ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN MINH THU
NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thái Nguyên, năm 2012
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN MINH THU
NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thái Nguyên, năm 2012
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dƣới sự
hƣớng dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp.
Nội dung đề tài nghiên cứu của luận văn chƣa đƣợc ai công bố trong
bất kì công trình nào khác.
Thái Nguyên, ngày 23 tháng 8 năm 2012
Tác giả luận văn
Nguyễn Minh Thu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ii
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cam đoan ........................................................................................................ i
Lời cảm ơn .......................................................................................................... ii
Mục lục .............................................................................................................. iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
NỘI DUNG ....................................................................................................... 13
Chương 1. NGƯỜI KỂ CHUYỆN – MỘT PHẠM TRÙ CỦA TỰ SỰ HỌC ... 13
1.1. Ngƣời kể chuyện là một kiểu nhân vật đặc biệt ..................................... 13
1.1.1. Ngƣời kể chuyện với tƣ cách là một sản phẩm hƣ cấu để kể chuyện ... 15
1.1.2. Ngƣời kể chuyện thống nhất nhƣng không đồng nhất với tác giả ... 16
1.2. Các tiêu chí nhận diện ngƣời kể chuyện ................................................. 20
1.2.1. Điểm nhìn kể chuyện ....................................................................... 20
1.2.2. Ngôn ngữ kể chuyện ........................................................................ 24
1.2.3. Giọng điệu kể chuyện ....................................................................... 27
1.3. Vai trò của ngƣời kể chuyện ................................................................... 29
1.3.1. Ngƣời kể chuyện với vai trò tổ chức kết cấu tác phẩm .................... 29
1.3.2. Ngƣời kể chuyện với vai trò dẫn dắt, định hƣớng ngƣời đọc .......... 31
1.3.3. Ngƣời kể chuyện thay mặt tác giả trình bày quan niệm về nghệ
thuật, cuộc sống.......................................................................................... 33
Chương 2. NGÔI KỂ VÀ MỘT SỐ LOẠI HÌNH NGƯỜI KỂ
CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ .... 36
2.1. Vấn đề ngôi kể trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ ............................. 36
2.1.1. Khái niệm ngôi kể ............................................................................ 36
2.1.2. Ngƣời kể chuyện ngôi thứ nhất ........................................................ 39
2.1.3. Ngƣời kể chuyện ngôi thứ ba ........................................................... 43
2.1.4. Ngôi kể trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ – những vấn đề cần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bàn luận ...................................................................................................... 46
iii
2.2. Một số loại hình ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ ..... 50
2.2.1. Ngƣời kể chuyện kể theo điểm nhìn hạn chế ................................... 50
2.2.2. Ngƣời kể chuyện kể theo điểm nhìn toàn tri .................................... 55
Chương 3. NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU KỂ CHUYỆN TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ .................................... 60
3.1. Ngôn ngữ kể chuyện ............................................................................... 60
3.1.1. Một vài đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ kể chuyện trong truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ ............................................................................... 60
3.1.2. Các thành phần cấu tạo nên ngôn ngữ kể chuyện ............................ 65
3.1.3. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ ngƣời kể chuyện với ngôn ngữ của
nhân vật khác ............................................................................................. 81
3.2. Giọng điệu kể chuyện ............................................................................. 84
3.2.1. Giọng điệu xót xa thƣơng cảm với những số phận gặp nhiều bất
hạnh trong cuộc sống ................................................................................. 85
3.2.2. Giọng điệu ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của ngƣời dân Nam Bộ . 88
3.2.3. Giọng điệu dân dã mộc mạc, pha chút hài hƣớc nhẹ nhàng ............ 94
3.2.4. Giọng điệu giàu tính triết lí, chiêm nghiệm ..................................... 99
KẾT LUẬN .................................................................................................... 102
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 105
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Ý nghĩa lý luận
Tự sự học là một bộ môn nghiên cứu liên ngành giàu tiềm năng. Tự sự
đã có từ lâu, “có bản thân lịch sử loài ngƣời thì đã có tự sự” (Roland Barthes).
Trong lí thuyết tự sự ngƣời kể chuyện đóng vai trò rất quan trọng. Việc xác
định, làm rõ nội dung của khái niệm này sẽ giúp chúng ta hiểu đƣợc phƣơng
diện chủ thể của tác phẩm tự sự, hiểu tác phẩm đúng đắn, khoa học và sâu sắc
hơn. Nếu nhƣ trƣớc đây khi tìm hiểu tác phẩm tự sự ngƣời nghiên cứu thƣờng
chú tâm đến thế giới đƣợc kể thì bây giờ họ đã tìm hiểu cách kể của nhà văn.
Trƣớc đây, họ quan tâm đến nhân vật, đến tính cách điển hình của nhân vật thì
giờ đây họ chú ý cả đến cách thức nhà văn đã hƣ cấu nhân vật đó nhƣ thế nào.
Trong văn bản tự sự, ngƣời kể chuyện là một hiện tƣợng lí thuyết khá
phức tạp. Trƣớc đây, nếu có đề cập đến vấn đề này thì ngƣời ta cũng thƣờng
đồng nhất nó với ngôi kể, quan tâm xem truyện đó đƣợc kể theo “ngôi thứ
nhất” hay “ngôi thứ ba”. Nhƣng sự thực thì ngôi kể chẳng qua là một biểu
hiện ngữ pháp mang tính ƣớc lệ, khác biệt giữa hai loại ngôi kể này về thực
chất chỉ là ở mức độ bộc lộ hay hàm ẩn của ngƣời kể chuyện. Nếu chỉ dừng
lại ở việc xem xét ngôi kể thì ta chƣa thể nào khám phá đƣợc nét riêng biệt,
độc đáo làm nên sức hấp dẫn của truyện. Với việc lựa chọn đề tài nghiên cứu
này, luận văn sẽ xem xét ngƣời kể chuyện từ góc độ ngôi kể, điểm nhìn, ngôn
ngữ, giọng điệu để từ đó khẳng định rằng ngƣời kể chuyện không chỉ đơn
thuần là ngƣời kể, ngƣời dẫn dắt, tổ chức câu chuyện mà ngƣời kể chuyện còn
là ngƣời định giá tƣ tƣởng thẩm mĩ của tác phẩm.
1.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu ngƣời kể chuyện trong tác phẩm tự sự ta sẽ có đƣợc một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
công cụ để đi vào phân tích, khám phá tác phẩm của những nhà văn cụ thể, lí
2
giải đƣợc một trong những yếu tố làm nên nét đặc sắc trong phong cách nghệ
thuật của họ. Tác giả mà chúng tôi lựa chọn để nghiên cứu ở đây là Nguyễn
Ngọc Tƣ bởi trong những gƣơng mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam đƣơng
đại, chị nổi lên nhƣ một hiện tƣợng rất đáng chú ý. Chị đã nhận đƣợc nhiều
giải thƣởng văn học: Giải nhất cuộc vận động sáng tác văn học tuổi 20 lần II
với tác phẩm Ngọn đèn không tắt (2000), giải B giải thƣởng Hội nhà văn Việt
Nam với tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt (2001), tặng thƣởng dành cho
các tác giả trẻ của Ủy ban toàn quốc liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt
Nam cho tập Ngọn đèn không tắt. Và truyện ngắn Cánh đồng bất tận của chị
là một trong mƣời truyện hay nhất năm 2005 do báo Văn nghệ bình chọn.
Năm 2006, Hội nghị ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam lần thứ 6, khóa VI
đã quyết định trao tặng giải thƣởng của Hội nhà văn Việt Nam cho Cánh đồng
bất tận. Năm 2008, chị lại đƣợc Hội nhà văn Việt Nam đề cử nhận giải
thƣởng văn học ASEAN. Đây cũng là năm đầu tiên Hội nhà văn đề cử trao
giải cho một tác giả trẻ dƣới bốn mƣơi tuổi. Đó là niềm vinh dự lớn của nhà
văn trẻ Nguyễn Ngọc Tƣ. Có thể nói, Nguyễn Ngọc Tƣ đã chiếm một vị trí
quan trọng trong nền văn học Việt Nam đƣơng đại. Khi viết bài May mà có
Nguyễn Ngọc Tư đăng trên báo Văn nghệ, nhà văn Dạ Ngân viết “tôi nhớ mãi
cảm giác của một ngƣời trong nghề, lại là dân biên tập, tôi nghĩ mình đang
tiếp cận một ngôi sao không biết nó sẽ tỏa sáng đến đâu” [46, tr.1]. Gia tài
văn học của Nguyễn Ngọc Tƣ gồm cả tạp văn, truyện ngắn và thơ. Những tác
phẩm của nhà văn luôn đƣợc bạn đọc trong và ngoài nƣớc mong đợi, đón
nhận nồng nhiệt, đặc biệt là truyện ngắn.
Theo dõi hành trình truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tƣ, ta nhận thấy
truyện ngắn của chị lôi cuốn ngƣời đọc không phải ở cốt truyện tình tiết li kì
mà chủ yếu bởi cách kể hấp dẫn, có duyên. Chính vì thế, tìm hiểu nhân vật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ sẽ giúp ta lí giải đƣợc
3
phần nào sức hấp dẫn đặc biệt trong các trang truyện của chị, lí giải đƣợc một
trong những yếu tố đóng vai trò quan trọng hình thành nên phong cách nghệ
thuật đặc sắc của chị.
Nhƣ vậy, đề tài “Ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ”
mà chúng tôi nghiên cứu là một đề tài vừa có ý nghĩa lí luận vừa có ý nghĩa
văn học sử. Nó đáp ứng đƣợc những tiêu chí cần thiết đối với đề tài của một
luận văn cao học.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Tình hình nghiên cứu về vấn đề người kể chuyện
Là một trong những vấn đề trung tâm của thi pháp văn xuôi hiện đại, là
phƣơng diện quan trọng của lý thuyết tự sự, ngƣời kể chuyện từ lâu đã thu hút
đƣợc sự quan tâm đông đảo của các nhà nghiên cứu. Có thể kể tên một số nhà
lý luận phƣơng Tây đã dành nhiều tâm huyết cho trần thuật học, tự sự học nói
chung và ngƣời kể chuyện nói riêng là: Genette, Todorov, Lispenski,
Lubbock, Barthes, Friendman, Chatman… Trong phạm vi luận văn này,
chúng tôi xin đề cập đến một số ý kiến tiêu biểu:
Genette trong công trình Các phương thức tu từ dựa vào tiêu chí tiêu cự -
mối quan hệ giữa thị giác và vật đƣợc nhìn thấy, cảm biết, đã đƣa ra sự phân
loại về ngƣời kể chuyện: Thứ nhất là tự sự với tiêu cự bằng không với ngƣời
kể chuyện biết hết, biết trƣớc, không có khoảng cách nào với sự việc đƣợc kể.
Thứ hai là tự sự với tiêu cự bên trong: ngƣời kể chuyện thông qua nhân vật mà
xác lập tiêu cự, sự biết của ngƣời kể chuyện ngang với nhân vật. Thứ ba là tự sự
với tiêu cự bên ngoài: Ngƣời kể chuyện xác lập tiêu cự bên ngoài đối với nhân
vật và cảnh vật chỉ miêu tả lời nói và hành động của nhân vật, không miêu tả nội
tâm, không phân tích tâm lý cũng không đánh giá chủ quan [Theo 26, tr.84].
Tz. Todorov trong Thi pháp học cấu trúc cũng đã đƣa ra ý kiến khá sâu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sắc về ngƣời kể chuyện. Ông khẳng định “ngƣời kể chuyện là yếu tố tích cực
4
trong việc kiến tạo thế giới tƣởng tƣợng (…). Không thể có trần thuật thiếu
ngƣời kể chuyện”. Từ tƣơng quan về dung lƣợng hiểu biết của ngƣời kể
chuyện và nhân vật, nhà nghiên cứu đã chia thành ba hình thức ngƣời kể
ngƣời kể chuyện bé hơn nhân vật [Theo 76, tr.126].
chuyện: ngƣời kể chuyện lớn hơn nhân vật, ngƣời kể chuyện bằng nhân vật và
Ở hƣớng tiếp cận khác, nhà nghiên cứu ngƣời Anh P. Lubbock trong tác
phẩm Nghệ thuật văn xuôi đƣa ra bốn hình thức trần thuật cơ bản: thứ nhất là
“toát yếu toàn cảnh”, hình thức trần thuật này có sự hiện diện cảm thấy đƣợc
của ngƣời trần thuật biết tất cả. Hình thức trần thuật thứ hai là “ngƣời trần
thuật kịch hóa”. Ở hình thức này ngƣời trần thuật đứng ở ngôi một, kể lại câu
chuyện từ sự cảm nhận riêng của mình. Hình thức trần thuật thứ ba là “ý thức
kịch hóa”. Đặc trƣng của hình thức trần thuật này cho phép miêu tả trực tiếp
đời sống tâm lý, những trải nghiệm bên trong của nhân vật. Hình thức trần
thuật thứ tƣ là “kịch thực thụ”. Trong hình thức này độc giả chỉ thấy đƣợc
hình dáng bề ngoài và các cuộc đối thoại của nhân vật mà không biết gì về đời
sống nội tâm. Theo P. Lubbock đây là hình thức trần thuật hoàn hảo nhất
[Theo I.P.Ilin – Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu
văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ XX/ 33, tr.223].
N.Friedman với tác phẩm Điểm nhìn trong tiểu thuyết đã đƣa ra cách
phân loại cụ thể về ngƣời kể chuyện. Thứ nhất là „toàn năng biên tập”, với
hình thức này ngƣời kể chuyện biết tất cả và có khả năng thâm nhập vào câu
chuyện dƣới dạng những bàn luận chung về cuộc sống. Ở hình thức thứ hai là
“toàn năng trung tính” thì không có sự can thiệp trực tiếp của ngƣời kể
chuyện. Thứ ba là hình thức trần thuật “tôi là nhân chứng” khi ngƣời kể
chuyện là một nhân vật trong truyện nhƣng chỉ nằm bên lề câu chuyện và biết
một phần về các nhân vật. Thứ tƣ là hình thức trần thuật “tôi là vai chính” khi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngƣời kể chuyện là nhân vật chính. Thứ năm là hình thức trần thuật “toàn
5
năng cục bộ đa bội”, ngƣời kể chuyện đứng ngoài và tựa vào điểm nhìn của
nhiều nhân vật để kể chuyện. Thứ sáu là hình thức trần thuật “toàn năng cục
bộ đơn bội” – ngƣời kể chuyện đứng bên ngoài và tựa vào điểm nhìn của một
nhân vật trong truyện để kể. Thứ bảy là hình thức trần thuật theo “mô hình
kịch” và thứ tám là trần thuật theo kiểu “camera”. Trong cả hai hình thức này,
ngƣời kể chuyện hầu nhƣ chỉ khách quan ghi lại các sự việc, hiện tƣợng mà
không tỏ thái độ chủ quan [Theo I.P.Ilin 33, tr.227].
G.N. Pospelov trong Dẫn luận nghiên cứu văn học đã khẳng định vai trò
không thể thiếu của ngƣời trần thuật trong tác phẩm tự sự: “Trần thuật tự sự
bao giờ cũng đƣợc tiến hành từ phía một ngƣời nào đó. Trong sử thi, tiểu
thuyết, cổ tích, truyện ngắn trực tiếp hay gián tiếp đều có ngƣời trần thuật”
[58, tr.88]. Theo Poxpelov có hai kiểu ngƣời trần thuật phổ biến là: “Hình
thức thứ nhất của miêu tả tự sự là trần thuật từ ngôi thứ ba không nhân vật
hóa mà đằng sau là tác giả. Nhƣng ngƣời trần thuật cũng hoàn toàn có thể
xuất hiện trong tác phẩm dƣới hình thức một cái tôi nào đó” [58, tr.89]. Đặc
biệt trong công trình nghiên cứu này, Poxpelov đã chỉ ra mối quan hệ giữa
ngƣời kể chuyện với nhân vật và với tác giả.
Timofiev trong giáo trình Nguyên lý lý luận văn học cũng đã khẳng định
“Ngƣời kể chuyện là ngƣời kể cho ta nghe về những nhân vật và biến cố” [73,
tr.32]. Ông đặc biệt quan tâm đến ngôn ngữ ngƣời kể chuyện, xem nó là một
việc tự sự ngay từ đầu đã đƣợc gắn chặt với một ngƣời kể chuyện nhất định:
yếu tố tích cực đem lại cho các nhân vật và các hiện tƣợng trong tác phẩm
một màu sắc căn bản, một sự đánh giá căn bản. Ngôn ngữ ngƣời kể chuyện
đƣợc cá tính hóa cả về mặt hình thức lẫn mặt ý nghĩa, nó có những đặc điểm
riêng phân biệt với ngôn ngữ các nhân vật khác: “Tính độc đáo của ngôn ngữ
ngƣời kể chuyện tức là vấn đề ngôn ngữ ngƣời kể chuyện có những đặc điểm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cá tính hóa, không hòa lẫn với đặc điểm của các nhân vật đƣợc miêu tả, trái
6
lại đƣợc nêu lên một cách riêng biệt, ám chỉ một cá tính ẩn đằng sau nó. Cá
tính này mà ta thấy trong ngôn ngữ, dùng những biện pháp ngôn ngữ để tạo
nên hình tƣợng của nhân vật, ngƣời nhân danh mình theo quan điểm của
mình, quan niệm tất cả các nhân vật và biến cố đƣợc nhắc đến trong tác
phẩm” [73, tr.44].
Bên cạnh các nhà nghiên cứu nƣớc ngoài, ở Việt Nam vấn đề ngƣời kể
chuyện cũng đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Chúng tôi xin nêu một số
“Hình tƣợng ƣớc lệ về ngƣời trần thuật trong tác phẩm văn học, chỉ xuất hiện khi
nào câu chuyện đƣợc kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm” [28, tr.221].
nhận định tiêu biểu: Các tác giả trong Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa:
Nguyễn Thái Hòa trong chuyên luận Những vấn đề thi pháp của truyện
đã đề cập đến nhiều vấn đề ngƣời kể chuyện: “ngƣời kể chuyện là nhân tố tạo
nên lăng kính đối thoại trong truyện. Ở đây là đối thoại hai chiều giữa ngƣời
kể hàm ẩn và ngƣời nghe hàm ẩn. (…) Ông cho rằng ngƣời đọc hàm ẩn hay
còn gọi là cái bóng độc giả chính là ngƣời kể tự thân. Tức là ngƣời đọc truyện
đầu tiên không ai khác chính là ngƣời kể chuyện. Cuộc đối thoại giữa ngƣời
kể hàm ẩn và ngƣời nghe hàm ẩn góp phần hoàn thiện câu chuyện. (…)
Nguyễn Thái Hòa còn nêu vấn đề xác định giọng kể của ngƣời kể. Ông cho
đây là vấn đề rất quan trọng” [Theo 79].
Phùng Văn Tửu trong chuyên luận Tiểu thuyết Pháp hiện đại tìm tòi, đổi
mới nhận định: “nói đến ngƣời kể chuyện là nói đến điểm nhìn đƣợc xác định
trong hệ đa phƣơng không gian, thời gian, tâm lý tạo thành góc nhìn. Ngƣời
kể chuyện là ai, kể chuyện ngƣời khác hay kể chuyện chính bản thân mình,
khoảng cách về không gian từ nơi sự việc xảy ra đến chỗ đứng của ngƣời kể
chuyện cũng nhƣ độ lệch thời gian giữa lúc sự việc xảy ra và khi sự việc đƣợc
kể lại vẫn thƣờng đƣợc các nhà tiểu thuyết quan tâm từ lâu”. Ông cũng nêu ra
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
một số loại ngƣời kể chuyện: “một dạng phổ biến của tiểu thuyết truyền thống
7
là ngƣời kể chuyện giấu mặt, coi nhƣ đứng ở một ví trị nào đấy trong không
gian, thời gian, bao quát hết mọi diễn biển của câu chuyện và thuật lại với chúng
ta. Chuyện đƣợc kể ở ngôi thứ 3 số ít… một dạng phổ biến khác của tiểu thuyết
là lối kể chuyện ở ngôi thứ nhất với ngƣời kể chuyện xƣng tôi” [89, tr.207].
Trong công trình Tự sự học – Một số vấn đề lý luận và lịch sử Trần Đình
Sử chủ biên, vấn đề ngƣời kể chuyện đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
Từ những vấn đề mang tính cụ thể nhƣ Phương thức tự sự chủ yếu của Sử thi
Đam San của Đỗ Hồng Kì; Về mô hình tự sự truyện Kiều của Trần Đình Sử;
Hình tượng người trần thuật trong tác phẩm Người tình của Trần Huyền Sâm;
Nghệ thuật tự sự của Ngô Tất Tố trong Tắt đèn của Trần Đăng Xuyền; Một số
hình thức tự sự trong Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust của Đào Duy
Hiệp... đến những vấn đề mang tính khái quát nhƣ Vấn đề người kể chuyện
trong thi pháp tự sự hiện đại của Đỗ Hải Phong; Sự phát triển nghệ thuật tự
sự ở Việt Nam – một vài hiện tượng đáng lưu ý của Đặng Anh Đào; Vấn đề kể
chuyện trong truyện ngắn đương đại của Bùi Việt Thắng; Về tiểu thuyết sử
dụng ngôi thứ nhất trong văn học phương Tây thế kỉ XVIII của Lê Nguyên
Cẩn… [63].
Ngoài các bài viết, công trình nghiên cứu trên ta còn bắt gặp một số ý
kiến khái quát về ngƣời kể chuyện trong một số bài báo, một số chuyên luận
nhƣ: Người kể chuyện trong văn xuôi của Lê Phong Tuyết; Hình tượng nhân
vật người kể chuyện trong truyện Lỗ Tấn của Lƣơng Duy Thứ; Đổi mới nghệ
thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại của Đặng Anh Đào…
Nhƣ vậy vấn đề lý thuyết ngƣời kể chuyện đã thu hút đƣợc sự quan tâm
của nhiều nhà nghiên cứu trên nhiều nƣớc khác nhau. Điểm chung của các ý
kiến là ở chỗ khẳng định vai trò không thể thiếu của ngƣời kể chuyện trong
tác phẩm tự sự, khẳng định ngƣời kể chuyện là ngƣời đứng ra để kể lại câu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chuyện, ngƣời môi giới giữa tác phẩm với bạn đọc và là ngƣời thay mặt tác
8
giả phát biểu những tƣ tƣởng, quan điểm về con ngƣời, cuộc sống. Ngƣời kể
chuyện là một trong những yếu tố quan trọng để phân biệt tác phẩm tự sự với
tác phẩm thơ, trữ tình và kịch. Lý thuyết về ngƣời kể chuyện là phức tạp cho
nên trong suốt thế kỉ qua các nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình từ nhiều
khuynh hƣớng đã tiếp cận vấn đề này một cách khác nhau nhƣng cho đến nay
nó vẫn đòi hỏi cần phải tiếp tục tìm hiểu, xem xét. Những ý kiến của những
ngƣời đi trƣớc thực sự là những gợi ý vô cùng quý báu giúp đỡ chúng tôi
trong quá trình thực hiện luận văn này.
2.2. Tình hình nghiên cứu về người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư
Nguyễn Ngọc Tƣ là một trong những cây bút trẻ giàu tài năng đã và đang
khẳng định vị trí của mình trong đời sống văn học đƣơng đại. Tác phẩm của
chị trong đó có truyện ngắn luôn gây đƣợc sự chú ý đối với bạn đọc nói chung
cũng nhƣ giới nghiên cứu phê bình văn học nói riêng bởi phong cách ngôn
ngữ đậm chất Nam Bộ của chị.
Về tình hình nghiên cứu ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tƣ ta thấy có một số điểm đáng lƣu ý:
Trƣớc hết, phần lớn các ý kiến chƣa đi vào xem xét nhân vật ngƣời kể
chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ một cách riêng biệt và toàn diện
mà mới chỉ ra một số bình diện liên quan đến nhân vật ngƣời kể chuyện. Nhà
văn Nguyễn Quang Sáng – Tổng thƣ kí hội nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh,
trƣởng ban chung khảo cuộc thi sáng tác văn học tuổi 20 lần thứ II năm 2000
nhận thấy một trong những yếu tố làm nên sức hấp dẫn của truyện ngắn Ngọn
đèn không tắt chính là ngôn ngữ kể chuyện: “Tập truyện ngắn Ngọn đèn
không tắt của Nguyễn Ngọc Tƣ có truyện Ngọn đèn không tắt là truyện ngắn
nổi bật nhất. Với giọng văn mộc mạc bình dị, với ngôn ngữ đời thƣờng đã tạo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nên một không khí rất tự nhiên về màu sắc, hƣơng vị của mảnh đất cuối cùng
9
Tổ Quốc – mũi Cà Mau của những con ngƣời mà cha ông là ngƣời tứ xứ về
mũi đất của rừng, của sông nƣớc, của biển cả đã dày công khai phá, đã đứng
lên khởi nghĩa” [60, tr.1]. Với Dạ Ngân, khi đọc tác phẩm Nguyễn Ngọc Tƣ
bắt đầu từ tập truyện Ngọn đèn không tắt nhà văn cho rằng: “Chính cái
chuyện lấy tên tập lại không thấy thích bằng những chuyện về cảnh ngộ,
những thân phận, những mảnh đời thƣờng nhật, nó cho thấy tác giả có thể dài
hơi về kiểu nhân vật này, tất cả đƣợc diễn tả bằng thứ ngôn ngữ Nam bộ lấp
lánh và một giọng văn dung dị, đặc biệt ấm” [46]. Trong bài viết Bất tận với
Nguyễn Ngọc Tư, nhà phê bình Văn Công Hùng cho rằng: “…cái làm nên
Nguyễn Ngọc Tƣ còn là ngôn ngữ. Nguyễn Ngọc Tƣ đã thiết lập cho mình
một hệ thống ngôn ngữ đặc chất Nam Bộ nhƣng không dị mọ ăn theo mà tung
tẩy, thăng hoa trong từng ngữ cảnh cụ thể” [95]. Nhà văn Nguyễn Viện nhận
định: “Với Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tƣ đã chứng tỏ cô thực sự là
một nhà văn với tất cả tính chuyên nghiệp trong cách viết và ngôn ngữ sử
dụng” [65]. Nhà nghiên cứu Huỳnh Nhƣ Phƣơng chọn Cánh đồng bất tận là
tác phẩm hay nhất năm 2005 vì nó kết hợp đƣợc các phƣơng diện: “Một là, nó
vừa là chuyện con ngƣời. Hai, nó rất gần gũi với những vấn đề thời sự hiện
nay mà cũng không xa lạ với những vấn đề vĩnh cửu. Ba, nó vừa dữ dội, bạo
liệt vừa rất mềm mại đầy nữ tính. Thứ tƣ, ngôn ngữ của nó vừa thể hiện đƣợc
cái văn phong Nam Bộ đồng thời có sự trong sáng, phong phú của văn
chƣơng tiếng Việt” [65].
Ngoài các ý kiến chỉ ra một số bình diện liên quan đến nhân vật ngƣời kể
chuyện cũng đã có ý kiến trực tiếp bàn về ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tƣ. Đoàn Ánh Dƣơng khi nhận xét truyện Cánh đồng bất tận
cho rằng: “dựa và sự vận động của tâm lý nhân vật, hành trình khám phá tác
phẩm là sự bóc tách từ bình diện ngôn ngữ trần thuật đến bình diện những tri
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhận, ẩn ức đã lắng đọng thành các biểu tƣợng ám ảnh đời sống nội tâm nhân
10
vật. [12, tr.97]. Ở một đoạn khác Đoàn Ánh Dƣơng viết: “Để có một giọng
văn chân thật, một mặt nhƣ đã nói, tác giả rời chuyển ngôi kể từ ngƣời kể
chuyện sang nhân vật chính, cho nhân vật nói bằng ngôn ngữ cảm xúc, suy
tƣởng. Mặt khác, đẩy ngôn ngữ đối thoại, ngôn ngữ nhân vật khác lọc qua
lăng kính tâm lý của nhân vật chính, đƣa nó vào trƣờng cảm nhận của nhân
vật chính. Nhân vật tôi, vì vậy là ngƣời biết hết, hiểu hết, cảm hết, những gì
mình nói ra. Hơn thế, sự kể vừa nhƣ kết quả của những tác động bên ngoài
(những câu hỏi của Sƣơng), vừa nhƣ sự thúc bách nội cảm, tức nhu cầu muốn
phơi trải để đƣợc nhẹ lòng trƣớc không khí ngột ngạt bao bọc bởi cảm giác
một sự báo ứng đang dần tới, thứ ngôn ngữ tự nói với mình ấy là yếu tố cơ
bản tạo nên tính chân chất của văn phong Ngọc Tƣ” [12, tr.104]. Đến đây, tác
giả Đoàn Ánh Dƣơng đã chú ý việc “ai kể chuyện” để tạo nên sức hấp dẫn
của tác phẩm.
Từ sự phân tích trên có thể thấy, mặc dù truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ
đã đƣợc giới nghiên cứu phê bình trao đổi, nhận xét, đánh giá làm sáng tỏ trên
nhiều phƣơng diện nhƣng phƣơng diện ngƣời kể chuyện thì chƣa đƣợc khảo
sát một cách tỉ mỉ, hệ thống, chƣa thực sự trở thành đối tƣợng nghiên cứu độc
lập của một công trình nào. Phần lớn các nhà nghiên cứu chỉ mới bàn đến vấn
đề này một cách khái quát qua một ý kiến ngắn, một bài báo, một mục trong
chuyên luận. Tuy nhiên, những ý kiến này vẫn là những gợi ý, những định
hƣớng quý giá giúp chúng tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu một cách tƣơng đối
toàn diện, có hệ thống về vấn đề này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Trong khuôn khổ một luận văn cao học, chúng tôi không có điều kiện
khảo sát toàn bộ sáng tác trong sự nghiệp văn chƣơng của nhà văn Nguyễn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ngọc Tƣ mà chỉ giới hạn việc nghiên cứu ở thể loại truyện ngắn. Đối tƣợng
11
nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tƣ.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Để có thể đáp ứng yêu cầu đặt ra là nghiên cứu ngƣời kể chuyện trong
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ, luận văn tập trung chủ yếu khảo sát trên 6 tập
truyện ngắn: Ngọn đèn không tắt; Giao thừa; Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư;
Cánh đồng bất tận; Gió lẻ và 9 câu chuyện khác; Khói trời lộng lẫy.
4. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu nhân vật ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tƣ sẽ giúp chúng ta lí giải đƣợc phần nào tài năng nghệ thuật, lí giải đƣợc
một trong những yếu tố quan trọng hình thành nên phong cách nghệ thuật đặc
sắc của chị và đánh giá đƣợc khả năng tự sự mà Nguyễn Ngọc Tƣ đã đem đến
cho văn xuôi Việt Nam đƣơng đại.
5. Nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu
5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trƣớc hết, luận văn tìm hiểu những vấn đề lý thuyết chung về ngƣời kể
chuyện. Đó là những vấn đề: khái niệm ngƣời kể chuyện, vai trò của ngƣời kể
chuyện trong tác phẩm tự sự, các tiêu chí nhận diện ngƣời kể chuyện, mối
quan hệ giữa ngƣời kể chuyện với tác giả, với nhân vật…
Trên cơ sở những lý thuyết chung đó, luận văn đi sâu vào nghiên cứu
ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ – chỉ ra ngôi kể và một
số loại hình ngƣời kể chuyện, một số đặc điểm về ngôn ngữ, giọng điệu của
ngƣời kể chuyện.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nhiệm vụ trên, luận văn sử dụng kết hợp một số
phƣơng pháp nghiên cứu sau:
- Phƣơng pháp hệ thống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Phƣơng pháp loại hình
12
- Phƣơng pháp phân tích tác phẩm
- Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu
Các phƣơng pháp nghiên cứu này không tách rời nhau mà hài hòa với
nhau, bổ sung cho nhau. Trong đó chúng tôi đặc biệt quan tâm đến phƣơng
pháp hệ thống và phƣơng pháp loại hình. Đây là phƣơng pháp quán xuyến
toàn bộ tiến hành luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn xác định nội hàm khái niệm ngƣời kể chuyện một cách tƣơng
đối nhất quán và hệ thống để có thể sử dụng khái niệm này nhƣ một yếu tố cơ
bản trong việc xem xét cấu trúc của tác phẩm tự sự.
- Vận dụng khái niệm ngƣời kể chuyện để xem xét một trong những nét
đặc sắc của văn phong Nguyễn Ngọc Tƣ, đồng thời khẳng định những khả
năng tự sự mà nhà văn này đem đến cho văn xuôi Việt Nam đƣơng đại. Có
thể nói trong luận văn của chúng tôi vấn đề ngƣời kể chuyện trong truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ đã đƣợc khảo sát tỉ mỉ, hệ thống, thực sự trở thành đối
tƣợng nghiên cứu chuyên biệt, độc lập.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc cấu
trúc thành ba chƣơng:
Chương 1: Ngƣời kể chuyện – một phạm trù của tự sự học
Chương 2: Ngôi kể và một số loại hình ngƣời kể chuyện trong truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ
Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu kể chuyện trong truyện ngắn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nguyễn Ngọc Tƣ
13
NỘI DUNG
Chương 1
NGƯỜI KỂ CHUYỆN – MỘT PHẠM TRÙ CỦA TỰ SỰ HỌC
1.1. Người kể chuyện là một kiểu nhân vật đặc biệt
Ngƣời kể chuyện tồn tại ngay từ khi có văn học, điều đó có nghĩa là có
tác phẩm thì phải có ngƣời kể chuyện. Thuật ngữ ngƣời kể chuyện có từ năm
1490 (Latinh: narrator) nhƣng lý luận về nó phải đến thế kỷ XX mới phát
triển. Đây là vấn đề đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đề cập đến. Nhƣng
cho đến nay, khái niệm ngƣời kể chuyện vẫn chƣa đƣợc các nhà lý luận văn
học thống nhất hoàn toàn. Ở mặt nội hàm khái niệm cũng có những cách hiểu
khác nhau, có nhà nghiên cứu gọi là “ngƣời trần thuật”, ngƣời khác lại gọi là
“ngƣời kể chuyện”, có ngƣời cho rằng hai khái niệm này là khác nhau. Trong
luận văn này chúng tôi xem đây là những khái niệm đồng nghĩa.
Về mặt nội hàm khái niệm cũng có nhiều cách hiểu khác nhau. Theo các
tác giả trong từ điển Wikipedia thì “một câu chuyện hay phải có một ngƣời kể
chuyện xác định rõ và kiên định (…). Ngƣời kể chuyện là một thực thể đơn
nhất (single entity) và giới hạn. Ngƣời kể chuyện không thể truyền đạt bất cứ
điều gì mà anh ta không đối mặt với nó” [17]. Với W. Kayser, ngƣời trần thuật
là một khái niệm mang tính chất rất hình thức: “ngƣời trần thuật – đó là một
hình hài đƣợc sáng tạo ra, thuộc về toàn bộ chỉnh thể tác phẩm văn học. Ở
nghệ thuật kể, không bao giờ ngƣời trần thuật là vị tác giả đã hay chƣa nổi
danh, nhƣng là cái vai mà tác giả bịa ra và chấp nhận” [33, tr.245]. Còn đối
với Todorov thì ngƣời kể chuyện không chỉ là ngƣời kể mà còn là ngƣời định
giá: “ngƣời kể chuyện là một nhân tố chủ động trong việc kiến tạo thế giới hƣ
cấu. Chính ngƣời kể chuyện là hiện thân của những khuynh mang tính xét
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đoán và đánh giá” [24, tr.490]. Các nhà nghiên cứu trong nƣớc cũng đƣa ra
14
các cách hiểu không giống nhau về khái niệm ngƣời kể chuyện. Trong Từ
điển văn học (bộ mới), sau khi nêu định nghĩa ngắn gọn ngƣời kể chuyện là:
“thuật ngữ chỉ nhân vật đóng vai trò chủ thể của lời kể chuyện, là ngƣời đứng
ra kể trong tác phẩm văn học”, GS.TS Lê Ngọc Trà đƣa ra những hình thức
khác nhau của chủ thể này: vô nhân xƣng và ngƣời kể chuyện xƣng danh tôi,
chúng tôi. Theo các tác giả trong Từ điển thuật ngữ văn học thì ngƣời kể
chuyện là “hình tƣợng ƣớc lệ về ngƣời trần thuật trong tác phẩm văn học, chỉ
xuất hiện khi nào câu chuyện đƣợc kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác
phẩm” [28, tr.221]. Lê Phong Tuyết trong bài viết Người kể chuyện trong văn
xuôi sau khi nêu lên những vấn đề ngƣời kể chuyện ở Việt Nam, ngƣời kể
chuyện trong văn học phƣơng Tây đã đi đến định nghĩa: “Ngƣời kể chuyện
đƣợc định nghĩa một cách đơn giản và thống nhất: ngƣời kể chuyện là ngƣời
kể lại câu chuyện” [79, tr.126]. Không phải trong bất kì tác phẩm văn học nào
cũng có nhân vật ngƣời kể chuyện. Trong kịch, sự quan sát, đánh giá các nhân
vật và sự việc chủ yếu đƣợc lồng vào ngôn ngữ, thái độ và hoạt động của
nhân vật (trực tiếp thể hiện trên sân khấu). Bởi thế, không thấy sự xuất hiện
của ngƣời kể chuyện trong kịch. Trong thơ trữ tình, tâm tƣ tình cảm của nhà
thơ đƣợc bộc lộ trực tiếp dƣới hình thức tự bộc lộ chứ không phải dƣới hình
thức câu chuyện kể về ngƣời khác. Trong tác phẩm tự sự nhà văn trình bày,
tái hiện một cách sáng tạo thế giới hiện thực thông qua lời kể, lời miêu tả…
một loại ngƣời môi giới giữa các hiện tƣợng đƣợc miêu tả và ngƣời nghe (ngƣời
đọc), là ngƣời chứng kiến và cắt nghĩa sự việc xảy ra” [58, tr.88].
của một ngƣời trần thuật nào đó. Pospelop khắng định: “Ngƣời trần thuật là
Ngƣời kể chuyện là một nhân vật nhƣng là một kiểu nhân vật đặc biệt, nó
có những đặc điểm khác so với các nhân vật khác trong tác phẩm. Tz.Todorov
tuyên bố: “Ngƣời kể chuyện không nói nhƣ các nhân vật tham thoại khác mà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
kể chuyện. Nhƣ vậy, kết hợp đồng thời trong mình cả nhân vật và ngƣời kể,
15
nhân vật mà nhân danh nó cuốn sách đƣợc kể có một vị thế hoàn toàn đặc
biệt…” [64, tr.117]. Điều đó có nghĩa là ngƣời kể chuyện không chỉ là một
nhân vật tham gia trong tác phẩm mà còn đảm nhiệm chức năng tổ chức kết
cấu tác phẩm, tổ chức các nhân vật khác. L.I.Timofeev chỉ ra rằng: “Ngƣời kể
chuyện bắt tất cả các đặc điểm ngôn ngữ của nhân vật mà họ nhắc tới phải lệ
thuộc vào mình ngay cả khi ngƣời kể chuyện cho nhân vật một sự độc lập đầy
đủ về mặt ngôn ngữ” [73, tr.32]. Khi đọc xong một tác phẩm tự sự, ngoài
những nhân vật đƣợc miêu tả thì ngƣời đọc chúng ta vẫn cảm nhận thấy có
một nhân vật đặc biệt đang quan sát, ghi chép, phân tích về chúng, về mọi sự
việc, đó là ngƣời kể chuyện. Có thể nói, trong bất cứ truyện kể nào cũng
mang dấu ấn, cũng thể hiện cách nhìn, cách cảm, phƣơng thức tƣ duy, năng
lực trí tuệ của nhân vật đặc biệt này.
đầu đi vào xác lập những vấn đề chung về ngƣời kể chuyện thông qua sự phân
biệt nó với ngƣời kể chuyện trong đời sống thực tế, với nhân vật và với tác giả.
Kế thừa và tổng hợp những định nghĩa, cách hiểu trên, chúng tôi bƣớc
1.1.1. Người kể chuyện với tư cách là một sản phẩm hư cấu để kể chuyện
Trong cuộc sống hàng ngày, kể chuyện, giao tiếp, đối thoại là hoạt động
không thể thiếu của con ngƣời bởi chỉ có thông qua hoạt động kể chuyện con
ngƣời mới có thể hiểu đƣợc con ngƣời, sự vật và hiện tƣợng quanh mình. Nếu
nhƣ trong tình huống truyện kể ngoài đời khi đối diện ta có một ngƣời kể
chuyện bằng xƣơng, bằng thịt, có hình hài, giọng nói, điệu bộ, một ngƣời mà
ta có thể nhìn thấy và nghe họ nói thì đến ngƣời kể chuyện nghệ thuật tất cả
những yếu tố hữu hình này đều đƣợc chuyển vào trong văn bản thông qua hệ
thống thủ pháp nghệ thuật. Ngƣời kể chuyện trong tác phẩm văn học là sản
phẩm của sự sáng tạo nghệ thuật, một sản phẩm từ sự hƣ cấu của nhà văn.
Điểm khác biệt giữa ngƣời kể chuyện thực tế với ngƣời kể chuyện trong tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phẩm nghệ thuật là ngƣời kể chuyện thực tế có thể điều chỉnh câu chuyện kể
16
theo phản ứng của ngƣời nghe còn ngƣời kể chuyện trong văn bản thì không
thể có quyền đó bởi câu chuyện họ kể đã đƣợc cố định trong văn bản bằng
câu chữ, không thể sửa chữa hay thêm bớt… Do đó, khác với ngƣời nghe –
đối tƣợng của ngƣời kể chuyện thực tế thì ngƣời đọc – đối tƣợng của ngƣời kể
chuyện trong văn bản nghệ thuật sẽ có điều kiện phát huy tối đa khả năng
tƣởng tƣợng, liên tƣởng của mình để đồng sáng tạo với ngƣời kể chuyện. Mỗi
ngƣời đọc với kinh nghiệm sống, với kiến thức, vốn văn hóa, vốn sống…
riêng có thể cảm nhận, tiếp thu, hình dung ra câu chuyện theo cách riêng của
mình. Ngƣời kể chuyện sẽ giúp ngƣời đọc hiểu rõ hơn, đi sâu tìm hiểu thế
giới nội tâm của nhân vật, hiểu sâu hơn những ý nghĩ thầm kín, những động
cơ trong từng hoạt động của nhân vật, từ đó hiểu sâu sắc nội dung tƣ tƣởng
nghệ thuật mà tác giả gửi gắm vào trong tác phẩm của mình.
Có thể nói trong tác phẩm tự sự, ngƣời kể chuyện đóng vai trò quyết
định. Là ngƣời sắp đặt, môi giới, gợi mở giữa câu chuyện trong tác phẩm với
ngƣời đọc, ngƣời kể chuyện phải chọn cho mình một chỗ đứng thích hợp. Từ
chỗ đứng, ngƣời kể chuyện có điểm nhìn, cách kể đối với câu chuyện sao cho
hữu ích theo ý đồ sáng tạo của tác giả. Điều đó không chỉ đem lại vai trò mà
còn làm nên một gƣơng mặt cụ thể của ngƣời kể chuyện.
1.1.2. Người kể chuyện thống nhất nhưng không đồng nhất với tác giả
Ngƣời kể chuyện thống nhất với tác giả trƣớc hết là bởi ngƣời kể chuyện
là ngƣời thể hiện cho tiếng nói, quan điểm của tác giả về con ngƣời và cuộc
sống. Một số nhà tự sự học cho rằng ngƣời kể chuyện chỉ là một yếu tố hình
thức thuần túy, dƣờng nhƣ tách rời khỏi mối quan hệ với tác giả thực tế nhƣ
chủ thể sáng tạo. W.Kayser viết về ngƣời kể chuyện nhƣ một vai trò ƣớc định:
“Trong nghệ thuật kể, ngƣời kể chuyện không bao giờ là tác giả đã hay chƣa
từng đƣợc biết đến, mà là một vai trò đƣợc tác giả nghĩ ra và ƣớc định” [63,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tr.117]. Còn R.Barthers và Tz.Todorov khẳng định: “Ngƣời kể chuyện và
17
những nhân vật của anh ta bản chất là những thực thể trên mặt giấy; tác giả
(thực tế) của văn bản không có điểm gì chung với ngƣời kể chuyện” ; “Ngƣời
kể chuyện không thể đƣợc gọi tên; nếu anh ta có tên, thì sau cái tên đó không
có ai cả” [63, tr.117-118]. Tuy nhiên, những quan điểm này không tránh khỏi
sự cực đoan. Không ai có thể phủ nhận mối quan hệ mật thiết giữa ngƣời kể
chuyện và tác giả bởi: “ta đoán định âm sắc tác giả qua đối tƣợng của câu
chuyện kể cũng nhƣ qua chính câu chuyện và hình tƣợng ngƣời kể chuyện
(…) ngƣời kể chuyện là một trong những hình thức thể hiện quan niệm tác giả
trong tác phẩm” [79]. Đọc tập Giamilia – Truyện núi đồi và thảo nguyên, qua
thái độ của ngƣời kể chuyện ta cảm nhận đƣợc: tấm lòng đồng cảm sâu sắc
của nhà văn với việc ngƣời chị dám bƣớc qua những tập tục “quái gở” để đi
tìm hạnh phúc đích thực, chân chính của mình; là thái độ phê phán quyết liệt
của Aimatốp đối với những hủ tục lạc hậu của lối sống gia trƣởng, lên án tƣ
tƣởng coi thƣờng phụ nữ, coi “hạnh phúc của ngƣời phụ nữ chỉ là sinh con đẻ
cái”. Đọc Anh béo và anh gầy, Con kì nhông… của Sêkhốp, qua nhân vật
ngƣời kể chuyện ta cảm nhận đƣợc sự xót xa của nhà văn trƣớc bản tính nô lệ,
xum xoe, qụy lụy của con ngƣời. Nhƣ vậy, có thể nói ngƣời kể chuyện là một
trong những hình thức thể hiện quan điểm của tác giả trong tác phẩm. Quan
điểm của tác giả chỉ có thể đƣợc thể hiện qua “điểm nhìn”, “tầm nhận thức”
của ngƣời kể chuyện nhƣ một hình tƣợng ít nhiều tồn tại độc lập.
Trong những tác phẩm tự truyện thì sự thống nhất giữa ngƣời kể chuyện
và tác giả lại càng bộc lộ rõ. Tự truyện là thể loại văn học đặc biệt mà ở đó tác
giả tự viết về mình, tác giả lấy chính cuộc đời mình làm cơ sở cho sáng tạo
nghệ thuật. Vì thế, qua cái Tôi của ngƣời kể chuyện trong tác phẩm tự truyện
ngƣời đọc có thể thấy đƣợc khá rõ cái Tôi của tác giả ngoài đời. Đọc bộ ba tự
truyện Thời thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi của Gorki, qua
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
những lời kể mộc mạc của nhân vật Tôi, ngƣời đọc phần nào thấy đƣợc thời
18
thơ ấu bất hạnh, cuộc đời cơ cực, gian khổ và những nỗ lực vƣơn lên không
ngừng của tác giả Gorki. Đọc Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng ta thấy
bao nỗi đớn đau, tủi nhục; bao khao khát, ƣớc mơ mà nhân vật Tôi trải qua
cũng chính là những tâm trạng mà Nguyên Hồng đã từng trải qua trong quá
khứ gắn với những kỉ niệm sâu sắc về thời thơ ấu của nhà văn. GS Phong Lê
đã bày tỏ niềm xúc động sâu sắc khi đọc tác phẩm này: “Tôi cứ ngẩn ngơ hoài
đến thế. Một sự thành thực đến tận cùng chi tiết khiến ngƣời ta đọc đến mà sững
sờ, mà nổi gai lên trong tâm trí, mà run rẩy đến từng xúc cảm” [39, tr.131].
trƣớc một tuổi thơ sao mà cay cực đến thế, mà sao nhà văn có thể thành thực
Nhƣ vậy giữa ngƣời kể chuyện và tác giả có nét tƣơng đồng, thống nhất
nhƣng ngƣời kể chuyện và tác giả không phải là một bởi:
Thứ nhất, quan điểm của tác giả bao giờ cũng rộng hơn quan điểm của
ngƣời kể chuyện. Quan điểm, tƣ tƣởng của tác giả đƣợc thể hiện trong toàn bộ
tác phẩm nhƣ một chỉnh thể nghệ thuật, nó không thể đƣợc thể hiện một cách
một cách đầy đủ qua bất kì một chủ thể lời nói riêng biệt nào trong tác phẩm
dù chủ thể lời nói đó có gần gũi tác giả đến đâu. Nếu chúng ta chỉ dựa vào
ngƣời kể chuyện để đánh giá, phán xét tác giả thì sẽ là phiến diện, cực đoan.
Chẳng hạn để có thể hiểu đƣợc tƣ tƣởng của đại văn hào Leptônxtôi trong
Chiến tranh và hòa bình ta không chỉ dựa vào tƣ tƣởng ngƣời kể chuyện hàm
ẩn mà còn cần phải tổng hợp tƣ tƣởng của các nhân vật khác nhƣ: Pie,
Anđrây, Natasa… So với tƣ tƣởng của ngƣời kể chuyện, tƣ tƣởng của tác giả
thƣờng là khái quát hơn. Trong Nhật kí người điên của Lỗ Tấn, nhận thức của
nhân vật ngƣời kể chuyện xƣng Tôi – ngƣời điên chỉ là những nhận thức cụ
thể, cảm tính, trực tiếp còn nhận thức của tác giả là nhận thức mang tính khái
quát, tổng hợp. Những kẻ ăn thịt ngƣời mà ngƣời kể chuyện xƣng Tôi nói đến
là những con ngƣời cụ thể: ông Cố Cửu, ông Triệu, lão thầy thuốc… còn hàm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ý của tác giả thì lại là ám chỉ lễ giáo và chế độ phong kiến.
19
Thứ hai, ngƣời kể chuyện không đồng nhất với tác giả bởi ngoài phần
thái độ chủ quan đƣợc thừa hƣởng của tác giả, ngƣời kể chuyện mang trong
mình cả một phần nội dung khách quan của thế giới đƣợc phản ánh vào tác
phẩm; phần nội dung khách quan đó thƣờng thể hiện một loại hình thái độ
phản ứng với thực tại điển hình cho thời đại của nhà văn đƣợc nhà văn tái
hiện lại và miêu tả trong tác phẩm của mình. Chẳng hạn nhƣ qua nhân vật
ngƣời kể chuyện trong các tác phẩm Sống mòn, Trăng sáng, Cái mặt không
chơi được… ta vừa thấy hình ảnh nhà văn Nam Cao, vừa thấy hình ảnh những
ngƣời trí thức nghèo trong xã hội cũ. Nhà văn Nga M.Prisvin từng rút ra kinh
nghiệm qua thực tế sáng tác: “Vào khoảnh khắc khi tôi đặt bút lên giấy – đó
đã là “cái tôi”… thực thà mà nói, đó là “cái tôi – đƣợc sáng tạo nên”, đó là
“chúng ta”… bây giờ tôi hiểu rõ ràng sự biến hóa của “cái tôi” thành “chúng
ta” thể hiện bản chất của cả quá trình sáng tác” [63, tr.120].
Ngay cả trong những tác phẩm có tính tự truyện thì giữa ngƣời kể
chuyện và tác giả vẫn có những nét khác nhau. Tác giả của truyện kể là ngƣời
thật, con ngƣời của thế giới thực: ông có một cái tên hoặc một bút danh, một
tiểu sử. Ông có trách nhiệm về tác phẩm mà mình tạo ra, còn ngƣời kể chuyện
thì ngƣợc với tác giả, anh ta không phải là một ngƣời thực, anh ta chỉ là một
ngƣời thực hiện chức năng kể chuyện. Vì thế, mặc dù tác phẩm tự truyện
thƣờng lấy chính cuộc đời tác giả làm chất liệu sáng tác nhƣng thế giới tồn tại
của ngƣời kể chuyện hoàn toàn khác với thế giới tồn tại của nhân vật đƣợc kể
lại: khác nhau về không gian, thời gian, về cảm xúc, tƣ tƣởng. Ngƣời kể
chuyện chỉ có thể ý thức và tái hiện lại thế giới kia chứ không thể thâm nhập,
can thiệp vào thế giới kia. Những suy nghĩ, tâm trạng, hành động mà ngƣời kể
chuyện kể lại trong tác phẩm tự truyện có thể là của nhà văn nhƣng đó là
những tâm trạng, hành động đã xảy ra với nhà văn trong quá khứ chứ không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phải là của thời khắc hiện tại.
20
Qua sự phân tích ở trên ta thấy ngƣời kể chuyện là một kiểu nhân vật đặc
kể chuyện, với vai trò tổ chức tác phẩm, liên kết, móc nối các nhân vật, sự kiện,
hành động trong tác phẩm. Giữa nhân vật ngƣời kể chuyện và tác giả có nhiều
điểm tƣơng đồng nhƣng không đƣợc đồng nhất ngƣời kể chuyện với tác giả.
biệt trong tác phẩm tự sự. Đó là một hình tƣợng đƣợc nhà văn hƣ cấu nên để
1.2. Các tiêu chí nhận diện người kể chuyện
1.2.1. Điểm nhìn kể chuyện
Theo lí thuyết về điểm nhìn thì một truyện phải đƣợc kể theo một thức
(mode), một điểm nhìn (point of view) nào đó. Flubbock là một trong những
ngƣời đầu tiên chỉ ra mối liên hệ giữa ngƣời kể chuyện với điểm nhìn. “Tôi
cho rằng toàn bộ vấn đề rắc rối về phƣơng pháp nghệ thuật sáng tác phụ thuộc
vào vấn đề điểm nhìn – vấn đề thái độ của ngƣời kể chuyện đối với việc trần
thuật” [63, tr.117]. Đã có rất nhiều quan niệm khác nhau của các nhà nghiên
cứu trong và ngoài nƣớc về vấn đề điểm nhìn. M.Bakhtin khi bàn về tiểu
thuyết Đôxtôiepxki đã xem điểm nhìn nhƣ là “cái lập trƣờng mà xuất phát từ
đó câu chuyện đƣợc kể, hình tƣợng đƣợc miêu tả hay sự việc đƣợc thông báo”
[4, tr.86]. Cùng quan điểm này, Ju.Lotman cho rằng “điểm nhìn là khuynh
hƣớng đánh giá” [40, tr.212]. M.B.Khrapchenco lại chú ý đến tính cá nhân
của chủ thể điểm nhìn: “Sự thật của cuộc sống trong các tác phẩm nghệ thuật
không tồn tại bên ngoài cách nhìn nghệ thuật có tính cách cá nhân đối với thế
giới, vốn có ở từng nghệ sĩ thực thụ” [36]. V.E.Khalizep cũng cho rằng:
“điểm nhìn là của ngƣời trần thuật với những gì mà anh ta miêu tả” [58,
tr.289]. Trong khái niệm này đã bao hàm chủ thể của điểm nhìn (ngƣời trần
thuật) và đối tƣợng đƣợc nhìn (những gì mà anh ta miêu tả). Tiến một bƣớc
xa hơn, trong công trình Tiểu thuyết pháp hiện đại tìm tòi đổi mới, tác giả
Phùng Văn Tửu quan niệm điểm nhìn là: “Kĩ thuật chọn chỗ đứng để nhìn và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
kể” [89, tr.182]. Cũng từ góc độ thi pháp học, khái niệm điểm nhìn đƣợc tác
21
giả Trần Đình Sử xem xét ở nhiều khía cạnh hơn: “Điểm nhìn văn bản là
phƣơng thức phát ngôn trình bày, miêu tả phù hợp với cách nhìn, cách cảm
thụ thế giới của tác giả. Khái niệm điểm nhìn mang tính ẩn dụ, bao gồm mọi
nhận thức, đánh giá, cảm thụ của chủ thể đối với thế giới. Nó là cái vị trí dùng
để quan sát, cảm nhận, đánh giá bao gồm cả khoảng cách chủ thể và khách
thể, cả phƣơng diện vật lý, tâm lý, văn hóa” [61, tr.149]. Khái niệm điểm nhìn
của Trần Đình Sử bao hàm cả điểm nhìn quan sát (vị trí và khoảng cách để
quan sát, cảm nhận, đánh giá) và điểm nhìn kể chuyện (phƣơng thức phát
ngôn, trình bày, miêu tả…). Đồng thời việc chỉ ra tính chất ẩn dụ của điểm
nhìn sẽ là những gợi ý tốt cho việc xác định điểm nhìn. Nguyễn Thái Hòa
quan niệm: “Điểm nhìn nghệ thuật, là điểm xuất phát của một cấu trúc nghệ
thuật, hơn thế nữa là một cấu trúc tiềm ẩn đƣợc ngƣời đọc tiếp nhận bằng thao
tác suy ý từ các mối quan hệ phức hợp giữa ngƣời kể và văn bản, giữa văn
bản và ngƣời đọc văn bản, giữa ngƣời kể và ngƣời đọc hàm ẩn” [63, tr.96].
Các ý kiến tuy có những nét khác nhau nhƣng hầu hết đều thống nhất ở chỗ
xem điểm nhìn của ngƣời kể chuyện là phƣơng thức phát ngôn, trình bày,
miêu tả phù hợp với cách nhìn, cách cảm thụ thế giới của anh ta. Nói tới điểm
nhìn của ngƣời kể chuyện trong tác phẩm tự sự, ta thƣờng nói tới ba kiểu
điểm nhìn chính có thể thay luân phiên nhau trong cùng một trần thuật và tạo
nên cấu trúc tổng thể của truyện kể:
- Thứ nhất là điểm nhìn bên ngoài. Với điểm nhìn này, ngƣời kể chuyện
hoàn toàn xa lạ với thế giới mà anh ta kể lại, ngƣời kể chuyện là ngƣời ngoài
cuộc và chỉ có thể kể về những hoạt động, lời nói thể hiện ra bên ngoài của
nhân vật mà không có sự am hiểu về đời sống nội tâm bên trong của nhân vật.
Cách trần thuật này cho ngƣời đọc ấn tƣợng mạnh mẽ về tính khách quan,
thậm chí là ấn tƣợng về sự lạnh lùng; ngƣời kể chuyện để cho ngƣời đọc tự do
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bình luận về những hành động, suy nghĩ, tâm trạng của các nhân vật. Trong
22
truyện Rặng đồi tựa đàn voi trắng của Hemingway, ngƣời kể chuyện chỉ là
một ngƣời quan sát và ghi lại cuộc đối thoại giữa hai nhân vật là ngƣời đàn
ông Mỹ và cô gái chứ không có một lời giải thích bình luận nào. Hay trong
Mười một người con trai của Kafka, sự tham gia của ngƣời kể chuyện vào
truyện là cực nhỏ. Một số lời bình luận, đánh giá hiếm hoi của ngƣời kể
chuyện không đủ để ta hiểu gì về những suy nghĩ, thái độ của anh ta: “Thực ra
tôi hạnh phúc vì có đƣợc đứa con nhƣ thế; “Mặc dù tự hào về mƣời một ngƣời
con nhƣ vậy, nhƣng tôi vẫn muốn giữ kín nó”… Chính vì điểm nhìn bên
ngoài này mà khi đọc truyện của Kafka ngƣời đọc thƣờng có cảm giác ngƣời
kể chuyện dƣờng nhƣ vắng bóng.
- Thứ hai là điểm nhìn bên trong: Khi ngƣời kể chuyện là một trong số
những nhân vật của hành động trong truyện. Từ một điểm nhìn chủ quan,
ngƣời kể chuyện biểu lộ những gì mà anh ta nhìn thấy, cảm thấy. Với điểm
nhìn này, ngƣời kể chuyện có khả năng thâm nhập sâu vào đời sống bên trong
của nhân vật, có thể biết đƣợc nhân vật đang nghĩ gì, và sự hiểu biết của
ngƣời kể chuyện hoàn toàn ngang bằng với sự hiểu biết của nhân vật. Ngƣời
kể chuyện theo điểm nhìn bên trong thƣờng có hai dạng biểu hiện cơ bản:
Dạng biểu hiện thứ nhất là ngƣời kể chuyện xƣng Tôi, tự bộc bạch về
câu chuyện của mình, về những suy nghĩ, cảm xúc mà mình đã nếm trải. Toàn
bộ tác phẩm Người tình của M.Duras là những hồi ức của nhân vật Tôi về
ngƣời tình của mình – một chàng trai Trung Hoa. Có thể nói, chỉ dƣới hình
thức ngƣời kể chuyện xƣng tôi, tự phô diễn phần sâu thẳm của tâm hồn,
Người tình mới có thể nói đƣợc lời nói tối hậu về con ngƣời, mới có thể
“khám phá con ngƣời trong con ngƣời”. Chính bằng việc sử dụng điểm nhìn
bên trong của nhân vật Tôi để kể chuyện, nhà văn đã tạo nên ở ngƣời đọc ảo
tƣởng về tính chân thật của câu chuyện vì họ cứ nghĩ rằng đây là lời thú nhận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
của chính ngƣời trong cuộc.
23
Ngƣời kể chuyện đứng ở ngôi thứ ba từ bên ngoài nhƣng lại tựa vào
điểm nhìn nhân vật để kể là một dạng biểu hiện nữa của ngƣời kể chuyện theo
điểm nhìn bên trong. Trong tác phẩm Chân dung một nghệ sĩ thời trẻ, James
Joyce đã sử dụng hình thức kể chuyện này. Ngƣời kể chuyện đã nhập vào vai
nhân vật Stephen, nhập vào cảm xúc, suy nghĩ, hồi tƣởng của nhân vật, nhìn
nhận thế giới theo những cảm nhận của nhân vật và thuật lại bằng chính giọng
điệu của nó.
Thứ ba là điểm nhìn toàn tri. Với điểm nhìn này, ngƣời kể chuyện vừa
hiểu biết về các sự vật khách quan trong tổng thể của chúng vừa hiểu biết sâu
sắc về tâm hồn của các nhân vật. Đó là ngƣời kể chuyện thông tuệ, am hiểu
hoàn toàn và sâu sắc về thế giới mình kể. Ngƣời kể chuyện giống nhƣ một vị
thần, một vị “Chúa trời” có khả năng thấy đƣợc mọi hành vi, suy nghĩ, tâm
trạng, cảm giác của nhân vật; hiểu hết những bƣớc đƣờng, những đoạn rẽ
ngoặt của họ. Ngƣời kể chuyện trong văn học trung đại thƣờng kể theo hình
thức này. Với tầm nhìn “vƣợt lên trên”, ngƣời kể chuyện kể lại mọi sự việc
với thái độ khách quan, trung tính: “Ngô Tử Văn tên là Soạn, ngƣời huyện
Yên Dũng, đất Lạng Giang. Chàng vốn khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian
thì không thể chịu đƣợc, vùng Bắc ngƣời ta vẫn khen là một ngƣời cƣơng
trực. Trong làng trƣớc có một ngôi đền linh ứng lắm. Cuối đời nhà Hồ, quân
Ngô sang lấn cƣớp, vùng ấy thành một nơi chiến trƣờng” (Chuyện chức phán
sự đền Tản Viên – Nguyễn Dữ). Hình thức ngƣời kể chuyện này đến các nhà
văn hiện đại lại đƣợc tiếp tục đƣợc sử dụng để kể chuyện. Lép Tônxtôi khi
mới đặt bút viết Cái chết của Ivan Ilich, nhà văn có ý định sử dụng cách kể
theo điểm nhìn của một viên chức trong tay anh ta có cuốn nhật kí của Ivan
Ilich. Nhƣng sau đó ông đã quyết định kể lại câu chuyện theo điểm nhìn biết
điểm nhìn biết hết của ngôi thứ ba, nếu không sẽ bị lúng túng” [36, tr.168].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hết của ngôi thứ ba. Trong thƣ gửi con gái, ông nhấn mạnh: “Cần phải viết từ
24
Việc phân biệt ba kiểu điểm nhìn trên đây chỉ mang ý nghĩa tƣơng đối.
Thông thƣờng trong các tác phẩm, tác giả thƣờng phối hợp các điểm nhìn với
nhau. Vấn đề là ở chỗ tác phẩm này thì điểm nhìn bên trong đóng vai trò chủ
đạo, còn ở tác phẩm kia thì lại là điểm nhìn bên ngoài hoặc là điểm nhìn toàn tri.
1.2.2. Ngôn ngữ kể chuyện
Một nhà văn đích thực luôn ý thức về mình nhƣ một nhà ngôn ngữ vì
ngôn ngữ là “yếu tố đầu tiên quy định cung cách ứng xử”, là phƣơng tiện bắt
buộc để nhà văn giao tiếp với bạn đọc. Việc xây dựng ngôn ngữ ngƣời kể
chuyện trong truyện là dụng ý nghệ thuật của tác giả. Ngôn ngữ là công cụ
của tƣ duy. Vì thế, ngôn ngữ kể chuyện là một trong những yếu tố quan trọng
để nhận diện hình tƣợng ngƣời kể chuyện. Theo các tác giả trong Từ điển văn
học thì “ngôn ngữ ngƣời kể chuyện là ngôn ngữ của tác giả hoặc của nhân vật
đƣợc tác giả dùng để kể lại câu chuyện trong tác phẩm tự sự”. [55, tr.124].
Tác giả Trần Đình Sử đã phân biệt rất rõ giữa ngôn ngữ ngƣời kể chuyện – lời
gián tiếp với ngôn ngữ các nhân vật khác – lời trực tiếp: “Lời gián tiếp là lời
văn đảm đƣơng chức năng trần thuật, giới thiệu miêu tả, bình luận của con
ngƣời và sự kiện, phân biệt với lời trực tiếp đƣợc đặt trong ngoặc kép hoặc
sau gạch đầu dòng” [62, tr.178]. Nói nhƣ Đỗ Bình Trị thì ngôn ngữ kể chuyện
là “những chỉ dẫn về hoàn cảnh và diễn hóa hoàn cảnh” [78]. Từ các ý kiến
trên ta có thể hiểu: Ngôn ngữ kể chuyện là phƣơng tiện cơ bản dùng để kể
chuyện, giới thiệu, miêu tả, trần thuật, bình giá sự việc, con ngƣời trong tác
phẩm tự sự. Ngôn ngữ kể chuyện so với ngôn ngữ của nhân vật mang tính
khách quan hơn, làm nền cho sự xuất hiện của câu chuyện, của lời nhân vật.
Ngôn ngữ kể chuyện có vai trò rất quan trọng trong cấu trúc kĩ thuật
của truyện:
- Ngôn ngữ kể chuyện trƣớc hết tạo ra hình tƣợng ngƣời kể chuyện trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
truyện do có đặc điểm cá tính hóa không hòa lẫn với đặc điểm nhân vật.
25
- Ngôn ngữ kể chuyện thể hiện điểm nhìn của ngƣời kể chuyện mà ngƣời
kể chuyện dựa vào đó để kể chuyện.
- Ngôn ngữ kể chuyện là mối dây liên kết các yếu tố tổ chức tác phẩm để
nêu bật tính cách nhân vật, làm nổi bật tƣ tƣởng và chủ đề tác phẩm.
Chính vì những đặc điểm này, ngôn ngữ ngƣời kể chuyện trong tác phẩm
tự sự có vai trò then chốt trong việc định hƣớng sự đánh giá của độc giả về
các hình tƣợng đƣợc xây dựng trong tác phẩm. Gorki khẳng định: “Trong tiểu
thuyết, trong truyện, những con ngƣời đƣợc tác giả thể hiện đều hành động
với sự giúp đỡ của tác giả, tác giả luôn luôn ở bên cạnh họ, tác giả mách cho
ngƣời đọc hiểu những ý nghĩ thầm kín, những động cơ bí ẩn ở phía sau những
hành động của các nhân vật đƣợc miêu tả…” [27].
Nhƣ vậy, ngôn ngữ kể chuyện luôn gắn bó mật thiết với hình tƣợng
ngƣời kể chuyện, với tƣ tƣởng tác giả và với ngƣời đọc tích cực. Nó có vai trò
then chốt trong phƣơng thức tự sự, là yếu tố cơ bản để thể hiện phong cách
nhà văn, truyền đạt cái nhìn, giọng điệu, cá tính của tác giả.
Nói đến ngôn ngữ kể chuyện ta thƣờng nói đến ba thành phần cơ bản: lời
kể, lời miêu tả, lời phân tích - bình luận.
Thành phần thứ nhất là lời kể. Trong lời kể, ngƣời kể chuyện thƣờng
không hề để lộ một cảm xúc nào. Trong tác phẩm của Kafka ta thấy lời kể
mang tính trung hòa, vô âm sắc. Đó có thể là lời kể về một sự biến hóa dị
thƣờng: “Một sáng tỉnh giấc băn khoăn, Gregor Samsa nằm trên giƣờng thấy
mình biến thành một con côn trùng khổng lồ” (Hóa thân). Đó cũng có thể là
lời kể về một vết thƣơng khủng khiếp: “Máu đỏ tƣơi luôn luôn thay đổi hình
dạng đen ngòm ở dƣới đáy, sáng hơn khi ở quanh miệng những hạt máu đỏ
mịn…” (Một thầy thuốc nông thôn). Đọc truyện ngắn của Phan Thị Vàng
Anh, ngƣời đọc bắt gặp một lối sử dụng ngôn ngữ kể chuyện rất giản dị, thân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mật, suồng sã của đời thƣờng. Tính chất đời thƣờng giản dị của lời kể thể hiện
26
ở việc ngƣời kể chuyện đã đƣa vào nhiều ngôn ngữ nƣớc ngoài nhƣ tiếng
Anh, tiếng Pháp: “Anh ấy không dám dùng từ Café” (Hội chợ). “Tôi đặt lên
ngƣời đọc có thể hình dung đƣợc gƣơng mặt ngƣời kể chuyện – một con ngƣời
trẻ trung, gần gũi với đời sống đƣơng thời đặc biệt là đời sống của lớp trẻ.
bàn, giữa sách vở, cassette” (Khi người ta trẻ). Qua ngôn ngữ kể chuyện này,
Thành phần thứ hai của ngôn ngữ kể chuyện là lời miêu tả. Đó có thể là
lời miêu tả thiên nhiên. Đọc Chiến tranh và hòa bình (Lép Tônxtôi), qua
những lời miêu tả của ngƣời kể chuyện ta thấy thiên nhiên hiện lên nhƣ một
nhân vật sống. Đó là bầu trời Auxtéclít mênh mông của Anđrây; bầu trời
Otơrátnôiê ngập tràn ánh trăng của Natasa; bầu trời có ngôi sao chổi rực rỡ
của Pie; bầu trời trong trẻo huyền ảo và ngập tràn tiếng nhạc của Pêchia…
Bầu trời đã trở thành biểu tƣợng cho sự cao cả, vĩnh hằng mà các nhân vật
khao khát vƣơn tới. Bên cạnh lời miêu tả thiên nhiên là lời miêu tả về nhân
vật. Cũng trong Chiến tranh và hòa bình, ngƣời kể chuyện khi miêu tả nhân
vật thƣờng nhấn mạnh, lặp đi lặp lại một chi tiết để làm nổi bật cá tính của họ:
“nụ cƣời lịch thiệp một cách giả tạo” của Napôlêông, cái nhìn uể oải và chán
nản” của Anđrây ở phong khách nhà Sêre, “đôi mắt to và sáng” của Maria,
“hàng lông tơ trên môi hơi ngắn” của Lida…
Thành phần thứ ba là lời phân tích, bình luận của ngƣời kể chuyện. Với
bộ phận ngôn ngữ này, ngƣời kể chuyện có thể bộc lộ trực tiếp những suy
nghĩ, tƣ tƣởng, tình cảm, quan niệm của mình về cuộc sống và nhân vật. Đọc
Những linh hồn chết của Gôgôn ta thấy những lời phân tích, bình luận của
ngƣời kể chuyện xuất hiện với tần số khá cao. Ngƣời kể chuyện trực tiếp bày
tỏ quan niệm, sự đánh giá của mình về nhiều vấn đề: từ thói quỵ lụy cấp bậc
đến cách đặt biệt hiệu, từ số phận của nông nô Nga đến hình ảnh tƣơi mát của
chiếc vƣờn hoang, từ tiếng hát dân gian đầy sức quyến rũ cho đến hình ảnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chiếc xe tam mã tƣợng trƣng cho nƣớc Nga. Qua những lời trữ tình ngoại đề
27
ta cảm nhận đƣợc khá sâu sắc sự cảm thông đối với nhân dân Nga, sự mỉa mai
lên án những cái xấu xa của chế độ nông nô và niềm tin, niềm hi vọng vào
một tƣơng lai tƣơi sáng của ngƣời kể chuyện.
1.2.3. Giọng điệu kể chuyện
Nghệ thuật là lĩnh vực của sự độc đáo, vì vậy khi sáng tác mỗi nhà văn
đều trăn trở để tìm ra giọng điệu nghệ thuật riêng cho tác phẩm của mình.
Thông qua giọng điệu nhà văn bày tỏ cách nhìn nhận, thái độ, tình cảm đối
với con ngƣời và cuộc sống. M.B.Khrapchenko khẳng định cái quan trọng
trong tài năng văn học là “cái giọng điệu riêng biệt của chính mình không thể
tìm thấy trong cổ họng của bất kì một ngƣời nào khác” [36, tr.190]. Điều này
cũng có nghĩa là giọng điệu mang tính cá nhân cao độ, là yếu tố tạo nên
phong cách riêng của từng nhà văn, làm nên sự khác biệt giữa nhà văn này
với nhà văn khác. Đặc biệt giọng điệu còn là một trong những yếu tố chủ đạo
hấp dẫn của từng tác phẩm.
cấu thành hình thức nghệ thuật của tác phẩm, góp phần không nhỏ làm nên sức
Về khái niệm giọng điệu đôi khi trong quá trình nghiên cứu một số nhà
khoa học vẫn có sự “ngộ nhận”. Đặng Anh Đào trong bài viết Bàn về một vài
thuật ngữ thông dụng trong kể chuyện chỉ ra rằng: “Về điểm này, cũng vẫn
còn đôi cuốn lí luận có sự ngộ nhận. Ví dụ: sau khi đồng nhất giọng điệu với
điểm nhìn, từ điển thuật ngữ của Merriam Webster lại đồng nhất chúng với
giọng điệu (…). Điểm nhìn ở ngôi thứ ba là giọng điệu của câu chuyện đƣợc
trình bày khi ngƣời kể chuyện không phải là một nhân vật trong câu chuyện.
Thuật ngữ này ngày nay ám chỉ một trong hai giọng điệu kể chuyện” [17,
tr.30]. Tác giả bài viết chỉ dẫn thêm: “W.Booth lại cho rằng nên thay khái
niệm giọng điệu bằng tác giả hàm ẩn, bởi lẽ trƣớc tác phẩm ngƣời đọc không
chỉ cảm thấy vang lên tiếng nói mà cả sự hiện diện của toàn bộ một con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngƣời” [17, tr.31]. Nhƣ vậy, Đặng Anh Đào đã nêu lên sự ngộ nhận của một
28
số nhà nghiên cứu khi đồng nhất bốn khái niệm giọng điệu, điểm nhìn, tác giả
hàm ẩn và ngƣời kể chuyện với nhau.
Các nhà tự sự học cũng xác định nội dung khái niệm giọng điệu một cách
khác nhau.
- Trần Đình Sử trong Giáo trình dẫn luận thi pháp học cho rằng: “Giọng
điệu giúp chúng ta nhận ra tác giả. Giọng điệu là tình cảm, thái độ ứng xử của
nhà văn trƣớc các hiện tƣợng đời sống đƣợc thể hiện trƣớc hết trong giọng
điệu cơ bản” [61, tr.111].
- Lê Huy Bắc trong bài Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại đƣa
ra quan niệm: “Giọng điệu là âm thanh đƣợc xét ở góc độ tâm lí, biểu hiện các
thái độ: buồn, vui, giận, hờ hững” [7, tr.6].
- Nguyễn Thái Hòa khi tìm hiểu giọng điệu, xem xét giọng điệu trong
quan hệ của chủ thể và đối tƣợng qua ngôn ngữ của mỗi cá nhân thì nhận
hiện bằng hành vi ngôn ngữ trong đó bao hàm cả việc định hƣớng đánh giá và
thói quen cá nhân sử dụng ngôn từ trong những tình huống cụ thể” [31, tr.154].
định: “Giọng điệu là mối quan hệ giữa chủ thể và hiện thực khách quan thể
Nhƣ vậy đã có nhiều nội dung đƣợc xác định trong khái niệm giọng điệu.
Ở góc độ nào đi nữa thì giọng điệu vẫn là yếu tố không thể thiếu của tác phẩm
văn học để qua đó “phản ánh lập trƣờng xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu
của tác giả, có vai trò rất lớn tạo nên phong cách nhà văn và có tác dụng
truyền cảm cho ngƣời đọc”. Trong luận văn này chúng tôi hiểu giọng điệu là
thái độ, tình cảm, cảm xúc thể hiện trong các phát ngôn để các phát ngôn trở
nên hấp dẫn và thu hút ngƣời đọc.
Để nhận diện ngƣời kể chuyện trong tác phẩm tự sự ta không thể không
căn cứ vào giọng điệu kể chuyện. Bởi giọng điệu là “thái độ, tình cảm, lập
trƣờng, tƣ tƣởng, đạo đức của ngƣời kể chuyện thể hiện trong lời văn quy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
định cách xƣng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần,
29
thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” [28, tr.112]. Có
nhiều yếu tố làm nên giọng điệu của ngƣời kể chuyện trong đó yếu tố quan
trọng mang tính quyết định chính là cảm hứng chủ đạo của anh ta. Chẳng hạn
trong các tác phẩm đậm chất sử thi nhƣ Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc),
Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu)…ta bắt
gặp giọng điệu kể chuyện trang trọng cao cả vì cảm hứng của ngƣời kể
chuyện là hƣớng về cái cao cả. Ngƣợc lại, trong một số tác phẩm văn học phê
phán nhƣ Mất cái ví (Nguyễn Công Hoan), Số đỏ (Vũ Trọng Phụng)… do
ngƣời kể chuyện có cảm hứng chính là phê phán thực tại nên anh ta sẽ chọn
cho mình giọng điệu mỉa mai, châm biếm, tố cáo. Dựa theo các tiêu chí khác
nhau mà ta có những cách phân loại giọng điệu kể chuyện khác nhau. Nếu
phân chia theo sắc thái tình cảm ta có giọng trang trọng hay thân mật, mạnh
mẽ hay yếu ớt, tha thiết hay gay gắt… Nếu phân chia theo loại tình cảm ta có
giọng bi hay hài, trữ tình hay châm biếm… Nếu theo khuynh hƣớng tình cảm
ta lại có giọng thƣơng cảm hay lên án, phê phán hay ngợi ca… Các bình diện
trên không tách rời nhau, không đứng độc lập với nhau mà xen lẫn và hòa
quyện vào nhau, vì vậy hệ thống giọng điệu kể chuyện của tác phẩm có thể
hết sức đa dạng và phức tạp.
1.3. Vai trò của người kể chuyện
1.3.1. Người kể chuyện với vai trò tổ chức kết cấu tác phẩm
Mỗi tác phẩm văn học có thể có nhiều khả năng kết cấu, mỗi khả năng
kết cấu thích hợp với một quá trình khái quát nghệ thuật của ngƣời nghệ sĩ.
Ngƣời kể chuyện phải cố gắng tìm cho mình một kết cấu tối ƣu để làm cho
câu chuyện lôi cuốn, hấp dẫn ngƣời đọc. Vai trò tổ chức kết cấu tác phẩm của
ngƣời kể chuyện đƣợc thể hiện trên những phƣơng diện sau:
Trước hết là tổ chức hệ thống hình tượng nhân vật. Ngƣời kể chuyện có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thể tổ chức các quan hệ của nhân vật theo hình thức đối lập, đối chiếu, tƣơng
30
phản hoặc bổ sung. Chẳng hạn nhƣ trong truyện ngắn Chiều vắng của Nguyễn
Ngọc Tƣ, ngƣời kể chuyện đã lựa chọn quan hệ đối chiếu, tƣơng phản để làm
cho nhân vật hiện lên sắc nét hơn. Đó là dì Út Thu Lý và dì Ba Thu Lê: cả hai
ngƣời con gái đều sống nặng tình nghĩa, đều sống theo tiếng gọi của con tim
nhƣng về tính cách thì họ lại dƣờng nhƣ trái ngƣợc nhau. Dì Út Thu Lý đểnh
đoảng, vụng về; dì Ba Thu Lê khéo léo. Dì Út Thu Lý nhƣ trẻ con vui buồn ra
mặt; dì Ba Thu Lê hiền thục, nhu mì.
Thứ hai là tổ chức hệ thống sự kiện và liên kết chúng lại để tạo thành
truyện. Truyện ngắn Ấu thơ tươi đẹp của Nguyễn Ngọc Tƣ là một ví dụ cho
sự kết nối khéo léo của ngƣời kể chuyện. Tác phẩm gồm hai câu chuyện của
mỗi dịp hè đến chúng đƣợc ngƣời này đƣa về ở với ngƣời kia. Ký ức tuổi thơ của
hai đứa trẻ có cùng cảnh ngộ: cha mẹ li dị, mỗi ngƣời đều có cuộc sống riêng,
hai đứa trẻ không có gì ngoài những chuyến đi và mỗi lần về bên cha hoặc
bên mẹ và phải chứng kiến những điều mà lẽ ra ở tuổi của chúng không nên
chứng kiến. Ngƣời kể chuyện với sự tài tình, khéo léo của mình đã kết nối hai
câu chuyện riêng lẻ của hai đứa trẻ ấy thành một mạch truyện thống nhất, liền
mạch để từ đó thể hiện sự chia sẻ cảm thông của nhà văn với những đứa trẻ có
hoàn cảnh bất hạnh. Đồng thời lên tiếng cảnh báo xã hội, nhất là những bậc
làm cha mẹ cần phải có trách nhiệm hơn nữa với những đứa con của mình.
Tại sao với những đứa trẻ thơ không phải là những miền ký ức vui? Ai đã
đánh cắp “ấu thơ tƣơi đẹp” của các em? Đây cũng là câu hỏi đƣợc đặt ra để
các bậc làm cha mẹ nghiêm túc tự vấn lại mình.
Với cách tổ chức hệ thống sự kiện khác nhau, cách kể khác nhau, ngƣời
kể chuyện sẽ hình thành nên các dạng cốt truyện khác nhau: cốt truyện tuyến
tính, cốt truyện tâm lí, cốt truyện “chuyện lồng chuyện”… Có tác phẩm chỉ có
một ngƣời kể chuyện và cũng chỉ kể một câu chuyện (Ngày đùa – Nguyễn
Ngọc Tƣ). Có tác phẩm chỉ có một ngƣời kể chuyện nhƣng kể nhiều câu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chuyện khác nhau (Đất kinh kì – Nguyễn Khải). Có tác phẩm trong đó nhiều
31
Châu). Cũng có tác phẩm trong đó nhiều ngƣời kể chuyện kể nhiều câu chuyện
khác nhau (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành – Nguyễn Minh Châu)…
ngƣời kể chuyện cùng kể về một câu chuyện (Khách ở quê ra – Nguyễn Minh
Chức năng tổ chức tác phẩm của ngƣời kể chuyện còn đƣợc thể hiện ở
việc kết cấu văn bản nghệ thuật. Đó có thể là việc sắp xếp bố cục của trần
thuật, việc tạo nên độ lệch giữa phạm vi đầu cuối của trần thuật so với cốt
truyện để tạo cho trần thuật những khả năng biểu hiện lớn nhƣ trong truyện
ngắn Chí Phèo của Nam Cao. Đó cũng có thể là việc lựa chọn, kết hợp các
thành phần trần thuật. Trong Bà Bôvary, ngƣời kể chuyện bên cạnh sử dụng
thành phần lời kể đã đƣa vào rất nhiều lời miêu tả. Chẳng hạn nhƣ lời miêu tả
ngoại hình nhân vật Saclơ: “Tóc hắn cắt dựng lên trên trán, nhƣ một tay hát lễ
ở thôn quê, vẻ ngƣời phải chăng và rất lúng túng. Tuy vai hắn không rộng,
chiếc áo lễ lai vét bằng dạ màu be cài khuy chắc làm hắn khó chịu vì kích
hẹp…”. Với cách miêu tả này, ngƣời kể chuyện đã chỉ ra những nét hài hƣớc,
lố bịch của Saclơ. Đó còn là cách tổ chức điểm nhìn trần thuật. Trong Vụ án
(Kafka), ngƣời kể chuyện đứng ở ngôi thứ ba từ bên ngoài nhƣng lại nƣơng
theo điểm nhìn của nhân vật K để kể. Ngƣời đọc bị kéo vào nỗi hoảng sợ mơ
hồ của K, vào cái tòa án bẩn thỉu trên gác xép tầng năm, vào những quán trọ
lố nhố ngƣời và mùi bia rƣợu…
Tóm lại, ngƣời kể chuyện có vai trò rất lớn trong việc tổ chức kết cấu
tác phẩm. Timofiev khẳng định: “Hình tƣợng này có tầm quan trọng hết sức
to lớn trong việc xây dựng tác phẩm bởi các quan niệm, các biến cố xảy ra,
cách đánh giá các nhân vật và các biến cố đều xuất phát từ cá nhân ngƣời kể
chuyện” [73, tr.44].
1.3.2. Người kể chuyện với vai trò dẫn dắt, định hướng người đọc
“Trong tiểu thuyết, trong truyện ngắn, những con ngƣời đƣợc tác giả thể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hiện đều hành động với sự giúp đỡ của tác giả; tác giả luôn bên cạnh họ; tác
32
giả mách cho ngƣời đọc hiểu rõ cần phải hiểu nhƣ thế nào, giải thích cho
ngƣời đọc hiểu những ý nghĩa thầm kín, những động cơ bí ẩn ở phía sau
những hành động của các nhân vật đƣợc miêu tả” [Theo Trần Đình Sử/ 62,
tr.117]. “Tác giả” mà Gorki nói tới ở đây chính là ngƣời kể chuyện. Bởi tác
giả là ngƣời là ngƣời sáng tạo ra tác phẩm nhƣng tác giả không bao giờ xuất
hiện trực tiếp trong tác phẩm đó mà lại hƣ cấu ra ngƣời kể chuyện để thay mặt
mình dẫn dắt ngƣời đọc thâm nhập vào thế giới nghệ thuật.
Trƣớc hết, ngƣời kể chuyện là ngƣời môi giới, gợi mở giúp ngƣời đọc
tiếp cận với nhân vật, hiểu đƣợc những suy nghĩ, nỗi niềm, những động cơ
thầm kín trong hành động của nhân vật, rút ngắn khoảng cách giữa nhân vật
với mình. Trong Dòng nhớ (Nguyễn Ngọc Tƣ), ngƣời kể chuyện đã vừa kể,
vừa tả, vừa giải thích, bình luận giúp ngƣời đọc hiểu rõ hơn về cảnh ngộ của
ngƣời cha, ngƣời má và ngƣời dì. Ngƣời kể chuyện cứ dẫn dắt, gợi mở và
truyền đến ngƣời đọc sự cảm thông đối với cuộc đời, số phận của ba nhân vật.
Không chỉ giúp ngƣời đọc hiểu rõ hơn, sâu sắc hơn về nhân vật mà ngƣời
kể chuyện còn hƣớng ngƣời đọc cùng chia sẻ và đồng cảm với những suy
nghĩ của mình về cuộc đời. Đọc Đời như ý (Nguyễn Ngọc Tƣ) qua lời kể
thƣơng cảm của ngƣời kể chuyện, ngƣời đọc cảm thấy xót xa cho cảnh sống
nghèo khó, cơ cực của gia đình chú Đời: “Nhìn vẻ mặt này không ai nghĩ chú
mù, thấy sao mà tự tin, thanh thản quá chừng. Không ai biết chú khổ còn
hơn… cô Lựu (…). Một ngày của gia đình chú Đời bắt đầu từ sáng sớm, chú
buộc vô mình sợi dây điện nối giữa cây đờn với cái loa con Nhƣ đang cầm, nó
ghịt dây thì chú bƣớc tới, chùng dây thì đứng lại. Con Ý nhỏ con chạy lăng
xăng đằng trƣớc, đứng coi búp bê ngƣời ta chƣng tủ kiếng. Vợ chú vừa đi vừa
ca hát đằng sau, nhặt hoa phƣợng để lên đầu. Cũng giống nhƣ những ngƣời
hát rong khác, nhà chú có cả thảy bốn ngƣời nhƣng trên con đƣờng tấp nập,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trông họ nhỏ nhoi, cô độc làm sao” [84, tr.58-59].
33
Trong nhiều trƣờng hợp, ngƣời kể chuyện còn tiến hành đối thoại, tranh
luận với ngƣời đọc để kiếm tìm và khám phá chân lí cuộc sống. Trong Anh
hùng bĩ vận (Nguyễn Khải), lời kể nhƣ là lời đối thoại của hai ý thức – ngƣời
kể chuyện xƣng tôi đã phân thân để đối thoại với chính mình về nghề viết:
“Anh viết chính trị quá, cao siêu quá bạn đọc sẽ khó mua. Bạn đọc nào? Bạn
đọc của tôi vẫn trung thành với tôi mà? Bạn đọc quen thuộc của anh đã tới
tuổi về hƣu rồi, đã về hƣu tiền ăn còn chả đủ lấy tiền đâu mua sách”. Có nhiều
khi, lời kể mang tính khiêu khích ngƣời đọc: “Này các bạn trẻ, các bạn chớ có
vội cƣời, các bạn chớ có nghĩ một cách tự phụ rằng chỉ có lứa tuổi các bạn
mới biết mãnh lực tình yêu. Không nên chủ quan nhƣ thế! Các bà nội cũng
vẫn có, nếu nhƣ cái ma lực ấy các cụ không tiêu xài quá phung phí lúc thiếu
thời”. Ngƣời kể chuyện hƣớng đích danh đến các bạn trẻ, buộc họ phải tranh
luận, đồng tình hoặc phản đối. Trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ, ngƣời kể
chuyện cũng rất có ý thức trong việc lôi kéo ngƣời đọc cùng tham gia vào câu
chuyện, buộc ngƣời đọc phải lên tiếng, phải đối thoại. Ngôn ngữ của ngƣời kể
chuyện chứa đựng nhiều đối thoại ngầm.
1.3.3. Người kể chuyện thay mặt tác giả trình bày quan niệm về nghệ
thuật, cuộc sống
Khác với các nhà tƣ tƣởng, các nhà văn không trình bày tƣ tƣởng của
mình bằng những lời phát biểu trực tiếp mà trình bày một cách nghệ thuật
thông qua những hình tƣợng mà mình hƣ cấu nên, trong đó có hình tƣợng
ngƣời kể chuyện. Có lẽ tất cả những nhà văn chân chính đều gặp gỡ nhau ở
một điểm là mong muốn thể hiện một tƣ tƣởng về con ngƣời, về cuộc sống.
Qua nhân vật ngƣời kể chuyện ta phần nào thấy đƣợc quan niệm, tƣ
tƣởng của nhà văn về cuộc sống. Trong truyện ngắn của Lỗ Tấn thông qua
nhân vật ngƣời kể chuyện, nhà văn đã bày tỏ thái độ phê phán, phẫn nộ của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mình đối với chế độ phong kiến ăn thịt ngƣời. Trong Cố hương, nhân vật
34
ngƣời kể chuyện xƣng tôi thể hiện thái độ đau buồn trƣớc xã hội thối nát tạo
nên một bức tƣờng ngăn cách ngƣời với ngƣời: “Tôi đã lớn tiếng yêu cầu xóa
bỏ sự ngăn cách ngƣời lao động với trí thức, đạp đổ bức tƣờng do chế độ
phong kiến dựng lên”. Trong Nhật kí người điên, ngƣời kể chuyện đã phê
phán những kẻ ăn thịt ngƣời, kêu gọi xã hội hãy “cứu lấy trẻ em”.
Trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ, nhà văn đã thông qua nhân vật
ngƣời kể chuyện để bày tỏ những suy nghĩ, mong muốn, thái độ của mình về
mối quan hệ tốt tốt đẹp giữa ngƣời với ngƣời trong cuộc đời. Mối quan hệ ấy,
theo Nguyễn Ngọc Tƣ phải đƣợc giữ gìn, nâng niu, trân trọng và nuôi dƣỡng
cho dù thế giới này có thay đổi đến mức nào đi chăng nữa. Đời ngƣời vốn
ngắn ngủi vì thế “làm ngƣời làm phải cho ngon”, mà muốn đƣợc nhƣ vậy phải
biết chia sẻ lòng nhân từ, sự quan tâm từ chính trái tim mình trƣớc nhất; con
ngƣời trong ứng xử với nhau phải bằng niềm thƣơng yêu chân thành.
Ở Cánh đồng bất tận, nhân vật ngƣời kể chuyện đã gửi gắm một thông điệp:
làm người phải có tấm lòng vị tha: “Đứa bé không cha nhƣng chắc chắn đƣợc
đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của ngƣời lớn”.
đến trƣờng, sẽ tƣơi tỉnh và vui vẻ sống đến hết đời, vì đƣợc mẹ dạy, là trẻ con,
Bên cạnh quan niệm về cuộc sống, qua nhân vật ngƣời kể chuyện ta còn
thấy quan niệm của nhà văn về văn chƣơng nghệ thuật. Đọc truyện ngắn Nam
Cao, tập hợp những suy nghĩ của nhân vật ngƣời kể chuyện lại có thể thấy rõ
quan niệm nhất quán, hệ thống của nhà văn về văn chƣơng. Đó là quan niệm
về mối quan hệ giữa văn chƣơng với hiện thực: “Nghệ thuật không cần là ánh
trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng
kêu đau khổ thoát ra từ những kiếp lầm than” (Trăng sáng). Là quan niệm về
sự cần thiết của tính sáng tạo trong văn chƣơng nghệ thuật: “Văn chƣơng
không cần đến những ngƣời thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đƣa cho.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Văn chƣơng chỉ dung nạp những ngƣời biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những
35
nguồn chƣa ai khơi và sáng tạo những gì chƣa có” (Đời thừa). Trong Đất kinh
kì, qua lời ngƣời kể chuyện Nguyễn Khải cũng đã gửi gắm một quan niệm
khá sâu sắc về văn chƣơng: “Văn chƣơng đâu phải là thứ để dành ƣớp lạnh
đƣợc, không dùng trƣớc thì dùng sau hoặc dùng dần. Nó là sự sống mà lại là
phần thiêng liêng mong manh dễ vỡ nhất của sự sống”.
Từ sự phân tích ở trên có thể khẳng định rằng: ngƣời kể chuyện là nhân
tố đóng vai trò tích cực trong việc tổ chức tác phẩm, dẫn dắt và định hƣớng
ngƣời đọc tiếp cận với thế giới nghệ thuật. Ngoài ra, ngƣời kể chuyện còn là
điểm tựa để tác giả bộc lộ những quan điểm, tƣ tƣởng của mình về nghệ thuật,
cuộc sống. Với những vai trò quan trọng đặc biệt này của ngƣời kể chuyện
nên trong quá trình sáng tác nhà văn rất có ý thức trong việc lựa chọn cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mình một ngƣời kể chuyện thích hợp.
36
Chương 2
NGÔI KỂ VÀ MỘT SỐ LOẠI HÌNH NGƯỜI KỂ CHUYỆN
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ
2.1. Vấn đề ngôi kể trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
2.1.1. Khái niệm ngôi kể
Lí thuyết hội thoại cho rằng: một hoạt động hội thoại bao giờ cũng có hai
ngôi tham dự là ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai. Trong đó ngôi thứ nhất là
ngƣời nói, ngôi thứ hai là ngƣời nghe, còn ngôi thứ ba là hiện thực đƣợc nói
tới, là vật quy chiếu không tham dự vào hoạt động giao tiếp. Bản thân chức
năng của đại từ ngôi thứ nhất (Tao), ngôi thứ hai (Mày) và ngôi thứ ba (Nó)
cũng chỉ ra điều đó. Chỉ ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai là có chức năng xƣng
hô – chức năng tham dự vào tình huống giao tiếp, ngôi thứ ba thuộc về thế
giới hiện thực đƣợc nói đến.
Kể chuyện cũng là một hoạt động hội thoại, đó là hoạt động hội thoại
giữa ngƣời kể chuyện và ngƣời đọc. Ngƣời kể chuyện có thể kể về mình (kể
về ngôi thứ nhất: tôi, tao, chúng tôi…) hoặc kể về ngƣời khác (kể về ngôi thứ
ba: anh ấy, cô ấy, họ…). Cũng có khi kể về ngôi thứ hai (kể về ngƣời nghe)
nhƣng trƣờng hợp này rất hiếm gặp.
Khái niệm ngôi kể xuất hiện khá sớm ở Việt Nam. Nhà văn Vũ Bằng –
ngƣời bạn cùng thời với nhà văn Vũ Trọng Phụng đã nêu lên vấn đề Viết tiểu
thuyết nên dùng ngôi thứ mấy, bài viết nêu nội dung:
- Kể ở ngôi 1 hay ngôi 3 đều có tác dụng nhất định, không nên tuyệt đối
hóa vai trò của ngôi kể.
- Không nên đồng nhất ngƣời kể ngôi 1 và tác giả - nhà văn.
Cụ thể về những điều này, Vũ Bằng viết: “Về tiểu thuyết hết cãi nhau
nên viết bằng giọng văn gì và thứ văn gì, có ngƣời còn đề khởi lên quan điểm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
này nữa: viết tiểu thuyết nên dùng ngôi thứ mấy. Quan điểm này mới nghe thì
37
tƣởng không lấy gì làm hệ trọng nhƣng có một thời đã gây nên ở trong báo
Nouvelles Litteraies của Larousse một cuộc bút chiến làm cho nhiều nhà văn
để ý. Một bọn tiểu thuyết gia Pháp… theo ý họ những tiểu thuyết mà vai
chính xƣng tôi không thể gọi là tiểu thuyết mà chỉ có thể gọi là những cuốn
sách, cuốn truyện mà thôi. Tiểu thuyết chân chính, tiểu thuyết theo đúng tên
gọi của nó phải dùng ngôi thứ ba” [47, tr.312]. Mƣợn lời của André Maurois,
Vũ Bằng kết luận: “Cứ viết, viết ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba tùy ý. Tôi có
cần biết các ông viết thế nào đâu, chỉ cần biết cuốn sách của ông có làm cho
tôi cảm động không vậy” [47, tr.312].
Quan điểm nêu trên của nhà văn Vũ Bằng rất rõ ràng và đúng đắn. Nhà
văn đã tiếp thu đƣợc những tri thức tự sự học của khoa học tự sự Pháp lúc bấy
giờ. Ông là đại biểu của tầng lớp trí thức ƣu tú của ngƣời Việt, có đƣợc kiểu
tƣ duy khoa học gần ngang bằng với trình độ của tầng lớp trí thức Pháp nói
riêng và Âu Mĩ nói chung những năm 30 thế kỷ trƣớc.
Hầu hết các nhà nghiên cứu chia ngôi kể ngƣời kể chuyện thành: ngƣời
chuyện nào cũng phải chọn lấy một trong hai cách chủ yếu: kể ở ngôi thứ nhất
hay ngôi thứ ba.
kể chuyện ngôi thứ nhất và ngƣời kể chuyện ngôi thứ ba. Bất cứ ngƣời kể
Manfred Jahn trong Trần thuật học – nhập môn lý thuyết trần thuật đƣa
ra định nghĩa, cách hiểu về ngôi kể: “Trần thuật ngôi thứ nhất: câu chuyện
đƣợc kể lại bởi một ngƣời kể chuyện hiện diện nhƣ một nhân vật trong truyện.
Tiền tố “homo” chỉ ra rằng ngƣời kể chuyện cũng là một nhân vật ở cấp độ
hành động. Trần thuật ở ngôi thứ ba: câu chuyện đƣợc kể lại bởi ngƣời kể
chuyện không phải là một nhân vật trong truyện. Tiền tố “hetero” nhắc nhở
đến bản chất khác nhau giữa thế giới của ngƣời kể với thế giới của hành
động” [34, tr.7].
Trần thuật ngôi thứ nhất: Homodiegetic Narrative. Homo nghĩa là bản
nhân vật.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chất giống nhau. Tức là ngƣời kể chuyện có hành động mà bản chất giống với
38
Trần thuật ngôi thứ ba: Heterodiegetic Narrative. Hetero nghĩa là bản
chất khác nhau. Ở câu chuyện đƣợc kể ở ngôi thứ ba thì có sự khác biệt về
mặt bản chất “giữa thế giới của người kể với thế giới của hành động” [34,
tr.7]. Ngƣời kể chuyện ngôi 3 không tham gia vào hành động câu chuyện
nghĩa là đứng ngoài thế giới của hành động. Ngƣời kể chuyện có thể lộ diện,
có thể chỉ đứng ngoài mà quan sát, chứng kiến, nhận xét, bình luận.
“Kể ở ngôi thứ nhất”, khái niệm này đƣợc sử dụng khá rộng rãi, phổ biến
và dễ đƣợc chấp nhận. Nhƣng khái niệm “kể ở ngôi thứ ba” thì còn một số
lầm lẫn khi nhận diện nó.
Truyện kể ở ngôi thứ nhất tƣơng ứng với việc sử dụng trong văn bản các
đại từ nhân xƣng ngôi 1 - số ít: tôi, ta, tao, mình; số nhiều: chúng tôi, chúng
ta, chúng tao, chúng mình… hoặc trực tiếp xƣng tên họ mình. Truyện kể ngôi
ba tƣơng ứng với các đại từ nhân xƣng: nó, thằng, anh ta, bà ấy, ông ấy…
hoặc gọi thẳng tên, gọi biệt danh, tục danh. Nhƣng đại từ nhân xƣng ngôi thứ
nhất và ngôi thứ ba không phải là tiêu chí quan trọng nhất, duy nhất xác định
đặc trƣng bản chất của truyện kể ngôi 1, ngôi 3.
Theo Lê Phong Tuyết
+ Nếu ngƣời kể chuyện tham gia vào câu chuyện thì chuyện đƣợc kể ở
ngôi thứ nhất. Ngƣời ta sẽ phân biệt hai trƣờng hợp: ngƣời kể chuyện là nhân
vật chính; ngƣời kể chuyện là nhân vật phụ đóng vai trò nhân chứng và chỉ kể
lại những gì anh ta nhìn thấy và nghe thấy.
+ Nếu ngƣời kể chuyện không tham gia vào chuyện thì chuyện đƣợc kể ở
ngôi thứ ba và sẽ có hai trƣờng hợp: ngƣời kể chuyện đứng ngoài các sự vật,
trình bày chúng không có bình luận; ngƣời kể chuyện chứng tỏ sự hiện diện
của mình qua những đánh giá hoặc bình luận.
Trong một chuyện kể ở ngôi thứ nhất, các sự kiện đƣợc kể theo điểm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhìn của ngƣời kể chuyện, chính anh ta bình luận các sự việc. Trong một
39
chuyện kể ở ngôi thứ ba, ngƣời kể chuyện có thể có một điểm nhìn bên
ngoài, một điểm nhìn bên trong hoặc điểm nhìn của ngƣời thông tỏ mọi
việc. [Theo 79, tr.131].
Với một tác phẩm thuộc loại hình văn học tự sự, phƣơng thức tự sự đóng
vai trò đặc biệt quan trọng. Cùng một câu chuyện nhƣng nếu đƣợc sử dụng
các phƣơng thức tự sự khác nhau có thể sẽ đem lại những hiệu quả nghệ thuật
khác nhau, và thông tin mà ngƣời đọc tiếp nhận đƣợc từ câu chuyện ấy cũng
có thể rất khác nhau. Nghệ thuật tự sự không đơn thuần là cách kể sao cho câu
chuyện trở nên đậm đà ý vị mà đó còn là cách nhà văn lí giải sự vật hiện
tƣợng một cách sâu sắc, hiệu quả. Nhà văn thƣờng lấy các trạng thái tâm lý,
tình cảm, suy tƣ, những diễn biến của ý thức nhân vật làm đối tƣợng miêu tả.
Truyện Nguyễn Ngọc Tƣ phần nhiều không chứa đựng những mâu thuẫn kịch
tính, những tình tiết li kì, gay cấn, đó hầu hết chỉ là những câu chuyện giản dị,
đơn sơ, mộc mạc. Thế nhƣng, viết về những đề tài hết sức gần gũi quen thuộc
ấy, các thiên truyện của chị vẫn không đơn điệu mà chứa nhiều sức gợi cảm
và suy nghĩa sâu xa. Có thể chỉ là mẩu chuyện nhỏ của cuộc sống đời thƣờng
song chúng chuyển tải ý nghĩa lớn lao về cách ứng xử, mối quan hệ giữa con
ngƣời - con ngƣời… Để kể truyện đời thƣờng mà đầy sức thuyết phục,
Nguyễn Ngọc Tƣ đã thể hiện một khả năng đặc biệt trong việc vận dụng các
phƣơng thức tự sự.
2.1.2. Người kể chuyện ngôi thứ nhất
Các nhà văn đƣơng đại thƣờng thiên về tìm tòi đổi mới cách kể, họ quan
tâm nhiều hơn tới vấn đề cách kể nhƣ thế nào hơn là vấn đề kể cái gì. Điều này
cũng hợp quy luật vì nó đẩy cách sáng tạo, cách hiểu, cách tiếp nhận về gần hơn
với đặc trƣng thẩm mỹ của văn học. Nguyễn Ngọc Tƣ là một tên tuổi nổi bật trên
văn đàn Việt Nam trong những năm gần đây. Mảng sáng tác nổi bật nhất và thu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hút đƣợc sự chú ý, quan tâm rộng rãi của chị chính là truyện ngắn. Nói đến cái
40
hay của truyện Nguyễn Ngọc Tƣ là nói đến cái hay trong xây dựng hình tƣợng
ngƣời kể chuyện, cái hay của cách kể chuyện. Thống kê trong các tập truyện
ngắn của chị ta thấy truyện ngắn trần thuật từ ngôi thứ nhất chiếm tỉ lệ không
nhỏ. Đây là hệ quả của những đổi mới trong tƣ duy nghệ thuật khi văn học từ
quan niệm con ngƣời tập thể chuyển thành con ngƣời cá thể, quan tâm nhiều hơn
đến chủ thể sáng tạo và sự sống cá nhân. Với ngôi trần thuật này, ngƣời kể
chuyện xƣng tôi có vai trò to lớn trong việc quyết định cấu trúc tác phẩm cũng
nhƣ toàn quyền miêu tả những nhân vật khác từ điểm nhìn của bản thân.
Trong nhiều truyện, ngƣời kể chuyện xƣng tôi là nhân vật chính đóng vai
trò kể chuyện từ đầu đến cuối (Ngổn ngang, Một mối tình, Khói trời lộng lẫy,
Của ngày đã mất, Vết chim trời, Thổ sầu, Nhà cổ). Ngƣời kể chuyện là nhân
vật tôi tự kể chuyện của mình, kể những gì liên quan đến mình. Các tác phẩm
kể theo ngôi thứ nhất này của Nguyễn Ngọc Tƣ không lấy sự kiện, tình tiết
làm trọng mà chú ý thể hiện đời sống nội tâm phong phú, phức tạp của con
ngƣời. Đây là những dòng tâm sự, tâm trạng của Út Nhỏ – ngƣời kể chuyện
xƣng tôi trong truyện ngắn Nhà cổ khi chứng kiến tình yêu ngang trái giữa hai
anh em với một ngƣời phụ nữ: “Năm tôi mƣời sáu tuổi, qua bên đó chơi, biết
hai anh đều lặng lẽ để bụng thƣơng chị Thể mất rồi (…). Nên chị Thể chọn ai
tôi đều thƣơng ngƣời còn lại. Ở ngoài cuộc, hai má con tôi phân tích kĩ lƣỡng,
tôi nói anh Phƣơng đáng để thƣơng, anh Phƣơng cao ráo, thanh mảnh, miệng
nhỏ, mắt sâu, trán cao, ăn nói nhỏ nhẹ là ngƣời thông minh” [83, tr.69-70].
Là những lời giãi bày, bộc bạch của nhân vật “tôi” trong Vết chim trời kể về
câu chuyện của gia đình mình. Một gia đình đang sống trong yên bình hạnh
phúc nhƣng trong khoảng khắc dấu vết chiến tranh hiện về đã phá vỡ không
khí yên bình đó: “Sau này, long đong với bao biến cố cuộc đời, chen lấn tranh
giành, bị tạt vào mặt những câu từ khó nghe, phũ phàng nhất, nhƣng tôi thề
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
rằng chẳng câu nói nào đau đớn và nghiệt ngã nhƣ lời thốt ra từ cái miệng
41
mếu máo của bà nội. Trời đất lặng phắt. Một mũi tên nào đó xé gió đâm thẳng
vào tim cha (…). Tôi xuống nhà, lặng lẽ ngồi nhìn bà nội ngủ say, không biết
bà đã đau, đã day dứt đến mức nào khi hai đứa con trai của bà lại đứng ở hai bờ chiến
sự, đến nỗi trong cơn quên nhớ lẫn lộn, lại để tiếng khóc rơi ra” [85, tr.7-16-17].
Trong những câu chuyện có ngƣời kể chuyện trực tiếp xƣng tôi ngôi thứ
nhất, ngƣời kể không chỉ kể mà còn là một nhân vật, và biểu hiện những suy
nghĩ, tình cảm, quan niệm, ngôn ngữ, giọng điệu của một con ngƣời cụ thể.
Vì thế câu chuyện không chỉ lôi cuốn sự chú ý của ngƣời đọc theo dòng các
sự kiện mà còn lôi cuốn ngƣời đọc vào cả lời kể, cách kể. Nhờ thế đã tạo ra
hai hiệu quả: tạo ra ảo giác ở độc giả về tính khách quan của nội dung câu
chuyện và thể hiện đậm nét dấu ấn chủ quan của ngƣời kể chuyện. Trong
Cánh đồng bất tận, Nƣơng - một cô gái mới lớn còn bỡ ngỡ trƣớc những sóng
gió va đập của cuộc đời đang kể lại câu chuyện của gia đình cô và của chính
cô. Truyện đƣợc bắt đầu từ một thời điểm hiện tại rồi ngƣợc về quá khứ sau
đó lại tiếp tục ở thời tƣơng lai. Mở đầu là cảnh cô gái điếm bị đám đông đánh
đập sau đó ngƣợc về quá khứ nói về nguyên nhân gia đình tan vỡ rồi kể tiếp
đến cuộc sống lênh đênh sông nƣớc của ba cha con, chuyện trả hận đàn bà của
ngƣời cha và cảnh Nƣơng bị cƣỡng hiếp trên cánh đồng. Câu chuyện đƣợc kể
bởi một cô gái trẻ nên mang nhiều nét hồn nhiên và rất tự nhiên nhƣ là câu
chuyện mới xảy ra gần đây thôi. “Tôi” là một cô gái quê mùa giản dị, mộc
mạc, chân chất, thật thà, hồn nhiên kể, vì thế mà độc giả hầu nhƣ không thấy
dấu vết của sự hƣ cấu. Nhân vật nhƣ chỉ sống với chính mình, ngƣời đọc bị
kéo vào câu chuyện và đi theo bƣớc chân nhân vật, theo dòng hồi tƣởng miên
man của nhân vật. Thời điểm xảy ra câu chuyện và thời điểm kể rất gần nhau,
vì vậy mà tính thời sự của câu chuyện còn nóng hổi. Trong suốt 56 trang đầu,
Cánh đồng bất tận là câu chuyện đƣợc kể bởi một ngƣời kể chuyện xƣng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
“tôi”, ngƣời kể đồng thời cũng là nhân vật trong truyện kể. Với ngôi kể và
42
cách kể này tƣởng chừng nhƣ truyện sẽ rơi vào sự tẻ nhạt của lời văn một
giọng đơn điệu nhƣng Nguyễn Ngọc Tƣ đã vƣợt qua thách thức đó, một điểm
nhìn nhƣng là điểm nhìn của ngƣời kể chuyện xƣng “tôi” - ngôi thứ nhất,
điểm nhìn này luôn di chuyển trên trục thời gian gấp khúc (hiện tại - quá khứ
- tƣơng lai) soi chiếu trên một toạ độ không gian rộng nên đã tạo ra ở lời văn
tính chất nhiều giọng, lời văn hồn nhiên mà nhiều cảm xúc.
Các truyện: Tình lơ, Cái nhìn khắc khoải, Dòng nhớ, Núi lở cũng
đƣợc kể bởi một ngƣời kể chuyện xƣng “tôi”. Nhƣng ngƣời kể chuyện ở các
truyện ngắn này chỉ đóng vai trò ngƣời dẫn chuyện chứ không tham gia vào
các sự kiện, tình huống trong truyện. Ngƣời kể chuyện là ngƣời quan sát, cảm
nhận và kể lại những điều nhìn thấy hoặc nghe thấy đƣợc. Anh ta luôn cố ý
gợi cho ngƣời đọc cảm giác tin tƣởng rằng, những điều anh ta kể ra ở đây là
có thật, đồng thời gián tiếp thừa nhận rằng những câu chuyện đƣợc kể lại xuất
phát từ cảm nhận cá nhân của anh ta. Ngƣời kể chuyện trong các truyện ngắn
này sau khi giới thiệu hoàn cảnh trần thuật của mình thì đóng vai trò là ngƣời
kể chuyện từ điểm nhìn bên ngoài. Tính cách, phẩm chất của các nhân vật
hiện lên thông qua sự miêu tả khách quan ngoại hình, hành động, lời nói trong
mối quan hệ với các nhân vật khác. Câu chuyện đƣợc kể ở thì hiện tại, không
xuất hiện những đoạn thể hiện cảm xúc, tâm trạng hay sự hồi cố của nhân vật.
Lời kể chủ yếu là lời tả.
Trần thuật từ ngôi thứ nhất xƣng tôi là “một phƣơng thức biểu đạt độc
đáo mập mờ quy về cả tác giả, cả về ngƣời kể chuyện và cả về nhân vật” [6,
tr.37]. Roland Barthes cho rằng so với vai “nó”, vai “tôi” ít tính nƣớc đôi hơn,
nên chính vì thế cũng ít tính tiểu thuyết hơn. Vì ít tính nƣớc đôi nên phƣơng
thức kể từ ngôi thứ nhất thƣờng tạo độ tin cậy nhất định. Ngƣời đọc cũng dễ
dàng thâm nhập vào thế giới nội tâm đầy phức tạp và bí ẩn của nhân vật qua
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lời kể trung thực, chân thành của chính họ. Phải chăng đây là lí do khiến
43
nhiều cây bút truyện ngắn Việt Nam đƣơng đại ƣa chuộng hình thức trần thuật
từ ngôi thứ nhất.
2.1.3. Người kể chuyện ngôi thứ ba
Khác với loại truyện kể ở ngôi thứ nhất với ngƣời kể chuyện xuất hiện
trực tiếp xƣng “tôi” (hoặc “chúng tôi”) là loại truyện kể ở ngôi thứ ba và
ngƣời kể chuyện trong trƣờng hợp này là ngƣời kể chuyện ngôi thứ ba hay là
ngƣời kể hàm ẩn. Khảo sát truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ chúng tôi thấy đa
phần ngƣời kể chuyện xuất hiện ở ngôi thứ ba.
Tán thành với quan niệm của Nguyễn Thị Thu Thủy trong bài viết Về
khái niệm “truyện kể ở ngôi thứ ba” và “người kể chuyện ở ngôi thứ ba” [63,
tr.145], chúng tôi cũng phân chia ngƣời kể chuyện ngôi thứ ba trong truyện
của Nguyễn Ngọc Tƣ thành hai loại: ngƣời kể chuyện hàm ẩn kể theo điểm
nhìn của anh ta và ngƣời kể chuyện hàm ẩn kể theo điểm nhìn nhân vật.
Ở những truyện có ngƣời kể chuyện hàm ẩn kể theo điểm nhìn của anh
ta, câu chuyện đƣợc kể với ngƣời kể chuyện nhƣ đứng kín đáo ở một chỗ nào
đó, chứng kiến hết mọi sự việc xảy ra nhƣng không tự mình trực tiếp tham gia
vào các diễn biến. Câu chuyện vì thế đƣợc kể lại một cách khách quan, ngƣời
kể chuyện nói về các sự kiện với một sự điềm đạm, thấu đáo, với một cái tài
biết hết. Chẳng hạn Hiu hiu gió bấc, câu chuyện đƣợc kể bởi ngƣời kể chuyện
ngôi thứ ba. Từ ngôi kể đó, với cái nhìn khách quan ngƣời kể chuyện tỏ ra am
hiểu mọi tình cảm, suy tính của nhân vật: “Chỉ buổi chiều, chị mới ra ngồi ở
đó. Buổi chiều, lúc mặt trời vừa khuất sau vƣờn chuối, anh Hết hay ghé lại để
mua một ngàn mỡ nƣớc, năm trăm bột ngọt, năm trăm tiêu. Chị cố bán thật rề
rà để nhìn anh lâu nữa, coi bữa nay chắc anh đi vác lúa đằng nhà máy chà
gạo, trên tóc còn vƣớng trấu. Nhìn vậy thôi chớ không nói gì hết. Con trâu
không nói sao cái cọc nói đƣợc. Nhƣng vẫn cứ đón chờ, có khi sớm, khi muộn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hơn một chút nhƣng chị biết thể nào thì anh cũng về qua, về để nấu cơm cho
44
tía anh” [83, tr.30]. Hay trong Có con thuyền đã buông bờ…, ngƣời kể chuyện
ngôi ba đứng ở một nơi nào đó khá gần với nhân vật mà quan sát, phân tích,
thấu hiểu từng hành động, cử chỉ, thái độ của nhân vật: “Bế cũng cƣời, thấy
lƣng mỏi rã ra, vì đã phải dựng lên lâu quá, cô muốn thả nó trôi xuôi. Nhƣng
nhƣ vậy thì cô sẽ không có cái dáng dấp thong dong thành thị, cô lại ƣỡn ngực
và thẳng lƣng lên. Bế giữ cái dáng đi mà cô cho là sang trọng, đủng đa đủng
đỉnh ngƣợc hết chợ rồi lại quay xuống. Cô ngơ ngác nghiêng ngó, đâm sầm
vào vài ngƣời trƣớc mặt mình” [86, tr.37]. Ngƣời kể chuyện có vị trí quan sát
ở bên ngoài thế giới nhân vật, ngƣời kể chuyện không kể theo điểm nhìn của
một nhân vật nào cả mà kể theo điểm nhìn của chính mình. Theo quan niệm
của Booth và những ngƣời cùng quan niệm thì chỉ ngƣời kể chuyện trong
trƣờng hợp này mới đƣợc gọi là ngƣời kể chuyện hàm ẩn. Nhƣng chính ở đây
thì W. Booth và nhiều ngƣời khác đã nhầm vì các tác giả chƣa phân biệt rõ
ràng chủ thể quan sát và chủ thể lời nói nên đã đồng nhất ngƣời phản ánh với
ngƣời kể lại những hành vi của ngƣời phản ánh đó. Mà thực tế thì đây chỉ là
một trƣờng hợp của ngƣời kể chuyện hàm ẩn.
Trong những truyện có ngƣời kể chuyện hàm ẩn kể theo điểm nhìn nhân
vật, ngƣời kể chuyện đã khéo léo trao cho nhân vật nhiệm vụ kể chuyện. Ở
đây, ngƣời kể chuyện đã hòa vào nhân vật đến mức ta khó phân biệt đƣợc
giọng kể của ngƣời kể chuyện với giọng kể của nhân vật. Và thƣờng thì chỉ
nhận thấy giọng nhân vật, giọng nhân vật nổi trội hơn. Chẳng hạn nhƣ trong
Biển người mênh mông, ngƣời kể chuyện đã tựa vào hành động của nhân vật
Phi để kể: “nắm tay đỡ ông dậy, xốc ông lên vai nhƣ xốc một đứa bé lên
mƣời”, “Phi đi bắt rắn mối cho nó ăn”, “Phi giở cửa lồng, con bìm bịp đập
cánh xao xác”… Ngƣời kể chuyện quan sát và cảm nhận theo cảm nhận của
Phi: “Má cũng hay về thăm Phi, thƣờng là về một mình. Tất bật, vội vã,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
không làm gì cũng vội vã”, “Ba Phi thì hội họp, công tác liên miên, Phi ít gặp.
45
Ông thay đổi nhiều, tƣớng tá, diện mạo, tác phong nhƣng gặp Phi, cái nhìn
vẫn nhƣ xƣa, lạnh lẽo, chua chát, lại nhƣ giễu cợt đắng cay. Mà, ba thì dứa
khoát không nhìn con nhƣ vậy”… Trƣớc hết Phi là nhân vật hành động, là
chủ thể của hành động đƣợc kể lại, là chủ ngữ trong câu, anh thuộc về hiện
thực đƣợc nói đến. Nhƣng mặt khác, đọc tác phẩm này ta thấy xuyên suốt
truyện Phi cũng không phải là ngƣời kể chuyện xƣng bằng tên riêng mà có
một ngƣời nào đó nữa đang kể về Phi, kể về các nhân vật khác trong truyện.
Nhƣ vậy khi nói về câu chuyện của Phi trong mối quan hệ với ba má, với ông
già Sáu Đèo thì phải có một ngƣời khác làm công việc ghi biên bản, kể lại
những điều đó. Ngƣời ghi lại biên bản trong trƣờng hợp này không ai khác
chính là ngƣời kể hàm ẩn. Ngƣời kể chuyện đã ẩn đi, đứng đằng sau nhân vật
và các sự kiện để kể bằng cách đẩy nhân vật ra mắt độc giả. Và vì thế, trƣớc
mắt độc giả không thấy ngƣời nói, chỉ thấy hiện thực đƣợc trình bày. Chuyện
của Điệp, ngƣời kể chuyện hàm ẩn đã tựa vào điểm nhìn của nhân vật Điệp để
kể chuyện. Có nhƣ vậy, anh ta mới dễ dàng thâm nhập vào đời sống nội tâm
của nhân vật: “Điệp thấy ngoại rớt nƣớc mắt. Từ đó về sau Điệp luôn nói nhớ
má, nhớ má quá. Má lâu lâu mới về một lần. Có khi về có bầu, có khi về ẵm
theo em bé. Điệp đi đoàn, ít gặp má. Thôi không nhắc má nữa. Điệp thờ ơ, coi
nhƣ đó là một cách hành hạ má. Nghĩ cũng lạ, ở đời ngƣời ta tƣởng đâu chửi
mắng xâu xé nhau là mất tình. Lợt lạt nhau thì cũng có tình gì đâu” [88, tr.52-
53]. Hay trong truyện Nước chảy mây trôi, ngƣời kể chuyện hàm ẩn cũng đã
mƣợn giọng của một nhân vật trong truyện để kể - nhân vật Diệp. “Hôm trƣớc
ngày đi Đất Mới khai giảng niên học mới, Diệp chở mẹ đi nhổ răng. Trên
đƣờng về, Diệp nghe nƣớc mắt mẹ rớt trên lƣng mình. Mẹ than buồn, vì
miệng còn ngậm bông gòn nên giọng mẹ bệu bạo (hay tại khóc?), mẹ nói
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
không biết thầy Nhiên có chê mẹ già không. Diệp biết mẹ nói không thất, mẹ
46
khóc vì mai này mẹ đã xa Diệp mất rồi, chứ hai mẹ con Diệp hiểu thấu tới đáy
lòng, thầy Nhiên không phải là ngƣời coi trọng mấy chuyện lặt vặt đó (…).
Bữa cơm nào ba cũng tự tay rửa rau, dù mẹ rửa rồi, ba cũng phải rửa lại (Diệp
ngờ rằng, tình yêu của mẹ đã mất mát từ chuyện ấy, đến rửa rau mà cũng
không tin nhau). Ba không ăn ở quán vỉa hè, cự tuyệt những món ăn nhƣ
mắm, ba nói ăn vậy là không vệ sinh. Ba buộc mẹ mỗi tuần phải nấu sáu bữa
canh bí đỏ, để Diệp ăn cho thông minh, học giỏi, nối nghiệp ba. Nhƣng Diệp
chỉ thích làm cô giáo. Một cô giáo sẽ không vì đám học trò ngỗ nghịch mà
nguôi đi lòng thƣơng yêu, không vì danh hiệu thi đua này nọ mà nguôi đi tâm
huyết của mình. Giống nhƣ thầy Nhiên vậy” [88, tr.133-136]. Từ điểm nhìn
của Diệp, ta hình dung mối quan hệ giữa những nhân vật trong truyện kể với
nhau nhƣ thế nào: mẹ, bố Diệp, thầy Nhiên là đƣợc nhìn từ Diệp, trong mối
quan hệ với Diệp. Với kiểu kể này, ngƣời kể chuyện đã dễ dàng nắm bắt đƣợc
đời sống nội tâm của các nhân vật, dễ dàng hòa vào cái gia đình của Diệp và
đặt từng thành viên của gia đình ấy trƣớc độc giả mà không cần một lời giới
thiệu nào. Kiểu kể này còn tạo nên ở ngƣời đọc những cảm giác trực tiếp, gần
gũi với thế giới nhân vật khiến chúng ta không có cảm giác đang nghe kể mà
là đang đƣợc chứng kiến trực tiếp câu chuyện của gia đình Diệp.
2.1.4. Ngôi kể trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư – những vấn đề cần
bàn luận
Ngƣời kể chuyện là một nhân vật trong tác phẩm văn học tự sự. Tác giả
đã sáng tạo ra nhân vật này cũng nhƣ đã sáng tạo ra các nhân vật khác trong
truyện. Nhƣng khác với các nhân vật khác, nhân vật ngƣời kể chuyện đƣợc
tác giả trao cho nhiệm vụ (chức năng) đặc biệt là kể lại câu chuyện, hoặc tổ
chức để câu chuyện được kể ra, sao cho tác phẩm văn học trở thành một
chỉnh thể thẩm mĩ, thống nhất, toàn vẹn. Về ngôi thứ kể của ngƣời kể chuyện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ta thƣờng gặp ngƣời kể chuyện ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba, rất ít khi tồn
47
tại ngƣời kể chuyện ngôi hai. Truyện ngắn của nữ nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tƣ
cũng theo lẽ thƣờng này nhƣ chúng tôi vừa trình bày, phân tích, dẫn giải ở trên.
Nhƣng một số truyện của Nguyễn Ngọc Tƣ, ngôi kể trong truyện có
điểm khá riêng biệt so với các tác giả văn xuôi khác trong quá khứ cũng nhƣ
hiện tại. Chúng tôi chƣa định danh (gọi tên) đƣợc hiện tƣợng này, nên bƣớc
đầu xin đƣợc nêu lên là: Thông thƣờng trong mọi tác phẩm văn học tự sự bao
giờ cũng có ngƣời kể chuyện tồn tại ở ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba. Dù cho
ngƣời kể chuyện có để cho một vài nhân vật khác kể những khúc, đoạn, thậm
chí kể toàn bộ câu chuyện, thì ngƣời kể chuyện vẫn hiện diện với vai trò là
nhân vật bao quát, chỉ đạo toàn bộ truyện kể. Chính vì vậy, trong lí thuyết về
tự sự học cũng nhƣ thực tiễn của việc nghiên cứu phê bình văn học (dựa vào
tự sự học) ngƣời nghiên cứu đã xác định một cách rành rọt ngôi kể trong một
tác phẩm là ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba.
Nhƣng ở một số truyện của Nguyễn Ngọc Tƣ, sự thể không diễn ra nhƣ vậy.
Một chuyện hẹn hò, 10 trang đầu của truyện do ngƣời kể chuyện ẩn danh
(ngôi thứ ba) kể câu chuyện hẹn hò của một ngƣời phụ nữ với một ngƣời đàn
ông theo điểm nhìn, lời lẽ, giọng điệu của một nhân vật trong truyện (Cóc).
Họ là những cƣ dân ven biển, ngƣời phụ nữ đã chèo thuyền ra cái chòi ở đầm
ven biển – nơi nuôi thả hải sản trong thời điểm cơn bão sắp ập về:
“Cóc không thể kể tiếp, bởi vì nó phải lấy tay che mắt. Không thể kể, bởi
kể ra ngƣời ta sẽ phát hiện ra nó đang dòm lén qua kẽ tay, sẽ phát hiện ra Cóc
cũng giống nhƣ những kẻ tầm thƣờng (…), nó phát hiện ra chuyện không
may. Xuồng trôi. Cả hai chiếc đều tuột dây (…). Cóc hoảng hồn, nhảy chồm
lên, kêu “Xuồng trôi kìa! Xuồng trôi mất tiêu kìa!” [85, tr.110].
Lúc ngƣời phụ nữ giật mình thức dậy chị hoảng hồn kêu lên từng tiếng:
“ - Trời ơi! Anh! Ai lấy xuồng mình rồi. Mất hết rồi.
Cóc mắc cƣời, mƣa bão nhƣ vầy ai mà mò ra giữa đầm lấy xuồng. Nó trôi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
rồi bà chị ơi. Tui kêu rã họng, mấy ngƣời không nghe, ráng chịu…” [85, tr.110].
48
Ngay sau 10 trang là 8 dòng kết thúc truyện:
“Những ngày sau bão, tôi thƣờng một mình ra Đầm Sầu, tôi tự hỏi cơn
gió nào đã hắt mẹ tôi khỏi xuồng, và nơi nào mẹ ngã xuống, nơi nào mẹ bị
bão lấp vùi? Không đánh dấu đƣợc vào nƣớc, tôi khắc lên be xuồng, gần lái,
chỗ mẹ hay ngồi bơi. Một lần, ghé lại căn chòi hoang, tôi thấy con Cóc đang
nhìn mình, nhƣ khóc. Hay vì tôi đang khóc, nên nghĩ vậy…” [85, tr.116].
Đại từ “tôi” đã xuất hiện rành rẽ nên 8 dòng cuối của truyện đƣợc kể bởi
ngƣời kể chuyện ngôi thứ nhất. Vì vậy không thể xác định Một chuyện hẹn hò
có ngôi kể ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba mà ngôi kể của truyện phải là cả
ngôi thứ nhất cả ngôi thứ ba. 10 trang đầu có ngƣời kể ẩn danh ngôi ba còn 8
dòng văn bản cuối của truyện là ngôi kể thứ nhất. Không có một ngƣời kể
chuyện duy nhất, thống nhất, đủ sức bao quát cả đoạn văn trong văn bản vừa
nêu trên.
Ở Cánh đồng bất tận, trong 56 trang đầu của truyện đƣợc kể với ngƣời
kể chuyện xƣng tôi – một nhân vật trong truyện (ngƣời con gái tên Nƣơng).
Mở đầu truyện ta biết đƣợc một số thông tin: “Con kinh nhỏ nằm vắt qua một
cánh đồng rộng. Khi chúng tôi quyết định dừng lại, mùa hạn hung hãn dƣờng
nhƣ cũng gom hết nắng đổ xuống nơi này (…). Cha tôi tháo cái khung tre
chắn dƣới sàn ghe (…). Tôi bƣng cái cà ràng lên bờ nhóm củi” [83, tr.163-
164]. Cứ thế, xuyên suốt 56 trang, câu chuyện đƣợc kể từ ngôi thứ nhất.
Nhƣng đến 18 dòng kết thúc truyện, ta đọc đƣợc nhƣ sau: “…Mặt trời le
lói ánh sáng trở lại khi trên đồng chỉ còn hai thân thể nhàu nhừ. Ai đó vãi
từng chùm chim én lên cao, chúng cố trao liệng để khỏi phải rơi nhƣ lá.
tìm bất cứ cái gì để có thể che cơ thể nó dƣới mặt trời. Dƣờng nhƣ đứa con gái
đang chết, chỉ đôi mắt là rƣng rức chớp mở không thôi. Câu đầu tiên nó hỏi:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ngƣời cha cởi cái áo trên ngƣời để đắp lên đứa con gái. Ông ta bò quanh nó,
49
- Không biết con bị có con không, hả cha?
Nó hơi sợ hãi. Cảm giác một cái gì, nhỏ xíu nhƣng lanh lợi nhƣ con
loăng quăng đang ngụp lặn trong nó. Đứa con gái thoáng nghĩ, rớt nƣớc mắt,
trời ơi, có thể mình sẽ sinh con. Nhƣng nó chấp nhận việc ấy, dù phũ phàng
(với nó, chấp nhận cũng là một thói quen).
Đứa bé đó, nhất định nó sẽ đặt tên là Thƣơng, là Nhớ hay Dịu, Xuyến,
Hƣờng… Đứa bé không cha nhƣng chắc chắn đƣợc đến trƣờng, sẽ tƣơi tỉnh
và vui vẻ sống đến hết đời, vì đƣợc mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi
lầm của ngƣời lớn” [83, tr.218].
18 dòng này của văn bản này là lời kể của ngƣời kể chuyện ẩn danh ngôi
thứ ba. Và điều đó có nghĩa là không thể khẳng định mà không đính chính,
không cần giải thích thêm ngôi kể của Cánh đồng bất tận là ngôi thứ nhất hay
ngôi thứ ba (chỉ đƣợc chọn một trong hai ngôi vừa nêu).
Truyện Nước như nước mắt cũng có hiện tƣợng tƣơng tự. Trong 21 trang
đầu của truyện đƣợc kể bởi một ngƣời kể chuyện hàm ẩn ngôi thứ ba. Ngƣời
kể chuyện ngôi ba kể về cuộc đời của Sáo: lấy chồng rồi chồng Sáo bị ngƣời
ta hại chết, Sáo tìm cách trả thù cho chồng nhƣng kẻ thù của Sáo lại chính là
ngƣời yêu cô và ngƣời đó vẫn chờ đợi cô suốt bảy năm. Ở đây, ngƣời kể
chuyện đã ẩn đi, đứng đằng sau nhân vật và các sự kiện đƣợc kể.
Nhƣng ở đoạn cuối (3 dòng) của truyện ta bắt gặp một ngƣời kể xuất
hiện trực tiếp xƣng “tôi”: “… Đoạn, có ngƣời hỏi rồi hai đứa đó ra sao. Tôi
không biết, tôi đâu có lội theo chi. Thấy đi thì biết đã đi, vậy thôi” [86, tr.30].
Với sự xuất hiện của hai ngƣời kể chuyện với hai ngôi kể (ngƣời kể
chuyện ngôi thứ nhất trong 21 trang đầu truyện và ngƣời kể chuyện ngôi thứ
ba ở 3 dòng cuối) thì truyện ngắn Nước như nước mắt không có một ngƣời kể
chuyện duy nhất và nhƣ vậy cũng không có ngƣời kể chuyện với một ngôi kể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
duy nhất.
50
Qua việc khảo sát vừa nêu trên chúng tôi thấy ở một số truyện của
Nguyễn Ngọc Tƣ, ngôi kể của ngƣời kể chuyện không hiện diện duy nhất.
Nói cách khác, một số truyện của chị không có một ngƣời kể chuyện duy
nhất, bao quát, quán xuyến, thống trị toàn bộ truyện kể bởi trong truyện đã tồn
tại hai ngôi kể cả ngôi thứ nhất và cả ngôi thứ ba. Hai ngôi kể này có vai trò,
chức năng ngang quyền nhau.
2.2. Một số loại hình người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nếu dựa theo những tiêu chí khác nhau ta sẽ có những cách phân loại
khác nhau về loại hình ngƣời kể chuyện. Dựa vào mối quan hệ giữa ngƣời kể
chuyện và ngƣời đọc ta có ngƣời kể chuyện không đáng tin cậy và ngƣời kể
chuyện đáng tin cậy; dựa vào thái độ của ngƣời kể chuyện đối với cái đƣợc kể
ta có ngƣời kể chuyện khách quan và ngƣời kể chuyện chủ quan… Trong luận
văn này chúng tôi dựa trên tiêu chí điểm nhìn để chia ngƣời kể chuyện trong
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ thành các loại hình: ngƣời kể chuyện kể theo
điểm nhìn hạn chế - điểm nhìn của nhân vật và ngƣời kể chuyện kể theo điểm
nhìn toàn tri – ngƣời kể chuyện kể theo điểm nhìn biết hết.
2.2.1. Người kể chuyện kể theo điểm nhìn hạn chế
* Đây là trƣờng hợp ngƣời kể chuyện hạn chế điểm nhìn tự sự của
mình và điểm nhìn của nhân vật, anh ta thâm nhập vào cảm xúc, suy nghĩ của
nhân vật, nhìn thế giới theo con mắt của nhân vật. G.Genette gọi đây là
“ngƣời kể chuyện kể với tiêu cự bên trong” còn Todorov gọi là “ngƣời kể
chuyện bằng nhân vật”. Trong trƣờng hợp này, khoảng cách giữa nhân vật và
ngƣời kể chuyện dƣờng nhƣ không còn, nhân vật không còn điều gì bí ẩn đối
với ngƣời kể chuyện. Ngƣời kể chuyện có khả năng am hiểu sâu sắc mọi uẩn
khúc trong tâm hồn nhân vật.
Hầu hết truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ, ngƣời kể chuyện kể theo điểm
nhìn hạn chế là ngƣời kể chuyện đứng ở ngôi thứ ba từ bên ngoài nhƣng lại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tựa vào điểm nhìn nhân vật để kể, tạo thành hình thức tự sự đa chủ thể.
51
Có tác phẩm, ngƣời kể chuyện hàm ẩn hầu nhƣ chỉ tựa vào điểm nhìn
của một nhân vật. Một chuyện hẹn hò, trong 10 trang đầu ngƣời kể chuyện
đứng ở ngôi thứ ba từ bên ngoài tựa vào điểm nhìn nhân vật để kể - đó là
nhân vật con Cóc. Ngƣời kể chuyện đã trao quyền kể chuyện cho Cóc để cho
Cóc tự bộc lộ những suy nghĩ, cảm xúc của mình về sự kiện mà Cóc đã chứng
kiến. Đó là cảm nhận của Cóc về cơn mƣa bão đã tới trên Đầm Sầu: “Mƣa rồi.
Không phải là thứ mƣa nhão, ƣớt, đẫm nƣớc, dịu dàng mà Cóc từng quen
thuộc, có cảm giác mƣa hơi rát, trơ nhƣ một tiếng cƣời khan” [85, tr.105]. Là
những suy nghĩ của Cóc khi chứng kiến một câu chuyện hẹn hò lén lút, vụng
trộm giữa một ngƣời phụ nữ và một ngƣời đàn ông: “Họ ra đây từ lúc xế
chiều, khi trời vẫn còn một chùm nắng héo. Nhƣ thể họ tình cờ đi ngang qua
căn chòi hoang này, tình cờ thấy ngƣời quen và ghé lại” [85, tr.106]. Là sự
nghẹn ngào, xót xa, day dứt của Cóc khi nhớ lại cảm giác cuộc hẹn hò lén lút
nhƣ thế này mà Cóc từng trải qua: “Cóc cũng đã từng hẹn hò nên Cóc biết.
Nó bao gồm một chuỗi thua cuộc liên tục, mới đầu là sự choáng váng khi gặp
gỡ, ra về, cảm giác thất bại sẽ đau nghiến lòng ngƣời ta, mắc mớ gì mà mình
lại xao động dữ vậy cà, mình đâu có đƣợc xao động, mình đã không còn
quyền xao động. Những lần gặp sau thƣơng nhớ sẽ thít chặt hơn… Đi, rồi sao
nữa, ngày mai, tƣơng lai?… Cóc đã từng hẹn hò nên Cóc biết. Nặng nề,
thƣơng tổn” [85, tr.107]. Là niềm đồng cảm, thƣơng cảm của Cóc đối với
ngƣời phụ nữ kia: “Cóc muốn khóc, tội cho cái cảnh tận cùng tuyệt vọng của
chị. Và tận cùng cô đơn, dù ngƣời đàn ông kia có lại siết chị vào lòng. Cóc
mà là anh ta, Cóc chỉ ngồi im lặng, nghe câu chuyện của một ngƣời bạn nào
đó, nghe cái giọng dửng dƣng nhƣng che tiếng tim ngƣời đang nhói” [85,
tr.114]. Chính nhờ việc tựa vào điểm nhìn của Cóc nên ngƣời kể chuyện đã
tái hiện một cách chân thực những suy nghĩ, tâm trạng, cảm xúc chân thực,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
miên man của Cóc. Nhƣng có lúc ngƣời kể chuyện đã bộc lộ điểm nhìn hạn
52
chế của mình. Ngƣời kể chuyện không biết số phận của ngƣời phụ nữ sau
cuộc hẹn hò đó sẽ ra sao, không biết trong cơn mƣa bão, khi chị nhảy ào
xuống nƣớc “bƣơn bả vẹt sóng, nôn nả về phía bờ lá xa xăm” để tìm đƣờng
vào bờ thì bờ có đón nhận chị: “Cóc với ngó theo, màn mƣa che khuất tầm
nhìn, thấy cái đầu chị rƣớn cao, nhấp nhô nhƣ con rùa đang bơi, đầm thì xa,
rộng, sóng đang cồn lên, giận dữ. Không biết chị có đủ sức để chạm tay vào
bờ đất?” [85, tr.115-116].
Có tác phẩm, ngƣời kể chuyện hàm ẩn đã nƣơng theo điểm nhìn của
nhiều nhân vật để kể. Hiu hiu gió bấc có thể xem là một ví dụ tiêu biểu cho sự
luân phiên điểm nhìn này. Truyện đƣợc bắt đầu với điểm nhìn của ngƣời kể
chuyện hàm ẩn, kể lại chuyện một cách khách quan với cái nhìn từ bên ngoài:
“Ở cái xóm nhỏ ven thành phố nầy ngƣời ta nhắc tới anh hết còn nhiều hơn
chủ tịch tỉnh đi họp. Đứa nào hỗn hào, lƣời biếng, má nó bảo lại coi thằng Hết
kìa, ba mƣơi mấy tuổi đầu rồi, ngày đi làm thuê, làm mƣớn, không có chuyện
gì nó chê, chiều về lụi hụi chui vô bếp nấu cơm, giặt giũ cho cha già, hiếu
thảo thấy mà thƣơng…” [83, tr.29]. Thế nhƣng ngay sau đó điểm nhìn của
ngƣời kể chuyện hàm ẩn này đƣợc đƣợc chuyển từ chủ thể nhân vật này sang
chủ thể nhân vật khác. Đầu tiên là điểm nhìn của nhân vật chị Hoài: “Chị
Hoài nghe mà khóc không thôi, bảo với chị Hảo, có cái tiếng bạc tình ảnh
cũng gánh cho em rồi… Con ngƣời nầy, nghĩa biết trọng mà tình cũng thâm”
[83, tr.34-35]. Điểm nhìn của chị Hảo cũng góp phần soi sáng nhân vật anh
Hết: “Ơn nghĩa gì một chai dầu gió, nó chỉ làm anh hết đau ngoài da thịt, mà
trong lòng thì còn mãi. Chi vậy Hết ơi?” [83, tr.38]. Chính qua điểm nhìn của
ngƣời kể chuyện hàm ẩn bên ngoài, điểm nhìn của chị Hoài và chị Hảo mà
ngƣời đọc hiểu đƣợc khá rõ con ngƣời anh Hết: một ngƣời con hiếu thảo hết
mực và cũng là ngƣời trọng nghĩa, trọng tình. Tuy nhiên, nếu nhƣ toàn bộ câu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chuyện chỉ đƣợc kể bởi những điểm nhìn này thì truyện sẽ khó có thể tái hiện
53
đƣợc một cách sâu sắc, sinh động những suy nghĩ thầm kín, những xúc cảm,
tâm trạng của ngƣời thanh niên ở cái xóm Giồng Mới này. Chính vì thế, tác
giả nhất định phải viện dẫn đến điểm nhìn của anh Hết, phải tựa vào điểm
nhìn của anh thì mới mong nói đƣợc “điều tối hậu” về con ngƣời sống thâm
trầm, kín đáo này: “Chừng nầy tuổi rồi, mỗi khi anh đặt lƣng xuống bộ vạt, lại
nhớ ngơ nhớ ngẩn lời hát của tía anh ngày xƣa. Buồn lắm, nghe đứt ruột lắm.
Càng nhớ anh càng thƣơng ông (…). Anh chƣa dám nhìn thẳng vô mắt chị
Hoài để cƣời, chƣa dám nựng nịu con của Hoài mỗi khi chị bồng nó đi tiêm
ngừa. Chƣa thanh thản để chào nhau nhƣ một ngƣời bạn gặp một ngƣời bạn.
Hảo có hiểu không?” [83, tr.38]. Đây đúng là những tâm trạng, suy nghĩ của
ngƣời thanh niên hiếu thảo và rất coi trọng tình nghĩa. Nhƣng có lúc ta bắt
gặp sự không “toàn tri” của ngƣời kể chuyện trong truyện kể. Ngƣời kể
chuyện không biết khi nào anh Hết mới có thể quên đi tình yêu của mình với
chị Hoài để có thể đón nhận tình cảm mà chị Hảo dành cho anh: “Thêm một
mùa gió bấc nữa, chị Hảo vẫn chƣa lấy chồng. Ai lại cũng hỏi, chị chờ ai vậy
cà. Chị bảo chờ ngƣời ta xức dầu Nhị Thiên Đƣờng của chị mà hết đau, chờ
ngƣời ta đánh cờ mà trong tâm “Viễn ly điên đảo mộng tƣởng cứu cánh niết
bàn”, chờ ngƣời ta thôi buồn khi đƣa chốt qua sông. Nhƣng mà chờ tới chừng
nào lận? Ai mà biết” [83, tr.38-39].
Hay trong truyện Người năm cũ, ngƣời kể chuyện cũng tựa vào điểm
nhìn của nhiều nhân vật để kể. Truyện đƣợc bắt đầu bởi ngƣời kể chuyện là
Hiên (nhân vật chính). Hiên kể về sự gặp gỡ của cô với ngƣời thƣơng xƣa
của má: “Bảy năm rồi Hiên mới gặp ông. Ông ốm, xanh, ông không già đi
bao nhiêu nhƣng tóc đã rụng nhiều để lại cái trán rộng nhƣ sân bay Trà Nóc.
Hiên luôn luôn thấy ông gần gụi và thân thuộc, cái cảm giác ông luôn luôn có
mặt trong đời của Hiên mặc dầu chẳng thâm tình gì nhau” [84, tr.143]. Ngƣời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
kể chuyện kể về cảm nhận của mình về ngƣời đàn ông – ngƣời yêu cũ của má:
54
“Ngay từ khi còn vào tại chức, ông luôn xuất hiện trên mặt báo, trên tivi với
sự chân thật toát ra từ đôi mắt, một vẻ mặt trăn trở, đấu tranh. Hiên cho rằng
đôi mắt thể hiện đƣợc con ngƣời (…). Ông cƣời rất đẹp (đôi lúc có những nụ
cƣời nhƣ thế làm cho tim Hiên thót lên một tiếng hít hà) (…). Hiên nhận thấy
con ngƣời nầy luôn luôn vắt kiệt mình trong đám bùng nhùng thiện – ác, đúng
– sai, giả - chân… Cả trong tình yêu cũng vậy” [84, tr.143-146]. Ngƣời kể
chuyện cũng kể về ngƣời má của mình: “Má Hiên bị bức phải lấy ba Hiên
tháng chín, tháng tƣ năm sau giải phóng miền Nam. Cái khoảng khắc đó so
với cuộc đời ngắn ngủi biết bao nhiêu nhƣng đã trì níu cuộc đời má Hiên
xuống. Mấy mƣơi năm, cuộc đời má nhƣ hủ sành bể nát, không mảnh nào ráp
đƣợc với mảnh nào” [84, tr.151]. Điểm nhìn này của Hiên – ngƣời kể chuyện
đã dần chuyển sang điểm nhìn của ngƣời đàn ông (ngƣời thƣơng xƣa của má
Hiên). Ông kể về chuyện tình éo le của mình với một ngƣời phụ nữ (ngƣời
phụ nữ mà sau này là má Hiên): “Đó là thời đạn bom ác liệt, nhƣng sáng nào
cổ cũng chèo xuồng ra chi khu Rạch Ráng bán trầu. Tôi thƣơng cổ từ ốp trầu
cổ bó (…). Tôi thƣơng cổ từ ngón tay cái bấm trầu đã mòn khuyết nhƣ trăng
mùng tám (…). Cổ cũng thƣơng tôi thiệt lòng. Ngặt cái cổ là con gái xã
trƣởng Ba Chi khét tiếng ác” [84, tr.146-147]. Qua điểm nhìn của Hiên và của
ngƣời đàn ông đó ta thấy số phận bất hạnh của những con ngƣời bị lƣỡi dao
chiến tranh phạt ngang thành hai nửa cuộc đời. Nhƣng hơn hết họ vẫn luôn
nhớ về nhau, hƣớng về nhau và ngọn lửa tình yêu trong họ không bao giờ tắt.
Việc nhà văn lựa chọn hình thức ngƣời kể chuyện theo điểm nhìn hạn
chế trong một số tác phẩm có ý nghĩa nhất định. Với hình thức kể chuyện này,
ngƣời kể chuyện sẽ tạo cho ngƣời đọc ảo tƣởng về tính chân thực của câu
chuyện vì họ có cảm giác đang đƣợc nghe chính ngƣời trong cuộc tự kể
chuyện mình chứ không phải nghe qua một ngƣời thứ ba nào đó. Hơn nữa,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
với hình thức tự sự đa chủ thể tác giả đã khắc phục đƣợc cách nhìn chủ quan,
55
hời hợt, định kiến, tạo nên một cái nhìn mang tính khách quan, nhiều chiều về
con ngƣời. Hình thức tự sự này đã góp phần quan trọng trong việc tạo nên
một cấu trúc tự sự mang tính đối thoại trong tác phẩm – đó là sự đối thoại
giữa các cách nhìn nhận, đánh giá về con ngƣời.
2.2.2. Người kể chuyện kể theo điểm nhìn toàn tri
Todorov gọi đây là “ngƣời kể chuyện lớn hơn nhân vật”, Pospelov gọi là
“ngƣời trần thuật không nhân vật hóa mà đằng sau là tác giả” còn G.Genette
coi đây là trƣờng hợp “ngƣời kể chuyện kể theo tiêu cự bằng không”. Đặc
điểm của ngƣời kể chuyện kể theo điểm nhìn toàn tri là anh ta có tầm nhìn
“vƣợt lên trên”, có thể nhìn xuyên sang những sự kiện đƣợc kể. Ngƣời kể
chuyện luôn biết nhiều hơn và nói nhiều hơn bất cứ nhân vật nào trong tác
phẩm, anh ta vừa hiểu biết về các sự vật khách quan vừa hiểu biết sâu sắc về
tất cả các nhân vật: từ những hành động bên ngoài lẫn những suy nghĩ, cảm
xúc bên trong và cả những chuyển biến của tâm hồn. Tìm hiểu truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tƣ chúng tôi nhận thấy truyện ngắn của chị đƣợc kể bởi ngƣời
kể chuyện với điểm nhìn toàn tri chiếm tỉ lệ lớn hơn cả.
Đọc truyện Cải ơi ta thấy ngƣời kể chuyện rất am tƣờng trong việc kể lại,
miêu tả lại tỉ mỉ, chi tiết những hành động, lời nói bên ngoài và cả những suy
nghĩ thầm kín bên trong của nhân vật: “Ông già lắc đầu, thở dài, nghe buồn
xao xác nhƣ lá rụng hoa rơi, than điệu này hỏng biết cách nào tìm cho ra con
Cải”, “Ông đã tìm con nhỏ gần mƣời hai năm, đã đi qua chợ qua đồng, tới rất
nhiều quê xứ. Lúc nhỏ Cải mƣời ba tuổi, một bữa mê chơi nó làm mất đôi
trâu, sợ đòn, nó trốn nhà. Rồi con nhỏ không quay lại, vợ ông khóc lên khóc
xuống, bảo chắc là ông để bụng chuyện nó là con của chồng trƣớc nên ngƣợc
đãi hà khắc, đuổi xua. Ông lấy trời đất, thần phật, rắn rít và cả kiếp sau (mặc
dù cũng chƣa biết nó ra làm sao) ra thề nhƣng bà không tin, giận chẳng nhìn,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chớ thèm cƣời nói”, “Ông khăn gói bỏ xứ ra đi, bụng dạ đinh ninh dứt khoát
56
tìm đƣợc con Cải về”, “Ông già đứng im sững, ngơ ngác giây lát, môi run lập
bập hỏi Cải phải hôn con”, “Ông già nắn đầu, nắn vai nó với một nỗi vui chảy
tràn”... [83]. Với điểm nhìn toàn tri này, hình ảnh một ngƣời cha thƣơng yêu
con, khao khát mong tìm lại đƣợc con đƣợc ngƣời kể chuyện khắc họa một
cách sâu sắc.
Trong truyện Nhà cổ, ta thấy ngƣời kể chuyện đã thấu hiểu một cách sâu
sắc tình cảm, tâm trạng, nỗi lòng của các nhân vật: “Năm tôi mƣời sáu tuổi,
qua bên đó chơi, biết hai anh đều lặng lẽ để bụng thƣơng chị Thể mất rồi”;
“Chị hiền, dịu dàng nhƣ chiếc lá me, con trai xóm khác gặp một lần còn nhớ,
huống chi ba ngƣời họ lớn lên cùng nhau… Nhƣng nhƣờng qua nhƣờng lại
hoài, mãi không ai mở lời. Chú em nhịn ăn sáng, ốm ròm, mặt mày xanh ẻo
cắc củm dành tiền tha về cho chị Thể nào kẹp tóc, vòng bạc, dép, giày… Ông
anh chẳng mua gì, nhƣng thấy chị vo cơm thì nhảy vào thổi lửa, thấy chị sắp
giặt đồ, anh xách nƣớc để sẵn mấy thùng. Những buổi sớm mai, hai ngƣời
ngây dại múi lá dứa. Ngƣời em thức sớm học bài, thấy cảnh đó, đọc lung tung
những câu chẳng có nghĩa gì”.
cùng nhau xào nhân, nhồi bột, hấp bánh bao. Khói quây lấy cả hai, khói thơm
Truyện Cái nhìn khắc khoải, ngƣời kể chuyện am hiểu cặn kẽ hoàn cảnh,
cuộc sống của ông Hai. Nếu không có cái nhìn biết hết thì làm sao ngƣời kể
chuyện có thể kể lại đƣợc chuyện nhƣ thế này: “Đêm nào nhƣ đêm nấy, lùa
vịt vô chuồng, tắm táp qua loa, ông khom lƣng thổi phù phù vô cái bếp un cho
căn chòi đầy khói rồi nằm đƣa võng” [83, tr.53]. Nói “đêm nào cũng nhƣ đêm
nấy…” có nghĩa là sự việc đã xảy ra rất nhiều lần và ngƣời kể chuyện đều biết
hết, bây giờ đang tổng kết lại. Và nếu không có cái nhìn biết hết thì làm sao
ngƣời kể chuyện lại có thể kể đƣợc một cách cụ thể, rành rọt cuộc sống của
ông Hai và nhận định chắc chắn nhƣ thế này: “Ông làm nghề nuôi vịt chạy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đồng. Hôm nay ở đồng Rạch Mũi, ngày mai ở nhà Phấn Ngọn, xa nữa lại dạt
57
đến Cái Bát không chừng. Ông đậu ghe, dựng lều, lùa vịt lên những cánh
đồng vừa mới gặt xong, ngó chừng chừng sang những cánh đồng lúa mới vừa
chín tới và suy nghĩ về một vạt đồng khác lúa vừa no đòng đòng. Đời của ông là
một cuộc đời lang bạt” [83, tr.52]. Ngƣời kể chuyện đã thấu hiểu, cảm thông với
cuộc sống cô độc, lang bạt nơi đồng khơi của ông Hai.
Không chỉ am hiểu những lời nói, hành động, suy nghĩ, cảm xúc trên bề
mặt ý thức mà ngƣời kể chuyện kể theo điểm nhìn toàn tri còn có thể thấu
hiểu đời sống vô thức, tâm linh đầy bí ẩn của con ngƣời. Với sự miêu tả
những ảo giác, ám ảnh, giấc mơ của nhân vật, ngƣời kể chuyện đã tạo nên
một lăng kính mới để soi tỏ hết những miền bí ẩn những vùng sâu thẳm trong
tâm hồn con ngƣời. Nhân vật Tôi trong Khói trời lộng lẫy trong trạng thái tinh
thần căng thẳng và do chịu nhiều mất mát trong cuộc sống riêng tƣ nên
thƣờng chìm trong những ảo giác, chiêm bao: “Nhƣng khuya nay, khi tay tôi
vờn trên cái mũi lấm tấm mụn của Phiên, khi cái đầu gối xƣơng xẩu của nó co
lại thúc vào sƣờn tôi đau nhói, vẫn cảm giác thằng nhỏ đang rời đi xa lắm rồi.
Nó đi trên chiếc xáng cơm cùng những gã đàn ông lạ. Chiều qua, chiếc xáng
đã nhổ neo rời khỏi cồn (…). Mỗi chiêm bao là một lát cắt, một cảnh phim
dang dở về nơi đó. Có khi tôi thấy vía mình ngập ngừng đi vào một tòa nhà cũ
chìm lút trong một khuôn viên um tùm cây cỏ (…). Và trong những chiêm
bao hao khuyết tôi từng đêm, những cánh cửa của tòa nhà Viện di sản thiên
nhiên và con ngƣời luôn mở ra rất chậm (…). Một vài căn phòng giống nhƣ
biển, ngay lập tức khiến tôi chìm sâu, ngộp thở, nhƣng tôi hoàn toàn không
muốn vùng vẫy, chạy trốn”. Trong Cánh đồng bất tận, hình ảnh giấc mơ gắn
với “màu đỏ lạ lùng” đã trở thành nỗi ám ảnh của nhân vật tôi mỗi khi nhớ về
mẹ: “Một bữa tôi chiêm bao, chẳng đầu chẳng cuối gì, chỉ thấy vía má giãy
giụa trong tấm vải đỏ lạ lùng kia nhƣng nó thít chặt, riết lấy, siết dần cho tới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
khi má thành một con bƣớm nhỏ, chấp chới bay về phía mặt trời”. Điền
58
(ngƣời em trai của nhân vật tôi) do chịu nhiều mất mát trong cuộc sống, do
thiếu vắng tình yêu thƣơng nên có lần cậu bé đã chìm vào ảo giác: “Nó loay
hoay ở giữa một gò đất chùm gọng leo dày mịt, không biết vô đó bằng đƣờng
nào nhƣng không thể quay ra, có ngƣời đàn bà ôm rổ bánh quy lại, biểu nó ăn.
Đói quá, thằng Điền ngốn gần chục cái. Lúc tôi tìm đƣợc nó nhờ tiếng rên ƣ
ử, bụng nó đã lặc lè, và miệng đầy sình đất. Quay đi quay lại không có bóng
ngƣời, chỉ có cái mả lạng nằm sát đất, rời rợi cỏ xanh. Những ngày sau nầy,
tôi một mình trở lại gò đất, nhƣng chờ hoài không thấy ma hiện ra. Nghe
thằng Điền kể, ngƣời đàn bà đó thiệt hiền, chỉ đau đáu vuốt tóc nó và ánh nhìn
chan chứa thƣơng yêu”. Ảo giác đƣợc yêu thƣơng ở nhân vật Điền dƣờng nhƣ
là một sự bùng nổ tâm lí nó thể hiện nhu cầu và khao khát đƣợc yêu thƣơng,
đƣợc chăm sóc của cậu.
Sự hiểu biết thông thái của ngƣời kể chuyện kể theo điểm nhìn toàn tri
còn thể hiện rất rõ ở việc anh ta không chỉ kể chuyện mà còn bình luận, giải
thích về những điều mình kể. Trong Nhớ sông, ngƣời kể chuyện lí giải
nguyên nhân vì sao gia đình ông Chín lại gắn với cuộc sống trên ghe: “Nhà
nghèo, ra riêng, gia đình chỉ cho hai công đất. Năm Giang ba tuổi, Giang lên
sởi. Ông Chín bán đất cứu con. Số tiền còn dƣ lại, ông mua chiếc ghe nhỏ đi
bán hàng bông. Cả nhà dắt díu nhau linh đinh sông nƣớc” [83, tr.120]. Trong
Dòng nhớ, những lời giải thích bình luận sâu sắc của ngƣời kể chuyện giúp
ngƣời đọc hiểu rõ nỗi đau đớn, sự day dứt khắc khoải nhớ thƣơng của ngƣời
đàn ông vì sức ép gia đình mà đành phải phụ bạc vợ, bỏ ngƣời vợ một mình
lênh đênh trên sông nƣớc: “Ba tôi là ngƣời của sông. Không phải ông nhớ
vƣờn xƣa mà chống gậy về, ông nhớ sông, một ngày ba bốn lƣợt lủi thủi
chống gậy ra bến, đôi mắt nhƣ đang nhìn da diết, mà không biết nhìn ai, chỉ
thấy mênh mông vậy thôi. Chơ vơ, cô độc. Tựa nhƣ ông đang ở đây nhƣng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tâm hồn ông, trái tim ông, tấm lòng ông chảy tan vào dòng nƣớc tự lâu rồi”;
59
“Mà, cũng vì ba tôi quên không đƣợc, má tôi mới thƣơng ông nhiều, say nầy
lớn lên, biết yêu thƣơng rồi, tôi mới ngộ ra. Con ngƣời ta, nhất là đàn ông
thƣơng ai mà vì nỗi gì đó quay lƣng lại quên mất tiêu thì đúng là không tử tế,
không đáng tin chút nào” [83, tr.131-133].
Không phải ngẫu nhiên mà trong hầu hết truyện ngắn của mình Nguyễn
Ngọc Tƣ lại lựa chọn hình thức ngƣời kể chuyện toàn tri. Với hình thức kể
chuyện này, nó cho phép tầm nhìn của ngƣời kể chuyện đƣợc mở rộng tối đa,
có thể bao quát đƣợc cuộc sống từ nhiều chiều, nhiều phía khác nhau qua đó
tái hiện cuộc sống chân thực, toàn diện, sâu sắc hơn. Ngƣời kể chuyện có thể
kể lại nhiều sự kiện, nhiều hành động, nhiều suy nghĩ của nhân vật trong
nhiều quãng thời gian khác nhau và ở nhiều nơi khác nhau.
Thứ hai, truyện kể theo điểm nhìn toàn tri với sự xuất hiện khá nhiều lời
bình luận, giải thích của ngƣời kể chuyện đã có ý nghĩa định hƣớng cho ngƣời
đọc trong quá trình tiếp nhận tác phẩm. Họ cảm thấy hoàn toàn tin tƣởng vào
sự hiểu biết thông thái của ngƣời kể chuyện. Tuy nhiên, có nhiều trƣờng hợp
vai trò chỉ bảo của ngƣời kể chuyện quá lộ rõ khiến cho câu chuyện thiếu đi
sự hấp dẫn tự nhiên. Đây cũng chính là điểm hạn chế mà phần lớn những
truyện sử dụng hình thức ngƣời kể chuyện kể theo điểm nhìn toàn tri thƣờng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
gặp phải.
60
Chương 3
NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU KỂ CHUYỆN TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ
3.1. Ngôn ngữ kể chuyện
3.1.1. Một vài đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ kể chuyện trong truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư
3.1.1.1. Ngôn ngữ kể chuyện đậm tính phương ngữ Nam Bộ
Chịu ảnh hƣởng của ngôn ngữ đời sống, ngôn ngữ trần thuật trong truyện
ngắn đƣơng đại bộc lộ khá rõ đặc trƣng văn hóa vùng miền. Phƣơng ngữ đƣợc
sử dụng có chủ ý chứ không chỉ thuần túy do chất giọng “bản địa” của nhà
văn. Ngƣời trần thuật không những chuyển tải nội dung truyện kể mà còn gửi
gắm những giá trị văn hóa nằm sâu dƣới lớp ngôn ngữ. Thể hiện đậm đặc chất
giọng địa phƣơng và tạo thành một dòng văn học vùng miền chỉ có thể là
mảng truyện ngắn Nam Bộ. Trong dòng truyện ngắn phƣơng Nam ấy,
Nguyễn Ngọc Tƣ đƣợc xem là một tác giả tiêu biểu với nhiều tác phẩm hay.
Đến với văn Ngọc Tƣ, độc giả có thể hình dung rất rõ về vùng đất Nam Bộ.
Từ những mé đìa lục bình, đám trâm bầu, chòm quao, trái giác nấu canh chua
bông súng đến cách gọi tên nhân vật (ông già Năm Nhỏ, anh Hai Nhớ, dì út
Thu Lý, Sáu Tâm…) hay lời ăn tiếng nói thƣờng ngày (trời đất, nói gì lãng
xẹt vậy ta, nói chơi hoài, nhƣ vầy, chút đỉnh…) đều gợi lên dáng hình thiên
nhiên, con ngƣời xứ sở miền Nam. Trong ngôn ngữ truyện ngắn của chị việc
khai thác, vận dụng nhuần nhị và có hiệu quả cao vốn hệ thống từ địa phƣơng
Nam bộ đã làm bật nổi những nét văn hóa về vùng đất và con ngƣời vùng
sông nƣớc miền Tây Nam bộ.
Trƣớc tiên, phƣơng ngữ Nam Bộ trong truyện ngắn của chị đƣợc thể hiện
ở cách xƣng hô trong giao tiếp rất đặc trƣng của ngƣời dân vùng Đồng bằng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sông Cửu Long: cách gọi tên ngƣời theo thứ tự sinh ra trong gia đình nhƣ ông
61
Tƣ, bác Chín, chú Ba, dì Út, thiếm Sáu, anh Hai,… Hoặc gọi kèm tên thật với
thứ tự sinh: Sáu Tâm, Hai Giang, Tƣ Lai, Chín Vũ, Út Vũ, Mƣời Hƣng,…
Xƣng hô với ngƣời trong gia đình thƣờng hay sử dụng lớp từ: má, tía, chế, má
sắp nhỏ, má con tao, má nó, ba thằng, ba nó, mầy, tao, bây, tụi bây, tụi nó,
mấy đứa nhỏ, sắp nhỏ,… Xƣng hô với những ngƣời ngoài xã hội là các lớp từ
nhƣ: tui, qua, nhỏ, ông già, ngƣời ta, thằng chả, mấy ổng,…
Thứ hai là hệ thống từ thể hiện sắc thái biểu cảm của ngƣời nói đặt ở
cuối những câu cảm hay câu nghi vấn. Đây cũng là lớp từ rất đặc trƣng trong
ngôn ngữ giao tiếp của ngƣời miền Tây Nam bộ nhƣ: hổng, á, à, hen, hôn,
phải hôn, ta, nghe, nghen, vậy nghen, chớ, chớ bộ, mà, lận, quá chừng, quá
trời, vậy cà, bộ, hả, ha…
Thứ ba là hệ thống từ biến âm thể hiện rõ đặc trƣng ngôn ngữ của ngƣời
dân vùng sông nƣớc Đồng bằng sông Cửu Long so với ngƣời dân ở các vùng
miền khác nhƣ: mầy (mày), nầy (này), thiệt (thật), ổng (ông ấy), cổ (cô), ảnh
(anh ấy), bển (bên), biểu (bảo), bịnh (bệnh), sanh (sinh), gởi (gửi), ác nhơn
(ác nhân)… Hệ thống từ biến âm này đƣợc lặp lại khá thƣờng xuyên góp phần
làm cho ngôn ngữ truyện ngắn của chị thuần chất Nam Bộ.
Thứ tƣ là hệ thống từ thể hiện rất rõ đặc trƣng miền sông nƣớc Đồng
bằng sông Cửu Long nhƣ: Sông Dài, Cù lao Mút Cà Tha, Mũi So Le, đồng
Rạch Mũi, Bến đò Xóm Miễu, Kinh Cỏ Chát, Chợ Ba Bảy Chín, Rạch Ô môi,
xuồng, ghe, giang, mƣơng, tràm, bần, cù lao, cánh đồng, vàm, cây còng, cây
tra, trâm bầu, vịnh dừa, bìm bịp, bàu sen, đầm, bông súng, bông trang, bình
bát, cá sặc, hàng bông, cá chốt, lung dừa, dừa nƣớc, vọng cổ/cải lƣơng, gánh
hát, đèn hột vịt, áo bà ba, cà ràng, vịt chạy đồng…
Thứ năm là cách diễn đạt rất Nam Bộ: nôm na, mộc mạc, hóm hỉnh, dễ
hiểu và dễ cảm. Đây cũng là một bằng chứng khẳng định sự ảnh hƣởng của
môi trƣờng và văn hóa vùng đất Nam bộ đến nhận thức cũng nhƣ tƣ duy nghệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thuật của Nguyễn Ngọc Tƣ.
62
Làm nên sức hấp dẫn, lôi cuốn trong mỗi truyện ngắn của Nguyễn Ngọc
Tƣ không phải ở kho từ vựng miền Nam phong phú, dồi dào mà là ở chỗ
phƣơng ngữ đã đƣợc chị đƣa vào đúng lúc, đúng chỗ góp phần khắc họa chiều
sâu tâm lý nhân vật và cảnh sắc thiên nhiên vùng sông nƣớc Nam Bộ, “những
câu chữ tƣởng nhƣ rất quê mùa nhƣng khi đƣa vào truyện của Nguyễn Ngọc
Tƣ ngƣời đọc cảm thấy rất “văn chƣơng” – “văn chƣơng Nam Bộ” [97, tr.1].
3.1.1.2. Ngôn ngữ kể chuyện đậm chất trữ tình
Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ mang đậm
chất trữ tình, nó thƣờng hƣớng tới tâm trạng, dòng ý thức của nhân vật hơn là
hƣớng tới sự kiện. Đọc truyện ngắn của chị, ngƣời đọc có cảm giác thƣ thái,
an bình và bị cuốn hút bởi mạch truyện, văn phong êm dịu, nhẹ nhàng nhƣng
không hề nhàm chán. Mỗi câu văn nhƣ một lời thủ thỉ, tâm tình đầy quyến rũ
và tạo cảm giác đây là những bài thơ đƣợc viết bằng văn xuôi.
Truyện Huệ lấy chồng, sự kiện chỉ có việc Huệ sắp xếp đồ đạc chuẩn bị
cho đám cƣới của mình vào ngày mai nhƣng hầu nhƣ toàn bộ lời kể của ngƣời
kể chuyện là hƣớng vào thể hiện và miêu tả những suy nghĩ, cảm xúc của
nhân vật trƣớc sự kiện này. Đó là nỗi nhớ nhà khi Huệ nghĩ ngày mai cô đã
phải cất bƣớc về nhà chồng: “Sáng mai thôi nó sẽ xuống vỏ rồi về ở miết nhà
ngƣời ta. Nhớ cái cối xay bột dựa hàng kệ đựng tiêu tỏi, dầu ăn, nƣớc mắm…
Con mèo ngủ thiu thiu trên đầu bộ ngựa, mấy cái võng giăng quân quần
quanh bồ lúa. Lối vô nhà trải đất đỏ, ngƣời đi ra đi vô đã mòn mấy hòn tròn
tròn trọc lóc…” [83, tr.43-44]. Là những suy nghĩ, lo lắng rất thực của cô
trƣớc khi về nhà chồng: “Về bên nhà chồng không biết còn rảnh rỗi vừa đƣa
võng vừa nghêu ngao hát. Nhà Thuấn vƣờn rộng, ruộng cũng nhiều, công
chuyện chắc vô số” [83, tr.42].
Trong truyện Cải ơi, sự kiện dƣờng nhƣ chỉ có việc ông già Năm Nhỏ đi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tìm đứa con riêng của vợ tên là Cải. Toàn bộ lời kể của ngƣời kể chuyện
63
hƣớng vào miêu tả những nỗi niềm, tâm trạng, cảm xúc và cả những suy tƣ
dằn vặt của ông Năm trƣớc sự việc này. Đó là nỗi đau đớn khi ông bị dèm pha
nghi oan là ngƣợc đãi con: “Đã đau quá trời đất rồi, cái cảnh bà con hàng xóm
xầm xì, chỉ trỏ, ngƣời ở xa còn thuê đò dọc lại nhà ngó nghiêng, đâu, thằng
cha giết con đâu? Đâu, con nhỏ bị chôn chỗ nào? Đã đau quá chừng, khi ông
nhìn sâu trong mắt của vợ mình thấy không còn lấp lánh thƣơng yêu, chỉ tối
tăm những ngờ vực, hoài nghi…” [83, tr.9]. Là niềm hạnh phúc ngập tràn,
niềm xúc động nghẹn ngào khi ông tƣởng nhƣ đã tìm thấy con: “Ông già nắn
đầu, nắn vai nó với một nỗi vui chảy tràn, trời đất, ba nhìn không ra, bây lớn
dữ dằn vầy. Ông đi vài bƣớc, ông day lại nhìn Diễm Thƣơng (cho chắc là nó
đang đứng đây và có thiệt trên đời)” [83, tr.10]. Các truyện Chuyện của Điệp,
Lý con sáo sang sông, Bởi yêu thương, Cuối mùa nhan sắc, Biển người mênh
mông, Dòng nhớ, Nhớ sông, Làm má đâu có dễ, Một mối tình… cũng vậy,
ngôn ngữ của ngƣời kể chuyện tập trung xoáy sâu vào những tâm trạng, nỗi
niềm, suy nghĩ, trăn trở của nhân vật hơn là đuổi theo mạch sự kiện.
3.1.1.3. Ngôn ngữ kể chuyện bộc lộ rõ thái độ chủ quan của người kể chuyện
Khác với ngôn ngữ kể chuyện mang tính khách quan của Nguyễn Huy
Thiệp, ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ bộc lộ rất rõ
thái độ chủ quan của ngƣời kể chuyện. Đọc Cánh đồng bất tận, trong 56 trang
đầu ta thấy thấm đẫm trong mỗi lời kể là tình cảm, sự đánh giá của ngƣời kể
chuyện đối với nhân vật và các sự việc đƣợc kể lại: “Chúng tôi vô định hơn
bất cứ ngƣời nuôi vịt chạy đồng nào. Vì những cuộc tình của cha tôi ngày
càng ngắn ngủi. Cha tôi đã có vẻ bình thƣờng, hay nói cƣời, hồ hởi trong
những lúc có ngƣời (chữ “ngƣời” nầy không tính hai chị em tôi). Nhiều lúc
tôi không giấu đƣợc thảng thốt, cứ nghĩ mình đã gặp lại cha-của-ngày-xƣa…
Không, lúc chỉ một mình, cha tôi đáng sợ hơn thế. Cha giống nhƣ con thú trở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
về tổ sau khi no mồi. Con thú nằm mơ màng nhấm nháp lại hƣơng vị của
64
miếng mồi, và ngẫm ngợi thòm thèm con mồi kể tiếp”[83, tr.195]; “Cha đẩy
đó, thật khó để phân biệt, chúng tôi bỏ đi hay chạy trốn (…). Chị em tôi hết sức
cố gắng để sự giận dữ, chán chƣờng của mình không bùng cháy” [83, tr.197].
chúng tôi trƣợt dài vào nỗi thiếu thốn triền miên. Mỗi lần rời khỏi một nơi nào
Lời kể trong Lý con sáo sang sông cũng thể hiện rất rõ thái độ của ngƣời kể
chuyện đối với mối tình dang dở của Phi với Út Thà: “Nét chữ không bay
bƣớm trong tấm thiệp mộc của Út Thà mang cho tôi một cảm giác lạ lùng.
Vui, buồn, chua xót lẫn lộn…” [87, tr.73].
3.1.1.4. Ngôn ngữ kể chuyện của Nguyễn Ngọc Tư mang đậm tính đối thoại
Lời kể của ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ hƣớng
trực tiếp đến ngƣời đọc, lôi kéo ngƣời đọc cùng tham gia vào câu chuyện. Có
nhiều khi, ngƣời kể chuyện bộc lộ những nhận xét, quan niệm hoàn toàn
mang tính chủ quan và khiêu khích ngƣời đọc, buộc ngƣời đọc phải lên tiếng.
Chẳng hạn trong Cuối mùa nhan sắc và Làm má đâu có dễ ngƣời kể chuyện
đã bộc lộ một quan điểm về ngƣời nghệ sĩ mà độc giả nhất là những ai là nghệ
sĩ sẽ tỏ thái độ hoặc là đồng tình hoặc là phản đối: “Nghệ sĩ mà, miễn đƣợc
hát, miễn mà hát có ngƣời nghe là sƣớng rồi [83, tr.92]; “…nghệ sĩ mà, ít ai
coi trọng chuyện gia đình” [84, tr.85]. Ngƣời kể chuyện cũng đƣa ra vấn đề
tranh luận về tình yêu: “Mà, kiểu yêu tinh thần để nhìn nhau, để nắm tay, vuốt
tóc, để nín nhịn và hi sinh chỉ tồn tại trong văn chƣơng” [83, tr.206]. Mỗi
ngƣời đọc tùy theo quan niệm, kinh nghiệm sống có thể có những câu trả lời
khác nhau. Ở một truyện khác, ngƣời kể chuyện lại đƣa ra một câu hỏi mà có
lẽ nó sẽ là nỗi băn khoăn, trăn trở cho những ai là nghệ sĩ gắn cuộc đời với
sân khấu: “Trời ơi, bọn nghệ sĩ mình, gạt bỏ đời đau, sống trọn lòng trên sân
khấu, đƣợc mấy ngƣời?” [84, tr.87].
Đặc biệt tính tranh biện, đối thoại trong ngôn ngữ kể chuyện truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tƣ đƣợc thể hiện ở những cuộc đối thoại trong ý thức của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngƣời kể chuyện: “Giá tôi có thể ở lại Xóm Xẻo, sống một đời nông dân nhƣ
65
ba tôi. Chiều đi ruộng về nằm võng nghe đài Hậu Giang ca cải lƣơng, tối ra
Đầm đặt lú. Trời thanh, mây tạnh. Chuyện “vĩ mô” có ngƣời “vĩ mô” lo. Đằng
này tôi ra đời. Gặp biết bao nhiêu ngƣời, gặp bao nhiêu chuyện nhƣ chuyện
của ông Tƣ Đờ bạn ba tôi đây (…). Mà sao bây giờ tôi bỏ ông vậy? Tôi quên
ông vậy? Tôi có già đâu? Thôi, buồn quá. Tôi thấy mình thà chết còn sƣớng
hơn, chứ còn trẻ trai mà sống làm chi dửng dƣng, tạnh quẽ với cuộc đời nhƣ
thế này” [87, tr.37-43]. Đối thoại trong độc thoại nội tâm đã cho ta thấy đƣợc
quá trình dằn vặt, đối thoại giữa hai ý thức, hai quan niệm: một bên là quan
niệm về con ngƣời sống một đời nông dân bình dị mà giàu tình nghĩa còn một
bên là quan niệm về con ngƣời sống trong vòng xoáy của cuộc đời với những
lo toan, tính toán mà thờ ơ, vô cảm… Chính tính tranh biện, đối thoại này của
ngôn ngữ kể chuyện đã khiến cho ngƣời đọc khi đọc xong tác phẩm cứ phải
tiếp tục suy nghĩ, trăn trở về những vấn đề mà ngƣời kể chuyện đã đặt ra
trong đó.
Có lẽ chính những đặc điểm này trong ngôn ngữ của ngƣời kể chuyện đã
tạo nên nét độc đáo tạo, lôi cuốn, hấp dẫn trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tƣ. Vì nó tạo điều kiện cho ngôn ngữ của ngƣời kể chuyện có thể đi sâu vào
miêu tả “dòng ý thức” của nhân vật, miêu tả những bí ẩn, quanh co, phức tạp
trong chiều sâu tâm hồn… Thông qua ngôn ngữ kể chuyện, nhân vật hiện lên
nhƣ một cá nhân có ý thức sâu sắc – họ không chỉ phô diễn niềm vui, nỗi
buồn của mình mà còn luận giải, phân tích vì sao mình lại vui, lại buồn nhƣ
thế. Đây cũng chính là biểu hiện của tính hiện đại trong lời kể của truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tƣ.
3.1.2. Các thành phần cấu tạo nên ngôn ngữ kể chuyện
3.1.2.1.Thành phần lời kể
Trong tác phẩm tự sự lời kể chiếm một tỉ lệ lớn và có vai trò quan trọng, nó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
giúp ngƣời kể chuyện tổ chức nên một cấu trúc tự sự. Khảo sát trong truyện
66
ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ ta thấy có sự hiện diện của hai dạng lời kể: lời kể một
giọng và lời kể nhiều giọng.
Lời kể một giọng là: “lời kể hƣớng tới sự vật nhằm tái hiện, giới thiệu về
nó” [61, tr.178]. Đây là loại lời kể đơn giản nhất. Chức năng của lời kể một
giọng trong tác phẩm là tái hiện các sự kiện, hiện tƣợng của đời sống làm cho
đời sống hiện lên chân thực trong tính cụ thể và sinh động của nó. Trong
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ, lời kể một giọng đóng vai trò khá quan trọng.
Nó thể hiện cái nhìn sâu sắc, cái khiếu quan sát nhạy bén, tinh tƣờng của tác
giả đối với hiện thực. Đó có thể là lời kể về một sự kiện: “Đồng Trảng Cò
rộng gần hai mƣơi hecta, phía bắc giáp rừng tràm, phía nam giáp biển, xóm
nằm bên con kinh ra Hòn Đá Mốc. Ba năm trƣớc, tỉnh quyết định thu hồi và
quy hoạch Trảng Cò làm khu du lịch văn hóa sinh thái lớn nhất nhì đồng
bằng” [88, tr.30]; “Năm 1887, Colègan, một tu sĩ ngƣời Pháp đã đặt những bƣớc
chân đầu tiên. thám hiểm đỉnh Puvan. Và lần đầu tiên trong đời, ngƣời đầu tiên
trong lịch sử vùng đất, ông đã nhìn thấy cây sầu (Oghdgerygwbbvchfh gfdutvyt)
nở hoa. Trong những đoạn ghi chép rời rạc, run rẩy, ông viết, “những đóa hoa
sầu đẹp đến nỗi đáng đánh đổi cả cuộc đời ngƣời để đƣợc trông thấy chúng dù
chỉ một lần”. Và ông ta đã chết ngay sau đó, chết lặng lẽ trên dãy núi Puvan bí
ẩn” [85, tr.41]. Đó cũng có thể là lời kể về cảm xúc, tâm trạng: “Cái cảm giác
chỉ có em và tôi và cây cỏ dại trên đồng làm tôi thấy dễ chịu. Thậm chí tôi
chủ động nắm tay em, và bàn tay nhỏ nhắn đó thoáng lạnh đi vì bất ngờ” [85,
tr.95]; “Nó ngồi sau lƣng thầy (nhƣ nhiều lần ngồi sau thầy đi mua kẹo, nút
áo, chỉ may cho mẹ), mà lòng nghe dịu ngọt lạ thƣờng, chợt nghe thèm đến
rớt nƣớc mắt đƣợc nép vào lƣng, đƣợc choàng tay ôm co ếch thầy” [88,
tr.139]; “Phi không nói gì hết, lòng anh lặng đi, nghe nhói ran cả ngực mà
không biết niềm nhớ nó đang cựa quậy chỗ nào. Lâu lắm rồi mới có ngƣời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhắc anh chuyện tóc tai” [83, tr.106]. Lời kể một giọng thƣờng tạo cho ngƣời
67
đọc cảm giác chân thực và tin cậy. Tuy nhiên, nhìn chung đây là dạng lời có
cấu tạo tƣơng đối đơn giản.
Lời kể nhiều giọng: “là lời kể vừa hƣớng vào tái hiện đối tƣợng, lại vừa
đối thoại ngầm với lời ngƣời khác ngoài đối tƣợng, hoặc đối thoại ngầm với
chính đối tƣợng” [61, tr.178]. Theo M.Bakhtin thì đây là loại lời phát triển
nhất và ông đã lập bảng phân loại khá chi tiết. Lời kể nhiều giọng trong
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ đƣợc biểu hiện qua một số dạng cơ bản sau:
Thứ nhất là dạng lời kể nửa trực tiếp
Nếu nhƣ lời gián tiếp là lời ngƣời kể chuyện ngôi ba kể về đối tƣợng, lời
trực tiếp là lời nhân vật thông qua độc thoại và đối thoại thì lời nửa trực tiếp
là kiểu lời nói kết hợp đồng thời hai hình thức phát ngôn gián tiếp (bởi ngƣời
kể chuyện) và trực tiếp (bởi nhân vật) nói trên. Lời nửa trực tiếp là “lời trần
thuật nói thay ý nghĩ nhân vật, nhằm bộc lộ nội tâm nhân vật” [61, tr.180].
Trong truyện kể, ngôn ngữ tác giả chủ yếu lại đƣợc thể hiện bởi ngôn ngữ
ngƣời kể chuyện, nên xét từ phƣơng diện trần thuật học, có thể xem lời nửa
trực tiếp là lời ngƣời kể chuyện nhƣng mang ngôn ngữ nhân vật (xuất phát từ
điểm nhìn nhân vật). Đây là kiểu “câu hàm ẩn nhiều chủ thể”, “câu lai ghép”,
theo cách gọi của Bakhtin.
Truyện ngắn Việt Nam từ sau 1986 hay sử dụng kiểu lời nửa trực tiếp để
đến gần với cuộc sống đa chiều. Đây là phƣơng thức trần thuật gắn với tƣ duy
lí luận hiện đại, có hiệu quả trong việc khám phá dòng tâm trạng - phƣơng
diện bộc lộ rõ nhất tƣ duy phức hợp của con ngƣời. Không đơn nghĩa nhƣ lời
trực tiếp, lời nửa trực tiếp thƣờng mở ra nhiều hƣớng tiếp nhận, trở thành kiểu
lời nói đặc trƣng cho ngôn ngữ trần thuật phức hợp, đa thanh.
Một trong những đặc điểm đáng lƣu ý của lời nửa trực tiếp là tính song
điệu (giọng ngƣời kể và giọng nhân vật lẫn vào nhau). Đây là kiểu lời nói có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sự hòa trộn giữa ngôn ngữ ngƣời kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật: “Lúc về
68
Diệp ôm vai mẹ, Diệp bảo mớ khô cá sặc rằn này hôm nào mẹ tiễn con đi, mẹ
nƣớng rồi xé trộn xoài sống, con thích món này lắm” [88, tr.142]. Thông điệp
Diệp “ôm” vai mẹ, Diệp “bảo” thích món cá khô trộn xoài sống (bao hàm cả
hành động của nhân vật) đƣợc ngƣời kể chuyện truyền đạt lại. Lời kể này
chứa đựng ngôn ngữ nói biểu cảm của nhân vật nên lời ngƣời kể chuyện và
lời nhân vật hoà vào nhau. Từ điểm nhìn nhân vật, mƣợn ngôn ngữ và giọng
điệu nhân vật, ngƣời kể chuyện trong nhiều tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tƣ đã
duyên dáng kể chuyện với con mắt tinh tƣờng của ngƣời trong cuộc. Đó là
ngôn ngữ trong trẻo nhƣng nhiều suy tƣ của Diệp ở những độc thoại nội tâm
đƣợc “thốt lên” bởi ngƣời kể chuyện: “Đâu nè, đâu phải muốn là làm, cũng
phải suy nghĩ đắn đo dữ lắm. Coi lại, làm gì có chuyện con ngƣời đƣợc sống
hồn nhiên nhƣ nƣớc chảy mây trôi?” [88, tr.143]. Ngôn ngữ trần thuật trở nên
giàu sức gợi nhờ những lời nửa trực tiếp và những câu chuyện đời ngƣời
trong tác phẩm Nguyễn Ngọc Tƣ càng sâu sắc, lan tỏa trong lòng ngƣời.
Thứ hai là dạng lời kể phong cách hóa: “là lời trần thuật bằng giọng
ngƣời khác mà khuynh hƣớng nghĩa cùng chiều với lời giọng ấy, để tạo sắc
thái, không khí cá thể” [61, tr.179]. Chẳng hạn trong Làm mẹ có đoạn: “Dì
Diệu kêu chú Đức về, nƣớc mắt ròng ròng khi thấy bóng chồng qua cửa. Chú
đau lòng bảo thôi bỏ đi, dì Diệu cãi, “em bỏ không đành anh à”. Chú cũng
thấy rằng bỏ không đƣợc. Máu mủ ruột ràng mình mà bỏ sao đƣợc (…). Dì
Diệu lau nƣớc mắt cho mẹ chị Lành, lòng nghĩ, làm sao mình lại để ra nông
nỗi nầy. Dì không tiếc tiền của, công sức, dì cũng không tiếc tình thƣơng dồn
đắp cho chị Lành, dì chỉ cảm thấy xót xa cho mình “làm ngƣời thì ai lại đi
giành con với ngƣời ta?”, dì luôn dằn vặt vậy” [84, tr.96]. Với việc sử dụng
hiểu và thông cảm với dì Diệu và chú Đức.
cách nói dân dã, giản dị, mộc mạc này ngƣời kể chuyện đã thể hiện một sự thấu
Thứ ba là dạng lời kể nhại. Theo sự lí giải của M.Bakhtin thì lời nhại,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
giễu nhại là lời hai giọng, nghĩa là một lời nói nhƣng lời ấy lại mang hai quan
69
điểm, hai lập trƣờng, hai thái độ khác biệt nhau, thậm chí có thể chống đối, bài
bác nhau. Còn theo Trần Đình Sử thì đây là “lời nói bằng giọng ngƣời khác có
đƣa vào đó một khuynh hƣớng nghĩa đối lập hẳn với khuynh hƣớng của lời
ngƣời đó” [61, tr.178].
Ngôn ngữ trong truyện Nguyễn Ngọc Tƣ là ngôn ngữ đƣợc xây dựng
trên nền đối thoại rộn ràng, sôi động của nhiều tiếng nói với sự tranh luận, đối
thoại. Lời nhại, lời giễu cũng góp phần làm cho âm vang của sự đối thoại
trong truyện sôi nổi, vang động hơn. Vì vậy truyện lôi cuốn và hấp dẫn ngƣời
đọc. Nhƣng nhân vật trong truyện của chị là những con ngƣời với tâm hồn họ
hồn hậu, họ sống bằng tình nghĩa và yêu thƣơng nên lời nhại trong truyện của
chị không nhiều, không nổi bật, lời nhại trong truyện Nguyễn Ngọc Tƣ không
bùng lên thành tiếng cƣời giòn giã nhƣ tiếng cƣời trong Số Đỏ (Vũ Trọng
Phụng) mà nhẹ nhàng, mơ hồ. Mặc dầu vậy, lời nhại cũng đã làm cho tiếng
nói đa thanh của truyện thêm nổi bật, tạo dấu ấn cho phong cách truyện
Nguyễn Ngọc Tƣ thêm rõ nét.
Trong truyện Cỏ xanh ngƣời kể chuyện kể: Miên – một cô gái trẻ trong
cơn say rƣợu đã đánh bà chủ nhà. Cô bị bắt và bị phạt nhổ cỏ. Một nam thanh
niên nhận ra cô chính là ngƣời bạn của mình từ thuở ấu thơ với rất nhiều kỉ
niệm mến thƣơng đẹp đẽ. Nhƣng với mặc cảm về thân phận, với lòng tự
trọng, cô gái tỏ ra không quen biết với ngƣời thanh niên này. Anh thanh niên
giãi bày với công an xã: “Có khi nào cô này chính là Bé Hai của em hồi xƣa
không? Có khi nào cổ thấy mặc cảm với em rồi cổ không nhận không?” [87,
tr.27]. Ngƣời kể chuyện kể tiếp: “Mấy ông công an cƣời, cái thằng quỷ này
nói chuyện giống tiểu thuyết quá đi”. Nếu đọc thoáng qua ngƣời đọc sẽ hiểu
đây là lời thuật đơn thuần. Chỉ đến khi đọc thêm các trang tiếp theo với lời
ngƣời thanh niên: “Bé Hai à, thôi đừng ra đây làm cỏ nữa nghen, em coi, cỏ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nó bị chặt rồi mà bữa nay tốt thấy đẹp luôn, cỏ còn muốn sống đẹp hơn, tốt
70
hơn nữa, huống chi mình… Ráng nghe cƣng…” rồi tiếp đến là lời ngƣời kể
chuyện: “Anh ta tỏ ra là ngƣời biết nói chuyện văn chƣơng, ví von thanh cao”
[87, tr.30-31] thì lúc này những lời có liên quan tới tiểu thuyết, nói chuyện
văn chương, ví von thanh cao mới trở thành lời nhại, nhại cốt truyện tiểu
thuyết mang tính kịch đã thành công thức sáo mòn, nhại lời lẽ bóng bẩy chỉ có
trong văn chƣơng. Hay trong Ngổn ngang, ngƣời kể chuyện đã nhại lại cách
xử lí đầy nƣớc mắt mùi mẫn, dễ dãi của phim ảnh: “Tôi cũng thấy buồn kinh
khủng lắm, sao Bảo làm vậy mà tôi không đau đớn vật vã gì hết. Sao tôi
không đùng đùng gào khóc, sao không chạy lại đấm vào ngực Bảo, hỏi nỡ nào
anh phụ tình em (cảnh này tôi thấy ngƣời ta hay làm trong phim)” [88, tr.97].
Qua sự phân tích ở trên có thể thấy lời kể trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tƣ khá phong phú, đa dạng với cả lời kể một giọng và lời kể nhiều
giọng và có lẽ lời kể nhiều giọng mới là yếu tố quan trọng góp phần làm nên
sức hấp dẫn, lôi cuốn của ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tƣ. Sự xen lẫn của lời thoại nhân vật vào lời kể và đặc biệt là hình thức
lời nửa trực tiếp đã góp phần làm mới nghệ thuật kể chuyện, cho thấy vai trò
quan trọng của ngƣời kể chuyện trong việc cấu trúc tác phẩm và dẫn dắt mạch
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ.
truyện, qua đó cũng cho thấy ý thức sử dụng ngôn ngữ có chủ ý của cây bút
3.1.2.2. Thành phần lời miêu tả
Bên cạnh lời kể là lời tả của ngƣời kể chuyện. Lời miêu tả hỗ trợ việc kể,
khiến cho câu chuyện đƣợc kể trở nên sống động hơn. Khác với lời kể là một
dạng phát ngôn không thể thiếu của ngƣời kể chuyện, lời tả xuất hiện nhiều
hay ít phụ thuộc vào ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Theo Genette, trong khi kể
ngƣời kể chuyện có thể ngừng lại và chuyển sang miêu tả để làm chậm lại
diễn tiến của câu chuyện. Lời tả góp phần nâng cao hiệu quả trần thuật, nhƣ là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
một chiến lƣợc trần thuật của ngƣời kể chuyện. Việc miêu tả góp phần làm
71
cho câu chuyện kể thêm sinh động, hấp dẫn, nhân vật trở thành có máu thịt,
có môi trƣờng sống. Miêu tả còn cho thấy cách tổ chức thời gian của ngƣời kể
chuyện. Bàn về chức năng của lời kể và lời tả, T. Todorov đã chỉ ra rằng: “Miêu
tả, chỉ riêng nó không đủ để làm nên một truyện kể, nhƣng truyện kể bản thân nó
lại không loại bỏ miêu tả” [69, tr.153].
Trƣớc hết là những lời miêu tả thiên nhiên. Thiên nhiên trong truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ không mang vẻ đẹp rực rỡ, kì vĩ mà giản dị, đơn sơ,
quen thuộc, thức dậy ở con ngƣời những cảm xúc mênh mang, sâu lắng. Là
hình ảnh “một hàng dừa nƣớc bên sông nghiêng mình soi đáy. Những ngày
gió chƣớng về, nƣớc trong vằng vặc nhƣ thấy rành rạnh từng sớ lá. Trên bờ
kinh, dây choại mọc đầy, đọt choại xanh non nhuốt líu ra líu ríu bƣớc chân
ngƣời. Hàng bông bụp trƣớc sân nhà nở đỏ…” [84, tr.151]. Là “cái nắng xuân
kì lạ, không gay gắt đỏ, không nhàn nhạt nhƣ nắng chiều hè mà vàng thắm
thiết nhƣ màu bông sao nhái” [84, tr.68]. Là những bông cỏ mực nhỏ bé
duyên dáng điểm xuyết trên cánh đồng lúa bất tận: “ven các bờ ruộng, bông
cỏ mực nhƣ những đƣờng viền nhỏ liu riu làm dịu lại mảng rực vàng của lúa”
[83, tr.213]. Ngƣời kể chuyện ít dùng những màu chói gắt hay u tối mà
thƣờng thiên về gam màu nhẹ, sáng: “những bờ rào râm bụt xanh, những hàng
cây đủng đỉnh xanh” [83, tr.31]; “những bông sậy chín mềm, trắng phau phau.
Đã nhiều bông lìa cành, trùng trình bay” [87, tr.73]; “dọc những triền sông,
trên những đám chùm gọng, những rặng ráng… tơ hồng bao phủ lên một màu
vàng óng, rồi chi chít những cái hoa con con trắng nhƣ một tấm mẳn…” [83,
tr.122-123]. Chính những trang miêu tả thiên nhiên này đã tạo nên chất thơ,
chất trữ tình thấm đƣợm cho truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ.
Ngƣời kể chuyện thƣờng dùng những lời miêu tả thiên nhiên để giúp
ngƣời đọc hiểu thêm về nhân vật và tâm trạng của họ. Chẳng hạn nhƣ trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
truyện Cái nhìn khắc khoải, ngƣời kể chuyện đã để cho nhân vật xuất hiện
72
trong khung cảnh: “Căn chòi đầy khói. Cái mẻ un chất đầy vỏ dừa khô.
Những sợi khói trắng ngun ngút. Ngồi trên cái sạp ghe đong đƣa bằng tre chẻ
thẻ, một ngƣời đàn ông ngồi nhìn ra cửa. Cô độc. Và gió vùn vụt vô chòi (…),
ông khom lƣng thổi phù phù vô cái bếp un cho căn chòi đầy khói rồi nằm đƣa
võng. Gió vùn vụt vô chòi” [83, tr.52-53]. Không gian của khói, của gió cho
ta thấy cuộc sống lang bạt, lẻ loi, cô đơn của ngƣời đàn ông với công việc
Nguyễn Ngọc Tƣ là nhà văn của vùng đất miền Tây Nam Bộ - vùng đất
nuôi vịt chạy đồng.
của những cánh đồng bát ngát và một hệ thống sông ngòi, kinh rạch chằng
chịt. Cánh đồng, dòng sông đã trở thành biểu tƣợng văn hóa đặc trƣng cho
vùng đất Nam Bộ và chúng đi vào những trang văn của Nguyễn Ngọc Tƣ nhƣ
những hình ảnh thiên nhiên tiêu biểu và lặp đi lặp lại nhiều lần nhƣ một biểu
tƣợng. Hình ảnh cánh đồng trong truyện ngắn Cánh đồng bất tận gợi lên một
không gian mênh mang, hoang vắng, heo hút, rợn ngợp: “những cánh đồng
vắng bóng ngƣời, và lúa rày mọc hoang…”. Không gian này đƣợc ngƣời kể
chuyện miêu tả đi miêu tả lại nhƣ một biểu tƣợng về cuộc sống, số phận lênh
đênh, vô định của những con ngƣời “nghèo rơi, nghèo rớt” với kiếp sống lang
bạt trên đồng khơi. Cánh đồng cũng là biểu tƣợng cho những khó khăn, khắc
nghiệt mà con ngƣời phải đối mặt: “Con kinh nhỏ nằm vắt qua một cánh đồng
rộng. Và khi chúng tôi quyết định dừng lại, mùa hạn hán hung hãn dƣờng nhƣ
cũng gom hết nắng đổ xuống nơi này. Những cây lúa chết non trên đồng, thân
đã khô cong nhƣ tàn nhang chƣa rụng, nắm vào bàn tay là nát vụn” [83,
tr.163-171]. Tƣởng nhƣ không thể có một sinh vật nào có thể tồn tại trên
khung cảnh khô khốc, cằn cỗi này. Không phải là không có lý khi Bùi Việt
Thắng cho đó là “cánh đồng chết”. Cuộc sống khắc khổ, nghèo khó nhƣ bao
vây, bám riết lấy một gia đình du mục gồm ba ngƣời: Cha, Tôi và Điền - đứa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
em trai, cùng gia tài: một đàn vịt đang độ lớn, cần thức ăn còn xót lại trên
73
đồng, và nhất là cần nƣớc, trong một mùa nắng chát chúa, khô rát mặt ngƣời.
Con ngƣời nhƣ bị bủa vây bởi sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Họ cố vùng
vẫy, cố thoát khỏi cái nghèo đói khốn khó của cuộc sống nhƣng càng vùng
vẫy lại càng bị thắt chặt, bóp nghẹt dƣới bàn tay khốc liệt của tạo hóa buột họ
phải cam tâm, quy thuận tự nhiên khắc nghiệt bởi họ “chẳng có chỗ nào để đi
nữa”. Cánh đồng khô hạn, nứt nẻ còn là nơi thân quen, là ngƣời bạn lƣu giữ
những kỉ niệm và gắn bó mật thiết với cuộc sống của hai chị em Nƣơng và
Điền: “Cánh đồng không có tên. Nhƣng với tôi và Điền, chẳng có nơi nào là
vô danh, chúng tôi nhắc, chúng tôi gọi tên bằng những kỉ niệm mà chúng tôi
có trên mỗi cánh đồng. Chỗ chị em tôi trồng cây, chỗ Điền bị rắn cắn, chỗ tôi
có kỳ kinh nguyệt đầu tiên… Và mai nầy khi trôi dạt đến một nơi nào khác,
nhắc đến cánh đồng nầy với cái tên của chị, chắc chúng tôi sẽ xốn xang” [83,
tr.167]. Cánh đồng cũng là biểu tƣợng cho sự mở đầu và kết thúc những bi
kịch trong gia đình của Nƣơng. Bởi họ đã nhận ra sự hận thù chỉ đem lại cho
bản thân nỗi khổ đau. Cánh đồng bất tận khép lại nhƣng những suy nghĩ miên
man về cuộc đời, về kiếp ngƣời phiêu bạt cứ mãi “ám ảnh” ngƣời đọc. Với
hình cảnh cánh đồng mang tính biểu tƣợng, Nguyễn Ngọc Tƣ đã khắc họa
thành công về những con ngƣời đáng thƣơng, suốt đời lam lũ, cơ cực nơi
đồng ruộng hoang vắng, về những suy tƣ trong lòng họ, về cách họ làm để tìm
quên quá khứ, tìm quên thực tại đau khổ, để rồi vƣợt qua chúng và tiếp tục
cuộc hành trình của mình với niềm tin bất diệt vào cuộc sống. Cánh đồng
trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ đã trở thành một “thế giới nghệ thuật
riêng, là một khái niệm văn học” (Nguyễn Khắc Phê). Với ý nghĩa đó, cánh
đồng đã mang tính thẩm mỹ độc đáo, đã trở thành hình tƣợng trong tác phẩm
với tƣ cách là một chỉnh thể nghệ thuật.
Gắn liền với hình ảnh cánh đồng là hình ảnh dòng sông. Nó làm cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
không gian nghệ thuật trong truyện ngắn của chị mang đậm dấu ấn sông nƣớc.
74
Đây cũng là đặc điểm rất riêng của không gian truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ.
Với những ý nghĩa khác nhau, dòng sông có giá trị tô đậm thêm bối cảnh của
những câu chuyện ở miền quê Nam Bộ. Trong truyện ngắn Nhớ sông, dòng
sông là nơi Giang và Thủy lớn lên và “ở đáy con sông nào đó, còn là nơi gửi
gắm xƣơng thịt của ngƣời đàn bà xấu số - má Giang”. Giang lấy chồng cũng ở
khúc sông mà gia đình cô hay ghé lại. Câu chuyện gần nhƣ chỉ diễn ra ở một
khúc sông mà vẫn làm chạnh lòng ngƣời đọc. Trong Cánh đồng bất tận, dòng
sông là biểu tƣợng của cuộc sống phiêu bạt, lênh đênh vô định. Sau khi ngƣời
vợ ngoại tình, Út Vũ đốt nhà lên ghe cùng hai đứa con và đàn vịt đi dọc theo
các con sông. Đi hết dòng sông, sau những cuộc tình chóng vánh của ngƣời
cha là hành trình của ba cha con về phía cánh đồng bất tận. Dòng sông cũng là
biểu tƣợng của sự khó khăn, khắc nghiệt mà con ngƣời phải đối mặt. Đó là
con sông lớn mênh mang mà ở đó đời sống ngƣời dân gắn liền với sự nghèo
con bị ghẻ lở đầy ngƣời do phải tắm bằng thứ nƣớc đóng đầy váng phèn “ngƣời
họ đầy ghẻ chốc, những đứa trẻ gãi đến bật máu. Họ đi mua nƣớc ngọt bằng
đói và cơ cực. Sống gần sông nhƣng họ lại không có nƣớc ngọt để dùng, trẻ
xuồng chèo, nín thở để nƣớc khỏi sánh ra ngoài vì đƣờng xa, nƣớc mắc. Buổi
chiều đi làm mƣớn về, họ tụt xuống ao tắm táp thứ nƣớc chua lét vì phèn, rồi
xối lại đúng hai gàu” [83, tr.170]. Với cha con Út Vũ, cuộc sống trên những
dòng sông cũng không khá hơn, vẫn là sự khốn khó cùng cực thậm chí là sự
bế tắc không lối thoát: “Chỗ chúng tôi cắm lều cầm vịt, cắm vịt, nƣớc đã sắt
lại thẫm một màu vàng u ám. Nhƣng chúng tôi chẳng có chỗ nào để đi nữa, từ
bờ bên kia của sông Bìm Bịp là vùng đệm cho những cánh rừng tràm lớn”
[83, tr.171]. Trong một truyện ngắn khác, dòng sông đã hóa thành “dòng nhớ”
cuộn chảy trong lòng ngƣời. Nhân vật Hai Giang sau sự bất hạnh trong cuộc
sống với ngƣời vợ trƣớc đã từ giã sông về với đất. Nhƣng trong tâm trí ông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
luôn hiện lên nỗi ám ảnh về sự mất mát lớn lao khi đứa con té xuống sông
75
chết lúc chƣa đầy một tuổi. Cái chết của con và hình ảnh ngƣời vợ bất hạnh
một mình nơi sông nƣớc làm ông luôn hƣớng về dòng sông. Hồn ông đã gửi
lại nơi sông: “ông nhớ sông, một ngày ba bốn lƣợt lủi thủi chống gậy ra bến,
đôi mắt nhƣ đang nhìn da diết, mà không biết nhìn ai, chỉ thấy mông mênh
vậy thôi. Chơ vơ, cô độc. Tựa nhƣ ông đang ở đây nhƣng tâm hồn ông, trái
tim ông, tấm lòng ông chảy tan vào dòng nƣớc tự lâu rồi” [83, tr.130-131].
Dòng sông đã trở thành phƣơng tiện làm nền thể hiện tâm trạng nhân vật.
Những dòng sông, con sông, khúc sông cứ tuôn chảy miệt mài và còn đƣợc lặp
đi lặp lại nhiều lần trong các truyện ngắn khác của Nguyễn Ngọc Tƣ.
Cùng với cánh đồng, dòng sông thì gió cũng là hình ảnh thiên nhiên trở
đi trở lại trong rất nhiều truyện ngắn của chị nhƣ một ẩn dụ độc đáo. Điều này
không phải là sự ngẫu nhiên. Trong một lần trả lời phỏng vấn chị tâm sự “tôi
thích gió. Nó thơ mộng, bảng lảng, khó nắm bắt. Tôi lớn từ xứ gió, mà gió
Nam gió chƣớng gì cũng đẹp, nên bị ám, viết gì cũng cho gió thổi. Đó là “gió
chƣớng non xập xòe trên khắp cánh đồng Bất Tận” (Cánh đồng bất tận); là
ngọn gió tinh nghịch nhƣ đứa trẻ “giữa im lặng, gió cồn lên rúc rích đuổi nhau
chạy xổm trên mái nhà, nhƣ một đám trẻ lật từng tàu lá để tìm trứng thằn lằn”
(Đau gì như thể), “bây giờ chỉ nghe gió từ ngoài kinh rần rần rƣợt đuổi nhau
qua đám dừa nƣớc thốc vào mái lá phần phật” (Chuyện của Điệp); là ngọn gió
vô tình trong Chiều vắng “gió thổi bời bời vào căn chòi của cậu Tƣ Nhớ, thốc
cuộn những tàn tro xát vào những vết cắt trong lòng”; ngọn gió đơn độc trong
Lỡ mùa “gió nhiều, rất nhiều ngọn mồ côi, lẻ loi líu ríu chạy qua”. Có khi gió
hiện diện nhƣ một nhân vật trong truyện: “Tôi nghe rất rõ gió cuộn thành lọn,
lăn miết trên da mình (…). Chúng tôi kéo lại ngồi với nhau. Và với gió” (Lý
con sáo sang sông). Đặc biệt trong Gió lẻ, chúng ta choáng ngợp với những
hình ảnh của gió: “không thể ngủ trong cơn đùa nghịch dẳng dai của những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cơn gió bị xé nhỏ bởi một bàn tay vô hình. Và từ khi lìa nhau, gió dằn vặt con
76
ngƣời bởi nỗi li tan của chính nó… gió lại dựng họ dậy theo cái kiểu lƣớt thật
chậm từ chân lên đầu, nhƣ có một linh hồn, một bóng ma vừa đi qua âu yếm”,
“Vài ngọn gió cô độc đã nghênh ngang đi qua rẫy tạo ra một cảnh tƣợng buồn
cƣời, chỗ thẳng chỗ xiên, rối bời. Buổi sáng thức dậy, gió làm những cây bắp
đã trổ cờ ngã rạp”. Nói về biểu tƣợng Gió lẻ, nhà văn tâm sự: “Thật ra tôi có
thể viết Nắng lẻ, hay Mây lẻ, nhƣng những thứ này không…lạnh, khi tôi đang
nói tới cái cô độc hiu hắt của cuộc đời”.
Hệ thống hình ảnh thiên nhiên: dòng sông, cánh đồng, gió với những đặc
trƣng rất riêng đã góp phần làm cho trang viết của Nguyễn Ngọc Tƣ thấm
đẫm chất Nam Bộ. Và chính hệ thống biểu tƣợng này đã giúp ngƣời kể
chuyện đi sâu khám phá thế giới tâm hồn đầy bí ẩn phức tạp của con ngƣời,
đồng thời nó cũng góp phần rất lớn trong việc tạo nên phong cách trần thuật
có chiều sâu của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ.
Bên cạnh việc miêu tả thiên nhiên, ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tƣ còn đi vào miêu tả chân dung nhân vật nhằm góp phần
khám phá thế giới bên trong đầy bí ẩn của các nhân vật. Chẳng hạn, chân
dung ngƣời dì trong Dòng nhớ đƣợc ngƣời kể chuyện miêu tả khá cụ thể:
“…dì mặc chiếc áo cộc tay màu cau khô ở trong, khoác thêm chiếc áo bà ba ở
ngoài, mỏng te, nhiều vụn vá. Tóc đã bạc nhiều, lơ thơ vài cọng rủ xuống mặt.
Sƣơng gió đã làm cho khuôn mặt dì đen sạm, nhăn nheo” [83, tr.135-136].
Qua những lời miêu tả này, ngƣời kể chuyện cho ta thấy đƣợc hình ảnh một
ngƣời dì hiền hậu với những vất vả, cơ cực mà sƣơng gió cuộc đời đã in hằn
trên khuôn mặt.
Điều đáng chú ý là khi miêu tả nhân vật, ngƣời kể chuyện thƣờng tập
trung vào những nét ngoại hình giàu sức biểu hiện tâm lí nhƣ khuôn mặt, đôi
mắt, nụ cƣời. Đó là gƣơng mặt “đen đúa trầm lặng nhƣ tƣợng gỗ bỗng mềm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lại” của Sáu Tâm khi anh nghe San kể về ƣớc mơ, khao khát đƣợc trở thành
77
đào hát và câu chuyện cuộc đời bất hạnh của cô (Bởi yêu thương); khuôn mặt
“trầm lặng mà sâu sắc” của ngƣời đàn ông trong Cái nhìn khắc khoải. Trong
Ngày đã qua, ngƣời kể chuyện tập trung miêu tả khuôn mặt của từng nhân
vật: khuôn mặt đầy đặn của Hòa “mặt chữ điền, cạnh nào ra cạnh đó”, khuôn
mặt ấn tƣợng của Chi với “cái miệng rộng, cái mũi to bè bè nhƣng đôi mắt rất
đẹp, đôi mắt tròn xoe”, đặc biệt là khuôn mặt đẹp nhƣng ẩn dấu nhiều nỗi
buồn của Tiệp “khuôn mặt tròn dình, miệng lúc nào cũng nhƣ cƣời, mắt lúc
nào cũng nhƣ hỏi… khuôn mặt xinh đẹp của chị toát ra cái vẻ lơ đãng một
cách đau lòng”. Mỗi khuôn mặt là một số phận, một tính cách, một trạng thái
tâm hồn…
“Đôi mắt rất hay nói”, “đôi mắt thể hiện đƣợc con ngƣời”, đọc truyện
Nguyễn Ngọc Tƣ ngƣời đọc cứ bị ám ảnh khôn nguôi bởi đôi mắt của các
nhân vật. Đó là đôi mắt “ầng ậc nƣớc… không rõ là phèn hay máu nhoèn
nhoẹt” của ngƣời cha khi phải chứng kiến cảnh bọn côn đồ thi nhau làm nhục
đứa con gái thƣơng yêu của mình, đôi mắt đau đớn “rƣng rức chớp mở” của
Nƣơng khi bị làm nhục (Cánh đồng bất tận); “đôi mắt hiền, hơi ƣớt, dịu
dàng” của cô đào Điệp (Bởi yêu thương); đôi mắt dị tật của Lƣơng – một con
ngƣời với vẻ ngoài mang nhiều khiếm khuyết nhƣng ẩn sâu bên trong là một
tâm hồn luôn ngập tràn yêu thƣơng: “một bên mắt xé lẹ…ngƣời ta nhìn anh
biết, chứ anh mà nhìn lại, ngƣời ta tƣởng anh ngó đâu đâu”, “Con mắt lé thờ ơ
nhìn chỗ khác, nhƣng con mắt còn lại thắp lửa lên” (Lương); đôi mắt chứa
đựng nhiều tâm trạng của đứa trẻ với bi kịch bố mẹ chia lìa: “thằng con có đôi
mắt tối và ƣớt của cha bƣớc theo sau”, “nó có đôi mắt buồn quá, tƣởng nhƣ té
vô đó thì không mong lội lên”, “mắt nó vằn lên những tia giận dữ, gƣơng mặt
tối sầm”, “nhƣng thằng nhỏ Sói không ngủ, vẫn còn hai cái hố thẳm sâu biền
biệt, mở trâng tráo” (Ấu thơ tươi đẹp).
Nụ cƣời cũng góp phần thể hiện tâm hồn, tính cách con ngƣời. Ta không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thể nào quên đƣợc nụ cƣời hiền hậu của Hiên trong Nửa mùa: “Bù lại nó cƣời
78
thiệt ngọt, cƣời giống nhƣ má mình nhƣ ngoại mình, móm mém hiền khô, nhƣ
rót vào lòng. Một nụ cƣời lƣơng thiện”; nụ cƣời ngập tràn tình yêu và hạnh
phúc của má Hiên trong Người năm cũ: “Mỗi lần xem tivi, nhìn thấy ông
thoáng qua trên màn hình, má Hiên luôn cƣời rất nhẹ, kín đáo âm thầm. Cái
cƣời nhỏ nhƣng tràn đầy tình”. Có những nụ cƣời của hạnh phúc nhƣng cũng
có những nụ cƣời mà ẩn sau nó là nỗi buồn đau chất chứa. Đó là cái cƣời
mang cả khối đau u uất của Út Vũ trong Cánh đồng bất tận: “nó vừa dữ dội,
đau đớn, hoang dã, cay đắng, nghiệt ngã. Cái cƣời thật dài, riết lấy khuôn mặt
cha, làm mắt cha hơi lồi ra, ánh lên nhƣ có nƣớc”; là những cái cƣời mang
tâm sự buồn của các nhân vật trong Chuyện của Điệp: “Điệp ngó Giàu cƣời
buồn, má ngó Điệp cƣời còn buồn hơn (…). Má lặng lẽ cƣời. Cƣời buồn bã”;
“nụ cƣời tê dại” của Hậu khi Hậu biết ngƣời muốn giết hại chị lại chính là
ngƣời chồng mà chị yêu thƣơng (Một trái tim khô). Với sự quan sát tinh tế và
sự thấu hiểu đời sống tâm lí nhân vật, ngƣời kể chuyện chỉ thông qua một vài
lời miêu tả đã lột tả đƣợc khá sâu sắc những biến chuyển trong chiều sâu nội
tâm nhân vật.
Từ sự phân tích ở trên ta có thể thấy thành phần lời miêu tả chiếm một
tần số khá cao, một vị trí khá đặc biệt trong nghệ thuật tự sự của Nguyễn
Ngọc Tƣ. Qua những lời miêu tả này, ta cảm nhận đƣợc một tâm hồn nhạy
cảm và khả năng quan sát tinh tế, sắc sảo của ngƣời kể chuyện. Tả cảnh thiên
nhiên hay miêu tả diện mạo nhân vật thì ngƣời kể chuyện cũng luôn luôn
hƣớng tới khám phá thế giới bên trong đầy phong phú, phức tạp, bí ẩn của
con ngƣời. Chính thành phần miêu tả này đã góp phần quan trọng trong việc
tạo nên chất thơ, chất trữ tình cho truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ.
3.1.2.3. Thành phần lời phân tích, bình luận
Thành phần lời phân tích, bình luận của ngƣời kể chuyện trong các tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phẩm tự sự có vai trò rất quan trọng. Nó giúp ngƣời kể chuyện soi sáng thêm
79
nội dung tƣ tƣởng của tác phẩm, bộc lộ đầy đủ tập trung hơn thái độ, sự đánh
giá của mình đối với nhân vật cũng nhƣ quan niệm nhân sinh của mình, thể
hiện trực tiếp những điều muốn nhắn gửi của mình đến ngƣời đọc. Với nhu
cầu nhận thức chính mình, nhận thức xã hội, nhận thức về con ngƣời, lời bình
luận trong truyện ngắn đƣơng đại ngày càng xuất hiện với mức độ đậm đặc. Ý
thức của chủ thể sáng tạo thể hiện rõ ở những lời bình luận. Nguyễn Khải, Bảo
Ninh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Ngọc Tƣ là những nhà văn tạo đƣợc phong cách
riêng với sự xuất hiện lời bình luận đậm đặc trong ngôn ngữ kể chuyện. Sự xuất
hiện khá lớn những lời phân tích, bình luận trong tác phẩm của các nhà văn
không phải là một sự ngẫu nhiên. Bởi chức năng cơ bản của ngƣời kể chuyện
trong cuộc sống đƣơng đại đa sự, đa đoan không phải là đi vào tái hiện các sự
kiện, các mảng hiện thực của đời sống mà là phân tích, lí giải đời sống đó ở
chiều sâu của nó.
Chủ đề bình luận mà ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tƣ hay hƣớng tới là những vấn đề cá nhân, đời tƣ, cách đối nhân xử thế. Đó là
suy ngẫm về con ngƣời và cuộc đời: “Con ngƣời ta, hết đau bề nầy tới đau bề
khác” [83, tr.12]; “Ngƣời đời thƣờng vậy, họ chém ta một nhát rồi quên đi, thì
chỉ nói cho sƣớng miệng thôi, cho đỡ buồn thôi chứ chết chóc ai đâu, ai biểu
ta ngồi đó để ôm vết sẹo với nỗi đau khôn tả” [88, tr.130]; “Anh để ý coi,
những ngƣời ít nói hay cƣời, không phải vì vui mà vì để khỏi trả lời” [84,
tr.108]. Đặc biệt ngƣời kể chuyện thƣờng hay bình luận, suy ngẫm về tình
yêu, về tình cảm giữa ngƣời với ngƣời: “thâm tình cũng nhƣ nƣớc dƣới sông,
có chảy đi đâu, có chém vè ở đâu cũng hợp lại một dòng xuôi chảy mãi” [84,
tr.113]; “Có nhiều câu hỏi ngƣời ta tốn cả đời để trả lời, thí dụ nhƣ câu “Anh
có thƣơng em tới chết mới thôi không?”, “Khoảnh khắc đó tôi đã biết âm
thanh đẹp nhất của cuộc sống là tiếng của một ngƣời nói yêu một ngƣời” [86,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tr.131-150]; “ở đời tƣởng đâu ngƣời ta tƣởng đâu chửi mắng xâu xé nhau là
80
mất tình. Lợt lạt nhau thì cũng có tình gì đâu” [88, tr.53]. Có khi là lời bình
luận về lẽ sống ở đời: “cái gì của mình trƣớc sau gì cũng của mình, cái gì
không phải của mình đừng giành giật, uổng công” [88, tr.56]; “nhƣ con ngƣời
ta vậy, nhìn nhau phải nhìn mặt tốt của nhau” [88, tr.154].
Trong cách bình luận của ngƣời kể chuyện thể hiện sự dè dặt, vẻ hồ
nghi, băn khoăn. Dƣờng nhƣ ngƣời kể chuyện muốn nhắn gửi với ngƣời đọc
rằng những lời bình luận mà chị đƣa ra chƣa phải là chân lí mà mới chỉ là
những gì mà chị cảm nhận, tiên đoán. Chị chỉ đƣa ra vấn đề cho ngƣời đọc
tìm hiểu, suy ngẫm còn đúng - sai, phải - trái thế nào là tùy vào kinh nghiệm,
vốn sống của từng ngƣời. Thái độ dè dặt, hồ nghi của ngƣời kể chuyện thể
hiện rõ qua việc ngƣời kể chuyện dùng những câu nghi vấn: “Làm gì có
chuyện đời nhƣ ý?” [84, tr.66]; “Coi lại, làm gì có chuyện con ngƣời đƣợc
sống hồn nhiên nhƣ nƣớc chảy mây trôi?” [88, tr.143]. Trong lời bình luận,
ngƣời kể chuyện thƣờng dùng những cụm từ mang ý nghĩa phỏng đoán,
không xác định, dự cảm, hồ nghi nhƣ: đôi khi, dƣờng nhƣ, có lẽ, thƣờng thì,
chắc tại: “Cũng giống nhƣ phim tình cảm, đôi khi ngƣời ta vì yêu mà rứt ruột
lìa xa ngƣời mình yêu” [84, tr.14]; “Đôi khi ngƣời ta hay bàn chuyện nầy
chuyện nọ để làm xao động cuộc đời đang hết sức yên bình, lãng nhách vậy
đó…” [84, tr.97]; “Nhƣng cũng có lúc nó cần có má, để hỏi vài chuyện… Tôi
hỏi chuyện gì, nó cƣời, bẻn lẻn, dƣờng nhƣ những câu chuyện đó ngƣời ta chỉ
dành để nói với má ngƣời ta” [84, tr.122]; “Có lẽ, ngƣời đời luôn luôn nuối
tiếc những gì không tròn vẹn” [84, tr.151]; “Thƣờng thì đàn ông không nhớ
sâu sắc và yêu sâu sắc nhƣ ngƣời đàn bà” [84, tr.145]. Cách bình luận không
cứng nhắc, không “cao đàm khoát luận” mà rất mềm mại, linh hoạt đã tạo cho
những lời bình luận của ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ
sự hấp dẫn lôi cuốn. Bởi đó là những suy nghĩ và cảm nhận hết sức chân thật
của ngƣời kể chuyện. Nó không áp đặt đối với ngƣời đọc mà đi vào lòng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngƣời một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, thấm thía.
81
Có thể khẳng định rằng sự kết hợp một cách khéo léo, linh hoạt ba thành
phần: lời kể, lời miêu tả và lời phân tích, bình luận là một trong những yếu tố
làm nên nét đặc sắc và hấp dẫn rất riêng cho ngôn ngữ của ngƣời kể chuyện
trong các sáng tác của Nguyễn Ngọc Tƣ. Nhờ đó, ngôn ngữ trong trang văn
của chị vừa mang chất trữ tình sâu lắng vừa thấm đẫm chất triết lí và có khả
năng lôi kéo ngƣời đọc cũng suy ngẫm, bàn bạc.
3.1.3. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ người kể chuyện với ngôn ngữ của
nhân vật khác
Sự phân biệt giữa ngôn ngữ của nhân vật ngƣời kể chuyện với ngôn ngữ
của các nhân vật khác chỉ có ý nghĩa tƣơng đối. Bởi trong một số trƣờng hợp,
hai loại ngôn ngữ này hòa lẫn vào nhau rất khó tách biệt. Đọc truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tƣ ta thấy ngôn ngữ của nhân vật ngƣời kể chuyện thƣờng
chiếm ƣu thế cả về số lƣợng lẫn về chức năng tự sự, miêu tả, biểu hiện. Để
chứng minh cho điều này chúng tôi dựa vào một số căn cứ:
Thứ nhất, ngôn ngữ của các nhân vật khác trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tƣ chủ yếu là lời độc thoại nội tâm. Nhƣng một điều dễ nhận thấy là lời
độc thoại nội tâm của nhân vật Nguyễn Ngọc Tƣ rất ít theo kiểu truyền thống
– những lời độc thoại nội tâm mà ở đó có sự tách biệt rạch ròi giữa lời dẫn
của ngƣời kể chuyện với lời miêu tả suy nghĩ của nhân vật, kiểu nhƣ: Anh ấy
nghĩ: “…” hay Nó tự nhủ: “…”. Trong những lời độc thoại nội tâm ở truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ có một bộ phận lớn ta khó có thể tách biệt đƣợc đó là
lời của ngƣời kể chuyện hay của nhân vật. Nó nhòe vào nhau tạo thành lời
nửa trực tiếp: “Ông già nghe thất vọng quá, các ngƣời đòi thêm gì nữa, muốn
éo le nhƣ thế nào, oan khuất bao nhiêu năm mới đủ?” [88, tr.129]; “San sống
nhƣ vậy riết rồi quen. Không tâm huyết, kì vọng vào cái gì, không mơ mộng
xa vời, không rút ruột ta tin ai, yêu ai. San thấy mình không vịn vào ai để
sống và cũng không sống vì ai” [84, tr.139]. Và chúng tôi vẫn xếp loại lời này
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
vào lời kể của ngƣời kể chuyện – dạng lời kể hai giọng.
82
Thứ hai, ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật khác nhìn chung là bị ngôn
ngữ ngƣời kể chuyện “lấn lƣớt”:
Trong các truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tƣ, lời đối thoại của nhân vật
chiếm một tỉ lệ ít và nó khá ngắn. Nhân vật của chị thƣờng có chung một đặc
điểm là suy nghĩ nhiều, nói ít, hoạt động ít. Phần lớn các truyện ngắn của chị
chỉ có ba bốn đoạn đối thoại mà mỗi đoạn đối thoại cũng thƣờng chỉ gồm ba
đối thoại chiếm gần 2.5 %; truyện Mộ gió có 118 dòng trong đó chỉ có 3 dòng
đối thoại, chiếm 2.5 %. Truyện Cải ơi có 224 dòng mà chỉ có 4 dòng đối thoại,
chiếm 1.7 %. Trong những đoạn đối thoại ít ỏi này, có những cuộc thoại chỉ gồm
một lƣợt lời chỉ có trao mà không có đáp nên nếu chuyển thành lời gián tiếp hòa
lẫn vào trong lời dẫn của ngƣời kể chuyện thì cũng không phƣơng hại gì nhiều
đến cấu trúc chung của văn bản tác phẩm. Ví dụ nhƣ lời của Diễm Thƣơng nói
với Thàn: “Ăn bám mà kéo theo cả bầy”. Hay lời của Thàn nói với Diễm
Thƣơng về ông già Năm Nhỏ: “Ông Năm, bạn anh. Dễ thƣơng lắm” [83, tr.7].
bốn lƣợt lời. Chẳng hạn truyện Cảm giác trên dây có 324 dòng mà chỉ có 8 dòng
Lại có không ít những cuộc đối thoại mà quan hệ trao – đáp rất lỏng lẻo,
hờ hững hoặc là trật khớp. Ví dụ nhƣ cuộc đối thoại giữa ngƣời đàn ông làm
nghề nuôi vịt chạy đồng với ngƣời phụ nữ trong Cái nhìn khắc khoải:
- “Sáng nay tôi gặp thằng bạn, nó mới chạy bầy vịt từ nông trƣờng qua.
Tôi hỏi, nghe nói thợ gặt An Bình ở đó.
- Anh Hai
Ông bƣớc xuống đẩy mớ vỏ dừa vô mẻ un. Xơ dừa mịn, cháy rực, rồi
tắt ngấm.
- Ảnh tên Sinh phải hôn cô Út?Ờ, Sinh, ảnh…cũng đang gặt bên đó,cô Út à.
- Anh Hai!
Chị buông cái khăn xuống kêu bàng hoàng.
- Tàu từ xã chạy nông trƣờng lúc năm giờ, ngang đây, chắc cỡ sáu giờ
rƣỡi. Cô ráng đón chuyến đó. Để lỡ tới bữa sau, sợ mấy ảnh lại chuyển đồng,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
kiếm cực lắm. Tính vậy nghen cô Út (…)
83
- Anh Hai à, sao anh tính vậy?
làm sao. Nói có tình, mình ở lại, biết đâu ngƣời ta có nỗi khổ gì…”[83, tr.62-63].
- Tôi biết cô còn nặng lòng cùng ảnh. Qua bển hỏi đầu đuôi gốc ngọn ra
Ở đây hầu nhƣ chỉ là lời của ông Hai, nhân vật “cô Út” chỉ đáp lại bằng
tiếng gọi tên. Cuộc đối thoại này với quan hệ trao – đáp lỏng lẻo lại có ý
nghĩa đặc biệt trong việc thể hiện tâm lí, suy nghĩ riêng của mỗi ngƣời. Ông
Hai nhƣ muốn cố nói cho nhanh những gì cần nói để che giấu đi cảm xúc thực
của mình. Còn ngƣời phụ nữ có đối đáp, có trả lời nhƣng chỉ là hai từ “Anh
Hai”, chứa đựng sự xúc động nghẹn ngào, lòng biết ơn đối với ngƣời mình
đang đối thoại.
Có những cuộc thoại lại không tuân thủ quy tắc luân phiên lƣợt lời (một
cách có dụng ý). Chẳng hạn, cuộc đối thoại giữa ngƣời phụ nữ với ngƣời tình
trong Một chuyện hẹn hò có 11 lƣợt lời nhƣng có tới 8 lƣợt lời là của ngƣời
phụ nữ, chỉ có 3 lƣợt lời là của ngƣời đàn ông:
- “Ra đây để nói với anh, em… không thể… Có bão…
- Ừ, thì bão…
- Em sợ anh chờ nên mới ra nói anh hay. Có bão thiệt mà, anh.
- Ngƣời ta sẽ thấy hai đứa mình…
- Bà con sẽ nghĩ nầy nghĩ nọ…
- Thôi mà, em. Mình sẽ nói là dọc đƣờng bị bão, tình cờ gặp.
- Ngƣời ta đồn rùm lên…
- Thôi đi, em.
- Em biết nói sao với con em bây giờ?...
- Tại em sợ… Hồi xƣa, em có nhỏ bạn. Đời nó buồn lắm, mẹ nó bị tù…
- Mẹ nó làm giám đốc, nhƣng thích cải lƣơng, thích nghệ sĩ, xài nhiều
tiền của công ty vô mấy chuyện hát hò. Có bữa, nghe Minh về hát bên Thổ
Cƣờng, bà chạy xe hơi gần hai trăm cây số để đem cho ông Minh mắc dịch đó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ơ cá dứa kho tộ. Nhà báo ngƣời ta viết về vụ đó quá trời” [85].
84
Ngƣời phụ nữ nói liên tiếp 8 lƣợt. Đó là nỗi lòng chị với biết bao những
thoại có “vấn đề tâm lí” của nhân vật giao tiếp. Nó có ý nghĩa bộc lộ tâm trạng,
cảm xúc nhiều hơn là có tác dụng thúc đẩy câu chuyện vận động phát triển.
lo lắng, giằng xé, sợ hãi, đau đớn... Đây là những lời thoại trong một cuộc đối
Tóm lại, trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ ngôn ngữ của nhân vật
ngƣời kể chuyện chiếm tỉ lệ lớn hơn so với ngôn ngữ của các nhân vật khác.
Có lẽ đây chính là một trong những đặc điểm làm nên phong cách nghệ thuật
riêng biệt của Nguyễn Ngọc Tƣ. Đọc truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Lê
Minh Khuê… ta thấy những tác giả này rất tài năng trong việc dựng đối thoại
của nhân vật. Đối thoại trong truyện ngắn của họ thƣờng chiếm một tỉ lệ rất
thì lời đối thoại của nhân vật chiếm một dung lƣợng rất ít ỏi, đối thoại hƣớng tới
sự đồng cảm, sẻ chia và nó thƣờng là đối thoại một chiều – giống với độc thoại.
lớn so với ngôn ngữ của nhân vật ngƣời kể chuyện. Còn với Nguyễn Ngọc Tƣ
3.2. Giọng điệu kể chuyện
Giọng điệu có một vị trí rất quan trọng, nó góp phần tạo nên phong cách
nhà văn. Qua giọng điệu kể chuyện, ta có thể thấy đƣợc lập trƣờng xã hội,
thái độ tình cảm của ngƣời kể chuyện với đối tƣợng đƣợc kể. Tùy theo mục
đích, chức năng và đối tƣợng kể khác nhau mà ngƣời kể chuyện trong truyện
ngắn của Nguyễn Ngọc Tƣ đã lựa chọn cho mình những giọng điệu kể chuyện
khác nhau để có thể kể lại đƣợc câu chuyện một cách hấp dẫn nhất và thể hiện
sâu sắc nhất tƣ tƣởng của mình. Qua việc khảo sát, tìm hiểu giọng điệu trong
các tập truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tƣ, chúng tôi nhận thấy giọng điệu chủ
đạo của ngƣời kể chuyện là giọng điệu xót xa thƣơng cảm với những số phận
gặp nhiều bất hạnh trong cuộc sống; giọng điệu ngợi ca những phẩm chất tốt
đẹp của ngƣời dân Nam Bộ; giọng điệu giàu tính triết lý, chiêm nghiệm;
giọng điệu tâm tình nhẹ nhàng pha chút hài hƣớc. Chúng kết hợp với nhau
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
làm nên sức lôi cuốn cho các trang viết của chị.
85
3.2.1. Giọng điệu xót xa thương cảm với những số phận gặp nhiều bất
hạnh trong cuộc sống
Giọng điệu này bắt nguồn từ trái tim nhân hậu, dạt dào yêu thƣơng của
Nguyễn Ngọc Tƣ. Chị viết văn là để đƣợc sống yêu thƣơng nhƣ chính chị
từng tâm sự: “ai cũng cần đƣợc yêu thƣơng. Mà muốn đƣợc vậy, phải biết
chia sẻ lòng nhân từ, sự quan tâm từ chính trái tim mình trƣớc nhất” [96]. Có
thể nói đây là giọng điệu chủ đạo bao trùm, chi phối hầu hết các truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tƣ. Nhân vật trong truyện ngắn của chị là những con ngƣời với
cuộc sống mƣu sinh vất vả, khó nhọc. Họ là những ngƣời nông dân lam lũ,
ngƣời nghệ sĩ hết lòng vì nghệ thuật, ngƣời mẹ, ngƣời vợ, ngƣời chồng, ngƣời
cha có cuộc đời bi kịch… Viết về họ, Nguyễn Ngọc Tƣ đã thể hiện niềm cảm
thƣơng, xót xa và sự sẻ chia. Chị mƣợn lời ngƣời kể chuyện để bày tỏ nên
những cung bậc cảm xúc này đƣợc bộc lộ tự nhiên, chân thành và có sức lay
động tới ngƣời đọc. Giọng điệu xót xa, thƣơng cảm đƣợc biểu hiện ở nhiều
phƣơng diện nhƣ sự lựa chọn hình ảnh, cách sử dụng ngôn từ, xây dựng cú
pháp, sử dụng các biện pháp tu từ.
Trƣớc hết giọng điệu xót xa, thƣơng cảm đƣợc thể hiện qua hệ thống các
từ ngữ, hình ảnh mà ngƣời kể chuyện hay dùng. Đó là những cụm từ nói về
nước mắt: là giọt nƣớc mắt xót xa, yêu thƣơng của Điệp trong Bởi yêu thương
“Sáu Tâm nghe một giọt nƣớc mặn nhỏ xuống làm rát bỏng chỗ vết thƣơng”,
“chị níu lấy anh, vùi nƣớc mắt vô ngực anh mà khóc”; là những giọt nƣớc mắt
chất chứa bi kịch của ngƣời ba và ngƣời má trong Dòng nhớ: “ba tôi khóc,
ông khóc rƣng rức, nƣớc mắt nƣớc mũi nhểu nhão, lòng thòng”, “má tôi cũng
khóc nhiều rồi”, “má tôi thở dài, chạy qua buồng bên khóc với bà nội tôi”,
“má tôi cũng khóc òa theo”, “má tôi không nói, quay đi và khóc”; là giọt nƣớc
mắt của tình yêu đơn phƣơng, thƣơng trộm nhớ thầm của nhân vật tôi trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Một mối tình: “ngồi buồn, nghe hát văng vẳng trong kia, tuồng thì giễu nhau
86
ong óng nhƣ gà kêu đẻ, nhƣng nƣớc mắt tôi chảy dòng dòng lúc nào không
biết”, “một tay tôi cầm cái giẻ lau bàn nƣớc, tay kia vịn cửa nhà, khóc nhƣ
mƣa, khóc nhiều hơn cả chị”, “tôi nhìn chị, muốn khóc quá, tội nghiệp chị
quá, tội nghiệp mình hơn”; là những giọt nƣớc mắt của ngƣời cha đã đi tìm
con gần mƣời hai năm: “nƣớc mắt ông tuôn dài”, “ông Năm bẽ bàng ngồi đó,
bẽ bàng lau nƣớc mắt”… Dƣờng nhƣ không cầm lòng đƣợc trƣớc số phận éo
le, bất hạnh của nhân vật, ngƣời kể chuyện đã để cho nhân vật khóc nhiều –
cho dù đó là những giọt nƣớc mắt tràn ra hay đó là những giọt nƣớc mắt cay
đắng lặn vào trong.
Gắn với những từ, cụm từ miêu tả nƣớc mắt, ngƣời kể chuyện trong
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ cũng thƣờng sử dụng những từ miêu tả nỗi
buồn, nỗi đau: là nỗi đau đớn cực tả của nhân vật ngƣời kể chuyện xƣng tôi
trong Một dòng xuôi mải miết “tôi ngồi chết lặng. Cay đắng, bỡ ngỡ, đau đớn,
bàng hoàng không sao tả đƣợc”; ở Dòng nhớ với câu chuyện của ngƣời kể
chuyện xƣng tôi kể về chuyện tình của má, ba và dì ta bắt gặp hình ảnh hình
ảnh ngƣời ba “tận cùng đau khổ”, ngƣời má với “nỗi đau mất chồng”, ngƣời
dì với “cái nhìn đau lặng”; là lời hát “buồn lắm, nghe đứt ruột lắm”, giọng nói
“nghèn nghẹn dƣờng nhƣ trong lòng đau nhói lắm” của ba anh Hết (Hiu hiu
gió bấc); là hình ảnh dì Diệu: “Suốt nửa đời, dì chỉ buồn là không còn đƣợc
có con… Dì Diệu buồn nhƣ ai rứt ruột, dì khóc”, “nghe xóm giềng xầm xì
chuyện chị Lành không chồng mà lại có con, lòng dì Diệu đau lắm”, “dì Diệu
cƣời, rồi làm nhƣ một cơn gió từ đâu xộc tới, tim dì riết lại một nỗi đau” (Làm mẹ).
Giọng điệu xót xa, thƣơng cảm có khi đƣợc thể hiện qua những tiếng
kêu, tiếng than, tiếng thở dài chua xót của ngƣời kể chuyện: “Chỉ vậy mà họ
có thể bứt khỏi nhau ra đƣợc sao, trời đất quỷ thần ơi, những ngƣời lớn…
Đƣờng đời gang tấc mà vì nỗi gì mà đi vòng cho xa hoài, xa mãi” [84, tr.152];
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
“Trời ơi, thêm một mùa gió đông nữa mà chƣa ngƣời nào lấy đƣợc chồng.
87
Tuyệt vọng nhƣ dì Chín nấu bếp đã đành, còn Mỵ, còn Lam, còn Hƣờng…và
cả Xuyến kia nữa, cô sắp qua khỏi thời con gái mất rồi” [83, tr.144]; “Tiếng
kêu nghe thấu đến trời, sao đồng loại con ngƣời không học cách hiểu nhau”
[88, tr.126]; “Trời ơi, trừ chị em tôi, không ai thấy đƣợc đằng sau khuôn mặt
chữ điền ngời ngợi đó là một hố sâu đen thẳm, bến bờ mờ mịt, chơi vơi, dễ
hụt chân” [83, tr.196]. Có khi lại đƣợc thể hiện qua những lời miêu tả cảnh
vật: “nắng bồn chồn úa vàng trên mặt sông (màu trời đó hay trở về trong
những giấc mơ ông)” [88, tr.122]; “Tiếng gà gáy xa xa, con nƣớc đêm nay
mau lớn quá, mới đây thôi đã ngập nửa cây sào neo ghe rồi. Lúc nầy, nƣớc
lớn không nghe bìm bịp kêu, mà, nhờ không có, chứ nghe bìm bịp kêu càng
buồn nữa” [83, tr.139].
Câu hỏi tu từ cũng thƣờng đƣợc ngƣời kể chuyện sử dụng để thể hiện
niềm đồng cảm, sự xót xa, thƣơng cảm trƣớc những day dứt, đau đớn trong
đời sống nội tâm nhân vật. Nó có khả năng tái hiện những diễn biến phức tạp,
ẩn kín bên trong đời sống nội tâm mỗi con ngƣời. Trong Cánh đồng bất tận,
ngƣời kể chuyện cũng chính là nhân vật xƣng tôi đang tự cất lên tiếng lòng
cảm của ngƣời đọc:
-“Tôi lắc đầu, hai gàu nƣớc ít ỏi của má anh, tôi nỡ nào sẻ nửa? [83, tr.171].
của mình với những câu hỏi xót xa ám ảnh ngƣời đọc, xoáy sâu vào sự đồng
- Và tôi tự nhớ lại, coi hồi sáng nầy, hồi trƣa nầy, mình đã làm gì giống
má, kho cá bỏ quá nhiều tiêu? hay vì tôi buộc tóc nhong nhỏng? hay tại tôi
ngồi bắt chí cho thằng Điền? [83, tr.182].
-Nhƣng chín mƣời tuổi đã đủ để gọi là một kiếp ngƣời chƣa? [83, tr.186].
- Đêm nay, tôi sao thế nầy? Vì nhìn thấy niềm hy vọng ƣ? [83, tr.190].
- Má tôi cũng đã từng chọn lựa nhanh nhƣ thế này sao? [83, tr.191].
- Có ai chờ chúng tôi, trên những cánh đồng khơi? [83, tr.193].
- Mà, đã ngấm, đã xé lòng toang hoang với nỗi đau chia cắt rồi, chƣa sợ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sao? [83, tr.194].
88
- Mà, lúc đó, tôi đang chết điếng, sao tôi lại nhìn về phía cha? Vì tôi
muốn cầu cứu (nhƣ những đứa trẻ con gặp chuyện giật mình, hay buột miệng
gọi má ơi hoặc cha ơi!)? Vì tôi thấy mình không thể chịu đựng đƣợc tiếng gào
khóc thê thiết của những con vịt bị vùi sâu dƣới lòng đất? [83, tr.203].
- Tôi sặc ra một bụm cƣời, trời ơi, tôi biết lấy ai bây giờ? … Tôi biết lấy
ai trong số đó? [83, tr.212].
Ngoài ra, giọng điệu xót xa, thƣơng cảm còn đƣợc bộc lộ qua cách lựa
chọn ngôn ngữ kể của ngƣời kể chuyện - thứ ngôn ngữ đƣợc trƣng cất bởi
một trái tim nhân hậu nên rất giàu cảm xúc, tâm trạng. Nó thể hiện rất rõ một
tình cảm thiết tha, một tấm lòng đôn hậu, sự cảm thông sâu sắc với những số
phận éo le, bất hạnh của nhà văn. Đó là lời kể bộc lộ niềm xót xa của ngƣời
kể chuyện thƣơng cho cảnh sống nghèo khổ bất hạnh của gia đình chú Đời:
“Cũng giống nhƣ những ngƣời hát rong khác, nhà chú có cả thảy bốn ngƣời
nhƣng trên con đƣờng tấp nập, trông họ nhỏ nhoi, cô độc làm sao (…). Lụi
hụi hết mùa nắng, giọng chú tắt khèn khẹt trong cổ họng, thậm chí còn không
thể cất lời rao. Chú Đờn cho con Nhƣ ca, tiếng ca ngọng ngịu và non nớt lắm,
vô vọng cổ luôn bị đứt giữa chừng. Tội nghiệp, con nhỏ không có tài, ngáy
còn lạc giọng mà ca nỗi gì” [84, tr.59-64].
Trong các truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tƣ, ngƣời kể chuyện khi là một
ngƣời dõi theo cuộc đời, số phận của các nhân vật, khi lại xuất hiện với vai trò
ngƣời trong cuộc tự giãi bày, bộc lộ tâm trạng của mình. Nhƣng dù xuất hiện
ở vị trí hay điểm nhìn nào thì giọng điệu của ngƣời kể chuyện luôn là giọng
xót xa, thƣơng cảm với nhân vật của mình hay tự thƣơng chính mình. Điều
này đã thể hiện cái nhìn nhân ái của nhà văn về con ngƣời, về cuộc đời, gieo
cho chúng ta niềm tin bất diệt vào những giá trị bất diệt của con ngƣời.
3.2.2. Giọng điệu ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người dân Nam Bộ
Nếu nhà văn Nguyễn Minh Châu sử dụng giọng ngợi ca để đi tìm những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con ngƣời, Ma Văn Kháng dùng giọng điệu này
89
để đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn con ngƣời, thì Nguyễn Ngọc Tƣ lại
dùng giọng điệu ngợi ca để khẳng định những giá trị cao đẹp ẩn sâu trong trái
tim và tâm hồn những con ngƣời dân quê dân dã, mộc mạc. Xét ở một góc độ
nào đó, họ đã gặp nhau ở điểm chung là luôn gắng đi tìm những giá trị cao
đẹp của con ngƣời. Tuy nhiên, ở mỗi nhà văn, giọng điệu ấy đƣợc thể hiện
theo những cung bậc khác nhau. Chính điều đó làm nên nét đặc sắc riêng của
từng tác giả.
Trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ, giọng điệu ngợi ca thấm đẫm trong
từng câu, từng chữ. Giọng điệu này trƣớc hết đƣợc thể hiện ở cách xưng hô
của ngƣời kể chuyện đối với nhân vật đƣợc kể. Ngƣời kể chuyện gọi nhân vật
bằng bằng ông - bà, trẻ thì gọi bằng anh - chị, bằng tên: “ông Năm Nhỏ trụ lại
ngã ba Sƣơng, tiếp tục cuộc kiếm tìm” [83, tr.9]; “Điệp càng ngày càng yếu.
Chị ốm, mỏng nhƣ hột cốm dẹp. Tóc đã rụng đến nỗi ở xa chừng mƣời bƣớc
có thể đếm đƣợc từng sợi, từng sợi còn sót lại. Chị thôi xót xa rồi. Thôi từ cái
bữa Sáu Tâm đã làm vỡ gƣơng, chị nhắc hoài anh chƣa mua lại” [84, tr.9].
Sinh ra và lớn lên ở vùng quê nông thôn vùng Đồng bằng sông Cửu
Long, Nguyễn Ngọc Tƣ khi viết văn, chị thƣờng lấy những thực tế mà mình
trải nghiệm và chứng kiến làm đề tài cho những câu chuyện mà trong đó hầu
hết những nhân vật chính của chị đều có một điểm chung là cái nghèo cứ bám
riết lấy họ. Với Nguyễn Ngọc Tƣ, có thể thấy chị ít khi đi vào miêu tả, tái
hiện những chi tiết cụ thể về quá trình con ngƣời lâm vào cảnh nghèo đói, bần
cùng kiểu nhƣ Nguyễn Công Hoan (Bước đường cùng), Ngô Tất Tố (Tắt
đèn), Nam Cao (Chí Phèo)… mà chủ yếu đi vào khai thác cách con ngƣời ta
đối diện, ứng xử trƣớc cái nghèo và cách con ngƣời đối xử với nhau nhƣ thế
nào trƣớc cái nghèo. Chính trong cái nghèo khó, những con ngƣời trong
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ nƣơng tựa và đùm bọc nhau để sống, thậm chí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sẵn sàng hy sinh bản thân để giúp đỡ nhau trong hoạn nạn. Đó là cách ứng xử
90
cao đẹp của con ngƣời mà khi nói về vấn đề này ngƣời kể chuyện đã dành
giọng điệu ngợi ca của mình để ca ngợi. Truyện Làm mẹ, tuy lấy đề tài về vấn
đề mang tính thời sự là “đẻ mƣớn” nhƣng qua cách ứng xử của các nhân vật,
ngƣời đọc hoàn toàn bất ngờ về tình yêu thƣơng, sự ứng xử cao đẹp mà họ
dành cho nhau. Trong truyện, dì Diệu không sinh con đƣợc nên đã thuê chị
Lành – ngƣời phụ nữ làm nghề gánh nƣớc thuê sinh dùm. Vì nghèo và cũng
rất cần tiền gửi về xứ nên chị Lành đã đồng ý, hai ngƣời làm giấy tờ giao kèo.
Thế nhƣng sau đó, khi nghĩ đến cảnh phải giao đứa con mình rứt ruột sinh ra
cho ngƣời ta, chị Lành đã bỏ đi. Đến đây, ngƣời đọc cứ nghĩ là sẽ diễn ra một
cuộc tranh cãi, tranh giành giữa hai ngƣời phụ nữ, thế nhƣng Nguyễn Ngọc
Tƣ đã có một kết thúc rất bất ngờ nhƣng cũng rất phù hợp với tâm lý và suy
nghĩ chân chất của những ngƣời dân quê, nghèo khó nhƣng trọng tình nghĩa:
“Những ngƣời có tình có nghĩa dễ gì bỏ đƣợc nhau. Dì Diệu cắn cho môi vằn
đỏ dấu răng, dì ôm chị Lành vào lòng rất chặt (…). Dì Diệu đi lấy tờ hợp
đồng ra và đốt cháy thành một tờ tro mỏng” [84, tr.96-97]. Trong Bến đò xóm
Miễu, ngƣời đọc bắt gặp cách hành xử của anh chàng Lƣơng tuy nghèo xơ xác
nhƣng rất cao thƣợng và nghĩa khí. Lƣơng xấu xí, thất học, làm nghề chèo đò
yêu tha thiết cô bé tên Bông xinh đẹp, bỏ học giữa chừng đi bán “bia ôm” ở
bên kia sông. Sở dĩ về sau Bông chấp nhận làm vợ Lƣơng vì cô đã bị một tai
nạn và liệt nửa thân dƣới phải ngồi một chỗ, không đi đƣợc. Tuy vậy, ngƣời
đọc vẫn thấy có một lý do quan trọng hơn là Bông đã nhìn thấy trong sâu
thẳm tâm hồn Lƣơng là một tấm chân tình, một sự rộng lƣợng: “Trong lòng
anh nghĩ rất nhiều mà không nói đƣợc lời nào. Anh khờ khạo không có năng
khiếu nói, lâu rày anh chỉ biết cƣời. Lƣơng không muốn mình giống nhƣ bao
thằng đàn ông khác, đối với Bông nhƣ với một món đồ chơi. Bông là Bông, là
con gái, là ngƣời” [88, tr.89-90]. Chúng ta cũng dễ dàng nhận ra cách ứng xử
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
của những con ngƣời nghèo khổ nhƣ thế này qua hầu hết nhân vật trong
91
truyện ngắn khác của Nguyễn Ngọc Tƣ nhƣ: Phi (Lý con sáo sang sông), Hết
(Hiu hiu gió bấc), ông Hai (Cái nhìn khắc khoải), Quý (Giao thừa), ông già
Năm Nhỏ (Cải ơi), Sáu Đèo (Biển người mênh mông), Nƣơng (Cánh đồng bất
tận)…
Giọng điệu trân trọng, ngợi ca còn thể hiện rất rõ khi ngƣời kể chuyện
nói về những con ngƣời hiền lành, chất phác, thật thà và tình yêu - tình ngƣời
trong họ thì dạt dào nhƣ biển nƣớc Cà Mau. Họ yêu ai là yêu trọn đời, họ
thƣơng ai là thƣơng tới quên mình. Họ là: những ngƣời anh - em sẵn sàng
nhƣờng nhịn cho nhau cả hạnh phúc, tình yêu “Tốt nghiệp trung học xong,
anh Tứ Phƣơng xung phong đi bộ đội. Anh đi mà không nói gì với chị Thể,
tôi cứ nằng nặc đi theo hỏi tại sao, anh nói, “thƣơng anh Hai quá, Út Nhỏ à.
Mƣời bốn tuổi ảnh đã thay cha mẹ nuôi anh, quán xuyến trong ngoài, học
hành lỡ dở…” [83, tr.70]; là ngƣời con hiếu thảo hết mực: “Câu đƣợc vài ba
con cá rô, anh bắc cái ơ lên kho quẹt, tỉ mẩn lọc phần thịt dành cho tía, phần
xƣơng xẩu cho mình. Những trƣa nắng tốt, tranh thủ giờ cơm trƣa anh xin
phép chạy về, dắt tía anh ra ngoài hè tắm rửa, kỳ cọ. Những tối trời mƣa, anh
lúp xúp cầm cái nón mê đi đón ông già. Đi cạnh, che đầu cho ba, nghiêm
trang nhƣ đang chở che cho sinh linh nào đó nhỏ bé lắm, yếu ớt lắm” [83,
tr.31-32]. Ngƣời kể chuyện có lúc cũng phải thốt lên rằng: “Đúng là tên sao
thì ngƣời vậy, chịu thƣơng chịu khó hết mình, hiếu thảo hết mình” [83, tr.32];
là ông già Chín Vũ từ bỏ cuộc sống giàu sang phú quý để đi theo ngƣời mình
yêu: “Ông là cháu nội đích tôn của hội đồng Nguyên. Từ nhỏ, gia tộc đã dành
sẵn cho ông một cuộc sống no đủ, giàu sang mà không phải làm gì, cả nhà
chiều chuộng (...). Ông thƣơng đào Hồng từ cái giây phút đầu tiên… Hôm
sau, khi gánh Kim Tiêu trở lại Sài Gòn, có ông công tử bỏ nhà, bỏ phú quý đi
theo. Không biết hát hò, tƣớng mạo cục mịch, nhỏ con, ông không đƣợc lên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sân khấu… Ăn cơm quán, ngủ sàn diễn. Cực mấy cũng chịu, miễn là ngày
92
ngày ông đƣợc nhìn thấy đào Hồng đi ra đi vô, đào Hồng hát” [83, tr.95]; là
hình ảnh Sáu Tâm hi sinh cả tính mạng mình cho ngƣời mình yêu: “Điệp lớn
hơn Sáu Tâm tròn con giáp… Vậy mà yêu, yêu tréo cẳng ngỗng, cũng không
biết để lòng thƣơng lúc nào, ghê lắm cái lối thƣơng thầm, thấy đầm đầm vậy
chứ rứt không ra… Cho tới cái bữa về hát Vàm Lẽo, nửa đêm trải chiếu nằm
ngủ dƣới khán đài, sàn diễn đổ sập xuống, Sáu Tâm đẩy Điệp ra, chỉ anh là
còn kẹp lại trong đống đổ nát” [84, tr.10]. Ngƣời kể chuyện còn ngợi ca, đề
cao nhân phẩm của những con ngƣời lao động nghèo. Họ thiếu thốn tiền bạc,
nhƣng lại giàu nhân cách, trách nhiệm: Tƣ Nhớ (Đau gì như thể); ông Năm
(Cải ơi!).
Ta còn bắt gặp giọng điệu trân trọng, ngợi ca của ngƣời kể chuyện khi
nói về những ngƣời nghệ sĩ. Họ là những con ngƣời yêu nghề, say mê với
nghề, dành cả cuộc đời mình sống trọn với kiếp cầm ca. Ở Cuối mùa nhan sắc
tác giả cho ta thấy lòng yêu nghề tha thiết, mãnh liệt của những ngƣời đã
“một thời vang bóng”, nay còn lại chút hơi tàn, họ cũng cố dành trọn cho
nghề. Vì vậy, cả nhóm nghệ sĩ “cuối mùa” đã tập hợp lại cất một cái nhà, đặt
tên là “Buổi chiều”, mỗi ngƣời một việc, ngƣời thì bán chè, ngƣời thì bán vé
số… để kiếm từng đồng tiền mà sống qua ngày, và nhất là để đƣợc cất lên lời
ca tiếng hát vào mỗi đêm cho thỏa lòng nhớ mong sân khấu. Mặc dù nơi họ
hát chỉ là một khoảng sân rộng, khán giả chỉ là những ngƣời quẩn quanh ở
xóm “sân khấu là cái hàng ba trông ra sân rộng, luống nào trồng bông sao
nhái, bông mƣời giờ thì trồng, chỗ trống dành cho bà con ngồi. Dàn đờn gồm
cây ghi ta thùng, cây nhị cũ mèm. Không micrô, nghệ sĩ ca bằng giọng của
trời cho, nghiệp đãi. Đào Phỉ tám mƣơi chín tuổi, đứng không nổi, diễn vai gì
cũng ngồi trên ghế, ngồi trên ghế mà lẫy roi sãy ngựa coi lạ hết biết” [83,
tr.94]. Họ yêu nghề, say mê nghiệp hát đến mức bản thân mang trọng bệnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhƣng vẫn nhất mực muốn ra hát, đến khi ngã gục trên sân khấu mới thôi:
93
“Đào Hồng ốm sát chiếu nhƣng vẫn đòi ra hát (…). Đào Hồng hát đến lịm
tiếng đi. Bà ngồi trên sân khấu, gục đầu. Cái gánh nặng tâm tƣ này, không
mang nỗi nữa rồi. Khi ông Chín dìu bà xuống giƣờng, bà đã hôn mê. Ngƣời ta
hát vở cuối cho bà, cho một ngƣời nghệ sĩ chân chính” [83, tr.101-103]. Cũng
chính vì yêu nghề nên San trong Bởi yêu thương dù rất thích cải lƣơng, rất
muốn trở thành nghệ sĩ nhƣng lại không dám đi hát. Cô không dám đi hát chỉ
vì một lí do đơn giản - đơn giản nhƣng vô cùng hệ trọng đối với cô, đối với
những ngƣời yêu nghệ thuật cải lƣơng chân chính, đó là vì trƣớc đây San từng
làm tiếp viên ở quán bia. Cô sợ khi hát, lỡ nhƣ mình nổi tiếng, ngƣời ta nhận
ra mình trƣớc đây từng làm tiếp viên ở quán bia thì làm hoen ố đi nền nghệ
thuật cải lƣơng nƣớc nhà. “Hỏi về giấc mơ trở thành đào hát, nó cƣời đã bỏ
lâu rồi. Đi hát lỡ nổi tiếng, thí dụ thôi nghen, ngƣời ta biết lúc trƣớc tôi từng
làm tiếp viên quán bia thì nhơ danh cả một giới nghệ sỹ, làm ngƣời ta mất
cảm tình với cải lƣơng, vậy khác nào hại cả nền sân khấu nƣớc nhà” [84,
tr.14]. Giọng điệu nghe dí dỏm nhƣ pha trò nhƣng lại cực kỳ nghiêm túc thể
hiện đƣợc lòng say mê cải lƣơng vô hạn. San sẵn sàng hi sinh ƣớc mơ của
mình, chứ nhất quyết không làm nhơ danh nghệ sĩ. Hình tƣợng ngƣời nghệ sĩ
trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ thật đáng đƣợc trân trọng, ngợi ca, tôn
vinh. Họ là những con ngƣời sống trọn vẹn với nghề, dù phải trả giá bằng cả
cuộc đời mà vẫn chấp nhận.
Cùng với giọng điệu xót xa, thƣơng cảm trƣớc những nỗi đau và bất hạnh
của con ngƣời, giọng ngợi ca cũng là giọng điệu nổi bật trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tƣ. Nhà văn ngợi ca vẻ đẹp của những con ngƣời bình dị
quanh ta, vẻ đẹp của họ đƣợc xây cất lên từ nhân cách, phẩm chất cao đẹp, từ
tình yêu thƣơng, đức hi sinh, từ sự ấm áp của tình nghĩa mà họ dành cho nhau.
Đúng nhƣ lời nhận xét của nhà văn Nguyễn Quang Sáng: “Qua ngòi bút của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nguyễn Ngọc Tƣ, những con ngƣời lam lũ, giản dị, bộc trực ấy chứa bên trong
94
cả một tâm hồn vừa nhân hậu vừa tinh tế qua cách đối nhân xử thế…” [60, tr.1].
Qua việc thể hiện giọng điệu ngợi ca trong các tác phẩm, ta thấy Nguyễn
Ngọc Tƣ là nhà văn có niềm tin sâu sắc vào bản chất tốt đẹp của con ngƣời.
Đó chính là niềm tin thể hiện tinh thần lạc quan và chủ nghĩa nhân văn sâu
sắc của tác giả.
3.2.3. Giọng điệu dân dã mộc mạc, pha chút hài hước nhẹ nhàng
Những câu chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ là những câu
chuyện của cuộc sống đời thƣờng giản dị nơi thôn xóm: chuyện về gia đình,
về ông bà, cha mẹ, anh em. Với tình yêu quê hƣơng chị đã viết lên những
trang văn đậm chất giọng dân dã mộc mạc. Văn của chị là văn của thôn quê
bình dị, hồn hậu: “Cái lạ ở cô là tài khui mở những sinh hoạt thân thuộc trƣớc
mắt… Cô chỉ đƣa ra một tấm gƣơng rất trong, thật sáng, để chúng ta nhìn
thấy những sinh hoạt tình tự rất thƣờng. Qua đó, lạ thay, nhƣ một tiếng đàn
cộng hƣởng, ta khám phá cái phong phú của chính đời ta” [11, tr.4].
Giọng điệu dân dã mộc mạc trƣớc hết đƣợc thể hiện trong những lời kể
của ngƣời kể chuyện khi tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh cuộc sống sinh hoạt của
ngƣời dân Nam Bộ. Đó là hình ảnh dòng sông nhƣ một ngƣời bạn tâm tình,
gần gũi, thân thƣơng: “Đêm sáng trăng, ngồi trên nhà có thể thấy một dòng
chảy líu ríu, sáng loáng. Ban đêm, con sông trƣớc nhà tôi không ngủ, nó thức
theo những chiếc tàu rầm rì chảy qua, theo tiếng mái chèo quẫy chách bụp rất
đều” [83, tr.132]. Những dòng sông của cuộc đời lam lũ, những dòng sông
thời gian thấm thía tình ngƣời, niềm đau và nỗi buồn. Những dòng sông cứ
thênh thang chảy mãi từ ngôn ngữ mộc mạc, đơn sơ, dân dã của ngƣời kể
chuyện. Cảnh sắc miền quê Nam Bộ tràn ngập trong tác phẩm cứ gần gũi tự
nhiên nhƣ chính vùng đất ấy: “Những chiều phai, nhìn ra sông thấy lục bình
trôi, lơ phơ mấy cái bông lục bình quá thì, cũng phai nhƣ chiều gió. Ngó ra
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sau nhà thấy một vạt đồng trũng sâu, ngoi lên mặt lúa những bông lúa thƣa
95
thớt, xanh xao. Vƣờn cũ có vài cây vú sữa, mù u rụng trái đầy mặt đất, mấy
bụi tre bụi trúc vút lên trời một chòm xanh ngắt…” [85, tr.84]. Giọng điệu
dân dã mộc mạc xuất hiện với tần số cao trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ,
đôi khi lắng đọng trong những câu văn kể hòa trộn với tả: “Bây giờ, gió
chƣớng non xập xòe trên khắp cánh đồng Bất Tận. Ven các bờ ruộng, bông cỏ
mực nhƣ những đƣờng viền nhỏ liu riu làm dịu lại mảng rực vàng của lúa”
[83, tr.213]. Câu văn có chất thơ, nó là khúc nhạc lòng của thiên nhiên Nam
Bộ tự nhiên, dân dã nhƣng cũng mang vẻ đẹp quyến rũ.
Nói về cuộc sống sinh hoạt đời thƣờng của ngƣời dân Nam Bộ, ngƣời kể
chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ đã chọn cho mình giọng điệu dân
dã, mộc mạc tự nhiên chảy ra từ vốn sống, gắn bó với mảnh đất Nam Bộ cùng
với niềm đồng cảm, sẻ chia: “Mút Cà Tha nằm hiu hắt (…). Từ mé rừng mắm
chống lở đất phía bên nầy, đi hết vƣờn cây nầy gặp đƣợc một căn nhà thì lại
tiếp đến vƣờn cây trái khác. Cuối cùng là bãi bồi, dây khoai lang bò xùm xòa
phủ kín đất. Bóng ngƣời ẩn hiện dọn cỏ dƣớc các gốc cây. Bên đƣờng thấp
thoáng nhiều nấm đất con con của những đứa trẻ kiệt sức vì bị đẹn mà chỉ
đƣợc rơ miệng bằng cỏ mực; những đứa trẻ bệnh số xuất huyết chỉ chữa bằng
cạo gió, uống nƣớc mía, rễ tranh; những đứa trẻ mắc thƣơng hàn bị thủng ruột
dã này xuất phát từ cảm hứng cảm thƣơng của nhà văn về cuộc sống và số phận của
những nhân vật nhỏ bé – những ngƣời nông dân quanh năm lấm lem bùn đất.
vì tự do chạy ra vƣờn ăn ổi chua, ổi chát” [83, tr.18-19]. Giọng mộc mạc dân
Giọng điệu dân dã mộc mạc đƣợc bộc lộ trong cách nói giản dị, dễ hiểu,
không màu mè triết lí hay rao giảng về đạo đức cao sang. Trong lời kể về câu
chuyện ba má Phi, chất dân quê trong giọng điệu đƣợc bộc lộ rất tự nhiên, nó
nhƣ lời nói thƣờng ngày: “Cũng nhƣ nhiều ngƣời ở Rạch Vàm Mắm này, ông
ngờ rằng má Phi chắc không phải bị tên đồn trƣởng ấy làm nhục, hắn lui tới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ve vãn hoài, lâu ngày phải có tình ý với nhau, nếu không thì giữ cái thai ấy
96
làm gì, sinh ra thằng Phi làm gì. [88, tr.145]. Còn đây là suy nghĩ của một
ngƣời con gái quê về việc làm của mình: “Nó sẵn sàng lau một căn nhà ba
tầng với mƣời bảy cái cửa kiếng, bốn mƣơi hai bậc cầu thang chỉ với mƣời
ngàn tiền công. Nó gánh chục đôi nƣớc vòng vèo qua hai con hẻm có khi chỉ
đƣợc đãi một bữa cơm canh. Nó nghĩ nhƣ vầy, thí dụ nhƣ mình cho ngƣời
bằng ấy, ngƣời lại trả ta cũng bằng ấy thì huề rồi, thì làm sao cảm thấy duyên
dẻ, nợ nần mà gắn bó với nhau” [88, tr.66]. Suy nghĩ của cô gái mới đơn giản,
hiền hậu làm sao. Nhƣng nó có ý nghĩa nhƣ một bài học ý nghĩa về cách sống
chân thật và nhân hậu. Bản tính của ngƣời dân quê giản dị, mộc mạc, đơn sơ
là vậy nhƣng đằm sâu trong đó là tình ngƣời sâu nặng.
Giọng điệu dân dã mộc mạc trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ còn thể
hiện ở sự xuất hiện của khẩu ngữ, tạo bối cảnh cho truyện mang hơi thở của
mảnh đất Nam Bộ từ cảnh sắc thiên nhiên tới cuộc sống sinh hoạt và tạo cho
nhà văn một phong cách trần thuật độc đáo. Vì điều này mà ngƣời ta gọi
Nguyễn Ngọc Tƣ là nhà văn của miệt vƣờn Nam Bộ. Rất nhiều những câu
chữ dùng khẩu ngữ nhƣ vừa đƣợc ghi lại trong một cuộc chuyện trò thoải mái
giữ những ngƣời thân, bạn bè: “Ở xóm nầy, ngƣời biết tụi nó thƣơng nhau đầu
tiên là con Điềm, nhỏ bạn thân nhất của Huệ, ngƣời thứ nhì, thứ ba biết là chú
thím Mƣời Ba. Chú Mƣời Ba bán quán cà phê cặp bờ kinh xáng. Quán chú
buổi sáng toàn đàn ông, buổi trƣa của mấy thím đàn bà ôm đứa con nẹo một
bên vú nói chuyện làng trên xóm dƣới. Buổi chiều, tụi con nít tụ lại quán chạy
lòng vòng trong sân chơi (…). Chuyện Thi thế là thôi rồi, mấy thím buổi trƣa
ngồi quán chú Mƣời Ba cong miệng nói với nhau, nghe phong thanh Thi đi lại
với con gái trƣởng phòng giáo dục huyện, cô nọ mang thai, chuẩn bị cƣới.
Đâu nè, thầy Thi đâu có tệ nhƣ vậy. Ừ, nhƣng nghe nói thầy Thi bị “gài” nhƣ
trong Lan và Điệp. Tội nghiệp. Tội nghiệp ai? Thì Thi chớ ai, ở đời ngƣợc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngạo vậy đó” [83, tr. 47].
97
Có khi giọng điệu này đƣợc tạo nên từ cách so sánh ví von rất giản dị,
dân dã nhƣng lại hết sức sinh động: “tuồng thì giễu nhau ong óng nhƣ gà kêu
đẻ” (Một mối tình); “tủi cực trào lên nhƣ ngƣời ta nhận cái thùng vô lu nƣớc
đầy (…), mặt mũi đầu tóc Đậm lúc nào cũng nham nhám nhƣ hột me rang
cát” (Giao thừa); “ốp trầu chắc nụi, hai đầu cong cong nhƣ mái đình làng
(…), quyền lực đối với tôi càng giống cục mỡ rệu trong veo trong nồi thịt kho
nhƣ nồi cơm quá lửa (…), có lúc giọng ca chú lật bật nhƣ hai hàm răng đánh vào
nhau” (Đời như ý); “Chị ốm, mỏng nhƣ hột cốm dẹp” (Bởi yêu thương); “đêm
giống nhƣ một bà cụ còm chống gậy chậm rãi đi qua” (Chuyện của Điệp)…
tàu ngày Tết” (Người năm cũ); “giọng chú ngày càng khan, nghe khen khét
Bên cạnh chất dân dã mộc mạc trong giọng điệu, ngƣời kể chuyện còn
rất khéo léo đƣa vào trong lời kể của mình những chi tiết hài hƣớc hóm hỉnh
khiến cho câu chuyện thêm độc đáo, lôi cuốn, những câu chuyện buồn thì bớt
đi cảm giác xót xa. Đây là một chi tiết đƣợc kể rất dí dỏm đã tạo nên tiếng
cƣời nhẹ nhàng cho ngƣời đọc: “Trƣởng ấp tà tà dài theo xóm, thấy ai rảnh rỗi
là kêu, đứng đó làm gì, sao hổng lại trạm xá cho bác sĩ ngƣời ta khám. Trời
đất, bệnh gì mà khám chú Tƣ. Ông nói tỉnh bơ, khều khều bộ râu, “Có chứ
sao không, hễ mầy nhậu xỉn là ói, để vậy không tốt, lại kiếm thằng Văn đi”.
Mới đầu thì Văn không biết, nên thấy có bà cụ chống gậy lại bảo bác sĩ coi
bệnh giùm, Văn hỏi bà bị gì, bà cƣời, tui suy nghĩ chƣa ra. Thuốc hết, huyện
chƣa kịp gởi, Văn áy náy, tần ngần đƣa mấy thứ B1, B6 cho con bệnh đau bao
tử, uống xong, ông nầy phởn phơ đứng dậy, tƣơi rói bảo, trời đất ơi, thuốc chú
mầy quá chừng hay. Văn đâm ra lạ. Cho tới bữa đám con nít khiêng một
thằng bé ở truồng lại, nhao nhác nói chim của thằng Út Chót bị còng kẹp rồi,
nó sƣng chù vù nè chú bác sĩ ơi, Văn mắc cƣời quá, hỏi sao tới nông nỗi nầy,
thằng Út Chót khọm rọm lấy tay bụm chỗ đau, phều phào nói trong nƣớc mắt,
“Tại bác Tƣ biểu ai cũng phải đi khám cho chú bác sĩ vui, chú không bỏ về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thành phố. Con đâu có bịnh, tính bắp còng kẹp chơi…” [83, tr.20-21].
98
Có những chi tiết buồn nhƣng đƣợc kể một cách dí dỏm, hóm hỉnh khiến
cho câu chuyện bớt đi sự ngậm ngùi, xót xa: “Lƣơng không giận, cái thân nhỏ
mồ côi mồ cút, nghèo xác xơ mà bày đặt giận cuộc đời thì làm sao sống nổi.
Suốt ngày anh hệch miệng ra cƣời, làm nhƣ vui, làm nhƣ không, khó nắm bắt.
Lƣơng khoái cặp mắt mất đoàn kết của mình lắm, ngƣời ta nhìn anh biết, chứ
anh mà nhìn lại, ngƣời ta tƣởng anh ngó đâu đâu” [88, tr.85]; “Ngày dì Út
Thu Lý tròn bốn mƣơi bảy tuổi, dì từ giã thêm một lƣợt ba cái răng. Buồn quá
trời đất, dì lại chùa Phấn, than với sƣ Huệ bây giờ không biết làm sao giáp
mặt anh Tƣ Nhớ, răng cỏ trống hơ trống hốc vầy… Bà sƣ già nghe xong niệm
Phật mà không nén đƣợc cƣời” [88, tr.40]; “Hai năm, ông già đã chỏng đầu
cây xuống đất, tựa vào đó để bƣớc đi, tên tuổi Thàn mờ mịt. Thàn bùi ngùi,
ngƣời ta Quách Phú Thành nổi tiếng Hồng Kông, tui thiếu có chữ h, lẹt đẹt
bên hông Chợ Lớn” [83, tr.8-9].
Kiểu câu với thành phần phụ chú cũng là cách ngƣời kể chuyện tạo tính
hài hƣớc cho câu chuyện, tạo nên giọng điệu dân dã mộc mạc hóm hỉnh: “Bảy
năm trƣớc, lúc ông Mƣời đem hết thảy bốn chín cái thƣ của Nguyễn Thọ gửi
dì Thấm đem đốt hết, cũng không ai cản đƣợc. Mấy ông viết sử của tỉnh kêu
trời, đồng đội đồng chí của Nguyễn Thọ cũng kêu trời, phải chi còn, đem in
vô tập những bức thƣ tình hay nhất (mặc dù chƣa ai đƣợc xem Nguyễn Thọ
viết ra làm sao) (…). Về Mỹ Hƣng với dì Thấm từ sau Giải phóng, ông chƣa
cãi cọ, mếch lòng ai, suốt ngày chăm chút cho mảng ruộng miếng vƣờn, cho
bốn đứa con vừa riêng vừa chung nhƣng đất quê vợ mãi mãi không yêu ông
nhƣ một đứa con ruột thịt. Vì ông lấy ngƣời yêu duy nhất của Nguyễn Thọ
làm vợ (đáng lẽ phải để dành), rồi sau đó không cho vợ đi dự những cuộc họp
mặt, hội thảo về Nguyễn Thọ (làm vậy không phải là quay lƣng với quá khứ
sao?) và cũng vì cách ông dạy thằng Thảo (đáng lẽ con của Nguyễn Thọ phải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đƣợc nâng niu chìu chuộng)” [83, tr.81-83].
99
Có thể nói với giọng điệu dân dã mộc mạc, pha chút hài hƣớc nhẹ nhàng
truyện của Nguyễn Ngọc Tƣ là hơi thở, tiếng nói, là tâm hồn của những ngƣời
dân nơi miền đất Mũi. Chính lối kể chuyện hóm hỉnh hài hƣớc nên dù trong
hoàn cảnh nào thì những câu chuyện buồn trong truyện ngắn của chị không
quá bi lụy, không làm cho ngƣời đọc thấy thƣơng xót, day dứt cho thân phận
con ngƣời mà nó luôn gieo trong lòng ngƣời đọc niềm tin vào con ngƣời, vào
cuộc đời. Đó là giá trị nhân văn của tác phẩm Nguyễn Ngọc Tƣ.
3.2.4. Giọng điệu giàu tính triết lí, chiêm nghiệm
Trong hệ thống giọng điệu đa dạng, phức hợp của truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tƣ có thể nói giọng điệu triết lí, chiêm nghiệm là giọng kể chuyện chủ
đạo, nó chi phối hầu hết các giọng điệu khác. Nói cách khác, tất cả các giọng
điệu khác đều có xu hƣớng triết lí hóa. Mang chiều sâu của triết luận nhân
bản về đời sống, nội dung của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ bao giờ cũng
vƣợt ra ngoài ý nghĩa đề tài, chất liệu.
Với Nguyễn Ngọc Tƣ, những vấn đề nhân sinh thế sự nhƣ mối quan hệ
giữa con ngƣời với con ngƣời, sự lựa chọn cách sống, vấn đề lƣơng tâm, đạo
đức thƣờng đƣợc luận bàn trao đổi. Giọng điệu triết lí, chiêm nghiệm của
Nguyễn Ngọc Tƣ mang nét đặc sắc riêng, xuyên suốt những trang văn của chị
là một triết luận đời sống hết sức nhất quán. Triết luận ấy lấy tình ngƣời làm
mẫu số để nhà văn kể chuyện về con ngƣời và cuộc đời.
Nhu cầu đƣợc chia sẻ, bàn luận, đƣợc khám phá cái bề sâu, cái bản chất
của cuộc sống đầy ngổn ngang, phức tạp này luôn luôn là một trong những
nhu cầu quan trọng của ngƣời kể chuyện trong truyện Nguyễn Ngọc Tƣ.
Ngƣời kể chuyện suy ngẫm về thế thái nhân tình và thể hiện quan điểm cách
nhìn của mình dƣới dạng những triết lí có tính khái quát cao. Trong Bởi yêu
thương, giọng điệu triết lí đƣợc thể hiện thật sâu sắc mà cũng thật tự nhiên. Đó là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
những triết lí về đời ngƣời, về tình yêu: “cuộc đời ngƣời ta ngoài ăn với ngủ,
100
thời gian còn lại là đi tìm một nửa của chính mình”. Từ những câu chuyện
của cuộc sống thƣờng ngày, ngƣời kể chuyện chiêm nghiệm triết lí luận bàn
để chủ đề đƣợc mở rộng và nâng vấn đề lên tầm khái quát. Trong truyện
Chuyện vui điện ảnh bằng giọng điệu triết lí, ngƣời kể chuyện đă thể hiện
quan điểm của mình về văn mối quan hệ giữa tiền bạc và tình yêu: “Thấy
chƣa, tiền bạc có lúc có xây đắp đƣợc tình yêu đâu” [84, tr.33]. Những triết lí
về cuộc đời, về tình cảm, về cách đối nhân xử thế giữa ngƣời với ngƣời
đƣợc ngƣời kể chuyện thể hiện rải rác trong các trang truyện. Thông qua nhân
vật ngƣời cha trong truyện Dòng nhớ, ngƣời kể chuyện triết lí về bản chất của
con ngƣời, bản chất của ngƣời đàn ông “sau nầy, lớn lên, biết yêu thƣơng rồi,
tôi mới ngộ ra. Con ngƣời ta, nhất là đàn ông thƣơng ai mà vì nỗi gì đó quay
lƣng lại quên mất tiêu thì đúng là không tử tế, không đáng tin chút nào” [83,
tr.133-134]. Trong truyện Làm má đâu có dễ, ngƣời kể chuyện triết lí về
thiên chức của ngƣời phụ nữ, triết lí về việc làm mẹ “Mặc dầu làm má khó
hơn làm nữ vƣơng, nữ tƣớng nhiều” [84, tr.88]. Từ hình ảnh Đào Hồng tác
giả thể hiện quan niệm về cái đẹp: “Có những vẻ đẹp không phải ai cũng nhìn
thấy đƣợc” [83, tr.101]. Bằng cái nhân nhân hậu, ngƣời kể chuyện đối
thoại, tranh biện về con ngƣời và tình yêu thƣơng ở con ngƣời: “Cái cƣời
mở lòng mở dạ ngƣời ta ra” [83, tr.99]. “Thì ra, tình cảm cũng nhƣ bát nƣớc
hắt đi, không mong gì hốt lại” [88, tr.131]. Suy cho cùng những lời đối thoại,
tranh biện đƣợc thể hiện qua lời ngƣời kể chuyện nhƣng thực chất đó là lời đối
thoại của nhà văn với bạn đọc về cuộc đời, về con ngƣời.
Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tƣ nói riêng và truyện ngắn của các nhà
văn đƣơng đại nói chung có nhiều nét đổi mới. Viết về đề tài đời tƣ thế sự,
giọng điệu kể chuyện trong tác phẩm của các nhà văn không còn là giọng
đơn thanh mà là giọng đa thanh. Nhà văn và nhân vật tranh biện cùng độc giả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
về con ngƣời, về cuộc đời, về thế sự nhân sinh. Nguyễn Ngọc Tƣ là nhà văn có
101
ng̣òi bút sắc sảo, tinh tế. Chị có tài mổ xẻ, phanh phui, phát hiện chiều sâu tính
cách và tâm hồn nhân vật. Những lí lẽ, triết lí, chiêm nghiệm trong truyện ngắn
của chị có thể đƣợc thể hiện trực tiếp qua phát ngôn của ngƣời kể chuyện
cũng có khi thể hiện gián tiếp qua nhân vật. Tất cả những triết lí ấy đều là sự
tổng kết của cả một quá tŕ nh nhà văn tìm tòi, phát hiện, chiêm nghiệm, đúc kết
từ cuộc sống. Nó là sản phẩm của một trái tim đầy tâm huyết với con ngƣời và
cuộc đời. Có lẽ chính bởi thế mà tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tƣ thƣờng có tính
đa nghĩa, tầm khái quát, chất triết lí sâu rộng và sức hấp dẫn lôi cuốn riêng.
Trong tác phẩm tự sự, giọng điệu kể chuyện là một yếu tố không thể
thiếu để cấu thành hình thức nghệ thuật của tác phẩm văn học, là thƣớc đo xác
định tài năng và phong cách độc đáo của ngƣời nghệ sỹ. Qua việc khảo sát
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ ta thấy giọng điệu kể chuyện trong các tác phẩm
của chị vừa đa dạng, phong phú, vừa độc đáo, hấp dẫn, có giọng xót xa thƣơng
cảm với những số phận gặp bất hạnh trong cuộc sống; có giọng ngợi ca những
phẩm chất tốt đẹp của ngƣời dân Nam Bộ; có giọng dân dã mộc mạc, pha chút
hài hƣớc nhẹ nhàng; có giọng điệu tính triết lí, chiêm nghiệm… Chính sự đan
xen các giọng điệu kể chuyện này đã góp phần quan trọng trong việc mang lại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tính chất phức điệu và tính chất đối thoại cho tác phẩm của chị.
102
KẾT LUẬN
1. Luận văn của chúng tôi trƣớc hết nhằm xác định những vấn đề chung
về ngƣời kể chuyện một cách tƣơng đối nhất quán và hệ thống để có thể sử
dụng nó nhƣ một yếu tố cơ bản trong việc xem xét cấu trúc của tác phẩm tự
sự. Ngƣời kể chuyện là sản phẩm của sự sáng tạo nghệ thuật, là sản phẩm mà
nhà văn hƣ cấu nên để kể chuyện. Ngƣời kể chuyện có mối quan hệ đặc biệt
với nhân vật và với tác giả. Nó là một kiểu nhân vật đặc biệt trong tác phẩm
tự sự, không chỉ tham gia vào tác phẩm nhƣ các nhân vật khác mà còn có
chức năng tổ chức, kết cấu các nhân vật khác. Ngƣời kể chuyện thống nhất
nhƣng không đồng nhất với tác giả bởi tƣ tƣởng của tác giả bao giờ cũng rộng
hơn và tƣ tƣởng đó không chỉ đƣợc thể hiện qua ngƣời kể chuyện mà còn đƣợc
thể hiện qua các nhân vật khác trong tác phẩm. Trong tác phẩm tự sự, ngƣời kể
chuyện có một vị trí vô cùng quan trọng, nó đảm nhiệm cùng một lúc nhiều vai
trò: vai trò tổ chức tác phẩm; vai trò dẫn dắt, định hƣớng ngƣời đọc; đồng thời
ngƣời kể chuyện còn thay mặt tác giả trình bày quan niệm về nghệ thuật, cuộc
sống. Vì là một nhân vật vô hình nên để nhận diện ngƣời kể chuyện ta phải căn
cứ vào ngôi kể, điểm nhìn, vào giọng điệu và ngôn ngữ kể chuyện.
2. Sức cuốn hút của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ một phần quan trọng
chính là bởi nhân vật ngƣời kể chuyện. Truyện ngắn của chị có ngƣời kể
chuyện ngôi thứ nhất và ngƣời kể chuyện ngôi thứ ba nhƣng đa phần là ở ngôi
thứ ba. Song, điểm khác biệt nổi bật về ngôi kể của ngƣời kể chuyện trong
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ so với các nhà văn quá khứ và hiện tại đó là
trong một số truyện của chị có hai ngôi kể cùng hiện diện (ngƣời kể chuyện
ngôi thứ nhất và ngƣời kể chuyện ngôi thứ ba), do đó không có một ngôi kể
duy nhất và một ngƣời kể chuyện duy nhất trong truyện. Loại hình ngƣời kể
chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ khá đa dạng, phong phú: có
ngƣời kể chuyện kể theo điểm nhìn hạn chế - điểm nhìn của nhân vật và có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngƣời kể chuyện kể theo điểm nhìn toàn tri, trong đó ngƣời kể chuyện kể theo
103
điểm nhìn toàn tri chiếm một tỉ lệ lớn hơn. Việc nhà văn ƣu tiên hình thức
ngƣời kể chuyện theo điểm nhìn toàn tri trong tác phẩm có ý nghĩa nhất định.
Thứ nhất, nó cho phép tầm nhìn của ngƣời kể chuyện đƣợc mở rộng tối đa, có
thể bao quát đƣợc cuộc sống phong phú phức tạp từ nhiều chiều, qua đó tái
hiện cuộc sống một cách toàn diện. Ngoài ra, ngƣời kể chuyện còn có thể kể
lại nhiều sự kiện, hành động, nhiều suy nghĩ, cảm xúc, tâm trạng của nhân vật
trong nhiều khoảng thời gian khác nhau, ở nhiều nơi khác nhau.
3. Cùng với ngôi kể, điểm nhìn thì ngôn ngữ và giọng điệu cũng góp phần
làm nên sức hấp dẫn của hình tƣợng ngƣời kể chuyện. Ngôn ngữ kể chuyện
trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ bộc lộ rất rõ thái độ, tình cảm chủ quan
của ngƣời kể chuyện, nó nghiêng về kể tâm trạng, nỗi niềm hơn là kể về sự
kiện và lời kể cũng thể hiện khá rõ tính tranh biện, đối thoại. Chính những đặc
điểm lời kể này đã cho phép ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tƣ có khả năng đi sâu vào diễn tả “dòng ý thức” của nhân vật làm cho
nhân vật hiện lên là những cá nhân có ý thức thực sự. Dƣới tác động của ngôn
ngữ, giọng điệu ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn của chị mang những nét
tiêu biểu, đặc trƣng cho tâm hồn, tính cách của ngƣời dân Nam Bộ. Đó là
giọng điệu: giọng điệu xót xa thƣơng cảm với những số phận gặp nhiều bất
hạnh trong cuộc sống; giọng điệu ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của ngƣời
dân Nam Bộ; giọng điệu dân dã mộc mạc, pha chút hài hƣớc nhẹ nhàng;
giọng điệu giàu tính triết lí, chiêm nghiệm. Sự đan xen các giọng điệu kể
chuyện này đã góp phần quan trọng trong việc mang lại tính chất phức điệu
4. Từ việc nghiên cứu ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc
và đối thoại cho tác phẩm của nhà văn.
Tƣ chúng tôi nhận thấy: Nhà văn trẻ này đã rất nỗ lực trong việc đi tìm một
hình thức tự sự mới cho văn xuôi Việt Nam đƣơng đại. Càng đi sâu tìm hiểu
truyện ngắn của chị ta càng nhận thấy chị đã có đóng góp quan trọng trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
việc khắc phục tính đơn âm của cách kể chuyện truyền thống và đem đến
104
những khả năng tự sự mới cho văn học đƣơng đại. Nguyễn Ngọc Tƣ đã rất nỗ
lực trong việc tìm kiếm một hình thức ngƣời kể chuyện có khả năng chuyển
tải những đổi mới trong quan niệm về cuộc sống và con ngƣời một cách phù
hợp nhất. Điều này chứng tỏ ở chị ý thức trách nhiệm của ngƣời cầm bút, luôn
tìm tòi hƣớng tới sự đổi mới cùng với sự trau dồi kĩ năng viết lách để đáp ứng
cho kịp với yêu cầu của thời đại. Dòng văn học mới đang xôn xao, náo nhiệt,
chấn động với sự quẫy mình mạnh mẽ của hàng loạt những cây bút: Lê Đạt
(với Bóng chữ), Đỗ Hoàng Diệu (với Bóng đè), Vi Thùy Linh (với Đồng Tử,
Thơ Linh, Khát), Phan Huyền Thƣ (với Nằm nghiêng), Nguyễn Ngọc Thuần,
Nguyễn Ngọc Tƣ… Bằng một phong cách độc đáo, Nguyễn Ngọc Tƣ đã đóng
góp vào văn học Việt Nam một tiếng nói hấp dẫn rất riêng biệt. Chị thực sự là
cây bút trẻ giàu tiềm năng của vùng đất cực Nam Tổ quốc. Đúng nhƣ nhà văn
Nguyên Ngọc đánh giá: “Mấy năm nay chúng ta đều rất thích Nguyễn Ngọc
Nam Bộ vậy, tƣơi tắn lạ thƣờng, đem đến cho văn học một luồng gió mát rƣợi,
tinh tế mà chân chất, chân chất mà tinh tế, đặc biệt “Nam Bộ” một cách nhƣ
không, chẳng cần chút cố gắng nào nhƣ các tác giả Nam Bộ đi trƣớc…” [93].
Tƣ. Cô ấy nhƣ một cái cây mọc lên rất tự nhiên giữa rừng tràm hay rừng đƣớc
5. Đây là đề tài nghiên cứu về một vấn đề tƣơng đối phức tạp của lí thuyết
tự sự nên thiết nghĩ nó có khả năng tiếp tục phát triển đƣợc. Luận văn xin đề
xuất một số hƣớng nghiên cứu khác: xem xét ngƣời kể chuyện trong một
phạm vi rộng hơn (Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại) và
thậm chí có thể đi vào xem xét sự phát triển của loại hình ngƣời kể chuyện
trong lịch sử văn học. Bản thân từng yếu tố để nhận diện ngƣời kể chuyện:
điểm nhìn kể chuyện, ngôn ngữ kể chuyện, giọng điệu kể chuyện cũng có thể
tách riêng ra để có những nghiên cứu sâu hơn.
Nhƣ vậy, đề tài còn bỏ ngỏ nhiều vấn đề đáng nghiên cứu. Hi vọng,
chúng tôi có thể giải quyết những vấn đề này ngày một toàn diện hơn ở những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
công trình nghiên cứu tiếp theo với quy mô sâu rộng hơn.
105
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Thái Phan Vàng Anh (2010), Người kể chuyện trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại, Luận án TS, Hà Nội.
2. M. Bakhtin (1998), Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki, Trần Đình Sử,
3. M.Bakhtin (2006), Vấn đề nội dung, chất liệu và hình thức sáng tạo nghệ
thuật ngôn từ, Phạm Vĩnh Cƣ dịch, Tạp chí văn học nƣớc ngoài số 1.
Lại Nguyên Ân, Vƣơng Trí Nhàn dịch, Nxb Giáo dục.
4. M.Bakhtin (1992), Lí luận về thi pháp tiểu thuyết, Nxb Bộ văn hóa thông
tin và thể thao, Trƣờng viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
5. Silvan Barnet, Morton Berman, William Burto (1992), Nhập môn văn
học, Hoàng Ngọc Hiến dịch và giới thiệu, Trƣờng viết văn Nguyễn Du,
Hà Nội.
6. Roland Barthes (1997), Độ không của lối viết (Nguyên Ngọc dịch và giới
thiệu), NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
7. Lê Huy Bắc (1998), Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại, Tạp chí
văn học số 9.
8. Hoàng Thị Bình (1998), Phương thức tổ chức lời nói bên trong của nhân
vật, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội .
9. Hoàng Thị Châu (2004), Phương ngữ học tiếng Việt, Nxb ĐHQG Hà Nội.
10. Nguyễn Văn Dân (1998), Lí luận văn học so sánh, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
11. Trần Hữu Dũng (2005), Nguyễn Ngọc Tư – đặc sản miền Nam, Báo diễn
đàn tháng 2.
12. Đoàn Ánh Dƣơng (2007), Cánh đồng bất tận, nhìn từ mô hình tự sự và
ngôn ngữ trần thuật, Tạp chí nghiên cứu văn học số 2.
13. Phạm Thùy Dƣơng (2006), Tìm hiểu thi pháp truyện ngắn Đỗ Bích Thúy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
và Nguyễn Ngọc Tư, Luận văn thạc sĩ, ĐHSPHN, Hà Nội.
106
14. Đặng Anh Đào (1992), Nguồn gốc và tiền đề của tiểu thuyết, Tạp chí văn
học số 6.
15. Đặng Anh Đào (1993), Sự tự do của tiểu thuyết một khía cạnh thi pháp,
Tạp chí văn học số 3.
16. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện
đại, Nxb ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.
17. Đặng Anh Đào (2008), Bàn về một vài thuật ngữ thông dụng trong kể
chuyện, Tạp chí NCVH số 7.
18. Đặng Anh Đào (2008), Nguyễn Ngọc Tư một miền hoang dã, Báo văn
nghệ số 39 ngày 27/9/2008.
19. Nguyễn Văn Đấu (2001), Các loại hình cơ bản của truyện ngắn hiện đại,
Luận án tiến sĩ, Hà Nội.
20. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, NXB Văn hóa,
Hà Nội.
21. Nguyễn Đăng Điệp (2006), Văn trẻ có gì mới, Báo văn nghệ số 41 ngày
08/10/2006.
22. Phong Điệp (2005), Nguyễn Ngọc Tư: Tôi viết trong nỗi im lặng, Báo
văn nghệ trẻ số 45 ngày 06/11/2005.
23. Phong Điệp (2005), Văn học 2005 những ấn tượng, Báo văn nghệ trẻ số
24. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.
4,5,6 (xuân Bính Tuất 2006).
25. Hà Minh Đức (chủ biên), Đỗ Văn Khang, Phạm Quang Long, Phạm
Thành Hƣng, Nguyễn Văn Nam, Đoàn Đức Phƣơng, Trần Khánh Thành,
Lý Hoài Thu (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
26. G.Genette (1976), Các phương thức tu từ, tập 3, Edision Seuil (tài liệu
dịch của Nguyễn Thái Hòa).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
27. Gorki (1970), Bàn về văn học, Cao Xuân Hạo dịch, Nxb văn học, Hà Nội.
107
28. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2006), Từ điển thuật ngữ
29. Hoàng Ngọc Hiến (1998), Năm bài giảng về thể loại, NXB Giáo dục, Hà Nội.
văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
30. Hoàng Ngọc Hiến (2003), Nhập môn văn học và phân tích thể loại, NXB
Đà Nẵng.
31. Nguyễn Thái Hòa (2002), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục.
32. Cao Thị Hồng (2003), Truyện ngắn Lê Minh Khuê (Nhìn từ thi pháp thể
loại), Luận văn thạc sĩ, ĐHSP Hà Nội.
33. I.P.Ilin và E.A.Tzurganova (2003) (chủ biên), Các khái niệm và thuật
ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ
XX, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
34. Manfred Jahn, Trần thuật học – nhập môn lí thuyết trần thuật, (ngƣời
dịch: Nguyễn Thị Nhƣ Trang K46 Văn chất lƣợng cao, ngƣời hiệu đính:
Phạm Gia Lâm) (2005), Hà Nội.
35. Trần Hoàng Thiên Kim (2006), Nguyễn Ngọc Tư: Nhón chân hái trái ở
cành quá cao, Báo Tiền Phong ngày 31/01/2006.
36. M.B.Khrapchenko (1978), Cá tính sáng tạo nhà văn và sự phát triển văn
học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
37. Cao Kim Lan (2009), Lý thuyết về điểm nhìn nghệ thuật của R. Scholes
và R. Kellogg, Tạp chí văn học số 10.
38. Cao Kim Lan (2009), Mối quan hệ giữa người kể chuyện và tác giả, Tạp
chí văn học số 8.
39. Phong Lê (2001), Một số gương mặt văn chương học thuật Việt Nam hiện
đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
40. Ju.Lotman (1979), Cơ cấu của tác phẩm nghệ thuật ngôn từ, Trịnh Bá
Đĩnh dịch, Tạp chí văn học nƣớc ngoài, Hội Nhà văn Việt Nam số
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
4/2000 (dịch từ Cấu trúc văn bản nghệ thuật).
108
41. Mác - Ăngghen (1958), Về văn hóa văn nghệ, Nxb Sự thật, Hà Nội.
42. Nguyễn Đăng Mạnh (2002), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, NXB Giáo dục, Hà Nội.
43. Đỗ Hải Ninh (2005), Nguyễn Ngọc Tư và cuộc đời bình dị, Báo văn nghệ
số 25 ngày 19/06/2005.
44. Bùi Thị Nga (2008), Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tư, Luận văn thạc sĩ, ĐHSPHN, Hà Nội.
45. Hoàng Thiên Nga (2005), Đọc Nguyễn Ngọc Tư qua Cánh đồng bất tận,
Báo văn nghệ ngày 13/8/2005.
46. Dạ Ngân (2006), May mà có Nguyễn Ngọc Tư, Báo tuổi trẻ cuối tuần
ngày 16/04/2006.
47. Vƣơng Trí Nhàn (sƣu tầm, biên soạn) (2000), Những lời bàn về tiểu
thuyết trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến đầu 1945, Nxb Hội
nhà văn.
48. Nhiều tác giả (1994), Truyện ngắn chọn lọc (tác phẩm được giải trong
hội thi sáng tác về đề tài Hà Nội) (19 truyện), Nxb Hà Nội, Hà Nội.
49. Nhiều tác giả (1994), Truyện ngắn trẻ (25 truyện), NXb Hội nhà văn Việt
Nam, Hà Nội.
50. Nhiều tác giả (1998), Truyện ngắn hay 1998 (20 truyện), Nxb Hội nhà
văn Việt Nam, Hà Nội.
51. Nhiều tác giả (2000), Nghệ thuật truyện ngắn và kí, Tạ Duy Anh biên
soạn, NXB Thanh niên, Hà Nội.
52. Nhiều tác giả (2001), Nghệ thuật như là thủ pháp, Đỗ Lai Thúy biên
soạn, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
53. Nhiều tác giả (2004), Truyện ngắn 5 tác giả trẻ (Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ
Doãn Hoàng, Phong Điệp, Đỗ Bích Thúy, Đoàn Thị Phương Nhung),
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
109
54. Nhiều tác giả (2005), Truyện ngắn 3 tác giả nữ (Đồng bằng sông Cửu
Long: Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Thị Diệp Mai, Trầm Nguyên Ý Anh),
Nguyễn Anh Vũ tuyển chọn, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
55. Nhiều tác giả (1983), Từ điển văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
56. Lí Kim Oanh (2003), Nhân vật người kể chuyện trong sáng tác Nguyễn
Khải, Luận án tiến sĩ ĐHSP Hà Nội.
57. Nguyễn Thị Kiều Oanh (2006), Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư, Luận văn thạc sĩ ĐHSP Hà Nội.
58. G.N. Poxpelop (chủ biên) (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Trần
Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
59. Hoàng Phê (2002), Từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học Việt Nam.
60. Nguyễn Quang Sáng, Đậm đà chất văn chương, Lời nhận xét về các tác
phẩm đạt giải cuộc thi sáng tác văn học tuổi 20 lần thứ II Tập truyện
Ngọn đèn không tắt.
61. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
62. Trần Đình Sử (chủ biên) (1987), Giáo trình lí luận văn học, tập 2, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
63. Trần Đình Sử (2007) (chủ biên), Tự sự học – Một số vấn đề lý luận và
lịch sử, Nxb Đại học Sƣ Phạm, Hà Nội.
64. Trần Đình Sử (2008) (chủ biên), Tự sự học – Một số vấn đề lý luận và
lịch sử - Phần 2, Nxb Đại học Sƣ Phạm, Hà Nội.
65. Hồng Thạch (2006) (thực hiện), Sách và dư luận, Báo Thể thao và Văn
hóa ngày 07/10/2006.
66. Đinh Lƣu Hoàng Thái (2006), Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Lê
Minh Khuê, Luận văn thạc sĩ ĐHSP Hà Nội.
67. Bùi Việt Thắng (2004), Truyện ngắn hôm nay, Tạp chí nghiên cứu văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
học số 1.
110
68. Bùi Việt Thắng (2006), Bài học văn chương từ Cánh đồng bất tận, Tạp
chí nghiên cứu văn học số 7.
69. Lộc Phƣơng Thủy (2007) (chủ biên), Lí luận – Phê bình văn học thế giới
thế kỉ XX, Nxb Nxb, Giáo dục, Hà Nội.
70. Nguyễn Thị Thu Thủy (2002), Về khái niệm “truyện kể ở ngôi thứ ba”
và “người kể chuyện ở ngôi thứ ba”, Tạp chí ngôn ngữ số 9.
71. Nguyễn Thị Thu Thủy (2002), Về khái niệm và các nhân tố của điểm
nhìn, Báo cáo tham dự Hội nghị Các nhà khoa học Ngữ Văn trẻ, Trƣờng
ĐHSP Hà Nội.
kể theo điểm nhìn bên trong từ sự chi phối của điểm nhìn, Báo cáo tham dự
hội nghị Các nhà khoa học Ngữ văn trẻ, Trƣờng ĐHSP Hà Nội.
72. Nguyễn Thị Thu Thủy (2002), Xem xét đặc điểm sử dụng ngôn ngữ ở truyện
73. L.I. Timofiev (1962), Nguyên lý lý luận văn học, Nxb Văn hóa, Viện văn
học, Hà Nội.
Trung Quốc đương đại, Nguyễn Văn Nguyên dịch, Tạp chí văn học số 5.
74. Lƣu Thiện Tín (2008), 5 hình thái người kể chuyện trong tiểu thuyết tự sự
75. Tz.Todorov (1978), Thi pháp học cấu trúc, Seuil, Pais (Bản dịch của
Trần Duy Châu), Thƣ viện Trƣờng ĐHSP Hà Nội.
76. Tz.Todorov (2004), Thi pháp văn xuôi, Nxb ĐHSP Hà Nội, Hà Nội.
77. Lê Ngọc Trà (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới.
78. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học
dân gian, Nxb văn học, Hà Nội.
79. Lê Phong Tuyết (2008), Người kể chuyện trong văn xuôi, Tạp chí văn
học nƣớc ngoài số 5.
80. Nguyễn Ngọc Tƣ (2009), Ngày mai của những ngày mai (tạp văn), NXB
Phụ nữ, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
81. Nguyễn Ngọc Tƣ (2009), Yêu người ngóng núi, NXB Trẻ, Hà Nội.
111
82. Nguyễn Ngọc Tƣ (2011), Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư, NXB Trẻ, Hà Nội.
83. Nguyễn Ngọc Tƣ (2011), Cánh đồng bất tận, Nxb Trẻ, Hà Nội.
84. Nguyễn Ngọc Tƣ (2010), Giao Thừa, Nxb Trẻ, Hà Nội.
85. Nguyễn Ngọc Tƣ (2011), Gió lẻ và 9 câu chuyện khác, Nxb Trẻ, Hà Nội.
86. Nguyễn Ngọc Tƣ (2010), Khói trời lộng lẫy, Nxb Thời đại, Hà Nội.
87. Nguyễn Ngọc Tƣ (2006), Ngọn đèn không tắt, Nxb Trẻ, Hà Nội.
88. Nguyễn Ngọc Tƣ (2010), Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, Nxb Văn hóa -
Văn nghệ TP.Hồ Chí Minh.
89. Phùng Văn Tửu (1996), Tiểu thuyết Pháp hiện đại tìm tòi đổi mới, Nxb
90. Phùng Văn Tửu (1996), Một phương diện truyện ngắn, Tạp chí văn học số 2.
Khoa học xã hội, Hà Nội.
91. Viện ngôn ngữ học - TTKHXH & NVQG (1993), Từ điển Anh - Việt,
Nxb TP. Hồ Chí Minh.
92. Nguyễn Đăng Vũ (1987), Ngôn ngữ người kể chuyện trong “Giã từ vũ
khí” của O.Hemingway, Luận văn Sau đại học, Hà Nội.
93. Trần Ngọc Vƣơng (1995), Loại hình tác giả văn học, nhà nho tài từ và
văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
94. Website http://www.viet – studies.info/NNTu (chuyên trang về Nguyễn
Ngọc Tƣ do Trần Hữu Dũng thiết kế và quản lí).
95. Website: http://www.vannghesongcuulong.org.vn ngày 16/7/2007(Văn
Công Hùng, Bất tận với Nguyễn Ngọc Tư).
96. Website: http://edu.go.vn/e-tap-chi/tin/3/115/2175/nguyen-ngoc-tu-so-
nhat-la-su-vo-cam.html.
97. Website: http//vietnam.net ngày 24/04/2006 (Đào Thị Tuyết Lê, Truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư luôn làm tôi xúc động).
98. Website: Www.baomoi.com/Nha-van-Nguyen-Ngoc-Tu-va-chiec-chieu-
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chat-hep/152/5196673.epi.
112
Tài liệu tiếng Anh
99. M.H. Abrams (1971), The glossarry of literature terms, Holt, Rinehart
and Winsston Inc, New York.
100. Mieke.Bal (1997), Naratology, introductionto the theory of narrative,
University of Toronto Press, Toronto Buffalo, London.
101. G.Genette (1978), Narrative discourse, Harcout Brace Jovanovic Inc, USA.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
102. K.Wales (1989), A dictionary of stylistics, Longman London, New York.