ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN ------------------------------- Huang Xianmin (Hoàng Tiên Dân)

BƢỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU MỘT VÀI HIỆN TƢỢNG NGỮ PHÁP

TIẾNG CHĂM QUA MỘT SỐ BIA KÝ CHĂM-PA

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Hà Nội - 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN ------------------------------ Huang Xianmin (Hoàng Tiên Dân)

BƢỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU MỘT VÀI HIỆN TƢỢNG NGỮ PHÁP

TIẾNG CHĂM QUA MỘT SỐ BIA KÝ CHĂM-PA

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Mã số: 8229020.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Trần Trí Dõi

Hà Nội - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam Ďoan Ďề tài: ―Bước Ďầu nghiên cứu một vài hiện tượng

ngữ pháp tiếng Chăm qua một số bia ký Chăm-pa‖ là một công trình

nghiên cứu Ďộc lập dưới sự hướng dẫn của giáo viên hướng dẫn: GS.TS.

Trần Trí Dõi. Ngoài ra không có bất cứ sự sao chép của người khác. Đề

tài, nội dung báo cáo là sản phẩm mà tôi Ďã nỗ lực nghiên cứu trong quá

trình học tập, sưu tập và phân tích tài liệu. Các số liệu, kết quả trình bày

trong luận văn là hoàn toàn trung thực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách

nhiệm về lời cam Ďoan của mình.

Tác giả luận văn

HUANG XIANMIN

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn, tác giả

Ďã nhận Ďược sự Ďộng viên, khuyến khích và tạo Ďiều kiện giúp Ďỡ nhiệt

tình của các cấp lãnh Ďạo, của các thầy giáo, cô giáo, anh chị em, bạn bè

Ďồng nghiệp và gia Ďình.

Tác giả bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo, phòng Sau

Ďại học trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn và Ďặc biệt là các

thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy các chuyên Ďề của toàn khóa học Ďã tạo

Ďiều kiện, Ďóng góp ý kiến cho tác giả trong suốt quá trình học tập và

hoàn thành luận văn thạc sĩ.

Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS.TS. Trần Trí

Dõi - Người Ďã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo, giúp Ďỡ tác giả tiến

hành các hoạt Ďộng nghiên cứu khoa học Ďể hoàn thành luận văn này.

Với thời gian nghiên cứu còn hạn chế, luận văn không tránh khỏi

những thiết sót, tác giả rất mong nhận Ďược các ý kiến Ďóng góp chân

thành từ các thầy giáo, cô giáo, Ďồng nghiệp, bạn bè.

Tác giả luận văn

HUANG XIANMIN

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................ 3

1. Lý do chọn Ďề tài. ................................................................................... 3

2. Mục Ďích nghiên cứu .............................................................................. 5

3. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 5

4. Đối tương và phạm vi nghiên cứu. ......................................................... 6

5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 6

6. Cấu trúc của luận văn: ............................................................................ 7

PHẦN NỘI DUNG .................................................................................... 8

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA NGỮ ÂM VÀ CHỮ VIẾT

CHĂM CỔ ................................................................................................. 8

1.1. Hệ thống ngữ âm ................................................................................ 9

1.1.1. Hệ thống ngữ âm tiếng Chăm hiện Ďại ............................................. 9

1.1.2. Hệ thống ngữ âm tiếng Chăm cổ .................................................... 12

1.1.3. Quy tắc hợp âm ............................................................................... 15

1.2. Hệ thống chữ viết ............................................................................. 17

CHƢƠNG 2: HỆ THỐNG NGỮ PHÁP CHĂM CỔ QUA VĂN

KHẮC BIA KÝ ........................................................................................ 21

2.1. Các từ loại trong Chăm cổ .............................................................. 21

2.1.1. Danh từ ............................................................................................ 22

2.1.2. Đại từ .............................................................................................. 29

2.1.3. Số từ ................................................................................................ 33

1

2.1.4. Động từ ........................................................................................... 36

2.1.5. Tính từ ............................................................................................. 42

2.1.6. Tiểu từ ............................................................................................. 44

2.1.7. Tiểu kết............................................................................................ 47

2.2. Trật tự cấu tạo câu ........................................................................... 48

2.2.1. Câu Ďơn ........................................................................................... 48

2.2.2. Câu phức ......................................................................................... 52

CHƢƠNG 3: PHÂN TÍCH NHỮNG VĂN KHẮC CỤ THỂ ............. 55

3.1. Bia ký C.43 Drang Lai ..................................................................... 55

3.2. Bia ký C.30 B1 Rầm cửa hƣớng Nam của đền thờ chính trong

quần thể tháp Chăm Po Nagar .............................................................. 62

3.3. Bia ký C.30 B2 Rầm cửa hƣớng Nam của đền thờ chính trong

quần thể tháp Chăm Po Nagar .............................................................. 67

3.4. Tiểu kết .............................................................................................. 70

KẾT LUẬN .............................................................................................. 73

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 75

PHỤ LỤC ................................................................................................. 80

2

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.

Vương quốc Chăm-pa, còn Ďược gọi là Lâm-ấp (林邑), Hoàn Vương

(環王) hoặc Chiêm Thành (占城; Campapūra 占婆補羅)(Trong thư tịch

cổ Trung Quốc, Chăm-pa 占婆 Ďược gọi là Lâm Ấp 林邑. Sau thời

Nguyên Hòa 元和 Ďời Đường, lại chép là Hoàn Vương 環王; thời Ngũ

Đại 五代 chuyển thành Chiêm Thành 占城. Theo Đường Thư 唐書 (945

sau CN), ―Hoàn Vương diệc danh Chiếm Bà 環王亦名占婆‖ (Hoàn

Vương cũng Ďược gọi là Chăm-pa); theo Tây Vực Ký 西域記 (646 sau

CN) lại ghi là ―Ma-ha Chiêm Ba 摩訶瞻波‖; theo Nam Hải Ký Quy Nội

Pháp Truyện南海寄歸內法傳 (689 sau CN) của pháp sư Nghĩa Tĩnh

義淨法師 lại có ―Chiếm Ba 占波‖), là một trong những quốc gia có vai

trò quan trọng trong tiến trình lịch sử Đông Nam Á. Lãnh thổ của Vương

quốc Chăm-pa về phía bắc giáp với dãy Hoành Sơn Quan, về phía nam Ďi

Ďến sông Đồng Nai. Trung Quốc và Vương quốc Chăm-pa có quan hệ

bang giao từ lâu: thời Hán, có người tên Khu Liên (區連) quê Tượng Lâm

(象林 nay thuộc huyện Duy Xuyên 濰川, tỉnh Quảng Nam) giết huyện

lệnh mà tự lập làm vua, dựng nước Chăm-pa; sau thời Đường và Tống,

Chăm-pa thường sai sứ giả qua Ďường biển Ďến Trung Hoa triều cống.

Đến thời Minh, triều Ďình thành lập Đề Đốc Tứ Di Quán (提督四夷館),

chuyên phụ trách phiên dịch thư hàm từ các nước bang giao. Tiếng Chăm

không có Quán dịch riêng, văn thư từ Chăm-pa mang Ďến do Hồi Hồi

3

Quán (回回館) dịch giúp. Trong sách Quỳnh Châu Phủ Chí (瓊州府志;

1617 sau CN) ghi rằng từng có người Nhai Châu tên Bồ Thịnh (蒲盛)

làm quan Thông Sự Chiêm Thành (占城通事) trong triều Ďình: “Bồ

Thịnh, dĩ hiểu Chiêm Thành phiên tự, thụ Hồng Lư Tư Tân Thự Tự Ban

(蒲盛,以曉占城番字,授鴻臚司賓署序班)‖ (Dịch: Bồ Thịnh, vì hiểu

chữ Chiêm Thành, trao cho quan chức Hồng Lư Tư Tân Thự Tự Ban).

Năm 1471, quân Ďội người Kinh chiếm lấy Ďô thành Chăm-pa, nước

Chiêm Thành diệt vong trong dòng sông lịch sử.

Hiện nay trong phạm vi thế giới, Ďa số học giả chủ yếu quan tâm Ďến

vấn Ďề lịch sử Chăm-pa, ít người bàn về vấn Ďề Chăm ngữ. Nhưng Ďiều

này không thể phủ nhận tính quan trọng của việc nghiên cứu Chăm ngữ.

Chăm ngữ là một ngôn ngữ chiếm vị trí rất quan trọng trong việc nghiên

cứu lịch sử và ngôn ngữ các dân tộc của cả khu vực nói chung và Việt

Nam nói riêng. Việt Nam là một quốc gia chịu sự ảnh hưởng văn hóa

ngoại lai rất mạnh từ hai phía: phía Bắc là văn hóa Trung Hoa, phía Nam

là văn hóa Ấn Độ; vậy văn hóa từ Ấn Độ Ďã ảnh hưởng Ďến Việt Nam

như thế nào? Có biểu hiện về mặt văn hóa như thế nào? Nếu muốn làm rõ

những vấn Ďề có liên quan Ďến sự tiếp xúc văn hóa Ďó, hoặc là lịch sử của

Vương quốc Chăm, hoặc chính là những vấn Ďề trực tiếp liên quan Ďến

ngôn ngữ Chăm, thì chúng ta không thể bỏ qua quá trình nghiên cứu

Chăm ngữ, trong Ďó có tiếng Chăm cổ là một bộ phận.

4

2. Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu quy tắc nội tại và quy tắc biến Ďổi của hệ thống ngữ pháp

Chăm cổ, dựa vào tài liệu văn khắc bia ký, thông qua giải Ďọc các văn tự

trên Ďó, quy nạp, phân tích, truy nguồn, so sánh các hiện tượng ngữ pháp

Ďó. Xác Ďịnh khái niệm hệ thống ngữ pháp Chăm-Phạn hỗn hợp (Hybrid

Sanskrit-Chamic grammatical system).

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để Ďạt Ďược mục tiêu trên, các nhiệm vụ nghiên cứu Ďược Ďặt ra như

sau:

-Xác lập khái niệm và lý luận tiền Ďề bào gồm: giới thiệu quá trình

phát triển của tiếng Chăm, từ PAn (Proto-Austronesian) Ďến PMP (Proto-

Malayo-Polynesian), rồi Ďến PC (Proto-Chamic), Chăm cổ (Old Cham),

cuối cùng Ďến tiếng Chăm hiện Ďại.

-Trình bày các hiện tượng ngữ pháp Chăm cổ qua các bia ký cụ thể.

Hiện nay vẫn chưa có công trình nào Ďó chuyên bàn về hệ thống ngữ

pháp Chăm cổ Ďược khắc trên bia Ďá, nhất là về những khái niệm cơ bản

nhất: hệ thống ngữ pháp Chăm cổ gồm những yếu tố nào, mỗi một từ loại

trong hệ thống Ďược thể hiện qua hình thức như thế nào? Có quy luật biến

hình như thế nào? Vì vậy, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn này sẽ tập

trung vào những vấn Ďề trên, căn cứ vào những bia ký Ďã Ďược sưu tập

trong tay, trình bày rõ những vấn Ďề Ďã Ďược nêu trên.

5

4. Đối tƣơng và phạm vi nghiên cứu.

-Đối tượng nghiên cứu: hệ thống ngữ pháp Chăm cổ (hạn Ďịnh trong

một số bia ký cụ thể).

-Phạm vi nghiêm cứu: trong phạm vi văn khắc bia ký Ďược bảo tồn

tại Bảo tàng Ďiêu khắc Chăm Đà Nẵng, Việt Nam và một số văn khắc

Ďược lưu trữ tại học viện Viễn Đông, Pháp. Về nội dung nghiên cứu, luận

văn này còn sẽ bàn Ďến cả hệ thống chữ viết và hệ thống ngữ âm của

Chăm cổ. Hạt nhân của luận văn là hệ thống ngữ pháp Chăm cổ, vấn Ďề

này chúng tôi cũng sẽ thảo luận kỹ hơn: bao gồm phân loại các loại từ

cũng như Ďặc Ďiểm của mỗi một tiểu loại trong Chăm cổ; trật tự cấu tạo

câu. Cuối cùng, luận văn này sẽ thông qua giải thích một số văn khắc bia

ký cụ thể Ďể chứng minh sự tồn tại và tính hợp lý của hệ thống ngữ pháp

Chăm Phạn hỗn hợp.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để nghiên cứu rõ các vấn Ďề Ďã Ďược nêu ra ở phần trên, chúng tôi

sẽ áp dụng những phương pháp nghiên cứu khoa học như sau trong quá

trình nghiên cứu:

-Phương pháp miêu tả phân tích và tổng hợp. Miêu tả phân tích là

nghiên cứu các tài liệu, lý luận khác nhau bằng cách miêu tả và phân tích

chúng thành từng bộ phận Ďể tìm hiểu sâu sắc về Ďối tượng. Tổng hợp là

liên kết từng mặt, từng bộ phận thông tin Ďã Ďược phân tích tạo ra một hệ

thông lý thuyết mới Ďầy Ďủ và sâu sắc về Ďối tượng.

6

- Thủ pháp so sánh. Trong luận văn này, thủ pháp so sánh sẽ bao

gồm cả hai tầng diện là so sánh Ďồng Ďại và so sánh lịch sử.

6. Cấu trúc của luận văn:

Ngoài phần mở Ďầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận

văn có bố cục như sau:

Chương 1: Hệ thống chữ viết và ngữ âm Chăm cổ.

Chương 2: Hệ thống ngữ pháp Chăm cổ qua văn khắc bia ký.

Chương 3: Phân tích những văn khắc cụ thể.

7

PHẦN NỘI DUNG

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA NGỮ ÂM VÀ CHỮ VIẾT

CHĂM CỔ

Ngôn ngữ Chăm hoặc Ďược gọi là ―sap Cam‖, là ngôn ngữ của dân

tộc Chăm. Là một ngôn ngữ thuộc chi nhánh Melayu-Chamic trong ngữ

hệ Đa Đảo, tiếng Chăm có hệ thống ngữ âm riêng của mình; nhưng trong

hành trình lịch sử phát triển, do sự ảnh hưởng rất lớn tử nhiều yếu tố bên

ngoài, tiếng Chăm cũng chịu sự tác Ďộng và Ďã tiếp thu rất nhiều Ďặc

trưng từ ngôn ngữ khác. Nhiều từ mới trong các ngôn ngữ xung quanh

cũng Ďược ồ ạt Ďưa vào tiếng Chăm cùng với sự lan truyền của văn hóa

và tôn giáo, trong Ďó Ấn Độ có Ďóng vai trò rất quan trọng.

Sau khi Lâm Ấp dựng nước (từ Ďầu thế kỷ công nguyên) mãi Ďến thế

kỷ X, XI sau công nguyên, trong quãng thời gian dài gần 10 thế kỷ này,

người Chăm Ďã dựng lên nhiều kiến trúc bằng Ďá với kỹ thuật cao siêu

tuyệt vời Ďể thực hiện các chức năng làm lễ, thờ cúng v.v. Cùng với

những kiến trúc này, chữ Chăm cổ cũng Ďược khắc lên trên Ďó: hoặc là

dựng bia khắc chữ, hoặc là khắc trực tiếp trên mặt tường Ďể ghi chép

nguyên nhân xây dựng công trình, hoặc là ca ngợi công Ďức của nhà vua.

Trong phạm vi bia ký Chăm cổ Ďã Ďược phát hiện và sưu tập, chúng

tôi thấy rằng, ngôn ngữ mà người Chăm cổ sử dụng có sự khác biệt rất

lớn với tiếng Chăm hiện Ďại, cả mặt chữ viết, từ vựng và ngữ pháp. Ngôn

ngữ Chăm cổ cụ thể là một thứ ngôn ngữ như thế nào? Nhất là hệ thống

8

ngữ pháp của nó có những Ďặc trưng gì? Những vấn Ďề này khiến chúng

tôi cảm thấy tò mò.

Trong luận văn này, chúng tôi sẽ thảo luận cụ thể về loại ngôn ngữ

Ďược sử dụng trên bia ký này, về cả phương diện ngữ âm và hệ thống ngữ

pháp của nó. Đến cuối luận văn sẽ giải thích cụ thể 3 bài bia ký mà chúng

tôi, có thể qua Ďó tìm hiểu sâu hơn về ngôn ngữ xa xưa này nói riêng

cũng như văn hóa lịch sử Chăm cổ nói chung.

1.1. Hệ thống ngữ âm

1.1.1. Hệ thống ngữ âm tiếng Chăm hiện Ďại

Trước khi bàn Ďến hệ thống ngữ âm Chăm cổ, chúng tôi xin Ďiểm

qua hệ thống ngữ âm tiếng Chăm hiện Ďại.

Xét về bảng chữ cái Akhar Thrah của tiếng Chăm, tổng cộng có 35

phụ âm và 6 nguyên âm Ďơn (còn Ďược gọi là nguyên âm Ďộc lập theo Ấn

Độ). Cụ thể như sau:

Bảng chữ cái phụ âm tiếng Chăm Ďương Ďại

Hữu Thanh Âm Mũi

Phụ Âm Loại I Nguyên âm A Nguyên âm Nguyên âm A

Vô Thanh Nguyên âm A

kha cha tha pha Ngạc Mềm Ka Ngạc Cứng Ca Ta Pa ga ja da ba gha jha dha bha  ngâ nyâ nâ mâ nga nya na ma nja nda mba

Răng Môi Còn có phụ âm loại II: ra ya Loại II la wa sa ha

Ngoài các phụ âm nêu trên ra, tiếng Chăm còn có 2 phụ âm Ďược gọi

là Phụ âm loại III, Ďó là:

9

Loại III sa (tha) pa

Sở dĩ bảng chữ cái tiếng Chăm phải chia ra thành ba bảng riêng là vì

thực ra, khi nhìn vào tất cả bảng chữ cái nêu trên, ta dễ dàng nhận ra các

phụ âm loại I Ďược sắp xếp theo một trật tự rất quy củ và ngăn nắp theo vị

trí và phương thức cấu âm. Chúng ta có thể sắp xếp Ďược như thế này là

vì nó chịu sự ảnh hưởng của ngôn ngữ Phạn. Bảng phụ âm loại I thật ra

chính là tương ứng với bảng phụ âm tiếng Phạn; nhưng trong tiếng Phạn,

âm răng còn có thể chia thành 2 loạt là âm răng thường và âm răng quặt

lưỡi. Mà trong loại phụ âm loại II, ngoài phụ âm Sa ra, Ďều có chữ cái

tương Ďương trong tiếng Phạn mà ở Ďó nó Ďược gọi là bán phụ âm. Còn

hai phụ âm còn lại là phụ âm loại III, chúng tôi phải dựa vào góc nhìn

phát triển lịch sử Ďể phân tích và nhìn nhận.

Sau Ďây tôi xin liệt ra bảng nguyên âm Ďơn:

Bảng chữ cái nguyên âm Ďơn tiếng Chăm Ďương Ďại

Nguyên âm a i u e ai o

Nguyên âm Ďơn tức là nguyên âm Ďộc lập, những nguyên âm này có

thể tự tạo ra một âm tiết vắng phụ âm Ďầu. Như: aia (nước), ada (con vịt),

idung (mũi), oh (không), sa-ai (anh)... Nếu các nguyên âm muốn kết hợp

với một phụ âm khác thì phải nhờ vào các phụ tố nguyên âm ở trước hoặc

ở trên, thậm chí ở dưới phụ âm. Ngoài nguyên âm Ďơn ra, tiếng Chăm còn

có khá nhiều nguyên âm kép. Sau Ďây là bảng nguyên âm tiếng Chăm

theo phương thức phiên âm IPA của Gérard Moussay:

10

Bảng nguyên âm tiếng Chăm

Trước Giữa Sau

Cao Vừa Thấp Ngắn /i/ /e/ /ə/ /aj/ Dài /i:/ /e:/ /ə:/ /ɛ:/ Ngắn /ɯ/ /ə/ /a/ Dài /ɯ:/ /ə:/ /a:/ Ngắn /u/ /o/ /aw/ Dài /u:/ /o:/ /ɔ:/

Tiếng Chăm còn có 4 âm Ďệm là /i, w, r, l/. Trên thực tế, 4 âm Ďệm này

lại có thể chia ra thành 2 nhóm nhỏ theo phẩm chất của chúng, Ďó là nhóm

âm Ďệm bán nguyên âm /i/ và /w/; nhóm âm Ďệm phụ âm Ďôi /r/ và /l/.

Về âm cuối, tiếng Chăm có 11 âm cuối, cụ thể như sau: /-k, -p, -t, -ŋ,

-n, -m, -w, -y, -r, -l, -h/. Nhưng hiện nay, trong ngữ âm từ giao tiếp thực tế

hằng ngày của người Chăm ở Việt Nam, âm cuối /-r/ Ďã hòa nhập vào âm

cuối /-n/; và một phần âm cuối /-p/ cũng Ďã trùng lặp với âm cuối /-k/. Ở

một số nơi cư trú của người Chăm tại Ďồng bằng sông Cửu Long, người

ta thậm chí còn nói âm cuối /-k/ thành /-ʔ/. Để minh họa những sự biến

Ďổi như trên, chúng tôi xin lấy những ví dụ cụ thể Ďể giải thích như sau:

từ akhar [akʻar] (chữ viết) giờ Ďã Ďồng âm với từ akhan [akʻan] (váy);

ngap [ŋap] (làm) và ngâk [ŋak] (dấu âm chữ Chăm) giờ cũng Ďã Ďồng âm

với nhau và cùng chuyển thành âm Ďọc là [ŋaʔ].

Tiếng Chăm không có thanh Ďiệu với tác dụng khu biệt nghĩa của từ,

nhưng lại tồn tại 2 âm vực khác nhau là âm vực cao và âm vực thấp. Nói

một cách Ďơn giản: những âm tiết với phụ âm Ďầu hữu thanh thường

thuộc về âm vực thấp, Ďường nét phát âm có xu hướng hạ xuống; ngược

lại, những âm tiết bắt Ďầu một phụ âm vô thanh hoặc là phụ âm zero thì

11

thường Ďược phát âm thành âm vực cao.

1.1.2. Hệ thống ngữ âm tiếng Chăm cổ

Trong bài văn này, chúng tôi Ďang bàn về tiếng Chăm cổ, nên chúng

tôi Ďã tái lập lại bảng âm vị Chăm cổ. Muốn làm rõ vấn Ďề này, trước hết

chúng tôi phải nắm Ďược các ngôn ngữ nằm trong chi nhanh Chamic, rồi

thông qua so sánh, Ďối chiếu với cả phân tích các cặp âm vị tương ứng

giữa các ngôn ngữ có liên quan, mới có thể tái lập lại hệ thống ngữ âm

tiếng Chăm cổ.

Chi nhánh Chamic bao gồm các ngôn ngữ cụ thể như tiếng Chăm,

tiếng Haroi (còn Ďược gọi là tiếng Hroi, tiếng Hrway hoặc là tiếng Bahnar

Chăm), tiếng Tsat, tiếng Roglai (Tiếng Roglai: phương ngữ Bắc Roglai

lại Ďược gọi là tiếng Radlai, tiếng Adlai, tiếng Rayglay hoặc là tiếng

Raglai. Dân số sử dụng ngôn ngữ này theo thống kê của năm 1981 là

20,000 người), tiếng Hồi Huy (Tiếng Hồi Huy 回輝: thứ ngôn ngữ này

Ďược sử dụng chủ yếu tại các vùng thôn làng lâm cận thành phố Tam Á

三亞, Đảo Hải Nam, Trung Quốc, chủ thế sử dụng là cộng Ďộng dân tộc

thiểu số bản xứ mà theo Ďạo Hồi. Theo số liệu thống kê của năm 1990,

nhân số sử dụng tiếng Hồi Huy là khoảng 5000 ngườ) và tiếng Aceh

(Tiếng Aceh: ngôn ngữ này chủ yếu Ďược sử dụng tại Khu tự trị Aceh trên

Ďảo Sumantra, In-Ďô-nê-xi-a. Gồm cả 7 loại phương ngữ, tổng dân số sử

dụng khoảng 3 triệu người (1999).). Còn tiếng Chăm ở Việt Nam có 2

vùng phương ngữ và Ďược Ďặt tên theo vi trí phân bố của chúng là Chăm

12

Đông và Chăm Tây. Các ngôn ngữ trong chi nhánh Chamic như tiếng

Aceh có quan hệ gần gũi với các ngôn ngữ thuộc chi nhánh Melayu,

Ďương nhiên, trong bản thân tiếng Aceh vốn có nhiều từ là trực tiếp vay

mượn từ Bahasa Indonesia, chính vì vậy lại có nhà nghiên cứu cho ý kiến

rằng nên xếp tiếng Aceh vào chi nhánh Sunda, bên cạnh Ďó là có học giả

cho rằng tiếng Aceh vẫn thuộc chi nhánh Malayo-Chamic.

Sau Ďây chúng tôi xin nêu ra bảng âm vị phụ âm tiếng Chăm cổ tái

lập trước.

KBH BH KBH âm mũi

âm họng *k- *ɡ- *ŋ-

âm ngạc *ȵ-

âm Ďầu lưỡi *t- *th- *d- *n- *ʔd-

âm môi *p- *ph- *b- *ʔb- *m-

*s- *r- *l- *j- *ʔ-

Bảng âm vị tái lập các phụ âm trong tiếng Chăm cổ

Những âm vị trên chuyển hóa thành các âm vị phụ âm trong tiếng

Chăm hiện Ďại cụ thể như thế nào, chúng tôi có thể thông qua bảng so

sánh sau làm rõ hơn quá trình diễn biến.

Việt Chăm (Tây) Gia-lai Rode Aceh

cung panih pɘnah mɘnɘh panah

(mũi tên)

13

bốn paʔ păʔ păʔ pɯɘt

lúa padai pɘdai mɘdia pade

Ďá padau pɘtɘu bɔh tău batɛɘ

mười pluh pluh pluh siploh

lớn pruŋ prɔŋ prɔŋ rajɯʔ

bản tay plaʔ plăʔ plăʔ palɯɘt

Thông qua bảng trên chúng tôi có thể thấy rằng p-, pl- và pr- trong

tiếng Chăm có tương ứng với p-, pl- và pr- trong tiếng Gia-lai, và tương

ứng với p- và m- trong tiếng Rode. Vì vậy, Chăm cổ: *p- > Chăm hiện

Ďại: p-.

Tương tự như vậy, chúng tôi so sánh t- với th- trong tiếng Chăm hiện

Ďại với lại các ngôn ngữ tương quan, nhờ Ďó có thể tìm thấy lai nguyên

của hai phụ âm này, cụ thể như sau:

Việt Chăm (Tây) Gia-lai Rode Aceh

chém tăʔ tăʔ - taʔ

sợi talaj klɛi talɔɘ tə̆ lɘi

tay taŋan tɘŋan tɘŋan -

Ďất tanrh - tanɔh tə̆ nah

tikoh con chuột takuh tɘkuih kɘkuih

xương talaŋ tɘlɔŋ klaŋ tulɯɘŋ

chết matai - - mate

14

mắt mata mɘta - mata

biết thau thɘu thău thɛɘ

năm thǔn thun thǔn thon

kho thu thu thu tho

Trong Ďó, từ ―biết‖ trong Bahasa Indonesia là ―tahu‖, trong tiếng

Sama là ―taʔu‖ (Tiếng Sama: thuộc nhóm ngôn ngữ Sama-Bajaw, chủ yếu

phân bố tại quần Ďảo Mindanao của Phi-líp-pin.); từ ―năm‖ trong Bahasa

Indonesia là ―tahun‖, trong tiếng Sama là ―tahun‖; từ ―kho‖ trong tiếng

Sama là ―tohoʔ‖ và trong tiếng Molbog lại là ―tuʔug‖(Tiếng Molbog: thứ

ngôn ngữ này chủ yếu Ďược sử dụng tại quần Ďảo Balabac thuộc Phi-líp-

pin, dân số sử dụng 7,000 người (1987).). Như vậy thì rõ ràng chúng tôi

có thể rút ra quan hệ là: Chăm cổ: *t- > Chăm hiện Ďại: t-. Đồng thời, th-

trong tiếng Chăm hiện Ďại có nguồn gốc là *t-h- từ Proto Chamic (Chăm-

Aceh). Về bảng Ďối chiếu từ vựng cơ bản giữa Chăm cổ với Proto Malayo

- Polynesian thì xin tham thảo phần phụ lục ở cuối bài.

1.1.3. Quy tắc hợp âm

Trong văn bản Chăm cổ, nếu gặp phải hai từ vay mượn từ tiếng Phạn

(hoặc là Phạn ngữ Chăm hóa) Ďứng cạnh nhau, thì phải xem xét chúng có

phù hợp quy tắc hợp âm hay không? Nếu có thì phải biến Ďổi âm Ďọc của

chúng, rồi dẫn Ďến thay Ďổi ký hiệu chữ viết. Vì vậy, khi chúng tôi bắt

Ďầu Ďọc một tấm bia nào Ďó, trước hết phải tìm ra các chỗ hợp âm Ďể tách

rời nhau các từ Ďược viết gắn vào nhau, như vậy mới có thể giúp cho việc

15

lý giải Ďúng nội dung của văn bản bia ký.

Khái niệm hợp âm không chỉ riêng trong hệ thống Phạn ngữ có,

trong các ngôn ngữ hiện Ďại như tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, tiếng Georgia, tiếng

Mông Cổ Ďều có hiện tượng quy tắc này; nhưng trong các ngôn ngữ trên,

quy tắc hợp âm trong Phạn ngữ là phức tạp nhất, Ďcùng với Ďó, Ďặc Ďiểm Ďã

Ďược Chăm cổ kế thừa một cách Ďầy Ďủ và hoàn hảo. Sau Ďây chúng tôi xin

trình bày một cách khái quát về hệ thống hợp âm trong tiếng Chăm cổ.

Muốn Ďi vào quy tắc hệ thống hợp âm, trước hết chúng tôi nhất thiết

phải biết Ďến khái niệm ―các Ďẳng cấp nguyên âm‖ trong Chăm cổ. Thực

ra khái niệm này cũng bắt nguồn từ Phạn ngữ. Trong chương Ďầu tiên

―Atha saṃjñāḥ (Thuật ngữ)‖ của ―Śivasūtra (Kinh Śiva)‖ (lại Ďược gọi là

―Maheśvarasūtra‖), sau này Ďược ―Aṣṭādhyāyī‖ trích dẫn có câu rằng: ―a

i uṇ; ṛ ḷ k; e oṅ; ai auc‖. Câu này Ďã thể hiện rất rõ các tính chất khác

nhau của từng tiểu nhóm nguyên âm trong tiếng Phạn. Nhưng lý giải theo

câu trong kinh văn là Ďiều không dễ dàng, vì vậy có thể dựa vào bảng sau

Ďể minh họa:

Nguyên âm Ďơn i ī u ū ṛ ṝ ḷ -

Nguyên âm nhị hợp (guṇa) e o ar al a

Nguyên âm tam hợp (vṛddhi) ai au ār āl ā

Các phương thức hợp âm trong Chăm cổ có thể tổng kết thành hai

loại lớn: Hợp âm trong câu (Sandhi) và Hợp âm nội tại. Sau Ďây là những

quy tắc cơ bản của hai loại hợp âm này:

16

Hợp âm trong câu:

- Hai nguyên âm Ďơn giản cùng loại khi ghép vào nhau thì trở thành

nguyên âm dài, như: devī iva (như Thiên nữ) sẽ Ďược viết thành devīva;

- Nguyên âm a khi kết hợp với i hoặc ī sẽ trở thành e, như: śrī

[ca]mpeśvara (Cát tường Chăm-pa Tự tại thiên vương) do campa và

iśvara cấu thành; pāṇḍurāṅgeśvara (賓童龍王Tân Đồng Long Vương)

Ďược cấu tạo từ pāṇḍurāṅga và iśvara;

- Ký hiệu visarga sẽ Ďược giữa nguyên khi Ďứng trước các âm s, ṣ và

ś như: namaś śivāya (Nam mô thần śiva) sẽ Ďược cấu thành bởi namaḥ

cùng với śivāya. Có khi ký hiệu visarga lại Ďược Ďồng hóa với các âm s, ṣ

và ś như: namaśivāya (Nam mô thần śiva);

- Nếu âm cuối của từ trước là phụ âm vô thanh, sau Ďó Ďi với một

phụ âm hữu thanh không bật hơi, thì phụ âm vô thanh Ďó sẽ Ďược hữu

thanh hóa, như: tad [ga]cchantu (hãy Ďi như vậy), nguyên vị của tad là

tat, vì chịu sự ảnh hưởng của phụ âm g ở Ďằng sau, nên phụ âm t bị hữu

thanh hóa. Cũng trong bia ký C.150 này, chúng tôi có thấy nếu phụ âm vô

thanh Ďứng trước các âm s, ṣ và ś thì vẫn sẽ Ďược giữ nguyên, như: etat

sarvvaṁ (vậy tất cả).

1.2. Hệ thống chữ viết

Từ bia ký bằng Ďá Ďược khai quật tại làng Võ Cạnh, thành phố Nha

Trang Ďến tài liệu chép tay hiện Ďại, chúng tôi có thể thấy rằng văn tự

(chữ viết) của tiếng Chăm Ďã có nhiều lần thay Ďổi. Nói chung ký hiệu

17

văn tự của Chăm ngữ vay mượn từ tiếng Phạn; cụ thể hơn là từ một dạng

ký tự viết tay ở cao nguyên Decan thuộc miền Nam Ấn Độ; dạng thức

văn tự Ďó qua Ďường biển Ďược lan truyền Ďến vương quốc Phù Nam

(hiện nay, so sánh ký hiệu chữ viết trên bia ký Ďược khai quật tại Việt

Nam và Cam-pu-chia, chúng ta vẫn có thể phát hiện Ďược sự giống nhau

giữa chúng), cuối cùng Ďược người Chăm vay mượn và cải tiến dùng Ďể

ghi chép ngôn ngữ của mình.

Akhar Hayap còn gọi là chữ Chăm cổ, tức là chữ viết trên bia ký từ

thế kỷ thứ II Ďến thế kỷ thứ XV. Ðây là hệ thống ký tự xuất phát từ chữ

cái Devanagari của Phạn ngữ, nhưng Ďược chỉnh sửa lại theo phong cách

mỹ thuật của vương quốc Chăm-pa. Chính vì thế, người Ấn Ðộ chuyên về

văn hóa Phạn ngữ không thể Ďọc Ďược chữ viết Chăm cổ trên bia ký

Chăm-pa. Ðây là nét dạng của Akhar Hayap viết vào thế kỷ IX (Xem Quá

trình cải biến ký tự chữ viết Chăm từ thế kỷ thứ IV Ďến năm 1978 của

PGS.TS. Po Dharma (Viện Viễn Đông Pháp)):

Oṁ namas sivāya, Sakarāja 788 kāla yāng Po Ku Srī

Paramesvaravarmmadeva punah guhā nay

(Xin kính cẩn Ðấng Siva, vào năm saka 788 (=866 dương lịch), dưới

18

triều Ďại Po Ku Sri Paramesvaravarmmadeva, hang Ďộng này Ďã Ďược

trùng tu lại)

Trước văn khắc trên khoảng hai trăm năm, chúng tôi Ďã phát hiện

C.87 Bia ký Mỹ Sơn B6 ( C.87 Bia ký Mỹ Sơn B6: bia ký này Ďược phát

hiện gần cánh tây của công trình B6 tại Mỹ Sơn năm 1903 trong các Ďợt

khai quật do EFEO tiến hành. Ấn bản này do Arlo Griffiths thực hiện,

dựa trên các bản dập của EFEO.):

[C.87 Bia ký Mỹ Sơn B6]

Sớm hơn về trước Ďó, trong văn khắc bia ký Đông Yên Châu, chúng

tôi có thể tìm thấy dạng chữ còn cổ xưa hơn, nguyên thủy hơn, Ďơn giản

hơn.

19

[bia ký Đông Yên Châu]

(1)Siddham! Ni yang nāga punya putauv. Ya urāng sepuy di ko

(2)kurun ko jemā labuh nari svarggah. Ya urāng paribhū d[i] ko

(3)kurun saribu thun ko davam di naraka, d(e)ngan tijuh kulo ko

20

CHƢƠNG 2: HỆ THỐNG NGỮ PHÁP CHĂM CỔ QUA VĂN

KHẮC BIA KÝ

2.1. Các từ loại trong Chăm cổ

Nói về hệ thống ngữ pháp của Chăm cổ, trước hết không thể không

nhận xét về lớp từ vựng của ngôn ngữ này. Bởi vì từ nguyên của từ vựng

tiếng Chăm cổ có thể Ďược chia thành hai lớp (Nguồn gốc PC và nguồn

gốc vay mượn tiếng Phạn) rất rõ ràng, còn về tỷ lệ sử dụng giữa hai loại

nguồn gốc này lại gần như tương Ďương. Ngoài ra, từ tiếng Phạn Ďược

nhập vào tiếng Chăm cổ thường không còn Ďược giữ nguyên, tức là

không tuân theo quy luật biến Ďổi hoặc nguyên tắc biến hình vốn có trong

tiếng Phạn nữa, thậm chí một số thực từ sau khi Ďược vay mượn vào tiếng

Chăm cổ còn Ďược ngữ pháp hóa thành một từ cố Ďịnh trong những văn

bản nhất Ďịnh. Những hiện tượng như trên Ďã giúp chúng tôi có thể khẳng

Ďịnh rằng, trong một khoảng thời gian lâu dài, hiện tượng xen kẽ từ vựng

và ngữ pháp giữa tiếng Phạn và tiếng Chăm cổ Ďã làm cho chúng ta

không thể tách riêng Ďược hai ngôn ngữ trong một văn bản. Đây chính là

lý do tại sao sau Ďây chúng tôi sẽ nêu ra khái niệm hệ thống ngữ pháp

Phạn - Chăm hỗn hợp (Hybrid Sanskrit-Chamic grammatical system).

Khái niệm này chúng tôi sẽ trình bày cụ thể hơn ở chương sau; sau Ďây

tôi xin trình bày trước các bộ phận cấu thành hệ thống ngôn ngữ Chăm

cổ.

21

2.1.1. Danh từ

Từ loại danh từ trong tiếng Chăm cổ giống như tiếng Phạn, có ba

giống: giống Ďực (Masculine), giống trung (Neuter) và giống cái

(Feminine) (Trong quyển ―Đại Đường Tây Vực Ký 大唐西域記‖ của cao

tăng Huyền Trang 玄奘, gọi ba giống này là Nam thanh 男聲, Nữ thanh

女聲 và Trung gian thanh 中間聲.), ba số: số ít, số Ďôi và số nhiều; trong

mỗi một số lại có chia ra thành tám cách: chủ cách (Nominative), trực bổ

cách hoặc Ďược gọi là trực tiếp thụ cách (Accusative), công cụ cách

(Instrumental), gián bổ cách hoặc Ďược gọi là vị cách (Dative), nguyên ủy

cách hoặc Ďược gọi là Ďoạt cách hay li cách (Ablative), sở hữu cách hoặc

Ďược gọi là thuộc cách (Genitive), vị trí cách (Locative) và hô cách

(Vocative) (Trong một số sách tham khảo về tiếng Phạn, lại gọi tám cách

này bằng tên khác: Thể cách 體格, nghiệp cách 業格, cụ cách 具格, vị

cách 為格, tùng cách 從格, thuộc cách 屬格, y cách 依格 và hô cách

呼格.). Trong trường hợp có quy tắc, hậu tố cuối từ sẽ Ďược biến Ďổi như

sau:

Số ít Số đôi Số nhiều

Chủ cách -s -au; (G.Trung) -ī -as; (G.Trung) -i

Trực bổ cách -aṃ

Dụng cụ cách -ā -bhyāṃ -bhis

Gián bổ cách -e -bhyas

Nguyên ủy cách -as

22

Sở hữu cách -oṃ -ās

Vị trí cách -i -su

Hô cách / -au; (G.Trung) -ī -as; (G.Trung) -i

Nhưng trong tuyệt Ďại Ďa số trường hợp, từ căn kết thúc bằng

nguyên âm sẽ không biến hình theo quy tắc trên, trong Ďó nhất là những

từ căn kết thúc bằng nguyên âm -a. Từ căn số ít với nguyên âm -a là loại

duy nhất có hình thức riêng khi biến Ďổi theo Nguyên ủy cách.

Trong tiếng Phạn, trực bổ cách có thể dùng riêng chỉ ―xu hướng

hoặc mục Ďích của hành vi‖ mà không cần giới từ Ďi kèm. Nhưng trong

tiếng Chăm cổ, vì vốn có khá nhiều hình thức giới từ kế thừa từ PC, hoặc

là vay mượn từ các ngôn ngữ xung quanh, cho nên tác dụng của cách sử

dụng Trực bổ cách này gần như không tìm thấy trong các văn bản. Chẳng

hạn như: ―...nau taṁl nagara yvan... (...nau taṁl nagara yvan...: C.43 Bi

ký Drang Lai; niên Ďại: không sớm hơn năm 1435 sau Công nguyên. Mặt

A, hàng (15).)‖ (ra tới lãnh thổ của vua Việt); Vị trí cách cũng tương tự

như vậy: ―...di (ma)ddhamagṛāma...(...di (ma)ddhamagṛāma...: như trên.

Mặt A, hàng (20))‖ (ở Trung Thành).

Công cụ cách, chỉ phương thức, công cụ, nguyên nhân hoặc Ďi kèm.

Khi danh từ dạng công cụ cách dùng Ďể chỉ nguyên nhân thì thường sẽ Ďi

cùng với các giới từ cố Ďịnh. Chẳng hạn như: ―tena

campāpuraparameśvarena mahārājādhirājena... (tena

campāpuraparameśvarena mahārājādhirājena...: C.81 Bi ký Mỹ Sơn B1;

23

niên Ďại: năm 712 sau Công nguyên. Mặt B, hàng (1))‖ (bởi chúa tể vĩ Ďại

của thành phố Chăm-pa, chúa tể của các vị vua vĩ Ďại).

Nguyên ủy cách chỉ hành vi xảy ra từ Ďâu, hoặc là lý do, tiền Ďề của

hành vi. Sở hữu cách chỉ quan hệ sở hữu, nhưng có khi nó lại có tác dụng

gần như Gián bổ cách. Vị trí cách chỉ vị trí của sự vật hoặc hành vi Ďang

xảy ra. Nhưng trong tiếng Chăm cổ, trường hợp sử dụng Vị trí cách cũng

rất ít, vì tự thân tiếng Chăm cổ Ďã có nhiều từ chỉ quan hệ vị trí.

Nếu như từ căn danh từ giống Ďực kết thúc bằng nguyên âm -a, thì

sẽ Ďược biến Ďổi như sau:

aśva (ngựa)

Số đôi aśvau Số nhiều aśvāḥ Số một aśvaḥ Chủ cách

aśvān aśvam Trực bổ cách

aśvābhyām aśvaiḥ aśvena Dụng cụ cách

aśvebhyaḥ aśvāya Gián bổ cách

aśvāt Nguyên ủy cách

aśvasya aśvayoḥ aśvānām Sở hữu cách

aśve aśveṣu Vị trí cách

aśva aśvau aśvāḥ Hô cách

Từ căn danh từ giống trung kết thúc bằng nguyên âm -a cũng tương

tự như trên, nhưng nếu là giống cái, thì lại có bảng sau:

kanyā (con gái)

24

Số đôi Số một

kanye Số nhiều kanyāḥ kanyā Chủ cách

kanyāṃ Trực bổ cách

kanyayā kanyābhyāṃ kanyābhiḥ Dụng cụ cách

kanyāyai kanyābhyaḥ Gián bổ cách

kanyāyāḥ Nguyên ủy cách

kanyayoḥ kanyānāṃ Sở hữu cách

kanyāyāṃ kanyāsu Vị trí cách

kanye kanye kanyāḥ Hô cách

Nếu như là từ căn danh từ giống Ďực kết thúc bằng nguyên âm -i

hoặc -u, thì lại có:

kavi (nhà thơ); paśu (súc vật)

Số một Số đôi

kaviḥ paśuḥ kavī paśū Số nhiều kavayaḥ paśavaḥ Chủ cách

kaviṃ paśuṃ kavīn pasūn Trực bổ cách

kavinā paśunā

kavibhyāṃ paśubhyāṃ kavibhiḥ paśubhiḥ

Dụng cụ cách

kavibhyaḥ paśubhyaḥ

kavaye paśaye Gián bổ cách

kaveḥ paśoḥ Nguyên ủy cách

kavyoḥ paśvoḥ kavīnāṃ paśūnāṃ Sở hữu cách

kavau paśau kavisu paśusu Vị trí cách

kave paśo kavī paśū kavayaḥ paśavaḥ Hô cách

25

Tương tự như vậy, từ căn danh từ giống cái và giống trung kết thúc

bằng nguyên âm -i và -u lại có:

śuci (thuần khiết); mṛdu (cái mềm)

śuci (G.Cái) mṛdu (G.Trung)

Số ít Số đôi Số nhiều Số ít Số đôi Số nhiều

Chủ cách śuciḥ śucī śucayaḥ mṛdu mṛdunī mṛdūni

Trực bổ cách śuciṃ

śucibhyāṃ

mṛdubhyāṃ

Dụng cụ cách śucyā śucibhiḥ mṛdunā mṛdubhiḥ

śucibhyaḥ

mṛdubhyaḥ

Gián bổ cách śucyai mṛdune

mṛdunaḥ

Nguyên ủy cách śucyāḥ

Sở hữu cách śucyoḥ śucīnāṃ mṛdunoḥ mṛdūnāṃ

śucyāṃ

Vị trí cách śuciṣu mṛduni mṛduṣu

Hô cách śuce śucī śucīḥ mṛdu mṛdunī mṛdūni

Nếu là từ căn kết thúc bằng phụ âm, thì vẫn dựa theo nguyên tắc

của quy tắc biến hình Ďó.

Danh từ trong tiếng Chăm cổ còn có một lớp khác là danh từ thuần

Chăm, tức là lớp danh từ không có nguồn gốc từ tiếng Phạn. Thực ra số

lượng và tỷ lệ của lớp từ vựng này ngày càng Ďược tăng thêm. Trong bia

ký Võ Cạnh, Nha Trang, ngoài nét chữ gần giống nhữ chữ viết Brāhmī ra,

từ Ďược sử dụng trong nội dung hầu như là từ của tiếng Phạn, cho nên có

nhà nghiên cứu cho rằng bia Ďó là bia Phạn, ngôn ngữ Ďược khắc trên bia

26

Ďá vẫn chưa có một chút dấu hiệu nào cho rằng nó Ďã Ďược bản Ďịa hóa.

Trong bài báo cáo ―K‘ouen-louen‖ của G.Ferrand có bàn Ďến hiện tượng

ngôn ngữ Phạn hóa ở vùng Java, và trường hợp này cũng có thể ứng dụng

Ďể giải thích hiện tượng ngôn ngữ Phạn hóa Ďược diễn ra ở Chăm-pa.

Chúng tôi xin trích một Ďoạn như sau:

―...trong tiếng Java hầu hết không có từ nào có thể đảm nhiệm chức

năng chứa đựng và quảng bá những kiến thức về xã hội, đạo đức và tôn

giáo, vì họ vẫn chưa có nhận thức về những điều trên. Vì vậy, trong mọi

lĩnh vực, họ đều phải vay mượn và sử dụng ngôn ngữ riêng của Ấn Độ.

Những từ vựng được vay mượn đó, sau hai nghìn năm vẫn được sử dụng

tại Quần đảo Indonesia.‖

Trong bia ký muộn hơn Ďó, chúng tôi có thể phát hiện Ďã có nhiều từ

Chăm cổ Ďược xen kẽ giữa các câu tiếng Phạn. Một ví dụ Ďiển hình là bia

ký Đông Yên Châu, tấm bia này Ďược khai quật tại vùng Quảng Nam; nội

dung bia ký không dài, chỉ có ba hàng:

(1)Siddhaṃ! Ni yaṇ nāga punya putauv. Ya urāṇ sepuy di ko

(2)kurun ko jemā labuh nari svarggah. Ya urāṇ paribhū d[i] ko

(3)kurun saribu thun ko davaṃ di naraka, d(e)ngan tijuh kulo ko

(Vinh quang! Vương quốc này Ďã có vua. Là chúa tể của tất cả, có

tất cả báu vật của thiên giới. Vua này thống trị vương quốc và bảy mảnh

Ďất cả một ngàn năm)

Trong văn bản trên, các từ như ―ni, yaṇ, punya, putauv, di, nari...‖

27

Ďều là những từ Ďược gọi là ―thuần Chăm‖. Thực ra chúng tôi dùng khái

niệm ―thuần Chăm‖ ở một mức Ďộ cẩn trọng. Vì trong vốn từ Chăm cổ, từ

tiếng Phạn với từ ―thuần Chăm‖ không có quan hệ loại trừ; nhưng ở Ďây

chúng tôi vẫn tạm dùng như thế Ďể thuận tiện cho luận văn. Như vậy

trong Ďó, ―ni‖ và ―yaṇ‖ Ďều chỉ ―Ďây, này‖, hai nghĩa này vẫn Ďược giữ

nguyên trong Bahasa Indonesia, ―ini‖ và ―yang‖. Chăm hiện Ďại vẫn dùng

từ ―ni‖ Ďể chỉ ―này, Ďây‖; nhưng ―yaṇ‖ thì chỉ còn lại nghĩa thứ hai là chỉ

―thần linh‖. Từ ―putauv‖ nguyên dạng là ―putau‖, âm ―-v‖ là theo quy tắc

hợp âm trong Phạn ngữ mà Ďược thêm vào ở phần cuối Ďể nối liền ―ya‖.

―Putau‖ có nghĩa là ―vua‖, ở Ďây chúng tôi thấy rằng, nếu tiếp tục theo

quy tắc biến hình cách danh từ trong Phạn ngữ, thì từ này bắt buộc phải

theo quy tắc biến hình giống cái mà biến Ďổi thành ―putauḥ (chủ cách)‖

hoặc ―putāvaṃ (trực bổ cách)‖. Vẫn là từ này, trong bia ký Ďược khắc

trên tường trong nội bộ tháp Chăm Po Nagar ở Nha Trang, có hai hàng

ghi rằng:

(6)niy kāla rāja yāṁ pov ku vijaiya śrī

(7)harivarmmadeva putau di nagar caṁpā

(trong thời gian này, có Vua Śrī Harivarmmadeva (Śrī

Harivarmmadeva: dịch theo nghĩa là Cát Tường Nhật Trụ Thiên Vương

吉祥日胄天王), tên Yang Po Ku (Yang Po Ku: tên này Ďược ghi trong sử

thư Trung Quốc là 楊普俱), thống trị vương quốc Chăm-pa tại Vijaiya)

Chúng tôi có thể thấy rằng trong hai Ďoạn bia ký Ďược trích ở phần

28

trên, từ ―putau‖ Ďều giữ Ďược nguyên dạng chứ không biển Ďổi theo quy

tắc của cách. Đó chính là một Ďặc Ďiểm chung của lớp danh từ ―thuần

Chăm‖.

Một số danh từ trong Chăm cổ Ďến bây giờ vẫn còn Ďược người

Chăm sử dụng trong hàng ngày, có lẽ nó sẽ xảy ra chuyển Ďổi ngữ âm,

Ďây là một hiện tượng không thể tránh Ďược trong quá trình phát triển

ngôn ngữ trong dòng chảy lịch sử. Từ ―putau‖ trên Ďến bây giờ vẫn dùng

Ďể chỉ ―vua‖, nhưng phải Ďọc thành ―pataw‖.

Như vậy, lớp danh từ ―thuần Chăm‖ có tính chất giống như các ngôn

ngữ khác thuộc họ Nam Đảo, tức là lớp danh từ này không xảy ra biến

hình.

2.1.2. Đại từ

2.1.2.1. Đại từ nhân xưng

Các Ďại từ như mad, asmad, tvad, yusmad trong tiếng Phạn hầu hết

chưa Ďược tìm thấy trong bia ký Chăm-pa. Thực ra trong phạm vi khảo

sát của chúng tôi (các bia ký Chăm-pa Ďược bảo tồn tại Bảo tàng Ďiêu

khắc Chăm Đà Nẵng), chúng tôi cũng chưa tìm thấy bất cứ một bia ký

nào có chứa Ďựng Ďại từ tiếng Chăm cổ. Nhưng Ďiều này vẫn không thể

tuyệt Ďối phủ nhận rằng trong tiếng Chăm cổ không tồn tại hệ thống Ďại

từ. Vì trong tiếng Chăm hiện Ďại, hệ thống Ďại từ không những Ďầy Ďủ mà

còn khá phong phú. Đương nhiên, theo kết quả khảo sát của chúng tôi, hệ

thống Ďại từ hiện nay chắc chắn có một số từ chịu sự ảnh hưởng hoặc vay

29

mượn từ ngôn ngữ khác. Cụ thể như sau:

số ít số nhiều

ngôi thứ I kaw, dahlak, khaol dahlak, manaok dahlak, ranaih

drei, hulun dahlak, kami, khaol kami, ita, kita, khaol

ita

ngôi thứ II hă, mei khaol hă, manaok hă

ngôi thứ III nyu khaol nyu

[Bảng hệ thống Ďại từ trong tiếng Chăm hiện Ďại]

Trong Ďại từ ngôi thứ I, chúng tôi có chứng cứ tin rằng ―kaw, hulun‖

là hai từ trức tiếp kế thừa từ Chăm cổ, hoặc càng Ďẩy sớm hơn là PMP. Vì

trong bảng Ďối chiếu PC với PMP, chúng tôi Ďã tái lập ―kaw‖ thành ―*i-

aku‖, hiện nay trong Bahasa Indonesia và Melayu vẫn giữ nguyên hình

thức hậu tố ―-ku‖ chỉ cách sở hữu của ngôi thứ I số ít. Còn nguyên âm Ďôi

―-aw‖ trong Chăm hiện Ďại có sự tương ứng với ―-ɘw‖ trong tiếng Gia-lai,

―-ăw‖ trong tiếng Rode và ―-ɛɘ‖ hoặc ―-o‖ trong tiếng Aceh, chúng có

nguồn gốc chung là Ďơn vị nguyên âm mở ―*u‖ trong Proto Aceh -

Chamic‖, và Ďiều này là dĩ nhiên.

Còn từ ―hulun‖, vốn chỉ nghĩa ―nô lệ‖, tương Ďương với ―hamba‖

trong Melayu.

Từ ―dahlak‖ có khả năng là một từ thuần Chăm, nhưng trong văn

bản bia ký chúng tôi hiện vẫn chưa tìm Ďược từ này. Từ ―drei‖ có vẻ bắt

nguồn từ ―dṛiṁ‖ trong bia ký C.43 Drang Lai, nhưng Ďiều này vẫn chưa

30

Ďược xác Ďịnh. Theo Finot, ―...chúng tôi Ďã tìm thấy hiện tượng nguyên

âm hóa kép (ṛ+ṁ), trừ khi chúng ta giả Ďịnh rằng sự khác biệt giữa chữ

viết quanh các ký hiệu r và ṛ phụ thuộc hoàn toàn vào ngữ cảnh.‖

Xét về ngôi thứ II, ―hă‖ Ďược tái lập lại trong Chăm cổ là ―*hi‖.

Nguyên âm ―i‖ và ―a‖ vẫn thường xuyên thay thế lẫn nhau trong các

phương ngữ hiện Ďại của tiếng Chăm, Ďiều này không có gì Ďáng ngạc

nhiên. Còn ―mei‖ có khả năng là vay mượn từ một ngôn ngữ thuộc PMP

khác. Vì trong PMP, chúng tôi có từ ―*i-kamu‖, từ này Ďược diễn biến

thành hậu tố ―-mu‖ trong Bahasa Indonesia và Melayu hiện Ďại; thậm chí

trong phương ngữ Trung của tiếng Việt, Ďại từ ―mi‖ cũng có khả năng Ďã

vay mượn từ Ďây.

Còn trong ngôi thứ III, từ ―nyu‖ hiển nhiên là kế thừa từ ―ṅu‖ trong

Chăm cổ, tương Ďương với hậu tố ―-nya‖ trong Bahasa Indonesia và

Melayu hiện Ďại. Trong bia ký C.64 Mảnh Ďá vỡ ở Chiên Đàn (C.64

Mảnh Ďá vỡ ở Chiên Đàn: Ďược khai quật từ Tháp Chiên Đàn, tỉnh Quảng

Nam; mảnh Ďá nguyên khối 240x80 cm; mảnh vỡ còn ở nguyên chỗ

94x190x80 cm; mảnh vỡ ở Bảo tàng 51x85x44 cm. Niên Ďại Ďược công

bố là thể kỷ 11 sau công nguyên.) chúng tôi có thể tìm thấy từ này Ďược

xuất hiện hai lần ngay ở phần Ďầu:

[A.1] hetu śanāpa di pūrvvakāla maṁn ma(d)[ā urāṁ] [B.1] (kā) ṅu

putau di nagara campa ṅu paliṅyak [naga](ra) urā(ṁ) ṅan...

(Do một lời nguyện trong quá khứ, vì lý do Ďó Ďã có một kẻ trở

31

thành vua của Ďát nước Chăm-pa, người Ďã tước Ďoạt Ďất nước...)

Ở vị trí ngôi thứ III, còn có một Ďại từ Ďặc biệt là chuyển hóa từ

danh từ phổ thông dùng Ďể chỉ nể trọng, tôn vinh, Ďó là từ ―ra‖, có khi

cũng Ďược viết thành ―uraṁ‖. Dạng thức cổ hơn là ―uraṁ‖, vốn chỉ

―người, người dân‖, có từ tương ứng cùng nguồn trong Bahasa Indonesia

và Melayu là ―urang‖, trong tiếng Aceh là ―orang‖; tiếng Chăm hiện Ďại

vẫn bảo lưu cả hai dạng thức này là ―ra‖ và ―urang‖ (người, thợ), như ―ra

acaryak‖ (người hướng dẫn) hoặc ―urang yuer‖ (người Việt). Mà từ

―uraṁ‖ Ďược tìm thấy ra trong bia ký cũng rất nhiều, vẫn như trong bia

ký Đông Yên Châu:

(1) Siddhaṃ! Ni yaṇ nāga punya putauv. Ya urāṇ sepuy di ko

(2)kurun ko jemā labuh nari svarggah. Ya urāṇ paribhū d[i] ko

(3)kurun saribu thun ko davaṃ di naraka, d(e)ngan tijuh kulo ko

(Vinh quang! Vương quốc này Ďã có vua. Là chúa tể của tất cả, có

tất cả báu vật của thiên giới. Vua này thống trị vương quốc và bảy mảnh

Ďất cả một ngàn năm)

Trong văn bản trên, ―uraṁ‖ Ďược viết thành ―urāṇ‖, nhưng chúng tôi

vẫn rất dễ dàng nhận ra Ďược.

2.1.2.2. Đại từ chỉ vật

Trong Chăm cổ, chúng tôi Ďã tìm Ďã hai Ďại từ rõ ràng dùng Ďể chỉ

vật. Đó là ―nī‖ và ―nan‖. ―nī‖ dùng Ďể chỉ ―Ďây, này‖, chỉ vật gần chỗ

người nói; còn ―nan‖ thì chỉ nơi hoặc Ďồ xa người nói. Vẫn là trong bia

32

ký Ďược khắc trên tường tháp Chăm ở Po Nagar, Nha Trang, tỉnh Khánh

Hòa:

(5)di śakarāja 935 nī

(Trong năm Saka 935 này...)

Rất rõ ràng ở Ďây ―nī‖ là một từ hạn Ďịnh thời gian Ďi trước.

Đương nhiên, trong các bia ký Ďã Ďược giải Ďọc, chúng tôi cũng Ďã

tìm thấy một số Ďại từ chỉ vật khác trong Chăm cổ vốn là vay mượn thẳng

từ Phạn ngữ, như sau:

[Mặt B](1)kośamukuṭobhayaṃ tat kīrtthistambhadvayopameyam iva

(2)yāvac candrādityau tāvad idaṃ susthitaṃ jagati

(Cầu mong Ďôi giáp và vương miện này, như là một biểu tượng của

hai trụ cột về danh tiếng của ngày, lưu lại trên mặt Ďất cũng lâu dài như

Mặt trời và Mặt trăng)

Trong văn bản trên, từ ―tat‖ là vay mượn trực tiếp từ Phạn ngữ

―tad‖, do quy tắc hợp âm thì biến hình thành ―tat‖, ở Ďây nghĩa là ―Ďó‖.

Ngoài ra trong Chăm cổ còn tồn tại một loại Ďại từ như ―si‖ và

―yaṁ‖ có khả năng cùng nguôn gốc với Melayu là ―si‖ và ―yang‖(cũng có

ý kiến cho rằng Ďây là mạo từ), nhưng Ďiều này chúng tôi tạm chưa tìm

thấy trong văn bản bia ký.

2.1.3. Số từ

Hệ thống số từ chúng tôi chưa tìm thấy Ďược một từ nào trong bất kể

bia ký nào trong phạm vi khảo sát của bài văn này. Nhưng thông qua tài

33

liệu khác với phương pháp so sánh lịch sử, chúng tôi vẫn có thể tái lập lại

hệ thống số từ trong Chăm cổ:

tiếng Việt Chăm cổ tái lập tiếng Việt Chăm cổ tái lập

một *sa sáu *nam

hai *dua bảy *tujuh

ba *klɔw tám *dua-lapan

bốn *pa:t chín *samilan / *sa-

lapan

năm *lima mười *pluh

trăm *ratus ngàn *ribɔw

[Bảng tái lập hệ thống số từ trong Chăm cổ]

Trong bảng trên có hai từ khả nghi là ―*dua-lapan‖ và ―*sa-lapan‖,

vì cấu trúc của chúng hiển nhiên có bao gồm hai phần là ―dua‖ (hai), ―sa‖

(một) cộng với ―lapan‖ (Ďến giờ chúng tôi vẫn chưa hiểu ý của ―lapan‖

cụ thể là gì). Trước khi bàn về vấn Ďề này, chúng tôi xin nêu ra một bảng

khác Ďược trích từ quyển ―Nghiên cứu phân loại các ngôn ngữ Nam

Đảo南島語分類研究‖ của Ngô An Kỳ, tác giả này cũng có nhắc Ďến một

số Ďặc trưng chung của các ngôn ngữ Nam Đảo:

một hai ba bốn năm

tiếng Motu ta rua toi hani ima

tiếng Tôn-ga taha ua tolu fā nima

34

tiếng Mác- cuon ɽuo cilu emæn ɭalɛm

san

sáu bảy tám chín mƣời

tiếng Motu tauratoi hitu taurahani taurahanita gwauta

tiếng Tôn-ga ono fitu valu hiva hoŋofulu

tiếng Mác- cilicino cilcilimcu- ɽuwalitɘk ɽuwatimcu- cɔŋɔul

san on on

Trong bảng trên chúng tôi có thể nhìn thấy: trong tiếng Motu, số sáu

(tauratoi) và số tám (taurahani) là từ phái sinh của số ba (toi) và số bốn

(hani); trong tiếng Mác-san, số sáu (cilicino) là từ phái sinh từ số ba

(cilu), số chín (ɽuwatimcuon) là kết quả liên kết từ số một (cuon) và số

tám (ɽuwalitɘk).

Ở Ďây ý của chúng tôi không phải nhấn mạnh rằng Chăm cổ cũng

hoàn toàn giống như các ngôn ngữ trên mà có phương thức cấu tạo từ

tương tự như nhau mà chỉ muốn nói: trong tiếng Chăm cổ, thật sự tồn tại

phương thức cấu tạo hệ thống số từ giống như vậy. Thậm chí, theo quan

Ďiểm của Ngô An Kỳ, ―hệ thập phân trong các ngôn ngữ Nam Đảo là kết

quả chịu sự ảnh hưởng của ngôn ngữ khác, chứ không phải bản thân họ

Nam Đảo vốn có.‖

Bây giờ tiếp tục quay về vấn Ďề số tám và số chín trong tiếng Chăm cổ.

Từ bảng tái lập hệ thống số từ, chúng tôi có thể rút ra Ďược một hình thức

chung là ―dua/sa+ lapan‖ Ďể cấu tạo thành số Tám và số Chín. Nhưng

35

trong tiếng Chăm cổ, phương thức cấu tạo lại không giống trong các ngôn

ngữ Ďược nêu trên là gấp Ďôi số ít thành số nhiều. Về vấn Ďề này, GS.

Blust từng có một giải thích như sau: số Tám và số Chín trong Chăm cổ

Ďược cấu tạo theo mô hình phép trừ. Bất kể là *samilan hay là *sa-lapan

Ďều có nguồn gốc là *alap hoặc *ambil với nghĩa là ―trừ Ďi‖. Như vậy

chúng ta nên xét lại cấu trúc của số Tám và số Chín trong Chăm cổ là:

*sa+ambil+an / *sa+alap+an, và *dua+alap+an. Điều này rõ ràng có

thể suy ra Ďược, số Tám (*dua+alap+an) là ―từ mười trừ hai‖, còn số

Chín (*sa+ambil+an / *sa+alap+an) là ―từ mười trừ một‖. Quan Ďiểm

của Blust chúng tôi thấy hoàn toàn hợp lý với sự thật và hoàn toàn tán

Ďồng. Vì trong các tài liệu về những ngôn ngữ khác, chúng tôi cũng có

thể tìm Ďược phương thức cấu tạo số Tám và số Chín tương tự như vậy.

Trong tiếng Aceh, số Chín (sikurɯɘŋ) chín là Ďến từ *sa-kura:ŋ, còn

*kura:ŋ chính nó lại mang nghĩa là ―giảm xuống‖.

2.1.4. Động từ

Hệ thống Ďộng từ trong Chăm cổ cũng Ďược phân chia thành hai lớp

như danh từ: một lớp là Ďộng từ vay mượn từ Phạn ngữ, lớp thứ hai

(chúng tôi vẫn tạm dùng tên gọi) là ―thuần Chăm‖. Trước hết, chúng tôi

sẽ bàn về hệ thống Ďộng từ Ďược vay mượn từ Phạn ngữ.

2.1.4.1. Lớp Ďộng từ vay mượn từ Phạn ngữ

Động từ trọng tiếng Phạn trước hết phải chia theo dạng, bao gồm

dạng chủ Ďộng (parasmaipadam), dạng trung gian (ātmanepadam) và

36

dạng bị Ďộng; trong Ďó, dạng trung gian với dạng bị Ďộng có hình thức kết

thúc cuối từ giống nhau. Nhưng trong phạm vi bia ký khảo sát của chúng

tôi, hầu hết chưa tìm thấy Ďộng từ nào sử dụng dạng trung gian hoặc dạng

bị Ďộng, cho nên ở Ďây chúng tôi xin tạm chỉ thảo luận về dạng chủ Ďộng

của Ďộng từ.

Tiếp theo Ďộng từ sẽ chia thời: thời hiện tại, thời chưa hoàn thành,

thời Ďã hoàn thành, thời quá khứ nguyên mẫu, thời tương lai và thời Ďiều

kiện. Trong Ďó, thời hiện tại và thời chưa hoàn thành lại Ďược nhập thành

một nhóm là hệ thống thời hiện tại. Vì nhóm thời hiện tại này lại phải

chia thức: thức trần thuật, thức cầu nguyện, thức gây khiến; các thời Ďộng

từ còn lại chỉ có thức trần thuật.

Chúng tôi lấy các hình thức biến hình của Ďộng từ thuộc loại I trong

hệ thống thời hiện Ďại làm ví dụ Ďể minh họa vấn Ďề này:

bhū (là):

Hệ thống thời hiện đại

Chủ động Trung gian

Số ít Số đôi Số nhiều Số ít Số đôi Số nhiều

Thức trần thuật

bhavāmi

bhavāvaḥ

bhavāmaḥ

bhave

bhavāvahe

bhavāmahe

Ngôi I

bhavasi

bhavathaḥ

bhavatha

bhavase

bhavethe

bhavadhve

Ngôi II

bhavati

bhavataḥ

bhavanti

bhavate

bhavete

bhavante

Ngôi III

37

Thức cầu nguyện

bhaveyaṃ

bhaveva

bhavema

bhaveya

bhavevahi

bhavemahi

Ngôi I

bhaveḥ

bhavetaṃ

bhaveta

bhavethāḥ

bhaveyāthāṃ

bhavedhvaṃ

Ngôi II

bhavet

bhavetāṃ

bhaveyuṃ

bhaveta

bhaveyātāṃ

bhaveraṇ

Ngôi III

Thức gây khiến

bhavāni

bhavāva

bhavāma

bhavai

bhavāvahai

bhavāmahai

Ngôi I

bhava

bhavataṃ

bhavata

bhavasva

bhavethāṃ

bhavadhvaṃ

Ngôi II

bavatu

bhavatāṃ

bhavantu

bhavatāṃ

bhavetāṃ

bhavantāṃ

Ngôi III

Thức chƣa hoàn thành

abhavaṃ

abhavāva

abhavāma

abhave

abhavāvāhi

abhavāmāhi

Ngôi I

abhavaḥ

abhavataṃ

abhavata

abhavathāḥ

abhavethāṃ

abhavadhvaṃ

Ngôi II

abhavat

abhavatāṃ

abhavan

abhavata

abhavetāṃ

abhavanta

Ngôi III

Nhưng trong bia ký Chăm cổ, những Ďộng từ Ďược biến hình tuân

một cách nghiêm ngặt theo bảng trên lại là rất ít; và những Ďộng từ Ďó

hầu hết là vay mượn trực tiếp từ Phạn ngữ, còn Ďộng từ ―thuần Chăm‖

không bao giờ Ďược biến Ďổi như thế này. Sau Ďây chúng tôi xin nêu ra

một số ví dụ:

Trong văn khắc Ďược phát hiện trên tháp Chăm Po Klaong Girai có:

oṃ namaś śivāya

(Om! Lòng tôn kính Ďến śiva)

Từ nama chúng tôi biết rằng Ďược dùng khá rộng rãi trong các kinh

Phật và sau này Ďược dịch là ―nam mô‖. Trong văn khắc trên, namaś là 38

Ďược biến hình từ namaḥ, rồi âm ―ḥ” lại bị Ďồng hóa bởi phụ âm ―ś” ở

Ďằng sau. Nama ở Ďây là một Ďộng từ chỉ tỏ ra lòng kính trọng.

Một ví dụ khác là:

[Mặt A]yaṃ sarvvadevās s(a)sureśamukhyā

dhyāyanti tattattvavidaś ca santaḥ

(2)svasthaḥ suśuddhaḥ paramo vareṇya

(3)īśānanāthas sa jayaty ajasraṃ

(Người, khiến mọi thần linh, cùng với Sureśa (Indra) người Ďứng

Ďầu chư thần, cũng như mọi người thiện lương hiểu Ďược bản chất của

Ngài, phải suy tư; không phụ thuộc, rất thanh khiết, tốt thượng, siêu

phàm; Ngài, Īśānanātha, luôn luôn chiến thắng!)

Ở Ďây, tác giả của văn khắc có sử dụng mấy Ďộng từ liền Ďể diễn tả

sự nể trọng Ďối với thần Sureśa (Isvara): dhyāyanti (số nhiều, III) là xuất

phát từ từ dhyai, nghĩa là ―suy nghĩ‖. Còn như santaḥ có nghĩa là ―thuộc

về‖. Một ví dụ nữa là jayati (số ít, III) trong dòng cuối (trong quy tắc ngữ

âm, i Ďược biến âm thành y) với nghĩa là ―chiến thắng‖. Như vậy chúng

tôi có thể thấy rằng, những Ďộng từ thuộc lớp này, vẫn phải biến hình

nghiêm ngặt theo quy tắc vốn có trong tiếng Phạn.

Ngoài các hình thái biến Ďổi cơ bản, Ďôi khi chúng tôi vẫn có thể bắt

gặp thấy phân từ Ďộng từ Ďược sử dụng trong văn khắc:

śrīrudrasvayambhuveśvarāya rajatakalaśo yaṁ

śrīrudravarmmadevena datta iti

39

(cái bình nước bạc này do Śrī Rudravarmadeva tặng cho Śrī

Rudravarmasvayambhuveśvara)

Trong văn bản trên, datta (tặng, ban cho) là Ďược biến Ďổi từ dā, vì

cuối từ kết thúc bằng hậu tố -ta, chúng tôi có thể biết rằng Ďó là một hình

thức phân từ.

2.1.4.2. Lớp Ďộng từ ―thuần Chăm‖

Trong Ďa số bia ký, chúng tôi phát hiện Ďược nhiều hơn cả vẫn là

Ďộng từ bản Ďịa. Bản Ďịa này tuyệt Ďối không phải là trăm phần trăm khởi

nguồn tại lãnh thổ vương quốc Chăm-pa hoặc là phạm vi người Chăm

thời xưa sinh sống. Tương tự như khái niệm ―thuần Chăm‖, chúng tôi Ďã

có một hạn Ďịnh riêng, ý là Ďể phân biệt với những từ có nguồn gốc từ

tiếng Phạn. Trong phần này, dĩ nhiên là sẽ có những từ cùng nguồn gốc từ

PMC, thậm chí PMP; hay cũng có khả năng là vay mượn từ Melayu cổ.

Cho nên, một lần nữa, chúng tôi xin nhắc lại rằng ―thuần‖ ở Ďây không

phải là ―thuần túy tuyệt Ďối‖, Ďó là một cách nói tương Ďối, Ďể giúp người

Ďọc dễ nhận diện.

Lớp Ďộng từ này so với lớp vay mượn từ Phạn ngữ thì có Ďặc trưng

là ít biến Ďổi (có khi chúng tôi còn có phát hiện rằng một từ gốc Phạn

Ďược vay mượn sang Chăm cổ, dần dần bị chi phối bởi quy luật nội tại

của Chăm ngữ, cũng không có hình thức biến hình nữa). Động từ không

phân biệt số, ngôi, thời. Dạng chủ Ďộng hay bị Ďộng (trung gian) thì trong

phạm vi chúng tôi Ďang khảo sát không tìm thấy, nếu như theo quy tắc

40

của các ngôn ngữ khác cùng thuộc họ Nam Đảo thì Ďiều này nên có sự

phân biệt. Còn cách thức phân biệt dạng chủ Ďộng hay bị Ďộng thường là

thêm tiền tố vào từ căn.

Trong dòng (14) mặt A của C.43 Bia ký Drang Lai, có thể thấy từ

―nau take nagara‖ (Ďi Ďến vương quốc), câu này Ďã lược bỏ thành phần

chủ ngữ là ―vua Chăm-pa‖. Như vậy, lớp Ďộng từ này trong văn bản có

tính Ďộc lập tương Ďối cao hơn nhiều. Thậm chí có thể dùng hẳn hai Ďộng

từ liền nhau cùng trong một câu Ďể chỉ từ một hành vi chuyển sang một

hành vi khác, Ďiều này tuyệt Ďối không thể gặp trong Phạn ngữ, vì hành vi

chưa xảy ra luôn luôn bắt buộc phải sử dụng dạng nguyên mẫu. Nhưng

trong tiếng Chăm cổ, cùng trong bia ký trên, dòng (17) có: ―...dhai

rājagottra vā rājaputtrī marai pam(v)raṁ pu poṁ ku‖ (gửi Ďoàn tùy tùng

Ďem vị công chúa Ďi và phục vụ Pu Pom Ku). Trong câu này, cả ba Ďộng

từ ―dhai‖ (gửi?) ―marai‖ (Ďi Ďến) và ―pam(v)raṁ‖ (phục vụ) Ďược dùng

liền nhau, tuy ―marai‖ (Ďi Ďến) ở Ďây có thể Ďược coi là Ďã ngữ pháp hóa

thành một giới từ dùng Ďể chỉ mục Ďích hoặc là xu hướng, nhưng Ďiều

này vẫn không thể phủ nhận là trong câu này còn có hai Ďộng từ liền kề

nhau.

Tóm lại thì chúng tôi có thể tổng kết rằng: hệ thống Ďộng từ trong

tiếng Chăm cổ giống hệ thống Danh từ ở chỗ là bao gồm hai lớp. Lớp vay

mượn từ tiếng Phạn dù cho vẫn không thoát khỏi hoàn toàn Ďược sự ảnh

hưởng của quy tắc bản thân tiếng Phạn, nhưng chúng tôi vẫn có thể tìm

41

thấy xu hướng bản Ďịa hóa trong nội bộ lớp từ này. Mặt khác là lớp

―thuần Chăm‖, các Ďộng từ trong lớp này có quan hệ thân mật với các

ngôn ngữ cùng nguồn gốc, với Ďặc trưng hình thái là không (hay ít) biến

Ďổi.

2.1.5. Tính từ

Trong Chăm cổ, ít có tính từ riêng, Ďa số tính từ là chuyển hóa từ

danh từ hoặc Ďộng từ. Trong giới nghiên cứu Phạn ngữ, tính từ Ďược coi

như là từ phái sinh, chứ không phải là một hệ thống Ďộc lập. Như từ tố -a-

thường dùng Ďể cấu tạo danh từ hoặc tính từ. Sau khi tham gia cấu trúc

gốc từ, thì nguyên âm Ďầu tiên trong danh từ gốc phải nâng cấp thành

nguyên âm phân Ďộ vṛddhi (nguyên âm tam hợp). Ví dụ như: śauca nghĩa

là ―thuần túy‖, gốc từ là śuci; yauvana có nghĩa là ―tuổi thanh xuân‖, có

nguồn gốc danh từ là yuvan; sauhārda với nghĩa là ―tình hữu nghị‖ xuất

phát từ suhṛd; còn tính từ như daiva với nghĩa là ―thuộc thiên thần‖, xuất

phát từ gốc từ trung tâm là deva (Thiên thần). Chính do sự phái sinh từ

cùng một từ tố, cho nên lại có quan Ďiểm cho rằng trong tiếng Phạn khu

biệt danh từ và tính từ là không cần thiết. Mà trong tiếng Chăm cổ, tình

hình cũng tương tự như vậy. Điều này thể hiện rõ nhất là trong các trường

hợp tên riêng của nhà vua Chăm-pa, cụ thể như sau:

paramarājotauma... prathamarājāviśeka

―paramarājotauma‖ có thể chia thành ―parama‖, ―rāja‖ và

―utauma‖. ―utauma‖ tức là ―uttama‖, có nghĩa là ―tối cao最高, tối

42

thắng最勝, vô thượng無上‖. ―parama‖ có nghĩa là ―cát tường thù

thắng吉祥殊勝‖, với ―rāja‖ là ―nhà vua‖. Tóm lại là ―tối thắng cát tường

vương最勝吉祥王/vua cát tường tối thắng‖. Còn từ

―prathamarājāviśeka‖ có thể Ďược chia phân thành ―prathama‖, ―rāja‖ và

―aviśeka‖. Trong Ďó ―aviśeka‖ Ďược hiểu nên là ―abhiṣeka‖ (lễ tôn

phong), ―prathama‖ là ―sớm nhất‖. Cho nên, tên hiệu của vua này Ďược

giải thích là ―tối sơ quán Ďỉnh vương最初灌頂王/vua Ďược tôn phong

sớm nhất‖. Như vậy trong hai tên hiệu của nhà vua này, chúng tôi thấy

rằng, ngoài từ hạt nhân ―rāja‖ Ďó, các phần còn lại trong từ Ďều thuộc bộ

phận hạn Ďịnh phạm vi của danh từ trung tâm. Chúng tôi hoàn toàn có thể

coi chúng là thành phần tính từ. Nhưng có Ďiều là những ―tính từ‖ này

quá giống danh từ, không biến Ďổi hình thái, có thể sử dụng Ďộc lập.

Trong văn khắc trên các yếu tố kiến trúc bằng Ďất nung với số bảo

tồn là C.172 (BTC32, số n.2112+2115, Ďược khắc ở cả hai mặt và

BTC28, số n.2113+2114) chúng tôi lại tìm thấy có:

BTC32:

[Mặt phải] phun ṅauk

[Mặt trái] [a]driy

BTC28:

phun nda[l]

Trong hai văn khắc trên, từ ―phun‖ Ďược giải thích là ―tối, nhất‖; khi

Ďi với ṅauk thì có nghĩa là ―tối thượng, cực trên‖. Còn trong cấu trúc

43

phun nda[l], chúng tôi có thể so sánh từ nda[l] với jaul trong Bahasa

Indonesia trước, tức là ―xa xôi‖. Như vậy, phun nda[l] ở Ďây thì nên là

―cực xa‖.

Thực ra trong tiếng Chăm hiện Ďại, hệ thống tính từ cực kỳ phong

phú, chúng tôi có khá nhiều tính từ như kajap (bền vững), mah (làm bằng

vàng), patuah (may mắn), takala (chớp), jaik (gần nhau)... Ďều là trực tiếp

kế thừa từ Chăm cổ.

2.1.6. Tiểu từ

Từ loại này khá là khó quy nạp, nhưng chúng có một Ďặc trưng

chung là bất kể trong trường hợp nào cũng không xảy ra biến Ďổi hình

thái. Trong giới nghiên cứu Phạn ngữ, từ loại này Ďược gọi là bất biến từ.

Thực ra trong Chăm cổ chúng tôi cũng có lý do gọi những từ này bằng

tên gọi ―bất biến từ‖. Nhưng ―bất biến từ‖ trong Chăm cổ lại có phạm vi

không trùng khớp với từ cùng loại trong Phạn ngữ. Trong Phạn ngữ, bất

biến từ chủ yếu là liên từ, thán từ, từ phủ Ďịnh, hoặc là một số phó từ.

Như trong câu: yathā vṛkṣas tathā phalam (Có cây này thì có quả ấy);

yatra dharmas tatra jayaḥ (Ở Ďâu có Ďạo, thì ở Ďấy sẽ có thắng lợi);

anantaṃ śāstraṃ bahulāś ca vidyāḥ svalpaś ca kālaḥ (Tác phẩm là vô số,

kiến thức là vô biên, thời gian là có hạn). Cặp liên từ yathā... tathā và

yatra... tatra bất kể trong trường hợp nào vẫn Ďược giữ nguyên. Còn

trong câu ba, ca có nghĩa là ―và‖, từ nay cũng Ďược giới ngữ pháp Phạn

ngữ coi như là từ bất biến.

44

Vì vậy, nếu chỉ xét liệu một từ có xảy ra trường hợp biến hình hay

không Ďể nhằm xác Ďịnh từ loại của nó thì có vẻ không ổn thỏa Ďối với

tiếng Chăm cổ. Vì trong tiếng Chăm cổ, có khá nhiều từ không xảy ra

biến Ďồi hình thái (như chúng tôi Ďã trình bày ở phần trên, bao gồm danh

từ, Ďộng từ và tính từ Ďều có trường hợp không biến Ďổi, nhưng tuyệt Ďối

không thể gọi chúng là bất biến từ). Chính vì vậy, chúng tôi tạm gọi từ

loại này trong Chăm ngữ là Tiểu từ, Ďể tránh trường hợp lẫn lộn với Phạn

ngữ.

Trong Chăm cổ, từ loại tiểu từ chủ yếu bao gồm giới từ, liên từ và

thán từ.

Giới từ: một ví dụ tiêu biểu là di, từ này trong các văn khắc Chăm cổ

Ďược sử dụng khá là phổ biến. Di cùng nguồn gốc với di trong Melayu và

Bahasa Indonesia. Trong hai ngôn ngữ khác, di có hai nghĩa chính là 1) ở,

ví dụ: Jepang terletak di Asia. (Nhật Bản ở châu Á). 2) chỉ quan hệ bị

Ďộng, ví dụ như: dipukul (bị Ďánh), dimakan (bị ăn). Nhưng nghĩa thứ 2

trong Melayu và Bahasa Indonesia chúng tôi tạm thời chưa tìm thấy có

nghĩa tương Ďương trong Chăm cổ (dạng bị Ďộng trong Chăm cổ chúng

tôi cũng chưa phát hiện Ďược do sự hạn chế về mặt tài liệu của cá nhân

hiện có). Còn lại từ di thì có vẻ như hoàn toàn tương tự với di trong hai

thứ tiếng trên, Ďều chỉ Ďịa Ďiểm. Chẳng hạn như:

[Mặt A](2)viśeka... (4)dṛṁ di śaka sidaḥ ṛśi-pāvakaāgni-rūpa...

(Ďược lên ngôi... vào năm śaka nhà tiên tri-lửa-lửa-sắc (Năm lịch

45

śaka có thể được thể hiện bởi các ký hiệu số, giống như cách ta tính Công

lịch. Nhưng chúng cũng có thể được thể hiện một cách tượng trưng gọi là

“Chronogram” (cách dùng chữ cái hoa để ghi năm). Chronogram là một

chuỗi các từ thể hiện giá trị số bằng cách tượng trưng. Một số biểu tượng

có tính phổ quát, và do đó dễ hiểu đối với người đọc; một số khác lại phụ

thuộc vào các liên hệ đặc biệt trong thế giới tư tưởng Ấn Độ, tạo ra hệ

thống dùng chữ cái hoa để ghi năm mà sau này được sử dụng rộng rãi

trên đất nước Chăm-pa. Ví dụ những chữ cái viết hoa amvara-kuca-tanu

có nghĩa là “bầu trời-ngực-thân xác”, thể hiện giá trị 820, trong đó “bầu

trời” thể hiện số không, “ngực” thể hiện số hai, còn “cơ thể” thể hiện số

tám. Điều này thường được xem là một đặc điểm bình thường của hệ

thống, để cụ thể hơn, xin tham khảo một số nghiên cứu gần đây (ECIC,

tr.485-486). --A.Griffiths, A.Lepoutre: The Inscriptions of Champā at the

Museum of Cham Sculpture in Đà Nẵng. tr.30-31.))

(2)...di śakarāja nī 1155...

(vào năm śaka 1155, vua này...)

Trong văn khắc trên, ―di‖ tức là một từ với nghĩa ―vào, ở‖ thuộc

phạm trù tiểu từ Ďó. Còn di ở Ďây chỉ thời Ďiểm. Tương tự như vậy, trong

văn khắc Đông Yên Châu cũng có phát hiện từ di:

(1)ya urāng sepuy di ko (2)kurun...

(Người Ďược tôn làm vua của tất cả...)

Trong trường hợp này, di lại Ďược chỉ Ďịa Ďiểm. Còn trong văn khắc

46

với số lưu trữ C.3 Ďược phát hiện trên rầm Ďỡ ở Phan Rang lại có:

(5)ya rāja di (na)[gara]

(vua ở vương quốc)

Đồng thời, loại tiểu từ còn bao gồm một số từ chỉ phủ Ďịnh như na:

(1)śaktiḥ parasya na ripuṁ kṣapayati...

(śaktiḥ, không có kẻ thù nào có thể phá hủy Ďược...)

Từ na ở Ďây là từ phủ Ďịnh ripu (kẻ thù).

2.1.7. Tiểu kết

Thông qua trình bày xong hệ thống ngữ pháp Chăm cổ, chúng tôi có

thể phát hiện rằng, trong phạm vi khảo sát các văn khắc (bia ký), từ thế

kỷ Ďầu công nguyên Ďến thế kỷ XIV sau công nguyên, hệ thống ngữ pháp

Chăm cổ luôn thể hiện sự có mặt của hình thái Chăm - Phạn hỗn hợp.

Cùng trong một bài văn khắc, có thể Ďồng thời xuất hiện cả hai tầng hệ

thống ngữ pháp. Những tầng này thường Ďược thể hiện ở cấp Ďộ từ vựng.

Những từ có nguồn gốc Phạn ngữ, thì vẫn chịu sự chi phối vốn có trong

bản thân ngôn ngữ này; các từ còn lại thì có quy tắc ngữ pháp riêng.

Đương nhiên có một số trường hợp là từ hoặc ngữ tiếng Phạn Ďược bản

Ďịa hóa, không tuân theo quy tắc tiếng Phạn nữa, trường hợp này qua

khảo sát của chúng tôi cũng Ďược phát hiện khá nhiều.

Với lý do trên, chúng tôi hoàn toàn có lý do Ďể nói rằng hệ thống

ngữ pháp Chăm cổ là một hệ thống Ďa tầng hỗn hợp. Chúng tôi tạm gọi

hệ thống Ďặc biệt này là Hệ thống ngữ pháp Chăm - Phạn hỗn hợp.

47

2.2. Trật tự cấu tạo câu

Nói về vấn Ďề câu, tức là nói về vấn Ďề các thành phần trong câu

Ďược sắp xếp theo trật tự như thế nào? Theo quan Ďiểm của loại hình học,

các ngôn ngữ thuộc loại hình giống như Phạn ngữ hầu hết Ďều có cấu trúc

tổ chức câu là S-O-V; bên cạnh Ďó, trong nội bộ họ Nam Đảo thì cấu trúc

S-V-O lại phổ biến hơn. Nhưng vấn Ďề nan giải ở Ďây là chúng tôi rất khó

xác Ďịnh Ďược tiếng Chăm cổ thuộc loại hình nào vì nó chịu sự ảnh hưởng

của cả hai bên. Sau Ďây chúng tôi sẽ Ďi từ hai bình diện câu Ďơn và câu

phức Ďể làm rõ hơn vấn Ďề này.

2.2.1. Câu Ďơn

Câu Ďơn ám chỉ một câu Ďơn giản, trong trường hợp này chủ ngữ

hình thức và chủ ngữ lô-gíc thường trùng nhau. Hình thức của chủ ngữ sẽ

quyết Ďịnh các hình thức cụ thể của từng thành phần trong câu. Chúng tôi

xin nêu ra một ví dụ cụ thể Ďể minh họa.

Trên một bình hoa bạc Ďược ghi số là C.58 có một dòng chữ Chăm

cổ:

yāṃ poṃ ku śrī jayasiṃhavarmmadeva pu ciṃ śrī harideva v[u]ḥ di

dharmma 1181

(yāṃ poṃ ku śrī jayasiṃhavarmmadeva, hoàng tử śrī harideva Ďã

tặng cho vào năm śaka dharmma 1181)

Trong câu trên, yāṃ poṃ ku śrī jayasiṃhavarmmadeva là tên của

một vị vua Chăm-pa; ciṃ Ďược hiểu là ―hoàng tử‖, còn pu ở Ďây giống

48

như po trong tiếng Chăm hiện Ďại, có nghĩa là ―ngài, Ďấng‖. śrī harideva

là tên của vương tử Ďó; v[u]ḥ là Ďộng từ có nghĩa là ―tặng‖; dharmma là

―pháp‖, ở Ďây chỉ năm śaka dharmma. Như vậy ta có:

yāṃ poṃ ku śrī jayasiṃhavarmmadeva pu ciṃ śrī harideva

yāṃ poṃ ku śrī jayasiṃhavarmmadeva ngài hoàng tử śrī harideva

chủ cách (số Ďơn) chủ cách (số Ďơn)

chủ ngữ đồng vị ngữ

di dharmma 1181 v[u]ḥ

vào năm śaka dharmma 1181 tặng

Ďộng từ cụm giới từ làm bổ ngữ

vị ngữ

Một ví dụ khác có thể giúp chúng tôi phân tích các thành phần trong

câu Ďơn Chăm cổ rõ hơn là:

Anuṣṭubh

sthāpito rājasiṅhena śrīmadvikrāntavarmmaṇāvāmeśvarasya kośo

yaṁ stheyād ā bhuvanasthiteḥ

(Vỏ gươm này cho Vāmeśvara Ďược Ďặt bởi Vikrāntavarman lừng

lẫy, sư tử giữa các vị vua. Nó sẽ Ďược tồn tại vĩnh viễn.)

49

[C.97 Bệ Ďỡ Mỹ Sơn, Quảng Nam]

Văn khắc trên sớm nhất là Ďược liệt kê trong tác phẩm ―Notes

d‟épigraphie XI : Les inscriptions de Mi-Sơn‖ của L. Finot, và trong một

tác phẩm khác của cùng tác giả: ―Nécrologie. Prosper Odend‟hal‖, ông

Ďã dịch văn khắc này sang tiếng Pháp. Sau Ďó, trong công trình ―Champā.

History and Culture of an Indian Colonial Kingdom in the Far East, 2nd-

16th Century A.D.‖, R.C. Majumdar lại công bố bản dịch tiếng Anh về

nội dung văn khắc này.

anuṣṭubh (một loại bài thơ ca tụng cổ của Ấn Độ cổ, mỗi một câu có

32 âm tiết). sthāpito là kết quả hợp âm của dạng bị Ďộng quá khứ phân từ

sthā, có nghĩa là ―Ďể, bị Ďặt ở‖. rājasiṅhena phải chia thành hai từ là

―rāja+siṅhena‖, tứ là ―nhà vua‖ và ―sư tử‖; ở Ďây rāja là hình thức chủ

cách, bên cạnh Ďó, siṅhena lại là hình thức công cụ cách. Trong tiếng

Chăm cổ, danh từ với hình thức công cụ cách có thể Ďảm nhiệm chức

năng chủ ngữ lô-gíc của câu. śrīmadvikrāntavarmmaṇāvāmeśvarasya là

tên của một nhà vua: Śrīmadvikrāntavarmman, ở Ďây có sử dụng hình

thức công cụ cách; và Vāmeśvara là ―một trong sáu mươi tám nơi Ďể lập

thánh vật Linga‖ trong thần thoại của Ấn Độ cổ, ở Ďây từ này có hình

thức sở hữu cách. kośo là ―vỏ gươm‖, chủ cách. stheyād là một Ďộng từ

khởi phát, nguyên mẫu của nó cũng là sthā, trong Ďó hậu tố -ya thường

dùng Ďể chỉ sự gây ra một hành Ďộng nào Ďó khác. ā là một tiểu từ thường

gặp, có nghĩa là ―theo; luôn‖. bhuvanasthiteḥ tức là ―bhuvana+sthiteḥ‖

50

(bhuvana: thế giới, danh từ, chủ cách; sthiteḥ: Ďứng, Ďang ở trạng thái nào

Ďó, phân từ quá khứ của sthā, vị trí cách). Vì vậy cấu trúc của câu này có

thể thể hiện bằng bảng sau:

sthāpito rāja siṅhena śrīmadvikrāntavarmmaṇā

Ďược Ďặt vua trong Ďám sư tử bởi

śrīmadvikrāntavarmma

phân từ bị Ďộng chủ cách công cụ cách công cụ cách

vị ngữ chủ ngữ lô-gíc

vāmeśvarasya kośo yaṁ stheyād ā bhuvana sthiteḥ

cho vāmeśvara vỏ gươm nó giữ Ďược theo thế giới tồn tại

sở hữu cách chủ cách chủ cách Ďt sai khiến tiểu từ chủ cách vị trí

cách

bổ ngữ chủ ngữ đồng vị định ngữ

hình ngữ

thức

Như trên chúng tôi có thể thấy rằng trong câu Ďơn của tiếng Chăm

cổ, trật tự của các thành phần trong câu không Ďơn giản một chút nào.

Trong trường hợp một câu chỉ có thành phần chủ ngữ, vị ngữ và bổ ngữ

thì câu Ďó vẫn Ďược tổ chức theo trật tự S-V-O; nhưng khi các thành phần

Ďịnh ngữ dài hoặc là có hình thức bị Ďộng, thì cách thức tổ chức lại theo

cấu trúc khác. Còn có một Ďiều rất quan trọng cần phải nhắc Ďến, từ thảo

luận trên chúng ta có thể rút ra: trong câu Ďơn Chăm cổ, vị trí của các

51

thành phần câu không phải là quan trọng nhất, không quyết Ďịnh Ďến

nghĩa của cả câu. Đó chính là vì nghĩa cả câu Ďã Ďược hạn Ďịnh bởi ý

nghĩa cách và hình thức của từng thành phần khi tham gia câu.

2.2.2. Câu phức

Câu phức trong văn khắc Chăm cổ thường gặp trong văn thể tế ca

hoặc là tùng ca. Câu phức thể hiện một hình thái câu khá dài, thường có ít

nhất hai chủ ngữ (bất kể là chủ ngữ hình thức hay là chủ ngữ lô-gíc) trong

câu. Chúng tôi xin liệt kê ra vài câu ở sau Ďể làm rõ vấn Ďề này:

vikrānteśvaralokau yau tayor gupau sa nāyakaḥ

samanta(ḥ) prathito nāmmā tasya puṇyam idaṃ matam

(Đây là thành tựu của người lãnh tụ với tên hiệu Samanta, người này

Ďược bảo hộ bởi cả hai Vikrānta và Īśvaraloka)

Trong câu trên, vikrānteśvaralokau chỉ hai tên của hai thần Vikrānta

và Īśvaraloka. gupau chỉ ―sự bảo hộ‖, là danh từ giống Ďực-số Ďôi; vì vậy,

chúng ta có thể hiểu rằng ―sự bảo hộ‖ này là xuất phát từ

vikrānteśvaralokau, bởi hai từ này có dạng thức biến hình nhất loạt. sa

nāyakaḥ nghĩa là ―một lãnh tụ‖, gốc từ của nāyakaḥ là nī (dẫn Ďường).

samanta là tên hiệu của người thống trị ấy. prathito tức là prathita, thuộc

loại phân từ quá khứ của Ďộng từ nguyên mẫu prath, dùng Ďể hạn Ďịnh

danh từ trung tâm là samanta với nghĩa là ―Ďược mệnh danh là, Ďược tôn

sùng là‖. Từ Ďứng sau prathito là nāmmā, trong từ này thợ khắc bia Ďã

khắc thừa một ký tự m, nhưng Ďiều này không cản trở Ďược chúng tôi biết

52

Ďến từ này nên là nāmā (Ďược gọi là). tasya là sở hữu cách của Ďại từ ngôi

thứ III số Ďơn. puṇyam là ―công Ďức, Ďức hành; thành tựu‖. idaṃ là Ďại từ

―này‖. Từ cuối matam là danh từ với hình thức cách trực bổ, nhưng căn

từ của matam vốn là Ďộng từ man (hiểu biết), Ďược chuyển hóa thành

phân từ quá khứ là mata (Ďược hiểu biết). Vì vậy, chúng tôi có thể sắp

xếp lại mối quan hệ giữa các thành phần trong câu:

vikrānteśvaralokau yau tayor gupau sa nāyakaḥ samanta(ḥ)

Vikrānta và bởi như bảo hộ một lãnh tụ Samata

Īśvaraloka

chủ cách tiểu tiểu chủ cách tiểu từ chủ cách chủ cách

(số Ďôi) từ từ (số Ďôi) (số Ďơn) (số Ďơn)

chủ ngữ tiểu câu (chủ ngữ hình thức) chủ ngữ cả câu (chủ ngữ lô-gíc)

prathito nāmmā tasya puṇyam idaṃ matam

Ďược tôn sùng mệnh của người ấy thành tựu này Ďược hiểu

danh biết

chủ cách tiểu từ sở hữu cách trực bổ tiểu từ trực bổ cách

(số Ďơn) (số Ďơn) cách (số Ďơn)

(số Ďơn)

vị ngữ

Vậy thì thông qua bảng trên chúng tôi có thể thấy rằng, trong câu

này có hai bộ phần cùng Ďảm nhiệm thành phần chủ ngữ của cả câu (vì

hình thức của chúng Ďã là hình thức chủ cách). Trong trường hợp này thì

53

cần phải chúng tôi phân biệt phần nào là chủ ngữ hình thức, phần nào là

chủ ngữ lô-gíc (chủ ngữ chân chính) của câu. Trong câu trên, tiêu Ďiểm

của cả câu Ďều hội tụ tại vị trí vị ngữ: tasya puṇyam idaṃ matam. Mà

hình thức các từ trong phần vị ngữ Ďều nằm trong hình thức số Ďơn, Ďiều

này Ďã ăn khớp với hình thức của cụm từ ―sa nāyakaḥ‖.

Một mặt khác, chúng tôi có thể căn cứ vào nghĩa của cả câu Ďể xem

xét chủ ngữ lô-gíc. Vẫn là phần ―tasya puṇyam idaṃ matam‖, chúng tôi

có thể Ďọc ra rằng là ―thành tựu của người ấy‖; hiển nhiên ở Ďây chỉ nhắc

Ďến một người duy nhất, mà ở vị trí mở câu là ―vikrānteśvaralokau‖, Ďó

là hai nhân vật. Do Ďó chúng tôi cũng có thể phán Ďoán rằng

―vikrānteśvaralokau‖ không thể làm chủ ngữ chân chính của cả câu này.

54

CHƢƠNG 3: PHÂN TÍCH NHỮNG VĂN KHẮC CỤ THỂ

Trong phần trên, chúng tôi Ďã trình bày khái lược hệ thống ngữ pháp

của tiếng Chăm cổ, với kết luận là bản chất của hệ thống ngữ pháp Chăm

cổ là hệ thống ngữ pháp hỗn hợp Chăm - Phạn. Trong chương này, chúng

tôi sẽ thông qua giải thích một số văn khắc bia ký cụ thể, Ďể làm minh

chứng cho khái niệm này.

3.1. Bia ký C.43 Drang Lai

Bia ký C.43 Drang Lai Ďược phát hiện ở tháp Drang Lai ở tỉnh Gia

Lai, hiện Ďược lưu giữ tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng Việt Nam,

cùng với Bia ký C.43 còn có một tấm bia có văn khắc Chăm cổ ở trên với

số lưu trữ là C.42. Trong C.42 có nhắc Ďến niên Ďại là năm śaka 1331

(=CN1409). Đồng thời, trong công trình nghiên cứu và công bố văn khắc

này của H.Parmentier còn có nhắc Ďến một Ďịa Ďiểm là ―Cheo Reo‖. Cheo

Reo là tên cổ của thị xã Ayun Pa, trước thuộc tỉnh Phú Yên, hiện nay Ďã

quy vào tỉnh Gia Lai. Vì bia ký C.43 cũng có tình huống tương tự như

vậy, cho nên từng có một số học giả như Finot gọi hai tấm bia này là ―văn

khắc Cheo Reo‖ hay còn gọi là bia ký Yang Mum, lấy theo tên của ngôi

Ďền khá nổi tiếng mà nó Ďược chuyển Ďến sau khi phát hiện. Nhưng

Prosper Odend‘hal qua tìm hiểu từ những nguồn thông tin Ďịa phương

khẳng Ďịnh rằng bia ký này Ďã Ďược chuyển Ďến ngôi Ďền Ďó từ một ngôi

Ďền khác nó tên là Drang Lai, cho nên bia ký này phải Ďược gọi tên chính

xác theo nguồn gốc của nó.

55

Về nội dung văn khắc bia ký, trong công trình The Inscriptions of

Campā at the Museum of Cham Sculpture in Đà Nẵng có một Ďoạn miêu

tả khá dài về Ďặc Ďiểm chính tả của văn khắc C.43 này, bây giờ chúng tôi

xin trích dẫn như sau, vì Ďoạn văn này có thể giúp tìm hiểu sâu hơn về

chính tả của văn khắc này nói riêng, còn các tấm bia khác cùng thời Ďại

nói chung:

“Việc nhân đôi phụ âm không theo quy tắc nào rất phổ biến, không

chỉ trước / sau phụ âm r (một hiện tượng phổ biến phản ánh các thói

quen chính tả của ngôn ngữ Phạn) mà cả ở giữa các nguyên âm. Không

có sự phân biệt mang tính hệ thống giữa các chuỗi phụ âm „uốn lưỡi‟ và

„âm răng‟ (ṭ ṭh ḍ ḍh ṇ đối chiếu với t th d dh n). Ở vị trí thứ nhì của một

nhóm phụ âm, phụ âm dự kiến là ṇ thường lại trở thanh n. Độ dài nguyên

âm trong các từ Phạn mà ngôn ngữ Chăm vay mượn thường không được

giữ nguyên. Sự khác biệt giữa 3 chữ xuýt ś ṣ s không được giữ nguyên ở

các từ vay mượn từ tiếng Phạn. Có thể do sự giống nhau về hình thái chữ,

nên các âm tiết có ra hay ṛ theo sau một phụ âm không được phân biệt rõ

ràng; có lẽ do sự giống nhau về các phát âm nên các âm tiết có ri và ṛ

sau một phụ âm cũng bị xáo trộn. Có khuynh hướng lồng một phụ âm v

vào nhóm phụ âm nr, và khuynh hướng giảm bớt phụ âm đệm trong nhóm

phụ âm ndr. Các nhóm phụ âm của các từ có gốc Phạn bị tách rời theo

những quy tắc không lường trước được. Ký hiệu được chuyển tự thành ṁ

thực hiện những chức năng khác nhau, hoặc tác động lên nguyên âm theo

56

một cách nào đó chưa biết, hoặc có giá trị tương đương với các phụ âm

ṅ, y và v khi ở vị trí cuối âm tiết.”

Trong tất cả các quan Ďiểm của tác giả vừa nêu ra, thật khó mà Ďồng

ý hoặc tán thành Ďược hết. Một số ý kiến trong Ďó rất hay, rất Ďúng;

nhưng cũng có một số quan Ďiểm mà chúng tôi Ďánh giá là thiếu tính

khoa học, thiếu sự khảo sát kỹ càng.

[Mặt A](1)auṃ ṇama śivāya

(2)svasti, madā paramarājotauma sa dṛiṁ prathamarājā-

(3)viśeka dṛṁ nāma yāṁ poṁ ku śrīvṛṣuviṣṇujātti vīrabhadra-

(4)varmmadeva pu poṁ ku pūra ṅauk glauṁ vijaya dṛṁ rāja di śaka

(5)sidaḥ ṛśi-pāvaka-agni-rūpa dunan sūṇu yāṁ poṁ ku śrī

(6)jayasīṅhavarmmadeva pu poṁ ku vṛṣuvaṅṣa paramabhūmyā-

(7)ddhi(pa) vīrasiṅha campa pu poṁ ku nan samīpaprāṇna tak-

(8)e śivasthāṇna aviśekha rāja di paratmaja nan dṛṁ rāja pṛ-

(9)(th)ama-brahma-kaśattri-vaiśa-śūdṛ-hīṇnadīṇṇā-saṇtusta-

(10)māṇnasa kraṁtthi vījākūra

Auṃ thường Ďược Ďứng ở Ďầu câu trong bài cúng, hô ngữ; ṇama

nghĩa là ―Nam mô, tỏ ra lòng kính trọng‖; Śivāya, gián bổ cách của từ

śiva, chỉ ―thần Śiva‖; svasti nghĩa là ―ca ngợi‖, ngôi III số ít, Ďược biến

hình từ svas;madā là từ thuộc lớp ―thuần Chăm‖, có nghĩa là ―Ďã từng‖;

paramarājotauma Ďược dịch theo nghĩa là ―tối thắng cát tường

vương最勝吉祥王/vua cát tường tối thắng‖; parama theo từ Ďiển Phạn -

57

Anh Ďược giải thích là ―xa nhất, cao nhất, Ďứng Ďầu, cái chính, tối cao, tối

ưu, tối thiện, cực kỳ, tối thắng, Ďề nhất‖; rāja trỏ ―quân vương, nhà vua‖;

uttama→utauma có nghĩa là ―tối cao, xuất sắc nhất‖; sa là số từ chỉ

―một‖, ở Ďây dùng Ďể chỉ trật từ thứ nhất; cũng có khả năng là chỉ nhấn

mạnh ―duy nhất‖; dṛiṁ, về từ này, có nhiều học giả như Schweyer cho

rằng ―dṛiṁ‖ ở Ďây là biến thể của ―drei‖, tức là ―bản thân mình‖, nhưng

theo tôi thì Ďược lý giải là ―người‖ có vẻ như hợp lý hơn, hãy tham khảo

nội dung bia ký C.30 B1; prathamarājāviśeka Ďược giải thích là ―tối sơ

quán Ďỉnh vương最初灌頂王/vua Ďược tôn phong sớm nhất‖, từ này

Ďược cụ thể chia phân như sau: prathama最初, abhiṣeka→aviśeka 灌頂;

nāma [tiểu từ] Ďược mệnh danh là; yāṁ poṁ ku là tên của vua Chăm-pa,

trong sách cổ Trung Quốc Ďược ghi là ―Dương Phổ Cụ Tỳ Trà Thất

Ly楊普俱毗茶室離‖, tức là ―Tỳ Xà Gia Bạt Ma毗阇耶跋摩‖;

śrīvṛṣuviṣṇujātti, [tên riêng] Ďược dịch là ―Cát Tường Ngưu Biện Nhập

Chủng吉祥牛遍入種‖, trong sách khác lại Ďược ghi là ―Thất Lợi Tỳ Lợi

Suất Tỳ Thất Nô Xà Đề室利毗利窣毗濕奴阇提‖;

vīrabhadravarmmadeva [tên tiêng], Ďược hiểu là ―Dũng Hiền Trụ

Thiên勇賢胄天‖; pūra có nghĩa là ―thành phố‖; ṅauk thuộc lớp ―thuần

Chăm‖, chỉ ―vị trí ở phía trên, cái trên‖; Glauṁ Vijaya [Ďịa danh] Kha

Lam Phật Thệ哿蓝佛逝→pūra ṅauk Glauṁ Vijaya thì nên là ―Thượng

Kha Lam Phật Thệ Thành上哿蓝佛逝城‖; di [tiểu từ], từ này ở phần ngữ

pháp chúng tôi Ďã phân tích rất kỹ rồi, chỉ xứ sở, Ďịa Ďiểm; śaka tức là

58

―lịch năm śaka‖ trong truyền thống của người Chăm; sidaḥ, Ďộng từ này

có lẽ nên quy thuộc vào lớp tiểu từ, vì nó trong nhiều văn khắc khác cũng

không có xảy ra biến Ďổi gì cả, từ này có nghĩa là ―tượng trưng, ví dụ‖;

ṛśi-pāvaka-agni-rūpa “người tiên tri - lửa - lửa - sắc‖, ―sắc‖ ở Ďây chỉ

hình thái của muôn vật, chứ không thể theo chủ quan là màu sắc của sự

vật. sūṇu trỏ ―con trai‖; jayasīṅhavarmmadeva [tên riêng] Ďược dịch theo

nghĩa là ―Thắng Sư Trụ Thiên勝獅胄天‖; pu poṁ ku [tên riêng] 布普俱

Bố Phổ Cụ; vṛṣuvaṅṣa [tên riêng] Ďược dịch theo nghĩa là Ngưu Độc

Quốc牛犢國, tức là nước Nghé, lại có dịch theo âm Ďọc là Tỳ Lợi Suất

Quốc毗利窣國; vaṅṣa→bangsa, từ này Ďược chúng tôi hiểu là ―bangsa‖,

cùng nguồn gốc với các từ trong Melayu và Bahasa Indonesia (quy luật

biến Ďổi ngữ âm từ ―v-‖ sang ―b-‖ chúng tôi có thể gặp thấy trong quá

trình phát triển của nhiều ngôn ngữ cổ Đông Nam Á), từ ―vaṅṣa‖ Ďược

dịch là ―Ďất nước‖ hoặc là ―dân tộc‖; paramabhūmyāddhi(pa) [tên riêng]

là phong hiệu của vua Chăm, Ďược dịch theo nghĩa là ―Tối Thắng Lục

Địa Thống Trị Giả最勝陸地統治者‖; bhūmi trong cụm từ tên riêng trước

Ďược hiểu là ―lãnh thổ của nhà vua‖, nhưng từ này vốn có nghĩa là ―Ďất

Ďai‖ , rồi lại Ďược thêm nghĩa ―vùng, lãnh thổ‖ vào (như ngày xưa người

Ấn Độ gọi vùng Mi-an-ma là suvarnabhūmi (tiếng Phạn) hoặc

suvannabhūmi (tiếng Pali), Ďều chỉ ―vùng sản xuất nhiều vàng‖);adhipa

từ này Ďược vay mượn từ Phạn ngữ, giống Ďực, có nghĩa là ―người thống

trị‖; vīrasiṅha Ďược dịch theo nghĩa là ―Dũng Sư Tử勇獅子‖, vīra vốn là

59

danh từ giống Ďực chỉ ―Ďàn ông‘ hoặc là ―anh hùng‖, ở Ďây Ďược chuyển

sang nghĩa tính từ là ―dũng cảm, có lực lượng‖; siṅha Ďược chỉnh sửa lại

thành siṃha, có nghĩa là ―con sư tử‖. campa, chính xác hơn nên là

caṃpa, tức là ―vương quốc Chăm-pa‖; nan là Ďại từ, chỉ ―này, Ďây‖;

samīpa→samāpta Ďược hiểu là ―hoàn thành, kết thúc‖; prāṇna→prāṇa

chỉ ―tuổi thọ‖; sthāṇna→sthāna vốn chỉ ―chỗ Ďứng‖, trong văn khắc này

Ďược chuyển sang nghĩa chỉ ―nơi, chỗ‖; pṛ(th)ama→prathama, ―Ďầu tiên,

sớm nhất‖; brahma chỉ ―Ďẳng cấp Bà-la-môn‖; tượng tự như vậy

kaśattri→kaśatri chỉ ―tầng lớp tống trị, võ sĩ‖; vaiśa chỉ tầng lớp thứ 3

trong xã hội Ấn Độ là ―người buôn bán‖; còn śūdṛ chỉ ―nông dân‖;

hīṇnadīṇṇā là một từ ghép, chúng tôi có thể chia phân thành hīna+dīnā,

và Ďược hiểu là ―những người lao Ďộng khốn khổ bất hạnh‖;

saṇtusta→santuṣṭa có nghĩa là ―hài lòng‖; māṇna →māna chỉ ―tôn vinh,

nể trọng‖; còn từ vījākūra, chúng tôi có thể nhận ra rằng do nét chữ giống

nhau giữa ―k‖ và ―p‖, từ này Ďược chỉnh sửa thành vījāpūra, và chỉ một

thành phố của vương quốc Chăm-pa là Phật Thệ Thành佛逝城.

Bản dịch:

Om! Lòng tôn kính Ďến Śiva!

Ngợi ca! Đã từng có một vị vua xuất sắc nhất trong các vị vua, một

và chỉ một. Vào dịp tôn phong Ďầu tiên, ngài mang vương hiệu Y.P.K. Śrī

Vr̥ ṣu Viṣṇujāti Vīrabhadravarmadeva, vị P.P.K của kinh Ďô Ṅauk Glauṅ

Vijaya. Ngài lên ngôi vào niên lịch Śaka các nhà tiên tri-lửa-lửa-nghi thức

60

(1337). Vị [vua] Ďó là con của Y.P.K. Jayasiṃhavarmadeva, P.P.K. của

vương triều Vr̥ ṣu, người có quyền lực tối thượng trên mặt Ďất, và sư tử

anh hùng của Chămpa. Vị vua này (Jayasiṃhavarmadeva), khi cuộc sống

của ngài Ďã Ďến hồi kết, Ďã về nơi an trú của thần Śiva. Lễ tôn phong cho

(di?) người con lỗi lạc nhất (Vīrabhadravarmadeva) [Ďã diễn ra]. Ngài lên

trị vì vương quốc với tư cách là vị vua làm hài lòng tột bậc tâm trí của các

giáo sĩ Bà La Môn, các nhà quý tộc, thương nhân, nông nô, những người

bất hạnh và cùng khổ, kẻ tấn công (?), vījākūra.

[Mặt A](10)pakā yavaṇarāja vā vala

(11)marai aneka āyuddha kā rijan vyuhasamīpa śrī vija-

(12)yāpurī...

pakā ―hồi Ďó‖, từ này có lẽ cùng nguồn gốc với maka trong tiếng

Melayu; yavaṇarāja chỉ ―vua Việt‖. Từ này Ďược chúng tôi giải thích

thành ―vua Việt‖ có hai lý do sau: trước hết, từ yavaṇarāja nên Ďược phân

chia thành yavaṇa với rāja, phần rāja có nghĩa là ―vua‖, Ďiều này là Ďiều

chắc chắn. Còn phần yavaṇa, một về mặt âm thanh, gần giống như ―yue-

wang (Việt vương)‖; hai là về mặt nghĩa, giả thiết từ này không phải là

vay mượn từ âm Ďọc Hán hoặc Hán Việt, thì nó nên thuộc lớp từ mượn từ

Phạn ngữ, trong tiếng Phạn, yavana có nghĩa là ―người ngoại bang, người

ngoại tộc‖, vậy thì cũng có thể biết là cách xưng hô này không thể là

người Chăm gọi vua của bộ tộc cùng nguôn gốc mình, vì thế thì giúp

chúng tôi có thể Ďoán xem Ďó là chỉ ―người Việt‖. Chính vì hai lý do trên,

61

chúng tôi có thể phán Ďịnh rằng từ yavaṇarāja là trỏ ―vua Việt‖; vā có lẽ,

có khả năng; vala Ďươc hiểu là valana, Ďộng từ ―dẫn‖; marai tương tự với

từ mai trong tiếng Chăm hiện Ďại, có nghĩa là ―Ďi tới‖; aneka, từ này là

vay mượn trực tiếp từ tiếng Phạn, nghĩa là ―vô số‖; āyuddha là viết nhầm

của āyudha chỉ ―quân Ďội‖ hoặc là ―vũ khí‖; rijin cũng là hình thức viết

sai chính tả của từ rajan ―vua‖; vyuha nên chuyển hóa thành hính thức

âm dài là vyūha có nghĩa là ―Ďội hình; thế trần‖; samīpa [tiểu từ] chỉ ―ở

gần‖; śrī vijayāpurī là tên của thành phố, Cát Tường Phật Thệ Thành

吉祥佛逝城.

Bản dịch:

Vào thời Ďiểm Ďó, vị vua của người Việt Ďưa quân Ďội của mình vào

vô số trận chiến; rồi ông ta dàn quân gần thành Cát Tường Phật Thệ.

3.2. Bia ký C.30 B1 Rầm cửa hƣớng Nam của đền thờ chính trong

quần thể tháp Chăm Po Nagar

[C.30 B1 Rầm cửa hướng Nam của Ďền thờ chính trong quần thể tháp

Chăm Po Nagar]

62

Văn khắc với số lưu trữ C.30 B1 Ďược khắc trên rầm cửa hướng

Nam của Ďền thờ chính trong quần thể tháp Chăm Po Nagar ở thành phố

Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Sớm nhất Ďược Ďề cập Ďến trong bài viết của

A. Berbaigne, tiếp theo ông lại dịch ra một số từ trong văn khắc sang

tiếng Pháp. Sau Ďó, sau khi Ďược nghiên cứu một cách kỹ càng và công

phu bởi Étienne Aymonier, ông Ďã công bố một số nội dung Ďược dịch ra

tiếng Pháp trong công trình của mình. Năm 1927 và năm 2004,

R.C.Majumda và K.H.Golzio lại phân biệt dịch lại văn khắc này ra tiếng

Anh. Năm 2005, Schweyer lại công bố ra một bản dịch tiếng Pháp mới.

Văn khắc C.30 B1 tất cả có 5 dòng, nội dung cụ thể như sau:

(1)puṇaḥ yāṁ poṁ ku śrī jayaparameśvaravarmmadeva pu poṁ ku

(2)vuḥ di yāṁ pu nagara ṅan vraḥ rūpa di śakarāja nī 1155 nī humā

di kumvyāṁl

(3)sā sthāṇa anan humā samṛddhījaya 400 jāk kvir si vuḥ di hajai

nan (la)

(4)kiṁ krumviṁ 10 driṁ humā vanūk nī dharmmathateḥ 1800 jāk

humā vanūk ni pu

(5)suk 1500 jāk kvir campa lov syaṁ vukāṁ lakiṁ krumviṁ 45 driṁ

puṇaḥ từ này Ďược vay mượn thẳng từ tiếng Phạn là punar, có nghĩa

là ―một lần nữa, nữa; vả lại‖, trong bản dịch tiếng Anh của R.C.Majumda,

từ này Ďược dịch ra thành ―furthermore‖, tương Ďương với ―en outre‖

trong tiếng Pháp; yāṁ poṁ ku śrī jayaparameśvaravarmmadeva [tên

63

riêng] tên vua, tạm dịch là ―Dương Phổ Cụ Cát Tường Thắng Tối Thượng

Tự Tại Trụ Thiên(楊普俱吉祥勝最上自在胄天)‖; vuḥ ―cung cấp, tặng

cho‖, từ này có khả năng Ďến từ Phạn ngữ vṛ (ngôi III số ít: varati, cung

cấp, tặng cho); di [tiểu từ] ở; yāṁ pu nagara chỉ ―vương quốc Yāṁ

pu(楊普王國)‖; ṅan Ďại từ, ―này‖; vraḥ rūpa, cả hai từ này Ďứng với

nhau chỉ nghi thức, vraḥ có lẽ từ Phạn ngữ vrata biến thành, vốn có nghĩa

là chỉ ―hành vi, phương thức, nghi thức‖, còn từ rūpa chỉ ―màu sắc, hiện

tượng‖, hai từ ở Ďây chỉ ―nghi thức tặng ruộng Ďất‖; śakarāja nī 1155 nī,

ở Ďây Ďã thừa một từ nī, chỉ ―năm śaka vua 1155 này‖; humā chỉ ―ruộng

Ďất‖, tiếng Chăm hiện Ďại, Melayu và Bahasa Indonesia vẫn dùng từ này,

nhưng có nhấn mạnh là ―Ďồng lúa‖; kumvyāṁl [Ďịa danh]; sā [số từ] một,

từ này Ďi với sthāṇa ở Ďằng sau cùng cấu thành tiểu câu Ďịnh ngữ; sthāṇa

từ này Ďược phái sinh từ từ tiếng Phạn sthā, có nghĩa là ―Ďứng‖, hậu tố -

ṇa làm cho căn từ danh từ hóa, chỉ ―chỗ Ďứng‖, ở Ďây thì có nghĩa là ―nơi,

chốn‖; samṛddhījaya tức là samṛddhī (tươi tốt) +jaya (rất, cực kỳ), ở Ďây

từ samṛddhī Ďã Ďược chuyển sang giống cái; jāk là Ďơn vị Ďo lượng trọng

lượng. Người Chăm bây giờ vẫn sử dụng từ này Ďể Ďo trọng lượng của

hạt lúa. jāk vốn chỉ một loại bình gốm nhỏ dùng Ďể Ďựng hạt lúa; kvir chỉ

―người Khmer‖; si ở Ďây là tiểu từ chỉ quan hệ bị Ďộng giữa Ďộng từ và

chủ ngữ; hajai nghĩa là ―khu vực‖; (la)kiṁ có nghĩa là ―Ďàn ông‖, tiếng

Chăm hiện Ďại vẫn dùng từ lakei chỉ Ďàn ông, hậu tố -ṁ chỉ trực bổ cách;

krumviṁ tương tự như vậy thì từ này Ďược lý giải là chỉ ―phụ nữ‖; driṁ

64

vốn có nghĩa là ―người‖, nhưng hình như từ này có sự khu biệt nào Ďó với

từ ura mà hiện nay Ďược sử dụng khá phổ biến trong tiếng Chăm; vanūk

từ này có vẻ là một Ďịa danh; dharmmathateḥ tên thành phố, nếu viết

Ďúng nên là dharmathateḥ; campa ở Ďây là chỉ ―người Chăm‖.

lov từ này theo quan Ďiểm của Schweyer Ďược hiểu là ―người Lào‖,

vì trong văn khắc C.7 có: ―kvi[r] ja[v]ā lauṃ vukāṃ sya(ṃ)‖ (Người

Khmer, người Bagan, người Lào(?), người Bagan, người Siam).

Nhưng thực ra từ lov sớm nhất là Ďược Bergaine dịch thành ―Trung

Hoa‖ trong tác phẩm ―L‟ancien royaume de Campā, dans l‟Indo-Chine

d‟après les inscriptions‖ của mình vào năm 1888. Trong phạm vi thế giới,

Trung Hoa Ďược gọi là lov hoặc âm gần lov Ďều chưa tìm thấy ví dụ khác,

Ďiều này cả GS. Po Dharma cũng không thể giải thích Ďược. Trong công

trình ―Giao lưu văn hóa giữa Chăm-pa và Ma-lai‖ của Lưu Chí Cường

劉志強 có nhắc Ďến ―người Chăm xưa từng gọi người Hoa sinh sống ở

vương quốc Chăm-pa là Đường Nhân (唐人người Đường)‖. Năm 1282,

khi Nguyên Mông Ďánh Ďến Chiêm Thành, từng có ―Đường nhân Tăng

Diên 唐人曾延‖ báo tin cho quân Mông Nguyên. Nhưng âm Đường với

âm lov có sự chênh lệch không nhỏ, người Chăm thời bấy giờ khó mà có

thể Ďọc trại từ âm Đường thành lov Ďược. Chính vì vậy, trong tác phẩm

của mình Lưu Chí Cường cũng chỉ nêu ra câu hỏi này mà không giải Ďáp

Ďược. Thực ra nếu chỉ xét về bản thân từ Ďó, từ lov Ďúng là có thể Ďược lý

giải là ―người Hoa‖, vì trong tiếng Chăm hiện Ďại gọi người Trung Quốc

65

là ―laow‖, trong quá trình phát triển tiếng Chăm, nét Ďường từ ―-v‖ Ďến ―-

w‖ rất rõ ràng, nếu chỉ xem xét từ này, thì ―lov‖ Ďược giải thích là ―laow‖

cũng có khá năng rất cao. Vấn Ďề là bản nghĩa của lov là gì? Tại sao tổ

tiên người Chăm dùng từ này Ďể chỉ người Trung Hoa? Chúng tôi sẽ trả

lời câu hỏi này như sau:

Nghĩa của từ lov vốn chỉ ―biển lớn‖, từ này có quan hệ với laut trong

Melayu và Bahasa Indonesia, laót trong tiếng Java (Malang), lawjét trong

tiếng Mác-san, lau trong tiếng Vanuatu; trong Proto-Oceanic Ďược tái lập

bởi Blust có *laur. Hồi xưa, người Hoa Ďi theo Ďường biển mà Ďặt chân

tới lãnh thổ của người Chăm, tự nhiên người bản xứ sẽ gọi những

―khách‖ này là ―người Ďến từ biển lớn‖. Hiện tượng này không chỉ riêng

trong tiếng Chăm cổ, trong tiếng Việt có cách gọi người Hoa là ―người

Tàu 艚人‖ cũng có yếu tố tương tự như vậy.

syaṁ chỉ ―người Siam‖; vukāṁ là ―người Pagan‖ nay thuộc Miến

Điện.

Bản dịch:

Và Y.P.K. Śrī Jayaparameśvaravarmadeva, P.P.K. Ďã ban cho nước

Yāṁ Pu và nghi thức này Ďược tổ chức vào năm Śaka 1155 của vua này:

một cánh Ďồng lúa và Ďồng lúa này có cây lúa tươi xanh; 400 jak (tương

tự như chum) lúa; 10 Ďàn ông và 10 phụ nữ sẽ Ďược phụ thuộc vào cánh

Ďồng này; còn cánh Ďồng vanūk ở Dharmmathateḥ: 1800 jak lúa; cánh

Ďồng ở Pu Suk: 1500 jak lúa; người Khmer, người Hoa (?), người Siam,

66

người Pagan: tổng cộng 45 Ďàn ông và phụ nữ.

3.3. Bia ký C.30 B2 Rầm cửa hƣớng Nam của đền thờ chính trong

quần thể tháp Chăm Po Nagar

[C.30 B2 Rầm cửa hướng Nam của Ďền thờ chính trong quần thể

tháp Chăm Po Nagar]

Văn khắc với số lưu trữ C.30 B2 Ďược khắc trên rầm cửa hướng

Nam của Ďền thờ chính trong quần thể tháp Chăm Po Nagar ở thành phố

Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Tương tự như văn khắc trên, văn khắc này

sớm nhất Ďược nhắc Ďến trong tác phẩm ―L‟ancien royaume de Campā,

dans l‟Indo-Chine d‟après les inscriptions‖ của A. Bergaigne vào năm

1888; ông cũng Ďã giải thích một số từ trong văn khắc. Tiếp theo bản dịch

tiếng Pháp lại Ďược Étienne Aymonier công bố. Rồi lại có bản dịch tiếng

Anh của R.C. Majumdar vào năm 1927 và K.H. Golzio vào năm 2004.

Văn khắc C.30 B2 tất cả có 5 dòng, nội dung cụ thể như sau:

(1)yāṁ poṁ ku śrī jayaparameśvaravarmmadeva turaiy vijaya rajan

67

devakāryya

(2)punaḥ sthāpanā rūpa pu poṁ tana rayā nan vuḥ humā svar

sandik di drāv 300 jāk

(3)humā udaya manrauṅ 8002 pluḥ jāk ṅan tandoṅ laṅguṁ hulu

(4)n campa kvir lauv pukam syaṁ aviḥ jeṁ 55 śarīra bhaṇḍāra

svaṁr hu

(5)luv krauṅ sragīk kanūk krauṁ vvaṅ māmoga 15 thiṁ pirak 150

turaiy vijaya từ này là chỉ một Ďịa Ďiểm trong thành Vijaya; kāryya

từ này là vay mượn từ tiếng Phạn: kārya với nghĩa là ―làm, làm cho‖, ở

Ďây thì Ďi với mấy từ ở sau tạm có thể dịch là ―xây dựng, trùng tu‖; punaḥ

là phó từ, chỉ ―một lần nữa‖; sthāpanā rūpa hai từ này có thể coi như là

một cụm từ danh từ, sthāpanā là ―Ďứng‖, còn rūpa chỉ ―tượng‖, hai từ

này cùng nhau cấu thành cụm từ ―tượng thần‖; pu poṁ tana rayā là tên

của nhà vua; drāv cũng là Ďịa danh, hiện nay chúng tôi vẫn chưa tìm ra

Ďịa Ďiểm này cụ thể là chỉ chỗ nào; manrauṅ miền Nam, hướng Nam;

8002 pluḥ chúng tôi phải giải thích là tám trăm cộng thêm hai mươi chứ

không phải tám nghìn lẻ hai lại thêm số mười; hulun, ―nô lệ‖; aviḥ tức là

abih với có nghĩa là ―toàn bộ, tất cả‖, hiện nay từ này vẫn Ďược sử dụng

trong ngôn ngữ Chăm, chỉ có Ďiều là phụ âm v Ďã chuyển sang phụ âm b.

Điều này không cần ngạc nhiên, các ngôn ngữ thuộc loại hình Phạn ngữ

Ďều có quy luật này. śarīra là vay mượn từ tiếng Phạn, nghĩa là ―người,

xác‖; bhaṇḍāra theo giải thích của Aymonier là caṇḍāla (người có tầng

68

lớp xã hội thấp nhất trong xã hội Ấn Độ cổ Ďại, tức là con lai của tầng

śūdra với tầng brāhmaṇa), nhưng Schweyer lại Ďọc thành candāra (người

tàn bạo); svaṁr tức là suvar, Ďồng nghĩa với từ māh, nghĩa là ―vàng‖,

cũng có thể hiểu là svarggah (thiên Ďàng). huluv có nghĩa là ―nguồn

nước‖, hiện nay từ này trong tiếng Chăm Ďược viết thành huluw. krauṅ

chỉ ―sông‖, thường là những sông lớn; sragīk kanūk là tên sông; vvaṅ

cũng là tên của sông; tên này có lẽ vay mượn từ tiếng Việt là ―vàng‖;

māmoga Aymonier và Schweyer Ďều giải thích là māsa ma (trong tháng),

nhưng theo quan Ďiểm của chúng tôi, nếu Ďược giải thích như vậy thì có

hai chỗ không hợp lý: một là tiểu từ ―ma (có nghĩa là ‗Ďừng, không thể‘)‖

không thể Ďể vào câu Ďược; hai là nếu chia phân như vậy, thì từ māsa

(tháng) có quan hệ gì với cả câu và Ďoạn văn này. Với hai lý do trên,

chúng tôi mới thấy giải thích của hai học giả Aymonier và Schweyer là

không hợp lý. Trong văn khắc này, theo tôi, từ māmoga Ďược phân chia

thành ―māh bhoga‖ là Ďúng hơn. māh là ―vàng‖, còn bhoga có nghĩa là

―hưởng thụ‖, nhưng theo giải thích của Đại từ điển Phạn Hán, từ bhoga

còn có chức năng danh từ, chỉ ―của cái‖. pirak hiện nay Ďược viết thành

pariak, nghĩa là ―bạc‖.

Bản dịch:

Yāṁ poṁ ku śrī jayaparameśvaravarmmadeva ở Turaiy Vijaya Ďã

trùng tu lại tượng thần; pu poṁ tana rayā Ďã tặng một cánh Ďồng lúa svar

sandik ở Drāv với 300 jak lúa; cánh Ďồng lúa của Udaya ở phía Nam có

69

820 jak lúa với tandoṅ laṅguṁ; nô lệ: người Khmer, người Hoa, người

Bagan và người Siam, tổng cộng 55 người. Ở vùng Vàng, sông Vàng bắt

nguồn từ sông Sragīk kanūk, có vàng 15 thiṁ, bạc 150 (thiṁ).

3.4. Tiểu kết

Như trên chúng tôi có thể thấy rằng, trong phạm vi 3 văn khắc mà

chúng tôi Ďang khảo sát, các tính chất, quy luật Ďược thể hiện trong văn

bản tuy rất phức tạp, nhưng cũng có thể nói là khá là rõ ràng. Thông qua

việc phân tích và thống kê, chúng tôi có thể tạm rút ra những Ďiều kết

luận như sau:

- Một là các từ Ďược dùng trong văn khắc có lai nguyên khá phong

phú: từ vay mượn trực tiếp từ Phạn ngữ; biến thể của Phạn ngữ; Chăm cổ

và một số từ cùng nguồn gốc với các ngôn ngữ Melayu hoặc ngôn ngữ

Nam Đảo khác.

- Hai là trong nội bộ từ vựng, có lúc xảy ra hiện tượng biến hình, có

lúc lại không. Nhưng không phải là chỉ có những từ thuộc loại vay mượn

tiếng Phạn mới có dạng thức biến hình, vì chúng tôi Ďã tìm thấy có một số

từ tuy thuộc lớp Chăm cổ, nhưng vẫn chịu sự chi phối của quy luật biến

Ďổi hình thái.

- Ba là quy luật chi phối các từ Ďể cấu tạo thành câu không ổn Ďịnh:

chúng tôi nhận thấy một số câu trong văn khắc Ďược cấu tạo bởi loại hình

S-V-O, nhưng một số câu lại khác. Có thể nói, trật tự từ trong câu trên các

văn khắc tương Ďối tự do. Tuy như vậy, thông qua thống kê ta lại có: trật

70

tự S-V-O vẫn chiếm Ďa số trường hợp, Ďiều này hơi khác với trường hợp

Ďơn thuần tiếng Phạn với trật tự S-O-V chiếm ưu thế tuyệt Ďối.

Với ba lý do trên, chúng tôi không thể coi trường hợp vay mượn từ

ngữ tiếng Phạn trong tiếng Chăm cổ chỉ là một quan hệ tiếp xúc Ďơn giản

giữa hai ngôn ngữ. Quá trình tiếp xúc Ďến vay mượn, cuối cùng Ďã gây ra

ảnh hưởng sâu sắc phát sinh trong tiếng Chăm cổ, Ďiều Ďó trên thực tế Ďã

làm cho ngôn ngữ Chăm chuyển sang một trạng thái mới. Chúng tôi gọi

trạng thái này là Hệ thống ngữ pháp Chăm-Phạn hỗn hợp (Hybrid

Sanskrit-Chamic grammatical system). Khái niệm này cũng là vay mượn

từ tiếng Phạn, Franklin Edgerton trong công trình nổi tiếng của mình

―Buddhist hybrid Sanskrit grammar and dictionary (Ngữ pháp tiếng Phạn

hỗn hợp và từ Ďiển‖ Ďã khẳng Ďịnh rằng: trong quá trình phát triển của

tiếng Phạn từng xuất hiện một giai Ďoạn khá dài Ďược gọi là giai Ďoạn

tiếng Phạn hỗn hợp, tức là Phạn ngữ với những chêm xen về mặt từ vựng

và quy luật ngữ pháp của các hệ thống ngôn ngữ khác. Quan Ďiểm của

Franklin Edgerton cũng giúp chúng tôi có thể phán Ďoán rằng trong quá

trình phát triển của tiếng Chăm, cũng Ďã có một giai Ďoạn tương tự. Đó

chính là giai Ďoạn hệ thống ngữ pháp Chăm-Phạn hỗn hợp Ďã Ďược nêu ở

trên. Vì thế, ta sẽ có Ďược một sơ Ďồ quá trình phát triển của ngôn ngữ

Chăm rõ ràng hơn như sau:

① Proto-Austronesian (PAn)

② Proto-Malayo-Polynesian (PMP)

71

③ Proto-Chamic (PC Bờ biển)

④ Chăm cổ hỗn hợp (giai Ďoạn hệ thống ngữ pháp Chăm-Phạn hỗn

hợp)

⑤ Chăm cổ (Old Cham)

⑥ Chăm ngữ hiện Ďại (Chăm Đông và Chăm Tây)

72

KẾT LUẬN

Thông qua các ví dụ và phân tích ở phần trên, chúng tôi Ďã Ďưa ra

một nhận xét chuẩn xác hơn về kết cấu diện mạo của ngôn ngữ Chăm cổ.

Chúng tôi Ďi Ďến kết luận rằng, hệ thống ngữ pháp Chăm cổ thuộc loại hệ

thống ngữ pháp hỗn hợp, Ďiều này Ďã Ďược chứng minh rất rõ, và chúng

tôi gọi hệ thống này là Hệ thống ngữ pháp Chăm-Phạn hỗn hợp (Hybrid

Sanskrit-Chamic grammatical system). Thời gian sử dụng hệ thống ngữ

pháp này sớm nhất có thể kể Ďến tấm bia Ďầu tiên của vương quốc Chăm-

pa hiện Ďã Ďược nhà khảo cổ khai quật là C.40 bia ký Võ Cạnh, tức là từ

thế kỷ thứ II-thứ III, mãi cho Ďến khoảng thế kỷ XIII, XIV là chúng tôi

không còn bắt gặp chữ Phạn trên bia ký nữa.

Về Ďặc Ďiểm của hệ thống ngữ pháp Chăm-Phạn hỗn hợp, có những

nét chủ yếu như sau:

Một là nảy sinh từ bản thân ngôn ngữ Chăm cổ. Trong Ďó chúng ta

thấy rằng những từ cơ bản (basic words) vẫn là lớp thuần Chăm nhiều

hơn; nhất là những từ có gắn bó chặt chẽ với cuộc sống hằng ngày cũng

như phương thức sản xuất của người Chăm. Ngoài ra, hệ thống Ďếm số

cũng có thể chứng tỏ Ďiều này một cách rõ ràng và thuyết phục, vì trong

các bia ký, hệ thống Ďếm số thuần Chăm luôn sử dụng một cách Ďộc lập,

bên cạnh Ďó, Ďa số trường hợp sử dụng ngữ tố tiếng Phạn mà chúng ta tìm

thấy Ďều Ďã Ďược ghép vào cụm từ danh từ, không có trường hợp nào Ďó

sử dụng Ďộc lập;

73

Hai là chịu sự ảnh hưởng của Phạn ngữ rất sâu sắc. Điều này thể

hiện rõ nhất trong hệ thống danh từ, nhiều từ tuy Ďã hòa nhập vào hệ

thống tiếng Chăm, nhưng vẫn có chia phạm trù giống như tiếng Phạn, và

vẫn chịu sự chi phối của quy tắc biến hình theo cách (nhất là phần cuối

danh từ / ending) của tiếng Phạn. Trong hệ thống Ďộng từ, tuy trường hợp

chia ngôi và thời (bao gồm ngôi thứ I, ngôi thứ II, ngôi thứ III; thời hiện

Ďại, thời quá khứ và thời hoàn thành) Ďã Ďược tìm thấy không nhiều,

nhưng cũng có thể chứng tỏ rằng hệ thống Ďộng từ có giữ Ďược một phần

nào Ďó của quy tắc tiếng Phạn. Trong Ďó, chúng ta tìm thấy nhiều nhất là

dạng quá khứ bị Ďộng phân từ của Ďộng từ dùng Ďể chỉ trạng thái của chủ

ngữ trong câu phụ;

Ba là Ďã hình thành một loại hệ thống ngữ pháp vừa khác với tiếng

Phạn ở Ấn Độ, lại vừa không giống hệ thống ngữ pháp của tiếng Chăm

sau này. Điều này Ďã Ďược thể hiện qua một vài ví dụ Ďược nêu cụ thể

trong luận văn.

Với lý do và chứng minh trên, chúng tôi kết luận rằng, chỉ có Ďưa

hình thái ngôn ngữ Chăm-Phạn hỗn hợp này vào con Ďường phát triển

lịch sử của ngôn ngữ Chăm thì quá trình phát triển của thứ ngôn ngữ này

mới hợp lí và rõ ràng.

74

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Cong Bằng (1998), ―Về hai tấm bia có chữ Chăm cổ ở Cam

Ranh – Khánh Hoà‖, Những phát hiện mới về khảo cổ học.

2. Trần Kỳ Phương (2000), ―The wedding of Sītā: a theme from the

Rāmāyaṇa represented on the Tra Kieu pedestal‖ in Narrative

Sculpture and Literary Traditions in South and Southeast Asia by

Marijke J. Klokke (ed.).

3. Nguyễn Duy Hinh (2010), Người Chăm xưa và nay. Nxb. Từ Ďiển bách

khoa & Viện Văn hóa.

4. Đoàn Văn Phúc (2009), Hệ thống ngữ âm tiếng Chăm Hroi. H., Nxb.

KHXH.

5. Phú Văn Hẳn (2003), Cơ cấu ngữ âm và chữ viết tiếng Chăm Việt Nam

và tiếng Melayu Malaysia. Luận án tiến sĩ.

6. Phan Xuân Biên, Lê Xuân, Phan An, Phan Văn Dốp (1989) - Người

Chăm ở Thuận Hải. Thuận Hải: sở VHTT.

7. Graham Thurgood (1999), ―From Ancient Cham to Modern Dialects.

Two Thousand Years of Language Contact and Change‖. Honolulu:

University of Hawai‘i Press.

8. Étienne Aymonier và Antoine Cabaton (1906), ―Dictionnaire čam-

français‖. Paris: Imprimerie nationale and Ernest Leroux.

9. Gérard Moussay (2006), ―Grammaire de la langue cam‖. Paris, Les

Indes savantes.

75

10. Po Dharma (1999), ―Quatre lexiques malais-cam anciens rédigés au

Campā‖. Paris: EFEO.

11. Arlo Griffiths, Amandine Lepoutre, William A. Southworth and

Thành Phần (2012), ―The Inscriptions of Campā in the Museum of

Cham Sculpture at Đà Nẵng‖. Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh

(2012): Nxb. VNUHCM.

12. George Cœdès (1968), ―The Indianized states of Southeast Asia‖,

Nxb. Đại học quốc gia Úc.

13. George Cœdès (1908), ―Inventaire des inscriptions du Chăm-pa et du

Cambodge‖, BEFEO.

14. George Cœdès (1912), ―Note sur deux inscriptions du Chăm-pa‖,

BEFEO, 12.

15. Étienne Aymonier (1891), ―Première étude sur les inscriptions

tchames‖, Journal Asiatique, series 8, 17.

16. Étienne Aymonier (1896), ―C. Paris. Inscriptions découvertes au

TChăm-pa.—Ms.‖, Bulletin de géographie historique et descriptive.

17. Étienne Aymonier (1911), ―L‘inscription čame de Po Saḥ‖, Bulletin de

la commission archéologique de l‘Indochine.

18. Louis Finot (1904), ―Notes d‘épigraphie VI: Inscriptions du Quang

Nam‖, BEFEO, 4.

19. Louis Finot (1904), ―Notes d‘épigraphie XI: Les inscriptions de Mi-

Sơn‖, BEFEO, 4.

76

20. Louis Finot, ―Une trouvaille archéologique au temple de Pô Nagar à

Nhatrang (Annam)‖ in Journal Asiatique vol. 10e série, t. 7.

21. Louis Finot (1909), ―Notes d‘épigraphie XII: Nouvelles inscriptions

de Pō Klauṅ Garai‖, BEFEO, 9.

22. Louis Finot (1915), ―Notes d‘épigraphie XV: Les inscriptions de Jaya

Parameçvaravarman I roi du Chăm-pa‖, BEFEO, 15.

23. Louis Finot (1915), ―Notes d‘épigraphie XX: L‘épigraphie

indochinoise‖, BEFEO, 15.

24. R.C. Majumdar, ―The Vo-Canh inscription‖, in Studies in Asian

history and culture.

25. Anne-Valérie Schweyer (2005), ―Po Nagar de Nha Trang‖, Aséanie,

14.

26. Anne-Valérie Schweyer (2005), ―La royauté au Campā d‘après les

inscriptions‖ in Les apparences du Monde : Royautés hindoues et

bouddhiques de l‘Asie du Sud et du Sud-Est by B. Brac de la Perriere

and M.-L. Reiniche (eds.).

27. Anne-Valérie Schweyer (2010), ―Kośa in Cham inscriptions: political

power and ritual practices‖ in Gold Treasures of the Cham Kingdoms

vol. 2.

28. Anne-Valérie Schweyer (2009), ―Buddhism in Čampā‖, Moussons.

29. Po Dharma, ―Quá trình cải biến ký tự chữ viết Chăm từ thế kỷ thứ IV

Ďến năm 1978‖.

77

30. G.Ferrand (1919), ―K‘ouen-louen‖, tạp chí Journal Asiatique.

31. Henri Parmentier (1902): ―Nouvelles découvertes archéologiques en

Annam‖ BEFEO, 2.

32. Abel Bergaigne (1888): ―L‘ancien royaume de Campā, dans l‘Indo-

Chine d‘après les inscriptions‖. Journal Asiatique, series 8, 11. 1888.

33. Franklin Edgerton (2014), ―Buddhist hybrid Sanskrit grammar and

dictionary‖, Nxb. Trung Tây.

34. Đoạn Tình 段晴 (2001): Nhập môn Ngữ pháp Panini - Giải tích

Sārasiddhāntakaumudī 波你尼語法入門--《月光疏精粹》述解.

Nxb. Đại học Bắc Kinh.

35. A.F.Stenzler. Quý Hiến Lâm 季羨林 dịch (2009), ―Giáo trình cơ sở

Phạn ngữ: Ngữ pháp, bài Ďọc và từ vựng

梵文基礎讀本:語法·課文·詞彙‖. Nxb. Đại học Bắc Kinh.

36. Tống Liêm 宋濂 (1998), ―Nguyên Sử 元史‖, quyển 210, Nhạc Lộc

Thư Xã.

37. Thoát Thoát脫脫 (1999), ―Tống Sử 宋史‖, quyển 489, truyện 248,

Ngoại Quốc 5, Chiêm Thành, Trung Hoa Thư Cục.

38. Lâm Quang Minh 林光明, Lâm Di Hân 林怡馨 (2005): Đại từ Ďiển

Phạn Hán 梵漢大詞典. Nxb. Gia Phong.

39. Ngô An Kỳ 吳安其 (2009), ―Nghiên cứu phân loại các ngôn ngữ

Nam Đảo南島語分類研究‖. Thương Vụ Ấn Thư Quán, 2009.

40. Trịnh Di Thanh 鄭怡青 (1997), ―Tiếng Hồi Huy 回輝話‖. Nxb.

78

Thượng Hải.

41. Lưu Chí Cường劉志強 (2013), ―Giao lưu văn hóa giữa Chăm-pa và

Ma-lai 占婆與馬來世界的文化交流‖. Nxb. Văn hiến Khoa học Xã

hội.

79

PHỤ LỤC

Thông tin lưu trữ các bia ký Ďã Ďược nhắc Ďến trong luận văn

Bảo tàng điêu khắc Chăm Đà Nẵng (Việt Nam)

Bia ký Drang Lai C.43

Mảnh Ďá vỡ ở Chiên Đàn C.64

Bia ký Mỹ Sơn B1 C.81

Bia ký Mỹ Sơn B6 C.87

C.150 Rầm Ďá ở Rồn, tỉnh Quảng Bình

Học viện Viễn Đông (Pháp)

Khung cửa Phan Rang C.5

Rầm Ďỡ Phan Rang C.6

Khung cửa Lamngâ C.7

C.30 B1 Rầm cửa hướng Nam của Ďền thờ chính trong quần thể

tháp Chăm Po Nagar

B2 Rầm cửa hướng Nam của Ďền thờ chính trong quần thể

tháp Chăm Po Nagar

C.37 Bức tường hướng Nam của Ďền thờ chính trong quần thể

tháp Chăm Po Nagar

Bình nước C.58

Bệ tường Mỹ Sơn C.80

Khung cửa Mỹ Sơn C.86

80

C.97 Bệ tượng Mỹ Sơn

C.128 Tượng thần Đại Hữu

C.137 Bệ Ďỡ Trà Kiệu

C.205 Bình nước bạc (kalaśa) Đồng Dương, Quảng Nam

C.223 Bia ký Ďộng Po Gha

C.224 Bia ký Po Klaong Girai

Ninh Thuận (Việt Nam)

C.23 Bia ký Bakul, Ninh Thuận

81