ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM DƯƠNG THỊ THÚY HẰNG VẤN ĐỀ NỮ QUYỀNTRONG SÁNG TÁC CỦA MỘT SỐ NHÀ VĂN DÂN TỘC THIỂU SỐ (KHU VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM) LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2020
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM DƯƠNG THỊ THÚY HẰNG VẤN ĐỀ NỮ QUYỀNTRONG SÁNG TÁC CỦA MỘT SỐ NHÀ VĂNDÂN TỘC THIỂU SỐ (KHU VỰCMIỀN NÚI PHÍA BẮCVIỆT NAM) Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: TS. CAO THỊ THU HOÀI THÁI NGUYÊN - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Hoàn toàn
không sao chép của bất kì ai.Nội dung của luận văn có sử dụng tài liệu, thông tin
được đăng tải trên các tác phẩm, tạp chí, các website theo danh mục tài liệu tham
khảo.
Nếu sai tôi xin chịu trách nhiệm!
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2020
Tác giả luận văn
Dương Thị Thúy Hằng
i
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn, em đã nhận được sự
giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo, gia đình và bạn bè. Với lòng biết
ơn sâu sắc em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới:
TS. Cao Thị Thu Hoài, người thầy đã hướng dẫn em thực hiện luận văn
trên. Sựchỉ bảo tận tình, chu đáo vànhiều ý kiến quý báu của cô đã giúp đỡ em
rất nhiều trong suốt thời gian thực hiện luận văn.
Ban giám hiệu, phòng Đào tạo sau Đại học, Khoa Ngữ Văn cùng toàn thể
các thầy cô đã giảng dạy chuyên ngành Văn học Việt Nam trường ĐHSP Thái
Nguyên đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em hoàn thành khóa học.
Xin cảm ơn sự động viên, khích lệ của người thân, bạn bè, đồng nghiệp.
Dù rất cố gắng nhưng luận văn vẫn không tránh khỏi những thiếu sót, rất
mong nhận được ý kiến đóng góp để luận văn thêm hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2020
Tác giả luận văn
Dương Thị Thúy Hằng
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC .......................................................................................................... iii
DANH MỤC VIẾT TẮT ..................................................................................... v
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 6
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 6
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 7
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 8
7. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 8
Chương 1:KHÁI QUÁT VỀ VĂN XUÔI DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN
NÚIPHÍA BẮC VÀ GIỚI THUYẾT VỀ NỮ QUYỀN TRONG VĂN
HỌC .................................................................................................................... 9
1.1. Khái quát về văn xuôi dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc .......................... 9
1.1.1. Lịch sử hình thành, phát triển .................................................................... 9
1.1.2. Đặc điểm nội dung, nghệ thuật ................................................................ 14
1.2. Giới thuyết về nữ quyền trong văn học ...................................................... 20
1.2.1. Khái niệm nữ quyền ................................................................................ 20
1.3. Mạch nguồn cảm hứng về nữ quyền trong văn xuôi dân tộc thiểu số
miền núi phía Bắc .............................................................................................. 28
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .................................................................................... 31
Chương 2:VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN TRONG SÁNG TÁC CỦA MỘT SỐ
NHÀ VĂN DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮCNHÌN TỪ
GÓC ĐỘ NỘI DUNG ...................................................................................... 32
2.1. Nữ quyền trong cuộc chiến chống lại những hủ tục lạc hậu ...................... 33
iii
2.2. Nữ quyền trong khát khao hạnh phúc đời thường ...................................... 43
2.3. Nữ quyền trong bản năng tính dục ............................................................. 50
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 .................................................................................... 59
Chương 3:VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN TRONG SÁNG TÁC CỦA MỘT SỐ
NHÀ VĂN DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮCNHÌN TỪ
GÓC ĐỘ NGHỆ THUẬT ............................................................................... 60
3.1. Nghệ thuật xây dụng nhân vật nữ ............................................................... 60
3.1.1. Xây dựng nhân vật qua ngoại hình và hành động ................................... 60
3.1.2. Xây dựng nhân vật qua đời sống nội tâm ................................................ 65
3.2. Sử dụng ngôn ngữ giàu tính nữ .................................................................. 68
3.2.1. Ngôn ngữ giản dị, thông tục .................................................................... 69
3.2.2. Ngôn ngữ thẳng thắn, quyết liệt .............................................................. 71
3.2.3. Vận dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ và lối ví von, so sánh ..................... 73
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 .................................................................................... 78
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 81
PHỤ LỤC ......................................................................................................... 85
iv
DANH MỤC VIẾT TẮT
DTTS : Dân tộc thiểu số
TK : Thế kỉ
v
MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
1.1.Làmột bộ phận quan trọng trong nền văn học Việt Nam, văn học dân
tộc thiểu số (DTTS) đã đi vào đời sống cộng đồng và mang những giá trị nhân
văn cao cả. Trong bộ phận văn học này, thể loại văn xuôi chiếm một vị thế đặc
biệt,làm nên những nét đặc sắc tiêu biểu và riêng biệt.Như GS. Phong Lê đã từng
nhận xét:“Văn xuôi miền núi chiếm lĩnh được một vẻ đẹp riêng không thay thế
được, không ai bắt chước được”. Trải qua một quá trình tự mình vận động và
vươn ra hòa cùng đại dương văn học Việt, đến nay, văn xuôi dân tộc thiểu số đã
đạt được rất nhiều thành tựu lớn và có chỗ đứng trên khắp các vùng miền của cả
nước. Trong đó, tập trung chủ yếu ở ba khu vực: miền núi phía Bắc, Tây Nguyên
và Tây Nam Bộ.
1.2.Khu vực miền núi phía Bắc là một địa bàn rộng lớn và là nơi sinh sống
của nhiều đồng bào dân tộc thiểu số như Tày, Nùng, Dao, Mường, H’Mông… Mỗi
dân tộc lại ghi dấu một nét văn hóa riêng tạo nên bức tranh miền núi phong phú,
đa dạng, giàu bản sắc dân tộc. Văn xuôi khu vực này cũng tiêu biểu và khởi sắc
hơn cả về số lượng tác phẩm cũng như đội ngũ các tác giả như: Nông Minh Châu,
Vi Hồng, Triều Ân, Bùi Thị Như Lan, Nông Viết Toại, Vi Thị Kim Bình, Cao
Duy Sơn, Ma Trường Nguyên, Hữu Tiến, Mã A Lềnh, Vương Trung… Các nhà
văn khi viết về miền núi đều có những tìm tòi, khám phá hết sức mới mẻ mà vẫn
đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Đặc biệt, các nhà văn này đều có một điểm nhìn
chung trong cách xây dựng hình tượng người phụ nữ miền núi trong đời sống
đương đại, có cả sự xót xa, thương cảm và ngợi ca. Dường như với các nhà văn,
được viết, được tả, được thể hiện niềm ưu ái dành cho những người phụ nữ vùng
cao là một niềm “vinh dự” và “tự hào”, bởi qua những trang văn chất chứa bao
tình cảm ấy là cả niềm tin và hi vọng vào một tương lai tươi sáng hơn cho những
thân phận còn đong đầy bất hạnh nơi các bản làng xa xôi.Vượt hơn cả hi vọng và
mong ước, các nhà văn dân tộc miền núi còn hướng đến một vấn đề cao cả, mãnh
1
liệt và cũng vô cùng chính đáng: vấn đề nữ quyền cho người phụ nữ vùng cao.
1.3.Vấn đề nữ quyền đang là xu hướng của thời đại hiện nay, nhận được sự
quan tâm của toàn xã hội. Từ xa xưa, ý thức nữ quyền đã có ở Việt Nam trong cội
nguồn nền văn hóa nông nghiệp lúa nước, được thể hiện qua tín ngưỡng thờ Mẫu,
việc tôn thờ nữ thần, thờ mẫu thần, thờ mẫu tam phủ, tứ phủ với quyền năng sinh
sôi và che trở cho con người xuất hiện khá phổ biến và có nguồn gốc lịch sử lâu
đời. Trong thời kì phong kiến, chịu ảnh hưởng nặng nề của Nho giáo với quan
điểm “trọng nam - khinh nữ”, hay là “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, có thể
thấy, người đàn ông được coi trọng, được nắm quyền hành trong xã hội còn người
phụ nữ chỉ là cái bóng mờ nhạt, không được coi trọng. Người phụ nữbị bủa vây
bởi tập tục lạc hậu, họ chỉ biết sống cam chịu và phục tùng, số phận chịu nhiều
đắng cay và ngang trái. Bởi vậy, dấu hỏi lớn ở đây là làm sao để người phụ nữ có
được quyền bình đẳng trong cuộc sống?
Khi xã hội bước vào thời kì đổi mới, đời sống kinh tế xã hội và tư tưởng
có nhiều thay đổi, chủ nghĩa nữ quyền lúc này giải thích nguyên nhân tại sao phụ
nữ bị áp bức trong xã hội và làm thế nào để nâng cao địa vị của phụ nữ. Vì thế
tiếng nói đòi quyền bình đẳng và quyền sống của người phụ nữ được chú trọng
hơn. Trong văn học, hình tượng người phụ nữ luôn là nguồn cảm hứng bất tận,
vừa quen thuộc, vừa mới mẻ của những văn nghệ sĩ và là hình tượng nghệ thuật
tiêu biểu cho văn học dân tộc. Cuộc đấu tranh vì bình đẳng giới đã diễn ra đồng
loạt trên mọi phương diện của đời sống xã hội, trong đó có văn học nghệ thuật.
Lúc này, vấn đề về nữ quyền được nhắc đến nhiều trong đời sống văn học nước
ta, chi phối diện mạo văn xuôi Việt Nam trong đó có văn xuôi dân tộc thiểu số.
1.4. Qua những sáng tác văn xuôi, các nhà văn dân tộc thiểu số thấu hiểu
được số phận của người phụ nữ miền núi còn chịu nhiều thiệt thòi, áp bức nên
bằng các phương thức khác nhau, họ đã đưa vào tác phẩm của mình hình ảnh
người phụ nữ và cuộc sống của họ trên muôn nẻo cuộc sống với sự đồng cảm, yêu
thương, trân trọng. Âm hưởng về nữ quyền tuy còn mơ hồ nhưng tiếng vọng
của nó đã vang lên thể hiện ở việc người phụ nữ dân tộc thiểu số dám đứng lên
2
chống lại những phong tục, tập quán đã lỗi thời, lạc hậu, mang màu sắc mê tín,
những thói hư, tật xấu làm xã hội trì trệ, trở thành vật cản, là gánh nặng đối với
các cộng đồng người dân tộc thiểu số. Dù luôn phải đối mặt với những khó khăn,
thử thách trong cuộc sống nhưng thẳm sâu trong tâm hồn, họ luôn khát khao về
cuộc sống hạnh phúc - đời thường giản dị, tươi đẹp.Đọc những sáng tác của Vi
Hồng, Bùi Thị Như Lan và Cao Duy Sơn… Ta có thể thấy các tác giả đều chú ý
khắc họa thành công hình tượng nhân vật nữ dân tộc thiểu số, dành cho họ nhiều
trangviết tâm huyết trong sáng tác của mình với những phát hiện về những khát
vọng cao đẹp của người phụ nữmang âm hưởng nữ quyền rất đậm nét. Từ đó, có
thể khẳng định, các nhà văn dân tộc thiểu số đã góp tiếng nói của mình để tôn vinh
những người phụ nữ, những người mà ở bất cứ thời đại nào,quốc gia dân tộc nào
cũng giữ vai trò trọng yếu trong việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống của mỗi dân tộc.
1.5.Vấn đề nữ quyền là đề tài có ý nghĩa sâu sắc, có sức lôi cuốn đặc biệt
và cũng rất thiết thực với bản thân vì sự yêu thích và muốn khám phá về người
phụ nữ dân tộc thiểu số. Chính vì những lí do trên đã thôi thúc tôi chọn “Vấn đề
nữ quyền trong sáng tác của một số nhà văn dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc”
làm đề tài nghiên cứu. Hi vọng đề tài thành công sẽ là một tài liệu tham khảo hữu
ích cho những người muốn tìm hiểu về văn xuôi miền núi nói chung và vấn đề
nữ quyền trong văn xuôi dân tộc thiểu số nói riêng.
2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề
ỞViệt Nam, vấn đề nữ quyền được manh nha trong lý luận phê bình văn
học đầu TK XX, nhưng phải từ năm 1986 trở đi, âm hưởng nữ quyền trong văn
học mới thực sựđược chú ý. Vấn đề nữ quyền đã được một số nhà nghiên cứu đề
cập đến như: Trong bài báo Về tinh thần nữ quyền trong tiểu thuyết, truyện ngắn
Việt Nam sau 1986, Nguyễn Mạnh Hà cho rằng: “Tinh thần nữ quyền (…) biểu
hiện nổi bật ở những điểm sau: đả phá trật tự nam quyền, tìm lại chính mình,
khẳng định những ưu việt”. Châm Khanh chủ yếu lý giải sự xuất hiện mạnh mẽ,
3
đông đảo của các tác giả nữ từ sau năm 1975 và tìm những cơ sở đểxác địnhlối
viết văn đặc trưng của phụ nữ trong tiểu luận Phụ nữ và vănchương.Trên
trang báo vnca.cand.com.vn, bài viết Phụ nữ - nguồn cảm hứng sáng tác của văn
xuôi Việt Nam thời kì đổi mới của Đào Đồng Điện, người viết đặt người phụ
nữ ở vị trí đối tượng sáng tạo để khám phá diện mạo của hình tượng nhân vật nữ.
Phụ nữ là một nội dung nổi bật của văn xuôi Việt Nam thời kỳ đổimới.Nguyễn
Thị Thanh Xuân với tham luận “Xét lại thế giới đàn ông bằng cái nhìn đàn bà”,
tham dự tọa đàm khoa học “Văn xuôi nữ trong bối cảnh văn học Việt Nam đương
đại”, đã khái quát những nét cơ bản về âm hưởng nữ quyền trong văn học từ năm
1986 trởđi.
Năm 1990, bài viết: Nhìn lại vấn đề giải phóng phụ nữ trong tiểu thuyết
Tự lực văn đoàn (Tạp chí văn học, số 5), nhà nghiên cứu Trường Chính đã thể
hiện những kiến giải của mình về ý thức nữ quyền trong tiểu thuyết Tự lực văn
đoàn. Từ giữa năm 1999, nhiều chuyên đề liên quan đến phái tính trong văn học
có sức lan tỏa rất nhanh trên văn đàn, nhất là ở ngoài nước. Do có sự tiếp xúc với
chủ thuyết nữ quyền, dòng văn học hải ngoại có bước đột phá rất ngoạn mục
trong việc nghiên cứu về phái tính. Những chuyên đề như Tình yêu, tình dục và
phái tính trong văn học, Tình yêu tình dục của Tạp chí Việt, chuyên đề Văn học
nữ quyền, chuyên đề Giới tính trên trang DaMau.org… liên tiếp mở ra nhiều
khám phá.Năm 2006, trong bài viết tham dự hội thảo quốc tế về văn học tại Viện
văn học có nhan đềVấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt
Nam đương đại, nhà nhiên cứu Nguyễn Đăng Điệp đã giới thiệu khái quát về vấn
đề phái tính trong văn học ở từng giai đoạn và đưa ra nhìn nhận ban đầu về vấn
đề tính nữ trong văn học Việt Nam. Năm 2013, Đặng Thị Vân Chi trong bài viết:
Vấn đề nữ quyền ở Việt Nam đầu TK XXtham dự Hội thảo Quốc tế Việt Nam học
lần thứ nhấtcó nhận xét: “Sự tự nhận thức của phụ nữ đối với vấn đề nữ quyền
cũng như sự phát triển của quá trình nhận thức tư tưởng này trong xã hội Việt
Nam đã từng bước mang lại sự thay đổi thực sự cho phụ nữ cũng như sự phát
4
triển của phong trào phụ nữ, thúc đẩy phụ nữ tham gia vào các hoạt động xã
hội, vào phong trào đòi quyền bình đẳng nam nữvà giải phóng phụ nữ, giải
phóng dân tộc và góp phần vào thành công của cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở Việt Nam”. Với bài viết này đã cho thấy sự phát triển nhận thức về vấn đề
nữ quyền ở Việt Nam đầu thế kỷ XX. Năm 2017, Lê Thị Thanh Xuân trong bài
viết: Xu hướng nữ quyền trong sáng tác của các nhà văn nữ dân tộc thiểu số
(Tạp chí khoa học - ĐH Huế) đã gửi tới thông điệp về hình ảnh người phụ nữ
luôn là đề tài hấp dẫn đối với các nhà văn để đi sâu khai thác vấn đề nữ quyền.
Ngoài ra còn một số nghiên cứu về vấn đề nữ quyền như: Hồ Khánh Vân trong
Từ lý thuyết phê bình nữ quyền nghiên cứu một số tác phẩm văn xuôi của các tác
giả nữ Việt Nam từ năm 1990 đến nayvà Ý thức nữ quyền và sự phát triển bước
đầu của văn học nữ Nam Bộ trong tiến trình hiện đạihóa văn học dântộc đầu thế
kỉ XX;Nguyễn Thị Thanh Xuân trong Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền
trong văn học Việt Nam đương đại (qua sáng tác của một số nhà văn nữ tiêu
biểu) cho thấy sự quan tâm đến giới nữ từ nữ quyền luận đan xen với lý thuyết
về giới, đôi chỗ còn trộn lẫn với thi pháp học, phong cách học. Trần Nho Thìn
trong Từ thực tiễn Việt Nam, góp thêm một tiếng nói phương pháp luận vào cuộc
thảo luận quốc tế về vấn đề Nho giáo và nữ quyền, tiếp cận vấn đề từ góc độ văn
hóa học, nữ quyền luận xen với phê phán tư tưởng hệ.
Qua tìm hiểu bước đầu, các nhà văn dân tộc thiểu số luôn muốn hướng tới
sự công bằng, bình đẳng cho nữ giới, xóa bỏ định kiến vô thức hay những khuôn
phép giáo điều xưa cũ áp đặt cho người phụ nữ trong các sáng tác văn xuôi dân
tộc miền núi. Đã có một số công trình mang tính tập hợp, tuyển chọn và giới
thiệu về văn học dân tộc thiểu số trong đó có đưa vào hình ảnh người phụ nữ dân
tộc như: Tuyển tập văn học các dân tộc thiểu số (Nxb văn hóa, 1995); Tuyển tập
văn học và miền núi (Nxb Giáo dục, 2007); Hợp tuyển thơ văn các dân tộc thiểu
số Việt Nam 1945-1985 (Nxb Văn hóa, 1981)… Ngoài ra còn một số công trình
nghiên cứu, đánh giá về văn học dân tộc thiểu số trong đó có hình tượng người
5
phụ nữ dân tộc như: Một vườn hoa nhiều hương sắc (Nxb Văn hóa, 1997); 40
năm văn hóa nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (1945-1985) (Nxb Văn
hóa, 1985); Văn hóa các dân tộc -từ một diễn đàn (1999) của Hội văn học nghệ
thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam; Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam truyền
thống và hiện đại (Nxb Đại học Thái Nguyên); Bản sắc văn hóa dân tộc trong
văn xuôi của các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam ( Nxb Đại học Thái Nguyên);
Nửa thế kỷ phát triển văn xuôi các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt
Nam(từ 1960 đến nay) (Nxb Hội nhà văn)… Nhìn chung những nguồn tài liệu
trên đã cung cấp những nhận định khái quát về người phụ nữ dân tộc thiểu số,
thấy được hình ảnh người phụ nữ luôn là đối tượng thẩm mĩ đáng được chú ý
trong mọi lĩnh vực văn chương.
Điểm qua một số công trình nghiên cứu và các bài viết có thể thấy rằng,
lý thuyết về nữ quyền đã được vận dụng vào nghiên cứu văn học Việt Nam, tuy
nhiên chưa có công trình nào đề cập đến vấn đề nữ quyền trong sáng tác của một
số nhà văn dân tộc thiểu số. Do đó, đây sẽ là hướng mở để chúng tôi thực hiện
đề tài này. Đề tài thành công sẽ góp một cái nhìn mới mẻ nhằm giáo dục nhận
thức về các giá trị bình quyền, thúc đẩy bình đẳng giới nói chung và sự tiến bộ
của người phụ nữ vùng cao nói riêng.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Vấn đề nữ quyền trong sáng tác của
một số nhà văn dân tộc thiểu số (khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề nữ quyền trong sáng tác của các nhà
văn DTTSkhu vực miền núi phía Bắc như: Vi Hồng, Cao Duy Sơn,Bùi Minh
Chức, Hữu Tiến, Bùi Thị Như Lan…
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
- Có cái nhìn tổng thể và khái quát về văn học dân tộc thiểu số, góp phần
6
tìm hiểu và soi sáng về thể loại văn xuôi dân tộc thiểu số trong bức tranh văn học
các dân tộc thiểu số Việt Nam.
- Qua việc nghiên cứu vấn đề nữ quyền trong sáng tác của một số nhà văn
dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc, luận văn sẽ phân tích, lý giải, đưa ra được
những nhận định nhằm chứng minh những nét riêng về vấn đề nữ quyền trong
các sáng tác của một số nhà văn dân tộc thiểu số ở hai phương diện nội dung và
nghệ thuật. Từ đó khẳng định những thành tựu, những đóng góp mới mang tính
hiện đại, những giá trị mới mang tính nhân văn của văn xuôi dân tộc thiểu số
miền núi phía Bắc Việt Nam.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu những vấn đề lí luận liên quan đến đề tài.
- Phân tích nhằm làm rõ những biểu hiện của vấn đề nữ quyền trong sáng
tác của các nhà văn dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc ở hai phương diện nội
dung và nghệ thuật.
- Khẳng định những đóng góp của các nhà văn dân tộc thiểu số trong việc
tạo dựng bức tranh về người phụ nữ dưới cái nhìn về giới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Qua phân tích một số dẫn chứng tiêu
biểu của các nhà văn DTTS viết về vấn đề nữ quyền, luận văn đưa ra những đánh
giá và phân tích cụ thể.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu để làm sáng tỏ những đặc điểm, dấu hiệu
mang âm hưởng nữ quyền cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật trong sáng tác
của một số nhà văn DTTS, qua đó khẳng định những đóng góp riêng của họ trong
tiến trình văn học Việt Nam.
- Phương pháp thống kê, phân loại.
- Phương pháp lịch sử văn học. Nghiên cứu lịch sử văn học để thấy được
sự manh nha của văn học nữ quyền từ dân gian cho đến hiện đại.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành (Văn hóa học, dân tộc học…)
7
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu về vấn đề nữ quyền trong sáng
tác của một số nhà văn dân tộc thiểu số.
- Khẳng định ý thức về nữ quyền trong dòng chảy văn học của dân tộc và
ưu thế của dòng văn học viết về nữ quyền, nói lên tiếng nói về bình đẳng giới.
- Khẳng định sự đóng góp của những nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam hiện
đại cho thành tựu chung của văn học nước nhà trên con đường hiện đại hóa.
- Bổ sung tài liệu tham khảo về văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về văn xuôi dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc và
giới thuyết về nữ quyền trong văn học
Chương 2: Vấn đề nữ quyền trong sáng tác của một số nhà văn dân tộc
thiểu số miền núi phía Bắc nhìn từ góc độ nội dung
Chương 3: Vấn đề nữ quyền trong sáng tác của một số nhà văn dân tộc
thiểu số miền núi phía Bắc nhìn từ góc độ nghệ thuật
8
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ VĂN XUÔI DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI
PHÍA BẮC VÀ GIỚI THUYẾT VỀ NỮ QUYỀN TRONG VĂN HỌC
1.1. Khái quát về văn xuôi dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, là nơi sinh sống của 54 dân tộc anh
em trên dải đất hình chữ S. Mỗi dân tộc đã có đóng góp không nhỏ cho sự nghiệp
phát triển văn học nước nhà. Văn học dân tộc thiểu số là bộ phận nằm trong dòng
chảy của văn học ViệtNam, nó bao gồm sáng tác của tác giả người dân tộc thiểu
số viết về dân tộc mình và những trăn trở của họ về các vấn đề về đời sống, xã
hội. Qua đó để thấy được “Quá trình nỗ lực tự hoàn thiện về tất cả mọi mặt của
văn học DTTS để có thể hòa nhập và trở thành bộ phận quan trọng của nền
vănxuôi Việt Nam hiện đại”. [58, tr.162]
Đầu TK XX, cùng với sự hình thành và phát triển của nền văn học chữ
quốc ngữ, văn học DTTS cũng đã xuất hiện và dần khẳng định vị thế của
mình.Trong đó phải kể đến văn xuôi dân tộc thiểu số, đó là một bức tranh muôn
màu, đầy đủ và sát thực về hiện thực cuộc sống miền núi và đồng bào các dân
tộc thiểu số.“Từ những tác phẩm được trau chuốt, chọn lọc trong nghệ thuật biểu
hiện, đề tài mở rộng ở cả chiều rộng và chiều sâu,cách nhìn con người và cuộc
sống đa diện nhiều chiều…Nó cho thấy sự trưởng thành thục sự của một nền văn
học được đánh dấu bằng những thành tựu, thể hiện một cách nhìn, một sự khẳng
định giá trị văn học đối với một nền văn xuôi giàu sức phát triển” [13, tr.85-
86].Cũng kể từ đó, văn học đã góp phần xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội miền núi ngày một giàu đẹp hơn. Nhất là trong giai đoạn hội nhập hiện
nay,cần sự khẳng định về bản sắc văn hóa của dân tộc nếu như không muốn hòa
tan nền văn hóa của dân tộc mình với dân tộc khác.
1.1.1. Lịch sử hình thành, phát triển
Đời sống và nền văn hóa dân tộc thiểu số với những sắc diện riêng biệt là
nguồn cảm hứng bất tận cho văn học nghệ thuật phát triển đặc biệt là văn
9
xuôi.Văn xuôi chỉ tổ chức ngôn ngữ như lời nói thường, như một dòng ngôn từ
tuôn chảy không ngừng (chỉ tạm dừng ở chỗ ngắt ý, ngắt giọng, ngắt câu thông
thường), không bị rằng buộc bởi quy luật số lượng hay vần điệu, nhịp điệu. Văn
xuôi khai thác mạnh mẽ khả năng mô tả của ngôn từ để khái quát hiện thực đời
sống“Miêu tả cuộc sống trong những hình thức vốn có của nó”và chính chất liệu
ngôn từ đã giúp văn xuôi đạt được tính vạn năng trong việc chiếm lĩnh đời sống,
thể hiện sự nhận thức và sáng tạo của con người.
Vốn văn học dân gian của dân tộc thiểu số rất đa dạng và phong phú gồm
nhiều thể loại như: Sử thi, dân ca, truyện cổ, thành ngữ- tục ngữ, truyện thơ,
trường ca…Đây cũng là nguồn sữa mẹ nuôi dưỡng văn xuôi dân tộc thiểu số phát
triển. Bên cạnh đó thì những tác phẩm văn xuôi của các tác giả người Kinh viết
về đề tài miền núi như Truyện Tây Bắc (Tô Hoài), Ở rừng(Nam Cao), Đất nước
đứng lên (Nguyên Ngọc) cũng là nguồn cảm hứng cho những nhà văn DTTS viết
văn. Khu vực văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại bắt đầu hình thành
từ những năm 50 của thế kỉ XX và là một nền văn học trẻ. Tuy hình thành muộn,
chủ yếu đươc hình thành và phát triển từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945,
đặc biệt nở rộ từ những năm 60 trở lại đây,trải qua hơn một nửa thế kỉ phát triển,
văn xuôi các DTTS đã có nhiều khởi sắc từ đội ngũ sáng tác ngày càng đông đảo,
thể loại ngày càng phong phú tới số lượng và chất lượng tác phẩm ngày càng
nhiều, hay và hấp dẫn hơn, gặt hái được nhiều thành tựu và đã phổ biến rộng
khắp trên mọi vùng miền của tổ quốc.
Trên thực tế, với điều kiện địa lý và tự nhiên xã hội khác nhau, văn xuôi
DTTS Việt Nam hiện đại tồn tại ở 3 khu vực chính đó là: miền núi phía Bắc, Tây
Nguyên và Tây Nam Bộ. Tuy vậy ở mỗi khu vục này có sự phát triển khôngđồng
đều. Nói đến khu vực Tây Nguyên, vào những năm 70,80 của TKXX mới xuất
hiện tác giả Y Điêng, một người con của đồng bào dân tộc Ê đê, ông được coi là
người giữ hồn văn hóa Ê đê trong văn chương nghệ thuật với tác phẩm như:
Chuyện bên bờ sông Hinh (tiểu thuyết 2 tập), Drai Hlinh đi về phía sáng (truyện
10
ngắn), Hờ Giang (truyện dài)…Nối tiếp ông xuất hiện thêm nhiều cây bút mới
như: Hlinh Niê (Ê đê), Niê Thanh Mai (Ê đê), Hồ Thao Khằm (Vân Kiều)… Đến
khu vực Tây Nam Bộ, cũng có sự xuất hiện của một số tác giả như:Lý Lan (Hoa),
Inrasara và Trà Vigia (Chăm)...Phát triển rực rỡ nhất phải kể đến văn xuôi khu
vực miền núi phía Bắc, đây là khu vực mang màu sắc khác biệt với văn học và
văn xuôi các khu vực khác: sự hiểm trở của địa hình núi cao, sự khắc nghiệt của
thiên nhiên lạnh giá nhưng thiên nhiên nơi đây cũng chứa đựng cả sự hùng vĩ và
thơ mộng. Cư dân chủ yếu là người dân tộc thiểu số như: Tày, Nùng, Mường,
Dao, Mông… Đây cũng là khu vực có những sáng tác được cho là mở đường
cho sự phát triển mạnh mẽ của văn xuôi hiện đại các DTTS như Ché Mèn được
đi họp (1958), Muối lên rừng (1964) của Nông Minh Châu…Đến đội ngũ nhà
văn đông đảo là người dân tộc Tày, Thái, Mường, Dao, Nùng như: Triều Ân,
Hoàng An, Vi Thị Kim Bình, Nông Quốc Chấn, Vi Hồng, Nông Minh Châu, Nông
Ích Đạt, Bế Dôn, Mai Liễu, Ma Trường Nguyên, Bế Sĩ Uông, Dương Thuấn, Cao
Duy Sơn, Nông Viết Toại, Bùi Thị Tuyết Mai, Bùi Thị Như Lan, Vương
Trung,Cầm Biêu, La Quán Miên, Hoàng Nó, Mào Văn Ết, Lò Văn Cậy, Sa Phong
Ba, Bàn Tài Đoàn, Bàn Thị Cúc, Mã Thế Vinh, Mã A Lềnh…Qua đó có thể thấy
rằng, văn xuôi phát triển mạnh mẽ ở khu vực miền núi phía Bắc, chứa đựng
những điểm độc đáo, hấp dẫn, khẳng định được bước đi vững chắc trên văn đàn
với một thế hệ nhà văn tài năng và nhiệt huyết, để lại dấu ấn đậm nét.
Trải qua quá trình hình thành, cho đến nay, văn xuôi DTTS trải qua 3 giai
đoạn, mỗi giai đoạn đều đánh dấu sự phát triển vượt bậc và đáng ghi nhận. Giai
đoạn hình thành (từ năm 1958 đến 1965), quá trình hình thành và phát triển
chừng trên 70 năm kể từ sau khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công và
cách mạng đã làm sống lại vốn văn học truyền thống của các dân tộc thiểu số
“Chế độ ta không những đã làm nảy nở những tài năng mà còn chú trọng khai
thác những di sản văn học nghệ thuật quý báu của các dân tộc bấy lâu nay bị
mai một dưới ách thực dân phong kiến…” [56, tr.138].Khi mà văn xuôi Quốcngữ
11
đã phát triển đạt đến đỉnh cao thì nền văn xuôiDTTS Việt Nam mới có những
bước đi đầu tiên. Trước hết là thơ, thời kỳ đầu, thơ các dân tộc thiểusố vẫn chịu
ảnh hưởng nặng nề của thơ ca dân gian. Những người làm thơ xuất thân từ tầng
lớp bình dân nên thơ ca dân tộc là sự kết hợp của cách mạng, nhân dân và văn
hóa dân gian.Từ sau 1945, thơ ca đạt được những thành tựu với các tác giả là: Y
Phương, Dương Thuấn, Lò Ngân Sủn…Tiếp đó là văn xuôi, do điều kiện kinh
tế, văn hóa xã hội, trình độ nhận thức của nhà văn,đối tượng phản ánh nên văn
xuôi DTTS ra đời muộn và phát triển chậm. Phải từ sau cách mạng, từ sự thay
đổi có tính bước ngoặt và căn bản về chất trong toàn bộ lĩnh vực của đời sống xã
hội cuối những năm 50,60 thì tư tưởng dân chủ mới được thể hiện rõ nét, đồng
bào miền núi mới thực sự có ý thức vươn lên làm chủ cuộc sống mới, làm chủ
cuộc đời, dám đấu tranh và phản kháng lại những áp bức, bất công, những phong
tục tập quán nghèo nàn, lạc hậu, những tư tưởng phi dân chủ…Mặc dù quá trình
hình thành và phát triển muộn nhưng thể loại văn xuôi DTTS miền núi phía Bắc
vẫn tạo được nền tảng vững chắc và quan trọng trong sự phát triển của văn học
Việt Nam. Năm 1958 với sự ra đời truyện ngắn Ché mèn được đi họp của Nông
Minh Châu, tác phẩm văn xuôi viết bằng tiếng dân tộc đầu tiên trong lịch sử văn
học Việt Nam của một tác giả người dân tộc thiểu số ra đời, sau được tác giả tự
dịch ra tiếng phổ thông. Với đứa con đầu lòng này, Nông Minh Châu được những
người trong nghề chào đón, được giải thưởng cuộc thi truyện ngắn của Báo Văn
Nghệ. Tiếp theo thành công đó là tiểu thuyết Muối lên rừng được Nông Minh
Châu viết bằng tiếng Kinh ấn hành năm 1964 mở ra một thời kỳ mới cho tiểu
thuyết phát triển. Từ ảnh hưởng của Nông Minh Châu mà sau đó, văn xuôi các
dân tộc thiểu số đã xuất hiện thêm các tên tuổi như: Triều Ân, Nông Viết Toại,
Vi Hồng, Lâm Ngọc Thụ, Vương Trung, Hoàng Hạc… Giai đoạn tiếp theo là
giai đoạn phát triển về tầm vóc và chất lượng (từ 1965 đến những năm 70,80 của
thế kỷ XX), văn xuôi miền núi giai đoạn này có điều kiện thuận lợi để phát triển
về số lượng và quy mô tác phẩm, hình thành nên một khu rừng văn xuôi sum suê
12
cành lá với Vi Hồng, Cao Duy Sơn, Sa Phong Ba, Lò Văn Sỹ, Mã A Lềnh, Lò
Ngân Sủn… Đồng hành với đó là rất nhiều tác phẩm có chất lượng như: Niềm
vui của Vi Thị Kim Bình(1979),Tiếng khèn A Pá của Triều Ân (1980), Cột mốc
giữalòng sôngcủa Mã A Lềnh (1981),Những bông ban tím của Sa Phong Ba
(1981), Chiếc vòng bạc của Lò Ngân Sủn (1987), Đuông thang của Vi Hồng
(1988)…Đặc biệt trong đó Cao Duy Sơn là người đầu tiên viết văn xuôi người
dân tộc được nhận giải thưởng văn học Đông Nam Á, tạo ra một vị thế xứng
đáng góp vào thành tựu chung của nền văn học Việt Nam muôn sắc ngàn
hương.Đến giai đoạn này, có thể khẳng định, văn xuôi khu vực miền núi phía
Bắc đã lớn mạnh, có nhiều thành tựu đáng ghi nhận, là một nền văn học đặc sắc,
đậm đà bản sắc dân tộc. Giai đoạn Đổi mới với những thành tựu nổi bật của văn
xuôi đặc biệt là thể loại tiểu thuyết (từ sau 1990). Giai đoạn này, với sự quan
tâm, chú trọng của Đảng và nhà nước, văn xuôi DTTS miền núi phía Bắc đặc
biệt phát triển và dần khẳng định được chỗ đứng quan trọng trong nền văn học
hiện đại nước nhà. Thể loại tiểu thuyết đánh dấu sự thành công của Vi Hồng với
sự ra đời của cá tác phẩm như: Người trong ống (1990), Vào hang (1990), Lòng
dạ đàn bà (1992), Dòng sông nước mắt (1993), Tháng năm biết nói (1994), Phụ
tình (1994), Đi tìm giàu sang (1995)…Ma Trường Nguyên vớiMũi tên ám khói
( 1991), Gió hoang (1992), Tình xứ mây (1993), Trăng yêu (1993), Mùa hoa hải
đường (1998)… Cao Duy Sơn với Người lang thang (1992), Cực lạc (1995),
Hoa mận đỏ (1999), Đàn trời (2006)… Bên cạnh tiểu thuyết, truyện ngắn cũng
gặt hái được vô số thành tựu. Triều Ân với Xứ sương mù (2000),Chuyện đời
thường (2010); Cao Duy Sơn với Những chuyện ở lũng Cô Sầu (1996), Những
đám mây hình người (2002)… Mã A Lềnh với Cao nguyên trắng(1992),Có một
con đường(1995), Dấu chân trên đường (1996)… Hà Lâm Kỳ với Kỷ vật cuối
cùng (1991), Chim ri núi (1992), Gió Mù Căng (1994),Những đứa con lên núi
(1994)…Bùi Thị Như Lan với Tiếng chim kỷ giàng (2004),Mùa hoa mắc mật
(2005),Hoa mía (2006)… Có thể nói, những cây bút người DTTS đã gìn giữ và
13
thổi bùng lên ngọn lửa văn chương của dân tộc mình, văn xuôi DTTS đã từng
bước bắt nhịp vào đời sống của đất nước, cổ vũ, động viên và đi sâu miêu tả số
phận con người miền núi đặc biệt là thân phận, số phận người phụ nữ miền núi,
họ chính là tiêu điểm của bức tranh toàn cảnh về số phận con người, sống ở vùng
núi cao, tồn tại bao hủ tục lạc hậu, bao khó khăn thử thách…Nhưng bên trong
con người họ vẫn sáng lên những phẩm chất tốt đẹp, những khát vọng chính đáng
và vững tin vào một tương lai tươi sáng. Đây cũng là ngọn lửa về vấn đề nữ
quyền được các tác giả DTTS miền núi phía Bắc thắp lên nhằm bênh vực, đòi
quyền lợi cho những người phụ nữ vùng cao.
1.1.2. Đặc điểm nội dung, nghệ thuật
Về nội dung:Vùng miền núi và cuộc sống của đồng bào các dân tộc miền
núi là mảnh đất chứa đựng nhiều tiềm năng cho công việc sáng tạo.Hòa cùng
dòng chảy với văn học dân tộc, từ sau kháng chiến chống thực dân Pháp, văn
xuôi DTTS miền núi phía Bắc đã học tập và kế thừa thành tựu của văn xuôi người
Kinh viết về miền núi, các cây bút văn xuôi DTTS miền núi phía Bắc đã đem
đến cho độc giả những hiểu biết chân thực, toàn diện và đầy đủ hơn về cuộc sống,
con người, về các phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc ít người qua các
giai đoạn lịch sử của đất nước, luôn gắn liền với sự vận động, sự đổi thay từng
ngày, từng giờ của cuộc sống con người và thiên nhiên miền núi.
Nếu như thơ ca các DTTS đã phản ánh về hiện thực đời sống và con người
vùng cao cả thời kì kháng chiên chống Pháp thì văn xuôi các DTTS lại chủ yếu
phản ánh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, cuộc kháng chiến chống Mỹ ở
miền Bắc. Đầu TKXX, xuất hiện một số tác phẩm của nhà văn người Kinh viết
về đời sống sinh hoạt của người dân tộc thiểu số ở miền núi như Thế Lữ với tập
truyện Vàng và máu (1934),Lan Khai với Truyện đường rừng,Dấu ngựa trên
sương (1940), Suối đàn (1942)… Nói vềLan Khai, ông là một cây bút viết về
miền núi gây được sự chú ý đặc biệt của độc giả thời bấy giờ. Sinh ra và găn bó
với chốn sơn lâm trong một gia đình nhà nho kiêm lương y, bằng tài năng và
14
nghị lực, Lan Khai được các nhà phê bình đương thời coi là một trong những nhà
văn mở đường cho một trào lưu văn học mới, là "Nhà nghệ sĩ của rừng núi"
(Trương Tửu). Trong các trang viết của Lan Khai, ta thấy ông hóa thân vào thiên
nhiên rừng núi, phong tục tập quán, phân thân mình vào số phận nhân vật đặc
biệt là người phụ nữ. Nhưng dù thế nào đi nữa, là những nhà văn người Kinh và
giống như những người du khách nếu có gắn bó thì vẫn có cách tiếp cận mang
tính chủ quan với tư cách là người ngoài cuộc.
Trongnhững năm 50 -60 của thế kỷ XX, khi miền Nam đang đấu tranh
chống đế quốc Mỹ xâm lược, miền Bắc đang trên con đường xây dựng chủ nghĩa
xã hội thì ở miền núi phía Bắc đã xuất hiện một số tác phẩm của tác giả người
DTTSnhư Nông Viết Toại, Nông Minh Châu, Triều Ân, Vi Thị Kim Bình…Họ
cho ra đời những tác phẩm viết về dân tộc mình với cái nhìn của người trong
cuộc.Các tác giả đều bộc lộ rõ ý thức dùng văn chương làm phương tiện để phục
vụ chính trị, các tác phẩm mang nội dung chủ yếu là phản ánh cuộc đấu tranh
cứu quốc vĩ đại của dân tộc, tuyên truyền cách mạng, ca ngợi quê hương đất nước
và con người miền núi trong giai đoạn mới bám sát đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể như: tổ chức cuộc sống
định canh, định cư, xây dựng hợp tác xã nông nghiệp,xây dựng làng bản quê
hương, xây dựng công trình thuỷ lợi, khai thác mỏ, rồi tòng quân,đánh giặc
“…hình ảnh những người dân tộc quyết tâm bám giữbản làng khỏi sự tàn phá
của kẻ thù đã trở thành những biểu tượng đẹp đẽ của tình yêu nước thiết tha, sâu
nặng. Họ không chỉ là những người trực tiếp cầm súng chiến đấu hay có mặt nơi
chiến trường mà lòng yêu nước ấy còn có ở những người đang ngày đêm lao
động để làm hậu phương vững chắc cho người lính”[13, tr. 130].Đặc biệt là hình
ảnh con người miền núi với khát vọng “đi về phía sáng” trong công cuộc xây
dựng xã hội mới được phản ánh khá rõ nét. Đọc tác phẩm Ché Mèn được đi họp
của Nông Minh Châu, người đọc đã bắt gặp hình ảnh Ché Mèn, một nữ thanh
niên miền núi giác ngộ và trưởng thành trong quá trình xây dựng cuộc sống mới
15
“Mèn nhờ bạn viết giúp lá đơn. Từ đó Mèn là một đoàn viên thanh niên lao động.
Mèn được biết về Đoàn, Mèn càng gần Đảng. Cái hăng hái của Mèn càng rõ
ràng” [37, tr.127]. Ché Mèn dù mới 18 tuổi nhưng cô đã dám chống lại các hủ
tục mê tín, lạc hậu của đồng bào mình, đưa khoa học kĩ thuật vào phát triển sản
xuất mang lại ấm no cho gia đình và làng bản. Quả vậy, sau Ché Mèn là hàng
loạt nhân vật trẻ náo nức, mê say trong công cuộc lao động dựng xây chủ nghĩa
xã hội. Tóm lại văn xuôi thời kỳ này chủ yếu viết về con người, quê hương miền
núi, mang đến hơi thở và nhịp đập của núi rừng. Ngòi bút của họ chạm đến từng
kẽ lá, từng ngọn cỏ, từng mảnh đời, từng số phận nơi miền núi.Khơi thông một
vấn đề tưởng chừng còn xa lạ với tư duy của người miền núi đó là đặt nhân vật
trung tâm là người phụ nữ DTTS dám đứng lên đòi quyền sống, quyền được yêu,
được thỏa mãn khát vọng bản năng.
Từ sau 1975 và đặc biệt là từ sau 1986, đây là thời kỳ mà văn xuôi DTTS
phát triển khá mạnh mẽ“Dưới ánh sáng soi đường của Đảng, cuộc sống của đồng
bào vùng cao từng bước khởi sắc. Vẫn là sự hào hứng của kiến thiết, dựng xây,
đổi mới cuộc sống nhưng hiện thực miền núi có những sắc màu riêng, vấn đề
riêng- chung làm nên chất liệu thực tế của văn xuôi” [13, tr134].Trong không
khí hòa bình và xây dựng cuộc sống mớixuất hiện trong trang viết của các nhà
văn là những con người mới, cuộc sống mới trên tất cả các mặt trận sản xuất và
chiến đấu, ca ngợi sự đổi đời của nhân dân các dân tộc từ cuộc sống nô lệ tối tăm
đã vươn lên làm chủ cuộc đời, làm chủ khoa học kỹ thuật, ca ngợi cuộc đấu tranh
chống những hủ tục lạc hậu, mê tín, dị đoan, chống bảo thủ, tham ô, qua các tác
phẩm như:Đất bằng, Vãi Đàng của Vi Hồng. Cảm hứng phê phán cái cũ, cái lạc
hậu còn được thể hiện ở nhiều tác phẩm như: Hai mẹ con của Triều Ân; Gánh
nước cuối cùng của Nông Viết Toại…Sáng tác của Vi Hồng ra đời trong thập
niên chín mươi của thế kỉ XX đã đề cập tới những vấn đề nóng bỏng của xã hội
miền núi đương đại, mà khẩn thiết nhất là cuộc đấu tranh đầy căng thẳng, gay go
giữa hai lực lượng đối lập và thù địch: tốt - xấu, thiện - ác. Vấn đề người cán bộ,
16
người trí thức trong xã hội miền núi hiện thời cũng là những trăn trở và suy nghĩ
đau đáu trong tư duy của nhà văn. Nhân vật như Tú, Quản, On…được nhà văn
Vi Hồng xây dựng như những tấm chân dung điển hình về người trí thức giàunghị
lực, vượt mọi khó khăn để khẳng định mình. Sáng tác của Cao Duy Sơn hấp dẫn
người đọc ở cách cảm nhận mới mẻ và chân thực về tâm hồn và tính cách đồng
bào miền núi, ở ý thức soi chiếu nhân vật dưới góc độ đời tư và một ngôn ngữ
đậm chất văn xuôi.Hiện thực cuộc sống mà nhà văn đề cập đến trong những tác
phẩm của mình là những vấn đề muôn thủa của cuộc đời về số phận con người
đặc biệt là người phụ nữ. Những câu chuyện tình với những mối tình lỡ dở, không
được hưởng hạnh phúc trọn vẹn của Khơ và Dình, Sinh và Ếm, Khuề và
Ban…Mặc dù vậy, trong tâm hồn họ luôn chứa đựng sự chân thành và thủy
chung. Dù cho vật đổi sao dời thì tình cảm thủy chung ban đầu của họ vẫn vẹn
nguyên không thay đổi. Ngoài ra Cao Duy Sơn cũng vẽ lên hiện thực về cuộc
sống đầy gian khổ của những giáo viên cắm bản, với bao gian khó, cực nhọc
nhưng vì tình yêu với núi rừng, vớibà con dân bản mà họ sẵn sang cống hiến sức
trẻ của mình nơi vùng cao…Đó cũng là những hình ảnh đẹp và đầy xúc động
trong những sáng tác của các nhà văn DTTS.
Khi mà đời sống dân chủ cởi mở và cơ chế xuất bản, in ấn, phát hành thuận
lợi khiến cho số lượng tác phẩm xuất bản nhiều chưa từng có trong một thời gian
ngắn. Văn xuôi DTTS thời kì này có nhiều tác phẩm hướng về công cuộc xây
dựng đời sống, phát triển kinh tế ở miền núi và cả những vấn đề cũ mà trước đây
do cái nhìn hạn hẹp và vốn sống chưa phong phú nên văn xuôi DTTS còn chưa
đề cập tới. Các nhà văn hướng ngòi bút của mình phản ánh cuộc đấu tranh gian
khổ trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo, xây dựng cuộc sống mới nơi vùng
cao, dám nhìn thẳng vào sự thật để phản ánh những lối sống thực dụng,vô đạo
đức của một bộ phận người dân miền núi đã phá vỡ sự bình yên, trong trẻo vốn
có của núi rừng như: Gió hoang(1992) của Ma Trường Nguyên; Cao nguyên
trắng của Mã A Lềnh; Vùng đồi gió quẩn(1994) của Sa Phong Ba;Đàn trời
17
(2006), Chòm ba nhà(2009)của Cao Duy Sơn…
Nhiều nhà văn DTTS có ý thức đi sâu tìm hiểu cuộc đời và thân phận con
người. Đặc biệt với sự xuất hiện của các nữ nhà văn DTTS, do sự nhạy cảm của
giới mình đã có những trang viết cảm động chia sẻ và cảm thông sâu sắc với số
phận nhiều éo le trắc trở của những người phụ nữ miền núi. Một số tác phẩm đã
thể hiện hạnh phúc cá nhân, đời thường, những câu chuyện về tình yêu nhiều
sóng gió… Đặc biệt là đi sâu khai thác số phận những người phụ nữ để thấy được
bức tranh toàn cảnh về những người phụ nữ vùng cao bao đời bị sự kìm kẹp bởi
những hủ tục lạc hậu, bị đày đọa cùng với bao khó khăn, thử thách trong cuộc
sống nhưng luôn khát khao được hạnh phúc và vươn lên để thể hiện chính mình.
Trong tâm hồn họ vẫn ánh lên những phẩm chất tốt đẹp, những hoài bão ước mơ
về một tương lai tươi sáng.
Về nghệ thuật: Có thể khẳng định, nghệ thuật xây dựng nhân vật và việc
sử dụng ngôn ngữ giản dị, linh hoạt, mang đậm sắc thái dân gian là những hình
thức nghệ thuật độc đáo của văn xuôi DTTS miền núi phía Bắc đã tạo nên một
bản sắc riêng cho bộ phận văn học này. Pautopxki đã nói: "Những nhân vật và
những tính cách sinh động chính là tấm huân chương cao quí của nhà văn", nhân
vật giữ một vai trò hết sức quan trọng trong thành công của một tác phẩm, một
tác giả văn học.
Với các nhà văn DTTS khi xây dựng nhân vật trong các sáng tác của mình
đều chịu ảnh hưởng của thi pháp dân gian, kết thúc đều là kẻ ác bị trừng trị, người
tốt được hưởng hạnh phúc. Khi xây dựng bất kì một loại nhân vật nào, các nhà
văn luôn chú ý tới việc khắc họa tính cách của nhân vật qua đó thể hiện quan
niệm của tác giả và tư tưởng nghệ thuật của nhà văn.Mỗi nhân vật đều được
khám phá trên nhiều khía cạnh về ngoại hình, tính cách, hành động, suy nghĩ,
cảm xúc... Và đặc biệt về thế giới nội tâm nhân vật. Một điều đáng chú ý ở đây
là những sáng tác viết về người phụ nữ miền núi với vẻ đẹp mộc mạc, chân thực
và đặc biệt viết về người con gái đẹp miền núi, các nhà văn thường ưu ái ví họ
18
như“Những bông hóa trên vách núi” hoặc “đẹp như một nàng tiên”.Người phụ
nữ bên cạnh vẻ đẹp là nét tính cách đảm đang, khéo tay, chăm chỉ và ngời lên
những phẩm chất cao quí - đó là lòng thủy chung, là tình yêu say đắm, nồng nàn
đầy sự hy sinh để đến với tình yêu, để được yêu, để gìn giữ và bảo vệ tình yêu.
Là sự dũng cảm vượt qua mọi rào cản của tục lệ cổ hủđể khát khao sống và vươn
lên.
Ngôn ngữ nghệ thuật được sử dụng chủ yếu trong các tác phẩm văn xuôi
DTTS đậm chất liệu dân gian.Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất, là chất liệu của văn
chương. Sáng tạo ngôn ngữ là một trong những mục tiêu quan trọng của sáng tác
văn chương. Những chân lí hiển nhiên đó đã được nêu ra từ lâu, nhưng không
phải lúc nào cũng được nhận thức đầy đủ và được coi trọng trong thực tiễn sáng
tác và tiếp nhận văn học.Với sự giản dị, mộc mạc, thông tục mà thẳng thắn và
chân thành, người DTTS là những người sống yêu thương, đùm bọc, giàu tình
nghĩa, họ không vòng vo mà rất thật thà, thẳng thắn dễ hiểu do vậy ngôn ngữ mà
các nhà văn sử dụng trong các sáng tác văn xuôi của mình vô cùng gần gũi với
lời ăn tiếng nói hàng ngày của họ, phù hợp với tư duy và đáp ứng tâm tư, tình
cảm của con người miền núi.Một số tác giả đã đưa chính ngôn ngữ của dân tộc
mình vào trong các sáng tác giúp người đọc hiểu sâu hơn về cách cảm, cách nghĩ
của người dân tộc.Mã A Lềnh là một minh chứng như vậy. Ông đã không ngần
ngại đưa những từ ngữ riêng của người Mông vào trong sáng tác của mình. Vi
Hồng,Nông Viết Toại và Cao Duy Sơnlại rất hay sử dụng các thành ngữ, tục ngữ
tiếng Tày vào trong các sáng tác của mình… Có thể thấy: “Cách đưa nguyên văn
câu chữ tiếng dân tộc không dịch như vậy tuy khiến cho người đọc dân tộc khác
khó tiếp thu, nhưng mặt khác nó rất giàu sức gợi và góp phần thể hiện bản sắc
dân tộc nhờ hệ thống ngữ âm thể hiện điệu tâm hồn đặc trưng của mỗi tộc người”
[35, tr.226] đã khẳng định bản lĩnh của những con người cầm bút.
Ngoài ra các thủ pháp nghệ thuật như ví von, so sánh, liên tưởng cũng
được các nhà văn sử dụng để phản ánh tư duy của người miền núi như:“Cái tính
19
thẳng như đường tên bay, dễ nổi nóng như gấu ai còn lạ” hay vui thì khuôn mặt
“sáng ngời như khuôn trăng tỏa ánh hào quang”, buồn thì“sa sầm như một vùng
mây đậm”. Một số tác giả lại hay sử dụng các thành ngữ, tục ngữ đậm màu sắc
dân gian tiêu biểu là những sáng tác của Vi Hồng, ông sử dụng với tần số cao
những câu thành ngữ, tục ngữ của dân tộc Tày như “nhốt gió được trong lòng
bàn tay”, “thấy quả vọc quả, gặp hoa nhai hoa”…Cao Duy Sơn cũng dùng các
thành ngữ, tục ngữ để thể hiện tâm tư, tình cảm, phẩm chất và tính cách nhân
vật…Qua các thành ngữ, tục ngữ đặc trưng của đồng bào dân tộc cho thấy vốn
sống, vốn hiểu biết vô cùng phong phú của các tác giả người DTTS.
1.2.Giới thuyết về nữ quyền trong văn học
1.2.1. Khái niệm nữ quyền
Nói đến khái niệm về “nữ quyền”, không giống như các lý thuyết khác,
nền tảng khái niệm lý thuyết của thuyết nữ quyền không bắt nguồn từ công thức
lý thuyết đơn lẻ nào, do vậy không có định nghĩa lý thuyết cụ thể nào của
thuyếtnữ quyền phù hợp cho mọi phụ nữ ở mọi thời đại. Khái niệm nữ quyền ra
đời như một tất yếu của lịch sử loài người. Nếu tra từ“nữ quyền”(Feminism) trong
từ điển thì từ này đều mang những ý nghĩa là: “Phong trào đấu tranh của nữ giới
đòi bình đẳng giới tính, lý thuyết bình đẳng về chính trị, kinh tế về xã hội giữa
nam và nữ giới hay là học thuyết ủng hộ quyền bình đẳng giữa hai giới về mặt
chính trị, xã hội và nhiều quyền lợi khác”. Ở đây, nữ quyền là những lý thuyết
xã hội về sự khác biệt và bất bình đẳng giới, những cách thức đạt được bình đẳng
giới. Khái niệm về nữ quyền không phải là một lý thuyết nào đó mà là tổng hòa
nhiều lý thuyết và quan điểm khác nhau, mỗi lý thuyết đều cố gắng mô tả sự áp
bức phụ nữ, mô tả về nguyên nhân và kết quả của nó và đưa ra những chiến lược
giải phóng phụ nữ theo các cách riêng của mình.
Vậy nữ quyền là gì? Có nhiều quan niệm khác nhau về nữ quyền, sau đây
là một cách hiểu về khái niệm nữ quyền: “Nữ quyền là quyền của phụ nữ và hiểu
đầy đủ thì đó là đấu tranh cho quyền bình đẳng của phụ nữ. Với niềm tin dựa
20
trên nguyên tắc cho rằng phụ nữ phải có các quyền và cơ may trong cuộc sống
như nam giới về chính trị, kinh tế, luật pháp…”[55]
Dù hiểu theo quan niệm nào thì cách hiểu thông dụng nhất là “Quyền bình
đẳng của phụ nữ trên mọi lĩnh vực kinh tế xã hội và giáo dục. Khái niệm nữ
quyền nếu hiểu ở cấp độ rộng là quyền lợi của người phụ nữ đặt trong thế tương
quan với quyền lợi của nam giới để đạt đến cái gọi là nam nữ bình quyền. Ở cấp
độ hẹp thì nữ quyền có mối liên quan với các khái niệm như giới tính và phái
tính trong văn học. Nếu giới tính, phái tính là những công cụ để khu biệt đặc tính
giữa hai phái (nam/nữ) thì khái niệm nữ quyền không chỉ dừng lại ở đó mà mục
đích của nó hướng tới sự bình quyền nam/nữ đồng thời tạo ra hệ quy chuẩn riêng
của nữ giới”[26, tr.317]
1.2.2.Quan niệm về nữ quyền trong văn học
Sống trong dòng chảy của văn học, nhà văn luôn đến với cuộc sống để
cảm nhận và khám phá nó.Van Gogh đã từng nói “Không có gì nghệ thuật hơn
bản thân lòng yêu quý con người”, đó là chân lí cuộc sống và chân lí của văn
học. Văn học giúp con người chung sống với nhau bằng tình cảm đẹp đẽ, sự sẻ
chia và cảm thông, nuôi dưỡng tình thương trong con người, lên án những gì chà
đạp lên giá trị con người và đòi quyền con người.
Người phụ nữ từ xưa đến nay về chính trị bị áp bức, về xã hội bị chèn ép
nhấn chìm, về kinh tế thì cam chịu nghèo khổ, về văn hóa bị nam tính tước đoạt
(đàn bà con gái ít được đi học), tư tưởng tình cảm rơi vào trạng thái đè nén. Cho
nên nữ quyền phải đảm nhận sứ mệnh giải phóng phụ nữ trên mọi phương diện văn
học, chính trị học, kinh tế, xã hội học…Trước khi văn học Việt Nam hình thành
dòng văn học viết về nữ quyền thì trên thế giới đã chứng kiến sự phát triển mạnh
mẽ của phong trào nữ quyền-một phong trào đấu tranh vì quyền bình đẳng cho phái
nữ, có ảnh hưởng mạnh mẽ và ăn sâu vào sống văn học, trở thành “chủ nghĩa nữ
quyền trong văn học”.Một số tác phẩm đòi quyền lợi cho phụ nữ như: Một minh
chứng cho các quyền của phụ nữ của Mary Woll-stonecraft (1972) hoặc trong một
21
số bài thảo luận của các tác giả nam giới như Milton, Pope và Rousseau;tác
phẩm Phụ nữ và lao động của Olive Schreiner (1911); tác phẩm Căn phòng
riêng Viginia Woolf (1929) là bức tranh sinh động về những bất công dành cho phụ
nữ trên con đường học vấn và trong vấn đề hôn nhân và làm mẹ. Simone de
Beauvoir với tác phẩm Giới tính thứ hai (1949) là một phần quan trọng trong bức
tranh sinh động về phụ nữ. Simone từng khẳng định“Người ta sinh ra không phải
là phụ nữ, người ta trở thành phụ nữ” [26, tr.256].Câu nói nổi tiếng này cũng đã
khẳng định sự bình đẳng giữa con người với con người, dù nam hay nữ, con người
nói chung đều là sản phẩm của tạo hóa, tạo hóa ban cho họ những quyền như
nhau.Nam giới cũng góp phần tạo nên lối viết nữ như cách thể hiện của một số tác
giả nam giới trong các tác phẩm: Sự khuất phục của đàn bà của John Stuart Mill
(1869) và tác phẩm Nguồn gốc của gia đình của Friedrich Engels (1884).Văn học
nữ quyền ngày nay chính là sản phẩm trực tiếp của “phong trào nữ quyền” thập niên
60. Từ khi khởi phát, bằng những phương thức tối ưu của mình, văn học nữ quyền
ý thức được tầm quan trọng của những cảm nhận từ hình tượng của phụ nữ trong
văn học. Trong ý nghĩa này, phong trào phụ nữ luôn là vấn đề quan trọng liên quan
đến sách vở và văn học.Bên cạnh đó, sự hiện diện của phụ nữ trong văn học được
xem như một trong những hình thức quan trọng của “xã hội hoá”, bởi vì nó đã cung
cấp các vai trò mẫu mực chỉ cho nữ và nam về cái gì tạo nên những quan điểm được
chấp nhận về “nữ tính” và những mục đích, nguyện vọng chính đáng của nữ giới.
Về vấn đề nữ quyền chúng ta cần phân biệt giữa “Chủ nghĩa nữ quyền” và
“Văn học nữ quyền”.Chủ nghĩa nữ quyền (Chủ nghĩa nữ giới, chủ nghĩa duy nữ)
là học thuyết chủ trương nữ quyền dựa trên nền tảng của bình đẳng giới, là một
tập hợp các phong trào và ý thức hệ nhằm mục đích xác định, xây dựng và bảo
vệ quyền lợi chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội một cách bình đẳng cho phụ nữ.
Còn Văn học nữ quyền theo quan điểm của Lưu Tuệ Anh “Không phải tất cả
sáng tác của các tác gả nữ đều thuộc về dòng văn học nữ quyền và sáng tác của
một tác giả nam lại có khi có thể được coi là văn học nữ quyền”. Tiêu chí văn
22
học nữ quyền ở đây là nội dung sáng tác có liên quan đến việc bảo vệ, bênh vực
quyền sống của phụ nữ, giải phóng phụ nữ.
Ở nước ta trước đây, tư tưởng nam quyền trong văn hóa Việt Nam truyền
thống không chỉ tồn tại một cách tự phát trong dân gian mà được chính quyền
phong kiến trung ương khuyến khích, cổ vũ bằng những biện pháp cụ thể, cả trên
thực tế văn hóa và qua văn học nghệ thuật. Phan Khôi cũng đã từng nhận định
văn chương vẫn chỉ dành riêng cho vài đấng nam nhi thi thố: “Xưa nay bất kỳ
nước nào cũng vậy, văn học là phần đàn ông, đàn ông là trung tâm của văn học”
[ 25, tr.57]. Sau này phụ nữ là biểu hiện cho cái đẹp, vẻ đẹp tâm hồn của người
phụ nữ là vẻ đẹp bất tử, người phụ nữ nào cũng mang thông điệp về cái đẹp,còn
“cái đẹp là cái cốt của văn học” cho nên “văn học hay tả về đàn bà”, và từ khi
sinh ra, phụ nữ đã nữ tính, mềm mại yếu đuối, cần được chở che, thiên về bộc lộ
đời sống tình cảm từ bên trong mà văn học là tiếng nói của cảm xúc“nói chuyện
đàn bà thì khiến cho người ta dễ cảm, cho nên nói về đàn bà nhiều hơn” [25,
tr.429]. Từ đó phụ nữ trở thành chủ thể sáng tạo: “Chúng tôi tán thành quan điểm
của tác giả Lưu Tuệ Anh. Không phải tất cả sáng tác của các tác giả nữ đều
thuộc về dòng văn học nữ quyền mà sáng tác của một tác giả nam lại có khi có
thể coi là văn học nữ quyền. Tiêu chí văn học nữ quyền ở đây không phải là giới
tính của tác giả hay giới tính của nhân vật văn học mà là nội dung sáng tác có
liên quan đến việc bảo vệ, bênh vực quyền sống của phụ nữ, giải phóng phụ nữ”.
[63]
Theo dòng chảy của lịch sử văn học Việt Nam,xét từ văn học truyền miệng
đến văn học chữ viết chúng ta đều ghi nhận đối tượng được phản ánh và chủ thể
sáng tạo là nữ. Theo nhận định của nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp, văn học
dân gian vẫn xác nhận vai trò kẻ mạnh của đàn ông so với đàn bà.Xã hội phong
kiến phụ quyền tồn tại hàng nghìn năm, nơi mà tồn tại rất nhiều những quan niệm
bất bình đẳng về người phụ nữ “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng
tử”, quan niệm trọng nam khinh nữ“Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, đã
23
dành mọi ưu tiên, ưu đãi cho người đàn ông và đẩy người phụ nữ xuống địa vị
thấp kém nhất trong gia đình cũng như xã hội. Nỗi niềm ấy được họ gửi gắm vào
những câu ca dao than thân. Số phận của người phụ nữ trong xã hội còn bọt bèo,
lênh đênh, vô định, họ không biết số phận của mình rồi sẽ ra sao, đi đâu, về đâu
khi mang theo mình một địa vị thấp bé, hèn mọn trong xã hội:“Thân em như
giếng giữa đàng/ Người khôn rửa mặt người phàm rửa chân”hay “Thân em như
chổi đầu hè/ Phòng khi mưa gió đi về chùi chân/ Chùi rồi lại vứt ra sân/ Gọi
người hàng xóm có chân thì chùi”.Gắn với nền văn hóa Mẫu hệ, những câu ca
dao dễ dàng được cảm nhận, dễ dàng được ghi nhớ bởi trong đó luôn gắn với
hình ảnh củangười phụ nữ. Qua ca dao, người ta thấy bóng dáng thân thương của
bà, của mẹ, của chị, của em với bao nỗi lòng thầm kín cần được sẻ chia, bao buồn
vui cần được nâng niu trân trọng. Dường như, trong thế giới tâm linh, Đạo Mẫu
là nơi tìm về của những người phụ nữ để được yêu thương, che chở, còn ca dao
chính là một diễn đàn nghệ thuật để những người phụ nữ trải lòng. Nếu điều đó
được xác nhận thì cũng không có gì là lạ khi trong ca dao, hình ảnh của nam giới
chỉ thấp thoáng ẩn hiện, như là đối tượng để người phụ nữ trần tình. Trên nền
những sáng tác ban đầu của văn học dân gian ấy thì xu hướng nữ quyền bắt đầu
được manh nha.
Trong chèo cổ - một loại hình chủ đạo của nghệ thuật sân khấu dân gian
Việt Nam lại là một sân khấu của nữ giới, sân khấu đầy nữ tính mạnh dạn khẳng
định tính nữ quyền trong nghệ thuật.Chính sự e thẹn, khiêm nhường thảo thơm
hiền dịu, thờ chồng nuôi con, khi bị phụ tình cũng chỉ biết nuốt nước mắt, nỗi
buồn vào trong kêu lên khe khẽ "Chàng ơi phụ thiếp làm chi/ Thiếp như cơm
nguội đỡ khi đói lòng" của những người phụ nữ đồng bằng trung du Bắc Bộ,
những người không chỉ đóng vai trò chính trong đời sống gia đình, mà còn là
đề tài, là nguồn cảm hứng bất tận, thúc giục các nho sĩ và các nghệ nhân "viết"
nên những vở chèo cổ nổi tiếng thì những thập kỷ qua, lòng nhân ái của người
24
phụ nữ Việt là cốt lõi của bao cảm hứng văn học, nghệ thuật, là mảnh đất màu
mỡ mà những người làm nghệ thuật trọn đời khai thác vẫn chưa thể hiểu hết.
Sang đến thời kỳ văn học trung đại, trong vòng cương tỏa của tư tưởng
nam quyền cũng đã bắt đầu xuất hiện những tiếng nói phản kháng, lên tiếng bảo
vệ nữ quyền. Trong khuôn khổ một xã hội Nho giáo nam quyền, thực tế sáng tác
văn học giai đoạn này đã cho thấy vấn đềnữ quyền như những tiếng trống được
gióng lên làm xã hội phong kiến lay chuyển, mất đi cái uy quyền tưởng như bất
di bất dịch của nó.Có những người phụ nữ ép mình phải chịu đựng, những cũng
có những người phụ nữ bày tỏ sự không phục của mình như Triệu Thị Trinh đã
từng nói: “ Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém Cá kình ở
biển Đông, quét sạch giặc khỏi bờ cõi, để cứu dân ta ra khỏi nơi đắm đuối, chớ
không thèm bắt chước đám người cúi đầu cong lưng để làm tì thiếp cho người
ta”.Từ thế kỷ XVIII,trong văn học trung đại Việt Nam, việc chống lễ giáo phong
kiến, đòi hạnh phúc lứa đôi và quyền sống con người là vấn đề đã được đặt ra
trong Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều); Chinh phụ ngâm khúc (Đặng
Trần Côn); Truyện Kiều (Nguyễn Du); thơ Hồ Xuân Hương; Sơ kính tân trang
(Phạm Thái); Truyện Phan Trần (truyện Nôm khuyết danh)… Những tác phẩm
này, ở các mức độ khác nhau đều đã lên tiếng tố cáo thứ lễ giáo khắc nghiệt, bất
công đối với người phụ nữ. Đặc biệt phải kể đến Hồ Xuân Hương, bà là người
đặt nền móng cho chủ nghĩa nữ quyền trong văn học Việt Nam, bà lên tiếng
chống lại chế độ đa thê, trọng nam khinh nữ và đặt ra nhu cầu giải phóng bản
năng tính dục ở người phụ nữ.Bà từng bộc bạch nỗi khát khao về một tình yêu
có yếu tố thân xác rõ rệt: Tài tử văn nhân ai đó tá / Thân này đâu đã chịu già
tom (Tự tình 2) và lên án sự bất bình đẳng giới bằng cách khẳng định vai trò, thế
mạnh của người phụ nữ: Ví đây đổi phận làm trai được / Thì sự anh hùng há bấy
nhiêu (Đề đền Sầm Nghi Đống). Có thể nói, Hồ Xuân Hương chính là tác giả nữ
đầu tiên đã có ý thức dùng văn học như một phương tiện để đấu tranh cho nữ
quyền một cách chủ động, dưới một hình thức táo bạo, quyết liệt nhưng vẫn đậm
25
đà vẻ nữ tính của người phụ nữ ViệtNam. Như vậy có thể thấy, văn học trung đại
đã tiếp tục ý thức nữ quyền trong văn học dân gian trước đó. Song, dưới ảnh
hưởng sâu sắc của chế độ phong kiến, tư tưởng Khổng giáo “trọng nam khinh
nữ”, ý thức nữ quyền đi vào chiều sâu nhân văn hơn: đề cập sâu sắc đến quyền
sống của người phụ nữ trong xã hội, tạo tiền đề cho sự bung thoát của văn học
nữ quyền Việt Nam những giai đoạn sau.Chính vì những lẽ đó đã tạo tiền đề cho
văn học nữ quyền phát triển mạnh mẽ hơn ở những giai đoạn tiếp theo.
Thế kỉ XX, chịu sự ảnh hưởng của văn minh phương Tây, chủ nghĩa nữ
quyền lúc này ít nhiều cũng đã thâm nhập vào đời sống con người Việt, cho đến khi
công cuộc đổi mới diễn ra toàn diện thì vấn đề nữu quyền đã bắt nhịp với đời sống
văn học Việt Nam và được tiếp nhận ở hai phương diện: phê bình và sáng tác. Trong
lĩnh vực sáng tác, xuất hiện nhiều những cây bút nữ như Huỳnh Thị Bảo Hòa, Ái
Lan, Huỳnh Anh Thị, Hằng Phương…đặc biệt là tập Răng đen (1943) của nữsĩ Anh
Thơ viết về người phụ nữ Việt Nam được coi là tác phẩm văn xuôi đầu tiên của một
cây bút nữ. Các nhà nghiên cứu thời kì này đã nhận định về tài năng của các cây bút
nữ:“Một Anh Thơ chân tình mộc mạc, một Mộng Tuyết trong trẻo, hồn nhiên, một
Ngân Giang tài hoa cổ kính, một Hằng Phương đằm thắm, ngọt ngào, một Vân Đài
duyên dáng dịu nhẹ… và bấy nhiêu thôi cũng đủ góp phần cho cung đàn thơ ca
Việt Nam thêm đa dạng về âm sắc và giọng điệu” (45, tr.463). Ở những sáng tác
của họ khẳng định được những cái riêng khu biệt với sáng tác của nam giới, trong
mỗi trang viết, các nhà văn nữ được bày tỏ cái tôi mà trước đây họ bị những định
kiến xã hội, những khuôn phép cản trở. Họ có điểm mạnh ở khả năng mà tạo hóa
ban tặng cho họ, bản năng ấy mang đến sự nhạy cảm, cách nhìn nhận cuộc sống
riêng biệt của phái nữ tạo nên một cuộc cách mạng lớn lao và toàn diện, làm thức
tỉnh về ý thức hệ nữ giới. Tuy vậy những sáng tác của họ vẫn chưa đạt đến đỉnh cao
và tạo được những cú nhảy vọt để làm nên một bộ phận thơ ca viết về nữ quyền.
Bên cạnh đó thì có sự xuất hiện của những cây bút nam viết về phái nữ, phải kể đến
tên tuổi của nhóm Tự lực văn đoàn, họ đã cất tiếng nói của mình đòi quyền bình
26
đẳng cho những người phụ nữ dưới góc độ vấn đề nữ quyền. Hình tượng người phụ
nữ tân thời mang tư tưởng mới mẻ, kháng cự lại lễ giáo phong kiến khắt khe là hình
tượng trung tâm trong các sáng tác mang tính luận đề của bút nhóm này. Với bút
pháp lãng mạn, các sáng tác đã đưa người phụ nữ vượt thoát ra khỏi tình trạng tăm
tối, bế tắc, chứa đựng nhiều mâu thuẫn gay gắt của các mối quan hệ xã hội, giành
lấy quyền sống, quyền tự do cho chính mình và tạo dựng nên một viễn cảnh tươi
sáng cho chính họ, đã đóng góp tiếng nói phản kháng sâu sắc, mạnh mẽ quyện lẫn
với khao khát và ước mơ cho một con đường giải phóng phụ nữ, “đoạn tuyệt” với
quá khứ và hướng đến tương lai.Tiêu chí “văn học nữ quyền” ở đây không phải
là giới tính của tác giả hay giới tính của nhân vật văn học mà là nội dung sáng
tác phải có liên quan đến việc bảo vệ, bênh vực quyền sống của phụ nữ, giải
phóng phụ nữ
Sau khi chính sách mở cửa, đổi mới năm 1986 được ban hành, xu hướng
toàn cầu hóa đang ngày càng tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong bối cảnh đó, để đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của sự nghiệp giải phóng
phụ nữ, nghiên cứu về giới ở Việt Nam đã có những bước phát triển mới.Tiếp
theo đó là thời kì “âm thịnh dương suy” trong văn học thực sự bùng phát. Sự
mạnh dạn, tự tin, thẳng thắn bộc bạch cái tôi nữ giới đã xác lập được vị thế của
“đặc tính nữ” trong văn học.Ý thức về giới một cách tự giác đã ăn sâu vào tâm
thức của các nhà văn và tạo nên âm hưởng nữ quyền trong văn học. Quan niệm
về nữ quyền trong văn học lúc này được biểu hiện trực tiếp, điểm dễ nhận thấy
nhất đó là ở sự thức tỉnh trong đời sống riêng tư. Khi viết về tình yêu, những
người phụ nữ được khám phá ở mọi cung bậc cảm xúc một cách chân thực, họ
chủ động, quyết liệt giành lấy hạnh phúc, gìn giữ tình yêu, dám là chính mình.
Hình tượng người phụ nữ với những giá trị phẩm chất cũng như giá trị tinh
thần vốn xưa nay thường được nhìn nhận, đánh giá dưới đôi mắt của nam quyền,
thì giờ đây đã được nhìn nhận bằng đôi mắt của chính họ - những người phụ nữ.
Đến nay nền văn học Việt Nam chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ cả về số lượng
27
tác giả lẫn tác phẩm, nhất là tác phẩm của các tác giả trẻ như Phạm Thị Hoài, Lê
Minh Khuê, Võ Thị Hảo, Phan Thị Vàng Anh, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Vi
Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Đỗ Hoàng Diệu, Phong Điệp, Di Li, Nguyễn Ngọc
Tư…Tiêu chí “văn học nữ quyền” ở đây không phải là giới tính của tác giả hay
giới tính của nhân vật văn học mà là nội dung sáng tác phải có liên quan đến việc
bảo vệ, bênh vực quyền sống của phụ nữ, giải phóng phụ nữ. Các tác phẩm thuộc
dòng văn học nữ quyền xoay quanh các vấn đề. Lấy người phụ nữ làm trung tâm
của các tác phẩm văn học, đòi quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc tự do
cho người phụ nữ, thể hiện sự trân trọng những khát vọng của người phụ nữ. Văn
học nữ quyền là thế giới tự do. Ở đây người phụ nữ tụ do phô diễn những khoái
lạc dục vọng của mình. Điều đó cho thấy người ta đã có cái nhìn cởi mở hơn về
vấn đề tính dục, viết về tính dục cũng thoải mái hơn. Khẳng định nhân vị trong
đời sống tình dục trở thành biểu hiện rõ nhất của vấn đề nữ
quyềnbêncạnhtriếtlívềđạođức truyềnthống.
1.3. Mạch nguồn cảm hứng về nữ quyền trong văn xuôi dân tộc thiểu số
miền núi phía Bắc
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, cảm hứng là “trạng thái tình cảm mãnh
liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư tưởng xác định,
một sự đánh giá nhất định, gây tác động đến cảm xúc của những người tiếp nhận
tác phẩm” [10, tr.38] . Văn học bắt nguồn từ đời sống và phản ánh đời sống. Khi
văn học chiếm lĩnh đời sống đã tạo ra những hình tượng nghệ thuật mang giá trị
thẩm mỹ cao.Cũng chính vì lẽ đó,văn học phản ánh các quan hệ hiện thực mà
trung tâm là con người. Hình ảnh người phụ nữ miền núi với biết bao đắng cay
khổ cực đã in sâu vào tâm trí các nhà văn, lôi cuốn xúc cảm tạo nên sự sáng tạo
cụ thể, gần gũi và chân thực. Và để tạo nên sự lôi cuốn đó là mạch nguồn cảm
hứng về vấn đề nữ quyền trong văn xuôi DTTS miền núi phía Bắc. Đọc văn xuôi
DTTS, ta thấy người phụ nữ miền núi trong xã hội cũ rơi vào bi kịch về thân
phận và quyền sống của con người. Họ là nạn nhân của xã hội phụ quyền, không
28
thể tự quyết định được số phận của bản thân. Mặc dù vậy nhưng họ đã để lại ấn
tượng sâu đậm trong lòng độc giả bởi sự mạnh mẽ, dũng cảm, niềm khát khao
sống làm chủ bản thân và cuộc đời. Đây cũng là cảm hứng và là nguồn đề tài hấp
dẫn khiến nhà văn DTTS đi sâu khai thác vấn đề nữ quyền. Từ đó vấn đề nữ
quyền cũng là một xu hướng trong văn xuôi DTTS.
Bên cạnh các tác giả người Kinh, vấn đề nữ quyền trong sáng tác của các
nhà văn DTTS cũng thể hiện được những nét đặc sắc riêng mang tính đặc trưng
văn hóa vùng miền, điều này càng làm cho văn học thêm sắc màu, sống động và
tươi mới hơn như nhà văn Vi Hồng đã từng khẳng định: “Một dân tộc dù nhỏ bé
đến đâu họ vẫn có một thế giới tâm hồn rất riêng và chỉ có những con đẻ rất thông
minh và nhạy cảm của dân tộc mới có cơ may khám phá và phát hiện”. [24, tr.63].
Xuất thân là người DTTS nên các nhà văn là người hiểu rõ hơn ai hết thân phận
người phụ nữ miền núi còn bị đè nén, chịu áp bức bóc lột nặng nề trên vùng cao,
nơi mà ánh sáng văn minh chưa soi rọi tới. Con người ở những vùng cao mà đặc
biệt là người đàn ông rất bảo thủ, lạc hậu, ngại tiếp thu cái mới, cái tiến bộ khiến
biết bao người phụ nữ miền núi phải chịu thiệt thòi hơn người phụ nữ miền xuôi.
Muôn vàn định kiến xã hội bủa vây những người phụ nữ nơi đây và nếu nhìn vào
đó ta sẽ thấy một bức tranh tối màu về số phận người phụ nữ vùng cao, họ chỉ là
những con trâu, con bò trong gia đình chồng, đầu tắt mặt tối làm lụng vất vả thậm
chí còn bị đánh đập, không được ra ngoài vui chơi, hưởng thụ, không tự quyết
định hạnh phúc cho mình…Chứng kiến những bất công mà người phụ nữ vùng
cao phải gánh chịu, các nhà văn DTTS đồng cảm với họ, đưa họ vào những trang
văn của mình và nói lên tiếng nói bênh vực phụ nữ.
Vấn đề nữ quyền đã “manh nha” xuất hiện trong những sáng tác thời kì
đầu và mở rộng mạnh mẽ hơn ở những thời kì sau. Minh chứng ở sự đấu tranh
chống lại cái xấu, cái ác trong xã hội như trong sáng tác của Nông Minh Châu.
Thông qua câu chuyện về Ché Mèn, đại diện cho lớp thanh niên tiến bộ đã dám
vượt qua khó khăn, trở ngại, mạnh dạn tìm tòi những hiểu biết về cuộc sống,
29
hăng hái trong lao động sản xuất, mạnh dạn thay đổi những quan điểm lạc hậu
và bảo thủ đến với khoa học kĩ thuật. Hàng loạt các hành động của người phụ nữ
như Đàng, Xo Ao, Lăng Thị Thu Lả trong sáng tác của Vi Hồng dám chống lại
hủ tục lạc hậu như ma gà, ép duyên…để tìm kiếm hạnh phúc. Không dừng lại ở
đó, họ còn dám bước qua ranh giới của bổn phận để thỏa mãn khát vọng bản
năng như: Ún Khưm (Tình Mường Wang - Bùi Minh Chức) khát khao bản năng
được làm vợ, làm mẹ, cô có thai với chính kẻ đã gây ra tai nạn cho chồng mình.
Hành động đi theo ái tình của người vợ vắng chồng (Sau lời hát Sli- Bùi Thị Như
Lan), hành động quyết tâm ra đi tìm hạnh phúc bên người yêu của Líu (Góc trời
tây có cơn mưa đá- Cao Duy Sơn). Ngoài ra, người đọc cũng bắt gặp nhiều nhân
vật nữ với khát khao yêu đương như Ai Hoa (Người trong ống - Vi Hồng), Dình
(Hoa bay cuối trời- Cao Duy Sơn), Xúa (Bồng bềnh sương núi - Bùi Thị Như
Lan)…Cuộc sống của họ là hành trình đi kiếm tìm hạnh phúc vì tình yêu là món
quà tinh thần vô giá cho những người phụ nữ.
Xuất phát từ trái tim nhạy cảm, tấm lòng nhân ái, giàu lòng yêu thương con
người đặc biệt là những người phụ nữ miền núi cao, Vi Hồng, Cao Duy Sơn, Bùi
Thị Như Lan và nhiều tác giả khác đều có chung những trang viết đề cập đến vấn
đề nữ quyền của người phụ nữ vùng cao. Tuy sống trong môi trường vô vàn khó
khăn, phải hứng chịu những bất công, ngang trái trong xã hội nhưng họ không
chịu khuất phục hoàn cảnh “Như một quy luật tất yếu, càng bị đè nén, áp bức, khả
năng sinh tồn của con người càng được tôi rèn, càng được khẳng định, như chiếc
lò xo càng bị nén chặt thì sức bật càng cao để trở về với trạng thái cân bằng tự
nhiên của nó”. Những người phụ nữ luôn mang trong mình một khát khao sống,
dũng cảm và lạc quan dám đứng lên chống lại những hủ tục lạc hậu của xã hội cũ.
Họ khát khao tình yêu, khát khao hạnh phúc đời thường và đặc biệt họ dám bộc lộ
chân thực khát khao tính dục của người phụ nữ miền núi. Tiếng nói của người phụ
nữ trong văn học (từ văn học dân gian đến văn học thành văn) là tiếng nói phản
kháng, lên án và phê phán mạnh mẽ lối xã hội phụ quyền. Là khát vọng được tự
30
do và hạnh phúc trong tình yêu.Là biểu hiện cho cái đẹp, vẻ đẹp bất tử, tổng hòa
của cả vẻ đẹp phẩm chất và ngoại hình.
Qua những đắng cay, khổ cực mà người phụ nữ miền núi phải chịu đựng
chúng ta không chỉ xót xa mà còn cảm phục trước những nghị lực phi thường
của họ.Ở họ hội tụ những phẩm chất cao đẹp nhất của người phụ nữ, thể hiện
chân thực con người mình với những khát khao trần thế, họ luôn có sự trỗi dậy
mãnh liệt của ý thức cá nhân để xác lập quyền bình đẳng của mình.Đọc những
sáng tác văn xuôi viêt về người phụ nữ đặc biệt là vấn đề nữ quyền được đề cập
đến trong sáng tác của, ta sẽ thấy được cảm hứng nhân văn hướng về người phụ
nữ mang thân phận khổ đau, từ đó toát lên vẻ đẹp tâm hồn trong con người họ.
Họ dũng cảm đứng lên đấu tranh bảo vệ quyền bình đẳng. Và với sự đấu tranh
âm thầm, không mệt mỏi của bản thân họ đã chứng minh được một điều rằng
người phụ nữ có thể làm được tất cả khi họ dám đứng lên.
Tất cả những điều nói trên cho thấy sự hoàn thiện về nghệ thuật và mở rộng
về nội dung phản ánh. Qua đó, khẳng định sự trường tồn, phát triển không ngừng
của một nền văn học giàu tiềm năng và sức bật. Có thể nói, khát vọng được “thoát
thai” khỏi những hủ tục lạc hậu mãi là khát khao trường tồn, vĩnh cửu của những
người phụ nữ dân tôc thiểu số. Âm hưởng nữ quyền sẽ không còn vang vọng trong
những tác phẩm thơ văn, đôi chân của người phụ nữ vùng cao không còn chịu bó
buộc trong “gông cùm, xiềng xích” nữa, mà bao trùm lên tất cả sẽ là tiếng hát tươi
vui, là niềm hân hoan bất tận trước cuộc sống tự do, hạnh phúc.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Có thể nói, văn học DTTS đã mang đến rất nhiều thành tựu và sắc thái
riêng biệt cho nền văn học Viêt Nam thời kì hiện đại, đặc biệt phải kể đến những
đóng góp tích cực mà văn xuôi DTTS miền núi phía Bắc mang lại. Qua nghiên
cứu này ta có thể hình dung một cách khái quát những nét đăc sắc và độc đáo
mang niềm tự hào về dân tộc của họ.
31
Những làn sóng đấu tranh của phong trào nữ quyền, các lý thuyết phê bình
nữ quyền trên thế giới xuất hiện từ cuối thế kỷ XVIII và kéo dài cho đến tận ngày
nay như là một minh chứng cho công cuộc đi tìm lại chính mình- tìm lại bản ngã
luôn đau đáu, mòn mỏi và chưa bao giờ ngưng nghỉ của một nửa nhân loại. Trong
lĩnh vực văn học, ý thức về nữ quyền đã ngấm sâu vào mạch ngầm của văn học
dân tộc trước khi có sự du nhập của chủ nghĩa nữ quyền phương Tây. Tuy nhiên
do ý thức xã hội mà vấn đề nữ quyền trước đây mới chỉ dừng lại ở những hiện
tượng văn học đơn lẻ và đây cũng là tiền đề cho văn học nữ quyền phát triển.
Người phụ nữ đã đi vào những trang viết chảy suốt trong văn học từ trước đến
nay và trong văn xuôi DTTS miền núi phía Bắc cũng không ngoại lệ. Bên cạnh
nhiều vấn đề được đặt ra qua cuộc sống của đồng bào miền núi thì vấn đề nữ
quyền là một hướng đi đầy hấp dẫn và chưa bao giờ cũ của các nhà văn
DTTS.Trên tinh thần ấy, những tìm tòi, sáng tạo của các nhà văn dân tộc thiểu
số dù chưa đạt tới sự hoàn hảo nhưng nó đã chứng tỏ bản lĩnh, tài năng và tinh
thần dân tộc của nhà văn trên hành trình hội nhập. Ngày nay, một xã hội công
bằng, bình đẳng, nam nữ bình quyền thì người phụ nữ đã mạnh mẽ hơn, dám
đương đầu, dám đấu tranh cho quyền lợi của chính mình. Tiến hành nghiên cứu
những tác phẩm viết về nữ quyền của một số nhà văn DTTS miền núi phía Bắc
từng bước mang lại thay đổi thực sự cho người phụ nữ đặc biệt là người phụ nữ
miền núi thúc đẩy giải phóng phụ nữ, góp phần vào thành công của cách mạng
dân chủ nhân dân ở Việt Nam. Đây cũng là một hướng nghiên cứu đầy triển
vọng, có ý nghĩa văn hóa sâu sắc.
Chương2
VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN TRONG SÁNG TÁC CỦA MỘT SỐ NHÀ VĂN
DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NỘI DUNG
Trong các sáng tác của Vi Hồng, Cao Duy Sơn và Bùi Thị Như Lan, nhân
32
vật nữ luôn chiếm một tỉ lệ rất cao và có thể nói đó đã trở thành một hình tượng
chính, thể thể hiện rất rõ tài văn chương, tư tưởng nghệ thuật cũng như tình cảm
yêu quý, trân trọng và cảm thông đối với nguời phụ nữ DTTS. Họ đều là những
người phụ nữ miền núi đẹp người, đẹp nết - một vẻ đẹp tự nhiên, khỏe mạnh,
phồn thực đầy khả năng làm vợ, làm mẹ, làm chủ một gia đình miền núi. Nhưng
hầu hết, họ lại đều là những người có số phận vất vả, kém may mắn. Như Ma
Văn Kháng đã từng gọi người phụ nữ miền núi là; “Biểu trưng cho sự khốn cùng
của nhân loại”. Song điều đáng quí ở những người phụ nữ này là: dù luôn phải
đối mặt với những khó khăn, thách thức của cuộc sống lạc hậu, đói nghèo, đầy
bất trắc nhưng họ chưa bao giờ mất đi niềm tin vào cuộc sống, họ vẫn luôn cố
vượt qua, vươn lên với mong muốn, khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn,
hạnh phúc hơn.Hiểu được sự thiệt thòi, vất vả, không được tiếp xúc với ánh sáng
văn minh, điều kiện mở mang dân trí thấp, tồn tại những rào cản về phong tục
tập quán, ngòi bút của Vi Hồng, Cao Duy Sơn, Bùi Thị Như Lan đã cất lên tiếng
nói bênh vực nữ quyền, đòi quyền bình đẳng cho phụ nữ vùng cao thời kì đất
nước trở mình phát triển.
Trong chương này, chúng tôi chủ yếu đi sâu tìm hiểu vấn đề nữ quyền
trong sáng tác của Vi Hồng, Cao Duy Sơn và Bùi Thị Như Lan. Vấn đề tư tưởng
và quan điểm của nhà văn thể hiện trong chiều sâu suy tư, triết lí. Đề cập đến vấn
đề nữ quyền, các nhà văn đều thể hiện sự nhìn nhận, đánh giá rất chân thật và
cảm động thông qua ba luận điểm chính đó là hình ảnh người phụ nữ với cuộc
chiến chống lại những hủ tục lạc hậu, người phụ nữ với khát khao hạnh phúc đời
thường và người phụ nữ với bản năng tính dục. Dấu hiệu về vấn đề nữ quyền
thấy rõ đó là hầu hết các nhà văn đều đi tìm cho mình những người phụ nữ mạnh
mẽ, chủ động.
2.1. Nữ quyền trong cuộc chiến chống lại những hủ tục lạc hậu
Khi suy nghĩ “trọng nam khinh nữ” từ ngàn đời xưa đã ăn sâu vào trong
tiềm thức và tư tưởng người Việt thì đó là nguyên nhân sâu xa dẫn đến những bi
kịch số phận của người phụ nữ. Bị rằng buộc bởi vô vàn lễ giáo phong kiến hà
33
khắc, người phụ nữ không được quyền quyết định số phận của mình, họ phải
chấp nhận sống phụ thuộc. Họ mang đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp nhưng
không được xem trọng, không được hưởng những hạnh phúc mà đáng lẽ họ phải
có... Chính vì hoàn cảnh bất hạnh đó mà lâu nay đã trở thành tiếng kêu bi thương
và ái oán như Đại thi hào Nguyễn Du đã từng phải thốt lên:
“Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Biết được điều ấy, người phụ nữ không còn cách nào khác là phải đấu
tranh cho quyền sống của mình. Ta sẽ gặp tất cả những điều này qua lăng kính
của văn học, đặc biệt là văn học nữ quyền nói chung và vấn đề nữ quyền trong
sáng tác của nhà văn DTTS nói riêng.
Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, cuộc sống nhân dân vô cùng tăm
tối “một cổ hai tròng” trong cảnh nước mất nhà tan. Sự thực lịch sử về cuộc sống
của những người nô lệ mất nước “Trong bối cảnh chung đó, cuộc sống của người
dân miền núi còn chịu nhiều đau khổ hơn người Kinh nhiều lần bởi ngoài sự áp
bức, thống trị của chế độ thực dân, họ còn là nạn nhân của sự lạc hậu, u mê, tăm
tối với đủ mọi tập tục cổ hủ, mê tín. Cường quyền đã kết hợp với thần quyền để
bóp nghẹt cuộc sống con người trên những bản làng hẻo lánh, xa xôi. Đâu đâu
cũng là cảnh sống tối tăm đầy uất ức của những thân phận bị tước đoạt tự do,
đầu độc tinh thần.” [13].Sinh sống ở vùng núi cao, điều kiện địa lý khó khăn,
ngoài sự áp bức bóc lột của chế độ thực dân họ còn là những nạn nhân của sự lạc
hậu, u mê. Trên những bản làng là cảnh địa ngục tăm tối, ở đâu cũng thấp thoáng
bóng ma khiến họ sợ hãi: thần linh, ma trời, ma đất, ma gà, ma rừng… người dân
bị tước đoạt tự do, bị đầu độc về tinh thần…Và có lẽ cho đến bây giờ, chịu nhiều
đau khổ nhất là những người phụ nữ. Hủ tục bắt nguồn từ đời sống tinh thần của
con người, tồn tại qua hàng ngàn năm lịch sử, là những phong tục tập quán đã
lỗi thời, lạc hậu, là những thói hư, tật xấu làm cho xã hội bị trì trệ, kém phát triển.
Những hủ tục trở thành vật cản, là gánh nặng từ đời này qua đời khác đối với các
34
cộng đồng người, nhất là người DTTS. Các tác giả DTTS năm bắt được điều đó
và nhanh chóng đưa vào tác phẩm của mình, họ lên tiếng bảo vệ phụ nữ. Ngay
trong những năm đầu xây dựng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, nhà văn Nông
Minh Châu đã tái hiện sinh động hình ảnh người con gái DTTS đã mạnh dạn thay
đổi phương thức sản xuất, đã vượt qua rất nhiều cản trở từ những hủ tục, nếp
nghĩ và thói quen lạc hậu ăn sâu và tiềm thức người dân miền núi cao như sự phụ
thuộc vào thần linh, vào Giàng…để thay đổi cuộc sống ở miền núi. Ché Mèn,
một cô gái trẻ trung, xinh đẹp, lúc nào cũng bẽn lẽn, e thẹn:“Nói với ai cũng cúi
mặt xuống, mân mê vào bàn tay mới nói”.[6,tr.354]. Tuy nhiên ẩn sau vẻ đẹp đó
lại là một cô gái quyết đoán, dám chống lại cái cũ kĩ, lạc hậu, dám làm những gì
mà mình cho là đúng. Giữa lúc mọi người đang tìm cách chống hạn cho cây lúa
thì Mèn đã làm theo chủ trương của phân đoàn phụ nữ. Mặc cho sự trách mắng
của mọi người, sự can ngăn của bố mẹ, Mèn vẫn quyết tâm làm theo chủ trương
mà phân đoàn đưa ra chứ cứ ngồi đợi trời mưa thì biết đến bao giờ. Bỏ ngoài tai
những lời nói của mọi người, Mèn bắt tay vào công việc, cô gánh đôi sọt lên vai
để ra đồng cấy mạ, cô muốn chứng minh cho mọi người thấy quyết định của
mình là đúng. Cuối cùng, khi đã trải qua những khó khăn, thử thách, Mèn đã
khẳng định được mình.Có lẽ đây cũng là âm vang bước đầu cho vấn đề nữ quyền
được vang vọng trong văn xuôi DTTS.
Vi Hồng là một cây bút tiêu biểu của văn xuôi các DTTS miền núi phía
Bắc. Ông là nhà văn có sức sống dẻo dai và một sựsáng tạo miệt mài. Suốt quá
trình lao động nghệ thuật không mệt mỏi, ông đã cho ra đời 15 cuốn tiểu thuyết
và 8 truyện ngắn. Ông đặc biệt dành những trang viết của mình cho nhân vật
người phụ nữ. Vi Hồng là nhà văn dân tộc Tày viết về người phụ nữ DTTS trong
suốt một thời gian dài từ những năm trước cách mạng tháng Tám đến TK XX,
và chủ yếu là hình ảnh người phụ nữ dân tộc sau chiến tranh. Nhìn lại sự nghiệp
văn chương của Vi Hồng, chúng ta càng trân trọng hơn khát vọng sáng tạo luôn
rực cháy trong con người ông. Những nhân vật nữ trong văn xuôi của Vi Hồng
35
rất đa dạng, với nhiều dân tộc khác nhau: Tày, H”Mông,.. có nhiều tính cách và
số phận khác nhau. Ám ảnh trong văn xuôi của Vi Hồng là nhân vật phụ nữ
DTTS có nhan sắc nhưng bất hạnh, chủ yếu là bất hạnh trong tình yêu nhưng có
sức sống mãnh liệt, dũng cảm trong hành trình chống lại số phận và những điều
ngang trái ở đời. Chính vì thế có thể khẳng định cảm hứng nữ quyền là cảm hứng
chủ đạo, vấn đề nữ quyền luôn là vấn đề trọng tâm trong sáng tác của Vi Hồng.
Tận mắt chứng kiến những hủ tục trên vùng cao, những chàng trai, cô gái
bị gán cho có “ma gà” thôi thúc Vi Hồng viết lên những trang văn đẫm nước
mắt. Ông mong muốn bằng ngòi bút của mình đem đến ánh sáng văn minh cho
những con người nơi đây. Trong Vãi Đàng, người đọc có thể thấy được nhân vật
Đàng là một chân dung tiêu biểu của người phụ nữ Việt Bắc, là nạn nhân của hủ
tục, của mê tín với những nỗi khổ chồng chất. Nhà nghiên cứu văn học Lâm Tiến
đã từng nhận xét: “Với Vãi Đàng của Vi Hồng, lần đầu tiên số phận của người
phụ nữ Tày trước Cách mạng tháng Tám đã đi vào văn học Việt Nam hiện đại”
(27, tr.61). Đàng là một cô gái người dân tộc Tày, xinh đẹp, gia đình vốn giàu có
nhất Tổng Rì, nhưng vì bố Đàng nghiện thuốc phiện nên của cải trong nhà đội
nón ra đi. Đang sống trong một gia đình khá giả, bỗng chốc đói nghèo, đó được
xem như bi kịch đầu tiên của cuộc đời Đàng. Lợi dụng hoàn cảnh đó của cô, phó
chánh tổng Vọi ép cô về làm vợ bé nhưng cô không chịu. Đàng bị nhà tổng Vọi
vu cho là có ma gà:“Thời ấy những người bị nghi là có ma gà bị mọi người xa
lánh, hắt hủi. Con trai thì ế vợ, con gái ế chồng không ai dám lấy” [37, tr.177]
Bị mọi người xa lánh, Đàng đau khổ, những khóc mãi cũng không thể thoát ra
khỏi bi kịch, Đàng phải bỏ quê ra đi, Đàng tự nhủ: “Ta phải sống, sống ở quê
hương không được thì ta đi…đến bao giờ không thể sống, không nẻo sống thì
chết!” [16, tr.17]. Rồi gia đình Đàng cũng tìm được cuộc sống mới, tưởng sẽ
không ai biết được đến quá khứ của Đàng, sẽ sống yên ổn, hạnh phúc sẽ đến.
Nhưng Tổng Nhự xuất hiện, hắn ép Đàng phải làm vợ lẽ và Đàng có con với hắn.
Không chịu khuất phục, Đàng tìm cho mình một con đường sống có ích, Đàng
36
báo tin cho những người cộng sản thoát khỏi sự vây bắt của kẻ thù. Cứ tưởng
những bất hạnh đến với Đàng như thế là quá đủ thì trong bữa tiệc đầy tháng của
con Đàng, phó chánh tổng Vọi được mời đến và nhận ra Đàng, một lần nữa lại
bị đổ tiếng là ma gà. Đàng bị xích chân vào mảng đóng bè trôi sông trong tủi
nhục, đau khổ cùng sự khinh bỉ của tất cả mọi người. Khát khao được sống trỗi
dậy khiến Đàng không thể buông xuôi, cô kêu cứu nhưng không một ai giúp đỡ.
Trong hoàn cảnh đó, một lần nữa Đàng không tuyệt vọng, chính tình mẫu tử
thiêng liêng và tình yêu cuộc sống khiến người phụ nữ nhỏ bé không thể chết,
“Đàng nghĩ: Còn sống ngày nào thì hãy ăn để lấy sữa nuôi con” [16, tr.68] . Cô
cầu giúp sự giúp đỡ của mọi người và cố gắng sống. Nghị lực và niềm tin vào
tương lai thể hiện sức sống mạnh mẽ của Đàng, cô quyết chống lại hủ tục lạc hậu
đã giết chết bao cuộc đời người con gái miền núi.Người phụ nữ DTTS đặc biệt
là lớp trẻ có học vấn trong các sáng tác của Vi Hồng đã ý thức được điều đó và
đã dũng cảm đi đầu trong việc bài trừ hủ tục. Trong Đất bằng, Nhình cùng lớp
thanh niên trẻ đã đấu tranh với mê tín dị đoan để mọi người trong bản thoát khỏi
sự sợ hãi về lời nguyền. Then Kỳ “là một học sinh giỏi có tiếng cả tỉnh” nhưng
gia đình cô không cho cô đi học mà bắt đi làm then. Không chấp nhận điều đó,
Kỳ đã bỏ nghề then, về với cuộc đời để được sống và được yêu thương, Kỳ thẳng
thắn tuyên bố là “Chẳng có ma quỷ nào cả” [15, tr.150]
Trước Vi Hồng thì Tô Hoài cũng là một nhà văn đi tiên phong và rất thành
công khi phản ánh những hủ tục lạc hậu ở miền núi qua hình ảnh người phụ nữ.
Ông tái hiện những người phụ nữ mà bao trùm cuộc sống của họ là nạn mê tín dị
đoan. Dường như ở đâu cũng thấp thoáng bóng ma.Người phụ nữ qua trang viết
của Tô Hoài chỉ còn một cách duy nhất là trốn chạy.Nhân vật Mảy (Tuổi trẻ
Hoàng Văn Thụ) bị đồn là nhà có ma gà nên dù có xinh đẹp nhưng không ai
dám đến gần. Bỏ cả người yêu để cùng gia đình chạy trốn tiếng ma gà. Hay Bà
Giàng Súa (Miền Tây), bị cả bản đồn là có ma chài và phải trốn vào sống trong
rừng. Mặc dù là người Kinh, nhưng viết về miền núi với tất cả tâm huyết của
37
mình, Tô Hoài đã cho người đọc thấy những người phụ nữ miền núi cần được
giải phóng như thế nào.
Trong xã hội phong kiến miền núi xuất hiện rất nhiều những cuộc hôn
nhân gượng ép trong đó nạn nhân chính là những người phụ nữ bé nhỏ, bất hạnh.
Họ không có quyền định đoạt và lựa chọn tình yêu cho riêng mình. Bởi vậy,
không hiếm những tác phẩm đề cập đến sự mâu thuẫn giữa hôn nhân và tình
yêu.Viết về hủ tục ép duyên hay rẽ duyên đôi lứa trong xã hội miền núi, ngòi bút
của các nhà văn DTTS đã khám phá, phát hiện để từ đó có được những trang văn
sống động và chân thực về hiện thực này. Một nét chung dễ nhận thấy đó là các
nhân vật nữ, bằng cách này hay cách khác và dù có phải chết cũng dũng cảm
đứng lên chống lại hủ tục.Đề cập đến những hủ tục lạc hậu, lỗi thời, dường như
ngòi bút của Vi Hồng đầy những âu lo, trăn trở cho số phận người phụ nữ. Lăng
Thị Thu Lả (Lòng dạ đàn bà) dám chống lại hủ tục ép duyên, trốn về với người
yêu. Lả bị gia đình ép gả cho Tu: “Ngày cưới đã đến trước của, Lả sống một
mình, sống cô đơn như bị nhốt trong tù ngục. Vì bố mẹ, họ hàng không cho Lả
được đi chơi. Và cũng cấm luôn cả bạn bè đến choi với Lả,,,”.[18, tr.47- 48]Kiên
quyết chống lại gia đình, Lả đã đến nhà Nghít, sống với Nghít như vợ chồng.
Chứng kiến hình ảnh những người phụ nữ bị bủa vây bởi hủ tục lạc hậu nơi miền
núi cao, Vi Hồng đã thương cảm cho số phận bất hạnh của họ,Vi Hồng đã phải
thốt lên rằng: “Những hủ tục lạc hậu, lỗi thời, già cỗi như những cây cổ thụ chết
đứng giữa rừng…có khi cây đứng đó hàng trăm năm sau. Trăm năm sau cành lá
rụng rời xuống đất, mục hóa thành đất thành bụi, nhưng thân cây vẫn sừng
sững”.[23, tr.68]
Người đọc gặp lại La Bội Hoan trong Đọa đầy cũng vậy, cô đến với Đào
Ki Nọi bằng tình yêu chân thành. Dù gia đình có ngăn cấm bằng cách nhốt Bội
Hoan vào buồng kín, bắt cô lấy con của một gia đình giàu có… thì cô vẫn quyết
bảo vệ tình yêu của mình. Cô trả lời bố một cách đanh thép: “Bố giết con thì con
vẫn lấy anh Ki Nọi” [22, tr.14]. Đòn roi và tục lệ hà khắc từ phía gia đình không
38
ngăn cản được tình yêu trong sáng của cô, thế mới thấy khát vọng được sống
trong tình yêu của Bội Hoan mãnh liệt biết chừng nào.Hình ảnh cô băng qua
những cánh rừng âm u mặc kệ mọi nguy hiểm rình rập, chân tay chảy đầy máu,
vừa đi vừa gọi tên người yêu cho ta thấy khát khao hạnh phúc trong người phụ
nữ nhỏ bé phi thường.
Trong tiểu thuyết Nắng vàng bản Dao, Triều Ân đã xây dựng thành công
hình tượng người phụ nữ dám chống lại những hủ tục đã ăn rất sâu, ảnh hưởng
rất nặng đến cuộc sống đồng bào miền núi. Cô giáo Lan là người dân tộc Tày,
tuổi trẻ của cô mang đầy nhiệt huyết, tận tụy với nghề, với học trò. Cô tiêu biểu
cho lớp trí thức tiến bộ, chấp nhận đánh đổi tình yêu, khát vọng hạnh phúc gia
đình để mang đến ánh sáng khoa học, tri thức văn hóa cho người dân miền núi.
Từ khi lấy chồng, cuộc đời cô bước vào muôn vàn những khó khăn. Ngay trong
ngày cưới cô đã phải trải qua những thử thách của me chồng: rước dâu phải đi
lối cửa sauvì mặc đồ trắng xui xẻo, gánh nước suối đun nước cho mẹ chồng rửa
mặt nhưng không phát hiện ra kim khâu mẹ chồng bỏ ở đáy thùng nên thân phận
“chỉ còn trị giá bằng hai con trâu”… Cô chịu rất nhiều những tủi hờn vì bà mẹ
chồng cổ hủ. Không dừng lại ở đó, khi Lan cùng chồng xây xong nhà vệ sinh
kiểu mẫu theo chủ trương, chính sách của Đảng ủy xã thì mẹ chồng cô làm toáng
lên, cho rằng cô là con quỷ đang làm loạn. Bước qua muôn vàn khó khăn, cô âm
thầm đấu tranh gạt bỏ những tư tưởng lạc hậu, thiếu tính khoa học và hi vọng sẽ
làm thay đổi được suy nghĩ của mẹ chồng.Bằng chứng là cô đã thuyết phục được
Piao đi chữa bệnh ở bệnh viện đông y, giải tỏa mối nghi ngờ trong lòng chồng
chứ không phải chữa bệnh bằng những tục lệ cúng bái mà mẹ chồng đặt ra. Đối
lập với suy nghĩ, việc làm của Lan là những việc làm luôn gắn với tư tưởng mê
tín dị đoan của mẹ chồng cô. Lan có thai, mẹ chồng Lan xuống làng người Tày
đón bà then lên làm lễ “bắc cầu xin hoa” rất tốn kém. Người Dao có tục “kin
chai”, dăm năm lại có một lần nhưng là năm nào thì lại do thầy mo hoặc bà then
quyết định. Năm ấy cả làng xóm phải mổ hết chó, mèo, gà vịt đang có, một thời
39
gian sau mới nuôi gây lại. Lan đã không làm theo mà mang gà xuống trường nuôi
nên mẹ chồng cho cô là yêu quái nên mới ăn gà đã thành tinh. Lễ đầy tháng hai
cháu bà đưa cho Lan “xâu bánh nếp cóoc mò đi bán xúi” cho nhà ông Quải để
trả thù xưa, nhưng Lan lại treo lên cây cho thú rừng ăn... Qua những việc làm
của mình, Lan đã thể hiện được thông điệp của nhà văn đó là mang tri thức văn
hóa cho người dân vùng núi cao, là nỗ lực đấu tranh chống hủ tục lạc hậu nơi
miền núi:“Phải để ánh sáng khoa học rọi vào những khoảng trống tối tăm mê
tín dị đoan, vào những tập tục lạc hậu, vào thói bảo thủ nhỏ nhen...”.
Cao Duy Sơn cũng là một nhà văn DTTS nặng lòng với vùng cao và cụ thể
là với mảnh đất Cô Sầu (Trùng Khánh- Cao Bằng). Những tác phẩm của ông đều
được ra đời với cái hồn đất, hồn người nơi đây và ông khẳng định: “Cả đời tôi chỉ
đeo đuổi đề tài về người miền núi”. Bản thân ông là một con người khiêm tốn khi
nói về mình: “Bản thân tôi, một người con của miền núi, vậy mà cũng chỉ dám
nhận là đang trong quá trình tích lũy, khám phá để mã hóa những vỉa tầng văn
hóa nguyên bản, hồn nhiên của người dân tộc đưa vào những trang văn”. Trong
các sáng tác của Cao Duy Sơn, viết về người phụ nữ miền núi cũng là một đề tài
mà ông tâm đắc. Mặc dù là một cây bút nam nhưng người đọc cảm nhận được ông
như hóa thân vào những người phụ nữđể đồng cảm và sẻ chia. Biết bao số phận
những người phụ nữ phải chịu nỗi đau của cảnh bị ép duyên, sống với người mình
không yêu, sống một cuộc đời tàn héo đến chết. Cụ thể hơn trong truyện ngắn Cao
Duy Sơn là phố huyện Cô Sầu vẫn còn tồn tại hủ tục lạc hậu trong hôn nhân và sự
thiếu hiểu biết cũng đã đẩy bao thân phận người phụ nữ đến bước đường cùng
khiến họ phải tìm cách chống lại. Đồng bào người Tày ở Cô Sầu có quy định rằng:
dù có được gia đình đồng ý, họ hàng chấp thuận nhưng nếu vợ chồng mà chưa có
con thì không được về sống với nhau chung một mái nhà. Chỉ khi nào người con
gái ấy có con thì mới được công nhận là con dâu, được chồng đón về sống chung.
Đây là một tục lệ vô lý dẫn đến bi kịch của Lu trong truyện ngắn Song sinh. Hay
là nhân vật Ếm (Chợ tình), Ếm bị gia đình ép gả cho người khác khiến tình yêu
40
với Sinh tan vỡ.
Trong tiểu thuyết Người lang thang, Diên yêu Ngấn nhưng bị cha mẹ ép
lấy Phắn- một gã trai bản xấu xa. Trái tim yếu đuối của Diên không thể vượt qua
sự sắp đặt của cha mẹ. Diên nói với Ngấn “Em như con chim bị bắt nhốt vào
lồng, tiếng hót thì buồn, bầu trời thì mất. Lộc mệnh thày tảo đã lấy gửi cho bàn
thờ họ nhà trai, họ đã gộp hai làm một. Pa mé không thể nuốt lời hứa được nữa.
Tình anh, em mang theo đến chết” [47, tr.171]. Sau hôn nhân, cuộc sống của
Diên là những chuỗi ngày tẻ nhạt. Cuối cùng để giải thoát cho những đau khổ
mình phải chịu đựng, cô chọn cách “Nắm tay con gái chạy vụt ra khỏi nhà. Phía
sau là quá khứ khổ đau, là giả dối, là tình yêu đã mất” [47, tr.350].Thông qua
hủ tục lạc hậu này, Cao Duy sơn phản ánh một hiện thực rằng xã hội miền núi
dù có nhiều biến đổi nhưng trong lòng xã hội ấy vẫn còn tàn dư của những hủ
tục kìm kẹp con người.
Cùng đồng cảm với Vi Hồng và Cao Duy Sơn, Bùi Thị Như Lan cũng tập
trung phản ánh số phận người phụ nữ trên vùng cao và nói lên tiếng nói bảo vệ
nữu quyền cho họ. Nhà văn Hoàng Quý đã từng chia sẻ: “Chúng ta nghe thấy sau
những trang văn kia là cả những tiếng thở dài, cả phập phồng của khí trời, thiên
nhiên, cây cỏ vùng cao, cả những buồn vui, khổ đau trong mỗi số phận người”.
Bùi Thị Như Lan là nhà văn nữ quân đội người dân tộc Tày, chị hay viết về đề tài
cuộc sống con người miền núi phía Bắc, nhất là những số phận của người phụ nữ.
Là lớp nhà văn trưởng thành và có nhiều đóng góp cho sự phát triển của văn học
DTTS. Tác phẩm của chị cuốn hút người đọc bằng sự quan sát sắc sảo, tình cảm
yêu quý cùng và sự cảm thông sâu sắc với những thân phận bất hạnh của người
phụ nữ vùng cao. Bùi Thị Như Lan cũng đã nói lên tiếng nói của mình bảo vệ nữ
quyền cho người phụ nữ thông qua cuộc chiến chống lại hủ tục lạc hậu của người
phụ nữ miền núi. Nhân vật Xúa trong truyện Bồng bềnh sương núi, khi bị cha
ngăn cấm tình yêu, Xúa đã chạy trốn, cô quyết tâm rời bỏ nơi mà hủ tục về hôn
nhân luôn đè nặng lên những người con gái: “Cô chạy xuống núi, bàn chân không
41
giầy cứ thế băng băng trên đường đá gập ghềnh. Đá cứa vào lòng bàn chân, đá
dứt từng mảng da ở ngón chân cô, Xúa chạy qua ngày sang đêm, chạy đến lúc cái
chân không dẫm lên đá, trên sỏi mà lún ngập xuống những thửa ruộng bằng
phẳng…”[31, tr.32]. Đây là hành động quyết liệt của Xúa để bảo vệ tình yêu trước
mọi rào cản, thách thức của cuộc đời. Một tình yêu vẹn tròn, một hạnh phúc lứa
đôi không phải là một khát vọng gì đó quá cao sang mà ngược lại rất đời thường
như bao khát vọng khác. Trong Hoa Mía, Mế Sang và bố Sang lấy nhau, nhưng
do hủ tục nên hai người vẫn chưa được ở cùng nhau : “Phong tục vùng này, con
gai lấy chồng vẫn phải ở nhà mình, lúc có con trai mới làm lễ rước con dâu và
cháu nội. Chú rể sau lễ cưới phải về nhà mình, đến rằm tháng bảy, đốt mã trước
cửa mả tổ tiên, ông bà và Tết cổ truyền đón xuân thì sang nhà gái, ở với vợ vài
ngày, cứ thế cho đến lúc có con, vợ chồng mới được sống cùng nhau” [29,
tr.21].Nhưng đến ngày bố Sang phải đi bộ đội, mọi đau khổ Mế Sang phải gánh
chịu, bụng Mế to dần, bị mọi người dân trong nhìn với con mắt chê bai, khinh
thường nhưng Mế Sang vẫn mạnh mẽ, nuôi con một mình và khi biết chồng đã hi
sinh ở chiến trường, một lần nữa người phụ nữ cam chịu ấy đã nén đau thương
nuôi dậy đứa con trưởng thành. Hay trong câu chuyện của Mây, Mây có con với
Dầm nhưng bố mẹ Dầm không chấp nhận. Xuất phát từ tình mẫu tử thiêng liêng,
Mây đã phải chịu đựng rất nhiều điều tiếng để nuôi và bảo vệ đứa con của mình.
Mây đã vượt mọi định kiến xã hội để tiếp tục sống. Đây quả là cô gái dũng cảm,
có nghị lực sống phi thường. Những hủ tục đã đẩy người phụ nữ xuống vực thẳm,
tuy vậy, những người phụ nữ miền núi trong sáng tác của Bùi Thị Như Lan đều
cố gắng vượt qua khó khăn trong cuộc sống, để nuôi con, làm tròn bổn phận của
mình. Mỗi câu truyện là một mảnh đời người phụ nữ khác nhau, họ càng gặp khó
khăn, thử thách thì lại càng cố gắng vượt qua mọi hủ tục để tiếp tục hi vọng vào
tương lai tốt đẹp hơn. Họ không bao giờ đầu hàng số phận, không bao giờ yếu
đuôi, u uất tìm đến cái chết để trốn chạy khỏi hoàn cảnh khó khăn. Có lễ đây cũng
là một nét đặc trưng cho “chất lính” của cây bút nữ quân đội Bùi Thị Như Lan.
42
So với người phụ nữ miền xuôi và các vùng DTTS khác trong cả nước,
người phụ nữ miền núi phía Bắc trên mọi phương diện đều chịu khó khăn hơn
nhất là với những hủ tục lạc hậu nơi đây đã gò bó và thắt chặt người phụ nữ khiến
họ không thể phát huy khả năng của mình. Sinh sống của người dân tập trung
chủ yếu ở các bản vùng cao, vùng sâu, vùng xa, cuộc sống tự cung tự cấp với
thiên nhiên khắc nghiệt. Hệ tư tưởng bảo thủ, lạc hậu và quan niệm, học không
giúp cho “cái bụng no được” nên trước dây, việc tiếp cận các kiến thức khoa học
càng khó khăn. Các hủ tục lạc hậu thường xuyên xảy ra. Hiểu được điều đó, các
nhà văn DTTS đã dũng cảm phê phán những định kiến, tập tục cổ hủ, lạc hậu thể
hiện thái độ nhân đạo và tình yêu thương tha thiết với nhũng người phụ nữ nơi
đây. Thể hiện vấn đề nữ quyền trong văn học, hướng tới một đời sống văn hóa
văn minh và tốt đẹp hơn, các nhà văn DTTS đã kiến tạo nên những người phụ
nữ hiện đại với sự thức tỉnh, khát vọng cá nhân, khẳng định giá trị sống của mình
là một cách để nhà văn đối thoại lại với hủ tục cũ.
2.2. Nữ quyền trong khát khao hạnh phúc đời thường
Không chỉ đấu tranh chống lại những hủ tục lạc hậu, vấn đề nữ quyền còn
thể hiện qua sự chủ động kiếm tìm hạnh phúc cho mình, dám bày tỏ tình yêu và
dám đấu tranh bảo vệ tình yêu của mình. Khát khao hạnh phúc vốn là thứ khát
vọng đẹp đẽ và chính đáng của người phụ nữ. Khát khao hạnh phúc bình dị đời
thường của những người phụ nữ dân tộc thiểu số không phải là thứ gì đó cao xa
mà chính là: khát khao một tình yêu trọn vẹn, hạnh phúc lứa đôi, khát khao được
làm vợ, làm mẹ, được sống một cuộc sống tốt đẹp, yên bình.
Yêu và khát khao được yêu đã trở thành một trong những đề tài thường
trực trong sáng tác của Vi Hồng. Chẳng thế mà “ những chương, đoạn anh viết
về tình yêu thương là những chương, đoạn hay nhất và được anh trau chuốt nhất
về mặt tư duy và ngôn từ” [38, tr.277]. Khát khao được gắn bó, chở che trong
tình yêu, khát khao được gắn bó với người mình yêu và cuộc sống trên hành trình
kiếm tìm hạnh phúc đích thực. Lăng Thị Thu Lả trong Lòng dạ đànbà cũng chủ
43
động trong tình yêu của mình. Lần đầu gặp gỡ, Lả đã phải lòng Linh Thang
Nghít. Yêu Nghít đắm say, Lả đã nói ra lòng mình với Tu. Mặc dù bị gia đình
ngăn cấm, đánh đập nhưng Lả nhất định không chịu lấy Tu. Khát khao hạnh phúc
với trái tim chân thành đã khiến cô bỏ trốn đến nhà người yêu. Đọc Lòng dạ
đàn bàta sẽ thấy Lả vì khát vọng được sống bên người mình yêu mà cô đã sẵn
sàng hi sinh tất cả dù sau này Lả có bị phản bội. Vi Hồng cho ta thấy sau những
đau đớn, xót xa kia là niềm tha thiết với tình yêu, niềm tin vào tình yêu chân
thành.Trong Đi tìm giàu sang, hình tượng nhân vật bà Lai cũng là biểu hiện tập
trung nhất khát vọng hạnh phúc và sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của người phụ
nữ miền núi. Bà Lai là một người phụ nữ góa bụa, không muốn lệ thuộc vào sự
giúp đỡ của người khác mà muốn tự vươn lên bằng chính kiến thức và sức lao
động của mình. Bà Lai yêu công việc, yêu lao động và điều đó thể hiện tình yêu
cuộc sống mãnh liệt. Ở nhân vật này có sự cộng hưởng của khát khao hạnh phúc
cá nhân với khát khao cống hiến cho lợi ích cộng đồng. Nhân vật nữ trong văn
xuôi của Vi Hồng được xây dựng trên nhiều phương diện mà có lẽ nhận được sự
cảm thông của người đọc nhất đó là khát vọng về tình yêu, hạnh phúc. Họ luôn
khao khát một tình yêu tự do, đó cũng là lí do khiến đa số người phụ nữ luôn chủ
động trong việc kiếm tìm tình yêu cho mình. Họ sẵn sàng lao vào khổ cực, khơi
nguồn và thổ lộ tình cảm khi con tim mách bảo. Đây cũng là một lối đi mới mà
nhà văn muốn giúp những người phụ nữ Tày bước qua những định kiến để làm
mình hạnh phúc.
Người phụ nữ dù trong điều kiện hoàn cảnh nào cũng chỉ muốn có được
sự an ủi, đồng cảm, chia sẻ từ những người bạn khác giới. Những cô, những nàng
trong Người đàn ông duy nhất, Tim vỡ, Nàng tiên xanh xao của Võ Thị Hảo;
người đàn bà trong Chợ rằm dưới gốc dâu cổ thụ, Đàn bà sinh ra từ bóng đêm
của Y Ban đều chỉ mong muốn có được một người đàn ông chân chính để gửi
trọn tình yêu thương. Nhân vật Tho trong Người đàn bà kể chuyện, Không Bé
trong Đàn bà của Lý Lan, dẫu mỗi người đều mang một bi kịch khác nhau, nhưng
44
đều có chung một nỗi niềm - đó là niềm mong ước về một gia đình, một người
chồng thương yêu thấu hiểu những trăn trở của mình. Với Cao Duy Sơn cũng
vậy, ngòi bút tinh thần nhân đạo của Cao Duy Sơn đã cảm thông và đồng tình với
khát vọng hạnh phúc chân chính của con người. Người phụ nữ phá vỡ mẫu hình
truyền thống, thể hiện sự tự ý thức sâu sắc về vị thế bình đẳng giới của mình.Trong
tình yêu, người phụ nữ dân tộc rất táo bạo, mạnh dạn bộc lộ tình cảm riêng tư mà
không chịu sự mặc cảm “Cọc đi tìm trâu” như những cô gái người Kinh. Nhân vật
Va Đáo (Phụ tình) thì luôn khát khao hạnh phúc. Yêu Thế Ru say đắm, Va Đáo
dâng hiến tất cả cho Thế Ru và cô mang thai. Khi Thế Ru gặp nạn, Va Đáo đi tìm
anh khắp nơi. Mặc dù Lai Cảng yêu mình nhưng Va Đáo vẫn một lòng hướng về
Thế Ru. Nhân vật này khiến chúng ta cảm phục về một người phụ nữ có khát vọng
hạnh phúc mãnh liệt.Cả cuộc đời của Va Đáo khiến chúng ta cảm phục và trân
trọng về một tình yêu phi thường. Con đường đi tìm hạnh phúc tuy gian nan, muộn
màng nhưng khi gặp được người yêu, tìm được cha cho con mình nàng vẫn nở nụ
cười viên mãn. Quan niệm về tình yêu của Va Đáo có vẻ xưa cũ nhưng lại rất mới
mẻ và hiện đại. Đó chính là biểu hiện mạnh mẽ của khát vọng tình yêu trong tâm
hồn người phụ nữ.
Trong sáng tác của Hà Thi Cẩm Anh (tác giả dân tộc Mường - Thanh Hóa),
người phụ nữ với khát khao hạnh phúc đời thường lại để lại một ấn tượng, một
cảm xúc mạnh mẽ trong lòng người đọc.Nhân vật cô gái trẻ ở Mường Bi trong
truyên ngắn Quả cònlà một ví dụ. Làmột cô gáixinh xắn, chăm chỉ, thảo hiền
nhưng cuộc sống của cô không được may mắn. Dù phải sống cô đơn trong suốt 40
năm, chờ đợi anh lính trẻ nhưng cô không héo mòn mà vẫn rất xinh đẹp, cô luôn
mong chờ một tình yêu hạnh phúc. Cô chỉ biết gửi lòng theo quả còn nói hộ nỗi
lòng mình: “Chị cũng là một con người, Một con người sao phải sống cô đơn, côi
cút giữa cuộc đời này giống như một thân cây giữa rừng đại ngàn bị người ta bứt
trụi hết lá, chặt đứt hết cả rễ, cả cành?”.[59,tr.275]. Hạnh phúc ngọt ngào và viên
mãn đã đến với cô ở tuổi 50 khi gặp lại anh lính trẻ giờ đã là một người thương
45
binh già luôn cầm trên tay quả còn ước hẹn ngày xưa. Không chỉ khát khao hạnh
phúc, người phụ nữ còn khát khao được làm mẹ, được chăm sóc những đứa con
của mình. Đến với nhân vật Sam trong truyện ngắn Mẹ tôi, ta bắt gặp một người
phụ nữ giàu nghị lực, luôn phấn đấu vươn lên trong cuộc sống khi mà cuộc đời cô
trải qua nhiều đắng cay, vất vả. Khi biết mình sắp được làm mẹ, cô đắm chìm
trong hạnh phúc. Nhưng khi sinh ra, đứa bé trong bụng cô là một quái thai. Cô bị
mọi người kì thị và bị đuổi vào rừng sống. Rồi chồng cô hi sinh ngoài mặt trận,
tưởng chừng như cô sẽ gục ngã trước nỗi đau ấy nhưng không phải. Sam đã kiên
cường, vươn lên trong cuộc sống, cô đã xây dựng được sự nghiệp khiến cho những
người trong làng, trong xã phải nể phục. Cô nhận nuôi hai đứa trẻ bị vứt trong
rừng như con ruột của mình. Và từ đó, cuộc sống của ba mẹ con cô thật ấm cúng
trong căn nhà nhỏ. Qua những trang viết, nữ nhà văn đã cất tiếng nói bênh vực
thân phận người phụ nữ Mường, để họ sáng ngời lên vẻ đẹp của khát khao vươn
lên, thoát khỏi hoàn cảnh, giữ ngọn lửa niềm tin trong cuộc sống và trong tình yêu.
Cũng giống như nhà văn Hà Thị Cẩm Anh, là một nhà văn nữ, viết về phụ
nữ, đòi hỏi quyền lợi chính đáng của người phụ nữ, nên trong nhiều truyện ngắn
của mình, Võ Thị Hảo cũng đã không ngần ngại lên tiếng đòi quyền làm mẹ cho
những người phụ nữ không chồng- những người phụ nữ đã bỏ lại cả một thời
xuân sắc ở chiến trường và khi trở về sau chiến tranh, mặc dù họ đã “quá lứa lỡ
thì”, nhưng khát khao với thiên chức làm mẹ của họ là một khát khao hoàn toàn
chính đáng và buộc xã hội phải công nhận.Với Võ Thị Hảo, cách viết tô hồng
hiện thực chiến tranh như nhiều nhà văn thuộc thế hệ trước đã làm là một điều
hoàn toàn xa lạ. Chiến tranh trong tác phẩm của Võ Thị Hảo thường được hình
tượng hóa bằng những nụ cười méo mó, man dại. Chiến tranh làm con người ta
đánh mất nụ cười tự nhiên. Đánh mất nụ cười tự nhiên, con người đánh mất chính
mình. Và với người phụ nữ, còn gì đau đớn hơn khi phải nở một nụ cười méo
mó?. Âm hưởng nữ quyền đằng sau mỗi trang viết của các tác giả nữ không phải
chỉ nằm ở những hiểu biết theo cảm nhận thiên tính về những mảnh vỡ trong tâm
46
hồn người phụ nữ sau chiến tranh mà một thời người ta thường cố tình che giấu
chúng đi sau lần áo mỏng của vinh quang và chiến công, mà còn nằm trong những
hy vọng về một tương lai an bình hơn cho người phụ nữ sau những đớn đau và
mất mát.
Như chúng tôi đã đề cập ở trên, chưa bao giờ người phụ nữ lại được đặt ở
vị trí trung tâm và trọng tâm trong những trang viết của các nhà văn DTTS như
hiện nay. Có lẽ chính cuộc sống hiện đại bộn bề bóng tối và ánh sáng khiến người
ta không khỏi thắc thỏm, lo lắng về số phận con người, đặc biệt là người phụ nữ.
Hơn ai hết, những người phụ nữ chính là những người cần một cuộc sống bình
yên thực sự, bình yên trong tâm hồn và trong cả những khát khao hạnh phúc
thường nhật. Đến với Ma Trường Nguyên, ta sẽ thấy nhà văn dành sự quan tâm
đặc biệt cho tình yêu. Ông khích lệ và trân trọng những khát khao yêu đương,
hạnh phúc lứa đôi của con người miền núi nhất là người phụ nữ. Họ thường rất
chủ động trong các cuộc tình, dám vượt qua rằng buộc để khát khao hạnh phúc.
Điều này ta sẽ thấy trong nhân vật Va (Gió hoang), một cô gái mồ côi, đảm đang,
chăm chỉ và đặc biệt cô hát rất hay“chưa bao giờ gặp một người con gái nào hát
hay như thế”. Khi về nhà mo Ngàu, chính nhờ sự chăm chỉ của mình mà cô làm
thay đổi nhà mo Ngàu: “Trên sàn gác, Va dọn dẹp thu xếp lại những đồ đạc cho
gọn gang, ngăn nắp. Dưới mặt đất, Va quét tước sạch sẽ, khơi lại những rãnh
nước theo giọt gianh để khi mưa nước khỏi tràn vào nền nhà. Những cuốc xẻng,
chày cối giã gạo, quang gánh, thúng mủng, cô lau chùi sạch sẽ và xéo vào từng
nơi, từng chỗ để khi cần dùng đến dễ tìm và khỏi han gỉ, mục nát.”[36, tr.50] .
Vượt lên hoàn cảnh bất hạnh, Va trở thành một ca sĩ có tài, một cô thợ giỏi giúp
Lèng trong công việc ở xưởng. Trong tình yêu, Va là cô gái sống hết mình với
tình yêu. Kết quả của khát khao hạnh phúc giũa Va và Lèng là đứa con tên
Lài.Qua đây ta thấy được ẩn sau những dáng hình nhỏ bé kia không phải là sự
yếu đuối mà là một khát khao mạnh mẽ, không chịu khuất phục bởi sóng gió
cuộc đời.
47
Đến với nhà văn Hữu Tiến, ta bắt gặp nhân nhân vật Ngần trong truyện
ngắn Người đứng trong mưa. Ngần đối mặt với sự cô đơn và nỗi thèm khát bản
năng làm mẹ. Và được làm một người mẹ chính là điều hạnh phúc mà cô thực sự
cần trong cuộc sống dài dằng dặc này: “Tôi không quấy rầy vợ con anh đâu! Tôi
chỉ thèm được ẵm trên tay đứa trẻ tự tôi sinh ra. Hình như trời đất đã xui khiến
tôi được gặp anh. Tôi nói hết rồi, anh có coi thường, phỉ báng tôi không? Điều
đó tùy nh, mong anh giúp tôi thực hiện ước nguyện của mình. Tôi cầu xin anh
đấy, anh Khảo ạ.”.[43, tr367-368].Khát khao được làm mẹ là một sứ mệnh cao
cả mà tạo hóa đã dành cho phụ nữ, dưới ngòi bút sắc sảo của Hữu Tiến ta cảm
thông với khát khao của Ngần, cũng là khát khao chính đáng của người phụ nữ
khi phải sống trong cảnh cô đơn.
Dù bất cứ nơi đâu thì con người đều có khát khao được yêu thương. Niềm
khát khao hạnh phúc lứa đôi là niềm khát khao hạnh phúc chính đáng của người
phụ nữ nói riêng và con người nói chung. Các nhân vật nữ có khát khao hạnh
phúc đời thường trong sáng tác của Cao Duy Sơn lại cho chúng ta một cái nhìn
mới mẻ về sự vững vàng, bền bỉ như đá núi của người phụ nữ. Cao Duy Sơn bộc
lộ được những ước muốn, những khát vọng thầm kín trong tâm hồn họ. Tuy
những người phụ nữ trong sáng tác của Cao Duy Sơn họ ít nổi loạn nhưng ẩn sâu
bên trong là những con người mạnh mẽ, có khát khao hạnh phúc mãnh liệt. Góc
trời tây có cơn mưa đá xoay quanh câu chuyện của Líu, một người phụ nữ góa
chồng xinh đẹp. Nỗi buồn mặc dù đã nguôi ngoai theo thời gian nhưng ngọn lửa
trong lòng lại khát khaomỗi khi chạm vào những khoảng trống trên chiếc giường.
Cô chót phải lòng Sín, chàng trai trẻ kém cô hai tuổi. Tác phẩm đã lồng ghép vào
đó số phận của một người đàn bà góa bụa khác là mẹ chồng Líu. Hai con người
cùng chung một lỗi bất hạnh, nhưng lại có hai sự lựa chọn hoàn toàn khác nhau.
Mẹ chồng Líu chọn thủ tiết thờ chồng, ngăn cản Líu đến với tình yêu, còn Líu
thì đi theo tiếng gọi tình yêu. Ban đầu nàng không dám đến với Sín vì sợ ánh mắt
của đứa con nhìn mình mỗi khi nàng lật ván chuẩn bị xuống gầm sàn để đến với
48
người yêu. Nhưng bản năng của người phụ nữ và khát khao tình yêu đã khiến
Líu bất chấp tất cả“Không gì trong ngôi nhà này còn giữ chân nàng được nữa.
Nàng có cuộc đời của riêng. Không ai sống thay cho ai, và cũng không ai chế
thay cho ai. Cam chịu mọi bề để giữ tiếng thơm ư? Điều đó với nàng là không
thể. Nó vượt quá sức chịu đựng của nàng. Nàng chỉ là một người bình thường,
không thể làm mẫu cho ai, hoặc làm gương cho bất cứ kẻ nào khác ngoài mình.”
[51, tr.66]. Nàng đã quyết liệt lựa chọn cuộc sống riêng cho mình, quay lưng lại
với lễ giáo như chiếc cổng đá nặng nề của bà mẹ chồng đến với ái tình rạo rực.
Hành động vung dao chém xuống bảo vật gia đình, dám đấu tranh chống lại lề
thói khắc nghiệt của gia đình là minh chứng cho khát khao mạnh mẽ của Líu.
Trong sáng tác của mình, ông còn muốn nói điều gì đó về những điều thầm
kín ẩn sâu trong tâm hồn người phụ nữ, về ước muốn, về khát khao được yêu
thương, để thắp lên niềm tin vào cuộc sống. Đến với Hoa bay cuối trời, ta sẽ bắt
gặp những khát khao hạnh phúc trong nhân vật Dình. Dình là cô gái Pác Gà xinh
đẹp, Nàng gặp Khơ năm mười bảy tuổi và hai người đã yêu nhau. Trái tim nàng
ngập tràn hạnh phúc khi được Khơ trao cho chiếc vòng “Trong lòng Dình chợt
trào dâng niềm vui. Nàng đã có người con trai ngỏ lời, như con chim đã có đôi,
con suối có bóng núi làm bạn”[51, tr.89]. Nhưng thật khôngmay,bệnh tật đã
cướp đi đôi chân của nàng từ đấy cướp luôn đi mọi ước mơ hạnh phúc của nàng.
Không muốn Khơ chịu thiệt thòi, Dình đã nói dối rằng mình đã yêu người khác
và cho đến cuối đời trái tim nàng vẫn không nguôi nhớ về mối tình đầu, vẫn luôn
khát khao nguyện ước được ngồi trên cỗ xe do Khơ đóng, được nắm tay người
yêu, có phù dâu, phù rể…Và cuối cùng thì tuổi tác cũng không làm cho tình yêu
của hai người mất đi, hạnh phúc muộn màng nhưng vẫn đẹp như thủa ban đầu đã
đến để lấp đầy những nỗi bất hạnh mà Dình phải chịu đựng. Dù là ai, dù có khiếm
khuyết thì họ đều có trái tim xao xuyến, yêu đương. Đó chính là những giá trị
nhân sinh cốt lõi và ý nghĩa nhân văn cao cả thể hiện trong từng tác phẩm văn
học vùng cao.
49
Tình yêu nơi núi cao rừng thẳm thường bị ngăn trở bởi những rào cản,
những định kiến, những ranh giới và thử thách, nhưng cũng chính vì thế mà khát
vọng yêu đương tự do luôn là khát vọng sống mạnh mẽ và cuồng nhiệt của những
con người nơi đây. Qua đó, các nhà văn DTTS đã thể hiện cái nhìn đầy nhân văn
và tấm lòng thấu cảm với những ước mong hạnh phúc chính đáng của conngười.
Khát khao hạnh phúc đời thường phải chăng là khát vọng chung của tất cả những
người phụ nữ xưa và nay. Những người phụ nữ ấy, dù là có vẻ ngoài xinh đẹp
hay khiếm khuyết, dù sống ở miền xuôi hay miền núi, thành thị hay nông thôn,
dù thuộc tầng lớp trí thức hay những người lao động bình thường đều phải mang
trong mình khát khao có được một hạnh phúc dung dị của đời thường, khát khao
có sự bình yên trong tâm hồn. Mỗi nhân vật người phụ nữ trong mỗi truyện đều
phải đương đầu với những biến cố khác nhau. Mặc dù sống kiếp nô lệ vô vàn cực
khổ, tối tăm và không lối thoát nhưng tiềm ẩn sâu bên trong là một sức sống
mãnh liệt bền bỉ, dẻo dai, một tình yêu thiết tha với cuộc đời. Có thể nói, điểm
gặp gỡ giữa các nhà văn khi viết về vấn đề nữ quyền là nỗ lực quẫy đạp, đấu
tranh của người phụ nũ để một nửa thế giới phải lắng nghe tiếng nói và chia sẻ
với họ những trăn trở, khát khao và mong muốn trong cuộc sống. Quá trình đó
được xem là sự vươn lên đòi quyền bình đẳng và tự khẳng định mình trong suốt
chiều dài lịch sử văn học dân tộc.
2.3. Nữ quyền trong bản năng tính dục
Nói đến tính dục, đây là vấn đề được coi là biểu hiện rõ nét nhất của vấn đề
nữ quyền. Tính dục là một khái niệm có nội hàm rộng, vừa phản ánh mối quan hệ
giới tính, vừa chứa đựng những yếu tố hữu hình và ẩn giấu của con người cá nhân.
Tính được hiểu là bản chất con người, dục là ước muốn được thể hiện ra bên ngoài.
Tính dục là một khuynh hướng tự nhiên nơi người nam và người nữ vận dụng giới
tính để tìm kiếm, hiểu biết và thương yêu. Tính dục mang năng lực giới tính, thể
chất, tâm lý và sinh dục, bao gồm mọi khía cạnh đặc trưng của nam giới và nữ
giới. Dưới góc nhìn khoa học, tính dục được hiểu là tính dục thuộc về bản năng
50
con người, là phần “con” trỗi dậy trong con người.
Bản năng tính dục của người phụ nữ được thể hiện trong văn chương là một
điều gì đó mới lạ, hấp dẫn bạn đọc không chỉ vì nố phản ánh chân thật, sinh động
những khát khao tính dục đời thường của phụ nữ mà nó còn thể hiện vấn đề nữ
quyền rất rõ ràng. Đó là đàn bà có quyền thể hiện những ham muốn, dục vọng về
thể xác mà bấy lâu nay bị che lấp bởi lễ giáo phong kiến lỗi thời. Trong Giới tính
thứ hai, Beauvoir cổ vũ vấn đề bình đẳng tình dục cho phụ nữ: “Người nữ cũng
được tự do tìm bạn tình và thực hiện tình dục giống như người nam”.Văn chương
thể hiện những dục tính thầm kín của người phụ nữ đã có tiếng nói phản kháng rất
mạnh mẽ đối với nam giới và xã hội. Trong thời đại công bằng, tự do, bác ái, người
phụ nữ không còn quá lệ thuộc vào đàn ông và xó bếp, họ muốn khẳng định
mình.Nhu cầu tính dục là một nhu cầu sinh lý tất yếu không thể thiếu của sinh
vật cũng như của con người. Đối với con người, tính dục không chỉ có ý nghĩa
duy trì nòi giống mà còn tạo ra sự khoái cảm và đam mê. Nhưng từ khi hình
thành nên những nền văn hóa, tính dục của con người gắn liền với những quan
niệm: những chuyện khơi gợi nhục dục trong con người là khiêu dâm, là xấu xa
cần loại bỏ. Xem chuyện tình dục là chuyện tục, xem dục tính của con người là
căn nguyên của mọi tội lỗi. Hoạt động tính dục là một hoạt động chịu sự chi phối
của bản năng, hoạt động thể hiện tính người nhất. Ở Việt Nam, tính dục có lẽ vẫn
còn là điều cấm kị bởi dân tộc ta đã trải qua một thời kì trung đại với nhiều tư
tưởng bảo thủ, khắt khe của chế độ phong kiến.
“Nam nữ thụ thụ bất thân” là một giá trị lâu đời của xã hội phương Đông.
Cho đến ngày nay thì quan niệm này vẫn tồn tại và nó dùng để quản lý hành vi
tình dục của phụ nữ nhiều hơn là đàn ông. Ngày xưa, nếu người phụ nữ vi phạm
vào những điều cấm kị về tình dục thì sẽ phải chịu những hình phạt như: “Cạo
đầu bôi vôi”, “Thả bè trôi sông”…hay chịu sự khinh rẻ của miệng đời bằng
những câu châm ngôn thâm độc “gái không chồng mà chửa”…. Những hình phạt
này được dung để lên án và ngăn cản người phụ nữ. Trong những việc như vậy,
51
tuyệt nhiên người đàn ông dường như vô can và không chịu hình phạt nào từ xã
hội. Nhưng trong giai đoạn gần đây, đời sống xã hội có sự giao lưu, mở cửa, tính
dục được trao đổi một cách cởi mở hơn. Trong văn học, tính dục trở thành thuộc
tính nhân sinh phổ biến. Đề tài tính dục thậm chí đã trở thành trào lưu, thành xu
hướng sáng tác có trong văn học. Hàng loạt những ngòi bút của văn xuôi hiện
đại và đương đại như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư, Y Ban, Nguyễn
Đình Tú, Võ Thị Hảo, Bùi Thị Như Lan…dùng bản năng tính dục như một
phương tiện để chuyển tải nhiều vấn đề trong đời sống. Có thể khẳng định đây
là cách khai thác về người phụ nữ hết sức táo bạo của các nhà văn.
Sự giao lưu văn hóa, văn học cho thấy, tính dục cũng cần được nhìn nhận
theo chiều hướng tích cực hơn. Tính dục trong văn chương không phải là sự suy
đồi mà được xem như thủ pháp nghệ thuật. Năm 1988, khi Thiên sứ - tác phẩm
đầu tay của Phạm Thị Hoài được xuất bản, người ta đã nhận thấy một khát vọng
nào đó trong tình yêu của người phụ nữ mà tác giả đã gửi gắm trong hình ảnh
một cô bé “vĩnh viễn 14 tuổi”. Tâm điểm của tác phẩm là nhân vật Hoài vĩnh
viễn mười bốn tuổi. Cái lứa tuổi mười bốn vĩnh hằng của Hoài chỉ là vỏ ốc, lớp
vỏ bảo vệ cho một cái gì đó sâu thẳm hơn, dữ dội hơn. Hoài có những rung động
thầm kín, của những khao khát không được thỏa mãn, những đòi hỏi bị ghìm nén
trong tâm hồn một phụ nữ hai mươi chín tuổi. Một khuôn mặt trẻ con che chở
cho một tâm hồn suốt mười lăm năm ròng làm “một nhân chứng câm lặng, thông
tỏ quyết liệt, không bao giờ quay lưng lại cuộc đời”. Sau Phạm Thị Hoài, hàng
loạt cây bút đã không còn ngại ngùngmà mạnh mẽ thể hiện những khát khao khó
nói ẩn chứa trong tâm hồn. Có thể nói, người phụ nữ trong các tác phẩm văn xuôi
sau năm 1986 đã tự cởi trói về tình dục.Viết thẳng thắn về tình dục là cách để
các nhà văn góp một tiếng nói mạnh mẽ đòi quyền bình đẳng cho nữ giới - quyền
được yêu và được thụ hưởng tình yêu.
Vấn đề tính dục được thể hiện trong việc chủ động và quyết liệt khi nói
đến những ham muốn thân xác của mình.Việc bày tỏ khát khao thầm kín và giải
52
phóng tình dục là bước đi táo bạo trong việc bình đẳng với nam giới. Đây có thể
coi là một cuộc cách mạng về nữ quyền trong văn học, cuộc cách mạng này mang
tính triệt để cao bởi nó giải quyết tận gốc sự bất bình quyền trong tương quan
giới tính. Vấn đề tính dục trong văn xuôi DTTS đã trở thành một mảng đề tài
“mạnh bạo” mà những nhà văn như Cao Duy Sơn, Bùi Thị Như Lan, Bùi Minh
Chức… quan tâm khai thác và đề cập đến trong rất nhiều sáng tác. Tuy nhiên cần
nhận thấy một điều, sự e dè, kín đáo, tế nhị, sâu xa vẫn bao trùm những tác phẩm
viết về tính dục. Lí giải cho hiện tượng này, có thể nói đến tư tưởng truyền thống
miền núi vốn ăn sâu vào tâm tưởng của không chỉ người dân miền núi mà còn
chi phối chính quan điểm nghệ thuật của rất nhiều nhà văn DTTS khác.
Nàng Quỳnh The trong Đọa đày,trước khi chết nàng đề nghị lão Ca Đai,
một người bằng tuổi bố mình cho mình biết cái vị của con người: “ Ôi sao khi
sắp chết cháu lại muốn sống đến thế. Bác là đàn ông là con trai. Bác hãy ôm lấy
cháu như người con trai ôm lấy người con gái, như người yêu ôm lấy người yêu.
Bác hãy hôn cháu như người yêu hôn người yêu. Hãy sờ tấm ngục mơn mởn mùa
xuân của cháu như người yêu Xu Mi của cháu đang sờ…Bác hãy cho cháu biết
cái vị đời của con người, biết tình yêu cụ thể của con người”.[22,tr.279]. Tình
dục là nhu cầu bản năng, bất kì ai cũng tồn tại và cần thỏa mãn nhu cầu bản năng
đó. Con người chúng ta cần nhìn nhận vấn đề đó một cách nhân văn, lành mạnh
và đúng đắn. Vi Hồng đã rất mới mẻ khi cho rằng tình yêu chỉ trọn vẹn là nó khi
có sự kết hợp giữa xúc cảm tinh thần và thân thể. Nhu cầu giải phóng bản năng
trở thành một đặc điểm trong văn xuôi DTTS miền núi phía Bắc.
Đến với truyện ngắn Tình Mường Woang của Bùi Minh Chức, ta bùi ngùi,
xót xa cho số phận của ún Khưm, có cái gì đó thật có lý mà cũng thật vô lý trong
tâm trạng nàng Khưm. Nàng là vợ, nhưng nàng còn là đàn bà “Ở với chồng, càng
ngày ún Khưm càng cảm thấy mình là đàn bà, cái cảm giác mà trước đây, có lúc
do phải trèo đèo, lội suối, chặt cây… Ún đã quên mất… Ún khấn thầm cho cái
cảm giác đàn bà ấy cứ ở mãi với mình” [43, tr.49].Khi chồng Khưm gặp nạn,
53
nàng đứng giữa quyền được sống hạnh phúc và nghĩa vụ, đứng giữa cái đúng và
tình thương. Nàng có thai với chính kẻ đã gây ra tai nạn cho chồng mình vì khát
khao bản năng trong con người nàng trỗi dậy “Ngày thứ hai, ngày thứ ba, ngày
thứ tư và nhiều ngày sau, Ún vẫn ra suối và vẫn tắm như thế, vẫn nằm như thế,
mặc cho gió uốt ve, mơn man…Một cơn khát hanh hao, không rõ rệt, nhưng rât
bồn chồn lại đến” [43, tr.51]. Qua đây, Bùi Minh Chức đã thể hiện những dục
tính thầm kín của người phụ nữ, khỏa lấp cái ham muốn làm vợ và được sống
hạnh phúc rất chính đáng. Nhân vật Ún Rớ trong Bến nước lành cũng thèm khát
tình yêu. Ở cái bến nước lành ấy, ở con suối ấy, Rớ xinh đẹp đã đến tắm bao
nhiêu lần. Đó là nơi Rớ gặp các chàng trai. Ở đó Rớ và các chàng trai đã yêu
nhau. Rớ đã dâng hiến thân mình cho những chàng trai mà Rớ gặp bên bến nước
lành: “Ún Rớ nhìn thấy cách lặn ấy của người trai, tò mò, sợ sợ, thích thích…
Tối hôm ấy, người trai, người gái hẹn nhau bên bãi sông. Rớ biết thế nào là đàn
ông, còn Ót thì có nơi mà nhớ!”[38, tr.164-165]. Yêu nhau rồi những người trai
nọ ra mặt trận. Tình yêu của Rớ đem lại may mắn cho những chàng trai, để họ ra
trận có cái để nhớ, để họ gặp may, để họ không chết, để họ lập công to.
Trong tiểu thuyết Ngườilang thang của Cao Duy Sơn, Na Ban bị bắt và
tuổi trẻ với những khát vọng yêu đương của cô bị chôn vùi. Nhưng cái khát khao
một lúc nào đó lại chợt bùng lên. Khát vọng ái ân của người phụ nữ được bộc lộ
trọn vẹn bằng sự cảm nhận tinh tế của Cao Duy Sơn: “Cô bàng hoàng nhận ra
tay mình đã đặt lên ngực từ lúc nào. Nhón gót đến khép lại cửa buồng, Na Ban
quay lại đối diện với mình trong tấm gương. Những ngón tay thon trắng hồng
chạm rãi đưa sang bên nách cởi từng núm khuy vải. Cô bồi hồi ngắm lại hai bầu
vú nhô cao rồi đưa tay se sẽ xoa lên cái núm nhỏ màu hồng nhạt. Một cảm giác
thật dễ chịu dâng lên, cô nhắm mắt ngây ngất với bao cảm xúc lạ” [47, tr.221].
Na Ban ngây ngất với khuôn ngực thiếu nữ của mình bằng sự thôi thúc từ chính
bản năng của người phụ nữ, thôi thúc một khát vọng được yêu mãnh liệt.Tác
phẩm đã khai thác tính dục trong vấn đề tự thỏa mãn, tự giải quyết nhu cầu bản
54
năng ở người phụ nữ. Cũng như nam giới, phụ nữ có quyền được giải phóng
những ẩn ức tình dục tự nhiên của mình.Bằng chính bản năng của người phụ nữ
mach bảo cô gái một khát vọng sống và khát vọng tình yêu mãnh liệt. Đó cũng
chính là sự cởi trói cho người phụ nữ trước xã hội miền núi chủ yếu theo tư tưởng
nam quyền.
Nhưng cũng không ít người đã chọn cách sống hết mình, thỏa mãn mình,
vỗ về mình, làm tình với chính mình hay thỏa mãn, vỗ về, làm tình với người
khác như một cuộc trốn chạy. Cả một đời sống bộn bề nguyên sơ ẩn ức đầy náo
động và chân thành da diết đến mức độ sống sượng và sỗ sàng được phơi phóng
vô tư và khiêu khích trên những móc dây của đời sống văn học. Điều ấy có thể
hạ thấp con người trong văn học, nhưng có khi lại nâng con người lên trong cái
nhìn đầy nhân văn về con người, với thân phận và triết lý về nó khi vấn đề tính
dục thực sự chạm vào cõi nhân tính trong mỗi người.Ấn tượng của chúng tôi khi
tìm hiểu về vấn đề tính dục đó là nghe được tiếng nói sâu thẳm của những người
phụ nữ qua hàng thế kỉvang lên da diết đòi quyền sống để yêu thương. Không
gợi chút tục dâm vì vốn dĩ bản chất của tình yêu là cái đẹp, là biểu hiện của tính
người. Có chăng chính con người mới làm cho tình yêu xấu đi, dung tục, tầm
thường đi. Đó là tình cảm thiêng liêng, chính đáng của con người cần được trân
trọng. Qua lăng kính về vấn đề tính dục dưới cái nhìn của các nhà văn DTTS,
chúng ta cũng cảm nhận được sự nhọc nhằn mà các nhà văn đã vượt qua trên
hành trình đi tìm công lý cho lẽ sống hạnh phúc của những người phụ nữ vùng
cao.
Viết về những người phụ nữ luôn gắn với trạng thái khát tình, Y Ban là
một nhà văn đã tấn công mạnh mẽ vào những ứng xử xã hội, đòi hỏi cái nhìn
công bằng với những ham muốn bản năng của người phụ nữ, kiếm tìm bình
quyền cho người phụ nữ. I am đàn bà của Y Ban từng làm văn đàn rung lên một
thời khi tác giả là người đầu tiên miêu tả thế chủ động trong tình dục của nhân
vật người phụ nữ. Ở nơi đất khách quê người, với công việc là làm “ô sin”, chị
55
bị nhốt vào một căn nhà như một hoang đảo - nơi chỉ có chị và người đàn ông bị
liệt và câm. Ngôn ngữ bất đồng, không tiếp xúc với xã hội, thế giới của chị chỉ
còn lại là hết lòng chăm sóc người xa lạ bằng nghĩa vụ của kẻ làm thuê và đặc
biệt là bằng thiên chức làm mẹ, làm chị thuần khiết. Bằng tấm lòng, sự chăm sóc
tận tình, bằng cảm giác, bản năng vốn có của một người phụ nữ đã có chồng, chị
từng ngày nhận ra sự trỗi dậy, hồi sinh bản năng đàn ông của ông chủ. Chị dần
vượt qua những ngại ngùng, kéo gần khoảng cách giữa người giúp việc và ông
chủ để làm người đàn ông chiến thắng bệnh tật. Chị chủ động trong việc chăm
sóc ông chủ, nhất là tác động đến bộ phận sinh dục tưởng chừng đã chết. Ngày
này qua ngày khác, ông chủ cũng làm sống dậy khao khát yêu đương bản năng
trong chị. Người đàn bà chủ động dành những hành động “yêu” cho ông chủ như
với người chồng ở quê của mình. Chị mộng mị trong những giấc mơ tình. Và
một lần, trong cơn mộng mị, chị tìm đến phòng ông chủ để thỏa mãn nhu cầu
bản năng: “Thị mộng mị đi vào phòng ông chủ. Cái ánh mắt của ông chủ như
thúc vào tim thị. Thị nhìn sâu vào ánh mắt mừng rỡ ấy rồi thị trút bỏ quần áo
của thị. Thị lật cái khăn mỏng đắp lên người ông chủ. Con giống con má đang
cất cao đầu chờ thị. Như giấc mơ đêm hôm nào, thị cầm lấy nó đưa vào cơ thể
thị. Thị đã không còn phải thức giấc trong sự thèm khát cháy bỏng nữa. Thị đã
thoả mãn”. Y Ban đã thể hiện một sự cởi trói mãnh liệt mặc dù người đàn bà ấy
đã nếm trải nỗi cay đắng, nhục nhã không thể cứu vớt nổi. Suy cho cùng thì người
đàn bà ấy dù nhiều lần đã phải đấu tranh giữa lý trí và tình cảm,vừađáng thương
và cũng vừa đáng trách. Bà đã lựa chọn đối tượng không đúng để rồi nếm trải
dằn vặt. Không dừng lạ ở đó, người đàn bà trong sáng tác của Y Ban rơi vào ẩn
ức tình dục hoặc do không thể có tình yêu (không có người đàn ông bên cạnh)
như cô gái trẻ trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Nấm trong Đàn bà xấu thì không có
quà, người phụnữ làm ô sin trong I am đàn bà, hoặc do có người đàn ông nhưng
không có đời sống tình dục theo đúng nghĩa (người đàn bà trong Tự hay Biển và
người đàn bà xấu xí). Cũng là hi sinh cho tình yêu, nhưng trong nhiều hoàn cảnh
56
khác, người đàn bà lại hành động theo nghĩa “dâng hiến”. Cô gái ở Hai bảy bước
chân là lên thiên đường đã tin tưởng và tự nguyện trao gửi thân xác cho người
mà cô yêu thương, dẫu biết đó chẳng phải là người đàn ông của riêng mình. Với
cô, yêu và hiến dâng là một niềm hạnh phúc tột độ.
Không phô bày trần trụi nhưng vấn đề tính dục trong văn xuôi DTTS vẫn
khiến người đọc cảm nhận chân thực và rõ nét khát khao bản năng của người
phụ nữ miền núi. Táo bạo bất chấp mọi lề thói xã hội đã mang đến một luồng
gió mới cho văn chương vùng cao nói riêng và văn học Việt Nam nói chung.
Trong truyện ngắn Tiếng kèn lá nối dài những mùa trăng, nỗi đau của cô gái
trẻ đó là lấy chồng nhưng chưa kịp cảm nhận được dư vị hạnh phúc, những ân
ái vợ chồng nên cô khao khát tiếng kèn của chàng trai trẻ hàng đêm cô thường
nghe để khỏa lấp những ham muốn làm vợ, làm mẹ rất chính đáng:“Tiếng kèn
lá ấy như ôm ấp, ve vuốt, làm cho cơ thể tròn căng của tôi nhức nhối, rạo rực,
bồn chồn và bừng bừng trỗi dậy những bản năng khao khát, ham muốn được
dâng hiến, được cho và được nhận. Bầu ngực tôi căng cứng, hổn hển sau làn
váy mỏng. Người tôi nóng hầm hập như muốn bốc lửa, tôi vật vã, quằn quại,
chấp chới theo dòng âm thanh thúc giục của kèn lá. Tiếng kèn giờ đã ở ngay
ngoài ngõ nhà tôi. Tôi muốn nói với anh, đừng thổi kèn nữa, tôi không chịu nổi,
nhưng cái miệng tôi khô cứng, bỏng rát không nói được. Tôi biết cơ thể trinh
nguyên, ăm ắp, tròn đầy hai mươi sáu tuổi của tôi đang nổi loạn. Xót xa, đau
đớn thay cho phận bạc của tôi, gần chục năm làm vợ vẫn là con gái. Tôi chưa
biết mùi mồ hôi của đàn ông, chưa một lần được bàn tay thô ráp, chai sần của
họ vỗ về, chưa biết cái đau đến tận cùng và đê mê đến tận cùng của đêm đầu
làm vợ…”[32, tr.23]. Để rồi sau đó là sự đấu tranh vượt lên nghịch cảnh của
nàng dâu mới, cô dám từ bỏ tất cảđể tìm cho mình con đường mới hạnh phúc,
tươi sáng hơn bởi cô còn quá trẻ, tương lai vẫn còn đang ở phía trước: “Đêm
nay, giống như bao đêm trăng đã qua, tôi vắt kiệt sức mình trong ham muốn tột
cùng được ai đó bù đắp, lấp đầy khoảng trống vắng, để tôi được làm vợ, làm
57
mẹ, để tôi biết vị ngọt ngào của trái cấm và biết cái hạnh phúc đầm ấm của
cuộc sống gia đình. Giờ thì tôi đang đứng chơi vơi giữa hiện tại và quá khứ,
giữa cái có và không, giữa hư ảo và thực tế, giữa tình yêu và bổn phận…Tôi
không thể chông chênh mãi như thế này, tôi muốn cởi nút trói cho số phận làm
dâu quạnh hiu của tôi. Dẫu rằng, chuyện này người bản sẽ cười chê, đơm đặt,
đàm tiếu, dè bỉu… nhưng rồi mọi người sẽ hiểu ra thôi, họ không cười tôi mãi
được” [32, tr.24].Hành trình đó đã giúp người phụ nữ có được cảm giác yêu
đương thực sự, cô say sưa, mạnh bạo trong những cuộc yêu và đạt được niềm
sung sướng vô bờ.
Cuối cùng có thể khẳng định, yếu tố tính dục trong văn xuôi của các nhà
văn DTTS không phải là loại tính dục mang sắc thái xác thịt tầm thường, thấp
kém mà đó là quan niệm tính dục mang giá trị nội dung nhân đạo đề cao người
phụ nữ DTTS. Đó là khát vọng chính đáng, dấu hiệu thức tỉnh con người cá nhân
với ý thức về quyền sống của người phụ nữ. Các nhà văn DTTS muốn ngợi ca,
khẳng định quyền sống, bản năng chính đáng ở mỗi con người. Qua đó, văn học
DTTS mang màu sắc tiến bộ, mới mẻ hơn, góp thêm tiếng nói của mình để trân
trọng, yêu thương bênh vực phụ nữ, đả kích những bất công, ngang trái chà đạp,
tước đoạt quyền sống của con người.
58
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Ở chương này chúng tôi đã đi sâu làm rõ những bình diện của vấn đề nữ
quyền trong văn xuôi DTTS miền núi phía Bắc: Nữ quyền trong cuộc chiến
chống lại những hủ tục lạc hậu, nữ quyền trong khát khao hạnh phúc đời thường
và nữ quyền trong bản năng tính dục.
Nhận thức được “tam tòng, tứ đức”, sự chịu đựng, hi sinh…trong chuẩn
mực truyền thống chỉ là những “vòng xiềng xích” trói buộc người phụ nữ. Cùng
với những người phụ nữ trên mọi miền, những người phụ nữ DTTS đã khôngngại
chiến đấu với hủ tục lạc hậu, mê tín, đến với tình yêu, với tận cùng bản thể. Với
vấn đề nữ quyền, các nhà văn DTTS đã nói lên tiếng nói của mình, bày tỏ những
trăn trở, suy tư về hiện thực cuộc sống và khát vọng giải phóng của người phụ
nữ miền núi. Khi những người phụ nữ nhận thức được giá trị và quyền sống của
cá nhân thì họ đã đứng dậy phá bỏ những quan niệm lạc hậu, giẫm lên mọi định
kiến để sống và theo đuổi khát vọng của bản thân. Đặc biệt nói về vấn đề tính
dục, đây được coi là vấn đề rõ biệt nhất của nữ quyền. Đó không phải là loại tính
dục bản năng mang màu sắc xác thịt tầm thường, thấp kém mà mang giá trị nội
dung nhân đạo khi nó phản ánh khát vọng tình yêu chính đáng của con người, là
dấu hiệu thức tỉnh con người cá nhân với ý thức về giá trị bản thân và quyền con
người. Đây là tư tưởng tiến bộ khi người phụ nữ xuất hiện trong văn học với vẻ
đẹp hoàn thiện từ tâm hồn đến thể xác.Hình ảnh những người phụ nữ vùng cao
với những khát khao tính dục mạnh mẽ, táo bạo, bất chấp mọi lề thói xã hội đã
mang đến một luồng gió mới cho văn chương vùng cao nói riêng và văn học Việt
Nam nói chung.
59
Chương 3
VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN TRONG SÁNG TÁC CỦA MỘT SỐ NHÀ VĂN
DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NGHỆ THUẬT
3.1. Nghệ thuật xây dụng nhân vật nữ
Trong văn học, nhân vật chính là phương tiện cơ bản để nhà văn khái quát
hiện thực một cách hình tượng. Cho nên dù đề cập đến vấn đề gì thì trong tác
phẩm văn học “không thể thiếu nhân vật, bởi vì đó là hình thức cơ bản để qua
đó văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng” [34, tr.277]. Có thể nói nhân
vật chính là linh hồn của tác phẩm, là con đẻ của nhà văn. Là kết quả sáng tạo có
tính chất hư cấu của nhà văn, nhân vật trong tác phẩm là phương diện đặc sắc
giúp nhà văn thể hiện quan niệm nghệ thuật của mình về con người. Vấn đề nữ
quyền đề cập đến nhân vật trung tâm là người phụ nữ. Họ luôn ở tâm thế nghĩ
suy, hành động. Đó cũng là những hành động quen thuộc của mỗi người nữ trong
cuộc sống: giao tiếp, nói chuyện, bộc bạch tâm tư, yêu thương, nhẫn nhịn, khóc
lóc, hờn ghen, nhớ nhung, hồi tưởng, chăm sóc, nâng niu, khát khao, ham
muốn…Nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ được các nhà văn sử dụng linh hoạt
tạo nên sự đặc sắc trong tác phẩm văn chương của mình.
3.1.1. Xây dựng nhân vật qua ngoại hình và hành động
Nhân vật văn học đại diện của tính cách xã hội, có ngoại hình và nội tâm
riêng. “Ngoại hình là một khái niệm nhằm chỉ hình dáng, diện mạo, trang phục,
cử chỉ, tác phong… tóm lại là toàn bộ những biểu hiện tạo nên dáng vẻ bên ngoài
của nhân vật” [40, tr.168]. Còn hành động của nhân vật “không chỉ là những yếu
tố cần thiết để bộc lộ tính cách mà còn là yếu tố không thể thiếu thúc đẩy sự diễn
biến của cốt truyện trong tác phẩm. Đó chính là những việc làm cụ thể của nhân
vật trong quan hệ ứng xử với các nhân vật khác và trong những tình huống khác
nhau của cuộc sống”.[40, tr.169]
60
Có lên vùng miền núi phía Bắc thì mới thấy được bên cạnh vẻ đẹp của
thiên nhiên hùng vỹ là những người phụ nữ có nét đẹp duyên dáng với nước da
trắng ngần, mái tóc dài, đôi mắt trong trẻo, đôi má hồng cùng bờ môi đỏ mọng.
Có lẽ khí hậu vùng cao quanh năm mát mẻ, yên bình, không khí trong lành rất
hợp với nữ giới khiến họ trông rất xinh đẹp. Trong các tác phẩm văn xuôi của
mình, các nhà văn DTTS đã để lại nhiều ấn tượng khá đậm nét trong lòng độc
giả về vẻ đẹp ngoại hình mang đặc trưng của con người miền núi. Chất miền núi
luôn gắn với đặc điểm cơ thể, những đường nét, dáng hình được tạo hóa ban tặng.
Viết về vấn đề nữ quyền, các nhà văn đã phô diễn được vẻ đẹp ngoại hình và
thân thể của người phụ nữ, từng đường nét, bộ phận của cơ thể như làn da, mái
tóc, đôi môi…
Với sự quan sát tinh tế, sắc sảo và trí tưởng tượng phong phú, phần lớn
các nhân vật nữ trong văn xuôi của Vi Hồng đều có tính cách thống nhất với
ngoại hình. Những nhân vật nữ được Vi Hồng miêu tả kỹ về ngoại hình, họ đều
có vóc dáng cân đối, cặp mắt long lanh, đen láy, đôi môi như quả nhót chín mọng,
da trắng nõn…Điển hình là “Thu Lả đẹp như nàng tiên. Lả có cặp mắt long lanh
như mắt họa mi, khuôn mặt trái xoan, mũi dọc dừa thanh tú, má thắm hồng, môi
đỏ chót đều đặn. Cô dong dỏng thắt đáy lưng ong, ngực nở nang, có một cơ thể
cân đối tuyệt vời.” [18, tr.26].Những nhân vật chính diện được Vi Hồng miêu tả
hầu hết đều bằng các điểm nhấn như là “cặp má thắp đuốc hồng rực với khuôn
mặt tròn như ông trăng rằm cũng đang hứng vào trời, như hứng lấy cái màu
thiên thanh ở nơi thăm thẳm của vũ trụ để cho sức sống có thể sánh cùng với trời
đất” [21, tr.139].Khi miêu tả ngoại hình, Vi Hồng còn sử dụng lối nói so sánh ví
von của người dân tộc thiểu số, khi vui thì khuôn mặt “sáng ngời như khuôn
trăng tỏa ánh hào quang”, khi buồn thì “sa sầm như một vườn mây đậm”. Đặc
biệt hơn nữa, nhân vật Diu Nàng trong Phụ tình tuy có ngoại hình xấu xí “Mắt
em lồi, trán em hóp như trán con khỉ…” [20, tr.284]nhưng bêntrong là con người
tốt đẹp, nhân ái, dám hi sinh vì người yêu. Đây là chân dung Ai Hoa, người con
61
gái đẹp nhất Nước Hai được Vi Hồng miêu tả: “Ai cũng bảo Ai Hoa đẹp từ khuôn
mặt đẹp đi, đẹp từ cái móng chân, móng tay đẹp lại, đẹp từ mười ngón tay đẹp
về…Cặp môi không son phấn như một quả nhót chín mọng, Ai Hoa không đánh
phấn…Đôi mắt của nàng cũng tròn, đen ánh, lóng lánh như trời thu”. Ai Hoa
còn là người “lớn về tình cảm và trí tuệ, cả mường ai ai cũng bảo Ai Hoa là
người giỏi giang, học chữ, học làm đều giỏi” [17, tr.120].Có thể nhận thấy, ngoại
hình phụ nữ dân tộc trong các sáng tác của Vi Hồng là phương tiện để bộc lộ tính
cách nhân vật. Ngoại hình được miêu tả bằng cách cảm, cách nghĩ và thẩm mỹ
của người DTTS.
Không dừng lại ở đó, Vi Hồng đặc biệt chú ý đến sức sống căng tràn trong
cơ thể thanh xuân của những cô gái như: Nhình Hỷ, Nọi trong Đi tìm giàu sang
mơn mởn đầy sức sống, Băng trong Tháng năm biết nói nõn nà và hồng rực sức
xuân. Đặc biệt là nàng Va Đáo trong tiểu thuyết Phụ tình được tác giả nhấn
mạnh: “Va Đáo là cô gái xinh đẹp vào loại nhất mường Nặm Thoong…Nàng vẫn
trào lên một sức sống thanh xuân, cái vẻ đẹp càng lồ lộ như một bông hoa đang
độ nở căng, làm cho viên tri châu phải ngẩn ra trước mặt Va Đáo đến một lúc
lâu mới cất tiếng được” [20, tr.82]. Qua cách miêu tả ấy, người đọc thấy được
vẻ đẹp khỏe mạnh, hồn nhiên, có sự thu hút, tràn đầy sinh lực sống và khả năng
làm vợ, làm mẹ.
Trong văn học, để miêu tả phẩm chất và tính cách nhân vật, tác giả chú ý
đến miêu tả hành động của nhân vật. Thông qua đó thể hiện một phần chủ đề và
tư tưởng tác phẩm. Nhân vật nữ trong sáng tác của các nhà văn DTTS đều là
những người dân miền núi nên họ bộc lộ bản chất và cá tính của người miền núi.
Bề ngoài có vẻ nhút nhát, e dè nhưng hành động lại cho thấy sự mạnh mẽ, vượt
qua khó khăn thử thách vươn lên làm chủ cuộc đời. Nhân vật Mèn trong Ché
Mèn được đi họp của Nông Minh Châu được nhà văn miêu tả: “Nói với ai Mèn
cũng cúi mặt xuống. Mân mê vào bàn tay mới nói” [37, tr.127].Tuy vẻ ngoài nhút
nhát như vậy nhưng cô lại có những hành động quyết liệt chống lại cái cũ, lạc
62
hậu. Nghe những lời giễu cợt của đám thanh niên:“Những câu nói như vậy hôm
nay chọc vào tai Mèn, Mèn ăn cơm như nuốt phải xương, đi như bước trên cây.
Cả những sợi tóc lơ thơ rũ xuống mặt Mèn cũng không muốn gạt về bên tai
nữa.”[37, tr.131]. Qua những hành động của Mèn khi chăm sóc cây lúa, ta thấy
được sự miệt mài, lao động hăng say nhằm cải tiến kĩ thuật, đem lại cuộc sống
ấm no cho bà con.
Cũng giống như Vi Hồng, người phụ nữ trong tác phẩm của Cao Duy Sơn
được nhà văn dành nhiều ưu ái. Nhân vật phụ nữ được miêu tả khá cụ thể từ
khuôn mặt, vóc dáng, hình thái…Nàng Dình với vẻ đẹp mơ hồ, quyến rũ hiện
lên trong mắt Khơ: “Mặt nàng đẹp như bông đào trong nắng, nụ cười bẽn lẽn,
mắt chớp như cánh vẫy của loài bướm hoa” (Hoa bay cuối trời- Cao Duy Sơn),
Ếm trong Chợ tìnhmang vẻ “đẹp như hoa…Mỗi khi cười trời như sáng bừng lên,
hoa xuân lay lắc vui nhường lại nhan sắc”. Hoa đã trở thành hình tượng mang
tính ước lệ tượng trưng cho vẻ đẹp người con gái. Đặc biệt khi miêu tả ngoại
hình nhân vật, Cao Duy Sơn hay chọn một “điểm nhấn” để làm toát lên vẻ đẹp,
gợi được cả tâm hồn và tính cách của nhân vật. Những cô gái được tập trung
miêu tả về ánh mắt và đôi môi. Đôi môi những người phụ nữ miền núi bao giờ
cũng mang sắc đỏ như những loài hoa rừng, vừa tươi tắn lại vừa ngời lên sức
sống. Đôi mắt lúc nào cũng trong sáng “thanh sạch như nước suối Bó Slao”. Đôi
mắt ấy khiến bao chàng trai mê đắm khi đối diện. Cao Duy Sơn cũng cho thấy
tài năng của mình trong việc tìm điểm nhấn ở ngoại hình để lột tả đời sống tâm
hồn, tính cách của nhân vật như đôi mắt của Dình “chớp như cánh vẫy của loài
bướm hoa” đã cho người đọc dự báo được số phận của nàng cũng như phận loài
bướm rong ruổi và vô định… hay nhân vật Đẹm - vợ người lái xe ở lâm trường
Nà Pha trong Mùa én gọi bầy được nhà văn miêu tả từ điểm nhìn của những
người phụ nữ ở lâm trường: “đôi mắt nữa, nhìn thấy mấy thằng trẻ trai cứ tít lại
vì cười”. Sau này gia đình của Đẹm tan vỡ vì lí do Đẹm đã phản bội chồng…
Mỗi nhân vật là một ánh mắt riêng song tất cả đều soi rọi thế giới bên trong con
63
người của họ. Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, chỉ cần nhìn vào đôi mắt ta sẽ thấy
được đời sống tâm hồn bình yên, phẳng lặng hay cuồn cuộn bão giông của người
ấy. Có thể thấy Cao Duy Sơn đã rất tài tình trong việc tìm điểm nhấn của ngoại
hình để lột tả được đời sống tâm hồn cũng như tính cách của nhân vật.
Đặc biệt trong tiểu tuyết Đàn Trời của Cao Duy Sơn, vẻ đẹp của người phụ
nữ được tạo hóa ưu ái ban tặng như Diệu, Lê, Mỷ, Thục Vy. Họ là những người
phụ nữ mang vẻ đẹp của núi rừng. Nhà văn tiếp cận thi pháp hiện đại, linh hoạt
hơn trong việc miêu tả ngoại hình nhân vật, không dồn nén các chi tiết miêu tả
hình dáng nhân vật mà lựa chọn chi tiết và đến khi thực sự đắc dụng ông mới dùng
đến chi tiết đó. Ông hướng ngòi bút miêu tả đôi mắt, mái tóc: “Mặt đẹp như hoa
rừng” [50,tr.128], “Thân thể nàng, da dẻ nàng, đến cặp mắt trong sáng và cả đôi
môi kia như được chắt ra từ bình minh trong sương, từ ánh trăng dịu hiền của trời
thu trong vắt…” [50, tr.145]
Có thể thấy, trong nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ, Bùi Thị Như Lan
cũng rất chú ý đến việc khắc họa ngoại hình nhân vật với những điểm nhấn, tạo
nét riêng biệt. Đây cũng là một đặc điểm, một nét nổi bật trong nghệ thuật miêu
tả ngoại hình của nhà văn. Chú ý đến việc miêu tả ngoại hình các nhân vật của
mình từ đó tính cách và phẩm chất nhân vật hiện lên rõ nét. Cũng giống như cách
miêu tả của nhà văn Vi Hồng khi viết về các cô gái Tày xinh đẹp của núi rừng
Tây Bắc, Bùi Thị Như Lan cũng có sự ảnh hưởng, kế thừa. Ta thấy được điều đó
qua nhân vật Dín trong truyện Sau lời hát Sli, Dín tiêu biểu cho một thiếu nữ
vùng cao “Nước da mịn màng trắng như hoa mơ, hoa mận đến độ nở rộ, mỗi khi
nhóm lửa bên bếp, lửa cũng tí tách hờn ghen vì màu hồng trên má Dín. Khi cười
Dín kheo hàm răng trắng đều như bắp nếp để lại trên má hai đồng xu duyên
dáng, mặn mà” [28, tr.6]. Vẻ đẹp của Dín được so sánh như hoa mơ, hoa mận…,
một vẻ đẹp rực rỡ, trong sáng, tươi tắn với điểm nhấn trên đôi má hồng và hàm
răng trắng. Hay đến với cô gái trẻ trong truyện Trôi trong mây gió, người đọc
sẽ bắt gặp đôi mắt đẹp, trong trẻo “…đôi mắt đen láy, trong trẻo, nhìn ai cũng
như cười” [31, tr.54]. Đây là cách miêu tả ngoại hình nhân vật rât phù hợp với
64
cách cảm, cách nghĩ của người miền núi. Ta thấy rằng, không đâu có nhiều câu
chuyện cuốn hút về các cô gái đẹp như ở vùng cao phía Bắc. Những người phụ
nữ mang một vẻ đẹp tự nhiên, dịu dàng, thuần khiết, không tô son điểm phấn
nhưng vẫn khiến bao chàng trai mê đắm. Nhà văn Bùi Thị Như Lan còn nhấn
mạnh vẻ đẹp phồn thực của người phụ nữ miền núi với việc miêu tả những bộ
phận nhạy cảm của cơ thể, đây là một sự quyến rũ gắn với biểu hiện về sắc dục:
“Cơ thể tròn đầy, trinh nguyên của Xúa ướt đẫm sương nhưng lại tỏa ra hơi
nóng hầm hập mang theo hương thơm thoang thoảng của hoa rừng” [31,
tr.30].Hay“Bầu ngực tôi căng cứng, hổn hển sau làn váy mỏng. Người tôi nóng
hầm hập như muốn bốc lửa”. [31, tr.19]
Qua lăng kính của các nhà văn DTTS, vẻ đẹp ngoại hình của các nhân vật
nữ đó là một sự kết hợp hài hòa. Vẻ đẹp ngoại hình thể hiện ý thức mới về giá trị
con người, đề cao vẻ đẹp trần tục và cuốn hút của các nhân vật nữ.
3.1.2. Xây dựng nhân vật qua đời sống nội tâm
Trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, thế giới nội tâm của nhân vật luôn là
một vấn đề phức tạp và khó nắm bắt. Với tư cách là người dẫn chuyện, người kể
chuyện, nhà văn có thể sử dụng ngôn ngữ để miêu tả nội tâm nhân vật thông qua
độc thoại nội tâm, đối thoại nội tâm…Khái niệm nội tâm nhằm chỉ toàn bộ những
biểu hiện thuộc cuộc sống bên trong của nhân vật. Đó là những tâm trạng, những
phản ứng tâm lí, những suy nghĩ…của nhân vật trước cảnh ngộ, trước tình huống
mà nhân vật gặp phải trong cuộc đời. Trong quá trình phát triển của văn học, việc
thể hiện nhân vật qua nội tâm ngày càng có vai trò quan trọng nhất là đối với văn
xuôi. Có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sức sống của một tác phẩm, nội tâm
nhân vật có điểm độc đáo riêng biệt giúp bạn đọc thấy được rõ “những bí ẩn của
tâm hồn, phẩm chất, lí tưởng” của nhân vật. Nội tâm giúp nhân vật được sống,
được trải đời với cá tính riêng, cảm xúc riêng…giúp họ được là chính họ. Đời
sống nội tâm con người là công cụ, phương tiện để thể hiện tính cách, do đó việc
thể hiện thế giới nội tâm nhân vật được đánh giá cao trong nghệ thuật tiểu thuyết
65
hiện đại.
Bên cạnh việc miêu tả ngoại hình nhân vật, các nhà văn như Vi Hồng, Cao
Duy Sơn, Bùi Thị Như Lan đều chú trọng khắc họa nội tâm nhân vật. Điều đó
chúng tỏ nhà văn hiểu sâu sắc về cuộc sống và con người, nắm bắt được những
biểu hiện và diễn biến của đời sống bên trong nhân vật. Qua đó cũng khẳng định
được các tính sáng tạo của mình, ghi được dấu ấn trong thế giới văn chương và
trong lòng bạn đọc. Nội tâm nhân vật được Vi Hồng khắc họa bằng lời kể, bằng
độc thoại nội tâm và qua cảnh vật. Độc thoại nội tâm là “Lời phát ngôn của nhân
vật nói với chính mình, thể hiện trực tiếp quá trình tâm lí nội tâm, mô phỏng hoạt
động cảm xúc, suy nghĩ của con người trong dòng chảy trực tiếp của nó” [10,
tr.122].Đỉnh cao của sự thể hiện tình cảm, suy nghĩ của nhân vật là khi nhân vật
đó tự đối diện với chính bản thân mình và nói với chính bản thân mình. Nói đến
nhân vật Đàng là nói đến sức sống và tình yêu mãnh liệt. Đàng đã vượt qua mọi
cảnh ngộ, mọi thử thách khổ đau: “Đi đến đâu? Núi rừng không cùng này còn
có một góc trời nào sống không?...Ta phải sống”[16,tr.22]. Hay để diễn tả tâm
trạng uất ức, buồn đau, lo sợ của nhân vật nhà văn thường dùng những hình ảnh
thiên nhiên. Chẳng hạn khi miêu tả tâm trạng lo sợ của Đàng: “thỉnh thoảng một
con nai giật mình, chạy gãy cây, gây náo động cả một khoảng đại ngàn. Những
con chim nhỏ sợ hãi kêu chiêm chiếp”.Sự giật mình, sợ hãi của con chim nhỏ
cũng chính là nỗi lo sợ trong con người Đàng khi bị gắn cho tội danh “ma gà”.
Đến với nhân vật Viền trong Đất bằng, đau khổ khi biết Viền và Xanh
không đến được với nhau, trong tim cô luôn vang lên tiếng gọi của tình yêu: “Ơi
anh Xanh! Làm sao, làm sao, em còn được đến bên anh! Làm sao ta còn được
gọi tên nhau. Viền thầm thì với mình, lòng rộn quặn những cơn đau…” [15,
tr.116].Là người DTTS nên Vi Hồng thấu hiểu từng cảnh ngộ của những người
phụ nữ và đã khám phá và miêu tả thành công đời sống nội tâm nhân vật, giúp
chúng ta hiểu thêm về tâm hồn người phụ nữ miền núi.
Cuộc sống chính là điều kiện cần và đủ để hình thành nên sắc thái tâm lý
của con người và biến cố lại tác động trực tiếp tới những chuyển biến trong nội
66
tm con người. Cao Duy Sơn đã thành công trong việc xây dựng một hệ thống
nhân vật, đặc biệt là nhân vật nữ có đời sống nội tâm phong phú, phức tạp nhưng
lại rất kín đáo. Trong quá trình khắc họa đời sống nội tâm nhân vật, ông quan
tâm đến những lời bộc bạch của nhân vật và sử dụng nó như một phương tiện hỗ
trợ đắc lực trong việc phơi bày những sắc thái cảm xúc của nhân vật. Là một
người dân tộc Tày, hơn ai hết nhà văn sẽ hiểu đúng và sâu sắc nội tâm nhân vật
mà mình xây dựng. Đặt Mảy Lìn trước một sự việc quan trọng của cuộc đời, Cao
Duy Sơn đã để nhân vật đắm chìm trong dòng ý thức trước khi đưa ra quyết định
cuối cùng: “Thị không có quyền đó, một gia đình, một hạnh phúc mới đang nằm
trong tầm tay của mình. Không ai ngoài mình quyết định được việc này. Chờ lão
Phu ư? Biết đến bao giờ lão mới trở về. Còn hạnh phúc nếu buông ra lúc này sẽ
tuột mất vĩnh viễn. Cơ hội chỉ đến một lần, thế mà nó vẫn đến với ta lần thứ hai.
Số trời đã định, sao ta có thể lưỡng lự, né tránh. [49, tr.13].Để khắc họa thế giới
nội tâm của nhân vât một cách toàn vẹn và đầy đủ nhất, Cao Duy Sơn đã soi
chiếu nội tâm nhân vật từ những rung động, quằn quại ẩn sâu bên trong. Nhà văn
sử dụng thủ pháp độc thoại nội tâm và xem nó như một trợ thủ đắc lực trong việc
phơi bày cảm xúc nhân vật. Nỗi nhớ da diết của tình yêu đôi lứa thường đi liền
vơi nỗi buồn, niềm khát khao được nhìn thấy nhau. Nhân vật Dình đã từng bộc
bạch: “Một ngày không nhìn thấy anh là một ngày thế gian không có nắng, không
có gió, rừng không nở hoa và không có tiếng chim hót…Anh hãy sớm trở về đây
cho em được nhìn thấy mặt. Trên đời này em chỉ biết thương có mình Khơ thôi”.
[52, tr.107]. Tình yêu mặc dù phải xa cách nhưng điều đó cũng hé lộ khát khao
hạnh phúc, tấm lòng thủy chung của người phụ nữ miền núi. Việc sử dụng hàng
loạt những từ phủ định “không” khiến nỗi nhớ như cơn thác lũ dâng trào và khát
khao được gặp người thương càng cháy bỏng.
Trong các sáng tác của Bùi Thị Như Lan, cũng là phụ nữ nên việc khám
phá và miêu tả đời sống nội tâm nhân vật nữ là thế mạnh của chị. Nhà văn đã
đi sâu khai thác, tìm hiểu những điều thầm kín, ẩn ở đáy sâu tâm hồn nhân vật
67
để thấy được suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật. Những lời đối thoại nội tâm của
nhân vật Tôi: “Sao tôi không rì rầm nói chuyện với dòng Nậm Ún như mọi khi?
Tôi bỗng thở dài sườn sượt, ừ thì mọi chuyện mấy năm qua đi rồi sao tôi không
dám nói ra sự thật với anh?...liệu anh Dân có tha thứ cho tội lỗi của tôi
không?”[31, tr.71]. Hoặc có những đoạn đối thoại nội tâm trong đó nhân vật
tự chất vấn lương tâm mình: “Làm thế nào để vùa làm mế vui, vừa có được
anh?” [31, tr.108].
Có đoạn văn nhà văn như đã hóa thân vào nhân vật để diễn tả tâm trạng
đau đớn, trong đêm tân hôn khiến Sang và Sao đau khổ: “Một sự nhầm lẫn tệ hại
xảy ra. Và không ai khác, chính tôi là người phải hứng chịu. Tôi chạy ra khỏi
nhà.... Đi đâu tôi cũng không biết nữa…” [29, tr.125].Đây là một vài ví dụcho
thấy nhà văn đã khám phá và miêu tả đời sống nội tâm nhân vật một cách phong
phú đôi khi cũng rất phức tạp của người phụ nữ. Qua đây cũng có thể thấy, với
sự kế thừa văn học truyền thống và sự vươn lên tự làm mới mình. Các nhà văn
DTTS đặc biệt là Vi Hồng, Cao Duy sơn và Bùi Thị Như lan đã tái hiện bức
tranh đời sống nội tâm bên trong người phụ nữ miền núi, đó là những con người
có đời sống nội tâm phong phú, phúc tạp, nhưng lại lặng lẽ và kín đáo. Điều này
đã thể hiện những đặc thù của lối viết nữ bày tỏ mong muốn được giãi bày, được
chia sẻ của người phụ nữ.
3.2. Sử dụng ngôn ngữ giàu tính nữ
M.Gorki đã khẳng định: “Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học, nhà
văn là nghệ sĩ của ngôn từ. Nhà văn phải tạo cho mình một hệ thống và phong
cách ngôn ngữ riêng…” [9, tr.732].Ngôn ngữ nghệ thuật mang chức năng chủ
yếu là xây dựng hình tượng nghệ thuật, tác động tâm tư, tình cảm của người đọc.
Là một phần của hình thức nghệ thuật, ngôn ngữ nghệ thuật không chỉ đóng vai
trò như một vẻ đẹp, mà còn góp phần quan trọng trong việc tạo nên những tầng
nghĩa lẩn khuất, sâu xa, thể hiện tốt nội dung tác phẩm, làm nổi bật phong cách
nghệ thuật của tác giả, tạo nên nét đẹp thẩm mỹ cho văn học, khơi ngợi nuôi
68
dưỡng cảm xúc thẩm mỹ cho người đọc. Cũng giống với những nguyên liệu để
làm nên nghệ thuật, nhưng ngôn ngữ chỉ tạo nên những giá trị phi vật thể, đòi
hỏi người đọc và cả người sáng tác phải vận dụng tối đa khả năng quan sát, trí
liên tưởng tưởng tượng... mới có thể tiếp cận với hình tượng nghệ thuật mà ngôn
ngữ đã dày công nhào nặn. Sự huy động những khả năng ấy của con người, giúp
cho mỗi chúng ta sống tinh tế hơn, hình tượng cũng sẽ sống muôn hình vạn trạng
tùy theo quan niệm thẩm mỹ của mỗi người, tác phẩm nhờ vậy mà có thể cắm rễ
sâu trong lòng người đọc.
Ngôn ngữ được chú trọng đưa vào tác phẩm như một chất liệu cần thiết
làm cho nhân vật, đặc biệt là nhân vật nữ hiện lên sống động, gần gũi như những
con người thực trong cuộc đời. Với văn học viết về nữu quyền, nhà văn đã quan
sát, lắng nghe và đưa vào trang viết của mình ngôn ngữ của nữ giới. Có thể khẳng
định, ngôn ngữ trong dòng văn học nữ quyền là ngôn ngữ thể hiện những trải
nghiệm cá nhân của giới nữ cho nên người đọc dễ dàng bắt gặp những yếu tố
ngôn ngữ mang đậm chất nữ tính gợi sự liên hệ và gần gũi.
3.2.1. Ngôn ngữ giản dị, thông tục
Nhân vật trong văn xuôi DTTS miền núi phía Bắc chủ yếu là người dân
tộc giản dị, chất phác vì vậy ngôn ngữ nhà văn sử dụng cũng giản dị, thông tục
đời thường, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày. Những câu chuyện về người
phụ nữ được kể tự nhiên với ngôn ngữ bình dị, không được chú trọng trau chuốt,
đánh bóng.
Đúng như Vi Hồng đã nói: “Ở quê mình mọi người thật thà như cục đất,
cục đá! Ăn nói mỗi câu chỉ có một nghĩa như nước chui vào trong cống”.Bởi
thế mà ngôn ngữ nhân vật nữ mang đậm phong cách diễn đạt của người miền
núi. Phong cách đó thể hiện trong lời nói, cách nói rất chân thật, từ ngữ giản dị,
dễ hiểu. Nhà văn sử dụng khái niệm, hình ảnh mang quan niệm truyền thống,
văn hóa của người miền núi khi phô diễn tư tưởng, tình cảm. Vi Hồng sử dụng
những hình ảnh về Hoa gắn liền với tín ngưỡng Hoa của người Tày khi ca ngợi
69
vẻ đẹp của người phụ nữ: Hoa Biooc mạ, Biooc loỏng…Những từ này được Vi
Hồng sử dụng nguyên gốc Tày. Bên cạnh đó, ông sử dụng rất hiệu quả vốn từ
ngữ địa phương nhằm tạo nên bản sắc dân tộc vùng núi phía Bắc. Hồn dân tộc
được gợi lên từ những cái tên như: Slao, Quỳnh The, Va Đáo, Xo Ao, Nọi, Thu
Khoan…Tên gọi của các nhân vật nữ không hề cầu kì, hoa mĩ mà mộc mạc, gần
gũi như chính cuộc sống của người dân tộc.
Việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc trong sáng tác văn chương là một thế mạnh
của các nhà văn DTTS. Tuy các tác giả chủ yếu dùng tiếng phổ thông để sáng
tác nhưng trong các tác phẩm văn xuôi ta vẫn thấy thấp thoáng bóng dáng của
ngôn ngữ dân tộc như Tày, Nùng…Cũng như các nhà văn như Vi Hồng, Bùi
Minh Chức… Cao Duy Sơn cũng đưa ngôn ngữ Tày vào các sáng tác của mình.
Thứ ngôn ngữ ấy góp phần thể hiện rõ nhất cảm xúc và tâm trạng của nhân vật
như: “Múc dác sằng dè” (Đói bụng chưa?), “Cưn dá nhằng dác ca lăng mòn!”
(Ăn rồi làm sao còn đói), Ờ nỏ (Ờ nhỉ)…[51, tr.66]. Trong tiểu thuyết Người
lang thang của Cao Duy Sơn, nhân vật Na Ban (Người lang thang) lưu lạc từ
khi mười tuổi nên chẳng còn nhớ được gì nhiều, quê hương làng bản chỉ còn là
một vệt mờ trong kí ức nhưng lời hát đồng dao ngày nhỏ bà dạy Na Ban còn nhớ
như in:
“Bươn chiêng pi mấu
Pẻng phẳng tặt sẩu
Pủm lẩu tặt quay
Thèo may dảy váng
Núng náng phúng sang
Pù nàng pù ninh” [47, tr.211].
Bài đồng dao gợi nhắc về một thời tuổi thơ hồn nhiên, trong trẻo đã trở
thành ấn tượng khó phai mờ trong kí ức con người. Lời hát ru bằng tiếng dân tộc
buồn đến đa diết, quặn lòng của Na Ban thường được cất lên mỗi khi buồn tủi,
70
trở thành chỗ dựa tinh thần, thành nơi bấu víu để tâm hồn vơi bớt nỗi khổ đau,
sầu muộn:
“Noòn dắc nòn đí Noọng à
Sle mé nhàng pay nà àu luôm
Àu tú luôm, tu luôm pác đèng
Pắt tu lèng, tu lèng tha mo óc
Nòn, nòn đắc nòn đí noọng ơi!”.
Cao Duy Sơn đã khéo léo đưa những đoạn đồng dao, hát ru của người Tày
vào tác phẩm mà cố ý không đưa vào lời dịch. Song, bản thân tính nhạc của ngôn
từ đã góp phần mang đến cho người đọc dân tộc khác dù không biết tiếng Tày vẫn
có thể cảm nhận được phần nào nội dung của lời hát để cảm và hiểu nỗi lòng Na
Ban. Ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ có ý nghĩa vô cùng quan trọng, trở thành một phần
thiết yếu như máu thịt, như hơi thở, ăn sâu vào tâm trí và tiềm thức con người.
Nhà văn Y Phương tự nhận thấy rằng: “Đụng đến cái này (tiếng nói và chữ viết
dân tộc – Lâm Tiến) tự dưng con người tôi nổi hết gai ốc”.Ngôn ngữ trong sáng
tác của Bùi Thị Như Lan thường sử dụng khi viêt về người phụ nữ thường rất dung
dị, đời thường, nhà văn cũng đưa rất nhiều ngôn ngữ địa phương vào tác phẩm của
mình như: “Noọng a Slương căn Slíp vằn tàng nhằng xẩu” (Em ơi, yêu nhau cách
mười ngày đường còn gần…). [30,tr.172]
Bằng ngôn ngữ đời thường giản dị, thông tục, các nhà văn DTTS miền núi
phía Bắc đã phác họa những nét sinh động, gần gũi trong cuộc sống đời thường
của người phụ nữ, biểu hiện một thế giới quan đàn bà khá ấn tượng và chỉ có ở
người phụ nữ mà thôi.
3.2.2. Ngôn ngữ thẳng thắn, quyết liệt
Nhân vật người phụ nữ trong dòng văn học nữ quyền luôn luôn hành động
để ứng phó với thế giới xung quanh và với thế giới nội tâm của chính mình. Ngôn
ngữ thẳng thắn, quyết liệt thể hiện nhu cầu bình đẳng về phát ngôn của phụ nữ
trong việc giãi bày tình cảm cá nhân riêng tư. Nó thể hiện tinh thần độc lập, tự
71
chịu trách nhiệm của người phụ nữ về cuộc sống của mình. Ngôn ngữ mang tính
chất mạnh mẽ, quyết liệt trở thành một yếu tố để khẳng định vị thế của cái tôi cá
nhân đòi bình đẳng giới trong văn xuôi DTTS.
Tiểu thuyết Người trong ống, nàng Ai Hoa đã thẳng thắn bộc lộ tình yêu
với Tú: “Em gặp anh, yêu anh. Và đời em từ nay chỉ yêu một mình anh. Anh là
mười hai con hồn của em, anh là hơi thở của em, anh là tất cả cuộc đời em, có
vậy thôi” [17, tr.82].Lời từ chối tình yêu cũng rất thẳng thắn nhưng khéo léo :
“Em cảm ơn mối tình anh đã dành cho em nhưng em không thể yêu anh được.
Trên trời thiếu gì mây, mặt đất thiếu gì hoa đẹp. Mây hồng đầy trời, hoa đẹp tràn
mặt đất. Anh hãy chọn bông hoa nào đẹp nhất anh yêu. Chọn đám mây nào đẹp
nhất làm hào quang cho cuộc đời! Em chỉ là bông hoa thường chưa nở, đám mây
lạc cuối trời”.Thành thực trong tình yêu, giản dị trong suy nghĩ, hồn nhiên, chất
phác trong cuộc sống, dám nói thẳng quan điểm và suy nghĩ của mình. Va Đáo
thẳng thắn trong lời nói, nàng chỉ coi Tốc Thiêng là em trai để chàng khỏi hi
vọng: “Tôi không ghét anh, nhưng tôi cũng không yêu anh”. Còn Đàng (Vãi
Đàng) cương quyết từ chối làm lẽ tổng Vọi đã nói: “Dù chim có bay giật lùi, lợn
mọc hai đầu, con nước mọc chân bò lên dốc, tôi cũng không bao giờ nghĩ đên
điều ấy”.Chính ngôn ngũ thẳng thắn, quyết liệt đã góp phần khắc họa tính cách
nhân vật, bộc lộ nét đặc sắc của nhà văn. Các cô gái như Slao, Na (Núi cỏ yêu
thương), Đàng (Vãi Đàng), Băng (Tháng năm biêt nói), Ngư, Xo Ao (Thung lũng
đá rơi)…đều được Vi Hồng thể hiện bằng ngôn ngữ bạo dạn, chủ động bày tỏ
khát vọng tình yêu của mình. Điều ấy chứng tỏ ở miền núi, người con gái sống
hồn nhiên, chân tình, thẳng thắn.
Người miền núi nói lời thương thật mượt mà đằm thắm, còn lời trách
móc nhắc nhở của họ vừa thẳng thắn, vừa ý nhị sâu xa. Nhân vật Ban nhắc Khuề
đừng lỡ miệng để sau này ân hận: “Đừng nói bậy, hạt gạo rơi còn nhặt lên
được, tiếng nói rơi ra mồm không lấy lại được đâu” (Âm vang vong hồn). Đến
với câu chuyện tình dang dở trong Âm vang vong hồn, người đọc không khỏi
xót xa cho số phận nhân vật. Lời từ chối của Ban, từng từ, từng hình ảnh ví von
72
nghe sao oán trách, xót xa: “Giờ tôi như cái cây cho quả, già quá rồi, quả cũng
đã khô héo, như cái trăng trên trời muộn quá rồi không còn tròn nữa. Ngày ông
không dám cướp lấy tôi, như trái cây chín mọng mà không ăn, như cái trăng
lúc còn tròn mà không ngắm, giờ quả chỉ còn xơ, trăng giờ đã héo, ăn không
được nhìn chỉ buồn. Năm sáu mươi tuổi rồi còn khát khao nỗi gì?” [48,
tr.141].Hay lờimỉa mai củaHửkhi biết chồng qua lại với Lơ: “Con dúi làm hang
trong đất còn bị moi lên làm chả nướng, huống chi con người kềnh càng đi lại ở
cái phố huyện nhỏ như cái nón mo” …Trong tiểu thuyết Cực lạc của Cao Duy
Sơn, thời gian đầu khi bị Chẩng lừa về Pắc Gà cô chỉ biết cam chịu, cô không
nhớ mình đã khóc thành tiếng bao nhiêu lần. Nhưng càng về sau này, Mảy Lìn
đã tự tin, cương quyết và dứt khoát: “Mày không thể dụng vào các con tao, không
có mặc cả và chẳng có cuộc trao đổi nào hết. Mày định chiếm đoạt ngôi nhà và
đuổi mẹ con tao ra cửa ư? Làm sao dễ dàng thế được”. [49, tr.204]. Ngôn ngữ
nhân vật thể hiện sự mạnh mẽ, quyết tâm đấu tranh với Chẩng, một con người
nham hiểm và độ ác để giải thoát cho bản thân và các con. Tác giả thể hiện niềm
tin, tinh thần lạc quan vượt lên trên số phận của những người phụ nữ trong mọi
hoàn cảnh, thời đại.Khi nói đến ham muốn thân xác, các nhà văn DTTS cũng
dùng động từ, tính từ mạnh để diễn tả cảm xúc của những người phụ nữ khi bản
năng trỗi dậy như : “người tôi nóng hầm hập như muốn bốc lửa”. Nhà thơ Dương
Thuấn từng viết: “Không nói đi ngủ/ Nói là vác chiếu vác chăn/ Không nói núi
đồi dốc quá/ Nói là leo lên gió thổi ra tai/ Không nói đi mệt quá/ Nói là lỏng cả
hai đầu gối” (Cách nói của người miền núi). Những cách nói thẳng thắn, bộc trực
theo lối tư duy trực cảm cụ thể của người miền núi cũng được tận dụng một cách
hiệu quả.
Viết thẳng thắn về tình dục là cách để các nhà văn góp một tiếng nói mạnh
mẽ đòi quyền bình đẳng cho nữ giới - quyền tự do, quyền được sống, quyền được
yêu và được thụ hưởng tình yêu.
3.2.3. Vận dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ và lối ví von, so sánh
Thành ngữ, tục ngữ chứa đựng tri thức văn hóa của người Việt nói chung,
73
của các DTTS nói riêng. Là sản phẩm của lối nói ví von cho nên đã góp phần tạo
ra một đặc điểm ở tiếng Việt là rất giàu hình ảnh.Các thành ngữ, tục ngữ mang
đậm màu sắc dân gian là những diễn ngôn chân thực và giàu màu sắc bản địa của
văn hóa miền núi. Các nhà văn dân tộc miền núi phía Bắc đã vận dụng linh hoạt
thành ngữ, tục ngữ, những câu nói ví von, so sánh trong việc tổ chức ngôn ngữ,
tổ chức truyện kể. Sử dụng một cách linh hoạt và biến hóa thành ngữ, tục ngữ
dân gian đã tạo nên hứng thú đối với độc giả, giúp nhà văn phục dựng chân thực
những nét văn hóa miền núi, những kí ức văn hóa cộng đồng, đồng thời khám
phá được bản sắc dân tộc của nhân vật. Các thành ngữ, tục ngữ có khi được xuất
hiện trong lời của tác giả (người dẫn truyện), có khi lại xuất hiện trong lời của
các nhân vật trong truyện…góp phần hữu hiệu bộc lộ cá tính nhân vật. Việc sử
dụng những thành ngữ và tục ngữ trong ngôn ngữ nhân vật có một giá trị rất lớn.
Góp phần trong việc điển hình hóa nhân vật và thể hiện nội dung tác phẩm. Chính
thành ngữ, tục ngữ, lối nói ví von, so sánh đã giúp ích rất nhiều cho nhà văn trong
việc tiết kiệm lời nói, tránh dài dòng mà câu văn vẫn truyền tải được nội dung và
giàu sức thuyết phục.
Nhà văn Vi Hồng là một trong những nhà văn đã có sự vận dụng linh hoạt,
sáng tạo thành ngữ, tục ngữ vào trong lời văn nghệ thuật của mình. Đọc những
tác phẩm của Vi Hồng, ta sẽ thấy được phần lớn các câu thành ngữ, tục ngữ của
dân tộc Tày đã được nhà văn viện dẫn một cách thuần thục. Trong Đọa đầy, để
nói về cuộc đời con người đầy đắng cay, bất hạnh, người Tày có câu quen thuộc:
“Đắng như lá ngón xoay vần” [22, tr.167]. Tục ngữ Việt Nam có câu : Gậy ông
đập lưng ông, Vi Hồng đã diễn đạt lại bằng cách nói quen thuộc của người miền
núi: “Miệng ếch lại giết miệng ếch” [15, tr.152]. Vẫn là câu thành ngữ: nói hươu
nói vượn nhưng nhân vật Bội Hoan lại mắng yêu chồng “nói chân con hươu, nói
tai con gấu” [22, tr.208]. Tục ngữ Kinh có câu Cá mắc cạn, hạn gặp mưa rào đã
được Vi Hồng sáng tạo “bông hoa bất tử gặp mưa rào, như con cá chép to mắc
cạn bỗng gặp cơn nước lũ” [23, tr.108]. Có thể nhận thấy, nhân vật phụ nữ DTTS
74
trong sáng tác của Vi Hồng thường sử dụng những thành ngữ quen thuộc của
người Tày. Biểu đạt khái niệm rộng lớn, mênh mông người Tày thường sử dụng
thành ngữ: “Quạ bay rơi, chim bay chết”. Trong Lòng dạ đàn bà, Lăng Thị Thu
Lả cũng đã sử dụng thành ngữ này: “Mường Nặm Tốc Rù em đã có đôi lần đi
qua. Đấy là vùng đất rộng chim bay gẫy cánh, quạ bay đứt hơi, mường nước
trong nước ngọt như đường, em những ước mơ có bạn mà không có bạn” [18,
tr.18].Đặc biệt trong tác phẩm Cọn nước Eng Nhàn, tần số xuất hiện của các
thành ngữ, tục ngữ là dày đặc như: ăn không ngon, ngủ không say, mường trên
xã dưới, ngập mồm ngập miệng, tham mồm tham miệng, bên nặng bên nhẹ,
thương cũng thương vậy…
Ngoải ra lối nói ví von, so sánh của người miền núi cũng được nhà văn
vận dụng rất linh hoạt. Ngôn ngữ tình yêu trong văn xuôi của Vi Hồng rất giàu
hình ảnh. Những lời nói yêu đương của đôi trai gái Linh Thang Nghít và Lăng
Thị Thu Lả mới sinh động và ngọt ngào làm sao:
-“Anh nghe bảo con chim họa mi đẹp nhất của mường Nặm Đút đã vướng phải
bẫy thòng lọng tơ mành xe bẩy xe ba. Con cá li ngư mường Nặm Đút đã cắn phải
câu phao, câu bật. Cá li ngư có muốn vẫy vùng giữa sông cái nước trong cũng
khó thoát khỏi lưỡi câu oan nghiệt.
- Chim họa mi đã thấy con mồi nhưng họa mi chưa lao vào thách đố cho nên
chưa vướng phải thòng lọng tơ vàng bẩy sắc. Lí ngư đã thấy mồi kẻ câu cá nhưng
lý ngư còn kén chọn nên lưỡi câu có oan nghiệt cũng chưa kịp mắc vào số phận.
Lý ngư còn đang vùng vẫy nhưng muốn vượt thác đến sông trong để hóa rồng
nhưng nào ai mời ai rước. Vậy nên cá còn ước mơ phận cá. Chim còn lo buồn
phận chim. Anh Nghít có mở được đường mây rộng gọi cánh họa mi?Anh có rẽ
được nước phân đôi làm bên trong bên đục để lí ngư lúc ẩn, lúc hiện mới mong
hóa rồng.
- Nghe em nói…thì anh mừng nở hoa trăm sắc…anh mời em đến mường anh tìm
bạn” [18, tr. 27]
75
Những lời yêu thương duyên dáng ý nhị ấy khiến chúng ta liên tưởng đến lời
giao duyên trong ca dao dân ca:
“ Cô kia cắt cỏ một mình
Cho anh cắt với chung tình làm đôi.
Cô còn cắt nữa hay thôi
Cho anh cắt với làm đôi vợ chồng?”
Một trong những đặc điểm về cách diễn đạt của người miền núi là hay so sánh,
liên tưởng, nói có hình ảnh. Nét đặc sắc mà người đọc dễ nhận thấy là các tác giả
khi miêu tả hoặc bộc lộ tính cách, nội tâm nhân vật thường sử dụng các từ “như”
đặt giữa hai vế so sánh với mật độ rất cao. Truyện ngắn của Cao Duy Sơn đã thể
hiện rất rõ đặc điểm này. Trong Góc trời tây có cơn mưa đá, chỉ hai lần gặp Sín,
Líu đã: “Líu thấy mình như hút vào đôi mắt có lửa, Líu thú nhận mình bây giờ
như lứa khô tước mỏng, gặp lửa là bén” hay “Sau mỗi đêm mất ngủ thể xác, tinh
thần nhàu nát như chuối rừng gặp hỏa hoạn”[51, tr.63]
Trong Tình Mường Woangcủa Bùi Minh Chức cũng vậy: đôi vợ chồng trẻ
như đôi cu lò, to như cái phản, túm năm tụm ba…, “Người Ún còn mát như suối,
đời Ún còn dài như suối, còn chảy như suối mà.” [43, tr.52]
Thành ngữ, tục ngữ đi vào văn chương nghệ thuật như một điểm tựa, như một
biểu tượng của văn hóa nguồn cội. Cội nguồn dân tộc ăn sâu vào tiềm thức để
rồi con người dù có ở nơi đâu, trưởng thành ở phương trời nào thì cội nguồn quê
hương vẫn luôn là nơi để hướng về thiêng liêng và thành kính. Việc sử dụng
thành ngữ, tục ngữ dân gian của các tộc người DTTS chứa đựng tâm hồn, trí tuệ
của nhân dân, được sàng lọc qua thời gian, được vận dụng đầy sáng tạo làm
nênnhững cách diễn đạt độc đáo mang bản sắc riêng và tạo ấn tượng mạnh mẽ
cho người đọc.Sử dụng các thành ngữ, tục ngữ sao cho nhuần nhuyễn đã khó,
vận dụng sáng tạo trong sáng tác văn chương là điều càng khó hơn. Vi Hồng đã
chứng tỏ bản lĩnh trong ngòi bút của mình khi đưa các thành ngữ, tục ngữ vào
trong tác phẩm của mình, thổi vào một hơi thở mới, hơi thở của ngôn ngữ
76
Tày.Việc vận dụng sáng tạo các câu thành ngữ, tục ngữ có sẵn trong kho tàng
văn học dân tộc và lối nói ví von, so sánh giàu hình ảnh giúp các nhà văn DTTS
vừa thể hiện được bản sắc văn hóa của cộng đồng dân tộc mình đồng thời còn là
một cách thú vị để thể hiện các tính của người viết. Như vậy, khi vấn đề nữ quyền
trở thành một trào lưu văn học, các nhà văn DTTS đã tự tin đứng lên đấu tranh
phá bỏ những quan niệm truyền thống lỗi thời, lạc hậu, khẳng định sức mạnh của
người phụ nữ bằng những quan điểm tiến bộ. Qua đây, các nhà văn đã xây dựng
một thế giới nghệ thuật đầy sức hấp dẫn, phát huy hiệu quả cao trong việc thể
hiện tiếng nói nữ quyền mạnh mẽ, táo bạo.
77
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Nhìn từ phương diện nghệ thuật, các nhà văn DTTS đã đi sâu khám phá
nhân vật nữ thể hiện vấn đề nữ quyền trong văn học. Bằng nghệ thuật xây dựng
nhân vậtqua ngoại hình, hành động và nội tâm đã phát huy hiệu quả cao độ trong
việc thể hiện tiếng nói nữ quyền mạnh mẽ và táo bạo. Bên cạnh đó, việc sử dụng
ngôn ngữ giàu tính nữ trong đó có ngôn ngữ giản dị, thông tục, ngôn ngữ thẳng
thắn, quyết liệt và sự xuất hiện dày đặc của các thành ngữ, tục ngữ cùng lối ví
von, so sánh đã biểu hiện của sự nỗ lực đột phá của các nhà văn DTTS. Thông
qua những phương diện nghệ thuật này, các tác giả muốn thể hiện sự giãi bày, sẻ
chia và sự cảm thông, ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ vùng cao. Đây cũng là
nguồn cổ vũ tinh thần giúp những người phụ nữ nói chung tự tin khẳng định bản
thân trong cuộc sống.
78
KẾT LUẬN
1. Vấn đề nữ quyền đã và đang trỗi dậy mạnh mẽ, đặt xã hội phải có một
cái nhìn mới về quyền bình đẳng giữa nam và nữ. Trên thế giới, từ cuối thế kỷ
trước, phê bình văn học nữ quyền đã sớm diễn ra sôi nổi và hình thành một hệ
thống lý thuyết hoàn chỉnh, bao gồm nhiều nhánh nghiên cứu theo các khuynh
hướng khác nhau. Ở Việt Nam, hoạt động phê bình văn học nữ quyền đã khai
nhụy trong khoảng hơn mười năm trở lại đây, và đây vẫn là một hướng đi mới
chưa được chú ý thực sự. Tuy nhiên, trong lĩnh vực văn chương, tiếng nói của
giới nữ ngày càng được chú ý và có giá trị. Sự xuất hiện của ý thức nữ quyền có
thể được coi là bước phát triển dân chủ, hiện đại của nền văn học dân tộc. Đội
ngũ những nhà văn DTTS như Vi Hồng, Triều Ân, Bùi Minh Chức, Hoàng Hạc,
Hữu Tiến, Cao Duy Sơn, Bùi Thị Như Lan…đang cùng đồng lòng nói lên những
vấn đề của văn học nữ quyền.
2. Khảo sát văn xuôi của các nhà văn DTTS chúng tôi đã khám phá và
nhận thấy được những biểu hiện của ý thức nữ quyền trong thời đại mới. Từ đó
đề cao vai trò trung tâm của người phụ nữ và xây dựng hình tượng trung tâm là
nhân vật nữ. Vấn đề nữ quyền được xem xét trên những nội dung chính đó là sự
thức tỉnh trong các vấn đề về chống lại hủ tục lạc hậu, khát khao hạnh phúc và
bản năng tính dục. Họ dám sống hết lòng với chính cảm xúc và khát khao của
mình. Những người phụ nữ ấy là hiện thân cho những người phụ nữ hiện đại,
dám đón nhận những tư tưởng tiến bộ của nữ quyền.
Cái nhìn và cách cảm của các nhà văn DTTS là sự cảm thông, thương cảm
và ngợi ca.
3.Trên phương diện nghệ thuật chúng ta sẽ thấy được các nhà văn DTTS
sử dụng nghệ thuật xây dựng các nhân vật nữ qua ngoại hình,hành động và đi
sâu khám phá thế giới nội tâm để thấy được khát khao trong con người họ.Bên
cạnh đó,cảm hứng nữ quyền với nhân vật trung tâm là người phụ nữ được các
nhà văn sử dụng ngôn ngữ giàu tính nữ một cách giản dị, thông tục nhưng đầy
79
thẳng thắn, quyết liệtvà sự vận dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ cùng lối ví von,
so sánhcho thấy cách thể hiện vấn đề nữ quyền dưới một góc nhìn mới, mang
tính nhân văn sâu sắc.
4.Việc khai thác những biểu hiện của vấn đề nữ quyền trong văn xuôi
DTTS là một trong những bước đi góp phần nhận diện văn học nữ quyền trong
nền văn học hiện đại, chúng tôi đã chỉ ra những tâm huyết của các nhà văn khi
viết về người phụ nữ. Đây cũng là nguồn cổ vũ tinh thần giúp người phụ nữ, nhất
là phụ nữ vùng cao tự tin, khẳng định bản thân trong cuộc sống.
Đó là tâm hồn đẹp đẽ, phóng khoáng, giàu mơ ước và sức sống mãnh liệt
không gì dập tắt được nơi họ. Chính vì thế mà văn xuôi của các nhà văn DTTS
không chỉ có giá trị hiện thực mà còn mang âm hưởng nữ quyền.
Thông qua việc nghiên cứu về vấn đề nữ quyền chúng tôi càng cảm thấy
rõ hơn những thiệt thòi, khổ đau mà người phụ nữ phải gánh chịu. Qua đây chúng
tôi cũng mong sẽ đóng góp một tiếng nói nhỏ bé của mình vào việc khẳng định
vị trí, vai trò của người phụ nữ dân tộc miền núi trong gia đình và xã hội. Trên
cơ sở tôn trọng quyền sống, quyền làm vợ, làm mẹ, quyền được bình đẳng…trong
xã hội. Bởi người phụ nữ, đặc biệt là người phụ nữ DTTS xưa nay vốn chịu nhiều
sự thiệt thòi, nhiều khổ đau và bất hạnh. Khẳng định một sức sống và sức bật của
một nền văn học giàu sức phát triển.
80
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Y Ban (2005), Cưới chợ, Tập truyện ngắn, Nxb Hội nhà văn.
2. Y Ban, I am đàn bà, (2007), Nxb Phụ nữ.
3. Nông Quốc Chấn (1977), Một vườn hoa nhiều hương sắc, Nxb văn hóa dân tộc.
4. Nông Quốc Chấn (1995), Văn học thiểu số Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc.
5. Nông Quốc Chấn (1998), Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi, Nxb Giáo dục.
6. Nông Minh Châu (2003), Nông Minh Châu tuyển tập, Nxb văn hóa dân tộc.
7. Đặng Thị Vân Chi, Vấn đề nữ quyền và giải phóng phụ nữ trên báo chí đầu
thế kỉ XX.”, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 4.1997, tr. 26-33.
8. Đào Đồng Diện (2005), Phụ nữ - nguồn cảm hứng sáng tác của văn xuôi thời
kì đổi mới,http://vnca.cand.com.vn, ngày 25/3/2005.
9. Phan Cự Đệ (2000), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, NXB giáo dục, Hà Nội.
10. Lê bá Hán,Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
11. Lý Trạch Hậu (2002), Bốn bài giảng mỹ học, Trần Đình Sử, Lê Tấm dịch,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
12. Phạm Thị Hoài, Thiên sứ, (1989),Tiểu thuyết, Nxb Trẻ TP. Hồ Chí Minh.
13. Cao Thị Thu Hoài (2018),Nửa thế kỷ phát triển văn xuôi các dân tộc thiểu
số miền núi phía Bắc (Từ 1960 đến nay), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
14. Tô Hoài (1994), “Văn học các dân tộc thiểu số - Thực trạng và vấn đề”, Tạp
chí văn học, số 9.
15. Vi Hồng (1980), Đất bằng, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
16. Vi Hồng (1980), Vãi Đàng, Nxb mới, Hà Nội.
17. Vi Hồng (1990), Người trong ống, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
18. Vi Hồng (1992), Lòng dạ đàn bà, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
19. Vi Hồng (1993), Dòng sông nước mắt, Nxb Hội Văn học nghệ thuật Bắc
Thái.
20. Vi Hồng (1994), Phụ Tình, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
81
21. Vi Hồng (1997), Đi tìm giàu sang, Nxb Văn hóa dân tộc.
22. Vi Hồng (1997), Đọađày, Tiểu thuyết, Nxb Văn hóa dân tộc.
23. Vi Hồng (2006), Mùa hoa Biooc lỏong, Nxb Thanh niên.
24. Vi Hồng, (1991), Người dân tộc thiểu số viết văn, Tạp chí văn học số 4/1991,
Hà Nội.
25. Phan Khôi (2017), Vấn đề phụ nữ ở nước ta, Nxb Phụ nữ.
26. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia (2015), Nữ quyền và những vấn đề lý
luận và thực tiễn, Nxb Đại học sư phạm.
27. Lâm Tiến (1991), Vấn đề truyền thống và hiện đại trong văn học các dân tộc
thiểu số Việt Nam, Tạp chí Văn học số 4/1991, Hà Nội.
28. Bùi Thị Như Lan (2004),Tiếng chim Kỷ Giàng, Tập truyện ngắn, Nxb QĐND.
29. Bùi Thị Như Lan (2006), Hoa mía, Tập truyện ngắn, Nxb Thanh niên.
30. Bùi Thị Như Lan (2007),Lời Sli vắt ngang núi, Tập truyện ngắn, Nxb Quân
đội nhân dân.
31. Bùi Thị Như Lan (2011),Bồng bềnh sương núi, Tập truyện ngắn, Nxb Văn
hóa dân tộc.
32. Bùi Thị Như Lan (2005), Mùa mắc mật, Tập truyện ngắn, Nxb Hội nhà văn.
33. Lý Lan, Phê bình văn học nữ quyền, http://tiasang.com.vn/Default.aspx
34. Phương Lựu (chủ biên) (1977), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
35. Đào Thủy Nguyên (2014), Bản sắc văn hóa dân tộc trong văn xuôi của các
nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Đại học Thái Nguyên.
36. Ma Trường Nguyên (1992), Gió hoang, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
37. Nhiều tác giả (1981), Hợp tuyển thơ văn các tác gia dân tộc thiểu số Việt
Nam (1945-1980), Nxb Văn hóa.
38. Nhiều tác giả (2004), Nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam - Đời và văn. Nxb
Văn hóa dân tộc.
39. Nhiều tác giả (2007), Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số thời kì đổi mới,
Nxb Văn hóa dân tộc.
40. Nhiều tác giả (2008), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
82
41. Nhiều tác giả (2015), Vi Hồng- Tác phẩm và dư luận, Nxb ĐH TháiNguyên.
42. Nhiều tác giả(1985), 40 năm văn hóa nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt
Nam (1945 -1985), Nxb Văn hóa, Hà Nội.
43. Nhiều tác giả (2002), Văn xuôi dân tộc và miền núi, Nxb Văn hóa dân tộc.
44. Nhiều tác giả (2001), “Vấn đề nữ quyền ở Việt Nam đầu thế kỉ XX”, Việt Nam
học- Kỉ yếu Hội thảo quốc tế lần thứ nhất, Hà Nội, 15-17/7/1998, tập IV Nxb
Thế giới, Hà Nội, tr. 37-46.
45. Nhiều tác giả (2002), Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ XX, Viện Văn học,
Nxb Chính trị quốc gia.
46. Trần Huyền Sâm (2016), Nữ quyền luận ở Pháp và tiểu thuyết Việt Nam
đương đại, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội.
47. Cao Duy Sơn (1992), Người lang thang, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
48. Cao Duy Sơn (2002), Những đám mây hình người, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà
Nội.
49. Cao Duy Sơn (2004), Hoa mận đỏ, Nxb Văn hóa dân tộc.
50. Cao Duy Sơn (2006), Đàn trời, Nxb Hội nhà văn.
51. Cao Duy Sơn (2008),Hoa bay cuối trời, Tập truyện ngắn, Nxb Thanh niên,
Hà Nội.
52. Cao Duy Sơn (2008), Ngôi nhà xưa bên suối, Nxb Văn hóa dân tộc.
53. Nguyễn Huy Thiệp, Tính dục trong văn học hôm nay, Vietnamnet.
http://vietnamnet.vn/vanhoa/chuyende/, 24/4/2006.
54. Trần Nho Thìn (2010),Nho giáo và nữ quyền, Tham luận trình bày tại Hội
thảo khoa học quốc tế Nho giáo Việt Nam và văn hóa Đông Nam Á.
55. Hoàng Bá Thịnh (2008),"Các làn sóng nữ quyền và ảnh hưởng của nữ quyền
đến địa vị của Phụ nữ Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số
4/2008.
56. Hà Văn Thư (1966), Về văn hóa văn nghệ các dân tộc thiểu số, Nxb văn hóa
dân tộc, Hà Nội.
83
57. Nguyễn Thị Minh Thương, Ảnh hưởng của lý luận thân thể của Foucault đối
với chủ nghĩa nữ quyền, http://phebinhvanhoc.com.vn.
58. Trần Thị Việt Trung, Cao Thị Hảo (2014), Văn học DTTS Việt Nam thời kì
hiện đại- Một số đặc điểm, Nxb Đại học Thái Nguyên.
59. Trần Thị Việt Trung, Hà Thị Cẩm Anh (2016), Tuyển tập văn xuôi Hà Thị
Cẩm Anh, Nxb Đại học Thái Nguyên.
60. Hồ Khánh Vân (2002), Ý thức nữ quyền và sự phát triển bước đầu của văn
học nữ Nam bộ trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc đầu thế kỷ XX,
Tạp chí Văn học (số 7), Hà Nội, tr. 81-94.
Tài liệu Internet
61. http://isee.org.vn/wp-content/uploads/2018/11/dien-ngon-gioi-va-tinh-duc-
trong-cuoc-song-muon-mau..pdf
62. http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/nghien-cuu/ly-luan-va-phe-binh-van-
hoc/6671-ph%C3%AA-b%C3%ACnh-n%E1%BB%AF-
quy%E1%BB%81n-2.html
63. https://khoavanhoc.edu.vn/index.php/vh-vn/419-nho-giao-va-n-quyn
84
PHỤ LỤC
BẢNG THỐNG KÊ TẦN SỐ XUẤT HIỆN CỦA CÁC THÀNH NGỮ,
TỤC NGỮ VÀ LỐI VÍ VON SO SÁNH TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM
TIÊU BIỂU
STT TÊN TÁC PHẨM TẦN SỐ XUÁT HIỆN
Cọn nước Eng Nhàn 22 1
Tình Mường Woang 12 2
Góc trời tây có cơn mưa đá 30 3
Chị Máy 13 4
Hoa chàm 18 5
Cắm Tỷ 11 6