ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM DƯƠNG THỊ THÚY HẰNG VẤN ĐỀ NỮ QUYỀNTRONG SÁNG TÁC CỦA MỘT SỐ NHÀ VĂN DÂN TỘC THIỂU SỐ (KHU VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM) LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2020

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM DƯƠNG THỊ THÚY HẰNG VẤN ĐỀ NỮ QUYỀNTRONG SÁNG TÁC CỦA MỘT SỐ NHÀ VĂNDÂN TỘC THIỂU SỐ (KHU VỰCMIỀN NÚI PHÍA BẮCVIỆT NAM) Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: TS. CAO THỊ THU HOÀI THÁI NGUYÊN - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Hoàn toàn

không sao chép của bất kì ai.Nội dung của luận văn có sử dụng tài liệu, thông tin

được đăng tải trên các tác phẩm, tạp chí, các website theo danh mục tài liệu tham

khảo.

Nếu sai tôi xin chịu trách nhiệm!

Thái Nguyên, tháng 9 năm 2020

Tác giả luận văn

Dương Thị Thúy Hằng

i

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn, em đã nhận được sự

giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo, gia đình và bạn bè. Với lòng biết

ơn sâu sắc em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới:

TS. Cao Thị Thu Hoài, người thầy đã hướng dẫn em thực hiện luận văn

trên. Sựchỉ bảo tận tình, chu đáo vànhiều ý kiến quý báu của cô đã giúp đỡ em

rất nhiều trong suốt thời gian thực hiện luận văn.

Ban giám hiệu, phòng Đào tạo sau Đại học, Khoa Ngữ Văn cùng toàn thể

các thầy cô đã giảng dạy chuyên ngành Văn học Việt Nam trường ĐHSP Thái

Nguyên đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em hoàn thành khóa học.

Xin cảm ơn sự động viên, khích lệ của người thân, bạn bè, đồng nghiệp.

Dù rất cố gắng nhưng luận văn vẫn không tránh khỏi những thiếu sót, rất

mong nhận được ý kiến đóng góp để luận văn thêm hoàn thiện hơn.

Xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, tháng 9 năm 2020

Tác giả luận văn

Dương Thị Thúy Hằng

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii

MỤC LỤC .......................................................................................................... iii

DANH MỤC VIẾT TẮT ..................................................................................... v

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 6

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 6

5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 7

6. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 8

7. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 8

Chương 1:KHÁI QUÁT VỀ VĂN XUÔI DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN

NÚIPHÍA BẮC VÀ GIỚI THUYẾT VỀ NỮ QUYỀN TRONG VĂN

HỌC .................................................................................................................... 9

1.1. Khái quát về văn xuôi dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc .......................... 9

1.1.1. Lịch sử hình thành, phát triển .................................................................... 9

1.1.2. Đặc điểm nội dung, nghệ thuật ................................................................ 14

1.2. Giới thuyết về nữ quyền trong văn học ...................................................... 20

1.2.1. Khái niệm nữ quyền ................................................................................ 20

1.3. Mạch nguồn cảm hứng về nữ quyền trong văn xuôi dân tộc thiểu số

miền núi phía Bắc .............................................................................................. 28

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .................................................................................... 31

Chương 2:VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN TRONG SÁNG TÁC CỦA MỘT SỐ

NHÀ VĂN DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮCNHÌN TỪ

GÓC ĐỘ NỘI DUNG ...................................................................................... 32

2.1. Nữ quyền trong cuộc chiến chống lại những hủ tục lạc hậu ...................... 33

iii

2.2. Nữ quyền trong khát khao hạnh phúc đời thường ...................................... 43

2.3. Nữ quyền trong bản năng tính dục ............................................................. 50

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 .................................................................................... 59

Chương 3:VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN TRONG SÁNG TÁC CỦA MỘT SỐ

NHÀ VĂN DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮCNHÌN TỪ

GÓC ĐỘ NGHỆ THUẬT ............................................................................... 60

3.1. Nghệ thuật xây dụng nhân vật nữ ............................................................... 60

3.1.1. Xây dựng nhân vật qua ngoại hình và hành động ................................... 60

3.1.2. Xây dựng nhân vật qua đời sống nội tâm ................................................ 65

3.2. Sử dụng ngôn ngữ giàu tính nữ .................................................................. 68

3.2.1. Ngôn ngữ giản dị, thông tục .................................................................... 69

3.2.2. Ngôn ngữ thẳng thắn, quyết liệt .............................................................. 71

3.2.3. Vận dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ và lối ví von, so sánh ..................... 73

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 .................................................................................... 78

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 79

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 81

PHỤ LỤC ......................................................................................................... 85

iv

DANH MỤC VIẾT TẮT

DTTS : Dân tộc thiểu số

TK : Thế kỉ

v

MỞ ĐẦU

1.Lí do chọn đề tài

1.1.Làmột bộ phận quan trọng trong nền văn học Việt Nam, văn học dân

tộc thiểu số (DTTS) đã đi vào đời sống cộng đồng và mang những giá trị nhân

văn cao cả. Trong bộ phận văn học này, thể loại văn xuôi chiếm một vị thế đặc

biệt,làm nên những nét đặc sắc tiêu biểu và riêng biệt.Như GS. Phong Lê đã từng

nhận xét:“Văn xuôi miền núi chiếm lĩnh được một vẻ đẹp riêng không thay thế

được, không ai bắt chước được”. Trải qua một quá trình tự mình vận động và

vươn ra hòa cùng đại dương văn học Việt, đến nay, văn xuôi dân tộc thiểu số đã

đạt được rất nhiều thành tựu lớn và có chỗ đứng trên khắp các vùng miền của cả

nước. Trong đó, tập trung chủ yếu ở ba khu vực: miền núi phía Bắc, Tây Nguyên

và Tây Nam Bộ.

1.2.Khu vực miền núi phía Bắc là một địa bàn rộng lớn và là nơi sinh sống

của nhiều đồng bào dân tộc thiểu số như Tày, Nùng, Dao, Mường, H’Mông… Mỗi

dân tộc lại ghi dấu một nét văn hóa riêng tạo nên bức tranh miền núi phong phú,

đa dạng, giàu bản sắc dân tộc. Văn xuôi khu vực này cũng tiêu biểu và khởi sắc

hơn cả về số lượng tác phẩm cũng như đội ngũ các tác giả như: Nông Minh Châu,

Vi Hồng, Triều Ân, Bùi Thị Như Lan, Nông Viết Toại, Vi Thị Kim Bình, Cao

Duy Sơn, Ma Trường Nguyên, Hữu Tiến, Mã A Lềnh, Vương Trung… Các nhà

văn khi viết về miền núi đều có những tìm tòi, khám phá hết sức mới mẻ mà vẫn

đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Đặc biệt, các nhà văn này đều có một điểm nhìn

chung trong cách xây dựng hình tượng người phụ nữ miền núi trong đời sống

đương đại, có cả sự xót xa, thương cảm và ngợi ca. Dường như với các nhà văn,

được viết, được tả, được thể hiện niềm ưu ái dành cho những người phụ nữ vùng

cao là một niềm “vinh dự” và “tự hào”, bởi qua những trang văn chất chứa bao

tình cảm ấy là cả niềm tin và hi vọng vào một tương lai tươi sáng hơn cho những

thân phận còn đong đầy bất hạnh nơi các bản làng xa xôi.Vượt hơn cả hi vọng và

mong ước, các nhà văn dân tộc miền núi còn hướng đến một vấn đề cao cả, mãnh

1

liệt và cũng vô cùng chính đáng: vấn đề nữ quyền cho người phụ nữ vùng cao.

1.3.Vấn đề nữ quyền đang là xu hướng của thời đại hiện nay, nhận được sự

quan tâm của toàn xã hội. Từ xa xưa, ý thức nữ quyền đã có ở Việt Nam trong cội

nguồn nền văn hóa nông nghiệp lúa nước, được thể hiện qua tín ngưỡng thờ Mẫu,

việc tôn thờ nữ thần, thờ mẫu thần, thờ mẫu tam phủ, tứ phủ với quyền năng sinh

sôi và che trở cho con người xuất hiện khá phổ biến và có nguồn gốc lịch sử lâu

đời. Trong thời kì phong kiến, chịu ảnh hưởng nặng nề của Nho giáo với quan

điểm “trọng nam - khinh nữ”, hay là “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, có thể

thấy, người đàn ông được coi trọng, được nắm quyền hành trong xã hội còn người

phụ nữ chỉ là cái bóng mờ nhạt, không được coi trọng. Người phụ nữbị bủa vây

bởi tập tục lạc hậu, họ chỉ biết sống cam chịu và phục tùng, số phận chịu nhiều

đắng cay và ngang trái. Bởi vậy, dấu hỏi lớn ở đây là làm sao để người phụ nữ có

được quyền bình đẳng trong cuộc sống?

Khi xã hội bước vào thời kì đổi mới, đời sống kinh tế xã hội và tư tưởng

có nhiều thay đổi, chủ nghĩa nữ quyền lúc này giải thích nguyên nhân tại sao phụ

nữ bị áp bức trong xã hội và làm thế nào để nâng cao địa vị của phụ nữ. Vì thế

tiếng nói đòi quyền bình đẳng và quyền sống của người phụ nữ được chú trọng

hơn. Trong văn học, hình tượng người phụ nữ luôn là nguồn cảm hứng bất tận,

vừa quen thuộc, vừa mới mẻ của những văn nghệ sĩ và là hình tượng nghệ thuật

tiêu biểu cho văn học dân tộc. Cuộc đấu tranh vì bình đẳng giới đã diễn ra đồng

loạt trên mọi phương diện của đời sống xã hội, trong đó có văn học nghệ thuật.

Lúc này, vấn đề về nữ quyền được nhắc đến nhiều trong đời sống văn học nước

ta, chi phối diện mạo văn xuôi Việt Nam trong đó có văn xuôi dân tộc thiểu số.

1.4. Qua những sáng tác văn xuôi, các nhà văn dân tộc thiểu số thấu hiểu

được số phận của người phụ nữ miền núi còn chịu nhiều thiệt thòi, áp bức nên

bằng các phương thức khác nhau, họ đã đưa vào tác phẩm của mình hình ảnh

người phụ nữ và cuộc sống của họ trên muôn nẻo cuộc sống với sự đồng cảm, yêu

thương, trân trọng. Âm hưởng về nữ quyền tuy còn mơ hồ nhưng tiếng vọng

của nó đã vang lên thể hiện ở việc người phụ nữ dân tộc thiểu số dám đứng lên

2

chống lại những phong tục, tập quán đã lỗi thời, lạc hậu, mang màu sắc mê tín,

những thói hư, tật xấu làm xã hội trì trệ, trở thành vật cản, là gánh nặng đối với

các cộng đồng người dân tộc thiểu số. Dù luôn phải đối mặt với những khó khăn,

thử thách trong cuộc sống nhưng thẳm sâu trong tâm hồn, họ luôn khát khao về

cuộc sống hạnh phúc - đời thường giản dị, tươi đẹp.Đọc những sáng tác của Vi

Hồng, Bùi Thị Như Lan và Cao Duy Sơn… Ta có thể thấy các tác giả đều chú ý

khắc họa thành công hình tượng nhân vật nữ dân tộc thiểu số, dành cho họ nhiều

trangviết tâm huyết trong sáng tác của mình với những phát hiện về những khát

vọng cao đẹp của người phụ nữmang âm hưởng nữ quyền rất đậm nét. Từ đó, có

thể khẳng định, các nhà văn dân tộc thiểu số đã góp tiếng nói của mình để tôn vinh

những người phụ nữ, những người mà ở bất cứ thời đại nào,quốc gia dân tộc nào

cũng giữ vai trò trọng yếu trong việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa

truyền thống của mỗi dân tộc.

1.5.Vấn đề nữ quyền là đề tài có ý nghĩa sâu sắc, có sức lôi cuốn đặc biệt

và cũng rất thiết thực với bản thân vì sự yêu thích và muốn khám phá về người

phụ nữ dân tộc thiểu số. Chính vì những lí do trên đã thôi thúc tôi chọn “Vấn đề

nữ quyền trong sáng tác của một số nhà văn dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc”

làm đề tài nghiên cứu. Hi vọng đề tài thành công sẽ là một tài liệu tham khảo hữu

ích cho những người muốn tìm hiểu về văn xuôi miền núi nói chung và vấn đề

nữ quyền trong văn xuôi dân tộc thiểu số nói riêng.

2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề

ỞViệt Nam, vấn đề nữ quyền được manh nha trong lý luận phê bình văn

học đầu TK XX, nhưng phải từ năm 1986 trở đi, âm hưởng nữ quyền trong văn

học mới thực sựđược chú ý. Vấn đề nữ quyền đã được một số nhà nghiên cứu đề

cập đến như: Trong bài báo Về tinh thần nữ quyền trong tiểu thuyết, truyện ngắn

Việt Nam sau 1986, Nguyễn Mạnh Hà cho rằng: “Tinh thần nữ quyền (…) biểu

hiện nổi bật ở những điểm sau: đả phá trật tự nam quyền, tìm lại chính mình,

khẳng định những ưu việt”. Châm Khanh chủ yếu lý giải sự xuất hiện mạnh mẽ,

3

đông đảo của các tác giả nữ từ sau năm 1975 và tìm những cơ sở đểxác địnhlối

viết văn đặc trưng của phụ nữ trong tiểu luận Phụ nữ và vănchương.Trên

trang báo vnca.cand.com.vn, bài viết Phụ nữ - nguồn cảm hứng sáng tác của văn

xuôi Việt Nam thời kì đổi mới của Đào Đồng Điện, người viết đặt người phụ

nữ ở vị trí đối tượng sáng tạo để khám phá diện mạo của hình tượng nhân vật nữ.

Phụ nữ là một nội dung nổi bật của văn xuôi Việt Nam thời kỳ đổimới.Nguyễn

Thị Thanh Xuân với tham luận “Xét lại thế giới đàn ông bằng cái nhìn đàn bà”,

tham dự tọa đàm khoa học “Văn xuôi nữ trong bối cảnh văn học Việt Nam đương

đại”, đã khái quát những nét cơ bản về âm hưởng nữ quyền trong văn học từ năm

1986 trởđi.

Năm 1990, bài viết: Nhìn lại vấn đề giải phóng phụ nữ trong tiểu thuyết

Tự lực văn đoàn (Tạp chí văn học, số 5), nhà nghiên cứu Trường Chính đã thể

hiện những kiến giải của mình về ý thức nữ quyền trong tiểu thuyết Tự lực văn

đoàn. Từ giữa năm 1999, nhiều chuyên đề liên quan đến phái tính trong văn học

có sức lan tỏa rất nhanh trên văn đàn, nhất là ở ngoài nước. Do có sự tiếp xúc với

chủ thuyết nữ quyền, dòng văn học hải ngoại có bước đột phá rất ngoạn mục

trong việc nghiên cứu về phái tính. Những chuyên đề như Tình yêu, tình dục và

phái tính trong văn học, Tình yêu tình dục của Tạp chí Việt, chuyên đề Văn học

nữ quyền, chuyên đề Giới tính trên trang DaMau.org… liên tiếp mở ra nhiều

khám phá.Năm 2006, trong bài viết tham dự hội thảo quốc tế về văn học tại Viện

văn học có nhan đềVấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt

Nam đương đại, nhà nhiên cứu Nguyễn Đăng Điệp đã giới thiệu khái quát về vấn

đề phái tính trong văn học ở từng giai đoạn và đưa ra nhìn nhận ban đầu về vấn

đề tính nữ trong văn học Việt Nam. Năm 2013, Đặng Thị Vân Chi trong bài viết:

Vấn đề nữ quyền ở Việt Nam đầu TK XXtham dự Hội thảo Quốc tế Việt Nam học

lần thứ nhấtcó nhận xét: “Sự tự nhận thức của phụ nữ đối với vấn đề nữ quyền

cũng như sự phát triển của quá trình nhận thức tư tưởng này trong xã hội Việt

Nam đã từng bước mang lại sự thay đổi thực sự cho phụ nữ cũng như sự phát

4

triển của phong trào phụ nữ, thúc đẩy phụ nữ tham gia vào các hoạt động xã

hội, vào phong trào đòi quyền bình đẳng nam nữvà giải phóng phụ nữ, giải

phóng dân tộc và góp phần vào thành công của cách mạng dân tộc dân chủ nhân

dân ở Việt Nam”. Với bài viết này đã cho thấy sự phát triển nhận thức về vấn đề

nữ quyền ở Việt Nam đầu thế kỷ XX. Năm 2017, Lê Thị Thanh Xuân trong bài

viết: Xu hướng nữ quyền trong sáng tác của các nhà văn nữ dân tộc thiểu số

(Tạp chí khoa học - ĐH Huế) đã gửi tới thông điệp về hình ảnh người phụ nữ

luôn là đề tài hấp dẫn đối với các nhà văn để đi sâu khai thác vấn đề nữ quyền.

Ngoài ra còn một số nghiên cứu về vấn đề nữ quyền như: Hồ Khánh Vân trong

Từ lý thuyết phê bình nữ quyền nghiên cứu một số tác phẩm văn xuôi của các tác

giả nữ Việt Nam từ năm 1990 đến nayvà Ý thức nữ quyền và sự phát triển bước

đầu của văn học nữ Nam Bộ trong tiến trình hiện đạihóa văn học dântộc đầu thế

kỉ XX;Nguyễn Thị Thanh Xuân trong Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền

trong văn học Việt Nam đương đại (qua sáng tác của một số nhà văn nữ tiêu

biểu) cho thấy sự quan tâm đến giới nữ từ nữ quyền luận đan xen với lý thuyết

về giới, đôi chỗ còn trộn lẫn với thi pháp học, phong cách học. Trần Nho Thìn

trong Từ thực tiễn Việt Nam, góp thêm một tiếng nói phương pháp luận vào cuộc

thảo luận quốc tế về vấn đề Nho giáo và nữ quyền, tiếp cận vấn đề từ góc độ văn

hóa học, nữ quyền luận xen với phê phán tư tưởng hệ.

Qua tìm hiểu bước đầu, các nhà văn dân tộc thiểu số luôn muốn hướng tới

sự công bằng, bình đẳng cho nữ giới, xóa bỏ định kiến vô thức hay những khuôn

phép giáo điều xưa cũ áp đặt cho người phụ nữ trong các sáng tác văn xuôi dân

tộc miền núi. Đã có một số công trình mang tính tập hợp, tuyển chọn và giới

thiệu về văn học dân tộc thiểu số trong đó có đưa vào hình ảnh người phụ nữ dân

tộc như: Tuyển tập văn học các dân tộc thiểu số (Nxb văn hóa, 1995); Tuyển tập

văn học và miền núi (Nxb Giáo dục, 2007); Hợp tuyển thơ văn các dân tộc thiểu

số Việt Nam 1945-1985 (Nxb Văn hóa, 1981)… Ngoài ra còn một số công trình

nghiên cứu, đánh giá về văn học dân tộc thiểu số trong đó có hình tượng người

5

phụ nữ dân tộc như: Một vườn hoa nhiều hương sắc (Nxb Văn hóa, 1997); 40

năm văn hóa nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (1945-1985) (Nxb Văn

hóa, 1985); Văn hóa các dân tộc -từ một diễn đàn (1999) của Hội văn học nghệ

thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam; Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam truyền

thống và hiện đại (Nxb Đại học Thái Nguyên); Bản sắc văn hóa dân tộc trong

văn xuôi của các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam ( Nxb Đại học Thái Nguyên);

Nửa thế kỷ phát triển văn xuôi các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt

Nam(từ 1960 đến nay) (Nxb Hội nhà văn)… Nhìn chung những nguồn tài liệu

trên đã cung cấp những nhận định khái quát về người phụ nữ dân tộc thiểu số,

thấy được hình ảnh người phụ nữ luôn là đối tượng thẩm mĩ đáng được chú ý

trong mọi lĩnh vực văn chương.

Điểm qua một số công trình nghiên cứu và các bài viết có thể thấy rằng,

lý thuyết về nữ quyền đã được vận dụng vào nghiên cứu văn học Việt Nam, tuy

nhiên chưa có công trình nào đề cập đến vấn đề nữ quyền trong sáng tác của một

số nhà văn dân tộc thiểu số. Do đó, đây sẽ là hướng mở để chúng tôi thực hiện

đề tài này. Đề tài thành công sẽ góp một cái nhìn mới mẻ nhằm giáo dục nhận

thức về các giá trị bình quyền, thúc đẩy bình đẳng giới nói chung và sự tiến bộ

của người phụ nữ vùng cao nói riêng.

3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Vấn đề nữ quyền trong sáng tác của

một số nhà văn dân tộc thiểu số (khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam).

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề nữ quyền trong sáng tác của các nhà

văn DTTSkhu vực miền núi phía Bắc như: Vi Hồng, Cao Duy Sơn,Bùi Minh

Chức, Hữu Tiến, Bùi Thị Như Lan…

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu

- Có cái nhìn tổng thể và khái quát về văn học dân tộc thiểu số, góp phần

6

tìm hiểu và soi sáng về thể loại văn xuôi dân tộc thiểu số trong bức tranh văn học

các dân tộc thiểu số Việt Nam.

- Qua việc nghiên cứu vấn đề nữ quyền trong sáng tác của một số nhà văn

dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc, luận văn sẽ phân tích, lý giải, đưa ra được

những nhận định nhằm chứng minh những nét riêng về vấn đề nữ quyền trong

các sáng tác của một số nhà văn dân tộc thiểu số ở hai phương diện nội dung và

nghệ thuật. Từ đó khẳng định những thành tựu, những đóng góp mới mang tính

hiện đại, những giá trị mới mang tính nhân văn của văn xuôi dân tộc thiểu số

miền núi phía Bắc Việt Nam.

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tìm hiểu những vấn đề lí luận liên quan đến đề tài.

- Phân tích nhằm làm rõ những biểu hiện của vấn đề nữ quyền trong sáng

tác của các nhà văn dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc ở hai phương diện nội

dung và nghệ thuật.

- Khẳng định những đóng góp của các nhà văn dân tộc thiểu số trong việc

tạo dựng bức tranh về người phụ nữ dưới cái nhìn về giới.

5. Phương pháp nghiên cứu

Chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Qua phân tích một số dẫn chứng tiêu

biểu của các nhà văn DTTS viết về vấn đề nữ quyền, luận văn đưa ra những đánh

giá và phân tích cụ thể.

- Phương pháp so sánh, đối chiếu để làm sáng tỏ những đặc điểm, dấu hiệu

mang âm hưởng nữ quyền cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật trong sáng tác

của một số nhà văn DTTS, qua đó khẳng định những đóng góp riêng của họ trong

tiến trình văn học Việt Nam.

- Phương pháp thống kê, phân loại.

- Phương pháp lịch sử văn học. Nghiên cứu lịch sử văn học để thấy được

sự manh nha của văn học nữ quyền từ dân gian cho đến hiện đại.

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành (Văn hóa học, dân tộc học…)

7

6. Đóng góp của luận văn

Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu về vấn đề nữ quyền trong sáng

tác của một số nhà văn dân tộc thiểu số.

- Khẳng định ý thức về nữ quyền trong dòng chảy văn học của dân tộc và

ưu thế của dòng văn học viết về nữ quyền, nói lên tiếng nói về bình đẳng giới.

- Khẳng định sự đóng góp của những nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam hiện

đại cho thành tựu chung của văn học nước nhà trên con đường hiện đại hóa.

- Bổ sung tài liệu tham khảo về văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội dung

của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Khái quát về văn xuôi dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc và

giới thuyết về nữ quyền trong văn học

Chương 2: Vấn đề nữ quyền trong sáng tác của một số nhà văn dân tộc

thiểu số miền núi phía Bắc nhìn từ góc độ nội dung

Chương 3: Vấn đề nữ quyền trong sáng tác của một số nhà văn dân tộc

thiểu số miền núi phía Bắc nhìn từ góc độ nghệ thuật

8

Chương 1

KHÁI QUÁT VỀ VĂN XUÔI DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI

PHÍA BẮC VÀ GIỚI THUYẾT VỀ NỮ QUYỀN TRONG VĂN HỌC

1.1. Khái quát về văn xuôi dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, là nơi sinh sống của 54 dân tộc anh

em trên dải đất hình chữ S. Mỗi dân tộc đã có đóng góp không nhỏ cho sự nghiệp

phát triển văn học nước nhà. Văn học dân tộc thiểu số là bộ phận nằm trong dòng

chảy của văn học ViệtNam, nó bao gồm sáng tác của tác giả người dân tộc thiểu

số viết về dân tộc mình và những trăn trở của họ về các vấn đề về đời sống, xã

hội. Qua đó để thấy được “Quá trình nỗ lực tự hoàn thiện về tất cả mọi mặt của

văn học DTTS để có thể hòa nhập và trở thành bộ phận quan trọng của nền

vănxuôi Việt Nam hiện đại”. [58, tr.162]

Đầu TK XX, cùng với sự hình thành và phát triển của nền văn học chữ

quốc ngữ, văn học DTTS cũng đã xuất hiện và dần khẳng định vị thế của

mình.Trong đó phải kể đến văn xuôi dân tộc thiểu số, đó là một bức tranh muôn

màu, đầy đủ và sát thực về hiện thực cuộc sống miền núi và đồng bào các dân

tộc thiểu số.“Từ những tác phẩm được trau chuốt, chọn lọc trong nghệ thuật biểu

hiện, đề tài mở rộng ở cả chiều rộng và chiều sâu,cách nhìn con người và cuộc

sống đa diện nhiều chiều…Nó cho thấy sự trưởng thành thục sự của một nền văn

học được đánh dấu bằng những thành tựu, thể hiện một cách nhìn, một sự khẳng

định giá trị văn học đối với một nền văn xuôi giàu sức phát triển” [13, tr.85-

86].Cũng kể từ đó, văn học đã góp phần xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa,

xã hội miền núi ngày một giàu đẹp hơn. Nhất là trong giai đoạn hội nhập hiện

nay,cần sự khẳng định về bản sắc văn hóa của dân tộc nếu như không muốn hòa

tan nền văn hóa của dân tộc mình với dân tộc khác.

1.1.1. Lịch sử hình thành, phát triển

Đời sống và nền văn hóa dân tộc thiểu số với những sắc diện riêng biệt là

nguồn cảm hứng bất tận cho văn học nghệ thuật phát triển đặc biệt là văn

9

xuôi.Văn xuôi chỉ tổ chức ngôn ngữ như lời nói thường, như một dòng ngôn từ

tuôn chảy không ngừng (chỉ tạm dừng ở chỗ ngắt ý, ngắt giọng, ngắt câu thông

thường), không bị rằng buộc bởi quy luật số lượng hay vần điệu, nhịp điệu. Văn

xuôi khai thác mạnh mẽ khả năng mô tả của ngôn từ để khái quát hiện thực đời

sống“Miêu tả cuộc sống trong những hình thức vốn có của nó”và chính chất liệu

ngôn từ đã giúp văn xuôi đạt được tính vạn năng trong việc chiếm lĩnh đời sống,

thể hiện sự nhận thức và sáng tạo của con người.

Vốn văn học dân gian của dân tộc thiểu số rất đa dạng và phong phú gồm

nhiều thể loại như: Sử thi, dân ca, truyện cổ, thành ngữ- tục ngữ, truyện thơ,

trường ca…Đây cũng là nguồn sữa mẹ nuôi dưỡng văn xuôi dân tộc thiểu số phát

triển. Bên cạnh đó thì những tác phẩm văn xuôi của các tác giả người Kinh viết

về đề tài miền núi như Truyện Tây Bắc (Tô Hoài), Ở rừng(Nam Cao), Đất nước

đứng lên (Nguyên Ngọc) cũng là nguồn cảm hứng cho những nhà văn DTTS viết

văn. Khu vực văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại bắt đầu hình thành

từ những năm 50 của thế kỉ XX và là một nền văn học trẻ. Tuy hình thành muộn,

chủ yếu đươc hình thành và phát triển từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945,

đặc biệt nở rộ từ những năm 60 trở lại đây,trải qua hơn một nửa thế kỉ phát triển,

văn xuôi các DTTS đã có nhiều khởi sắc từ đội ngũ sáng tác ngày càng đông đảo,

thể loại ngày càng phong phú tới số lượng và chất lượng tác phẩm ngày càng

nhiều, hay và hấp dẫn hơn, gặt hái được nhiều thành tựu và đã phổ biến rộng

khắp trên mọi vùng miền của tổ quốc.

Trên thực tế, với điều kiện địa lý và tự nhiên xã hội khác nhau, văn xuôi

DTTS Việt Nam hiện đại tồn tại ở 3 khu vực chính đó là: miền núi phía Bắc, Tây

Nguyên và Tây Nam Bộ. Tuy vậy ở mỗi khu vục này có sự phát triển khôngđồng

đều. Nói đến khu vực Tây Nguyên, vào những năm 70,80 của TKXX mới xuất

hiện tác giả Y Điêng, một người con của đồng bào dân tộc Ê đê, ông được coi là

người giữ hồn văn hóa Ê đê trong văn chương nghệ thuật với tác phẩm như:

Chuyện bên bờ sông Hinh (tiểu thuyết 2 tập), Drai Hlinh đi về phía sáng (truyện

10

ngắn), Hờ Giang (truyện dài)…Nối tiếp ông xuất hiện thêm nhiều cây bút mới

như: Hlinh Niê (Ê đê), Niê Thanh Mai (Ê đê), Hồ Thao Khằm (Vân Kiều)… Đến

khu vực Tây Nam Bộ, cũng có sự xuất hiện của một số tác giả như:Lý Lan (Hoa),

Inrasara và Trà Vigia (Chăm)...Phát triển rực rỡ nhất phải kể đến văn xuôi khu

vực miền núi phía Bắc, đây là khu vực mang màu sắc khác biệt với văn học và

văn xuôi các khu vực khác: sự hiểm trở của địa hình núi cao, sự khắc nghiệt của

thiên nhiên lạnh giá nhưng thiên nhiên nơi đây cũng chứa đựng cả sự hùng vĩ và

thơ mộng. Cư dân chủ yếu là người dân tộc thiểu số như: Tày, Nùng, Mường,

Dao, Mông… Đây cũng là khu vực có những sáng tác được cho là mở đường

cho sự phát triển mạnh mẽ của văn xuôi hiện đại các DTTS như Ché Mèn được

đi họp (1958), Muối lên rừng (1964) của Nông Minh Châu…Đến đội ngũ nhà

văn đông đảo là người dân tộc Tày, Thái, Mường, Dao, Nùng như: Triều Ân,

Hoàng An, Vi Thị Kim Bình, Nông Quốc Chấn, Vi Hồng, Nông Minh Châu, Nông

Ích Đạt, Bế Dôn, Mai Liễu, Ma Trường Nguyên, Bế Sĩ Uông, Dương Thuấn, Cao

Duy Sơn, Nông Viết Toại, Bùi Thị Tuyết Mai, Bùi Thị Như Lan, Vương

Trung,Cầm Biêu, La Quán Miên, Hoàng Nó, Mào Văn Ết, Lò Văn Cậy, Sa Phong

Ba, Bàn Tài Đoàn, Bàn Thị Cúc, Mã Thế Vinh, Mã A Lềnh…Qua đó có thể thấy

rằng, văn xuôi phát triển mạnh mẽ ở khu vực miền núi phía Bắc, chứa đựng

những điểm độc đáo, hấp dẫn, khẳng định được bước đi vững chắc trên văn đàn

với một thế hệ nhà văn tài năng và nhiệt huyết, để lại dấu ấn đậm nét.

Trải qua quá trình hình thành, cho đến nay, văn xuôi DTTS trải qua 3 giai

đoạn, mỗi giai đoạn đều đánh dấu sự phát triển vượt bậc và đáng ghi nhận. Giai

đoạn hình thành (từ năm 1958 đến 1965), quá trình hình thành và phát triển

chừng trên 70 năm kể từ sau khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công và

cách mạng đã làm sống lại vốn văn học truyền thống của các dân tộc thiểu số

“Chế độ ta không những đã làm nảy nở những tài năng mà còn chú trọng khai

thác những di sản văn học nghệ thuật quý báu của các dân tộc bấy lâu nay bị

mai một dưới ách thực dân phong kiến…” [56, tr.138].Khi mà văn xuôi Quốcngữ

11

đã phát triển đạt đến đỉnh cao thì nền văn xuôiDTTS Việt Nam mới có những

bước đi đầu tiên. Trước hết là thơ, thời kỳ đầu, thơ các dân tộc thiểusố vẫn chịu

ảnh hưởng nặng nề của thơ ca dân gian. Những người làm thơ xuất thân từ tầng

lớp bình dân nên thơ ca dân tộc là sự kết hợp của cách mạng, nhân dân và văn

hóa dân gian.Từ sau 1945, thơ ca đạt được những thành tựu với các tác giả là: Y

Phương, Dương Thuấn, Lò Ngân Sủn…Tiếp đó là văn xuôi, do điều kiện kinh

tế, văn hóa xã hội, trình độ nhận thức của nhà văn,đối tượng phản ánh nên văn

xuôi DTTS ra đời muộn và phát triển chậm. Phải từ sau cách mạng, từ sự thay

đổi có tính bước ngoặt và căn bản về chất trong toàn bộ lĩnh vực của đời sống xã

hội cuối những năm 50,60 thì tư tưởng dân chủ mới được thể hiện rõ nét, đồng

bào miền núi mới thực sự có ý thức vươn lên làm chủ cuộc sống mới, làm chủ

cuộc đời, dám đấu tranh và phản kháng lại những áp bức, bất công, những phong

tục tập quán nghèo nàn, lạc hậu, những tư tưởng phi dân chủ…Mặc dù quá trình

hình thành và phát triển muộn nhưng thể loại văn xuôi DTTS miền núi phía Bắc

vẫn tạo được nền tảng vững chắc và quan trọng trong sự phát triển của văn học

Việt Nam. Năm 1958 với sự ra đời truyện ngắn Ché mèn được đi họp của Nông

Minh Châu, tác phẩm văn xuôi viết bằng tiếng dân tộc đầu tiên trong lịch sử văn

học Việt Nam của một tác giả người dân tộc thiểu số ra đời, sau được tác giả tự

dịch ra tiếng phổ thông. Với đứa con đầu lòng này, Nông Minh Châu được những

người trong nghề chào đón, được giải thưởng cuộc thi truyện ngắn của Báo Văn

Nghệ. Tiếp theo thành công đó là tiểu thuyết Muối lên rừng được Nông Minh

Châu viết bằng tiếng Kinh ấn hành năm 1964 mở ra một thời kỳ mới cho tiểu

thuyết phát triển. Từ ảnh hưởng của Nông Minh Châu mà sau đó, văn xuôi các

dân tộc thiểu số đã xuất hiện thêm các tên tuổi như: Triều Ân, Nông Viết Toại,

Vi Hồng, Lâm Ngọc Thụ, Vương Trung, Hoàng Hạc… Giai đoạn tiếp theo là

giai đoạn phát triển về tầm vóc và chất lượng (từ 1965 đến những năm 70,80 của

thế kỷ XX), văn xuôi miền núi giai đoạn này có điều kiện thuận lợi để phát triển

về số lượng và quy mô tác phẩm, hình thành nên một khu rừng văn xuôi sum suê

12

cành lá với Vi Hồng, Cao Duy Sơn, Sa Phong Ba, Lò Văn Sỹ, Mã A Lềnh, Lò

Ngân Sủn… Đồng hành với đó là rất nhiều tác phẩm có chất lượng như: Niềm

vui của Vi Thị Kim Bình(1979),Tiếng khèn A Pá của Triều Ân (1980), Cột mốc

giữalòng sôngcủa Mã A Lềnh (1981),Những bông ban tím của Sa Phong Ba

(1981), Chiếc vòng bạc của Lò Ngân Sủn (1987), Đuông thang của Vi Hồng

(1988)…Đặc biệt trong đó Cao Duy Sơn là người đầu tiên viết văn xuôi người

dân tộc được nhận giải thưởng văn học Đông Nam Á, tạo ra một vị thế xứng

đáng góp vào thành tựu chung của nền văn học Việt Nam muôn sắc ngàn

hương.Đến giai đoạn này, có thể khẳng định, văn xuôi khu vực miền núi phía

Bắc đã lớn mạnh, có nhiều thành tựu đáng ghi nhận, là một nền văn học đặc sắc,

đậm đà bản sắc dân tộc. Giai đoạn Đổi mới với những thành tựu nổi bật của văn

xuôi đặc biệt là thể loại tiểu thuyết (từ sau 1990). Giai đoạn này, với sự quan

tâm, chú trọng của Đảng và nhà nước, văn xuôi DTTS miền núi phía Bắc đặc

biệt phát triển và dần khẳng định được chỗ đứng quan trọng trong nền văn học

hiện đại nước nhà. Thể loại tiểu thuyết đánh dấu sự thành công của Vi Hồng với

sự ra đời của cá tác phẩm như: Người trong ống (1990), Vào hang (1990), Lòng

dạ đàn bà (1992), Dòng sông nước mắt (1993), Tháng năm biết nói (1994), Phụ

tình (1994), Đi tìm giàu sang (1995)…Ma Trường Nguyên vớiMũi tên ám khói

( 1991), Gió hoang (1992), Tình xứ mây (1993), Trăng yêu (1993), Mùa hoa hải

đường (1998)… Cao Duy Sơn với Người lang thang (1992), Cực lạc (1995),

Hoa mận đỏ (1999), Đàn trời (2006)… Bên cạnh tiểu thuyết, truyện ngắn cũng

gặt hái được vô số thành tựu. Triều Ân với Xứ sương mù (2000),Chuyện đời

thường (2010); Cao Duy Sơn với Những chuyện ở lũng Cô Sầu (1996), Những

đám mây hình người (2002)… Mã A Lềnh với Cao nguyên trắng(1992),Có một

con đường(1995), Dấu chân trên đường (1996)… Hà Lâm Kỳ với Kỷ vật cuối

cùng (1991), Chim ri núi (1992), Gió Mù Căng (1994),Những đứa con lên núi

(1994)…Bùi Thị Như Lan với Tiếng chim kỷ giàng (2004),Mùa hoa mắc mật

(2005),Hoa mía (2006)… Có thể nói, những cây bút người DTTS đã gìn giữ và

13

thổi bùng lên ngọn lửa văn chương của dân tộc mình, văn xuôi DTTS đã từng

bước bắt nhịp vào đời sống của đất nước, cổ vũ, động viên và đi sâu miêu tả số

phận con người miền núi đặc biệt là thân phận, số phận người phụ nữ miền núi,

họ chính là tiêu điểm của bức tranh toàn cảnh về số phận con người, sống ở vùng

núi cao, tồn tại bao hủ tục lạc hậu, bao khó khăn thử thách…Nhưng bên trong

con người họ vẫn sáng lên những phẩm chất tốt đẹp, những khát vọng chính đáng

và vững tin vào một tương lai tươi sáng. Đây cũng là ngọn lửa về vấn đề nữ

quyền được các tác giả DTTS miền núi phía Bắc thắp lên nhằm bênh vực, đòi

quyền lợi cho những người phụ nữ vùng cao.

1.1.2. Đặc điểm nội dung, nghệ thuật

Về nội dung:Vùng miền núi và cuộc sống của đồng bào các dân tộc miền

núi là mảnh đất chứa đựng nhiều tiềm năng cho công việc sáng tạo.Hòa cùng

dòng chảy với văn học dân tộc, từ sau kháng chiến chống thực dân Pháp, văn

xuôi DTTS miền núi phía Bắc đã học tập và kế thừa thành tựu của văn xuôi người

Kinh viết về miền núi, các cây bút văn xuôi DTTS miền núi phía Bắc đã đem

đến cho độc giả những hiểu biết chân thực, toàn diện và đầy đủ hơn về cuộc sống,

con người, về các phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc ít người qua các

giai đoạn lịch sử của đất nước, luôn gắn liền với sự vận động, sự đổi thay từng

ngày, từng giờ của cuộc sống con người và thiên nhiên miền núi.

Nếu như thơ ca các DTTS đã phản ánh về hiện thực đời sống và con người

vùng cao cả thời kì kháng chiên chống Pháp thì văn xuôi các DTTS lại chủ yếu

phản ánh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, cuộc kháng chiến chống Mỹ ở

miền Bắc. Đầu TKXX, xuất hiện một số tác phẩm của nhà văn người Kinh viết

về đời sống sinh hoạt của người dân tộc thiểu số ở miền núi như Thế Lữ với tập

truyện Vàng và máu (1934),Lan Khai với Truyện đường rừng,Dấu ngựa trên

sương (1940), Suối đàn (1942)… Nói vềLan Khai, ông là một cây bút viết về

miền núi gây được sự chú ý đặc biệt của độc giả thời bấy giờ. Sinh ra và găn bó

với chốn sơn lâm trong một gia đình nhà nho kiêm lương y, bằng tài năng và

14

nghị lực, Lan Khai được các nhà phê bình đương thời coi là một trong những nhà

văn mở đường cho một trào lưu văn học mới, là "Nhà nghệ sĩ của rừng núi"

(Trương Tửu). Trong các trang viết của Lan Khai, ta thấy ông hóa thân vào thiên

nhiên rừng núi, phong tục tập quán, phân thân mình vào số phận nhân vật đặc

biệt là người phụ nữ. Nhưng dù thế nào đi nữa, là những nhà văn người Kinh và

giống như những người du khách nếu có gắn bó thì vẫn có cách tiếp cận mang

tính chủ quan với tư cách là người ngoài cuộc.

Trongnhững năm 50 -60 của thế kỷ XX, khi miền Nam đang đấu tranh

chống đế quốc Mỹ xâm lược, miền Bắc đang trên con đường xây dựng chủ nghĩa

xã hội thì ở miền núi phía Bắc đã xuất hiện một số tác phẩm của tác giả người

DTTSnhư Nông Viết Toại, Nông Minh Châu, Triều Ân, Vi Thị Kim Bình…Họ

cho ra đời những tác phẩm viết về dân tộc mình với cái nhìn của người trong

cuộc.Các tác giả đều bộc lộ rõ ý thức dùng văn chương làm phương tiện để phục

vụ chính trị, các tác phẩm mang nội dung chủ yếu là phản ánh cuộc đấu tranh

cứu quốc vĩ đại của dân tộc, tuyên truyền cách mạng, ca ngợi quê hương đất nước

và con người miền núi trong giai đoạn mới bám sát đường lối, chủ trương, chính

sách của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể như: tổ chức cuộc sống

định canh, định cư, xây dựng hợp tác xã nông nghiệp,xây dựng làng bản quê

hương, xây dựng công trình thuỷ lợi, khai thác mỏ, rồi tòng quân,đánh giặc

“…hình ảnh những người dân tộc quyết tâm bám giữbản làng khỏi sự tàn phá

của kẻ thù đã trở thành những biểu tượng đẹp đẽ của tình yêu nước thiết tha, sâu

nặng. Họ không chỉ là những người trực tiếp cầm súng chiến đấu hay có mặt nơi

chiến trường mà lòng yêu nước ấy còn có ở những người đang ngày đêm lao

động để làm hậu phương vững chắc cho người lính”[13, tr. 130].Đặc biệt là hình

ảnh con người miền núi với khát vọng “đi về phía sáng” trong công cuộc xây

dựng xã hội mới được phản ánh khá rõ nét. Đọc tác phẩm Ché Mèn được đi họp

của Nông Minh Châu, người đọc đã bắt gặp hình ảnh Ché Mèn, một nữ thanh

niên miền núi giác ngộ và trưởng thành trong quá trình xây dựng cuộc sống mới

15

“Mèn nhờ bạn viết giúp lá đơn. Từ đó Mèn là một đoàn viên thanh niên lao động.

Mèn được biết về Đoàn, Mèn càng gần Đảng. Cái hăng hái của Mèn càng rõ

ràng” [37, tr.127]. Ché Mèn dù mới 18 tuổi nhưng cô đã dám chống lại các hủ

tục mê tín, lạc hậu của đồng bào mình, đưa khoa học kĩ thuật vào phát triển sản

xuất mang lại ấm no cho gia đình và làng bản. Quả vậy, sau Ché Mèn là hàng

loạt nhân vật trẻ náo nức, mê say trong công cuộc lao động dựng xây chủ nghĩa

xã hội. Tóm lại văn xuôi thời kỳ này chủ yếu viết về con người, quê hương miền

núi, mang đến hơi thở và nhịp đập của núi rừng. Ngòi bút của họ chạm đến từng

kẽ lá, từng ngọn cỏ, từng mảnh đời, từng số phận nơi miền núi.Khơi thông một

vấn đề tưởng chừng còn xa lạ với tư duy của người miền núi đó là đặt nhân vật

trung tâm là người phụ nữ DTTS dám đứng lên đòi quyền sống, quyền được yêu,

được thỏa mãn khát vọng bản năng.

Từ sau 1975 và đặc biệt là từ sau 1986, đây là thời kỳ mà văn xuôi DTTS

phát triển khá mạnh mẽ“Dưới ánh sáng soi đường của Đảng, cuộc sống của đồng

bào vùng cao từng bước khởi sắc. Vẫn là sự hào hứng của kiến thiết, dựng xây,

đổi mới cuộc sống nhưng hiện thực miền núi có những sắc màu riêng, vấn đề

riêng- chung làm nên chất liệu thực tế của văn xuôi” [13, tr134].Trong không

khí hòa bình và xây dựng cuộc sống mớixuất hiện trong trang viết của các nhà

văn là những con người mới, cuộc sống mới trên tất cả các mặt trận sản xuất và

chiến đấu, ca ngợi sự đổi đời của nhân dân các dân tộc từ cuộc sống nô lệ tối tăm

đã vươn lên làm chủ cuộc đời, làm chủ khoa học kỹ thuật, ca ngợi cuộc đấu tranh

chống những hủ tục lạc hậu, mê tín, dị đoan, chống bảo thủ, tham ô, qua các tác

phẩm như:Đất bằng, Vãi Đàng của Vi Hồng. Cảm hứng phê phán cái cũ, cái lạc

hậu còn được thể hiện ở nhiều tác phẩm như: Hai mẹ con của Triều Ân; Gánh

nước cuối cùng của Nông Viết Toại…Sáng tác của Vi Hồng ra đời trong thập

niên chín mươi của thế kỉ XX đã đề cập tới những vấn đề nóng bỏng của xã hội

miền núi đương đại, mà khẩn thiết nhất là cuộc đấu tranh đầy căng thẳng, gay go

giữa hai lực lượng đối lập và thù địch: tốt - xấu, thiện - ác. Vấn đề người cán bộ,

16

người trí thức trong xã hội miền núi hiện thời cũng là những trăn trở và suy nghĩ

đau đáu trong tư duy của nhà văn. Nhân vật như Tú, Quản, On…được nhà văn

Vi Hồng xây dựng như những tấm chân dung điển hình về người trí thức giàunghị

lực, vượt mọi khó khăn để khẳng định mình. Sáng tác của Cao Duy Sơn hấp dẫn

người đọc ở cách cảm nhận mới mẻ và chân thực về tâm hồn và tính cách đồng

bào miền núi, ở ý thức soi chiếu nhân vật dưới góc độ đời tư và một ngôn ngữ

đậm chất văn xuôi.Hiện thực cuộc sống mà nhà văn đề cập đến trong những tác

phẩm của mình là những vấn đề muôn thủa của cuộc đời về số phận con người

đặc biệt là người phụ nữ. Những câu chuyện tình với những mối tình lỡ dở, không

được hưởng hạnh phúc trọn vẹn của Khơ và Dình, Sinh và Ếm, Khuề và

Ban…Mặc dù vậy, trong tâm hồn họ luôn chứa đựng sự chân thành và thủy

chung. Dù cho vật đổi sao dời thì tình cảm thủy chung ban đầu của họ vẫn vẹn

nguyên không thay đổi. Ngoài ra Cao Duy Sơn cũng vẽ lên hiện thực về cuộc

sống đầy gian khổ của những giáo viên cắm bản, với bao gian khó, cực nhọc

nhưng vì tình yêu với núi rừng, vớibà con dân bản mà họ sẵn sang cống hiến sức

trẻ của mình nơi vùng cao…Đó cũng là những hình ảnh đẹp và đầy xúc động

trong những sáng tác của các nhà văn DTTS.

Khi mà đời sống dân chủ cởi mở và cơ chế xuất bản, in ấn, phát hành thuận

lợi khiến cho số lượng tác phẩm xuất bản nhiều chưa từng có trong một thời gian

ngắn. Văn xuôi DTTS thời kì này có nhiều tác phẩm hướng về công cuộc xây

dựng đời sống, phát triển kinh tế ở miền núi và cả những vấn đề cũ mà trước đây

do cái nhìn hạn hẹp và vốn sống chưa phong phú nên văn xuôi DTTS còn chưa

đề cập tới. Các nhà văn hướng ngòi bút của mình phản ánh cuộc đấu tranh gian

khổ trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo, xây dựng cuộc sống mới nơi vùng

cao, dám nhìn thẳng vào sự thật để phản ánh những lối sống thực dụng,vô đạo

đức của một bộ phận người dân miền núi đã phá vỡ sự bình yên, trong trẻo vốn

có của núi rừng như: Gió hoang(1992) của Ma Trường Nguyên; Cao nguyên

trắng của Mã A Lềnh; Vùng đồi gió quẩn(1994) của Sa Phong Ba;Đàn trời

17

(2006), Chòm ba nhà(2009)của Cao Duy Sơn…

Nhiều nhà văn DTTS có ý thức đi sâu tìm hiểu cuộc đời và thân phận con

người. Đặc biệt với sự xuất hiện của các nữ nhà văn DTTS, do sự nhạy cảm của

giới mình đã có những trang viết cảm động chia sẻ và cảm thông sâu sắc với số

phận nhiều éo le trắc trở của những người phụ nữ miền núi. Một số tác phẩm đã

thể hiện hạnh phúc cá nhân, đời thường, những câu chuyện về tình yêu nhiều

sóng gió… Đặc biệt là đi sâu khai thác số phận những người phụ nữ để thấy được

bức tranh toàn cảnh về những người phụ nữ vùng cao bao đời bị sự kìm kẹp bởi

những hủ tục lạc hậu, bị đày đọa cùng với bao khó khăn, thử thách trong cuộc

sống nhưng luôn khát khao được hạnh phúc và vươn lên để thể hiện chính mình.

Trong tâm hồn họ vẫn ánh lên những phẩm chất tốt đẹp, những hoài bão ước mơ

về một tương lai tươi sáng.

Về nghệ thuật: Có thể khẳng định, nghệ thuật xây dựng nhân vật và việc

sử dụng ngôn ngữ giản dị, linh hoạt, mang đậm sắc thái dân gian là những hình

thức nghệ thuật độc đáo của văn xuôi DTTS miền núi phía Bắc đã tạo nên một

bản sắc riêng cho bộ phận văn học này. Pautopxki đã nói: "Những nhân vật và

những tính cách sinh động chính là tấm huân chương cao quí của nhà văn", nhân

vật giữ một vai trò hết sức quan trọng trong thành công của một tác phẩm, một

tác giả văn học.

Với các nhà văn DTTS khi xây dựng nhân vật trong các sáng tác của mình

đều chịu ảnh hưởng của thi pháp dân gian, kết thúc đều là kẻ ác bị trừng trị, người

tốt được hưởng hạnh phúc. Khi xây dựng bất kì một loại nhân vật nào, các nhà

văn luôn chú ý tới việc khắc họa tính cách của nhân vật qua đó thể hiện quan

niệm của tác giả và tư tưởng nghệ thuật của nhà văn.Mỗi nhân vật đều được

khám phá trên nhiều khía cạnh về ngoại hình, tính cách, hành động, suy nghĩ,

cảm xúc... Và đặc biệt về thế giới nội tâm nhân vật. Một điều đáng chú ý ở đây

là những sáng tác viết về người phụ nữ miền núi với vẻ đẹp mộc mạc, chân thực

và đặc biệt viết về người con gái đẹp miền núi, các nhà văn thường ưu ái ví họ

18

như“Những bông hóa trên vách núi” hoặc “đẹp như một nàng tiên”.Người phụ

nữ bên cạnh vẻ đẹp là nét tính cách đảm đang, khéo tay, chăm chỉ và ngời lên

những phẩm chất cao quí - đó là lòng thủy chung, là tình yêu say đắm, nồng nàn

đầy sự hy sinh để đến với tình yêu, để được yêu, để gìn giữ và bảo vệ tình yêu.

Là sự dũng cảm vượt qua mọi rào cản của tục lệ cổ hủđể khát khao sống và vươn

lên.

Ngôn ngữ nghệ thuật được sử dụng chủ yếu trong các tác phẩm văn xuôi

DTTS đậm chất liệu dân gian.Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất, là chất liệu của văn

chương. Sáng tạo ngôn ngữ là một trong những mục tiêu quan trọng của sáng tác

văn chương. Những chân lí hiển nhiên đó đã được nêu ra từ lâu, nhưng không

phải lúc nào cũng được nhận thức đầy đủ và được coi trọng trong thực tiễn sáng

tác và tiếp nhận văn học.Với sự giản dị, mộc mạc, thông tục mà thẳng thắn và

chân thành, người DTTS là những người sống yêu thương, đùm bọc, giàu tình

nghĩa, họ không vòng vo mà rất thật thà, thẳng thắn dễ hiểu do vậy ngôn ngữ mà

các nhà văn sử dụng trong các sáng tác văn xuôi của mình vô cùng gần gũi với

lời ăn tiếng nói hàng ngày của họ, phù hợp với tư duy và đáp ứng tâm tư, tình

cảm của con người miền núi.Một số tác giả đã đưa chính ngôn ngữ của dân tộc

mình vào trong các sáng tác giúp người đọc hiểu sâu hơn về cách cảm, cách nghĩ

của người dân tộc.Mã A Lềnh là một minh chứng như vậy. Ông đã không ngần

ngại đưa những từ ngữ riêng của người Mông vào trong sáng tác của mình. Vi

Hồng,Nông Viết Toại và Cao Duy Sơnlại rất hay sử dụng các thành ngữ, tục ngữ

tiếng Tày vào trong các sáng tác của mình… Có thể thấy: “Cách đưa nguyên văn

câu chữ tiếng dân tộc không dịch như vậy tuy khiến cho người đọc dân tộc khác

khó tiếp thu, nhưng mặt khác nó rất giàu sức gợi và góp phần thể hiện bản sắc

dân tộc nhờ hệ thống ngữ âm thể hiện điệu tâm hồn đặc trưng của mỗi tộc người”

[35, tr.226] đã khẳng định bản lĩnh của những con người cầm bút.

Ngoài ra các thủ pháp nghệ thuật như ví von, so sánh, liên tưởng cũng

được các nhà văn sử dụng để phản ánh tư duy của người miền núi như:“Cái tính

19

thẳng như đường tên bay, dễ nổi nóng như gấu ai còn lạ” hay vui thì khuôn mặt

“sáng ngời như khuôn trăng tỏa ánh hào quang”, buồn thì“sa sầm như một vùng

mây đậm”. Một số tác giả lại hay sử dụng các thành ngữ, tục ngữ đậm màu sắc

dân gian tiêu biểu là những sáng tác của Vi Hồng, ông sử dụng với tần số cao

những câu thành ngữ, tục ngữ của dân tộc Tày như “nhốt gió được trong lòng

bàn tay”, “thấy quả vọc quả, gặp hoa nhai hoa”…Cao Duy Sơn cũng dùng các

thành ngữ, tục ngữ để thể hiện tâm tư, tình cảm, phẩm chất và tính cách nhân

vật…Qua các thành ngữ, tục ngữ đặc trưng của đồng bào dân tộc cho thấy vốn

sống, vốn hiểu biết vô cùng phong phú của các tác giả người DTTS.

1.2.Giới thuyết về nữ quyền trong văn học

1.2.1. Khái niệm nữ quyền

Nói đến khái niệm về “nữ quyền”, không giống như các lý thuyết khác,

nền tảng khái niệm lý thuyết của thuyết nữ quyền không bắt nguồn từ công thức

lý thuyết đơn lẻ nào, do vậy không có định nghĩa lý thuyết cụ thể nào của

thuyếtnữ quyền phù hợp cho mọi phụ nữ ở mọi thời đại. Khái niệm nữ quyền ra

đời như một tất yếu của lịch sử loài người. Nếu tra từ“nữ quyền”(Feminism) trong

từ điển thì từ này đều mang những ý nghĩa là: “Phong trào đấu tranh của nữ giới

đòi bình đẳng giới tính, lý thuyết bình đẳng về chính trị, kinh tế về xã hội giữa

nam và nữ giới hay là học thuyết ủng hộ quyền bình đẳng giữa hai giới về mặt

chính trị, xã hội và nhiều quyền lợi khác”. Ở đây, nữ quyền là những lý thuyết

xã hội về sự khác biệt và bất bình đẳng giới, những cách thức đạt được bình đẳng

giới. Khái niệm về nữ quyền không phải là một lý thuyết nào đó mà là tổng hòa

nhiều lý thuyết và quan điểm khác nhau, mỗi lý thuyết đều cố gắng mô tả sự áp

bức phụ nữ, mô tả về nguyên nhân và kết quả của nó và đưa ra những chiến lược

giải phóng phụ nữ theo các cách riêng của mình.

Vậy nữ quyền là gì? Có nhiều quan niệm khác nhau về nữ quyền, sau đây

là một cách hiểu về khái niệm nữ quyền: “Nữ quyền là quyền của phụ nữ và hiểu

đầy đủ thì đó là đấu tranh cho quyền bình đẳng của phụ nữ. Với niềm tin dựa

20

trên nguyên tắc cho rằng phụ nữ phải có các quyền và cơ may trong cuộc sống

như nam giới về chính trị, kinh tế, luật pháp…”[55]

Dù hiểu theo quan niệm nào thì cách hiểu thông dụng nhất là “Quyền bình

đẳng của phụ nữ trên mọi lĩnh vực kinh tế xã hội và giáo dục. Khái niệm nữ

quyền nếu hiểu ở cấp độ rộng là quyền lợi của người phụ nữ đặt trong thế tương

quan với quyền lợi của nam giới để đạt đến cái gọi là nam nữ bình quyền. Ở cấp

độ hẹp thì nữ quyền có mối liên quan với các khái niệm như giới tính và phái

tính trong văn học. Nếu giới tính, phái tính là những công cụ để khu biệt đặc tính

giữa hai phái (nam/nữ) thì khái niệm nữ quyền không chỉ dừng lại ở đó mà mục

đích của nó hướng tới sự bình quyền nam/nữ đồng thời tạo ra hệ quy chuẩn riêng

của nữ giới”[26, tr.317]

1.2.2.Quan niệm về nữ quyền trong văn học

Sống trong dòng chảy của văn học, nhà văn luôn đến với cuộc sống để

cảm nhận và khám phá nó.Van Gogh đã từng nói “Không có gì nghệ thuật hơn

bản thân lòng yêu quý con người”, đó là chân lí cuộc sống và chân lí của văn

học. Văn học giúp con người chung sống với nhau bằng tình cảm đẹp đẽ, sự sẻ

chia và cảm thông, nuôi dưỡng tình thương trong con người, lên án những gì chà

đạp lên giá trị con người và đòi quyền con người.

Người phụ nữ từ xưa đến nay về chính trị bị áp bức, về xã hội bị chèn ép

nhấn chìm, về kinh tế thì cam chịu nghèo khổ, về văn hóa bị nam tính tước đoạt

(đàn bà con gái ít được đi học), tư tưởng tình cảm rơi vào trạng thái đè nén. Cho

nên nữ quyền phải đảm nhận sứ mệnh giải phóng phụ nữ trên mọi phương diện văn

học, chính trị học, kinh tế, xã hội học…Trước khi văn học Việt Nam hình thành

dòng văn học viết về nữ quyền thì trên thế giới đã chứng kiến sự phát triển mạnh

mẽ của phong trào nữ quyền-một phong trào đấu tranh vì quyền bình đẳng cho phái

nữ, có ảnh hưởng mạnh mẽ và ăn sâu vào sống văn học, trở thành “chủ nghĩa nữ

quyền trong văn học”.Một số tác phẩm đòi quyền lợi cho phụ nữ như: Một minh

chứng cho các quyền của phụ nữ của Mary Woll-stonecraft (1972) hoặc trong một

21

số bài thảo luận của các tác giả nam giới như Milton, Pope và Rousseau;tác

phẩm Phụ nữ và lao động của Olive Schreiner (1911); tác phẩm Căn phòng

riêng Viginia Woolf (1929) là bức tranh sinh động về những bất công dành cho phụ

nữ trên con đường học vấn và trong vấn đề hôn nhân và làm mẹ. Simone de

Beauvoir với tác phẩm Giới tính thứ hai (1949) là một phần quan trọng trong bức

tranh sinh động về phụ nữ. Simone từng khẳng định“Người ta sinh ra không phải

là phụ nữ, người ta trở thành phụ nữ” [26, tr.256].Câu nói nổi tiếng này cũng đã

khẳng định sự bình đẳng giữa con người với con người, dù nam hay nữ, con người

nói chung đều là sản phẩm của tạo hóa, tạo hóa ban cho họ những quyền như

nhau.Nam giới cũng góp phần tạo nên lối viết nữ như cách thể hiện của một số tác

giả nam giới trong các tác phẩm: Sự khuất phục của đàn bà của John Stuart Mill

(1869) và tác phẩm Nguồn gốc của gia đình của Friedrich Engels (1884).Văn học

nữ quyền ngày nay chính là sản phẩm trực tiếp của “phong trào nữ quyền” thập niên

60. Từ khi khởi phát, bằng những phương thức tối ưu của mình, văn học nữ quyền

ý thức được tầm quan trọng của những cảm nhận từ hình tượng của phụ nữ trong

văn học. Trong ý nghĩa này, phong trào phụ nữ luôn là vấn đề quan trọng liên quan

đến sách vở và văn học.Bên cạnh đó, sự hiện diện của phụ nữ trong văn học được

xem như một trong những hình thức quan trọng của “xã hội hoá”, bởi vì nó đã cung

cấp các vai trò mẫu mực chỉ cho nữ và nam về cái gì tạo nên những quan điểm được

chấp nhận về “nữ tính” và những mục đích, nguyện vọng chính đáng của nữ giới.

Về vấn đề nữ quyền chúng ta cần phân biệt giữa “Chủ nghĩa nữ quyền” và

“Văn học nữ quyền”.Chủ nghĩa nữ quyền (Chủ nghĩa nữ giới, chủ nghĩa duy nữ)

là học thuyết chủ trương nữ quyền dựa trên nền tảng của bình đẳng giới, là một

tập hợp các phong trào và ý thức hệ nhằm mục đích xác định, xây dựng và bảo

vệ quyền lợi chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội một cách bình đẳng cho phụ nữ.

Còn Văn học nữ quyền theo quan điểm của Lưu Tuệ Anh “Không phải tất cả

sáng tác của các tác gả nữ đều thuộc về dòng văn học nữ quyền và sáng tác của

một tác giả nam lại có khi có thể được coi là văn học nữ quyền”. Tiêu chí văn

22

học nữ quyền ở đây là nội dung sáng tác có liên quan đến việc bảo vệ, bênh vực

quyền sống của phụ nữ, giải phóng phụ nữ.

Ở nước ta trước đây, tư tưởng nam quyền trong văn hóa Việt Nam truyền

thống không chỉ tồn tại một cách tự phát trong dân gian mà được chính quyền

phong kiến trung ương khuyến khích, cổ vũ bằng những biện pháp cụ thể, cả trên

thực tế văn hóa và qua văn học nghệ thuật. Phan Khôi cũng đã từng nhận định

văn chương vẫn chỉ dành riêng cho vài đấng nam nhi thi thố: “Xưa nay bất kỳ

nước nào cũng vậy, văn học là phần đàn ông, đàn ông là trung tâm của văn học”

[ 25, tr.57]. Sau này phụ nữ là biểu hiện cho cái đẹp, vẻ đẹp tâm hồn của người

phụ nữ là vẻ đẹp bất tử, người phụ nữ nào cũng mang thông điệp về cái đẹp,còn

“cái đẹp là cái cốt của văn học” cho nên “văn học hay tả về đàn bà”, và từ khi

sinh ra, phụ nữ đã nữ tính, mềm mại yếu đuối, cần được chở che, thiên về bộc lộ

đời sống tình cảm từ bên trong mà văn học là tiếng nói của cảm xúc“nói chuyện

đàn bà thì khiến cho người ta dễ cảm, cho nên nói về đàn bà nhiều hơn” [25,

tr.429]. Từ đó phụ nữ trở thành chủ thể sáng tạo: “Chúng tôi tán thành quan điểm

của tác giả Lưu Tuệ Anh. Không phải tất cả sáng tác của các tác giả nữ đều

thuộc về dòng văn học nữ quyền mà sáng tác của một tác giả nam lại có khi có

thể coi là văn học nữ quyền. Tiêu chí văn học nữ quyền ở đây không phải là giới

tính của tác giả hay giới tính của nhân vật văn học mà là nội dung sáng tác có

liên quan đến việc bảo vệ, bênh vực quyền sống của phụ nữ, giải phóng phụ nữ”.

[63]

Theo dòng chảy của lịch sử văn học Việt Nam,xét từ văn học truyền miệng

đến văn học chữ viết chúng ta đều ghi nhận đối tượng được phản ánh và chủ thể

sáng tạo là nữ. Theo nhận định của nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp, văn học

dân gian vẫn xác nhận vai trò kẻ mạnh của đàn ông so với đàn bà.Xã hội phong

kiến phụ quyền tồn tại hàng nghìn năm, nơi mà tồn tại rất nhiều những quan niệm

bất bình đẳng về người phụ nữ “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng

tử”, quan niệm trọng nam khinh nữ“Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, đã

23

dành mọi ưu tiên, ưu đãi cho người đàn ông và đẩy người phụ nữ xuống địa vị

thấp kém nhất trong gia đình cũng như xã hội. Nỗi niềm ấy được họ gửi gắm vào

những câu ca dao than thân. Số phận của người phụ nữ trong xã hội còn bọt bèo,

lênh đênh, vô định, họ không biết số phận của mình rồi sẽ ra sao, đi đâu, về đâu

khi mang theo mình một địa vị thấp bé, hèn mọn trong xã hội:“Thân em như

giếng giữa đàng/ Người khôn rửa mặt người phàm rửa chân”hay “Thân em như

chổi đầu hè/ Phòng khi mưa gió đi về chùi chân/ Chùi rồi lại vứt ra sân/ Gọi

người hàng xóm có chân thì chùi”.Gắn với nền văn hóa Mẫu hệ, những câu ca

dao dễ dàng được cảm nhận, dễ dàng được ghi nhớ bởi trong đó luôn gắn với

hình ảnh củangười phụ nữ. Qua ca dao, người ta thấy bóng dáng thân thương của

bà, của mẹ, của chị, của em với bao nỗi lòng thầm kín cần được sẻ chia, bao buồn

vui cần được nâng niu trân trọng. Dường như, trong thế giới tâm linh, Đạo Mẫu

là nơi tìm về của những người phụ nữ để được yêu thương, che chở, còn ca dao

chính là một diễn đàn nghệ thuật để những người phụ nữ trải lòng. Nếu điều đó

được xác nhận thì cũng không có gì là lạ khi trong ca dao, hình ảnh của nam giới

chỉ thấp thoáng ẩn hiện, như là đối tượng để người phụ nữ trần tình. Trên nền

những sáng tác ban đầu của văn học dân gian ấy thì xu hướng nữ quyền bắt đầu

được manh nha.

Trong chèo cổ - một loại hình chủ đạo của nghệ thuật sân khấu dân gian

Việt Nam lại là một sân khấu của nữ giới, sân khấu đầy nữ tính mạnh dạn khẳng

định tính nữ quyền trong nghệ thuật.Chính sự e thẹn, khiêm nhường thảo thơm

hiền dịu, thờ chồng nuôi con, khi bị phụ tình cũng chỉ biết nuốt nước mắt, nỗi

buồn vào trong kêu lên khe khẽ "Chàng ơi phụ thiếp làm chi/ Thiếp như cơm

nguội đỡ khi đói lòng" của những người phụ nữ đồng bằng trung du Bắc Bộ,

những người không chỉ đóng vai trò chính trong đời sống gia đình, mà còn là

đề tài, là nguồn cảm hứng bất tận, thúc giục các nho sĩ và các nghệ nhân "viết"

nên những vở chèo cổ nổi tiếng thì những thập kỷ qua, lòng nhân ái của người

24

phụ nữ Việt là cốt lõi của bao cảm hứng văn học, nghệ thuật, là mảnh đất màu

mỡ mà những người làm nghệ thuật trọn đời khai thác vẫn chưa thể hiểu hết.

Sang đến thời kỳ văn học trung đại, trong vòng cương tỏa của tư tưởng

nam quyền cũng đã bắt đầu xuất hiện những tiếng nói phản kháng, lên tiếng bảo

vệ nữ quyền. Trong khuôn khổ một xã hội Nho giáo nam quyền, thực tế sáng tác

văn học giai đoạn này đã cho thấy vấn đềnữ quyền như những tiếng trống được

gióng lên làm xã hội phong kiến lay chuyển, mất đi cái uy quyền tưởng như bất

di bất dịch của nó.Có những người phụ nữ ép mình phải chịu đựng, những cũng

có những người phụ nữ bày tỏ sự không phục của mình như Triệu Thị Trinh đã

từng nói: “ Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém Cá kình ở

biển Đông, quét sạch giặc khỏi bờ cõi, để cứu dân ta ra khỏi nơi đắm đuối, chớ

không thèm bắt chước đám người cúi đầu cong lưng để làm tì thiếp cho người

ta”.Từ thế kỷ XVIII,trong văn học trung đại Việt Nam, việc chống lễ giáo phong

kiến, đòi hạnh phúc lứa đôi và quyền sống con người là vấn đề đã được đặt ra

trong Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều); Chinh phụ ngâm khúc (Đặng

Trần Côn); Truyện Kiều (Nguyễn Du); thơ Hồ Xuân Hương; Sơ kính tân trang

(Phạm Thái); Truyện Phan Trần (truyện Nôm khuyết danh)… Những tác phẩm

này, ở các mức độ khác nhau đều đã lên tiếng tố cáo thứ lễ giáo khắc nghiệt, bất

công đối với người phụ nữ. Đặc biệt phải kể đến Hồ Xuân Hương, bà là người

đặt nền móng cho chủ nghĩa nữ quyền trong văn học Việt Nam, bà lên tiếng

chống lại chế độ đa thê, trọng nam khinh nữ và đặt ra nhu cầu giải phóng bản

năng tính dục ở người phụ nữ.Bà từng bộc bạch nỗi khát khao về một tình yêu

có yếu tố thân xác rõ rệt: Tài tử văn nhân ai đó tá / Thân này đâu đã chịu già

tom (Tự tình 2) và lên án sự bất bình đẳng giới bằng cách khẳng định vai trò, thế

mạnh của người phụ nữ: Ví đây đổi phận làm trai được / Thì sự anh hùng há bấy

nhiêu (Đề đền Sầm Nghi Đống). Có thể nói, Hồ Xuân Hương chính là tác giả nữ

đầu tiên đã có ý thức dùng văn học như một phương tiện để đấu tranh cho nữ

quyền một cách chủ động, dưới một hình thức táo bạo, quyết liệt nhưng vẫn đậm

25

đà vẻ nữ tính của người phụ nữ ViệtNam. Như vậy có thể thấy, văn học trung đại

đã tiếp tục ý thức nữ quyền trong văn học dân gian trước đó. Song, dưới ảnh

hưởng sâu sắc của chế độ phong kiến, tư tưởng Khổng giáo “trọng nam khinh

nữ”, ý thức nữ quyền đi vào chiều sâu nhân văn hơn: đề cập sâu sắc đến quyền

sống của người phụ nữ trong xã hội, tạo tiền đề cho sự bung thoát của văn học

nữ quyền Việt Nam những giai đoạn sau.Chính vì những lẽ đó đã tạo tiền đề cho

văn học nữ quyền phát triển mạnh mẽ hơn ở những giai đoạn tiếp theo.

Thế kỉ XX, chịu sự ảnh hưởng của văn minh phương Tây, chủ nghĩa nữ

quyền lúc này ít nhiều cũng đã thâm nhập vào đời sống con người Việt, cho đến khi

công cuộc đổi mới diễn ra toàn diện thì vấn đề nữu quyền đã bắt nhịp với đời sống

văn học Việt Nam và được tiếp nhận ở hai phương diện: phê bình và sáng tác. Trong

lĩnh vực sáng tác, xuất hiện nhiều những cây bút nữ như Huỳnh Thị Bảo Hòa, Ái

Lan, Huỳnh Anh Thị, Hằng Phương…đặc biệt là tập Răng đen (1943) của nữsĩ Anh

Thơ viết về người phụ nữ Việt Nam được coi là tác phẩm văn xuôi đầu tiên của một

cây bút nữ. Các nhà nghiên cứu thời kì này đã nhận định về tài năng của các cây bút

nữ:“Một Anh Thơ chân tình mộc mạc, một Mộng Tuyết trong trẻo, hồn nhiên, một

Ngân Giang tài hoa cổ kính, một Hằng Phương đằm thắm, ngọt ngào, một Vân Đài

duyên dáng dịu nhẹ… và bấy nhiêu thôi cũng đủ góp phần cho cung đàn thơ ca

Việt Nam thêm đa dạng về âm sắc và giọng điệu” (45, tr.463). Ở những sáng tác

của họ khẳng định được những cái riêng khu biệt với sáng tác của nam giới, trong

mỗi trang viết, các nhà văn nữ được bày tỏ cái tôi mà trước đây họ bị những định

kiến xã hội, những khuôn phép cản trở. Họ có điểm mạnh ở khả năng mà tạo hóa

ban tặng cho họ, bản năng ấy mang đến sự nhạy cảm, cách nhìn nhận cuộc sống

riêng biệt của phái nữ tạo nên một cuộc cách mạng lớn lao và toàn diện, làm thức

tỉnh về ý thức hệ nữ giới. Tuy vậy những sáng tác của họ vẫn chưa đạt đến đỉnh cao

và tạo được những cú nhảy vọt để làm nên một bộ phận thơ ca viết về nữ quyền.

Bên cạnh đó thì có sự xuất hiện của những cây bút nam viết về phái nữ, phải kể đến

tên tuổi của nhóm Tự lực văn đoàn, họ đã cất tiếng nói của mình đòi quyền bình

26

đẳng cho những người phụ nữ dưới góc độ vấn đề nữ quyền. Hình tượng người phụ

nữ tân thời mang tư tưởng mới mẻ, kháng cự lại lễ giáo phong kiến khắt khe là hình

tượng trung tâm trong các sáng tác mang tính luận đề của bút nhóm này. Với bút

pháp lãng mạn, các sáng tác đã đưa người phụ nữ vượt thoát ra khỏi tình trạng tăm

tối, bế tắc, chứa đựng nhiều mâu thuẫn gay gắt của các mối quan hệ xã hội, giành

lấy quyền sống, quyền tự do cho chính mình và tạo dựng nên một viễn cảnh tươi

sáng cho chính họ, đã đóng góp tiếng nói phản kháng sâu sắc, mạnh mẽ quyện lẫn

với khao khát và ước mơ cho một con đường giải phóng phụ nữ, “đoạn tuyệt” với

quá khứ và hướng đến tương lai.Tiêu chí “văn học nữ quyền” ở đây không phải

là giới tính của tác giả hay giới tính của nhân vật văn học mà là nội dung sáng

tác phải có liên quan đến việc bảo vệ, bênh vực quyền sống của phụ nữ, giải

phóng phụ nữ

Sau khi chính sách mở cửa, đổi mới năm 1986 được ban hành, xu hướng

toàn cầu hóa đang ngày càng tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Trong bối cảnh đó, để đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của sự nghiệp giải phóng

phụ nữ, nghiên cứu về giới ở Việt Nam đã có những bước phát triển mới.Tiếp

theo đó là thời kì “âm thịnh dương suy” trong văn học thực sự bùng phát. Sự

mạnh dạn, tự tin, thẳng thắn bộc bạch cái tôi nữ giới đã xác lập được vị thế của

“đặc tính nữ” trong văn học.Ý thức về giới một cách tự giác đã ăn sâu vào tâm

thức của các nhà văn và tạo nên âm hưởng nữ quyền trong văn học. Quan niệm

về nữ quyền trong văn học lúc này được biểu hiện trực tiếp, điểm dễ nhận thấy

nhất đó là ở sự thức tỉnh trong đời sống riêng tư. Khi viết về tình yêu, những

người phụ nữ được khám phá ở mọi cung bậc cảm xúc một cách chân thực, họ

chủ động, quyết liệt giành lấy hạnh phúc, gìn giữ tình yêu, dám là chính mình.

Hình tượng người phụ nữ với những giá trị phẩm chất cũng như giá trị tinh

thần vốn xưa nay thường được nhìn nhận, đánh giá dưới đôi mắt của nam quyền,

thì giờ đây đã được nhìn nhận bằng đôi mắt của chính họ - những người phụ nữ.

Đến nay nền văn học Việt Nam chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ cả về số lượng

27

tác giả lẫn tác phẩm, nhất là tác phẩm của các tác giả trẻ như Phạm Thị Hoài, Lê

Minh Khuê, Võ Thị Hảo, Phan Thị Vàng Anh, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Vi

Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Đỗ Hoàng Diệu, Phong Điệp, Di Li, Nguyễn Ngọc

Tư…Tiêu chí “văn học nữ quyền” ở đây không phải là giới tính của tác giả hay

giới tính của nhân vật văn học mà là nội dung sáng tác phải có liên quan đến việc

bảo vệ, bênh vực quyền sống của phụ nữ, giải phóng phụ nữ. Các tác phẩm thuộc

dòng văn học nữ quyền xoay quanh các vấn đề. Lấy người phụ nữ làm trung tâm

của các tác phẩm văn học, đòi quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc tự do

cho người phụ nữ, thể hiện sự trân trọng những khát vọng của người phụ nữ. Văn

học nữ quyền là thế giới tự do. Ở đây người phụ nữ tụ do phô diễn những khoái

lạc dục vọng của mình. Điều đó cho thấy người ta đã có cái nhìn cởi mở hơn về

vấn đề tính dục, viết về tính dục cũng thoải mái hơn. Khẳng định nhân vị trong

đời sống tình dục trở thành biểu hiện rõ nhất của vấn đề nữ

quyềnbêncạnhtriếtlívềđạođức truyềnthống.

1.3. Mạch nguồn cảm hứng về nữ quyền trong văn xuôi dân tộc thiểu số

miền núi phía Bắc

Theo Từ điển thuật ngữ văn học, cảm hứng là “trạng thái tình cảm mãnh

liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư tưởng xác định,

một sự đánh giá nhất định, gây tác động đến cảm xúc của những người tiếp nhận

tác phẩm” [10, tr.38] . Văn học bắt nguồn từ đời sống và phản ánh đời sống. Khi

văn học chiếm lĩnh đời sống đã tạo ra những hình tượng nghệ thuật mang giá trị

thẩm mỹ cao.Cũng chính vì lẽ đó,văn học phản ánh các quan hệ hiện thực mà

trung tâm là con người. Hình ảnh người phụ nữ miền núi với biết bao đắng cay

khổ cực đã in sâu vào tâm trí các nhà văn, lôi cuốn xúc cảm tạo nên sự sáng tạo

cụ thể, gần gũi và chân thực. Và để tạo nên sự lôi cuốn đó là mạch nguồn cảm

hứng về vấn đề nữ quyền trong văn xuôi DTTS miền núi phía Bắc. Đọc văn xuôi

DTTS, ta thấy người phụ nữ miền núi trong xã hội cũ rơi vào bi kịch về thân

phận và quyền sống của con người. Họ là nạn nhân của xã hội phụ quyền, không

28

thể tự quyết định được số phận của bản thân. Mặc dù vậy nhưng họ đã để lại ấn

tượng sâu đậm trong lòng độc giả bởi sự mạnh mẽ, dũng cảm, niềm khát khao

sống làm chủ bản thân và cuộc đời. Đây cũng là cảm hứng và là nguồn đề tài hấp

dẫn khiến nhà văn DTTS đi sâu khai thác vấn đề nữ quyền. Từ đó vấn đề nữ

quyền cũng là một xu hướng trong văn xuôi DTTS.

Bên cạnh các tác giả người Kinh, vấn đề nữ quyền trong sáng tác của các

nhà văn DTTS cũng thể hiện được những nét đặc sắc riêng mang tính đặc trưng

văn hóa vùng miền, điều này càng làm cho văn học thêm sắc màu, sống động và

tươi mới hơn như nhà văn Vi Hồng đã từng khẳng định: “Một dân tộc dù nhỏ bé

đến đâu họ vẫn có một thế giới tâm hồn rất riêng và chỉ có những con đẻ rất thông

minh và nhạy cảm của dân tộc mới có cơ may khám phá và phát hiện”. [24, tr.63].

Xuất thân là người DTTS nên các nhà văn là người hiểu rõ hơn ai hết thân phận

người phụ nữ miền núi còn bị đè nén, chịu áp bức bóc lột nặng nề trên vùng cao,

nơi mà ánh sáng văn minh chưa soi rọi tới. Con người ở những vùng cao mà đặc

biệt là người đàn ông rất bảo thủ, lạc hậu, ngại tiếp thu cái mới, cái tiến bộ khiến

biết bao người phụ nữ miền núi phải chịu thiệt thòi hơn người phụ nữ miền xuôi.

Muôn vàn định kiến xã hội bủa vây những người phụ nữ nơi đây và nếu nhìn vào

đó ta sẽ thấy một bức tranh tối màu về số phận người phụ nữ vùng cao, họ chỉ là

những con trâu, con bò trong gia đình chồng, đầu tắt mặt tối làm lụng vất vả thậm

chí còn bị đánh đập, không được ra ngoài vui chơi, hưởng thụ, không tự quyết

định hạnh phúc cho mình…Chứng kiến những bất công mà người phụ nữ vùng

cao phải gánh chịu, các nhà văn DTTS đồng cảm với họ, đưa họ vào những trang

văn của mình và nói lên tiếng nói bênh vực phụ nữ.

Vấn đề nữ quyền đã “manh nha” xuất hiện trong những sáng tác thời kì

đầu và mở rộng mạnh mẽ hơn ở những thời kì sau. Minh chứng ở sự đấu tranh

chống lại cái xấu, cái ác trong xã hội như trong sáng tác của Nông Minh Châu.

Thông qua câu chuyện về Ché Mèn, đại diện cho lớp thanh niên tiến bộ đã dám

vượt qua khó khăn, trở ngại, mạnh dạn tìm tòi những hiểu biết về cuộc sống,

29

hăng hái trong lao động sản xuất, mạnh dạn thay đổi những quan điểm lạc hậu

và bảo thủ đến với khoa học kĩ thuật. Hàng loạt các hành động của người phụ nữ

như Đàng, Xo Ao, Lăng Thị Thu Lả trong sáng tác của Vi Hồng dám chống lại

hủ tục lạc hậu như ma gà, ép duyên…để tìm kiếm hạnh phúc. Không dừng lại ở

đó, họ còn dám bước qua ranh giới của bổn phận để thỏa mãn khát vọng bản

năng như: Ún Khưm (Tình Mường Wang - Bùi Minh Chức) khát khao bản năng

được làm vợ, làm mẹ, cô có thai với chính kẻ đã gây ra tai nạn cho chồng mình.

Hành động đi theo ái tình của người vợ vắng chồng (Sau lời hát Sli- Bùi Thị Như

Lan), hành động quyết tâm ra đi tìm hạnh phúc bên người yêu của Líu (Góc trời

tây có cơn mưa đá- Cao Duy Sơn). Ngoài ra, người đọc cũng bắt gặp nhiều nhân

vật nữ với khát khao yêu đương như Ai Hoa (Người trong ống - Vi Hồng), Dình

(Hoa bay cuối trời- Cao Duy Sơn), Xúa (Bồng bềnh sương núi - Bùi Thị Như

Lan)…Cuộc sống của họ là hành trình đi kiếm tìm hạnh phúc vì tình yêu là món

quà tinh thần vô giá cho những người phụ nữ.

Xuất phát từ trái tim nhạy cảm, tấm lòng nhân ái, giàu lòng yêu thương con

người đặc biệt là những người phụ nữ miền núi cao, Vi Hồng, Cao Duy Sơn, Bùi

Thị Như Lan và nhiều tác giả khác đều có chung những trang viết đề cập đến vấn

đề nữ quyền của người phụ nữ vùng cao. Tuy sống trong môi trường vô vàn khó

khăn, phải hứng chịu những bất công, ngang trái trong xã hội nhưng họ không

chịu khuất phục hoàn cảnh “Như một quy luật tất yếu, càng bị đè nén, áp bức, khả

năng sinh tồn của con người càng được tôi rèn, càng được khẳng định, như chiếc

lò xo càng bị nén chặt thì sức bật càng cao để trở về với trạng thái cân bằng tự

nhiên của nó”. Những người phụ nữ luôn mang trong mình một khát khao sống,

dũng cảm và lạc quan dám đứng lên chống lại những hủ tục lạc hậu của xã hội cũ.

Họ khát khao tình yêu, khát khao hạnh phúc đời thường và đặc biệt họ dám bộc lộ

chân thực khát khao tính dục của người phụ nữ miền núi. Tiếng nói của người phụ

nữ trong văn học (từ văn học dân gian đến văn học thành văn) là tiếng nói phản

kháng, lên án và phê phán mạnh mẽ lối xã hội phụ quyền. Là khát vọng được tự

30

do và hạnh phúc trong tình yêu.Là biểu hiện cho cái đẹp, vẻ đẹp bất tử, tổng hòa

của cả vẻ đẹp phẩm chất và ngoại hình.

Qua những đắng cay, khổ cực mà người phụ nữ miền núi phải chịu đựng

chúng ta không chỉ xót xa mà còn cảm phục trước những nghị lực phi thường

của họ.Ở họ hội tụ những phẩm chất cao đẹp nhất của người phụ nữ, thể hiện

chân thực con người mình với những khát khao trần thế, họ luôn có sự trỗi dậy

mãnh liệt của ý thức cá nhân để xác lập quyền bình đẳng của mình.Đọc những

sáng tác văn xuôi viêt về người phụ nữ đặc biệt là vấn đề nữ quyền được đề cập

đến trong sáng tác của, ta sẽ thấy được cảm hứng nhân văn hướng về người phụ

nữ mang thân phận khổ đau, từ đó toát lên vẻ đẹp tâm hồn trong con người họ.

Họ dũng cảm đứng lên đấu tranh bảo vệ quyền bình đẳng. Và với sự đấu tranh

âm thầm, không mệt mỏi của bản thân họ đã chứng minh được một điều rằng

người phụ nữ có thể làm được tất cả khi họ dám đứng lên.

Tất cả những điều nói trên cho thấy sự hoàn thiện về nghệ thuật và mở rộng

về nội dung phản ánh. Qua đó, khẳng định sự trường tồn, phát triển không ngừng

của một nền văn học giàu tiềm năng và sức bật. Có thể nói, khát vọng được “thoát

thai” khỏi những hủ tục lạc hậu mãi là khát khao trường tồn, vĩnh cửu của những

người phụ nữ dân tôc thiểu số. Âm hưởng nữ quyền sẽ không còn vang vọng trong

những tác phẩm thơ văn, đôi chân của người phụ nữ vùng cao không còn chịu bó

buộc trong “gông cùm, xiềng xích” nữa, mà bao trùm lên tất cả sẽ là tiếng hát tươi

vui, là niềm hân hoan bất tận trước cuộc sống tự do, hạnh phúc.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Có thể nói, văn học DTTS đã mang đến rất nhiều thành tựu và sắc thái

riêng biệt cho nền văn học Viêt Nam thời kì hiện đại, đặc biệt phải kể đến những

đóng góp tích cực mà văn xuôi DTTS miền núi phía Bắc mang lại. Qua nghiên

cứu này ta có thể hình dung một cách khái quát những nét đăc sắc và độc đáo

mang niềm tự hào về dân tộc của họ.

31

Những làn sóng đấu tranh của phong trào nữ quyền, các lý thuyết phê bình

nữ quyền trên thế giới xuất hiện từ cuối thế kỷ XVIII và kéo dài cho đến tận ngày

nay như là một minh chứng cho công cuộc đi tìm lại chính mình- tìm lại bản ngã

luôn đau đáu, mòn mỏi và chưa bao giờ ngưng nghỉ của một nửa nhân loại. Trong

lĩnh vực văn học, ý thức về nữ quyền đã ngấm sâu vào mạch ngầm của văn học

dân tộc trước khi có sự du nhập của chủ nghĩa nữ quyền phương Tây. Tuy nhiên

do ý thức xã hội mà vấn đề nữ quyền trước đây mới chỉ dừng lại ở những hiện

tượng văn học đơn lẻ và đây cũng là tiền đề cho văn học nữ quyền phát triển.

Người phụ nữ đã đi vào những trang viết chảy suốt trong văn học từ trước đến

nay và trong văn xuôi DTTS miền núi phía Bắc cũng không ngoại lệ. Bên cạnh

nhiều vấn đề được đặt ra qua cuộc sống của đồng bào miền núi thì vấn đề nữ

quyền là một hướng đi đầy hấp dẫn và chưa bao giờ cũ của các nhà văn

DTTS.Trên tinh thần ấy, những tìm tòi, sáng tạo của các nhà văn dân tộc thiểu

số dù chưa đạt tới sự hoàn hảo nhưng nó đã chứng tỏ bản lĩnh, tài năng và tinh

thần dân tộc của nhà văn trên hành trình hội nhập. Ngày nay, một xã hội công

bằng, bình đẳng, nam nữ bình quyền thì người phụ nữ đã mạnh mẽ hơn, dám

đương đầu, dám đấu tranh cho quyền lợi của chính mình. Tiến hành nghiên cứu

những tác phẩm viết về nữ quyền của một số nhà văn DTTS miền núi phía Bắc

từng bước mang lại thay đổi thực sự cho người phụ nữ đặc biệt là người phụ nữ

miền núi thúc đẩy giải phóng phụ nữ, góp phần vào thành công của cách mạng

dân chủ nhân dân ở Việt Nam. Đây cũng là một hướng nghiên cứu đầy triển

vọng, có ý nghĩa văn hóa sâu sắc.

Chương2

VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN TRONG SÁNG TÁC CỦA MỘT SỐ NHÀ VĂN

DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC

NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NỘI DUNG

Trong các sáng tác của Vi Hồng, Cao Duy Sơn và Bùi Thị Như Lan, nhân

32

vật nữ luôn chiếm một tỉ lệ rất cao và có thể nói đó đã trở thành một hình tượng

chính, thể thể hiện rất rõ tài văn chương, tư tưởng nghệ thuật cũng như tình cảm

yêu quý, trân trọng và cảm thông đối với nguời phụ nữ DTTS. Họ đều là những

người phụ nữ miền núi đẹp người, đẹp nết - một vẻ đẹp tự nhiên, khỏe mạnh,

phồn thực đầy khả năng làm vợ, làm mẹ, làm chủ một gia đình miền núi. Nhưng

hầu hết, họ lại đều là những người có số phận vất vả, kém may mắn. Như Ma

Văn Kháng đã từng gọi người phụ nữ miền núi là; “Biểu trưng cho sự khốn cùng

của nhân loại”. Song điều đáng quí ở những người phụ nữ này là: dù luôn phải

đối mặt với những khó khăn, thách thức của cuộc sống lạc hậu, đói nghèo, đầy

bất trắc nhưng họ chưa bao giờ mất đi niềm tin vào cuộc sống, họ vẫn luôn cố

vượt qua, vươn lên với mong muốn, khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn,

hạnh phúc hơn.Hiểu được sự thiệt thòi, vất vả, không được tiếp xúc với ánh sáng

văn minh, điều kiện mở mang dân trí thấp, tồn tại những rào cản về phong tục

tập quán, ngòi bút của Vi Hồng, Cao Duy Sơn, Bùi Thị Như Lan đã cất lên tiếng

nói bênh vực nữ quyền, đòi quyền bình đẳng cho phụ nữ vùng cao thời kì đất

nước trở mình phát triển.

Trong chương này, chúng tôi chủ yếu đi sâu tìm hiểu vấn đề nữ quyền

trong sáng tác của Vi Hồng, Cao Duy Sơn và Bùi Thị Như Lan. Vấn đề tư tưởng

và quan điểm của nhà văn thể hiện trong chiều sâu suy tư, triết lí. Đề cập đến vấn

đề nữ quyền, các nhà văn đều thể hiện sự nhìn nhận, đánh giá rất chân thật và

cảm động thông qua ba luận điểm chính đó là hình ảnh người phụ nữ với cuộc

chiến chống lại những hủ tục lạc hậu, người phụ nữ với khát khao hạnh phúc đời

thường và người phụ nữ với bản năng tính dục. Dấu hiệu về vấn đề nữ quyền

thấy rõ đó là hầu hết các nhà văn đều đi tìm cho mình những người phụ nữ mạnh

mẽ, chủ động.

2.1. Nữ quyền trong cuộc chiến chống lại những hủ tục lạc hậu

Khi suy nghĩ “trọng nam khinh nữ” từ ngàn đời xưa đã ăn sâu vào trong

tiềm thức và tư tưởng người Việt thì đó là nguyên nhân sâu xa dẫn đến những bi

kịch số phận của người phụ nữ. Bị rằng buộc bởi vô vàn lễ giáo phong kiến hà

33

khắc, người phụ nữ không được quyền quyết định số phận của mình, họ phải

chấp nhận sống phụ thuộc. Họ mang đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp nhưng

không được xem trọng, không được hưởng những hạnh phúc mà đáng lẽ họ phải

có... Chính vì hoàn cảnh bất hạnh đó mà lâu nay đã trở thành tiếng kêu bi thương

và ái oán như Đại thi hào Nguyễn Du đã từng phải thốt lên:

“Đau đớn thay phận đàn bà,

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

Biết được điều ấy, người phụ nữ không còn cách nào khác là phải đấu

tranh cho quyền sống của mình. Ta sẽ gặp tất cả những điều này qua lăng kính

của văn học, đặc biệt là văn học nữ quyền nói chung và vấn đề nữ quyền trong

sáng tác của nhà văn DTTS nói riêng.

Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, cuộc sống nhân dân vô cùng tăm

tối “một cổ hai tròng” trong cảnh nước mất nhà tan. Sự thực lịch sử về cuộc sống

của những người nô lệ mất nước “Trong bối cảnh chung đó, cuộc sống của người

dân miền núi còn chịu nhiều đau khổ hơn người Kinh nhiều lần bởi ngoài sự áp

bức, thống trị của chế độ thực dân, họ còn là nạn nhân của sự lạc hậu, u mê, tăm

tối với đủ mọi tập tục cổ hủ, mê tín. Cường quyền đã kết hợp với thần quyền để

bóp nghẹt cuộc sống con người trên những bản làng hẻo lánh, xa xôi. Đâu đâu

cũng là cảnh sống tối tăm đầy uất ức của những thân phận bị tước đoạt tự do,

đầu độc tinh thần.” [13].Sinh sống ở vùng núi cao, điều kiện địa lý khó khăn,

ngoài sự áp bức bóc lột của chế độ thực dân họ còn là những nạn nhân của sự lạc

hậu, u mê. Trên những bản làng là cảnh địa ngục tăm tối, ở đâu cũng thấp thoáng

bóng ma khiến họ sợ hãi: thần linh, ma trời, ma đất, ma gà, ma rừng… người dân

bị tước đoạt tự do, bị đầu độc về tinh thần…Và có lẽ cho đến bây giờ, chịu nhiều

đau khổ nhất là những người phụ nữ. Hủ tục bắt nguồn từ đời sống tinh thần của

con người, tồn tại qua hàng ngàn năm lịch sử, là những phong tục tập quán đã

lỗi thời, lạc hậu, là những thói hư, tật xấu làm cho xã hội bị trì trệ, kém phát triển.

Những hủ tục trở thành vật cản, là gánh nặng từ đời này qua đời khác đối với các

34

cộng đồng người, nhất là người DTTS. Các tác giả DTTS năm bắt được điều đó

và nhanh chóng đưa vào tác phẩm của mình, họ lên tiếng bảo vệ phụ nữ. Ngay

trong những năm đầu xây dựng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, nhà văn Nông

Minh Châu đã tái hiện sinh động hình ảnh người con gái DTTS đã mạnh dạn thay

đổi phương thức sản xuất, đã vượt qua rất nhiều cản trở từ những hủ tục, nếp

nghĩ và thói quen lạc hậu ăn sâu và tiềm thức người dân miền núi cao như sự phụ

thuộc vào thần linh, vào Giàng…để thay đổi cuộc sống ở miền núi. Ché Mèn,

một cô gái trẻ trung, xinh đẹp, lúc nào cũng bẽn lẽn, e thẹn:“Nói với ai cũng cúi

mặt xuống, mân mê vào bàn tay mới nói”.[6,tr.354]. Tuy nhiên ẩn sau vẻ đẹp đó

lại là một cô gái quyết đoán, dám chống lại cái cũ kĩ, lạc hậu, dám làm những gì

mà mình cho là đúng. Giữa lúc mọi người đang tìm cách chống hạn cho cây lúa

thì Mèn đã làm theo chủ trương của phân đoàn phụ nữ. Mặc cho sự trách mắng

của mọi người, sự can ngăn của bố mẹ, Mèn vẫn quyết tâm làm theo chủ trương

mà phân đoàn đưa ra chứ cứ ngồi đợi trời mưa thì biết đến bao giờ. Bỏ ngoài tai

những lời nói của mọi người, Mèn bắt tay vào công việc, cô gánh đôi sọt lên vai

để ra đồng cấy mạ, cô muốn chứng minh cho mọi người thấy quyết định của

mình là đúng. Cuối cùng, khi đã trải qua những khó khăn, thử thách, Mèn đã

khẳng định được mình.Có lẽ đây cũng là âm vang bước đầu cho vấn đề nữ quyền

được vang vọng trong văn xuôi DTTS.

Vi Hồng là một cây bút tiêu biểu của văn xuôi các DTTS miền núi phía

Bắc. Ông là nhà văn có sức sống dẻo dai và một sựsáng tạo miệt mài. Suốt quá

trình lao động nghệ thuật không mệt mỏi, ông đã cho ra đời 15 cuốn tiểu thuyết

và 8 truyện ngắn. Ông đặc biệt dành những trang viết của mình cho nhân vật

người phụ nữ. Vi Hồng là nhà văn dân tộc Tày viết về người phụ nữ DTTS trong

suốt một thời gian dài từ những năm trước cách mạng tháng Tám đến TK XX,

và chủ yếu là hình ảnh người phụ nữ dân tộc sau chiến tranh. Nhìn lại sự nghiệp

văn chương của Vi Hồng, chúng ta càng trân trọng hơn khát vọng sáng tạo luôn

rực cháy trong con người ông. Những nhân vật nữ trong văn xuôi của Vi Hồng

35

rất đa dạng, với nhiều dân tộc khác nhau: Tày, H”Mông,.. có nhiều tính cách và

số phận khác nhau. Ám ảnh trong văn xuôi của Vi Hồng là nhân vật phụ nữ

DTTS có nhan sắc nhưng bất hạnh, chủ yếu là bất hạnh trong tình yêu nhưng có

sức sống mãnh liệt, dũng cảm trong hành trình chống lại số phận và những điều

ngang trái ở đời. Chính vì thế có thể khẳng định cảm hứng nữ quyền là cảm hứng

chủ đạo, vấn đề nữ quyền luôn là vấn đề trọng tâm trong sáng tác của Vi Hồng.

Tận mắt chứng kiến những hủ tục trên vùng cao, những chàng trai, cô gái

bị gán cho có “ma gà” thôi thúc Vi Hồng viết lên những trang văn đẫm nước

mắt. Ông mong muốn bằng ngòi bút của mình đem đến ánh sáng văn minh cho

những con người nơi đây. Trong Vãi Đàng, người đọc có thể thấy được nhân vật

Đàng là một chân dung tiêu biểu của người phụ nữ Việt Bắc, là nạn nhân của hủ

tục, của mê tín với những nỗi khổ chồng chất. Nhà nghiên cứu văn học Lâm Tiến

đã từng nhận xét: “Với Vãi Đàng của Vi Hồng, lần đầu tiên số phận của người

phụ nữ Tày trước Cách mạng tháng Tám đã đi vào văn học Việt Nam hiện đại”

(27, tr.61). Đàng là một cô gái người dân tộc Tày, xinh đẹp, gia đình vốn giàu có

nhất Tổng Rì, nhưng vì bố Đàng nghiện thuốc phiện nên của cải trong nhà đội

nón ra đi. Đang sống trong một gia đình khá giả, bỗng chốc đói nghèo, đó được

xem như bi kịch đầu tiên của cuộc đời Đàng. Lợi dụng hoàn cảnh đó của cô, phó

chánh tổng Vọi ép cô về làm vợ bé nhưng cô không chịu. Đàng bị nhà tổng Vọi

vu cho là có ma gà:“Thời ấy những người bị nghi là có ma gà bị mọi người xa

lánh, hắt hủi. Con trai thì ế vợ, con gái ế chồng không ai dám lấy” [37, tr.177]

Bị mọi người xa lánh, Đàng đau khổ, những khóc mãi cũng không thể thoát ra

khỏi bi kịch, Đàng phải bỏ quê ra đi, Đàng tự nhủ: “Ta phải sống, sống ở quê

hương không được thì ta đi…đến bao giờ không thể sống, không nẻo sống thì

chết!” [16, tr.17]. Rồi gia đình Đàng cũng tìm được cuộc sống mới, tưởng sẽ

không ai biết được đến quá khứ của Đàng, sẽ sống yên ổn, hạnh phúc sẽ đến.

Nhưng Tổng Nhự xuất hiện, hắn ép Đàng phải làm vợ lẽ và Đàng có con với hắn.

Không chịu khuất phục, Đàng tìm cho mình một con đường sống có ích, Đàng

36

báo tin cho những người cộng sản thoát khỏi sự vây bắt của kẻ thù. Cứ tưởng

những bất hạnh đến với Đàng như thế là quá đủ thì trong bữa tiệc đầy tháng của

con Đàng, phó chánh tổng Vọi được mời đến và nhận ra Đàng, một lần nữa lại

bị đổ tiếng là ma gà. Đàng bị xích chân vào mảng đóng bè trôi sông trong tủi

nhục, đau khổ cùng sự khinh bỉ của tất cả mọi người. Khát khao được sống trỗi

dậy khiến Đàng không thể buông xuôi, cô kêu cứu nhưng không một ai giúp đỡ.

Trong hoàn cảnh đó, một lần nữa Đàng không tuyệt vọng, chính tình mẫu tử

thiêng liêng và tình yêu cuộc sống khiến người phụ nữ nhỏ bé không thể chết,

“Đàng nghĩ: Còn sống ngày nào thì hãy ăn để lấy sữa nuôi con” [16, tr.68] . Cô

cầu giúp sự giúp đỡ của mọi người và cố gắng sống. Nghị lực và niềm tin vào

tương lai thể hiện sức sống mạnh mẽ của Đàng, cô quyết chống lại hủ tục lạc hậu

đã giết chết bao cuộc đời người con gái miền núi.Người phụ nữ DTTS đặc biệt

là lớp trẻ có học vấn trong các sáng tác của Vi Hồng đã ý thức được điều đó và

đã dũng cảm đi đầu trong việc bài trừ hủ tục. Trong Đất bằng, Nhình cùng lớp

thanh niên trẻ đã đấu tranh với mê tín dị đoan để mọi người trong bản thoát khỏi

sự sợ hãi về lời nguyền. Then Kỳ “là một học sinh giỏi có tiếng cả tỉnh” nhưng

gia đình cô không cho cô đi học mà bắt đi làm then. Không chấp nhận điều đó,

Kỳ đã bỏ nghề then, về với cuộc đời để được sống và được yêu thương, Kỳ thẳng

thắn tuyên bố là “Chẳng có ma quỷ nào cả” [15, tr.150]

Trước Vi Hồng thì Tô Hoài cũng là một nhà văn đi tiên phong và rất thành

công khi phản ánh những hủ tục lạc hậu ở miền núi qua hình ảnh người phụ nữ.

Ông tái hiện những người phụ nữ mà bao trùm cuộc sống của họ là nạn mê tín dị

đoan. Dường như ở đâu cũng thấp thoáng bóng ma.Người phụ nữ qua trang viết

của Tô Hoài chỉ còn một cách duy nhất là trốn chạy.Nhân vật Mảy (Tuổi trẻ

Hoàng Văn Thụ) bị đồn là nhà có ma gà nên dù có xinh đẹp nhưng không ai

dám đến gần. Bỏ cả người yêu để cùng gia đình chạy trốn tiếng ma gà. Hay Bà

Giàng Súa (Miền Tây), bị cả bản đồn là có ma chài và phải trốn vào sống trong

rừng. Mặc dù là người Kinh, nhưng viết về miền núi với tất cả tâm huyết của

37

mình, Tô Hoài đã cho người đọc thấy những người phụ nữ miền núi cần được

giải phóng như thế nào.

Trong xã hội phong kiến miền núi xuất hiện rất nhiều những cuộc hôn

nhân gượng ép trong đó nạn nhân chính là những người phụ nữ bé nhỏ, bất hạnh.

Họ không có quyền định đoạt và lựa chọn tình yêu cho riêng mình. Bởi vậy,

không hiếm những tác phẩm đề cập đến sự mâu thuẫn giữa hôn nhân và tình

yêu.Viết về hủ tục ép duyên hay rẽ duyên đôi lứa trong xã hội miền núi, ngòi bút

của các nhà văn DTTS đã khám phá, phát hiện để từ đó có được những trang văn

sống động và chân thực về hiện thực này. Một nét chung dễ nhận thấy đó là các

nhân vật nữ, bằng cách này hay cách khác và dù có phải chết cũng dũng cảm

đứng lên chống lại hủ tục.Đề cập đến những hủ tục lạc hậu, lỗi thời, dường như

ngòi bút của Vi Hồng đầy những âu lo, trăn trở cho số phận người phụ nữ. Lăng

Thị Thu Lả (Lòng dạ đàn bà) dám chống lại hủ tục ép duyên, trốn về với người

yêu. Lả bị gia đình ép gả cho Tu: “Ngày cưới đã đến trước của, Lả sống một

mình, sống cô đơn như bị nhốt trong tù ngục. Vì bố mẹ, họ hàng không cho Lả

được đi chơi. Và cũng cấm luôn cả bạn bè đến choi với Lả,,,”.[18, tr.47- 48]Kiên

quyết chống lại gia đình, Lả đã đến nhà Nghít, sống với Nghít như vợ chồng.

Chứng kiến hình ảnh những người phụ nữ bị bủa vây bởi hủ tục lạc hậu nơi miền

núi cao, Vi Hồng đã thương cảm cho số phận bất hạnh của họ,Vi Hồng đã phải

thốt lên rằng: “Những hủ tục lạc hậu, lỗi thời, già cỗi như những cây cổ thụ chết

đứng giữa rừng…có khi cây đứng đó hàng trăm năm sau. Trăm năm sau cành lá

rụng rời xuống đất, mục hóa thành đất thành bụi, nhưng thân cây vẫn sừng

sững”.[23, tr.68]

Người đọc gặp lại La Bội Hoan trong Đọa đầy cũng vậy, cô đến với Đào

Ki Nọi bằng tình yêu chân thành. Dù gia đình có ngăn cấm bằng cách nhốt Bội

Hoan vào buồng kín, bắt cô lấy con của một gia đình giàu có… thì cô vẫn quyết

bảo vệ tình yêu của mình. Cô trả lời bố một cách đanh thép: “Bố giết con thì con

vẫn lấy anh Ki Nọi” [22, tr.14]. Đòn roi và tục lệ hà khắc từ phía gia đình không

38

ngăn cản được tình yêu trong sáng của cô, thế mới thấy khát vọng được sống

trong tình yêu của Bội Hoan mãnh liệt biết chừng nào.Hình ảnh cô băng qua

những cánh rừng âm u mặc kệ mọi nguy hiểm rình rập, chân tay chảy đầy máu,

vừa đi vừa gọi tên người yêu cho ta thấy khát khao hạnh phúc trong người phụ

nữ nhỏ bé phi thường.

Trong tiểu thuyết Nắng vàng bản Dao, Triều Ân đã xây dựng thành công

hình tượng người phụ nữ dám chống lại những hủ tục đã ăn rất sâu, ảnh hưởng

rất nặng đến cuộc sống đồng bào miền núi. Cô giáo Lan là người dân tộc Tày,

tuổi trẻ của cô mang đầy nhiệt huyết, tận tụy với nghề, với học trò. Cô tiêu biểu

cho lớp trí thức tiến bộ, chấp nhận đánh đổi tình yêu, khát vọng hạnh phúc gia

đình để mang đến ánh sáng khoa học, tri thức văn hóa cho người dân miền núi.

Từ khi lấy chồng, cuộc đời cô bước vào muôn vàn những khó khăn. Ngay trong

ngày cưới cô đã phải trải qua những thử thách của me chồng: rước dâu phải đi

lối cửa sauvì mặc đồ trắng xui xẻo, gánh nước suối đun nước cho mẹ chồng rửa

mặt nhưng không phát hiện ra kim khâu mẹ chồng bỏ ở đáy thùng nên thân phận

“chỉ còn trị giá bằng hai con trâu”… Cô chịu rất nhiều những tủi hờn vì bà mẹ

chồng cổ hủ. Không dừng lại ở đó, khi Lan cùng chồng xây xong nhà vệ sinh

kiểu mẫu theo chủ trương, chính sách của Đảng ủy xã thì mẹ chồng cô làm toáng

lên, cho rằng cô là con quỷ đang làm loạn. Bước qua muôn vàn khó khăn, cô âm

thầm đấu tranh gạt bỏ những tư tưởng lạc hậu, thiếu tính khoa học và hi vọng sẽ

làm thay đổi được suy nghĩ của mẹ chồng.Bằng chứng là cô đã thuyết phục được

Piao đi chữa bệnh ở bệnh viện đông y, giải tỏa mối nghi ngờ trong lòng chồng

chứ không phải chữa bệnh bằng những tục lệ cúng bái mà mẹ chồng đặt ra. Đối

lập với suy nghĩ, việc làm của Lan là những việc làm luôn gắn với tư tưởng mê

tín dị đoan của mẹ chồng cô. Lan có thai, mẹ chồng Lan xuống làng người Tày

đón bà then lên làm lễ “bắc cầu xin hoa” rất tốn kém. Người Dao có tục “kin

chai”, dăm năm lại có một lần nhưng là năm nào thì lại do thầy mo hoặc bà then

quyết định. Năm ấy cả làng xóm phải mổ hết chó, mèo, gà vịt đang có, một thời

39

gian sau mới nuôi gây lại. Lan đã không làm theo mà mang gà xuống trường nuôi

nên mẹ chồng cho cô là yêu quái nên mới ăn gà đã thành tinh. Lễ đầy tháng hai

cháu bà đưa cho Lan “xâu bánh nếp cóoc mò đi bán xúi” cho nhà ông Quải để

trả thù xưa, nhưng Lan lại treo lên cây cho thú rừng ăn... Qua những việc làm

của mình, Lan đã thể hiện được thông điệp của nhà văn đó là mang tri thức văn

hóa cho người dân vùng núi cao, là nỗ lực đấu tranh chống hủ tục lạc hậu nơi

miền núi:“Phải để ánh sáng khoa học rọi vào những khoảng trống tối tăm mê

tín dị đoan, vào những tập tục lạc hậu, vào thói bảo thủ nhỏ nhen...”.

Cao Duy Sơn cũng là một nhà văn DTTS nặng lòng với vùng cao và cụ thể

là với mảnh đất Cô Sầu (Trùng Khánh- Cao Bằng). Những tác phẩm của ông đều

được ra đời với cái hồn đất, hồn người nơi đây và ông khẳng định: “Cả đời tôi chỉ

đeo đuổi đề tài về người miền núi”. Bản thân ông là một con người khiêm tốn khi

nói về mình: “Bản thân tôi, một người con của miền núi, vậy mà cũng chỉ dám

nhận là đang trong quá trình tích lũy, khám phá để mã hóa những vỉa tầng văn

hóa nguyên bản, hồn nhiên của người dân tộc đưa vào những trang văn”. Trong

các sáng tác của Cao Duy Sơn, viết về người phụ nữ miền núi cũng là một đề tài

mà ông tâm đắc. Mặc dù là một cây bút nam nhưng người đọc cảm nhận được ông

như hóa thân vào những người phụ nữđể đồng cảm và sẻ chia. Biết bao số phận

những người phụ nữ phải chịu nỗi đau của cảnh bị ép duyên, sống với người mình

không yêu, sống một cuộc đời tàn héo đến chết. Cụ thể hơn trong truyện ngắn Cao

Duy Sơn là phố huyện Cô Sầu vẫn còn tồn tại hủ tục lạc hậu trong hôn nhân và sự

thiếu hiểu biết cũng đã đẩy bao thân phận người phụ nữ đến bước đường cùng

khiến họ phải tìm cách chống lại. Đồng bào người Tày ở Cô Sầu có quy định rằng:

dù có được gia đình đồng ý, họ hàng chấp thuận nhưng nếu vợ chồng mà chưa có

con thì không được về sống với nhau chung một mái nhà. Chỉ khi nào người con

gái ấy có con thì mới được công nhận là con dâu, được chồng đón về sống chung.

Đây là một tục lệ vô lý dẫn đến bi kịch của Lu trong truyện ngắn Song sinh. Hay

là nhân vật Ếm (Chợ tình), Ếm bị gia đình ép gả cho người khác khiến tình yêu

40

với Sinh tan vỡ.

Trong tiểu thuyết Người lang thang, Diên yêu Ngấn nhưng bị cha mẹ ép

lấy Phắn- một gã trai bản xấu xa. Trái tim yếu đuối của Diên không thể vượt qua

sự sắp đặt của cha mẹ. Diên nói với Ngấn “Em như con chim bị bắt nhốt vào

lồng, tiếng hót thì buồn, bầu trời thì mất. Lộc mệnh thày tảo đã lấy gửi cho bàn

thờ họ nhà trai, họ đã gộp hai làm một. Pa mé không thể nuốt lời hứa được nữa.

Tình anh, em mang theo đến chết” [47, tr.171]. Sau hôn nhân, cuộc sống của

Diên là những chuỗi ngày tẻ nhạt. Cuối cùng để giải thoát cho những đau khổ

mình phải chịu đựng, cô chọn cách “Nắm tay con gái chạy vụt ra khỏi nhà. Phía

sau là quá khứ khổ đau, là giả dối, là tình yêu đã mất” [47, tr.350].Thông qua

hủ tục lạc hậu này, Cao Duy sơn phản ánh một hiện thực rằng xã hội miền núi

dù có nhiều biến đổi nhưng trong lòng xã hội ấy vẫn còn tàn dư của những hủ

tục kìm kẹp con người.

Cùng đồng cảm với Vi Hồng và Cao Duy Sơn, Bùi Thị Như Lan cũng tập

trung phản ánh số phận người phụ nữ trên vùng cao và nói lên tiếng nói bảo vệ

nữu quyền cho họ. Nhà văn Hoàng Quý đã từng chia sẻ: “Chúng ta nghe thấy sau

những trang văn kia là cả những tiếng thở dài, cả phập phồng của khí trời, thiên

nhiên, cây cỏ vùng cao, cả những buồn vui, khổ đau trong mỗi số phận người”.

Bùi Thị Như Lan là nhà văn nữ quân đội người dân tộc Tày, chị hay viết về đề tài

cuộc sống con người miền núi phía Bắc, nhất là những số phận của người phụ nữ.

Là lớp nhà văn trưởng thành và có nhiều đóng góp cho sự phát triển của văn học

DTTS. Tác phẩm của chị cuốn hút người đọc bằng sự quan sát sắc sảo, tình cảm

yêu quý cùng và sự cảm thông sâu sắc với những thân phận bất hạnh của người

phụ nữ vùng cao. Bùi Thị Như Lan cũng đã nói lên tiếng nói của mình bảo vệ nữ

quyền cho người phụ nữ thông qua cuộc chiến chống lại hủ tục lạc hậu của người

phụ nữ miền núi. Nhân vật Xúa trong truyện Bồng bềnh sương núi, khi bị cha

ngăn cấm tình yêu, Xúa đã chạy trốn, cô quyết tâm rời bỏ nơi mà hủ tục về hôn

nhân luôn đè nặng lên những người con gái: “Cô chạy xuống núi, bàn chân không

41

giầy cứ thế băng băng trên đường đá gập ghềnh. Đá cứa vào lòng bàn chân, đá

dứt từng mảng da ở ngón chân cô, Xúa chạy qua ngày sang đêm, chạy đến lúc cái

chân không dẫm lên đá, trên sỏi mà lún ngập xuống những thửa ruộng bằng

phẳng…”[31, tr.32]. Đây là hành động quyết liệt của Xúa để bảo vệ tình yêu trước

mọi rào cản, thách thức của cuộc đời. Một tình yêu vẹn tròn, một hạnh phúc lứa

đôi không phải là một khát vọng gì đó quá cao sang mà ngược lại rất đời thường

như bao khát vọng khác. Trong Hoa Mía, Mế Sang và bố Sang lấy nhau, nhưng

do hủ tục nên hai người vẫn chưa được ở cùng nhau : “Phong tục vùng này, con

gai lấy chồng vẫn phải ở nhà mình, lúc có con trai mới làm lễ rước con dâu và

cháu nội. Chú rể sau lễ cưới phải về nhà mình, đến rằm tháng bảy, đốt mã trước

cửa mả tổ tiên, ông bà và Tết cổ truyền đón xuân thì sang nhà gái, ở với vợ vài

ngày, cứ thế cho đến lúc có con, vợ chồng mới được sống cùng nhau” [29,

tr.21].Nhưng đến ngày bố Sang phải đi bộ đội, mọi đau khổ Mế Sang phải gánh

chịu, bụng Mế to dần, bị mọi người dân trong nhìn với con mắt chê bai, khinh

thường nhưng Mế Sang vẫn mạnh mẽ, nuôi con một mình và khi biết chồng đã hi

sinh ở chiến trường, một lần nữa người phụ nữ cam chịu ấy đã nén đau thương

nuôi dậy đứa con trưởng thành. Hay trong câu chuyện của Mây, Mây có con với

Dầm nhưng bố mẹ Dầm không chấp nhận. Xuất phát từ tình mẫu tử thiêng liêng,

Mây đã phải chịu đựng rất nhiều điều tiếng để nuôi và bảo vệ đứa con của mình.

Mây đã vượt mọi định kiến xã hội để tiếp tục sống. Đây quả là cô gái dũng cảm,

có nghị lực sống phi thường. Những hủ tục đã đẩy người phụ nữ xuống vực thẳm,

tuy vậy, những người phụ nữ miền núi trong sáng tác của Bùi Thị Như Lan đều

cố gắng vượt qua khó khăn trong cuộc sống, để nuôi con, làm tròn bổn phận của

mình. Mỗi câu truyện là một mảnh đời người phụ nữ khác nhau, họ càng gặp khó

khăn, thử thách thì lại càng cố gắng vượt qua mọi hủ tục để tiếp tục hi vọng vào

tương lai tốt đẹp hơn. Họ không bao giờ đầu hàng số phận, không bao giờ yếu

đuôi, u uất tìm đến cái chết để trốn chạy khỏi hoàn cảnh khó khăn. Có lễ đây cũng

là một nét đặc trưng cho “chất lính” của cây bút nữ quân đội Bùi Thị Như Lan.

42

So với người phụ nữ miền xuôi và các vùng DTTS khác trong cả nước,

người phụ nữ miền núi phía Bắc trên mọi phương diện đều chịu khó khăn hơn

nhất là với những hủ tục lạc hậu nơi đây đã gò bó và thắt chặt người phụ nữ khiến

họ không thể phát huy khả năng của mình. Sinh sống của người dân tập trung

chủ yếu ở các bản vùng cao, vùng sâu, vùng xa, cuộc sống tự cung tự cấp với

thiên nhiên khắc nghiệt. Hệ tư tưởng bảo thủ, lạc hậu và quan niệm, học không

giúp cho “cái bụng no được” nên trước dây, việc tiếp cận các kiến thức khoa học

càng khó khăn. Các hủ tục lạc hậu thường xuyên xảy ra. Hiểu được điều đó, các

nhà văn DTTS đã dũng cảm phê phán những định kiến, tập tục cổ hủ, lạc hậu thể

hiện thái độ nhân đạo và tình yêu thương tha thiết với nhũng người phụ nữ nơi

đây. Thể hiện vấn đề nữ quyền trong văn học, hướng tới một đời sống văn hóa

văn minh và tốt đẹp hơn, các nhà văn DTTS đã kiến tạo nên những người phụ

nữ hiện đại với sự thức tỉnh, khát vọng cá nhân, khẳng định giá trị sống của mình

là một cách để nhà văn đối thoại lại với hủ tục cũ.

2.2. Nữ quyền trong khát khao hạnh phúc đời thường

Không chỉ đấu tranh chống lại những hủ tục lạc hậu, vấn đề nữ quyền còn

thể hiện qua sự chủ động kiếm tìm hạnh phúc cho mình, dám bày tỏ tình yêu và

dám đấu tranh bảo vệ tình yêu của mình. Khát khao hạnh phúc vốn là thứ khát

vọng đẹp đẽ và chính đáng của người phụ nữ. Khát khao hạnh phúc bình dị đời

thường của những người phụ nữ dân tộc thiểu số không phải là thứ gì đó cao xa

mà chính là: khát khao một tình yêu trọn vẹn, hạnh phúc lứa đôi, khát khao được

làm vợ, làm mẹ, được sống một cuộc sống tốt đẹp, yên bình.

Yêu và khát khao được yêu đã trở thành một trong những đề tài thường

trực trong sáng tác của Vi Hồng. Chẳng thế mà “ những chương, đoạn anh viết

về tình yêu thương là những chương, đoạn hay nhất và được anh trau chuốt nhất

về mặt tư duy và ngôn từ” [38, tr.277]. Khát khao được gắn bó, chở che trong

tình yêu, khát khao được gắn bó với người mình yêu và cuộc sống trên hành trình

kiếm tìm hạnh phúc đích thực. Lăng Thị Thu Lả trong Lòng dạ đànbà cũng chủ

43

động trong tình yêu của mình. Lần đầu gặp gỡ, Lả đã phải lòng Linh Thang

Nghít. Yêu Nghít đắm say, Lả đã nói ra lòng mình với Tu. Mặc dù bị gia đình

ngăn cấm, đánh đập nhưng Lả nhất định không chịu lấy Tu. Khát khao hạnh phúc

với trái tim chân thành đã khiến cô bỏ trốn đến nhà người yêu. Đọc Lòng dạ

đàn bàta sẽ thấy Lả vì khát vọng được sống bên người mình yêu mà cô đã sẵn

sàng hi sinh tất cả dù sau này Lả có bị phản bội. Vi Hồng cho ta thấy sau những

đau đớn, xót xa kia là niềm tha thiết với tình yêu, niềm tin vào tình yêu chân

thành.Trong Đi tìm giàu sang, hình tượng nhân vật bà Lai cũng là biểu hiện tập

trung nhất khát vọng hạnh phúc và sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của người phụ

nữ miền núi. Bà Lai là một người phụ nữ góa bụa, không muốn lệ thuộc vào sự

giúp đỡ của người khác mà muốn tự vươn lên bằng chính kiến thức và sức lao

động của mình. Bà Lai yêu công việc, yêu lao động và điều đó thể hiện tình yêu

cuộc sống mãnh liệt. Ở nhân vật này có sự cộng hưởng của khát khao hạnh phúc

cá nhân với khát khao cống hiến cho lợi ích cộng đồng. Nhân vật nữ trong văn

xuôi của Vi Hồng được xây dựng trên nhiều phương diện mà có lẽ nhận được sự

cảm thông của người đọc nhất đó là khát vọng về tình yêu, hạnh phúc. Họ luôn

khao khát một tình yêu tự do, đó cũng là lí do khiến đa số người phụ nữ luôn chủ

động trong việc kiếm tìm tình yêu cho mình. Họ sẵn sàng lao vào khổ cực, khơi

nguồn và thổ lộ tình cảm khi con tim mách bảo. Đây cũng là một lối đi mới mà

nhà văn muốn giúp những người phụ nữ Tày bước qua những định kiến để làm

mình hạnh phúc.

Người phụ nữ dù trong điều kiện hoàn cảnh nào cũng chỉ muốn có được

sự an ủi, đồng cảm, chia sẻ từ những người bạn khác giới. Những cô, những nàng

trong Người đàn ông duy nhất, Tim vỡ, Nàng tiên xanh xao của Võ Thị Hảo;

người đàn bà trong Chợ rằm dưới gốc dâu cổ thụ, Đàn bà sinh ra từ bóng đêm

của Y Ban đều chỉ mong muốn có được một người đàn ông chân chính để gửi

trọn tình yêu thương. Nhân vật Tho trong Người đàn bà kể chuyện, Không Bé

trong Đàn bà của Lý Lan, dẫu mỗi người đều mang một bi kịch khác nhau, nhưng

44

đều có chung một nỗi niềm - đó là niềm mong ước về một gia đình, một người

chồng thương yêu thấu hiểu những trăn trở của mình. Với Cao Duy Sơn cũng

vậy, ngòi bút tinh thần nhân đạo của Cao Duy Sơn đã cảm thông và đồng tình với

khát vọng hạnh phúc chân chính của con người. Người phụ nữ phá vỡ mẫu hình

truyền thống, thể hiện sự tự ý thức sâu sắc về vị thế bình đẳng giới của mình.Trong

tình yêu, người phụ nữ dân tộc rất táo bạo, mạnh dạn bộc lộ tình cảm riêng tư mà

không chịu sự mặc cảm “Cọc đi tìm trâu” như những cô gái người Kinh. Nhân vật

Va Đáo (Phụ tình) thì luôn khát khao hạnh phúc. Yêu Thế Ru say đắm, Va Đáo

dâng hiến tất cả cho Thế Ru và cô mang thai. Khi Thế Ru gặp nạn, Va Đáo đi tìm

anh khắp nơi. Mặc dù Lai Cảng yêu mình nhưng Va Đáo vẫn một lòng hướng về

Thế Ru. Nhân vật này khiến chúng ta cảm phục về một người phụ nữ có khát vọng

hạnh phúc mãnh liệt.Cả cuộc đời của Va Đáo khiến chúng ta cảm phục và trân

trọng về một tình yêu phi thường. Con đường đi tìm hạnh phúc tuy gian nan, muộn

màng nhưng khi gặp được người yêu, tìm được cha cho con mình nàng vẫn nở nụ

cười viên mãn. Quan niệm về tình yêu của Va Đáo có vẻ xưa cũ nhưng lại rất mới

mẻ và hiện đại. Đó chính là biểu hiện mạnh mẽ của khát vọng tình yêu trong tâm

hồn người phụ nữ.

Trong sáng tác của Hà Thi Cẩm Anh (tác giả dân tộc Mường - Thanh Hóa),

người phụ nữ với khát khao hạnh phúc đời thường lại để lại một ấn tượng, một

cảm xúc mạnh mẽ trong lòng người đọc.Nhân vật cô gái trẻ ở Mường Bi trong

truyên ngắn Quả cònlà một ví dụ. Làmột cô gáixinh xắn, chăm chỉ, thảo hiền

nhưng cuộc sống của cô không được may mắn. Dù phải sống cô đơn trong suốt 40

năm, chờ đợi anh lính trẻ nhưng cô không héo mòn mà vẫn rất xinh đẹp, cô luôn

mong chờ một tình yêu hạnh phúc. Cô chỉ biết gửi lòng theo quả còn nói hộ nỗi

lòng mình: “Chị cũng là một con người, Một con người sao phải sống cô đơn, côi

cút giữa cuộc đời này giống như một thân cây giữa rừng đại ngàn bị người ta bứt

trụi hết lá, chặt đứt hết cả rễ, cả cành?”.[59,tr.275]. Hạnh phúc ngọt ngào và viên

mãn đã đến với cô ở tuổi 50 khi gặp lại anh lính trẻ giờ đã là một người thương

45

binh già luôn cầm trên tay quả còn ước hẹn ngày xưa. Không chỉ khát khao hạnh

phúc, người phụ nữ còn khát khao được làm mẹ, được chăm sóc những đứa con

của mình. Đến với nhân vật Sam trong truyện ngắn Mẹ tôi, ta bắt gặp một người

phụ nữ giàu nghị lực, luôn phấn đấu vươn lên trong cuộc sống khi mà cuộc đời cô

trải qua nhiều đắng cay, vất vả. Khi biết mình sắp được làm mẹ, cô đắm chìm

trong hạnh phúc. Nhưng khi sinh ra, đứa bé trong bụng cô là một quái thai. Cô bị

mọi người kì thị và bị đuổi vào rừng sống. Rồi chồng cô hi sinh ngoài mặt trận,

tưởng chừng như cô sẽ gục ngã trước nỗi đau ấy nhưng không phải. Sam đã kiên

cường, vươn lên trong cuộc sống, cô đã xây dựng được sự nghiệp khiến cho những

người trong làng, trong xã phải nể phục. Cô nhận nuôi hai đứa trẻ bị vứt trong

rừng như con ruột của mình. Và từ đó, cuộc sống của ba mẹ con cô thật ấm cúng

trong căn nhà nhỏ. Qua những trang viết, nữ nhà văn đã cất tiếng nói bênh vực

thân phận người phụ nữ Mường, để họ sáng ngời lên vẻ đẹp của khát khao vươn

lên, thoát khỏi hoàn cảnh, giữ ngọn lửa niềm tin trong cuộc sống và trong tình yêu.

Cũng giống như nhà văn Hà Thị Cẩm Anh, là một nhà văn nữ, viết về phụ

nữ, đòi hỏi quyền lợi chính đáng của người phụ nữ, nên trong nhiều truyện ngắn

của mình, Võ Thị Hảo cũng đã không ngần ngại lên tiếng đòi quyền làm mẹ cho

những người phụ nữ không chồng- những người phụ nữ đã bỏ lại cả một thời

xuân sắc ở chiến trường và khi trở về sau chiến tranh, mặc dù họ đã “quá lứa lỡ

thì”, nhưng khát khao với thiên chức làm mẹ của họ là một khát khao hoàn toàn

chính đáng và buộc xã hội phải công nhận.Với Võ Thị Hảo, cách viết tô hồng

hiện thực chiến tranh như nhiều nhà văn thuộc thế hệ trước đã làm là một điều

hoàn toàn xa lạ. Chiến tranh trong tác phẩm của Võ Thị Hảo thường được hình

tượng hóa bằng những nụ cười méo mó, man dại. Chiến tranh làm con người ta

đánh mất nụ cười tự nhiên. Đánh mất nụ cười tự nhiên, con người đánh mất chính

mình. Và với người phụ nữ, còn gì đau đớn hơn khi phải nở một nụ cười méo

mó?. Âm hưởng nữ quyền đằng sau mỗi trang viết của các tác giả nữ không phải

chỉ nằm ở những hiểu biết theo cảm nhận thiên tính về những mảnh vỡ trong tâm

46

hồn người phụ nữ sau chiến tranh mà một thời người ta thường cố tình che giấu

chúng đi sau lần áo mỏng của vinh quang và chiến công, mà còn nằm trong những

hy vọng về một tương lai an bình hơn cho người phụ nữ sau những đớn đau và

mất mát.

Như chúng tôi đã đề cập ở trên, chưa bao giờ người phụ nữ lại được đặt ở

vị trí trung tâm và trọng tâm trong những trang viết của các nhà văn DTTS như

hiện nay. Có lẽ chính cuộc sống hiện đại bộn bề bóng tối và ánh sáng khiến người

ta không khỏi thắc thỏm, lo lắng về số phận con người, đặc biệt là người phụ nữ.

Hơn ai hết, những người phụ nữ chính là những người cần một cuộc sống bình

yên thực sự, bình yên trong tâm hồn và trong cả những khát khao hạnh phúc

thường nhật. Đến với Ma Trường Nguyên, ta sẽ thấy nhà văn dành sự quan tâm

đặc biệt cho tình yêu. Ông khích lệ và trân trọng những khát khao yêu đương,

hạnh phúc lứa đôi của con người miền núi nhất là người phụ nữ. Họ thường rất

chủ động trong các cuộc tình, dám vượt qua rằng buộc để khát khao hạnh phúc.

Điều này ta sẽ thấy trong nhân vật Va (Gió hoang), một cô gái mồ côi, đảm đang,

chăm chỉ và đặc biệt cô hát rất hay“chưa bao giờ gặp một người con gái nào hát

hay như thế”. Khi về nhà mo Ngàu, chính nhờ sự chăm chỉ của mình mà cô làm

thay đổi nhà mo Ngàu: “Trên sàn gác, Va dọn dẹp thu xếp lại những đồ đạc cho

gọn gang, ngăn nắp. Dưới mặt đất, Va quét tước sạch sẽ, khơi lại những rãnh

nước theo giọt gianh để khi mưa nước khỏi tràn vào nền nhà. Những cuốc xẻng,

chày cối giã gạo, quang gánh, thúng mủng, cô lau chùi sạch sẽ và xéo vào từng

nơi, từng chỗ để khi cần dùng đến dễ tìm và khỏi han gỉ, mục nát.”[36, tr.50] .

Vượt lên hoàn cảnh bất hạnh, Va trở thành một ca sĩ có tài, một cô thợ giỏi giúp

Lèng trong công việc ở xưởng. Trong tình yêu, Va là cô gái sống hết mình với

tình yêu. Kết quả của khát khao hạnh phúc giũa Va và Lèng là đứa con tên

Lài.Qua đây ta thấy được ẩn sau những dáng hình nhỏ bé kia không phải là sự

yếu đuối mà là một khát khao mạnh mẽ, không chịu khuất phục bởi sóng gió

cuộc đời.

47

Đến với nhà văn Hữu Tiến, ta bắt gặp nhân nhân vật Ngần trong truyện

ngắn Người đứng trong mưa. Ngần đối mặt với sự cô đơn và nỗi thèm khát bản

năng làm mẹ. Và được làm một người mẹ chính là điều hạnh phúc mà cô thực sự

cần trong cuộc sống dài dằng dặc này: “Tôi không quấy rầy vợ con anh đâu! Tôi

chỉ thèm được ẵm trên tay đứa trẻ tự tôi sinh ra. Hình như trời đất đã xui khiến

tôi được gặp anh. Tôi nói hết rồi, anh có coi thường, phỉ báng tôi không? Điều

đó tùy nh, mong anh giúp tôi thực hiện ước nguyện của mình. Tôi cầu xin anh

đấy, anh Khảo ạ.”.[43, tr367-368].Khát khao được làm mẹ là một sứ mệnh cao

cả mà tạo hóa đã dành cho phụ nữ, dưới ngòi bút sắc sảo của Hữu Tiến ta cảm

thông với khát khao của Ngần, cũng là khát khao chính đáng của người phụ nữ

khi phải sống trong cảnh cô đơn.

Dù bất cứ nơi đâu thì con người đều có khát khao được yêu thương. Niềm

khát khao hạnh phúc lứa đôi là niềm khát khao hạnh phúc chính đáng của người

phụ nữ nói riêng và con người nói chung. Các nhân vật nữ có khát khao hạnh

phúc đời thường trong sáng tác của Cao Duy Sơn lại cho chúng ta một cái nhìn

mới mẻ về sự vững vàng, bền bỉ như đá núi của người phụ nữ. Cao Duy Sơn bộc

lộ được những ước muốn, những khát vọng thầm kín trong tâm hồn họ. Tuy

những người phụ nữ trong sáng tác của Cao Duy Sơn họ ít nổi loạn nhưng ẩn sâu

bên trong là những con người mạnh mẽ, có khát khao hạnh phúc mãnh liệt. Góc

trời tây có cơn mưa đá xoay quanh câu chuyện của Líu, một người phụ nữ góa

chồng xinh đẹp. Nỗi buồn mặc dù đã nguôi ngoai theo thời gian nhưng ngọn lửa

trong lòng lại khát khaomỗi khi chạm vào những khoảng trống trên chiếc giường.

Cô chót phải lòng Sín, chàng trai trẻ kém cô hai tuổi. Tác phẩm đã lồng ghép vào

đó số phận của một người đàn bà góa bụa khác là mẹ chồng Líu. Hai con người

cùng chung một lỗi bất hạnh, nhưng lại có hai sự lựa chọn hoàn toàn khác nhau.

Mẹ chồng Líu chọn thủ tiết thờ chồng, ngăn cản Líu đến với tình yêu, còn Líu

thì đi theo tiếng gọi tình yêu. Ban đầu nàng không dám đến với Sín vì sợ ánh mắt

của đứa con nhìn mình mỗi khi nàng lật ván chuẩn bị xuống gầm sàn để đến với

48

người yêu. Nhưng bản năng của người phụ nữ và khát khao tình yêu đã khiến

Líu bất chấp tất cả“Không gì trong ngôi nhà này còn giữ chân nàng được nữa.

Nàng có cuộc đời của riêng. Không ai sống thay cho ai, và cũng không ai chế

thay cho ai. Cam chịu mọi bề để giữ tiếng thơm ư? Điều đó với nàng là không

thể. Nó vượt quá sức chịu đựng của nàng. Nàng chỉ là một người bình thường,

không thể làm mẫu cho ai, hoặc làm gương cho bất cứ kẻ nào khác ngoài mình.”

[51, tr.66]. Nàng đã quyết liệt lựa chọn cuộc sống riêng cho mình, quay lưng lại

với lễ giáo như chiếc cổng đá nặng nề của bà mẹ chồng đến với ái tình rạo rực.

Hành động vung dao chém xuống bảo vật gia đình, dám đấu tranh chống lại lề

thói khắc nghiệt của gia đình là minh chứng cho khát khao mạnh mẽ của Líu.

Trong sáng tác của mình, ông còn muốn nói điều gì đó về những điều thầm

kín ẩn sâu trong tâm hồn người phụ nữ, về ước muốn, về khát khao được yêu

thương, để thắp lên niềm tin vào cuộc sống. Đến với Hoa bay cuối trời, ta sẽ bắt

gặp những khát khao hạnh phúc trong nhân vật Dình. Dình là cô gái Pác Gà xinh

đẹp, Nàng gặp Khơ năm mười bảy tuổi và hai người đã yêu nhau. Trái tim nàng

ngập tràn hạnh phúc khi được Khơ trao cho chiếc vòng “Trong lòng Dình chợt

trào dâng niềm vui. Nàng đã có người con trai ngỏ lời, như con chim đã có đôi,

con suối có bóng núi làm bạn”[51, tr.89]. Nhưng thật khôngmay,bệnh tật đã

cướp đi đôi chân của nàng từ đấy cướp luôn đi mọi ước mơ hạnh phúc của nàng.

Không muốn Khơ chịu thiệt thòi, Dình đã nói dối rằng mình đã yêu người khác

và cho đến cuối đời trái tim nàng vẫn không nguôi nhớ về mối tình đầu, vẫn luôn

khát khao nguyện ước được ngồi trên cỗ xe do Khơ đóng, được nắm tay người

yêu, có phù dâu, phù rể…Và cuối cùng thì tuổi tác cũng không làm cho tình yêu

của hai người mất đi, hạnh phúc muộn màng nhưng vẫn đẹp như thủa ban đầu đã

đến để lấp đầy những nỗi bất hạnh mà Dình phải chịu đựng. Dù là ai, dù có khiếm

khuyết thì họ đều có trái tim xao xuyến, yêu đương. Đó chính là những giá trị

nhân sinh cốt lõi và ý nghĩa nhân văn cao cả thể hiện trong từng tác phẩm văn

học vùng cao.

49

Tình yêu nơi núi cao rừng thẳm thường bị ngăn trở bởi những rào cản,

những định kiến, những ranh giới và thử thách, nhưng cũng chính vì thế mà khát

vọng yêu đương tự do luôn là khát vọng sống mạnh mẽ và cuồng nhiệt của những

con người nơi đây. Qua đó, các nhà văn DTTS đã thể hiện cái nhìn đầy nhân văn

và tấm lòng thấu cảm với những ước mong hạnh phúc chính đáng của conngười.

Khát khao hạnh phúc đời thường phải chăng là khát vọng chung của tất cả những

người phụ nữ xưa và nay. Những người phụ nữ ấy, dù là có vẻ ngoài xinh đẹp

hay khiếm khuyết, dù sống ở miền xuôi hay miền núi, thành thị hay nông thôn,

dù thuộc tầng lớp trí thức hay những người lao động bình thường đều phải mang

trong mình khát khao có được một hạnh phúc dung dị của đời thường, khát khao

có sự bình yên trong tâm hồn. Mỗi nhân vật người phụ nữ trong mỗi truyện đều

phải đương đầu với những biến cố khác nhau. Mặc dù sống kiếp nô lệ vô vàn cực

khổ, tối tăm và không lối thoát nhưng tiềm ẩn sâu bên trong là một sức sống

mãnh liệt bền bỉ, dẻo dai, một tình yêu thiết tha với cuộc đời. Có thể nói, điểm

gặp gỡ giữa các nhà văn khi viết về vấn đề nữ quyền là nỗ lực quẫy đạp, đấu

tranh của người phụ nũ để một nửa thế giới phải lắng nghe tiếng nói và chia sẻ

với họ những trăn trở, khát khao và mong muốn trong cuộc sống. Quá trình đó

được xem là sự vươn lên đòi quyền bình đẳng và tự khẳng định mình trong suốt

chiều dài lịch sử văn học dân tộc.

2.3. Nữ quyền trong bản năng tính dục

Nói đến tính dục, đây là vấn đề được coi là biểu hiện rõ nét nhất của vấn đề

nữ quyền. Tính dục là một khái niệm có nội hàm rộng, vừa phản ánh mối quan hệ

giới tính, vừa chứa đựng những yếu tố hữu hình và ẩn giấu của con người cá nhân.

Tính được hiểu là bản chất con người, dục là ước muốn được thể hiện ra bên ngoài.

Tính dục là một khuynh hướng tự nhiên nơi người nam và người nữ vận dụng giới

tính để tìm kiếm, hiểu biết và thương yêu. Tính dục mang năng lực giới tính, thể

chất, tâm lý và sinh dục, bao gồm mọi khía cạnh đặc trưng của nam giới và nữ

giới. Dưới góc nhìn khoa học, tính dục được hiểu là tính dục thuộc về bản năng

50

con người, là phần “con” trỗi dậy trong con người.

Bản năng tính dục của người phụ nữ được thể hiện trong văn chương là một

điều gì đó mới lạ, hấp dẫn bạn đọc không chỉ vì nố phản ánh chân thật, sinh động

những khát khao tính dục đời thường của phụ nữ mà nó còn thể hiện vấn đề nữ

quyền rất rõ ràng. Đó là đàn bà có quyền thể hiện những ham muốn, dục vọng về

thể xác mà bấy lâu nay bị che lấp bởi lễ giáo phong kiến lỗi thời. Trong Giới tính

thứ hai, Beauvoir cổ vũ vấn đề bình đẳng tình dục cho phụ nữ: “Người nữ cũng

được tự do tìm bạn tình và thực hiện tình dục giống như người nam”.Văn chương

thể hiện những dục tính thầm kín của người phụ nữ đã có tiếng nói phản kháng rất

mạnh mẽ đối với nam giới và xã hội. Trong thời đại công bằng, tự do, bác ái, người

phụ nữ không còn quá lệ thuộc vào đàn ông và xó bếp, họ muốn khẳng định

mình.Nhu cầu tính dục là một nhu cầu sinh lý tất yếu không thể thiếu của sinh

vật cũng như của con người. Đối với con người, tính dục không chỉ có ý nghĩa

duy trì nòi giống mà còn tạo ra sự khoái cảm và đam mê. Nhưng từ khi hình

thành nên những nền văn hóa, tính dục của con người gắn liền với những quan

niệm: những chuyện khơi gợi nhục dục trong con người là khiêu dâm, là xấu xa

cần loại bỏ. Xem chuyện tình dục là chuyện tục, xem dục tính của con người là

căn nguyên của mọi tội lỗi. Hoạt động tính dục là một hoạt động chịu sự chi phối

của bản năng, hoạt động thể hiện tính người nhất. Ở Việt Nam, tính dục có lẽ vẫn

còn là điều cấm kị bởi dân tộc ta đã trải qua một thời kì trung đại với nhiều tư

tưởng bảo thủ, khắt khe của chế độ phong kiến.

“Nam nữ thụ thụ bất thân” là một giá trị lâu đời của xã hội phương Đông.

Cho đến ngày nay thì quan niệm này vẫn tồn tại và nó dùng để quản lý hành vi

tình dục của phụ nữ nhiều hơn là đàn ông. Ngày xưa, nếu người phụ nữ vi phạm

vào những điều cấm kị về tình dục thì sẽ phải chịu những hình phạt như: “Cạo

đầu bôi vôi”, “Thả bè trôi sông”…hay chịu sự khinh rẻ của miệng đời bằng

những câu châm ngôn thâm độc “gái không chồng mà chửa”…. Những hình phạt

này được dung để lên án và ngăn cản người phụ nữ. Trong những việc như vậy,

51

tuyệt nhiên người đàn ông dường như vô can và không chịu hình phạt nào từ xã

hội. Nhưng trong giai đoạn gần đây, đời sống xã hội có sự giao lưu, mở cửa, tính

dục được trao đổi một cách cởi mở hơn. Trong văn học, tính dục trở thành thuộc

tính nhân sinh phổ biến. Đề tài tính dục thậm chí đã trở thành trào lưu, thành xu

hướng sáng tác có trong văn học. Hàng loạt những ngòi bút của văn xuôi hiện

đại và đương đại như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư, Y Ban, Nguyễn

Đình Tú, Võ Thị Hảo, Bùi Thị Như Lan…dùng bản năng tính dục như một

phương tiện để chuyển tải nhiều vấn đề trong đời sống. Có thể khẳng định đây

là cách khai thác về người phụ nữ hết sức táo bạo của các nhà văn.

Sự giao lưu văn hóa, văn học cho thấy, tính dục cũng cần được nhìn nhận

theo chiều hướng tích cực hơn. Tính dục trong văn chương không phải là sự suy

đồi mà được xem như thủ pháp nghệ thuật. Năm 1988, khi Thiên sứ - tác phẩm

đầu tay của Phạm Thị Hoài được xuất bản, người ta đã nhận thấy một khát vọng

nào đó trong tình yêu của người phụ nữ mà tác giả đã gửi gắm trong hình ảnh

một cô bé “vĩnh viễn 14 tuổi”. Tâm điểm của tác phẩm là nhân vật Hoài vĩnh

viễn mười bốn tuổi. Cái lứa tuổi mười bốn vĩnh hằng của Hoài chỉ là vỏ ốc, lớp

vỏ bảo vệ cho một cái gì đó sâu thẳm hơn, dữ dội hơn. Hoài có những rung động

thầm kín, của những khao khát không được thỏa mãn, những đòi hỏi bị ghìm nén

trong tâm hồn một phụ nữ hai mươi chín tuổi. Một khuôn mặt trẻ con che chở

cho một tâm hồn suốt mười lăm năm ròng làm “một nhân chứng câm lặng, thông

tỏ quyết liệt, không bao giờ quay lưng lại cuộc đời”. Sau Phạm Thị Hoài, hàng

loạt cây bút đã không còn ngại ngùngmà mạnh mẽ thể hiện những khát khao khó

nói ẩn chứa trong tâm hồn. Có thể nói, người phụ nữ trong các tác phẩm văn xuôi

sau năm 1986 đã tự cởi trói về tình dục.Viết thẳng thắn về tình dục là cách để

các nhà văn góp một tiếng nói mạnh mẽ đòi quyền bình đẳng cho nữ giới - quyền

được yêu và được thụ hưởng tình yêu.

Vấn đề tính dục được thể hiện trong việc chủ động và quyết liệt khi nói

đến những ham muốn thân xác của mình.Việc bày tỏ khát khao thầm kín và giải

52

phóng tình dục là bước đi táo bạo trong việc bình đẳng với nam giới. Đây có thể

coi là một cuộc cách mạng về nữ quyền trong văn học, cuộc cách mạng này mang

tính triệt để cao bởi nó giải quyết tận gốc sự bất bình quyền trong tương quan

giới tính. Vấn đề tính dục trong văn xuôi DTTS đã trở thành một mảng đề tài

“mạnh bạo” mà những nhà văn như Cao Duy Sơn, Bùi Thị Như Lan, Bùi Minh

Chức… quan tâm khai thác và đề cập đến trong rất nhiều sáng tác. Tuy nhiên cần

nhận thấy một điều, sự e dè, kín đáo, tế nhị, sâu xa vẫn bao trùm những tác phẩm

viết về tính dục. Lí giải cho hiện tượng này, có thể nói đến tư tưởng truyền thống

miền núi vốn ăn sâu vào tâm tưởng của không chỉ người dân miền núi mà còn

chi phối chính quan điểm nghệ thuật của rất nhiều nhà văn DTTS khác.

Nàng Quỳnh The trong Đọa đày,trước khi chết nàng đề nghị lão Ca Đai,

một người bằng tuổi bố mình cho mình biết cái vị của con người: “ Ôi sao khi

sắp chết cháu lại muốn sống đến thế. Bác là đàn ông là con trai. Bác hãy ôm lấy

cháu như người con trai ôm lấy người con gái, như người yêu ôm lấy người yêu.

Bác hãy hôn cháu như người yêu hôn người yêu. Hãy sờ tấm ngục mơn mởn mùa

xuân của cháu như người yêu Xu Mi của cháu đang sờ…Bác hãy cho cháu biết

cái vị đời của con người, biết tình yêu cụ thể của con người”.[22,tr.279]. Tình

dục là nhu cầu bản năng, bất kì ai cũng tồn tại và cần thỏa mãn nhu cầu bản năng

đó. Con người chúng ta cần nhìn nhận vấn đề đó một cách nhân văn, lành mạnh

và đúng đắn. Vi Hồng đã rất mới mẻ khi cho rằng tình yêu chỉ trọn vẹn là nó khi

có sự kết hợp giữa xúc cảm tinh thần và thân thể. Nhu cầu giải phóng bản năng

trở thành một đặc điểm trong văn xuôi DTTS miền núi phía Bắc.

Đến với truyện ngắn Tình Mường Woang của Bùi Minh Chức, ta bùi ngùi,

xót xa cho số phận của ún Khưm, có cái gì đó thật có lý mà cũng thật vô lý trong

tâm trạng nàng Khưm. Nàng là vợ, nhưng nàng còn là đàn bà “Ở với chồng, càng

ngày ún Khưm càng cảm thấy mình là đàn bà, cái cảm giác mà trước đây, có lúc

do phải trèo đèo, lội suối, chặt cây… Ún đã quên mất… Ún khấn thầm cho cái

cảm giác đàn bà ấy cứ ở mãi với mình” [43, tr.49].Khi chồng Khưm gặp nạn,

53

nàng đứng giữa quyền được sống hạnh phúc và nghĩa vụ, đứng giữa cái đúng và

tình thương. Nàng có thai với chính kẻ đã gây ra tai nạn cho chồng mình vì khát

khao bản năng trong con người nàng trỗi dậy “Ngày thứ hai, ngày thứ ba, ngày

thứ tư và nhiều ngày sau, Ún vẫn ra suối và vẫn tắm như thế, vẫn nằm như thế,

mặc cho gió uốt ve, mơn man…Một cơn khát hanh hao, không rõ rệt, nhưng rât

bồn chồn lại đến” [43, tr.51]. Qua đây, Bùi Minh Chức đã thể hiện những dục

tính thầm kín của người phụ nữ, khỏa lấp cái ham muốn làm vợ và được sống

hạnh phúc rất chính đáng. Nhân vật Ún Rớ trong Bến nước lành cũng thèm khát

tình yêu. Ở cái bến nước lành ấy, ở con suối ấy, Rớ xinh đẹp đã đến tắm bao

nhiêu lần. Đó là nơi Rớ gặp các chàng trai. Ở đó Rớ và các chàng trai đã yêu

nhau. Rớ đã dâng hiến thân mình cho những chàng trai mà Rớ gặp bên bến nước

lành: “Ún Rớ nhìn thấy cách lặn ấy của người trai, tò mò, sợ sợ, thích thích…

Tối hôm ấy, người trai, người gái hẹn nhau bên bãi sông. Rớ biết thế nào là đàn

ông, còn Ót thì có nơi mà nhớ!”[38, tr.164-165]. Yêu nhau rồi những người trai

nọ ra mặt trận. Tình yêu của Rớ đem lại may mắn cho những chàng trai, để họ ra

trận có cái để nhớ, để họ gặp may, để họ không chết, để họ lập công to.

Trong tiểu thuyết Ngườilang thang của Cao Duy Sơn, Na Ban bị bắt và

tuổi trẻ với những khát vọng yêu đương của cô bị chôn vùi. Nhưng cái khát khao

một lúc nào đó lại chợt bùng lên. Khát vọng ái ân của người phụ nữ được bộc lộ

trọn vẹn bằng sự cảm nhận tinh tế của Cao Duy Sơn: “Cô bàng hoàng nhận ra

tay mình đã đặt lên ngực từ lúc nào. Nhón gót đến khép lại cửa buồng, Na Ban

quay lại đối diện với mình trong tấm gương. Những ngón tay thon trắng hồng

chạm rãi đưa sang bên nách cởi từng núm khuy vải. Cô bồi hồi ngắm lại hai bầu

vú nhô cao rồi đưa tay se sẽ xoa lên cái núm nhỏ màu hồng nhạt. Một cảm giác

thật dễ chịu dâng lên, cô nhắm mắt ngây ngất với bao cảm xúc lạ” [47, tr.221].

Na Ban ngây ngất với khuôn ngực thiếu nữ của mình bằng sự thôi thúc từ chính

bản năng của người phụ nữ, thôi thúc một khát vọng được yêu mãnh liệt.Tác

phẩm đã khai thác tính dục trong vấn đề tự thỏa mãn, tự giải quyết nhu cầu bản

54

năng ở người phụ nữ. Cũng như nam giới, phụ nữ có quyền được giải phóng

những ẩn ức tình dục tự nhiên của mình.Bằng chính bản năng của người phụ nữ

mach bảo cô gái một khát vọng sống và khát vọng tình yêu mãnh liệt. Đó cũng

chính là sự cởi trói cho người phụ nữ trước xã hội miền núi chủ yếu theo tư tưởng

nam quyền.

Nhưng cũng không ít người đã chọn cách sống hết mình, thỏa mãn mình,

vỗ về mình, làm tình với chính mình hay thỏa mãn, vỗ về, làm tình với người

khác như một cuộc trốn chạy. Cả một đời sống bộn bề nguyên sơ ẩn ức đầy náo

động và chân thành da diết đến mức độ sống sượng và sỗ sàng được phơi phóng

vô tư và khiêu khích trên những móc dây của đời sống văn học. Điều ấy có thể

hạ thấp con người trong văn học, nhưng có khi lại nâng con người lên trong cái

nhìn đầy nhân văn về con người, với thân phận và triết lý về nó khi vấn đề tính

dục thực sự chạm vào cõi nhân tính trong mỗi người.Ấn tượng của chúng tôi khi

tìm hiểu về vấn đề tính dục đó là nghe được tiếng nói sâu thẳm của những người

phụ nữ qua hàng thế kỉvang lên da diết đòi quyền sống để yêu thương. Không

gợi chút tục dâm vì vốn dĩ bản chất của tình yêu là cái đẹp, là biểu hiện của tính

người. Có chăng chính con người mới làm cho tình yêu xấu đi, dung tục, tầm

thường đi. Đó là tình cảm thiêng liêng, chính đáng của con người cần được trân

trọng. Qua lăng kính về vấn đề tính dục dưới cái nhìn của các nhà văn DTTS,

chúng ta cũng cảm nhận được sự nhọc nhằn mà các nhà văn đã vượt qua trên

hành trình đi tìm công lý cho lẽ sống hạnh phúc của những người phụ nữ vùng

cao.

Viết về những người phụ nữ luôn gắn với trạng thái khát tình, Y Ban là

một nhà văn đã tấn công mạnh mẽ vào những ứng xử xã hội, đòi hỏi cái nhìn

công bằng với những ham muốn bản năng của người phụ nữ, kiếm tìm bình

quyền cho người phụ nữ. I am đàn bà của Y Ban từng làm văn đàn rung lên một

thời khi tác giả là người đầu tiên miêu tả thế chủ động trong tình dục của nhân

vật người phụ nữ. Ở nơi đất khách quê người, với công việc là làm “ô sin”, chị

55

bị nhốt vào một căn nhà như một hoang đảo - nơi chỉ có chị và người đàn ông bị

liệt và câm. Ngôn ngữ bất đồng, không tiếp xúc với xã hội, thế giới của chị chỉ

còn lại là hết lòng chăm sóc người xa lạ bằng nghĩa vụ của kẻ làm thuê và đặc

biệt là bằng thiên chức làm mẹ, làm chị thuần khiết. Bằng tấm lòng, sự chăm sóc

tận tình, bằng cảm giác, bản năng vốn có của một người phụ nữ đã có chồng, chị

từng ngày nhận ra sự trỗi dậy, hồi sinh bản năng đàn ông của ông chủ. Chị dần

vượt qua những ngại ngùng, kéo gần khoảng cách giữa người giúp việc và ông

chủ để làm người đàn ông chiến thắng bệnh tật. Chị chủ động trong việc chăm

sóc ông chủ, nhất là tác động đến bộ phận sinh dục tưởng chừng đã chết. Ngày

này qua ngày khác, ông chủ cũng làm sống dậy khao khát yêu đương bản năng

trong chị. Người đàn bà chủ động dành những hành động “yêu” cho ông chủ như

với người chồng ở quê của mình. Chị mộng mị trong những giấc mơ tình. Và

một lần, trong cơn mộng mị, chị tìm đến phòng ông chủ để thỏa mãn nhu cầu

bản năng: “Thị mộng mị đi vào phòng ông chủ. Cái ánh mắt của ông chủ như

thúc vào tim thị. Thị nhìn sâu vào ánh mắt mừng rỡ ấy rồi thị trút bỏ quần áo

của thị. Thị lật cái khăn mỏng đắp lên người ông chủ. Con giống con má đang

cất cao đầu chờ thị. Như giấc mơ đêm hôm nào, thị cầm lấy nó đưa vào cơ thể

thị. Thị đã không còn phải thức giấc trong sự thèm khát cháy bỏng nữa. Thị đã

thoả mãn”. Y Ban đã thể hiện một sự cởi trói mãnh liệt mặc dù người đàn bà ấy

đã nếm trải nỗi cay đắng, nhục nhã không thể cứu vớt nổi. Suy cho cùng thì người

đàn bà ấy dù nhiều lần đã phải đấu tranh giữa lý trí và tình cảm,vừađáng thương

và cũng vừa đáng trách. Bà đã lựa chọn đối tượng không đúng để rồi nếm trải

dằn vặt. Không dừng lạ ở đó, người đàn bà trong sáng tác của Y Ban rơi vào ẩn

ức tình dục hoặc do không thể có tình yêu (không có người đàn ông bên cạnh)

như cô gái trẻ trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Nấm trong Đàn bà xấu thì không có

quà, người phụnữ làm ô sin trong I am đàn bà, hoặc do có người đàn ông nhưng

không có đời sống tình dục theo đúng nghĩa (người đàn bà trong Tự hay Biển và

người đàn bà xấu xí). Cũng là hi sinh cho tình yêu, nhưng trong nhiều hoàn cảnh

56

khác, người đàn bà lại hành động theo nghĩa “dâng hiến”. Cô gái ở Hai bảy bước

chân là lên thiên đường đã tin tưởng và tự nguyện trao gửi thân xác cho người

mà cô yêu thương, dẫu biết đó chẳng phải là người đàn ông của riêng mình. Với

cô, yêu và hiến dâng là một niềm hạnh phúc tột độ.

Không phô bày trần trụi nhưng vấn đề tính dục trong văn xuôi DTTS vẫn

khiến người đọc cảm nhận chân thực và rõ nét khát khao bản năng của người

phụ nữ miền núi. Táo bạo bất chấp mọi lề thói xã hội đã mang đến một luồng

gió mới cho văn chương vùng cao nói riêng và văn học Việt Nam nói chung.

Trong truyện ngắn Tiếng kèn lá nối dài những mùa trăng, nỗi đau của cô gái

trẻ đó là lấy chồng nhưng chưa kịp cảm nhận được dư vị hạnh phúc, những ân

ái vợ chồng nên cô khao khát tiếng kèn của chàng trai trẻ hàng đêm cô thường

nghe để khỏa lấp những ham muốn làm vợ, làm mẹ rất chính đáng:“Tiếng kèn

lá ấy như ôm ấp, ve vuốt, làm cho cơ thể tròn căng của tôi nhức nhối, rạo rực,

bồn chồn và bừng bừng trỗi dậy những bản năng khao khát, ham muốn được

dâng hiến, được cho và được nhận. Bầu ngực tôi căng cứng, hổn hển sau làn

váy mỏng. Người tôi nóng hầm hập như muốn bốc lửa, tôi vật vã, quằn quại,

chấp chới theo dòng âm thanh thúc giục của kèn lá. Tiếng kèn giờ đã ở ngay

ngoài ngõ nhà tôi. Tôi muốn nói với anh, đừng thổi kèn nữa, tôi không chịu nổi,

nhưng cái miệng tôi khô cứng, bỏng rát không nói được. Tôi biết cơ thể trinh

nguyên, ăm ắp, tròn đầy hai mươi sáu tuổi của tôi đang nổi loạn. Xót xa, đau

đớn thay cho phận bạc của tôi, gần chục năm làm vợ vẫn là con gái. Tôi chưa

biết mùi mồ hôi của đàn ông, chưa một lần được bàn tay thô ráp, chai sần của

họ vỗ về, chưa biết cái đau đến tận cùng và đê mê đến tận cùng của đêm đầu

làm vợ…”[32, tr.23]. Để rồi sau đó là sự đấu tranh vượt lên nghịch cảnh của

nàng dâu mới, cô dám từ bỏ tất cảđể tìm cho mình con đường mới hạnh phúc,

tươi sáng hơn bởi cô còn quá trẻ, tương lai vẫn còn đang ở phía trước: “Đêm

nay, giống như bao đêm trăng đã qua, tôi vắt kiệt sức mình trong ham muốn tột

cùng được ai đó bù đắp, lấp đầy khoảng trống vắng, để tôi được làm vợ, làm

57

mẹ, để tôi biết vị ngọt ngào của trái cấm và biết cái hạnh phúc đầm ấm của

cuộc sống gia đình. Giờ thì tôi đang đứng chơi vơi giữa hiện tại và quá khứ,

giữa cái có và không, giữa hư ảo và thực tế, giữa tình yêu và bổn phận…Tôi

không thể chông chênh mãi như thế này, tôi muốn cởi nút trói cho số phận làm

dâu quạnh hiu của tôi. Dẫu rằng, chuyện này người bản sẽ cười chê, đơm đặt,

đàm tiếu, dè bỉu… nhưng rồi mọi người sẽ hiểu ra thôi, họ không cười tôi mãi

được” [32, tr.24].Hành trình đó đã giúp người phụ nữ có được cảm giác yêu

đương thực sự, cô say sưa, mạnh bạo trong những cuộc yêu và đạt được niềm

sung sướng vô bờ.

Cuối cùng có thể khẳng định, yếu tố tính dục trong văn xuôi của các nhà

văn DTTS không phải là loại tính dục mang sắc thái xác thịt tầm thường, thấp

kém mà đó là quan niệm tính dục mang giá trị nội dung nhân đạo đề cao người

phụ nữ DTTS. Đó là khát vọng chính đáng, dấu hiệu thức tỉnh con người cá nhân

với ý thức về quyền sống của người phụ nữ. Các nhà văn DTTS muốn ngợi ca,

khẳng định quyền sống, bản năng chính đáng ở mỗi con người. Qua đó, văn học

DTTS mang màu sắc tiến bộ, mới mẻ hơn, góp thêm tiếng nói của mình để trân

trọng, yêu thương bênh vực phụ nữ, đả kích những bất công, ngang trái chà đạp,

tước đoạt quyền sống của con người.

58

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Ở chương này chúng tôi đã đi sâu làm rõ những bình diện của vấn đề nữ

quyền trong văn xuôi DTTS miền núi phía Bắc: Nữ quyền trong cuộc chiến

chống lại những hủ tục lạc hậu, nữ quyền trong khát khao hạnh phúc đời thường

và nữ quyền trong bản năng tính dục.

Nhận thức được “tam tòng, tứ đức”, sự chịu đựng, hi sinh…trong chuẩn

mực truyền thống chỉ là những “vòng xiềng xích” trói buộc người phụ nữ. Cùng

với những người phụ nữ trên mọi miền, những người phụ nữ DTTS đã khôngngại

chiến đấu với hủ tục lạc hậu, mê tín, đến với tình yêu, với tận cùng bản thể. Với

vấn đề nữ quyền, các nhà văn DTTS đã nói lên tiếng nói của mình, bày tỏ những

trăn trở, suy tư về hiện thực cuộc sống và khát vọng giải phóng của người phụ

nữ miền núi. Khi những người phụ nữ nhận thức được giá trị và quyền sống của

cá nhân thì họ đã đứng dậy phá bỏ những quan niệm lạc hậu, giẫm lên mọi định

kiến để sống và theo đuổi khát vọng của bản thân. Đặc biệt nói về vấn đề tính

dục, đây được coi là vấn đề rõ biệt nhất của nữ quyền. Đó không phải là loại tính

dục bản năng mang màu sắc xác thịt tầm thường, thấp kém mà mang giá trị nội

dung nhân đạo khi nó phản ánh khát vọng tình yêu chính đáng của con người, là

dấu hiệu thức tỉnh con người cá nhân với ý thức về giá trị bản thân và quyền con

người. Đây là tư tưởng tiến bộ khi người phụ nữ xuất hiện trong văn học với vẻ

đẹp hoàn thiện từ tâm hồn đến thể xác.Hình ảnh những người phụ nữ vùng cao

với những khát khao tính dục mạnh mẽ, táo bạo, bất chấp mọi lề thói xã hội đã

mang đến một luồng gió mới cho văn chương vùng cao nói riêng và văn học Việt

Nam nói chung.

59

Chương 3

VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN TRONG SÁNG TÁC CỦA MỘT SỐ NHÀ VĂN

DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC

NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NGHỆ THUẬT

3.1. Nghệ thuật xây dụng nhân vật nữ

Trong văn học, nhân vật chính là phương tiện cơ bản để nhà văn khái quát

hiện thực một cách hình tượng. Cho nên dù đề cập đến vấn đề gì thì trong tác

phẩm văn học “không thể thiếu nhân vật, bởi vì đó là hình thức cơ bản để qua

đó văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng” [34, tr.277]. Có thể nói nhân

vật chính là linh hồn của tác phẩm, là con đẻ của nhà văn. Là kết quả sáng tạo có

tính chất hư cấu của nhà văn, nhân vật trong tác phẩm là phương diện đặc sắc

giúp nhà văn thể hiện quan niệm nghệ thuật của mình về con người. Vấn đề nữ

quyền đề cập đến nhân vật trung tâm là người phụ nữ. Họ luôn ở tâm thế nghĩ

suy, hành động. Đó cũng là những hành động quen thuộc của mỗi người nữ trong

cuộc sống: giao tiếp, nói chuyện, bộc bạch tâm tư, yêu thương, nhẫn nhịn, khóc

lóc, hờn ghen, nhớ nhung, hồi tưởng, chăm sóc, nâng niu, khát khao, ham

muốn…Nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ được các nhà văn sử dụng linh hoạt

tạo nên sự đặc sắc trong tác phẩm văn chương của mình.

3.1.1. Xây dựng nhân vật qua ngoại hình và hành động

Nhân vật văn học đại diện của tính cách xã hội, có ngoại hình và nội tâm

riêng. “Ngoại hình là một khái niệm nhằm chỉ hình dáng, diện mạo, trang phục,

cử chỉ, tác phong… tóm lại là toàn bộ những biểu hiện tạo nên dáng vẻ bên ngoài

của nhân vật” [40, tr.168]. Còn hành động của nhân vật “không chỉ là những yếu

tố cần thiết để bộc lộ tính cách mà còn là yếu tố không thể thiếu thúc đẩy sự diễn

biến của cốt truyện trong tác phẩm. Đó chính là những việc làm cụ thể của nhân

vật trong quan hệ ứng xử với các nhân vật khác và trong những tình huống khác

nhau của cuộc sống”.[40, tr.169]

60

Có lên vùng miền núi phía Bắc thì mới thấy được bên cạnh vẻ đẹp của

thiên nhiên hùng vỹ là những người phụ nữ có nét đẹp duyên dáng với nước da

trắng ngần, mái tóc dài, đôi mắt trong trẻo, đôi má hồng cùng bờ môi đỏ mọng.

Có lẽ khí hậu vùng cao quanh năm mát mẻ, yên bình, không khí trong lành rất

hợp với nữ giới khiến họ trông rất xinh đẹp. Trong các tác phẩm văn xuôi của

mình, các nhà văn DTTS đã để lại nhiều ấn tượng khá đậm nét trong lòng độc

giả về vẻ đẹp ngoại hình mang đặc trưng của con người miền núi. Chất miền núi

luôn gắn với đặc điểm cơ thể, những đường nét, dáng hình được tạo hóa ban tặng.

Viết về vấn đề nữ quyền, các nhà văn đã phô diễn được vẻ đẹp ngoại hình và

thân thể của người phụ nữ, từng đường nét, bộ phận của cơ thể như làn da, mái

tóc, đôi môi…

Với sự quan sát tinh tế, sắc sảo và trí tưởng tượng phong phú, phần lớn

các nhân vật nữ trong văn xuôi của Vi Hồng đều có tính cách thống nhất với

ngoại hình. Những nhân vật nữ được Vi Hồng miêu tả kỹ về ngoại hình, họ đều

có vóc dáng cân đối, cặp mắt long lanh, đen láy, đôi môi như quả nhót chín mọng,

da trắng nõn…Điển hình là “Thu Lả đẹp như nàng tiên. Lả có cặp mắt long lanh

như mắt họa mi, khuôn mặt trái xoan, mũi dọc dừa thanh tú, má thắm hồng, môi

đỏ chót đều đặn. Cô dong dỏng thắt đáy lưng ong, ngực nở nang, có một cơ thể

cân đối tuyệt vời.” [18, tr.26].Những nhân vật chính diện được Vi Hồng miêu tả

hầu hết đều bằng các điểm nhấn như là “cặp má thắp đuốc hồng rực với khuôn

mặt tròn như ông trăng rằm cũng đang hứng vào trời, như hứng lấy cái màu

thiên thanh ở nơi thăm thẳm của vũ trụ để cho sức sống có thể sánh cùng với trời

đất” [21, tr.139].Khi miêu tả ngoại hình, Vi Hồng còn sử dụng lối nói so sánh ví

von của người dân tộc thiểu số, khi vui thì khuôn mặt “sáng ngời như khuôn

trăng tỏa ánh hào quang”, khi buồn thì “sa sầm như một vườn mây đậm”. Đặc

biệt hơn nữa, nhân vật Diu Nàng trong Phụ tình tuy có ngoại hình xấu xí “Mắt

em lồi, trán em hóp như trán con khỉ…” [20, tr.284]nhưng bêntrong là con người

tốt đẹp, nhân ái, dám hi sinh vì người yêu. Đây là chân dung Ai Hoa, người con

61

gái đẹp nhất Nước Hai được Vi Hồng miêu tả: “Ai cũng bảo Ai Hoa đẹp từ khuôn

mặt đẹp đi, đẹp từ cái móng chân, móng tay đẹp lại, đẹp từ mười ngón tay đẹp

về…Cặp môi không son phấn như một quả nhót chín mọng, Ai Hoa không đánh

phấn…Đôi mắt của nàng cũng tròn, đen ánh, lóng lánh như trời thu”. Ai Hoa

còn là người “lớn về tình cảm và trí tuệ, cả mường ai ai cũng bảo Ai Hoa là

người giỏi giang, học chữ, học làm đều giỏi” [17, tr.120].Có thể nhận thấy, ngoại

hình phụ nữ dân tộc trong các sáng tác của Vi Hồng là phương tiện để bộc lộ tính

cách nhân vật. Ngoại hình được miêu tả bằng cách cảm, cách nghĩ và thẩm mỹ

của người DTTS.

Không dừng lại ở đó, Vi Hồng đặc biệt chú ý đến sức sống căng tràn trong

cơ thể thanh xuân của những cô gái như: Nhình Hỷ, Nọi trong Đi tìm giàu sang

mơn mởn đầy sức sống, Băng trong Tháng năm biết nói nõn nà và hồng rực sức

xuân. Đặc biệt là nàng Va Đáo trong tiểu thuyết Phụ tình được tác giả nhấn

mạnh: “Va Đáo là cô gái xinh đẹp vào loại nhất mường Nặm Thoong…Nàng vẫn

trào lên một sức sống thanh xuân, cái vẻ đẹp càng lồ lộ như một bông hoa đang

độ nở căng, làm cho viên tri châu phải ngẩn ra trước mặt Va Đáo đến một lúc

lâu mới cất tiếng được” [20, tr.82]. Qua cách miêu tả ấy, người đọc thấy được

vẻ đẹp khỏe mạnh, hồn nhiên, có sự thu hút, tràn đầy sinh lực sống và khả năng

làm vợ, làm mẹ.

Trong văn học, để miêu tả phẩm chất và tính cách nhân vật, tác giả chú ý

đến miêu tả hành động của nhân vật. Thông qua đó thể hiện một phần chủ đề và

tư tưởng tác phẩm. Nhân vật nữ trong sáng tác của các nhà văn DTTS đều là

những người dân miền núi nên họ bộc lộ bản chất và cá tính của người miền núi.

Bề ngoài có vẻ nhút nhát, e dè nhưng hành động lại cho thấy sự mạnh mẽ, vượt

qua khó khăn thử thách vươn lên làm chủ cuộc đời. Nhân vật Mèn trong Ché

Mèn được đi họp của Nông Minh Châu được nhà văn miêu tả: “Nói với ai Mèn

cũng cúi mặt xuống. Mân mê vào bàn tay mới nói” [37, tr.127].Tuy vẻ ngoài nhút

nhát như vậy nhưng cô lại có những hành động quyết liệt chống lại cái cũ, lạc

62

hậu. Nghe những lời giễu cợt của đám thanh niên:“Những câu nói như vậy hôm

nay chọc vào tai Mèn, Mèn ăn cơm như nuốt phải xương, đi như bước trên cây.

Cả những sợi tóc lơ thơ rũ xuống mặt Mèn cũng không muốn gạt về bên tai

nữa.”[37, tr.131]. Qua những hành động của Mèn khi chăm sóc cây lúa, ta thấy

được sự miệt mài, lao động hăng say nhằm cải tiến kĩ thuật, đem lại cuộc sống

ấm no cho bà con.

Cũng giống như Vi Hồng, người phụ nữ trong tác phẩm của Cao Duy Sơn

được nhà văn dành nhiều ưu ái. Nhân vật phụ nữ được miêu tả khá cụ thể từ

khuôn mặt, vóc dáng, hình thái…Nàng Dình với vẻ đẹp mơ hồ, quyến rũ hiện

lên trong mắt Khơ: “Mặt nàng đẹp như bông đào trong nắng, nụ cười bẽn lẽn,

mắt chớp như cánh vẫy của loài bướm hoa” (Hoa bay cuối trời- Cao Duy Sơn),

Ếm trong Chợ tìnhmang vẻ “đẹp như hoa…Mỗi khi cười trời như sáng bừng lên,

hoa xuân lay lắc vui nhường lại nhan sắc”. Hoa đã trở thành hình tượng mang

tính ước lệ tượng trưng cho vẻ đẹp người con gái. Đặc biệt khi miêu tả ngoại

hình nhân vật, Cao Duy Sơn hay chọn một “điểm nhấn” để làm toát lên vẻ đẹp,

gợi được cả tâm hồn và tính cách của nhân vật. Những cô gái được tập trung

miêu tả về ánh mắt và đôi môi. Đôi môi những người phụ nữ miền núi bao giờ

cũng mang sắc đỏ như những loài hoa rừng, vừa tươi tắn lại vừa ngời lên sức

sống. Đôi mắt lúc nào cũng trong sáng “thanh sạch như nước suối Bó Slao”. Đôi

mắt ấy khiến bao chàng trai mê đắm khi đối diện. Cao Duy Sơn cũng cho thấy

tài năng của mình trong việc tìm điểm nhấn ở ngoại hình để lột tả đời sống tâm

hồn, tính cách của nhân vật như đôi mắt của Dình “chớp như cánh vẫy của loài

bướm hoa” đã cho người đọc dự báo được số phận của nàng cũng như phận loài

bướm rong ruổi và vô định… hay nhân vật Đẹm - vợ người lái xe ở lâm trường

Nà Pha trong Mùa én gọi bầy được nhà văn miêu tả từ điểm nhìn của những

người phụ nữ ở lâm trường: “đôi mắt nữa, nhìn thấy mấy thằng trẻ trai cứ tít lại

vì cười”. Sau này gia đình của Đẹm tan vỡ vì lí do Đẹm đã phản bội chồng…

Mỗi nhân vật là một ánh mắt riêng song tất cả đều soi rọi thế giới bên trong con

63

người của họ. Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, chỉ cần nhìn vào đôi mắt ta sẽ thấy

được đời sống tâm hồn bình yên, phẳng lặng hay cuồn cuộn bão giông của người

ấy. Có thể thấy Cao Duy Sơn đã rất tài tình trong việc tìm điểm nhấn của ngoại

hình để lột tả được đời sống tâm hồn cũng như tính cách của nhân vật.

Đặc biệt trong tiểu tuyết Đàn Trời của Cao Duy Sơn, vẻ đẹp của người phụ

nữ được tạo hóa ưu ái ban tặng như Diệu, Lê, Mỷ, Thục Vy. Họ là những người

phụ nữ mang vẻ đẹp của núi rừng. Nhà văn tiếp cận thi pháp hiện đại, linh hoạt

hơn trong việc miêu tả ngoại hình nhân vật, không dồn nén các chi tiết miêu tả

hình dáng nhân vật mà lựa chọn chi tiết và đến khi thực sự đắc dụng ông mới dùng

đến chi tiết đó. Ông hướng ngòi bút miêu tả đôi mắt, mái tóc: “Mặt đẹp như hoa

rừng” [50,tr.128], “Thân thể nàng, da dẻ nàng, đến cặp mắt trong sáng và cả đôi

môi kia như được chắt ra từ bình minh trong sương, từ ánh trăng dịu hiền của trời

thu trong vắt…” [50, tr.145]

Có thể thấy, trong nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ, Bùi Thị Như Lan

cũng rất chú ý đến việc khắc họa ngoại hình nhân vật với những điểm nhấn, tạo

nét riêng biệt. Đây cũng là một đặc điểm, một nét nổi bật trong nghệ thuật miêu

tả ngoại hình của nhà văn. Chú ý đến việc miêu tả ngoại hình các nhân vật của

mình từ đó tính cách và phẩm chất nhân vật hiện lên rõ nét. Cũng giống như cách

miêu tả của nhà văn Vi Hồng khi viết về các cô gái Tày xinh đẹp của núi rừng

Tây Bắc, Bùi Thị Như Lan cũng có sự ảnh hưởng, kế thừa. Ta thấy được điều đó

qua nhân vật Dín trong truyện Sau lời hát Sli, Dín tiêu biểu cho một thiếu nữ

vùng cao “Nước da mịn màng trắng như hoa mơ, hoa mận đến độ nở rộ, mỗi khi

nhóm lửa bên bếp, lửa cũng tí tách hờn ghen vì màu hồng trên má Dín. Khi cười

Dín kheo hàm răng trắng đều như bắp nếp để lại trên má hai đồng xu duyên

dáng, mặn mà” [28, tr.6]. Vẻ đẹp của Dín được so sánh như hoa mơ, hoa mận…,

một vẻ đẹp rực rỡ, trong sáng, tươi tắn với điểm nhấn trên đôi má hồng và hàm

răng trắng. Hay đến với cô gái trẻ trong truyện Trôi trong mây gió, người đọc

sẽ bắt gặp đôi mắt đẹp, trong trẻo “…đôi mắt đen láy, trong trẻo, nhìn ai cũng

như cười” [31, tr.54]. Đây là cách miêu tả ngoại hình nhân vật rât phù hợp với

64

cách cảm, cách nghĩ của người miền núi. Ta thấy rằng, không đâu có nhiều câu

chuyện cuốn hút về các cô gái đẹp như ở vùng cao phía Bắc. Những người phụ

nữ mang một vẻ đẹp tự nhiên, dịu dàng, thuần khiết, không tô son điểm phấn

nhưng vẫn khiến bao chàng trai mê đắm. Nhà văn Bùi Thị Như Lan còn nhấn

mạnh vẻ đẹp phồn thực của người phụ nữ miền núi với việc miêu tả những bộ

phận nhạy cảm của cơ thể, đây là một sự quyến rũ gắn với biểu hiện về sắc dục:

“Cơ thể tròn đầy, trinh nguyên của Xúa ướt đẫm sương nhưng lại tỏa ra hơi

nóng hầm hập mang theo hương thơm thoang thoảng của hoa rừng” [31,

tr.30].Hay“Bầu ngực tôi căng cứng, hổn hển sau làn váy mỏng. Người tôi nóng

hầm hập như muốn bốc lửa”. [31, tr.19]

Qua lăng kính của các nhà văn DTTS, vẻ đẹp ngoại hình của các nhân vật

nữ đó là một sự kết hợp hài hòa. Vẻ đẹp ngoại hình thể hiện ý thức mới về giá trị

con người, đề cao vẻ đẹp trần tục và cuốn hút của các nhân vật nữ.

3.1.2. Xây dựng nhân vật qua đời sống nội tâm

Trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, thế giới nội tâm của nhân vật luôn là

một vấn đề phức tạp và khó nắm bắt. Với tư cách là người dẫn chuyện, người kể

chuyện, nhà văn có thể sử dụng ngôn ngữ để miêu tả nội tâm nhân vật thông qua

độc thoại nội tâm, đối thoại nội tâm…Khái niệm nội tâm nhằm chỉ toàn bộ những

biểu hiện thuộc cuộc sống bên trong của nhân vật. Đó là những tâm trạng, những

phản ứng tâm lí, những suy nghĩ…của nhân vật trước cảnh ngộ, trước tình huống

mà nhân vật gặp phải trong cuộc đời. Trong quá trình phát triển của văn học, việc

thể hiện nhân vật qua nội tâm ngày càng có vai trò quan trọng nhất là đối với văn

xuôi. Có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sức sống của một tác phẩm, nội tâm

nhân vật có điểm độc đáo riêng biệt giúp bạn đọc thấy được rõ “những bí ẩn của

tâm hồn, phẩm chất, lí tưởng” của nhân vật. Nội tâm giúp nhân vật được sống,

được trải đời với cá tính riêng, cảm xúc riêng…giúp họ được là chính họ. Đời

sống nội tâm con người là công cụ, phương tiện để thể hiện tính cách, do đó việc

thể hiện thế giới nội tâm nhân vật được đánh giá cao trong nghệ thuật tiểu thuyết

65

hiện đại.

Bên cạnh việc miêu tả ngoại hình nhân vật, các nhà văn như Vi Hồng, Cao

Duy Sơn, Bùi Thị Như Lan đều chú trọng khắc họa nội tâm nhân vật. Điều đó

chúng tỏ nhà văn hiểu sâu sắc về cuộc sống và con người, nắm bắt được những

biểu hiện và diễn biến của đời sống bên trong nhân vật. Qua đó cũng khẳng định

được các tính sáng tạo của mình, ghi được dấu ấn trong thế giới văn chương và

trong lòng bạn đọc. Nội tâm nhân vật được Vi Hồng khắc họa bằng lời kể, bằng

độc thoại nội tâm và qua cảnh vật. Độc thoại nội tâm là “Lời phát ngôn của nhân

vật nói với chính mình, thể hiện trực tiếp quá trình tâm lí nội tâm, mô phỏng hoạt

động cảm xúc, suy nghĩ của con người trong dòng chảy trực tiếp của nó” [10,

tr.122].Đỉnh cao của sự thể hiện tình cảm, suy nghĩ của nhân vật là khi nhân vật

đó tự đối diện với chính bản thân mình và nói với chính bản thân mình. Nói đến

nhân vật Đàng là nói đến sức sống và tình yêu mãnh liệt. Đàng đã vượt qua mọi

cảnh ngộ, mọi thử thách khổ đau: “Đi đến đâu? Núi rừng không cùng này còn

có một góc trời nào sống không?...Ta phải sống”[16,tr.22]. Hay để diễn tả tâm

trạng uất ức, buồn đau, lo sợ của nhân vật nhà văn thường dùng những hình ảnh

thiên nhiên. Chẳng hạn khi miêu tả tâm trạng lo sợ của Đàng: “thỉnh thoảng một

con nai giật mình, chạy gãy cây, gây náo động cả một khoảng đại ngàn. Những

con chim nhỏ sợ hãi kêu chiêm chiếp”.Sự giật mình, sợ hãi của con chim nhỏ

cũng chính là nỗi lo sợ trong con người Đàng khi bị gắn cho tội danh “ma gà”.

Đến với nhân vật Viền trong Đất bằng, đau khổ khi biết Viền và Xanh

không đến được với nhau, trong tim cô luôn vang lên tiếng gọi của tình yêu: “Ơi

anh Xanh! Làm sao, làm sao, em còn được đến bên anh! Làm sao ta còn được

gọi tên nhau. Viền thầm thì với mình, lòng rộn quặn những cơn đau…” [15,

tr.116].Là người DTTS nên Vi Hồng thấu hiểu từng cảnh ngộ của những người

phụ nữ và đã khám phá và miêu tả thành công đời sống nội tâm nhân vật, giúp

chúng ta hiểu thêm về tâm hồn người phụ nữ miền núi.

Cuộc sống chính là điều kiện cần và đủ để hình thành nên sắc thái tâm lý

của con người và biến cố lại tác động trực tiếp tới những chuyển biến trong nội

66

tm con người. Cao Duy Sơn đã thành công trong việc xây dựng một hệ thống

nhân vật, đặc biệt là nhân vật nữ có đời sống nội tâm phong phú, phức tạp nhưng

lại rất kín đáo. Trong quá trình khắc họa đời sống nội tâm nhân vật, ông quan

tâm đến những lời bộc bạch của nhân vật và sử dụng nó như một phương tiện hỗ

trợ đắc lực trong việc phơi bày những sắc thái cảm xúc của nhân vật. Là một

người dân tộc Tày, hơn ai hết nhà văn sẽ hiểu đúng và sâu sắc nội tâm nhân vật

mà mình xây dựng. Đặt Mảy Lìn trước một sự việc quan trọng của cuộc đời, Cao

Duy Sơn đã để nhân vật đắm chìm trong dòng ý thức trước khi đưa ra quyết định

cuối cùng: “Thị không có quyền đó, một gia đình, một hạnh phúc mới đang nằm

trong tầm tay của mình. Không ai ngoài mình quyết định được việc này. Chờ lão

Phu ư? Biết đến bao giờ lão mới trở về. Còn hạnh phúc nếu buông ra lúc này sẽ

tuột mất vĩnh viễn. Cơ hội chỉ đến một lần, thế mà nó vẫn đến với ta lần thứ hai.

Số trời đã định, sao ta có thể lưỡng lự, né tránh. [49, tr.13].Để khắc họa thế giới

nội tâm của nhân vât một cách toàn vẹn và đầy đủ nhất, Cao Duy Sơn đã soi

chiếu nội tâm nhân vật từ những rung động, quằn quại ẩn sâu bên trong. Nhà văn

sử dụng thủ pháp độc thoại nội tâm và xem nó như một trợ thủ đắc lực trong việc

phơi bày cảm xúc nhân vật. Nỗi nhớ da diết của tình yêu đôi lứa thường đi liền

vơi nỗi buồn, niềm khát khao được nhìn thấy nhau. Nhân vật Dình đã từng bộc

bạch: “Một ngày không nhìn thấy anh là một ngày thế gian không có nắng, không

có gió, rừng không nở hoa và không có tiếng chim hót…Anh hãy sớm trở về đây

cho em được nhìn thấy mặt. Trên đời này em chỉ biết thương có mình Khơ thôi”.

[52, tr.107]. Tình yêu mặc dù phải xa cách nhưng điều đó cũng hé lộ khát khao

hạnh phúc, tấm lòng thủy chung của người phụ nữ miền núi. Việc sử dụng hàng

loạt những từ phủ định “không” khiến nỗi nhớ như cơn thác lũ dâng trào và khát

khao được gặp người thương càng cháy bỏng.

Trong các sáng tác của Bùi Thị Như Lan, cũng là phụ nữ nên việc khám

phá và miêu tả đời sống nội tâm nhân vật nữ là thế mạnh của chị. Nhà văn đã

đi sâu khai thác, tìm hiểu những điều thầm kín, ẩn ở đáy sâu tâm hồn nhân vật

67

để thấy được suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật. Những lời đối thoại nội tâm của

nhân vật Tôi: “Sao tôi không rì rầm nói chuyện với dòng Nậm Ún như mọi khi?

Tôi bỗng thở dài sườn sượt, ừ thì mọi chuyện mấy năm qua đi rồi sao tôi không

dám nói ra sự thật với anh?...liệu anh Dân có tha thứ cho tội lỗi của tôi

không?”[31, tr.71]. Hoặc có những đoạn đối thoại nội tâm trong đó nhân vật

tự chất vấn lương tâm mình: “Làm thế nào để vùa làm mế vui, vừa có được

anh?” [31, tr.108].

Có đoạn văn nhà văn như đã hóa thân vào nhân vật để diễn tả tâm trạng

đau đớn, trong đêm tân hôn khiến Sang và Sao đau khổ: “Một sự nhầm lẫn tệ hại

xảy ra. Và không ai khác, chính tôi là người phải hứng chịu. Tôi chạy ra khỏi

nhà.... Đi đâu tôi cũng không biết nữa…” [29, tr.125].Đây là một vài ví dụcho

thấy nhà văn đã khám phá và miêu tả đời sống nội tâm nhân vật một cách phong

phú đôi khi cũng rất phức tạp của người phụ nữ. Qua đây cũng có thể thấy, với

sự kế thừa văn học truyền thống và sự vươn lên tự làm mới mình. Các nhà văn

DTTS đặc biệt là Vi Hồng, Cao Duy sơn và Bùi Thị Như lan đã tái hiện bức

tranh đời sống nội tâm bên trong người phụ nữ miền núi, đó là những con người

có đời sống nội tâm phong phú, phúc tạp, nhưng lại lặng lẽ và kín đáo. Điều này

đã thể hiện những đặc thù của lối viết nữ bày tỏ mong muốn được giãi bày, được

chia sẻ của người phụ nữ.

3.2. Sử dụng ngôn ngữ giàu tính nữ

M.Gorki đã khẳng định: “Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học, nhà

văn là nghệ sĩ của ngôn từ. Nhà văn phải tạo cho mình một hệ thống và phong

cách ngôn ngữ riêng…” [9, tr.732].Ngôn ngữ nghệ thuật mang chức năng chủ

yếu là xây dựng hình tượng nghệ thuật, tác động tâm tư, tình cảm của người đọc.

Là một phần của hình thức nghệ thuật, ngôn ngữ nghệ thuật không chỉ đóng vai

trò như một vẻ đẹp, mà còn góp phần quan trọng trong việc tạo nên những tầng

nghĩa lẩn khuất, sâu xa, thể hiện tốt nội dung tác phẩm, làm nổi bật phong cách

nghệ thuật của tác giả, tạo nên nét đẹp thẩm mỹ cho văn học, khơi ngợi nuôi

68

dưỡng cảm xúc thẩm mỹ cho người đọc. Cũng giống với những nguyên liệu để

làm nên nghệ thuật, nhưng ngôn ngữ chỉ tạo nên những giá trị phi vật thể, đòi

hỏi người đọc và cả người sáng tác phải vận dụng tối đa khả năng quan sát, trí

liên tưởng tưởng tượng... mới có thể tiếp cận với hình tượng nghệ thuật mà ngôn

ngữ đã dày công nhào nặn. Sự huy động những khả năng ấy của con người, giúp

cho mỗi chúng ta sống tinh tế hơn, hình tượng cũng sẽ sống muôn hình vạn trạng

tùy theo quan niệm thẩm mỹ của mỗi người, tác phẩm nhờ vậy mà có thể cắm rễ

sâu trong lòng người đọc.

Ngôn ngữ được chú trọng đưa vào tác phẩm như một chất liệu cần thiết

làm cho nhân vật, đặc biệt là nhân vật nữ hiện lên sống động, gần gũi như những

con người thực trong cuộc đời. Với văn học viết về nữu quyền, nhà văn đã quan

sát, lắng nghe và đưa vào trang viết của mình ngôn ngữ của nữ giới. Có thể khẳng

định, ngôn ngữ trong dòng văn học nữ quyền là ngôn ngữ thể hiện những trải

nghiệm cá nhân của giới nữ cho nên người đọc dễ dàng bắt gặp những yếu tố

ngôn ngữ mang đậm chất nữ tính gợi sự liên hệ và gần gũi.

3.2.1. Ngôn ngữ giản dị, thông tục

Nhân vật trong văn xuôi DTTS miền núi phía Bắc chủ yếu là người dân

tộc giản dị, chất phác vì vậy ngôn ngữ nhà văn sử dụng cũng giản dị, thông tục

đời thường, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày. Những câu chuyện về người

phụ nữ được kể tự nhiên với ngôn ngữ bình dị, không được chú trọng trau chuốt,

đánh bóng.

Đúng như Vi Hồng đã nói: “Ở quê mình mọi người thật thà như cục đất,

cục đá! Ăn nói mỗi câu chỉ có một nghĩa như nước chui vào trong cống”.Bởi

thế mà ngôn ngữ nhân vật nữ mang đậm phong cách diễn đạt của người miền

núi. Phong cách đó thể hiện trong lời nói, cách nói rất chân thật, từ ngữ giản dị,

dễ hiểu. Nhà văn sử dụng khái niệm, hình ảnh mang quan niệm truyền thống,

văn hóa của người miền núi khi phô diễn tư tưởng, tình cảm. Vi Hồng sử dụng

những hình ảnh về Hoa gắn liền với tín ngưỡng Hoa của người Tày khi ca ngợi

69

vẻ đẹp của người phụ nữ: Hoa Biooc mạ, Biooc loỏng…Những từ này được Vi

Hồng sử dụng nguyên gốc Tày. Bên cạnh đó, ông sử dụng rất hiệu quả vốn từ

ngữ địa phương nhằm tạo nên bản sắc dân tộc vùng núi phía Bắc. Hồn dân tộc

được gợi lên từ những cái tên như: Slao, Quỳnh The, Va Đáo, Xo Ao, Nọi, Thu

Khoan…Tên gọi của các nhân vật nữ không hề cầu kì, hoa mĩ mà mộc mạc, gần

gũi như chính cuộc sống của người dân tộc.

Việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc trong sáng tác văn chương là một thế mạnh

của các nhà văn DTTS. Tuy các tác giả chủ yếu dùng tiếng phổ thông để sáng

tác nhưng trong các tác phẩm văn xuôi ta vẫn thấy thấp thoáng bóng dáng của

ngôn ngữ dân tộc như Tày, Nùng…Cũng như các nhà văn như Vi Hồng, Bùi

Minh Chức… Cao Duy Sơn cũng đưa ngôn ngữ Tày vào các sáng tác của mình.

Thứ ngôn ngữ ấy góp phần thể hiện rõ nhất cảm xúc và tâm trạng của nhân vật

như: “Múc dác sằng dè” (Đói bụng chưa?), “Cưn dá nhằng dác ca lăng mòn!”

(Ăn rồi làm sao còn đói), Ờ nỏ (Ờ nhỉ)…[51, tr.66]. Trong tiểu thuyết Người

lang thang của Cao Duy Sơn, nhân vật Na Ban (Người lang thang) lưu lạc từ

khi mười tuổi nên chẳng còn nhớ được gì nhiều, quê hương làng bản chỉ còn là

một vệt mờ trong kí ức nhưng lời hát đồng dao ngày nhỏ bà dạy Na Ban còn nhớ

như in:

“Bươn chiêng pi mấu

Pẻng phẳng tặt sẩu

Pủm lẩu tặt quay

Thèo may dảy váng

Núng náng phúng sang

Pù nàng pù ninh” [47, tr.211].

Bài đồng dao gợi nhắc về một thời tuổi thơ hồn nhiên, trong trẻo đã trở

thành ấn tượng khó phai mờ trong kí ức con người. Lời hát ru bằng tiếng dân tộc

buồn đến đa diết, quặn lòng của Na Ban thường được cất lên mỗi khi buồn tủi,

70

trở thành chỗ dựa tinh thần, thành nơi bấu víu để tâm hồn vơi bớt nỗi khổ đau,

sầu muộn:

“Noòn dắc nòn đí Noọng à

Sle mé nhàng pay nà àu luôm

Àu tú luôm, tu luôm pác đèng

Pắt tu lèng, tu lèng tha mo óc

Nòn, nòn đắc nòn đí noọng ơi!”.

Cao Duy Sơn đã khéo léo đưa những đoạn đồng dao, hát ru của người Tày

vào tác phẩm mà cố ý không đưa vào lời dịch. Song, bản thân tính nhạc của ngôn

từ đã góp phần mang đến cho người đọc dân tộc khác dù không biết tiếng Tày vẫn

có thể cảm nhận được phần nào nội dung của lời hát để cảm và hiểu nỗi lòng Na

Ban. Ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ có ý nghĩa vô cùng quan trọng, trở thành một phần

thiết yếu như máu thịt, như hơi thở, ăn sâu vào tâm trí và tiềm thức con người.

Nhà văn Y Phương tự nhận thấy rằng: “Đụng đến cái này (tiếng nói và chữ viết

dân tộc – Lâm Tiến) tự dưng con người tôi nổi hết gai ốc”.Ngôn ngữ trong sáng

tác của Bùi Thị Như Lan thường sử dụng khi viêt về người phụ nữ thường rất dung

dị, đời thường, nhà văn cũng đưa rất nhiều ngôn ngữ địa phương vào tác phẩm của

mình như: “Noọng a Slương căn Slíp vằn tàng nhằng xẩu” (Em ơi, yêu nhau cách

mười ngày đường còn gần…). [30,tr.172]

Bằng ngôn ngữ đời thường giản dị, thông tục, các nhà văn DTTS miền núi

phía Bắc đã phác họa những nét sinh động, gần gũi trong cuộc sống đời thường

của người phụ nữ, biểu hiện một thế giới quan đàn bà khá ấn tượng và chỉ có ở

người phụ nữ mà thôi.

3.2.2. Ngôn ngữ thẳng thắn, quyết liệt

Nhân vật người phụ nữ trong dòng văn học nữ quyền luôn luôn hành động

để ứng phó với thế giới xung quanh và với thế giới nội tâm của chính mình. Ngôn

ngữ thẳng thắn, quyết liệt thể hiện nhu cầu bình đẳng về phát ngôn của phụ nữ

trong việc giãi bày tình cảm cá nhân riêng tư. Nó thể hiện tinh thần độc lập, tự

71

chịu trách nhiệm của người phụ nữ về cuộc sống của mình. Ngôn ngữ mang tính

chất mạnh mẽ, quyết liệt trở thành một yếu tố để khẳng định vị thế của cái tôi cá

nhân đòi bình đẳng giới trong văn xuôi DTTS.

Tiểu thuyết Người trong ống, nàng Ai Hoa đã thẳng thắn bộc lộ tình yêu

với Tú: “Em gặp anh, yêu anh. Và đời em từ nay chỉ yêu một mình anh. Anh là

mười hai con hồn của em, anh là hơi thở của em, anh là tất cả cuộc đời em, có

vậy thôi” [17, tr.82].Lời từ chối tình yêu cũng rất thẳng thắn nhưng khéo léo :

“Em cảm ơn mối tình anh đã dành cho em nhưng em không thể yêu anh được.

Trên trời thiếu gì mây, mặt đất thiếu gì hoa đẹp. Mây hồng đầy trời, hoa đẹp tràn

mặt đất. Anh hãy chọn bông hoa nào đẹp nhất anh yêu. Chọn đám mây nào đẹp

nhất làm hào quang cho cuộc đời! Em chỉ là bông hoa thường chưa nở, đám mây

lạc cuối trời”.Thành thực trong tình yêu, giản dị trong suy nghĩ, hồn nhiên, chất

phác trong cuộc sống, dám nói thẳng quan điểm và suy nghĩ của mình. Va Đáo

thẳng thắn trong lời nói, nàng chỉ coi Tốc Thiêng là em trai để chàng khỏi hi

vọng: “Tôi không ghét anh, nhưng tôi cũng không yêu anh”. Còn Đàng (Vãi

Đàng) cương quyết từ chối làm lẽ tổng Vọi đã nói: “Dù chim có bay giật lùi, lợn

mọc hai đầu, con nước mọc chân bò lên dốc, tôi cũng không bao giờ nghĩ đên

điều ấy”.Chính ngôn ngũ thẳng thắn, quyết liệt đã góp phần khắc họa tính cách

nhân vật, bộc lộ nét đặc sắc của nhà văn. Các cô gái như Slao, Na (Núi cỏ yêu

thương), Đàng (Vãi Đàng), Băng (Tháng năm biêt nói), Ngư, Xo Ao (Thung lũng

đá rơi)…đều được Vi Hồng thể hiện bằng ngôn ngữ bạo dạn, chủ động bày tỏ

khát vọng tình yêu của mình. Điều ấy chứng tỏ ở miền núi, người con gái sống

hồn nhiên, chân tình, thẳng thắn.

Người miền núi nói lời thương thật mượt mà đằm thắm, còn lời trách

móc nhắc nhở của họ vừa thẳng thắn, vừa ý nhị sâu xa. Nhân vật Ban nhắc Khuề

đừng lỡ miệng để sau này ân hận: “Đừng nói bậy, hạt gạo rơi còn nhặt lên

được, tiếng nói rơi ra mồm không lấy lại được đâu” (Âm vang vong hồn). Đến

với câu chuyện tình dang dở trong Âm vang vong hồn, người đọc không khỏi

xót xa cho số phận nhân vật. Lời từ chối của Ban, từng từ, từng hình ảnh ví von

72

nghe sao oán trách, xót xa: “Giờ tôi như cái cây cho quả, già quá rồi, quả cũng

đã khô héo, như cái trăng trên trời muộn quá rồi không còn tròn nữa. Ngày ông

không dám cướp lấy tôi, như trái cây chín mọng mà không ăn, như cái trăng

lúc còn tròn mà không ngắm, giờ quả chỉ còn xơ, trăng giờ đã héo, ăn không

được nhìn chỉ buồn. Năm sáu mươi tuổi rồi còn khát khao nỗi gì?” [48,

tr.141].Hay lờimỉa mai củaHửkhi biết chồng qua lại với Lơ: “Con dúi làm hang

trong đất còn bị moi lên làm chả nướng, huống chi con người kềnh càng đi lại ở

cái phố huyện nhỏ như cái nón mo” …Trong tiểu thuyết Cực lạc của Cao Duy

Sơn, thời gian đầu khi bị Chẩng lừa về Pắc Gà cô chỉ biết cam chịu, cô không

nhớ mình đã khóc thành tiếng bao nhiêu lần. Nhưng càng về sau này, Mảy Lìn

đã tự tin, cương quyết và dứt khoát: “Mày không thể dụng vào các con tao, không

có mặc cả và chẳng có cuộc trao đổi nào hết. Mày định chiếm đoạt ngôi nhà và

đuổi mẹ con tao ra cửa ư? Làm sao dễ dàng thế được”. [49, tr.204]. Ngôn ngữ

nhân vật thể hiện sự mạnh mẽ, quyết tâm đấu tranh với Chẩng, một con người

nham hiểm và độ ác để giải thoát cho bản thân và các con. Tác giả thể hiện niềm

tin, tinh thần lạc quan vượt lên trên số phận của những người phụ nữ trong mọi

hoàn cảnh, thời đại.Khi nói đến ham muốn thân xác, các nhà văn DTTS cũng

dùng động từ, tính từ mạnh để diễn tả cảm xúc của những người phụ nữ khi bản

năng trỗi dậy như : “người tôi nóng hầm hập như muốn bốc lửa”. Nhà thơ Dương

Thuấn từng viết: “Không nói đi ngủ/ Nói là vác chiếu vác chăn/ Không nói núi

đồi dốc quá/ Nói là leo lên gió thổi ra tai/ Không nói đi mệt quá/ Nói là lỏng cả

hai đầu gối” (Cách nói của người miền núi). Những cách nói thẳng thắn, bộc trực

theo lối tư duy trực cảm cụ thể của người miền núi cũng được tận dụng một cách

hiệu quả.

Viết thẳng thắn về tình dục là cách để các nhà văn góp một tiếng nói mạnh

mẽ đòi quyền bình đẳng cho nữ giới - quyền tự do, quyền được sống, quyền được

yêu và được thụ hưởng tình yêu.

3.2.3. Vận dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ và lối ví von, so sánh

Thành ngữ, tục ngữ chứa đựng tri thức văn hóa của người Việt nói chung,

73

của các DTTS nói riêng. Là sản phẩm của lối nói ví von cho nên đã góp phần tạo

ra một đặc điểm ở tiếng Việt là rất giàu hình ảnh.Các thành ngữ, tục ngữ mang

đậm màu sắc dân gian là những diễn ngôn chân thực và giàu màu sắc bản địa của

văn hóa miền núi. Các nhà văn dân tộc miền núi phía Bắc đã vận dụng linh hoạt

thành ngữ, tục ngữ, những câu nói ví von, so sánh trong việc tổ chức ngôn ngữ,

tổ chức truyện kể. Sử dụng một cách linh hoạt và biến hóa thành ngữ, tục ngữ

dân gian đã tạo nên hứng thú đối với độc giả, giúp nhà văn phục dựng chân thực

những nét văn hóa miền núi, những kí ức văn hóa cộng đồng, đồng thời khám

phá được bản sắc dân tộc của nhân vật. Các thành ngữ, tục ngữ có khi được xuất

hiện trong lời của tác giả (người dẫn truyện), có khi lại xuất hiện trong lời của

các nhân vật trong truyện…góp phần hữu hiệu bộc lộ cá tính nhân vật. Việc sử

dụng những thành ngữ và tục ngữ trong ngôn ngữ nhân vật có một giá trị rất lớn.

Góp phần trong việc điển hình hóa nhân vật và thể hiện nội dung tác phẩm. Chính

thành ngữ, tục ngữ, lối nói ví von, so sánh đã giúp ích rất nhiều cho nhà văn trong

việc tiết kiệm lời nói, tránh dài dòng mà câu văn vẫn truyền tải được nội dung và

giàu sức thuyết phục.

Nhà văn Vi Hồng là một trong những nhà văn đã có sự vận dụng linh hoạt,

sáng tạo thành ngữ, tục ngữ vào trong lời văn nghệ thuật của mình. Đọc những

tác phẩm của Vi Hồng, ta sẽ thấy được phần lớn các câu thành ngữ, tục ngữ của

dân tộc Tày đã được nhà văn viện dẫn một cách thuần thục. Trong Đọa đầy, để

nói về cuộc đời con người đầy đắng cay, bất hạnh, người Tày có câu quen thuộc:

“Đắng như lá ngón xoay vần” [22, tr.167]. Tục ngữ Việt Nam có câu : Gậy ông

đập lưng ông, Vi Hồng đã diễn đạt lại bằng cách nói quen thuộc của người miền

núi: “Miệng ếch lại giết miệng ếch” [15, tr.152]. Vẫn là câu thành ngữ: nói hươu

nói vượn nhưng nhân vật Bội Hoan lại mắng yêu chồng “nói chân con hươu, nói

tai con gấu” [22, tr.208]. Tục ngữ Kinh có câu Cá mắc cạn, hạn gặp mưa rào đã

được Vi Hồng sáng tạo “bông hoa bất tử gặp mưa rào, như con cá chép to mắc

cạn bỗng gặp cơn nước lũ” [23, tr.108]. Có thể nhận thấy, nhân vật phụ nữ DTTS

74

trong sáng tác của Vi Hồng thường sử dụng những thành ngữ quen thuộc của

người Tày. Biểu đạt khái niệm rộng lớn, mênh mông người Tày thường sử dụng

thành ngữ: “Quạ bay rơi, chim bay chết”. Trong Lòng dạ đàn bà, Lăng Thị Thu

Lả cũng đã sử dụng thành ngữ này: “Mường Nặm Tốc Rù em đã có đôi lần đi

qua. Đấy là vùng đất rộng chim bay gẫy cánh, quạ bay đứt hơi, mường nước

trong nước ngọt như đường, em những ước mơ có bạn mà không có bạn” [18,

tr.18].Đặc biệt trong tác phẩm Cọn nước Eng Nhàn, tần số xuất hiện của các

thành ngữ, tục ngữ là dày đặc như: ăn không ngon, ngủ không say, mường trên

xã dưới, ngập mồm ngập miệng, tham mồm tham miệng, bên nặng bên nhẹ,

thương cũng thương vậy…

Ngoải ra lối nói ví von, so sánh của người miền núi cũng được nhà văn

vận dụng rất linh hoạt. Ngôn ngữ tình yêu trong văn xuôi của Vi Hồng rất giàu

hình ảnh. Những lời nói yêu đương của đôi trai gái Linh Thang Nghít và Lăng

Thị Thu Lả mới sinh động và ngọt ngào làm sao:

-“Anh nghe bảo con chim họa mi đẹp nhất của mường Nặm Đút đã vướng phải

bẫy thòng lọng tơ mành xe bẩy xe ba. Con cá li ngư mường Nặm Đút đã cắn phải

câu phao, câu bật. Cá li ngư có muốn vẫy vùng giữa sông cái nước trong cũng

khó thoát khỏi lưỡi câu oan nghiệt.

- Chim họa mi đã thấy con mồi nhưng họa mi chưa lao vào thách đố cho nên

chưa vướng phải thòng lọng tơ vàng bẩy sắc. Lí ngư đã thấy mồi kẻ câu cá nhưng

lý ngư còn kén chọn nên lưỡi câu có oan nghiệt cũng chưa kịp mắc vào số phận.

Lý ngư còn đang vùng vẫy nhưng muốn vượt thác đến sông trong để hóa rồng

nhưng nào ai mời ai rước. Vậy nên cá còn ước mơ phận cá. Chim còn lo buồn

phận chim. Anh Nghít có mở được đường mây rộng gọi cánh họa mi?Anh có rẽ

được nước phân đôi làm bên trong bên đục để lí ngư lúc ẩn, lúc hiện mới mong

hóa rồng.

- Nghe em nói…thì anh mừng nở hoa trăm sắc…anh mời em đến mường anh tìm

bạn” [18, tr. 27]

75

Những lời yêu thương duyên dáng ý nhị ấy khiến chúng ta liên tưởng đến lời

giao duyên trong ca dao dân ca:

“ Cô kia cắt cỏ một mình

Cho anh cắt với chung tình làm đôi.

Cô còn cắt nữa hay thôi

Cho anh cắt với làm đôi vợ chồng?”

Một trong những đặc điểm về cách diễn đạt của người miền núi là hay so sánh,

liên tưởng, nói có hình ảnh. Nét đặc sắc mà người đọc dễ nhận thấy là các tác giả

khi miêu tả hoặc bộc lộ tính cách, nội tâm nhân vật thường sử dụng các từ “như”

đặt giữa hai vế so sánh với mật độ rất cao. Truyện ngắn của Cao Duy Sơn đã thể

hiện rất rõ đặc điểm này. Trong Góc trời tây có cơn mưa đá, chỉ hai lần gặp Sín,

Líu đã: “Líu thấy mình như hút vào đôi mắt có lửa, Líu thú nhận mình bây giờ

như lứa khô tước mỏng, gặp lửa là bén” hay “Sau mỗi đêm mất ngủ thể xác, tinh

thần nhàu nát như chuối rừng gặp hỏa hoạn”[51, tr.63]

Trong Tình Mường Woangcủa Bùi Minh Chức cũng vậy: đôi vợ chồng trẻ

như đôi cu lò, to như cái phản, túm năm tụm ba…, “Người Ún còn mát như suối,

đời Ún còn dài như suối, còn chảy như suối mà.” [43, tr.52]

Thành ngữ, tục ngữ đi vào văn chương nghệ thuật như một điểm tựa, như một

biểu tượng của văn hóa nguồn cội. Cội nguồn dân tộc ăn sâu vào tiềm thức để

rồi con người dù có ở nơi đâu, trưởng thành ở phương trời nào thì cội nguồn quê

hương vẫn luôn là nơi để hướng về thiêng liêng và thành kính. Việc sử dụng

thành ngữ, tục ngữ dân gian của các tộc người DTTS chứa đựng tâm hồn, trí tuệ

của nhân dân, được sàng lọc qua thời gian, được vận dụng đầy sáng tạo làm

nênnhững cách diễn đạt độc đáo mang bản sắc riêng và tạo ấn tượng mạnh mẽ

cho người đọc.Sử dụng các thành ngữ, tục ngữ sao cho nhuần nhuyễn đã khó,

vận dụng sáng tạo trong sáng tác văn chương là điều càng khó hơn. Vi Hồng đã

chứng tỏ bản lĩnh trong ngòi bút của mình khi đưa các thành ngữ, tục ngữ vào

trong tác phẩm của mình, thổi vào một hơi thở mới, hơi thở của ngôn ngữ

76

Tày.Việc vận dụng sáng tạo các câu thành ngữ, tục ngữ có sẵn trong kho tàng

văn học dân tộc và lối nói ví von, so sánh giàu hình ảnh giúp các nhà văn DTTS

vừa thể hiện được bản sắc văn hóa của cộng đồng dân tộc mình đồng thời còn là

một cách thú vị để thể hiện các tính của người viết. Như vậy, khi vấn đề nữ quyền

trở thành một trào lưu văn học, các nhà văn DTTS đã tự tin đứng lên đấu tranh

phá bỏ những quan niệm truyền thống lỗi thời, lạc hậu, khẳng định sức mạnh của

người phụ nữ bằng những quan điểm tiến bộ. Qua đây, các nhà văn đã xây dựng

một thế giới nghệ thuật đầy sức hấp dẫn, phát huy hiệu quả cao trong việc thể

hiện tiếng nói nữ quyền mạnh mẽ, táo bạo.

77

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Nhìn từ phương diện nghệ thuật, các nhà văn DTTS đã đi sâu khám phá

nhân vật nữ thể hiện vấn đề nữ quyền trong văn học. Bằng nghệ thuật xây dựng

nhân vậtqua ngoại hình, hành động và nội tâm đã phát huy hiệu quả cao độ trong

việc thể hiện tiếng nói nữ quyền mạnh mẽ và táo bạo. Bên cạnh đó, việc sử dụng

ngôn ngữ giàu tính nữ trong đó có ngôn ngữ giản dị, thông tục, ngôn ngữ thẳng

thắn, quyết liệt và sự xuất hiện dày đặc của các thành ngữ, tục ngữ cùng lối ví

von, so sánh đã biểu hiện của sự nỗ lực đột phá của các nhà văn DTTS. Thông

qua những phương diện nghệ thuật này, các tác giả muốn thể hiện sự giãi bày, sẻ

chia và sự cảm thông, ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ vùng cao. Đây cũng là

nguồn cổ vũ tinh thần giúp những người phụ nữ nói chung tự tin khẳng định bản

thân trong cuộc sống.

78

KẾT LUẬN

1. Vấn đề nữ quyền đã và đang trỗi dậy mạnh mẽ, đặt xã hội phải có một

cái nhìn mới về quyền bình đẳng giữa nam và nữ. Trên thế giới, từ cuối thế kỷ

trước, phê bình văn học nữ quyền đã sớm diễn ra sôi nổi và hình thành một hệ

thống lý thuyết hoàn chỉnh, bao gồm nhiều nhánh nghiên cứu theo các khuynh

hướng khác nhau. Ở Việt Nam, hoạt động phê bình văn học nữ quyền đã khai

nhụy trong khoảng hơn mười năm trở lại đây, và đây vẫn là một hướng đi mới

chưa được chú ý thực sự. Tuy nhiên, trong lĩnh vực văn chương, tiếng nói của

giới nữ ngày càng được chú ý và có giá trị. Sự xuất hiện của ý thức nữ quyền có

thể được coi là bước phát triển dân chủ, hiện đại của nền văn học dân tộc. Đội

ngũ những nhà văn DTTS như Vi Hồng, Triều Ân, Bùi Minh Chức, Hoàng Hạc,

Hữu Tiến, Cao Duy Sơn, Bùi Thị Như Lan…đang cùng đồng lòng nói lên những

vấn đề của văn học nữ quyền.

2. Khảo sát văn xuôi của các nhà văn DTTS chúng tôi đã khám phá và

nhận thấy được những biểu hiện của ý thức nữ quyền trong thời đại mới. Từ đó

đề cao vai trò trung tâm của người phụ nữ và xây dựng hình tượng trung tâm là

nhân vật nữ. Vấn đề nữ quyền được xem xét trên những nội dung chính đó là sự

thức tỉnh trong các vấn đề về chống lại hủ tục lạc hậu, khát khao hạnh phúc và

bản năng tính dục. Họ dám sống hết lòng với chính cảm xúc và khát khao của

mình. Những người phụ nữ ấy là hiện thân cho những người phụ nữ hiện đại,

dám đón nhận những tư tưởng tiến bộ của nữ quyền.

Cái nhìn và cách cảm của các nhà văn DTTS là sự cảm thông, thương cảm

và ngợi ca.

3.Trên phương diện nghệ thuật chúng ta sẽ thấy được các nhà văn DTTS

sử dụng nghệ thuật xây dựng các nhân vật nữ qua ngoại hình,hành động và đi

sâu khám phá thế giới nội tâm để thấy được khát khao trong con người họ.Bên

cạnh đó,cảm hứng nữ quyền với nhân vật trung tâm là người phụ nữ được các

nhà văn sử dụng ngôn ngữ giàu tính nữ một cách giản dị, thông tục nhưng đầy

79

thẳng thắn, quyết liệtvà sự vận dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ cùng lối ví von,

so sánhcho thấy cách thể hiện vấn đề nữ quyền dưới một góc nhìn mới, mang

tính nhân văn sâu sắc.

4.Việc khai thác những biểu hiện của vấn đề nữ quyền trong văn xuôi

DTTS là một trong những bước đi góp phần nhận diện văn học nữ quyền trong

nền văn học hiện đại, chúng tôi đã chỉ ra những tâm huyết của các nhà văn khi

viết về người phụ nữ. Đây cũng là nguồn cổ vũ tinh thần giúp người phụ nữ, nhất

là phụ nữ vùng cao tự tin, khẳng định bản thân trong cuộc sống.

Đó là tâm hồn đẹp đẽ, phóng khoáng, giàu mơ ước và sức sống mãnh liệt

không gì dập tắt được nơi họ. Chính vì thế mà văn xuôi của các nhà văn DTTS

không chỉ có giá trị hiện thực mà còn mang âm hưởng nữ quyền.

Thông qua việc nghiên cứu về vấn đề nữ quyền chúng tôi càng cảm thấy

rõ hơn những thiệt thòi, khổ đau mà người phụ nữ phải gánh chịu. Qua đây chúng

tôi cũng mong sẽ đóng góp một tiếng nói nhỏ bé của mình vào việc khẳng định

vị trí, vai trò của người phụ nữ dân tộc miền núi trong gia đình và xã hội. Trên

cơ sở tôn trọng quyền sống, quyền làm vợ, làm mẹ, quyền được bình đẳng…trong

xã hội. Bởi người phụ nữ, đặc biệt là người phụ nữ DTTS xưa nay vốn chịu nhiều

sự thiệt thòi, nhiều khổ đau và bất hạnh. Khẳng định một sức sống và sức bật của

một nền văn học giàu sức phát triển.

80

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Y Ban (2005), Cưới chợ, Tập truyện ngắn, Nxb Hội nhà văn.

2. Y Ban, I am đàn bà, (2007), Nxb Phụ nữ.

3. Nông Quốc Chấn (1977), Một vườn hoa nhiều hương sắc, Nxb văn hóa dân tộc.

4. Nông Quốc Chấn (1995), Văn học thiểu số Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc.

5. Nông Quốc Chấn (1998), Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi, Nxb Giáo dục.

6. Nông Minh Châu (2003), Nông Minh Châu tuyển tập, Nxb văn hóa dân tộc.

7. Đặng Thị Vân Chi, Vấn đề nữ quyền và giải phóng phụ nữ trên báo chí đầu

thế kỉ XX.”, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 4.1997, tr. 26-33.

8. Đào Đồng Diện (2005), Phụ nữ - nguồn cảm hứng sáng tác của văn xuôi thời

kì đổi mới,http://vnca.cand.com.vn, ngày 25/3/2005.

9. Phan Cự Đệ (2000), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, NXB giáo dục, Hà Nội.

10. Lê bá Hán,Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

11. Lý Trạch Hậu (2002), Bốn bài giảng mỹ học, Trần Đình Sử, Lê Tấm dịch,

Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

12. Phạm Thị Hoài, Thiên sứ, (1989),Tiểu thuyết, Nxb Trẻ TP. Hồ Chí Minh.

13. Cao Thị Thu Hoài (2018),Nửa thế kỷ phát triển văn xuôi các dân tộc thiểu

số miền núi phía Bắc (Từ 1960 đến nay), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

14. Tô Hoài (1994), “Văn học các dân tộc thiểu số - Thực trạng và vấn đề”, Tạp

chí văn học, số 9.

15. Vi Hồng (1980), Đất bằng, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

16. Vi Hồng (1980), Vãi Đàng, Nxb mới, Hà Nội.

17. Vi Hồng (1990), Người trong ống, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

18. Vi Hồng (1992), Lòng dạ đàn bà, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

19. Vi Hồng (1993), Dòng sông nước mắt, Nxb Hội Văn học nghệ thuật Bắc

Thái.

20. Vi Hồng (1994), Phụ Tình, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

81

21. Vi Hồng (1997), Đi tìm giàu sang, Nxb Văn hóa dân tộc.

22. Vi Hồng (1997), Đọađày, Tiểu thuyết, Nxb Văn hóa dân tộc.

23. Vi Hồng (2006), Mùa hoa Biooc lỏong, Nxb Thanh niên.

24. Vi Hồng, (1991), Người dân tộc thiểu số viết văn, Tạp chí văn học số 4/1991,

Hà Nội.

25. Phan Khôi (2017), Vấn đề phụ nữ ở nước ta, Nxb Phụ nữ.

26. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia (2015), Nữ quyền và những vấn đề lý

luận và thực tiễn, Nxb Đại học sư phạm.

27. Lâm Tiến (1991), Vấn đề truyền thống và hiện đại trong văn học các dân tộc

thiểu số Việt Nam, Tạp chí Văn học số 4/1991, Hà Nội.

28. Bùi Thị Như Lan (2004),Tiếng chim Kỷ Giàng, Tập truyện ngắn, Nxb QĐND.

29. Bùi Thị Như Lan (2006), Hoa mía, Tập truyện ngắn, Nxb Thanh niên.

30. Bùi Thị Như Lan (2007),Lời Sli vắt ngang núi, Tập truyện ngắn, Nxb Quân

đội nhân dân.

31. Bùi Thị Như Lan (2011),Bồng bềnh sương núi, Tập truyện ngắn, Nxb Văn

hóa dân tộc.

32. Bùi Thị Như Lan (2005), Mùa mắc mật, Tập truyện ngắn, Nxb Hội nhà văn.

33. Lý Lan, Phê bình văn học nữ quyền, http://tiasang.com.vn/Default.aspx

34. Phương Lựu (chủ biên) (1977), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

35. Đào Thủy Nguyên (2014), Bản sắc văn hóa dân tộc trong văn xuôi của các

nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Đại học Thái Nguyên.

36. Ma Trường Nguyên (1992), Gió hoang, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

37. Nhiều tác giả (1981), Hợp tuyển thơ văn các tác gia dân tộc thiểu số Việt

Nam (1945-1980), Nxb Văn hóa.

38. Nhiều tác giả (2004), Nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam - Đời và văn. Nxb

Văn hóa dân tộc.

39. Nhiều tác giả (2007), Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số thời kì đổi mới,

Nxb Văn hóa dân tộc.

40. Nhiều tác giả (2008), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

82

41. Nhiều tác giả (2015), Vi Hồng- Tác phẩm và dư luận, Nxb ĐH TháiNguyên.

42. Nhiều tác giả(1985), 40 năm văn hóa nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt

Nam (1945 -1985), Nxb Văn hóa, Hà Nội.

43. Nhiều tác giả (2002), Văn xuôi dân tộc và miền núi, Nxb Văn hóa dân tộc.

44. Nhiều tác giả (2001), “Vấn đề nữ quyền ở Việt Nam đầu thế kỉ XX”, Việt Nam

học- Kỉ yếu Hội thảo quốc tế lần thứ nhất, Hà Nội, 15-17/7/1998, tập IV Nxb

Thế giới, Hà Nội, tr. 37-46.

45. Nhiều tác giả (2002), Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ XX, Viện Văn học,

Nxb Chính trị quốc gia.

46. Trần Huyền Sâm (2016), Nữ quyền luận ở Pháp và tiểu thuyết Việt Nam

đương đại, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội.

47. Cao Duy Sơn (1992), Người lang thang, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

48. Cao Duy Sơn (2002), Những đám mây hình người, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà

Nội.

49. Cao Duy Sơn (2004), Hoa mận đỏ, Nxb Văn hóa dân tộc.

50. Cao Duy Sơn (2006), Đàn trời, Nxb Hội nhà văn.

51. Cao Duy Sơn (2008),Hoa bay cuối trời, Tập truyện ngắn, Nxb Thanh niên,

Hà Nội.

52. Cao Duy Sơn (2008), Ngôi nhà xưa bên suối, Nxb Văn hóa dân tộc.

53. Nguyễn Huy Thiệp, Tính dục trong văn học hôm nay, Vietnamnet.

http://vietnamnet.vn/vanhoa/chuyende/, 24/4/2006.

54. Trần Nho Thìn (2010),Nho giáo và nữ quyền, Tham luận trình bày tại Hội

thảo khoa học quốc tế Nho giáo Việt Nam và văn hóa Đông Nam Á.

55. Hoàng Bá Thịnh (2008),"Các làn sóng nữ quyền và ảnh hưởng của nữ quyền

đến địa vị của Phụ nữ Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số

4/2008.

56. Hà Văn Thư (1966), Về văn hóa văn nghệ các dân tộc thiểu số, Nxb văn hóa

dân tộc, Hà Nội.

83

57. Nguyễn Thị Minh Thương, Ảnh hưởng của lý luận thân thể của Foucault đối

với chủ nghĩa nữ quyền, http://phebinhvanhoc.com.vn.

58. Trần Thị Việt Trung, Cao Thị Hảo (2014), Văn học DTTS Việt Nam thời kì

hiện đại- Một số đặc điểm, Nxb Đại học Thái Nguyên.

59. Trần Thị Việt Trung, Hà Thị Cẩm Anh (2016), Tuyển tập văn xuôi Hà Thị

Cẩm Anh, Nxb Đại học Thái Nguyên.

60. Hồ Khánh Vân (2002), Ý thức nữ quyền và sự phát triển bước đầu của văn

học nữ Nam bộ trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc đầu thế kỷ XX,

Tạp chí Văn học (số 7), Hà Nội, tr. 81-94.

Tài liệu Internet

61. http://isee.org.vn/wp-content/uploads/2018/11/dien-ngon-gioi-va-tinh-duc-

trong-cuoc-song-muon-mau..pdf

62. http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/nghien-cuu/ly-luan-va-phe-binh-van-

hoc/6671-ph%C3%AA-b%C3%ACnh-n%E1%BB%AF-

quy%E1%BB%81n-2.html

63. https://khoavanhoc.edu.vn/index.php/vh-vn/419-nho-giao-va-n-quyn

84

PHỤ LỤC

BẢNG THỐNG KÊ TẦN SỐ XUẤT HIỆN CỦA CÁC THÀNH NGỮ,

TỤC NGỮ VÀ LỐI VÍ VON SO SÁNH TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM

TIÊU BIỂU

STT TÊN TÁC PHẨM TẦN SỐ XUÁT HIỆN

Cọn nước Eng Nhàn 22 1

Tình Mường Woang 12 2

Góc trời tây có cơn mưa đá 30 3

Chị Máy 13 4

Hoa chàm 18 5

Cắm Tỷ 11 6