ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN MINH THU

NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG

TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Thái Nguyên, năm 2012

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN MINH THU

NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG

TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Thái Nguyên, năm 2012

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dƣới sự

hƣớng dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp.

Nội dung đề tài nghiên cứu của luận văn chƣa đƣợc ai công bố trong

bất kì công trình nào khác.

Thái Nguyên, ngày 23 tháng 8 năm 2012

Tác giả luận văn

Nguyễn Minh Thu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ii

MỤC LỤC

Trang

Trang bìa phụ

Lời cam đoan ........................................................................................................ i

Lời cảm ơn .......................................................................................................... ii

Mục lục .............................................................................................................. iii

MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1

NỘI DUNG ....................................................................................................... 13

Chương 1. NGƯỜI KỂ CHUYỆN – MỘT PHẠM TRÙ CỦA TỰ SỰ HỌC ... 13

1.1. Ngƣời kể chuyện là một kiểu nhân vật đặc biệt ..................................... 13

1.1.1. Ngƣời kể chuyện với tƣ cách là một sản phẩm hƣ cấu để kể chuyện ... 15

1.1.2. Ngƣời kể chuyện thống nhất nhƣng không đồng nhất với tác giả ... 16

1.2. Các tiêu chí nhận diện ngƣời kể chuyện ................................................. 20

1.2.1. Điểm nhìn kể chuyện ....................................................................... 20

1.2.2. Ngôn ngữ kể chuyện ........................................................................ 24

1.2.3. Giọng điệu kể chuyện ....................................................................... 27

1.3. Vai trò của ngƣời kể chuyện ................................................................... 29

1.3.1. Ngƣời kể chuyện với vai trò tổ chức kết cấu tác phẩm .................... 29

1.3.2. Ngƣời kể chuyện với vai trò dẫn dắt, định hƣớng ngƣời đọc .......... 31

1.3.3. Ngƣời kể chuyện thay mặt tác giả trình bày quan niệm về nghệ

thuật, cuộc sống.......................................................................................... 33

Chương 2. NGÔI KỂ VÀ MỘT SỐ LOẠI HÌNH NGƯỜI KỂ

CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ .... 36

2.1. Vấn đề ngôi kể trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ ............................. 36

2.1.1. Khái niệm ngôi kể ............................................................................ 36

2.1.2. Ngƣời kể chuyện ngôi thứ nhất ........................................................ 39

2.1.3. Ngƣời kể chuyện ngôi thứ ba ........................................................... 43

2.1.4. Ngôi kể trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ – những vấn đề cần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bàn luận ...................................................................................................... 46

iii

2.2. Một số loại hình ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ ..... 50

2.2.1. Ngƣời kể chuyện kể theo điểm nhìn hạn chế ................................... 50

2.2.2. Ngƣời kể chuyện kể theo điểm nhìn toàn tri .................................... 55

Chương 3. NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU KỂ CHUYỆN TRONG

TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ .................................... 60

3.1. Ngôn ngữ kể chuyện ............................................................................... 60

3.1.1. Một vài đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ kể chuyện trong truyện

ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ ............................................................................... 60

3.1.2. Các thành phần cấu tạo nên ngôn ngữ kể chuyện ............................ 65

3.1.3. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ ngƣời kể chuyện với ngôn ngữ của

nhân vật khác ............................................................................................. 81

3.2. Giọng điệu kể chuyện ............................................................................. 84

3.2.1. Giọng điệu xót xa thƣơng cảm với những số phận gặp nhiều bất

hạnh trong cuộc sống ................................................................................. 85

3.2.2. Giọng điệu ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của ngƣời dân Nam Bộ . 88

3.2.3. Giọng điệu dân dã mộc mạc, pha chút hài hƣớc nhẹ nhàng ............ 94

3.2.4. Giọng điệu giàu tính triết lí, chiêm nghiệm ..................................... 99

KẾT LUẬN .................................................................................................... 102

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 105

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Ý nghĩa lý luận

Tự sự học là một bộ môn nghiên cứu liên ngành giàu tiềm năng. Tự sự

đã có từ lâu, “có bản thân lịch sử loài ngƣời thì đã có tự sự” (Roland Barthes).

Trong lí thuyết tự sự ngƣời kể chuyện đóng vai trò rất quan trọng. Việc xác

định, làm rõ nội dung của khái niệm này sẽ giúp chúng ta hiểu đƣợc phƣơng

diện chủ thể của tác phẩm tự sự, hiểu tác phẩm đúng đắn, khoa học và sâu sắc

hơn. Nếu nhƣ trƣớc đây khi tìm hiểu tác phẩm tự sự ngƣời nghiên cứu thƣờng

chú tâm đến thế giới đƣợc kể thì bây giờ họ đã tìm hiểu cách kể của nhà văn.

Trƣớc đây, họ quan tâm đến nhân vật, đến tính cách điển hình của nhân vật thì

giờ đây họ chú ý cả đến cách thức nhà văn đã hƣ cấu nhân vật đó nhƣ thế nào.

Trong văn bản tự sự, ngƣời kể chuyện là một hiện tƣợng lí thuyết khá

phức tạp. Trƣớc đây, nếu có đề cập đến vấn đề này thì ngƣời ta cũng thƣờng

đồng nhất nó với ngôi kể, quan tâm xem truyện đó đƣợc kể theo “ngôi thứ

nhất” hay “ngôi thứ ba”. Nhƣng sự thực thì ngôi kể chẳng qua là một biểu

hiện ngữ pháp mang tính ƣớc lệ, khác biệt giữa hai loại ngôi kể này về thực

chất chỉ là ở mức độ bộc lộ hay hàm ẩn của ngƣời kể chuyện. Nếu chỉ dừng

lại ở việc xem xét ngôi kể thì ta chƣa thể nào khám phá đƣợc nét riêng biệt,

độc đáo làm nên sức hấp dẫn của truyện. Với việc lựa chọn đề tài nghiên cứu

này, luận văn sẽ xem xét ngƣời kể chuyện từ góc độ ngôi kể, điểm nhìn, ngôn

ngữ, giọng điệu để từ đó khẳng định rằng ngƣời kể chuyện không chỉ đơn

thuần là ngƣời kể, ngƣời dẫn dắt, tổ chức câu chuyện mà ngƣời kể chuyện còn

là ngƣời định giá tƣ tƣởng thẩm mĩ của tác phẩm.

1.2. Ý nghĩa thực tiễn

Nghiên cứu ngƣời kể chuyện trong tác phẩm tự sự ta sẽ có đƣợc một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

công cụ để đi vào phân tích, khám phá tác phẩm của những nhà văn cụ thể, lí

2

giải đƣợc một trong những yếu tố làm nên nét đặc sắc trong phong cách nghệ

thuật của họ. Tác giả mà chúng tôi lựa chọn để nghiên cứu ở đây là Nguyễn

Ngọc Tƣ bởi trong những gƣơng mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam đƣơng

đại, chị nổi lên nhƣ một hiện tƣợng rất đáng chú ý. Chị đã nhận đƣợc nhiều

giải thƣởng văn học: Giải nhất cuộc vận động sáng tác văn học tuổi 20 lần II

với tác phẩm Ngọn đèn không tắt (2000), giải B giải thƣởng Hội nhà văn Việt

Nam với tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt (2001), tặng thƣởng dành cho

các tác giả trẻ của Ủy ban toàn quốc liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt

Nam cho tập Ngọn đèn không tắt. Và truyện ngắn Cánh đồng bất tận của chị

là một trong mƣời truyện hay nhất năm 2005 do báo Văn nghệ bình chọn.

Năm 2006, Hội nghị ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam lần thứ 6, khóa VI

đã quyết định trao tặng giải thƣởng của Hội nhà văn Việt Nam cho Cánh đồng

bất tận. Năm 2008, chị lại đƣợc Hội nhà văn Việt Nam đề cử nhận giải

thƣởng văn học ASEAN. Đây cũng là năm đầu tiên Hội nhà văn đề cử trao

giải cho một tác giả trẻ dƣới bốn mƣơi tuổi. Đó là niềm vinh dự lớn của nhà

văn trẻ Nguyễn Ngọc Tƣ. Có thể nói, Nguyễn Ngọc Tƣ đã chiếm một vị trí

quan trọng trong nền văn học Việt Nam đƣơng đại. Khi viết bài May mà có

Nguyễn Ngọc Tư đăng trên báo Văn nghệ, nhà văn Dạ Ngân viết “tôi nhớ mãi

cảm giác của một ngƣời trong nghề, lại là dân biên tập, tôi nghĩ mình đang

tiếp cận một ngôi sao không biết nó sẽ tỏa sáng đến đâu” [46, tr.1]. Gia tài

văn học của Nguyễn Ngọc Tƣ gồm cả tạp văn, truyện ngắn và thơ. Những tác

phẩm của nhà văn luôn đƣợc bạn đọc trong và ngoài nƣớc mong đợi, đón

nhận nồng nhiệt, đặc biệt là truyện ngắn.

Theo dõi hành trình truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tƣ, ta nhận thấy

truyện ngắn của chị lôi cuốn ngƣời đọc không phải ở cốt truyện tình tiết li kì

mà chủ yếu bởi cách kể hấp dẫn, có duyên. Chính vì thế, tìm hiểu nhân vật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ sẽ giúp ta lí giải đƣợc

3

phần nào sức hấp dẫn đặc biệt trong các trang truyện của chị, lí giải đƣợc một

trong những yếu tố đóng vai trò quan trọng hình thành nên phong cách nghệ

thuật đặc sắc của chị.

Nhƣ vậy, đề tài “Ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ”

mà chúng tôi nghiên cứu là một đề tài vừa có ý nghĩa lí luận vừa có ý nghĩa

văn học sử. Nó đáp ứng đƣợc những tiêu chí cần thiết đối với đề tài của một

luận văn cao học.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Tình hình nghiên cứu về vấn đề người kể chuyện

Là một trong những vấn đề trung tâm của thi pháp văn xuôi hiện đại, là

phƣơng diện quan trọng của lý thuyết tự sự, ngƣời kể chuyện từ lâu đã thu hút

đƣợc sự quan tâm đông đảo của các nhà nghiên cứu. Có thể kể tên một số nhà

lý luận phƣơng Tây đã dành nhiều tâm huyết cho trần thuật học, tự sự học nói

chung và ngƣời kể chuyện nói riêng là: Genette, Todorov, Lispenski,

Lubbock, Barthes, Friendman, Chatman… Trong phạm vi luận văn này,

chúng tôi xin đề cập đến một số ý kiến tiêu biểu:

Genette trong công trình Các phương thức tu từ dựa vào tiêu chí tiêu cự -

mối quan hệ giữa thị giác và vật đƣợc nhìn thấy, cảm biết, đã đƣa ra sự phân

loại về ngƣời kể chuyện: Thứ nhất là tự sự với tiêu cự bằng không với ngƣời

kể chuyện biết hết, biết trƣớc, không có khoảng cách nào với sự việc đƣợc kể.

Thứ hai là tự sự với tiêu cự bên trong: ngƣời kể chuyện thông qua nhân vật mà

xác lập tiêu cự, sự biết của ngƣời kể chuyện ngang với nhân vật. Thứ ba là tự sự

với tiêu cự bên ngoài: Ngƣời kể chuyện xác lập tiêu cự bên ngoài đối với nhân

vật và cảnh vật chỉ miêu tả lời nói và hành động của nhân vật, không miêu tả nội

tâm, không phân tích tâm lý cũng không đánh giá chủ quan [Theo 26, tr.84].

Tz. Todorov trong Thi pháp học cấu trúc cũng đã đƣa ra ý kiến khá sâu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sắc về ngƣời kể chuyện. Ông khẳng định “ngƣời kể chuyện là yếu tố tích cực

4

trong việc kiến tạo thế giới tƣởng tƣợng (…). Không thể có trần thuật thiếu

ngƣời kể chuyện”. Từ tƣơng quan về dung lƣợng hiểu biết của ngƣời kể

chuyện và nhân vật, nhà nghiên cứu đã chia thành ba hình thức ngƣời kể

ngƣời kể chuyện bé hơn nhân vật [Theo 76, tr.126].

chuyện: ngƣời kể chuyện lớn hơn nhân vật, ngƣời kể chuyện bằng nhân vật và

Ở hƣớng tiếp cận khác, nhà nghiên cứu ngƣời Anh P. Lubbock trong tác

phẩm Nghệ thuật văn xuôi đƣa ra bốn hình thức trần thuật cơ bản: thứ nhất là

“toát yếu toàn cảnh”, hình thức trần thuật này có sự hiện diện cảm thấy đƣợc

của ngƣời trần thuật biết tất cả. Hình thức trần thuật thứ hai là “ngƣời trần

thuật kịch hóa”. Ở hình thức này ngƣời trần thuật đứng ở ngôi một, kể lại câu

chuyện từ sự cảm nhận riêng của mình. Hình thức trần thuật thứ ba là “ý thức

kịch hóa”. Đặc trƣng của hình thức trần thuật này cho phép miêu tả trực tiếp

đời sống tâm lý, những trải nghiệm bên trong của nhân vật. Hình thức trần

thuật thứ tƣ là “kịch thực thụ”. Trong hình thức này độc giả chỉ thấy đƣợc

hình dáng bề ngoài và các cuộc đối thoại của nhân vật mà không biết gì về đời

sống nội tâm. Theo P. Lubbock đây là hình thức trần thuật hoàn hảo nhất

[Theo I.P.Ilin – Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu

văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ XX/ 33, tr.223].

N.Friedman với tác phẩm Điểm nhìn trong tiểu thuyết đã đƣa ra cách

phân loại cụ thể về ngƣời kể chuyện. Thứ nhất là „toàn năng biên tập”, với

hình thức này ngƣời kể chuyện biết tất cả và có khả năng thâm nhập vào câu

chuyện dƣới dạng những bàn luận chung về cuộc sống. Ở hình thức thứ hai là

“toàn năng trung tính” thì không có sự can thiệp trực tiếp của ngƣời kể

chuyện. Thứ ba là hình thức trần thuật “tôi là nhân chứng” khi ngƣời kể

chuyện là một nhân vật trong truyện nhƣng chỉ nằm bên lề câu chuyện và biết

một phần về các nhân vật. Thứ tƣ là hình thức trần thuật “tôi là vai chính” khi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngƣời kể chuyện là nhân vật chính. Thứ năm là hình thức trần thuật “toàn

5

năng cục bộ đa bội”, ngƣời kể chuyện đứng ngoài và tựa vào điểm nhìn của

nhiều nhân vật để kể chuyện. Thứ sáu là hình thức trần thuật “toàn năng cục

bộ đơn bội” – ngƣời kể chuyện đứng bên ngoài và tựa vào điểm nhìn của một

nhân vật trong truyện để kể. Thứ bảy là hình thức trần thuật theo “mô hình

kịch” và thứ tám là trần thuật theo kiểu “camera”. Trong cả hai hình thức này,

ngƣời kể chuyện hầu nhƣ chỉ khách quan ghi lại các sự việc, hiện tƣợng mà

không tỏ thái độ chủ quan [Theo I.P.Ilin 33, tr.227].

G.N. Pospelov trong Dẫn luận nghiên cứu văn học đã khẳng định vai trò

không thể thiếu của ngƣời trần thuật trong tác phẩm tự sự: “Trần thuật tự sự

bao giờ cũng đƣợc tiến hành từ phía một ngƣời nào đó. Trong sử thi, tiểu

thuyết, cổ tích, truyện ngắn trực tiếp hay gián tiếp đều có ngƣời trần thuật”

[58, tr.88]. Theo Poxpelov có hai kiểu ngƣời trần thuật phổ biến là: “Hình

thức thứ nhất của miêu tả tự sự là trần thuật từ ngôi thứ ba không nhân vật

hóa mà đằng sau là tác giả. Nhƣng ngƣời trần thuật cũng hoàn toàn có thể

xuất hiện trong tác phẩm dƣới hình thức một cái tôi nào đó” [58, tr.89]. Đặc

biệt trong công trình nghiên cứu này, Poxpelov đã chỉ ra mối quan hệ giữa

ngƣời kể chuyện với nhân vật và với tác giả.

Timofiev trong giáo trình Nguyên lý lý luận văn học cũng đã khẳng định

“Ngƣời kể chuyện là ngƣời kể cho ta nghe về những nhân vật và biến cố” [73,

tr.32]. Ông đặc biệt quan tâm đến ngôn ngữ ngƣời kể chuyện, xem nó là một

việc tự sự ngay từ đầu đã đƣợc gắn chặt với một ngƣời kể chuyện nhất định:

yếu tố tích cực đem lại cho các nhân vật và các hiện tƣợng trong tác phẩm

một màu sắc căn bản, một sự đánh giá căn bản. Ngôn ngữ ngƣời kể chuyện

đƣợc cá tính hóa cả về mặt hình thức lẫn mặt ý nghĩa, nó có những đặc điểm

riêng phân biệt với ngôn ngữ các nhân vật khác: “Tính độc đáo của ngôn ngữ

ngƣời kể chuyện tức là vấn đề ngôn ngữ ngƣời kể chuyện có những đặc điểm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cá tính hóa, không hòa lẫn với đặc điểm của các nhân vật đƣợc miêu tả, trái

6

lại đƣợc nêu lên một cách riêng biệt, ám chỉ một cá tính ẩn đằng sau nó. Cá

tính này mà ta thấy trong ngôn ngữ, dùng những biện pháp ngôn ngữ để tạo

nên hình tƣợng của nhân vật, ngƣời nhân danh mình theo quan điểm của

mình, quan niệm tất cả các nhân vật và biến cố đƣợc nhắc đến trong tác

phẩm” [73, tr.44].

Bên cạnh các nhà nghiên cứu nƣớc ngoài, ở Việt Nam vấn đề ngƣời kể

chuyện cũng đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Chúng tôi xin nêu một số

“Hình tƣợng ƣớc lệ về ngƣời trần thuật trong tác phẩm văn học, chỉ xuất hiện khi

nào câu chuyện đƣợc kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm” [28, tr.221].

nhận định tiêu biểu: Các tác giả trong Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa:

Nguyễn Thái Hòa trong chuyên luận Những vấn đề thi pháp của truyện

đã đề cập đến nhiều vấn đề ngƣời kể chuyện: “ngƣời kể chuyện là nhân tố tạo

nên lăng kính đối thoại trong truyện. Ở đây là đối thoại hai chiều giữa ngƣời

kể hàm ẩn và ngƣời nghe hàm ẩn. (…) Ông cho rằng ngƣời đọc hàm ẩn hay

còn gọi là cái bóng độc giả chính là ngƣời kể tự thân. Tức là ngƣời đọc truyện

đầu tiên không ai khác chính là ngƣời kể chuyện. Cuộc đối thoại giữa ngƣời

kể hàm ẩn và ngƣời nghe hàm ẩn góp phần hoàn thiện câu chuyện. (…)

Nguyễn Thái Hòa còn nêu vấn đề xác định giọng kể của ngƣời kể. Ông cho

đây là vấn đề rất quan trọng” [Theo 79].

Phùng Văn Tửu trong chuyên luận Tiểu thuyết Pháp hiện đại tìm tòi, đổi

mới nhận định: “nói đến ngƣời kể chuyện là nói đến điểm nhìn đƣợc xác định

trong hệ đa phƣơng không gian, thời gian, tâm lý tạo thành góc nhìn. Ngƣời

kể chuyện là ai, kể chuyện ngƣời khác hay kể chuyện chính bản thân mình,

khoảng cách về không gian từ nơi sự việc xảy ra đến chỗ đứng của ngƣời kể

chuyện cũng nhƣ độ lệch thời gian giữa lúc sự việc xảy ra và khi sự việc đƣợc

kể lại vẫn thƣờng đƣợc các nhà tiểu thuyết quan tâm từ lâu”. Ông cũng nêu ra

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

một số loại ngƣời kể chuyện: “một dạng phổ biến của tiểu thuyết truyền thống

7

là ngƣời kể chuyện giấu mặt, coi nhƣ đứng ở một ví trị nào đấy trong không

gian, thời gian, bao quát hết mọi diễn biển của câu chuyện và thuật lại với chúng

ta. Chuyện đƣợc kể ở ngôi thứ 3 số ít… một dạng phổ biến khác của tiểu thuyết

là lối kể chuyện ở ngôi thứ nhất với ngƣời kể chuyện xƣng tôi” [89, tr.207].

Trong công trình Tự sự học – Một số vấn đề lý luận và lịch sử Trần Đình

Sử chủ biên, vấn đề ngƣời kể chuyện đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.

Từ những vấn đề mang tính cụ thể nhƣ Phương thức tự sự chủ yếu của Sử thi

Đam San của Đỗ Hồng Kì; Về mô hình tự sự truyện Kiều của Trần Đình Sử;

Hình tượng người trần thuật trong tác phẩm Người tình của Trần Huyền Sâm;

Nghệ thuật tự sự của Ngô Tất Tố trong Tắt đèn của Trần Đăng Xuyền; Một số

hình thức tự sự trong Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust của Đào Duy

Hiệp... đến những vấn đề mang tính khái quát nhƣ Vấn đề người kể chuyện

trong thi pháp tự sự hiện đại của Đỗ Hải Phong; Sự phát triển nghệ thuật tự

sự ở Việt Nam – một vài hiện tượng đáng lưu ý của Đặng Anh Đào; Vấn đề kể

chuyện trong truyện ngắn đương đại của Bùi Việt Thắng; Về tiểu thuyết sử

dụng ngôi thứ nhất trong văn học phương Tây thế kỉ XVIII của Lê Nguyên

Cẩn… [63].

Ngoài các bài viết, công trình nghiên cứu trên ta còn bắt gặp một số ý

kiến khái quát về ngƣời kể chuyện trong một số bài báo, một số chuyên luận

nhƣ: Người kể chuyện trong văn xuôi của Lê Phong Tuyết; Hình tượng nhân

vật người kể chuyện trong truyện Lỗ Tấn của Lƣơng Duy Thứ; Đổi mới nghệ

thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại của Đặng Anh Đào…

Nhƣ vậy vấn đề lý thuyết ngƣời kể chuyện đã thu hút đƣợc sự quan tâm

của nhiều nhà nghiên cứu trên nhiều nƣớc khác nhau. Điểm chung của các ý

kiến là ở chỗ khẳng định vai trò không thể thiếu của ngƣời kể chuyện trong

tác phẩm tự sự, khẳng định ngƣời kể chuyện là ngƣời đứng ra để kể lại câu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chuyện, ngƣời môi giới giữa tác phẩm với bạn đọc và là ngƣời thay mặt tác

8

giả phát biểu những tƣ tƣởng, quan điểm về con ngƣời, cuộc sống. Ngƣời kể

chuyện là một trong những yếu tố quan trọng để phân biệt tác phẩm tự sự với

tác phẩm thơ, trữ tình và kịch. Lý thuyết về ngƣời kể chuyện là phức tạp cho

nên trong suốt thế kỉ qua các nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình từ nhiều

khuynh hƣớng đã tiếp cận vấn đề này một cách khác nhau nhƣng cho đến nay

nó vẫn đòi hỏi cần phải tiếp tục tìm hiểu, xem xét. Những ý kiến của những

ngƣời đi trƣớc thực sự là những gợi ý vô cùng quý báu giúp đỡ chúng tôi

trong quá trình thực hiện luận văn này.

2.2. Tình hình nghiên cứu về người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn

Ngọc Tư

Nguyễn Ngọc Tƣ là một trong những cây bút trẻ giàu tài năng đã và đang

khẳng định vị trí của mình trong đời sống văn học đƣơng đại. Tác phẩm của

chị trong đó có truyện ngắn luôn gây đƣợc sự chú ý đối với bạn đọc nói chung

cũng nhƣ giới nghiên cứu phê bình văn học nói riêng bởi phong cách ngôn

ngữ đậm chất Nam Bộ của chị.

Về tình hình nghiên cứu ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn

Ngọc Tƣ ta thấy có một số điểm đáng lƣu ý:

Trƣớc hết, phần lớn các ý kiến chƣa đi vào xem xét nhân vật ngƣời kể

chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ một cách riêng biệt và toàn diện

mà mới chỉ ra một số bình diện liên quan đến nhân vật ngƣời kể chuyện. Nhà

văn Nguyễn Quang Sáng – Tổng thƣ kí hội nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh,

trƣởng ban chung khảo cuộc thi sáng tác văn học tuổi 20 lần thứ II năm 2000

nhận thấy một trong những yếu tố làm nên sức hấp dẫn của truyện ngắn Ngọn

đèn không tắt chính là ngôn ngữ kể chuyện: “Tập truyện ngắn Ngọn đèn

không tắt của Nguyễn Ngọc Tƣ có truyện Ngọn đèn không tắt là truyện ngắn

nổi bật nhất. Với giọng văn mộc mạc bình dị, với ngôn ngữ đời thƣờng đã tạo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nên một không khí rất tự nhiên về màu sắc, hƣơng vị của mảnh đất cuối cùng

9

Tổ Quốc – mũi Cà Mau của những con ngƣời mà cha ông là ngƣời tứ xứ về

mũi đất của rừng, của sông nƣớc, của biển cả đã dày công khai phá, đã đứng

lên khởi nghĩa” [60, tr.1]. Với Dạ Ngân, khi đọc tác phẩm Nguyễn Ngọc Tƣ

bắt đầu từ tập truyện Ngọn đèn không tắt nhà văn cho rằng: “Chính cái

chuyện lấy tên tập lại không thấy thích bằng những chuyện về cảnh ngộ,

những thân phận, những mảnh đời thƣờng nhật, nó cho thấy tác giả có thể dài

hơi về kiểu nhân vật này, tất cả đƣợc diễn tả bằng thứ ngôn ngữ Nam bộ lấp

lánh và một giọng văn dung dị, đặc biệt ấm” [46]. Trong bài viết Bất tận với

Nguyễn Ngọc Tư, nhà phê bình Văn Công Hùng cho rằng: “…cái làm nên

Nguyễn Ngọc Tƣ còn là ngôn ngữ. Nguyễn Ngọc Tƣ đã thiết lập cho mình

một hệ thống ngôn ngữ đặc chất Nam Bộ nhƣng không dị mọ ăn theo mà tung

tẩy, thăng hoa trong từng ngữ cảnh cụ thể” [95]. Nhà văn Nguyễn Viện nhận

định: “Với Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tƣ đã chứng tỏ cô thực sự là

một nhà văn với tất cả tính chuyên nghiệp trong cách viết và ngôn ngữ sử

dụng” [65]. Nhà nghiên cứu Huỳnh Nhƣ Phƣơng chọn Cánh đồng bất tận là

tác phẩm hay nhất năm 2005 vì nó kết hợp đƣợc các phƣơng diện: “Một là, nó

vừa là chuyện con ngƣời. Hai, nó rất gần gũi với những vấn đề thời sự hiện

nay mà cũng không xa lạ với những vấn đề vĩnh cửu. Ba, nó vừa dữ dội, bạo

liệt vừa rất mềm mại đầy nữ tính. Thứ tƣ, ngôn ngữ của nó vừa thể hiện đƣợc

cái văn phong Nam Bộ đồng thời có sự trong sáng, phong phú của văn

chƣơng tiếng Việt” [65].

Ngoài các ý kiến chỉ ra một số bình diện liên quan đến nhân vật ngƣời kể

chuyện cũng đã có ý kiến trực tiếp bàn về ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn

Nguyễn Ngọc Tƣ. Đoàn Ánh Dƣơng khi nhận xét truyện Cánh đồng bất tận

cho rằng: “dựa và sự vận động của tâm lý nhân vật, hành trình khám phá tác

phẩm là sự bóc tách từ bình diện ngôn ngữ trần thuật đến bình diện những tri

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhận, ẩn ức đã lắng đọng thành các biểu tƣợng ám ảnh đời sống nội tâm nhân

10

vật. [12, tr.97]. Ở một đoạn khác Đoàn Ánh Dƣơng viết: “Để có một giọng

văn chân thật, một mặt nhƣ đã nói, tác giả rời chuyển ngôi kể từ ngƣời kể

chuyện sang nhân vật chính, cho nhân vật nói bằng ngôn ngữ cảm xúc, suy

tƣởng. Mặt khác, đẩy ngôn ngữ đối thoại, ngôn ngữ nhân vật khác lọc qua

lăng kính tâm lý của nhân vật chính, đƣa nó vào trƣờng cảm nhận của nhân

vật chính. Nhân vật tôi, vì vậy là ngƣời biết hết, hiểu hết, cảm hết, những gì

mình nói ra. Hơn thế, sự kể vừa nhƣ kết quả của những tác động bên ngoài

(những câu hỏi của Sƣơng), vừa nhƣ sự thúc bách nội cảm, tức nhu cầu muốn

phơi trải để đƣợc nhẹ lòng trƣớc không khí ngột ngạt bao bọc bởi cảm giác

một sự báo ứng đang dần tới, thứ ngôn ngữ tự nói với mình ấy là yếu tố cơ

bản tạo nên tính chân chất của văn phong Ngọc Tƣ” [12, tr.104]. Đến đây, tác

giả Đoàn Ánh Dƣơng đã chú ý việc “ai kể chuyện” để tạo nên sức hấp dẫn

của tác phẩm.

Từ sự phân tích trên có thể thấy, mặc dù truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ

đã đƣợc giới nghiên cứu phê bình trao đổi, nhận xét, đánh giá làm sáng tỏ trên

nhiều phƣơng diện nhƣng phƣơng diện ngƣời kể chuyện thì chƣa đƣợc khảo

sát một cách tỉ mỉ, hệ thống, chƣa thực sự trở thành đối tƣợng nghiên cứu độc

lập của một công trình nào. Phần lớn các nhà nghiên cứu chỉ mới bàn đến vấn

đề này một cách khái quát qua một ý kiến ngắn, một bài báo, một mục trong

chuyên luận. Tuy nhiên, những ý kiến này vẫn là những gợi ý, những định

hƣớng quý giá giúp chúng tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu một cách tƣơng đối

toàn diện, có hệ thống về vấn đề này.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1 Đối tượng nghiên cứu

Trong khuôn khổ một luận văn cao học, chúng tôi không có điều kiện

khảo sát toàn bộ sáng tác trong sự nghiệp văn chƣơng của nhà văn Nguyễn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Ngọc Tƣ mà chỉ giới hạn việc nghiên cứu ở thể loại truyện ngắn. Đối tƣợng

11

nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn

Nguyễn Ngọc Tƣ.

3.2 Phạm vi nghiên cứu

Để có thể đáp ứng yêu cầu đặt ra là nghiên cứu ngƣời kể chuyện trong

truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ, luận văn tập trung chủ yếu khảo sát trên 6 tập

truyện ngắn: Ngọn đèn không tắt; Giao thừa; Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư;

Cánh đồng bất tận; Gió lẻ và 9 câu chuyện khác; Khói trời lộng lẫy.

4. Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu nhân vật ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc

Tƣ sẽ giúp chúng ta lí giải đƣợc phần nào tài năng nghệ thuật, lí giải đƣợc

một trong những yếu tố quan trọng hình thành nên phong cách nghệ thuật đặc

sắc của chị và đánh giá đƣợc khả năng tự sự mà Nguyễn Ngọc Tƣ đã đem đến

cho văn xuôi Việt Nam đƣơng đại.

5. Nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu

5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu

Trƣớc hết, luận văn tìm hiểu những vấn đề lý thuyết chung về ngƣời kể

chuyện. Đó là những vấn đề: khái niệm ngƣời kể chuyện, vai trò của ngƣời kể

chuyện trong tác phẩm tự sự, các tiêu chí nhận diện ngƣời kể chuyện, mối

quan hệ giữa ngƣời kể chuyện với tác giả, với nhân vật…

Trên cơ sở những lý thuyết chung đó, luận văn đi sâu vào nghiên cứu

ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ – chỉ ra ngôi kể và một

số loại hình ngƣời kể chuyện, một số đặc điểm về ngôn ngữ, giọng điệu của

ngƣời kể chuyện.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Để giải quyết những nhiệm vụ trên, luận văn sử dụng kết hợp một số

phƣơng pháp nghiên cứu sau:

- Phƣơng pháp hệ thống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

- Phƣơng pháp loại hình

12

- Phƣơng pháp phân tích tác phẩm

- Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu

Các phƣơng pháp nghiên cứu này không tách rời nhau mà hài hòa với

nhau, bổ sung cho nhau. Trong đó chúng tôi đặc biệt quan tâm đến phƣơng

pháp hệ thống và phƣơng pháp loại hình. Đây là phƣơng pháp quán xuyến

toàn bộ tiến hành luận văn.

6. Đóng góp của luận văn

- Luận văn xác định nội hàm khái niệm ngƣời kể chuyện một cách tƣơng

đối nhất quán và hệ thống để có thể sử dụng khái niệm này nhƣ một yếu tố cơ

bản trong việc xem xét cấu trúc của tác phẩm tự sự.

- Vận dụng khái niệm ngƣời kể chuyện để xem xét một trong những nét

đặc sắc của văn phong Nguyễn Ngọc Tƣ, đồng thời khẳng định những khả

năng tự sự mà nhà văn này đem đến cho văn xuôi Việt Nam đƣơng đại. Có

thể nói trong luận văn của chúng tôi vấn đề ngƣời kể chuyện trong truyện

ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ đã đƣợc khảo sát tỉ mỉ, hệ thống, thực sự trở thành đối

tƣợng nghiên cứu chuyên biệt, độc lập.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc cấu

trúc thành ba chƣơng:

Chương 1: Ngƣời kể chuyện – một phạm trù của tự sự học

Chương 2: Ngôi kể và một số loại hình ngƣời kể chuyện trong truyện

ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ

Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu kể chuyện trong truyện ngắn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nguyễn Ngọc Tƣ

13

NỘI DUNG

Chương 1

NGƯỜI KỂ CHUYỆN – MỘT PHẠM TRÙ CỦA TỰ SỰ HỌC

1.1. Người kể chuyện là một kiểu nhân vật đặc biệt

Ngƣời kể chuyện tồn tại ngay từ khi có văn học, điều đó có nghĩa là có

tác phẩm thì phải có ngƣời kể chuyện. Thuật ngữ ngƣời kể chuyện có từ năm

1490 (Latinh: narrator) nhƣng lý luận về nó phải đến thế kỷ XX mới phát

triển. Đây là vấn đề đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đề cập đến. Nhƣng

cho đến nay, khái niệm ngƣời kể chuyện vẫn chƣa đƣợc các nhà lý luận văn

học thống nhất hoàn toàn. Ở mặt nội hàm khái niệm cũng có những cách hiểu

khác nhau, có nhà nghiên cứu gọi là “ngƣời trần thuật”, ngƣời khác lại gọi là

“ngƣời kể chuyện”, có ngƣời cho rằng hai khái niệm này là khác nhau. Trong

luận văn này chúng tôi xem đây là những khái niệm đồng nghĩa.

Về mặt nội hàm khái niệm cũng có nhiều cách hiểu khác nhau. Theo các

tác giả trong từ điển Wikipedia thì “một câu chuyện hay phải có một ngƣời kể

chuyện xác định rõ và kiên định (…). Ngƣời kể chuyện là một thực thể đơn

nhất (single entity) và giới hạn. Ngƣời kể chuyện không thể truyền đạt bất cứ

điều gì mà anh ta không đối mặt với nó” [17]. Với W. Kayser, ngƣời trần thuật

là một khái niệm mang tính chất rất hình thức: “ngƣời trần thuật – đó là một

hình hài đƣợc sáng tạo ra, thuộc về toàn bộ chỉnh thể tác phẩm văn học. Ở

nghệ thuật kể, không bao giờ ngƣời trần thuật là vị tác giả đã hay chƣa nổi

danh, nhƣng là cái vai mà tác giả bịa ra và chấp nhận” [33, tr.245]. Còn đối

với Todorov thì ngƣời kể chuyện không chỉ là ngƣời kể mà còn là ngƣời định

giá: “ngƣời kể chuyện là một nhân tố chủ động trong việc kiến tạo thế giới hƣ

cấu. Chính ngƣời kể chuyện là hiện thân của những khuynh mang tính xét

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đoán và đánh giá” [24, tr.490]. Các nhà nghiên cứu trong nƣớc cũng đƣa ra

14

các cách hiểu không giống nhau về khái niệm ngƣời kể chuyện. Trong Từ

điển văn học (bộ mới), sau khi nêu định nghĩa ngắn gọn ngƣời kể chuyện là:

“thuật ngữ chỉ nhân vật đóng vai trò chủ thể của lời kể chuyện, là ngƣời đứng

ra kể trong tác phẩm văn học”, GS.TS Lê Ngọc Trà đƣa ra những hình thức

khác nhau của chủ thể này: vô nhân xƣng và ngƣời kể chuyện xƣng danh tôi,

chúng tôi. Theo các tác giả trong Từ điển thuật ngữ văn học thì ngƣời kể

chuyện là “hình tƣợng ƣớc lệ về ngƣời trần thuật trong tác phẩm văn học, chỉ

xuất hiện khi nào câu chuyện đƣợc kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác

phẩm” [28, tr.221]. Lê Phong Tuyết trong bài viết Người kể chuyện trong văn

xuôi sau khi nêu lên những vấn đề ngƣời kể chuyện ở Việt Nam, ngƣời kể

chuyện trong văn học phƣơng Tây đã đi đến định nghĩa: “Ngƣời kể chuyện

đƣợc định nghĩa một cách đơn giản và thống nhất: ngƣời kể chuyện là ngƣời

kể lại câu chuyện” [79, tr.126]. Không phải trong bất kì tác phẩm văn học nào

cũng có nhân vật ngƣời kể chuyện. Trong kịch, sự quan sát, đánh giá các nhân

vật và sự việc chủ yếu đƣợc lồng vào ngôn ngữ, thái độ và hoạt động của

nhân vật (trực tiếp thể hiện trên sân khấu). Bởi thế, không thấy sự xuất hiện

của ngƣời kể chuyện trong kịch. Trong thơ trữ tình, tâm tƣ tình cảm của nhà

thơ đƣợc bộc lộ trực tiếp dƣới hình thức tự bộc lộ chứ không phải dƣới hình

thức câu chuyện kể về ngƣời khác. Trong tác phẩm tự sự nhà văn trình bày,

tái hiện một cách sáng tạo thế giới hiện thực thông qua lời kể, lời miêu tả…

một loại ngƣời môi giới giữa các hiện tƣợng đƣợc miêu tả và ngƣời nghe (ngƣời

đọc), là ngƣời chứng kiến và cắt nghĩa sự việc xảy ra” [58, tr.88].

của một ngƣời trần thuật nào đó. Pospelop khắng định: “Ngƣời trần thuật là

Ngƣời kể chuyện là một nhân vật nhƣng là một kiểu nhân vật đặc biệt, nó

có những đặc điểm khác so với các nhân vật khác trong tác phẩm. Tz.Todorov

tuyên bố: “Ngƣời kể chuyện không nói nhƣ các nhân vật tham thoại khác mà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

kể chuyện. Nhƣ vậy, kết hợp đồng thời trong mình cả nhân vật và ngƣời kể,

15

nhân vật mà nhân danh nó cuốn sách đƣợc kể có một vị thế hoàn toàn đặc

biệt…” [64, tr.117]. Điều đó có nghĩa là ngƣời kể chuyện không chỉ là một

nhân vật tham gia trong tác phẩm mà còn đảm nhiệm chức năng tổ chức kết

cấu tác phẩm, tổ chức các nhân vật khác. L.I.Timofeev chỉ ra rằng: “Ngƣời kể

chuyện bắt tất cả các đặc điểm ngôn ngữ của nhân vật mà họ nhắc tới phải lệ

thuộc vào mình ngay cả khi ngƣời kể chuyện cho nhân vật một sự độc lập đầy

đủ về mặt ngôn ngữ” [73, tr.32]. Khi đọc xong một tác phẩm tự sự, ngoài

những nhân vật đƣợc miêu tả thì ngƣời đọc chúng ta vẫn cảm nhận thấy có

một nhân vật đặc biệt đang quan sát, ghi chép, phân tích về chúng, về mọi sự

việc, đó là ngƣời kể chuyện. Có thể nói, trong bất cứ truyện kể nào cũng

mang dấu ấn, cũng thể hiện cách nhìn, cách cảm, phƣơng thức tƣ duy, năng

lực trí tuệ của nhân vật đặc biệt này.

đầu đi vào xác lập những vấn đề chung về ngƣời kể chuyện thông qua sự phân

biệt nó với ngƣời kể chuyện trong đời sống thực tế, với nhân vật và với tác giả.

Kế thừa và tổng hợp những định nghĩa, cách hiểu trên, chúng tôi bƣớc

1.1.1. Người kể chuyện với tư cách là một sản phẩm hư cấu để kể chuyện

Trong cuộc sống hàng ngày, kể chuyện, giao tiếp, đối thoại là hoạt động

không thể thiếu của con ngƣời bởi chỉ có thông qua hoạt động kể chuyện con

ngƣời mới có thể hiểu đƣợc con ngƣời, sự vật và hiện tƣợng quanh mình. Nếu

nhƣ trong tình huống truyện kể ngoài đời khi đối diện ta có một ngƣời kể

chuyện bằng xƣơng, bằng thịt, có hình hài, giọng nói, điệu bộ, một ngƣời mà

ta có thể nhìn thấy và nghe họ nói thì đến ngƣời kể chuyện nghệ thuật tất cả

những yếu tố hữu hình này đều đƣợc chuyển vào trong văn bản thông qua hệ

thống thủ pháp nghệ thuật. Ngƣời kể chuyện trong tác phẩm văn học là sản

phẩm của sự sáng tạo nghệ thuật, một sản phẩm từ sự hƣ cấu của nhà văn.

Điểm khác biệt giữa ngƣời kể chuyện thực tế với ngƣời kể chuyện trong tác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phẩm nghệ thuật là ngƣời kể chuyện thực tế có thể điều chỉnh câu chuyện kể

16

theo phản ứng của ngƣời nghe còn ngƣời kể chuyện trong văn bản thì không

thể có quyền đó bởi câu chuyện họ kể đã đƣợc cố định trong văn bản bằng

câu chữ, không thể sửa chữa hay thêm bớt… Do đó, khác với ngƣời nghe –

đối tƣợng của ngƣời kể chuyện thực tế thì ngƣời đọc – đối tƣợng của ngƣời kể

chuyện trong văn bản nghệ thuật sẽ có điều kiện phát huy tối đa khả năng

tƣởng tƣợng, liên tƣởng của mình để đồng sáng tạo với ngƣời kể chuyện. Mỗi

ngƣời đọc với kinh nghiệm sống, với kiến thức, vốn văn hóa, vốn sống…

riêng có thể cảm nhận, tiếp thu, hình dung ra câu chuyện theo cách riêng của

mình. Ngƣời kể chuyện sẽ giúp ngƣời đọc hiểu rõ hơn, đi sâu tìm hiểu thế

giới nội tâm của nhân vật, hiểu sâu hơn những ý nghĩ thầm kín, những động

cơ trong từng hoạt động của nhân vật, từ đó hiểu sâu sắc nội dung tƣ tƣởng

nghệ thuật mà tác giả gửi gắm vào trong tác phẩm của mình.

Có thể nói trong tác phẩm tự sự, ngƣời kể chuyện đóng vai trò quyết

định. Là ngƣời sắp đặt, môi giới, gợi mở giữa câu chuyện trong tác phẩm với

ngƣời đọc, ngƣời kể chuyện phải chọn cho mình một chỗ đứng thích hợp. Từ

chỗ đứng, ngƣời kể chuyện có điểm nhìn, cách kể đối với câu chuyện sao cho

hữu ích theo ý đồ sáng tạo của tác giả. Điều đó không chỉ đem lại vai trò mà

còn làm nên một gƣơng mặt cụ thể của ngƣời kể chuyện.

1.1.2. Người kể chuyện thống nhất nhưng không đồng nhất với tác giả

Ngƣời kể chuyện thống nhất với tác giả trƣớc hết là bởi ngƣời kể chuyện

là ngƣời thể hiện cho tiếng nói, quan điểm của tác giả về con ngƣời và cuộc

sống. Một số nhà tự sự học cho rằng ngƣời kể chuyện chỉ là một yếu tố hình

thức thuần túy, dƣờng nhƣ tách rời khỏi mối quan hệ với tác giả thực tế nhƣ

chủ thể sáng tạo. W.Kayser viết về ngƣời kể chuyện nhƣ một vai trò ƣớc định:

“Trong nghệ thuật kể, ngƣời kể chuyện không bao giờ là tác giả đã hay chƣa

từng đƣợc biết đến, mà là một vai trò đƣợc tác giả nghĩ ra và ƣớc định” [63,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tr.117]. Còn R.Barthers và Tz.Todorov khẳng định: “Ngƣời kể chuyện và

17

những nhân vật của anh ta bản chất là những thực thể trên mặt giấy; tác giả

(thực tế) của văn bản không có điểm gì chung với ngƣời kể chuyện” ; “Ngƣời

kể chuyện không thể đƣợc gọi tên; nếu anh ta có tên, thì sau cái tên đó không

có ai cả” [63, tr.117-118]. Tuy nhiên, những quan điểm này không tránh khỏi

sự cực đoan. Không ai có thể phủ nhận mối quan hệ mật thiết giữa ngƣời kể

chuyện và tác giả bởi: “ta đoán định âm sắc tác giả qua đối tƣợng của câu

chuyện kể cũng nhƣ qua chính câu chuyện và hình tƣợng ngƣời kể chuyện

(…) ngƣời kể chuyện là một trong những hình thức thể hiện quan niệm tác giả

trong tác phẩm” [79]. Đọc tập Giamilia – Truyện núi đồi và thảo nguyên, qua

thái độ của ngƣời kể chuyện ta cảm nhận đƣợc: tấm lòng đồng cảm sâu sắc

của nhà văn với việc ngƣời chị dám bƣớc qua những tập tục “quái gở” để đi

tìm hạnh phúc đích thực, chân chính của mình; là thái độ phê phán quyết liệt

của Aimatốp đối với những hủ tục lạc hậu của lối sống gia trƣởng, lên án tƣ

tƣởng coi thƣờng phụ nữ, coi “hạnh phúc của ngƣời phụ nữ chỉ là sinh con đẻ

cái”. Đọc Anh béo và anh gầy, Con kì nhông… của Sêkhốp, qua nhân vật

ngƣời kể chuyện ta cảm nhận đƣợc sự xót xa của nhà văn trƣớc bản tính nô lệ,

xum xoe, qụy lụy của con ngƣời. Nhƣ vậy, có thể nói ngƣời kể chuyện là một

trong những hình thức thể hiện quan điểm của tác giả trong tác phẩm. Quan

điểm của tác giả chỉ có thể đƣợc thể hiện qua “điểm nhìn”, “tầm nhận thức”

của ngƣời kể chuyện nhƣ một hình tƣợng ít nhiều tồn tại độc lập.

Trong những tác phẩm tự truyện thì sự thống nhất giữa ngƣời kể chuyện

và tác giả lại càng bộc lộ rõ. Tự truyện là thể loại văn học đặc biệt mà ở đó tác

giả tự viết về mình, tác giả lấy chính cuộc đời mình làm cơ sở cho sáng tạo

nghệ thuật. Vì thế, qua cái Tôi của ngƣời kể chuyện trong tác phẩm tự truyện

ngƣời đọc có thể thấy đƣợc khá rõ cái Tôi của tác giả ngoài đời. Đọc bộ ba tự

truyện Thời thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi của Gorki, qua

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

những lời kể mộc mạc của nhân vật Tôi, ngƣời đọc phần nào thấy đƣợc thời

18

thơ ấu bất hạnh, cuộc đời cơ cực, gian khổ và những nỗ lực vƣơn lên không

ngừng của tác giả Gorki. Đọc Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng ta thấy

bao nỗi đớn đau, tủi nhục; bao khao khát, ƣớc mơ mà nhân vật Tôi trải qua

cũng chính là những tâm trạng mà Nguyên Hồng đã từng trải qua trong quá

khứ gắn với những kỉ niệm sâu sắc về thời thơ ấu của nhà văn. GS Phong Lê

đã bày tỏ niềm xúc động sâu sắc khi đọc tác phẩm này: “Tôi cứ ngẩn ngơ hoài

đến thế. Một sự thành thực đến tận cùng chi tiết khiến ngƣời ta đọc đến mà sững

sờ, mà nổi gai lên trong tâm trí, mà run rẩy đến từng xúc cảm” [39, tr.131].

trƣớc một tuổi thơ sao mà cay cực đến thế, mà sao nhà văn có thể thành thực

Nhƣ vậy giữa ngƣời kể chuyện và tác giả có nét tƣơng đồng, thống nhất

nhƣng ngƣời kể chuyện và tác giả không phải là một bởi:

Thứ nhất, quan điểm của tác giả bao giờ cũng rộng hơn quan điểm của

ngƣời kể chuyện. Quan điểm, tƣ tƣởng của tác giả đƣợc thể hiện trong toàn bộ

tác phẩm nhƣ một chỉnh thể nghệ thuật, nó không thể đƣợc thể hiện một cách

một cách đầy đủ qua bất kì một chủ thể lời nói riêng biệt nào trong tác phẩm

dù chủ thể lời nói đó có gần gũi tác giả đến đâu. Nếu chúng ta chỉ dựa vào

ngƣời kể chuyện để đánh giá, phán xét tác giả thì sẽ là phiến diện, cực đoan.

Chẳng hạn để có thể hiểu đƣợc tƣ tƣởng của đại văn hào Leptônxtôi trong

Chiến tranh và hòa bình ta không chỉ dựa vào tƣ tƣởng ngƣời kể chuyện hàm

ẩn mà còn cần phải tổng hợp tƣ tƣởng của các nhân vật khác nhƣ: Pie,

Anđrây, Natasa… So với tƣ tƣởng của ngƣời kể chuyện, tƣ tƣởng của tác giả

thƣờng là khái quát hơn. Trong Nhật kí người điên của Lỗ Tấn, nhận thức của

nhân vật ngƣời kể chuyện xƣng Tôi – ngƣời điên chỉ là những nhận thức cụ

thể, cảm tính, trực tiếp còn nhận thức của tác giả là nhận thức mang tính khái

quát, tổng hợp. Những kẻ ăn thịt ngƣời mà ngƣời kể chuyện xƣng Tôi nói đến

là những con ngƣời cụ thể: ông Cố Cửu, ông Triệu, lão thầy thuốc… còn hàm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ý của tác giả thì lại là ám chỉ lễ giáo và chế độ phong kiến.

19

Thứ hai, ngƣời kể chuyện không đồng nhất với tác giả bởi ngoài phần

thái độ chủ quan đƣợc thừa hƣởng của tác giả, ngƣời kể chuyện mang trong

mình cả một phần nội dung khách quan của thế giới đƣợc phản ánh vào tác

phẩm; phần nội dung khách quan đó thƣờng thể hiện một loại hình thái độ

phản ứng với thực tại điển hình cho thời đại của nhà văn đƣợc nhà văn tái

hiện lại và miêu tả trong tác phẩm của mình. Chẳng hạn nhƣ qua nhân vật

ngƣời kể chuyện trong các tác phẩm Sống mòn, Trăng sáng, Cái mặt không

chơi được… ta vừa thấy hình ảnh nhà văn Nam Cao, vừa thấy hình ảnh những

ngƣời trí thức nghèo trong xã hội cũ. Nhà văn Nga M.Prisvin từng rút ra kinh

nghiệm qua thực tế sáng tác: “Vào khoảnh khắc khi tôi đặt bút lên giấy – đó

đã là “cái tôi”… thực thà mà nói, đó là “cái tôi – đƣợc sáng tạo nên”, đó là

“chúng ta”… bây giờ tôi hiểu rõ ràng sự biến hóa của “cái tôi” thành “chúng

ta” thể hiện bản chất của cả quá trình sáng tác” [63, tr.120].

Ngay cả trong những tác phẩm có tính tự truyện thì giữa ngƣời kể

chuyện và tác giả vẫn có những nét khác nhau. Tác giả của truyện kể là ngƣời

thật, con ngƣời của thế giới thực: ông có một cái tên hoặc một bút danh, một

tiểu sử. Ông có trách nhiệm về tác phẩm mà mình tạo ra, còn ngƣời kể chuyện

thì ngƣợc với tác giả, anh ta không phải là một ngƣời thực, anh ta chỉ là một

ngƣời thực hiện chức năng kể chuyện. Vì thế, mặc dù tác phẩm tự truyện

thƣờng lấy chính cuộc đời tác giả làm chất liệu sáng tác nhƣng thế giới tồn tại

của ngƣời kể chuyện hoàn toàn khác với thế giới tồn tại của nhân vật đƣợc kể

lại: khác nhau về không gian, thời gian, về cảm xúc, tƣ tƣởng. Ngƣời kể

chuyện chỉ có thể ý thức và tái hiện lại thế giới kia chứ không thể thâm nhập,

can thiệp vào thế giới kia. Những suy nghĩ, tâm trạng, hành động mà ngƣời kể

chuyện kể lại trong tác phẩm tự truyện có thể là của nhà văn nhƣng đó là

những tâm trạng, hành động đã xảy ra với nhà văn trong quá khứ chứ không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phải là của thời khắc hiện tại.

20

Qua sự phân tích ở trên ta thấy ngƣời kể chuyện là một kiểu nhân vật đặc

kể chuyện, với vai trò tổ chức tác phẩm, liên kết, móc nối các nhân vật, sự kiện,

hành động trong tác phẩm. Giữa nhân vật ngƣời kể chuyện và tác giả có nhiều

điểm tƣơng đồng nhƣng không đƣợc đồng nhất ngƣời kể chuyện với tác giả.

biệt trong tác phẩm tự sự. Đó là một hình tƣợng đƣợc nhà văn hƣ cấu nên để

1.2. Các tiêu chí nhận diện người kể chuyện

1.2.1. Điểm nhìn kể chuyện

Theo lí thuyết về điểm nhìn thì một truyện phải đƣợc kể theo một thức

(mode), một điểm nhìn (point of view) nào đó. Flubbock là một trong những

ngƣời đầu tiên chỉ ra mối liên hệ giữa ngƣời kể chuyện với điểm nhìn. “Tôi

cho rằng toàn bộ vấn đề rắc rối về phƣơng pháp nghệ thuật sáng tác phụ thuộc

vào vấn đề điểm nhìn – vấn đề thái độ của ngƣời kể chuyện đối với việc trần

thuật” [63, tr.117]. Đã có rất nhiều quan niệm khác nhau của các nhà nghiên

cứu trong và ngoài nƣớc về vấn đề điểm nhìn. M.Bakhtin khi bàn về tiểu

thuyết Đôxtôiepxki đã xem điểm nhìn nhƣ là “cái lập trƣờng mà xuất phát từ

đó câu chuyện đƣợc kể, hình tƣợng đƣợc miêu tả hay sự việc đƣợc thông báo”

[4, tr.86]. Cùng quan điểm này, Ju.Lotman cho rằng “điểm nhìn là khuynh

hƣớng đánh giá” [40, tr.212]. M.B.Khrapchenco lại chú ý đến tính cá nhân

của chủ thể điểm nhìn: “Sự thật của cuộc sống trong các tác phẩm nghệ thuật

không tồn tại bên ngoài cách nhìn nghệ thuật có tính cách cá nhân đối với thế

giới, vốn có ở từng nghệ sĩ thực thụ” [36]. V.E.Khalizep cũng cho rằng:

“điểm nhìn là của ngƣời trần thuật với những gì mà anh ta miêu tả” [58,

tr.289]. Trong khái niệm này đã bao hàm chủ thể của điểm nhìn (ngƣời trần

thuật) và đối tƣợng đƣợc nhìn (những gì mà anh ta miêu tả). Tiến một bƣớc

xa hơn, trong công trình Tiểu thuyết pháp hiện đại tìm tòi đổi mới, tác giả

Phùng Văn Tửu quan niệm điểm nhìn là: “Kĩ thuật chọn chỗ đứng để nhìn và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

kể” [89, tr.182]. Cũng từ góc độ thi pháp học, khái niệm điểm nhìn đƣợc tác

21

giả Trần Đình Sử xem xét ở nhiều khía cạnh hơn: “Điểm nhìn văn bản là

phƣơng thức phát ngôn trình bày, miêu tả phù hợp với cách nhìn, cách cảm

thụ thế giới của tác giả. Khái niệm điểm nhìn mang tính ẩn dụ, bao gồm mọi

nhận thức, đánh giá, cảm thụ của chủ thể đối với thế giới. Nó là cái vị trí dùng

để quan sát, cảm nhận, đánh giá bao gồm cả khoảng cách chủ thể và khách

thể, cả phƣơng diện vật lý, tâm lý, văn hóa” [61, tr.149]. Khái niệm điểm nhìn

của Trần Đình Sử bao hàm cả điểm nhìn quan sát (vị trí và khoảng cách để

quan sát, cảm nhận, đánh giá) và điểm nhìn kể chuyện (phƣơng thức phát

ngôn, trình bày, miêu tả…). Đồng thời việc chỉ ra tính chất ẩn dụ của điểm

nhìn sẽ là những gợi ý tốt cho việc xác định điểm nhìn. Nguyễn Thái Hòa

quan niệm: “Điểm nhìn nghệ thuật, là điểm xuất phát của một cấu trúc nghệ

thuật, hơn thế nữa là một cấu trúc tiềm ẩn đƣợc ngƣời đọc tiếp nhận bằng thao

tác suy ý từ các mối quan hệ phức hợp giữa ngƣời kể và văn bản, giữa văn

bản và ngƣời đọc văn bản, giữa ngƣời kể và ngƣời đọc hàm ẩn” [63, tr.96].

Các ý kiến tuy có những nét khác nhau nhƣng hầu hết đều thống nhất ở chỗ

xem điểm nhìn của ngƣời kể chuyện là phƣơng thức phát ngôn, trình bày,

miêu tả phù hợp với cách nhìn, cách cảm thụ thế giới của anh ta. Nói tới điểm

nhìn của ngƣời kể chuyện trong tác phẩm tự sự, ta thƣờng nói tới ba kiểu

điểm nhìn chính có thể thay luân phiên nhau trong cùng một trần thuật và tạo

nên cấu trúc tổng thể của truyện kể:

- Thứ nhất là điểm nhìn bên ngoài. Với điểm nhìn này, ngƣời kể chuyện

hoàn toàn xa lạ với thế giới mà anh ta kể lại, ngƣời kể chuyện là ngƣời ngoài

cuộc và chỉ có thể kể về những hoạt động, lời nói thể hiện ra bên ngoài của

nhân vật mà không có sự am hiểu về đời sống nội tâm bên trong của nhân vật.

Cách trần thuật này cho ngƣời đọc ấn tƣợng mạnh mẽ về tính khách quan,

thậm chí là ấn tƣợng về sự lạnh lùng; ngƣời kể chuyện để cho ngƣời đọc tự do

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bình luận về những hành động, suy nghĩ, tâm trạng của các nhân vật. Trong

22

truyện Rặng đồi tựa đàn voi trắng của Hemingway, ngƣời kể chuyện chỉ là

một ngƣời quan sát và ghi lại cuộc đối thoại giữa hai nhân vật là ngƣời đàn

ông Mỹ và cô gái chứ không có một lời giải thích bình luận nào. Hay trong

Mười một người con trai của Kafka, sự tham gia của ngƣời kể chuyện vào

truyện là cực nhỏ. Một số lời bình luận, đánh giá hiếm hoi của ngƣời kể

chuyện không đủ để ta hiểu gì về những suy nghĩ, thái độ của anh ta: “Thực ra

tôi hạnh phúc vì có đƣợc đứa con nhƣ thế; “Mặc dù tự hào về mƣời một ngƣời

con nhƣ vậy, nhƣng tôi vẫn muốn giữ kín nó”… Chính vì điểm nhìn bên

ngoài này mà khi đọc truyện của Kafka ngƣời đọc thƣờng có cảm giác ngƣời

kể chuyện dƣờng nhƣ vắng bóng.

- Thứ hai là điểm nhìn bên trong: Khi ngƣời kể chuyện là một trong số

những nhân vật của hành động trong truyện. Từ một điểm nhìn chủ quan,

ngƣời kể chuyện biểu lộ những gì mà anh ta nhìn thấy, cảm thấy. Với điểm

nhìn này, ngƣời kể chuyện có khả năng thâm nhập sâu vào đời sống bên trong

của nhân vật, có thể biết đƣợc nhân vật đang nghĩ gì, và sự hiểu biết của

ngƣời kể chuyện hoàn toàn ngang bằng với sự hiểu biết của nhân vật. Ngƣời

kể chuyện theo điểm nhìn bên trong thƣờng có hai dạng biểu hiện cơ bản:

Dạng biểu hiện thứ nhất là ngƣời kể chuyện xƣng Tôi, tự bộc bạch về

câu chuyện của mình, về những suy nghĩ, cảm xúc mà mình đã nếm trải. Toàn

bộ tác phẩm Người tình của M.Duras là những hồi ức của nhân vật Tôi về

ngƣời tình của mình – một chàng trai Trung Hoa. Có thể nói, chỉ dƣới hình

thức ngƣời kể chuyện xƣng tôi, tự phô diễn phần sâu thẳm của tâm hồn,

Người tình mới có thể nói đƣợc lời nói tối hậu về con ngƣời, mới có thể

“khám phá con ngƣời trong con ngƣời”. Chính bằng việc sử dụng điểm nhìn

bên trong của nhân vật Tôi để kể chuyện, nhà văn đã tạo nên ở ngƣời đọc ảo

tƣởng về tính chân thật của câu chuyện vì họ cứ nghĩ rằng đây là lời thú nhận

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

của chính ngƣời trong cuộc.

23

Ngƣời kể chuyện đứng ở ngôi thứ ba từ bên ngoài nhƣng lại tựa vào

điểm nhìn nhân vật để kể là một dạng biểu hiện nữa của ngƣời kể chuyện theo

điểm nhìn bên trong. Trong tác phẩm Chân dung một nghệ sĩ thời trẻ, James

Joyce đã sử dụng hình thức kể chuyện này. Ngƣời kể chuyện đã nhập vào vai

nhân vật Stephen, nhập vào cảm xúc, suy nghĩ, hồi tƣởng của nhân vật, nhìn

nhận thế giới theo những cảm nhận của nhân vật và thuật lại bằng chính giọng

điệu của nó.

Thứ ba là điểm nhìn toàn tri. Với điểm nhìn này, ngƣời kể chuyện vừa

hiểu biết về các sự vật khách quan trong tổng thể của chúng vừa hiểu biết sâu

sắc về tâm hồn của các nhân vật. Đó là ngƣời kể chuyện thông tuệ, am hiểu

hoàn toàn và sâu sắc về thế giới mình kể. Ngƣời kể chuyện giống nhƣ một vị

thần, một vị “Chúa trời” có khả năng thấy đƣợc mọi hành vi, suy nghĩ, tâm

trạng, cảm giác của nhân vật; hiểu hết những bƣớc đƣờng, những đoạn rẽ

ngoặt của họ. Ngƣời kể chuyện trong văn học trung đại thƣờng kể theo hình

thức này. Với tầm nhìn “vƣợt lên trên”, ngƣời kể chuyện kể lại mọi sự việc

với thái độ khách quan, trung tính: “Ngô Tử Văn tên là Soạn, ngƣời huyện

Yên Dũng, đất Lạng Giang. Chàng vốn khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian

thì không thể chịu đƣợc, vùng Bắc ngƣời ta vẫn khen là một ngƣời cƣơng

trực. Trong làng trƣớc có một ngôi đền linh ứng lắm. Cuối đời nhà Hồ, quân

Ngô sang lấn cƣớp, vùng ấy thành một nơi chiến trƣờng” (Chuyện chức phán

sự đền Tản Viên – Nguyễn Dữ). Hình thức ngƣời kể chuyện này đến các nhà

văn hiện đại lại đƣợc tiếp tục đƣợc sử dụng để kể chuyện. Lép Tônxtôi khi

mới đặt bút viết Cái chết của Ivan Ilich, nhà văn có ý định sử dụng cách kể

theo điểm nhìn của một viên chức trong tay anh ta có cuốn nhật kí của Ivan

Ilich. Nhƣng sau đó ông đã quyết định kể lại câu chuyện theo điểm nhìn biết

điểm nhìn biết hết của ngôi thứ ba, nếu không sẽ bị lúng túng” [36, tr.168].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hết của ngôi thứ ba. Trong thƣ gửi con gái, ông nhấn mạnh: “Cần phải viết từ

24

Việc phân biệt ba kiểu điểm nhìn trên đây chỉ mang ý nghĩa tƣơng đối.

Thông thƣờng trong các tác phẩm, tác giả thƣờng phối hợp các điểm nhìn với

nhau. Vấn đề là ở chỗ tác phẩm này thì điểm nhìn bên trong đóng vai trò chủ

đạo, còn ở tác phẩm kia thì lại là điểm nhìn bên ngoài hoặc là điểm nhìn toàn tri.

1.2.2. Ngôn ngữ kể chuyện

Một nhà văn đích thực luôn ý thức về mình nhƣ một nhà ngôn ngữ vì

ngôn ngữ là “yếu tố đầu tiên quy định cung cách ứng xử”, là phƣơng tiện bắt

buộc để nhà văn giao tiếp với bạn đọc. Việc xây dựng ngôn ngữ ngƣời kể

chuyện trong truyện là dụng ý nghệ thuật của tác giả. Ngôn ngữ là công cụ

của tƣ duy. Vì thế, ngôn ngữ kể chuyện là một trong những yếu tố quan trọng

để nhận diện hình tƣợng ngƣời kể chuyện. Theo các tác giả trong Từ điển văn

học thì “ngôn ngữ ngƣời kể chuyện là ngôn ngữ của tác giả hoặc của nhân vật

đƣợc tác giả dùng để kể lại câu chuyện trong tác phẩm tự sự”. [55, tr.124].

Tác giả Trần Đình Sử đã phân biệt rất rõ giữa ngôn ngữ ngƣời kể chuyện – lời

gián tiếp với ngôn ngữ các nhân vật khác – lời trực tiếp: “Lời gián tiếp là lời

văn đảm đƣơng chức năng trần thuật, giới thiệu miêu tả, bình luận của con

ngƣời và sự kiện, phân biệt với lời trực tiếp đƣợc đặt trong ngoặc kép hoặc

sau gạch đầu dòng” [62, tr.178]. Nói nhƣ Đỗ Bình Trị thì ngôn ngữ kể chuyện

là “những chỉ dẫn về hoàn cảnh và diễn hóa hoàn cảnh” [78]. Từ các ý kiến

trên ta có thể hiểu: Ngôn ngữ kể chuyện là phƣơng tiện cơ bản dùng để kể

chuyện, giới thiệu, miêu tả, trần thuật, bình giá sự việc, con ngƣời trong tác

phẩm tự sự. Ngôn ngữ kể chuyện so với ngôn ngữ của nhân vật mang tính

khách quan hơn, làm nền cho sự xuất hiện của câu chuyện, của lời nhân vật.

Ngôn ngữ kể chuyện có vai trò rất quan trọng trong cấu trúc kĩ thuật

của truyện:

- Ngôn ngữ kể chuyện trƣớc hết tạo ra hình tƣợng ngƣời kể chuyện trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

truyện do có đặc điểm cá tính hóa không hòa lẫn với đặc điểm nhân vật.

25

- Ngôn ngữ kể chuyện thể hiện điểm nhìn của ngƣời kể chuyện mà ngƣời

kể chuyện dựa vào đó để kể chuyện.

- Ngôn ngữ kể chuyện là mối dây liên kết các yếu tố tổ chức tác phẩm để

nêu bật tính cách nhân vật, làm nổi bật tƣ tƣởng và chủ đề tác phẩm.

Chính vì những đặc điểm này, ngôn ngữ ngƣời kể chuyện trong tác phẩm

tự sự có vai trò then chốt trong việc định hƣớng sự đánh giá của độc giả về

các hình tƣợng đƣợc xây dựng trong tác phẩm. Gorki khẳng định: “Trong tiểu

thuyết, trong truyện, những con ngƣời đƣợc tác giả thể hiện đều hành động

với sự giúp đỡ của tác giả, tác giả luôn luôn ở bên cạnh họ, tác giả mách cho

ngƣời đọc hiểu những ý nghĩ thầm kín, những động cơ bí ẩn ở phía sau những

hành động của các nhân vật đƣợc miêu tả…” [27].

Nhƣ vậy, ngôn ngữ kể chuyện luôn gắn bó mật thiết với hình tƣợng

ngƣời kể chuyện, với tƣ tƣởng tác giả và với ngƣời đọc tích cực. Nó có vai trò

then chốt trong phƣơng thức tự sự, là yếu tố cơ bản để thể hiện phong cách

nhà văn, truyền đạt cái nhìn, giọng điệu, cá tính của tác giả.

Nói đến ngôn ngữ kể chuyện ta thƣờng nói đến ba thành phần cơ bản: lời

kể, lời miêu tả, lời phân tích - bình luận.

Thành phần thứ nhất là lời kể. Trong lời kể, ngƣời kể chuyện thƣờng

không hề để lộ một cảm xúc nào. Trong tác phẩm của Kafka ta thấy lời kể

mang tính trung hòa, vô âm sắc. Đó có thể là lời kể về một sự biến hóa dị

thƣờng: “Một sáng tỉnh giấc băn khoăn, Gregor Samsa nằm trên giƣờng thấy

mình biến thành một con côn trùng khổng lồ” (Hóa thân). Đó cũng có thể là

lời kể về một vết thƣơng khủng khiếp: “Máu đỏ tƣơi luôn luôn thay đổi hình

dạng đen ngòm ở dƣới đáy, sáng hơn khi ở quanh miệng những hạt máu đỏ

mịn…” (Một thầy thuốc nông thôn). Đọc truyện ngắn của Phan Thị Vàng

Anh, ngƣời đọc bắt gặp một lối sử dụng ngôn ngữ kể chuyện rất giản dị, thân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

mật, suồng sã của đời thƣờng. Tính chất đời thƣờng giản dị của lời kể thể hiện

26

ở việc ngƣời kể chuyện đã đƣa vào nhiều ngôn ngữ nƣớc ngoài nhƣ tiếng

Anh, tiếng Pháp: “Anh ấy không dám dùng từ Café” (Hội chợ). “Tôi đặt lên

ngƣời đọc có thể hình dung đƣợc gƣơng mặt ngƣời kể chuyện – một con ngƣời

trẻ trung, gần gũi với đời sống đƣơng thời đặc biệt là đời sống của lớp trẻ.

bàn, giữa sách vở, cassette” (Khi người ta trẻ). Qua ngôn ngữ kể chuyện này,

Thành phần thứ hai của ngôn ngữ kể chuyện là lời miêu tả. Đó có thể là

lời miêu tả thiên nhiên. Đọc Chiến tranh và hòa bình (Lép Tônxtôi), qua

những lời miêu tả của ngƣời kể chuyện ta thấy thiên nhiên hiện lên nhƣ một

nhân vật sống. Đó là bầu trời Auxtéclít mênh mông của Anđrây; bầu trời

Otơrátnôiê ngập tràn ánh trăng của Natasa; bầu trời có ngôi sao chổi rực rỡ

của Pie; bầu trời trong trẻo huyền ảo và ngập tràn tiếng nhạc của Pêchia…

Bầu trời đã trở thành biểu tƣợng cho sự cao cả, vĩnh hằng mà các nhân vật

khao khát vƣơn tới. Bên cạnh lời miêu tả thiên nhiên là lời miêu tả về nhân

vật. Cũng trong Chiến tranh và hòa bình, ngƣời kể chuyện khi miêu tả nhân

vật thƣờng nhấn mạnh, lặp đi lặp lại một chi tiết để làm nổi bật cá tính của họ:

“nụ cƣời lịch thiệp một cách giả tạo” của Napôlêông, cái nhìn uể oải và chán

nản” của Anđrây ở phong khách nhà Sêre, “đôi mắt to và sáng” của Maria,

“hàng lông tơ trên môi hơi ngắn” của Lida…

Thành phần thứ ba là lời phân tích, bình luận của ngƣời kể chuyện. Với

bộ phận ngôn ngữ này, ngƣời kể chuyện có thể bộc lộ trực tiếp những suy

nghĩ, tƣ tƣởng, tình cảm, quan niệm của mình về cuộc sống và nhân vật. Đọc

Những linh hồn chết của Gôgôn ta thấy những lời phân tích, bình luận của

ngƣời kể chuyện xuất hiện với tần số khá cao. Ngƣời kể chuyện trực tiếp bày

tỏ quan niệm, sự đánh giá của mình về nhiều vấn đề: từ thói quỵ lụy cấp bậc

đến cách đặt biệt hiệu, từ số phận của nông nô Nga đến hình ảnh tƣơi mát của

chiếc vƣờn hoang, từ tiếng hát dân gian đầy sức quyến rũ cho đến hình ảnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chiếc xe tam mã tƣợng trƣng cho nƣớc Nga. Qua những lời trữ tình ngoại đề

27

ta cảm nhận đƣợc khá sâu sắc sự cảm thông đối với nhân dân Nga, sự mỉa mai

lên án những cái xấu xa của chế độ nông nô và niềm tin, niềm hi vọng vào

một tƣơng lai tƣơi sáng của ngƣời kể chuyện.

1.2.3. Giọng điệu kể chuyện

Nghệ thuật là lĩnh vực của sự độc đáo, vì vậy khi sáng tác mỗi nhà văn

đều trăn trở để tìm ra giọng điệu nghệ thuật riêng cho tác phẩm của mình.

Thông qua giọng điệu nhà văn bày tỏ cách nhìn nhận, thái độ, tình cảm đối

với con ngƣời và cuộc sống. M.B.Khrapchenko khẳng định cái quan trọng

trong tài năng văn học là “cái giọng điệu riêng biệt của chính mình không thể

tìm thấy trong cổ họng của bất kì một ngƣời nào khác” [36, tr.190]. Điều này

cũng có nghĩa là giọng điệu mang tính cá nhân cao độ, là yếu tố tạo nên

phong cách riêng của từng nhà văn, làm nên sự khác biệt giữa nhà văn này

với nhà văn khác. Đặc biệt giọng điệu còn là một trong những yếu tố chủ đạo

hấp dẫn của từng tác phẩm.

cấu thành hình thức nghệ thuật của tác phẩm, góp phần không nhỏ làm nên sức

Về khái niệm giọng điệu đôi khi trong quá trình nghiên cứu một số nhà

khoa học vẫn có sự “ngộ nhận”. Đặng Anh Đào trong bài viết Bàn về một vài

thuật ngữ thông dụng trong kể chuyện chỉ ra rằng: “Về điểm này, cũng vẫn

còn đôi cuốn lí luận có sự ngộ nhận. Ví dụ: sau khi đồng nhất giọng điệu với

điểm nhìn, từ điển thuật ngữ của Merriam Webster lại đồng nhất chúng với

giọng điệu (…). Điểm nhìn ở ngôi thứ ba là giọng điệu của câu chuyện đƣợc

trình bày khi ngƣời kể chuyện không phải là một nhân vật trong câu chuyện.

Thuật ngữ này ngày nay ám chỉ một trong hai giọng điệu kể chuyện” [17,

tr.30]. Tác giả bài viết chỉ dẫn thêm: “W.Booth lại cho rằng nên thay khái

niệm giọng điệu bằng tác giả hàm ẩn, bởi lẽ trƣớc tác phẩm ngƣời đọc không

chỉ cảm thấy vang lên tiếng nói mà cả sự hiện diện của toàn bộ một con

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngƣời” [17, tr.31]. Nhƣ vậy, Đặng Anh Đào đã nêu lên sự ngộ nhận của một

28

số nhà nghiên cứu khi đồng nhất bốn khái niệm giọng điệu, điểm nhìn, tác giả

hàm ẩn và ngƣời kể chuyện với nhau.

Các nhà tự sự học cũng xác định nội dung khái niệm giọng điệu một cách

khác nhau.

- Trần Đình Sử trong Giáo trình dẫn luận thi pháp học cho rằng: “Giọng

điệu giúp chúng ta nhận ra tác giả. Giọng điệu là tình cảm, thái độ ứng xử của

nhà văn trƣớc các hiện tƣợng đời sống đƣợc thể hiện trƣớc hết trong giọng

điệu cơ bản” [61, tr.111].

- Lê Huy Bắc trong bài Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại đƣa

ra quan niệm: “Giọng điệu là âm thanh đƣợc xét ở góc độ tâm lí, biểu hiện các

thái độ: buồn, vui, giận, hờ hững” [7, tr.6].

- Nguyễn Thái Hòa khi tìm hiểu giọng điệu, xem xét giọng điệu trong

quan hệ của chủ thể và đối tƣợng qua ngôn ngữ của mỗi cá nhân thì nhận

hiện bằng hành vi ngôn ngữ trong đó bao hàm cả việc định hƣớng đánh giá và

thói quen cá nhân sử dụng ngôn từ trong những tình huống cụ thể” [31, tr.154].

định: “Giọng điệu là mối quan hệ giữa chủ thể và hiện thực khách quan thể

Nhƣ vậy đã có nhiều nội dung đƣợc xác định trong khái niệm giọng điệu.

Ở góc độ nào đi nữa thì giọng điệu vẫn là yếu tố không thể thiếu của tác phẩm

văn học để qua đó “phản ánh lập trƣờng xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu

của tác giả, có vai trò rất lớn tạo nên phong cách nhà văn và có tác dụng

truyền cảm cho ngƣời đọc”. Trong luận văn này chúng tôi hiểu giọng điệu là

thái độ, tình cảm, cảm xúc thể hiện trong các phát ngôn để các phát ngôn trở

nên hấp dẫn và thu hút ngƣời đọc.

Để nhận diện ngƣời kể chuyện trong tác phẩm tự sự ta không thể không

căn cứ vào giọng điệu kể chuyện. Bởi giọng điệu là “thái độ, tình cảm, lập

trƣờng, tƣ tƣởng, đạo đức của ngƣời kể chuyện thể hiện trong lời văn quy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

định cách xƣng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần,

29

thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” [28, tr.112]. Có

nhiều yếu tố làm nên giọng điệu của ngƣời kể chuyện trong đó yếu tố quan

trọng mang tính quyết định chính là cảm hứng chủ đạo của anh ta. Chẳng hạn

trong các tác phẩm đậm chất sử thi nhƣ Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc),

Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu)…ta bắt

gặp giọng điệu kể chuyện trang trọng cao cả vì cảm hứng của ngƣời kể

chuyện là hƣớng về cái cao cả. Ngƣợc lại, trong một số tác phẩm văn học phê

phán nhƣ Mất cái ví (Nguyễn Công Hoan), Số đỏ (Vũ Trọng Phụng)… do

ngƣời kể chuyện có cảm hứng chính là phê phán thực tại nên anh ta sẽ chọn

cho mình giọng điệu mỉa mai, châm biếm, tố cáo. Dựa theo các tiêu chí khác

nhau mà ta có những cách phân loại giọng điệu kể chuyện khác nhau. Nếu

phân chia theo sắc thái tình cảm ta có giọng trang trọng hay thân mật, mạnh

mẽ hay yếu ớt, tha thiết hay gay gắt… Nếu phân chia theo loại tình cảm ta có

giọng bi hay hài, trữ tình hay châm biếm… Nếu theo khuynh hƣớng tình cảm

ta lại có giọng thƣơng cảm hay lên án, phê phán hay ngợi ca… Các bình diện

trên không tách rời nhau, không đứng độc lập với nhau mà xen lẫn và hòa

quyện vào nhau, vì vậy hệ thống giọng điệu kể chuyện của tác phẩm có thể

hết sức đa dạng và phức tạp.

1.3. Vai trò của người kể chuyện

1.3.1. Người kể chuyện với vai trò tổ chức kết cấu tác phẩm

Mỗi tác phẩm văn học có thể có nhiều khả năng kết cấu, mỗi khả năng

kết cấu thích hợp với một quá trình khái quát nghệ thuật của ngƣời nghệ sĩ.

Ngƣời kể chuyện phải cố gắng tìm cho mình một kết cấu tối ƣu để làm cho

câu chuyện lôi cuốn, hấp dẫn ngƣời đọc. Vai trò tổ chức kết cấu tác phẩm của

ngƣời kể chuyện đƣợc thể hiện trên những phƣơng diện sau:

Trước hết là tổ chức hệ thống hình tượng nhân vật. Ngƣời kể chuyện có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thể tổ chức các quan hệ của nhân vật theo hình thức đối lập, đối chiếu, tƣơng

30

phản hoặc bổ sung. Chẳng hạn nhƣ trong truyện ngắn Chiều vắng của Nguyễn

Ngọc Tƣ, ngƣời kể chuyện đã lựa chọn quan hệ đối chiếu, tƣơng phản để làm

cho nhân vật hiện lên sắc nét hơn. Đó là dì Út Thu Lý và dì Ba Thu Lê: cả hai

ngƣời con gái đều sống nặng tình nghĩa, đều sống theo tiếng gọi của con tim

nhƣng về tính cách thì họ lại dƣờng nhƣ trái ngƣợc nhau. Dì Út Thu Lý đểnh

đoảng, vụng về; dì Ba Thu Lê khéo léo. Dì Út Thu Lý nhƣ trẻ con vui buồn ra

mặt; dì Ba Thu Lê hiền thục, nhu mì.

Thứ hai là tổ chức hệ thống sự kiện và liên kết chúng lại để tạo thành

truyện. Truyện ngắn Ấu thơ tươi đẹp của Nguyễn Ngọc Tƣ là một ví dụ cho

sự kết nối khéo léo của ngƣời kể chuyện. Tác phẩm gồm hai câu chuyện của

mỗi dịp hè đến chúng đƣợc ngƣời này đƣa về ở với ngƣời kia. Ký ức tuổi thơ của

hai đứa trẻ có cùng cảnh ngộ: cha mẹ li dị, mỗi ngƣời đều có cuộc sống riêng,

hai đứa trẻ không có gì ngoài những chuyến đi và mỗi lần về bên cha hoặc

bên mẹ và phải chứng kiến những điều mà lẽ ra ở tuổi của chúng không nên

chứng kiến. Ngƣời kể chuyện với sự tài tình, khéo léo của mình đã kết nối hai

câu chuyện riêng lẻ của hai đứa trẻ ấy thành một mạch truyện thống nhất, liền

mạch để từ đó thể hiện sự chia sẻ cảm thông của nhà văn với những đứa trẻ có

hoàn cảnh bất hạnh. Đồng thời lên tiếng cảnh báo xã hội, nhất là những bậc

làm cha mẹ cần phải có trách nhiệm hơn nữa với những đứa con của mình.

Tại sao với những đứa trẻ thơ không phải là những miền ký ức vui? Ai đã

đánh cắp “ấu thơ tƣơi đẹp” của các em? Đây cũng là câu hỏi đƣợc đặt ra để

các bậc làm cha mẹ nghiêm túc tự vấn lại mình.

Với cách tổ chức hệ thống sự kiện khác nhau, cách kể khác nhau, ngƣời

kể chuyện sẽ hình thành nên các dạng cốt truyện khác nhau: cốt truyện tuyến

tính, cốt truyện tâm lí, cốt truyện “chuyện lồng chuyện”… Có tác phẩm chỉ có

một ngƣời kể chuyện và cũng chỉ kể một câu chuyện (Ngày đùa – Nguyễn

Ngọc Tƣ). Có tác phẩm chỉ có một ngƣời kể chuyện nhƣng kể nhiều câu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chuyện khác nhau (Đất kinh kì – Nguyễn Khải). Có tác phẩm trong đó nhiều

31

Châu). Cũng có tác phẩm trong đó nhiều ngƣời kể chuyện kể nhiều câu chuyện

khác nhau (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành – Nguyễn Minh Châu)…

ngƣời kể chuyện cùng kể về một câu chuyện (Khách ở quê ra – Nguyễn Minh

Chức năng tổ chức tác phẩm của ngƣời kể chuyện còn đƣợc thể hiện ở

việc kết cấu văn bản nghệ thuật. Đó có thể là việc sắp xếp bố cục của trần

thuật, việc tạo nên độ lệch giữa phạm vi đầu cuối của trần thuật so với cốt

truyện để tạo cho trần thuật những khả năng biểu hiện lớn nhƣ trong truyện

ngắn Chí Phèo của Nam Cao. Đó cũng có thể là việc lựa chọn, kết hợp các

thành phần trần thuật. Trong Bà Bôvary, ngƣời kể chuyện bên cạnh sử dụng

thành phần lời kể đã đƣa vào rất nhiều lời miêu tả. Chẳng hạn nhƣ lời miêu tả

ngoại hình nhân vật Saclơ: “Tóc hắn cắt dựng lên trên trán, nhƣ một tay hát lễ

ở thôn quê, vẻ ngƣời phải chăng và rất lúng túng. Tuy vai hắn không rộng,

chiếc áo lễ lai vét bằng dạ màu be cài khuy chắc làm hắn khó chịu vì kích

hẹp…”. Với cách miêu tả này, ngƣời kể chuyện đã chỉ ra những nét hài hƣớc,

lố bịch của Saclơ. Đó còn là cách tổ chức điểm nhìn trần thuật. Trong Vụ án

(Kafka), ngƣời kể chuyện đứng ở ngôi thứ ba từ bên ngoài nhƣng lại nƣơng

theo điểm nhìn của nhân vật K để kể. Ngƣời đọc bị kéo vào nỗi hoảng sợ mơ

hồ của K, vào cái tòa án bẩn thỉu trên gác xép tầng năm, vào những quán trọ

lố nhố ngƣời và mùi bia rƣợu…

Tóm lại, ngƣời kể chuyện có vai trò rất lớn trong việc tổ chức kết cấu

tác phẩm. Timofiev khẳng định: “Hình tƣợng này có tầm quan trọng hết sức

to lớn trong việc xây dựng tác phẩm bởi các quan niệm, các biến cố xảy ra,

cách đánh giá các nhân vật và các biến cố đều xuất phát từ cá nhân ngƣời kể

chuyện” [73, tr.44].

1.3.2. Người kể chuyện với vai trò dẫn dắt, định hướng người đọc

“Trong tiểu thuyết, trong truyện ngắn, những con ngƣời đƣợc tác giả thể

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hiện đều hành động với sự giúp đỡ của tác giả; tác giả luôn bên cạnh họ; tác

32

giả mách cho ngƣời đọc hiểu rõ cần phải hiểu nhƣ thế nào, giải thích cho

ngƣời đọc hiểu những ý nghĩa thầm kín, những động cơ bí ẩn ở phía sau

những hành động của các nhân vật đƣợc miêu tả” [Theo Trần Đình Sử/ 62,

tr.117]. “Tác giả” mà Gorki nói tới ở đây chính là ngƣời kể chuyện. Bởi tác

giả là ngƣời là ngƣời sáng tạo ra tác phẩm nhƣng tác giả không bao giờ xuất

hiện trực tiếp trong tác phẩm đó mà lại hƣ cấu ra ngƣời kể chuyện để thay mặt

mình dẫn dắt ngƣời đọc thâm nhập vào thế giới nghệ thuật.

Trƣớc hết, ngƣời kể chuyện là ngƣời môi giới, gợi mở giúp ngƣời đọc

tiếp cận với nhân vật, hiểu đƣợc những suy nghĩ, nỗi niềm, những động cơ

thầm kín trong hành động của nhân vật, rút ngắn khoảng cách giữa nhân vật

với mình. Trong Dòng nhớ (Nguyễn Ngọc Tƣ), ngƣời kể chuyện đã vừa kể,

vừa tả, vừa giải thích, bình luận giúp ngƣời đọc hiểu rõ hơn về cảnh ngộ của

ngƣời cha, ngƣời má và ngƣời dì. Ngƣời kể chuyện cứ dẫn dắt, gợi mở và

truyền đến ngƣời đọc sự cảm thông đối với cuộc đời, số phận của ba nhân vật.

Không chỉ giúp ngƣời đọc hiểu rõ hơn, sâu sắc hơn về nhân vật mà ngƣời

kể chuyện còn hƣớng ngƣời đọc cùng chia sẻ và đồng cảm với những suy

nghĩ của mình về cuộc đời. Đọc Đời như ý (Nguyễn Ngọc Tƣ) qua lời kể

thƣơng cảm của ngƣời kể chuyện, ngƣời đọc cảm thấy xót xa cho cảnh sống

nghèo khó, cơ cực của gia đình chú Đời: “Nhìn vẻ mặt này không ai nghĩ chú

mù, thấy sao mà tự tin, thanh thản quá chừng. Không ai biết chú khổ còn

hơn… cô Lựu (…). Một ngày của gia đình chú Đời bắt đầu từ sáng sớm, chú

buộc vô mình sợi dây điện nối giữa cây đờn với cái loa con Nhƣ đang cầm, nó

ghịt dây thì chú bƣớc tới, chùng dây thì đứng lại. Con Ý nhỏ con chạy lăng

xăng đằng trƣớc, đứng coi búp bê ngƣời ta chƣng tủ kiếng. Vợ chú vừa đi vừa

ca hát đằng sau, nhặt hoa phƣợng để lên đầu. Cũng giống nhƣ những ngƣời

hát rong khác, nhà chú có cả thảy bốn ngƣời nhƣng trên con đƣờng tấp nập,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trông họ nhỏ nhoi, cô độc làm sao” [84, tr.58-59].

33

Trong nhiều trƣờng hợp, ngƣời kể chuyện còn tiến hành đối thoại, tranh

luận với ngƣời đọc để kiếm tìm và khám phá chân lí cuộc sống. Trong Anh

hùng bĩ vận (Nguyễn Khải), lời kể nhƣ là lời đối thoại của hai ý thức – ngƣời

kể chuyện xƣng tôi đã phân thân để đối thoại với chính mình về nghề viết:

“Anh viết chính trị quá, cao siêu quá bạn đọc sẽ khó mua. Bạn đọc nào? Bạn

đọc của tôi vẫn trung thành với tôi mà? Bạn đọc quen thuộc của anh đã tới

tuổi về hƣu rồi, đã về hƣu tiền ăn còn chả đủ lấy tiền đâu mua sách”. Có nhiều

khi, lời kể mang tính khiêu khích ngƣời đọc: “Này các bạn trẻ, các bạn chớ có

vội cƣời, các bạn chớ có nghĩ một cách tự phụ rằng chỉ có lứa tuổi các bạn

mới biết mãnh lực tình yêu. Không nên chủ quan nhƣ thế! Các bà nội cũng

vẫn có, nếu nhƣ cái ma lực ấy các cụ không tiêu xài quá phung phí lúc thiếu

thời”. Ngƣời kể chuyện hƣớng đích danh đến các bạn trẻ, buộc họ phải tranh

luận, đồng tình hoặc phản đối. Trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ, ngƣời kể

chuyện cũng rất có ý thức trong việc lôi kéo ngƣời đọc cùng tham gia vào câu

chuyện, buộc ngƣời đọc phải lên tiếng, phải đối thoại. Ngôn ngữ của ngƣời kể

chuyện chứa đựng nhiều đối thoại ngầm.

1.3.3. Người kể chuyện thay mặt tác giả trình bày quan niệm về nghệ

thuật, cuộc sống

Khác với các nhà tƣ tƣởng, các nhà văn không trình bày tƣ tƣởng của

mình bằng những lời phát biểu trực tiếp mà trình bày một cách nghệ thuật

thông qua những hình tƣợng mà mình hƣ cấu nên, trong đó có hình tƣợng

ngƣời kể chuyện. Có lẽ tất cả những nhà văn chân chính đều gặp gỡ nhau ở

một điểm là mong muốn thể hiện một tƣ tƣởng về con ngƣời, về cuộc sống.

Qua nhân vật ngƣời kể chuyện ta phần nào thấy đƣợc quan niệm, tƣ

tƣởng của nhà văn về cuộc sống. Trong truyện ngắn của Lỗ Tấn thông qua

nhân vật ngƣời kể chuyện, nhà văn đã bày tỏ thái độ phê phán, phẫn nộ của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

mình đối với chế độ phong kiến ăn thịt ngƣời. Trong Cố hương, nhân vật

34

ngƣời kể chuyện xƣng tôi thể hiện thái độ đau buồn trƣớc xã hội thối nát tạo

nên một bức tƣờng ngăn cách ngƣời với ngƣời: “Tôi đã lớn tiếng yêu cầu xóa

bỏ sự ngăn cách ngƣời lao động với trí thức, đạp đổ bức tƣờng do chế độ

phong kiến dựng lên”. Trong Nhật kí người điên, ngƣời kể chuyện đã phê

phán những kẻ ăn thịt ngƣời, kêu gọi xã hội hãy “cứu lấy trẻ em”.

Trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ, nhà văn đã thông qua nhân vật

ngƣời kể chuyện để bày tỏ những suy nghĩ, mong muốn, thái độ của mình về

mối quan hệ tốt tốt đẹp giữa ngƣời với ngƣời trong cuộc đời. Mối quan hệ ấy,

theo Nguyễn Ngọc Tƣ phải đƣợc giữ gìn, nâng niu, trân trọng và nuôi dƣỡng

cho dù thế giới này có thay đổi đến mức nào đi chăng nữa. Đời ngƣời vốn

ngắn ngủi vì thế “làm ngƣời làm phải cho ngon”, mà muốn đƣợc nhƣ vậy phải

biết chia sẻ lòng nhân từ, sự quan tâm từ chính trái tim mình trƣớc nhất; con

ngƣời trong ứng xử với nhau phải bằng niềm thƣơng yêu chân thành.

Ở Cánh đồng bất tận, nhân vật ngƣời kể chuyện đã gửi gắm một thông điệp:

làm người phải có tấm lòng vị tha: “Đứa bé không cha nhƣng chắc chắn đƣợc

đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của ngƣời lớn”.

đến trƣờng, sẽ tƣơi tỉnh và vui vẻ sống đến hết đời, vì đƣợc mẹ dạy, là trẻ con,

Bên cạnh quan niệm về cuộc sống, qua nhân vật ngƣời kể chuyện ta còn

thấy quan niệm của nhà văn về văn chƣơng nghệ thuật. Đọc truyện ngắn Nam

Cao, tập hợp những suy nghĩ của nhân vật ngƣời kể chuyện lại có thể thấy rõ

quan niệm nhất quán, hệ thống của nhà văn về văn chƣơng. Đó là quan niệm

về mối quan hệ giữa văn chƣơng với hiện thực: “Nghệ thuật không cần là ánh

trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng

kêu đau khổ thoát ra từ những kiếp lầm than” (Trăng sáng). Là quan niệm về

sự cần thiết của tính sáng tạo trong văn chƣơng nghệ thuật: “Văn chƣơng

không cần đến những ngƣời thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đƣa cho.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Văn chƣơng chỉ dung nạp những ngƣời biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những

35

nguồn chƣa ai khơi và sáng tạo những gì chƣa có” (Đời thừa). Trong Đất kinh

kì, qua lời ngƣời kể chuyện Nguyễn Khải cũng đã gửi gắm một quan niệm

khá sâu sắc về văn chƣơng: “Văn chƣơng đâu phải là thứ để dành ƣớp lạnh

đƣợc, không dùng trƣớc thì dùng sau hoặc dùng dần. Nó là sự sống mà lại là

phần thiêng liêng mong manh dễ vỡ nhất của sự sống”.

Từ sự phân tích ở trên có thể khẳng định rằng: ngƣời kể chuyện là nhân

tố đóng vai trò tích cực trong việc tổ chức tác phẩm, dẫn dắt và định hƣớng

ngƣời đọc tiếp cận với thế giới nghệ thuật. Ngoài ra, ngƣời kể chuyện còn là

điểm tựa để tác giả bộc lộ những quan điểm, tƣ tƣởng của mình về nghệ thuật,

cuộc sống. Với những vai trò quan trọng đặc biệt này của ngƣời kể chuyện

nên trong quá trình sáng tác nhà văn rất có ý thức trong việc lựa chọn cho

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

mình một ngƣời kể chuyện thích hợp.

36

Chương 2

NGÔI KỂ VÀ MỘT SỐ LOẠI HÌNH NGƯỜI KỂ CHUYỆN

TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ

2.1. Vấn đề ngôi kể trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

2.1.1. Khái niệm ngôi kể

Lí thuyết hội thoại cho rằng: một hoạt động hội thoại bao giờ cũng có hai

ngôi tham dự là ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai. Trong đó ngôi thứ nhất là

ngƣời nói, ngôi thứ hai là ngƣời nghe, còn ngôi thứ ba là hiện thực đƣợc nói

tới, là vật quy chiếu không tham dự vào hoạt động giao tiếp. Bản thân chức

năng của đại từ ngôi thứ nhất (Tao), ngôi thứ hai (Mày) và ngôi thứ ba (Nó)

cũng chỉ ra điều đó. Chỉ ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai là có chức năng xƣng

hô – chức năng tham dự vào tình huống giao tiếp, ngôi thứ ba thuộc về thế

giới hiện thực đƣợc nói đến.

Kể chuyện cũng là một hoạt động hội thoại, đó là hoạt động hội thoại

giữa ngƣời kể chuyện và ngƣời đọc. Ngƣời kể chuyện có thể kể về mình (kể

về ngôi thứ nhất: tôi, tao, chúng tôi…) hoặc kể về ngƣời khác (kể về ngôi thứ

ba: anh ấy, cô ấy, họ…). Cũng có khi kể về ngôi thứ hai (kể về ngƣời nghe)

nhƣng trƣờng hợp này rất hiếm gặp.

Khái niệm ngôi kể xuất hiện khá sớm ở Việt Nam. Nhà văn Vũ Bằng –

ngƣời bạn cùng thời với nhà văn Vũ Trọng Phụng đã nêu lên vấn đề Viết tiểu

thuyết nên dùng ngôi thứ mấy, bài viết nêu nội dung:

- Kể ở ngôi 1 hay ngôi 3 đều có tác dụng nhất định, không nên tuyệt đối

hóa vai trò của ngôi kể.

- Không nên đồng nhất ngƣời kể ngôi 1 và tác giả - nhà văn.

Cụ thể về những điều này, Vũ Bằng viết: “Về tiểu thuyết hết cãi nhau

nên viết bằng giọng văn gì và thứ văn gì, có ngƣời còn đề khởi lên quan điểm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

này nữa: viết tiểu thuyết nên dùng ngôi thứ mấy. Quan điểm này mới nghe thì

37

tƣởng không lấy gì làm hệ trọng nhƣng có một thời đã gây nên ở trong báo

Nouvelles Litteraies của Larousse một cuộc bút chiến làm cho nhiều nhà văn

để ý. Một bọn tiểu thuyết gia Pháp… theo ý họ những tiểu thuyết mà vai

chính xƣng tôi không thể gọi là tiểu thuyết mà chỉ có thể gọi là những cuốn

sách, cuốn truyện mà thôi. Tiểu thuyết chân chính, tiểu thuyết theo đúng tên

gọi của nó phải dùng ngôi thứ ba” [47, tr.312]. Mƣợn lời của André Maurois,

Vũ Bằng kết luận: “Cứ viết, viết ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba tùy ý. Tôi có

cần biết các ông viết thế nào đâu, chỉ cần biết cuốn sách của ông có làm cho

tôi cảm động không vậy” [47, tr.312].

Quan điểm nêu trên của nhà văn Vũ Bằng rất rõ ràng và đúng đắn. Nhà

văn đã tiếp thu đƣợc những tri thức tự sự học của khoa học tự sự Pháp lúc bấy

giờ. Ông là đại biểu của tầng lớp trí thức ƣu tú của ngƣời Việt, có đƣợc kiểu

tƣ duy khoa học gần ngang bằng với trình độ của tầng lớp trí thức Pháp nói

riêng và Âu Mĩ nói chung những năm 30 thế kỷ trƣớc.

Hầu hết các nhà nghiên cứu chia ngôi kể ngƣời kể chuyện thành: ngƣời

chuyện nào cũng phải chọn lấy một trong hai cách chủ yếu: kể ở ngôi thứ nhất

hay ngôi thứ ba.

kể chuyện ngôi thứ nhất và ngƣời kể chuyện ngôi thứ ba. Bất cứ ngƣời kể

Manfred Jahn trong Trần thuật học – nhập môn lý thuyết trần thuật đƣa

ra định nghĩa, cách hiểu về ngôi kể: “Trần thuật ngôi thứ nhất: câu chuyện

đƣợc kể lại bởi một ngƣời kể chuyện hiện diện nhƣ một nhân vật trong truyện.

Tiền tố “homo” chỉ ra rằng ngƣời kể chuyện cũng là một nhân vật ở cấp độ

hành động. Trần thuật ở ngôi thứ ba: câu chuyện đƣợc kể lại bởi ngƣời kể

chuyện không phải là một nhân vật trong truyện. Tiền tố “hetero” nhắc nhở

đến bản chất khác nhau giữa thế giới của ngƣời kể với thế giới của hành

động” [34, tr.7].

Trần thuật ngôi thứ nhất: Homodiegetic Narrative. Homo nghĩa là bản

nhân vật.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chất giống nhau. Tức là ngƣời kể chuyện có hành động mà bản chất giống với

38

Trần thuật ngôi thứ ba: Heterodiegetic Narrative. Hetero nghĩa là bản

chất khác nhau. Ở câu chuyện đƣợc kể ở ngôi thứ ba thì có sự khác biệt về

mặt bản chất “giữa thế giới của người kể với thế giới của hành động” [34,

tr.7]. Ngƣời kể chuyện ngôi 3 không tham gia vào hành động câu chuyện

nghĩa là đứng ngoài thế giới của hành động. Ngƣời kể chuyện có thể lộ diện,

có thể chỉ đứng ngoài mà quan sát, chứng kiến, nhận xét, bình luận.

“Kể ở ngôi thứ nhất”, khái niệm này đƣợc sử dụng khá rộng rãi, phổ biến

và dễ đƣợc chấp nhận. Nhƣng khái niệm “kể ở ngôi thứ ba” thì còn một số

lầm lẫn khi nhận diện nó.

Truyện kể ở ngôi thứ nhất tƣơng ứng với việc sử dụng trong văn bản các

đại từ nhân xƣng ngôi 1 - số ít: tôi, ta, tao, mình; số nhiều: chúng tôi, chúng

ta, chúng tao, chúng mình… hoặc trực tiếp xƣng tên họ mình. Truyện kể ngôi

ba tƣơng ứng với các đại từ nhân xƣng: nó, thằng, anh ta, bà ấy, ông ấy…

hoặc gọi thẳng tên, gọi biệt danh, tục danh. Nhƣng đại từ nhân xƣng ngôi thứ

nhất và ngôi thứ ba không phải là tiêu chí quan trọng nhất, duy nhất xác định

đặc trƣng bản chất của truyện kể ngôi 1, ngôi 3.

Theo Lê Phong Tuyết

+ Nếu ngƣời kể chuyện tham gia vào câu chuyện thì chuyện đƣợc kể ở

ngôi thứ nhất. Ngƣời ta sẽ phân biệt hai trƣờng hợp: ngƣời kể chuyện là nhân

vật chính; ngƣời kể chuyện là nhân vật phụ đóng vai trò nhân chứng và chỉ kể

lại những gì anh ta nhìn thấy và nghe thấy.

+ Nếu ngƣời kể chuyện không tham gia vào chuyện thì chuyện đƣợc kể ở

ngôi thứ ba và sẽ có hai trƣờng hợp: ngƣời kể chuyện đứng ngoài các sự vật,

trình bày chúng không có bình luận; ngƣời kể chuyện chứng tỏ sự hiện diện

của mình qua những đánh giá hoặc bình luận.

Trong một chuyện kể ở ngôi thứ nhất, các sự kiện đƣợc kể theo điểm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhìn của ngƣời kể chuyện, chính anh ta bình luận các sự việc. Trong một

39

chuyện kể ở ngôi thứ ba, ngƣời kể chuyện có thể có một điểm nhìn bên

ngoài, một điểm nhìn bên trong hoặc điểm nhìn của ngƣời thông tỏ mọi

việc. [Theo 79, tr.131].

Với một tác phẩm thuộc loại hình văn học tự sự, phƣơng thức tự sự đóng

vai trò đặc biệt quan trọng. Cùng một câu chuyện nhƣng nếu đƣợc sử dụng

các phƣơng thức tự sự khác nhau có thể sẽ đem lại những hiệu quả nghệ thuật

khác nhau, và thông tin mà ngƣời đọc tiếp nhận đƣợc từ câu chuyện ấy cũng

có thể rất khác nhau. Nghệ thuật tự sự không đơn thuần là cách kể sao cho câu

chuyện trở nên đậm đà ý vị mà đó còn là cách nhà văn lí giải sự vật hiện

tƣợng một cách sâu sắc, hiệu quả. Nhà văn thƣờng lấy các trạng thái tâm lý,

tình cảm, suy tƣ, những diễn biến của ý thức nhân vật làm đối tƣợng miêu tả.

Truyện Nguyễn Ngọc Tƣ phần nhiều không chứa đựng những mâu thuẫn kịch

tính, những tình tiết li kì, gay cấn, đó hầu hết chỉ là những câu chuyện giản dị,

đơn sơ, mộc mạc. Thế nhƣng, viết về những đề tài hết sức gần gũi quen thuộc

ấy, các thiên truyện của chị vẫn không đơn điệu mà chứa nhiều sức gợi cảm

và suy nghĩa sâu xa. Có thể chỉ là mẩu chuyện nhỏ của cuộc sống đời thƣờng

song chúng chuyển tải ý nghĩa lớn lao về cách ứng xử, mối quan hệ giữa con

ngƣời - con ngƣời… Để kể truyện đời thƣờng mà đầy sức thuyết phục,

Nguyễn Ngọc Tƣ đã thể hiện một khả năng đặc biệt trong việc vận dụng các

phƣơng thức tự sự.

2.1.2. Người kể chuyện ngôi thứ nhất

Các nhà văn đƣơng đại thƣờng thiên về tìm tòi đổi mới cách kể, họ quan

tâm nhiều hơn tới vấn đề cách kể nhƣ thế nào hơn là vấn đề kể cái gì. Điều này

cũng hợp quy luật vì nó đẩy cách sáng tạo, cách hiểu, cách tiếp nhận về gần hơn

với đặc trƣng thẩm mỹ của văn học. Nguyễn Ngọc Tƣ là một tên tuổi nổi bật trên

văn đàn Việt Nam trong những năm gần đây. Mảng sáng tác nổi bật nhất và thu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hút đƣợc sự chú ý, quan tâm rộng rãi của chị chính là truyện ngắn. Nói đến cái

40

hay của truyện Nguyễn Ngọc Tƣ là nói đến cái hay trong xây dựng hình tƣợng

ngƣời kể chuyện, cái hay của cách kể chuyện. Thống kê trong các tập truyện

ngắn của chị ta thấy truyện ngắn trần thuật từ ngôi thứ nhất chiếm tỉ lệ không

nhỏ. Đây là hệ quả của những đổi mới trong tƣ duy nghệ thuật khi văn học từ

quan niệm con ngƣời tập thể chuyển thành con ngƣời cá thể, quan tâm nhiều hơn

đến chủ thể sáng tạo và sự sống cá nhân. Với ngôi trần thuật này, ngƣời kể

chuyện xƣng tôi có vai trò to lớn trong việc quyết định cấu trúc tác phẩm cũng

nhƣ toàn quyền miêu tả những nhân vật khác từ điểm nhìn của bản thân.

Trong nhiều truyện, ngƣời kể chuyện xƣng tôi là nhân vật chính đóng vai

trò kể chuyện từ đầu đến cuối (Ngổn ngang, Một mối tình, Khói trời lộng lẫy,

Của ngày đã mất, Vết chim trời, Thổ sầu, Nhà cổ). Ngƣời kể chuyện là nhân

vật tôi tự kể chuyện của mình, kể những gì liên quan đến mình. Các tác phẩm

kể theo ngôi thứ nhất này của Nguyễn Ngọc Tƣ không lấy sự kiện, tình tiết

làm trọng mà chú ý thể hiện đời sống nội tâm phong phú, phức tạp của con

ngƣời. Đây là những dòng tâm sự, tâm trạng của Út Nhỏ – ngƣời kể chuyện

xƣng tôi trong truyện ngắn Nhà cổ khi chứng kiến tình yêu ngang trái giữa hai

anh em với một ngƣời phụ nữ: “Năm tôi mƣời sáu tuổi, qua bên đó chơi, biết

hai anh đều lặng lẽ để bụng thƣơng chị Thể mất rồi (…). Nên chị Thể chọn ai

tôi đều thƣơng ngƣời còn lại. Ở ngoài cuộc, hai má con tôi phân tích kĩ lƣỡng,

tôi nói anh Phƣơng đáng để thƣơng, anh Phƣơng cao ráo, thanh mảnh, miệng

nhỏ, mắt sâu, trán cao, ăn nói nhỏ nhẹ là ngƣời thông minh” [83, tr.69-70].

Là những lời giãi bày, bộc bạch của nhân vật “tôi” trong Vết chim trời kể về

câu chuyện của gia đình mình. Một gia đình đang sống trong yên bình hạnh

phúc nhƣng trong khoảng khắc dấu vết chiến tranh hiện về đã phá vỡ không

khí yên bình đó: “Sau này, long đong với bao biến cố cuộc đời, chen lấn tranh

giành, bị tạt vào mặt những câu từ khó nghe, phũ phàng nhất, nhƣng tôi thề

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

rằng chẳng câu nói nào đau đớn và nghiệt ngã nhƣ lời thốt ra từ cái miệng

41

mếu máo của bà nội. Trời đất lặng phắt. Một mũi tên nào đó xé gió đâm thẳng

vào tim cha (…). Tôi xuống nhà, lặng lẽ ngồi nhìn bà nội ngủ say, không biết

bà đã đau, đã day dứt đến mức nào khi hai đứa con trai của bà lại đứng ở hai bờ chiến

sự, đến nỗi trong cơn quên nhớ lẫn lộn, lại để tiếng khóc rơi ra” [85, tr.7-16-17].

Trong những câu chuyện có ngƣời kể chuyện trực tiếp xƣng tôi ngôi thứ

nhất, ngƣời kể không chỉ kể mà còn là một nhân vật, và biểu hiện những suy

nghĩ, tình cảm, quan niệm, ngôn ngữ, giọng điệu của một con ngƣời cụ thể.

Vì thế câu chuyện không chỉ lôi cuốn sự chú ý của ngƣời đọc theo dòng các

sự kiện mà còn lôi cuốn ngƣời đọc vào cả lời kể, cách kể. Nhờ thế đã tạo ra

hai hiệu quả: tạo ra ảo giác ở độc giả về tính khách quan của nội dung câu

chuyện và thể hiện đậm nét dấu ấn chủ quan của ngƣời kể chuyện. Trong

Cánh đồng bất tận, Nƣơng - một cô gái mới lớn còn bỡ ngỡ trƣớc những sóng

gió va đập của cuộc đời đang kể lại câu chuyện của gia đình cô và của chính

cô. Truyện đƣợc bắt đầu từ một thời điểm hiện tại rồi ngƣợc về quá khứ sau

đó lại tiếp tục ở thời tƣơng lai. Mở đầu là cảnh cô gái điếm bị đám đông đánh

đập sau đó ngƣợc về quá khứ nói về nguyên nhân gia đình tan vỡ rồi kể tiếp

đến cuộc sống lênh đênh sông nƣớc của ba cha con, chuyện trả hận đàn bà của

ngƣời cha và cảnh Nƣơng bị cƣỡng hiếp trên cánh đồng. Câu chuyện đƣợc kể

bởi một cô gái trẻ nên mang nhiều nét hồn nhiên và rất tự nhiên nhƣ là câu

chuyện mới xảy ra gần đây thôi. “Tôi” là một cô gái quê mùa giản dị, mộc

mạc, chân chất, thật thà, hồn nhiên kể, vì thế mà độc giả hầu nhƣ không thấy

dấu vết của sự hƣ cấu. Nhân vật nhƣ chỉ sống với chính mình, ngƣời đọc bị

kéo vào câu chuyện và đi theo bƣớc chân nhân vật, theo dòng hồi tƣởng miên

man của nhân vật. Thời điểm xảy ra câu chuyện và thời điểm kể rất gần nhau,

vì vậy mà tính thời sự của câu chuyện còn nóng hổi. Trong suốt 56 trang đầu,

Cánh đồng bất tận là câu chuyện đƣợc kể bởi một ngƣời kể chuyện xƣng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

“tôi”, ngƣời kể đồng thời cũng là nhân vật trong truyện kể. Với ngôi kể và

42

cách kể này tƣởng chừng nhƣ truyện sẽ rơi vào sự tẻ nhạt của lời văn một

giọng đơn điệu nhƣng Nguyễn Ngọc Tƣ đã vƣợt qua thách thức đó, một điểm

nhìn nhƣng là điểm nhìn của ngƣời kể chuyện xƣng “tôi” - ngôi thứ nhất,

điểm nhìn này luôn di chuyển trên trục thời gian gấp khúc (hiện tại - quá khứ

- tƣơng lai) soi chiếu trên một toạ độ không gian rộng nên đã tạo ra ở lời văn

tính chất nhiều giọng, lời văn hồn nhiên mà nhiều cảm xúc.

Các truyện: Tình lơ, Cái nhìn khắc khoải, Dòng nhớ, Núi lở cũng

đƣợc kể bởi một ngƣời kể chuyện xƣng “tôi”. Nhƣng ngƣời kể chuyện ở các

truyện ngắn này chỉ đóng vai trò ngƣời dẫn chuyện chứ không tham gia vào

các sự kiện, tình huống trong truyện. Ngƣời kể chuyện là ngƣời quan sát, cảm

nhận và kể lại những điều nhìn thấy hoặc nghe thấy đƣợc. Anh ta luôn cố ý

gợi cho ngƣời đọc cảm giác tin tƣởng rằng, những điều anh ta kể ra ở đây là

có thật, đồng thời gián tiếp thừa nhận rằng những câu chuyện đƣợc kể lại xuất

phát từ cảm nhận cá nhân của anh ta. Ngƣời kể chuyện trong các truyện ngắn

này sau khi giới thiệu hoàn cảnh trần thuật của mình thì đóng vai trò là ngƣời

kể chuyện từ điểm nhìn bên ngoài. Tính cách, phẩm chất của các nhân vật

hiện lên thông qua sự miêu tả khách quan ngoại hình, hành động, lời nói trong

mối quan hệ với các nhân vật khác. Câu chuyện đƣợc kể ở thì hiện tại, không

xuất hiện những đoạn thể hiện cảm xúc, tâm trạng hay sự hồi cố của nhân vật.

Lời kể chủ yếu là lời tả.

Trần thuật từ ngôi thứ nhất xƣng tôi là “một phƣơng thức biểu đạt độc

đáo mập mờ quy về cả tác giả, cả về ngƣời kể chuyện và cả về nhân vật” [6,

tr.37]. Roland Barthes cho rằng so với vai “nó”, vai “tôi” ít tính nƣớc đôi hơn,

nên chính vì thế cũng ít tính tiểu thuyết hơn. Vì ít tính nƣớc đôi nên phƣơng

thức kể từ ngôi thứ nhất thƣờng tạo độ tin cậy nhất định. Ngƣời đọc cũng dễ

dàng thâm nhập vào thế giới nội tâm đầy phức tạp và bí ẩn của nhân vật qua

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lời kể trung thực, chân thành của chính họ. Phải chăng đây là lí do khiến

43

nhiều cây bút truyện ngắn Việt Nam đƣơng đại ƣa chuộng hình thức trần thuật

từ ngôi thứ nhất.

2.1.3. Người kể chuyện ngôi thứ ba

Khác với loại truyện kể ở ngôi thứ nhất với ngƣời kể chuyện xuất hiện

trực tiếp xƣng “tôi” (hoặc “chúng tôi”) là loại truyện kể ở ngôi thứ ba và

ngƣời kể chuyện trong trƣờng hợp này là ngƣời kể chuyện ngôi thứ ba hay là

ngƣời kể hàm ẩn. Khảo sát truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ chúng tôi thấy đa

phần ngƣời kể chuyện xuất hiện ở ngôi thứ ba.

Tán thành với quan niệm của Nguyễn Thị Thu Thủy trong bài viết Về

khái niệm “truyện kể ở ngôi thứ ba” và “người kể chuyện ở ngôi thứ ba” [63,

tr.145], chúng tôi cũng phân chia ngƣời kể chuyện ngôi thứ ba trong truyện

của Nguyễn Ngọc Tƣ thành hai loại: ngƣời kể chuyện hàm ẩn kể theo điểm

nhìn của anh ta và ngƣời kể chuyện hàm ẩn kể theo điểm nhìn nhân vật.

Ở những truyện có ngƣời kể chuyện hàm ẩn kể theo điểm nhìn của anh

ta, câu chuyện đƣợc kể với ngƣời kể chuyện nhƣ đứng kín đáo ở một chỗ nào

đó, chứng kiến hết mọi sự việc xảy ra nhƣng không tự mình trực tiếp tham gia

vào các diễn biến. Câu chuyện vì thế đƣợc kể lại một cách khách quan, ngƣời

kể chuyện nói về các sự kiện với một sự điềm đạm, thấu đáo, với một cái tài

biết hết. Chẳng hạn Hiu hiu gió bấc, câu chuyện đƣợc kể bởi ngƣời kể chuyện

ngôi thứ ba. Từ ngôi kể đó, với cái nhìn khách quan ngƣời kể chuyện tỏ ra am

hiểu mọi tình cảm, suy tính của nhân vật: “Chỉ buổi chiều, chị mới ra ngồi ở

đó. Buổi chiều, lúc mặt trời vừa khuất sau vƣờn chuối, anh Hết hay ghé lại để

mua một ngàn mỡ nƣớc, năm trăm bột ngọt, năm trăm tiêu. Chị cố bán thật rề

rà để nhìn anh lâu nữa, coi bữa nay chắc anh đi vác lúa đằng nhà máy chà

gạo, trên tóc còn vƣớng trấu. Nhìn vậy thôi chớ không nói gì hết. Con trâu

không nói sao cái cọc nói đƣợc. Nhƣng vẫn cứ đón chờ, có khi sớm, khi muộn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hơn một chút nhƣng chị biết thể nào thì anh cũng về qua, về để nấu cơm cho

44

tía anh” [83, tr.30]. Hay trong Có con thuyền đã buông bờ…, ngƣời kể chuyện

ngôi ba đứng ở một nơi nào đó khá gần với nhân vật mà quan sát, phân tích,

thấu hiểu từng hành động, cử chỉ, thái độ của nhân vật: “Bế cũng cƣời, thấy

lƣng mỏi rã ra, vì đã phải dựng lên lâu quá, cô muốn thả nó trôi xuôi. Nhƣng

nhƣ vậy thì cô sẽ không có cái dáng dấp thong dong thành thị, cô lại ƣỡn ngực

và thẳng lƣng lên. Bế giữ cái dáng đi mà cô cho là sang trọng, đủng đa đủng

đỉnh ngƣợc hết chợ rồi lại quay xuống. Cô ngơ ngác nghiêng ngó, đâm sầm

vào vài ngƣời trƣớc mặt mình” [86, tr.37]. Ngƣời kể chuyện có vị trí quan sát

ở bên ngoài thế giới nhân vật, ngƣời kể chuyện không kể theo điểm nhìn của

một nhân vật nào cả mà kể theo điểm nhìn của chính mình. Theo quan niệm

của Booth và những ngƣời cùng quan niệm thì chỉ ngƣời kể chuyện trong

trƣờng hợp này mới đƣợc gọi là ngƣời kể chuyện hàm ẩn. Nhƣng chính ở đây

thì W. Booth và nhiều ngƣời khác đã nhầm vì các tác giả chƣa phân biệt rõ

ràng chủ thể quan sát và chủ thể lời nói nên đã đồng nhất ngƣời phản ánh với

ngƣời kể lại những hành vi của ngƣời phản ánh đó. Mà thực tế thì đây chỉ là

một trƣờng hợp của ngƣời kể chuyện hàm ẩn.

Trong những truyện có ngƣời kể chuyện hàm ẩn kể theo điểm nhìn nhân

vật, ngƣời kể chuyện đã khéo léo trao cho nhân vật nhiệm vụ kể chuyện. Ở

đây, ngƣời kể chuyện đã hòa vào nhân vật đến mức ta khó phân biệt đƣợc

giọng kể của ngƣời kể chuyện với giọng kể của nhân vật. Và thƣờng thì chỉ

nhận thấy giọng nhân vật, giọng nhân vật nổi trội hơn. Chẳng hạn nhƣ trong

Biển người mênh mông, ngƣời kể chuyện đã tựa vào hành động của nhân vật

Phi để kể: “nắm tay đỡ ông dậy, xốc ông lên vai nhƣ xốc một đứa bé lên

mƣời”, “Phi đi bắt rắn mối cho nó ăn”, “Phi giở cửa lồng, con bìm bịp đập

cánh xao xác”… Ngƣời kể chuyện quan sát và cảm nhận theo cảm nhận của

Phi: “Má cũng hay về thăm Phi, thƣờng là về một mình. Tất bật, vội vã,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

không làm gì cũng vội vã”, “Ba Phi thì hội họp, công tác liên miên, Phi ít gặp.

45

Ông thay đổi nhiều, tƣớng tá, diện mạo, tác phong nhƣng gặp Phi, cái nhìn

vẫn nhƣ xƣa, lạnh lẽo, chua chát, lại nhƣ giễu cợt đắng cay. Mà, ba thì dứa

khoát không nhìn con nhƣ vậy”… Trƣớc hết Phi là nhân vật hành động, là

chủ thể của hành động đƣợc kể lại, là chủ ngữ trong câu, anh thuộc về hiện

thực đƣợc nói đến. Nhƣng mặt khác, đọc tác phẩm này ta thấy xuyên suốt

truyện Phi cũng không phải là ngƣời kể chuyện xƣng bằng tên riêng mà có

một ngƣời nào đó nữa đang kể về Phi, kể về các nhân vật khác trong truyện.

Nhƣ vậy khi nói về câu chuyện của Phi trong mối quan hệ với ba má, với ông

già Sáu Đèo thì phải có một ngƣời khác làm công việc ghi biên bản, kể lại

những điều đó. Ngƣời ghi lại biên bản trong trƣờng hợp này không ai khác

chính là ngƣời kể hàm ẩn. Ngƣời kể chuyện đã ẩn đi, đứng đằng sau nhân vật

và các sự kiện để kể bằng cách đẩy nhân vật ra mắt độc giả. Và vì thế, trƣớc

mắt độc giả không thấy ngƣời nói, chỉ thấy hiện thực đƣợc trình bày. Chuyện

của Điệp, ngƣời kể chuyện hàm ẩn đã tựa vào điểm nhìn của nhân vật Điệp để

kể chuyện. Có nhƣ vậy, anh ta mới dễ dàng thâm nhập vào đời sống nội tâm

của nhân vật: “Điệp thấy ngoại rớt nƣớc mắt. Từ đó về sau Điệp luôn nói nhớ

má, nhớ má quá. Má lâu lâu mới về một lần. Có khi về có bầu, có khi về ẵm

theo em bé. Điệp đi đoàn, ít gặp má. Thôi không nhắc má nữa. Điệp thờ ơ, coi

nhƣ đó là một cách hành hạ má. Nghĩ cũng lạ, ở đời ngƣời ta tƣởng đâu chửi

mắng xâu xé nhau là mất tình. Lợt lạt nhau thì cũng có tình gì đâu” [88, tr.52-

53]. Hay trong truyện Nước chảy mây trôi, ngƣời kể chuyện hàm ẩn cũng đã

mƣợn giọng của một nhân vật trong truyện để kể - nhân vật Diệp. “Hôm trƣớc

ngày đi Đất Mới khai giảng niên học mới, Diệp chở mẹ đi nhổ răng. Trên

đƣờng về, Diệp nghe nƣớc mắt mẹ rớt trên lƣng mình. Mẹ than buồn, vì

miệng còn ngậm bông gòn nên giọng mẹ bệu bạo (hay tại khóc?), mẹ nói

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

không biết thầy Nhiên có chê mẹ già không. Diệp biết mẹ nói không thất, mẹ

46

khóc vì mai này mẹ đã xa Diệp mất rồi, chứ hai mẹ con Diệp hiểu thấu tới đáy

lòng, thầy Nhiên không phải là ngƣời coi trọng mấy chuyện lặt vặt đó (…).

Bữa cơm nào ba cũng tự tay rửa rau, dù mẹ rửa rồi, ba cũng phải rửa lại (Diệp

ngờ rằng, tình yêu của mẹ đã mất mát từ chuyện ấy, đến rửa rau mà cũng

không tin nhau). Ba không ăn ở quán vỉa hè, cự tuyệt những món ăn nhƣ

mắm, ba nói ăn vậy là không vệ sinh. Ba buộc mẹ mỗi tuần phải nấu sáu bữa

canh bí đỏ, để Diệp ăn cho thông minh, học giỏi, nối nghiệp ba. Nhƣng Diệp

chỉ thích làm cô giáo. Một cô giáo sẽ không vì đám học trò ngỗ nghịch mà

nguôi đi lòng thƣơng yêu, không vì danh hiệu thi đua này nọ mà nguôi đi tâm

huyết của mình. Giống nhƣ thầy Nhiên vậy” [88, tr.133-136]. Từ điểm nhìn

của Diệp, ta hình dung mối quan hệ giữa những nhân vật trong truyện kể với

nhau nhƣ thế nào: mẹ, bố Diệp, thầy Nhiên là đƣợc nhìn từ Diệp, trong mối

quan hệ với Diệp. Với kiểu kể này, ngƣời kể chuyện đã dễ dàng nắm bắt đƣợc

đời sống nội tâm của các nhân vật, dễ dàng hòa vào cái gia đình của Diệp và

đặt từng thành viên của gia đình ấy trƣớc độc giả mà không cần một lời giới

thiệu nào. Kiểu kể này còn tạo nên ở ngƣời đọc những cảm giác trực tiếp, gần

gũi với thế giới nhân vật khiến chúng ta không có cảm giác đang nghe kể mà

là đang đƣợc chứng kiến trực tiếp câu chuyện của gia đình Diệp.

2.1.4. Ngôi kể trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư – những vấn đề cần

bàn luận

Ngƣời kể chuyện là một nhân vật trong tác phẩm văn học tự sự. Tác giả

đã sáng tạo ra nhân vật này cũng nhƣ đã sáng tạo ra các nhân vật khác trong

truyện. Nhƣng khác với các nhân vật khác, nhân vật ngƣời kể chuyện đƣợc

tác giả trao cho nhiệm vụ (chức năng) đặc biệt là kể lại câu chuyện, hoặc tổ

chức để câu chuyện được kể ra, sao cho tác phẩm văn học trở thành một

chỉnh thể thẩm mĩ, thống nhất, toàn vẹn. Về ngôi thứ kể của ngƣời kể chuyện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ta thƣờng gặp ngƣời kể chuyện ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba, rất ít khi tồn

47

tại ngƣời kể chuyện ngôi hai. Truyện ngắn của nữ nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tƣ

cũng theo lẽ thƣờng này nhƣ chúng tôi vừa trình bày, phân tích, dẫn giải ở trên.

Nhƣng một số truyện của Nguyễn Ngọc Tƣ, ngôi kể trong truyện có

điểm khá riêng biệt so với các tác giả văn xuôi khác trong quá khứ cũng nhƣ

hiện tại. Chúng tôi chƣa định danh (gọi tên) đƣợc hiện tƣợng này, nên bƣớc

đầu xin đƣợc nêu lên là: Thông thƣờng trong mọi tác phẩm văn học tự sự bao

giờ cũng có ngƣời kể chuyện tồn tại ở ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba. Dù cho

ngƣời kể chuyện có để cho một vài nhân vật khác kể những khúc, đoạn, thậm

chí kể toàn bộ câu chuyện, thì ngƣời kể chuyện vẫn hiện diện với vai trò là

nhân vật bao quát, chỉ đạo toàn bộ truyện kể. Chính vì vậy, trong lí thuyết về

tự sự học cũng nhƣ thực tiễn của việc nghiên cứu phê bình văn học (dựa vào

tự sự học) ngƣời nghiên cứu đã xác định một cách rành rọt ngôi kể trong một

tác phẩm là ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba.

Nhƣng ở một số truyện của Nguyễn Ngọc Tƣ, sự thể không diễn ra nhƣ vậy.

Một chuyện hẹn hò, 10 trang đầu của truyện do ngƣời kể chuyện ẩn danh

(ngôi thứ ba) kể câu chuyện hẹn hò của một ngƣời phụ nữ với một ngƣời đàn

ông theo điểm nhìn, lời lẽ, giọng điệu của một nhân vật trong truyện (Cóc).

Họ là những cƣ dân ven biển, ngƣời phụ nữ đã chèo thuyền ra cái chòi ở đầm

ven biển – nơi nuôi thả hải sản trong thời điểm cơn bão sắp ập về:

“Cóc không thể kể tiếp, bởi vì nó phải lấy tay che mắt. Không thể kể, bởi

kể ra ngƣời ta sẽ phát hiện ra nó đang dòm lén qua kẽ tay, sẽ phát hiện ra Cóc

cũng giống nhƣ những kẻ tầm thƣờng (…), nó phát hiện ra chuyện không

may. Xuồng trôi. Cả hai chiếc đều tuột dây (…). Cóc hoảng hồn, nhảy chồm

lên, kêu “Xuồng trôi kìa! Xuồng trôi mất tiêu kìa!” [85, tr.110].

Lúc ngƣời phụ nữ giật mình thức dậy chị hoảng hồn kêu lên từng tiếng:

“ - Trời ơi! Anh! Ai lấy xuồng mình rồi. Mất hết rồi.

Cóc mắc cƣời, mƣa bão nhƣ vầy ai mà mò ra giữa đầm lấy xuồng. Nó trôi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

rồi bà chị ơi. Tui kêu rã họng, mấy ngƣời không nghe, ráng chịu…” [85, tr.110].

48

Ngay sau 10 trang là 8 dòng kết thúc truyện:

“Những ngày sau bão, tôi thƣờng một mình ra Đầm Sầu, tôi tự hỏi cơn

gió nào đã hắt mẹ tôi khỏi xuồng, và nơi nào mẹ ngã xuống, nơi nào mẹ bị

bão lấp vùi? Không đánh dấu đƣợc vào nƣớc, tôi khắc lên be xuồng, gần lái,

chỗ mẹ hay ngồi bơi. Một lần, ghé lại căn chòi hoang, tôi thấy con Cóc đang

nhìn mình, nhƣ khóc. Hay vì tôi đang khóc, nên nghĩ vậy…” [85, tr.116].

Đại từ “tôi” đã xuất hiện rành rẽ nên 8 dòng cuối của truyện đƣợc kể bởi

ngƣời kể chuyện ngôi thứ nhất. Vì vậy không thể xác định Một chuyện hẹn hò

có ngôi kể ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba mà ngôi kể của truyện phải là cả

ngôi thứ nhất cả ngôi thứ ba. 10 trang đầu có ngƣời kể ẩn danh ngôi ba còn 8

dòng văn bản cuối của truyện là ngôi kể thứ nhất. Không có một ngƣời kể

chuyện duy nhất, thống nhất, đủ sức bao quát cả đoạn văn trong văn bản vừa

nêu trên.

Ở Cánh đồng bất tận, trong 56 trang đầu của truyện đƣợc kể với ngƣời

kể chuyện xƣng tôi – một nhân vật trong truyện (ngƣời con gái tên Nƣơng).

Mở đầu truyện ta biết đƣợc một số thông tin: “Con kinh nhỏ nằm vắt qua một

cánh đồng rộng. Khi chúng tôi quyết định dừng lại, mùa hạn hung hãn dƣờng

nhƣ cũng gom hết nắng đổ xuống nơi này (…). Cha tôi tháo cái khung tre

chắn dƣới sàn ghe (…). Tôi bƣng cái cà ràng lên bờ nhóm củi” [83, tr.163-

164]. Cứ thế, xuyên suốt 56 trang, câu chuyện đƣợc kể từ ngôi thứ nhất.

Nhƣng đến 18 dòng kết thúc truyện, ta đọc đƣợc nhƣ sau: “…Mặt trời le

lói ánh sáng trở lại khi trên đồng chỉ còn hai thân thể nhàu nhừ. Ai đó vãi

từng chùm chim én lên cao, chúng cố trao liệng để khỏi phải rơi nhƣ lá.

tìm bất cứ cái gì để có thể che cơ thể nó dƣới mặt trời. Dƣờng nhƣ đứa con gái

đang chết, chỉ đôi mắt là rƣng rức chớp mở không thôi. Câu đầu tiên nó hỏi:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Ngƣời cha cởi cái áo trên ngƣời để đắp lên đứa con gái. Ông ta bò quanh nó,

49

- Không biết con bị có con không, hả cha?

Nó hơi sợ hãi. Cảm giác một cái gì, nhỏ xíu nhƣng lanh lợi nhƣ con

loăng quăng đang ngụp lặn trong nó. Đứa con gái thoáng nghĩ, rớt nƣớc mắt,

trời ơi, có thể mình sẽ sinh con. Nhƣng nó chấp nhận việc ấy, dù phũ phàng

(với nó, chấp nhận cũng là một thói quen).

Đứa bé đó, nhất định nó sẽ đặt tên là Thƣơng, là Nhớ hay Dịu, Xuyến,

Hƣờng… Đứa bé không cha nhƣng chắc chắn đƣợc đến trƣờng, sẽ tƣơi tỉnh

và vui vẻ sống đến hết đời, vì đƣợc mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi

lầm của ngƣời lớn” [83, tr.218].

18 dòng này của văn bản này là lời kể của ngƣời kể chuyện ẩn danh ngôi

thứ ba. Và điều đó có nghĩa là không thể khẳng định mà không đính chính,

không cần giải thích thêm ngôi kể của Cánh đồng bất tận là ngôi thứ nhất hay

ngôi thứ ba (chỉ đƣợc chọn một trong hai ngôi vừa nêu).

Truyện Nước như nước mắt cũng có hiện tƣợng tƣơng tự. Trong 21 trang

đầu của truyện đƣợc kể bởi một ngƣời kể chuyện hàm ẩn ngôi thứ ba. Ngƣời

kể chuyện ngôi ba kể về cuộc đời của Sáo: lấy chồng rồi chồng Sáo bị ngƣời

ta hại chết, Sáo tìm cách trả thù cho chồng nhƣng kẻ thù của Sáo lại chính là

ngƣời yêu cô và ngƣời đó vẫn chờ đợi cô suốt bảy năm. Ở đây, ngƣời kể

chuyện đã ẩn đi, đứng đằng sau nhân vật và các sự kiện đƣợc kể.

Nhƣng ở đoạn cuối (3 dòng) của truyện ta bắt gặp một ngƣời kể xuất

hiện trực tiếp xƣng “tôi”: “… Đoạn, có ngƣời hỏi rồi hai đứa đó ra sao. Tôi

không biết, tôi đâu có lội theo chi. Thấy đi thì biết đã đi, vậy thôi” [86, tr.30].

Với sự xuất hiện của hai ngƣời kể chuyện với hai ngôi kể (ngƣời kể

chuyện ngôi thứ nhất trong 21 trang đầu truyện và ngƣời kể chuyện ngôi thứ

ba ở 3 dòng cuối) thì truyện ngắn Nước như nước mắt không có một ngƣời kể

chuyện duy nhất và nhƣ vậy cũng không có ngƣời kể chuyện với một ngôi kể

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

duy nhất.

50

Qua việc khảo sát vừa nêu trên chúng tôi thấy ở một số truyện của

Nguyễn Ngọc Tƣ, ngôi kể của ngƣời kể chuyện không hiện diện duy nhất.

Nói cách khác, một số truyện của chị không có một ngƣời kể chuyện duy

nhất, bao quát, quán xuyến, thống trị toàn bộ truyện kể bởi trong truyện đã tồn

tại hai ngôi kể cả ngôi thứ nhất và cả ngôi thứ ba. Hai ngôi kể này có vai trò,

chức năng ngang quyền nhau.

2.2. Một số loại hình người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

Nếu dựa theo những tiêu chí khác nhau ta sẽ có những cách phân loại

khác nhau về loại hình ngƣời kể chuyện. Dựa vào mối quan hệ giữa ngƣời kể

chuyện và ngƣời đọc ta có ngƣời kể chuyện không đáng tin cậy và ngƣời kể

chuyện đáng tin cậy; dựa vào thái độ của ngƣời kể chuyện đối với cái đƣợc kể

ta có ngƣời kể chuyện khách quan và ngƣời kể chuyện chủ quan… Trong luận

văn này chúng tôi dựa trên tiêu chí điểm nhìn để chia ngƣời kể chuyện trong

truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ thành các loại hình: ngƣời kể chuyện kể theo

điểm nhìn hạn chế - điểm nhìn của nhân vật và ngƣời kể chuyện kể theo điểm

nhìn toàn tri – ngƣời kể chuyện kể theo điểm nhìn biết hết.

2.2.1. Người kể chuyện kể theo điểm nhìn hạn chế

* Đây là trƣờng hợp ngƣời kể chuyện hạn chế điểm nhìn tự sự của

mình và điểm nhìn của nhân vật, anh ta thâm nhập vào cảm xúc, suy nghĩ của

nhân vật, nhìn thế giới theo con mắt của nhân vật. G.Genette gọi đây là

“ngƣời kể chuyện kể với tiêu cự bên trong” còn Todorov gọi là “ngƣời kể

chuyện bằng nhân vật”. Trong trƣờng hợp này, khoảng cách giữa nhân vật và

ngƣời kể chuyện dƣờng nhƣ không còn, nhân vật không còn điều gì bí ẩn đối

với ngƣời kể chuyện. Ngƣời kể chuyện có khả năng am hiểu sâu sắc mọi uẩn

khúc trong tâm hồn nhân vật.

Hầu hết truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ, ngƣời kể chuyện kể theo điểm

nhìn hạn chế là ngƣời kể chuyện đứng ở ngôi thứ ba từ bên ngoài nhƣng lại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tựa vào điểm nhìn nhân vật để kể, tạo thành hình thức tự sự đa chủ thể.

51

Có tác phẩm, ngƣời kể chuyện hàm ẩn hầu nhƣ chỉ tựa vào điểm nhìn

của một nhân vật. Một chuyện hẹn hò, trong 10 trang đầu ngƣời kể chuyện

đứng ở ngôi thứ ba từ bên ngoài tựa vào điểm nhìn nhân vật để kể - đó là

nhân vật con Cóc. Ngƣời kể chuyện đã trao quyền kể chuyện cho Cóc để cho

Cóc tự bộc lộ những suy nghĩ, cảm xúc của mình về sự kiện mà Cóc đã chứng

kiến. Đó là cảm nhận của Cóc về cơn mƣa bão đã tới trên Đầm Sầu: “Mƣa rồi.

Không phải là thứ mƣa nhão, ƣớt, đẫm nƣớc, dịu dàng mà Cóc từng quen

thuộc, có cảm giác mƣa hơi rát, trơ nhƣ một tiếng cƣời khan” [85, tr.105]. Là

những suy nghĩ của Cóc khi chứng kiến một câu chuyện hẹn hò lén lút, vụng

trộm giữa một ngƣời phụ nữ và một ngƣời đàn ông: “Họ ra đây từ lúc xế

chiều, khi trời vẫn còn một chùm nắng héo. Nhƣ thể họ tình cờ đi ngang qua

căn chòi hoang này, tình cờ thấy ngƣời quen và ghé lại” [85, tr.106]. Là sự

nghẹn ngào, xót xa, day dứt của Cóc khi nhớ lại cảm giác cuộc hẹn hò lén lút

nhƣ thế này mà Cóc từng trải qua: “Cóc cũng đã từng hẹn hò nên Cóc biết.

Nó bao gồm một chuỗi thua cuộc liên tục, mới đầu là sự choáng váng khi gặp

gỡ, ra về, cảm giác thất bại sẽ đau nghiến lòng ngƣời ta, mắc mớ gì mà mình

lại xao động dữ vậy cà, mình đâu có đƣợc xao động, mình đã không còn

quyền xao động. Những lần gặp sau thƣơng nhớ sẽ thít chặt hơn… Đi, rồi sao

nữa, ngày mai, tƣơng lai?… Cóc đã từng hẹn hò nên Cóc biết. Nặng nề,

thƣơng tổn” [85, tr.107]. Là niềm đồng cảm, thƣơng cảm của Cóc đối với

ngƣời phụ nữ kia: “Cóc muốn khóc, tội cho cái cảnh tận cùng tuyệt vọng của

chị. Và tận cùng cô đơn, dù ngƣời đàn ông kia có lại siết chị vào lòng. Cóc

mà là anh ta, Cóc chỉ ngồi im lặng, nghe câu chuyện của một ngƣời bạn nào

đó, nghe cái giọng dửng dƣng nhƣng che tiếng tim ngƣời đang nhói” [85,

tr.114]. Chính nhờ việc tựa vào điểm nhìn của Cóc nên ngƣời kể chuyện đã

tái hiện một cách chân thực những suy nghĩ, tâm trạng, cảm xúc chân thực,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

miên man của Cóc. Nhƣng có lúc ngƣời kể chuyện đã bộc lộ điểm nhìn hạn

52

chế của mình. Ngƣời kể chuyện không biết số phận của ngƣời phụ nữ sau

cuộc hẹn hò đó sẽ ra sao, không biết trong cơn mƣa bão, khi chị nhảy ào

xuống nƣớc “bƣơn bả vẹt sóng, nôn nả về phía bờ lá xa xăm” để tìm đƣờng

vào bờ thì bờ có đón nhận chị: “Cóc với ngó theo, màn mƣa che khuất tầm

nhìn, thấy cái đầu chị rƣớn cao, nhấp nhô nhƣ con rùa đang bơi, đầm thì xa,

rộng, sóng đang cồn lên, giận dữ. Không biết chị có đủ sức để chạm tay vào

bờ đất?” [85, tr.115-116].

Có tác phẩm, ngƣời kể chuyện hàm ẩn đã nƣơng theo điểm nhìn của

nhiều nhân vật để kể. Hiu hiu gió bấc có thể xem là một ví dụ tiêu biểu cho sự

luân phiên điểm nhìn này. Truyện đƣợc bắt đầu với điểm nhìn của ngƣời kể

chuyện hàm ẩn, kể lại chuyện một cách khách quan với cái nhìn từ bên ngoài:

“Ở cái xóm nhỏ ven thành phố nầy ngƣời ta nhắc tới anh hết còn nhiều hơn

chủ tịch tỉnh đi họp. Đứa nào hỗn hào, lƣời biếng, má nó bảo lại coi thằng Hết

kìa, ba mƣơi mấy tuổi đầu rồi, ngày đi làm thuê, làm mƣớn, không có chuyện

gì nó chê, chiều về lụi hụi chui vô bếp nấu cơm, giặt giũ cho cha già, hiếu

thảo thấy mà thƣơng…” [83, tr.29]. Thế nhƣng ngay sau đó điểm nhìn của

ngƣời kể chuyện hàm ẩn này đƣợc đƣợc chuyển từ chủ thể nhân vật này sang

chủ thể nhân vật khác. Đầu tiên là điểm nhìn của nhân vật chị Hoài: “Chị

Hoài nghe mà khóc không thôi, bảo với chị Hảo, có cái tiếng bạc tình ảnh

cũng gánh cho em rồi… Con ngƣời nầy, nghĩa biết trọng mà tình cũng thâm”

[83, tr.34-35]. Điểm nhìn của chị Hảo cũng góp phần soi sáng nhân vật anh

Hết: “Ơn nghĩa gì một chai dầu gió, nó chỉ làm anh hết đau ngoài da thịt, mà

trong lòng thì còn mãi. Chi vậy Hết ơi?” [83, tr.38]. Chính qua điểm nhìn của

ngƣời kể chuyện hàm ẩn bên ngoài, điểm nhìn của chị Hoài và chị Hảo mà

ngƣời đọc hiểu đƣợc khá rõ con ngƣời anh Hết: một ngƣời con hiếu thảo hết

mực và cũng là ngƣời trọng nghĩa, trọng tình. Tuy nhiên, nếu nhƣ toàn bộ câu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chuyện chỉ đƣợc kể bởi những điểm nhìn này thì truyện sẽ khó có thể tái hiện

53

đƣợc một cách sâu sắc, sinh động những suy nghĩ thầm kín, những xúc cảm,

tâm trạng của ngƣời thanh niên ở cái xóm Giồng Mới này. Chính vì thế, tác

giả nhất định phải viện dẫn đến điểm nhìn của anh Hết, phải tựa vào điểm

nhìn của anh thì mới mong nói đƣợc “điều tối hậu” về con ngƣời sống thâm

trầm, kín đáo này: “Chừng nầy tuổi rồi, mỗi khi anh đặt lƣng xuống bộ vạt, lại

nhớ ngơ nhớ ngẩn lời hát của tía anh ngày xƣa. Buồn lắm, nghe đứt ruột lắm.

Càng nhớ anh càng thƣơng ông (…). Anh chƣa dám nhìn thẳng vô mắt chị

Hoài để cƣời, chƣa dám nựng nịu con của Hoài mỗi khi chị bồng nó đi tiêm

ngừa. Chƣa thanh thản để chào nhau nhƣ một ngƣời bạn gặp một ngƣời bạn.

Hảo có hiểu không?” [83, tr.38]. Đây đúng là những tâm trạng, suy nghĩ của

ngƣời thanh niên hiếu thảo và rất coi trọng tình nghĩa. Nhƣng có lúc ta bắt

gặp sự không “toàn tri” của ngƣời kể chuyện trong truyện kể. Ngƣời kể

chuyện không biết khi nào anh Hết mới có thể quên đi tình yêu của mình với

chị Hoài để có thể đón nhận tình cảm mà chị Hảo dành cho anh: “Thêm một

mùa gió bấc nữa, chị Hảo vẫn chƣa lấy chồng. Ai lại cũng hỏi, chị chờ ai vậy

cà. Chị bảo chờ ngƣời ta xức dầu Nhị Thiên Đƣờng của chị mà hết đau, chờ

ngƣời ta đánh cờ mà trong tâm “Viễn ly điên đảo mộng tƣởng cứu cánh niết

bàn”, chờ ngƣời ta thôi buồn khi đƣa chốt qua sông. Nhƣng mà chờ tới chừng

nào lận? Ai mà biết” [83, tr.38-39].

Hay trong truyện Người năm cũ, ngƣời kể chuyện cũng tựa vào điểm

nhìn của nhiều nhân vật để kể. Truyện đƣợc bắt đầu bởi ngƣời kể chuyện là

Hiên (nhân vật chính). Hiên kể về sự gặp gỡ của cô với ngƣời thƣơng xƣa

của má: “Bảy năm rồi Hiên mới gặp ông. Ông ốm, xanh, ông không già đi

bao nhiêu nhƣng tóc đã rụng nhiều để lại cái trán rộng nhƣ sân bay Trà Nóc.

Hiên luôn luôn thấy ông gần gụi và thân thuộc, cái cảm giác ông luôn luôn có

mặt trong đời của Hiên mặc dầu chẳng thâm tình gì nhau” [84, tr.143]. Ngƣời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

kể chuyện kể về cảm nhận của mình về ngƣời đàn ông – ngƣời yêu cũ của má:

54

“Ngay từ khi còn vào tại chức, ông luôn xuất hiện trên mặt báo, trên tivi với

sự chân thật toát ra từ đôi mắt, một vẻ mặt trăn trở, đấu tranh. Hiên cho rằng

đôi mắt thể hiện đƣợc con ngƣời (…). Ông cƣời rất đẹp (đôi lúc có những nụ

cƣời nhƣ thế làm cho tim Hiên thót lên một tiếng hít hà) (…). Hiên nhận thấy

con ngƣời nầy luôn luôn vắt kiệt mình trong đám bùng nhùng thiện – ác, đúng

– sai, giả - chân… Cả trong tình yêu cũng vậy” [84, tr.143-146]. Ngƣời kể

chuyện cũng kể về ngƣời má của mình: “Má Hiên bị bức phải lấy ba Hiên

tháng chín, tháng tƣ năm sau giải phóng miền Nam. Cái khoảng khắc đó so

với cuộc đời ngắn ngủi biết bao nhiêu nhƣng đã trì níu cuộc đời má Hiên

xuống. Mấy mƣơi năm, cuộc đời má nhƣ hủ sành bể nát, không mảnh nào ráp

đƣợc với mảnh nào” [84, tr.151]. Điểm nhìn này của Hiên – ngƣời kể chuyện

đã dần chuyển sang điểm nhìn của ngƣời đàn ông (ngƣời thƣơng xƣa của má

Hiên). Ông kể về chuyện tình éo le của mình với một ngƣời phụ nữ (ngƣời

phụ nữ mà sau này là má Hiên): “Đó là thời đạn bom ác liệt, nhƣng sáng nào

cổ cũng chèo xuồng ra chi khu Rạch Ráng bán trầu. Tôi thƣơng cổ từ ốp trầu

cổ bó (…). Tôi thƣơng cổ từ ngón tay cái bấm trầu đã mòn khuyết nhƣ trăng

mùng tám (…). Cổ cũng thƣơng tôi thiệt lòng. Ngặt cái cổ là con gái xã

trƣởng Ba Chi khét tiếng ác” [84, tr.146-147]. Qua điểm nhìn của Hiên và của

ngƣời đàn ông đó ta thấy số phận bất hạnh của những con ngƣời bị lƣỡi dao

chiến tranh phạt ngang thành hai nửa cuộc đời. Nhƣng hơn hết họ vẫn luôn

nhớ về nhau, hƣớng về nhau và ngọn lửa tình yêu trong họ không bao giờ tắt.

Việc nhà văn lựa chọn hình thức ngƣời kể chuyện theo điểm nhìn hạn

chế trong một số tác phẩm có ý nghĩa nhất định. Với hình thức kể chuyện này,

ngƣời kể chuyện sẽ tạo cho ngƣời đọc ảo tƣởng về tính chân thực của câu

chuyện vì họ có cảm giác đang đƣợc nghe chính ngƣời trong cuộc tự kể

chuyện mình chứ không phải nghe qua một ngƣời thứ ba nào đó. Hơn nữa,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

với hình thức tự sự đa chủ thể tác giả đã khắc phục đƣợc cách nhìn chủ quan,

55

hời hợt, định kiến, tạo nên một cái nhìn mang tính khách quan, nhiều chiều về

con ngƣời. Hình thức tự sự này đã góp phần quan trọng trong việc tạo nên

một cấu trúc tự sự mang tính đối thoại trong tác phẩm – đó là sự đối thoại

giữa các cách nhìn nhận, đánh giá về con ngƣời.

2.2.2. Người kể chuyện kể theo điểm nhìn toàn tri

Todorov gọi đây là “ngƣời kể chuyện lớn hơn nhân vật”, Pospelov gọi là

“ngƣời trần thuật không nhân vật hóa mà đằng sau là tác giả” còn G.Genette

coi đây là trƣờng hợp “ngƣời kể chuyện kể theo tiêu cự bằng không”. Đặc

điểm của ngƣời kể chuyện kể theo điểm nhìn toàn tri là anh ta có tầm nhìn

“vƣợt lên trên”, có thể nhìn xuyên sang những sự kiện đƣợc kể. Ngƣời kể

chuyện luôn biết nhiều hơn và nói nhiều hơn bất cứ nhân vật nào trong tác

phẩm, anh ta vừa hiểu biết về các sự vật khách quan vừa hiểu biết sâu sắc về

tất cả các nhân vật: từ những hành động bên ngoài lẫn những suy nghĩ, cảm

xúc bên trong và cả những chuyển biến của tâm hồn. Tìm hiểu truyện ngắn

Nguyễn Ngọc Tƣ chúng tôi nhận thấy truyện ngắn của chị đƣợc kể bởi ngƣời

kể chuyện với điểm nhìn toàn tri chiếm tỉ lệ lớn hơn cả.

Đọc truyện Cải ơi ta thấy ngƣời kể chuyện rất am tƣờng trong việc kể lại,

miêu tả lại tỉ mỉ, chi tiết những hành động, lời nói bên ngoài và cả những suy

nghĩ thầm kín bên trong của nhân vật: “Ông già lắc đầu, thở dài, nghe buồn

xao xác nhƣ lá rụng hoa rơi, than điệu này hỏng biết cách nào tìm cho ra con

Cải”, “Ông đã tìm con nhỏ gần mƣời hai năm, đã đi qua chợ qua đồng, tới rất

nhiều quê xứ. Lúc nhỏ Cải mƣời ba tuổi, một bữa mê chơi nó làm mất đôi

trâu, sợ đòn, nó trốn nhà. Rồi con nhỏ không quay lại, vợ ông khóc lên khóc

xuống, bảo chắc là ông để bụng chuyện nó là con của chồng trƣớc nên ngƣợc

đãi hà khắc, đuổi xua. Ông lấy trời đất, thần phật, rắn rít và cả kiếp sau (mặc

dù cũng chƣa biết nó ra làm sao) ra thề nhƣng bà không tin, giận chẳng nhìn,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chớ thèm cƣời nói”, “Ông khăn gói bỏ xứ ra đi, bụng dạ đinh ninh dứt khoát

56

tìm đƣợc con Cải về”, “Ông già đứng im sững, ngơ ngác giây lát, môi run lập

bập hỏi Cải phải hôn con”, “Ông già nắn đầu, nắn vai nó với một nỗi vui chảy

tràn”... [83]. Với điểm nhìn toàn tri này, hình ảnh một ngƣời cha thƣơng yêu

con, khao khát mong tìm lại đƣợc con đƣợc ngƣời kể chuyện khắc họa một

cách sâu sắc.

Trong truyện Nhà cổ, ta thấy ngƣời kể chuyện đã thấu hiểu một cách sâu

sắc tình cảm, tâm trạng, nỗi lòng của các nhân vật: “Năm tôi mƣời sáu tuổi,

qua bên đó chơi, biết hai anh đều lặng lẽ để bụng thƣơng chị Thể mất rồi”;

“Chị hiền, dịu dàng nhƣ chiếc lá me, con trai xóm khác gặp một lần còn nhớ,

huống chi ba ngƣời họ lớn lên cùng nhau… Nhƣng nhƣờng qua nhƣờng lại

hoài, mãi không ai mở lời. Chú em nhịn ăn sáng, ốm ròm, mặt mày xanh ẻo

cắc củm dành tiền tha về cho chị Thể nào kẹp tóc, vòng bạc, dép, giày… Ông

anh chẳng mua gì, nhƣng thấy chị vo cơm thì nhảy vào thổi lửa, thấy chị sắp

giặt đồ, anh xách nƣớc để sẵn mấy thùng. Những buổi sớm mai, hai ngƣời

ngây dại múi lá dứa. Ngƣời em thức sớm học bài, thấy cảnh đó, đọc lung tung

những câu chẳng có nghĩa gì”.

cùng nhau xào nhân, nhồi bột, hấp bánh bao. Khói quây lấy cả hai, khói thơm

Truyện Cái nhìn khắc khoải, ngƣời kể chuyện am hiểu cặn kẽ hoàn cảnh,

cuộc sống của ông Hai. Nếu không có cái nhìn biết hết thì làm sao ngƣời kể

chuyện có thể kể lại đƣợc chuyện nhƣ thế này: “Đêm nào nhƣ đêm nấy, lùa

vịt vô chuồng, tắm táp qua loa, ông khom lƣng thổi phù phù vô cái bếp un cho

căn chòi đầy khói rồi nằm đƣa võng” [83, tr.53]. Nói “đêm nào cũng nhƣ đêm

nấy…” có nghĩa là sự việc đã xảy ra rất nhiều lần và ngƣời kể chuyện đều biết

hết, bây giờ đang tổng kết lại. Và nếu không có cái nhìn biết hết thì làm sao

ngƣời kể chuyện lại có thể kể đƣợc một cách cụ thể, rành rọt cuộc sống của

ông Hai và nhận định chắc chắn nhƣ thế này: “Ông làm nghề nuôi vịt chạy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đồng. Hôm nay ở đồng Rạch Mũi, ngày mai ở nhà Phấn Ngọn, xa nữa lại dạt

57

đến Cái Bát không chừng. Ông đậu ghe, dựng lều, lùa vịt lên những cánh

đồng vừa mới gặt xong, ngó chừng chừng sang những cánh đồng lúa mới vừa

chín tới và suy nghĩ về một vạt đồng khác lúa vừa no đòng đòng. Đời của ông là

một cuộc đời lang bạt” [83, tr.52]. Ngƣời kể chuyện đã thấu hiểu, cảm thông với

cuộc sống cô độc, lang bạt nơi đồng khơi của ông Hai.

Không chỉ am hiểu những lời nói, hành động, suy nghĩ, cảm xúc trên bề

mặt ý thức mà ngƣời kể chuyện kể theo điểm nhìn toàn tri còn có thể thấu

hiểu đời sống vô thức, tâm linh đầy bí ẩn của con ngƣời. Với sự miêu tả

những ảo giác, ám ảnh, giấc mơ của nhân vật, ngƣời kể chuyện đã tạo nên

một lăng kính mới để soi tỏ hết những miền bí ẩn những vùng sâu thẳm trong

tâm hồn con ngƣời. Nhân vật Tôi trong Khói trời lộng lẫy trong trạng thái tinh

thần căng thẳng và do chịu nhiều mất mát trong cuộc sống riêng tƣ nên

thƣờng chìm trong những ảo giác, chiêm bao: “Nhƣng khuya nay, khi tay tôi

vờn trên cái mũi lấm tấm mụn của Phiên, khi cái đầu gối xƣơng xẩu của nó co

lại thúc vào sƣờn tôi đau nhói, vẫn cảm giác thằng nhỏ đang rời đi xa lắm rồi.

Nó đi trên chiếc xáng cơm cùng những gã đàn ông lạ. Chiều qua, chiếc xáng

đã nhổ neo rời khỏi cồn (…). Mỗi chiêm bao là một lát cắt, một cảnh phim

dang dở về nơi đó. Có khi tôi thấy vía mình ngập ngừng đi vào một tòa nhà cũ

chìm lút trong một khuôn viên um tùm cây cỏ (…). Và trong những chiêm

bao hao khuyết tôi từng đêm, những cánh cửa của tòa nhà Viện di sản thiên

nhiên và con ngƣời luôn mở ra rất chậm (…). Một vài căn phòng giống nhƣ

biển, ngay lập tức khiến tôi chìm sâu, ngộp thở, nhƣng tôi hoàn toàn không

muốn vùng vẫy, chạy trốn”. Trong Cánh đồng bất tận, hình ảnh giấc mơ gắn

với “màu đỏ lạ lùng” đã trở thành nỗi ám ảnh của nhân vật tôi mỗi khi nhớ về

mẹ: “Một bữa tôi chiêm bao, chẳng đầu chẳng cuối gì, chỉ thấy vía má giãy

giụa trong tấm vải đỏ lạ lùng kia nhƣng nó thít chặt, riết lấy, siết dần cho tới

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

khi má thành một con bƣớm nhỏ, chấp chới bay về phía mặt trời”. Điền

58

(ngƣời em trai của nhân vật tôi) do chịu nhiều mất mát trong cuộc sống, do

thiếu vắng tình yêu thƣơng nên có lần cậu bé đã chìm vào ảo giác: “Nó loay

hoay ở giữa một gò đất chùm gọng leo dày mịt, không biết vô đó bằng đƣờng

nào nhƣng không thể quay ra, có ngƣời đàn bà ôm rổ bánh quy lại, biểu nó ăn.

Đói quá, thằng Điền ngốn gần chục cái. Lúc tôi tìm đƣợc nó nhờ tiếng rên ƣ

ử, bụng nó đã lặc lè, và miệng đầy sình đất. Quay đi quay lại không có bóng

ngƣời, chỉ có cái mả lạng nằm sát đất, rời rợi cỏ xanh. Những ngày sau nầy,

tôi một mình trở lại gò đất, nhƣng chờ hoài không thấy ma hiện ra. Nghe

thằng Điền kể, ngƣời đàn bà đó thiệt hiền, chỉ đau đáu vuốt tóc nó và ánh nhìn

chan chứa thƣơng yêu”. Ảo giác đƣợc yêu thƣơng ở nhân vật Điền dƣờng nhƣ

là một sự bùng nổ tâm lí nó thể hiện nhu cầu và khao khát đƣợc yêu thƣơng,

đƣợc chăm sóc của cậu.

Sự hiểu biết thông thái của ngƣời kể chuyện kể theo điểm nhìn toàn tri

còn thể hiện rất rõ ở việc anh ta không chỉ kể chuyện mà còn bình luận, giải

thích về những điều mình kể. Trong Nhớ sông, ngƣời kể chuyện lí giải

nguyên nhân vì sao gia đình ông Chín lại gắn với cuộc sống trên ghe: “Nhà

nghèo, ra riêng, gia đình chỉ cho hai công đất. Năm Giang ba tuổi, Giang lên

sởi. Ông Chín bán đất cứu con. Số tiền còn dƣ lại, ông mua chiếc ghe nhỏ đi

bán hàng bông. Cả nhà dắt díu nhau linh đinh sông nƣớc” [83, tr.120]. Trong

Dòng nhớ, những lời giải thích bình luận sâu sắc của ngƣời kể chuyện giúp

ngƣời đọc hiểu rõ nỗi đau đớn, sự day dứt khắc khoải nhớ thƣơng của ngƣời

đàn ông vì sức ép gia đình mà đành phải phụ bạc vợ, bỏ ngƣời vợ một mình

lênh đênh trên sông nƣớc: “Ba tôi là ngƣời của sông. Không phải ông nhớ

vƣờn xƣa mà chống gậy về, ông nhớ sông, một ngày ba bốn lƣợt lủi thủi

chống gậy ra bến, đôi mắt nhƣ đang nhìn da diết, mà không biết nhìn ai, chỉ

thấy mênh mông vậy thôi. Chơ vơ, cô độc. Tựa nhƣ ông đang ở đây nhƣng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tâm hồn ông, trái tim ông, tấm lòng ông chảy tan vào dòng nƣớc tự lâu rồi”;

59

“Mà, cũng vì ba tôi quên không đƣợc, má tôi mới thƣơng ông nhiều, say nầy

lớn lên, biết yêu thƣơng rồi, tôi mới ngộ ra. Con ngƣời ta, nhất là đàn ông

thƣơng ai mà vì nỗi gì đó quay lƣng lại quên mất tiêu thì đúng là không tử tế,

không đáng tin chút nào” [83, tr.131-133].

Không phải ngẫu nhiên mà trong hầu hết truyện ngắn của mình Nguyễn

Ngọc Tƣ lại lựa chọn hình thức ngƣời kể chuyện toàn tri. Với hình thức kể

chuyện này, nó cho phép tầm nhìn của ngƣời kể chuyện đƣợc mở rộng tối đa,

có thể bao quát đƣợc cuộc sống từ nhiều chiều, nhiều phía khác nhau qua đó

tái hiện cuộc sống chân thực, toàn diện, sâu sắc hơn. Ngƣời kể chuyện có thể

kể lại nhiều sự kiện, nhiều hành động, nhiều suy nghĩ của nhân vật trong

nhiều quãng thời gian khác nhau và ở nhiều nơi khác nhau.

Thứ hai, truyện kể theo điểm nhìn toàn tri với sự xuất hiện khá nhiều lời

bình luận, giải thích của ngƣời kể chuyện đã có ý nghĩa định hƣớng cho ngƣời

đọc trong quá trình tiếp nhận tác phẩm. Họ cảm thấy hoàn toàn tin tƣởng vào

sự hiểu biết thông thái của ngƣời kể chuyện. Tuy nhiên, có nhiều trƣờng hợp

vai trò chỉ bảo của ngƣời kể chuyện quá lộ rõ khiến cho câu chuyện thiếu đi

sự hấp dẫn tự nhiên. Đây cũng chính là điểm hạn chế mà phần lớn những

truyện sử dụng hình thức ngƣời kể chuyện kể theo điểm nhìn toàn tri thƣờng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

gặp phải.

60

Chương 3

NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU KỂ CHUYỆN TRONG

TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ

3.1. Ngôn ngữ kể chuyện

3.1.1. Một vài đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ kể chuyện trong truyện

ngắn Nguyễn Ngọc Tư

3.1.1.1. Ngôn ngữ kể chuyện đậm tính phương ngữ Nam Bộ

Chịu ảnh hƣởng của ngôn ngữ đời sống, ngôn ngữ trần thuật trong truyện

ngắn đƣơng đại bộc lộ khá rõ đặc trƣng văn hóa vùng miền. Phƣơng ngữ đƣợc

sử dụng có chủ ý chứ không chỉ thuần túy do chất giọng “bản địa” của nhà

văn. Ngƣời trần thuật không những chuyển tải nội dung truyện kể mà còn gửi

gắm những giá trị văn hóa nằm sâu dƣới lớp ngôn ngữ. Thể hiện đậm đặc chất

giọng địa phƣơng và tạo thành một dòng văn học vùng miền chỉ có thể là

mảng truyện ngắn Nam Bộ. Trong dòng truyện ngắn phƣơng Nam ấy,

Nguyễn Ngọc Tƣ đƣợc xem là một tác giả tiêu biểu với nhiều tác phẩm hay.

Đến với văn Ngọc Tƣ, độc giả có thể hình dung rất rõ về vùng đất Nam Bộ.

Từ những mé đìa lục bình, đám trâm bầu, chòm quao, trái giác nấu canh chua

bông súng đến cách gọi tên nhân vật (ông già Năm Nhỏ, anh Hai Nhớ, dì út

Thu Lý, Sáu Tâm…) hay lời ăn tiếng nói thƣờng ngày (trời đất, nói gì lãng

xẹt vậy ta, nói chơi hoài, nhƣ vầy, chút đỉnh…) đều gợi lên dáng hình thiên

nhiên, con ngƣời xứ sở miền Nam. Trong ngôn ngữ truyện ngắn của chị việc

khai thác, vận dụng nhuần nhị và có hiệu quả cao vốn hệ thống từ địa phƣơng

Nam bộ đã làm bật nổi những nét văn hóa về vùng đất và con ngƣời vùng

sông nƣớc miền Tây Nam bộ.

Trƣớc tiên, phƣơng ngữ Nam Bộ trong truyện ngắn của chị đƣợc thể hiện

ở cách xƣng hô trong giao tiếp rất đặc trƣng của ngƣời dân vùng Đồng bằng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sông Cửu Long: cách gọi tên ngƣời theo thứ tự sinh ra trong gia đình nhƣ ông

61

Tƣ, bác Chín, chú Ba, dì Út, thiếm Sáu, anh Hai,… Hoặc gọi kèm tên thật với

thứ tự sinh: Sáu Tâm, Hai Giang, Tƣ Lai, Chín Vũ, Út Vũ, Mƣời Hƣng,…

Xƣng hô với ngƣời trong gia đình thƣờng hay sử dụng lớp từ: má, tía, chế, má

sắp nhỏ, má con tao, má nó, ba thằng, ba nó, mầy, tao, bây, tụi bây, tụi nó,

mấy đứa nhỏ, sắp nhỏ,… Xƣng hô với những ngƣời ngoài xã hội là các lớp từ

nhƣ: tui, qua, nhỏ, ông già, ngƣời ta, thằng chả, mấy ổng,…

Thứ hai là hệ thống từ thể hiện sắc thái biểu cảm của ngƣời nói đặt ở

cuối những câu cảm hay câu nghi vấn. Đây cũng là lớp từ rất đặc trƣng trong

ngôn ngữ giao tiếp của ngƣời miền Tây Nam bộ nhƣ: hổng, á, à, hen, hôn,

phải hôn, ta, nghe, nghen, vậy nghen, chớ, chớ bộ, mà, lận, quá chừng, quá

trời, vậy cà, bộ, hả, ha…

Thứ ba là hệ thống từ biến âm thể hiện rõ đặc trƣng ngôn ngữ của ngƣời

dân vùng sông nƣớc Đồng bằng sông Cửu Long so với ngƣời dân ở các vùng

miền khác nhƣ: mầy (mày), nầy (này), thiệt (thật), ổng (ông ấy), cổ (cô), ảnh

(anh ấy), bển (bên), biểu (bảo), bịnh (bệnh), sanh (sinh), gởi (gửi), ác nhơn

(ác nhân)… Hệ thống từ biến âm này đƣợc lặp lại khá thƣờng xuyên góp phần

làm cho ngôn ngữ truyện ngắn của chị thuần chất Nam Bộ.

Thứ tƣ là hệ thống từ thể hiện rất rõ đặc trƣng miền sông nƣớc Đồng

bằng sông Cửu Long nhƣ: Sông Dài, Cù lao Mút Cà Tha, Mũi So Le, đồng

Rạch Mũi, Bến đò Xóm Miễu, Kinh Cỏ Chát, Chợ Ba Bảy Chín, Rạch Ô môi,

xuồng, ghe, giang, mƣơng, tràm, bần, cù lao, cánh đồng, vàm, cây còng, cây

tra, trâm bầu, vịnh dừa, bìm bịp, bàu sen, đầm, bông súng, bông trang, bình

bát, cá sặc, hàng bông, cá chốt, lung dừa, dừa nƣớc, vọng cổ/cải lƣơng, gánh

hát, đèn hột vịt, áo bà ba, cà ràng, vịt chạy đồng…

Thứ năm là cách diễn đạt rất Nam Bộ: nôm na, mộc mạc, hóm hỉnh, dễ

hiểu và dễ cảm. Đây cũng là một bằng chứng khẳng định sự ảnh hƣởng của

môi trƣờng và văn hóa vùng đất Nam bộ đến nhận thức cũng nhƣ tƣ duy nghệ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thuật của Nguyễn Ngọc Tƣ.

62

Làm nên sức hấp dẫn, lôi cuốn trong mỗi truyện ngắn của Nguyễn Ngọc

Tƣ không phải ở kho từ vựng miền Nam phong phú, dồi dào mà là ở chỗ

phƣơng ngữ đã đƣợc chị đƣa vào đúng lúc, đúng chỗ góp phần khắc họa chiều

sâu tâm lý nhân vật và cảnh sắc thiên nhiên vùng sông nƣớc Nam Bộ, “những

câu chữ tƣởng nhƣ rất quê mùa nhƣng khi đƣa vào truyện của Nguyễn Ngọc

Tƣ ngƣời đọc cảm thấy rất “văn chƣơng” – “văn chƣơng Nam Bộ” [97, tr.1].

3.1.1.2. Ngôn ngữ kể chuyện đậm chất trữ tình

Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ mang đậm

chất trữ tình, nó thƣờng hƣớng tới tâm trạng, dòng ý thức của nhân vật hơn là

hƣớng tới sự kiện. Đọc truyện ngắn của chị, ngƣời đọc có cảm giác thƣ thái,

an bình và bị cuốn hút bởi mạch truyện, văn phong êm dịu, nhẹ nhàng nhƣng

không hề nhàm chán. Mỗi câu văn nhƣ một lời thủ thỉ, tâm tình đầy quyến rũ

và tạo cảm giác đây là những bài thơ đƣợc viết bằng văn xuôi.

Truyện Huệ lấy chồng, sự kiện chỉ có việc Huệ sắp xếp đồ đạc chuẩn bị

cho đám cƣới của mình vào ngày mai nhƣng hầu nhƣ toàn bộ lời kể của ngƣời

kể chuyện là hƣớng vào thể hiện và miêu tả những suy nghĩ, cảm xúc của

nhân vật trƣớc sự kiện này. Đó là nỗi nhớ nhà khi Huệ nghĩ ngày mai cô đã

phải cất bƣớc về nhà chồng: “Sáng mai thôi nó sẽ xuống vỏ rồi về ở miết nhà

ngƣời ta. Nhớ cái cối xay bột dựa hàng kệ đựng tiêu tỏi, dầu ăn, nƣớc mắm…

Con mèo ngủ thiu thiu trên đầu bộ ngựa, mấy cái võng giăng quân quần

quanh bồ lúa. Lối vô nhà trải đất đỏ, ngƣời đi ra đi vô đã mòn mấy hòn tròn

tròn trọc lóc…” [83, tr.43-44]. Là những suy nghĩ, lo lắng rất thực của cô

trƣớc khi về nhà chồng: “Về bên nhà chồng không biết còn rảnh rỗi vừa đƣa

võng vừa nghêu ngao hát. Nhà Thuấn vƣờn rộng, ruộng cũng nhiều, công

chuyện chắc vô số” [83, tr.42].

Trong truyện Cải ơi, sự kiện dƣờng nhƣ chỉ có việc ông già Năm Nhỏ đi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tìm đứa con riêng của vợ tên là Cải. Toàn bộ lời kể của ngƣời kể chuyện

63

hƣớng vào miêu tả những nỗi niềm, tâm trạng, cảm xúc và cả những suy tƣ

dằn vặt của ông Năm trƣớc sự việc này. Đó là nỗi đau đớn khi ông bị dèm pha

nghi oan là ngƣợc đãi con: “Đã đau quá trời đất rồi, cái cảnh bà con hàng xóm

xầm xì, chỉ trỏ, ngƣời ở xa còn thuê đò dọc lại nhà ngó nghiêng, đâu, thằng

cha giết con đâu? Đâu, con nhỏ bị chôn chỗ nào? Đã đau quá chừng, khi ông

nhìn sâu trong mắt của vợ mình thấy không còn lấp lánh thƣơng yêu, chỉ tối

tăm những ngờ vực, hoài nghi…” [83, tr.9]. Là niềm hạnh phúc ngập tràn,

niềm xúc động nghẹn ngào khi ông tƣởng nhƣ đã tìm thấy con: “Ông già nắn

đầu, nắn vai nó với một nỗi vui chảy tràn, trời đất, ba nhìn không ra, bây lớn

dữ dằn vầy. Ông đi vài bƣớc, ông day lại nhìn Diễm Thƣơng (cho chắc là nó

đang đứng đây và có thiệt trên đời)” [83, tr.10]. Các truyện Chuyện của Điệp,

Lý con sáo sang sông, Bởi yêu thương, Cuối mùa nhan sắc, Biển người mênh

mông, Dòng nhớ, Nhớ sông, Làm má đâu có dễ, Một mối tình… cũng vậy,

ngôn ngữ của ngƣời kể chuyện tập trung xoáy sâu vào những tâm trạng, nỗi

niềm, suy nghĩ, trăn trở của nhân vật hơn là đuổi theo mạch sự kiện.

3.1.1.3. Ngôn ngữ kể chuyện bộc lộ rõ thái độ chủ quan của người kể chuyện

Khác với ngôn ngữ kể chuyện mang tính khách quan của Nguyễn Huy

Thiệp, ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ bộc lộ rất rõ

thái độ chủ quan của ngƣời kể chuyện. Đọc Cánh đồng bất tận, trong 56 trang

đầu ta thấy thấm đẫm trong mỗi lời kể là tình cảm, sự đánh giá của ngƣời kể

chuyện đối với nhân vật và các sự việc đƣợc kể lại: “Chúng tôi vô định hơn

bất cứ ngƣời nuôi vịt chạy đồng nào. Vì những cuộc tình của cha tôi ngày

càng ngắn ngủi. Cha tôi đã có vẻ bình thƣờng, hay nói cƣời, hồ hởi trong

những lúc có ngƣời (chữ “ngƣời” nầy không tính hai chị em tôi). Nhiều lúc

tôi không giấu đƣợc thảng thốt, cứ nghĩ mình đã gặp lại cha-của-ngày-xƣa…

Không, lúc chỉ một mình, cha tôi đáng sợ hơn thế. Cha giống nhƣ con thú trở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

về tổ sau khi no mồi. Con thú nằm mơ màng nhấm nháp lại hƣơng vị của

64

miếng mồi, và ngẫm ngợi thòm thèm con mồi kể tiếp”[83, tr.195]; “Cha đẩy

đó, thật khó để phân biệt, chúng tôi bỏ đi hay chạy trốn (…). Chị em tôi hết sức

cố gắng để sự giận dữ, chán chƣờng của mình không bùng cháy” [83, tr.197].

chúng tôi trƣợt dài vào nỗi thiếu thốn triền miên. Mỗi lần rời khỏi một nơi nào

Lời kể trong Lý con sáo sang sông cũng thể hiện rất rõ thái độ của ngƣời kể

chuyện đối với mối tình dang dở của Phi với Út Thà: “Nét chữ không bay

bƣớm trong tấm thiệp mộc của Út Thà mang cho tôi một cảm giác lạ lùng.

Vui, buồn, chua xót lẫn lộn…” [87, tr.73].

3.1.1.4. Ngôn ngữ kể chuyện của Nguyễn Ngọc Tư mang đậm tính đối thoại

Lời kể của ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ hƣớng

trực tiếp đến ngƣời đọc, lôi kéo ngƣời đọc cùng tham gia vào câu chuyện. Có

nhiều khi, ngƣời kể chuyện bộc lộ những nhận xét, quan niệm hoàn toàn

mang tính chủ quan và khiêu khích ngƣời đọc, buộc ngƣời đọc phải lên tiếng.

Chẳng hạn trong Cuối mùa nhan sắc và Làm má đâu có dễ ngƣời kể chuyện

đã bộc lộ một quan điểm về ngƣời nghệ sĩ mà độc giả nhất là những ai là nghệ

sĩ sẽ tỏ thái độ hoặc là đồng tình hoặc là phản đối: “Nghệ sĩ mà, miễn đƣợc

hát, miễn mà hát có ngƣời nghe là sƣớng rồi [83, tr.92]; “…nghệ sĩ mà, ít ai

coi trọng chuyện gia đình” [84, tr.85]. Ngƣời kể chuyện cũng đƣa ra vấn đề

tranh luận về tình yêu: “Mà, kiểu yêu tinh thần để nhìn nhau, để nắm tay, vuốt

tóc, để nín nhịn và hi sinh chỉ tồn tại trong văn chƣơng” [83, tr.206]. Mỗi

ngƣời đọc tùy theo quan niệm, kinh nghiệm sống có thể có những câu trả lời

khác nhau. Ở một truyện khác, ngƣời kể chuyện lại đƣa ra một câu hỏi mà có

lẽ nó sẽ là nỗi băn khoăn, trăn trở cho những ai là nghệ sĩ gắn cuộc đời với

sân khấu: “Trời ơi, bọn nghệ sĩ mình, gạt bỏ đời đau, sống trọn lòng trên sân

khấu, đƣợc mấy ngƣời?” [84, tr.87].

Đặc biệt tính tranh biện, đối thoại trong ngôn ngữ kể chuyện truyện ngắn

Nguyễn Ngọc Tƣ đƣợc thể hiện ở những cuộc đối thoại trong ý thức của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngƣời kể chuyện: “Giá tôi có thể ở lại Xóm Xẻo, sống một đời nông dân nhƣ

65

ba tôi. Chiều đi ruộng về nằm võng nghe đài Hậu Giang ca cải lƣơng, tối ra

Đầm đặt lú. Trời thanh, mây tạnh. Chuyện “vĩ mô” có ngƣời “vĩ mô” lo. Đằng

này tôi ra đời. Gặp biết bao nhiêu ngƣời, gặp bao nhiêu chuyện nhƣ chuyện

của ông Tƣ Đờ bạn ba tôi đây (…). Mà sao bây giờ tôi bỏ ông vậy? Tôi quên

ông vậy? Tôi có già đâu? Thôi, buồn quá. Tôi thấy mình thà chết còn sƣớng

hơn, chứ còn trẻ trai mà sống làm chi dửng dƣng, tạnh quẽ với cuộc đời nhƣ

thế này” [87, tr.37-43]. Đối thoại trong độc thoại nội tâm đã cho ta thấy đƣợc

quá trình dằn vặt, đối thoại giữa hai ý thức, hai quan niệm: một bên là quan

niệm về con ngƣời sống một đời nông dân bình dị mà giàu tình nghĩa còn một

bên là quan niệm về con ngƣời sống trong vòng xoáy của cuộc đời với những

lo toan, tính toán mà thờ ơ, vô cảm… Chính tính tranh biện, đối thoại này của

ngôn ngữ kể chuyện đã khiến cho ngƣời đọc khi đọc xong tác phẩm cứ phải

tiếp tục suy nghĩ, trăn trở về những vấn đề mà ngƣời kể chuyện đã đặt ra

trong đó.

Có lẽ chính những đặc điểm này trong ngôn ngữ của ngƣời kể chuyện đã

tạo nên nét độc đáo tạo, lôi cuốn, hấp dẫn trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc

Tƣ. Vì nó tạo điều kiện cho ngôn ngữ của ngƣời kể chuyện có thể đi sâu vào

miêu tả “dòng ý thức” của nhân vật, miêu tả những bí ẩn, quanh co, phức tạp

trong chiều sâu tâm hồn… Thông qua ngôn ngữ kể chuyện, nhân vật hiện lên

nhƣ một cá nhân có ý thức sâu sắc – họ không chỉ phô diễn niềm vui, nỗi

buồn của mình mà còn luận giải, phân tích vì sao mình lại vui, lại buồn nhƣ

thế. Đây cũng chính là biểu hiện của tính hiện đại trong lời kể của truyện ngắn

Nguyễn Ngọc Tƣ.

3.1.2. Các thành phần cấu tạo nên ngôn ngữ kể chuyện

3.1.2.1.Thành phần lời kể

Trong tác phẩm tự sự lời kể chiếm một tỉ lệ lớn và có vai trò quan trọng, nó

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

giúp ngƣời kể chuyện tổ chức nên một cấu trúc tự sự. Khảo sát trong truyện

66

ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ ta thấy có sự hiện diện của hai dạng lời kể: lời kể một

giọng và lời kể nhiều giọng.

Lời kể một giọng là: “lời kể hƣớng tới sự vật nhằm tái hiện, giới thiệu về

nó” [61, tr.178]. Đây là loại lời kể đơn giản nhất. Chức năng của lời kể một

giọng trong tác phẩm là tái hiện các sự kiện, hiện tƣợng của đời sống làm cho

đời sống hiện lên chân thực trong tính cụ thể và sinh động của nó. Trong

truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ, lời kể một giọng đóng vai trò khá quan trọng.

Nó thể hiện cái nhìn sâu sắc, cái khiếu quan sát nhạy bén, tinh tƣờng của tác

giả đối với hiện thực. Đó có thể là lời kể về một sự kiện: “Đồng Trảng Cò

rộng gần hai mƣơi hecta, phía bắc giáp rừng tràm, phía nam giáp biển, xóm

nằm bên con kinh ra Hòn Đá Mốc. Ba năm trƣớc, tỉnh quyết định thu hồi và

quy hoạch Trảng Cò làm khu du lịch văn hóa sinh thái lớn nhất nhì đồng

bằng” [88, tr.30]; “Năm 1887, Colègan, một tu sĩ ngƣời Pháp đã đặt những bƣớc

chân đầu tiên. thám hiểm đỉnh Puvan. Và lần đầu tiên trong đời, ngƣời đầu tiên

trong lịch sử vùng đất, ông đã nhìn thấy cây sầu (Oghdgerygwbbvchfh gfdutvyt)

nở hoa. Trong những đoạn ghi chép rời rạc, run rẩy, ông viết, “những đóa hoa

sầu đẹp đến nỗi đáng đánh đổi cả cuộc đời ngƣời để đƣợc trông thấy chúng dù

chỉ một lần”. Và ông ta đã chết ngay sau đó, chết lặng lẽ trên dãy núi Puvan bí

ẩn” [85, tr.41]. Đó cũng có thể là lời kể về cảm xúc, tâm trạng: “Cái cảm giác

chỉ có em và tôi và cây cỏ dại trên đồng làm tôi thấy dễ chịu. Thậm chí tôi

chủ động nắm tay em, và bàn tay nhỏ nhắn đó thoáng lạnh đi vì bất ngờ” [85,

tr.95]; “Nó ngồi sau lƣng thầy (nhƣ nhiều lần ngồi sau thầy đi mua kẹo, nút

áo, chỉ may cho mẹ), mà lòng nghe dịu ngọt lạ thƣờng, chợt nghe thèm đến

rớt nƣớc mắt đƣợc nép vào lƣng, đƣợc choàng tay ôm co ếch thầy” [88,

tr.139]; “Phi không nói gì hết, lòng anh lặng đi, nghe nhói ran cả ngực mà

không biết niềm nhớ nó đang cựa quậy chỗ nào. Lâu lắm rồi mới có ngƣời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhắc anh chuyện tóc tai” [83, tr.106]. Lời kể một giọng thƣờng tạo cho ngƣời

67

đọc cảm giác chân thực và tin cậy. Tuy nhiên, nhìn chung đây là dạng lời có

cấu tạo tƣơng đối đơn giản.

Lời kể nhiều giọng: “là lời kể vừa hƣớng vào tái hiện đối tƣợng, lại vừa

đối thoại ngầm với lời ngƣời khác ngoài đối tƣợng, hoặc đối thoại ngầm với

chính đối tƣợng” [61, tr.178]. Theo M.Bakhtin thì đây là loại lời phát triển

nhất và ông đã lập bảng phân loại khá chi tiết. Lời kể nhiều giọng trong

truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ đƣợc biểu hiện qua một số dạng cơ bản sau:

Thứ nhất là dạng lời kể nửa trực tiếp

Nếu nhƣ lời gián tiếp là lời ngƣời kể chuyện ngôi ba kể về đối tƣợng, lời

trực tiếp là lời nhân vật thông qua độc thoại và đối thoại thì lời nửa trực tiếp

là kiểu lời nói kết hợp đồng thời hai hình thức phát ngôn gián tiếp (bởi ngƣời

kể chuyện) và trực tiếp (bởi nhân vật) nói trên. Lời nửa trực tiếp là “lời trần

thuật nói thay ý nghĩ nhân vật, nhằm bộc lộ nội tâm nhân vật” [61, tr.180].

Trong truyện kể, ngôn ngữ tác giả chủ yếu lại đƣợc thể hiện bởi ngôn ngữ

ngƣời kể chuyện, nên xét từ phƣơng diện trần thuật học, có thể xem lời nửa

trực tiếp là lời ngƣời kể chuyện nhƣng mang ngôn ngữ nhân vật (xuất phát từ

điểm nhìn nhân vật). Đây là kiểu “câu hàm ẩn nhiều chủ thể”, “câu lai ghép”,

theo cách gọi của Bakhtin.

Truyện ngắn Việt Nam từ sau 1986 hay sử dụng kiểu lời nửa trực tiếp để

đến gần với cuộc sống đa chiều. Đây là phƣơng thức trần thuật gắn với tƣ duy

lí luận hiện đại, có hiệu quả trong việc khám phá dòng tâm trạng - phƣơng

diện bộc lộ rõ nhất tƣ duy phức hợp của con ngƣời. Không đơn nghĩa nhƣ lời

trực tiếp, lời nửa trực tiếp thƣờng mở ra nhiều hƣớng tiếp nhận, trở thành kiểu

lời nói đặc trƣng cho ngôn ngữ trần thuật phức hợp, đa thanh.

Một trong những đặc điểm đáng lƣu ý của lời nửa trực tiếp là tính song

điệu (giọng ngƣời kể và giọng nhân vật lẫn vào nhau). Đây là kiểu lời nói có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sự hòa trộn giữa ngôn ngữ ngƣời kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật: “Lúc về

68

Diệp ôm vai mẹ, Diệp bảo mớ khô cá sặc rằn này hôm nào mẹ tiễn con đi, mẹ

nƣớng rồi xé trộn xoài sống, con thích món này lắm” [88, tr.142]. Thông điệp

Diệp “ôm” vai mẹ, Diệp “bảo” thích món cá khô trộn xoài sống (bao hàm cả

hành động của nhân vật) đƣợc ngƣời kể chuyện truyền đạt lại. Lời kể này

chứa đựng ngôn ngữ nói biểu cảm của nhân vật nên lời ngƣời kể chuyện và

lời nhân vật hoà vào nhau. Từ điểm nhìn nhân vật, mƣợn ngôn ngữ và giọng

điệu nhân vật, ngƣời kể chuyện trong nhiều tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tƣ đã

duyên dáng kể chuyện với con mắt tinh tƣờng của ngƣời trong cuộc. Đó là

ngôn ngữ trong trẻo nhƣng nhiều suy tƣ của Diệp ở những độc thoại nội tâm

đƣợc “thốt lên” bởi ngƣời kể chuyện: “Đâu nè, đâu phải muốn là làm, cũng

phải suy nghĩ đắn đo dữ lắm. Coi lại, làm gì có chuyện con ngƣời đƣợc sống

hồn nhiên nhƣ nƣớc chảy mây trôi?” [88, tr.143]. Ngôn ngữ trần thuật trở nên

giàu sức gợi nhờ những lời nửa trực tiếp và những câu chuyện đời ngƣời

trong tác phẩm Nguyễn Ngọc Tƣ càng sâu sắc, lan tỏa trong lòng ngƣời.

Thứ hai là dạng lời kể phong cách hóa: “là lời trần thuật bằng giọng

ngƣời khác mà khuynh hƣớng nghĩa cùng chiều với lời giọng ấy, để tạo sắc

thái, không khí cá thể” [61, tr.179]. Chẳng hạn trong Làm mẹ có đoạn: “Dì

Diệu kêu chú Đức về, nƣớc mắt ròng ròng khi thấy bóng chồng qua cửa. Chú

đau lòng bảo thôi bỏ đi, dì Diệu cãi, “em bỏ không đành anh à”. Chú cũng

thấy rằng bỏ không đƣợc. Máu mủ ruột ràng mình mà bỏ sao đƣợc (…). Dì

Diệu lau nƣớc mắt cho mẹ chị Lành, lòng nghĩ, làm sao mình lại để ra nông

nỗi nầy. Dì không tiếc tiền của, công sức, dì cũng không tiếc tình thƣơng dồn

đắp cho chị Lành, dì chỉ cảm thấy xót xa cho mình “làm ngƣời thì ai lại đi

giành con với ngƣời ta?”, dì luôn dằn vặt vậy” [84, tr.96]. Với việc sử dụng

hiểu và thông cảm với dì Diệu và chú Đức.

cách nói dân dã, giản dị, mộc mạc này ngƣời kể chuyện đã thể hiện một sự thấu

Thứ ba là dạng lời kể nhại. Theo sự lí giải của M.Bakhtin thì lời nhại,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

giễu nhại là lời hai giọng, nghĩa là một lời nói nhƣng lời ấy lại mang hai quan

69

điểm, hai lập trƣờng, hai thái độ khác biệt nhau, thậm chí có thể chống đối, bài

bác nhau. Còn theo Trần Đình Sử thì đây là “lời nói bằng giọng ngƣời khác có

đƣa vào đó một khuynh hƣớng nghĩa đối lập hẳn với khuynh hƣớng của lời

ngƣời đó” [61, tr.178].

Ngôn ngữ trong truyện Nguyễn Ngọc Tƣ là ngôn ngữ đƣợc xây dựng

trên nền đối thoại rộn ràng, sôi động của nhiều tiếng nói với sự tranh luận, đối

thoại. Lời nhại, lời giễu cũng góp phần làm cho âm vang của sự đối thoại

trong truyện sôi nổi, vang động hơn. Vì vậy truyện lôi cuốn và hấp dẫn ngƣời

đọc. Nhƣng nhân vật trong truyện của chị là những con ngƣời với tâm hồn họ

hồn hậu, họ sống bằng tình nghĩa và yêu thƣơng nên lời nhại trong truyện của

chị không nhiều, không nổi bật, lời nhại trong truyện Nguyễn Ngọc Tƣ không

bùng lên thành tiếng cƣời giòn giã nhƣ tiếng cƣời trong Số Đỏ (Vũ Trọng

Phụng) mà nhẹ nhàng, mơ hồ. Mặc dầu vậy, lời nhại cũng đã làm cho tiếng

nói đa thanh của truyện thêm nổi bật, tạo dấu ấn cho phong cách truyện

Nguyễn Ngọc Tƣ thêm rõ nét.

Trong truyện Cỏ xanh ngƣời kể chuyện kể: Miên – một cô gái trẻ trong

cơn say rƣợu đã đánh bà chủ nhà. Cô bị bắt và bị phạt nhổ cỏ. Một nam thanh

niên nhận ra cô chính là ngƣời bạn của mình từ thuở ấu thơ với rất nhiều kỉ

niệm mến thƣơng đẹp đẽ. Nhƣng với mặc cảm về thân phận, với lòng tự

trọng, cô gái tỏ ra không quen biết với ngƣời thanh niên này. Anh thanh niên

giãi bày với công an xã: “Có khi nào cô này chính là Bé Hai của em hồi xƣa

không? Có khi nào cổ thấy mặc cảm với em rồi cổ không nhận không?” [87,

tr.27]. Ngƣời kể chuyện kể tiếp: “Mấy ông công an cƣời, cái thằng quỷ này

nói chuyện giống tiểu thuyết quá đi”. Nếu đọc thoáng qua ngƣời đọc sẽ hiểu

đây là lời thuật đơn thuần. Chỉ đến khi đọc thêm các trang tiếp theo với lời

ngƣời thanh niên: “Bé Hai à, thôi đừng ra đây làm cỏ nữa nghen, em coi, cỏ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nó bị chặt rồi mà bữa nay tốt thấy đẹp luôn, cỏ còn muốn sống đẹp hơn, tốt

70

hơn nữa, huống chi mình… Ráng nghe cƣng…” rồi tiếp đến là lời ngƣời kể

chuyện: “Anh ta tỏ ra là ngƣời biết nói chuyện văn chƣơng, ví von thanh cao”

[87, tr.30-31] thì lúc này những lời có liên quan tới tiểu thuyết, nói chuyện

văn chương, ví von thanh cao mới trở thành lời nhại, nhại cốt truyện tiểu

thuyết mang tính kịch đã thành công thức sáo mòn, nhại lời lẽ bóng bẩy chỉ có

trong văn chƣơng. Hay trong Ngổn ngang, ngƣời kể chuyện đã nhại lại cách

xử lí đầy nƣớc mắt mùi mẫn, dễ dãi của phim ảnh: “Tôi cũng thấy buồn kinh

khủng lắm, sao Bảo làm vậy mà tôi không đau đớn vật vã gì hết. Sao tôi

không đùng đùng gào khóc, sao không chạy lại đấm vào ngực Bảo, hỏi nỡ nào

anh phụ tình em (cảnh này tôi thấy ngƣời ta hay làm trong phim)” [88, tr.97].

Qua sự phân tích ở trên có thể thấy lời kể trong truyện ngắn Nguyễn

Ngọc Tƣ khá phong phú, đa dạng với cả lời kể một giọng và lời kể nhiều

giọng và có lẽ lời kể nhiều giọng mới là yếu tố quan trọng góp phần làm nên

sức hấp dẫn, lôi cuốn của ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn

Ngọc Tƣ. Sự xen lẫn của lời thoại nhân vật vào lời kể và đặc biệt là hình thức

lời nửa trực tiếp đã góp phần làm mới nghệ thuật kể chuyện, cho thấy vai trò

quan trọng của ngƣời kể chuyện trong việc cấu trúc tác phẩm và dẫn dắt mạch

truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ.

truyện, qua đó cũng cho thấy ý thức sử dụng ngôn ngữ có chủ ý của cây bút

3.1.2.2. Thành phần lời miêu tả

Bên cạnh lời kể là lời tả của ngƣời kể chuyện. Lời miêu tả hỗ trợ việc kể,

khiến cho câu chuyện đƣợc kể trở nên sống động hơn. Khác với lời kể là một

dạng phát ngôn không thể thiếu của ngƣời kể chuyện, lời tả xuất hiện nhiều

hay ít phụ thuộc vào ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Theo Genette, trong khi kể

ngƣời kể chuyện có thể ngừng lại và chuyển sang miêu tả để làm chậm lại

diễn tiến của câu chuyện. Lời tả góp phần nâng cao hiệu quả trần thuật, nhƣ là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

một chiến lƣợc trần thuật của ngƣời kể chuyện. Việc miêu tả góp phần làm

71

cho câu chuyện kể thêm sinh động, hấp dẫn, nhân vật trở thành có máu thịt,

có môi trƣờng sống. Miêu tả còn cho thấy cách tổ chức thời gian của ngƣời kể

chuyện. Bàn về chức năng của lời kể và lời tả, T. Todorov đã chỉ ra rằng: “Miêu

tả, chỉ riêng nó không đủ để làm nên một truyện kể, nhƣng truyện kể bản thân nó

lại không loại bỏ miêu tả” [69, tr.153].

Trƣớc hết là những lời miêu tả thiên nhiên. Thiên nhiên trong truyện

ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ không mang vẻ đẹp rực rỡ, kì vĩ mà giản dị, đơn sơ,

quen thuộc, thức dậy ở con ngƣời những cảm xúc mênh mang, sâu lắng. Là

hình ảnh “một hàng dừa nƣớc bên sông nghiêng mình soi đáy. Những ngày

gió chƣớng về, nƣớc trong vằng vặc nhƣ thấy rành rạnh từng sớ lá. Trên bờ

kinh, dây choại mọc đầy, đọt choại xanh non nhuốt líu ra líu ríu bƣớc chân

ngƣời. Hàng bông bụp trƣớc sân nhà nở đỏ…” [84, tr.151]. Là “cái nắng xuân

kì lạ, không gay gắt đỏ, không nhàn nhạt nhƣ nắng chiều hè mà vàng thắm

thiết nhƣ màu bông sao nhái” [84, tr.68]. Là những bông cỏ mực nhỏ bé

duyên dáng điểm xuyết trên cánh đồng lúa bất tận: “ven các bờ ruộng, bông

cỏ mực nhƣ những đƣờng viền nhỏ liu riu làm dịu lại mảng rực vàng của lúa”

[83, tr.213]. Ngƣời kể chuyện ít dùng những màu chói gắt hay u tối mà

thƣờng thiên về gam màu nhẹ, sáng: “những bờ rào râm bụt xanh, những hàng

cây đủng đỉnh xanh” [83, tr.31]; “những bông sậy chín mềm, trắng phau phau.

Đã nhiều bông lìa cành, trùng trình bay” [87, tr.73]; “dọc những triền sông,

trên những đám chùm gọng, những rặng ráng… tơ hồng bao phủ lên một màu

vàng óng, rồi chi chít những cái hoa con con trắng nhƣ một tấm mẳn…” [83,

tr.122-123]. Chính những trang miêu tả thiên nhiên này đã tạo nên chất thơ,

chất trữ tình thấm đƣợm cho truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ.

Ngƣời kể chuyện thƣờng dùng những lời miêu tả thiên nhiên để giúp

ngƣời đọc hiểu thêm về nhân vật và tâm trạng của họ. Chẳng hạn nhƣ trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

truyện Cái nhìn khắc khoải, ngƣời kể chuyện đã để cho nhân vật xuất hiện

72

trong khung cảnh: “Căn chòi đầy khói. Cái mẻ un chất đầy vỏ dừa khô.

Những sợi khói trắng ngun ngút. Ngồi trên cái sạp ghe đong đƣa bằng tre chẻ

thẻ, một ngƣời đàn ông ngồi nhìn ra cửa. Cô độc. Và gió vùn vụt vô chòi (…),

ông khom lƣng thổi phù phù vô cái bếp un cho căn chòi đầy khói rồi nằm đƣa

võng. Gió vùn vụt vô chòi” [83, tr.52-53]. Không gian của khói, của gió cho

ta thấy cuộc sống lang bạt, lẻ loi, cô đơn của ngƣời đàn ông với công việc

Nguyễn Ngọc Tƣ là nhà văn của vùng đất miền Tây Nam Bộ - vùng đất

nuôi vịt chạy đồng.

của những cánh đồng bát ngát và một hệ thống sông ngòi, kinh rạch chằng

chịt. Cánh đồng, dòng sông đã trở thành biểu tƣợng văn hóa đặc trƣng cho

vùng đất Nam Bộ và chúng đi vào những trang văn của Nguyễn Ngọc Tƣ nhƣ

những hình ảnh thiên nhiên tiêu biểu và lặp đi lặp lại nhiều lần nhƣ một biểu

tƣợng. Hình ảnh cánh đồng trong truyện ngắn Cánh đồng bất tận gợi lên một

không gian mênh mang, hoang vắng, heo hút, rợn ngợp: “những cánh đồng

vắng bóng ngƣời, và lúa rày mọc hoang…”. Không gian này đƣợc ngƣời kể

chuyện miêu tả đi miêu tả lại nhƣ một biểu tƣợng về cuộc sống, số phận lênh

đênh, vô định của những con ngƣời “nghèo rơi, nghèo rớt” với kiếp sống lang

bạt trên đồng khơi. Cánh đồng cũng là biểu tƣợng cho những khó khăn, khắc

nghiệt mà con ngƣời phải đối mặt: “Con kinh nhỏ nằm vắt qua một cánh đồng

rộng. Và khi chúng tôi quyết định dừng lại, mùa hạn hán hung hãn dƣờng nhƣ

cũng gom hết nắng đổ xuống nơi này. Những cây lúa chết non trên đồng, thân

đã khô cong nhƣ tàn nhang chƣa rụng, nắm vào bàn tay là nát vụn” [83,

tr.163-171]. Tƣởng nhƣ không thể có một sinh vật nào có thể tồn tại trên

khung cảnh khô khốc, cằn cỗi này. Không phải là không có lý khi Bùi Việt

Thắng cho đó là “cánh đồng chết”. Cuộc sống khắc khổ, nghèo khó nhƣ bao

vây, bám riết lấy một gia đình du mục gồm ba ngƣời: Cha, Tôi và Điền - đứa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

em trai, cùng gia tài: một đàn vịt đang độ lớn, cần thức ăn còn xót lại trên

73

đồng, và nhất là cần nƣớc, trong một mùa nắng chát chúa, khô rát mặt ngƣời.

Con ngƣời nhƣ bị bủa vây bởi sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Họ cố vùng

vẫy, cố thoát khỏi cái nghèo đói khốn khó của cuộc sống nhƣng càng vùng

vẫy lại càng bị thắt chặt, bóp nghẹt dƣới bàn tay khốc liệt của tạo hóa buột họ

phải cam tâm, quy thuận tự nhiên khắc nghiệt bởi họ “chẳng có chỗ nào để đi

nữa”. Cánh đồng khô hạn, nứt nẻ còn là nơi thân quen, là ngƣời bạn lƣu giữ

những kỉ niệm và gắn bó mật thiết với cuộc sống của hai chị em Nƣơng và

Điền: “Cánh đồng không có tên. Nhƣng với tôi và Điền, chẳng có nơi nào là

vô danh, chúng tôi nhắc, chúng tôi gọi tên bằng những kỉ niệm mà chúng tôi

có trên mỗi cánh đồng. Chỗ chị em tôi trồng cây, chỗ Điền bị rắn cắn, chỗ tôi

có kỳ kinh nguyệt đầu tiên… Và mai nầy khi trôi dạt đến một nơi nào khác,

nhắc đến cánh đồng nầy với cái tên của chị, chắc chúng tôi sẽ xốn xang” [83,

tr.167]. Cánh đồng cũng là biểu tƣợng cho sự mở đầu và kết thúc những bi

kịch trong gia đình của Nƣơng. Bởi họ đã nhận ra sự hận thù chỉ đem lại cho

bản thân nỗi khổ đau. Cánh đồng bất tận khép lại nhƣng những suy nghĩ miên

man về cuộc đời, về kiếp ngƣời phiêu bạt cứ mãi “ám ảnh” ngƣời đọc. Với

hình cảnh cánh đồng mang tính biểu tƣợng, Nguyễn Ngọc Tƣ đã khắc họa

thành công về những con ngƣời đáng thƣơng, suốt đời lam lũ, cơ cực nơi

đồng ruộng hoang vắng, về những suy tƣ trong lòng họ, về cách họ làm để tìm

quên quá khứ, tìm quên thực tại đau khổ, để rồi vƣợt qua chúng và tiếp tục

cuộc hành trình của mình với niềm tin bất diệt vào cuộc sống. Cánh đồng

trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ đã trở thành một “thế giới nghệ thuật

riêng, là một khái niệm văn học” (Nguyễn Khắc Phê). Với ý nghĩa đó, cánh

đồng đã mang tính thẩm mỹ độc đáo, đã trở thành hình tƣợng trong tác phẩm

với tƣ cách là một chỉnh thể nghệ thuật.

Gắn liền với hình ảnh cánh đồng là hình ảnh dòng sông. Nó làm cho

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

không gian nghệ thuật trong truyện ngắn của chị mang đậm dấu ấn sông nƣớc.

74

Đây cũng là đặc điểm rất riêng của không gian truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ.

Với những ý nghĩa khác nhau, dòng sông có giá trị tô đậm thêm bối cảnh của

những câu chuyện ở miền quê Nam Bộ. Trong truyện ngắn Nhớ sông, dòng

sông là nơi Giang và Thủy lớn lên và “ở đáy con sông nào đó, còn là nơi gửi

gắm xƣơng thịt của ngƣời đàn bà xấu số - má Giang”. Giang lấy chồng cũng ở

khúc sông mà gia đình cô hay ghé lại. Câu chuyện gần nhƣ chỉ diễn ra ở một

khúc sông mà vẫn làm chạnh lòng ngƣời đọc. Trong Cánh đồng bất tận, dòng

sông là biểu tƣợng của cuộc sống phiêu bạt, lênh đênh vô định. Sau khi ngƣời

vợ ngoại tình, Út Vũ đốt nhà lên ghe cùng hai đứa con và đàn vịt đi dọc theo

các con sông. Đi hết dòng sông, sau những cuộc tình chóng vánh của ngƣời

cha là hành trình của ba cha con về phía cánh đồng bất tận. Dòng sông cũng là

biểu tƣợng của sự khó khăn, khắc nghiệt mà con ngƣời phải đối mặt. Đó là

con sông lớn mênh mang mà ở đó đời sống ngƣời dân gắn liền với sự nghèo

con bị ghẻ lở đầy ngƣời do phải tắm bằng thứ nƣớc đóng đầy váng phèn “ngƣời

họ đầy ghẻ chốc, những đứa trẻ gãi đến bật máu. Họ đi mua nƣớc ngọt bằng

đói và cơ cực. Sống gần sông nhƣng họ lại không có nƣớc ngọt để dùng, trẻ

xuồng chèo, nín thở để nƣớc khỏi sánh ra ngoài vì đƣờng xa, nƣớc mắc. Buổi

chiều đi làm mƣớn về, họ tụt xuống ao tắm táp thứ nƣớc chua lét vì phèn, rồi

xối lại đúng hai gàu” [83, tr.170]. Với cha con Út Vũ, cuộc sống trên những

dòng sông cũng không khá hơn, vẫn là sự khốn khó cùng cực thậm chí là sự

bế tắc không lối thoát: “Chỗ chúng tôi cắm lều cầm vịt, cắm vịt, nƣớc đã sắt

lại thẫm một màu vàng u ám. Nhƣng chúng tôi chẳng có chỗ nào để đi nữa, từ

bờ bên kia của sông Bìm Bịp là vùng đệm cho những cánh rừng tràm lớn”

[83, tr.171]. Trong một truyện ngắn khác, dòng sông đã hóa thành “dòng nhớ”

cuộn chảy trong lòng ngƣời. Nhân vật Hai Giang sau sự bất hạnh trong cuộc

sống với ngƣời vợ trƣớc đã từ giã sông về với đất. Nhƣng trong tâm trí ông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

luôn hiện lên nỗi ám ảnh về sự mất mát lớn lao khi đứa con té xuống sông

75

chết lúc chƣa đầy một tuổi. Cái chết của con và hình ảnh ngƣời vợ bất hạnh

một mình nơi sông nƣớc làm ông luôn hƣớng về dòng sông. Hồn ông đã gửi

lại nơi sông: “ông nhớ sông, một ngày ba bốn lƣợt lủi thủi chống gậy ra bến,

đôi mắt nhƣ đang nhìn da diết, mà không biết nhìn ai, chỉ thấy mông mênh

vậy thôi. Chơ vơ, cô độc. Tựa nhƣ ông đang ở đây nhƣng tâm hồn ông, trái

tim ông, tấm lòng ông chảy tan vào dòng nƣớc tự lâu rồi” [83, tr.130-131].

Dòng sông đã trở thành phƣơng tiện làm nền thể hiện tâm trạng nhân vật.

Những dòng sông, con sông, khúc sông cứ tuôn chảy miệt mài và còn đƣợc lặp

đi lặp lại nhiều lần trong các truyện ngắn khác của Nguyễn Ngọc Tƣ.

Cùng với cánh đồng, dòng sông thì gió cũng là hình ảnh thiên nhiên trở

đi trở lại trong rất nhiều truyện ngắn của chị nhƣ một ẩn dụ độc đáo. Điều này

không phải là sự ngẫu nhiên. Trong một lần trả lời phỏng vấn chị tâm sự “tôi

thích gió. Nó thơ mộng, bảng lảng, khó nắm bắt. Tôi lớn từ xứ gió, mà gió

Nam gió chƣớng gì cũng đẹp, nên bị ám, viết gì cũng cho gió thổi. Đó là “gió

chƣớng non xập xòe trên khắp cánh đồng Bất Tận” (Cánh đồng bất tận); là

ngọn gió tinh nghịch nhƣ đứa trẻ “giữa im lặng, gió cồn lên rúc rích đuổi nhau

chạy xổm trên mái nhà, nhƣ một đám trẻ lật từng tàu lá để tìm trứng thằn lằn”

(Đau gì như thể), “bây giờ chỉ nghe gió từ ngoài kinh rần rần rƣợt đuổi nhau

qua đám dừa nƣớc thốc vào mái lá phần phật” (Chuyện của Điệp); là ngọn gió

vô tình trong Chiều vắng “gió thổi bời bời vào căn chòi của cậu Tƣ Nhớ, thốc

cuộn những tàn tro xát vào những vết cắt trong lòng”; ngọn gió đơn độc trong

Lỡ mùa “gió nhiều, rất nhiều ngọn mồ côi, lẻ loi líu ríu chạy qua”. Có khi gió

hiện diện nhƣ một nhân vật trong truyện: “Tôi nghe rất rõ gió cuộn thành lọn,

lăn miết trên da mình (…). Chúng tôi kéo lại ngồi với nhau. Và với gió” (Lý

con sáo sang sông). Đặc biệt trong Gió lẻ, chúng ta choáng ngợp với những

hình ảnh của gió: “không thể ngủ trong cơn đùa nghịch dẳng dai của những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cơn gió bị xé nhỏ bởi một bàn tay vô hình. Và từ khi lìa nhau, gió dằn vặt con

76

ngƣời bởi nỗi li tan của chính nó… gió lại dựng họ dậy theo cái kiểu lƣớt thật

chậm từ chân lên đầu, nhƣ có một linh hồn, một bóng ma vừa đi qua âu yếm”,

“Vài ngọn gió cô độc đã nghênh ngang đi qua rẫy tạo ra một cảnh tƣợng buồn

cƣời, chỗ thẳng chỗ xiên, rối bời. Buổi sáng thức dậy, gió làm những cây bắp

đã trổ cờ ngã rạp”. Nói về biểu tƣợng Gió lẻ, nhà văn tâm sự: “Thật ra tôi có

thể viết Nắng lẻ, hay Mây lẻ, nhƣng những thứ này không…lạnh, khi tôi đang

nói tới cái cô độc hiu hắt của cuộc đời”.

Hệ thống hình ảnh thiên nhiên: dòng sông, cánh đồng, gió với những đặc

trƣng rất riêng đã góp phần làm cho trang viết của Nguyễn Ngọc Tƣ thấm

đẫm chất Nam Bộ. Và chính hệ thống biểu tƣợng này đã giúp ngƣời kể

chuyện đi sâu khám phá thế giới tâm hồn đầy bí ẩn phức tạp của con ngƣời,

đồng thời nó cũng góp phần rất lớn trong việc tạo nên phong cách trần thuật

có chiều sâu của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ.

Bên cạnh việc miêu tả thiên nhiên, ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn

Nguyễn Ngọc Tƣ còn đi vào miêu tả chân dung nhân vật nhằm góp phần

khám phá thế giới bên trong đầy bí ẩn của các nhân vật. Chẳng hạn, chân

dung ngƣời dì trong Dòng nhớ đƣợc ngƣời kể chuyện miêu tả khá cụ thể:

“…dì mặc chiếc áo cộc tay màu cau khô ở trong, khoác thêm chiếc áo bà ba ở

ngoài, mỏng te, nhiều vụn vá. Tóc đã bạc nhiều, lơ thơ vài cọng rủ xuống mặt.

Sƣơng gió đã làm cho khuôn mặt dì đen sạm, nhăn nheo” [83, tr.135-136].

Qua những lời miêu tả này, ngƣời kể chuyện cho ta thấy đƣợc hình ảnh một

ngƣời dì hiền hậu với những vất vả, cơ cực mà sƣơng gió cuộc đời đã in hằn

trên khuôn mặt.

Điều đáng chú ý là khi miêu tả nhân vật, ngƣời kể chuyện thƣờng tập

trung vào những nét ngoại hình giàu sức biểu hiện tâm lí nhƣ khuôn mặt, đôi

mắt, nụ cƣời. Đó là gƣơng mặt “đen đúa trầm lặng nhƣ tƣợng gỗ bỗng mềm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lại” của Sáu Tâm khi anh nghe San kể về ƣớc mơ, khao khát đƣợc trở thành

77

đào hát và câu chuyện cuộc đời bất hạnh của cô (Bởi yêu thương); khuôn mặt

“trầm lặng mà sâu sắc” của ngƣời đàn ông trong Cái nhìn khắc khoải. Trong

Ngày đã qua, ngƣời kể chuyện tập trung miêu tả khuôn mặt của từng nhân

vật: khuôn mặt đầy đặn của Hòa “mặt chữ điền, cạnh nào ra cạnh đó”, khuôn

mặt ấn tƣợng của Chi với “cái miệng rộng, cái mũi to bè bè nhƣng đôi mắt rất

đẹp, đôi mắt tròn xoe”, đặc biệt là khuôn mặt đẹp nhƣng ẩn dấu nhiều nỗi

buồn của Tiệp “khuôn mặt tròn dình, miệng lúc nào cũng nhƣ cƣời, mắt lúc

nào cũng nhƣ hỏi… khuôn mặt xinh đẹp của chị toát ra cái vẻ lơ đãng một

cách đau lòng”. Mỗi khuôn mặt là một số phận, một tính cách, một trạng thái

tâm hồn…

“Đôi mắt rất hay nói”, “đôi mắt thể hiện đƣợc con ngƣời”, đọc truyện

Nguyễn Ngọc Tƣ ngƣời đọc cứ bị ám ảnh khôn nguôi bởi đôi mắt của các

nhân vật. Đó là đôi mắt “ầng ậc nƣớc… không rõ là phèn hay máu nhoèn

nhoẹt” của ngƣời cha khi phải chứng kiến cảnh bọn côn đồ thi nhau làm nhục

đứa con gái thƣơng yêu của mình, đôi mắt đau đớn “rƣng rức chớp mở” của

Nƣơng khi bị làm nhục (Cánh đồng bất tận); “đôi mắt hiền, hơi ƣớt, dịu

dàng” của cô đào Điệp (Bởi yêu thương); đôi mắt dị tật của Lƣơng – một con

ngƣời với vẻ ngoài mang nhiều khiếm khuyết nhƣng ẩn sâu bên trong là một

tâm hồn luôn ngập tràn yêu thƣơng: “một bên mắt xé lẹ…ngƣời ta nhìn anh

biết, chứ anh mà nhìn lại, ngƣời ta tƣởng anh ngó đâu đâu”, “Con mắt lé thờ ơ

nhìn chỗ khác, nhƣng con mắt còn lại thắp lửa lên” (Lương); đôi mắt chứa

đựng nhiều tâm trạng của đứa trẻ với bi kịch bố mẹ chia lìa: “thằng con có đôi

mắt tối và ƣớt của cha bƣớc theo sau”, “nó có đôi mắt buồn quá, tƣởng nhƣ té

vô đó thì không mong lội lên”, “mắt nó vằn lên những tia giận dữ, gƣơng mặt

tối sầm”, “nhƣng thằng nhỏ Sói không ngủ, vẫn còn hai cái hố thẳm sâu biền

biệt, mở trâng tráo” (Ấu thơ tươi đẹp).

Nụ cƣời cũng góp phần thể hiện tâm hồn, tính cách con ngƣời. Ta không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thể nào quên đƣợc nụ cƣời hiền hậu của Hiên trong Nửa mùa: “Bù lại nó cƣời

78

thiệt ngọt, cƣời giống nhƣ má mình nhƣ ngoại mình, móm mém hiền khô, nhƣ

rót vào lòng. Một nụ cƣời lƣơng thiện”; nụ cƣời ngập tràn tình yêu và hạnh

phúc của má Hiên trong Người năm cũ: “Mỗi lần xem tivi, nhìn thấy ông

thoáng qua trên màn hình, má Hiên luôn cƣời rất nhẹ, kín đáo âm thầm. Cái

cƣời nhỏ nhƣng tràn đầy tình”. Có những nụ cƣời của hạnh phúc nhƣng cũng

có những nụ cƣời mà ẩn sau nó là nỗi buồn đau chất chứa. Đó là cái cƣời

mang cả khối đau u uất của Út Vũ trong Cánh đồng bất tận: “nó vừa dữ dội,

đau đớn, hoang dã, cay đắng, nghiệt ngã. Cái cƣời thật dài, riết lấy khuôn mặt

cha, làm mắt cha hơi lồi ra, ánh lên nhƣ có nƣớc”; là những cái cƣời mang

tâm sự buồn của các nhân vật trong Chuyện của Điệp: “Điệp ngó Giàu cƣời

buồn, má ngó Điệp cƣời còn buồn hơn (…). Má lặng lẽ cƣời. Cƣời buồn bã”;

“nụ cƣời tê dại” của Hậu khi Hậu biết ngƣời muốn giết hại chị lại chính là

ngƣời chồng mà chị yêu thƣơng (Một trái tim khô). Với sự quan sát tinh tế và

sự thấu hiểu đời sống tâm lí nhân vật, ngƣời kể chuyện chỉ thông qua một vài

lời miêu tả đã lột tả đƣợc khá sâu sắc những biến chuyển trong chiều sâu nội

tâm nhân vật.

Từ sự phân tích ở trên ta có thể thấy thành phần lời miêu tả chiếm một

tần số khá cao, một vị trí khá đặc biệt trong nghệ thuật tự sự của Nguyễn

Ngọc Tƣ. Qua những lời miêu tả này, ta cảm nhận đƣợc một tâm hồn nhạy

cảm và khả năng quan sát tinh tế, sắc sảo của ngƣời kể chuyện. Tả cảnh thiên

nhiên hay miêu tả diện mạo nhân vật thì ngƣời kể chuyện cũng luôn luôn

hƣớng tới khám phá thế giới bên trong đầy phong phú, phức tạp, bí ẩn của

con ngƣời. Chính thành phần miêu tả này đã góp phần quan trọng trong việc

tạo nên chất thơ, chất trữ tình cho truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ.

3.1.2.3. Thành phần lời phân tích, bình luận

Thành phần lời phân tích, bình luận của ngƣời kể chuyện trong các tác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phẩm tự sự có vai trò rất quan trọng. Nó giúp ngƣời kể chuyện soi sáng thêm

79

nội dung tƣ tƣởng của tác phẩm, bộc lộ đầy đủ tập trung hơn thái độ, sự đánh

giá của mình đối với nhân vật cũng nhƣ quan niệm nhân sinh của mình, thể

hiện trực tiếp những điều muốn nhắn gửi của mình đến ngƣời đọc. Với nhu

cầu nhận thức chính mình, nhận thức xã hội, nhận thức về con ngƣời, lời bình

luận trong truyện ngắn đƣơng đại ngày càng xuất hiện với mức độ đậm đặc. Ý

thức của chủ thể sáng tạo thể hiện rõ ở những lời bình luận. Nguyễn Khải, Bảo

Ninh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Ngọc Tƣ là những nhà văn tạo đƣợc phong cách

riêng với sự xuất hiện lời bình luận đậm đặc trong ngôn ngữ kể chuyện. Sự xuất

hiện khá lớn những lời phân tích, bình luận trong tác phẩm của các nhà văn

không phải là một sự ngẫu nhiên. Bởi chức năng cơ bản của ngƣời kể chuyện

trong cuộc sống đƣơng đại đa sự, đa đoan không phải là đi vào tái hiện các sự

kiện, các mảng hiện thực của đời sống mà là phân tích, lí giải đời sống đó ở

chiều sâu của nó.

Chủ đề bình luận mà ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc

Tƣ hay hƣớng tới là những vấn đề cá nhân, đời tƣ, cách đối nhân xử thế. Đó là

suy ngẫm về con ngƣời và cuộc đời: “Con ngƣời ta, hết đau bề nầy tới đau bề

khác” [83, tr.12]; “Ngƣời đời thƣờng vậy, họ chém ta một nhát rồi quên đi, thì

chỉ nói cho sƣớng miệng thôi, cho đỡ buồn thôi chứ chết chóc ai đâu, ai biểu

ta ngồi đó để ôm vết sẹo với nỗi đau khôn tả” [88, tr.130]; “Anh để ý coi,

những ngƣời ít nói hay cƣời, không phải vì vui mà vì để khỏi trả lời” [84,

tr.108]. Đặc biệt ngƣời kể chuyện thƣờng hay bình luận, suy ngẫm về tình

yêu, về tình cảm giữa ngƣời với ngƣời: “thâm tình cũng nhƣ nƣớc dƣới sông,

có chảy đi đâu, có chém vè ở đâu cũng hợp lại một dòng xuôi chảy mãi” [84,

tr.113]; “Có nhiều câu hỏi ngƣời ta tốn cả đời để trả lời, thí dụ nhƣ câu “Anh

có thƣơng em tới chết mới thôi không?”, “Khoảnh khắc đó tôi đã biết âm

thanh đẹp nhất của cuộc sống là tiếng của một ngƣời nói yêu một ngƣời” [86,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tr.131-150]; “ở đời tƣởng đâu ngƣời ta tƣởng đâu chửi mắng xâu xé nhau là

80

mất tình. Lợt lạt nhau thì cũng có tình gì đâu” [88, tr.53]. Có khi là lời bình

luận về lẽ sống ở đời: “cái gì của mình trƣớc sau gì cũng của mình, cái gì

không phải của mình đừng giành giật, uổng công” [88, tr.56]; “nhƣ con ngƣời

ta vậy, nhìn nhau phải nhìn mặt tốt của nhau” [88, tr.154].

Trong cách bình luận của ngƣời kể chuyện thể hiện sự dè dặt, vẻ hồ

nghi, băn khoăn. Dƣờng nhƣ ngƣời kể chuyện muốn nhắn gửi với ngƣời đọc

rằng những lời bình luận mà chị đƣa ra chƣa phải là chân lí mà mới chỉ là

những gì mà chị cảm nhận, tiên đoán. Chị chỉ đƣa ra vấn đề cho ngƣời đọc

tìm hiểu, suy ngẫm còn đúng - sai, phải - trái thế nào là tùy vào kinh nghiệm,

vốn sống của từng ngƣời. Thái độ dè dặt, hồ nghi của ngƣời kể chuyện thể

hiện rõ qua việc ngƣời kể chuyện dùng những câu nghi vấn: “Làm gì có

chuyện đời nhƣ ý?” [84, tr.66]; “Coi lại, làm gì có chuyện con ngƣời đƣợc

sống hồn nhiên nhƣ nƣớc chảy mây trôi?” [88, tr.143]. Trong lời bình luận,

ngƣời kể chuyện thƣờng dùng những cụm từ mang ý nghĩa phỏng đoán,

không xác định, dự cảm, hồ nghi nhƣ: đôi khi, dƣờng nhƣ, có lẽ, thƣờng thì,

chắc tại: “Cũng giống nhƣ phim tình cảm, đôi khi ngƣời ta vì yêu mà rứt ruột

lìa xa ngƣời mình yêu” [84, tr.14]; “Đôi khi ngƣời ta hay bàn chuyện nầy

chuyện nọ để làm xao động cuộc đời đang hết sức yên bình, lãng nhách vậy

đó…” [84, tr.97]; “Nhƣng cũng có lúc nó cần có má, để hỏi vài chuyện… Tôi

hỏi chuyện gì, nó cƣời, bẻn lẻn, dƣờng nhƣ những câu chuyện đó ngƣời ta chỉ

dành để nói với má ngƣời ta” [84, tr.122]; “Có lẽ, ngƣời đời luôn luôn nuối

tiếc những gì không tròn vẹn” [84, tr.151]; “Thƣờng thì đàn ông không nhớ

sâu sắc và yêu sâu sắc nhƣ ngƣời đàn bà” [84, tr.145]. Cách bình luận không

cứng nhắc, không “cao đàm khoát luận” mà rất mềm mại, linh hoạt đã tạo cho

những lời bình luận của ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ

sự hấp dẫn lôi cuốn. Bởi đó là những suy nghĩ và cảm nhận hết sức chân thật

của ngƣời kể chuyện. Nó không áp đặt đối với ngƣời đọc mà đi vào lòng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngƣời một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, thấm thía.

81

Có thể khẳng định rằng sự kết hợp một cách khéo léo, linh hoạt ba thành

phần: lời kể, lời miêu tả và lời phân tích, bình luận là một trong những yếu tố

làm nên nét đặc sắc và hấp dẫn rất riêng cho ngôn ngữ của ngƣời kể chuyện

trong các sáng tác của Nguyễn Ngọc Tƣ. Nhờ đó, ngôn ngữ trong trang văn

của chị vừa mang chất trữ tình sâu lắng vừa thấm đẫm chất triết lí và có khả

năng lôi kéo ngƣời đọc cũng suy ngẫm, bàn bạc.

3.1.3. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ người kể chuyện với ngôn ngữ của

nhân vật khác

Sự phân biệt giữa ngôn ngữ của nhân vật ngƣời kể chuyện với ngôn ngữ

của các nhân vật khác chỉ có ý nghĩa tƣơng đối. Bởi trong một số trƣờng hợp,

hai loại ngôn ngữ này hòa lẫn vào nhau rất khó tách biệt. Đọc truyện ngắn

Nguyễn Ngọc Tƣ ta thấy ngôn ngữ của nhân vật ngƣời kể chuyện thƣờng

chiếm ƣu thế cả về số lƣợng lẫn về chức năng tự sự, miêu tả, biểu hiện. Để

chứng minh cho điều này chúng tôi dựa vào một số căn cứ:

Thứ nhất, ngôn ngữ của các nhân vật khác trong truyện ngắn Nguyễn

Ngọc Tƣ chủ yếu là lời độc thoại nội tâm. Nhƣng một điều dễ nhận thấy là lời

độc thoại nội tâm của nhân vật Nguyễn Ngọc Tƣ rất ít theo kiểu truyền thống

– những lời độc thoại nội tâm mà ở đó có sự tách biệt rạch ròi giữa lời dẫn

của ngƣời kể chuyện với lời miêu tả suy nghĩ của nhân vật, kiểu nhƣ: Anh ấy

nghĩ: “…” hay Nó tự nhủ: “…”. Trong những lời độc thoại nội tâm ở truyện

ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ có một bộ phận lớn ta khó có thể tách biệt đƣợc đó là

lời của ngƣời kể chuyện hay của nhân vật. Nó nhòe vào nhau tạo thành lời

nửa trực tiếp: “Ông già nghe thất vọng quá, các ngƣời đòi thêm gì nữa, muốn

éo le nhƣ thế nào, oan khuất bao nhiêu năm mới đủ?” [88, tr.129]; “San sống

nhƣ vậy riết rồi quen. Không tâm huyết, kì vọng vào cái gì, không mơ mộng

xa vời, không rút ruột ta tin ai, yêu ai. San thấy mình không vịn vào ai để

sống và cũng không sống vì ai” [84, tr.139]. Và chúng tôi vẫn xếp loại lời này

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

vào lời kể của ngƣời kể chuyện – dạng lời kể hai giọng.

82

Thứ hai, ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật khác nhìn chung là bị ngôn

ngữ ngƣời kể chuyện “lấn lƣớt”:

Trong các truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tƣ, lời đối thoại của nhân vật

chiếm một tỉ lệ ít và nó khá ngắn. Nhân vật của chị thƣờng có chung một đặc

điểm là suy nghĩ nhiều, nói ít, hoạt động ít. Phần lớn các truyện ngắn của chị

chỉ có ba bốn đoạn đối thoại mà mỗi đoạn đối thoại cũng thƣờng chỉ gồm ba

đối thoại chiếm gần 2.5 %; truyện Mộ gió có 118 dòng trong đó chỉ có 3 dòng

đối thoại, chiếm 2.5 %. Truyện Cải ơi có 224 dòng mà chỉ có 4 dòng đối thoại,

chiếm 1.7 %. Trong những đoạn đối thoại ít ỏi này, có những cuộc thoại chỉ gồm

một lƣợt lời chỉ có trao mà không có đáp nên nếu chuyển thành lời gián tiếp hòa

lẫn vào trong lời dẫn của ngƣời kể chuyện thì cũng không phƣơng hại gì nhiều

đến cấu trúc chung của văn bản tác phẩm. Ví dụ nhƣ lời của Diễm Thƣơng nói

với Thàn: “Ăn bám mà kéo theo cả bầy”. Hay lời của Thàn nói với Diễm

Thƣơng về ông già Năm Nhỏ: “Ông Năm, bạn anh. Dễ thƣơng lắm” [83, tr.7].

bốn lƣợt lời. Chẳng hạn truyện Cảm giác trên dây có 324 dòng mà chỉ có 8 dòng

Lại có không ít những cuộc đối thoại mà quan hệ trao – đáp rất lỏng lẻo,

hờ hững hoặc là trật khớp. Ví dụ nhƣ cuộc đối thoại giữa ngƣời đàn ông làm

nghề nuôi vịt chạy đồng với ngƣời phụ nữ trong Cái nhìn khắc khoải:

- “Sáng nay tôi gặp thằng bạn, nó mới chạy bầy vịt từ nông trƣờng qua.

Tôi hỏi, nghe nói thợ gặt An Bình ở đó.

- Anh Hai

Ông bƣớc xuống đẩy mớ vỏ dừa vô mẻ un. Xơ dừa mịn, cháy rực, rồi

tắt ngấm.

- Ảnh tên Sinh phải hôn cô Út?Ờ, Sinh, ảnh…cũng đang gặt bên đó,cô Út à.

- Anh Hai!

Chị buông cái khăn xuống kêu bàng hoàng.

- Tàu từ xã chạy nông trƣờng lúc năm giờ, ngang đây, chắc cỡ sáu giờ

rƣỡi. Cô ráng đón chuyến đó. Để lỡ tới bữa sau, sợ mấy ảnh lại chuyển đồng,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

kiếm cực lắm. Tính vậy nghen cô Út (…)

83

- Anh Hai à, sao anh tính vậy?

làm sao. Nói có tình, mình ở lại, biết đâu ngƣời ta có nỗi khổ gì…”[83, tr.62-63].

- Tôi biết cô còn nặng lòng cùng ảnh. Qua bển hỏi đầu đuôi gốc ngọn ra

Ở đây hầu nhƣ chỉ là lời của ông Hai, nhân vật “cô Út” chỉ đáp lại bằng

tiếng gọi tên. Cuộc đối thoại này với quan hệ trao – đáp lỏng lẻo lại có ý

nghĩa đặc biệt trong việc thể hiện tâm lí, suy nghĩ riêng của mỗi ngƣời. Ông

Hai nhƣ muốn cố nói cho nhanh những gì cần nói để che giấu đi cảm xúc thực

của mình. Còn ngƣời phụ nữ có đối đáp, có trả lời nhƣng chỉ là hai từ “Anh

Hai”, chứa đựng sự xúc động nghẹn ngào, lòng biết ơn đối với ngƣời mình

đang đối thoại.

Có những cuộc thoại lại không tuân thủ quy tắc luân phiên lƣợt lời (một

cách có dụng ý). Chẳng hạn, cuộc đối thoại giữa ngƣời phụ nữ với ngƣời tình

trong Một chuyện hẹn hò có 11 lƣợt lời nhƣng có tới 8 lƣợt lời là của ngƣời

phụ nữ, chỉ có 3 lƣợt lời là của ngƣời đàn ông:

- “Ra đây để nói với anh, em… không thể… Có bão…

- Ừ, thì bão…

- Em sợ anh chờ nên mới ra nói anh hay. Có bão thiệt mà, anh.

- Ngƣời ta sẽ thấy hai đứa mình…

- Bà con sẽ nghĩ nầy nghĩ nọ…

- Thôi mà, em. Mình sẽ nói là dọc đƣờng bị bão, tình cờ gặp.

- Ngƣời ta đồn rùm lên…

- Thôi đi, em.

- Em biết nói sao với con em bây giờ?...

- Tại em sợ… Hồi xƣa, em có nhỏ bạn. Đời nó buồn lắm, mẹ nó bị tù…

- Mẹ nó làm giám đốc, nhƣng thích cải lƣơng, thích nghệ sĩ, xài nhiều

tiền của công ty vô mấy chuyện hát hò. Có bữa, nghe Minh về hát bên Thổ

Cƣờng, bà chạy xe hơi gần hai trăm cây số để đem cho ông Minh mắc dịch đó

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ơ cá dứa kho tộ. Nhà báo ngƣời ta viết về vụ đó quá trời” [85].

84

Ngƣời phụ nữ nói liên tiếp 8 lƣợt. Đó là nỗi lòng chị với biết bao những

thoại có “vấn đề tâm lí” của nhân vật giao tiếp. Nó có ý nghĩa bộc lộ tâm trạng,

cảm xúc nhiều hơn là có tác dụng thúc đẩy câu chuyện vận động phát triển.

lo lắng, giằng xé, sợ hãi, đau đớn... Đây là những lời thoại trong một cuộc đối

Tóm lại, trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ ngôn ngữ của nhân vật

ngƣời kể chuyện chiếm tỉ lệ lớn hơn so với ngôn ngữ của các nhân vật khác.

Có lẽ đây chính là một trong những đặc điểm làm nên phong cách nghệ thuật

riêng biệt của Nguyễn Ngọc Tƣ. Đọc truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Lê

Minh Khuê… ta thấy những tác giả này rất tài năng trong việc dựng đối thoại

của nhân vật. Đối thoại trong truyện ngắn của họ thƣờng chiếm một tỉ lệ rất

thì lời đối thoại của nhân vật chiếm một dung lƣợng rất ít ỏi, đối thoại hƣớng tới

sự đồng cảm, sẻ chia và nó thƣờng là đối thoại một chiều – giống với độc thoại.

lớn so với ngôn ngữ của nhân vật ngƣời kể chuyện. Còn với Nguyễn Ngọc Tƣ

3.2. Giọng điệu kể chuyện

Giọng điệu có một vị trí rất quan trọng, nó góp phần tạo nên phong cách

nhà văn. Qua giọng điệu kể chuyện, ta có thể thấy đƣợc lập trƣờng xã hội,

thái độ tình cảm của ngƣời kể chuyện với đối tƣợng đƣợc kể. Tùy theo mục

đích, chức năng và đối tƣợng kể khác nhau mà ngƣời kể chuyện trong truyện

ngắn của Nguyễn Ngọc Tƣ đã lựa chọn cho mình những giọng điệu kể chuyện

khác nhau để có thể kể lại đƣợc câu chuyện một cách hấp dẫn nhất và thể hiện

sâu sắc nhất tƣ tƣởng của mình. Qua việc khảo sát, tìm hiểu giọng điệu trong

các tập truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tƣ, chúng tôi nhận thấy giọng điệu chủ

đạo của ngƣời kể chuyện là giọng điệu xót xa thƣơng cảm với những số phận

gặp nhiều bất hạnh trong cuộc sống; giọng điệu ngợi ca những phẩm chất tốt

đẹp của ngƣời dân Nam Bộ; giọng điệu giàu tính triết lý, chiêm nghiệm;

giọng điệu tâm tình nhẹ nhàng pha chút hài hƣớc. Chúng kết hợp với nhau

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

làm nên sức lôi cuốn cho các trang viết của chị.

85

3.2.1. Giọng điệu xót xa thương cảm với những số phận gặp nhiều bất

hạnh trong cuộc sống

Giọng điệu này bắt nguồn từ trái tim nhân hậu, dạt dào yêu thƣơng của

Nguyễn Ngọc Tƣ. Chị viết văn là để đƣợc sống yêu thƣơng nhƣ chính chị

từng tâm sự: “ai cũng cần đƣợc yêu thƣơng. Mà muốn đƣợc vậy, phải biết

chia sẻ lòng nhân từ, sự quan tâm từ chính trái tim mình trƣớc nhất” [96]. Có

thể nói đây là giọng điệu chủ đạo bao trùm, chi phối hầu hết các truyện ngắn

Nguyễn Ngọc Tƣ. Nhân vật trong truyện ngắn của chị là những con ngƣời với

cuộc sống mƣu sinh vất vả, khó nhọc. Họ là những ngƣời nông dân lam lũ,

ngƣời nghệ sĩ hết lòng vì nghệ thuật, ngƣời mẹ, ngƣời vợ, ngƣời chồng, ngƣời

cha có cuộc đời bi kịch… Viết về họ, Nguyễn Ngọc Tƣ đã thể hiện niềm cảm

thƣơng, xót xa và sự sẻ chia. Chị mƣợn lời ngƣời kể chuyện để bày tỏ nên

những cung bậc cảm xúc này đƣợc bộc lộ tự nhiên, chân thành và có sức lay

động tới ngƣời đọc. Giọng điệu xót xa, thƣơng cảm đƣợc biểu hiện ở nhiều

phƣơng diện nhƣ sự lựa chọn hình ảnh, cách sử dụng ngôn từ, xây dựng cú

pháp, sử dụng các biện pháp tu từ.

Trƣớc hết giọng điệu xót xa, thƣơng cảm đƣợc thể hiện qua hệ thống các

từ ngữ, hình ảnh mà ngƣời kể chuyện hay dùng. Đó là những cụm từ nói về

nước mắt: là giọt nƣớc mắt xót xa, yêu thƣơng của Điệp trong Bởi yêu thương

“Sáu Tâm nghe một giọt nƣớc mặn nhỏ xuống làm rát bỏng chỗ vết thƣơng”,

“chị níu lấy anh, vùi nƣớc mắt vô ngực anh mà khóc”; là những giọt nƣớc mắt

chất chứa bi kịch của ngƣời ba và ngƣời má trong Dòng nhớ: “ba tôi khóc,

ông khóc rƣng rức, nƣớc mắt nƣớc mũi nhểu nhão, lòng thòng”, “má tôi cũng

khóc nhiều rồi”, “má tôi thở dài, chạy qua buồng bên khóc với bà nội tôi”,

“má tôi cũng khóc òa theo”, “má tôi không nói, quay đi và khóc”; là giọt nƣớc

mắt của tình yêu đơn phƣơng, thƣơng trộm nhớ thầm của nhân vật tôi trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Một mối tình: “ngồi buồn, nghe hát văng vẳng trong kia, tuồng thì giễu nhau

86

ong óng nhƣ gà kêu đẻ, nhƣng nƣớc mắt tôi chảy dòng dòng lúc nào không

biết”, “một tay tôi cầm cái giẻ lau bàn nƣớc, tay kia vịn cửa nhà, khóc nhƣ

mƣa, khóc nhiều hơn cả chị”, “tôi nhìn chị, muốn khóc quá, tội nghiệp chị

quá, tội nghiệp mình hơn”; là những giọt nƣớc mắt của ngƣời cha đã đi tìm

con gần mƣời hai năm: “nƣớc mắt ông tuôn dài”, “ông Năm bẽ bàng ngồi đó,

bẽ bàng lau nƣớc mắt”… Dƣờng nhƣ không cầm lòng đƣợc trƣớc số phận éo

le, bất hạnh của nhân vật, ngƣời kể chuyện đã để cho nhân vật khóc nhiều –

cho dù đó là những giọt nƣớc mắt tràn ra hay đó là những giọt nƣớc mắt cay

đắng lặn vào trong.

Gắn với những từ, cụm từ miêu tả nƣớc mắt, ngƣời kể chuyện trong

truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ cũng thƣờng sử dụng những từ miêu tả nỗi

buồn, nỗi đau: là nỗi đau đớn cực tả của nhân vật ngƣời kể chuyện xƣng tôi

trong Một dòng xuôi mải miết “tôi ngồi chết lặng. Cay đắng, bỡ ngỡ, đau đớn,

bàng hoàng không sao tả đƣợc”; ở Dòng nhớ với câu chuyện của ngƣời kể

chuyện xƣng tôi kể về chuyện tình của má, ba và dì ta bắt gặp hình ảnh hình

ảnh ngƣời ba “tận cùng đau khổ”, ngƣời má với “nỗi đau mất chồng”, ngƣời

dì với “cái nhìn đau lặng”; là lời hát “buồn lắm, nghe đứt ruột lắm”, giọng nói

“nghèn nghẹn dƣờng nhƣ trong lòng đau nhói lắm” của ba anh Hết (Hiu hiu

gió bấc); là hình ảnh dì Diệu: “Suốt nửa đời, dì chỉ buồn là không còn đƣợc

có con… Dì Diệu buồn nhƣ ai rứt ruột, dì khóc”, “nghe xóm giềng xầm xì

chuyện chị Lành không chồng mà lại có con, lòng dì Diệu đau lắm”, “dì Diệu

cƣời, rồi làm nhƣ một cơn gió từ đâu xộc tới, tim dì riết lại một nỗi đau” (Làm mẹ).

Giọng điệu xót xa, thƣơng cảm có khi đƣợc thể hiện qua những tiếng

kêu, tiếng than, tiếng thở dài chua xót của ngƣời kể chuyện: “Chỉ vậy mà họ

có thể bứt khỏi nhau ra đƣợc sao, trời đất quỷ thần ơi, những ngƣời lớn…

Đƣờng đời gang tấc mà vì nỗi gì mà đi vòng cho xa hoài, xa mãi” [84, tr.152];

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

“Trời ơi, thêm một mùa gió đông nữa mà chƣa ngƣời nào lấy đƣợc chồng.

87

Tuyệt vọng nhƣ dì Chín nấu bếp đã đành, còn Mỵ, còn Lam, còn Hƣờng…và

cả Xuyến kia nữa, cô sắp qua khỏi thời con gái mất rồi” [83, tr.144]; “Tiếng

kêu nghe thấu đến trời, sao đồng loại con ngƣời không học cách hiểu nhau”

[88, tr.126]; “Trời ơi, trừ chị em tôi, không ai thấy đƣợc đằng sau khuôn mặt

chữ điền ngời ngợi đó là một hố sâu đen thẳm, bến bờ mờ mịt, chơi vơi, dễ

hụt chân” [83, tr.196]. Có khi lại đƣợc thể hiện qua những lời miêu tả cảnh

vật: “nắng bồn chồn úa vàng trên mặt sông (màu trời đó hay trở về trong

những giấc mơ ông)” [88, tr.122]; “Tiếng gà gáy xa xa, con nƣớc đêm nay

mau lớn quá, mới đây thôi đã ngập nửa cây sào neo ghe rồi. Lúc nầy, nƣớc

lớn không nghe bìm bịp kêu, mà, nhờ không có, chứ nghe bìm bịp kêu càng

buồn nữa” [83, tr.139].

Câu hỏi tu từ cũng thƣờng đƣợc ngƣời kể chuyện sử dụng để thể hiện

niềm đồng cảm, sự xót xa, thƣơng cảm trƣớc những day dứt, đau đớn trong

đời sống nội tâm nhân vật. Nó có khả năng tái hiện những diễn biến phức tạp,

ẩn kín bên trong đời sống nội tâm mỗi con ngƣời. Trong Cánh đồng bất tận,

ngƣời kể chuyện cũng chính là nhân vật xƣng tôi đang tự cất lên tiếng lòng

cảm của ngƣời đọc:

-“Tôi lắc đầu, hai gàu nƣớc ít ỏi của má anh, tôi nỡ nào sẻ nửa? [83, tr.171].

của mình với những câu hỏi xót xa ám ảnh ngƣời đọc, xoáy sâu vào sự đồng

- Và tôi tự nhớ lại, coi hồi sáng nầy, hồi trƣa nầy, mình đã làm gì giống

má, kho cá bỏ quá nhiều tiêu? hay vì tôi buộc tóc nhong nhỏng? hay tại tôi

ngồi bắt chí cho thằng Điền? [83, tr.182].

-Nhƣng chín mƣời tuổi đã đủ để gọi là một kiếp ngƣời chƣa? [83, tr.186].

- Đêm nay, tôi sao thế nầy? Vì nhìn thấy niềm hy vọng ƣ? [83, tr.190].

- Má tôi cũng đã từng chọn lựa nhanh nhƣ thế này sao? [83, tr.191].

- Có ai chờ chúng tôi, trên những cánh đồng khơi? [83, tr.193].

- Mà, đã ngấm, đã xé lòng toang hoang với nỗi đau chia cắt rồi, chƣa sợ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sao? [83, tr.194].

88

- Mà, lúc đó, tôi đang chết điếng, sao tôi lại nhìn về phía cha? Vì tôi

muốn cầu cứu (nhƣ những đứa trẻ con gặp chuyện giật mình, hay buột miệng

gọi má ơi hoặc cha ơi!)? Vì tôi thấy mình không thể chịu đựng đƣợc tiếng gào

khóc thê thiết của những con vịt bị vùi sâu dƣới lòng đất? [83, tr.203].

- Tôi sặc ra một bụm cƣời, trời ơi, tôi biết lấy ai bây giờ? … Tôi biết lấy

ai trong số đó? [83, tr.212].

Ngoài ra, giọng điệu xót xa, thƣơng cảm còn đƣợc bộc lộ qua cách lựa

chọn ngôn ngữ kể của ngƣời kể chuyện - thứ ngôn ngữ đƣợc trƣng cất bởi

một trái tim nhân hậu nên rất giàu cảm xúc, tâm trạng. Nó thể hiện rất rõ một

tình cảm thiết tha, một tấm lòng đôn hậu, sự cảm thông sâu sắc với những số

phận éo le, bất hạnh của nhà văn. Đó là lời kể bộc lộ niềm xót xa của ngƣời

kể chuyện thƣơng cho cảnh sống nghèo khổ bất hạnh của gia đình chú Đời:

“Cũng giống nhƣ những ngƣời hát rong khác, nhà chú có cả thảy bốn ngƣời

nhƣng trên con đƣờng tấp nập, trông họ nhỏ nhoi, cô độc làm sao (…). Lụi

hụi hết mùa nắng, giọng chú tắt khèn khẹt trong cổ họng, thậm chí còn không

thể cất lời rao. Chú Đờn cho con Nhƣ ca, tiếng ca ngọng ngịu và non nớt lắm,

vô vọng cổ luôn bị đứt giữa chừng. Tội nghiệp, con nhỏ không có tài, ngáy

còn lạc giọng mà ca nỗi gì” [84, tr.59-64].

Trong các truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tƣ, ngƣời kể chuyện khi là một

ngƣời dõi theo cuộc đời, số phận của các nhân vật, khi lại xuất hiện với vai trò

ngƣời trong cuộc tự giãi bày, bộc lộ tâm trạng của mình. Nhƣng dù xuất hiện

ở vị trí hay điểm nhìn nào thì giọng điệu của ngƣời kể chuyện luôn là giọng

xót xa, thƣơng cảm với nhân vật của mình hay tự thƣơng chính mình. Điều

này đã thể hiện cái nhìn nhân ái của nhà văn về con ngƣời, về cuộc đời, gieo

cho chúng ta niềm tin bất diệt vào những giá trị bất diệt của con ngƣời.

3.2.2. Giọng điệu ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người dân Nam Bộ

Nếu nhà văn Nguyễn Minh Châu sử dụng giọng ngợi ca để đi tìm những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con ngƣời, Ma Văn Kháng dùng giọng điệu này

89

để đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn con ngƣời, thì Nguyễn Ngọc Tƣ lại

dùng giọng điệu ngợi ca để khẳng định những giá trị cao đẹp ẩn sâu trong trái

tim và tâm hồn những con ngƣời dân quê dân dã, mộc mạc. Xét ở một góc độ

nào đó, họ đã gặp nhau ở điểm chung là luôn gắng đi tìm những giá trị cao

đẹp của con ngƣời. Tuy nhiên, ở mỗi nhà văn, giọng điệu ấy đƣợc thể hiện

theo những cung bậc khác nhau. Chính điều đó làm nên nét đặc sắc riêng của

từng tác giả.

Trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ, giọng điệu ngợi ca thấm đẫm trong

từng câu, từng chữ. Giọng điệu này trƣớc hết đƣợc thể hiện ở cách xưng hô

của ngƣời kể chuyện đối với nhân vật đƣợc kể. Ngƣời kể chuyện gọi nhân vật

bằng bằng ông - bà, trẻ thì gọi bằng anh - chị, bằng tên: “ông Năm Nhỏ trụ lại

ngã ba Sƣơng, tiếp tục cuộc kiếm tìm” [83, tr.9]; “Điệp càng ngày càng yếu.

Chị ốm, mỏng nhƣ hột cốm dẹp. Tóc đã rụng đến nỗi ở xa chừng mƣời bƣớc

có thể đếm đƣợc từng sợi, từng sợi còn sót lại. Chị thôi xót xa rồi. Thôi từ cái

bữa Sáu Tâm đã làm vỡ gƣơng, chị nhắc hoài anh chƣa mua lại” [84, tr.9].

Sinh ra và lớn lên ở vùng quê nông thôn vùng Đồng bằng sông Cửu

Long, Nguyễn Ngọc Tƣ khi viết văn, chị thƣờng lấy những thực tế mà mình

trải nghiệm và chứng kiến làm đề tài cho những câu chuyện mà trong đó hầu

hết những nhân vật chính của chị đều có một điểm chung là cái nghèo cứ bám

riết lấy họ. Với Nguyễn Ngọc Tƣ, có thể thấy chị ít khi đi vào miêu tả, tái

hiện những chi tiết cụ thể về quá trình con ngƣời lâm vào cảnh nghèo đói, bần

cùng kiểu nhƣ Nguyễn Công Hoan (Bước đường cùng), Ngô Tất Tố (Tắt

đèn), Nam Cao (Chí Phèo)… mà chủ yếu đi vào khai thác cách con ngƣời ta

đối diện, ứng xử trƣớc cái nghèo và cách con ngƣời đối xử với nhau nhƣ thế

nào trƣớc cái nghèo. Chính trong cái nghèo khó, những con ngƣời trong

truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ nƣơng tựa và đùm bọc nhau để sống, thậm chí

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sẵn sàng hy sinh bản thân để giúp đỡ nhau trong hoạn nạn. Đó là cách ứng xử

90

cao đẹp của con ngƣời mà khi nói về vấn đề này ngƣời kể chuyện đã dành

giọng điệu ngợi ca của mình để ca ngợi. Truyện Làm mẹ, tuy lấy đề tài về vấn

đề mang tính thời sự là “đẻ mƣớn” nhƣng qua cách ứng xử của các nhân vật,

ngƣời đọc hoàn toàn bất ngờ về tình yêu thƣơng, sự ứng xử cao đẹp mà họ

dành cho nhau. Trong truyện, dì Diệu không sinh con đƣợc nên đã thuê chị

Lành – ngƣời phụ nữ làm nghề gánh nƣớc thuê sinh dùm. Vì nghèo và cũng

rất cần tiền gửi về xứ nên chị Lành đã đồng ý, hai ngƣời làm giấy tờ giao kèo.

Thế nhƣng sau đó, khi nghĩ đến cảnh phải giao đứa con mình rứt ruột sinh ra

cho ngƣời ta, chị Lành đã bỏ đi. Đến đây, ngƣời đọc cứ nghĩ là sẽ diễn ra một

cuộc tranh cãi, tranh giành giữa hai ngƣời phụ nữ, thế nhƣng Nguyễn Ngọc

Tƣ đã có một kết thúc rất bất ngờ nhƣng cũng rất phù hợp với tâm lý và suy

nghĩ chân chất của những ngƣời dân quê, nghèo khó nhƣng trọng tình nghĩa:

“Những ngƣời có tình có nghĩa dễ gì bỏ đƣợc nhau. Dì Diệu cắn cho môi vằn

đỏ dấu răng, dì ôm chị Lành vào lòng rất chặt (…). Dì Diệu đi lấy tờ hợp

đồng ra và đốt cháy thành một tờ tro mỏng” [84, tr.96-97]. Trong Bến đò xóm

Miễu, ngƣời đọc bắt gặp cách hành xử của anh chàng Lƣơng tuy nghèo xơ xác

nhƣng rất cao thƣợng và nghĩa khí. Lƣơng xấu xí, thất học, làm nghề chèo đò

yêu tha thiết cô bé tên Bông xinh đẹp, bỏ học giữa chừng đi bán “bia ôm” ở

bên kia sông. Sở dĩ về sau Bông chấp nhận làm vợ Lƣơng vì cô đã bị một tai

nạn và liệt nửa thân dƣới phải ngồi một chỗ, không đi đƣợc. Tuy vậy, ngƣời

đọc vẫn thấy có một lý do quan trọng hơn là Bông đã nhìn thấy trong sâu

thẳm tâm hồn Lƣơng là một tấm chân tình, một sự rộng lƣợng: “Trong lòng

anh nghĩ rất nhiều mà không nói đƣợc lời nào. Anh khờ khạo không có năng

khiếu nói, lâu rày anh chỉ biết cƣời. Lƣơng không muốn mình giống nhƣ bao

thằng đàn ông khác, đối với Bông nhƣ với một món đồ chơi. Bông là Bông, là

con gái, là ngƣời” [88, tr.89-90]. Chúng ta cũng dễ dàng nhận ra cách ứng xử

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

của những con ngƣời nghèo khổ nhƣ thế này qua hầu hết nhân vật trong

91

truyện ngắn khác của Nguyễn Ngọc Tƣ nhƣ: Phi (Lý con sáo sang sông), Hết

(Hiu hiu gió bấc), ông Hai (Cái nhìn khắc khoải), Quý (Giao thừa), ông già

Năm Nhỏ (Cải ơi), Sáu Đèo (Biển người mênh mông), Nƣơng (Cánh đồng bất

tận)…

Giọng điệu trân trọng, ngợi ca còn thể hiện rất rõ khi ngƣời kể chuyện

nói về những con ngƣời hiền lành, chất phác, thật thà và tình yêu - tình ngƣời

trong họ thì dạt dào nhƣ biển nƣớc Cà Mau. Họ yêu ai là yêu trọn đời, họ

thƣơng ai là thƣơng tới quên mình. Họ là: những ngƣời anh - em sẵn sàng

nhƣờng nhịn cho nhau cả hạnh phúc, tình yêu “Tốt nghiệp trung học xong,

anh Tứ Phƣơng xung phong đi bộ đội. Anh đi mà không nói gì với chị Thể,

tôi cứ nằng nặc đi theo hỏi tại sao, anh nói, “thƣơng anh Hai quá, Út Nhỏ à.

Mƣời bốn tuổi ảnh đã thay cha mẹ nuôi anh, quán xuyến trong ngoài, học

hành lỡ dở…” [83, tr.70]; là ngƣời con hiếu thảo hết mực: “Câu đƣợc vài ba

con cá rô, anh bắc cái ơ lên kho quẹt, tỉ mẩn lọc phần thịt dành cho tía, phần

xƣơng xẩu cho mình. Những trƣa nắng tốt, tranh thủ giờ cơm trƣa anh xin

phép chạy về, dắt tía anh ra ngoài hè tắm rửa, kỳ cọ. Những tối trời mƣa, anh

lúp xúp cầm cái nón mê đi đón ông già. Đi cạnh, che đầu cho ba, nghiêm

trang nhƣ đang chở che cho sinh linh nào đó nhỏ bé lắm, yếu ớt lắm” [83,

tr.31-32]. Ngƣời kể chuyện có lúc cũng phải thốt lên rằng: “Đúng là tên sao

thì ngƣời vậy, chịu thƣơng chịu khó hết mình, hiếu thảo hết mình” [83, tr.32];

là ông già Chín Vũ từ bỏ cuộc sống giàu sang phú quý để đi theo ngƣời mình

yêu: “Ông là cháu nội đích tôn của hội đồng Nguyên. Từ nhỏ, gia tộc đã dành

sẵn cho ông một cuộc sống no đủ, giàu sang mà không phải làm gì, cả nhà

chiều chuộng (...). Ông thƣơng đào Hồng từ cái giây phút đầu tiên… Hôm

sau, khi gánh Kim Tiêu trở lại Sài Gòn, có ông công tử bỏ nhà, bỏ phú quý đi

theo. Không biết hát hò, tƣớng mạo cục mịch, nhỏ con, ông không đƣợc lên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sân khấu… Ăn cơm quán, ngủ sàn diễn. Cực mấy cũng chịu, miễn là ngày

92

ngày ông đƣợc nhìn thấy đào Hồng đi ra đi vô, đào Hồng hát” [83, tr.95]; là

hình ảnh Sáu Tâm hi sinh cả tính mạng mình cho ngƣời mình yêu: “Điệp lớn

hơn Sáu Tâm tròn con giáp… Vậy mà yêu, yêu tréo cẳng ngỗng, cũng không

biết để lòng thƣơng lúc nào, ghê lắm cái lối thƣơng thầm, thấy đầm đầm vậy

chứ rứt không ra… Cho tới cái bữa về hát Vàm Lẽo, nửa đêm trải chiếu nằm

ngủ dƣới khán đài, sàn diễn đổ sập xuống, Sáu Tâm đẩy Điệp ra, chỉ anh là

còn kẹp lại trong đống đổ nát” [84, tr.10]. Ngƣời kể chuyện còn ngợi ca, đề

cao nhân phẩm của những con ngƣời lao động nghèo. Họ thiếu thốn tiền bạc,

nhƣng lại giàu nhân cách, trách nhiệm: Tƣ Nhớ (Đau gì như thể); ông Năm

(Cải ơi!).

Ta còn bắt gặp giọng điệu trân trọng, ngợi ca của ngƣời kể chuyện khi

nói về những ngƣời nghệ sĩ. Họ là những con ngƣời yêu nghề, say mê với

nghề, dành cả cuộc đời mình sống trọn với kiếp cầm ca. Ở Cuối mùa nhan sắc

tác giả cho ta thấy lòng yêu nghề tha thiết, mãnh liệt của những ngƣời đã

“một thời vang bóng”, nay còn lại chút hơi tàn, họ cũng cố dành trọn cho

nghề. Vì vậy, cả nhóm nghệ sĩ “cuối mùa” đã tập hợp lại cất một cái nhà, đặt

tên là “Buổi chiều”, mỗi ngƣời một việc, ngƣời thì bán chè, ngƣời thì bán vé

số… để kiếm từng đồng tiền mà sống qua ngày, và nhất là để đƣợc cất lên lời

ca tiếng hát vào mỗi đêm cho thỏa lòng nhớ mong sân khấu. Mặc dù nơi họ

hát chỉ là một khoảng sân rộng, khán giả chỉ là những ngƣời quẩn quanh ở

xóm “sân khấu là cái hàng ba trông ra sân rộng, luống nào trồng bông sao

nhái, bông mƣời giờ thì trồng, chỗ trống dành cho bà con ngồi. Dàn đờn gồm

cây ghi ta thùng, cây nhị cũ mèm. Không micrô, nghệ sĩ ca bằng giọng của

trời cho, nghiệp đãi. Đào Phỉ tám mƣơi chín tuổi, đứng không nổi, diễn vai gì

cũng ngồi trên ghế, ngồi trên ghế mà lẫy roi sãy ngựa coi lạ hết biết” [83,

tr.94]. Họ yêu nghề, say mê nghiệp hát đến mức bản thân mang trọng bệnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhƣng vẫn nhất mực muốn ra hát, đến khi ngã gục trên sân khấu mới thôi:

93

“Đào Hồng ốm sát chiếu nhƣng vẫn đòi ra hát (…). Đào Hồng hát đến lịm

tiếng đi. Bà ngồi trên sân khấu, gục đầu. Cái gánh nặng tâm tƣ này, không

mang nỗi nữa rồi. Khi ông Chín dìu bà xuống giƣờng, bà đã hôn mê. Ngƣời ta

hát vở cuối cho bà, cho một ngƣời nghệ sĩ chân chính” [83, tr.101-103]. Cũng

chính vì yêu nghề nên San trong Bởi yêu thương dù rất thích cải lƣơng, rất

muốn trở thành nghệ sĩ nhƣng lại không dám đi hát. Cô không dám đi hát chỉ

vì một lí do đơn giản - đơn giản nhƣng vô cùng hệ trọng đối với cô, đối với

những ngƣời yêu nghệ thuật cải lƣơng chân chính, đó là vì trƣớc đây San từng

làm tiếp viên ở quán bia. Cô sợ khi hát, lỡ nhƣ mình nổi tiếng, ngƣời ta nhận

ra mình trƣớc đây từng làm tiếp viên ở quán bia thì làm hoen ố đi nền nghệ

thuật cải lƣơng nƣớc nhà. “Hỏi về giấc mơ trở thành đào hát, nó cƣời đã bỏ

lâu rồi. Đi hát lỡ nổi tiếng, thí dụ thôi nghen, ngƣời ta biết lúc trƣớc tôi từng

làm tiếp viên quán bia thì nhơ danh cả một giới nghệ sỹ, làm ngƣời ta mất

cảm tình với cải lƣơng, vậy khác nào hại cả nền sân khấu nƣớc nhà” [84,

tr.14]. Giọng điệu nghe dí dỏm nhƣ pha trò nhƣng lại cực kỳ nghiêm túc thể

hiện đƣợc lòng say mê cải lƣơng vô hạn. San sẵn sàng hi sinh ƣớc mơ của

mình, chứ nhất quyết không làm nhơ danh nghệ sĩ. Hình tƣợng ngƣời nghệ sĩ

trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ thật đáng đƣợc trân trọng, ngợi ca, tôn

vinh. Họ là những con ngƣời sống trọn vẹn với nghề, dù phải trả giá bằng cả

cuộc đời mà vẫn chấp nhận.

Cùng với giọng điệu xót xa, thƣơng cảm trƣớc những nỗi đau và bất hạnh

của con ngƣời, giọng ngợi ca cũng là giọng điệu nổi bật trong truyện ngắn

Nguyễn Ngọc Tƣ. Nhà văn ngợi ca vẻ đẹp của những con ngƣời bình dị

quanh ta, vẻ đẹp của họ đƣợc xây cất lên từ nhân cách, phẩm chất cao đẹp, từ

tình yêu thƣơng, đức hi sinh, từ sự ấm áp của tình nghĩa mà họ dành cho nhau.

Đúng nhƣ lời nhận xét của nhà văn Nguyễn Quang Sáng: “Qua ngòi bút của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nguyễn Ngọc Tƣ, những con ngƣời lam lũ, giản dị, bộc trực ấy chứa bên trong

94

cả một tâm hồn vừa nhân hậu vừa tinh tế qua cách đối nhân xử thế…” [60, tr.1].

Qua việc thể hiện giọng điệu ngợi ca trong các tác phẩm, ta thấy Nguyễn

Ngọc Tƣ là nhà văn có niềm tin sâu sắc vào bản chất tốt đẹp của con ngƣời.

Đó chính là niềm tin thể hiện tinh thần lạc quan và chủ nghĩa nhân văn sâu

sắc của tác giả.

3.2.3. Giọng điệu dân dã mộc mạc, pha chút hài hước nhẹ nhàng

Những câu chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ là những câu

chuyện của cuộc sống đời thƣờng giản dị nơi thôn xóm: chuyện về gia đình,

về ông bà, cha mẹ, anh em. Với tình yêu quê hƣơng chị đã viết lên những

trang văn đậm chất giọng dân dã mộc mạc. Văn của chị là văn của thôn quê

bình dị, hồn hậu: “Cái lạ ở cô là tài khui mở những sinh hoạt thân thuộc trƣớc

mắt… Cô chỉ đƣa ra một tấm gƣơng rất trong, thật sáng, để chúng ta nhìn

thấy những sinh hoạt tình tự rất thƣờng. Qua đó, lạ thay, nhƣ một tiếng đàn

cộng hƣởng, ta khám phá cái phong phú của chính đời ta” [11, tr.4].

Giọng điệu dân dã mộc mạc trƣớc hết đƣợc thể hiện trong những lời kể

của ngƣời kể chuyện khi tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh cuộc sống sinh hoạt của

ngƣời dân Nam Bộ. Đó là hình ảnh dòng sông nhƣ một ngƣời bạn tâm tình,

gần gũi, thân thƣơng: “Đêm sáng trăng, ngồi trên nhà có thể thấy một dòng

chảy líu ríu, sáng loáng. Ban đêm, con sông trƣớc nhà tôi không ngủ, nó thức

theo những chiếc tàu rầm rì chảy qua, theo tiếng mái chèo quẫy chách bụp rất

đều” [83, tr.132]. Những dòng sông của cuộc đời lam lũ, những dòng sông

thời gian thấm thía tình ngƣời, niềm đau và nỗi buồn. Những dòng sông cứ

thênh thang chảy mãi từ ngôn ngữ mộc mạc, đơn sơ, dân dã của ngƣời kể

chuyện. Cảnh sắc miền quê Nam Bộ tràn ngập trong tác phẩm cứ gần gũi tự

nhiên nhƣ chính vùng đất ấy: “Những chiều phai, nhìn ra sông thấy lục bình

trôi, lơ phơ mấy cái bông lục bình quá thì, cũng phai nhƣ chiều gió. Ngó ra

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sau nhà thấy một vạt đồng trũng sâu, ngoi lên mặt lúa những bông lúa thƣa

95

thớt, xanh xao. Vƣờn cũ có vài cây vú sữa, mù u rụng trái đầy mặt đất, mấy

bụi tre bụi trúc vút lên trời một chòm xanh ngắt…” [85, tr.84]. Giọng điệu

dân dã mộc mạc xuất hiện với tần số cao trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ,

đôi khi lắng đọng trong những câu văn kể hòa trộn với tả: “Bây giờ, gió

chƣớng non xập xòe trên khắp cánh đồng Bất Tận. Ven các bờ ruộng, bông cỏ

mực nhƣ những đƣờng viền nhỏ liu riu làm dịu lại mảng rực vàng của lúa”

[83, tr.213]. Câu văn có chất thơ, nó là khúc nhạc lòng của thiên nhiên Nam

Bộ tự nhiên, dân dã nhƣng cũng mang vẻ đẹp quyến rũ.

Nói về cuộc sống sinh hoạt đời thƣờng của ngƣời dân Nam Bộ, ngƣời kể

chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ đã chọn cho mình giọng điệu dân

dã, mộc mạc tự nhiên chảy ra từ vốn sống, gắn bó với mảnh đất Nam Bộ cùng

với niềm đồng cảm, sẻ chia: “Mút Cà Tha nằm hiu hắt (…). Từ mé rừng mắm

chống lở đất phía bên nầy, đi hết vƣờn cây nầy gặp đƣợc một căn nhà thì lại

tiếp đến vƣờn cây trái khác. Cuối cùng là bãi bồi, dây khoai lang bò xùm xòa

phủ kín đất. Bóng ngƣời ẩn hiện dọn cỏ dƣớc các gốc cây. Bên đƣờng thấp

thoáng nhiều nấm đất con con của những đứa trẻ kiệt sức vì bị đẹn mà chỉ

đƣợc rơ miệng bằng cỏ mực; những đứa trẻ bệnh số xuất huyết chỉ chữa bằng

cạo gió, uống nƣớc mía, rễ tranh; những đứa trẻ mắc thƣơng hàn bị thủng ruột

dã này xuất phát từ cảm hứng cảm thƣơng của nhà văn về cuộc sống và số phận của

những nhân vật nhỏ bé – những ngƣời nông dân quanh năm lấm lem bùn đất.

vì tự do chạy ra vƣờn ăn ổi chua, ổi chát” [83, tr.18-19]. Giọng mộc mạc dân

Giọng điệu dân dã mộc mạc đƣợc bộc lộ trong cách nói giản dị, dễ hiểu,

không màu mè triết lí hay rao giảng về đạo đức cao sang. Trong lời kể về câu

chuyện ba má Phi, chất dân quê trong giọng điệu đƣợc bộc lộ rất tự nhiên, nó

nhƣ lời nói thƣờng ngày: “Cũng nhƣ nhiều ngƣời ở Rạch Vàm Mắm này, ông

ngờ rằng má Phi chắc không phải bị tên đồn trƣởng ấy làm nhục, hắn lui tới

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ve vãn hoài, lâu ngày phải có tình ý với nhau, nếu không thì giữ cái thai ấy

96

làm gì, sinh ra thằng Phi làm gì. [88, tr.145]. Còn đây là suy nghĩ của một

ngƣời con gái quê về việc làm của mình: “Nó sẵn sàng lau một căn nhà ba

tầng với mƣời bảy cái cửa kiếng, bốn mƣơi hai bậc cầu thang chỉ với mƣời

ngàn tiền công. Nó gánh chục đôi nƣớc vòng vèo qua hai con hẻm có khi chỉ

đƣợc đãi một bữa cơm canh. Nó nghĩ nhƣ vầy, thí dụ nhƣ mình cho ngƣời

bằng ấy, ngƣời lại trả ta cũng bằng ấy thì huề rồi, thì làm sao cảm thấy duyên

dẻ, nợ nần mà gắn bó với nhau” [88, tr.66]. Suy nghĩ của cô gái mới đơn giản,

hiền hậu làm sao. Nhƣng nó có ý nghĩa nhƣ một bài học ý nghĩa về cách sống

chân thật và nhân hậu. Bản tính của ngƣời dân quê giản dị, mộc mạc, đơn sơ

là vậy nhƣng đằm sâu trong đó là tình ngƣời sâu nặng.

Giọng điệu dân dã mộc mạc trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ còn thể

hiện ở sự xuất hiện của khẩu ngữ, tạo bối cảnh cho truyện mang hơi thở của

mảnh đất Nam Bộ từ cảnh sắc thiên nhiên tới cuộc sống sinh hoạt và tạo cho

nhà văn một phong cách trần thuật độc đáo. Vì điều này mà ngƣời ta gọi

Nguyễn Ngọc Tƣ là nhà văn của miệt vƣờn Nam Bộ. Rất nhiều những câu

chữ dùng khẩu ngữ nhƣ vừa đƣợc ghi lại trong một cuộc chuyện trò thoải mái

giữ những ngƣời thân, bạn bè: “Ở xóm nầy, ngƣời biết tụi nó thƣơng nhau đầu

tiên là con Điềm, nhỏ bạn thân nhất của Huệ, ngƣời thứ nhì, thứ ba biết là chú

thím Mƣời Ba. Chú Mƣời Ba bán quán cà phê cặp bờ kinh xáng. Quán chú

buổi sáng toàn đàn ông, buổi trƣa của mấy thím đàn bà ôm đứa con nẹo một

bên vú nói chuyện làng trên xóm dƣới. Buổi chiều, tụi con nít tụ lại quán chạy

lòng vòng trong sân chơi (…). Chuyện Thi thế là thôi rồi, mấy thím buổi trƣa

ngồi quán chú Mƣời Ba cong miệng nói với nhau, nghe phong thanh Thi đi lại

với con gái trƣởng phòng giáo dục huyện, cô nọ mang thai, chuẩn bị cƣới.

Đâu nè, thầy Thi đâu có tệ nhƣ vậy. Ừ, nhƣng nghe nói thầy Thi bị “gài” nhƣ

trong Lan và Điệp. Tội nghiệp. Tội nghiệp ai? Thì Thi chớ ai, ở đời ngƣợc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngạo vậy đó” [83, tr. 47].

97

Có khi giọng điệu này đƣợc tạo nên từ cách so sánh ví von rất giản dị,

dân dã nhƣng lại hết sức sinh động: “tuồng thì giễu nhau ong óng nhƣ gà kêu

đẻ” (Một mối tình); “tủi cực trào lên nhƣ ngƣời ta nhận cái thùng vô lu nƣớc

đầy (…), mặt mũi đầu tóc Đậm lúc nào cũng nham nhám nhƣ hột me rang

cát” (Giao thừa); “ốp trầu chắc nụi, hai đầu cong cong nhƣ mái đình làng

(…), quyền lực đối với tôi càng giống cục mỡ rệu trong veo trong nồi thịt kho

nhƣ nồi cơm quá lửa (…), có lúc giọng ca chú lật bật nhƣ hai hàm răng đánh vào

nhau” (Đời như ý); “Chị ốm, mỏng nhƣ hột cốm dẹp” (Bởi yêu thương); “đêm

giống nhƣ một bà cụ còm chống gậy chậm rãi đi qua” (Chuyện của Điệp)…

tàu ngày Tết” (Người năm cũ); “giọng chú ngày càng khan, nghe khen khét

Bên cạnh chất dân dã mộc mạc trong giọng điệu, ngƣời kể chuyện còn

rất khéo léo đƣa vào trong lời kể của mình những chi tiết hài hƣớc hóm hỉnh

khiến cho câu chuyện thêm độc đáo, lôi cuốn, những câu chuyện buồn thì bớt

đi cảm giác xót xa. Đây là một chi tiết đƣợc kể rất dí dỏm đã tạo nên tiếng

cƣời nhẹ nhàng cho ngƣời đọc: “Trƣởng ấp tà tà dài theo xóm, thấy ai rảnh rỗi

là kêu, đứng đó làm gì, sao hổng lại trạm xá cho bác sĩ ngƣời ta khám. Trời

đất, bệnh gì mà khám chú Tƣ. Ông nói tỉnh bơ, khều khều bộ râu, “Có chứ

sao không, hễ mầy nhậu xỉn là ói, để vậy không tốt, lại kiếm thằng Văn đi”.

Mới đầu thì Văn không biết, nên thấy có bà cụ chống gậy lại bảo bác sĩ coi

bệnh giùm, Văn hỏi bà bị gì, bà cƣời, tui suy nghĩ chƣa ra. Thuốc hết, huyện

chƣa kịp gởi, Văn áy náy, tần ngần đƣa mấy thứ B1, B6 cho con bệnh đau bao

tử, uống xong, ông nầy phởn phơ đứng dậy, tƣơi rói bảo, trời đất ơi, thuốc chú

mầy quá chừng hay. Văn đâm ra lạ. Cho tới bữa đám con nít khiêng một

thằng bé ở truồng lại, nhao nhác nói chim của thằng Út Chót bị còng kẹp rồi,

nó sƣng chù vù nè chú bác sĩ ơi, Văn mắc cƣời quá, hỏi sao tới nông nỗi nầy,

thằng Út Chót khọm rọm lấy tay bụm chỗ đau, phều phào nói trong nƣớc mắt,

“Tại bác Tƣ biểu ai cũng phải đi khám cho chú bác sĩ vui, chú không bỏ về

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thành phố. Con đâu có bịnh, tính bắp còng kẹp chơi…” [83, tr.20-21].

98

Có những chi tiết buồn nhƣng đƣợc kể một cách dí dỏm, hóm hỉnh khiến

cho câu chuyện bớt đi sự ngậm ngùi, xót xa: “Lƣơng không giận, cái thân nhỏ

mồ côi mồ cút, nghèo xác xơ mà bày đặt giận cuộc đời thì làm sao sống nổi.

Suốt ngày anh hệch miệng ra cƣời, làm nhƣ vui, làm nhƣ không, khó nắm bắt.

Lƣơng khoái cặp mắt mất đoàn kết của mình lắm, ngƣời ta nhìn anh biết, chứ

anh mà nhìn lại, ngƣời ta tƣởng anh ngó đâu đâu” [88, tr.85]; “Ngày dì Út

Thu Lý tròn bốn mƣơi bảy tuổi, dì từ giã thêm một lƣợt ba cái răng. Buồn quá

trời đất, dì lại chùa Phấn, than với sƣ Huệ bây giờ không biết làm sao giáp

mặt anh Tƣ Nhớ, răng cỏ trống hơ trống hốc vầy… Bà sƣ già nghe xong niệm

Phật mà không nén đƣợc cƣời” [88, tr.40]; “Hai năm, ông già đã chỏng đầu

cây xuống đất, tựa vào đó để bƣớc đi, tên tuổi Thàn mờ mịt. Thàn bùi ngùi,

ngƣời ta Quách Phú Thành nổi tiếng Hồng Kông, tui thiếu có chữ h, lẹt đẹt

bên hông Chợ Lớn” [83, tr.8-9].

Kiểu câu với thành phần phụ chú cũng là cách ngƣời kể chuyện tạo tính

hài hƣớc cho câu chuyện, tạo nên giọng điệu dân dã mộc mạc hóm hỉnh: “Bảy

năm trƣớc, lúc ông Mƣời đem hết thảy bốn chín cái thƣ của Nguyễn Thọ gửi

dì Thấm đem đốt hết, cũng không ai cản đƣợc. Mấy ông viết sử của tỉnh kêu

trời, đồng đội đồng chí của Nguyễn Thọ cũng kêu trời, phải chi còn, đem in

vô tập những bức thƣ tình hay nhất (mặc dù chƣa ai đƣợc xem Nguyễn Thọ

viết ra làm sao) (…). Về Mỹ Hƣng với dì Thấm từ sau Giải phóng, ông chƣa

cãi cọ, mếch lòng ai, suốt ngày chăm chút cho mảng ruộng miếng vƣờn, cho

bốn đứa con vừa riêng vừa chung nhƣng đất quê vợ mãi mãi không yêu ông

nhƣ một đứa con ruột thịt. Vì ông lấy ngƣời yêu duy nhất của Nguyễn Thọ

làm vợ (đáng lẽ phải để dành), rồi sau đó không cho vợ đi dự những cuộc họp

mặt, hội thảo về Nguyễn Thọ (làm vậy không phải là quay lƣng với quá khứ

sao?) và cũng vì cách ông dạy thằng Thảo (đáng lẽ con của Nguyễn Thọ phải

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đƣợc nâng niu chìu chuộng)” [83, tr.81-83].

99

Có thể nói với giọng điệu dân dã mộc mạc, pha chút hài hƣớc nhẹ nhàng

truyện của Nguyễn Ngọc Tƣ là hơi thở, tiếng nói, là tâm hồn của những ngƣời

dân nơi miền đất Mũi. Chính lối kể chuyện hóm hỉnh hài hƣớc nên dù trong

hoàn cảnh nào thì những câu chuyện buồn trong truyện ngắn của chị không

quá bi lụy, không làm cho ngƣời đọc thấy thƣơng xót, day dứt cho thân phận

con ngƣời mà nó luôn gieo trong lòng ngƣời đọc niềm tin vào con ngƣời, vào

cuộc đời. Đó là giá trị nhân văn của tác phẩm Nguyễn Ngọc Tƣ.

3.2.4. Giọng điệu giàu tính triết lí, chiêm nghiệm

Trong hệ thống giọng điệu đa dạng, phức hợp của truyện ngắn Nguyễn

Ngọc Tƣ có thể nói giọng điệu triết lí, chiêm nghiệm là giọng kể chuyện chủ

đạo, nó chi phối hầu hết các giọng điệu khác. Nói cách khác, tất cả các giọng

điệu khác đều có xu hƣớng triết lí hóa. Mang chiều sâu của triết luận nhân

bản về đời sống, nội dung của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ bao giờ cũng

vƣợt ra ngoài ý nghĩa đề tài, chất liệu.

Với Nguyễn Ngọc Tƣ, những vấn đề nhân sinh thế sự nhƣ mối quan hệ

giữa con ngƣời với con ngƣời, sự lựa chọn cách sống, vấn đề lƣơng tâm, đạo

đức thƣờng đƣợc luận bàn trao đổi. Giọng điệu triết lí, chiêm nghiệm của

Nguyễn Ngọc Tƣ mang nét đặc sắc riêng, xuyên suốt những trang văn của chị

là một triết luận đời sống hết sức nhất quán. Triết luận ấy lấy tình ngƣời làm

mẫu số để nhà văn kể chuyện về con ngƣời và cuộc đời.

Nhu cầu đƣợc chia sẻ, bàn luận, đƣợc khám phá cái bề sâu, cái bản chất

của cuộc sống đầy ngổn ngang, phức tạp này luôn luôn là một trong những

nhu cầu quan trọng của ngƣời kể chuyện trong truyện Nguyễn Ngọc Tƣ.

Ngƣời kể chuyện suy ngẫm về thế thái nhân tình và thể hiện quan điểm cách

nhìn của mình dƣới dạng những triết lí có tính khái quát cao. Trong Bởi yêu

thương, giọng điệu triết lí đƣợc thể hiện thật sâu sắc mà cũng thật tự nhiên. Đó là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

những triết lí về đời ngƣời, về tình yêu: “cuộc đời ngƣời ta ngoài ăn với ngủ,

100

thời gian còn lại là đi tìm một nửa của chính mình”. Từ những câu chuyện

của cuộc sống thƣờng ngày, ngƣời kể chuyện chiêm nghiệm triết lí luận bàn

để chủ đề đƣợc mở rộng và nâng vấn đề lên tầm khái quát. Trong truyện

Chuyện vui điện ảnh bằng giọng điệu triết lí, ngƣời kể chuyện đă thể hiện

quan điểm của mình về văn mối quan hệ giữa tiền bạc và tình yêu: “Thấy

chƣa, tiền bạc có lúc có xây đắp đƣợc tình yêu đâu” [84, tr.33]. Những triết lí

về cuộc đời, về tình cảm, về cách đối nhân xử thế giữa ngƣời với ngƣời

đƣợc ngƣời kể chuyện thể hiện rải rác trong các trang truyện. Thông qua nhân

vật ngƣời cha trong truyện Dòng nhớ, ngƣời kể chuyện triết lí về bản chất của

con ngƣời, bản chất của ngƣời đàn ông “sau nầy, lớn lên, biết yêu thƣơng rồi,

tôi mới ngộ ra. Con ngƣời ta, nhất là đàn ông thƣơng ai mà vì nỗi gì đó quay

lƣng lại quên mất tiêu thì đúng là không tử tế, không đáng tin chút nào” [83,

tr.133-134]. Trong truyện Làm má đâu có dễ, ngƣời kể chuyện triết lí về

thiên chức của ngƣời phụ nữ, triết lí về việc làm mẹ “Mặc dầu làm má khó

hơn làm nữ vƣơng, nữ tƣớng nhiều” [84, tr.88]. Từ hình ảnh Đào Hồng tác

giả thể hiện quan niệm về cái đẹp: “Có những vẻ đẹp không phải ai cũng nhìn

thấy đƣợc” [83, tr.101]. Bằng cái nhân nhân hậu, ngƣời kể chuyện đối

thoại, tranh biện về con ngƣời và tình yêu thƣơng ở con ngƣời: “Cái cƣời

mở lòng mở dạ ngƣời ta ra” [83, tr.99]. “Thì ra, tình cảm cũng nhƣ bát nƣớc

hắt đi, không mong gì hốt lại” [88, tr.131]. Suy cho cùng những lời đối thoại,

tranh biện đƣợc thể hiện qua lời ngƣời kể chuyện nhƣng thực chất đó là lời đối

thoại của nhà văn với bạn đọc về cuộc đời, về con ngƣời.

Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tƣ nói riêng và truyện ngắn của các nhà

văn đƣơng đại nói chung có nhiều nét đổi mới. Viết về đề tài đời tƣ thế sự,

giọng điệu kể chuyện trong tác phẩm của các nhà văn không còn là giọng

đơn thanh mà là giọng đa thanh. Nhà văn và nhân vật tranh biện cùng độc giả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

về con ngƣời, về cuộc đời, về thế sự nhân sinh. Nguyễn Ngọc Tƣ là nhà văn có

101

ng̣òi bút sắc sảo, tinh tế. Chị có tài mổ xẻ, phanh phui, phát hiện chiều sâu tính

cách và tâm hồn nhân vật. Những lí lẽ, triết lí, chiêm nghiệm trong truyện ngắn

của chị có thể đƣợc thể hiện trực tiếp qua phát ngôn của ngƣời kể chuyện

cũng có khi thể hiện gián tiếp qua nhân vật. Tất cả những triết lí ấy đều là sự

tổng kết của cả một quá tŕ nh nhà văn tìm tòi, phát hiện, chiêm nghiệm, đúc kết

từ cuộc sống. Nó là sản phẩm của một trái tim đầy tâm huyết với con ngƣời và

cuộc đời. Có lẽ chính bởi thế mà tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tƣ thƣờng có tính

đa nghĩa, tầm khái quát, chất triết lí sâu rộng và sức hấp dẫn lôi cuốn riêng.

Trong tác phẩm tự sự, giọng điệu kể chuyện là một yếu tố không thể

thiếu để cấu thành hình thức nghệ thuật của tác phẩm văn học, là thƣớc đo xác

định tài năng và phong cách độc đáo của ngƣời nghệ sỹ. Qua việc khảo sát

truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ ta thấy giọng điệu kể chuyện trong các tác phẩm

của chị vừa đa dạng, phong phú, vừa độc đáo, hấp dẫn, có giọng xót xa thƣơng

cảm với những số phận gặp bất hạnh trong cuộc sống; có giọng ngợi ca những

phẩm chất tốt đẹp của ngƣời dân Nam Bộ; có giọng dân dã mộc mạc, pha chút

hài hƣớc nhẹ nhàng; có giọng điệu tính triết lí, chiêm nghiệm… Chính sự đan

xen các giọng điệu kể chuyện này đã góp phần quan trọng trong việc mang lại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tính chất phức điệu và tính chất đối thoại cho tác phẩm của chị.

102

KẾT LUẬN

1. Luận văn của chúng tôi trƣớc hết nhằm xác định những vấn đề chung

về ngƣời kể chuyện một cách tƣơng đối nhất quán và hệ thống để có thể sử

dụng nó nhƣ một yếu tố cơ bản trong việc xem xét cấu trúc của tác phẩm tự

sự. Ngƣời kể chuyện là sản phẩm của sự sáng tạo nghệ thuật, là sản phẩm mà

nhà văn hƣ cấu nên để kể chuyện. Ngƣời kể chuyện có mối quan hệ đặc biệt

với nhân vật và với tác giả. Nó là một kiểu nhân vật đặc biệt trong tác phẩm

tự sự, không chỉ tham gia vào tác phẩm nhƣ các nhân vật khác mà còn có

chức năng tổ chức, kết cấu các nhân vật khác. Ngƣời kể chuyện thống nhất

nhƣng không đồng nhất với tác giả bởi tƣ tƣởng của tác giả bao giờ cũng rộng

hơn và tƣ tƣởng đó không chỉ đƣợc thể hiện qua ngƣời kể chuyện mà còn đƣợc

thể hiện qua các nhân vật khác trong tác phẩm. Trong tác phẩm tự sự, ngƣời kể

chuyện có một vị trí vô cùng quan trọng, nó đảm nhiệm cùng một lúc nhiều vai

trò: vai trò tổ chức tác phẩm; vai trò dẫn dắt, định hƣớng ngƣời đọc; đồng thời

ngƣời kể chuyện còn thay mặt tác giả trình bày quan niệm về nghệ thuật, cuộc

sống. Vì là một nhân vật vô hình nên để nhận diện ngƣời kể chuyện ta phải căn

cứ vào ngôi kể, điểm nhìn, vào giọng điệu và ngôn ngữ kể chuyện.

2. Sức cuốn hút của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ một phần quan trọng

chính là bởi nhân vật ngƣời kể chuyện. Truyện ngắn của chị có ngƣời kể

chuyện ngôi thứ nhất và ngƣời kể chuyện ngôi thứ ba nhƣng đa phần là ở ngôi

thứ ba. Song, điểm khác biệt nổi bật về ngôi kể của ngƣời kể chuyện trong

truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ so với các nhà văn quá khứ và hiện tại đó là

trong một số truyện của chị có hai ngôi kể cùng hiện diện (ngƣời kể chuyện

ngôi thứ nhất và ngƣời kể chuyện ngôi thứ ba), do đó không có một ngôi kể

duy nhất và một ngƣời kể chuyện duy nhất trong truyện. Loại hình ngƣời kể

chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ khá đa dạng, phong phú: có

ngƣời kể chuyện kể theo điểm nhìn hạn chế - điểm nhìn của nhân vật và có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngƣời kể chuyện kể theo điểm nhìn toàn tri, trong đó ngƣời kể chuyện kể theo

103

điểm nhìn toàn tri chiếm một tỉ lệ lớn hơn. Việc nhà văn ƣu tiên hình thức

ngƣời kể chuyện theo điểm nhìn toàn tri trong tác phẩm có ý nghĩa nhất định.

Thứ nhất, nó cho phép tầm nhìn của ngƣời kể chuyện đƣợc mở rộng tối đa, có

thể bao quát đƣợc cuộc sống phong phú phức tạp từ nhiều chiều, qua đó tái

hiện cuộc sống một cách toàn diện. Ngoài ra, ngƣời kể chuyện còn có thể kể

lại nhiều sự kiện, hành động, nhiều suy nghĩ, cảm xúc, tâm trạng của nhân vật

trong nhiều khoảng thời gian khác nhau, ở nhiều nơi khác nhau.

3. Cùng với ngôi kể, điểm nhìn thì ngôn ngữ và giọng điệu cũng góp phần

làm nên sức hấp dẫn của hình tƣợng ngƣời kể chuyện. Ngôn ngữ kể chuyện

trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ bộc lộ rất rõ thái độ, tình cảm chủ quan

của ngƣời kể chuyện, nó nghiêng về kể tâm trạng, nỗi niềm hơn là kể về sự

kiện và lời kể cũng thể hiện khá rõ tính tranh biện, đối thoại. Chính những đặc

điểm lời kể này đã cho phép ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn

Ngọc Tƣ có khả năng đi sâu vào diễn tả “dòng ý thức” của nhân vật làm cho

nhân vật hiện lên là những cá nhân có ý thức thực sự. Dƣới tác động của ngôn

ngữ, giọng điệu ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn của chị mang những nét

tiêu biểu, đặc trƣng cho tâm hồn, tính cách của ngƣời dân Nam Bộ. Đó là

giọng điệu: giọng điệu xót xa thƣơng cảm với những số phận gặp nhiều bất

hạnh trong cuộc sống; giọng điệu ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của ngƣời

dân Nam Bộ; giọng điệu dân dã mộc mạc, pha chút hài hƣớc nhẹ nhàng;

giọng điệu giàu tính triết lí, chiêm nghiệm. Sự đan xen các giọng điệu kể

chuyện này đã góp phần quan trọng trong việc mang lại tính chất phức điệu

4. Từ việc nghiên cứu ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc

và đối thoại cho tác phẩm của nhà văn.

Tƣ chúng tôi nhận thấy: Nhà văn trẻ này đã rất nỗ lực trong việc đi tìm một

hình thức tự sự mới cho văn xuôi Việt Nam đƣơng đại. Càng đi sâu tìm hiểu

truyện ngắn của chị ta càng nhận thấy chị đã có đóng góp quan trọng trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

việc khắc phục tính đơn âm của cách kể chuyện truyền thống và đem đến

104

những khả năng tự sự mới cho văn học đƣơng đại. Nguyễn Ngọc Tƣ đã rất nỗ

lực trong việc tìm kiếm một hình thức ngƣời kể chuyện có khả năng chuyển

tải những đổi mới trong quan niệm về cuộc sống và con ngƣời một cách phù

hợp nhất. Điều này chứng tỏ ở chị ý thức trách nhiệm của ngƣời cầm bút, luôn

tìm tòi hƣớng tới sự đổi mới cùng với sự trau dồi kĩ năng viết lách để đáp ứng

cho kịp với yêu cầu của thời đại. Dòng văn học mới đang xôn xao, náo nhiệt,

chấn động với sự quẫy mình mạnh mẽ của hàng loạt những cây bút: Lê Đạt

(với Bóng chữ), Đỗ Hoàng Diệu (với Bóng đè), Vi Thùy Linh (với Đồng Tử,

Thơ Linh, Khát), Phan Huyền Thƣ (với Nằm nghiêng), Nguyễn Ngọc Thuần,

Nguyễn Ngọc Tƣ… Bằng một phong cách độc đáo, Nguyễn Ngọc Tƣ đã đóng

góp vào văn học Việt Nam một tiếng nói hấp dẫn rất riêng biệt. Chị thực sự là

cây bút trẻ giàu tiềm năng của vùng đất cực Nam Tổ quốc. Đúng nhƣ nhà văn

Nguyên Ngọc đánh giá: “Mấy năm nay chúng ta đều rất thích Nguyễn Ngọc

Nam Bộ vậy, tƣơi tắn lạ thƣờng, đem đến cho văn học một luồng gió mát rƣợi,

tinh tế mà chân chất, chân chất mà tinh tế, đặc biệt “Nam Bộ” một cách nhƣ

không, chẳng cần chút cố gắng nào nhƣ các tác giả Nam Bộ đi trƣớc…” [93].

Tƣ. Cô ấy nhƣ một cái cây mọc lên rất tự nhiên giữa rừng tràm hay rừng đƣớc

5. Đây là đề tài nghiên cứu về một vấn đề tƣơng đối phức tạp của lí thuyết

tự sự nên thiết nghĩ nó có khả năng tiếp tục phát triển đƣợc. Luận văn xin đề

xuất một số hƣớng nghiên cứu khác: xem xét ngƣời kể chuyện trong một

phạm vi rộng hơn (Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại) và

thậm chí có thể đi vào xem xét sự phát triển của loại hình ngƣời kể chuyện

trong lịch sử văn học. Bản thân từng yếu tố để nhận diện ngƣời kể chuyện:

điểm nhìn kể chuyện, ngôn ngữ kể chuyện, giọng điệu kể chuyện cũng có thể

tách riêng ra để có những nghiên cứu sâu hơn.

Nhƣ vậy, đề tài còn bỏ ngỏ nhiều vấn đề đáng nghiên cứu. Hi vọng,

chúng tôi có thể giải quyết những vấn đề này ngày một toàn diện hơn ở những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

công trình nghiên cứu tiếp theo với quy mô sâu rộng hơn.

105

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. Thái Phan Vàng Anh (2010), Người kể chuyện trong tiểu thuyết Việt Nam

đương đại, Luận án TS, Hà Nội.

2. M. Bakhtin (1998), Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki, Trần Đình Sử,

3. M.Bakhtin (2006), Vấn đề nội dung, chất liệu và hình thức sáng tạo nghệ

thuật ngôn từ, Phạm Vĩnh Cƣ dịch, Tạp chí văn học nƣớc ngoài số 1.

Lại Nguyên Ân, Vƣơng Trí Nhàn dịch, Nxb Giáo dục.

4. M.Bakhtin (1992), Lí luận về thi pháp tiểu thuyết, Nxb Bộ văn hóa thông

tin và thể thao, Trƣờng viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.

5. Silvan Barnet, Morton Berman, William Burto (1992), Nhập môn văn

học, Hoàng Ngọc Hiến dịch và giới thiệu, Trƣờng viết văn Nguyễn Du,

Hà Nội.

6. Roland Barthes (1997), Độ không của lối viết (Nguyên Ngọc dịch và giới

thiệu), NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

7. Lê Huy Bắc (1998), Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại, Tạp chí

văn học số 9.

8. Hoàng Thị Bình (1998), Phương thức tổ chức lời nói bên trong của nhân

vật, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội .

9. Hoàng Thị Châu (2004), Phương ngữ học tiếng Việt, Nxb ĐHQG Hà Nội.

10. Nguyễn Văn Dân (1998), Lí luận văn học so sánh, NXB Khoa học xã

hội, Hà Nội.

11. Trần Hữu Dũng (2005), Nguyễn Ngọc Tư – đặc sản miền Nam, Báo diễn

đàn tháng 2.

12. Đoàn Ánh Dƣơng (2007), Cánh đồng bất tận, nhìn từ mô hình tự sự và

ngôn ngữ trần thuật, Tạp chí nghiên cứu văn học số 2.

13. Phạm Thùy Dƣơng (2006), Tìm hiểu thi pháp truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

và Nguyễn Ngọc Tư, Luận văn thạc sĩ, ĐHSPHN, Hà Nội.

106

14. Đặng Anh Đào (1992), Nguồn gốc và tiền đề của tiểu thuyết, Tạp chí văn

học số 6.

15. Đặng Anh Đào (1993), Sự tự do của tiểu thuyết một khía cạnh thi pháp,

Tạp chí văn học số 3.

16. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện

đại, Nxb ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.

17. Đặng Anh Đào (2008), Bàn về một vài thuật ngữ thông dụng trong kể

chuyện, Tạp chí NCVH số 7.

18. Đặng Anh Đào (2008), Nguyễn Ngọc Tư một miền hoang dã, Báo văn

nghệ số 39 ngày 27/9/2008.

19. Nguyễn Văn Đấu (2001), Các loại hình cơ bản của truyện ngắn hiện đại,

Luận án tiến sĩ, Hà Nội.

20. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, NXB Văn hóa,

Hà Nội.

21. Nguyễn Đăng Điệp (2006), Văn trẻ có gì mới, Báo văn nghệ số 41 ngày

08/10/2006.

22. Phong Điệp (2005), Nguyễn Ngọc Tư: Tôi viết trong nỗi im lặng, Báo

văn nghệ trẻ số 45 ngày 06/11/2005.

23. Phong Điệp (2005), Văn học 2005 những ấn tượng, Báo văn nghệ trẻ số

24. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.

4,5,6 (xuân Bính Tuất 2006).

25. Hà Minh Đức (chủ biên), Đỗ Văn Khang, Phạm Quang Long, Phạm

Thành Hƣng, Nguyễn Văn Nam, Đoàn Đức Phƣơng, Trần Khánh Thành,

Lý Hoài Thu (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

26. G.Genette (1976), Các phương thức tu từ, tập 3, Edision Seuil (tài liệu

dịch của Nguyễn Thái Hòa).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

27. Gorki (1970), Bàn về văn học, Cao Xuân Hạo dịch, Nxb văn học, Hà Nội.

107

28. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2006), Từ điển thuật ngữ

29. Hoàng Ngọc Hiến (1998), Năm bài giảng về thể loại, NXB Giáo dục, Hà Nội.

văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

30. Hoàng Ngọc Hiến (2003), Nhập môn văn học và phân tích thể loại, NXB

Đà Nẵng.

31. Nguyễn Thái Hòa (2002), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục.

32. Cao Thị Hồng (2003), Truyện ngắn Lê Minh Khuê (Nhìn từ thi pháp thể

loại), Luận văn thạc sĩ, ĐHSP Hà Nội.

33. I.P.Ilin và E.A.Tzurganova (2003) (chủ biên), Các khái niệm và thuật

ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ

XX, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.

34. Manfred Jahn, Trần thuật học – nhập môn lí thuyết trần thuật, (ngƣời

dịch: Nguyễn Thị Nhƣ Trang K46 Văn chất lƣợng cao, ngƣời hiệu đính:

Phạm Gia Lâm) (2005), Hà Nội.

35. Trần Hoàng Thiên Kim (2006), Nguyễn Ngọc Tư: Nhón chân hái trái ở

cành quá cao, Báo Tiền Phong ngày 31/01/2006.

36. M.B.Khrapchenko (1978), Cá tính sáng tạo nhà văn và sự phát triển văn

học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

37. Cao Kim Lan (2009), Lý thuyết về điểm nhìn nghệ thuật của R. Scholes

và R. Kellogg, Tạp chí văn học số 10.

38. Cao Kim Lan (2009), Mối quan hệ giữa người kể chuyện và tác giả, Tạp

chí văn học số 8.

39. Phong Lê (2001), Một số gương mặt văn chương học thuật Việt Nam hiện

đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

40. Ju.Lotman (1979), Cơ cấu của tác phẩm nghệ thuật ngôn từ, Trịnh Bá

Đĩnh dịch, Tạp chí văn học nƣớc ngoài, Hội Nhà văn Việt Nam số

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

4/2000 (dịch từ Cấu trúc văn bản nghệ thuật).

108

41. Mác - Ăngghen (1958), Về văn hóa văn nghệ, Nxb Sự thật, Hà Nội.

42. Nguyễn Đăng Mạnh (2002), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của

nhà văn, NXB Giáo dục, Hà Nội.

43. Đỗ Hải Ninh (2005), Nguyễn Ngọc Tư và cuộc đời bình dị, Báo văn nghệ

số 25 ngày 19/06/2005.

44. Bùi Thị Nga (2008), Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc

Tư, Luận văn thạc sĩ, ĐHSPHN, Hà Nội.

45. Hoàng Thiên Nga (2005), Đọc Nguyễn Ngọc Tư qua Cánh đồng bất tận,

Báo văn nghệ ngày 13/8/2005.

46. Dạ Ngân (2006), May mà có Nguyễn Ngọc Tư, Báo tuổi trẻ cuối tuần

ngày 16/04/2006.

47. Vƣơng Trí Nhàn (sƣu tầm, biên soạn) (2000), Những lời bàn về tiểu

thuyết trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến đầu 1945, Nxb Hội

nhà văn.

48. Nhiều tác giả (1994), Truyện ngắn chọn lọc (tác phẩm được giải trong

hội thi sáng tác về đề tài Hà Nội) (19 truyện), Nxb Hà Nội, Hà Nội.

49. Nhiều tác giả (1994), Truyện ngắn trẻ (25 truyện), NXb Hội nhà văn Việt

Nam, Hà Nội.

50. Nhiều tác giả (1998), Truyện ngắn hay 1998 (20 truyện), Nxb Hội nhà

văn Việt Nam, Hà Nội.

51. Nhiều tác giả (2000), Nghệ thuật truyện ngắn và kí, Tạ Duy Anh biên

soạn, NXB Thanh niên, Hà Nội.

52. Nhiều tác giả (2001), Nghệ thuật như là thủ pháp, Đỗ Lai Thúy biên

soạn, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

53. Nhiều tác giả (2004), Truyện ngắn 5 tác giả trẻ (Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ

Doãn Hoàng, Phong Điệp, Đỗ Bích Thúy, Đoàn Thị Phương Nhung),

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

109

54. Nhiều tác giả (2005), Truyện ngắn 3 tác giả nữ (Đồng bằng sông Cửu

Long: Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Thị Diệp Mai, Trầm Nguyên Ý Anh),

Nguyễn Anh Vũ tuyển chọn, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

55. Nhiều tác giả (1983), Từ điển văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

56. Lí Kim Oanh (2003), Nhân vật người kể chuyện trong sáng tác Nguyễn

Khải, Luận án tiến sĩ ĐHSP Hà Nội.

57. Nguyễn Thị Kiều Oanh (2006), Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn

Nguyễn Ngọc Tư, Luận văn thạc sĩ ĐHSP Hà Nội.

58. G.N. Poxpelop (chủ biên) (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Trần

Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

59. Hoàng Phê (2002), Từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học Việt Nam.

60. Nguyễn Quang Sáng, Đậm đà chất văn chương, Lời nhận xét về các tác

phẩm đạt giải cuộc thi sáng tác văn học tuổi 20 lần thứ II Tập truyện

Ngọn đèn không tắt.

61. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

62. Trần Đình Sử (chủ biên) (1987), Giáo trình lí luận văn học, tập 2, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

63. Trần Đình Sử (2007) (chủ biên), Tự sự học – Một số vấn đề lý luận và

lịch sử, Nxb Đại học Sƣ Phạm, Hà Nội.

64. Trần Đình Sử (2008) (chủ biên), Tự sự học – Một số vấn đề lý luận và

lịch sử - Phần 2, Nxb Đại học Sƣ Phạm, Hà Nội.

65. Hồng Thạch (2006) (thực hiện), Sách và dư luận, Báo Thể thao và Văn

hóa ngày 07/10/2006.

66. Đinh Lƣu Hoàng Thái (2006), Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Lê

Minh Khuê, Luận văn thạc sĩ ĐHSP Hà Nội.

67. Bùi Việt Thắng (2004), Truyện ngắn hôm nay, Tạp chí nghiên cứu văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

học số 1.

110

68. Bùi Việt Thắng (2006), Bài học văn chương từ Cánh đồng bất tận, Tạp

chí nghiên cứu văn học số 7.

69. Lộc Phƣơng Thủy (2007) (chủ biên), Lí luận – Phê bình văn học thế giới

thế kỉ XX, Nxb Nxb, Giáo dục, Hà Nội.

70. Nguyễn Thị Thu Thủy (2002), Về khái niệm “truyện kể ở ngôi thứ ba”

và “người kể chuyện ở ngôi thứ ba”, Tạp chí ngôn ngữ số 9.

71. Nguyễn Thị Thu Thủy (2002), Về khái niệm và các nhân tố của điểm

nhìn, Báo cáo tham dự Hội nghị Các nhà khoa học Ngữ Văn trẻ, Trƣờng

ĐHSP Hà Nội.

kể theo điểm nhìn bên trong từ sự chi phối của điểm nhìn, Báo cáo tham dự

hội nghị Các nhà khoa học Ngữ văn trẻ, Trƣờng ĐHSP Hà Nội.

72. Nguyễn Thị Thu Thủy (2002), Xem xét đặc điểm sử dụng ngôn ngữ ở truyện

73. L.I. Timofiev (1962), Nguyên lý lý luận văn học, Nxb Văn hóa, Viện văn

học, Hà Nội.

Trung Quốc đương đại, Nguyễn Văn Nguyên dịch, Tạp chí văn học số 5.

74. Lƣu Thiện Tín (2008), 5 hình thái người kể chuyện trong tiểu thuyết tự sự

75. Tz.Todorov (1978), Thi pháp học cấu trúc, Seuil, Pais (Bản dịch của

Trần Duy Châu), Thƣ viện Trƣờng ĐHSP Hà Nội.

76. Tz.Todorov (2004), Thi pháp văn xuôi, Nxb ĐHSP Hà Nội, Hà Nội.

77. Lê Ngọc Trà (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới.

78. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học

dân gian, Nxb văn học, Hà Nội.

79. Lê Phong Tuyết (2008), Người kể chuyện trong văn xuôi, Tạp chí văn

học nƣớc ngoài số 5.

80. Nguyễn Ngọc Tƣ (2009), Ngày mai của những ngày mai (tạp văn), NXB

Phụ nữ, Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

81. Nguyễn Ngọc Tƣ (2009), Yêu người ngóng núi, NXB Trẻ, Hà Nội.

111

82. Nguyễn Ngọc Tƣ (2011), Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư, NXB Trẻ, Hà Nội.

83. Nguyễn Ngọc Tƣ (2011), Cánh đồng bất tận, Nxb Trẻ, Hà Nội.

84. Nguyễn Ngọc Tƣ (2010), Giao Thừa, Nxb Trẻ, Hà Nội.

85. Nguyễn Ngọc Tƣ (2011), Gió lẻ và 9 câu chuyện khác, Nxb Trẻ, Hà Nội.

86. Nguyễn Ngọc Tƣ (2010), Khói trời lộng lẫy, Nxb Thời đại, Hà Nội.

87. Nguyễn Ngọc Tƣ (2006), Ngọn đèn không tắt, Nxb Trẻ, Hà Nội.

88. Nguyễn Ngọc Tƣ (2010), Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, Nxb Văn hóa -

Văn nghệ TP.Hồ Chí Minh.

89. Phùng Văn Tửu (1996), Tiểu thuyết Pháp hiện đại tìm tòi đổi mới, Nxb

90. Phùng Văn Tửu (1996), Một phương diện truyện ngắn, Tạp chí văn học số 2.

Khoa học xã hội, Hà Nội.

91. Viện ngôn ngữ học - TTKHXH & NVQG (1993), Từ điển Anh - Việt,

Nxb TP. Hồ Chí Minh.

92. Nguyễn Đăng Vũ (1987), Ngôn ngữ người kể chuyện trong “Giã từ vũ

khí” của O.Hemingway, Luận văn Sau đại học, Hà Nội.

93. Trần Ngọc Vƣơng (1995), Loại hình tác giả văn học, nhà nho tài từ và

văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

94. Website http://www.viet – studies.info/NNTu (chuyên trang về Nguyễn

Ngọc Tƣ do Trần Hữu Dũng thiết kế và quản lí).

95. Website: http://www.vannghesongcuulong.org.vn ngày 16/7/2007(Văn

Công Hùng, Bất tận với Nguyễn Ngọc Tư).

96. Website: http://edu.go.vn/e-tap-chi/tin/3/115/2175/nguyen-ngoc-tu-so-

nhat-la-su-vo-cam.html.

97. Website: http//vietnam.net ngày 24/04/2006 (Đào Thị Tuyết Lê, Truyện

ngắn Nguyễn Ngọc Tư luôn làm tôi xúc động).

98. Website: Www.baomoi.com/Nha-van-Nguyen-Ngoc-Tu-va-chiec-chieu-

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chat-hep/152/5196673.epi.

112

Tài liệu tiếng Anh

99. M.H. Abrams (1971), The glossarry of literature terms, Holt, Rinehart

and Winsston Inc, New York.

100. Mieke.Bal (1997), Naratology, introductionto the theory of narrative,

University of Toronto Press, Toronto Buffalo, London.

101. G.Genette (1978), Narrative discourse, Harcout Brace Jovanovic Inc, USA.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

102. K.Wales (1989), A dictionary of stylistics, Longman London, New York.