,/ . ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

MÃ THỊ NGUYỆT

TỪ NGỮ NGHỀ RÈN CỦA NGƯỜI NÙNG Ở PHÚC SEN

(QUẢNG UYÊN, CAO BẰNG)

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2015

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

MÃ THỊ NGUYỆT

TỪ NGỮ NGHỀ RÈN CỦA NGƯỜI NÙNG Ở PHÚC SEN

(QUẢNG UYÊN, CAO BẰNG)

Chuyên ngành : Ngôn ngữ Việt Nam Mã số

: 60220102

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. Lê Văn Trường

THÁI NGUYÊN - 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng

tôi. Các kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được

ai công bố trong bất cứ một công trình nào.

Tác giả luận văn

Mã Thị Nguyệt

i

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Lê Văn Trường, người đã tận

tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn này.

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Viện ngôn ngữ học,

Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam, các thầy cô giáo Khoa Ngữ

văn, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, Khoa Sau đại học, Trường Đại

học Sư phạm Thái Nguyên đã tận tình giảng dạy trong kháo học và tạo điều

kiện giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.

Tôi xin gửi lời cám ơn sâu sắc đến các cộng tác viên là những thợ rèn

lâu năm ở xã Phúc Sen, huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng đã cung cấp tư

liệu để tôi hoàn thành luận văn.

Tôi trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Hội đồng khoa đã

đọc, nhận xét, góp ý để luận văn được hoàn thiện hơn.

Thái Nguyên, tháng 5 năm 2015

Tác giả luận văn

ii

Mã Thị Nguyệt

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN...................................................................... .............................ii

MỤC LỤC .................................................................................................... iii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .............................................................iv

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ .............................................................................v

MỞ ĐẦU........................................................................................................1

1. Lý do chọn đề tài.........................................................................................1

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................3

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu...............................................................4

5. Tư liệu và phương pháp nghiên cứu ............................................................4

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.........................................................5

7. Kết cấu luận văn..........................................................................................6

Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN .......................................7

1.1 Cơ sở lý thuyết .........................................................................................7

1.1.1. Khái niệm hình vị, từ, ngữ, nghĩa ..........................................................7

1.1.2. Khái niệm từ ngữ nghề nghiệp.............................................................16

1.1.3. Vấn đề định danh.................................................................................20

1.1.4. Ngôn ngữ và văn hóa...........................................................................21

1.2. Khái quát nghề rèn ở Phúc Sen (Quảng Uyên - Cao Bằng) ..............23

1.2.1. Khái quát về người Nùng và tiếng Nùng..............................................23

1.2.2. Khái quát về nghề rèn ở Phúc Sen .......................................................29

Tiểu kết ........................................................................................................36

Chương 2: ĐẶC ĐIỂM TỪ NGỮ NGHỀ RÈN Ở PHÚC SEN XÉT VỀ

MẶT HÌNH THỨC.......................................................................................35

2.1. Tình hình tư liệu ...................................................................................35

iii

2.2. Đặc điểm cấu tạo từ ngữ nghề rèn ở Phúc Sen ...................................40

2.2.1. Từ đơn.................................................................................................40

2.2.2. Từ phức ...............................................................................................41

2.3. Đặc điểm ngữ nghĩa của các từ ngữ nghề rèn ở Phúc Sen..................51

2.3.1. Đặc điểm ngữ nghĩa của nhóm từ đơn .................................................51

2.3.2. Đặc điểm ngữ nghĩa của nhóm từ phức................................................51

Tiểu kết .........................................................................................................55

Chương 3: PHƯƠNG THỨC ĐỊNH DANH VÀ MỘT VÀI BIỂU HIỆN

VỀ VĂN HÓA QUA TỪ NGỮ NGHỀ RÈN Ở PHÚC SEN.........................58

3.1. Các phương thức định danh từ ngữ nghề rèn ở Phúc Sen .................58

3.1.1. Định danh trực tiếp ..............................................................................59

3.1.2. Định danh gián tiếp .............................................................................63

3.2. Một số nét văn hóa trong các từ ngữ nghề rèn ở Phúc Sen ................68

3.2.1. Văn hóa vật chất ..................................................................................68

3.2.2. Văn hóa tinh thần ................................................................................75

Tiểu kết .........................................................................................................81

KẾT LUẬN..................................................................................................82

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................85

iv

PHỤ LỤC.....................................................................................................89

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Nghĩa

CC. : Công cụ

Chế tác CT. :

Cg. : Cũng gọi

SP. : Sản phẩm

iv

x. : Xem

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

Sơ đồ 2.1: Quan hệ giữa hai thành tố trong từ phức đẳng lập hai yếu tố.......42

Sơ đồ 2.2: Quan hệ giữa các thành tố trong từ phức có hai yếu tố ................43

Sơ đồ 2.3: Quan hệ kiểu b1 giữa các thành tố trong từ phức có ba yếu tố ....44

Sơ đồ 2.4: Quan hệ kiểu b2 giữa các thành tố trong từ phức có ba yếu tố .....45

Sơ đồ 2.5: Quan hệ giữa các thành tố trong từ phức có bốn yếu tố............47

v

Sơ đồ 2.6: Quan hệ giữa các thành tố trong từ phức có năm yếu tố...............50

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc bao gồm 54 dân tộc anh em

cùng chung sống, trong đó có 53 dân tộc thiểu số. Trong nền văn hóa đa

dân tộc, đa ngôn ngữ đó, mỗi dân tộc anh em đều có bản sắc văn hóa riêng,

tiếng nói riêng của mình. Để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,

hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc chúng ta phải giữ gìn và phát huy bản sắc

riêng của mỗi dân tộc để bảo tồn tính đa dạng phong phú của nền văn hóa

Việt Nam trong thời đại ngày nay. Đồng thời, chúng ta cũng cần bảo tồn

ngôn ngữ dân tộc vì nó là yếu tố quan trọng nhất của văn hóa, ghi nhận và

lưu giữ các giá trị văn hóa - tri thức của dân tộc.

Cao Bằng là một tỉnh miền núi của nước ta có nhiều dân tộc thiểu số cùng

chung sống như: Tày, Nùng, Hmông, Dao… trong đó người Tày, Nùng chiếm

đa số. Người Nùng là một dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái, cư trú tập

trung ở vùng Đông Bắc nước ta, đông nhất ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc

Kạn, Tuyên Quang… bao gồm nhiều nhóm Nùng khác nhau. Cùng với dân tộc

Tày, văn hóa dân tộc Nùng là một trong những nền văn hóa đặc trưng cho vùng

Đông Bắc Tổ quốc nói chung và tỉnh Cao Bằng nói riêng. Sự độc đáo của nền

văn hóa này thể hiện qua văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của dân tộc mình.

Góp phần tạo nên sự tinh túy và độc đáo của văn hóa Nùng phải kể tới nghề thủ

công truyền thống của họ. Nghề thủ công của người Nùng đã có từ xa xưa và

khá phát triển, thể hiện qua một loạt các nghề như: dệt vải, đan lát, nghề mộc…

Nếu người Tày ở Cao Bằng với nghề dệt thổ cẩm là chủ đạo thì người Nùng lại

nổi tiếng với nghề rèn truyền thống từ lâu đời.

Nghề rèn ở Phúc Sen (Quảng Uyên, Cao Bằng) được coi là di sản quý báu

ở vùng núi phía Bắc nước ta. Nó đóng góp quan trọng vào đời sống của đồng

bào dân tộc miền núi. Do vậy, các giá trị của nó cần được bảo tồn và phát huy,

1

đặc biệt là hệ thống từ ngữ dùng trong nghề rèn. Việc nghiên cứu tìm hiểu từ

ngữ dùng trong nghề rèn ở Phúc Sen thiết nghĩ là việc làm cần thiết, góp phần

giữ gìn và bảo vệ ngôn ngữ dân tộc, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Nùng. Mặt

khác, nó giúp chúng ta hiểu một cách sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về một nghề

nghiệp truyền thống cũng như nền văn hóa lâu đời của đồng bào dân tộc Nùng.

Với những lý do trên, chúng tôi đã chọn vấn đề tìm hiểu đặc điểm từ ngữ

được dùng trong nghề rèn của đồng bào Nùng ở Phúc Sen làm đề tài nghiên cứu

của mình với tên gọi : “Từ ngữ nghề rèn của người Nùng ở Phúc Sen (Quảng

Uyên, Cao Bằng)”.

Là người con của dân tộc Nùng, việc chọn vấn đề nghiên cứu này còn

giúp người viết hiểu rõ hơn về ngôn ngữ và truyền thống văn hóa rất đỗi tự

hào của dân tộc mình và cũng là góp một chút sức lực nhỏ bé vào công lao

xây dựng và gìn giữ của ông cha. Mặt khác, việc nghiên cứu này sẽ giúp cho

dân tộc khác hiểu về hệ thống từ ngữ dùng trong nghề rèn truyền thống, hiểu

thêm văn hóa của người Nùng.

2. Lịch sử vấn đề

Từ trước tới nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về người Nùng nói

chung và người Nùng ở Cao Bằng nói riêng, trong đó phải kể đến:

- Những công trình nghiên cứu về nghề thủ công truyền thống của

người Nùng như:

+ “Nghề thủ công truyền thống của người Nùng” của Bảo tàng Dân tộc học.

+ “Văn hóa làng nghề của người Nùng” của Hoàng Thị Nhuận, Nguyễn

Thị Yên.

+ “Văn hóa truyền thống của người Nùng An” của Nguyễn Thị Yên,

Hoàng Thị Nhuận.

+ “Nghề rèn truyền thống của người Nùng An ở bản Phya Chang”

của Hoàng Thị Nhuận.

Những công trình nghiên cứu này đã đề cập một cách khái quát các

nghề thủ công truyền thống của người Nùng ở Cao Bằng nói riêng và Việt

2

Nam nói chung.

- Những công trình nghiên cứu về tiếng Nùng:

+ Năm 1969, Lạc Dương có bài viết: “Tính phong phú của tiếng

Tày - Nùng”.

+ Năm 1969, Nguyễn Hàm Dương có bài viết: “Xây dựng và phát triển

hệ thống từ vựng Tày – Nùng”, in trên báo Việt Nam độc lập.

+ “Một vài ý kiến về các từ mượn trong tiếng Tày – Nùng”, của Hoàng

Văn Ma, Lục Văn Pảo in trên Tạp chí Ngôn ngữ, năm 1970.

+ “Vài nét về sự phát triển của tiếng Tày – Nùng sau Cách mạng Tháng

Tám” của Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo in trên Tạp chí Ngôn ngữ, năm 1970.

+ “Ngữ pháp Tày - Nùng” của Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo, năm 1971.

+ “Từ điển Tày - Nùng - Việt” của Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo,

năm 1984.

v.v…

Các công trình, bài viết trên cho thấy khi viết về tiếng Nùng, các nhà

nghiên cứu thường đề cập đến các vấn đề như: Tính phong phú của tiếng Tày

- Nùng; về tình hình từ mượn trong tiếng Tày - Nùng, sự phát triển về vốn từ;

về ý nghĩa của từ; nguồn gốc và cấu tạo từ trong tiếng Tày - Nùng... Cho tới

nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên biệt về từ ngữ dùng trong nghề

rèn ở Phúc Sen, (Quảng Uyên, Cao Bằng). Việc nghiên cứu về từ ngữ được

dùng trong nghề rèn ở Phúc Sen là cần thiết có giá trị bổ sung thêm vào

những nghiên cứu đã có về dân tộc Nùng.

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, thành quả của các nhà khoa học đi

trước là những cơ sở quan trọng được chúng tôi tiếp thu, thừa kế với hy vọng

để luận văn sẽ hoàn chỉnh và đầy đủ hơn.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là toàn bộ những từ ngữ được dùng trong

3

nghề rèn truyền thống của người Nùng ở Phúc Sen (Quảng Uyên, Cao Bằng).

Ngoài ra, những bài vè, những bài đồng dao hoặc những kinh nghiệm,

thao tác... có liên quan đến nghề rèn ở Phúc Sen (tùy mức độ liên quan) cũng

được tìm hiểu xem xét trong luận văn.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Đề tài nghiên cứu về những đặc điểm hình thức và nội dung của từ

ngữ nghề rèn ở Phúc Sen (cấu tạo, ngữ nghĩa, phương thức định danh...)

- Đề tài cũng tìm hiểu một vài biểu hiện về văn hóa của đồng bào Nùng

qua từ ngữ nghề rèn Phúc Sen.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu

- Tìm hiểu về cấu trúc, ngữ nghĩa và phương thức định danh “từ ngữ

dùng trong nghề rèn ở Phúc Sen (Quảng Uyên, Cao Bằng)”.

- Tìm hiểu một vài biểu hiện về văn hóa dân tộc Nùng thể hiện qua từ

ngữ trong nghề rèn ở Phúc Sen nhằm hiểu rõ hơn về văn hóa của người Nùng

nói riêng, của đồng bào dân tộc nói chung.

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Trình bày những vấn đề lý luận về cấu tạo từ (hình vị, từ, nghĩa), lý

thuyết về định danh, khái niệm văn hóa và mối quan hệ ngôn ngữ với văn hóa.

- Trình bày khái quát về người Nùng và tiếng Nùng ở Việt Nam.

- Lập danh sách từ ngữ dùng trong nghề rèn ở Phúc Sen.

- Tìm hiểu cấu trúc, ngữ nghĩa và phương thức định danh của từ ngữ

dùng trong nghề rèn ở Phúc Sen (Quảng Uyên, Cao Bằng).

- Trình bày một vài nét về văn hóa của đồng bào Nùng biểu hiện qua các

từ ngữ được dùng trong nghề rèn ở Phúc Sen.

5. Tư liệu và phương pháp nghiên cứu

5.1. Tư liệu

Nguồn tư liệu về từ ngữ dùng trong nghề rèn ở Phúc Sen được tác giả

thu thập trực tiếp qua điều tra điền dã tại xã Phúc Sen, huyện Quảng Uyên,

4

tỉnh Cao Bằng.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Để hoàn thành đề tài nghiên cứu, trong luận văn chúng tôi sử dụng các

phương pháp sau:

Phương pháp nghiên cứu điền dã: Đây là phương pháp chính và quan

trọng trong việc thu thập danh sách từ dùng trong nghề nghiệp truyền thống.

Phương pháp miêu tả: phương pháp miêu tả mà bao chứa trong nó là một

loạt các thủ pháp luận giải bên trong như thủ pháp phân loại và hệ thống hóa các

đơn vị ngôn ngữ thành các nhóm, các loại, các tiểu hệ thống phân cấp, các hệ

thống con; cùng với thủ pháp phân tích thành tố trực tiếp; thủ pháp phân tích

nghĩa từ cũng được áp dụng trong việc tìm hiểu cấu trúc, ngữ nghĩa và phương

thứ định danh lớp từ ngữ dùng trong nghề nghiệp truyền thống.

Phương pháp So sánh - Đối chiếu: Phương pháp này được áp dụng khi

cần thiết so sánh tương ứng giữa tiếng Việt và tiếng Nùng trong quá trình

nghiên cứu.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

6.1. Ý nghĩa lý luận

- Sự thành công của luận văn góp phần xác lập về cách thức nghiên cứu

đối với từ ngữ một ngành nghề nói chung, nghề truyền thống nói riêng cũng

như xác lập về cách thức nghiên cứu về mối quan hệ giữa từ nghề nghiệp với

văn hóa của cộng đồng sử dụng nghề nghiệp đó.

- Những tư liệu của luận văn sẽ góp phần bổ sung thêm mối quan hệ

Việt - Nùng nói riêng, Việt với các ngôn ngữ Thái - Kadai nói chung, trong sự

tiếp xúc ngôn ngữ và văn hóa diễn ra nhiều thế kỷ qua.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn giúp cho việc hiểu biết về những đặc điểm hình thức và nội

dung của từ ngữ nghề rèn cũng như một vài biểu hiện văn hóa của đồng bào

Nùng qua từ ngữ dùng trong nghề rèn ở Phúc Sen (Quảng Uyên, Cao Bằng).

Luận văn cung cấp những tư liệu trực tiếp cho việc biên soạn tài liệu về

5

Bách khoa thư các nghề cổ truyền dân tộc ở Việt Nam.

Luận văn giúp chính tác giả cũng như đồng bào Nùng nói chung, đặc

biệt là những người thuộc thế hệ trẻ và sau này hiểu thêm về văn hóa, về nghề

truyền thống của cha ông.

7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục

luận văn gồm 3 chương như sau:

Chương 1: Cơ sở lý thuyết và thực tiễn.

Chương 2: Đặc điểm từ ngữ nghề rèn ở Phúc Sen xét về mặt hình thức.

Chương 3: Phương thức định danh và một vài biểu hiện về văn hóa

6

qua từ ngữ nghề rèn ở Phúc Sen.

Chương 1

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN

1.1 Cơ sở lý thuyết

1.1.1 Khái niệm hình vị, từ, ngữ, nghĩa

1.1.1.1 Hình vị

Trong ngôn ngữ học Đại cương, “hình vị” đã được xác định là đơn vị

nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ. Cách xác định này cho thấy hai đặc điểm

chính của hình vị:

- Là đơn vị có nghĩa.

- Không thể chia thành đơn vị có nghĩa nhỏ hơn.

Như vậy, hình vị là đơn vị (hay thành tố, yếu tố) gốc, đơn vị tế bào của

ngữ pháp, là đơn vị có tổ chức tối đơn giản, trực tiếp hoặc gián tiếp gắn liền

với một ý nghĩa nhất định. Đặc biệt, được chú ý là giá trị ngữ pháp của nó,

với tư cách là yếu tố cấu tạo từ.

Ngoài tên gọi là “hình vị” đơn vị này còn được gọi là “mooc - phem”

(morpheem), “từ tố”, “nguyên vị”, “hình tố” … Hình tố và từ tố được coi là

những dạng thức cụ thể của hình vị trong những hoàn cảnh nhất định với vai

trò cấu tạo nên các đơn vị lớn hơn nó (thường được hiểu là từ). Nguyên vị

được hiểu là hình vị, được xét ở dạng tĩnh (nguyên), tức là trừu tượng khỏi

các mối quan hệ mà nó đang chi phối và bị chi phối, và được xem xét như

một đơn vị vốn có (tự nhiên). Ngoài ra người ta còn phân biệt “căn tố” và

“phụ tố” (với các dạng khác nhau của phụ tố như: tiền tố, trung tố, hậu tố)

trong cấu trúc của từ ở nhiều ngôn ngữ thuộc loại hình chắp dính và hòa kết.

Trên thực tế, các nhà ngôn ngữ học ít tranh luận về các đặc tính chung

của hình vị. Tuy vậy, những dạng thức cụ thể của một hình vị trong một ngôn

ngữ cụ thể là thế nào, hiểu sao về “nghĩa” của hình vị trong ngôn ngữ ấy thì

lại được thảo luận rất nhiều và khá kĩ. Chẳng hạn, trong tiếng Việt đã có

7

nhiều ý kiến tranh luận xoay quanh “khuôn vần” của từ láy tiếng Việt (ví dụ:

“siếc” trong sách siếc, giáo sư giáo siếc hay “ấp” trong lấp ló, ngấp nghé,…

hay “ăn” trong vuông vắn, đỏ đắn, may mắn,… có nghĩa không... Hay chính

sự tổ hợp giữa “khuôn” với các thành tố (hoặc bộ phận thành tố) trước và sau

nó mới là hình thức biểu đạt nghĩa….

Bên cạnh những ý kiến trên còn có những ý kiến tranh luận về bản chất

các đơn vị được gọi là “tiếng” (với vai trò nhất thể ba ngôi, vừa là “âm tiết”,

vừa là “từ”, vừa là hình vị ) trong tiếng Việt (và cũng có thể gặp trong tiếng

Nùng). Từ những lý do đó, hình vị cũng có nhiều định nghĩa khác nhau:

- “Hình vị là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất, có nghĩa, có chức năng làm

thành tố trực tiếp tạo nên từ” [11, tr. 40]

- “Hình vị cũng là đơn vị có nghĩa, cũng được tái hiện như các từ,

nhưng hình vị chỉ được phân xuất ra nhờ phân tích bản thân các từ, chúng

không tồn tại độc lập mà nhập hẳn vào từ, không tách dời khỏi từ” [7, tr. 13]

- “Hình vị là những đơn vị có nghĩa nhỏ nhất có thể kết hợp với nhau

để tạo các từ” [5, tr. 8]

- “Hình vị là đơn vị hình thái học không thể phân chia thành những đơn

vị hình thái học nhỏ hơn, nó là yếu tố cấu tạo từ” [2, tr. 23]

- “Một yếu tố có nghĩa được xác định là hình vị chỉ khi làm thành phần

của từ và chỉ trong mối quan hệ với từ” [21, tr. 66]

- Từ những định nghĩa trên, ta thấy “hình vị” có một số đặc điểm sau:

- Là đơn vị có nghĩa nhất định, là mặt được biểu thị, nội dung;

- Là đơn vị có kích thước vật chất – âm thanh nhất định, là mặt biểu thị,

hình thức;

- Là đơn vị có cấu trúc nội tại tương đối ổn định, vững chắc, không thể

chia thành các đơn vị có nghĩa nhỏ hơn;

- Là đơn vị có chức năng cấu tạo nên các đơn vị lớn hơn nó, chủ yếu để

cấu tạo nên từ.

Trên thực tế, hình vị trong các ngôn ngữ cụ thể (với tất cả các dạng

8

thức của nó (kể cả với tiếng Nùng), không phải là đơn vị có thể nhận thức dễ

dàng. Hình vị là kết quả của sự phân tích tổng hợp của nhà nghiên cứu, nhằm

mục đích để hiểu rõ bản chất, chức năng của các đơn vị lớn hơn nó hoặc

chính nó trong mối quan hệ với các đơn vị cùng loại và khác loại. Các đơn vị

này thường không hiển nhiên đối với người bản ngữ.

Với những đặc điểm trên, cần sự phân biệt giữa hai khái niệm: “hình

vị” và “ thành tố cấu tạo nên từ”. Cụ thể là:

- “Hình vị” có thể trực tiếp cấu tạo nên từ (một mình nó hoặc kết hợp

với các hình vị khác) hoặc không trực tiếp cấu tạo nên từ, mà gián tiếp, bằng

cách kết hợp với các hình vị khác để tạo thành một thành tố có nghĩa lớn hơn

hình vị. Thành tố này mới được dùng để trực tiếp cấu tạo nên từ.

- “Thành tố cấu tạo từ” được hiểu là yếu tố bên trong từ, yếu tố hợp

thành nên từ, có thể trùng hoặc không trùng khớp với hình vị. Điều đó giúp

chúng ta giải thích có lôgic đối với những trường hợp các hình vị kết hợp với

nhau, nhưng sản phẩm của sự kết hợp này không thể được đánh giá là từ

(không tái hiện được tự do trong lời nói để tạo nên câu), mà chỉ nên xem là

thành tố cấu tạo từ.

Khi nói tới các đơn vị cơ bản của ngữ pháp, người ta nói tới đơn vị

được gọi là hình vị. Hình vị là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ sử dụng

(trực tiếp hoặc gián tiếp) cấu tạo nên từ. Là đơn vị có kích thước nhất định, có

ý nghĩa nhất định, có cấu trúc nội tại tương đối ổn định, vững chắc, không thể

phân tách thành các đơn vị nhỏ hơn về nghĩa. Đơn vị này có chức năng cấu

tạo nên các đơn vị lớn hơn nó, chủ yếu là dùng để cấu tạo nên từ …. Và có

khả năng giải thích được cấu trúc ngữ pháp của đơn vị đó. Còn từ là đơn vị

nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ, được vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong

lời nói để xây dựng nên câu.

Từ những cách nhìn nhận về hình vị nói trên, ta thấy có thể chấp nhận

quan niệm: “Hình vị là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ được sử dụng

9

(trực tiếp hoặc gián tiếp) cấu tạo nên từ”. Những đơn vị được coi là hình vị

đều thỏa mãn hai đặc điểm: có nghĩa và không thể chia thành đơn vị có nghĩa

nhỏ hơn.

1.1.1.2. Từ

Như chúng ta đã biết, từ là đơn vị cơ bản của từ vựng (từ vựng, ngữ âm

và ngữ pháp là ba bộ phận cấu thành của một ngôn ngữ). Nó chính là đơn vị

dùng để gọi tên các sự vật, hiện tượng, khái niệm … của thực tế, mang trong

mình nó các thuộc tính tiêu biểu về ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp của một

ngôn ngữ. Mặc dù vậy, cho đến nay, trong ngôn ngữ học lại có rất nhiều định

nghĩa về từ của các nhà nghiên cứu không giống nhau và cũng chưa có một

định nghĩa nào thỏa mãn được các nhà nghiên cứu.

Có tình trạng trên là bởi, khi xem xét từ, các nhà nghiên cứu đã căn cứ

trên các ngôn ngữ có những điểm rất khác nhau về loại hình, về quan hệ cội

nguồn … hoặc nhìn nhận dưới những khía cạnh không như nhau, từ các

phương diện khác nhau. Chính vì vậy mà trong hơn 6.000 ngôn ngữ khác

nhau trên thế giới, từ được hiện thực hóa bằng những hình thái rất đa dạng.

Đồng thời, có thể thấy cái đơn vị được hiểu là một tổ hợp âm thanh có ý

nghĩa, là sự thống nhất giữa hình thức và khái niệm được hàm chứa trong

hình thức ấy là đơn vị tiềm năng để cấu tạo nên câu và là sự kiện tâm lý ngôn

ngữ học ấy..., vừa thể hiện theo cách này, vừa thể hiện theo cách khác. Tình

trạng phức tạp của việc định nghĩa từ xuất phát từ chính bản thân từ trong các

ngôn ngữ. Viện sĩ L.V.Sherba đã viết: “ Trong thực tế, từ là gì? Thiết nghĩ

rằng trong các ngôn ngữ khác nhau, từ sẽ khác nhau. Do đó không có khái

niệm từ nói chung” [Dẫn theo 3, tr. 12].

Cho đến nay, ngoài thực tế là việc xác định khái niệm “từ” chưa đi đến

được sự nhất trí và có quá nhiều định nghĩa, lại có ý kiến cho rằng trong các

ngôn ngữ chúng ta đã biết “không có khái niệm từ nói chung”. Ngược lại có ý

kiến cho rằng: “từ nói chung dẫu sao vẫn tồn tại”. Do vậy, một số nhà ngôn

10

ngữ học đã tránh, không đưa ra lời định nghĩa chính thức hiển ngôn đối với

từ, hoặc họ chỉ đưa ra những lời định nghĩa thích hợp với lĩnh vực mà mình

nghiên cứu, hay trình bày nội dung của khái niệm “từ” bằng những ngôn từ

chung chung, ước định.

Mặc dù vậy, trên cơ sở những định nghĩa khác nhau về “từ”, có thể

thấy từ có những đặc điểm đáng chú ý như sau:

- Là đơn vị có kích thước nhất định về vật chất - âm thanh, là mặt biểu

thị, mặt hình thức, hay còn gọi là “từ ngữ âm – âm vị học”;

- Là đơn vị có ý nghĩa biểu thị các sự vật, hiện tượng … nhất định, là

mặt được biểu thị, nội dung;

- Là đơn vị có cấu trúc nội tại tương đối vững chắc, ổn định, có nghĩa

mà không thể phân tách thành đơn vị nhỏ hơn;

- Là đơn vị có chức năng khi hoạt động trong lời nói - đơn vị để kiến

tạo nên câu …

- Để có cơ sở cho việc nghiên cứu và khảo sát tư liệu chúng tôi chọn

khái niệm về từ của nhóm tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng

Trọng Phiến trong Cơ sở ngôn ngữ học tiếng Việt: “Từ là đơn vị nhỏ nhất có

nghĩa của ngôn ngữ, được vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong lời nói để

xây dựng nên câu” [10, tr.136].

Như vậy, từ có tính hoàn chỉnh cả về mặt ngữ âm và về mặt ngữ nghĩa

(dù là nghĩa từ vựng hay nghĩa ngữ pháp). Chính tính hoàn chỉnh về âm và

nghĩa như vậy đã khiến cho từ được sử dụng độc lập để tạo câu. Trong định

nghĩa vừa nêu, có hai đặc điểm nổi bật của từ cần chú ý:

+ Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa: Từ có hình thức phổ biến là một

chiết đoạn âm thanh nhỏ nhất, đồng thời có nghĩa (dùng để gọi tên các sự vật

hiện tượng, các thuộc tính, các quan hệ … trong thực tiễn đời sống).

+ Từ được sử dụng độc lập, tự do trong lời nói dùng để tạo câu: Từ có

thể tách biệt khỏi các đơn vị khác (khác với các từ khác, cụm từ …) và được

11

dùng theo các quy tắc nhất định để tạo nên câu.

Những đặc điểm trên giúp phân biệt từ với các đơn vị khác: phân biệt

với yếu tố cấu tạo nên từ (đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, nhưng không dùng trực

tiếp để đặt câu); phân biệt với cụm từ và câu (các đơn vị có nghĩa nhưng

không nhỏ nhất) … Như vậy, rõ ràng từ là một thực thể, tồn tại hiển nhiên sẵn

có trong mỗi hệ thống ngôn ngữ với những đặc điểm hình thức, cấu trúc nội

tại và có thể có cách biểu thị nội dung (ý nghĩa) khác nhau, được người bản

ngữ tri giác (hiện thực về mặt tâm lý).

Ví dụ: từ của nghề rèn như: (hon) đập, (lìu) búa, (sòi) nắn,…

Như vậy, từ là đơn vị ngôn ngữ có tính hoàn chỉnh cả về ngữ âm và về

ngữ nghĩa. Đặc điểm trên giúp ta phân biệt từ với các đơn vị khác: phân biệt

với hình vị - yếu tố cấu tạo nên từ; phân biệt từ với cụm từ và câu là các đơn

vị lớn hơn nó.

1.1.1.3. Ngữ

Bên cạnh đơn vị “từ”, trong ngôn ngữ người ta còn đề cập đến một đơn

vị cùng chức năng nhưng cấu tạo khác đơn vị “từ” tức là “ngữ” hay còn gọi là

cụm từ, từ tổ.

Theo Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học của Nguyễn Như Ý

[52, tr 176 ]: “Ngữ là sự kết hợp hai hoặc nhiều thực từ (không hoặc có cùng

với các hư từ có quan hệ với chúng gắn bó về ý nghĩa và ngữ pháp), diễn đạt

một khái niệm thống nhất, và là tên gọi phức tạp biểu thị các hiện tượng của

thực tại khách quan”.

Về cấu tạo, ngữ là một kết cấu cú pháp được tạo thành bởi hai hoặc

nhiều thực từ trên cơ sở liên hệ ngữ pháp phụ thuộc – theo quan hệ phù hợp

chi phối hay liên hợp. Trong một số ngữ có từ đóng vai trò chủ yếu về mặt

ngữ nghĩa và ngữ pháp, gọi là thành tố chính, các từ phụ thuộc vào thành tố

chính gọi là các thành tố phụ. Thành tố chính của ngữ có thể là danh từ (tạo

nên ngữ danh từ), động từ (tạo nên ngữ động từ), tính từ (tạo nên ngữ tính từ).

Về chức năng và đặc điểm: Cũng giống như từ, ngữ cũng là phương

12

tiện định danh, biểu thị sự vật, hiện tượng, quá trình, phẩm chất. Ý nghĩa ngữ

pháp của ngữ được tạo nên bằng quan hệ nảy sinh giữa các thực từ kết hợp lại

trên cơ sở của một kiểu liên hệ nào đó giữa chúng.

Về phân loại: Ngữ thường chia thành hai kiểu: Ngữ tự do (cụm từ tự

do) và ngữ không tự do (ngữ/cụm từ cố định).

+ Ngữ tự do/Cụm từ tự do: Bao gồm những ý nghĩa từ vựng độc lập

của tất cả các thực từ tạo thành ngữ. Mối liên hệ cú pháp của các yếu tố trong

ngữ tự do là mối liên hệ linh hoạt và có sức sản sinh.

+ Ngữ không tự do/Ngữ cố định/Cụm từ cố định: Tính độc lập về mặt

từ vựng của một hoặc cả hai thành tố bị yếu đi hoặc bị mất và ý nghĩa từ vựng

của ngữ cũng trở nên giống như ý nghĩa của một từ riêng biệt.

Tóm lại, ngữ giống từ về bản chất (cố định, có nghĩa, có chức năng định

danh, trực tiếp tham gia tạo câu...) nhưng khác từ về mặt cấu tạo và phân loại.

1.1.1.4 Nghĩa

Khi nói về hình vị, từ, ngữ, đặc tính quan trọng nhất của các đơn vị này

là có nghĩa, vậy nghĩa (hay ý nghĩa) là gì?

Các đơn vị ngôn ngữ bao gồm hai mặt: cái biểu hiện và cái được biểu

hiện, tách ra hay hình thức và nội dung. Nghĩa thuộc mặt thứ hai, tức nội dung.

Theo tác giả John Lyons trong Ngữ nghĩa học dẫn luận, tồn tại một số

lý thuyết triết học khác nhau và ít nhiều ai cũng biết, về nghĩa. Đây là lý

thuyết đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: Nghĩa là gì? Trong số đó, có thể nêu ra

các lý thuyết sau:

a. Thuyết quy chiếu hay sở thị (“nghĩa của một biểu thức chính là đối

tượng mà biểu thức đó chỉ ra (hay biểu thị) hoặc đại diện; tức Fido, con “chó”

thì có nghĩa hoặc là một tập hợp khái quát các con chó, hoặc là cái đặc trưng

bản chất chung của chúng”);

b. Thuyết ý niệm hay tâm lý (“nghĩa của một biểu thức là cái ý niệm, hay

13

quan niệm, gắn bó với nó trong tư duy của những ai biết và hiểu được nó”);

c. Thuyết hành vi (“nghĩa của một biểu thức hoặc là cái kích thích gợi

ra nó hay cái phản ứng mà nó gợi ra, hoặc là sự kết hợp của cả hai thứ này

trong một tình huống phát ngôn cụ thể”);

d. Thuyết nghĩa là cách dùng (“nghĩa của một biểu thức được xác định

bởi, nếu không nói là đồng nhất với, cách dùng của nó trong ngôn ngữ”);

e. Thuyết thẩm định (“nếu một biểu thức có nghĩa thì cái nghĩa này

được xác định bởi chứng cứ lấy từ câu hay mệnh đề chứa biểu thức đó”);

f. Thuyết điều kiện chân trị (“nghĩa của một biểu thức là sự đóng góp

của nó vào điều kiện chân trị của câu chứa nó”) [31, tr. 57].

Trên cơ sở những quan niệm trên thì ông cho rằng: không một thuyết

nào có hội đủ tất cả những yếu tố để thỏa mãn cho câu trả lời: Nghĩa là gì?

Quan tâm về vấn đề này, hiện có không ít định nghĩa về nghĩa, đặc biệt

về nghĩa của từ. Sở sĩ như vậy là vì khái niệm nghĩa rất trừu tượng (so với từ

và các đơn vị ngôn ngữ khác). Về mặt lý thuyết, căn cứ để hiểu nghĩa là: các

đơn vị đang xét (từ và hình vị) được sử dụng trong sự quy chiếu về một sự vật

hiện tượng nào đó, với yêu cầu người nói, người nghe phải cùng nghĩ về sự

vật hiện tượng ấy. Nhờ sự quy chiếu như vậy, sự sử dụng các đơn vị này trong

cấu tạo nên các đơn vị lớn hơn nó mới không gây nên sự lẫn lộn.

Nghĩa các đơn vị đang xem xét mang tính quy ước là nhờ người nói và

người nghe (sử dụng cùng một ngôn ngữ) ước định với nhau: âm thanh này

biểu thị sự vật hiện tượng này, âm thanh kia biểu thị sự vật hiện tượng kia

vv… Như vậy, mặt vật chất và ý nghĩa có liên hệ mật thiết, quy định ràng

buộc và là điều kiện tồn tại của nhau. Đồng thời, cũng như các đơn vị ngôn

ngữ, nghĩa của các đơn vị này (từ và hình vị) cũng chỉ tồn tại trong hệ thống

ngôn ngữ. Tách ra khỏi hệ thống, chúng không tồn tại.

Từ sự phân tích trên có thể chấp nhận một quan niệm chung: Hiện thực

14

được phản ánh vào nhận thức, tạo nên mối quan hệ liên tưởng thường trực

liên tục với một hình thức âm thanh nhất định, nhờ đó sự phản ánh này được

hiện thức hóa bằng ngôn ngữ. Mối liên hệ này được hiểu là nghĩa.

Khi nói về nghĩa của từ (và hình vị), người ta phân biệt các thành phần

như: nghĩa biểu vật (là liên hệ giữa “hình thức âm thanh” với sự vật hiện

tượng cụ thể mà nó chỉ ra); nghĩa biểu niệm (là liên hệ giữa “hình thức âm

thanh” với ý niệm – cái biểu niệm, bao gồm các thuộc tính của sự vật hiện

tượng được phản ánh vào ý thức con người) … Ngoài ra, người ta còn phân

biệt nghĩa cấu trúc – là mối liên hệ giữa các đơn vị khác nhau trong hệ thống;

nghĩa ngữ dụng – là mối liên hệ giữa các đơn vị đang xét với tình cảm, thái

độ của người sử dụng.

Khi phân tích nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ trên, người ta đề xuất

nhiều cách, trong đó cách thường được sử dụng hơn cả là làm cho các đơn vị

này bộc lộ ý nghĩa của mình qua ngữ cảnh. Ngữ cảnh được hiểu là chuỗi các

đơn vị ngôn ngữ kết hợp với đơn vị đang xét hoặc bao hàm xung quanh nó,

làm cho nó được cụ thể hóa hơn và được xác định về nghĩa. Ngữ cảnh, có thể

là tối thiểu (đơn giản nhất) và tối đa (mở rộng đến mức có thể).

Mặt khác, khi tìm hiểu nghĩa của hình vị, phải xem xét trong quá trình

hành chức của nó (tham gia cấu tạo từ và thể hiện ở cơ cấu nghĩa của từ). Đối

với từ cũng vậy, không thể tách rời nó khỏi hoạt động ngôn ngữ, trong đó nó

có vai trò tái hiện tự do tạo thành câu. Như vậy, chỉ trong sự hành chức, nghĩa

mới được hiện thực hóa và xác định. Hơn thế, trong thực tế hoạt động của

ngôn ngữ, nghĩa của đơn vị ngôn ngữ có thể bị giảm thiểu hoặc gia tăng so

với các yếu tố cấu thành nó (các nét nghĩa), đồng thời người nói cũng có thể

tạo nên hàng loạt các quan hệ về nghĩa khác trong hệ thống ngôn ngữ của

mình: đồng âm, đồng nghĩa và trái nghĩa, nghĩa phái sinh …

Nghĩa của từ còn được hiểu là nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp. Xét về

nghĩa thì từ và hình vị không khác nhau (đều là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa). Sự

15

khác nhau ở chúng chỉ là ở chức phận.

Tuy nhiên vì từ là đơn vị trực tiếp cấu thành lời nói và là sự kiện tâm lý

ngôn ngữ tương đối hiển nhiên, thường trực đối với người bản ngữ, vì vậy

trong tài liệu nghiên cứu ngôn ngữ học, người ta thường chú ý đến nghĩa của

từ. Điều đó lý giải vì sao từ được chú ý hơn so với hình vị.

1.1.2 Khái niệm từ ngữ nghề nghiệp

1.1.2.1 Vị trí của tiếng nghề nghiệp trong lớp từ vựng của một ngôn ngữ

Vốn từ vựng của một ngôn ngữ được phân chia theo thực tại khách

quan thành các trường từ vựng ngữ nghĩa hoặc theo cách sử dụng.

Có nhiều cách tiếp cận đối với vốn từ vựng của một ngôn ngữ: Tiếp cận

theo phạm vi sử dụng, theo nguồn gốc hoặc theo phong cách… Tùy góc độ

nhìn nhận khác nhau mà vị trí của tiếng nghề nghiệp trong lớp từ vựng của

một ngôn ngữ được xác định.

Trong cuốn Từ vựng học tiếng Việt tác giả Nguyễn Thiện Giáp đã phân

chia vốn từ vựng của một ngôn ngữ thành “từ vựng toàn dân và từ vựng hạn

chế” về mặt xã hội và lãnh thổ. Trong từ vựng hạn chế về mặt xã hội, lãnh thổ

có từ nghề nghiệp, tiếng lóng, thuật ngữ, còn từ địa phương là từ dùng hạn chế

về mặt lãnh thổ”. Đó là sự phân chia ngôn ngữ dưới góc độ phạm vi sử dụng.

Cùng quan tâm về vấn đề này, tác giả Vũ Đức Nghiệu trong phần Cơ

sở từ vựng học và từ vựng tiếng Việt của cuốn Cơ sở ngôn ngữ học tiếng Việt

viết: “Trừ những từ ngữ thuộc các lớp từ được sử dụng hạn chế về mặt lãnh

thổ (từ địa phương) hoặc về mặt “phương ngữ xã hội” (thuật ngữ, tiếng lóng,

từ nghề nghiệp), số còn lại được gọi là lớp từ vựng chung hoặc từ vựng toàn

dân” [10, tr. 226].

Như vậy có thể thấy, cùng dưới góc độ phân chia như tác giả Nguyễn

Thiện Giáp, nhưng ở đây tác giả Vũ Đức Nghiệu đưa ra thuật ngữ “phương ngữ

xã hội” vào trong cách phân loại. Xếp từ nghề nghiệp vào "phương ngữ xã hội"

còn có tác giả Nguyễn Văn Khang. Trong cuốn Ngôn ngữ học xã hội – những

16

vấn đề cơ bản. Tác giả cho rằng: “Còn có thể gọi là phương ngữ xã hội những

trường hợp như tiếng lóng, biệt ngữ, tiếng nghề nghiệp được sử dụng trong

phạm vi hẹp ở một nhóm hay một tập đoàn người nhất định” [26, tr. 117].

Nhìn nhận dưới bình diện phong cách học, tác giả Nguyễn Văn Tu

trong cuốn Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại cho rằng: Trong ngôn ngữ chỉ

gồm có hai phong cách: phong cách viết và phong cách nói. Trong phong

cách viết của tiếng Việt hiện đại, vốn từ gồm có thuật ngữ khoa học kỹ thuật

và từ dành riêng cho thơ ca. Còn trong phong cách nói của tiếng Việt hiện đại,

vốn từ gồm có từ vựng của ngôn ngữ văn học nói, từ thân mật, từ nhà nghề

(từ nghề nghiệp), tiếng lóng … Với cách phân chia ấy, từ nghề nghiệp được

tác giả xếp vào phong cách nói.

Một số tác giả khi đứng trên phong cách chức năng trong Giữ gìn sự

trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ lại chia từ ngữ tiếng Việt thành hai

loại lớn: từ ngữ đa phong cách và từ ngữ đơn phong cách. Trong từ ngữ đơn

phong cách có những biến thể thuộc phong cách khẩu ngữ, phong cách khoa

học, phong cách nghệ thuật, phong cách hành chính công vụ và phong cách

tin tức – báo chí … Từ nghề nghiệp được xếp vào phong cách khẩu ngữ bên

cạnh từ ngữ địa phương, tách ra lớp tiếng lóng và biệt ngữ cùng những biến

thể láy -iếc, -ủng … có sắc thái biểu cảm.

Tác giả Nguyễn Thiện Giáp chia vốn từ vựng của một ngôn ngữ ra làm

hai loại: từ vựng hội thoại và từ vựng sách vở. Trong đó từ vựng hội thoại tiếp

tục được phân thành: từ vựng hội thoại toàn dân và từ vựng hội thoại hạn chế

về lãnh thổ hay xã hội. Các từ ngữ địa phương, tiếng lóng, từ nghề nghiệp

theo tác giả chính là từ vựng hội thoại hạn chế về lãnh thổ và xã hội.

Trong cuốn Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt của Đỗ Hữu Châu, tác giả lại

tiến hành phân lập toàn bộ từ vựng của tiếng Việt thành những hệ thống nhỏ

hơn. Đó là hệ thống từ nghề nghiệp và thuật ngữ khoa học, hệ thống từ địa

phương, hệ thống các yếu tố Hán Việt và các từ vay mượn, biệt ngữ. Theo đó,

tác giả đã xếp từ nghề nghiệp vào cùng một hệ thống với thuật ngữ khoa học

17

kỹ thuật để nghiên cứu đối chiếu.

Trên đây là ý kiến của một số tác giả về vị trí của từ nghề nghiệp trong

tiếng Việt. Tuy xuất phát từ những quan điểm, cách nhìn khác nhau để xác

định từ nghề nghiệp nhưng các tác giả đều cơ bản thống nhất ở chỗ: “Xét về

phạm vi sử dụng, từ nghề nghiệp thuộc vào lớp từ sử dụng hạn chế về mặt xã

hội hay là phương ngữ xã hội. Xét về mặt phong cách, từ nghề nghiệp thuộc

vào phong cách nói” [Dẫn theo 27, tr. 5].

Như vậy, trong lớp từ vựng của một ngôn ngữ, từ ngữ nghề nghiệp là

bộ phận không thể thiếu, nó chiếm một vị trí đáng kể, cùng với những lớp từ

khác, góp phần tạo nên diện mạo của một ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt

hiện đại nói riêng.

1.1.2.2. Định nghĩa từ ngữ nghề nghiệp trong từ điển tiếng Việt

Có một điều đặc biệt, nếu các lớp từ như từ toàn dân, tiếng lóng, tiếng

địa phương, thuật ngữ … đều ít nhiều có trong từ điển tiếng Việt như Từ điển

tiếng Việt của Hoàng Phê hay của Văn Tân; Đại từ điển tiếng Việt do Như Ý

chủ biên … thì từ ngữ nghề nghiệp lại không thấy được định nghĩa trong đó.

Nó chỉ được đề cập trong Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học. Theo

đây thì từ nghề nghiệp là “các từ đặc trưng cho ngôn ngữ của các nhóm người

thuộc cùng một nghề hoặc cùng một lĩnh vực hoạt động nào đó” [50, tr.389].

1.1.2.3. Quan niệm về từ ngữ nghề nghiệp của các nhà nghiên cứu

Trong những nhà nghiên cứu quan tâm tới vấn đề này, tác giả Nguyễn

Văn Tu khi viết Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại cho rằng: “Những từ nghề

nghiệp khác thuật ngữ ở chỗ được chuyên dùng trong trao đổi miệng về

chuyên môn. Từ nghề nghiệp còn khác thuật ngữ ở chỗ chúng gợi cảm, gợi

hình ảnh có nhiều sắc thái vui đùa” [Dẫn theo 27,tr. 6].

Tác giả Nguyễn Thiện Giáp trong Từ vựng học tiếng Việt khẳng định:

“Từ ngữ nghề nghiệp là những từ ngữ biểu thị những công cụ, sản phẩm

lao động và quá trình sản xuất của một nghề nào đó trong xã hội. Những từ ngữ

18

này thường được những người trong ngành nghề đó biết và sử dụng. Những

người không làm nghề ấy tuy ít nhiều cũng có thể biết những từ ngữ nghề

nghiệp nhưng ít hoặc hầu như không sử dụng chúng. Do đó, từ ngữ nghề nghiệp

cũng là lớp từ vựng được dùng hạn chế về mặt xã hội ” [Dẫn theo 27, tr. 7].

Cũng về vấn đề này, tác giả Đỗ Hữu Châu trong Từ vựng ngữ nghĩa

tiếng Việt cho rằng: “Từ vựng nghề nghiệp bao gồm những đơn vị từ vựng

được sử dụng để phục vụ các hoạt động sản xuất và hành nghề của các ngành

sản xuất tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và các ngành lao động trí óc (nghề

thuốc, ngành văn thư …)” [5, tr. 234].

Cũng vậy, nhóm tác giả Mai Ngọc Chừ – Hoàng Trọng Phiến – Vũ

Đức Nghiệu trong cuốn Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt quan niệm rằng:

“Từ nghề nghiệp là lớp từ bao gồm những đơn vị từ ngữ được sử dụng phổ

biến trong phạm vi của những người cùng làm một nghề nào đó” [10, tr.223].

Còn tác giả Nguyễn Văn Khang trong cuốn Ngôn ngữ học xã hội –

Những vấn đề cơ bản thì cho rằng : “Từ ngữ nghề nghiệp … là một “hệ mã”

ghi nhận thành quả tri thức và thành quả thực tế của con người trong lĩnh vực

nhất định” [26, tr. 119].

Các định nghĩa nêu trên về cơ bản giúp cho việc hình dung một cách

khái quát về tiếng nghề nghiệp. Điểm chung nhất mà các định nghĩa này cho

thấy, đó là: từ nghề nghiệp là những đơn vị từ vựng được sử dụng phổ biến

trong phạm vi một ngành nghề nhất định. Bên cạnh điểm chung đó, do xuất

phát từ góc nhìn khác nhau mà các tác giả hướng việc khai thác từ ngữ nghề

nghiệp vào các nội dung khác nhau.

Đây là những cơ sở lý thuyết cho việc tiếp cận và triển khai nghiên cứu

về từ nghề nghiệp. Trong luận văn, chúng tôi dựa trên quan điểm của tác giả

Nguyễn Văn Khang dưới đây về từ ngữ nghề nghiệp:

a. Từ nghề nghiệp là những đơn vị từ vựng được sử dụng trong những

người cùng làm một ngành nghề nào đó.

b. Từ nghề nghiệp biểu thị toàn bộ quy trình sản xuất, công cụ, nguyên

liệu, đối tượng lao động, ưu khuyết điểm khi sản xuất cũng như thành phẩm,

19

sản phẩm của một ngành nghề nào đó …

c. Từ ngữ nghề nghiệp được dùng nhiều trong phong cách khẩu ngữ, có

tính chất chuyên môn.

d. Trong lớp Từ nghề nghiệp, nhiều từ ngữ sẽ được biết đến vì tính chất

thông dụng, toàn dân của nó. [27, tr. 22].

1.1.3. Vấn đề định danh.

1.1.3.1. Khái niệm định danh

Định danh là chức năng gọi tên sự vật, hiện tượng của đơn vị cơ bản

của ngôn ngữ, đó là từ. Chức năng định danh được coi là một trong các tiêu

chí để xác định từ. Sự hình thành những đơn vị ngôn ngữ có chức năng định

danh nghĩa là dùng để gọi tên sự vật và chia tách những khúc đoạn của thực

tại khách quan để tạo nên những khái niệm tương ứng sự vật, hiện tượng dưới

hình thức là các từ, tổ hợp từ, thành ngữ, câu. Thuật ngữ “định danh” có

nguồn gốc từ tiếng la tinh có nghĩa là “tên gọi”. Thuật ngữ này biểu thị kết

quả của quá trình gọi tên. Đó là chức năng của đơn vị có nghĩa của ngôn ngữ.

Đối tượng của lý thuyết định danh là nghiên cứu mô tả những quy luật về

cách cấu tạo những đơn vị ngữ nghĩa, về tác động qua lại giữa tư duy – ngôn

ngữ - hiện thực khách quan trong quá trình định danh. Tìm hiểu vai trò của

nhân tố con người trong việc lựa chọn các dấu hiệu làm cơ sở cho sự định

danh xuất phát từ mối quan hệ hiện thực – khái niệm – tên gọi. Lý thuyết định

danh phải nghiên cứu, mô tả cấu trúc của đơn vị định danh, từ đó xác định

những tiêu chí hoặc những đặc trưng cần và đủ để phân biệt đơn vị định danh

này với đơn vị định danh khác. Hiện thực khách quan được hình dung như là

cái biểu vật của tên gọi, nghĩa là như toàn bộ các thuộc tính được chia tách ra

trong các hành vi định danh ở tất cả các lớp sự vật do tên gọi đó biểu thị khái

niệm, khi lựa chọn những thuộc tính có tính chất phạm trù tham gia như là cái

biểu nghĩa của tên gọi. Còn tên gọi được nhận thức như là một dãy âm thanh

được phân đoạn trong nhận thức tương ứng với một cấu trúc cụ thể của ngôn

20

ngữ đó. Chính mối tương quan giữa cái biểu nghĩa, cái biểu vật và xu hướng

của mối liên hệ này trong những hành vi định danh cụ thể sẽ tạo nên cấu trúc

cơ sở của sự định danh.

1.1.3.2. Đơn vị định danh và đơn vị miêu tả

Từ quan niệm về định danh như trên, trong luận văn này các đơn vị từ,

ngữ nghề rèn ở Phúc Sen (Quản Uyên, Cao Bằng) là những đơn vị định danh,

được coi là đối tượng để xem xét, nghiên cứu về cấu trúc, ngữ nghĩa và văn

hóa trong mối quan hệ với các đơn vị định danh khác. Các yếu tố, thành tố

tham gia cấu tạo nên những đơn vị định danh này (hình vị, từ, ngữ …) đều

thuộc phạm vi nghiên cứu và là các đơn vị định danh. Các đơn vị định danh

được nghiên cứu trong luận văn là toàn bộ từ ngữ nghề rèn ở Phúc Sen

(Quảng Uyên, Cao Bằng).

1.1.4 Ngôn ngữ và văn hóa

1.1.4.1. Khái niệm “văn hóa”

Khái niệm “văn hóa” xuất hiện rất sớm ở phương Đông cũng như ở

phương Tây. Trong thời kì Cổ đại Trung Quốc, “văn hóa” được hiểu là cách

thức hành xử xã hội của tầng lớp thống trị, dùng “văn hóa” và “giáo hóa”,

dùng cái hay, cái đẹp để cảm hóa dân chúng.

Ở phương Tây, “văn hóa” bắt nguồn từ chữ Latinh: cultus, có nghĩa là

“trồng trọt”, tạo ra những sản phẩm phục vụ con người. Về sau khái niệm

“văn hóa” phát triển ngày càng phong phú. Tùy cách tiếp cận khác nhau, cách

hiểu khác nhau mà các nhà nghiên cứu hình thành các khái niệm khác nhau về

“văn hóa”.

Theo Từ điển tiếng Việt, “văn hóa” là: d 1) Tổng thể nói chung những

giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử.

Kho tàng văn hóa dân tộc. Văn hóa phương Đông. Nền văn hóa cổ. 2) Những

hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thần (nói khái

quát). Phát triển văn hóa, công tác văn hóa. 3) Tri thức, kiến thức khoa học

21

(nói khái quát). Học văn hóa, trình độ văn hóa. 4) Trình độ cao trong sinh

hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh. Sống có văn hóa, ăn nói có văn hóa.

5) Nền văn hóa của một thời kì lịch sử cổ xưa, được xác định trên cơ sở của

một tổng thể những di vật tìm thấy được có những đặc điểm giống nhau. Văn

hóa dìu hai vai. Văn hóa gốm màu. Văn hóa Đông Sơn [41; tr. 1360].

Trong luận văn, chúng tôi xem xét “văn hóa” theo nghĩa một. Theo

cách hiểu này, hiện tượng được gọi là “văn hóa” bao gồm tất cả những sản

phẩm vật chất (văn hóa vật chất) và những sản phẩm tinh thần (văn hóa tinh

thần) do con người sáng tạo ra trong quá khứ, hiện tại và mang tính giá trị.

Tính giá trị của văn hóa được hiểu là những sản phẩm do con người sáng tạo

ra phải là cái có ích cho con người.

1.1.4.2. Quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa

Văn hóa bao gồm tất cả những sản phẩm vật chất (văn hóa vật chất) và

những sản phẩm tinh thần (văn hóa tinh thần). Văn hóa tinh thần có nhiều

thành tố, trong đó có ngôn ngữ.

Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, các nhà khoa

học đều thừa nhận rằng giữa ngôn ngữ và văn hóa (thực chất là giữa ngôn ngữ

và các thành tố văn hóa khác) có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau, phát

triển trong sự tác động qua lại lẫn nhau. Ngôn ngữ gần như là cơ sở, là nền

tảng của văn hóa. Nói chung, văn hóa của mỗi dân tộc không tồn tại ngoài

ngôn ngữ.

Ngôn ngữ là một trong những thành tố quan trọng nhất của văn hóa.

“Ngôn ngữ, nói chính xác, là một hiện tượng văn hóa, nằm trong văn

hóa. Văn hóa có ngọai diên lớn, trong khi đó ngôn ngữ có ngoại diên hẹp hơn.

Nhưng có những đặc tính nội hàm rộng hơn. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và

văn hóa là mối quan hệ bao nhau. Giữa chúng có những chỗ khác nhau, giao

nhau và giống nhau”.

Ngôn ngữ thuộc phạm trù văn hóa, là một thành tố trong văn hóa, nên tất

22

cả những gì là đặc tính chung của văn hóa cũng đều tìm thấy trong ngôn ngữ.

Ngôn ngữ là hiện tượng văn hóa đặc thù. Bởi vì, ngôn ngữ là sản phẩm

của văn hóa nhưng lại là phương tiện tất yếu và là điều kiện cho sự nảy sinh,

phát triển và hoạt động của nhiều thành tố khác trong văn hóa; là phương tiện

bảo lưu và truyền đạt các giá trị văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác; là

công cụ thể hiện nhiều nét bản sắc của văn hóa cộng đồng.

Với chức năng là phương tiện cơ bản và quan trọng nhất của việc giao tiếp

giữa các thành viên trong cộng đồng, ngôn ngữ trong sự hành chức luôn phải chịu

sự chi phối của hàng loạt các quy tắc và chuẩn mực văn hóa cộng đồng.

Tóm lại, ngôn ngữ là một thành tố của văn hóa, là sản phẩm quá trình

lao động, sáng tạo của con người. Nó tạo nên những giá trị và bản thân là một

giá trị trong văn hóa. Qua ngôn ngữ, chúng ta nhận ra những nét văn hóa đặc

trưng của các dân tộc.

1.2. Khái quát nghề rèn ở Phúc Sen (Quảng Uyên - Cao Bằng)

1.2.1. Khái quát về người Nùng và tiếng Nùng

1.2.1.1 Khái quát về người Nùng

Theo Thống kê dân số công bố năm 1999, dân số dân tộc Nùng là

856.412 người. Họ sống chủ yếu ở khắp các tỉnh thượng du và trung du Bắc

Bộ, Việt Nam nhưng sống tập trung nhiều nhất ở các tỉnh vùng Đông Bắc

như: Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Hà Giang,… Người Nùng

làm ruộng nên thường tụ cư ở các thung lũng, cánh đồng thuộc các lưu vực

sông Chảy, sông Gâm, sông Lô, sông Kỳ Cùng, …

Đại bộ phận người Nùng là những người di cư từ Trung Quốc sang. Họ

di cư theo từng nhóm, nguyên nhân của những cuộc thiên di chủ yếu là do bị

áp bức bóc lột nặng nề, bị chèn ép, nhất là bị đàn áp, tàn sát đẫm máu sau các

cuộc khởi nghĩa không thành công. Loạn lạc cướp bóc, đồng thời nạn thiếu

ruộng cũng thúc đẩy họ đi tìm nơi sinh sống khác.

Người Nùng ở Việt Nam có nhiều nhóm địa phương với tên gọi khác

23

nhau. Có nhóm gọi theo tên quê hương cũ thuộc các huyện Quảng Đông và

Quảng Tây… của Trung Quốc như: Nùng An (An Kết), Nùng Inh (Long

Anh), Nùng Lòi (Hạ Lôi), Nùng Cháo (Long Châu), Nùng Phàn Sình (Vạn

Thành)… Có nhóm lại gọi theo đặc điểm trang phục: Nùng U (có túi váy),

Nùng Hu Lài (khăn đội đầu có đốm trắng), Nùng Khen Lài (ống tay áo có

mảng hoa văn)… Ngoài những yếu tố chung của tộc người, còn có đặc điểm

riêng của từng nhóm Nùng thể hiện qua trang phục, cấu trúc nhà cửa, các

phong tục tập quán, lễ tết và các nghề thủ công truyền thống. Các nhóm Nùng

ở Việt Nam cư trú chủ yếu theo nhóm địa phương như: Nùng Phàn Sình tập

trung ở Lạng Sơn, Nùng U tập trung ở Quảng Ninh, Nùng Giang và Nùng An

ở Cao Bằng.

Ở Cao Bằng, người Nùng có số dân đông thứ hai (toàn quốc). Theo

kết quả điều tra dân số và nhà ở của Cục thống kê Cao Bằng tháng

4/2009, Cao Bằng có 157.607 người Nùng cư trú, chiếm 31% dân số toàn

tỉnh. Người Nùng phân bố rải rác ở các huyện trong tỉnh như: Hạ Lang,

Thông Nông, Hòa An, Trà Lĩnh, Thạch An, Trùng Khánh, Phục Hòa,

Quảng Uyên, Hà Quảng,…

1.2.1.2 Người Nùng ở Xã Phúc Sen, huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng

* Về vị trí địa lý

Xã Phúc Sen nằm ở phía Tây của huyện Quảng Uyên, cách trung tâm

huyện lỵ 4km với tổng diện tích tự nhiên là 1285 ha, xã có vị trí địa lý: Phía

Bắc giáp xã Quốc Dân và Quốc Phong, Phía Đông giáp xã Chí Thảo, Phía

Nam giáp xã Tự Do, Phía Tây giáp xã Đoài Khôn.

Trước Cách mạng tháng Tám, xã Phúc Sen ngày nay thuộc xã Đoài

Khôn, tổng Cổ Nông, châu Quảng Uyên. Từ năm 1958, do số dân tăng lên

nhanh chóng và do địa bàn quá rộng nên xã Đoài Khôn đã được tách thành ba

xã: Đoài Khôn, Phúc Sen, Quốc Dân. Như vậy Đoài Khôn vẫn mang tên cũ từ

trước, còn Quốc Dân và Phúc Sen là tên mới. Đặt tên xã Quốc Dân và Phúc

Sen chính là để tưởng nhớ tới hai chiến sĩ cách mạng là con em của xã Đoài

24

Khôn trước kia.

Hiện nay xã Phúc Sen có mười đơn vị thôn bản, hình thành hai khu vực

chính là: Thung lũng cánh đồng thôn Khào gồm ba bản là Khào A, Khào B và

Tẩu Đông. Thung lũng cách đồng Thanh Minh có sáu thôn là Chang Trên,

Chang Dưới, Đâư Cọ, Pác Rằng, Tình Đông, Lũng Vài. Thôn Lũng Sâu ở

riêng một thung lũng nhỏ có núi bao bọc xung quanh.

Xã Phúc Sen cách thành phố Cao Bằng 33 km, nằm dọc theo hai bên

đường quốc lộ 3 từ thành phố vào các huyện miền đông của tỉnh, cách cửa

khẩu Tà Lùng 25 km và chỉ cách thị trấn Quảng Uyên 4 km. Đặc điểm địa lý

trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho Phúc Sen phát triển kinh tế - xã hội, giao

lưu buôn bán các mặt hàng nông nghiệp và thủ công nghiệp một cách dễ dàng

thuận tiện với các vùng lân cận.

* Về điều kiện tự nhiên

Tổng diện tích đất tự nhiên của xã là 1285 ha với 1015 ha là diện tích

núi đá vôi, chỉ còn lại 270 ha đất canh tác, trong đó có 103 ha trồng lúa một

vụ, 167 ha trồng ngô và một số cây màu khác. Hiện nay ở Phúc Sen có các

loại đất sau: Đất nâu vàng phát triển trên đá vôi, loại đất này tơi xốp và có độ

ẩm cao thích hợp trồng ngô, cây ngắn ngày; Đất carbonat thích hợp trồng lúa,

ngô; Đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa nước, đất thích hợp trồng lúa nước

nhưng cần bón thêm lân.

Phúc Sen nằm trên vùng có địa hình đá vôi, toàn xã là một thung lũng

hình lòng chảo được bao bọc bởi núi đá vôi. Đây là vùng chịu ảnh hưởng sâu

sắc của gió mùa Đông Bắc, mùa đông thường lạnh và mưa ít, mùa hè nóng ẩm mưa nhiều hơn, nhiệt độ trung bình là 200C, nhiệt độ cao nhất là 370C, nhiệt độ thấp nhất là -30C. Lượng mưa hằng năm không cao, thường có hạn hán kéo

dài ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp.

* Về địa bàn cư trú

Dân tộc Nùng ở Cao Bằng tập trung đông nhất tại huyện Quảng Uyên

25

với 23.063 người. Phân bố ở các xã như: Tự Do, Hồng Quang, Chí Thảo, Phi

Hải, Hồng Đại, … Trong đó tập trung nhiều nhất tại ba xã Phúc Sen, Đoài

Khôn và Quốc Dân, đây là ba xã duy nhất có người Nùng An cư trú.

* Đời sống vật chất

- Lương thực :

Là cư dân nông nghiệp ở thung lũng bồn địa nên lương thực chính của

người dân ở đây bao gồm gạo tẻ, gạo nếp và ngô. Ngoài ra còn có các loại cây

lương thực phụ khác như khoai lang, kê, củ cải, đặc biệt có khá nhiều loại rau

đậu như đậu tương, đậu trắng, đậu lạc, đậu xanh, ...

- Nhà ở:

Giống như người Tày, nhà sàn là ngôi nhà truyền thống của người

Nùng ở Phúc Sen. Cho đến nay phần lớn nhà ở của các gia đình nơi đây đều

là nhà sàn có độ tuổi trung bình từ hai mươi đến sáu mươi năm.

- Trang phục:

Trang phục của người Nùng ở Phúc Sen giản dị, chân phương, được cắt

may đơn giản nhưng cẩn thận từ loại vải chàm do tự tay lọ trồng bông, kéo

sợi, dệt vải đến nhuộm, hấp. Trang phục nam được cắt may theo kiểu áo 5

thân, cổ tròn, dài chấm ngang hông, có 5 khuy vải, 4 cúc ở bên sườn, một cúc

ở cổ, ống tay rộng vừa phải và ngắn, áo được xẻ tà hai bên, quần may theo

kiểu chân què, đũng rộng, ống quần rộng, cạp quần rộng, không khâu cạp

luồn giải rút mà khi mắc quần chỉ vặn chéo lại rồi dắt đầu cạp vào hai bên

hông. Áo nữ được cắt may theo kiểu 5 thân, cổ đứng thấp, tà xẻ cao,cài khuy

cạnh. Áo thường dài chấm gối, gấu áo hình vòng cung, cổ tay có đáp thêm

mảnh vải kẻ sọc trắng và xanh để trang trí. Quần nữ được may theo kiểu chân

què, cạp lá tạo bằng vải trắng.

* Về văn hoá tinh thần

Đời sống văn hoá tinh thần của ngưòi Nùng ở Phúc Sen khá phong phú

và đa dạng. Tiếng Nùng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái. Văn tự cổ của

26

đồng bào ở Phúc Sen là chữ Hán và chữ Nôm Nùng được lưu truyền lại bởi

các thế hệ thầy Tào trong vùng. Người Nùng ở Phúc Sen có thể hát dân ca rất

độc đáo gọi là “Hèo fưn” có nghĩa "mời", "gọi". Tín ngưỡng của người Nùng

nơi đây là thờ tự chính trong nhà. Trong một vòng đời người, người Nùng ở

Phúc Sen có một số nghi lễ khác, chẳng hạn:

- Lễ cúng tạ bà mụ đầu tiên: Lễ cúng này chỉ áp dụng đối với những bà

mẹ mang thai đứa con đầu lòng.

- Lễ cúng trưởng thành: Lễ này chỉ áp dụng đối với con trai út trong gia

đình. Lễ này được tổ chức khi người con trai tròn ba mươi sáu tuổi (gọi là lễ

Tam lục khảm cám).

- Về lễ cưới: Đôi bên cha mẹ và ông thầy Tào là những ngưòi đóng vai

trò quan trọng trong việc hôn nhân của trai gái ở đây. Các công việc liên quan

đến cưới xin đều do cha mẹ sắp xếp, còn thầy Tào là người quyết định xem số

mệnh của đôi trai gái có hợp nhau không và định ngày giờ làm lễ cưới đồng

thời là người trực tiếp đón rước dâu.

- Về tang lễ: Giống như nhiều dân tộc khác, đồng bào ở đây cũng quan

niệm rằng bên cạnh thế giới của người sống còn có thế giới của người chết.

Họ cho rằng người chết sang thế giới bên kia vẫn có những nhu cầu như cuộc

sống trần thế.

- Về những ngày Tết: Đồng bào ở đây ăn tết quanh năm. Có thể nói

một năm có mười hai tháng thì gần như tháng nào cũng có tết, mỗi tết có một

đặc trưng riêng.

- Tục kết bạn “tồng” : Tục kết bạn “tồng” (tồng là giống, cùng, tồng căn

có nghĩa là giống nhau), là một trong những phong tục tốt đẹp của các dân tộc

thiểu số ở miền núi phía Bắc, nhưng chủ yếu là kết bạn tồng cùng giới.

1.2.1.3. Vài nét về tiếng Nùng

Tiếng Nùng thuộc hệ Thái – Kadai, là tiếng nói của dân tộc Nùng, một

trong những dân tộc thiểu số khá đông dân. Tiếng Nùng có nhiều nhóm

phương ngữ khác nhau như Nùng Cháo, Nùng Phàn Sình, Nùng Inh, Nùng

27

An, Nùng Lòi, Nùng Giang, ...

Xét về đặc điểm loại hình, tiếng Nùng thuộc loại hình ngôn ngữ đơn

lập. Những đặc trưng đơn lập của tiếng Nùng được thể hiện:

- Về ngữ âm: Trong tiếng Nùng, âm tiết có tính tổ chức chặt chẽ và có

vị trí quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ. Âm tiết thường là vỏ của hình vị,

trong nhiều trường hợp là vỏ của từ. Tiếng Nùng là một ngôn ngữ âm tiết tính,

thuộc tiểu loại hình trung. Cũng như các ngôn ngữ đơn lập khác (tiếng Việt,

tiếng Hán,..), từ trong Tiếng Nùng không có hiện tượng biến đổi hình thái.

- Về ngữ pháp: Ý nghĩa ngữ pháp, quan hệ ngữ pháp trong tiếng Nùng

được biểu thị chủ yếu bằng trật tự từ và hư từ. Ví dụ: Người Nùng khi nói đến

từ bút (bút), chúng ta rất khó xác định đây là từ chỉ số ít hay số nhiều. Muốn

phân biệt được điều đó, người ta phải sử dụng hư từ nằm bên ngoài từ bút để

thể hiện. Ví dụ: tu lăng (cửa sau); lăng tu (sau cửa).

Với những đặc điểm cơ bản trên, tiếng Nùng được coi là một ngôn ngữ

điển hình cho ngôn ngữ đơn lập.

Đặc điểm về loại hình tiếng Tày Nùng có mối liên hệ khá chặt chẽ với

các đặc điểm về cấu trúc (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) của chúng.

Vốn từ vựng tiếng Nùng khá phong phú, khá đầy đủ các lớp từ thường

dùng để chỉ những hiện tượng tự nhiên trong đời sống con người, những mối

quan hệ thân tộc, kể cả miêu tả tâm lý con người. Vốn từ vựng này trong tiếng

Nùng gồm hai bộ phận.

Bộ phận thứ nhất và quan trọng nhất là các từ gốc Thái-Kadai, mà trực

tiếp là các từ gốc của tiểu chi Thái trung tâm, là vốn từ của riêng dân tộc

Nùng. Đây là lớp từ cơ bản nhất chỉ các sự vật, hiện tượng gần gũi nhất trong

cuộc sống, được sử dụng nhiều nhất trong đời sống hằng ngày.

Bộ phận thứ hai là lớp từ vay mượn từ ngôn ngữ các dân tộc có tiếp

xúc. Khi so sánh vốn từ tiếng Nùng với các ngôn ngữ có tiếp xúc trong khu

vực, ở tiếng Nùng có những từ chung gốc với các ngôn ngữ Nam Đảo, Nam

Á, Hán Tạng, Mông Dao, ... Đây là kết quả của quá trình tiếp xúc ngôn ngữ -

28

văn hóa giữa các tộc người này.

Từ vay mượn từ tiếng Hán: do sự tiếp xúc về văn hóa cũng như kiểu

sống xen kẽ với đồng bào dân tộc trong quá trình di cư một thời gian tương

đối dài, mà từ mượn Hán trong tiếng Nùng khá phổ biến.

Các dân tộc Kinh, Tày, Nùng đã có hàng trăm năm tiếp xúc văn hóa,

tiếng Việt ngày càng có ảnh hưởng khá sâu đậm vào tiếng Nùng. Các từ vay

mượn Việt được sử dụng một cách phổ biến trong đời sống của người Nùng.

Và càng ở những vùng sống gần người Việt thì việc vay mượn càng phổ biến.

Trong tiếng Nùng ngày nay, lớp từ vay mượn này có xu hướng ngày càng

tăng, bao gồm đủ mọi lớp từ thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau về kinh tế, chính

trị, văn hóa, xã hội, khoa học kĩ thuật ...

Trật tự và hư từ là những phương thức chính để biểu hiện các ý nghĩa ngữ

pháp. Thành phần câu trong tiếng Nùng có trật tự SVO, tức là: Chủ ngữ (S) - Vị

ngữ (V), Bổ ngữ (O).

Những đặc điểm trên của tiếng Nùng ở Việt Nam là kết quả của quá

trình biến đổi của các ngôn ngữ trong khu vực lục địa Đông Nam Á. Đó là:

1) Quá trình đơn tiết hóa.

2) Quá trình hình thành và phát triển hệ thống thanh điệu, từ loại hình

ngôn ngữ không có thanh điệu đến loại hình ngôn ngữ thanh điệu (trong đó có

tiếng Nùng).

3) Quá trình thay đổi hệ hình thái học kiểu chắp dính bằng hệ hình thái

loại hình đơn lập.

1.2.2. Khái quát về nghề rèn ở Phúc Sen

1.2.2.1 Lịch sử ra đời nghề rèn

Là một trong những nghề thủ công truyền thống còn tồn tại tới ngày

nay, nghề rèn ở Phúc Sen đã gắn bó với người Nùng An từ rất lâu đời. Nghề

rèn ở Phúc Sen có từ bao giờ và do ai truyền dạy? Câu hỏi này đã thu hút sự

quan tâm của nhiều người nhưng cho tới nay vẫn chưa có được chứng cớ xác

29

thực về mốc thời gian nghề rèn có mặt ở đây và cũng chưa tìm ra “ông tổ” của

nghề rèn là ai. Tuy nhiên, trong dân gian vẫn lưu truyền những câu chuyện

khác nhau về nguồn gốc ra đời của nghề rèn.

Câu chuyện thứ nhất cho rằng: nghề rèn vào Phúc Sen theo con đường

di dân. Vào khoảng thế kỷ 18, 19 người Nùng di cư từ Trung Quốc sang, khi

đoàn người di cư dừng chân ở thung lũng Phya Chang (nay chia thành 2 bản

Chang Trên và Chang Dưới thuộc xã Phúc Sen) lập bản định cư. Trong ba gia

đình thì họ Hoàng là họ có nghề rèn sắt gia truyền ở nơi quê cũ bên Trung

Quốc mang sang. Ông này bèn tập hợp hai gia đình kia lại cùng dựng lò rèn

để rèn các dụng cụ lao động phục vụ việc khai khẩn đất đai và dựng nhà cửa

tại đất mới. Nghề rèn từ đó được lưu truyền từ đời này đến đời khác và tồn tại

cho tới ngày nay.

Câu chuyện thứ hai lại cho rằng: nghề rèn ở Phúc Sen là kế thừa nghề

rèn từ thời nhà Mạc để lại. Nhà Mạc lên Cao Bằng vào khoảng thế kỷ 16,

trong những năm tháng nhà Mạc đóng phiên triều ở Cao Bằng đã mở các lò

rèn ở châu Quảng Uyên cũ (nay thuộc Quảng Hòa) để rèn đúc vũ khí. Sau khi

nhà Mạc tan rã, các thợ rèn đã di tản vào sống cùng với dân địa phương. Khi

người Nùng An tới cư trú ở vùng đất này, việc đầu tiên là họ đi tìm người rèn

sắt để chế tác các dụng cụ lao động. Sau nhiều ngày tìm kiếm họ gặp được

một lão thợ rèn già không rõ quê quán và nhờ lão rèn các dụng cụ lao động

như dao, cuốc, búa. Sau đó họ đã mời lão thợ rèn về sống ở bản và dựng một

căn nhà nhỏ cho lão ở và một lò rèn. Sau này lão đã truyền nghề rèn cho dân

bản, dạy dân bản cách chế súng kíp, làm đạn súng kíp và đúc lưỡi cày gang...

Ngoài ra, cũng có ý kiến cho rằng: trong thời gian ở Cao Bằng để mở mang

lực lượng nhà Mạc đã có chính sách khuyến khích và lôi kéo nhiều người từ

bên kia biên giới sang Cao Bằng. Họ đã cử người sang tận Long An, Quảng

Tây Trung Quốc đón các thợ rèn người Nùng về giúp việc rèn súng ống, sau

30

đó họ ở lại lập nên các làng với làng nghề truyền thống như hiện nay.

Cho tới nay chưa ai có thể kiểm chứng mức độ thực hư của những câu

chuyện nói trên, tuy nhiên chúng vẫn tồn tại trong tâm thức người dân nơi

đây, ảnh hưởng tới tập quán tín ngưỡng của đồng bào. Có một điều chắc chắn

đó là nghề rèn đã xuất hiện từ lâu đời, khoảng 200 năm tồn tại và phát triển

cùng với sự tồn tại và phát triển của đồng bào Nùng An ở Phúc Sen.

1.2.2.2. Các giai đoạn phát triển của nghề rèn

Nghề rèn ở Phúc Sen cũng như các nghề thủ công truyền thống khác đã

trải qua quá trình phát triển lâu dài với nhiều cách thức tổ chức sản xuất khác

nhau. Có thể chia làm 4 giai đoạn phát triển của nghề rèn nơi đây như sau:

a) Giai đoạn từ 1945 trở về trước.

Giai đoạn này nghề rèn chỉ được coi là nghề phụ của từng gia đình, họ

chỉ rèn khi nào cần có các dụng cụ lao động nên sản phẩm rèn chỉ mang tính

chất tự túc tự cấp. Có thể phân thành hai thời kỳ nhỏ như sau:

Tự cấp trong nội bộ gia đình, nội bộ bản: Đây là thời kỳ người Nùng

An mới đến lập bản, các sản phẩm rèn chủ yếu là dụng cụ lao động phục vụ

trực tiếp cho lao động sản xuất như lưỡi cày, xẻng, dao, búa, .. Tất cả các sản

phẩm đó trước đây khi cư dân còn thưa thớt thì chỉ phục vụ tại chỗ theo

phương thức tự túc tự cấp.

Tự cấp trong nội bộ đồng bào Nùng An: Càng về sau khi dân cư phát

triển ngày một đông, do nhu cầu về những dụng cụ lao động từ rèn của từng

gia đình không đáp ứng kịp nên dân bản đã tập hợp hai, ba gia đình làm một

tổ cùng góp sức để rèn vừa đỡ vất vả, vừa tăng năng suất lao động mà tiết

kiệm được than, sắt thép. Từ chỗ lúc đầu các sản phẩm rèn của Phúc Sen chỉ

phục vụ trong gia đình sau đã phát triển sang phục vụ cho cả khu vực cư trú

của người Nùng An.

b) Giai đoạn từ 1945 – 1960.

Từ những năm sau năm 1945, sản phẩm của Phúc Sen đã được nhiều

31

nơi khác biết đến thông qua mối quan hệ giữa những người Nùng An sống

gần các nhóm Tày Nùng khác, dân tộc khác. Lúc đầu họ mượn dụng cụ lao

động của người Nùng An sau đó thấy tốt thì nhờ mua giúp, lâu dần sản phẩm

của Phúc Sen được bà con nhiều vùng khác tín nhiệm. Do nhu cầu về dụng cụ

lao động của đồng bào ngày càng nhiều nên người dân Phúc Sen đã đưa các

sản phẩm rèn của mình ra chợ đổi lấy dầu, muối và các nhu yếu phẩm khác

phục vụ cho cuộc sống hằng ngày của mình. Có thể nói, sản phẩm của nghề

rèn đến đây không hoàn toàn mang tính tự cung tự cấp nữa, ngoài việc phục

vụ nhu cầu gia đình làng bản, các vật dụng do họ làm ra đã đáp ứng phần nào

nhu cầu của đồng bào lân cận và được nhiều người biết đến. Tuy nhiên. Giai

đoạn này đồng bào Nùng An vẫn chỉ sản xuất với quy mô nhỏ, sản phẩm chưa

thực sự phong phú về chủng loại.

c) Giai đoạn từ 1960 – 1979

Từ năm 1960 hợp tác xã nông nghiệp ở Phúc Sen được thành lập theo

khu vực hành chính là bản, mỗi bản có một hợp tác xã. Khi hợp tác xã nông

nghiệp đi vào ổn định, đời sống kinh tế xã hội được phát triển nhờ các biện

pháp thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây trồng và một phần nhờ có thu

nhập thêm từ các nghề phụ, trong đó sản phẩm của nghề rèn là nguồn thu

nhập thêm chủ yếu. Tháng 9 năm 1960, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp đầu

tiên của xã Phúc Sen được thành lập tại bản Phya Chang. Sau đó, các hợp tác

xã tiểu thủ công nghiệp lần lượt được thành lập tại các bản khác như bản Pắc

Rằng, Tình Đông, Lũng Vài, … Tới năm 1976 cả xã Phúc Sen có 7 bản hợp

tác xã tiểu thủ công nghiệp. Cũng giống như khi gia nhập hợp tác xã nông

nghiệp, các hộ gia đình ở đây đều đưa tài sản của gia đình mình vào hợp tác

xã và được hưởng mọi quyền lợi của người xã viên với phương thức làm việc

tập trung và ăn chia sản phẩm theo công điểm.

Năm 1975, Liên minh các hợp tác xã thủ công nghiệp xã Phúc Sen

được thành lập trên cơ sở tập hợp 7 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp của 7 bản

32

thuộc xã Phúc Sen. Liên minh các hợp tác xã thủ công nghiệp xã Phúc Sen

tồn tại và phát triển trong vòng 5 năm từ năm 1975 đến năm 1979 dưới sự chỉ

đạo và quản lý của Hiệp hội liên minh các hợp tác xã tỉnh Cao Bằng. Thời kỳ

này hợp tác xã thủ công nghiệp của xã Phúc Sen đã được Hiệp hội liên minh

các hợp tác xã tỉnh Cao Bằng đầu tư trang bị cho một số thiết bị máy móc

tương đối hiện đại để phục vụ cho khâu chế tác như máy mài, máy tiện,…

Các sản phẩm rèn của hợp tác xã thời gian này một phần phục vụ tại chỗ

người tiêu dùng, một phần do Hiệp hội liên minh các hợp tác xã tỉnh điều tiết

phân phối cho người tiêu dùng trên phạm vi toàn tỉnh.

Từ khi thành lập các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, đặc biệt là sau khi

Hiệp hội liên minh các hợp tác xã thủ công nghiệp xã Phúc Sen được thành

lập sản phẩm của nghề rèn ở đây tăng nhanh về số lượng và chất lượng cũng

được nâng cao. Các thợ rèn có điều kiện giao lưu học hỏi kinh nghiệm của

nhau, vì vậy kỹ thuật sản xuất của các xã viên cũng được nâng lên đáng kể so

với thời kỳ sản xuất cá thể đơn lẻ tại gia đình.

d) Giai đoạn từ 1979 đến nay

Trong khi Hợp tác thủ công của xã Phúc Sen đang trên đà phát triển, thị

trường tiêu thụ sản phẩm đang được mở rộng thì tới năm 1979 ở biên giới tỉnh

Cao Bằng xảy ra chiến sự, sự kiện này đã làm gián đoạn công việc sản xuất ở

Phúc Sen bởi giặc phá hoại hầu hết các cơ sở vật chất ở đây. Bắt đầu từ năm

1979, hợp tác xã thủ công xã Phúc Sen giải thể. Khi không còn hợp tác xã thủ

công, thợ rèn của các bản lại trở về với lò rèn gia đình tiếp tục sản xuất các

sản phẩm phục vụ tại chỗ cho bà con trong làng bản và người dân trong và

ngoài tỉnh.

Năm 1984 và 1985 sản phẩm của xã đã được gửi tới tham dự hội chợ

triển lãm kinh tế - kỹ thuật toàn quốc và được Ban tổ chức hội chợ tặng huy

chương vàng về chất lượng. Sản phẩm rèn của Phúc Sen ngày càng được

nhiều người biết tới bởi chất lượng của nó. Những người thợ rèn rất nhanh

33

nhạy, nắm bắt thị trường, chế tác các sản phẩm theo yêu cầu của người tiêu

dùng Tây Nguyên và các tỉnh lân cận, chiếm được cảm tình của nhiều người.

Cho đến nay các sản phẩm của Phúc Sen vẫn là sự lựa chọn tin cậy của rất

nhiều khách hàng trong và ngoài tỉnh Cao Bằng.

Tiểu kết

Trong chương một chúng tôi đã giới thiệu khái quát về người Nùng và

làng rèn của người Nùng ở Phúc Sen (Quảng Uyên, Cao Bằng). Trong

chương, chúng tôi cũng đề cập đến lý thuyết về mối quan hệ giữa ngôn ngữ

và văn hóa. Chúng tôi cũng đã trình bày một số khái niệm cơ bản về: hình vị,

từ, ngữ, nghĩa của từ và vấn đề định danh.

Trên đây là những cơ sở lý thuyết và thực tiễn quan trọng trong quá

34

trình nghiên cứu đề tài về từ ngữ nghề rèn ở Phúc Sen của chúng tôi.

Chương 2

ĐẶC ĐIỂM TỪ NGỮ NGHỀ RÈN Ở PHÚC SEN

DẪN NHẬP

XÉT VỀ MẶT HÌNH THỨC

Tiếng Nùng thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, âm tiết tính nên âm tiết

là đơn vị hiện diện trong nhận thức của người Nùng. Một đặc điểm cơ bản của

loại hình ngôn ngữ này là từ không biến đổi hình thái, từ chỉ tồn tại ở dạng

thức duy nhất. Đặc điểm này khác hẳn với đặc điểm biến đổi hình thái của

ngôn ngữ Ấn Âu.

Ngôn ngữ học đại cương thừa nhận rằng trong các ngôn ngữ mà âm tiết

là đơn vị hiện diện trong nhận thức của người sử dụng ngôn ngữ đó thì việc

xác định ranh giới từ ngữ trở nên hết sức khó khăn. Một trong những biểu

hiện của việc xác định ranh giới chính là ở chỗ ranh giới giữa từ ghép và ngữ

rất khó xác định. Vì vậy, trong quá trình xác định các đơn vị từ vựng trong

tiếng Nùng sẽ có trường hợp không rõ ràng, chồng chéo nhau về ranh giới

giữa từ ghép và ngữ. Để nhất quán trong việc phân loại từ ngữ xét về mặt cấu

tạo và tìm hiểu đặc điểm cấu tạo của các từ ngữ trong nghề rèn ở Phúc Sen,

Quảng Uyên, Cao Bằng, chúng tôi lấy ngữ nghĩa làm tiêu chí xác định. Đây là

cơ sở mà Đỗ Hữu Châu đã vận dụng để phân loại từ và tìm hiểu đặc điểm cấu

tạo từ Tiếng Việt [4],[5].

Việc nắm được đặc điểm cấu tạo từ ngữ nghề rèn có vai trò rất quan

trọng. Nó không những giúp ta hiểu đặc điểm cấu tạo về cú pháp, mà còn giúp

ta hiểu được đặc điểm ngữ nghĩa của các từ ngữ trong nghề rèn để từ đó có cơ

sở hiểu được đặc điểm văn hóa của người Nùng thông qua ngôn ngữ.

2.1. Tình hình tư liệu

a) Để thu thập từ ngữ nghề rèn ở Phúc Sen, chúng tôi đã tiến hành hai

35

đợt nghiên cứu điền dã thực tế tại địa bàn xã Phúc Sen, huyện Quảng Uyên,

tỉnh Cao Bằng với các cộng tác viên là những người làm nghề rèn lâu năm ở

đây. Đợt 1 được tiến hành trong 20 ngày, đợt 2 tiến hành 15 ngày.

Từ ngữ trong nghề rèn ở Phúc Sen có số lượng khá lớn. Những từ ngữ

này đã được những người thợ rèn đầu tiên của làng nghề sử dụng và cho đến

ngày nay, những người thợ rèn đời con cháu của họ vẫn tiếp tục sử dụng. Đó

là những từ ngữ như:

- Về nghề nghiệp của họ hon lếch (nghề rèn – danh từ, rèn – động từ),

cằm keèm (thợ cả, thợ rèn), tẩu lìu hung (thợ phụ), ...

- Về công cụ sản xuất: lìu (búa), keèm (kìm), táng (đe), ...

- Về sản phẩm: mịt (dao), cúuc (cuốc), lìm (liềm), ...

- Về thao tác sản xuất: hon (đập), slạm (cắt), pẳn (mài), khịn (tôi) .v.v...

Số lượng những từ ngữ được thu thập qua đợt một (ghi chép khách

quan những từ ngữ được sử dụng trong nghề rèn ở Phúc Sen) có số lượng 379

từ ngữ (Xin xem phụ lục 1a, 1b và 2).

b) Như đã nói ở phần a, việc thu thập tư liệu được chúng tôi tiến hành

hai đợt, đợt một đã thu thập được một danh sách từ đã trình bày. Tuy nhiên,

chúng tôi chưa thỏa mãn với số lượng từ ngữ đã thu được ở đợt một vì trong

quá trình chế tác (rèn), chẳng hạn, để cho ra đời một sản phẩm, người thợ rèn

ở Phúc Sen không chỉ đơn giản là slạm lếch (cắt sắt), sli (nung), hon (đập),

khịn (tôi), mà thành một sản phẩm mịt, cúuc (dao, cuốc) mà còn biết bao

nhiêu kinh nghiệm, kể cả những kinh nghiệm lìu sòi dàu tha (căn chỉnh bằng

mắt hay được nói ví von là “rèn bằng mắt”) cần rất nhiều thao tác kỹ thuật

mới cho ra được một sản phẩm “nổi tiếng thương hiệu Phúc Sen”. Do vậy

chúng tôi đã tiến hành đợt điền dã thứ hai với mục đích làm rõ những điều đó.

Trong đợt điền dã thứ hai, chúng tôi đã thu thập được một số lượng

đáng kể từ ngữ của một số sản phẩm chưa được đặt tên và những thao tác mà

lâu nay người thợ rèn chỉ làm theo thói quen hoặc kinh nghiệm gia truyền

36

nghề rèn mà chưa hề gọi tên cho những thao tác đó..

Một số ví dụ từ đợt thu thập tư liệu lần hai:

Ví dụ 1: Khi đi cùng đồng bào ra nương nhổ sắn, chúng tôi thấy đồng

bào sử dụng một dụng cụ rèn hình chữ V mặt trong của chữ V có răng cưa,

một cạnh của chữ V được gắn với một ống hình trụ. Một cây gỗ hoặc tre dài

khoảng 2m, chắc, khỏe được luồn qua ống hình trụ của dụng cụ hình chữ V

sao cho dụng cụ chữ V nằm ở vị trí một phần năm cây gỗ, cách một đầu cây

gỗ khoảng 30 - 40 cm. Đồng bào tì đầu cây gỗ xuống đất, dụng cụ chữ V ôm

sát gốc sắn, rồi nhấc đầu còn lại của cây gỗ lên. Nhờ lực cánh tay đòn, gốc

sắn được nhấc lên khỏi mặt đất mang theo củ một cách nhẹ nhàng. Chúng tôi

hỏi dụng cụ đó có tên là gì, đồng bào bảo “cái nhổ sắn” (ăn lốc sẳn). Dụng cụ

này không có tên trong các sản phẩm rèn truyền thống của Phúc Sen, nhưng là

dụng cụ được làm ra do nhu cầu và sự sáng tạo nhằm làm giảm nhẹ sức lao

động. Từ cách gọi “cái nhổ sắn” của đồng bào, chúng tôi đã định danh cho

dụng cụ này với tên gọi nẹp lốc sẳn (kẹp nhổ sắn) (vì chữ V có hình dạng như

một cái kẹp). Cách định danh này được đồng bào ủng hộ ngay.

Ví dụ 2: Khi rèn một sản phẩm, chẳng hạn rèn một con dao (mịt) , ở

công đoạn rèn và mài, chỉ kể riêng đối với sống dao đã có tới 7 thao tác khác

nhau được tiến hành trong quá trình chế tác, đó là những thao tác sau:

- hon pìn slứưng sắn lăng (đập tạo dáng sống lưng ): đây là thao tác đầu

tiên để tạo dáng sống lưng của sản phẩm.

- hon đảng dàu sắn lăng ( đập nguội thẳng sống lưng ): thao tác đập

nguội sau khi tạo dáng thô sống lưng.

- hon chòi mằn sắn lăng ( đập chỉnh sửa sống lưng ): sau khi tạo dáng

thô hình dáng cần chỉnh sửa hình dáng sống lưng cho sản phẩm.

- mằn sắn lăng (chỉnh sống lưng): chỉnh lại sống lưng thêm lần nữa làm

sao cho hình dáng bộ phận này không bị méo, cong.

- pẳn sắn lăng (mài sống lưng): thao tác sau khi thành hình cần mài sản

37

phẩm, đây là thao tác mài đầu tiên.

- pẳn hào sắn lăng (mài thô sống lưng): thao tác mài để loại bỏ những

phần bụi, (mạt sắt) bám trên sống lưng (hình thành trong quá trình nung) và

làm cho sống lưng được thẳng.

- pẳn lẩư sắn lăng (mài bóng sống lưng): thao tác cuối cùng để mài

bóng lấy màu cho sống lưng được bóng đẹp.

Những thao tác trên là những thao tác khi chế tác phần sống lưng của

sản phẩm. Những thao tác này không phải được thực hiện cùng lúc mà trải

qua các khâu, các bước khác nhau. Người thợ rèn Phúc Sen rất ý thức được

từng thao tác khác nhau này cũng như thứ tự của những thao tác. Tuy

nhiên, trong quá trình rèn, người thợ chỉ làm theo thói quen mà không có

tên gọi cho từng thao tác. Trước tình hình đó, chúng tôi đã “định danh hóa”

cho từng thao tác khác nhau này bằng những khái niệm khác nhau với mục

đích lưu giữ tên gọi và nội dung của từng thao tác mà với công nghệ hiện

đại của máy móc (thay thế dần các hoạt động thủ công) sẽ làm mất đi

những thao tác vốn có này.

Với cách định danh sản phẩm như ở ví dụ 1 và “định danh hóa” nhằm

lưu giữ tên gọi và nội dung của thao tác trong nghề rèn ở Phúc Sen trong ví dụ

2, chúng tôi đã thu thập được một danh sách khá lớn gồm 117 thao tác được

định danh hóa (chủ yếu là các thao tác từ các kinh nghiệm cá nhân người thợ

rèn) của nghề rèn ở Phúc Sen. (xin xem phụ lục 3 và 4).

Toàn bộ các thao tác chế tác sản phẩm cũng như các kinh nghiệm được

chúng tôi định danh hóa đã được đọc cho các thợ rèn cao tuổi ở Phúc Sen

nghe và họ đều công nhận là hoàn toàn đúng.

Dưới đây là một số ví dụ về thao tác chế tác sản phẩm và kinh nghiệm

của người thợ rèn Phúc Sen được chúng tôi định danh hóa:

1. Cắt lưỡi (slạm lỉn): Còn gọi là chạm lưỡi. Thao tác người thợ cả một

38

tay cầm búa tay, một tay cầm chạm. Người thợ phụ cầm sản phẩm hoặc vật

cần chạm. Thợ cả chạm vào vị trí cần chạm từ vị trí đầu đến vị trí đuôi. Chạm

từ trên xuống lưỡi, cách lưỡi 0,3 cm chạm sâu dần về phần lưỡi. Chạm lưỡi

thường dùng trong chế tác liềm.

2. Cắt sắt (slạm lếch): Thao tác người thợ cả dùng kìm kẹp sắt đã được

nung đỏ từ trong lò nung ra đặt lên đe, một tay cầm đục (chạm) đặt lên vị trí

sắt cần cắt, người thợ phụ dùng búa tạ đập mạnh lên đục để tạo thành đường

cắt sâu, sau đó dùng búa tạ đập mạnh lên sắt đã được chạm để tách đôi sắt ra.

3. Đập phá (hon quảng) : Thao tác người thợ dùng búa tạ đập mạnh vào

sắt cần rèn với mục đích bước đầu dàn (mỏng) sắt, thép. Thao tác đập phá

thường có ở những công đoạn đầu của quá trình chế tác.

4. Đánh bóng (hất boóng) : Thao tác đánh bóng lấy màu cho sản phẩm

là công đoạn cuối cùng của quá trình chế tác một sản phẩm. Sau khi tôi và

mài lại sản phẩm xong người thợ sẽ hơ sản phẩm trên lửa cho thật khô, tới khi

mặt sản phẩm có màu xanh bóng, sáng là được. (nếu sản phẩm là dao, kéo thì

được mài sắc sau khi tôi rồi mới đánh bóng lấy màu).

5. Căn chỉnh bằng mắt lần 1 (lìu sòi dàu tha pày đú): Thao tác người

thợ rèn bằng kinh nghiệm và kỹ thuật của mình căn chỉnh bằng mắt sản phẩm

sau công đoạn tạo dáng thô .

6. Căn chỉnh bằng mắt lần 2 (lìu sòi dàu tha pày sloong): Thao tác

người thợ rèn bằng kinh nghiệm và kỹ thuật của mình căn chỉnh bằng mắt sản

phẩm sau công đoạn tạo dáng sản phẩm.

7. Căn chỉnh bằng mắt lần 3 (lìu sòi dàu tha pày slam): Thao tác người

thợ rèn bằng kinh nghiệm và kỹ thuật của mình căn chỉnh bằng mắt sản phẩm

sau công đoạn tạo dáng hoàn chỉnh.

8. Căn chỉnh bằng mắt lần 4 (lìu sòi dàu tha pày slí): Thao tác người

thợ rèn bằng kinh nghiệm và kỹ thuật của mình căn chỉnh bằng mắt sản phẩm

39

sau công đoạn mài sản phẩm.

9. Căn chỉnh bằng mắt lần 5 (lìu sòi dàu tha pày hả): Thao tác người

thợ rèn bằng kinh nghiệm và kỹ thuật của mình căn chỉnh bằng mắt sản phẩm

sau khi sản phẩm đã hoàn chỉnh.

v.v…

2.2. Đặc điểm cấu tạo từ ngữ nghề rèn ở Phúc Sen

Ngoài các thao tác hoặc kinh nghiệm trong quá trình chế tác sản phẩm

rèn đã được chúng tôi “định danh hóa” bằng những khái niệm, từ ngữ nghề

rèn ở Phúc Sen được xem xét về đặc điểm cấu tạo gồm 379 từ ngữ và được

phân thành 4 nhóm với số lượng như sau:

- Nhóm từ ngữ về nhiên liệu và nguyên liệu: 16 từ

- Nhóm từ ngữ về công cụ chế tác: 84 từ (viết tắt: CC)

- Nhóm từ ngữ về hoạt động chế tác: 175 từ (viết tắt: CT)

- Nhóm từ ngữ về sản phẩm: 104 từ (viết tắt: SP)

(Xin xem phụ lục 2).

Từ kết quả thống kê, phân loại, có thể thấy từ đơn trong nghề rèn Phúc

Sen, có số lượng khá lớn (102/379 từ chiếm 26,9%). Từ ghép (cũng gọi là

“đơn vị phức”) chiếm số lượng và tỉ lệ nhiều gấp hơn hai lần từ đơn (267/379

từ, chiếm 70,4 %).

2.2.1. Từ đơn

Từ đơn được hiểu là những từ gồm một hoặc nhiều âm tiết (từ có một

hoặc nhiều hình vị). Tuy vậy, trong từ ngữ nghề rèn Phúc Sen, chúng tôi

không tìm thấy ví dụ về từ đơn có số lượng nhiều hơn một âm tiết.

Ví dụ:

Từ (Tiếng Nùng) đối dịch nghĩa Từ (tiếng Việt)

mịt dao con dao con dao

40

táng đe cái đe cái đe

khắp bẫy cái bẫy cái bẫy

mò bễ cái bễ cái bễ

lìu búa cái búa cái búa

phuốc bó bó bó

slạm cắt cắt cắt

mảy cháy cháy (bị) cháy

mằn chỉnh chỉnh căn chỉnh

Dễ dàng nhận thấy các từ này đều có cấu tạo là một âm tiết. Nói

cách khác, thành tố cấu tạo nên các từ đơn nghề rèn ở Phúc Sen có cấu tạo

là một thành tố, các từ đơn này có trong nguyên, nhiên liệu, công cụ, quá

trình chế tác và sản phẩm của nghề rèn. Theo nhóm tác giả Hoàng Văn

Ma, Lục Văn Pảo, Hoàng Chi trong cuốn “Ngữ pháp Tày - Nùng” các từ

đơn này còn được gọi là các “ từ thuần” – đơn vị nhỏ nhất có ý nghĩa từ

vựng, có thể do một hay nhiều âm tiết tạo thành. So sánh với tiếng Việt,

các từ thuần này tương đương với từ đơn. Chúng tôi dùng thuật ngữ “từ

đơn” để gọi tên đơn vị ngôn ngữ này trong sự phân biệt với từ phức.

2.2.2 Từ phức

Từ phức là những từ có từ hai âm tiết trở lên được kết hợp với nhau dựa

trên quan hệ ý nghĩa. Chúng tôi đã thống kê được 267 từ phức có trong nghề rèn

ở Phúc Sen. Số liệu này cho thấy các từ ngữ nghề rèn ở Phúc Sen chủ yếu có cấu

tạo là từ phức. Dựa trên quan hệ về nghĩa giữa các yếu tố trong từ phức chúng

tôi chia nhóm từ trong từ ngữ này thành hai nhóm: Nhóm từ ghép có quan hệ

đẳng lập và nhóm từ ghép có quan hệ chính phụ. Trong nhóm từ ghép có quan

hệ đẳng lập, những từ ghép này chỉ có hai yếu tố tạo thành (Chúng tôi không tìm

thấy ví dụ về từ ghép đẳng lập có nhiều hơn hai yếu tố).

Trong nhóm từ ghép theo quan hệ chính phụ, những từ ghép này có từ

41

hai đến năm yếu tố tạo thành. Do vậy nhóm từ này lại được phân thành các

nhóm nhỏ: nhóm có hai yếu tố, nhóm có ba yếu tố, nhóm có bốn yếu tố và

nhóm có năm yếu tố tạo thành.

Nhóm 1: Các từ phức đẳng lập do hai yếu tố (âm tiết/hình vị) tạo thành,

trong đó các thành tố đều là những đơn vị có nghĩa độc lập, biểu thị những

khái niệm cùng một phạm trù. Đồng thời các thành tố đều có quan hệ gần

nghĩa với nhau.

Các từ này đều do hai âm tiết - hai thành tố kết hợp với nhau tạo thành.

Ví dụ:

Từ (Tiếng Nùng) đối dịch nghĩa Từ (Tiếng Việt)

cong - vênh cong vênh vênh kho pay

sắt - thép sắt thép sắt / thép lếch thẹp

đập - gõ gõ nhẹ gõ hon tói

giòn - gãy giòn gãy giòn phoát tắc

đập - lắc đập nhẹ đập (nhẹ) hon xáu

chòi mằn nắn - chỉnh nắn, chỉnh chỉnh

slèo vèo rạn - nứt rạn nứt nứt

Trong từ ghép đẳng lập, có hai yếu tố, nếu gọi A là thành tố thứ

nhất, B là thành tố thứ hai, có thể dùng sơ đồ sau đây biểu thị mối quan hệ

ngữ pháp đó.

B

A

Sơ đồ 2.1: Quan hệ giữa hai thành tố trong từ phức đẳng lập hai yếu tố

- Nhóm 2: Các từ phức có quan hệ chính phụ

a) Các từ phức do hai yếu tố (âm tiết/hình vị) tạo thành, trong đó có

42

một yếu tố chính và một yếu tố phụ. Những từ ngữ nghề rèn ở Phúc Sen có

cấu tạo như trên là 167 từ (chiếm 44,1 %). Ví dụ:

Từ (Tiếng Nùng) đối dịch nghĩa Từ (Tiếng Việt)

lìu í búa - tay búa cầm tay búa tay

khắp thó bẫy - thỏ cái bẫy thỏ cái bẫy thỏ

kha táng chân - đe chân đe chân đe

cẳn mạy chuôi - gỗ chuôi bằng gỗ chuôi gỗ

khoọn đăng tán - mũi tán mũi tán mũi

phạt hô tạo - mỏ tạo mỏ tạo mỏ

cắm keèm thợ - cả người thợ cả thợ cả

khịn kiụ tôi - vênh tôi bị vênh tôi vênh

xản sliểm xẻng - nhọn xẻng mũi nhọn xẻng nhọn

Chúng tôi gọi yếu tố chính (thành tố thứ nhất) là C, yếu tố phụ (thành

tố thứ hai) làm rõ nghĩa cho yếu tố chính là P. Chúng tôi mô hình hóa mối

quan hệ này bằng sơ đồ sau:

P

C

Sơ đồ 2.2: Quan hệ giữa các thành tố trong từ phức có hai yếu tố

Từ Đối dịch Nghĩa Từ (tiếng Việt)

Ví dụ 1: xẻng nhọn xẻng - nhọn xẻng có xẻng nhọn

mũi nhọn

43

Ví dụ 2: kha táng chân - đe chân đe chân đe

b) Các từ phức do 3 yếu tố lại được phân thành hai kiểu nhỏ, b1 và b2

sau đây:

b1) Các từ phức do ba yếu tố (âm tiết/hình vị) cấu tạo nên, trong đó

có 1 yếu tố chính bậc 1 (ký hiệu là C), hai yếu tố phụ bậc 1 (ký hiệu là P).

Yếu tố phụ bậc 1 (ký hiệu là P) lại có thể chia thành một thành tố chính

bậc (bậc 2) (ký hiệu là c) và một thành tố phụ (bậc 2) (ký hiệu là p).

Những từ ngữ trong nghề rèn ở Phúc Sen có cấu tạo như trên là 45 từ

(chiếm 11,8 %).

Ví dụ:

Từ (tiếng Nùng) đối dịch nghĩa Từ (tiếng Việt)

lìu hất đây búa - làm - đẹp búa để làm đẹp búa làm đẹp

xản pốc cằn xẻng - đắp - bờ xẻng để đắp bờ xẻng đắp bờ

lẳn na cẳn vê - dày - chuôi vê làm dày chuôi vê dày chuôi

phâu lỉn be rìu - lưỡi - loe rìu có lưỡi loe rìu lưỡi loe

phạt hiinh mừn tán - hình - tròn tán thành hình tròn tán tròn

nặm ca rác nước - để - tôi nước tôi nước tôi

lếch slư V sắt - chữ - V sắt hình chữ V sắt chữ V

toọc mì kha đột - có - đế đột có đế đột có đế

...

Có thể mô hình hóa mối quan hệ này của các thành tố C, P và p bằng sơ

đồ sau:

P (c - p)

C

44

Sơ đồ 2.3: Quan hệ kiểu b1 giữa các thành tố trong từ phức có 3 yếu tố

Từ (tiếng Nùng) Đối dịch Nghĩa Từ (tiếng Việt)

Ví dụ 1: xản pốc cằn xẻng - đắp - bờ xẻng để đắp bờ xẻng đắp bờ

Ví dụ 2: kèem pác pất kìm - mỏ - vịt kìm có hình mỏ vịt kìm mỏ vịt

b2) Các từ phức do ba yếu tố (âm tiết/hình vị) cấu tạo nên, trong đó có

1 yếu tố chính (ký hiệu là C), một yếu tố phụ bậc 1 (ký hiệu là P) và một yếu

tố phụ bậc 2 (ký hiệu là p). Yếu tố phụ 2 (p) sẽ làm rõ nghĩa cho cả hai yếu tố

C - P đứng trước nó. Những từ ngữ trong nghề rèn ở Phúc Sen có cấu tạo như

trên là 16 từ (chiếm 4,2 %) trong tổng số từ ngữ nghề rèn.

Ví dụ:

Từ (tiếng Nùng) đối dịch nghĩa Từ (tiếng Việt)

mịt sliểm eng dao - nhọn - nhỏ dao nhọn nhỏ dao nhọn nhỏ

mịt sắt cải dao - thái - to dao thái to dao thái to

thin pẳn hào đá - mài - thô đá mài thô đá mài thô

lỉn thây rầy lưỡi - cày - nương lưỡi cày nương lưỡi cày nương

lỉn thưa sường lưỡi - bừa - hai lưỡi bừa hai sức kéo lưỡi bừa hai

Có thể mô hình hóa mối quan hệ này của các thành tố C, P và p bằng sơ

đồ sau:

C

P

p

45

Sơ đồ 2.4: Quan hệ kiểu b2 giữa các thành tố trong từ phức có ba yếu tố

Từ Đối dịch Nghĩa Từ (tiếng Việt)

Ví dụ 1: thin pẳn miìn đá - mài - mịn loại đá để đá mài mịn

mài mịn

Ví dụ 2: mịt sliểm eng dao - thái - nhỏ dao thái có dao thái nhỏ

kích thước

nhỏ

c) Các từ phức do bốn yếu tố (âm tiết/hình vị) cấu tạo thành, trong đó

có một yếu tố chính (ký hiệu là C), một yếu tố phụ bậc 1 (ký hiệu là P) và hai

yếu tố phụ bậc 2 (ký hiệu là p1 - p2). Hai yếu tố phụ p1, p2 có quan hệ chính

phụ. Chúng có vai trò làm rõ nghĩa cho cả hai yếu tố C - P hoặc chỉ làm rõ

nghĩa cho yếu tố phụ 1 (P). Những từ ngữ trong nghề rèn ở Phúc Sen có dạng

cấu tạo này chiếm số lượng không nhiều: 31 từ (chiếm 8,2 %) trong tổng số từ

ngữ nghề rèn ở Phúc Sen.

Ví dụ:

1- Từ (tiếng Nùng) mịt bầu cẳn mạy :

Đối dịch dao - bầu - chuôi - gỗ :

Nghĩa dao bầu chuôi gỗ :

Từ (tiếng Việt) dao bầu chuôi gỗ :

2- Từ (tiếng Nùng) lìu hoón phạt slưứng :

Đối dịch búa - rèn - tạo - dáng :

Nghĩa búa rèn tạo dáng :

Từ (tiếng Việt) búa rèn tạo dáng :

: 3- Từ (tiếng Nùng) táng coọc kha táu

: Đối dịch đe - thuyền - chân - rùa

: Nghĩa đe thuyền chân rùa

46

: Từ (tiếng Việt) đe thuyền chân rùa

4- Từ (tiếng Nùng) kèo tắt thoón mạy :

Đối dịch kéo - cắt - tỉa - cây :

Nghĩa kéo cắt tỉa cây :

Từ (tiếng Việt) kéo cắt tỉa cây :

5- Từ (tiếng Nùng) lồ to mịt lìm :

Đối dịch lồ - đựng - dao - liềm :

Nghĩa lồ đựng các sản phẩm :

Từ (tiếng Việt) lồ đựng sản phẩm :

6- Từ (tiếng Nùng) cẳn cồ hất cẳn :

Đối dịch thanh - sắt - tạo - chuôi :

Nghĩa thanh sắt tạo chuôi :

Từ (tiếng Việt) thanh sắt tạo chuôi :

7- Từ (tiếng Nùng) cẳn cồ hất hô :

Đối dịch thanh - sắt - tạo - mỏ :

Nghĩa thanh sắt tạo mỏ :

Từ (tiếng Việt) thanh sắt tạo mỏ :

Chúng tôi mô hình hóa mối quan hệ này của các thành tố C, P và c, p

bằng sơ đồ sau:

C

P

c

p

47

Sơ đồ 2.5: Quan hệ giữa các thành tố trong từ phức có 4 yếu tố

Ví dụ:

1- Từ (tiếng Nùng) : mịt bàu cẳn mạy

Đối dịch : dao - bầu - chuôi - gỗ

Nghĩa : dao bầu có chuôi bằng gỗ

Từ (tiếng Việt) : dao bầu chuôi gỗ

2- Từ (tiếng Nùng) : táng coọc kha pất

Đối dịch : đe - thuyền - chân - vịt

Nghĩa : đe thuyền có chân hình chân vịt

Từ (tiếng Việt) : đe thuyền chân vịt

Như vậy, so với từ đơn, từ phức chiếm tỉ lệ nhiều hơn cả. Đồng thời,

bảng thống kê trên cho ta thấy mối quan hệ giữa các yếu tố trong từ phức

cũng khá đa dạng và phong phú.

e) Các từ phức do năm yếu tố (âm tiết/hình vị) cấu tạo thành, trong

đó có một yếu tố chính (ký hiệu là C), một yếu tố phụ bậc 1 (ký hiệu là

P) và hai yếu tố phụ bậc 2 (ký hiệu là p1 - p2). Hai yếu tố phụ p1, p2 có

quan hệ chính phụ. Chúng có vai trò làm rõ nghĩa cho cả hai yếu tố C - P

hoặc chỉ làm rõ nghĩa cho yếu tố phụ 1 (P). Những từ ngữ trong nghề rèn

ở Phúc Sen có dạng cấu tạo này chiếm số lượng không nhiều: 8 từ (chiếm

48

2,1 %) trong tổng số từ ngữ nghề rèn ở Phúc Sen.

Ví dụ:

1- Từ (tiếng Nùng) mịt bác đúc cẳn mạy :

dao - chặt - xương - chuôi - gỗ Đối dịch :

dao chặt xương chuôi gỗ Nghĩa :

Từ (tiếng Việt) dao chặt xương chuôi gỗ :

2- Từ (tiếng Nùng) mịt bác đúc cẳn buốc :

dao - chặt - xương - chuôi - ống Đối dịch :

dao chặt xương chuôi ống Nghĩa :

Từ (tiếng Việt) dao chặt xương chuôi ống :

3- Từ (tiếng Nùng) mịt bác đúc thu dàu :

dao - chặt - xương - đầu - thẳng Đối dịch :

dao chặt xương đầu thẳng Nghĩa :

Từ (tiếng Việt) dao chặt xương đầu thẳng :

4- Từ (tiếng Nùng) mịt bác đúc thu vuung :

dao - chặt - xương - đầu - vuông Đối dịch :

dao chặt xương đầu vuông Nghĩa :

Từ (tiếng Việt) dao chặt xương đầu vuông :

5- Từ (tiếng Nùng) mịt bác đúc đăng sliểm :

dao - chặt - xương - mũi - nhọn Đối dịch :

dao chặt xương mũi nhọn Nghĩa :

49

Từ (tiếng Việt) dao chặt xương mũi nhọn :

Chúng tôi mô hình hóa mối quan hệ này của các thành tố C, P và c, p

bằng sơ đồ sau:

C

P

p

c

p

Sơ đồ 2.6: Quan hệ giữa các thành tố trong từ phức có 5 yếu tố

Ví dụ:

1- Từ (tiếng Nùng) : mịt bác đúc cẳn mạy

Đối dịch dao - chặt - xương - chuôi - gỗ :

Nghĩa dao chặt xương có chuôi bằng gỗ :

Từ (tiếng Việt) dao chặt xương chuôi gỗ :

2- Từ (tiếng Nùng) : lìu phạt slứưng xoong xứ

Đối dịch búa - để - tạo - dáng - hoàn - chỉnh :

Nghĩa búa chuyên dùng để tạo dáng hoàn chỉnh :

50

Từ (tiếng Việt) búa tạo dáng hoàn chỉnh :

2.3. Đặc điểm ngữ nghĩa của các từ ngữ nghề rèn ở Phúc Sen

Như mục 2.2 đã trình bày, các từ ngữ nghề rèn ở Phúc Sen có cấu tạo

khá đa dạng: từ đơn, từ phức do nhiều thành tố (âm vị) cấu tạo thành với các

mô hình khác nhau. Do vậy cơ cấu nghĩa của nhóm từ này cũng không thuần

nhất. Điều này được thể hiện cụ thể như sau:

2.3.1 Đặc điểm ngữ nghĩa của nhóm từ đơn

Có thể thấy các từ đơn trong nghề rèn ở Phúc Sen thường mang nghĩa

khái quát khi chỉ tên gọi về nguyên nhiên liệu,công cụ, quá trình và sản phẩm

nghề rèn.

Ví dụ: lếch (sắt), thản (than), táng (đe), keèm (kìm), lìu (búa), lìm

(liềm), hon (đập), sòi (nắn), ...

2.3.2 Đặc điểm ngữ nghĩa của nhóm từ phức

Các từ ngữ nghề rèn ở Phúc Sen không có từ láy mà chủ yếu là từ phức

chính phụ và một số từ phức đẳng lập và từ mượn. Xét về mặt ý nghĩa, các

tiểu loại của từ phức trong nghề rèn ở Phúc Sen có một số đặc điểm sau:

a) Đặc điểm nhóm từ phức đẳng lập do hai thành tố cấu tạo.

Theo kết quả khảo sát của chúng tôi, từ phức đẳng lập trong nghề rèn

ở Phúc Sen có số lượng không nhiều: 10 từ. Xét về mặt ý nghĩa các từ này

do hai hình vị (âm tiết) có nghĩa tạo thành. Mối quan hệ giữa hai thành tố

cấu tạo nên từ phức đẳng lập là ý nghĩa mang tính khái quát. Chúng tôi

dùng sơ đồ để mô tả mối qua hệ ý nghĩa giữa từ phức đẳng lập và các thành

tố cấu tạo nên nó:

AB ≥ A + B

Ví dụ: Ý nghĩa của từ phức búp bảm mang tính khái quát và lớn hơn ý

nghĩa thành tố búp (lõm) và bảm (lồi). Hay ý nghĩa của từ phức chòi mằn

51

mang tính khái quát và bằng ý nghĩa thành tố chòi (chỉnh) và mằn (nắn).

b) Đặc điểm từ phức do hai yếu tố chính phụ cấu tạo trở lên.

Các từ ngữ nghề rèn ở Phúc Sen chủ yếu có cấu tạo là từ phức chính

phụ. Đặc điểm cấu trúc hình thức này cũng quy định về mặt ý nghĩa. Các từ

phức chính phụ trong nghề rèn có thể 2, 3 hoặc 4 thành tố tạo thành. Chúng

chỉ ra bốn loại quan hệ cơ bản giữa các thành tố trong từ phức và đưa ra các

sơ đồ thể hiện qua cấu tạo này. Dựa trên các sơ đồ này chúng tôi thấy các từ

phức trong nghề rèn ở Phúc Sen đều là từ phức phụ nghĩa và có một yếu tố

chính và một hoặc một số yếu tố phụ bổ sung nghĩa cho yếu tố chính. Do số

lượng các thành tố khá nhiều nên mối quan hệ ngữ nghĩa cũng đa dạng và

phức tạp. Tương ứng với 4 quan hệ về cấu trúc, có thể thấy từ phức chính phụ

chỉ nghề rèn ở Phúc Sen có 4 mô hình quan hệ nghĩa cơ bản (4 nhóm) trong

đó nhóm 2 được phân thành 2a và 2b như sau:

*Nhóm 1: Các từ phức gồm hai yếu tố (âm tiết/hình vị) tạo nên, trong

đó có một yếu tố chính (C) và một yếu tố phụ (P). Thành tố P bổ sung ý nghĩa

và đứng sau thành tố C. Thành tố C thường là thành tố gốc chỉ tên loại (loại

lớn). Ví dụ: (cẳn, chòi, slạm, táng, ... ). Thành tố P là thành tố phụ, chỉ kích

thước, bộ phận thao tác của nghề rèn. Ví dụ: (eng (bé), cải (to), thua (đầu), lỉn

(lưỡi), đăng (mũi), ... )

Ví dụ: khắp nộc

C - P

*Nhóm 2a: Các từ phức gồm ba yếu tố (âm tiết/hình vị) tạo nên. Các

từ phức này gồm một yếu chính bậc 1 (ký hiệu là C) và một yếu tố phụ bậc

1 (ký hiệu là P). Thành tố C cũng là thành tố gốc chỉ tên loại công cụ, sản

phẩm hoặc thao tác (loại lớn). Thành tố P đứng sau thành tố C và làm rõ về

hình thức, loại của từ ngữ nghề rèn được nêu ở C. Nhưng khác với P ở

52

nhóm 1, P ở nhóm 2 lại gồm một thành tố chính (bậc 2) (ký hiệu là c) và

một thành tố phụ (bậc 2) (ký hiệu là p). Trong đó, thành tố p cũng đứng sau

và phụ nghĩa cho c.

Ví dụ: xản pốc cằn

C P (c - p)

xẻng đắp bờ

C P (c - p)

*Nhóm 2b: Các từ phức gồm ba yếu tố (âm tiết/hình vị) tạo nên,

trong đó có một yếu tố chính (C), một yếu tố phụ bậc 1 (P) và một yếu tố phụ

bậc 2 (p). Hay nói cách khác, nếu ở nhóm 2, P gồm hai thành tố (c - p) thì ở

nhóm này P trực tiếp là thành tố phụ của C. Còn p là thành tố phụ có vai trò

bổ sung ý nghĩa (về công cụ, thao tác, sản phẩm, ..) cho cả cụm C - P (chỉ tên

gọi) đứng trước nó. Đây cũng là các từ phức phân nghĩa.

Ví dụ: thin pẳn đeng

C P p

đá mài đỏ

C P p

*Nhóm 3: Các từ phức do bốn yếu tố (âm tiết/hình vị) cấu thành,

trong đó có một yếu tố chính(C) chỉ tên gọi (loại lớn), một yếu tố phụ bậc

1(P) (chỉ loại nhỏ) và hai yếu tố phụ bậc 2 (p1 - p2)(chỉ tính chất,bộ phận

trong nghề rèn). Hai yếu tố phụ p1, p2 có vai trò làm rõ nghĩa cho cả hai yếu

tố C - P hoặc chỉ làm rõ nghiã cho yếu tố phụ p1, p2 có vai trò làm rõ nghĩa

53

cho cả hai yếu tố phụ 1 (P). Thậm chí, trong một số trường hợp p2 lại phụ

nghĩa cho p1. Như vậy, đây cũng là từ phức phân nghĩa nhưng có cấu tạo

phức tạp hơn các từ phức ở nhóm 1, 2 và 3.

Ví dụ: mịt sét - lịn sải

C P p1 p2

dao thái lưỡi trái

C P p1 p2

Nhóm 4: Các từ ghép chính phụ do năm yếu tố (âm tiết/hình vị)

cấu thành, trong đó có một yếu tố chính (C) chỉ tên gọi (loại lớn), một yếu tố

phụ bậc 1(P) (chỉ loại nhỏ) và hai yếu tố phụ bậc 2 (p1 – p2) (chỉ tính chất, bộ

phận trong nghề rèn). Hai yếu tố phụ p1, p2 có vai trò làm rõ nghĩa cho cả hai

yếu tố C - P hoặc chỉ làm rõ nghĩa cho yếu tố phụ p1, p2 có vai trò làm rõ

nghĩa cho cả hai yếu tố phụ 1 (P).

Ví dụ: mịt bác đúc - đăng sliểm

C P p p1 p2

dao chặt xương - mũi nhọn

C P p p1 p2

Như vậy, về mặt ngữ nghĩa, nhóm từ phức hầu hết là từ phân nghĩa.

Trong mỗi từ phức đều có một thành tố gốc (thành tố chính - C) và ít nhất một

thành tố phụ (P). Thành tố chính luôn đứng trước thành tố phụ. Thành tố phụ

54

lại có thể được cấu tạo là một thành tố chính và một thành tố phụ ở bậc thấp

hơn. Thành tố chính đều là các động từ, danh từ chỉ sự vật, hoạt động cụ thể

là chỉ tên gọi các công cụ, quá trình chế tác hay sản phẩm. Các thành tố phụ

có thể là danh từ chỉ tên gọi công cụ, sản phẩm hoặc động từ chỉ hoạt động

thao tác cụ thể trong nghề rèn được nêu ở thành tố C.

Ví dụ:

mịt sét lào bâư = mịt (danh từ) + sét (động từ) + lào bâư (danh từ) =

dao + thái + thuốc lá = dao thái thuốc lá.

táng coọc kha pất = táng (danh từ) + coọc (danh từ) + kha (danh từ) +

pất (danh từ) = đe + thuyền + chân vịt = đe thuyền chân vịt.

Nghĩa của C là cơ sở của từ phức. Vì thế thành tố C có vai trò chi phối

các thành tố đứng sau nó. Thành tố phụ (P) chỉ có vai trò khu biệt (phân biệt)

nghĩa của từ phức trong từ ngữ nghề rèn ở Phúc Sen.

Tiểu kết

Trong chương 2 chúng tôi đã tiến hành khảo sát và làm rõ đặc điểm

của các từ ngữ nghề rèn ở Phúc Sen về đặc điểm cấu tạo và đặc điểm ngữ

nghĩa. Từ kết quả đạt nghiên cứu có thể rút ra những nhận xét sau:

1. Về tư liệu: Chúng tôi đã thống kê được 379 từ ngữ nghề rèn ở Phúc

Sen qua điền dã thực tế tại xã Phúc Sen - huyện Quảng Uyên - tỉnh Cao Bằng.

Danh sách từ ngữ này được trình bày trong các phụ lục 1a, 1b, 2 và phụ

lục 3. Thực ra đối với từ, việc dịch nghĩa sang tiếng Việt hầu như không gặp

khó khăn, bởi trong tiếng Việt, dễ dàng tìm được một cách dịch tương đương.

Khó khăn mà chúng tôi gặp phải là đối với ngữ. Trong từ ngữ nghề rèn Phúc

Sen, có khá nhiều "ngữ" mà bản thân trong nghề rèn, khi thể hiện qua tiếng

Nùng đều là ngữ cố định và có sự phân biệt rất rạch ròi với nhau. Chẳng hạn:

55

Về công cụ sản xuất, ngoài từ búa (lìu) nói chung, còn có nhiều loại búa khác

nhau, phù hợp cho từng bước trong công đoạn rèn. Các loại búa đó là: lìu í

(búa cầm tay/búa tay), lìu hất đây (búa để làm đẹp), lìu hoón kỉ thuật (búa để

rèn kỹ thuật), lìu hoón phạt slưứng (búa để rèn tạo dáng), lìu phạt slưứng hào

(búa để tạo dáng thô), lìu phạt slưứng xoong xứ (búa để tạo dáng hoàn chỉnh),

lìu quảng (búa phá), lìu sòi mằn (búa để chỉnh sửa)... Về quá trình chế tác,

ngoài từ cắt (slạm) nói chung, còn có các ngữ cố định như slạm lỉn (cắt lưỡi),

slạm khẻo (cắt răng), slạm fấn lứ (cắt bỏ chỗ thừa); hoặc phửn lếch (thao tác

người thợ dùng kìm kẹp chặt thanh sắt lật trở mặt cần rèn) v.v...

Đặc biệt, có nhiều ngữ (cố định) thể hiện kinh nghiệm trong nghề rèn

Phúc Sen như năm thao tác khác nhau, dùng mắt để đánh giá là những thao

tác rất khó tìm đối dịch tương đương trong tiếng Việt. Do vậy, với tinh thần

chung, thu thập tất cả những gì thuộc về nghề rèn Phúc Sen, chúng tôi đã thu

thập hầu hết từ, ngữ, khái niệm của nghề rèn này và coi đó như một trong

những mục đích chính và là đóng góp của luận văn.

Trong 379 từ ngữ đã thống kê cho thấy tỉ lệ từ ngữ về quá trình chế tác

chiếm tỉ lệ cao nhất, từ ngữ về công cụ, sản phẩm và nguyên nhiên liệu chiếm

số lượng ít hơn. Điều này giải thích tại sao chất lượng của sản phẩm rèn Phúc

Sen trở nên nổi tiếng.

2. Đặc điểm cấu tạo: Các từ ngữ nghề rèn ở Phúc Sen có cấu tạo khá

phong phú. Bao gồm từ đơn, từ phức. Từ phức lại gồm từ phức chính phụ, từ

phức đẳng lập. Trong đó, từ ngữ nghề rèn có cấu tạo là từ phức chính phụ

chiếm tỉ lệ nhiều nhất. Các từ phức chính phụ lại có cấu tạo rất đa dạng do

mỗi từ phức chính phụ đều có một thành tố chính và một thành tố phụ. Từ

ngữ nghề rèn không có dạng cấu tạo là từ láy. Cấu tạo của các ngữ trong từ

ngữ nghề rèn là các ngữ danh từ và ngữ động từ chỉ tên gọi, hoạt động thao

tác của tên gọi sản phẩm hay quá trình chế tác. Các từ ngữ nghề rèn ở Phúc

Sen có cấu tạo là từ phức chính phụ có một thành tố chính (thành tố trung tâm

56

- C) đứng ở đầu từ. Trong từ phức chính phụ không có thành tố phụ đứng

trước mà chỉ xuất hiện các thành tố phụ sau. Thành tố phụ sau có thể lại được

cấu tạo là một kết cấu ở bậc nhỏ hơn.

3. Đặc điểm ngữ nghĩa: Do các từ ngữ nghề rèn chủ yếu là từ phức

chính phụ nên các thành tố chủ yếu có quan hệ phân nghĩa. Hay nói cách

khác, trong các từ ngữ có kiểu cấu tạo này có một thành tố trung tâm (C) và ít

nhất một thành tố phụ nghĩa trực tiếp (P). Các thành tố trong thành tố phụ

nghĩa trực tiếp lại có thể gồm các thành tố nhỏ hơn (c, p, p1, p2 ...) được cấu

tạo dựa trên quan hệ hợp nghĩa hoặc phân nghĩa. Thành tố chính/gốc/trung

tâm (C) đều là các danh từ chỉ tên gọi và các động từ chỉ hoạt động, thao tác.

Các thành tố phụ thường là các từ bổ sung ý nghĩa cho thành tố chính (tên gọi

57

sản phẩm, thao tác chế tác, công cụ),... của nghề rèn (được nêu ở C).

Chương 3

PHƯƠNG THỨC ĐỊNH DANH VÀ MỘT VÀI BIỂU HIỆN

VỀ VĂN HÓA QUA TỪ NGỮ NGHỀ RÈN Ở PHÚC SEN

DẪN NHẬP

Dựa trên cơ sở lý thuyết về định danh được trình bày trong chương 1,

chúng tôi tiến hành tìm hiểu về các phương thức định danh của từ ngữ

nghề rèn ở Phúc Sen.

Phương thứ định danh là cách gọi tên sự vật, hiện tượng, quá trình,

hoạt động, ... Tìm hiểu phương thức định danh, tức là tìm hiểu những

quy luật mang tính phổ biến trong việc cấu tạo các đơn vị ngữ nghĩa.

Nghiên cứu về phương thức định danh các từ ngữ trong nghề rèn để tìm

ra mối quan hệ giữa hiện thực khác quan – tư duy – ngôn ngữ mang tính

quy luật của các từ ngữ trong nghề rèn của đồng bào dân tộc Nùng nơi

đây. Cũng giống như thao tác đã làm với các đơn vị từ ghép và các đơn

vị ngữ của từ ngữ nghề rèn, căn cứ vào nghĩa chung của các thành tố phụ

P, chúng tôi tìm hiểu lý do hình thành từ ghép; quy tắc định danh; sự

khác nhau của các sự vật hiện tượng ... trong cùng một loại, hoặc tìm

một nét giống nhau nào đó của các sự vật hiện tượng ... khác loại của các

từ ngữ trong nghề rèn. Cụ thể ở đây chúng tôi tìm hiểu thành phần phụ P

theo từng nhóm: từ ngữ chỉ nguyên liệu trong nghề rèn, từ ngữ chỉ công

cụ chế tác, từ ngữ chỉ hoạt động chế tác, từ ngữ chỉ sản phẩm của nghề

rèn. Qua việc phân tích và phân loại, có thể thấy từ ngữ trong nghề rèn

có các phương thức định danh sau:

3.1. Các phương thức định danh từ ngữ nghề rèn ở Phúc Sen

Từ thực tế tìm hiểu nghề rèn ở nơi đây, chúng tôi chia phương thức

định danh thành hai loại chính: phương thức định danh trực tiếp và phương

58

thức định danh gián tiếp.

Việc định danh trực tiếp được chúng tôi dựa trên việc quan sát trong

quá trình khảo sát thực tế điền dã trong quá trình hoạt động trên một sản phẩm

rèn từ công đoạn đầu tiên đến công đoạn cuối cùng hoàn thành sản phẩm.

Phương thức định danh gián tiếp được chúng tôi dựa trên cơ sở lý

thuyết định danh căn cứ vào sự phản ánh đặc điểm của sự vật, đặc điểm chức

năng, đặc điểm hình dáng, tính chất của sự vật, sự khác nhau của các sự vật

hiện tượng... trong cùng một loại, hoặc tìm một nét giống nhau nào đó của các

sự vật hiện tượng... khác loại của các từ ngữ trong nghề rèn.

3.1.1. Định danh trực tiếp

a) Phương thức định danh dựa vào nguyên liệu của nghề rèn

Nguyên liệu phục vụ cho nghề rèn thủ công ở Phúc Sen có phần

đơn giản hơn so với một số nghề thủ công truyền thống khác, chỉ gồm

có các loại sắt thép là nguyên liệu chính của nghề rèn và than củi dùng

để làm chất đốt, nung sắt thép.

Sắt và thép các loại: Đây là nguyên liệu quyết định sự tồn tại và

phát triển của nghề rèn. Các loại sắt thép được người thợ phân loại theo

mặt hàng mà người thợ định rèn, có thể tận dụng tất cả từng mẩu sắt nhỏ

nhất. Một số loại sắt thép chủ yếu mà các lò rèn Phúc Sen thường dùng:

- lếch nhíp (sắt nhíp) dùng để rèn mịt (dao), cuúc (cuốc), lìm (liềm).

- lếch thu láp (sắt đầu láp), quang nhíp (quang nhíp), dùng để rèn

phâu (rìu).

- lếch slư V (sắt chữ V) dùng để rèn khòa (cào), kèo (kéo).

- tiều (thép) dùng để rèn rèn bao binh (xà beng), phâu (rìu),...

- đoàng (tôn), thồông phuy (thùng phuy) dùng để rèn các loại

roong (chuông).

- ngoài ra còn có: lếch oón (sắt non), lếch ké (sắt già), tiều mừn

59

(thép tròn), ...

Than: là nguyên liệu không thể thiếu của nghề rèn. Trước đây các

thợ rèn ở Phúc Sen thường dùng than củi gỗ (thường là gỗ nghiến vì có

nhiệt độ cao, đỡ hao). Nay gỗ không còn đủ để cung cấp than cho các lò

rèn nữa nên các thợ phải mua thêm than đá.

- thản phừn (than củi): dễ bén lửa nên các thợ rèn thường dùng

than gỗ để nhóm lò trước tiên.

- thản thin (than đá): được dùng cùng than củi nhằm giữ nhiệt

được lâu hơn mà không tốn than.

b) Phương thức định danh dựa vào các công cụ chế tác của nghề rèn

Công cụ chế tác rèn của Phúc Sen tương đối hoàn chỉnh, bao gồm

nhiều bộ phận khác nhau:

- Công cụ cố định: là những công cụ chế tác được gắn cố định ở

một vị trí nhất định trong lò rèn. Công cụ cố định thường bao gồm có các

loại sau: lò hầu (lò rèn); mò páu (bễ thổi); buốc mò (ống bễ); toong táng

(dàn đe); táng mừn (đe tròn); táng coọc (đe thuyền); táng coóc sliểm (đe

góc nhọn); tu au lùm (cửa lấy gió); nặm ca rác (bể nước tôi); tảy táng

(đế đe) ...

- Công cụ không cố định: gồm các loại sau: lìu ( cái búa); lìu í

(búa tay); lìu hung (búa tạ); tào (dũa); keèm (cái kìm); keèm pác pất

(kìm mỏ vịt); keèm pác cáy (kìm mỏ gà); keèm kha cảy (kìm càng cua);

mạy hàn xa (que thông lò); cẳn cồ hất cẳn (thanh sắt tạo chuôi); toọc

(cái đột); slạm (cái đục); xích (thước đo) ...

c) Phương thức định danh theo hoạt động chế tác của nghề rèn

Hoạt động chế tác của nghề rèn thủ công không chỉ có kỹ thuật mà

còn phải trải qua nhiều công đoạn khác nhau. Có thể phân chia các công

đoạn theo các nhóm định danh sau:

60

- Nhóm công đoạn nung sắt có các từ ngữ: tọn lò (quét lò); tó phầy

(nhóm lò); slạm lếch (cắt sắt); thẳm lếch (chặt sắt); chằng lếch (cân sắt);

lếch hon (phôi rèn); sli phầy (nung lửa)...

- Nhóm công đoạn tạo dáng sản phẩm: hon lếch (đập sắt); khoọn

hô (tán mỏ); phạt lỉn (tạo lưỡi); hon chòi mằn (đập chỉnh sửa); hon đảng

dàu (đập nguội thẳng); pẳn hào (mài thô); pẳn lẩu (mài bóng); sòi dàu

(nắn thẳng); khịn lỉn (tôi lưỡi); hôi lỉn (trạm lưỡi); lẳn cẳn (vê chuôi);

...

- Nhóm từ ngữ phân theo màu sắc: khiêu (xanh); khiêu boóng (xanh

bóng); khiêu moong (xanh xám); lương (vàng); huung (hồng); đeng (đỏ);

sluủng (sáng); sluủng boóng (sáng bóng); khao boóng (trắng bóng);...

- Nhóm từ ngữ phân theo các bộ phận: kha (chân); cẳn (chuôi);

cẳn mạy (chuôi gỗ); thu (đầu); thu dàu (đầu thẳng); lỉn (lưỡi); hô (mỏ);

hô sa (mỏ quắm); đăng (mũi); sắn lăng (sống lưng); đang (thân).

- Nhóm phân loại theo tiêu chí đáng giá: búp bảm (lồi lõm); kho (cong);

tắc (gãy); niểng (gỉ); oón (mềm); kén (cứng); phó (vỡ); dàu (thẳng); miìn

(mịn); phiêng miìn (phẳng mịn); cùm făng (sắc ngọt); kịu (vênh).

- Nhóm từ ngữ phân loại theo tiêu chí bảo quản: phuốc (bó); pao (bọc);

ben (gói); phing (hơ); phing kháu (hơ khô); slào (rửa); tặt (xếp); mạt (lau).

d) Phương thức định danh dựa vào các sản phẩm của nghề rèn

Sản phẩm rèn của Phúc Sen phong phú về chủng loại và kiểu dáng,

các sản phẩm rèn được chế tác phù hợp với nhiều công việc và thích hợp

với địa hình khác nhau. Cùng một loại sản phẩm nhưng có nhiều kích

thước khác nhau đáp ứng nhu cầu sử dụng của nhiều đối tượng.

- Nhóm sản phẩm dao: mịt eng (dao nhỏ); mịt cải (dao to); mịt

sliểm (dao nhọn); mịt bàu (dao bầu); sa hô (dao quắm); mịt sắt (dao

thái); mịt rẹn lào bâư (dao thái thuốc lá); mịt sa khoang (dao phát cỏ);

61

mịt dáng duốc (dao thái chuối); mịt bác đúc (dao chặt xương).

- Nhóm sản phẩm búa, rìu: phâu teng (búa đinh); phâu mầu (búa

tay); phâu hung (búa tạ); phâu thẳm mạy (búa chặt cây); phâu khiệc

phừn (búa bổ củi); phủ (rìu); phủ lỉn be (rìu lưỡi loe); phủ thẳm mạy (rìu

chặt cây); phủ khiếc phừn (rìu bổ củi).

- Nhóm sản phẩm cào, cuốc: cuúc phả (cuốc bàn) ; cuúc phỉ (cuốc

bướm); cuúc nộc (cuốc chim); khòa slam coóc (cào ba góc); khào hu

(cào be); khòa eng (cào bé); khòa phỉ (cào bướm).

- Nhóm từ ngữ sản phẩm kéo, xẻng: kèo tắt phum (kéo cắt tóc);

kèo tắt nhặp (kéo cắt may); kèo tắt thoón mạy (kéo cắt tỉa cây); kèo tắt

đoòng (kéo cắt tôn); xản sliểm (xẻng nhọn); xản vuung (xẻng vuông);

xản pốc cằn (xẻng đắp bờ).

Bảng 3.1: Bảng phương phức định danh trực tiếp

Tiêu chí Ví dụ Tần số

lếch (sắt), tiều (thép), lếch oón (sắt non),

lếch ké (sắt già), tiều mừn (thép tròn), 16 từ ngữ Nguyên

đoòng (tôn), thản phừn (than củi), thản (4,2 %) liệu nghề

thin (than đá), ... rèn

keèm í (kìm tiểu), toong táng (dàn đe), tào

miìn (dũa mịn), lìu hoón hất sluứng (búa 84 từ ngữ Công cụ

rèn tạo dáng), lò hầu (lò nung), thiêng lếch (22,2 %) chế tác

(lều rèn),...

hon đảng (đập nguội), hon lai bạt (đập liên

hồi), quăng lìu (quai búa), phạt hô (tán 175 từ ngữ Hoạt động

mỏ), khịn lỉn (tôi lưỡi), hôi lỉn (trạm lưỡi), (46,2 %) chế tác

62

si phầy (nhóm lò), ...

mịt sắt (dao thái), mịt bác đúc (dao chặt

xương), phâu khiệc phừn (búa bổ củi), 104 từ ngữ Sản phẩm

khòa slam pác (cào ba góc), xản sliểm (27,4 %) nghề rèn

(xẻng nhọn), lìm (liểm), ...

Tổng số 379 từ ngữ

(100 %)

3.1.2. Định danh gián tiếp

Phương thức định danh gián tiếp bao gồm 3 nhóm định danh sau:

Nhóm định danh về sự vật; Nhóm định danh về động tác và Nhóm định

danh về tính chất.

a) Nhóm định danh về sự vật: Ở phương thức định danh này thành

tố thứ nhất chỉ chủng loại, thành tố thứ hai làm rõ nghĩa cho thành tố thứ

nhất về hình thức (chức năng, hình dáng ...).

- Phương thức định danh dựa vào chức năng:

Ví dụ :

mịt sắt (dao - thái) = dao dùng để thái.

mịt bác đúc (dao - chặt - xương) = dao dùng để chặt xương.

mịt sá khoang (dao - phát - cỏ) = dao dùng để phát cỏ.

xản pốc cằn (xẻng - đắp - bờ) = xẻng dùng để đắp bờ ruộng.

phâu thẳm mạy (búa - chặt - cây) = búa dùng để chặt cây.

phâu khiệc phừn (búa - bổ - củi) = búa dùng để bổ củi.

nẹp lốc sẳn (kẹp - nhổ - sắn) = kẹp dùng để nhổ sắn.

kèo tắt phum (kéo - cắt - tóc) = kéo dùng để cắt tóc.

kèo tắt đoòng (kéo - cắt - tôn) = kéo dùng để cắt tôn.

63

kèo tắt nhặp (kéo - cắt - may) = kéo dùng để cắt may.

lỉn thây nà nặm (lưỡi - cày - ruộng - nước) = lưỡi cày dùng để cày

ruộng nước.

lỉn thây rầy (lưỡi - cày - rẫy) = lưỡi cày dùng để cày nương, rẫy.

lỉn phưa thói héo toọc (lưỡi - bừa - răng - hàng - một) = lưỡi bừa

có một hàng răng.

lỉn phưa sloong thói héo (lưỡi - bừa - hai - hàng - răng) = lưỡi bừa

có hai hàng răng. ...

- Phương thức định danh dựa vào hình dáng:

Ví dụ:

mịt sliểm (dao - nhọn) = dao có mũi nhọn.

mịt sa (dao - quắm) = dao có mỏ cong (quặm).

mịt bàu (dao - bầu) = dao nhọn, phần cuối lưỡi có hình bầu bầu.

mịt bác đúc cẳn mạy (dao - chặt - xương - chuôi - gỗ) = dao chặt

có chuôi bằng gỗ.

mịt bác đúc cẳn buốc (dao - chặt - xương - chuôi - ống) = dao chặt

có chuôi hình ống.

mịt bác đúc thu dàu (dao - chặt - xương - đầu - thẳng) = dao chặt

có đầu thẳng.

mịt bác đúc thu vuung (dao - chặt - xương - đầu - vuông) = dao

chặt đầu hình vuông.

mịt bác đúc đăng sliểm (dao - chặt - xương - mũi - nhọn) =dao

chặt có mũi nhọn.

xản sliểm (xẻn - nhọn) = xẻng có lưỡi nhọn ở phía mũi xẻng

xản vuung (xẻng - vuông) = xẻng có lưỡi hình vuông.

keèm pác pất (kìm - mỏ - vịt) = kìm có hình dáng gọng giống mỏ vịt.

keèm pác cáy (kìm - mỏ - gà) = kìm có hình dáng gọng giống mỏ gà.

keèm kha cảy (kìm - càng - cua) = kìm có hình dáng gọng giống

64

càng cua.

táng mừn (đe - tròn) = đe có hình tròn.

táng coọc (đe - thuyền) = đe có hình cái thuyền.

táng coóc sliểm (đe - góc - nhọn) = đe có góc nhọn.

táng coọc kha táu (đe - thuyền - chân - rùa) = đe thuyền có hình

dáng chân như bàn chân rùa.

táng coọc kha pất (đe - thuyền - chân - vịt) = đe thuyền có chân

hình dáng như bàn chân vịt.

b) Nhóm định danh về động tác: Ở phương thức định danh này

thành tố thứ nhất chỉ hoạt động, thành tố thứ hai làm rõ nghĩa cho thành

tố thứ nhất về đối tượng, tính chất, vị trí.

1. Về đối tượng:

Ví dụ:

hon lếch (đập - sắt/thép) = rèn;

phạt hiing (tạo - hình) = tạo dáng/tạo hình;

khịn lỉn (tôi - lưỡi) = tôi (chỉ riêng phần mép lưỡi chứ không phải

toàn bộ sản phẩm);

sòi cẳn ( nắn - chuôi) = nắn (chỉ riêng phần chuôi sản phẩm)

mằn toọng (chỉnh - bụng) = chỉnh (chỉ riêng phần lưỡi (dao) mà không

động đến phần sống (dao) hoặc chuôi)

chòi sắn lăng (sửa - sống lưng) = sửa (chỉ riêng phần sống (dao) mà

không động đến các phần khác như lưỡi, chuôi)

pẳn đăng (mài - mũi) = mài (chỉ riêng phần mũi sản phẩm)

phửn lếch (lật trở - sắt) = lật / trở /lật trở (thao tác dùng kìm lật trở sắt

đang nung trong lò hoặc đang rèn trên đe)

nẹp lếch (kẹp - sắt/thép) = kẹp / cặp (bằng kìm để giữ cho chắc một

thanh sắt nào đó trong quá trình nung trong lò hoặc trên đe để người thợ tiến

65

hành các thao tác tiếp theo...)

sòi mằn đang (nắn - chỉnh - thân) = nắn chỉnh / chỉnh sửa (riêng phần

thân mà không động đến phần chuôi)

chòi mằn đăng (nắn - chỉnh - mũi) = chỉnh sửa (chỉ riêng phần mũi,

thường của dao nhọn, mỏ của dao quắn hoặc đầu nhọn của răng bừa...)

pẳn hào đang (mài thô - thân) = mài thô (thao tác mài toàn bộ sản

phẩm, thường là các loại dao, liềm v.v... trừ phần chuôi).

2. Về tính chất:

Ví dụ:

hon bang (đập - mỏng) = dát / dát mỏng (Thao tác dùng búa đập cho

thanh sắt trở nên mỏng)

hon đỏi (đập - nhẹ) = đập (với lực vừa phải, tránh cho sản phẩm bị rạn

nứt hoặc biến dạng trong quá trình chế tác nguội hoặc sản phẩm sau khi đưa ra

khỏi lò nung một khoảng thời gian nào đó, đã hết đỏ, tức không còn độ dẻo)

hon quảng (đập - rộng) = đập phá (thao tác đập nhanh và khắp trên mặt

sản phẩm hoặc thanh sắt vừa đưa ra khỏi lò, còn đang đỏ, với mục đích dàn đều)

hon lai bạt (đập - liên tục/liên hồi) = đập (một cách nhanh với mục đích

tác động nhanh khi thanh sắt, sản phẩm còn đang đỏ rực và dẻo khi mới đưa

ra khỏi lò)

khoọn dưưng slí fuung (tán - hình - bốn - phương) = tán vuông;

3. Về vị trí

Định danh động tác có liên quan đến vị trí ở nghề rèn Phúc Sen thực

chất là việc mô tả các thao tác mà chúng tôi gọi việc mô tả đó là "định danh

hóa" với mục đích cố gắng thu thập và lưu giữ các thao tác này bởi vì trong

một tương lai không xa, các thao tác thủ công này mất, thay vào đó là những

thao tác đó máy móc đảm nhiệm.

nẹp lếch chang lò (kẹp - sắt - trong lò) = kẹp / giữ (thanh sắt hoặc công

cụ đang được rèn một cách chắc chắn sao cho phần cần nung đỏ tiếp xúc

chính xác với vùng có nhiệt độ cao nhất của lò nung. Đây là thao tác quan

66

trọng, quyết định chất lượng sau này của sản phẩm).

phửn lếch chang lò (lật/trở - sắt - trong lò) = lật/trở (thanh sắt hoặc

công cụ đang được rèn một cách nhanh, chính xác, có kinh nghiệm ngay trong

than đỏ trong lò (chang lò) mà không cần phải đưa ra ngoài mới lật / trở được.

Đây là thao tác yêu cầu kỹ thuật cao vì sau khi lật trở xong phải giữ cố định

phần nào của thanh sắt hoặc công cụ cần được tiếp tục nung, nung đến lúc nào

thì đưa vật nung ra khỏi lò để chế tác).

phửn lếch tình táng (lật - sắt - trên đe) = lật/trở (thanh sắt hoặc công cụ

đang được rèn trên đe một cách chính xác, kỹ thuật khi vật rèn đang nóng đỏ

hoặc đang trong khâu chế tác nguội. Đây là thao tác có kỹ thuật cao của người

thợ cả, tùy thuộc vào vật đang được rèn ở trạng thái nào, nóng đỏ hay nguội

và tùy thuộc vào ý đồ, mục đích chế tác mà việc "phửn lếch tình táng" được

tiến hành như thế nào, nhanh hay chậm, thợ phụ cần đập búa vào chỗ nào và

không đập búa vào chỗ nào v.v... "phửn lếch tình táng" là một trong những

thao tác quan trọng nhất, quyết định chất lượng và hình dáng của sản phầm

rèn Phúc Sen).

c) Nhóm định danh về tính chất: Ở phương thức định danh này thành tố

thứ nhất chỉ tính chất, thành tố thứ hai làm rõ nghĩa cho thành tố thứ nhất về

đánh giá, màu sắc.

Ví dụ:

dàu đây (thẳng - đẹp) = thẳng một cách đẹp = thẳng / thẳng tắp

kho pay (cong - vênh) = cong kiểu vênh = vênh

phjói tắc (giòn - gãy) = gìm đến mức dễ gãy = giòn

phiêng miìn (phẳng - mịn) = phẳng một cách rất mịn, không có chút

gợn = phẳng lì

phiêng thí (phẳng - khít) = phẳng đến mức không phát hiện ra chỗ nối

(khít) trên sản phẩm = phẳng lì

slèo véo (rạn - nứt) = rạn mà vết rạn cho cảm giác rộng như vết nứt

67

khiêu moong (xanh - xám) = xanh ngả sang màu xám = xanh xám

khiêu slứưn (xanh - mượt) xanh một cách đẹp = xanh mướt/xanh lét

sluung boóng (sáng - bóng) sáng tới mức ánh lên = sáng loáng

3.2. Một số nét văn hóa trong các từ ngữ nghề rèn ở Phúc Sen

Trước hết cần phải khẳng định rằng bản thân nghề rèn ở Phúc Sen là

một biểu hiện, là một nét văn hóa hết sức đặc sắc và độc đáo của đồng bào

các dân tộc nói chung, của dân tộc Nùng nói riêng. Sự đặc sắc, độc đáo này

không phải là chung chung mà hết sức cụ thể nếu xét theo góc độ văn hóa học

những biểu hiện vật chất và tinh thần đối với nghề rèn Phúc Sen.

Trong một luận văn ngôn ngữ học, muốn tìm hiểu một vài nét văn hóa

của nghề rèn Phúc Sen, người nghiên cứu buộc phải căn cứ trên từ ngữ của

nghề rèn này. Nói cách khác, thông qua từ ngữ nghề rèn Phúc Sen để phần

nào thấy được đôi nét văn hóa của chủ nhân nghề rèn này. Đây là một việc

làm hết sức khó khăn và nếu không thận trọng và khách quan, người nghiên

cứu dễ trở thành tư biện thậm chí sai về phương pháp.

Sự xem xét, chỉ ra một vài nét văn hóa qua các từ ngữ nghề rèn Phúc

Sen dưới đây là một cố gắng ít nhiều mang tính thử nghiệm của người viết.

Những từ ngữ được thu thập, ở vấn đề này được xem xét theo hai tiêu

chí: (thể hiện về) văn hóa vật chất và (thể hiện về) văn hóa tinh thần.

3.2.1. Văn hóa vật chất

a) Qua nguyên liệu:

Như các nghề thủ công truyền thống khác, việc chuẩn bị nguyên liệu có

vai trò rất quan trọng. Nguyên liệu để sản xuất ở Phúc Sen chủ yếu là sắt thép

(lếch tiều). Điều quan trọng ở đây là việc lựa chọn loại sắt thép (lếch tiều) nào

để rèn (hoón) sản phẩm đã định trước, đó cũng chính là bí quyết khiến sản

phẩm của Phúc Sen có được thương hiệu như ngày nay.

Với nguồn nguyên liệu phong phú, bao gồm nhiều chủng loại khác

nhau. Việc lựa chọn, phân loại sắt thép (lếch tiều) thành từng loại, mỗi loại

68

nguyên liệu tương ứng với từng sản phẩm nhất định. Vì vậy để đảm bảo cho

chất lượng sản phẩm rèn ra, đối với sản phẩm là dao (mịt), búa (phâu), liềm

(lìm), cuốc (cuúc), xẻng (xản) thì nhất thiết nguyên liệu phải dùng sắt (lếch)

và sắt nhíp (lếch nhíp) hoặc sản phẩm là cào (khòa), kéo (kèo) thì nguyên liệu

phải là sắt lá (lếch bâu), quang nhíp (quang nhíp) để đảm bảo khi rèn sản

phẩm mới đạt được độ tinh xảo rắn nhưng không giòn, dẻo mà không mềm.

Các loại sắt già (lếch ké) thường được những thợ rèn dùng để rèn làm

các công cụ như dũa sắt (tào lếch), bào sắt (pào lếch), ... Còn đối với loại sắt

non (lếch oón) không thể dùng để rèn các sản phẩm có chất lượng thì được

các thợ rèn nơi đây tận dụng rèn các sản phẩm có kích thước và trọng lượng

nhỏ hơn để sử dụng tiện lợi hơn như các loại dao nhỏ (mịt eng).

Than (thản) cũng là nguyên liệu chất đốt không thể thiếu trong nghề

rèn. Thợ rèn ở Phúc Sen thường dùng than củi (thản phừn) là các loại gỗ mọc

trên núi đá vôi trong đó có than gỗ nghiến được ưa chuộng nhất vì có nhiệt độ

cao, đỡ hao. Thợ rèn nơi đây thường tự đốt củi lấy than để rèn. Nay rừng ở

Phúc Sen không còn đủ gỗ để cung cấp than cho các lò rèn nữa nên thợ ở đây

phải mua thêm than của nơi khác. Cũng chính vì thiếu nguyên liệu than củi

(thản phừn) để rèn nên các thợ rèn đã dùng thêm than đá (thản thin) để dùng

làm chất đốt cùng than củi (thản phừn) nhằm giảm chi phí và tăng nhiệt độ

khi nung rèn.

b) Qua công cụ:

Xét về tổng thể, những công cụ để chế tác của nghề rèn ở Phúc Sen

cũng tương tự như của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ và của một số dân tộc

thiểu số khác ở miền núi. Tuy nhiên vẫn có một vài điểm khác biệt sau: Lò

rèn (lò hoón) của người Nùng ở Phúc Sen nhất thiết phải được đắp cao (ngang

hông người thợ đứng). Với loại lò rèn này khi xây dựng người thợ phải tốn

nhiều công sức hơn cho việc đắp lò nhưng lại tiện lợi hơn so với lò rèn của

người Việt. Do lò rèn được đắp cao nên khi đốt than người thợ không phải cúi

69

gập người, không bị gò bó về tư thế làm việc. Cùng với loại ống bễ (buốc mò)

được thiết kế nằm ngang, đặt vừa tầm tay nên khi kéo người thợ làm việc rất

nhẹ nhàng, không cần phải tốn nhiều sức. Ngoài ra, do tận dụng được cửa lấy

gió (tu au lùm) trong ống bễ (buốc mò) nên người thợ có thể cùng một lúc làm

được hai việc: một tay kéo bễ (mò) điều chỉnh nhiệt độ trong lò nung (lò hầu).

Nhờ vào việc kéo nhanh hay chậm để luồng gió thổi vào lò nung mạnh hay

nhẹ gió thổi mạnh càng mạnh, than càng đỏ và nhiệt càng cao tay còn lại, thợ

cả dùng kìm mỏ vịt (keèm pác pất) giữ sản phẩm đang chế tác trong lò nung,

rồi nhấc sản phẩm được nung ra đặt lên đe để thợ phụ tiến hành thao tác tiếp

theo. Như vậy, với kiểu lò rèn (lò hoón) này người thợ rèn Phúc Sen đã vừa

tiết kiệm được nhân lực và sức lao động, lại đạt hiệu quả lao động cao.

c) Qua hoạt động chế tác:

Nghề rèn thủ công truyền thống ở Phúc Sen được tạo nên không phải

bằng những lò luyện kim cao tần mà chỉ sử dụng lò rèn thủ công đắp bằng đất

với kỹ thuật rèn bằng mắt, bằng tai cùng với kinh nghiệm cá nhân người thợ rèn.

Qua quan sát thực tế, chúng tôi thấy hoạt động chế tác nghề rèn ở nơi

đây rất khác biệt. Đó chính là kỹ thuật quai búa (quăng lìu): Ở các vùng khác,

khi quai búa người thợ thường vung búa rất xa về phía sau . Với cách vung

búa (vái lìu) như vậy sức mạnh của búa khi đập (hon) có mạnh hơn nhưng

thời gian từ lúc vung búa lên đến lúc đập búa xuống bị kéo dài hơn nên số lần

đập sẽ bị chậm lại và lượng sức sản ra để thực hiện cho một lần đập rất lớn. Ở

Phúc Sen, khi quai búa người thợ chỉ vung búa lên (trong khoảng từ ngang

hoặc bên dưới mặt cho đến quá đỉnh đầu một chút tùy vào ý đồ sử dụng lực

đập của búa như thế nào) rồi hạ búa (lùng lìu) một cách nhẹ nhàng nhưng vẫn

đảm bảo đủ lực tối đa cho một lần đập. Với cách vung búa như vậy người thợ

rèn có thể tăng số lần đập lên nhiều lần. Ngoài ra, với số lượng người đập búa

khác nhau, từ một đến ba thợ phụ tùy vào yêu cầu của thợ cả sẽ có các kiểu

đập: đập một búa (hon pạt toọc), đập hai búa (hon sloong bạt), (hon slam bạt)

70

đập ba búa, nếu đập ba búa, sản phẩm hoặc phôi rèn sẽ được đập liên hồi (hon

lai bạt), đây là một yêu cầu rất quan trọng của quá trình chế tác, do vật cần

đập đang nóng đỏ cần phải nhanh chóng thao tác (đập) trước khi vật kỹ thuật

nâng búa là một ưu điểm bởi tiết kiệm sức lao động mà hiệu quả vẫn cao. Ở

các vùng khác khi quai búa thường chỉ hai tay búa cùng đập cho một phôi rèn

(lếch hoón) trên một đe (táng), gồm một tay búa tạ và một tay búa cầm tay.

Còn ở Phúc Sen cùng một lúc có thể có tới bốn thợ cùng đập cho một sản

phẩm trên đe, gồm ba tay búa tạ và một tay búa cầm tay cầm lái được gọi là

đập liên hồi (hon lai bạt). Các tay búa vung lên hạ xuống rất nhịp nhàng. Nhìn

các tay búa đang đập sắt (hon lếch) tưởng như họ đang múa, cho dù có tới bốn

người thợ cùng đứng quanh đe và bốn tay búa cùng vung lên hạ xuống.

Những tay búa đan xen lần lượt không bao giờ vướng vào nhau rất khéo léo.

Một điểm khác biệt nữa ở nghề rèn thủ công Phúc Sen là kỹ thuật tôi

(khịn) và kỹ thuật căn chỉnh bằng mắt (lìu sòi dàu tha) của người thợ rèn. Là

nghề thủ công truyền thống "sử dụng kỹ thuật rèn bằng mắt, bằng tai" và

bằng kinh nghiệm cá nhân của mỗi người thợ rèn, đòi hỏi người thợ phải có

trình độ chuyên môn cao, chỉ cần quan sát cũng có thể thấy được chất lượng

và kỹ thuật khi rèn. Kỹ thuật tôi (khịn) yêu cầu người thợ rèn cần phải thực

hiện một cách thuần thục, có kỹ thuật và kinh nghiệm để sản phẩm rèn xong

phải đạt đủ chất lượng không cong vênh (kho pay), rạn nứt (slèo véo), hay bị

giòn gãy (phjói tắc) mà phải phẳng (phiêng), thẳng (dàu), ... Để đạt được yêu

cầu đó khi tôi (khịn) cần phải nhúng (dụp) từ từ phần cần tôi xuống nước tôi

(nặm ca rác) sau đó nhanh chóng nhấc lên rồi lại tiếp tục nhúng xuống nước

tôi sao cho màu xanh xám (khiêu moong) ở phần thân sản phẩm không bị lấn

xuống phần lưỡi (lỉn) và để cho phần lưỡi đạt đến độ trắng (khao) sáng bóng

(sluủng boóng) là được, đến khi đạt được nhiệt độ thích hợp người thợ tôi

toàn bộ sản phẩm (khịn thuủn) xuống nước tôi (nặm ca rác) rồi nhấc sản phẩm

lên luôn. Kỹ thuật tôi ở nơi đây người khác khó có thể bắt chước bởi kỹ thuật

71

đó dựa vào đôi mắt và kinh nghiệm cá nhân của người thợ rèn.

Ngoài ra, kỹ thuật mài (pẳn) cũng đáng chú ý sản phẩm được mài tay

(pẳn mừn) trên các phiến đá mài (thin pẳn) lấy từ núi đá vôi của Phúc Sen. Kỹ

thuật mài cũng yêu cầu ở người thợ rèn quan sát bằng mắt cộng với đôi tay

thuần thục. Chỉ kỹ thuật cá nhân điêu luyện mới cho ra đời những sản phẩm

rèn Phúc Sen đạt được chất lượng và độ tinh xảo cao.

d) Qua sản phẩm

Các sản phẩm rèn của Phúc Sen rèn một phần nhằm vào mục đích và

nhu cầu sử dụng của người dân (đối với từng loại sản phẩm). Người thợ Phúc

Sen với truyền thống lao động cần cù, sáng tạo và đôi tay khéo léo đã tạo ra

những sản phẩm được đông đảo bà con nông dân ưa chuộng và trở thành hàng

hóa có giá trị kinh tế cao.

Người Nùng ở Phúc Sen cũng như đồng bào dân tộc nói chung cũng

như đồng bào dân tộc nói chung sống cuộc sống gắn liền với rừng, với núi đá

vôi nên các sản phẩm như dao quắm (sa khoang) được rèn với hình dáng có

mỏ quắp quặp nhọn như mỏ quạ thuận lợi cho việc đi rừng, đốn củi, chặt cây

mà không sợ lưỡi dao chặt xuống đá nhờ vào mỏ quắm. Tùy vào nhu cầu sử

dụng mà loại dao quắm (sa khoang) có nhiều kích thước và hình dáng khác

nhau. Dao quắm (sa khoang) thường được đàn ông đi rừng sử dụng. Ngoài ra

còn có dao quắm nhỏ (sa khoang eng) được rèn dành cho phụ nữ và trẻ con

(muốn theo người lớn tập đi rừng). Cuộc sống của đồng bào dân tộc gắn liền

với săn bắt, hái lượm nên các sản phẩm rèn phục vụ cho điều đó là mũi tên

(hèo pưn), bẫy (khắp) và các loại bẫy thú (khắp cú) rất cần thiết. Rừng đa

dạng và đa dạng cả về loài thú nên bẫy cũng có nhiều loại khác nhau như: bẫy

chim (khắp nộc), bẫy sóc (khắp choỏn), bẫy thỏ (khắp thó), bẫy nai (khắp

quang), bẫy hổ (khắp slưa)...

Bên cạnh địa hình bao bọc bởi núi đá vôi, cuộc sống gắn liền núi rừng,

cư dân Nùng ở nơi đây còn có cuộc sống gắn liền với canh tác nông nghiệp.

72

Với mỗi mùa vụ liềm (lìm) là sản phẩm được ưa chuộng và cần thiết cho hoạt

động thu hoạch. Vào mùa nương rẫy, sản xuất hoa màu, các sản phẩm cào

(khòa), cuốc (cuúc) được sử dụng nhiều và rất cần thiết cho việc chăm sóc

từng loại hoa màu. Cuốc bàn (cuúc phả) xuất hiện hầu hết ở các gia đình làm

nông nghiệp có công dụng chính là để cuốc đất. Với địa hình miền núi, đồng

bào chủ yếu canh tác trên nương rẫy, việc sử dụng cuốc là phù hợp với thực tế

sản xuất ở địa phương. Cuốc bướm (cúuc phỉ), cào bướm (khòa phỉ), cào be

(khòa hu), cào bé (khòa eng) là những sản phẩm có kích thước nhỏ, nhẹ,

mỏng nên thuận tiện cho hoạt động trên nương rẫy. Do diện tích đất canh tác

ít nên đồng bào nơi đây có tập quán trồng xen canh nhiều loại cây trồng khác

nhau trên một đám nương, chẳng hạn trồng ngô xen bí, đậu tương. Khi ngô

đến kỳ vun gốc thì các loại cây trồng xen cũng đang thời kỳ phát triển. Nếu sử

dụng loại cào cuốc to để vun ngô thì sẽ làm ảnh hưởng tới rễ của các loại cây

trồng khác, vì thế các loại cào cuốc nhỏ, mỏng sẽ hạn chế được việc rễ cây bị

đứt ảnh hưởng tới sinh trưởng. Với nhu cầu tiện lợi mà ít tốn sức thì loại cuốc

chim (cúuc nộc) sử dụng để đào thu hoạch củ và cạy các loại đất đá là phù

hợp. Hoặc để thu dọn đá sỏi nằm lẫn trong đất canh tác thì cào ba góc (khòa

slam pác) được rèn ra nhằm loại bỏ sỏi.

Đối với một số vùng canh tác cây trông thuốc lá vì thế cần có sản phẩm

chuyên dụng để chế biến loại cây trồng này. Dao thái thuốc lá (mịt rẹn lào

bâu) được dùng để thái lá của cây thuốc lá trong sản xuất. Yêu cầu của việc

thái sợi phải nhỏ mịn, do vậy dao chuyên dụng cần phải to bản, cứng và dẻo,

lưỡi mỏng, thân phải dày và nặng thì mới có thể đạt yêu cầu sử dụng cũng

như yêu cầu sản xuất rèn.

Việc cày bừa ở nơi đây cũng mang nét đặc trưng riêng biệt. Đó là mỗi

loại cày, bừa được dùng cho từng khu vực canh tác nhất định. Với mục đích

khác nhau: Xẻng đắp bờ (xản pốc cằn) là loại xẻng chuyên dụng chỉ dùng để

đắp bờ ruộng nương. Lưỡi cày ruộng nước (lỉn thây nà nặm) là loại cày chỉ để

73

cày ruộng nước. Lưỡi cày nương (lỉn thây rầy) chỉ dùng để cày trên nương

rẫy. Lưỡi bừa một hàng răng (lỉn phưa thói héo toọc) (bừa chỉ có một hàng

răng), (lưỡi bừa hai hàng răng) (lỉn phưa sloong héo) (bừa có hai hàng răng),

lưỡi bừa một sức kéo (lỉn phưa vài toọc) (bừa một sức kéo chỉ kéo một trâu

hoặc một bò), lưỡi bừa hai sức kéo (lỉn phưa sường) (bừa hai sức kéo) có thể

dùng sức kéo của hai trâu hoặc cả hai bò (hoặc một trâu một bò) đều được.

Trong sản xuất chăn nuôi các sản phẩm nghề rèn cũng phục vụ đắc lực cho

việc nuôi trồng ở nơi đây. Với địa hình núi rừng, việc chăn thả gia súc trâu,

bò, dê là hoạt động phổ biến tuy nhiên chăn thả như thế khó tránh khỏi việc

gia súc bị thú rừng bắt hoặc bị lạc, do vậy các sản phẩm như chuông trâu

(roong vài), chuông bò (roong mò). chuông dê (roong bẻ) được rèn ra nhằm

giúp đồng bào theo dõi gia súc khi chăn thả. Ngoài ra với loại dao thái chuối

(mịt sắt duốc) cũng là sản phẩm chuyên dụng để phục vụ chăn nuôi gia súc.

Sống với núi rừng, các sản phẩm cưa (câư), cưa đôi (câư sloong), búa

chặt (phâu thẳm), rìu chặt (phủ thẳm), ...là những công cụ thiết yếu, đắc lực

cho việc khai thác gỗ để dựng nhà hoặc đốn củi dùng trong sinh hoạt gia

đình... của đồng bào Nùng.

Các sản phẩm dùng trong sinh hoạt gia đình cũng chiếm một vị trí quan

trọng và cần thiết trong đời sống của đồng bào Phúc Sen. Đặc biệt mỗi sản

phẩm mang một chức năng riêng biệt, có những đặc trưng riêng phù hợp nhu

cầu thị hiếu của người sử dụng: Dao thái (mịt sắt) loại dao chỉ dùng để thái

thịt hoặc rau củ. Dao chặt xương (mịt bác đúc) loại dao chuyên dùng để chặt

các loại xương... Các loại dao trên còn đáp ứng được nhu cầu về hình dáng

chủng loại khác nhau để người dùng lựa chọn như: dao thái lưỡi trái (mịt sắt

lỉn sải): Loại dao cho người thuận tay phải; Dao thái lưỡi phải (mịt sắt lỉn

soa); Dao thái hai lưỡi (mịt sắt sloong lỉn) loại dao thái tay trái hay tay phải

đều được; Dao chặt xương chuôi gỗ (mịt bác đúc cẳn mạy), dao chặt xương

chuôi ống (mịt bác đúc cẳn buốc), dao chặt xương đầu thẳng (mịt bác đúc thu

74

dàu), dao chặt xương đầu vuông (mịt bác đúc thu vuung), dao chặt xương mũi

nhọn (mịt bác đúc đăng sliểm),... là những loại dao có công dụng khác nhau

nhằm phục vụ các mục đích và sở thích khác nhau của người dùng. Người thợ

rèn Phúc Sen còn tận dụng tính tiện lợi của dao để sản xuất ra loại "dao vừa

thái vừa chặt" (mịt ngám sắt ngám bác) hết sức độc đáo. Sự sáng tạo trong

sản xuất của người thợ rèn nhằm giải phóng sức lao động cho đồng bào trở

thành cụ thể với sản phẩm kẹp nhổ sắn (nẹp lốc sẳn).

3.2.2 Văn hóa tinh thần

a) Nghề rèn với các phong tục tập quán của địa phương

Trước tiên, phải nói đến việc thờ phụng Tổ nghề. Nhìn chung, đồng

bào các dân tộc ở Cao bằng nói chung, ở Phúc Sen nói riêng không có phong

tục cúng giỗ các Ông Tổ nghề và xây dựng các đền, miếu hoặc dựng bài vị ở

đình làng để thờ phụng như các làng nghề thủ công của người Kinh. Tuy

nhiên, trong tâm thức của người dân ở đây vẫn có một Ông Tổ nghề không rõ

tên tuổi, quê hương bản quán gọi là Lão Pấu Troó Lếch (nghĩa là "cụ Tổ nghề

rèn sắt"). Để tỏ lòng biết ơn Ông Tổ nghề vô danh, với đạo nghĩa uống nước

nhớ nguồn, người thợ rèn Phúc Sen đã lập bàn thờ Ông ngay tại các lò rèn và

đều đặn thắp hương vào các ngày rằm, mồng một hàng tháng.

Lễ cúng Tổ nghề thường được tổ chức vào các dịp lễ tết như Tết Tháng

giêng, rằm tháng bảy. Vào tháng giêng, từ đêm 30 Tết các thợ rèn đều cất hết

đồ nghề và quét dọn lò rèn sạch sẽ. Để tẩy uế, trừ tà và đón mừng năm mới,

người ta cắm một cành lá bưởi lên lò rèn và cắm một cành lá bưởi trước cửa

nhà. Suốt đêm 30 Tết người ta thắp hương ở lò rèn như thắp hương ở ban thờ

tổ tiên để đón Ông Tổ nghề về ăn tết với con cháu. Trong thâm tâm, họ chờ

đón Ông về ăn tết với gia đình và sang năm mới phù hộ cho lò rèn của họ

được luôn đỏ lửa và vang tiếng búa đe. Sáng Mồng một Tết, làm cơm cúng tổ

tiên trong nhà xong, người ta bê mâm cơm cúng đó ra ngoài sàn để cúng Ông

Tổ nghề. Đồ cúng thường là một con gà sống thiến luộc, một cân thịt lợn

75

luộc, một cặp bánh chưng, một chục phong bánh khảo, rượu lễ, vàng hương.

Từ đêm 30 Tết cho đến Rằm tháng giêng, đêm nào người ta cũng thắp hương

tại lò rèn tuy không đặt đồ lễ.

Vào dịp Tết tháng bảy, đồng bào ở đây thường ăn tết vào ngày mười tư

và mười rằm (âm lịch). Ngày mười rằm, sau khi làm cơm cúng tổ tiên và cúng

Thổ công đầu bản xong, người ta lại bê mâm lễ ra cúng Ông Tổ lò rèn rồi mới

cúng các vong hồn. Đồ cúng dịp này gồm một con vịt quay, một cân thịt lợn

quay, ít bánh gai, rượu lễ và vàng hương.

Ngoài các lễ tết cúng bái, hằng năm sau Tết Nguyên đán, ngoài làm lễ

cúng "xuống đồng" (lôồng tôồng) như các nơi khác, ở đây còn có phong tục

chọn ngày khai trương lò rèn giống như việc xem ngày để mở hàng đầu năm

của những người làm nghề buôn bán ở miền xuôi. Đây là công việc mở đầu

quan trọng nên người ta phải nhờ đến thầy Tào xem, chọn ngày lành tháng

tốt. Việc chọn ngày giờ khai trương lò rèn căn cứ vào dòng họ. Dòng họ nào

hợp với ngày giờ nào thì được phép chọn những ngày giờ tương ứng để đốt lò

khai trương. Đây là thủ tục mang tính chất tượng trưng nhưng hết sức quan

trọng trong quan niệm của người thợ rèn. Khi chọn được ngày giờ thích hợp,

người thợ chỉ nổi lửa lò rèn lấy may, sau đó lại tiếp tục vui chơi. Việc làm rèn

có thể tiến hành vào bất kỳ ngày nào sau Tết.

b) Nghề rèn với đời sống văn học nghệ thuật dân gian

Trong đời sống văn học dân gian của người dân Phúc Sen, ngoài những

truyền thuyết, truyện kể liên quan đến Ông Tổ nghề rèn, người dân ở nơi đây

còn lưu truyền khá nhiều những câu nói cửa miệng, những câu ca dao, thành

ngữ liên quan đến công việc làm rèn. Có lẽ đó cũng là một cách để truyền

nghề và dạy nghề cho con cháu. Ở đây ta có thể tìm thấy khá nhiều câu nói

vần vè liên quan đến từng khâu đoạn trong kinh nghiệm làm rèn. Chẳng hạn,

nói về kinh nghiệm đốt lò, đồng bào có câu:

Phầy đing lí hoán lếch

76

Phầy xinh lí tháo khang

Nghĩa là:

Rèn sắt cần đỏ lửa

Lửa xanh thì tháo gang

Hoặc:

Khín sạ phầy đáo rum

Khín phấu phầy đeng quýnh

Nghĩa là:

Tôi dao cần nhỏ lửa

Tôi búa cần lửa to.

Nói về sự phân công bố trí nhân lực trong làm rèn, có câu:

Slam pấu le hoón phấu

Nậu toọc le hoón lìm.

Nghĩa là:

Ba người thì rèn búa Một người chỉ rèn liềm. Nói về kinh nghiệm làm nghề theo thời vụ, có câu:

Bươn slam hoón khòa vun háu tạy Bươn pét hoón lìm chủng au nà.

Nghĩa là:

Tháng ba rèn cào vun ngô Tháng tám rèn liềm để gặt lúa.

Hoặc người thợ nói về kinh nghiệm chế tác các sản phẩm rèn để phù

hợp với địa hình và điều kiện sản xuất như sau:

Phát khằn rây sạ kho

Phát khằn nà sạ dàu.

Nghĩa là:

Phát bờ mương cần dao quắm

Phát bờ ruộng cần dao thẳng.

Trong kho tàng văn học dân gian của đồng bào Phúc Sen còn lưu

truyền nhiều câu đố liên quan đến nghề rèn, ví dụ:

Đố:

77

Nả đeng quýnh quýnh

Cần khuýnh vằn đăm

(Le cại mựng)

Trả lời:

Nả đeng quýnh quýnh

Cần khuýnh vằn đăm

(Le ăn táng lếch)

Nghĩa là:

Đố:

Mặt nhẵn trơ trơ

Người đánh cả ngày

(Là cái gì)

Trả lời:

Mặt nhẵn trơ trơ Người đánh cả ngày (Là cái đe sắt)

Nghề rèn còn trở thành đề tài trong các cuộc hát giao duyên của

nam nữ thanh niên nơi đây. Trong các cuộc hát đối đáp tình tứ, họ thường ứng tác những câu đối liên quan đến công việc lao động rèn sắt của mình. Việc ứng tác như vậy nhằm gây cười, các động tác trong nghề rèn (động tác thụt bễ thổi gió) được mô tả một cách hóm hỉnh, ẩn hàm ý "đố tục giảng thanh".

Ví dụ: Nam:

Cại mựng slí lon pho phi

Nhín lòng tâng lá ná đeng đáo phựt

Tram núng cại mựng nau ngòi?

Nữ:

Có tram cại mựng núng chắng so nau

Ăn mò phấu phầy thiêng lếch

Nhín lòng tâng lá phầy đeng đáo phật.

Tạm dịch:

78

Nam hỏi:

Cái gì kéo kêu phò phò

Ấn đến đáy cùng má đỏ cười vang

Hỏi em cái gì nói nghe:

Nữ đáp:

Anh hỏi cái gì chúng em xin thưa

Cái bễ thổi lửa lò rèn

Ấn đến đáy cùng má đỏ cười vang.

Trong các bài hát đồng dao của trẻ em nơi đây, có nhiều bài mô tả nghề

làm rèn của người lớn. Thường đó là những bài hát mà mỗi khi đi chăn trâu,

lấy củi trẻ em vừa hát vừa làm động tác bắt chước người lớn làm việc. Dưới

đây là nguyên văn một bài nói về công việc quai búa làm rèn:

Tạm dịch:

Cu hứn mứng lòng Mày lên tao xuống

Mứng lòng cu hứn Tao xuống mày lên

Sloong rạu sày hoón Hai ta cùng rèn

Slí rạu sày hoón Bốn ta cùng đập

Hoón hấu lếch bang Rèn cho sắt mỏng

Pền mạc mịt phjắc Thành con dao thái

Sằm phjắc hắt hăm Băm rau sớm tối

Hoón hấu lếch mừn Đập cho sắt mềm

Đáy mjạc xạ kho Được con dao quắm

Pác kho lúm lẳm Mỏ cong như diều

Chủng phéo rây mjéy Dùng để trồng cây

Mjéy hừn pền pài Cây mọc thành rừng

Slí hả hốc pấu Bốn năm sáu người

79

Sày hoón sày tụp Cùng rèn cùng đập

Đập thành lưỡi cày Tụp pền pạc thây

Đi cày ruộng nước Pây thây nà nặm

Rèn thành cái cào Hoón pền mjạc khòa

Cào nương trồng ngô Pây phéo háu tạy

Bãi ngoài chân trời Pền pài kừn phya

Mày lên tao xuống Mừng hứn cu lòng

Tao xuống mày lên Cu lòng mừng hứu

Cùng đập cùng rèn Sày hoón sày hoón

Người người vui vẻ Pấu pấu hôn nhùng

Cũng giống như nhiều làng nghề truyền thống ở miền xuôi nổi tiếng

khác, nghề rèn ở Phúc Sen từ lâu đã nổi tiếng trong vùng và đi vào các câu ca

truyền tụng trong vùng. Nếu như nói về các làng nghề ở miền xuôi người ta

có các câu như: Gốm Bát Tràng, vàng Định Công, đồng Kẻ Sặt, sắt Nga

Hoàng v.v... thì ở vùng miền núi huyện Quảng Uyên (Quảng Hòa cũ, Cao

Bằng) này cũng truyền tụng bài ca sau:

Tạm dịch:

Khọn lếch Phya Chang Rèn sắt Phya Chang

Thảo khang Pắc Rằng Tháo gang Pắc Rằng

Đổng sâng Lạc Diển Nong nia Lạc Diển

Mảo chúp bản Phảng Mũ nón bản Phảng

Ngọa tôm Lủng Kác Ngói đất Lũng Kác

Mác xá Lũng Vài Làm đạn Lũng Vài

Mò vài Lủng Mọ Trâu bò Lũng Mới

Hương tẻm Phya Thắp Hương thơm Phya Thắp

Chỉa bổn Keng Phung Giấy bản Keng Phung

Bản Lủng me uất Bản Lủng quê chàm.

Nghề rèn từ lâu đã trở thành nguồn sống gắn bó thân thiết với người dân Phúc

80

Sen, vì vậy trong các "câu cửa miệng", trong những lời chúc tụng đầu năm, ngoài

những lời chúc phúc tốt lành, đồng bào nơi đây không quên chúc nhau làm ăn tấn tới

trong nghề rèn. Dưới đây là một bài chúc dịp năm mới của đồng bào Phúc Sen:

Tạm dịch:

Chúc mừng năm mới Cóng hò pi mọ

Cả nhà bình an Tằng làn pình an

Con cháu mau lớn Lục lan cải vại

Trâu bò đầy chuồng Mò vài têm cai

Thóc gạo đầy gác Háu năm têm cạc

Lò rèn đỏ lửa Thiênh lếch long phầy

Làm gì được nấy Kúc mựng đáy mựng

Mọi người vui vẻ. Pấu pấu hôn nhùng

Như vậy, có thể nói tầm ảnh hưởng của "văn hóa bản nghề" là không

nhỏ, nó đã chạm tới nhiều mặt trong đời sống tinh thần của đồng bào Phúc

Sen, từ phong tục tập quán đến lời ăn tiếng nói cũng như các sinh hoạt văn

hóa, văn nghệ dân gian của bản làng. Chính điều đó đã góp phần làm nên nét

đặc sắc trong "văn hóa bản nghề" của người Nùng ở Phúc Sen.

Tiểu kết

Qua nghiên cứu phương thức định danh của từ ngữ nghề rèn Phúc Sen

cũng như bất kỳ từ ngữ của một nghề bất kỳ nào, đều có hai phương thức định

danh chính là định danh trực tiếp và định danh gián tiếp. Phương thức định

danh các từ ngữ này chủ yếu được định danh dựa trên đặc điểm ngữ nghĩa mà

các thành tố phụ đảm nhiệm.

Ngoài chức năng định danh, các từ ngữ nghề rèn ở Phúc Sen còn cho thấy

một số nét văn hóa, thể hiện đặc điểm của con người và cuộc sống của đồng bào

dân tộc, con người và cuộc sống đã luôn gắn chặt và thích nghi với môi trường

(rừng núi) cho thấy tính sáng tạo, cần cù trong lao động của đồng bào nơi đây...

Cũng qua từ ngữ nghề rèn, có thể thấy sắc thái dân gian thể hiện tinh thần lạc quan

và tâm hồn hòa mình vào lao động nghề nghiệp để không đánh mất đi những giá trị

81

tinh thần cũng như vật chất đã có từ lâu đời của đồng bào Nùng ở Phúc Sen.

KẾT LUẬN

Với mục đích tìm hiểu về cấu trúc, ngữ nghĩa và phương thức định

danh từ ngữ dùng trong nghề rèn ở Phúc Sen (Quảng Uyên, Cao Bằng) và tìm

hiểu một vài biểu hiện về văn hóa dân tộc Nùng qua từ ngữ trong nghề rèn để

hiểu rõ hơn về văn hóa của người Nùng nói riêng, của đồng bào dân tộc ít

người nói chung, cũng như lưu giữ, bảo tồn hệ thống từ ngữ và những kinh

nghiệm sản xuất của một nghề thủ công truyền thống, luận văn đã được tiến

hành và thu được những kết quả nghiên cứu sau:

1. Trình bày khái quát về người Nùng và làng rèn Phúc Sen; Thu thập

và trình bày một số khái niệm ngôn ngữ như hình vị, từ, ngữ, nghĩa của từ;

vấn đề định danh và các đơn vị định danh, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn

hóa. Đây là những cơ sở lý thuyết cần thiết để dựa vào đó, chúng tôi tiến hành

nghiên cứu từ ngữ nghề rèn Phúc Sen.

2. Qua nghiên cứu điền dã, chúng tôi đã thu thập được một danh sách

từ ngữ nghề rèn Phúc Sen gồm 379 từ ngữ (xin xem phụ lục 1a và 1b). Ngoài

ra, với mục đích lưu giữ, bảo tồn cả những kinh nghiệm sản xuất của một

nghề thủ công truyền thống, chúng tôi đã thu thập được một danh sách (chủ

yếu là ngữ) được gọi là "các thao tác được định danh hóa" gồm 147 thao tác

(xin xem phụ lục 3). Những thao tác này là sự thể hiện những kinh nghiệm

sản xuất của người thợ rèn Phúc Sen. Nó được tiến hành theo thói quen người

thợ mà trước nay chưa được gọi tên. Chúng tôi đã mạnh dạn thu thập, lập

thành danh sách nhằm bảo tồn cả về mặt ngôn ngữ và văn hóa bởi trong một

tương lai không xa, khi mà máy móc thay thế sức con người trong nghề rèn,

nhiều kinh nghiệm của người thợ sẽ mất dần một cách tất yếu.

3. Danh sách 379 từ ngữ nói trên được xem xét về đặc điểm cấu tạo và

đặc điểm ngữ nghĩa.

82

Về cấu tạo: từ ngữ nghề rèn Phúc Sen có cấu tạo khá phong phú. Nhóm

từ ngữ nghề rèn có thể được cấu tạo dưới dạng từ đơn, từ phức (gồm từ ghép

đẳng lập và từ ghép chính phụ) và ngữ. Trong đó, từ ngữ nghề rèn Phúc Sen

không có dạng cấu tạo là từ láy nhưng ở dạng từ phức, kiểu cấu tạo từ ghép

chính phụ lại chiếm tỉ lệ nhiều hơn cả và đa dạng nhất. Ở dạng cấu tạo là cụm

từ (ngữ), các từ ngữ nghề rèn chủ yếu là ngữ danh từ (cụm danh từ). Các từ

ngữ nghề rèn có cấu tạo là từ ghép chính phụ hoặc ngữ danh từ đều có một

thành tố chính (thành tố trung tâm - C) đứng ở đầu từ, cụm từ và các thành tố

phụ sau (có thể được cấu tạo là một hình vị, từ, hoặc một kết cấu chính phụ ở

bậc nhỏ hơn).

Về ngữ nghĩa: Do các từ ngữ nghề rèn chủ yếu là từ phức chính phụ nên

các thành tố chủ yếu có quan hệ phân nghĩa. Hay nói cách khác, trong các từ

ngữ có kiểu cấu tạo này có một thành tố trung tâm (C) và ít nhất một thành tố

phụ nghĩa trực tiếp (P). Các thành tố trong thành tố phụ nghĩa trực tiếp lại có

thể gồm các thành tố nhỏ hơn (c, p, p1, p2 ...) được cấu tạo dựa trên quan hệ

hợp nghĩa hoặc phân nghĩa. Thành tố chính/gốc/trung tâm (C) đều là các danh

từ chỉ tên gọi và các động từ chỉ hoạt động, thao tác. Các thành tố phụ thường

là các từ bổ sung ý nghĩa cho thành tố chính (tên gọi sản phẩm, thao tác chế

tác, công cụ),... của nghề rèn (được nêu ở C).

4. Về phương thức định danh từ ngữ nghề rèn Phúc Sen được định danh

theo hai tiêu chí: Định danh trực tiếp và định danh gián tiếp.

+ Định danh trực tiếp dựa trên 4 nhóm từ ngữ của nghề rèn gồm: nhóm

nguyên liệu, nhóm công cụ chế tác, nhóm hoạt động chế tác và nhóm sản

phẩm (Xin xem phụ lục 2).

+ Định danh gián tiếp tìm hiểu về các phương thức định danh dựa trên

sự vật, động tác và tính chất của từ ngữ nghề rèn.

5. Ngoài chức năng định danh, các từ ngữ nghề rèn Phúc Sen cho thấy

một phần văn hóa vật chất và tinh thần, các mối quan hệ giữa con người và

83

con người với thiên nhiên, các phong tục tập quán, ... của người Nùng. Nói

cách khác, 379 từ ngữ được khảo sát đã cho thấy dấu ấn văn hóa nông nghiệp

mang tính tự cung tự cấp kết hợp săn bắt, hái lượm ở miền núi – nơi có thung

lũng, rừng rậm và núi cao. Đồng thời, các từ ngữ này còn cho thấy một phần

những suy nghĩ, ước mong và niềm vui lao động, trong cộng đồng xã hội

Nùng truyền thống.

6. Nghề rèn ở Phúc Sen (Quảng Uyên, Cao Bằng) được coi là di sản

quý báu ở vùng núi phía Bắc nước ta. Nó đóng góp quan trọng vào đời sống

của đồng bào dân tộc miền núi. Do vậy, các giá trị của nó cần được bảo tồn và

phát huy, đặc biệt là hệ thống từ ngữ dùng trong nghề rèn. Việc nghiên cứu

tìm hiểu từ ngữ dùng trong nghề rèn ở Phúc Sen thiết nghĩ là việc làm cần

thiết, góp phần giữ gìn và bảo vệ ngôn ngữ dân tộc, phát huy bản sắc văn hóa

dân tộc Nùng. Mặt khác, nó giúp chúng ta hiểu một cách sâu sắc hơn, đầy đủ

hơn về một nghề nghiệp truyền thống cũng như nền văn hóa lâu đời của đồng

84

bào dân tộc Nùng.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Diệp Quang Ban (1998), Ngữ pháp tiếng Việt, tập 1- 2, NXB Giáo dục

Hà Nội

2. Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam, (2006), “Nghề thủ công truyền

thống của người Nùng”, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

3. Nguyễn Tài Cẩn (1975) Ngữ pháp tiếng Việt, tiếng - từ ghép - đoản ngữ,

NXB ĐH & THCN Hà Nội.

4. Đỗ Hữu Châu (1960), Từ vựng ngữ nghĩa Tiếng Việt,NXB Đại học Quốc

gia Hà Nội.

5. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, NXB Đại học Quốc

gia Hà Nội.

6. Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán (2002), Đại cương Ngôn ngữ học, tập 1,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

7. Đỗ Hữu Châu (1999), Các bình diện của từ và từ tiếng Việt, NXB Đại

học Quốc gia Hà Nội.

8. Hoàng Thị Châu (1995), Tiếng Việt trên các miền đất nước – Phương

ngữ học tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội

9. Nguyễn Văn Chiến (1992), Ngôn ngữ học đối chiếu và Ngôn ngữ học

các Ngôn ngữ Đông Nam Á.

10. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (1998), Cơ sở ngôn

ngữ học tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.

11. Mai Ngọc Chừ (chủ biên) (2007), Nhập môn Ngôn ngữ học.

12. Nguyễn Đức Dân (1982), Ngôn ngữ học thống kê, NXB ĐH và THTN

Hà Nội.

13. Trần Trí Dõi (1999), Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số Việt Nam, NXB Đại

học Quốc gia Hà Nội.

14. Lạc Dương (1969), “Tính Phong phú Tày - Nùng”, Việt Nam độc lập, V.Bắc.

15. Nguyễn Hàm Dương (1969), “Xây dựng và phát triển hệ thống từ vựng

85

Tày - Nùng”, Việt Nam độc lập V. Bắc.

16. Phạm Đức Dương (2000), Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam

Á, NXB KHXH Hà Nội.

17. Phạm Đức Dương (2000), Bức tranh ngôn ngữ - Văn hóa tộc người ở

Việt Nam và Đông Nam Á, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

18. Hữu Đạt, Trần Trí Dõi, Đào Thanh Lam (1998), Cơ sở tiếng Việt, NXB

Giáo dục Hà Nội.

19. Nguyễn Thiện Giáp (1985), Từ vựng học tiếng Việt, NXB Đại học và

Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

20. Nguyễn Thiện Giáp (1996), Từ và nhận diện từ Tiếng Việt, NXB Gíáo

dục Hà Nội.

21. Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên) (2004), Lược sử Việt ngữ học, NXB Khoa

học xã hội, Hà Nội.

22. Nguyễn Thiện Giáp (2008), Giáo trình ngôn ngữ học, nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội

23. Nguyễn Thiện Giáp (2009), Các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ,

NXB Gíáo dục Hà Nội.

24. Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết (2002),

Dẫn luận Ngôn ngữ học, NXB Gíáo dục Hà Nội.

25. Hoàng Văn Hành, Hà Quang Năng, Nguyễn Văn Khang (1998), Từ tiếng Việt: Hình thái - cấu trúc - từ láy - từ ghép - chuyển loại, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

26. Phạm Văn Hảo (1988), “Về đặc trưng một số đường đồng ngữ trong các phương ngữ tiếng Việt”, Tiếng Việt và các phương ngữ Đông Nam Á, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

27. Cao Xuân Hạo (2007), Tiếng Việt mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ

nghĩa, NXB Giáo dục, Hà Nội.

28. Nguyễn Văn Khang (1999), Ngôn ngữ học xã hội - những vấn đề cơ bản,

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

29. Nguyễn Văn Khang (2002), Từ ngữ nghề nghiệp gốm sứ Bát Tràng, Viện

86

Ngôn ngữ học, Hà Nội.

30. Robert Lado (2003), Ngôn ngữ học qua các nền văn hóa, NXB Đại học

Quốc gia Hà Nội.

31. John Lyons (1999), Ngữ nghĩa học dẫn luận, NXB Giáo dục, Hà Nội. .

32. Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo,(1970) “Một vài ý kiến về các từ mượn

trong tiếng Tày - Nùng”, Tạp chí ngôn ngữ,(1), tr.35-61.

33. Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo, (1970) “Vài nét về sự phát triển của tiếng Tày

– Nùng sau Cách mạng Tháng Tám ”, Tạp chí ngôn ngữ,(3), tr.42-48.

34. Hoàng Văn Ma Lục Văn Pảo, (1971), Ngữ pháp Tày – Nùng, NXB

KHXH, Hà Nội.

35. Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo (1984) “Từ điển Tày Nùng – Việt” , NXB

Từ điển bách khoa, Hà Nội.

36. Hoàng Văn Ma (2002), Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số Việt Nam - Một vấn đề về quan hệ cội nguồn và loại hình học, NXB KHXH Hà Nội.

37. Hoàng Nam (1992), Dân tộc Nùng ở Việt Nam, NXB Văn hóa dân tộc,

Hà Nội.

38. Hoàng Thị Nhuận, Nguyễn Thị Yên (2001), Nghề rèn truyền thống của người Nùng An ởbản Phya Chang, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội.

39. Hoàng Thị Nhuận, Nguyễn Thị Yên (2002), Văn hóa truyền thống của

người Nùng An, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

40. Hoàng Thị Nhuận, Nguyễn Thị Yên (2005), Văn hóa làng nghề của

người Nùng, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

41. Hoàng Phê (chủ biên) (1992), Từ Điển Tiếng Việt, Trung tâm từ điển

ngôn ngữ, Hà Nội.

42. F.D Saussure (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, NXB KHXH,

Hà Nội.

43. Lý Toàn Thắng (2005), Ngôn ngữ học tri nhận: Từ lý thuyết đại cương

đến thực tiễn tiếng Việt, NXB KHXH, Hà Nội.

87

44. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Gíao dục, Hà Nội.

45. Lê Quang Thiêm (2008), Ngữ Nghĩa Học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

46. Đoàn Thiện Thuật (1986), “Về kho từ vựng chung Việt - Tày”, Ngững

vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ phương Đông.

47. Lê Văn Trường (2004), Từ ngữ nghề nghiệp nghề gốm Quế, Những vấn

đề ngôn ngữ học, NXB KHXH, Hà Nội.

48. Viện Khoa học xã hội - Viện dân tộc học (1992), Các dân tộc Tày, Nùng

ở Việt Nam, Hà Nội.

49. Viện Ngôn ngữ học (1972), Tìm hiểu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở

Việt Nam, Hà Nội.

50. Viện Ngôn ngữ (2002), Từ Điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Trung tâm

Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.

51. Bùi Văn Vượng (1998), Làng nghề thủ công truyền thống, NXB Khoa

học xã hội, Hà Nội.

52. Nguyễn Như Ý, Hà Quang Năng, Đỗ Việt Hùng, Đặng Ngọc Lệ (1938), Từ Điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

53. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1999), Đại từ điển tiếng Việt, NXB VHTT,

88

Hà Nội.

PHỤ LỤC

89

PHỤ LỤC 1a Từ ngữ nghề rèn Phúc Sen (xếp theo trật tự tiếng Nùng - tiếng Việt)

90

STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 Từ bai moóc thản bao binh ben buốc lò hầu buốc mò búp bảm cạn cắm keèm cẳn cẳn buốc cẳn cồ hất cẳn cẳn cồ hất hô cẳn cồ hất slưứng cẳn mạy cẳn sliểm câư câư lếch cậư liêm câư mừn câư sloong chằng chằng lếch chắp chậu chậu thản chòi chòi mằn cúuc cúuc nộc cúuc phả cúuc phỉ cùm cùm făng dàu dàu đây Nghĩa cào móc than xà beng gói ống dẫn gió ống bễ lồi lõm nứt thợ cả chuôi chuôi ống thanh sắt tạo chuôi thanh sắt tạo mỏ thanh sắt tạo dáng chuôi gỗ chuôi nhọn cái cưa cưa sắt câu liêm cưa cầm tay cưa hai người cân cân sắt dít bung bung đựng than sửa chỉnh sửa cuốc cuốc chim cuốc bàn cuốc bướm sắc sắc ngọt thẳng thẳng đẹp

91

36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 dảu chạc ten đang đăng đăng sliểm đeng đoòng hắp dẩu hất boóng héo héo khéo hòi hon hon bang hon chòi mằn hon đảng hon đảng dàu hon đỏi hon lếch 1 hon lếch 2 hon nháng hon pìn slưứng hon quảng hon rày hon slèng hon sòi mằn hon tói hon xáu hô hô lịnh hô sa hô san hô slì hô tửn hôi hôi lếch 1 hôi lếch 2 hôi lỉn huung keèm keèm eng dấu trạm khắc tên thân mũi mũi nhọn màu đỏ tôn đóng dấu đánh bóng khều khều răng hồi đập đập mỏng đập chỉnh sửa đập nguội đập nguội thẳng đập nhẹ đập sắt nghề rèn đập thô đập tạo dáng đập phá đe mỏng đập mạnh đập nắn chỉnh gõ đập lắc đập mỏ khẩu lệnh mỏ quặm xẻng rán mỏ dài mỏ ngắn chạm chạm cắt sắt chạm bằng sắt chạm lưỡi hồng kìm kìm bé

92

76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 keèm í keèm kha cảy keèm hung keèm hung nhỉ keèm pác cáy keèm pác pất kén kèo kèo tắt đoòng kèo tắt nhặp kèo tắt phjum kèo tắt thoón mạy kíp mạ kìu lò kịu kha kha táng kháu khắp khắp choỏn khắp cú khắp nộc khắp nu khắp quang khắp slưa khắp thó kheng khi lếch khịn khịn đây khịn kịu khịn lỉn khịn phjói tắc khịn slèo véo khịn thủun khịn vái khiêu khiêu moong khiêu slưứn kho kìm tiểu kìm càng cua kìm to kìm trung kìm mỏ gà kìm mỏ vịt cứng kéo kéo cắt tôn kéo cắt may kéo cắt tóc kéo cắt tỉa cây móng ngựa cầu lò vênh chân chân đe khô cái bẫy bẫy sóc bẫy thú bẫy chim bẫy chuột bẫy nai bẫy hổ bẫy thỏ rắn phoi rèn tôi tôi đẹp tôi vênh tôi lưỡi tôi giòn gãy tôi rạn nứt tôi toàn bộ tôi hỏng xanh xanh xám xanh bóng kho

93

116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 kho pay khòa khòa eng khòa hu khòa phỉ khòa slam coóc khoọn khoọn dưưng khoọn dưưng mừn khoọn dưưng slí fuung 1 khoọn dưưng slí fuung 2 khoọn lếch khoọn slìm khoọn sliểm lẳn lẳn cẳn lẳn na cẳn lẳn rìm lén lén bấu lén cồ lếch lếch bâu lếch ké lếch hoón lếch nhíp lếch oón lếch slư V lếch tiều lếch thu láp lìm lỉn lỉn be lỉn phưa lỉn phưa sloong thói héo toọc lỉn phưa sường lỉn phưa thói héo toọc lỉn phưa vài toọc lỉn thây lỉn thây nà nặm kho pay cào cào bé cào be cào bướm cào ba góc tán tán hình tán hình tròn tán hình chữ nhật tán hình vuông tán sắt tán cạnh tán nhọn vê vê chuôi vê dày chuôi vê mép uốn uốn chuôi uốn cong sắt sắt lá sắt già phôi rèn sắt nhíp sắt non sắt hình chữ V sắt thép sắt đầu láp cái liềm lưỡi lưỡi loe lưỡi bừa lưỡi bừa hai hàng răng lưỡi bừa hai sức kéo lưỡi bừa một hàng răng lưỡi bùa một sức kéo lưỡi cày lưỡi cày ruộng nước

94

lỉn thây rầy 156 lìu 157 lìu í 158 lìu hất đây 159 lìu hoón kỉ thuật 160 lìu hoón phạt slưứng 161 lìu hung 162 lìu phạt slưứng hào 163 lìu phạt slưứng xoong xứ 164 lìu quảng 165 lìu sòi mằn 166 lò hầu 167 lò hoón 168 lồ to 169 lồ to của cái 170 lồ to mịt dáng 171 lùng lìu 172 lương 173 174 mạ tấu 175 mạt 176 mảy 177 mạy hàn xa 178 mạy phung cẳn 179 mằn 180 miìn 181 mịt 182 mịt bác đúc 183 mịt bác đúc cẳn buốc 184 mịt bác đúc cẳn mạy 185 mịt bác đúc đăng sliểm 186 mịt bác đúc thua dàu 187 mịt bác đúc thua vuung 188 mịt bàu 189 mịt bàu cải 190 mịt bàu cẳn mạy 191 mịt bàu cẳn tam 192 mịt bàu eng 193 mịt cải 194 mịt cúp 195 mịt cúp cải lưỡi cày nương búa búa cầm tay búa để làm đẹp búa để rèn kỹ thuật búa để rèn tạo dáng búa tạ búa để tạo dáng thô búa để tạo dáng hoàn chỉnh búa phá búa để chỉnh sửa lò nung lò rèn lồ đựng lồ đựng đồ nghề lồ đựng sản phẩm hạ búa màu vàng mã tấu lau cháy que thông lò que hàn chuôi chỉnh mịn dao dao chặt xương dao chặt xương chuôi ống dao chặt xương chuôi gỗ dao chặt xương mũi nhọn dao chặt xương đầu thẳng dao chặt xương đầu vuông dao bầu dao bầu to dao bầu chuôi gỗ dao bầu chuôi liền dao bầu nhỏ dao to dao tông dao tông to

95

196 mịt cúp eng 197 mịt dáng 198 mịt dáng sloong cẳn 199 mịt dáng sloong lỉn 200 mịt eng 201 mịt kho 202 mịt kho eng 203 mịt kho lỉn slì 204 mịt kho lỉn toọc 205 mịt kho lỉn tửn 206 mịt kho sloong lỉn 207 mịt ngám sắt ngám bác 208 mịt rẹn lào bâư 209 mịt sa khoang 210 mịt sa khoang eng 211 mịt sắt 212 mịt sắt cải 213 mịt sắt eng 214 mịt sắt lỉn sải 215 mịt sắt lỉn soa 216 mịt sắt sloong lỉn 217 mịt sliểm 218 mịt sliểm cải 219 mịt sliểm eng 220 mò 221 mò dàu 222 mò khoang 223 mò pao lùm 224 mò páu 225 muốc lếch nặm ca rác 226 nẹp 227 nẹp cháo 228 nẹp lốc sẳn 229 nẹp lếch 230 niểng 231 oón 232 pao 233 pao páu 234 pào lếch 235 dao tông nhỏ dao thái chuối dao thái chuối 2 chuôi dao thái chuối 2 lưỡi dao nhỏ dao quắm dao quắm nhỏ dao quắm lưỡi dài dao quắm một lưỡi dao quắm lưỡi ngắn dao quắm hai lưỡi dao vừa thái vừa chặt dao thái thuốc lá dao phát cỏ dao phát cỏ nhỏ dao thái dao thái to dao thái nhỏ dao thái lưỡi trái dao thái lưỡi phải dao thái hai lưỡi dao nhọn dao nhọn to dao nhọn nhỏ cái bễ bễ đứng bễ nằm bễ quạt gió bễ thổi bụi sắt nước để tôi kẹp kẹp bếp kẹp nhổ sắn kẹp sắt gỉ mềm bọc quạt thổi bào bằng sắt

96

236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 pào lướn pạo pay pẳn pẳn hào pẳn lẩư pẳn mừng pẳn khao pittoong pha pha mò phạt bấu phạt đang phạt đăng phạt hiing phạt hô phạt lỉn phạt sắn lăng phạt slưứng phạt slứưng hào phạt slứứng xoong xứ phạt thu phạt toọng phâu khiệc phừn phâu hung phâu mầu phâu teng phâu thẳm mạy phing phing kháu phiêng Phiêng miìn phiêng thí phjói phjói tắc phó phớ phủ phủ khiếc phừn phủ lỉn be bào nhẵn cái bừa lệch mài mài thô mài bóng mài tay mài trắng pittông nắp nắp bễ tạo chuôi tạo thân tạo mũi tạo hình tạo mỏ tạo lưỡi tạo sống lưng tạo dáng tạo dáng thô tạo dáng hoàn chỉnh tạo đầu tạo bụng búa bổ củi búa tạ búa tay búa đinh búa chặt cây hơ hơ khô phẳng phẳng mịn phẳng khít giòn giòn gãy vỡ phớ rìu rìu bổ củi rìu lưỡi loe

97

276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 phủ thẳm mạy phung phung cẳn phung pha phung roong phung tau phuốc phửn phửn lếch pốc pốc lếch quang nhíp quăng lìu roong roong be roong mò roong vài rù cuung lùm rù slọ lùm sa phầy sắn lăng sòi sòi dàu sòi mằn slạm 1 slạm 2 slạm cải slạm eng slạm fấn lứ slạm khẻo slạm lếch 1 slạm lếch 2 slạm lếch tiều slạm lỉn slạm ngám slạm rù slạm tiều slào slèo slèo véo rìu chặt cây hàn hàn chuôi hàn nắp hàn chuông hàn nối bó lật lật sắt vùi vùi sắt quang nhíp quai búa cái chuông chuông dê chuông bò chuông trâu lỗ thông gió lỗ đẩy gió nhóm lò sống lưng nắn nắn thẳng nắn chỉnh đục cắt đục to đục bé cắt phần thừa cắt răng đục bằng sắt cắt sắt cắt sắt thép cắt lưỡi đục vừa đục lỗ cắt thép rửa rạn rạn nứt

98

316 317 318 319 320 321 322 323 324 325 326 327 328 329 330 331 332 333 334 335 336 337 338 339 340 341 342 343 344 345 346 347 348 349 350 351 352 353 354 355 sli sli phầy sliim sluung sluung boóng táng táng coọc táng coọc kha pất táng coọc kha táu táng coóc sliểm táng mừn tao tào tào khi lếch tào lếch tào miìn tào muốc lếch tào quảng tảy táng tảy toọc tắc tặt tẩu lìu hung tèo pưn thản thản phừn thản thin thiêng lếch thin pẳn thin pẳn đeng thin pẳn hào thin pẳn miìn thôồng phuy tieỏ tỉn tỉn cẳn tiều tiều mừn tó phầy tói nung nung lửa cái thuổng sáng sáng bóng đe đe thuyền đe thuyền chân vịt đe thuyền chân rùa đe có góc nhọn đe hình tròn đao dũa dũa phoi rèn dũa sắt dũa mịn dũa bụi sắt dũa phá đế đe đế đột gẫy xếp thợ phụ mũi tên than than củi than đá lều rèn đá mài đá mài đỏ đá mài thô đá mài mịn thùng phuy dẻo viền viền chuôi thép thép hình tròn nhóm lò gõ

99

356 357 358 359 360 361 362 363 364 365 366 367 368 369 370 371 372 373 374 375 376 377 378 379 tọn sa lò toọc toọc mì tảy toọc nắm tảy toọc lếch toong táng toọn pay tôôm nức tu au lùm thẳm thẳm lếch thí thu thu dàu thu pẻn thu vuung vái lìu véo xản xản pốc cằn xản sliểm xản vuung xậu xiích quét lò nung đột đột có đế đột không đế đột sắt dàn đe di chuyển đất sét cửa lấy gió chặt chặt sắt khít đầu đầu thẳng đầu dẹt đầu vuông vung búa mẻ xẻng xẻng đắp bờ xẻng nhọn xẻng vuông chậu thước đo

PHỤ LỤC 1b

Từ ngữ nghề rèn Phúc Sen (xếp theo trật tự tiếng Việt - tiếng Nùng)

STT Từ

100

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 bào nhẵn bào sắt bẫy bẫy chim bẫy chuột bẫy hổ bẫy nai bẫy sóc bẫy thỏ bẫy thú bễ bễ thổi bễ đứng bễ nằm bễ quạt gió bể tôi bó bọc búa búa bổ củi búa chặt cây búa chỉnh sửa búa đinh búa làm đẹp búa phá búa rèn kỹ thuật búa rèn tạo dáng búa tạ búa tạ búa tạo dáng thô búa tạo dáng hoàn chỉnh búa tay búa tay bụi sắt bung Nghĩa pào lưứn pào lếch khắp khắp nộc khắp nu khắp slưa khắp quang khắp choỏn khắp thó khắp cú mò mò páu mò dàu mò khoang mò pao lùm nặm ca rác pục (phuốc) pao (phung) lìu phâu khiệc phừn Phâu thẳm mạy lìu sòi mằn phâu teng lìu hất đây lìu quảng lìu hoón kỉ thuật lìu hoón phạt slưứng lìu hung phâu hung lìu phạt slưứng hào lìu phạt slưứng xoong xứ lìu í phâu mầu muốc lếch chậu

101

36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 bung than bừa cào cào ba góc cào be cào bé cào bướm cào móc than cắt cắt lưỡi cắt phần thừa cắt răng cắt sắt cắt sắt thép cắt thép cân cân sắt câu liêm cầu lò cháy chặt chặt sắt chân chân đe chậu chỉnh chỉnh sửa chuôi chuôi gỗ chuôi ống chuôi nhọn chuông chuông bò chuông dê chuông trâu cong cong vênh cuốc cuốc bàn cuốc bướm chậu thản pạo khòa khòa slam coóc khòa hu khòa eng khà phỉ bai moóc thản slạm slạm lỉn slạm fấn lứ slạm khẻo slạm lếch slạm lếch tiều slạm tiều săng (chằng) săng lếch câư liểm kìu lò mảy thẳm thẳm lếch kha kha táng xậu mằn chòi mằn cẳn cẳn mạy cẳn buốc cẳn sliểm roong roong mò roong bẻ roong vài kho kho pay cúuc cúuc phả cúuc phỉ

102

cuốc chim 76 cưa 77 cưa đôi 78 cưa sắt 79 cưa tay 80 cửa lấy gió 81 cứng 82 dàn đe 83 dao 84 dao bầu 85 dao bầu chuôi gỗ 86 dao bầu chuôi liền 87 dao bầu nhỏ 88 dao bầu to 89 dao chặt xương 90 dao chặt xương chuôi gỗ 91 dao chặt xương chuôi ống 92 dao chặt xương đầu thẳng 93 dao chặt xương đầu vuông 94 dao chặt xương mũi nhọn 95 dao nhỏ 96 dao nhọn 97 dao nhọn nhỏ 98 dao nhọn to 99 100 dao phát cỏ 101 dao phát cỏ nhỏ 102 dao quắm 103 dao quắm nhỏ 104 dao quắm lưỡi dài 105 dao quắm lưỡi ngắn 106 dao quắm một lưỡi 107 dao quắm hai lưỡi 108 dao thái 109 dao thái chuối 110 dao thái chuối 2 chuôi 111 dao thái chuối 2 lưỡi 112 dao thái hai lưỡi 113 dao thái lưỡi phải 114 dao thái lưỡi trái 115 dao thái nhỏ cúuc nộc câư câư sloong câư lếch câư mừn tu au lùm kén toong táng mịt mịt bàu mịt bàu cẳn mạy mịt bàu cẳn tam mịt bàu eng mịt bàu cải mịt pác đúc mịt bác đúc cẳn mạy mịt bác đúc cẳn buốc mịt bác đúc thua dàu mịt pác đúc thua vuung mịt pác đúc đăng sliểm mịt eng mịt sliểm mịt sliểm eng mịt sliểm cải mịt sa khoang mịt sa khoang eng mịt kho mịt kho eng mịt kho lỉn slì mịt kho lỉn tửn mịt kho lỉn toọc mịt kho sloong lỉn mịt sắt mịt dáng mịt dáng sloong cẳn mịt dáng sloong lỉn mịt sắt sloong lỉn mịt sắt lỉn soa mịt sắt lỉn sải mịt sắt eng

103

116 dao thái to 117 dao thái thuốc lá 118 dao to 119 dao tông 120 dao tông nhỏ 121 dao tông to 122 dao vừa thái vừa chặt 123 dấu trạm khắc tên 124 di chuyển 125 dít 126 dẻo 127 dũa 128 dũa bụi sắt 129 dũa sắt 130 dũa mịn 131 dũa phá 132 dũa phoi rèn 133 đá mài 134 đá mài đỏ 135 đá mài mịn 136 đá mài thô 137 đánh bóng 138 đao 139 đập 140 đập chỉnh sửa 141 đập mạnh 142 đập mỏng 143 đập nắn chỉnh 144 đập nguội 145 đập nguội thẳng 146 đập nhẹ 147 đập phá 148 đập sắt 149 đập tạo dáng 150 đập thô 151 đe mỏng 152 đất sét 153 đầu 154 đầu dẹt 155 đầu thẳng mịt sắt cải mịt rẹn lào bâư mịt cải mịt sa cúp mịt sa cúp eng mịt sa cúp cải mịt ngám sét ngám pác dảu chạc tên toọn pay chắp tieỏ tào tào muốc lếch tào lếch tào miìn tào quảng tào khi lếch thin pẳn thin pẳn đeng thin pẳn miìn thin pẳn hào hất boóng tao hon hon chòi mằn hon slèng hon bang hon sòi mằn hon đảng hon đảng dàu hon đỏi hon quảng hon lếch hon pìn slứưng hon nháng hon rày tôôm nức thu thu pẻn thu dàu

104

156 đầu vuông 157 đe 158 đe góc nhọn 159 đe thuyền 160 đe thuyền chân rùa 161 đe thuyền chân vịt 162 đe tròn 163 đế đe 164 đế đột 165 đỏ 166 đóng dấu 167 đột 168 đột có đế 169 đột không đế 170 đột sắt 171 đục 172 đục lỗ 173 đục nhỏ 174 đục sắt 175 đục to 176 đục vừa 177 gãy 178 gỉ 179 giòn 180 giòn gãy 181 gõ 182 gõ đập 183 gói 184 hàn 185 hàn chuông 186 hàn chuôi 187 hàn nắp 188 hàn nối 189 hạ búa 190 hồi 191 hồng 192 hơ 193 hơ khô 194 kéo 195 kéo cắt may thu vuung táng táng coọc sliểm táng coọc táng coọc kha táu táng coọc kha pất táng mừn tảy táng tảy toọc đeng hắp dâấu toọc toọc mì tảy toọc nắm tảy toọc lếch slạm slạm slù slạm eng slạm lếch slạm cải slạm ngám tắc niểng phjói phjói tắc tói hon tói ben phung phung roong phung cẳn phung pha phung táu lùng lìu hòi hùung phing phing kháư kèo lèo tắt nhặp

105

196 kéo cắt tỉa cây 197 kéo cắt tóc 198 kéo cắt tôn 199 kẹp 200 kẹp bếp 201 kẹp sắt 202 kẹp nhổ săn 203 kìm 204 kìm bé 205 kìm càng cua 206 kìm mỏ gà 207 kìm mỏ vịt 208 kìm tiểu 209 kìm to 210 kìm trung 211 khẩu lệnh 212 khều 213 khều răng 214 khít 215 khô lau 216 lắc đập 217 lật 218 lật sắt 219 lệch 220 lò nung 221 lò rèn 222 lồ đựng 223 lồ đựng đồ nghề 224 lồ đựng sản phẩm 225 lỗ đẩy gió 226 lỗ thông gió 227 lồi lõm 228 liềm 229 lưỡi 230 lưỡi loe 231 lưỡi bừa 232 lưỡi bừa một hàng răng 233 lưỡi bừa hai hàng răng 234 lưỡi bùa một sức kéo 235 kèo tắt thoón mạy kèo tắt phjum kèo tắt bạch đoòng nẹp nẹp cháo nẹp lếch nẹp lốc sẳn keèm keèm eng keèm kha cảy keèm pác cáy keèm pác pất keèm í keèm hung keèm hung nhỉ hô lịnh héo héo khẻo thí kháư mạt hon xáu phửn phửn lếch pay lò hoón lò hầu lồ to lồ to cú cải lồ to mịt dáng rù slọ lùm rù cuung lùm búp bảm lìm lỉn lỉn be lỉn phưa lỉn phưa thói héo toọc lỉn phưa sloong thói héo toọc lỉn phưa vài toọc

lưỡi bừa hai sức kéo lưỡi cày lưỡi cày ruộng nước lưỡi cày nương

106

236 237 238 239 240 mã tấu 241 mài 242 mài bóng 243 mài tay 244 mài thô 245 mài trắng 246 mẻ 247 méo 248 mềm 249 mịn 250 mỏ 251 mỏ quặm 252 mỏ ngắn 253 mỏ dài 254 móng ngựa 255 mũi 256 mũi nhọn 257 mũi tên 258 nắn 259 nắn chỉnh 260 nắn thẳng 261 nắp 262 nắp bễ 263 nhóm lò 264 nghề rèn 265 nung 266 nung lửa 267 nứt 268 ống bễ 269 ống dẫn gió 270 phẳng 271 phẳng khít 272 phẳng mịn 273 phoi rèn 274 phôi rèn 275 phớ lỉn phưa sường lỉn thây lỉn thây nà nặm lỉn thây rầy mạ tấu pẳn pẳn lẩư pẳn mừng pẳn hào pẳn khao véo búp oón miìn hô hô sa hô tửn hô slì kíp mạ đăng đăng sliểm tèo pưn sòi sòi mằn sòi dàu pha pha mò sa phầy hon lếch 2 sli sli phầy cạn buốc mò buốc lò hầu phiêng phiêng thí phiêng miìn khi lếch lếch hoón phớ

rạn rạn nứt rắn rìu rìu bổ củi rìu chặt cây rìu lưỡi loe rửa sáng sáng bóng sắc sắc ngọt sắt sắt chữ V sắt đầu láp sắt già sắt lá sắt nhíp sắt non sắt thép sống lưng sửa tán tán cạnh tán hình tán hình chữ nhật tán hình tròn tán hình vuông tán nhọn

107

276 pittông 277 quai búa 278 quang nhíp 279 quạt thổi 280 que hàn chuôi 281 que thông lò 282 quét lò nung 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 Tán sắt 313 314 315 tạo bụng tạo chuôi tạo dáng pittông quăng lìu quang nhíp pao páu mạy phung cẳn mạy hàn xa tọn sa lò slèo slèo véo kheng phủ phủ khiếc phừn phủ thẳm mạy phủ lỉn be slào sluung slung boóng cùm cùm făng lếch lếch slư V lếch thu láp lếch ké lếch bâu lếch nhíp lếch oón lếch tiều sắn lăng chòi khoọn khoọn slìm khoọn dưưng khoọn dưưng slí fuung khoọn dưưng mừn khoọn dưưng slí fuung khoọn sliểm khoọn lếch phạt toọng phạt bấu phạt slưứng

tạo dáng thô tạo dáng hoàn chỉnh tạo đầu tạo hình tạo lưỡi tạo mỏ tạo mũi tạo sống lưng tạo thân thản thản phừn thản thin thanh sắt tạo chuôi thanh sắt tạo dáng thanh sắt tạo mỏ thẳng thẳng đều thân thép thép tròn thiêng lếch thợ cả thợ phụ thuổng thùng phuy thước đo tôi tôi hỏng tôi lưỡi tôi giòn gãy tôi rạn nứt tôi toàn bộ tôi vênh tôi đẹp

108

316 317 318 319 320 321 322 323 324 325 326 327 328 329 330 331 332 333 334 335 336 337 338 339 340 341 342 343 344 345 346 347 348 349 350 Tôn trạm 351 trạm bằng sắt 352 trạm cắt sắt 353 trạm lưỡi 354 355 uốn phạt slứưng hào phạt slứứng xoong xứ phạt thu phạt hiing phạt lỉn phạt hô phạt đăng phạt sắn lăng phạt đang than than củi than đá cẳn cồ hất cẳn cẳn cồ hất slứưng cẳn cồ hất hô dàu dàu đây đang tiều tiều mừn lều rèn cắm keèm tẩư lìu hung sliim thồng phuy xích khịn khịn vái khịn lỉn khịn phjói tắc khịn slèo véo khịn thủun khịn kịu khịn đây đoòng hôi hôi lếch 1 hôi lếch 2 hôi lỉn lén

109

356 uốn chuôi 357 uốn cong 358 vàng 359 vê 360 vê chuôi 361 vê dày chuôi 362 vê mép 363 vênh 364 viền 365 viền chuôi 366 vỡ 367 vùi 368 vùi sắt 369 vung búa 370 xà beng 371 xanh 372 xanh bóng 373 xanh xám 374 xẻng 375 xẻng đắp bờ 376 xẻng nhọn 377 xẻng rán 378 xẻng vuông 379 xếp lén bấu lén cồ lương lẳn lẳn cẳn lẳn na cẳn lẳn rìm kịu tỉn tỉn cẳn phó pốc pốc lếch vái lìu bao binh khiêu khiêu slứưn khiêu moong xản xản pốc cằn xản sliểm hô san xản vuung tặt

PHỤ LỤC 2 Từ ngữ nghề rèn Phúc Sen phân theo nhóm (theo trật tự tiếng Nùng – Việt)

1. Nhóm từ ngữ chỉ nguyên liệu của nghề rèn STT Từ

1 2 9 3 4 5 6 7 8 10 11 12 13 14 15 16 đoòng lếch lếch bâu lếch ké lếch nhíp lếch oón lếch slư V lếch thu láp lếch tiều quang nhíp thản thản phừn thản thin thôồng phuy tiều tiều mừn Nghĩa tôn sắt sắt lá sắt già sắt nhíp sắt non sắt hình chữ V sắt đầu láp sắt thép quang nhíp than than củi than đá thùng phuy thép thép tròn

110

2. Nhóm từ ngữ chỉ công cụ chế tác của nghề rèn STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 Từ bai moóc thản buốc lò hầu buốc mò cắm keèm cẳn cồ hất cẳn cẳn cồ hất hô cẳn cồ hất slưứng chằng chậu chậu thản dảu chạc ten hôi hôi lếch Nghĩa cào móc than ống dẫn gió ống bễ người thợ cả thanh sắt tao chuôi thanh sắt tạo mỏ thanh sắt tạo dáng cân bung bung đựng than dấu trạm khắc tên chạm chạm bằng sắt

kha táng kèem keèm eng keèm í keèm kha cảy keèm hung keèm hung nhỉ keèm pác cáy keèm pác pất kìu lò lìu lìu í lìu hất đây lìu hoón kỉ thuật lìu hoón phạt slưứng lìu hung lìu phạt slưứng hào lìu phạt slưứng xoong xứ lìu quảng lìu sòi mằn lò hầu lò hoón lồ to lồ to của cái lồ to mịt dáng

111

14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 mạy hàn xa 40 mạy phung cẳn 41 mò 42 mò dàu 43 mò khoang 44 mò pao lùm 45 mò páu 46 47 48 49 50 51 52 53 nặm ca rác pào lếch pha mò pao páu pittoong rù cuung lùm rù slọ lùm slạm chân đe kìm kìm bé kìm tiểu kìm càng cua kìm to kìm trung kìm mỏ gà kìm mỏ vịt Cầu lò búa búa cầm tay búa để làm đẹp búa để rèn kỹ thuật búa để rèn tạo dáng búa tạ búa để tạo dáng thô búa để tạo dáng hoàn chỉnh búa phá búa để chỉnh sửa lò nung lò rèn lồ đựng lồ đựng đồ nghề lồ đựng sản phẩm que thông lò que hàn chuôi cái bễ bễ đứng bễ nằm bễ quạt gió bễ thổi nước để tôi bào bằng sắt nắp bễ quạt thổi pittông lỗ thông gió lỗ đấy gió đục

54 slạm cải đục to

55 slạm eng đục bé

56 slạm ngám đục vừa

57 slạm lếch đục bằng sắt

58 táng đe

59 táng coọc đe thuyền

60 táng coọc kha pất đe thuyền chân vịt

61 táng coọc kha táu đe thuyền chân rùa

62 táng coóc sliểm đe có góc nhọn

63 táng mừn đe hình tròn

64 tảy táng đế đe

65 tảy toọc đế đột

66 tẩu lìu hung thợ phụ

67 tào dũa

68 tào miìn dũa mịn

69 tào quảng dũa phá

70 tào lếch dũa sắt

71 thiêng lếch lều rèn

72 thin đeng đá đỏ

73 thin pẳn đá mài

74 thin pẳn hào đá mài thô

75 thin pẳn miìn đá mài mịn

76 toọc đột

77 toọc mì tảy đột có đế

78 toọc nắm tảy đột không đế

79 toọc lếch đột sắt

80 toong táng dàn đe

81 tôôm nức đất sét

82 tu au lùm cửa lấy gió

83 xậu chậu

112

84 xiích thước đo

3. Nhóm từ ngữ chỉ hoạt động chế tác của nghề rèn

113

STT Từ ben búp bảm cạn cẳn cẳn mạy cẳn buốc cẳn sliểm chằng lếch chắp chòi chòi mằn cùm cùm făng dàu dàu đây đang đăng đăng sliểm đeng hắp dẩu hất boóng héo héo khẻo hon hon slèng hon bang hon chòi mằn hon đảng hon rày hon đỏi hon quảng hon nháng hon lếch hon sòi mằn hon đảng hon đảng dàu hon pìn slứưng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 Nghĩa gói lồi lõm / không phẳng nứt chuôi chuôi gỗ chuôi ống chuôi nhọn cân sắt dít sửa chỉnh sửa sắc sắc ngọt thẳng thẳng đẹp thân mũi mũi nhọn đỏ đóng dấu đánh bóng khều khều răng đập đập mạnh đập mỏng đập nắn chỉnh đập nguội đe mỏng đập nhẹ đập phá đập thô đập sắt đập chỉnh sửa đập nguội đập nguội thẳng đập tạo dáng

114

38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 hon tói hon xáu hòi hô hô sa hô tửn hô slì hô lịnh hôi hôi lỉn hòi huung kén kiụ kha kha táng kháu kheng khi lếch khịn khịn vái khịn lỉn khịn phjói tắc khịn slèo véo khịn thủun khịn kiụ khịn đây khiêu khiêu slưứn khiêu moong kho kho pay khoọn khoọn slìm khoọn dưưng khoọn dưưng slí fuung khoọn dưưng mừn khoọn dưưng slí fuung khoọn sliểm khoọn lếch gõ đập lắc đập hồi mỏ mỏ quặm mỏ ngắn mỏ dài khẩu lệnh chạm chạm lưỡi hồi hồng cứng vênh chân chân đe khô rắn phoi rèn tôi tôi hỏng tôi lưỡi tôi giòn gãy tôi rạn nứt tôi toàn bộ tôi vênh tôi đẹp xanh xanh bóng xanh xám cong cong vênh / vênh tán tán cạnh tán hình tán hình chữ nhật tán hình tròn tán hình vuông tán nhọn tán sắt

lẳn lẳn bấu lẳn na bấu lẳn rìm lén lén bâu lếch hoón lỉn lỉn be lương lùng lìu

nẹp lếch niểng oón pao pao páu pào lướn

115

78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 mạt 90 mảy 91 mằn 92 miìn 93 muốc lếch 94 95 96 97 98 99 100 pay 101 pẳn 102 pẳn lẩư 103 pẳn mừng 104 pẳn khao 105 pốc 106 pốc lếch 107 pha 108 phạt slưứng 109 phạt hiing 110 phạt toọng 111 phạt cẳn 112 phạt thu 113 phạt lỉn 114 phạt hô 115 phạt đăng 116 phạt sắn lăng 117 phạt đang vê vê chuôi vê dày chuôi vê mép uốn uốn chuôi phôi rèn lưỡi lưỡi loe màu vàng hạ búa lau cháy chỉnh mịn bụi sắt kẹp sắt gỉ mềm bọc quạt gió bào nhẵn lệch mài mài bóng mài tay mài trắng vùi vùi sắt nắp tạo dáng tạo hình tạo bụng tạo chuôi tạo đầu tạo lưỡi tạo mỏ tạo mũi tạo sống lưng tạo thân

116

118 phing 119 phing kháu 120 phiêng 121 phiêng thí 122 Phiêng miìn 123 phjói 124 phjói tắc 125 phó 126 phung 127 phung roong 128 phung bấu 129 phung pha 130 phung tau 131 phuốc 132 phửn 133 phửn lếch 134 quăng lìu 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 sa phầy sắn lăng sòi sòi mằn sòi dàu slạm slạm lỉn slạm fấn lứ slạm khẻo slạm lếch slạm lếch tiều slạm rù slạm tiều slào slèo slèo véo sli sli phầy sluung sluung boóng tào muốc lếch tào khi lếch tắc hơ hơ khô phẳng phẳng khít phẳng mịn giòn giòn gãy / giòn vỡ hàn hàn chuông hàn chuôi hàn nắp hàn nối bó lật lật sắt quai búa nhóm lò sống lưng nắn nắn chỉnh nắn thẳng cắt cắt lưỡi cắt phần thừa cắt răng cắt sắt cắt sắt thép đục lỗ cắt thép rửa rạn rạn nứt nung nung lửa sáng sáng bóng dũa bụi sắt dũa phoi rèn gẫy

tặt tỉn tỉn bấu tieỏ tó phầy tói tọn sa lò toọn pay thẳm thẳm lếch thí thin đeng thu thu pẻn thu dàu thu vuung

158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 vái lìu 175 véo xếp viền viền chuôi dẻo nhóm lò gõ quét lò nung di chuyển chặt chặt sắt khít đá đỏ đầu đầu dẹt đầu thẳng đầu vuông vung búa mẻ

4. Nhóm từ ngữ chỉ sản phẩm của nghề rèn

STT Từ

117

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 bao binh câư câư mừn câư sloong câư lếch cậư liêm cúuc cúuc phả cúuc phỉ cúuc nộc hô san kèo kèo tắt nhặp kèo tắt thoón mạy kèo tắt phjum Nghĩa xà beng cái cưa cưa cầm tay cưa đôi cưa sắt câu liêm cuốc cuốc bàn cuốc bướm cuốc chim xẻng rán kéo kéo cắt may kéo cắt tỉa cây kéo cắt tóc

kèo tắt đoòng kíp mạ khắp khắp nộc khắp nu khắp slưa khắp quang khắp choỏn khắp thó khắp cú khòa khòa slam coóc khòa hu khòa eng khà phỉ lìm lỉn phưa lỉn phưa thói héo toọc lỉn phưa sloong thói héo toọc lỉn phưa vài toọc lỉn phưa sường lỉn thây lỉn thây nà nặm lỉn thây rầy

118

16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 mạ tấu 41 mịt 42 mịt bàu 43 mịt bàu eng 44 mịt bàu cải 45 mịt bàu cẳn mạy 46 mịt bàu cẳn tam 47 mịt bác đúc 48 mịt bác đúc cẳn mạy kéo cắt tôn móng ngựa cái bẫy bẫy chim bẫy chuột bẫy hổ bẫy nai bẫy sóc bẫy thỏ bẫy thú cào cào ba góc cào be cào bé cào bướm cái liềm lưỡi bừa lưỡi bừa một hàng răng lưỡi bừa hai hàng răng lưỡi bừa một sức kéo lưỡi bừa hai sức kéo lưỡi cày lưỡi cày ruộng nước lưỡi cày nương mã tấu dao dao bầu dao bầu nhỏ dao bầu to dao bầu chuôi gỗ dao bầu chuôi liền dao chặt xương dao chặt xương chuôi gỗ

119

49 mịt bác đúc cẳn buốc 50 mịt bác đúc thua dàu 51 mịt bác đúc thua vuung 52 mịt bác đúc đăng sliểm 53 mịt cải 54 mịt cúp 55 mịt cúp eng 56 mịt cúp cải 57 mịt dáng 58 mịt dáng sloong cẳn 59 mịt dáng sloong lỉn 60 mịt eng 61 mịt kho 62 mịt kho eng 63 mịt kho lỉn slì 64 mịt kho lỉn tửn 65 mịt kho lỉn toọc 66 mịt kho sloong lỉn 67 mịt ngám sắt ngám bác 68 mịt sa khoang 69 mịt rẹn lào bâư 70 mịt sa khoang eng 71 mịt sắt 72 mịt sắt sloong lỉn 73 mịt sắt lỉn soa 74 mịt sắt lỉn sải 75 mịt sắt eng 76 mịt sắt cải 77 mịt sliểm 78 mịt sliểm eng 79 mịt sliểm cải 80 81 nẹp nẹp cháo dao chặt xương chuôi ống dao chặt xương đầu thẳng dao chặt xương đầu vuông dao chặt xương mũi nhọn dao to dao tông dao tông nhỏ dao tông to dao thái chuối dao thái chuối 2 chuôi dao thái chuối 2 lưỡi dao nhỏ dao quắm dao quắm nhỏ dao quắm lưỡi dài dao quắm lưỡi ngắn dao quắm một lưỡi dao quắm hai lưỡi dao vừa thái vừa chặt dao phát cỏ dao thái thuốc lá dao phát cỏ nhỏ dao thái dao thái hai lưỡi dao thái lưỡi phải dao thái lưỡi trái dao thái nhỏ dao thái to dao nhọn dao nhọn nhỏ dao nhọn to kẹp kẹp bếp

nẹp lốc sẳn pạo phâu hung phâu mầu phâu khiệc phừn phâu teng phâu thẳm mạy phớ phủ phủ khiếc phừn phủ lỉn be phủ thẳm mạy roong roong be roong mò roong vài sliim tao tèo pưn

120

82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 xản 102 xản pốc cằn 103 xản sliểm 104 xản vuung kẹp nhổ sắn cái bừa búa tạ búa tay búa bổ củi búa đinh búa bổ củi phớ rìu rìu bổ củi rìu lưỡi loe rìu chặt cây cái chuông chuông dê chuông mò chuông trâu cái thuổng đao mũi tên xẻng xẻng đắp bờ xẻng nhọn xẻng vuông

PHỤ LỤC 3 Định danh hóa thao tác trong nghề rèn Phúc Sen (theo trật tự tiếng Nùng – Việt)

Tiếng Nùng Tiếng Việt

hon bấu hon chòi mằn cẳn hon chòi mằn đang hon chòi mằn đăng hon chòi mằn hào hon chòi mằn hô hon chòi mằn lỉn hon chòi mằn sắn lăng hon chòi mằn thu

121

STT 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. hon chòi mằn toọng 11. hon chòi mằn xoong xứ 12. hon đang 13. hon đăng 14. hon đảng dàu bấu 15. hon đảng dàu đang 16. hon đảng dàu đăng 17. hon đảng dàu hô 18. hon đảng dàu lỉn 19. hon đảng dàu sắn lăng 20. hon đảng dàu thu 21. hon đảng dàu toọng 22. hon hô 23. hon lai bạt 24. hon lếch đang đướt 25. hon lếch lúc đảng 26. hon lếch nắm đang đướt 27. hon lếch tình táng 28. hon lếch tình táng coọc đập chuôi đập chỉnh sửa chuôi đập chỉnh sửa thân đập chỉnh sửa mũi đập chỉnh sửa thô đập chỉnh sửa mỏ đập chỉnh sửa lưỡi đập chỉnh sửa sống lưng đập chỉnh sửa đầu đập chỉnh sửa bụng đập chỉnh sửa hoàn chỉnh đập thân đập mũi đập nguội thẳng chuôi đập nguội thẳng thân đập nguội thẳng mũi đập nguội thẳng mỏ đập nguội thẳng lưỡi đập nguội thẳng sống lưng đập nguội thẳng đầu đập nguội thẳng bụng đập mỏ đập liên hồi đập sắt nóng đỏ đập sắt lúc nguội đập sắt không nóng đỏ đập sắt trên đe đập sắt trên đe thuyền

122

29. hon lếch tình táng mừn 30. hon lỉn 31. hon pạt toọc 32. hon pìn slưứng bấu 33. hon pìn slưứng đang 34. hon pìn slưứng đăng 35. hon pìn slưứng hào 36. hon pìn slưứng hô 37. hon pìn slưứng lỉn 38. hon pìn slưứng sắn lăng 39. hon pìn slưứng thu 40. hon pìn slưứng toọng 41. hon pìn slưứng xoong xứ 42. hon sắn lăng 43. hon slam bạt 44. hon sloong bạt 45. hon sòi mằn bấu 46. hon sòi mằn đang 47. hon sòi mằn đăng 48. hon sòi mằn hào 49. hon sòi mằn hô 50. hon sòi mằn lỉn 51. hon sòi mằn sắn lăng 52. hon sòi mằn thu 53. hon sòi mằn toọng 54. hon sòi mằn xoong xứ 55. hon thua 56. hon toọng 57. khịn pày đú 58. khịn pày slam 59. khịn pày sloong 60. khoọn cẳn 61. khoọn đang đập sắt trên đe tròn đập lưỡi đập một búa đập tạo dáng chuôi đập tạo dáng thân đập tạo dáng mũi đập tạo dáng thô đập tạo dáng mỏ đập tạo dáng lưỡi đập tạo dáng sống lưng đập tạo dáng đầu đập tạo dáng bụng đập tạo dáng hoàn chỉnh đập sống lưng đập ba búa đập hai búa đập nắn chỉnh chuôi đập nắn chỉnh thân đập nắn chỉnh mũi đập nắn chỉnh thô đập nắn chỉnh mỏ đập nắn chỉnh lưỡi đập nắn chỉnh sống lưng đập nắn chỉnh đầu đập nắn chỉnh bụng đập nắn chỉnh hoàn chỉnh đập đầu đập bụng tôi lần 1 tôi lần 3 tôi lần 2 tán chuôi tán thân

lìu sòi dàu pày đú lìu sòi dàu pày hả lìu sòi dàu pày slam lìu sòi dàu pày slí lìu sòi dàu pày sloong

123

62. khoọn đăng 63. khoọn hô 64. khoọn lỉn 65. khoọn sắn lăng 66. khoọn thu 67. khọon toọng 68. 69. 70. 71. 72. 73. mằn bấu 74. mằn đang 75. mằn đăng 76. mằn hô 77. mằn lỉn 78. mằn sắn lăng 79. mằn thua 80. mằn toọng 81. nẹp lếch chang lò 82. nẹp lếch đướt đeng 83. nẹp lếch lúc đảng 84. nẹp lếch nắm đướt đeng 85. nẹp lếch noọc lò 86. pẳn cẳn 87. pẳn đang 88. pẳn đăng 89. pẳn hào cẳn 90. pẳn hào đang 91. pẳn hào đăng 92. pẳn hào hô 93. pẳn hào lỉn 94. pẳn hào sắn lăng tán mũi tán mỏ tán lưỡi tán sống lưng tán đầu tán bụng căn chỉnh bằng mắt lần 1 căn chỉnh bằng mắt lần 5 căn chỉnh bằng mắt lần 3 căn chỉnh bằng mắt lần 4 căn chỉnh bằng mắt lần 2 chỉnh chuôi chỉnh thân chỉnh mũi chỉnh mỏ chỉnh lưỡi chỉnh sống lưng chỉnh đầu chỉnh bụng kẹp sắt trong lò kẹp sắt nóng đỏ kẹp sắt lúc nguội kẹp sắt không nóng đỏ kẹp sắt ngoài lò mài chuôi mài thân mài mũi mài thô chuôi mài thô thân mài thô mũi mài thô mỏ mài thô lưỡi mài thô sống lưng

124

95. pẳn hào thu 96. pẳn hào toọng 97. pẳn hô 98. pẳn khao bấu 99. pẳn khao đang 100. pẳn khao đăng 101. pẳn khao đăng 102. pẳn khao hô 103. pẳn khao lỉn 104. pẳn khao thu 105. pẳn khao toọng 106. pẳn lẩư bấu 107. pẳn lẩư đang 108. pẳn lẩư đăng 109. pẳn lẩư hô 110. pẳn lẩư lỉn 111. pẳn lẩư sắn lăng 112. pẳn lẩư thu 113. pẳn lẩư toọng 114. pẳn mừn bấu 115. pẳn mừn đang 116. pẳn mừn đăng 117. pẳn mừn hô 118. pẳn mừn lỉn 119. pẳn mừn sắn lăng 120. pẳn mừn thu 121. pẳn mừn toọng 122. pẳn sắn lăng 123. pẳn thu 124. pẳn toọng 125. phửn lếch chang lò 126. phửn lếch noọc lò 127. phửn lếch tình táng mài thô đầu mài thô bụng mài mỏ mài trắng chuôi mài trắng thân mài trắng mũi mài trắng sống lưng mài trắng mỏ mài trắng lưỡi mài trắng đầu mài trắng bụng mài bóng chuôi mài bóng thân mài bóng mũi mài bóng mỏ mài bóng lưỡi mài bóng sống lưng mài bóng đầu mài bóng bụng mài tay chuôi mài tay thân mài tay mũi mài tay mỏ mài tay lưỡi mài tay sống lưng mài tay đầu mài tay bụng mài sống lưng mài đầu mài bụng lật sắt trong lò lật sắt ngoài lò lật sắt trên đe

125

128. pốc lếch chang lò 129. sòi bấu 130. sòi đang 131. sòi đăng 132. sòi hô 133. sòi lỉn 134. sòi mằn cẳn 135. sòi mằn đang 136. sòi mằn đăng 137. sòi mằn hô 138. sòi mằn lỉn 139. sòi mằn sắn lăng 140. sòi mằn thu 141. sòi mằn toọng 142. sòi sắn lăng 143. sòi thu 144. sòi toọng 145. tha ngòi slị cùm 146. thưa lếch chang lò 147. thưa lếch tình táng vùi sắt trong lò nắn chuôi nắn thân nắn mũi nắn mỏ nắn lưỡi nắn chỉnh chuôi nắn chỉnh thân nắn chỉnh mũi nắn chỉnh mỏ nắn chỉnh lưỡi nắn chỉnh sống lưng nắn chỉnh đầu nắn chỉnh bụng nắn sống lưng nắn đầu nắn bụng kiểm tra độ sắc di chuyển sắt trong lò di chuyển sắt trên đe

PHỤ LỤC 4

MÔ TẢ TỪ NGỮ NGHỀ RÈN Ở PHÚC SEN

(QUẢNG UYÊN – CAO BẰNG)

1. bào nhẵn (Pào lưứn): CT Bào nhẵn sản phẩm là công đoạn làm nguội. Bất

cứ loại sản phẩm nào khi rèn tạo dáng xong, đều phải qua khâu bào nhẵn

bằng công cụ chuyên dùng nhằm bào hết các vết búa đập lúc rèn nóng.

2. bào sắt (Pào lếch): CC Gồm một lưỡi sắt dài khoảng 60cm được tôi kĩ,

gắn vào giữa một cái cán dài 30cm. Hai đầu của cán có gắn tay nắm dài

10cm để khi bào cầm cho chắc. Người thợ dùng bào này để bào nhẵn các

sản phẩm đã rèn xong. Khi bào người thợ phải ngồi ở một tư thế cố định

và chắc chắn.

3. bễ (mò): CC. cg Bễ thổi. người dân địa phương thường gọi là ăn mò.

4. bễ thổi (mò páu): CC. Bễ thổi hoạt động theo nguyên tắc hoạt động của

pittông xi lanh (giống như hoạt động của một chiếc bơm tay). Bễ thổi có

cấu tạo bởi hai bộ phận chính là ống bễ và pittông.

5. bễ đứng (mò dàu): CC. Bễ thổi ở tư thế đứng. Có thể được đặt xa lò lửa

hơn so với bễ nằm và phải có một người đảm nhiệm việc thụt bễ (gọi là

thợ phụ), giúp cho thợ rèn chính có tay nghề cao hơn (người điều khiển

thanh sắt trong quá trình rèn tạo dáng sản phẩm và hoàn thiện sản phẩm).

6. bễ nằm (mò khoang): CC. Thường là loại bễ đơn (một ống), bố trí theo

phương nằm ngang ngay bên cạnh lò lửa. Bễ có cấu tạo hai cửa gió và hai

van đóng mở tự động sao cho khi kéo hoặc đẩy bộ phận pittong đều có gió

được thổi ra. Bễ nằm thường được dùng cho một thợ rèn với quy mô lò

rèn nhỏ hoặc dùng trong các lò rèn không chuyên trong gia đình. Người

thợ rèn vừa tự thụt bễ vừa nung sắt, do vậy việc bố trí bễ và đe phải hợp

126

lý, ở ngay cạnh lò lửa thuận lợi cho quá trình thao tác của người thợ.

Ảnh 01: Bễ nằm

7. bễ quạt gió (mò pao lùm): CC. Đây là loại bễ mới xuất hiện một vài

chục năm trở lại đây trong nghề rèn ở Phúc Sen. Nguyên tắc của loại bễ

này là quay cánh quạt trong một hộp kín tạo ra luồng gió thổi theo hướng

ly tâm. Hộp kín này có hình ống tròn nhỏ (đường kính khoảng 20 – 25

cm) làm bằng gỗ hoặc được uốn bằng kim loại mỏng như tôn, sắt non...

Có một ống dẫn lắp thông với hộp theo chiều nằm ngang hướng gió văng

theo lực ly tâm dẫn tới lò lửa. Trong hộp được bố trí một hệ thống cánh

quạt gỗ hoặc kim loại mỏng (4 hoặc 6 cánh) đồng trục với hộp và có thể

chuyển động khi có lực quay trục. Để có thể tăng hiệu quả tạo gió, người

ta lắp thêm một bánh xe cùng chiều có đường kính to hơn cánh quạt và

mắc vào trục cánh quạt bằng một sợi dây curoa có tính đàn hồi như da,

sợi vải... để tăng vòng quay của quạt lên nhiều lần. Loại bễ này thường

dùng cho loại rèn có quy mô nhỏ. Mặc dù có cấu tạo phức tạp hơn so với

các loại bễ truyền thống nhưng có tính ưu việt là bền, hoạt động nhẹ

nhàng, tốn ít sức lực. Do vậy bễ quạt dùng trong các lò rèn thủ công.

8. bể nước tôi (nặm ca rác): CC. Bể thường được đục từ một tảng đá to,

nguyên khối. Nước tôi trong bể bao giờ cũng được hòa một ít tro bếp, đợi

tro lắng xuống đáy bể là có thể "tôi" được. Hòa tro vào nước tôi là một

trong những bí quyết của thợ rèn Phúc Sen. Bể nước để tôi sản phẩm rất

quan trọng trong kỹ thuật rèn, chất lượng sản phẩm có tốt hay xấu là phụ

127

thuộc rất lớn vào nước “tôi”.

Ảnh 02: Bể nước tôi

9. bó (phuốc): CT. Công đoạn khi bảo quản sản phẩm. Các loại sản phẩm

phải được bó thật chặt để tránh khi vận chuyển bị va đập mạnh làm sứt

mẻ phần lưỡi của sản phẩm.

10. bọc (phung): CT. Công đoạn bảo quản. Sản phẩm được bỏ (thường là

vải cũ, vải tận dụng) bằng một lớp vải khô sạch ở bên ngoài, được cất

vào nơi khô ráo trước khi tiêu thụ.

11. búa (lìu): CC. Dụng cụ chuyên dụng trong các lò rèn ở Phúc Sen, dùng

để đập, tác động lức mạnh, nhẹ vào thanh sắt để tạo dáng, chỉnh sửa chau

chuốt cho sản phẩm. Mỗi sản phẩm được làm từ khâu đầu tiên đến khâu

cuối cùng thì phải trải qua các công đoạn khác nhau, với các công cụ

chuyên môn khác nhau. Trong đó người thọ rèn phải sử dụng đến 3 – 4

loại búa khác nhau. Mỗi loại búa tương ứng với mỗi công đoạn chế tác

khác nhau.

12. búa bổ củi (phâu khiếc phừn) : SP. Hình trụ, dài khoảng 12 cm, nặng

khoảng 3 – 5 kg, đầu vuông, lưỡi sắc dài chừng 7 cm, búa chuyên dùng

để bố củi.

13. búa chặt cây (phâu thẳm mạy) : SP. Hình dáng tương tự búa bổ củi

nhưng có kích thước và to và nặng hơn, thường dùng để đi rừng chặt

128

những cây thân gỗ to.

14. búa chỉnh sửa (lìu í): xem búa tay (công cụ).

15. búa đinh (phâu teng): Là sản phẩm nghề rèn. Đây là loại búa nhỏ nhất,

chỉ nặng từ 0,5 – 1 kg. Búa có cấu tạo về cơ bản khá giống với búa tạ và

búa tay vì có lỗ tra cán ở giữa. Điểm khác của búa đinh so với hai loại

búa trên. Búa đinh có hai đầu không giống nhau, một đầu phẳng để có

thể đóng đinh được dễ dàng, một đầu có khe hình chữ V ở giữa. Hai đầu

của chữ V mỏng, dày dần về phía tiếp giáp với đầu búa và hơi cong lên

để nhổ đinh trên mặt gỗ và tường được dễ dàng nhờ lực đòn bẩy.

16. búa làm đẹp (lìu í): xem búa tay (công cụ).

17. búa phá (lìu hung): xem búa tạ (công cụ).

18. búa rèn kỹ thuật (lìu í): xem búa tay (công cụ).

19. búa rèn tạo dáng (lìu í): xem búa tay (công cụ).

20. búa tạ (lìu hung): CC. Dùng cho tất cả mọi người thợ. Búa nặng 4 – 5kg,

hình dáng là hình lăng trụ,dài 12 – 15cm, hai đầu vuông, giữa thân có lỗ

tra cán cầm tay làm bằng gỗ chắc, to, dài khoảng 70 – 80 cm tùy tay cầm

của từng thợ. Búa chuyên dùng để phá đập phần sắt thô ban đầu và tạo

dáng sản phẩm hoặc tán mỏng những sản phẩm cần làm mỏng.

129

Ảnh 03: Búa tạ và búa tay

21. búa tạ (phâư hung): Sản phẩm búa được làm từ những loại sắt lớn như

sắt đầu láp, có công dụng trong việc đập, phá những vật có kích thước

lớn. Búa nặng trung bình từ 4 – 5 kg, có hình trụ nằm ngang với chiều

cao khoảng 5 cm, chiều dài 7 cm và rộng 4 cm. Ở giữa thân búa có lỗ

hình ô voan thông hai đầu để tra cán thuận lợi cho người sử dụng có thể

dùng được cả hai đầu búa.

22. búa tay (lìu í): CC. Nặng từ 1 – 2,5kg tùy nhu cầu thợ rèn sử dụng. Hình

dáng tương tự búa ta nhưng có một đầu hình chữ nhật, một đầu hình

vuông. Là dụng cụ chuyên dụng của người thợ cả sử dụng trong khâu rèn

sản phẩm thành hình dáng cần chế tạo. Thợ cả sẽ dùng búa tay để chỉnh

sửa, hoàn thiện sản phẩm. Búa tay thợ cả còn được dùng để chỉ đạo cho

búa tạ cần đập vào chỗ nào. Phần nào trên sản phẩm cần được đập thì

người thợ cả dùng búa tay gõ vào chỗ đó, các thợ phụ sẽ đập theo.

23. búa tay (phâu í): Sản phẩm hình dáng tương tự búa tạ nhưng kích thước

thì nhỏ hơn, nặng từ 1 – 3 kg được chế tác tùy vào mục đích sử dụng.

24. búa tạo dáng hoàn chỉnh (lìu í): CC.xem búa tay công cụ.

25. búa tạo dáng thô (lìu hung): CC.xem búa tạ công cụ.

26. bụi sắt (muốc lếch): Là những phần bụi sắt bám lại trên bề mặt của sản

phẩm sau chế tác thô.

27. bung (chậu): Được đan bằng nứa có kích thước đáy khoảng 30cm, rộng

dần đến miệng khoảng 50cm.

28. bung than (chậu thản): Loại bung được dùng đựng than để phân biệt với

130

các bung khác chứa đồ vật khác nhau.

Ảnh 04: Bung than

29. bừa (rạo): Sản phẩm có cấu tạo gồm một thanh ngang trên dài chừng

1m gắn cố định với một thang ngang bên dưới cùng chiều dài, thanh

ngang dưới được gắn cố định với các lưỡi bừa dài chừng 20 cm được rèn

nhọn. Các thanh ngang có thể là thanh sắt hoặc gỗ còn các lưỡi bừa được

làm bằng sắt, nặng khoảng 200g, hình trụ tròn được vuốt nhọn, đường kính

khoảng 1 cm.

30. cào (khòa): Sản phẩm xem cuốc bướm

31. cào ba góc (khòa slam pác): Sản phẩm còn gọi chung là cào.

32. cào be (Khòa hu): SP. Có cấu tạo dài 3 – 5 cm, nặng khoảng 0,5 kg, cào

gồm chuôi, cổ và thân. Cổ rộng khoảng 3 cm, thân rộng 10 – 12 cm., được

uốn cong ở vị trí cổ để gắn với cán gỗ hoặc tre. Cào chủ yếu dùng để làm cỏ.

131

Ảnh 05: Cào be

33. cào bé (khòa eng): SP. Hình dáng tương tự cào be nhưng kích thước nhỏ

hơn. Thân cào dài 3 – 5 cm, nặng khảng o,2 kg tùy vào nhu cầu sử dụng.

34. cào bướm (khòa phỉ): SP. Còn gọi là cuốc bướm. Cào có cấu tạo dài

khoảng 25 cm, nặng 0,5 – 0,8 kg gồm chuôi, thân và lưỡi, được uốn cong

ở đoạn giữa chuôi và thân để có thể gắn cán gỗ thuận lợi cho việc sử

dụng. Thân rộng dần về phía lưỡi đến khoảng 20 cm. Cào chủ yếu dùng

để cào đất.

35. cào móc than (bai mooc thản): CC. Có cấu tạo tương tự như một cái

cào: là một miếng sắt mỏng rộng 5cm dài 10cm được uốn cong 90 độ tạo

thành cái cào và được gắn cố định vào một chuôi gỗ cầm vừa tay, dài

1m2 – 1m5. Cào móc than được dùng để cào, móc những phần tro than

đã cháy hết ở trong lò than ra ngoài.

Ảnh 06: Cào móc than

36. cắt (slạm): CT. Thao tác dùng chạm cắt sắt thép trong quá trình rèn.

37. cắt lưỡi (slạm lỉn): CT. Còn gọi là chạm lưỡi. Thao tác người thợ cả một

tay cầm búa tay, một tay cầm chạm. Người thợ phụ cầm sản phẩm hoặc

vật cần chạm. Thợ cả chạm vào vị trí cần chạm từ vị trí đầu đến vị trí

đuôi. Chạm từ trên xuống lưỡi, cách lưỡi 0,3 cm chạm sâu dần về phần

lưỡi. Chạm lưỡi thường dùng trong chế tác liềm.

132

38. cắt phần thừa (slạm fấn lứ): CT. Thao tác như cắt sắt nhưng ở đây phần

cắt ra sẽ bị bỏ đi. Thường là ở các vị trí đầu hoặc lưỡi của sản phẩm cần

cắt bỏ.

39. cắt răng (slạm khẻo): CT. Thao tác tương tự như cắt sắt nhưng ở đây

mục đich của thao tác cắt nhằm tạo thành răng của sản phẩm thường là

cưa hoặc liềm.

40. cắt sắt (slạm lếch): CT. Thao tác người thợ cả dùng kìm kẹp sắt đã được

nung đỏ từ trong lò nung ra lên đe, một tay cầm đục (chạm) đặt lên vị trí

cần cắt, người thợ phụ dùng búa tạ đập mạnh lên đục để tạo thành đường

cắt sâu, sau đó dùng búa tạ đập mạnh lên sắt đã được chạm để tách đôi

sắt ra.

41. cắt sắt thép (slạm lếch tiều): CT. Thao tác tương tự như thao tác cắt sắt.

42. cắt thép (slạm tiều): CT. Thao tác tương tự như cắt sắt nhưng vật cần cắt

ở đây là thép.

43. cân (săng) : CC. Dụng cụ được dùng để xác định trọng lượng sắt để rèn.

Người thợ rèn có thể dùng cân để cân một thanh sắt lớn, từ đó ước lượng

sẽ cắt ra thành bao nhiêu phần nhỏ hơn, phù hợp với mục đích chế tác

sản phẩm nào. Khi sắt đã được cắt ra thì việc nối lại sẽ hết sức khó khăn.

Sản phẩm bị lỗi sẽ không đẹp, yếu... do vậy, việc cân sắt cũng như quyết

định sẽ cắt sắt ra như thế nào phụ thuộc vào kinh nghiệm của người thợ

rèn. Là loại cân treo có một đĩa nhỏ kích thước khoảng 10cm được gắn

với dây treo bằng sắt cố định với một đầu của thanh sắt dài khoảng

16cm, có hai móc treo cầm và một móc vào đồ vật cần cân và một quả tạ

133

nhỏ nặng khoảng 300g được dùng để cân bằng.

Ảnh 07: Cái cân

44. cân sắt (săng lếch) : CT. Thao tác định lượng sắt cần cho một sản phẩm

cần rèn.

45. cầu lò (kiù lò) : CC. Gồm 3 – 4 thanh sắt nhỏ dày chừng 0,5 cm, dài 12 -

15 cm được xếp khít ở bên trên ống dẫn gió.

46. cháy (mảy) : CT. Sản phẩm hoặc vật cần rèn bị hỏng hoặc bị cháy do

nhiệt độ quá cao.

47. chạm (hôi) : CT. Thao tác người thợ dùng kìm kẹp chặt vật rèn đặt trên

đe, một tay cầm chạm đặt vào vị trí nào đó để thợ phụ dùng búa tạ đập

mạnh lên chạm để tách đứt theo ý đồ thợ cả.

48. chạm sắt (hôi lếch 1) : CC. Làm sắt già được tôi rất cứng, dài 10 cm,

hình chữ nhật, rộng 0,5 cm, một đầu hình chữ nhật nhỏ 0,5cm, một đầu

nhọn, sắc.

49. chạm sắt (hôi lếch 2) : CT. Thao tác người thợ dùng kìm kẹp chặt vật

rèn đặt trên đe, một tay cầm chạm đặt vào vị trí nào đó để thợ phụ dùng

búa tạ đập mạnh lên chạm để tách đứt theo ý đồ thợ cả.

50. chạm lưỡi (hôi lỉn) : CT. Thao tác người thợ cả một tay cầm búa tay,

một tay cầm trạm, người thợ phụ cầm vật cần chạm, chạm dần từ đầu về

đuôi, từ trên xuống phần lưỡi, cách lưỡi 0,2 cm, chạm sâu dần về phần

134

lưỡi.

51. chặt (thẳm) : CT. xem cắt .

52. chặt sắt (thẳm lếch) : CT. xem cắt sắt.

53. chân (kha) : CC. Bộ phận của sản phẩm và công cụ.

54. chân đe (kha táng) :CC. Bộ phận của đe có tác dụng đỡ và cố định đe

khi rèn.

55. chậu (xậu): CC. Được đan bằng nứa. Hình dáng tương tự như bung

nhưng kích thước nhỏ hơn thường được dùng để đựng vật dụng và sản

phẩm rèn.

56. chỉnh (mằn): CT. Thao tác dùng búa tay đập nhẹ vào vị trí nào đó của

sản phẩm hay vật đang rèn để chỉnh.

57. chỉnh sửa (sòi mằn) : CT. Chỉnh nói chung. Thao tác dùng búa tay đập

nhẹ vào vị trí nào đó của sản phẩm hoặc vật cần rèn để chỉnh sửa.

58. chuôi (cẳn) : SP. Một trong hai bộ phận chính của sản phẩm, nơi người

sử dụng cầm tay vào (chuôi dao, chuôi liềm, ...)

59. chuôi gỗ (cẳn mạy) : SP. Bộ phận của sản phẩm được gắn với một khúc

gỗ tròn dài chừng 10 cm hoặc dài hơn tùy nhu cầu sử dụng. Chuôi

thường có đường kính khoảng 2 cm, vừa tay cầm người sử dụng hoặc có

thể to nhỏ hơn tùy theo từng sản phẩm.

60. chuôi ống (cẳn buốc): SP. Bộ phận của sản phẩm được uốn thành ống

tròn liền với sản phẩm. Chuôi ống thường có ở dao, liềm, ...

61. chuôi nhọn (cẳn sliểm) : SP. Bộ phận của sản phẩm được tán nhọn.

Chuôi nhọn được gắn với gỗ để thành sản phẩm hoàn chỉnh.

62. chuông (kho roong) :SP. Hình trụ rỗng (hình vuông) một đầu kín, đường

hính 4 cm, có hai quai ở trên và dưới. Quai trên dùng để đeo dây, quai

135

dưới dùng để lắp thanh gõ tạo âm thanh khi chuông di chuyển. Chuông

thường được dùng để buộc vào cổ gia súc khi thả rông để người ta có thể

xác định vị trí của gia súc khi không nhìn thấy (gia súc) mà chỉ nghe

được âm thanh.

Ảnh 08: Cái chuông

63. chuông bò (kho roong mò): SP. Như chuông nhưng có kích thước nhỏ hơn .

64. chuông dê (kho roong bẻ) : SP. Như chuông bò nhưng kích thước nhỏ

hơn chuông bò.

65. chuông trâu (kho roong vài) : SP. Như chuông bò nhưng có kích thước

to hơn.

66. cong (kho) : CT. Thao tác đánh giá chất lượng sản phẩm không đạt.

67. cong vênh (kho pay) : CT. Thao tác đánh giá chất lượng sản phẩm không đạt.

68. cuốc (cúuc) : SP. còn gọi là cuốc bàn

69. cuốc bàn (cúuc phả): SP. Cuốc bàn có kích thước dài chừng 20 - 25 cm, nặng

0,6 - 0,8 kg, lưỡi rộng 15 - 20 cm, phần đầu nhỏ hơn lưỡi chừng 12 - 15 cm,

136

đầu có lỗ để tra cán gỗ. Dùng chủ yếu để cuốc xới, đào đất...

Ảnh 09: Cuốc bàn

70. cuốc bướm (cúuc phỉ): SP. Cuốc có hình như cánh bướm, nhỏ và nhẹ,

phần lưỡi cuốc rộng nhưng kích thước về cơ bản nhỏ hơn cuốc bàn. Dùng

để vun xới cây trồng. Tiện lợi cho người sử dụng vì kích thước nhỏ nhẹ

71. cuốc chim (cúuc nộc): SP. Là loại cuốc có hai đầu, thân cuốc khá dày,

nhỏ. Cuốc có một đầu nhọn không có lưỡi như các loại cuốc thông

thường, đầu kia có lưỡi nhỏ nhọn và dày. Giữa hai đầu có lỗ tra cán.

Cuốc chim là sản phẩm có thể sử dụng để đào, cạy các loại đất đá như

đào giếng, đào hố ...

72. cưa (câư) : SP. xem cưa tay.

73. cưa đôi (câư sloong) : SP. Có kích thước dài khoảng 160 cm, nặng 0,8 – 1

kg, rộng 3 – 4 cm, dày khoảng 0,5 cm, có hai tay cầm để hai người cầm,

mỗi người một tay. Cưa có kích thước to nên dùng để cưa gỗ to, xẻ gỗ.

74. cưa sắt (câư lếch) : CC. Hình dáng tương tự như cưa tay, được làm bằng sắt

già, kích thước vừa phải với tay cầm của người thợ rèn. Chuyên dùng trong

việc cắt sắt, cưa, xén tạo dáng sản phẩm trước khi đưa vào lò nung để rèn.

75. cưa tay (câư mừn) : SP. Có kích thước dại 60 – 90 cm, rộng 1 – 1,5 cm,

nặng 0,4 – 0,6 kg, sống lưng dày 0,5 mm, lười hình răng cưa được chạm

kỹ càng. Chuyên dùng để cưa, cắt gỗ có kích thước vừa và nhỏ, dùng

137

trong làm mộc.

76. cửa lấy gió (tu au lùm): CC. Bộ phận trên ống bễ, hình chữ nhật, kích

thước bằng hai ngón tay và được khép bởi một miếng da bằng cách mỗi

đầu của miếng da được gắn cố định vào nắp bễ. Khi kéo hoặc đẩy pittông

thì hai miếng da ở hai cửa lấy gió như hai chiếc van tự động lần lượt lấy

gió và chắn gió không cho gió lùa trở ra.

77. cứng (kén) : CT. Thao tác đánh giá sản phẩm (phải) đạt độ cứng nhất định.

78. dàn đe (toong táng) : CC. Được đặt tại lều rèn, bên cạnh lò có gắn ống

bễ. người ta đặt một dàn đe (đe tròn và đe thuyền). Người thợ rèn ở Phúc

Sen thường dùng những chiếc đe có trọng lượng từ 150 – 200 kg, để khi

rèn, búa tạ đập xuống đe mà đe không bị xê dịch, đảm bảo an toàn cho

người thợ.

Ảnh 11: Dàn đe

79. dao (mịt) : SP. Là sản phẩm chủ yếu của nghề rèn ở Phúc Sen. Có nhiều

loại, kích thước khác nhau.

80. dao bầu (mịt bàu) : SP. Dao bầu dài khoảng 30 cm, nặng 0,2 – 0,3 kg,

phần sau của dao hơi tròn và to hình bầu bầu ở giữa phía mũi. Dao chủ

yếu dùng để thái.

81. dao bầu chuôi gỗ (mịt bàu cẳn mạy): SP. Hình dáng tương tự dao bầu

nhưng phần chuôi của dao được gắn với đoạn gỗ dài khoảng 10 cm sao

138

cho vừa tay cầm người sử dụng.

Ảnh 12: Dao bầu chuôi gỗ

82. dao bầu chuôi liền (mịt bàu cẳn tam): SP. Hình dáng tương tự dao bầu

nhưng chuôi được chế tác liền với dao. Thường là chuôi ống liền.

83. dao bầu nhỏ (mịt bàu eng) : SP. Hình dáng tương tự nhưng kích thuóc

dao nhỏ hơn do nhu cầu của người sử dụng.

84. dao bầu to (mịt bầu cải) : SP. Hình dáng tương tự dao bầu nhưng có

kích thước to hơn.

85. dao chặt xương (mịt pác đúc) : SP. Nặng khoảng 0,6 – 0,8 kg. Có độ dài

khoảng 25 – 30 cm. Thân dao thẳng, lưỡi hơi cong, dày, chủ yếu dùng để

chặt xương.

Ảnh 13: Dao chặt xương

86. dao chặt xương chuôi gỗ (mịt pác đúc cẳn mạy): SP. Hình dáng như

dao chặt xương. Chuôi dao được rèn nhọn sau đó gắn vào chuôi gỗ dài

139

chừng 10 cm.

87. dao chặt xương chuôi ống (mịt pác đúc cẳn buốc) : SP. Hình dáng như

dao chặt xương. Chuôi dao được rèn uốn cố định với dao.

88. dao chặt xương đầu thẳng (mịt pác đúc thu dàu) : SP. Hình dáng như

dao chặt xương. Đầu dao được rèn thẳng tùy nhu cầu sử dụng.

89. dao chặt xương đầu vuông (mịt pác đúc thu vuung) : SP. Hình dáng

như dao chặt xương điểm khác đầu dao được rèn vuông tùy vào nhu cầu

người sử dụng.

90. dao chặt xương mũi nhọn (mịt pác đúc đăng sliểm) : SP. Hình dáng

như dao chặt xương. Mũi dao được rèn nhọn tùy nhu cầu sử dụng.

91. dao nhỏ (mịt eng): SP. Dao có kích thước nhỏ hơn bình thường tùy nhu

cầu sử dụng.

92. dao nhọn (mịt sliểm) : SP. Dao dài khoảng 30 – 32 cm, nặng chừng 0,2

kg, mỏng và sắc và nhọn dần về phía mũi. Thường sử dụng cho việc giết

mổ gia súc, gia cầm.

Ảnh 14: Dao nhọn

93. dao nhọn nhỏ (mịt sliểm eng) : SP. Hình dáng tương tự dao nhọn nhưng

kích thước nhỏ hơn.

94. dao nhọn to (mịt sliểm cải) : SP. Hình dáng tương tự dao nhọn nhưng có

140

kích thước to hơn.

95. dao phát cỏ (mịt sa khoang) : SP. Dài khoảng 25 – 30 cm, nặng chừng

0,4 – 0,5 kg. Lưỡi cong dần về phía mũi như hình lưỡi liềm. Dao chủ yếu

dùng để phát cỏ, phát bờ, ...

96. dao phát cỏ nhỏ (mịt sa khoang eng) : SP. Hình dáng tương tự dao phát

cỏ nhưng có kích thước nhỏ hơn, dành cho nữ giới hoặc nhu cầu sử dụng.

97. dao quắm (mịt kho): SP. Dài khoảng 25 – 30 cm, thân dao thẳng, phần

mũi uốn cong. Dao thường dùng để chặt những loại cây nhỏ và vừa,

thích hợp để đi lấy củi, chẻ lạt và phát bờ, ...

98. dao quắm nhỏ (mịt kho eng) : SP. Hình dáng tương tự như dao quắm

nhưng có kích thước nhỏ hơn, dành cho nữ giới hoặc nhu cầu sử dụng.

99. dao quắm hai lưỡi (mịt kho sloong lỉn) : SP. Hình dáng tương tự nhưng

dao được thiết kế có hai lưỡi được chế tạo tùy vào nhu cầu của người dùng.

100. dao quắm một lưỡi (mịt kho lỉn toọc) : SP. Xem dao quắm.

101. dao quắm lưỡi ngắn (mịt kho lỉn slì): SP. Hình dáng như dao quắm

thường nhưng có kích thước phần lưỡi ngắn hơn dao quắm loại bình

thường được chế tạo tùy nhu cầu người sử dụng.

102. dao quắm lưỡi dài (mịt kho lỉn tửn) : SP. Hình dáng như dao quắm

thường nhưng có kích thước phần lưỡi dài hơn dao quắm loại bình

thường được chế tạo tùy nhu cầu người sử dụng.

103. dao thái (mịt xét) : SP. Dao dài khoảng 20 – 25 cm, dao khá mỏng, trọng

lượng nhẹ, sắc, độ cứng vừa phải. Dao thái chuyên dùng cho việc nội trợ

141

(thái thịt, rau, củ, ...)

Ảnh 15: Dao thái

104. dao thái chuối (mịt dáng duốc) : SP. Dao dài 43 – 45 cm, thân dao

thẳng, cong vồng ở giữa dao. Có độ sắc ngọt và độ cứng tương đối. Dao

chuyên dùng để thái chuối phục vụ chăn nuôi gia súc, gia cầm, ...

Ảnh 16: Dao thái chuối

105. dao thái chuối hai chuôi (mịt dáng duốc sloong cẳn): SP. Hình dáng

tương tự dao thái chuối có hai chuôi hai đầu nhằm thuận tiện cho việc

cầm nắm, sử dụng.

106. dao thái chuối hai lưỡi (mịt dáng duốc sloong lỉn): SP. Hình dáng tương

tự dao thái chuối hai chuôi và được rèn thêm một lưỡi phụ gắn cố định

phía trên song song với lưỡi chính.

142

107. dao thái hai lưỡi (mịt sắt sloong lỉn) : SP. Hình dáng tương tự dao thái

điểm khác biệt là dao được rèn hai lưỡi theo nhu cầu sử dụng.

108. dao thái lưỡi phải (mịt sắt lỉn soa) : SP. Hình dáng tương tự dao thái

nhưng được rèn theo kiểu lưỡi phải cho những người dùng thuận tay trái

hoặc theo nhu cầu sử dụng.

109. dao thái lưỡi trái (mịt sắt lỉn sải) : SP. Hình dáng tương tự dao thái

điểm khác biệt là dao được rèn theo kiểu lưỡi trái cho những người dùng

thuận tay phải hoặc theo nhu cầu sử dụng.

110. dao thái nhỏ (mịt sắt eng) : SP. Hình dáng như dao thái nhưng có kích

thước nhỏ hơn tùy nhu cầu sử dụng.

111. dao thái to (mịt sắt cải) : SP. Hình dáng như dao thái nhưng có kích

thước to hơn tùy nhu cầu sử dụng.

112. dao thái thuốc lá (mịt rẹn lào bâư) : SP. Dao to bản khoảng 10 – 15 cm,

dài 70 – 80 cm, hai đầu có hai tay cầm, lưỡi mỏng, thân dày và nặng.

Dao chuyên dùng để thái thuốc lá.

113. dao to (mịt cải) : SP. Hình dáng như dao bình thường nhưng có kích

thước to hơn do nhu cầu sử dụng.

114. dao tông (mịt cúp) : SP. Dao dài khoảng 40 cm, nặng 0,5 – 0,7 kg, chuôi

dao hình kèn, thân thẳng, to dần về phía đầu rộng khoảng 6 cm. Dao tông

thường dùng để chặt cây.

143

Ảnh 17: Dao tông

115. dao tông nhỏ (mịt cúp eng) : SP. Hình dáng tương tự nhưng có kích

thước nhỏ hơn theo nhu cầu sử dụng.

116. dao tông to (mịt cúp cải) : SP. Hình dáng tương tự nhưng có kích thước

to hơn theo nhu cầu sử dụng.

117. dao vừa thái vừa chặt (mịt ngám sắt ngám pác) : SP. Hình dánh như

dao chặt xương nhưng lưỡi mỏng và nhẹ hơn, nặng khoảng 0,4 – 0,5 kg.

Dao có thể vừa dùng để thái cũng có thể dùng để chặt.

118. dấu chạm khắc tên (dảu chạc tên) : CC. Dài khoảng 10 cm. Đầu hình chữ

nhật. Lưỡi có kích thước chừng 0,5 cm khắc tên viết tắt của chủ lò rèn.

119. di chuyển (toọn pay) : CT. Thao tác người thợ thay đổi vị trí của sắt.

120. dít (chắp) : CT. Dùng trong thao tác đánh giá sản phẩm. Sản phẩm phải

không bị dính chặt vào nhau.Thường dùng đánh giá sản phẩm là kéo.

121. dẻo (tieỏ) : CT. Dùng trong thao tác đánh giá trong quá trính chế tác. Sản

phẩm rèn cần đạt đến độ dẻo nhất định mà không được quá mềm.

122. dũa (tào) : CC. Xem dũa sắt.

123. dũa bụi sắt (tào muốc lếch) : CT. Thao tác người thợ dùng dũa sắt dũa

hết những phần bụi sắt bám trên bề mặt sản phẩm trong quá trình chế tác.

124. dũa mịn (tào miìn) : CC. Là loại dũa dùng để dũa chỗ gợn sóng trên bề

mặt sản phẩm. Thường là loại dũa nhỏ 3 cạnh và loại dũa tròn, dài 30 -

40 cm, lưỡi được khía rãnh chéo. Có tay cầm.

125. dũa phá (tào quảng): CC. Dùng để mài dũa sản phẩm lần đầu, công

đoạn sau bào sản phẩm. Khi đã bào xong người thợ dùng dũa phá để dũa

đi những chỗ lồi lõm trên sản phẩm. Thường là loại dũa có hình cạnh

vuông và hình chữ nhật, dài khoảng 30cm, lưỡi được khía các rãnh chéo.

Có tay cầm.

144

126. dũa phoi rèn (tào khi lếch) : CT. Thao tác người thợ dùng dũa sắt dũa

hết những phần phoi rèn còn bám trên bề mặt sản phẩm.

127. dũa sắt (tào lếch) : CC. Được làm bằng sắt già, có độ cứng cao. Là dụng

cụ dùng để mài, sửa sản phẩm ở trạng thái nguội. Có nhiều loại dũa khác

nhau với kích thước và hình dáng khác nhau sử dụng vào việc mài dũa

các sản phẩm khác nhau. Có loại vuông cạnh, hình chữ nhật có loại nhỏ 3

cạnh, có loại tròn, dài khoảng 40cm. Lưỡi dũa được khía các rãnh chéo

để tăng độ ma sát làm mòn vật dũa. Dũa được tra vào chuôi gỗ giống như

tra cán dao thông thường.

128. đá mài (thin pẳn) : CC. Là loại đá mài đỏ đặc trưng được lấy từ núi đá

của vùng. Người thợ rèn chỉ dùng loại đá này để mài các sản phẩm của

nghề rèn.

Ảnh 18: Đá mài đỏ

129. đá mài đỏ (thin pẳn đeng) : CC. Xem đá mài.

130. đá mài mịn (thin pẳn miìn) : CC. Loại đá mài chuyên dùng mài mịn làm

bóng sản phẩm trước khi đưa vào bảo quản và tiêu thụ.

131. đá mài thô (thin pẳn hào) : CC. Dùng để mài các sản phẩm vừa được

bào dũa xong, để chỉnh mỹ thuật cho các sản phẩm.

145

132. đánh bóng (hất boóng): CT. Đánh bóng lấy màu cho sản phẩm là công

đoạn cuối cùng của quá trình chế tác một sản phẩm. Sau khi tôi và mài

lại sản phẩm xong người thợ sẽ hơ sản phẩm trên lửa cho thật khô tới khi

mặt sản phẩm có màu xanh bóng, sáng là được (nếu sản phẩm là dao, kéo

thì được mài sắc, sau khi tôi rồi mới đánh bóng lấy màu.

133. đập (hon) : CT. Thao tác dùng búa đập vào vật cần rèn.

134. đập chỉnh sửa (hon chòi mằn): CT. Thao tác người thợ cả dùng búa tay

đập nhẹ vào sản phẩm đang rèn chỉnh sửa những phần chưa hoàn chỉnh.

135. đập mạnh (hon slèng): CT. Thao tác người thợ dùng kìm kẹp chặt vật

cần rèn đặt trên đe để các thợ phụ dùng búa tạ đập lên để vật cần rèn trở

lên dẻo.

136. đập mỏng (hon bang) : CT. Thao tác người thợ dùng búa tạ đập mạnh

vào vị trí sắt rèn cần làm mỏng.

137. đập nắn chỉnh (Hon sòi mằn): X. Đập chỉnh sửa.

138. đập nguội (hon đảng) : CT. Thao tác dùng búa đập lên sắt cần rèn lúc nguội.

139. đập nguội thẳng (hon đảng dàu) : CT. Sản phẩm thành hình, người thợ

sẽ dùng kỹ thuật cá nhân đập nắn các bộ phận của sản phẩm cho thẳng

theo mặt phẳng.

140. đập nhẹ (hon đỏi) : CT. Thao tác người thợ dùng búa tay đập nhẹ vào sắt

đã thành hình, thường là chỉnh sửa sản phẩm cho hoàn chỉnh.

141. đập phá (hon quảng) : CT. Thao tác người thợ dùng búa tạ đập mạnh

vào sắt cần rèn với mục đích bước đầu dàn (mỏng) sắt, thép. Thao tác

đập phá thường có ở ngay những công đoạn đầu của quá trình chế tác.

142. đập sắt (hon lếch) : CT. Thao tác chủ yếu trong quá trình rèn, người thợ

dùng kìm kẹp chặt thanh sắt đặt trên đe sau đó dùng búa đập lên sắt.

143. đập tạo dáng (hon pìn slưứng) : CT. Thao tác người thợ dùng búa tay

146

đập tạo dáng sản phẩm đã được tính toán từ trứơc.

144. đập thô (hon hào) : CT. Thao tác người thợ dùng búa tạ đập sắt cần rèn

tạo thô hình dáng cho sản phẩm đã xác định từ trước.

145. đập mỏng (hon rày) : CT . Thao tác người thợ rèn dùng búa tạ đập lên

thanh sắt cần rèn và làm mỏng đến một mức nhất định của sản phẩm.

146. đất sét (tôôm nức) : CT. Là loại đất lấy từ ruộng, được đựng trong lọ.

Đất sét được coi như một nguyên liệu, làm chất xúc tác cho công đoạn

hàn chuôi sản phẩm.

147. đầu (thu) : CT. Bộ phận của sản phẩm.

148. đầu dẹt (thu pẻn) : CT. Bộ phận đầu của sản phẩm có hình dẹt.

149. đầu thẳng (thu dàu) : CT. Bộ phận sản phẩm có đầu thẳng.

150. đầu vuông (đầu vuông) : CT. Bộ phận đầu của sản phẩm có hình vuông.

151. đe (táng) : CC. Công cụ chế tác quan trọng không thể thiếu của nghề rèn.

Đe được dùng làm vật kê để đập sắt.

152. đe góc nhọn (táng coọc sliểm) : CC. xem đe thuyền.

153. đe thuyền (táng coọc) : CC.Cg. đe góc nhọn, có hình dáng như cái

thuyền, có 2 mũi nhọn khác nhau: một bên mũi nhọn vuông, một bên

nhọn tròn, đe nặng khoảng 150 đến 200 kg, đựơc gắn cố định trên đế đe.

Còn có đe thuyền nhỏ, nặng 15 đến 20 kg, tuỳ vào mục đích và nhu cầu

147

của người thợ rèn.

Ảnh 19: Đe thuyền

154. đe thuyền chân rùa (táng coọc kha táu): CC. Đe thuyền có chân hình

như chân rùa, được gắn cố định.

155. đe thuyền chân vịt (táng coọc kha pất) : CC. Đe thuyền hình như chân

vịt, không gắn cố định.

156. đe tròn (táng mừn) : CC. Đe có hình trụ tròn, cao khoảng 40 đến 50 cm,

nặng khoảng 60 đến 70 kg, đường kính mặt đe 12 đến 15 cm, đe được

gắn cố định trên đế đe.

157. đế đe (kha táng): CC. Là một khúc gỗ to, thường là gỗ nghiến được dùng

làm chân đỡ cho đe và cố định đe. Đế đe rộng có thể gắn cố định một

hoặc hai đe thuyền trên một đế.

158. đế đột (kha toọc) : CC. Là một miếng sắt hình vuông to bản 5cm, dày

bản 2cm, ở chính giữa có lỗ tròn nhỏ đường kính 0,5 cm, được dùng để

đặt vật cần đột lên đế để đột.

159. đỏ (đeng) : CT.Màu của sắt hoặc vật cần rèn được nung đến nóng đỏ (vật

cần rèn đã được nung đủ nhiệt độ theo yêu cầu của người thợ).

160. đóng dấu (hắp dấu) : CT. Thao tác người thợ dùng "con dấu" của lò rèn

mình đóng lên sản phẩm để xác nhận thương hiệu sản phẩm do mình làm ra.

161. đột (toọc) : CC. x. đục nhỏ.

148

162. đột có đế (toọc mì kha) : CC. x. đục nhỏ

Ảnh 20: Đột có đế

163. đột không đế (toọc nắm kha) : CC. x. đục vừa

164. đột sắt (toọc lếch) : CC. Công cụ chế tác sản phẩm này được làm bằng

sắt già được tôi luyện rất kỹ được dùng để đột lỗ.

165. đục lỗ (slạm slư) : CC. Công cụ chế tác có nhiều hình dáng khác nhau,

thường được dùng để đục lỗ trên sản phẩm với nhièu mục đích cần thiết

khác nhau.

166. đục lỗ (slạm) : CT. Phần thừa ở trên bề mặt sản phẩm được đục bỏ đi mà

vẫn giữ nguyên hình dáng không thay đổi của sản phẩm.

167. đục nhỏ (slạm eng) : CC. Loại đục này nhỏ và cũng được tôi rất cứng,

dài 8 -10 cm, có một đầu to hơn: dài 2cm, rộng 1 cm; một đầu tròn

đường kính 0,5cm, chuyên dùng để đục lỗ trên vật cần đục hoặc dùng để

đục lỗ chốt khi rèn kéo.

168. đục sắt (slạm lếch) : CC. Công cụ chế tác sản phẩm này được làm bằng

sắt già được tôi luyện rất kỹ

169. đục to (slạm cải) : CC. Có chiều dài 15 – 20 cm, nặng 0,6 – 0,8 kg, to

bản 4 cm , dày bản 2cm, nhỏ dần đến sắc, rộng 1 – 1,5 cm, nhỏ dần về

phần lưỡi, nẹp chặt bằng tre làm cán để người thợ không phải cầm trực

149

tiếp vào đục dài 60 – 80 cm. Đục được tôi rất cứng, chuyên dùng để đục,

chạm cắt sắt theo định lượng, kích thước các sản phẩm cần rèn.

170. đục vừa (slạm ngám) : CC. Đục dài 15 cm, to bản 2 cm, dày bản 1cm,

được tôi rất cứng, chuyên dùng để mở lỗ trên các sản phẩm cần phải mở

để tra cán, chẳng hạn đục lỗ tra cán cho búa hoặc tách phần thừa trong

lòng sản phẩm.

171. gãy (tắc) : CT. Sản phẩm sau khi thành hình không bị gãy hoặc nứt.

172. gỉ (niểng) CT. Sản phẩm cần được bảo quản để không bị gỉ.

173. giòn (phjói) : CT. Sản phẩm phải không bị giòn khi tôi.

174. giòn gãy (phjói tắc) : CT.Sản phẩm phải không bị giòn gãy.

175. gõ (tói) : CT. Thao tác người thợ dùng búa tay gõ nhẹ lên vật cần rèn để

loại bỏ những bụi sắt và chỉnh lại nhừng chỗ lồi lõm trên sản phẩm.

176. gõ đập (hon tói) : CT. Thao tác người thợ dùng búa tay gõ nhẹ lên vật cần

rèn để loại bỏ những bụi sắt bám chặt trong quá trình chế tác và chỉnh lại

nhừng chỗ lồi lõm trên sản phẩm.

177. gói (ben) : CT. Thao tác bảo quản sản phẩm. Sản phẩm được gói bằng vỏ

ngô để tránh va đập và mẻ lưỡi.

178. hàn (phung) : CT. Thao tác hàn. Ở thao tác này người thợ dùng đất sét

bôi vào chỗ cần hàn, sau đó đặt lên một miếng đồng nhỏ rồi đưa sản

phẩm vào lò nung. Đồng sẽ chảy ra bịt kín mối hàn.

179. hàn chuông (phung roong) : CT. Thao tác hàn viền chuông.

180. hàn chuôi (phung bấu) : CT. Thao tác hàn bên trong và bên ngoài

khe chuôi.

181. hàn nắp (phung pha) : CT. Thao tác hàn viền nắp của sản phẩm.

182. hàn nối (phung táu) : CT. Thao tác hàn nối sản phẩm.

183. hạ búa (lùng lìu) :CT. Thao tác người thợ sau khi đập cầm búa tạ từ từ

150

sao cho cán búa thẳng đứng, song song với chân. Đây là thao tác tạm

dừng đập.

184. hồi (hòi) : CT. Trạng thái khi tôi lưỡi sản phẩm. Nhiệt nóng trên thân sản

phẩm lập tức dồn đến (hồi) trên lưỡi khi lưỡi vừa được nhấc khỏi bể tôi.

Người thợ xác định thời gian giữ lưỡi trong bể tôi sao cho phù hợp. Nếu

giữ lâu, nhiệt sẽ "hồi" lâu, giữ nhanh nhiệt sẽ hồi nhanh. Thao tác này

quyết định chất lượng của sản phẩm dẻo hay giòn.

185. hồng (hùung) : CT. Màu sắc lửa cần thiết để nung sắt.

186. hơ (phing) : CT. Sản phẩm đã hoàn thành cần được hơ trên than.

187. hơ khô (phing kháu) : CT. Sản phẩm cần được hơ khô để bảo quản

không bị gỉ hỏng.

188. kéo (kèo) : SP. Dài 10 – 12 cm, gồm hai lưỡi được ghép lại bởi một chốt

ở giữa, hai đầu gồm một đầu là thân kéo và mũi kéo; một đầu là gọng

kéo tay cầm, khi cầm kéo, người cầm giữ kéo với một ngón cái ở gọng

phía trên và hai, ba, hoặc bốn ngón còn lại với gọng phía dưới.

189. kéo cắt may (kèo tắt nhặp) SP. Kéo có phần tay cầm rộng, thuận lợi cho

việc đóng mở phần lưỡi kéo khi cắt. Lưỡi kéo sắc ngọt giúp cho thao tác

trở nên nhẹ nhàng.

190. kéo cắt tỉa cây (kèo tắt thoón mạy) : SP. Là loại keó có kích cỡ lớn nhất

trong các loại kéo. Kéo dày và nặng, độ nặng trung bình khoảng 1 kg,

chiều dài khoảng 40 cm, chuyên dùng để cắt tỉa cành lá và thân cây có độ

cứng vừa phải. Kéo được sử dụng bằng hai tay.

191. kèo cắt tóc (kèo tắt phum) : SP. Về cơ bản có hình dáng như các loại kéo

khác, tuy nhiên kéo cắt tóc có hai tay cầm dài và nhỏ hơn, thân kéo nhỏ,

151

thuôn nhọn, lưỡi kéo sắc.

Ảnh 21: Kéo cắt may và kéo cắt tóc

192. kèo cắt tôn (kèo tắt đoòng) : SP. Dài 50 cm, có lưỡi dài 25 cm, tay cầm 25

cm. Tay cầm một bên tròn một bên thẳng, bên thẳng thường tì lên mặt đất

khi cắt. Kéo chuyên dùng để cắt tôn.

193. kẹp (nẹp) : SP. xem kẹp bếp

194. kẹp bếp (nẹp cháo) :SP. Gồm hai thanh sắt mỏng dẹt, dài 40 cm, gắn cố

định với nhau. Chuyên dùng để kẹp củi đun bếp hoặc những vật dụng

nhỏ dùng trong bếp.

195. kẹp sắt (nẹp lếch) : SP. Sản phẩm được làm bằng sắt để phân biệt với

sản phẩm làm bằng tre khác.

196. kẹp nhổ sắn (nẹp lốc sẳn) : SP. Hình chữ V mặt trong của chữ V có

răng cưa, một cạnh của chữ V được gắn với một ống hình trụ. Một cây

gỗ dài khoảng 2m được luồn qua ống hình trụ của dụng cụ hình chữ V.

Dụng cụ chữ V nằm ở vị trí một phần năm cây gỗ cách một đầu cây gỗ

khoảng 30 - 40 cm, khi nhổ sắn, người nhổ (tì đầu gỗ xuống đất sao cho

phần dụng cụ chữ V ôm sát gốc sắn, rồi nhấc đầu còn lại của cây gỗ nhờ

lực cánh tay đòn, gốc sắn được nhấc lên khỏi mặt đất).

197. kìm (keèm) : CC. Gồm hai thanh sắt dẹt giống nhau, mỗi thanh sắt chia

làm hai phần, phần mỏ kìm và tay cầm. Phần mỏ kìm có chiều dài bằng

152

1/3 – 1/4 chiều dài của kìm và to bản hơn phần tay cầm. Phần tay cầm

bằng 2/3 chiều dài kìm và nhỏ dần về đuôi. Hai thanh kìm gắn với nhau

bằng một chốt sắt xuyên qua hai lỗ đục ở nơi phân chia phần mỏ kìm và

tay cầm. Hai thanh kìm có thể chuyển động xoay quanh chốt sắt này.

Khi sử dụng, thợ rèn cầm hai bên tay cầm, điều chỉnh mỏ đóng để kẹp,

gắp vật đang rèn.

198. kìm bé (keèm eng) : CC.xem kìm ý.

199. kìm càng cua (keèm kha cảy) : CC. xem kèm hung.

Ảnh 22:Kìm càng cua

200. kìm mỏ gà (keèm pác cáy) : CC. xem kìm ý.

Ảnh 23: Kìm mỏ gà

153

201. kìm mỏ vịt (keèm pác pất) : CC. xem kìm trung

Ảnh 24: Kìm mỏ vịt

202. kìm tiểu (keèm í) : CC. Loại kìm này nhỏ, có mỏ dẹt, ngắn, dùng để rèn

các sản phẩm có kích thước nhỏ và sản phẩm nhỏ.

203. kìm to (keèm hung) : CC. Lưỡi thẳng, dùng để kẹp rèn các sản phẩm lớn

như rìu, cuốc. Kìm thích hợp khi dùng với búa to.

204. kìm trung (kìm hung nhỉ) : CC. Lưỡi hơi cong, xòe ra như chiếc mỏ vịt.

Loại kìm này thường dùng để kẹp khi rèn các loại sản phẩm như dao,

liềm, kéo...

205. khẩu lệnh (hô lịnh) : CT. Thao tác người thợ cả dùng búa tay đập lên đe để

ra hiệu lệnh cho những người thợ phụ đập búa theo quy ước của thợ cả.

206. khều (héo) : CT. Thao tác loại bỏ phần sắt vụn, bụi sắt còn sót lại trên

sản phẩm.

207. khều răng (héo khẻo) : CT. Thao tác người thợ dùng dao nhỏ khều loại

bỏ những phần thừa, cần loại bỏ sau khi đã chạm lưỡi nhằm làm sạch,

đều của phần lưỡi sản phẩm.

208. khít (thí) : CT. Sản phẩm đã thành hình, có chốt sắt khít và không bị dít chặt.

209. khô (kháu) : CT. Sản phẩm cần phải giữ cho khô không bị ẩm ướt.

210. lau (mạt) : CT. Thao tác trong bảo quản sản phẩm,các sản phẩm cần

154

được lau chùi sách sẽ và không bị bám bụi.

211. lắc đập (hon xáu) : CT. Thao tác người thợ cả dùng búa tay đập nhẹ vào sản

phẩm sao cho bố cục toàn bộ sản phẩm được cân đối, các mặt phẳng mịn.

212. lật (phửn) : CT. Thao tác thay đổi vị trí vật cần rèn, trên đe hoặc trong lò nung.

213. lật sắt (phửn lếch) : CT. Thao tác người thợ dùng kìm kẹp chặt thanh sắt

lật trở mặt sắt cần rèn trên đe hoặc trong lò nung.

214. lều rèn (thiêng lếch) : CC. xem lò rèn.

215. lệch (pay) : CT. Thao tác đánh giá sản phẩm không đạt chất lượng.

216. lò nung (lò hoón) : Được đắp bằng đất sét mịn, cao chừng 80 cm, cửa lò

gắn với bề thổi.

217. lò rèn (lò hầu) : Thường được dựng ở nơi thoáng mát, rộng rãi ở trước sàn

dưới nhà. Phần diện tích dùng để đặt một lò rèn không lớn chỉ cần chừng 4 –

5m, chiều ngang trên đó dựng một túp lều bằng cột gỗ chắc chắn.

218. lồ đựng (lồ to) : Được đan bằng nứa. Hình dáng tương tự như bung

nhưng kích thước nhỏ hơn thường được dùng để đựng vật dụng và sản

phẩm rèn.

219. lồ đựng đồ nghề (lồ to cú cải) : Chuyên dùng để đựng những công cụ

chế tác không cố định trong nghề rèn.

220. lồ đựng sản phẩm (lồ to mịt dáng) : Chuyên dùng để đựng các sản phẩm

rèn đã hoàn chỉnh.

221. lỗ đẩy gió (rù slọ lùm) : Bộ phận của bễ nằm hoặc đứng.

222. lỗ thông gió (rù cuung lùm) : Bộ phận của bếp nung.

223. lồi lõm (búp bảm) : CT. Thao tác đánh giá sản phẩm không đạt trong quá

trình chế tác.

224. liềm (lìm) : SP. Có trọng lượng nhẹ 0,3kg, dài và nhỏ, mỏ cong, lưỡi

155

liềm được cắt răng cưa.

225. lưỡi (lỉn) : Bộ phận chính của sản phẩm, đối lập với chuôi/cán.

226. lưỡi loe (lỉn be) : Bộ phận lưỡi sản phẩm có hình loe hơi rộng so với

sản phẩm.

227. lưỡi bừa (lỉn phưa) : Lưỡi của cái bừa. Thường là những thanh sắt được

rèn nhọn dài chừng 10 cm.

228. lưỡi bừa một hàng răng (lỉn phưa thói héo toọc) : SP. Lưỡi bừa có một

hàng răng.

229. lưỡi bừa hai hàng răng (lỉn phưa sloong thói héo toọc) : SP. Lưỡi bừa

có hai hàng răng.

230. lưỡi bừa một sức kéo (lỉn phưa vài toọc) : SP. Lưỡi bừa dùng một sức

kéo (một trâu hoặc một bò).

231. lưỡi bừa hai sức kéo (lỉn phưa sường) : SP. Lưỡi bừa dùng hai sức kéo

(hai trâu hoặc hai bò).

232. lưỡi cày (lỉn thây) : SP. Hình tam giác, nặng khoảng 2kg, cạnh ngang dài

15cm, hai cạnh còn lại dài 25 cm, có mũi nhọn.

233. lưỡi cày ruộng nước (lỉn thây nà nặm) : SP. Lưỡi chỉ dùng để cày ruộng

có nước.

234. lưỡi cày nương (lỉn thây rầy) : SP. Lưỡi được dùng để cày trên nương rẫy.

235. mã tấu (mạ tấu) : SP.

236. mài (pẳn) : CT. Công đoạn sau khi sản phẩm được bào, dũa xong sản

phẩm đã thành hình sẽ được chuyển sang công đoạn mài.

237. mài bóng (pẳn lẩu) : CT. Công đoạn mài đánh bóng lấy màu cho sản

phẩm. Đây là công đoạn cuối cùng của quá trình chế tác một sản phẩm rèn.

238. mài tay (pẳn mừn) : CT. Thao tác mài sản phẩm bằng tay trên đá mài. Đây

là công đoạn quan trọng thể hiện kinh nghiệm tay nghề của từng thợ rèn.

156

239. mài thô (pẳn hào) : CT. Công đoạn mài sản sau khi dũa.

240. mài trắng (pẳn khao) : CT. Công đoạn mài sản phẩm sau khi đã tôi sản

phẩm được mài bằng đá mài nước cho phần lưỡi của sản phẩm được

trắng bóng.

241. mẻ (véo) : CT. Thao tác đánh giá chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu

(sản phẩm cần phải không bị mẻ).

242. méo (búp) : CT. Thao tác đánh giá chất lượng sản phẩm không đạt yêu

cầu (sản phẩm cần phải không bị méo).

243. mềm (oón) : CT. Thao tác đánh giá chất lượng sản phẩm không đạt yêu

cầu (sản phẩm cần phải không quá mềm).

244. mịn (miìn) : CT. Thao tác đánh giá chất lượng sản phẩm đạt yêu cầu (sản

phẩn cần phải có độ mịn nhất định).

245. mỏ (hô) : Bộ phận của sản phẩm.

246. mỏ quặm (hô sa) : Bộ phận sản phẩm có hình dáng quặp nhọn như mỏ quạ.

247. mỏ ngắn (hô tửn) : Bộ phận mỏ có kích thước ngắn hơn so với kích

thước bình thường.

248. mỏ dài (hô slì) : Bộ phận mỏ có kích thước dài hơn so với kích thước

bình thường.

249. móng ngựa (kíp mạ) : SP. có hình bán nguyệt, để đóng, lót móng chân ngựa.

250. mũi (đăng) : Bộ phận của sản phẩm.

251. mũi nhọn (đăng sliểm) : Bộ phận sản phẩm có hình nhọn.

252. mũi tên (tèo pưn) : SP.Để gắn vào đầu tên, sử dụng trong săn bắn.

253. nắn (sòi) : CT. Thao tác người thợ dùng búa tay đập sản phẩm nhằm nắn

lại hình dáng.

254. nắn chỉnh (sòi mằn) : CT. Thao tác quan trọng sau khi sản phẩm đã

157

thành hình, người thợ dùng búa tay đập nhẹ lên sản phẩm để chỉnh trang

lại những phần chưa hoàn chỉnh.

255. nắn thẳng (sòi dàu) : CT. Sản phẩm sau khi đã tôi bị cong, vênh, người

thợ dùng búa tay đập nhẹ lên sản phẩm để nắn lại cho thẳng qua việc

ngắm thẳng bằng mắt. Thao tác này yêu cầu sự chính xác và kinh nghiệm

cá nhân của mỗi người thợ.

256. nắp (pha) : Bộ phận của sản phẩm hoặc công cụ.

257. nắp bễ (pha mò) : CC. Được đặt ngay phía trên cửa lấy gió.

258. nhóm lò (sa phầy) : CT. Thao tác mở đầu cho hoạt động chế tác (rèn).

Người thợ rèn ếp than lên bếp, mồi lửa sau đó dùng quạt thổi mạnh cho

than cháy đỏ.

259. nghề rèn (hon lếch 2) : Là nghề thủ công truyền thống lâu đời của đồng

bào Phúc Sen, Quảng Uyên, Cao Bằng.

260. nung (sli) : CT. Thao tác dùng than đang cháy đỏ để làm mềm (nung đỏ)

vật cần rèn.

261. nung sắt (sli lếch) : CT. Thao tác đưa sắt vào lò nung để than nóng đỏ

làm mềm sắt đến độ nhất định mà vật nung không bị cháy hoặc chảy.

262. nứt (cạn) : CT. Thao tác đánh giá chất lượng sản phẩm không đạt yêu

cầu (sản phẩm cần phải không bị nứt). Đây là tiêu chuẩn hàng đầu của

sản phẩm rèn.

263. ống bễ (buốc mò) : CC. Được làm bằng thân cây gỗ tròn, dài 1,2m, có

đường kính rộng 0,25 m, đục rỗng bào nhẵn phía trong ống bễ cần trơn,

nhẵn, giảm lực ma sát tới mức thấp nhất để khi vận hành, tiết kiệm sức

cho người kéo bễ. Hai đầu của ống bễ được bịt kín bằng gỗ tấm có đục

cửa lấy gió.

264. ống dẫn gió (buốc lò hầu) : CC. Thông với đáy lò, dẫn gió từ bễ vào đáy lò.

158

265. phẳng (phiêng) : CT. Thao tác đánh giá chất lượng sản phẩm đạt yêu cầu

(sản phẩn cần phải phẳng).

266. phẳng khít (phiêng thí) : CT. Thao tác đánh giá chất lượng sản phẩm đạt

với yêu cầu: sản phẩn cần phải phẳng khít không bị dít.

267. phẳng mịn (phiêng miìn) : CT. Thao tác đánh giá chất lượng sản phẩm

đạt yêu cầu (sản phẩn cần phải phẳng mịn không bị sờn hoặc lồi lõm).

268. phoi rèn (khi lếch): Là những phần sắt thừa, vụn, còn bám lại trên bề

mặt của sản phẩm hay vật dang rèn.

269. phôi rèn (lếch hoón) : Là lượng sắt cho từng sản phẩm đã được người

thợ tính toán kĩ cho từng sản phẩm và lượng sắt hao hụt trong quá trình

rèn. Ví dụ: Dao quắm có trọng lượng là 0,5 kg thì phôi rèn cần trọng

lượng 0,6 kg.

270. phớ (phớ) : SP. Loại dao lưỡi nhỏ và dài, đầu bằng, gọn nhẹ, dùng trong

đi rừng để chặt phát.

271. pittông (pittông) : CC. Là một mảnh gỗ tròn hình bánh xe, có tiết diện

gần khít với thành ống bễ. Xung quanh bánh xe pittông có gắn lông gà để

giảm lực ma sát trong quá trình chuyển động. Tâm của pittông được gắn

với một cán gỗ dài 1,5m có tay cầm ngang. Người kéo bễ cầm tay vào đó

để kéo hoặc đẩy.

272. quai búa (quăng lìu) :CT. Thao tác người thợ giơ búa lên và đập lên vật

cần rèn.

273. quang nhíp (quang nhíp) : Nguyên liệu thép của nghề rèn lấy từ bộ phận

phế thải của ô tô.

274. quạt thổi (pao páu) : CC. Sự quay cánh quạt trong một hộp kín tạo

luồng gió thổi theo hướng ly tâm. Hộp kín có hình ống tròn, nhỏ, đường

kính khoảng 20 cm, được làm bằng gỗ hoặc bằng mảnh kim loại mỏng

uốn hình ống. Hộp kín có một ống dẫn theo chiều nằm ngang dẫn gió tới

159

lò nung. Trong hộp được bố trí một hệ thống cánh quạt gỗ hoặc kim loại

mỏng đồng trục với hộp, có thể chuyển động khi có lực quay trục.

275. que hàn chuôi (mạy phung bấu) : CC. Là một thanh sắt nhỏ dài 1m,

được dùng trong thao tác hàn chuôi khi sản phẩm đang trong lò nung.

Người thợ dùng que hàn chuôi luồn qua chuôi sản phẩm để điều chỉnh

đồng đang tan chảy đều bên trong và bên ngoài chuôi.

276. que thông lò (mạy hàn xa) : CC. Được làm bằng thép hoặc sắt nhỏ dài

chừng 1m, một đầu được đập mỏng và uốn cong, dùng để thông lò than

làm cho gió được thổi lên từ cầu lò được dễ dàng.

277. quét lò nung (tọn sa lò) : CT. Người thợ dùng cào móc than cào hết tro

còn sót lại trong lò ra ngoài, sau đó xếp lại cầu lò rồi mới có thể nhóm lò

để nung.

278. rạn (slèo) : CT. Thao tác đánh giá chất lượng sản phẩm không đạt yêu

cầu (sản phẩm cần phải không bị rạn).

279. rạn nứt (slèo véo) : CT. Thao tác đánh giá chất lượng sản phẩm không

đạt yêu cầu (sản phẩm cần phải không bị rạn hoặc nứt).

280. rắn (kheng) : CT. Thao tác đánh giá chất lượng sản phẩm đạt yêu cầu

(sản phẩm cần phải đạt độ rắn nhất định).

281. rìu (phủ) : SP. Hình dáng giống như búa, nặng khoảng 0,5 kg, dài 12 –

14 cm, rộng 1,2 – 1,5 cm, hình chữ nhật, mặt cạnh hình tam giác. Có lỗ ở

đầu để tra cán. Phần đầu nhỏ, hơn lưỡi búa, tách ra lưỡi thường loe rộng.

282. rìu bổ củi (phủ khiếc phừn) : SP. Rìu chuyên dùng để bổ củi, phân biệt

với các loại rìu khác nhưng hình dáng tương tự nhau.

283. rìu chặt cây (phủ thẳm mạy) : SP. Loại rìu chuyên dùng để chặt những thân

cây gỗ lớn nên thường có cân nặng và kích thước to hơn rìu bình thường.

284. rìu lưỡi loe (phủ lỉn be) : SP. x. rìu.

160

285. rửa (slào) : CT. Thao tác bảo quản sản phẩm. Sản phẩm khi đã hoàn

chỉnh cần được rửa qua nước trong bể nước tôi để giữ màu cho sản

phẩm. Không rửa sản phẩm bằng nước thường.

286. sáng (sluung) : CT. Thao tác đánh giá chất lượng sản phẩm đạt yêu cầu

(sản phẩm cần có độ sáng nhất định theo yêu cầu từng sản phẩm).

287. sáng bóng (sluung boóng) : CT. Thao tác đánh giá chất lượng sản phẩm

đạt yêu cầu (sản phẩm cần có độ sáng bóng nhất định theo yêu cầu từng

sản phẩm).

288. sắc (cùm) : CT. Thao tác đánh giá chất lượng sản phẩm đạt yêu cầu (sản

phẩm cần phải sắc khi cắt, thái...)

289. sắc ngọt (cùm făng) : CT. Thao tác đánh giá chất lượng sản phẩm đạt

yêu cầu (sản phẩm đạt đến độ sắc ngọt. Đây là sản phẩm có được từ sự

điêu luyện của người thợ có kinh nghiệm lâu năm có tay nghề đạt trình

độ kĩ thuật tinh xảo.

290. sắt (Lếch) : Nguyên liệu của nghề rèn.

291. sắt chữ V (Lếch slư V) : Nguyên liệu của nghề rèn.

292. sắt đầu láp (Lếch thu láp) : Nguyên liệu của nghề rèn.

293. sắt già (Lếch ké) : Nguyên liệu của nghề rèn.

294. sắt lá (Lếch bâư) : Nguyên liệu của nghề rèn.

295. sắt nhíp (Lếch nhíp) : Nguyên liệu của nghề rèn.

296. sắt non (lếch oón) : Nguyên liệu của nghề rèn.

297. sắt thép (lếch tiều) : Nguyên liệu của nghề rèn.

298. sống lưng (sắn lăng) : Bộ phận của sản phẩm.

299. sửa (chòi) : CT. Thao tác người thợ dùng búa tay đập sửa hoàn thiện sản

phẩm đối với sản phẩm đã thành hình.

161

300. tán (khoọn) : CT. Thao tác người thợ dùng búa tạ đập mạnh vào vật cần

rèn nhằm tán vật cần rèn theo mục đích đã định trước.

301. tán cạnh (khoọn slìm) : CT. Thao tác dùng búa tạ đập lên vật rèn theo

các cạnh nhất định.

302. tán hình (khoọn dưưng) : CT. Thao tác tán vật cần rèn theo hình dáng đã

định sẵn.

303. tán hình chữ nhật/tán chữ nhật (khoọn dưưng slí fuung) : CT. Thao tác

dùng búa tạ đập mạnh lên vật cần rèn theo hình chữ nhật đã định trước.

304. tán hình tròn/tán tròn (khoọn dưưng mừn) : CT. Thao tác dùng búa tạ

đập mạnh lên vật cần rèn theo hình tròn đã định trước.

305. tán hình vuông/tán vuông (khoọn dưưng slí fuung) : CT. Thao tác dùng

búa tạ đập mạnh lên vật cần rèn theo hình vuông đã định trước.

306. tán nhọn (khoọn sliểm) : CT. Thao tác dùng búa tạ đập mạnh lên vật cần

rèn theo hình nhọn đã định trước.

307. tán sắt (khoọn lếch) : CT. Thao tác người thợ dùng búa tạ đập mạnh vào

miếng sắt nhằm làm cho sắt dẻo mỏng đều ra.

308. tạo bụng (phạt toọng) : CT. Thao tác người thợ dùng búa tạ đập mạnh

vào một phần của vật rèn đã định trước để tạo bụng cho sản phẩm.

309. tạo chuôi (phạt bấu) : CT. Thao tác người thợ dùng búa tạ đập mạnh vào

một phần của vật rèn đã định trước để tạo chuôi cho sản phẩm.

310. tạo dáng (phạt slưứng) : CT. Thao tác người thợ dùng búa tạ đập mạnh vào

vật rèn đã định trước để tạo hình dáng cho sản phẩn rèn đã định trước.

311. tạo dáng thô (phạt slưứng hào) : CT. Thao tác người thợ dùng búa tạ

đập mạnh vào vật rèn đã định trước để tạo hình dáng thô ban đầu cho sản

phẩm rèn.

312. tạo dáng hoàn chỉnh (phạt slưứng xoong xứ) : CT. Thao tác người thợ

162

dùng búa tay đập mạnh vào vật rèn đã thành hình dáng để tạo dáng hoàn

chỉnh cho sản phẩm.

313. tạo đầu (phạt thu) : CT. Thao tác người thợ dùng búa tạ đập mạnh vào

một phần của vật rèn đã định trước để tạo đầu cho sản phẩm.

314. tạo hình (phạt hiinh) : CT. Thao tác người thợ dùng búa tạ đập mạnh

vào vật cần rèn để tạo hình dáng đã định trước cho sản phẩm.

315. tạo lưỡi (phạt lỉn) : CT. Thao tác người thợ dùng búa tạ đập mạnh vào

một phần của vật rèn đã định trước để tạo lưỡi cho sản phẩm.

316. tạo mỏ (phạt hô) : CT. Thao tác người thợ dùng búa tạ đập mạnh vào

một phần của vật rèn đã định trước để tạo mỏ cho sản phẩm.

317. tạo mũi (phạt đăng) : CT. Thao tác người thợ dùng búa tạ đập mạnh vào

một phần của vật rèn đã định trước để tạo mũi cho sản phẩm

318. tạo sống lưng (phạt sắn lăng) : CT. Thao tác người thợ dùng búa tạ

đập mạnh vào một phần của vật rèn đã định trước để tạo sống lưng cho

sản phẩm.

319. tạo thân (phạt đang) : CT. Thao tác người thợ dùng búa tạ đập mạnh vào

một phần của vật rèn đã định trước để tạo thân cho sản phẩm.

320. than (thản) : Nhiên liệu của nghề rèn.

321. than củi (thản phừn) : Nhiên liệu của nghề rèn.

322. than đá (thản thin) : Nhiên liệu của nghề rèn.

323. thanh sắt tạo chuôi (cẳn cồ hất bấu) : CC. Có đường kính 1cm, nặng khoảng 0,5 kg, dài 30 cm được uốn cong 90o, một đầu nhọn, một đầu

vuông, được dùng để nắn chuôi sản phẩm sao cho vừa khít (thanh sắt tạo

163

chuôi có nhiều kích thước to nhỏ khác nhau tùy từng sản phẩm rèn).

Ảnh 25: Thanh sắt tạo chuôi

324. thanh sắt tạo dáng (cẳn cồ hất slưứng) : CC. Là một thanh sắt dài hình

trụ đường kính 1cm, dài 30 cm nặng 0,5 kg, chuyên dùng để tạo dáng

cho sản phẩm.

325. thanh sắt tạo mỏ (cẳn cồ hất hô) : CC. Là thanh sắt già, hình dáng như

thanh sắt tạo dáng, chuyên dùng để tạo mỏ cho các sản phẩm như dao

quắm ...

Ảnh 26:Thanh sắt tạo mỏ

326. thẳng (dàu) : CT. Thao tác đánh giá chất lượng sản phẩm đạt yêu cầu

(sản phẩm cần thẳng là tiêu chí cần thiết của sản phẩm rèn).

327. thẳng đều (dàu đây) : CT. Thao tác đánh giá chất lượng sản phẩm đạt

yêu cầu (sản phẩm đạt được độ thẳng đều, thể hiện chất lượng sản phẩm

và tay nghề có kỹ thuật của người thợ rèn).

164

328. thân (đang) : Bộ phận của sản phẩm.

329. thép (tiều) : Nguyên liệu của nghề rèn.

330. thép tròn (tiều mừn) : Nguyên liệu của nghề rèn.

331. thợ cả (cắm keèm) : Là người hướng dẫn, ra hiệu lệnh chỉ huy cho những

người thợ phụ trong khi rèn. Công việc rèn phải theo sự chỉ dẫn của

người thợ cả. Trong một lò rèn chỉ có duy nhất một người thợ cả.

332. thợ phụ (tẩu lìu hung) : Là những người làm công việc như đập, dát

mỏng, cắt, chặt... vật rèn. Khi nghe hiệu lệnh hoặc chỉ dẫn của thợ cả,

các người thợ phụ sẽ phải làm theo chỉ dẫn, hiệu lệnh đó. Trong lò rèn có

thể có đến 2 hoặc 3 người thợ phụ.

333. thuổng (sliim) : SP. Dài 1 - 1,2 m nặng khoảng 2 kg, một đầu nhọn và

một đầu đập rộng khoảng 6 cm, chủ yếu dùng để đào đất, cạy đá...

334. thùng phuy (thồng phuy): Nguyên liệu của nghề rèn.

335. thước (xích) : CC. Công cụ dùng để đo sản phẩm hoặc để ước lượng khi

cắt, chặt sắt hoặc vật cần rèn trước khi rèn sản phẩm.

336. tôi (khịn) : CT. Đây là công đoạn hết sức quan trọng của quá trình chế

tác rèn đòi hỏi người thợ phải có tay nghề và kinh nghiệm lâu năm. Sản

phẩm sau quá trình chế tác hoàn chỉnh được cho vào lò nung cho nóng

đỏ sau đó người thợ dùng kìm kẹp chặt sản phẩm, nhúng từ từ từng phần

sản phẩm theo ý đồ tôi vào bể nước tôi.

337. tôi hỏng (khịn vái) : CT. Thao tác đánh giá sản phẩm tôi không đạt yêu cầu

(sản phẩm có thể bị tôi non (dễ quăn), tôi già (dễ mẻ) hoặc bị hỏng ngay khi

tôi (nứt, rạn gãy)).

338. tôi lưỡi (khịn lỉn) : CT. Sản phẩm sau quá trình chế tác hoàn chỉnh được

cho vào lò nung đến nóng đỏ; sau đó người thợ dùng kìm kẹp chặt sản

phẩm nhúng từ từ phần lưỡi xuống nước tôi rồi ngay lập tức nhấc lên, rồi

lại nhúng vào nước tôi nhiều lần cho đến khi độ nóng của sản phẩm hết

nóng (kỹ thuật tôi lưỡi của người thợ rèn Phúc Sen rất tinh xảo, do đó sản

phẩm rèn của họ trở nên nổi tiếng là một phần nhờ vào kỹ thuật tôi này).

165

339. tôi giòn gãy (khịn phjói tắc) : CT. Sản phẩm khi đang tôi mà bị gãy, tức

là khi người thợ đã không làm chủ được nhiệt độ khi tôi và chưa đủ kinh

nghiệm tôi sản phẩm.

340. tôi rạn nứt (khịn slèo véo) : CT. Sản phẩm khi đang tôi bị nứt, tức là

người thợ không làm chủ được nhiệt độ khi tôi và chưa đủ kinh nghiệm

tôi sản phẩm.

341. tôi toàn bộ (khịn thuủn) : CT. Kỹ thuật tôi khi sản phẩm đã giảm nhiệt

độ mức nào đó theo kinh nghiệm người thợ, sản phẩm được người thợ

nhúng toàn bộ xuống bể nước tôi.

342. tôi vênh (khịn kiụ) : CT. Thao tác đánh giá sản phẩm tôi không đạt yêu

cầu (sản phẩm bị vênh).

343. tôi đẹp (khịn đây) : CT. Thao tác đánh giá sản phẩm tôi đạt yêu cầu của

chất lượng một sản phẩm.

344. tôn (đoòng) : Nguyên liệu của nghề rèn.

345. uốn (lén) : CT. xem uốn chuôi.

346. uốn chuôi (lén bấu) : CT. Thao tác người thợ dùng búa tay đập mạnh

vào phần chuôi đã được đập mỏng để uốn cong thành hình ống, sau đó

tra phần chuôi đã uốn vào thanh sắt tạo chuôi và tiếp tục đập sao cho

chuôi được khít.

347. uốn cong (lén cồ) : CT. Thao tác người thợ dùng thanh sắt tạo mỏ uốn

phần mỏ đã được định sẵn để tạo mỏ cong cho sản phẩm.

348. vàng (lương) : Thao tác đánh giá màu sắc khi tôi sản phẩm, màu vàng

trên sản phẩm không được đi quá phần lưỡi của sản phẩm.

349. vê (lẳn) : CT. Thao tác dùng búa tay đập nhẹ vào phần đầu của chuôi

sản phẩm, khi chuôi đang là một bộ phận phẳng dẹt, chưa được uốn

tròn, nhằm tạo thành một ống tròn nhỏ ở phần cuối của bộ phận sẽ được

uốn chuôi.

166

350. vê chuôi (lẳn bấu) : CT. Thao tác dùng búa đập vào phần đầu của chuôi

sản phẩm sau khi chuôi được uốn thành hình ống sao cho đường vê hình

ống nhỏ nằm ở phía ngoài, cuối chuôi ông (các loại công cụ chuôi ống

được vê chuôi trông đẹp và dễ cầm, chắc chắn cho người dùng).

351. vê dầy chuôi (lẳn na bấu) : CT. X. vê chuôi.

352. vênh (kịu) : CT. Thao tác đánh giá chất lượng sản phẩm không đạt yêu

cầu (sản phẩm cần phải không bị vênh).

353. viền (tỉn) : Phần liền với chuôi hình ống, được vê tròn để chuôi được

chắc đẹp.

354. viền chuôi (tỉn bấu) : CT. Thao tác người thợ dùng búa tay đập nhẹ vào phần

đầu chuôi đã được vê thành ống nhỏ để tạo viền cho chuôi được dày.

355. vỡ (phó) : CT. Thao tác đánh giá chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu

(sản phẩm cần phải không vỡ).

356. vùi (pốc) : CT. Thao tác dùng cào móc than đưa than cháy đỏ cho lên vật

đang nung để vật nung được nóng đỏ nhanh hơn.

357. vùi sắt (pốc lếch) : CT. Thao tác dùng cào móc than đưa than đỏ cho lên

vật cần rèn để vật rèn được nóng đỏ được nhanh hơn.

358. vung búa (vái lìu) : CT. xem quai búa.

359. xà beng (bao binh) : SP. Dài khoảng 2m, nặng 2 – 3 kg, một đầu nhọn,

đầu còn lại dẹt, chuyên dùng để chọc, phá, cạy đá v.v...

360. xanh (khiêu) : CT. Thao tác đánh giá chất lượng sản phẩm (màu sắc của

sản phẩm rèn nhất thiết phải là màu xanh).

361. xanh bóng (khiêu boóng) : CT. Thao tác đánh giá sản phẩm. Sản phẩm

sau khi đã hoàn chỉnh để đưa ra thị trường tiêu thụ, cần đạt được màu sắc

vừa xanh vừa bóng thì sản phẩm mới đạt yêu cầu.

362. xanh xám (khiêu moong) : Màu sản phẩm chưa qua đánh bóng lấy màu

167

nên vẫn còn màu xanh xám của sắt khi rèn.

363. xẻng (xản) : SP. Sản phẩm có độ dày vừa phải, cao khoảng 20 cm, rộng

15 cm, thân xẻng rộng hơi vũm và nhỏ dần về phía lưỡi xẻng. Lưỡi khá

nhỏ, có độ sắc và tương đối nhọn.

364. xẻng đắp bờ (xản pốc cằn) : SP. Xẻng có phần lưỡi dài 15cm, lưỡi xẻng

phẳng, chuyên dùng để đắp bờ ruộng.

365. xẻng nhọn (xản sliểm) : SP. Hình dáng tương tự xẻng nhưng có kích

thước nhỏ hơn, phần lưỡi được rèn nhọn.

366. xẻng rán (hô san) : SP. Sản phẩm rộng 7 -10 cm dài khoảng 12 cm,

mỏng , hai bên được uốn lên cao khoảng 1 cm có cán dài độ 10 cm được

gắn thêm với cán gỗ, là dụng cụ, thường dùng để xào rán thức ăn.

Ảnh 27: Xẻng rán

367. xẻng vuông (xản vuung) : SP. Hình dáng tương tự như xẻng nhưng có

kích thước to hơn, phần lưỡi được rèn theo hình vuông.

368. xếp (tặt) : CT. Thao tác bảo quản sản phẩm sau khi chế tác xong được

đưa vào tiêu thụ. Sản phẩm được xếp cẩn thận sao cho phần lưỡi của sản

168

phẩm không bị va chạm vào nhau có thể làm mẻ lưỡi.

PHỤ LỤC 5: ẢNH TƯ LIỆU NGHỀ RÈN PHÚC SEN

169

Ảnh 01 : Cắt chặt sắt

Ảnh 02 : Gian hàng sản phẩm nghề rèn Phúc Sen

170

Ảnh 03: Gian hàng sản phẩm nghề rèn Phúc Sen

Ảnh 04: Đập ba búa

171

Ảnh 05: Uốn chuôi sản phẩm

DANH SÁCH NGƯỜI CUNG CẤP TƯ LIỆU

Thứ tự

Họ và tên Tuổi Nghề nghiệp Địa chỉ

Bản Thanh Minh, Phúc

1 Nông Minh Chấn 60 Thợ rèn Sen, Quảng Uyên, Cao

Bằng

Bản Pắc Rằng, Phúc Sen, 2 Sạch Văn Đội 62 Thợ rèn Quảng Uyên, Cao Bằng

Bản Pắc Rằng, Phúc Sen, 3 Sạch Văn Kiên 28 Thợ rèn Quảng Uyên, Cao Bằng

Bản Pắc Rằng, Phúc Sen, Phó Bí thư xã

4 Sạch Văn Long 34 Quảng Uyên, Cao Bằng Phúc Sen - Thợ

rèn

Bản Pắc Rằng, Phúc Sen, 5 Triệu Văn Luân 28 Thợ rèn Quảng Uyên, Cao Bằng

Bản Pắc Rằng, Phúc Sen, 6 Triệu Văn Hù 58 Thợ rèn Quảng Uyên, Cao Bằng

Bản Pắc Rằng, Phúc Sen, 7 Tô Văn Huân 37 Thợ rèn Quảng Uyên, Cao Bằng

Bản Pắc Rằng, Phúc Sen, Trưởng bản

Quảng Uyên, Cao Bằng 8 Lương Văn Thái 52 Pắc Rằng -

Thợ rèn

Bản Phya Chang, Phúc Cán bộ văn

Sen, Quảng Uyên, Cao 9 Nông Văn Thắng 36 hóa xã Phúc

172

Bằng Sen