i

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

---------------

NGUYỄN THỊ HẢI

ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGUYỄN NHẬT ÁNH

(QUA BA TÁC PHẨM: CÔ GÁI ĐẾN TỪ HÔM QUA,

TÔI THẤY HOA VÀNG TRÊN CỎ XANH VÀ BẢY BƯỚC

TỚI MÙA HÈ)

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

HÁI NGUYÊN - 2018

THÁI NGUYÊN - 2018

ii

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

---------------

NGUYỄN THỊ HẢI

ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGUYỄN NHẬT ÁNH

(QUA BA TÁC PHẨM: CÔ GÁI ĐẾN TỪ HÔM QUA,

TÔI THẤY HOA VÀNG TRÊN CỎ XANH VÀ BẢY BƯỚC

TỚI MÙA HÈ)

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 8 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Tôn Thảo Miên

THÁI NGUYÊN - 2018

i

LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Tôn Thảo Miên người đã tận tình, tận tâm hướng dẫn em trong suốt quá trình nghiên cứu.

Em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Ban giám hiệu, Khoa sau đại học, Khoa Văn - Xã hội, Ban chủ nhiệm khoa, Trung tâm học liệu, Thư viện - Trường Đại học khoa học - Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.

Cuối cùng em xin bày tỏ lòng biết ơn tới đồng nghiệp, bạn bè và những người thân trong gia đình đã động viên, giúp đỡ tạo mọi điều kiện thuận lợi để luận văn được hoàn thành.

Thái Nguyên, tháng 5 năm 2018

Tác giả

Nguyễn Thị Hải

ii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều trung thực và chưa từng công bố ở bất kì công trình nào.

Thái Nguyên, tháng 5 năm 2018

Tác giả

Nguyễn Thị Hải

iii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt/ ký hiệu Cụm từ đầy đủ

NNA Nguyễn Nhật Ánh

TTHVTCX Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh

CGĐTHQ Cô gái đến từ hôm qua

BBTMH Bảy bước tới mùa hè

iv

MỤC LỤC

TRANG

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1

2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................. 3

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu .................................................................. 11

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ........................................................... 11

5. Phạm vi nghiên cứu ......................................................................................... 12

6. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 13

7. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 13

Chương 1: Văn học thiếu nhi thời kì đổi mới và “hiện tượng” Nguyễn Nhật

Ánh ...................................................................................................................... 14

1.1. Khái quát về văn học thiếu nhi thời kì đổi mới ....................................... 14

1.1.1. Khái niệm văn học thiếu nhi ..................................................................... 14

1.1.2. Diện mạo và quá trình phát triển văn học thiếu nhi thời kì đổi mới ......... 18

1.2. Nguyễn Nhật Ánh- nhà văn của thiếu nhi ............................................... 22

1.2.1. Vài nét về tiểu sử nhà văn Nguyễn Nhật Ánh ........................................... 22

1.2.2. Quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh .......................................... 24

1.2.3. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh ............................................... 26

Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 29

Chương 2: Nhân vật và cốt truyện trong truyện Nguyễn Nhật Ánh ........... 30

2.1. Nhân vật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh ............................................... 30

2.1.1. Khái niệm nhân vật ................................................................................... 30

v

2.1.2. Các kiểu nhân vật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh ................................... 31

2.1.2.1. Nhân vật thiếu nhi .................................................................................. 31

* Nhân vật trẻ em giàu tình yêu thương, luôn hướng thiện ................................ 31

* Nhân vật trẻ em với những ước mơ, khát vọng cuộc sống tốt đẹp .................. 38

2.1.2.2. Nhân vật tuổi mới lớn ............................................................................ 42

* Những trò chơi tinh nghịch, hồn nhiên ........................................................... 42

* Những cảm xúc đầu đời ................................................................................... 46

2.1.2.3. Nhân vật người lớn ................................................................................. 52

* Những con người nhân hậu, giàu lòng yêu thương .......................................... 52

* Những con người bất hạnh ............................................................................... 54

* Những con người khao khát cuộc sống tốt đẹp ................................................ 56

2.1.2.4. Nhân vật là loài vật ................................................................................ 58

2. 2. Cốt truyện trong truyện Nguyễn Nhật Ánh ........................................... 61

2.2.1. Khái niệm cốt truyện ................................................................................. 61

2.2.2. Cốt truyện trong truyện thiếu nhi Nguyễn Nhật Ánh… .......................... 65

Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 69

Chương 3: Một số phương thức nghệ thuật trong truyện Nguyễn Nhật

Ánh ...................................................................................................................... 71

3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .................................................................. 71

3.1.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình, hành động nhân vật ................................. 71

vi

3.1.2. Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật ........................................................ 77

2.2. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện, tình huống truyện .................................. 79

3.3. Ngôn ngữ trong truyện Nguyễn Nhật Ánh .............................................. 84

3.3.1. Khái niệm ngôn ngữ .................................................................................. 84

3.3.2. Sự đa dạng trong ngôn ngữ truyện kể ....................................................... 85

3.3.2.1. Ngôn ngữ đối thoại, độc thoại nửa trực tiếp .......................................... 85

3.3.2.2. Ngôn ngữ độc thoại gián tiếp ................................................................. 89

3.3.2.3. Sử dụng tục ngữ, thành ngữ, quán ngữ .................................................. 91

3.4. Giọng điệu trong truyện Nguyễn Nhật Ánh ............................................ 92

3.4.1. Khái niệm giọng điệu ................................................................................ 92

3.4.2. Giọng điệu hài hước, dí dỏm ..................................................................... 93

3.4.3. Giọng điệu triết lí, chiêm nghiệm, đồng cảm ............................................ 96

Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 101

KẾT LUẬN ...................................................................................................... 103

Tài liệu tham khảo ............................................................................................. 105

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Văn học thiếu nhi không chỉ có vị trí quan trọng trong nền văn học dân

tộc mà còn có một vai trò đặc biệt trong cuộc sống của trẻ thơ. Nhiều nghiên cứu

cho thấy văn học thiếu nhi đã góp phần không nhỏ vào việc rèn luyện tư duy, kích

thích khả năng tưởng tượng và sáng tạo của trẻ em, cung cấp cho các em những

trải nghiệm trong cuộc sống. Thông qua các tác phẩm, các em không những tích

lũy được vốn từ phong phú, hiểu được nghĩa của các từ ngữ nghệ thuật mà còn

biết nâng cao khả năng diễn đạt trong lời nói. Văn học thiếu nhi cũng giúp cho trẻ

em cách học giao tiếp, thấy được niềm vui, nỗi bất hạnh của con người trong cuộc

đời để biết cảm thông và chia sẻ. Nghiên cứu văn học thiếu nhi cũng là nghiên

cứu các vấn đề về dân tộc, cuộc sống, tâm hồn và văn hóa dân tộc.

1.2. Sau thời kì đổi mới năm 1986, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản

Việt Nam, đất nước cũng đã đạt được nhiều tựu lớn lao trên mọi lĩnh vực của đời

sống xã hội trong đó có văn học. Văn học Việt Nam nói chung và văn học thiếu

nhi nói riêng đã có nhiều khởi sắc. Không khí sôi nổi được thể hiện trong các cuộc

thi sáng tác dành cho thiếu nhi, đội ngũ các nhà văn, nhà thơ sáng tác dành cho

thiếu nhi ngày càng đông đảo, ngoài những cây bút chuyên tâm viết cho thiếu nhi

như (Tô Hoài, Võ Quảng, Phạm Hổ…) còn xuất hiện hàng loạt các cây bút trẻ

như Trần Thiên Hương, Nguyễn Ngọc Thuần… tất cả các tác giả đang tìm tòi

hướng khai thác mới, hiện đại, đem đến cho văn học thiếu nhi những nét mới hơn,

trẻ trung tươi tắn hơn.

Vào những năm 80, dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường, đã diễn ra

sự cạnh tranh khốc liệt giữa văn chương nghệ thuật đích thực với xu hướng thương

mại hóa văn chương. Một số tác phẩm văn học nước ngoài đã thu hút các em thiếu

nhi như Đôrêmon của tác giả Nhật Fujikô, Harry Poster của J.K Rowling…đã

gần như chiếm lĩnh “thị trường” văn học Việt Nam. Trước tình hình đó, các nhà

2

văn Việt Nam chuyên viết cho thiếu nhi đã nỗ lực tự khẳng định mình, vượt lên

chính mình để cho ra đời những tác phẩm có giá trị. Nhìn chung đội ngũ sáng tác

văn học thiếu nhi thời kì đổi mới đã phát triển hùng hậu và đa dạng, đề tài sáng

tác cho các em ngày càng phong phú hơn, mở rộng hướng tiếp cận đời sống, tiếp

cận trẻ em và khả năng khám phá con người một cách toàn diện hơn.

1.3. Trong số những tác giả viết cho thiếu nhi, Nguyễn Nhật Ánh đã nổi lên

như một hiện tượng - hiện tượng của văn học thiếu nhi, ông đã trở thành một trong

những tác giả đại diện tiêu biểu cho thế hệ các tác giả viết cho thiếu nhi trong nền

văn học Việt Nam đương đại. Ông đã phần nào đánh dấu được phong cách sáng

tác của riêng mình trong những tác phẩm dành cho lứa tuổi học trò, những tác

phẩm của ông đã làm sống dậy thế giới tuổi thơ đầy thông minh, hồn nhiên, ngộ

nghĩnh và cũng rất cá tính. Mỗi tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh ra đời đều mang

một ấn tượng mới mẻ cho người đọc với giọng văn hài hước, nhẹ nhàng cùng với

nghệ thuật phân tích tâm lí sâu sắc, những trang văn của ông thực sự hấp dẫn các

độc giả không chỉ là trẻ em mà cả cho những ai từng là trẻ em. Tính đến năm 2017

Nguyễn Nhật Ánh đã cho ra đời hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại như thơ,

truyện ngắn, truyện dài, bút ký, tạp văn, … ông đã được nhận giải thưởng ASEAN

vào năm 2010. Chính vì vậy mà chúng tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu về Đặc

điểm truyện Nguyễn Nhật Ánh (qua ba tác phẩm: Cô gái đến từ hôm qua, Tôi

thấy hoa vàng trên cỏ xanh và Bảy bước tới mùa hè). Đây là ba tác phẩm – theo

chúng tôi là xuất sắc trong số các tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh. Thông qua đề

tài này chúng tôi cũng mong muốn nhấn mạnh và khẳng định tầm quan trọng của

việc xây dựng nhân vật, cốt truyện, ngôn ngữ, giọng điệu dành cho những tác

phẩm văn học thiếu nhi, góp phần vào việc giáo dục và định hướng văn hóa đọc

cho lứa tuổi thiếu nhi, mà ở đây Nguyễn Nhật Ánh là nhà văn tài năng, nổi bật về

bút lực và sức viết bền bỉ.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

3

Nguyễn Nhật Ánh nổi nên như một “hiện tượng”, ông xuất hiện vào những

năm 80 của thế kỉ XX, khi nền văn học nước nhà đang trên đà đổi mới cả về tư

duy sáng tác cũng như phương thức thể hiện. Cũng giống như nhiều nhà văn khác

viết cho thiếu nhi, Nguyễn Nhật Ánh đứng trước những khó khăn và thách thức

trong cuộc đổi mới văn học. Hơn nữa cuộc sống hiện đại đầy những biến động

với sự du nhập của nền văn học nước ngoài vào Việt Nam, trẻ em được tiếp xúc

với nhiều công nghệ hiện đại nên rất dễ bị lôi cuốn vào những con đường khác

ngoài văn học. Trăn trở trước thực trạng này, Nguyễn Nhật Ánh xác định “Các

nhà văn phải viết loại sách đáp ứng nguyện vọng của các em, đẩy lùi văn hóa độc

hại ra khỏi nhà trường” [55]. Xuất phát từ tâm niệm đó đã thôi thúc ngòi bút

không ngừng nghỉ của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, giúp ông vượt qua những thách

thức để tìm ra lối viết cho riêng mình. Tác giả viết về các em, viết cho các em với

sự nhiệt tình hầu như không thay đổi theo thời gian. Có thể nói những sáng tác

của Nguyễn Nhật Ánh đã nuôi dưỡng những giá trị tinh thần trong thế giới trẻ thơ

giúp chúng thoát khỏi nguy cơ bị mai một và ngày càng trở nên cằn cỗi trong thế

giới hiện đại. Một thế giới đầy ắp tiếng cười và yêu thương tỏa ra từ các tác phẩm

của nhà văn sẽ sưởi ấm tâm hồn các em đưa các em hòa nhập vào cuộc sống.

Khi tiến hành khảo sát các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài Đặc

điểm truyện Nguyễn Nhật Ánh (qua ba tác phẩm: Cô gái đến từ hôm qua, Tôi

thấy hoa vàng trên cỏ xanh và Bảy bước tới mùa hè), chúng tôi chia thành hai

nhóm tài liệu chính sau:

 Những bài viết và công trình đánh giá chung về tác giả và

sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh:

Trong sự nghiệp cầm bút của mình, Nguyễn Nhật Ánh đã dành cả cuộc đời

để sáng tác cho thiếu nhi và để tâm theo dõi những tình cảm, rung động đầu đời

của tuổi mới lớn và thể hiện các cung bậc cảm xúc đó trong các sáng tác của mình.

Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đã từng tâm sự: “Tôi viết về đề tài tuổi thơ có lẽ là do

4

cái duyên. Lúc mới cầm bút, tôi viết nhiều đề tài, nhưng rốt cục lại viết về tuổi thơ

là hợp với tôi nhất. Có lẽ do tôi xa quê từ bé, không nguôi nhớ về thời tuổi nhỏ

của mình nên hễ chạm đến đề tài này là cảm xúc tự nhiên kéo về. Tôi từng rút ra

kết luận từ kinh nghiệm bản thân”. Gần 50 năm cầm bút, Nguyễn Nhật Ánh đã

cho ra đời hơn 100 đầu sách và hầu hết các tác phẩm của ông đều mang vẻ đẹp

rực rỡ của tình thương và tình người, đủ để ghi lại những dấu ấn, những tình cảm

khó phai trong cảm xúc người tiếp nhận, đặc biệt là giới phê bình văn học.

Trong phạm vi nghiên cứu này, bài viết không chỉ tái hiện lại chặng đường

phát triển sự nghiệp của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh mà còn nghiên cứu một số

đặc điểm về nhân vật, cốt truyện, ngôn ngữ và giọng điệu trong sáng tác của nhà

văn.

Vũ Ân Thy với bài báo Nguyễn Nhật Ánh - người bạn thân mến của độc

giả trẻ đã dành cho nhà văn Nguyễn Nhật Ánh những tình cảm sâu sắc qua nhận

định “Các tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh có sức hấp dẫn lạ và mới. Nó lôi cuốn

thiếu nhi và có sức thuyết phục người lớn có trách nhiệm với thế hệ trẻ” [69].

Đồng thời, tác giả Vũ Ân Thy cũng đã phần nào khắc họa các đặc điểm nghệ thuật

trong việc sử dụng ngòi bút của Nguyễn Nhật Ánh. Đó là “cách viết nhỏ nhắn,

hóm hỉnh và sâu sắc, trữ tình, duyên dáng và bất ngờ… truyện kể Nguyễn Nhật

Ánh luôn gần gũi như truyện dân gian cổ tích, như ước mơ của tuổi thơ mà lại

mang tính hấp dẫn hiện đại” [69].

Nhà báo Trần Hoàng Thiên Kim đã trải lòng mình như sau: “Tôi luôn nghĩ

rằng, mỗi một nhà văn, đều gánh trên vai mình một sứ mệnh nào đó, có thể đó là

sứ mệnh do ông trời sắp đặt, cũng có thể chỉ là sứ mệnh của chính bản thân mình

với cuộc đời và những điều xung quanh. Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh không nằm

ngoài quy luật đó. Có vẻ như ông sinh ra, như một định mệnh, là phải dành cả

cuộc đời để viết về tuổi mới lớn. Năm 13 tuổi ông đăng báo bài thơ đầu tiên,

nhưng rồi số phận đưa đẩy ông trở thành nhà giáo, dạy học môn Văn tại một

5

trường THCS tại Sài Gòn, rồi ông viết về sân khấu và phụ trách mục tiểu phẩm,

trang thiếu nhi ở một số tờ báo”...[45]

Trong bài viết Thử giải mã hiện tượng Nguyễn Nhật Ánh, Lê Minh Quốc

đã từng nhận định: “Đố bạn tìm được tác phẩm nào của Nguyễn Nhật Ánh mà

không có tình tiết làm mình bật cười? Sự dí dỏm, tinh nghịch, thông minh của anh

đã khiến bọn nhóc chết mê chết mệt. Phải chăng trong con người Nguyễn Nhật

Ánh lúc nào cũng lấp ló một thằng quỷ nhỏ”? [60]. Lê Minh Quốc đã khẳng định

chất riêng, phong cách riêng của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh nằm ở cách nhà văn

gieo vào lòng tác phẩm “tinh chất nụ cười”, chỉ cần đọc văn của ông, độc giả bất

kể ở độ tuổi nào đều cảm thấy dễ chịu, thoải mái, yêu đời hơn bởi cách viết mộc

mạc, giản dị và dí dỏm.

Tác giả Hương Giang đã từng giới thiệu về tác giả Nguyễn Nhật Ánh trong

bài viết Người nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ trong bộ Bách khoa toàn thư văn học

thiếu nhi Việt Nam. Tác giả Nguyễn Hương Giang đã nhận định: “Những cuốn

sách bé nhỏ của Nguyễn Nhật Ánh sẽ là món ăn tinh thần trong hành trang vào

đời của các em. Truyện Nguyễn Nhật Ánh là tiếng nói từ chính tâm hồn anh – một

tâm hồn còn trong sáng, thơ trẻ cho đến tận bây giờ. Tính giáo dục sâu sắc trong

các tác phẩm của anh rất tự nhiên, không khiên cưỡng, bởi vì được viết với thái

độ của người trong cuộc, giản dị, đầy trách nhiệm”. Thông qua nhận định của tác

giả Nguyễn Hương Giang, các tác phẩm của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh ra đời với

sứ mệnh là định hướng văn hóa đọc cho thiếu nhi và tuổi mới lớn. Đồng thời,

chúng còn góp phần thể hiện tâm hồn thơ trẻ bên trong một con người đã dạn dày

sương gió như Nguyễn Nhật Ánh. Đề tài mà nhà văn Nguyễn Nhật Ánh khắc họa

trong các sáng tác của mình cũng rất đa dạng, nhưng tựu trung lại đều là những

câu chuyện của tuổi thơ gắn liền với những nỗi nhớ, hoài niệm. Cũng như nhà

nghiên cứu Thụy Anh đã nhận xét trong bài viết Nguyễn Nhật Ánh, một thái độ

sống và viết: “Nguyễn Nhật Ánh không minh họa cuộc sống mà xây dựng một thế

6

giới riêng cho sáng tác của mình - không xa rời trải nghiệm nhưng cũng không

chạy theo việc tả thực cuộc sống. Những câu chuyện hồn nhiên của tuổi thơ luôn

gắn liền với một thái độ sống và viết. Ở đây, tôi muốn nói đến thái độ đối với cuộc

sống, hiện thực trong sáng tác Nguyễn Nhật Ánh” [3]. Song, điều quan trọng trong

các tác phẩm của ông không phải mang màu cuộc sống nào ông đã thể hiện mà là

ở cách viết hài hước, dí dỏm, nhưng tràn đầy tình cảm và tình yêu thương dành

cho thiếu nhi.

Đối với các bài viết, công trình phân tích các tác phẩm cụ thể của Nguyễn

Nhật Ánh, các nhà nghiên cứu đều phân tích rõ ràng các luận điểm trong từng tác

phẩm cụ thể. Hàng loạt các truyện dài của ông được mổ xẻ, phân tích trong một

số bài viết như: Kính vạn hoa có thể trở thành kịch bản phim truyền hình hay

(2002, Kim Ngân, báo truyền hình VTV), Quà xuân của các em – Bộ sách Kính

vạn hoa của Nguyễn Nhật Ánh được tái bản (2003, Lê Hữu Bắc Sơn, tạp chí Giáo

dục), Nguyễn Nhật Ánh, vẫn thế với Lá nằm trong lá (2011, Thụy Anh, báo Tuổi

trẻ), Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ – Đọc văn xuôi Nguyễn Nhật Ánh (số 12/1996,

Nguyễn Thị Thanh Xuân, tạp chí Văn nghệ Hồ Chí Minh), bộ truyện Kính vạn

hoa – phép lạ giữa đời thường (1996, Văn Hồng), Nguyễn Nhật Ánh – hoàng tử

bé trong thế giới tuổi thơ (2013, Lê Minh Quốc), Nguyễn Nhật Ánh với Ngồi khóc

trên cây: Luôn chối từ bạo lực (số 6/2013, Thanh Kiều, báo Thể thao và Văn hóa),

Ăng Gô Gô – Chúc một ngày tốt lành (số 3/2014, Ý Nhi, báo Thanh niên),…

Điểm nổi bật trong các bài viết này là các nhà nghiên cứu đều nêu ra những

nhận xét, những đánh giá chân thực, đúng đắn về văn xuôi Nguyễn Nhật Ánh, và

mở ra những gợi ý hết sức quý báu cho những người tiếp tục nghiên cứu về nhà

văn này.

Một số công trình của các nhà nghiên cứu cũng đã trình bày cụ thể về cuộc

đời và sự nghiệp của Nguyễn Nhật Ánh, khai thác một số khía cạnh trong phong

cách sáng tác của ông như: Vũ Thị Hương thể hiện mối quan tâm của mình tới

7

nhà văn Nguyễn Nhật Ánh với bài Thế giới nghệ thuật truyện Nguyễn Nhật Ánh

[44] Ở công trình này Vũ Thị Hương đã đi sâu vào khai thác bộ truyện Kính vạn

hoa, Chuyện xứ Lang Biang và Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ. Đi tìm hiểu thế giới

nghệ thuật của truyện Nguyễn Nhật Ánh, nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân

vật, cách tổ chức cốt truyện, ngôn ngữ trẻ thơ, về vấn đề thời gian và không gian

nghệ thuật trong ba tác phẩm, chị còn so sánh các yếu tố này ở ba tác phẩm với

nhau. Dù việc phân bổ ba phần chưa thật đồng đều nhưng có thể thấy tác giả đã

đề cập khá toàn diện để người đi sau có những gợi ý đầy đủ hơn.

Công trình Đặc điểm truyện Nguyễn Nhật Ánh [63] của tác giả Bùi Thị Thu

Thủy đã tỉ mỉ nghiên cứu đặc điểm nội dung và hình thức nghệ thuật trong truyện

Nguyễn Nhật Ánh, qua bốn tác phẩm Kính vạn hoa, Chuyện xứ Lang Biang, Cho

tôi xin một vé đi tuổi thơ và Tôi là Bêtô là tiểu bách khoa toàn thư về thiếu nhi từ

hình dạng, lứa tuổi đến hoàn cảnh gia đình, đặc điểm tính cách đến hành động,

trạng thái tâm lí đó là thế giới học đường với những hình ảnh lũ học trò, lớp học

thầy cô vui nhộn để từ đó rút ra những bài học về cuộc sống không chỉ cho các

em mà còn cho các bậc phụ huynh…

Nhân dịp sinh nhật lần thứ 60 của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, ngày

16/9/2015, tại trung tâm ngôn ngữ và văn học - nghệ thuật trẻ em (trường ĐHSP

Hà Nội) đã tổ chức hội thảo Nguyễn Nhật Ánh- hành trình chinh phục tuổi thơ với

hơn 40 tham luận của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học, nhà văn, nhà giáo và

các học sinh trên toàn quốc. Hội thảo đã thống nhất khẳng định Nguyễn Nhật Ánh

là nhà văn xuất sắc của văn học thiếu nhi Việt Nam cuối thế kỉ XX và đầu thế kỉ

XXI.

Nhìn chung, qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy nhiều bài viết của các tác

giả đã khẳng định rất rõ đóng góp to lớn cũng như những thành công không thể

phủ nhận của Nguyễn Nhật Ánh - nhà văn viết cho thiếu nhi. Qua những bài viết

này, chúng tôi sẽ tiếp thu kết quả nghiên cứu của những người đi trước, đồng thời

8

nhấn mạnh hơn về nhân vật, cốt truyện, ngôn ngữ, giọng điệu trong truyện của

Nguyễn Nhật Ánh. Từ đó, góp phần khẳng định vị trí của Nguyễn Nhật Ánh trên

văn đàn Việt Nam.

 Những bài viết, công trình nghiên cứu về ba tác phẩm Cô

gái đến từ hôm qua, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh và Bảy bước tới mùa

hè của Nguyễn Nhật Ánh

Dựa vào ngữ liệu nghiên cứu là ba tác phẩm: Cô gái đến từ hôm qua, Bảy

bước tới mùa hè, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của Nguyễn Nhật Ánh chúng tôi

đã khảo sát một số bài viết và công trình nghiên cứu riêng về các tác phẩm này để

lấy làm tài liệu tham khảo cho công trình. Trong quá trình tìm hiểu tài liệu, chúng

tôi nhận thấy ba tác phẩm này vẫn chưa nhận được nhiều sự quan tâm nghiên cứu

từ giới chuyên môn. Một số công trình riêng biệt phân tích tác phẩm Tôi thấy hoa

vàng trên cỏ xanh có thể kể tên như: Đảo mộng mơ và Tôi thấy hoa vàng trên cỏ

xanh của Nguyễn Nhật Ánh (2011, Nguyễn Thị Bẩy), Thế giới nhân vật trong tác

phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (2016, Đào Thị Thanh Hải, luận văn Thạc

sĩ). Hai tác phẩm Cô gái đến từ hôm qua và Bảy bước tới mùa hè hầu như không

có một công trình nghiên cứu chuyên biệt nào.

Về tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, tác giả Thái Phan Vàng Anh

cũng góp thêm cái nhìn về việc nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn

Nhật Ánh trong bài viết Nguyễn Nhật Ánh, người kể chuyện của thiếu nhi bằng

việc nêu lên sức hấp dẫn trong phong cách sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh bắt

nguồn từ cách kể chuyện như sau: “Sức hút của truyện Nguyễn Nhật Ánh nằm ở

ngôn ngữ, giọng điệu trẻ thơ. Trong nhiều tác phẩm, ngôn ngữ truyện kể là thứ

ngôn ngữ của trẻ con, mà đối với người lớn thì ngôn ngữ trẻ con cũng giống như

một thứ ngoại ngữ. Nguyễn Nhật Ánh hiểu và kể chuyện bằng thứ ngoại ngữ dành

cho người lớn ấy nên hiển nhiên truyện Nguyễn Nhật Ánh là tiếng nói của thiếu

nhi” [2]. Tuy vậy, tác giả Thái Phan Vàng Anh cũng đã trình bày thêm ý kiến khi

9

viết về cách kể chuyện của Nguyễn Nhật Ánh như sau: “Có thể xem Nguyễn Nhật

Ánh là người kể chuyện của thiếu nhi, nhưng là một người lớn ngoái nhìn về tuổi

thơ, dùng con mắt của tuổi thơ để kể chuyện. Điều này khiến một số truyện của

Nguyễn Nhật Ánh khó xếp vào văn học thiếu nhi”. Tức khi sáng tác các tác phẩm,

tác giả không thể không sử dụng giọng người lớn đơn thuần và vô hình chung “áp

đặt” lên vai thiếu nhi và tạo nên một số nhân vật trẻ thơ có tâm hồn “già trước

tuổi” (nhân vật thằng cu Mùi và ông Mùi song song trong truyện Cho tôi xin một

vé đi tuổi thơ, Thiều với tạo hình nhân vật có suy nghĩ già dặn trong truyện Tôi

thấy hoa vàng trên cỏ xanh,…) Mặc dù cách kể chuyện lồng ghép cả yếu tố trẻ

thơ và người lớn này có phần phức tạp và nhiều độc giả nhận định “không hợp

tuổi thiếu nhi” nhưng điều đó lại thể hiện một phần trong phong cách văn chương

của Nguyễn Nhật Ánh. Đó là cách tác giả thể hiện tính triết lí mang đậm chất nhân

văn của mình thông qua suy nghĩ già dặn của các nhân vật trẻ thơ. Từ đó, tác phẩm

của ông trở nên mang tính đại chúng, phù hợp với nhiều lứa tuổi, kể cả trẻ em và

người lớn.

Tiếp đến là công trình Thế giới trẻ thơ trong truyện Nguyễn Nhật Ánh [40]

của tác giả Nguyễn Thị Thúy Hằng, Luận văn lấy ba tác phẩm Kính vạn hoa, Cho

tôi xin một vé đi tuổi thơ và Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh làm đối tượng nghiên

cứu. Tuy nhiên nghiên cứu này chưa đi sâu vào nhân vật, cốt truyện.

Công trình Đặc sắc truyện dài của Nguyễn Nhật Ánh (qua Tôi thấy hoa

vàng trên cỏ xanh, Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ và Con chó nhỏ mang giỏ hoa

hồng) [58] của tác giả Nguyễn Thái Sơn (2017) đã điểm qua vài nét đặc sắc của

truyện, công trình này có ý nghĩa bổ sung kiến thức cho chúng tôi khi phát triển

vấn đề nghiên cứu của mình.

Cuốn sách Nguyễn Nhật Ánh trong mắt đồng nghiệp (2017) của nhiều tác

giả đã tập hợp những công trình nghiên cứu về các góc độ khác nhau trong sáng

tác của Nguyễn Nhật Ánh. Trong đó Nguyễn Thị Hải Phương (Trường ĐHSP Hà

10

Nội) có nhận xét về nghệ thuật tự sự trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ

xanh của Nguyễn Nhật Ánh, tác giả cho rằng “điểm độc đáo là nghệ thuật xây

dựng nhân vật kể chuyện mang cái nhìn trẻ thơ, mang tâm hồn trẻ thơ…Người kể

chuyện đã hóa thân vào đứa trẻ mới lớn - Nhân vật Thiều, xưng tôi để kể về những

sự kiện xảy ra trong quá khứ tuổi thơ mình” [57].

Tác giả Nguyễn Hương Giang đã dành cả bài người nuôi dưỡng tâm hồn

trẻ thơ để nói về Nguyễn Nhật Ánh và một loạt tác phẩm của ông như: “Cô gái

đến từ hôm qua, Bàn có năm chỗ ngồi, Chú bé rắc rối… Nguyễn Nhật Ánh được

đánh giá cao không chỉ bởi ông viết cho thiếu nhi…Những cuốn sách nhỏ bé ấy

của Nguyễn Nhật Ánh sẽ là món ăn tinh thần trong hành trang vào đời của các

em”.

Các bài viết của các tác giả kể trên mặc dù thống nhất về quan điểm là

khẳng định và đề cao tài năng nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, khẳng định đóng góp

của ông đối với sự phát triển của văn học thiếu nhi Việt Nam, nhưng hầu hết chỉ

là những bài viết mang tính đơn lẻ, chưa thành hệ thống.

Từ các công trình nghiên cứu trên, chúng tôi mong muốn đề tài Đặc điểm

truyện Nguyễn Nhật Ánh (qua ba tác phẩm: Cô gái đến từ hôm qua, Tôi thấy

hoa vàng trên cỏ xanh và Bảy bước tới mùa hè) sẽ góp phần bổ sung những đánh

giá, nhận xét mới về tài năng của Nguyễn Nhật Ánh với tư cách là một người yêu

văn học thiếu nhi và nể trọng phẩm chất và bút lực của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh.

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu đặc điểm truyện Nguyễn Nhật

Ánh qua ba tác phẩm Cô gái đến từ hôm qua, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh

và Bảy bước tới mùa hè, trong đó tập trung vào vấn đề nhân vật, cốt truyện và

11

một số phương thức nghệ thuật như ngôn ngữ, giọng điệu, nghệ thuật xây dựng

nhân vật và nghệ thuật xây dựng cốt truyện.

3.2. Mục tiêu nghiên cứu

Tìm hiểu đặc điểm truyện Nguyễn Nhật Ánh qua ba tác phẩm Cô gái đến

từ hôm qua, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh và Bảy bước tới mùa hè, góp phần

khẳng định tài năng, phong cách và vị trí của Nguyễn Nhật Ánh trong nền văn

học Việt Nam hiện đại nói chung và văn học thiếu nhi nói riêng.

So sánh với một số tác phẩm cùng đề tài của các nhà văn khác để thấy

những điểm tương đồng, khác biệt, cũng như những đổi mới của Nguyễn Nhật

Ánh.

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu

4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu:

 Xác định vị trí của ba tác phẩm: Cô gái đến từ hôm qua, Tôi thấy

hoa vàng trên cỏ xanh, Bảy bước tới mùa hè trong hành trình sáng tác nghệ thuật

của Nguyễn Nhật Ánh và trong nền văn học thiếu nhi Việt Nam thời kỳ đổi mới.

 Tìm hiểu vấn đề nhân vật và cốt truyện thông qua ba tác phẩm nêu

trên.

 Khám phá các đặc trưng sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh

trong cách xây dựng hình tượng nhân vật, cốt truyện, ngôn ngữ và giọng điệu của

nhà văn.

 Khẳng định tài năng của Nguyễn Nhật Ánh bắt nguồn từ tình yêu

thương của nhà văn dành cho thiếu nhi.

4.2. Phương pháp nghiên cứu:

Chúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu sau:

- Phương pháp thống kê, phân loại

12

- Phương pháp phân tích, tổng hợp

- Phương pháp so sánh, đối chiếu

- Phương pháp tiếp cận thi pháp học.

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành

Những phương pháp này sẽ được chúng tôi vận dụng linh hoạt trong quá

trình nghiên cứu.

5. Phạm vi nghiên cứu

Chủ yếu tập trung vào ba tác phẩm: Cô gái đến từ hôm qua (CGĐTHQ),

xuất bản lần đầu tại Việt Nam vào năm 1989 bởi Nhà xuất bản Trẻ. Truyện

CGĐTHQ đã được dựng thành phim điện ảnh vào năm 2017 (đạo diễn Phan Gia

Nhật Linh); Bảy bước tới mùa hè xuất bản lần đầu tại Việt Nam vào ngày 1 tháng

3 năm 2015 bởi Nhà xuất bản Trẻ; Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (TTHVTCX),

xuất bản lần đầu tại Việt Nam vào ngày 9 tháng 12 năm 2010 bởi Nhà xuất bản

Trẻ, với phần tranh minh họa do Đỗ Hoàng Tường thực hiện. Truyện dài

TTHVTCX đã được dựng thành phim điện ảnh vào năm 2015 (đạo diễn Victor

Vũ). Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu người viết sẽ cố gắng so sánh với một

số tác phẩm khác của Nguyễn Nhật Ánh và các nhà văn khác để làm sáng tỏ các

vấn đề mà luận văn nêu ra. Về thời gian khảo sát, đề tài sẽ dựa trên các tác phẩm

tái bản gần nhất và tư liệu tham khảo cũng được sàng lọc để có thể cập nhật các

bài nghiên cứu mới.

6. Đóng góp của luận văn

- Luận văn là công trình nghiên cứu hệ thống Đặc điểm truyện Nguyễn

Nhật Ánh (qua ba tác phẩm: Cô gái đến từ hôm qua, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ

xanh và Bảy bước tới mùa hè) trên các phương diện nhân vật, cốt truyện, ngôn

ngữ và giọng điệu, góp thêm một tiếng nói khẳng định vai trò, vị trí của nhà văn

13

Nguyễn Nhật Ánh đối với sự phát triển của văn học thiếu nhi nói riêng và văn học

Việt Nam hiện đại nói chung.

- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những

ai quan tâm đến truyện của Nguyễn Nhật Ánh.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn

triển khai 3 chương.

Chương 1. Văn học thiếu nhi thời kỳ đổi mới và “hiện tượng” Nguyễn

Nhật Ánh

Chương 2. Nhân vật và cốt truyện trong truyện Nguyễn Nhật Ánh

Chương 3. Một số phương thức nghệ thuật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh

14

CHƯƠNG 1

VĂN HỌC THIẾU NHI VÀ TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH

1.1. Khái quát về văn học thiếu nhi

1.1.1. Khái niệm văn học thiếu nhi

Văn học thiếu nhi Việt Nam được hình thành và phát triển với tư cách là

một bộ phận của văn học Việt Nam.

Theo Từ điển thuật ngữ văn học “Theo nghĩa hẹp văn học thiếu nhi bao

gồm những tác phẩm văn học phổ cập khoa học dành cho thiếu nhi. Tuy vậy, khái

niệm văn học thiếu nhi cũng thường bao gồm một phạm vi rộng rãi những tác

phẩm văn học thông thường (cho người lớn) đã đi vào phạm vi đọc của thiếu nhi”

[39, tr.353]. Như vậy thuật ngữ văn học thiếu nhi được nêu ra ở trong cuốn từ điển

thuật ngữ văn học vẫn chưa đưa ra một khái niệm hay một định nghĩa cụ thể về

văn học thiếu nhi mà chỉ giới hạn những loại tác phẩm được gọi là văn học thiếu

nhi bao gồm cả những sản phẩm không thuộc về văn học mà thuộc về khoa học

phổ thông.

Theo bách khoa toàn thư văn học thiếu nhi Việt Nam tập 1, tổng quan, do

Vân Thanh và Nguyên An biên soạn, các tác giả đã đưa ra quan niệm về văn học

thiếu nhi tương đối rộng và bao quát:

Văn học thiếu nhi bao gồm những tác phẩm văn học được mọi nhà văn sáng

tạo ra với đích giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn, tính cách cho thiếu nhi. Nhân vật

trung tâm của nó là thiếu nhi và đôi khi cũng là người lớn hoặc là một cơn gió,

một loài vật, một đồ vật, một cái cây… Tác giả của văn học thiếu nhi không chỉ

là chính các em mà cũng là các nhà văn thuộc mọi lứa tuổi.

Những tác phẩm được các em thiếu nhi thích thú tìm đọc bởi vì các em đã

tìm thấy trong đó cách nghĩ, cách cảm và các hoạt động của chính các em, hơn

15

thế, các em còn tìm được ở trong đó có một lời nhắc nhở, một sự răn dạy với

những nguồn động viên và khích lệ, những sự dẫn dắt ý nhị rất bổ ích trong quá

trình hoàn thiện tính cách của mình.

Như thế, “Văn học thiếu nhi là người bạn thông minh và mẫn cảm của thiếu

nhi” [65, tr.6]. Khái niệm văn học thiếu nhi được nêu ra trong bách khoa toàn thư

Wikipedia cụ thể hơn: Văn học thiếu nhi (children’s liteneture) hay văn học dành

cho trẻ em là tác phẩm dành cho đọc giả và thính giả đến khoảng 12 tuổi và thường

có tranh minh họa. Thuật ngữ này được dùng nhiều nghĩa đôi khi loại trừ các

truyện viễn tưởng cho tuổi mới lớn, có những sách hài hước hoặc các thể loại khác

(…). Văn học thiếu nhi có thể là những tác phẩm do trẻ em (thiếu nhi) viết, những

tác phẩm viết cho trẻ em, những tác phẩm được viết cho trẻ em hoặc những tác

phẩm được trẻ em lựa chọn “Văn học thiếu nhi không có định nghĩa duy nhất được

sử dụng rộng rãi. Nó có thể được định nghĩa rộng là bất cứ điều gì mà trẻ em đọc,

hay cụ thể hơn văn học thiếu nhi có thể là tiểu thuyết, phi tiểu thuyết, thơ hay phim

truyền hình dành cho trẻ em là những người trẻ tuổi đọc” [69].

Như vậy, quan niệm về văn học thiếu nhi có nét tương đồng với khái niệm

đã được đưa ra trong từ điển thuật ngữ văn học ở chỗ cũng phân loại được các tác

phẩm được gọi là văn học thiếu nhi.

Trong đề tài Đặc điểm truyện Nguyễn Nhật Ánh (qua ba tác phẩm: Cô

gái đến từ hôm qua, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh và Bảy bước tới mùa hè),

trên cơ sở khảo sát các khái niệm trên chúng tôi rút ra một số đặc điểm làm cơ sở

cho những phần trình bày tiếp sau.

Thứ nhất là độ tuổi thiếu nhi trong khái niệm văn học thiếu nhi chúng tôi

xếp nhóm độ tuổi từ 18 trở xuống là nhóm thiếu nhi.

Theo tác giả Lã Thị Bắc Lý – một trong những chuyên gia hàng đầu về văn

học thiếu nhi, trong giáo trình văn học trẻ em lại sử dụng khái niệm văn học trẻ

16

em thay vì văn học thiếu nhi. Theo tác giả thì khái niệm trẻ em được dùng để chỉ

tất cả trẻ em từ 18 tuổi trở xuống và do đó rộng hơn khái niệm thiếu nhi (bao gồm

thiếu niên và nhi đồng) là chỉ trẻ em từ cấp Tiểu học trở lên.

Thứ hai là văn học thiếu nhi là một loại văn học – một loại văn học đặc biệt.

Sự đặc biệt này chính là ở đối tượng đã được thể hiện ngay trong nội hàm thuật

ngữ thiếu nhi. Thiếu nhi là đối tượng được miêu tả trong tác phẩm hay độc giả

của tác phẩm? Thiếu nhi là thuật ngữ dùng để chỉ một lứa tuổi cụ thể hay một

nhóm lứa tuổi. Trên thực tế khi sáng tác, các tác giả có thể xác định rõ đối tượng

mà mình miêu tả có gì để có cách xử lí mọi yếu tố của tác phẩm cho phù hợp.

Nhưng tác giả sẽ không thể giới hạn hoặc xác định đối tượng tiếp nhận tác phẩm

của mình chỉ ở một lứa tuổi nào đó. Sự giao tiếp giữa độc giả hay thính giả với

tác giả thông qua tác phẩm là sự giao tiếp ngầm và hoàn toàn tự do. Không ai có

thể cấm trẻ em khám phá một tác phẩm văn học viết về những người lớn hơn tuổi

của chúng hoặc cấm người lớn tuổi tìm hiểu những tác phẩm viết về thiếu nhi. Do

đó văn học thiếu nhi có thể hiểu một cách rộng rãi là những tác phẩm văn học viết

cho thiếu nhi, cả những tác phẩm do thiếu nhi sáng tác hoặc những tác phẩm phù

hợp với lứa tuổi thiếu nhi viết về thiếu nhi được thiếu nhi yêu thích tìm đọc.

Thứ ba là tính giáo dục trong văn học thiếu nhi đối với những tác phẩm văn

học thiếu nhi viết bởi vì chính lứa tuổi thiếu nhi thì tính giáo dục chưa được các

em ý thức để đưa vào tác phẩm. Tuy nhiên một tác phẩm văn học thiếu nhi thực

thụ phải là tác phẩm mà “trẻ em khen hay, người lớn khen tốt”. Tính giáo dục

được coi là một trong những đặc trưng cơ bản nhất và nó có tính sống còn đối với

văn học thiếu nhi. Văn học thiếu nhi có vai trò to lớn trong việc giáo dục toàn diện

nhân cách trẻ em, cả về đạo đức, trí tuệ cũng như thẩm mĩ.

Nhà văn Võ Quảng cũng đưa ra quan niệm “Văn học cho thiếu nhi còn đặt

ra vấn đề chính yếu thứ hai đó là vấn đề giáo dục”. Trẻ em thường luôn mang

theo những hình ảnh, ước mơ và những ấn tượng từ những trang sách mà chúng

17

đã đọc vào tương lai, chính điều ấy mà đòi hỏi người cầm bút cho các em phải có

ý thức trách nhiệm lớn lao. Chức năng giáo dục vì thế mà càng có ý nghĩa hơn với

độc giả nhỏ tuổi, những tác phẩm viết cho thiếu nhi luôn cần có sự tham gia của

nhà văn yêu nghề mến trẻ.

Bất kì một tác phẩm văn học nào viết cho thiếu nhi thì nhất thiết phải đặt

ra tính chất giáo dục một cách rõ ràng và dứt khoát. Đây được coi là một yêu cầu

hàng đầu và đặc biệt quan trọng. Giám đốc nhà xuất bản trẻ cũng đã trả lời phỏng

vấn: “Làm sách cho thiếu nhi thì phải đặt nhiệm vụ giáo dục lên trên hết, chớ chạy

theo lợi nhuận mà quên đi vấn đề giáo dục thì không thể chấp nhận được” (Tạp

chí văn học số 5-1993).

Trong bài Văn học cho thiếu nhi hôm nay nhà văn Tô Hoài đã viết: “Nội

dung một tác phẩm cho thiếu nhi bao giờ cũng quán triệt vấn đề xây dựng đức

tính con người”. Một tác phẩm văn học chân chính có giá trị đối với tuổi thơ là

một tác phẩm tham dự mạnh mẽ vào sự nghiệp nên người của bạn đọc ấy, nhờ sự

giáo dục từ tác phẩm, bạn đọc ấy sẽ trở thành là một người tốt.

Qua những lời nhận định đó chúng ta càng thấy rõ hơn tầm quan trọng của

chức năng giáo dục cho thiếu nhi.

Thứ tư là trong các tác phẩm văn học thiếu nhi thường có minh họa bằng

tranh để thu hút trẻ em hơn, tăng tính sinh động hơn cho tác phẩm. Đặc trưng này

xuất phát từ đặc điểm tâm lí và lứa tuổi thiếu nhi. Lứa tuổi thiếu nhi chủ yếu tư

duy bằng hình tượng, chúng thường bị hấp dẫn bởi những đường nét, hình khối,

màu sắc, vì vậy việc minh họa cho tác phẩm văn học cho thiếu nhi sẽ làm tăng

sức mạnh nghệ thuật của ngôn từ, tác phẩm phải chân thực, cụ thể, sinh động, phù

hợp với tâm lí trẻ thơ. Ngôn ngữ phải trong sáng, dễ hiểu.

Thứ năm là văn học thiếu nhi thường giàu yếu tố tưởng tượng. Theo nhà

văn Phong Lê thì văn học thiếu nhi phải kích thích, khơi gợi, phát huy năng lực

18

tưởng tượng, sáng tạo ở các em, điều này rất cần cho tuổi thơ. Trẻ em thích những

truyện tưởng tượng, có nhiều cái dí dỏm, tươi vui. Tưởng tượng hòa hợp cái có

thật, hiện lên như thật. Theo nhà văn Võ Quảng thì “Văn học thiếu nhi rất kị cái

giả tạo, vì nó sẽ làm trẻ em hiểu sai bản chất của sự sống”. Bởi vì truyện viết cho

thiếu nhi không giống truyện viết cho người lớn, độc giả lứa tuổi này nhỏ bé,

mong manh nên cần có những tác phẩm phù hợp với tâm sinh lí các em.

Theo Võ Quảng “Người viết văn phải đủ sự nhạy bén mới có thể phân thân,

mới có thể nhập vào đối tượng, mới có thể làm cho sáng tác trở nên chân thật,

sinh động đối với mỗi đối tượng” (Nghĩ và viết cho các em).

Như vậy, từ những đặc điểm cơ bản nhận diện về văn học thiếu nhi, ta thấy

từ lâu đã có một bộ phận sáng tác văn học dành riêng cho thiếu nhi. Những cuốn

sách đầu tiên thuộc loại này là những cuốn sách có nội dung giáo khoa, sách về

những quy tắc ứng xử trong xã hội, xuất hiện ở Châu Âu và đặc biệt phát triển ở

thời khai sáng.

Ở Việt Nam đến thế kỷ XX mới xuất hiện văn học thiếu nhi, đến nay đã có

sự phát triển phân nhánh của thơ thiếu nhi hoặc văn xuôi cho thiếu nhi đã hình

thành các loại truyện truyện sinh hoạt, truyện cổ tích, truyện loài vật, truyện lịch

sử [39, tr.354].

1.1.2. Diện mạo và quá trình phát triển văn học thiếu nhi thời kì đổi mới

Xã hội Việt Nam từ sau cuộc kháng chiến chống Mĩ, nhất là thời kì đổi mới,

đất nước đã có những biến đổi to lớn, sâu sắc và toàn diện. Văn học đã phản ánh

xã hội thông qua cá nhân nhà văn, vì thế sự phát triển của văn học có tính độc lập

nhưng cũng có mối quan hệ gắn bó mật thiết với sự phát triển của xã hội Việt

Nam. Truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975 tuy có dòng chảy riêng nhưng cũng

không nằm ngoài bức tranh chung của văn học Việt Nam nhất là văn xuôi giai

đoạn này.

19

Giai đoạn 1975 – 1985 được coi là giai đoạn “trăn trở tìm tòi” khi cuộc

kháng chiến chống Mĩ kết thúc, phần lớn là các tác phẩm văn học vẫn xoay quanh

đề tài chiến tranh. Có nhiều tác phẩm được viết trong cảm hứng day dứt về một

“thời đạn bom” với lớp trẻ em “mang mũ rơm đi học đường dài”, những em bé từ

thành phố sơ tán về nông thôn, các em phải tự lập, lo toan đủ bề trong Ngôi nhà

trống (Quang Huy), Võ Quảng viết Tảng sáng tiếp nối mạch cảm xúc của quê nội.

Đó là những cảm hứng ca ngợi về quê hương đất nước và cách mạng.

Khi viết về cuộc sống mới, các nhà văn đã chú ý nhiều đến vấn đề đạo đức

con người với cái nhìn đa dạng nhiều chiều chứ không chỉ ca ngợi một chiều, văn

học phản ánh vấn đề một cách thực tế hơn, như những tác phẩm Tình thương

(Phạm Hổ), Bến tàu không thành phố (Xuân Quỳnh), Hành trình ngày thơ ấu

(Dương Thu Hương)

Viết về đề tài lịch sử, Tô Hoài luôn tỏ ra nhạy bén với thời cuộc, nhà văn

đã tìm tòi ra cái mới, hướng khai thác mới, kết hợp giữa truyền thống và hiện đại,

các tác phẩm của ông đã gắn với huyền thoại, phong tục văn hóa như Đảo Hoang,

Chuyện nỏ thần, Chuyện nhà Chử…

Trong khoảng mười năm sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc,

truyện viết cho thiếu nhi tuy đã có những dấu hiệu mới nhưng vẫn chưa tạo được

sự chuyển biến rõ ràng. Môi trường hoạt động của các em trong tác phẩm chưa

được rộng rãi. Tuy nhiên những dấu hiệu đổi mới này cũng là bước khởi đầu, có

ý nghĩa to lớn cho đổi mới truyện viết cho thiếu nhi ở giai đoạn sau.

Giai đoạn 1986 đến nay

Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) thực sự đã đem lại niềm tin và sức mạnh

cho toàn Đảng, toàn dân, đã thực sự đem lại một không khí mới cho nền văn học

nói chung và văn học thiếu nhi nói riêng. Đảng kêu gọi “cởi trói” đã tạo điều kiện

cho sự phát triển tự do của mỗi người. Trong không khí đổi mới ấy, mỗi nhà văn,

20

nhà thơ đã thể hiện tư tưởng tình cảm qua những tác phẩm mang tính chất đột phá

của mình, một sự đổi mới diễn ra đồng bộ, các nhà văn, nhà thơ đã được dịp phát

huy cá tính sáng tạo, có ý thức tìm tòi cho mình một nét riêng, nết độc đáo.

Các nhà văn viết cho thiếu nhi ngày càng được quan tâm nhiều hơn, các

sáng tác cho các em trong thời kỳ này đã mở rộng hơn về đề tài cũng như hướng

tiếp cận đời sống và khả năng khám phá con người, hướng quan tâm sáng tác và

tiếp cận trẻ em cũng đa dạng hơn, phong phú hơn.

Vào cuối những năm 80 sự giao lưu với văn học nước ngoài cũng có sự ảnh

hưởng tới sáng tác của văn học thiếu nhi. Sách viết cho thiếu nhi đã rơi vào tình

trạng khủng hoảng, hàng loạt tác phẩm mang tính thương mại hóa như truyện tình,

truyện trinh thám rẻ tiền đã chiếm lĩnh thị trường sách Việt Nam.

Một số truyện tranh, truyện nhiều tập của nước ngoài như Đôrêmon của

nhà văn Nhật Bản Fufiki.F.Fufio, hay Tứ quái TKKG của nhà văn Đức Stefan

Woly… đã được rất nhiều các em thiếu nhi yêu thích, trước thực trạng này buộc

các nhà văn Việt Nam phải cố gắng nhiều hơn nữa để nâng cao chất lượng sáng

tác, hạn chế được tình trạng lấn sân, cạnh tranh của các tác phẩm dịch.

Nhà văn Tô Hoài trong bài Văn học cho thiếu nhi hôm nay nhận xét: “Các

bạn không né tránh các bạn đã bỏ được thói quen giải thích, hoặc che chắn trước

khi vào các vấn đề hóc búa, các tác giả mạnh dạn đưa bạn đọc vào bao nhiêu

phức tạp đời thường đã giúp đỡ bạn đọc tuổi thơ nhìn nhận thế giới này, quan

niệm thế nào trước những khó khăn và đau khổ đời người” [41].

Nhà văn viết cho thiếu nhi ở giai đoạn này đã được quan tâm nhiều hơn,

đội ngũ sáng tác cho các em ngày càng đông đảo. Đặc biệt những năm 90 xuất

hiện nhiều cây bút trẻ như Trần Thiên Hương, Nguyễn Nhật Ánh, Hà Lâm Kỳ,

Nguyễn Thị Thu Thủy, Nguyễn Thị Châu Giang…Các tác giả này đều có cái nhìn

21

mới mẻ, hiện đại trong sự tìm tòi, họ đã đem đến cho truyện thiếu nhi những nét

trẻ trung tươi tắn.

Hơn nữa, ở giai đoạn này các nhà văn, nhà thơ đã mở rộng đề tài, đổi mới

cách tiếp cận đời sống và tăng khả năng khám phá con người, trong thời kì kinh

tế thị trường, các em thông minh hơn, thực tế hơn, chúng cũng có những đòi hỏi

cao hơn đối với người sáng tác.

Tiếp cận trẻ em trong đời sống hiện đại, các vấn đề phản ánh đã được mở

rộng, phong phú hơn và đa dạng hơn. Văn học thiếu nhi không chỉ dừng lại ở việc

miêu tả và ca ngợi một chiều về những tấm gương thiếu nhi chăm ngoan, siêng

làm như trước nữa, mà phải có cái nhìn đa chiều trong cách tiếp cận và miêu tả.

Như đề tài về thế giới những cô cậu học trò “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò” đã

được khai thác sâu hơn, đời sống học đường không chỉ được tái hiện trong những

giờ lên lớp, giờ ra chơi, hoặc những trò nghịch ngợm, quậy phá… mối quan hệ

giữa học sinh và các thầy giáo, cô giáo mà còn được khám phá ở góc độ tâm lí lứa

tuổi với những rung động đầu đời, hay những cảm xúc thầm kín, riêng tư của tuổi

mới lớn như tác phẩm Bây giờ bạn ở đâu của Trần Thiên Hương và một loạt tác

phẩm của Nguyễn Nhật Ánh hay cuộc sống của những trẻ em nghèo, chúng vừa

phải lo toan vừa học hành, vừa phải kiếm sống, thậm chí không được đi học như

tác phẩm Giã biệt cuộc đời của Nguyễn Cảnh Nhạc hay tác phẩm Bong bóng lên

trời của Nguyễn Nhật Ánh.

Như vậy quá trình đổi mới đã đem đến cho các em thiếu nhi nhiều tác phẩm

thực sự có giá trị. Nhà văn tiếp cận trẻ em ở nhiều góc độ đồng thời trân trọng các

em trong từng mối quan hệ. Có thể thấy văn học thiếu nhi từ khi hình thành đến

nay là cả một quá trình trưởng thành sâu sắc, đặc biệt là văn học thiếu nhi thời kì

đổi mới có những chuyển biến mạnh mẽ do những ảnh hưởng của bên ngoài và

nhu cầu đổi mới từ bên trong. Các nhà văn, nhà thơ đã sớm nhận ra “Trẻ em là

tương lai của đất nước” (Phạm Hổ) cho nên các tác giả đã không ngừng quan tâm

22

đến thế hệ măng non của đất nước và ngày càng đáp ứng được những đòi hỏi về

một thế giới tinh thần tươi vui, hồn nhiên, trong sáng, có giáo dục của các em.

1.2. Nguyễn Nhật Ánh – nhà văn của thiếu nhi

1.2.1. Vài nét về tiểu sử nhà văn Nguyễn Nhật Ánh

Nguyễn Nhật Ánh sinh ngày 7/5/1955. Nguyên quán: xã Bình Quế, huyện

Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Ông có nhiều bút danh như Anh Bồ Câu, Chu Đình

Ngạn, Đông Phương Sóc, Sóc Phương Đông…

Thủa nhỏ ông từng theo học tại trường Tiểu La, Trần Cao Vân và Phan Chu

Trinh. Từ năm 1973 Nguyễn Nhật Ánh chuyển vào sống tại Sài Gòn.

Nguyễn Nhật Ánh theo học sư phạm, ông đã từng đi thanh niên xung phong,

dạy học, từng là cán bộ Đoàn năng nổ, nhiệt tình trong các hoạt động về văn nghệ

của các em thanh thiếu niên trong Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.

Tuy Nguyễn Nhật Ánh sống ở Sài Gòn nhưng tuổi ấu thơ của ông gắn với

gia đình, làng xóm quê hương - nơi đã nuôi dưỡng tâm hồn nhà thơ mỗi khi hồi

tưởng lại. Vùng quê đó đã trở thành một tình yêu, một nỗi nhớ khắc khoải, một

nỗi niềm bồn chồn và day dứt, một sự mắc nợ chưa bao giờ trả hết. Nó cứ trở đi

trở lại trong sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh.

Theo nhà văn chia sẻ: “Tôi xa quê hương, gia đình từ rất sớm do đó nỗi

nhớ xứ sở trong tôi bao giờ cũng vẹn nguyên và rực rỡ. Như một người đánh mất

tuổi thơ sớm nên khi cầm bút viết về tuổi thơ mới lớn là biết bao kỉ niệm ùa về,

xúc cảm cứ tràn vào trang viết” [61].

Dường như quê hương và tuổi thơ cũng chính là chất xúc tác đầu tiên và

cũng là cơ duyên đã đưa Nguyễn Nhật Ánh trở thành một nhà văn chuyên viết cho

thiếu nhi. Khi viết dường như nhà văn như đang trở về chính mình, chìm trong

những cảm xúc của bản thân.

23

Từ 1986 đến nay, tại Sài Gòn, Nguyễn Nhật Ánh đã từng làm rất nhiều

nghề, nhà văn tỏ ra mình là người rất nhanh nhạy trong công việc và thời cuộc.

Ông là một phóng viên báo Sài Gòn giải phóng, lần lượt viết về sân khấu, rồi phụ

trách tiểu phẩm, phụ trách trang thiếu nhi, ngoài ra ông còn là một bình luận viên

thể thao xuất sắc. Trong cương vị một nhà báo, ông đã nhanh chóng khẳng định

được năng lực của mình, bên cạnh đó ông vẫn tiếp tục viết văn thậm chí viết nhiều

với số lượng ấn bản đạt đến kỉ lục.

Nguyễn Nhật Ánh là một nhà văn có lương tâm, có trách nhiệm và chuyên

tâm với công việc viết văn. Để có vốn hiểu biết phong phú về thế giới học trò nhà

văn đã sưu tầm các loại sách giáo khoa từ lớp 1 đến lớp 12 để đọc và còn đăng kí

học lớp Tiếng Anh buổi tối để quan sát, để nắm bắt các sự kiện trong lớp học để

ông chia sẻ, trò chuyện và ông thường viết về tuổi học trò bằng tâm tình của người

trong cuộc chứ không phải sự cảm nhận của một người đứng bên ngoài cuộc.

Có thể thấy, nhìn vào cuộc đời của Nguyễn Nhật Ánh thông qua các môi

trường nghề nghiệp mà nhà văn đã từng trải qua, ông đã bắt đầu từ một nhà giáo,

rồi đến nhà báo, chuyên gia gỡ rối tơ lòng, sau này là nhà thơ, nhà văn…Nguyễn

Nhật Ánh đã luôn có cái nhìn về cuộc sống sắc sảo tinh tế và hóm hỉnh. Chứng tỏ

phải là người có tính cách trẻ trung và luôn giữ cho mình tâm hồn tươi trẻ, Nguyễn

Nhật Ánh mới trở thành một người lao động không biết mệt mỏi trong công việc,

một sức dẻo dai trong hoạt động sáng tác nghệ thuật.

Năm 1990, tác phẩm Chú bé rắc rối Nguyễn Nhật Ánh đã được nhận giải

thưởng Văn học trẻ hạng A do Trung ương đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh

trao tặng; Năm 1995, ông đã được bầu chọn là một nhà văn được yêu thích trong

20 năm tính từ (1975 – 1995) do Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh và báo

Tuổi trẻ tổ chức. Năm 1998 Nguyễn Nhật Ánh được trao giải thưởng tác giả có

sách bán chạy nhất do Nhà xuất bản Kim Đồng trao tặng. Năm 2003, bộ truyện

nhiều tập Kính vạn hoa đã được Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí

24

Minh trao huy chương vì thế hệ trẻ và được Hội nhà văn Việt Nam trao tặng

thưởng. Năm 2008 tác phẩm Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ được báo người lao

động bình chọn là tác phẩm hay nhất, cùng năm 2008 tác phẩm Tôi là Bêtô cũng

đạt giải thưởng văn học Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2010 ông được nhận giải

thưởng văn học ASEAN… tất cả đã một lần nữa minh chứng cho khả năng sáng

tạo dồi dào, cho tài năng của Nguyễn Nhật Ánh.

1.2.2. Quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh

Nguyễn Nhật Ánh là một người yêu nghề viết văn và đặc biệt là sáng tác

cho thiếu nhi. Lòng yêu nghề ấy cũng là một phẩm chất mà nhà văn luôn đặt lên

hàng đầu khi lựa chọn con đường sáng tác của mình. Ông không che dấu tình yêu

dành cho nghề viết văn, niềm hạnh phúc được viết của mình: “Nếu bây giờ tôi

kiếm được rất nhiều tiền mà không bằng nghề mình yêu thích, có lẽ tôi không cảm

thấy hạnh phúc thực sự” [61].

Cũng bởi với Nguyễn Nhật Ánh viết văn coi là đam mê chứ không phải là

phương tiện để mưu sinh, thế nên sống bằng nghề là một niềm hạnh phúc, một

niềm vui không dễ gì đánh đổi được. Sự đam mê và tình yêu nghề đã biến nhà văn

thành người “Không có ngày chủ nhật”.

Nguyễn Nhật Ánh đã từng quan niệm văn chương không nên mưu cầu danh

lợi mà trước hết phải viết giống như một sự thôi thúc từ bên trong nội tâm mình,

như thế tác phẩm mới thực sự có giá trị: “Tiền bạc đối với nhà văn nếu có chỉ là

cái đến sau. Nếu để kiếm tiền, không ai chọn nghề viết văn. Khi ngồi vào bàn viết,

nhà văn chỉ tìm kiếm một thứ duy nhất: những ý tưởng. Tôi rất thích một câu

không biết của ai: lợi và danh đi trước, sáng tác là một tài hoa, đi song hành với

sáng tác là một cản trở còn đến sau sáng tác là hợp quy luật” [61, tr.17].

Khi cầm bút Nguyễn Nhật Ánh luôn chú trọng tới độc giả, ông cho rằng đó

là đối tượng quan trọng nhất trong quá trình sáng tác của mình. Ông luôn tâm

25

niệm rằng văn học thiếu nhi là không chỉ viết về thiếu nhi và phải thực sự viết cho

thiếu nhi, phải làm sao để “trẻ em khen hay, phụ huynh khen tốt” nghĩa là trong

đó có cả tính giáo dục và tính thẩm mĩ, phù hợp với tâm lí lứa tuổi trẻ em. Ông

hiểu được trọng trách trên mỗi trang văn của mình sao cho phải trở thành “trụ đỡ

tinh thần” cho các em. Bí quyết thành công của Nguyễn Nhật Ánh đó là ông đã

dồn toàn bộ tâm trí cho mỗi trang sách. Mỗi khi viết nhà văn như bỏ lại phía sau

lưng mình những bụi bặm của cuộc sống để giữ được sự trong trẻo thong dong

“Tôi có thể viết trong không khí ồn ào, náo nhiệt lẫn yên tĩnh. Thậm chí tôi có thể

gác việc viết lách sang một bên để trả nợ một bài báo hoặc giải quyết một công

việc gấp rút nào đó. Tuy vậy khi ngồi vào bàn sáng tác tôi hoàn toàn sống trong

thế giới của riêng mình” [38, tr.9].

Với quan niệm sáng tác rất riêng của mình, nhà văn Nguyễn Nhật Ánh thực

sự đã chinh phục được đối tượng các bạn đọc nhỏ tuổi vốn rất hồn nhiên và cũng

rất khó chiều. Vì thế mà nhà văn khi viết cho các em phải chọn lọc, điều chỉnh

những tình tiết sao cho phù hợp với lứa tuổi, nhằm đạt kết quả cuối cùng là luôn

hướng thiện. Cho dù là trước nhiều loại hình giải trí nghe, nhìn hấp dẫn khác thì

truyện của Nguyễn Nhật Ánh vẫn luôn thu hút được một khối lượng bạn đọc đông

đảo ở mọi lứa tuổi có lẽ là bởi tài năng, tâm huyết của nhà văn khi viết cho các

em. Sáng tác cho thiếu nhi không chỉ là hạnh phúc của người viết truyện mà nó

còn là hạnh phúc của trẻ em, hạnh phúc của người đọc lớn tuổi khi nhớ về tuổi

thơ của mình.

1.2.3. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh

Cho đến nay, Nguyễn Nhật Ánh là nhà văn viết cho thiếu nhi có nhiều đầu

sách nhất Việt Nam, khoảng trên 100 tác phẩm. Không chỉ nhiều về số lượng, tác

phẩm mà nhà văn còn nhận được nhiều giải thưởng cao quý và đặc biệt là sự đón

nhận của bạn đọc trong và ngoài nước.

26

Nguyễn Nhật Ánh bắt đầu sáng tác từ rất sớm. Khởi đầu là sự nghiệp sáng

tác bằng thơ năm ông 13 tuổi với Thành phố tháng tư - tác phẩm được in chung

với Lê Thị Kim tại Nhà xuất bản Tác phẩm mới (1984).

Truyện dài đầu tiên của nhà văn là tác phẩm Trước vòng chung kết, Nhà

xuất bản Măng Non, 1995. Nhiều người biết đến Nguyễn Nhật Ánh với tư cách là

một nhà thơ, đặc biệt là tác giả của bài thơ: Thành phố tình yêu và nỗi nhớ đã

được phổ nhạc. Ông đã có tới 5 tập thơ được xuất bản Thành phố tháng tư, Đầu

xuân ra sông giặt áo, Thơ tình Nguyễn Nhật Ánh, Tứ tuyệt cho nàng và Lễ hội

đêm đen. Các tác phẩm thơ của Nguyễn Nhật Ánh đều là những khát khao trong

muôn ngàn cung bậc cảm xúc của tình yêu. Một thanh niên đầy nhiệt huyết, biết

và dám vượt lên mọi khó khăn của cuộc sống để hướng về ánh sáng và tương lai,

là những tâm sự của những chàng trai, cô gái ở tuổi thanh niên đang hừng hực

nhiệt huyết sống và những cống hiến cho đất nước.

Nguyễn Nhật Ánh cũng đã từng thử sức mình ở nhiều thể loại khác nhau

nhưng thực sự người đọc biết đến ông chủ yếu là ở thể loại văn xuôi, thể loại này

đã đem đến cho tác giả một bút lực dồi dào, sung sức và cũng rất thành công,

trong gần 30 năm trở lại đây, Nguyễn Nhật Ánh tập trung viết văn xuôi và chuyên

sáng tác về đề tài thiếu nhi… Từ đây ông đã được biết đến như một nhà văn của

thiếu nhi với một gia tài đáng nể.

Trước vòng chung kết (truyện dài 1985), Cú phạt đền (truyện dài 1985),

Bàn có năm chỗ ngồi (1987), Truyện cổ tích dành cho người lớn (1987), Còn chút

gì để nhớ (1987), Bí mật của một võ sĩ (1989), Nữ sinh (1989), Cô gái đến từ hôm

qua (1989), Chú bé rắc rối (1989), Thiên thần nhỏ của tôi (1990), Mắt biếc

(1990), Phòng trọ ba người (1990), Thằng quỷ nhỏ (1990), Hoa hồng xứ khác

(1991), Bong bóng lên trời (1991), Hạ đỏ (1991), Bồ câu không đưa thư (1993),

Trại hoa vàng (1994), Đi qua mùa hoa cúc (1995), Út Quyên và Tôi (1995), Buổi

chiều Windows (1995), Quán gà đi lên (1999), Ngôi trường mọi khi (2001), Tôi

27

là Bê tô (2007), Những cô em gái (2008), Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ (2008),

Đảo mộng mơ (2009). Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (2010), Lá nằm trong lá

(2011), Có hai con mèo nằm bên cửa sổ (2012), Ngồi khóc trên cây (2013), Chúc

một ngày tốt lành (2014), Bảy bước tới mùa hè (2015), Con chó nhỏ mang giỏ

hoa hồng (2016), Ngày xưa có một truyện tình (2016), Cây chuối non đi giầy xanh

(2018).

Ngoài ra ông còn có 2 tập truyện dài kỳ là: Kính vạn hoa (54 tập) in từ năm

1995 – 2002 cùng tập truyện Xứ Lang Biang (4 tập in trong khoảng 2004 – 2006).

Tạp văn Người Quảng ăn mì Quảng (2012), Sương khói quê nhà (2012),

Thương nhớ Trà Long (2014), bộ truyện tranh cho thiếu nhi Bim và những chuyện

kì thú (1998)…

Các tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh còn được dịch ra tiếng nước ngoài như

Mắt biếc đã được dịch sang tiếng Nhật, Cô gái đến từ hôm qua, được dịch sang

tiếng Nga và tác phẩm trở thành tài liệu học tiếng Việt cho người Nga. Cho tôi

xin một vé đi tuổi thơ được dịch sang tiếng Hàn, tiếng Anh, để xuất bản tại Thái

Lan và Hàn Quốc. Điều đó cho thấy sức hấp dẫn của các tác phẩm không chỉ với

độc giả trong nước mà còn có thể xuất khẩu để đến với bạn đọc nước ngoài.

Không chỉ có vậy, các sáng tác của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đang được

nhiều đạo diễn chú ý như bộ phim truyền hình Kính vạn hoa, Tôi thấy hoa vàng

trên cỏ xanh, Cô gái đến từ hôm qua đã được chuyển thể từ tác phẩm cùng tên,

thu hút được rất nhiều khán giả không chỉ trẻ em mà cả người lớn.

Sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh được chia làm hai nhóm.

Nhóm thứ nhất đó là những sáng tác dành cho lứa tuổi cấp ba. Nhà văn

thường chú trọng đến những rung động đầu đời, những tình cảm có phần mộng

mơ, những phức tạp của lứa tuổi mới lớn…(Cô gái đến từ hôm qua, Bồ câu không

đưa thư, Nữ sinh, Ngôi trường mọi khi v.v…)

28

Nhóm thứ hai đó là những sáng tác dành cho lứa tuổi cấp hai trở xuống, ở

nhóm này nhà văn chủ yếu miêu tả các mối quan hệ bạn bè, thầy cô, các câu

chuyện trường lớp và quá trình khám phá thế giới qua đôi mắt trong trẻo, hồn

nhiên của tuổi thơ...(Kính vạn hoa, Chú bé rắc rối, Bàn có năm chỗ ngồi, Chuyện

xứ LiBiang v.v..)

Trên những trang sách của ông dường như ai cũng bắt gặp tuổi thơ của

chính mình với những trò nghịch ngợm, những toan tính và những suy nghĩ non

nớt … Những cuốn sách của Nguyễn Nhật Ánh được ví như cuốn bách khoa toàn

thư về thế giới trẻ em.

Trước nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đã từng có cả một thế hệ các tác giả đã

rất thành công khi viết cho thiếu nhi như các nhà văn: Tô Hoài, Võ Quảng, Phạm

Hổ, Phùng Quán, Đoàn Giỏi… Nhưng đến Nguyễn Nhật Ánh, ông vẫn tạo dựng

cho mình một phong cách riêng và có ảnh hưởng đến lối viết của các nhà văn

thiếu nhi ở thế hệ sau.

29

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Như vậy, ở chương một chúng tôi đã tóm lược được diện mạo và quá trình

phát triển của văn học thiếu nhi thời kì đổi mới và tóm lược về tiểu sử, sự nghiệp

cũng như quan niệm sáng tác của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh.

Thứ nhất chúng ta thấy qua những bước phát triển của văn học thiếu nhi

Việt Nam thời kì đổi mới tuy có nhiều biến động, có nhiều thăng trầm, nhưng nó

cũng đã có những bước phát triển mới và đạt được những thành tựu quan trọng từ

cách khai thác đề tài, chủ đề và mở ra khả năng bao quát bức tranh sinh động về

đời sống trẻ em.

Thứ hai là khẳng định được vị trí của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh trong dòng

văn học thiếu nhi đương đại, bởi sức viết dồi dào và khả năng lôi cuốn đặc biệt,

ông đã mở ra hướng khai thác vấn đề mới và chuyển dẫn vấn đề giáo dục cũng

như cuộc sống vào từng trang văn một cách nhẹ nhàng và tinh tế.

Nguyễn Nhật Ánh luôn gắn bó với quê hương, có sự gần gũi, thân thiện đặc

biệt trong sáng tác của mình. Nhà văn không chỉ thể hiện tâm huyết của mình

dành cho thiếu nhi mà còn thể hiện sự nhận thức đúng đắn về vai trò của nghề văn

trong việc chuẩn bị cho các em hành trang cần thiết để bước vào đời. Cái lứa tuổi

rất cần đến những cuốn sách văn học vừa hấp dẫn, bổ ích và lí thú để giáo dục các

em biết yêu quý, trân trọng những gì tốt đẹp xung quanh mình.

Nguyễn Nhật Ánh xuất hiện như một “hiện tượng tác giả” viết truyện thiếu

nhi ăn khách nhất Việt Nam. Cái danh hiệu Nguyễn Nhật Ánh - nhà văn của thiếu

nhi không chỉ được giới chuyên môn thừa nhận, mà quan trọng hơn, Nguyễn Nhật

Ánh được chính các em - độc giả nhỏ tuổi luôn coi là nhà văn của mình. Những

người lớn cũng luôn tìm được một cảm giác thích thú, một tâm trạng nhẹ nhàng

thoải mái và những bài học sâu sắc bổ ích khi đọc tác phẩm của ông và cũng thầm

cảm ơn ông bởi những món quà đầy ý nghĩa ấy.

30

CHƯƠNG 2

NHÂN VẬT VÀ CỐT TRUYỆN TRONG TRUYỆN

NGUYỄN NHẬT ÁNH

2.1. Nhân vật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh

2.1.1. Khái niệm nhân vật

Trong tác phẩm văn học, xây dựng nhân vật là một vấn đề rất quan trọng

được nhà văn quan tâm. Bởi bản chất văn học là một quan hệ với đời sống, văn

học là tái hiện đời sống qua những chủ thể nhất định, đóng vai trò như một tấm

gương phản ánh đời sống nhân vật trong tác phẩm văn học không chỉ thể hiện chủ

đề, tư tưởng của tác phẩm mà còn thể hiện quan điểm nghệ thuật về con người

của một nhà văn ở những thời điểm lịch sử nhất định. Nhà văn Tô Hoài trong cuốn

sổ tay viết văn (1977) khi nói về nhân vật ông cho rằng: “Nhân vật là nơi duy nhất

tập trung hết thảy trong một sáng tác”.

Có rất nhiều định nghĩa hoặc nêu khái niệm về nhân vật văn học. Theo giáo

trình Lí luận văn học của nhiều tác giả thì “Nhân vật văn học là con người được

miêu tả trong văn học bằng phương tiện văn học. Khái niệm nhân vật có khi được

sử dụng một cách ẩn dụ, không chỉ một con người cụ thể nào mà chỉ một hiện

tượng nổi bật trong tác phẩm. Nhân vật là hình thức cơ bản để qua đó văn học

miêu tả thế giới một cách hình tượng, nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ

thuật ước lệ, có những dấu hiệu để ta nhận ra tên, tiểu sử, nghề nghiệp, đặc điểm

riêng về hoàn cảnh, ngoại hình, quan hệ, đặc điểm tính cách”. [52, tr.277]

Từ những định nghĩa trên, chúng ta có thể rút ra một kết luận đó là: Nhân

vật trong tác phẩm văn học chính là con người hoặc loài cây, các sinh thể hoang

đường nhưng mang đặc điểm giống với con người. Nhân vật ấy là đứa con tinh

thần của nhà văn, là máu thịt của nhà văn để thể hiện quan niệm thẩm mỹ và lí

tưởng thẩm mỹ của nhà văn về cuộc đời và con người. Các nhà lí luận cũng đã

31

nhấn mạnh đến tính nghệ thuật, ước lệ của nhân vật văn học. Nhân vật văn học

không hoàn toàn giống như con người thật ở ngoài đời vì chúng có những đặc

trưng nghệ thuật và được thể hiện trong tác phẩm bằng các phương tiện văn học

thông qua quan niệm và biện pháp nghệ thuật của nhà văn, nhưng không vì thế

mà chúng kém đi phần chân thật. Đã là tác phẩm văn học thì không thể thiếu nhân

vật văn học.

2.1.2. Các kiểu nhân vật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh

Nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh rất đa dạng, không chỉ có

trẻ em mà còn có cả người lớn là ông bà, cha mẹ, thầy cô, anh, chị, em của các

nhân vật, thậm chí là cả những con vật, cũng trở thành nhân vật chính trong tác

phẩm của nhà văn. Trong công trình này chúng tôi đã phân chia nhân vật trong

truyện của Nguyễn Nhật Ánh thành bốn loại như sau:

2.1.2.1. Nhân vật thiếu nhi

Nhân vật thiếu nhi đây là nhân vật chính trong các tác phẩm của Nguyễn

Nhật Ánh bởi tác phẩm của ông đều đề cập đến thiếu nhi. Dù là những đứa trẻ

sinh ra trong gia đình khá giả hay nghèo khó, nhưng các em đều mang trong mình

một tâm hồn hướng thiện, biết vươn lên và vượt qua nghịch cảnh để đạt được điều

tốt đẹp hơn trong cuộc sống.

* Nhân vật trẻ em giàu tình yêu thương và luôn hướng thiện

Trong truyện Nguyễn Nhật Ánh màu sắc trẻ thơ được thể hiện ở ngay nhan

đề, ở cách mà nhà văn đặt cho các chương mục. Trong tác phẩm Tôi thấy hoa

vàng trên cỏ xanh tên 81 chương truyện cũng đủ để làm thành thế giới tuổi thơ.

Nhưng đây mới là bề mặt của văn bản còn cái hồn của truyện Nguyễn Nhật Ánh

nằm ở cái nhìn trẻ thơ của tác giả. Hầu hết các nhân vật trong truyện của Nguyễn

Nhật Ánh đều là những con người biết yêu thương, hướng thiện, biết phân biệt tốt

xấu, biết bênh vực cái đẹp, cái tốt và căm ghét cái xấu.

32

Những đứa trẻ ở đây biết quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau, như Trong

tác phẩm “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” khi nhà Mận bị cháy, bố Mận mất tích,

mẹ Mận bị bắt giam, Thiều đã là người bạn thân an ủi và giúp Mận vượt qua cú

sốc tinh thần:

- “Mẹ tao kêu đem cơm cho mày. Mày chưa ăn tối phải không?

- Mình không muốn ăn – Giọng con Mận dầu dầu.

- Mày phải ăn mới khỏe được. - Tôi nói hết lời mẹ tôi vẫn nói với tôi khi tôi

biếng ăn.

Con Mận bướng bỉnh:

- Nhưng mình không thấy đói.

Tôi đảo mắt, cố tìm một lý do chính đáng.

- Mày không ăn, mẹ mày biết mẹ mày buồn lắm đó.

Tôi đem mẹ nó ra để nó biết thương mẹ mà chịu ăn cơm, nào ngờ nó òa ra

khóc:

- Không biết chừng nào mẹ mình mới được thả về?

- Chắc là sớm thôi” [5, tr.184].

Không chỉ biết an ủi, Thiều còn có tinh thần giúp đỡ bạn bè. Dù Thiều là

đứa trẻ sợ ma nhưng tình bạn đã giúp Thiều vượt lên trên mọi nỗi sợ để làm chỗ

dựa khi lúc bạn gặp khó khăn.

“Dĩ nhiên là tôi rất sung sướng khi được mẹ tôi sai qua ngủ nhà con Mận

hay giúp đỡ nó lúc này. Qua nhà nó ngủ để giúp nó đỡ sợ trộm, sợ ma là điều duy

nhất tôi có thể làm được.

33

Tôi là chúa sợ ma. Nhưng đang xúc động trước hoàn cảnh không may của

con Mận, tôi quên bẵng nỗi sợ của mình” [5, tr.186].

Hay với nhân vật Tường luôn dành cho anh trai mình một tình yêu bao dung

và âu yếm nhẫn nhịn và cũng đầy đức hi sinh. Lúc nào cậu cũng thế, luôn chịu

đòn thay anh mà không hề phàn nàn vì điều đó. Luôn lặng lẽ, nhẹ nhàng chấp

nhận tất cả. Chỉ có trong trái tim rộng mở, Tường mới yêu anh trai mình nhiều

đến mức có thể từ một cậu bé hiền lành như cục đất trở nên mạnh mẽ và liều lĩnh.

Đó là câu chuyện Tường trợ giúp Thiều chống lại thằng Sơn. Tường đã siết chặt

cổ thằng Sơn, Tường đấm vào lưng thằng Sơn, thằng Sơn phải chịu trận thay cho

Thiều.

“Sơn nhíu mày, chưa kịp hỏi dứt câu thằng Tường đã thình lình nhảy xổ tới

và ôm cứng lấy nó.

Đập nó đi, anh Hai! Tường vừa siết chặt cổ thằng Sơn vừa la lớn. Tôi bay

vào, vung tay nện thình thịch lên tấm lưng to bè của thằng Sơn, cảm thấy như

đang đấm vào một tấm phản bọc da trâu” [5, tr.161].

Tường đã bị Thiều đánh đòn rất nhiều lần, cả chuyện Thiều đánh Tường

nằm liệt giường đã khiến cho cả hai người đều vô cùng đau lòng. Anh đánh em,

không chỉ một nhát mà nhiều, nhiều lắm, cả vào trái tim… Mặc dù vậy nhưng

Tường vẫn luôn yêu anh, không hề thay đổi. Tường lo anh buồn, vì mình lo anh

bị đánh vì mình. Trái tim em luôn bao dung, giọng em yếu ớt rằng đừng bảo cha

mẹ là anh Thiều đánh, bảo là vì em không cẩn thận mà bị ngã từ trên cây.

Người đọc lại càng cảm động hơn về tình bạn giữa Thiều và Mận. Gia cảnh

của nhà Mận khó khăn cho nên Thiều luôn là người thấu hiểu và thương cảm cho

nó. Có lần sang nhà chơi thấy con Mận ngồi bên cửa sổ “hai tay chống lấy cằm,

cùi tay tựa lên bậu cửa sổ, thừ mặt trông ra… để phơi khuôn mặt” [5, tr.20]. Thiều

hiểu nó đang ngồi hong khô những giọt nước mắt. Thiều thấy Mận tội ghê.

34

Một lần Thiều tìm đến Mận đòi tập vở mà con Mận mượn về chép bài,

Thiều thẳng thừng nói: “Sao mày học ngu thế” [5, tr.130] Thiều thấy Mận không

trả lời và “lấy tay quệt nước mắt” [5, tr.130] hành động đó của Mận đã “làm mềm

trái tim tôi” [5, tr.130]. Giọt nước mắt ấy đã khiến Thiều cảm thông hơn và trở

thành chỗ dựa tin cậy để Mận bộc bạch nỗi niềm của mình. Mận nói thật cho

Thiều về lý do mình khóc “mình phải lo cho ba mình” [5, tr.131]. Dòng tâm sự

của Mận tiết lộ những bí mật đau lòng về gia cảnh mình “Ba mình vẫn ở trong

nhà. Mẹ mình nhốt ba mình trên gác” [5, tr,131] khiến cho Thiều thấy thương cảm

“ánh mắt tôi rớt xuống gương mặt u sầu của con Mận đọng ở đó một lúc lâu,

lòng tôi rất đỗi hoang mang” [5, tr.132]. Đó là một sự cảm thông, chia sẻ của

người bạn giàu tình cảm.

Thiều luôn thương cảm Mận nên thường xuyên hỏi thăm con Mận hơn và

vẫn cùng giúp đỡ khi Mận cần. Thiều luôn trăn trở và thương cho những trận đòn

mà con Mận tâm sự “mẹ mình đánh mình vì không có lý do gì hết cả. Thấy ngứa

mắt thì đánh thôi. Bởi dạo này mẹ mình lúc nào cũng buồn bực” [5, tr.173]. Thiều

đã cảm thông cho mẹ nó nhưng vẫn cảm thấy thương cho con Mận. Thiều cầm

tay an ủi Mận: “Mày đừng buồn nữa, khi nào ba mày hết bệnh nhà mày sẽ lại vui

vẻ như xưa” [5, tr.174].

Sự quan tâm yêu thương, cảm thông chia sẻ được bộc lộ sâu sắc hơn qua

tình huống đó là nhà con Mận bị cháy. Khi đang ở trường dự liên hoan lớp, đến

tiết mục xem các lớp thi thả diều ngoài sân thì nghe tin nhà con Mận bị cháy, mặt

con Mận cắt không còn hột máu, chạy như bay ra cổng. Thiều cũng tức tốc chạy

theo phía sau. Nỗi đau của con Mận, Thiều cũng như thấy nỗi đau của chính mình,

Thiều muốn được chia sẻ, giúp đỡ nó vượt qua cơn hoạn nạn. Khi nhà Mận đã

cháy mẹ nó bị công an bắt để điều tra. Thiều thấy đau lòng khi nghe dân làng đàm

tiếu chuyện nhà con Mận, Thiều cảm giác như nghe chính chuyện của nhà mình.

Người đọc cảm thấy trân trọng, không chỉ cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ bạn của

35

Thiều mà Thiều còn luôn thường trực nỗi lo cho bạn trước âm mưu đen tối của

thằng Sơn.

Hay Tường và cô bé Nhi là hai nhân vật viết tiếp nên những giai điệu ấm

áp về tình bạn đầy ắp yêu thương, che chở và giúp đỡ lẫn nhau, nhưng điều đặc

biệt là hai nhân vật ấy dường như sống trong không gian cổ tích khác với không

gian cuộc sống hàng ngày. Khi Tường bị anh Thiều vô tình đánh vào lưng, khiến

Tường không thể đi lại cả tháng trời thì con Nhi cũng là cô bé bị chứng tâm thần

kiểm soát. Con Nhi kém Tường một tuổi, nhà chúng ở chung cùng một ngôi làng

mang đậm chất vùng quê. Khi có đoàn xiếc mô tô bay ở ngoài huyện về biểu diễn

thì cả làng đổ xô kéo đi xem. Tai nạn đến thật bất ngờ đối với Nhi khi em thích

thú đưa tay ra nắm lấy tay chị diễn viên xiếc đang nhào lộn để rồi cả hai người

ngã lăn ra bất tỉnh. Bất hạnh cho Nhi hơn khi chính chiếc xe mô tô đó sau đó khi

văng đi một vòng thì quay lại cán cả tay lái vào đầu em đã khiến cho em rơi vào

tình trạng chết lâm sàng. Ba em, ông Tám Tàng đã ủ rũ đưa em về sau khi các bác

sĩ lắc đầu không thể cứu chữa được em. Thế nhưng chính Nhi đã là người khiến

Tường có thể ngồi dậy, rồi đứng lên khi mãi dõi theo cô công chúa Nhi trong bộ

dạng công chúa đích thực: mặc váy xòe có tua ren thắt nơ, đeo vòng cổ… còn

chính Tường lại cũng là người giúp Nhi tỉnh cơn mê công chúa khi nó cố gắng

bảo vệ con Nhi trước sự trêu đùa ác ý của những đứa trẻ hiếu kì khác.

Có thể thấy nhờ tình bạn, nhờ sự yêu mến, lo lắng và giúp đỡ nhau mà cả

hai đều vượt qua được khó khăn của mình. Tình bạn ấy giống như ánh nắng ban

mai đã đem đến nụ cười cho người đọc, làm ấm lòng những người xung quanh.

Qua câu chuyện về tình yêu thương giữa những đứa trẻ với nhau, nhà văn

Nguyễn Nhật Ánh đã mang đến một thông điệp giản dị mà hết sức quý giá: cho

yêu thương sẽ nhận lại yêu thương. Tình cảm đó giúp cho thế giới mà những đứa

trẻ đang sống càng thêm đáng yêu và trở nên tươi đẹp hơn, giúp bạn đọc thiếu nhi

36

có cách nhìn nhận nhân văn hơn về tình bạn đang có của mình và học cách yêu

thương người khác nhiều hơn.

Là những đứa con rất hiếu thảo trong gia đình, nhân vật thiếu nhi trong

truyện của Nguyễn Nhật Ánh là những người biết sống chan hòa, nhân ái, yêu

thương bà con, hàng xóm xung quanh, đến với Bảy bước tới mùa hè, chúng ta

thấy được nét đẹp ở tâm hồn các em. Mừng là cậu bé có đời sống bất hạnh, không

được đến trường như các bạn cùng trang lứa vì “Ba mẹ nó bị nước lũ cuốn trôi,

nhà nó lâm vào cảnh neo đơn. Chỉ có hai bà cháu quanh quẩn ra vào, Mừng phải

ở nhà phụ giúp bà nó. Ba nó mất đi, trong nhà không có người chèo chống, nó

không có đủ tiền để theo đuổi chuyện học hành” [6, tr.197]. Tuy số phận thiệt thòi

và vất vả nhưng ngược lại Mừng lại là một cậu bé giàu tình yêu thương. Mừng

thương ông Mười khòm còng lưng đi lại khó khăn phải chống gậy. Bất kì lúc nào

Mừng nhìn thấy ông Mười, cho dù là đang đùa vui với chúng bạn Mừng cũng

không ngần ngại đến với ông, Khoa thấy rõ ràng thằng Mừng đang đưa tay trái

nắm tay ông Mười khòm, tay phải thận trọng đỡ lưng ông. Mừng rất vô tư như cái

tuổi của em nhưng em không vô tâm, tuy mải chơi và nghịch ngợm nhưng lại rất

giàu tình cảm. Mừng thương ông Mười và ông Mười cũng thương cho hoàn cảnh

của em. Ông Mười đã già yếu nhưng vẫn âm thầm nuôi heo với mong muốn bán

đi lấy tiền cho Mừng đi học. Nhưng câu chuyện thật xúc động khi ông Mười đang

thực hiện kế hoạch dang dở thì đã bất ngờ qua đời. Cái chết của ông Mười làm

Mừng hết sức đau buồn: “Ông Mười qua đời làm Mừng chẳng muốn đi đâu. Nó

chỉ muốn ngồi một chỗ để gặm nhấm nỗi buồn…Ông Mười chết tôi buồn lắm. Nửa

đêm nghe gió thổi lồng lộng trên mái tranh, ông sợ heo trong chuồng lạnh… ông

lò dò xách đèn ra chuồng chắc ông định cột lại tấm cói nhưng trời tối khiến ông

vấp té ngay sau cửa chuồng không một ai biết. Tờ mờ sáng, mẹ thằng Bông ra

sau hè rửa mặt đã thấy ông chết rồi” [6, tr.231].

37

Những đứa trẻ cũng rất dễ đồng cảm với tình thương người và sự đồng cảm

có thể lan tỏa từ người này sang người khác.

“Khoa ngồi im nghe Mừng kể, mắt bất giác cay cay. Khoa rờ tay lên má

thấy gò má ươn ướt mới hay mình đã khóc. Bây giờ thì không chỉ Mừng thương

ông Mười khòm, Khoa cũng thương ông. Nó thương ông vì ông thương bạn nó.

Nó thương ông vì ông là người tốt [6, tr.232]. Bảy bước tới mùa hè là câu chuyện

về một mùa hè ngọt ngào và những trò chơi tinh nghịch, thiên truyện có nhiều

cảm xúc rưng rưng đầy xúc động về tình bạn bè, tình làng xóm, về một thế giới

ngập tràn tình yêu thương giữa con người với con người.

Như một dòng suối mát lành, chúng ta thấy ở mỗi câu chuyện của nhà văn

Nguyễn Nhật Ánh viết về tuổi mới lớn đều ngập tràn tình yêu thương giữa con

người với con người. Đến với mỗi tác phẩm bạn đọc như thấy tâm hồn mình được

thanh lọc, nhất là đối với lứa tuổi thiếu nhi, mỗi câu chuyện trong tác phẩm đều

giúp các em biết nhìn lại mình để sống tốt hơn, nhân ái và bao dung hơn. Giữa lúc

xã hội đang tồn tại căn bệnh vô cảm và bạo lực học đường ngày càng nhân rộng

thì những câu chuyện xúc động về tình yêu thương của Nguyễn Nhật Ánh như

tiếng chuông cảnh tỉnh các em. Nhà văn đã từng đưa ra quan niệm: “Cành đắng

không nhất thiết phải cho ra trái đắng. Tôi không thích loại nhà văn mỗi khi hục

hặc với cuộc đời lại cho phép mình văng tục trong tác phẩm. Tôi viết cho bạn trẻ

đọc, tôi thích mô tả cái tốt thật đẹp để người ta yêu thích nó”. Tôi nghĩ điều này

phù hợp với tâm hồn các em. Vì quan điểm trên mỗi thiên truyện của Nguyễn

Nhật Ánh đều là một bài học giáo dục nhẹ nhàng mà sâu sắc, nó không hề kém

phần xúc động về tình mẫu tử, tình anh em, bạn bè, tình làng xóm.

* Nhân vật trẻ em với những ước mơ, khát vọng về cuộc sống tốt đẹp

Trong cuộc sống thường nhật, mỗi con người hẳn đều có những ước mơ

riêng dù lớn hay nhỏ. Đó có thể là những điều giản dị, đến những ước mơ lý tưởng

và những khát vọng cao đẹp khác. Đối với trẻ thơ khi thế giới trong mắt các em

38

còn nhiều lạ lẫm và còn ẩn chứa nhiều thú vị cần khám phá thì những ước mơ,

khát vọng còn là một phần không thể thiếu. Đây là một đặc điểm trong truyện của

Nguyễn Nhật Ánh, bởi hơn ai hết, nhà văn đã thấu hiểu việc nuôi dưỡng và ươm

mầm những ước mơ, những khát vọng của các em chính là điều vô cùng quan

trọng khi các em chính là thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước.

Với Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, những ước mơ, những khát vọng của

các bạn nhỏ được đặt trong bối cảnh làng quê với những mối quan hệ gia đình,

trường học, bạn bè làm nên sự đa chiều trong sự phản ánh con người các em. Là

những trẻ em nông thôn nên những ước mơ mang màu sắc nông thôn đã hiện lên

khá rõ nét, nhưng không vì thế mà các em thiếu đi những khát vọng lớn lao của

tuổi thơ. Cho dù ước mơ có nhỏ nhoi, đơn giản thì cũng đều rất đáng được nâng

niu và trân trọng.

Những ước mơ rất giản dị xuất phát từ tình yêu thương là đặc điểm đầu tiên

dễ nhận thấy trong những ước mơ giản dị về cuộc sống đời thường trong vô số

những ước mơ giản dị xuất phát từ tình yêu thương mà bạn nhỏ trong Tôi thấy

hoa vàng trên cỏ xanh đang nuôi dưỡng. Người đọc bắt gặp được nhiều ước mơ

như thế. Từ tình yêu với cha mẹ và thấu hiểu những nỗi vất vả của cha mẹ mà khi

Tường nhặt được miếng kim loại màu vàng bên bờ suối, Tường chạy vù về khoe

anh hai, chị Mận. Niềm háo hức hân hoan khiến cặp mắt sáng trong rồi vỗ tay reo,

rồi Tường tưởng tượng nhà mình sẽ giàu hơn, rồi sẽ xây nhà tầng, mua xe ô tô…

Chúng đều háo hức tin tưởng, mơ ước và hi vọng đó là vàng thật và nghĩ

ba của chúng “sẽ không phải sống vất vả trên thành phố để kiếm việc làm, cũng

như mẹ sẽ không phải ngày ngày vất vả theo xe đi buôn củi” [5, tr.186]. Nhưng

tiếc rằng mong ước ấy không thể trở thành hiện thực vì miếng kim loại ấy bằng

đồng.

Hay khi căn gác nhà con Mận bị cháy, cô bạn nhỏ ấy nghĩ rằng cha mình

đã chết cháy ở trên gác. Khi người ta tìm thấy có những mẩu xương ở trên đó, để

39

rồi họ nghi án vì mẹ nhốt ba mà ba nó bị chết cháy và công an bắt mẹ nó đi lên

huyện. Con Mận đã bỗng chốc trở thành đứa trẻ không cha, không mẹ. May mắn

khi nó được sang ở nhà Thiều, Tường và tất cả chúng mong muốn cho ba mẹ con

Mận được thả ra và hy vọng sẽ tìm lại được ba nó (khi biết những mẩu xương trên

gác không phải là mẩu xương người) và hi vọng cho gia đình nó sớm được đoàn

tụ.

Xuất phát từ tình cảm gia đình, tình cảm bạn bè mà những ước mơ ấy được

thắp lên và tỏa sáng sưởi ấm tấm lòng cô bạn nhỏ, giúp Mận đã vượt qua cơn hoạn

nạn.

Những đứa trẻ không chỉ mong ước những điều tốt đẹp cho bản thân mình

mà chúng còn ước mong cho những người thân. Lòng mến yêu chú Đàn của hai

đứa trẻ Thiều và Tường khiến chúng có thể chơi với chú suốt buổi nhưng cũng vì

thế mà khi thấy tình yêu giữa chú với chị Vinh bị thầy Nhãn ba chị Vinh cấm đoán

để rồi hai người đã phải lập mưu trốn đi khỏi làng thì chúng đều mong muốn chú

Đàn sớm tìm được chị Vinh, rồi ước mong thầy Nhãn không cấm đoán để hai

người thành đôi và sớm được về làng bên chúng. Rồi thằng Dưa con ông Năm Ve

cũng chỉ vì yêu quý chị Vinh mà đã giúp chị diễn tốt màn kịch để chị Vinh chết

đuối để chị trốn đi với chú Đàn, mong hai người trở thành đôi lứa và sống với

nhau hạnh phúc.

Cuối câu chuyện người đọc đã như lạc vào thế giới cổ tích với những ước

mong cao đẹp của hai cậu bé, cô bé đó là Tường và Nhi. Tường bị Thiều vô tình

đánh vào lưng phải nằm liệt giường, con Nhi bị chứng tâm thần khi luôn coi mình

là công chúa. Nhi có thể trốn ba vượt ngọn đồi để đến thăm Tường còn Tường đã

gắng gượng với cơn đau để đến thăm Nhi. Cũng vì thế mà Tường có thể đi lại sau

chấn thương và cũng chính sự bảo vệ Tường đã giúp Nhi tỉnh lại sau ba năm mắc

bệnh ngớ ngẩn. Có thể thấy rằng đằng sau đó là ước mong đôi chân của nó nhanh

khỏe lại để được đến thăm cô công chúa nhỏ của nó. Đó là những ước mơ rất giản

40

dị xuất phát từ tình yêu thương, sự gắn bó nghĩa tình trong trái tim bé nhỏ của

những đứa trẻ.

Cuộc sống vô cùng phong phú và ước mơ cũng vậy, không phải mọi ước

mơ chỉ nhằm hướng đến những điều tốt đẹp trong tương lai mà bên cạnh đó có cả

những ước mơ để chuộc lại những lỗi lầm mà chính các em đã gây ra. Tôi thấy

hoa vàng trên cỏ xanh mang đến cả những ước mơ này, chúng được nhìn nhận

trong những mặt đối lập, tạo cảm quan và những mối liên hệ trong tư duy người

đọc nhỏ tuổi. Đó là nỗi ân hận dày vò của Thiều khi để ông Năm Ve bắt đi con

cóc của Tường mà (Tường gọi là con cu cậu) để nấu cháo cho thằng Dưa ăn khỏi

bệnh còi xương khiến nó đau khổ suốt trong một thời gian dài. Nó đã từng ước có

thể mang về con cóc cho em mình, nhưng không thể. Đó là những ước mơ về

những điều xảy ra mong chuộc lại lỗi lầm.

Ước mơ như sợi chỉ đỏ xuyên suốt mạch những sáng tác của nhà văn, giúp

người đọc thêm yêu, thêm hiểu hơn về thế giới trẻ thơ phong phú - đứa con tinh

thần của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh.

Bên cạnh những ước mơ còn là những khát vọng tốt đẹp về tương lai,

Nguyễn Nhật Ánh từng quan niệm: “viết cho thiếu nhi chỉ nên viết cái tốt, cái đẹp,

cái vui”. Điều đó hoàn toàn đúng, những lúc cần nhấn mạnh cho các em nhất là ở

một lứa tuổi nào đó biết cả cái tốt, cái xấu, cái đau buồn. Vấn đề là viết thế nào

để từ cái xấu, các em thấy được cái tốt rõ hơn, sáng hơn, và từ cái đau buồn thấy

cái vui sướng sâu đậm hơn.

Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đã mang đến một cái nhìn đa chiều cho người

đọc. Trẻ em giàu ước mơ, có những ước mơ giản dị cao đẹp, góp phần làm cho

cuộc sống ý giàu nghĩa hơn, tươi đẹp hơn.

Trẻ em thành phố ngay từ nhỏ đã được tiếp xúc với ti vi, máy tính… còn

trẻ em nông thôn ít có điều kiện đó nên sách, truyện vừa cũng là phương tiện giải

41

trí, vừa như người bạn. Ở lứa tuổi này tâm hồn các em rất ngây thơ, trong sáng

nên những tác động xung quanh sẽ dễ gieo niềm vui vào các em. Tường cũng vậy,

nó là cậu bé rất mê đọc sách, đi đâu cũng nhét sách vào trong túi quần, quần không

có túi thì nó đã lận sách vào thắt lưng. Tường đọc sách mọi lúc mọi nơi, khi thì

nằm bò ra cỏ, hay thậm chí là “ngồi thông chân trên thành giếng hay đang vắt vẻo

trên cành ổi sau vườn để rồi thuộc nhiều chuyện” Bạch Tuyết và bảy chú lùn,

Công chúa ngủ trong rừng và những điều kì bí trong thế giới cổ tích nó đã ươm

mầm cho ước mơ của Tường trong thực tại. Giấc mơ làm được làm phò mã, tâm

hồn cậu được thế giới thần kỳ của truyện cổ tích bao bọc và nuôi dưỡng nên những

giấc mơ được gặp công chúa, được làm phò mã tuy không nói ra nhưng nó luôn

tồn tại thầm kín và âm ỉ cháy trong ước mơ của em.

Chẳng thế mà khi Tường hỏi Thiều “Ong chúa có thật không anh hai” thì

Tường mơ màng, nhìn xa xăm. Cho đến ngày cậu đã tận mắt nhìn thấy một cô

công chúa đứng bên ngoài cửa sổ cậu đã tin là có công chúa thật và khi kể cho

anh hai nghe, miệng nó mỉm cười còn đôi mắt thì lấp lánh ánh nên niềm vui. Giấc

mơ kì diệu ấy đã khiến người đọc cuốn vào câu chuyện cùng với Tường chờ đợi

kết quả. Còn Tường thì nuôi dưỡng những ước mơ, những khát vọng chính đáng

ấy bởi niềm tin trẻ thơ đã giúp em có một cách nhìn trong sáng hơn, một tâm hồn

bao dung hơn và một trái tim luôn đong đầy tình yêu thương và sự thanh lọc tâm

hồn người đọc.

Bên cạnh khát vọng, Tường luôn ước mơ anh hai của Tường sau này sẽ làm

đại tướng, nếu không thì làm tới chức bộ trưởng để cậu còn được hãnh diện. Trong

mắt cậu thì chức ấy hẳn là to lắm. Vì thế mà Tường tin ở anh hơn thế, vì ước mơ

đẹp ấy mà Tường sẵn sàng hi sinh, tin lời bịa đặt của anh. Hơn thế, ước mơ đẹp

mà Tường đã sẵn sàng làm hết mọi việc nhà với một tâm trạng lúc nào cũng tươi

vui háo hức với một lý do “cho anh Hai có thì giờ học bài”.

42

Từ những ước mơ giản dị đến những khát vọng cao đẹp về tương lai là một

quá trình nhận thức và thay đổi sâu sắc diễn ra trong tâm hồn thiếu nhi.

Tuy nhiên không phải khi nào chúng ta cũng có sự phân định rạch ròi mà

có sự đan xen lẫn nhau. Những ước mơ dù nhỏ nhoi hay cao đẹp thì đều đáng

được trân trọng và phải chăng nhà văn muốn gửi gắm đến các bậc phụ huynh là

cha mẹ hãy luôn bên cạnh những đứa trẻ đáng yêu của mình, hãy chắp cánh và

nuôi dưỡng ước mơ trong tâm hồn các em. Bởi ước mơ và niềm tin là một trong

những động lực để giúp trẻ vượt qua mọi khó khăn khi gặp phải để đạt được điều

mà trẻ em mong muốn.

2.1.2.2. Nhân vật tuổi mới lớn

*Những trò chơi tinh nghịch, hồn nhiên

Những trò chơi tinh nghịch, hồn nhiên nó đã bắt đầu mang những dấu hiệu

của người trưởng thành, nhưng nó cũng chưa mất đi tính cách của trẻ con, nhân

vật tuổi mới lớn vì thế mà cũng rất đa sầu, đa cảm với những cảm xúc đầu đời, và

cũng rất hồn nhiên, tinh nghịch. Hầu hết các em đang ở độ tuổi cắp sách tới trường,

đó là một thế giới “nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò”. Chúng ta đã biết Nguyễn

Nhật Ánh từng tốt nghiệp sư phạm, làm thầy giáo và từng giả làm học sinh ôm vở

tới lớp học thêm để hiểu sâu hơn về thế giới học trò. Vì thế mà Nguyễn Nhật Ánh

đã viết lên những trang truyện hết sức chân thực và sinh động về thế giới nhân vật

tuổi mới lớn với những chiêu trò nghịch ngợm dường như chỉ có thể có được ở

tuổi học trò hồn nhiên, tinh nghịch. Vì thế mà khi đọc truyện Nguyễn Nhật Ánh

chúng ta không chỉ xúc động với những câu chuyện tình cảm của các nhân vật

mới lớn mà độc giả còn có được những trận cười sảng khoái trước những trò vui,

quậy phá của các bạn trẻ.

Nghỉ hè là với các cô cậu học trò luôn là khoảng thời gian được mong đợi

nhất. Còn gì thú vị hơn với các cô cậu này khi vừa trải qua một năm học ở thành

43

phố, nghỉ hè được bố mẹ cho về quê thư giãn và cũng chính nơi đây đã từng ghi

dấu biết bao kỉ niệm của tuổi mới lớn. Bảy bước tới mùa hè là một thiên truyện

đầy ắp những trò nghịch ngợm, láu cá, vui đùa hồn nhiên của chàng trai mới lớn

nhân vật tên Khoa với kỳ nghỉ hè ở quê ngoại cũng vô cùng hấp dẫn và thú vị. Mở

đầu câu chuyện, bạn đọc đã được chứng kiến “cái chết” của Khoa rơi từ trên cây

ổi xuống. Chỉ vì muốn chinh phục cô bé Trang là hàng xóm, Khoa đã không ngần

ngại vác cây chổi của dì Liên leo lên cây để làm hình tượng chàng phù thủy cưỡi

chổi, vừa cất lời hát vang cho nhỏ Trang nhìn thấy mà xiêu lòng. Chẳng may bị

dì Liên trông thấy luýnh quýnh chàng đã rơi xuống đất. Nhưng ngay khi tiếp đất,

nghĩ đến trận đòn trừng phạt của dì chàng đã giả vờ chết “chàng phù thủy Khoa

không chỉ gan dạ, lãng mạn, tình tứ mà còn một ưu điểm nữa là rất ranh mãnh.

Chàng nghĩ mình chỉ có chết đi thì dì của chàng mới không tóm lấy tai chàng lôi

xềnh xệch vào nhà sau đó trừng phạt những tội trạng mà chàng đã gây ra bằng

một thứ gì đó có hình thù na ná cây chổi nhỏ hơn, nhưng mềm hơn, vì vậy đét vô

mông thì đau hơn vũ khí đáng gờm đó, xưa nay dân gian vẫn gọi là roi” [6, tr.11].

Quả nhiên khi thấy bộ dạng nằm im lìm của Khoa dì Liên đã khóc lóc thảm

thiết, vừa kể lể, ăn năn, vừa hối hận vì đã cất giấu những vật dụng mà Khoa hay

nghịch ngợm như con dao nhíp, compa, bộ bài cát tê… Nhân lúc dì đang khóc lóc

kể lể nỗi lòng thì Khoa đã lồm cồm bò dậy, ba chân bốn cẳng chạy trốn dì Liên,

“Khoa nghe rất rõ tiếng giậm chân bình bịch và tiếng gọi í ới của dì nó ở sau lưng

nhưng nó mặc kệ. Như một vận động viên nhảy cao, nó búng người bay qua hàng

giậu mồng tơi, vướng chân vào bụi tơ hồng, ngã đánh uỵch” [6, tr.15].

Câu chuyện về kỳ nghỉ hè của Khoa còn được tiếp tục khi Khoa còn xin

phép dì Liên cho đi học thêm lớp thầy Tám. Thầy Tám dạy thêm lớp 8 trong khi

Khoa đã học xong lớp 9. Nhưng Khoa vẫn muốn đi học, Khoa học không phải vì

kiến thức mà vì muốn nhìn thấy nhỏ Trang ở lớp học thêm. Khoa đã mất cả ổ bánh

mì kẹp thịt cho thằng Bông để được đổi chỗ ngồi cạnh nhỏ Trang nhưng không

44

may thầy Tám đã phát hiện và Thầy không cho chuyển chỗ. Giận thầy, Khoa ngồi

trong lớp vẽ một bức chân dung tự họa về thầy Tám Khoa vẽ một người đàn ông…

Khoa vẽ mặt người, thêm khúc mình rồi thêm tay, rồi thêm chân, tay và chân dài

loằng ngoằng trông rất gớm ghiếc… Rồi Khoa khoái chí ghi hai chữ “thầy Tám

thật to bên dưới bức chân dung” [6, tr.43]. Thật không may cho Khoa đã bị thằng

Minh phát hiện sau đó mách cho thầy Tám biết. Hậu quả là Khoa đã bị thầy đánh

cho một trận đòn và đuổi ra khỏi lớp học. Ý nghĩ của Khoa lúc này là phải trả thù

thằng Minh bằng được và cuộc “phưu lưu của các tướng cướp rừng xanh” được

bắt đầu.

Để thực hiện kế hoạch đề ra, Khoa và hai thằng bạn cùng hợp sức là Bông

và Mừng. Bông biệt danh là độc nhãn long, còn Mừng là hiệp sĩ rừng xanh, và

Khoa là bàn tay máu. Ba kẻ tinh nghịch và đều đam mê truyện trinh thám đã chuẩn

bị trang phục: “Chiều hôm đó, Mừng ra sau chuồng heo tháo ba thanh gỗ trên

nóc chuồng hì hục đẽo gươm, xong quét sơn đen thùi lùi rồi đem phơi ngoài bờ

rào, trong khi đó Khoa và Bông lấy vải đen may thành ba cái túi vải trùm đầu.

Mỗi túi khoét hai cái lỗ ngay tại chỗ hai con mắt để khi trông vào còn thấy đường

mà… hành hiệp” [6, tr.69].

Khi kế hoạch đã chín muồi đi vào thực hiện, ba tướng cướp rừng xanh tính

giờ Ninh đi học, chờ lúc Ninh về qua khu rừng liền nhảy ra chặn đường hăm dọa

Ninh phát khóc, mặt cắt không còn giọt máu. Ba chàng tướng cướp vô cùng hả hê

vì đã trả nợ được mối thù. Nhưng chiến tích huy hoàng đã bị dập tắt khi lần thứ

hai vào rừng làm tướng cướp Bông, Khoa, Mừng đã gặp chính thầy Tám, tình thế

đổi ngược, bây giờ không phải là lũ nhóc tướng cướp hỏi cung nữa mà chính là

thầy Tám là người hỏi lại. Lũ trẻ khiếp sợ răm rắp trả lời. Khôi hài nhất là màn

của Khoa, bàn tay máu: “Đang thấp thỏm nghĩ ngợi, Khoa bỗng giật bắn khi thầy

Tám đột ngột chỉ tay vào nó quát lớn: Còn mày? Ta là/ Em là… em là Bàn…

Bàn… Bàn… Bàn tay máu. Tự nhiên chuyển qua xưng “em”.Khiến hai đồng bọn

45

của nó là hiệp sĩ rừng xanh vào độc nhãn long than trời trong bụng. Thấy tên

tướng cướp oắt con này đang bối rối… thầy liền cao giọng ấm áp: Bàn, bàn, cái

gì? Ở trên lớp trò ngồi bàn thứ mấy? (…). Dạ em ngồi bàn thứ hai. Từ bàn tay

máu, biến thành…bàn thứ hai, Khoa khiến hai đứa bạn nó muốn khóc thét” [6,

tr.90].

Khoa và hai thằng bạn bị thầy Tám vạch trần bộ mặt và bị Thầy xoắn tai

đau đến ứa nước mắt. Rồi sau nữa còn hứa hẹn một trận no đòn từ ông ngoại và

dì Liên nếu thầy Tám đến nhà kể tội.

Mùa hè với biết bao sự kiện, bao trò vui đùa nghịch ngợm, nó đã trở thành

mùa hè kỉ niệm của Khoa, cũng là mùa hè Khoa chuẩn bị để tiễn biệt tuổi thơ của

mình để bắt đầu đặt chân vào ngưỡng cửa trở thành người lớn. Những kỉ niệm

Khoa có được từ mùa hè này nó sẽ mãi mãi là miền kí ức đẹp đẽ theo suốt cuộc

đời của Khoa để mỗi khi nhớ về nó rất có thể Khoa sẽ trân trọng hơn về tuổi thơ

hồn nhiên, vui vẻ nhưng cũng đầy tinh nghịch của mình.

Trong truyện Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, Thiều - một cậu bé vô cùng

nghịch ngợm có thể đánh nhau với tụi bạn hay thường giật tóc cô bạn ngồi cạnh

rồi thậm chí bắt nạt cả con Mận. Thiều rất nghịch ngợm, hay cùng thằng Sơn trêu

chọc bạn Xin: “Đang ngồi học, tôi thình lình quay sang nó : Ăn không, Xin? và

khi con Xin láu táu hỏi lại: Ăn gì? thì Thiều tiếp lời: Ăn xin chứ ăn gì”! [5, tr.77].

Bị trêu “ăn xin”, Khiến cho cô bạn nhỏ đã thút thít khóc và giận dỗi ngoảnh mặt

đi chỗ khác, không thèm trò chuyện cùng.

Miền quê yêu dấu, nơi đó có những người bạn tinh nghịch, hồn nhiên, luôn

có những trò đùa vui “phá trời”, có lẽ sẽ là những kỉ niệm không thể bao giờ quên.

Nguyễn Nhật Ánh đã từng gọi những kỉ niệm tươi đẹp là sân ga tuổi thơ mà bất

kì ai cũng có một tấm vé để quay về: “Có thể nói mỗi cuốn sách của Nguyễn Nhật

Ánh như mỗi chuyến tàu về tuổi thơ, ở đó có nhiều toa, mỗi toa là mỗi bất ngờ thú

vị, mỗi háo hức mỗi say mê, khi làm ta bật cười, khi làm ta rưng rưng hoặc ngồi

46

lặng đi suy ngẫm. Khi đã theo con tàu của Nguyễn Nhật Ánh đi về tuổi thơ một

lần, tôi tin mỗi lần Nguyễn Nhật Ánh rung chuông, người ta khó lòng bỏ qua một

tấm vé để lại được cùng anh háo hức lên tàu” [61].

Để có được những câu chuyện sinh động về thế giới học trò như vậy nhà

văn từng chia sẻ “Có lẽ trong tôi luôn luôn sống mãi tuổi mười lăm. Mỗi lần tôi

viết một tác phẩm tuổi mới lớn cũng giống như một cậu bé học trò ngồi viết nhật

ký đời mình. Vậy thôi, rất tự nhiên, không có gì phải lên gân, gượng gạo cả” [48].

* Những cảm xúc đầu đời

Trong các tác phẩm của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, nhân vật chính thường

xưng Tôi là một anh chàng học sinh cấp ba, mê văn chương, hay đa sầu, đa cảm,

hoặc học giỏi hoặc học kém. Nguyễn Nhật Ánh dường như khai thác chính những

kỉ niệm tuổi học trò của mình thuở nào để viết lên những trang văn đầy chất thơ

và cũng rất hóm hỉnh. Nhà văn như thấu hiểu những chuyển biến tâm lí của cái

tuổi đang ngấp nghé và tấp tểnh tập làm người lớn với những rung động đầy bất

thường đôi khi đến khó hiểu, các em có biết bao những trăn trở, những suy tư về

tình bạn, tình yêu, về bản thân mình và về tương lai.

Với tuổi mới lớn, cảm mến được xem như là một cung bậc cảm xúc đầu

tiên của tình yêu đầu đời vừa chớm nở. Ấn tượng về người bạn khác giới lần đầu

gặp mặt đã đem lại những rung động đầu đời và thường làm cho nhân vật có

những cảm xúc mới lạ, rất đặc trưng của tuổi mới lớn. Với cái nhìn đầu tiên, các

chàng trai trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh luôn thấy những bạn gái của mình

thật xinh đẹp, thật ngoan hiền và nhân vật không khỏi thổn thức những cung bậc

cảm xúc đầu đời.

Cảm tình với người bạn khác giới như là một lập trình của trái tim với các

chàng trai mới lớn. Thông thường các chàng trai này luôn bị cuốn hút, hấp dẫn về

vẻ bề ngoài của bạn nữ mà mình đã gặp gỡ và thật thú vị khi những cô bạn gái ấy

47

lại là người bạn ấu thơ ở quê. Trong một dịp nghỉ hè về quê thăm bà con, chàng

trai đã bất ngờ khi gặp lại người bạn gái thuở xưa nay đã trở thành một thiếu nữ

duyên dáng và cũng rất đáng yêu. Cảm tình vì thế mà đã nảy nở, Nguyễn Nhật

Ánh đã để chàng trai mới lớn tên Khoa trong tác phẩm Bảy bước tới mùa hè nghỉ

hè về thăm quê ngỡ ngàng gặp lại cô bé Trang “Mới hè năm ngoái đây thôi, nhỏ

Trang vẫn còn là một cô bé mảnh khảnh và đen đúa, hễ nhìn thấy là Khoa ngứa

mắt chỉ muốn cốc đầu, giật tóc (…) thế mà chỉ sau một năm không gặp nhỏ Trang

xuất hiện trong mắt Khoa y như một con người khác. Mười bốn tuổi, con bé tự

nhiên lớn phổng lên, đã ra dáng một thiếu nữ hẳn hoi. Tóc nó dài ra, cơ thể nó

đầy đặn lên, cặp mắt nó long lanh và đen lay láy như hai hạt nhãn… Khoa đứng

đực giữa sân có đến một lúc, thấy lòng tự nhiên bâng khuâng lạ” [6, tr.22].

Cảm mến, rung động với những cô bạn dễ thương là một mô tuýp quen

thuộc của các chàng trai mới lớn trong truyện Nguyễn Nhật Ánh, phải chăng đây

cũng là những cảm xúc thường thấy của các chàng trai đang đứng trước ngưỡng

cửa để trở thành người lớn và chạm vào cung bậc đầu tiên của tình yêu. Với cách

kể chuyện hồn nhiên nhà văn đã đem đến cho người đọc một cảm giác thiêng

liêng, trân trọng như được trở về tuổi thơ với những kí ức đẹp.

Không chỉ dừng lại ở những cảm xúc cảm mến, dấu hiệu của một chàng

trai mới lớn còn được Nguyễn Nhật Ánh khám phá, miêu tả ở những cung bậc

khác. Đó là thương nhớ và tỏ tình. Bạn đọc dường như được trẻ lại qua trang văn

của Nguyễn Nhật Ánh khi viết về những cách tỏ tình vừa pha chút hồn nhiên của

trẻ con, nhưng lại vừa xen lẫn những cảm xúc của người lớn. Nguyễn Nhật Ánh

đã chỉ ra nét tâm lí khá đặc trưng của tuổi mới lớn bằng các câu chuyện sinh động

về các chiêu trò tán tỉnh, làm quen. Vì thế mà Nguyễn Nhật Ánh được bạn trẻ

“phục lăn” vì đã có người nói hộ lòng mình.

Gửi thư tình, sáng tác nhạc, rồi vẽ tranh tặng bạn gái cũng là những cách

mà các chàng trai mới lớn trong truyện Nguyễn Nhật Ánh lựa chọn để rồi tỏ tình

48

với bạn gái. Để chinh phục Việt An - cô bạn dễ thương học cùng lớp, nhân vật

Thư đã tìm cách mượn sách Việt An rồi chép vào đấy câu thơ Nguyễn Bính:

“Nắng mưa là bệnh của trời

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”

Sau hành động này là tâm trạng hồi hộp, phấp phỏng của Thư “suốt ngày

hôm đó, tôi sống trong tâm trạng thấp thỏm của cậu học trò đi thi chờ kết quả,

nghĩ đến hành động đó của tôi, tôi vừa mừng vừa lo” [4, tr.18].

Nhân vật tuổi mới lớn trong truyện Nguyễn Nhật Ánh phần lớn là các chàng

trai rung động trước những cô bạn gái thật xinh xắn, duyên dáng, dễ thương. Bằng

cách này hay cách khác để khiến người đẹp có cảm tình với mình, các chàng trai

không ngần ngại thực hiện các chiêu chinh phục.

Mua quà tặng bạn gái cũng là những chiêu làm quen, tỏ tình không kém

phần thú vị của các chàng trai mới lớn: “Lúc này trong lớp học chỉ còn lèo tèo

dăm ba đứa, đứa nào đứa đấy đang chúi đầu vô bài làm viết lấy viết để, chẳng

chú ý đến xung quanh… Khung cảnh rất thuận lợi cho ý đồ đen tối của tôi. Đợi

cho Việt An vừa đi qua trước mặt tôi cầm cây viết vảy vào lưng nó. Trong nháy

mắt, vạt áo phía sau của Việt An dính đầy mực lốm đốm”… [4, tr.14] kể từ hôm

đó ngày nào trong túi Thư luc nào cũng đầy kẹo và cứ đến giờ ra chơi hoặc trên

đường về, thừa lúc vắng người, Thư vội giúi vào tay Việt An nhưng khổ nỗi Việt

An không ăn kẹo một mình. Nó chơi thân với Hồng Hoa và Chiêu Minh nên thứ

gì cũng phải chia ba, nhất là những thứ có chất glucose.

Những kỉ niệm về tuổi học trò đã được Nguyễn Nhật Ánh ấp ủ như một báu

vật quý giá. Trong thực tế, mỗi chúng ta ai cũng cần có những người để tâm sự,

sẻ chia, những chàng trai, cô gái phải lòng một ai đó để rồi tương tư, mong nhớ

và chúng còn tìm đến các “quân sư” tư vấn cho tình yêu của mình và “quân sư”

cho các cô cậu ấy không ai khác là những người bạn thân ở cùng lớp.

49

Trong bức thư gửi Việt An ở tác phẩm Cô gái đến từ hôm qua, Thư và Hải

gầy đã cãi nhau chí chóe về cái khoản viết thư tình, mỗi người một kiểu, qua cách

các nhân vật viết thư cũng phần nào nói lên sự bỡ ngỡ của các em với rung động

của mình, trong suy nghĩ của Hải gầy thì tình yêu như một trò trắc nghiệm chỉ cần

điền vào ô tương ứng là sẽ biết người đó có thích mình hay không. Mặc dù chưa

yêu lần nào nhưng Hải gầy luôn chứng tỏ rằng mình là một người rất am hiểu về

tình yêu, Hải gầy đã dùng những câu danh ngôn của những người nổi tiếng và

sáng tạo ra câu nói hay về tình yêu. Với tư cách là gia sư niềm tin của Thư, Hải

gầy đã luôn ủng hộ bạn mình một cách nhiệt tình nhất.

Tình yêu của tuổi mới lớn thật hồn nhiên và trong trẻo, đôi khi có phần

ngây thơ và bồng bột, chính vì thế mà ở các em có màn tỏ tình thú vị có một không

hai trên đời. Có lẽ những cách tỏ tình này chỉ có ở tuổi mới lớn, vẫn là chàng trai

có tên Khoa trong Bảy bước tới mùa hè, Nguyễn Nhật Ánh đã đưa bạn đọc đến

một mùa hè ngọt ngào với những cảm xúc bâng khuâng tình mới lớn, Khoa đã

phải lên kế hoạch để tiếp cận và chinh phục nhỏ Trang. Bước tiếp cận đầu tiên

của Khoa đó là hăng hái giúp đỡ dì Liên bằng cách sang nhà Trang mượn cái sàng

cho dì nhưng mục đích chính là để Khoa được nhìn thấy người mình yêu mến.

Khoa sẵn sàng lừa dì Liên xin tiền đi học thêm để được gặp nhỏ Trang tại lớp học.

Mặc dù Khoa đã lên lớp 10 mà lớp học của nhỏ Trang mới xong lớp 8 “dĩ nhiên

là Khoa chả coi những bài toán trên bảng ra cái củ cà rốt gì. Khoa chuẩn bị vô

lớp 10, nó chui vào lớp dành cho tụi học trò học xong lớp tám chỉ để có dịp ngồi

gần trò chuyện với nhỏ Trang thôi” [6, tr. 29].

Được học cùng lớp với nhỏ Trang rồi nhưng không được ngồi cạnh Trang,

Khoa lại phải mất tiền mua bánh mì kẹp thịt “hối lộ” cho thằng Bông để được đổi

chỗ ngồi cạnh Trang “Khoa gượng gạo gật đầu, bụng chỉ mong thằng Bông tối

nay trúng gió nằm bẹp một đống cho rồi. Như vậy thì Khoa vẫn được ngồi xuống

cạnh nhỏ Trang mà khỏi phải tốn một ổ bánh mì” [6, tr.40].

50

Tiếp đến Tình yêu con nít cũng được Nguyễn Nhật Ánh miêu tả qua nỗi

xao xuyến của Thiều trước giọt nước mắt của Mận trong Tôi thấy hoa vàng trên

cỏ xanh. “Những giọt nước mắt của Mận làm mềm trái tim tôi” [5, tr.130] trước

gia cảnh đáng thương của con Mận, Thiều thấy bứt rứt và “khổ tâm ghê gớm” [5,

tr.134]. Thiều bộc bạch qua câu nói còn chứa đầy sự ngượng ngập “tao chỉ thích

chơi với mày” [5, tr.140] và Thiều đã thể hiện chí nam nhi che chở cho bạn gái

bằng cách chấp nhận ăn đòn của thằng Sơn “gấu nhất làng”, để bảo vệ danh dự

cho Mận. Thiều đã ghen tuông, hờn giận nhưng theo kiểu con nít khi thấy Tường

em trai mình và Mận thân thiết với nhau và “từ ngày con Mận ra đi cuộc sống đối

với tôi trở nên buồn tẻ vô cùng” [5, tr.291] để có lúc Thiều phải ngậm ngùi thốt

lên “hồi bé chỉ là tình bạn, bây giờ tình cảm của nó dành cho tôi và tôi dành cho

nó đã khác trước, khác như thế nào thì tôi không rõ nhưng tôi biết mọi thứ không

còn như cũ” [5, tr. 298]. Thiều đã tự trách mình là “ngu ơi! Khi không hiểu Mận

thích chơi với tôi nhưng lại không dám chơi với tôi”…[5, tr. 299].

Nguyễn Nhật Ánh giống như một người bạn của các em, nhà văn đã nói hộ

tiếng lòng của các bạn trẻ. Đặc biệt ông như một chuyên gia tâm lý, tác giả đã chỉ

ra cho bạn đọc nhận thấy những nét tính cách nổi bật của tuổi mới lớn. Khi đến

với mối tình đầu, có thể xem như là một nét tâm lí đáng chú ý ở lứa tuổi này. Quan

hệ giao tiếp giữa nam và nữ đã thể hiện được màu sắc của giới tính, các em không

còn hồn nhiên như ở tiểu học nữa mà đã xuất hiện những rào cản nhất định, đằng

sau mỗi câu chuyện tình cảm tác giả đã đưa đến cho bạn đọc nhất là bạn đọc ở

tuổi hoa cảm nhận được những hương vị của cảm xúc rung động đầu đời tuy ngây

ngô nhưng cũng vô cùng chân thật. Trong thế giới tình yêu tuổi học trò, nhà văn

Nguyễn Nhật Ánh đã để cho nhân vật tuổi mới lớn trải qua rất nhiều những phức

hợp, những cảm xúc, có khi ghét rồi lại cảm tình, yêu thương. Nếu được yêu là

nhớ nhung, sầu cảm, ngược lại nếu là mối tình đơn phương thì cùng với cảm xúc

nhớ thương là nỗi hờn ghen, đau khổ, thất vọng.

51

Có thể thấy với cách kể chuyện hóm hỉnh dường như thấu hiểu được tâm

can lũ học trò mới lớn Nguyễn Nhật Ánh đã kể lại những chiêu làm quen đầy sinh

động, hài hước rất phù hợp với đặc điểm, tính cách, tâm lí tuổi mới lớn, tình yêu

đầu đời rất trong sáng, dịu dàng, e ấp vì thế mà cách tỏ tình cũng rất đáng yêu.

Các chàng trai mới lớn nếu có viết thư thì cũng chỉ dám gửi trong ngăn bàn, làm

thơ thì chỉ giả vờ mượn vở chép vào đó để rồi những ngày sau phấp phỏng, hồi

hộp chờ hồi âm, hay tặng quà chỉ là món quà dễ thương như cái kẹo, quyển

truyện,… Có thể thấy đây là lứa tuổi mà kỹ năng sống và cách ứng xử của các em

vẫn còn mang dáng dấp trẻ con nhưng cảm xúc đã thấp thoáng bóng dáng người

trưởng thành nên mới có những suy nghĩ, hành động và việc làm như thế. Để rồi

mỗi bạn đọc tuổi học trò khi đọc những trang viết về các cách tỏ tình của nhân vật

mới lớn trong sáng tác Nguyễn Nhật Ánh dường như đều sẽ bắt gặp mình về một

thời ấu thơ trong đó. Vì thế mà truyện của Nguyễn Nhật Ánh tuy khép lại nhưng

lại mở ra biết bao điều thú vị cho bạn đọc về những mối tình của tuổi mới lớn và

cũng tạo ra những âm hưởng ngọt ngào về kỷ niệm một thời không bao giờ phai

mờ trong kí ức của tuổi học trò.

2.1.2.3. Nhân vật người lớn

* Những con người nhân hậu, giàu lòng yêu thương

Những người lớn thường xuất hiện trong tác phẩm của Nguyễn nhật Ánh

là những người gần gũi, yêu thương con hết mực.

Trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh Trước tiên là ba của Thiều,

hiện lên trong tâm tưởng của cậu bé là một ông bố dữ tợn nhưng Thiều cảm nhận

thấy tình thương mà bố dành cho mình, với bản tính hay nổi cộc, ba Thiều cho

anh em Thiều, Tường thường xuyên ăn đòn “mỗi lần anh em tôi làm điều gì lầm

lỗi ông bặm môi rút cây roi một cái sột quất một cái vút… lằn ngang, lằn dọc khắp

người” [5, tr.37]. Nhưng trừ những lúc nổi cộc thì ba Thiều rất chiều chuộng và

yêu thương con cái, người cha cục tính ấy phải khăn gói ra thành phố xin việc là

52

vì tương lai của những đứa con. Khi thằng Tường bị Thiều đánh gẫy xương sống

ba ở thành phố nghe tin đã vội vã về ngay. Nhưng khi về nhà thì ông quắc mắt

nhìn thằng Tường giận dữ “Mày mà không nằm bẹp thế này, tao đã đập thêm cho

mày mấy gậy rồi” [5, tr.287] và thét lên với Thiều “Chính mày bầy ra trò leo trèo,

nghịch ngợm này phải không”? [5, tr.287] nhưng ẩn đằng sau những tiếng quát

tháo ấy là tình thương con vô bờ bến.

Hay tình phụ tử của cha con ông Tám Tàng và bé Nhi cũng khiến người

đọc vô cùng cảm động. Khi ấy Nhi bị nạn ở rạp xiếc ông “ủ rũ ẵm nó về nhà, vừa

đi vừa tắm nước mắt như mưa trên mặt con” [5, tr.340] ông đã tìm cách để cứu

con, ngay cả khi Nhi dở tỉnh dở điên thì người cha ấy vẫn hết mực yêu thương

con và chở che cho con. Ông chấp nhận chuyển nhà xuống xóm Miễu trên đồi cỏ

úa, thêu dệt nên những câu chuyện ma quái để bọn trẻ không bén mảng đến và

đặc biệt đóng giả Đức Vua cho chính cô công chúa ngớ ngẩn là con mình để chỉ

với mục đích cao nhất đó là mong Nhi được sống hạnh phúc và bình yên trong thế

giới riêng của nó. Suốt mấy năm ròng ông Tám Tàng đã sống như thế, một mình

gà trống nuôi con, hỗn loạn trong thật giả, mơ thực để bé Nhi được sống bình yên

nhất.

Trong suy nghĩ của ông Tám Tàng, con Nhi dở tỉnh, dở điên, nhưng dù sao

tôi vẫn thấy nó sống hạnh phúc trong thế giới riêng của nó. Ông Tám Tàng chắc

cũng nghĩ vậy cho nên ông đã mày mò may những bộ trang phục Hoàng gia cho

hai cha con, thậm chí ép mình thay đổi cả cách xưng hô để con gái ông được chìm

đắm một cách bình yên trong cõi lãng quên. “Khi chọn cách kì dị để chở che cho

con gái chắc ông Tám Tàng đau lòng lắm, tôi bùi ngùi nghĩ và đó là lí do câu

chuyện cọp thành tinh ở xóm Miễu ra đời” [5, tr.344].

Dù chỉ được nhắc đến thoáng qua nhưng ba của con Mận cũng là một ông

bố tuyệt vời nhất. Bị đồn thổi là mang bệnh phong, ông đã chấp nhận giam mình

trên gác và sợ vợ con phải nặng gánh ông đã bày ra vụ cháy giả và rồi bỏ trốn.

53

Ông tự đốt ngôi nhà của mình, giả vờ chết rồi bỏ đi thật xa để không làm khổ vợ,

khổ con. Cách ông xếp đặt mọi việc thật chu đáo, ông tính toán sao cho vợ con

không thể tìm mình nhưng cũng không bị làm khó, dẫu ông có phải xa vợ, xa con

nhưng lại tránh cho vợ con những điều tiếng.

Đó là những người cha đã hết lòng vì con mình. Họ yêu con mình, yêu gia

đình mình theo những cách khác nhau, họ hi sinh bản thân để đem lại cho những

đứa con một cuộc sống mà họ nghĩ là sẽ tốt hơn. Thế giới người lớn dường như

thật phức tạp, đôi khi có cả những lời nói dối, những tính toán sắp đặt nhưng đằng

sau đó là những tình cảm đầy ắp yêu thương.

Gia đình trong tác phẩm của Nguyễn nhật Ánh thường gắn liền với hình

ảnh những người mẹ tảo tần, rất mực thương yêu con. Mẹ của Thiều nhìn những

đứa con uể oải trong bữa ăn thiếu thịt mà đã không đành lòng, Bà phải xoay sở đi

buôn, đó là mẹ con Mận lúc thì phải lo nuôi con, chăm chồng bệnh, khi thì sẵn

lòng bán nhà để dắt con đi tìm chồng. Đó có thể là bà nội với nỗi lo lắng cho chú

Đàn cô Vinh.

Mẹ của Thiều cũng như bao bà mẹ khác cũng yêu thương con rất mực, bà

giấu cái roi chồng hay đánh con, rồi bà chia sẻ với Tường, động viên Tường khi

con cóc - cu cậu mất đi, bà tinh tế khi nhận ra nỗi lo lắng, buồn đau của con Mận

để bảo Thiều ở lại với nó qua đêm. Bà cũng rất nhân hậu khi dắt theo con Mận về

nhà chăm sóc lúc nhà nó sa cơ, lỡ vận. Bà đã xoay sở ngược xuôi để bữa ăn của

con có thêm thịt, thêm cá… Dường như bà là người mẹ điển hình cho rất nhiều

bà mẹ Việt Nam. Đó là những người phụ nữ nhân hậu, vị tha và giàu lòng yêu

thương.

Có thể thấy những người lớn trong Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh còn có

chú Đàn cụt tay mà đàn giỏi và kể chuyện hấp dẫn, thầy Nhãn nóng tính nhưng

yêu con, là ông Xung nhân hậu đã dung túng cho Thiều ăn trộm táo tàu hay nói

dối giúp ông Tám Tàng bình yên sống với con Nhi ở xóm Miễu… Trong đó có

54

những tình cảm ấm áp của tình làng, nghĩa xóm, là những yêu thương và bao dung

mà con người dành cho nhau. Họ hoàn toàn không đối lập với trẻ thơ, người lớn

và trẻ thơ có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ. Đó là hình ảnh của cuộc sống đời

thường nhiều gian khó, nhọc nhằn nhưng cũng đầy ấm áp yêu thương. Đó là lối

sống thẳng thắn, bộc trực nhưng tình nghĩa của người nông dân nơi làng quê.

* Những con người bất hạnh

Cảnh làng quê Việt Nam còn được miêu tả với nạn đói, lụt lội, cháy nhà

dẫn đến sự đói kém, nghèo nàn, dịch bệnh. Một thực trạng diễn ra trong những

thập niên 80 được tác giả miêu tả một cách chân thực nhất.

Những ngày lũ kéo đã về, một không khí u uất, quẩn quanh trong ngôi làng

này “Mưa cứ như giận dai, gầm gừ, xối xả và miên man, có cảm giác mây đen đã

kéo cả đại dương lên trời để bây giờ hả hê trút xuống. Nửa khuya, lũ từ từ trên

nguồn tràn về, mực nước từ lũ dâng lên mấp mé mặt giường trong ánh mắt lo lắng

của mẹ tôi. Cả nhà tôi leo hết lên giường, xách theo mấy chiếc đòn kê để ngồi cho

khỏi ướt mông, co ro chờ trời sáng” [5, tr. 238].

Sau thiên tai lũ lụt, dường như cảnh vật khi lũ đi qua trông hoang tàn như

một phim trường vừa quay xong cảnh chiến tranh “nước bắt đầu rút dần để lại

mặt đường nhớp nháp và sạt lở và một số rác, gỗ mục, xác súc vật vướng vào gốc

cây, vách nhà hàng rào. Các tàn dư của bão lụt, để lại sau khi chúng qua đi là

những môi trường thuận lợi cho các loại vi sinh vật và ký sinh trùng gây bệnh,

cũng như cho các loại côn trùng lây truyền dịch bệnh phát triển.

Đến trưa thì cuộc tổng kết thiệt hại đã có kết quả, ông Tư Cang trôi mất

một con trâu, ông Năm Ve chết một con heo ngay trong chuồng, nhà cô Thoan

chái bếp bị lũ cuốn, còn vườn rau tốt tươi nhà ông Bé thì bây giờ rất thích hợp để

làm sân vận động cho con nít đá banh.

55

Chỉ sau một trận mưa lũ, làm cho một vùng quê sống trong cảnh nghèo khổ

cuộc sống mưu sinh vất vả. Sau lũ dân làng lâm vào đói kém, sự đói kém còn hiện

hữu trong từng bữa ăn, trong mâm cơm hàng ngày, nồi cơm lưng hơn, thức ăn ít

đi, cá thịt thưa dần có hôm mất tích hẳn” [5, tr.260].

Những con người khắc khổ, không những phải chịu thiên tai gây ra, cuộc

sống mưu sinh vất vả, số phận mà mỗi con người đó lại gặp những éo le, trắc trở

của cuộc đời, dường như số phận của họ đã an bài. Thằng Dưa con của ông Năm

Ve bị bệnh còi có lẽ cũng vì cuộc sống đói kém mà nó trở nên như vậy. Bằng tuổi

với Tường nhưng nó trông như đứa bé 8, 9 tuổi luôn bị bạn bè cốc đầu, đá đít.

Hay ba con Mận, một người cha, người chồng bị bệnh tình nguyện nhốt trong căn

phòng để tránh đi những tai tiếng của người làng. Điều này cũng đã nói lên thực

trạng xã hội Việt Nam lúc bấy giờ trước cái đói nghèo, dịch bệnh, người dân

thường có cái nhìn miệt thị với những người bị mắc bệnh được cho là bệnh truyền

nhiễm.

“Chuyện ba con Mận lâu nay vẫn lén lút sống trên căn gác thoáng chốc

loang ra khắp làng. Chiều hôm đó đi đâu tôi cũng nghe người ta bàn tán về mỗi

đề tài này, bằng đủ thứ giọng, tiếc thương, trách móc, chê bai, tội nghiệp… người

lớn tha hồ đàm tiếu, đám con nít bu đen, bu đỏ chung quanh vểnh tai, hóng

chuyện” [5, tr.179]. Có thể để giải thoát số phận, để tránh ánh mắt, sự đàm tiếu

của người làng, đã trở thành nguyên nhân của căn nhà bị cháy: “Chỉ trong một

ngày, nhà nó cháy, ba nó chết, mẹ nó bị bắt, cứ như địa ngục trút xuống đầu” [5,

tr.179] điều đó đã làm cho con Mận trở thành chú chim non bơ vơ.

Mỗi người một số phận, đối với chú Đàn và chị Vinh thì sự ngăn cản, cấm

đoán lại càng làm cho con người trở lên mãnh liệt hơn, đó là một góc khuất khác

của cuộc đời. Truyện của Nguyễn Nhật Ánh đã đem đến cho người đọc những

cảm xúc sâu lắng bởi ông đã viết nên những mảnh đời của những con người lam

lũ, vất vả mưu sinh và phải sống trong những cảnh nghèo khó.

56

* Những con người khao khát cuộc sống tốt đẹp

Những con người trong truyện Nguyễn Nhật Ánh luôn khao khát một cuộc

sống tốt đẹp, một cuộc sống tự do và hạnh phúc. Đọc tác phẩm Tôi thấy hoa vàng

trên cỏ xanh hẳn ai cũng có chung một cảm xúc, đó là sự nuối tiếc và những mong

muốn điều kì diệu cho mối tình chú Đàn, chị Vinh. Tình cảm đôi lứa trong sáng

xuất phát từ hai phía và nỗi muộn phiền duy nhất của chú có lẽ nằm ở chuyện tình

nhiều trắc trở có lẽ do cánh tay cụt gây ra. Chính sự cấm đoán của thầy Nhãn

dường như đã thôi thúc đôi lứa tìm lối thoát, khi mùa lũ về, kế hoạch bỏ trốn của

chú Đàn và chị Vinh đã được thực hiện. Điều đó sẽ mở ra một tương lai tươi sáng

hơn cho chú Đàn chị Vinh. “Chú Đàn ngồi trên thềm giếng, ngẩng nhìn bóng

trăng mờ lấp sau sương mù và lôi cây acmônica ra thổi. Tiếng kèn của chú bữa

nay hoàn toàn không giống tiếng kèn nỉ non ngày nào. Tôi ngạc nhiên khi nghe

chú thổi một bản hành khúc có âm điệu vui.

- Sao chú thổi bài này?

- Chú Đàn nhét cây kèn vô túi áo, vui vẻ nói.

- Chú sắp đi tìm chị Vinh.

- Tường níu tay chú, mừng rõ.

- Chú đoán vậy. Chú Đàn ôm vai Tường chị Vinh có phúc tướng thế nào

cũng có người cứu” [5, tr.246].

Bên cạnh những khát khao tự do của tình yêu đôi lứa, thì những khát khao

về một cuộc sống ấm no, vui vẻ cũng không phải là ngoại lệ, đó là một cuộc sống

giản dị, mộc mạc mà ai cũng mơ ước. Mong muốn cho các con có được cuộc sống

ấm no, mong trong bữa cơm gia đình có thêm miếng thịt, miếng cá vì thế mà ba

Thiều đã phải bỏ đi làm ăn xa, mẹ thì chạy theo những chuyến xe đi buôn…

Những ước mơ hết sức nhỏ nhoi và bình dị về cuộc sống. Trước những tình cảm

57

gia đình thiêng liêng thì tất cả mọi thành viên đều sống vì nhau và nghĩ cho nhau

và đây là điều mà Nguyễn Nhật Ánh muốn nói với chúng ta, muốn thông qua

truyện mang đến cho chúng ta cái nhìn khác và suy nghĩ sâu sắc hơn. So với thời

đại hiện nay thì con người với cuộc sống bộn bề, với những vấn đề cơm áo gạo

tiền với những vòng xoáy của xã hội đang bỏ bê tất cả để lao vào cuộc sống thì

những mơ ước về hạnh phúc gia đình luôn luôn được đề cao và đặt lên hàng đầu.

Mối tình chú Đàn, chị Vinh luôn khao khát ước mơ có được một gia đình hạnh

phúc. Ước mơ của ông Tám Tàng chỉ với mong muốn con mình được sống trong

sự bình yên trước những bất hạnh không may đến với bé Nhi, ông đã sẵn sàng hi

sinh vì con mình.

Cũng như bé Mận luôn khao khát gia đình, đoàn tụ sau biết bao những biến

cố mà em phải trải qua, sự chia li đối với một đứa trẻ với Mận là quá sức với nó

và cuối cùng cuộc sống cũng mỉm cười với em, mẹ nó được thả về và hai mẹ con

tìm kiếm ba nó.

Những số phận con người tưởng chừng như bế tắc, cùng quẫn nhưng họ

vẫn tìm được lối ra bằng một cách nào đó. Phải chăng bằng nghị lực và tình thương

họ đã vượt qua tất cả và họ luôn có ước mơ và những khát vọng tốt đẹp. Đây chính

là điều đặc sắc trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh.

2.1.2.4. Nhân vật là loài vật

Khái niệm nhân vật thường được quan niệm với một phạm vi rộng hơn

nhiều, đó không chỉ là con người, những con người có tên hoặc không tên được

khắc họa sâu đậm hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm mà còn có thể là

những sự vật, loài vật khác, ít nhiều mang bóng dáng, tính cách của con người

[58, tr.126]. Động vật cũng là người bạn thân thiết với thiếu nhi bởi các em đang

ở độ tuổi thích khám phá thế giới xung quanh mình.

58

Thiếu nhi với đặc điểm hồn nhiên, ngây thơ và tâm hồn trong sáng, trí tưởng

tượng phong phú và bay bổng. Các em đã cảm nhận thế giới bằng cái nhìn lạc

quan, làm bạn với vạn vật xung quanh, có thể lắng nghe được mọi âm thanh, cây

cỏ và trò chuyện được với muôn loài, hòa đồng với thiên nhiên. Khả năng tưởng

tượng của các em là vô tận và là một yếu tố không thể thiếu trong các tác phẩm

văn học viết cho thiếu nhi. Vì vậy nhà văn luôn phải thực sự hòa nhập vào cuộc

sống của trẻ thơ, sống hết mình với tuổi thơ để có thể tạo ra được sự liên kết với

trẻ thơ trong sáng tác.

Xưa nay trong nghệ thuật, sự xuất hiện con vật bao giờ cũng nhằm thể hiện

một dụng ý nghệ thuật nào đó của nhà văn, bởi con vật vốn rất gần gũi với đời

sống của con người, đặc biệt là với trẻ thơ. Nhân vật con vật vì thế sẽ nhằm thể

hiện những vấn đề liên quan đến đời sống của chính con người. Tuy nhiên mỗi

tác giả lại xây dựng nhân vật con vật nhằm những mục đích khác nhau. Trong các

truyện viết cho trẻ em thì truyện của Nguyễn Nhật Ánh có một số con vật thông

qua mối quan hệ với con người mà làm bộc lộ phẩm chất của con người, tình cảm

của con người đối với loài vật và đối với mối quan hệ xã hội khác trong đó có cả

việc thể hiện tâm hồn trẻ thơ hoặc tạo nên sự đối sánh trong tình cảm của trẻ con

và người lớn.

Trong tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh ta bắt gặp hình ảnh con Vện trong

tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, xưa nay con chó được xem là con vật

trung thành và trong con mắt các em thì con vật này cũng đã thể hiện phẩm chất

trung thành của mình. Chúng tham gia vào câu chuyện của các gia đình xuất hiện

trong các sự kiện quan trọng của các nhân vật thiếu nhi. Đó là khi bất hạnh đổ ập

xuống đầu gia đình nhà con Mận, con Vện đáng thương cũng cùng chung cảnh

ngộ. Đó cũng như là một kiểu chết thay.

Hay ta còn bắt gặp hình ảnh của một con cóc – Tường còn đặt tên cho con

cóc là “Cu cậu” để chăm sóc, cho nó ăn uống và chuyện trò với nó như một người

59

bạn. Con cu cậu trong ngôi nhà của anh em thằng Tường càng nuôi dưỡng trong

tâm hồn nó một niềm tin mãnh liệt về câu chuyện cổ tích cóc tía. Niềm tin cổ tích

ngây thơ ấy đã giúp thằng Tường biết yêu thương loài vật bằng một tình cảm chân

thành và thật sự cảm thấy mất mát khi mất cu cậu: “Nhiều lúc tôi bắt gặp nó ngồi

khóc thầm một mình ở sau hè với chiếc vỉ đập ruồi trước mặt” [5, tr.233]. Từ đó

“Thằng Tường giống như kẻ bị nỗi buồn đánh gục. Nó không còn là đứa trẻ vui

vẻ, hoạt bát như mọi ngày” [5, tr.233]. Tình yêu thương loài vật ở Tường khiến

cho bạn đọc xúc động trước trái tim nhân hậu, thánh thiện của em. Câu chuyện về

con cu cậu còn bộc lộ sự giằng xé nội tâm giữa một bên là lòng đố kị, sự ích kỉ

với lương tâm trong sáng của một đứa trẻ bên trong thằng Thiều. Cuối cùng thì

tấm lòng trong sáng của đứa trẻ đã thắng và “tôi hối hận trước vẻ mất mát và đau

đớn của nó và điều đó khiến tôi tự nguyền rủa mình suốt mấy ngày liền” [5, tr.234]

để rồi có ý định chuộc lỗi bằng cách bắt một con cóc khác thay thế vào.

Câu chuyện về số phận của chú cóc còn cho thấy sự khác nhau trong cách

cư xử giữa người lớn và trẻ con đối với thế giới loài vật. Trong khi Tường hết

lòng yêu thương con cu cậu thì người lớn đó là ông Năm Ve chỉ xem nó như là

một món ăn.

Hơn nữa qua các con vật cũng cho ta thấy được tình cảm thương yêu đối

với loài vật cũng cần phải được giáo dục. Khi những người lớn trong nhà biết yêu

thương loài vật thì cũng có tác dụng giúp những đứa trẻ có được tình cảm yêu

thương con người. Những người biết yêu thương loài vật là những người luôn có

tấm lòng đôn hậu, ấm áp và luôn tạo cho người khác một cảm giác tin cậy, ngược

lại những người luôn hắt hủi loài vật thường có tâm hồn giá lạnh, con tim khô héo

và sẽ cô đơn.

Nhân vật loài vật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh đã thể hiện những nhận

thức, những suy ngẫm về cuộc đời và con người. Thông qua lăng kính của loài

vật mang trong mình những suy nghĩ non nớt của cô bé, cậu bé, nhà văn đã đưa

60

ra những triết lí hoàn toàn thuyết phục. Sự liên tưởng gần gũi giữa thế giới loài

vật và thế giới trẻ thơ làm cho những câu chuyện của nhà văn trở nên sinh động

thú vị và ý nghĩa.

Có thể nói nhà văn Nguyễn Nhật Ánh cũng là một nhà văn viết đồng thoại

xuất sắc với thế giới loài vật rất sinh động trong tác phẩm của mình. Tác giả đã

mượn thế giới loài vật để nói về thế giới loài người không phải là điều hoàn toàn

mới mẻ. Nhưng phải đến truyện Nguyễn Nhật Ánh chúng ta mới thấy được những

triết lí trẻ thơ được khéo léo đan cài và gửi gắm trong những cuộc chơi của loài

vật. Mỗi nhà văn đều thể hiện những thông điệp khác nhau, song với Nguyễn Nhật

Ánh thông điệp bộc lộ ngay từ những trải nghiệm hàng ngày, đời thường và nhất

là các nhân vật loài vật là chủ đề cho những phát ngôn mang đậm tính triết lí.

2.2. Cốt truyện trong truyện Nguyễn Nhật Ánh

2.2.1. Khái niệm cốt truyện

Cốt truyện được coi là một yếu tố quan trọng không thể thiếu trong văn học

đặc biệt là thể loại tự sự. Cốt truyện có vai trò không nhỏ trong việc bộc lộ chủ đề

và tư tưởng của tác phẩm văn học, thể hiện tính cách của nhân vật. Một tác phẩm

có cốt truyện hấp dẫn và lôi cuốn sẽ làm cho nó có sức thuyết phục hơn. Có vai

trò quan trọng trong tổ chức tự sự, vấn đề cốt truyện đã được nghiên cứu từ rất

sớm trên thế giới và vẫn tiếp tục tạo hứng thú cho các nhà lí luận văn học hiện

đại. Vấn đề cốt truyện đã được đề cập đến ở nhiều phương diện khác nhau. Người

đặt vấn đề đầu tiên trong lịch sử nghiên cứu cốt truyện là Aritote. Trong Nghệ

thuật thơ ca, ông cho rằng cốt truyện chính là “linh hồn và cơ sở của bi kịch”, cái

quan trọng nhất làm thành mục đích của bi kịch, theo đó, cốt truyện được định

nghĩa như là “sự tổ chức các sự kiện” có phần đầu, phần giữa và phần kết.

Quan niệm của Aritote được trình bày rõ trong đoạn trích sau: “Phần đầu,

là cái không cần thiết phải tiếp theo một cái gì khác nhưng sau nó tự nhiên có một

61

cái gì đó tồn tại hoặc xảy ra”, phần kết ngược lại, là cái tự nhiên tiếp theo một cái

khác, nhưng sau đó không có gì tiếp theo và “phần giữa” là cái tự nhiên nối tiếp

cái gì đó khác và có cái gì đó khác nữa tiếp theo nó vậy. Những cốt truyện chặt

chẽ không được bắt đầu hay kết thúc tùy tiện mà phải tuân theo những chỉ dẫn

vừa trình bày [1, tr.40].

Aristote đặc biệt đã nhấn mạnh vai trò của việc sắp xếp các hành động trong

cốt truyện, nhằm tạo ra hiệu quả thẩm mĩ nhất định: ông viết “Cốt truyện phải

được sắp xếp như thế nào để bất kì ai, dù không được xem biểu diễn, mà chỉ nghe

qua về những sự việc xảy ra đó cũng phải rùng mình và cảm thấy xót thương theo

trình tự phát triển của các sự kiện trong truyện” [1, tr.41]. Trong quan niệm của

mình, Aristote nhấn mạnh đến chức năng và nhiệm vụ của các sự kiện thông qua

việc sắp xếp, bài trí như thế nào để làm sao căn cứ dựa trên cơ sở của sự đột biến

của các sự kiện có thể tạo ra những hiệu quả thẩm mĩ nhất định.

G.N.Pospelov trong công trình Dẫn luận nghiên cứu văn học cũng cho rằng

cốt truyện được hình thành chủ yếu là nhờ hành động của nhân vật. Hành động là

sự thể hiện cảm xúc, ý nghĩa, ý định của con người. Theo G.N.Pospelov cốt truyện

luôn được triển khai trên nền của những xung đột căng thẳng, nói cách khác chức

năng quan trọng nhất của cốt truyện là bộc lộ các mâu thuẫn đời sống. Tính chất

xung đột, mâu thuẫn trong truyện lại là do chủ đề mà nhà văn lựa chọn quyết định

cùng với phương thức thể hiện chúng là hết sức đa dạng và biến đổi một cách lịch

sự. Dựa trên mối liên hệ giữa các sự kiện G.N.Pospelov đã chọn ra hai dạng cốt

truyện: cốt truyện biên niên và cốt truyện đồng tâm.

Nhìn chung, các nhà lí luận Aristote và G.N.Pospelov đều đánh giá cao cốt

truyện và việc xây dựng kết cấu của cốt truyện, song mới chỉ dừng lại ở việc đưa

ra những nguyên lí chung, chỉ ra chức năng nhiệm vụ, những mối liên hệ cơ bản

của các yếu tố cốt truyện. Ta coi những quan niệm này là những quan niệm truyền

thống về cốt truyện, hiểu cốt truyện như là một tiến trình của các sự kiện liên hệ

62

với nhau có tính chất thời gian (A xảy ra sao/ B hay nhân quả (B xảy ra vì A) tức

theo tuyến tính.

Quan niệm hiện đại về cốt truyện: Coi cốt truyện là hành trình của nhân vật

di chuyển qua các không gian khác nhau. Đầu tiên phải kể đến các nhà nghiên cứu

thuộc trường phái hình thức Nga với đại diện tiêu biểu là B. Tomachenski. Trong

tiểu luận Hệ chủ đề, B.Tomachenski phân biệt khái niệm chuyện kể và cốt truyện

khác với cách phân biệt của A.Veselovski, G.N.Popspelov… Theo ông truyện kể

là tập hợp các biến cố có quan hệ với nhau được thông tin cho người đọc trong

suốt chiều dài tác phẩm, nó có thể được tóm tắt theo trật tự biên niên hay nhân

quả của các biến cố mà không phụ thuộc vào thứ tự được trình bày. Còn cốt truyện

thì đi theo trình tự xuất hiện của các biến cố trong tác phẩm. Hay nói cách khác,

mối quan hệ giữa các biến cố trong chuyện kể mang tính thời gian và đi từ nguyên

nhân đến kết quả, còn cốt truyện lại liên kết các mô típ theo trình tự xuất hiện

trong tác phẩm. Và như thế nó hoàn toàn là một sản phẩm chế tác, có tính nghệ

thuật. Theo ông có ba yếu tố chi phối đến thời gian của cốt truyện (thời gian trần

thuật) là:

1. Thời điểm hành động kịch.

2. Sự nêu lên các khoảng thời gian của các sự kiện.

3. Sự tạo ra cảm giác về khoảng thời gian đó.

Những vấn đề của B. Tomachenski đưa ra về cốt truyện đã phủ nhận cách

lí giải truyền thống về cốt truyện, khi xem các biến cố và hành động nhân vật là

yếu tố cơ bản của cốt truyện, coi các mâu thuẫn xung đột là hạt nhân của cốt

truyện và mở ra một hướng nghiên cứu mới về cốt truyện: Cốt truyện coi như là

một thủ pháp nghệ thuật, trần thuật. Sự phân biệt chuyện kể và cốt truyện là cơ sở

nhận thức cho những tác phẩm văn xuôi có cốt truyện không rõ ràng mà người ta

quen gọi là truyện không có cốt truyện.

63

Khi tác phẩm có cả hai yếu tố người trần thuật và sự kiện (dù xảy ra bên

trong hay bên ngoài) đều có thể xem xét về mặt cốt truyện.

Lê Huy Bắc đã phân biệt cốt truyện và đã đưa ra khái niệm: “Cốt truyện là

sự sắp xếp thẩm mĩ, không tuân theo ý đồ chủ quan của người kể về những sự kiện

của một câu chuyện nào đó, nhằm mục đích nêu bật được tư tưởng chủ đề và tạo

sức hấp dẫn tối đa với người đọc” [32, tr.34].

Trong Từ điển thuật ngữ văn học thì cốt truyện được định nghĩa là “hệ

thống sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu, tư tưởng và nghệ thuật nhất định,

tạo thành một bộ phận cơ bản, quan trọng trong hình thức động của tác phẩm

văn học thuộc các loại tự sự và kịch” [39, tr.99] và “cốt truyện là phương tiện bộc

lộ tính cách, nhờ cốt truyện mà nhà văn thể hiện sự tác động qua lại giữa các tính

cách. Mặt khác cốt truyện còn là phương tiện để nhà văn tái hiện các xung đột xã

hội” [39, tr.99]. Song “cơ sở chung của mọi cốt truyện trong tác phẩm văn học,

xung đột xã hội là cơ sở khách quan, là đối tượng nhận thức, phản ánh trong khi

đó cốt truyện là sản phẩm sáng tạo độc đáo của nhà văn” [39, tr.100].

Cùng quan điểm trên, Lại Nguyễn Ân trong cuốn 150 thuật ngữ văn học,

cũng quan niệm: “Cốt truyện là một phương diện của lĩnh vực hình thức nghệ

thuật nó là sự phát triển hành động, tiến trình các sự việc, các biến cố trong tác

phẩm tự sự và kịch, đôi khi cả trong các tác phẩm trữ tình” [28].

Cuốn Lí luận văn học của nhiều tác giả đã rút ra kết luận về cốt truyện như

sau: “Cốt truyện là hình thức sơ đẳng của truyện, cốt truyện thực chất là cái lõi,

diễn biến của truyện từ khi xảy ra đến khi kết thúc” [52]. Cốt truyện chính là sản

phẩm sáng tạo của mỗi nhà văn. Dù đa dạng mỗi cốt truyện đều trải qua một tiến

trình vận động, có hình thành phát triển và kết thúc gồm: thắt nút, phát triển hành

động (các sự kiện cao trào), mở nút. Cũng có cách nêu chi tiết hơn: trình bày, khai

đoạn (thắt nút), phát triển, đỉnh điểm (cao trào), mở nút, kết thúc.

64

Trên đây là các cách hiểu, cách xác định khái niệm cốt truyện từ truyền

thống đến hiện đại, mặc dù là vấn đề khái niệm cốt truyện đang còn là một vấn đề

phức tạp nhưng trên cơ sở những khái niệm và những đặc điểm cơ bản vừa nêu

trong luận văn này chúng tôi thấy: Cốt truyện là hệ thống sự kiện cụ thể được tổ

chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ

bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự

sự và văn bản kịch mà người đọc có thể kể lại. Cốt truyện là yếu tố quan trọng

bậc nhất không thể thiếu trong bất kỳ một hình thức tự sự nào. Loại bỏ cốt truyện

văn bản tự sự lập tức chuyển sang một dạng văn bản khác.

2.2.2. Cốt truyện trong truyện thiếu nhi của Nguyễn Nhật Ánh

Khi phân loại cốt truyện, người ta có thể dựa vào nhiều tiêu chí khác nhau

như sự kiện, thời gian, nhân vật, nội dung, kết cấu, trường phái… Tùy vào tiêu

chí mà người nghiên cứu có được những kết quả phân loại cụ thể. Đối với các

truyện thiếu nhi nói chung. Chúng ta có thể xuất phát từ nhiều tiêu chí khác nhau

để phân loại cốt truyện. Theo đó, có thể nói tới mấy loại sau: cốt truyện tuyến

tính, cốt truyện đơn tuyến, cốt truyện hành động, cốt truyện phiêu lưu, cốt truyện

tâm lí… Trong bài nghiên cứu này, người viết nhận thấy cốt truyện thiếu nhi của

Nguyễn Nhật Ánh thuộc cốt truyện tâm lí.

Trước khi làm rõ về cách tổ chức cốt truyện, chúng ta cần lưu ý rằng nhà

văn Nguyễn Nhật Ánh tự định nghĩa tác phẩm của mình ở thể loại truyện dài chứ

không phải tiểu thuyết. Tức là nó dày dặn hơn truyện ngắn, nó phản ánh câu

chuyện trọn vẹn có quá trình hơn truyện ngắn nhưng lại chưa phải là một “đại tự

sự”, đồ sộ giống như tiểu thuyết. Có lẽ một phần vì đặc điểm này nên khi tổ chức

cốt truyện nhà văn cũng phải chọn hướng đơn giản và tinh lọc để sao cho câu

chuyện vừa phải không quá dài và không quá phức tạp và chuyển tải một thông

điệp ngắn gọn, giản dị. Lựa chọn này cũng hoàn toàn phù hợp với đối tượng phục

vụ của tác phẩm.

65

Thứ nhất cả ba tác phẩm Cô gái đến từ hôm qua, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ

xanh, Bảy bước tới mùa hè đều là những tác phẩm và truyện kể được chia nhỏ

thành các mẩu chuyện bé hơn. Mỗi mẩu chuyện nhỏ này giống như một chương

của tiểu thuyết hoặc cũng có thể giống như một truyện ngắn độc lập, mỗi chương

như một mắt xích của cả một câu chuyện lớn có tính độc lập tương đối. Các mẩu

chuyện này được đặt tên theo chương rõ ràng tạo ra những ranh giới giữa các phần

trong truyện. Đây là một kết cấu rất phù hợp với tâm lí trẻ thơ, nó tạo ra một mạch

tự sự vừa đủ về dung lượng, vừa đủ về độ dài, về tình huống, về các sự kiện. Bởi

các em khó có thể đọc những câu chuyện quá dài với quá nhiều chi tiết, quá nhiều

sự kiện, dù là cách chia nhỏ tác phẩm nhưng không làm đứt rời mạch truyện vì

giữa các mẩu chuyện có sự liên kết bởi một mạch truyện chung khiến cho câu

chuyện dễ dàng in đậm trong tâm trí người đọc hơn.

Thống kê số lượng trong ba tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh.

STT Tác phẩm Số chương

1 Cô gái đến từ hôm qua 10

2 Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh 81

3 Bảy bước tới mùa hè 29

Một đặc điểm nữa trong cách chia chương của Nguyễn Nhật Ánh đó là số

chương trong tác phẩm của ông khá nhiều dù dung lượng tác phẩm không lớn. Cô

gái đến từ hôm qua 10 chương với 169 trang, trung bình 17 trang/ chương, Tôi

thấy hoa vàng trên cỏ xanh có 81 chương với 378 trang, trung bình 4,7 trang/

chương, Bảy bước tới mùa hè có 29 chương với 287 trang, trung bình 10 trang/

chương. Điều đó cho thấy Nguyễn Nhật Ánh cố gắng chia tách những câu chuyện

sao cho phù hợp nhất với tâm lý lứa tuổi, độc giả là các em thiếu nhi.

66

Thứ hai là cả ba tác phẩm này đều được tổ chức bằng cách kết hợp hồi ức

với hiện thực tạo nên sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại khiến cho câu chuyện

như chứa đựng nhiều cảm xúc hơn cùng được nhìn nhận nhiều chiều hơn. Hơn

nữa cách kể không theo trình tự thời gian thường tạo nên một sức hấp dẫn cho câu

chuyện. Như tác phẩm Cô gái đến từ hôm qua, Tiểu Li của quá khứ và Việt An ở

hiện tại, cứ một chương là hiện tại và một chương là quá khứ, người đọc nhận

thấy những dòng hồi ức, những kỉ niệm, tâm trạng như chảy tràn trên mỗi trang

viết, hay Bảy bước tới mùa hè, Khoa kể lại câu chuyện theo kí ức của mình, thỉnh

thoảng nhớ về quá khứ.

Thứ ba đó là cách mở đầu khá nhẹ nhàng. Mở đầu Cô gái đến từ hôm qua

là nhân vật An Thư nhớ về quá khứ khi quen Tiểu Li. Mở đầu Tôi thấy hoa vàng

trên cỏ xanh là hình ảnh chú Đàn xem hoa tay cho thằng Thiều, Mở đầu của Bảy

bước tới mùa hè là Khoa đi tìm cách làm quen với Nhỏ Trang. Tất cả đều mở đầu

hết sức tự nhiên không phải bằng một chi tiết li kì, hấp dẫn lôi cuốn người đọc

vào diễn biến tiếp theo mà đơn giản gợi ra một câu chuyện, bắt đầu như thể mỗi

chúng ta bắt đầu một ngày bình thường của cuộc sống.

Cách kết thúc tác phẩm lại hết sức có ý nghĩa và nhân văn. Kết thúc Cô gái

đến từ hôm qua là nhân vật Thư đã nhận ra Tiểu Li của quá khứ và Việt An là

một, điều đó đã đọng lại trong lòng Thư những kỉ niệm khó quên. Tôi thấy hoa

vàng trên cỏ xanh là con Nhi khỏi bệnh vui đùa trở lại cùng lũ nhỏ, có cái nhìn

lạc quan hơn. Kết thúc Bảy bước đến mùa hè đó là tình cảm của Khoa và nhỏ

Trang của Mừng và Đào với những kỷ niệm đẹp khó quên…

Cách kết thúc có hậu trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh nó rất gần với

cách kết thúc của truyện cổ tích. Tuy rằng trong sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh

ít có kẻ ác phải chịu trừng phạt nhưng mọi chuyện đều được giải quyết một cách

tốt đẹp, để từ đó gieo cho con người niềm tin, niềm hy vọng vào cuộc sống. Cách

67

kết thúc như vậy thực sự là một thông điệp nhân văn mà tác giả muốn gửi đến các

bạn trẻ để các em yêu hơn, tin hơn, lạc quan hơn vào cuộc sống này.

Nhà văn còn thay lời mở đầu bằng một bài thơ giàu ý nghĩa như bài thơ

cuối trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh.

“Ngồi im trong gió nghe đêm rớt

Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh”

Tất cả như tô đậm và ấn tượng về sự nhẹ nhàng, bình yên, một thế giới

trong trẻo và hồn nhiên của trẻ thơ, một thế giới dù có thế nào vẫn luôn giữ được

tình yêu thương, sự nhân hậu và hướng thiện của con người.

Tác phẩm Bảy bước tới mùa hè là câu chuyện xây dựng trên cơ sở của một

cốt truyện mang đậm tính lịch sử, cụ thể. Câu chuyện đó là hiện thực cuộc sống

của bạn trẻ trong một mùa hè ngọt ngào, những trò chơi nghịch ngợm bâng

khuâng, tình cảm tuổi mới lớn. Chỉ đơn giản vậy thôi nhưng đã phần nào đã khẳng

định được Nguyễn Nhật Ánh là nhà văn kể chuyện rất hay và hóm hỉnh. Tài năng

này đã cuốn hút người đọc từ lời tựa cho đến trang cuối của truyện. Chính bằng

giọng văn giản dị và trong trẻo của Nguyễn Nhật Ánh cùng với cách lựa chọn kết

thúc có hậu đầy thuyết phục đã khiến bạn đọc, đọc xong là thấy tràn ngập tiếng

cười và niềm vui.

Như vậy, chúng ta có thể thấy nhà văn Nguyễn Nhật Ánh tổ chức cốt truyện

theo lối đơn giản với những tình huống nhẹ nhàng nhưng bất ngờ và thú vị. Cốt

truyện của Nguyễn Nhật Ánh trong cả ba truyện Cô gái đến từ hôm qua, Tôi thấy

hoa vàng trên cỏ xanh, Bảy bước tới mùa hè đều là những cốt truyện đơn giản

không có mâu thuẫn, xung đột gay gắt, không có các tuyến nhân vật mang tính

xung đột, cốt truyện cũng không bị phân nhánh, nhiều mảng tự sự khác nhau với

hệ thống nhân vật đồ sộ, mà khá gọn, đơn giản với một mạch truyện. Cách mở

đầu cũng như kết thúc tác phẩm rất gần gũi với đời thường và có giá trị nhân văn

68

sâu sắc. Qua quan sát quá trình và thực tiễn sáng tác của nhà văn, có thể thấy đa

phần các tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh đều thuộc loại truyện dài. Phải chăng

chính sự lựa chọn về dung lượng và cách viết của nhà văn là một trong những

thành công để tạo nên và duy trì sức hấp dẫn với độc giả thiếu nhi.

69

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Như vậy, trong các tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh viết cho lứa tuổi thiếu

nhi hay tuổi mới lớn, Thế giới nhân vật hiện lên rất phong phú, đa dạng mỗi nhân

vật mang một vẻ riêng như cái láu lỉnh của nhân vật này, cái láu cá của nhân vật

kia, cái tốt, cái xấu, cái đố kị, cái vị tha, cái day dứt, cái hối hận…Tất cả đều hiện

lên rõ ràng đậm nét. Mỗi nhân vật là một bức chân dung được phác họa một cách

rõ nét mà không thể trộn lẫn.

Có thể nói thế giới nhân vật của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh như một cuốn

bách khoa toàn thư về thiếu nhi và tuổi mới lớn, từ hình dáng bên ngoài đến trạng

thái tâm lí bên trong... các hình tượng nhân vật người lớn, nhân vật con vật được

xây dựng để tái hiện thế giới trẻ thơ một cách sinh động, ngộ nghĩnh, thú vị và

sáng tạo. Tác giả đã nhìn nhận và miêu tả theo cách nhìn của trẻ thơ rất gần gũi

và cũng đầy mến yêu. Mỗi câu chuyện của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đều ngập

tràn tình yêu thương, giữa con người với con người, con người với loài vật. Đến

với mỗi tác phẩm, bạn đọc như thấy tâm hồn được thanh lọc hơn qua những câu

chuyện đó, nó cũng giúp các em biết nhìn lại mình để sống nhân ái và bao dung

hơn. Giữa lúc xã hội đang phải đối mặt với căn bệnh vô cảm và bạo lực học đường

thì những câu chuyện xúc động về tình thương yêu của Nguyễn Nhật Ánh giống

như tiếng chuông cảnh tỉnh các em, mỗi thiên truyện của Nguyễn Nhật Ánh đều

là một bài học giáo dục nhẹ nhàng mà không kém phần xúc động về tình mẫu tử,

tình anh em, bạn bè, làng xóm và thiên nhiên.

Nguyễn Nhật Ánh đã kể những câu chuyện của cuộc sống, cốt truyện không

phức tạp nhưng thường bất ngờ, thú vị. Việc lựa chọn dung lượng cho tác phẩm

trong hình thức truyện dài, hay việc bố trí, sắp xếp các chi tiết, các đoạn trong mỗi

chương đó cũng là một trong những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn đối với người đọc.

Mở đầu và kết thúc thường gợi mở, có sức hấp dẫn cao. Tác giả cũng đan xen

giữa hồi ức và hiện tại để tạo nên cách kể chuyện linh hoạt, sáng tạo. Chính vì

70

thế mà mỗi thiên truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn Nhật Ánh đều có sức hấp

dẫn kì lạ, nó giống như một món quà vô hình, vô giá nuôi dưỡng tâm hồn các em.

71

CHƯƠNG 3

MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN

NGUYỄN NHẬT ÁNH

3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh

Mỗi một nhà văn khi bước vào con đường sáng tác văn chương đều muốn

tạo cho mình một cá tính sáng tạo và một phong cách độc đáo riêng. Khảo sát thế

giới nhân vật trong truyện thiếu nhi của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, chúng tôi

nhận thấy nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn được biểu hiện thông qua

các yếu tố đó là: miêu tả nhân vật qua ngoại hình, qua hành động, miêu tả nội tâm

và qua ngôn ngữ. Việc sử dụng các thủ pháp nghệ thuật sẽ giúp các nhà văn thành

công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật. Vì thế mà nhân vật cũng trở nên

sống động gần gũi với hiện thực đời sống và hấp dẫn hơn với người đọc hơn.

3.1.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình, hành động của nhân vật

Ngoại hình là dáng vẻ bên ngoài của nhân vật bao gồm y phục, tác phong,

cử chỉ, diện mạo… Đây chính là yếu tố quan trọng góp phần cá tính hóa nhân vật,

cách xây dựng nhân vật thông qua miêu tả về ngoại hình của nhân vật không phải

là mới. Đây là một phương diện cơ bản trong xây dựng nhân vật đã có từ văn học

dân gian và được thể hiện khá phổ biến từ văn học thời kỳ trung đại.

Ngoại hình được nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đặc biệt chú trọng nhấn mạnh

để không nhân vật nào nhầm lẫn được với nhân vật nào, ta có thể gọi đây là cách

miêu tả chân dung nhân vật theo hướng cụ thể hóa, đồng thời ngoại hình nhân vật

còn góp phần biểu hiện nội tâm nhân vật. Đây cũng là sự thống nhất giữa cái bên

ngoài và cái bên trong của nhân vật. Vì vậy, khi tính cách, đời sống bên ngoài của

nhân vật thay đổi, nhiều nét bên trong của nhân vật cũng thay đổi theo.

Ngoài việc tác giả đặt cho nhân vật những cái tên độc đáo, Nguyễn Nhật

Ánh còn chú ý làm nổi bật một nét đáng nhớ trong bức chân dung của nhân vật.

72

Trong bức tranh tổng thể thì các nhân vật của Nguyễn Nhật Ánh thường hiện diện

với những nét rất riêng, đặc biệt là đối với các nhân vật thiếu nhi. Miêu tả về ngoại

hình nhân vật, Nguyễn Nhật Ánh thường miêu tả các đặc điểm vóc dáng, trang

phục, mái tóc, vừa miêu tả toàn diện lại vừa có những nét nổi bật nhất của nhân

vật ví như cách miêu tả “Tường” trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh

đã cho thấy tính cách hiền lành, giản dị, giàu tình cảm “Tường là một thằng nhóc

rất đẹp trai. Nó đẹp ngay khi còn bé. Tường mang khuôn mặt thanh mảnh của mẹ

tôi và đôi mắt to với cặp lông mi dài của ba tôi. Tóc nó dày, mịn như tơ, da trắng

hồng, miệng rộng với hàm răng trắng và đều tăm tắp như những viên đá cuội

được mài giũa và sắp xếp cẩn thận. Mỗi khi Tường cười có cảm giác gương mặt

nó đang tỏa sáng. Nụ cười đó, gương mặt đẹp như thiên thần đó luôn đem lại cho

người đối diện một niềm vui khó giải thích” [5, tr.42]

Cùng với sự say mê với những câu chuyện cổ tích, một sở thích mà những

đứa trẻ vẫn thường thích.

“Tường học hành ì ạch nhưng rất mê đọc sách.Trong khi tôi chả bao giờ

sờ tới một quyển sách thì thằng Tường đi đâu cũng nhét sách trong túi quần, quần

không có túi thì nó lặn sách vào thắt lưng.

Bất cứ lúc nào rảnh là nó lôi sách ra say sưa dán mắt vào những trang chữ

nằm bò ra trên cỏ hàng giờ để đọc sách. Đối với nó là một điều vô cùng thú vị.

Nó đọc sách cả khi ngồi thông chân trên thành giếng hay đang vắt vẻo trên cành

ổi sau vườn” [5, tr.52].

Qua đoạn miêu tả ngắn về ngoại hình và tính cách của Tường khiến người

đọc thích thú, ấn tượng về nhân vật. Vì nó đã nêu bật được những nét chính rất

riêng của Tường, đáng yêu và cũng thể hiện được tình cảm của Tường với người

anh của mình.

73

Như vậy thông qua việc miêu tả ngoại hình nhân vật, Nguyễn Nhật Ánh đã

phần nào thể hiện được cái đích mà mình hướng tới, khám phá bề nổi và hình thức

của nhân vật để từ đó đi sâu khám phá thế giới nội tâm nhân vật.

Cách mà nhà văn miêu tả ngoại hình của thằng Dưa “Thằng Dưa mười hai

tuổi, bằng tuổi thằng Tường nhưng trông nó đẹn như đứa bé tám, chín tuổi, ra

đường luôn bị bạn bè cốc đầu đá đít” [5, tr.225]. Qua ngoại hình đó thấy được sự

đói ăn, cuộc sống nghèo khổ, bệnh tật đã đè lên người đứa trẻ.

Hay miêu tả cô bé Xin “Con bé xinh xắn, mặc dù hai gò má nó tràn đầy tàn

nhan”. Miêu tả chị Vinh dưới cái nhìn của Thiều, chị Vinh con thầy Nhãn hiện

lên là “một thiếu nữ đẹp nhưng gầy gò. Da chị trắng hồng, tóc chị đen, dày và

chấm lưng, khi chị cười thì mắt chị nhắm tít, trông như hai dấu trừ, đôi mắt thật

dài,…Con bé ba con ông Tư Cang da dẻ đen thui, bù lại do lao động chân tay

nhiều nó lớn vượt, người phổng phao, ra dáng thiếu nữ” [5, tr.143] còn hơn cả

Chị Vinh. Nhân vật ông Tám Tàng bố con bé Nhi rất tội nghiệp có ngoại hình rất

đáng thương “mặt ông có vẻ nhàu nhò, mệt mỏi…tóc ông xổ tung, rối bời, đỏ và

vàng như rơm khô,… một người đàn ông nhếch nhác, tiều tụy như vừa thoát ra từ

một đám cháy” [5, tr.336].

Mỗi nhân vật lại hiện lên với dáng vẻ bề ngoài không ai giống ai, dưới con

mắt của bọn trẻ, việc nhận dạng qua dáng vẻ bề ngoài của các nhân vật hầu hết

đều dựa vào độ tuổi, trang phục, da dẻ, dáng người… cũng như những đặc điểm

đặc biệt, nhà văn còn cá thể hóa nhân vật. Thông qua việc khắc họa tính cách mà

mỗi em có một tâm tính không ai giống ai.

Điều này đã cho thấy khả năng quan sát, mô tả tài tình, tạo ra cái nhìn hấp

dẫn, sinh động của nhà văn, mặt khác làm cho nhân vật hiện lên vừa cụ thể cảm

tính vừa ở chiều sâu bên trong suy nghĩ. Bằng chi tiết miêu tả ngoại hình nhà văn

cũng phần nào giúp bạn đọc hình dung ra được những nhân vật đáng yêu trong

74

tác phẩm. Chính đây cũng là điểm tựa để nhà văn xây dựng tính cách và hành

động của nhân vật.

Tuổi mới lớn là lứa tuổi đã có ý thức cá nhân, chúng đã biết quan tâm đến

bản thân và trau chuốt vẻ bên ngoài cũng như chú ý đến ngoại hình của các bạn

khác giới. Đứng trên điểm nhìn của nhân vật nam nhà văn Nguyễn Nhật Ánh chú

trọng miêu tả ngoại hình nhân vật đặc biệt là nhân vật nữ và nhất là các bạn gái

đẹp. Các nhân vật này cũng được miêu tả tập trung vào một nét nổi bật nào đó

“Việt An cũng rất đẹp và có một vết sẹo kỉ niệm khó quên” [4, tr.169]

Hay về nhân vật dị biệt như ông Năm Ve có sáu ngón tay, chú Đàn cụt một

tay, “tay phải của chú cụt đến tận khuỷu, lúc chú đi ngoài đường một ống tay áo

phất phơ như tay áo thằng bù nhìn giữ dưa” [5, tr.22]. Hình ảnh chú Đàn, ông

Năm Ve hiện lên trong tác phẩm là những người có dị tật ở tay nhưng không làm

bọn trẻ con trong xóm khiếp sợ mà ngược lại những đứa trẻ còn gần gũi để được

nghe kể chuyện, nghe thổi kèn.

Song song với việc miêu tả ngoại hình, tác giả cũng chú ý tới tô điểm cho

các chân dung nhân vật bằng những hành động. Hành động nhân vật chính là khái

niệm nhằm chỉ các việc làm của nhân vật. Đây là phương diện đặc biệt quan trọng

để thể hiện tính cách nhân vật. Vì việc làm của mỗi người chính là căn cứ quan

trọng có ý nghĩa quyết định nói lên tư cách, lí tưởng, phẩm chất cũng như những

đặc điểm thuộc về thế giới tinh thần của người đó. Hơn nữa trong tác phẩm tự sự,

tính cách nhân vật không phải ngay từ đầu đã được hình thành trọn vẹn. Chính

hành động có tác dụng bộc lộ quá trình phát triển của tính cách và thúc đẩy sự

diễn biến của hệ thống cốt truyện. Thông qua các mối quan hệ, sự đối xử giữa các

nhân vật trong những tình huống khác nhau người đọc có thể xác định được những

đặc điểm, bản chất của nhân vật. Bên cạnh việc mô tả những phát sinh trong từng

sự việc thì nhà văn cũng thường tạo hành động quen thuộc cho mỗi nhân vật, tạo

thành cá tính riêng mỗi khi nhắc tới nhân vật đó.

75

Trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh với những em đang ở lứa

tuổi học trò với sự hồn nhiên, xen lẫn suy tư và đây là khoảng thời gian mà tất cả

những đứa trẻ đang trải qua các cung bậc cảm xúc khác nhau. Như sự ngây thơ,

hồn nhiên của nhân vật Thiều khi ngồi phơi tay “Từ khi nhận ra điều đó, tôi có

thói quen thò tay ra ngoài cửa sổ bên bàn học. Tôi tắm hai bàn tay của mình trong

mưa để thấy những đầu ngón tay nhăn nheo như câu đố bọn trẻ con chúng tôi hay

đố: Một cây mà có năm cành/ Nhúng nước thì héo để dành thì tươi. Rồi sau đó

chúng tôi phơi chúng trong nắng như mẹ tôi vẫn phơi quần áo ngoài bờ dậu để

hong khô những ngón tay dưới ánh mặt trời và nghe gió cù mơn man nhồn nhột”

[5, tr.19].

Ở Thiều có cá tính rất riêng, lúc tốt, lúc xấu, lúc trẻ con, lúc người lớn rất

hài hước và đặc biệt cũng rất thương em.

Tường cũng là một đứa trẻ hồn nhiên trong sáng, tràn đầy hy vọng, những

đứa trẻ cũng có niềm tin vào cuộc sống, mong những điều tốt đẹp và luôn tin có

phép màu ở cuộc sống “Tường hồn nhiên chơi cả với kiến, chuồn chuồn, châu

chấu, nhền nhện, sâu cuốn chiếu và sâu róm…hiện nay Tường lại đang nuôi một

con cóc dưới gầm giường” [5, tr.105].

Bên cạnh sự hồn nhiên, ngây thơ của hai anh em Thiều và Tường thì nhân

vật Sơn lại đối lập lại, ranh mãnh, là đứa trẻ hư: “Tôi không biết con Bé Ba có

thích lại thằng Sơn thật hay không, hay bị thằng này đem tiền ra dụ dỗ mà người

ta đồn rằng thằng Sơn nhiều lần rủ con Bé Ba chui vô bụi cây tâm sự, bị ông Tư

Cang xách rựa đi lùng như lùng mấy thằng đánh bả chó” [5, tr.143].

Mỗi câu chuyện của Nguyễn Nhật Ánh đều là những tiếng cười vui, dí dỏm,

những màn đùa nghịch phá trời của các cô cậu học trò. Sự vô tư, vui đùa đó chính

là nét tính cách tâm lí đặc thù của lứa tuổi này. Lã Thị Bắc Lý đã nhận xét: “Các

nhân vật của Nguyễn Nhật Ánh là luôn luôn di động… thế giới trẻ em trong tác

phẩm của Nguyễn Nhật Ánh cũng tỏ ra hết sức am hiểu những trò nghịch ngợm,

76

nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò” của các em không phải lúc nào cũng tỉnh táo,

sáng suốt. Suy nghĩ của các em còn bồng bột, non nớt, hiếu động nên nhiều khi

có những hành động sai trái, đó không phải là bản chất mà xuất phát từ sự bồng

bột, hiếu động đặc thù của lứa tuổi của các em và các em nhanh chóng nhận ra để

tự mình sửa sai như trong tác phẩm Bảy bước tới mùa hè Khoa ngồi trong lớp vẽ

thầy giáo mọc sừng hay giả làm tướng cướp chặn đường dọa thầy.

Sức hấp dẫn của những thiên truyện với bạn đọc tuổi mới lớn chính là thành

công trong việc khắc họa tính cách nhân vật của nhà văn. Vì thế mà bạn đọc tuổi

mới lớn luôn bắt gặp chính mình trong những kỉ niệm tuổi thơ mà các nhân vật

đã trải qua. Những trò vui đùa, nghịch ngợm đến ngây ngô ấy sẽ mãi là là một

thời để nhớ, để yêu, để nâng niu và lưu giữ những kí ức đẹp của tuổi thơ. Tác giả

đã viết nên nhiều trang truyện về sự hồn nhiên, tinh nghịch, nhà văn Nguyễn Nhật

Ánh muốn nhắn nhủ các em hãy biết sống vô tư, trong sáng, bởi các em đang trải

qua quãng đời đẹp nhất của cuộc đời và hãy trân trọng những kỉ niệm, nó sẽ mãi

là những kí ức đẹp trong cuộc đời mỗi con người mà khi đi qua rồi không dễ gì

có lại được.

Trên đây là phương thức chung nhất trong việc xây dựng nhân vật. Ngoài

ra, nhà văn Nguyễn Nhật Ánh còn có thể khắc họa nhân vật thông qua việc đánh

giá các nhân vật khác trong tác phẩm, thông qua việc mô tả đồ dùng, nhà cửa, môi

trường, xã hội, thiên nhiên… mà nhân vật sinh sống. Qua việc miêu tả ngoại hình,

hành động, Nguyễn Nhật Ánh đã tạo nên những nhân vật thật sự sống động, chân

thật đã góp phần lớn vào thành công của tác phẩm khiến những nhân vật ấy đi vào

lòng của mỗi bạn đọc.

3.1.2. Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật

Nội tâm nhân vật nhằm chỉ toàn bộ những biểu hiện thuộc cuộc sống bên

trong của nhân vật. Đó là tâm trạng, suy nghĩ, phản ứng tâm lí của nhân vật trước

tình huống gặp phải trong cuộc đời. Sự biểu hiện hợp lí và sâu sắc về nội tâm góp

77

phần rất lớn tạo nên sức sống của nhân vật. Muốn nói lên sự thật về tâm hồn con

người, nói lên những điều bí ẩn không thể diễn tả bằng ngôn ngữ thông thường

được, nhà văn phải hiểu sâu sắc cuộc sống và con người, nắm bắt được những

biểu hiện tâm lí và diễn biến dù nhỏ nhặt nhất đời sống bên trong của nhân vật.

Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đã xây dựng nhân vật của mình qua những chi tiết thể

hiện nội tâm nhân vật đó là nhân vật Mận được tác giả miêu tả với nỗi buồn trước

hoàn cảnh éo le của gia đình: “Đầu vẫn gục thiểu não trên cánh tay, tóc xõa lệch

một bên vai, nó ngồi co rút trong bóng chiều trông như một pho tượng cô đơn

được nỗi buồn chạm trổ và đem đặt trước cửa nhà từ thời nào xa lắm” [5, tr.181].

Việc tác giả dùng thủ pháp độc thoại nội tâm là một trong những phương

thức hữu hiệu để khắc họa tính cách nhân vật. Khi nhà văn để nhân vật độc thoại

sẽ bộc lộ được suy nghĩ của mình về những vấn đề thầm kín thuộc về bản thân và

những người xung quanh. “Những giọt nước mắt của con Mận làm mềm trái tim

tôi. Tôi tò mò ngắm khuôn mặt nó, cảm thấy tâm hồn nó dường như xa vắng lắm.

Tự nhiên tôi ước giá như tôi chưa từng thốt ra những lời lẽ lỗ mãng vừa rồi” [5,

tr.130]. Tâm trạng xen lẫn những suy tư, đó tình cảm của tuổi mới lớn nhưng thay

vào đó là đã Thiều có những lo lắng cho tương lai của Mận hơn.

Nhân vật trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh là những nhân vật

với những câu chuyện xoay quanh những sinh hoạt hàng ngày, nhưng các nhân

vật hiện lên với những đặc điểm tâm lí vừa mang tính trẻ con lại vừa mang tính

người lớn nhưng lại rất năng động, tự chủ trong mối quan hệ đa chiều với thế giới

xung quanh và đặc biệt là mỗi nhân vật là một tính cách, một cá tính riêng khó có

thể nhầm lẫn.

Trong miêu tả nhân vật tuổi mới lớn tác giả đặc biệt chú ý đến suy nghĩ nội

tâm của nhân vật. Ở điểm nhìn của các nhân vật nam, thường là các nhân vật xưng

tôi, tác giả có điều kiện thuận lợi để bộc lộ những tình cảm, cảm xúc và suy nghĩ

bên trong của nhân vật một cách thuyết phục nhất, có lúc bông đùa có lúc là những

78

tâm sự chân thành được rút ra từ một trái tim đang xây xát. Đó là những dằn vặt

nội tâm về những ước mơ không thành hay là những trăn trở tìm phương kế để

tiếp cận đối tượng, là tâm trạng suy tư trước một tình huống mới mà các nhân vật

phải giải quyết. Đó là tình cảm yêu mến, ghét bỏ, là sự ngẩn ngơ suy tư trước một

cô bạn gái, hay là nỗi phập phồng, bồn chồn trước giờ hẹn, là giây phút đứng tim

khi chờ đợi lời phán quyết “người trong mộng”, là những khổ sở khi phải hằng

đêm ôm niềm tương tư, là nỗi đau của tình yêu giấu kín, là những trăn trở trước

hoàn cảnh, là nỗi lòng trắc ẩn trước tình đời, tình người. Nhà văn đã diễn tả được

cả những biểu hiện tâm lí, những sợi cảm xúc mong manh nhất vừa diễn tả trong

lòng các nhân vật của mình, khi chỉ là những tình cảm chớm nở thì nhân vật còn

đủ sức giở giọng bông đùa cố hữu “Đầu óc tôi mãi loay hoay nghĩ đến mối tình

bầm dập của mình. Tôi rủ đi xem phim thì Việt An không đi. Đến khi nó rủ thì lại

kéo theo một lô một lốc bạn bè, làm như tôi muốn đi chơi với nó thì phải đi kèm

giống như ở nhà hàng muốn uống bia thì phải đi kèm mồi vậy” [4, tr.102 – 103].

Không chỉ dừng lại ở việc khắc họa những dị biệt về nhận dạng, Nguyễn

Nhật Ánh còn tái hiện cả những con người mang trong mình những dị biệt với

những bấn loạn và căng thẳng cảm xúc của tâm lí và nỗi niềm về thân phận. Nhân

vật trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh luôn có sự mặc cảm, luôn sợ hãi…Nhân

vật chú Đàn trong Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh cũng nuôi trong mình một nỗi

buồn vô hạn bởi “Thầy Vinh không muốn chị Vinh lấy chồng cụt tay” [5, tr.111],

chú thương thằng Tình vì đã làm chim xanh cho cuộc tình của mình mà đã bị ăn

đòn oan.

Trong sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh, nhân vật dị biệt về tâm lí đôi khi

cũng là những con người sống nội tâm rất rõ rệt. Hằng ngày, Nhi mặc đồ công

chúa “áo đầm xám, tay bồng có tua ren màu hồng, mái tóc cô cũng thắt nơ hồng,

trên cổ có đeo một xâu chuỗi ngọc màu tím” [5, tr.308] trong tiềm thức và nội tâm

của Nhi chỉ tồn tại cô và đức vua. Đức vua chính là ông Tám Tàng.

79

Qua đó ta mới thấy Nguyễn Nhật Ánh khắc họa nhân vật ở chủ trương không

lạ hóa nhân vật, nhà văn đã để cho nhân vật phát triển một cách tự nhiên nhất,

nhân vật trẻ em không phải là những viên ngọc không tì vết mà còn có cả những

ưu điểm, nhược điểm trong tính cách. Có những nhân vật ngoan ngoãn, chăm học,

biết nghe lời nhưng có những nhân vật ham chơi, nghịch ngợm, nhà văn không tô

vẽ nhân vật của mình theo một hình mẫu lí tưởng mà để chúng bộc lộ những mặt

tính cách khác nhau để thể hiện rằng, mỗi đứa trẻ là một cá thể riêng biệt, có

những suy nghĩ, tâm tình không giống nhau.

2.2. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện, tình huống truyện

Cốt truyện là hệ thống các sự kiện, trong tác phẩm văn học từ khi mở đầu

cho đến khi phát triển và kết thúc. Nhưng trật tự trần thuật cốt truyện lại nhằm thể

hiện những ý nghĩa sâu xa hơn chính bản thân các sự kiện đó. Vấn đề cốt lõi của

cốt truyện và việc tổ chức hệ thống các sự kiện đó nhằm tập trung phơi bày các

xung đột văn học và thể hiện các số phận, tính cách con người.

Đọc truyện Nguyễn Nhật Ánh chúng ta không cảm thấy nhàm chán hay

căng thẳng mà luôn bị cuốn hút bởi sự đan cài các yếu tố, các tình huống truyện,

đó là những bài học có tính giáo dục nhưng không hề cứng nhắc, giáo điều, rập

khuôn, hô khẩu hiệu mà ngược lại rất nhẹ nhàng, vui vẻ, thấm thía. Những câu

chuyện đời thường được nhà văn tổ chức, sắp xếp các tình huống có kịch tính, hấp

dẫn, sống động… làm nổi bật lên hoàn cảnh éo le, lòng trắc ẩn, sự can đảm, lòng

đam mê, bản lĩnh chiến đấu của từng nhân vật. Truyện đã gợi ra những bất ngờ,

sự tươi vui, hóm hỉnh, ngộ nghĩnh và tràn đầy cảm xúc, tiếng cười và tinh thần

giáo dục mang tính nhân văn cao cả.

Câu chuyện trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh cũng nhẹ nhàng,

đơn giản, từ tốn, nhưng người đọc bị cuốn hút bởi tình tiết của câu chuyện, cũng

có lúc cao trào và kịch tính. Tác phẩm đã xoay quanh lời kể của nhân vật Thiều.

Theo cảm nhận của Thiều, cuộc sống của những đứa trẻ từ Mận, Tường, cô bé

80

Xin, đến Sơn… đã lần lượt hiện ra với đầy đủ tính cách và hoàn cảnh gia đình của

mỗi nhân vật. Truyện cũng có thắt nút, có cao trào, có mở nút. Ban đầu chỉ vì

ghen tuông với em mình khi thấy Tường thân với Mận mà Thiều đã để cho ông

Năm Ve bắt mất con cóc tía yêu quý của em mình. Sự phát triển câu chuyện đầy

kịch tính khi Thiều cũng vì lòng ghen nên đã đánh Tường gẫy xương sống khiến

cho người đọc cảm thấy bất bình, không chấp nhận hành động của Thiều, cần phải

phê phán hành động đó. Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh lại thổi vào trang văn của

mình những tình tiết mới đó là sự ân hận dày vò, sự cắn rứt lương tâm của Thiều

đối với Tường và Thiều thấy thương em mình hơn. Kết thúc truyện, Thiều đã thấy

cuộc sống tươi sáng hơn, đã thấy được hoa vàng trên cỏ xanh và biết quý trọng

tình cảm anh em.

Hay tình huống khiến cho người đọc thấy thương và cảm động như nhà cô

bé Mận bị cháy, bố bỏ đi vì không muốn là gánh nặng cho mẹ con nó, mẹ bị tạm

giam vì bị nghi ngờ ám sát bố nó. Rồi đến những tình huống rất nhẹ nhàng, tình

cảm như gia đình Thiều đón Mận để về nhà cưu mang khi cô bé gặp khó khăn hay

những lúng túng, ngượng ngùng của Thiều trước Mận. Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh

còn tạo được tình huống rất đặc biệt và đẹp như trong truyện cổ tích, đó là cuộc

gặp gỡ rất là lạ của Tường và cô bé Nhi. Tình huống Tường bị thương và bóng

dáng của nàng công chúa trong truyện cổ tích, Tường yêu thích hiện diện bên

ngoài cửa sổ, hình ảnh cô bé Nhi giả dạng công chúa đang sống tách biệt cùng

người cha trong một thế giới biệt lập ở đồi cỏ úa vụt hiện lên, đó chính là liều

thuốc tiên thức dậy tiềm ẩn đã xóa đi cái đau của Tường và ngược lại chính sự

quan tâm, tiếng gọi của Tường đã lay thức ảo mộng của cô bé Nhi sau vụ tai nạn

ở rạp xiếc. Có thể thấy mối tình Tường – Nhi là mối tình đẹp nhất trong cả câu

chuyện, khiến cho câu chuyện trở nên nhẹ nhàng, hấp dẫn, cuốn hút độc giả hơn.

Câu chuyện cũng đã dần hé mở như thể để khẳng định về tình người tốt đẹp vẫn

luôn có ở khắp mọi nơi, để dù trong nghịch cảnh con người vẫn biết yêu thương

81

nhau. Cách giải quyết tình huống theo chiều hướng tích cực, khiến cho người đọc

cảm động và cũng vỡ lẽ ra nhiều điều.

Ở tác phẩm Cô gái đến từ hôm qua không có tình huống gay cấn, cốt truyện

giản dị mà lại chan chứa cảm xúc. Đó là sự hồi ức của nhân vật Thư về cô bé Tiểu

Li và Việt An đan xen giữa quá khứ và hiện tại. Với tuổi thơ và năm tháng học

trò với mối tình nảy nở của những cô cậu học trò tập làm thi sĩ, nhà văn đã tạo

dựng các tình huống truyện rất chi tiết, đan xen với nhau, hợp tình hợp lí và cũng

hợp với tâm trạng của tuổi học trò trong trẻo, hồn nhiên và cũng rất tinh nghịch.

Tác phẩm Bảy bước tới mùa hè là truyện dài đã tiếp nối mảng truyện viết

cho tuổi mới lớn và cốt truyện cũng hết sức giản dị đời thường. Truyện được kể

qua lời của nhân vật chính xưng tôi tên là Khoa với những chuyến về thăm quê –

rồi mối tình với nhỏ Trang, câu chuyện viết về một mùa hè ngọt ngào với những

trò chơi nghịch ngợm và tình cảm bâng khuâng của tuổi mới lớn, câu chuyện về

tuổi học trò đầy ắp những kỉ niệm thơ bé ngọt ngào với tình thầy trò, bạn bè, tình

xóm làng, họ hàng qua cách nhìn đời nhẹ nhàng, rộng lượng và bao dung.

Có thể nói mỗi cuốn sách của Nguyễn Nhật Ánh như mỗi chuyến tàu trở về

tuổi thơ. Ở đó có nhiều toa, mỗi toa là mỗi bất ngờ, mỗi thú vị, mỗi háo hức say

mê có khi làm ta bật cười, có khi làm ta rưng rưng hoặc là ngồi lặng đi suy ngẫm.

Khi đã theo con tàu của Nguyễn Nhật Ánh để đi về tuổi thơ một lần, tôi tin mỗi

lần Nguyễn Nhật Ánh rung chuông, người ta khó lòng bỏ qua một tấm vé để lại

được cùng anh háo hức lên tàu.

Cách kết thúc truyện bất ngờ bất ngờ là một trong những nét độc đáo, khi

xây dựng tình huống truyện của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Viết về tuổi mới lớn,

nhà văn Nguyễn Nhật Ánh khai thác tâm lí nổi bật của các em là những cảm xúc

rung động đầu đời. Vẫn là các cung bậc như có cảm tình rồi làm quen, tán tỉnh

của các chàng trai, cô gái mới lớn. Nhưng mỗi thiên truyện tác giả lại khéo léo tạo

dựng tình huống khác nhau khiến cho câu chuyện trở nên hấp dẫn bạn đọc. Đến

82

với tác phẩm Cô gái đến từ hôm qua tác giả đã để anh chàng Thư kể lại câu chuyện

của mình về hai người bạn gái. Một cô bạn tên là Tiểu Li là người bạn thuở cạnh

nhà và cô bạn thứ hai tên là Việt An, một người bạn mới chuyển tới lớp mà Thư

muốn làm quen. Song nếu như cô bạn tên Tiểu Li là người bạn thuở nhỏ ở cạnh

nhà ngoan ngoãn, hiền lành luôn để cho Thư bắt nạt bao nhiêu thì cô bạn Việt An

lại là người kiêu kì và khó chinh phục bấy nhiêu. Sự đối nghịch này là lí do để

mỗi lần thất bại với các chiêu tán tỉnh Việt An thì Thư lại ngậm ngùi nhớ về cô

bạn Tiểu Li thuở nhỏ. Cũng bởi thế mà câu chuyện luôn song hành giữa quá khứ

và hiện tại. Đến khi Việt An chấp nhận làm bạn gái của Thư thì Thư đã kể cho

Việt An nghe về những kỉ niệm tuổi thơ cùng cô bạn gái Tiểu Li. Cô bạn nhỏ có

vết sẹo mờ trên trán do một lần Thư đẩy ngã Tiểu Li đập đầu vào cạnh bàn.

Tình huống nảy sinh vào phút cuối của câu chuyện. Trong phút chốc Việt

An đã sững sờ và bức màn bí mật về cô bạn Tiểu Li được hé mở “Tôi chưa kịp

nói dứt câu, nó đã nhẹ nhàng vén tóc lên và tôi sững sờ nhận ra nó ngay. Đã mười

năm qua, nó vẫn thế không đậm hơn, không nhạt đi vẫn là một vật thâm mờ nằm

lặng lẽ và bình yên sau mái tóc. Tôi thẫn thờ chạm tay vào vết sẹo trên trán Việt

An và cảm thấy bàng hoàng như chạm vào kỉ niệm, cứ sợ nó tan đi như một giấc

mơ” [4, tr.169]. Với tình huống này, điều bất ngờ đã xảy ra không chỉ với hai nhân

vật Thư và An mà ngay cả với bạn đọc cũng bất ngờ. Cô bạn Tiểu Li thuở nhỏ

người mà đã gắn bó với Thư rất nhiều kỉ niệm tuổi thơ đã cùng gia đình chuyển

nhà đi nơi khác. Mười năm sau, cô bạn Việt An chuyển đến lớp Thư học – người

mà Thư mất nhiều công chinh phục hóa ra lại chính là cô bạn Tiểu Li người bạn

thuở ấu thơ. Với cách xây dựng tình huống đọc đáo trên thì một lần nữa Nguyễn

Nhật Ánh đã đem đến cho bạn đọc những sắc màu khác nhau của tình yêu tuổi

học trò.

Phải chăng chính những trang truyện của Nguyễn Nhật Ánh viết cho tuổi

học trò đã luôn đem lại sức hấp dẫn và cuốn hút cho bạn đọc bởi thành công trong

83

cách tạo dựng tình huống truyện của tác giả. Nhà văn không quá cầu kì trong cách

xây dựng cốt truyện. Những câu chuyện mà Nguyễn Nhật Ánh kể về tuổi mới lớn

xoay quanh mối quan hệ của các em với gia đình, bạn bè, làng xóm. Không gian

nhân vật thường xuất hiện ở trường học hay căn gác trọ hoặc miền quê nào đó vào

những dịp nghỉ hè… Đó là những chuyện rất đời thường của lứa tuổi học trò trước

ngưỡng cửa để trở thành người lớn nhưng nhà văn đã rất khéo léo tạo dựng được

các tình huống khác nhau. Cho dù tạo dựng tình huống theo cách nào chăng nữa

thì mỗi tình huống ấy trong các câu chuyện của nhà văn đều góp phần tạo nên một

bức tranh tương đối toàn diện về đời sống, tính cách và nhất là đặc thù tâm lí nổi

bật của tuổi mới lớn. Đúng như quan điểm của Nguyễn Nhật Ánh nhà văn là trụ

đỡ tinh thần cho các em. Hầu hết trong các câu chuyện dù trải qua tình huống nào,

tác giả cũng đều luôn mong muốn các em hãy sống hồn nhiên, trong sáng, biết

trân trọng kỷ niệm, tuổi thơ, tình bạn và sống nhân ái với mọi người hơn. Chính

điều này đã lí giải được vì sao tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh không chỉ có các

em nhỏ yêu thích mà ngay cả những bậc phụ huynh cũng rất yêu thích. Bởi đọc

tác phẩm của ông họ cũng dường như tìm thấy mình ở trong đó. Có lẽ vì vậy mà

Nguyễn Nhật Ánh xứng đáng là nhà văn của thiếu nhi.

3.3. Ngôn ngữ trong truyện Nguyễn Nhật Ánh

3.3.1. Khái niệm ngôn ngữ

Mỗi hình thái nghệ thuật đều được xây dựng từ một chất liệu đặc thù. Nếu

như giai điệu, âm thanh là chất liệu của âm nhạc và màu sắc, đường nét là ngôn

ngữ của hội họa, mảng khối là ngôn ngữ của kiến trúc thì ngôn ngữ là chất liệu

của văn chương. Như chúng ta đã biết, ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp của con

người, là cái vỏ của tư duy. Trong giao tiếp hằng ngày, ngôn ngữ được dùng một

cách tự nhiên và thông dụng, toàn dân với nhiều sắc thái đa dạng, phong phú, diễn

tả nhiều cung bậc, cảm xúc tình cảm, suy nghĩ khác nhau của con người.

84

Khái niệm ngôn ngữ được hiểu theo nghĩa hẹp là hệ thống các phương tiện

ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp, giúp cho việc khách thể hóa hoạt động tư duy và

làm công cụ giao tiếp, trao đổi suy nghĩ, hiểu biết lẫn nhau giữa người với người

trong xã hội. Ngôn ngữ là phương tiện bảo lưu và truyền thông tin. Còn trong văn

học Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên (M. Gorki) hay nói cách khác “văn học là nghệ

thuật của ngôn từ”. Ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc

trưng của văn học. Về vấn đề này, tác giả Pôxpelôp trong cuốn Dẫn luận nghiên

cứu văn học đã viết rằng tính độc đáo của mỗi loại hình nghệ thuật trước hết là do

tính chất của phương diện vật chất mà người ta dùng để xây dựng hình tượng

trong loại hình đó quy định. Về mặt này, lẽ tự nhiên văn học là một nghệ thuật

ngôn từ, yếu tố vật chất mang hình tượng của nó là lời nói của con người mà cơ

sở là ngôn ngữ của dân tộc nhất định. Nói như vậy, ngôn ngữ nghệ thuật lấy ngôn

từ toàn dân làm chất liệu biểu hiện.

Trong văn học, chúng ta bắt gặp một thế giới ngôn ngữ có sự phân biệt rõ

nét so với ngôn ngữ toàn dân. Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học là ngôn ngữ toàn

dân được nghệ thuật hóa nhằm mục đích xây dựng thế giới hình tượng nghệ thuật

và cụ thể hóa sự biểu hiện chủ đề và tư tưởng tác phẩm. Theo tác giả Trần Đình

Sử “Ngôn từ văn học là ngôn ngữ nghệ thuật được lựa chọn, tổ chức thành văn

bản cố định, sao cho nói một lần mà có thể giao tiếp mãi mãi” [63].

Như vậy, có nhiều cách hiểu về ngôn ngữ nghệ thuật, theo chúng tôi có thể

sử dụng định nghĩa trong 150 thuật ngữ văn học của nhà nghiên cứu Lại Nguyên

Ân: “Ngôn ngữ nghệ thuật là một phạm trù chung bao gồm toàn bộ các yếu tố

ngôn ngữ được vận dụng trong tác phẩm văn chương đó là thứ ngôn ngữ đã chọn

lọc, gọt giũa, trau chuốt, có tính gợi hình, gợi cảm, đem lại cho người đọc những

cảm xúc thẩm mĩ, thông qua những rung động tình cảm” [28].

Như vậy ngôn ngữ chính là yếu tố thứ nhất, là hình thức thể hiện, là vỏ vật

chất của tác phẩm văn học. Việc đi sâu và làm rõ những giá trị của ngôn ngữ văn

85

bản giúp cho người đọc có thể hiểu đúng, hiểu sâu về tác phẩm. Đây là một việc

làm rất quan trọng từ việc đi sâu khám phá lớp vỏ ngôn ngữ sẽ cho thấy những

phương thức nghệ thuật mới. Từ việc tìm hiểu và nghiên cứu chúng tôi cố gắng

chỉ ra những đặc điểm ngôn ngữ trong tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh.

3.3.2. Sự đa dạng trong ngôn ngữ truyện kể

3.3.2.1. Ngôn ngữ đối thoại, độc thoại nửa trực tiếp

Trong truyện Nguyễn Nhật Ánh ta thường thấy những đoạn đối thoại chiếm

tỉ lệ khá lớn. Điều này rất phù hợp với lối viết cho trẻ thơ, bởi ở lứa tuổi này các

em thiên về hoạt động vui chơi với gia đình, bạn bè, anh chị em gần bằng tuổi

nhau nên ngôn ngữ đối thoại là phần không thể thiếu. Trong tác phẩm Tôi thấy

hoa vàng trên cỏ xanh có 81 câu chuyện nhỏ, ngôn ngữ đối thoại thường diễn ra

giữa các nhân vật trẻ em, cuộc đối thoại với người lớn diễn ra ít hơn, trừ nhân vật

chú Đàn. Những cuộc thoại thường ngắn là những câu nói đời thường, giản dị,

hồn nhiên mang đúng chất trẻ thơ. Như đoạn đối thoại của Thiều với cô bạn Mận

khi Mận thấy Thiều phơi những ngón tay trong nắng:

- “Bạn đang làm gì vậy?

- Tao dang phơi những ngón tay. Mày có bao giờ phơi những ngón tay

không?

- Không.

- Thế khi tay mày ướt mày làm gì?

- Mình lau vào quần.

- Tôi kêu lên.

- Eo ơi, ai lại lau tay vào quần” [5, tr.20].

86

Hoặc như một đoạn đối thoại khác trong Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh

của Tường và Thiều.

- “Chết rồi! máu chảy, mày ơi!

- Tường lo lắng.

- Nhiều không anh?

- Hơi hơi thôi.

- Tôi nói dối và một tay bịt vết thương trên đầu nó, tay kia đỡ lưng nó, tôi

nói tiếp:

- Mày đứng lên đi. Tao dìu mày vô nhà lấy thuốc xức.

- Tường đi bên cạnh tôi, mếu máo:

- Sao anh lại ném em? Anh bảo là anh đầu hàng rồi kia mà?

- Cái đó là trá hàng, tức là giả vờ đầu hàng đó, mày hiểu chưa? Tôi chống

chế. Khi đánh nhau, người ta phải dùng mọi mưu mẹo để giành chiến thắng. Có

thế mới gọi là tướng tài” [5, tr.46 – 47].

Đọc những đoạn đối thoại như vậy chúng ta thấy Tường là một cậu em hiền

lành, thật thà, cả tin và rất sùng bái ông anh, một ông anh thì láu cá, khôn lỏi, biết

sợ, biết thương em nhưng có phần hơi ích kỉ, luôn luôn nghĩ cho mình trước. Có

thể thấy đối thoại trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh đã rất hiệu quả trong việc

phản ánh tâm tính nhân vật.

Hay cuộc đối thoại giữa hai anh em Thiều và Tường về chuyện làm chim

xanh của Tường.

- “Chú Đàn viết gì trong đó vậy?

- Hình như là một bài thơ.

87

- Thơ à?

- Vâng.

- Thơ gì vậy?

- Em không biết.

- Thế mày có nhớ được câu nào không?

- Em nhớ được hai câu.

- Mày đọc tao nghe coi” [5, tr.76].

Nguyễn Nhật Ánh thường tập trung vào lời văn đối thoại là chính, ông

không đi sâu vào phân tích, mổ xẻ tâm trạng đau đớn, hay giằng xé của nhân vật

bởi đối tượng tiếp cận của ông là các em nhỏ, các em chưa thể nắm bắt và hiểu

hết được những vấn đề rắc rối, những phức tạp của cuộc sống. Tác giả thường đơn

giản hóa cuộc sống sao cho nó gần gũi và dễ hiểu phù hợp với lứa tuổi các em.

Thế giới trẻ thơ thường bộc phát, tự nhiên và hài hước, các em tư duy và suy nghĩ

như thế nào thường thể hiện qua lời nói trực tiếp và hành động của mình. Nắm bắt

được tâm lí đó, nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đã sử dụng ngôn ngữ đối thoại để bộc

lộ rõ tính cách, suy nghĩ của nhân vật một cách phong phú và linh hoạt.

Bên cạnh ngôn ngữ đối thoại, còn có ngôn ngữ nửa trực tiếp do điểm nhìn

trần thuật được đặt vào nhân vật trẻ thơ và trực tiếp bộc lộ qua lời nói, hành động

trần thuật của trẻ thơ, nên ngôn ngữ nửa trực tiếp là lời nói kết hợp đồng thời hai

hình thức phát ngôn gián tiếp “bởi người trần thuật” và trực tiếp “bởi nhân vật”,

truyện Nguyễn Nhật Ánh xuất hiện nhiều lời độc thoại nửa trực tiếp bởi tâm lí trẻ

con nhiều khi không thể nói hết suy nghĩ của mình nên chúng thường tự độc thoại

với chính mình về những điều băn khoăn trong cuộc sống.

Chẳng hạn như những băn khoăn của Khoa trong tác phẩm Bảy bước tới

mùa hè về những đổi thay tâm lí của mình khi gặp lại nhỏ Trang, tuy chưa thốt

88

lên lời nhưng mỗi câu Khoa định nói cũng tự nhiên thay đổi: “Em mau lớn quá

hả Trang?. Trước nay, Khoa toàn xưng tao gọi mày với con nhỏ này. Bữa nay

Khoa đột ngột gọi nó bằng em. Dù là gọi trong tâm tưởng. Chỉ nhớ lại thôi, Khoa

đã thấy kỳ kỳ: Sao lạ vậy ta? Khoa tự hỏi, nghĩ ngợi, không tìm ra câu trả lời rồi

lại tự hỏi thầm lần nữa” [6, tr.22]. Khoa đã tự đặt câu hỏi, tự đối thoại với chính

mình về sự thay đổi đột ngột trong cách xưng hô với nhỏ Trang. Rồi những bất

ngờ của Khoa trước thái độ vui vẻ của dì Liên trong khi Khoa đang chờ cơn thịnh

lộ của dì: “Cái gì vậy trời. Mình có nghe lộn không vậy? Dì tự hào về một thằng

cháu hư đốn đến nỗi bị thầy giáo cho đòn và đuổi ra khỏi lớp ngay từ buổi học

thứ ba? Tự hào về một thằng bé khăn gói vào rừng làm cướp ở một ngôi làng

trong lịch sử chưa bao giờ có cướp? Thôi rồi, chắc dì giễu cợt mình! Dì muốn

vờn mình như con mèo hành hạ một con chuột trước khi xơi tái nó! Khoa hoang

mang nhủ bụng, đầu rối như tơ, vẫn không ngước mặt khỏi chén cơm” [6, tr.132].

Độc thoại nửa trực tiếp cũng là cách các em tự suy nghĩ đắn đo về những sự việc

xảy ra trong cuộc sống. Hay tâm trạng hồi hộp, ngại ngùng, hồn nhiên của một

cậu bé đang yêu.

“Khoa nghe đầu cổ nóng bừng bừng công nương của nó hỏi một câu giống

như đẩy đưa. Có nên lặp lại là mình thích nhỏ Trang không nhỉ? Hôm trước nhỏ

bảo nhỏ sẽ không mắng mình lăng nhăng, nhưng đó là nhỏ nói thế thôi còn nhỏ

nghĩ gì trong bụng làm sao mình hiểu được! Hay mình thú thật mình cũng không

thể nào rời mắt khỏi nhỏ chỉ vì khi mỉm cười gương mặt nhỏ bừng sáng như có

nghìn tia nắng chiếu vào” [6, tr. 213].

Nhân vật đặt ra những câu hỏi để tự đối thoại lại với chính mình. Tự lí giải,

rồi cắt nghĩa cảm xúc, tâm tư tình cảm của đối phương. Đó là tâm lí thường thấy

ở những bạn đang ở tuổi mới lớn, bắt đầu biết quan tâm đến đối tượng khác giới.

Đồng thời cho thấy các em cũng đã bắt đầu có sự trưởng thành trong cách hành

động suy nghĩ.

89

Nguyễn Nhật Ánh đã sử dụng những câu nửa trực tiếp cũng đều là dụng ý

nghệ thuật của ông. Nhân vật tâm sự với chính mình, tự soi lại mình, chất vấn tâm

trạng của mình trước một hiện tượng nào đó là cách nhân vật giải tỏa tâm lí và

tiếp cận cuộc sống, chủ động nhận thức, tác giả đã làm người đọc thấy rõ nội tâm

nhân vật đồng thời hiểu được bản chất con người của nhân vật, điều này cũng thể

hiện sự hồn nhiên, ngây thơ, chân thật trong suy nghĩ của các em.

Nguyễn Nhật Ánh đã sử dụng những lời độc thoại nửa trực tiếp để kéo gần

người đọc với nhân vật hơn hay nói cách khác để người lớn sẽ hiểu được phần

nào tâm lí trẻ con để chú ý đến tâm lí, cảm nhận của các em nhiều hơn.

3.3.2.2. Ngôn ngữ độc thoại gián tiếp

Truyện Nguyễn Nhật Ánh có rất nhiều ngôn ngữ độc thoại gián tiếp, tần số

xuất hiện lời độc thoại gián tiếp nhiều hơn so với lời độc thoại nửa trực tiếp. Đó

chính là tâm trạng giằng xé của các cô cậu học trò về tình yêu, tình bạn hay là

những tâm sự của trẻ con về người lớn. Các em cũng đã bắt đầu biết quan tâm đến

các bạn khác giới và có nhu cầu thể hiện mình là người lớn trước đối tượng mình

thích. Đó là suy nghĩ của cậu bé Thiều về cuộc sống thương tâm của cô bé Mận

trong Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh. Khi bố chết, mẹ bị bắt “Trong một phút

lòng tôi như tan chảy ra khi bắt gặp cô bạn thân yêu cái dáng vẻ ủ rũ, thảm sầu

không thể nhầm được của kẻ bị số phận thình lình đánh quỵ”…[5, tr. 180].

Nỗi đau của cô bé Mận, Thiều cũng thấy dường như là nỗi đau của chính

mình, một cô bé phải đối diện cùng một lúc với quá nhiều mất mát, đau thương.

Đó là cha mất, mẹ bị bắt và ngôi nhà bị cháy. Thiều luôn cố gắng động viên, chia

sẻ, an ủi Mận. Tình yêu nảy nở khi Mận chuyển đến nhà Thiều ở. Trẻ con khi yêu

luôn muốn người mình yêu phải chơi với mình vì thế cái ghen của tình yêu con

nít cũng rất ngô nghê, hồn nhiên và cũng đáng yêu. Cậu bé Thiều bực bội khi Mận

toàn chơi và cặp kè với Tường “Mỗi sáng tôi khổ tâm hết sức khi thấy cứ sau một

đêm ngủ dậy con Mận lại có vẻ duyên dáng hơn một chút, càng khổ tâm hơn nữa

90

khi tôi bắt đầu chú ý đến vẻ bề ngoài của thằng Tường”… [5, tr.222]. Chính điều

này mà Thiều cảm thấy tâm trạng rối bời khi một bên là người mình yêu và một

bên là em trai mình. “Tôi vừa khổ tâm về sự quấn quýt giữa thằng Tường và con

Mận, vừa khổ tâm về sự khốn khổ của mình, cả hai sự dày vò đó chồng lên nhau

khiến tôi cảm thấy giống như người ngợp nước” [5, tr.223].

Chỉ có tình yêu mới đưa con người vào tâm trạng rối ren, đảo lộn như vậy,

Thiều yêu Mận nên Thiều mới ích kỉ với em trai mình. Sự ghen tuông đã làm con

người ta trở nên nhỏ nhen hơn. Không chỉ có vậy, Thiều còn làm những điều tồi

tệ nhất với em mình trong giây phút không điều chỉnh được bản thân là Thiều đã

đánh em mình đến nỗi không đi được. Nhưng lúc đó chính là lúc Thiều bừng tỉnh

nhận ra lỗi lầm của mình. Thiều cắn rứt, dằn vặt lương tâm “Cái cách Tường bảo

vệ tôi ngay cả lúc nó là nạn nhân xấu số của tôi khiến tôi cảm thấy xấu hổ và day

dứt ghê gớm. Tình yêu của em tôi dành cho tôi thật mênh mông trong khi tôi hết

lần này đến lần khác đối xử với nó chẳng ra gì” [5, tr.284]. Vì tính trẻ con mà cậu

bé Thiều đã gây ra nhiều lỗi lầm và đau đớn cho người thân yêu của mình. Nhà

văn Nguyễn Nhật Ánh đã thể hiện thành công diễn biến tâm lí của Thiều và cũng

phản ánh chân thật quy luật phát triển tâm lí của các em. Ông tạo ra tình huống

buộc nhân vật phải suy nghĩ, lựa chọn, đấu tranh giữa cái xấu và cái tốt, giữa rồng,

phượng, rắn, rết. Nhân vật tự chất vấn lương tâm để rồi tự hoàn thiện, sửa sai

những lỗi lầm của mình. Đó là cách tác giả đưa nhân vật đến mục đích cuối cùng

của mình là luôn hướng thiện.

3.3.2.3. Sử dụng tục ngữ, thành ngữ, quán ngữ

Một trong những yếu tố khiến sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh trở nên gần

gũi với bạn đọc bởi chính tác giả còn vận dụng khá nhiều các thành ngữ, tục ngữ,

quán ngữ để câu nói thêm đưa đẩy, ý nhị và sâu sắc hơn: “ân đền oán trả”, “thương

cho roi cho vọt”, “ghét cho ngọt cho bùi” trong tác phẩm Bảy bước tới mùa hè.

91

“Đổ dầu vô lửa”, “tán nhăng tán cuội”, “xù lông nhím”, “ăn vụng không

biết chùi mép”, “ngậm bồ hòn làm ngọt” trong tác phẩm Cô gái đến từ hôm qua.

Với việc vận dụng nhuần nhuyễn ngôn ngữ dân gian đã làm cho mỗi câu

chuyện của Nguyễn Nhật Ánh viết cho thiếu nhi càng trở nên giản dị, gần gũi hơn

với đời sống, câu văn sinh động, hàm súc và hơn nữa còn thấy vốn từ ngữ dân

gian của tác giả vô cùng phong phú. Cách sử dụng từ ngữ đó vận dụng vào lời ăn

tiếng nói hàng ngày của các em đã khiến cho tác phẩm trở nên vô cùng gần gũi và

chân thực hơn.

Không quá cầu kì, trau chuốt quá nhiều về ngôn ngữ, khi viết cho tuổi thiếu

nhi Nguyễn Nhật Ánh đã tạo dựng một hệ thống ngôn ngữ dung dị, thứ ngôn ngữ

mà tuổi học trò vẫn thường hay nói với nhau. Chính điều ấy đã tạo nên sức hấp

dẫn trong truyện Nguyễn Nhật Ánh với bạn đọc. Ông không hề cao giọng giáo

huấn mà luôn đặt mình trong quan hệ bình đẳng với các em. Nhà văn viết bằng

ngôn ngữ giản dị nhưng không kém phần hàm súc, biểu cảm, chính xác… phù

hợp với nội dung hiện thực đời thường và phù hợp với thị hiếu tiếp nhận văn

chương của lứa tuổi thiếu nhi. Qua đây nhà văn đã đem đến cho mọi lứa tuổi

những bài học giáo dục sâu sắc mà không hề khiên cưỡng, cứng nhắc hay nặng

nề. Vì thế mà mỗi thiên truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn Nhật Ánh đều có

sức hấp dẫn lạ kì, giống như một món quà vô hình, vô giá nuôi dưỡng tâm hồn

các em, giúp các em trở thành người tốt hơn, biết bao dung, vị tha độ lượng hơn.

3.4. Giọng điệu trong truyện Nguyễn Nhật Ánh

3.4.1. Khái niệm giọng điệu

Giọng điệu là một yếu tố quan trọng cấu thành tác phẩm. Nhà nghiên cứu

Hoàng Ngọc Hiến cho rằng: “Câu văn có hồn là câu văn có giọng, ngữ điệu, bởi

vì từ ngữ của bài văn được chọn có thông báo nhiều điều quan trọng nhưng bài

văn không có giọng, ngữ điệu, bởi vì từ ngữ của bài văn được chọn có thông báo

92

nhiều điều quan trọng. Nhưng bài văn không có giọng đọc lên vẫn nhạt nhẽo vô

vị sự phong phú, tính đa nghĩa, ý vị đậm đà của bài văn trước hết là ở giọng. Năng

khiếu văn ở phần tinh tế nhất là năng lực bắt được trúng cái giọng của văn bản

mình đọc và tạo ra được giọng đích đáng cho tác phẩm mình viết”. Nhận định ấy

của nhà nghiên cứu đã chứng tỏ được vị trí, vai trò của giọng điệu trong việc hình

thành nên phong cách tác giả và những đặc sắc riêng cho tác phẩm.

Vậy giọng điệu là gì? Theo tác giả Nguyễn Đăng Điệp thì “giọng điệu biểu

thị thái độ, cảm xúc, tư thế của chủ thể phát ngôn qua lời văn nghệ thuật. Không

thể có giọng điệu nếu không có những rung động sâu sắc những nỗi đau, những

xót xa trước những thân phận con người, không sẻ chia với họ niềm vui và tình

yêu cuộc sống” [35, tr. 34].

Trong nghệ thuật, khái niệm giọng điệu được các tác giả Từ điển thuật ngữ

văn học định nghĩa là: “Thái độ, tình cảm, lập trường, tư tưởng đạo đức của nhà

văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng

hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm cách cảm thụ xa gần, thân sơ, kính trọng

hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” [39, tr.134].

Có khá nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau nhưng qua đó chúng ta

có thể thấy giọng điệu chính là thái độ, tình cảm của nhà văn được thể hiện trong

tác phẩm.

Cơ sở để hình thành giọng điệu là đề tài và cảm hứng chủ đạo của nhà văn,

là cái nhìn của nhà văn về đời sống, là cá tính sáng tạo của nhà văn. Giọng điệu

được thể hiện qua ngôn ngữ, qua cảm hứng nghệ thuật, cảm xúc của chủ thể nhân

vật.

3.4.2. Giọng điệu hài hước, dí dỏm

Từ những cơ sở lý thuyết về giọng điệu được tóm lược ở trên, chúng tôi

nhận thấy giọng điệu trong sáng tác của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh chủ yếu là

93

giọng điệu hài hước, dí dỏm, giọng điệu triết lí nhẹ nhàng và giọng điệu đa thanh.

Đây chính là ba giọng điệu chính giữ vai trò chủ đạo đặc trưng trong cách kể

chuyện của Nguyễn Nhật Ánh và cũng chính giọng điệu này đưa ông lại gần với

các bạn nhỏ hơn, nó đã chiếm được cảm tình của độc giả. Bạn đọc có thể vừa đọc

truyện của Nguyễn Nhật Ánh vừa hồi tưởng về tuổi thơ của mình, vừa có thể mỉm

cười thậm chí bật cười trước những chi tiết được khắc họa trong tác phẩm. Bên

cạnh đó, Nguyễn Nhật Ánh với sự trải nghiệm của mình, với trách nhiệm viết văn

như một cách giáo dục trẻ em với quan niệm không chỉ viết cho trẻ em mà còn

viết cho những người từng là trẻ em cho nên giọng điệu của Nguyễn Nhật Ánh

còn là sự chiêm nghiệm, trải đời. Tuy nhiên ngay cả khi chiêm nghiệm thì Nguyễn

Nhật Ánh cũng không hề nặng về lí thuyết mà thường là những triết lí rất nhẹ

nhàng, thể hiện sự bao dung và nhẹ nhõm của một tâm hồn giàu lòng thương yêu.

Giọng điệu dí dỏm, hài hước là một trong những nét đặc trưng nhất trong

cách viết của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Khảo sát hầu hết các tác phẩm của ông

chúng tôi thấy phần lớn các giọng điệu nhà văn sử dụng là giọng vui vẻ, tinh

nghịch tạo nên tiếng cười hài hước ở mọi cung bậc. Tác giả Lã Thị Bắc Lý trong

công trình Truyện viết cho thiếu nhi sau 1975 đã khẳng định rằng: “Văn học thiếu

nhi rất cần tiếng cười thông minh, hóm hỉnh, phù hợp với tâm lí trẻ em, hồn nhiên

thích vui, và tiếng cười được vận dụng như một phương tiện giúp các em tiếp thu

các vấn đề nêu lên trong trang sách một cách vui vẻ, thoải mái không gò ép”. Đáp

ứng yêu cầu đó, truyện Nguyễn Nhật Ánh là những trang viết vui tươi của lứa tuổi

thiếu nhi, các em đã hồn nhiên bày tỏ tình cảm, thái độ của mình đối với cuộc

sống. Đôi khi sự chân thật trong tâm hồn các em chính là cách nhà văn khiến độc

giả bật cười và để lại ấn tượng sâu sắc nhất.

Trong tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh người đọc phải bật cười

trước hành động trẻ con của cu Thiều sợ ma chạy như ma đuổi, nhắm mắt mà chạy

bị vấp té nhiều lần đến “đồ cầm trên tay bị vỡ nát, về đến nhà nếu lòng trắng, lòng

94

đỏ không nhoe nhoét khắp người thì đầu, cổ cũng nồng nặc mùi nước mắm” [5,

tr. 41].

Hay chi các tiết miêu tả về nhân vật mới lớn, nhất là các chàng trai bị thất

bại trong tình trường. Đó là hình ảnh Khoa trong Bảy bước tới mùa hè “Để quên

đi nỗi buồn sâu thẳm để chôn cất cây tình ái chưa kịp ra hoa đã trụi hết lá chưa

kể thân cây còn bị mọt ăn dưới gốc cây, những con mối u sầu đã về làm tổ,… Ôi

tuổi mười lăm! Chỉ trong mấy ngày ngắn ngủi mà yêu thương đã kịp hóa thành

thù hận”.

Khi ngay cả hai kẻ khác giới có cảm tình với nhau thì mọi thứ xung quanh

đều trở nên thi vị ngay cả lúc chúng đang ở chuồng heo. Mừng và Đào trong tác

phẩm Bảy bước tới mùa hè đã rưng rưng cảm xúc đó “Vì nhỏ Đào là tiên nên

chuồng heo nhà thằng Bông trong mắt Mừng đã biến thành chốn bồng lai tiên

cảnh. Nó và nhỏ Đào hằng ngày trò chuyện giữa mùi phân heo thoang thoảng

nhưng với Mừng không có mùi hương nào trên đời thơm tho ngào ngạt hơn” [6,

tr.215].

Ở bất cứ chuyện gì, lúc nào Nguyễn Nhật Ánh cũng có những liên hệ rất

bất ngờ, những tưởng tượng lí thú “Nó tròn mắt nhìn tôi – Thế anh có mấy cái

hoa tay? Tôi thở dài – Tao chỉ có hai cái à. Giọng tôi thất vọng như thể tôi chỉ có

hai cái răng hoặc hai ngón chân” [5, tr.13]. Chính giọng điệu hài hước này đã

gây hứng thú, tạo tiếng cười cho người đọc. Giọng điệu này giúp chúng ta xa rời

những toan tính, vụ lợi để được trở về với tiếng cười trong trẻo, hồn nhiên của

tuổi thơ.

Bằng giọng điệu hài hước, hóm hỉnh và tinh nghịch, mỗi trang văn của

Nguyễn Nhật Ánh đều vang lên tiếng cười ở đủ mọi cung bậc. Tiếng cười đó trong

trẻo, tươi vui và thoải mái, do vậy ngay cả khi đề cập đến những vấn đề tưởng

như rất trang trọng, nghiêm túc và khô khan trong cuộc sống nhưng bạn đọc cũng

không có cảm giác đó là những lời giáo huấn nặng nề và khó tiếp thu.

95

Nhà văn đã lượm lặt các yếu tố, chi tiết gây cười với tiếng cười ở nhiều

cung bậc khi thì cười phá lên, khi thì cười thầm, khi thì cười mỉm. Trong tác phẩm

Cô gái đến từ hôm qua, Hải gầy xúi Thư viết thư tỏ tình cho Việt An như bài thi

trắc nghiệm “Việt An – Thư”. Chỉ có ba chữ thôi, phía dưới mày thêm mấy chữ

“yêu, không yêu” hoặc có thể “chưa yêu, sắp yêu” cho nó có vẻ phong phú, đa

dạng, rồi mày cho nó chọn chữ nào phù hợp với tâm trạng của nó điền vào chỗ

trống của câu trên hoặc viết hai câu “Việt An yêu Thư và Việt An không yêu Thư”

sau mỗi câu mày vẽ một ô vuông rồi bảo nó đánh dấu chéo vào ô vuông thích hợp

nhất.

96

Hài hước, dí dỏm – Nguyễn Nhật Ánh cho rằng đó là một phần do tính cách

của ông, một con người lúc nào cũng có thể làm trò cười hoặc “thọc lét” người

khác. Một lí do nữa là cũng do quan niệm của nhà văn về cuộc sống: “Cuộc đời

con người vốn lắm nỗi éo le, chẳng việc gì mình phải bi kịch hóa nó thêm lần nữa.

Nhìn mọi sự bằng con mắt hài hước, tôi cho rằng chúng ta sẽ thấy yêu đời hơn,

vượt qua những nghịch cảnh cũng dễ hơn”.

Đó cũng là nét cơ bản về văn phong Nguyễn Nhật Ánh – Nguyễn Nhật Ánh

viết nhanh, viết nhiều không chỉ là ở những con số mà còn là ở chất lượng. Ông

đã thực sự mang đến một không khí sôi động trong văn học thiếu nhi Việt Nam

đương đại, là một hiện tượng nổi bật nhất trong những năm gần đây.

3.4.3. Giọng điệu triết lí, chiêm nghiệm, đồng cảm

Nguyễn Nhật Ánh không chỉ dừng lại ở tiếng cười tinh nghịch, dí dỏm, mà

ông còn đem lại cho bạn đọc những khoảng lặng đáng quý toát ra từ giọng triết lí

– chiêm nghiệm đậm chất trẻ thơ. Trong truyện Nguyễn Nhật Ánh các nhân vật

còn ngây thơ, trong sáng chưa hề va vấp, trải đời nhưng họ vẫn có triết lí, chiêm

nghiệm rất riêng. Triết lí của trẻ con mang âm hưởng hồn nhiên trong trẻo và chân

thật. Triết lí của trẻ con trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh không được đúc kết

từ một quá trình trải nghiệm ở trong cuộc sống mà nó được bật ra một cách ngẫu

nhiên, tùy hứng trong những hoàn cảnh cụ thể trước những nhân vật cụ thể. Triết

lí trẻ con nó khác với triết lí của người lớn, ngây ngô, hóm hỉnh nhưng đôi khi

cũng làm người lớn phải suy ngẫm. Triết lí hồn nhiên của trẻ con nhằm cho thấy

sự mở rộng vốn sống của chúng trong sự chuyển biến từ trẻ con sang người lớn,

từ gia đình đến lớp học rồi đến xã hội. Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đã xử lí rất

khéo léo, không để phát ngôn triết lí trẻ con thành phát ngôn của người lớn. Những

triết lí ấy được sinh ra từ hiện thực qua lăng kính của trẻ thơ.

Nếu giọng hài hước, dí dỏm thể hiện qua cách dùng từ ngữ, cách diễn đạt

mang tính khẩu ngữ thì giọng điệu triết lí, chiêm nghiệm lại thường được thể hiện

97

qua những câu văn dài, mạch văn chậm rãi, sâu lắng với các từ ngữ, câu văn mang

tính chuẩn mực. Nguyễn Nhật Ánh đã cho nhân vật của mình phát ngôn những

triết lí về cuộc sống, về tình yêu, về tình bạn và về những mối quan hệ xã hội. Tất

cả những mối quan hệ xã hội, tất cả những triết lí ấy đều mang âm hưởng muốn

khẳng định vai trò của mình trong mắt người lớn.

Nhà văn Nguyễn Quang Lập có viết tính gây nghiện của văn chương

Nguyễn Nhật Ánh trước hết là triết lí sống. Tính triết lí này được nhà văn thể hiện

qua giọng điệu triết lí, chiêm nghiệm nhưng những triết lí nhân văn đưa ra không

khô cứng, giáo điều mà rất nhẹ nhàng, thấm thía vì nó được rút ra từ chính những

gì các em đang sống, đang trải nghiệm. Có khi nhân vật mới lớn lại trăn trở chiêm

nghiệm về một miền kí ức đi qua hay hình bóng yêu dấu trong đời “Kí ức là ngôi

nhà kho quý báu, nơi cất giữ những gì đã xảy ra trong cuộc đời mỗi con người.

Nói cách khác, kí ức cất giữ những kỷ niệm” [6].

“Ở đời có những sự kiện, những khuôn mặt thoảng qua đời ta như cơn gió

tình cờ, chẳng lưu lại điều gì trong kí ức, nhưng cũng có những biến cố khắc sâu

vào tâm hồn ta như dao chém vào đá mãi mãi để lại trong trí não ta một vết hằn

mà năm tháng chỉ đánh bóng nó lên chứ không thể làm nó phai đi” [6].

Đó còn là sự cảm thông, chia sẻ cùng nhân vật đang sống trong truyện với

giọng điệu thân mật, đồng cảm. Tác phẩm Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh vốn

được đánh giá là có khá nhiều điểm khác biệt so với những câu chuyện cho trẻ

thơ trước đây và điều đó hoàn toàn đúng. Đó là việc nhà văn đã đặt những biến

động lớn về cuộc đời vào nhân vật một cô bé gái yếu đuối là con Mận vốn hiền

lành, ngoan ngoãn lại đảm đang nhưng con Mận chịu nhiều hoàn cảnh éo le, chỉ

trong một ngày nhà em bị cháy, ba em nghi là đã chết. Còn mẹ em bị công an bắt

lên huyện khiến Mận bỗng chốc như con chim non bơ vơ. Đọc đến đây người đọc

không khỏi dấy lên sự thương cảm với Mận. Ngoài con Mận ra, truyện còn hai

nhân vật nữ cũng gặp cảnh đáng thương khác, đó là con bé Ba và cô bé Nhi. Bé

98

Ba mồ côi mẹ, sống với ba và bé không được đi học, lại phải đi cắt lúa thuê cùng

ba để kiếm sống, còn bé Nhi cũng vậy. Nhi thiệt thòi khi không còn có mẹ, sống

với ba và cũng gặp tai nạn khiến em mắc bệnh ngớ ngẩn, và luôn tự coi mình là

công chúa. Ở đây xuất hiện giọng điệu thân mật, đồng cảm và khơi gợi sự chia sẻ

đồng cảm của người đọc như một nét đẹp văn hóa của người Việt đó là “thương

người như thể thương thân”.

Mỗi cuốn sách của Nguyễn Nhật Ánh luôn mang đến cho bạn đọc một bài

học và giá trị triết lí mới. Đó là món quà tinh thần, cũng là bài học quý giá đối với

sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người nhất là thế giới trẻ thơ. Trong

câu chuyện Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh giọng điệu chiêm nghiệm, suy tư xuất

hiện như một tất yếu để đưa đến món quà tinh thần đó. Xuyên suốt câu chuyện đó

là tình người đầy ắp, là triết lí sống vì nhau. Câu chuyện bé Tường qua lời kể của

anh Thiều là nhân vật điển hình cho điều đó. Cậu bé Tường đã dành tình cảm yêu

thương cho tất cả mọi người, mọi vật, trước tiên là tình yêu dành cho anh trai vô

hạn dù hết lần này đến lần khác Thiều đã “đối xử với nó chẳng ra gì”. Tường yêu

mến chú Đàn – người vẫn luôn kể chuyện cho cậu bé nghe, Tường yêu thương

mẹ, rồi thương chị Mận, Tường thương và bảo vệ cho bé Nhi, lại yêu thương cả

các con vật, đặc biệt là con cóc mà cậu bé luôn coi như bạn. Cuối cùng thì tình

người luôn tỏa sáng, tình thương của cậu được đền đáp và chính điều đó đã giúp

hóa giải được tính ích kỉ trong người anh trai. Cái chết của cu Cậu đã làm cho

Thiều hoảng loạn, không phải vì cái chết của một con cóc mà nó là sự tước đoạt

niềm vui của kẻ khác. Khi bạn đã tước đi niềm vui của người khác thì một phần

trong trẻo trong tâm hồn bạn cũng sẽ chết theo. Vì thế nó sẽ ám ảnh bạn đến trọn

đời. Nào ai đó dám chắc trong đời không một lần vô tình hay hữu ý tước đi niềm

vui của người khác không? Câu hỏi day dứt đó khiến người đọc phải suy nghĩ

ngay cả khi gấp trang sách lại.

99

Giọng điệu chiêm nghiệm, suy tư đưa đến cách nhìn nhận về một cuộc sống

hướng thiện và giàu ước mơ hơn. Mặc dù trong truyện Tôi thấy hoa vàng trên cỏ

xanh lần đầu tiên nhà văn đã đặt ra vấn đề sự vô tâm và cái xấu, cái ác cùng những

khắc nghiệt của cuộc sống, nhưng điều đó đưa đến cách nhìn nhận lại bản thân

của mỗi người. Dù là cái xấu, cái ác đáng phê phán thì không nên làm theo, còn

nếu là điều tốt đẹp thì chúng ta nên học hỏi. Ngòi bút của Nguyễn Nhật Ánh dù

bằng cách nào đi chăng nữa vẫn luôn hướng người đọc đến với những tình cảm

tốt đẹp nhất đó là lòng vị tha, nhân hậu, bao dung… Thông điệp ở phần cuối

truyện Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh đã đưa đến cho người đọc cảm quan đó

“Bạn cũng biết rồi đó, lúc nào cũng nhìn tương lai bằng con mắt u ám thì làm sao

sống nổi”. Vậy nên để sống tốt, trước hết hãy nhìn tương lai bằng con mắt tươi

vui, yêu đời của tuổi thơ, dù cho khó khăn, vất vả cũng hãy luôn giữ lại những

hình ảnh đẹp nhất và hãy nuôi giữ trong tâm hồn mình một miền đất hoa vàng trên

cỏ xanh như một bức tranh tươi đẹp, giàu sức sống.

Nguyễn Nhật Ánh thường xuất phát từ những tình huống, những chi tiết,

những nhân vật cụ thể để rồi đã nâng lên thành những quy luật của cuộc sống.

Giọng triết lí của Nguyễn Nhật Ánh là giọng trải nghiệm, suy tư, khám phá với

những nét tươi tắn, mới mẻ của con mắt luôn nhìn lạc quan về cuộc đời. Qua đó,

tác giả gửi gắm những thông điệp, những suy ngẫm đến độc giả, muốn độc giả

hãy thay đổi cách nghĩ, cách nhìn để thấy yêu đời hơn, thấy cuộc sống có ý nghĩa

hơn.

Khi đọc tác phẩm Bảy bước tới mùa hè chúng ta thấy giọng điệu kể chuyện

của Nguyễn Nhật Ánh không lồng ghép những suy tư, những trải nghiệm của

người lớn như ở một số sáng tác trong những năm gần đây như Cho tôi xin một

vé đi tuổi thơ hay Ngồi khóc trên cây…thay vào đó, nhân vật thường xuất hiện ở

ngôi thứ ba, cái tôi tác giả gần như vắng bóng hoàn toàn trong suốt chiều dài cuốn

truyện. Sách phụ bản là bốn bài thơ của Nguyễn Nhật Ánh được trình bày trên

100

tranh của họa sĩ Hoàng Tường, mỗi bài thơ liên tưởng đến một tình tiết trong tác

phẩm. Câu chuyện về một mùa hè ngọt ngào, những trò nghịch ngợm và bâng

khuâng tình cảm tuổi mới lớn. Chỉ vậy thôi nhưng cũng đủ khiến đọc giả cuốn hút

từ trang đầu đến trang cuối. Câu chuyện về tuổi học trò đầy ắp những kỉ niệm thơ

bé ngọt ngào với tình thầy trò, bạn bè, tình xóm giềng, họ hàng qua cách nhìn đời

nhẹ nhàng, khoan dung.

Giọng điệu là một phần không thể thiếu của tác phẩm văn chương, trong

tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh ta bắt gặp nhiều sắc thái giọng điệu đan xen, hòa

lẫn vào nhau đã tạo nên sự bất ngờ, thú vị cho câu chuyện, thể hiện cách nhìn

nhận cuộc sống đa dạng, nhiều chiều của tác giả, của nhân vật. Giọng trẻ thơ hồn

nhiên, giọng hài hước tinh nghịch, đan xen với những triết lí suy tư sâu lắng khiến

câu chuyện luôn có sức hút mạnh mẽ với độc giả, hướng độc giả tới những giá trị

nhân văn của muôn đời.

101

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Ở chương ba, chúng tôi làm rõ một số nét đặc sắc trong nghệ thuật biểu

hiện của truyện Nguyễn Nhật Ánh.

Người kể chuyện trong truyện Nguyễn Nhật Ánh thường là người kể

chuyện xưng tôi và là nhân vật chính tham gia vào cốt truyện. Người kể chuyện

có thể là con người hoặc con vật, đôi khi cũng là nhân vật tôi nhưng có sự phân

thân tôi của hiện tại và tôi của quá khứ tạo nên cách kể riêng.

Nguyễn Nhật Ánh đã xây dựng cốt truyện độc đáo, tình huống truyện phong

phú, khi thì dung dị, khi thì đời thường, lúc lại kịch tính, căng thẳng, cùng với đó

là những trang văn thấm đẫm chất trữ tình, triết lí sâu sắc. Tác giả như hóa thân

vào thế giới trẻ thơ, nhìn vạn vật bằng thế giới trẻ thơ, thậm chí như sống cùng

các em để rồi kể chuyện về thiếu nhi cho chính thiếu nhi với giọng điệu dí dỏm,

hồn nhiên và kể cả khi triết lí thì triết lí của ông cũng không khô khan hay khiên

cưỡng mà nó rất tự nhiên và trong trẻo. Vì thế mà mỗi thiên truyện của ông đều

làm lạ hóa cái thế giới hàng ngày quen thuộc. Đó là những trải nghiệm của một

con người luôn bao dung nên thấm đẫm hơi thở cuộc sống, vừa chân thật mà cũng

rất nhẹ nhàng. Ngôn ngữ trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh mang màu sắc địa

phương và cũng thể hiện được tâm hồn trẻ thơ phù hợp với đối tượng của truyện.

Bằng giọng điệu tinh nghịch, hóm hỉnh và giọng triết lí chiêm nghiệm đậm

chất trẻ thơ, Nguyễn Nhật Ánh đã tạo ra một thế giới tràn đầy niềm tin, niềm lạc

quan, tiếng cười trong tác phẩm của mình. Sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh khám

phá thế giới trẻ thơ sinh động nhiều màu sắc. Những suy tư, chiêm nghiệm được

tác giả diễn đạt bằng giọng hài hước, hóm hỉnh khiến những bài học giáo dục

trong tác phẩm nhẹ nhàng mà sâu sắc. Đọc truyện Nguyễn Nhật Ánh ai cũng thấy

mình trong đó, chủ yếu nhờ vào sự hồn nhiên, tươi tắn ở ngon ngữ, giọng điệu

trần thuật. thông qua những trang văn dí dỏm với những tình tiết, tình huống bất

ngờ, thú vị. Nguyễn Nhật Ánh đã làm sống dậy một miền tuổi thơ đáng yêu, đáng

102

nhớ trong cuộc đời của mỗi con người. Truyện Nguyễn Nhật Ánh như một món

ăn tinh thần, một lời tâm tình, một tiếng nói tri ân không chỉ đối với các em mà

còn đối với chính những độc giả là người lớn.

103

KẾT LUẬN

Bất cứ nhà văn nào, trước khi cầm bút viết đều mong muốn tạo được dấu

ấn riêng của riêng mình trên văn đàn. Chính vì thế, khi nghiên cứu về đặc điểm

tác phẩm của một nhà văn cụ thể, nhiệm vụ của mỗi nhà nghiên cứu là tìm ra được

nét độc đáo riêng biệt của từng nhà văn trong việc chiếm lĩnh đề tài và cốt truyện,

cách xây dựng nhân vật trung tâm, giọng điệu và ngôn ngữ thể hiện. Có thể nói,

con đường văn chương và những cống hiến của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đã

khẳng định sức sáng tạo bền bỉ, thầm lặng, đầy nhiệt huyết và đã để tạo ra dấu ấn

riêng đó, Nguyễn Nhật Ánh đã sáng tạo nên những câu chuyện tuổi thơ thật trong

sáng, hồn nhiên và tràn đầy tình cảm bằng giọng kể ngọt ngào của mình. Đó là

giọng kể chuyện xuất phát từ trái tim. Ông đã dùng ngôn ngữ mộc mạc, giản dị

nhưng cũng thấm đẫm chất thơ để dâng hiến cho đời những trang văn dạt dào cảm

xúc và giàu tính triết lí. Thực sự, tác giả đã tự tạo cho mình một giọng điệu riêng

để kể về Thiều, về Nhi - cô công chúa tóc dài, về Thư và Tiểu Li…, cũng như

trong các hình tượng nhân vật thiếu nhi khác, đều mang dáng dấp của một “hoàng

tử bé Nguyễn Nhật Ánh”.

Độc giả đã quen thuộc với thế giới văn chương của Nguyễn Nhật Ánh sẽ

không thể nhầm lẫn phong cách sáng tác của ông với những cây bút cùng viết

cùng viết về đề tài thiếu nhi khác như nhà văn Tô Hoài, Phạm Hổ hay Nguyễn

Ngọc Thuần,… bởi ngoài giọng điệu “trẻ thơ” riêng biệt, Nguyễn Nhật Ánh đã

tạo dựng cho mình nhiều đặc trưng khác trong việc xây dựng cốt truyện độc đáo

và sáng tạo hình tượng nhân vật. Tính cách và đặc trưng của mỗi nhân vật cũng

từ đó được hình thành và phát triển rõ nét hơn. Ông đã tạo nên một thế giới trẻ

thơ với những điều bất ngờ, thú vị. Trong thế giới đó có nhọc nhằn, có gian khó,

có mất mát đau thương nhưng vượt lên tất cả là tình yêu thương, nhân hậu và lòng

bao dung. Đó chính là tình bạn, tình cảm gia đình, những rung cảm thầm kín của

tuổi mới lớn, những tình cảm vốn giản dị và tự nhiên nhưng không thể thiếu trong

104

cuộc đời mỗi con người. Thế giới ấy luôn rất gần gũi với chúng ta đặc biệt là lứa

tuổi học trò. Nguyễn Nhật Ánh đã dựng lên cả một xã hội thu nhỏ với đầy đủ các

nhân vật, từ bậc ông, bà, cha, mẹ, anh, chị đến các em với đa dạng về hoàn cảnh

và tính cách. Các nhân vật tuổi học trò được Nguyễn Nhật Ánh khắc họa luôn

mang đậm chất hồn nhiên trong sáng. Tuy các nhân vật có hoàn cảnh sống khác

nhau nhưng ẩn sâu trong các em là một niềm tin vào cuộc sống rất mãnh liệt, các

em có những khát vọng, những ước mơ, lý tưởng sống rất đáng được trân trọng.

Các sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh đã góp phần không nhỏ vào sự phát

triển của văn học thiếu nhi giai đoạn sau đổi mới. Đưa những tác phẩm văn học

thiếu nhi về với đời thường, hướng tới những điều bình dị nhất, Nguyễn Nhật Ánh

đã tạo nên những chuyến tàu không người soát vé để mỗi chúng ta tìm về tuổi thơ

của mình. Thế giới chân thực, sinh động, giàu sức sống luôn lạc quan và tràn đầy

niềm tin chính là một khoảng không gian tươi sáng mà Nguyễn Nhật Ánh mang

lại cho người đọc. Bởi thế cho nên nhà văn Nguyễn Nhật Ánh không chỉ là tác giả

dành cho trẻ em hay tuổi mới lớn, sách của ông đến với hàng triệu độc giả khiến

mọi người say mê. Có hẳn một thế hệ người đọc của Nguyễn Nhật Ánh, họ lớn

lên, lập gia đình và con cái của họ tiếp tục yêu thích những trang viết của ông.

Có thể nói, Nguyễn Nhật Ánh đã có sự tìm tòi mới mẻ, độc đáo, đầy sáng

tạo trên từng trang viết của mình. Cùng với niềm đam mê nghệ thuật, sức sáng tạo

dẻo dai, thái độ lao động nghệ thuật đầy nghiêm túc, Nguyễn Nhật Ánh xứng đáng

là một trong những nhà văn xuất sắc chuyên viết cho thiếu nhi và tuổi mới lớn

trên văn đàn Văn học Việt Nam.

105

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Aristote, Lưu Hiệp (1999), Nghệ thuật thơ ca văn tân điêu long, NXB

Văn học Hà Nội.

2. Thái Phan Vàng Anh (2013), “Nguyễn Nhật Ánh người kể chuyện của

thiếu nhi”, Tạp chí non nước số 187

3. Thụy Anh (2015), “Nguyễn Nhật Ánh một thái độ sống và viết”, Tạp

chí văn nghệ quân đội số 12

4. Nguyễn Nhật Ánh (2016), Cô gái đến từ hôm qua, NXB trẻ TP HCM

5. Nguyễn Nhật Ánh (2016), Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, NXB trẻ

TP HCM

6. Nguyễn Nhật Ánh (2015), Bảy bước tới mùa hè, NXB trẻ TP HCM

7. Nguyễn Nhật Ánh (2015), Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, NXB trẻ TP

HCM

8. Nguyễn Nhật Ánh (2016), Đảo mộng mơ, NXB trẻ TP HCM

9. Nguyễn Nhật Ánh (2010), Trại hoa vàng, NXB trẻ TP HCM

10. Nguyễn Nhật Ánh (2015), Ngôi trường mọi khi, NXB trẻ TP HCM

11. Nguyễn Nhật Ánh (2015), Nữ sinh, NXB trẻ TP HCM

12. Nguyễn Nhật Ánh (2015), Phòng trọ ba người, NXB trẻ TP HCM

13. Nguyễn Nhật Ánh (2015), Kính vạn hoa, NXB trẻ TP HCM

14. Nguyễn Nhật Ánh (2015), Mắt biếc, NXB trẻ TP HCM

15. Nguyễn Nhật Ánh (2015), Bồ câu không đưa thư, NXB trẻ TP HCM

16. Nguyễn Nhật Ánh (2015), Lá nằm trong lá, NXB trẻ TP HCM

106

17. Nguyễn Nhật Ánh (2015), Ngồi khóc trên cây, NXB trẻ TP HCM

18. Nguyễn Nhật Ánh (2015), Thiên thần nhỏ của tôi, NXB trẻ TP HCM

19. Nguyễn Nhật Ánh (2015), Đi qua mùa hoa cúc, NXB trẻ TP HCM

20. Nguyễn Nhật Ánh (2014), Hoa hồng xứ khác, NXB trẻ TP HCM

21. Nguyễn Nhật Ánh (2015), Còn chút gì để nhớ, NXB trẻ TP HCM

22. Nguyễn Nhật Ánh (2015), Bàn có năm chỗ ngồi, NXB trẻ TP HCM

23. Nguyễn Nhật Ánh (2015), Chúc một ngày tốt lành, NXB trẻ TP HCM

24. Nguyễn Nhật Ánh (2015), Có hai con mèo ngồi bên cửa sổ, NXB trẻ

TP HCM

25. Nguyễn Nhật Ánh (2016), Con chó nhỏ mang giỏ hoa hồng, NXB trẻ

TP HCM

26. Nguyễn Nhật Ánh (2015), Sương khói quê nhà, NXB trẻ TP HCM

27. Nguyễn Nhật Ánh (2015), Truyện cổ tích dành cho người lớn, NXB

trẻ TP HCM.

28. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Đại học Quốc gia Hà

Nội.

29. Đoàn Giỏi (1998), Đất rừng Phương Nam, NXB Kim Đồng Hà Nội.

30. Lê Huy Bắc (1998), Giọng và giọng điệu trong Văn học hiện đại, Tạp

chí văn học số 9.

31. Lê Huy Bắc (2004), Truyện ngắn, lí luận tác giả và tác phẩm tập 1,

Giáo dục Hà Nội.

107

32. Lê Huy Bắc (2008), Cốt truyện trong văn tự sự, Tạp chí nghiên cứu

VH số 7/2008.

33. Phạm Thị Bền (2005), Thế giới trẻ thơ qua cách nhìn của Nguyễn

Nhật Ánh trong bộ truyện Kính vạn hoa, Luận văn thạc sĩ khoa ngữ văn, ĐHSP

Hà Nội.

34. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2005), Văn học Việt Nam Thế Kỉ XX- Những

vấn đề lịch sử và lí luận, NXB giáo dục Hà Nội.

35. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, NXB Văn

học.

36. Hà Minh Đức (1999), Lý luận văn học, NXB giáo dục

37. Hà Minh Đức (2012), “Những thành tựu của Văn học Việt Nam thời

kì đổi mới”, Tạp chí văn học số 7.

38. Việt Hà (2006), Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh – Giữ mãi một tâm hồn trẻ

thơ, trò chuyện với 100 nhà văn Việt Nam, NXB VH Sài Gòn.

39. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (2005), Từ điển

thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

40. Nguyễn Thị Thúy Hằng (2012), Thế giới trẻ thơ trong truyện Nguyễn

Nhật Ánh, chuyên ngành văn học Việt Nam, Luận văn thạc sĩ khoa học, Trường

Đại học Quy Nhơn, Bình Định.

41. Tô Hoài (1993), “Văn học thiếu nhi hôm nay”, Tạp chí văn học số 5.

42. Phạm Hổ (1993), “Làm sao để viết cho các em hay hơn” Tạp chí văn

học số 5.

43. Cao Hồng (2012), Lí luận văn học Việt Nam 25 năm đổi mới (1986 –

2011), NXB hội nhà văn.

108

44. Vũ Thị Hương (2009), Thế giới nghệ thuật trong truyện Nguyễn Nhật

Ánh, chuyên ngành văn học Việt Nam hiện đại, Luận văn thạc sĩ khoa hoc,

Trường ĐHSP Hà Nội.

45. Trần Hoàng Thiên Kim (2016), “Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh - Viết

bằng trong những hồi ức tuổi thơ”, Báo công an nhân dân số 9.

46. Nguyễn Lai (1996), Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học,

NXB GD.

47. Nguyễn Quang Lập (2010), “Tính gây nghiện của văn chương Nguyễn

Nhật Ánh”, Báo tuổi trẻ ngày 8/12/2010.

48. Khánh Linh (2011), “Trong tôi luôn sống mãi tuổi 15”, nguồn

http://danviet.vn/... Ngày 8/10/2011.

49. Lã Thị Bắc Lý (2014), Giáo trình văn học trẻ em, Nhà xuất bản Đại học

sư phạm.

50. Lã Thị Bắc Lý (2016), Văn học thiếu nhi Việt Nam thời hội nhập, Nhà

xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội.

51. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (đồng chủ biên) (2006), Văn học

Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, NXB Giáo dục, Hà

Nội.

52. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc

Hòa, Thành Thế Thái Bình (2003), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

53. Nhiều tác giả, Kỷ yếu hội thảo những ảnh hưởng văn học thiếu nhi

đến sự phát triển nhân cách trẻ em trong thời kì đổi mới và hội nhập quốc tế,

NXB ĐHSP Hà Nội.

54. Nhiều tác giả (2014), Nguyễn Nhật Ánh và tôi, NXB trẻTP HCM

109

55. Nhiều tác giả (2015), Nguyễn Nhật Ánh – Hiệp sĩ tuổi thơ, NXB

ĐHQG Hà Nội.

56. Nhiều tác giả (2017), Nguyễn Nhật Ánh trong mắt đồng nghiệp, NXB

trẻ

57. Nguyễn Thị Hải Phương (2017), “Nguyễn Nhật Ánh trong mắt đồng

nghiệp”, Nhà xuất bản trẻ.

58. Võ Quảng (1973), Quê nội, Nhà xuất bản Kim Đồng, Hà nội

59. Đỗ Trung Quân (2005), Văn chương như một thái độ- Hành trình vươn

tới những vì sao, Nhà xuất bản trẻ.

60. Lê Minh Quốc (2009), “Thử giải mã hiện tượng Nguyễn Nhật Ánh”,

Báo thanh niên số 8.

61. Lê Minh Quốc (2012), Nguyễn Nhật Ánh hoàng tử bé trong thế giới

tuổi thơ, Nhà xuất bản Kim Đồng, Hà nội

62. Nguyễn Thái Sơn (2017) Đặc sắc truyện dài của Nguyễn Nhật Ánh (qua

Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ và Con chó nhỏ

mang giỏ hoa hồng), Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội,Viện hàn lâm

Khoa học xã hội Việt Nam

63. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề về thi pháp văn học trung đại Việt

Nam, NXB Giáo dục.

64. Vân Thanh (1998), “Nguyễn Nhật Ánh nhà văn thân quý của tuổi thơ”,

Tạp chí văn học số 6.

65. Vân Thanh, Nguyên An (Biên soạn) (2002), Bách khoa thư văn học

thiếu nhi Việt Nam, Tập 1, Tổng quan, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

110

66. Bùi Việt Thắng (2000), Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại,

NXB ĐHQG Hà Nội.

67. Bùi Thị Thu Thủy (2011), Đặc điểm truyện Nguyễn Nhật Ánh, luận văn

thạc sĩ văn học, chuyên ngành lí luận văn học, trường ĐHKH xã hội và nhân văn

ĐHQG Hà Nội.

68. Trần Thị Thúy (2015), Nhân vật và cốt truyện trong truyện ngắn thiếu

nhi của Nguyễn Nhật Ánh, chuyên ngành lí luận văn học, Luận văn thạc sĩ ngôn

ngữ văn học Việt Nam.

69. Vũ Ân Thy (1997), “Nguyễn Nhật Ánh, người bạn thân mến của độc

giả trẻ”, Báo Sài Gòn giải phóng số 6/1997

70. Vũ Ân Thy (2006). Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh: Tôi viết như cậu học

trò (Nguồn:http://vietbao.vn/van-hoa/nha-van-Nguyen-Nhat-Anh-Toi-viet-nhu-

cau-hoc-tro/4519681), ngày 25.05.2006

71. Nguyễn Thị Đài Trang (2013), Nhân vật trẻ em trong truyện Nguyễn

Nhật Ánh, Luận văn thạc sĩ văn học chuyên ngành ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam,

Trường ĐHSP Hà Nội 2.

72. Lê Phong Tuyết (2008), “Người kể chuyện trong văn xuôi”, Tạp chí

văn học nước ngoài, số 5.

73. Nguyễn Thị Thanh Xuân (1996), “Đọc văn xuôi Nguyễn Nhật Ánh”,

Báo văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh số 273.

74. Anh Vân (2006), Nguyễn Nhật Ánh: Nhà văn trụ đỡ tinh thần cho các em, VN. Express.

75. Bùi Thị Hải Vân (2011), Người kể chuyện trong văn học mới 2000-2010,

Luận văn thạc sĩ, Trường ĐHSP Hà Nội.