ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
BÙI THỊ NHUNG
NGƢỜI KỂ CHUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT
NGUYỄN VIỆT HÀ
(Qua Cơ hội của Chúa và Khải huyền muộn)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Hà Nội - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
BÙI THỊ NHUNG
NGƢỜI KỂ CHUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT
NGUYỄN VIỆT HÀ
(Qua Cơ hội của Chúa và Khải huyền muộn)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đoàn Đức Phƣơng
Hà Nội - 2015
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tác giả xin
bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy, cô giáo trong khoa Khoa Văn học,
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội;
Thư viện Quốc gia Việt Nam, … đã giúp đỡ, tạo điều kiện trong quá trình tìm
kiếm, thu thập tài liệu nghiên cứu. Đặc biệt, tác giả gửi lời cảm ơn chân thành
tới GS.TS. Đoàn Đức Phương, nhờ sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của thầy,
tác giả đã hoàn thành luận văn thạc sĩ.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song giới hạn về mặt thời gian và nhận
thức nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Do vậy, tác giả
rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy, cô giáo và những đóng góp ý
kiến quý báu của toàn thể bạn đọc.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 01
1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................... 03
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................. 05
3. Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu .............................................. 12
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 12
5. Cấu trúc luận văn ........................................................................................ 12
CHƢƠNG 1: KHÁI LƢỢC VỀ NGƢỜI KỂ CHUYỆN VÀ SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN VIỆT HÀ............................................................................13
1.1. Tự sự học và người kể chuyện ................................................................. 13
1.1.1. Lý thuyết tự sự học................................................................................ 13
1.1.2. Người kể chuyện ................................................................................... 19
1.2. Sáng tác của Nguyễn Việt Hà .................................................................. 23
1.2.1. Hành trình sáng tác ................................................................................ 23
1.2.2. Quan điểm nghệ thuật ........................................................................... 28
CHƢƠNG 2:NGƢỜI KỂ CHUYỆN VÀ NGÔI KỂ, ĐIỂM NHÌN.........30
2.1. Ngôi kể của người kể chuyện ................................................................... 32
2.1.1. Giới thuyết về ngôi kể ........................................................................... 32
2.1.2. Các loại hình của ngôi kể trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà ............... 34
2.1.2.1. Kể chuyện theo ngôi thứ ba ............................................................... 34
2.1.2.2. Kể chuyện theo ngôi thứ nhất ............................................................ 42
2.2. Điểm nhìn trần thuật ................................................................................. 51
2.2.1. Giới thuyết về điểm nhìn ....................................................................... 51
2.2.2. Điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà ....................... 53
CHƢƠNG 3: NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT .............. 59
1
3.1. Ngôn ngữ trần thuật ................................................................................. 59
3.1.1. Giới thuyết về ngôn ngữ trần thuật ....................................................... 59
3.1.2. Đặc điểm ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà ........ 61
3.1.2.1. Ngôn ngữ đậm chất đời thường ......................................................... 61
3.1.2.2. Ngôn ngữ vay mượn .......................................................................... 67
3.1.2.3. Ngôn ngữ mang màu sắc tôn giáo ...................................................... 70
3.2 . Giọng điệu trần thuật ............................................................................... 75
3.2.1. Giới thuyết về giọng điệu trần thuật ..................................................... 75
3.2.2. Các loại giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà ........ 77
3.2.2.1. Giọng điệu giễu nhại .......................................................................... 77
3.2.2.2. Giọng điệu triết lý .............................................................................. 84
3.2.2.3. Giọng điệu trữ tình ............................................................................. 88
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 93
2
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 94
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Từ sau năm 1986, trong xu thế và không khí chung của thời kỳ đổi mới,
toàn bộ nước ta bước vào quá trình thay da đổi thịt trong mọi lĩnh vực. Tiểu
thuyết đương đại Việt Nam lúc này có sự lột xác mãnh liệt.Nó đòi hỏi sự đổi
mới về tư duy nghệ thuật để tạo ra tiền đề cho sự cách tân về mặt thể
loại.Đáng chú ý nhất là sự đổi mới trong nghệ thuật trần thuật với sự đóng
góp của nhiều thế hệ nhà văn.Những giá trị truyền thống đòi hỏi được làm
mới khiến các nhà văn dần từ bỏ thói quen đối chiếu giữa cuộc sống thực bên
ngoài mà bắt đầu suy tư về chính cái hiện thực dù có hay không có thật trong
cuộc sống mà nhà văn muốn gửi gắm.
Nguyễn Việt Hà là một trong những nhà văn trẻ của nền văn học đổi
mới.Tiểu thuyết của anh cho thấy một tư duy nghệ thuật sắc bén, một tư
tưởng cách tân tiểu thuyết quyết liệt. Tuy đề cập đến những vấn đề không mới
nhưng lại luôn là những đề tài nóng bỏng về con người đặt ra trong bối cảnh
xã hội đang có những thay đổi mạnh mẽ. Chính sự giao thoa không dứt điểm
giữa cái cũ và cái mới đã làm nảy sinh nhiều vấn đề.Vì vậy mà tác phẩm của
anh khi ra đời đã gây ra khá nhiều dư luận.
Mặc dù tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà không nhiều, chỉ với hai cuốn
Cơ hội của Chúa và Khải huyền muộn, nhưng đó là những "viên ngọc" quý
tạo nên đặc điểm riêng trong phong cách nghệ thuật của anh. Nguyễn Việt Hà
đã không chỉ làm mới ở nội dung, tư tưởng mà còn xây dựng nên một kĩ thuật
trần thuật điêu luyện, phá vỡ những khuôn mẫu trần thuật cũ, mở ra một
hướng mới trong nghệ thuật kể chuyện của tiểu thuyết.
Trong tác phẩm tự sự, người kể chuyện có một vai trò hết sức quan
3
trọng. Trước đây khái niệm này hầu như bị bỏ qua, người ta chỉ nghiên cứu
nhân vật, ngôn ngữ, cốt truyện, các biện pháp tu từ..., còn người kể chuyện
trong văn bản biến mất, gần như vô hình hoặc bị đồng nhất với tác giả. Những
năm gần đây, sự ý thức về chủ thể của văn học cùng với việc mở rộng tiếp thu
các thành tựu lý luận trên thế giới đã có những tác động mạnh mẽ đến ý thức
của những người nghiên cứu văn học. Người nghiên cứu không chỉ dừng lại ở
việc nghiên cứu nội dung, ý nghĩa của tác phẩm ra sao mà vai trò của người
kể chuyện cũng được quan tâm.Bởi cùng một câu chuyện, nếu được kể bởi
những hình tượng người kể chuyện khác nhau thì có thể hiệu quả nghệ thuật
mang lại sẽ khác nhau. Cách thức trần thuật của người kể không chỉ đơn
thuần là cách kể chuyện sao cho câu chuyện trở nên đậm đà, ý vị, mà đó còn
là cách thức để nhà văn lý giải sự vật hiện tượng một cách sâu sắc, hiệu quả
và thuyết phục. Diện mạo và phong cách trần thuật của người kể chuyện được
tạo nên từ sự kết hợp của các yếu tố như ngôi kể, điểm nhìn nghệ thuật, ngôn
ngữ kể chuyện và giọng điệu trần thuật.Vì vậy, khi khảo sát một hình tượng
người kể chuyện, chúng ta phải đi vào phân tích từng yếu tố này để rút ra một
cách nhìn nhận xác đáng và trọn vẹn về hình tượng.
Đối với tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà, sự đặc sắc của mỗi loại hình tượng
người kể chuyện đều gắn với những đặc trưng nhất định trong nghệ thuật sử
dụng các phương tiện trần thuật như: ngôn ngữ, giọng điệu kể chuyện, sự luân
phiên thay đổi ngôi kể và các điểm nhìn trần thuật. Cái hay của Nguyễn Việt
Hà là ở chỗ, anh đã thể hiện được tài năng biến hóa linh hoạt trong việc vận
dụng kết hợp các yếu tố tự sự để kiến tạo nên nhiều dạng người kể chuyện
khác nhau, qua đó xây dựng nên những cấu tứ tự sự độc đáo, mang tính biểu
hiện cao. Tuy nhiên, tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà cũng chỉ được các nhà phê
bình, nghiên cứu theo hướng gợi mở chứ chưa có công trình đi sâu vào khảo
sát đặc điểm cũng như nghệ thuật trần thuật của tác phẩm. Vì vậy, trong luận
4
văn này, chúng tôi sẽ vận dụng một số kiến thức về lý luận văn học (đặc biệt
là tự sự học) và những hiểu biết về văn học thời kỳ đổi mới để sắp xếp, hệ
thống các vấn đề có liên quan đến người kể chuyện trong tiểu thuyết của
Nguyễn Việt Hà. Hy vọng rằng, luận văn có thể đóng góp một phần nhỏ vào
trong quá trình nghiên cứu chung về Nguyễn Việt Hà và cũng để thấy được
những đóng góp của anh đối với nền văn học dân tộc trong quá trình đổi mới.
2. Lịch sử vấn đề Mặc dù được biết đến là cây bút trẻ trong thời kỳ đổi mới nhưng
Nguyễn Việt Hà đã nhanh chóng gây được dấu ấn mạnh mẽ trong lòng bạn
đọc và làm bận tâm các nhà nghiên cứu, lí luận phê bình. Cho đến thời điểm
hiện tại tên tuổi Nguyễn Việt Hà cùng các cuốn tiểu thuyết Cơ hội của Chúa,
Khải huyền muộn đã không còn xa lạ với độc giả Việt Nam.
Hiện đã có một số bài phân tích, đánh giá về Cơ hội của Chúa, Khải
huyền muộn trên cả hai bình diện: nội dung và nghệ thuật. Tiêu biểu trong số
đó là các bài viết của Hoàng Ngọc Hiến, Đoàn Cầm Thi, Trần Văn Toàn,
Nguyễn Chí Hoan... Dưới đây, chúng tôi xin được tóm lược một vài nét về
những đánh giá ấy:
Hoàng Ngọc Hiến trong bài Đọc Cơ hội của Chúa của Nguyễn Việt
Hàđã cắt nghĩa tác phẩm trên ba tiêu điểm: Những khái quát xanh rờn, những
mẫu người lập thân lập nghiệp lý thú và chủ đề văn hóa tôn giáo trong Cơ hội
của Chúa. Ở tiêu điểm nào, Hoàng Ngọc Hiến cũng có những phân tích tỉ mỉ,
khách quan. Theo ông, những khái quát “xanh rờn” trong tác phẩm đã cho
thấy Nguyễn Việt Hà “khá am hiểu, có sự cảm nhận tinh tế, có cả sự vô tư
của một triết gia tiểu thuyết, vô tư theo cách hiểu rất bác học và cũng rất bình
dân của người Hà Nội”. Hoàng Ngọc Hiến đã đánh giá cao những đóng góp
của tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà đối với sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam
5
đương đại trên một số phương diện cơ bản như: Cơ hội của Chúa "thừa thãi
những câu hóm hỉnh, đùa giễu, về phương diện này có thể xem tác phẩm của
Nguyễn Việt Hà là một cái mốc" [29,tr. 18]. "Cơ hội của Chúa kết thúc bằng
mấy trang tiểu luận, mở ra những vấn đề rất sớm của nền văn minh nhân
loại" [29,tr. 35].
Cơ hội của Chúa cũng đã tạo nên một sự "ngỡ ngàng" đối với Tiến sĩ
văn học Đoàn Cầm Thi và điều đó được thể hiện qua bài viết: Cơ hội của
Chúa - Từ nhật ký đến hậu trường văn học. Đoàn Cầm Thi đã không ngần
ngại bộc lộ cảm xúc của mình khi đọc tác phẩm: "Xuất hiện đã năm năm, Cơ
hội của Chúa vẫn khiến tôi ngỡ ngàng bởi sự bề bộn của nó. Không chỉ ở độ
dày gần năm trăm trang, dù đó là một sự hiếm, khi truyện Việt Nam ngày
càng mòn, đa phần nhà văn Việt Nam ngày càng như hụt hơi. Không chỉ ở sự
phong phú của các chủ đề - tình yêu, tình bạn, tình anh em; các lĩnh vực - tôn
giáo, chính trị, kinh tế, văn hoá; các tầng lớp xã hội - thị dân, công chức,
lãnh đạo, trí thức, buôn lậu. Không chỉ ở chất ngổn ngang của dĩ vãng, hiện
tại tương lai. Không chỉ ở sự chồng chéo của những Hà Nội, Hải Phòng, Đồ
Sơn, Sài Gòn, Huế, Beclin, Dresden, Ba Lan, Tiệp"[67]. Bên cạnh việc đánh
giá về nội dung thì bài viết của Đoàn Cầm Thi cũng rất chú ý đến nghệ thuật
của cuốn tiểu thuyết. Theo chị, đây là “tiểu thuyết của những cái tôi”. Nguyễn
Việt Hà đã rất tài tình khi gạt người kể chuyện sang một bên và để các nhân
vật tự bộc lộ “cái tôi” của mình. Đồng thời dưới nhiều điểm nhìn khác nhau,
Nguyễn Việt Hà đã để các sự vật, các nhân vật được nhìn nhận ở nhiều góc độ
khác nhau khiến cho thế giới trong Cơ hội của Chúa hiện ra “không thuần
nhất mà muôn hình vạn trạng, không khéo mà mở, không xác thực mà đầy bí
hiểm, bất ổn, hoài nghi”.Đoàn Cầm Thi đã có những nhận xét khá sắc sảo và
6
khách quan đối với cuốn tiểu thuyết này.
Trần Văn Toàn trong cuốn Tự sự học có bài Tự sự trong Cơ hội của
Chúa cách tân và giới hạn nhận ra rằng: "Mặc dù ở phương Tây, từ những
năm đầu của thế kỷ XX người ta đã chứng kiến sự biến mất của tính cách, thì
với Nguyễn Việt Hà, phạm trù nghệ thuật này vẫn là công cụ chủ yếu để anh
xây dựng bức tranh đời sống" [60, tr. 422]. Tác giả bài viết đã đưa ra những
dẫn chứng cụ thể để minh chứng cho điều này cùng với những thành công
cũng như giới hạn mà Nguyễn Việt Hà chưa làm được. Cụ thể đó là về cách
xây dựng nhân vật, xen kẽ các chuyện ngoại đề, điểm nhìn và giọng điệu trần
thuật... Qua đó, Trần Văn Toàn đi đến khẳng định: "Cuốn tiểu thuyết này đã
làm được một việc không dễ dàng: nó khiến người ta phải dừng lại suy ngẫm
về những gì đã đạt được, những gì cần vượt qua của tiểu thuyết Việt Nam
trong tương lai" [60, tr. 428].
Bên cạnh những ý kiến đánh giá về những thành công của tác phẩm
cũng có một số ý kiến cho rằng tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà còn gặp phải một
số hạn chế nhất định. Nguyễn Hòa trong bài viết Cơ hội của Chúa: Chúa
cũng không giúp được gì!đã nhận xét: “Con người và sự việc trong Cơ hội
của Chúa không có gì mới. Vẫn là những xung đột gia đình, những cuộc tình
tay ba, những chuyện mánh mung, những trò lừa tình, lừa tiền với kẻ thất
tình, người thất thế… không diễn ra trong một sàn nhảy, nhà hàng thì cũng
diễn ra trong một văn phòng, một biệt thự sang trọng vốn đầy rẫy trong các
phim “mì ăn liền” của Hồng Kông và nội địa” [32].Hay trong bài viết Cơ hội
của Chúa: Gánh nặng của những cái tôi phù phiếm, Nguyễn Thanh Sơn cũng
tỏ ra khó chịu với cách sử dụng ngôn ngữ trong Cơ hội của Chúa: “nhân vật
pha trộn tiếng mẹ đẻ với tiếng Anh không cần thiết và sai chính tả, văn phạm
một cách cẩu thả”. Và theo lời Nguyễn Thanh Sơn thì Nguyễn Việt Hà chỉ
7
“viết cho sướng ngòi bút, cho thỏa mãn ego của mình, Nguyễn Việt Hà không
thể kết thúc được câu chuyện... không hiểu tác giả sẽ đi về đâu trong cái mớ
bòng bong những câu chuyện vụn vặt này” [58].
Sáu năm sau khi những tranh luận xung quanh cuốn tiểu thuyết đầu tay
tạm lắng xuống thì Nguyễn Việt Hà cho ra mắt cuốn tiểu thuyết thứ hai với
nhan đề Khải huyền muộn. Cuốn tiểu thuyết này được người đọc đón nhận
bình tĩnh hơn và cũng nhận được nhiều lời nhận xét, đánh giá của độc giả và
giới phê bình.
Bàn về Khải huyền muộn, nhà văn Trung Trung Đỉnh đã nói về những
cách tân của Nguyễn Việt Hà trong việc tạo ra một cấu trúc tác phẩm tự mình
bứt ra khỏi lối mòn của cấu trúc tiểu thuyết và cách kể chuyện truyền thống.
Theo ông, "Nguyễn Việt Hà không hề né tránh phô diễn cái "tôi" thuần tuý
trong lối nghĩ và lối viết". Ngay cả cách thể hiện mình bằng một lối kết thúc
mở khác với lối kết thúc của các tiểu thuyết gia truyền thống cũng được
Trung Trung Đỉnh khái quát một cách ngắn gọn, rằng Nguyễn Việt Hà đã xây
dựng nên "những câu chuyện không đầu, không cuối nhưng thi vị trong cuộc
sống đương đại" [26].
Khi so sánh Khải huyền muộn với cuốn tiểu thuyết đầu tay, nhà văn Tạ
Duy Anh đã dành những lời khen ngợi: “Tôi phải nói ngay rằng văn trong
Khải huyền muộn hơn đứt Cơ hội của Chúa. Nhiều trang văn rất đẹp, có
chiều sâu, có sức lan toả và nó cũng cho thấy tác giả là người nghiêm túc, có
bản lĩnh, có trách nhiệm nghề nghiệp" [26].
Họa sĩ Lê Thiết Cương cũng đưa ra những bình luận về kết cấu của
cuốn tiểu thuyết: “Giá như Khải huyền muộn có kết cấu bớt mạch lạc đi nữa.
Thừa thiếu chấm phẩy, câu chữ xô bồ chút nữa, không giống chút nữa cũng
8
chẳng sao, mỗi người viết cần có chính tả của mình".Trái lại, nhà nghiên cứu
Nguyễn Mạnh Hùng lại tỏ ra rất hào hứng với lối viết của Nguyễn Việt Hà.
Anh nhấn mạnh: “Khải huyền muộn là những sải bơi tiếp theo của Cơ hội
của Chúa trên dòng sông tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà. Chọn lựa thứ cấu trúc
đa ngôi thứ như thể khối vuông ru-bích, Nguyễn Việt Hà tạo cho mình ưu thế
thoải mái để quan sát và kể chuyện, thỏa cơn khát tìm tòi và đồng cảm với
các nhân vật trong cuộc sống. Không có số phận đi tới cùng cũng như không
có những câu chuyện đi đến hồi kết thúc, tác giả đang khám phá, mô tả cuộc
sống đang diễn ra và điều thú vị, cũng là đóng gópriêng của Nguyễn Việt Hà,
chính là vẽ nên những tâm trạng người đương thời”.
Đặc biệt năm 2005, bài viết với nhan đề Khải huyền muộn – cuốn tiểu
thuyết viết về chính nó của nhà lý luận phê bình văn học Nguyễn Chí Hoan đã
giúp người đọc dễ dàng nhận ra cấu trúc của cuốn tiểu thuyết. Theo nhà phê
bình, cuốn tiểu thuyết này được cấu tạo bằng một loạt những chi tiết dở dang,
kết nối vào nhau hết sức chặt chẽ để bày tỏ sự dở dang của chính nó.Nguyễn
Chí Hoan rất chú ý đến việc tác giả để cho các nhân vật và kí ức hiện lên
ngang bằng nhau.Trong câu chuyện này có một câu chuyện khác, trong nhân
vật này có một nhân vật khác và mỗi người đều là chứng nhân cho sự tha hóa
của chính mình, đồng thời còn là chứng nhân cho sự tha hóa của người khác
và cuộc sống xung quanh.\
Bên cạnh những bài viết mang tính chất phê bình, luận bàn về tiểu
thuyết của Nguyễn Việt Hà thì cũng có khá nhiều niên luận, khóa luận, luận
văn nghiên cứu về tiểu thuyết của anh. Qua đó, có thể nhận thấy sự quan tâm,
yêu thích của giới trẻ đến những cuốn tiểu thuyết này, dù có rất nhiều ý kiến
cho rằng đây là những cuốn tiểu thuyết không dễ đọc.
Trước tiên phải nhắc đến báo cáo khoa học năm 2003 của hai sinh viên
9
Đỗ Thị Bích Liên và Vũ Thị Hồng Minh với đề tài: Ngôn ngữ trong tiểu
thuyết Cơ hội của Chúa của Nguyễn Việt Hà. Báo cáo đã đi sâu khảo sát và
phân tích một cách khá sắc sảo cách thức sử dụng từ vựng, ngôn ngữ trong
tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà. Sự độc đáo trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà
được khẳng định qua hệ thống ngôn ngữ với lớp từ vay mượn phong phú cả
tiếng Anh, tiếng Pháp và sự suồng sã của lớp từ Hán Việt. Cùng với đó là sự
xuất hiện của các thuật ngữ tôn giáo, hệ thống từ láy, các từ ngữ lạ hóa. Hai
sinh viên cũng có những phát hiện khá chính xác về ngôn ngữ của người kể
chuyện và ngôn ngữ của nhân vật trong cuốn tiểu thuyết.
Năm 2004, tiếp tục xuất hiện công trình nghiên cứu về tiểu thuyết
Nguyễn Việt Hà của sinh viên Hà Thu Nga với đề tài Bước đầu tìm hiểu một
số phương diện đổi mới của tiểu thuyết Cơ hội của Chúa. Với đề tài nghiên
cứu này, sinh viên Hà Thu Nga đã chỉ ra cho người đọc thấy những phương
diện đổi mới của tiểu thuyết này trên góc độ thi pháp của thể loại như: đề tài,
chủ đề, cốt truyện, kết cấu, nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật trần
thuật. Trong khuôn khổ hạn hẹp của một bài báo cáo khoa học, tác giả đã bao
quát được tất cả các phương diện của tiểu thuyết là một điều đáng mừng.Song
bài viết vẫn còn bộc lộ một vài yếu điểm, hạn chế, ở một vài nội dung tác giả
có những nhận định, đánh giá còn sơ sài, chưa đủ sức thuyết phục.
Năm 2007, những trang viết của tác giả cuốn luận văn Thạc sĩ Những
thể nghiệm của tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà qua hai cuốn Cơ hội của Chúa và
Khải huyền muộn - Nguyễn Thị Anh Đào đã chỉ ra một cách khái quát về
những thể nghiệm thành công cũng như chưa thành công của hai cuốn tiểu
thuyết này. Tác phẩm được khai thác cụ thể trên các phương diện như cốt
truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu, di chuyển điểm
nhìn trần thuật và khẳng định sáng tác của Nguyễn Việt Hà cho thấy rõ hơn
10
về bản chất không ngừng vận động của văn học".
Năm 2009, sinh viên Nguyễn Thị Hoa trong khóa luận tốt nghiệp Tiểu
thuyết Nguyễn Việt Hà – từ Cơ hội của Chúa đến Khải huyền muộn đã giúp
người đọc có cái nhìn xuyên suốt về sự trưởng thành trong quá trình sáng tác
tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà trên các phương diện nhân vật và nghệ thuật
trần thật của tác phẩm.
Năm 2012, trong luận văn Tư duy nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Việt
Hà, tác giả Lê Thị Loan đã có sự nghiên cứu, đánh giá một cách khá chi tiết
về nghệ thuật biểu hiện trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà. Đặc biệt là nghệ
thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Việt Hà.Nhân vật trong tiểu thuyết của
anh đã không còn có sự phân tuyến, không có nhân vật nào là trung tâm,
chuyển tải ý nghĩa của toàn tác phẩm.Đó là một trong những điều mới lạ và
độc đáo trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà mà tác giả luận văn đã đi sâu tìm
hiểu và chỉ ra sự khác biệt so với các nhà văn đương đại.
Trên đây là những đánh giá khá phong phú và đa dạng về hai cuốn tiểu
thuyết của Nguyễn Việt Hà ra đời trong bối cảnh đất nước có nhiều biến động
cũng như sự chuyển đổi của tiểu thuyết Việt Nam trong giai đoạn mới.Một số
bài nghiên cứu đã ít nhiều chỉ ra những nét mới trong cả nội dung lẫn nghệ
thuật của Nguyễn Việt Hà.Tuy nhiên, những bài viết này mới chỉ dừng lại ở
từng khía cạnh mà chưa có sự nghiên cứu toàn diện, sâu sắc trên tất cả mọi
vấn đề. Nhưng rõ ràng việc chỉ ra những thành quả nghiên cứu về tiểu thuyết
Nguyễn Việt Hà của các tác giả đi trước là rất có ý nghĩa. Nó giúp chúng tôi
có cơ sở phát triển sâu hơn, hệ thống hơn những nghiên cứu về tiểu thuyết của
nhà văn. Do đó, vấn đề Người kể chuyện trong tiểu thuyếtNguyễn Việt Hàqua
Cơ hội của Chúa và Khải huyền muộn vẫn là vấn đề mà chúng tôi quan tâm,
11
tiếp tục đi vào tìm hiểu, khám phá.
3. Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: “Người kể chuyện trong tiểu
thuyết Nguyễn Việt Hà qua Cơ hội của Chúa và Khải huyền muộn”.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung khảo sát 2 tiểu thuyết của
Nguyễn Việt Hà: Cơ hội của Chúa, Khải huyền muộn.
Với việc nghiên cứu đề tài Người kể chuyện trong tiểu thuyết Nguyễn
Việt Hàqua Cơ hội của Chúa và Khải huyền muộn, chúng tôi muốn đem đến
cho người đọc cái nhìn có tính khái quát, khoa học và khách quan về hình
tượng người kể chuyện trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà. Đồng thời qua đó
góp phần khẳng định tài năng, cá tính sáng tạo độc đáo cũng như đóng góp
của anh trong tiểu thuyết đương đại Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng những phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp lịch sử - xã hội
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp hệ thống
5. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chƣơng 1: Khái lƣợc về ngƣời kể chuyện và sáng tác của Nguyễn Việt Hà
Chƣơng 2: Ngƣời kể chuyện và ngôi kể, điểm nhìn
12
Chƣơng 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật
Chƣơng 1
KHÁI LƢỢC VỀ NGƢỜI KỂ CHUYỆN VÀ SÁNG TÁC CỦA
NGUYỄN VIỆT HÀ
1.1. Tự sự học và ngƣời kể chuyện
1.1.1. Lý thuyết tự sự học
Tự sự học vốn là một nhánh của thi pháp học hiện đại, hiểu theo nghĩa
rộng là nghiên cứu cấu trúc của văn bản tự sự và các vấn đề liên quan hay nói
cách khác là nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật trần thuật của văn bản tự sự
nhằm tìm một cách đọc.
Tên gọi Tự sự học - Narratology, Narratologie, vốn do nhà nghiên cứu
Pháp gốc Bungari T.Todorov đề xuất năm 1969, trong cuốn sách Ngữ pháp
Câu chuyện mười ngày. Tác phẩm đã làm cho ngành nghiên cứu tự sự trước
nay có được một cái tên chính thức và trở thành một khoa nghiên cứu có tính
độc lập vì nội hàm văn hóa của nó.Hiện nay, tự sự học đã trở thành một bộ
môn nghiên cứu liên ngành, có tính quốc tế và có vị trí ngày càng quan trọng
trong khoa văn học và các khoa học nhân văn.Nói liên ngành vì nghiên cứu tự
sự học phải liên kết với ngôn ngữ học, sử học, nhân loại học. Tự sự học
không đóng khung trong tiểuthuyết mà vận dụng cả vào các hình thức "tự sự"
khác, như tôn giáo, lịch sử, điện ảnh, khoa học, triết học, chính trị. Nó là một
ngành văn hóa, bởi vì các hình thức tự sự khác nhau có thể có chung với nhau
những nguyên tắc siêu tự sự.
Ngày nay, tự sự không còn giản đơn là việc kể chuyện, mà là một
phương pháp không thể thiếu để giải thích, lí giải quá khứ, có nguyên lí riêng.
Roland Barthes nói: "Đã có bản thân lịch sử loài người, thì đã có tự sự".
13
J.H.Miller (1993), nhà giải cấu trúc Mĩ có nói : "Tự sự là cách để ta đưa các
sự việc vào một trật tự, và từ trật tự ấy mà chúng có được ý nghĩa. Tự sự là
cách tạo nghĩa cho sự kiện, biến cố". Jonathan Culler (1998) cũng nói: "Tự sự
là phương thức chủ yếu để con người hiểu biết sự vật". Muốn hiểu một sự vật
nào thì người ta kể câu chuyện về sự vật đó.Bản chất của tự sự ngày nay được
hiểu là một sự truyền đạt thông tin, là quá trình phát tin đơn phương trong quá
trình giao tiếp.Văn bản tự sự là cụm thông tin được phát ra, và tự sự có thể
thực hiện bằng nhiều phương thức, con đường. Trong văn học, tự sự có trong
thơ, thơ trữ tình, trong kịch, chứ không chỉ là trong truyện ngắn, tiểu thuyết,
ngụ ngôn như một phương thức tạo nghĩa và truyền thông tin. Tự sự nằm
trong bản chất của con người, bởi con người là một động vật biết tự sự.Và
trong các hình thức tự sự, chỉ có tự sự văn học là phức tạp nhất, đáng để
nghiên cứu nhất, làm thành đối tượng chủ yếu của tự sự học.
Vấn đề lí thuyết tự sự ngày càng được quan tâm phổ biến trên thế giới.
Từ chủ nghĩa hình thức Nga, ngôn ngữ học Saussure, trường phái Praha,
trường phái Tân Aristote, triết học phân tích, kí hiệu học, hậu cấu trúc chủ
nghĩa không trường phái nào là không quan tâm tới vấn đề trần thuật trong
tiểu thuyết. Lí thuyết tự sự trở thành một sản phẩm thực dụng, cụ thể của làn
sóng lớn trong lí thuyết văn hóa về văn học.Mặt khác, lí thuyết tự sự ngày nay
còn cung cấp một bộ công cụ cơ bản nhất, sắc bén nhất giúp chúng ta có thể
đi sâu vào các lĩnh vực nghiên cứu điện ảnh, giao tiếp, phương tiện truyền
thông, nghiên cứu văn hóa.Con người ngày càng nhận ra vai trò của lý thuyết
tự sự, bởi thiếu kiến thức cơ bản về nó thì các phán đoán trong các ngành
nghiên cứu trên rất dễ phạm những sai lầm sơ đẳng. Chẳng hạn như, rất phổ
biến là nhầm lẫn về tác giả và người trần thuật hay nhân vật người kể chuyện
xưng “tôi”, nhân vật hành động, nói năng. Do vậy, đã nảy sinh những nhận
định về chủ nghĩa tự nhiên, về sự tàn nhẫn, thiếu cái tâm ở các nhà văn khi họ
14
sử dụng một cách trần thuật nào đó. Ngày nay, lí thuyết tự sự có thể coi như
một bộ phận không thể thiếu của hành trang nghiên cứu văn học. Nói theo
ngôn ngữ của Thomas Kuhn, thì đó là một bộ phận cấu thành của hệ hình
(paradigme) lí luận hiện đại.
Dựa trên kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu về tự sự học
thì tự sự học hiện đại đến nay được chia làm ba giai đoạn:“Tự sự học trước
chủ nghĩa cấu trúc, tự sự học cấu trúc chủ nghĩa và tự sự học hậu cấu trúc
chủ nghĩa”[60, tr. 13].
Tự sự học trước chủ nghĩa cấu trúc một số người đi tiên phong đó là:
B.Tomasepxki, năm 1925, đã nghiên cứu các yếu tố và đơn vị của tự sự.
V.Shklovski chia truyện thành hai lớp: chất liệu và hình thức. V.Propp nghiên
cứu cấu trúc và chức năng tự sự trong truyện cổ tích.Từ những năm 20 của thế
kỉ trước, Bakhtin đã nghiên cứu mối quan hệ giữa tác giả và nhân vật, ngôn từ
trần thuật và tính đối thoại của nó.Có thể nói B.Tomasepxki, V.Propp,
Bakhtin... là những nhà khoa học đã đặt nền móng cho sự phát triển của tự sự
học hiện đại. Ở phương Tây, với sáng tác của Flaubert ở thế kỉ XIX, cũng như
sáng tác của Henry James (Mĩ) và M.Proust (Pháp) ở đầu thế kỉ XX, người ta
đã biết rằng trong tiểu thuyết sự kiện không phải là cái quan trọng nhất, mà
quan trọng nhất là ý thức, là phản ánh tâm lí của nhân vật đối với sự kiện, từ
đó người ta quan tâm tới "trung tâm ý thức", chi tiết trong tiểu thuyết phải lọc
qua trung tâm ý thức của nhân vật mới bộc lộ ý nghĩa. Từ đó, các vấn đề điểm
nhìn, dòng ý thức được đặc biệt quan tâm với Percy Lubbock (1921),
K.Friedemann (1910).Về sau các vấn đề này còn được phát triển bởi một loạt
tác giả Âu, Mĩ khác như J.Pouillon, A.Tate, Cl.Brooks, T.Todorov,
G.Gennette.Những tìm tòi này gắn với ý thức về kĩ thuật của tiểu thuyết.
Giai đoạn thứ hai của lí thuyết tự sự là chủ nghĩa cấu trúc, mở đầu với
15
công trình Dẫn luận phân tích tác phẩm tự sự của R.Barthes năm 1968 và
"S/Z" năm 1970. Tiếp theo là Nghiên cứu cấu trúc thần thoại của Claude
Levi-Strauss và mô hình hành vi ngôn ngữ của Roman Jakobson. Đặc điểm
của lí thuyết tự sự chủ nghĩa cấu trúc là lấy ngôn ngữhọc làm hình mẫu, xem
tự sự học là sự mở rộng của cú pháp học, còn trữ tình là sự mở rộng của ẩn
dụ.Todorov xem nhân vật như danh từ, tình tiết là động từ, trong chủ nghĩa
hiện thực thì tình tiết thuộc thức chủ động, còn trong thần thoại lại thuộc thức
bị động A.J.Greimas vận dụng sự đối lập trục liên kết và trục lựa chọn để
nghiên cứu cấu trúc tự sự. G.Genette tuyên bố mỗi câu chuyện là sự mở rộng
của một câu - chủ yếu là vị ngữ động từ và ông sử dụng tràn lan các thuật ngữ
ngôn ngữ học. R.Barthes cũng tán thành quan điểm đó.Còn mục đích của chủ
nghĩa cấu trúc là nghiên cứu bản chất ngôn ngữ, bản chất ngữ pháp của tự sự
nhằm tìm một cách đọc tự sự mà không cần đối chiếu giản đơn tác phẩm tự sự
với hiện thực khách quan. Mặc dù không phủ nhận được mối quan hệ văn học
với đời sống, nhưng các nhà nghiên cứu đã góp phần làm sáng tỏ bản chất
biểu đạt và giao tiếp của tự sự. Song, sự lạm dụng mô hình ngôn ngữ học đã
làm cho tự sự học gặp khó khăn, và chính Todorov cũng vấp phải thất bại, bởi
ông chỉ quan tâm ngữ pháp tự sự hơn là văn bản tự sự.
Giai đoạn thứ ba của tự sự học là gắn liền với kí hiệu học. Kí hiệu học
quan tâm đến các phương thức biểu đạt khác nhau nhưng lấy văn bản làm cơ
sở. Do đó, tự sự học cấu trúc chủ nghĩa xem hình thức tự sự như là phương
tiện biểu đạt ý nghĩa của tác phẩm. Đặc điểm lý thuyết của tự sự học cấu trúc
chủ nghĩa là: Đi sâu nghiên cứu và coi trọng việc phân tích hình thức nhưng
không tán thành việc sao phỏng giản đơn các mô hình ngôn ngữ học mà đi
theo kí hiệu học và siêu kí hiệu học. Pierre Macherey, nhà mácxít Pháp cho
rằng bất cứ sự đồng nhất nào giữa phê bình văn học với ngôn ngữ học đều sẽ
thất bại, bởi nó bỏ qua vai trò tác động của hình thái ý thức, còn Iu.Lotman
16
cho rằng thông tin ngôn ngữ là thông tin phi văn bản, mà điểm xuất phát của
văn bản lại chính là chỗ bất cập của ngôn ngữ khiến nó trở thành văn bản.
Nếu văn bản trở về với ý nghĩa của ngôn ngữ học thì có nghĩa là sự sụp đổ
của văn hóa.Như thế lí thuyết tự sự phải gắn với chức năng nhận thức và giao
tiếp.
Theo sự tổng kết của nhà lý luận tự sự người Mĩ Gerald Prince đã chia
tự sự làm ba nhóm tương đương ba loại hình. Nhóm thứ nhất gồm những nhà
tự sự học chịu ảnh hưởng của các nhà hình thức chủ nghĩa Nga như V. Propp,
Greimas, Todorov, Barthes... chú ý tới cấu trúc của câu chuyện được kể, đi
tìm mẫu cổ của tự sự, chức năng của biến cố và qui luật tổ hợp, lôgic phát
triển và loại hình cốt truyện.Khi cực đoan nhất họ cho rằng tác phẩm tự sự
không bị chi phối bởi chất liệu. Một câu chuyện có thể kể bằng văn học, điện
ảnh, ba lê, hội họa đều được, do đó bỏ qua hoặc không đi sâu vào đặc trưng
biểu đạt của chất liệu. Nhóm thứ hai lấy G.Genette làm tiêu biểu đã xem
nguồn gốc của tự sự là dùng ngôn ngữ nói hay viết mà biểu đạt, cho nên vai
trò của người trần thuật được coi là quan trọng nhất. Họ chú ý lớp ngôn từ của
người trần thuật với các yếu tố cơ bản như điểm nhìn, giọng điệu. Đây là
nhóm đông nhất thu hút nhiều nhà nghiên cứu như Dolezel, Micke Bal. Nhóm
thứ ba đại diện là Gerald Prince và Seymour Chatman, họ coi trọng phương
pháp nghiên cứu tổng thể, hay dung hợp. J.Culler cũng thuộc phái này, ông
coi trọng cả cấu trúc sự kiện lẫn cấu trúc lời văn.
Như vậy, có thể thấy lí thuyết tự sự học đã trải qua một quá trình hình
thành, phát triển từ rất sớm, qua nhiều giai đoạn khác nhau. Với nội dung là
nghiên cứu cấu trúc văn bản tự sự và những vấn đề liên quan, tự sự học đã
dần khẳng định được vai trò quan trọng của mình là một ngành khoa học
17
nghiên cứu về văn học.
Tự sự học từ khi được giới thiệu vào Việt Nam đã nhận được sự hưởng
ứng rộng rãi, quan tâm của các nhà nghiên cứu.Trước hết phải kể đến công
trình nghiên cứu đầu tiên tập hợp các bài viết về tự sự học ở Việt Nam là Tự
sự học – những vấn đề lí luận và lịch sử (2 phần) của tác giả Trần Đình Sử
chủ biên. Một công trình khác nữa của Giáo sư Trần Đình Sử: Tự sự học –
một bộ môn nghiên cứu liên ngành giữa tiềm năng và bài viết. Tự sự học
không ngừng mở rộng và phát triển, bài viết của Giáo sư Đặng Anh Đào.Bàn
về một vài thuật ngữ trong kể chuyện, bài viết của Phương Lựu.Bút ký về tự
sự học, bài viết của tác giả Lê Thời Tân.Tự sự học: tên gọi, lược sử và một số
vấn đề lý thuyết, bài viết của Nguyễn Thái Hòa. Điểm nhìn trong lời nói gián
tiếp và điểm nhìn nghệ thuật trong truyện, bài viết cuả Phan Thu Hiền.Về lý
thuyết tự sự của Northrop Frye, bài viết của Nguyễn Đức Dân.
Những công trình nghiên cứu, những bài viết trên đã góp phần giới
thiệu lý thuyết tự sự học ở nhiều phương diện.Qua đó giúp chúng ta nhận diện
được tình hình nghiên cứu tự sự học trên thế giới so với Việt Nam, giúp
chúng ta tiếp cận tự sự học trong những hướng phát triển mới nhất và có triển
vọng nhất. Đối tượng của tự sự học ngày nay không chỉ còn là ngữ pháp tự sự
nói chung mà còn là thi pháp tự sự, phong cách học tự sự của các tác phẩm cụ
thể, ngôn ngữ tự sự của các thể loại tự sự, các loại hình tự sự, mô hình tự sự
của các giai đoạn phát triển văn học, sự tiếp nhận tự sự và cách tác động đến
người đọc của tự sự. Tìm hiểu rõ nội hàm, nguồn gốc và diễn biến của các
khái niệm tự sự học, vận dụng linh hoạt và sáng tạo vào phân tích các tài liệu
cụ thể, chúng ta sẽ hiểu thêm về bản chất, phương thức, lịch sử và các bí ẩn
của nghệ thuật tự sự, một phương tiện hùng mạnh để biểu đạt và lí giải thế
18
giới, góp phần hữu ích vào việc phê bình và giảng dạy văn học.
1.1.2. Người kể chuyện
Khi nhắc đến nghệ thuật tự sự người ta thường nhắc đến nhiều khái
niệm trong đó có khái niệm người kể chuyện.Người kể chuyện là một trong
những khái niệm trung tâm của tự sự học. Khái niệm người kể chuyện xuất
hiện từ năm 1940 nhưng phải đến thế kỉ XX lý luận về nó mới thực sự phát
triển và được các nhà nghiên cứu quan tâm. Mặc dù vậy nhưng đến nay khái
niệm về người kể chuyện vẫn chưa được các nhà nghiên cứu thống nhất.Có
người gọi là người kể chuyện nhưng có người lại gọi là người trần thuật.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì người kể chuyện là “Hình tượng
ước lệ về người trần thuật trong tác phẩm văn học, chỉ xuất hiện khi nào câu
chuyện được kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm. Đó có thể là hình
tượng của chính tác giả (ví dụ: nhân vật “tôi” trong Đôi mắt của Nam Cao),
dĩ nhiên không nên đồng nhất hoàn toàn với tác giả ngoài đời, có thể là một
nhân vật đặc biệt do tác giả sáng tạo ra (ví dụ: nhân vật người điên trong
Nhật kí người điên của Lỗ Tấn), có thể là một người biết một câu chuyện nào
đó, một tác phẩm có thể có một hoặc nhiều người kể chuyện. Hình tượng
người kể chuyện đem lại cho tác phẩm một cái nhìn và một sự đánh giá bổ
sung về mặt tâm lý, nghề nghiệp hay lập trường xã hội cho cái nhìn tác giả,
làm cho sự trình bày, tái tạo con người và đời sống trong tác phẩm thêm
phong phú và nhiều phối cảnh” [28,tr. 221].
Cùng quan niệm trên, giáo sư Lê Ngọc Trà viết: “Người kể chuyện là
thuật ngữ chỉ nhân vật đóng vai trò là chủ thể của lời kể chuyện, là người
đứng ra kể trong tác phẩm văn học” [70, tr.89].
Trong giáo trình Lý luận văn học: “Người kể chuyện (Người trần thuật)
là yếu tố thuộc thế giới miêu tả. Đó là một người do nhà văn tạo ra để thay
19
thế mình thực hiện hành vi trần thuật... Người kể chuyện trong văn bản ẩn
mình trong dòng chữ.Người kể chuyện ấy có thể được kể bằng ngôi thứ ba,
ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai.Và chỉ có thể kể được khi nào họ cảm thấy như
người trong cuộc, người chứng kiến hay người biết trước sự việc xảy ra bằng
tất cả giác quan, sự hiểu biết của mình. Do đó, về căn bản, mọi người kể
chuyện đều theo ngôi thứ nhất. Cái được gọi là kể theo ngôi thứ ba thực chất
là hình thức kể khi người kể chưa được ý thức hoặc đã được ý thức nhưng cố
ý giấu mình” [49, tr. 102].
Tác giả Đào Duy Hiệp trong Phê bình văn học từ lý thuyết hiện đại
định nghĩa người kể chuyện/ người trần thuật: “Là một trong những phạm trù
cơ bản của trần thuật học, nó đối lập dứt khoát với “tác giả thực”. Đó là một
hình tượng được tác giả thực hư cấu nên, nó có thể ở ngôi kể thứ nhất hoặc
ngôi kể thứ ba (*cá nhân*/*phi cá nhân*). Nó có nhiệm vụ mang lời kể trần
thuật (narration) và chỉ im lặng khi nhân vật lên tiếng.Đương nhiên khi đã có
người kể chuyện thì phải có người nghe câu chuyện (narrataire) hoặc tạo
thành cặp người trần thuật/độc giả trừu tượng (ẩn tàng – implicite hoặc hiển
thị - explicite).Các cấp độ trần thuật (niveaux narratifs) còn liên quan đến
mối quan hệ giữa người kể chuyện và nhân vật. Cụ thể, nó đề cập đến vấn đề
tìm hiểu xem người kể chuyện là hay không là nhân vật của câu chuyện mà
anh ta kể lại”[30, tr. 225].
Nhà nghiên cứu Ngô Tự Lập thì cho rằng, người kể chuyện có vai trò
như một “kẻ mang thông điệp”, chuyển tải những thông điệp từ người phát
ngôn đến người nhận: “Các thông điệp của một văn bản bao giờ cũng được
chuyển đi, trực tiếp hoặc gián tiếp, nhờ một hay một vài phát ngôn viên
(speaker, hoặc narrator), mà tôi gọi là kẻ mang thông điệp: một người sĩ
20
quan ra mệnh lệnh, người kể chuyện trong tiểu thuyết, hay các đối tác ký vào
hợp đồng hợp tác kinh doanh... Những kẻ mang thông điệp có thể có thật
hoặc hư cấu” [45, tr. 180].
Nhà lý luận Lại Nguyên Ân cũng đưa ra một nhận định khá sâu sắc về
người kể chuyện trong trần thuật tự sự: “Trần thuật tự sự được dẫn dắt bởi
một ngôi được gọi là người trần thuật – một loại trung giới giữa cái được
miêu tả và thính giả (độc giả), loại người chứng kiến và giải thích về những
gì đã xảy ra” [2, tr. 360]. Trong định nghĩa này, tác giả một lần nữa khẳng
định vai trò cầu nối và dẫn dắt câu chuyện của người kể chuyện trong tác
phẩm tự sự, đồng thời nhấn mạnh vai trò chứng kiến và giải thích của hình
tượng này. Đây là những dấu hiệu cơ bản nhất để nhận diện người kể chuyện
trong các sáng tác tự sự từ xưa đến nay.
Như vậy, căn cứ vào cách hiểu của các nhà nghiên cứu có thể thống
nhất về cách hiểu người kể chuyện như sau: người kể chuyện hay còn gọi là
người trần thuật là một nhân vật được hư cấu hoặc có thật; trong phạm vi tác
phẩm, người kể chuyện là chủ thể của lời kể, đứng ra kể chuyện và là nhân tố
trung tâm chi phối việc tổ chức, kết cấu cấu trúc văn bản tự sự; người kể
chuyện giữ vai trò trung giới giữa tác giả, tác phẩm và người đọc.
Tác phẩm tự sự nào cũng có hình tượng người kể chuyện của nó. Nếu
không có người kể chuyện thì hiện thực sáng tạo không được tái diễn. Trong
tác phẩm tự sự thì người kể chuyện là một nhân vật đặc biệt trong tác
phẩm.Vừa mang tính chất của một nhân vật, lại vừa mang tính chất của người
kể chuyện. Do đó, không phải lúc nào người đọc cũng được thông báo về số
phận riêng tư, diện mạo hoặc mối quan hệ qua lại của người kể chuyện với
các nhân vật, hoặc vì đâu, trong tình huống nào mà tiến hành kể chuyện. Mà
nhiều khi, người kể chuyện tỏ ra khách quan không để lộ mối thiện cảm, ác
cảm hay thái độ suy nghĩ của mình.Nhưng bao giờ người đọc cũng thấy câu
21
chuyện được triển khai thông qua cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của người
kể chuyện.Và tất cả các chi tiết, các nhân vật, các hành động đều được kể lại
có sự chi phối của người kể.
Người kể chuyện không phải là một phương diện thuần túy thuộc về
hình thức văn học mà là hiện thân của một hình tượng đặc biệt, gắn liền với tư
tưởng, thái độ của tác giả về hiện thực, về thế giới và con người. Tuy nhiên,
tác giả và hình tượng người kể chuyện là hai thực thể độc lập. Một bên là chủ
thể sáng tạo, một bên là hình tượng nghệ thuật. Người kể chuyện mang trong
mình nó cả nhân vật và người kể.
Người kể chuyện là một trong những hình thức thể hiện quan điểm của
tác giả trong tác phẩm: “Trong tác phẩm tự sự, vấn đề người kể chuyện có ý
nghĩa hết sức quan trọng. Nhờ hình thức tường thuật, tác giả có thể trực tiếp
phát biểu những cảm nghĩ, nhận xét của mình về nhân vật, về sự kiện được
mô tả và về cuộc đời chung” [69, tr. 154]. Người kể chuyện trong tác phẩm
văn học, đôi khi lại chính là hiện thân của tác giả, nhưng không hoàn toàn
đồng nhất. Qua người kể chuyện ta có thể thấy được tư tưởng, quan điểm của
tác giả nhưng không thể đồng nhất người kể chuyện với chính bản thân tác
giả.
Người kể chuyện và tác giả là hai thuật ngữ được phân biệt bởi những
yếu tố riêng biệt nhưng lại quy định lẫn nhau: “Vùng giao thoa của hai phạm
trù này tương đối lớn, vì vậy, trong thực tế đã xảy ra không ít nhầm lẫn.
Nhiều nhà nghiên cứu đồng nhất người kể chuyện với tác giả.Ở thế giới
truyện kể, người kể chuyện xuất hiện trong cùng bậc giao tiếp với người nghe
chuyện.Anh ta thực chất là những sinh thể trên giấy, tồn tại trong thế giới hư
cấu và tưởng tượng. Người kể chuyện là nhân vật do tác giả sáng tạo ra có
nhiệm vụ tổ chức kết cấu tác phẩm và môi giới, dẫn dắt người đọc tiếp cận
văn bản. Trong khi đó, tác giả là chủ thể sáng tạo. Anh ta ở bên ngoài tác
22
phẩm.Như vậy, việc đồng nhất hoặc hoàn toàn tách biệt hai yếu tố thuộc hai
bậc giao tiếp khác nhau sẽ không thỏa đáng, hạn chế khả năng hiểu sâu các
vấn đề đặt ra trong quá trình giải mã tác phẩm” [43].
Trong tác phẩm tự sự, thông qua người kể chuyện nhà văn trình bày,
thể hiện một cách sáng tạo thế giới hiện thực. Nhà văn cũng thể hiện ý đồ
sáng tác thông qua việc lựa chọn dạng thức xuất hiện của người kể chuyện.
Người ta thường căn cứ vào vị trí của người kể chuyện trong tác phẩm để
phân loại thành người kể chuyện ngôi thứ nhất, ngôi kể chuyện thứ ba, và có
những trường hợp người kể chuyện vừa ở ngôi thứ nhất, vừa ở ngôi thứ ba.
Mặc dù có những quan điểm khác nhau về người kể chuyện song không thể
phủ nhận vai trò quan trọng của người kể chuyện đối với mỗi tác phẩm.Với
việc nắm được vai trò của người kể chuyện sẽ giúp cho việc phân tích nghệ
thuật tự sự của tác phẩm một cách sâu sắc, trọn vẹn hơn.
1.2. Sáng tác của Nguyễn Việt Hà
1.2.1. Hành trình sáng tác
Nguyễn Việt Hà tên thật là Trần Quốc Cường sinh ngày 12 tháng 7
năm 1962, tại Hà Nội. Xuất thân là một tiểu thị dân, với tuổi thơ bụi bặm lang
thang hè phố. Anh vốn là nhân viên Ngân hàng Công thương Hà Nội, vì niềm
đam mê với văn chương nên đã từ bỏ công việc của một công chức nhà
nước.Bởi vậy mới nói, nghiệp văn chương đến với Nguyễn Việt Hà như một
“duyên nợ”.
Nguyễn Việt Hà chính thức bước chân vào cánh cửa nghệ thuật năm
1993 với nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, tạp văn, tiểu thuyết, kịch…
và được đông đảo độc giả yêu thích.
Sếp và tôi và… là truyện ngắn đầu tiên được nhà văn chính thức ký tên
Nguyễn Việt Hà đã giành được giải nhì truyện ngắn do Tạp chí sông Hương
23
tổ chức ngày 23 tháng 11 năm 1993. Truyện ngắn Sếp và tôi và… được viết
khi Nguyễn Việt Hà đang loay hoay, thảng thốt với mối tình đầu trong trắng
có nguy cơ rạn nứt. Nhà văn tâm sự: “sự rạn nứt ở đây không xuất phát từ chủ
quan của hai chủ thể yêu nhau mà là lấy hệ lụy của xã hội thời mở cửa, con
người vô tình đánh mất nhau trước bão táp cuộc đời, trước cơ chế thị trường
đầy nghiệt ngã”. Sếp và tôi và…đã không chỉ là câu chuyện về sự cay đắng
của số phận nhà văn mà còn là câu chuyện kể về mặt trái của cơ chế thị
trường nước ta những năm đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX. Hiện lên với những
thủ đoạn của một nhóm người có học vấn tự làm tha hóa chính mình và cố
tình làm tha hóa cả những người trong trắng ngây thơ.
Tiếp tục với chủ đề tha hóa, năm 1998 Nguyễn Việt Hà cho ra mắt tập
truyện ngắn Thiền giả. Tập truyện bao gồm 11 truyện ngắn xuyên suốt bốn
mảng đề tài lớn: cuộc sống đô thị,tình yêu,trí thức trẻ, tôn giáo. Theo Nguyễn
Việt Hà, nhan đề của tập truyện ngắn Thiền giả được lấy từ chính nhan đề
của một truyện ngắn có trong tập truyện. Thiền giả khoác lên mình hai ý
nghĩa.Ý nghĩa thứ nhất, Thiền tức là thiền luận, giả tức là học giả. Ở lớp
nghĩa này, tác giả muốn nhấn mạnh đến tầng lớp độc giả ưu tú của Thiền
Luận, tức là những người có trí thức, bác học có khả năng đạt đến cảnh giới
cao nhất để hiểu và luận về thiền. Ý nghĩa thứ hai, Thiền giả là những nhóm,
bộ phận người trí thức tha hóa có khả năng lừa lọc giả dối trắng trợn mà lại
giống như không lừa lọc giả dối.Đây chính là sự tha hóa “siêu đẳng” của một
bộ phận giới trí thức.Nói như văn sĩ thì sự “giả dối của trí thức là một thứđẳng
cấp, tinh hoa của mọi tinh hoa”.
Cùng năm 1998, ngay sau khi Thiền giảđược đón nhận, Nguyễn Việt
Hà tiếp tục hoàn thành tập truyện ngắn Của rơi nhưng vì những lí do nhất
định mà mãi tới năm 2004 tập truyện ngắn này mới chính thức được ra mắt
24
bạn đọc. Của rơilại một lần nữa mang đến sự hứng thú và lôi cuốn người đọc.
Tập truyện chưa đầy 300 trang xuyên suốt 19 truyện, truyện nào cũng chứa
đựng ngổn ngang những suy tư, trăn trở của nhà văn về thế hệ trí thức hiện
đại. Vẫn với ngôn ngữ sắc lạnh, Nguyễn Việt Hà đưa đến cho người đọc cái
nhìn mới về giới trí thức và thanh niên trong đời sống đô thị, loay hoay trong
tình yêu, sự nghiệp, vô tình bị biến chất, tha hóa, rồi cố gắng đi tìm sự cứu rỗi
ở một thế giới siêu hình. Nguyễn Việt Hà từng bộc bạch “Ở một mức độ nào
đó, người trí thức là một thứ của rơi nhặt được và sử dụng nó như thế nào lại
là một vấn đề” [26]. Tập truyện còn là một minh chứng cho những nỗ lực
trong ý thức nghề nghiệp và con đường nghệ thuật của Nguyễn Việt Hà, đó là
không ngừng làm phong phú nội dung và kỹ thuật kể chuyện trong tác phẩm.
Đặc biệt truyện ngắn Mãi không tới núi, trích từ tập truyện ngắn Của
rơi đã một lần nữa khẳng định sự thành công trong thể tài truyện ngắn của
Nguyễn Việt Hà.Mãi không tới núiđược dịch ra tiếng Pháp và được đọc song
ngữ tại trung tâm văn hóa Pháp L’Espace. Truyện ngắn này, đã cho thấy sự
ám ảnh dai dẳng trong nội dung tác phẩm của Nguyễn Việt Hà về cái gọi là lý
tưởng của giới trí thức. Họ thông tuệ, ưu tú, muốn cống hiến, đóng góp cho
cuộc đời nhưng không khí đời sống Việt Nam hiện nay không tạo điều kiện
tối ưu cho trí thức Việt Nam bộc lộ khả năng.
Là người luôn tìm kiếm những cái mới trong lối viết, Nguyễn Việt Hà
đã tiến tới thử nghiệm trong lĩnh vực văn xuôi qua tiểu thuyết Cơ hội của
Chúa.Theo lời Nguyễn Việt Hà, tác phẩm được viết trong suốt chiều dài tám
năm (3/1989 – 2/1997) và đến năm 1999 mới được Nhà xuất bản Văn học ấn
hành. Theo nhiều người nhận định, con người và sự việc trong Cơ hội của
Chúa không có gì mới, nhưng cuốn tiểu thuyết đầu tay này cũng đã khiến tác
giả của nó phải “lao đao” vì dư luận. Cơ hội của Chúa nhanh chóng bị
25
chuyển từ cuộc tranh cãi văn chương sang thái độ chính trị. Bởi khi đó, tiểu
thuyết Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi tư duy truyền thống thì sự xuất hiện Cơ
hội của Chúakhiến dư luận chú ý là điều dễ hiểu.Cuốn tiểu thuyết này sau đó
bị đình chỉ xuất bản và lưu hành.Phải đến gần mười năm sau, khi người ta
quen dần với cái mới của tư duy tiểu thuyết hiện đại và dư luận cũng đã tạm
lắng xuống, Cơ hội của Chúa mới được xuất bản trở lại.Lúc này, dư luận đón
nhận Cơ hội của Chúa với sự công bằng, khách quan hơn.Và người đọc cũng
nhận thấy những đóng góp đáng kể của Nguyễn Việt Hà cho việc đổi mới tiểu
thuyết Việt Nam đương đại.
Sau những thành công với Cơ hội của Chúa, Khải huyền muộn là một
tác phẩm mới nối tiếp những sáng tạo của Nguyễn Việt Hà. Tiểu thuyết được
in năm 2005 bởi Nhà xuất bản Hội nhà văn.Có thể nói, Khải huyền muộn rất
kén độc giả, cuốn tiểu thuyết đòi hỏi người đọc phải là những người trải
nghiệm, đã từng vấp ngã, từng đớn đau.Vì vậy mà nó khó đọc hơn so với
những tác phẩm giải trí thông thường. Dưới những trang viết tưởng chừng chỉ
đơn thuần tái hiện hiện thực đời sống với cái vỏ ngoài hào nhoáng của những
con người có nhan sắc, có tiền tài, địa vị trong xã hội lại chứa đựng bên trong
ngồn ngộn những điều bậy bạ, nhố nhăng. Với quan niệm coi lối viết của
người cầm bút như là một chủ đề văn học, Khải huyền muộn của Nguyễn
Việt Hà dường như là sự nối dài của cảm hứng văn học viết về chính nó đã
xuất hiện trong tác phẩm trước của anh nói riêng và tiểu thuyết đương đại
Việt Nam nói chung. Hòa chung với xu hướng văn học đó, Khải huyền muộn
của Nguyễn Việt Hà mặc dù nhiều rắc rối, khó hiểu nhưng được người đọc
đón nhận bình tĩnh hơn và không chịu nhiều dư luận phê phán như Cơ hội
của Chúa. Nhiều nhà nghiên cứu, phê bình, nhiều bạn đọc đã nhận ra giá trị
26
nghệ thuật của Khải huyền muộn.
Không dừng lại ở thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết, Nguyễn Việt Hà
lần lượt cho ra mắt bạn đọc ba cuốn tạp văn Nhà văn thì chơi với ai, Mặt của
đànông trong năm 2007 và gần đây nhất là Đàn bà uống rượu.
Nguyễn Việt Hà, nhà văn tự nhận mình là tay "tán nhảm lắm mồm",
nhưng cái sự nhảm của tác giả, từ tập Nhà văn thì chơi với ai qua Mặt của
đàn ông đến Ðàn bà uống rượu, và gần đây nhất là Con giai phố cổ thì “sự
tán nhảm” chưa nhạt đi mà đậm hơn, sâu sắc nước đời hơn, giễu cợt hơn, và
đọc được nhiều hơn. Nhân vật nhìn chung vẫn gồm: đàn ông và đàn bà, diễn
viên, văn sĩ, thương gia, thầy giáo, với không gian đô thị, với thời gian bây
giờ, mỗi loại lại chứa nhiều "tập con" hành xử của đàn ông - đàn bà với mình,
với người, với thiên nhiên mưa gió bốn mùa. Từ đó bày ra một bềmặt đô thị
nhốn nháo, ngược xuôi giá trị, nhiều nghịch lý, ê hề cái phàm tục, dấp dính cả
vào trong cái cao thượng ít ỏi... Tạp văn của Nguyễn Việt Hà là một món ăn
pha chế nêm nếm các mùi vị đặc trưng, để đẻ ra những trang viết bảo là ê hề
“tái nạm gầu gân” như phở bò cũng được, mà bảo là kênh kiệu “cam vắt
không đường” cũng xong. Chúng lại có cái mùi Tây của những chai rượu
mạnh uống “xếch”, những nhãn hiệu rượu mà tác giả hay dẫn vào văn của
mình, và đậm đặc những tích văn cổ trong khi cũng rất dễ dàng thấy những
triết lý Thiên Chúa giáo xoắn xuýt bổ trợ. Để rồi từ đó, Nguyễn Việt Hà đánh
võng từ vỉa hè này sang cột điện kia, khiến cho Hà Nội trong văn của ông
nhộn nhịp gấp bội. Nguyễn Việt Hà cứ ngắm nghía rồi xoay, dựng... chuyện
người, chuyện mình, với cái nhìn từ bên ngoài để mà bình luận và giễu cợt.
Với tư cách là một nhà văn, Nguyễn Việt Hà vẫn luôn cống hiến và
hoạt động hết mình trên những trang văn. Hàng loạt những truyện ngắn khác
27
nhau của ông được đăng rải rác trên các tạp chí Đẹp, Tuổi trẻ, Lao động như:
Mắt của mưa, Mưa ngày cưới, Họp lớp cũ, Vẫn chỉ là mây trắng, Cổ tích
ngày mưa, Trùng trùng điệp điệp…
Gần đây nhất, năm 2014 Nguyễn Việt Hà đã cho ra mắt bạn đọc cuốn
tiểu thuyết thứ ba mang tên Ba ngôi của người. Tiếp nối mạch chủ đề của Cơ
hội của Chúa và Khải huyền muộn, cuốn tiểu thuyết một lần nữa bóc ra
những lớp đan cài phức tạp của một Hà Nội dồn dập những “sóng lớp phế
hưng” trong thời gian tồn tại. Không chỉ dừng ở một Hà Nội những năm gần
đây, cuốn tiểu thuyết còn tham vọng trải thời gian trên cùng mảnh đất, ngược
lên 600 năm trước, thông qua 10 kiếp “luân sinh” của nhân vật chính. Những
kiếp đời này tựa như những mũi khoan thăm dò thời đại đã qua, bằng những
chấm phá của lớp trầm tích khảo lên mà tác giả phác thảo một đôi nét đặc thù
của thời ấy - cố nhiên là thủ pháp giả lịch sử, hư cấu quyện với những trích
dẫn nằm trong mạch viết, tạo nên một không gian xa mà gần, rất đắc dụng để
một nhân vật có lý lịch đi xuyên thời gian tung hoành.
Có thể thấy Nguyễn Việt Hà là nhà văn viết không nhiều và viết chậm,
tuy nhiên mỗi tác phẩm của anh lại mang tầm bao quát rộng, tính triết lý sâu
sắc. Ôngthường viết những điều không phải để người đọc thích thú mà viết
nhiều về những điều buộc người khác phải suy nghĩ. Những tác phẩm của ông
luôn đầy ắp những ưu tư, suy nghĩ về con người và giá trị của con người trong
cuộc sống hiện đại, vì thế nó rất sát với đời sống hiện nay. Những vấn đề mà
ông đặt ra có lẽ cũng là những trăn trở của chính chúng ta trong cuộc sống.
1.2.2. Quan điểm nghệ thuật
Qua Cơ hội của Chúa và Khải huyền muộn, Nguyễn Việt Hà đã bày
tỏ một cách thẳng thắn quan điểm nghệ thuật của mình đối với nhà văn và
28
nghề văn thông qua các nhân vật trong tác phẩm.
Nhân vật Hoàng trong Cơ hội của Chúa chỉ viết cho chính mình, viết
những lúc buồn chán, viết như một sự giải thoát cho bản thân. Còn nhà văn
Bạch trong Khải huyền muộnnói với chúng ta rằng: “sẽ viết như thế nào chứ
không phải tại sao lại phải viết. Có thể tôi viết vì cô đơn. Tôi viết vì những ám
ảnh của một thời ngập đầy kỉ niệm hoặc chiến tranh hoặc tuổi thơ nhọc
nhằn.Tôi viết vì những bức xúc với hiện thực xung quanh.Hầu như tất cả
những người viết văn đều không nói mình viết chỉ vì kiếm danh hoặc kiếm
lợi.Điều này hiển nhiên.Danh và lợi đến với văn chương thường rất chậm.Đại
đa số người viết đều khẳng định một luận cứ mang vẻ chủ quan, viết là một sự
giải thoát”[50, tr. 164].Đây cũng chính là quan niệm về việc viết văn mà
Nguyễn Việt Hà hướng đến. Theo ông, cái mà một nhà văn khác những người
khác là anh ta có thể viết và viết để giải tỏa tâm hồn mình, viết để giãi bày
chứ không phải viết để trông mong sự nổi tiếng.
Đối với Nguyễn Việt Hà, muốn hiểu một nhà văn tốt nhất nên đọc sách
họ [24, tr. 28].Nghĩa là cũng giống như nhiều nhà văn khác, ông quan niệm
văn là người, tác phẩm văn học thể hiện con người của tác giả. Và theo
Nguyễn Việt Hà, giữa nhà văn và nhà thơ có sự khác nhau rõ rệt. Điểm khác
nhau đó là sự tỉnh táo.So với cái tỉnh táo của văn xuôi, phần những người làm
thơ thường điên điên hơn. Họ uống cũng nhiều, say cũng nhanh nhưng đến
khi tỉnh táo thì đến quá nửa số người trong bọn họ sẽ đi làm quan [24, tr.
158].Như vậy, nhà văn quan tâm đến hiện thực, cần đến cảm xúc nhưng
không hoàn toàn là những phút giây thăng hoa của cảm xúc như nhà thơ. Mà
nhà văn, muốn viết được họ phải biết quan sát và có sự chiêm nghiệm tỉnh táo
về cuộc đời. Nghề văn là nghề ngồi nghĩ. Nó chưa hẳn đòi hỏi sự cô đơn
nhưng tuyệt nhiên không cần sự ấn chứng của đám đông (…). Nhà văn bắt
buộc phải biết dừng lại quan sát chính mình. Khi văn chương trở nên nhanh
29
nhẹn hoạt bát thì nó đã đánh mất đi một yếu tính quan trọng nhất của nghề,
sự thong thả [24, tr. 41].Nghề văn có một cái lợi nho nhỏ không như nhiều
nghề khác.Nó có thể dựa vào một cái gì đó để hư cấu đoán định [24, tr. 198].
Nguyễn Việt Hà cũng bày tỏ quan điểm, viết văn và viết báo là hai
công việc hoàn toàn khác nhau.Không phải cứ là nhà văn thì viết được
báo.Với đa phần nhà văn viết báo là khó.Nó đòi hỏi những kĩ năng những tố
chất khác hẳn.Nhà văn viết báo thường là miễn cưỡng hoặc phải cố nên bịa
ra cái câu viết báo nhiều làm hại văn. Làm báo thật và hay còn hơn rất nhiều
những thứ văn chương làng nhàng [24, tr. 144].
Bên cạnh đó, Nguyễn Việt Hà cũng có những quan điểm rất sâu sắc về
công việc sáng tác văn chương của một nhà văn. Đó là công việc lao động
nghệ thuật hết sức nghiêm túc và hơn hết là một công việc đòi hỏi năng khiếu,
tài năng thực sự. Làm nhà văn thì cũng có thể là hay nhưng là công việc
không thể cố, thường người ta chỉ cố phấn đấu để trở thành lao động tiên tiến
thôi. Văn chương mà hay đa phần đều mơ hồ, thậm chí mông lung không ý
nghĩa.Nếu quả thật muốn cố phấn đấu để tới thì cũng chẳng biết thế quái nào
mà lần [24, tr. 158].Vì vậy sáng tạo văn học cũng là một sự dấn thân, dấn
thân vào văn chương, vào một thế giới mà chính nhà văn cũng không biết mọi
chuyện diễn ra như thế nào. Bởi vậy mà trong Khải huyền muộn khi cô người
mẫu Cẩm My hỏi, Em tưởng nhà văn là sáng tạo nhân vật? Nhà văn trả lời:
Về lí thuyết đơn thuần thì có thể sẽ là như vậy. Thế nhưng chưa có người viết
văn tử tế nào dám vỗ ngực là mình sẽ sắp xếp được tương lai cho nhân vật.
Trước một trang viết mới người viết tử tế nào cũng biết là mình đang đứng
trước một cái đầy bất trắc không đoán định được [24, tr. 31,32]. Như vậy, rõ
ràng viết văn là một công việc mà người viết chủ động nhưng hóa ra nó lại trở
30
thành bị động khi đã dấn thân vào.
Cũng trong Khải huyền muộn, qua nhân vật Bạch, Nguyễn Việt Hà
còn muốn gửi đến người đọc suy nghĩ của anh về công việc viết tiểu thuyết.
Đó quả là một công việc không đơn giản. Viết tiểu thuyết vừa dễ vừa khó vì
việc đầu tiên là có tổ chức được một cuộc sống thích hợp với nó không.Tiểu
thuyết là trường thiên, nó chạy dài trong một năm hoặc nhiều năm của người
viết. Nó sống lẫn lộn với vợ với con với bốn bề nội ngoại. Nó nằm giữa và
chen ngang các mối quan hệ xã hội, đặc biệt nguy hiểm là nó không sinh lợi.
Và nhiều phức tạp đến đáng sợ nhất, nó là một thứ công việc không phải là
công việc [24, tr. 169]. Những suy nghĩ này, phải chăng xuất phát từ sự trải
nghiệm của chính Nguyễn Việt Hà với tám năm để viết Cơ hội của Chúa và
ba năm để hoàn thành cuốn tiểu thuyết thứ hai Khải huyền muộn.
Như vậy, qua Cơ hội của chúavà Khải huyền muộnNguyễn Việt Hà
đã phần nào giúp người đọc hiểu rõ về quan điểm sáng tác của ông. Cho thấy
ông là người am hiểu sâu sắc về văn chương và là nhà văn rất có ý thức, trách
nhiệm với nghề cầm bút.
Tiểu kết
Trong chương này, chúng tôi đã tìm hiểu rất kĩ và đưa ra những kiến
thức khái quát nhất về lí thuyết tự sự học, khái niệm người kể chuyện nhằm
giúp người đọc có cái nhìn khách quan, khoa học nhất về các vấn đề liên quan
đến lí thuyết tự sự học và người kể chuyện. Từ đó dễ dàng tìm hiểu, áp dụng
lí thuyết vào các tác phẩm tự sự. Áp dụng lí thuyết trên đối với nhà văn
Nguyễn Việt Hà, chúng tôi tiếp tục đi sâu tìm hiểu sáng tác của anh, đặc biệt
là hành trình và quan điểm sáng tác. Nguyễn Việt Hà thật đúng là một trong
31
những nhà văn trẻ tiêu biểu của nền văn học đổi mới.
Chƣơng 2
NGƢỜI KỂ CHUYỆN VÀ NGÔI KỂ, ĐIỂM NHÌN
2.1. Ngôi kể của ngƣời kể chuyện
2.1.1. Giới thuyết về ngôi kể Theo lí thuyết hội thoại thì bất cứ một cuộc hội thoại nào cũng đều có
sự xuất hiện của ngôi kể.Trong đó ngôi thứ nhất là người nói (người phát
thông tin), ngôi thứ hai là người nghe (người nhận thông tin); còn ngôi thứ ba
là hiện thực được nói tới, là vật quy chiếu, không tham dự vào hoạt động giao
tiếp (John Lyon, 1971; Đỗ Hữu Châu, 1993).Tuy nhiên, chỉ có ngôi thứ nhất
và ngôi thứ hai là có chức năng xưng hô – chức năng tham dự vào tình huống
giao tiếp còn ngôi thứ ba không thực hiện chức năng này. Ngôi thứ nhất là do
người nói dùng để chỉ mình với tư cách là chủ thể của lời nói, ngôi thứ hai
cũng do người nói dùng để chỉ người nghe, ngôi thứ ba thì có thể do cả ngôi
thứ nhất và ngôi thứ hai dùng để quy chiếu.
Kể chuyện cũng là một trong những hoạt động của hội thoại, đó là hoạt
động hội thoại giữa người kể chuyện – người đọc. Ở đó, người kể chuyện có
thể tự kể về mình (dưới dạng thức của ngôi kể thứ nhất: tôi, tao, chúng tôi...),
hoặc kể về người khác (dưới dạng thức của ngôi kể thứ ba: anh ấy, cô ấy,
họ...), cũng có khi là trường hợp hiếm gặp kể về người nghe (dưới dạng thức
của ngôi kể thứ hai).
Trong sáng tác văn học, người kể chuyện được tác giả tưởng tượng, xây
dựng để thay mặt tác giả kể lại câu chuyện. Do đó, tư tưởng của tác phẩm có
thể được truyền đạt một cách rõ ràng nhất, nhà văn có thể sử dụng người kể
chuyện ở các ngôi kể khác nhau. G.Genette khi bàn về vấn đề ngôi kể đã
khẳng định: Việc thay đổi ngôi thực sự là sự thay đổi quan hệ giữa người kể
32
chuyện và câu chuyện của ta – nói cụ thể hơn, nó còn có nghĩa là sự thay đổi
người kể chuyện [57, tr. 188]. Nói cách khác, việc lựa chọn ngôi kể gắn liền
với việc xác định tư cách kể của người kể chuyện đối với câu chuyện mà anh
ta trần thuật lại.
Theo giáo sư Trần Đình Sử: Người trần thuật trong văn bản văn học là
một hiện tượng phức tạp nhất, mà ngôi kể chỉ là hình thức ước lệ. Người trần
thuật vốn không có gì là ngôi kể.Sự khác biệt của ngôi thứ nhất, ngôi thứ ba
chỉ là khác nhau về mức độ bộc lộ và ẩn giấu của người trần thuật mà
thôi.Người kể có thể lộ diện trong câu chuyện của mình khi kể ở ngôi thứ
nhất.Người kể cũng có thể ẩn mình khi lựa chọn ở ngôi kể thứ hai hoặc thứ
ba. Mối quan hệ giữa người kể chuyện đối với câu chuyện của anh ta quyết
định truyện sẽ được kể theo ngôi nào và giúp người đọc hình dung ra được
mối quan hệ giữa người kể chuyện đối với thế giới nhân vật trong tác phẩm.
Từ đó, độc giả có thể đi sâu vào tìm hiểu thế giới nghệ thuật bên trong của tác
phẩm.
Trong một tác phẩm tự sự, chủ thể kể chuyện thường xuyên xuất hiện
dưới hai dạng thức cơ bản: Chủ thể kể chuyện kiểu “khách quan hóa” với
ngôi kể thứ ba (vô nhân xưng) hoặc chủ thể kể chuyện kiểu “chủ quan hóa”
với ngôi kể thứ nhất (lộ diện). Việc lựa chọn ngôi kể nào còn tùy thuộc vào
nội dung, dụng ý và cách thức mà tác giả muốn thể hiện trong tác phẩm của
mình.
Trong ba hình thức trần thuật chủ yếu của loại hình tự sự, người kể
chuyện ở: ngôi thứ nhất, ngôi thứ hai và ngôi thứ ba thì hình thức kể chuyện ở
ngôi thứ ba ra đời sớm hơn cả. Đi sâu nghiên cứu, khảo sát chúng tôi nhận
thấy phần lớn tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà, cụ thể trong Cơ hội của Chúa,
33
Khải huyền muộn thường được kể ở ngôi thứ ba dưới dạng trần thuật khách
quan hóa và ngôi thứ nhất dưới dạng trần thuật chủ quan hóa tạo nên tính đa
thanh và giọng điệu trong lời văn trần thuật.
2.1.2. Các loại hình ngôi kể trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà
2.1.2.1. Kể chuyện theo ngôi thứ ba Kể chuyện kiểu “khách quan hóa” với ngôi kể thứ ba, chủ thể ở ngoài
cốt truyện, thực hiện nhiệm vụ dõi theo nhân vật, dẫn dắt, đứng sau hành
động để quan sát và kể lại. Do không trực tiếp tham gia vào sự kiện, biến cố
truyện nên chủ thể kể chuyện xuất hiện ở ngôi thứ ba luôn có một vị trí tốt
nhất để theo dõi, dẫn dắt nhân vật. Nhân vật ít có cơ hội phát biểu suy nghĩ,
cảm xúc.Chủ thể kể chuyện chi phối toàn bộ tác phẩm từ lời dẫn chuyện, cách
kể, cách tả đến cả trữ tình ngoại đề.Người kể chuyện kiểu này đứng ngoài câu
chuyện khiến chúng ta dễ dàng chấp nhận những gì chúng ta không bao giờ
chấp nhận ngoài đời, một người có kiến thức và quyền lực vô hạn.Nghĩa là
anh ta chỉ là một ống kính soi vào hiện thực, để cho bản thân hiện thực lên
tiếng, tự phô bày ra đúng như nó vốn vậy.
Người kể chuyện ở ngôi thứ ba trong Cơ hội của Chúa và Khải huyền
muộn nắm giữ vai trò quan trọng, giúp người đọc nắm bắt được toàn bộ nội
dung, không gian, thời gian và diễn biến của câu chuyện. Người kể chuyện
quan sát, chứng kiến toàn bộ câu chuyện và kể lại một cách khách quan nhất.
Đọc Cơ hội của Chúa, những câu văn đầu tiên mở ra qua một giọng kể
khách quan, trung tính và lạnh lùng của người kể chuyện ngôi thứ ba: Đường
hun hút nhựa. Trời hanh.Nắng vàng ươn ao.Gió nhạt. Chiếc xe tải rũ bụi vào
mặt Hoàng. Anh lăm le tìm cách vượt, không thể được, đành chịu tụt lại
khoảng 300m. Còn sớm, chừng đến độ chín giờ, đến đầu đường sân bay,
34
Hoàng hỏi thăm một cảnh sát giao thông mặt xanh mét màu rau muống.
Chiếc dùi cui uể oải chỉ về khu nhà lợp mái tôn. Nơi gửi xe. Hoàng đi lượn
mấy vòng quanh mấy lượt, hình như ba tiếng nữa mới có chuyến của
INTERFLUC về.Gã hải quan nói ngọng chữ l. Có mùi bánh mỳ thiu thiu của
pate. Căng tin của sân bay ngột ngạt người. Các cô bé bán hàng được đô thị
hóa trong bộ đầm tíu tít[24, tr. 41]. Hàng loạt những câu văn ngắn thiên về
miêu tả xuất hiện.Chủ yếu miêu tả về hành động của nhân vật chính một cách
rất tự nhiên mà khách quan. Người kể chuyện không giới thiệu về tính cách,
hoàn cảnh gia đình hay suy nghĩ, nội tâm bên trong mà chỉ đơn thuần miêu tả
những hành động bên ngoài:“Anh lăm le tìm cách vượt”, “Hoàng đi lượn
vòng quanh mấy lượt”, “Hoàng xách chai Lúa mới ngồi xuống góc bàn
trống”, “Hoàng uống lơ đãng nhìn”,... Mở đầu tác phẩm, nhà văn đã lựa
chọn lối kể chuyện ngôi thứ ba theo điểm nhìn bên ngoài khiến mọi sự vật
được hiện lên chân thực và tự nhiên. Mặc dù không nhiều thông tin đánh giá,
bình luận nhưng qua cách kể này người đọc nhận ra một không gian bị đô thị
hóa, một xã hội thời kỳ đổi mới, pha tạp nửa Tây nửa ta.
Tính khách quan của người kể chuyện còn được thể hiện qua lời dẫn
thoại của các nhân vật.Lời đối thoại cứ lần lượt diễn ra mà không có thêm bất
cứ một lời bình luận xen ngang nào của người kể chuyện để người đọc có thể
hình dung đầy đủ hơn về thái độ và suy nghĩ của các nhân vật. Hầu hết các lời
dẫn đều theo cấu trúc anh/cô/… + bảo/ nói…Nhưng cũng chính vì vậy mà
những lời nói, suy nghĩ của các nhân vật trở nên chân thực và tự nhiên hơn.
Đoạn đối thoại giữa Hoàng và Thủy ở chương đầu tiên là một điển hình cho
lối dẫn lạnh lùng, khách quan của người kể chuyện:
“- Anh Hoàng
35
- Vâng, anh xin nghe.
- Chúng ta không thể sống thế này mãi được.
- Tất nhiên, theo anh nên có một thằng nhóc để cải tiến tình hình.
- Chúng mình có nhau đã được hai năm. Và lúc nào em cũng thấy anh tạm
bợ.Dạo mới yêu chẳng hiểu sao em cho là hay hay.Nhưng bây giờ em lớn
rồi.Chỉ ba tháng nữa em sẽ tốt nghiệp. Anh Hoàng, anh có nghe em nói
không. Đã khi nào anh tự hỏi, cho đến bây giờ trong tay mình đang có cái gì.
Hoàng nhấc ly xoay xoay.Đúng là một giáo cụ trực quan đầy sinh động.
- Anh yêu em.
- Vẫn một điệp khúc. Anh đừng làm em chán” [25, tr. 86].
Người kể chuyện đã rất khách quan khi không dùng các tính từ miêu tả
cảm xúc mà chỉ thuật lại hành động bên ngoài của nhân vật bằng những câu
văn ngắn gọn nhưng qua đó toát lên thái độ bất cần của Hoàng và sự lo âu của
Thủy. Cả hai nhân vật cứ liên tiếp, lần lượt đảm nhiệm lượt thoại của mình,
thông qua đó tự bộc lộ tính cách.Người đọc nhận ra thái độ dứt khoát trong lời
nói của Thủy, cô ngày càng chín chắn và nhận ra những mặt trái của cuộc
sống, của tình yêu.Suy nghĩ của cô cũng có phần thực tế hơn. Những câu đối
thoại của Hoàng cho thấy anh luôn bằng lòng với tất cả, anh có một niềm tin
sâu sắc vào Chúa, lấy tôn giáo làm chỗ dựa tinh thần và phó mặc cuộc sống.
Người kể chuyện đứng ngoài điềm tĩnh quan sát và kể lại một cách trung thực
những gì đang diễn ra, còn quyền đánh giá, bày tỏ tình cảm được trao cho
người đọc. Sự lạnh lùng khách quan cố ý này đã tước bỏ rào chắn giữa nhân
vật và người đọc.Nhân vật và độc giả không còn bị ngăn cản bởi lớp tình cảm,
thái độ, tư tưởng của bản thân nhà văn.Người đọc lúc này có thể tự đánh giá,
36
bày tỏ thái độ của mình trước những hiện thực đang diễn ra trong tác phẩm.
Tuy nhiên, người kể chuyện ở ngôi thứ ba đôi khi không hẳn là một
người đứng ngoài câu chuyện được kể.Người kể chuyện ngôi thứ ba, trong
một vài trường hợp cũng chính là người mang tiêu điểm trần thuật, nhưng
không lộ diện.Ở trường hợp này người kể chuyện ẩn, anh ta mượn điểm nhìn
của nhân vật để kể chuyện.Và anh ta hòa vào nhân vật đến mức độ ta khó có
thể phân biệt được giọng kể của anh ta với giọng kể của nhân vật.Bởi vậy, ở
đây các sự kiện, diễn biến của câu chuyện được nhìn dưới con mắt của một
người phản ánh bên trong thuộc ngôi kể thứ ba.Trần thuật trong điều kiện này
mang điểm nhìn bên trong, người kể chuyện ở ngôi thứ ba ẩn tàng, giấu mình
sau sự hiện diện của ý thức, đặc biệt là sau những suy nghĩ của người phản
ánh bên trong. Do diễn ngôn của người kể chuyện gần giống với giọng điệu
của người quan sát nên chất giọng của nó không khu biệt rõ nét. Một trong
những hiệu quả chính của điểm nhìn bên trong là thu hút sự chú ý tới ý nghĩ
của nhân vật – người phản ánh và bỏ qua người kể chuyện và quá trình sắp
xếp trần thuật.
Trong Cơ hội của Chúa, phần lớn dung lượng kể, người kể
chuyện lấy theo điểm nhìn của Hoàng, một con người sống bằng niềm tin và
còn lại đôi chút tình người, không bị cuốn vào vòng xoáy của thương trường,
của những cuộc làm ăn và sức hút của đồng tiền. Hoàng mang trong mình tâm
hồn nghệ sĩ, nhạy cảm và tinh tế, luôn dằn vặt, trăn trở về cuộc đời xong lại
buông thả, phó mặc và bất cần cuộc sống. Người kể chuyện thường xuyên
nhập thân vào nhân vật, lấy con mắt và thế giới quan của nhân vật để kể
chuyện.Hai đầu gối ê ẩm mỏi nhưng anh không muốn đứng dậy. Hoàng
nhìn cây bạch lạp ngưng cháy dưới chân Đức Mẹ. Lạy Đức Mẹ lòng lành,
Người đã che chở cho con từ tấm bé. Xin Người đừng bỏ con. Tối qua, hình
như lúc hơn mười giờ, đang chơi bản “Điệp khúc tình yêu” của Trần Tiến,
37
Cam Ly vòng qua thùng loa đưa cho Hoàng một đĩa soup bò, một lát bánh
mỳ để lạnh. Hoàng nhai trệu trạo” [25, tr. 286]. Cuộc sống vật vờ của
Hoàng trong miền Nam được khai thác theo chiều sâu tâm tưởng của nhân
vật, những suy nghĩ, dằn vặt của nhân vật về cuộc sống và trách nhiệm của
anh, lòng tin đối với Chúa. Người kể chuyện đặt mình vào vị trí của nhân vật
để cảm nhận.Lời trần thuật là lời của người kể chuyện nhưng cái hồn của câu
chữ lại nằm hết cả trong tinh thần và tâm lý của nhân vật.Thậm chí, trong
nhiều câu, người đọc khó có thể tách bạch được đâu là lời của người kể, đâu
là lời của Hoàng.Tất cả sức biểu hiện của ngôn từ đều xoáy sâu vào việc làm
nổi bật dòng suy nghĩ của nhân vật này. Các câu văn nửa trực tiếp với ngôi
xưng “con”, “mình” cho thấy người kể chuyện đã thâm nhập sâu vào nội tâm
của Hoàng, hiểu được lòng tin của anh với Chúa, hiểu những băn khoăn, lo sợ
của anh trước cuộc đời cũng như nhìn đúng được bản chất con người Hoàng,
“muốn được yên bình”, “tội lỗi” và “đầy rẫy ngụy biện”.
Còn trong Khải huyền muộn,người kể chuyện lại lấy theo điểm nhìn
của lần lượt các nhân vật trong tác phẩm. Trước tiên, dưới điểm nhìn của Vũ,
Những cám dỗ của cuộc sống đời thường, của dục vọng tầm thường khiến Vũ
cảm thấy mệt mỏi và đau lòng trước thực trạng xã hội.Đó là thực trạng nền
thể thao nước nhà, đáng lẽ phải lành mạnh như tinh thần thể thao thì nó lại
chứa đầy những ung nhọt.“Khi về làm quan chức ngành này Vũ đã nghe quá
nhiều chuyện. Trả lời trực tiếp trên ti vi, trưởng và phó một tiểu ban khạc
đờm vào mặt nhau [24, tr. 54]. Và người ta thừa biết “nguyên nhân đấu đá có
nhiều nhan nhản làm thối rữa một nền thể thao đang có vẻ lành mạnh, ổn
định. Nhỏ thì những hợp đồng quảng cáo bóng đá, lớn thì những tháu cáy xây
dựng sân vận động, những trung tâm thể dục. Những vụ trưởng, vụ phó này
đâu có quan tâm me sừ Tôm hay Tép, bọn họ chỉ biết sau đây sẽ vơ vét kiếm
38
được những ba ba, thuồng luồng [24, tr. 55].
Khi Nguyễn Việt Hà lách sâu vào từng ngõ ngách của xã hội thì dưới
con mắt của Vũ, chứng kiến cảnh đám cưới vui vẻ, thừa mứa ở một vùng tỉnh
lẻ, làm quan to nên hiểu hơn ai hết những đồng tiền ấy từ đâu có được. Bởi
anh biết, đó là kết quả của một dự án trọng điểm: Muốn xóa đói giảm nghèo
thì giao thông phải đi trước một bước. Người dân thì thắt lưng buộc bụng, hy
sinh cả sự tăng trưởng của mình để làm giàu, làm sang cho những đám cưới
mà hai ông thông gia kia lúc họp dự án chắc được ngồi bàn đầu [24, tr. 184].
Và anh càng xót xa hơn khi chứng kiến sự tha hoá của vợ con mình.
Tất cả đều bị đồng tiền làm cho tha hoá, con của anh bị biến đổi dưới sức
mạnh của đồng tiền, của quyền lực. Nhìn thằng con trai vô lễ với viên cảnh
sát, anh đã không nén nổi sự giận dữ, "Vũ áy náy nhìn viên đội trưởng già
đang tủi thân đau đớn đứng hút thuốc một mình ở góc sân. Cái quân hàm
thiếu tá nhăn nhó bất lực trên bả vai nhô xương. Thằng Bảo giằng lấy cái
phong bì mà mẹ nó đang định đưa cho ông thiếu tá: "Lão khọm ấy lúc trước
suýt tát con". Vũ giơ tay tát thật mạnh vào mặt thằng con trai duy nhất. Đây
không phải là lần đầu tiên Vũ đánh con" [24, tr. 64].Đằng sau những việc làm
ấy, Vũ đã tìm đến cụ linh mục Đức như một sự cứu rỗi linh hồn mình.
Rồi còn những mặt trái của những nghĩa cử cao đẹp như báo hiếu ơn
sinh thành, đặc biệt với mẹ cha đã mất.Ngày giỗ cha, giỗ mẹ phải làm thật to
để tỏ lòng hiếu thuận. Nhưng thật chua xót khi Vũ biết “tiền học phí đi Mỹ
của thằng Bảo, cháu nội duy nhất của hai cụ, quá nửa gom góp từ tiền phúng
giỗ” [24, tr. 82].
Qua nhân vật Vũ, khi anh nhìn hiện thực ở những mặt trái của nó,
Nguyễn Việt Hà đã ngầm bày tỏ thái độ phê phán và bất bình trước những
thực trạng đau lòng của đời sống.Hiện thực đó khiến người đọc không thể làm
39
ngơ, đã có lúc khiến người ta giật mình rồi lặng chìm vào trong suy nghĩ.
Sang đến nhân vật nhà văn Bạch, anh đã dẫn người đọc vào thế giới
quan chức, công chức với kiếp sống tù đọng, tẻ nhạt, "xám xịt nhờ nhờ", làm
thui chột năng lực và cá tính sáng tạo của người trí thức. Qua cái nhìn của
Bạch thì đời sống sinh hoạt công chức là "một vũng lầy đọng nhiều thói nửa
hay nửa dở của đám tiểu thị dân. Một phòng lắp máy điều hoà nhiệt độ chưa
tới trăm thước vuông gồm khoảng ba chục người lổn nhổn giới tính và tuổi
tác. Những cành hồng không nụ không hoa chỉ còn lặt vặt gai với những chồi
chưa già đã úa… sền sệt giống nhau, quyện vào nhau" [24, tr. 26].
Tuy nhiên, người kể chuyện ngôi thứ ba trong tiểu thuyết của Nguyễn
Việt Hà cũng biến đổi vô cùng linh hoạt và tinh tế.Trong một đoạn văn, người
kể chuyện có thể đứng ở nhiều vị trí khác nhau, nhiều điểm nhìn để kể lại câu
chuyện. Trong dòng tâm sự đầy dằn vặt và tội lỗi của Hoàng, người kể
chuyện như nhập thân vào nhân vật, miêu tả những giằng xé của một con
người rơi vào cùng quẫn và khát khao có được sự cứu rỗi của Chúa. Lời văn
trần thuật nửa trực tiếp với các đại từ xưng con khiến độc giả cảm thấy dường
như chính nhân vật đang tự trải nghiệm. Tuy nhiên, ở phần sau, cũng vẫn
trong dòng cảm xúc ấy người kể chuyện lại nhanh chóng thoát ra khỏi nhân
vật, lạnh lùng đứng ngoài kể lại cuộc sống tạm bợ của Hoàng, để lí giải khách
quan những đau khổ đang cuộn trào trong lòng anh. Hai giọng kể đan xen,
lồng ghép vào nhau mang đến cho người đọc những phương diện quan sát
khác nhau đối với nhân vật. Sự nhập thân trực tiếp với nhân vật mang lại cảm
giác gần gũi, còn sự gián cách lại buộc người đọc phải trăn trở suy nghĩ để
hiểu nhiều hơn những gì còn ẩn giấu bên trong nhân vật. Nhân vật Hoàng
được nhìn ở nhiều góc độ, từ ngoài vào trong, từ đơn giản đến phức tạp nên
40
có thể bộc lộ những khía cạnh tâm lý phong phú.
Người kể chuyện ngôi thứ ba đứng ngoài câu chuyện để kể và có mối
liên hệ với tất cả các nhân vật, nắm vai trò làm chủ mạch truyện.Đôi khi,
người kể chuyện xáo trộn thời gian, không gian trong mạch trần thuật mà vẫn
tạo nên sự logic. Trong truyện, không gian được liên tục thay đổi, từ không
khí sôi động của Hà Nội đến cảnh thương trường của Sài Gòn hay cảnh làm
ăn ở Đông Âu. Đứng ngoài quan sát, người kể chuyện ngôi thứ ba khách quan
theo bước chân của nhân vật, dấn thân vào những không gian mới. Thời gian
trong truyện cũng được biến thiên, xáo trộn mà không gây khó hiểu cho người
đọc.Người kể chuyện có cái nhìn tổng quan, bao quát cả một khoảng thời gian
rộng lớn. Từ cuộc sống hiện tại, người kể chuyện ngược dòng về quá khứ,
khơi lại những kỉ niệm ngày ấu thơ của hai anh em Hoàng, Tâm: những ngày
còn đi xem phim, ngày Tâm đi thi vào đại học… Những câu chuyện quá khứ
ấy đã góp phần lí giải về tính cách nghệ sĩ của Hoàng hay ham muốn làm giàu
của Tâm. Sự biến thiên của thời gian được người kể chuyện sử dụng rất thành
thạo. Thậm chí trong một đoạn văn ngắn, nhưng người đọc cũng cảm nhận
được sự thay đổi của thời gian, từ hiện tại về quá khứ: Tâm ngồi thoải mái,
uống chung chén. Anh nhìn rất lâu vào những ngón tay dài, trắng xanh của
bạn. Cách đây hai tháng, Thắng ngủ lại nhà Tâm, nửa đêm choàng dậy,
nằng nặc đòi uống rượu.Việc xáo trộn trật tự thời gian, không gian đã tạo
nên sự biến đổi đa chiều cho hiện thực tác phẩm, một cuộc sống đa đoan, bộn
bề.
Như vậy, người kể chuyện ngôi thứ ba đóng một vai trò không nhỏ
trong việc trần thuật, xây dựng lên một không gian đa chiều.Người trần thuật
đôi khi chỉ lạnh lùng đứng ngoài để kể lại chuyện, trao quyền bình luận, phán
xét cho người đọc.Sự biến đổi linh hoạt trong giọng kể và cách lựa chọn điểm
41
nhìn trần thuật khiến cho câu chuyện hiện lên đầy đủ, nhiều khía cạnh.
2.1.2.2. Kể chuyện theo ngôi thứ nhất
Ngược lại với kể chuyện kiểu “khách quan hóa” là kể chuyện kiểu “chủ
quan hóa” với ngôi kể thứ nhất, xưng tôi. Với ngôi kể thứ nhất này,chủ thể kể
chuyện lại chủ động thực hiện nhiệm vụ dẫn truyện, có thể tự đứng ra kể
chuyện mình, kể chuyện của người khác hoặc cùng tham gia kể chuyện với
các nhân vật hoặc chủ động ủy quyền cho nhân vật tự kể. “Tôi” – chủ thể kể
chuyện và cũng là một trong những nhân vật của truyện, là người bình luận từ
bên trong, đồng thời cũng là người tham gia sự việc đang diễn ra.
Trong Cơ hội của Chúa, các nhân vật vừa đóng vai trò là người kể
chuyện, vừa là người trực tiếp tham gia vào diễn biến câu chuyện. Tâm –
Hoàng – Nhã – Thủy, mỗi người đều mang một tâm lý riêng, một gương mặt
tính cách riêng, thay nhau kể chuyện về mình và về người khác. Chuyện về
mình được kể ở ngôi thứ nhất, xưng tôi với điểm nhìn bên trong; chuyện về
người khác, nhân vật xưng tôi này kể với điểm nhìn bị giới hạn. Về điều này,
nhà nghiên cứu Đoàn Cẩm Thi đã có những nhận xét chính xác khi cho rằng:
“Đọc Nguyễn Việt Hà, thấy tác giả hầu như thấy hạn chế trong việc phân tích
tâm lý của nhân vật bằng tài hiểu tâm lý của mình. Điểm nhìn và ngôi kể liên
tục được dịch chuyển, thay đổi.Các nhân vật chính ở đây đều có khả năng thế
chỗ nhà văn trong việc kể chuyện.Trong Cơ hội của Chúa, cùng với lời của
người kể chuyện là rất nhiều đoạn tự thuật dưới hình thức nhật kí, độc thoại,
tâm tình của Hoàng, Tâm, Nhã, Thủy.Mỗi cá nhân như một nguyên tử được
đặt ở vô số giao điểm.Nó tự kể chuyện về mình, kể cái nhìn của mình đối với
người khác” [67].
Chính vì người kể chuyện ở ngôi thứ nhất và được hoán đổi liên tục
nên hiện thực được phản ánh trong cuốn tiểu thuyết là một thứ hiện thực đa
chiều, ngồn ngộn và chồng chéo lên nhau như một ống kính vạn hoa. Chính
42
lối trần thuật này đã giúp cho nhân vật hiện lên từ nhiều góc độ và nhà văn chỉ
là “người thư kí trung thành của thời đại”, ghi chép và thực hiện việc tổ chức
trần thuật.
Bốn nhân vật xưng tôi, Hoàng – Tâm – Nhã – Thủy, tạo nên những cặp
tương đồng và đối lập. Họ là những con người trẻ tuổi, giàu lòng nhiệt huyết
sống trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường. Hoàng và Tâm là hai nét tính
cách hoàn toàn khác biệt, Tâm quyết đoán, tỉnh táo bao nhiêu thì Hoàng lại
lưỡng lự, sống cho những sự đã rồi. Nhã và Thủy cũng mang hai nét sắc thái
khác nhau, Nhã càng lão luyện, trải đời thì Thủy lại hết mực ngây thơ và
trong sáng. Nhã đã hết niềm tin vào tình yêu thì Thủy lại tin tưởng, cháy hết
mình cho tình yêu với Hoàng dù cho cô có những lúc ngờ vực, âu lo cho mối
tình này. Thủy và Hoàng yêu nhau nhưng lại không đủ sức níu giữ hạnh phúc;
Nhã và Tâm như hai con thiêu thân lao vào thương trường, cháy mình trong
cuộc làm ăn. Bốn con người, bốn nét tính cách nhưng ở họ đều chung một
tâm hồn nhạy cảm, sâu kín và băn khoăn trước cuộc đời.
Hoàng được xem là nhân vật ghi dấu ấn mạnh mẽ nhất với người đọc.Ở
anh có những nét tính cách tốt đẹp hiếm hoi còn sót lại trong bối cảnh nền
kinh tế thị trường xâm nhập vào đời sống của con người. Nhân vật này tự kể,
tự chiêm nghiệm về cuộc sống theo một cách rất khác biệt. Trong vòng xoáy
của thương trường, Nhã, Tâm, Trần Bình, Sáng đều bị lao vào vòng xoáy
danh lợi và chịu ma lực của đồng tiền, nhưng riêng Hoàng, anh uống rượu,
chiêm nghiệm và lặng lẽ đánh giá về thế giới xung quanh. Hai lần độc thoại,
tự kể của nhân vật đều thể hiện cái nhìn sắc nét về cuộc sống, tự kể về mình,
về những người xung quanh với con mắt của một người giàu chiêm
nghiệm.Được giao nhiệm vụ kể, Hoàng đã bày tỏ cách nhìn của mình về mối
tình của Nhã và Lâm, cái chết của anh bạn thi sĩ xấu số, và đặc biệt là tình yêu
với Thủy.Lần kể thứ nhất, người kể chuyện dường như dành nhiều trang viết
43
cho những người xung quanh bởi lúc này, Hoàng vẫn còn niềm tin vào cuộc
sống, vẫn còn Thủy. Tuy nhiên, không ít lần nhân vật bày tỏ những hoài nghi,
trăn trở về cuộc đời và về chính mình. Hoàng thấy mình là kẻ cô đơn, lạc
lõng, nhìn đời bằng con mắt ngờ vực, ngay cả Chúa cũng có lúc anh thấy nghi
ngờ. Không ít lần nhân vật tự cho mình là thằng hèn, là kẻ xấu xa: “Anh chỉ là
thằng hèn. Một cái hũ rượu dột chứa đầy dối trá.Vâng, anh sợ hãi dư
luận.Những năm tháng đó anh vẫn tưởng mình làm được cái gì.Thanh danh.
Trinh tiết quả là những khái niệm trong sáng”. Điều đó cho thấy nội tâm
nhân vật tồn tại đan xen nhiều thứ mâu thuẫn, và nhân vật vẫn đang trên con
đường nhận thức và lí giải cuộc sống. Qua lời tự kể, Hoàng hiện lên là con
người cô đơn trên hành trình nhận thức cái bản ngã của bản thân. Trao quyền
tự kể cho nhân vật, nhà văn đã cho độc giả một cái nhìn sắc nét về con người
Hoàng – một nét đẹp tâm hồn hiếm hoi còn sót lại giữa thế cuộc chao đảo.
Đến lượt kể thứ hai, ở nhân vật xảy ra sự đổ vỡ, sụp đổ trong tâm tưởng
và hoài nghi tất cả.Bởi vậy và lượt kể này, nhân vật tập trung giãi bày sự đau
đớn, bế tắc và cùng quẫn của mình trước thực tại. “Sự cùng quẫn của con
người, đó chính là Cơ hội của Chúa”. Câu văn mở đầu cuốn tiểu thuyết, được
trích từ trong giáo lý của Thiên Chúa giáo cũng là niềm trăn trở của Hoàng.
Qua lời kể này, độc giả hiểu được tâm trạng của nhân vật khi tình yêu tan vỡ.
Người kể chuyện hầu hết chỉ tập trung xoay quanh sự đổ vỡ trong mối quan
hệ với Thủy.Mặc dù có kể chuyện về người khác nhưng trong lời kể của
Hoàng vẫn váng vất, in đậm hình bóng của người yêu.Nó cho thấy sự ám ảnh
của anh khi mất Thủy.Khi ở Huế, uống rượu cùng mấy người bạn, Hoàng
nhanh chóng liên tưởng đến những ngày đi chơi cùng Thủy, “chúng tôi ngồi
yên lặng.Nhiều khi uống với Thủy, hai chúng tôi cũng yên lặng. Những lúc
hạnh phúc nhất là Thủy để yên tay trong tay tôi và khe khẽ hát. Những hôm
như thế không nhiều lắm”. Hay trong những ngày ở Sài Gòn với Nhã, anh
44
cũng nhớ đến lần cuối cùng khi hai người gặp nhau, lần nói chuyện cùng
Lâm, Hoàng cũng nhớ đến Thủy. Hình ảnh của cô cứ trở đi trở lại trong lời kể
của Hoàng cho thấy cô quan trọng như thế nào với anh. Mất Thủy, Hoàng như
trượt dài trong sự bi quan, chán nản và ngờ vực cuộc sống.
Người kể chuyện ngôi thứ nhất xưng “tôi” để kể chuyện của mình và
chuyện của người khác với điểm nhìn hạn chế hơn.Hoàng có hai lượt kể trong
khoảng hơn sáu mươi trang giấy.Ở đó, nhân vật tự đánh giá bản thân mình
đồng thời bày tỏ những suy nghĩ của anh về thế sự. Đọc những dòng cảm xúc
của Hoàng, rất dễ để người đọc nhận ra thái độ sùng tín, ham mê tôn giáo ở
anh. Nhân vật đọc cả Thiên chúa, lại tìm hiểu về thiền tông, Phật giáo.Không
ít những trang Hoàng dành ra chỉ để nói về tôn giáo, như một sự trải
nghiệm.Cũng như nhiều kẻ đọc tạp nham, sự trong trắng của Đức tin của tôi
đã bị vấy sạm bởi những lập luận lolique lạnh lùng của chữ nghĩa. Jean
Guiton, một triết gia rất già người Pháp nói:“Có một sự đối lập thê thảm
giữa Đức tin và lí trí. Bằng cách làm cho lí trí tin là điều khá khó khăn nhưng
nhất thiết phải làm cho Đức tin trở nên có lý… Ở một mức độ nào đó, tôi là
người đọc sách.Có những thông điệp của Thiên chúa, tôi đòi thực chứng.Như
vậy, qua những dòng tâm sự của Hoàng, người đọc đã có một cái nhìn đầy đủ
và toàn diện về nhân vật. Những thông tin nêu lên vừa chủ quan theo lời kể
của người trần thuật ngôi thứ nhất, lại vừa mang tính khách quan, chân thực.
Xây dựng kiểu nhân vật cô đơn, lạc lõng như Hoàng, nhà văn đã dựng lên một
nét đẹp hiếm hoi của tâm hồn trong xã hội kinh tế thị trường. “Anh luôn sống
một cuộc sống mãi mãi là dang dở, không tốt không xấu, không bi quan
không lạc quan, một cuộc sống như nó vốn thế” [25, tr. 24].
Trong tiểu thuyết, mỗi cá nhân như một nguyên tử được đặt ở vô số
giao điểm.Nhân vật này kể và soi chiếu vào nhân vật khác tạo nên cái nhìn đa
chiều.Khi được người kể chuyện ngôi thứ ba trao quyền trần thuật, Thủy
45
dường như tập trung rất nhiều để kể về Hoàng.Thậm chí ngay mở đầu, nhân
vật đã kể về quãng thời gian hạnh phúc bên người yêu rồi mới quay trở lại kể
về lần gặp gỡ đầu tiên.Trật tự thời gian bị xáo trộn cho thấy cô đang rất hạnh
phúc ở hiện tại. Thủy hiện lên là một cô gái trong sáng, cuồng nhiệt với tình
yêu. Quãng thời gian yêu Hoàng cũng là lúc cô trưởng thành nên rất nhiều.
Trong lời kể của mình, Thủy nhiều lần sử dụng những lời nói như muốn đối
thoại với Hoàng: “nhưng cứ kéo dài mãi ư hả anh, anh của em,…”.Nhân vật
vừa kể lại cho độc giả nghe những suy nghĩ của mình đồng thời như muốn nói
cùng người yêu. Mặc dù yêu say đắm như vậy nhưng ở Thủy cũng luôn có sự
trải nghiệm, nhìn nhận đúng bản chất của Hoàng: “Tại sao tôi lại yêu Hoàng?
Hay hồi đầu mới quen, tôi đã biết Hoàng uống rượu giỏi.Cách uống của anh
tôi thích. Nó đẹp và có gì lãng mạn, tuyệt đối không bê tha. Nhưng đấy là cảm
giác của những ngày đầu.Ai cũng có một thời mười bảy tuổi ấu trĩ.Sang đầu
năm thứ hai, tôi cắt cụt hai bím tóc đuôi sam.Trưởng thành là phải vượt qua
những cái vụng dại.Hoàng đùa ngay cả những chỗ rất nghiêm túc.Hơn một
lần tôi xấu hổ vì anh.Thế mà mình vẫn yêu, hay tại số”.Nếu trong lời kể đầu
tiên của Hoàng, người đọc nhận thấy niềm tin tưởng tuyệt đối của anh vào
tình yêu thì qua lời kể của Thủy – một người con gái trong sáng thì tình yêu
của họ lại có nét rạn nứt. Chỉ khi đặt điểm nhìn vào Thủy, để cô tự kể chuyện
thì những tính cách của Hoàng mới hiện lên sắc nét như vậy.Là một cô gái
nhạy cảm, cô cảm nhận sâu sắc được tình cảm mà Hoàng dành cho cô, nhưng
đồng thời cũng có những hoài nghi mà chỉ có cô hiểu được, “Hoàng chưa
hoàn toàn là của tôi, chưa bao giờ”. Lời kể chuyện của Thủy mang đến cho
người đọc một cái nhìn toàn diện hơn trong mối quan hệ với Hoàng, nó cũng
lí giải lí do tan vỡ của tình yêu này.
Nhã là nhân vật đầu tiên được giao vai người trần thuật ngôi thứ nhất
đồng thời cũng là người kể nhiều nhất với ba lượt kể.Điều đặc biệt đáng chú ý
46
Nhã là người đầu tiên được trao quyền kể chuyện nhưng cũng đồng thời là
người trần thuật ngôi thứ nhất cuối cùng, khép lại cuốn tiểu thuyết.Cô có cái
nhìn đa chiều, khách quan về cuộc sống. Nhã như một giao điểm chịu tác
động từ nhiều hướng: tình yêu với Lâm, tình bạn với Hoàng, sự đồng cảm, sẻ
chia với Thủy, những phi vụ làm ăn với Tâm... Người kể chuyện lần lượt kể
về tình yêu của mình với Lâm, sự căm hận luôn xen lẫn với niềm nhớ thương,
khao khát: “Tôi nhìn anh ta, khuôn mặt đã nhiều lần làm nhói buốt giấc mơ
của tôi […] Giả sử lúc đó anh hiện ra, giả sử lúc đó có một phép màu làm
anh rũ bỏ tất cả để chạy đến với mẹ con em thì em sẽ tha thứ cho anh. Em yêu
anh”. Dưới lời kể của Nhã ở ngôi thứ nhất mới có thể cho người đọc những
hình dung sâu sắc nhất về những gì cô đã trải qua. Nhã kể chuyện một cách
khá điềm tĩnh, xen lẫn lời kể là những lời đối thoại với người khác, và những
câu mang tầm triết lý, trải nghiệm.Phụ nữ là phần nửa còn lại mà đàn ông tìm
kiếm, và nếu họ chưa tới thì cái phần nửa đó sẽ chết vì khô héo.Không những
kể về bản thân mình, Nhã còn đưa ra những nhận xét về mọi người xung
quanh mà đặc biệt với Hoàng, đa cảm và mê tín.Ở Nhã có sự mạnh mẽ và
nghị lực của một người đàn bà thất bại trong tình yêu, có sự táo bạo, cương
quyết của người làm kinh tế nhưng ở cô vẫn còn tồn tại một nhạy cảm đặc
biệt của người phụ nữ.Bởi vậy mà những câu chuyện qua lời kể của cô hiện
lên vừa chân thực, sắc nét lại hết sức sâu sắc.Cô đứng ngoài đánh giá Hoàng,
Thủy và tình yêu của họ rất khôn khéo.Ở phần cuối truyện, Nhã cũng là người
duy nhất hiểu được sự tan vỡ của Hoàng và Thủy, là chỗ dựa của cả hai
người. Những lá thư Thủy viết cho cô đọc cũng được kể lại chi tiết. Ở đó, họ
gặp nhau trong tâm tưởng khi cả hai người phụ nữ này đều đánh mất tình yêu
đích thực của mình.Như vậy, lời kể của Nhã chiếm dung lượng khá nhiều,
người kể chuyện tái hiện lại những khoảng thời gian thuộc về quá khứ đồng
thời xen lẫn là những câu chuyện của hiện tại. Tình yêu với Lâm thời quá khứ
47
và với Sáng của hiện tại đều thất bại vì họ chạy theo danh và lợi. Đấy cũng là
bản chất nghiệt ngã của xã hội, sự chi phối của danh và lợi, sức hút của đồng
tiền mà Nhã là một nạn nhân.
Tâm là người cuối cùng được trao quyền kể chuyện và chỉ được kể một
lần. Lời kể của nhân vật này cũng khá đơn giản theo trật tự thời gian tuyến
tính. Người kể chuyện lần lượt tái hiện những khoảng thời gian của mình từ
khi còn sống ở Đức, việc làm ăn buôn bán, quan hệ bạn bè,… cho đến ngày
về Việt Nam, lao mình vào vòng xoáy của thương trường. Ở Tâm, người đọc
nhận ra giọng điệu khá lạc quan và tin tưởng vào tương lai.Nếu như Hoàng
luôn sống trong những sự đã rồi, ngập chìm trong quá khứ và tôn giáo thì
Tâm lại lạc quan, quyết đoán và hướng tới tương lai. Qua lời tự kể, nhân vật
hiện lên như kiểu mẫu cho kiểu con người dấn thân, giàu tham vọng.
Chọn kiểu người kể chuyện ngôi thứ nhất, nhà văn đã trao quyền cho
từng nhân vật, cho họ được nói lên những suy nghĩ của mình về mọi việc diễn
ra xung quanh.Mỗi nhân vật được xem như là một tấm gương phản chiếu
chính mình và phản chiếu cuộc sống đa chiều, bề bộn.Lấy điểm nhìn từ bên
trong nhân vật, mặc dù có phần hạn chế khi biên độ nhìn bị giới hạn nhưng
những dòng độc thoại, tâm sự cá nhân lại được hiện lên sắc nét, chân thực và
giàu tính khách quan.
Nếu như trong Cơ hội của Chúa, Nguyễn Việt Hà xây dựng nhân vật
thông qua mảnh vỡ tâm trạng, hiện lên qua dòng độc thoại nội tâm của mỗi
nhân vật thì đến Khải huyền muộn, Nguyễn Việt Hà lại thành công với kiểu
xây dựng nhân vật lồng trong nhân vật. Các nhân vật được xây dựng theo lối
song trùng, tất cả các nhân vật đều có thể xưng tôi. Nhưng nếu như các nhân
vật xưng tôi trong Cơ hội của Chúa là những cái tôi khác nhau, phân biệt
rạch ròi qua từng vai kể thì đến Khải huyền muộn, những cái tôi lẫn vào
48
nhau, rất khó tách biệt.
Qua câu chuyện anh nhà văn đi tìm nhân vật cho tác phẩm của mình,
tác giả hé lộ cho người đọc một thế giới phức tạp trong giới người mẫu, quan
chức, cũng như công việc của một nhà văn và mối quan hệ giữa nhà văn –
nguyên mẫu nhân vật trong tác phẩm... Cô người mẫu – nhân vật xưng tôi
trong phần đầu câu chuyện sẽ là nguyên mẫu của nhân vật Cẩm My trong
cuốn tiểu thuyết mà nhà văn đang viết dở.Tôi vừa là Cẩm My nhưng cũng vừa
không phải là Cẩm My. Những câu chuyện do tôi – tức cô người mẫu thật kể
sẽ làm hiện rõ dần hình ảnh của nhân vật Cẩm My trong truyện. Người đọc sẽ
hiểu rõ tôi, cuộc sống của tôi hơn thông qua Cẩm My và mối quan hệ giữa
Cẩm My và Vũ. Nhưng Cẩm My sẽ không hoàn toàn là tôi – tức cô người
mẫu thật.Thiếu nữ trong truyện đương nhiên không phải là tôi, nhất là khi cô
ta nghĩ ngợi về tình dục.
Lời giải thích của nhà văn cho nguyên mẫu hiểu được công việc sáng
tạo văn chương phải chăng cũng là cách mà Nguyễn Việt Hà muốn giải thích
cho người đọc hiểu hơn về nghệ thuật xây dựng nhân vật của anh. Tôi là
người mẫu chuyên nghiệp.Tôi đã trình diễn tôi nhiều lần dưới những lớp vỏ
quần áo khác nhau, nhưng trong sâu tôi không thấy tôi khác.Còn lần này,
trong cái vỏ ngôn ngữ này, chắc chắn tôi sẽ đánh mất tôi. Anh lắc đầu, văn
chương không hẳn là sáng tạo nhưng không hẳn là hủy diệt. Em vẫn sẽ là em
tất nhiên có hơi khang khác [24, tr. 16].
Xây dựng kiểu nhân vật lồng trong nhân vật, Nguyễn Việt Hà đã tạo cơ
hội tối đa cho nhân vật tự do kể chuyện. Nhân vật có thể kể về chính mình
như là người đóng vai nhân vật và cũng có thể kể về nhà văn như là đối
tượng, đối tác của mình. Qua lời kể của cô người mẫu thật, ta không chỉ biết
đến câu chuyện xoay quanh thế giới người mẫu, quan chức mà ta còn thấy
hình ảnh của nhà văn và công việc sáng tạo của người cầm bút. Lời của cô
49
người mẫu thật đã cho người đọc biết ngoài nhân vật nhà văn xuất hiện ở ngôi
thứ nhất còn có một nhân vật nhà văn nữa là Bạch. Nhà văn không chỉ kể về
nhân vật nhà văn Bạch mà còn kể về nhà văn với công việc viết văn: “Do thói
quen tôi thường để các nhân vật tự kể ở ngôi thứ nhất và những độc thoại này
vẫn chỉ là sản phẩm một kiểu viết của nhà văn. [...] Anh chàng nhà văn trở
thành nhân vật chính nhất” [24, tr. 168].
Vũ – Cẩm My là những nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết của nhà
văn. Bạch và nhà văn Bạch lại là nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết của
nhà văn. Kiểu cấu tạo song trùng, lồng ghép này khiến người đọc khó nắm bắt
hết câu chuyện của Nguyễn Việt Hà nhưng nếu đọc kĩ và tập trung cao độ,
chúng ta sẽ nhận thấy những câu chuyện xoay quanh cuộc đời và sáng tác của
nhà văn Bạch cũng chính là một phần cuộc sống của nhà văn và nghề văn.
Nguyễn Việt Hà muốn gửi gắm tâm tư, suy nghĩ của mình qua nhân vật nhà
văn Bạch. Nhà văn cũng như đời sống văn chương bề ngoài có vẻ bình lặng
nhưng bên trong lại chứa đầy phức tạp, lẫn lộn giữa sự trong sáng và sự giả
dối, giữa lao động nghệ thuật nghiêm túc và trạng thái trì trệ của sự hư danh:
Là nhà văn thì phải viết cho dù nổi tiếng hay không nổi tiếng. Nhưng có tý tẹo
danh mọn thì thật khắc nghiệt, cảm thấy khó viết hơn. Hoàn toàn không hẳn
là hết vốn sống hay cạn kiến thức. Có nhiều lý do dung tục lắm. Thường thì cả
đời một người viết, luôn luôn bị bôi. Người này bôi cho son, người kia bôi cho
tý mực... [24, tr. 323].
Tương tự như người mẫu thật và nhân vật Cẩm My, Bạch ở trong tôi
nhưng Bạch không hoàn toàn là tôi.Nếu bắt buộc phải quên thì Bạch sẽ quên
được cái gì.Và nếu bắt buộc phải nhớ thì Bạch sẽ nhớ nhất cái gì.Khi đang
đọc lại dang dở những cuốn sách mà tôi thích, khi đang chập chờn sắp viết
được, tôi thỉnh thoảng cũng hay hỏi tôi như vậy [24, tr. 310]. Hay nhà văn
tâm sự: Tôi muốn nhân vật Bạch khác tôi, đại loại là biết chân thành với
50
người rồi tự biết trung thực với mình [24, tr. 315].
Với kiểu nhân vật lồng trong nhân vật, Nguyễn Việt Hà đã cho người
đọc cái nhìn nhiều chiều về con người. Các nhân vật trong Khải huyền
muộnđã kể về chính họ như là một đối tượng mô tả đặc biệt của “một cuốn
tiểu thuyết”, nghĩa là “tiểu thuyết hóa chính mình”.
2.2. Điểm nhìn trần thuật
2.2.1. Giới thuyết về điểm nhìn
Điểm nhìn là một yếu tố quan trọng của nghệ thuật kể chuyện, là yếu tố
có khả năng chi phối trực tiếp tới tính trần thuật của người kể chuyện. Chính
điểm nhìn đã cho phép người kể chuyện soi sáng toàn bộ diễn biến câu
chuyện, quan hệ các nhân vật, trình bày nội dung trong những phối cảnh được
xem là hợp lý nhất. Có thể nói, điểm nhìn chính là nơi khởi nguồn cho việc
xây dựng cấu trúc nghệ thuật trong tác phẩm tự sự.
Điểm nhìn là một trong những khái niệm được trình bày khá sớm, đặc
biệt ở Anh và Mỹ. Theo M.H. Abrahams (Từ điển thuật ngữ văn học - A
Glossary of Literature terms), điểm nhìn chỉ ra “những cách thức mà một câu
chuyện được kể đến - một hay nhiều phương thức được thiết lập bởi tác giả
bằng ý nghĩa mà độc giả được giới thiệu với những cá tính, đối thoại, những
hành động, sự sắp đặt và những sự kiện mà trần thuật cấu thành trong một tác
phẩm hư cấu. Pospelov khẳng định vai trò quan trọng của điểm nhìn trần
thuật trong tác phẩm tự sự: “Trong tác phẩm tự sự, điều quan trọng là tương
quan giữa các nhân vật với chủ thể trần thuật, hay, nói cách khác, điểm nhìn
của người trần thuật đối với những gì mà anh ta miêutả”. Còn Trần Đình Sử
trong cuốn Giáo trình dẫn luận thi pháp họccho rằng “Điểm nhìn văn bản là
phương thức phát ngôn trình bày, miêu tả phù hợp với cách nhìn, cách cảm
thụ thế giới của tác giả. Khái niệm điểm nhìn mang tính ẩn dụ, bao gồm mọi
51
nhận thức, đánh giá, cảm thụ của chủ thể đối với thế giới” [59].
Trong tác phẩm tự sự, điểm nhìn là một yếu tố vô cùng quan trọng.Mỗi
truyện kể đều xuất phát từ một điểm nhìn nhất định và bởi một người kể
chuyện nào đó.Điểm nhìn nghệ thuật có mối quan hệ chặt chẽ với người kể
chuyện như một tiêu chí để nhận diện người kể chuyện.Khái niệm điểm nhìn
chỉ được nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc khi nó được gắn với ngôi
kể của người kể chuyện.Điểm nhìn và người kể chuyện là hai khái niệm
không thể tách rời.Điểm nhìn phản ánh mối quan hệ giữa người kể chuyện và
đối tượng được người kể chuyện kể lại.
Người ta có thể phân chia điểm nhìn thành điểm nhìn không gian và
thời gian, điểm nhìn tâm lý, điểm nhìn bên trong hay bên ngoài... Về cơ bản,
người ta chia điểm nhìn trần thuật thành ba kiểu: điểm nhìn toàn tri, điểm
nhìn bên ngoài và điểm nhìn bên trong.
Điểm nhìn toàn tri là kiểu điểm nhìn trong đó người kể chuyện miêu tả,
tái hiện đời sống chủ yếu từ ngôi thứ ba, người kể chuyện biết tuốt.Điểm nhìn
của người kể chuyện có mặt ở khắp mọi nơi, nắm bắt được hầu như diễn biến
của câu chuyện cũng như số phận của các nhân vật.Đây là kiểu điểm nhìn cổ
điển nhất, thường xuất hiện trong văn học truyền thống.Người kể chuyện vừa
nắm được các sự kiện khách quan đồng thời cũng thấu hiểu những bí mật
thầm kín nhất của tất cả các nhân vật, nắm bắt toàn bộ câu chuyện từ diễn
biến sự việc đến nội tâm nhân vật.Bên cạnh việc miêu tả sự việc, người kể
chuyện còn có thể bình luận về những sự việc đó, nêu suy nghĩ, cảm nhận về
những sự việc đã diễn ra.
Điểm nhìn bên trong là nhân vật tự nói về suy nghĩ của mình, là sự
quan sát mà nhân vật tự cảm nhận nội tâm của mình, trần thuật qua cái nhìn
của một tâm trạng cụ thể, từ đó giúp tái hiện một cách sâu sắc đời sống nội
52
tâm của nhân vật. Điểm nhìn bên trong được biểu hiện bằng hình thức tự quan
sát, tự thú nhận của nhân vật tôi hoặc bằng hình thức người kể chuyện dựa
vào cảm giác, tâm hồn nhân vật để biểu hiện cảm nhận của mình.
Điểm nhìn bên ngoài là điểm nhìn khách quan nhất, người kể chuyện
đứng từ ngoài để quan sát câu chuyện. Nó hướng đến đối tượng là những biểu
hiện, những hành động bên ngoài của nhân vật, tâm lý nhân vật không được
phân tích mà để người đọc tự cảm nhận, người kể chuyện để cho người đọc tự
do bình luận về các hành động của nhân vật.
Sự phân biệt trên đây chỉ mang tính tương đối vì hầu như không có tác
phẩm nào chỉ sử dụng một điểm nhìn. Trong thực tế sáng tác, đặc biệt là các
sáng tác hậu hiện đại thay vì sử dụng một điểm nhìn cố định từ đầu đến cuối
tác phẩm, các nhà văn sử dụng nhiều điểm nhìn, di chuyển linh hoạt các điểm
nhìn để tạo nên tính đa thanh, phức điệu cho tác phẩm. Ứng dụng khái niệm
điểm nhìn và các dạng thức điểm nhìn vào tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà chúng
ta sẽ thấy sự linh hoạt của nhà văn trong cách kể chuyện.
2.2.2. Điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà Trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, bên cạnh những tác phẩm xây
dựng điểm nhìn quen thuộc là những hình thức xây dựng điểm nhìn mới.Một
trong những hiện tượng nổi bật là sự di chuyển, đan xen các điểm nhìn tự
sự.Việc di chuyển điểm nhìn tự sự giúp cho nhà văn có thể khám phá và
chiêm nghiệm cuộc sống từ nhiều góc độ khác nhau.Vì thế dịch chuyển điểm
nhìn là một thủ pháp được nhiều nhà văn hiện đại sử dụng.Nguyễn Việt Hà là
một trong những nhà văn hiện đại đó. Trong Cơ hội của Chúa và Khải huyền
muộn của Nguyễn Việt Hà bên cạnh việc di chuyển điểm nhìn từ người kể
chuyện sang nhân vật thì điểm nhìn còn được di chuyển hết sức linh hoạt từ
nhân vật này sang nhân vật khác, đôi khi có sự nhòe mờ giữa điểm nhìn của
53
người kể chuyện và điểm nhìn nhân vật. Sự dịch chuyển điểm nhìn giúp cho
việc nhìn nhận và đánh giá ý nghĩa của tác phẩm trở nên đa chiều, phong phú
hơn.Nhà văn có thể đưa ra các quan điểm, chính kiến khác nhau bằng việc di
chuyển điểm nhìn vào những nhân vật khác nhau để mỗi nhân vật có thể tự
nói lên quan điểm, thái độ của mình và để cho các nhân vật cùng có quyền
phát ngôn, cùng đối thoại. Nhà văn để cho các điểm nhìn đan xen vào nhau,
nhân vật do đó được soi chiếu từ nhiều góc độ, toàn diện hơn về chân dung,
tính cách, số phận, để từ đó khái quát lên những vấn đề có tính triết lý.
Trong Cơ hội của Chúa và Khải huyền muộn, điểm nhìn bên trong và
điểm nhìn bên ngoài không tách rời mà có sự di chuyển, phối hợp, luân phiên.
Trong quá trình kể chuyện, điểm nhìn có nhiều xáo trộn, điểm nhìn được di
chuyển từ người kể chuyện sang nhân vật, từ nhân vật này sang nhân vật khác
làm tăng khả năng bao quát và đánh giá của tác phẩm.
Trong Cơ hội của Chúa, điểm nhìn của người kể chuyện giấu mặt
truyền thống (do tác giả đảm nhiệm) liên tục được bàn giao cho các nhân vật
trong truyện: Nhã, Hoàng, Thủy, Tâm. Với sự thay đổi điểm nhìn này,
Nguyễn Việt Hà đã đem lại cho tác phẩm sự phức điệu đa âm. Người đọc
khám phá, tìm hiểu các nhân vật không chỉ với các động tác uống rượu, hút
thuốc một cách vô cảm và đối thoại với nhau nhiều khi thật cộc lốc mà còn
được chứng kiến họ trong những cơn suy tư, buồn vui rất đỗi chân thực, cảm
động. Đó là Nhã với những khắc khoải làm vợ, làm mẹ, với những đêm dài
tỉnh dậy thấy gối ướt đầm. Là Lâm với cảm giác có cái gì đầy rưng rưng
quanh quẩn chạy qua lồng ngực khi trở về đất nước sau những năm lận đận
tha hương kiếm sống. Là Thủy với những dằn vặt, thổn thức về mối tình đầu
trong sáng...
Các sự vật, sự việc đều được soi chiếu dưới nhiều góc nhìn của nhiều
54
nhân vật hoặc một nhân vật nhưng ở nhiều thời điểm khác nhau. Nắm bắt
được hiệu quả của đa dạng về điểm nhìn Nguyễn Việt Hà đã cung cấp cho
người đọc nhiều tri thức, hiểu biết để nhận thức sâu hơn về bản chất của sự
vật, sự việc và phán xét theo suy nghĩ của riêng mỗi người. Xuyên suốt chiều
dài trong Cơ hội của Chúa Hoàng được nhìn ở ba điểm nhìn khác nhau, đa
dạng, đôi khi trái ngược nhau. Hoàng qua con mắt của người kể chuyện, chỉ là
những hành động rất đỗi đời thường của anh: “Hoàng ấn chuông ngôi nhà hai
tầng... [25, tr. 81]. Qua con mắt của những người thân, với Thủy: “Ở anh có
cái gì là lạ. Một nét yếm thế của những kẻ duy tâm (...) Ở Hoàng thiếu dũng
mãnh [25, tr. 192]. Qua con mắt Tâm: “Tôi và anh trai nhiều sở thích khác
biệt. Nhưng từ cấp I đến cấp III đối với riêng tôi Hoàng luôn là thần
tượng.Đến tận giờ người tuyệt vời là thông minh và nhân hậu duy nhất tôi
được gặp vẫn là Hoàng” [25, tr. 334]. Qua con mắt Nhã: “Sự hiện diện của
Hoàng trên cõi đời này đối với tôi là một điều kỳ dị. Nếu thật đúng ra cậu ta
phải chết yểu.Tôi chưa bao giờ thấy Hoàng dối trá” [25, tr. 498]. Qua con
mắt của chính anh: “Người tôi lem nhem một nỗi buồn chán. Tôi loay hoay và
tôi làm phiền nhiều người.Tại sao lại thế” [25, tr. 470].
Qua sự đánh giá, nhìn nhận của nhiều người, nhiều thời điểm khác
nhau con người Hoàng dần hiện lên ngày càng rõ nét. Các nhân vật khác như:
Nhã, Thủy, Bình, Tâm... trong tác phẩm cũng vậy. Nguyễn Việt Hà tuyệt đối
không đưa ra lời bình luận, nhận xét nào về các nhân vật.Điểm nhìn trần thuật
được luân chuyển, đan xen cho các nhân vật. Chân dung nhân vật vì thế hiện
lên khách quan, trung thực đúng như vốn có. Công việc còn lại là của độc giả.
Mỗi độc giả sẽ dựng lên trong mình một hình ảnh khác nhau về các nhân vật
này trên cơ sở những hiểu biết về nhân vật mà độc giả thu nhận được qua
55
điểm nhìn của các nhân vật kia.
So với Cơ hội của Chúa thì Khải huyền muộn có sự dụng công hơn
trong việc xác định điểm nhìn trần thuật.Các sự vật sự việc không được soi
chiếu dưới nhiều góc nhìn của các nhân vật, ở các thời điểm khác nhau.
Nhưng với kiểu cấu trúc truyện lồng trong truyện, điểm nhìn trần thuật liên
tục thay đổi từ ngôi thứ nhất sang ngôi thứ ba và không có sự rành mạch như
trong Cơ hội của Chúa. Trong Khải huyền muộn, ranh giới giữa các điểm
nhìn dường như bị xóa mờ, nếu không tập trung đọc người đọc sẽ rất khó
nhận biết.Ở đây các nhân vật đều có thể xưng là tôi mà không lẫn vào nhau,
hay ngược lại, có thể lẫn vào nhau một cách tài tình mà vẫn hợp lý.
Nhân vật chính trong Khải huyền muộn chính là một cuốn tiểu thuyết
đang viết dở. Chương một, mở đầu bằng điểm nhìn của một nhân vật nữ xưng
“tôi”, nhân vật này không cho biết tên nhưng cô sẽ là nguyên mẫu – nhân vật
nữ chính trong một cuốn tiểu thuyết. Những chuyện mà nhân vật xưng “tôi”
kể xoay quanh mối tình của cô với một quan chức to đã có vợ được nhà văn
đặt tên là Vũ. Tiếp sau đó, điểm nhìn từ ngôi thứ nhất dịch chuyển dần sang
ngôi thứ ba để kể lại câu chuyện của cô người mẫu Cẩm My và Vũ. Lúc này
người đọc ngầm hiểu đây là lời kể trong cuốn tiểu thuyết của anh nhà văn
trong tác phẩm. Ở đây, điểm nhìn trần thuật được di chuyển rất nhanh từ cảnh
này sang cảnh khác, từ “hiện tại” sang “hồi tưởng” và ngược lại. Đồng thời
điểm nhìn trần thuật cũng liên tục thay đổi, đan xen lẫn nhau. Chuyện kể được
kể lời kể trực tiếp sang “lời kể” gián tiếp của dòng chảy nội tâm, thành những
lời kể về lời kể. Nó có tác dụng xóa nhòa sự phân biệt giữa các vai kể chuyện
do đó các nhân vật dần trở thành các chứng từ của người nọ về ký ức/lời kể
của người kia. Chẳng hạn:
“Ở vài ba cuộc thi tôi tham dự, tôi được vào sâu vòng trong là nhờ
56
những câu trả lời ứng xử. Vũ buông vô lăng ôm tôi cuồng nhiệt hôn. Vũ rất
hiếm hoi khi tự mình lái xe, đương nhiên những lần ấy chúng tôi chỉ cách Hà
Nội chừng bốn chục cây số. “Đến bây giờ anh mới được gặp một người vừa
đẹp lại vừa thông minh”.
Tôi nhíu mày “Vũ là tên người đàn ông em yêu à?”.Nhà văn gật đầu
“Cũng như em, anh ta là một trong vài nhân vật chính”. Tôi đẩy nhẹ Vũ ra,
khi anh hôn rất hay lấy răng chà vào trũng ngực. “Vừa xinh này, vừa tài hoa
này, thế thì em giống Thúy Kiều à?”[24, tr. 12,13].
Chỉ bằng một đoạn văn ngắn mà điểm nhìn trần thuật thay đổi liên
tục.“Tôi” là cô người mẫu thật trong quan hệ với nhà văn nhưng “tôi” cũng lại
là cô người mẫu – nhân vật Cẩm My.Giữa “tôi’ – cô người mẫu thật và “tôi”
– cô người mẫu, nhân vật Cẩm My liên hệ với nhau, soi chiếu lẫn nhau.
Đọc sang chương hai, ở phần một, độc giả lại gặp lại điểm nhìn từ ngôi
thứ nhất, cũng là một nhân vật xưng “tôi” nhưng “tôi” ở đây lại là anh nhà
văn trong tác phẩm. Đến đây Nguyễn Việt Hà lại quay trở lại với cuốn tiểu
thuyết mà nhà văn và cô người mẫu cùng kể và hé lộ sự xuất hiện của một nhà
văn mà Cẩm My gọi là Bạch... Nhà văn kể lại công việc của một nhà văn, kể
về nhân vật chính mà anh đang viết là Vũ và Cẩm My: “Tôi muốn viết về
công việc của một nhà văn. Nó sẽ dài khoảng năm trăm trang in. Nhà văn này
nói về việc anh ta đang viết một cuốn tiểu thuyết. Đương nhiên là cuốn tiểu
thuyết ấy dang dở và anh ta hiện hữu độc lập với văn bản tiểu thuyết của anh
ta. Việc này tương đối khó vì anh ta luôn phải cho độc giả biết là anh ta nghĩ
ra các nhân vật như thế nào (...) Cuốn tiểu thuyết của nhà văn này tập trung
mô tả một cuộc tình có hai người. Hai nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết là
mộtcô bé người mẫu và một trung niên trí thức rất thành danh về hoạt động
chính trị. Họ chênh nhau khoảng một thế hệ, mười bảy đến hai mươi
57
tuổi.Nhưng nếu kể mãi về chuyện tình thì cũng hơi nhàm chán nên anh nhà
văn mở thêm một tuyến nữa. Đấy là vị quan chức kia có một ông chú ruột làm
linh mục” [24, tr. 166,167].
Phần hai của chương hai lại được kể một cách khách quan ở ngôi thứ
ba về nhà văn Bạch – người đang viết cuốn tiểu thuyết trên. Cứ như thế đến
chương kết, nhân vật tôi – nhà văn xuất hiện để nhìn lại công việc viết văn
cũng như câu chuyện diễn ra trong cuốn tiểu thuyết; đồng thời cũng ngầm bộc
lộ những suy ngẫm của mình về con người, cuộc đời.
Cứ như vậy, từng chương một được Nguyễn Việt Hà làm phức tạp hóa
bằng nhiều điểm nhìn khác nhau, nhân vật nọ trùng lên nhân vật kia và đôi
khi hòa làm một khiến người đọc như rơi vào mê cung của ngôn từ. Câu
chuyện trở nên khó nắm bắt vì hư cấu lại lồng trong hư cấu. Rất nhiều khi độc
giả không phân định được đây là nhân vật Khải huyền muộn hay Cẩm My
trong cuốn tiểu thuyết đang viết dở cũng chính vì điểm nhìn di động “không
hề báo trước” của Nguyễn Việt Hà.
Tiểu kết
Ở chương này, vấn đề người kể chuyện và ngôi kể, điểm nhìn trong tiểu
thuyết Nguyễn Việt Hà qua Cơ hội của Chúa và Khải huyền muộn đã được
nghiên cứu một cách kĩ lưỡng, đầy đủ. Kết quả nghiên cứu dựa trên lí thuyết
có sẵn và vận dụng thực tiễn qua tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà.Tại đây,
chúng tôi chỉ ra, tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà với hai loại hình ngôi kể thứ nhất
và thứ ba kết hợp với sự di chuyển, đan xen các điểm nhìn tự sự - cách xây
dựng điểm nhìn mớigiúp tác giả có thể khám phá và chiêm nghiệm cuộc sống
từ nhiều góc độ khác nhau. Điều này cũng đã tạo nên nét độc đáo trong nghệ
thuật kể chuyện của Nguyễn Việt Hà, đã phá vỡ những khuôn mẫu trần thuật
58
cũ, mở ra một hướng mới trong nghệ thuật kể chuyện.
Chƣơng 3
NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT
3.1. Ngôn ngữ trần thuật
3.1.1. Giới thuyết về ngôn ngữ trần thuật Ngôn ngữ là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành
công của một tác phẩm văn học.Nếu hội họa là nghệ thuật của đường nét, màu
sắc; âm nhạc là nghệ thuật của âm thanh, tiết tấu…, thì văn học là nghệ thuật
của ngôn từ.Ngôn từ chính là vật liệu, chất liệu là tiếng nói của văn học. Bởi
thế, nhà văn Nga Macxim Gorki đã khẳng định “yếu tố đầu tiên của văn học
là ngôn ngữ”. Ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc
trưng của văn học. Nhà văn, người sáng tạo ra tác phẩm mang những tư
tưởng, tình cảm, ý đồ nghệ thuật của mình để vật chất hóa thông qua ngôn
ngữ. Qua đó, thể hiện nét cá tính, sáng tạo, phong cách cũng như tài năng của
nhà văn.
Thực chất, ngôn ngữ trong tác phẩm văn học được bắt nguồn từ ngôn
ngữ đời sống nhưng được trau chuốt, mài giũa, tái tạo dưới bàn tay tài hoa của
người nghệ sĩ. Vì thế mà ngôn ngữ trong mỗi tác phẩm mang một nét đặc
trưng riêng của người sáng tạo ra nó. Trong một tác phẩm văn học, yêu cầu
đầu tiên được đặt ra cho ngôn ngữ là tính chính xác, chuẩn mực, nó phải phản
ánh hiện thực một cách khách quan, chân thật nhất như nhà bác học Lê Quý
Đôn từng nói: “Văn muốn hay trước hết phải đúng”. Nói rõ hơn, đây chính là
khả năng của ngôn ngữ văn học, nhà văn cần phải diễn tả đúng những gì
muốn nói, miêu tả đúng những thứ nhà văn cần tái hiện.Không chỉ chính xác
mà ngôn ngữ văn học còn đòi hỏi tính hàm súc cao.Tính hàm súc ở đây được
hiểu là sự súc tích, hàm chứa nhiều ý nghĩa, khả năng miêu tả cuộc sống một
59
cách chính xác và cô đọng, ít lời nhiều ý, ý để ngoài lời. Ngôn ngữ cũng
không thể thiếu tính biểu cảm bởi văn học luôn tác động đến con người bằng
con đường tình cảm, thông qua tình cảm mà tác động tới nhận thức, hành
động của con người. Và điều cơ bản nhất của ngôn ngữ trong tác phẩm là phải
có tính hình tượng, khả năng ngôn ngữ có thể tái hiện lại những hiện tượng
của cuộc sống một cách cụ thể, sinh động, khách quan và đa nghĩa.Nói cách
khác, ngôn ngữ có tính hình tượng là ngôn từ giàu hình ảnh, đường nét, màu
sắc, thanh âm và nhạc điệu.Nó tác động đến nhiều giác quan của người đọc,
gây ấn tượng mạnh mẽ, tác động sâu xa vào trí tưởng tượng và cảm nhận của
độc giả. Nhìn chung, tính chính xác, tính hàm súc, tính biểu cảm và tính hình
tượng được xem là những đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ văn học. Nó cho
thấy ngôn từ nghệ thuật có một đòi hỏi thật khắt khe. Lao động của nhà văn là
một thứ lao động sáng tạo đầy khổ hạnh. Đã có người gọi nhà thơ là người
thợ ngôn từ, lại có người gọi là phu chữ… để nhấn mạnh phương diện lao
động cực nhọc của người nghệ sĩ ngôn từ. Từ đó cho ta thấy, đó là kết quả của
cả một quá trình quan sát tinh tế, nhạy bén, vốn sống phong phú và trình độ
sử dụng ngôn ngữ điêu luyện của người nghệ sĩ.
Theo lí thuyết của tự sự học, ngôn ngữ tồn tại dưới hai dạng của chủ
thể: diễn ngôn của người kể chuyệnvà diễn ngôn của nhân vật. Trong đó,
ngôn ngữ nhân vật là sản phẩm của nhân vật nhưng được lựa chọn và thể hiện
thông qua người kể chuyện, có vai trò cụ thể hóa ngôn ngữ của người kể
chuyện.Sử dụng ngôn ngữ nhân vật thay cho ngôn ngữ người kể chuyện góp
phần cụ thể hóa, sinh động hóa câu chuyện. Còn ngôn ngữ của người kể
chuyện do người kể chuyện tạo ra. Ngôn ngữ trở thành công cụ để người kể
chuyện tổ chức và chỉ đạo diễn biến của toàn bộ câu chuyện. Không chỉ như
vậy mà ngôn ngữ còn là phương tiện để nhà văn bộc lộ chủ đề của tác phẩm,
để khắc họa đặc điểm của các tính cách, dẫn dắt quá trình phát triển của cốt
60
truyện. Ngôn ngữ người kể chuyện tác động mạnh đến thái độ của người đọc
đối với đối tượng, sự việc đang được miêu tả.Diễn ngôn trần thuật có vai trò
đặc biệt quan trọng, bao gồm tất cả những phát biểu trần thuật đồng thời cũng
là lời bình luận, đánh giá, diễn giải của người kể chuyện.
Ngôn ngữ trong xã hội hiện đại đang có những chuyển biến rất mạnh
mẽ, điều đó được thể hiện rất rõ trong văn chương. Không còn những câu văn
được “đẽo gọt” đến tinh xảo nữa mà thay vào đó là sự xuất hiện ào ạt của
khẩu ngữ, tiếng lóng, tiếng thông tục, những từ vay mượn của nước ngoài...
Đó là ngôn ngữ của thời đại kĩ thuật số đã được các tác giả đưa vào nguyên
vẹn trong tác phẩm chứ không chỉ là viết tắt, viết chữ cái đầu như văn học
trước đây.Có lẽ chính những khao khát được nói thật về cuộc sống, muốn
nhìn thẳng vào sự thật đã khiến các nhà văn tìm đến với thứ ngôn ngữ xù xì,
trần trụi này.
Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà đích thực là ngôn ngữ của
văn chương hiện đại. Bản thân Nguyễn Việt Hà lại là một cây bút trẻ, luôn
tìm tòi, khám phá cái mới và luôn muốn “bứt” mình thoát khỏi những gì được
coi là truyền thống đã quá quen thuộc. Bởi vậy, khi đọc Cơ hội của Chúa và
Khải huyền muộn chúng ta dễ dàng nhận ra những nỗ lực sáng tạo trong văn
phong Nguyễn Việt Hà, đặc biệt sự đổi mới trong ngôn ngữ. Nó mất đi sự hài
hòa, cân đối mĩ miều mà trở nên tạp nham, trần tục, thô ráp như chính hiện
thực cuộc sống.
3.1.2. Đặc điểm ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà
3.1.2.1. Ngôn ngữ đậm chất đời thường Ngôn ngữ trong tiểu thuyết đương đại gần gũi với ngôn ngữ đời sống
hơn bao giờ hết. Bởi vậy, đọc Cơ hội của Chúa và Khải huyền muộn của
61
Nguyễn Việt Hà, người đọc không cảm thấy ngạc nhiên khi cuộc sống thường
ngày ngồn ngộn qua những trang sách.Những cảnh sống, cảnh sinh hoạt của
nước ta vào những năm 80, 90 của thế kỉ hai mươi được thể hiện rất rõ qua lời
văn của người kể chuyện: “Hoàng gọi đĩa nguội. Dăm bông mỡ viền đã
vữa.Xúc xích thâm tím. Giữa hai lát cắt là con nhặng to tổ bố nằm khá lãng
mạn. Hai bánh mì chua. Miếng patê ung ủng mùi sông Tô Lịch (...). Vài mảnh
cá ươn lều bều cạnh mấy nàng cua bể lạnh ngắt ngâm trong vũng nước sền
sệt ấm [25, tr. 44].Bar nào của Hà Nội bây giờ cũng ngập đầy bọn choai
choai. Trệu trạo nhai kẹo cao su, hút ba số thở khói vào tai bạn gái để hai
đứa cùng cười [25, tr. 61]. Thoang thoảng trong mùi nước hoa Pháp còn lẫn
hơi phân gà tươi [25, tr. 67] Đất nước ta bước vào thời kì đổi mới, chính sách
mở cửa trên mọi phương diện đã tạo điều kiện cho văn hóa và văn minh
phương Tây du nhập.Người dân trong xã hội mới đã háo hức đón nhận những
giá trị tiên tiến mà phương Tây mang vào Việt Nam. Hàng hóa Tây, văn hóa
Tây, ngôn ngữ Tây... mọi thứ thuộc về phương Tây dường như đều trở thành
chuẩn mực, thước đo của sự văn minh tiên tiến.
Ngoài việc miêu tả cuộc sống bằng những ngôn ngữ đậm chất sinh hoạt
hàng ngày, thông qua ngôn ngữ của người kể chuyện nhà văn còn sử dụng
những biệt ngữ xã hội, những câu chửi thề.Đó là thứ ngôn ngữ đậm chất đời
thường có phần thông tục: “Thằng phò đực”, “Xéo mẹ mày đi”, “Con cặc”,
“Chó má”... Những câu văn đọc lên tạo cho người đọc cảm giác thật sống
sượng, tục tĩu. Có lẽ đây cũng là một trong những đặc điểm khu biệt của tiểu
thuyết đương đại. Bởi trong những tác phẩm văn học trước 1975, chúng ta
tuyệt đối không thể bắt gặp những ngôn ngữ đậm chất “vỉa hè” đến gay gắt
như thế. Nhưng trong tiểu thuyết đương đại chúng ta dễ dàng nhận thấy lối
nói khẩu ngữ trong truyện ngắn của Phan Thị Vàng Anh, thứ ngôn ngữ vỉa hè
ở tác phẩm của Phạm Thị Hoài. Có thứ ngôn ngữ dân dã trong truyện ngắn
62
Sương Nguyệt Minh (đi năm lần bảy lượt, mời mẻ bát gẫy đũa...), Nguyễn
Khải (cười thắt ruột, ăn nói quá quân trộm cướp...), Bảo Vũ (nằm co tiểu
sành khi hết phim...). Có kiểu phát ngôn trần trụi, không gọt dũa của thứ ngôn
ngữ "chợ búa" ở Người hùng trường làng (Tạ Nguyên Thọ), Không có
vua(Nguyễn Huy Thiệp), Dạo đó thời chiến tranh (Lê Minh Khuê)... Trong
một số tác phẩm, những tiếng lóng, những từ ngữ tục, những câu chửi thề...
được sử dụng khá thường xuyên. Chắc chắn, với một lớp độc giả nhất định,
có thể tạm gọi là lớp độc giả cũ, họ có thể sẽ cảm thấy phẫn nộ khi đọc những
dòng văn như thế, hoặc là: “Tiên sư mày, thằng Nam rủ rê chứ gì”[25, tr.
296]. “Có đếch gì mà xem, chắc lại nhố nhăng ba cái chuyện tỏ tình mà (...)
Có chó nào.Bọn lớp nó gọi thằng dở hơi này là tu sĩ, nói được vài câu với đàn
bà thì són đái ra quần.Chỉ được cái mẽ”[25, tr. 300].Bởi lẽ trong tiềm thức
của những độc giả này, văn học ra đời với rất nhiều chức năng, trong đó hai
chức năng quan trọng nhất là giáo dục và thẩm mỹ. Mà lối diễn ngôn trần trụi,
giàu khẩu ngữ thế kia thì vô tình hay hữu ý cũng đã làm giảm, thậm chí là làm
mất đi chức năng ấy của ngôn ngữ. Tuy nhiên, chúng ta cần phải thẳng thắn
nhìn nhận, tiểu thuyết ngày càng bám sát với thực tế đời sống. Tiểu thuyết có
thể là chiếc gương soi chiếu, cũng có thể giống như chiếc máy quay quay
chậm, thu hẹp lại tất cả. Để qua mỗi thời đại, chúng ta cùng đối chiếu, cùng so
sánh để tìm ra sự khác biệt, sự ẩn hiện của cái tốt, cái xấu đang bị che khuất
hay lấn chiếm.
Nguyễn Việt Hà từng tâm sự, anh không bao giờ "tô hồng" cho nhân
vật của mình. Vì vậy, mỗi nhân vật được anh quan niệm như là một ý thức,
một lập trường chủ thể độc lập, mỗi phát ngôn của họ đều có giá trị như tiếng
nói của một ý thức khác, không bị khống chế hoặc lấn át bởi ý thức của chủ
thể sáng tạo. Do vậy, lời đối thoại của nhân vật cũng là một hình thức thông
báo về cuộc sống nhân vật. Qua lời nói của nhân vật, ta biết được địa vị xã
63
hội, nền giáo dục mà anh ta được hưởng.Với lốikể chuyện để nhân vật tự nói
những suy nghĩ bằng lời nói chân thực nhất đã khiến cho con người trong
sáng tác của Nguyễn Việt Hà gần hơn với đời sống. Chúng ta có thể gặp họ ở
đâu đó trong xã hội này và ngay cả những phần trong đời sống tâm hồn
mình.Những câu văn như những lời trò chuyện sinh động mà không ít chân
tình. Đây là cuộc đối thoại giữa Hoàng và Bích:
“- Hai bố con mày ăn cơm chưa.
- Đang định nhịn.Thằng ôn nhà tao có lẽ là đạo sỹ Yoga bẩm sinh.Hầu
như không bao giờ nó kêu đói.
- Uống một chút gì nhớ.
- Ừ.
- Tao còn ít tiền. Ăn nhà hay ra tiệm.
Mua về mày ạ. Mấy con mẹ hàng cơm đầu phố tao cắm sổ nhiều quá”
[25, tr. 242].
Đó là ngôn ngữ của những con người trẻ, những con người trong cuộc
sống hiện đại.Họ không khách sáo, không rào đón, không trang trọng hoá lời
nói của mình. Ngôn ngữ của họ thông tục, bình dân nhưng chân thật và gần
gũi đời thường, nói thật những điều họ thấy, chiêm nghiệm và trải nghiệm
trong cuộc sống. Là thứ ngôn ngữ mang nhãn quan đời thường, phù hợp với
sinh hoạt thường nhật của con người chứ không nhất thiết phải cầu kỳ, nhiêu
khê, khó hiểu... Nó đã xoá đi ranh giới giữa tiểu thuyết và đời thường, làm
cho người đọc không còn có cảm giác đang đọc tiểu thuyết mà đang chứng
kiến cuộc sống, đang sống cùng nhân vật.Ngay cả những lời nói tục cũng đi
64
vào trang văn của Nguyễn Việt Hà một cách tự nhiên nhất.
Hay lời của Nhã nói với Lâm khi Lâm quay lại cầu xin sự tha thứ của
cô, Lâm chẳng nhận được gì ngoài thái độ này của Nhã:
“- ... Cái đểu ở anh cũng quả là độc đáo. Anh Lâm này, sau anh tôi gặp
nhiều thằng đểu nhưng thực sự anh là thằng đểu lỗi lạc...
- Anh không ngờ Nhã ơi, xin đừng bóp nát anh bằng sự chua chát.
- Một câu hay...
- Nhã!
- Xéo đi với bộ mặt sám hối của anh. Anh tưởng tôi không biết chửi
hả.Cút mẹ anh đi"[25, tr. 109].
Và còn là lời đáp của Nhã khi Hoàng hỏi về thầy Phi:
- Nhã thấy thầy Phi thế nào. Nát quá hả.
- Chết chết. Mười thằng đàn ông lấy vợ thì cả mười thằng kêu sai lầm
[25, tr. 222].
Hay lời của Huệ - bạn gái của Thuỷ khi nói về mình và việc thi cử:
"Hôm tao thi chẳng biết quái gì cả, may ngồi cạnh thằng ở lớp chuyên thành
phố. Tao bảo mày không cho tao chép tao xé tan bài mày. Con nhà giời sợ vãi
cả cứt" [25, tr. 349].
Mặc dù thứ ngôn ngữ trần trụi này xuất hiện khá nhiều trong lời nói của
người kể chuyện nhưng chúng ta cũng cần nhìn nhận rõ, lối nói này được giao
cho nhân vật nào hay tất cả các nhân vật trong tác phẩm đều sử dụng thứ ngôn
ngữ trần thuật này. Trở lại với Cơ hội của Chúa, những câu nói thô thiển,
trần trụi, đậm chất vỉa hè kia chắc chắn không thể thốt lên từ miệng của bố
65
Hoàng - một cán bộ thừa hưởng nền giáo dục kép của Việt Nam và Pháp, một
người thuộc tầng lớp cũ; cũng không thể là thứ ngôn ngữ của cô sinh viên
ngoan hiền – Thủy; thậm chí chúng cũng không tồn tại trong lời nói của
Hoàng cho dù anh có là một gã lông bông, một gã sống lay lắt, sống không
mục đích, suốt ngày “giang hồ vặt”, lê la hết nơi này đến nơi khác nhưng có
lẽ vì anh đã trót biết quá nhiều chữ và vì anh có đạo. Thứ khẩu ngữ ấy dành
cho những thành viên của ban nhạc Sóng Đêm, là Bích, là Nam... hay cả Tâm
– họ là những con người đã lặn ngụp đến đáy cùng của xã hội, những con
người mà ít nhiều những tráo trở của cuộc đời đã khiến họ mang trong mình
sự “lưu manh”, “khốn nạn”.
Ở Khải huyền muộn, ngôn ngữ mang tính chất đời thường với kiểu nói
thông tục xuất hiện ít hơn so với Cơ hội của Chúa nhưng không phải không
có.Từ nhà văn, trí thức đến quan chức cao cấp cũng có lúc nói với nhau bằng
ngôn ngữ đó.
- Anh thì còn sợ cái quái gì. Tuổi của anh, vị thế của anh.
- Mẹ cái bọn nước ngoài (cuộc nói chuyện giữa Bạch với một nhà văn Quân
đội).
- Có lẽ chúng mình đã hiểu sai về người nông dân.
- Không hiểu sai mà chẳng hiểu cái đếch gì (cuộc nói chuyện giữa Quân và
Vũ trên chuyến tàu)[24, tr. 141].
Đây là những ngôn ngữ đối thoại lột tả đặc trưng cuộc sống một cách
hết sức trần trụi, không chút dè dặt của người cầm bút. Nhân vật được thể
hiện bản thân, được nói lên những suy nghĩ từ sâu bên trong. Chúng ta có thể
nghe nhan nhản những câu chửi, câu đệm như vậy ở bất cứ đâu, từ quán nước
vỉa hè đến quán cà phê sang trọng, từ bệnh viện đến công sở nhà nước... và
66
ngay trong chính bản thân mình. Đó là một thói quen xấu nhưng đó lại là
phần “người” tự nhiên nhất.Qua cách sử dụng ngôn ngữ đời thường rất phong
phú, có thể thấy nhà văn đã rất dụng công xâm nhập vào mọi tầng lớp trong
xã hội để mô phỏng đến mức thật nhất bộ mặt đời sống với mọi tầng của nó.
3.1.2.2. Ngôn ngữ vay mượn Bên cạnh việc sử dụng lối ngôn ngữ đậm chất đời thường có ý nghĩa
thông tục, toàn dân thì xu hướng mới của tiểu thuyết hiện đại là mở rộng du
nhập các lớp từ vựng, các thuật ngữ nước ngoài.Việc đưa các từ ngữ, thuật
ngữ vay mượn này vào tác phẩm văn học đã phần nào thể hiện được trình độ
văn hóa cũng như tư duy và cách ứng xử của người viết đối với ngôn ngữ.Qua
ngôn ngữ của người kể chuyện chúng ta thấy một xã hội đang quay cuồng
trong thời buổi “quan đi buôn, dân cũng đi buôn” và ngày càng Tây hóa. Ở đó
ta bắt gặp những lối nói năng “rất Tây” của con người trong nhịp sống đương
đại xuất hiện với tần số cao ở hai tác phẩm gồm cả những từ đơn giản và cả
những từ phức tạp. Từ những từ cửa miệng rất quen thuộc: OK, merci, hello,
allright... có những từ phức tạp hơn như: salon, telephone, computer, special
impression, joinventure...
Trong Cơ hội của Chúa, người kể chuyện đã sử dụng nhiều thứ tiếng
Anh, Pháp, Tàu và cả những ngôn ngữ đã được Việt hoá trong lối giao tiếp để
khắc họa hình tượng nhân vật. Trong đối thoại, các nhân vật thỉnh thoảng lại
chêm vào những câu tiếng nước ngoài ấy như một lối nói quen thuộc của giới
trẻ:
- C’est fini.
- Áp phe mới à?
67
- Một cú vừa vừa. [Cuộc trò chuyện giữa Hoàng và Nhã]
- Cậu Hoàng, tôi ngồi thế này mà cậu dám ngồi thế à?
- I'm very sorry [25, tr. 250].
Tuy nhiên, hình thức vay mượn ngôn ngữ này có thể khiến một bộ phận
người đọc thích thú nhưng ngược lại nó cũng khiến một bộ phận độc giả cảm
thấy khó chịu, khó hiểu với thứ ngôn ngữ mà nhà văn đang sử dụng. Bởi
những thuật ngữ, lớp từ vay mượn tiếng Anh, Pháp trong tác phẩm xuất hiện
khá nhiều:
- “Những chồng chéo trong chuyện làm ăn dẫn tôi gặp Barker. Một
étranger ít nói và cư xử thông minh (...) Barker đã và sẽ là người nước ngoài
duy nhất tôi tiếp xúc tête à tête[25, tr. 275].
- Người ta tìm mọi cách để vớt thi sĩ lên. Hoả táng hài cốt cho vào bình
nhựa.Such as life.Nhân loại đầy rẫy những kẻ cẩn thận [25, tr. 145].
- Chúa ơi, con những tưởng đã ở trong vòng tay của Chúa. Ảo ảnh.The
last trial of God.Hy vọng là vậy [25, tr. 262]
- Tôi không bỏ chân tò mò nhìn gã giao liên. Herald of love.Khá đẹp
trai, giọng dửng dưng mang vẻ giễu cợt rất hiếm ở lứa tuổi mười chín. [25, tr.
266]
- Lạy Chúa, xin đừng bắt con ốm. Quo vadis. Hoàng xách làn đi sang
vỉa hè bên kia rồi lưỡng lự quay lại [25, tr. 293].
Kiểu ngôn ngữ lai căng, pha tạp này không chỉ xuất hiện trong lời của
những người trẻ tuổi như Hoàng, Nhã, Tâm – những còn người trẻ tuổi xâm
nhập nền văn minh phương Tây bằng nhiều hình thức khác nhau như học tập,
xuất khẩu lao động, hay vì công việc phải gặp gỡ các đối tác nước ngoài mà
68
còn xuất hiện trong ngôn ngữ của bố Hoàng: “Bố xúc động, ông ký nhà băng
thời Tây là cán bộ ngân hàng lưu dung thời ta đã về hưu chào con giai mình
bằng tiếng Pháp”[25, tr. 47]. Và thứ ngôn ngữ lai căng này cũng xuất hiện
ngay trong khuôn miệng của nhân vật quan lớn, chủ nhân của ngôi biệt thư
sang trọng trong Khải huyền muộn: “Việc của tôi là chỉ đọc hai bài đít cua
cho buổi khai mạc và bế mạc dài chừng hai trang rưỡi A bốn. Tôi không cần
hiểu mình đọc gì nhưng tôi cần cái prononciation, làm sao cho cái giọng đỡ
bồ”[24, tr. 263]. Điều này đã cho thấy, việc pha trộn ngôn ngữ trong giao tiếp
thường ngày đã trở thành phổ biến, một kiểu chứng tỏ lối tư duy nhạy bén và
thời thượng của con người.
Ngoài ra phải kể đến hàng loạt những tên riêng nước ngoài được sử
dụng với tư cách như những điển cố mới: Dieter Bahlen, Edison, Suzuki,
Bethoven, Alexande, Dumas... Hàng loạt những thứ rượu Tây như: Johnnie
Walker, Wisky, Cognac, Hennessy, Remy Martin, Ara rate, Napoleon, Chivas
Regal. Và nhiều thuốc lá ngoại Hero, Dunhill, Marlboro, White Horse... Âm
nhạc cũng bắt kịp xu hướng của thời đại với những bản nhạc quốc tế như You
are in the army now, Adien L’amour... Tất cả cho thấy, lối sống Tây hóa đã
tràn đầy trong tâm thức của mỗi nhân vật.
Sau thành công vang dội trong Cơ hội của Chúa thì đến Khải huyền
muộn vẫn xuất hiện những từ ngữ vay mượn nhưng nó lại mang sắc thái giễu
nhại phần nhiều. Những từ vay mượn từ tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung
được các nhân vật phát âm rất hồn nhiên: mecxi, xia xia, mô bai, đì lây, xếch
xi, năm bờ oăn, ếch xeo, mai cờ rô xốp, mi cờ rô xốp... ngoại ngữ xuất hiện ở
mọi nơi, mọc lúc, trong mọi ngữ cảnh. Kể cả không học ngoại ngữ người ta
cũng có thể nói được vài từ, vài câu. Dường như những từ thông dụng đã
được thay thế bởi các từ hello, mecxi, thanh kiu, xia xia... Phải chăng, lối kể
69
chuyện để nhân vật của mình pha trộn tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ vay mượn
mọi lúc mọi nơi là một dụng ý,nhằm mục đích vạch rõ bộ mặt của xã hội
đương thời trong thời điểm chuyển giao từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ
chế thị trường.
Ngoài lối ngôn ngữ vay mượn của phương Tây, người kể chuyện đã để
nhân vật sử dụng lượng thuật ngữ, thành ngữ Hán Việt khá nhiều. Lạ thay, giá
trị đích thực của lối ngôn ngữ này vốn dĩ là ngợi ca, trang trọng, tôn nghiêm
thì khi sử dụng cho các nhân vật nó lại nhuốm màu mỉa mai, giễu cợt những
thói lố bịch, nhố nhăng của một bộ phận trong xã hội:
Bình tĩnh một lúc, ái nữ hỏi thân mẫu “Bố đâu”. Xã đội trưởng phu -
nhân giơ tay chỉ về phía nhà vệ sinh công cộng[24, tr. 46].
Nhạc phụ ậm ừ lấy lệ. Nhạc mẫuxởi lởi (...) Hai mươi nhăm năm -
trước, nàng sơn nữ thượng nguồn Đà Giang phải lòng chàng miền xuôi thầy
giáo huyện. Một tình sử tương đối phổ cập trong thập kỉ sáu mươi [24, tr. 54].
Qua những phân tích cụ thể trên, có thể nhận thấy việc người kể chuyện
sử dụng một số lượng lớn các từ vay mượn đã giúp độc giả hiểu được quá
trình quan hệ của nước ta với các nước láng giềng, các nước trong khu vực và
các nước phương Tây trên bình diện ngôn ngữ. Cụ thể qua những từ ngoại
nhập, vay mượn, mượn từ Hán Việt,... đã phần nào khẳng định tài dụng ngôn
của tác giả, đồng thời cũng khẳng định ngôn ngữ chính là phương tiện giao
tiếp, thúc đẩy quá trình giao lưu văn hoá của các quốc gia. Nguyễn Việt Hà có
đóng góp tích cực cho quá trình bảo tồn, phát huy văn hoá dân tộc, làm phong
phú thêm hệ thống ngôn ngữ của người Việt Nam.
3.1.2.3. Ngôn ngữ mang màu sắc tôn giáo Vấn đề tôn giáo được đề cập đến trong tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà,
70
có một vai trò rất quan trọng. Không chỉ góp phần làm nên những thành công
cho tác phẩm mà còn tạo tiếng nói riêng, mang phong cách của một nhà văn
đầy bản lĩnh, đầy nhiệt huyết trên con đường tìm kiếm, sáng tạo nghệ thuật
của tiểu thuyết đương đại Việt Nam. Điều đáng chú ý là trong Cơ hội của
Chúa và Khải huyền muộn tôn giáo xuất hiện một cách đậm đặc. Ở đó, con
người đã tìm đến tôn giáo để hướng thiện, từ bi hỉ xả, được thú tội, nhận thức
lỗi lầm. Tôn giáo đã giúp cho cuộc sống của con người trở nên thiêng liêng
hơn. Chính Nguyễn Việt Hà đã thừa nhận tôn giáo là một trong những nỗi ám
ảnh xuất hiện thường trực trong tác phẩm của mình: “Tôn giáo là điều quan
trọng tham dự vào lối viết của tôi”. Ngay nhan đề Cơ hội của Chúa và Khải
huyền muộn đã khiến người đọc liên tưởng đến điều đó.Bởi vậy, ngôn ngữ
mang màu sắc tôn giáo đã trải dài trong hai cuốn tiểu thuyết này.
Qua hai cuốn tiểu thuyết của mình, Nguyễn Việt Hà tỏ ra có một vốn
hiểu biết sâu rộng về tôn giáo cũng như triết học.Nhưng điều đặc biệt là trong
tác phẩm của Nguyễn Việt Hà “không có sự độc tôn của một tôn giáo nào”
[29]. Nhãn quan đa chiều tích hợp cả hai nền triết học phương Tây và phương
Đông, cả Thiên chúa giáo, Nho giáo, Phật giáo, cả Thiền học và Kinh dịch đã
dẫn đến sự phong phú, đa dạng của các thuật ngữ tôn giáo trong hai cuốn tiểu
thuyết của Nguyễn Việt Hà. Tuy nhiên, Cơ hội của Chúa là cuốn tiểu thuyết
thể hiện đậm nét hơn cả về vấn đề này.Điều đó tạo ra cho tác phẩm chiều sâu
triết lý với ý vị sâu xa. Dưới điểm nhìn của nhân vật Hoàng trong những cuộc
đàm đạo với những vị học giả có tiếng về tôn giáo đã cho chúng ta thấy sự
uyên bác và trình độ am hiểu lý thuyết của người kể chuyện. Nhiều vấn đề
của giáo lý Thiên chúa giáo như: bất hạnh và đức tin, sự đau khổ và cam
chịu... được tác giả đề cập một cách tinh tế và sâu sắc nhằm làm sáng tỏ thông
điệp: “Chúng ta có nên hằn học, có nên nghiệt ngã ở cuộc đời này khi chúng
ta cảm thấy bất hạnh. Hay chúng ta nên yêu thương và tha thứ” [25, tr.
71
317].Thông qua ngôn ngữ của người kể chuyện nhà văn đã để cho nhân vật
hướng đến Chúa với cặp mắt vừa sùng kính lại vừa hoài nghi, lúc thì ngưỡng
vọng, tôn thờ, lúc thì suồng sã, có khi tới mức độ thô tục.
Hoàng – nhân vật luôn nhìn mọi sự dưới nhãn quan mang đậm màu sắc
tôn giáo có độ hiểu biết và tầm nhận thức về tôn giáo rất rộng. Anh là một tín
hữu của Thiên chúa giáo, có thể khảo cứu Tân Ước, say sưa đọc Suzuki và
kinh Bát Nhã. Không những thế anh còn am hiểu từ kinh điển Phật giáo Đại
thừa đến Kinh Dịch. Ở Hoàng có cái nhìn sùng tín về Chúa. Và mỗi khi cảm
thấy bế tắc trong cuộc sống, mỗi khi tâm trạng hoang mang không biết chia sẻ
cùng ai, Hoàng lại tìm đến Chúa như một sự cứu rỗi cho hồn mình với một
niềm tin thành kính: “Lạy Chúa, xin Người ở lại với con vì trời đã đổ chiều.
Trần nhà thờ cao vút.Tĩnh lặng, yên ắng thăm thẳm. Con thật sự bất lực. Xin
Chúa mở rộng vòng tay che chở cho con. Con đã từng chối bỏ Người. Con đã
từng tự tin. Xin hãy dẫn dắt con bằng cánh tay của Người. Hay chọn cho con
lối bước”[25, tr. 282]. Hay khi chứng kiến cuộc đời có “quá nhiều người ác,
quá nhiều việc ác”, bản thân anh lại bế tắc không tìm được lối đi cho mình,
phải “gắng gỏi chấp nhận loay hoay với cuộc hiện sinh này” thì anh lại cầu
đến Chúa:
- Lạy Chúa con đã kiệt sức. Con cầu xin ân sủngcủa Người [25, tr.
262].
- Con thật sự bất lực. Xin Chúa mở rộng vòng tay che chởcho con [25,
tr. 282].
Nhưng cuối cùng niềm tin tôn giáo trong anh bị đổ vỡ, khiến anh phải
thốt lên: “Mà tôi cũng cóc cần nhà thờ. Tôi chẳng tin ai cả, tôi chẳng tin vào
một cái gì cả.Tất cả chỉ là lừa dối [25, tr. 435].Hoàng rơi vào trạng thái bế tắc
72
cùng quẫn. Còn với Tâm – em trai Hoàng lại quan niệm: “Cái ác đạt đến cấp
độ cao, nó được nuôi dưỡng tinh vi bằng vô số những đạo đức giả. Nó bám
theo cái Thiện. Vậy là con người đòi cạnh tranh với Thượng Đế. Và mình đã
thấy sự tha hóa...”[25, tr. 138]. Có khi Tâm tự coi mình là đứa con bé nhỏ của
Chúa, thấy ân Chúa ban tặng thật to lớn: “Lạy Chúa, chỉ có sức mạnh hiển
linh tuyệt vời của Người mới cứu được con. Biết bao hố bùn đê tiện quyến rũ
con nhảy vào, con đã lưỡng lự hay đã trượt chân. Vâng, con hay dùng những
từ giả dối để tự biện hộ. Lạy Chúa, con là kẻ có tội, con đã ác với nhiều người
vì nghĩ rằng nhiều người đã làm ác với con...Xin Người hãy cho con lòng tin.
Xin người hãy làmchậm trễ hành trình vào bẩn thỉu của con để con được
ngửa mặt nhìn đời” [25, tr. 138,139].
Ngôn ngữ tôn giáo không chỉ xuất hiện qua lời của các nhân vật chính
như Hoàng, Tâm mà còn xuất hiện ngay trong lời của nhân vật phụ như bà
chủ quán người Nam Định. Bà khoe với Hoàng là người dân đạo gốc nhưng
tháng trước lại vừa lên đồng hết gần một triệu: “Chị là chị cứ thành tâm. Bên
cha cũng kính, bên mẹ cũng thờ” [25, tr. 303].Lời nói của nhân vật là một
trong những biểu hiện thể hiện niềm tin đối với tín ngưỡng.
Cơ hội của Chúakết thúc một cách nhẹ nhàng, dễ hiểu nhưng lại ẩn
chứa một triết lý nhân sinh vô cùng sâu sắc, cuộc sống xô bồ, hỗn tạp, cái ác,
cái xấu phải giao tranh quyết liệt với những gì tốt đẹp, thanh sạch. Con người
không thể đổ lỗi cho khách quan về sự tha hóa của mình. Điều này còn được
thể hiện qua lời của người kể chuyện trong cuốn Khải huyềnmuộn với những
đoạn luận về thiền của Suzuki, hay những đoạn bàn về giáo lý nhà Phật,
những đoạn thể hiện sự hiểu biết về sách lược của Nho gia và rất nhiều đoạn
cầu xin sự giải thoát hay cứu rỗi của Chúa. Đặc biệt là đan xen những kí ức về
73
tôn giáo, kể về cuộc phiêu lưu truyền giáo ở Việt Nam hồi thế kỉ XVII của
linh mục Alexan dre Rhoodé – người được coi như là đã tạo ra chữ Quốc ngữ
Việt Nam.
Nhà văn Bạch – người mong manh có đức tin cũng có lúc đã giống
Hoàng cho rằng “mọi sự đều là ý Chúa”. Trong quá trình đi tìm nhân vật cho
sáng tác của mình, Bạch đã đến vài nhà thờ, không cung kính lắm quỳ xuống
mà xưng rằng: “Lạy Cha, con là một giáo dân và tệ hơn, con là nhà văn. Con
muốn viết về những sâu xa suy nghĩ tâm linh, ý thức hoặc vô thức của một vị
linh mục. Lạy Cha, xin Người làm ơn kể cho con nghe về chính cha” [24, tr.
176]. Hay trong chương kết của Khải huyền muộn, ta bắt gặp nhân vật Vũ
với những hồi tưởng về sự tha hóa của hiện trạng xung quanh và chính mình.
Đạo đức trong các nhân vật đang đi đến chỗ khốn cùng. Chính trong những ý
nghĩ đó, đoạn trích sách “Khải huyền” (Kinh thánh Tân ước) ở cuối tác phẩm
mang một âm hưởng tích cực như một lời nhắc nhở, cảnh báo về thực trạng
tha hóa đầy lo ngại trong đời sống hiện nay của con người.
Chủ đề tôn giáo như “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt trong tiểu thuyết của
Nguyễn Việt Hà.Bởi vậy ngôn ngữ mang màu sắc tôn giáo là điều hiển nhiên
trong tác phẩm. Vấn đề mà Nguyễn Việt Hà muốn đề cập với độc giả hết sức
gần gũi trong cuộc sống. Đó là cái thiện – cái ác luôn đấu tranh, luôn sẵn sàng
chấp nhận đối với thất bại và bất hạnh nhưng ẩn sâu trong tiềm thức của mỗi
nhân vật thì luôn tồn tại “đức tin”. Niềm tin tôn giáo ở các nhân vật trong
sáng tác của Nguyễn Việt Hà được thể hiện qua lời thoại của các nhân vật ở
những mức độ, khía cạnh khác nhau, đa dạng và nhiều cung bậc thành kính
hay không thành kính. Thế nhưng, qua đó cho ta thấy những hiểu biết sâu
rộng của nhà văn về tôn giáo. Đồng thời, thể hiện cái nhìn vừa tin tưởng, vừa
hoài nghi của con người hiện đại vào tôn giáo nói riêng và thực tại cuộc sống
74
nói chung.
3.2 . Giọng điệu trần thuật
3.2.1. Giới thuyết về giọng điệu trần thuật Giọng điệu là một trong những yếu tố cấu thành nên nét đặc trưng cho
loại hình văn học nghệ thuật và là yếu tố cơ bản cấu thành, khu biệt đặc trưng
phong cách của mỗi nhà văn.Với tư cách này, giọng điệu đảm nhận vai trò
phản ánh thái độ, tình cảm, tâm trạng, nhận thức của con người trong một thời
điểm nào đó, thể hiện qua cách lựa chọn ngôn ngữ.
Bàn về giọng điệu có rất nhiều ý kiến, nhưng chung quy lại thì giọng
điệu là một phạm trù thẩm mỹ trong tác phẩm văn học. Nó liên quan đến các
yếu tố tạo nên văn phong, bao gồm: cách diễn đạt, hình tượng, cú pháp, âm
thanh, nhịp điệu. Giọng điệu vừa biểu hiện một thái độ về đối tượng thẩm mĩ
trong tác phẩm văn học, vừa là thái độ của người phát ngôn văn học đối với
người nghe. Giọng điệu trong tác phẩm văn chương thuộc lĩnh vực hình thức
nhưng là “hình thức mang tính nội dung”, bởi qua hình thức người ta có thể
hiểu được nội dung. Nó có khả năng liên kết các yếu tố hình thức khác nhau
trong văn bản để làm cho tác phẩm cùng mang một âm hưởng và cùng chung
một khuynh hướng nhất định. Do đó, giọng điệu trở thành một yếu tố quan
trọng góp phần tạo ra đặc trưng riêng cho mỗi loại hình văn học và hơn thế, là
mốc giới xác định phong cách của mỗi nhà văn, mỗi trào lưu văn học.
Việc tìm được giọng điệu phù hợp cho mỗi câu chuyện được kể là rất
khó bởi nó phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố tài năng của người kể chuyện.Mà
trong mỗi câu chuyện, mỗi tác phẩm văn học, người đọc có thể tìm thấy nhiều
sắc thái giọng điệu khác nhau.Chính vì vậy, mỗi tác phẩm tồn tại như một
môi trường đa giọng điệu, đa sắc thái. Tuy nhiên, những giọng điệu, sắc thái
ấy đều xoay quanh một giọng chủ đạo – giọng được coi là chủ âm cho tác
75
phẩm, đôi khi cho toàn bộ sáng tác, từ đó đại diện cho phong cách của tác giả.
Trong mỗi tác phẩm, đòi hỏi người trần thuật hay người kể chuyện phải
có khẩu khí, có giọng điệu riêng. Do đó, trong quá trình sáng tác mỗi tác giả
đều phải trăn trở để tìm ra giọng điệu nghệ thuật cho tác phẩm của mình.
M.Khrapchencô đã nhận xét: “cái quan trọng trong tài năng văn học (...) là
tiếng nói của mình (...), là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm
thấy trong cổ họng của bất kỳ một người nào khác”[38, tr. 190]. GS.Trần
Đình Sử cho rằng, ở mỗi một tác phẩm văn chương, giọng điệu chính là “một
hiện tượng nghệ thuật toát ra từ bản thân tác phẩm và mang một nội hàm tư
tưởng thẩm mỹ”. Như vậy, giọng điệu nghệ thuật bị chi phối từ rất nhiều yếu
tố, từ cái nhìn hiện thực, cảm hứng sáng tác, đến tư tưởng tình cảm của tác giả
với những sự vật, sự việc, con người... Giọng điệu ấy lại được cụ thể hoá qua
từ ngữ, lời văn, ngữ điệu và các thủ pháp nghệ thuật trong tác phẩm, để qua
đó bộc lộ “thái độ, tình cảm, lập trường, tư tưởng đạo đức của nhà văn đối với
hiện tượng được miêu tả” và thiết lập các mối quan hệ “thân sơ, thành kính
hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm”[27, tr.91].
Mỗi tác phẩm văn chương đều có sắc thái giọng điệu riêng, giọng điệu
trong mỗi tác phẩm cũng chịu sự chi phối, quy định, tác động mạnh mẽ của
yếu tố thời đại.Giọng điệu làm thành bản sắc riêng của một trào lưu, một
trường phái hay một giai đoạn văn học. Nhìn một cách tổng quan, văn xuôi
nước ta thời kì 1945 – 1975 tương đối nhất quán về giọng điệu. Bao trùm hầu
khắp các sáng tác là giọng khẳng định, ngợi ca với thái độ tin tưởng, lạc quan
cùng các biến thái đa dạng các biểu hiện giọng điệu như hào sảng, hào hùng,
đanh thép, vui tươi, xúc động, đầm ấm tin yêu... Văn học Việt Nam sau 1975
với tinh thần dân chủ và nhu cầu khám phá đời tư, thể hiện kinh nghiệm cá
nhân tạo ra hệ thống giọng điệu đa dạng và phong phú: giễu nhại, hài hước;
mỉa mai châm biếm sâu cay; hoài nghi; triết lý; trữ tình... Sự đa dạng đó đã
76
phần nào thể hiện tinh thần dân chủ và nhu cầu đối thoại, tranh biện nhằm
nhìn nhận lại các giá trị truyền thống cũng như giá trị hiện đại.Mục đích sâu
xa hơn, để thể hiện thái độ của nhà văn trước cuộc sống.
Nằm trong sự đa dạng của tiểu thuyết đương đại Việt Nam, Nguyễn
Việt Hà là người có đóng góp không nhỏ trong việc làm mới tiểu thuyết nước
nhà.Ở tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà có sự phối hợp của nhiều giọng điệu
trần thuật, với sự đa dạng, đan cài lẫn nhau tạo nên thứ giọng đa thanh, đa
giọng điệu.Nhà văn "dường như trao ngòi bút cho nhân vật, để nhân vật tự
viết lấy với giọng điệu riêng của nó" (Antonov). Tác phẩm là phát ngôn của
nhà văn về hiện thực đời sống, một mặt phản ánh thực tế khách quan, mặt
khác phản ánh cả chính bản thân mình qua cách nghĩ, lập trường, thái độ...
một cách riêng biệt không lặp lại.
Cơ hội của Chúa và Khải huyền muộn xuất hiện nhiều loại giọng
điệu: giọng trữ tình, giọng mỉa mai châm biếm, giọng hài hước, giọng triết
lý... Nhưng ở đây, chúng tôi tập trung đi vào tìm hiểu ba loại giọng điệu chủ
đạo đó là giọng giễu nhại, hài hước; giọng triết lý và giọng trữ tình.
3.2.2. Các loại giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà
3.2.2.1. Giọng điệu giễu nhại Giễu nhại là nhắc lại, bắt chước lời nói của người khác để trêu chọc,
châm biếm, bỡn cợt; là sự miêu tả những sự vật, hiện tượng với bề ngoài có
vẻ bóng bẩy, mực thước, khuôn mẫu nhưng lại mang trong mình bản chất của
sự xấu xa, bỉ ổi, phi thẩm mĩ nhằm mục đích phê phán, chế giễu, đả kích, phơi
bày cái thối nát, mục ruỗng bên trong.
Giọng điệu giễu nhại là một trong những kiểu giọng điệu riêng của tiểu
thuyết đương đại Việt Nam. Giọng điệu này có nhiều cấp độ thể hiện: có khi
nhẹ nhàng, có khi lại mỉa mai, châm biếm, đôi lúc lại chua xót theo kiểu “cười
77
ra nước mắt”... Người kể chuyện trong Cơ hội của Chúa và Khải huyền
muộn còn sử dụng giọng điệu giễu nhại, một mặt vừa muốn hạ bệlàm đảo lộn
những cái được gọi là lố bịch trong xã hội; một mặt vừa để cười, để châm
biếm bỡn cợt và một mặt để đả kích vào tất cả sự xấu xa, tồi tệ ẩn chứa dưới
một cái vỏ bề ngoài sạch sẽ, trang nghiêm.
Trong Cơ hội của Chúa, độc giả dễ dàng bắt gặp vô số những câu văn
giễu nhại, lột trần bản chất của xã hội thời kì đổi mới. Đó là hình ảnh của Hà
Nội những năm cuối của thế kỉ XX được miêu tả trong sự tương phản giữa nét
cổ kính của đất Tràng An với quá trình Âu hóa, sự xâm lấn của văn hóa
phương Tây khiến: Hà Nội đangquen dần buôn lậu và tập tọng nghiện ngập.
Đàn ông đã biết bật nắp Heniken và đàn bà cũng quen với cô ca. Những gì
thuộc về truyền thống đang dần trở nên lỗi thời, lép vế trước lối sống hiện đại.
Tuổi trẻ bắt đầu tập tành làm quen với những thú vui mới: "Trên sàn
một lũ choai choai mười sáu mười bảy đang co giật chân tay. Bọn lớn hơn tản
quanh các bàn phong độ cao đạo, tự hào về thâm niên trong bộ môn khiêu vũ
quốc tế. Một vài nhóm nhỏ chỉ ngồi ăn nhậu thưởng thức không khí nhộn
nhạo. Đầu tóc quần áo theo đúng catalogue thời trang Tiệp năm 1989. Khinh
bỉ nhìn lũ người xung quanh, cái lũ mọi chưa được nền văn minh xuất khẩu
lao động Đông Âu khai hoá" [25, tr. 116]. "Phòng khiêu vũ đông nghẹt thanh
niên dậm dựt theo tiếng nhạc Boney M. Một vài đôi nhảy người bản xứ uốn éo
điệu xì lô áo bỏ trong quần nhưng đi chân đất. Các cô cậu người Hà Nội nhìn
biết ngay, ở nhà trót ăn mặc đứng đắn nên ra đây hở hang quá đỗi, cố chứng
tỏ dân thành phố lớn hơn phải đồi truỵ" [25, tr. 131].Giọng điệu giễu nhại
được sử dụng đã làm nổi bật bản chất giao thời nửa mùa của mảnh đất văn
hiến. Những con người trẻ tuổi chạy theo xu thế đổi mới từ ăn mặc đến kiểu
78
tóc, đi đứng... một cách kệch cỡm, khó hiểu.
Còn các vị quan chức thể hiện tài năng qua thói buôn lậu: “quan buôn
lậu có thể hơn dân buôn lậu. Những phi vụ xuyên dọc chiều dài đất nước chỉ
có thể là của dân, nhưng muốn xuyên ngang các quốc gia thì chỉ có là của
quan” [25, tr. 99]. Cơ chế thị trường Việt Nam được thay đổi một cách chóng
mặt: “thị trường còn chính nguyên nhưng đã tự làm suy yếu bằng thói buôn
bán thủ dâm” [25, tr. 121], “các Company nhiều như nấm sau mưa, nơi liên
doanh của quan chức cơ hội với bọn buôn lậu liều lĩnh” [25, tr. 123] và “93%
các công ty tư doanh chọn sự lừa đảo làm kim chỉ nam của các hoạt động
nghiệp vụ. Khoảng hai năm sau bằng sự dốt nát thượng thặng của các quan
chức ngân hàng, hệ thống hợp tác xã tín dụng của nhân dân ra đời. Nó chết
yểu một cách logic để lại danh thơm và vụ bể bạc lớn nhất thế kỷ của nền tài
chính xã hội chủ nghĩa [25, tr. 130]... Có thể thấy qua cách miêu tả đặc biệt
này, cuộc sống hiện ra rõ nét đến từng chi tiết và ngồn ngộn những điều bậy
bạ. Ngay từ những khái quát đầu tiên về đời sống đã thấy hiện lên sự lố lăng
cả một xã hội mà cái ác, cái xấu ngày càng lên ngôi. Xã hội thời buổi cơ chế
thị trường đầy rẫy những mặt trái. Thế cuộc đảo điên và con người tha hóa,
trụy lạc. Người kể chuyện đã khéo léo lựa chọn ngôn từ để lột trần những cái
xấu xa, bất chính của xã hội: “ba vạn chín nghìn tổng, chánh, phó giám đốc
trong và ngoài quốc doanh đều mù và điếc theo mọi nghĩa...” [25, tr. 402],
quan chức phần đông “trở nên sung túc vì đã biết ăn cắp” [25, tr. 133], “cuộc
sống sôi sục mùi đồng”, “lịch sử nhân loại chứng kiến số người tự tử về tiền
gấp mười tám lần số người tự tử vì tình... đến thời kỳ kinh tế thị trường nền
văn minh của chúng ta chết sạch những nhà đạo đức thật [25, tr. 476]. Qua
giọng kể đầy châm biếm, một đời sống hiện ra ngồn ngộn những điều bậy bạ,
một thời buổi “nhố nhố nhăng nhăng..., ông không ra ông thằng không ra
79
thằng” của xã hội Việt Nam những năm đầu của nền kinh tế thị trường.
Với giọng văn đậm chất giễu nhại, bỡn cợt người kể chuyện trong tiểu
thuyết Nguyễn Việt Hà đã thể hiện một kiểu cảm quan đời sống đặc thù.Cảm
quan này đã được tiếp tục tiếp nối trong Khải huyền muộn. Nếu như ở Cơ
hội của Chúa giọng giễu nhại mang đậm chất châm biếm, bỡn cợt sóng đôi
với giọng xót xa, trăn trở thì đến Khải huyền muộn độc giả lại thấy một lối
bỡn cợt sóng đôi với giọng mỉa mai.
Đọc Khải huyền muộn, độc giả bắt gặp hàng loạt những hình tượng
giễu nhại, châm biếm, mỉa mai: giễu nhại quan chức: “Dãy ghế hạng nhất
nhan nhản những khuôn mặt nhờn tanh căng mỡ của các quan chức cấp
huyện”, “Sếp ngồi quay lưng lại cửa ra vào vì mải chơi game trên computer”;
“Quan chức thì bao giờ cho hết lầm lẫn...”; giễu nhại người mẫu: “người mẫu
đang là đề tài thời thượng chỉ sau cave”; giễu nhại báo chí: “Báo chí ở ta
thường tự tin là có dân trí thấp nên đầy ngạo mạn trịch thượng”; giễu nhại
đạo diễn: “Các đạo diễn với mặc cảm mình đã là thằng mất dạy, nên luôn
luôn nhồi vào mồm đám diễn viên những câu đẫm đầy đạo đức”; giễu nhại bà
văn sĩ Bỉ và cả buổi toạ đàm văn học của ta, bởi nữ văn sĩ người Bỉ này từng
“đọc Truyện Kiều tóm tắt bằng văn xuôi và khẳng định một nữ tác gia như
Nguyễn Du xứng đáng là một nữ thi sĩ”;...
Dưới lời văn của người kể chuyên, xã hội đương thời hiện lên như là
hợp thể của những điều nhố nhăng, đồi bại; ở bất kì ngành nghề nào cũng tồn
đọng những điều xấu xa, bậy bạ. Ở đó, con người tìm đủ mọi cách chạy chọt,
luồn lách để được cái mác danh giá, con người sống để lừa bịp, lợi dụng lẫn
nhau... Bằng lối kể chuyện khéo léo, người kể chuyện đã tái hiện lại toàn cảnh
xã hội của một thời buổi nhiễu nhương, thời đại mà “bọn tiểu nhân phản phúc
nhung nhúc đông, lác đác mới có vài ba quân tử tận tụy[24, tr. 58]; thời đại
80
mà quan chức, trí thức, doanh nhân lại là những kẻ bất tài, vô dụng, hoặc là
những kẻ có chút đầu óc nhưng lại dậm dật, bê tha. Trong cái hỗn tạp của đời
sống xã hội ấy, đâu đâu cũng chỉ thấy “nhan nhản những giám đốc, những
thương gia lưu manh già cặp bồ với những nhân tình trẻ” [24, tr. 70]. Rồi hội
nghị là nơi luôn cần sự trang nghiêm, trang trọng lại trở thành địa bàn để các
quan chức, đại biểu danh giá ngủ; lễ kết nạp hội viên hội nhà văn thì “mấy
nhà văn nam hội viên cũ có uống nhiều bia, hớ hênh để mở phéc-nơ-tuya
quần. Những chiếc quần xịp sặc sỡ hình như có đăng ten...[24, tr. 172].
Bên cạnh giọng điệu giễu nhại người kể chuyện còn sử dụng giọng điệu
hài hước.Đó là những câu văn mang ý vị mỉa mai, giễu nhại.Giễu nhại những
thói đạo đức giả trong xã hội.Đặc biệt là lòng hiếu thảo – biểu tượng của đạo
đức gia đình ngày càng xuống cấp. Đó là gia đình Thảo trong Khải huyền
muộn: "Bố nó chăm bà nó đã được mười lăm năm. Chuyện bố nó nuôi mẹ
được đăng lên mục "Giữ gìn truyền thống cũ" của một tờ báo Đoàn.Mẹ nó cắt
bài báo ép lên khung kính treo ngay cửa ra vào.Phía trên bài báo là một tấm
ảnh cả nhà nó đứng quay xung quanh bà nội đang móm mém cười trong bộ
áo dài đại lễ màu điều" [24, tr. 33]. Nhưng sự thực sau tấm lòng hiếu thảo ấy
thì bà Thảo được sống trong một căn buồng lờ nhờ sáng hôi hám kinh khủng,
cháu “chăm” bà ăn bằng cách cả mâm cơm để trong một cái quang bằng mây.
“Cái Thảo đứng ở cửa buồng, lấy một cái đòn tre dài câu cái quang vào
giường bà nó... Bà nó chợt sủa “gâu gâu”, cái Thảo cẩn thận nhấc cái đòn
tre ra, ở trong cái quang mây lúc này lộn xộn những bát đũa của bữa trước
[24, tr. 33]. Hay cách mà vợ Vũ thể hiện tấm lòng hiếu thảo của “một cô dâu
hoàn hảo” vì "chỉ biết bố mẹ chồng qua ảnh”: “Mỗi kỳ giỗ hai cụ, vợ Vũ đều
làm không dưới năm mươi mâm. Chục năm lại đây, có xông xênh tiền, vợ Vũ
còn lập đàn chay gõ mõ đọc kinh Phật lầm rầm cúng trước suốt ba ngày" [24,
81
tr. 82] và chỉ có Vũ là “sâu xa” biết đằng sau nghĩa cử cao đẹp ấy là tiền học
phí đi Mĩ của thằng Bảo, cháu nội duy nhất của hai cụ, quá nửa gom góp từ
tiền phúng giỗ[24, tr. 82].
Và ngay cả hạnh phúc lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng cũng được đem ra
để tính toán thiệt hơn. "Cái mơ ước sẽ trở thành người sang trọng luôn giày
vò vợ Bạch. Bố công nhân mẹ cũng công nhân, vợ Bạch đã quá hiểu để khinh
bỉ cái gọi là dân nghèo thành thị"[24, tr. 196]. Sau đó cô tìm mọi cách để học
và khi có học thức, kiếm được tiền cô đã đồng ý lấy Bạch. Sau một thời gian
đã kịp cầm tiền ra đi và kiếm một ông chồng mới là "thương gia thành đạt
người Sing gốc Tầu" [24, tr. 215]. Mối quan hệ vợ chồng của bố mẹ Nhã
trong Cơ hội của Chúa cũng không khá hơn: “Cô thôn nữ vùng đất chiêm
trũng lấy được anh sinh viên quý tộc trường Ngoại giao chỉ vì xinh đẹp. Vụng
về nữ công gia chánh và mù chữ.Trí thức với nông dân kiểu này khó có thể
liên minh. Cái liềm sẽ chặt gẫy cái bút. Ngài Vụ trưởng tương lai nhận ra
điều ấy thì đã quá muộn.Đành sửa sai đời mình bằng cách chỉ thòng lòng với
nàng nào biết hai ngoại ngữ” [24, tr. 216].
Với vốn sống của một công chức nhà nước, Nguyễn Việt Hà hiểu hơn
ai hết về đời sống của tầng lớp này. Bởi vậy, trong các sáng tác của ông người
kể chuyện đã phơi bày thực trạng công việc của giới công chức. Đó là cuộc
sống nhàm chán và đơn điệu: một phòng có tới mười tám người nhưng "công
việc chỉ đủ cho năm người" [25, tr. 56]. "Khu vườn cơ quan trở thành thứ
vườn trẻ để gửi con ông cháu cha" của những công tử và tiểu thư. "Sáng đến
cơ quan "rút tập chứng từ" dầy để trên mặt bàn.Nó là biểu tượng vàng ngọc
của tám tiếng.Cuối giờ cứ y nguyên như vậy cất vào.Đi làm nhà nước cũng
không cần phải học cao biết rộng, làm mãi thành quen[25, tr. 58].Người kể
82
chuyện đã nêu lên những ung nhọt bên trong của bộ máy hành chính,
nhữngthực trạng nhức nhối đang tồn đọng trong môi trường công sở nhà nước
thời hiện đại.
Hay khi đọc những câu trần thuật của người kể chuyện về thực trạng
của ngành thể thao nước ta thật lố bịch và nực cười: "Vụ phó hồn nhiên tin
rằng đã đá bóng giỏi thì rất khó học chữ giỏi, đặc biệt là những cầu thủ quen
chơi bóng bằng đầu. Những người đầu đặc khi tết bóng thường đi căng và
khó đoán hướng.Khá nhiều những tuyển thủ của đội U17 hoặc đội U21 đang
cố gắng hoàn thành chương trình tiểu học. Một hiện thực tồi tệ, hiện thực này
được cải tạo vài quan chức thể thao đang chạy tiền làm tiến sĩ thể chất hệ tại
chức đau đớn tuyên bố" [24, tr.52,53]. "Hội trường trang nghiêm im phăng
phắc.Ba phần tư đại biểu đã thiu thiu ngủ.Hầu hết bọn họ là dân chuyên
nghiệp họp nên mắt vẫn mở to, cổ vẫn thẳng, phải tinh ý mới nghe thấy tiếng
ngáy khe khẽ" [24, tr. 53].
Có thể nói, dù bộc lộ trực tiếp qua lời người trần thuật hay qua điểm
nhìn nhân vật thì tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà vẫn luôn sử dụng lối “giễu nhại”
làm giọng điệu chủ âm.Mục đích của lối nói này để nhằm thể hiện cách nhìn
của nhà văn trước hiện thực cuộc sống.Sâu xa hơn, để bức tranh đời sống
được vẽ lên phong phú, đa dạng hơn từ nhiều góc khác nhau.Nguyễn Việt Hà
cũng đã thật khéo khi xen cài vào tác phẩm của mình nhiều kiểu giọng điệu.
Đằng sau những câu văn giễu nhại đầy mỉa mai ấy chúng ta bắt gặp cái
nhìn đầy chua chát của người kể chuyện. Xã hội bước vào thời kì đổi mới,
kéo theo đó là những cách sống mới nhưng có vẻ không hợp thời. Người kể
chuyện đã quan sát và kể lại một cách chân thực, sinh động nhất cuộc sống
của mọi lớp người, nhất là những người trẻ tuổi. Ở Khải huyền muộn, chúng
ta bắt gặp hình ảnh: "Trời nắng chang chang nóng. Có một bể bơi không
83
tường chắn, rất nhiều thiếu nữ nằm ngổn ngang phơi người, tự lấy tay xoa
ngực trần bằng những nắp hộp kem loằng ngoằng chữ Hàn Quốc. Trên ti vi
cũng nhan nhản phim Hàn. Những bộ phim đương nhiên là hấp dẫn vì nội
dung đều có một bi kịch đương nhiên là thê thảm, chuyện tình giữa anh
Chimđangsun và cô Xinhiếp" [24, tr. 49]. Phim truyền hình Trung Quốc cũng
có tác động không kém phần mạnh mẽ đến cách ứng xử của người Việt. Khi
nhận lỗi các vị quan chức cũng tự xỉ vả mình bằng cách: "tất cả giơ mạnh tay
đều đặn tát vào hai má theo kiểu Thái giám có lỗi, mốt nô tài đang thịnh hành
trong phim Khang Hy đại đế" [24, tr. 69]. Các chương trình truyền hình nội
địa cũng hấp dẫn và cảm hoá người xem đến mức: "Mẹ vợ Vũ vốn Thứ trưởng
về hưu đã ngoài bẩy mươi, dạo này những lúc ghen ngược, cũng đều nhí
nhảnh chua chát cái giọng tấu hài của chương trình Gặp nhau cuối tuần" [24,
tr. 57]. Con người bất chấp du nhập thứ văn hóa ngoại lai một cách học đòi,
bắt chước.
Với cái nhìn hiện thực bộn bề đa dạng, với trách nhiệm của một cây
bút chân chính, Nguyễn Việt Hà trong tiểu thuyết thời kỳ đổi mới vừa đi sâu
mô tả dòng chảy trong trẻo giữa dòng sông cuộc sống trong - đục, vừa đi sâu
phát hiện nhiều điều bất cập bất ổn trong cuộc sống hôm nay. Để đưa lên
trang sách những điều bất cập bất ổn ấy, nhà văn đã thật sáng suốt khi để
người kể chuyện lựa chọn giọng điệu giễu nhại, hài hước cho các nhân vật
của mình.
3.2.2.2. Giọng điệu triết lý Triết lý là sự thể hiện những khái quát mang tầm triết luận về một vấn
đề, một hiện tượng nào đó của cuộc sống xã hội, của cõi nhân sinh. Giọng
triết lý thể hiện cái nhìn có tính quy luật của tác giả về thời cuộc, con người...
Nó chỉ có được ở những nhà văn có vốn sống phong phú, từng trải và có thái
84
độ lao động nghệ thuật nghiêm túc.
Giọng điệu triết lí dường như là khái niệm không còn xa lạ trong văn
chương. Trong nền văn học hiện đại Việt Nam chúng ta bắt gặp giọng điệu
triết lý trong những tác phẩm của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng,
Nguyễn Công Hoan... họ đều là những cây đại thụ trong nền văn học. Sang
đến nền văn học đương đại Việt Nam, Nguyễn Việt Hà cũng là một trong
những cây bút văn xuôi xuất sắc. Những ngày tháng lăn lộn dưới gác chuông
của phố nhà Chung, quăng mình trải nghiệm giữa những bon chen, toan tính
của cuộc sống khiến tiểu thuyết anh có cái nhìn gần với thực tế hơn, có những
thực tế tốt đẹp nhưng cũng có những thực tế khiến người ta phải thất vọng
“vĩnh viễn không bao giờ nhìn đời bằng cặp mắt xanh non”. Thật đúng, không
có ngôi trường nào đào luyện người ta đến hạn mức của sự trưởng thành
nhanh hơn, hiệu quả hơn bằng trường đời.Chính bằng những trải nghiệm ấy,
con người đã rút ra những triết luận, triết lý về cuộc sống.Thứ triết lý được
xây dựng từ những bài học, những trải nghiệm từ cuộc sống nên ắt hẳn nó
không chỉ đúng với một số người mà trong những thời đại nhất định, nó sẽ
còn đúng với nhiều người, đúng với cả thời đại người ta sống.
Trước mỗi vấn đề, người kể chuyện trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà
luôn đểnhân vật tự triết lý như một cách chia sẻ, đối thoại với bạn đọc. Chẳng
hạn, khi đứng trước đồng tiền, Nhã khẳng định: "Muốn không ai dẫm đạp lên
mình thì phải có tiền... tiền không đem lại hạnh phúc nhưng nó là phương tiện
tốt nhất để đi đến hạnh phúc"[25,tr.277]. Và theo cô, "Muốn biết rõ về ai, nên
nhúng người ấy nhiều lần vào tiền. Cái thứ dung dịch siêu thượng này làm
trôi đi tất cả những màu mè bọc ngoài. Đạo mạo trở nên hau háu lỗ
mãng.Dịu dàng trở nên chua ngoa, cứơp giật.Lịch sử nhân loại chứng kiến số
người tự tử vì tiền gấp mười tám lần số người tự tử vì tình" [25, tr. 476].Đây
là triết lý của Nhã - một người từng trải, quá quen với sức mạnh của đồng tiền
85
trong xã hội mới. Cũng là triết lý về đồng tiền, nhưng với Hoàng – một người
không có “máu” làm giàu, đồng tiền không phải động lực sống của anh, anh
đã nghĩ: “có nhiều tiền không phải là xấu. Bạn tôi đã giàu và em tôi đang tập
tọng làm giàu.Tôi đã thấy nhiều người có tiền, hoặc tốt hoặc không tốt.Tôi
đọc đâu đó thấy rằng đồng tiền không có khuôn mặt riêng, nó mang bộ mặt
người cầm nó.Cũng có lý, đồng tiền ở trong tay người đại lượng thì khoát đạt,
ở đứa tiểu nhân thì đê tiện" [25, tr. 455].Hoàng đã có cái nhìn rất sâu sắc và
chân thực về bộ mặt của đồng tiền. Với Tâm – đồng tiền là cả một vấn đề lớn
đối với anh, khiến anh luôn trăn trở nghĩ suy tìm cách kiếm tiền. Tiền cũng là
động lực khiến anh tìm đến với trời Tây: "Đông Âu là một môi trường tốt để
kiếm tiền...". Triết lý về đồng tiền này, cũng tiếp tục xuất hiện trong cuốn tiểu
thuyết thứ hai Khải huyền muộndưới con mắt của nhân vật Vũ. Vũ, với tư
cách là kẻ vừa có tiền, vừa có quyền cho rằng: “Tiền bạc là phẳng được nếp
nhăn xưng hô tuổi tác" [24, tr. 70].
Tính triết lý không chỉ được biểu hiện ở các nhân vật trí thức, quan
chức mà còn được biểu hiện ở những nhân vật khác.Đó có thể là những con
người bình dân ít học, hay là những người trẻ tuổi đang trên hành trình tìm
kiếm, giải mã cuộc sống. Những con người này vì nhiều lí do khác nhau, dù
trực tiếp hay gián tiếp họ cũng đã phải lặn ngụp giữa thời buổi “cũ mới nhập
nhèm”, đã va chạm vô số những giá trị giả dối, đã vấp ngã đủ để những triết
lý của họ không còn là những triết lý suông rỗng. Khi nghĩ về tình yêu của
tuổi trẻ, người kể chuyện cũng thể hiện giọng triết lí bằng những nhận xét,
đánh giá.“Trong tình yêu, hình như nhớ là quan trọng nhất. Nhớ nhiều nhớ
dài là chung thủy. Sâu sắc nhớ là đau khổ. Chỉ khi yêu người ta mới chung
thủy và đau khổ”. Hay “Thích có phải là đôi khi hay nghĩ hoặc nhớ về nó. Thế
còn yêu chắc là liên miên chỉ nghĩ về nó”.Và "Khi yêu nhau người ta đánh
giá cao lòng chung thủy. Thế chung thuỷ là cái gì? Là có đầu có cuối trước
86
sau như một.Là khái niệm ước lệ để rồi đấy vợ chồng bấu víu vào tôn trọng
nhau.Là một thuật ngữ đẹp nhưng cũng giống vô số điều cực đoan, cái tốt đẹp
đều không có thật.Nó tồn tại có chừng mực ở cuộc sống nhưng khi đã trượt
sang chuyện sách vở nó chứa đầy đạo đức giả" [25, tr. 341]. Với Nhã, cô lại
cay đắng nghiệm ra và gắn tình yêu bằng hình ảnh của một vật dụng đời
thường rẻ rúng: “Tình yêu. Nhiều khi tưởng lê thê nhưng thực ra cộc cỡn như
cái mini juýp của con đầm đểu" [25, tr. 115]. Tâm lại nghĩ: "Tình yêu là một
khái niệm rất đẹp. Đẹp đến mức nó chỉ có trong tiểu thuyết (...) Một mớ lý
thuyết lấp lánh đầy ảo tưởng" [25,tr. 172].
Trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà còn xuất hiện triết lý về đạo đức:
"Đạo đức. Mẹ tôi bảo: "làm gì thì làm nhưng phải để phúc cho con cháu".
Hoá ra giá trị đạo đức là đem lại tương lai doạ dẫm hiện tại.Tôi không nghĩ
xa đến thế.Đạo đức hiểu nôm na là hiếu với bố mẹ, tốt với anh em và giữ chữ
tín với bằng hữu" [25, tr. 344].
Cũng có khi người kể chuyện triết lý về những điều nhỏ nhặt xoay
quanh đời sống: “Không gian hai chiều, thời gian ba chiều còn con người vô
số chiều”,“Những kẻ đểu giả thông minh khi tính toán luôn luôn nghĩ người
khác cũng tính toán; “Khi con người đã dám nói dối một lần thì cũng dám nói
dối lần sau; “háo danh, ưa ăn diện là đức tính muôn đời của phụ nữ”...
Với Khải huyền muộn, ngoài những triết lý trong cuộc sống, người kể
chuyện đào sâu thể hiện quan điểm của mình về văn chương và văn chương
đương đại: “Xác chữ muôn đời chỉ là xác chữ”; “văn chương bị lặp lại đáng
sợ như văn chương nhạt nhẽo”; “văn chương là cái bị dùng theo thời thế, nhẹ
thì bóp méo, nặng thì xuyên tạc chữ nghĩa về bản chất vốn đã sẵn sàng đạo
đức giả...”. Văn chương là đề tài thu hút sự chú ý của nhiều nhà văn, nghệ sĩ
từ lâu và là nghệ thuật của sự tìm tòi. Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó
87
không chứa đựng sự khám phá, sáng tạo không ngừng của nhà văn. Đây có lẽ
là một khái quát thể hiện tập trung nhất quan niệm của nhà văn về văn chương
đích thực. Và có thể nói thực tiễn sáng tạo của Nguyễn Việt Hà đã minh
chứng rõ nét quan điểm ấy.
Qua hai tác phẩm Cơ hội của Chúa và Khải huyền muộn, Nguyễn
Việt Hà còn muốn gửi tới độc giả một suy tư sâu xa: Cuộc sống ngày càng bề
bộn, hỗn loạn; con người ngày càng tha hóa, mất dần niềm tin vào cái đẹp;
danh lợi và dục vọng biến con người thành những kẻ xấu xa, đê tiện, bỉ ổi và
mất nhân cách. Vì vậy, tác giả không thôi mong muốn con người hãy suy nghĩ
và tìm cho mình một hướng đi, một lối sống phù hợp, lành mạnh và tốt đẹp,
để gìn giữ lại những gì nhân bản còn vương sót lại trong cuộc đời này.
Trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà, những triết lý trên đã xây dựng lên
những con người với nhiều phong cách độc đáo, đầy cá tính. Mỗi người đều
có trải nghiệm riêng, và thể hiện cách nhìn nhận riêng trước các vấn đề của
cuộc sống.Chính điều đó đã khiến cho tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà có chiều
sâu và mang ý nghĩa khái quát hơn.Đồng thời, giọng triết lý cũng góp phần
bộc lộ năng lực phân tích và khả năng chiếm lĩnh hiện thực của người viết
tiểu thuyết.Nó thể hiện tài phân tích, mổ xẻ để tìm ra bản chất của cuộc
sống.Đó là một biểu hiện của sự cách tân về lời văn nghệ thuật trong văn
xuôi, đem lại cho nó tính chất đối thoại từ bên trong.
3.2.2.3. Giọng điệu trữ tình
Nhắc tới “trữ tình” thường mọi người nghĩ về nó như là chất giọng đặc
trưng trong thơ trữ tình. Trong tác phẩm đó giọng điệu trữ tình được biểu hiện
trên các phương diện: tình cảm, cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ... của chủ thể và
được trình bày trực tiếp, trở thành nội dung chủ yếu của tác phẩm. Còn trong
tiểu thuyết, giọng điệu trữ tình góp phần cân bằng không khí trong tác phẩm,
88
thể hiện cái nhìn dung hòa, điềm tĩnh của nhà văn trước cuộc sống dù đó là
cuộc sống hiện đại đầy xô bồ phức tạp. Chất giọng trữ tình có vai trò quan
trọng trong việc truyền cảm xúc cho người đọc, khiến người đọc cảm thấy vui
hoặc buồn cùng xúc cảm của nhân vật, cảnh vật được nói đến.
Chất trữ tình không phải là giọng điệu chủ âm trong tác phẩm của
Nguyễn Việt Hà nhưng khi nó hòa âm cùng giọng điệu triết lý, giễu nhại thì
nó có tác dụng làm cân bằng lại không khí và hơi thở của tác phẩm. Cuộc
sống bề bộn, xã hội đảo điên có thể khiến nhà văn cùn như nhân vật của
Nguyễn Việt Hà cảm thấy chua chát, chán nản nhưng chính giọng điệu trữ
tình đã cho thấy một góc khác của tâm hồn. Trong dòng đời hối hả nhiều bon
chen, con người vẫn có những giây phút lắng nghe lòng mình và thả hồn cảm
nhận cuộc sống xung quanh.
Trong tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà, chúng ta bắt gặp giọng điệu trữ
tình khi các nhân vật bày tỏ tình cảm, cảm xúc, tâm sự và nỗi lòng của
mình.Đặc biệt khi các nhân vật nói về tình yêu.Đọc Cơ hội của Chúa, người
đọc ngập chìm trong cảm xúc yêu đương của Hoàng và Thủy. Tình yêu ấy
như một sự cứu chuộc lấy tâm hồn Hoàng: “Anh đã yêu, Tâm ạ. Rất khó tin là
mình lại có hạnh phúc đó. Sáng danh Chúa, Thiên Chúa đầy quyền năng đã
sáng tạo ra anh. Anh tưởng mình đã mất.Hoàn toàn bế tắc.Nàng đã khai
thông để anh làm lành với đời. Em giai của anh ơi, anh hạnh phúc”[25, tr.
182]. Đọc những dòng tâm sự của Hoàng, chúng ta cảm nhận thấy niềm hạnh
phúc vô bờ bến trong anh.Niềm hạnh phúc, tình yêu ấy đã được anh mong đợi
từ lâu, cảm xúc của anh như vỡ òa trong niềm hạnh phúc tột độ. Ắt hẳn, mỗi
chúng ta khi đọc những câu văn này đều không khỏi xốn xang bởi tình yêu
đẹp của Hoàng và Thủy. Độc giả cũng không thể quên những giây phút ban
đầu vô cùng lãng mạn của Hoàng – Thủy thuở mới yêu: “Ngày mới quen
89
nhau, Thủy rụt rè theo Hoàng vào quán này. Mưa mùa hạ xối xả (...). Đôi mắt
của Thủy long lanh theo những chuyện anh kể. Lần đầu tiên cô yêu.Cả hai
cùng cầu giời cho mưa thật to.Và mưa cũng thật lâu.Chàng âu yếm ngắm
khuôn mặt xinh xắn của nàng” [25, tr. 57]. Sang đến Khải huyền muộn độc
giả tiếp tục bắt gặp tình yêu đẹp đẽ của Vũ – Cẩm My. Giống như Thủy có
một vẻ ngoài xinh xắn nhưng Cẩm My lại có một công việc phức tạp về mặt
giao tiếp – nghề người mẫu.Vậy nhưng, Vũ lại là người yêu đầu tiên của Cẩm
My. Khi Cẩm My đặt câu hỏi với Vũ: “Em yêu anh là người đầu tiên anh có
tin không” [25, tr. 99]. Câu hỏi ấy, Vũ không trả lời nhưng qua đó người đọc
đã cảm nhận được tình yêu thật lòng của người con gái vốn dĩ với nghề của cô
ấy thì thật khó. Và Vũ cũng yêu và trân trọng Cẩm My ở chỗ, Cẩm My không
biết đến vị trí của anh trong xã hội. Hẳn độc giả, sẽ nhớ mãi những đoạn đối
thoại giữa Vũ và Cẩm My:
- “Chúng mình yêu nhau được bao lâu rồi nhỉ?
Một năm lẻ bốn tháng và sáu ngày.
Em có chán anh không?
Thật khốn khổ cho em, em vẫn yêu anh.” [24, tr. 75]
- “Anh yêu em, anh yêu nhất là những cái điên điên ở em.Vâng em điên, nếu
không điên thì làm sao em đi yêu anh.” [24, tr. 99]
Những câu thoại thể hiện tình cảm ngọt ngào, thắm thiết mà chúng ta
không nghĩ lại có thể thốt ra được từ một vị quan chức cấp cao, tóc đã đổi
màu như Vũ. Có lẽ, khi người ta gặp được tình yêu đích thực thì mọi vấn đề
đều được xóa mờ.
Trong tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà, bên cạnh giọng điệu trữ tình êm
90
ái, ngọt ngào của tình yêu còn bắt gặp những câu văn xót xa, cay đắng của các
nhân vật khi phải đối diện với những khó khăn trong cuộc sống.“Đàn bà uống
rượu chỗ đông người, khi say thi thoảng có khóc.Cũng nhiều lúc gọi mẹ.Còn
uống rượu một mình.Là buồn nản, là chán chường, là tuyệt vọng cay đắng.”
[24, tr. 100]. Đó là tâm sự rất thật của Cẩm My khi cô trong trạng thái chán
chường nhất. Hay là những trăn trở, những suy nghĩ bâng quơ, vẩn vơ của
Hoàng: “có lẽ tôi đang ở cái tuổi vẩn vơ. Bâng quơ nhớ, bâng quơ nghĩ.Mọi
thứ xung quanh nhiều lúc nhòe nét lãng đãng mơ hồ” [24, tr. 269].Và những
nghĩ suy ấy của nhân vật cứ trở đi trở lại trong tâm trí người đọc “mai tôi phải
làm gì.Tôi vẩn vơ đi bộ trên vỉa hè ngân ngấn những vệt nước của trận mưa
vừa tạnh”[24, tr. 464].
Tiếu thuyết vốn là một bức tranh rộng lớn được thể hiện qua ngôn từ.
Người kể chuyện đã thêu dệt lên bức tranh ngôn từ giàu màu sắc thiên nhiên.
Sự có mặt của thiên nhiên trong tác phẩm giống như nốt nhạc trầm bay bổng
giữa những hỗn loạn, xô bồ của hiện thực cuộc sống. Đó là bức tranh của một
chiều xuân ấm áp với “Phố cổ ngói xám.Hồ Tây sương loang. Những bãi cỏ
xanh được mưa xuân mơn mởn. Cái ghế đá trong thời gian lỡ cỡ chờ tình
yêu” [25, tr. 216], hay bức tranh của một chiều đông dịu dàng rét “cái lạnh
khôngđặc biệt lắm của một mùa đông bình thường. Mây bơ vơ ngổn ngang
màu xam xám”[25, tr. 225]. Nguyễn Việt Hà đã tinh tế cảm nhận cuộc sống
xung quanh.Ở đó, ngoài những hiện thực trớ trêu còn là những cảm xúc rất
thật, có gì đó là mộng mơ nhưng ẩn sâu lại là những suy tư triết lí. Và cũng có
khi, cảnh vật với lòng người lại hòa vào nhau làm một: “Mắt anh xa xăm nhìn
ra biển. Tôi nhìn theo anh. Biển sẫm đẹp quyến rũ lạ kỳ. Tôi day dứt nhớ cái
ngày đầu tiên tôi gặp anh.Cái ngày lãng đãng đẹp như trong tiểu thuyết” [25,
91
tr. 39].
Như vậy bên cạnh giọng điệu chủ đạo của người kể chuyện là giễu nhại
và triết lý thì Nguyễn Việt Hà đã kết hợp nhuần nhuyễn đan xen chất giọng
trữ tình khiến tác phẩm trở nên cân đối về mặt âm sắc. Giọng trữ tình xuất
hiện đã khiến những câu văn trở nên dịu dàng, trầm lắng hơn. Chính điều đó
còn làm nên phong cách Nguyễn Việt Hà, độc giả không chỉ biết đến một
Nguyễn Việt Hà hóm hỉnh, sâu cay, sắc sảo mà còn biết đến anh như một nhà
văn trữ tình trữ tình sâu sắc, tràn đầy sức sống yêu đương.
Tiểu kết
Chương cuối của luận văn, chúng tôi tập trung nghiên cứu ngôn ngữ và
giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà. Khảo sát hai cuốn
tiểu thuyết Cơ hội của Chúa và Khải huyền muộn chúng tôi nhận thấy qua
lớp ngôn từ và giọng điệu đã thể hiện được nét cá tính, con người, phong cách
và tài năng của Nguyễn Việt Hà. Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà
đích thực là ngôn ngữ của văn chương hiện đại, nó mất đi sự hài hòa, cân đối
mà trở nên trần tục, thô giáp như chính hiện thực cuộc sống. Chính điều này
đã tạo nên sự khác biệt giữa Nguyễn Việt Hà với những nhà văn trước đó. Về
giọng điệu, ở tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà có sự phối hợp của nhiều giọng
điệu trần thuật đã tạo nên thứ giọng đa thanh, đa giọng điệu. Có thể thấy
Nguyễn Việt Hà đã có những đóng góp không nhỏ đối với nền văn chương
92
nước nhà không chỉ là nội dung mà còn là nghệ thuật.
KẾT LUẬN
Thực hiện đề tài Người kể chuyện trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà,
chúng tôi tiếp thu, kế thừa những thành tựu nghiên cứu quý giá của những
người đi trước, vận dụng lý thuyết thi pháp học và các phương pháp nghiên
cứu chuyên ngành và lý thuyết tự sự học để làm sáng tỏ các hình thức xuất
hiện của chủ thể kể chuyện, phương thức kể của người kể chuyện, từ đó xác
định nghệ thuật kể chuyện trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà.
Thông qua nghiên cứu người kể chuyện trong tiểu thuyết Nguyễn Việt
Hà, có thể rút ra những kết luận sau:
1. Cùng với sự đổi mới về đường lối kinh tế - chính trị của đất nước,
văn học cũng đang chuyển mình và có sự đột phá trên bước đường tìm kiếm
và thể nghiệm nghệ thuật. Cũng như các tiểu thuyết gia đương đại, trên hành
trình sáng tạo không mệt mỏi, Nguyễn Việt Hà đã tìm ra lối đi cho tiểu thuyết
của mình và đã trở thành một nhà văn tài năng gây được sự chú ý của độc giả.
Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy là sự đổi mới trong quan
niệm nghệ thuật về tiểu thuyết của nhà văn, nhất là ở cách nhìn nhận mới về
việc tổ chức kết cấu tác phẩm, quan tâm đến vấn đề sáng tạo và cách viết tiểu
thuyết.
2. Người kể chuyện trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà có nhiều sáng tạo
độc đáo trong cách kể chuyện, đặc biệt trong việc lựa chọn ngôi kể, điểm
nhìn, cách dẫn chuyện,cách trần thuật cũng như trong cách lựa chọn ngôn
ngữ, giọng điệu trần thuật... Với việc xây dựng thành công người kể chuyện,
Nguyễn Việt Hà đã góp phần không nhỏ trong việc cách tân nền văn học nước
93
nhà.
3. Thông qua người kể chuyện trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà, người
đọc có thể nhận thấy những vấn đề về con người và cuộc sống với dáng vẻ đa
dạng, nhiều chiều và phức tạp. Đó là một xã hội đầy gam màu, sáng - tối đan
xen, quá khứ - hiện tại, thực - giả... bởi cuộc sống chưa bao giờ hoàn tất. Xã
hội lúc này là tập hợp của những tính cách, những mảnh đời, những mảng suy
nghĩ, hướng tới một xã hội với những mảnh vụn của hiện thực, sự biến đổi
của nhiều điều bất an, sự xuống dốc của những giá trị đạo đức. Nhất là thế hệ
trẻ thuộc tầng lớp công chức đang trên đường tiến thân, lập nghiệp với những
ước mơ, hoài bão, những tham vọng, những thành công và thất bại trong kinh
doanh, trong tình yêu, ngay cả những "xáo trộn" trong thế giới tâm hồn - tâm
linh: sự thánh thiện, cao thượng, nhỏ nhen, đố kỵ... Đó là cách nhìn rất khác
với đội ngũ nhà văn mấy chục năm về trước, cũng là một biểu hiện của bước
tiến mới trong tư duy tiểu thuyết Việt Nam đương đại mà Nguyễn Việt Hà là
người có đóng góp không nhỏ với tiếng nói riêng của mình.
4. Cho dù sáng tác của Nguyễn Việt Hà chưa nhiều và những giá trị của
chúng đang cần có thêm thời gian để thẩm định, nhưng với nỗ lực của mình,
Nguyễn Việt Hà đã mang đến cho chúng ta nhiều hy vọng về một dòng tiểu
thuyết có nhiều khởi sắc và được thế giới biết đến trong tương lai.
5. Với phạm vi của một bài luận văn, dựa trên việc nghiên cứu Người
kể chuyện trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà, bài luận văn này cũng là cơ sở
để mở ra một triển vọng mới trong việc nghiên cứu nghệ thuật tự sự trong văn
xuôi Nguyễn Việt Hà. Dù đã cố gắng nhưng bài viết không tránh khỏi những
94
thiếu sót, kính mong nhận được sự góp ý chân thành.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Tuấn Ảnh, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Thị Thanh (sưu tầm và biên
soạn, 2004), Văn học hậu hiện đại thế giới những vấn đề lý thuyết, Nxb Hội
Nhà văn, Trung tâm Văn hoá và Ngôn ngữ Đông – Tây, Hà Nội.
2. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
3. Lại Nguyên Ân (2004), "Một số vấn đề xung quanh phạm trù chủ
nghĩa hậu hiện đại", http://www.hopluu.net. truy cập vào 08:00 ngày
22/11/2015.
4. Bakhtin (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, (Phạm Vĩnh Cư dịch),
Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
5. Bakhtin (1993), Những vấn đề thi pháp Dostoievski (Trần Đình Sử
dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Bakhtin (2003), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà
Nội.
7. Nguyễn Thị Bình (1996), Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt
Nam từ 1986 đến nay, Luận án Tiến sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
8. Ngô Cường, Nguỵ Kim Chi, Mao Thuẫn (1960), Nói về tiểu thuyết (Lê
Xuân Vũ dịch), Nxb Văn học, Hà Nội.
9. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
10. Trương Đăng Dung (1990), Các vấn đề chủ yếu của khoa học văn học,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
11. Đinh Trí Dũng (2004), Nhân vật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
12. Đặng Anh Đào (1995), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện
95
đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
13. Nguyễn Thị Anh Đào (2007), Những thể nghiệm tiểu thuyết của
Nguyễn Việt Hà qua hai cuốn “Cơ hội của Chúa” và “Khải huyền muộn”,
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.
14. Phan Cự Đệ (1974), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (tập1), Nxb Đại học
và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
15. Phan Cự Đệ - chủ biên(2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
16. Nguyễn Đăng Điệp (biên soạn và giới thiệu, 2005), Tuyển tập Trần
Đình Sử (tập1), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
17. Phạm Văn Đồng (1975), Xây dựng nền văn hoá - văn nghệ ngang tầm
với dân tộc ta, thời đại ta, Nxb Sự thật, Hà Nội.
18. Hà Minh Đức (2002), Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Hà Minh Đức - chủ biên(1999), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
20. Văn Giá (2002), Một khoảng trời văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
21. Văn Giá (2004), Thử nhận diện loại tiểu thuyết ngắn ở Việt Nam trong
những năm gần đây, http://www.evan.com.vn. truy cập vào 08:00 ngày
22/11/2015.
22. Nguyễn Hải Hà (1992), Thi pháp tiểu thuyết L.Tônxtôi, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
23. Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Thị Bình (1995), Quan niệm nghệ thuật về
con người trong văn xuôi 1986 đến nay, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
24. Nguyễn Việt Hà (2005), Khải huyền muộn (tiểu thuyết), Nxb Hội Nhà
văn, Hà Nội.
25. Nguyễn Việt Hà (2013) (tái bản), Cơ hội của Chúa (tiểu thuyết), Nxb
96
Văn học, Hà Nội.
26. Nguyễn Việt Hà, Không mong mình quá mới, http://vnexpres.net truy
cập vào 08:00 ngày 22/11/2015.
27. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên, 2007), Từ
điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
28. Lê Bá Hán - chủ biên (2010), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
29. Hoàng Ngọc Hiến (2007), Đọc “Cơ hội của Chúa” của Nguyễn Việt
Hà, in trong tiểu thuyết “Cơ hội của Chúa”, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
30. Đào Duy Hiệp (2008), Phê bình văn học từ lí thuyết hiện đại, Nxb Giáo
Dục, Hà Nội.
31. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
32. Nguyễn Hoà (2004), Cơ hội của Chúa: Chúa cũng không giúp được
gì!, http://www.vnexpress.net truy cập vào 08:00 ngày 22/11/2015.
33. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo
Dục, Hà Nội.
34. Nguyễn Chí Hoan (2005), "Khải huyền muộn” cuốn tiểu thuyết về
chính nó, http://www.vietnamnet.com.vn truy cập vào 08:00 ngày
22/11/2015.
35. Thanh Huyền (2005), Cuốn tiểu thuyết về một cuốn tiểu thuyết đang
viết dở, có dáng dấp như một lời tự sự về tình hình sáng tạo của nhà
văn,http://www.evan.com.vn truy cập vào 08:00 ngày 22/11/2015.
36. Ilin, I.P và Tzurganova, E.A (2003), Các khái niệm và thuật ngữ của
các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kì thế kỉ XX, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.
37. Janh Manfred, Trần thuật học: nhập môn lí thuyết trần thuật học,
97
(Nguyễn Thị Như Trang dịch), tài liệu dưới dạng bản thảo.
38. Khrapchenko KB (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển
của văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
39. Trần Đăng Khoa (1999), Chân dung và đối thoại - Bình luận văn
chương (bản in lần 9), Nxb Thanh niên, Hà Nội.
40. Kundera, Milan (1998), Nghệ thuật tiểu thuyết, (Nguyên Ngọc dịch),
Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
41. Kundera (2005), Tiểu thuyết là xé rách tấm màn ngăn cách với cuộc
đời, http://www.evan.com.vn truy cập vào 08:00 ngày 22/11/2015.
42. Kudera (2005), Sứ mệnh của tiểu thuyết(Ngân Xuyên dịch),
http://www.vietnamnet.vn truy cập vào 08:00 ngày 22/11/2015.
43. Cao Kim Lan (2008), “Lí thuyết về điểm nhìn nghệ thuật của R.
Scholes và R. Kellogy”, Nghiên cứu văn học(số 15), tr. 25-31.
44. Cao Kim Lan (2009), “Mối quan hệ giữa người kể chuyện và tác giả”,
Nghiên cứu văn học(số 8), tr. 15-19.
45. Ngô Tự Lập (2008), Văn chương như là quá trình dụng điển, Nxb Tri
thức, Hà Nội.
46. Phong Lê (1997), Văn học trên hành trình của thế kỷ XX, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
47. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (đồng chủ biên - 2006), Văn học
Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
48. Lotman, I.U (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật, (Trần Ngọc Vương,
Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy dịch), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
49. Phương Lựu (chủ biên, 2002), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
50. Nguyễn Đăng Mạnh (1985), Nhà văn, tư tưởng và phong cách, Nxb
98
Văn học, Hà Nội.
51. Vương Trí Nhàn (sưu tầm và biên soạn, 1996), Khảo về tiểu thuyết,
Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
52. Nhiều tác giả (2001), Những vấn đề lý thuyết lịch sử văn học và ngôn
ngữ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
53. Nhiều tác giả (2002), Đổi mới tư duy tiểu thuyết, Nxb Hội nhà văn, Hà
Nội.
54. Nguyễn Bình Phương (2004), Thoạt kỳ thuỷ (tiểu thuyết), Nxb Văn học,
Hà Nội.
55. Nguyễn Việt Phương (2005), "Khải huyền muộn” và những lời bình,
http://www.evan.com.vn truy cập vào 08:00 ngày 22/11/2015.
56. Pospelov (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học (Trần Đình Sử, Lê
Ngọc Trà, Lại Nguyên Ân dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
57. Nguyễn Mạnh Quỳnh, Tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng nhìn từ lí thuyết
thời gian tự sự của Genette, Luận án Tiến Sĩ, Viện Văn học, 2007.
58. Nguyễn Thanh Sơn (1999), "Cơ hội của Chúa”: Gánh nặng của cái tôi
phù phiếm, http://www.evan.com.vntruy cập vào 08:00 ngày 22/11/2015.
59. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
60. Trần Đình Sử (chủ biên, 2004), Tựsự học vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
61. Trần Đình Sử (2005), Tuyển tập, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
62. Trần Đình Sử (2008), Tự sự học – một số vấn đề lí luận và lịch sử,
phần 2, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.
63. Bùi Việt Thắng (1998), Những đổi mới trong cấu trúc thể loại tiểu
thuyết sau 1975 - 50 năm văn học Việt Nam sau cách mạng thángTám, Nxb
KHXH, Hà Nội.
99
64. Bùi Việt Thắng (2000), Bàn về tiểu thuyết, Nxb Văn học, Hà Nội.
65. Bùi Việt Thắng (2000), Tiểu thuyết đương đại, Nxb Quân đội Nhân
dân, Hà Nội.
66. Phùng Gia Thế, Tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà và thi pháp hậu hiện đại,
Phebinhvanhoc.vn.
67. Đoàn Cầm Thi (2004), "Cơ hội của Chúa”: từ nhật ký đến hậu trường
văn học", http://www.evan.vnexpress.net truy cập vào 08:00 ngày
22/11/2015.
68. Nguyễn Đình Thi (1964), Công việc của người viết tiểu thuyết, Nxb
Văn học, Hà Nội.
69. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận văn học, Nxb trẻ, Hà Nội.
70. Lê Ngọc Trà (2007), Văn chương, thẩm mỹ và văn hóa, Nxb Giáo dục,
100
Hà Nội.