch Phú Lý-VC
428 Một Nam Cát Tiên- TP Phú An-TP 401 Miễu Phước Tân-LT
429 Một Núi Tượng-TP 402 Mít Nài La Ngà-ĐQ
430 Một Đăk Lua-TP 403 Một Trị An-VC
431 Một Trà Cổ-TP 404 Một Bình Lợi-VC
432 Một Tà Lài-TP 405 Một Xuân Bắc-XL
433 Một Phú Lập-TP 406 Một Xuân Tâm-XL
434 Một Phú Điền-TP 407 Một Xuân Hòa-XL
435 Một Phú Thịnh-TP 408 Một Xuân Hưng-XL
436 Một Phú Lộc-TP 409 Một Phú Thạnh-NT
437 Một Phú Sơn-TP 465 Mười Sông Ray-CM
438 Một Thanh Sơn-ĐQ 466 Mười Hai Đăk Lua-TP
439 Một Phú Tân-ĐQ 467 Mười Hai Xuân Tây-CM
440 Một Phú Ngọc-ĐQ 468 Mười Một Đăk Lua-TP
441 Một Gia Canh-ĐQ 469 Mười Một Xuân Tây-CM
442 Một Suối Nho-ĐQ 470 Mười Tám Gia Đình 443 Một La Ngà-ĐQ 471 Mười Bảo Quang- TXLK Xuân Tây-CM
444 Một Phú Hòa-ĐQ 472 Nam Hà Xuân Bảo-CM
Quang Trung-TN
445 Một Phú Vinh-ĐQ 473 Nam Sơn
446 Một Phú Lợi-ĐQ 474 Năm Vĩnh Tân-VC
447 Một Xuân Quế-CM 475 Năm Thạnh Phú-VC
448 Một Sông Nhạn-CM 476 Năm Bình Lợi-VC
477 Năm Xuân Hưng-XL 449 Một
450 Một Xuân Đường- CM Nhân Nghĩa-CM 478 Năm Long Thọ-NT
451 Một Xuân Tây-CM 479 Năm Hiệp Phước-NT
452 Một Lâm San-CM 480 Năm Lộ 25-TN
453 Một Sông Ray-CM 481 Năm Sông Trầu-TB
454 Một Phú Lý-VC 482 Năm An Viễn-TB
455 Một Thạnh Phú-VC 483 Năm Phước Bình-LT
456 Một Long Thọ-NT 484 Năm Bình Sơn-LT
457 Một A Tân Hạnh-BH 485 Năm Bàu Cạn-LT
458 Một A Phước Thái-LT 486 Năm An Phước-LT
459 Một B Tân Hạnh-BH 487 Năm Tân Hiệp-LT
460 Một B Phước Thái-LT 488 Năm Tam An - LT
461 Một C Phước Thái-LT 489 Năm Long Phước- LT
462 Mười 490 Năm
463 Mười Nam Cát Tiên- TP Đăk Lua-TP 491 Năm Nam Cát Tiên- TP Phú An-TP
464 Mười Phú Thịnh-TP 492 Năm Núi Tượng-TP
493 Năm Trà Cổ-TP 521 Ngọc Lâm 3 Phú Xuân-TP
494 Năm Tà Lài-TP 522 Ngô Quyền Bàu Hàm 2-TN
495 Năm Phú Lập-TP 523 Ngũ Phúc Hố Nai 3-TB
496 Năm Phú Điền-TP 524 Quang Trung- TN 497 Năm Phú Thịnh-TP Nguyễn Huệ 1 Nguyễn Huệ
498 Năm Phú Lộc-TP 525 2 Quang Trung- TN 499 Năm Phú Sơn-TP 526 Bàu Hàm 2-TN 500 Năm Thanh Sơn-ĐQ Nguyễn Thái Học 527 Nhân Hòa Tây Hòa-TB 501 Năm Phú Tân-ĐQ 528 Nhất Hòa Hiệp Hòa-BH 502 Năm Phú Ngọc-ĐQ 529 Nhị Hòa Hiệp Hòa-BH 503 Năm Gia Canh - ĐQ 530 Nông Doanh Xuân Định-XL 504 Năm Suối Nho - ĐQ 531 Nông Doanh Xuân Tân-TXLK 505 Năm La Ngà - ĐQ 532 Núi Đỏ Bàu Sen-TXLK 506 Năm Phú Vinh-ĐQ 533 Núi Tung Suối Tre-TXLK 507 Năm Phú Lợi-ĐQ 534 Ông Hường Thiện Tân-VC 508 Năm Sông Nhạn-CM 535 Ông Tạ Tân An-VC 509 Năm Nhân Nghĩa-CM
536 510 Năm Xuân Tây-CM
Phan Bội Châu 537 Phát Hải Bàu Hàm 2-TN Gia Kiệm-TN 511 Năm Lâm San-CM
538 Phú Cường Phú Cường-ĐQ 512 Năm Sông Ray-CM
539 Phú Cường Phú Bình-TP 513 Năm Xuân Bắc-XL
540 Phú Dòng Phú Cường-ĐQ 514 Năm A Đăk Lua-TP
541 Phú Dũng Phú Thanh-TP 515 Năm B Đăk Lua-TP
542 Phú Hiệp Phú Bình-TP 516 Ngọc Lâm 1 Phú Thanh-TP
543 Phú Hợp A Phú Bình-TP 517 Ngọc Lâm 1 Phú Xuân-TP
544 Phú Hợp B Phú Bình-TP 518 Ngọc Lâm 2 Phú Thanh-TP
545 Phú Kiên Phú Bình-TP 519 Ngọc Lâm 2 Phú Xuân-TP
546 Phú Lập Phú Thanh-TP 520 Ngọc Lâm 3 Phú Thanh-TP
547 Phú Lợi Phú Trung-TP 574 Phú Lâm-TP
Xuân Lập-TXLK
548 Phú Mỹ 575 Phú Lâm-TP Phương Mai 2 Phương Mai 3 549 Phú Mỹ 1 Phú Hội-NT 576 Phượng Vỹ Suối Cao-XL 550 Phú Mỹ 2 Phú Hội-NT 577 Quảng Biên Quảng Tiến-TB 551 Phú Ngọc Phú Trung-TP 578 Quảng Đà Đông Hòa-TB 552 Phú Quý 1 La Ngà-ĐQ 579 Quảng Hòa Quảng Tiến-TB 553 Phú Quý 2 La Ngà-ĐQ 580 Quảng Lộc Quảng Tiến-TB 554 Phú Sơn Bắc Sơn-TB 581 Quảng Ngãi Tân Hiệp-LT 555 Phú Tâm Phú Cường-ĐQ 582 Quảng Phát Quảng Tiến-TB 556 Phú Tân Phú Đông-NT 583 Quới Thạnh Phước An-NT 557 Phú Tân Phú Thanh-TP 584 Rạch Bảy Phú Hữu-NT 558 Phú Tân Phú Cường-ĐQ 585 Rạch Chiếc Phước Tân-LT 559 Phú Thạch Phú Trung-TP 586 Rang Rang Mã Đà-VC 560 Phú Thành Phú Thanh-TP
587 Ruộng Hời 561 Phú Thắng Phú Trung-TP
562 Phú Thọ Phú Cường-ĐQ 588 Ruộng Lớn
563 Phú Yên Phú Trung-TP 589 Ruộng Tre 564 Phúc Nhạc 1 Gia Tân 3-TN Bảo Vinh- TXLK Bảo Vinh- TXLK Bảo Quang- TXLK Bình Sơn-LT 590 Sa Cá 565 Phúc Nhạc 2 Gia Tân 3-TN Thạnh Phú-VC 591 Sáu 566 Phước Hải TT. LL-LT Xuân Bắc-XL 592 Sáu 567 Phước Hòa Long Phước-LT Lộ 25-TN 593 Sáu
568 Phú Hữu-NT Sông Trầu-TB 594 Sáu Phước Lương
569 Phước Lý Đại Phước-NT An Viễn-TB 595 Sáu
Phước Bình-LT 596 Sáu 570 Phú Lâm-TP
Bình Sơn-LT 597 Sáu 571 Phú Lâm-TP Bàu Cạn-LT 598 Sáu
572 Phú Lâm-TP An Phước-LT 599 Sáu
Tân Hiệp-LT 600 Sáu Phú Lâm-TP 573 Phương Lâm 1 Phương Lâm 2 Phương Lâm 3 Phương Mai 1
601 Sáu Tam An-LT 628 Sơn Hà Vĩnh Thanh-NT
Nam Cát Tiên- 629 Suối Cả Bàu Cạn-LT
602 Sáu TP 630 Suối Cả Long Giao-CM
603 Sáu Phú An-TP 631 Suối Cát 1 Suối Cát-XL
604 Sáu ĐăkLua-TP 632 Suối Cát 2 Suối Cát-XL
605 Sáu Trà Cổ-TP 633 Suối Chồn Bảo Vinh-LK
606 Sáu Tà Lài-TP 634 Suối Cùng Xuân Bảo-CM
607 Sáu Phú Lập-TP 635 Suối Đá Thanh Sơn-TP
608 Sáu Phú Thịnh-TP 636 Suối Đục Sông Nhạn-CM
609 Sáu Phú Lộc-TP 637 Suối Đục Thanh Sơn-ĐQ
610 Sáu Phú Sơn-TP 638 Suối Lức Xuân Đông-CM
611 Sáu Thanh Sơn-ĐQ 639 Suối Nhác Xuân Đông-CM
612 Sáu Phú Tân-ĐQ 640 Suối Quýt Cẩm Đường-LT
613 Sáu Phú Ngọc-ĐQ 641 Suối Râm Long Giao-CM
614 Sáu Gia Canh-ĐQ 642 Suối Râm Xuân Quế-CM
615 Sáu Suối Nho-ĐQ 643 Suối Rút Phú Túc-ĐQ
616 Sáu Phú Lợi-ĐQ 644 Suối Sai Mã Đà-VC
617 Sáu Sông Nhạn-CM 645 Suối Sóc Xuân Mỹ-CM
618 Sáu Nhân Nghĩa-CM 646 Suối Son Phú Túc-ĐQ
619 Sáu Xuân Tây-CM 647 Suối Son 1 Phú Vinh-ĐQ
620 Sáu Lâm San-CM 648 Suối Son 2 Phú Vinh-ĐQ
621 Sáu Sông Ray-CM 649 Suối Tiên Cây Gáo-TB
622 Sáu Thiện Tân-VC 650 Suối Tre Suối Tre-TXLK
623 Sáu A Núi Tượng-TP 651 Tam Bung Phú Túc-ĐQ
624 Sáu B Núi Tượng-TP 652 Tam Bung Phú Cường-ĐQ
Phước Thiền-NT
625 Sén 653 Tam Hiệp Xuân Hiệp-XL
626 Sông Mây Vĩnh Tân-VC 654 Tam Hòa Hiệp Hòa-BH
627 Sông Mây Bắc Sơn-TB 655 Tám Xuân Bắc-XL
656 Tám Sông Trầu-TB 683 Tân Hóa Hóa An-BH
657 Tám Bàu Cạn-LT 684 Tân Hợp Xuân Thành-XL
658 Tám An Phước-LT 685 Tân Hợp Bàu Hàm-TB
Nam Cát Tiên- 686 Tân Hưng Xuân Thành-XL
659 Tám TP 687 Tân Hưng Đồi 61-TB
660 Tám Đăk Lua-TP 688 Tân Hữu Xuân Thành-XL
661 Tám Phú Thịnh-TP 689 Tân Lập Phú Túc-ĐQ
662 Tám Phú Lộc-TP 690 Tân Lập Bảo Bình-CM
663 Tám Thanh Sơn-ĐQ 691 Tân Lập Phước Tân-LT
664 Tám Phú Tân-ĐQ 692 Tân Lập 1 Cây Gáo-TB
665 Tám Gia Canh-ĐQ 693 Tân Lập 2 Cây Gáo-TB
666 Tám Thừa Đức-CM 694 Tân Mai Phước Tân-LT
667 Tám Nhân Nghĩa-CM 695 Tân Mai 2 Phước Tân-LT
668 Tám Xuân Tây-CM 696 Tây Minh Lang Minh-XL
669 Tám Sông Ray-CM 697 Tân Mỹ Xuân Bảo-CM
670 Tân Bản Bửu Hòa-BH 698 Tân Phát Đồi 61-TB
Xuân Tân-TXLK
671 Tân Bảo Bảo Bình-CM 699 Tân Phong
Hàng Gòn-TXLK
672 Tân Bắc Bình Minh-TB 700 Tân Phong
673 Tân Bình Bình Minh-TB 701 Tân Thành Bắc Sơn-TB
674 Tân Bình Bảo Bình-CM 702 Tân Thành Thanh Bình-TB
675 Tân Bình 1 Lang Minh-XL 703 Tân Thịnh Đồi 61-TB
676 Tân Bình 2 Lang Minh-XL 704 Tân Thủy Bàu Sen-TXLK
677 Tân Đạt Đồi 61-TB 705 Tân Tiến Xuân Hiệp-XL
678 Tân Hạnh Xuân Bảo-CM 706 Tân Triều Tân Bình-VC
679 Tân Hoa Bàu Hàm-TB 707 Tân Việt Bàu Hàm-TB
680 Tân Hòa Xuân Thành-XL 708 Tân Xuân Bảo Bình-CM
681 Tân Hòa Xuân Bảo-CM 709 Tân Yên Gia Tân 3-TN
682 Tân Hòa Bảo Bình-CM 710 Tập Phước Long Phước-LT
711 Tây Kim Gia Kiệm-TN 738 Thọ Hòa Xuân Thọ-XL
712 Tây Nam Gia Kiệm-TN 739 Thọ Lâm 1 Phú Thanh-TP
713 Tên Lửa Thanh Sơn-ĐQ 740 Thọ Lâm 1 Phú Xuân-TP
714 Thái An Tân An-VC 741 Thọ Lâm 2 Phú Thanh-TP
715 Thái Bình Phước Bình-LT 742 Thọ Lâm 2 Phú Xuân-TP
716 Thái Hoa 1 Phú Túc-ĐQ 743 Thọ Lâm 3 Phú Thanh-TP
717 Thái Hoa 2 Phú Túc-ĐQ 744 Thọ Lâm 3 Phú Xuân-TP
718 Thái Hòa Hố Nai 3-TB 745 Thọ Lộc Xuân Thọ-XL
719 Thanh Bình Lộc An-LT 746 Thọ Phước Xuân Thọ-XL
720 Thanh Hóa Hố Nai 3-TB 747 Thọ Tân Xuân Thọ-XL
721 Thanh Lâm Thanh Sơn-TP 748 Thọ Trung Xuân Thọ-XL
722 Thanh Minh Vĩnh Thanh-NT 749 Xuân Đông-CM Thoại Hương
750 Thống Nhất Phú Cường-ĐQ 723 Thanh Sơn-TP
Quang Trung-TN
Thanh Quang 724 Thanh Sơn 751 Thống Nhất Vĩnh Thanh-NT
725 Thanh Thọ Phú Thanh-TP 752 Thới Sơn Bình Hòa-VC
726 Thanh Thọ Phú Xuân-TP 753 Thuận An Sông Thao-TB
727 Thanh Thọ 1 Phú Lâm-TP 754 Thuận Hòa Sông Thao-TB
728 Thanh Thọ 2 Phú Lâm-TP 755 Sông Thao-TB Thuận Trường 729 Thanh Thọ 3 Phú Lâm-TP 756 Tín Nghĩa Xuân Thiện-TN
730 Thanh Trung Thanh Sơn-TP 757 Trà Cổ Bình Minh-TB
731 Thành Công Vĩnh Thanh-NT 758 Trảng Táo Xuân Thành-XL
732 Phú Thạnh-NT 759 Bàu Hàm 2-TN
Thành Tuy Hạ 733 Thị Cầu Phú Đông-NT 760 Xuân Thạnh-TN 734 Thiên Bình Tam Phưóc-LT
Phước Thiền-NT
761 Bàu Hàm 2-TN 735 Thọ An Trần Cao Vân Trần Hưng Đạo Trần Quốc Tuấn 762 Trầu 736 Thọ Bình Bảo Quang- TXLK Xuân Thọ-XL
763 Trung Hiếu 737 Thọ Chánh Xuân Thọ-XL Xuân Trường- XL
777 Vĩnh An La Ngà-ĐQ 764 Trung Hưng
778 Vĩnh Cửu Vĩnh Thanh-NT 765 Trung Lương 779 Vĩnh Hiệp Tân Bình-VC
766 Trung Nghĩa 780 Võ Dõng 1 Gia Kiệm-TN
781 Võ Dõng 2 Gia Kiệm-TN 767 Trung Sơn
782 Võ Dõng 3 Gia Kiệm-TN 768 Trung Tâm Xuân Trường- XL Xuân Trường- XL Xuân Trường- XL Xuân Trường- XL Xuân Lập- TXLK 783 Vũng Gấm Phước An-NT 769 Trung Tâm 784 Vườn Dừa Phước Tân-LT
770 Trung Tiến 785 Xã Hoàng Long An-LT
771 Trường An Thanh Bình-TB Xuân Trường- XL Thanh Bình-TB 786 Xây Dựng Giang Điền-TB
772 Tự Túc Thừa Đức-CM 787 Xóm Gốc Long An-LT
773 Vàm Thiện Tân-VC 788 Xóm Hố Phú Hội-NT
774 Việt Kiều Xuân Hiệp-XL 789 Xóm Trầu Long An-LT
775 Việt Kiều Suối Cát-XL 790 Xóm Vàm Thiện Tân-VC
776 Vĩnh Tuy Long Tân-NT 791 Xuân Thiện Xuân Thiện-TN
HUYỆN (9 địa danh)
6 Thống Nhất Tỉnh ĐN 1 Cẩm Mỹ Tỉnh ĐN
2 Định Quán Tỉnh ĐN 7 Trảng Bom Tỉnh ĐN
3 Long Thành Tỉnh ĐN 8 Vĩnh Cửu Tỉnh ĐN
4 Nhơn Trạch Tỉnh ĐN 9 Xuân Lộc Tỉnh ĐN
5 Tân Phú Tỉnh ĐN
KHU (52 địa danh)
5 Bảy TT.Vĩnh An-VC 1 Ba TT.Vĩnh An-VC
2 Ba TT.Gia Ray-XL 6 Bảy Gia Ray-XL
3 Ba TT.Tân Phú-TP 7 Bảy TT.Tân Phú-TP
4 Bàu Cá An Phước-LT 8 Bốn Vĩnh An-VC
9 Bốn Gia Ray-XL 31 Mười Hai Long Đức-LT
10 Bốn TT.Tân Phú-TP 32 Mười Hai TT.Tân Phú-TP
11 Cam Xe Tân Hiệp-LT 33 Mười Lăm Long Đức-LT
12 Cầu Quan Phước Tân-LT 34 Mười Một TT.Tân Phú-TP
13 Cầu Xéo TT.LT-LT 35 Năm Vĩnh An-VC
14 Cây Xoài Tân An-VC 36 Năm Gia Ray-XL
Vĩnh An-VC 37 Năm Tân Phú 15 Chín
TT.Tân Phú-TP 38 Phước Hải TT.LT-LT 16 Chín
17 Dân Tộc Tân Hiệp-LT 39 Phước Long TT.LT-LT
Vĩnh An-VC 40 Phước Thuận TT.LT-LT 18 Hai
Gia Ray-XL 41 Quảng Ngãi Tân Hiệp-LT 19 Hai
TT.Tân Phú-TP 42 Sáu Vĩnh An-VC 20 Hai
21 Hàng Gòn Lộc An-LT 43 Sáu Gia Ray-XL
22 Kim Sơn TT.LT-LT 44 Sáu TT.Tân Phú-TP
23 Láng Đế Tân Hiệp-LT 45 Tám Mã Đà-VC
Mã Đà-VC 46 Tám Gia Ray-XL 24 Một
Xuân Tân-TXLK
Gia Ray-XL 47 Tám 25 Một
TT.Tân Phú-TP 48 Tám TT.Tân Phú-TP 26 Một
Vĩnh An-VC 49 Văn Hải TT.LT-LT 27 Mười
TT.Tân Phú-TP 50 Xuân Bình TXLK 28 Mười
29 Mười Ba Long Đức-LT TXLK 51 Xuân Thanh
30 Mười Bốn Long Đức-LT TXLK 52 Xuân Trung
KHU PHỐ (189 địa danh)
1 Ba TT.TB-TB 5 Ba Bửu Long-BH
2 Ba An Bình-BH 6 Ba Hòa Bình-BH
3 Ba Bình Đa-BH 7 Ba Hố Nai-BH
4 Ba Bửu Hòa-BH 8 Ba Long Bình-BH
Long Bình Tân- 36 Bốn An Bình-BH
9 Ba BH 37 Bốn Bình Đa-BH
10 Ba Tam Hòa-BH 38 Bốn Bửu Hòa-BH
11 Ba Tam Hiệp-BH 39 Bốn Bửu Long-BH
12 Ba Tân Hòa-BH 40 Bốn Hòa Bình-BH
13 Ba Tân Phong-BH 41 Bốn Hố Nai-BH
14 Ba Tân Hiệp-BH 42 Bốn Long Bình-BH
15 Ba Tân Biên-BH 43 Bốn Tam Hiệp-BH
16 Ba Tân Tiến-BH 44 Bốn Tân Hòa-BH
17 Ba Tân Mai-BH 45 Bốn Tân Phong-BH
18 Ba Tân Vạn-BH 46 Bốn Tân Hiệp-BH
19 Ba Thanh Bình-BH 47 Bốn Tân Biên-BH
20 Ba Thống Nhất-BH 48 Bốn Tân Tiến-BH
21 Ba Trảng Dài-BH 49 Bốn Tân Mai-BH
22 Ba Trung Dũng-BH 50 Bốn Tân Vạn-BH
Quyết Thắng-BH
23 Ba 51 Bốn Thống Nhất-BH
24 Ba Quang Vinh-BH 52 Bốn Trảng Dài-BH
25 Bảy An Bình-BH 53 Bốn Trung Dũng-BH
26 Bảy Hố Nai-BH 54 Bốn 27 Bảy Long Bình-BH 55 Bốn Quyết Thắng- BH Quang Vinh-BH 28 Bảy Tam Hiệp-BH 56 Bốn A Tân Hòa-BH 29 Bảy Tân Hòa-BH 57 Chín An Bình-BH 30 Bảy Tân Phong-BH 58 Chín Hố Nai-BH 31 Bảy Tân Biên-BH 59 Chín Long Bình-BH 32 Bảy Tân Tiến-BH 60 Chín Tam Hiệp-BH 33 Bảy Thống Nhất-BH 61 Chín Tân Hòa-BH
34 Bình Dương 62 Chín Tân Phong-BH
35 Bốn Long Bình Tân- BH TT.TB-TB 63 Chín Tân Biên-BH
64 Hai TT.TB-TB 91 Một Bình Đa-BH
65 Hai An Bình-BH 92 Một Bửu Hòa-BH
66 Hai Bình Đa-BH 93 Một Bửu Long-BH
67 Hai Bửu Hòa-BH 94 Một Hòa Bình-BH
68 Hai Bửu Long-BH 95 Một Hố Nai-BH
69 Hai Hòa Bình-BH 96 Một Long Bình-BH
70 Hai Hố Nai-BH 97 Một
71 Hai Long Bình-BH 98 Một Long Bình Tân- BH Tam Hòa-BH
99 Một Tam Hiệp-BH 72 Hai
73 Hai Long Bình Tân- BH Tam Hòa-BH 100 Một Tân Hòa-BH
74 Hai Tam Hiệp-BH 101 Một Tân Phong-BH
75 Hai Tân Hòa-BH 102 Một Tân Hiệp-BH
76 Hai Tân Phong-BH 103 Một Tân Biên-BH
77 Hai Tân Hiệp-BH 104 Một Tân Tiến-BH
78 Hai Tân Biên-BH 105 Một Tân Mai-BH
79 Hai Tân Tiến-BH 106 Một Tân Vạn-BH
80 Hai Tân Mai-BH 107 Một Thanh Bình-BH
81 Hai Tân Vạn-BH 108 Một Thống Nhất-BH
82 Hai Thanh Bình-BH 109 Một Trảng Dài-BH
83 Hai Thống Nhất-BH 110 Một Trung Dũng-BH
Quyết Thắng-BH
84 Hai Trảng Dài-BH 111 Một
85 Hai Trung Dũng-BH 112 Một Quang Vinh-BH
Quyết Thắng-BH
86 Hai 113 Mười An Bình-BH
87 Hai Quang Vinh-BH 114 Mười Hố Nai-BH
Long Bình Tân- 115 Mười Tân Hòa-BH
88 Long Điềm BH 116 Mười Tân Phong-BH
89 Một TT.TB-TB 117 Mười Tân Biên-BH
90 Một An Bình-BH 118 Mười Ba Hố Nai-BH
119 Mười Hai Hố Nai-BH 147 Sáu Hố Nai-BH
120 Mười Một An Bình-BH 148 Sáu Long Bình-BH
121 Mười Một Hố Nai-BH 149 Sáu Tam Hiệp-BH
122 Mười Một Tân Hòa-BH 150 Sáu Tân Hòa-BH
123 Mười Một Tân Phong-BH 151 Sáu Tân Phong-BH
124 Năm TT.TB-TB 152 Sáu Tân Biên-BH
125 Năm An Bình-BH 153 Sáu Tân Tiến-BH
126 Năm Bửu Hòa-BH 154 Sáu Tân Mai-BH
127 Năm Bửu Long-BH 155 Sáu Thống Nhất-BH
128 Năm Hòa Bình-BH 156 Sáu Trung Dũng-BH
129 Năm Hố Nai-BH 157 Tám An Bình-BH
130 Năm Long Bình-BH 158 Tám Hố Nai-BH
131 Năm Tam Hòa-BH 159 Tám Long Bình-BH
132 Năm Tam Hiệp-BH 160 Tám Tam Hiệp-BH
133 Năm Tân Hòa-BH 161 Tám Tân Hòa-BH
134 Năm Tân Phong-BH 162 Tám Tân Phong-BH
135 Năm Tân Hiệp-BH 163 Tám A Tân Biên-BH
136 Năm Tân Tiến-BH 164 Tám B Tân Biên-BH
137 Năm Tân Mai-BH 165 Thái Hòa Long Bình Tân- BH 138 Năm Thống Nhất-BH 166 Xuân An 1 Xuân An-TXLK
139 Năm Trảng Dài-BH 167 Xuân An 2 Xuân An-TXLK
140 Năm Trung Dũng-BH 168 Xuân An 3 Xuân An-TXLK
141 Năm A Long Bình-BH 169 Xuân An 4 Xuân An-TXLK
142 Năm A Tân Biên-BH 170 Xuân An 5 Xuân An-TXLK
143 Năm B Tân Biên-BH 171 Xuân An 6 Xuân An-TXLK
144 Phú Bình 1 Phú Bình-TXLK 172 Xuân Bình 1 145 Phú Bình 2 Phú Bình-TXLK
173 Xuân Bình 2 146 Sáu An Bình-BH Xuân Bình- TXLK Xuân Bình- TXLK
174 Xuân Bình 3 182
175 Xuân Bình 4 183
176 Xuân Hòa 1 184
177 Xuân Hòa 2 185
178 Xuân Hòa 3 186
179 Xuân Hòa 4 187 Xuân Thanh 2 Xuân Thanh 3 Xuân Thanh 4 Xuân Trung 1 Xuân Trung 2 Xuân Trung 3
188 180 Xuân Hòa 5
Xuân Trung 4 Xuân Trung 5
189 181 Xuân Thanh- TXLK Xuân Thanh- TXLK Xuân Thanh- TXLK Xuân Trung- TXLK Xuân Trung- TXLK Xuân Trung- TXLK Xuân Trung- TXLK Xuân Trung- TXLK Xuân Thanh 1 Xuân Bình- TXLK Xuân Bình- TXLK Xuân Hòa- TXLK Xuân Hòa- TXLK Xuân Hòa- TXLK Xuân Hòa- TXLK Xuân Hòa- TXLK Xuân Thanh- TXLK
PHƯỜNG (29 địa danh)
15 Tân Hiệp Biên Hòa 1 An Bình Biên Hòa
2 Bình Đa Biên Hòa 16 Tân Hòa Biên Hòa
3 Bửu Hòa Biên Hòa 17 Tân Mai Biên Hòa
4 Bửu Long Biên Hòa 18 Tân Phong Biên Hòa
5 Hòa Bình Biên Hòa 19 Tân Tiến Biên Hòa
6 Hố Nai Biên Hòa 20 Tân Vạn Biên Hòa
7 Long Bình Biên Hòa 21 Thanh Bình Biên Hòa
Long Bình 22 Thống Nhất Biên Hòa
8 Tân Biên Hòa 23 Trảng Dài Biên Hòa
9 Phú Bình TXLK Biên Hòa 24 Trung Dũng
Biên Hòa 25 Xuân An TXLK 10 Quang Vinh
11 Quyết Thắng Biên Hòa 26 Xuân Bình TXLK
12 Tam Hiệp Biên Hòa 27 Xuân Hòa TXLK
13 Tam Hòa Biên Hòa TXLK 28 Xuân Thanh
14 Tân Biên Biên Hòa TXLK 29 Xuân Trung
THÀNH PHỐ (1 địa danh)
1 Biên Hòa Tỉnh ĐN
THỊ TRẤN (8 địa danh)
Long Thành 1 Dầu Giây Thống Nhất 5 Long Thành
2 Định Quán Định Quán 6 Tân Phú Tân Phú
3 Gia Ray Xuân Lộc 7 Trảng Bom Trảng Bom
4 Long Giao Cẩm Mỹ 8 Vĩnh An Vĩnh Cửu
THỊ XÃ (1 địa danh)
Tỉnh ĐN 1 Long Khánh
THÔN (8 địa danh)
5 Một Bình Sơn-LT 1 Ba Bình Sơn-LT
2 Bảy Bình Sơn-LT 6 Mười Bình Sơn-LT
3 Chín Bình Sơn-LT 7 Mười Một Bình Sơn-LT
4 Hai Bình Sơn-LT 8 Tám Bình Sơn-LT
TIỂU KHU (12 địa danh)
1 Ba Mươi Thanh Sơn-ĐQ 7 Thanh Sơn-ĐQ Ba Mươi Lăm 2 Ba Mươi Ba Thanh Sơn-ĐQ 8 Ba Mươi Sáu Thanh Sơn-ĐQ
9 Hai Mươi Thanh Sơn-ĐQ 3 Thanh Sơn-ĐQ
4 10 Thanh Sơn-ĐQ Thanh Sơn-ĐQ
5 11 Thanh Sơn-ĐQ Thanh Sơn-ĐQ Ba Mươi Bảy Ba Mươi Bốn Ba Mươi Chín
Hai Mươi Bảy Hai Mươi Chín 12 Mười Sáu Thanh Sơn-ĐQ 6 Ba Mươi Hai Thanh Sơn-ĐQ
XÃ (136 địa danh)
1 An Hòa Long Thành 28 Gia Tân 1 Thống Nhất
2 An Phước Long Thành 29 Gia Tân 2 Thống Nhất
3 An Viễn Trảng Bom 30 Gia Tân 3 Thống Nhất
4 Bảo Bình Cẩm Mỹ 31 Giang Điền Trảng Bom
5 Bảo Hòa Xuân Lộc 32 Hàng Gòn TXLK
6 Bảo Quang TXLK 33 Hiệp Hòa Biên Hòa
7 Bảo Vinh TXLK 34 Hiệp Phước Nhơn Trạch
8 Bàu Cạn Long Thành 35 Hiếu Liêm Vĩnh Cửu
9 Bàu Hàm Trảng Bom 36 Hóa An Biên Hòa
10 Bàu Hàm 2 Thống Nhất 37 Hố Nai 3 Trảng Bom
11 Bàu Sen TXLK 38 Hưng Lộc Thống Nhất
12 Bàu Trâm TXLK 39 Hưng Thịnh Trảng Bom
13 Bắc Sơn Trảng Bom 40 La Ngà Định Quán
14 Bình An Long Thành 41 Lang Minh Xuân Lộc
15 Bình Hòa Vĩnh Cửu 42 Lâm San Cẩm Mỹ
16 Bình Lộc TXLK 43 Long An Long Thành
17 Bình Lợi Vĩnh Cửu 44 Long Đức Long Thành
18 Bình Minh Trảng Bom 45 Long Giao Cẩm Mỹ
19 Bình Sơn Long Thành 46 Long Hưng Long Thành
20 Cẩm Đường Long Thành 47 Long Phước Long Thành
21 Cây Gáo Trảng Bom 48 Long Tân Nhơn Trạch
22 Đại Phước Nhơn Trạch 49 Long Thọ Nhơn Trạch
23 Đak Lua Tân Phú 50 Lộ 25 Thống Nhất
24 Đồi 61 Trảng Bom 51 Lộc An Long Thành
25 Đông Hòa Trảng Bom 52 Mã Đà Vĩnh Cửu
Nam Cát 26 Gia Canh Định Quán
53 Tiên Tân Phú 27 Gia Kiệm Thống Nhất
54 Ngọc Định Định Quán 82 Phước Khánh Nhơn Trạch
55 Nhân Nghĩa Cẩm Mỹ 83 Phước Tân Long Thành
56 Núi Tượng Tân Phú 84 Phước Thái Long Thành
57 Phú An Tân Phú 85 Phước Thiền Nhơn Trạch
58 Phú Bình Tân Phú 86 Quang Trung Thống Nhất
59 Phú Cường Định Quán 87 Quảng Tiến Trảng Bom
60 Phú Điền Tân Phú 88 Sông Nhạn Cẩm Mỹ
61 Phú Đông Nhơn Trạch 89 Sông Ray Cẩm Mỹ
62 Phú Hòa Định Quán 90 Sông Thao Trảng Bom
63 Phú Hội Nhơn Trạch 91 Sông Trầu Trảng Bom
64 Phú Hữu Nhơn Trạch 92 Suối Cao Xuân Lộc
65 Phú Lâm Tân Phú 93 Suối Cát Xuân Lộc
66 Phú Lập Tân Phú 94 Suối Nho Định Quán
67 Phú Lộc Tân Phú 95 Suối Trầu Long Thành
68 Phú Lợi Định Quán 96 Suối Tre TXLK
69 Phú Lý Vĩnh Cửu 97 Tà Lài Tân Phú
70 Phú Ngọc Định Quán 98 Tam An Long Thành
71 Phú Sơn Tân Phú 99 Tam Phước Long Thành
72 Phú Tân Định Quán 100 Tân An Vĩnh Cửu
73 Phú Thanh Tân Phú 101 Tân Bình Vĩnh Cửu
74 Phú Thạnh Nhơn Trạch 102 Tân Hạnh Biên Hòa
75 Phú Thịnh Tân Phú 103 Tân Hiệp Long Thành
76 Phú Trung Tân Phú 104 Tây Hòa Trảng Bom
77 Phú Túc Định Quán 105 Thanh Bình Trảng Bom
78 Phú Vinh Định Quán 106 Thanh Sơn Định Quán
79 Phú Xuân Tân Phú 107 Thanh Sơn Tân Phú
80 Phước An Nhơn Trạch 108 Thạnh Phú Vĩnh Cửu
81 Phước Bình Long Thành 109 Thiện Tân Vĩnh Cửu
110 Thừa Đức Cẩm Mỹ 124 Xuân Hưng Xuân Lộc
111 Trà Cổ Tân Phú 125 Xuân Lập TXLK
112 Trị An Vĩnh Cửu 126 Xuân Mỹ Cẩm Mỹ
113 Trung Hòa Trảng Bom 127 Xuân Phú Xuân Lộc
114 Túc Trưng Định Quán 128 Xuân Quế Cẩm Mỹ
115 Vĩnh Tân Vĩnh Cửu 129 Xuân Tân TXLK
116 Vĩnh Thanh Nhơn Trạch 130 Xuân Tâm Xuân Lộc
117 Xuân Bảo Cẩm Mỹ 131 Xuân Tây Cẩm Mỹ
118 Xuân Bắc Xuân Lộc 132 Xuân Thành Xuân Lộc
119 Xuân Định Xuân Lộc 133 Xuân Thạnh Thống Nhất
120 Xuân Đông Cẩm Mỹ 134 Xuân Thiện Thống Nhất
121 Xuân Đường Cẩm Mỹ 135 Xuân Thọ Xuân Lộc
Xuân 122 Xuân Hiệp Xuân Lộc
136 Trường Xuân Lộc 123 Xuân Hòa Xuân Lộc
3. ĐỊA DANH CHỈ CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG
BẾN (2 địa danh)
1 Giồng Sắn Phú Đông-NT 2 Mương Điều Nhơn Trạch
BẾN ĐÒ (8 địa danh)
1 An Hảo Bình Đa-BH 5 Long Kiểng Hiệp Hòa-BH
2 Bà Miêu Thạnh Phú-VC 6 Mỹ Quới Bình Lợi-VC
3 Bình Thới Bình Hòa-VC 7 Phước Khánh Phước Khánh-NT
4 Kho Hiệp Hòa-BH 8 Trạm Bửu Long-BH
BẾN PHÀ (1 địa danh)
1 107 Thanh Sơn-ĐQ
BẾN XE (11 địa danh)
1 Biên Hòa Quang Vinh-BH 7 Ngã Tư Vũng Tàu Long Bình Tân- BH 2 Bảo Bình Bảo Bình-CM 8 Nhơn Trạch Hiệp Phước-NT
3 Cẩm Mỹ Cẩm Mỹ-CM 9 Tân Phú TT.Tân Phú-TP
4 Đồng Nai Bình Đa-BH 10 Trị An TT.Vĩnh An-VC
11 Xuân Lộc TT.Gia Ray-XL 5 Long Khánh Xuân Trung- TXLK
6 Long Thành Long An-LT
BÙNG BINH (4 địa danh)
1 Biên Hùng Biên Hòa 3 Tam hiệp Biên Hòa
Ngã Ba 4 Tân Phong Biên Hòa
2 Vũng Tàu Biên Hòa
CẢNG (17 địa danh)
10 Phước Khánh Phước Khánh-NT 1 Đồng Nai
11 Phước Thái-LT 2 Gas PVC Phước Thái
3 Gò Dầu A Long Bình Tân- BH KCN Gò Dầu- LT Phước Thái-LT Nhơn Trạch 12 4 Gò Dầu B Phước Thái-LT Phước Thái (VEDAN) Quân Sự Thành Tuy Hạ 13 Thị Vải Phước An-NT
5 Long Bình Tân 14 Trâm Anh 6 Long Thành Long Bình Tân- BH Phước Thái-LT 15 Unique Gas Phước Khánh- NT Phước Thái-LT 7 Phú Đông Phú Đông-NT
16 8 Phú Hữu Phú Hữu-NT
9 Phước An Phước An-NT 17 VLXDKCN Ông Kèo VIKO WOCHIMEX Phước Khánh- NT Phước Khánh- NT
CẦU (253 địa danh)
1 2 Cống Xuân Lộc 28 Bà Xanh Biên Hòa
2 4 Cống Cẩm Mỹ 29 Bản Xuân Thọ-XL
3 6 Cống Xuân Lộc 30 Bản Cẩm Mỹ
4 7 Cống Xuân Lộc 31 Bản 2 Xuân Lộc
5 9 Cống Xuân Lộc 32 Bản 3 Xuân Lộc
6 12 Cống Xuân Lộc 33 Bản Cù Long Thành
7 13 Cống Xuân Lộc 34 Bào Tam Hiệp-BH
8 18 Cống Xuân Lộc 35 Bàu Me TT.Vĩnh An-VC
9 21 Cống Xuân Lộc 36 Bảy Bé Nhơn Trạch
10 4 Đập Tràn Xuân Lộc 37 Bảy Lớn Nhơn Trạch
11 Xuân Lộc 38 Long Thành Bến Đò Láng Lùng
6 Mương Cống 12 19 Tháng 5 Trảng Bom 39 Bình An Biên Hòa
40 Bình Lộc TXLK 13 Long Thành An Hòa - Long Hưng 41 Bốn Thước Xuân Thọ-XL 14 An Định Long Thành
42 Bù Mắc Nhơn Trạch 15 An Viễn Trảng Bom
43 C1 Trảng Bom 16 Ấp 3 Xuân Lộc
44 C2 Trảng Bom 17 Ấp 4 Sông Nhạn-CM
45 C3 Trảng Bom 18 Ấp 5 Lộ 25-TN
46 Các Hảo Long Thành 19 Ba Gia Tân 3-TN
47 Cây Khô Thiện Tân-VC 20 Ba A Phú Khánh-NT
Quang Trung-TN
48 Cây Ngã Long Hưng-LT 21 Ba Bôi
22 Ba Cao TXLK 49 Cha
23 Ba Dũa Tây Hòa-TB 50 Chà Là Quang Trung- TN Nhơn Trạch
24 Ba Đài Định Quán 51 Cháy Nhơn Trạch
25 Bà Độ Nhơn Trạch 52 Chôm Chôm Đông Hòa-TB
26 Bà Lồ Tân Vạn-BH 53 Chùm Bao Vĩnh Cửu
Quang Trung-TN
27 Bà Thập 54 Công An Trảng Bom
55 Công Bi Tây Hòa-TB 83 Hai Tèo Nhơn Trạch
56 Đa Kiốt Định Quán 84 Hải Lửa Nhơn Trạch
57 Đá Kè Vĩnh Cửu 85 Hang Hóa An-BH
58 Đại An Tân An-VC 86 Hóa An Biên Hòa
59 Đại Điền Nhơn Trạch 87 Hòa Bình TXLK
Bàu Trâm-TXLK
60 Đoàn Kết Nhơn Trạch 88 Hòa Hợp
Hồ Suối 61 Đông Bắc Gia Kiệm-TN
89 Vọng Cẩm Mỹ 62 Đông Kim Thống Nhất
90 Kênh Xáng Phú Khánh-NT 63 Đồng Khởi Biên Hòa
Quang Trung-TN
91 Khỉ 64 Đồng Nai Tỉnh ĐN
92 Kinh Vĩnh Cửu 65 Đồng Tràm Biên Hòa
93 La Ngà La Ngà-ĐQ 66 Đúc Biên Hòa
94 Lái Nguyên Long Hưng-LT 67 Đức Huy Thống Nhất
95 Lò Rèn Long Thành 68 Ghềnh Biên Hòa
96 Lò Trà Long Thành 69 Gia Đức Bàu Hàm 2-TN
Long Bình 70 Gia Lào Suối Cao-XL
Tân Biên Hòa 97 71 Gia Liêu Phú Bình-TXLK
98 Mạch Bà Nhơn Trạch 72 Gia Ui Xuân Lộc
99 Mát Biên Hòa 73 Giang Điền Trảng Bom
100 Mên Long Thành 74 Gió Bay Xuân Lộc
101 Mít Nhơn Trạch 75 Gỗ Long Thành
102 Mít Vĩnh Cửu 76 Gờ Thanh Nhơn Trạch
103 Một Gia Tân 3-TN 77 Hai Gia Tân 3-TN
104 Mù U Nhơn Trạch 78 Hai Cường Nhơn Trạch
105 Mười Thêm Nhơn Trạch 79 Hai Được Phú Khánh-NT
106 Mười Thôi Nhơn Trạch 80 Hai Linh Nhơn Trạch
107 Mương Sao Tân Tiến-BH 81 Hai Minh Phú Khánh-NT
Phước Khánh-NT
108 Năm Bôn Long Tân-NT 82 Hai Mới
109 Năm Danh Nhơn Trạch 136 Phước Lý Nhơn Trạch
Quang Trung-TN
110 Năm Phu 137 Rạch Bàng
111 Năng Cô Định Quán 138 Rạch Cát Phước Khánh- NT Biên Hòa
112 Ngang Phước Thiền-LT 139 Rạch Chạy Long Tân-NT
113 Nước Trong Long Thành 140 Rạch Chiếc Long Thành
Quang Trung-TN
114 Ông Biên 141 Rạch Dừa Long Thành
115 Ông Bố Xuân Thiện-TN 142 Rạch Giá Tân Phong-BH
143 Rạch Gốc Bửu Long-BH 116 Ông Gia
117 Ông Giang Long Bình Tân- BH Lộ 25-TN 144 Rạch Lung Bửu Long-BH
Quang Trung-TN
118 Ông Giáp 145 Rạch Sỏi Tân Hạnh-BH
119 Ông Giàu Nhơn Trạch 146 Sa Cá Long Thành
120 Ông Hoàng Thống Nhất 147 Sáu Sự Nhơn Trạch
121 Ông Mạnh Nhơn Trạch 148 Sáu Trường Nhơn Trạch
149 Sáu Xem Phú Khánh-NT 122 Ông Nguyên Quang Trung-TN
123 Ông Nhện TXLK 150 Săn Máu Trảng Dài-BH
Quang Trung-TN
124 Ông Nho 151 Sắt Sông Trầu-TB
125 Ông Tiếp Bửu Long-BH 152 Sắt Sông Thao-TB
126 Ông Tổng Tân An-VC 153 Sập Tân Hiệp-BH
127 Ông Tửu Bình Đa-BH 154 Số 1 Định Quán
Quang Trung-TN
128 Ông Vịnh 155 Số 1 Trảng Bom
129 Ông Yêu Long Hưng-LT 156 Số 1
130 Phú Hữu Nhơn Trạch 157 Số 1 Xuân Đường- CM Lộ 25-TN
131 Phú Tân 1 Phú Đông-NT 158 Số 1 Long Thành
132 Phú Tân 2 Phú Đông-NT 159 Số 1 Phú Hữu-NT
133 Phước Bình Long Thành 160 Số 2 Cẩm Mỹ
134 Phước Hưng Xuân Lộc 161 Số 2 Định Quán
Phước Phước Khánh-
162 Số 2 135 Khánh NT Xuân Đường- CM
163 Số 2 Long Thành 191 Suối Dâu Tây Hòa-TB
164 Số 2 Phú Ngọc-ĐQ 192 Suối Dui Định Quán
165 Số 3 Lộ 25-TN 193 Suối Đá Định Quán
166 Số 3 Long Thành 194 Suối Đá Bàn Trung Hòa – TB
167 Số 4 Long Thành 195 Suối Đĩa Thống Nhất
168 Số 5 Long Thành 196 Suối Độn Long Thành
169 Số 5 Lộ 25-TN 197 Suối Đục Xuân Lộc
170 Số 6 Trảng Bom 198 Suối Đục Định Quán
171 Số 10 Trảng Bom 199 Suối Hai Cẩm Mỹ
172 Số 61 Trảng Bom 200 Suối Hòn Xuân Thanh-TN
173 Sông Buông Phước Tân-LT 201 Suối Mây Định Quán
174 Sông Dinh Tây Hòa-TB 202 Suối Nhác Định Quán
175 Sông Nhạn Lộ 25-TN 203 Suối Linh Long Bình-BH
176 Sông Ray Xuân Lộc 204 Suối Lức Xuân Đông-CM
177 Sông Ray Cẩm Mỹ 205 Suối Phèn 2 Long Thành
178 Sông Thao Trảng Bom 206 Suối Phèn 3 Long Thành
179 Sông Ui Xuân Lộc 207 Suối Ràng Vĩnh Cửu
180 Suối 2 Xuân Lộc 208 Suối Râm Xuân Quế-CM
181 Suối 2 Cẩm Mỹ 209 Suối Sách Cẩm Mỹ
182 Suối 4 Cẩm Mỹ 210 Suối Son Định Quán
183 Suối Bí Lộ 25-TN 211 Suối Thề Cẩm Mỹ
184 Suối Bí Xuân Thanh-TN 212 Suối Trần Long Thành
185 Suối Bom Vĩnh Cửu 213 Suối Tre Xuân Lộc
186 Suối Cả Long Phước-LT 214 Suối Tre Trung Hòa-TB
187 Suối Cạn Định Quán 215 Suối Vác Định Quán
188 Suối Cạn Gia Tân 1-TN 216 Tam An Long Thành
189 Suối Cát Suối Cát-XL 217 Tam Bung Định Quán
190 Suối Chùa Long Bình-BH 218 Tam Phước Long Thành
219 Tám Nở Nhơn Trạch 236 Tính Nghĩa Xuân Thiện-TN
220 Tám Thủ Nhơn Trạch 237 Trắng Xuân Lộc
221 Tân Bản Bửu Hòa-BH 238 Biên Hòa Trần Quốc Toản 222 Tân Bình Bảo Bình-CM 239 Trường Học Nhơn Trạch
223 Tân Hiệp Tân Phong-BH 240 Út Giao Phú Khánh-NT
224 Tân Triều Tân Bình-VC 241 Út Phượng Nhơn Trạch
225 Tây Kim Thống Nhất 242 Út Xiêm Nhơn Trạch
243 Vạc Long Thành 226 Gia Kiệm-TN Tây Kim Cống 3
227 Tây Nam Gia Kiệm-TN 244 Vàm Mương Nhơn Trạch
228 Thái Thiện Xuân Phú-XL 245 Vạt Tân Mai-BH
229 Thiết Kế Định Quán 246 Vạt Long Thành
230 Thủ Biên Vĩnh Cửu 247 Võ Vĩnh Cửu
231 Thủ Huồng Bửu Hòa-BH 248 Võ Dõng Gia Kiệm-TN
232 Thủy Lợi Gia Tân 1-TN 249 Võ Dõng 1 Gia Kiệm-TN
233 Thủy Lợi Xuân Lộc 250 Vùng 8 Gia Kiệm-TN
234 Thủy Lợi Xuân Thiện-TN 251 Vũng Gấm Nhơn Trạch
Bàu Trâm- 252 Vượt Biên Xuân Lộc
TXLK 235 Thủy Lợi 253 Xẻo Lắc Long Tân-NT
CHIẾN KHU (3 địa danh)
1 Bình Đa Biên Hòa 3 Hố Cạn Trảng Dài-BH
2 Đ Vĩnh Cửu
CHỢ (221 địa danh)
105 - Phú 1 13 - Phú Lập Phú Lập-TP
4 Ngọc Phú Ngọc-ĐQ 2 102- La Ngà La Ngà-ĐQ
5 A 42 Trung Dũng-BH 104 - Phú
3 Ngọc Phú Ngọc-ĐQ 6 An Bình An Bình-BH
7 An Chu Bắc Sơn-TB 30 Bảo Định Bảo Định-XL
8 An Hảo An Bình-BH 31 Bảo Hòa Bảo Hòa-XL
Xuân Lập-TXLK
9 An Lộc 32 Bảo Quang
10 An Viễn An Viễn-TB 33 Bảo Vinh Bảo Quang- TXLK Bảo Vinh-TXLK
Bảo Quang-XLK
11 An Viễng Bình An-LT 34 Bàu Cối
12 Ấp 3 Xuân Hưng-LT 35 Bàu Hàm Bàu Hàm-TB
Bàu Cạn-LT 36 Bàu Xéo Tây Hòa-TB 13
37 Bể Bạc Xuân Đông-CM 14 Long Thọ-NT
38 Bến Gỗ An Hòa-LT 15 Xuân Đưòng- CM 39 Bến Phà 107 Ngọc Định-ĐQ
16 Xuân Tây-CM 40 Thanh Sơn-ĐQ Bến Phà Thanh Sơn 17 Phước Bình-LT 41 Biên Hòa Thanh Bình-BH
42 Bình Đa Bình Đa-BH 18 Xuân Hưng-XL
43 Bình Hòa Xuân Phú-XL 19 Xuân Đường- CM 44 Bình Hóa Hóa An-BH
20 Hiệp Phước-NT 45 Bình Sơn Bình Sơn-LT
46 Bình Xuân Xuân Thọ-XL 21 Thừa Đức-CM
47 Bờ Hồ TT. Trảng Bom 22 Long Thọ-NT 48 Bửu Hòa Bửu Hòa-BH
23 Thừa Đức-CM 49 Bửu Long Bửu Long-BH Ấp 1 - Bàu Cạn Ấp 1 - Long Thọ Ấp 1 - Xuân Đường Ấp 1 - Xuân Tây Ấp 2 – Phước Bình Ấp 2 - Xuân Hưng Ấp 2 - Xuân Đường Ấp 3 - Hiệp Phước Ấp 3 - Thừa Đức Ấp 4 - Long Thọ Ấp 4 - Thừa Đức
24 Ấp 5 - Lộ 25 Lộ 25-TN 50 Cẩm Đường Cẩm Đường-LT
51 Cây Chàm Quang Vinh-BH 25 Bàu Cạn-LT
52 Cây Điệp Cây Gáo-TB 26 An Phước-LT 53 Cây Gáo Cây Gáo-TB
27 Xuân Tây-CM 54 Cây Me Xuân Thiện-TN
28 Xuân Hiệp-XL 55 Ấp 6 - Bàu Cạn Ấp 8 - An Phước Ấp 10 - Xuân Tây Ấp Tam Hiệp Bàu Hàm 2- TN
29 Bảo Bình Bảo Bình-CM TT.LT-LT 56 Chiều Bàu Hàm Chiều Cầu Xéo
82 Hội Am Hố Nai-BH 57 Phú Bình-TP
83 Hưng Lộc Hưng Lộc-TN 58 Túc Trưng-ĐQ 84 Hưng Long Hưng Thịnh-TB
59 Xuân Thạnh-TN 85 Hưng Thịnh Hưng Thịnh-TB
Chiều Phú Bình Chiều Túc Trưng Chín Tháng Tư 60 Cọ Dầu Xuân Đông-CM 86 KCN Bắc Sơn-TB
61 Dầu Giây Bàu Hàm 2-TN 87 Khu 10 Xuân Tây-CM
62 Dốc Mơ Gia Tân 1-TN 88 Sông Trầu-TB Km 5 - Sông Trầu 63 Dốc Sỏi Trung Dũng-BH 89 TT.Vĩnh An-VC
64 Tân An-VC 90 Long Bình-BH Đại An - Tân An 65 Đại Phước Đại Phước-NT
91 Bửu Long-BH 66 Đak Lua Đăk Lua-TP
67 Định Quán TT.ĐQ-ĐQ 92 Tân Biên-BH
68 Đồi 61 Đồi 61-TB 93 Bửu Long-BH
69 Đông Hòa Đông Hòa-TB 94 Tân Biên-BH 70 Đồng Khởi Đồng Khởi-BH
95 Tân Biên-BH 71 Trung Dũng-BH
96 Long Bình-BH 72 TT. Định Quán
97 Long Bình-BH KP 1 KP 2 - Long Bình KP 3 - Bửu Long KP 4 - Tân Biên KP 5 - Bửu Long KP 6 - Tân Biên KP7 - Tân Biên KP 7 - Long Bình KP 4,5 - Long Bình 73 Gia Canh-ĐQ Ga Biên Hòa Gia Canh (TT) Gia Canh (xã) 98 Kỷ Niệm Quang Vinh-BH
74 Gia Ray 99 La Ngà Định Quán Xuân Trường- XL
75 Giang Điền Giang Điền-TB 100 Lang Minh Lang Minh-XL
101 Láng Me Xuân Đông-CM 76 Hàng Gòn
102 Lâm San Lâm San-CM 77 Hãng Dầu
78 Hiệp Hòa Hàng Gòn- TXLK Quyết Thắng- BH Hiệp Hòa-BH 103 Thanh Sơn-ĐQ
Quang Trung-TN
79 Hiếu Liêm Hiếu Liêm-VC Lâm Trường 3 104 Lê Lợi
80 Hòa Bình Tân Hòa-BH 105 Lò Bò Thanh Bình-BH
81 Hóa An Hóa An-BH 106 Long An Long An-LT
134 Phú Tân Phú Tân-ĐQ 107 Long Bình Tân Long Bình Tân- BH 135 Phú Thạnh Phú Thạnh-NT 108 Long Đức 1 Long Thành
136 Phú Túc Phú Túc-ĐQ 109 Long Giao Long Giao-CM
137 Phú Vinh Phú Vinh-ĐQ 110 Long Khánh 138 Phú Xuân Phú Xuân-TP 111 Long Phú Xuân Trung- TXLK Phước Thái-LT 139 Phúc Nhạc Gia Tân 3-TN 112 Long Thành TT.LT-LT 140 Phước An Phước An-NT 113 Lộc Hòa Tây Hòa-TB 141 Phước Hòa Long Phưóc-LT 114 Mã Đà Mã Đà-VC
142 115 Phước Khánh 143 Phước Tân Phước Khánh- NT Phước Tân-LT Nam Cát Tiên 116 Nam Hà Nam Cát Tiên- TP Nam Hà-CM 144 Phước Thái Phước Thái-LT 117 Ngã Ba 107 Ngọc Định-ĐQ 145 Phước Thiền Phước Thiền-NT 118 Nguyễn Huệ Quang Trung-TN Phương
119 Nhân Nghĩa Nhân Nghĩa-CM 146 Lâm Phú Lâm-TP
147 Quảng Biên Quảng Tiến-TB 120 Bình Minh-TB Nhỏ Tân Bắc
121 Núi Tượng Núi Tượng-TP 148 Rạch Đông Tân An-VC
122 Phú Cường Phú Cường-ĐQ 149 Sặt Tân Biên-BH
123 Phú Điền Phú Điền-TP 150 Số 6 Hố Nai-BH
124 Phú Đông Phú Đông-NT 151 Sông Nhạn Sông Nhạn-CM
125 Phú Hòa Phú Hòa-ĐQ 152 Sông Ray Sông Ray-CM
126 Phú Hội Phú Hội-NT 153 Sông Thao Sông Thao-TB
127 Phú Hữu Phú Hữu-NT 154 Suối Cát Suối Cát - XL
128 Phú Lập Phú Lập-TP 155 Suối Nhát Xuân Đông-CM
129 Phú Lộc Phú Lộc-TP 156 Suối Nho Suối Nho-ĐQ
130 Phú Lợi Phú Lợi-ĐQ 157 Suối Quýt Cẩm Đường-LT
131 Phú Lý Phú Lý-VC 158 Suối Tre Suối Tre-TXLK
Xuân Lập-TXLK
132 Phú Mỹ 159 Tà Lài Phú Lộc-TP
133 Phú Sơn Phú Sơn-TP 160 Tam An Tam An-LT
161 Tam Hiệp Tam Hiệp-BH 189 Trảng Dài Trảng Dài-BH
162 Xuân Hiệp-XL 190 Xuân Thạnh-TN Trần Hưng Đạo
Tam Hiệp - Xuân Lộc 163 Tam Hòa Tam Hòa-BH 191 Trị An Trị An-VC
164 Tam Phước Tam Phước-LT 192 Trường An Thanh Bình-TB
165 Tân Bình Tân Bình-VC 193 TT.Định Quán TT. Định Quán 166 Tân Hạnh Tân Hạnh-BH 194 TT. Gia Ray TT.Gia Ray-XL
167 Tân Hiệp Tân Hiệp-BH 195 TT.Long Thành TT. Long Thành 168 Tân Hiệp Tân Hiệp-LT 196 TT. Tân Phú TT.Tân Phú
169 Phước Thái-LT 197 TT. Vĩnh An TT.Vĩnh An-VC Tân Hiệp - Long Thành
170 Tân Hữu Xuân Thành-XL TX. Long Xuân Trung-
171 Tân Lập Lộ 25-TN 198 Khánh TXLK
172 Tân Mai Tân Mai-BH 199 Việt Kiều Xuân Hiệp-XL
173 Tân Mai 2 Phước Tân-LT 200 Phú Ngọc-ĐQ Vĩnh An - La Ngà 174 Tân Phong Tân Phong-BH 201 Vĩnh Tân Vĩnh Tân-VC 175 Tân Tiến Tân Tiến-BH 202 Vĩnh Thanh Vĩnh Thanh-NT 176 Tân Vạn Tân Vạn-BH 203 Võ Dõng Gia Kiệm-TN 177 Tây Hòa Tây Hòa-TB
204 Tân Hạnh-BH 178 Thái Bình Tân Hòa-BH
Xã Tân Hạnh 205 Xuân Bảo Xuân Bảo-CM 179 Thanh Hóa Hố Nai 3-TB
206 Xuân Bắc Xuân Bắc-XL 180 Thánh Tâm Tân Hòa-BH
207 Xuân Đà Xuân Tâm-XL 181 Thạnh Phú Thạnh Phú-VC
Xuân Xuân Đường- 182 Thọ Bình Xuân Lộc
Đường CM 208 183 Thọ Lộc Xuân Thọ-XL
209 Xuân Hòa Xuân Hòa-XL 184 Thống Nhất Thống Nhất-BH
Xuân Lập- 185 Thừa Đức Thừa Đức-CM
TXLK 210 Xuân Lập 186 Trà Cổ Bình Minh-TB
211 Xuân Lộc TT. Gia Ray 187 Trà Cổ TT.TP-TP
212 Xuân Lữ Xuân Lộc 188 Trảng Bom TT.TB-TB
213 Xuân Mỹ Xuân Mỹ-CM 218 Xuân Thạnh Xuân Thạnh-TN
214 Xuân Quế Xuân Quế-CM 219 Xuân Thiện Xuân Thiện-TN
220 Xuân Thọ Xuân Thọ-XL 215 Xuân Tân
221 Xuân Lộc 216 Xuân Tây Xuân Tân- TXLK Xuân Tây-XL Xuân Trường
217 Xuân Thanh Xuân Thanh- TXLK
CÔNG VIÊN (11 địa danh)
1 30 tháng tư Biên Hòa 8 Long Bình Long Bình-BH
2 Biên Hùng Trung Dũng-BH 9 Nguyễn Văn Trị -BH
3 Biên Hòa
Xuân Hòa-TXLK
4 Biên Hòa Biên Hòa 10 Nguyễn Văn Trị Tượng Đài Chiến Thắng Sân Bay Biên Hòa Cách Mạng Tháng Tám Chiến thắng Long Bình 5 Hòa Bình 11 Quyết Thắng Hà Huy Giáp- BH 6 Hòa Bình Phú Bình-LK
7 Giồng Sắn Phú Đông-NT
CỐNG (12 địa danh)
7 Lớn Long Thành 1 Bà Mai Sông Trầu-TB
Quang Trung-TN
2 Chợ 8 Ông Lan Long Thành
Quang Trung-TN
Quang Trung-TN
3 Đội Sinh 9 Ông Quận
Quang Trung-TN
4 Hộp Xuân Lộc 10 Ông Tài
5 Lò Rèn Long Thọ-NT 11 Số 1 Định Quán
6 Long Khánh Long Thành 12 Suối Dẹp Nhơn Trạch
CƯ XÁ (2 địa danh)
2 Phúc Hải Tân Phong-BH 1 Năm Tầng Thống Nhất-BH
ĐẬP (91 địa danh)
1 Ấp 4 Phước Bình-LT 27 Cù Nhí Sông Ray-XL
Xuân Lập-TXLK
2 Ba Cầu Phú Cường-ĐQ 28 Da Dách
3 Bà Ký Long Thành 29 Đại Úy Hùng
4 Bà Sáu Bé Bàu Hàm 2 - TN 30 Đồng Háp Xuân Trường- XL TXLK
5 Bàu Đục TXLK 31 Đồng Hiệp Phú Điền-TP
Hàng Gòn-TXLK
6 Bàu Môn 32 Gầu Mên Suối Cao-XL
7 Bàu Sen Bàu Sen-TXLK 33 Gia Chấp TXLK
8 Bàu Tre Long Thành 34 Gia Huynh Xuân Thành-XL
9 Bình Hòa Xuân Thành-XL 35 Gia Liêu 1 Xuân Phú-XL
10 Bình Tân Xuân Phú-XL 36 Gia Liêu 2 Xuân Phú-XL
11 Bình Xuân 1 Xuân Phú-XL 37 Gia Tôn Sông Trầu-TN
12 Bình Xuân 2 Xuân Phú-XL 38 Gia Yên Thống Nhất
13 Bỉnh Gia Tân 2-TN 39 Hòa Bình TXLK
14 Cắm Đầu Xuân Bắc-XL 40 Hố Muồng Tân An-VC
15 Cầu 3 Suối Cát-XL 41 Kiểm Lâm Phú Cường-ĐQ
16 Cầu Cường Gia Kiệm-TN 42 Lác Chiếu Hàng Gòn- 43 Long An Bảo Quang- TXLK Long An-LT TXLK 17 Cầu Dầu
44 Long Phú Phước Thái-LT 18 Cầu Máng Bàu Hàm 2-TN
45 Năm Sao Phú Bình-TP 19 Cầu Quang An Hòa-LT
46 Ông Công Bàu Hàm 2-TN 20 Cầu Số 3 Sông Trầu-TB
47 Ông Hải Phú An-TP 21 Cầu Số 7 Sông Trầu-TB
22 Cầu Trắng Định Quán 48 Ông Kèo
23 Cầu Ván Phú Cường-ĐQ 49 Ông Loan Phước Khánh- NT Phú An-TP
24 Cây Chanh Phước Bình-LT 50 Ông Ngọc Phú An-TP
25 Cây Da Xuân Thiện-TN 51 Ông Thọ Gia Tân 2-TN
26 Chín/Bốn TXLK 52 Ông Tư Phú An-TP
53 Ông Út Méo Phú An-TP 73 Suối Khỉ Xuân Thành-XL
54 Phú Tân Phú Tân-ĐQ 74 Suối Le Tân Hiệp-LT
55 Phước Thái Phước Bình-LT 75 Suối Mủ Hưng Lộc-TN
56 Ruộng Lớn TXLK 76 Suối Nóng Xuân Hòa-XL
57 Sa Cá Bình An-LT 77 Xuân Phú-XL
58 Sân Bay TXLK 78 Suối Cát-XL 59 Sông Thao Bàu Hàm-TN Suối Nước Trong Suối Nước Trong 79 Suối Rết Sông Trầu-TB 60 Sông Trầu Sông Trầu-TB 80 Suối Sâu Vĩnh Tân-VC 61 Suối Bí Hưng Lộc-TN
81 Suối Sấu 62 Suối Cao Xuân Thành-XL
82 Suối Tre Sông Nhạn- TXLK TXLK 63 Suối Cả Long Phước-LT
83 Suối Xoài Xuân Hòa-XL 64 Suối Chồn 84 Tàu Kem Phú Túc-ĐQ 65 Suối Dâu Bảo Vinh- TXLK Tây Hòa-TN 85 Tân Hiệp Biên Hòa
66 Tân An-VC 86 Tràn Vĩnh Cửu
Suối Dê Chạy 67 Suối Dui Trúc Trưng-ĐQ 87 Tư Miên Phú An-TP
68 88 Vàm Hô Tà Lài-TP
Suối Đá Bàng 69 Suối Đôi Xuân Lập- TXLK Xuân Thành-XL 89 Vũng Gấm Phước An-NT
Bảo Vinh-TXLK
70 Suối Háp 90 Xuân Hòa Xuân Hòa-XL
71 Suối Heo Xuân Thành-XL 91 Xuân Thanh TXLK
Xuân Trường-XL
72 Suối Khỉ
ĐỊA ĐẠO (3 địa danh)
3 Tam Phước Tam Phước-LT 1 Nhơn Trạch Long Thọ-NT
2 Suối Linh Hố Nai-TB
ĐƯỜNG (284 địa danh)
Định Quán 1 13
Nhơn Trạch 27 Trảng Bom 2 15
Ấp Giồng Xã Phú Đông 28 B7-A10 Tân Phú Trảng Bom 3 20
29 Ba Tiều TXLK Nhơn Trạch 4 25
30 Bà Ký Long Thành La Ngà-ĐQ 5 101
31 Bảo Vinh A Bảo Vinh-TXLK Phú Ngọc-ĐQ 6 104
32 Bảo Vinh B Bảo Vinh-TXLK Phú Ngọc-ĐQ 7 105
Bảo Vinh - Ngọc Định-ĐQ 8 107
33 Bảo Quang TXLK 9 118 Phú Vinh-ĐQ
34 Bàu Tràm TXLK 10 120 Phú Tân-ĐQ
11 319 Vĩnh Thanh-NT 35 Biên Hòa
12 908 TXLK 36 Bửu Long-BH 13 29/4 Trảng Bom Bến Đò COGIDO Bến Đò Trạm 37 Bến Nôm Phú Cường-ĐQ 14 29/8 Trảng Bom 38 Bình Kính Hiệp Hòa - BH 15 30/4 Trảng Bom 39 Bình Lộc Bình Lộc-TXLK 16 30/4 Tân Phú
40 BH 17 600A Tân Phú
18 25B Long Thành 41 TXLK
19 25B Nhơn Trạch 42 TB 20 319B Nhơn Trạch
43 BH 21 2 tháng 9 Trảng Bom
22 3 tháng 2 Trảng Bom 44 BH
23 17 Tháng 3 Định Quán Bùi Hữu Nghĩa Bùi Thị Xuân Bùi Thị Xuân Bùi Trọng Nghĩa Bùi Văn Hòa 45 Cao Cang ĐQ
24 30 Tháng 4 Biên Hòa 46 BH
25 Trảng Bom TXLK 47
TB 48 Nhơn Trạch 26 Cách Mạng Tháng 8 Cách Mạng Tháng 8 Cáng Mạng Tháng 8 An Dương Vương Ấp 3 Xã Phước Khánh
49 Cầu Trắng ĐQ 72 Đê Ông Kèo NT
50 Cầu Ván Phú Túc-ĐQ 73 TXLK
51 Cây Chàm BH 74 TB 52 Cây Dầu Phú Hội-NT
Bửu Long-BH 75 53 Cây Gáo Thanh Bình-TB
76 TB 54 Đại Phước-NT
Đinh Tiên Hoàng Đinh Tiên Hoàng Đình Bạch Khôi Điện Biên Phủ 77 Điểu Xiển BH Cây Kiến Ấp Cù Lao 55 Chắn Nước Phú Hội-NT
78 BH 56 Đoàn Văn Cự Châu Văn Lồng Long Bình Tân- BH 79 Đỗ Văn Thi BH
Xuân Lộc 57 Chiến Thắng Long Khánh 80 TN
Đông Kim - Xuân Thiện 81 Đồng Khởi BH Bửu Long-BH 58
82 Đồng Khởi Thạnh Phú-VC Xuân Lộc 59 Chùa Bửu Long Chùa Gia Lào 83 ĐT 760 Hóa An-BH 60 Chùm Dừa Đại Phước-NT 84 Ga Hố Nai BH 61 Cô Giang Biên Hòa
85 BH Đại Phước-NT 62
86 Xuân Lộc Đại Phước-NT 63
87 Biên Hòa TXLK 64
88 TXLK Tân Phú 65
89 Trảng Bom 66 Biên Hòa Ga Hố Nai Nối Dài Gia Ty - Suối Cao Hà Huy Giáp Hai Bà Trưng Hai Bà Trưng 90 Hàng Keo TT.LT-LT
67 Biên Hòa 91 Hiệp Hòa Biên Hòa
68 Biên Hòa 92 Biên Hòa Hoàng Bá Bích
93 Hoàng Diệu TXLK 69 BH
94 TXLK 70 BH
95 Biên Hòa BH 71 Hoàng Diệu - Bảo Vinh Hoàng Minh Châu Cổng Đỏ Phước Lý Cộng Đồng Phước Lý Cua Heo - Bình Lộc Dân Tộc Tà Lài Dương Bạch Mai Dương Tử Giang Đặng Đại Độ Đặng Đức Thuật Đặng Nguyên Đặng Văn Trơn
118 Lá Ủ Phú Bình-TP 96 Biên Hòa
119 Xuân Lộc 97 Trảng Bom Hoàng Minh Chánh Hoàng Tam Kỳ
98 Hoàng Việt Trảng Bom 120 Xuân Lộc
99 Hồ Hòa Biên Hòa 121 Gia Canh-ĐQ Lang Minh - Suối Đá Lang Minh - Xuân Tâm Làng Thượng
122 Lê A Biên Hòa Xuân Lộc 100 Hồ Núi Le Nối Dài
101 Hồ Văn Đại Biên Hòa 123 Lê Duẩn Trảng Bom
124 Lê Lợi TXLK 102 Hồ Văn Leo Biên Hòa
125 Lê Lợi Trảng Bom
103 Hồ Văn Thể Biên Hòa 126 Trảng Bom
TXLK 104 127 Biên Hòa Lê Hồng Phong Lê Nguyên Đạt TXLK 105 128 Lê Quý Đôn Biên Hòa
TB 106 129 Biên Hòa
Lê Thánh Tôn 130 Lê Thoa Biên Hòa TXLK 107
131 Lê Văn Hưu Trảng Bom BH 108
Biên Hòa 132 BH 109 Biên Hòa Lò Lu - Quảng An 133 Lữ Mành TB Hồng Thập Tự Hùng Vương Hùng Vương Huỳnh Quang Tiên Huỳnh Văn Lũy Huỳnh Văn Nghệ 110 Hưng Bình
Biên Hòa 134 BH 111
BH 135 Lương Văn Nho Lưu Văn Viết CM 112 136 Lý Nam Đế TB
137 BH CM 113
138 TXLK 114 Long Thọ-NT Lý Thường Kiệt Lý Thường Kiệt
139 Lý Văn Sâm Tam Hiệp-BH 115 NT Nam Kỳ
116 Phú Lập-TP 140 Khởi Nghĩa TB
Hưng Đạo Vương Hương Lộ 10 Hương Lộ 10 - Thừa Đức Hương Lộ 12 Hương Lộ 19 Hương Lộ Tà Lài 117 Khổng Tử TXLK 141 Năm Tấn TP
163 TXLK Đại Phước-NT 142 Nguyễn Thái Học Nguyễn Quyết Thắng-
ĐQ 164 Thành Đồng BH 143 Năm Thương Ấp Bến Cộ Ngã ba Gia Canh
144 Nghĩa Trang BH
BH 165 145 Ngô Quyền TB
146 Ngô Xá TB BH 166
BH 147 TB 167
LT 148 BH 168
BH 149
BH 169 Nguyễn Thành Phương Nguyễn Thị Hiền Nguyễn Thị Minh Khai Nguyễn Thị Tồn Nguyễn Thượng Hiền TXLK 150 170 Nguyễn Trãi BH
TXLK 151 171 Nguyễn Trãi TXLK Nguyễn Ái Quốc Nguyễn An Ninh Nguyễn Bảo Đức Nguyễn Bỉnh Khiêm Nguyễn Công Trứ
TXLK 152 BH 172
LT 153 TXLK 173
TB 154 TB 174
BH 155 TXLK 175
TB 156 BH 176
TXLK 177 TB 157 Nguyễn Du Nguyễn Đình Chiểu Nguyễn Đức Cảnh Nguyễn Hiền Vương Nguyễn Hoàng Nguyễn Hoàng Nối Dài
158 Nguyễn Huệ TB 178 TXLK
159 TB 179 TXLK
160 BH 180 TB
161 TB 181 BH Nguyễn Tri Phương Nguyễn Tri Phương Nguyễn Tri Phương Nguyễn Trường Tộ Nguyễn Văn A Nguyễn Văn Bé Nguyễn Văn Bé nối dài Nguyễn Văn Cừ Nguyễn Văn Cừ Nguyễn Văn Hoa Nguyễn Hữu Cảnh Nguyễn Hữu Cảnh Nguyễn Sơn Hòa Nguyễn
Thái Học BH 162 TB 182 Nguyễn Văn Huyên
204 Phan Trung BH 183 BH
205 Phù Đổng Phú Lâm-TP 184 TB Phú Lâm -
185 BH 206 Thanh Sơn TP
207 TP 186 BH
208 NT 187 BH
209 BH 188 BH
210 BH 189 BH
211 TXLK BH 190
212 Đại Phước-NT 191 BH Phú Lập Phú Thạnh - Phú Đông Quản Lý Ruộng Đất Quang Trung Quang Trung Sáu Ni Ấp Bến Cộ
213 Số 1 TXLK
214 Số 1 NT BH 192
215 Số 1 An Bình-BH 193 BH 216 Số 2 NT
194 BH 217 Số 2 ĐQ
218 Số 2 An Bình-BH 195 BH
219 Số 3 TXLK 196 BH 220 Số 3 An Bình-BH
197 TB 221 Số 4 An Bình-BH
222 Số 5 TXLK 198 TXLK
223 Số 5 An Bình-BH 199 BH 224 Số 6 An Bình-BH
200 TXLK 225 Số 6A TXLK
226 Số 6B TXLK 201 TB
227 Số 7 An Bình-BH 202 TB 228 Số 8 An Bình-BH
BH 203 229 Số 9 An Bình-BH Nguyễn Văn Ký Nguyễn Văn Linh Nguyễn Văn Lung Nguyễn Văn Nghĩa Nguyễn Văn Tiên Nguyễn Văn Tỏ Nguyễn Văn Trị Nguyễn Văn Trị Cũ Nguyễn Văn Trỗi Nhà Máy Giấy Tân Mai Phạm Thị Nghĩa Phạm Văn Diêu Phạm Văn Khoai Phạm Văn Thuận Phạm Văn Thuận Phan Bội Châu Phan Chu Trinh Phan Chu Trinh Phan Chu Trinh Phan Đăng Lưu Phan Đình Phùng
BH 230 Số 11 255 Trần Phú BH
XL 231 256 BH
TB Sóc Ba Buông 232 Sóc Lu 257 BH
CM 233 258 BH
CM 234 259 BH
CM Sông Nhạn - Dầu Giây Sông Nhạn - Ông Quế 235 Sông Ray 260 BH
TB 236 261 BH TP Sông Thao - Bàu Hàm 237 Suối Mơ
262 TB 238 Suối Son 2 ĐQ
TP 239 Tà Lài 263 BH
XL 240 Tà Lú Trần Minh Trí Trần Quốc Toản Trần Văn Ơn Trần Văn Xã Trịnh Hoài Đức Trương Định Trương Định Trương Quyền Trương Văn
TB 241 Tạ Uyên 264 Bang TB
LT 242 Tân Cang 265 TB
TN 243 266 TP Trường Chinh Trường Dân Tộc Nội Trú 244 TXLK 267 TXLK Thánh Tâm - Thác Reo Thích Quảng Đức
245 Thọ Bình XL 268 XL Vành Đai 1 Vào Thác Trời 246 Thọ Chánh XL BH 269 VMEP 247 Thọ Trung XL BH 270 Võ Tánh 248 Thú y ĐQ 271 Võ Thị Sáu BH 249 Trà Cổ TP
272 BH 250 Trảng Dài BH
Trần 273 BH Võ Trường Toản Vũ Hồng Phô 251 Nguyên Hãn TB 274 Xóm 8 Tân Biên-BH
252 TB 275 XL Xuân Định - Xuân Bảo Trần Nhân Tông 253 Trần Phú TXLK
XL 276 254 Trần Phú TB Xuân Phú - Xuân Tây
277 XL XL 282
278 XL
XL 283 279 CM
280 TXLK XL 284 Xuân Trường - Bảo Vinh Xuân Trường - Suối Cao Xuân Trường - Xuân Thọ
XL 281 Xuân Tâm - Trảng Táo Xuân Tâm - Xuân Đông Xuân Tâm - Xuân Đông Xuân Tân - Xuân Định Xuân Thành - Suối Cao - Xuân Bắc
ĐƯỜNG THỦY (6 địa danh)
1 Đồng Nai Tỉnh ĐN 4 Nhà Bè Tỉnh ĐN
2 Đồng Tranh Tỉnh ĐN 5 Lòng Tàu Tỉnh ĐN
3 Lô Gia Tỉnh ĐN 6 Thị Vải Tỉnh ĐN
GA (8 địa danh)
1 Bảo Chánh Xuân Thọ - XL 5 Hố Nai Biên Hòa
Trung Dũng-BH
2 Biên Hòa 6 Long Khánh TT. XL- XL
3 Dầu Giây Bàu Hàm 2-TN 7 Trảng Bom Quảng Tiến-TB
4 Gia Ray 8 Trảng Táo Xuân Trường - XL Xuân Thành- XL
HOA VIÊN (1 địa danh)
TXLK 1 Bia Chiến Thắng Long Khánh
HƯƠNG LỘ (6 địa danh)
1 2 Long Thành 4 19 Nhơn Trạch
2 9 Vĩnh Cửu 5 21 Long Thành
3 10 Cẩm Mỹ 6 26 Biên Hòa
KÊNH (12 địa danh)
1 Ấp 2 Long An-LT 8 Phước Hưng Tam Phước-LT
2 Ấp 3 An Phước-LT 9 Tân Vạn Tân Vạn-BH
Tập Đoàn 3 An Định Tam Phước-LT
10 1+2 Tam Phước-LT 4 Bửu Hòa Bửu Hòa-BH
Tập Đoàn 5 Bửu Long Bửu Long-BH
3+4 11 Tam Phước-LT 6 Cây Sung Tam Phước-LT
12 Thủy Sản Tân Vạn-BH 7 Mả Vôi Long Tân-NT
KHU DU LỊCH (25 địa danh)
1 Bắc Sơn Bắc Sơn-TN 13 Hồ Núi Le Gia Ray - XL
2 Bò Cạp Vàng 14 Tân Bình-VC
3 Bửu Long Phước Khánh- NT Bửu Long-BH Làng Bưởi Tân Triều 15 Ông Kèo Nhơn Trạch
4 Cao Minh Vĩnh Tân-VC 16 Long Thành Rừng Đước Phước Thái Cù Lao Ba 17 Suối Đá Hàn Sông Trầu-TB 5 Xê 18 Suối Mơ Trà Cổ-TP
6 Cù Lao Giấy 19 Suối Tre Suối Tre-TXLK Long Bình Tân- BH Phước Khánh- NT
7 Cù Lao Phố Hiệp Hòa-BH 20 Thác Ba Giọt Phú Vinh-ĐQ
8 Đá Ba Chồng Định Quán 21 Giang Điền-TB
Vĩnh Cửu 9 Định Quán 22 Thác Giang Điền Thác Xuân Mai - Hồ Nước Nóng Đảo Ó - Đồng Trường Đồi Sơn 23 Thác Trời Xuân Lộc 10 Thủy Xuân Mỹ-CM
24 Tân Phú 11 Hòa Bình K4 cũ-TXLK Vườn Quốc Gia Cát Tiên
25 Vườn Xoài Phước Tân-LT 12 Hồ Đa Tôn Tân Phú
LÀNG CỔ (2 địa danh)
2 Bến Gỗ An Hòa-LT 1 Bến Cá Tân Bình-VC
LÂM TRƯỜNG (9 địa danh)
1 600 Tân Phú 6 Mã Đà Mã Đà-VC
2 Hiếu Liêm Trị An-VC 7 Tân Phú Gia Canh-ĐQ
3 La Ngà Ngọc Định-ĐQ 8 Vĩnh An Phú Lý-VC
4 La Ngà Thanh Sơn-ĐQ 9 Xuân Lộc Xuân Tâm-XL
5 Long Thành Long Đức-LT
NGÃ BA (69 địa danh)
20 Cây Keo Tân Hạnh-BH 1 107 Định Quán
2 107 + 100 Định Quán 21 Cây Sung Trảng Dài-BH
3 Ấp 4 Định Quán 22 Biên Hòa
4 Cẩm Mỹ Cây Xăng KP3 23 Chợ Sặt Biên Hòa
24 Chốt Mỹ Bảo Bình-CM 5 Bàu Hàm 2-TN
25 Cua Heo TXLK Ấp 10 Sông Ray Ấp Ngô Quyền 6 Ấp Tân Mỹ Cẩm Mỹ
26 Dân Chủ Tam Phước-LT 7 Bà Hào Mã Đà-VC
27 Dầu Giây Trung Hòa-TB 8 Bà Ký Long Phước-LT
28 Dốc Sỏi Biên Hòa 9 Bảo Chánh Xuân Lộc
29 Thạnh Phú-VC Đường Đồng Khởi 10 Bảo Vinh A
30 Đường WB Định Quán 11 Bình Lộc Bảo Vinh- TXLK TXLK
31 Gạc Nai Bửu Long-BH 12 Bình Ý Tân Bình-VC
32 Gia Canh TT.ĐQ-ĐQ 13 Bùi Chu Hố Nai 4-TN
33 Giồng Sắn Phú Đông-NT 14 Bưu Điện TT.Gia Ray-XL
34 Hoàng Diệu TXLK 15 Cao Cang Định Quán
35 Hố Nai Biên Hòa 16 Cẩm Mỹ Xuân Mỹ-CM
17 Cầu Hang Tân Biên-BH 36 Định Quán
18 Cây Cầy Bàu Cạn-LT Làng Thượng 37 Liên Xã Bình Minh-TB
19 Cây Chàm Biên Hòa 38 Máy Cưa Thống Nhất-BH
39 Mũi Dùi Phú Lý-VC 53 Tam Hưng
40 Mũi Tàu 54 Tân Cang Quang Trung- TN Long Thành
41 Nhà Thờ Quyết Thắng- BH Phú Lý-VC 55 Tân Phong Bảo Hòa-TXLK
56 Tân Thành Thanh Bình-TB 42 Nông Trường Cẩm Mỹ
43 Núi Le TT.Gia Ray-XL 57 Thái Lan Tam Phước-LT
44 Núi Tượng Tân Phú 58 Thanh Tùng Định Quán
45 Ông Đồn TT.Gia Ray-XL 59 Thành Biên Hòa
Phú Lợi-Phú 60 Trị An Hố Nai 3-TB
46 Hòa Định Quán 61 Trung Nghĩa Xuân Lộc
47 Phước Thiền Nhơn Trạch 62 Ty Tam Hòa-BH
Quảng 63 Vàm Ô Đại Phước-NT
Trường Sông 64 Vũng Tàu Biện Hòa
Phố 48 Biên Hòa 65 Vườn Mít Biên Hòa
49 Sặt Biên Hòa 66 Xuân Định Xuân Lộc
50 Suối Cao Xuân Lộc 67 Xuân Đông Cẩm Mỹ
51 Suối Cát Suối Cát-XL 68 Xuân Mỹ Cẩm Mỹ
52 Suối Quýt Long Thành 69 Xóm Mới Tân An-VC
NGÃ NĂM (1 địa danh)
1 Biên Hùng BH
NGÃ TƯ (21 địa danh)
1 Amata Biên Hòa 7 Dầu Giây Thống Nhất
2 Bảo Chánh Xuân Lộc 8 Đường 764 Cẩm Mỹ
Đường Ông 3 Bàu Sình Xuân Lộc
9 Kèo Nhơn Trạch 4 Cầu Hang Hóa An-BH
10 EC Cẩm Mỹ 5 Cây Gáo Cây Gáo-VC
11 Hóa An Biên Hòa 6 Chợ Đồn Hiệp Hòa-BH
12 Hiệp Phước Nhơn Trạch 16 Tà Lài Tân Phú
Nông 17 Tam Hiệp Biên Hòa
Trường Thái 18 Tam Hòa Biên Hòa
Hiệp Thành - 19 Tân Phong Biên Hòa
13 Bàu Cạn Bàu Cạn-LT 20 Thuốc Lào Trung Hòa-TB
14 Sông Ray Cẩm Mỹ 21 Vũng Tàu Biên Hòa
15 Sở Thanh Sơn-ĐQ
NÔNG TRƯỜNG (21 địa danh)
1 An Viễn An Viễn-TB 11 Đồi 61-TB Cao Su Trảng Bom 2 An Viễn Bình An-LT 12 Cẩm Đường Long Giao-CM
Xuân Lập-TXLK
3 Bình Lộc 13 Cẩm Mỹ Xuân Mỹ-CM
4 Bình Lộc Xuân Thiện-TN 14 Cọ Dầu Xuân Hưng-XL
15 Dầu Giây Bàu Hàm 2-TN 5 Lâm San-CM
Cà Phê Châu Thành 6 Cao Cang Gia Canh-ĐQ 16 Hàng Gòn TXLK
17 Long Thành Long Đức-LT 7 Bình Sơn-LT
18 Ông Quế Xuân Quế-CM 8 Xuân Mỹ-CM 19 Sông Ray TT. Gia Ray-XL
9 Sông Nhạn-CM 20 Tân Lộc Xuân Thiện-TN
21 Thọ Vực Xuân Thọ-XL 10 Bàu Cạn-LT Cao Su Bình Sơn Cao Su Cẩm Mỹ Cao Su Ông Quế Cao Su Thái Hiệp Thành
QUẢNG TRƯỜNG (1 địa danh)
1 Tỉnh Tân Phong-BH
QUỐC LỘ (11 địa danh)
1 20 Tỉnh ĐN 4 1A Tỉnh ĐN
2 51 Tỉnh ĐN 5 15A Tỉnh ĐN
3 56 Tỉnh ĐN 6 51A Tỉnh ĐN
7 51B Tỉnh ĐN 10 1K Tỉnh ĐN
8 1 Biên Hòa Tỉnh ĐN 11 Gia Ray Tỉnh ĐN
9 15 Biên Hòa Tỉnh ĐN
SÂN BAY (1 địa danh)
1 Biên Hòa Tân Phong-BH
SÂN VẬN ĐỘNG (1 địa danh)
1 Đồng Nai BH
THÀNH CỔ (1 địa danh)
1 Biên Hòa Quang Vinh-BH
TỈNH LỘ (19 địa danh)
12 767 Tỉnh ĐN 1 5 Tỉnh ĐN
2 15 Tỉnh ĐN 13 768 (TL 24) Tỉnh ĐN
3 16 Tỉnh ĐN 14 769 Tỉnh ĐN
4 319 Tỉnh ĐN 15 25B Tỉnh ĐN
5 760 (TL 16) Tỉnh ĐN 16 Đồng Khởi Tỉnh ĐN
6 761 (322) Tỉnh ĐN 17 Hiếu Liêm Tỉnh ĐN
7 762 Tỉnh ĐN
Tỉnh ĐN 18 8 763 (HL 16) Tỉnh ĐN
Nhà Máy Nước Thiện Tân Suối Tre - 9 764 Tỉnh ĐN
Bình Lộc 19 Tỉnh ĐN 10 765 Tỉnh ĐN
11 766 (TL 3) Tỉnh ĐN
TRẠI GIAM (3 địa danh)
Tân Hiệp-BH 1 B 5 3 Z 30 XL
2 K 4 TXLK
TRẠM BƠM (25 địa danh)
14 Ngọc Định Ngọc Định-ĐQ 1 Bến Gỗ Long Hưng-LT
2 Bình Hòa 1 Bình Hòa-VC 15 Nhất Hòa Hiệp Hòa-BH
3 Bình Hòa 2 Bình Hòa-VC 16 Nhị Hòa Hiệp Hòa-BH
4 Bình Hòa 3 Bình Hòa-VC 17 Phước Tân Phước Tân-LT
5 Bình Lục Tân Bình-VC 18 Tân An Tân An-VC
6 Bình Phước Tân Bình-VC 19 Tân Hạnh Tân Hạnh-BH
7 Đại An Tân An-VC 20 Tân Triều Tân Bình-VC
8 Gò Me Thống Nhất-BH 21 Thiện Tân 1 Thiện Tân-VC
9 Lợi Hòa Bình Lợi-VC 22 Thiện Tân 2 Thiện Tân-VC
10 Long Chiến Bình Lợi-VC 23 Thiện Tân 3 Thiện Tân-VC
11 Long Thành TT. Long Thành 24 Trị An 1 Trị An-VC
12 Hiệp Hòa Biên Hòa 25 Trị An 2 Trị An-VC
13 Miếu Vạn Bình Lợi-VC
XA LỘ (1 địa danh)
1 Hà Nội Tỉnh ĐN
4. ĐỊA DANH VÙNG
GIÁO XỨ (106 địa danh)
1 Ấp Bảo Thị Xuân Định-XL 4 Bắc Hải Hố Nai-BH
2 Ba Đông Hố Nai-BH 5 Bắc Hòa Bắc Sơn-TB
3 Bạch Lâm Gia Tân 2-TN 6 Bắc Ninh Vĩnh Thanh-NT
7 Bắc Thần Vĩnh Thanh-NT 34 Hưng Lộc Hưng Lộc-TN
Long Bình Tân- 35 Kẻ Sặt Tân Biên-BH
8 Bến Gỗ BH 36 Kẻ Sặt 2 Hố Nai-BH
9 Bình Lâm Phú Bình-ĐQ 37 Kim Bích Hố Nai-BH
10 Bình Sơn Bình Sơn-LT 38 Kim Lâm Phú Trung-ĐQ
11 Bùi Chu Bắc Sơn-TB 39 La Ngà Phú Ngọc-ĐQ
Quang Trung-TN
12 Bùi Thái Biên Hòa 40 Lạc Sơn
13 Bùi Thượng Tam Hiệp-BH 41 Long Thành TT.Long Thành
Xuân Tân-TXLK
14 Cẩm Tân 42 Long Thuận Xuân Hưng-XL
15 Dầu Giây Bàu Hàm 2-TN 43 Lộ Đức Tân Hòa-BH
16 Dốc Mơ Gia Tân 1-TN 44 Lộc Hòa Tây Hòa-TB
17 Đại An Tân An-VC 45 Lộc Lâm Hố Nai-BH
18 Đại Điền Vĩnh Thanh-NT 46 Lợi Hòa Thanh Bình-TB
19 Đại Lộ Tân Biên-BH 47 Mẫu Tâm Gia Tân 3-TN
20 Đông Vinh Hố Nai 3-TB 48 Mẫu Tâm 2 Hố Nai-BH
21 Đồng Hiệp Phú Điền-ĐQ 49 Mỹ Hội Phú Hội-NT
22 Đồng Tâm Xuân Tâm-XL 50 Nam Hà Xuân Bình-XL
23 Đức Long Gia Tân 2-TN 51 Nam Hải Hố Nai-BH
24 Đức Mẹ Gia Tân 2-TN 52 Nghĩa Hiệp Vĩnh Thanh-NT
25 Gia Cốc Hố Nai-BH 53 Nghĩa Mỹ Vĩnh Thanh-NT
26 Gia Huy Gia Tân 1-TN 54 Nghĩa Yên Vĩnh Thanh-NT
27 Hà Nội Tân Biên-BH 55 Ngọc Lâm Phú Xuân-ĐQ
28 Hải Dương Hố Nai-BH 56 Ngọc Đồng Tân Hòa-BH
29 Hiền Hòa Phước Thái-LT 57 Ngô Xá Hố Nai 3-TB
30 Hiền Đức Phước Thái-LT 58 Ngũ Phúc Hố Nai 3-TB
31 Hiển Linh Thanh Bình-TB 59 Phú Dòng Phú Cường-ĐQ
32 Hiệp Lực Xuân Tâm-XL 60 Phú Sơn Bắc Sơn-TB
33 Hòa Bình Tân Hòa-BH 61 Phú Tảo Hố Nai-BH
62 Phúc Hải Tân Phong-BH 84 Thành Tín Cẩm Đường-LT
63 Phúc Lâm Tân Biên-BH 85 Thánh Tâm Tân Biên-BH
64 Phước Long Long Phước-LT 86 Thạnh An Vĩnh Tân-VC
87 Thiên Ân Bàu Cạn-LT 65 Phú Lâm-ĐQ Phương Lâm 88 Thiên Bình Tam Phước-LT 66 Quang Lâm Thanh Sơn-ĐQ
89 Thiện Ân Vĩnh An-VC 67 Quảng Xuân Xuân Hưng-XL
90 Thiện Phước Phước Tân-LT 68 Sài Quất Hố Nai 3-TB
91 Thiết Nham Vĩnh Thanh-NT 69 Tam Phú Túc Trưng-ĐQ
92 Thống Nhất Phú Cường-ĐQ 70 Tâm Hòa Đông Hòa-TB
93 Thuận Hòa Tân Phong-BH 71 Tân Bình Bình Minh-TB
94 Tiên Chu Tân Hòa-BH 72 Tân Hiệp Tân Hiệp-LT
95 Trà Cổ Quảng Tiến-TB 73 Tân Mai Tân Mai-BH
96 Trà Cổ 2 Hố Nai-BH 74 Tân Phú TXLK
97 Trung Ngãi Xuân Tâm-XL 75 Tân Thành Bắc Sơn-TB
98 Trung Nghĩa Tân Biên-BH Long Bình Tân-
99 Văn Hải TT.Long Thành 76 Tân Vinh BH
100 Vĩnh Phước Vĩnh Thanh-NT 77 Tân Xuân TXLK
101 Vườn Ngô Đồi 61-TB 78 Thạch Lâm Phú Xuân-ĐQ
102 Xuân An An Viễn – TB 79 Thái Hòa Hố Nai 3-TB
103 Xuân Bình Bảo Hòa-XL 80 Thái Lạc Long An-LT
104 Xuân Khánh TXLK 81 Thái Xuân Xuân Định-XL
Quang Trung-TN
82 Thanh Hóa Hố Nai 3-TB 105 Xuân Mỹ Xuân Mỹ- TXLK 83 Thanh Sơn 106 Xuân Thịnh Đồi 61-TB
KHU CÔNG NGHIỆP (29 địa danh)
3 An Phước An Phước-LT Agtex Long
Bình 1 Long Bình-BH 4 Bàu Xéo Suối Trầu-TB
2 Amata Long Bình-BH 5 Biên Hòa 1 An Bình-BH
6 Biên Hòa 2 An Bình-BH 19 Nhơn Trạch 3 Hiệp Phước-NT
20 Nhơn Trạch 5 Hiệp Phước-NT 7 Dầu Giây
21 Nhơn Trạch 6 Long Thọ-NT 8 Dệt May Bàu Hàm 2, Xuân Thạnh-TN Hiệp Phước-NT
Nhơn Trạch
II-Lộc Khang
Hiệp Phước, 9 Định Quán La Ngà-ĐQ 22 Phú Hội-NT
Nhơn Trạch Hiệp Phước, 10 Giang Điền 23 II-Nhơn Phú Phú Hội-NT 11 Gò Dầu Giang Điền, An Viễn-TB, Tam Phước-LT Phước Thái-LT
24 Ông Kèo 12 Hố Nai 25 Sông Mây Phước Khánh- NT Bắc Sơn-TB 13 Long Đức Hố Nai, Bắc Sơn-TB Long Thành 26 Tam Phước Tam Phước-LT 14 Long Khánh TXLK 27 Tân Phú TT.Tân Phú-TP 15 Long Thành An Phước-LT 28 Thạnh Phú Thạnh Phú-VC 16 Loteco Long Bình-BH
29 Xuân Lộc 17 Nhơn Trạch 1 Hiệp Phước-NT Xuân Tâm, Xuân Hiệp-XL
18 Nhơn Trạch 2 Hiệp Phước-NT
65
PHỤ LỤC 2
NGUỒN GỐC - Ý NGHĨA
CỦA MỘT SỐ ĐỊA DANH Ở ĐỒNG NAI
A. Địa danh có nguồn gốc - ý nghĩa rõ ràng
1. Ba Chồng
Hòn Ba Chồng còn gọi là Đá Ba Chồng hay Đá Chồng. Đây là một địa điểm
nổi tiếng ở huyện Định Quán.
Hòn Ba Chồng được tạo nên bởi ba hòn đá nằm chồng lên nhau khá chông
chênh, độ cao hơn 36 mét so với mặt đường. Hòn đá dưới cùng lớn gấp hai lần hòn
đá nằm trên, hòn trên cùng nằm chìa ra phần nửa ngoài bên dưới trông như muốn đổ
xuống bất kỳ lúc nào.
2. Ba Gioi
Đúng ra là Ba Doi, nhưng do người dân phát âm sai nên mới có tên trên.
Ba Gioi (Phước An - NT) là ba doi đất được tạo thành bởi ba đường nước ở
giữa rừng Sác, trong đó có một doi đất lớn dài chừng 1000m, có mé hậu là một rừng
đước rậm rạp, cây cao hàng hai chục mét. Những người dân nghèo khổ hoặc trốn
tránh sự truy nã của triều đình phong kiến đã theo sông rạch và gặp doi đất giữa
rừng đước, bần này, biến nó thành nơi trú ẩn của mình [1, tr.21-22].
Ngày nay có sông Ba Gioi (NT).
3. Bà Điền
Gò. Thời nhà Nguyễn, ở thôn Phước Lư, có đám ma của Bà Điền vợ Trấn thủ
Vĩnh Thanh Nguyễn Á Thát mất ở Vĩnh Long đem về chôn ở quê nhà. Từ bến đò
(dưới Rạch Cát) đem lên chôn ở vị trí hiện nay gọi là gò Bà Điền [79, tr.114].
66
4. Bà Trường
Ấp Bà Trường thuộc xã Phước An, huyện Nhơn Trạch.
Theo lời các cụ bô lão kể thì một năm rất xa xưa, không may trời lụt lội, lại
thêm dịch bệnh hoành hành, người chết đói, chết bệnh la liệt. Bấy giờ ở gần cầu
suối Dẹp có một người đàn bà tên Trường, vừa giỏi làm ruộng, vừa giỏi nghề thuốc.
Thấy tình cảnh làng xóm như vậy, bà liền đem hết số lúa gạo dự trữ trong nhà phân
phát cho bà con, rồi sẵn tài làm thuốc, bà lại đi từng nhà chữa trị, cứu nhiều người
bệnh thoát cơn hiểm nghèo. Sau khi bà mất, để nhớ ơn, dân ở đây lập miễu thờ Bà
và đặt tên ấp là ấp Bà Trường [1, tr.15-16].
5. Bò Cạp Vàng
Khu du lịch Bò Cạp Vàng (Phước Khánh - NT) là khu du lịch sinh thái được
ông Nguyễn Văn Sửu - một nhà giáo về hưu - thành lập tự phát vào năm 1992. Tên
khu du lịch được đặt vì tại nơi đây có cây bò cạp vào khoảng tháng 3, 4 hàng năm
trổ hoa vàng rực cả một vùng.
6. Cẩm Mỹ
Huyện Cẩm Mỹ được thành lập vào tháng 11 - 2003, trên cơ sở 7 xã của huyện
Long Khánh và 6 xã của huyện Xuân Lộc. Huyện gồm 13 xã: Bảo Bình, Lâm San,
Long Giao, Nhân Nghĩa, Sông Nhạn, Sông Ray, Thừa Đức, Xuân Bảo, Xuân Đông,
Xuân Đường, Xuân Mỹ, Xuân Quế, Xuân Tây.
Cẩm Mỹ có nghĩa là đẹp như gấm.
7. Cầu Vạc
Cầu Vạc là tên của một con suối ở xã Tân Hiệp, huyện Long Thành.
Cầu Vạc là chiếc cầu mà ngày xưa vạc đi ăn đêm thường đậu nơi đây. Dưới
cầu có một dòng suối chảy qua nên gọi là suối Cầu Vạc [116, tr.56].
8. Cầu Xéo
Khu Cầu Xéo ở thị trấn Long Thành, huyện Long Thành.
67
Gọi là Cầu Xéo vì chiếc cầu xéo góc với con đường.
9. Cây Chàm
Cây chàm có danh pháp khoa học Indigofera tinctoria, là dạng cây bụi cao
khoảng 0,5-2 mét. Nó có thể là cây một năm, hai năm hay lâu năm, phụ thuộc vào
khí hậu nơi nó sinh sống. Nó có các lá kép lông chim lẻ với 7-15 lá chét tròn màu
lục nhạt và chùm hoa màu hồng hay tím. Lá hoặc thân cây chàm được chế biến làm
thuốc nhộm màu chàm [138].
Cuốn Biên Hòa sử lược toàn biên, tập 1, có ghi lại địa danh này: Cây Chàm đã
sống từ mấy ngàn năm trước, to và cao nhất ở phía Tây Bắc trường Nữ tiểu học, bị
trốc gốc sau trận giông ngày 24/7/1950, đường Nguyễn Hữu Cảnh. Vào năm 1969,
địa danh “Cây Chàm” được lấy làm mỹ hiệu cho quán cơm do một nhà văn đứng ra
khai thác tại gốc cũ, rất đắt hàng [71, tr.97].
Hiện nay có đường Cây Chàm (BH), chợ Cây Chàm (BH).
10. Cây Xăng
Tên ấp Cây Xăng xuất hiện vào những năm 60, từ khi có một điểm bán xăng
được thiết lập trên tuyến đường quốc lộ 20 Sài Gòn - Đà Lạt, thuộc xã Phú Túc,
huyện Tân Phú (nay là huyện Định Quán) [26, tr.72].
11. Chiếc
Rạch Chiếc (Phước Tân - Long Thành) có gốc Khmer, dạng gốc là Prêk Cèk
(theo Trương Vĩnh Ký), nghĩa là dòng sông nhỏ có mọc nhiều cây chiếc - một thứ
cây thấp, lá lớn, thường mọc ở vùng nước lợ, lá vị chát, có thể ăn như rau.
12. Chiêu Liêu
Gò Chiêu Liêu thuộc huyện Nhơn Trạch
Chiêu Liêu là tên loài cây gỗ lớn, họ Bàng, cao tới 30 mét. Tên khoa học là
Tenninalia alata Roth. Thân thẳng tán lá dày rậm, lá đôi hay gần đôi; hoa hợp thành
68
bông, lưỡng tính, quả có 4-5 cánh. Ưa sáng, ẩm và có khả năng chịu hạn. Có thể
mọc trên các loại đất khác nhau, ưa đất ẩm có tầng dày [126, tr.116-117].
Do trước đây trên gò này có nhiều cây Chiêu Liêu mọc, nên dân địa phương
lấy đặt tên cho gò.
13. Con Rắn
Núi Con Rắn ở xã Xuân Mỹ, huyện Cẩm Mỹ. Vì đường đi quanh núi ngoằn
ngoèo như con rắn nên mới gọi tên như trên.
14. Cù Lao Giấy
Cù Lao Giấy là một khu du lịch thuộc xã Phước Khánh, huyện Nhơn Trạch.
Đây là vùng sông nước miệt vườn với cây cối xanh tươi.
Địa danh này ra đời là do tại khu vực này trồng nhiều bông giấy và có cả nhà
máy sản xuất giấy.
15. Dĩa
Hòn Dĩa, thuộc huyện Định Quán.
Ngược với hòn Ba Chồng hòn lớn nằm dưới, hòn nhỏ nằm trên, hòn Dĩa có
dạng hình chữ nhật không đều, một đầu to, một đầu nhỏ nhưng lại nằm trên một hòn
đá nhỏ hơn rất nhiều với độ cao 43 mét so với mặt đất. Nhìn xa hòn đá này trông
giống như một chiếc dĩa.
16. Dơi
Hang Dơi (Bàu Sen - TXLK) mang tên như vậy vì trong hang là nơi trú ẩn của
những đàn dơi có đến cả ngàn con. Dân địa phương cho biết có lẽ đây là hệ quả của
miệng núi lửa ngày xưa, nên để lại những hang động sâu thăm thẳm, len lỏi trong
lòng đất đầy huyền bí. Truyền thuyết kể rằng, xưa có một anh thanh niên muốn
thám hiểm hang dơi này, anh thanh niên ấy đi len lõi trong hang bằng đèn pin
nhưng đi mãi rồi không thấy về, sau lần đó dân làng Bàu Sen không còn ai muốn
thám hiểm hang dơi này nữa.
69
17. Đắng
Địa danh bàu Đắng gắn với lịch sử đấu tranh của dân tộc Châu Ro. Đó là thực
dân Pháp vì muốn trả thù đồng bọn nên đã đưa lính đàn áp cuộc đấu tranh, tàn sát
đồng bào Châu Ro và xóa xã Lương Tài. Ở đó, xưa kia có một cái bàu, để nhớ mãi
mối thù đắng cay ấy, đồng bào đặt tên bàu là bàu Đắng [82, tr.39].
18. Đầm Nát
Tên chữ Toái Đàm, là một địa danh cũ ở địa phận huyện Phước An. Trong Gia
Định thành thông chí có đoạn: “Đầm do các sông hợp lại, thông khắp các nẻo, cồn
bãi trùng điệp, ngành nhánh quanh co, ngang dọc chằng chịt họp rồi tan, rừng chằm
rậm rạp, trước sau trông không thấy nhau…” [41, tr.36].
Như vậy đây là nơi có nhiều nhánh sông tụ lại, làm đất cát xen lộn. Do trong
đầm có nhiều vật trộn lẫn nhau nên gọi là Đầm Nát.
19. Đồn
Đây là tên của một ngôi chợ thuộc thành phố Biên Hòa. Địa danh này xưa gọi
là chợ Lò, ở thôn Bình Long. Sau đó, quân Tây Sơn vào chiếm, đồn trú ở đây, nên
gọi chợ Đồn, nay tục danh này vẫn còn thông dụng.
20. Đồng Lớn
Địa danh Đồng Lớn nguyên trước đây là cánh đồng cỏ thuộc xã Phước An
(NT). Quyển 1, cuốn [71, tr.258] giải thích: “Người địa phương còn đặt thêm cho
một biệt danh khá trào lộng là “Đồng Chó Ngáp” để nói lên tầm quá bao la, đến chó
chạy băng qua cũng phải ngáp (tự danh: sử ghi là Lang Phu). Đồng cỏ rộng lớn đến
người ở bên Đông phải hoài vọng người ở phía Tây và người phương Bắc nhớ
người hướng Nam”.
21. Hàn Heo
Đây là một địa danh cũ. Theo sách của tác giả Lương Văn Lựu, tập 1, thì giữa
lòng sông, đá nổi lên hình con heo lớn nằm phủ phục. Tục truyền lúc heo nằm xuôi
70
thì nước êm và khi heo nằm ngang thì nước đổ mạnh, tiếng vang dội đến xa [71,
tr.116].
22. Hàn Xôi
Là một địa danh cũ. Giữa khoảng hàn Ông Đội và Ba Cửa, lòng sông Phước
Long (ngọn Đồng Nai) nổi lên những gộp đá lớn, nước chảy thành vận xoáy mạnh.
Thuở trước, khi miếu Ông Thượng Đẳng hãy còn ở bên bờ bến Vịnh, thì Hương
chức thôn Chánh Hưng chăm lo việc tế tự. Hàng năm đến 28 tháng 11 âm lịch là
ngày giỗ thần, làng thường dùng ghe chở xôi sang qua sông để cúng, nhưng mỗi lần
như thế đều có một cỗ xôi bị rớt chìm tại đây. Vì vậy hàn này được đặt tên là Hàn
Xôi, mặc dầu nay miếu Ông Lớn đã được dời qua nơi vàm sông Bé, không còn chở
xôi qua nữa [71, tr.168-169].
23. Hàng Gòn
Tên Hàng Gòn để chỉ:
- Di chỉ khảo cổ học cự thạch ở xã Xuân Tân, thị xã Long Khánh, được phát
hiện năm 1927. Đây là khu mộ cổ nhất (cách nay độ 2.500 năm) và quy mô nhất
Việt Nam.
- Xã thuộc thị xã Long Khánh.
Hàng Gòn có nghĩa là hàng cây gòn. Gòn là loại cây to, vỏ màu xanh tươi, lá
kép hình chân vịt, quả hình thoi chứa nhiều sợi bông, dùng để nhồi vào nệm, gối
[85, tr.409].
24. Hóa An
Cầu Hóa An bắc qua sông Đồng Nai, thuộc thành phố Biên Hòa. Cầu dài
802m, rộng 7,5m, mỗi lề rộng 1,8m, trọng tải 33 tấn, được xây dựng trong các năm
1971 - 1972, kinh phí 4,8 triệu đô la Mỹ. Cầu còn có tên là cầu Mới, Đồng Nai Mới.
Hóa An có nghĩa là làm cho yên ổn.
71
25. Hòn Rùa
Một địa danh cũ ở tỉnh Đồng Nai, tên chữ là Quy Dự. Hòn nằm giữa dòng
sông Phước Long, cách phía tây trấn đến 9 dặm. Hòn dài 3 dặm, ở đó có dân cư cày
cấy, dưới có sông dài uốn khúc quấn quanh, thuyền buồm ra vào, sóng xao khói
lượn, khi ẩn khi hiện như hình con rùa thần tắm sóng, đẹp nhất là cảnh mưa rơi [41,
tr.23].
26. Kỷ Niệm
Chợ Kỷ Niệm (Trung Dũng - BH) là chợ nằm gần Đài Kỷ Niệm - danh từ ám
chỉ “Chiến sĩ đài”, dựng lên để kỷ niệm các chiến sĩ quốc gia tử trận tại ngã tư
Vườn Mít.
27. Lá Buông
Sông Lá Buông thuộc xã Phước Tân, Long Thành.
Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức ghi là Bối Diệp Giang (sông Lá
Buông), tục gọi rạch Lá Buông, ở đấy có nhiều cư dân sinh sống bằng cách lấy lá
buông dệt buồm, đan tấm, đánh dây, chặt tàu đem bán sinh nhai, nên mới gọi tên
như thế [41, tr.33].
Trong Tự vị tiếng Việt miền Nam, Vương Hồng Sển giải thích: có hai loại lá
khác nhau là lá buôn (bối diệp) và lá buông (bồng diệp). Theo Huỳnh Tịnh Của và
Lê Ngọc Trụ, thì lá buôn (không g) dùng dệt buồm. Lá tốt dùng chép kinh, gọi kinh
lá bối: bối Diệp Kinh, lá buôn là bối diệp. Trương Vĩnh Ký ghi: sông hay rạch Lá
Buôn là Bối Diệp giang. Còn theo Hán Việt tự điển của Đào Duy Anh thì: bồng
diệp, lá nó dài, dùng lợp nhà, nhưng không dùng chép kinh. Bồng: tốt, dài, tên cỏ
(bồng xá, bồng hộ). Ông Trương Vĩnh Ký viết: sông hay rạch Lá Buông (có g) là
Bồng Giang (Kompong Lén), vẫn khác với sông hay rạch Lá Buôn (không g) là
kompong cre (c.v. chré) [92, tr.441-443].
Vậy thì, lá buông mà Trịnh Hoài Đức đã viết ở trên thực ra là lá buôn (bối
diệp).
72
28. Lò Than
Xóm cũ thuộc tỉnh Đồng Nai. Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp cơ bản đặt
xong ách thống trị ở nước ta, họ lập đồn điền, xây nhà máy, bóc lột sức lao động
của dân bản xứ. Vào thời kỳ này ấp Tân Hiệp vẫn còn là một khu rừng chồi được
xen kẽ bởi vài mươi hộ dân cư, nhà tranh vách đất, sống rải rác bằng nghề đốn củi
và hầm than. Cũng vì thế mà đến nay, dân địa phương gọi là xóm Lò Than [25,
tr.16].
29. Long Khánh
- Tỉnh cũ trước ngày 30 - 4 - 1975, năm 1976 sát nhập với tỉnh Biên Hoà thành
tỉnh Đồng Nai. Địa danh này được dùng làm tên huyện lần đầu vào năm 1827.
- Thị xã Long Khánh được thành lập tháng 8 - 2003, gồm 6 phường: Phú Bình,
Xuân An, Xuân Bình, Xuân Hoà, Xuân Thanh, Xuân Trung và 9 xã: Bảo Quang,
Bảo Vinh, Bàu Sen, Bàu Trâm, Bình Lộc, Hàng Gòn, Suối Tre, Xuân Lập, Xuân
Tân.
Long Khánh nghĩa là vui mừng và thịnh vượng.
30. Mã Đà
Xã Mã Đà thuộc huyện Vĩnh Cửu.
Mã Đà có nghĩa là nhánh sông có nước chảy mạnh như ngựa chạy.
31. Mẹ Bồng Con
Dốc Mẹ Bồng Con ở gần ngã ba Dầu Giây, huyện Long Khánh.
Tại đây có một dốc lớn và một dốc nhỏ liên tiếp nhau như hình ảnh người mẹ
bồng con nên mới đặt tên Mẹ Bồng Con.
Người dân thường kể truyền miệng nhau rằng xưa kia ở đây từng có một
người phụ nữ đang mang thai thì bị tai nạn chết, vì thế khi đêm đến người ta vẫn
thường thấy một người đàn bà bế đứa bé qua lại trên ngọn dốc này.
73
32. Nhà Dù
Một địa danh cũ thuộc phường Tân Phong (BH). Nơi đây hiện là Nhà Thi Đấu
lớn nhất tỉnh.
Nhà Dù là nơi quân đội Pháp giăng dù đóng quân trong thời gian 1954 - 1956.
Trong cuốn Biên Hòa sử lược toàn biên, tập 1, tác giả Lương Văn Lựu ghi:
“Nguyên nhà những lều trại bố lớn, dựng tạm lên để đặt Tổng hành dinh của đại đội
Lê Dương, sau là của Bộ tư lệnh Sư đoàn Dã chiến 4, khi mới điều động về trấn
đóng Biên Hòa vào năm 1956” [71, tr.98].
33. Nhà Xanh
Tên một địa danh thuộc phường Tân Mai, thành phố Biên Hòa. Trước đây địa
danh này nằm trong phạm vi của nhà máy Gỗ Tân Mai, nay là trường Công nhân kỹ
thuật Đồng Nai.
Nhà Xanh là một biệt thự do người Pháp xây để làm văn phòng của Công ty
Kỹ nghệ và Lâm nghiệp Biên Hòa, gọi tắt là BIF (Bien Hoa Industrielle et
Forestiere). Vì ngôi nhà sơn tường toàn màu xanh nên dân địa phương đặt tên như
vậy.
34. Nhơn Trạch
Huyện Nhơn Trạch có diện tích 410,9km2, dân số 105.700 người (2006), gồm
12 xã: Đại Phước, Hiệp Phước, Long Tân, Long Thọ, Phú Đông, Phú Hội, Phú Hữu,
Phú Thạnh, Phước An, Phước Khánh, Phước Thiền, Vĩnh Thanh.
Nhơn Trạch (Nhân Trạch) có nghĩa là theo nơi ý người mà tuyển chọn, tức
nhân vi tuyển trạch [2, tr.65].
35. Nứa
Nứa là một loại trúc. Núi Nứa ở xã Xuân Lập, thị xã Long Khánh, tên chữ Sa
Trúc. Gia Định thành thông chí ghi: “Trên núi có nứa, dưới núi có chằm lớn, người
74
tụ tập làm nghề đánh cá. Chằm là vùng đất thấp bỏ hoang, thường bị ngập nước”
[41, tr.27].
36. Ông Hoàng
Dốc Ông Hoàng là một địa danh xưa của tỉnh Đồng Nai. Biên Hòa sử lược
toàn biên, tập 2 nói về dốc này như sau: “Về phần tây nam, có một nổng cao nhất.
Tục truyền ngày Nguyễn Chúa còn bôn đào trước Tây Sơn, đến tạm ẩn náo nơi đây,
trên đường tẩu quốc sang Tiêm La. Thần dân Biên Hùng thỉnh Chúa chọn địa điểm
này, vì là nơi khuất tịch, có lương thực (sẵn cá Đông Giang, lúa Đồng Lách) để nuôi
quân tùy giá. Sau giới tiều phu mở một con đường mòn từ Thiện Tân xuyên qua gò
đất này xuống Hố Nai và đặt tên là dốc Ông Hoàng” [71, tr.74].
37. Ông Sảnh
Gò ở phường Bửu Hòa, thành phố Biên Hòa. Sách Biên Hòa sử lược toàn
biên, quyển 1 chép rằng: “Gò chùa tại xóm trên xã Tân Vạn, xưa là một nơi rừng
rậm hoang vu, chỉ có một lão tiều ngày ngày vác búa lên đốn củi đem về đổi gạo.
Lão tiều phu tên là Sảnh, sau chết tại gò, người quanh vùng đặt là gò Ông Sảnh [71,
tr.110].
38. Ray
Sông Ray bắt nguồn từ huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, chảy qua tỉnh Bà Rịa
- Vũng Tàu, dài độ 70km, đổ ra biển gần thị trấn Phước Hải.
Ray gốc Chơ Ro, nguyên dạng T’ra Ray, nghĩa là dòng nước nhỏ [87].
39. Sen
Bàu Sen thuộc địa phận ấp 4, xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Cửu.
Đây là tên một khu đồng trũng, rộng khoảng 3-4 hecta, quanh năm ngập nước,
có nhiều sen mọc chen với cỏ lác.
40. Sông Phố
Địa danh này thuộc thành phố Biên Hòa, do chính nhà văn Lý Văn Sâm đặt
75
Trong tác phẩm Chuyện người thổi sáo ở Bến Xuân, tác giả đã viết: “Khúc
sông Đồng Nai dài bốn cây số chảy ngang qua thành phố Biên Hòa được người địa
phương đặt tên là Sông Phố. Khúc sông khởi đầu từ cái đuôi Cồn Gáo thoai thoải và
chấm dứt ở cái mỏm nhọn Cù Lao Phố…” [124, tr.345]. Lý Văn Sâm đặt tên cho
khúc sông quê hương và sau đó lấy làm tên của nhóm văn chương Bình Trước.
Nay ở Biên Hòa, địa danh này còn lưu lại trong cái tên Câu Lạc Bộ Sông Phố.
41. Suối Tre
Khu du lịch Suối Tre thuộc thị xã Long Khánh.
Suối Tre hình thành từ những năm đầu thế kỷ 20, khi các tư bản người Pháp
sang Việt Nam lập đồn điền cao su. Họ khai thác và lập thành một khu nghỉ ngơi
giải trí. Cả khu vực này rộng trên hàng chục hecta, với nhiều đồi cỏ nhấp nhô bao
bọc con suối quanh co bên những bờ tre xanh ngắt [115, tr.147].
42. Tân Lân
Thôn xưa ở huyện Phước Chánh, dinh Trấn Biên. Tân Lân nghĩa là Xóm Mới.
43. Tân Phú
Đây là huyện của tỉnh Đồng Nai, diện tích 773,7km2, dân số 161.300 người
(2006), gồm thị trấn Tân Phú và 17 xã: Dak Lua, Nam Cát Tiên, Núi Tượng, Phú
An, Phú Bình, Phú Điền, Phú Lâm, Phú Lập, Phú Lộc, Phú Sơn, Phú Thanh, Phú
Thịnh, Phú Trung, Phú Xuân, Tà Lài, Thanh Sơn, Trà Cổ.
Tân Phú có nghĩa là giàu có và mới mẻ.
44. Thống Nhất
Huyện Thống Nhất có diện tích 247,2km2, dân số 142.600 người (2006), gồm
10 xã: Bàu Hàm 2, Gia Kiệm, Gia Tân 1, Gia Tân 2, Gia Tân 3, Hưng Lộc, Lộ 25,
Quang Trung, Xuân Thạnh, Xuân Thiện.
Thống Nhất là tên huyện được đặt sau năm 1975 để chỉ việc đất nước đã hợp
lại thành một khối, có chung một cơ cấu tổ chức, có sự điều hành chung.
76
45. Trời
Thác Trời là danh thắng thiên nhiên hùng vĩ của huyện Xuân Lộc. Người dân
nơi đây kể, xưa, có một nhóm người đi lạc trong rừng, nhiều ngày mò mẫm họ vẫn
không tìm thấy lối ra. Khi đến một con sông, họ mới nhìn thấy khoảng trời xanh
lồng lộng, xung quanh cảnh vật nên thơ, thác nước cuồn cuộn. Cái tên thác Trời
cũng bắt nguồn từ đó.
46. Vĩnh Cửu
Huyện Vĩnh Cửu có diện tích 1.092km2, dân số 98.600 người (2006), gồm thị
trấn Vĩnh An và 11 xã: Bình Hòa, Bình Lợi, Hiếu Liêm, Mã Đà, Phú Lý, Tân An,
Tân Bình, Thạnh Phú, Thiện Tân, Trị An, Vĩnh Tân.
Vĩnh Cửu là một từ Hán Việt có nghĩa là lâu dài.
47. Xuân Lộc
Huyện Xuân Lộc có diện tích 726,8km2, dân số 195.000 người (2006), gồm thị
trấn Gia Ray và 14 xã: Bảo Hòa, Lang Minh, Suối Cao, Suối Cát, Xuân Bắc, Xuân
Định, Xuân Hiệp, Xuân Hòa, Xuân Hưng, Xuân Phú, Xuân Tâm, Xuân Thành,
Xuân Thọ, Xuân Trường.
Xuân Lộc là lộc mùa xuân.
B. Địa danh còn đang tranh luận
1. Bằng Lăng
Một địa danh xưa của tỉnh Đồng Nai. Nhiều người đọc và viết chệch thành
Bàn Lân, Bàn Lăng, Bàng Lăng. Cái tên này có hai cách lý giải:
Thứ nhất, nhiều người cho rằng Bằng Lăng là tên một loại cây to, hoa màu tím
hồng, gỗ nâu vàng. Đây là loài cây bản địa, mọc rất nhiều trước đây trong vùng
Đồng Nai và Gia Định.
Thứ hai, Bằng Lăng là tên loại cây blaang (bonrbax malabarium) của người
Mạ - một loại cây gạo, gọi là cây gạo Malaba Ấn Độ. Loại cây này “đốn từ trong
77
rừng đem về trồng ở buôn làng để làm cọc hiến sinh (người ta buộc con trâu để giết
tế lễ vào đó); cây cọc này sẽ đâm rễ xanh tươi trở lại và đây là di tích chỉ báo sự
chiếm ngụ của con người trên vùng đất đã bị bỏ đi. Loại gạo mọc ở núi cao và cao
nguyên thường nhỏ thấp ở mức trung bình; ngược lại, cây gạo mọc ở bờ sông, triền
đất thung lũng phù sa ở miền hạ lại đạt đến kích thước cao lớn, nổi bật trên tầng cây
rừng xanh thẩm quanh nó” [11, tr.121].
2. Dầu Giây
Ngã ba, thuộc huyện Trảng Bom.
Có người cho rằng sỡ dĩ khu vực này có tên là “Dầu Giây” vì trước kia ở đây
có nhiều cây Dầu, trên thân của nó có nhiều dây leo chằng chịt.
Một cách lý giải khác về địa danh này là vào năm 1954 một số giáo dân theo
hai giáo phận Bùi Chu và Phát Diệm di cư vào khu vực miền Nam, đã an cư lạc
nghiệp ở nơi này, họ đem theo mình những tập tục, thói quen trồng cây trầu tại khu
mình sống. Vì thế ở đây xuất hiện rất nhiều cây trầu dây nhưng người Hà Nam Ninh
không nói được âm “tr” nên họ đọc thành “gi,d”, do vậy trầu dây đọc thành Dầu
Giây.
3. Đ
Chiến khu Đ thuộc huyện Vĩnh Cửu trong những năm đầu kháng chiến chống
Pháp (1945-1954).
Tuy chỉ có một chữ cái nhưng cũng chính vì thế mà địa danh này đã được
nhiều người giải thích theo lối phỏng đoán của cá nhân. Có bốn cách lý giải nguồn
gốc địa danh này: 1. Đ là mật danh chỉ vị trí Tổng hành dinh Khu 7 nằm trong hệ
thống các vị trí căn cứ được tính theo thứ tự các chữ cái A, B, C…Dần dần về sau
mật danh được dùng để chỉ cả chiến khu rộng lớn; 2. Đ là chữ viết tắt địa danh Đất
Cuốc; 3. Đ là chữ viết tắt của từ chỉ tổ chức cách mạng của chiến khu (chiến khu
Đỏ, chiến khu Đảng) để phân biệt với căn cứ một số ít lực lượng vũ trang không
78
cách mạng lúc bấy giờ. 4. Đ là chữ viết tắt của chiến khu Đồng Nai, chiến khu Miền
Đông, chiến khu Đầu Tiên.
Trong 4 cách giải thích trên thì theo chúng tôi có lẽ thuyết thứ nhất có tính
thuyết phục hơn cả.
Cuốn Lịch sử chiến khu Đ viết: Ngày 20 tháng 2, khu bộ Khu 7 họp hội nghị
bất thường tại Lạc An. Trong đó hội nghị có thảo luận những biện pháp nhằm xây
dựng địa bàn đứng chân, quy định các khu vực doanh trại, bố trí hệ thống phòng thủ
bảo đảm chiến đấu, ngăn chặn tiêu diệt địch và bảo vệ an toàn căn cứ. Sau hội nghị,
công tác xây dựng căn cứ bắt đấu được triển khai tương đối có hệ thống. Các cơ
quan, đơn vị, công xưởng … phân chia đóng từng khu vực. Mỗi khu vực đều có
nhiều phương án di chuyển địa điểm và mang một mật danh A, B, C, D. Khu bộ lập
một trung đội “bộ đội danh dự gương mẫu” làm nhiệm vụ nghi thức và lưu động tác
chiến bảo vệ các cơ quan trong khu. Từ đây, căn cứ Tổng hành dinh Khu 7 thường
được gọi là chiến khu Đ [33, tr.25-27].
Thật ra, chiến khu D được hình thành khởi đầu từ căn cứ của 5 xã: Tân Hòa,
Mỹ Lộc, Tân Tịch, Thường Lang, Lạc An (thuộc quận Tân Uyên, tỉnh Bình Dương)
trong những ngày cuối tháng 2 năm 1946, khi thực dân Pháp chiếm được quận lỵ
Tân Uyên, thành lập chi khu. Tổng hành dinh khu 7 và lực lượng vũ trang Biên
Hòa, Thủ Dầu Một rút sâu vào rừng. Công tác xây dựng căn cứ đã được đặt ra rất
cấp thiết, cụ thể. Được hội nghị chấp thuận, việc xây dựng căn cứ được triển khai có
hệ thống, các cơ quan, đơn vị, công xưởng… phân chia đóng từng khu vực. Mỗi
khu vực đều có nhiều phương án di chuyển địa điểm tránh sự đột kích của quân
Pháp và mang mật danh A, B, C, D (A là căn cứ giao thông liên lạc đóng ở Giáp
Lạc, B là căn cứ hậu cần đóng ở Thường Lang, C là khu bộ đội thường trực đóng ở
sở Ông Đội, D là khu Tổng hành dinh khu 7 đóng ở hố Ngãi Hoang). Từ đấy, chiến
khu D đã trở thành căn cứ địa của chiến khu 7 - một tổ chức hành chánh - quân sự
của các tỉnh Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Tây Ninh, Gia Định, Chợ Lớn, Bà Rịa và
79
thành phố Sài Gòn, do Trung tướng Nguyễn Bình được chỉ định làm khu trưởng và
Trần Xuân Độ làm chính trị ủy viên khu.
Như vậy, từ chữ D là mật danh, người ta đọc thành Đ theo cách đọc tiếng Pháp
và vì nghe thuận tai hơn. Chiến khu Đ còn gọi là chiến khu Đất Cuốc hay chiến khu
Lạc An bởi vì chiến khu được hình thành khởi đầu từ căn cứ của 5 xã thuộc quận
Tân Uyên trong đó có xã Lạc An. Đất Cuốc là cái nôi của chiến khu Đ, nơi bộ đội
Huỳnh Văn Nghệ khởi cứ đầu tiên, tập hợp lực lượng, mở trại huấn luyện ngay
trong ngày đầu kháng chiến. Tại đây có nhiều tên tuổi một thời gây chấn động đối
với giặc Pháp như Trần Văn Quỳ, Lê Văn Tôn, Huỳnh Luyễn... và nhiều tên tuổi
khác được phân ra hoạt động trên khắp chiến trường chiến khu Đ. Còn những cách
giải thích khác về chữ Đ như Đỏ, Đảng, Miền Đông, Đầu Tiên, Đồng Nai… nghe
cũng có lý nhưng không có tính thuyết phục cao.
Nói tóm lại, theo chúng tôi, Đ (đúng ra là D) là một mật danh chỉ vị trí Tổng
hành dinh khu 7 nằm trong hệ thống các vị trí căn cứ khác là A, B, C.
4. Định Quán
Huyện, có diện tích 966,5km2, dân số 199.600 người (2006), gồm thị trấn
Định Quán và 13 xã: Gia Canh, La Ngà, Ngọc Định, Phú Cường, Phú Hoà, Phú Lợi,
Phú Ngọc, Phú Tân, Phú Túc, Phú Vinh, Suối Nho, Thanh Sơn, Túc Trưng.
Định Quán vốn là tuần, còn gọi thủ Ba Can, được lập dưới thời Gia Long
(1802 - 1820) để thu thuế thủy trình.
Có giả thuyết cho rằng khi chúa Nguyễn đem quân vào Nam đã từng đóng
quân ở đây, nên gọi là “Định Quân”, về sau đọc trại ra “Định Quán”.
5. Đồng Nai
Địa danh Đồng Nai chỉ bốn đối tượng:
- Vùng đất ở miền Đông Nam Bộ. Tên này đã xuất hiện từ thế kỷ XVII.
80
- Sông dài 635km, bắt nguồn từ cao nguyên Lâm Viên, chảy qua vùng Đồng
Nai, đổ ra cửa Soài Rạp. Người Kơ Ho gọi khúc đầu sông này là Đạ Đờng, nghĩa là
“sông lớn”. Đạ Đờng còn được phiên thành Dã Dương, Đa Dâng.
- Cầu, bắc qua sông Đồng Nai trên quốc lộ 1A.
- Tỉnh vốn là 3 tỉnh Biên Hoà, Long Khánh, Phước Tuy nhập lại năm 1976,
gồm thành phố Biên Hoà, thị xã Long Khánh và 9 huyện: Cẩm Mỹ, Định Quán,
Long Thành, Nhơn Trạch, Tân Phú, Thống Nhất, Trảng Bom, Vĩnh Cửu, Xuân Lộc.
Có nhiều ý kiến khác nhau về cách giải thích địa danh Đồng Nai.
* Đồng Nai có liên quan đến Đạ Đờng.
Đồng trong từ Đồng Nai là cách gọi biến âm từ chữ Đờng trong Đạ Đờng
(Sông Cái) của người Mạ; bởi vì rất nhiều tên gọi khác bắt nguồn từ chữ Đồng
(Đờng) mà không phải là cánh đồng: Đồng Tranh, Đồng Môn, Đồng Lách, Đồng
Tràm, Đồng Bơ... Và vùng này có nhiều nai nên người Việt mới gọi là Đồng Nai.
* Đồng Nai có liên quan đến Lộc Dã, Lộc Động.
Chợ Lộc Dã ở phía nam hạ lưu sông Phước Long (nay là sông Đồng Nai)
huyện Phước Chánh, vì trước kia là đồng nội lắm hươu nai nên gọi tên thế, hoặc gọi
là Lộc Động, tục gọi chợ Đồng Nai. Xét sáu tỉnh Gia Định mà gọi chung là Đồng
Nai, vì lúc mới khai thác, bắt đầu từ Đồng Nai nên lấy chỗ gốc mà bao trùm [89,
tr.67].
* Đồng Nai có liên quan đến danh từ Nông Nại.
Đồng Nai phiên âm thành Nông Nại mà người Hoa ở Cù Lao Phố phát âm từ
Giản Phố Trại dùng để chỉ Kambuja (trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài
Đức dùng âm Kambuja dịch thành Giản Phố Trại).
Thái Văn Kiểm cũng cho rằng: “Danh từ Nông Nại hoặc Đồng Nai là phần đất
trên đó đã thiết lập phủ Gia Định, nhưng theo nghĩa rộng thì danh từ ấy bao gồm
một xứ còn gọi là Lộc Dã hoặc là Lộc Đồng, có nghĩa là “cánh đồng có nhiều nai”
81
tức là vùng Biên Hòa bây giờ. Huyện Phước Long đã đặt tên cho con sông Phước
Long Giang, tức là tên chữ của sông Đồng Nai. Theo tôi, danh từ Nông Nại có lẽ
xưa hơn danh từ Đồng Nai. Rất có thể Nông Nại là một danh từ Chân Lạp, được
Việt âm hóa thành Đồng Nai, mặc dầu có người ước đoán rằng chữ Nông Nại có lẽ
do người Trung Hoa đọc sái hai chữ Đồng Nai mà ra. Ngày xưa, khi ta mới đặt chân
lên đất Nam Bộ, ta đã thoảng nghe những địa danh thổ âm rồi, cũng như Bà Rịa là
do chữ Bariya (theo nhà cổ học E.Aymonier), chữ Saigon hay Sài Côn là do chữ
Prei Kor (rừng gòn) của người Chân Lạp mà ra vậy” [65, tr.450-451].
Một cuốn sách khác viết: Vì sao có tên là Ðồng Nai? Sử sách ghi lại: Ðồng
Nai thoát thai từ hai tiếng Nông Nại - tức Chu Nại - nghĩa là đất Nai, là cánh đồng
có nhiều nai vàng. Ðó là một loài vật mảnh mai, thanh cao, luôn luôn ưỡn ngực
ngẩng cao đầu, luôn luôn bay lên phía trước với dáng vóc rực lửa, với cặp sừng tua
tủa như giáo, như gươm, như bút vẽ và đôi mắt lúc hiền dịu, mơ màng, êm ái như
nhung, khi rực rỡ như đuốc, như sao, lung linh, sắc sảo… Yên bình biết mấy xứ
Ðồng Nai xa xôi xưa - từng đàn nai vàng nhởn nhơ trên đồng cỏ xanh, xanh tận
chân trời… Có lẽ vẻ đẹp của nai vàng bên sông đã khiến cho những tên khác của
dòng sông này tuy cũng rất ấm cúng, gợi cảm như Lộc Giả, Phước Long, Hòa Quí,
Sa Hà nhưng qua sàng lọc của tháng năm, chỉ duy nhất hai tiếng Ðồng Nai còn sót
lại sau bao thế kỷ bão bùng” [129, tr.164].
* Đồng Nai là một từ thuần Việt, nghĩa là cánh đồng có nhiều nai sinh sống.
Cuốn Thơ văn Huỳnh Văn Nghệ ghi: “Hồi xưa…Ông bà mình từ ngoài Huế đi
vào khai phá rừng này. Lúc ấy chưa có đường xá gì đâu, chỉ có đồng hoang rừng
rậm. Họ đi lần theo chiều nước ròng của con sông này. Đi đến đâu thì phá rừng, lập
làng lập ấp đến đó. Sanh cư lập nghiệp mãi mới thành tỉnh Biên Hoà của mình đây
cũng như các tỉnh khác của xứ Nam Kỳ. Từ ngoài Huế vào đây có lẽ vì thấy vùng
này đồng rộng mà nhiều nai nhất nên ông bà mình đặt tên cho con sông này là sông
Đồng Nai. Biên Hoà ngày xưa còn có tên là Biên Hùng gồm luôn cả hai tỉnh Bà Rịa
và Thủ Dầu Một” [97, tr.16-17].
82
Mặc dầu có nhiều cách lý giải khác nhau về nguồn gốc của địa danh Đồng
Nai, tuy nhiên, chúng tôi đồng ý với quan điểm của hai tác giả Đỗ Quyên và Lê
Trung Hoa cho rằng Đồng Nai là cánh đồng có nhiều nai.
Hai tác giả Đỗ Quyên và Lê Trung Hoa khi nhận định về Đồng Nai, đã nhắc
tới Hang Nai, Nhà Nai, Hố Nai và Đồng Nai nhằm nhắc tới hình ảnh con Nai như là
một thứ TOTEM xuất phát từ những người đi khai phá, vì mãi cuối thế kỉ XVIII khi
các điền chủ, các quan Kinh lượt phụng mệnh chúa Nguyễn vào Nam kinh lượt mới
có danh từ Lộc Dã, Lộc Động.
Trong Những cánh đồng mộ chum ở Long Khánh, H.Fontaine đã dẫn lời của
giám mục Labbé trong bức thư gửi phái bộ thừa sai nước ngoài (10-1970 ):
"Khoảng năm 1670 đã có dân Cochinchine (người Bắc Việt, Giao Chỉ ghi chú của
tác giả) đến sinh cơ lập nghiệp ở một phần đất nào đó mà người ta gọi là Donnai
giáp ranh với các Vương quốc Khmer và Chămpa".
Ngoài ra tên Đồng Nai xuất hiện bằng chữ Quốc ngữ (Dou Nai) lần đầu tiên
trong một báo cáo của giáo hội Thiên Chúa giáo về tình hình giáo dân ở Nam Bộ
năm 1747. Sau đó địa danh Đồng Nai xuất hiện vừa bằng chữ Nôm, vừa bằng chữ
Quốc ngữ trong cuốn từ điển An Nam- Latinh của Pigneau de Béhaine năm 1772.
Về sau, Lê Quý Đôn (1776) Trịnh Hoài Đức (1820), Huỳnh Tịnh Của (1895 -
1896)... đều dùng tên gọi Đồng Nai trong tác phẩm (chữ Hán) của mình.
Như vậy danh từ Đồng Nai đã có trước khi Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh
lý đất Đồng Nai. Đồng Nai vốn có nghĩa là “cánh đồng có những con nai”, nên
Génibrel (trong Dictionnaire Annamite - Francais, 1898) dịch sang tiếng Pháp là
“Plaine aux Cerfs”. Khi dịch nghĩa địa danh này sang chữ Hán, các cụ dùng hai từ
Hán là Lộc Dã. Còn Nông Nại là phiên âm từ Đồng Nai mà theo Trịnh Hoài Đức
khi đi xứ sang Trung Hoa, thấy người Hoa dùng chữ Nông Nại Đại Phố để gọi Cù
Lao Phố. Khi vừa phiên âm vừa dịch nghĩa, người ta dùng hai chữ Lộc Động [54,
tr.85-86].
83
6. Ông Che
Hóc (góc núi) ở xã Hóa An, thành phố Biên Hòa.
Về cái tên Ông Che, theo truyền thuyết ông vốn tên Tươi, con ông Bùi Văn
Sầm, pháp danh Huệ Lâm, có công trừ yêu ma, sống trong một cái chòi che mưa
nắng nên gọi Ông Che.
Cuốn Đồng Nai di tích lịch sử văn hóa lại có đoạn: chùa Hóc Ông Che về sau
có tên là Hiển Lâm Sơn tự, cả tên gọi dân gian lẫn tên chữ Hán đều hàm chỉ là một
ngôi chùa ở chốn rừng sâu. Chùa do thiền sư Huệ Lâm (tục danh là Bùi Văn Tươi)
khai sơn tạo tự khoảng năm 1920. Thiền sư Huệ Lâm (1887 -1945) là con một pháp
sư danh tiếng ở vùng Hoá An - Biên Hoà, khi lớn lên thiền sư xuất gia làm đệ tử
hòa thượng Khánh Long ở chùa núi Châu Thới (nay thuộc tỉnh Bình Dương). Tục
truyền sau một thời gian tu học, Huệ Lâm được thầy rất quí mến truyền hết những
bí pháp và bảo Huệ Lâm đi về hóc rừng nọ lập chùa để hoằng hóa chúng sanh.
Thoạt đầu, ông che một cái chòi nhỏ để trú nắng mưa, có lẽ vì thế người ta gọi nơi
ấy là hóc có ông che chòi. Lại có người cho rằng, do đêm đêm người ta nghe tiếng
rừng thiêng lảnh lót như tiếng che ép mía nên gọi nơi đó là hóc Ông Che [111,
tr.211-212].
C. Địa danh là truyền thuyết, sự tích
1. Bạch Hổ
Hang, thuộc Định Quán, nằm dưới cụm núi Đá Voi
Tích truyền rằng, xưa kia, khi rừng rậm còn nhiều, có một cặp hổ trắng về ẩn
tại núi Đá Voi. Điều kỳ lạ là cặp chúa sơn lâm này không bắt người ăn thịt mà
thường xuống nghe kinh Phật ở chùa Thiện Chơn. Sau này rừng bị phá dần, lại thêm
chiến tranh, cặp hổ bỏ đi. Nhân dân cho là Hổ thần nên đặt tên hang là Bạch Hổ [8,
tr.326].
84
2. Bàu Phụng
Tương truyền đây nguyên là một Phượng Trì (xã Chánh Hưng), vì vùng ao to
rộng này, xưa có chim phượng tới tắm nước, rỉa lông (Phượng hoàng ẩm thủy). Vì
vậy, nhân dân đặt là Bàu Phụng (không phải là bà Phụng).
3. Chàng - Nàng
Thác Chàng và thác Nàng (còn gọi là thác Đôi) là hai dòng thác nằm trong khu
du lịch Giang Điền thuộc huyện Trảng Bom.
Theo các già làng trong vùng kể lại thì vùng đất này ngày xưa là nơi dân tộc
Mạ sinh sống. Ngày ấy có một đôi yêu nhau say đắm. Sau đó người con trai đi tòng
quân, người con gái ở nhà chờ đợi. Chờ quá lâu nhưng chàng mãi không trở về,
nàng đã khóc rất nhiều. Một ngày trời giông bão, người ta nghe thấy một tiếng sét
rất to. Sau đó, người ta thấy ngay chỗ cô gái ngồi xuất hiện hai dòng thác. Một dòng
thì chảy rất dữ dội và mạnh mẽ như tính cách người con trai nên đặt là thác Chàng,
một dòng thác thì chảy hiền lành và hiền hòa như tính cách của người con gái nên
người ta đặt tên là thác Nàng. Hai dòng thác này nằm cạnh nhau như mối tình thắm
thiết của đôi tình nhân.
4. Hòa Bình
Thác Hòa Bình (xã Phú Sơn - TP) gắn với huyền thoại của một tình yêu đẹp.
Tương truyền nơi rừng cây này xưa kia là nơi gặp gỡ của đôi trai gái yêu nhau,
nhưng vì do sự mâu thuẫn và do chiến tranh giữa hai bộ tộc, họ không thể đến với
nhau. Và mỗi lần gặp gỡ tại đây họ đã khóc, nước mắt của đôi trai gái này đã chảy
thành thác.
Nhân dân sau đó đã đặt tên thác là Hòa Bình với mong muốn là không còn
tình trạng chiến tranh xảy ra ở đây nữa.
5. Tham Mạng
Vàm (ngã ba sông) trên sông Đồng Nai, thuộc phường Tân Vạn, thành phố
Biên Hòa.
85
Theo Lương Văn Lựu [71, tr.293-297], quyển 2 thì Tham Mạng là “ham muốn
mạng người”, vì theo truyền thuyết, đây là nơi ba người chết oan, thường nổi sóng
lật ghe thuyền, làm nhiều người chết đuối.
6. Thủ Huồng
Rạch, và cầu Thủ Huồng thuộc thành phố Biên Hòa. Thủ Huồng tên thật là Võ
Thủ Hoằng, có công nạo vét con rạch và xây cầu. Dưới đây là sự tích về nhân vật
này được trích từ cuốn [129, tr.113-116].
Ngày xưa ở Gia Ðịnh có một người tên là Võ Thủ Hoằng dân chúng thường
gọi là Thủ Huồng, xuất thân làm thơ lại. Trong hai mươi năm luồn lọt trong các
nha, các ti, hắn đã làm cho bao nhiêu gia đình tan nát, bao nhiêu người bị oan uổng.
Nhờ đó, hắn đã vơ vét biết bao là tiền của. Vợ chết sớm, lại không có con cho nên
tiền bạc của hắn không biết tiêu đâu cho hết. Ngoài số chôn cất, hắn còn đem tiền
tậu ruộng làm nhà và cho vay lãi. Ruộng của hắn cò bay thẳng cánh, mỗi mùa thu
hoạch kể hàng ngàn dạ lúa. Khi thấy cuộc sống quá thừa thãi, hắn bèn thôi việc về
nhà, sống cuộc đời trưởng giả.
Một hôm có người mách cho Thủ Huồng biết chợ Mãnh Ma ở Quảng Yên là
chỗ người sống và người chết có thể gặp nhau vào nửa đêm ngày một tháng sáu
hàng năm. Thủ Huồng là người rất yêu vợ. Tuy vợ đã chết ngoài mười năm, nhưng
hắn vẫn không lúc nào quên. Hắn quyết đi tìm vợ nên giao nhà cửa lại cho người bà
con, rồi lên đường tìm ra Quảng Yên.
Khi gặp vợ, Thủ Huồng không dám hỏi vì thấy vợ ăn mặc rất đài các. Sau
cùng người đàn bà ấy cũng nhận ra được chồng. Vợ Thủ Huồng làm vú nuôi trong
cung vua, có một gian nhà riêng ở trong cung, cái ăn, cái mặc được cấp đủ. Thủ
Huồng muốn theo vợ xuống âm phủ chơi. Vợ đồng ý.
Qua mấy dặm đường tối mịt, chả mấy chốc đã đến cõi âm. Hắn rùng mình khi
lọt qua bao nhiêu cổng trước lúc vào trong Diêm đình. Ở mỗi cổng đều có một tên
qủi gác cổng, mặt mày gớm ghiếc, dữ tợn. Nhờ có vợ nên chỗ nào cũng lọt qua
được. Ðến một gian nhà thấp, vợ bảo chồng:
86
- Ðây là nhà bếp, đằng kia là nhà ngục, trước mặt là cung hoàng hậu chỗ tôi
túc trực ban ngày. Qua khỏi chỗ đấy là cung vua. Cứ ẩn tạm trong buồng vắng này
vì không thể lên buồng tôi trên kia được.
Chiều hôm đó, người vợ đi hầu hoàng hậu về, trao cho Thủ Huồng một tờ lịch
được phép đi xem mọi nơi trừ cung vua và hoàng hậu.
Hắn dạo quanh đây đó, rồi đến nhà ngục. Tiếng kêu khóc, tiếng thét la ở trong
ngục vang dội làm cho hắn bồn chồn. Qua mấy nơi quỷ sứ mổ bụng, móc mắt, cắt
tay, hắn thấy quả nơi đây là nơi trả báo những tội lỗi của con người ở trần thế, đúng
như lời đồn của người đời.
Sau cái bàn xẻo thịt là cả một kho gông. Trong đó có cái gông đặc biệt: nó vừa
to vừa dài làm bằng những thanh gỗ lớn. Thủ Huồng lân la hỏi người cai ngục thì
được biết những cái gông này dành cho những người làm điều ác ở trần gian. Hắn
hỏi tiếp:
- Thế cái gông to đó là của ai vậy?
Cai ngục giở cuốn sổ dày tra tên, và chỉ vào hàng chữ đọc: Võ Thủ Hoằng, tục
danh là Thủ Huồng, nguyên quán Ðại Nam Quốc, Gia Ðịnh tỉnh, Phúc Chánh
huyện.
Nghe nói đến tên mình, Thủ Huồng giật mình, mặt xám ngắt. Lát sau hắn lấy
được bình tình. Hắn hỏi tiếp:
- Hắn ở trần gian có tội gì?
Cai ngục nhìn vào trang sổ, và nói:
- Khi làm thơ lại, hắn bẻ mặt ra trái làm bao nhiêu việc oan nghiệt đến nỗi tội
ác hắn chép kín cả mấy trang giấy đây. Này nghe tôi đọc này: Năm Ất Sửu hắn sửa
hai chữ ngộ sát thành cố sát làm cho hai mẹ con Thị Nhàn bị chết để cho anh họ
chiếm đoạn gia tài. Việc này Thủ Huồng được mười nén vàng, mười nén bạc và một
trăm quan tiền. Cũng năm đó, hắn làm cho ông Ngô Lại ở thôn Bình Ca bị hai năm
87
tội đồ chỉ vì trong nhà có cái áo vàng để đoạt không của ông ta mười hai mẫu ruộng.
Năm…
Thủ Huồng sợ tái mặt, không ngờ nhứt nhứt mỗi việc từ nhỏ đến lớn của mình
trên trần gian, dưới này đều rõ mồn một. Thủ Huồng ngắt lời, hỏi lảng sang chuyện khác:
- Thế vợ hắn có đeo gông không hở ông?
- Ồ! Ai làm người nấy chịu chứ! Vợ hắn nghe đâu là người tốt, đã xuống đây rồi.
Thủ Huồng lại hỏi gặng:
- Ví như hắn muốn hối cải được không?
Cai ngục đáp:
- Ðã vay thì phải trả! Nếu hắn muốn thì phải đem những thứ của cải đã cướp
được đó bố thí cho hết đi.
Từ biệt cai ngục, với những nơi tra khảo tội nhân khủng khiếp, Thủ Huồng
không còn bụng dạ nào để đi xem nơi khác nữa. Vợ nghe chồng đòi về, lại đưa
chồng ra khỏi Diêm đình, và tiễn chồng đến cuối đoạn đường tối tăm mù mịt. Lúc
sắp chia tay hắn bảo vợ:
- Tôi về trang trải công nợ, có lẽ ba năm nữa tôi lại xuống. Mình nhớ lên đón
tôi nghe.
Về đến Gia Ðịnh, Thủ Huồng mạnh tay bố thí. Hắn tập hợp người nghèo khó
trong vùng lại, phát cho họ tiền, lúa. Hắn đem ruộng đất của mình cúng cho làng,
cho chùa, chia cho họ hàng thôn xóm. Hắn mời hết sư sãi các chùa quanh vùng tới
nhà mình cúng cơm, tốn kém kể tiền vạn.
Cứ như thế ba năm, Thủ Huồng tính ra đã phá tán được ba phần tư cơ nghiệp.
Nhớ lại lời hẹn, hắn lại khăn gói lên đường tìm đến chợ Mãnh Ma. Ở đây, hắn lại
nhờ vợ đưa xuống cõi âm một lần nữa.
Lần này, mục đích chính của Thủ Huồng là đến chỗ cũ xem lại các gông. Trở
lại nhà ngục, Thủ Huồng thấy quang cảnh vẫn như cũ. Lão cai ngục vẫn là lão cai
88
ngục ba năm về trước. Duy chỗ kho để gông thì có ít nhiều thay đổi. Bên cạnh
những cái còn nguyên hình như xưa, lại có những cái trước nhỏ nay lớn lên. Ðặc
biệt cái gông dành cho chính mình thì bây giờ teo lại nhiều, tuy còn to hơn cái gông
thường một tí. Thủ Huồng lân la hỏi cai ngục:
- Cái gông to để nơi này trước kia tôi nhớ hình như to lắm thì phải?
- Ðúng đấy, có lẽ gần đây trên dương thế, thằng cha ấy biết chuộc lỗi, nên nó
đã nhỏ lại. Nếu hắn gắng nữa, thì rồi sẽ có phúc lớn.
Thủ Huồng trở lại trần gian, và trở về Gia Ðịnh. Hắn lại tiếp tục bố thí. Lần
này, hắn bán tất cả những gì còn sót lại, kể cả ngôi nhà để ở. Hắn đến Biên Hòa
dựng một ngôi chùa lớn để cúng Phật. Rồi hắn xuôi sông Ðồng Nai để làm việc
nghĩa cuối cùng. Hồi đó, từ Ðồng Nai về Gia Ðịnh phải đi đường sông. Ngã ba sông
Ðồng Nai và sông Sài Gòn, lúc đó còn hoang vu, chưa có ai đến ở. Do vậy ghe
thuyền qua lại lỡ con nước phải dừng lại, nhưng ở đây không có quán xá, chợ búa
nên rất bất tiện.
Thủ Huồng quyết định ở lại đây. Hắn kết một cái bè lớn trên bè có dựng nhà,
có đủ chỗ nghỉ, có sẵn nồi niêu, đồ dùng, gạo củi và mắm muối. Những thứ ấy hắn
dùng để tiếp rước người qua lại, nhất là những người khốn khó lỡ đường. Hắn cho
họ trú tại bè của mình năm ba ngày, mà không nhận của ai một cắc bạc. Hắn làm
công việc đó mãi cho đến ngày hắn chết.
Ngày nay ở cù lao Phố (tỉnh Ðồng Nai) còn có một ngôi chùa tương truyền do
Thủ Huồng lập, mang tên là chùa Thủ Huồng. Con rạch chảy ngang qua đường Tân
Vạn vòng lên quốc lộ 1 do chính Thủ Huồng vét, nên gọi là rạch Thủ Huồng, chiếc
cầu đá trên đường gần sông Ðồng Nai - Tân An cũng được gọi là Thủ Huồng vì cầu
được chính ông ta bắc, và chỗ ngã ba sông Ðồng Nai và sông Sài Gòn được gọi là
sông Nhà Bè để ghi nhớ lòng tốt của Thủ Huồng đối với khách qua lại trên sông đó
(Nguyễn Hữu Hiếu sưu tầm).
89
7. Trị An
- Thác trên s. Đồng Nai, thuộc huyện Vĩnh Cửu. Tại đây có nhà máy thủy điện
công suất 360. 000kw, xây dựng trong các năm 1984 - 1988.
- Thị trấn của huyện Vĩnh Cửu.
Trị An là giữ gìn an ninh trật tự xã hội. Đây là ước vọng của nhà cầm quyền
và nhân dân vì thác này có tới bảy bậc rất nguy hiểm, có thể gây chết người. Bên
cạnh ý nghĩa đích thực này, còn có bốn truyền thuyết kể về những mối tình ngang
trái của các cặp tình nhân một cách hoang đường. Dưới đây, chúng tôi xin trích
đăng một trong bốn truyền thuyết trên.
Ngày xưa, ở vùng Ðồng Nai, có một bộ tộc du mục thuộc dân tộc Châu Mạ,
chuyên sống bằng nghề nương rẫy và săn bắt thú rừng. Ðứng đầu bộ tộc này là tù
trưởng Xora Ðin, tuy râu tóc đã bạc phơ, nhưng ông còn rất khỏe mạnh.
Xora Ðina là con trai lớn của tù trưởng Xora Ðin, được cha truyền nghề cung
ná từ nhỏ nên sớm trở thành tay thiện xạ. Trong một ngày, Xora Ðina có thể dễ
dàng hạ hai con hổ. Chàng còn có thể hạ được cả loài cá sấu hung dữ đã một thời
gây khủng khiếp ở vùng giáp Sông Bé và sông Ðồng Nai.
Lúc bấy giờ ở thượng nguồn sông Ðồng Nai có nàng Ðiểu Du là trưởng nữ của
tù trưởng Ðiểu Lôi, người Châu Ro. Ðiểu Du say mê tập tành phóng lao với chí
hướng nối nghiệp cha. Chính cô đã trừ được con voi một ngà hung dữ ở vùng Ðạt
Bo. Tiếng thơm bay xa. Tài thiện xạ của Xora Ðina gây được sự cảm mến trong
lòng Ðiểu Du. Và Xora Ðina cũng muốn được gặp mặt người con gái nổi tiếng về
tài phóng lao ở miền thượng lưu con sông.
Năm nọ, trời hạn hán. Các con suối lớn nhỏ đều khô cạn. Cả người lẫn thú đổ
xô ra sông tìm nước uống. Một hôm trời chuyển dông, mây đen chao đảo trên vòm
trời. Một chiếc xuồng độc mộc chở một thiếu nữ tất tả xuôi mau vào bờ. Bỗng một
con cá sấu từ dưới nước nổi lên và đuổi theo chiếc xuồng. Lập tức hai mũi lao từ tay
Ðiểu Du phóng nhanh về phía con cá sấu. Nó bị thương nên càng vùng vẫy lồng
90
lộn, há miệng định nuốt chửng cả chiếc xuồng và người con gái. Trong cơn nguy
hiểm, may sao thuyền của Xora Ðina vừa kịp xuất hiện. Nhanh như chớp, chàng
bắn liền hai phát tên. Cá sấu trúng tên chạy được một đoạn thì chìm nghỉm.
Xora Ðina và Ðiểu Du quen nhau từ đó. Họ trở thành đôi bạn xuôi ngược dòng
sông. Dần dần họ yêu nhau. Mối tình của hai người được Xora Ðina và Ðiểu Lôi
chấp thuận. Theo phong tục hồi đó, trước ngày cưới, Xora Ðina phải về ở rể bên
đàng gái. Xora Ðin cho con trai mình chiếc tù và căn dặn:
- Gặp trắc trở thì thổi tù và, sẽ có người đến giúp.
Xora Ðina lên con ngựa trắng tiến về miền thượng lưu. Ði một đoạn đường,
gặp con suối cạn, Xora Ðina phải dìu ngựa qua các gộp đá lổm chổm. Ðột nhiên từ
trên cây cổ thụ một con hổ xám phóng xuống ôm choàng lấy Xora Ðina.
Ðó là một gã đàn ông đội lốt hổ. Nó vừa đánh nhau với Xora Ðina vừa hăm
dọa:
- Thần Hổ đây! Tao sẽ giết mày vì mày có tội
Xora Ðina nào phải tay vừa… Thần hổ bị đánh gã, bèn xông tới toan cướp
ngựa. Con ngựa trắng hí lanh lảnh chồm lên dữ dội, thần hổ bị ngựa đá, phóng
nhanh vào rừng.
Ði thêm được một đồi ngắn, Xora Ðina đã thấy Ðiểu Du ra đón chàng ở bìa
rừng. Ðàng xa Ðiểu Lôi cũng vừa tới.
Nhân lúc ngồi nghỉ, Xora Ðina hỏi Ðiểu Du:
- Vùng này có hổ không em?
Ðiểu Du cười đáp:
- Thằng thầy mo Sang Mô đó. Nó bày trò hù dọa dân làng. Nó oán em lắm, vì
em không ưng nó.
Thấy bóng Sang Mô loáng thoáng gần đó, Xora Ðina lên tiếng:
- Mời anh Sang Mô đến uống rượu với chúng tôi.
91
Sang Mô đến, hắn trừng mắt nói với Xora Ðina:
- Anh là kẻ xa lạ, đến đây để làm gì?
Một lát, hắn nhìn Xora Ðina cười nham hiểm:
- Nghe nói anh nổi tiếng về tài thiện xạ. Vậy ta thách anh: nếu anh bắn trúng
cái lá trót trên cành cây ta đang cầm trong tay thì ta sẽ nhường Ðiểu Du cho anh.
Hắn bẻ một nhánh quýt rừng và giơ lên. Hắn vừa thách vừa lắc lắc bàn tay
khiến nhánh quýt run rẩy như gặp gió.
- Nào bắn đi!
Dừng một phút, Xora Ðina quát lớn:
- Thần hổ coi đây!
Sang Mô giật mình, ngừng tay. Xora Ðina bắn mũi tên xuyên qua chiếc lá
chót. Mọi người reo hò hoan hỉ.
Lễ cưới diễn ra trọng thể. Ðâm trâu, mời rượu, múa hát… Dân làng ca ngợi
đôi trai gái bằng tiếng hát và tiếng cồng chiêng vang dậy. Riêng Sang Mô tức tối,
kiếm cách trả thù.
Năm sau, Ðiểu Du sanh được một con trai. Ngày đứa bé ra đời, trời mưa tầm
tã, Sang Mô nhân đó tung tin: “Ðiểu Du sanh ra ma qủi, rồi sẽ có nạn mất mùa đói
kém!”
Do đồn nhảm, Sang Mô bị Ðiểu Du gọi đến quở phạt. Hắn càng oán giận.
Năm sau nữa, trong một chuyến đi săn chung với Ðiểu Lôi, Sang Mô đã sát hại viên
tù trưởng bằng một mũi tên bắn lén sau lưng. Rồi hắn cùng mươi tên phản loạn khác
kéo về suối Ðạt Bo để giết luôn vợ chồng Xora Ðina.
Canh hai đêm đó, ngôi nhà của vợ chồng Xora Ðina bỗng dưng bốc cháy.
Xora Ðina chỉ kịp thét lớn: “Có kẻ đốt nhà!”. Rồi ẵm con cùng Ðiểu Du thoát khỏi
vùng lửa.
92
Cuộc xô xát diễn ra ác liệt. Mãi lo che chở cho con, Xora Ðina bị thất thế. Còn
Ðiểu Du sau một lúc chống cự cũng bị bọn Sang Mô bắt. Xora Ðina xông tới cứu
vợ. Ðứa con tuột khỏi tay chàng văng xuống đất.
Bỗng một cánh bóng mảnh mai lao nhanh đến và ôm lấy thằng bé chạy thoát
vào rừng. Sang Mô gào lên:
- Ðuổi theo, trừ cho tiệt nòi!
Nhưng bóng con ngựa trắng của Xora Ðina chở Sang My trên lưng đã biến
mất trong rừng.
Cho dù em gái ta, cũng cứ bắn, tên bay vun vút. Sang Mô còn đốt cháy rừng
hòng ngăn cản em gái mình chạy thoát. Tức giận, Sang Mô nghiến răng trói chặt vợ
chồng Xora Ðina quăng xuống một chiếc xuồng có chất sẵn một thứ nhựa cây dễ
cháy, rồi thả xuồng trôi theo dòng nước chảy xiết. Sang Mô cho chèo xuồng rượt
theo và cứ nhắm vào xuồng của Xora Ðina mà buông những phát tên lửa. Ðến một
bậc đá, xuồng bị cản lại. Xora Ðina đã kịp tháo dây trói tay và rút tù ra thổi một hồi
dài.
Hàng trăm người ở miền hạ lưu nghe tiếng tù và liền đổ xô ra bờ sông, nhảy
qua những gộp đá, tiến tới chiếc xuồng đang bốc cháy ngùn ngụt. Mọi người ngậm
ngùi trước cái chết đau đớn của Xora Ðina và Ðiểu Du. Vừa lúc ấy con ngựa trắng
chở Sang My và đứa bé cũng chạy tới. Trên lưng Sang My có hai mũi tên cắm sâu.
nàng chỉ kịp trao đứa bé cho ông già Xora Ðin rồi ngã gục xuống ngựa. Xora Ðin
vuốt mắt cho Sang My.
- Ngàn đời ta tri ân nàng đã cứu cháu ta.
Còn con ngựa trắng thì ngước đầu nhìn ra phía ngọn lửa đang bốc cháy.
Không thấy chủ, nó hí lên một hồi dài buồn thảm rồi phóng mình xuống dòng thác
xoáy.
Trong khi đó bà con đã bắt trói Sang Mô và mười tên phản loạn đem nạp cho
Xora Ðin. Những tên nghe lời dụ dỗ mua chuộc của Sang Mô được Xora Ðin xóa
93
tội. Còn Sang Mô bị trói chặt vào chỗ nó gây ra tội ác. Tù trưởng Xora Ðin giương
ná và lắp một mũi tên ngắm vào Sang Mô. Mọi người hồi hộp chờ đợt. Bỗng ông hạ
ná và hô một tiếng “Pa” ngắn gọn, rồi quẳng ná xuống dòng thác.
Ông muốn cho đời sau hiểu rằng: Hố hận thù phải được lấp bằng. Mọi người
nên sống với nhau trong tình thương lớn. Vì lòng tri ân đối với Sang My, ông tha
chết cho Sang Mô. Sang Mô dập đầu lạy Xora Ðin rồi ôm xác Sang My bước xuống
xuồng, nước mắt lã chã.
Từ đó, người trong vùng gọi thác này là thác Tri Ân, sau đọc trại thành Trị An
[100, tr.314-320].
D. Nguồn gốc - ý nghĩa một số địa danh phân theo nhóm từ ngữ
1. Nhóm từ ngữ chỉ địa hình thiên nhiên
* Danh từ chung
Dốc: Chỗ đất lên cao. Dốc ở chỗ đỉnh cao của nó cũng là một vị trí để dánh
dấu trên một trục lộ [110, tr.25]. Ví dụ: dốc 47 (LT), dốc Ngô Quyền (BH), dốc
Kim Liên (VC)…
Đảo: Khoảng đất lớn có nước bao quanh, khoảng cách với đất liền tương đối
khá xa, ở sông, hồ, biển hoặc đại dương. Ví dụ: đảo Đồng Trường (VC), đảo Bà
Hào (VC)…
Đèo: Chỗ thấp, dễ vượt qua nhất trên đường giao thông đi qua các đỉnh núi
[85, tr.306]. Ví dụ: đèo Mẹ Bồng Con (TXLK), đèo Con Rắn (TXLK)…
Gò: Chỗ đất cao, hẹp hơn giồng về mặt diện tích nhưng có độ cao cao hơn. Ở
Nam Bộ, khoảng đất cao nổi lên giữa vùng đất ruộng, chỉ dùng làm mộ địa, được
gọi là gò. Một vùng đất cao hơn các chỗ khác trong cùng một giồng cũng gọi là gò
[110, tr.19]. Ví dụ: gò Dầu (LT), gò Ông Sảnh (BH), gò Dê (VC).
Hang: Khoảng trống sâu tự nhiên hay được đào vào trong lòng đất. Ví dụ:
hang Nai (NT), hang Dơi (TXLK), hang Bạch Hổ (ĐQ)…
94
Hòn: Chỉ đảo ở gần bờ biển hoặc một chỗ đất cao trong đất liền nhưng gần bờ
biển [110, tr.19]. Ví dụ: hòn Dĩa (ĐQ), hòn Sư Tử (ĐQ)…
Rừng: Vùng đất rộng có nhiều cây cối mọc lâu năm. Ví dụ: rừng Mã Đà
(VC), rừng Sác (NT), rừng Lá (XL)…
Vườn: Khu đất trồng trọt ổn định, thường có rào giậu, trồng các loại rau, quả,
cây cảnh, cây làm thuốc... cho nhu cầu gia đình, hay để bán sản phẩm hoặc cho nhu
cầu kinh tế văn hóa của một tập thể của cộng đồng quốc gia [140]. Ví dụ: vườn Ngô
(TB).
* Thành tố chung
Đồi: Dạng địa hình lồi, có sườn thoải, độ cao không cao quá 200 mét. Ví dụ:
ấp Đồi Rìu (TXLK), ấp Đồi Hai (XL), ấp Đồi Phước Khả (LT)…
Núi: Địa hình lồi, sườn dốc, nổi cao lên trên mặt đất, thường cao trên 200 mét
[85, tr.742]. Ví dụ: hồ Núi Le (XL), ấp Núi Đỏ (TXLK), ấp Núi Tung (TXLK), xã
Núi Tượng (TP)…
2. Nhóm từ ngữ có liên quan đến sông nước
* Danh từ chung
Hồ: nơi đất trũng chứa nước, thường là nước ngọt, tương đối rộng và sâu, nằm
trong đất liền. Ví dụ: hồ Long Ẩn (BH), hồ Phú Cường (ĐQ), hồ Trị An (VC)…
Thác: Chỗ dòng nước chảy vượt qua một vách đá cao nằm chắn ngang lòng
sông, suối rồi đổ mạnh xuống [85, tr.908]. Ví dụ: thác Đá Hàn (TN), thác Hòa Bình
(TB), thác Trời (TXLK)…
* Thành tố chung
Rạch: Do tiếng Khmer prêk chuyển thành, là nhánh tương đối lớn của một con
sông. Nói chung rạch nhỏ hơn sông và lớn hơn mương, xẻo. Đây là nơi ghe thuyền
có thể đi lại được. Theo Lê Trung Hoa, xét về ngữ âm, prêk có thể chuyển thành
rạch là vì tổ hợp phụ âm có âm lỏng r bị rụng phụ âm đầu chỉ còn r đã khá phổ
95
biến: drap - (tấm) ra, grève - (làm) reo… và vần êk có thể chuyển thành thành ach,
tương tự méc - mác, (cù) léc - nách, vêk mục (tiếng Khmer) - vạch mặt [50, tr.120].
Ví dụ: cầu Rạch Chiếc (LT), suối Rạch Đông (VC), chợ Rạch Đông (VC), ấp Rạch
Bảy (NT), …
Sông: Dòng nước tự nhiên có kích thước tương đối lớn, chảy thường xuyên
trên mặt đất, thuyền bè thường đi lại được, có nguồn cung cấp là nước từ khí quyển
trong phạm vi lưu vực của sông và chảy trong lòng sông. Ví dụ: hồ Sông Mây (TB),
xã Sông Thao (TB), xã Sông Trầu (TB), cầu sông Buông (LT)…
Suối: Dòng nước tự nhiên ở miền đồi núi, chảy thường xuyên hoặc theo mùa,
do nước mưa hoặc nước ngầm chảy ra ngoài mặt đất tạo nên [85, tr.874]. Ví dụ:
rạch Suối Cả (LT), hồ Suối Bí (TN), hồ Suối Vác (ĐQ), chợ Suối Son (ĐQ)…
3. Nhóm từ chỉ tên các công trình xây dựng
* Danh từ chung
Bến đò: Nơi tàu thuyền, xe cộ dừng lại để hành khách lên xuống, xếp dỡ hàng
hóa. Ví dụ: bến đò An Hảo (BH), bến đò Mỹ Quới (VC), bến đò Trạm (BH)…
Bến phà: Điểm bố trí ở bờ sông, nơi chưa có cầu vượt sông trên tuyến đường
bộ, dùng phà chở hành khách và phương tiện vận tải qua sông [127, tr.192]. Ví dụ:
bến phà 107 (ĐQ).
Bến xe: Nơi ở các điểm đầu mối và đầu tuyến xe khách liên tỉnh, có các công
trình phục vụ hành khách [85, tr.58]. Ví dụ: bến xe Biên Hòa (BH), bến xe Long
Thành (LT)…
Bùng binh: Nơi có nhiều ngả đường tỏa đi khắp hướng. Bùng binh bị nói
chệch thành bồn binh. Ban đầu, bùng binh được hiểu là khúc sông rộng lớn mà tròn,
ở đó ghe thuyền thường trở đầu lại. Từ “bùng binh” này sau chuyển thành từ chỉ
công trình xây dựng giữa giao lộ trong thành phố [50, tr.70]. Ví dụ: bùng binh Biên
Hùng (BH), bùng binh Tam Hiệp (BH), bùng binh Tân Phong (BH)…
96
Cảng: Nơi có những công trình xây dựng và trang thiết bị phục vụ cho tàu
thuyền cập bến, bốc dỡ hàng hóa, hành khách lên xuống, sửa chữa phương tiện vận
tải thủy, bảo quản hàng hóa và thực hiện các công việc khác phục vụ quá trình vận
chuyển đường thủy [127, tr.352]. Ví dụ: cảng Long Thành (LT), cảng Đồng Nai
(BH), cảng Phước Thái (LT)…
Chiến khu: căn cứ địa cách mạng, khu vực tác chiến rộng lớn có ý nghĩa
chiến lược trong thời kỳ chống ngoại xâm. Ví dụ: chiến khu Đ (VC), chiến khu
Bình Đa (BH)…
Chợ: Vị trí tập hợp nhiều người do nhu cầu mua và bán, nơi đó những người
mua bán tụ tập vào những thời gian nhất định, có một nhà chợ thường không đủ
rộng cho tất cả những người mua bán sử dụng và có những cửa hàng hoạt động
thường xuyên trong những căn nhà nhất định [110, tr.27-28]. Ví dụ: chợ Lò Bò
(BH), chợ Sặt (BH), chợ Tân Phong (BH), chợ Cây Me (TN)…
Công viên: Vườn chung, rộng lớn, trồng nhiều cây xanh và hoa, là nơi mọi
người có thể nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí. Ví dụ: công viên Biên Hùng (BH), công
viên Giồng Sắn (NT), công viên Hòa Bình (TXLK)…
Cống: Công trình ngầm hoặc lộ thiên để nước tự chảy qua, dùng vào việc lấy
nước, tháo nước hoặc điều tiết nước [85, tr.212]. Ví dụ: cống Chợ (TN), cống Lớn
(LT), cống Hộp (XL)…
Cư xá: Khu nhà tập thể, nhiều tầng. Ví dụ: cư xá 5 Tầng (BH), cư xá Phúc
Hải (BH)…
Chung cư: Nhà cao tầng để ở, được thiết kế theo kiểu có từng căn hộ riêng
biệt khép kín [85, tr.183]. Ví dụ: chung cư Thanh Bình…
Đập: Công trình thủy công bằng đất đá hoặc bê tông chắn ngang sông, suối
tạo ra độ chênh lệch mực nước trước và sau công trình để dâng cao mực nước. Ví
dụ: đập Bình Hòa (XL), đập Cây Chanh (LT), đập Cây Da (TN)…
97
Địa đạo: Hệ thống công trình phòng thủ được đào sâu trong lòng đất, gồm
một số đường hầm, nối liền các trận địa ở những hướng khác nhau, để trú ẩn và cơ
động chiến đấu. Trong địa đạo có dự trữ nước, lương thực, vũ khí và có nơi ăn ở,
sinh hoạt [127, tr.780]. Ví dụ: địa đạo Nhơn Trạch (NT), địa đạo Suối Linh (TB)…
Đường thủy: Đường đi trên mặt nước sông, biển, kênh, hồ, dùng cho tàu
thuyền (nói khái quát) [85, tr.359]. Ví dụ: đường thủy Đồng Nai, đường thủy Lô
Gia, đường thủy Lòng Tàu…
Ga: Gốc Pháp là gare. Đây là công trình kiến trúc làm nơi để hành khách lên
xuống các phương tiện giao thông và làm những thủ tục cần thiết. Tùy theo loại
phương tiện giao thông có ga đường sắt, ga hàng không… Ví dụ: ga Hố Nai (BH),
ga Trảng Táo (XL), ga Dầu Giây (TN)…
Hương Lộ: Đường nối các xã trong tỉnh. Ví dụ: hương lộ 2 (LT), hương lộ 19
(NT)…
Kênh (kinh): Công trình dẫn nước đào đắp hay xây trên mặt đất bằng phương
tiện cơ giới hoặc thủ công, phục vụ thủy lợi, giao thông: đào kênh dẫn nước vào
đồng [54, tr.184 - 185] (tập 1). Ví dụ: kênh Phước Hưng (LT), kênh Bửu Hòa (BH),
kênh Tập Đoàn 1+2 (LT)…
Lâm trường: Cơ sở sản xuất chuyên về nghề rừng [85, tr.551]. Ví dụ: lâm
trường Hiếu Liêm (VC), lâm trường Vĩnh An (VC), lâm trường Xuân Lộc (XL)…
Nông trường: Cơ sở sản xuất nông nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân, do
nhà nước tổ chức và trực tiếp quản lý [85, tr.740]. Ví dụ: nông trường Cẩm Mỹ
(CM), nông trường Cao Su Bình Sơn (LT), nông trường Tân Lộc (TN)…
Quốc lộ: Đường lớn liên tỉnh do chính phủ quản lý. Ví dụ: quốc lộ 20, quốc lộ
51, quố lộ 1A…
Sân bay: Khoảng đất rộng có tổ hợp các công trình, thiết bị chuyên dùng để
đảm bảo cho máy bay đỗ và lên xuống, bảo dưỡng… Ví dụ: sân bay Biên Hòa
(BH).
98
Sân vận động: Sân rộng xây dựng theo quy cách nhất định để tập luyện và thi
đấu, biểu diễn các hoạt động thể dục, thể thao. Ví dụ: sân vận động Đồng Nai (BH).
Thành cổ: Công trình xây đắp kiên cố bằng đất, đá, gạch và hào nước bố cục
theo nhiều kiểu dáng khác nhau phục vụ mục đích quân sự của các quốc gia hay các
địa phương thời cổ, thường bao quanh một khu vực dân cư trọng yếu (thủ đô, thành
phố lớn…) để phòng thủ. Ví dụ: thành Biên Hòa (BH).
Tỉnh lộ: Đường nối các huyện trong tỉnh do địa phương quản lý, phân biệt với
quốc lộ [85, tr.998]. Ví dụ: tỉnh lộ 16, tỉnh lộ 762, tỉnh lộ 769, tỉnh lộ Hiếu Liêm…
Trại giam: Nơi tập trung nhiều người đến ở trong một thời gian theo một yêu
cầu nhất định. Ví dụ: trại giam B5 (BH), trại giam K4 (TXLK)…
Trạm bơm: Tập hợp các công trình và các thiết bị bơm tạo thành. Trạm bơm
thông thường bố trí một số thiết bị bơm với khả năng đóng mở theo yêu cầu về lưu
lượng nước cần bơm. Trạm bơm cũng có thể gồm chỉ một thiết bị bơm đơn lẻ đặt
trên giá đỡ di động hoặc đặt trên phao có kèm theo thiết bị khởi động và điều chỉnh
chế độ công tác của tổ máy bơm.
Xa lộ: Đường hai chiều thật rộng, có tráng nhựa. Ví dụ: xa lộ Hà Nội (BH).
* Thành tố chung
Cầu: Công trình xây dựng bằng tre, bằng cây, bằng gạch hay bằng cốt sắt bắc
từ bên này qua bên kia ngang qua một con sông hay dòng suối hay một chỗ đất
trũng… để tiện đi lại. Ví dụ: suối Cầu Ba (XL), suối Cầu Vạc (LT), suối Cầu Mới
(LT), rạch Cầu Mít (LT)…
Lộ: Đường lớn. Tên lộ chủ yếu do dân gian đặt, còn tên đường được tạo ra bởi
nhà cầm quyền. Ví dụ: xã Lộ 25 (TN), ấp Lộ 25 (TN), ấp Lộ Đức (TB)…
99
4. Nhóm từ ngữ chỉ tên các đơn vị hành chính
* Danh từ chung
Ấp: Làng, xóm nhỏ được lập nên ở nơi mới khai khẩn [85, tr.19]. Ví dụ: ấp Ba
Buông (XL), ấp Bảo Vệ (TB), ấp Cầu Xéo (LT)…
Huyện: Đơn vị hành chính dưới tỉnh, gồm nhiều xã. Ví dụ: huyện Định Quán,
huyện Vĩnh Cửu, huyện Tân Phú…
Khu phố: Đơn vị hành chính tương đương cấp huyện, thành lập trong các
thành phố lớn, đông dân. Ví dụ: khu phố Bình Dương (BH), khu phố Phú Bình 1
(TXLK), khu phố Thái Hòa (BH)…
Phường: Đơn vị quản lý hành chính cấp cơ sở ở các thành phố, thị xã Việt
Nam hiện nay. Cấp phường có hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân. Ví dụ:
phường Bửu Hòa (BH), phường Bình Đa (BH), phường Quang Vinh (BH)…
Thành phố: Khu vực tập trung dân cư với quy mô lớn, là trung tâm công
nghiệp, thương mại, dịch vụ, văn hóa, khoa học - công nghệ của một vùng, một địa
phương. Ví dụ: thành phố Biên Hòa.
Thị trấn: Khu vực tập trung dân cư, sinh hoạt chủ yếu là sản xuất thủ công
nghiệp, thương nghiệp, quy mô nhỏ hơn thị xã [85, tr.938]. Ví dụ: thị trấn Long
Giao (CM), thị trấn Vĩnh An (VC), thị trấn Trảng Bom (TB)…
Thị xã: Khu vực tập trung đông dân cư, sinh hoạt chủ yếu là sản xuất thủ công
nghiệp, thương nghiệp, quy mô nhỏ hơn thành phố nhưng lớn hơn thị trấn [85,
tr.939]. Ví dụ: thị xã Long Khánh.
Thôn: Điểm tụ cư của người dân ở vùng nông thôn, gồm nhiều xóm và là một
phần của làng hoặc xã. Ví dụ: thôn Ba (LT), thôn Hai (LT), thôn Mười Một (LT)…
Tiểu khu: Đơn vị hành chính cơ sở ở thành phố, dưới khu phố (quận); phường
[85, tr.992]. Ví dụ: tiểu khu Ba Mươi (ĐQ), tiểu khu Ba Mươi Sáu (ĐQ)…
100
Xã: Đơn vị hành chính cấp cơ sở ở nông thôn, gồm nhiều thôn, ấp, xóm. Ví
dụ: xã Phú Điền (TP), xã Hiệp Hòa (BH), xã Cẩm Đường (LT)…
5. Nhóm từ ngữ chỉ vùng
Giáo xứ: Đơn vị cơ sở của giáo hội Công giáo, dưới giáo hạt, do một linh mục
chánh xứ trông coi [85, tr.395]. Ví dụ: giáo xứ Đại An (VC), giáo xứ Tân Xuân
(TXLK), giáo xứ Vườn Ngô (TB)…
Khu công nghiệp: Nơi tập hợp các nhà máy chế biến tài nguyên và các sản
phẩm nông nghiệp thành tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Ví dụ: khu công
nghiệp Amata (BH), khu công nghiệp An Phước (LT), khu công nghiệp Hố Nai
(TB)…
6. Nhóm từ ngữ chỉ tên cây cỏ
Bàng: Tức cói, loại cỏ cao bộng ruột, mọc nhiều ở đồng ruộng, được giã dập
đan bao cà ròn, đệm, nóp. Ví dụ: cầu Rạch Bàng (NT).
Bom: Còn gọi là cây chùm bao, là loại dây leo mọc nhiều ở Nam Bộ. Ví dụ:
huyện Trảng Bom.
Bù cạp: Thứ cây tạp có bông giống như bông điệp, trái tròn dài, người ta dùng
nó để ăn trầu, vỏ nó dùng làm thuốc chống rét. Ví dụ: dốc Bù Cạp (LT).
Chà là: Cây thuộc loại cau, dừa, quả to bằng quả nhót, vị ngọt, ăn được. Ví
dụ: cầu Chà Là (NT).
Gáo: Có tên khoa học là sarcocephalus cordatus, cây thân gỗ hay mọc hoang
ở khe suối, chân đồi. Hoa màu vàng hoặc trắng vàng, phiến lá có dạng hình trái
xoan, cành tập trung ở phần ngọn, quả có vị chua. Ví dụ: xã Cây Gáo (TB), chợ Cây
Gáo (TB).
Lát: Cây gỗ to cùng họ với xoan, gốc có bành lớn, lá kép lông chim, hoa màu
vàng nhạt, gỗ có vân đẹp, thuộc loại gỗ quý [85, tr.547]. Ví dụ: bàu Lát (VC).
101
Le: Cây thuộc họ lúa, mọc ở rừng, thân nhỏ và cứng, có hình dạng giống cây
trúc [85, tr.557]. Ví dụ: núi Le (XL).
Môn: Cây cùng họ với ráy, lá to hình mũi tên, củ chứa nhiều tinh bột, dùng để
ăn [85, tr.504]. Ví dụ: núi Môn (XL).
Muồng: Tên khoa học là Cassia chi cây họ Vang (Caesalpiniacene) gồm 400
loài, chủ yếu là cây gỗ và cây bụi, một số là loài cây thân thảo. Hoa có nhiều màu
sắc khác nhau, từ trắng vàng đến đỏ… Ví dụ: suối Muồng (VC).
Trịnh Hoài Đức viết rằng: “Cây thiết tuyền (tục danh là muồng), lá nhỏ màu
xanh, sắc gỗ đỏ, bền cứng, có thể làm rường nhà, cột nhà. Trong lõi có lỗ hổng nhỏ,
trong lỗ có phấn vàng. Người Mọi dùng để bôi vết thương hay nhọt rất hay” [41,
tr.164].
Su: Có tên khoa học là carapa obovata. Cây rừng sác, giống cây ổi, xuống đất
lâu mục, gỗ mịn, vân gỗ đẹp như vân cẩm lai, có màu đỏ như gỗ đỏ và cây bên,
người ta hay dùng làm nọc, cừ [50, tr.60]. Ví dụ: suối Su (XL).
Cao su: Gốc Pháp là caoutchouc. Đây là loại cây công nghiệp nhiệt đới lâu
năm, họ thầu dầu, thân thẳng đứng, có nhiều mạch mủ trong lớp vỏ lụa, lá kép lông
chim có 3 lá chét. Cây có nguồn gốc ở lưu vực sông Amazon, từ cuối thế kỷ XIX,
được phát triển mạnh sang Đông Nam Á và Châu Phi nhiệt đới, trở thành cây công
nghiệp quan trọng, trồng nhiều nơi để lấy mủ chế biến cao su [127, tr.362-363]. Ví
dụ: nông trường Cao Su Cẩm Mỹ (CM), nông trường Cao Su Ông Quế (CM)…
Ngoài ra còn có các loại cây sau xuất hiện trong địa danh ở Đồng Nai, đó là:
cầy (ấp Cây Cầy - VC), dầu (chợ Cọ Dầu - CM), cam xe (khu Cam Xe - LT), trà my
(suối Trà My - ĐQ), mù u (cầu Mù U - NT), xoài (núi Xoài - ĐQ, ấp Cây Xoài -
VC), sung (kênh Cây Sung - LT), tre (rạch Suối Tre - LT, sông Tre - TB, ấp Bàu
Tre - LT), tràm (rạch Tràm - NT, cầu Đồng Tràm - BH), me (chợ Cây Me - TN, chợ
Láng Me - CM), trầu (sông Trầu - TB, xã suối Trầu - LT), đa (suối Cây Đa - CM,
ấp Cây Đa - XL), sung (suối Cây Sung - VC), quýt (suối Quýt - CM, chợ Suối Quýt
- LT), nho (suối Nho - TN, xã Suối Nho - ĐQ), sen (ấp Bàu Sen - XL), táo (ấp
102
Trảng Táo - XL), gòn (xã Hàng Gòn - TXLK, khu Hàng Gòn - LT), mít (ngã ba
Vườn Mít - BH, cầu Mít - NT), mít nài (ấp Mít Nài - ĐQ), dừa (cầu Rạch Dừa -
LT), bí (cầu Suối Bí - TN), chôm chôm (cầu Chôm Chôm - TB), trâm (ấp Bàu Trâm
- TXLK), sắn (ấp Bến Sắn - NT), dầu (ấp Cây Dầu - TP), điệp (ấp Cây Điệp - TB,
chợ Cây Điệp - TB), điều (ấp Cây Điều - TB).
7. Nhóm từ ngữ chỉ tên các động vật và bộ phận của động vật
Cá: Lớp động vật có xương sống ở nước, thân phủ nhiều vảy, hô hấp bằng
mang, bơi bằng vây. Cá ở trong địa danh Bến Cá là ở miền Tây, có hai loại nổi
tiếng là cá bay và cá linh. Ngoài ra còn có hàng chục loại cá nước ngọt sinh sống ở
miền sông này. Ví dụ: làng cổ Bến Cá (VC), ấp Bàu Cá (XL), rạch Cá (NT)…
Chồn: Thú ăn thịt sống ở rừng, hình dạng giống cầy nhưng mõm ngắn hơn,
mắt to, lông mềm, rậm, màu xám giống thân cây, sống ở vùng trung du, miền núi và
trong rừng. Ví dụ: suối Chồn (TXLK)
Cò: Chim có chân cao, cổ dài, mỏ nhọn, sống gần nước và ăn các động vật ở
dưới nước. Ví dụ: ấp Bến Cò (NT).
Cọp: Thú dữ lớn, lông màu vàng có vằn đen. Ví dụ: suối Cọp (VC).
Cựa gà: Nhánh sông trông như cựa con gà. Ví dụ: sông Cựa Gà Lầy (NT).
Le le: Chim sống ở nước, hình dạng giống vịt nhưng nhỏ hơn, mỏ nhọn [85,
tr.558]. Ví dụ: tắt Le Le (NT)
Nai: Thú lớn cùng họ với hươu, lông màu nâu sẫm, lông thưa ngắn, có 2 sừng,
mỗi sừng có 3 nhánh. Ở Việt Nam nai sống ở rừng rậm, có thể kiếm ăn ở ven làng
bản, chúng ăn lá non, chồi mềm, cây bụi, cỏ non, quả rừng rụng… Ví dụ: hố Nai
(BH), hang Nai (NT), sông Đồng Nai…
Ó: Chim thuộc loại diều hâu, thường gặp về mùa đông ở các sông hay ao hồ.
Ví dụ: đảo Ó (VC).
103
Sấu: Nói tắt từ “cá sấu”, là loài bò sát lớn ở nước. Đầu dẹt, bằng, mõm dài,
đuôi rất khỏe dẹt bên, hình bơi chèo, phủ các phiến sừng, da dày, mắt nằm cao. Cá
sấu là loài bò sát hung dữ, hoạt động về đêm, phân bố chủ yếu ở nhiệt đới, sống ở
sông hồ, ao đầm, số ít sống ở ven biển [140]. Ví dụ: bàu Sấu (TP), đập Suối Sấu
(TXLK)…
Vạc: Chim có chân cao, thuộc loại cò, thường đi ăn đêm, kêu rất to. Ví dụ: cầu
Vạc (LT), suối Cầu Vạc (LT).
Ngoài ra còn có những động vật sau: ngực (bàu Ngựa - ĐQ), vịt (cù lao Vịt -
VC), rắn (núi Con Rắn - CM), dơi (đồi Hang Dơi - TP), dê (đập Suối Dê Chạy -
VC), kênh kênh (hóc Kênh Kênh - TP), sư tử (hòn Sư Tử - ĐQ), voi (hòn Voi Phục
- ĐQ), le le (tắt Le Le - NT), rết (sông Rết - TB), cua (lòng tắt Cua - NT), nhạn
(sông Nhạn - LT), khỉ (cầu Khỉ - TN), heo (ngã ba Cua Heo - LK)…
104
PHỤ LỤC 3
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ ĐỊA DANH Ở ĐỒNG NAI
1. BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH ĐỒNG NAI
105
2. Đá Ba Chồng (Định Quán)
3. Cầu La Ngà (Định Quán) và rừng Nam Cát Tiên (Tân Phú)
106
4. Núi Chứa Chan (Xuân Lộc)
5. Khu du lịch Suối Tre (Long Khánh)
107
6. Thác Giang Điền (Trảng Bom)
7. Cảng Gò Dầu B (Long Thành)
108
8. Địa đạo Nhơn Trạch (Nhơn Trạch)
9. Khu du lịch Đồi Sơn Thủy (Cẩm Mỹ)
109
10. Bến đò Kho (Biên Hòa)
11. Giáo xứ Lộc Lâm (Biên Hòa)
110
12. Khu du lịch Làng Bưởi Tân Triều (Vĩnh Cửu)
13. Khu du lịch Cao Minh (Vĩnh Cửu)
111
14. Nông trường Cao Su Dầu Giây (Thống Nhất)
15. Giáo xứ Dốc Mơ (Thống Nhất)