ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

ĐINH THỊ TUYẾT LAN

TRUYỀN THUYẾT NGUYỄN MINH KHÔNG VÀ

LỄ HỘI ĐỀN THÁNH NGUYỄN Ở NINH BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS NGUYỄN THỊ HUẾ

Thái Nguyên - 2018

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

ĐINH THỊ TUYẾT LAN

TRUYỀN THUYẾT NGUYỄN MINH KHÔNG VÀ

LỄ HỘI ĐỀN THÁNH NGUYỄN Ở NINH BÌNH

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS NGUYỄN THỊ HUẾ

Thái Nguyên – 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018 Tác giả luận văn

Đinh Thị Tuyết Lan

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Văn - Xã hội Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.

Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Thị Huế đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã giúp

đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018 Tác giả luận văn

Đinh Thị Tuyết Lan

A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Văn học dân gian nảy sinh và tồn tại như một bộ phận hợp thành của sinh hoạt văn hóa của nhân dân. Đời sống sinh hoạt nhân dân là môi trường sống của tác phẩm văn học dân gian. Văn học dân gian luôn được diễn xướng bằng nhiều hình thức khác nhau ở những môi trường sinh hoạt dân gian khác nhau (nghi lễ, lao động, sinh hoạt). Mỗi thể loại văn học dân gian lại gắn với một hình thức diễn xướng khác nhau. Môi trường diễn xướng của truyền thuyết thường gắn liền với lễ hội.

Nguyễn Minh Không là nhân vật lịch sử để lại dấu ấn quan trọng trong lịch sử dân tộc và được nhân dân yêu quý, được người đời dệt nên những truyền thuyết đẹp. Truyền thuyết về Nguyễn Minh Không là hệ thống truyện kể dân gian được lưu truyền và gắn bó mật thiết với tín ngưỡng, lễ hội ở Ninh Bình đặc biệt ở huyện Gia Viễn - quê hương ông. Trước nay, việc sưu tầm, nghiên cứu về truyền thuyết Nguyễn Minh Không ở Ninh Bình còn chưa được quan tâm đúng mức, chưa xứng với vị thế của ông đối với quê hương và trong lịch sử dân tộc.

Vì vậy, việc nghiên cứu truyền thuyết Nguyễn Minh Không và lễ hội đền Thánh Nguyễn ở Ninh Bình là việc làm cần thiết, góp phần khẳng định vị trí của Nguyễn Minh Không cùng lễ hội về ông trong tâm thức người dân Ninh Bình nói riêng và cả nước nói chung. Đồng thời, đây sẽ là một đóng góp cụ thể cho hướng giữ gìn và giảng dạy văn học dân gian địa phương theo hướng tích hợp.

Là một người con của quê hương Ninh Bình - nơi có nhiều lễ hội truyền thống, nơi được coi là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, tôi mong muốn đóng góp một phần công sức vào việc giữ gìn và phát triển di sản văn hoá dân gian trên quê hương mình. Việc nghiên cứu và giới thiệu về truyền thuyết Nguyễn Minh Không và lễ hội đền Thánh Nguyễn ở Ninh Bình sẽ giúp tôi có thêm những hiểu biết về văn hoá dân gian địa phương, có ý nghĩa thiết thực cho công tác giảng dạy của tôi hiện nay.

Với những lý do mang tính lý luận và thực tế trên, chúng tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: Truyền thuyết Nguyễn Minh Không và lễ hội đền Thánh Nguyễn ở Ninh Bình. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Vấn đề nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội

1

Theo quan điểm của Mác thì thần thoại gắn liền với thời kỳ ấu thơ của nhân loại “trong những điều kiện xã hội vĩnh viễn không bao giờ trở lại nữa”, nó là thứ “nghệ thuật vô ý thức”. Thần thoại đã có một vai trò tích cực trong đời sống tinh thần của con người đồng thời phản ánh nhận thức của người nguyên thuỷ về vũ trụ, về cuộc đấu tranh với thiên nhiên, sinh hoạt xã hội. Truyền

thuyết là một thể loại văn học dân gian, ra đời sau truyện thần thoại - khi con người bứt ra khỏi đời sống dã man, bước vào chế độ văn minh đầu tiên. Thời kỳ được đánh dấu bằng những chiến công lao động và những biến đổi xã hội sâu sắc, nên còn được gọi là thời kỳ của “thanh kiếm sắt, cái cày và cái rìu bằng sắt”. Trong văn học dân gian Việt Nam, truyền thuyết là một thể loại được xác định khá muộn so với các thể loại khác. Nó được đánh dấu bằng sự kết thúc của thời kì tiền sử, sự khởi đầu của thời kì sơ sử, với sự hình thành của nhà nước Văn Lang đầu tiên, thuộc thời kì văn hoá kim khí mà đỉnh cao là văn hoá Đông Sơn. Truyền thuyết thường sử dụng yếu tố tưởng tượng kì ảo, các nhân vật, sự kiện đều liên quan đến lịch sử, là những truyện truyền miệng kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong vật địa phương theo quan điểm của nhân dân. Đến nay, có rất nhiều công trình nghiên cứu về truyền thuyết, có nhiều hướng tiếp cận, nhiều định nghĩa khác nhau về truyền thuyết.

Khái niệm truyền thuyết được dùng với nội hàm như ngày nay đã trải qua nhiều tranh luận, bàn cãi của các nhà nghiên cứu, học giả để định hình khái niệm. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về truyền thuyết Việt Nam và sự đa dạng, phong phú của thể loại này còn đặt ra nhiều vấn đế cần được giải quyết: Một số tác giả phủ nhận sự tồn tại của truyền thuyết với tư cách là thể loại văn học dân gian độc lập như Nguyễn Đổng Chi, Đinh Gia Khánh... Ngược lại, Đỗ Bình Trị, Kiều Thu Hoạch và nhiều nhà nghiên cứu khác quan niệm truyền thuyết là một thể loại tự sự dân gian.

Bộ giáo trình Văn học dân gian Việt Nam của trường Đại học sư phạm Hà Nội, (Đỗ Bình Trị chủ biên, năm 1961) bước đầu khẳng định truyền thuyết là một thể loại “Truyền thuyết là những truyện cổ có dính líu đến lịch sử mà lại có sự kì diệu - là lịch sử hoang đường, là những truyện tưởng tượng ít nhiều có gắn với sự thực lịch sử”

Trong cuốn Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự sự dân gian Việt Nam (NXB KHXH, 1970), Kiều Thu Hoạch, có tới ba bài viết khẳng định truyền thuyết là một thể loại văn học dân gian. Ông chỉ ra: Truyền thuyết là một thể tài truyện kể truyền miệng nằm trong loại hình tự sự dân gian; nội dung cốt truyện của nó là kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong vật theo quan niệm nhân dân, biện pháp nghệ thuật phổ biến của nó là khoa trương phóng đại, đồng thời nó cũng sử dụng những yếu tố hư ảo, thần kỳ như cổ tích và thần thoại…

Vào đầu những năm 80, trong cuốn Từ điển văn học (NXB Thế giới, 1984), mục từ “Truyền thuyết” do Chu Xuân Diên viết, cũng đã khẳng định truyền thuyết là một trong những thể loại tự sự dân gian, có quan hệ gần gũi với các thể loại tự sự dân gian khác như thần thoại và truyện cổ tích.

Các cuốn giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, tập II (Hoàng Tiến Tựu NXB Giáo dục, 1990), Văn học dân gian Việt Nam (Lê Chí Quế chủ biên, NXB

ĐHQG, 1990), Văn học dân gian (Phạm Thu Yến chủ biên, NXB ĐHSP, 2002… đều dành một chương cho việc nghiên cứu truyền thuyết với tư cách là một thể loại độc lập.

Cuốn Từ điển tiếng Việt, định nghĩa “Truyền thuyết là truyện dân gian truyền miệng về các nhân vật và sự kiện có liên quan đến lịch sử, thường mang nhiều yếu tố thần kì”. [50, tr.1053].

Còn các tác giả trong Từ điển thuật ngữ văn học, định nghĩa: “Truyền thuyết là một thể loại dân gian mà chức năng chủ yếu là phản ánh và lí giải các nhân vật và sự kiện lịch sử có ảnh hưởng quan trọng tới một thời kì, một bộ tộc, một địa phương hay một quốc gia”. [26, tr.367].

Sách giáo khoa Ngữ văn 10 nâng cao, tập 1, lại định nghĩa: “Truyền thuyết là thể loại tự sự bằng văn xuôi thường kể lại các sự kiện và các nhân vật có liên quan đến lịch sử địa phương, dân tộc, thường dùng yếu tố tưởng tượng để lý tưởng hóa các sự kiện và nhân vật được kể, thể hiện ý thức lịch sử của nhân dân”. [53, tr.73].

Trên cơ sở tìm hiểu các định nghĩa về truyền thuyết nói trên, chúng tôi nhận thấy các tác giả đều chung một quan điểm coi truyền thuyết tồn tại với tư cách là một thể loại văn học dân gian độc lập. Các tác giả cũng công nhận về đặc điểm của truyền thuyết là gắn với các sự kiện và nhân vật lịch sử.

Lễ hội là loại hình sinh hoạt văn hoá văn hoá cổ truyền tiêu biểu của nhiều tộc người ở nước ta cũng như trên thế giới. Lễ hội là sản phẩm tinh thần của người dân được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử, phản chiếu khá trung thực đời sống văn hoá của mỗi dân tộc. Lễ hội là nơi lưu giữ những tín ngưỡng, tôn giáo, những sinh hoạt văn hóa văn nghệ dân gian, nơi phản ánh tâm thức người Việt Nam một cách trung thực nhất. Lễ hội ra đời, tồn tại gắn với quá trình phát triển của nhiều tộc người nói chung và làng xã người Việt nói riêng, nó phản ánh nhiều giá trị trong đời sống kinh tế - xã hội, văn hóa của cộng đồng. Một trong những giá trị tiêu biểu của lễ hội các làng xã người Việt là giá trị văn hoá và liên kết cộng đồng qua tôn giáo, tín ngưỡng.

Nói về tầm quan trọng của lễ hội, tác giả Nguyễn Duy Quý trong bài phát biểu tại Hội thảo Khoa học “Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại” đã khẳng định: “Lễ hội truyền thống là một sinh hoạt tổng hợp bao gồm các mặt tinh thần và vật chất, tôn giáo tín ngưỡng và văn hóa nghệ thuật, linh thiêng và đời thường. Đó còn là một sinh hoạt có quy mô lớn về tầm vóc, có sức cuốn hút một số lượng lớn những hiện tượng của đời sống xã hội”. Bên cạnh đó, khi đề cập đến lý thuyết lễ hội, tác giả Trần Ngọc Thêm và các cộng sự lại cho rằng: “Lễ hội là sự tổng hợp cái linh thiêng và cái trần thế, nhằm thể hiện lòng biết ơn và bày tỏ nguyện vọng cùng sự cầu mong của mình đối với tổ tiên và các thế lực siêu nhiên trong vũ trụ; phân bố theo không gian; có khuynh hướng thiên về tinh thần; mang đặc tính mở (lôi cuốn mọi người tìm đến); mục đích nhằm

duy trì quan hệ bình đẳng giữa các thành viên trong làng xã”

Các tác giả trong Từ điển Bách khoa Việt Nam (Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Tập 2, NXB Hà Nội 2002, tr. 674) đưa quan niệm: “Lễ hội là hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kinh của con người đối với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện”.

Trong Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học Vietlex (Nxb Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển, 2008, tr.694 các tác giả Hoàng Phê, Vũ Xuân Lương, Hoàng Thị Tuyền Linh, Phạm Thị Thủy, Đào Thị Minh Thu, Đặng Thanh Hòa) quan niệm lễ hội là: “Cuộc vui chung có tổ chức, có các hoạt động lễ nghi mang tính văn hóa truyền thống”.

Từ các khái niệm trên, chúng tôi nhận thấy các tác giả khi bàn về khái niệm lễ hội đều có những quan niệm tương đồng về lễ và hội. Trong một lễ hội có hai hệ thống đan quyện và giao thoa với nhau: phần lễ và phần hội.“Lễ là phần tín ngưỡng, là phần thế giới tâm linh sâu lắng nhất của con người, là phần đạo”. [66, tr.32].“Hội là phần tập hợp vui chơi, giải trí, là đời sống văn hóa thường nhật, phần đời của mỗi con người, của cộng đồng”.[66, tr.32]. Các trò diễn, trò chơi, cuộc thi tài trong phần hội làm cho nội dung lễ hội thêm phong phú, làm sáng tỏ thêm chủ đề của lễ hội.

Khái niệm trên đã phản ánh bản chất và những nội dung của lễ hội truyền thống Việt Nam. Trước hết, lễ hội là sinh hoạt văn hoá cộng đồng, bởi vì đây là hoạt động văn hoá của tập thể, thuộc về tập thể, do tập thể tổ chức. Dù ở bất cứ đâu, vào bất cứ thời gian nào lễ hội cũng phải do đông đảo quần chúng nhân dân tiến hành. Chính họ là những người sáng tạo chân chính những giá trị bắt nguồn từ cuộc sống lao động sản xuất và chiến đấu. Họ là chủ nhân, đồng thời là người đánh giá, thẩm nhận và hưởng thụ những thành quả sáng tạo văn hoá ấy. Không bao giờ lễ hội chỉ thuộc về một nhóm người nào đó trong xã hội. Không có đông người tham dự, không thành hội, dân gian từng nói “đông như hội” chính là vậy.

Lễ hội là một hoạt động tập thể do quần chúng nhân dân tiến hành, bất cứ lễ hội nào cũng gắn với các địa bàn dân cư cụ thể, là hoạt động văn hoá của một địa phương đó. Người ta tổ chức hoạt động lễ hội nhằm các mục đích khác nhau. Trước hết, những hoạt động mang tính nghi lễ nhằm nhắc lại sự kiện, nhân vật lịch sử hay huyền thoại đã diễn ra trong quá khứ. Đây chính là biểu hiện đạo lý truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, thể hiện cách ứng xử văn hoá với thiên nhiên, thần thánh, con người, thông qua các hoạt động trong lễ hội. Đó là những ứng xử của tập thể, của cộng đồng cư dân với cả hai đối tượng: siêu hình (thần thánh) và hữu hình (con người). Nó cũng phản ánh mối quan hệ, giao thoa giữa siêu và thực, giữa con người với con người trong những hoàn cảnh và hoạt động cụ thể.

2.2. Vấn đề nghiên cứu truyền thuyết Nguyễn Minh Không

Vào khoảng thế kỷ XIV, XV, truyền thuyết về Nguyễn Minh Không, đã được Lý Tế Xuyên và Vũ Quỳnh, Kiều Phú ghi lại trong Việt điện u linh và Lĩnh Nam trích quái. Trong cuốn Hành thiện xã chí của Hành Thiện tương tế hội, năm 1947, ở Gia Định, tác giả Đặng Xuân Bảng đã lý giải, phân biệt sự khác nhau giữa Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không. Trong Nam ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng, ở truyện Sự thần dị của Minh Không cũng nói đến thánh Minh Không và sự nghiệp tu hành của ông.

Hiện nay, truyền thuyết về Nguyễn Minh Không, tín ngưỡng và các lễ hội về ông được các nhà nghiên cứu ở nhiều địa phương khác nhau như Nam Định, Thái Bình, Hà Nam, Bắc Ninh, Ninh Bình… quan tâm sưu tầm, nghiên cứu và công bố. Thí dụ:

Phạm Đức Duật, trong bài “Sự Tích Không Lộ, Minh Không” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Hán - Nôm (số 1 - 2/1984) đã nói rất rõ về cuộc đời và hành trạng của đức Thánh Nguyễn.

Lê Xuân Quang với cuốn Truyện Đức Không Lộ - Minh Không (2000) đã sưu tầm khá đầy đủ những truyền thuyết về Dương Không Lộ và Minh Không, trong đó có bài diễn ca xâu chuỗi toàn bộ truyền thuyết về Đức Thánh Tổ Khổng Minh Không. Tác giả cho rằng hai vị thiền sư là một và được đồng nhất với danh xưng Khổng Minh Không.

Trương Đình Tưởng với Truyện cổ dân gian Ninh Bình (1995), đã sưu

tầm, biên soạn giới thiệu 6 truyện về ông Khổng Lồ Nguyễn Minh Không. Cuốn Địa chí Ninh Bình, (UBND, Tỉnh ủy Ninh Bình, 2010), phần Văn hóa, tôn giáo - Tín ngưỡng đã giới thiệu về phật giáo thời Lý và vai trò của Quốc sư Nguyễn Minh Không.

Trương Đình Tưởng với cuốn Địa chí văn hóa dân gian Ninh Bình, (2004), trong phần IV: “Truyện kể dân gian” đã giới thiệu một số thể loại văn học dân gian chính ở Ninh Bình trong đó có thần thoại về ông Khổng Lồ Nguyễn Minh Không và một bài ca về Thánh Nguyễn với phép thần thông quảng đại.

Trương Đình Tưởng trong cuốn Bái Đính ngàn năm tâm linh và huyền thoại, NXB Thế giới (2010) đã giới thiệu khá chi tiết về Nguyễn Minh Không, Quốc sư triều Lý - ông tổ khai sinh “sinh dược” và “chùa Bái Đính cổ tự” trên đỉnh non thần.

Qua việc tổng hợp tài liệu trên đây về nhân vật và truyền thuyết Nguyễn Minh Không, cho thấy đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều vấn đề đã được đề cập tới, chủ yếu các sử gia, các nhà khoa học ít nhiều đã chú tâm nghiên cứu nhân vật lịch sử này dưới góc độ sử học và văn hóa. Và truyền thuyết về nhân vật Nguyễn Minh Không đã được các nhà nghiên cứu văn học dân gian ghi lại

thành văn trong quá trình sưu tầm, điền dã. Song chưa có một công trình nào nghiên cứu về Truyền thuyết Nguyễn Minh Không và lễ hội đền Thánh Nguyễn ở Ninh Bình dưới góc độ của khoa nghiên cứu văn học dân gian.

Kế thừa những thành tựu nghiên cứu về Nguyễn Minh Không trước đây, chúng tôi tiếp tục nghiên cứu truyền thuyết Nguyễn Minh Không, đặc biệt là những truyền thuyết về ông lưu truyền ở địa phương Ninh Bình và lễ hội đền Thánh Nguyễn để thấy rõ hơn mối quan hệ giữa truyện kể dân gian với tín ngưỡng và lễ hội. 3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn chủ yếu nghiên cứu trên cơ sở tập hợp các truyền thuyết liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp và thân thế của Nguyễn Minh Không lưu truyền ở Ninh Bình.

Khảo sát, nghiên cứu đồng thời các truyền thuyết về Nguyễn Minh Không lưu truyền ở Ninh Bình với các truyền thuyết về ông ở Thái Bình, Nam Định. Tham khảo, đối chiếu với những truyền thuyết về Nguyễn Minh Không lưu truyền ở một số địa phương khác mà không có ở Ninh Bình.

Khảo sát, giới thiệu lễ hội đền Thánh Nguyễn. Xem xét mối quan hệ giữa

truyền thuyết và lễ hội về Nguyễn Minh Không ở Ninh Bình. 3.2. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu về truyền thuyết Nguyễn Minh Không và lễ hội đền Thánh Nguyễn để thấy được mối quan hệ giữa nhân vật lịch sử với truyền thuyết và tín ngưỡng và có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống văn hóa, tâm linh của cộng đồng dân cư ở Ninh Bình. 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nhiệm vụ

Hệ thống các truyền thuyết về Nguyễn Minh Không ở Ninh Bình và lễ

hội về Nguyễn Minh Không tại đền Thánh Nguyễn.

Xem xét mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội về Nguyễn Minh

Không ở Ninh Bình.

Chỉ ra sự ảnh hưởng sâu rộng của nhân vật Nguyễn Minh Không trong tín ngưỡng dân gian và trong đời sống văn hóa tâm linh của người dân Ninh Bình nói riêng và người dân Việt Nam nói chung. 4.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài Truyền thuyết Nguyễn Minh Không và lễ hội đền Thánh Nguyễn ở Ninh Bình, luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

Phương pháp thống kê: Khảo sát, tập hợp và thống kê các tư liệu liên

quan đến truyền thuyết về Nguyễn Minh Không.

Phương pháp điền dã: Tiến hành điền dã trên địa bàn huyện Gia Viễn,

Yên Mô, Thị xã Tam Điệp, thành phố Ninh Bình tỉnh Ninh Bình tham quan các di tích lịch sử có liên quan đến Nguyễn Minh Không. Gặp gỡ, trao đổi với những cán bộ văn hoá, cán bộ quản lí di tích lịch sử, những nhà nghiên cứu, những người dân địa phương đã nhiều năm tìm hiểu thu thập tư liệu về Nguyễn Minh Không.

Phương pháp liên ngành: Do văn học dân gian nói chung, truyền thuyết nói riêng có đặc trưng là tính nguyên hợp, tính chất sinh hoạt thực hành nên khi tiến hành đề tài này chúng tôi đã vận dụng những tri thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như lịch sử, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng… để lí giải một số vấn đề có liên quan đến đề tài.

Phương pháp phân tích tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng nhằm tiếp cận đối tượng nghiên cứu một cách cụ thể, chi tiết, đồng thời để có được sự đánh giá một cách toàn vẹn, khái quát. 5. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi địa lý: Các địa phương của Ninh Bình có lưu truyền truyền

thuyết về Nguyễn Minh Không và lễ hội đền Thánh Nguyễn ở Ninh Bình.

Phạm vi tư liệu: Những truyền thuyết về Nguyễn Minh Không và lễ hội Thánh Nguyễn đã được sưu tập, giới thiệu trong các cuốn Truyện cổ dân gian Ninh Bình (1995) Bái Đính ngàn năm tâm linh và huyền thoại (2009) do tác giả Trương Đình Tưởng sưu tầm, biên soạn. Cuốn Dư địa chí Ninh Bình Địa chí Ninh Bình (UBND, Tỉnh ủy Ninh Bình, 2010),

Một số truyền thuyết liên quan do tác giả luận văn thu thập, bổ sung được

trong quá trình điền dã tại Ninh Bình. 6. Đóng góp của luận văn

Giới thiệu một cách tương đối đầy đủ, hệ thống truyền thuyết về Nguyễn Minh Không được lưu truyền ở Ninh Bình vốn lâu nay chưa được nhiều người quan tâm. Nghiên cứu nội dung và nghệ thuật hệ thống truyền thuyết về Nguyễn Minh Không và chỉ ra giá trị, ý nghĩa của hệ thống truyền thuyết này.

Giới thiệu lễ hội đền Thánh Nguyễn trong mối quan hệ, với hệ thống truyền thuyết về Nguyễn Minh Không ở Ninh Bình, từ đó cho thấy được sức sống, tầm ảnh hưởng to lớn của ông trong truyền thuyết cũng như trong đời sống hóa tâm linh của người dân Ninh Bình xưa và nay. 7. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, cấu trúc của

luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề chung, cơ sở nghiên cứu đề tài Chương 2: Truyền thuyết về Nguyễn Minh Không ở Ninh Bình Chương 3: Mối quan hệ giữa truyền thuyết Nguyễn Minh Không với lễ hội

đền Thánh Nguyễn.

B. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG, CƠ SỞ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

1.1. Điều kiện tự nhiên, lịch sử, văn hóa ở Ninh Bình 1.1. 1. Điều kiện tự nhiên

Điều kiện tự nhiên là một trong những yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự tồn tại và phát triển của con người. Cũng chính nhờ vào hoàn cảnh tự nhiên mà các giá trị văn hóa, văn học mới nảy sinh, tồn tại và phát triển. Ninh Bình là một tỉnh nằm ở cực nam đồng bằng Bắc Bộ, 19º50’ đến 20º27’ độ Vĩ Bắc, 105º32’ đến 106º27’ độ Kinh Đông. Dãy núi Tam Điệp chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, làm ranh giới tự nhiên giữa hai tỉnh Ninh Bình và Thanh Hoá. Phía Đông và Đông Bắc có sông Đáy bao quanh, giáp với hai tỉnh Hà Nam và Nam Định, phía Bắc giáp tỉnh Hoà Bình, phía Nam là biển Đông. Ninh Bình có vị trí chiến lược quan trọng, là nơi tiếp nối giao lưu kinh tế và văn hoá giữa lưu vực sông Hồng với lưu vực sông Mã, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ với vùng núi rừng Tây Bắc của Tổ quốc. Ninh Bình là một điểm nút giao thông quan trọng từ miền Bắc vào miền Trung và miền Nam. Có nhiều lợi thế phát triển kinh tế chính trị xã hội vì có đủ cả giao thông đường bộ, đường sắt và đường thủy.

Ninh Bình ở vị trí điểm mút của cạnh đáy tam giác châu thổ sông Hồng nên địa hình phân chia thành ba vùng tương đối rõ nét. Vùng đồng bằng, vùng đồi núi bán sơn địa và vùng ven biển. Mỗi vùng có tiềm năng và thế mạnh riêng, song ba vùng có thể bổ sung hỗ trợ nhau để phát triển nền kinh tế hàng hoá. Cùng với tiềm năng về công, nông, lâm nghiệp Ninh Bình còn có thế mạnh phát triển đa dạng các loại hình du lịch với nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử văn hoá nổi tiếng như: Cố đô Hoa Lư, khu du lịch Tam Cốc - Bích Động, Vườn Quốc gia Cúc Phương, khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long, động Vân Trình, nước nóng Kênh Gà, Quần thể di sản thiên nhiên thế giới Tràng An …

Với vị trí địa lý đặc biệt, thiên nhiên đa dạng phong phú, Ninh Bình trở thành nơi chuyển tải các ảnh hưởng văn hóa từ lưu vực sông Mã ra phía bắc, từ lưu vực sông Hồng vào phía nam, từ vùng núi xuống vùng biển. 1.1.2. Đặc điểm lịch sử

Theo kết quả của các công trình khảo cổ học, sử sách ghi lại Ninh Bình là vùng đất cổ, là địa bàn cư trú của của người Việt cổ. Trải qua hàng nghìn năm xây dựng, phát triển và trưởng thành với nhiều thăng trầm, Ninh Bình được đổi tên gọi nhiều lần, mỗi thời đại có cải cách và tên gọi khác nhau.

“Ninh Bình xưa cùng với Thanh Hóa thuộc bộ Quân Ninh, nước Văn Lang. Thời thuộc Hán thuộc quận Giao Chỉ, thời thuộc Đông Ngô về sau thuộc Giao Châu, thuộc Lương là châu Trường Yên.

Năm 968, vua Đinh Tiên Hoàng dẹp xong loạn 12 sứ quân thống nhất đất nước, lên ngôi hoàng đế Đại Thắng Minh Hoàng Đế, đóng đô tại Hoa Lư và đổi

tên gọi Trường Châu thành Trường An…

Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Ninh Bình trực thuộc quân khu 3 gồm một thị xã, 6 huyện và hai thị trấn. Địa giới và các tổ chức đơn vị hành chính được giữ mãi cho tới ngày miền nam hoàn toàn giải phóng thống nhất đất nước.

Ngày 27 tháng 12 năm 1975, tại kỳ họp thứ hai quốc hội khóa V nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam đã ra Nghị quyết Ninh Bình hợp nhất với các tỉnh Nam Định và Hà Nam thành tỉnh Hà Nam Ninh rồi lại tái lập ngày 12 tháng 8 năm 1991”(Trích Bách khoa toàn thư mở) 1.1.3. Văn hóa truyền thống ở Ninh Bình

Ninh Bình là một tỉnh có diện tích nhỏ nhưng lại có bề dày lịch sử và văn hoá, đặc biệt là văn hoá dân gian. Nơi đây vừa là gạch nối, vừa là ngã ba của ba nền văn hoá lớn sông Hồng - sông Mã - Hoà Bình. Vì vậy, văn hoá truyền thống Ninh Bình vừa có nét riêng bản địa, vừa mang sắc thái vùng miền do yếu tố hội tụ, giao thoa của nhiều nền văn minh, văn hoá tích hợp.

Hoa Lư là kinh đô của nước Đại Việt thế kỷ X, mảnh đất gắn với sự nghiệp của 6 vị vua thuộc ba triều đại Đinh - Lê - Lý với các dấu ấn lịch sử: Thống nhất giang sơn, đánh Tống - dẹp Chiêm và phát tích quá trình định đô Hà Nội. Do ở vào vị trí chiến lược ra Bắc vào Nam, vùng đất này đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử oai hùng của dân tộc mà dấu tích lịch sử còn để lại trong các đình, chùa, đền, miếu, từng ngọn núi, con sông. Đây còn là vùng đất chiến lược bảo vệ kinh thành Thăng Long của triều đại Tây Sơn với phòng tuyến Tam Điệp, là căn cứ để nhà Trần hai lần chiến thắng giặc Nguyên - Mông với hành cung Vũ Lâm, đất dựng nghiệp của nhà Hậu Trần với đế đô ở Yên Mô...

Cùng với sự phát triển của lịch sử, nhân dân Ninh Bình đã xây dựng, gìn giữ và phát triển một nền văn hóa đậm đà tính dân tộc và in đậm dấu ấn địa phương. Đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của Ninh Bình vô cùng phong phú, đa dạng biểu hiện ở nhiều phương diện trong cuộc sống của cả người Kinh và người Mường. (Ninh Bình có ngót 92 vạn dân, trong đó có tới hơn 200 ngàn người Mường).

Đối với người dân Ninh Bình, tín ngưỡng dân gian ngàn xưa đã ăn sâu bắt rễ trong tư tưởng, tình cảm, nếp nghĩ, trong đời sống sinh hoạt… Người dân Ninh Bình quan niệm:

“Cây có gốc mới nở cành xanh ngọn Nước có nguồn bể rộng sông sâu”

Thờ tổ tiên là sự thể hiện lòng thành kính, biết ơn, đồng thời cũng là sự thể hiện niềm tin vào sự che chở, bảo hộ, trợ giúp của tổ tiên. Đó là hoạt động dưới dạng hành lễ và được qui định bởi quan niệm, phong tục, tập quán của mỗi cộng đồng, dân tộc. Ngoài tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên người dân Ninh Bình thờ thần tự nhiên như thờ thần Núi, thần Biển, thần Sông, thần Cây… mà còn thờ

Phật. Mọi địa phương trong tỉnh đều có những ngôi chùa thờ Phật.

Thờ vua đã là một đặc trưng trong tín ngưỡng dân gian Ninh Bình, càng ngày càng thấm sâu vào ý thức hệ tư tưởng của người dân, làm thức dậy những tình cảm sâu lắng nhất trong mỗi người dân, khắc ghi đạo lí “uống nước nhớ nguồn”. Một mặt con cháu bày tỏ lòng biết ơn đối với tổ tiên, mặt khác thể hiện trách nhiệm liên tục và lâu dài của con cháu đối ơn đức của của tổ tiên đã có công dựng nước. Để tưởng nhớ công ơn của vua Đinh Tiên Hoàng, vua Lê Đại Hành người dân Ninh Bình đã lập đền thờ ngay trên nền đất kinh đô Hoa Lư xưa và còn được thờ nhiều nơi trong tỉnh. Ở Ninh Bình không chỉ thờ vua Đinh Tiên Hoàng, vua Lê Đại Hành mà còn thờ các vua khác như Phùng Hưng, Lý Thái Tông, Trần Thái Tông… Tín ngưỡng thờ vua của người Ninh Bình được cụ thể hóa trong trong quan niệm “cây có gốc”, “nước có nguồn”, “chim tìm tổ”, “người tìm tông” và qua các hành vi sống (giữ gìn danh dự và tiếp tục truyền thống của gia đình, dòng họ, đất nước) mà còn ở trong các hành vi cúng tế cụ thể.

Trong tín ngưỡng của người Ninh Bình rất coi trọng thờ Mẫu, thờ Thánh… Hiện nay có các đền như đền thờ mẫu Liễu Hạnh ở Tam Điệp, đền thờ Mẫu thượng Ngàn ở Nho Quan, đền thờ đức Thánh Nguyễn ở Gia Viễn… Bên cạnh đó, hầu như ở các làng, xã đều có đền, đình - trung tâm văn hóa thờ Thành Hoàng làng và diễn các nghi lễ văn hóa hàng năm.

Ninh Bình là một địa phương còn lưu giữ được nhiều lễ hội dân gian. Ngoài ý nghĩa tâm linh, lễ hội còn là nơi giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Hiện nay ở Ninh Bình có 74 lễ hội truyền thống và 145 hội làng đậm đà văn hoá của vùng đất châu thổ sông Hồng. Các lễ hội văn hóa ở Ninh Bình chủ yếu diễn ra ở mùa xuân. Lễ hội làng Yên Vệ: ngày 4/1 âm lịch ở làng Yên Vệ xã Khánh Phú, Yên Khánh tại đền Thượng thờ Nguyễn Minh Không và chùa Phúc Long. Lễ hội chùa Bái Đính (Gia Viễn) bắt đầu ngày 6/1 âm lịch… Lễ hội quan trọng nhất trong tín ngưỡng của người dân Ninh Bình là lễ hội Hoa Lư (trước đây là Lễ hội Trường Yên). Nhắc đến lễ hội Trường Yên xưa dân gian có câu:

“Dù ai buôn bán đâu đâu Tháng hai mở hội rủ nhau mà về Dù ai buôn bán trăm nghề Tháng hai mở hội thì về Trường Yên”.

Để gìn giữ phát huy những lễ hội như hiện nay ở Ninh Bình là cả một quá trình, mà trong đó có sự hòa quyện cả những yếu tố lịch sử và cả những truyền thuyết dân gian, tín ngưỡng, phong tục tập quán của người Ninh Bình và người dân trong cả nước.

Trong quá trình sinh sống lâu đời, người Ninh Bình đã tạo nên những phong tục sống tập quán của riêng quê hương mình. Phong tục là toàn bộ những hoạt động sống của con người được hình thành trong quá trình lịch sử và ổn

định thành nề nếp, được cộng đồng thừa nhận, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Phong tục không mang tính cố định, bắt buộc như nghi thức, nghi lễ, nhưng cũng không tùy tiện như hoạt động sống thường ngày. Nó trở thành một tập quán xã hội tương đối bền vững và tương đối thống nhất. Phong tục của người Ninh Bình rất đa dạng được thể hiện ở hệ thống phong tục liên quan đến vòng đời của con người, như phong tục về sinh đẻ, trưởng thành, cưới xin, mừng thọ và lên lão... Khi người phụ nữ mang thai không được bước qua thừng trâu. Người dân quan niệm như vậy người mẹ sẽ bị chửa lên tháng. Khi đứa trẻ mới được sinh ra không để người lạ vào vì sợ phải vía, không cho đứa trẻ đến đám ma vì sợ bị sài quấy khóc, lười ăn. Trong trường hợp đứa trẻ bị sài người dân tin vào việc tắm sài, khêu sài ăn ngon, ngủ ngon. Ngoài ra còn rất nhiều phong tục khác như tục ăn trầu, xông đất, mừng tuổi đầu năm, xem tuổi làm nhà... Hệ thống phong tục liên quan đến hoạt động của con người theo chu kỳ thời tiết trong năm, hệ thống phong tục liên quan đến chu kỳ lao động của con người. Ninh Bình còn là vùng quê có vốn ca nhạc cổ truyền phong phú mang đặc trưng vùng đồng bằng Bắc Bộ. Ninh Bình từng là kinh đô của nước Đại Cồ Việt - nơi phát tích của nghệ thuật Chèo, Xẩm. Đây là những loại hình nghệ thuật cổ truyền tiêu biểu của miền Bắc Việt Nam. Chèo bắt nguồn từ âm nhạc và múa dân gian, nhất là trò nhại trong nghệ thuật Chèo bắt đầu xuất hiện từ thế kỷ X. Người sáng lập nghệ thuật Chèo - bà Phạm Thị Trân, một vũ ca tài ba trong hoàng cung nhà Đinh. Bà được suy tôn là bà tổ của nghệ thuật hát chèo. Hát Xẩm là một loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian độc đáo ra đời cách đây hơn 700 năm. Bên cạnh giá trị nghệ thuật, hát Xẩm còn là loại hình âm nhạc dân gian mang đậm tính nhân văn. Xẩm được coi là một nghề để kiếm sống của người lao động nên tính chất âm nhạc, lời ca hết sức mộc mạc chân thành, song nó cũng chứa đựng những nội dung tư tưởng sâu sắc, hàm chứa những triết lý, những lời răn dạy đạo lý ở đời. Ninh Bình hiện nay còn lưu giữ nhiều làn điệu Xẩm cổ. Một trong những người có công lớn trong việc gìn giữ, bảo tồn hát Xẩm là nghệ nhân Hà Thị Cầu (1928 – 2013) ở huyện Yên Mô. Bà được xem là nghệ nhân hát xẩm cuối cùng của thế kỷ XX và từng được mệnh danh là "báu vật nhân văn sống".

Văn hoá ẩm thực Ninh Bình có những nét đặc thù riêng của nền văn minh lúa nước, của văn hoá sông Hồng. Từ những sản vật do thiên nhiên ban tặng dưới bàn tay khéo léo của con người, mỗi vùng miền trên dải đất này lại có những món đặc sản độc đáo. Vùng đất Kim Sơn nổi tiếng với bún mọc, gỏi Nhệch, rượu nếp Lai Thành. Đến với Yên Mô, ta sẽ được thưởng thức đặc sản nem Yên Mạc, rượu Yên Lâm, bánh đa chợ Lồng.

Trên vùng đất “địa linh nhân kiệt”, nhân dân Ninh Bình đã tiếp thu những truyền thống của cộng đồng người Việt xây dựng nên phong tục tập quán, tín ngưỡng. Từ đó hình thành bản sắc văn hóa địa phương, góp phần làm phong

phú hơn bản sắc văn hóa Việt Nam. 1.1.4. Văn học

Ninh Bình “là một vùng đất nằm giữa hai vùng văn hóa - vùng văn hóa sông Hồng và vùng văn hóa sông Mã, lại là vùng nằm trên huyết mạch giao thông Bắc - Nam, văn học dân gian Ninh Bình mang trong mình tính trung chuyển, giao lưu rõ nét”. [62, tr.833]. Là một vùng quê có nhiều cảnh đẹp nên thơ, người Ninh Bình đã dùng văn học dân gian để ghi lại những cảm xúc của mình về cảnh vật và con người quê hương, gửi gắm vào đó niềm xúc động và lòng tự hào, được diễn tả bằng sự tài hoa trong cách biểu hiện hình ảnh và ngôn từ. Điều đó góp phần hình thành một nền văn học dân gian mang tính riêng biệt và mang tính tương đồng với văn học dân gian các vùng miền khác trên đất nước Việt Nam.

Truyện thần thoại ở Ninh Bình là những truyện kể dân gian thể hiện khát vọng khám phá, chinh phục, giải thích thế giới tự nhiên, sự hình thành vũ trụ và nhận thức của con người thời cổ. Thần thoại ở Ninh Bình là tác phẩm tự sự có kết cấu và cốt truyện đơn giản, được xây dựng bằng những hình ảnh, chi tiết kỳ ảo không có thực. Có thể kể đến các truyện tiêu biểu như Ông lão bán muối giết thuồng luồng, Ngư ông và thần rắn, Chuyện con giải thần ở làng Khê Hạ, Sự tích núi vàng, Sự tích Cánh Diều…

Thể loại phong phú và có số lượng tác phẩm nhiều ở Ninh Bình là truyền thuyết. Hầu như mỗi con sông, ngọn núi, ngôi làng đều gắn liền với những truyền thuyết đẹp.Truyền thuyết ở Ninh Bình rất phong phú: truyền thuyết địa danh, truyền thuyết về các nhân vật lịch sử, truyền thuyết dân gian của người Mường, truyền thuyết về nữ thần, truyền thuyết chống giặc ngoại xâm…

Truyền thuyết dân gian luôn gắn với một vùng đất, vì thế trong các truyền thuyết được sưu tầm, ta bắt gặp hầu hết các địa danh trong tỉnh Ninh Bình. Có truyền thuyết kể về lai lịch tên đất, tên làng như truyền thuyết Hai anh em họ Quách, Bắn phải voi quý của nhà vua…Địa danh Hang Múa ở xã Ninh Xuân - Hoa Lư được nhân dân kể lại những truyền thuyết cổ xưa “khi vua Trần chọn vùng đất Hoa Lư này làm Am Thái Vi, người thường tới đây xem các mỹ nữ múa hát, do đó nhân dân gọi vùng này là hang Múa”. Truyền thuyết địa danh ở Ninh Bình còn gắn với các di tích, khu danh thắng nổi tiếng, đền chùa trong tỉnh như Đền Vực Vông, đền Dâu… Mỗi mỗi truyền thuyết đều thể hiện niềm tự hào, lòng biết ơn, tình cảm tôn vinh của nhân dân dành cho những con người có nhiều đóng góp và hy sinh cho cộng đồng…

Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành đã dựng lên một thời đại vẻ vang trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Công lao “khai sơn phá thạch” của hai vị vua được lưu danh sử sách và được nhân dân đời đời biết ơn, tôn kính. Đinh Bộ Lĩnh và Lê Đại Hành đi vào truyền thuyết dân gian với lòng sùng kính thiêng liêng. Tác giả dân gian sử dụng các yếu tố hoang đường kỳ ảo, mô típ sinh

nở thần kỳ làm cho truyền thuyết về Đinh Tiên Hoàng thêm lung linh.“Trời đang nắng to bỗng một trận mưa rào ập đến. Bà Đàm thị bèn lánh vào trong một hang núi trước mặt. Bà hứng những giọt nước long lanh ngũ sắc từ một cây nhũ đá rỏ xuống. Uống xong bà thấy buồn ngủ nhíu mắt lại. Thấy giữa hang có một tảng đá to, nhẵn như một chiếc sập gụ, bà ngả lưng xuống ngủ thiếp lúc nào không biết. Cơn mưa vừa tạnh, bà Đàm Thị vừa tỉnh giấc, bất thần thấy có một con rái cá hình nhân to tướng nằm bên cạnh, một chân vắt qua bụng bà (….) Hôm ấy, trời đang nắng chang chang bỗng sấm chớp nổi lên ầm ầm, mây chuyển vần vũ. Bà Đàm Thị trở dạ sinh một đứa bé khôi ngô tuấn tú. Đứa bé mới sinh đã ngồi nhổm dậy được như trẻ lên ba, ánh mắt sáng như sao, dung mạo oai vệ khác thường”. Còn trong truyền thuyết Cha lỗ đó, mẹ lá chùa tác giả dân gian cũng hư cấu kể về sự ra đời thần kỳ của vua Lê Đại Hành “Đêm hôm ấy, bà nằm mộng thấy đức Phật Quan Âm Bồ Tát hiện lên nói: Vợ chồng con hiền lành nhân đức nên đã cảm hóa được cõi phật. Ta ban cho đóa sen thiên tử, vợ chồng con sẽ được toại nguyện (...) Ngày qua ngày bà Đặng Thị thấy trong người khang khác. Rồi bà có thai, hai vợi chồng mừng lắm...”. Qua mô típ sự sinh nở thần kì nhân vật nhân vật Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, nhân dân thể hiện quan niệm về sự ra đời của người anh hùng là sự lựa chọn tất yếu lịch sử.

Một mảng quan trọng trong truyền thuyết Ninh Bình là đề tài chống giặc ngoại xâm. Trong lịch sử dựng xây đất nước, người dân Ninh Bình ở mỗi thời kỳ đều có những người con ưu tú, chiến đấu dũng cảm được sử sách tôn vinh, được nhân dân dệt nên những truyền thuyết đẹp, như các truyền thuyết Núi ông Trạng và cánh đồng Ngô Ngã, Cứu vua được phong làm tướng…

Chiếm số lượng đáng kể trong thể loại truyền thuyết ở Ninh Bình là truyền thuyết về Nguyễn Minh Không. Hiện nay, người dân Ninh Bình vẫn lưu truyền những truyền thuyết đẹp về ông như truyện Ông Khổng Lồ gánh núi, Ông Khổng Lồ bắt lươn, Đan sọt gánh nước… Những truyền thuyết ấy đã trở thành một di sản văn hóa phi vật thể vô cùng giá trị của Ninh Bình.

Bên cạnh truyền thuyết, còn phải kể đến một thể loại phong phú đó là những câu tục ngữ, phương ngôn. Đó là những câu nói ngắn gọn thể hiện những nhận định, tổng kết và đúc kết của con người, mang dấu ấn địa danh rõ ràng. Trước hết, phải kể đến những câu phương ngôn về các vị thánh, bậc đế vương, những con người ưu tú của quê hương. Người dân ở đây có câu: “Đại hữu sinh vương, Điềm Dương sinh thánh”.

Đại hữu là quê hương của vua Đinh Tiên Hoàng (nay thuộc xã Gia Phương, Gia Viễn), còn Điềm Dương (Điềm Giang) là quê hương của Nguyễn Minh Không vị quốc sư đời Lý. Câu phương ngôn này thể hiện niềm tự hào của người dân Ninh Bình về vùng đất địa linh nhân kiệt quê hương mình.

Phương ngôn còn ghi lại việc thờ tự Vua Đinh, người dân ở đây đã thể hiện thái độ của mình qua câu: "Đền Đinh thượng miếu, đền Lê hạ từ". Câu

phương ngôn này có nhiều tầng nghĩa. Thứ nhất, chữ "thượng" và chữ "hạ" ở đây có liên quan đến địa danh làng Yên Thượng (nơi có đền thờ vua Đinh) và làng Yên Hạ (nơi có đền vua Lê). Cả hai đều thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư. Thứ hai, chữ "thượng" và chữ "hạ" ngụ ý đền vua Đinh được xây cất cao hơn đền vua Lê. Thứ ba, trong dân gian người ta vẫn coi vua Lê là bầy tôi của vua Đinh, do đó so sánh về vị thế, vua Đinh vẫn được đánh giá ở ngôi cao hơn vua Lê.

Trong lao động sản xuất, trong quá trình đấu tranh thiên nhiên người dân Ninh Bình đã đúc rút kinh nghiệm. Những kinh nghiệm ấy được phản ánh vào những câu tục ngữ ngắn gọn, trở thành tri thức khoa học kỹ thuật dân gian.

“Kiến đen tha trứng lên cao Thế nào cũng có mưa rào rất to”

Quan sát loài côn trùng nhỏ bé này, dân gian rút ra kinh nghiệm hết sức quí báu: khi nhìn thấy kiến đen tha trứng lên cao là lúc sắp có mưa rào. Nhờ kinh nghiệm này, chúng ta sẽ tránh được những thiệt hại trong sản xuất và sinh hoạt.

Tục ngữ Ninh Bình đã đúc rút kinh nghiệm chọn trâu - nguồn sức kéo

chính của nhà nông. Một con trâu tốt phải hội đủ các tiêu chuẩn.

“Tam tinh, khoáy sọ thì chừa Đốm đuôi nát chủ thì đưa vào nồi”

Văn học dân gian Ninh Bình còn có thể loại văn học vô cùng đặc sắc đó là ca dao. Ninh Bình phong cảnh hữu tình, con người tài hoa trở thành nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ dân gian. Những câu ca dao vừa mộc mạc vừa chan chứa tình người ca ngợi cảnh đẹp quê hương, tình yêu lứa đôi, tình cảm gia đình...

“Ai về qua đất Ninh Bình Mà xem phong cảnh hữu tình nên thơ Nước non, non nước như mơ Càng nhìn Dục Thúy càng ngơ ngẩn lòng”

Tình yêu đôi lứa là chủ đề được thể hiện sâu sắc nhất trong ca dao Ninh Bình. Ca dao tình yêu của người Ninh Bình được thể hiện thật ý nhị, uyển chuyển trong mọi cung bậc cảm xúc của tình yêu lứa đôi. Có nhiều cách tỏ tình, lúc xa xôi, đưa đẩy,lúc nồng nàn, gần gũi… nhưng tất cả đều thể hiện được vẻ đẹp tâm hồn của các chàng trai cô gái thôn quê. Các chàng trai Ninh Bình đã khéo léo lấy cảnh nói tình và ngỏ lời qua một câu nhắn nhủ hết sức tình tứ.

“Mình về đường ấy thì xa Để anh bắc cầu Sông Cái đi qua Ninh Bình Đêm qua giăng tỏ, giăng mờ, Em đi đổi bún tình cờ gặp anh; Rảo chân em bước nhanh nhanh,

Anh đỡ lấy gánh: - Để anh gánh cùng; Gánh về đến xóm Tam Dương, Anh xin cha mẹ được thương em cùng”

Không chỉ có các chàng trai mà các cô gái Ninh Bình cũng có cách ngỏ

lời duyên dáng không kém.

“Em là con gái Ngòi Ngang, Chợ Xanh, chợ Cát biết rằng về đâu? Chợ Xanh mua vải ruộm nâu, Chợ Cát mua một cơi giầu đợi anh!” “Trời mưa thì mặc trời mưa, Đường làng lát đá sớm khuya đi về; Quê em là đất Nuốn Khê, Hỏi anh có muốn đi về hay không? Em thưa bác mẹ bằng lòng, Em thì dệt vải, anh trồng ngô khoai; Tứ thời bát tiết anh ơi,

Ổ rơm cũng ấm, ngô khoai cũng bùi”. Cuộc sống nhiều khó khăn, bất trắc đã được người dân gửi gắm qua

những câu ca dao than thân.

“Đắng cay tột đỉnh trời ơi Cái nghèo cái khổ chẳng rời tôi ra” Lời than cất lên từ những bất hạnh, gian nan trở thành một bài ca tổng kết

nỗi khổ đau của người lao động.

Ca dao không chỉ là nơi người dân Ninh Bình gửi gắm tình yêu quê hương đất nước, tình yêu lứa đôi mà còn thể hiện tinh thần phản kháng mạnh mẽ. Ca dao là tiếng nói tố cáo bản chất thối nát của một bộ phận quan lại: ra sức vơ vét của cải, đục khoét, bóc lột nhân dân.

“Chém cha cái lũ áo dài Ăn no đến tận mang tai vẫn lần Nó lần đến bẹn khố dân Trong ngoài bòn sạch không phân thứ gì Ăn no rồi lại nằm khì Mặc dân rên xiết khốn nguy nhọc nhằn”

Ca dao Ninh Bình còn thể hiện được bản sắc văn hóa làng xã ở sự công

kích, chê bai giữa làng này với làng kia.

“Con gái dù đẹp như tiên, Lấy chồng Đông Hội như thuyền chở phân”.

Ca dao không chỉ “công kích” những làng, xã, thôn, bản có nhiều bất lợi về địa lý, mà còn đả phá những thói hư tật xấu của một số người, một số địa

phương trong tỉnh.

"Ai ơi chớ lấy gái La, Vừa lười canh cửi, lại la mắng chồng".

Bằng những hình ảnh được nhân hoá, nghệ thuật ẩn dụ khéo léo và tài tình, ca dao Ninh Bình nói lên được những tâm tư tình cảm của người dân truyền từ đời này qua đời khác.

Những tác phẩm văn học dân gian ở nhiều thể loại đã phản ánh đầy đủ đời sống xã hội, tinh thần của người dân Ninh Bình. Đồng thời cũng tạo nên một vùng văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc và góp phần làm phong phú văn học dân gian Việt Nam. 1.2. Cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Minh Không 1.2.1. Bối cảnh thời đại Nguyễn Minh Không sinh sống 1.2.1.1. Sơ lược về thời Lý

Thế kỷ X, Ðinh Tiên Hoàng sau khi dẹp yên mười hai sứ quân đã xây dựng đô thành mới ở Hoa Lư. Trong bối cảnh lịch sử ấy, đó là một quyết định đúng đắn và cần thiết. Trong 42 năm (968 - 1009), kinh đô Hoa Lư đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, tạo điều kiện cho triều Ðinh (968 - 980) và Tiền Lê (980 - 1009) củng cố chính quyền trung ương, bảo vệ nền độc lập dân tộc, đánh bại cuộc xâm lược lần thứ nhất của quân Tống (980 - 981) và giữ vững nền thống nhất quốc gia. Đến năm 1010, Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế (Thái Tổ), đặt niên hiệu là Thuận Thiên.Trước yêu cầu xây dựng đất nước trên qui mô lớn, đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế, mở mang văn hoá, thì kinh đô Hoa Lư không còn phù hợp với yêu cầu của lịch sử. Bởi vậy, năm 1010, Lý Thái Tổ quyết định đời đô từ Hoa Lư về thành Đại La. Sau đó Thăng Long (rồng bay), chính thức trở thành kinh đô của nước Đại Việt.

Nhà nước Đại Việt thời Lý rất chú trọng xây dựng lực lượng quốc phòng. Quân đội bao gồm quân bộ và quân thuỷ, được huấn luyện quy củ, chặt chẽ. Tất cả trai tráng đến tuổi 18 (gọi là hoàng nam) đều phải đăng lính. Nhà Lý thực hiện chính sách "ngụ binh ư nông" có ý nghĩa tích cực trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Quân đội đã góp phần tích cực và có hiệu quả trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống, xây dựng đất nước thái bình.

Nhà Lý trị vì đất nước bằng luật pháp nhằm bảo vệ quyền lợi của dòng tộc, hạn chế sự bành trướng thế lực ngoại tộc. Đồng thời triều đình quan tâm đến đời sống của muôn dân, thể hiện tinh thần nhân ái trong pháp trị.

Trong hoạt động đối ngoại, triều đình luôn có chính sách mềm dẻo, linh hoạt, chủ trương giao hảo với các nước lân bang, nhưng thực hiện một nguyên tắc không thể nhân nhượng đó là độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Nếu nguyên tắc đó bị vi phạm, nhà Lý kiên quyết chống trả các thế lực ngoại xâm để bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh thổ.

Cùng với sự lớn mạnh về chính trị và kinh tế, văn hóa Đại Việt thời Lý

trở nên phong phú và phát triển ở một tầm cao mới qua một quá trình tiếp biến và tích hợp văn hóa. Trên cơ sở cốt lõi của nền văn hóa Việt cổ, nhà Lý chủ động tiếp thu và cải biến những yếu tố của văn hóa Đông Á Trung Hoa, văn hóa Chămpa và chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ. Tuy nhiên, những ảnh hưởng văn hóa ngoại sinh du nhập còn ở mức độ hạn chế, được gạn lọc, luyện hợp thành những yếu tố nội sinh.

Nhà Lý đã chủ trương một chính sách khoan dung hòa hợp giữa các tín ngưỡng, tôn giáo như tín ngưỡng dân gian, Phật, Đạo, Nho. Đó chính là hiện tượng Tam giáo đồng nguyên. Các tín ngưỡng dân gian cổ truyền như tín ngưỡng thần linh, vật linh, tục thờ Mẫu, tục sùng bái anh hùng, pha trộn với Đạo giáo đã được tự do phát triển và khuyến khích

Đạo Phật là tôn giáo thịnh đạt nhất trong xã hội thời Lý, và được coi là Quốc giáo. Hầu hết các vua Lý (Thái Tổ, Thái Tông…) đều sùng đạo Phật. Nhà vua cho dựng chùa tháp, tô tượng, đúc chuông, dịch kinh Phật, soạn sách Phật… Đông đảo quần chúng bình dân trong làng xã nô nức theo đạo Phật. Nơi nào có nhà ở là ắt có chùa chiền. Dân chúng quá nửa nước là sư.

Nho giáo được du nhập vào Việt Nam từ đầu thời Bắc thuộc dưới một phương thức giao lưu văn hóa cưỡng chế. Đến thời Lý, nó đã trở thành một nhu cầu tư tưởng thiết yếu cho việc xây dựng một thiết chế quân chủ tập quyền. Nho giáo trở thành nguyên lý cơ bản của phép trị nước, trong đó một biện pháp chiến lược là chế độ khoa cử. Tuy nhiên, ở các làng xã, quá trình Nho giáo hóa lại mờ nhạt. Dân chúng vẫn sống theo những phong tục cổ truyền, chưa bị ràng buộc bởi những quy phạm Nho giáo.

Đầu thời Lý, nền giáo dục Đại Việt chủ yếu là Phật học. Vua Lý Công Uẩn đã học ở chùa Lục Tổ. Các sư tăng đồng thời cũng là những trí thức. Dần dần, giáo dục khoa cử Nho học ngày càng phát triển. Nhà Lý là triều đại phong kiến đầu tiên ở Việt Nam xác lập hệ thống giáo dục khoa cử có hệ thống.Năm 1070, Văn Miếu được thành lập, cũng là nơi dành riêng để dạy học cho Hoàng Thái Tử. Lúc đầu, khi mới mở trường Quốc Tử Giám (1076), chỉ có các quý tộc quan liêu và con em được theo học.

Văn học thời Lý phản ánh những tư tưởng và tình cảm của con người thời đại, mang nhiều yếu tố tích cực, lạc quan. Nổi bật là văn học Phật giáo và văn học yêu nước dân tộc. Tư tưởng Phật giáo trong thơ văn Lý chủ yếu là tư tưởng của phái Thiền tông. Nó bao gồm các tác phẩm về triết học và những cảm hứng Phật giáo. Thơ văn yêu nước phản ánh tinh thần bất khuất, anh dũng chống giặc ngoại xâm, lòng trung quân ái quốc, lòng tự hào dân tộc.

Một thành tựu quan trọng của văn học thời Lý là việc phổ biến chữ Nôm. Thời kỳ này, người ta có thể tìm thấy một số dấu vết chữ Nôm trên một số chuông đồng (chùa Vân Bản, Đồ Sơn) và văn bia (bia chùa Báo Ân, Vĩnh Phúc). 1.2.1.2. Sơ lược tình hình Ninh Bình thời Lý.

Kinh đô Hoa Lư sau 42 năm hoàn thành sứ mệnh lịch sử là kinh đô nhà nước Đại Cồ Việt, nay trở thành cố đô. Hoa Lư không còn là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của quốc gia. Ninh Bình thời Lý không phồn thịnh như thời nhà Đinh - Tiền Lê nhưng vẫn được nhà Lý coi là vùng đất quan trọng. Lý Công Uẩn đã sai con trai Khai Quốc Vương tên là Bồ về trấn giữ vùng này. Về hành chính, năm 1010 nhà Lý chia lại khu vực hành chính trong cả nước đổi 10 đạo thành 24 lộ và phủ. Ninh Bình là phủ Trường Yên.

Về kinh tế, sau khi thắng quân Tống xâm lược, nhà Lý chủ trương thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông”. Ở Ninh Bình, kinh tế nông nghiệp phát triển.Triều đình quan tâm việc mở mang đất hoang, xây dựng đê điều. Nhiều điền trang, thái ấp của các quan lại được thành lập như điền trang bên núi Kiếm Lĩnh của Tô Hiến Thành, bến thuyền Trường Yên, Phúc Thành hải cảng sầm uất. Nhà lý quan tâm đến giao thông đường thủy qua hệ thống sông ngòi tự nhiên như sông Vân Sàng, sông Trinh Nữ, sông Đáy. Bên cạnh đó, triều đình còn cho mở rộng, nạo vét dòng chảy các dòng tự nhiên và đào thêm những con sông mới như sông Lẫm ở Yên Mô. Từ đó, nhiều làng mạc dân cư trù phú được hình thành như Bến Ngự, Bến Chợ, chợ Mo, cánh đồng Bể tạo thế thuận lợi cho giao thông, phát triển kinh tế, quân sự và chống úng lụt. Ninh Bình - vùng đất kinh đô Hoa Lư xưa đã trở thành trung tâm kinh tế chính trị của một vùng.

Phật giáo ở Ninh Bình vào thời Lý phát triển mạnh mẽ, vai trò của các nhà sư được đề cao. Nhà sư được tham gia việc triều chính, trở thành các nhà hoạt động chính trị tham gia giúp vua trị vì đất nước. Trong đó phải kể đến vai trò của thiền sư Vạn Hạnh - một trong những người đã giúp cho Lý Công Uẩn lên ngôi vua. Vào cuối thời Tiền Lê, vua Lê Long Đĩnh hoang dâm tàn bạo, triều chính rối ren, đời sống nhân dân cực khổ, lòng dân oán hận. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc vận động nhân dân chấp nhận việc thay ngôi đổi chúa. Sau một thời gian trị vì tàn bạo, Lê Long Đĩnh (Ngọa Triều) chết vào năm 1009. Trong sách Văn học đời Lý (bản in năm 1957, Sài Gòn, nhà xuất bản Hướng Dương), tác giả Lê Văn Siêu viết: “Cuộc đảo chánh năm 1010 của Vạn Hạnh, sau cuộc đảo chánh năm 980 của Lê Hoàn, không mất một giọt máu, không gây một oan cừu, dầu muốn dầu không cũng đã là một tác phẩm nghệ thuật” (trang 107)… “Sư Vạn Hạnh khi thành công đã không chịu nhận một chức tước gì trong triều của ông vua vốn là học trò của mình, mà ngai vàng lại đã do chính tay mình đem đến, tư cách ấy nào khác gì với tư cách của Phù Đổng Thiên Vương” (trang 111). Lý Công Uẩn lên ngôi ngày 2/11 năm Kỷ Dậu, tức ngày 21/11/1009 tại kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình). Ông là người sáng lập vương triều Nhà Lý, lấy hiệu là Lý Thái Tổ, đặt niên hiệu là Thuận Thiên.

Ở thời Lý, Ninh Bình còn có thiền sư Nguyễn Minh Không. Ngài được mệnh danh là ông tổ của nhiều nghề, nhà tu hành mộ đạo, một dược sư nổi tiếng. Một trong những kỳ tích của ông được sử sách ghi lại là chữa thành công

bệnh cho vua Lý Thần Tông, được phong làm Lý triều Quốc sư.

Ở Ninh Bình thời kỳ này chùa tháp được xây dựng nhiều: tháp Linh Tế, chùa động Phong Phú… Nguyễn Minh Không đã lập ra chùa Viên Quang, chùa Bái Đính cổ tự ở xã Gia Sinh, chùa động Am Tiên ở xã Trường Yên… Phật giáo trở thành sức mạnh tinh thần và tư tưởng góp phần xây dựng ý thức dân tộc, trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Phật giáo góp phần quan trọng trong việc hình thành phong tục truyền thống, văn hóa, tín ngưỡng trên quê hương Ninh Bình. 1.2.2. Đôi nét về quê hương Gia Viễn - nơi sinh Nguyễn Minh Không

Ninh Bình là vùng đất “địa linh nhân kiệt” đã sinh ra những người con ưu tú, xuất chúng lưu danh sử sách như Đinh Bộ Lĩnh, Lê Đại Hành, Nguyễn Minh Không… Dân gian Ninh Bình có câu “Đại Hữu sinh Vương, Điềm Dương sinh Thánh”, làng Đại Hữu sinh vua Đinh Tiên Hoàng - làng Điềm Dương sinh thánh Nguyễn Minh Không (Hai làng liền kề nhau thuộc huyện Gia Viễn tỉnh Ninh Bình). Tại núi Dương Sơn, có chùa Lạc Khoái xã Gia Lạc (Gia Viễn, Ninh Bình) còn câu đối:

“Điềm Xá chung linh sinh Nguyễn thánh Hoa Lư dục tú xuất Đinh Hoàng”.

Gia Viễn - quê hương của đức Thánh Nguyễn là một huyện nằm ở phía bắc tỉnh Ninh Bình giáp với tỉnh Hòa Bình và huyện Thanh Liêm của tỉnh Hà Nam. Nơi đây phần lớn là vùng chiêm trũng, ngập nước quanh năm. Vì thế, dân gian có câu “Sống ngâm da, chết ngâm xương”. Ngoài vùng đất ngập nước, khu vực phía Tây Bắc của huyện là đồi, núi đá vôi. Chính vì thế đã tạo ra nhiều hang động như động Địch Lộng, động Đại Hữu, một số hang động dưới chân núi Vân Long… và nhiều đồi trọc như đồi Độc Lập, dải đồi ở xã Gia Hòa, Liên Sơn, Gia Vân.

Gia Viễn là vùng đất cổ giàu truyền thống lịch sử. Đây là vùng đất "sinh vương, sinh thánh"; nơi đã sinh ra vua Đinh Tiên Hoàng và Thánh Nguyễn Minh Không (Lý Quốc Sư) và còn nhiều danh nhân tiêu biểu khác như: Tể tướng Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền, Thượng Thư Trịnh Tú…

Đền Đinh Bộ Lĩnh ở xã Gia Phương huyện Gia Viễn còn có tên là đền Văn Bòng. Tương truyền, đây chính là quê gốc của Đinh Bộ Lĩnh. Ngôi đền không có ghi chép cụ thể được xây dựng năm nào. Trong dân gian truyền lại, khi Đinh Tiên Hoàng còn ở ngôi cho lập sinh từ ở quê hương. Năm Kỷ Mão 799, sau khi nhà vua băng hà, nhân dân làng Đại Hữu đã rước bài vị của vua Đinh Tiên Hoàng về thờ. Tuy cùng thờ vua Đinh Tiên Hoàng nhưng cách thức suy tôn và tín ngưỡng ở ngôi đền này và đền vua Đinh Tiên Hoàng ở khu di tích cố đô Hoa Lư là không giống nhau. Về đối tượng phối thờ, ở đây không thờ các con của ông là Đinh Liễn, Đinh Hạng Lang, Đinh Toàn mà thờ bà ngoại là Phạm Thị Tuyên, thân mẫu Đàm thị và các trung thần khác là bạn vua từ thuở

nhỏ như Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Lưu Cơ.

Đền Thánh Nguyễn là một ngôi đền cổ thuộc làng Điềm, Phủ Tràng An nay là hai xã Gia Tiếng, Gia Thắng thuộc huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Đền thờ Nguyễn Minh Không, là danh nhân được sinh ra trên đất này. Sử sách ghi lại, sau khi tu hành đắc đạo Nguyễn Minh Không về quê hương Đàm Xá xây dựng chùa Viên Quang để thờ Phật vào năm 1121. Khi ông mất, nhân dân Đàm Xá biến chùa Viên Quang thành đền thờ Thánh Nguyễn. Nhân dân đã xây dựng năm gian ở phía Tây thờ Phật. Từ đó về sau nơi thờ đức Thánh Nguyễn và thờ Phật được gọi tên là đền Thánh Nguyễn.

Chùa Bái Đính cổ đã được xây dựng dưới thời nhà Lý. Nơi đây đã kể lại nhiều sự tích, giai thoại về đức Thánh Nguyễn. Khi lên núi tìm thuốc chữa bệnh cho dân, ông đã lập ngôi chùa này. Ngôi chùa được bắt đầu được xây dựng trong những hang đá. Bái là cúng bái, lễ bái trời đất, còn đính nghĩa là đỉnh, ở trên cao. Chùa Bái Đính cổ tọa lạc trên một ngọn núi cao gần trên đỉnh của một vùng rừng núi khá yên tĩnh. Chùa được tạo dựng theo lối kiến trúc chùa động khá phổ biến ở Ninh Bình.

Động Hoa Lư (còn có tên là Thung Lau, thung Ông) nằm ở xã Uy Tế, nay là xã Gia Hưng, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Động Hoa Lư là căn cứ đầu tiên của sứ quân Đinh Bộ Lĩnh đối với sự nghiệp thống nhất giang sơn thế kỷ X. Tuy được gọi là động nhưng di tích này là một thung lũng rộng khoảng 16 mẫu nằm lộ thiên được bao bọc bởi các ngọn núi vòng cung, là nơi Đinh Bộ Lĩnh cùng trẻ mục đồng “Cờ lau tập trận” thuở thiếu thời.

Địch Lộng có nghĩa là tiếng sáo thổi là một danh lam thắng cảnh bậc nhất của tỉnh Ninh Bình. Động - chùa Địch Lộng đẹp tới mức được giới vua chúa quyền quý xưa xếp vào nhóm "Nam thiên đệ nhất động". Nếu như vua Tự Đức ban tặng Hương Tích là Nam thiên đệ nhất động, chúa Trịnh Sâm ban tặng Bích Động là "Nam thiên đệ nhị động" thì Địch Lộng cũng được vua Minh Mạng ban tặng là "Nam thiên đệ tam động", có nghĩa động đẹp thứ ba ở trời Nam. 1.2.3. Thân thế nhân vật

Nguyễn Minh Không là nhân vật lịch sử được sử sách ghi lại khá chi tiết về tiểu sử. Theo "Thiền Uyển Tập Anh", Nguyễn Minh Không tên húy là Nguyễn Chí Thành, sinh ngày 15 tháng 10 năm 1065 và mất năm 1141. Cha là Nguyễn Sùng, quê ở làng Điềm Xá, mẹ là bà Dương Thị Mỹ, quê ở Phả Lại, phủ Từ Sơn nay làng Phả Lại, xã Đức Long, Quế Võ, Bắc Ninh. Theo tác giả Nguyễn Kim Chi “Cha ngài là ông Nguyễn Tất Đạt, quê ở thôn Điềm Xá, xã Đàm Xá Gia Viễn, Phủ Tràng An, tỉnh Ninh Bình. Thánh Mẫu của Ngài là bà Từ Thị Hiền”. [16, tr.25]. Còn theo Ngọc phả lưu giữ tại đền Thánh Nguyễn lại ghi, Nguyễn Minh Không sinh vào ngày 15 tháng 10 năm Quý Sửu. Cha là Nguyễn Sùng, quê làng Đàm Xá, huyện Gia Viễn, Phủ Trường An, Ái Châu. “Sùng công là người có tư chất siêng năng, thông minh nhưng học hành không thành đạt bèn

tạm biệt gia hương dòng tộc đi chu du thiên hạ. Một ngày Sùng công đến Phả Lại thấy có một phú gia tên Vương Công Tiệp, pháp môn diệu thủ, y số chân truyền bèn xin vào nhà ở. Thánh Mẫu là Dương Mĩ Nương, là người có nhan sắc và rất hiếu thuận. Quê Xã Phả Lại, huyện Quế Dương, phủ Từ Sơn, đạo Kinh Bắc”. [48, tr.1]. Sùng công ở nhà Dương Công Tiệp được vài năm, Dương công thấy Sùng công ngôn ngữ nhu hòa, cử chỉ cẩn thận tinh thông văn tự nên đã gả con gái cho. Vừa qua một năm, vợ chồng Dương Công Tiệp bị bệnh qua đời. Sùng công là con rể nhưng mai táng cúng tế như cha mẹ mình. Công việc tang ma đã xong, vợ chồng trở về cố hương Đàm Xá.

Nhà tuy nghèo túng nhưng ông bà đều lấy sự bố thí rộng rãi thể hiện tấm lòng và lấy sự từ bi làm tâm niệm, thấy người đói rét thì cứu giúp, gia tâm làm việc phúc. Ông bà sinh được sáu người con: bốn con trai là Nguyễn Chí Cần, Nguyễn Chí Đức, Nguyễn Chí Thành, Nguyễn Chí Thiện và hai con gái là Nguyễn Thị Cúc, Nguyễn Thị Quỳ. Ông bà làm nghề đánh cá, đơm đó kiếm sống nuôi các con. Cha mẹ mất sớm, Chí Thành làm ngư dân đánh bắt cá, sinh sống trên sông Hoàng Long. Chí Thành nuôi chí lớn, đi chu du thiên hạ.

Nguyễn Minh Không được sử sách ghi lại là nhân vật lịch sử để lại dấu ấn quan trọng ở thời nhà Lý. Khi nhắc đến thiền sư, hậu thế không chỉ biết đến ông với tư cách là nhà tu hành mộ đạo - một thày thuốc tài ba - vị tổ sư của nhiều nghề.

Thứ nhất, Nguyễn Minh Không là nhà tu hành, thiền sư nổi tiếng thời Lý. Sau khi tu hành đắc đạo, thiền sư đã đem tài đức của mình phò vua, hết lòng vì dân vì nước. Quốc sư Minh Không là vị thiền sư sáng lập nên nhiều ngôi chùa nhất - 500 ngôi chùa trên đất Đại Việt. Nhiều ngôi chùa lớn còn tồn tại đến ngày nay như chùa Bái Đính, chùa Cổ Lễ, chùa Non Nước, chùa Địch Lộng, chùa Quỳnh Lâm, chùa Am Tiên, chùa Trông, chùa Kim Liên, chùa Hàm Long... Nguyễn Minh Không được vua phong Lý Quốc sư - tên gọi theo quốc tính họ vua do nhà Lý ban cho ghép với chức danh pháp lý cao nhất của một vị thiền sư từng là dược sư, pháp sư. Thiền sư còn được nhân dân tôn là đức Thánh Nguyễn. Một số ghi chép xưa xếp ông là vị thánh trong tứ bất tử.

Thứ hai, Nguyễn Minh Không là một thày thuốc tài ba: Hậu thế biết đến và ghi nhận công lao của thiền sư không chỉ là nhà tu hành mộ đạo mà còn là một thày thuốc tài ba, tận tâm chữa bệnh cho dân, cứu nhân độ thế. Ông đi nhiều nơi chữa bệnh và để dấu ấn nhiều nhất trên chính quê hương. Không chỉ hái cây thuốc có sẵn trên núi chữa bệnh cho dân mà ông còn tìm kiếm nhiều cây thuốc quý về trồng thành vườn như: Bình vôi, Ngành ngạnh, Hoài sơn, Khúc Khắc, Mặt quỷ…Thiền sư đặt tên vườn thuốc là“Vườn sinh dược”, hiện nay là làng Gia Sinh (làng thuốc sống). Từ các loại thảo dược này thiền sư đã bào chế ra nhiều loại thuốc thuốc nam, châm cứu chữa bệnh cho nhân dân. Hiện nay vùng Gia Viễn vẫn còn lưu truyền nhiều bài thuốc dân gian mà người dân ở đây cho

rằng những bài thuốc ấy được thiền sư Minh Không truyền lại. Như chữa bệnh mề đay, người dân Ninh Bình có kinh nghiệm :

“Thuốc này bôi đắp ngoài da Lá khế giã kỹ, vắt ra mà dùng” Để chữa cho trẻ nhỏ khi bú mẹ hay bị trớ ra, người dân vùng Gia Viễn có bài thuốc :

“Tinh tre tươi nhớ bỏ liền vỏ xanh Gạo tẻ cùng lượng lấy nhanh Cả hai sao kỹ đến thành vàng nâu Gừng tươi thái lát cho sau Sắc, gạn nước đặc, uống mau vài lần”.

Tương truyền, người dân khắp mọi nơi tìm đến thiền sư Nguyễn Minh Không để được chữa bệnh, nhiều người dựng nhà sinh sống gần Vườn sinh dược. Từ đó làng mạc đông đúc được lập nên với tên gọi là làng Gia Sinh.

Một trong những kỳ tích của thiền sư Nguyễn Minh Không về chữa bệnh được sử sách ghi lại là chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tông. Lên ngôi không được bao lâu, vua Lý Thần Tông lâm bệnh nặng, lông lá mọc khắp cơ thể, gầm thét như hổ suốt ngày. Các danh y tài giỏi được triệu đến chữa bệnh nhưng nhà vua vẫn không thuyên giảm, nhà sư Nguyễn Minh Không với tài đoán bệnh của mình đã chữa được khỏi cho vua. Sau khi khỏi bệnh, cảm phục tài năng, vua Lý Thần Tông đã phong ông là Quốc sư. Sách Đại Việt sử ký toàn thư có viết “Năm 1136, vua bệnh nặng, thuốc chữa không khỏi. Nhà sư Nguyễn Minh Không chữa khỏi, được phong là Quốc sư, tha thuế dịch cho vài trăm hộ”. [45, tr.362].

Thứ ba, Nguyễn Minh Không còn là một tổ sư của nhiều ngành nghề: Tổ nghề là một hoặc nhiều người có công lớn đối với việc sáng lập và truyền bá một nghề nào đó. Do đó được các thế hệ sau tôn trọng và suy tôn là người sáng lập vì đã có công tạo ra nghề, gọi là tổ nghề. Tổ nghề thường là những người có thật, nhưng lại được người đời sau tôn thờ vì đã có công sáng tạo ra nghề, truyền lại cho các thế hệ sau. Sự nghiệp tu hành của thiền sư gắn liền với “độ thế”, “xuất thế” chứ không “yếm thế” quay lưng lại với đời. Thiền sư không chỉ chữa bệnh cho dân mà quan tâm chăm lo đời sống cho muôn dân. Đi đến đâu thiền sư xây chùa, chữa bệnh, dạy dân làm nghề để mưu sinh. Đến núi Bái Đính - Ninh Bình, thiền sư dạy dân trồng thuốc chữa bệnh, đến làng Tống Xá - Nam Định, thiền sư dạy dân nghề đúc đồng… Vì vậy, đời sống nhân dân được ấm no, hạnh phúc, thái bình. Nhân dân biết ơn thiền sư đã lập đền thờ và suy tôn là tổ nghề: Làng nghề Yên Xá, Tống Xá ở Ý Yên; Chùa Tổ Ong phố Lò Đúc, phố Ngũ Xã - Hà Nội; đình làng Chè, làng Rỵ ở Thiệu Hóa, Thanh Hóa…

Nguyễn Minh Không là một nhân vật lịch sử, nhân vật huyền thoại. Hiện nay trong cả nước có rất nhiều nơi còn đền thờ ông như ở Bắc Ninh, Hà Nội, Nam Định…Riêng ở Ninh Bình, quê hương ông có đền thờ đức Thánh

Nguyễn trên mảnh đất sinh ra ông thuộc địa phận hai xã Gia Tiến, Gia Thắng huyện Gia Viễn. Xưa kia đây là chùa Viên Quang, sau khi ông mất nhân dân biến Viên Quang Tự thành đền thờ đức Thánh Nguyễn và thiền sư còn được thờ ở đình, chùa và đền nhiều nơi trong tỉnh như đền thờ Nguyễn Minh Không ở khu văn hóa tâm linh núi chùa Bái Đính - nơi ông đã phát hiện ra các động và xây dựng chùa Bái Đính cổ tự. Tại chùa Địch Lộng ở huyện Gia Viễn, nơi được mệnh danh là "Nam thiện đệ tam động”. Lý Quốc Sư còn được thờ ở đình Ngô Đồng, xã Gia Phú, Gia Viễn, động Am Tiên ở cố đô Hoa Lư…Tại đền Thượng xã Khánh Phú và đền Tam Thánh ở xã Khánh An huyện Yên Khánh, ông được suy tôn là đức Thánh Cả.

Tiểu kết chương 1

Đặc điểm về tự nhiên, kinh tế, xã hội, đời sống văn hóa và truyền thống lịch sử ở Ninh Bình nói chung và thời nhà Lý nói riêng là những điều kiện rất thuận lợi để làm nảy sinh, tồn tại và phát triển một vùng đất giàu bản sắc văn hóa với những giá trị phi vật thể độc đáo và hấp dẫn. Những giá trị ấy được gửi vào những hình sông, dáng núi, trong những phong tục, tập quán, tín ngưỡng, trong các tác phẩm văn học, trong những buổi sinh hoạt văn hóa cộng đồng.

Đặc biệt qua những truyền thuyết, những lễ hội truyền thống và trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân Ninh Bình là nền tảng giúp chúng ta khám phá ra những nét độc đáo, hấp dẫn của vùng văn hóa Ninh Bình.

Đồng thời, chúng ta thấy mảnh đất Ninh Bình đã lưu giữ khá nhiều dấu tích về những con người lịch sử, những nhân vật anh hùng văn hóa đã xây dựng nên mảnh đất này như Đinh Bộ Lĩnh, Lê Đại Hành…Tìm hiểu về Nguyễn Minh Không và lễ hội đền Thánh Nguyễn, chúng ta thấy ông được người dân Ninh Bình lưu truyền với nhiều sự tích và dân gian đã tôn ông lên hàng bậc Thánh với vầng hào quang bất diệt. Điều đó chứng tỏ vị trí hết sức quan trọng và ảnh hưởng hết sức to lớn của Thiền sư trong tâm thức và tín ngưỡng dân gian Ninh Bình trong nhiều thế kỷ qua.

CHƯƠNG 2 TRUYỀN THUYẾT VỀ NGUYỄN MINH KHÔNG Ở NINH BÌNH Văn học và cuộc sống luôn có một mối quan hệ gắn kết khó có thể tách rời. Văn học bắt nguồn từ cuộc sống. Tuy vậy, văn học không phải là sự sao chép hoàn toàn tất cả những gì thuộc về đời sống. Là một bộ phận của văn học, truyền thuyết phản ánh lịch sử nhưng không phải những sự kiện lịch sử đích thực mà chỉ là “những ánh hào quang, những tia khúc xạ” của lịch sử.

Truyền thuyết về Nguyễn Minh Không cũng như các truyền thuyết khác của người Việt nhằm phản ánh, lý giải các nhân vật, các sự kiện lịch sử có liên quan tới đời sống con người. Ở chương 2, thông qua hệ thống truyền thuyết dân gian về Nguyễn Minh Không lưu truyền ở Ninh Bình, sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về cuộc đời và sự nghiệp của vị thiền sư - thày thuốc - tổ nghề. Đồng thời thấy được vị trí của truyền thuyết Nguyễn Minh Không trong hệ thống truyền thuyết dân gian Ninh Bình. 2.1. Khảo sát truyền thuyết về Nguyễn Minh Không 2.1.1. Thống kê số lượng các truyền thuyết

Nguyễn Minh Không là nhân vật được sử sách ghi lại khá chi tiết nhưng không nhiều. Vì vậy, khi tìm hiểu về đức thánh Nguyễn, bên cạnh thư tịch cổ “cái lõi lịch sử” phải dựa vào truyền thuyết và huyền thoại. Hệ thống truyền thuyết về Nguyễn Minh Không còn lưu lại khá nhiều trong dân gian, đặc biệt ở Ninh Bình.

Trong khuôn khổ đề tài này, chúng tôi thu thập từ hai nguồn dữ liệu chính từ những văn bản đã thành văn và ghi lại được trong quá trình điền dã. Cho đến nay, tổng số truyền thuyết về Nguyễn Minh Không mà chúng tôi thu thập được là 38 truyện. Riêng truyền thuyết lưu truyền ở Ninh Bình là 35 truyện (số lượng này có thể phong phú hơn khi mở rộng địa bàn khảo sát). Các truyền thuyết còn lại lưu truyền trong dân gian và một số địa phương chỉ mang tính chất tham khảo.

Thứ nhất, trên cơ sở các dữ liệu thành văn chúng tôi thu thập các bản kể về Nguyễn Minh Không đã được nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi biên soạn trong các cuốn Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (Tập II và tập III) được lưu hành trong toàn quốc. Các bản kể này được chúng tôi dùng mang tính chất tham khảo, góp phần khắc họa hình tượng Nguyễn Minh Không được toàn vẹn hơn.

Tên truyền thuyết Nguồn

TT 1 Khổng lồ đúc chuông hay sự tích trâu vàng Hồ Tây Nguyễn Đổng Chi Nguyễn Đổng Chi 2 Người thợ đúc và anh học nghề Nguyễn Đổng Chi 3 Từ Đạo Hạnh hay là sự tích Thánh Láng

Bảng 1: Tên truyền thuyết tham khảo - nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi biên soạn

Thứ hai, trên cơ sở dữ liệu đã thành văn chúng tôi tiến hành thu thập các tài liệu liên quan đến Nguyễn Minh Không qua các cuốn sách như Dư địa chí văn hóa dân gian Ninh Bình, Truyện cổ dân gian Ninh Bình, Bái Đính ngàn năm tâm linh và huyền thoại của nhà nghiên cứu Trương Đình Tưởng, với 14 bản kể được lưu hành chủ yếu ở Ninh Bình.

Tên truyền thuyết Nguồn

Truyện cổ dân gian Ninh Bình

Sự tích Hòn đá Diều Công và hai con voi hóa thạch

Bái Đính ngàn năm tâm linh huyền thoại

TT Ông Khổng Lồ gánh núi 1 Ông Khổng Lồ bắt lươn 2 Đan sọt gánh nước 3 Nút đó và lò nước của ông Khổng Lồ 4 Sự tích núi Kẽm Đó 5 Sự tích núi Con Mèo 6 Sự tích đồi Ba Rau, Đống Củi và Bó Xôi 7 Sự tích Bàn Cờ, Ô Thuốc 8 9 Một lời nguyền của ông Khổng Lồ 10 11 Động Long Ẩn và hang Áng Nồi 12 13 14 Lỗ Lùng - Ổ Gà Sinh dược - Vườn thuốc của ông Khổng Lồ Truyện Thần y chữa bệnh hoá hổ cho vua Lý

Bảng 2: Tên truyền thuyết đã thành văn - nhà nghiên cứu Trương Đình Tưởng biên soạn

Thứ ba, chúng tôi thu thập, hệ thống, ghi lại những truyền thuyết về Nguyễn Minh Không trong quá trình điền dã nhiều nơi trong tỉnh Ninh Bình: huyện Gia Viễn, Nho Quan, Yên Khánh, Kim Sơn. Trong quá trình đi sưu tầm truyền thuyết, chúng tôi tiếp cận với những người làm công tác văn hoá, người dân địa phương, những người thủ nhang, ông từ trông coi đền Thánh Nguyễn. Qua những lời kể của họ, chúng tôi đã ghi lại được 21 truyền thuyết. Những truyền thuyết này lưu hành ở Ninh Bình và không có ở các tỉnh khác.

Tên truyền thuyết Nơi lưu truyền

STT 1 2 3 4 5 6 7 Luống cày ông Nguyễn Sự tích Ao Soi Sự tích cánh đồng chua Làng Gia Sinh Sự tích chùa Động Am Tiên Chùa Bái Đính cổ tự Lời nguyền của ông Khổng Lồ Gia Viễn Gia Viễn Gia Viễn Gia Viễn Hoa Lư Gia Viễn Gia Viễn Nguồn Sưu tầm Sưu tầm Sưu tầm Sưu tầm Sưu tầm Sưu tầm Sưu tầm

Lời nguyền của ông Khổng Lồ Ông Khổng Lồ gánh nước

8 9 10 Ông Khổng Lồ giúp người họ Thái tai Gia Viễn Yên Khánh Gia Viễn Sưu tầm Sưu tầm Sưu tầm

Sự tích Bến Bia Sự tích Bến Bia

qua nạn khỏi 11 Đức thánh hiển linh 12 13 14 Nồi đồng bên núi Lạc Khoái 15 Ông Khổng Lồ chữa bệnh cho Dương phố Ninh Sưu tầm Sưu tầm Sưu tầm Sưu tầm Sưu tầm

Gia Viễn Gia Viễn Gia Viễn Gia Viễn Thành Bình

16 17 Sưu tầm Sưu tầm

Hoán Chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tông Gia Viễn Gia Viễn Truyền thuyết về sự ra đời của Nguyễn Minh Không Truyền thuyết Nguyễn Minh Không hóa Gia Viễn Gia Viễn 18 19 Người con đỡ đầu của đức Thánh Sưu tầm Sưu tầm

20 21 Gia Viễn Kim Sơn Sưu tầm Sưu tầm

Nguyễn Sự tích Vũng ông Khổng Truyện thiền sư Nguyễn Minh Không Bảng 3: Truyền thuyết tác giả luận văn ghi lại trong quá trình điền dã

2.1.2. Đặc điểm của hệ thống truyền thuyết về Nguyễn Minh Không ở Ninh Bình

Khảo sát truyền thuyết về Nguyễn Minh Không, chúng tôi nhận thấy những

có đặc điểm như sau: 2.1.2.1. Truyền thuyết về Nguyễn Minh Không mang đậm dấu ấn địa phương Hầu hết các truyền thuyết về Nguyễn Minh Không được sưu tầm đều gắn liền với các địa danh của tỉnh Ninh Bình, đặc biệt là huyện Gia Viễn - quê hương của đức Thánh Nguyễn.

Truyền thuyết Nguyễn Minh Không mang tính địa phương sâu sắc. Bởi vì, nhân vật trong truyền thuyết bao giờ cũng phải gắn với không gian - thời gian cố định, không - thời gian lịch sử cụ thể. Qua các truyền thuyết, hành trạng, sự nghiệp của Nguyễn Minh Không đều gắn bó mật thiết với quê hương và thể hiện phong tục tập quán của Ninh Bình rõ nét: cư dân sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng trọt, chăn nuôi, đánh bắt cá…Nội dung mỗi truyện đều thể hiện góc nhìn dân gian về đức Thánh Nguyễn ở nhiều lĩnh vực: Đó là một thiền sư - một thần y - ông tổ của nhiều nghề. 2.1.2.2. Truyền thuyết về Nguyễn Minh Không đa dạng về tiểu loại, sinh động trong lời kể Tìm hiểu hệ thống truyền thuyết về Nguyễn Minh Không ở Ninh Bình, chúng tôi nhận thấy có sự đa dạng về tiểu loại: truyền thuyết địa danh, truyền thuyết phổ hệ, truyền thuyết về người anh hùng sáng tạo văn hóa. Tất cả tạo nên

giá trị đặc sắc của chuỗi truyền thuyết về Nguyễn Minh Không trên cả phương diện nội dung và nghệ thuật.

Nguyên nhân tạo nên sự đa dạng trong hệ thống truyền thuyết Nguyễn Minh Không, đó chính là sự tồn tại nhiều bản kể, nhiều cách kể về cùng một cốt truyện. Thực tế, chuỗi truyền thuyết Nguyễn Minh Không vừa được văn bản hóa vừa được lưu truyền trong dân gian với nhiều dị bản. Cụ thể, có những dị bản khác nhau trong các truyện như Lời nguyền ông Khổng Lồ (ba bản), Chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý (ba bản), Sự tích Bến Bia (hai bản), truyện Ông Khổng Lồ đan sọt gánh nước và truyện Ông Khổng Lồ gánh nước cùng kể về việc ông Nguyễn Minh Không gánh nước giúp người dân ở hai Huyện Yên Khánh và Yên Mô khỏi hạn hán, nhưng cách kể lại khác nhau.

Về mối quan hệ giữa Nguyễn Minh Không và Từ Đạo Hạnh, từ sử sách đến truyền thuyết cũng có nhiều bản kể khác nhau. Theo sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư cho biết, thì:“Tục truyền khi nhà sư Từ Đạo Hạnh sắp trút xác, trong khi ốm đem thuốc niệm thần chú rồi trao cho học trò là Nguyễn Chí Thành tức Minh Không, dặn rằng 20 năm sau nếu thấy quốc vương bị bệnh lạ thì đến chữa ngay, có lẽ là việc này”. Sách Lĩnh Nam chích quái cũng viết:“Xưa ở làng Đàm Xá, huyện Đại Hoàng, đất Trường An, có người tên là Nguyễn Chí Thành ở chùa Quốc Thanh, hiệu là Minh Không quốc sư, lúc ít tuổi đi du học, gặp Đạo Hạnh, học được đạo pháp, trải hơn mười năm”. Như vậy, theo sử sách ghi chép, thì Nguyễn Minh Không là đệ tử của Thiền sư Từ Đạo Hạnh, được Thiền sư Từ Đạo Hạnh truyền cho đạo pháp.

So với những gì lịch sử ghi chép, các truyền thuyết Nguyễn Minh Không trong dân gian và ở Ninh Bình có nhiều chi tiết sáng tạo, đem tới nét khác biệt. Theo truyện Sự tích Thánh Láng cho biết, thì “Một hôm, họ đến một vùng núi cao, hai người chui vào một ngôi miếu cổ bên đường để ẩn mưa, bỗng gặp một người trẻ tuổi đang ngồi đốt lửa sưởi ở trong đó. Họ bắt đầu làm quen và biết rằng đấy là Từ Đạo Hạnh, cũng lặn lội đi tìm thầy học phép để trả thù cho cha. Sau một đêm chuyện trò, ba người kết bạn với nhau. Từ Đạo Hạnh nhiều tuổi hơn được tôn là anh cả. Dương Không Lộ thứ hai và Nguyễn Minh Không là em út”.

Còn theo truyền thuyết được ghi chép và lưu tại đền Thánh Nguyễn tại Ninh Bình thì “Mùa xuân năm Canh Tý 1120 thánh cùng với ông Giác Hải lên Sơn Tây rồi kết giao với với Từ Đạo Hạnh ở chùa Thày thuộc xã Thụy Khuê, huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai. Ba ông đồng chí hướng mải miết ngày đêm tìm đường sang Tây Trúc học đạo”. Qua đó cho thấy, Nguyễn Minh Không là bạn của Từ Đạo Hạnh chứ không phải học trò. Song, dẫu Nguyễn Minh Không là bạn hay là học trò của Từ Đạo Hạnh, thì có một điều chắc chắn rằng, người chữa căn bệnh “hóa hổ” cho vua Lý Thần Tông chỉ có một là Nguyễn Minh Không - người Ninh Bình. Truyền thuyết Nguyễn Minh Không ở Ninh Bình được lưu truyền bằng hai

hình thức truyền miệng và văn bản hóa, tồn tại dưới dạng những mẫu kể ngắn. Đặc điểm đó nhận thấy rõ nét trong các truyện Sự tích Ao Soi, Luống cày ông Nguyễn, Sự tích núi Con Mèo… Lời kể trong các truyền thuyết về Nguyễn Minh Không ở Ninh Bình tương đối sinh động, giàu tính nghệ thuật. Tác giả dân gian chú ý miêu tả không gian của truyện, lời nói, thái độ, suy nghĩ của nhân vật một cách hết sức chi tiết. Trong quá trình điền dã để sưu tầm những truyền thuyết về Nguyễn Minh Không từ hai nguồn dữ liệu thành văn và lưu truyền bằng lời kể, chúng tôi nhận thấy những truyền thuyết đã được người dân hư cấu, sáng tạo lại, thể hiện ở ngôn ngữ kể mang nhiều nét hiện đại, với xu hướng “hiện đại hoá tác phẩm”.

Như vậy, từ những ghi chép của sử gia đến những những lời kể dân gian, nhân vật lịch sử Nguyễn Minh Không được xây dựng thành một nhân vật phi thường, bất tử. Từ lịch sử, Nguyễn Minh Không đã đi vào truyền thuyết, với mỗi một dị bản ông lại được dân gian thêm một lần khẳng định vị thế của một vị Thiền sư mang tầm vóc quốc gia. Khẳng định sức sống của ông trong tâm thức của người dân Ninh Bình nói riêng và của người dân Việt Nam nói chung. 2.2. Hình tượng Nguyễn Minh Không trong truyền thuyết

Truyền thuyết lịch sử có hai chức năng cơ bản là ghi chép lịch sử (chức năng xã hội thực hành) và phản ánh thái độ, tư tưởng, tình cảm và quan điểm của nhân dân về lịch sử bằng hình thức nghệ thuật (chức năng thẩm mỹ). Sự chuyển tải hai chức năng được thể hiện ở cốt truyện, nghệ thuật xây dựng nhân. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Nguyễn Minh Không cũng mang những đặc điểm chung của thể loại truyền thuyết ở sự lựa chọn và cách thể hiện nhân vật.

Nguyễn Minh Không là một trong số những nhân vật lịch sử được nhân dân lựa chọn và trở thành nhân vật chính của một hệ thống truyền thuyết. Trong tư tưởng tình cảm của người dân Ninh Bình (theo hầu hết những truyền thuyết, chúng tôi thu thập được) Nguyễn Minh Không là người có công lớn trong việc khai sơn phá thạch, mở mang rộng địa bàn sinh sống, trồng cấy... Ông là một thần y chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý, bốc thuốc trồng thuốc chữa bệnh cho dân. Ông là thiền sư đắc đạo. Cả cuộc đời ông luôn hết lòng vì dân vì nước, gắn bó sâu sắc với quê hương Ninh Bình. Qua đó thể hiện lòng thành kính của nhân dân đối với Nguyễn Minh Không.

Nguyễn Minh Không là nhân vật lịch sử, khi di vào truyền thuyết được tác giả dân gian tưởng tượng, “nhào nặn”, hư cấu theo cảm quan của nhân dân. Những hư cấu đó mang mục đích đề cao nhân vật, dựng tượng đài nhân vật bằng lòng kính yêu, ngưỡng mộ và bất tử hóa nhân vật cùng với thời gian.

Đặc điểm nổi bật nhất của truyền thuyết Nguyễn Minh Không là sự kết hợp kỳ lạ giữa những nét đời thường thế tục với những nét kỳ ảo. Về hoàn cảnh xuất thân, Nguyễn Minh Không được tác giả dân gian xây dựng không phải là thần thánh mà gần gũi với đời thường trong gia đình nông dân nghèo, làm nghề đánh cá. Cả cuộc đời ông vất vả mưu sinh. Xong không phải vì thế mà hình tượng Nguyễn Minh Không trong truyền thuyết mất đi vẻ đẹp, mất đi sự thiêng liêng.

Chính trong hoàn cảnh khó khăn, Nguyễn Minh Không đã vươn lên, tu hành đắc đạo, đem hết tài năng, tâm đức phò vua, giúp đời. Lựa chọn kiểu nhân vật có xuất thân từ tầng lớp nhân dân, tác giả dân gian gửi gắm niềm tin, niềm mơ ước, niềm tự hào, ca ngợi những con người bình thường vươn lên thành tài.

Nguyễn Minh Không được tác giả dân gian xây dựng không có phép thuật vô biên như thần thánh. Thiền sư họ Nguyễn có phép lạ do dược phật tổ truyền thụ. Ông là con người phi thường giữa đời thường.

Nhân vật trong truyền thuyết không chỉ sống trong lời kể mà họ sống trong tâm thức nhân dân, sống trong nghi lễ thờ cúng. Nhân vật Nguyễn Minh Không cũng vậy. Cùng các truyền thuyết lưu truyền trong dân gian về ông, lễ hội truyền thống diễn ra hằng năm ở đền Thánh Nguyễn, nhiều địa phương trong tỉnh Ninh Bình và ở các tỉnh khác. Tạo nên sức sống mãnh liệt của truyền thuyết, sự bất tử của nhân vật. Qua đó, nhân dân bày tỏ lòng biết ơn thành kính, tưởng nhớ về đức Thánh Nguyễn.

Nhân vật là hiện tượng nghệ thuật mang tính ước lệ chứ không phải sự sao chụp nguyên mẫu của cuộc sống. Truyền thuyết phản ánh hiện thực một cách độc đáo - thông qua việc xây dựng nhân vật. Đó là những nhân vật lịch sử có thực, được nhân dân yêu mến kính phục, sáng tạo trong chất "thơ", chất "mộng", "chất kì ảo" để tôn vinh những người có công với đất nước. Chính vì vậy, khi tìm hiểu về nhân vật trong truyền thuyết là tìm hiểu quan niệm của nhân dân về nhân vật đó. Dưới đây, chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu hình tượng nhân vật Nguyễn Minh Không trong truyền thuyết dân gian Ninh Bình. 2.2.1. Nguyễn Minh Không là con người đời thường

Truyền thuyết dân gian Việt Nam vô cùng phong phú và luôn mang vẻ đẹp tinh thần nhân văn cao quý. Các sự kiện, cảnh vật, con người... được phản ánh trong truyền thuyết rất gần gũi, thân thiết với cuộc sống và tâm hồn của mỗi con người Việt Nam. Nguyễn Minh Không là nhân vật lịch sử thời Lý đã được nhân dân dệt thành những huyền thoại đẹp. Quốc sư Minh Không tu hành đắc đạo có thể đi mây về gió, dời non lấp biển, niệm thần chú cho chim sẻ rơi xuống đất, ngả nón làm thuyền vượt sông… Khi tìm hiểu vể truyền thuyết Nguyễn Minh Không, chúng tôi còn nhận thấy Nguyễn Minh Không hiện lên gần gũi như những con người đời thường. Đặc điểm này của nhân vật được thể hiện tập trung ở một số truyền thuyết như: Sự tích Nguyễn Minh Không, Sự tích đồi Ba Rau, Đống Củi và Bó Xôi, Ông Khổng Lồ bắt lươn, Sự tích núi Con Mèo, Một lời nguyền của ông Khổng Lồ, Nút Đó và lò nước của ông Khổng Lồ…

Lai lịch, hoàn cảnh xuất thân là phương diện đầu tiên góp phần chi phối đặc điểm tính cách, cuộc đời nhân vật. Bằng tình cảm yêu quý, lòng tự hào về người con ưu tú của quê hương, dân gian xây dựng hình tượng Nguyễn Minh Không là con người đời thường với xuất thân cụ thể. Truyền thuyết về sự ra đời của Nguyễn Minh Không khẳng định quê cha ở Gia Viễn - Ninh Bình “Thời ấy,

nước Đại Việt ta có hương Đàm Xá, huyện Gia Viễn, Phủ Trường An, Ái Châu có một nhà họ Nguyễn tên Sùng. Sùng công là người có tư chất siêng năng, thông minh”. Còn quê mẹ, được giới thiệu ở Phả Lại “Sùng công đến Phả Lại thấy có một phú gia tên Vương Công Tiệp, pháp môn diệu thủ, y số chân truyền bèn xin vào nhà ở”.[PL1, tr.106]. Nhà Dương Công Tiệp có cô con gái tên là Mỹ Nương. Nàng là người có nhan sắc, lại hiếu thuận đã đến tuổi lập gia đình “Gặp khi Sùng công đến ở nhờ đã vài năm Dương Công thấy Sùng công ngôn ngữ nhu hòa, cử chỉ cẩn thận tinh thông văn tự nên đã gả con gái cho”.[PL1, tr.106]. Quê cha Đàm Xá, quê mẹ ở Phả Lại, hai địa danh này được kể rất nhiều lần trong truyền thuyết Nguyễn Minh Không.

Nguyễn Minh Không được sinh ra trong một gia đình nông dân, nghèo khó. Cha làm nghề chài lưới mưu sinh. Ngay từ thuở nhỏ, Nguyễn Minh Không đã gắn bó với sông nước, làm quen với công việc chài lưới. Khi trưởng thành Nguyễn Minh Không mưu sinh bằng nghề này. Ông thường hay đơm đó bắt cá, bắt tôm, bắt tép trên sông Hoàng Long, một số dòng sông trong tỉnh và ở Thái Bình, Nam Định. Qua quá trình khảo sát chuỗi truyền thuyết lưu hành ở Ninh Bình chúng tôi nhận thấy có tới 12 truyện khắc họa hình ảnh Nguyễn Minh Không bắt cá.

Truyền thuyết nhân dân khắc họa hình tượng Nguyễn Minh Không rất chân thực về hoàn cảnh sống “Thuở sinh thời, ông Khổng Lồ nghèo lắm. Ông chỉ có cái khố che thân. Ngày ngày ông thường bắt lươn, bắt cua ở các cánh đồng Gia Viễn để kiếm sống”.[PL2, tr.113]. Nguyễn Minh Không hiện lên như một người nông dân, quanh năm chân lấm tay bùn, cần mẫn với công việc, gần gũi với cuộc sống dân dã chốn thôn quê.“Khổng Lồ vẫn bị mất trộm cá. Ông phải ăn ngủ ngay tại chỗ để coi đó. Thế là ông đun nấu, ăn ngủ ngay trên bờ sông. Cả một cái suối lớn ông đun sôi sùng sục để thịt gà và nấu nướng”. [PL2, tr.118]. Ngày xưa, trong các gia đình nông dân ở nông thôn, bếp đun thường bằng rơm, rạ, củi. Người ta lấy đất sét dẻo, nhào nhuyễn rồi đắp thành ba hòn đất bắc nồi, người ta gọi là Ông Ba Rau. Ông Khổng Lồ cũng làm bếp củi để đun nấu. “Ông Khổng Lồ gánh đất các nơi về đắp thành Ba Rau ngay dưới chân núi Bái Đính để bắc bếp đun nấu. Ba ông Đồ Rau ông bắc bếp nấu cơm, sắc thuốc chữa bệnh cho nhân dân”. [PL2, tr. 115].

Cuộc đời gắn liền với cảnh sông nước, nên ông có nhiều kinh nghiệm về nghề chài lưới. Truyện Sự tích núi Kẽm Đó, kể lại kinh nghiệm bắt cá “Mỗi lần thuỷ triều lên, tôm cá lại theo nước lên đất liền nhiều vô kể. Ông Khổng Lồ bèn nghĩ cách để bắt cá. Ông đi khắp nơi vác đất đá, đắp một cái bờ lớn để ngăn cá, ở giữa đặt một cái dó lớn. Thế là bao nhiêu cá dưới biển theo thuỷ triều lên đất liền hoặc khi nước rút, đều vào đó của ông Khổng Lồ cả. Vì vậy ông ăn uống rất sung túc, lại còn cá để bán hoặc đổi lấy thóc gạo”. [PL2, tr.114]. Truyện Nút đó và lò nước của ông Khổng lồ, kể lại “Hồi ấy, sông Hoàng Long rất nhiều cá tôm. Ông Khổng Lồ thường đặt một cái đó rất lớn để đơm cá ở ngã ba sông”. [PL2,

tr.114]. Vật dụng ông Khổng Lồ dùng để bắt cá là cái đó, cần câu, cái giỏ - hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống lao động của người dân Ninh Bình.

Truyền thuyết xây dựng nhân vật Nguyễn Minh Không là con người đời thường được thể hiện qua ngoại hình, trang phục. Truyện Chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tông dân gian miêu tả “Dương Hoán con vua Lý Nhân Tông đi săn trong rừng, gặp ông lão đầu trọc, chân đất, quần nâu áo vá. Dương Hoán ngồi trên ngựa lấy áo lông trùm đầu giả là hổ lao ra trêu ông lão đầu trọc”. [PL1, tr.105]. “Các danh y và triều thấy ông lão đầu trọc, to lớn, ăn mặc quê mùa có vẻ khinh thường”, “Không Lộ cất quần áo nâu sồng, tràng hạt, xuống núi để giúp dân làng”. [PL2, tr.119]. Qua một số nét khắc hoạ, tác giả dân gian đã giúp người đọc hình dung ra diện mạo, tư thế cũng như bản chất của nhân vật. Hình ảnh nhân vật Nguyễn Minh Không trong truyền thuyết như một lão nông, một tiều phu. Ông ăn mặc giản dị, có phần tềnh toàng.

Nguyễn Minh Không là con người đời thường được thể hiện ngay trong lối sống bình dị. Hàng ngày, ông bắt cá, bắt tôm để đổi gạo. Truyện Sự tích Vũng Ông Khổng lại kể về việc ông đi bán cá “Ông Khổng Lồ bắt được nhiều hay ít cá, tôm đều mang về chợ chùa Viên Quang, chợ Lẫm để bán, lấy tiền đổi gạo. Ở chợ Lẫm có một bệ đá cao hai thước vuông, mỗi bề tám thước tương truyền đó là nơi ông Khổng Lồ ngồi bán cá”. [PL1, tr.109]. Ông tự mình nấu ăn, đi chợ bán cá, đổi gạo. Ông kiếm sống bằng chính đôi bàn tay, chính sức lực của mình. Cuộc sống của ông dung dị, lối sống thuận theo lẽ tự nhiên, hòa mình với thiên nhiên. Ông không dùng phép thuật để có cuộc sống giàu sang phú quý, nhà cao cửa rộng, kẻ hầu người hạ mà chọn lối sống nhàn: sống trong sạch, cao đẹp, coi thường danh lợi, vinh hoa phú quí.

Truyền thuyết khắc họa Nguyễn Minh Không là con người đời thường, gắn bó với nhân dân. Ông luôn quan tâm đến những hoàn cảnh sống khó khăn, giúp cho họ có cuộc sống thuận lợi, đỡ vất vả. Trong truyện Sự tích Luống Cày ông Nguyễn có kể lại “Sinh thời Ông Khổng Lồ hay băng rừng vượt núi tìm cây thuốc về chữa bệnh cho dân. Ông đi đến đâu đều chữa bệnh cho dân và còn dạy cho dân trồng lúa, trồng khoai, chăn trâu, cắt cỏ. Khi đến núi Bái Đính nhiều rừng núi hoang sơ, ông đã phát tích một quả đồi mở mang đất hoang, giúp dân trồng cấy”. [PL1, tr.98]. Ông thạo việc nhà nông, tay quen cầm cày, cầm cái cuốc. Ông dành nhiều tâm huyết, sức lực cho việc trồng thuốc, chữa bệnh cho dân. Hàng ngày, ông băng rừng, vượt núi tìm cây thuốc về trồng thành thung thuốc “rừng già mênh mông vô vàn cây thuốc quý. Ông đã dừng chân ở đây tu hành và hái thuốc để cứu độ chúng sinh. Không chỉ hái thuốc có sẵn trên núi, mà ông còn kiếm nhiều loại cây thuốc quý ở các núi rừng quanh vùng về đây để trồng, biến thành một vườn thuốc lớn, ông đặt tên là Vườn Sinh Dược”. [PL2, tr.118].

Truyền thuyết xây dựng nhân vật Nguyễn Minh Không là con người đời thường được thể hiện qua tính không đồng nhất thiện - ác. Nguyễn Minh Không

có phẩm chất đa dạng: có yêu thương, có đồng cảm, có giận dỗi. Điều đó, khiến cho nhân vật hiện lên chân thực và sinh động. Khi gặp người trong hoàn cảnh hoạn nạn, khó khăn, ông giúp đỡ tận tâm. Trong truyện Ông Khổng Lồ gánh núi, khi người dân đến nhờ, ông không quản ngại khó khăn, gánh núi giúp người dân có đường để đi, có ruộng để trồng cấy.“Dân các nơi bàn nhau đến kêu với ông về nỗi khổ do núi non mọc hết các cánh đồng, chặn ngang đường đi lối lại, chặn mất các dòng sông đánh cá(...) Ông gánh các quả núi xếp gọn về phía tây, phía bắc, dọn sạch đồng nương cho dân trồng cấy. Bởi vậy, bây giờ núi mới xếp hàng thành dãy ở cả phía tây, phía bắc như ngày nay”.[PL2, tr.112]. Đó là hành động phi thường của người anh hùng văn hóa: dắt núi, đào sông tạo nên những vùng đất bằng phẳng để người dân dễ cày cấy. Hành động của ông Khổng Lồ gắn với những hoạt động của con người Ninh Bình xưa kia. Người dân đã bền bỉ cải tạo và đương đầu với thiên nhiên khắc nghiệt. Thế nhưng cũng có lúc ông Khổng Lồ nổi giận. Sự nổi giận của ông được thể hiện qua lời nguyền với người dân làng Trì Động ở Nho Quan Ninh Bình.

“Làm cho Trì Động biết tay Trăm năm chảy thuế đi may về nồm

Từ đấy trở đi, người làng Trì Động đi trẩy thuế qua quãng sông này cả đi và về đều ngược gió, đi lại vất vả vô cùng. Lúc ấy người dân Làng Trì Động mới vỡ lẽ câu hát nghêu ngao trước đó của ông Khổng Lồ là lời nguyền trừng phạt đã phá đó của ông”. [PL1, tr.100]. Sự nổi giận của ông Khổng Lồ thật đáng sợ, để lại hậu quả lâu dài. Một lần ông đi xin mẻ, nấu cá nhưng người dân không cho. Ông rất tức giận. Trong truyện Sự tích cánh đồng chua, kể lại “Một hôm đi đánh cá, cá đã đánh được nhưng ông quên không mang lọ mẻ. Ông vào làng gần đó xin mẻ. Ông gặp một bà lão mắt kém đang nấu cơm trong bếp. Bà lão không cho mẻ. Ông tức giận nói: làng các bà không có tôi cho một ít. Ông đang cầm chiếc lá khoai, ném xuống cánh đồng gần đó. Từ đó về sau cả cánh đồng rộng lớn thuộc xã Gia Phong huyện Gia Viễn bị nhiễm chua, không trồng cấy được. Dân gian còn gọi là cánh đồng chua”. [PL1, tr.99]. Ông đã biến cánh đồng rộng lớn thành cánh đồng hoang, không thể trồng cấy được gì.

Trong những lần đi đơm đó, ông Khổng Lồ thường mang theo con mèo. Con mèo gắn bó với ông cho dù nó có tật hay ăn vụng. Ông đã đánh nhiều lần nhưng vẫn chứng nào tật ấy. Một lần con mèo ăn hết lọ mẻ ông mang theo, ông tức giận tát nó “Khi ông đến bên lọ mẻ thì chẳng thấy cá đâu, chỉ thấy chú mèo đang vuốt râu tém lưỡi liên hồi. Hiểu rõ sự tình, giận quá, ông dang tay tát cho chú ta một cái như trời đánh. Chú mèo chết ngay tức khắc, hoá thành núi đá, hình giống hệt con mèo đang ngồi nhìn về phía sông Hoàng Long. Dân gian gọi là Núi Con Mèo”. [PL2, tr.115]. Sự tức giận của ông Khổng Lồ vẫn còn dấu tích đến ngày nay qua các địa danh, tạo thành hình sông thế núi. Ở Ninh Bình có núi Con Mèo, ở Nam Định có Vũng Ông Khổng mà người đời nay vẫn kể qua truyền

thuyết “Một lần nọ khi ông Khổng Lồ xách giỏ mang cá đi bán đi qua địa phận xã Dao Cù, ba con cá nhẩy ra. Ông Khổng Lồ tức giận, lấy chân di di ngực vào cá. Một con cá chết, không hóa được. Người dân gọi là con cá Ngã. Hai con cá còn lại lập tức thì biến thành hai con long mã. Sẹo trên ngực chúng thành hai vũng sâu. Đến này vẫn còn hai vũng sâu đó rộng chừng tám thước, sâu hai thước tục gọi là Vũng ông Khổng”. [PL1, tr.109].

Việc chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông, truyền thuyết trong dân gian có kể việc vua Lý Thần Tông hóa hổ là nghiệp chướng từ kiếp trước. Còn trong truyền thuyết lưu truyền ở Ninh Bình lại cho rằng Dương Hoán có ý xem thường ông lão quê mùa đầu trọc, nên đã giả hổ trêu ông. Ông đã dạy cho Dương Hoán một bài học về thói ngạo mạn, coi thường người khác.“Dương Hoán con vua Lý Nhân Tông đi săn trong rừng, gặp ông lão đầu trọc, chân đất, quần nâu áo vá. Dương Hoán ngồi trên ngựa lấy áo lông trùm đầu giả là hổ lao ra trêu ông lão đầu trọc. Ông Khổng Lồ bảo: Ta tưởng ngươi là người, ngươi không thích là người ta cho ngươi hóa ra hùm. Ông lão nói xong biến mất. Dương Hoán lên ngựa hét như hổ gầm. Cởi bỏ bộ áo lông, toàn thân mọc lông lá, gầm thét ngày càng lớn, chạy bạt mạng trong rừng, không chịu về. Dương Hoán hóa hổ”.[PL1, tr.105]. Dương Hoán bị ông biến thành hổ. Một căn bệnh lạ, các thày thuốc đều không thể chữa khỏi.

Nguyễn Minh Không sinh ra và trưởng thành, gắn bó với quê hương Ninh Bình và được nhân dân yêu quý, kính trọng. Ông luôn hoà điệu với cuộc sống của nhân dân từ trong tính cách đến lối sống: đi cày, gánh nước, bắt cá. Khắp vùng Gia Viễn, Ninh Bình rộng lớn không đâu là ông không tới, không in dấu chân ông.

Như vậy, từ nhân vật lịch sử, Nguyễn Minh Không đi vào truyền thuyết để rồi, từ truyền thuyết ông trở về với cuộc đời. Thật gần gũi mà rất đỗi thiêng liêng, vừa đời thường vừa kỳ vĩ lớn lao.Theo xu hướng địa phương hóa, truyền thuyết đã phản ánh cuộc đời Nguyễn Minh Không gắn với cốt cách, phong tục của người Ninh Bình. Điều đó đã tạo nên sức sống mãnh liệt, lâu bền của chuỗi truyền thuyết Nguyễn Minh Không. 2.2.2. Nguyễn Minh Không in dấu địa danh với quê hương Ninh Bình

Trong quá trình tìm hiểu,chúng tôi nhận thấy chuỗi truyền thuyết về Nguyễn Minh Không có những mẫu kể mang thuộc tính của truyền thuyết địa danh. Cả 35 truyện mà chúng tôi sưu tầm, tham khảo đều gắn với địa danh và di tích lịch sử. Những truyền thuyết này có truyện phản ánh sự kiện lịch sử quan trọng. Nhưng cũng có những truyện phản ánh hoạt động của Nguyễn Minh Không trong quá trình tu hành, chữa bệnh, truyền nghề cho dân. Cũng có những truyền thuyết địa danh ít có căn cứ về mặt lịch sử mà chú trọng giải thích nguồn gốc địa danh.

Cuộc đời Nguyễn Minh Không gắn bó với quê hương nên khi đi vào truyền

thuyết tên tuổi của ông gắn liền tên làng, tên xã ở Ninh Bình. Truyện Nút đó và lò nước ông Khổng Lồ, kể lại:“Ông phải ăn ngủ ngay tại chỗ để coi đó. Thế là ông đun nấu, ăn ngủ ngay trên bờ sông. Cả một cái suối lớn ông đun sôi sùng sục để thịt gà và nấu nướng. Cá ở khúc sông này đơm mãi cũng hết. Ông chuyển đó đi đơm nơi khác. Nút đó ông vứt lại thành quả núi một gọi là Nút Đó ở ngã ba sông. Suối ông Khổng lồ đun sôi để thịt gà, đến nay nay vẫn còn nóng, dân gian gọi là suối Canh Gà, lâu dần gọi là Kênh Gà”. [PL2, tr.114]. Truyền thuyết đã giải thích vì sao ngọn núi ở xã Gia Minh, Gia Viễn, Ninh Bình lại có tên là Nút Đó. Đồng thời, dân gian lý giải tên gọi, nguồn gốc suối nước nóng chảy ra từ một quả núi và đổ vào nhánh sông Hoàng Long là Kênh Gà. Tất cả được bắt nguồn việc ông Khổng Lồ, đun nước để thịt gà, nấu nướng. Vì thế, tên gọi suối nước nóng Kênh Gà, làng nổi Kênh Gà được ra đời, tồn tại đến ngày nay.

Núi Bái Đính là vùng đất thiêng, được thiên nhiên ban tặng phong cảnh đẹp lại có nhiều cây thuốc quý. Hàng ngày, ông đi hái thuốc, tìm cây thuốc về trồng thành vườn, để chữa bệnh cho dân “Không chỉ hái thuốc có sẵn trên núi, mà ông còn kiếm nhiều loại cây thuốc quý ở các núi rừng quanh vùng về đây để trồng, biến thành một vườn thuốc lớn, ông đặt tên là Vườn Sinh Dược, ở ngay dưới chân núi Bái Đính. Cũng chính từ ý nghĩa này mà cái tên Sinh Dược (thuốc sống) ra đời. Sinh Dược được đặt tên cho cả một thung lũng rộng lớn xung quanh núi Bái Đính”. [PL2, tr.118]. Truyền thuyết đã giải thích tên Vườn Sinh Dược ở xã Gia Sinh huyện Gia Viễn. Tên địa danh gắn liền với việc Nguyễn Minh Không đi hái thuốc, trồng thuốc, chữa bệnh cho người dân. Vườn Sinh Dược còn có tên gọi khác Thung thuốc hay Thung Lang.

Ngoài ra, nhiều nơi trong tỉnh Ninh Bình có các địa danh gắn với hành trạng cuộc đời Nguyễn Minh Không như Động Vân Trình, Hòn Nẹ (Trái núi ngoài biển huyện Kim Sơn), núi Kẽm Đó ở Tam Điệp “Dấu tích cái bờ ông đắp để đơm đó là dải núi Tam Điệp, còn chỗ ông đặt đó tại đoạn núi Tam Điệp đứt quãng nay thuộc phường Nam Sơn gọi là Kẽm Đó”. [PL2, tr.114].

Cuộc đời Nguyễn Minh Không gắn liền với tên gọi của những ngọn núi, cánh đồng, làng mạc, luống cày: núi Bái Đính, làng Gia Sinh, Lỗ Lùng, động Long Ẩn… Đây là minh chứng cho sự gắn bó của ông với quê hương. Cách gọi tên địa danh như vậy được lý giải: một phần có nguyên do từ nếp nghĩ của dân gian lấy tên địa danh gắn liền với sự kiện xảy ra tại đó để dễ nhớ, dễ lưu truyền. Mặt khác, khi một địa danh có tên gọi liên quan đến một nhân vật thì địa danh ấy trở lên linh thiêng có hồn. Ngược lại, nhân vật lịch sử sẽ trở thành bất tử khi con người họ, tên tuổi họ đã được khắc tạc vào sự vĩnh hằng của đất mẹ.

Nguyễn Minh Không đã để lại dấu ấn đậm nét với quê hương Ninh Bình ở nhiều di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh. Những di tích lịch sử thường gắn liền với cuộc đời tu hành của thiền sư họ Nguyễn. Trên cương vị Quốc sư, thống lĩnh lực lượng phật giáo quốc gia, Nguyễn Minh Không đã dựng tới 500 ngôi chùa trên

đất Đại Việt. Nhiều ngôi chùa còn tồn tại đến ngày nay như: chùa Cổ Lễ, chùa Quỳnh Lâm, chùa Trông, chùa Kim Liên, chùa Hàm Long... Riêng ở Ninh Bình, ông đã dựng nhiều ngôi chùa để thờ phật như chùa Bái Đính, chùa Non Nước, chùa Địch Lộng. Truyền thuyết có kể về nguồn gốc chùa động Am Tiên như sau: “Một hôm ông đi đến nơi thâm sơn cùng cốc, ít người qua lại, âm khí rất nặng. Ma quỷ gầm rú, oan hồn than khóc thảm thiết, hãm hại dân thường. Hỏi ra mới hay, nơi đây xưa kia là pháp trường vua Đinh thả hổ, nuôi cá sấu để trừng trị những kẻ có tội. Ông dừng lại, đặt bàn đá trong hang thuyết pháp, tụng kinh niệm phật, cầu đảo cho linh hồn siêu thoát. Sau đó ông chọn nơi dựng chùa trong hang đá. Chùa ở lưng chừng núi, cách mặt đất chừng vài trăm mét, hướng chính tây - hướng chầu về đất phật. Hai bên hai cửa hang là hai ngọn núi chạy dài tựa như hai con rồng chầu về cửa hang. Ông Khổng Lồ gọi là chùa động Am Tiên. Từ đấy, ma quỷ không gầm rú, oan hồn không kêu khóc nữa. Cuộc sống người dân yên ổn”. [PL1, tr.99]. Ngày nay chùa động Am Tiên nằm trong khu quần thể di sản thế giới Tràng An. Nơi đây không còn là chốn thâm sơn cùng cốc nữa mà là nơi thanh tịnh, phong cảnh hùng vĩ mà hữu tình.

Truyền thuyết Nguyễn Minh Không ở Ninh Bình có giá trị nhiều mặt: giải thích các địa danh, tên làng, tên núi, tên sông, tên chùa từ quá khứ tồn tại đến ngày nay. Đồng thời, gửi gắm niềm tự hào, sự ngưỡng vọng của nhân dân đối với người con ưu tú của quê hương, đã có công phát tích, khai làng, lập chùa. Ý thức tôn vinh Lý triều Quốc sư - Nguyễn Minh Không của dân gian, đã khoác thêm ánh hào quang cho sông núi, quê hương Ninh Bình, một vùng đất “địa linh nhân kiệt”. 2.2.3. Nguyễn Minh Không trên cương vị một người thần y

Truyền thuyết là một thể loại quan trọng của văn học dân gian với chức năng "tái tạo lịch sử" để lưu giữ ký ức cộng đồng. Truyền thuyết là sản phẩm hoạt động tinh thần của nhân dân, do dân sáng tạo, bồi đắp, lưu giữ và thể hiện. Nội dung truyền thuyết tập trung ca ngợi những người có công với dân, với nước. Qua đó, tác giả dân gian hướng tới mục đích khơi dậy lòng tự hào dân tộc và nhắc nhở con cháu về công ơn của các bậc tiền bối. Truyền thuyết Nguyễn Minh Không ở Ninh Bình cũng mang những đặc điểm ấy, hội tụ, kết tinh vẻ đẹp của dân tộc và thời đại.

Trong hệ thống truyền thuyết dân gian về nhân vật Nguyễn Minh Không ở Ninh Bình, mỗi truyện phản ánh những phương diện khác nhau trong hành trạng cuộc đời đức Thánh Nguyễn. Nhưng để lại ấn tượng sâu sắc nhất về Nguyễn Minh Không là một thần y chữa bệnh trong dân gian. Nếu như những anh hùng chống giặc ngoại xâm lập nên những chiến công giúp đời, giúp đất nước thái bình thì người anh hùng sáng tạo văn hóa lại tạo ra những giá trị văn hóa, giá trị thẩm mĩ, phong tục tốt đẹp có ý nghĩa vượt thời gian, lưu truyền hậu thế, được người đời tôn vinh, ngợi ca. Nguyễn Minh Không là người hùng như vậy.Từ nhân vật

lịch sử, Nguyễn Minh Không đi vào truyền thuyết là một thần y. Cả cuộc đời, thiền sư họ Nguyễn luôn cứu nhân độ thế, chăm lo chữa bệnh, cứu người. Hình ảnh Nguyễn Minh Không là một thần y được kể qua các truyện: Lỗ Lùng - Ổ gà, Sinh Dược – Vườn thuốc của ông Khổng Lồ, Truyện thần y chữa bện cho vua Lý, Làng Gia Sinh, Sự tích Ao Soi, Luống cày ông Nguyễn, Sự tích Bàn Cờ - Ô Thuốc, Ông Khổng Lồ chữa bệnh cho Dương Hoán… Ngoài ra trong dân gian còn lưu truyền một số truyện Nguyễn Minh Không như: Chữa bệnh phong sang cho con vua Tống, Chữa bệnh ghẻ cho mục đồng.

Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu nhân vật Nguyễn Minh Không với cương vị là thần y, chúng tôi không tìm được bản kể nào, kể lại việc ông chữa bệnh cho một đối tượng cụ thể ở quê hương Ninh Bình. Chúng tôi chỉ sưu tầm được những truyền thuyết còn lưu lại những dấu tích về việc bốc thuốc, trồng thuốc. Cuộc sống hàng ngày của ông, gắn liền với công việc hái thuốc, trồng thuốc chữa bệnh. Ông không quản ngại khó khăn, băng rừng vượt núi, đến nơi hoang sơ hiểm trở tìm cây thuốc quý về chữa bệnh cho dân. Dấu chân Nguyễn Minh Không rải khắp vùng đồi núi Ninh Bình, đặc biệt là vùng Gia Viễn.

Cây thuốc trong rừng không phải tài nguyên vô tận, nếu hái nhiều sẽ có ngày không còn. Vì vậy, ông Khổng Lồ đã có ý thức giữ gìn cây thuốc quý bằng cách trồng thành vườn. Trong truyện Sinh Dược – Vườn thuốc của ông Khổng Lồ, kể rằng: “rừng già mênh mông vô vàn cây thuốc quý. Ông đã dừng chân ở đây tu hành và hỏi thuốc để cứu độ chúng sinh. Không chỉ hái thuốc có sẵn trên núi, mà ông còn kiếm nhiều loại cây thuốc quý ở các núi rừng quanh vùng về đây để trồng, biến thành một vườn thuốc lớn, ông đặt tên là Vườn Sinh Dược, ở ngay dưới chân núi Bái Đính”. [PL2, tr.118]. Chính nhờ Vườn Sinh Dược này, Nguyễn Minh Không đã chữa bệnh cho người dân quanh vùng. Tên tuổi, được lưu truyền trong dân gian. Ông trở thành danh y nổi tiếng. Người dân ở nhiều nơi tìm đến, để được ông chữa bệnh. “Hàng ngày ông tìm thuốc, trồng thuốc biến nơi đây thành thung thuốc để cứu sinh độ thế muôn dân. Ông đã trực tiếp bốc thuốc chữa bệnh cho dân chúng. Nhân dân nghe tiếng ông chữa bệnh giỏi từ nhiều nơi tìm đến. Có nhiều người không về mà ở lại lập lán, dựng nhà ở gần Thung Thuốc của ông Khổng Lồ để được chữa bệnh. Lâu dần trở nên đông đúc, thành làng. Người dân nơi đây, tự đặt tên cho làng của mình là làng Gia Sinh”. [PL1, tr.99]. Sau này, ông chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông cũng bằng những cây thuốc trồng ở Vườn Sinh Dược.

Việc bốc thuốc, chữa bệnh cho dân là công việc hàng ngày của Nguyễn Minh Không. Ông sáng tạo nhiều vật dụng phục vụ việc chữa bệnh. Trong truyền thuyết Sự tích Ao Soi được cụ Phạm Văn Hướng, một người dân huyện Gia Viễn kể lại “Trong quá trình làm thuốc chữa bệnh cho dân, ông đã sáng kiến ra cối giã thuốc. Cối giã thuốc được làm bằng đá ong. Lòng cối được khoét vào trong khối đá sâu thẳm được mài nhẵn, to bằng cái mẹt. Ông soi một cái rãnh sâu chôn cối

xuống. Cần dùng để giã thuốc cũng bằng đá. Khi Ông Khổng Lồ giã thuốc, đất lún xuống tạo thành vùng trũng. Dân gian gọi là Ao Soi”. [PL1, tr.98]. Truyện Ô Thuốc - Bàn Cờ, cũng kể lại: “Cạnh chỗ bàn cờ, ông Khổng Lồ đắp các ô để đựng thuốc hái về chữa bệnh cho chúng sinh”. [PL2, tr.116].

Còn trong truyện Đồi Ba Rau, Đống Củi và xó bếp, lại khẳng định Nguyễn Minh Không luôn lấy việc chữa bệnh cho dân là mục đích quan trọng. Ông đắp bếp, đào giếng đều nhằm chữa bệnh cho dân.“Ông Khổng Lồ gánh đất các nơi về đắp thành Ba Rau ngay dưới chân núi Bái Đính để bắc bếp đun nấu. Ba ông Đồ Rau ông bắc bếp nấu cơm, sắc thuốc chữa bệnh cho nhân dân nay thành ba quả đồi lớn nằm ngay phía Đông Bắc, dưới chân núi Bái Đính”.[PL2, tr.115]. Truyền thuyết Lỗ Lùng - Ổ Gà cũng khắc họa Nguyễn Minh Không là thần y “Dưới chân núi Bái Đính, về phía Tây Bắc, có một vụng nước bốn mùa luôn đầy ắp nước. Tương truyền, đây là giếng nước thuở sinh thời ông Khổng Lồ đào để lấy nước thổi cơm, nấu nước, đồ xôi cúng Phật và cũng lấy nước ở đây sắc thuốc chữa bệnh cho chúng sinh”. [PL2, tr.118].

Chữa bệnh là việc làm cứu người, nên đòi hỏi người thày thuốc phải có phẩm chất đạo đức đồng cảm, yêu thương con người, hết lòng vì người bệnh. Danh y Lê Hữu Trác đã từng nói: “Đạo làm thuốc là một nhân thuật chuyên bảo vệ sinh mạng con người, (…) chỉ lấy việc cứu sống mạng người làm nhiệm vụ của mình, không nên cầu lợi kể công”. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Lương y như từ mẫu”. Điều đó rất đúng với nhân cách, y đức của Nguyễn Minh Không. Ông luôn hết lòng, tận tâm với người bệnh. Truyện Lỗ Lùng - Ổ gà là minh chứng cho điều đó “Có một lần, ông Khổng Lồ thịt gà và đồ xôi cúng Phật. Đang làm dở, có mấy người cáng người bệnh đến xin ông chữa gấp. Ông vội vàng bỏ con gà, đĩa xôi đấy để đi bốc thuốc cứu người. Đến nay ở làng Đồi, gần núi Bái Đính, có hai quả núi hình dáng giống hệt con gà và đĩa xôi. Dân gian truyền rằng đó là con gà và đĩa xôi của ông Khổng Lồ bỏ quên hóa thành”. [PL2, tr.118].

Thiền sư Minh Không đồng thời là một dược sư nổi tiếng thời Lý. Ông chữa bệnh không phân biệt sang hèn. Tài y thuật của ông được khẳng định ở chỗ, ông có thể chữa khỏi những bệnh mà các thày thuốc khác đều không thể chữa. Một trong những kỳ tích mà sử sách ghi lại là ông chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tông. Cảm phục tài năng của thiền sư Minh Không, nhà vua đã phong ông là Lý triều Quốc sư. Truyện Nguyễn Minh Không chữa bệnh hóa hổ không chỉ được ghi lại trong sử sách mà được nhân dân dệt nên những truyền thuyết đẹp. Riêng truyền thuyết ở Ninh Bình có ba bản kể: Ông Khổng Lồ chữa bệnh cho Dương Hoán, Chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tông, Truyện thiền sư Nguyễn Minh Không, Truyện thần y chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý. Mỗi bản kể lại có đôi chỗ khác nhau trong cách chữa bệnh.

Bản kể do cụ Phạm Văn Hướng, một người dân huyện Gia Viễn kể lại “Ông sai người lấy một chiếc vạc dầu, cho vào đấy những cây thuốc mà ông

mang theo từ Vườn Sinh Dược, đun sôi ba ngày ba đêm. Ông cho thêm 100 cái kim vào vạc đang sôi. Sau đó cho Dương Hoán ra. Ông thò tay vào vạc đun thuốc đang sôi vớt một lượt 100 cây kim ra, đầu nào ra đầu ấy. Ông lấy tay múc dầu đang sôi tưới lên mình Dương Hoán và đồng thời cắm 100 cây kim lên người Dương Hoán. Tự nhiên lông lá biến mất, Dương Hoán không còn gầm rú nữa mà trở thành người”. [PL1, tr.105]. Ở bản kể này, có một vài chi tiết khác với các bản kể khác ở chỗ: danh y Nguyễn Minh Không dùng cây thuốc mang theo từ Vườn Sinh Dược chứ không phải dầu sôi để chữa bệnh. Ông dùng tay vớt 100 cái kim từ vạc đun thuốc đang sôi đồng thời lấy tay múc dầu sôi tưới lên người Dương Hoán. Đặc biệt có chi tiết cắm 100 cây kim lên người Dương Hoán. Việc cắm kim lên người Dương Hoán sau này gọi là châm cứu.

Bản kể thứ hai, Bái Đính ngàn năm tâm linh huyền thoại lại kể Nguyễn Minh Không nấu một vạc dầu sôi, đoạn vứt một trăm chiếc kim vào đó. Ngài hỏi: “Có ai dùng tay lấy đủ 100 chiếc kim trong này ra không?”. Tất cả đều rùng mình, lắc đầu. Nguyễn Minh Không liền quơ tay một cái, vớt đủ 100 chiếc kim ra khỏi vạc dầu sôi. Ngài lấy nước dầu sôi tắm cho nhà vua, lại lấy kim châm vào các huyệt, dầu dội đến đâu, lông vàng trút hết đi đến đó. Vua Thần Tông trở lại bình thường như trước”. [PL2, tr.119]. Ở bản kể này, Nguyễn Minh Không đã dùng tay múc dầu sôi tắm cho vua Lý Thần Tông chứ không phải là tưới lên người như bản kể thứ nhất. Việc cho tay vào vạc dầu đang sôi cho thấy tài năng phi thường của thày thuốc Nguyễn Minh Không. Đồng thời ở bản kể này, cũng miêu tả chi tiết cắm 100 cây kim vào huyệt của Dương Hoán.

Bản kể thứ ba, truyền thuyết lưu truyền tại Thành phố Ninh Bình lại cho rằng “Nguyễn Minh Không sai người nấu vạc dầu sôi, ba ngày ba đêm. Minh Không chỉ Lý Thần Tông nghiêm giọng bảo rằng: Đã làm vua sao nợ cũ không sớm trừ bỏ đi mà để phát bệnh này?” Ngài bèn túm Thần Tông, miệng niệm thần chú, ném Thần Tông vào vạc dầu sôi một lúc sau đưa ra. Nhà vua bình an vô sự, bệnh lạ cũng khỏi”. [PL1, tr.105]. Ở bản kể này không nói đến cách chữa bệnh bằng thuật châm cứu. Danh y họ Nguyễn không dùng tay vớt kim ra khỏi vạc dầu và cũng không dùng tay tưới nước tắm cho Dương Hoán mà ông ném cả người Dương Hoán vào vạc dầu sôi. Ở trong bản kể này lại có chi tiết niệm thần chú. Vì vậy, việc chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông càng trở nên huyền bí, cho thấy tài y thuật xuất chúng của Nguyễn Minh Không.

Truyền thuyết ở Ninh Bình có lưu truyền các bản kể khác nhau về việc chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý. Tuy nhiên, các dị bản đó đều có điểm chung là khẳng định Nguyễn Minh Không là người chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tông. Ông là một thày thuốc tài ba, giàu kinh nghiệm chữa được bệnh lạ mà các thày thuốc khác không thể chữa. Bên cạnh tài năng về y dược ông còn là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ, vượt lên trên những danh lợi tầm thường, ông trở về hành đạo cứu đời. Vì thế thêm một dị bản là một lần khẳng định sức sống của

nhân vật Nguyễn Minh Không trong tâm thức của người Việt Nam. 2.2.4. Nguyễn Minh Không - ông tổ nghề đúc đồng

Nhân vật Nguyễn Minh Không trong truyền thuyết lưu hành ở Ninh Bình không chỉ là thần y mà còn là ông tổ nghề đúc đồng. Văn minh đồ đồng xuất hiện ở nước ta từ rất lâu đời và đã phát triển qua bốn chặng đường lớn, với bốn nền văn hóa kế tục nhau đó là văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Đồng Đậu, văn hóa Gò Mun và văn hóa Đông Sơn. Nhưng kỹ thuật đúc đồng còn lạc hậu, thô sơ, những sản phẩm được chế tác từ đồ đồng chưa nhiều. Đến thời vua Đinh Tiên Hoàng đã cho đúc tiền đồng "Thái Bình hưng bảo" - đồng tiền đầu tiên trong lịch sử tiền tệ của dân tộc. Đến thời Lý, cùng với sự phát triển của phật giáo, nhiều nghề thủ công phát triển trong đó có nghề đúc đồng. Nguyễn Minh Không đã dạy cho nhân dân nhiều nơi kỹ thuật đúc đồng. Ông được nhân dân tôn làm tổ nghề đúc đồng. Truyền thuyết không chỉ khắc họa nhân vật Nguyễn Minh Không là ông tổ nghề đúc đồng mà còn phản ánh thời đại thiền sư sinh sống. Đó là thời Lý thế kỷ XII - thời kỳ hưng thịnh của triều đại phong kiến Việt Nam. Đây là thời kỳ đất nước độc lập, tự chủ. Đời sống nhân dân thái bình, ấm no, kinh tế phát triển. Việc phát triển các ngành nghề truyền thống trong đó có nghề đúc đồng đã góp phần xây dựng quốc gia Đại Việt hùng mạnh.

Truyền thuyết kể về Nguyễn Minh Không là ông tổ nghề đúc đồng ở Việt Nam được lưu truyền trong dân gian và đã được văn bản hóa như truyện Khuyên Giáo đồng phương bắc, Chữa bệnh phong sang cho con vua Tống, Người thợ đúc và anh học nghề, Sự tích trâu vàng, Sự tích làng nghề Tống Xá, Thợ rèn đỏ lửa có tiền, tắt lửa hết tiền.

Truyền thuyết ca ngợi công lao của Nguyễn Minh Không là ông tổ nghề đúc đồng trước tiên là việc đi khuyên đồng. Trong truyện Chữa bệnh phong sang cho con vua Tống, ông được nhà vua ban thưởng rất hậu hĩnh nhưng thiền sư chỉ xin vua Tống một túi càn khôn đồng. “Tôi là sư nước Nam, muốn dựng cấp thấp phù đồ nhưng không có đồng tốt. Chắc nhà vua chẳng thiếu chi. Không biết nhà vua có bố thí cho không? Vua Tống cười và nói rằng: “Nhà sư muốn dùng bao?”. Ngài thưa: “Chỉ cần một túi là đủ”. Vua Tống cho ông tự vào kho lấy. Ông lấy cả kho đồng mà túi vẫn không đầy. Sau khi đáp lễ vua Tống, ông dùng gậy quẩy túi đồng đi”

Trong truyện Ồng Khổng Lồ đúc chuông có kể về việc ông chỉ xin vua Tống một túi đồng “Hoà thượng từ phương nào lại và đến đây làm gì? Ông đáp: Chúng tôi đến cầu bệ hạ một ít đồng đen để mở rộng Phật pháp trong nước Đại Việt. Vua ngỡ là còn nhiều người theo ông nữa, bèn hỏi: Quý quốc cần dùng bao nhiêu đồng? Hoà thượng đem sang cả thảy bao nhiêu đồ đệ? Khổng Lồ giơ đãy lên và tâu: Kẻ hạ thần chỉ sang có một mình và chỉ xin một đãy này là đủ… Rồi đó Khổng Lồ trút tất cả đồng đen lọt thỏm vào trong đãy của mình mà đãy vẫn còn vơi. Đoạn Khổng Lồ mắc đãy vào một đầu gậy quảy về nước”.

Sau khi khuyên giáo đồng phương Bắc, ông về nước đúc bốn thứ bảo khí thờ phật mà dân gian vẫn gọi là A Nam tứ đại. Truyện Ông Khổng Lồ đúc chuông kể rằng:“Khổng Lồ bèn cho gọi bao nhiêu thợ đúc tài giỏi trong nước đến, rồi mở đãy lấy đồng ra chia làm bốn phần. Đầu tiên ông cho đúc một cái tháp cao chín tầng gọi là tháp Báo Thiên. Tháp đúc xong hiện ra giữa kinh thành vòi vọi đứng đâu cũng thấy. Khổng Lồ lại đúc một tượng phật cao vừa sáu trượng, một cái đỉnh to vừa bằng mười người ôm. Rồi còn bao nhiêu đồng, Khổng Lồ cho đúc một quả "hồng chung", chuông đúc xong lớn không thể tưởng tượng được, đến nỗi khi đánh lên hồi đầu tiên, tiếng ngân vang cùng khắp bốn cõi, vang sang đến tận bên Trung Quốc”

Không chỉ đúc A Nam tứ đại khí, đúc chuông thờ phật khắp nơi ông còn có công lớn trong việc truyền bá kỹ thuật đúc đồng cho dân:“Đầu năm 1118 Nguyễn Minh Không đến chùa Tống Xá (nay ở xã Yên Xá huyện Ý Yên tỉnh Nam Định). Ông đã đi thăm các cánh đồng ở đây và thấy có một khu đất rộng, có loại đất sét tốt có thể làm khuôn đúc. Ông bèn hướng dẫn dân làng nghề đúc đồng. Từ đó, cánh đồng có hố đào để lấy đất sét được gọi là cánh đồng Hố. Từ thời Lê, bắc thêm cầu nên gọi là cánh đồng Cầu Hố” (Nguồn Internet). Nghề đúc đồng phát triển mạnh mẽ dưới thời Lý, làm cho kinh tế Đại Việt phát triển bền vững. Không chỉ có công truyền dạy kỹ thuật đúc đồng cho dân chúng, Nguyễn Minh Không còn dạy cả tâm đức của nghề cho dân. Đúc đồng là nghề vất vả tiếp xúc với khói, lửa, than, củi và chịu nóng nực. Người thợ đúc không chỉ có sức khỏe mà cần có sự sáng tạo, cần có cái tâm của người làm nghề. Để tạo được sản phẩm tinh xảo, đạt kỹ thuật cao, người thợ không được bỏ qua các công đoạn đúc đồng, không được gian dối, tham lam bớt nguyên liệu. Trong truyện Người thợ đúc và anh học nghề thiền sư họ Nguyễn đã dạy cho đệ tử bài học sâu sắc về thói lừa thày, phản bạn, tham lam. “Ta không ngờ bụng dạ của lũ các ngươi lại nham hiểm đến thế. Đáng lý ta còn trị tội nặng hơn nữa, nhưng đã tỏ lòng hối hận thì cũng tha cho. Các ngươi phải lo bảo nhau: đã đi làm cái nghề của ta thì không được dối trá lường gạt người khác. Dù có nghèo khổ đến đâu, lương tâm cũng phải cho trong sạch”.

Riêng ở Ninh Bình, chúng tôi chưa sưu tầm được truyền thuyết về việc Nguyễn Minh Không dạy dân đúc đồng. Ở một số truyền thuyết có nhắc tới việc thiền sư họ Nguyễn sau khi tu hành đắc đạo hàng ngày cầu kinh niệm phật tô tượng, đúc chuông.

Truyền thuyết Ông Khổng Lồ giúp người họ Thái tai qua nạn khỏi, kể rằng “Buổi ấy nhà vua cần rất nhiều đồng để đúc các khí vật thờ phật, nhưng ngặt vì ở đất Việt không có đồng đen. Nghe tiếng Khổng Lồ, nhà vua cho triệu đến kinh, nhờ sư đi sang Trung Quốc khuyên đồng. Khổng Lồ nhận lời và xách đãy đi về phương Bắc. Sau khi trút cả mười kho đồng vào túi của mình. Ông Khổng Lồ cảm tạ vua Tống lên đường về nước”. [PL2, tr.101].

Trong truyền thuyết Sự tích Bến Bia khẳng định việc thiền sư họ Nguyễn đúc chuông là có thật “Sau khi tu hành đắc đạo, thiền sư họ Nguyễn đi nhiều nơi dựng chùa, đúc chuông. Trong đó thiền sư có dựng chùa, đúc chuông, tu hành ở Phả Lại quê mẹ. Khi vua Lê Chiêu Thống lên ngôi, đã lệnh cho binh sĩ đến các chùa lấy chuông về đúc tiền. Khi binh sĩ đến chùa Phả Lại lấy chuông đưa xuống thuyền, thuyền vừa ghé bến, chuông rơi xuống đất, lăn qua đồi, rơi xuống sông..”. [PL2, tr.103].

Để tưởng nhớ công lao của thiền sư họ Nguyễn, người dân nhiều làng nghề đúc đồng trong cả nước như làng nghề Yên Xá, Tống Xá huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định; làng Chè, làng nghề Ngũ Xá, Hà Nội… thờ ông với tư cách ông tổ nghề đúc đồng. 2.2.5. Nguyễn Minh Không trên cương vị thiền sư Đạo Phật du nhập vào Việt Nam từ xa xưa nhưng hưng thịnh nhất vào thời Lý - Trần. Phật giáo giữ vai trò quan trọng trong ý thức hệ của nhân dân và trong sự nghiệp xây dựng đất nước Đại Việt. Đạo phật trở thành quốc giáo. Chính vì vậy, rất nhiều người dân Đại Việt thời bấy giờ đều lập chí tu hành học đạo, Nguyễn Minh Không cũng là một trong số ấy. Tuy nhiên những câu chuyện về thiền sư họ Nguyễn được dân gian sáng tạo đậm màu sắc phật giáo kết hợp yếu tố kỳ ảo, ca ngợi pháp thuật của sư Minh Không. Thiền sư họ Nguyễn là nhà tu hành đắc đạo, là người có công lớn trong việc truyền bá đạo phật và đưa đạo phật phát triển hưng thịnh.

Truyền thuyết ở Ninh Bình cho rằng, thiền sư là người nhà phật, có chân tu. Tác giả dân gian đã sáng tạo chi tiết ly kỳ, huyền ảo về sự ra đời của thiền sư. Trong truyện Truyền thuyết về sự ra đời của Nguyễn Minh Không kể: “Dương thị mang thai mười ba tháng. Đến ngày 15 tháng 10 năm Quý Sửu sinh hạ được người con trai khôi ngô tuấn tú, khí chất mạnh mẽ. Trên tay có một dấu ấn vuông, trên trán có chữ son Phật Tử. Lúc Dương thị sinh có một đám mây vàng bay trên trời. Trên mái nhà có khí lành bay phủ, hương tỏa thơm phức. Sùng công đặt tên con là Minh. Con trai lớn lên ngày càng ngoan ngoãn, lễ phép, hiếu thuận với cha mẹ Sùng công đổi tên con là Chí Thành”. [PL1, tr.106]. Qua truyền thuyết trên, thiền sư không phải xuất thân phàm trần mà là bậc thần thánh đầu thai xuống hạ giới để truyền đạo, giúp dân, giúp đời “Trên tay có một dấu ấn vuông, trên trái có chữ son phật tử”.[PL1, tr.106]. Đó là chi tiết cho thấy, Nguyễn Minh Không có cốt cách nhà phật, cuộc đời sau này sẽ gắn bó với đạo Phật. Ngay từ nhỏ, Nguyễn Minh Không đã hình thành phẩm chất hiếu thuận, lễ phép, mang cốt cách phật tử của người tu hành. Lúc trưởng thành, ông luôn giúp đỡ mọi người khi họ gặp khó khăn.“Năm ấy trời hạn hán, cây cối chết khô, mất mùa. Dân đói khổ. Ông Khổng Lồ đã giúp dân gánh nước tưới ruộng đồng. Lúc gánh nước, ông bị trượt chân ngã quỳ gối. Dấu nay vẫn còn. Mỗi gối rộng ba thước, sâu thước rưỡi. Cả cánh đồng được tưới ướt sũng. Cây cối sống lại, mùa màng tốt tươi”. [PL1,

tr.101]. Ông còn giúp dân gánh núi, phát tích cả quả đồi, khai khẩn đất hoang để dân trồng cấy. Việc làm của ông luôn vì người khác, thể hiện đúng bản chất của đạo phật, lối sống từ bi, nhân ái, hướng thiện và hành thiện. Nguyễn Minh Không là người có số chân tu, có tâm mộ đạo, có huệ tâm, luôn có ý thức học hỏi, giác ngộ chính mình. Chính vì vậy, từ khi hai mươi chín tuổi, Minh Không bỏ nghề đánh cá, rời quê hương Đàm Xá chịu nhiều gian khổ, tầm sư học đạo.“Đến năm 1104, Nguyễn Minh Không 29 tuổi bỏ nghề chài lưới chuyên tâm học thiền ở cư sĩ Bảo Tài. Đến năm 1112, Nguyễn Minh Không 42 tuổi đang theo học Thảo Đường thiền sư. Được thày khen có cốt cách phi phàm, sau xứng đáng làm pháp tự, người kế tục sự nghiệp đứng đầu thiền phái Thảo Đường”. [PL1, tr.108- 110]. Nguyễn Minh Không tầm sư học đạo trong nhiều năm, học nhiều thày ở đất nước ta. Ông thông làu kinh kệ, giữ mình ngũ giới tam quy, tụng kinh niệm phật. Nhưng như thế vẫn chưa thỏa nguyện, ông đã không quản ngại đường xa, muôn vàn khó khăn, vất vả sang Tây Trúc học đạo với mong muốn được ngộ đạo về giúp dân, giúp đời “Đến năm 1119, Nguyễn Minh Không 44 tuổi đến cư trú tại thôn Đô Bồ, học thày Hà Trạch chùa Mục Ngưu. Ông quyết chí tu hành ,giữ mình ngũ giới tam quy, tụng kinh niệm phật. Đến mùa xuân năm 1120, Nguyễn Minh Không cùng với ông Giác Hải lên Sơn Tây kết giao với ông Từ Đạo Hạnh ở chùa Thầy. Ba ông kết nghĩa anh em, đồng lòng sang Tây Trúc học đạo”. [PL1, tr.110]. Chính nhờ sự nỗ lực vượt khó, vượt khổ và trí tuệ của bản thân, sư Minh Không tu hành đắc đạo. Tu thân là gốc trong mọi ý nghĩ và hành vi suốt cả cuộc đời. Tu thân mới đạt được “ngũ thường”: nhân, nghĩa,trí, lẽ, tín. Đó cũng là sự nỗ lực thực hiện khát vọng sống của bản thân thiền sư họ Nguyễn. Ông tầm sư học đạo, thấu hiểu phật pháp, lý lẽ của cuộc sống, nhận thức được đúng, sai trước mọi vấn đề. Con đường tu hành của thiền sư họ Nguyễn không phải là đi ở ẩn mà xuất thế, luôn nỗ lực mang hết tài năng, hiểu biết của bản thân để giúp dân giúp đời.

Phật dạy rằng, người ta sinh ra trên trái đất này, ai cũng có bổn phận với chính bản thân, với với xã hội, với cha mẹ với thày dạy, bạn bè. Cả cuộc đời Nguyễn Minh Không luôn vì dân, vì những người gặp hoàn cảnh khó khăn hoạn nạn. Truyện Đan sọt gánh nước kể rằng, người dân huyện Yên Khánh, Yên Mô bị hạn hán nhiều ngày. Dân chúng đã lập đàn tế thần, tế trời, cầu mưa rồi mà vẫn chẳng thấy có một giọt mưa nào. Ông Khổng Lồ thấy vậy, thương tình giúp họ đan sọt gánh nước “Ông Khổng Lồ đan thành đôi sọt lớn rồi lấy giấy phất ra bên ngoài. Ông lấy dây rừng làm quang, chặt cây gỗ to làm đòn gánh, rồi quẩy đôi sọt ra cửa bể Thần Phù gánh nước tưới cho các cánh đồng”. [PL2, tr.114]. Ông đã giúp cho nhân dân hai huyện thoát khỏi hạn hán, mang lại cuộc sống ấm no cho họ. Việc làm của ông luôn vì người khác, luôn chăm lo cho nhân dân. Thiền sư Minh Không luôn thực hiện tốt bổn phận một phật tử, một nhà tu hành, vun trồng lòng từ bi bác ái, tạo phúc, giúp đỡ người gặp khó khăn hoạn nạn.

Thiền sư Minh Không là người tinh tường, am hiểu sâu sắc đạo phật, giỏi phật pháp. Ông đã đem tư tưởng bác ái của nhà phật để cứu nhân độ thế, quan tâm đến những người nghèo khổ, hành thiện. Truyện Ông Khổng Lồ chữa bệnh cho Dương Hoán có chi tiết trước khi chữa bệnh cho Dương Hoán “Ông sai quân lính thổi cho một nồi cơm, lấy cho ông chín cái nong to. Ông hóa phép một nồi cơm thành nồi khổng lồ, gỡ ra đầy chín nong cơm to. Ông sai quân lính lấy mo cau gói cơm lại phát cho người nghèo, kẻ đói khát xung quanh”. [PL1, tr.104]. Hành động thiện nguyện của ông không chỉ chăm lo đến những người đói khổ, mà còn mong muốn nhà vua luôn tạo phúc cho dân và vì dân.

Trong việc chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tông, còn có nhiều ý kiến khác nhau về mối quan hệ giữa Nguyễn Minh Không với Từ Đạo Hạnh là thày trò hay là bạn bè. Cho dù đó là mối quan hệ nào đi chăng nữa thì thiền sư Nguyễn Minh Không cũng trọn đạo. Bởi nếu là thày dạy thì ông trọn đạo thày trò, luôn nhớ ơn thày dạy. Chữa bệnh cho vua Lý (Tương truyền kiếp sau của Từ Đạo Hạnh) cũng là một cách cảm tạ ân tình của thày dạy. Còn nếu là mối quan hệ là bạn bè đã từng cùng chí hướng, cùng tầm sư học đạo, cùng chia sẻ khó khăn thì giúp đỡ bạn bè là việc tất yếu. Việc chữa bệnh cứu người thể hiện lòng từ bi bác ái của nhà tu hành, y đức của một thày thuốc. Ông là người theo đạo phật, hành thiện, hướng hiện luôn coi trọng tính mạng con người cho dù người ấy là vua hay dân thường. Mặt khác, chúng ta còn thấy ở ông có sự kết hợp tư tưởng nho giáo, lão giáo và phật giáo. Thứ nhất là tư tưởng “trung quân”. Khi vua Lý Thần Tông bị bệnh hóa hổ, ông không quản ngại đường xa, trở về kinh thành, hết lòng phụng sự chữa bệnh cho nhà vua. Thứ hai là tưởng “vô vi”, từ bi bác ái. Chữa bệnh cứu vua Lý Thần Tông là mục đích cao nhất chứ không phải vì danh lợi. “Thần Tông mở đại tiệc và tôn Minh Không là Quốc Sư thưởng cho hơn nghìn kim ngân châu ngọc. Minh Không đều từ chối không nhận. Vua Thần Tông nói: - Nhà sư đã chữa khỏi bệnh cho Trẫm, công to như núi, đức rộng như biển không thể nói hết được. Nay ý Quốc sư như thế nào. Trẫm nhất định sẽ làm theo.Minh Không đáp. - Của cải thần không thiếu thốn. Nay chỉ xin được từ Sơn Tây, dưới đến Hoan Châu có người dân nào thì đều là thần tử của thần. Ngày sau họ sẽ vì thần mà hương khói ở chốn quê nhà. Cùng với bản hương Đàm Xá ở Ái Châu là quê ngoại ở Phả Lại xin bệ hạ miễn cho các việc quân binh, thuế thân. Như vậy là cho thần ấp thang mộc rồi”. [PL1, tr.111]. Ông được phong Lý triều Quốc sư, nhưng ông không màng vinh hoa phú quý, không thỉnh cầu điều gì cho bản thân mà cầu xin cho dân.

Nguyễn Minh Không có căn kiếp tu hành, đến với đạo phật bằng sự chân thành, bằng tấm lòng mộ đạo. Ông trở thành thiền sư tu hành đắc đạo, có được phép thuật vô biên. Thiền sư họ Nguyễn không trực tiếp dạy giáo lý nhưng bằng hành động xây chùa, cầu kinh niệm phật, ông đã hướng phật tử tới đạo phật. Việc thờ phật, tế lễ, cầu kinh là biểu hiện lòng tôn kính với đức phật. Cho nên sau khi

tu hành đắc đạo, ông về quê hương Đàm Xá dựng chùa Viên Quang để thờ phật. Ông dựng nhiều ngôi chùa ở Ninh Bình như Chùa Bái Đính, chùa động Am Tiên… và dựng chùa ở các tỉnh khác như chùa Phả Lại (Bắc Ninh), Giao Thủy (Nam Định), Vũ Thư (Thái Bình). Sự tích chùa Động Am Tiên, kể rằng “Một hôm ông đi đến nơi thâm sơn cùng cốc, ít người qua lại, âm khí rất nặng. Ma quỷ gầm rú, oan hồn than khóc thảm thiết, hãm hại dân thường. Hỏi ra mới hay, nơi đây xưa kia là pháp trường vua Đinh thả hổ, nuôi cá sấu để trừng trị những kẻ có tội. Ông dừng lại, đặt bàn đá trong hang thuyết pháp, tụng kinh niệm phật, cầu đảo cho linh hồn siêu thoát. Sau đó ông chọn nơi dựng chùa trong hang đá”. [PL1, tr.99]. Một trong những ngôi chùa linh thiêng nổi tiếng ở đất Ninh Bình được thiền sư họ Nguyễn dựng lên nay trở thành trung tâm văn hóa tâm linh - ngôi chùa lớn nhất Việt Nam đó là chùa Bái Đính “Ông thường đến núi Bái Đính hái thuốc. Ông phát hiện trên ngọn núi cao nhất của khu núi Bái Đính có một hang động rất đẹp, cửa hang hướng về phía tây như chầu về đất phật. Trước mặt là sông hai bên đều là những dãy núi hình cánh cung. Nhìn bao quát cảnh vật giống như hổ phục rồng chầu. Ông đã dựng chùa trong hang đá để thờ phật”. [PL1, tr.100]. Người dân thấm nhuần giáo lý nhà phật, xây dựng cộng đồng dân cư sống tốt đời, đẹp đạo, từ bi bác ái.

Truyền thuyết về Nguyễn Minh Không còn khắc họa ông là một thiền sư có tài năng xuất chúng phi thường, giỏi phật pháp. Nhờ có lòng từ bi bác ái, ông mới có được phép thuật thần thông của đạo phật, có sức mạnh vô song, dời non lấp biển, đi mây về gió. Mặt khác cho thấy được chân lý của đạo phật “phật pháp vô biên” là chỉ cần có lòng mộ đạo, thành tâm hướng phật sẽ làm được những việc phi thường. “Ông thò tay vào vạc đun thuốc đang sôi. Vớt một lượt 100 cây kim ra, đầu nào ra đầu ấy. Ông lấy tay múc dầu đang sôi tưới lên mình Dương Hoán và đồng thời cắm 100 cây kim lên người Dương Hoán. Tự nhiên lông lá biến mất, Dương Hoán không còn gầm rú nữa mà trở thành người”. [PL1, tr.105]. Cho tay vào dầu đang sôi - người thường không thể làm điều đó - chứng tỏ tài năng của Nguyễn Minh Không đã đến độ phi thường của bậc thần thánh. Trong truyện Sự tích hòn đá Diều Công và hai con voi hóa thạch đã khắc họa sức mạnh vô song của thiền sư Minh Không “nhìn thấy phía trước có hai con voi lớn đang húc nhau kịch liệt. Ông Khổng Lồ liền nhảy vào đẩy hai con voi ra. Hai con voi đang hăng máu lại xông vào húc nhau dữ dội. Ông Khổng Lồ giận quá liền vỗ vào mông mỗi con voi một cái mạnh như trời giáng. Tức khắc cả hai con voi hoá thành núi đá”. [PL2, tr.117].

Qua các truyền thuyết, chúng tôi nhận thấy Nguyễn Minh Không là một thiền sư có tài năng xuất chúng phi thường, giỏi phật pháp. Tài năng của thiền sư đều phục vụ cho lợi ích của nhân dân, giúp dân giúp đời. Trên cương vị một thiền sư, ông là người mộ đạo, thành tâm thờ phật, xây chùa đúc chuông, truyền bá đạo phật. Thiền sư họ Nguyễn là người có công lớn góp phần phát triển đạo phật thời

Lý hưng thịnh. 2.2.6. Nguyễn Minh Không là nhân vật khổng lồ Truyện kể về nhân vật khổng lồ tồn tại phổ biến trong văn học dân gian nói chung và truyền thuyết nói riêng, là sản phẩm tinh thần của tác giả dân gian từ thuở bình minh của loài người. Truyện về nhân vật khổng lồ để lại dấu ấn nhiều tầng văn hóa. Trong thần thoại, nhân vật khổng lồ có ngoại hình kỳ vĩ, có khả năng kiến tạo sông núi…Đến nhân vật khổng lồ trong truyền thuyết bắt đầu có những khác biệt: ngoại hình không còn to lớn ngang tầm vũ trụ, có những đặc điểm được bồi đắp bởi giá trị văn hóa lịch sử. Nhân vật khổng lồ trong thần thoại bước vào địa hạt của truyền thuyết trở thành nhân vật khổng lồ về ý chí, khổng lồ về lịch sử.

Dân gian đã thần thánh hóa Nguyễn Minh Không thành nhân vật Khổng Lồ là một mô típ độc đáo trong nền văn hoá của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước ở châu thổ sông Hồng. Nhân vật Khổng Lồ Nguyễn Minh Không được xây dựng từ những mảnh vụn huyền thoại, được lịch sử hoá một quốc sư tài danh để trở thành một ông Khổng Lồ có yếu tố của một anh hùng văn hoá. Từ sự tích nhân vật Khổng Lồ có thể thấy sự đan xen các lớp văn hoá, tín ngưỡng. Khó có thể nhận ra từng yếu tố, đâu là những mảnh vụn huyền thoại được thần thoại hoá, lịch sử hoá, đâu là tín ngưỡng thờ thần linh nông nghiệp, thần đánh cá, thờ tổ nghề. Chính lớp văn hoá phật giáo đã tôn vinh một Quốc sư trở thành một vị Thánh bất tử.

Truyền thuyết về Nguyễn Minh Không ở Nình Bình mà chúng tôi sưu tầm được có tới 23 truyện gọi ông là Khổng Lồ. Tên gọi Khổng Lồ đã thần thánh hóa nhân vật, khiến nhân vật trở nên phi thường, kỳ vĩ. Trong truyện Làng Gia Sinh, kể rằng “Một ngày kia, ông Khổng Lồ đang ngao du sơn thủy đã phát hiện ra nơi tiên cảnh, núi lại hướng về phía Tây như chầu về đất Phật, rừng núi mênh mông với muôn vàn cây thuốc quý. Và ông đã dừng lại nơi đây dựng chùa, tu hành” [PL1, tr.99]. Còn trong Truyện ông Khổng Lồ gánh nước lại kể rằng “Năm ấy trời hạn hán, cây cối chết khô, mất mùa. Dân đói khổ. Ông Khổng Lồ đã giúp dân gánh nước tưới ruộng đồng. Lúc gánh nước, ông bị trượt chân ngã quỳ gối. Dấu nay vẫn còn. Mỗi gối rộng ba thước, sâu thước rưỡi. Cả cánh đồng được tưới ướt sũng. Cây cối sống lại, mùa màng tốt tươi” [PL2, tr.101]. Tên gọi Khổng Lồ vừa gợi sự phi thường của nhân vật không chỉ ở hình dáng mà còn gợi liên tưởng về sự lớn lao về tầm vóc. Đồng thời cũng thể hiện sự ngưỡng mộ, niềm tự hào về nhân vật Nguyễn Minh Không của người dân Ninh Bình. Về hình dáng, ông Không Lồ không được miêu tả chi tiết mà chỉ khắc họa bằng những nét chung.“Lúc đó ở làng Điềm Giang có một người cao lớn phi thường, chuyên lội qua các dòng sông, các ngọn núi để hái thuốc chữa bệnh, người ta gọi ông là ông Khổng Lồ”. [PL2, tr.112]. Ông Khổng Lồ có vóc dáng cao lớn, kỳ vĩ mang ý nghĩa thẩm mỹ đẹp đẽ vừa phóng khoáng mạnh mẽ, vừa

hào hiệp vô tư. Đó là một vẻ đẹp lãng mạn hết sức độc đáo mà “nghệ thuật các thời đại sau không thể bắt chước”. Dân gian miêu tả ngoại hình cao lớn nhưng không cụ thể cao lớn bằng nào. Có thể mục đích chính là gửi gắm niềm tin vào sức mạnh phi thường, những việc mà ông Khổng Lồ đã làm trên mảnh đất Ninh Bình.

Ông Khổng Lồ hiện lên trong truyền thuyết ở Ninh Bình với những hành động phi thường của người anh hùng văn hóa: gánh núi, khai khẩn đất hoang thành những vùng đất bằng phẳng để người dân dễ cày cấy, dạy dân đúc đồng. Ông Khổng Lồ trong tâm thức của người Ninh Bình, là nhân vật tài giỏi tiếp sức cho nhân dân vượt qua mọi khó khăn “Dân các nơi bàn nhau đến kêu với ông về nỗi khổ do núi non mọc hết các cánh đồng, chặn ngang đường đi lối lại, chặn mất các dòng sông đánh cá”. [PL2, tr.112]. Những hành động của ông Khổng Lồ gắn liền với thiên nhiên, với hoạt động của con người nơi đây. Chính những hành động như vậy, nhân dân đã khắc họa nhân vật ông Khổng lồ mang sức mạnh chinh phục, cải tạo tự nhiên. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, ông Khổng Lồ vẫn sống trong tâm thức của người dân Ninh Bình, là biểu tượng cho sức mạnh tinh thần, là niềm tin và mơ ước về cuộc sống tốt đẹp.

Hình ảnh ông Khổng Lồ trong truyền thuyết lưu truyền ở Ninh Bình, phản ánh sự kết dính nhiều tầng văn hóa, phản ánh rõ bước đi của thời gian và sự phát triển tất yếu của thời đại. Truyện Ông Khổng Lồ gánh núi phản ánh hình ảnh thời đại thuở trời đất còn hoang sơ, chưa có dấu chân người “Ngày xửa ngày xưa, khi trời đất mới hình thành, vùng Ninh Bình chưa có con người. Chỉ có núi rừng và thú dữ”. Rồi đến thời kỳ buổi sơ khai của nền văn minh nồng nghiệp “Mãi về sau trời mới cho một người đàn ông và một người đàn bà xuống ở, lại cho một nắm thóc giống để gieo trồng. Hai người ở với nhau, sinh con đẻ cái ngày một đông đúc rồi chia nhau thành các làng bản để ở. Họ phát nương làm rẫy, cấy cày, săn bắn, đánh cá để sinh sống. Các cánh đồng ngày một dài rộng thêm ra. Làng bản ngày một đông đúc”. [PL2, tr.112]. Trải qua thời gian, truyền thuyết Nguyễn Minh Không còn phản ánh đất nước thái bình, thời kỳ hưng thịnh của đạo phật vào thế kỷ XII. Đồng thời, phản ánh nhiều tầng văn hóa từ việc trồng cấy, bắt cá đến văn minh đồ đồng.

Ông Khổng Lồ là nhân vật gần gũi, linh thiêng trong đời sống tinh thần người Ninh Bình. Họ tin vào sức mạnh thần thánh, sức mạnh tâm linh, sự linh thiêng phù hộ độ trì của đức Thánh. Nên khi gặp khó khăn, bế tắc họ đến đến cầu xin đức Thánh phù hộ, giúp họ đạt mọi mong ước. Trong truyện Ông Khổng Lồ gánh nước người dân Yên Khánh họ tin rằng “Người dân nơi đây còn truyền lại rằng đến năm nào trời đại hạn cầu xin đức thánh Cả, ngài phù hộ mưa thuận gió hòa”. [PL1, tr.101]. Trong truyện Đức thánh hiển linh, người dân Ninh Bình lý giải sự chiến thắng của Lê Lợi một phần được đức thánh phù hộ, độ trì “Chuyện kể rằng, khi quân Minh sang xâm lược nước ta. Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa, nhiều

năm nếm mật nằm gai, chịu nhiều tổn thất những chưa thắng lợi. Lê Lợi nghe nói ở làng Đàm Xá có đền thờ thánh Nguyễn Minh Không rất linh ứng, cầu gì được ấy. Lê Lợi đã vào chùa thành tâm yết bái, được thánh phù hộ, đánh thắng giặc Minh. Đất nước thái bình. Lê Lợi lên ngôi vua”. [PL1, tr.102]. Chính niềm tin vào sự hiển linh của đức Thánh là nguồn động lực, điểm tựa tinh thần để quân và dân như được tiếp thêm sức mạnh để đánh thắng kẻ thù. Đức Thánh hiển linh để phù trợ cho hậu sinh góp phần xây dựng đất nước. Điều đó phần nào phản ánh đời sống tâm hồn, tình cảm mộc mạc, chất phác của con người Ninh Bình, họ tin những con người Khổng Lồ lập nên những kỳ tích chiến công.

Truyền thuyết soi bóng thời đại, ông Khổng Lồ biểu tượng cho người dân Ninh Bình trong một quá trình lịch sử từ buổi sơ khai đến văn minh từ dựng nước, giữ nước và xây dựng các giá trị vật chất, văn hóa tinh thần. 2.2.7. Nguyễn Minh Không trên cương vị thần linh 2.2.7.1. Nguyễn Minh Không trên cương vị "nhân thần"

Hình tượng Nguyễn Minh Không trong truyền thuyết lưu hành ở Ninh Bình là một hình tượng có cốt cách "nhân thần". Truyền thuyết kể rằng, “Dương thị mang thai mười ba tháng. Đến ngày 15 tháng 10 năm Quý Sửu sinh hạ được người con trai khôi ngô tuấn tú, khi chất mạnh mẽ. Trên tay có một dấu ấn vuông, trên trán có chữ son Phật Tử.. Lúc Dương thị sinh có một đám mây vàng bay trên trời. Trên mái nhà có khí lành bay phủ, hương tỏa thơm phức. Sùng công đặt tên con là Minh”. [PL1, tr.107]. Tên Minh có ý nghĩa sáng, thông tuệ, rõ ràng. Sau này con trai lớn lên ngày càng ngoan ngoãn, lễ phép, hiếu thuận nên Sùng công đổi tên con là Chí Thành. Cha mẹ gửi gắm niềm tin con trai là người có ý chí, bền bỉ theo đuổi mục đích tốt đẹp sẽ thành công.

Chuỗi truyền thuyết lưu hành ở Ninh Bình khắc họa cốt cách nhân thần của Nguyễn Minh Không ở tài năng siêu phàm: Gánh núi, biến niêu cơm nhỏ thành niêu cơm nhiều người ăn mãi không hết, cho tay vào vạc dầu sôi, đi mây về gió… Nhân dân vừa ca ngợi tài năng, phật pháp vô biên vừa gửi gắm niềm tin vào Nguyễn Minh Không có thể làm được nhiều điều phi phàm, lập nên kỳ tích lớn lao mà người thường không thể làm được.

Trong cốt cách "nhân thần", Nguyễn Minh Không được khắc họa trong truyền thuyết là đã làm nhiều việc có ích giúp đời, giúp dân. Ông tìm cây thuốc, hái thuốc, bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Ông là một trong những người có công lớn trong việc phát triển y thuật ở nước ta, dùng cây thuốc nam và châm cứu. Nguyễn Minh Không chữa bệnh cho vua Lý hóa hổ và được phong là Lý triều Quốc sư. Ông truyền lại cho dân kỹ thuật đúc đồng và nhiều nghề khác, phát triển các ngành thủ công nghiệp góp phần xây dựng đất nước hùng mạnh.

Khắc họa Nguyễn Minh Không trong cốt cách "nhân thần", nhân dân khẳng định ông là người có trách nhiệm với dân, yêu dân, chăm lo cho dân. Ông cống hiến trọn cuộc đời của mình cho dân, cho nước.

2.2.7.2. Nguyễn Minh Không trên cương vị "phúc thần"

Sinh, lão, bệnh, tử là quy luật ở đời và đã là người không ai tránh khỏi quy luật đó. Thiền sư họ Nguyễn không phải tiên, bụt, thánh thần nên có sinh thì ắt có tử. Đó là định mệnh. Tác giả dân gian không chống lại quy luật cuộc sống. Họ lý giải cái chết của Nguyễn Minh Không không phải là hết mà đi vào cõi siêu sinh bất tử. Họ muốn sự nghiệp của thiền sư họ Nguyễn còn mãi mãi có ý nghĩa trong lịch sử, trong cả hiện tại và tương lai. Nếu như Thánh Gióng giết giặc xong cởi áo giáp bay về trời là sự hóa thân vào cõi bất tử; thì đối với Nguyễn Minh Không, người dân Ninh Bình kể về cái chết của ông cũng là một sự hóa thân “Nhìn thấy trần ai, tất là cửu huyền thất tổ nghe kinh nghe kệ, thực được siêu sinh. Như vậy với ta cũng đạt được là hiếu rồi. Nay nợ trần gần trả xong, sớm tối ắt chầu phật tổ, ta mới thỉnh chuông ly biệt tổ sư. Nay ta phó thác mỗi người ba trăm thanh tiền để ngày sau hương hỏa. Mọi người dân, gia thần đều hành lễ bái tạ lĩnh mệnh. Đương lúc ấy, bỗng nhiên thấy ngài nhắm mắt, sấm mây đại tác, tứ linh thẳng xuống, bách thú đến chầu ở trên không trung. Trong tiếng gió nghe như có tiếng đàn véo von. Ngày ấy Minh Không hóa” [PL1, tr.106 - 107]. Sự bất tử của Nguyễn Minh Không bắt nguồn từ quan niệm dân gian ''Sinh vi tướng, tử vi thần". Có nghĩa là sinh ra làm tướng để giúp dân giúp nước, chết thì thành thần để giúp dân cứu đời. Nguyễn Minh Không vẫn "hiển linh" để "phù trợ" cho nhân dân đời sau.

Từ cảm hứng thiêng hóa thực tại, tôn vinh người anh hùng có công với đất nước, nhân dân muốn người anh hùng sống mãi với non sông, cho nên họ không chết mà chỉ đi vào cõi bất tử. Khi sống các vị hết lòng vì dân vì nước; lúc chết đi chắc chắn còn nguyên vẹn tấm lòng ấy. Khi sống các vị anh minh, tài cao, đức rộng, khi chết các vị tiếp tục "phù hộ độ trì" cho con cháu. Hiển linh âm phù là mô típ quen thuộc trong truyền thuyết, nếu bất kể một truyền thuyết lịch sử nào mà không kể về sự hiển linh của nhân vật sẽ gây nên cảm giác thiếu hụt với đối tượng tiếp nhận. Trong truyện Người con đỡ đầu của Thánh Nguyễn có kể về sự hiển linh, phù trợ của đức thánh đã giúp Trung công được toại nguyện mong ước có con:“Thiền sư ngồi trên điện, chỉ Trung công bảo rằng: Nhà ngươi tích đức đã nhiều năm, tất có sung lư lệnh tử (…) Vừa được trăm ngày, Trung công lại mộng thấy một lão nhân từ trên trời xuống, hai tay ôm một thanh đồng. Lão nhân nói rằng: Thượng đế nghe thiền sư Nguyễn Minh Không nói nhà ngươi phúc hậu mà thành tâm. Nay ta cho một đồng tử, tên gọi Hiến Thành. Ngày sau tất có tài phù giúp nước, tế thế an dân, được nêu danh muôn đời”. [PL1, tr.108]. Trong chuỗi truyền thuyết về Nguyễn Minh Không lưu truyền ở Ninh Bình, có nhiều truyện nói về sự hiển linh của Thánh Nguyễn. Sau khi ông chết đã phù trợ cho nhân dân có cuộc sống ấm no đồng thời trừng trị kẻ xấu. Trong truyền thuyết Nồi đồng bên núi Lạc Khoái có kể rằng “Người chài lưới bèn cưa lấy một mảnh nồi đồng mang về đúc thành niêu nhỏ. Sau đó người này bị ốm thập tử nhất sinh. Có người biết

chuyện nên đã khuyên mang trả nồi cho thánh. Người chài lưới làm lễ xin thánh và trả nồi xuống sông. Ba tháng sau thì khỏi ốm”. [PL1, tr.103].

Sự hiển linh của của Thánh Nguyễn còn được thể hiện trong nhiều truyền thuyết khác như Sự tích Bến Bia do cụ Kim Khánh người Gia Viễn, kể lại “Một hôm có mấy người Tàu vào chùa Viên Quang lấy trộm chuông và đưa xuống thuyền tại bến sông Hoàng Long. Lạ thay, thuyền thì lớn mà không chở nổi chuông. Từ từ cả thuyền và chuông chìm xuống sông, không thể nào kéo lên được. Bọn người Tàu hoảng sợ vô cùng, cho rằng Thánh hiển linh giữ chuông. Chẳng ai bảo ai, bọn người Tàu tháo chạy, vứt lại chuông ở sông Hoàng Long”. [PL1, tr.103]. Trong truyền thuyết Nồi đồng bên núi Lạc Khoái kể về sự hiển linh của Thánh Nguyễn “Người chài lưới bèn cưa lấy một mảnh nồi đồng mang về đúc thành niêu nhỏ. Sau đó người này bị ốm thập tử nhất sinh. Có người biết chuyện nên đã khuyên mang trả nồi cho thánh. Người chài lưới làm lễ xin Thánh và trả nồi xuống sông. Ba tháng sau thì khỏi ốm. Người này đã lặn xuống sông xem lại cái nồi đồng, thì thật lạ nồi lại lành như cũ không có vết cắt. Từ đó đến nay chiếc nồi đồng đó vẫn nằm dưới sông Hoàng Long”. [PL1, tr.103]. Đức Thánh hiển linh cho dân mượn nồi để cuộc sống của họ an nhàn, thuận tiện hơn xong cũng dạy cho những người có tính tham lam một bài học. Từ những sự kiện trên, nhân dân Ninh Bình luôn tin rằng, Thánh Nguyễn hiển linh, mang lại cuộc sống thái bình ấm no, ngăn trừ cái ác, đem lại sự yên bình cho con cháu. Những câu chuyện trên cũng là minh chứng sinh động chứa đựng ý nghĩa sâu xa: Thánh Nguyễn tồn tại mãi mãi bất tử với thời gian.

Bên cạnh đó truyền thuyết cũng kể lại đức Thánh hiển linh âm phù, giúp cho những người anh hùng đời sau lập chiến công. Sự hiển linh âm phù của Thánh Nguyễn thể hiện trong truyền thuyết Đức Thánh hiển linh giúp Lê Lợi đánh thắng giặc Minh.“Lê Lợi nghe nói ở làng Đàm Xá có đền thờ thánh Nguyễn Minh Không rất linh ứng, cầu gì được ấy. Lê Lợi đã vào chùa thành tâm yết bái, được thánh phù hộ, đánh thắng giặc Minh”. [PL1, tr.102]. Đức Thánh Nguyễn sau khi viên tịch, luôn hiển linh giúp dân, giúp đời. Truyền thuyết còn lý giải một trong những nguyên nhân giúp Lê Lợi đánh thắng giặc Minh là do Thánh Nguyễn hiển. Qua chi tiết này, nhân dân khẳng định Nguyễn Minh Không là phúc thần mãi mãi gắn bó với nhân dân, với đất nước, người đời trước giúp người đời sau, lấy yếu thắng mạnh, lấy thiện thắng ác, chính nghĩa thắng gian tà. Tất cả đều nằm trong nguyện vọng cao cả là giữ gìn độc lập dân tộc, bảo vệ cuộc sống yên bình cho muôn dân. Sự hiển linh còn ngầm chứng minh rằng nhân vật có chính nghĩa không chỉ được sự ủng hộ của cả cộng đồng mà được cả thánh thần trợ giúp. Đây là cách thể hiện sự đồng tâm của các thế hệ anh hùng trong những giờ phút nguy nan của dân tộc. Đồng thời, còn thể hiện niềm tin của nhân dân vào người anh hùng "sinh vi tướng, tử vi thần". Người anh hùng luôn tồn tại như một sức mạnh huyền bí, luôn hiện diện và có thể chi phối đời sống tinh thần hôm nay. Đối với

tác giả của truyền thuyết dân gian, sự hiển linh của người anh hùng là tối quan trọng vì thế truyền thuyết thường có đoạn "vĩ thanh" kể về cuộc đời nhân vật sau khi chết.

Trong tâm thức của người dân Ninh Bình, đức Thánh Nguyễn vẫn luôn hiện diện và phù trợ cho các thế hệ hậu sinh. Nhân vật Nguyễn Minh Không đi từ lịch sử đến truyền thuyết, từ cõi trần đến cõi bất tử, cõi thiêng. Nhân dân, bằng trí tưởng tưởng phong phú đã thêu dệt, sáng tạo truyền thuyết đậm yếu tố kỳ ảo, qua đó bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình đối với Thánh Nguyễn. 2.3. Kết cấu

Trong suốt bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước của nhân dân ta, đã biết bao truyền thuyết lịch sử về các anh hùng dân tộc ra đời. Mỗi truyền thuyết kể về một nhân vật chính có nhiều tiểu sử và diễn biến cuộc đời khác nhau. Truyền thuyết Nguyễn Minh Không hấp dẫn người đọc không chỉ ở nội dung mà cả về nghệ thuật. Sự độc đáo được thể hiện ở nhiều phương diện trong đó phải kể đến kết cấu truyện. 2.3.1. Kết cấu từng đơn vị riêng lẻ

Truyền thuyết dân gian về Nguyễn Minh Không là một hệ thống gồm nhiều mẫu kể. Mỗi truyện có thể đứng riêng độc lập, kể về một sự kiện hoàn chỉnh, kể về cuộc đời và công đức của Nguyễn Minh Không. Ta có thể lược đồ kết cấu như sau.

TT Việc làm / Hành động Kết quả Tên truyền thuyết

Tên gọi Hòn Nẹ ra đời.

1 Ông Khổng Lồ gánh núi

2 Ông Khổng Lồ bắt lươn

3 Đan sọt gánh nước Địa danh Lỗ Lươn có từ ngày đó. Đồng ruộng hết khô hạn.

4 Nút Đó và lò nước của ông Khổng Lồ

tích núi 5 Tên gọi Nút Đó, Suối nước nòng Kênh Gà ra đời. Tên gọi Kẽm Đó lưu truyền đến ngày nay. Sự Kẽm Đó

tích núi 6 Dân gian gọi là Núi Con Mèo. Sự Con Mèo Núi mọc chi chít, dày đặc trên mặt đất, ngăn cách các làng bản. Ông Khổng Lồ giúp gánh núi. Ngày ngày ông thường bắt lươn ở vùng Gia Viễn. Vùng Yên Khánh, Yên Mô bị hạn hán. Ông quẩy đôi sọt ra cửa bể Thần Phù gánh nước tưới cho các cánh đồng. Ông Khổng Lồ thường đặt một cái đó rất lớn để đơm cá ở ngã ba sông. Ông vứt đó lại trên sông và đi đơm đó nơi khác. Ông đi khắp nơi vác đất đá, đắp một cái bờ lớn để ngăn cá, ở giữa đặt một cái đó lớn Mèo ăn vụng mẻ. Giận quá, ông dang tay tát cho chú ta một cái như trời đánh.

7 Sự tích đồi Ba Ông Khổng Lồ gánh đất các nơi Tên gọi Đồi Ba Rau.

Rau, Đống Củi và Bó Xôi Xó Bếp; Đống củi ra đời.

tích Bàn 8 Tên gọi Ô Thuốc, Bàn Cờ ra đời. Sự Cờ, Ô Thuốc

9 Thuyền bè đi qua khúc sông này không bao giờ thuận buồm xuôi gió Một lời nguyền của ông Khổng Lồ

Tên gọi núi Nang núi Quéo và núi Diều Công tra đời.

10

Sự tích Hòn đá Diều Công và hai con voi hóa thạch

11

Động Long Ẩn và hang Áng Nồi

Tên gọi Động Long Ẩn và hang Áng Nồi ra đời. Tên gọi Lỗ Lùng - Ổ Gà ra đời 12 Lỗ Lùng - Ổ Gà

Tên gọi Vườn Sinh Dược ra đời. 13

Sinh dược – thuốc Vườn của ông Khổng Lồ

14 về đắp thành Ba Rau, nấu cơm, sắc thuốc chữa bệnh cho nhân dân Ông Khổng Lồ thường hay ngồi đánh cờ với Tiên trên các ngọn đồi quanh vùng Bái Đính. Người dân thường dậy từ mờ sáng để đổ trộm đó của ông. Tức giận ông đọc lời Nguyền Ông Khổng Lồ buộc diều vào hòn đá. Diều bay mất. Ông gặp hai con voi đang hăng máu lại xông vào húc nhau dữ dội. Ông Khổng Lồ giận quá liền vỗ vào mông mỗi con voi một cái mạnh như trời giáng. Ông Khổng Lồ đem cá về thả ở đây, lâu ngày cá thành đàn cá rồng ẩn hiện. Ông Khổng Lồ thịt gà và đồ xôi cúng Phật. Ông bỏ con gà, đĩa xôi đấy để đi bốc thuốc cứu người. Ông hái thuốc và tìm kiếm nhiều loại cây thuốc quý về đây để trồng, biến thành một vườn thuốc lớn. Vua Lý hóa hổ. Thiền sư Nguyễn Minh Không chữa bệnh cho vua Truyện Thần y chữa bệnh hoá hổcho vua Lý

15 Luống cày ông Nguyễn

Nhà vua khỏi bệnh. Nguyễn Minh Không được phong Lý triều Quốc Sư Tên gọi Luống cày ông Nguyễn ra đời. Tên gọi Ao Soi ra đời.

16 Sự tích Ao Soi

Tên gọi Cánh đồng chua xuất hiện từ đó. 17 Sự tích cánh đồng chua

18 Tên Làng Gia Sinh được hình thành. Làng Gia Sinh Khi ông phát tích gặp phải vách đá, ông đã dùng cày để phá đá. Ông sáng tạo ra cối giã thuốc. Ông soi một cái rãnh sâu chôn cối xuống. Ông đi xin mẻ, người dân không cho. Ông tức giận biến cả cánh đồng thành đồng chua Ông bốc thuốc chữa bệnh. Dân đến chữa bệnh, ở lại ngày càng đông đúc, thành làng

19 Sự tích chùa Một hôm ông đi đến nơi thâm Hình thành chùa động

Am Am Tiên

Động Tiên

Chùa Bái Đính xây dựng từ đó. 20 Chùa Bái Đính cổ tự

nguyền ông 21 Thuyền bè đi qua khúc sông này không bao giờthuận buồm xuôi gió

Lời của Khổng Lồ

nguyền ông 22 Thuyền bè đi qua khúc sông này không bao giờ thuận buồm xuôi gió cả Lời của Khổng Lồ

23 Người dân lập đền thờ suy tôn là đức thánh Cả. Ông Khổng Lồ gánh nước

24

thánh 25 Ông Khổng Lồ giúp người họ Thái tai qua nạn khỏi Đức hiển linh

tích Bến Xác trút xuống thành ba đống nổi giữa biển. Thánh đặt là Tam Đảo Sơn Lê Lợi đánh thắng giặc Minh, lên ngôi vua Chuông ấy vẫn nằm dưới sông Hoàng Long. Tên gọi Bến Bia ra đời. 26 Sự Bia

tích Bến Chuông ấy vẫn nằm dưới sông Hoàng Long. Tên gọi Bến Bia ra đời. 27 Sự Bia

Sự tích lưu truyền trong dân gian.

28 Nồi đồng bên núi Lạc Khoái

sơn cùng cốc, ít người qua lại, âm khí rất nặng. Ông cầu kinh thuyết pháp, dựng chùa Ông phát hiện trên ngọn núi cao nhất của khu núi Đính có một hang động rất đẹp Nguyễn Minh Không xây chùa. Người dân làng Trì Động phá đó của ông Khổng Lồ dìm sông. Ông giận lắm. Ông đọc lên lời nguyền. Người dân Nam Cường – Trực Ninh phá đó của ông Khổng Lồ làm củi đun Ông đọc lên lời nguyền. Năm ấy trời hạn hán, cây cối chết khô, mất mùa. Ông Khổng Lồ đã giúp dân gánh nước tưới ruộng đồng. Trên đường đi khuyên đồng từ Trung Quốc về. Ông Khổng Lồ giúp thuyền của họ Thái tai qua nạn khỏi Lê Lợi đã vào chùa thành tâm yết bái, được thánh phù hộ Binh sĩ đến các chùa lấy chuông về đúc tiền. Gia đình nọ cho 11 người con trai ra kéo chuông nhưng phân biệt con nuôi và con đẻ. Nên không kéo được chuông Người Tàu vào chùa Viên Quang lấy trộm chuông Gia đình nọ cho 11 người con trai ra kéo chuông, không kéo được chuông vì không phân biệt con nuôi và con đẻ Người chài lưới bèn cưa lấy một mảnh nồi đồng mang về Thánh hiển linh trừng phạt. Anh làm nghề chài lưới ốm mấy tháng liền

29 Ông Khổng Dương Hoán giả hổ trêu ông Dương Hoán khỏi

30

Lồ chữa bệnh Dương cho Hoán Chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tông

bệnh. Nguyễn Minh Không được phong Lý triều Quốc Sư Nhà vua khỏi bệnh. Nguyễn Minh Không được phong Lý triều Quốc Sư. Nguyễn Minh Không ra đời.

31

Truyền thuyết về sự ra đời của Nguyễn Minh Không

32

Truyền thuyết Nguyễn Minh Không hóa Khổng Lồ. Ông tức giận biến Dương hoán thành hổ Ông chữa bệnh cho Dương Hoán Vua Lý hóa hổ. Thiền sư Nguyễn Minh Không chữa bệnh cho vua bàng cây thuốc lấy từ Vườn Sinh Dược Vợ chồng Sùng Công được Thái Thượng Lão Quân báo mộng. Sau mười ba tháng, Dương thị sinh hạ được người con trai khôi ngô tuấn tú Bỗng nhiên thấy ngài nhắm mắt, sấm mây đại tác, tứ linh thẳng xuống...Ngày ấy Minh Không hóa

Nhà vua hạ lệnh thần dân thiên hạ, dân Đàm rước thần hiệu ngài về lập thần miếu để thờ phụng. Tô Hiến Thành ra đời

33

Người con đỡ đầu của đức thánh Nguyễn

Tên gọi Vũng ông Khổng ra đời. 34 Sự tích vũng ông Khổng

Ông tu hành đắc đạo. Xây chùa, đúc chuông. 35

Truyện Thiền Minh sư Không

Đức Thánh hiển linh, xin với Ngọc Hoàng đáp ứng lời thỉnh cầu của vợ chồng Tô Trung. Khổng Lồ đi bán đi qua địa phận xã Dao Cù ba con cá nhẩy ra. Ông Khổng Lồ tức giận, lấy chân di di ngực vào cá. Nguyễn Minh Không tầm sư học đạo. Cùng với Ông Giác Hải, ông Từ Đạo Hành sang Tây Trúc được phật tổ truyền phép thuật. Bảng 4: Kết cấu từng đơn vị riêng lẻ

Kết cấu truyền thuyết Nguyễn Minh Không lưu hành ở Ninh Bình là khá đa dạng. Các truyện phát triển dần theo tiêu chí từ kết cấu đơn giản đến kết cấu phức tạp. Kết cấu từng đơn vị riêng lẻ của truyền thuyết Nguyễn Minh Không tạo nên sự hấp dẫn riêng cho hệ thống truyền thuyết này. 2.3.2. Kết cấu xâu chuỗi Qua quá trình tìm hiểu truyền thuyết về Nguyễn Minh Không, chúng tôi nhận thấy những truyện lưu hành ở Ninh Bình là một hệ thống gồm nhiều truyện riêng lẻ. Mỗi truyền thuyết kể về một phần hành trạng cuộc đời đức Thánh Nguyễn. Tập hợp các truyền thuyết này thành một chuỗi, ta có cái nhìn toàn diện về cuộc đời thiền sư họ Nguyễn từ hoàn cảnh xuất thân, cuộc đời, sự nghiệp và đoạn kết cuộc đời. Với kết cấu đặc trưng của truyền thuyết thời kỳ dựng nước, truyền thuyết về Nguyễn Minh Không lưu truyền ở Ninh Bình đã phản ánh thuộc tính cơ bản,

đặc trưng nhất của thể loại. Truyền thuyết phản ánh đầy đủ trọn vẹn hành trang của nhân vật theo một trình tự nhất định. Các chi tiết của truyện thường có một mối liên hệ logic với nhau. Các truyền thuyết có kết cấu ba phần. Hoàn cảnh xuất hiện và đặc điểm của nhân vật chính. Cuộc đời và sự nghiệp (chiến công hành trạng) của nhân vật chính. Kết thúc sự nghiệp của nhân vật chính và đánh giá của nhân dân. Mỗi truyện kể về các sự kiện khác nhau trong cuộc đời nhân vật Nguyễn Minh Không nhưng đều góp phần khắc họa rõ nét, sinh động hình tượng nhân vật. Hệ thống truyền thuyết Nguyễn Minh Không là sự kết hợp xâu chuỗi những truyền thuyết đại danh, truyền thuyết lịch sử và truyền thuyết người anh hùng văn hóa. Chính sự kết hợp giữa kết cấu đơn lẻ và kết cấu xâu chuỗi tạo nên hệ thống truyện logic, sinh động, hấp dẫn, mang nhiều màu vẻ. Kết cấu truyền thuyết về Nguyễn Minh Không cho thấy, truyện không phải được sáng tác trong một thời gian ngắn mà do tác giả dân gian sáng tác trong thời gian dài, nhiều người sáng tác, lưu truyền qua nhiều thế hệ

Truyền thuyết về sự ra đời của Nguyễn Minh Không.

Nguồn gốc xuất thân, sự ra đời thần kỳ

Gắn bó với quê hương

Thiền sư – Thày thuốc- Tổ nghề

Ông Khổng Lồ giúp người họ Thái tai qua nạn khỏi, Sự tích Bến Bia, Nồi đồng bên núi Lạc Khoái, Sự tích chùa Động Am Tiên, Sự tích Bến Bia, Chùa Bái Đính cổ tự….

Ông Khổng Lồ bắt lươn, Nút Đó và lò nước của ông Khổng Lồ, Sự tích núi Kẽm Đó, Sự tích núi Con Mèo, Sự tích đồi Ba Rau, Đống Củi và Bó Xôi, Sự tích Hòn đá Diều Công và hai con voi hóa thạch, Luống cày ông Nguyễn, Sự tích Ao Soi, Sự tích cánh đồng chua, Làng Gia Sinh… Ông Khổng Lồ gánh núi, Sự tích Bàn Cờ- Ô Thuốc, Lời nguyền của ông Khổng Lồ, Sự Tích Vũng Ông Khổng Sự tích Bàn Cờ - Ô Thuốc, Sinh dược – Vườn thuốc của ông Khổng Lồ, Truyện Thần y chữa bệnh hoá hổ cho vua Lý.. Ông Khổng Lồ gánh núi, Một lời nguyền của ông Khổng Lồ, Đức thánh hiển linh… Được phong Lý triều Quốc sư, phong Thánh

Truyền thuyết về sự ra đời của Nguyễn Minh Không, Truyền thuyết Nguyễn Minh Không hóa..

Lễ hội đền Thánh Nguyễn, góp phần hình thành tín ngưỡng, phong tục

Chuỗi truyền thuyết Nguyễn Minh Không

Bảng 5: Hệ thống kết cấu xâu chuỗi truyền thuyết Nguyễn Minh Không

Với hệ thống truyền thuyết Nguyễn Minh Không, sở dĩ ta có thể xâu chuỗi các đơn vị lại được với nhau vì chúng đều kể về những sự kiện xoay quanh nhân vật Nguyễn Minh Không. Việc xây dựng hình tượng Nguyễn Minh Không từ nhiều truyện tạo cho chuỗi truyền thuyết về ông có tính chất mở. Truyền thuyết về Nguyễn Minh Không phản ánh sự vận động của truyền thuyết dân gian trong quá trình lưu truyền. Điều đó làm cho hình tượng Nguyễn Minh Không đẹp hơn và nhiều tầng ý nghĩa hơn. 2.4. Mô típ 2.4.1.Mô típ sinh nở thần kì

Sự ra đời thần kì là mô típ khá phổ biến trong truyện dân gian Việt Nam từ thần thoại, truyền thuyết cho đến truyện cổ tích. Kho tàng văn học dân gian Ninh Bình, có nhiều truyện sử dụng mô típ sinh nở thần kỳ: Truyền thuyết Đinh Bộ Lĩnh, truyền thuyết về Lê Đại Hành... Trong truyền thuyết Đinh Bộ Lĩnh, tác giả dân gian kể về sự ra đời của vua Đinh như sau: “Cơn mưa vừa tạnh bà Đàm Thị vừa tỉnh giấc, bất thần thấy có một con rái cá hình nhân to tướng nằm bên cạnh, một chân vắt qua bụng bà (…) Ít lâu sau, bà Đàm Thị có thai (...) Hôm ấy, trời đang nắng chang chang bỗng sấm chớp nổi lên ầm ầm, mây chuyển vần vũ. Bà Đàm Thị trở dạ sinh một đứa bé khôi ngô tuấn tú. Đứa bé mới sinh đã ngồi nhổm dậy được như trẻ lên ba, ánh mắt sáng như sao, dung mạo oai vệ khác thường”.[59, tr.106]. Còn trong truyền thuyết Cha lỗ đó, mẹ lá chùa tác giả dân gian cũng hư cấu kể về sự ra đời thần kỳ của vua Lê Đại Hành “Đêm hôm ấy, bà nằm mộng thấy đức Phật Quan Âm Bồ Tát hiện lên nói: Vợ chồng con hiền lành nhân đức nên đã cảm hóa được cõi phật. Ta ban cho đóa sen thiên tử, vợ chồng con sẽ được toại nguyện (….) Ngày qua ngày bà Đặng Thị thấy trong người khang khác. Rồi bà có thai hai vợi chồng mừng lắm”. [59, tr.106]. Điểm qua một số ví dụ, ta thấy được sự thụ thai và sinh nở thần kỳ là mô típ phổ biến trong truyền thuyết. Truyền thuyết về Nguyễn Minh Không cũng nằm trong số đó. Mô típ sự sinh nở thần kì được sử dụng trong truyền thuyết Nguyễn Minh Không “là sự chuẩn bị cần thiết để miêu tả chiến công phi thường mà người anh hùng cống hiến cho non sông đất nước" [7, tr.88]. Mô típ này được sử dụng ở hai truyện trong số 35 truyền thuyết về Nguyễn Minh Không. Đó là các truyện Truyền thuyết về sự ra đời của Nguyễn Minh Không và Người con đỡ đầu của đức Thánh Nguyễn.

Về sự ra đời của Nguyễn Minh Không, truyền thuyết kể rằng: “Trong lúc mơ màng ngủ, bỗng thấy một ông lão tóc bạc cưỡi trên lưng một con trâu vàng từ trên trời mà xuống tự xưng là Thái Thượng Lão Quân. Bảo hai người rằng: - Vợ chồng ngươi hẳn muốn có phật tử. Vợ Sùng công là Dương thị đáp rằng: - Muốn nhưng không biết làm thế nào được Thái thượng bảo:

- Ngươi dám nuốt con trâu này tất có được điều đó. Dương thị ở trong cõi mộng, hai tay ôm con trâu vàng hết sức mở miệng nuốt trôi con trâu vàng. Lúc đó hai vợ chồng rất bàng hoàng và tỉnh dậy. Từ đấy Dương thị chuyển động tâm thần có thai. Dương thị mang thai mười ba tháng. Đến ngày 15 tháng 10 năm Quý Sửu sinh hạ được người con trai khôi ngô tuấn tú, khi chất to lớn, mạnh mẽ. Trên tay có một dấu ấn vuông, trên trán có chữ son Phật Tử (…). Lúc Dương thị sinh có một đám mây vàng bay trên trời. Trên mái nhà có khí lành bay phủ, hương tỏa thơm phức. Sùng công đặt tên con là Minh”. [PL1, tr.106].

Sự sinh nở mang nhiều yếu tố kì lạ, hoang đường đã làm cho truyền thuyết về Nguyễn Minh Không thêm lung linh kì ảo. Qua đó thể hiện lòng ngưỡng mộ, thành kính tuyệt đối của nhân dân đối với nhân vật. Chi tiết bà Dương thị nuốt trâu vàng. Tác giả dân gian đã dùng trí tưởng tượng và năng lực hư cấu, cầu nối giữa hiện thực - ước mơ, cõi trần - cõi tiên, người thực - thần linh. Đây là mô típ khá đặc biệt, hiếm thấy trong truyền thuyết. Truyền thuyết xây dựng chi tiết người mẹ nuốt trâu vàng là ẩn ý của nhân dân. Họ muốn nói rằng người anh hùng sinh ra từ yếu tố thiêng liêng, huyền bí. Nuốt trâu vàng như một điềm báo tương lai. Nó khẳng định sự xuất hiện của bậc thánh nhân mà cả dân tộc đang chờ đợi. Nguyễn Minh Không là nhân vật ra đời từ giấc mơ của người mẹ được thần tiên báo mộng thường thấy trong truyền thuyết. Sự ra đời của đức Thánh Nguyễn được dân gian kể lại “Một hôm tiết trời ấm áp, gió xuân thổi trong sắc trời trong sáng, hai vợ chồng Sùng công ngọa nhàn ở chỗ hiên tây vắng vẻ. Trong lúc mơ màng ngủ, bỗng thấy một ông lão tóc bạc cưỡi trên lưng một con trâu vàng từ trên trời mà xuống tự xưng là Thái Thượng Lão Quân. Bảo hai người rằng: Vợ chồng ngươi hẳn muốn có phật tử”. [PL1, tr.106].

Trong truyện Người con đỡ đầu của thánh Nguyễn kể về sự hiển linh của đức thánh Nguyễn đã giúp cho Trung công toại nguyện mong ước có con, dẫn đến sự ra đời của đức thánh Tô. “Đến cuối canh ba, mơ mơ tựa mộng thấy thiền sư cưỡi hạc trắng từ phương Tây đến. Thiền sư ngồi trên điện, chỉ Trung công bảo rằng:

- Nhà ngươi tích đức đã nhiều năm, tất có sung lư lệnh tử. Số nhà ngươi đến năm năm mươi nhăm tuổi mới có con. Nay người đã thành tâm cầu đảo đến ta, ta tất sẽ tâu lên thượng đế sớm cho được sinh con”. [PL1, tr.108]. Trong quan niệm của nhân dân từ thời xa xưa, lực lượng siêu nhiên có quyền năng luôn che chở cho con người. Vì thế, đó là đối tượng để con người sùng kính và tôn thờ. Dạng mô típ này được sử dụng để thông báo về đầu thai của nhân vật tài giỏi là điều hợp lí, nó tác dụng nhấn mạnh tính chất cao quý, siêu phàm của nhân vật. Một nhân vật có nguồn gốc xuất thân thần kỳ, khi trưởng thành tất yếu sẽ là người lãnh trách nhiệm bảo vệ, giúp đỡ, đem lại lợi ích cho nhân dân. Nguyễn Minh Không có nguồn gốc thần linh, khi trưởng thành ông cống hiến tài năng vì

dân vì nước. Thời gian mang thai của bà Dương thị khi sinh ra Nguyễn Minh Không là“mười ba tháng”. Đây là hiện tượng mang thai bất thường, thời gian kéo dài hơn so với tự nhiên thường thấy là chín tháng mười ngày. Sự ra đời kỳ lạ của Nguyễn Minh Không đã dự báo nhân vật sẽ là người có tài năng xuất chúng, lập chiến công, làm nên nhiều kỳ tích. Trong tâm thức người dân Ninh Bình, người anh hùng không thể là người phàm trần mà chính là thần thánh. Đây vốn là mô típ rất phổ biến trong các truyền thuyết. Việc sử dụng mô típ mang thai bất thường, mang yếu tố kỳ ảo, tạo sự hấp dẫn, làm tăng chất thiêng cho truyền thuyết. Như vậy, mô típ sự sinh nở thần kì của Nguyễn Minh Không là sự kết hợp của ba yếu tố thiên nhiên, con người và thần linh. 2.4.2. Mô típ tướng lạ, tài lạ

Trong truyền thuyết Việt Nam, khi xây dựng các nhân vật, nhân dân chú trọng mối quan hệ của họ với các nhân vật anh hùng. Người anh hùng thường có một nét phẩm chất nào đó rất gần gũi với cuộc sống đời thường của nhân dân. Đinh Bộ Lĩnh có thời thơ ấu gian khổ, phải đi chăn trâu cho chú. Lê Hoàn có tuổi thơ mồ côi, sống trong chùa, nương nhờ nơi cửa phật. Người anh hùng gần gũi với nhân dân nhưng luôn mang những đặc điểm phi thường. Đó là dấu hiệu để người anh hùng không lẫn vào đám đông.

Nhân vật Nguyễn Minh Không cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Trong số 35 truyền thuyết Nguyễn Minh Không lưu truyền ở Ninh Bình, có một truyền thuyết thể hiện mô típ tướng lạ, đó là Truyền thuyết về sự ra đời của Nguyễn Minh Không. Trong truyền thuyết nhân vật Nguyễn Minh Không hiện lên với tướng lạ “Đến ngày 15 tháng 10 năm Quý Sửu sinh hạ được người con trai khôi ngô tuấn tú, khí chất mạnh mẽ. Trên tay có một dấu ấn vuông, trên trán có chữ son Phật Tử”. [PL1, tr.106]. Đây là những yếu tố miêu tả theo công thức có tính chất ước lệ của dân gian cùng lối cường điệu hóa của thần thoại, nhằm khẳng định yếu tố phi phàm của nhân vật. Trong môtip "tướng lạ - tài lạ", hai yếu tố này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Tướng lạ là nguồn gốc, là yếu tố có tính chất dự báo cho tài lạ. Ngược lại, tài lạ là minh chứng cho tướng lạ. Mối quan hệ này chịu ảnh hưởng của quan niệm "Nhân tướng học" của người phương Đông: hành trạng của nhân vật đều có liên quan đến những dấu hiệu bên ngoài, được biểu hiện ngay từ khi nhân vật còn nhỏ. Qua mô típ tài lạ - tướng lạ, nhân dân mong đợi một con người có trí tuệ hơn người để có thể đem lại cuộc sống tốt đẹp trong bối cảnh lúc bấy giờ. Hai yếu tố tướng lạ và tài lạ của nhân vật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Phải chăng nhân dân muốn thể hiện ẩn ý, tướng lạ ấy sẽ là cơ sở biểu hiện trí tuệ, sức mạnh tài năng phi thường của Nguyễn Minh Không. Tài lạ của Nguyễn Minh Không biểu hiện sự uyên thâm về trí tuệ, khả năng siêu phàm: biến hóa vô biên, tài rút đất, gánh núi, phát tích cả quả đồi…Tài năng ấy được thể hiện qua sự kiện ông là người chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tông và được phong Lý triều Quốc sư. Tài năng của nhân ông vừa do

thiên phú vừa do sự nỗ lực của bản thân và phải trải qua sự rèn luyện thì mới có. Truyền thuyết mặc dù được xây dựng dựa trên tình cảm, thái độ, trí tưởng tượng phong phú của nhân dân, nó vẫn có cốt lõi lịch sử nhất định. Trong trường hợp này môtip “tướng lạ - tài lạ” tuy là sự hư cấu của tác giả dân gian nhưng nó vẫn dựa trên một đặc điểm lịch sử của nhân vật. Nguyễn Minh Không trong lịch sử quả là người có tài năng chữa bệnh, đúc đồng… tài năng xuất chúng, hơn người.

Như vậy, từ cái lõi lịch sử có thực, bằng trí tưởng tượng phong phú nhân dân đã tạo nên mô típ tướng lạ - tài lạ với dạng biểu hiện hết sức độc đáo nhằm thể hiện thái độ phi thường hóa, thần thánh hóa nhân vật và cũng ngầm dự báo về một chiến công phi thường của Lý triều Quốc sư Nguyễn Minh Không 2.4.3. Mô típ chiến công phi thường

Nguyễn Minh Không là nhân vật lịch sử đi được nhân dân yêu quý dệt lên những truyền thuyết đẹp. Vì vậy, khi đi vào truyền thuyết những chiến công của thiền sư họ Nguyễn đã được nâng lên đến mức kỳ vĩ. Chiến công phi thường của Nguyễn Minh Không được bắt nguồn từ sức mạnh phi thường của bản thân nhân vật và có mối quan hệ chặt chẽ với nhân dân. Ông lập được nhiều chiến công giúp dân giúp đời. Chiến công phi thường này được thể hiện ở truyền thuyết Ông Khổng Lồ gánh núi “Ông gánh các quả núi xếp gọn về phía tây, phía bắc, dọn sạch đồng nương cho dân trồng cấy. Bởi vậy, bây giờ núi mới xếp hàng thành dãy ở cả phía tây, phía bắc như ngày nay”. [PL2, tr.112]. Từ đó, đường đi lại dễ dàng, đồng ruộng phong quang. Đời này qua đời khác, nhân dân biết ơn ông Khổng Lồ. Truyền thuyết Đan sọt gánh nước, ông đã giúp nhân dân hai huyện Yên Khánh và Yên Mô bằng chính sức khỏe phi thường. Ông gánh nước cứu hạn, mang lại mùa màng tốt tươi, nhân dân no đủ.

Chiến công phi thường của nhân vật Nguyễn Minh Không được khắc họa trong truyền thuyết rất phong phú. Với khả năng siêu phàm, phật pháp vô biên, ông đã tiêu diệt ác thú Ngô công, giúp cho người họ Thái thoát kiếp nạn “Thuyền đang đi thuận buồm xuôi gió bỗng gặp Ngô Công mình dài trăm trượng, miệng há đỏ như lửa đang vẫy vùng giữa sóng gió chồm đến toan nuốt cả cái thuyền, khiến cho mọi người khiếp đảm vô cùng. Ông Khổng Lồ vẽ quả bí, tục gọi là Đông qua - Quả dưa mùa đông. Thánh ném bùa trước mũi thuyền. Ngô công hít phải hơi bùa mà chết. Xác trút xuống thành ba đống nổi giữa biển. Thánh đặt là Tam Đảo Sơn”. [PL1, tr.101].

Một trong những chiến công của Nguyễn Minh Không được lịch sử ghi nhận, dân gian truyền tụng đó là việc chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tông. Trong khi các thày thuốc khác không thể chữa được bệnh cho nhà vua thì thiền sư họ Nguyễn đã dùng cây thuốc mang đi từ Vườn Sinh Dược kết hợp với việc châm cứu đã chữa khỏi bệnh cho nhà vua.“Ông sai người lấy một chiếc vạc dầu, cho vào đấy những cây thuốc mà ông mang theo từ Vườn Sinh Dược, đun sôi ba ngày

ba đêm. Ông cho thêm 100 cái kim vào vạc đang sôi. Sau đó cho Dương Hoán ra. Ông thò tay vào vạc đun thuốc đang sôi. Vớt một lượt 100 cây kim ra, đầu nào ra đầu ấy. Ông lấy tay múc dầu đang sôi tưới lên mình Dương Hoán và đồng thời cắm 100 cây kim lên người Dương Hoán. Tự nhiên lông lá biến mất, Dương Hoán không còn gầm rú nữa mà trở lại thành người”. [PL1, tr.105]. Cảm động trước tài năng của Nguyễn Minh không, vua Lý đã phong ông là Lý triều Quốc sư.

Chiến công phi thường của Nguyễn Minh Không không chỉ được lập nên bằng tài năng, trí tuệ mà còn được lập nên bằng cả lòng nhân hậu, tình yêu thương con người. Chiến công ấy còn được sự sự phù trợ của thần linh để nhân vật đạt được sứ mệnh vẻ vang mà lịch sử đặt lên vai họ. 2.4.4. Mô típ hóa thân

Con người sinh ra không tránh khỏi quy luật sinh, lão, bệnh, tử. Một mặt dân gian nhìn thấy tính khách quan của thời gian đời người, mặt khác họ không muốn tin người anh hùng phải chết. Để giải quyết mâu thuẫn này tác giả truyền thuyết sử dụng mô típ hóa thân. Trong truyền thuyết, tác giả dân gian lý giải sự kiện Nguyễn Minh Không từ giã cõi đời cũng có những điều kỳ lạ khác thường. Đó là sự hóa thân "Ngài hóa" hay "về trời". Nhân dân quan niệm là nhân vật này không chết mà chỉ là kết thúc kiếp trần tục để chuyển sang thế giới của thần linh. Từ "hóa" mang sắc thái biểu cảm rất cao. Nó thể hiện niềm tôn kính, ngưỡng mộ của nhân dân: người anh hùng là vị thần bất tử.

Sự hóa thân trong truyền thuyết được xuất phát từ quan niệm cổ xưa: "Vạn vật hữu linh". Người xưa cho rằng, mọi vật đều có hai phần: phần linh hồn và phần thể xác. Phần thể xác chỉ là tạm thời, là nơi trú ngụ của linh hồn. Phần linh hồn mới là vĩnh viễn. Khi người chết, nơi trú ngụ của linh hồn không còn thì linh hồn thoát lên không trung và sẽ tìm về nơi trú ngụ mới. Từ đó, dẫn tới quan niệm về kiếp sau của con người

Nhân vật anh hùng trong truyền thuyết được sáng tạo trong cảm hứng tôn vinh và lòng biết ơn thành kính. Người anh hùng là linh khí của núi sông, là hồn thiêng của dân tộc. Khi sống, các vị anh minh, tài cao, đức rộng, khi chết các vị tiếp tục "phù hộ độ trì" cho con người. Bởi thế, nhân dân quan niệm: "sống khôn, chết thiêng", do đó trong truyền thuyết, họ đã có khuynh hướng đưa con người lên cõi thánh. Trong truyền thuyết nhân dân kể lại cái chết của nhân vật Nguyễn Minh Không.“Đương lúc ấy, bỗng nhiên thấy ngài nhắm mắt, sấm mây đại tác, tứ linh thẳng xuống, bách thú đến chầu ở trên không trung.Trong tiếng gió nghe như có tiếng đàn véo von. Ngày ấy Minh Không hóa”. [PL1, tr.107]. Cái chết của nhân vật Nguyễn Minh Không được xây dựng trong truyền thuyết là sự hóa thân. Nguyễn Minh Không đã đi từ cõi trần đến cõi bất tử chứ không phải “chết là hết”. Mô típ hóa thân của nhân vật thể hiện tính nhất quán trong quan niệm xây dựng nhân vật. Mô típ sự sinh nở thần kỳ và mô tip hóa thân có sự xâu chuỗi với

nhau. Qua đó, tài năng, sự sáng tạo của tác giả dân gian thật kỳ diệu. Nguyễn Minh Không được mẹ sinh ra khi bà năm mơ, được Thái Thượng Lão Quân báo mộng, cho nuốt trâu vàng, lúc chết lại hóa thân. Mô típ hé mở cho ta thấy quan niệm về bản chất thiêng của người anh hùng. Họ sinh ra từ tự nhiên, trở về với tự nhiên, thành khí thiêng sông núi, hồn thiêng dân tộc, trường tồn cùng với lịch sử. Việc miêu tả cái chết của Nguyễn Minh Không, dù có sử dụng yếu tố thần kì hay không thì mục đích cuối cùng của nhân dân cũng là để thể hiện lòng ngưỡng mộ tôn vinh đối với nhân vật. Cốt lõi của sự sáng tạo ấy là niềm tin. Chỉ có niềm tin mãnh liệt như thế mới khiến Nguyễn Minh Không tồn tại mãi mãi trong đời sống tâm linh của người dân Ninh Bình và dân tộc gần mười thế kỷ.

Tiểu kết chương 2

Số lượng truyền thuyết về Nguyễn Minh Không còn lưu truyền cho đến ngày nay ở Ninh Bình khá phong phú. Qua quá trình điền dã, sưu tầm, tham khảo tại Ninh Bình chúng tôi thống kê được 35 truyền thuyết (có nhiều truyền thuyết khác lưu truyền trong dân gian và ở một số tỉnh Nam Định Và Thái Bình chỉ mang tính chất tham khảo) Nhìn chung những truyền thuyết về Nguyễn Minh Không có kết cấu đơn giản và tồn tại dưới nhiều mẫu kể khác nhau, mỗi truyện cho người tiếp nhận biết một giai đoạn nhất định trong cuộc đời nhân vật hoặc một nét tính cách, phẩm chất của nhân vật. Bên cạnh những mẫu kể ngắn gọn còn có kết cấu xâu chuỗi. Lời kể tương đối sinh động, giàu tính nghệ thuật để từ đó truyền thuyết về Nguyễn Minh Không lay động nhận thức và tình cảm của con người.

Nhân vật Nguyễn Minh Không trong lịch sử và truyền thuyết không có sự đối lập. Truyền thuyết và chính sử chép về ông đều đồng nhất trên một quan điểm ngợi ca chiến công, tài năng, phẩm hạnh tốt đẹp của Nguyễn Minh Không. Ông là thần y - ông tổ của nhiều nghề - một thiền sư tu hành đắc đạo. Cả cuộc đời ông gắn bó với quê hương Ninh Bình, luôn đem hết tài năng, trí tuệ, pháp phật vô biên để giúp dân giúp đời.

Nhân dân Ninh Bình vô cùng tự hào, kính trọng và yêu mến người con ưu tú của quê hương - Nguyễn Minh Không. Để xây dựng hình tượng nhân vật tỏa sáng mà vẫn bình dị, đời thường, tác giả dân gian xưa đã sử dụng nhiều mô típ: mô típ sinh nở thần kì, mô típ tướng lạ, mô típ chiến công phi thường, mô típ hóa thân, mô típ linh hiển âm phù. Tất cả các mô típ đều có mối quan hệ hữu cơ với nhau, bổ sung giải thích cho nhau để đạt tới hiệu quả nghệ thuật xây dựng nhân Nguyễn Minh Không vừa thiêng liêng vừa gần gũi đời thường. Hình tượng nhân vật Nguyễn Minh Không luôn tồn tại sâu đậm trong tâm thức người dân Ninh Bình.

CHƯƠNG 3 MỐI QUAN HỆ GIỮA TRUYỀN THUYẾT NGUYỄN MINH KHÔNG VỚI LỄ HỘI ĐỀN THÁNH NGUYỄN

3.1. Lễ hội đền Thánh Nguyễn

Lễ hội là một trong những hiện tượng sinh hoạt văn hoá cổ truyền tiêu biểu của nhiều tộc người ở nước ta cũng như trên thế giới. Nó là “tấm gương” phản chiếu khá trung thực đời sống văn hoá của mỗi dân tộc. Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian đã có từ lâu đời, có sức lôi cuốn mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Sự hình thành, tồn tại và phát triển của các lễ hội có mối liên hệ khăng khít với phong tục, tập quán, tín ngưỡng, luật lệ của làng xã. Lễ hội có sự qua lại, ảnh hưởng sâu đậm tới kho tàng văn học nghệ thuật dân gian và gắn liền với tinh thần đoàn kết đấu tranh chống thiên nhiên, chống kẻ thù xâm lược của cộng đồng người Việt. Hằng năm, trên dải đất hình chữ S, lễ hội truyền thống được tổ chức ở nhiều địa phương. Khi tiếng trống hội vang lên, trong tâm thức mỗi người luôn hướng về lễ hội,về quê hương.

Là một vùng đất “địa linh nhân kiệt”, Ninh Bình được biết đến là quê hương của nhiều lễ hội, nhiều danh lam thắng cảnh, nhiều di tích lịch sử. Nhân dân nơi đây còn lưu truyền và bảo tồn các loại hình lễ hội, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc như Lễ hội Trường Yên, Lễ hội chùa Bái Đính, lễ hội Báo Bản Nộn Khê, Lễ hội đền Thái Vi… Trải qua hàng nghìn năm, nhân dân Ninh Bình luôn duy trì tổ chức lễ hội đền Thánh Nguyễn. Đây là một lễ hội lớn để tưởng nhớ Đức Thánh. Lễ hội (6 năm tổ chức một lần), lễ Kỳ Phúc được tổ chức long trọng hàng năm với sự hành hương của người con Ninh Bình, của hàng vạn người từ khắp các nơi tìm về.

“Ai về Gia Thắng quê tôi Viếng thăm đền Nguyễn bao đời còn đây Bên dòng nước biếc vơi đầy Thánh về ngự giá tháng ngày thảnh thơi”… (Viếng đền Thánh Nguyễn – Nguyễn Văn Lượng) Chương ba của luận văn chúng tôi giới thiệu một trong những lễ hội tiêu biểu nhất của quê Ninh Bình: Lễ hội đền Thánh Nguyễn - nơi gắn liền với tên tuổi Lý triều Quốc sư Nguyễn Minh Không. Đặt truyền thuyết Nguyễn Minh Không và lễ hội đền Thánh Nguyễn vào đời sống dân gian Ninh Bình, để thấy hết được nét đặc sắc văn hoá của lễ hội. 3.1.1. Lịch sử lễ hội đền Thánh Nguyễn

Mang đặc trưng nguyên hợp của văn hoá dân gian, truyền thuyết và lễ hội luôn gắn bó hữu cơ với nhau. Truyền thuyết người anh hùng được tái hiện sống động trong các lễ hội. Lễ hội đền Thánh Nguyễn ở Ninh Bình gắn liền với cuộc đời, sự nghiệp và truyền thuyết về thiền sư Nguyễn Minh Không. Theo Ngọc phả đền Thánh Nguyễn, thiền sư Nguyễn Minh Không sinh vào ngày 15 tháng 10 năm Quý Sửu. Cha là Nguyễn Sùng, quê làng Đàm Xá, huyện Gia Viễn, Phủ Trường

An, Ái Châu, mẹ là Dương Mĩ Nương, là người có nhan sắc và rất hiếu thuận. Quê Xã Phả Lại, huyện Quế Dương, phủ Từ Sơn, đạo Kinh Bắc. Nguyễn Minh Không là nhân vật lịch sử thời Lý đã được nhân dân yêu quý dệt lên những truyền thuyết đẹp để ca ngợi công đức, tài năng. Khi nhắc đến thiền sư Minh Không, hậu thế không chỉ biết đến ông là người có tài năng phi thường, xuất chúng, phật pháp vô biên mà còn biết đến ông là nhà tu hành mộ đạo, một thày thuốc tài ba, vị tổ sư của nhiều nghề. Ông là người có công phò vua giúp nước, xin giảm sưu cao thuế nặng cho dân... Đặc biệt Nguyễn Minh Không là người đã chữa khỏi bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tông và được phong Lý triều Quốc sư. Khi thiền sư Minh Không hóa ngày 12 tháng 6 năm 1141, vua Lý đã hạ lệnh thần dân thiên hạ, gia thần trong ấp, tất cả dân Đàm Xá hành lễ ở nơi Minh Không hóa, rước thần hiệu của ngài về lập thần miếu để thờ phụng…Từ trên Sơn Tây đến Ái Châu đều thờ phụng ngài, lấy Đàm Xá là nơi thờ chính. Thiền sư Minh Không được dân gian suy tôn là Thánh tổ và được thờ phụng ở rất nhiều nơi trong cả nước. Lịch sử mỗi ngôi đền, ngôi chùa thờ Nguyễn Minh Không, thường bắt nguồn từ dấu vết mỗi lần ông đặt chân qua. Trong số đó, phải kể đến đền thờ Thánh Nguyễn ở khu văn hóa tâm linh núi chùa Bái Đính, chùa Địch Lộng ở huyện Gia Viễn. Riêng ở đền Thượng xã Khánh Phú và đền Tam Thánh ở xã Khánh An, Yên Khánh ông được suy tôn là đức Thánh Cả… Đền Thánh Nguyễn thuộc làng Đàm Xá, phủ Tràng An nay là hai xã Gia Thắng, Gia Tiến huyện Gia Viễn, Ninh Bình là nơi thờ chính. Vào tiết xuân thu, nước cúng tế, tứ thời hương hỏa vạn đại của người dân dâng lên không bao giờ dứt. 3.1.2. Thời gian và không gian lễ hội 3.1.2.1. Thời gian lễ hội

Sau khi Nguyễn Minh Không mất, nhân dân làng Đàm Xá, ngày nay là hai xã Gia Tiến và Gia Thắng huyện Gia Viễn hàng năm đã tổ chức lễ kỳ phúc (Hát Lệ) từ ngày 14, 15, 16 tháng 2 âm lịch. Đây là ngày được đức Thánh quy định từ khi dựng chùa Viên Quang (1121) để cầu phúc cho nhân dân. Ngày nay đã trở thành thông lệ. Trong Kệ của đức Thánh Nguyễn có ghi “Sáu năm mở hội vui một lần”. Như vậy, lễ hội đền Thánh Nguyễn sáu năm mở hội một lần và có thể lâu hơn tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của địa phương. Lễ hội đền Thánh Nguyễn mang đậm tính lễ hội lịch sử, gắn liền với cuộc đời của Thiền sư Minh Không. Lễ hội đền Thánh Nguyễn diễn ra trong ba ngày từ ngày 8,9,10 tháng 3 âm lịch. Thời gian mở hội không gắn liền với ngày sinh, ngày hoá của đức Thánh Nguyễn, không gắn với mùa vụ… Lễ hội tổ chức vào mùa xuân vì theo quan niệm dân gian, mùa xuân là mùa của vạn vật sinh sôi nảy nở, con người như được tiếp thêm sức mạnh, bừng bừng sức xuân trong cuộc sống mới. Vì vậy, nhân dân làng Đàm Xá xưa mở hội để bày tỏ tình cảm, tưởng nhớ công ơn của Thiền sư Minh Không. Trong dân gian có câu: “Trống làng nào làng ấy đánh", " Thánh làng nào làng ấy thờ", điều này vừa phản ánh, thể hiện yếu tố bản địa, mang tính

địa phương, vừa tạo ra sự phong phú đa dạng của bức tranh văn hoá dân tộc. Lễ hội đền Thánh Nguyễn trở thành phong tục tập quán được hình thành từ bao đời và được truyền lại cho các thế hệ kế tiếp. 3.1.2.2. Không gian lễ hội

Mọi lễ hội đều diễn ra trong một không gian nhất định, đó chính là những không gian văn hóa gắn với các cộng đồng dân cư ở làng xã Việt Nam. Không gian của lễ hội thường gắn liền với hệ thống thiết chế tôn giáo tín ngưỡng. Nơi diễn ra lễ hội là những công trình di tích lịch sử văn hoá ở các địa phương. Đó là nơi lưu giữ và tôn vinh những giá trị văn hoá tinh thần được kết tinh qua các nhân vật và sự kiện đã hình thành trong lịch sử. Dưới góc độ nào đó có thể coi di tích chính là cái “vỏ” trang nghiêm để chứa cái “hồn” lễ hội trong đó. Lễ hội đền Thánh Nguyễn gắn với tín ngưỡng dân gian, gắn chặt với đời sống văn hoá của người dân Gia Viễn nói riêng và Ninh Bình nói chung.

Từ quá trình điền dã, tham khảo một số trang Web Wikipedia, Ninhbinh dulịch.com.vn. Chúng tôi được biết lễ hội đền Thánh Nguyễn được tổ chức tại đền Thánh Nguyễn. Vào năm 1211, thiền sư Minh Không lập chùa Viên Quang trên chính mảnh đất quê hương thuộc làng Đàm Xá, phủ Tràng An nay là hai xã Gia Thắng, Gia Tiến huyện Gia Viễn tỉnh Ninh Bình. Đây là điều vô cùng đặc biệt vì trên cả nước không có một ngôi đền nào lại thuộc địa phận hai xã. Khi ông mất, nhân dân Đàm Xá biến chùa Viên Quang thành đền thờ Thánh Nguyễn. Đền Thánh Nguyễn được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia tháng 2 năm 1989.

Đền Thánh Nguyễn quay hướng nam, song song với đường vua Đinh hướng về cố đô Hoa Lư nên được xem như là một di tích thuộc Hoa Lư tứ trấn. Đền nằm trên mảnh đất dài 100m rộng hơn 40m trong đó địa phận xã Gia Tiến 32 hàng gạch và xã Gia Thắng 27 hàng gạch. Từ xưa truyền lại theo quan niệm “nhất đông nhì tây” hướng đền chệch đông nhiều hơn nên Gia Tiến là “anh” còn xã Gia Thắng là “em”. Tổng thể công trình kiến trúc khá quy mô, được xây dựng theo kiểu "nội công ngoại quốc". Không gian đền Thánh Nguyễn nhìn từ ngoài vào, đền không mở chính giữa như những ngôi chùa, ngôi đền mà chúng ta thường thấy. Cổng đền được mở theo hai lối Đông, Tây. Mỗi cổng lại thuộc về một xã. Hai bên cổng đền là hai cột cờ cao vút.

Từ ngoài vào là Vọng Lâu làm hoàn toàn bằng đá. Mặt trước Vọng Lâu có cuốn thư chạm khắc bốn chữ “Lý triều Quốc sư” bằng chữ Hán. Phía dưới cuốn thư dưới có ba cặp câu đối. Mặt trong Vọng Lâu, có cuốn thư chạm khắc bốn chữ “Tiên hậu quỹ nhất”. Phía dưới cuốn thư có ba cặp câu đối. Tiếp đến là chiếc khánh bằng đá thường gọi là Vọng Liệu Sở - nơi hóa sớ, đốt văn. Hai bên hồi của Vọng Lâu có hai cây đèn đá, cao hơn một mét. Huyền thoại kể rằng, cây đèn đá tự mọc lên, Nguyễn Minh Không đêm đêm thường ngồi bên cây đèn để thiền tịnh. Các loài chim, loài thú về chầu xung quanh, ánh sáng cây đèn chiếu sáng

đến tầng mây trên không. Chính vì thế nhân dân tôn hiệu ông là Minh Không và từ đó trở đi tục gọi thiền sư là Minh Không. Tiếp đến là sân rồng được lát bằng gạch đỏ. Hai dãy Nhà Giải hai bên thuộc địa phận hai xã. Mỗi dãy nhà gồm 9 gian thờ Chư vị tiên công. Đi qua sân rồng trước cửa tiền đường là chiếc sập đá lớn, một lô hương do phật tử cúng tiến là nơi làm lễ dâng hương của phật tử, khách thập phương về chiêm bái, lễ thánh.

Đền có 4 toà làm theo kiểu tiền nhất, hậu công (trước theo kiểu chữ nhất 一 sau là chữ công 工). Năm gian tiền đường làm theo kiểu chồng rường, hồi có mái đại, trụ non xà đuôi chuột, các cặp xà dọc, xà ngang, xà nách, được bám vào cột chắc khoẻ như những ngấn mộng chính xác kín kít, phân bổ ở vị trí không để ảnh hưởng tới sự chịu tải của cột. Trước Tiền Đường cung Siêu Hương là 2 con sóc đá thời Lê sơ. Trong Tiền Đường trên cao ở phía ngoài có cuốn thư chạm khắc bốn chữ Hán “Thiên khái Thánh sinh” (trời sinh ra Thánh), trong tiền đường có 2 chiếc Quán tẩy thời Nguyễn được chạm khắc tinh xảo; 2 chiếc trống cù rất quý hiếm, mặt trống đường kính 1,4 m tương truyền có từ thời Lý - Trần; toàn bộ khám thờ thuộc thời Nguyễn. Đặc biệt trong đền còn lưu giữ một chiếc vạc dầu tương truyền là chiếc vạc được đức Thánh dùng để đun thuốc chữa bệnh. Ngoài giá trị lịch sử, đền còn được ghi nhận giá trị đặc sắc bởi nghệ thuật chạm trổ, điêu khắc tinh xảo.

Tiếp giáp năm gian Tiền Đường là cung Siêu Hương được trang hoàng trang trọng là nơi tiến lễ, tiến trà, tiến rượu…Trong cùng là chính tẩm - cung cấm gồm 5 gian. Chính giữa là nơi bày Cỗ Khám được sơn thiếp vàng lộng lẫy để thần tượng của đức Thánh Nguyễn. Phía trước cỗ khám là cỗ ngai được chạm khắc tinh tế, bày linh vị của đức Thánh. Bên phía đông (tay trái nhìn từ trong ra ngoài) là hai cỗ ngai và linh vị cha mẹ đức Thánh (Khải Thánh), phía tây là cỗ ngai và linh vị đức Thánh Tô (Tô Hiến Thành).

Phía sau chính tẩm là gác chuông hai tầng, tám mái, cũng toàn bằng gỗ lim. Gác chuông đây treo một quả chuông nặng hơn một tấn, cao 1,60 m. Quanh đền có nhiều cây cổ thụ tán lá xanh tươi và những cây cảnh điểm trang cho đền, tạo thành một bức tranh phong cảnh làng quê thâm nghiêm, tĩnh mịch.

Ngoài khu đền Thánh Nguyễn, không gian lễ hội còn được mở rộng ra các nghè miếu của hai xã Gia Tiến và Gia Thắng của huyện Gia Viễn. Vì thế lễ hội đền Thánh Nguyễn trở thành lễ hội có nét độc đáo riêng của mình so với lễ hội khác của tỉnh Ninh Bình. Trước ngày lễ hội chính thức được mở ra, tại các nghè miếu có tổ chức lễ trang hoàng trí kiệu, kéo cờ nghè miếu. Sau khi hội kết thúc, các nghè miếu rước sắc, rước kiệu về làm lễ yên vị và lễ tạ. Không gian các nghè miếu ở các thôn được xem là không gian thứ hai của hội đền Thánh Nguyễn. 3.1.3. Tổ chức lễ hội

Theo các tài liệu thu thập được và qua sự khảo sát thực tế, chúng tôi nhận

thấy lễ hội ở đền Thánh Nguyễn cơ bản diễn ra như sau.

3.1.3.1. Lực lượng tham gia lễ hội

Ban tổ chức lễ hội bao gồm đại diện Ủy ban nhân dân hai xã Gia Tiến và Gia Thắng, hai ban khánh tiết của hai xã, ban khánh tiết các nghè miếu của các thôn. Nếu lễ hội được tổ chức vào năm chẵn thì xã Gia Thắng sẽ là trưởng ban lễ hội. Ngược lại nếu tổ chức vào năm lẻ thì trưởng ban tổ chức lại thuộc về xã Gia Tiến. Quy định này có từ rất lâu đời và được truyền lại đến ngày nay. Ở xã Gia Tiến và Gia Thắng vẫn có câu “chẵn Điềm, lẻ Xá”. Trong đó hai ban khánh tiết của hai xã phụ trách phân công các thành viên để phụ trách các nhiệm vụ khác nhau trong ban hành lễ. Yêu cầu những người tham gia ban hành lễ khỏe mạnh, không có dị tật, gia đình hạnh phúc, con cái đề huề có nếp có tẻ, ngoan ngoãn, gia đình không có tang, không có người vi phạm pháp luật. Những người tham gia ban lễ tế, chay tịnh cả tuần lễ hội nhưng ở nhà riêng, không ở đền như xưa.

Nhiệm vụ Trang phục/ Nhạc cụ

Nhiệm vụ Chủ tế Gia Tiến 1 Gia Thắng 1

Bồi tế 1 1

Giúp chủ tế và cứ trông chủ tế mà lễ sao làm vậy

1 1 Chuyển chúc, đọc văn.

Đọc văn/ dẫn văn Thủ từ 1 1

3 3

Đứng tế chính, chủ trì lễ tế Áo đỏ, đầu đội mũ cánh chuồn,chân đi hài Áo vàng đầu đội mũ cánh chuồn,chân đi hài Áo xanh, đầu đội khăn xếp, chân đi tất Áo đen, đầu khăn xếp, chân đi tất Áo xanh, đầu khăn xếp, chân đi tất

1

Quan viên hành lễ) Điển ngơi Ca công Không giới hạn

số lượng Nhận sắc, nhận lễ dâng thánh Đứng hai bên lo việc điếu đóm (dâng hương, dâng rượu, dâng trà, dẫn đèn… Người điều khiển chương trình - của buổi lễ. Ca công đức của đức Thánh

Áo xanh, đầu đội mũ, chân đi tất Áo dài, áo đi chùa màu tím, màu nâu, màu lam Áo màu nâu 5 - 7 Phụ trách nhạc tế, lễ…

Nhạc công

Bảng 6: Người tham gia ban lễ tế đền Thánh Nguyễn Ngoài ra ban hành lễ còn tuyển chọn nam thanh niên (tráng đinh) tham gia vào đội rước, phụ trách các đồ tế khí đi cùng như bát bửu, cờ quạt, có các đội rồng, sư tử múa lượn nhịp nhàng làm cho không khí lễ hội thêm nhộn nhịp.

Ban tế lễ tại nghè miếu: Đền Thánh Nguyễn thuộc địa phận hai xã, nên khi

tế lễ đều tiến hành song song các nghi lễ. Ban hành lễ của xã nào đứng về phía vị trí của xã đấy và đều do sự phân công của ban tổ chức lễ hội. Ở hai xã Gia Tiến và Gia Thắng có tất cả 11 nghè miếu. Theo lệ làng, các nghè miếu phải có trách nhiệm tham gia vào việc tổ chức và làm hội hàng năm. Tại mỗi nghè miếu cũng cử ra ban hành lễ của nghè miếu đó.

Nhiệm vụ Nhiệm vụ Trang phục/ Nhạc cụ Số lượng

Đứng tế chính, chủ trì lễ tế tại Áo đỏ, đầu đội mũ cánh

1 nghè miếu.(Rước kiệu nam quan chuồn,chân đi hài. Chủ tế thì chủ tế là nam. Rước kiệu

mẫu chủ tế là nữ)

1 Giúp chủ tế và cứ trông chủ tế Áo vàng đầu đội mũ Bồi tế mà lễ sao làm vậy. cánh chuồn,chân đi hài.

Chuyển chúc, đọc văn. Chuyển Áo xanh, đầu đội khăn Đọc văn/ 1 sắc phong cho chủ tế của nghè xếp, chân đi tất. dẫn văn miếu.

1 Nhận sắc, nhận lễ dâng thánh Áo đen, đầu khăn xếp. Thủ từ

Quan viên Đứng hai bên lo dâng hương, Áo xanh, đầu khăn xếp, 1 - 2 hành lễ dâng rượu, dang trà, dẫn đèn… chân đi tất.

Người điều khiển chương trình - Áo xanh, đầu đội mũ,

Cầm nọc 1 của buổi lễ tại nghè miếu và lễ chân đi tất.

rước sắc về đền Thánh.

Nhạc công 5 - 7 Phụ trách nhạc tế, lễ… Áo màu nâu

Bảng 7: Người tham gia ban lễ tế tại các nghè miếu

Ngoài ra ban hành lễ tại nghè miếu còn tuyển chọn nam thanh niên (khiêng kiệu nam quan), nữ tú (khiêng kiệu mẫu) tham gia vào đội rước, phụ trách các đồ tế khí đi cùng như Bát Bửu, cờ quạt, đội lễ lên đền.

3.1.3.2. Lễ vật trong các ngày lễ hội

Lễ vật dâng lên đức Thánh trong các ngày lễ hội được các nghè miếu

chuẩn bị và đội lên đền dâng đức thánh bao gồm:

Lễ chay: Hương hoa, trầu cau, chè kho, bánh đúc, bánh kẹo…

Lễ mặn: Gồm lễ gà, thủ lợn, xôi, trầu cau, rượu…

3.1.3.3.Tiến trình lễ hội

Nội dung chương trình phần lễ Phần hội

Lễ trang hoàng trí kiệu, kéo cờ đại. Thời gian Trước ngày lễ chính một tuần

Sáng ngày 8.3 âm lịch

Chiều ngày8.3 âm lịch

Tối ngày 8.3 âm lịch

Sáng ngày 9.3 âm lịch

Lễ rước kiệu bách thần, múa lân múa rồng Lễ yên vị Lễ mục dục Lễ cáo yết (Lễ chính) Trầu kệ Lễ dâng cỗ của các nghè miếu Khai mạc lễ hội Lễ thỉnh kinh rước nước Lễ Yên vị các Thánh

Chiều ngày 9.3 âm lịch Lễ cáo yết Ban tổ chức lễ hội tiến hành chức tổ trò các chơi dân gian: Đánh đu, tổ tôm điếm, kéo co…

Sáng ngày 10.3 âm lịch Lễ tạ, lễ rước kiệu bách thần về nghè miếu.

Bảng 7: Tiến trình lễ hội

Lễ yên vị, lễ tạ tại các nghè miếu Chiều ngày 10.3 âm lịch

3.1.4. Nội dung phần lễ

3.1.4.1. Lễ trang hoàng trí kiệu, kéo cờ đại

Thông thường trước ngày lễ hội chính một tuần, ban khánh tiết hai xã Gia Tiến và Gia Thắng làm lễ chay, lễ mặn dâng lên đức Thánh tổ xin tổ chức lễ hội, kéo cờ đại yến báo toàn dân biết. Tại các thôn, ban hành lễ cũng tiến hành dâng lễ xin trang hoàng trí kiệu và kéo cờ tại nghè miếu. Tại các di tích đó, người dân quét dọn, bao lau, tu bổ đồ tế khí, cờ quạt chuẩn bị cho ngày lễ hội chính.

3.1.4.2. Lễ rước kiệu bách thần, múa lân múa rồng

Rước kiệu là một hoạt động tiêu biểu không thể thiếu trong ngày lễ hội. Đây là hoạt động mang tính cộng đồng cao nhất thể hiện tư tưởng hướng về cội nguồn dân tộc, biết ơn tổ tiên và phát huy tinh thần đoàn kết cộng đồng. Lễ rước kiệu tạo thêm sự long trọng, linh thiêng cho lễ hội.

Tại các nghè miếu: Từ 7h tiến hành làm lễ, chuẩn bị kiệu, rước sắc. Đội hình rước kiệu được sắp xếp theo trình tự: Đi đầu là đội múa sư tử, tiếp đó là đoàn rước cờ hội, nghi trượng, đoàn người đánh chiêng, trống, rước biểu dấu, bát bửu, đội bát âm múa sinh tiền, rước tàn lọng và đội kiệu, cuối cùng là quan viên và nhân dân. Lễ rước kiệu làm tăng thêm giá trị văn hóa tín ngưỡng thờ cúng

những anh hùng có công với đất nước với quê hương, đồng thời góp phần vào việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể . Ngoài ra, lễ rước kiệu còn có ý nghĩa sâu sắc nhằm nâng cao truyền thống, đạo lý uống nước nhớ nguồn và giá trị của tín ngưỡng thờ cúng - văn hóa truyền thống tốt đẹp của cả dân tộc Việt.

Tại đền Thánh Nguyễn: Đúng 8h30 phút ngày 8.3 âm lịch, kiệu của các nghè miếu tề tựu đông đủ tại sân rồng. Dẫn đầu đoàn rước kiệu tiến vào sân rồng tại đền Thánh Nguyễn là kiệu bát cống của đức Thánh Tô. Tiếp theo là kiệu của các nghè miếu thuộc xã Gia Tiến rồi đến kiệu của xã Gia Thắng, cứ thế luân phiên lần lượt:

Xã Sắc phong

Tên thôn/nghè miếu

Gia Tiến Đền Hạ

Gia Tiến An Thái

Gia Thắng Đào Lâm

Gia Tiến Hán Nam

Gia Thắng Quốc Thanh

Gia Tiến Chùa Đại Khả

Gia Thắng Quốc Thanh

Gia Tiến Hán Bắc

Gia Thắng Đào Lâm

Gia Tiến Đồng Vàng

Gia Thắng Trai Thổ Văn Phú

Gia Tiến Xuân Lai

Gia Thắng - Thái Úy Tô Hiến Thành Đoan túc quang y Dực Bảo Trung Hưng dương cảnh thiêng Hoàng tổng đốc thái giám Đôn ngưng Dực Bảo Trung Hưng linh phù bản thổ Huy Đức chi thần Tĩnh Hiệu hàm quang Dực Bảo Trung Hưng Nam Đạo bản thổ linh ứng Đôn ngưng Dực Bảo Trung Hưng linh phù bản thổ Huy Dũng chi thần Đại Khả tự thập bát long thần Đôn ngưng Dực Bảo Trung Hưng linh phù bản thổ Huy Đạt chi thần Nhân Uyên trai tĩnh Dực Bảo Trung Hưng Phù Dung công chúa Đôn ngưng Dực Bảo Trung Hưng linh phù bản thổ Đà Quốc Công chi thần Đôn ngưng Dực Bảo Trung Hưng tĩnh hậu bản thổ linh ứng Trai tĩnh trang vi Dực Bảo Trung Hưng Quỳnh Hoa công chúa Đôn ngưng Dực Bảo Trung Hưng linh ứng Cảnh Phúc tự thập bát long thần

Gia Tiến Chùa Phúc Tự Thôn Văn La Đền Hạ

Kim Sơn Dực Bảo Trung Hưng Trang Vi công chúa Bảng 8: Thứ tự dâng sắc phong của các nghè miếu

Nghi thức rước và dâng sắc: Mỗi xã là một đoàn rước bao gồm tất cả các kiệu của các nghè miếu. Sắc phong của mỗi nghè miếu được lưu giữ trong hộp đựng ống quyển được khóa lại, bảo quản cẩn thận. Sắc phong được đặt trên kiệu trang hoàng lộng lẫy và phủ khăn điều. Khi rước kiệu sắc phong của các nghè miếu vào sân rồng, đi đầu là người cầm nọc - đánh trống nhỏ làm hiệu cho đoàn rước. Tiếp đến là chủ tế của từng nghè miếu. Chủ tế mặc trang phục theo quy định có dùng khăn điều để che miệng để khỏi phả hơi vào sắc phong mất đi sự linh thiêng. Kiệu được nâng lên, hạ xuống ba lần, bái ba bái thể hiện sự cung kính cúi chào đức Thánh Tổ. Sắc phong được người chủ tế chuyển từ kiệu rước rồi chuyển cho thủ từ của xã. Thủ từ có nhiệm vụ dâng sắc lên thập đồng trước bàn thờ thánh tại Tiền Đường. Khi sắc được dâng xong, những người khiêng kiệu lại nâng lên, hạ xuống ba lần, bái ba bái thể hiện sự cung kính cúi chào đức Thánh Tổ và đi lùi ra vị trí đã quy định. Tất cả kiệu của các nghè miếu được xếp thành hai hàng tại sân rồng. Kiệu của xã nào để bên địa phận xã đấy. Kết thúc nghi lễ dâng sắc là màn múa lân múa rồng với mong muốn về sự thịnh vượng, hanh thông, phát đạt và hạnh phúc. 3.1.4.3. Lễ yên vị bách thần

Lễ Yên vị bách thần được tổ chức vào 9 giờ 30 phút ngày 8.3 âm lịch. Sau khi các sắc phong của các nghè miếu dâng lên đức Thánh Nguyễn, ban hành lễ của lễ hội tiến hành lễ yên vị bách thần. 3.1.4.4. Lễ mộc dục

Lễ mộc dục được tổ chức vào 13giờ 30 phút ngày 8.3 âm lịch. Đầu tiên ban hành lễ thắp hương dâng lễ xin được bao lau thần tượng Thánh. Lễ mộc dục (tức là bao lau tượng Thánh) do hai chủ tế của hai xã và ban hành tế tiến hành một cách trang nghiêm và kín đáo. Người mộc dục cho tượng Thánh phải trai giới trước đó và khi làm lễ phải bịt miệng bằng một chiếc khăn điều để trần khí không xông tới Thánh cung. Việc bao lau thần tượng được tiến hành một cách thận trọng và kính cẩn. Hai tế chủ nhấc áo của đức Thánh để xông hương tượng. Tượng của Thánh bao giờ cũng được lau bằng khăn khô, sau đó mới được lau bằng nước ngũ vị đã được chuẩn bị trước. Cuối cùng tượng Thánh lại được bao lau khăn khô một lần nữa rồi mới mặc áo đã xông hương cho Thánh. Gọi là tắm nhưng không phải lấy nước giội vào tượng Thánh mà chỉ lấy một tấm vải điều nhúng vào chậu nước sạch rồi lau chùi nhẹ nhàng, thận trọng. Sau khi tắm cho tượng Thánh Tổ xong, ban hành lễ tiến hành lau cỗ ngai bày linh vị của Khải thánh và đức Thánh Tô. Ý nghĩa của việc tắm tượng là nhằm “rửa sạch bụi nhơ” để đức Thánh được sạch sẽ trước khi vào tế lễ. Thông qua các nghi thức của lễ mộc dục phần nào hé mở cho thấy cội nguồn xa xưa từ những nghi thức cầu mưa của tín ngưỡng dân gian bản địa, của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước truyền thống Việt Nam. Nước ở đây chính là nước thanh tịnh, nước mát lành, “nước phúc”, có thể rửa sạch tanh hôi,

bùn nhơ. Nước mang đến cho sinh hoạt của cư dân, mang no ấm hạnh phúc đến cho cư dân sản xuất nông nghiệp. 3.1.4.5. Lễ cáo yết

Lễ cáo yết được tổ chức vào 14 giờ ngày 8.3 âm lịch. Sau lễ mục dục là lễ cáo yết. Lễ được tổ chức vào ngày 8/3 âm lịch hàng năm, nhân dân hai xã Gia Tiến và Gia Thắng tổ chức lễ cáo yết, ca ngợi công đức của đức Thánh. Lễ cáo yết trang trọng theo đúng truyền thống của lễ hội trước kia. Về lễ vật dâng lên đức thánh có cả lễ chay và lễ mặn: Hương, hoa, trầu, rượu, xôi thịt.

Tiến trình lễ cáo yết Tiến trình lễ cáo yết

Nội dung phần lễ cáo yết: Đây là lễ chính. Ban hành lễ của hai xã tiến hành đúng theo nghi thức truyền thống với nhiều mục, nhiều nội dung. Lễ cáo yết diễn ra trang nghiêm, thành kính trong khoảng thời gian gần 3 tiếng đồng hồ, với trình tự như sau: STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 Ca công tấu khúc Phủ khúc (2 tế) Bình thân phục vị Hành á hớn lễ Nghệ hương án tiến Quỵ Chước tửu Hớn tước Tiến tước STT 46 47 48 49 50 51 52 53 54

Khởi chung cổ Nhạc sinh cát tương phân rật Cổ sơ nghiêm Tái sơ nghiêm Cổ tâm nghiêm Khởi nhạ Nạc chỉ Chấp sự giả các tự sinh kỳ Chính tế viên, dự chấp sự viên tĩnh nghệ quán tẩy

Tế cân Phủ sát lễ vật Bồi tế tịu vị Chủ tế nghệ vị Bình thân quỵ

10 Quán tẩy 11 12 13 14 15 16 Đọc chúc ước từ Phủ phục 17 18 Nghệ hương án tiền 19 Quỵ 20 21 22 23 24 25 Phần hương Thượng hương Tiến hương Ca công tấu nhạc Tấu đại từ chi khúc Ca công táu khúc 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 Ca công tấu nhạc Tấu 4 minh từ chi khúc Ca công tấu khúc Phủ phục Bình thân phục vị Hành chung hớn lễ Nghệ hương án tiến Quỵ Chước tửu Hớn tước Tiến tước Ca công tấu nhạc Tấu 5 minh từ chi khúc Ca công tấu khúc Phủ phục Bình thân phục vị

26 27 28 71 72 73 Tiến trà Tích phúc tộ Nghệ phục tộ vị

Phủ phục Bình thân phục vị Lễ nghinh thanh vương cúc cung bái (Bốn bái) Bình than hành sơ hớn lẽ

29 30 Nghệ hương án tiến 31 Quỵ 32 Chước tửu 33 Hớn tước Tiến tước 34 Ca công tấu nhạc 35 Tấu 2 minh từ chi khúc 36 74 75 76 77 78 79 80 81

37 Ca công tấu khúc 82

38 Phủ phục 83

Bình thân ( quỵ) Phủng chúc nghệ vị Bá quan giai quỵ Chuyển chúc

39 40 41 42 43 Đọc chúc 44 45

Ca công tấu nhạc Tấu 3 hhồng từ chi khúc 84 85 86 87 88 89 90 91 Quỵ Ẩm phúc tộ Ca công tấu khúc Tấu 6 tường từ chi khúc Ca công tấu khúc Phủ phục 2 tế Bình thân phục vị Lễ tạ thanh vương cúc cung bái (Bốn tế) Từ chức viên, Dự phòng viên, cát nghinh vụ liệu sở Chính tế viên, dự bồi tế, , cát viên nghị vọng riệu vị Vọng liệu Phục vị Bình thân quỵ Ca công tấu nhạc Tấu 7 đại từ chi khúc Ca công tấu khúc Phủ phục Tâm khấu đầu lễ tất

Bảng 9: Trình tự lễ cáo yết

3.1.4.6. Chầu kệ Buổi chầu kệ sẽ được bắt đầu vào lúc 6 giờ tối ngày 8.3 âm lịch. Ban hành lễ tiến hành lễ chầu kệ, ca ngợi công ơn của đức Thánh Nguyễn. Đối tượng ca chầu kệ là các ca công, phật tử. Tại đền Thánh Nguyễn còn lưu giữ 6 bài chầu kệ. “Miền nam”, “ Trời nam”, “ Lý triều”, “ Nam mô đại pháp thiền sư”, “ Lược bày đời vua Nhân Tông”, “Bài kệ Tô Hiến Thành”. Sáu bài kệ không phải đọc trong cùng một buổi, mà tùy vào nội dung khóa lễ trong năm. Trong lễ hội hoặc lễ kỳ phúc chỉ đọc bài chầu Miền nam . Mở đầu buổi chầu kệ, trưởng ban ca công làm lễ dâng hương lên đức Thánh. Lễ bao gồm trầu, rượu, hương, hoa. Sau đó nghiêm đàn, dâng bài tấu kệ, bài thỉnh, đọc sớ dâng kệ, đọc chầu kệ Miền nam. Sau hơn hai giờ đồng hồ đọc

xong bài kệ Miền nam, ban ca công vái tạ. Kết thúc buổi chầu kệ. 3.1.4.7. Lễ dâng cỗ các nghè miếu

Lễ dâng cỗ các nghè miếu được tổ chức vào 8 giờ ngày 8.3 âm lịch. Chuẩn bị lễ: Lễ dâng cỗ các nghè miếu được nhân dân hai xã chuẩn bị chu đáo, đúng tục hèm từ xa xưa để lại. Thời gian các nghè miếu chuẩn bị lễ từ 4 giờ sáng ngày 9 tháng 3. Nguyên liệu làm lễ dâng thánh được lựa chọn kỹ và cử những người khéo tay để chuẩn bị cỗ. Mỗi nghè miếu đều chuẩn bị lễ dâng đức Thánh bao gồm cả lễ chay và lễ mặn.

Lễ rước cỗ: Khoảng 7 giờ sáng ngày 9.3 âm lịch các ghè miếu trong một xã tập hợp thành một đoàn rước để đi đến đền Thánh. Đoàn rước của mỗi xã đều có kiệu văn, có người cầm nọc đánh trống nhỏ, cầm trịch cho đoàn rước đi đúng quy định, thể hiện đúng tục hèm của quê hương. Lễ dâng thánh được đội trên đầu, có thể cho vào những mâm ống sơn thiếp vàng đẹp đẽ và được gánh đến đền. Cỗ của các nghè miếu được rước đến sân rồng, dâng lên đức Thánh theo thứ tự. Năm nào xã Gia Tiến làm trưởng ban tổ chức thì xã Gia Tiến dâng lễ cỗ trước và ngược lại. Những người đội lễ của nghè miếu đều bái ba bái trước khi dâng lễ. Sau lễ dâng cỗ của các nghè miếu là lễ dâng hương của chính quyền hai xã, lễ dâng hương của nhân dân hai xã, của khách thập phương. 3.1.4.8. Khai mạc lễ hội

Lễ hội đền Thánh Nguyễn là lễ hội truyền thống lâu đời của người dân Gia Viễn. Lễ hội được tổ chức long trọng, thiêng liêng. Nếu hội được mở vào năm chẵn thì Trưởng ban tổ chức lễ hội thuộc về Ủy ban nhân dân xã Gia Thắng, còn ngược lại hội tổ chức vào năm lẻ thì Trưởng ban tổ chức lễ hội thuộc về Ủy ban nhân dân xã Gia Tiến. Xã nào làm trưởng ban sẽ có nhiệm vụ lên kế hoạch, chương trình tổ chức lễ hội…Sau lễ cỗ là khai mạc lễ hội. Một đồng chí cán bộ xã chịu trách nhiệm dẫn chương trình, giới thiệu đại biểu, chương trình lễ hội. Tiếp đến là đồng chí đại diện chính quyền xã lên đọc diễn văn khai mạc lễ hội, tuyên bố khai mạc, đánh trống, đánh cồng khai hội. 3.1.4.9. Lễ thỉnh kinh rước nước

Lễ hội rước nước là một loại hình văn hóa dân gian, một nghi thức tâm linh đặc sắc biểu hiện tín ngưỡng cầu nước của những cư dân nền văn minh lúa nước sông Hồng. Đến nay, lễ hội rước nước vẫn được người dân Gia Viễn kế thừa, duy trì, phát huy mỗi dịp hội được tổ chức. Lễ rước nước có ý nghĩa giáo dục truyền thống, nhằm tưởng nhớ Thánh Nguyễn. Cuộc đời đức Thánh gắn bó mật thiết với dòng sông quê hương với công việc đánh bắt cá mưu sinh. Lễ hội đền Thánh Nguyễn là lễ hội văn hóa phi vật thể đặc sắc của địa phương, là dịp để cho con cháu nơi đây nhớ về cội nguồn, nhớ về quê hương của mình. Thể hiện tinh thần “uống nước nhớ nguồn”. Lễ rước nước là phần rất quan trọng của lễ hội. Tế chủ của hai xã cùng các quan viên hành lễ tiến hành làm lễ xin được rước nước tại Bến Bia. Đoàn rước chuẩn bị long trọng, linh đình. Những người tham gia khiêng

kiệu phải là nam nhi chưa có gia đình. Đi đầu là những người khiêng cây nêu. Cây nêu được làm bằng thân cây tre dài khoảng 6 mét được thanh niên trai tráng khiêng đi trước. Kèm theo cây nêu là vòng tròng được làm bằng tre có đường kính khoảng hơn 60 cm. Tiếp đến là đoàn múa lân múa rồng, và cờ thần, nghi trượng, đoàn người đánh chiêng, trống, rước biểu dấu và bát bửu, đội bát âm múa sinh tiền, rước tàn lọng, hai thanh kiếm để thị oai, các binh khí để dẹp đường. Đoàn rước nước gồm có 5 kiệu được xếp theo thứ tự: kiệu rước văn, kiệu rước hai chóe ngọc để rước nước, kiệu cửu cống của đức Thánh tổ - Nguyễn Minh Không, kiệu bát cống của Thánh Tô (Tô Hiến Thành), kiệu bát cống cung Khải (thân phụ, thân mẫu của đức thánh) và cuối cùng là quan viên và nhân dân. Đoàn rước đi từ đền Thánh Nguyễn ra đến Bến Bia, xuống thuyền nan đã được chuẩn bị từ trước. Một thuyền đi trước, những người được phân công cắm cây nêu giữa vòng tròn xuống giữa sông. Ban hành lễ và các thanh niên trai tráng rước kiệu văn, kiệu rước hai chóe ngọc xuống thuyền nan đi ra chỗ cắm cây nêu để làm lễ rước nước.Đoàn múa lân múa rồng, đội bát âm múa sinh tiền cũng xuống thuyền. Còn kiệu đức Thánh Nguyễn, kiệu đức Thánh Tô, kiệu Khải Thánh ngự ở trên bờ. Thượng tọa làm lễ thỉnh xin Đức thánh rước nước. Trên bờ tất cả người già, phật tử tụng kinh, tụng kệ của đức Thánh Nguyễn. Nhà sư làm phép, người già tụng kinh đến khi nước trong vòng tròn sủi tăm lên thì lúc ấy mới lấy được nước. Hai tế chủ của hai xã múc nước trong vòng tròn ấy cho đầy vào hai chóe khiêng lên kiệu để rước về. Nước trong chóe được dùng từ hội năm nay đến hội sau để dâng nước lên đức Thánh ngày hai lần vào 4 giờ sáng và 16 giờ chiều. Sau đó đoàn rước nước rước kiệu các thánh trở về đền Thánh Nguyễn. Việc rước nước ở giữa dòng sông là để mong muốn cân bằng âm dương, tìm đến sự cân bằng trong “lưỡng phân – lưỡng hợp”, tạo ra sự phát triển bền vững. Đây là ý nguyện được hình thành từ xa xưa trong cội nguồn lịch sử của các tầng lớp cư dân sống trên và ven các dòng sông cổ. 3.1.4.10. Lễ yên vị các thánh

Sau khi rước nước ở về đến đền Thánh, ban hành lễ rước các thánh và rước nước vào trong cung cấm. Sau đó ban hành lễ dâng hương, trầu rượu, hoa quả làm lễ yên vị các thánh. 3.1.4. 11. Lễ cáo yết

Lễ cáo yết được tổ chức vào 14 giờ ngày 9.3 âm lịch (Làm lễ trình tự như

lễ cáo yết ngày 8.3) 3.1.4.12. Lễ tạ, rước kiệu bách thần về các nghè miếu

Lễ tạ được tổ chức vào 8 giờ ngày 10.3 âm lịch. Ban hành lễ của các nghè miếu, dâng hương, dâng lễ chay lên đền Thánh và xin được rước kiệu bách thần về các nghè miếu. Hai tế chủ tiến hành lễ thập bái.

Nghi lễ rước kiệu bách thần về các nghè miếu. Sau lễ dâng hương xin rước kiệu về nghè miếu, các tế chủ của các nghè miếu nhận sắc phong từ thủ từ của xã

chuyển lên kiệu rước về thôn. Sắc phong được để trên kiệu, những người khiêng kiệu nâng kiệu lên, hạ kiệu xuống như lời chào đức Thánh tổ rồi rước kiệu đi lùi ra cổng. Qua đó thể hiện sự cung kính, trang trọng đối với đức Thánh. Đoàn rước bao gồm đầy đủ ban hành lễ của các thôn, trang phục chỉnh tề đúng quy định, đúng tục hèm từ xưa truyền lại. 3.1.4.13. Lễ yên vị, lễ tạ ở các nghè miếu

Lễ yên vị được tổ chức vào 10 giờ ngày 10.3 âm lịch. Lễ yên vị được tổ chức tại các nghè miếu - không gian thứ hai của lễ hội. Lễ yên vị do ban hành lễ, tế chủ của nghè miếu làm lễ thập bái.

Lễ tạ được tổ chức vào 14 giờ ngày 10.3 âm lịch. Có nghè miếu tổ chức ngay từ sáng sau lễ yên vị, nhưng phần lớn là tổ chức vào buổi chiều. Lễ yên vị do ban hành lễ, tế chủ của nghè miếu làm lễ tam hớn. 3.1.5. Nội dung phần hội

Lễ hội truyền thống ở Việt Nam là một thể thống nhất không thể chia tách, song bao giờ cũng bao gồm phần lễ và phần hội và luôn bổ sung, minh họa cho nhau để làm nổi bật chủ đề của lễ hội. Trong lễ hội đền Thánh Nguyễn cũng vậy, nếu phần lễ là hình thức để dân làng nhắc đến công lao của đức thánh Nguyễn đồng thời cũng là dịp để mọi người cộng cảm, gắn bó với nhau trong một tâm thức chung, thì phần hội lại phản ánh đầy đủ đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của người dân vùng Gia Viễn nói riêng và người dân Ninh Bình nói chung. Ở lễ hội đền Thánh Nguyễn, cùng với nghi lễ trang trọng, thiêng liêng trong phần lễ, thì phần hội là các trò chơi dân gian được tổ chức suốt thời gian ba ngày lễ hội. Phần hội thu hút các nam thanh nữ tú cùng dân làng và khách thập phương tham gia đầy hào hứng, nhiệt tình. Đó là các trò chơi như: Trò Tổ tôm điếm

Thay bằng 5 người chơi ngồi gọn trong chiếu của trò chơi tổ tôm thông thường, tổ tôm điếm trong lễ hội đền Thánh Nguyễn cần một khoảng không gian rộng như sân đình hoặc bãi đất rộng. Mỗi điếm được bố trí 5 chiếc bàn cao cách một khoảng để không nhìn thấy bài của nhau; từng bàn đủ rộng để ít nhất 1 - 2 trí nhân (người chơi chính) ngồi, có thêm trống con để ra hiệu lệnh khi cần. Giữa điếm kê một bàn dành cho tổ trọng tài có trống cái, bộ bài, sổ sách ghi chép. Một bàn dành cho người chia bài. Bộ bài gồm 120 cây, ứng với từng câu thơ thể hiện khát vọng sống của người nông dân như mùa màng bội thu; gia đình thịnh vượng, hạnh phúc; chuyện tình trắc trở do lễ giáo phong kiến; phê phán thói hư tật xấu trong xã hội… Quân bài lớn làm bằng gỗ mỏng, một mặt in hình và chữ theo bộ tổ tôm, mặt sau in những câu thơ trong "Truyện Kiều", "Lục Vân Tiên"…Nghệ nhân rao bài có vai trò quan trọng trong khi chơi, không chỉ hài hước, dí dỏm, sâu sắc, mà còn phải có chất giọng đủ để ngân nga những làn điệu chèo, lẩy Kiều thu hút lòng người, có khả năng ứng dụng linh hoạt những vần thơ trong các tác phẩm văn học dân gian hoặc do chính họ tùy hứng sáng tác. Người tham gia chơi

tập trung, nhanh trí, sáng tạo, tính toán từng nước đi. Trò chơi hấp dẫn ở chỗ cùng bộ bài 120 quân có nhiều giai thừa, các nước đi thiên biến vạn hóa, không ván nào giống ván nào. Trò kéo co

Tham gia kéo co ở hội đền Thánh Nguyễn là những trai làng khỏe mạnh, Không giới hạnh lượt chơi, người chơi. Thường là sự so tài của các chàng ai giữa các nghè miếu với nhau. Một cột trụ để ở giữa sân chơi, dây kéo buộc dài căng đều ra hai phía, hai bên xúm nhau nắm lấy dây thừng để kéo. Hai bên ra sức kéo sao cho cột trụ kéo về bên mình là thắng. Bên ngoài dân làng hò nhau cổ vũ. Trong lúc đôi bên ra sức kéo, trống thúc liên hồi, theo tục lệ phải kéo ba keo, bên nào kéo được hai keo thì thắng cuộc. Trò chơi đu

Chơi đu ở lễ hội đền Thánh Nguyễn thu hút đông đảo nam thanh nữ tú tham gia. Tại một bãi đất rộng rãi, người ta chuẩn bị các cột đu. Họ chọn cây tre to, dài, để trồng đu. Một cây đu có thể được trồng bởi 4 - 6 cây tre to. Cần đu cũng là những cây tre dài nhưng thon nhỏ, thường phải là tre đực để lúc người đu nắm vào cho gọn và chắc tránh xảy ra trượt hay tuột tay lúc đu nhanh, mạnh. Tùy theo sở thích mà người ta đu một hay đu đôi. Khi một người lên cần đu có thể nhờ một người khác đẩy cho mình có đà. Sau đó là tự người đu nhún tùy ý. Đẹp nhất là đu đôi, các đôi trai gái ưng ý lựa chọn nhau lên đu, người nhún người đẩy. Tài năng của các chàng trai cô gái được phô bày ở đây như dịp tự thể hiện bản thân. Trò bắt vịt

Trò bịt mắt bắt vịt là trò chơi khá phổ biến. Người chơi và người xem tập trung tại một bãi đất rộng quây thành một vòng tròn. Ban tổ chức chọn những con vịt to, khỏe để chúng có thể chạy và bay nhanh. Hai người chơi bị bịt chặt mắt và đưa vào vòng tròn. Ban tổ chức thả vào vòng tròn một con vịt. Con vịt sợ hãi kêu và bay, chạy loạn xạ. Người bắt vịt cứ theo tiếng vịt kêu mà chạy theo bắt. Khi con vịt bị bắt thì cuộc chơi kết thúc. Hai người khác lại tiếp tục vào chơi tiếp. 3.2. Ý nghĩa lễ hội đền Thánh Nguyễn

Cùng với thời gian, lễ đền Thánh Nguyễn truyền tải nhiều giá trị lịch sử, kinh tế, xã hội với truyền thống lâu đời. Đến nay nó vẫn tồn tại trong đời sống của người dân Gia Viễn nói riêng và người Ninh Bình nói chung. Sự hiện diện của lễ hội đền Thánh Nguyễn chính là một di sản quý giá, có ý nghĩa nhiều mặt trong đời sống của con người hiện đại, thể hiện cụ thể như sau:

Thứ nhất: Lễ hội thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn”. Cũng như hầu hết các lễ hội trên đất nước ta, lễ hội đền Thánh Nguyễn bắt nguồn từ truyền thống nhớ về cội nguồn của dân tộc Việt Nam. Lễ hội đã gợi lại công lao của Thánh Tổ Nguyễn Minh Không, người đã có công chữa khỏi bệnh cho nhà vua, được dân gian coi là ông tổ của nhiều nghề, một thiền sư đắc đạo… Lễ hội đền

Thánh Nguyễn giúp mỗi người trở về, đánh thức cội nguồn, ôn lại lịch sử của quê hương Gia Viễn. Hoạt động lễ hội đền Thánh Nguyễn là hoạt động văn hoá mang tính tưởng niệm, hướng về những sự kiện, nhân vật lịch sử được dân chúng địa phương thờ cúng. Trong lễ hội, truyền thống đạo lý: “uống nước nhớ nguồn - ăn quả nhớ kẻ trồng cây” được dịp thể hiện. Nó trở thành nền tảng, cơ sở để giáo dục chân, thiện, mĩ cho quảng đại quần chúng nhân dân, nhắc nhở các thế hệ con cháu nhớ ơn các bậc tiền nhân đã có công với dân với nước. Mỗi dịp lễ hội, người con Ninh Bình khắp mọi miền tổ quốc lại tụ hội về để tưởng nhớ đến công đức của Thánh tổ Nguyễn Minh Không. Đây cũng là dịp để mọi người được tắm mình trong một không khí thiêng liêng, một niềm tin về sự trường tồn vĩnh cửu của đất nước.

Thứ hai: Lễ hội đền Thánh Nguyễn đã và đang góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân. Lễ hội là dịp để nhân dân Gia Viễn, người dân Ninh Bình và cả những người xa quê cầu cho cuộc sống yên bình, cầu cho quê hương, đất nước phát triển, nhân khang vật thịnh. “Lễ hội - một di sản văn hoá quý giá của dân tộc, là những di sản văn hoá “biết nói” đang vận động bằng sức mạnh tiềm ẩn của một tinh thần và tâm hồn dân tộc hữu thức”( Đặng Nghiêm Vạn (2001), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội). Ngày nay, đặc biệt trong “cơ chế thị trường”, lễ hội đền Thánh Nguyễn luôn phát huy “sức mạnh tiềm ẩn của một tinh thần và tâm hồn dân tộc hữu thức”, góp phần bảo vệ bản sắc văn hoá quê hương, bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Lễ hội đền thánh Nguyễn là sợi dây liên kết thống nhất và bền vững trong chu trình phát triển, gắn kết giữa quá khứ - hiện tại - tương lai. Lễ hội góp phần tìm hiểu diện mạo cuộc sống của các thế hệ tổ tiên cha anh đi trước, đồng thời cũng thể hiện bản sắc văn hoá dân tộc được bảo lưu trong các tục lệ truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ nơi này sang nơi khác.

Thứ ba: Lễ hội đền Thánh Nguyễn góp phần giữ gìn, bảo lưu và phát triển những truyền thống tốt đẹp của quê hương, dân tộc. Thông qua hoạt động lễ hội truyền thống, các phong tục tập quán tốt đẹp của quê hương được bảo lưu và giữ gìn một cách tốt nhất. Lễ hội là dịp để cả cộng đồng dân cư bày tỏ thái độ và cách “hành xử văn hoá” trong việc trân trọng và giữ gìn truyền thống, thuần phong mỹ tục. Thông qua lễ hội, những truyền thống tốt đẹp, phong tục tập quán, lối sống và nếp sống... được kế thừa và phát triển phù hợp với tiến trình phát triển của lịch sử, tạo nền móng vững chắc cho văn hoá bản địa.

Thứ tư: Lễ hội đền thánh Nguyễn đã giáo dục đạo đức, lối sống “uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của cư dân làng xã. Lễ hội góp phần định hướng cho con người không chỉ sống cho gia đình, dòng họ mà còn biết vươn đến lối sống vì cộng đồng. Đến với lễ hội, con người trở nên lịch sự trong ứng xử, trong giao tiếp, sẵn sàng xoá bỏ những hiềm khích, mâu thuẫn trong cuộc sống đời thường. Từ đó tạo ra một nếp giao tiếp đẹp không chỉ trong ngày lễ hội

mà còn thâm nhập vào ngày thường. 3.3. Mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội đền Thánh Nguyễn.

Truyền thuyết là một thể loại của văn học dân gian. Lễ hội là một bảo tàng văn hóa, nơi lưu giữ những tín ngưỡng, tôn giáo, những sinh hoạt văn hóa văn nghệ dân gian, nơi phản ánh tâm thức người Việt Nam một cách trung thực nhất. Truyền thuyết thiên về bản kể là chính, còn lễ hội chú trọng khâu diễn xướng, thực hành nghi lễ. Song truyền thuyết và lễ hội có mối quan hệ gắn bó khăng khít dựa trên tính nguyên hợp của văn hoá dân gian. Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy truyền thuyết Nguyễn Minh Không và lễ hội đền Thánh Nguyễn có quan hệ gắn bó mật thiết. Lễ hội và truyền thuyết cùng phản ánh nhân vật Nguyễn Minh Không.

Truyền thuyết Nguyễn Minh Không có vai trò giải thích cho lễ hội đền Thánh Nguyễn, làm cho lễ hội có nội dung thêm sinh động, các nghi thức trong lễ hội được giải thích. Ví dụ như qua truyền thuyết Ông Khổng Lồ chữa bệnh cho Dương Hoán, Chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý thần Tông, Khuyên giáo đồng Phương Bắc… đã khắc họa hình tượng Nguyễn Minh Không có tài năng xuất chúng, là thày thuốc tài ba, ông tổ đúc đồng… là người hết lòng vì dân vì nước, trung quân ái quốc. Truyền thuyết đã giải thích vì sao trong lễ chính (Lễ cáo yết) của lễ hội có những bài ca do các ca công thể hiện để ca ngợi công đức của Thánh Nguyễn. Lời ca thường gắn liền với nhân vật được thiêng liêng hóa khiến cho tiểu sử, vai trò của nhân vật càng được lan tỏa sâu rộng. Nguyễn Minh Không được sinh ra trong gia đình nông dân, cha làm nghề chài lưới. Khi cha mẹ mất sớm, Nguyễn Minh Không mưu sinh bằng nghề chài lưới. Ông đơm đó ở các sông của Ninh Bình và một số nơi ở Thanh Hóa, Nam Định…Cuộc đời của đức Thánh Nguyễn gắn bó với quê hương. Điều đó được hiện trong các truyền thuyết Ông Khổng Lồ bắt lươn, Sự tích núi Con Mèo, Sự tích núi Kẽm Đó… Hay trong truyền thuyết Chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tông có đoạn kể lại “Quan quân ăn xong, Nguyễn Minh Không bảo quan quân cứ nghỉ ngơi, ngủ cho lại sức. Khi quan quân lên thuyền (Bến Bia ngày nay) ngủ, Nguyễn Minh Không làm phép rút đất, chỉ một lát cả đoàn tùy tùng hàng trăm người đã đến kinh thành Thăng Long. Quan quân ai nấy đều cảm tạ, bái phục”. Chi tiết này đã lý giải vì sao trong lễ hội đền Thánh Nguyễn không thể thiếu lễ rước nước và nước được rước về từ Bến Bia. Tương truyền đó là nơi thuyền của quan quân nhà Lý neo đậu để lên chùa Viên Quang mời Nguyễn Minh Không về kinh chữa bệnh cho nhà vua. Nếu không có truyền thuyết về Nguyễn Minh Không thì lễ hội chỉ là hoạt động cộng đồng diễn ra hằng năm. Những người sau không thể biết tại sao trong lễ hội đền Thánh Nguyễn, tại sao trong lễ hội có các nghi thức tế lễ đó. Tại sao nhân vật Nguyễn Minh Không lại được tôn vinh, tôn thờ.

Truyền thuyết Nguyễn Minh không lưu giữ lịch biểu về lễ hội ở hai xã Gia Tiến và Gia Thắng ở Ninh Bình và thể hiện tình cảm, những ấn tượng mà lễ hội

mang lại. Ngày tổ chức lễ hội được quy định là ngày 8,9,10 tháng 3 âm lịch vào dịp xuân đến. Người ta hẹn nhau chơi xuân, du hội, ai cũng náo nức. Từ nhân vật trong truyền thuyết, Nguyễn Minh Không được nhân dân tôn vinh trong lễ hội khiến lễ hội càng trở nên gần gũi với quần chúng. Mỗi người dân Gia Viễn luôn ghi nhớ ngày lễ hội đền Thánh Nguyễn để trở về với quê hương. Lễ hội được tổ chức góp phần gắn kết xóm làng, gìn giữ giá trị văn hóa truyền thống của quê hương.

Ngôn từ trong trong truyền thuyết là phương tiện truyền gửi ước muốn của nhân dân tới đức Thánh. Trong lễ hội, phần lễ được tổ chức trang nghiêm. Thông thường sẽ có chủ lễ, một người đứng đầu dẫn dắt phần lễ, có vai trò như người báo cáo, gửi lời cầu mong đến đức Thánh. Ngôn ngữ gửi đến không thể là những lời nói thô tục mà phải trau chuốt, kính cẩn. Cho nên, các lời nhắn gửi sẽ được biên soạn thành bài sớ với lời lẽ linh thiêng, kính trọng.

Ngược lại, lễ hội đền Thánh Nguyễn có vai trò bảo lưu, giữ gìn truyền thuyết Nguyễn Minh Không. Mỗi lần lễ hội tổ chức là một lần truyền thuyết về Nguyễn Minh Không lại được được nhắc lại. Nhân dân cứ đến dịp lễ hội lại nhớ về và truyền lại cho nhau các câu chuyện Khuyên giáo đồng phương Bắc, Chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tông, Sự tích núi Con Mèo… Cứ như thế từ người già đến trẻ nhỏ ở Gia Viễn đều biết đến truyền thuyết về Nguyễn Minh Không, đều tự hào về người con của quê hương mình.

Lễ hội đền Thánh Nguyễn là không gian để tái hiện truyền thuyết Nguyễn Minh Không. Tuy không phải là không gian chuyên biệt để truyền thuyết thể hiện nhưng thông qua tế lễ và các trò chơi dân gian mà truyền thuyết Nguyễn Minh Không đã đi vào lễ hội đền Thánh Nguyễn. Lễ hội trở thành phương tiện đưa văn học dân gian vào đời sống một cách có giá trị nhất. Như vậy, truyền thuyết Nguyễn Minh Không có trước và là nguồn gốc để phát sinh lễ hội đền Thánh Nguyễn. Bàn về mối quan hệ này, tác giả Lê Văn Kỳ cho rằng: "Truyền thuyết về người anh hùng là một nguyên cớ để dân làng dễ dàng mở hội" [39, tr102]. Truyền thuyết là cơ sở, nguồn gốc, là "linh hồn" cho lễ hội. Ngược lại, lễ hội chính là môi trường thuận lợi nhất để bảo lưu và truyền bá truyền thuyết, làm cho truyền thuyết sống mãi trong tâm thức cộng đồng. Tác giả Nguyễn Khắc Xương đã khẳng định "Diễn xướng tín ngưỡng hội làng còn là một phương tiện bảo lưu thần thoại truyền thuyết có hiệu lực. Vì thế, người nghiên cứu văn học dân gian cần chú ý hơn nữa đến các hội hè cổ truyền" [63, tr.107]. Truyền thuyết Nguyễn Minh Không là cái cớ, là cơ sở quan trọng để lễ hội đền Thánh Nguyễn diễn ra. Lễ hội lại là nơi tái tạo, làm sống lại truyền thuyết Nguyễn Minh Không một cách sinh động nhất, hấp dẫn nhất. Truyền thuyết và lễ hội thể hiện quan niệm toàn diện của nhân dân về Thánh Nguyễn. Nguyễn Minh Không là nhân vật lịch sử, được sử sách ghi lại nhưng hành trạng, công trạng mờ nhạt, còn bị “Tam sao thất bản”. Cho nên truyền thuyết và lễ hội đền Thánh Nguyễn có ý nghĩa bù đắp

những chỗ thiếu khuyết của chính sử.

Chính vì vậy chúng tôi khẳng định truyền thuyết Nguyễn Minh Không và

lễ hội đền Thánh Nguyễn có mối quan hệ qua lại và bổ sung cho nhau.

Thứ nhất: Đó là quan hệ mang tính vĩnh viễn, thể hiện rõ ở sự liên hệ về mặt nội dung của truyền thuyết và các nghi thức, vật phẩm dâng cúng, sự kiêng kị, các màn diễn xướng trong lễ hội trong toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của lễ hội. Đó là một quá trình xuyên suốt từ quá khứ, hiện tại cho đến tương lai.

Thứ hai: Đó là quan hệ hai chiều, mang tính tương tác, bổ sung cho nhau. Điều này được thể hiện rõ ở vai trò qua lại giữa truyền thuyết và lễ hội: truyền thuyết đóng vai trò nội dung, cơ sở niềm tin cho lễ hội, có ảnh hưởng lớn tới sự nảy sinh và phát triển của lễ hội. Đến lượt mình, lễ hội giúp lưu giữ truyền thuyết, hiện thực hóa niềm tin trong truyền thuyết thông qua các nghi thức thờ cúng và các màn diễn xướng. Lễ hội làm cho việc diễn xướng truyền thuyết được sinh động, cụ thể hơn. 3.4. Lễ hội đền Thánh Nguyễn, tín ngưỡng, phong tục tập quán ở Ninh Bình Văn học dân gian nói chung và truyền thuyết nói riêng có mối quan hệ mật thiết với tín ngưỡng. Trong các thể loại của văn học dân gian, truyền thuyết là một trong những thể loại mang tính nguyên hợp cao nhất. Cảm hứng sáng tác truyền thuyết là tôn vinh, ngợi ca, thiêng hóa đối tượng. Sự thiêng hóa ấy chính là xương cốt của tín ngưỡng. Tín ngưỡng lại là con đường quan trọng để truyền thuyết được lưu truyền, phổ biến trong nhân dân. Chính vì thế, chúng tôi tìm hiểu quan hệ giữa lễ hội đền Thánh Nguyễn với tín ngưỡng và phong tục tập quán để phần nào thấy được sức sống của truyền thuyết về nhân vật Nguyễn Minh Không ở tỉnh Ninh Bình. 3.4.1. Lễ hội đền Thánh Nguyễn gắn với tín ngưỡng

Theo PGS.TS Nguyễn Thị Bích Hà, trong cuốn Nghiên cứu văn học dân gian từ mã văn hóa dân gian, cho rằng : “Tín ngưỡng là một sản phẩm văn hoá do con người quan hệ với tự nhiên, xã hội và chính bản thân mà hình thành. Tín ngưỡng là niềm tin về những điều linh thiêng, những sức mạnh huyền bí, vĩ đại mà con người chỉ cảm nhận được mà khó có thể nhận thức được”. Với người Việt Nam, tôn sùng thần thánh, tôn sùng và thờ cúng người có công với đất nước là một loại tín ngưỡng. Để thể hiện tín ngưỡng này, người ta lập đền thờ cúng, tổ chức lễ hội để tưởng niệm kì tích của thần linh hay phong thánh cho các nhân vật lịch sử. Nhân dân lưu truyền cho nhau những truyền thuyết đậm chất thiêng thể hiện lòng ngưỡng mộ của dân gian đối với các vị anh hùng. Tín ngưỡng thờ cúng bắt nguồn từ niềm tin cho rằng linh hồn của người đã khuất vẫn còn hiện hữu trong thế giới này và ảnh hưởng đến đời sống của con cháu. Tín ngưỡng thể hiện nhân sinh quan của người Việt “Sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn”. Người Việt cho rằng chết chưa phải là hết, tuy thể xác tiêu tan nhưng linh hồn bất diệt.

Thờ cúng người có công là hình thức thông qua nghi lễ thờ cúng nhằm xác lập mối quan hệ giữa người sống và người chết, giữa thế giới hiện thực và thế giới tâm linh.

Đối với người dân Gia Viễn nói riêng và người dân Ninh Bình nói chung từ xa xưa cho đến thời điểm hiện nay, Nguyễn Minh Không là người mà họ luôn thể hiện tình cảm biết ơn sâu nặng. Họ luôn thể hiện sự ngưỡng vọng, niềm tin bất diệt, thiêng liêng ở đức Thánh Nguyễn. Ngô Đức Thịnh đưa ra quan điểm rõ ràng hơn: “Tín ngưỡng được hiểu là niềm tin của con người vào cái gì đó thiêng liêng, cao cả, siêu nhiên, hay nói gọn lại là niềm tin, ngưỡng vọng vào “cái thiêng”, đối lập với cái “trần tục”, hiện hữu mà ta có thể sờ mó, quan sát được”. Nguyễn Minh Không là người mang lại cuộc sống ấm no cho người dân, giúp đỡ họ khi họ gặp khó khăn. Cả cuộc đời ông sống giản dị và gắn bó với nhân dân. Nên khi thiền sư Nguyễn Minh Không hóa, nhân dân Ninh Bình lập đền thờ ông ở nhiều nơi như Chùa Non Nước, núi chùa Địch Lộng, Chùa Bái Đính… Nhân dân Đàm Xá - quê hương ông, biến chùa Viên Quang thành đền Thánh Nguyễn là nơi thờ chính. Đức Thánh Nguyễn không chỉ được thờ ở Ninh Bình mà nhiều tỉnh thành, nhiều địa phương trong cả nước thờ ông. Quanh năm, đền thờ ông nghi ngút khói hương của nhân dân trong vùng và khách thập phương đến cầu khấn để thể hiện lòng thành kính và cầu xin sự che chở từ vị “phúc thần|”. Việc thờ cúng đức Thánh Nguyễn ngang hàng với thờ phật, thờ mẫu trong chùa và được thờ riêng trong đền chứng tỏ công đức lớn lao của Nguyễn Minh Không đối với nhân dân trong vùng. Nhân dân thờ Nguyễn Minh Không với lòng biết ơn, kính trọng như một vị thần bảo hộ che chở, đem lại may mắn cho nhân dân.

Tín ngưỡng là một hình thái biểu thị đức tin, niềm tin của con người. Qua khảo sát về địa điểm thờ cúng ở đền Thánh Nguyễn và một số nơi khác trong tỉnh Ninh Bình, chúng tôi nhận thấy thiền sư Minh Không đã để lại dấu ấn sâu sắc trong đời sống tâm linh của người dân. Họ tin vào đức Thánh Nguyễn, tin vào những điều linh thiêng, sức mạnh huyền bí mà con người chỉ cảm nhận được nhưng khó có thể nhận thức hết được. Niềm tin, lòng biết ơn, sự ngưỡng mộ của các thế hệ sau đối với Thánh Nguyễn đã trở thành tín ngưỡng. Người dân Ninh Bình quan niệm ông là “phúc thần” luôn che chở và đem lại may mắn cho cuộc sống của họ. Trong tiềm thức của người dân Ninh Bình, Nguyễn Minh Không là vị phật sống của nhân dân, có một vị trí đặc biệt trong đời sống tâm linh của họ. Lễ hội của hai xã Gia Tiến và Gia Thắng diễn ra định kỳ 6 năm một lần, lễ kỳ phúc được tổ chức hàng năm tại đền Thánh Nguyễn là nhằm tưởng nhớ, suy tôn Nguyễn Minh Không đã có công với quê hương. Chính lòng biết ơn, sự kính trọng ấy, khiến cho truyền thuyết về Nguyễn Minh Không có sức lan tỏa sâu rộng trong đời sống tín ngưỡng của nhân dân Ninh Bình. Ngày hiện đại, nay bất chấp sự xâm lấn của nhiều luồng tư tưởng mới, truyền thuyết về Nguyễn Minh Không mãi bén chắc rễ trong tâm thức của người dân nơi đây.

Tín ngưỡng được thể hiện trong nghi lễ, hội lễ đền Thánh Nguyễn, là minh chứng cho sự xác thực của truyền thuyết. Trong lễ hội đền Thánh Nguyễn có lễ rước nước, lễ mục dục. Thông qua các nghi thức của lễ mộc dục phần nào hé mở cho thấy cội nguồn xa xưa từ những nghi thức cầu mưa của tín ngưỡng dân gian bản địa, của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước truyền thống Việt Nam. Nước ở đây chính là nước thanh tịnh, nước mát lành, “nước phúc”, có thể rửa sạch tanh hôi, bùn nhơ. Nước mang đến cho sinh hoạt của cư dân, mang no ấm hạnh phúc đến cho cư dân. Lễ rước nước là nghi lễ nằm trong tín ngưỡng sùng nước. Lễ vật dâng lên đức Thánh Nguyễn của các nghè miếu, của người dân địa phương không thể thiếu các sản vật từ nông nghiệp như bánh chưng, bánh dày, xôi oản, chè kho…Thực ra nó là để thể hiện tín ngưỡng sùng lúa gạo, cảm tạ lúa gạo của cư dân nông nghiệp.

Tín ngưỡng còn được thể hiện ở việc người dân đi lễ hội, đi lễ đền Thánh Nguyễn. Đi lễ trở thành một hình thức sinh hoạt văn hoá cộng đồng nhằm thoả mãn một nhu cầu về văn hoá tâm linh của nhân dân ta. Một mặt họ bày tỏ đức tin tuyệt đối vào sự linh thiêng, sự hiển linh của đức thánh, mặt khác thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn”. Người dân Ninh Bình đi lễ Thánh vào dịp lễ hội, vào các ngày rằm, mùng một. Trong cuộc sống lúc vui cũng như lúc buồn, lúc gặp bất trắc, hoạn nạn người dân Gia Viễn nói riêng và người dân Ninh Bình nói chung thường đến xin, đến trình đức Thánh Nguyễn phù hộ che chở. Họ có niềm tin ở đức Thánh Nguyễn. Chẳng hạn như khi họ làm nhà, cưới hỏi... họ sắm lễ mọn lên xin Thánh phù hộ độ trì… Khi gặp chuyện chẳng lành, họ đi lễ cầu mong đức Thánh Nguyễn giúp tai qua nạn khỏi, cầu bình an, cầu sức khỏe, mùa màng bội thu, gia đình an khang, thịnh vượng. Người dân đi lễ luôn cảm thấy thanh thản với những điều mong ước tốt lành, được giãi bày tâm niệm của mình .

Lễ hội đền Thánh Nguyễn trở thành một hình thức sinh hoạt văn hoá cộng đồng nhằm thoả mãn một nhu cầu về văn hoá tâm linh và trở thành tín ngưỡng của người dân Gia Viễn, Ninh Bình: được an ủi, chia sẻ, ước mơ có điểm tựa tinh thần để đối mặt với những thách thức, rủi ro từ thiên nhiên và xã hội. Lễ hội là “chất keo gắn kết cộng đồng”, “năng lượng tinh thần”, khuyến khích con người hướng thiện. Người dân Ninh Bình đã sáng tạo và gửi gắm ở lễ hội đền Thánh Nguyễn tín ngưỡng, duy trì và trao truyền đức tin tôn giáo. Lễ hội là “môi trường diễn xướng dân gian”, là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng của người dân hai xã Gia Tiến và Gia Thắng huyện Gia Viễn nói riêng và người Nình Bình nói chung. Về bản chất, đây là hoạt động của tập thể có cùng một đức tin, có mục tiêu chung, khát vọng và mong ước giống nhau và do đó, có thể thống nhất với nhau trong hàng loạt các hành vi cũng như hoạt động chung. Do có một niềm tin, có mục tiêu chung, lại được củng cố bằng những hoạt động tập thể qua nhiều chu kỳ lễ hội, kéo dài suốt quá trình phát triển của cộng đồng, nên lễ hội góp phần tạo lập ra văn hóa cộng đồng, văn hóa quê hương đức Thánh Nguyễn. Lễ hội đền Thánh

Nguyễn là môi trường đào luyện nhân cách và trao truyền văn hóa. Hay nói một cách khác, đây là nơi khởi nguồn, bồi đắp, duy trì và lan tỏa các giá trị văn hóa, tín ngưỡng được gìn giữ lâu đời trong tâm thức con người Ninh Bình.

Lễ hội đền Thánh Nguyễn và tín ngưỡng thờ cúng người có công, thờ Thánh là mối quan hệ giữa nguyên nhân và hiện tượng, giữa nội dung và hình thức, giữa tín ngưỡng và sinh hoạt văn hoá cộng đồng. Nói một cách khác, tín ngưỡng và lễ hội đền Thánh Nguyễn có một mối quan hệ mật thiết với nhau. Chúng tôi có thể nhận thấy giá trị của lễ hội đền Thánh Nguyễn không chỉ ở sự phản ánh văn hoá địa phương của tỉnh Ninh Bình mà còn ở sự đóng góp của nó vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị tín ngưỡng và văn hoá dân tộc. Lễ hội - tín ngưỡng hàm chứa nhiều lớp văn hoá, giá trị nhân văn và dân chủ có thể phát huy trong sự nghiệp xây dựng một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. 3.4.2. Lễ hội đền Thánh Nguyễn gắn với phong tục tập quán

Lễ hội đền Thánh Nguyễn góp phần giữ gìn, bảo lưu và phát triển những truyền thống tốt đẹp của quê hương Ninh Bình. Thông qua hoạt động lễ hội đền Thánh Nguyễn, các phong tục tập quán của quê hương, đất nước, của các thế hệ cha ông giữ gìn một cách tốt nhất. Lễ hội là dịp để cả cộng đồng dân cư bày tỏ thái độ và những “hành xử văn hoá” trong việc trân trọng và giữ gìn truyền thống, thuần phong mỹ tục. Thông qua lễ hội, những truyền thống tốt đẹp, phong tục tập quán, lối sống và nếp sống... được kế thừa và phát triển phù hợp với tiến trình phát triển của lịch sử, tạo nền móng vững chắc cho văn hoá bản địa.

Từ việc biết ơn, thành kính thờ cúng Nguyễn Minh Không đã hình thành nên nhiều phong tục tập quán trên mảnh đất Gia Viễn và trong tâm thức của người dân Ninh Bình được truyền từ đời này sang đời khác. Một trong những phong tục tập quán được kể đến là việc cầu tự, bán khoán con lên chùa và những tục hèm, kiêng khem.

Bán khoán con lên chùa là một tín ngưỡng dân gian. Đây là một hình thức gửi gắm về mặt tâm linh. Từ xưa đến nay, nhiều gia đình ở Ninh Bình quan niệm, khi sinh con ra, đứa trẻ hay đau yếu, quấy khóc không phải là do bị bệnh từ thân hoặc những đứa trẻ sinh vào giờ kỵ, ngày phạm (tức ngày mùng 1, 5, 8, 15, 23, 24, 28 và ngày 30 Âm lịch) nên phải bán khoán con cho nhà chùa hoặc lên đền Thánh mới giải tai được. Không chỉ vậy, với nhiều gia đình sinh con muộn mằn, con “cầu tự” cũng có tâm lý sợ khó nuôi nên đã làm lễ bán con vào cửa đền làm con Thánh, để nương nhờ và được hộ mệnh. Trong tục bán khoán còn có những tục lệ khác: cha mẹ thường đem đứa nhỏ đến đền Thánh Nguyễn sắm một mâm xôi con gà, vàng nhang hoa quả cùng một tờ sớ xin bán khoán con cho đức Thánh bảo bọc nuôi dưỡng trong một số năm. Khi đứa trẻ đủ 13 tuổi, bố mẹ lại làm lễ chuộc con về. Việc bán con chỉ giải quyết về niềm tin tôn giáo.

Một trong những phong tục ăn sâu bám rễ vào tâm thức của người Ninh

Bình, đó là khi gia đình hiếm muộn, bên cạnh việc chữa chạy bằng tây y, họ còn có giải pháp thể hiện ở niềm tin tâm linh là đi đến đền chùa cầu tự. Một trong những nơi cầu tự thiêng liêng, linh ứng chính là đến cầu ở cửa Thánh. Việc cầu con, muốn linh nghiệm thì phải hết sức thành tâm và tin tưởng vào quyền năng của Thánh. Tốt nhất, là tự mình đi cầu tự. Người đi cầu tự, trước hết phải giữ mình cho thanh khiết, ít nhất nên ăn chay trước khi ngồi lễ để tâm thành động tới quỷ thần. Phải tắm sạch sẽ để tẩy mùi xú uế trần tục, phải kiêng ăn hành tỏi trong ngày đi lễ. Chuẩn bị lễ để cầu con bao không cầu kỳ, chủ yếu là tùy tâm và thành tâm. Niềm tin đó trở thành tập quán từ xa xưa và tồn tại đến ngày nay ở Ninh Bình.

Đền Thánh Nguyễn thuộc địa phận hai xã Gia Thắng và Gia Tiến nên phong tục từ xưa truyền lại, hai xã cùng tổ chức lễ hội 6 năm một lần, cùng tổ chức lễ kỳ phúc hàng năm vào các ngày 14, 15, 16 tháng 2 âm lích. Các nghi thức lễ hội tổ chức song song với hai ban hành lễ, hai tế chủ. Tất cả sắc phong, kiệu rước bách thần ở các nghè miếu, các lễ vật dâng lên đức Thánh của xã nào thì để trên địa phận của xã ấy. Đây là nét phong tục tập quán từ xa xưa và chỉ duy nhất có ở Gia Viễn Ninh Bình. Trong quá trình hành lễ, nếu tế chủ, bồi tế, ca công, đọc chúc văn mà làm chưa đúng thì xã ấy sẽ bị phạt ba chai rượu cho ban tổ chức lễ hội.

Trong tâm thức người dân Gia Viễn, người dân Ninh Bình, Thánh Nguyễn rất linh thiêng. Chính vì vậy trong lễ hội có một số điều kỵ. Sự cấm kỵ, kiêng khem đó trở thành phong tục, tập quán được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Những người tế chủ của đền, của miếu, thủ từ của hai xã khi dâng sắc phong dâng lễ, đón sắc phong, đón lễ luôn phải bịt miệng bằng khăn điều để tránh phả hơi sẽ phạm tội bất kính, làm mất đi sự tôn nghiêm thiêng liêng của Thánh. Tượng Thánh được đặt trong cung cấm và trong cỗ khám được sơn son thiếp vàng không ai được vào để chiêm bái tượng Thánh. Ai cố tình vào cung cấm, về sẽ bị Thánh phạt có khi bị ốm. Hàng ngày chỉ có thủ từ được vào cung cấm dâng nước ngày hai lần vào 4 giờ sáng và 16 giờ chiều. Cấm tuyệt đối phụ nữ vào cung cấm. Một điều cấm kị nữa khi đến đền Thánh Nguyễn không được mặc váy, mặc áo cộc tay, quần cộc. Những nhà có tang, tuyệt đối không được tham gia ban hành lễ, chỉ khi đoạn tang mới được tiếp tục. Những người tham gia khiêng kiệu thánh, rước sắc phong, linh vị của thánh phải là nam nhi chưa vợ không có dị tật, có sức khỏe, gia đình có nền tảng tốt không phạm pháp, không có tang, luôn hòa thuận.

Trong quá trình tổ chức lễ hội, lễ rước nước, người dân hai xã Gia Tiến và Gia Thắng tổ chức quét dọn sạch sẽ đền Thánh, trang hoàng trí kiệu long trọng và cho người quét dọn đường cẩn thận không để xú uế trên đường. Người dân ở đây kể lại, có năm, kiệu của thánh đang được rước ra Bến Bia trên đường đi có phân trâu, kiệu cửu cống của Thánh quay tít và quay trở lại đền. Hay trên đường rước kiệu có người dân trèo lên mái nhà, lên cây để xem lễ mà cao hơn kiệu Thánh,

kiệu dừng lại không đi nữa. Từ đấy người dân hai xã tuyệt đối tránh và đã trở thành phong tục, tập quán.

Qua quá trình tìm hiểu truyền thuyết Nguyễn Minh Không và lễ hội đềnThánh Nguyễn, chúng tôi nhận thấy Lý triều Quốc sư đã để lại dấu ấn sâu sắc trong đời sống tinh thần, tâm linh của người dân Ninh Bình. Họ quan niệm ông là vị “phúc thần” luôn che chở và đem lại may mắn cho cuộc sống của họ.Việc thờ cúng Nguyễn Minh Không như một vị “phúc thần” đã bồi đắp thêm niềm ngưỡng vọng thiêng liêng của người dân Ninh Bình đối với Lý triều Quốc sư. Chính lòng biết ơn, sự kính trọng ấy, khiến cho truyền thuyết về Nguyễn Minh Không có sức lan tỏa sâu rộng trong đời sống tín ngưỡng, phong tục tập quán của nhân dân Ninh Bình. Trong đời sống hiện đại, bất chấp sự xâm lấn của nhiều luồng tư tưởng mới, truyền thuyết về Nguyễn Minh Không mãi bén chắc rễ trong tâm thức của người dân nơi đây.

Tiểu kết chương 3

Nguyễn Minh Không là nhân vật lịch sử, được nhân dân yêu quý dệt nên những truyền thuyết đẹp. Trải qua nhiều thăng trầm của gần mười thế kỷ, chuỗi truyền thuyết về Nguyễn Minh Không ngày nay vẫn có vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân Ninh Bình. Ông là một thày thuốc tài ba, ông tổ của nhiều nghề, một thiền sư tu hành đắc đạo phật pháp vô biên, luôn cứu khổ cứu nạn. Có nhiều yếu tố làm nên sức sống bền bỉ của chuỗi truyền thuyết Nguyễn Minh Không ở Ninh Bình như hình thức truyền miệng, văn bản hóa.Trong đó không thể không kể đến là sự tồn tại của lễ hội, tín ngưỡng và phong tục tập quán ở Ninh Bình.

Truyền thuyết về Nguyễn Minh Không có mối quan hệ qua lại, biện chứng với lễ hội đền Thánh Nguyễn, tín ngưỡng và phong tục tập quán ở Ninh Bình. Truyền thuyết Nguyễn Minh Không là cơ sở tồn tại của lễ hội đền Thánh Nguyễn. Nhờ lễ hội, tín ngưỡng và phong tục tập quán mà hình tượng Nguyễn Minh Không hiện lên một cách sống động. Các nghi thức tế lễ, các lễ vật dâng cúng và các trò chơi hấp dẫn trong ngày hội đều là những minh chứng cụ thể cho mối quan hệ này.

C. KẾT LUẬN

1. Ninh Bình là tỉnh nằm ở vùng giao thoa giữa các khu vực Tây Bắc, đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ. Nơi đây vừa là gạch nối, vừa là ngã ba của ba nền văn hoá lớn sông Hồng - sông Mã - Hoà Bình. Vì vậy, văn hoá truyền thống Ninh Bình vừa có nét riêng bản địa, vừa mang sắc thái vùng miền do yếu tố hội tụ, giao thoa của nhiều nền văn minh, văn hoá tích hợp. Quê hương Ninh Bình gắn với sự nghiệp của 6 vị vua thuộc ba triều đại Đinh - Lê - Lý với các dấu ấn lịch sử: Thống nhất giang sơn, đánh Tống - dẹp Chiêm và phát tích quá trình định đô Hoa Lư.

Cũng trên mảnh đất Ninh Bình, do điều kiện địa lý và lịch sử mà hệ thống di tích, danh lam thắng cảnh và truyền thuyết về người anh hùng chống giặc ngoại xâm rất phong phú, đa dạng. Đi cùng với những di tích ấy là một hệ thống truyền thuyết về những anh hùng, nhân vật lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Lê Đại Hành, Nguyễn Minh Không… Trong niềm thành kính và tự hào, người dân đã truyền nhau những truyền thuyết đẹp về thiền sư Nguyễn Minh Không. Cuộc đời và sự nghiệp của thiền sư họ Nguyễn gắn bó máu thịt với quê hương Ninh Bình, với nhiều ngọn núi con sông. Đến nay, trong tâm thức của người dân Ninh Bình, Nguyễn Minh Không là một nhân vật tài giỏi xuất chúng, được phong Lý triều Quốc sư, là vị phúc thần đem lại cuộc sống tự do và nhiều may mắn cho họ. Truyền thuyết Nguyễn Minh Không ở Ninh Bình còn là hiện tượng văn học lí thú cần được nghiên cứu sâu sắc dưới góc độ khoa học.

Luận văn đã tìm hiểu những đặc điểm của tỉnh Ninh Bình về các mặt: Tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội, truyền thống lịch sử, và thân thế sự nghiệp Lý triều Quốc sư Nguyễn Minh Không để có cái nhìn tổng quát và cụ thể khi tiến hành nghiên cứu đặc điểm truyền thuyết Nguyễn Minh Không và lễ hội đền Thánh Nguyễn ở Ninh Bình một cách chi tiết và hệ thống.

Luận văn nghiên cứu về đề tài Truyền thuyết Nguyễn Minh Không và lễ hội đền Thánh Nguyễn ở Ninh Bình nhằm để thấy được mối quan hệ giữa nhân vật lịch sử với truyền thuyết và tín ngưỡng và có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống văn hóa, tâm linh của công đồng dân cư ở Ninh Bình.

2. Luận văn, lần đầu tiên đã giới thiệu một cách khá hoàn chỉnh hệ thống truyền thuyết Nguyễn Minh Không - một con người con ưu tú của quê hương Ninh Bình. Trong quá trình tìm hiểu, điền dã chúng tôi nhận thấy truyền thuyết về Nguyễn Minh Không còn lưu lại khá nhiều trong dân gian, đặc biệt ở Ninh Bình. Luận văn đã tập hợp được tổng số 38 truyện, trong đó riêng truyền thuyết lưu truyền ở Ninh Bình là 35 truyện (số lượng này có thể phong phú hơn khi mở rộng địa bàn khảo sát) từ hai nguồn dữ liệu: những truyền thuyết đã được công bố thành văn bản trước nay và những truyền thuyết được ghi lại trong quá trình điền dã của tác giả luận văn.

3. Luận văn đã chỉ ra những đặc điểm cơ bản của truyền thuyết về Nguyễn

Minh Không có kết cấu đơn giản và tồn tại dưới nhiều mẫu kể khác nhau, mỗi mẫu kể cho người tiếp nhận biết một giai đoạn nhất định trong cuộc đời nhân vật hoặc một nét tính cách, phẩm chất của nhân vật. Bên cạnh những truyện ngắn gọn, đơn lẻ, truyền thuyết Nguyễn Minh Không còn có kết cấu xâu chuỗi với lời kể tương đối sinh động, giàu tính nghệ thuật. Để xây dựng hình tượng nhân vật tỏa sáng mà vẫn bình dị, đời thường, tác giả dân gian xưa đã sử dụng nhiều mô típ: mô típ sinh nở thần kì, mô típ tướng lạ, mô típ chiến công phi thường, mô típ hóa thân, mô típ linh hiển âm phù. Tất cả các mô típ đều có mối quan hệ hữu cơ với nhau, bổ sung giải thích cho nhau để đạt tới hiệu quả nghệ thuật.

4. Về nội dung truyền thuyết Nguyễn Minh Không ở Ninh Bình, luận văn đã tìm hiểu trên nhiều phương diện: Ông là thần y - ông tổ của nhiều nghề - một thiền sư - là một thần linh… Cả cuộc đời ông gắn bó với quê hương Ninh Bình, luôn đem hết tài năng, trí tuệ, pháp phật vô biên để giúp dân giúp đời.

5. Hình tượng Nguyễn Minh Không không chỉ có trong truyền thuyết mà còn được tái hiện sinh động trong lễ hội, tín ngưỡng, phong tục. Chúng tôi đi sâu mô tả cả phần lễ cũng như phần hội một cách khá chi tiết, cụ thể. Về phần lễ, hội đền Thánh Nguyễn cũng có những hình thức tế lễ rất giống như nhiều lễ hội khác. Đồng thời cũng có những nét đặc trưng của lễ hội đền Thánh Nguyễn do hai xã gia Gia Tiến và Gia Thắng cùng tổ chức. Về phần hội, lễ hội đền Thánh Nguyễn tổ chức các trò chơi truyền thống như chơi đu, đánh cờ người… với đông đảo nhân dân tham gia. Lễ hội đền Thánh Nguyễn là dịp để nhân dân bày tỏ lòng biết ơn, tôn kính của mình với người anh hùng, đồng thời cũng là dịp để mỗi cái tôi hoà vào cái ta chung, thắt chặt tình đoàn kết dân tộc, trở về về cội nguồn dân tộc . 6. Luận văn cũng chỉ ra mối quan hệ hữu cơ, quan hệ gắn bó khăng khít, biện chứng giữa truyền thuyết Nguyễn Minh Không, lễ hội đền Thánh Nguyễn, tín ngưỡng và phong tục, tập quán ở Ninh Bình. Truyền thuyết Nguyễn Minh Không là cơ sở tồn tại của lễ hội đền Thánh Nguyễn, Ngược lại lễ hội, tín ngưỡng và phong tục tập quán mà hình tượng Nguyễn Minh Không hiện lên một cách sống động. Các nghi thức tế lễ, các lễ vật dâng cúng và các trò chơi hấp dẫn trong ngày hội đều là minh chứng cụ thể cho mối quan hệ này.

7. Việc vận dụng lý thuyết chuyên ngành vào nghiên cứu đề tài: Truyền Thuyết Nguyễn Minh Không và lễ hội đền Thánh Nguyễn ở Ninh Bình là một nỗ lực, cố gắng ban đầu của chúng tôi. Nhằm giới thiệu một cách tương đối đầy đủ, hệ thống truyền thuyết về Nguyễn Minh Không đang được lưu truyền ở Ninh Bình vốn lâu nay chưa được nhiều người quan tâm. Nghiên cứu nội dung và nghệ thuật hệ thống truyền thuyết về Nguyễn Minh Không và chỉ ra giá trị, ý nghĩa của hệ thống truyền thuyết này. Giới thiệu lễ hội đền Thánh Nguyễn trong mối quan hệ với hệ thống truyền thuyết về Nguyễn Minh Không ở Ninh Bình, từ đó cho thấy được sức sống, tầm ảnh hưởng to lớn của ông trong truyền thuyết cũng như trong đời sống hóa tâm linh của người dân Ninh Bình xưa và nay.

Là người con của quê hương Ninh Bình, tôi mong muốn đóng góp một phần công sức vào việc giữ gìn và phát triển di sản văn hoá dân gian trên quê hương. Việc nghiên cứu và giới thiệu về Truyền thuyết Nguyễn Minh Không và lễ hội đền Thánh Nguyễn ở Ninh Bình sẽ giúp tôi có thêm những hiểu biết về văn hoá dân gian địa phương, có ý nghĩa thiết thực cho công tác giảng dạy của tôi hiện nay. Mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các nhà nghiên cứu, các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp về đề tài này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Thị An (1994), "Nghiên cứu truyền thuyết - những vấn đề đặt ra", Tạp chí Văn học số 7, tr.43 - 37. 2. Trần Thị An (2001), "Văn bản hóa truyện dân gian Việt Nam - nhìn từ cuối thế kỉ XX", Tạp chí Văn học số 5, tr.56 - 64. 3. Trần Thị An (2003), "Quan niệm về thần và việc văn bản hóa truyền thuyết trong truyện văn xuôi Trung đại", Tạp chí Văn học số 3, tr.35 - 45. 4. Trần Thị An (2008), "Nghiên cứu văn học dân gian từ góc độ type và motif những khả thủ và bất cập", Tạp chí Văn học số 7, tr.86 - 104. 5. Trần Thị An (2000), Đặc trưng thể loại và việc văn bản hóa truyền thuyết dân gian Việt Nam, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Viện văn học, Hà Nội. 6. Đặng Xuân Bảng (1898), Quốc sơ bảo lục, thư viện Hán – Nôm. 7. Đặng Xuân Bảng, Thánh tổ hành thực diễn âm ca, thư viện Hán - Nôm, Ký hiệu VHv.2380. 8. Lã Đăng Bật (1997), “Đền thờ danh sư Nguyễn Minh Không”, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, số 2, tr. 47 - 48. 9. Lã Đăng Bật (2016), Danh nhân và tiến sĩ thời phong kiến người Ninh Bình, NXB Đại học Sư Phạm. 10. Nguyễn Chí Bền (2000), Văn hóa dân gian Việt Nam những suy nghĩ, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 11.Trần Lâm Bền (1996), Chùa Việt Nam, NXB văn hóa thông tin, Hà Nội, Tr.116. 12. Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, NXB Thành phố Hồ Chí Minh. 13. Nguyễn Đổng Chi (1967), "Văn học dân gian là một kho tàng quý báu cho sử học", Tạp chí Văn học số 1, tr.94 – 96 14. Nguyễn Đổng Chi (1993), Kho tàng cổ truyện cổ tích Việt Nam, Tập III. IV, Viện Văn học - NXB Giáo dục, Hà Nội. 15. Nguyễn Đổng Chi (1966), "Mấy suy nghĩ về phương hướng trước mắt của chúng ta về công tác sưu tập văn học dân gian", Những ý kiến về VHDG phát biểu trong Hội nghị sưu tập VHDG trên miền Bắc, Tr. 164 - 174, NXB khoa học, Hà Nội. 16. Nguyễn Kim Chi (2013), Thiền sư Không Lộ, Minh Không và truyền thuyết lịch sử. Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học sư phạm Hà Nội 17. Chu Xuân Diên (1999), "Phương pháp so sánh trong nghiên cứu văn hóa dân gian", Văn học dân gian những công trình nghiên cứu, tr. 60 - 70. NXB Giáo dục. 18. Chu Xuân Diên (1981), "Việc nghiên cứu thi pháp văn học dân gian", Tạp chí văn học số 5, tr.19 - 26. 19. Chu Xuân Diên (1969), "Vấn đề nghiên cứu văn học gian hiện đại", Tạp chí văn học số 4, Tr.34 - 53.

20. Cao Huy Đỉnh (1971), “Hình tượng khổng lồ và tập thể anh hùng dựng nước, giữa nước trong truyện dân gian Việt Nam”, In trong Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự sự dân gian Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 21. Cao Huy Đỉnh (1976), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 22. Đỗ Danh Gia (2013), “Đức thánh Nguyễn Minh Không”, Tạp chí Ninh Bình xưa và nay, số 2, tr.45 - 49. 23. Nguyễn Bích Hà (1988), Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sĩ trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á, NXB Giáo dục, Hà Nội. 24. Nguyễn Bích Hà (2014), Nghiên cứu văn học dân gian từ mã văn hóa dân gian, NXB Đại học sư phạm. 25. Nguyễn Hồng Hà (2004), "Bảo tồn phát huy di sản văn hóa trong bối cảnh toàn cầu", Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 6, tr.14 - 18. 26. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2005), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 27. Nguyễn Thị Hiền, Một số phương pháp nghiên cứu folkore ở phương Tây, Tạp chí folkore nước ngoài, tr.105 - 125. 28. Kiều Thu Hoạch (1999), "Truyền thuyết anh hùng trong thời kì phong kiến", trong sách Văn học dân gian - những công trình nghiên cứu, NXB Giáo dục, Hà Nội. 29. Kiều Thu Hoạch (2006), Văn học dân gian người Việt - Góc nhìn thể loại, NXB khoa học xã hội, Hà Nội. 30. Nguyễn Thị Huế (cb) (2003 – 2004), Tổng tập văn học dân gian người Việt, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội. (T.6, T.7: Truyện cổ tích người Việt (Tập 6: Truyện cổ tích thần kỳ người Việt; Tập 7: Truyện cổ tích loài vật, Truyện cổ tích sinh hoạt). 31. Nguyễn Thị Huế (2015), “Tìm hiểu Thiền sư Nguyễn Minh Không từ phương diện văn hóa dân gian” trong sách Kỷ yếu Hội thảo khoa học Di sản văn hóa Đức Long (huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) – Liên hiệp các hội KH&KT tỉnh Bắc Ninh. 32. Chu Huy (2006), “Về nhân thân hai vị quốc sư thời Lý Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, tháng 8, tr.71. 33. Phạm Thị Thu Hương (2007) “Những ngôi chùa tiền phật hậu thánh ở vùng châu thổ Bắc Bộ”, Luận án tiến sĩ văn học, Viện Văn hóa thông tin, Hà Nội. 34. Đinh Gia Khánh (1983), Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 35. Đinh Gia Khánh (Chủ biên), Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (2006), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 36. Đinh Gia Khánh (1996), "Tầm quan trọng của VHDG và một số kinh nghiệm trong công tác sưu tập", trong sách Những ý kiến về VHDG phát biểu trong Hội nghị sưu tập VHDG trên miền Bắc, Tr. 98 - 117, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

37. Vũ Ngọc Khánh (1991), Lược truyện thần tổ các ngành nghề, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 38. Vũ Ngọc Khánh, Trần Thị An, Bùi Việt Mỹ (1998), Truyền thuyết Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội. 39. Vũ Ngọc Khánh, Nguyễn Thị Huế, Phạm Minh Thảo (1995), Kho tàng thần thoại Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội. 40. Lê Văn Kỳ (1996), Mối quan hệ giữa truyền thuyết người Việt và lễ hội về các anh hùng, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 41. Lê Văn Kỳ (1993), "Tìm hiểu một số ý nghĩa về tục thờ thành hoàng không có sắc phong qua truyền thuyết và lễ hội", Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4, tr.75 - 82. 42. Lịch sử truyền thuyết về Lý triều Quốc sư Nguyễn Minh Không, bản đánh máy, tài liệu lưu hành nội bộ tại đền thánh Nguyễn. 43. Hà Thị Diệp Lê (2008), Truyền thuyết về Đức thánh tổ Nguyễn Minh Không và lễ hội Làng Tống Xá, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học sư phạm Hà Nội. 44. Hồ Liên (2004), “Về yếu tố thiêng trong văn hóa Việt Nam”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 6, tr.13 - 34. 45. Ngô Sĩ Liên (1973), Đại Việt sử ký toàn thư, Bản dịch của Hoàng Văn Lâu, Tập IV, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 46. Đặng Văn Lung, Nguyễn Thị Huế, Trần Thị An, Sông Thao, Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Văn Cừ (1999), Tuyển tập văn học dân gian Việt nam, 4 tập, NXB. Giáo dục, Hà Nội. 47. Nguyễn Tử Mẫn (2001), Ninh Bình toàn tỉnh địa chí khảo biên, NXB Chính trị quốc gia. 48. Ngọc phả thiền sư Nguyễn Minh Không và Thái sư Tô Hiến Thành, bản đánh máy, tài liệu lưu hành nội bộ tại đền Thánh Nguyễn. 49. Lê Trường Phát (2000), Thi pháp văn học dân gian, NXB Giáo dục, Hà Nội. 50. Hoàng Phê (2008), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng. 51. Lê Xuân Quang (2000), Truyện Đức Không Lộ, Minh Không, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 52. Vũ Quỳnh, Kiều Phú (1990), Lĩnh Nam trích quái, NXB Văn học, Hà Nội 53. Sách giáo khoa Ngữ văn 10, nâng cao – Tập 1, (2006) NXB Giáo dục 54. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội. 55 .Thiền uyển tập anh ngữ lục, bản chép tay lưu tại bảo tàng Nam Định. 56. Đỗ Bình Trị (1978), Nghiên cứu tiến trình lịch sử của văn học dân gian Việt Nam, Đại học sự phạm Hà Nội. 57. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội. 58. Vũ Anh Tuấn (1991), Khảo sát cấu trúc và ý nghĩa một số típ truyện kể dân gian

tỉnh Ninh Bình: Bách thư mở, khoa toàn của

Tày ở vùng Đông Bắc Bộ Việt Nam, Luận án tiến sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Tổng hợp. 59. Trương Đình Tưởng (1995), Truyện cổ dân gian Ninh Bình, NXB Thế giới. 60. Trương Đình Tưởng (2004), Địa chí văn hóa dân gian Ninh Bình, NXB Thế giới. 61. Trương Đình Tưởng (2012), Bái Đính ngàn năm tâm linh và huyền thoại, NXB Thế giới. 62. UBND tỉnh Ninh Bình (2010), Địa chí Ninh Bình Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 63. Đặng Nghiêm Vạn (2001), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 64. Nguyễn Quang Vinh (1984), “Hình bóng người anh hùng sáng tạo văn hóa trong truyền thuyết dân gian Không Lộ”, Tạp chí Văn học, số 6/1984 65.Viện Văn hoá dân gian (1992), Lễ hội cổ truyền, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 66. Lê Trung Vũ (1992), Lễ hội cổ truyền, NXB, Khoa học xã hội, Hà Nội. 67. Trần Quốc Vượng (1986), “Lễ hội một cách nhìn tổng thể”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 1. 68. Website Chuabaidinhninhbinh.vn, Ninhbinhtravel.net… 69. Nguyễn Khắc Xương (1978), "Tìm hiểu quan hệ giữa thần thoại, truyền thuyết và diễn xướng tín ngưỡng phong tục", Tạp chí Văn học, số 6, tr.98-107. 70. Phạm Thị Thu Yến (2005), Giáo trình văn học dân gian (Dành cho hệ Tại chức từ xa), NXB Đại học sư phạm, Hà Nội.

Phụ lục 1 Truyền thuyết dân gian về Nguyễn Minh Không

(Tác giả luận văn sưu tầm trong quá trình điền dã) 1. Luống cày ông Nguyễn

Sinh thời Ông Khổng Lồ hay băng rừng, vượt núi tìm cây thuốc về chữa bệnh cho dân. Ông đi đến đâu đều chữa bệnh cho dân và còn dạy cho dân trồng lúa, trồng khoai, chăn trâu, cắt cỏ. Khi đến núi Bái Đính (1) nhiều rừng núi hoang sơ, ông đã phát tích một quả đồi mở mang đất hoang, giúp dân trồng cấy. Trong quá trình phát tích ông gặp phải vách đá. Ông đã dùng cày để phá đá. Vách đá đổ về một phía. Từng tảng đá dày khoảng gang tay đổ về một phía thẳng hàng như luống cày, kéo dài mấy chục mét. Hết luống này đến luống kia. Người dân gọi là Luống Cày (2) ông Nguyễn. Ngày nay địa danh Luống Cày ông Nguyễn nằm gần chân núi Bái Đính.

(Cụ Phạm Văn Hướng, 69 tuổi - chùa Bái Đính cổ tự kể lại)

2. Sự tích Ao Soi

Ông Khổng Lồ du ngoạn núi Bái Đính, phát hiện rừng già mênh mông có vô vàn cây thuốc quý. Ông dã dừng chân tu hành, hái thuốc chữa bệnh cho dân. Ông không chỉ hái thuốc mà còn tìm kiếm cây thuốc về trồng. Ông gánh núi bao quanh tạo thành thung thuốc. Trong qua trình làm thuốc chữa bệnh cho dân ông đã sáng kiến ra cối giã thuốc. Cối giã thuốc được làm bằng đá ong. Lòng cối được khoét vào trong khối đá sâu thẳm được mài nhẵn, to bằng cái mẹt. Ông soi một cái rãnh sâu chôn cối xuống. Cần dùng để giã thuốc cũng bằng đá. Khi Ông Khổng Lồ giã thuốc, đất lún xuống tạo thành vùng trũng. Dân gian gọi là Ao Soi. Ngày nay địa danh Ao Soi ở ngay chân núi Bái Đính.

(Cụ Phạm Văn Hướng, 69 tuổi - chùa Bái Đính cổ tự kể lại)

3. Sự tích cánh đồng chua

(1 )Xã Gia Sinh, huyện gia Viễn Ninh Bình

2) Xã Gia Sinh, huyện gia Viễn Ninh Bình

3 Sông Hoàng Long là con sông lớn đồng thời là một trong bốn tuyến đường thủy quốc gia trên địa

bàn tỉnh Ninh Bình. Sông được tính từ nơi hợp lưu giữa sông Bôi và sông Lạng tại Kênh Gà đến

cầu Gián Khẩu. Đoạn mang tên sông Hoàng Long dài khoảng 25 km, nằm lọt trong vùng phân lũ thuộc

ô trũng Nho Quan. Lưu vực sông Hoàng Long bao gồm nửa phía bắc Ninh Bình là Nho Quan, Gia

Viễn, Hoa Lư, thành phố Ninh Bình.

Ông Khổng Lồ thường bắt cá trên sông Hoàng Long (3.) Mỗi lần đi bắt cá ông thường mang theo lọ mẻ để nấu dấm cá. Một hôm đi đánh cá, cá đã đánh được nhưng ông quên không mang lọ mẻ. Ông vào làng gần đó xin mẻ. Ông gặp một bà lão mắt kém đang nấu cơm trong bếp. Bà lão không cho mẻ. Ông tức giận

nói: làng các bà không có tôi cho một ít. Ông đang cầm chiếc lá khoai, ném xuống cánh đồng gần đó. Từ đó về sau cả cánh đồng rộng lớn thuộc xã Gia Phong huyện Gia Viễn bị nhiễm chua, không trồng cấy được. Dân gian còn gọi là cánh đồng chua.

(Cụ Phạm Văn Hướng, 69 tuổi - chùa Bái Đính cổ tự kể lại)

4. Làng Gia Sinh

Một ngày kia, ông Khổng Lồ đang ngao du sơn thủy đã phát hiện ra nơi tiên cảnh, núi lại hướng về phía Tây như chầu về đất Phật, rừng núi mênh mông với muôn vàn cây thuốc quý. Và ông đã dừng lại nơi đây dựng chùa, tu hành. Hàng ngày ông tìm thuốc, trồng thuốc. Ông biến nơi đây thành thung thuốc để cứu sinh độ thế muôn dân. Ông đã trực tiếp bốc thuốc chữa bệnh cho chúng. Nhân dân nghe tiếng ông chữa bệnh giỏi từ nhiều nơi tìm đến. Có nhiều người không về, họ ở lại lập lán, dựng nhà ở gần thung thuốc của ông Khổng Lồ để được chữa bệnh. Lâu dần người đến ở đông đúc, thành làng. Người dân nơi đây tự đặt tên cho làng của mình là làng Gia Sinh. Ngày nay là xã Gia Sinh - Gia Viễn.

(Cụ Phạm Văn Hướng, 69 tuổi - chùa Bái Đính cổ tự kể lại)

5. Sự tích chùa Động Am Tiên

Hàng ngày ông Khổng Lồ đi hái thuốc, tìm cây thuốc về chữa bệnh cho dân. Một hôm ông đi đến nơi thâm sơn cùng cốc, ít người qua lại, âm khí rất nặng. Ma quỷ gầm rú, oan hồn than khóc thảm thiết, hãm hại dân thường. Ông hỏi ra mới hay, nơi đây xưa kia là pháp trường vua Đinh thả hổ, nuôi cá sấu để trừng trị những kẻ có tội. Ông dừng lại, đặt bàn đá trong hang thuyết pháp, tụng kinh niệm phật, cầu đảo cho linh hồn siêu thoát. Sau đó ông chọn nơi dựng chùa trong hang đá. Chùa ở lưng chừng núi, cách mặt đất chừng vài trăm mét, hướng chính tây – hướng chầu về đất phật. Hai bên hai cửa hang là hai ngọn núi chạy dài tựa như hai con rồng chầu về cửa hang. Ông Khổng Lồ gọi là chùa động Am Tiên (4). Từ đấy, ma quỷ không gầm rú, oan hồn không kêu khóc nữa. Cuộc sống người dân yên ổn. Nhân dân quanh vùng đến chùa bái phật, cầu kinh… Người đời sau góp công xây dựng, mở rộng chùa thờ phật, thờ thánh. Ngày nay, chùa động Am Tiên thuộc quần thể di tích Cố Đô Hoa Lư, xã Trường Yên.

(Bác Dương Văn Túc, 53 tuổi - Ban quản lý chùa động Am Tiên kể lại

6. Chùa Bái Đính cổ tự

4 Động Am Tiên là một di tích quốc gia đặc biệt thuộc quần thể di tích cố đô Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Động

nằm cách cửa Đông - đền Vua Đinh Tiên Hoàng khoảng 400m theo hướng đi Tràng An. Vị trí của động Am Tiên

khi xưa tiếp giáp với thành Đông của kinh đô Hoa Lư. Động Am Tiên được mệnh danh là "Tuyệt Tình Cốc" và là

một điểm du lịch thuộc quần thể di sản thế giới Tràng An.

Núi Bái Đính là tên gọi chỉ một quần thể núi đồi rộng lớn mênh mông vô

tận ở huyện Gia Viễn - Ninh Bình. Tương truyền Đinh Bộ Lĩnh sau khi đánh dẹp 12 xứ quân đã cho lập đàng tràng tế trời đất, làm lễ phong hầu bái tướng trên đỉnh núi. Sau này vua Đinh, vua Lê và những năm đầu nhà Lý dùng làm nơi tế trời đất. Bái Đính từ xa xưa là vùng đất linh thiêng. Sau khi tu hành đắc đạo Nguyễn Minh Không trở về quê hương Đàm Xá, hàng ngày tụng kinh niệm phật tìm cây thuốc chữa bệnh cho dân. Ông thường đến núi Bái Đính hái thuốc. Ông phát hiện trên ngọn núi cao nhất của khu núi Đính có một hang động rất đẹp, cửa hang hướng về phía tây như chầu về đất phật. Trước mặt là sông hai bên đều là những dãy núi hình cánh cung. Nhìn bao quát cảnh vật giống như hổ phục rồng chầu. Ông đã đựng chùa trong hang đá để thờ phật. Chùa Bái Đính không có những mái chùa cong vút mái đao hay mũi hài, không có những trụ cột to lớn. Trần hang động đã trở thành những mái chùa kiên cố. Bên phải là hang sáng thờ Phật và Thần, bên trái là động tối thờ Mẫu và Tiên. Toàn bộ các ban thờ Phật, thờ Mẫu của chùa được đặt giữa lòng những sơn động u minh tạo không khí linh thiêng và huyền bí nơi cửa thiền. Về tên gọi của chùa, người đời truyền lại: Bái Đính có nghĩa là cúng bái trời đất, Tiên Phật ở trên cao. Ngày nay chùa Bái Đính được gọi là Bái Đính cổ tự để phân biệt với khu chùa Bái Đính tân tự mới được xây dựng.

(Cụ Phạm Văn Hướng, 69 tuổi - chùa Bái Đính cổ tự kể lại)

7. Lời nguyền của ông Khổng Lồ (1)

Ông Khổng Lồ thường bắt cá, đơm đó trên sông Hoàng Long. Một hôm người làng Trì Động (5) đi trẩy thuế bằng thuyền. Cái đó của ông Khổng Lồ vướng vào thuyền. Liền mắng rằng :

“Ai mà có đăng đây Phải ra cuốn lấy kẻo hoài đăng đi Thánh rằng: Giúp lão tí thi Cuốn vào hộ lão, lão thì cảm ơn Xã kia có ý khinh nhớn Sai ngay thủy thủ phá tàn dìm sông Mắng rằng ai có rỗi công Thuế vua là trọng đăng ông là gì.

Nghe vậy Ông Khổng Lồ giận lắm. Ông đọc lên lời nguyền.

Làm cho Trì Động biết tay Trăm năm chảy thuế đi may về nồm

5 Thuộc huyện Nho Quan ngày nay

Từ đấy trở đi, người làng Trì Động đi trẩy thuế qua quãng sông này cả đi và về đều ngược gió, đi lại vất vả vô cùng. Lúc ấy người dân Làng Trì Động mới vỡ lẽ câu hát nghêu ngao trước đó của ông Khổng Lồ là lời nguyền trừng phạt người Làng Trì Động đã phá đó của ông.

(Cụ Nguyễn Xuân Tiệu, 68 tuổi - Đền Thánh Nguyễn kể lại)

8. Lời nguyền của ông Khổng Lồ ( 2)

Người dân xã Nam Cường huyện Nam Trực tỉnh Nam Định trót phá đăng

ngăn để bắt cá của Thánh để làm củi đun. Thánh tức giận đọc câu ca

“Thánh rằng: đã vậy được nào Hễ thuyền trẩy thuế - ắt gào gió may Khi về lại trở nồm ngay Phải quanh sông Luộc đến rầy mới thôi Ngạn rằng” có thóc thì phơi Ninh Cường trẩy thuế thì trời liền mưa.

Từ đấy trở đi, người dân xã Nam Cường đi trẩy thuế cả đi và về đều ngược

gió, vì lời nguyền trừng phạt của Khổng Lồ.

(Truyền thuyết lưu truyền tại đền Thánh Nguyễn)

9. Ông Khổng Lồ gánh nước

Chuyện kể rằng, tại xã An Vệ thuộc huyện Gia Khánh, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình là quê mẹ của ông Giác Hải. Năm ấy trời hạn hán, cây cối chết khô, mất mùa. Dân đói khổ. Ông Khổng Lồ đã giúp dân gánh nước tưới ruộng đồng. Lúc gánh nước, ông bị trượt chân ngã quỳ gối. Dấu nay vẫn còn. Mỗi gối rộng ba thước, sâu thước rưỡi. Cả cánh đồng được tưới ướt sũng. Cây cối sống lại, mùa màng tốt tươi. Có lần ông Khổng Lồ dùng phép thuật khuấy nước rồi dùng gáo vẩy khắp cánh đồng trên, đồng dưới nước lênh láng thành dòng chảy ra sông thành một cái ngòi. Ông Khổng Lồ bèn dùng đầu gậy lẩy một phiến đá lấp đi. Giữa phiến đá còn một lỗ thủng cho nước chảy xuyên qua tưới ruộng đồng cho dân. Người dân xã Khánh An, biết ơn ông Khổng Lồ lập đền Tam tại xã Khánh An và suy tôn ông là đức thánh Cả. Người dân nơi đây còn truyền lại rằng đến năm nào trời đại hạn cầu xin đức thánh Cả, ngài phù hộ mưa thuận gió hòa.

(Cụ Tạ Văn Quế, 60 tuổi - Xã Khánh An - Yên Khánh kể lại)

10. Ông Khổng Lồ giúp người họ Thái tai qua nạn khỏi.

Buổi ấy nhà vua cần rất nhiều đồng để đúc các khí vật thờ phật, nhưng ngặt vì ở đất Việt không có đồng đen. Nghe tiếng Khổng Lồ, nhà vua cho triệu đến kinh nhờ thiền sư đi sang Trung Quốc khuyên đồng. Khổng Lồ nhận lời và xách đãy đi về phương Bắc. Sau khi trút cả mười kho đồng vào túi của mình. Ông Khổng Lồ cảm tạ vua Tống lên đường về nước. Ông Khổng Lồ ra bến sông, không thuyền nào có thể trở nổi. Ông bèn thả nón tu lờ vượt biển về nước Đại Việt. Khi về gần đến Nam bang. Ông Khổng Lồ biết trước thuyền của họ Thái sẽ gặp nạn. Ông ra tay cứu giúp. Ông Khổng Lồ lên bờ rồi mới xin họ Thái cho đi nhờ. Người họ Thái là người tốt bụng, vui vẻ mời lên thuyền. Ông Khổng Lồ

bước lên thuyền, con thuyền chao đảo sắp chìm. Ông vung gậy làm phép giữ cho thuyền thăng băng, tiếp tục đi về Nam bang. Thuyền đang đi thuận buồm xuôi gió bỗng gặp Ngô công mình dài trăm trượng, miệng há đỏ như lửa đang vẫy vùng giữa sóng gió chồm đến toan nuốt cả cái thuyền, khiến cho mọi người khiếp đảm vô cùng. Ông Khổng Lồ vẽ quả bí, tục gọi là Đông qua - quả dưa mùa đông. Thánh ném bùa trước mũi thuyền. Ngô công hít phải hơi bùa mà chết. Xác trút xuống thành ba đống nổi giữa biển. Thánh đặt là Tam Đảo Sơn. Sau này người họ Thái bèn tạc một pho tượng, một bộ long ngai, một tòa nhà bia đều bằng gỗ Bách Đàn tiến cúng để tưởng nhớ công đức của Thánh. Những hiện vật đó vẫn được lưu ở chùa An Vệ

(Anh Nguyễn Văn Sơn, 46 tuổi- Tam Điệp kể lại)

11. Đức thánh hiển linh

Chuyện kể rằng, khi quân Minh sang xâm lược nước ta. Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa, nhiều năm nếm mật nằm gai, chịu nhiều tổn thất những chưa thắng lợi. Lê Lợi nghe nói ở làng Đàm Xá có đền thờ thánh Nguyễn Minh Không rất linh ứng, cầu gì được ấy. Lê Lợi đã vào chùa thành tâm yết bái. Sau đó, Lê Lợi được thánh phù hộ, đánh thắng giặc Minh, đất nước thái bình. Lê Lợi lên ngôi vua. Cảm tạ sự phù hộ của đức thánh Nguyễn, Lê lợi sai quan Bùi Khuê tu bổ xây chùa Viên Quang Tự khang trang, tồn tại đến ngày nay.

(Truyền thuyết lưu truyền tại đền Thánh Nguyễn)

12. Sự tích Bến Bia (1)

Sau khi tu hành đắc đạo, thiền sư họ Nguyễn đi nhiều nới dựng chùa, đúc chuông. Trong đó thiền sư có dựng chùa, đúc chuông, tu hành ở Phả Lại quê mẹ. Khi vua Lê Chiêu Thống lên ngôi, đã lệnh cho binh sĩ đến các chùa lấy chuông về đúc tiền. Khi binh sĩ đến chùa Phả Lại lấy chuông đưa xuống thuyền nhưng khi thuyền vừa ghé bến, chuông rơi xuống đất, lăn qua đồi, rơi xuống sông. Quả đồi mà chuông lăn qua, cây cối đổ rạp xuống gốc ở trên đồi, ngọn đổ xuống phía chân đồi. Binh sĩ không thể nào vớt được chuông lên. Chuông trôi về sông Hoàng Long, cứ nhấp nhô giữa dòng. Lúc bấy giờ trong dân gian lưu truyền lời Thánh nhà nào một vợ một chồng có mươi con trai mới kéo được chuông lên. Một ngày kia, có một người dệt vải ra sông Hoàng Long giặt vải, nhìn thấy quả chuông. Nhớ lới Thánh phán được lưu truyền trong dân gian bèn về gọi mười người con trai ra bên sông kéo chuông lên. Chuông kéo gần lên bờ, bà mẹ mới trách cậu con nuôi. Nuôi ơi sao không kéo khỏe lên. Bà mẹ vừa dứt lới, tự nhiên quả chuông trôi xuống sông. Mấy mẹ con không kéo được chuông lên vì bà mẹ phân biệt con đẻ, con nuôi, không đúng với lời Thánh phán. Ngày nay chuông ấy vẫn nằm dưới sông Hoàng Long. Từ đó nhân dân xã Gia Tiến, Gia Thắng lập bia để thờ. Ngày nay gọi là Bến Bia, nằm ngay bên bờ sông Hoàng Long..

(Truyền thuyết lưu truyền tại đền Thánh Nguyễn)

13. Sự tích Bến Bia (2)

Khi đã đắc đạo, ông trở về quê nhà dựng chùa Viên Quang, tô tượng đúc chuông. Hàng ngày cầu kinh niệm phật, truyền đạo phật cho người dân. Một hôm có mấy người Tàu vào chùa Viên Quang lấy trộm chuông và đưa xuống thuyền tại bến sông Hoàng Long. Lạ thay, thuyền thì lớn mà không chở nổi chuông. Từ từ cả thuyền và chuông chìm xuống sông, không thể nào kéo lên được. Bọn người Tàu hoảng sợ vô cùng, cho rằng Thánh hiển linh giữ chuông. Chẳng ai bảo ai, bọn người Tàu tháo chạy, vứt lại chuông ở sông Hoàng Long. Từ đó những khi thanh vắng, người ta thấy chuông nổi lên rồi lại lặn xuống. Lúc bấy giờ trong dân gian lưu truyền lời Thánh. Nhà nào có mươi con trai mới kéo được chuông lên. Một gia đình nọ có mười con trai, hai vợ chồng đưa mười con trai ra bến sông kéo chuông lên. Chuông gần lên đến bờ bà mẹ nói: Cố lên nuôi ơi. Bà mẹ vừa dứt lời, tự nhiên quả chuông trôi xuống sông. Vì nhà nọ chỉ có chín người con, phân biệt con nuôi và con đẻ. Thánh không hài lòng, không cho kéo chuông lên. Ngày nay chuông ấy vẫn nằm dưới sông Hoàng Long. Từ đó nhân dân xã Gia Tiến, Gia Thắng lập bia để thờ. Ngày nay gọi là Bến Bia, nằm ngay bên bờ sông Hoàng Long.

(Cụ Nguyễn Kim Khánh, 81 tuổi - Xã Gia Tiến- Gia Viễn kể lại)

14. Nồi đồng bên núi Lạc Khoái

6 Lạc Khoái, xã Gia Lạc, huyện Gia Viễn

Dưới sông Hoàng Long đoạn chảy qua địa phận núi Lạc Khoái 6 tương truyền có một chiếc nồi đồng to bằng cái nong của đức Thánh Nguyễn. Hằng năm người dân ở dưới chân núi Lạc Khoái thường mượn nồi của đức thánh Nguyễn về nấu bánh chưng. Nấu xong người dân mang thả xuống sông Hoàng Long để trả cho đức thánh, đến năm sau lại mượn. Thế nhưng có một năm đến qua rằm tháng riêng người dân chưa trả, đến mãi lâu sau mới trả nồi. Năm sau đến mượn ngài nồi nấu bánh chưng, thì thấy giữa nồi mọc lên nhũ đá, nồi xoay tròn nhưng không mang lên được nữa. Ngài không cho mượn nồi. Từ đấy nồi đồng đó vẫn nằm dưới sông Hoàng Long. Một ngày kia có người tên Giang ở bên kia sông làm nghề chài lưới nghe được truyền thuyết về chiếc nồi đồng bèn lặn xuống lấy nồi nhưng không thể di chuyển được. Người chài lưới bèn cưa lấy một mảnh nồi đồng mang về đúc thành niêu nhỏ. Sau đó người này bị ốm thập tử nhất sinh. Có người biết chuyện nên đã khuyên mang trả nồi cho thánh. Người chài lưới làm lễ xin Thánh và trả nồi xuống sông. Ba tháng sau thì khỏi ốm. Người này đã lặn xuống sông xem lại cái nồi đồng, thì thật lạ nồi lại lành như cũ không có vết cắt. Từ đó đến nay chiếc nồi đồng đó vẫn nằm dưới sông Hoàng Long.

(Cụ Nguyễn Xuân Tiệu, 68 tuổi - Đền Thánh Nguyễn kể lại)

15. Ông Khổng Lồ chữa bệnh cho Dương Hoán

Ông Khổng Lồ về tu hành tại chùa Bái Đính. Hàng ngày Ông Khổng Lồ đi đến Thung Lang 7 hái thuộc chữa bệnh cho người dân. Dương Hoán con vua Lý Nhân Tông đi săn trong rừng, gặp ông lão đầu trọc, chân đất, quần nâu áo vá. Dương Hoán ngồi trên ngựa lấy áo lông trùm đầu giả là hổ lao ra trêu ông lão đầu trọc. Ông Khổng Lồ bảo:

Ta tưởng ngươi là người, ngươi không thích là người ta cho ngươi hóa ra

hùm. Ông lão nói xong biến mất. Dương Hoán lên ngựa hét như hổ gầm. Cởi bỏ bộ áo lông, toàn thân mọc lông lá, gầm thét ngày càng lớn, chạy bạt mạng trong rừng, không chịu về. Dương Hoán hóa hổ. Quân lính phải vây bắt đưa về cung và báo cho vua Lý Nhân Tông biết. Nghe chuyện Vua Lý Nhân tông biết con mình đã đắc tội với cao nhân. Vua lệnh cho quân lính trở lại khu rừng Dương Hoán đi săn tìm bằng được ông lão đầu trọc. Quân lính đi tìm, tìm rất lâu không thấy ông lão đầu trọc. Chỉ gặp người tiều phu, tiều phu trả lời “chẳng bao xa đến nhà ông Thánh Nguyễn”. Gặp trẻ chăn trâu, trẻ chăn trâu trả lời: “chẳng bao xa đến nhà ông Thánh Nguyễn”. Ông Khổng Lồ chưa xuất hiện, ông để một thời gian dài vì ông muốn dạy cho Dương Hoán bài học. Sau đó ông soạn bài ca dạy trẻ con

“Ông Nguyễn có phép thần thông Làm cho con vua Nhân Tông ra hùm”

- Ông lại hỏi Dương Hoán: Ngươi có muốn ta hóa phép cho ngươi trở lại

- Dương Hoán gập đầu lạy ông.

7 Xã Gia Sinh, huyện gia Viễn Ninh Bình

Nhà vua biết con mình đã đắc tội với thánh Nguyễn nên đã cho quân lính đi tìm, mời ông về chữa bệnh cho con. Nhà vua mở tiệc linh đình chào đón ông. Ông Khổng Lồ không ăn gì chỉ uống nước sinh dược mang theo. Ông sai quân lính thổi cho một nồi cơm, lấy cho ông chín cái nong to. Ông hóa phép một nồi cơm thành nồi khổng lồ, gỡ ra đầy chín nong cơm to. Ông sai quân lính lấy mo cau gói cơm lại phát cho người nghèo, kẻ đói khát xung quanh. Sau đó ông bảo đưa Dương Hoán ra. Lúc ấy Dương Hoán đang bị nhốt trong cũi, gầm rú ghê sợ. - Ông Khổng Lồ hỏi: Nhà người đã biết ta chưa? - Dương Hoán phủ phục lạy ông. làm người không? Sau đó ông nói với nhà vua. - Bẩm nhà vua: Tôi có thể chữa bệnh cho con trai nhà vua. Trước hết xin nhà vua cho mời các danh y vào triều. Nhà vua cho gọi các danh y. Các danh y và triều thấy ông lão đầu trọc, to lớn, ăn mắc quê mùa có vẻ khinh thường. Ông Khổng Lồ

liền hỏi: - Các danh y ai có thể chữa bệnh cho Dương Hoán thì ra đây trổ tài với ta. Ông Khổng Lồ hỏi mấy lần không ai trả lời. Ông Khổng Lồ cho người đun sôi vạc dầu bảy ngày bảy đem, sau đó cho 100 cây để vào chén úp lại để cạnh vạc dầu. Ông cho quân lính đóng 100 cây đinh vào cột gỗ lim và bảo các danh y ai là người dùng hai ngón tay nhổ được 100 cây đinh từ cột gỗ lim ra người ấy sẽ chữa khỏi bệnh cho Dương Hoán. Không ai trả lời. Ông ung dung bước lại gần, dùng hai ngón tay nhẹ nhàng rút ra 100 cái đinh. Mọi người chứng kiến đều khiếp phục sức mạnh phi thường của vị sư. Lần thứ hai ông lại hỏi: Ai là người có thể chữa được bệnh cho Dương Hoán. Không ai trả lời. Ông sai người lấy một chiếc vạc dầu, cho vào đấy những cây thuốc mà ông mang theo từ Vườn Sinh Dược, đun sôi ba ngày ba đêm. Ông cho thêm 100 cái kim vào vạc đang sôi. Sau đó cho Dương Hoán ra. Ông thò tay vào vạc đun thuốc đang sôi. Vớt một lượt 100 cây kim ra, đầu nào ra đầu ấy. Ông ấy tay múc dầu đang sôi tưới lên mình Dương Hoán và đồng thời cắm 100 cây kim lên người Dương Hoán. Tự nhiên lông lá biến mất, Dương Hoán không còn gầm rú nữa mà trở thành người. Nhà vua biết ơn ông Khổng Lồ, mở tiếc thiết đãi linh đình. Phong cho ông là Lý triều Quốc Sư và tha thuế dịch cho vài trăm hộ ban cho Minh Không". Dương Hoán sau này lên ngôi - vua Lý Thần Tông.

(Cụ Phạm Văn Hướng, 69 tuổi - chùa Bái Đính cổ tự kể lại)

16. Chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tông

Truyện kể rằng, tuy ở ngôi lâu năm, vua Lý Nhân Tông không có con trai để nối dõi. Ông nhận nuôi một người cháu là Lý Dương Hoán rồi lập làm thái tử. Dương Hoán được vua Lý Nhân Tông truyền ngôi cho từ khi mới 12 tuổi, lấy niên hiệu là Lý Thần Tông. Đến năm 20 tuổi, vua phát hiện bệnh lạ: Cả người mọc đầy lông, kêu la thoảng thốt, lâu lâu lại gào to như tiếng hổ gầm…Bấy giờ hoàng tộc và triều thần tìm mọi cách chữa chạy nhưng lương y cũng như đạo sĩ đương thời đều không chữa được. Bệnh vua ngày càng trầm trọng, la hét gầm rú dữ tợn hơn, buộc triều đình phải làm một cái cũi vàng để nhốt vua, rồi tiếp tục sai quan quân đi khắp nước tìm thầy chữa trị. Minh Không bèn dạy cho trẻ hát đồng dao “Muốn thày chữa bệnh phải tìm được Nguyễn Minh Không”. Quan quân triều đình nghe vậy bèn sai người chuẩn bị lễ, trăm người theo hầu đến chùa Viên Quang đón Nguyễn Minh Không. Đoàn tùy tùng đi hai tháng mới đến nơi. Nguyễn Minh Không bèn nấu nồi cơm nhỏ để quan quân ăn. Quan quân trông thấy nồi cơm nhỏ nhìn nhau cười. Đến lúc ăn, hơn một trăm người đều no mà nồi cơm vẫn đấy. Khi cả đoàn tùy tùng, quan quân ăn no. Ông lấy cái đũa cả gõ ba cái vào thành nồi cơm, tự nhiên trong nồi hết cơm. Quan quân ăn xong, Nguyễn Minh Không bảo quan quân cứ nghỉ ngơi, ngủ cho lại sức. Khi quan quân lên thuyền (Bến Bia ngày nay) ngủ, Nguyễn Minh Không làm phép rút đất, chỉ một lát cả đoàn tùy tùng hàng trăm người đã đến kinh thành Thăng Long. Quan quân

ai nấy đều cảm tạ, bái phục. Nguyễn Minh Không mặc áo cũ đi vào trong cung. Khi vào đến trong cung, ông thấy có hàng trăm nhà sư, thày thuốc.. quần áo đẹp đẽ ở đấy để chuẩn bệnh. Thấy Nguyễn Minh Không có vẻ quê mùa, lam lũ bèn nhìn nhau cười, tỏ ý khinh thường. “Đồ kim khí còn chưa là gì huống chi là đồ thổ khí” Nguyễn Minh Không biết ý bèn lấy một chiếc đinh sắt ba tấc, đóng vào cột lớn và bảo mọi người rằng: “Người nào nhổ được chiếc đinh này sẽ chữa được bệnh cho thiên tử”. Cả trăm nhà sư, thày thuốc ai cũng ra sức nhổ đinh nhưng không ai nhổ được. Nguyễn Minh Không dùng hai ngón tay nhổ đinh rất nhẹ nhàng. Tất cả mọi người nể phục, cầu xin Nguyễn Minh Không chữa bệnh cho nhà vua. Nguyễn Minh Không sai người nấu vạc dầu sôi, ba ngày ba đêm. Minh Không chỉ Lý Thần Tông nghiêm giọng bảo rằng: “Đã làm vua sao nợ cũ không sớm trừ bỏ đi mà để phát bệnh này?” Ngài bèn túm Thần Tông, miệng niệm thần chú, ném Thần Tông vào vạc dầu sôi một lúc sau đưa ra. Nhà vua bình an vô sự, bệnh lạ cũng khỏi. Thần Tông mở đại tiệc và tôn Minh Không là Quốc Sư thưởng cho hơn nghìn kim ngân châu ngọc. Minh Không đều từ chối không nhận. Vua Thần Tông nói:

- Nhà sư đã chữa khỏi bệnh cho Trẫm, công to như núi, đức rộng như biển không thể nói hết được. Nay ý Quốc sư như thế nào. Trẫm nhất định sẽ làm theo.. Minh Không đáp.

- Của cải thần không thiếu thốn. Nay chỉ xin được từ Sơn Tây, dưới đến Hoan Châu có người dân nào thì đều là thần tử của thần. Ngày sau họ sẽ vì thần mà hương khói ở chốn quê nhà. Cùng với bản hương Đàm Xá ở Ái Châu là quê ngoại ở Phả Lại xin bệ hạ miễn cho các việc quân binh, thuế thân. Như vậy là cho thần ấp thang mộc rồi. Nhà vua hạ chiếu đồng ý cho được như nguyện. Nguyễn Minh Không bái biệt nhà vua trở về Đàm Xá.

(Anh Đào Anh Dũng, 41 tuổi - Thành phố Ninh Bình kể lại)

17. Truyền thuyết về sự ra đời của Nguyễn Minh Không

Thời ấy, nước Đại Việt ta có hương Đàm Xá, huyện Gia Viễn, Phủ Trường An, Ái Châu có một nhà họ Nguyễn tên Sùng. Sùng Công là người có tư chất siêng năng, thông minh nhưng học hành không thành đạt bèn tạm biệt gia hương dòng tộc đi chu du thiên hạ. Một ngày Sùng công đến Phả Lại thấy có một phú gia tên Vương Công Tiệp, pháp môn diệu thủ, y số chân truyền bèn xin vào nhà ở. Dương Công Tiệp đồng ý. Trước đó vợ của Dương Công Tiệp là Nguyễn Thị Cẩn, sinh được một người con gái đặt tên là Mỹ Nương. Nàng là người có nhan sắc, lại hiếu thuận. Đến năm ấy đã hai mươi tuổi mà kẻ cao tài bắn se vẫn chưa gặp. Thơ đào yêu còn chưa có ai ngâm đàn. Gặp khi Sùng công đến ở nhờ đã vài năm Dương Công thấy Sùng Công ngôn ngữ nhu hòa, cử chỉ cẩn thận tinh thông văn tự nên đã gả con gái cho. Vừa qua một năm, vợ chồng Dương Công Tiệp bị bệnh qua đời. Sùng Công là con rể nhưng mai táng cúng tế như cha mẹ mình.

Công việc tang ma đã xong. Vợ chồng trở về cố hương Đàm Xá làm nghề chài lưới mưu sinh. Nhà tuy nghèo túng nhưng ông bà đều lấy sự bố thí rộng rãi thể hiện tấm lòng và lấy sự từ bi làm tâm niệm, thấy người đói rét thì cứu giúp, gia tâm làm việc phúc.

Một hôm tiết trời ấm áp, gió xuân thổi trong sắc trời trong sáng, hai vợ chồng Sùng công ngọa nhàn ở chỗ hiên tây vắng vẻ. Trong lúc mơ màng ngủ, bỗng thấy một ông lão tóc bạc cưỡi trên lưng một con trâu vàng từ trên trời mà xuống tự xưng là Thái Thượng Lão Quân. Bảo hai người rằng:

- Vợ chồng ngươi hẳn muốn có phật tử.

Vợ Sùng công là Dương thị đáp rằng:

- Muốn nhưng không biết làm thế nào được

Thái thượng bảo:

- Ngươi dám nuốt con trâu này tất có được điều đó.

Dương thị ở trong cõi mộng, hai tay ôm con trâu vàng hết sức mở miệng nuốt trôi con trâu vàng. Lúc đó hai vợ chồng rất bàng hoàng và tỉnh dậy. Từ đấy Dương thị chuyển động tâm thần có thai. Dương thị mang thai mười ba tháng. Đến ngày 15 tháng 10 năm Quý Sửu sinh hạ được người con trai khôi ngô tuấn tú, khi chất mạnh mẽ. Trên tay có một dấu ấn vuông, trên trán có chữ son Phật Tử… Lúc Dương thị sinh có một đám mây vàng bay trên trời. Trên mái nhà có khí lành bay phủ, hương tỏa thơm phức. Sùng công đặt tên con là Minh. Con trai lớn lên ngày càng ngoan ngoãn, lễ phép, hiếu thuận với cha mẹ Sùng công đổi tên con là Chí Thành.

(Ngọc phả Thiền sư Nguyễn Minh Không - lưu truyền tại đền Thánh Nguyễn)

Trường An 8 Gia thần, dân chúng, phụ lão ở các ấp đều ăn uống. Ngài mời

18.Truyền thuyết Nguyễn Minh Không hóa. Một ngày thiền sư trở về chỗ ở nơi bản hương Đàm Xá, mở tiệc rượu trong phủ mọi người uống rượu say rồi có lời rằng:

- Ta từ khi cắt tóc, trường trai, quy đầu phật đạo, tự nguyện chân tu, sớm mõ tối chuông, đầu đội mũ phật, miệng tụng thiên kinh giải trừ khổ nạn thế giới sa bà. Nhìn thấy trần ai, tất là cửu huyền thất tổ nghe kinh nghe kệ, thực được siêu sinh. Như vậy với ta cũng đạt được là hiếu rồi. Nay nợ trần gần trả xong, sớm tối ắt chầu phật tổ, ta mới thỉnh chuông ly biệt tổ sư. Nay ta phó thác mỗi người ba trăm thanh tiền để ngày sau hương hỏa. Mọi người dân, gia thần đều hành lễ bãi tạ lĩnh mệnh. Đương lúc ấy, bỗng nhiên thấy ngài nhắm mắt, sấm mây đại tác, tứ linh thẳng xuống, bách thú đến chầu ở trên không trung. Trong tiếng gió nghe như có tiếng đàn véo von. Ngày ấy Minh Không hóa.(ngày 12.6). Vua Lý Thần Tông nghe tin, thân chinh xe giá đến, tôn phong ngài là Quốc Pháp Thiền Sư. Nhà vua hạ lệnh thần dân thiên hạ, gia thần trong ấp, tất cả dân Đàm Xá hành lễ ở nơi Minh Không hóa, rước thần hiệu ngài về lập thần miếu để thờ

phụng.. Từ trên Sơn Tây đến Ái Châu đều thờ phụng, lấy Đàm Xá là nơi thờ chính.

(Ngọc phả Thiền sư Nguyễn Minh Không - lưu truyền tại đền Thánh Nguyễn)

19. Người con đỡ đầu của đức Thánh Nguyễn

Dưới thời vua Lý Anh Tông, ở xã chung Dục, huyện Hoàng Hóa phủ Hà Trung, Ái Châu 8 có một người thế bản cầu cớ, gia truyền y bát, họ Tô, tên Trung vợ là Nguyễn Thị Đoan. Hai vợ chồng Tô Trung luôn tích đức hành nhân, tam sinh hương hỏa, rất mực phong lưu, ung dung thừa thãi. Vợ chồng kết tóc se tơ từ thuở mười sáu. Nay đã bốn mươi hai mà phòng lan chưa thấy sinh hương, nhà quế im lìm không một đóa. Lúc ấy Trung công làm quan lệnh Doãn ở phủ Trường An nghe nói ở làng Đàm Xá có đền đức thánh Nguyễn rất linh ứng, cầu gì sẽ được như ý. Hai vợ chồng Trung công chuẩn bị lễ đến đền làm lễ cầu đảo xin đức thiền sư mở rộng tâm điền, giáng phép huyền diệu ban cho một mụn con. Lễ cầu đảo vừa xong cũng là lúc trời tối. Trung công lưu lại trong đền. Đến cuối canh ba mơ mơ tựa mộng thấy thiền sư cưỡi hạc trắng từ phương tây đến. Thiền sư ngồi trên điện, chỉ Trung công bảo rằng:

- Nhà ngươi tích đức đã nhiều năm, tất có sung lư lệnh tử. Số nhà ngươi đến năm năm mươi lăm tuổi mới có con. Nay người đã thành tâm cầu đảo đến ta, ta tất sẽ tâu lên thượng đế sớm cho được sinh con. Trung công tỉnh dậy, biết đó là điềm lành bèn sai người làm lễ bái tạ rồi mới trở về phủ. Vừa được trăm ngày, Trung công lại mộng thấy một lão nhân từ trên trời xuống, hai ty ôm một thanh đông. Lão nhân nói rằng:

- Thượng đế nghe thiền sư Nguyễn Minh Không nói nhà ngươi phúc hậu mà thành tâm. Nay ta cho một đồng tử, tên gọi Hiến Thành. Ngày sau tất có tài phù giúp nước, tế thế an dân, được nêu danh muôn đời. Từ đó bà Nguyễn Thị Đoan mang thai. Trung công vui mừng khôn tả, bèn dựng một ngôi nhà bên cạnh đền đức Minh Không cho vợ ở đấy ngày đêm nhang đèn trong đền. Ngày mùng mười tháng ba năm Đinh Hợi, bà Nguyễn Thị Đoan sinh hạ một đứa con trai diện mạo khôi ngô tuấn tú gióng thanh đồng trong mộng. Trung công bèn làm lẽ tam sinh, bái tạ thiên sư Minh Không. Trung công đặt tên con là Hiến Thành9

(Ngọc phả Thái sứ Tô Hiến Thành - lưu truyền tại đền Thánh Nguyễn)

8 Thuộc tỉnh Thanh hóa ngày nay

9 Tô Hiến Thành làm quan đại thần phụ chính nhà Lý, phụng sự hai triều vua: Lý Anh Tông và Lý Cao Tông.

Ông là viên quan văn võ song toàn, nổi tiếng là công minh chính trực, được vua phong tước vương mặc dù không

phải tôn thất nhà Lý.

20. Sự tích Vũng Ông Khổng

Thuở sinh thời, ông Khổng Lồ nghèo lắm. Ngày ngày ông thường bắt lươn, bắt cua, bắt cá ở các cánh đồng Gia Viễn, sông Hoàng Long để kiếm sống. Có những năm đồng ruộng bị ngập lụt luôn nước lên mênh mông ông đi bắt cá ở trên các sông ở vùng lân cận núi Ba Dội 10 Thần Phù, 11 các sông ở Nam Định. Ông Khổng Lồ bắt được nhiều hay ít cá, tôm đều mang về chợ chùa Viên Quang 12 chợ Lẫm để bán để lấy tiền mua gạo. Ở chợ Lẫm 13 có một bệ đá cao hai thước vuông, mỗi bề tám thước tương truyền đó là nới ông Khổng Lồ ngồi bán cá. Ở phái bắc chợ, phái nam chợ là con sông Trà Đậu là nới ông Khổng Lồ thường ngâm cá ở đấy (Giữ những con cá đã đánh được còn sống). Một lần nọ khi ông Khổng Lồ xách giỏ mang cá đi bán đi qua địa phận xã Dao Cù ba con cá nhẩy ra. Ông Khổng Lồ tức giận, lấy chân di di vào ngực cá. Một con cá chết không hóa được. Người dân gọi là con cá Ngã. Hai con cá còn lại lập tức thì biến thành hai con long mã. Sẹo trên ngực chúng thành hai vũng sâu. Đến này vẫn còn hai vũng sâu đó rộng chừng tám thước, sâu hai thước tục gọi là Vũng ông Khổng 14

(Chị Phạm Hương Lan, 40 tuổi - Huyện Gia Viễn - Giáo viên lịch sử kể lại)

21. Chuyện thiền sư Nguyễn Minh Không

10 Ba dội thuộc huyện Tống Sơn, tỉnh Ninh Bình

11 Thần Phù thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa

12 Chùa Viên Quang ở xã Nghĩa xã , Huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định, ệ cổ có câu

“Rạng ngày mai Thánh đổ đó

Đến ban tối bán chợ Viên Quang

13 ChợLẫm thuộc xã Tây Lạc, huyện Nam Trực, tỉnh Nam ĐỊnh

14 Vũng ông Khổng thuộc huyện Trực Ninh Nam Định.

Nguyễn Chí Thành sinh ra trong một gia đình nông dân làm nghề chài lưới ở Đàm Xá. Tính tình nhân hiếu chí thành, sau này được thân phụ đổi tên là Nguyễn Minh Không. Sau khi cha mẹ mất, Nguyễn Minh Không là nghề chài lưới mưu sinh kiếm sống và ngao du sơn thủy. Đến năm 1104, Nguyễn Minh Không 29 tuổi bỏ nghề chài lưới chuyên tâm học thiền ở ông cư sĩ Bảo Tài. Đến năm 1112, Nguyễn Minh Không 42 tuổi đang theo học Thảo Đường thiền sư. Được thày khen có cốt cách phi phàm, sau xứng đáng làm pháp tự, người kế tục sự nghiệp đứng đầu thiền phái Thảo Đường. Đến năm 1119, Nguyễn Minh Không 44 tuổi đến cư trú tại thôn Đô Bồ, học thày Hà Trạch chùa Mục Ngưu. Quyết chí tu hành. Giữ mình ngũ giới tam quy, tụng kinh niệm phật. Đến mùa xuân năm 1120, Nguyễn Minh Không cùng với ông Giác Hải lên Sơn Tây kết giao với Ông Từ Đạo Hạnh ở chùa Thầy. Ba ông kết nghĩa anh em. Ba ông đồng lòng sang Tây Trúc học đạo. Cuộc hành trình vất vả kéo dài mấy năm trời. Họ đã trèo qua bao nhiêu là núi rừng, lội qua bao nhiêu là sông suối, ốm đau, đói khát, rách rưới, họ vẫn không chịu nản. Một hôm, bỗng gặp một ông cụ chở chiếc

thuyền độc mộc ở giữa sông. Họ gọi lại hỏi đường. Ông cụ cho biết là theo con đường sông này sang quê hương Phật tổ thì không còn bao xa nữa. Ông cụ còn sẵn lòng chở họ đến nơi. Mừng quá, cả ba người xuống thuyền và thuyền đi nhanh vùn vụt chả mấy chốc đã đến đất Phật. Ông cụ lái đò chính là đức Phật Như Lai. Biết có người mộ đạo từ phương xa thành tâm học đạo nên đức Phật hiện xuống, dùng phép thần thông đưa họ đi. Nhưng khi nghe nói mục đích học đạo của Từ Đạo Hạnh để trả thù cho cha thì đức Phật không bằng lòng. Cho nên khi đến nơi, ông cụ lái đò bảo Từ Đạo Hạnh ở lại trông thuyền cho hai anh em lên thăm dò trước đã rồi có gì sẽ báo lại sau. Đức Phật truyền cho tất cả các thuật biến hóa huyền diệu cho Nguyễn Minh Không và Giác Hải. Hai ông đắc đạo cúi đầu lạy tạ đức Phật rồi lên đường về nước. Từ Đạo Hạnh ngồi chờ mãi không thấy, Nguyễn Minh Không và Giác Hải trở lại trong lòng vô cùng lo lắng. Bỗng có một bà cụ xuất hiện xin sang sông. Chàng vui lòng chống đò giúp bà cụ. Luôn tiện chàng hỏi thăm: Cụ có thấy một ông già và hai chàng trai đi về phía ấy không? Bà cụ trả lời hai người kia tu hành đắc đạo trở về rồi. Nghe nói thế, Từ Đạo Hạnh đoán chắc bà cụ này không phải là người phàm trần, vội sụp lạy kêu nài: Xin cụ rủ lòng thương cho, ban cho phép thuật để trả thù cho cha. Bà cụ vốn là một vị Bồ tát được đức Phật sai đến đây, bèn trả lời: Nếu lấy oán báo oán sẽ không tránh khỏi "nghiệp báo". Nhưng vì người có lòng thành khẩn nên ta cũng truyền cho.Thế là từ đó Từ Đạo Hạnh cũng biết một số phép thần thông. Từ Đạo Hạnh dùng phép rút đất vượt lên phía trước, rồi hóa thành một con hổ để cho hai người hoảng sợ. Nguyễn Minh Không nói: Muốn làm kiếp ấy rồi sau được làm. Nghe thế Từ Đạo Hạnh giật mình tỉnh ngộ. Khẩn khoản nhờ Minh Không và Giác Hải giúp đỡ anh qua khỏi "nghiệp chướng". Thế rồi ông lên đường về nước. Lần này, họ đi vùn vụt như tên, chả mấy chốc mà trước mắt họ đã thấy sông Lô núi Tản. Ba người chia tay nhau. Nguyễn Minh Không và Giác Hải về quê hương. sau đó lại lập nhiều chùa ở Phả Lại (Bắc Ninh), Giao Thủy (Nam Định), Vũ Thư (Thái Bình)... để tu hành. Khi vua Lý Thần Tông bị bệnh hóa hổ. Thiền sư đã dùng cây thuốc ở Vườn Sinh Dược chữa bệnh cho vua Lý và được nhà vua phong Lý Triều Quốc sư. Trong suốt cuộc đời, Nguyễn Minh Không đã dựng tới 500 ngôi chùa trên đất Đại Việt.

(Anh Phạm Hoàng, 45 tuổi - Huyện Kim Sơn kể lại)

Danh sách khảo sát viên

Người được khảo sát

STT 1 2 3 4 Cụ Phạm Văn Hướng, 69 tuổi - Chùa Bái Đính cổ tự Bác Dương Văn Túc, 53 tuổi - Huyện Hoa Lư Nguyễn Xuân Tiệu, 68 tuổi - Đền Thánh Nguyễn Cụ Tạ Văn Quế, 60 tuổi Huyện Yên Khánh - Yên Khánh

5 6 7 8 9 Anh Nguyễn Văn Sơn, 46 tuổi - Tam Điệp Cụ Nguyễn Kim Khánh, 81tuổi Huyện Gia Viễn Chị Phạm Hương Lan, 40 tuổi - Huyện Gia Viễn Anh Phạm Hoàng, 45 tuổi - Huyện Kim Sơn Anh Đào Anh Dũng, 41 tuổi - Thành phố Ninh Bình kể lại

Phụ lục 2 Tài liệu tham khảo đã thành văn

1. Ông Khổng Lồ ghánh núi

Ngày xửa ngày xưa, khi trời đất mới hình thành, vùng Ninh Bình chưa có con người. Chỉ có núi rừng và thú dữ. Mãi về sau trời mới cho một người đàn ông và một người đàn bà xuống ở, lại cho một nắm thóc giống để gieo trồng. Hai người ở với nhau, sinh con đẻ cái ngày một đông đúc rồi chia nhau thành các làng bản để ở.

Họ phát nương làm rẫy, cấy cày, săn bắn, đánh cá để sinh sống. Các cánh

đồng ngày một dài rộng thêm ra. Làng bản ngày một đông đúc.

Một ngày kia, tự nhiên đất chuyển động ầm ầm. Ngồi ở trong nhà mà tròng trành như ngồi ở trên thuyền. Đất rung càng mạnh, nhà cửa đổ sập hết. Sáng hôm sau, mọi người dậy thì đã thấy núi mọc chi chít, dày đặc trên mặt đất. Núi mọc khắp cả ruộng đồng, ngăn cách các làng bản. Việc đi lại, cấy cày, làm ăn vô cùng vất vả.

Lúc đó ở làng Điềm Giang 1 có một người cao lớn phi thường, chuyên lội qua các dòng sông, các ngọn núi để hái thuốc chữa bệnh, người ta gọi ông là ông Khổng Lồ. Ông đi khắp nơi trong thiên hạ để tìm các loại cây, loại lá về làm thuốc trị bệnh. Ông trồng cả một vườn thuốc quý gọi là vườn Sinh Dược 2 để chữa bệnh cho người đời.

Dân các nơi bàn nhau đến kêu với ông về nỗi khổ do núi non mọc hết các cánh đồng, chặn ngang đường đi lối lại, chặn mất các dòng sông đánh cá. Mọi người tìm đến thì người nhà ông nói ông đã dựng chùa thờ Phật, đi tu trên núi Dương Sơn 3 mấy tháng rồi.

Dân lại kéo nhau lên núi Dương sơn gặp ông Khổng Lồ để nhờ ông giúp

đỡ. Ông Khổng Lồ nói: - Mọi người đừng gọi tôi là Khổng Lồ nữa. Tôi đã quy y đầu Phật lấy pháp danh là Không Lộ thiền sư. Không Lộ cất quần áo nâu sồng, tràng hạt, xuống núi để giúp dânylàng.

Ông gánh các quả núi xếp gọn về phía tây, phía bắc, dọn sạch đồng nương cho dân trồng cấy. Bởi vậy, bây giờ núi mới xếp hàng thành dãy ở cả phía tây, phía bắc như ngày nay. Lại nói, ông Khổng Lồ gánh đến gánh cuối cùng thì đòn gánh bị gãy, núi bắn tung toé ra khắp nơi, nên bây giờ ở các huyện Gia Viễn, Nho Quan, Hoa Lư, Yên Mô,Tam Điệp mới có những quả núi đứng giữa đồng, giữa bãi như vậy. Có một quả núi ông bỏ thêm vào cho cân hai bên gánh, bây giờ bắn ra thành núi một giữa đồng, dân gian gọi là núi Đồng Cân (ở xã Ninh Khang, Hoa Lư); một quả núi bắn xa nhất ra biển gọi là Hòn Nẹ 1

Gánh xếp lại núi non xong, ông Khổng Lồ lại lên chùa trên núi Dương Sơn

tiếp tục tu hành. Đường đi lại dễ dàng, đồng ruộng phong quang, đời này qua đời khác, ai cũng nhắc nhớ công ơn ông Khổng Lồ.

2. Ông Khổng Lồ bắt lươn

Thuở sinh thời, ông Khổng Lồ nghèo lắm. Ông chỉ có cái khố che thân. Ngày ngày ông thường bắt lươn, bắt cua ở các cánh đồng Gia Viễn để kiếm sống. Đồng ruộng thường hay bị ngập lụt luôn. Nước lên mênh mông, lúa ngô mất trắng. Mọi người chỉ mò cua bắt ốc kiếm sống.

Ở vùng Gia Viễn có loại lươn núi và cua núi rất to, chúng thường ở sâu trong các hang động núi đá vôi. Loại lươn, cua núi này chỉ có ông Khổng Lồ mới bắt được. Đến nay, ở các núi của vùng Gia Viễn, Hoa Lư, Nho Quan có nhiều hang động là dấu tích những lỗ lươn, mà cua, do ông Khổng Lồ bắt. Ở Gia Sinh(1) còn hang núi Lỗ Lươn, bên cạnh có hai hố to tròn tròn là dấu tích hai vết đầu gối ông Khổng Lồ quỳ khi bắt lươn. Gần đó lại có ba trái núi lớn chụm đầu vào nhau gọi là núi Đầu Rau, đó là chỗ bắc bếp đun nấu của ông Khổng Lồ. Ít lâu sau, ông Khổng lồ đi tu luyện đắc đạo, lấy hiệu là Minh Không.

Hôm ấy, trời đã gần tối, ông Khổng Lồ gặp một cô gái ngồi khóc nức nở trên bờ sông Hoàng Long. Ông hỏi: “Vì sao con khóc?”. Cô gái nói trong nước mắt: “Con mồ côi cha mẹ từ sớm, hàng ngày chỉ mò cua, bắt ốc để sinh sống, nhưng cua, cá, lươn đều to quá, con không thể bắt được”. Ông Khổng Lồ nói: “Ta sẽ giúp con”, rồi ông niệm thần chú. Tất cả cua, cá lươn... đều nhỏ bé lại.

Từ đó không ở đâu còn lại cua, cá, lươn... to như thời ông Khổng Lồ bắt

nữa, mà chúng chỉ nhỏ bé như bây giờ.

3. Đan sọt gánh nước

Dạo ấy, trời làm hạn to. Đồng ruộng nứt nẻ. Lúa khoai chết hết. Ở vùng đất hai huyện Yên Mô và Yên Khánh bây giờ lại càng hạn nặng. Dân chúng đã lập đàn tế thần, tế trời, cầu mưa rồi mà vẫn chẳng thấy có một giọt mưa nào. Ông Khổng Lồ lúc ấy đang giăng chỉ ở giữa cửa biển Thần Phù để bắt cá, thấy vậy thương tình, liền bảo dân chúng về chặt tre các làng dồn lại cho ông. Mọi người chưa hiểu ra sao nhưng cũng cứ làm theo lời ông dặn.

(1) Gia Sinh thuộc Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.

(2) Trái núi ngoài biển thuộc vùng biển Kim Sơn – Nga Sơn (Thanh Hóa)

Tre chặt dồn lại thành một đống to như trái núi. Ông Khổng Lồ đan thành đôi sọt lớn rồi lấy giấy phất ra bên ngoài. Ông lấy dây rừng làm quang, chặt cây gỗ to làm đòn gánh, rồi quẩy đôi sọt ra cửa bể Thần Phù gánh nước tưới cho các cánh đồng. Ông gánh nặng đến nỗi đi đến đâu lún cả đất xuống đến đấy. Có lúc, ông ngã quỵ hai đầu gối. Đến nay, ở các làng và các cánh đồng của hai huyện

Yên Mô, Yên Khánh có nhiều ao hồ là dấu vết chân của ông Khổng Lồ gánh nước. Có những chỗ có hai cái giếng, hai cái hồ liền nhau, là dấu vết đầu gối khi ông bị ngã.

4. Nút đó và lò nước của ông Khổng Lồ

Hồi ấy, sông Hoàng Long rất nhiều cá tôm. Ông Khổng Lồ thường đặt một cái đó rất lớn để đơm cá ở ngã ba sông. Lúc bấy giờ, rừng lại hiếm cái ăn nên hùm đói lắm, chỉ nhằm nhằm đổ trộm đó của ông Khổng Lồ để ăn. Có lần, ông vừa đặt đó được một lúc thì hùm đã mò ra đổ đó. Chỉ loáng một cái là người ta đã thấy con hùm dốc ngược cả cái đó vào miệng, bao nhiêu tôm cá đều vào bụng nó hết. Nên người ta nói “Ăn như hùm đổ đó” là vậy.

Bị hùm đổ trộm đó liên tục, ông Khổng Lồ vô cùng tức giận, liền nghĩ ra một cách, lấy một hòn đá to để nút miệng đó lại. Hùm vẫn không chịu. Chúng gầm gọi cả đàn ra để tháo nút đó. Thành ra Khổng Lồ vẫn bị mất trộm cá. Ông phải ăn ngủ ngay tại chỗ để coi đó. Thế là ông đun nấu, ăn ngủ ngay trên bờ sông. Cả một cái suối lớn ông đun sôi sùng sục để thịt gà và nấu nướng.

Cá ở khúc sông này đơm mãi cũng hết. ông chuyển đó đi đơm nơi khác. Nút đó ông vứt lại thành quả núi một gọi là Nút Đó ở ngã ba sông 1. Suối ông Khổng lồ đun sôi để thịt gà, đến nay nay vẫn còn nóng, dân gian gọi là suối Canh Gà, lâu dần gọi là Kênh Gà 2.

5. Sự tích núi Kẽm Đó

Ngày xửa ngày xưa, biển và rừng còn giáp nhau, lại chưa có đê điều ngăn biển như bây giờ. Mỗi lần thuỷ triều lên, tôm cá lại theo nước lên đất liền nhiều vô kể. Ông Khổng Lồ bèn nghĩ cách để bắt cá. Ông đi khắp nơi vác đất đá, đắp một cái bờ lớn để ngăn cá, ở giữa đặt một cái đó lớn. Thế là bao nhiêu cá dưới biển theo thuỷ triều lên đất liền hoặc khi nước rút, đều vào đó của ông Khổng Lồ cả. Vì vậy ông ăn uống rất sung túc, lại còn cá để bán hoặc đổi lấy thóc gạo.

Dấu tích cái bờ ông đắp để đơm đó là dải núi Tam Điệp, còn chỗ ông đặt đó tại đoạn núi Tam Điệp đứt quãng nay thuộc phường Nam Sơn1 gọi là Kẽm Đó. Các cụ đồ nho thì gọi đây là Không Lộ Cẩu Khẩu (Cửa Đó của thầy Không Lộ) 2. Sau này, nhờ có Cửa Đó mà người ta mới có thể mở được đường Thiên lý ra Bắc vào Nam qua dãy núi Tam Điệp.

Hai bên Cửa Đó có rất nhiều đá trắng hình thù như những mảnh xương cá,

người ta bảo đó là xương cá của ông Khổng Lồ vứt lại đã hoá đá.

6. Sự tích núi con mèo

Ông Khổng Lồ thuở sinh thời thường ngồi câu cá ở sông Hoàng Long. Khi đi câu bao giờ ông cũng cho con mèo đi cùng và còn mang theo cả lọ mẻ để nấu

dấm nữa. Chỉ có điều, con mèo này rất hay ăn vụng, ông đã đánh cho bao nhiêu lần mà nó vẫn không chừa. Dạo ấy, đang mùa nước to, nên câu được con cá cũng rất khó khăn.

Một hôm, ông ngồi từ sáng đến gần trưa mà chỉ giật được dăm con cá. ông để cá bên cạnh lọ mẻ cho chú mèo coi, định bụng sẽ giật thêm vài ba chú cá nữa mới bõ nấu dấm chua. Đã quá giờ ngọ rồi mà ông chẳng câu thêm được con cá nào. Bụng đói, réo ầm ầm. Ông chống gối đứng dậy để đi bắcnbếp.

Khi ông đến bên lọ mẻ thì chẳng thấy cá đâu, chỉ thấy chú mèo đang vuốt râu tém lưỡi liên hồi. Hiểu rõ sự tình, giận quá, ông dang tay tát cho chú ta một cái như trời đánh. Chú mèo chết ngay tức khắc, hoá thành núi đá, hình giống hệt con mèo đang ngồi nhìn về phía sông Hoàng Long. Dân gian gọi là Núi Con Mèo1. Khi ông Khổng Lồ tát con mèo, lỡ tay làm vỡ lọ mẻ, mẻ bắn tung toé ra khắp cánh đồng. Bởi vậy đồng đất Gia Viễn đến bây giờ vẫn cònnchua.

7. Sự tích đồi Ba Rau, Đống Củi và Xó Bếp

Ngày xưa, trong các gia đình nông dân ở nông thôn, bếp đun thường bằng rơm rạ, sang nữa là củi. Người ta lấy đất sét dẻo, nhào nhuyễn rồi đắp thành ba hòn đất bắc nồi, dưới đế to cho chắc chắn, trên chỗ bắc nồi thì thon hơn và hơi khum vào một chút để đỡ nồi. Người ta gọi là Ông Ba Rau hay Ông Đồ Núc.

Đức Thánh Nguyễn thuở sinh thời, khi chưa quy y đầu Phật, ông thường đánh lưới, câu cá trên sông Hoàng Long, một khúc sông chảy qua chân núi Bái Đính. Ông cao lớn và sức khoẻ như Thần, có thể chuyển núi dời đồi nên dân gian gọi ông là Ông Khổng Lồ. Ông Khổng Lồ gánh đất các nơi về đắp thành Ba Rau ngay dưới chân núi Bái Đính để bắc bếp đun nấu. Ba ông Đồ Rau ông bắc bếp nấu cơm, sắc thuốc chữa bệnh cho nhân dân nay thành ba quả đồi lớn nằm ngay phía Đông Bắc, dưới chân núi Bái Đính. Dân gian gọi đây là đồi Ba Rau. Bên cạnh đồi Ba Rau, có một hõm đồi lớn phía Tây là Xó Bếp - nơi ông cất các vật liệu và các thức để chế biến món ăn; hõm đồi phía Tây Bắc nơi ông đựng củi đun gọi là Đống củi. Cả khu đồng phía Đông, cạnh đường lên chùa Bái Đính mới, có rất nhiều đống đá xám, đen, dân gian nói đó là tro than bếp của ông cời ra đến nay vẫn còn.

Ba Rau, Đống Củi, Xó Bếp - những quả đồi cao bên phía Đông Bắc núi Bái Đính - gắn với các huyền tích trên của Ông Khổng Lồ - đức Thánh Nguyễn - nay là khu vực xây dựng chùa bái Đính mới. Đặc biệt, điện Tam Thế lớn nhất khu tâm linh Bái Đính được xây cất ngay trên đỉnh đồi Ba Rau huyền thoại của ông Khổng Lồ xưa.

8. Sự tích bàn Bàn Cờ Ô Thuốc

Ông Khổng Lồ thường hay ngồi đánh cờ với Tiên trên các ngọn đồi quanh vùng Bái Đính. Nhất là những đêm sáng trăng, người ta thấy ông Khổng Lồ ngồi lừng lững đánh cờ với các Tiên từ trên trời xuống. Nơi ông ngồi đánh cờ còn in

hình hai mông của ông trên hòn Đá Táng ở cánh đồng Đồng Bái 15. Trẻ chăn trâu muốn lấy cái may mắn của ông Khổng Lồ thường tranh nhau nằm vào hai lốt mông đó. Cạnh chỗ bàn cờ, ông Khổng Lồ đắp các ô để đựng thuốc hái về chữa bệnh cho chúng sinh và lại đặt cả cối xay lúa và cối giã cua ở đây nữa. Hàng ngày ông làm cua, bã cua ném ra có màu xỉn và nâu xám lẫn lộn trong đất cát đầy khắp cả cánh Đồng Bái đến nay vẫn còn. Tuần phủ Ninh Bình Phan Đình Hoè viết bài thơ khắc bia đá trên động Tiên núi Bái Đính có câu: “Bàn Cờ, ô Thuốc hình như tạc/ Đống Củi, Ba Rau dấu những truyền” chính là nói về sự tích này.

9. Một lời nguyền của ông Khổng Lồ

Ông Khổng Lồ đơm đó ở cạnh rừng thì bị hùm đổ trộm. Ông liền vứt nút đó đi để chuyển lên khúc sông hẹp bên trên đơm đó. Dân ở đây biết ông đơm lần nào cũng được đầy một đó cá, tôm, nên thường dậy từ mờ sáng để đổ trộm đó của ông. Ông tức giận lắm nhưng không bắt được ai đổ trộm đó của mình cả. Ông liền đọc một lời nguyền:

“Đứa nào trộm đó lão này Đến mùa trẩy thuế đi may về nồm”.

Dân làng ấy không hiểu nên vẫn chẳng sợ, cứ tiếp tục đổ trộm đó của ông. Đến tháng Năm, tháng Sáu, nhà vua thu thuế, cả làng phải chở thuyền thóc lên Phủ để nộp. Thật là kỳ lạ, thuyền cứ đến khúc sông này cả đi và về đều ngược gió, đi lại vô cùng vất vả. Lúc ấy mọi người mới vỡ lẽ câu hát nghêu ngao của ông Khổng Lồ khi trước là lời nguyền trừng phạt làng đổ trộm đó của ông. Dân làng tìm để xin ông giải lời nguyền ấy nhưng chẳng thấy ông đâu. Người ta nói ông đã đi tu trên núi Bái Đính, không còn đi đơm đó nữa. Lời nguyền của ông Khổng Lồ chưa giải được, nên đến nay, thuyền bè đi qua khúc sông này không bao giờ thuận buồm xuôi gió cả. Khúc sông ấy cách Bái Đính Sơn nơi ông Khổng Lồ tu hành độ mấy dặm đường 16

10. Sự tích hòn đá Diều công và hai con voi hóa thạch

15 Đồng Bái nay thuộc xã Gia Sinh (Gia Viễn) và xã Sơn Lai (Nho Quan), tỉnh Ninh Bình..

16 Khúc sông ngược gió cho mọi thuyền bè qua lại nơi đây nay thuộc thôn Vân Trình, xã Thượng Hoà, huyện Nho

Quan, tỉnh Ninh Bình. Khúc sông này theo hướng Tây nam -Đông bắc nên cứ vào dịp tháng 5, 6 âm lịch, thuyền

bè đi lại qua đây đều ngược gió.

Ông Khổng Lồ thường có thú chơi diều giấy. Cứ đơm đó, câu cá ở đâu là ông lại mang theo cái diều giấy lớn thả lên trời xanh. Ông ngủ thiếp đi trong tiếng vi vu của sáo diều. Có lần ông buộc giây diều vào một hòn đá to, uống rượu say, rồi nằm ngủ. Bất ngờ một trận gió to, diều lôi tuột cả hòn đá buộc diều bay đi một

quãng dài mới rơi xuống. Tỉnh dậy thấy diều bị gió thổi kéo theo cả hòn đá buộc giây đã xa, ông Khổng Lồ liền đuổi theo. Đuổi được gần tới nơi, nhìn thấy phía trước có hai con voi lớn đang húc nhau kịch liệt. Ông Khổng Lồ liền nhảy vào đẩy hai con voi ra. Hai con voi đang hăng máu lại xông vào húc nhau dữ dội. Ông Khổng Lồ giận quá liền vỗ vào mông mỗi con voi một cái mạnh như trời giáng. Tức khắc cả hai con voi hoá thành núi đá. Ông nhảy lên đầu một con voi đá ngồi. Đến nay, hai con voi hoá đá là núi Nang và núi Quéo ở thôn Vân Trình 17. Gần hòn đá Nút Đó mà ông Khổng Lồ ném nút đó lại khi trước, có hòn đá to, nặng hàng mấy chục tấn nằm chơ vơ gần bờ sông Hoàng Long, đó là hòn đá ông Khổng Lồ buộc diều rơi xuống, dân gian gọi là hòn đá Diều Công. Đến nay, núi hình hai con voi đang quay đầu vào nhau dáng định xông lên tử chiến và hòn đá Diều Công, hòn đá Nút Đó vẫn còn. Trên đầu một con voi đá có tên là núi Nang, dân làng Vân Trình lập đền thờ ông Khổng Lồ để nhớ ơn ông đã ngăn hai con voi không húc nhau, giữ yên làng xóm cho dân. Đền thờ này đến nay khói hương vẫn còn nghi ngút.

11. Động Long ẨN và hang Áng Nồi Ở phía Đông núi Bái Đính, cách núi khoảng 300m theo đường chim bay, có một thung lũng rộng gọi là thung Áng Nồi. Phía Nam thung có một cái ao lớn gọi là ao Áng Nồi, phía đông bắc thung, dưới chân núi, cũng có một cái ao đồng thời là cửa hang, gọi là hang Nước. Ao Áng Nồi và hang Nước quanh năm không bao giờ hết nước. Dân gian truyền rằng, đây là nơi ông Khổng Lồ tắm giặt và rửa nồi niêu bát đĩa. Hang Nước là cửa hang phía tây của một đường hang động xuyên núi đẹp và dài nhất trong các hang động ở Tràng An, từ cửa hang này qua gần 2000m sẽ đến cửa phía bắc là hang Vồng.

Trước đây khi chưa đắp đê Hoàng Long, thường là từ ngày Phật Đản (mùng 8 tháng 4 âm lịch) đến nước tiểu món (20 tháng 4 âm lịch), mưa rào to, nước ngập tràn thung, từng đàn cá chép đỏ, cá trê, cá chày… từ hang Nước, ao Áng Nồi bơi ra nhiều vô kể. Cá cuốn vào nhau đỏ lấp lánh như những con rồng lớn. Cá hóa rồng xuất hiện vào ngày Phật Đản, cũng là từ tích ông Khổng Lồ đơm đó và chài lưới rồi đem cá về thả ở đây, lâu ngày cá thành đàn cá rồng ẩn hiện, nên dân gian gọi là động Long ẩn. Dân địa phương không ai dám đánh bắt cá ở động Long ẩn đây bao giờ, vì cho đó là cá Thần, cá Phật.

2 Thôn Vân Trình nay thuộc xã Thượng Hoà, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, cách núi Bái Đính không xa.

12. Lỗ Lùng Ổ Gà Dưới chân núi Bái Đính, về phía Tây Bắc, có một vụng nước bốn mùa luôn đầy ắp nước. Tương truyền, đây là giếng nước thuở sinh thời ông Khổng Lồ đào để lấy nước thổi cơm, nấu nước, đồ xôi cúng Phật và cũng lấy nước ở đây sắc thuốc chữa bệnh cho chúng sinh. Ông gọi là Lỗ Lùng ổ Gà. Từ Lỗ Lùng này chảy thành dòng đến Lỗ Lùng Quai Vạc (thôn Đính Sơn, xã Gia Sinh), lên Lỗ Lươn

(thôn Đính Chàng, xã Sơn Lai, huyện Nho Quan) là mạch “tiểu long”, nước không bao giờ cạn. Nước từ các khe núi Bái Đính chảy xuống, lọc qua khe đá, rễ cây rừng, qua mạch nước ngầm, nên trong suốt, ngọt như nước mưa, tụ lại Lỗ Lùng. Nước Lỗ Lùng không bao giờ cạn, ngay cả những năm đại hạn. Mặc dù, Lỗ Lùng ở chân núi có độ cao hơn hẳn các vùng đất xung quanh từ 5 đến 7 mét. Người ta gọi đây là “Mắt Rồng”- điểm lộ thiên của long mạch Bái Đính.

Cạnh Lỗ Lùng có một khu đất hõm hẳn xuống, dân gian truyền đây là ổ gà ấp của ông Khổng Lồ. Có một lần, ông Khổng Lồ thịt gà và đồ xôi cúng Phật. Đang làm dở, có mấy người cáng người bệnh đến xin ông chữa gấp. Ông vội vàng bỏ con gà, đĩa xôi đấy để đi bốc thuốc cứu người. Đến nay ở làng Đồi, gần núi Bái Đính, có hai quả núi hình dáng giống hệt con gà và đĩa xôi. Dân gian truyền rằng đó là con gà và đĩa xôi của ông Khổng Lồ bỏ quên hóa thành.

13. Sinh Dược – Vườn thuốc của ông Khổng Lồ Ông Khổng Lồ trong một lần vượt sông Hoàng Long lên núi Bái Đính du ngoạn. Ông đó phát hiện ra động đẹp kỳ lạ trên núi Bái Đính. Hang động đẹp như nơi tiên cảnh, núi lại hướng về phía Tây như chầu về đất Phật Tổ, rừng gài mênh mông vô vàn cây thuốc quý. Ông đã dừng chân ở đây tu hành và hỏi thuốc để cứu độ chúng sinh. Không chỉ hái thuốc có sẵn trên núi, mà ông còn kiếm nhiều loại cây thuốc quý ở các núi rừng quanh vùng về đây để trồng, biến thành một vườn thuốc lớn, ông đặt tên là Vườn Sinh Dược, ở ngay dưới chân núi Bái Đính. Cũng chính từ ý nghĩa này mà cái tên Sinh Dược (thuốc sống) ra đời. Sinh Dược được đặt tên cho cả một thung lũng rộng lớn xung quanh núi Bái Đính.

Lúc bấy giờ, giặc dã, trộm cướp và thú rừng nhiều thường đến quấy nhiễu, phá phách vườn thuốc quý của ông. Ông Khổng Lồ liền đi gánh các quả núi các nơi về xếp xung quanh làm “hàng rào” cho vườn Sinh Dược. Ngài khoanh ranh giới điền thổ và vườn thuốc của mình rồi công bố với dân gian là: “Thượng chí Gảnh Gà, hạ chí núi Khơi, Đá Xẻ, Đá Soi, Lỗ Lươn vi giới”. Đến nay, những địa danh này vẫn còn. Cứ theo truyền thuyết và các địa danh này thì Vườn thuốc của ông Khổng Lồ ngày ấy rộng lớn bao trùm cả hai xã Sơn Lai (Nho Quan) và Gia Sinh (Gia Viễn) bây giờ. Ngay ở xã Sơn Lai hiện nay vẫn còn tên Sơn Dược từ thời cổ, người ta bảo ông trồng thuốc cả trên các dải núi trong vùng mới có đủ thuốc chữa bệnh cứu muôn dân.

14. Truyện thần y chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý Về việc chữa bệnh “hoá hổ” cho vua Lý Thần Tông của Nguyễn Minh Không, dân gian còn lưu truyền rằng: Khi vua Lý Thần Tông mắc bệnh lạ, mình mọc đầy lông vàng, tiếng như hổ gầm, quan quân vô cùng sợ hãi. Triều đình sai sứ giả đi khắp nơi tìm thầy thuốc giỏi về chữa bệnh cho nhà vua. Trong dân gian có lũ trẻ chăn trâu hát: “Bổng bồng bông, tập tầm vông, ở làng Điềm xá, có

Nguyễn Minh Không, chữa được bệnh cho đức Thần Tông”. Nguyễn Minh Không đang tu ở chùa Bái Đính được mời về kinh đô chữa bệnh cho nhà vua. Lúc này, xung quanh nhà vua đang có mặt hàng trăm thầy thuốc và pháp sư danh tiếng trong nước. Nguyễn Minh Không thấy mọi người nhìn mình bằng con mắt nghi ngờ, có người dè bửu, ông liền lấy một cái đinh lớn cắm ngập vào chiếc cột lim bên cạnh rồi nói: “Ai rút được chiếc đinh này ra thì người đó sẽ chữa được bệnh cho nhà vua”. Tất cả các thần y và pháp sư thi nhau nhổ chiếc đinh đó nhưng không tài nào nhổ được. Lúc đó, Nguyễn Minh Không chỉ dùng hai ngón tay kẹp lại, rồi nhẹ nhàng nhổ nhẹ chiếc đinh ra khỏi cột trước con mắt thán phục của mọi người. Tiếp đó, Nguyễn Minh Không nấu một vạc dầu sôi, đoạn vứt một trăm chiếc kim vào đó. Ngài hỏi: “Có ai dùng tay lấy đủ 100 chiếc kim trong này ra không?”. Tất cả đều rùng mình, lắc đầu. Nguyễn Minh Không liền quơ tay một cái, vớt đủ 100 chiếc kim ra khỏi vạc dầu sôi. Ngài lấy nước dầu sôi tắm cho nhà vua, lại lấy kim châm vào các huyệt, dầu dội đến đâu, lông vàng trút hết đi đến đó. Vua Thần Tông trở lại bình thường như trước. Nhà vua, các quần thần và mọi người có mặt ở đó vô cùng kính phục phép lạ của Nguyễn Minh Không. Vua Lý Thần Tông phong tặng ông là Lý Quốc Sư, ban điền ấp cho ông ở Thăng Long, nay là nơi có chùa thờ ông ở phố Lý Quốc Sư (Hà Nội). Nhân dân tôn vinh ông là Đức Thánh Nguyễn

Phụ lục 3 Tư liệu ảnh

Ảnh 1: Phía trước Vọng lâu đền Thánh Nguyễn (ảnh do tác giả luận văn chụp ngày 24.3.2018)

Ảnh 2: Vọng lâu đền Thánh Nguyễn (ảnh do tác giả luận văn chụp ngày 24.3.2018)

Ảnh 3: Cung Tiền đường (ảnh do tác giả luận văn chụp ngày 24.3.2018)

Ảnh 4: Cây đèn đá (ảnh do tác giả luận văn chụp ngày 24.3.2018)

Ảnh 5: Cổng đền Thánh Nguyễn – Phái Đông thuộc xã Gia Tiến (ảnh do tác giả luận văn chụp ngày 24.3.2018)

Ảnh 6: Cổng đền Thánh Nguyễn – Phái Tây thuộc xã Gia Thắng (ảnh do tác giả luận văn chụp ngày 24.3.2018)

Ảnh 7: Cuốn thư tại cung Tiền đường (ảnh do tác giả luận văn chụp ngày 24.3.2018)

Ảnh 8: Bàn thờ Đức Thánh tại cung Tiền đường (ảnh do tác giả luận văn chụp ngày 24.3.2018)

Ảnh 9: Vạc đồng (ảnh do tác giả luận văn chụp ngày 24.3.2018)

Ảnh 10: Gác chuông (ảnh do tác giả luận văn chụp ngày 24.3.2018)

Ảnh 11: Lễ rước cỗ (ảnh do tác giả luận văn chụp ngày 30.3.2018)

Ảnh 12: Hai tế chủ và ban hành lễ (ảnh do tác giả luận văn chụp ngày 30.3.2018)

Ảnh 13: Hai thủ nhang xã Gia Tiến và xã Gia Thắng (ảnh do tác giả luận văn chụp ngày 30.3.2018)

Ảnh 14: Chủ tế dâng sắc phong (ảnh do tác giả luận văn chụp ngày 30.3.2018)

Ảnh 15: Lễ rước cỗ (ảnh do tác giả luận văn chụp ngày 30.3.2018)

Ảnh 16: Nhân dân thành tâm lễ Thánh (ảnh do tác giả luận văn chụp ngày 30.3.2018)

Ảnh 17: Trai tráng khiêng kiệu (ảnh do tác giả luận văn chụp ngày 31.3.2018)

Ảnh 18: Bằng công nhận di tích lịch sử - văn hóa (ảnh do tác giả luận văn chụp ngày 31.3.2018)

Ảnh 19: Đền thờ Nguyễn Minh Không ở khu Tâm linh chùa Bái Đính (ảnh do tác giả luận văn chụp ngày 24.3.2018)

Ảnh 20: Ảnh tác giả Luận văn đi điền dã tháng 3 năm 2018

MỤC LỤC

A. PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề........................................................................................................................ 1

2.1. Vấn đề nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội ..................................................................... 1

2.2. Vấn đề nghiên cứu truyền thuyết Nguyễn Minh Không ................................................ 5

3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 6

3.1. Đối tượng nghiên cứu ..................................................................................................... 6

3.2. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................................... 6

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 6

4.1. Nhiệm vụ ........................................................................................................................ 6

4.2. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................ 6

5. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................................... 7

6. Đóng góp của luận văn .......................................................................................................... 7

7. Cấu trúc luận văn ................................................................................................................... 7

B. PHẦN NỘI DUNG ...................................................................................................................... 8

CHƯƠNG 1 ................................................................................................................................... 8

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG, CƠ SỞ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI ................................................... 8

1.1. Điều kiện tự nhiên, lịch sử, văn hóa ở Ninh Bình .............................................................. 8

1.1. 1. Điều kiện tự nhiên .......................................................................................................... 8

1.1.2. Đặc điểm lịch sử .......................................................................................................... 8

1.1.3. Văn hóa truyền thống ở Ninh Bình .............................................................................. 9

1.1.4. Văn học ...................................................................................................................... 12

1.2. Cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Minh Không ................................................................... 16

1.2.1. Bối cảnh thời đại Nguyễn Minh Không sinh sống ..................................................... 16

1.2.2. Đôi nét về quê hương Gia Viễn - nơi sinh Nguyễn Minh Không ............................... 19

1.2.3. Thân thế nhân vật ...................................................................................................... 20

Tiểu kết chương 1 .................................................................................................................... 24

CHƯƠNG 2 .................................................................................................................................. 25

TRUYỀN THUYẾT VỀ NGUYỄN MINH KHÔNG Ở NINH BÌNH ............................................. 25

2.1. Khảo sát truyền thuyết về Nguyễn Minh Không .............................................................. 25

2.1.1. Thống kê số lượng các truyền thuyết ......................................................................... 25

2.1.2. Đặc điểm của hệ thống truyền thuyết về Nguyễn Minh Không ở Ninh Bình ............. 27

2.2. Hình tượng Nguyễn Minh Không trong truyền thuyết ..................................................... 29

2.2.1. Nguyễn Minh Không là con người đời thường .......................................................... 30

2.2.2. Nguyễn Minh Không in dấu địa danh với quê hương Ninh Bình ............................. 34

2.2.3. Nguyễn Minh Không trên cương vị một người thần y ............................................... 36

2.2.4. Nguyễn Minh Không - ông tổ nghề đúc đồng ............................................................ 40

2.2.5. Nguyễn Minh Không trên cương vị thiền sư .............................................................. 42

2.2.6. Nguyễn Minh Không là nhân vật khổng lồ ................................................................ 46

2.2.7. Nguyễn Minh Không trên cương vị thần linh ............................................................ 48

2.3. Kết cấu .............................................................................................................................. 51

2.3.1. Kết cấu từng đơn vị riêng lẻ ...................................................................................... 51

2.3.2. Kết cấu xâu chuỗi ..................................................................................................... 54

2.4. Mô típ ............................................................................................................................... 57

2.4.1.Mô típ sinh nở thần kì ................................................................................................. 57

2.4.2. Mô típ tướng lạ, tài lạ ................................................................................................ 59

2.4.3. Mô típ chiến công phi thường .................................................................................... 60

2.4.4. Mô típ hóa thân ......................................................................................................... 61

Tiểu kết chương 2 .................................................................................................................... 63

CHƯƠNG 3 ................................................................................................................................. 64

MỐI QUAN HỆ GIỮA TRUYỀN THUYẾT ............................................................................. 64

NGUYỄN MINH KHÔNG VỚI LỄ HỘI ĐỀN THÁNH NGUYỄN ......................................... 64

3.1. Lễ hội đền Thánh Nguyễn ................................................................................................ 64

3.1.1. Lịch sử lễ hội đền Thánh Nguyễn .............................................................................. 64

3.1.2. Thời gian và không gian lễ hội .................................................................................. 65

3.1.3. Tổ chức lễ hội ............................................................................................................ 67

3.1.4. Nội dung phần lễ ....................................................................................................... 70

3.1.5. Nội dung phần hội ..................................................................................................... 77

3.2. Ý nghĩa lễ hội đền Thánh Nguyễn .................................................................................... 78

3.3. Mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội đền Thánh Nguyễn. ........................................ 80

3.4. Lễ hội đền Thánh Nguyễn, tín ngưỡng, phong tục tập quán ở Ninh Bình ...................... 82

3.4.1. Lễ hội đền Thánh Nguyễn gắn với tín ngưỡng .......................................................... 82

3.4.2. Lễ hội đền Thánh Nguyễn gắn với phong tục tập quán ............................................. 85

Tiểu kết chương 3 .................................................................................................................... 87

C. KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 88

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................... 91

Phụ lục 1 Truyền thuyết dân gian về Nguyễn Minh Không .................................................... 95

Danh sách khảo sát viên ........................................................................................................ 107

Phụ lục 2 ................................................................................................................................ 109

Tài liệu tham khảo đã thành văn ............................................................................................ 109

Phụ lục 3 ................................................................................................................................ 117

Tư liệu ảnh ............................................................................................................................. 117