LUẬN VĂN:
Quảng cáo trên truyền hình Việt Nam –
Từ lý luận đến thực tiễn
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay trong đời sống xã hội, danh từ “Quảng cáo” đã xuất hiện trên khắp các
đường phố sầm uất nhộn nhịp, lách vào tận thôn cùng ngõ hẻm và đến với từng nhà,
xuất hiện trong mỗi bữa cơm, giờ giải trí của mỗi gia đình. Cùng với sự phát triển của
kinh tế thị trường, quảng cáo như một làn gió vận hành cho chiếc cối xay gió kinh tế
quay đều.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, một xã hội thông tin đang trong cơn sôi
bùng nổ với sự ra đời của hàng chục đài truyền hình trên cả nước, hàng trăm kênh
truyền hình trong nước và thế giới nhờ hệ thống truyền hình Cáp mở rộng, truyền hình
đã có mặt trong mỗi gia đình và trở thành cánh tay đắc lực cho việc quảng bá sản phẩm
và thương hiệu thông qua các chương trình quảng cáo.
Việt Nam sau hơn 30 năm đổi mới, nền kinh tế mới đang trên đà phát triển, đi
cùng với đó là một ngành quảng cáo còn non trẻ. Quảng cáo trên truyền hình là một bộ
phận của quảng cáo nói chung. Trong khi trên thế giới, tại các nước phát triển như Mỹ,
Anh, Nhật… quảng cáo đã trở thành một ngành công nghiệp, tạo thành một guồng quay
của cối xay gió kinh tế, thì ở Việt Nam, ngành quảng cáo trên truyền hình dường như
vẫn còn là một miền đất hứa.
Với hơn 90% dân số cả nước sử dụng truyền hình, ngành quảng cáo trên truyền
hình đang đứng trước những cơ hội lớn. Có thể nói, truyền hình là phương tiện quảng bá
thông tin sâu rộng nhất và có tác dụng nhanh nhất so với các loại hình quảng bá khác.
Ngược lại một đài truyền hình nói chung, hay một kênh truyền hình nói riêng không thể
tồn tại mà không có quảng cáo. Có thể thấy, quảng cáo trên truyền hình không chỉ có tác
dụng tái tạo sản xuất mà còn là nguồn thu góp phần nuôi sống các chương trình truyền
hình.
Tuy nhiên, ngành quảng cáo trên truyền hình nước ta mới đang ở thời kỳ đầu non
trẻ. Khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO, hoạt động trong sân chơi chung của thế
giới, thì ngành quảng cáo trên truyền hình cũng trong đà hội nhập, đón nhận những
luồng gió mới. Những công ty nước ngoài ồ ạt xâm lấn thị trường nội với chiến lược
quảng cáo vô cùng tinh vi và hùng hậu. Quảng cáo trên truyền hình ở Việt Nam đứng
trước thách thức lớn. Làm sao để ngành quảng cáo trên truyền hình Việt Nam phát
triển? Làm sao để nâng cao chất lượng phim quảng cáo trên truyền hình Việt Nam? Lý
luận về Marketing thương mại có nhiều ở các trường đại học kinh tế, lý luận về các
chiến lược kinh doanh , định vị và phát triển thương hiệu có thể dễ dàng tìm thấy ở các
hiệu sách, nhưng lý luận về làm phim quảng cáo trên truyền hình thì hiện chưa có. Đó là
lý do, người viết lựa chọn đề tài: Quảng cáo trên truyền hình Việt Nam – Từ lý luận đến
thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Với mong muốn tìm ra những giải pháp để góp phần nâng cao chất lượng phim
quảng cáo trên truyền hình Việt Nam, người viết luận văn đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu
vai trò của quảng cáo với xã hội cũng như quảng cáo với truyền hình. Luận văn nhìn
nhận và phân tích những hạn chế của phim quảng cáo trên truyền hình hiện nay, để từ
đó tìm ra những giải pháp nâng cao chất lượng phim quảng cáo. Luận văn chú trọng đến
vai trò của người sáng tạo ý tưởng và đưa ra những con đường dẫn đến ý tưởng như một
giải pháp góp phần nâng cao chất lượng phim quảng cáo trên truyền hình. Dưới góc
nhìn của người làm phim điện ảnh, truyền hình, người viết có sự so sánh quy trình làm
phim truyện với phim quảng cáo để tìm ra đặc trưng riêng của thể loại phim quảng cáo.
Luận văn đặc biệt chú trọng đến tính văn hoá, bản sắc dân tộc trong phim quảng cáo để
hướng tới một nền quảng cáo giàu tính văn hoá, đậm đà bản sắc dân tộc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong giới hạn nghiên cứu đề tài, người viết chủ yếu nghiên cứu kinh nghiệm
làm phim quảng cáo truyền hình của các nhà làm phim quảng cáo trong và ngoài nước
trên phương diện lý luận và thực tiễn của họ. Ngoài các phim quảng cáo, tác giả đã
nghiên cứu các tài liệu chuyên ngành quảng cáo, của các tác giả trên thế giới là những
nhà kinh tế học đã có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực quảng cáo để tìm ra những yếu
tố bổ ích trong quá trình nhận thức về phim quảng cáo của Việt Nam.
Thực tiễn được rút ra từ những phim quảng cáo Việt Nam và của nước ngoài. Luận văn
nghiên cứu những phim quảng cáo đã phát trên truyền hình Việt Nam trong khoảng 10
năm gần đây (khoảng từ năm 2000 đến nay).
Người viết cũng có tham khảo một số bài viết trên các website về quảng cáo, một
số tài liệu khảo sát nghiên cứu của các tổ chức có uy tín. Một số bài phỏng vấn được
đăng tải trên mạng cũng được người viết sử dụng trong quá trình nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, người viết vận dụng những phương pháp nghiên cứu cụ
thể như:
- Phương pháp thống kê được vận dụng trong việc thống kê ra các phim quảng
cáo, đạo diễn làm quảng cáo, những thành tựu của phim quảng cáo trên truyền hình Việt
Nam.
- Phương pháp đối chiếu so sánh được vận dụng trong quá trình so sánh những
đặc trưng của phim truyện với phim quảng cáo. Dưới góc nhìn của người làm điện ảnh,
phương pháp so sánh đối chiếu sự giống và khác nhau trong mỗi thể loại phim để từ đó
tìm ra đặc trưng riêng của phim quảng cáo trên truyền hình.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp – đánh giá được vận dụng xuyên suốt các
chương vừa mang tính khách quan, lại vừa có ý kiến riêng của người viết.
5. Ý nghĩa đóng góp của đề tài
Đã có nhiều sách của nước ngoài viết về quảng cáo, những cách định vị và chiếm
lĩnh trên thị trường. Nhưng tài liệu viết về phim quảng cáo dựa trên nền tảng kiến thức
về điện ảnh, truyền hình, kinh doanh, tâm lý tiêu dùng và văn hoá thì đây là đề tài khá
mới mẻ.
Đề tài nhìn nhận và đánh giá một cách khách quan về thực trạng phim quảng cáo
trên truyền hình hiện nay đồng thời đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng phim
quảng cáo trên truyền hình.
Người viết mong muốn luận văn khi hoàn thành sẽ trở thành một tài liệu tham
khảo hữu ích cho những nhà kinh doanh trong việc tìm ra những cách thức quảng bá
thương hiệu và sản phẩm, cho những người muốn thử sức vào nghề quảng cáo và đặc
biệt cho những sinh viên điện ảnh, truyền hình muốn thử sức với một thể loại phim mà
ở đó, có sự vận dụng tối đa ngôn ngữ điện ảnh – truyền hình.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, phần nội dung của
luận văn gồm có 3 chương:
Chương I: VAI TRÒ CỦA QUẢNG CÁO TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
Chương II: ĐẶC TRƯNG PHIM QUẢNG CÁO VÀ CÁC THỂ LOẠI QUẢNG CÁO
TRÊN TRUYỀN HÌNH
Chương III: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHIM
QUẢNG CÁO TRÊN TRUYỀN HÌNH CỦA VIỆT NAM
PHẦN MỞ ĐẦU
Chương I
VAI TRÒ CỦA QUẢNG CÁO TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1.1. Quảng cáo - Những khái niệm
Những năm gần đây, “Quảng cáo” đã trở thành cụm từ khá thông dụng, phổ biến
trên các phương tiện thông tin đại chúng. Quảng cáo là một phần của hoạt động kinh
doanh, góp phần thúc đẩy và mở rộng thị phần của mỗi doanh nghiệp.
Có rất nhiều khái niệm về quảng cáo:
Ở Mỹ, đất nước hùng mạnh đứng đầu thế giới về kinh tế, nơi quảng cáo đã trở
thành một ngành công nghiệp, theo Hiệp hội quảng cáo Mỹ (American Advertising
Association), một hiệp hội quảng cáo lâu đời và uy tín nhất trên thế giới,“Quảng cáo
là hoạt động truyền bá thông tin, trong đó nói rõ ý đồ của chủ quảng cáo, tuyên
truyền hàng hoá, dịch vụ của chủ quảng cáo trên cơ sở có thu phí quảng cáo,
không trực tiếp nhằm công kích người khác”.
Philip Kotler, một trong những cây đại thụ trong ngành Marketing nói chung
và ngành quảng cáo nói riêng trên thế giới lại đưa ra những khái niệm khác nhau về
quảng cáo. Trong cuốn sách “Marketing căn bản” ông định nghĩa: “Quảng cáo là
những hình thức truyền thông không trực tiếp, được thực hiện thông qua những
phương tiện truyền tin phải trả tiền và xác định rõ nguồn kinh phí”[19, tr. 376]
Trong giáo trình “Quản trị Marketing” (Marketing Management), của mình,
Philip Kotler lại đưa ra một khái niệm khác về quảng cáo: “Quảng cáo là một hình
thức trình bày gián tiếp và khuyếch trương ý tưởng, hàng hoá hay dịch vụ được
người bảo trợ nhất định trả tiền.” [20, tr. 678]
Một cách đơn giản hơn, theo Giáo trình nguyên lý Marketing của trường Đại
học Ngoại Thương, có viết: “Quảng cáo là quá trình truyền tin có định hướng tới
người mua để kích thích họ dẫn đến hành động mua những sản phẩm dịch vụ mà quảng
cáo đã giới thiệu và để xuất.”[4, tr.108]
Theo pháp lệnh về quảng cáo số 39/ 2001 PL- UBTVQH10 ban hành ngày 16
tháng 11 năm 2001, quy định: “ Hoạt động quảng cáo bao gồm việc giới thiệu và
thông báo rộng rãi về doanh nghiệp, hàng hoá, dịch vụ, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi,
biểu tượng theo nhu cầu hoạt động của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ”
Hay trong giáo trình “Nghiệp vụ quảng cáo và tiếp thị”, Quảng cáo được định
nghĩa như sau: “ Quảng cáo là dịch vụ kinh doanh thông tin mang tính phi cá nhân về
sản phẩm (hàng hoá hay dịch vụ) hay ý tưởng do bên thuê mua thông báo qua các
phương tiện thông tin đại chúng nhằm thuyết phục hay ảnh hưởng tới hành vi của một số
đối tượng nào đó”.[14, tr.7]
Quảng cáo không chỉ giới thiệu về sản phẩm mà còn đưa ra những triết lý, lập
trường của chủ doanh nghiệp để củng cố thương hiệu của doanh nghiệp.
Rất nhiều khái niệm về quảng cáo được đưa ra, nhưng có thể khái quát chung
về quảng cáo như sau:
- Quảng cáo là một hoạt động tốn tiền
- Quảng cáo dựa vào phương tiện trung gian (báo, đài, Poster ngoài trời…)
- Quảng cáo là để loan báo, chào mời về một sản phẩm hay dịch vụ.
- Quảng cáo do người thuê quảng cáo có danh tính rõ ràng.
Tuy nhiên, bên cạnh những khái niệm về quảng cáo gắn với hình thức kinh
doanh thì quảng cáo ngày nay còn đề cập đến những chủ đề có tính công ích, phi lợi
nhuận. Đó là những quảng cáo tuyên truyền cho một chiến dịch có ích cho cộng đồng,
hướng đến một xã hội tốt đẹp hơn như những chiến dịch: tiêm chủng vacxin phòng
ngừa bệnh cho trẻ em; Chiến dịch nước sạch, vệ sinh môi trường; Chiến dịch nói
không với ma tuý; Nói không với tiêu cực; hiến máu nhân đạo; ủng hộ người nghèo…
1.2 Vai trò của quảng cáo:
Vai trò Marketing: truyền thông marketing đạt được nhờ 4 phương tiện: Quảng
cáo (advertising); khuyến mãi (sales promotion); Quan hệ công chúng (public relations);
chào hàng (personal selling). Quảng cáo là một hoạt động mang tính xúc tiến thương
mại, kích thích tiêu dùng, giúp doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh chóng và kích thích sản
xuất.
Vai trò nhận thức: Với những thông tin về sản phẩm, dịch vụ, quảng cáo mang
đến sự hiểu biết cho người mua về chất lượng những sản phẩm / dịch vụ mới, hay sản
phẩm/ dịch vụ tốt hơn. Quảng cáo có tác dụng mở rộng tri thức, nâng cao mức độ suy
nghĩ, phán đoán của người tiêu thụ, giúp người ta quyết định mua món hàng nào và chỉ
dẫn cho công chúng - người tiêu dùng cách sử dụng những sản phẩm/ dịch vụ mới mẻ
đó.
Vai trò kinh tế: với sự phát triển không ngừng, ngày nay quảng cáo đã và đang
hình thành nên công nghiệp quảng cáo. Ngành công nghiệp này mang đến nhiều thông
tin cho người tiêu dùng về sự lựa chọn. Quảng cáo kích thích đối thủ cạnh tranh, tăng
năng suất lao động, đẩy mạnh cung - cầu, tăng trưởng doanh thu cho doanh nghiệp và
tạo nguồn kinh tế không nhỏ cho các phương tiện thông tin đại chúng hoạt động.
Vai trò chính trị - xã hội: các nhà nghiên cứu kết luận rằng truyền thông đại
chúng được tạo dựng theo nguyên tắc xã hội. Quảng cáo mang đến những hình ảnh,
thông điệp lành mạnh như: chống bạo lực, tránh lãng phí, bảo vệ trẻ em, bảo vệ môi
trường, bảo vệ sức khoẻ, thoả mãn ước mơ…cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
1.3. Nhiệm vụ- Mục đích của quảng cáo:
Quảng cáo có mục đích lớn hơn mục đích giải trí. Đó là mục đích chinh phục
khách hàng, kích thích việc mua sắm. Để làm được việc đó, phim quảng cáo phải hứa
hẹn với khán giả - người tiêu dùng những lợi ích mà sản phẩm mang lại khi họ sử dụng
nó.
Tuy nhiên, nếu chỉ đưa ra các mẩu quảng cáo mang tính thông báo thông tin về
sản phẩm, khán giả sẽ không mấy quan tâm. Họ cần những gì bắt mắt, thu hút ngay từ
ánh nhìn đầu tiên. Và vì thế, nó là nhiệm vụ của Copywriter - người viết kịch bản quảng
cáo.
Dupont, giáo sư nổi tiếng tại Khoa truyền thông Đại học Ottawa, Canada, tác giả
cuốn sách: “1001 ý tưởng đột phá trong quảng cáo” đã viết: “ Như một nguyên tắc
cơ bản, quảng cáo luôn cam kết về một sự hài lòng nhất định. Mẩu quảng cáo phải đáp
ứng cho một nhu cầu hay một ước muốn nào đó của người tiêu dùng. Một mẩu quảng
cáo phải luôn xoáy vào động cơ mua hàng cụ thể.” Người làm quảng cáo phải tìm ra
được động cơ khiến người tiêu dùng mua sản phẩm đó. [15, tr.12]
Mục đích của quảng áo dựa trên nguyên tắc: AIDCA
+ Attention: Lôi cuốn sự chú ý
+ Interest: Cuốn hút
+ Desire: Mong muốn
+ Confidence: Sự tin tưởng
+ Action: Hành động
Nguyên tắc AIDCA có thể được lý giải như một quy luật hệ quả: Bằng việc lôi
cuốn sự chú ý của người xem, quảng cáo cuốn hút khán giả bằng hình ảnh, âm thanh, lời
mời mọc hấp dẫn khiến cho người tiêu dùng tin và mong muốn có được sản phẩm như
trong quảng cáo. Và để đáp ứng được mong muốn đó, họ hành động bằng việc mua
hàng. Khi đó, quảng cáo đã hoàn thành sứ mệnh của nó.
Tuy nhiên, quảng cáo không phải lúc nào cũng chỉ phục vụ cho mục đích kinh
doanh, có loại hình quảng cáo phi lợi nhuận, hướng tới tuyên truyền, vì lợi ích cộng
đồng. Quảng cáo này có ý nghĩa như một lời kêu gọi mọi người có lối sống tích cực,
cùng tham gia những hoạt động vì sự phát triển của cộng đồng. Quảng cáo này thường
được “đặt hàng” bởi một tổ chức, một dự án an sinh xã hội.
1.4. Các hình thức quảng cáo
Trong xã hội bùng nổ thông tin ngày nay, chỉ trong một thời gian ngắn, người ta
muốn thu lượm được nhiều thông tin nhất. Quảng cáo cũng phải làm nhiệm vụ đó.
Trong khuôn khổ một bài báo, một bức ảnh, hay một trang web, hay nhanh như một
phim quảng cáo, lượng thông tin phải làm sao đủ cho người xem hiểu điều mà nhà sản
xuất muốn truyền tải và kích thích họ mong muốn sở hữu sản phẩm hoặc dịch vụ đó.
Có rất nhiều cách để phân loại loại hình quảng cáo, có thể phân chia theo môi thể
quảng cáo như sau:
- Quảng cáo dân gian, truyền miệng: Cách quảng cáo từ thời xưa khi đài báo
chưa phát triển. Ngày nay, hình thức quảng cáo này vẫn còn tồn tại ở dạng bán hàng
rong. Loại hình quảng cáo này thường hướng tới đối tượng bình dân. Nó là tiếng rao
bán hàng: bán báo, mua bán đồ cũ, đồ ăn… Chiếm được khách hàng bởi sự thân thuộc,
dân giã.
- Quảng cáo báo in, báo viết: “ Báo ngày mang tính chất thông báo tốt hơn
Truyền hình và có khả năng tiếp cận độc giả có thu nhập khá. Cho phép bạn diễn tả một
cách đầy đủ các tính năng của sản phẩm. Cho phép cung cấp các thông tin một cách chi
tiết về giá cả, kích thước, chất lượng, cỡ…để khách hàng tham khảo” [15, tr.18]
- Quảng cáo bằng tranh ảnh ngoài trời: nhắm vào các đối tượng khách hàng
hay di chuyển. Các biển quảng cáo như những thư viện hình ảnh di động về sản phẩm
dưới nhiều hình thức đa dạng và tiếp cận được nhiều đối tượng khách hàng khác nhau.
[15, tr.19]
- Quảng cáo phát thanh: Radio như một cầu nối cá nhân cho phép doanh
nghiệp tiếp cận những nhóm đối tượng có những đặc tính cụ thể và mang lại hiệu quả
nhanh chóng. Dạng quảng cáo này mang đến nhiều thông tin, giá thành sản xuất thấp.
- Quảng cáo trên truyền hình: “Truyền hình là phương tiện đa giác quan được
ưa chuộng. Là phương tiện tốt nhất để quảng cáo tính năng của sản phẩm” [15, tr.18]
- Quảng cáo trên web: Web là phương tiện mang tính tương tác cao. Cho phép
nhà quảng cáo nắm được số lượng người truy cập 1 cách chính xác và tiếp cận được các
đối tượng trẻ và thường xuyên cập nhật tin tức. Phương tiện này đang cho thấy xu
hướng phát triển đầy tiềm năng của nó. [15, tr.19]
- Quảng cáo trên phim: là hình thức đưa hình ảnh sản phẩm vào nội dung một
bộ phim bằng cách dùng nhân vật sử dụng sản phẩm được quảng cáo. Cách quảng cáo
này gián tiếp, tế nhị hơn các loại hình quảng cáo khác.
1.5. Khái niệm về người viết kịch bản quảng cáo.
Ngày nay, khi ngành quảng cáo đã trở nên phổ biến, nghề quảng cáo đã và đang
trở thành một nghề được nhiều người trẻ chọn. Từ nhà thơ, nhà văn, nhạc sỹ, đạo diễn,
nhà biên kịch… cho đến những người làm báo, làm kinh doanh, bất kỳ ai cũng có khả
năng làm nghề viết kịch bản quảng cáo. Chỉ cần họ có khả năng sáng tạo.
Nghề viết kịch bản quảng cáo được gọi bằng danh từ: Copywriter. Judith
Charles, giám đốc công ty truyền thông sáng tạo Judith K. Charles đưa ra khái niệm
Copywriter là “Người bán hàng đằng sau chiếc máy chữ”.
Thật vậy, nếu nói rằng viết kịch bản quảng cáo là một nghề dành cho người
sáng tác thì chưa đủ. Nếu nói rằng viết kịch bản quảng cáo là nghề dành cho người làm
kinh doanh cũng chưa hẳn đúng. Nếu như nhà văn, nhà thơ sáng tác nên những tác
phẩm văn học để trải lòng mình, nếu người làm điện ảnh làm phim để giải trí, người
nhạc sỹ sáng tác nên những tác phẩm để mọi người ưa thích, nhiều người làm nghệ
thuật để tìm kiếm giải thưởng, thì người viết kịch bản quảng cáo có mục đích rõ ràng,
đó là để bán hàng.
Nhiệm vụ của một người viết kịch bản quảng cáo là sáng tạo ý tưởng, sáng tạo
câu khẩu hiệu (slogan) và viết kịch bản dựa trên ngôn ngữ điện ảnh. Đây là công việc
đầu tiên của quá trình sản xuất phim quảng cáo.
1.6. Khái niệm về phim quảng cáo trên truyền hình.
Phim quảng cáo (hoặc còn gọi hẹp là Quảng cáo truyền hình , theo thuật ngữ
tiếng Anh là television advertisement hay television commercial - Viết tắt TVad hay
TVC) là một dạng phim hay tiết mục được dàn dựng sản xuất và phải trả phí bởi những
tổ chức, hội đoàn muốn quảng bá một thông điệp nào đó, thường là để quảng cáo hay
khuyến mại một món hàng nào hoặc để cổ động, phổ biến điều gì đó. [22]
Quảng cáo trên truyền hình là một phương pháp truyền tin từ người thuê
quảng cáo qua phương tiện truyền hình đến nhiều người.
Quảng cáo trên truyền hình là một loại hình quảng cáo khá phổ biến được
sử dụng từ những năm 50 của thế kỉ XX. Do là loại hình quảng cáo hiệu quả nên,
quảng cáo trên truyền hình ngày càng phát triển. Cùng với sự thành công của ngành
công nghiệp truyền hình, các chương trình quảng cáo trên truyền hình đã trở thành
một phần không thể thiếu được trong đời sống hàng ngày của mọi người.
Ưu điểm của quảng cáo trên truyền hình:
Khi truyền hình ngày càng phát triển, kéo theo sự phát triển của ngành quảng cáo
trên truyền hình. Trong khi người đọc phải mất thời gian để đọc những trang báo quảng
cáo, phải dò tìm trên mạng những thông tin về sản phẩm dịch vụ, phải đi nhiều nơi mới
biết đến những quảng cáo ngoài trời, nhưng với quảng cáo trên truyền hình, người ta chỉ
cần ở nhà, chỉ trong thời gian ngắn chừng 30 đến 60 giây đã nắm bắt được thông tin về
một sản phẩm/ dịch vụ mới.
Với khả năng tổng hợp các loại hình quảng cáo: quảng cáo báo chí, tranh ảnh,
phát thanh,… quảng cáo trên truyền hình đáp ứng nhu cầu nghe, nhìn của người xem.
Nhiều quảng cáo trên truyền hình có nội dung âm thanh đầy đủ nội dung được các
doanh nghiệp sử dụng để phát trên đài phát thanh mà người nghe vẫn hiểu hết tính năng
của sản phẩm/dịch vụ được quảng cáo.
Bằng cách xen kẽ vào các chương trình truyền hình như phim ảnh, gameshows,
thời sự, bản tin, quảng cáo trên truyền hình là cách khiến cho người xem tiếp nhận
quảng cáo một cách thụ động mà hiệu quả.
Trên thế giới, phim quảng cáo thực sự đem lại khoản thu siêu lợi nhuận cho các
đạo diễn kỳ cựu. Có thể kể đến những cái tên đạo diễn nổi tiếng như: Ridley Scott –
người quảng cáo cho chiếc máy vi tính đầu tiên Macintosh của Apple. Michael Bay là
đạo diễn của bộ phim nổi tiếng Transformers (Rô bôt biến hình), nhưng đối với công ty
quảng cáo Victorias Secret thì Bay đã được hãng biết đến như nhà quảng cáo lỗi lạc cho
sản phẩm đồ lót của hãng. David Lynch làm phim quảng cáo cho công cụ xét nghiệm
thai nghén Clear Blue Easy. Ông đưa chất kỳ lạ hơn là nghệ thuật vào phim quảng cáo.
Đạo diễn Mike Figgis được biết đến với bộ phim Sopranos đã có một quảng cáo đồ lót
thành công cho thương hiệu Agent Provocateur. Clip video quảng cáo với siêu mẫu
Kate Moss mang tính nghệ thuật nhiều hơn là thương mại. Đạo diễn Spike Lee làm
nhiều quảng cáo cho hãng sản xuất giầy thể thao Nike với cầu thủ Michael Jordan là
nhân vật chính. Michael Mann - Đạo diễn của các bộ phim nổi tiếng như The Heat và
Public Enemies rất thuần thục trong những cảnh quay hành động. Video quảng cáo cho
sản phẩm Nike Football đã cho thấy tài năng của ông. Năm 2001, đạo diễn Ang Lee
(phim Crouching Tiger, Hidden Dragon) đã đưa chất hành động, võ thuật vào video
quảng cáo cho thẻ thanh toán Visa với sự tham gia của diễn viên Chương Tử Di. [3]
Ở Việt Nam, làm phim quảng cáo trên truyền hình là một nghề mới thu hút giới
trẻ đặc biệt là với những người làm phim. Phim quảng cáo trở thành một “gia vị” không
thể thiếu cho “bữa tiệc” truyền hình thêm thịnh soạn.
1.7. Chức năng của thể loại phim quảng cáo trên truyền hình:
Như chính tên gọi của mình: television commercial – được hiểu như một tiết mục
truyền hình thương mại. Bên cạnh giá trị thương mại đó, thì phim quảng cáo cũng có
hình thức như một bộ phim bởi nó sử dụng những yếu tố ngôn ngữ điện ảnh và truyền
hình. Nếu nói phim quảng cáo là một loại phim siêu ngắn, thì nó cũng hội tụ cả những
chức năng của một tác phẩm nghệ thuật. Tức là phim quảng cáo cũng mang trong mình
những chức năng của văn học nghệ thuật.
Đầu tiên, phim quảng cáo mang đến chức năng nhận thức và phản ánh thời đại.
Cũng giống như một tác phẩm nghệ thuật, phim quảng cáo cung cấp tri thức, sự hiểu
biết đến cho con người, phản ánh được lịch sử cũng như thời đại, bao gồm cả văn hoá,
kinh tế, xã hội. Không thể phủ nhận nhiều phim quảng cáo đã tái hiện được một giai
đoạn lịch sử của dân tộc, truyền thống văn hoá của dân tộc được lưu truyền ngàn đời.
Phim quảng cáo còn mang đến những thông điệp giúp con người tự nhận thức chính
mình và cuộc sống. Có lẽ với nhiều người, chỉ đến khi xem quảng cáo, người ta mới
biết cấu tạo của làn da, nguyên nhân dẫn đến việc sâu răng, hay một quá trình chưng cất
nên loại bia hảo hạng. Chỉ khi được xem quảng cáo, mới kích thích những nhu cầu
dường như bị lãng quên trong cuộc sống bận rộn của mỗi người đó là những nhu cầu
chăm sóc sức khoẻ, làm đẹp bản thân, hay hưởng thụ cuộc sống. Những thông điệp như:
“Cuộc sống là không chờ đợi” (Quảng cáo dầu gội Sunsilk) hay “Làm điều mình yêu
thật thích” (Diana), hay “Tự tin để gần nhau hơn” (singum Doublemint) đã không chỉ
còn là một khẩu hiệu cho một nhãn hàng, mà nó còn như những phương châm sống cho
không ít bạn trẻ.
Với phim quảng cáo, có lẽ chức năng thẩm mỹ là chức năng không thể thiếu. Điều
đầu tiên lưu lại trong tâm trí khán giả truyền hình, đó chính là những hình ảnh ấn tượng của
phim quảng cáo. Bởi thế, những phong cảnh thiên nhiên kỳ vĩ, những dáng vóc hoàn hảo,
những nụ cười tuyệt đẹp, những làn da ngà ngọc, những mái tóc nhung huyền…tất cả đều trở
nên hoàn mỹ nhờ những cảnh quay tỉ mỷ, những sự chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng của bộ phận
thiết kế, hoá trang, hoạ sỹ, và sự tinh vi đến từng chi tiết của bộ phận làm kỹ xảo. Tất cả, để
làm nên chừng 30 giây với những hình ảnh “đẹp từng xentimet”. Bởi vậy, người ta mới có
câu cửa miệng: “Đẹp như quảng cáo” là vì thế.
Phim quảng cáo không đơn thuần chỉ phục vụ cho việc kinh doanh, mà ở đó, còn
hàm chứa cả những bài học về cuộc sống mang tính giáo dục. Phim quảng cáo có tác
dụng khơi gợi tình cảm, nuôi dưỡng tâm hồn, niềm tin cho con người, giúp con người tự
hoàn thiện nhân cách và nhân lên tình nhân ái. Đó là những chiến dịch quảng cáo mang
tính cộng đồng, phi lợi nhuận nhằm chia sẻ với những hoàn cảnh khó khăn trong xã hội,
bảo vệ những người yếu đuối như phụ nữ và trẻ em, hay những quảng cáo mang thông
điệp ngợi ca tình cảm gia đình, răn dạy về tình yêu và lòng chung thuỷ vợ chồng, sự
hiếu lễ chu đáo với mẹ cha. Một bộ phận khán giả ham mê xem phim quảng cáo đó là
trẻ em. Tuy không hướng tới bán hàng cho khách hàng là trẻ nhỏ, nhưng những nhà làm
phim quảng cáo đã biết đánh vào tâm lý phụ huynh – những người mua hàng. Nhiều
phim quảng cáo lấy được thiện cảm của những người làm cha làm mẹ bởi ở đó có
những bài học về cuộc sống dành cho con trẻ. Là bài học giúp đỡ người nghèo trong
phim quảng cáo Cocacola Tết. Là bài học anh em thì phải biết sẻ chia trong phim quảng
cáo bánh Chocopie. Là bài học biết giúp đỡ cha mẹ làm việc nhà trong phim quảng cáo
Cansua 3, hay những bài học về lòng yêu thương động vật, bảo vệ môi trường… Tất cả
những bài học ấy từ phim quảng cáo đã mang lại một giá trị nhân văn sâu sắc.
Có thể nói phim quảng cáo chính là cầu nối giúp nhà sản xuất và người tiêu dùng
gần nhau hơn. Đó chính là chức năng giao tiếp của phim quảng cáo. Thông qua phim
quảng cáo để người tiêu dùng thấy được những đồng cảm của nhà sản xuất với những
vấn đề của người tiêu dùng và ngược lại, người tiêu dùng cũng có những nhận thức về
sản phẩm.
Bên cạnh những vai trò trên, quảng cáo cũng giống như văn học, còn có vai trò
phản ánh thời đại và tính dự báo.
Nếu muốn biết kinh tế một khu vực, một vùng miền, hay một đất nước đang
phát triển như thế nào, người dân đang phải đối mặt với những vấn đề gì về kinh tế,
sức khoẻ, môi trường hay đang được hưởng thụ những loại hình dịch vụ cao cấp,
những sản phẩm chất lượng ra sao, thì hãy xem quảng cáo. Quảng cáo cho thấy những
ham muốn, nhu cầu của xã hội thông qua sản phẩm mà nó giới thiệu. Mang đến một
lối sống, lối tiêu dùng hay hưởng thụ thời thượng mà người tiêu dùng đã sử dụng hoặc
đang hướng đến.
Quảng cáo còn mang tính dự báo trước những chuyển biến xã hội. Khi xã hội
phồn vinh, bình đẳng giới, quảng cáo mang đến những hình ảnh dự báo cho một tương
lai tốt đẹp. Ngược lại, khi kinh tế xã hội đứng trước sự suy thoái, thì quảng cáo cũng đi
trước đón đầu, mang đến những loại sản phẩm dịch vụ có tác dụng trấn an, phòng
ngừa những vấn đề về bệnh tật, rủi ro về kinh tế, hay những bất trắc từ thiên nhiên như
ô nhiễm môi trường, thảm hoạ thiên nhiên. Từ những vấn đề xã hội đang và sắp đối
đầu, thì quảng cáo cũng tự nó tạo ra những tín hiệu báo trước. Vì thế, thông qua quảng
cáo, có thể thấy được sự hưng thịnh của nền kinh tế, xã hội.
1.8. Lịch sử phát triển ngành quảng cáo trên thế giới:
Theo Từ Điển Bách Khoa Vương Quốc Anh (Encyclopedia Britanica), 1000 năm
trước Công Nguyên, ở vùng đồng bằng Mesopotamia, khu vực Lưỡng Hà, đã có bảng
quảng cáo bằng đất nung đặt tiền thưởng cho ai tìm được một nô lệ bỏ trốn. Ở Châu Á ,
Trung Hoa dường như đã biết đến quảng cáo từ thời Tây Chu (thế kỷ XI đến 771 trước
công nguyên) qua những hội chợ đầu tiên (Hong Cheng, trong Jones, J.PH,2000). Hàn
Phi Tử (280-233TCN) đã nói đến lá tửu kỳ chiêu khách của một anh hàng rượu nước
Tống đời Xuân Thu Chiến Quốc. Dù sao, mãi 40 năm sau, quảng cáo mới lên khuôn
trên tờ La Gazette (1631) của báo Théophraste Renaudot. Ở Anh, quảng cáo đã xuất
hiện đầu tiên ngày 26/5/1657, thông báo cho mọi người hiệu quả của cà phê mà thời ấy
người ta tin là linh dược trị bá chứng.
Quảng cáo đã trở thành một hoạt động kinh tế quan trọng trong nền kinh tế thị
trường. Lịch sử của quảng cáo hiện đại Âu Mỹ gắn liền với nhân tố như sự hình thành
của hệ thống kinh tế tư bản, cuộc Cách mạng Kỹ nghệ vào thế kỷ XVIII ở Anh, sự hưng
thịnh của những phương tiện truyền thông đại chúng mà khởi thuỷ của nó là phát minh
về điện tín năm 1844.
Các tác giả - chuyên gia về quảng cáo chia quảng cáo Mỹ ra làm nhiều thời kỳ
- Thời tiền kỹ nghệ (trước 1800) quảng cáo xuất hiện trên các tập thông tin
(newsbook) tiền thân của nhật báo. Quảng cáo thời đó mới là phương tiện rao vặt và còn
chưa dính líu nhiều đến thương phẩm.
- Thời kỹ nghệ hoá (1800-1875), quảng cáo được đăng trên nhật báo (dailies).
Quảng cáo có mục đích nới rộng thị trường do hiện tượng tăng gia dân số và đô thị hoá.
Hãng quảng cáo đầu tiên (Volney Palmer) ra đời ở Philadelphia năm 1843.
- Thời kinh tế tiêu thụ (1875 – 1918) khi cơ cấu của ngành quảng cáo được
thành lập (với các hãng quảng cáo, các doanh nghiệp quảng cáo mà phần lớn xuất thân
từ đám con cái các nhà truyền giáo, cũng như các kỹ thuật gia quảng cáo) và thời điểm
đạo luật quy định về thương phẩm lành mạnh (Pure Food and Drug Act,1906) ra đời.
- Thời kinh tế hưởng thụ tiền khủng hoảng (1818 -1929) từ khi khoa học kỹ
thuật phát triển mạnh và sản phẩm đa dạng hoá. Quảng cáo nghiêng về mỹ thuật, thời
trang.
- Thời khủng hoảng kinh tế (1929 – 1941), quảng cáo đã trở thành đối tượng của
mọi dè bỉu và phản ánh mối lo âu của những người sống trong một nền kinh tế đang lâm
nguy.
- Thời thế chiến thứ hai và thập kỷ 50 (1941 – 1960) quảng cáo trước tiên phục
vụ cho nền kinh tế chiến tranh, sau đó phụng sự kinh tế tiêu thụ hậu chiến. Cùng với
nhạc rock, văn hoá tuổi trẻ (Youth Culture) và sự công khai hoá thị hiếu tính dục. Vô
tuyến truyền hình đã ra đời vào thời điểm này.
- Thời ý thức về hoà bình, tình yêu và sáng tạo (1960 – 1972), nước Mỹ náo
động vì phong trào đòi quyền sống của người da đen và phong trào chống chiến tranh
của Mỹ ở Việt Nam. Quảng cáo bước vào thời sáng tạo và ý thức về vai trò “văn hoá”
của mình.
- Những năm 70 của thế kỷ XX: Thời của vô độ và ích kỷ. Cùng lúc, phong trào
đòi kiềm chế những quá lố của quảng cáo và bảo vệ người tiêu dùng được phát triển
mạnh mẽ (với sự ra đời của nhóm ATC (Tranh đấu cải thiện truyền hình cho thiếu nhi
hay Action for Children’s Television) và sự thành lập FTC (Uỷ ban bảo vệ tự do Mậu
dịch hay Free Trade Commision) và NARB (Hội đồng quốc gia kiểm soát quảng cáo
hay Nationnal Advertising Review Board). Những năm 70 cũng chứng kiến sự phát
triển của ác phương tiện truyền thông mới như máy thu hình bằng băng từ VTR (Video
Tape Recorder), CATV (Cable Television hay Truyền hình cáp, đĩa Laser…)
- Những năm đảng Cộng Hoà cầm quyền (1980 – 1992) thời chính trị bảo thủ,
quảng cáo phản ánh ý thức hệ của chính quyền Reagan và Bush Sr. Đây là thời của
Informercial (Information + Commercial, tạm gọi là thương báo), bởi vì quảng cáo được
trình bày trong giờ tin tức thời sự với chủ tâm tận dụng những khâu giờ phát sóng ít tốn
tiền.
- Thời hiện đại (1993 cho đến nay), những phương tiện truyền thông mới (New
Media) và các mạng toàn cầu (World Wide Web) với khả năng giao lưu tương hỗ
(interactive) của nó nối được con người và môi thể (medium) đã làm thay đổi bộ mặt
của các cơ quan truyền thông. Đây cũng là thách thức của hình thức quảng cáo mới,
năng động, tương phản với hình thức quảng cáo đơn phương (con người thụ động trước
máy) của quảng cáo truyền hình.
Ở Nhật Bản, người ta tự hào vì đã biết đến quảng cáo từ trước thời Nara (710-
794) khi họ dùng những tấm bảng hiệu bằng gỗ để yết thị ngoài chợ (764). Theo
T.Yamaki, Hiraga Gennai(1728-1779) đã viết văn quảng cáo cho quán bán thịt lươn và
bột thuốc đánh răng trước cả những nhà viết quảng cáo Âu Mỹ như Honoré de Balzac
(Pháp); Bret Harte (Mỹ) hay Samuel sheperd (Mỹ). Nhưng dù sao vẫn theo T.Yamaki,
phải đợi đến 1861, dưới thời Minh trị Duy Tân, ở Nhật mới có quảng cáo trên tờ báo
(tiếng Anh) Japan Herald. Khoảng 1946-1959, quảng cáo truyền thanh và truyền hình
nối tiếp nhau ra đời. Thế vận hội Tokyo (1964) đánh dấu bước tiến vọt của kinh tế Nhật
và từ thời điểm đó, họ đã dần làm quen với những phương tiện truyền thông mới. Ngày
nay, tuy Internet không phải là điểm mạnh của họ vì nhiều lý do trong đó có lý do ngôn
ngữ, Nhật vẫn là một nước mà việc buôn bán trên mạng được phổ cập khá nhanh chóng.
Xã hội Nhật Bản đang thay đổi – và người tiêu dùng đã có những phản hồi ngay
tức khắc. Mặc dù chỉ đứng vị trí thứ 5 trong danh sách các tổ chức quảng cáo lớn nhất
thế giới với lợi nhuận ròng trên 2tỷ USD/năm, song tập đoàn Dentsu, Nhật Bản đã để lại
cho chúng ta một cái nhìn về tương lai của quảng cáo. Masako Okamura là một trong
những nữ giám đốc sáng tạo đầu tiên của Dentsu. Bà cho rằng mười năm trước đây có
một xu hướng giảm dần về thời lượng xem tivi vào mỗi buổi tối. Nhưng tivi đã thay đổi.
Giờ đây, mọi người có thể xem tivi trên máy tính xách tay hoặc điện thoại di động. Vì
vậy, cộng đồng cũng chứng kiến một sự thay đổi của các quảng cáo thương mại theo sự
phát triển của các phương tiện truyền thông.
Okamura khẳng định: “Quảng cáo sẽ trở thành một dạng văn hoá mới trong mỗi
quốc gia. Tương lai, nó hầu như không khác biệt mấy với các phương thức giải trí khác”
Xã hội chúng ta đang sống là xã hội thông tin cao độ. Lịch sử kinh tế nhân loại
bắt đầu bằng thời đại nhặt nhạnh và săn bắn trước khi phát hiện ra được khả năng sinh
thực của đất đai hoa màu. Sau khi kinh tế nông nghiệp suy thoái rõ ràng từ năm 1900,
xã hội hiện đại thông qua thời đại kinh tế kỹ nghệ (kéo đến 1960) để bước dần vào thời
đại thông tin (kể từ 1940) và dịch vụ (kể từ 1965) (F.Balle trích dẫn M.Porat và
A.Moles). Phải hiểu chữ “thông tin” ở đây theo nghĩa rộng là thông tin trí tuệ
(knowledge) chứ không phải thông tin thời sự (News). Những phương tiện truyền thông
đại chúng và truyền thông cá nhân giúp trực tiếp cho các hoạt động thông tin phát triển,
gián tiếp thúc đẩy sự giao lưu kinh tế, văn hoá, xã hội, giữa người và người.
Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy rất nhiều những đồ vật thể hiện ngay từ xa xưa
con người đã có những manh mún đầu tiên của hoạt động quảng cáo. Thời cổ đại và
trung cổ, người ta đã biết khắc tên mình, tên chủ lên những dụng cụ, lọ hoa… mang bày
bán. Người ta cũng đã biết viết thông báo về những sự kiện nào đó liên quan đến nhà
thờ, chuyến thăm viếng của quan lại, việc xử án… để thu hút đám đông. Tuy nhiên,
hình thức quảng cáo khi đó vẫn là truyền miệng.
Trong thời kỳ trung cổ, cuốn sách đầu tiên đăng các thông tin quảng cáo là cuốn
“Những tiếng kêu từ Pari” (Shouts of Pari) vào thế kỷ XIII), các quảng cáo miệng còn
được in trong cuốn sách “Những tiếng gọi từ Luân Đôn” ((Shouts of London) xuất bản
năm 1608.
Ở Nga, vào thế kỷ XVIII cũng đã biết đến quảng cáo bằng một bức tranh mang
hình ảnh : một chiếc bàn, ở trên đó đặt rất nhiều mỹ phẩm Pháp. Một quý bà đưa một
thỏi son lên mũi và đỏng đảnh hỏi: “Có phải của Pháp không nhỉ?” và nghe tiếng trả lời:
“Thưa bà, tươi nhất đấy!!!”
Nếu thời Hi Lạp cổ đại quảng cáo chỉ là việc viết tên đồ vật muốn bán lên cột,
lên cửa (thành Athens), dùng khúc cây tròn, có chốt ở giữa để đọc đến đâu thì quay tới
đó thì đến thế kỷ XVII đã xuất hiện áp phích in trên giấy, sơn quét lên vải hoặc lên
tường.
Theo thống kê của Tiến sỹ Mai Xuân Huy trong cuốn “Ngôn ngữ quảng cáo
dưới ánh sáng của ngôn ngữ giao tiếp”: Quảng cáo chính thức xuất hiện ở Đức và
Anh vào khoảng thế kỷ XVII, với đạo luật về quảng cáo đầu tiên năm 1614 ở Đức và tờ
báo tiếng Anh đầu tiên (Weekly news of London) năm 1622. Ở Mỹ, cuối thế kỷ XVIII,
BenFranklin đã trở thành cha đẻ của nghề quảng cáo ở xứ này( lúc đó còn là thuộc địa
của Anh), với tờ báo Gazette ra đời năm 1729, đạt số lượng phát hành và quảng cáo lớn
nhất trong xứ. [ 5, tr.50]
Quảng cáo truyền hình được phát sóng lần đầu tại Mỹ vào lúc 14:29 ngày 1
tháng 7 năm 1942 sau khi quảng cáo thương mại trên truyền hình được Ủy ban Thông
Tin Liên Bang (FCC hay Federal Communication Commission) chấp nhận trên nguyên
tắc. Đó là đoạn phim mà công ty Bulova Watch đã trả 9 đôla cho New York City NBC
chi nhánh của WNBT (hiện nay là WNBC) để có 20 giây lên hình trước một trận bóng
rổ giữa hai đội Brooklyn Dodgers và Philadelphia Phillies. Nó chỉ có cảnh đơn giản là
một chiếc đồng hồ Bulova nằm trên tấm bản đồ Mĩ, với một giọng nói đọc khẩu hiệu
của công ty "America runs on Bulova time!" (Tạm dịch: Nước Mỹ chạy bằng thời gian
của Bulova) [22]
Tới đầu thế kỷ XX, quảng cáo đã thực sự trở thành một ngành công nghiệp hùng
mạnh trên thế giới, ở các cường quốc quảng cáo như Mỹ, Anh, Pháp…
1.9. Lịch sử phát triển ngành quảng cáo ở Việt Nam
Cũng trong cuốn sách “Ngôn ngữ quảng cáo dưới ánh sáng của ngôn ngữ
giao tiếp”, Tiến sỹ Mai Xuân Huy đã ghi lại những bước chập chững đầu tiên của
ngành quảng cáo Việt Nam:
Quảng cáo ở Việt Nam xuất hiện khi xã hội có nhu cầu “mua” và “bán”. Hình
thức quảng cáo sơ khai nhất ở Việt Nam chính là những lời rao hàng của những người
bán hàng rong. Còn quảng cáo ở báo chí, có lẽ xuất hiện sớm nhất trên hai tờ báo xuất
bản ở Nam Kỳ là tờ Gia Định báo và tờ Nông Cổ mín đàm từ cuối thế kỷ XIX. Thời kỳ
này, quảng cáo ở Việt Nam là những lời rao đăng các thông báo về thuế, giá gạo, thay
đổi viên chức quan lại địa phương, tuyển người, tìm việc, phát mãi bán đấu giá tài sản
và một số thuốc chữa bệnh. Đầu thế kỷ XX, hàng chục tờ báo ra đời (khoảng chừng 30-
40 đầu báo trong cả nước) đã đăng tải rất nhiều quảng cáo. Mặt hàng và dịch vụ quảng
cáo lúc này phong phú hơn bởi các sản phẩm của nền công nghiệp từ Pháp sang như:
sữa, xà phòng, nước hoa, thuốc lá, rượu, vải vóc, quần áo, khách sạn, nhà hàng, quán
rượu, gạch máy và cả ô tô.
Tuy nhiên, mặt hàng quảng cáo thường trực nhất và nhiều nhất có lẽ là thuốc da
liễu để chữa bệnh phong tình của các nhà thuốc nổi tiếng như là Hồng Khê, Lê Huy
Bách, Bình Hưng, Trác Vỹ, Bảo An…Các tờ báo có dung lượng quảng cáo khá lớn thời
đó là: Đông Pháp, Đông Phương, Ngày nay, Thời báo, Tiếng Dân v.v.
Giai đoạn kháng chiến 1945-1954 xuất hiện báo chí cách mạng xuất bản bán
công khai, trong đó hầu như không có quảng cáo hàng hoá, dịch vụ mà chỉ có thông tin
về cuộc kháng chiến và khẩu hiệu kháng chiến. Trong khi đó trong các tờ báo công khai
trong vùng Pháp chiếm đóng, quảng cáo vẫn phát triển.
Từ khi hoà bình lập lại 1954 đến tận 1990, trên các báo chí ở miền Bắc Việt
Nam hầu như vẫn chưa có quảng cáo thương mại, tức quảng cáo các loại hàng hoá, dịch
vụ mà chỉ có thông báo hoặc nhắn tin, chủ yếu là các khẩu hiệu chính trị phục vụ cho
công cuộc chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Trong khi đó,
trên các tờ báo xuất hiện tại Sài Gòn thời kỳ Mỹ nguỵ chiếm đóng miền Nam (1954-
1975) vẫn có nhiều quảng cáo.
Từ sau khi Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới (chính xác là tới năm 1990),
trên các báo chí ở Việt Nam mới xuất hiện quảng cáo thực sự là quảng cáo đầu tiên, giới
thiệu thông tin về các hàng hoá dịch vụ bên cạnh các thông tin về chính trị - xã hội đã
có từ trước. Tuy nhiên, các quảng cáo trên vẫn chỉ là “bán công khai” dưới một cái tên
khiêm tốn là “thông tin kinh tế - xã hội”. Phải đến cuối năm 1993, trên một số tờ báo
lớn chuyên mục trên mới được đổi tên chính thức là “quảng cáo”, với số lượng còn rất
khiêm tốn trên các báo chí cùng với đài phát thanh và truyền hình trung ương và địa
phương. [5, tr.50- 51- 52]
Cho đến nay, quảng cáo đã có mặt trên hầu hết các phương tiện thông tin đại
chúng, báo, đài, truyền hình, tờ rơi, đường phố…Sự ra đời tất yếu của Hiệp hội quảng
cáo Việt Nam theo quyết định số 40/QĐ – BTCCB ngày 24/8/2001, với nhiệm vụ chính
của hiệp hội là xây dựng và phát triển các tổ chức dịch vụ, quan hệ đối ngoại, bộ máy
thường trực và điều hành công việc, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực quảng cáo. Ngành quảng cáo Việt Nam đang
chập chững những bước đầu tiên trên con đường của nó.
Tiểu kết:
Quảng cáo đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử loài người dưới dạng thô sơ cho
đến ngày nay, khi xã hội bước vào thời đại công nghiệp, bùng nổ thông tin, quảng cáo
ngày càng khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế xã hội. Là một hoạt động phục
vụ cho mục đích bán hàng góp phần thúc đẩy và mở rộng thị phần của mỗi doanh
nghiệp. Bên cạnh đó, cũng có những dạng quảng cáo phi lợi nhuận vì mục đích cộng
đồng. Tuy nhiên, khi nói đến phim quảng cáo trên truyền hình, người ta dùng từ TVC
viết tắt của cụm từ television commercial hiểu theo nghĩa đen là dịch vụ thương mại
truyền hình. Như thế, bản thân trong tên gọi gốc của phim quảng cáo đã có tính thương
mại ở đó rồi. Đây cũng chính là mục đích lớn nhất của quảng cáo. Quảng cáo đang ngày
càng khẳng định vai trò của mình trong đời sống kinh tế - xã hội. Không chỉ đảm nhiệm
vai trò Marketing, quảng cáo còn mang đến nhận thức cho người tiêu dùng, thúc đẩy
kinh tế phát triển, phục vụ cho mục đích chính trị, an sinh xã hội. Trong rất nhiều loại
hình quảng cáo, thì quảng cáo qua môi thể truyền hình là một hình thức có tính ưu việt
hơn cả nhờ sử dụng được tổng hợp các phương tiện ngôn ngữ biểu hiện của các loại
hình quảng cáo khác.
Ở Việt Nam, nghề làm phim quảng cáo trên truyền hình đang ngày càng nở rộ
và trở thành một nghề mới thu hút giới trẻ. Xen kẽ các chương trình truyền hình đã có
sự xuất hiện mật độ dày của quảng cáo, cho thấy một tốc độ tăng trưởng của nền kinh
tế, mặt khác, cho thấy các chương trình truyền hình nhờ có tài trợ quảng cáo mà ngày
một nâng cao về chất lượng nội dung cũng như hình thức, đã thu hút được lượng lớn
khán giả theo dõi truyền hình. Đây chính là sự tác động tương hỗ giữa phim quảng cáo
với các chương trình truyền hình.
Chương II
ĐẶC TRƯNG PHIM QUẢNG CÁO VÀ CÁC THỂ LOẠI QUẢNG CÁO TRÊN
TRUYỀN HÌNH
2.1. Đặc trưng phim quảng cáo:
Cũng giống như điện ảnh, quảng cáo trên truyền hình là nghệ thuật tổng hợp các
loại hình nghệ thuật, nó mang đầy đủ ngôn ngữ điện ảnh và truyền hình. Tức là ngoài
ngôn ngữ điện ảnh gồm ngôn ngữ hình ảnh chuyển động và âm thanh, thì ngôn ngữ báo
chí - truyền hình cũng được sử dụng trong phim quảng cáo.
Ngôn ngữ truyền hình: là "loại" ngôn ngữ tổng hợp, ngoài ngôn ngữ hình ảnh
cho khán giả truyền hình, nó còn mang ngôn ngữ viết cho độc giả báo in, có ngôn ngữ
nói cho thính giả phát thanh.
2.1.1. Vai trò của hình ảnh trong phim quảng cáo:
Hình ảnh là công cụ biểu cảm chủ yếu không chỉ trong nghệ thuật nhiếp ảnh và
điện ảnh, mà cả trong quảng cáo truyền hình. Sự ra đời của điện ảnh được đánh dấu
bằng việc có những hình ảnh chuyển động đầu tiên qua những thước phim ngắn của anh
em nhà Lumier từ máy chiếu phim ngày 28 táng 12 năm 1895 tại quán Grand café ở
Pari. Đến nay, nghệ thuật thứ bảy này đã tạo được một sự ảnh hưởng lớn và rộng khắp
đối với con người và xã hội bởi khả năng phổ quát mạnh mẽ của nó.
Bằng việc tạo ra các cỡ cảnh: Toàn cảnh, trung cảnh và đặc biệt là sự sáng tạo ra
cỡ cận cảnh, điện ảnh đã làm nên sự khác biệt so với nghệ thuật Sân khấu. Nếu như Sân
khấu với lối diễn đạt mang tính ước lệ, người xem chỉ có thể xem từ xa (tương đương
với cỡ toàn cảnh) thì điện ảnh mang đến cho người xem những hình ảnh chân thực từ
sắc thái biểu cảm của diễn viên, cho đến từng chi tiết với cỡ cận cảnh và đặc tả.
Phim quảng cáo trên truyền hình đã khéo léo tận dụng những sáng tạo đột phá ấy
của điện ảnh. Hình ảnh trong phim quảng cáo không những có tác dụng giúp người xem
nhận diện sản phẩm được quảng cáo mà còn miêu tả một cách tỉ mỉ đến từng chi tiết
của sản phẩm thông qua những hình ảnh cận cảnh, giúp người xem có thật nhiều thông
tin về sản phẩm.
“Trong hai thập niên qua, hình ảnh chính là nguyên nhân chính dẫn đến những
thay đổi trong thế giới quảng cáo. Các nghiên cứu cho thấy những mẩu quảng cáo nặng
về phần hình ảnh được các độc giả nhớ đến nhiều hơn những mẩu quảng cáo nặng về
phần chữ đến 41%. Có thể thấy, việc giao tiếp bằng hình ảnh rất quan trọng, nhất là
trong phim quảng cáo.” [15, tr.81]
Claude Cossette nói rằng hình ảnh mang đến hai thuận lợi so với phần lời trong
một mẩu quảng cáo: “Đầu tiên, ý nghĩa của hình ảnh di chuyển bằng vận tốc của ánh
sáng trong khi phần lời chỉ có thể hiểu được vận tốc của âm thanh. Hình ảnh có thể
mang kèm với nó những yếu tố mang tính biểu tượng hay tượng trưng mà nhờ đó ý
nghĩa của chúng có thể truyền đạt đến các đối tượng mà chúng được liên tưởng đến.”
[15, tr.82]
Tính ẩn dụ và biểu tượng của hình ảnh:
Vì chỉ xuất hiện trong 30 đến 60 giây với mỗi phim quảng cáo, nên hình ảnh
trong phim vừa phải đẹp mà vừa mang tính biểu tượng. Nó làm cho những ý tưởng
quảng cáo vượt qua giới hạn ngôn ngữ và biên giới giữa các quốc gia.
Đằng sau mỗi hình ảnh là những ý nghĩa sâu sắc mang tính ẩn dụ. Những cánh chim
én trong phim quảng cáo Coca-cola nhân dịp tết năm 2009 đã gây ấn tượng cho người
xem bởi hình ảnh xuyên suốt phim quảng cáo là đàn chim én vàng. Theo quan niệm của
người Việt Nam thì chim én là biểu tượng của mùa xuân, sau một mùa đông lạnh giá,
chúng trở về và đem đến cái Tết cùng những điều bất ngờ cho người dân, cùng với màu
đỏ truyền thống trong loạt bao bì Tết 2009 mà Coca-Cola đang giới thiệu trên thị
trường. Đàn én vàng và màu đỏ may mắn truyền thống của Coca-Cola chính là biểu
tượng của giá trị tinh thần, là lời chúc may mắn dành cho nhau trong dịp Tết.
Trong phim quảng cáo Việt Nam ariline, với hình ảnh cánh diều bay trên nền trời
xanh, và chú bé mục đồng tóc trái đào, với khuôn mặt hồn nhiên, rạng rỡ chạy thả
diều... Hình ảnh đó khẳng định một tiềm năng bay cao, bay xa của Việt Nam Airline,
tuy còn rất non trẻ so với các hãng hàng không thế giới.
Khi quảng cáo thực phẩm, các nhà quảng cáo thường sử dụng hình ảnh bữa cơm gia
đình đầm ấm. Hình ảnh bàn tay nắm lấy bàn tay thường được sử dụng mang ý nghĩa về
sự sẻ chia (Quảng cáo Mobifone); ánh mắt, nụ cười thường mang ý nghĩa về hạnh phúc;
trẻ thơ thường biểu trưng cho sự khởi đầu; hình ảnh buổi sáng thường biểu trưng cho
những điều mới mẻ; hình ảnh những nấc thang biểu trưng cho sự thăng tiến; hình ảnh
chim bồ câu mang đến cảm giác an lành của hoà bình, về lòng chung thủy… Tuỳ hoàn
cảnh mà mỗi hình ảnh có thể mang đến những ý nghĩa vô cùng sâu xa.
“Đối với ngành quảng cáo, ý nghĩa của hình ảnh chính là sự nhấn mạnh vào sự
quan trọng của phương pháp giao tiếp không dùng từ ngữ như: Các ý tưởng dùng hình
ảnh để diễn đạt và việc sử dụng các biểu tượng hình ảnh để vượt qua các giới hạn về
mặt ngôn ngữ và biên giới giữa các quốc gia” - Tổng giám đốc hiệp hội quảng cáo châu
Âu phát biểu. [15, tr.82]
Để tăng tính hiệu quả cho hình ảnh, cần những yếu tố:
Trước hết, khi nói đến hình ảnh quảng cáo, người ta nói đến vẻ đẹp duy mỹ. Duy
mỹ ở đây được hiểu như là một hình ảnh đẹp về hình thức. Thông thường, bất cứ loại
hình nghệ thuật nào cũng hướng tới cái đẹp. Điện ảnh không nằm ngoài mục đích ấy.
Một bộ phim thường mang đến trước hết là vẻ đẹp từ hình thức tức là đẹp từ diễn viên,
khuôn hình đến những cảnh quay. Và sau đó, đóng vai trò quan trọng hơn cả, một bộ
phim phải mang đến cho người xem những cảm xúc, những tình cảm tốt đẹp, vẻ đẹp ấy
thông qua nhân vật, qua tư tưởng của bộ phim, ấy là vẻ đẹp duy cảm.
Phim quảng cáo cũng mang đến một cảm xúc nào đó cho khán giả. Nhưng yếu tố
quan trọng hơn cả cho hình ảnh của một bộ phim quảng cáo, đó là vẻ đẹp duy mỹ. Bởi
thế, để quay một bộ phim quảng cáo, những người làm quảng cáo chuyên nghiệp phải
cất công tuyển chọn vô cùng kỹ lưỡng từ máy quay phim cho chất lượng hình ảnh tốt
cho đến diễn viên, đạo cụ, phục trang, bối cảnh… mọi thứ đều phải đạt được yếu tố đẹp
là trước tiên.
Hình ảnh trong phim quảng cáo phải có tác dụng trưng bày hình ảnh sản phẩm
một cách đẹp nhất có thể. Đó là hình ảnh sản phẩm khi sản phẩm đang được sử dụng,
hình ảnh của những người đang sử dụng sản phẩm, hình ảnh thể hiện những lợi ích khi
sử dụng sản phẩm.
Hình ảnh sản phẩm luôn là hình ảnh trung tâm trong các phim quảng cáo. Thường
sử dụng những cận cảnh hoặc cảnh đặc tả để mô tả sản phẩm. Hình ảnh sản phẩm được
lặp lại nhiều lần để người xem ghi nhớ được hình dáng, nhãn mác, mẫu mã sản phẩm,
thậm chí, trong nhiều phim quảng cáo còn hướng dẫn người tiêu dùng sử dụng sản
phẩm.
Phim quảng cáo phải mang nhân tố con người vào hình ảnh: đó là những hình ảnh
mang tính khuyến dụ như hình ảnh con người đang sử dụng sản phẩm. Hình ảnh này có
tác dụng thu hút người xem, dẫn dắt họ làm theo. Phương pháp hình ảnh này đặc biệt
hiệu quả với những quảng cáo thực phẩm hoặc đồ uống. Những phim quảng cáo Coca-
cola thường sử dụng hình ảnh các bạn trẻ uống Coca-cola một cách sảng khoái. Quảng
cáo thực phẩm: dầu ăn, nước mắm luôn thu hút người xem bởi hình ảnh gia đình đầm
ấm quanh mâm cơm ngon lành bởi sử dụng sản phẩm. Với những quảng cáo thời trang
cũng vậy, nhân vật cũng phải xuất hiện thật đẹp khi mang bộ trang phục trên người, chứ
không phải chỉ chiếu lên những chiếc áo treo trên mắc. Khi xem những quảng cáo ấn
tượng, hẳn khán giả là thanh niên, hay phụ nữ đều có nhu cầu sử dụng sản phẩm như
nhân vật trong phim quảng cáo đó.
Hình ảnh mang tính hư cấu: Nhân vật hoạt hình thu hút đối tượng khán giả nhỏ
tuổi. Bởi thế, các hãng sữa đã rất khôn ngoan khi sử dụng các hình ảnh hoạt hình như
siêu nhân, hiệp sỹ, các hình ảnh động vật ngộ nghĩnh để thu hút trẻ nhỏ. Hãng sữa
Vinamilk sử dụng hình ảnh những cô bò sữa nhảy múa rộn ràng với điệp khúc “Trăm
phần trăm”; Năm 2009, hãng sữa Hanoimilk lại thu hút trẻ nhỏ bằng những hình ảnh
ngộ nghĩnh về những em nhỏ chơi trò chơi dân gian thả diều, trốn tìm với nhân vật giọt
sữa IZZI được nhân cách hoá.
Hình ảnh mang tính chuyển động luôn thu hút người xem. Chỉ cần một thí dụ nhỏ:
ta thường thấy trẻ nhỏ rất thích xem phim quảng cáo. Bởi phim quảng cáo có màu sắc
phong phú, hình ảnh và âm nhạc thay đổi nhanh, bắt mắt. Những cốc bia đang tuôn trào
bọt trắng, những chiếc xe đang lao đi với vận tốc ánh sáng, những bước chân đang chạy,
những mái tóc óng ả tung bay… tất cả những hình ảnh mang tính chuyển động đó chắc
chắn thu hút hơn là những hình ảnh tương tự nhưng người và vật đều trong trạng thái
tĩnh.
Hình ảnh mang tính chuyển động không chỉ có tác dụng thu hút người xem mà
còn có tác dụng kích thích sự hứng thú để dẫn đến hành động mua hàng.
Hình ảnh phải ấn tượng, độc đáo, mới lạ là yếu tố quan trọng trong phim quảng
cáo. Quy tắc này được áp dụng cho suốt 30 giây quảng cáo. Từ 4 giây đầu tiên, hình ảnh
đã phải ấn tượng, “bắt mắt” người xem. Năm 2010, trên truyền hình, phim quảng cáo
ngân hàng Maritime bank đã rất thu hút người xem không chỉ bởi nhân vật trong phim
quảng cáo là người mẫu Bình Minh và Hoa hậu Mai Phương Thuý mà còn thu hút, gây
tò mò cho người xem bởi hành động của nhân vật Bình Minh: Sau khi chia tay Mai
Phương Thuý, Bình Minh bước đi mà vẫn giữ khư khư một vật gì đó trong ngực áo. Tay
anh luôn để trong trạng thái giấu tay trong áo, khiến mọi người trên đường phố, trong
thang máy được phen sợ hãi. Ai nấy cũng nghĩ rằng anh đang giấu súng trong người.
Bình Minh tiếp tục đến ngân hàng với tư thế ấy. Những người bảo vệ ngân hàng vội
vàng tiến đến định trấn áp “kẻ gian”, nhưng không ngờ, khi Bình Minh đưa tay ra, tay
anh không cầm súng, mà vẫn giữ một tư thế như khi anh mới nắm lấy ngón tay áp út
của Mai Phương Thuý. Logo mới của ngân hàng hiện lên cùng vòng tay vừa chiếc nhẫn
kim cương lấp lánh như khẳng định một giá trị vững bền mà ngân hàng mang lại cho
mọi người. Phim quảng cáo này không sử dụng lời thoại, chỉ bằng hình ảnh rất ấn tượng
đã đưa khán giả đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Và đó là một cách để khán giả nhớ
tới thương hiệu Maritimebank.
Nắm bắt được tâm lý người tiêu dùng thường hành động theo những nhân vật nổi
tiếng, những nhân vật đã có uy tín trong lời nói, các phim quảng cáo thường sử dụng
hình ảnh họ để thu hút, lôi kéo người xem. Hãng Pepsi sử dụng hình ảnh các cầu thủ, ca
sỹ nổi tiếng để làm nhân vật đại diện cho quảng cáo. Hiện nay, trên truyền hình, ta dễ
dàng bắt gặp các diễn viên, ca sỹ là nhân vật trong các phim quảng cáo: Đó là diễn viên
Hồng Vân trong phim quảng cáo xà phòng Lifebuoy; ca sỹ Mỹ Linh trong phim quảng
cáo mỳ Omachi; ca sỹ Hồng Nhung lại quảng cáo cho tivi Sony; Hay ca sỹ Hồ Ngọc Hà
quảng cáo cho hãng điện lạnh Toshiba; Hoa hậu Mai Phương Thuý và diễn viên - người
mẫu Bình Minh quảng cáo đại diện cho ngân hàng Maritime bank … Các công ty luôn
rất nhanh nhậy khi sử dụng nhân vật đại diện. Họ thường chọn những ca sỹ đang được
yêu thích, các diễn viên quen thuộc trong các phim truyền hình nhằm lôi kéo khán giả.
Dựa theo tâm lý người xem, tác giả Luc Dupont trong cuốn sách của mình cũng
đã nêu ra 11 hình ảnh mà khán giả thích xem:
1. Đôi vợ chồng mới cưới.
2. Em bé
3. Con vật
4. Người nổi tiếng
5. Người mặc những bộ trang phục lạ thường
6. Nhân vật có ngoại hình lạ lùng.
7. Những bức ảnh có thể kể ra một câu chuyện
8. Những khung cảnh lãng mạn
9. Các thảm hoạ
10. Các vấn đề đang được bàn tán
11. Hình ảnh lưu giữ lại những khoảnh khắc trong cuộc sống. [15, tr.109]
Nếu như đàn ông thường thích ngắm nhìn những hình ảnh về các con vật, đặc
biệt là những con vật to lớn thì phụ nữ lại chú ý nhiều hơn đến hình ảnh các em bé. Mọi
người đều thích nhìn hình ảnh người nổi tiếng.
Tuỳ vào quảng cáo từng loại sản phẩm, từng loại đối tượng khách hàng mà có
những hình ảnh phù hợp thoả mãn thị hiếu mỗi người.
2.1.2. Âm thanh:
Lời thoại / Lời bình:
Sự ra đời của Âm thanh trong phim có thể nói là một phát minh “vĩ đại” trong việc
hoàn thiện ngôn ngữ nghệ thuật điện ảnh. Âm thanh đã đóng góp một phần quan trọng
đưa những tác phẩm điện ảnh đến những thành công của nghệ thuật điện ảnh hoàn
chỉnh. Sự kết hợp của âm thanh cùng với sự di chuyển của hình ảnh đã tạo nên một cuộc
sống vô cùng sống động trên màn ảnh. Nó làm cho người thưởng thức được đi đến tận
cùng của các giác quan - nghe và nhìn. Người xem không chỉ thấy những gì diễn ra
trong khuôn hình mà còn biết được những gì diễn ra ngoài khuôn hình nhờ có sự chuyển
động của âm thanh. Khuôn hình được mở ra cả về chiều rộng lẫn chiều sâu nhờ có âm
thanh. Âm thanh dẫn dắt khán giả vào “môi trường của phim”, mang đến tiết tấu, nhịp
điệu cho bộ phim, cũng như những liên tưởng về hình ảnh mà trong khuôn hình không
có.
Với phim quảng cáo, âm thanh là một phần không thể thiếu. Âm thanh trong phim
quảng cáo thường được sử dụng mang tính cường điệu để tạo hiệu quả ấn tượng đặc biệt
cho khán giả.
Lời bình là một trong những yếu tố của ngôn ngữ truyền hình. Âm thanh, lời lẽ có
vai trò giải nghĩa thêm cho hình ảnh. Giống như kết luận cho những gì được chiếu trên
hình ảnh. Lời bình có tác dụng bổ sung cho những gì khán giả nhìn thấy trên màn hình.
Vì hình ảnh đóng vai trò quan trọng trong một bộ phim quảng cáo, nên phần lời có
thể cần thiết để người xem hiểu được mẩu quảng cáo đó. Nó chỉ mang vai trò hỗ trợ cho
hình ảnh.
Giọng nói của nhân vật, của người đọc lời bình thường có ngữ điệu, tốc độ, nhịp
điệu làm giàu thêm tính biểu cảm cho nội dung phim quảng cáo, tạo cho người xem tâm
lý tiếp nhận tốt hơn.
Những yếu tố làm tăng tính hiệu quả cho phần lời thoại, lời bình:
Đa số phim quảng cáo trên truyền hình chỉ kéo dài khoảng 30 đến 60 giây. Hầu
hết quảng cáo tập trung vào phần hình ảnh hơn phần chữ. Người viết lời cho quảng cáo
có ít thời gian để mô tả về sản phẩm, hay dịch vụ cần quảng cáo. Nên, phần lời thường
có những yếu tố sau:
Lời bình minh hoạ cần trực tiếp đi thẳng vào vấn đề, nói thẳng vào ý chính. Lời
bình cung cấp thông tin, bám sát thông tin, tránh gây nhầm lẫn, hiểu lầm cho khán giả.
Thông thường với một phim quảng cáo 60 giây, số từ được sử dụng tối đa là 90 từ. Bởi
thế, ngôn ngữ trong quảng cáo mang lại nhiều thông tin hơn ngôn ngữ viết.
Không chỉ hình ảnh mới cần thu hút khán giả ở những giây đầu tiên, lời bình cũng
rất cần điều này. Thường những lời bình dạng câu hỏi, hay đặt ra một vấn đề mà người
tiêu dùng quan tâm hoặc đang thấy khó khăn, sẽ dễ lấy được sự đồng cảm và sự chú ý.
Đó là những vấn đề dường như đã trở thành muôn thuở: Làm thế nào để giặt được hết
các vết bẩn trên áo quần? Làm sao để chống lại nếp nhăn trên khuôn mặt? Làm thế nào
để chống sâu răng? Làm sao để cuộc sống an toàn hơn?... Hàng vạn câu hỏi làm thế nào
được đặt ra, và nhiệm vụ của cả phim quảng cáo chính là trả lời những thắc mắc ấy.
Lời bình có nhiệm mô tả sự nổi bật của sản phẩm đó chính là sự khác biệt mà chỉ
sản phẩm, dịch vụ đó mới có.
Lời bình sử dụng khéo léo lý luận và tình cảm: Tuỳ vào mỗi đối tượng khách hàng
mà lời bình được thể hiện theo phong cách khác nhau. Với cách sử dụng lý luận, lời
bình thường mô tả những thông số kỹ thuật, tính năng ưu việt của sản phẩm. Ngược lại,
với cách gây tình cảm cho người xem, thì lời bình thường mang đến những tác dụng,
hiệu quả sâu xa mà sản phẩm mang lại chứ không chỉ thông báo lợi ích cụ thể. Ví dụ:
Thay vì: Sữa tắm X có hương thơm dịu nhẹ, nồng nàn , thì lời bình tiếp cận theo lối cảm
xúc sẽ là: Hãy xem, bao chàng trai ngất ngây vì hương thơm sữa tắm X lan toả trên cơ
thể bạn.
Phần lời thường ngắn gọn, nhẹ nhàng, gần với ngôn ngữ nói, dễ hiểu để người
xem dễ dàng tiếp nhận. Nhiều phim quảng cáo dùng những câu đối thoại hỏi và đáp để
đề cập đến một vấn đề nào đó. Đôi khi, phần lời mang tính tự sự của nhân vật, hay lời
tâm sự, chia sẻ trải nghiệm của nhân vật khi sử dụng sản phẩm. Phim quảng cáo sữa
Anlene sử dụng lời chia sẻ của diễn viên Anh Thư về tác dụng phòng chống loãng
xương của sản phẩm. Diễn viên Minh Hằng chia sẻ về sự thay đổi dẫn đến thành công
khi cô thử dùng dầu gội Head&shoulder. Hay một bà mẹ chia sẻ sự hài lòng khi cho con
dùng sữa Dielac… Với cách ngợi khen sản phẩm thông qua người trải nghiệm này,
phim quảng cáo thực sự thuyết phục và tạo được lòng tin với người tiêu dùng.
Phần lời có thể là lời thoại của các nhân vật với nhau về sản phẩm/ dịch vụ được
quảng cáo. Những câu thoại là cách nhân vật tung hứng để giới thiệu sản phẩm theo
cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Các chuyên gia luôn là người tạo được lòng tin với người tiêu dùng. Bởi thế, phim
quảng cáo khi sử dụng tiếng nói của chuyên gia về tính năng và lợi ích của sản phẩm, sẽ
dễ dàng thuyết phục được người tiêu dùng. Bột giặt Omo và nước giặt Ariel đều dùng
cách này để thuyết phục khách hàng. Hãng bột giặt Omo đã rất thông minh khi sử dụng
phát ngôn của các chuyên gia về máy giặt nói về tác dụng vượt trội của bột giặt Omo
trong việc giặt quần áo, bên cạnh đó bột giặt này phù hợp với các loại máy giặt và giúp
máy bền hơn so với việc sử dụng các loại bột giặt khác. Lẽ dĩ nhiên, người tiêu dùng khi
nghe những thông tin đầy sức thuyết phục từ những chuyên gia hàng đầu sẽ biết họ nên
chọn sản phẩm nào cho máy giặt nhà mình.
Âm nhạc – Tiếng động trong phim quảng cáo:
Âm nhạc là một phần trong tổng thể âm thanh, mang lại tiết tấu, khơi gợi cảm xúc,
tạo không khí vui vẻ, căng thẳng, hồi hộp cho bộ phim. Âm nhạc gắn bó và phụ thuộc
vào nội dung của phim. Âm nhạc góp phần minh hoạ và làm nổi bật chủ đề của bộ
phim. Âm nhạc thường xuất hiện trong những đoạn mang chủ đề của phim, hoặc đoạn
cao trào, chứa đựng nhiều cảm xúc. Nhạc phim gắn bó với kịch tính của phim. Đôi khi
âm nhạc còn thể hiện tâm trạng của nhân vật mà không phải nói bằng lời.
Tiếp thu những đóng góp trên của nhạc phim, âm nhạc trong phim quảng cáo
được sử dụng làm nền cho giọng nói của phát thanh viên, đi kèm với các cảnh chiếu về
sản phẩm được quảng cáo. Âm nhạc trọng phim quảng cáo cũng góp phần chuyển tải
thông điệp của bộ phim quảng cáo. Đôi khi, âm nhạc cũng có khả năng làm nên sức
sống đặc biệt cho phim quảng cáo. Khi lặp đi lặp lại nhiều lần một giai điệu nhạc, nó
khiến người xem ghi nhớ. Và chỉ cần nghe giai điệu nhạc ấy vang lên, tao nên hiệu ứng
đặc biệt, người ta có thể liên tưởng ngay đến sản phẩm đã và đang được quảng cáo.
Hẳn khán giả truyền hình còn nhớ Vinaphone với chiến dịch quảng cáo dịch vụ
3G, với giai điệu huýt sáo độc đáo, đã gây một ấn tượng mạnh mẽ. Nhiều người sau đó
đã sử dụng tiếng nhạc quảng cáo đó làm nhạc chuông như một trào lưu khá phổ biến.
Cứ thế, Vinaphone 3G đi vào cuộc sống lúc nào không hay.
Âm nhạc trong phim quảng cáo còn là những ca khúc mang tính chủ đề, chuyển
tải thông điệp của cả bộ phim. Quảng cáo bia Heineken với bài hát “quando quando” đã
lan truyền khắp thế giới. Với giai điệu khoẻ khoắn, đầy cá tính, bài hát này đã thêm một
lần khẳng định chỉ có Heineken mới tạo nên một làn sóng âm nhạc rộng rãi đến thế.
Tiếng động còn bao gồm cả tiếng hoạt động của động cơ, tiếng động của tự nhiên,
tiếng thực phẩm được chế biến, tiếng những viên đá lộp cộp được lắc lên trong ly nước
mát lạnh, tiếng hút sữa chùn chụt, tiếng hà hơi sảng khoái khi được thưởng thức một
thức uống ngon lành… mọi âm thanh chân thực về sản phẩm đôi khi có sức thu hút với
khán giả hơn cả hình ảnh về sản phẩm.
Ở Việt Nam, âm thanh nói chung, âm nhạc nói riêng cho quảng cáo có lẽ đã xuất
hiện từ rất lâu, từ khi xuất hiện những loại hình quảng cáo truyền miệng như rao vặt,
bán rong trên hè phố, trong mỗi ngõ hẻm, đường làng. Ngày xưa, chỉ nghe tiếng rao:
“Ai lông gà lông vịt, tóc rối đổi kẹo mạ đê”, là lũ trẻ con từ khắp thôn cùng ngõ hẻm lại
háo hức mang những thứ nhặt nhạnh được để mang đổi lấy những que kẹo mạ mút ngon
lành.
Đến khi đời sống khá hơn, tiếng còi “pípo” của anh hàng kem, tiếng nhạc quảng
cáo kem Wall cũng đủ khiến lũ trẻ “chết thèm”.
Ngày nay, khi quảng cáo trên truyền hình đã phát triển như vũ bão, thì âm nhạc
trong phim quảng cáo nhờ thế cũng được “lên hương”.
2.1.3. Vai trò của Montage (Dựng phim):
Với sự ra đời mang tính đột phá, ra các cỡ cảnh, tạo ra tiết tấu chuyển động cho
các đoạn phim. Cỡ cảnh là một đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ điện ảnh, đặc biệt với cỡ
cận cảnh và đặc tả đã mang đến những cảm xúc cho khán giả nhờ được tiếp cận gần hơn
với tâm tư, trạng thái biểu cảm của nhân vật và những chi tiết quan trọng của một tình
huống kịch. Để các cỡ cảnh nối với nhau tạo nên một chuỗi sự kiện hoàn chỉnh về nội
dung, dựng phim (montage) ra đời.
Với phim quảng cáo, việc dựng phim là yếu tố vô cùng quan trọng cần sự tỉ mỉ và chính
xác trong từng giây hình.
Chỉ trong 15 đến 30 giây hình ảnh, làm sao để truyền tải được hết nội dung, thông điệp
quảng cáo là một yêu cầu khá khắt khe với người dựng phim. Bởi thế, từng hình ảnh
phải được “cắt gọt” gọn gàng, đủ nội dung, âm thanh, lời bình cũng phải dựng sao cho
trùng khớp với hình ảnh để chúng không bị “lệch pha” nhau. Bởi thế, khi hình ảnh, lời
bình, âm nhạc là nguyên liệu để làm nên một tác phẩm hoàn chỉnh qua bàn tay “chế tác”
tỉ mỉ của người dựng phim.
Phim quảng cáo thường được dựng liên tục các cỡ cảnh trung và cận để nhằm làm nổi
bật sản phẩm.
Thường dựng phim quảng cáo có tiết tấu nhanh, nên câu chuyện được kể thường ngắt
quãng thời gian, nhưng vẫn tuân thủ theo cấu trúc 3 phần.
2.1.4 Vai trò của kỹ xảo điện ảnh trong phim quảng cáo
“Kỹ xảo điện ảnh là phương pháp quay đặc biệt cho ta thấy hình ảnh trên phim
không giống như trong thực tế khi quay.” [11]
“Kỹ xảo điện ảnh là thủ pháp tạo hình ảnh, âm thanh dị thường để đưa và phim ở
giai đoạn quay phim chính và chủ yếu ở hậu kỳ. Kỹ xảo còn gọi là hiệu ứng đặc biệt,
rất phức tạp, tốn kém, được thực hiện bằng thủ công, điều khiển học hoặc điện toán.”
[13, tr149]
Ngày nay, với sự hỗ trợ của các phần mềm trên máy tính như kỹ xảo 2D, 3D,
những yếu tố về kỹ xảo hình ảnh đóng vai trò quan trọng trong việc tạo sự mới lạ để thu
hút, tạo ấn tượng cho người xem.
Có lẽ, chưa bao giờ, kỹ xảo điện ảnh lại được vận dụng một cách tối đa như hiện
nay. Trên khắp các rạp từ Hollywood đến Việt Nam, khán giả đều phải trầm trồ, nô nức
đến thưởng thức những bộ phim 3D bom tấn như : Avata, Kungfu panda, Rio, hay như
Người Nhện, Đại hoạ 2012,… Rất nhiều bộ phim khó có thể trở thành phim bom tấn
nếu không có sự hỗ trợ đắc lực của công nghệ 3D và kỹ xảo điện ảnh. Đến nỗi, những
nhà điện ảnh Hollywood cũng phải công nhận “công lao” vô cùng to lớn của kỹ xảo
điện ảnh: “Các nhà biên kịch cứ việc đẩy trí tưởng tượng đến tận cùng, việc của chúng
tôi là biến những điều không thể thành có thể”. Và như cây đũa thần của bà tiên nhiều
quyền phép, kỹ xảo điện ảnh đã trở thành công cụ đắc lực giúp những người làm phim
tạo nên muôn vàn điều kỳ diệu.” [10]
Ở Việt Nam, đạo diễn - Đặng Tất Bình - Giám đốc Hãng phim truyện I, nơi đã
sản xuất những bộ phim manh nha sử dụng kỹ xảo điện ảnh như: Trò đùa của thiên lôi,
Cầu Ông Tượng, Ngã ba Đồng Lộc,… cũng đã khẳng định:
“Kỹ xảo là một công đoạn quan trọng đối với điện ảnh. Nó góp phần giúp người
xem thưởng thức được nhiều cảnh phim ấn tượng vượt lên mọi trí tưởng tượng thông
thường. Con người luôn muốn được chiêm ngưỡng những điều kỳ thú, thậm chí trên
mức bình thường. Mà điều này chỉ có thể biến thành hiện thực nhờ kỹ thuật tạo ra
những hình ảnh đặc biệt.” [2]
Không thua kém gì phim truyện, phim quảng cáo cũng sử dụng những công nghệ
và kỹ xảo mà phim điện ảnh có thể sử dụng. Nếu như điện ảnh có những pha trình diễn
võ thuật tung người trong không trung, phim quảng cáo cũng có (Phim quảng cáo mỳ
Hảo Hảo), Nếu như điện ảnh có những màn hoạt hình trình diễn đẹp mắt về chú Gấu
trúc giỏi võ (Kungfu Panda) thì phim quảng cáo cũng có đầu bếp Gấu đỏ ( Phim quảng
cáo mỳ Gấu đỏ), điện ảnh có Người Nhện, siêu nhân, người ngoài hành tinh, khủng long
thì phim quảng cáo cũng sáng tạo không kém.
Có thể nói, một bộ phim điện ảnh có thể thành công mà không cần đến kỹ xảo
điện ảnh, nhưng với một bộ phim quảng cáo, thì kỹ xảo là phần không thể thiếu. Nó
giúp cho cô người mẫu trong phim quảng cáo vừa có những đường cong hoàn hảo, làn
da láng mịn không tì vết, lại thêm suối tóc suôn mượt đến nỗi không gì có thể vương lại
trên mái tóc. Để có mái tóc đen óng mượt như nhung đổ xuống bờ vai của cô người
mẫu, nhân viên hậu kỳ đã phải tỉ mỉ tách mái tóc ra, tô chuốt từng sợi tóc trên máy tính
trước khi đưa vào phim. Màu sắc trong phim quảng cáo rực rỡ và sống động hơn cũng
bởi nhờ kỹ thuật làm đổi màu cảnh quay mà nên. Một tô mỳ với những sợi mỳ vàng
suộm hoà quện như nhảy múa cùng rau củ và tôm tươi ngon mắt. Những chiếc áo dính
bẩn được tẩy sạch đến từng sợi vải, tinh vi như chỉ nhìn qua kính hiển vi mới thấy. Chỉ
có công nghệ vi tính mới làm nên được. Từ những chi tiết nhỏ như sợi tóc khô xơ chẻ
ngọn, sợi vải dính mực lấm bùn, cho đến những thảo nguyên bất tận, những đàn bò sữa
nhảy nhót trong điệu nhạc vui vẻ, hàng nghìn người ghép nên một hình ảnh biểu tượng
(Logo) của thương hiệu…ở đâu, cũng thấy sự đóng góp vô cùng quan trọng của kỹ xảo
vi tính.
2.2 Nhân vật trong phim quảng cáo
Nhân vật là những chủ thể người, vật, động vật cụ thể được thể hiện trong một
tác phẩm điện ảnh với vai trò, vị trí, chức năng và tính cách khác nhau. Nhân vật có thể
không phải là người mà có thể là thần linh, ma quỷ, các loài vật được nhân hoá (phim
hoạt hình, phim giả tưởng) [13]
Nếu như trong phim truyện, nhân vật được khắc hoạ lên với đầy đủ lý lịch, tính
cách, quan điểm sống, số phận, những cung bậc tình cảm thông qua một chuỗi sự kiện và
hành động, thì trong phim quảng cáo bởi thời lượng ngắn ngủi, nhân vật chỉ đơn giản đại
diện cho một đối tượng người tiêu dùng cụ thể. Thậm chí tính cách của họ cũng là đại diện
cho một tầng lớp nào đó mà thôi. Đó là những thành phần trong xã hội như trẻ em, thanh
niên, phụ nữ, người trung niên, người cao tuổi, doanh nhân, công nhân, nông dân hay nghệ
sỹ…
Các loại mỹ phẩm hay đồ gia dụng thường sử dụng nhân vật là phụ nữ. Nước
giải khát thường sử dụng nhân vật đại diện là tầng lớp thanh thiếu niên, thực phẩm chức
năng thường sử dụng hình ảnh người có thu nhập khá. Quảng cáo sữa thường sử dụng
nhân vật mẹ và bé. …Việc sử dụng nhân vật trong phim quảng cáo phụ thuộc vào quá
trình phân loại đối tượng khán giả (khách hàng mục tiêu).
2.3. Cốt truyện và chủ đề trong phim quảng cáo
Cũng giống như phim truyện, cốt truyện trong phim quảng cáo cũng được thể hiện
thông qua các sự kiện của nhân vật, tình huống mà họ rơi vào, cách xử lý tình huống (bằng
cách sử dụng một sản phẩm nào đó) và đi đến kết quả.
Trong phim quảng cáo bia Heiniken, cốt truyện là sự tương phản niềm đam mê
của hai giới: trong khi những người phụ nữ sung sướng vì được sở hữu cả một căn
phòng trưng bày giày dép, thì đàn ông lại “phát cuồng” lên với một căn phòng lạnh chứa
đầy bia Heiniken. Phim quảng cáo hạt nêm Maggi dựa trên cốt truyện về một người
chồng có những phút “say nắng” với người phụ nữ ngoài vợ, nhưng nhờ tài nấu ăn của
vợ (biết khéo léo dùng hạt nêm Maggi) đã kéo anh về với mâm cơm gia đình. Phim
quảng cáo Bitis không kể về một nhân vật, nhưng chỉ với hình ảnh những bước chân từ
thủa cha ông khai sinh lập địa, khi đánh thắng kẻ thù xâm lược, đến bước chân của thời
hiện đại tiến vào kỷ nguyên mới đã kể nên một cốt truyện về truyền thống dân tộc trong
chiều dài lịch sử.
Chủ đề trong phim truyện hay thường gọi với cụm từ chủ đề tư tưởng là thông
điệp mà tác giả muốn gửi gắm thông qua bộ phim, là ý nghĩa nằm sau cốt truyện. Tuy
nhiên, cùng một bộ phim, mỗi người xem lại tìm thấy một chủ đề tư tưởng khác nhau.
Chủ đề nổi bật lên ở phần kết phim, sau cao trào. Chủ đề có thể do nhân vật phát
ngôn hoặc thông qua chính hành động của nhân vật. Bộ phim “Bài ca người lính” với
chủ đề ca ngợi tinh thần quả cảm của người lính Nga trong chiến tranh nơi mảnh đất
hậu phương; “Những đứa trẻ thiên đường” lại nêu cao chủ đề những tâm hồn trẻ thơ
thánh thiện như những thiên thần của hai đứa trẻ nghèo Iran; “ Kẻ cắp xe đạp” lại nổi
lên chủ đề về con người lương thiện vì bị đẩy vào hoàn cảnh bần cùng mà hoá thành lưu
manh.
Tuy chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, nhưng phim quảng cáo cũng có chủ đề
thông qua hệ thống các hình ảnh. Khi phim quảng cáo là một câu chuyện trọn vẹn, thì
chủ đề được tìm thấy thông qua hành động của nhân vật. Nhưng khi phim quảng cáo
mang đến hình những khoảnh khắc, lát cắt trong cuộc sống, thì chủ đề nằm trong sự xắp
xếp mang tính đối lập hoặc tương đồng của hình ảnh. Và sau tất cả những hình ảnh, âm
thanh, thì chủ đề đọng lại ở câu khẩu hiệu. Ta có thể nhận ra chủ đề niềm đam mê của
phái mạnh trong các phim quảng cáo của Heiniken; chủ đề về lòng thuỷ chung son sắc
vợ chồng trong phim quảng cáo hạt nêm Maggi và chủ đề về những bước chân Việt làm
nên nghiệp lớn trong phim quảng cáo giày dép Bitis.
2.4 Cấu trúc một bộ phim quảng cáo.
Cũng giống như một bộ phim ngắn, phim quảng cáo cũng có cấu trúc 3 phần: Mở
đầu, cao trào và kết thúc.
Trong phần mở đầu , cũng giống như phim truyện, nhân vật thường được đặt vào một
tình huống. Với phim quảng cáo, tình huống này phải thật trớ trêu, thậm chí là lạ, nó
giống như cách nhà biên kịch gieo tai hoạ cho nhân vật trong phim truyện vậy. Với
phim truyện, nhà biên kịch thường bắt đầu bằng câu hỏi mang tính “gieo hạt”: “Điều gì
sẽ xảy ra, nếu…”. Với phim Titanic có lẽ trước khi viết kịch bản, nhà biên kịch đã đặt
ra câu hỏi: Điều gì sẽ xảy ra nếu một cô gái quý tộc gặp một chàng hoạ sỹ nghèo trên
chuyến tàu định mệnh? Hay với Cô gái triệu đô có lẽ nhà biên kịch đã tự hỏi: “Điều gì
sẽ xảy ra khi một cô gái bồi bàn nghèo có ước mơ làm võ sỹ Quyền Anh?”; Hay với
phim Những đứa trẻ thiên đường (phim Iran) có lẽ cũng xuất hiện một câu hỏi: “Điều
gì sẽ xảy ra khi một cậu bé nghèo làm đánh mất đôi giày cũ của em gái mình”…. Theo
sau những câu hỏi sẽ là những hành động mang tính bước ngoặt của nhân vật.
Trở lại với phim quảng cáo, câu hỏi ấy cũng là cách để đặt ra tình huống. Điều gì sẽ
xảy ra một cậu bé trở về nhà với chiếc áo lấm bẩn? Mẹ cậu ấy sẽ mắng hay không cho cậu
chơi đá bóng nữa? Nhưng không, mẹ cậu không hề tức giận vì nhờ bột giặt tẩy bay mọi vết
bẩn, mà áo cậu bé lại trắng tinh như mới. Và niềm đam mê bóng đá lại được thổi lên trong
tâm hồn con trẻ.
Một loạt seri của quảng cáo Omo – chuyên gia giặt tẩy vết bẩn đi theo motip :
“Trẻ học điều hay, ngại gì vết bẩn” và thường đặt ra các tình huống thách thức người
nội trợ: Điều gì xảy ra khi bé giúp người lớn khiến cho quần áo bị lấm bẩn? Và bột giặt
Omo là một giải pháp tối ưu cho quần áo lấm bẩn, một lựa chọn hoàn hảo dành cho các
bà nội trợ khi muốn thấy con mình trưởng thành hơn về nhân cách.
Cũng với cách đặt ra tình huống như vậy, quảng cáo sữa của hầu hết các hãng
sữa cũng đặt chung một câu hỏi: Điều gì sẽ xảy ra, khi bé chơi thể thao mà không đủ
chiều cao hay thể lực? Một bé trai dán mác ghi tên cho những đồ vật trong phòng - tất
cả đều trong tầm tay của bé. Nhưng chỉ có quả địa cầu vì mẹ để cao tận trên nóc tủ, bé
không thể với tới. Bé phải làm gì đây? Đương nhiên, bé cần có một sản phẩm hỗ trợ.
Sữa làm bé cao hơn nhanh chóng? Như vậy thì phóng đại quá mức. Nhưng một loại sữa
phát triển trí não, có DHA giúp bé thông minh thì hoàn toàn có thể. Và với sữa bột
Abbort giúp bé thông minh vượt trội. Bé sẽ làm gì? Kê ghế để đứng lên? Lấy cây móc
đồ vật xuống? Hay nhờ mẹ giúp? Và bé đã dùng một chiếc máy bay giấy có dòng chữ:
“Quả địa cầu” để phi lên đúng chỗ đặt quả địa cầu đặt trên nóc tủ trước sự ngạc nhiên
của người mẹ. Đương nhiên, khán giả cũng hết sức ngạc nhiên trước hành động cực kỳ
thông minh này.
Như thế bằng cách tạo ra một tình huống khó khăn, với rất nhiều cách giải quyết,
người viết kịch bản quảng cáo sẽ chọn ra một cách giải quyết thật đặc biệt và gây ấn
tượng nhất với khán giả. “Đừng để khán giả đi guốc trong bụng nhân vật” là lời khuyên
thường dành cho các nhà biên kịch, với người sáng tạo ý tưởng quảng cáo, lời khuyên
ấy cũng vô cùng hữu ích.
Phim quảng cáo khó có thể hấp dẫn khi không có yếu tố kịch tính trong phim.
Cũng giống như phim truyện ngắn hay dài, phim quảng cáo dù “siêu ngắn” chỉ chừng
30 giây nhưng cũng phải đảm bảo độ kịch tính. Kịch tính bắt đầu từ tình huống khó
khăn thử thách mà nhân vật gặp phải, anh ta buộc phải hành động để giải quyết tình
huống. Đó là việc hành động làm sao khi chiếc áo trắng bị lấm bẩn, làm thế nào để gây
ấn tượng với người đối diện khi mái tóc đang bị khô xơ và chẻ ngọn, làm sao để có một
bữa cơm ngon, làm thế nào để người đàn ông khẳng định vẻ nam tính trước người đẹp,
làm thế nào để quần áo thơm lâu hơn, làm thế nào để có tiền sắm ô tô, mua nhà cửa?
Hàng loạt những vấn đề mà người tiêu dùng gặp phải trong cuộc sống, và phim quảng
cáo bằng cách đưa ra những sản phẩm hoặc dịch vụ giúp người tiêu dùng có phương án
giải quyết vấn đề khó khăn mà họ đang đối mặt. Thường phim quảng cáo đặt nhân vật
vào một tình huống khó khăn mà ở đó, nhân vật còn phải đối mặt với “áp lực thời gian”,
tức là trong một thời gian cực ngắn, nhân vật phải hành động “cực nhanh” để thoát khỏi
rắc rối hoặc vượt qua thử thách.
Trong một quảng cáo bia Heineken diễn ra một tình huống như sau: Một chàng
trai đang ngồi uống bia với một cô gái đẹp ở quầy Bar, đột nhiên anh ta phát hiện ra cô
bạn gái đang đi tới. Anh ta sẽ bỏ trốn hay nói dối để nguỵ biện với một trong hai cô gái?
Anh ta phải làm gì để không mất đi mối quan hệ với một trong hai cô? Đó là điều mà
khán giả chờ đợi trong một tình huống đầy kịch tính này. Và rất nhanh trí, anh chàng
thay chai bia Heineken trên tay mình bằng một chai bia nhãn hiệu khác cũng đặt ở trên
bàn. Khi cô bạn gái đi đến, cô ta giật lấy chai bia trên tay anh ta và đổ hết bia lên đầu
anh ta. Trong khi cô bồ mới tỏ vẻ ngạc nhiên, thì anh chàng lại nhún vai rất thản nhiên
và sung sướng với chai bia Heineken vẫn còn nguyên trên bàn. Như thế, “Chỉ có thể là
Heineken” mới có sức hút đàn ông hơn cả phụ nữ.
Tình huống kịch tính trong phim quảng cáo khiến cho khán giả tò mò, bất ngờ và
cũng là cách để giới thiệu sản phẩm một cách bất ngờ nhất, ấn tượng nhất. Người xem
luôn trông đợi điều gì sẽ xảy ra trong tình huống kịch tính. Khi sản phẩm xuất hiện cũng
phải khiến khán giả trầm trồ. Một lần nữa, Bia Heineken lại làm được điều đó trong một
phim quảng cáo vô cùng ấn tượng của mình: Trong một quán bia, những người đàn ông
cùng nhúng tay vào một thùng nước lạnh đến nỗi cánh tay họ đỏ ửng và run lên. Kịch
tính ở đây là: Dù đang run rẩy vì lạnh, nhưng những người đàn ông vẫn kiên trì nhúng
tay vào thùng nước đá. Khán giả tò mò thắc mắc. Những người đàn ông này đang hành
động kỳ quặc gì vậy? Họ lấy thứ gì trong thùng đá lạnh đó? Điều bí mật gì trong đó
khiến họ phải “gian khổ” như vậy? Và khi người đàn ông với bàn tay đỏ lựng, run rẩy
cầm lên chai bia Heineken trong niềm sung sướng, thì một lần nữa, sản phẩm bia
Heineken được thăng hoa.
Đến phần kết thúc: Vấn đề đặt ra ban đầu được giải quyết. Nhiệm vụ được nhân
vật hoàn thành một cách hoàn hảo nhờ một sản phẩm hoặc dịch vụ đưa ra. Giống như
với phim ngắn, với phim quảng cáo, cũng phải tạo ra một kết thúc bất ngờ. Sự bất ngờ
này diễn ra với nhân vật, và đặc biệt là với khán giả. Sản phẩm và khẩu hiệu được trình
bày ấn tượng nhằm lưu lại trong tâm trí người xem. Khi bạn đau chân, bạn bôi thuốc A,
chân bạn lập tức khỏi. Khi bạn đau bụng, bạn uống thuốc B, bạn lập tức hết cơn đau…
Có rất nhiều motip phim quảng cáo thuốc như vậy, nó chỉ mang tính liệt kê mà không
gây ấn tượng, bất ngờ cho khán giả. Hoạ chăng, nó gây “hiệu quả bất ngờ đến đáng
ngờ” cho người sử dụng sản phẩm mà thôi.
Lại thêm một lần nữa, người viết muốn nhắc đến một phim quảng cáo khác của
bia Heineken: Một nhóm bạn gái đến mừng tân gia. Cô gái chủ nhà mang đến cho
những cô bạn gái của mình sự ngạc nhiên xen lẫn ngưỡng mộ khi cô đếm 1…2…3 và
cánh cửa mở ra: Chao ôi, một căn phòng lộng lẫy dành riêng trưng bày quần áo và giày
dép. Với phụ nữ, thì đây quả là một căn phòng lý tưởng, một thiên đường cho bất cứ cô
gái nào. Họ hét lên vì ngạc nhiên và ngưỡng mộ. Nhưng đột nhiên, các cô gái dừng lại,
niềm sung sướng bị ngắt quãng bởi những âm thanh lạ. Và từ nơi phát ra âm thanh lạ
đó, chính là căn phòng chứa đầy bia Heineken – nơi đó, những người đàn ông cũng
đang rú ầm lên vì sung sướng với thiên đường của họ. Với lối so sánh hai niềm đam mê:
làm đẹp của nữ giới và thưởng thức bia của đàn ông, thì rõ ràng, cách mà Heineken xuất
hiện ở phần cuối phim vô cùng ấn tượng, nó khiến không chỉ đàn ông khao khát bia
Heineken, mà nữ giới cũng phải tò mò về chai bia khiến đàn ông đam mê này. “Chỉ có
thể là Heineken” là câu khẩu hiệu đi theo mọi phim quảng cáo, mọi chiến dịch quảng
cáo của hãng này. Và cũng chỉ có phim quảng cáo Heineken mới gây bất ngờ đến thế.
Đạo diễn Đỗ Đức Thành – người có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện
ảnh và quảng cáo đã có một cách ví von khá hay: “Nếu như phim truyện giống như một
cuộc chạy đua Maratong thì phim quảng cáo giống như một cuộc chạy nước rút”. Quả
vậy. Vẫn là đường chạy đấy thôi, vận động viên chạy Maraton phải biết cách chạy, biết
cách giữ sức và dốc sức chạy nước rút về đích đúng thời điểm. Vận động viên chạy
nước rút lại đòi hỏi chạy rất nhanh để đến đích. Phim truyện miêu tả cả một quá trình
diễn ra câu chuyện. Nhưng phim quảng cáo loại bỏ những gì diễn giải rườm rà, đi từ
vấn đề cần giải quyết đến cách giải quyết vấn đề rất nhanh bằng những lát cắt hết sức cô
đọng về cuộc sống trong một chuỗi sự kiện nhằm tạo cho khán giả một cảm xúc, một
niềm tin hay một sự hối thúc.
Tuy nhiên, không phải bộ phim quảng cáo nào trên truyền hình cũng tuân thủ
theo cấu trúc như phim truyện. Như đã nói ở trên, phim quảng cáo là những lát cắt cuộc
sống. Thế nên, rất nhiều phim quảng cáo đã sử dụng những lát cắt khoảnh khắc trong
cuộc sống để mang đến cho khán giả một cảm xúc nào đó như niềm hạnh phúc, nỗi
buồn, sự sẻ chia hay vinh quang thành đạt. Phim quảng cáo không có nghĩa là lúc nào
cũng phải là một câu chuyện. Bởi còn có rất nhiều thể loại quảng cáo trên truyền hình.
2.4. Các thể loại quảng cáo trên truyền hình:
Dựa trên hình thức thể hiện mà phim quảng cáo chia ra thành 12 thể loại sau:
Quảng cáo minh hoạ: là dạng phim quảng cáo so sánh giữa hai sản phẩm để
thấy công hiệu của sản phẩm được quảng cáo so với một sản phẩm cùng chủng loại
khác (được giấu tên, giấu nhãn hiệu)
Có thể thấy hình thức quảng cáo này ở một số phim quảng cáo mặt hàng gia
dụng như bột giặt, dầu gội hay nước nước rửa chén: Hiện nay, trên truyền hình đang có
phim quảng cáo nước giặt Ariel với màn trình diễn của anh chàng bồi bàn. Anh này đeo
găng tay trắng và xoa tay vào những dung dịch như xì dầu, mỡ… để đôi găng tay bị đổi
màu vì dính bẩn. Sau đó, hai bàn tay nhúng vào hai dung dịch nước giặt khác nhau, một
bên là nước giặt Ariel, một bên là nước giặt thường. Trong chốc lát, bên găng tay nhúng
vào nước giặt Ariel trắng bong, còn găng tay kia vẫn còn ố màu. Quảng cáo này cho
thấy công dụng giặt tẩy siêu sạch của nước giặt Ariel.
Quảng cáo dựa trên những lời chứng nhận: Các lời chứng nhận của chuyên
gia, hay người sử dụng sản phẩm được sử dụng để tăng thêm độ tin tưởng cho một lời
tuyên bố. Dạng quảng cáo này đã áp dụng tâm lý: người tiêu dùng sẽ sẵn sàng tin tưởng
vào lời khen ngợi sản phẩm hơn khi nó xuất phát từ lời một khách hàng hoặc một bên
thứ ba hơn là nhà sản xuất.
Dạng phim quảng cáo này gần với truyền hình thực tế. Với việc “dàn dựng” cùng
cách quay giấu máy, hoặc cách quay phim phóng sự, tài liệu, tạo độ chân thực cho
người xem như được chứng kiến người thực, việc thực và có nhu cầu trải nghiệm sản
phẩm.
Dạng quảng cáo này hiện nay thường được các hãng bột giặt sử dụng. Gần đây,
trên truyền hình xuất hiện phim quảng cáo bột giặt Tide: Một diễn viên hài đi về vùng
nông thôn và phỏng vấn bà nội trợ về sự vất vả khi giặt quần áo bằng tay. Bà nội trợ bày
tỏ việc giặt quần áo bằng tay gây hại da tay. Diễn viên hài cho bà nội trợ thử bột giặt
Tide. Và bà nội trợ đã phải ngạc nhiên vì bột giặt Tide không những đem lại quần áo
trắng sạch, không hại da tay mà còn lưu lại hương thơm Downy.
Quảng cáo thuyết trình trước ống kính: Trong loại quảng cáo này sử dụng
ngôn ngữ truyền hình, đó là hình thức tường thuật sự kiện: một diễn viên sẽ đứng trước
máy quay và công khai thu hút khán giả nói về những ưu điểm của sản phẩm.
Cách quảng cáo này được các hãng bột giặt Viso, Omo sử dụng với hình ảnh các
diễn viên: Quyền Linh, siêu mẫu Bình Minh. Với một thử thách tẩy trắng nhiều quần áo
cùng một lúc. Chiêu thức quảng cáo này thực sự hiệu quả và thu hút các bà nội trợ.
Quảng cáo nói lên mặt cắt cuộc sống: Đây là một dạng phim truyện siêu ngắn,
về một tình huống trong cuộc sống mang cả yếu tố kịch tính. Quảng cáo dạng này tuân
thủ cấu trúc như phim truyện, có mở đầu, cao trào và kết thúc vấn đề. Kết thúc phim
thường rất bất ngờ hoặc có hậu.
Để quảng cáo bột giặt OMO, các nhà làm phim quảng cáo đã đặt ra một tình
huống: Một cậu bé muốn rủ bà đi xe đạp, nhưng bà từ chối vì bà già rồi. Cậu bé liền
sáng chế ra một loại xe thùng kết hợp với chiếc xe đạp của mình để chở bà đi. Bởi mải
mê với việc lắp ráp, áo quần cậu bé lấm bẩn dính đầy vết dầu xe. Bà và mẹ cậu bé đã
giặt sạch chiếc áo đó bằng bột giặt OMO. Và cuối cùng, mặc chiếc áo trắng như mới,
cậu bé có thể chở bà đi trên chiếc xe tự chế. Một phim quảng cáo mang đầy đủ nội dung
một câu chuyện, có kịch tính, có thắt nút, mở nút và để lại một bài học về tình yêu
thương. Đương nhiên, một phim quảng cáo như thế, đã đánh trúng tâm lý các bà nội trợ.
Và OMO còn rất nhiều phim quảng cáo theo chủ đề “Trẻ học điều hay, ngại gì vết bẩn”
như thế.
Quảng cáo theo phong cách sống: Quảng cáo theo phong cách sống tập trung
vào người sử dụng và việc sản phẩm sẽ phù hợp với cách sống của anh ta như thế nào.
Đó là những quảng cáo công nghệ đem đến cho con người cuộc sống tiện nghi, hiện đại
như quảng cáo Vinafone 3G; xe máy Yamaha, hay những quảng cáo mang đến hình ảnh
về cuộc sống hoàn hảo như trong các quảng cáo về khu du lịch Bà Nà , khu an dưỡng,
căn hộ cao cấp…
Quảng cáo dạng hoạt hình: Phim quảng cáo hoạt hình có hiệu quả khi bán sản
phẩm dành cho trẻ em.
Cách làm phim quảng cáo này được các hãng sửa sử dụng khá nhiều để thu hút trẻ
em như quảng cáo sữa IZZI của Hanoimilk với hình ảnh các giọt sữa ngộ nghĩnh như
những em bé. Hay hãng sữa Vinamilk với hình ảnh những chú bò sữa đáng yêu nhảy múa
trong màn đồng ca “Trăm phần trăm sữa tươi nguyên chất”.
Ngày nay, có một cách được các nhà sản xuất sử dụng phổ biến đó là kết hợp
phim quay với hoạt hình vi tính. Quảng cáo nước khoáng Lavie dùng kết hợp hình ảnh
đứa trẻ với các nữ thiên thần trong khu rừng kỳ bí được vẽ bằng vi tính; Sữa Fisti sử
dụng hình ảnh những siêu nhân hoạt hoạ bên cạnh những diễn viên nhí để thu hút trẻ em
thích phiêu lưu, hành động.
Quảng cáo có vần điệu: Vần điệu ở đây là một khẩu hiệu quảng cáo kèm theo
nhạc. Câu vần điệu tốt nhất sẽ khiến tâm trí người xem khắc bằng cách tạo ra các âm
điệu kèm theo dễ nhớ, dễ thuộc mà họ không thể nào ngừng ngân nga. Trong những
phim quảng cáo dạng này thì hình ảnh thường là để minh hoạ cho vần điệu.
Chiêu thức quảng cáo này được các hãng mỳ ăn liền sử dụng với cách phổ lời
mới cho một bài dân ca, hoặc một bài hát quen thuộc để giới thiệu về một sản phẩm.
Micoem với các loại sản phẩm Mỳ số đỏ, mỳ Sao sáng đã dùng cách này để tiếp cận
người bình dân. Hay Bột nêm Knorr với việc thay lời cho bài hát “Đố quả” bằng lời hát
mới đã quảng cáo cho sản phẩm bột nêm tạo nên món canh ngon nhất do tay mẹ nấu.
Hay trong những quảng cáo sữa cho trẻ em, các nhà sản xuất phim cũng sử dụng
những bài hát kiểu vè, đồng dao dễ nhớ, dễ thuộc cho các em nhỏ. Một thời, các em nhỏ
thuộc làu bài hát: “Hai chữ I I hai chữ ZZ . Cộng lại một dòng thành ra chữ gì” Một
cách vô thức, bài hát khiến các em nhớ đến nhãn sữa IZZI.
Những câu khẩu hiệu (slogan) cũng là một yếu tố vần điệu trong một phim quảng
cáo. Những câu như: “ Vui có chừng, dừng đúng lúc”(tuyên truyền, nâng cao nhận thức
về dự phòng HIV/AIDS); “Lưu truyền thống, viết tương lai” (bút vở Hồng Hà); “Trò
chơi bổ ích, vui thích học hành” (sữa Hanoimilk); “Hoàng Tiên đan tiêu tan nỗi lo bệnh
Gout”. (thực phẩm chức năng Hoàng Tiên đan) là những khẩu hiệu sử dụng cách gieo
vần điệu khá hay.
Phim quảng cáo bằng kỹ xảo: Ngày nay, công nghệ 3D đã được sử dụng phổ
biến không chỉ trong phim truyện mà còn trong phim quảng cáo mang đến cho phim
quảng cáo một diện mạo đẹp đẽ, thu hút không chỉ khán giả thiếu nhi.
Tuy nhiên, một số nhà quảng cáo coi việc sản xuất phim quảng cáo như đang làm
phim, chứ không phải là sự bán hàng. Với những hình ảnh kỹ xảo hiện đại, tiên tiến không
thua kém gì các phim điện ảnh, hay các chương trình truyền hình.
Cách quảng cáo này hút người xem dán mắt vào tivi như một chương trình giải
trí. Nhưng hiệu quả bán hàng của dạng phim này chưa chắc đã cao.
Trên truyền hình hiện nay có quảng cáo sản phẩm dây cáp điện Cadisun sử dụng
kỹ xảo dựng lên hình ảnh con khủng long quấy phá thành phố. Siêu nhân Cadisun bay
đến đánh hạ khủng long, thể hiện cho sức mạnh vô địch. Nhưng liệu một phim quảng
cáo như vậy có đủ sức thuyết phục khách hàng là người lớn, hay chỉ thu hút trẻ nhỏ?
Quảng cáo hài hước: Phim quảng cáo này xuất hiện dưới dạng như một tiểu phẩm
hài với tình huống thú vị và kết thúc gây cười cho khán giả. Một phim quảng cáo vui nhộn
với một tình huống hài hước luôn khiến khán giả chú ý. Theo một nghiên cứu của Mc
Collum Spoelman đã chỉ ra rằng: “75% những quảng cáo mang yếu tố hài hước có thể nhận
được sự chú ý cao hơn mức trung bình. Sự hài hước thường tạo nhiều sự thành công cho
quảng cáo.” [15, tr.172]
Hãng bia Heineken đã sử dụng yếu tố hài hước và âm nhạc để tăng doanh thu
bán hàng là điều ai trên thế giới cũng dễ dàng nhận thấy.
Tuy nhiên, phương pháp thể hiện này không phải dùng cho mọi loại sản phẩm,
dịch vụ. Đôi khi yếu tố hài khiến mọi người khó hiểu hoặc khó nhớ về sản phẩm được
quảng cáo. Sự hài hước có thể không thuyết phục khách hàng bằng những quảng cáo
nghiêm túc. “Nó chỉ có hiệu quả khi tồn tại mối liên hệ giữa câu chuyện hài hước đó với
sản phẩm được quảng cáo.” [15, tr.172]
Quảng cáo sử dụng các nhân vật tưởng tượng: Một nhân vật tưởng tượng xuất
hiện xuyên suốt trong các seri quảng cáo truyền hình là cực kỳ hiệu quả trong việc xây
dựng sự công nhận cho nhãn hàng.
Nước xả vải Comfor đã thành công khi xây dựng hình tượng hai nhân vật của thế giới
búp bê vải : Andy và LyLy. Từ câu chuyện hẹn hò giữa hai nhân vật, đến khi kết hôn,
sinh con, đưa con đi chơi công viên… Cuộc sống của hai nhân vật luôn gắn với nước
xả vải Comfor giúp họ thơm lâu hơn và dễ dàng nhận ra nhau trong mê cung. Hiếm có
sản phẩm nào tạo được hình ảnh mang thương hiệu tốt như vậy.
Quảng cáo kiểu Lý do tại sao: Đây là dạng quảng cáo tác động vào lý trí người
xem . Với cách liệt kê những lý do tại sao khách hàng nên sử dụng sản phẩm, là cách
mà các hãng bột giặt, máy giặt, hay đồ điện tử thường dùng để quảng cáo cho sản phẩm
của mình.
Bột giặt Ariel đưa ra tỷ lệ 75% người sử dụng thích sử dụng bột giặt Ariel. Họ
đưa ra lý do bột giặt Ariel khác với bột giặt thông thường vì chỉ cần bôi trực tiếp nước
giặt lên vết bẩn rồi cho vào máy giặt, vết bẩn sẽ được giặt sạch, và đặc biệt không để lại
cặn bám trên áo quần.
Ngoài ra cũng có những quảng cáo sữa cho trẻ em đã nêu lên được những thành
phần thiết yếu chứa trong sữa đem đến sức khoẻ và trí tuệ cho trẻ. Những phim quảng
cáo này thuyết phục được đối tượng người tiêu dùng sử dụng lý trí để mua hàng.
Quảng cáo đánh vào cảm xúc: Ngược lại với cách quảng cáo hướng tới đối tượng
khách hàng lý trí, thì cách quảng cáo đánh vào cảm xúc lại có tác dụng không kém. Đây là
cách khá khôn ngoan khi chỉ trong một phim ngắn chừng 30s – 60s mà các nhà làm phim
quảng cáo đã lấy được nước mắt và sự đồng cảm của khán giả. Với những phim ngắn khơi
gợi nên nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ quê hương dịp Tết đến xuân về, bột nêm Krorr đã thực sự gây
ấn tượng mạnh mẽ với hình ảnh bữa cơm gia đình đầm ấm mong chờ đứa con nơi phương
trời xa. Hay phim quảng cáo của Coca-cola về sự chia sẻ đồng cảm của em bé trong gia
đình khá giả với em bé nghèo thiếu thốn gia đình. Hay quảng cáo của sữa Cô gái Hà Lan;
sữa Vinammilk với những hình ảnh giàu tính nhân văn “Chung tay giúp trẻ em nghèo”,
mang sữa đến với trẻ em vùng sâu vùng xa …
Quảng cáo dạng đánh vào cảm xúc này như một phim ngắn thực sự, có tác dụng
gây ấn tượng đặc biệt với người xem.
Tuỳ thuộc vào mỗi loại sản phẩm được quảng cáo, tuỳ thuộc vào đối tượng tiêu
dùng sản phẩm mà các nhà sản xuất phim quảng cáo chọn cho phim của mình một hình
thức thể hiện. Tuy nhiên, không phải mỗi bộ phim quảng cáo chỉ sử dụng một hình thức thể
hiện, mà có thể trong một bộ phim quảng cáo chừng 30s thôi, cũng có sự pha trộn của rất
nhiều hình thức thể hiện
2.5. Quy trình sản xuất phim quảng cáo
2.5.1. Nhận đặt hàng: Những thông tin về sản phẩm được quảng cáo.
Đơn đặt hàng này còn gọi là Creative Brief – thông tin sáng tạo. Trong Bảng thông
tin sáng tạo có đủ các thông tin và yêu cầu của khách hàng doanh nghiệp. Người viết
kịch bản dựa vào đó để sáng tạo ý tưởng và kịch bản.
Thông tin bao gồm: Tên doanh nghiệp hoặc sản phẩm; đặc điểm của doanh nghiệp
hoặc đặc tính của sản phẩm; Đối tượng khách hàng tiềm năng sử dụng sản phẩm; Mục đích
của chiến dịch quảng cáo; Mục tiêu sáng tạo; Nội dung chủ đề của phim quảng cáo; Thông
điệp chính; Điểm độc đáo của doanh nghiệp, sản phẩm hoặc dịch vụ; Thời lượng; ngân
sách… Mọi thông tin trên, người sáng tạo ý tưởng phải nắm rõ. Ngân sách làm phim cũng
là một thông tin thiết yếu, nó giúp người viết kịch bản định hình được “khuôn khổ sáng
tạo”. Là nhà văn, hay nhà thơ có thể tha hồ tưởng tượng về những điều cao siêu, kỳ vĩ xứng
tầm vũ trụ. Nhưng là người viết kịch bản quảng cáo, họ phải làm quen với những khái niệm
liên quan đến vấn đề kinh tế: như kinh phí làm phim, nó có thể giới hạn khả năng sáng tạo
của người viết kịch bản. Bởi với một hợp đồng làm phim kinh phí thấp, thì không thể thoả
sức mà sáng tạo. Người viết phải sáng tạo ra ý tưởng sao cho bối cảnh đơn giản, dễ thực
hiện, số lượng nhân vật không quá nhiều, kỹ xảo không quá phức tạp hoặc thậm chí ít dùng
kỹ xảo để tiết kiệm kinh phí. Ngược lại, với một hợp đồng “hạng sang”, người viết lại có
thể tha hồ tưởng tượng: kỹ xảo 3D, bối cảnh phức tạp, diễn viên chuyên nghiệp thậm chí cả
hoa hậu, ca sỹ nổi tiếng… là điều hoàn toàn có thể.
Việc sáng tạo ý tưởng phụ thuộc vào mức kinh phí sản xuất phim quảng cáo cũng
chỉ là một công việc “bếp núc” của người viết kịch bản quảng cáo mà thôi. “Khéo ăn thì
no, mà khéo co thì ấm”.
2.5.2. Hình thành ý tưởng
Lúc này là công việc của một nhóm sáng tạo hoặc công việc độc lập của người viết
ý tưởng quảng cáo.
Ý tưởng được khơi gợi từ chính những thông tin trong bản thông tin sáng tạo
(Creative Brief). Thông thường, trong một kịch bản quảng cáo, người viết sẽ phải trình
bày tóm tắt nội dung ý tưởng của bộ phim quảng cáo. Trong phần này, nội dung được
trình bày ngắn gọn, nêu lên được nội dung truyền tải, hình thức thể hiện và thông điệp
mà phim quảng cáo hướng tới. Việc sáng tạo ý tưởng sẽ được đề cập cụ thể hơn ở
chương III của luận văn.
Tiếp theo, mới đến phần trình bày kịch bản. Khác với cách trình bày kịch bản điện
ảnh, cách trình bày kịch bản quảng cáo lại chia ô, chia cột rõ ràng. Thường bao gồm các
cột thông tin: Số thứ tự cảnh - Cỡ cảnh - Nội dung hình ảnh - Nội dung âm thanh (lời
bình, âm nhạc) - Thời lượng.
Kịch bản quảng cáo chuyên nghiệp đã khá gần với kịch bản phân cảnh của đạo
diễn. Bởi với một kịch bản phim quảng cáo 30giây chỉ có chừng hơn 10 cảnh, nên các
hình ảnh xuất hiện với thời lượng không nhiều và phải thật chính xác như một bản phân
cảnh kỹ thuật. Đôi khi, trong người viết kịch bản quảng cáo còn sáng tác cả lời hát cho
phim dưới dạng một bài thơ có vần điệu.
2.5.3. Dựng Storyboad
Storyboad là bản phân cảnh bằng hình vẽ phác hoạ. Storyboad được vẽ theo các cỡ
cảnh và góc máy. Với phim truyện, việc vẽ Storyboad đóng vai trò quan trọng, giúp
đạo diễn và quay phim khi ra hiện trường dễ dàng định hình được bối cảnh, góc máy,
cách bố trí thiết bị quay. Tuy nhiên, không phải đạo diễn nào cũng sử dụng kịch bản
storyboad.
Với phim quảng cáo, Storyboad là một khâu không thể thiếu. Bởi số lượng hình
ảnh của phim quảng cáo không nhiều, storyboad có vai trò như một phân cảnh kỹ thuật
của đạo diễn và quay phim, giúp cho việc làm phim trở nên chuyên nghiệp, hạn chế việc
thiếu cảnh, thừa cảnh khi quay đồng thời giúp hoạ sỹ thiết kế hình dung được bối cảnh
và chuẩn bị đạo cụ đúng như trong kịch bản đã nêu ra.
Quảng cáo là thuyết phục người tiêu dùng mua hàng, sử dụng dịch vụ và qui
trình sản xuất phim quảng cáo cũng là qui trình thuyết phục bắt đầu từ chủ quảng cáo.
Sau khi kịch bản storyboad đã hoàn thành, thì đây là lúc nhà sản xuất phim thuyết phục
chủ quảng cáo. Một hội đồng duyệt sẽ được thành lập, ở đó có thể có ban lãnh đạo của
doanh nghiệp và đặc biệt là giám đốc kinh doanh. Khi qua được “cửa ải” khắt khe,
nhiều ý kiến khác nhau này, nếu suôn sẻ, bộ phim trên giấy mới bắt đầu được đưa ra
trường quay.
2.5.4. Sản xuất phim (quay phim)
Quá trình này cũng giống như làm phim truyện. Với phim quảng cáo, yêu cầu sự
đồng bộ và chuyên nghiệp tới từng bộ phận làm phim. Mỗi cảnh quay đòi hỏi sự chuẩn
bị công phu về bối cảnh, ánh sáng, thiết bị kỹ thuật. Đạo diễn phải tìm ra những hình
ảnh xúc tích nhất để diễn đạt một ý tưởng nào đó. Với một clip có thời lượng ngắn,
nhưng được đầu tư khá lớn về kinh phí, cầu kỳ về bối cảnh, phục trang, dàn cảnh, cũng
như thiết bị kỹ thuật để dàn dựng nên có rất nhiều phim quảng cáo hoành tráng, đạt
chất lượng cả về nội dung lẫn nghệ thuật ngang với một bộ phim truyện nhựa.
2.5.5. Hậu kỳ
Đây là giai đoạn nhà sản xuất thực hiện khâu dựng phim, lồng tiếng, ghép nhạc,
kỹ xảo.
Hiện nay, các nhà sản xuất trong nước đã có thể thực hiện được phần hậu kỳ ở Việt
Nam. Tuy nhiên, vì điều kiện kỹ thuật chưa hoàn toàn đáp ứng, vẫn còn nhiều quảng cáo được
thực hiện hậu kỳ ở Thái Lan với giá cả vô cùng đắt đỏ.
2.5.6. Kiểm duyệt và chọn kênh, giờ phát sóng.
Trước khi được đưa lên truyền hình, phim quảng cáo phải được trình duyệt để đảm
bảo nội dung không vi phạm những điều luật cấm trong quảng cáo.
Sau khi được kiểm duyệt, doanh nghiệp sẽ chọn giờ phát sóng trên truyền hình.
Tuỳ theo ngân sách, tuỳ theo chương trình truyền hình với những đối tượng khán giả
khác nhau, mà doanh nghiệp chọn giờ phát sóng cho phù hợp.
Một quảng cáo sản phẩm cho trẻ em sẽ được phát sóng đan xen vào các chương
trình dành cho thiếu nhi. Tương tự như vậy, đan xen các chương trình dành cho người
già, phụ nữ, đàn ông sẽ là các sản phẩm phù hợp. Người ta không dại gì quảng cáo sữa
bột cho trẻ em xen kẽ chương trình thể thao. Nhưng quảng cáo bia là một cách quảng
cáo đúng lúc.
Như thế, quảng cáo đúng thời điểm là cách mà phim quảng cáo trên truyền hình
mang lại hiệu quả kinh doanh tốt nhất.
Tiểu kết:
Dù được sản xuất chủ yếu phục vụ mục đích bán hàng cho các doanh nghiệp,
nhưng phim quảng cáo vẫn được gọi là một thể loại phim bởi chính những đặc trưng sử
dụng ngôn ngữ điện ảnh – truyền hình của nó. Vẫn sử dụng ngôn ngữ của hình ảnh, âm
thanh đấy thôi, nhưng phim quảng cáo với đặc điểm dung lượng cực ngắn yêu cầu đòi
hỏi mỗi hình ảnh khi xuất hiện trong phim quảng cáo phải là những hình ảnh duy mỹ,
đem đến những khoảnh khắc sống động và tuyệt đẹp của cuộc sống để gợi cho người
xem một cảm xúc nào đó. Không dài dòng trong lối kể chuyện, phim quảng cáo đôi khi
chỉ là những lát cắt, những bước nhảy thời gian, từ lúc đặt vấn đề đến giải quyết vấn đề
rất nhanh, không đi sâu diễn giải một quá trình như với phim truyện. Đi cùng những
hình ảnh tuyệt mỹ của phim quảng cáo, là âm thanh trong đó có âm nhạc, lời bình, lời
thoại, tiếng động… hết sức cô đọng và ý nghĩa. Và tất nhiên, tất cả những ngôn ngữ
điện ảnh đó, chỉ để phục vụ cho một mục đích bán được sản phẩm hay đem đến ý niệm
đầy ấn tượng về một thương hiệu nào đó. Quảng cáo không đơn giản chỉ là sự chào
hàng, tung hô về sản phẩm. Có rất nhiều thể loại quảng cáo trên truyền hình dù là một
câu chuyện, hay những lát cắt cuộc sống, dù là những hình ảnh hết sức chân thực về
cuộc sống, hay những nhân vật vẽ bằng trí tưởng tượng, thì trên hết, phim quảng cáo
đều mang đến cho người xem một cảm xúc nào đó qua những hình ảnh mang thông điệp
hết sức cô đọng. Ở phim quảng cáo, cũng tuân thủ cấu trúc 3 phần như phim truyện, tuy
rằng câu chuyện chỉ được dựng lên qua những lát cắt. Phim quảng cáo thường mang hơi
hướng của một bộ phim ngắn hội tụ những yếu tố: có ít nhân vật, chủ yếu xoay quanh
một tình huống kịch, chuyện diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn và có kết thúc bất
ngờ.
Có nhiều điểm tương đồng với phim truyện trong quy trình sản xuất, quá trình
sản xuất phim quảng cáo cũng có từ khâu tiền kỳ, sản xuất cho đến hậu kỳ và phát hành.
Tất cả các khâu đều đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao. Tuy nhiên, trong quá trình làm
phim quảng cáo, giai đoạn làm storyboad dường như là một bước tối quan trọng sau khi
kịch bản được hình thành. Bởi đây chính là những hình ảnh đầu tiên để nhà sản xuất
phim thuyết phục bên thuê quảng cáo, và cũng là một kịch bản phân cảnh bằng hình ảnh
giúp ích rất nhiều cho đạo diễn, quay phim cũng như các thành phần khác trong đoàn
làm phim.
Mặc dù có những nét tương đồng với thể loại phim truyện trong việc sử dụng
ngôn ngữ điện ảnh, xây dựng nhân vật, cấu trúc, chủ đề và cốt truyện, nhưng phim
quảng cáo cũng có những nét riêng biệt. Sự khác biệt tạo nên ngay từ chính mục đích
lớn nhất của phim quảng cáo: để bán hàng.
Chương III:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHIM
QUẢNG CÁO TRÊN TRUYỀN HÌNH CỦA VIỆT NAM
3.1. Những thành công đã đạt được
3.1.1. Phim quảng cáo được đầu tư cả về số lượng lẫn chất lượng, có tác động
tích cực vào đời sống xã hội Việt.
Sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO (2007), ngành quảng
cáo Việt Nam mới thực sự phát triển. Trên truyền hình Việt Nam hiện nay, số lượng
phim quảng cáo xuất hiện với mật độ khá dày đặc, nhất là vào những giờ vàng : trước và
sau thời sự, trong thời gian chiếu phim Việt. Phim quảng cáo đã trở thành một thành
phần không thể thiếu của chương trình truyền hình. Nó góp phần kích thích nhu cầu
mua sắm, định hướng mua sắm cho người tiêu dùng, tăng doanh thu cho doanh nghiệp
và còn tạo nguồn kinh phí để đài truyền hình hoạt động và sản xuất chương trình. Nhiều
chương trình có sự tài trợ của quảng cáo mà chất lượng chương trình cũng trở nên tốt
hơn. Cũng nhờ quảng cáo phát triển, hàng Việt được nhiều người tiêu dùng biết đến,
góp phần củng cố thương hiệu hàng Việt Nam.
Những năm gần đây, nhiều công ty truyền thông quảng cáo tư nhân ra đời, là một
yếu tố làm số lượng phim quảng cáo và chất lượng phim quảng cáo cũng tăng dần lên.
Nhiều phim quảng cáo có sự đầu tư về nội dung ý tưởng, chất lượng hình ảnh đẹp, âm
nhạc hấp dẫn, mang đậm bản sắc Việt. Những quảng cáo Knorr, dầu ăn Neptune, ngân
hàng ACB, Coca-cola, Vinafone 3G được khán giả yêu thích. Nhiều nhạc quảng cáo đã
trở thành nhạc chuông điện thoại của các bạn trẻ. Nhiều câu slogan trong quảng cáo đã
đi vào lời ăn tiếng nói người Việt: Khi muốn khích lệ bản thân, người ta nói: “Có thể
bạn không cao nhưng người khác phải ngước nhìn” (câu khẩu hiệu quảng cáo bia Sài
Gòn); Khi muốn nhắc nhở nhau biết điểm dừng cuộc vui, người ta nói “Vui có chừng,
dừng đúng lúc”; Khi muốn nói về sự chia sẻ, người ta thường nói đến câu khẩu hiệu
của hãng bảo hiểm Frudential: “Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”, hay khi thể
hiện một phong cách sống độc lập“ Nói theo cách của bạn” (Viettel)… Có thể thấy,
quảng cáo đã đi vào đời sống, đi vào mọi ngõ ngách, vào mỗi ngôi nhà, mỗi con người,
góp phần tạo nên phong cách sống hiện đại có phần tích cực.
Với việc thành lập Hiệp hội quảng cáo Việt Nam, từ năm 2006 đến nay, Hiệp
hội đã tổ chức Giải thưởng Quả chuông vàng - Giải thưởng quảng cáo sáng tạo Việt
Nam dành cho các thể loại quảng cáo trong nước. Giải thưởng nhằm công nhận và tôn
vinh những giá trị sáng tạo đích thực của ngành quảng cáo tại Việt Nam, đồng thời góp
phần khai phá kho tàng sáng tạo và kích thích nguồn sáng tạo của ngành quảng cáo.
Đồng thời, giải thưởng này cũng gửi đến một thông điệp cho các nhà đầu tư nước ngoài
rằng Quảng cáo Việt Nam hoàn toàn có thể đưa sản phẩm của họ đến với người Việt
một cách gần gũi hơn và đậm chất Việt.
Năm 2009, các giải thưởng đã được trao cho nhiều thể loại như : Giải Quảng cáo
Truyền hình xuất sắc nhất: tác phẩm Vinaphone (Vinaphone); Giải Đạo diễn xuất sắc
nhất: tác phẩm Kotex style- Soft & Smooth (Công ty Ogilvy & Mather VN); Giải
Quảng cáo Báo in; Quảng cáo Truyền thanh; Quảng cáo trực tuyến; Quảng cáo ngoài
trời… Và đã có sự tôn vinh cho chính những người làm nghề như thành phần làm Kỹ
xảo , âm nhạc, hình ảnh. Đặc biệt, ban tổ chức còn giành một giải Mang đậm bản sắc
dân tộc: cho tác phẩm Neptune- Xuân sum họp (Công ty dầu thực vật Cái Lân). Những
giải thưởng này cho thấy, phim quảng cáo không những chỉ được nhìn nhận như một
công cụ bán hàng mà còn được coi như những tác phẩm nghệ thuật thực sự.
Theo thống kê của Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam (VAA), doanh thu toàn ngành
năm 2010 khoảng 1 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng trung bình của ngành từ 20-30%/năm.
Nhận định về sự tăng trưởng này của ngành quảng cáo, ông Trần Hùng, Tổng thư ký
VAA cho hay: “Các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng nhận ra vai trò của quảng cáo
trong kinh doanh. Đó là lý do ngay trong thời điểm kinh tế khó khăn vẫn có nhiều
doanh nghiệp mạnh tay chi cho quảng cáo”. [6]
3.1.2. Yếu tố văn hoá bán hàng và bản sắc văn hoá dân tộc trong phim
quảng cáo đã được đề cao.
Bên cạnh mục đích thu hút khán giả và hiệu quả bán hàng, nhiều nhà sản xuất đã
quan tâm đến việc đề cao văn hoá bán hàng và bản sắc văn hoá dân tộc trong mỗi phim
quảng cáo
Những năm gần đây, quảng cáo Việt Nam hướng tới nền Quảng cáo mang đậm
bản sắc dân tộc. Minh chứng rõ nhất qua Giải Quả chuông vàng năm 2009 đã dành giải
phim quảng cáo mang đậm bản sắc dân tộc cho phim quảng cáo Neptune – Xuân sum
họp (Công ty dầu thực vật Cái Lân). Đây là một phim quảng cáo dài 60 giây, với chủ đề
Xuân sum họp. Hình ảnh mùa xuân đang về với cành mai, cành đào ẩn hiện nơi sân ga,
sân bay mang đến một niềm hi vọng. Trong sự chờ đợi khắc khoải của người ở nhà có
người già, người trẻ, có người ở Hà Nội, người Hội An, người Sài Gòn…và dòng người
từ khắp nơi đổ về sum vầy cùng người thân đón Tết. Với giai điệu nhẹ nhàng, lời hát
như tiếp thêm ý nghĩa cho hình ảnh xuân đất Việt: “Mưa xuân rơi rơi bao muốn ước
đong đầy. Giọt nhớ mong đợi chờ thân thương. Ngàn sắc hoa đất trời ngát hương. Dù
bao cách xa về với quê nhà. Niềm vui chút quà … Về ăn bữa cơm ấm áp gia đình, cùng
em chuyện trò. Một năm đã qua có biết bao điều, phải không?...”. Phim quảng cáo
Neptune- Xuân sum họp không chỉ mang đến hình ảnh, không khí tết Việt đầm ấm, sum
vầy mà còn khơi gợi niềm cảm xúc cho mỗi người khi Tết đến xuân về.
Quảng cáo là một hoạt động kinh doanh, nhưng cũng là một hoạt động mang
đậm văn hoá truyền thống. Yếu tố văn hóa truyền thống và hiện đại trong quảng cáo là
sự kết hợp những giá trị nhân văn, những chuẩn mực văn hóa truyền thống với giá trị
văn hóa hiện đại được thể hiện trong nội dung thông điệp, hay hoạt động quảng cáo.
Trong đó hệ giá trị chuẩn mực của văn hóa dân tộc có vai trò dẫn dắt, định hướng,
khuyến khích và thúc đẩy hành vi tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ của công chúng trong nền
kinh tế thị trường nước ta hiện nay.
Có thể thấy hầu hết trong các phim quảng cáo trên màn hình Việt hiện nay, yếu tố văn
hoá khá được chú trọng. Những phim quảng cáo các thương hiệu lớn thường sử dụng
yếu tố văn hoá dân tộc làm chất liệu để kể câu chuyện riêng cho sản phẩm của mình.
Mỗi phim quảng cáo như một câu chuyện nhỏ. Ở đó, ẩn chứa giá trị truyền
thống: Là truyền thống khi xưa mẹ thường đun bồ kết gội đầu cho tóc đen mượt, ngày
nay con đã có dầu gội tinh chất bồ kết; Hay khi xưa mẹ thường dùng chum đựng nước,
tắm cho con, ngày nay, có bình nước Sơn Hà tiện lợi và hiện đại; Hay khi xưa, món phở
phải chế biến cầu kỳ, ngày nay, phở gói ăn liền dễ dàng chế biến mà vẫn giữ hương vị
xưa, vẫn thể hiện được bàn tay đảm đang của người nội trợ.
Có rất nhiều phim quảng cáo dựa theo motip so sánh khi xưa và ngày nay để thấy
được ưu thế vượt trội của sản phẩm so với truyền thống nhưng không vì thế mà làm mất
đi giá trị truyền thống tốt đẹp, ngược lại, yếu tố truyền thống lại trở thành nền tảng cho
yếu tố hiện đại.
Phim quảng cáo còn hướng tới những đạo lý tốt đẹp của dân tộc: Đó là những
hành động thể hiện truyền thống hiếu học, lá lành đùm lá rách. Sữa cô gái Hà Lan với
hoạt động nhân văn “Đèn đom đóm” để giúp những trẻ em nghèo được đến trường; Sữa
Vinamilk lại có chiến dịch hành động để trẻ em nghèo cũng được uống sữa, để trẻ em
Việt Nam được cao lớn hơn. Hay quảng cáo của VNPT mang nội dung chia sẻ, đỡ đần
mọi người những lúc khó khăn, truyền thống uống nước nhớ nguồn bằng hành động xây
nhà tình nghĩa cho bà mẹ Việt Nam anh hùng. Lòng tự hào dân tộc được nhắc đến trong
rất nhiều quảng cáo: Quảng cáo Bitis với niềm tự hào con Lạc cháu Hồng; nhiều quảng
cáo gắn với các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử của đất nước như Hồ Gươm Hà
Nội, khu du lịch Bà Nà Hill, khu giải trí và nghỉ dưỡng Vinpearl land Nha Trang.
Yếu tố lịch sử cũng được thể hiện trong nhiều phim quảng cáo: Chúng ta không
quên hình ảnh những bước chân Long Quân lên núi, Bước chân nghĩa quân Tây Sơn
hăng hái ra chiến trận trong quảng cáo Biti’s; Hay hình ảnh Đinh Bộ Lĩnh thời nhỏ cầm
lau ra trận trong phim quảng cáo sữa của Nutifood; Hay những thước phim về việc
truyền tin đưa thư của Mai An Tiêm thả dưa hấu vào đất liền; của cánh chim bồ câu
mang thư; của người đưa thư trong chiến trường trong phim quảng cáo VNPT.
Ở rất nhiều phim quảng cáo nước mắm, bột nêm, truyền thống gia đình được
khắc hoạ rõ nét: đó là những bữa cơm gia đình có nhiều thế hệ, bát nước mắm thể hiện
sự quây quần, đầm ấm, hạnh phúc gia đình; đó là sự sẻ chia của người chồng với người
vợ công việc nội trợ; là tình yêu chung thuỷ son sắc vợ chồng trong những quảng cáo
bột nêm Knorr; Ở nhiều phim quảng cáo khác, ta còn thấy truyền thống kính trên
nhường dưới, như trong quảng cáo bánh Chocopie khi những đứa trẻ biết coi trọng chữ
Nho và biết sẻ chia với nhau chiếc bánh nhỏ đầy tình nghĩa; là tình mẫu tử đầy xúc động
trong những quảng cáo bột nêm khi người con phương xa nhận được thông điệp của
người mẹ nơi quê nhà qua hình ảnh bát canh ngon mắt, thân thuộc như mời gọi con về
nhà.
Không chỉ biểu đạt trong ý nghĩa nội dung, trong từng hình ảnh của phim quảng
cáo cũng đậm đà chất Việt.
Không thể phủ nhận những nỗ lực của những nhà làm phim quảng cáo Việt trong
việc sáng tạo, mang đến những hình ảnh hết sức thuần Việt mang tập quán, thuần phong
mỹ tục của người Việt Nam: Là hình ảnh bữa cơm gia đình mọi người háo hức với nước
tương Chinsu; Là hình ảnh bát canh ngon mắt bổ dưỡng “bởi tay mẹ nấu” với bột nêm
Knorr trong sự thán phục của cả gia đình; Là hình ảnh quy trình xay lọc gạo đem đến
thứ nước gạo trắng để làm ra phở; Là hình ảnh Văn miếu Quốc Tử Giám với ông Đồ
ngồi viết chữ Nho trong phim quảng cáo sản phẩm bánh Chocopie; Là hình ảnh gia đình
quây quần, con cháu bên ông bà thưởng thức bánh trung thu trong những phim quảng
cáo bánh trung thu. Qua nhiều phim quảng cáo, ta thấy hình ảnh đất nước, con người
Việt Nam hiện lên thật đẹp. Một đất nước, con người Việt Nam hiện lên với ấn tượng
hoà bình và thân thiện trong phim quảng cáo của Việt Nam airline với những hình ảnh
thiếu nữ trong đầm sen, món cơm bọc trong lá sen, những đứa trẻ để đầu trái đào thả
diều lên bầu trời xanh…
Lời bình là yếu tố quan trọng đứng sau hình ảnh trong phim quảng cáo trên
truyền hình. Có thể thấy, các nhà quảng cáo Việt đã rất khéo léo khi sử dụng ngôn ngữ
tiếng Việt. Thể thơ lục bát, thơ thất ngôn, vè, đồng dao được sử dụng nhiều trong lời
bình quảng cáo. Những câu tục ngữ, ca dao được sử dụng khá khéo léo đan cài trong nội
dung quảng cáo. Gần đây, phim quảng cáo bột nêm Maggi đã đi vào lòng người với
tình huống người chồng đi ăn cơm với bạn bè, trong đó có cô gái đẹp quyến rũ được ví
như “phở dài” nhưng anh không quên “cơm ngắn” là người vợ với mâm cơm ngon ngọt
ở nhà. Lời bình vô cùng ý nhị: “Ai đừng một dạ hai lòng. Đừng chê cơm ngắn đừng
than phở dài. Phở dài là của người ta. Cơm ngon canh ngọt mới là vợ anh” hay lời bình
trong phim quảng cáo cũng của Maggi bằng thể thơ lục bát truyền thống: “Ớt nào mà ớt
chả cay. Gái nào mà gái chả hay ghen chồng. Ghen chồng là bởi thương chồng. Ớt cay
canh ngọt đượm nồng bên nhau”. Với cách vận dụng lối nói ví von của thể loại văn học
dân gian, phim quảng cáo đã góp phần gìn giữ và phát huy sự phong phú của ngôn ngữ
tiếng Việt. Có lẽ chỉ có người Việt Nam mới hiểu hết tâm lý “gái nào mà gái chả hay
ghen chồng” nhưng đầy lòng vị tha và khéo léo của người phụ nữ Việt trong việc nội trợ
tề gia. Chỉ qua một tô canh nhiều màu sắc thôi, cũng đủ nói lên phẩm chất ấy.
Âm nhạc trong phim quảng cáo Việt cũng đã tạo được những dấu ấn với khán
giả. Để có một giai điệu quảng cáo, các nhà sản xuất phim thường chọn cách thuê nhạc
sỹ sáng tác một đoạn nhạc phù hợp với nội dung cần truyền tải vì không phải dễ dàng
tìm kiếm được một ca khúc có sẵn phù hợp, lại chưa kể đến những vấn đề về bản quyền
tác giả.
Cũng có nhiều phim quảng cáo sử dụng một đoạn của một nhạc phẩm có sẵn, phù
hợp với nội dung hình ảnh và sản phẩm được quảng cáo. Có thể kể đến “Tóc hát” của
nhãn hàng Dove; “Cười lên Việt Nam ơi” của kem đánh răng P/S; Tôi yêu Việt Nam
của Honda Việt Nam. Hay đặc biệt như hãng Kotex đã thu hút cả nam lẫn nữ thanh
niên với những ca khúc ấn tượng, đậm chất teen: “Tôi muốn”, “Vươn tới ngôi sao” và
“Con đường thành công”. Gần đây nhất, trong một quảng cáo của ngân hàng Á Châu
(ACB Bank), đã sử dụng ca khúc “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” của cố nhạc sỹ
Trịnh Công Sơn. Bỗng nhiên, nhờ truyền thông, mà ca khúc tưởng chừng như đã bị lãng
quên này, lại được nhiều khán giải biết đến và yêu thích, đi đôi với việc ngỡ ngàng khi
biết đó là một ca khúc của nhạc sỹ họ Trịnh.
Một cách khác có vẻ dễ dàng kiểu “mỳ ăn liền” hơn, đó là việc thay “bình mới
rượu cũ” cho ca khúc. Tức là thay lời cho bài hát. Một số quảng cáo hướng tới đối
tượng thiếu nhi thường sử dụng các ca khúc dành cho thiếu nhi có sẵn, chỉ cần thay lời,
thêm tên sản phẩm vào, thế là có ngay … bài hát mới. Có thể kể đến như quảng cáo mỳ
Micoem với bài hát “oẳn tù tì”, Dầu ăn Kiddy với nhạc nền ca khúc nước ngoài vui
nhộn quen thuộc trên nền hình ảnh quảng cáo đã tạo nên những ấn tượng mới cho ca
khúc và ngược lại giúp khán giả nhớ về sản phẩm nhanh hơn.
Ngoài ra, nhiều phim quảng cáo sử dụng những làn điệu âm nhạc dân gian thay
lời mới để thông qua đó giới thiệu về sản phẩm của mình. Những làn điệu dân ca bỗng
trở nên mới mẻ về ngôn từ: nào là mỳ số đỏ trong làn điệu dân ca Nam bộ với giai điệu
mượt mà, dễ đi vào lòng người. … Đó là cách mà các nhà làm phim quảng cáo tiếp cận
người tiêu dùng bình dân, để họ dễ nhớ, dễ thuộc tên sản phẩm.
3.1.3. Phim quảng cáo trên truyền hình Việt Nam đã góp phần định hướng
lối sống tích cực cho người xem.
Khác với những phim quảng cáo của phương Tây, phim quảng cáo của Việt
Nam thường hiện lên con người kín đáo, giản dị, mang nếp cảm, nếp nghĩ của người
Việt. Khi quảng cáo cho các sản phẩm thực phẩm, đồ dùng gia đình, các phim quảng
cáo thường sử dụng hình ảnh gia đình hạnh phúc, êm ấm. Người phụ nữ Việt Nam hiện
lên giản dị, chịu thương chịu khó. Trẻ con thì biết kính trọng người trên. Con cháu biết
lễ nghĩa với cha mẹ, ông bà... Những thước phim tuyệt đẹp ấy góp phần tô điểm, gìn
giữ, định hướng cho người xem về một lối sống tốt đẹp.
Có thể nói, phim quảng cáo cũng có tác dụng định hướng cho người xem. Ngoài
việc định hướng và thuyết phục khách hàng mua sản phẩm, còn có tác dụng định hướng
về lối sống, tư duy, hành động. Khi xưa, Tết trung thu thường dành cho trẻ nhỏ. Nhưng
giờ đây, qua quảng cáo, trung thu lại là dịp bày tỏ cả tình thâm giao, tình đồng nghiệp,
tình cảm lễ nghĩa với mẹ cha qua những hộp bánh trung thu sang trọng, bổ dưỡng. Khi
xưa, việc nội trợ là công việc của người phụ nữ, thì giờ đây, người chồng cũng biết giúp
vợ nấu ăn, làm nội trợ. Những ngày lễ Giáng Sinh hay những Ngày của Bố (Fathers
Day), Ngày của Mẹ (Mothers Day) cũng là những dịp để các nhà quảng cáo mang đến
cho người xem những khoảnh khắc ấn tượng, đầy cảm xúc với những hành động đầy
tính nhân văn.
3.1.4. Phim quảng cáo Việt Nam đang dần bước sang giai đoạn hiệu quả
bằng sự chuyên nghiệp.
Sự chuyên nghiệp ở đây được hiểu là phim quảng cáo đã có sự đầu tư vào các
yếu tố cơ bản như: hình ảnh, âm thanh, âm nhạc. Người làm quảng cáo đã nắm được
ngữ pháp của phim quảng cáo, vận dụng một cách sáng tạo ngôn ngữ điện ảnh vào phim
quảng cáo.
Thay vì việc ngồi chờ các chủ doanh nghiệp mời chào đấu thầu ý tưởng, thì
những nhà sản xuất phim quảng cáo nay chủ động hơn. Nguồn cung đi trước nhu cầu.
Thị trường phim quảng cáo Việt Nam nay đã xuất hiện những “siêu thị quảng cáo”,
người ta gọi đó là phim quảng cáo “may sẵn”. Có thể hiểu như thế này: Người tiêu
dùng vào siêu thị để mua áo quần, họ chọn những bộ trang phục bắt mắt, họ được quyền
mặc thử, lựa chọn màu sắc, kích cỡ cho phù hợp với vóc dáng của mình. Thì nay, doanh
nghiệp – chủ quảng cáo cũng có thể chọn phim quảng cáo cho sản phẩm của mình như
đi siêu thị mua đồ may sẵn vậy. Tức là, trong siêu thị quảng cáo, người ta đã có sẵn
hàng trăm phim quảng cáo chưa có tên sản phẩm. Các phim quảng cáo mới chỉ chia
theo danh mục như: dầu gội, sữa tắm, bột nêm, bột giặt… một cách chung chung. Chủ
doanh nghiệp chỉ cần một cú “nhấp chuột”, là có thể xem ngay trên máy vi tính nối
mạng, để chọn phim quảng cáo ưng ý với sản phẩm mình có. Tiếp theo đó là đặt hàng,
mua phim và cung cấp cho nhà sản xuất phim sản phẩm, tên sản phẩm và những thông
tin cần thiết về sản phẩm. Chỉ sau 24 giờ, một bộ phim quảng cáo đã hoàn thành đầy đủ
nội dung, chất lượng không thua kém gì phim quảng cáo “đặt may đo”. Việc mua phim
quảng cáo kiểu “may sẵn” này tuy được sản xuất hàng loạt nhưng không có nghĩa là tạo
nên sự trùng lặp. Mặc dù kiểu “may sẵn” hiếm có được những sáng tạo mang tính đột
phá, nhưng không thể phủ nhận hình thức này có ưu điểm là tiết kiệm được chi phí (Tiết
kiệm 75% chi phí làm phim quảng cáo theo cách thông thường) và thời gian cho doanh
nghiệp trong quá trình chờ đợi sản xuất. Với “siêu thị phim quảng cáo”, chủ doanh
nghiệp có thể được chiêm ngưỡng phim thành phẩm ngay tức khắc, chứ không mất công
“phấp phỏng, hồi hộp” chờ những phim quảng cáo dạng “may đo”. Rất nhiều trường
hợp, dù đã đồng ý từ khâu ý tưởng và kịch bản, nhưng khi phim hoàn thành, thì doanh
nghiệp lại tỏ ra thất vọng với bộ phim trên màn ảnh. Phim quảng cáo dạng “may sẵn”
giúp doanh nghiệp loại trừ những “rủi ro” không đáng có đó. Đây có thể là một hướng
đi mới thể hiện tính chuyên nghiệp của các nhà sản xuất phim quảng cáo ở Việt Nam.
Sự xuất hiện của “siêu thị quảng cáo có tác động tích cực lên ngành quảng cáo, bởi khi
chất lượng của phim quảng cáo “may sẵn” càng cao, nó sẽ kích thích ngược lại sự sáng
tạo của dòng phim quảng cáo “may đo” và kích thích cả sự khám phá của công chúng
đối với nghệ thuật phim quảng cáo.
3.1.5. Làm phim quảng cáo – sân chơi sáng tạo hấp dẫn người làm phim trẻ.
Làm phim quảng cáo đang là cơ hội để các nhà làm phim trẻ thể nghiệm và rèn
luyện tay nghề. Với các nhà làm phim chuyên nghiệp, thì đây vừa là sân chơi để các đạo
diễn thoả sức sáng tạo bằng những công cụ điện ảnh vừa là điều kiện thuận lợi để có
thêm những nguồn thu nhập khá lớn. Làm phim quảng cáo không chỉ là cơ hội cho đạo
diễn trẻ mới ra trường mà còn là sân chơi dành cho các đạo diễn điện ảnh đã thành danh
để “lấy ngắn nuôi dài”.
Trong khi với thể loại phim truyện, một đạo diễn trẻ mới ra trường ít có cơ hội để
“đứng riêng”, thì với phim quảng cáo, đó là cơ hội lớn cho những đạo diễn trẻ thực hành
tay nghề và thể nghiệm sức sáng tạo. Không ít những đạo diễn trẻ có tác phẩm đầu tay
khi lập nghiệp lại là phim quảng cáo. Không ít những đạo diễn trẻ làm giàu từ phim
quảng cáo, làm phim quảng cáo để nuôi ước mơ làm phim truyện nghệ thuật. Đạo diễn
Bùi Thạc Chuyên, Lương Đình Dũng, Đỗ Đức Thành là những đạo diễn hoạt động khá
sôi nổi trong sân chơi quảng cáo.
Từng giành giải giành cho đạo diễn trẻ tại LHP Cannes với phim ngắn Cuốc xe
đêm năm 2001, Giải B Hội điện ảnh Việt Nam 2002 với bộ phim phim tài liệu Tay đào
đất, đánh dấu tên tuổi trong làng Điện ảnh Việt Nam với phim truyện nhựa đầu tay
Sống trong sợ hãi, với bộ phim dạng thể nghiệm Chơi Vơi, để nuôi được ước mơ làm
nghệ thuật ấy, Bùi Thạc Chuyên đã từng là đạo diễn làm phim quảng cáo cho nhiều
doanh nghiệp lớn như : Ngân hàng Teckcombank, Ngân hàng Vietinbank; hãng hàng
không Vietnam airline; Bưu chính Việt Nam (VNPT)…
Đạo diễn trẻ Lương Đình Dũng là giám đốc công ty Truyền thông Tứ Vân, thành
danh trong làng phim quảng cáo từ khá lâu. Với biệt danh “Dũng phim ngắn”, từ khi
còn là sinh viên trường đại học Sân khấu & điện ảnh cho đến khi nổi danh, Lương Đình
Dũng đã được thể nghiệm tay nghề của mình với rất nhiều phim ngắn như: Hai người
lính, Đồng tiền, Đêm tối, Bạn già, Người chiếu đèn, Bánh đa bánh đúc, Nhớ mặt trời,
v.v. Năm 2007, phim ngắn “Chuyện ông Mờ” -(The boatman) đã mang về cho Lương
Đình Dũng giải thưởng "Đạo diễn xuất sắc" tại Liên hoan phim quốc tế Tokyo (TVF)
lần 29. Có lẽ đây chính là bước tiền đề tạo nên kinh nghiệm và sức sáng tạo không
ngừng cho “Dũng phim ngắn” “náo hoạt” sân chơi phim quảng cáo và thành lập công ty
Tứ Vân chuyên sản xuất các thể loại phim quảng cáo, phim tài liệu, giới thiệu doanh
nghiệp… Những phim quảng cáo mỳ Mummum, mỳ Cung Đình , Viettel post, VNPT,
vở Hồng Hà, … đều là tác phẩm do anh làm đạo diễn và năm 2006, giải “Quả chuông
vàng” giành cho phim quảng cáo đều có những tác phẩm xuất sắc mang dấu ấn của
Lương Đình Dũng: Quảng cáo “Bia Đại Việt” – Giải kỹ xảo quảng cáo xuất sắc nhất;
quảng cáo “Nhảy cùng Zinzin” – Giải âm nhạc quảng cáo xuất sắc nhất.
Đạo diễn Đỗ Đức Thành được công chúng biết đến qua những bộ phim truyền
hình dài tập ấn tượng như: Những ngọn nến trong đêm, Những giấc mơ dài, Dòng
sông phẳng lặng, … anh là người ham mê kỹ xảo và công nghệ. Nhiều phim anh thực
hiện đã sử dụng kỹ xảo điện ảnh. Làm phim quảng cáo cũng thực hiện ước mơ làm kỹ
xảo của anh. Hiện nay, anh đang là giám đốc của công ty truyền thông Digisun làm rất
nhiều phim quảng cáo cho các thương hiệu nổi tiếng như: tập đoàn Hoà Phát, Vigracera,
Vietinbank…. Đỗ Đức Thành còn được giới truyền thông biết đến với vai trò là đạo
diễn của các chương trình mang tính tuyên truyền cho giới trẻ như: Cùng hoà nhịp con
tim, Hành trình xanh (Go Green)…
“Sẽ không có gì ngạc nhiên khi bắt gặp một đạo diễn mà tên tuổi ngời ngời ở các
liên hoan phim nghệ thuật quốc tế, lại đang chỉ đạo ê-kíp quay đoạn phim quảng cáo
cho một sản phẩm công nghệ cao, cũng như không có gì bất ngờ khi một nhạc sĩ tên
tuổi cho biết thù lao cao nhất nhận được khi sáng tác là bản nhạc… 30 giây cho phim
quảng cáo! Làng nghệ Việt Nam đã có một thời nhà nhà sống nhờ làm phim quảng
cáo.” [1]
Khi quảng cáo đang là một sân chơi mới mẻ, hấp dẫn sẽ tạo nhiều cơ hội cũng
như nhiều thách thức cho các nhà làm phim trẻ mới vào nghề.
3.2. Hạn chế của phim quảng cáo trên truyền hình Việt Nam
3.2.1. Lối mòn trong ý tưởng và cách thể hiện
Trước hết, về ý tưởng, nhiều phim quảng cáo trên truyền hình hiện nay đang theo lối
mòn cách thể hiện. Thường thấy là các quảng cáo thuốc, thực phẩm chức năng, đã trở thành
một công thức: có bệnh thì nhăn nhó, có thuốc vào là khoẻ ngay tức khắc. Lời rao bán
thuốc cứ ra rả trên truyền hình vào mỗi buổi sáng và mỗi tối trước giờ thời sự, khiến người
xem truyền hình “ù cả tai”.
Nhiều phim quảng cáo có lối thể hiện giống nhau: sử dụng hình ảnh mâm cơm
gia đình khiến cho người xem dù có gật gù khen hay, nhưng khó lưu lại trong tâm trí
người xem về thương hiệu sản phẩm. Đây chính là nguyên nhân của việc không tạo sự
khác biệt trong ý tưởng và cách thể hiện.
3.2.2. Những mẩu quảng cáo hài hước tuy rằng thu hút được khán giả truyền hình
nhưng không có khả năng tăng doanh thu cho doanh nghiệp.
Không ít phim quảng cáo với những diễn viên hài tung hứng trong một tình
huống hài hước như một màn tấu hài, nặng tính giải trí, khiến người xem bật cười
nhưng nội dung lại không ăn nhập với sản phẩm cần quảng cáo. Đôi khi sự hài hước lại
trở nên vô duyên, nhạt nhẽo, sản phẩm được đưa vào một cách khiên cưỡng. Gần đây,
khán giả truyền hình tỏ thái độ thiếu thiện cảm với quảng cáo sản phẩm trà Vfresh do
nữ ca sỹ “nặng ký” Silk Black là người đại diện. Phim quảng cáo là màn giới thiệu của
Silk về sản phẩm trà atiso Vfresh. Với giọng điệu dễu cợt về “sự nhẹ nhàng” của bản
thân mình khi uống trà atiso Vfresh, kéo theo tràng cười ở cuối phim mà khiến cho
không lâu sau, vì bị khán giả “la ó” nhiều, phim quảng cáo này đã bị cắt bớt đi tràng
cười thiếu thẩm mỹ đó. Và tất nhiên, với việc quảng cáo thiếu mỹ cảm như vậy, không
đem đến lợi thế cho doanh nghiệp là một điều tất yếu.
Đôi khi, những người làm quảng cáo không xác định được điều mà một thương
hiệu cần: đó là 1 thông điệp minh bạch giúp người tiêu dùng phân biệt thương hiệu này
với các thương hiệu khác. Còn nhiều quảng cáo đưa ra những khẩu hiệu nhạt nhẽo, vô
bổ, nghèo nàn ý nghĩa, chung chung như: cho mọi người, của mọi nhà, cho mọi nhà, ai
cũng thích… Trong khi trên thế giới, người ta đang cố gắng hướng một sản phẩm, dịch
vụ đến một loại đối tượng nhất định và cụ thể – đó là khách hàng tiềm năng.
3.2.3. Thông tin không rõ ràng, gây hiểu lầm về sản phẩm là một vấn nạn
của phim quảng cáo trên truyền hình.
Trên truyền hình hiện nay đang quảng cáo sản phẩm giấy văn phòng Clever với
câu khẩu hiệu: “ Bạn đã thử chưa?” tuy nhiên, khi nghe người ta khó hình dung được là
quảng cáo gì. Câu khẩu hiệu này không theo nguyên tắc như đã nói ở trên về câu khẩu
hiệu: đó là câu khẩu hiệu phải nói lên được thông điệp, tính năng của sản phẩm. Phim
quảng cáo có hình ảnh một cô gái mặc trang phục thân trên màu vàng, thân dưới màu
đen, cô cúi xuống và bị rách chiếc váy ngắn đang mặc. Bao bì gram giấy Clever đồng
màu với trang phục cô gái đang mặc đã giúp cô che đi vết rách trên váy, tự tin bước tiếp
bên người đồng nghiệp nam. Với ánh mắt của diễn viên nữ và câu khẩu hiệu mang đầy
tính khiêu khích ở cuối phim, một phim quảng cáo như thế chưa phù hợp với quảng cáo
giấy văn phòng, dễ khiến người xem liên tưởng và lầm tưởng đến một sản phẩm khác.
Hay như phim quảng cáo sản phẩm sữa tắm Dove một thời gây phản cảm khi sử dụng
những lời lẽ có vẻ như khêu gợi và khiêu khích: “Không tin à, sờ thử coi”. Câu nói này
vô tình gây một hiệu ứng, trào lưu không tốt cho giới trẻ, dù trong bối cảnh quảng cáo,
nó thực sự trong sáng.
Là một quảng cáo thuốc, Bổ thận nam – “một người khoẻ hai người vui” là một
câu khẩu hiệu khá thô dù nó là một câu “lóng” khiến nhiều người sử dụng trong các
trường hợp khác nhau. Hình ảnh trong phim quảng cáo đơn giản chỉ có hai nhân vật một
nam một nữ với hộp thuốc Bổ thận nam và đọc ra rả câu khẩu hiệu trên gây phản cảm.
Phim quảng cáo ngoài tính thẩm mỹ cao, điều quan trọng hơn là tính hiệu quả
trong kinh doanh. Tuy nhiên, không ít phim quảng cáo chỉ mang những hình ảnh đẹp,
hoặc tình huống hài hước giải trí như một hình thức nghệ thuật, đánh mất chức năng là
một công cụ của Marketing, không thể hiện được những thông tin mà khách hàng cần
biết: đó là đặc điểm, chất lượng, ưu điểm của sản phẩm, dịch vụ. Để rồi khi xem, khán
giả cũng trầm trồ khen hay, nhưng rồi sau đó, người ta quên mất tên sản phẩm hoặc tên
doanh nghiệp được quảng cáo.
Ngược lại nhiều quảng cáo đi vào tình huống trực tiếp, dù không hay, thậm chí
thiếu thẩm mỹ, nhưng lại đáp ứng những thông tin cần thiết về sản phẩm hoặc dịch vụ.
3.2.4. Sự khoa trương, hoa mỹ trong ngôn từ dẫn đến quảng cáo không đúng sự
thật đang là một thực trạng đáng buồn với phim quảng cáo.
Công nghệ quảng cáo ngày càng phát triển, tinh vi từ từng hình ảnh đến ngôn
ngữ. Vẫn biết quảng cáo được phép sử dụng hình ảnh quá lên so với sự thật, nhưng
nhiều quảng cáo hiện nay đang quá lạm dụng phép này mà trở thành quảng cáo khoa
trương, hoa mỹ trong ngôn từ một cách thái quá. Những cụm từ vốn nên tránh trong
quảng cáo như: “số một”; “cực tốt”; “100% nguyên chất”; “siêu sạch”…; được dùng
khá phổ biến. Nhiều sản phẩm được quảng cáo tâng bốc một cách thái quá bằng các kỹ
xảo đặc biệt để nói lên chất lượng… phi thường của sản phẩm/ dịch vụ khiến người
xem có thể bị đánh lừa về chất lượng sản phẩm/ dịch vụ. Việc quảng cáo không đúng sự
thật gây ra cho người tiêu dùng những thiệt hại không chỉ về kinh tế, mà còn tổn hại về
sức khoẻ. Chúng ta còn nhớ cách đây không lâu, trên kênh truyền hình cáp trung ương
có clip quảng cáo vòng đeo tay Titan Phật bà quan âm. Theo như quảng cáo, sản phẩm
có chứa 99,99% là Titan và Germanium được hãng SGS của Thụy Sỹ kiểm định và
chứng nhận có tác dụng tăng khả năng lưu thông máu, chống bức xạ, chống mệt mỏi,
cải thiện sức khoẻ với giá bán là 999.000 đồng một bộ sản phẩm. Vậy mà sau khi được
giám định, lại đem đến một kết quả gây “sốc” cho người tiêu dùng. Thực chất, chiếc
vòng chỉ chứa 2,8% Titan; 71,31% là sắt, còn lại là các tạp chất khác, không tìm thấy
nguyên tố Germanium và giá đổ buôn ở Trung Quốc cũng chưa đến 10.000 đồng. Vụ
việc này gây bức xúc cho dư luận, khiến người tiêu dùng mất lòng tin vào quảng cáo
trên truyền hình.
Cũng chính từ những quảng cáo khoa trương, không đúng sự thật mà trong năm
2011, Quốc hội đã họp dự thảo luật quảng cáo có đề cập đến những điều cấm trong
quảng cáo tại Điều 10 Trong quảng cáo: Cấm quảng cáo sai sự thật về số lượng, chất lượng,
giá, nhãn hiệu, xuất xứ của hàng hoá, dịch vụ đã đăng ký hoặc đã được công bố . Cũng trong dự
thảo luật này, tại điều 17 cũng quy định yêu cầu đối với nội dung quảng cáo trong đó có quy
định nội dung quảng cáo phải trung thực, rõ ràng, chính xác.. Quảng cáo phải đúng với chất
lượng, công dụng, nhãn hiệu, chủng loại của sản phẩm. Cho đến thời điểm hoàn thành luận văn
này, thì luật quảng cáo mới chỉ trong dự thảo và chưa ban hành.
3.2.5. Trong một xã hội hướng tới bình đẳng nam nữ, nhưng vẫn còn tồn tại
những lối mòn định kiến về giới trong phim quảng cáo trên truyền hình hiện nay.
Theo một nghiên cứu của nhóm cán bộ Oxfan Anh - CSAGA về đề tài “Sạn giới
trong phim quảng cáo”, đề tài đã đem đến những nhận định về thực trạng định kiến về
giới trong hầu hết những phim quảng cáo trên truyền hình hiện nay: Dễ dàng nhận thấy,
như đã trở thành một truyền thống, một quy luật bất biến, người phụ nữ trong gia đình
là người có nhiệm vụ chăm sóc cho gia đình từ vật chất đến tinh thần. Họ có trách
nhiệm lựa chọn sản phẩm tốt nhất cho gia đình từ tuýp kem đánh răng, bàn chải đánh
răng, bánh xà phòng tắm cho đến những chai nước mắm, chai dầu ăn hay nước xả vải,
sữa tươi cho cả gia đình. Quảng cáo nước xả vải Downy, mẹ chính là người dùng nước
xả vải cho quần áo của con thơm lâu. Quảng cáo bột nêm Knorr: người vợ là người nấu
món ngon và người chồng là người thẩm định chất lượng. Quảng cáo bột giặt Tide lại
mặc định ngay từ đầu rằng công việc giặt giũ là của người phụ nữ bằng tuyên ngôn hết
sức “hùng hồn” nhằm lay động người xem: “Nhiều người phụ nữ hi sinh đôi tay giặt
quần áo cho gia đình. Tide đã tạo ra loại bột giặt để giải quyết vấn đề này.”. Trong phim
quảng cáo nước lau nhà Sunlight, cô gái trẻ cũng là người thực hiện việc lau sàn nhà
sạch bóng. Vậy, nam giới đóng vai trò gì trong phim quảng cáo?
Ta thường thấy trong các phim quảng cáo, nam giới đóng vai trò chuyên gia, nhà
nghiên cứu, nhà khoa học, nhà sáng tạo. Phim quảng cáo bột giặt Omo đưa ra hình ảnh
các chuyên gia về máy giặt là nam giới để nói về sản phẩm. Dầu gội Sunsilk với hình
ảnh chuyên gia tóc quốc tế sáng tạo nên loại dầu gội ưu việt. Các sản phẩm cà phê, điện
thoại di động, ôtô, công nghệ thường gắn liền với vai trò của nam giới. Sự mạnh mẽ,
tính chủ động cũng thuộc về nam giới. Họ được gắn với những môi trường làm việc
sang trọng, có thu nhập cao, sự hưởng thụ, chinh phục đỉnh cao. Sự phân biệt về công
việc của từng giới vô tình tạo nên một định kiến với vai trò của người phụ nữ. Khi hình
ảnh của những người phụ nữ được đưa lên phim quảng cáo nhiều thì vai trò của họ
trong đời sống thực lại càng bị đẩy lùi vào căn bếp.
3.2.6. Bên cạnh những phim quảng cáo đã thổi được hồn tuý dân tộc, thì còn
rất nhiều quảng cáo phản cảm, thiếu văn hoá.
Như đã viết ở trên, quảng cáo ngoài tác dụng thúc đẩy kinh doanh, còn có tác dụng
tạo phong cách sống mới. Tuy nhiên, với những quảng cáo thiếu văn hoá, nó vô tình cũng
gây những tác dụng không tốt cho xã hội. Trẻ em là một đối tượng “khán giả” mê xem
quảng cáo. Nhiều phụ huynh lạm dụng cho con trẻ xem phim quảng cáo để dụ chúng ăn bột.
Không ít phụ huynh nhờ quảng để dụ con ăn uống như những nhân vật trong phim quảng
cáo. Tuy nhiên, có nhiều quảng cáo còn mang tính bạo lực như quảng cáo Bột giặt T chiếu
cảnh hai diễn viên nam có màn võ thuật đẹp mắt. Một nhân vật bị đo ván với cú ngã xuống
nền bùn đất, nhưng anh ta không lo, bởi đã có bột giặt T làm trắng sạch áo như mới. Thiết
nghĩ, quảng cáo này sẽ đem đến những tác động tiêu cực cho người Việt trẻ với ý nghĩ cứ
đánh nhau đi, ngại gì vết bẩn.(!!!)
Lại có phim quảng cáo bột giặt Omo xây dựng tình huống một cậu học sinh trong giờ
kiểm tra lấy ra chiếc khăn mùi xoa. Cô giáo sấn sổ bước tới giật lấy chiếc khăn trên tay cậu
bé vì cho rằng cậu học trò gian lận thi cử. Nhưng sự thật không như cô giáo tưởng. Trên
chiếc khăn là dòng chữ người mẹ viết động viên con trai thi tốt. Và cậu học trò cười như
thách thức cô giáo vì sự lầm tưởng đó. Gạt bỏ đi những ý nghĩa sâu xa về chiếc khăn tay với
những lời động viên của người mẹ dành cho con, đập vào mắt khán giả là cách hành xử thiếu
văn hoá của cô giáo khi giật đồ của học sinh, và càng tệ hại hơn khi kết phim lại là ánh mắt
cười nhạo đầy thách thức của cậu học trò dành cho cô giáo. Đó là một hành động vi phạm
đạo đức học trò. Một phim quảng cáo đưa ra những hành động phản cảm như vậy, vừa xúc
phạm danh dự người thầy, lại vừa vô tình hướng trẻ nhỏ đến những hành động phản giáo dục.
Với mỗi quốc gia có một nền văn hoá riêng và có những chuẩn mực đạo đức
riêng. Cũng bởi thế, phim quảng cáo cũng dựa trên nền văn hoá của mỗi quốc gia. Một
quảng cáo với những diễn viên gợi cảm, thiếu vải có thể được chấp nhận ở các nước
phương Tây, nhưng nó khó được chấp nhận ở nước đạo Hồi. Việt Nam là một nước
mang những nét văn hoá Á Đông, sự kín đáo, tế nhị luôn được coi trọng. Tuy nhiên, gần
đây trên truyền hình, những phim quảng cáo sữa tắm với những hình ảnh cơ thể phụ nữ
khêu gợi đang được sử dụng khá nhiều. Việc này có thể gây ảnh hưởng khiến cho người
xem sa vào lối sống thực dụng, đam mê nhục dục.
Sở dĩ có những quảng cáo thiếu văn hoá như vậy, là bởi những người làm quảng
cáo đã thiếu am hiểu về văn hoá Việt. Người làm quảng cáo đã không biết rằng, những
hình ảnh gây “sốc” như vậy có thể được khán giả nước châu Âu thích nhưng ở một đất
nước Á đông, ưa kín đáo, có truyền thống tôn sư trọng đạo, thì nó không phù hợp.
Có những quảng cáo còn lạm dụng âm nhạc dân tộc hoặc gây ấn tượng, gây
shock bằng âm thanh chát chúa.
Hiện nay, quảng cáo trên truyền hình đã trở thành một “món ăn tinh thần” không
thể thiếu và không dễ “tiêu hoá”. Quảng cáo phát tràn lan ra rả với âm thanh lớn như rao
bán ngoài chợ. Đặc biệt là nhà đài lại dành ưu ái cho quảng cáo : để chế độ âm thanh
cao hơn âm thanh các chương trình bình thường. Sau nhạc hiệu quảng cáo, là một loạt
âm thanh như bắn pháo về bệnh A, bệnh B, bệnh C, nghe thôi đã thấy gai người, chưa
nói đến hình ảnh hết sức chân thực về một số bệnh ngoài da.
Bên cạnh đó, còn có những quảng cáo lấy tiêu chí gây “sốc”, thậm chí hình ảnh,
lời hát chướng tai, gai mắt, gây phản cảm, miễn là đạt được mục đích để khách hàng
nhớ. Bởi thế, mới có một quy luật ngầm trong quảng cáo: muốn để khách hàng nhớ, một
là tạo ấn tượng thật tốt, hai là tạo ấn tượng ngược lại. Gần đây trên truyền hình, phim
quảng cáo trà thảo mộc Dr.Thanh với ý tưởng mọi người khắp 3 miền trên đất nước
Việt Nam đều sử dụng trà Dr.Thanh. Hình ảnh mọi người sử dụng trà không có gì đáng
bàn, nhưng âm thanh thì vô cùng ấn tượng bởi những giọng bắc, trung, nam lẫn lộn tạo
nên một mớ âm thanh xô bồ, chướng tai, gây ra phản cảm. Không ít người sau khi xem
quảng cáo lại “ giễu nhại” theo giọng của người phụ nữ miền Trung với chất giọng lơ lớ
“nọng (nóng) trong người” như một trò đùa. Điều này càng tạo ra sự phân biệt vùng
miền, phản văn hoá.
Một quảng cáo khác về nước sủi thanh nhiệt S đã đưa ra một loạt hình ảnh vô
duyên, thiếu thẩm mỹ về một cô gái vì bị nóng trong người, dẫn đến nhiệt miệng mà
phun cả thức ăn vào mặt bạn trai ngồi đối diện, tiếp đến là những hình ảnh phản cảm khi
cô lật môi ra với những đốm mụn nhiệt. Hình ảnh miêu tả như vậy chỉ đảm bảo tính ấn
tượng, nhưng là ấn tượng xấu, khó chấp nhận ở một nước phương Đông vốn đề cao
những phẩm chất duyên dáng và nữ tính.
3.2.7. Ngành công nghiệp quảng cáo đang hình thành ở Việt Nam, nhưng
còn đang ở mức độ non trẻ, tự phát.
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, quảng cáo mới thực sự phát triển. Hiện Việt
Nam có khoảng hơn 3000 công ty quảng cáo lớn nhỏ, trong đó các công ty quảng cáo
trong nước chiếm 2/3 còn lại là các công ty đa quốc gia. Nhưng hơn 80% thị phần lại
thuộc về các công ty nước ngoài. Điều này tạo môi trường cạnh tranh mạnh mẽ cho các
công ty truyền thông - quảng cáo. Có thể kể đến đội ngũ những nhà sản xuất phim
quảng cáo có uy tín ở Việt Nam như: TV Plus, Dolphin media, Animedia, Tứ Vân
Media, Hoàng Gia Media, Vyadvertising….
Mặc dù, xu hướng làm phim quảng cáo “may sẵn” thể hiện sự phát triển đi đến
độ chuyên nghiệp của ngành quảng cáo, nhưng nó cũng không tránh khỏi hạn chế. Việc
sản xuất phim quảng cáo hàng loạt trước khi có một sản phẩm cụ thể khiến phim quảng
cáo chỉ thiên về ý tưởng, tạo sự hấp dẫn, cho người xem tò mò về sản phẩm, nhưng lại
thiếu những chi tiết nêu lên sự độc đáo của sản phẩm dẫn đến việc phim may sẵn thiếu
sự độc đáo. Một phim quảng cáo mà có thể áp dụng cho nhiều nhãn hàng miễn là cùng
chủng loại. Trong khi, nét riêng độc đáo của sản phẩm mới chính là điều khiến người
tiêu dùng quyết định chọn mua sản phẩm. Một phim quảng cáo nếu chỉ mang yếu tố hấp
dẫn mà không có tác dụng trong việc bán hàng, thì đó là quảng cáo không hiệu quả.
Hiện nay, vấn đề bản quyền tác giả ở Việt Nam chưa được coi trọng. Nhiều ý
tưởng bị đánh cắp chỉ bằng cách thay đổi đôi chút về nhân vật, tình tiết hay lời thoại.
Thế là tác giả chỉ còn biết “ôm hận”, đành tặc lưỡi cho qua khi “đứa con tinh thần” của
mình đã được “thay áo” mà thành “con kẻ khác” mà chẳng thể “kêu oan”. Như thế, với
phim quảng cáo “may sẵn” cũng có những rủi ro về việc bị đánh cắp ý tưởng.
Nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực quảng cáo vừa thiếu vừa yếu cả về số
lượng và chất lượng. Người làm quảng cáo chủ yếu tự phát theo năng khiếu, kinh
nghiệm mà không được đào tạo chuyên nghiệp. Hiện nay, ở Việt Nam mới chỉ có 2 cơ
sở đào tạo nguồn nhân sự cho ngành quảng cáo đó là viện đào tạo, nghiên cứu quảng
cáo ARTI và Vietnammarcom. Để có được một cơ sở đào tạo như thế, cần phải đảm bảo
3 yếu tố: Cơ sở vật chất, giáo trình (thường được mua bản quyền của nước ngoài), giảng
viên (trong đó 70% giảng viên phải có trình độ thạc sỹ chuyên ngành) – đây là một bài
toán không dễ giải. Đây chính là nguyên nhân khiến các trường đại học nước ta đến nay
vẫn chưa thể đào tạo chính quy ngành quảng cáo do không có đủ lực lượng giảng viên
chuyên ngành. Với ARTI, Để có đội ngũ giảng viên, họ phải tìm đến các công ty quảng
cáo nước ngoài do đội ngũ nhân sự có thời gian làm việc lâu năm và được đào tạo
chuyên ngành. Đến nay ARTI đã đào tạo được 1.000 học viên và đang xúc tiến các
chương trình liên kết đào tạo thạc sĩ. Tuy nhiên con số này không phải đã đáng bằng
lòng với nhu cầu phát triển của ngành quảng cáo hiện nay.
Đến nay “sân chơi” quảng cáo đối với các nhà sản xuất phim trong nước và nước
ngoài chưa thật sự cân sức. Thị phần này hiện nay nằm phần lớn trong tay các doanh
nghiệp nước ngoài. Phần nhiều phim quảng cáo phát trên truyền hình được sản xuất bởi
các nhà sản xuất nước ngoài như Philippines, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Singapore:
những quốc gia có ngành công nghiệp làm phim quảng cáo phát triển và chuyên nghiệp
hơn Việt Nam. Nhiều nhà sản xuất phim quảng cáo ở Việt Nam chỉ làm khâu tiền kỳ,
quay phim, nhưng phần hậu kỳ, in tráng hay kỹ xảo lại được mang đi Thái Lan để hoàn
thành. Điều này cho thấy sự thiếu hụt về cơ sở vật chất, thiết bị kỹ thuật của các nhà sản
xuất trong nước.
3.2.8. Vấn đề tác giả phim quảng cáo chưa được chú trọng.
Nếu như ở các thể loại phim truyện, phim tài liệu, phim ca nhạc, đều có thông tin
đầy đủ về ekip làm phim như đạo diễn, biên kịch, quay phim, hoạ sỹ, nhạc sỹ… thì
những người làm phim quảng cáo lại như những người “áo gấm đi đêm”. Trên tivi,
người ta chỉ thấy diễn viên này, người mẫu nọ quảng cáo cho một loại sản phẩm nào đó,
mà những người sáng tạo ra clip quảng cáo lại vô tình bị lãng quên. Lẽ dĩ nhiên, một
phim quảng cáo dài chừng 15 giây đến 1 phút không thể đủ dung lượng và thời gian để
có thêm phần giới thiệu thành phần sáng tạo. Và đương nhiên, khán giả dù có trầm trồ
khen phim quảng cáo hay, hoặc chê ý tưởng quảng cáo dở, thì người ta cũng chẳng hề
hay biết ai là người sáng tạo ra ý tưởng quảng cáo đó, ai là quay phim, ai là người làm
kỹ xảo. Và như thế, khi một sản phẩm phim quảng cáo được ra đời, trình chiếu trên các
phương tiện thông tin, người sáng tạo một mặt không được ai biết đến, mặt khác dường
như không còn phải “chịu trách nhiệm” với “đứa con tinh thần” mà mình đã “sinh ra”,
trách nhiệm lúc này dường như rơi vào doanh nghiệp thuê quảng cáo. Tình trạng cào
bằng như thế cứ diễn ra với phim quảng cáo. Khi mà thương hiệu cá nhân của người
làm phim không được tôn vinh, là một điều thiệt thòi cho nhà sản xuất phim. Ngược lại,
nó cũng không kích thích được nhà sản xuất phim đầu tư cho sự sáng tạo, đôi khi dẫn
đến việc làm phim quảng cáo thiếu trách nhiệm. Vậy trách nhiệm khi ấy thuộc về ai?
Khi ký hợp đồng giữa bên quảng cáo và bên thuê quảng cáo, người ta chỉ ký kết trên
văn bản, khi mà bộ phim vẫn còn trên giấy, tức là dưới dạng kịch bản, cao hơn, là dưới
dạng storyboad. Nhà sản xuất đôi khi có thể “hứa thật nhiều” nhưng cũng có thể “thất
hứa thật nhiều” về ekip sản xuất phim, nào là phim sẽ làm bởi đạo diễn này, quay phim
nọ, bối cảnh hoành tráng thế kia, kỹ xảo mê ly thế khác… nhưng phải đợi đến khi thành
phẩm mới biết là nhà sản xuất làm được đến đâu. Khi mà trách nhiệm của người sản
xuất không cao, thì tìm đâu lương tâm nghề nghiệp? Nhưng rất may, vấn đề này chỉ
xuất hiện ở một số ít người làm nghề quảng cáo. Người viết đã được trao đổi với một
đạo diễn làm phim quảng cáo chuyên nghiệp, anh đã chia sẻ rằng, người làm phim
quảng cáo đúng là chẳng ai biết đến, may chăng trong nghề biết với nhau. Họ cũng
không chờ đợi một danh hiệu cao quý gì. Nhiều phim quảng cáo 30 giây anh làm hết
sức chỉn chu, có khi còn cẩn thận hơn cả việc sản xuất một bộ phim truyền hình. Chỉ
khi một phim quảng cáo được khán giả thích, doanh nghiệp bán được hàng, thì đó là
tấm huy chương cho người làm quảng cáo rồi.
3.2.9. Quảng cáo trong phim truyện thiếu sự ăn nhập tinh tế.
Cũng là phương pháp quảng cáo trên truyền hình, hình thức quảng cáo đưa sản
phẩm vào phim truyện hiện nay cũng được sử dụng khá phổ biến. Trên thế giới, hình
thức quảng cáo này đã không còn xa lạ. Ngành quảng cáo sử dụng thuật ngữ Product
Placement (PP) để chỉ việc đưa sản phẩm vào phim ảnh. Đây là cách thức quảng cáo mà
chủ quảng cáo chi trả một số tiền cho nhà sản xuất phim nhằm khuếch trương sản phẩm
của mình trong phim. PP có thể được xem là xuất hiện sau chiến tranh Thế giới thứ 2,
khi mà những công ty hàng đầu về hàng tiêu dùng như Proter & Gamble đã đầu tư cho
những vở kịch truyền hình nhiều kỳ (soap operas) có sự xuất hiện sản phẩm của mình
trong kịch bản. Cho đến những năm 60, cách làm như vậy không được ưa chuộng nữa
khi nhà sản xuất tin rằng người tiêu dùng của mình muốn có một ranh gới rõ ràng giữa
Quảng cáo và Giải trí. Cuối những năm 60 và đầu những năm 70, thời kỳ sóng yên bể
lặng của loại hình PP, ngành Thuốc lá và Rượu đã tận dụng phát huy hết những lợi thế
có được của PP bằng cách cho các diễn viên điện ảnh / truyền hình sử dụng những
thương hiệu rượu cũng như thuốc lá trực tiếp trên màn bạc. PP thực sự trở lại vào những
năm 80 bằng bộ phim ET với hiện tượng doanh thu của kẹo Reese’s Pieces (một loại
kẹo bơ đậu phộng của Hershey) tăng 65%. [8]
Ở Việt Nam, nhà sản xuất phim cũng đã năng động tìm nguồn tài trợ từ các doanh
nghiệp bằng cách đưa tên thương hiệu hoặc sản phẩm vào phim truyện. Tuy nhiên, nếu như
trong các phim của nước ngoài có dấu vết của quảng cáo, thì các sản phẩm thường được các
nhân vật trên phim sử dụng một cách gần gũi và tự nhiên, nhưng thực tế đều là sự sắp đặt của
quảng cáo. Hình thức này khiến cho người xem không nghĩ là quảng cáo mà là lẽ tự nhiên
của đời thường. Trên thế giới, nhiều thương hiệu đạt hiệu quả trông thấy khi sử dụng phương
pháp quảng bá PP. Chẳng hạn như Ray Ban đã đề nghị sử dụng kính mát Predator 2 của họ
trong phim “Men in black” (Người mặc đồ đen), kết quả là doanh số tăng gấp 3 lần sau khi
phim được chiếu rộng rãi. Hoặc BMW đã bỏ ra 3 triệu USD để Z3 mới của họ được sử dụng
trong phim “Golden Eye” (Mắt vàng) năm 1995, kết quả là công ty này thu 240 triệu USD.
[8]
Các sản phẩm thường được đưa vào phim như một chi tiết, một đạo cụ có tác
dụng tham gia vào câu chuyện. Là chiếc xe ôtô BMW và AUDI là phương tiện chính để
nhân vật chính chuyên trở hàng hoá thuê cho các đối tượng mafia.trong phim “Người
vận chuyển” (Transporter) . Trong phim “Italian Job” các nhân vật chính sử dụng xe
Mini cooper để làm phương tiện chuyên trở vàng. Phim “James bond – Quantum of
solace” điệp viên 007 đã sử dụng chiếc điện thoại Sony Ericson làm phương tiện liên
lạc.
Sản phẩm được quảng cáo đôi khi còn là một chi tiết tạo nên bước ngoặt cho
câu chuyện như trong phim “Kho báu quốc gia” nhân vật chính là Nicolas Cage đã
dùng 1 chai nước Aquafina để phóng đại chi tiết trên đồng tiền đôla, tìm ra manh mối về
kho báu của nước Mỹ. Hay gói Snack tuyệt hảo trong phim hoạt hình “Rượt đuổi bên
bờ rào” có tác dụng là động lực thúc đẩy nhân vật chú sóc Hammy tham gia cuộc hành
trình khám phá thế giới văn minh của con người. Năm 2001, khán giả trên thế giới và
khán giả Việt Nam được phen trầm trồ khi được thưởng thức siêu phẩm 8 phim ngắn:
“The Hire” gắn với thương hiệu xe BMW. Nhà sản xuất hãng xe đẳng cấp này đã chi ra
một số tiền khổng lồ để thuê những đạo diễn điện ảnh nổi tiếng từ Âu Á như: John Woo
( đạo diễn phim Mission Impossible 2), Vương Gia Vệ (đạo diễn phim Bá Vương Biệt
Cơ), Guy Ritchie, Lý An (đạo diễn phim Ngọa Hổ Tàng Long), Tony Scott (đạo diễn
phim Top Gun),.... Toàn bộ 8 phim ngắn đều nói về một người lái xe thuê do nam tài tử
Hollywood Clive Owen thủ vai. Anh có sứ mệnh lái xe (bằng xe BMW) cho thân chủ
mình là những người nổi tiếng như: thương gia, chính trị gia, ca sĩ, diễn viên điện ảnh,
nhà báo, người mẫu… với một tinh thần kỷ luật, trung thành, dũng cảm và quyết đoán
đến lạnh lùng.
Đi cùng những pha hành động hấp dẫn, bộ phim còn nhằm đề cao những tính
năng siêu việt của BMW như chống đạn, hệ thống định vị toàn cầu, tốc độ cực nhanh,
lướt êm như gió…Quan trọng hơn, loạt phim giúp định vị BMW là dòng xe cao cấp,
dành cho những người có thể ảnh hưởng được người khác, có vị trí trong xã hội. Với 8
câu chuyện hay, tiết tấu nhanh, cảnh quay đẹp cộng với tài diễn xuất, chùm phim ngắn
đã tạo ra cơn sốt đối với những người mê phim và mê xe. Mặc dù motif chung của loạt
phim là những cuộc rượt đuổi nghẹt thở bằng xe hơi, nhưng mỗi bộ phim mang một
phong cách, màu sắc rất riêng biệt, vượt trên ý nghĩa quảng cáo thương hiệu, trở thành
những phim ngắn độc lập hấp dẫn khán giả cả về chất lượng nội dung lẫn nghệ thuật.
Cách quảng cáo sản phẩm đưa vào phim truyện của các nhà làm phim nước ngoài tỏ
ra rất chuyên nghiệp, hấp dẫn nhưng không quá phô trương, lộ liễu.
Trong khi đó, cách quảng cáo trên phim truyền hình Việt Nam hiện nay còn quá
đơn giản, mang tính trưng bày sản phẩm hơn là quảng cáo. Bước đầu những sản phẩm
mang thương hiệu nổi tiếng như Nokia, Samsung cũng thấy xuất hiện trong các phim
như Lọ lem hè phố, Gái nhảy. Thời trang Nem thường thấy trong phim Cô gái xấu xí,
thời trang eva de eva tài trợ trang phục cho các phim truyền hình: Bí mật eva, Lời thú
nhận của eva Ocean bank tài trợ cho phim truyền hình Xin thề anh nói thật…
Quảng cáo trên phim Việt Nam còn thiếu sự ăn nhập và tinh tế. Không ít phim
truyền hình được tài trợ bởi nhà tài trợ là kẹo cao su, thì thế nào cũng có cảnh nhân vật đang
trò chuyện thì mời nhau ăn kẹo cao su, hoặc ăn kẹo cao su một cách vô thức, một cảnh phim
có hành động ăn kẹo nhưng lại không có một chút ý nghĩa nào cho bộ phim. Dễ thấy các
quảng cáo bia, sữa trong phim truyền hình Việt ở các cảnh phim nhân vật ngồi bên bàn uống
nước, thì có mấy chai bia trưng bày trên bàn một cách phô trương, hoặc sữa, hoặc mỳ tôm thì
dường như được trưng bày khắp nhà khi nhân vật đi đâu cũng thấy lấp ló bóng dáng của sản
phẩm. Một vài phim truyền hình được tài trợ trang phục thì cứ nhất định vài chục phút phim
phải cho nhân vật đi mua sắm quần áo một lần, rồi dùng miệng diễn viên để tán dương sản
phẩm khiến cho khán giả có cảm giác nhân vật trong phim chỉ biết trưng diện mà thôi. Cách
trưng bày sản phẩm trên màn ảnh như thế khiến cho sản phẩm trở nên lạc lõng với bộ phim
và không mang lại hiệu quả cao trong việc quảng bá thương hiệu cho doanh nghiệp.
3.3. Giải pháp nâng cao chất lượng phim quảng cáo trên truyền hìnhViệt Nam
3.3.1. Hướng tới một nền phim quảng cáo mang bản sắc Việt
Là một sản phẩm của văn hoá, phim quảng cáo cũng cần mang bản sắc Việt. Việc
xác định đối tượng quảng cáo quy định bản sắc văn hoá trong phim quảng cáo. Một
phim quảng cáo phát ở Việt Nam phải mang mang thuần phong mỹ tục và bản sắc văn
hoá Việt.
3.3.2. Xoá bỏ những định kiến
Vẫn biết rằng, quảng cáo hướng tới những đối tượng cụ thể, mỗi sản phẩm tương
ứng với mỗi đối tượng sử dụng. Tuy nhiên “quảng cáo cũng đóng vai trò phản ánh văn
hoá của một cộng đồng người, nó vừa có khả năng định ra những nét chuẩn mực mới về
văn hoá cho cộng đồng đó. Nó vừa phản ánh niềm tin của số đông, vừa có khả năng
phản ánh khao khát của cá nhân. [12]. Trong tiềm thức, quan niệm lâu nay, người phụ
nữ gắn với công việc nội trợ, gần gũi con cái. Nhưng ngày nay, trong xã hội hiện đại
bình đẳng giới, việc nội trợ, chăm sóc con cái đã không còn mặc định là công việc của
riêng người phụ nữ. Ước muốn về một cuộc sống gia đình hiện đại, nơi người chồng
không chỉ hoạt động công tác xã hội mà còn biết sẻ chia, giúp vợ nội trợ chăm sóc vợ
con. Người phụ nữ không chỉ loanh quanh trong nhà bếp mà đã tham gia vào công việc
sáng tạo, tham gia công tác xã hội và làm nên được nhiều thành công.
Cũng theo nghiên cứu của CSAGA, “quảng cáo cung cấp cho người xem những
hình mẫu lý tưởng trong xã hội (ở một phương diện nào đó). Nó cung cấp những chuẩn
mực cần hướng tới của phần đông. Nếu như chúng ta vẫn đang tạo nên chuẩn mực về
nữ giới : xinh đẹp, khéo léo, biết chiều chồng; nam giới: thành đạt, mạnh mẽ, nam tính
thì e rằng chúng ta đang tạo nên những “hình mẫu” nam giới và phụ nữ còn nhiều
khiếm khuyết.” [12]
Bởi thế, đã có thấp thoáng đâu đó trong quảng cáo bột giặt Omo, với hình ảnh
người chồng (Diễn viên Bình Minh thủ vai) giúp vợ giặt quần áo bằng… máy giặt,
nhưng vẫn đưa anh ta đến với phòng nghiên cứu sản phẩm. Hay trong phim quảng cáo
nước xả vải Comfort, anh chàng Andy đang tắm cho con thì cô vợ Lily bước vào phòng
tắm với chai nước xả giúp chồng và con thơm mát. Thấp thoáng đâu đó trong quảng cáo
bột nêm, bố và con trai cùng mẹ so tài làm bếp, nhưng tất nhiên, mẹ là người nội trợ
giỏi nhất vì đã chọn được loại sản phẩm bột nêm ngon ngọt.
Việc xoá bỏ định kiến về giới cần bắt đầu từ khâu ý tưởng, để hình ảnh về nam giới và
nữ giới trong phim quảng cáo không còn phiến diện, một chiều.
3.3.3. Đào tạo nguồn nhân lực làm phim quảng cáo và đầu tư cơ sở vật chất kỹ
thuật.
Hiện nay, đội ngũ làm phim quảng cáo thường là những người làm truyền hình,
điện ảnh làm “nghề tay trái”. Các đạo diễn nổi tiếng làm phim quảng cáo thường là
những người làm điện ảnh trẻ. Chưa có trường lớp đào tạo chuyên sâu về làm phim
quảng cáo.
Đào tạo nguồn nhân lực là điều kiện thiết yếu để nghề làm phim quảng cáo
trở thành một nghề thực sự. Cần có sự đào tạo chuyên sâu những kiến thức quảng
cáo dựa trên nền tảng ngôn ngữ điện ảnh. Làm phim quảng cáo cần đưa vào như
một môn học đối với người làm điện ảnh, truyền hình. Điều kiện thiết bị kỹ thuật
cũng cần được đầu tư cả về số lượng lẫn chất lượng, đi kèm với đó là đội ngũ nhân
viên kỹ thuật có trình độ cao về tay nghề.
Cùng với việc đào tạo nguồn nhân lực thì việc củng cố thương hiệu cho người
làm quảng cáo cũng là một việc vô cùng quan trọng. Để nhà sản xuất phim có trách
nhiệm hơn với tác phẩm của mình, thì cần đòi hỏi trách nhiệm cao, lương tâm cao từ
những người sáng tác ý tưởng, đạo diễn với mỗi cảnh quay, quay phim với từng khuôn
hình, hoạ sỹ với từng chi tiết, từng cảnh kỹ xảo… nên chăng hiệp hội quảng cáo Việt
Nam nên có những tuyển tập phim quảng cáo do Việt Nam sản xuất có chất lượng, mà ở
đó có phần ghi danh thành phần sản xuất phim. Bản thân người viết cũng sưu tầm được
những bộ đĩa phim quảng cáo của nước ngoài, có hàng trăm phim, mà ở đó, sau mỗi
phim đều có đầy đủ tên phim quảng cáo, tên hãng sản xuất, đạo diễn, quay phim, biên
kịch, hoạ sỹ, nhạc sỹ….
Hàng năm, Hiệp hội quảng cáo Việt có thể tổ chức những liên hoan phim quảng
cáo giống như liên hoan phim của Hội điện ảnh, để vinh danh những cá nhân xuất sắc
trong lĩnh vực làm phim quảng cáo nói riêng và Truyền thông quảng cáo nói chung.
Khi cá nhân người làm phim quảng cáo được vinh danh, có nghĩa là tăng thêm
trách nhiệm, tăng thêm uy tín, thương hiệu của bản thân, tự khắc, họ sẽ có trách nhiệm
với những tác phẩm mình làm ra.
3.3.4. Để có một phim quảng cáo thành công, ý tưởng là vấn đề tiên quyết.
Người làm nghề quảng cáo truyền nhau câu “thần chú” như thế này: “Hãy cho
tôi một ý tưởng, tôi sẽ tạo một quảng cáo thành công”. Thực vậy, ý tưởng là điều đầu
tiên làm nên một bộ phim quảng cáo, và cũng là yếu tố tiên quyết làm nên sự thành
công của một phim quảng cáo. Rất nhiều nhà quay phim có thể quay quảng cáo, rất
nhiều đạo diễn có thể làm phim quảng cáo, nhưng không phải nhiều người có thể sáng
tạo ý tưởng.
Yêu cầu quan trọng nhất đối với người làm quảng cáo đó là sự sáng tạo. Việc đầu
tiên của quy trình làm phim quảng cáo đó là hình thành ý tưởng.
Tuy nhiên, con đường đi đến ý tưởng sáng tạo phải trải qua nhiều bước chuẩn bị.
Không phải ý tưởng nào khi mới hình thành cũng thành công. Nhiều khi, phải lựa chọn
giữa rất nhiều ý tưởng mới có được một ý tưởng phim quảng cáo độc đáo.
Tuỳ theo sự sáng tạo hay trí tưởng tượng của mỗi người mà có những ý tưởng
khác nhau. Dưới đây là một số con đường đi đến lâu ý đài tưởng quảng cáo:
Tiếp cận với thông tin về sản phẩm (Creative Brief) là điều tối quan trọng. Thông
tin sản phẩm bao gồm: Tên sản phẩm; Đặc điểm của sản phẩm; Đặc tính của sản phẩm;
Đặc tính nổi bật của sản phẩm; Đối tượng sử dụng sản phẩm (Khách hàng mục tiêu);
Thông điệp chính mà nhà sản xuất muốn khách hàng nhớ về sản phẩm; Ngân sách làm
phim quảng cáo…
Từ việc tiếp cận những thông tin về sản phẩm, xác định đối tượng sử dụng sản
phẩm ( hay còn gọi là khách hàng mục tiêu). Đây là việc làm đầu tiên của người làm
Marketing và quảng cáo. Khi tung bất cứ sản phẩm nào ra thị trường, doanh nghiệp đã
xác định cho mình một đối tượng sử dụng cụ thể. Ví dụ: Sữa dành cho trẻ em; Sữa giàu
canxi cho phụ nữ trung niên, Bột nêm dành cho các bà nội trợ; Bia dành cho các quý
ông; Kem dưỡng da dành cho phụ nữ trung niên; Son môi dành cho các cô bé mới lớn;
Thực phẩm chức năng dành cho đàn ông trung niên bị Gout…. Khi đã khoanh vùng
được đối tượng người tiêu dùng, việc sáng tạo ý tưởng sẽ dựa vào từng đối tượng khác
nhau : Người già, người trẻ, người thành thị, nông thôn, công nhân, trí thức, người vận
động thể thao, trẻ em… để thấu hiểu và đánh trúng vào tâm lý nhu cầu tiêu dùng của
những đối tượng cụ thể đó.
Việc này cũng giống như đối với phim truyện vậy, với mỗi bộ phim được trình
chiếu, ngay từ khi đặt bút viết, người Biên kịch đã xác định cho mình thể loại phim và
đối tượng khán giả mà họ muỗn nhắm tới. Đương nhiên, phim hoạt hình thường dành
cho thiếu nhi, phim hành động thường dành cho lớp người trẻ, phim tâm lý, hình sự
thường dành cho người lớn tuổi… Tất nhiên, mỗi thể loại phim không nhất thiết chỉ
dành cho một đối tượng cụ thể. Nhiều khi những bộ phim hoạt hình lại mang cả bài học
giáo dục cho cả người lớn, và ngược lại.
Một phim quảng cáo cũng không nhất thiết chỉ dành cho một đối tượng khán giả.
Nhưng nó phải xác định được đối tượng người sử dụng sản phẩm chỉ trong 30 giây ngắn
ngủi.
Người ta sẽ không làm một phim quảng cáo hoạt hình để quảng cáo sản phẩm bia
cho đàn ông, mà phải sử dụng chính hình ảnh của những diễn viên nam nữ trẻ tuổi.
Nhưng hình thức quảng cáo này lại phù hợp với các sản phẩm sữa, bánh kẹo cho trẻ
em…
Việc phân khúc thị trường cũng là một định hướng cho quá trình sáng tạo ý
tưởng. Có những sản phẩm dành cho người dân nông thôn, nhưng có những sản phẩm
dành cho người thành thị. Phải hiểu được thị hiếu của mỗi thành phần xã hội, mỗi vùng
miền mà có ý tưởng phù hợp.
Những quảng cáo dành cho người tiêu dùng ở nông thôn thường sử dụng bối cảnh
nông thôn, sử dụng những diễn viên phù hợp với đối tượng khách hàng này. Ta thường
thấy diễn viên hài Quang Tèo, Văn Hiệp, Hán Văn Tình là những gương mặt diễn viên
quen thuộc với các phim đề tài nông thôn, làm diễn viên quảng cáo cho những sản
phẩm gần với nhà nông như quảng cáo phân bón, xe máy kéo, xe tải… Nhưng với
những sản phẩm dành cho đối tượng người thành thị, người trí thức, doanh nghiệp, thì
sử dụng các diễn viên Phạm Bằng, Chí Trung, Chi Bảo,… hay các ca sỹ, diễn viên trẻ
nổi tiếng trong các phim điện ảnh, phim truyền hình hiện nay, lại là một lựa chọn tối ưu.
Đó là nói về đối tượng khách hàng để có những lựa chọn diễn viên cho phù hợp kiểu
“chọn mặt gửi vàng”. Đôi khi người viết kịch bản quảng cáo còn phải viết kịch bản cho
một đối tượng diễn viên cụ thể. Tức là ngược lại với quy trình bình thường từ kịch bản
mới tìm diễn viên, thì ở đây, diễn viên quảng cáo đã định trước, mới đến việc đặt hàng
kịch bản.
Cũng từ việc phân khúc thị trường và xác định đối tượng khách hàng mà việc
sáng tạo ý tưởng sẽ bám sát vào tâm lý và thị hiếu của từng đối tượng cụ thể. Một câu
chuyện về những đứa trẻ chơi đá bóng dù là đối thủ cạnh tranh, nhưng cư xử với nhau
rất nhân ái rõ ràng phù hợp với quảng cáo sữa cho trẻ em. Hay những phim quảng cáo
mang hình ảnh những cô gái quyến rũ, lôi cuốn giới mày râu hiển nhiên phù hợp với
những phim quảng cáo về mỹ phẩm hay nước giải khát.
Khi người làm sáng tạo ý tưởng không xác định được đối tượng mình phải hướng
tới, hiệu quả của phim quảng cáo sẽ giảm đi nhiều lần.
Hiểu tâm lý người tiêu dùng là thấu hiểu thị hiếu và nhu cầu của họ. Đã qua rồi
giai đoạn bên quảng cáo chỉ biết rao ra rả về những gì mình có. Ngày nay, quảng cáo
hướng đến người tiêu dùng là trung tâm. Nhà sản xuất cũng như người làm quảng cáo
đã biết quan tâm hơn đến những nhu cầu, mong muốn của người tiêu dùng. Nguồn cung
xuất phát từ nhu cầu. Ý tưởng phim quảng cáo cũng xuất phát từ những mong muốn,
những lợi ích của người tiêu dùng khi sử dụng sản phẩm hoặc dịch vụ.
Nếu như điện ảnh dẫn người ta vào một giấc mơ, ở đó khán giả được chìm đắm
trong một thế giới hư cấu nhưng khiến người ta tin là có thật: về tình yêu của chàng
hoàng tử dành cho cô gái nghèo; Về cái thiện chiến thắng cái ác,…Thì phải chăng
quảng cáo cũng đem đến cho người ta một “giấc mơ” sẽ thành hiện thực khi khách hàng
sử dụng sản phẩm đó? Điều này khiến chúng ta phải quay trở lại với phần “Mục đích
của quảng cáo” đã nói ở phần đầu: Quảng cáo mang đến một lời hứa hẹn. Một “Giấc
mơ” hay một “lời hứa” cũng gần giống nhau thôi: Khi bạn sử dụng loại bột giặt A, quần
áo của bạn sẽ trắng sáng bất ngờ; Khi bạn sử dụng loại kem đánh răng B, hơi thở của
bạn sẽ thơm mát và bạn sẽ tự tin khi đến gần mọi người; Khi bạn uống sữa C; bạn sẽ
cao, khoẻ và thông minh hơn; Khi bạn dùng sữa tắm D, bạn sẽ có cơ thể quyến rũ; Hay
khi dùng son môi E, môi bạn sẽ căng mọng, tươi tắn hơn. Điện ảnh khiến người ta chìm
đắm vào “giấc mơ” chừng hơn một giờ đồng hồ để rồi khi ra khỏi rạp chiếu phim, khán
giả thấy thêm yêu và tin vào cuộc đời. Còn với một phim quảng cáo 30 giây, nó mang
đến lời hứa hẹn về những lợi ích của sản phẩm hoặc dịch vụ cho người tiêu dùng. Nó
cũng hướng đến một cuộc sống tốt đẹp, và trên hết, nó có mục đích kích thích khách
hàng muốn mua và sử dụng ngay sản phẩm đang được quảng cáo. Hối thúc khách hàng
mua và sử dụng sản phẩm là một trong những nhiệm vụ không thể phủ nhận của người
viết ý tưởng quảng cáo.
Sự khác biệt của sản phẩm là một sự dẫn dắt cho ý tưởng. Cũng giống như phim
truyện, cùng một đề tài, nhưng mỗi nhà biên kịch lại khai thác đề tài đó ở một khía cạnh
khác nhau để mang đến một thông điệp khác nhau, thì ở phim quảng cáo, cùng với một
đối tượng sản phẩm, mỗi phim quảng cáo phải có một cách gây ấn tượng khác nhau về
sản phẩm.
Cùng quảng cáo cho sản phẩm bột giặt, chúng ta đều biết, tính năng chính của
bột giặt là tẩy sạch vết bẩn, trả lại cho quần áo màu sắc và dáng vẻ ban đầu. Nhưng mỗi
hãng bột giặt lại cho một chiến lược quảng cáo tạo nên sự độc đáo cho sản phẩm của
mình: Bột giặt Omo nổi trội với khả năng đánh bật vết bẩn và tẩy trắng cực mạnh.
Những câu chuyện trong phim quảng cáo của Omo thường xoay quanh các nhân vật: trẻ
em và phụ nữ ; Bột giặt Viso lại đem đến ấn tượng trắng tinh khôi với hình ảnh của
những cô nữ sinh trong tà áo trắng đến trường, hay cô dâu trong ngày cưới; Bột giặt
Surf lại nhấn vào tính năng giặt sạch và lưu lại mùi hương của sản phẩm; Bột giặt Đức
Giang hướng tới đối tượng khách hàng bình dân lại thuyết phục khách hàng giữa muôn
ngàn sản phẩm bằng “chất lượng hạng sang – giá hàng cực tốt”, không gây hại da tay;
Nước giặt Ariel lại chinh phục các bà nội trợ bằng tính năng không những giặt sạch vết
bẩn mà còn không để lại cặn bám trên quần áo như đối với bột giặt thông thường.
Giữa muôn ngàn sản phẩm như một rừng hoa nhiều màu sắc, người tiêu dùng rất
dễ bị “hoa mắt”. Bởi vậy, quảng cáo là một hình thức gây sự chú ý, kích thích người
tiêu dùng quan tâm và chọn lựa sản phẩm. Tạo sự khác biệt cho sản phẩm đã khó, tạo sự
khác biệt cho phim quảng cáo cũng là một việc không dễ dàng chút nào.
Theo cuốn “22 quy luật bất biến của Marketing”: Khác biệt có nghĩa là dùng
một ý tưởng độc đáo để xây dựng một thương hiệu. [17, tr.5]
Trong cuốn “Sức mạnh của sự đơn giản”, khác biệt có nghĩa là xác lập một
chiến lược hướng đến sự khác biệt hoá. [17, tr.5]
Trong “Vương quốc của sự lựa chọn” – cách dùng từ của Tác giả cuốn “Khác
biệt hay là chết”, khi xã hội càng phát triển, với nhiều loại dịch vụ, sản phẩm khác
nhau phục vụ đời sống con người, thì người tiêu dùng gần như rơi vào một mê cung sản
phẩm, họ phải chọn lựa dịch vụ hay sản phẩm phù hợp với mình. Đầu thập niên 70,
khách hàng muốn mua một chiếc xe ô tô thì có đến 140 sự lựa chọn sản phẩm nhưng
đến thập nên 90, sự lựa chọn tăng lên đến con số 260. Hay muốn mua một chiếc máy
tính để bàn, khách hàng thập niên 90 đã đủ quay cuồng giữa 400 sản phẩm máy tính
khác nhau. – Theo Bảng 1.1 - Sự bùng nổ nguồn chọn lựa [17, tr.16]. Vậy cũng đủ làm
họ hoa mắt. Và sự khác biệt của sản phẩm chính là một trong những yếu tố định hướng
cho sự chọn lựa ấy.
Có nhiều sự khác biệt của sản phẩm. Sự khác biệt về hình dáng sản phẩm là một
điều đáng chú ý trong quá trính sáng tạo: Phim quảng cáo bia Sài Gòn special đã sử
dụng hình dáng của chai bia để tự tin tạo nên một phong cách uống bia đầy cá tính: “Có
thể bạn không cao nhưng người khác phải ngước nhìn”; Hay trong phim quảng cáo
Coca- cola, chai nước ngọt được quay ở nhiều góc độ: từ dưới lên, từ trên xuống cùng
lời thuyết minh để nói lên rằng Coca – cola là loại nước uống dành cho tất cả mọi
người. Màu sắc, hình ảnh biểu tượng (Logo) của sản phẩm cũng là một trong những gợi
ý cho người sáng tác ý tưởng. Logo – Hình ảnh biểu tượng là những mẫu thiết kế đặc
biệt theo dạng đồ họa và cách điệu theo dạng chữ viết để thể hiện hình ảnh của công ty
hay tổ chức nào đó cũng là một gợi ý cho ý tưởng. Hãng bảo hiểm Frudential, nhãn
hàng kem đánh răng PS đã được tôn vinh thương hiệu bằng phim quảng cáo mang hình
ảnh đoàn người nô nức ghép nên biểu tượng của thương hiệu.
Sau chiến dịch quảng cáo thành công của hãng viến thông Beeline, với hai mầu
sắc nổi bật đen và vàng, Beeline đã làm nên bộ nhận diện ấn tượng và độc đáo.
Đặc tính của sản phẩm cũng là một sự khác biệt. Có rất nhiều loại mỳ gói trên thị
trường. Có loại mỳ gạo, mỳ bằng lúa mỳ, nhưng Omachi - mỳ làm từ khoai tây là một
sự khác biệt, dành cho người tiêu dùng vẫn thường e ngại bị nóng và nổi mụn khi ăn mỳ
gói. Phim quảng cáo mỳ Omacha đã thành công khi sử dụng đúng tính năng đặc biệt của
sản phẩm này lên màn ảnh.
Đôi khi, một sản phẩm mới ra không có những đặc tính nổi trội, nhưng người sáng tạo
lại biết cách làm cho sản phẩm trở nên khác biệt. Mọi hãng bia đều làm sạch chai lọ
bằng một quy trình khá nghiêm ngặt, nhưng không phải ai cũng nói ra điều đó. Nhà viết
kịch bản quảng cáo tài ba huyền thoại Claude Hopkins đã viết: “Chúng tôi tẩy sạch chai
lọ bằng hơi nước” sau khi ông tham quan dây chuyền sản xuất bia của khách hàng.
Doanh thu của hãng bia này tăng lên nhờ đặc tính vốn không có gì là nổi bật bởi
Hopkins là người đầu tiên nhấn mạnh đến tính vệ sinh của sản phẩm trong phim quảng
cáo bia.
Như vậy, bằng việc khai thác triệt để thông tin về sản phẩm dịch vụ được quảng cáo,
bằng sự nhanh nhạy của người sáng tạo ý tưởng đã tạo ra một quảng cáo độc đáo.
Người ta đã chán xem những phim quảng cáo thuốc theo lối mòn, vừa cũ kỹ lại
dễ phản cảm: Có bệnh ở đầu thì ôm đầu, bệnh ở bụng thì ôm bụng nhăn nhó. Rồi uống
thuốc, bệnh tật tiêu tan. Hãy bắt đầu câu chuyện 30s bằng nhiều cách:
Câu chuyện trong phim quảng cáo có thể bắt đầu bằng một thử thách khó khăn
đặt ra với nhân vật. Một thử thách anh hùng cứu mỹ nhân; Thử thách chuyên gia giặt
tẩy, thử thách với người phụ nữ nấu món ăn ngon để chinh phục cả nhà, thử thách để
chinh phục mọi ánh nhìn của người khác phái… Cuộc sống có vô vàn những rắc rối mà
con người gặp phải, hàng vạn những ước mơ mà con người vươn tới. Và đó chính là con
đường dẫn đến những ý tưởng quảng cáo.
Cách kể đóng vai trò quan trọng: giống như điện ảnh, câu chuyện của phim
quảng cáo có thể được kể bằng rất nhiều cách. Có khi nó là một lát cắt, một tình huống
trong cuộc sống, có khi nó mang tính chương hồi của tiểu thuyết, tính dài tập của phim
truyền hình. Phim quảng cáo nước xả vải Downy là một dạng như thế: chuyện phim
xuyên suốt quá trình chàng Andy và nàng Lyly gặp nhau cho đến khi họ kết hôn, sinh
con.... Kem làm trắng da Pond cũng kể câu chuyện tình yêu đầy trắc trở, đầy hờn ghen
và mưu toan giữa hai cô gái với chàng giám đốc trẻ thành nhiều tập như thể một bộ
phim truyền hình dài tập nhằm thu hút người xem.
Sau tất cả ý tưởng nội dung, hình ảnh, thì câu khẩu hiệu (slogan) xuất hiện cuối
cùng. Nếu như trong phim truyện, thông điệp được gửi gắm ở những phút cuối của bộ
phim, thì ở phim quảng cáo, điều đọng lại chính là câu khẩu hiệu của công ty hoặc của
sản phẩm.
Tuỳ theo từng quốc gia, từng khu vực, thuật ngữ ‘khẩu hiệu” (slogan) được gọi
theo các cách khác nhau. Tại Mỹ, “khẩu hiệu” còn được gọi là tags, tag lines, hay
taglines. Tại Anh, “khẩu hiệu” được gọi la end lines, endlines, hay straplines. Tại Hà
Lan, “khẩu hiệu” được gọi là pay – offs hay payoffs. Trong khi đó, người Đức lại ưa
thích từ “claims” (thỉnh cầu) hơn, và người Pháp thì sử dùng từ “signatures” (ký hiệu)
để cùng biểu thị cho ý nghĩa này.
“Khẩu hiệu tóm tắt sứ mệnh của công ty trong một vài từ cô đọng và khắc vào
tâm trí khách hàng một ý niệm đơn giản về sản phẩm”[15, tr.75]. Nó là tôn chỉ hoạt
động lâu dài của một công ty và đi theo công ty hầu như suốt quá trình phát triển.
Câu khẩu hiệu (slogan) cho thương hiệu ít khi thay đổi, thế nên nó vô cùng quan
trọng giống như hình ảnh biểu tượng (logo) của công ty đó.
Chúng ta khó mà quên được những câu khẩu hiệu vô cùng ấn tượng của các công
ty như: Frudential – luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu. Bitis – Nâng niu bàn
chân Việt; Vietinbank – Nâng giá trị cuộc sống; BIDV – chia sẻ cơ hội hợp tác thành
công; Agribank – Mang phồn thịnh đến với khách hàng; Viettel – Hãy nói theo cách
của bạn… Qua những câu khẩu hiệu ngắn ấy, chúng ta đã thấy sứ mệnh phục vụ của
công ty. Và khi nghe một câu khẩu hiệu đi kèm tên thương hiệu, người ta dễ dàng nhớ
đến sản phẩm mà họ mang đến. Rõ ràng, một công ty bảo hiểm thì sứ mệnh phục vụ là
sự sẻ chia, vì quyền lợi của khách hàng, vậy nên, họ luôn “lắng nghe” và “thấu hiểu”
được mong muốn của khách hàng. Một hãng sản xuất giày dép đương nhiên muốn đem
đến những đôi giày, dép đẹp và bền cho đôi chân người sử dụng. Bitis đã rất thông minh
khi hướng đến đối tượng cụ thể: đôi chân người Việt, để mỗi người khi nghe câu khẩu
hiệu, hay sử dụng sản phẩm cũng cảm thấy được tự hào vì được “nâng niu”; Hay sứ
mệnh của một ngân hàng chính là sự “hợp tác” nhiều chiều với khách hàng để mang
tới “thành công” và “phồn thịnh”, chúng ta đều thấy giá trị ấy trong khẩu hiệu của
Ngân hàng BIDV và Agribank. Với ngành viễn thông, câu khẩu hiệu luôn gắn với các
động từ “nghe”; “nhìn”, “nói”…thì câu khẩu hiệu của Viettel trở nên vô cùng đắc địa
trong hàng loạt các phim quảng cáo mang cùng chủ đề “Hãy nói theo cách của bạn”.
Với câu khẩu hiệu dành cho sản phẩm, thì không nhất thiết đi theo sản phẩm cả
một quá trình lâu dài mà có thể đi theo một khoảng thời gian, một chiến dịch quảng cáo
nhất định. Câu khẩu hiệu dành cho sản phẩm nêu bật được tính năng vượt trội của sản
phẩm.
Một khẩu hiệu tốt cũng cần nêu rõ được những lợi ích mà khách hàng có được
khi sử dụng dịch vụ hay sản phẩm. Khẩu hiệu quảng cáo thuốc mang đến lời hứa cho
khách hàng khi sử dụng thuốc, đó là sự cải thiện về sức khoẻ như: Tiêu tan bệnh Gout
(Hoàng Tiên đan); Cho đêm ngon giấc – cho ngày thảnh thơi (di niệu đơn); Cho đường
tiêu hoá khoẻ mạnh (Bio smile)… Những khẩu hiệu như: Chuyên gia giặt tẩy vết bẩn
(bột giặt Omo); Mềm dai sợi mỳ, đậm đà nước súp (micoem); Không cần phải tốn nhiều
tiền để có mái tóc đẹp (Rejoice); Nguyên chất cá tươi, thơm ngon đệ nhất (nước mắm
Đệ Nhất); Sunlingt - chỉ cần gạt tay, sạch ngay dầu mỡ; Giải nhiệt cuộc sống (Trà
chanh 0 độ ); Thanh lọc cơ thể, không lo bị nóng (Trà thảo mộc Dr Thanh );…Là
những dạng khẩu hiệu trực tiếp mang đến những thông tin về đặc tính, lợi ích của sản
phẩm dễ thu hút khách hàng.
Câu khẩu hiệu có thể mượn hành động để tạo ra phong cách sống. Trên thế giới,
khán giả khá quen thuộc với câu khẩu hiệu khá nổi tiếng “Just do it” (hãy làm đi) của
hãng thể thao Nike. Nike đã đem đến cho giới tẻ ưa chuộng thể thao một phong cách
sống khát vọng thể hiện mình. Hay hãng xe Harley Davison với câu khẩu hiệu : . "Live
to ride, ride to live" ( Tạm dịch: "sống để rong đuổi, rong đuổi để sống") thể hiện đúng
bản chất và tính cách của xe Harley Davison và phong cách sống hết mình vì lý tưởng ,
vì niềm tin vào cuộc sống .Ở Việt Nam, nhãn hàng dầu gội Sunsilk đem đến cho bạn trẻ
một phong cách “Sống là không chờ đợi” thể hiện cho một lối sống tích cực hết mình.
Nhãn hàng Diana với khẩu hiệu “ Làm điều mình yêu thật thích” đã mang đến cho giới
trẻ một phong cách sống là chính mình, tự do làm những gì mình thích qua hình ảnh của
một cô gái trẻ mở quán cà phê Mèo vì sở thích yêu mèo và muốn tạo nơi giao lưu cho
những người cùng chung sở thích.
Cũng giống như ý tưởng, câu khẩu hiệu phải tạo sự khác biệt, và quan trọng là dễ
nhớ.
Để câu khẩu hiệu dễ nhớ, người ta sử dụng những câu văn ngắn gọn, sử dụng các
động từ ấn tượng, hoặc những câu có vần như: “Trò chơi bổ ích – Vui thích học hành”
(Sữa IZZI); “Chỉ cần gạt tay, sạch ngay vết bẩn” (Nước rửa chén Sunlingt); “Trẻ học
điều hay, chung tay đón tết” (Bột giặt Omo)…, và đặc biệt là những vế đối : “Lưu
truyền thống, viết tương lai” (Bút vở Hồng Hà); “Chia sẻ cơ hội - Hợp tác thành công”
(Ngân hàng BIDV)…
Câu khẩu hiệu có vai trò quan trọng trong việc định vị sản phẩm. Một khẩu hiệu
tốt có khả năng khuyến khích mọi người hành động. Đó là những khẩu hiệu trực tiếp.
Người viết kịch bản quảng cáo thường sử dụng các câu khẩu hiệu, mệnh lệnh. Ta có thể
dễ dàng thấy những khẩu hiệu có ý nghĩa thôi thúc này trong các chiến dịch bán hàng
trong một thời gian nhất định, ví dụ như: Các ngân hàng khi thực hiện chiến dịch thu
hút vốn thường có các chương trình khuyến mại, và câu khẩu hiệu cũng mang theo
thông tin khuyến mại đó: “Gửi tiền ngay, cơ may trúng lớn”; “Gửi tiền vào ,cào liền
tay, cơ may trúng lớn”; “Gửi tiền nhỏ, trúng quà to”…
Một trong những cách thức hiệu quả nhất để đưa tên nhãn hiệu vào trong khẩu
hiệu là làm cho khẩu hiệu hài hoà với tên thương hiệu. Ví dụ: Cùng Cocacola đón lộc
đầu năm; Nhìn ra thế giới với cửa sổ Eurowindow;
Một khẩu hiệu tốt còn phải mang tính chiến lược. Nhiều công ty đã truyền tải
một cách hiệu quả chiến lược kinh doanh của họ qua các khẩu hiệu. Một khẩu hiệu hoàn
hảo nên truyền tải những ấn tượng đẹp về thương hiệu: Vinamilk đã truyền tải một mục
tiêu đầy tính nhân văn qua câu khẩu hiệu: “Vươn cao Việt Nam”; Mỳ Hảo Hảo với
mong muốn: “mang lại hàng triệu bữa ăn ngon cho người Việt”; Mobifone với câu
khẩu hiệu đi vào lòng người: “Luôn bên bạn dù ở nơi đâu”.
Trong quá trình sáng tạo, người viết kịch bản quảng cáo có thể không phải sáng
tạo câu khẩu hiệu bởi các doanh nghiệp đã có sẵn khẩu hiệu do ban thương hiệu đảm
nhiệm. Và như thế, trong quá trình sáng tạo, câu khẩu hiệu là chiếc chìa khoá vàng để
mở ra cánh cửa ý tưởng. Câu khẩu hiệu lúc này có giá trị như chủ đề tư tưởng của cả bộ
phim quảng cáo. Những hình ảnh được sáng tạo chủ yếu nhằm nổi bật lên tư tưởng mà
câu khẩu hiệu muốn truyền tải.
Có rất nhiều con đường dẫn dắt đến lâu đài ý tưởng. Có con đường thẳng như lối
tiếp cận trực tiếp sản phẩm nhưng cũng có con đường vòng bằng cách khơi gợi xúc cảm
của khán giả. “Mọi con đường đều đến thành Rome”, nhưng không phải chỉ có những
con đường trên mặt đất. Với phim quảng cáo, lại càng không chấp nhận những con
đường mòn. Sáng tạo để tìm ra con đường mới dẫn đến ý tưởng là nhiệm vụ và thách
thức của những người làm phim quảng cáo.
Tố chất cần thiết của người viết kịch bản quảng cáo trên truyền hình.
Như đã nói ở trên, người viết kịch bản quảng cáo hay còn gọi là Copywriter là
người sáng tạo ý tưởng, nội dung kịch bản bao gồm cả phần hình ảnh và lời bình cho
một bộ phim quảng cáo (TVC). Anh ấy không phải là một nghệ sỹ, mà là một người
viết ý tưởng kịch bản với mục đích bán hàng.
Bởi vậy, trước hết, một người viết kịch bản quảng cáo chuyên nghiệp phải có
kiến thức nền tảng như: marketing, thương hiệu, tâm lý và tích cách khách hàng mục
tiêu, định vị, phân khúc thị trường. Đây là những kiến thức vô cùng cần thiết để “định
hướng” ý tưởng cho kịch bản quảng cáo.
Quảng cáo hiện đại đang theo xu hướng lấy người tiêu dùng làm trung tâm. Bởi thế,
một trong những tố chất của người viết kịch bản phim quảng cáo phải biết tôn trọng khán giả
- đối tượng tiếp nhận hay người tiêu dùng hay. Thay vì lời chào mời sản phẩm, người viết
trước tiên phải tìm hiểu nhu cầu, tâm trạng, tính cách, thành kiến của khách hàng. Người viết
kịch bản phải hiểu được người mua và động cơ mua sản phẩm của họ chính là chìa khoá để
viết nên một quảng cáo thành công. Viết về những điểm mà khách hàng quan tâm thay vì
những gì sản phẩm có. Khi người viết quảng cáo suy nghĩ với vai trò của người mua, chứ
không phải người viết quảng cáo sẽ tạo nên sự tôn trọng khán giả. Sự tôn trọng thể hiện từ
những ý tưởng rõ ràng không dễ gây hiểu lầm, hình ảnh không quá trừu tượng, khó hiểu, bắt
người xem phải liên tưởng. Sự tôn trọng khán giả còn thể hiện ở sự chân thực, thái độ chân
thành của phim quảng cáo: Quảng cáo phải dựa trên những yếu tố sự thật. Việc phô trương,
hoa mỹ, phóng đại sự thật chỉ đánh lừa khán giả và dần gây mất uy tín của thương hiệu.
Khi đưa ra một chiến lược quảng cáo, mỗi doanh nghiệp ngoài việc xác định đối
tượng khách hàng mục tiêu, còn xác định đối thủ cạnh tranh của mình. Đối thủ ở đây là
những doanh nghiệp có sản phẩm tương tự với sản phẩm doanh nghiệp muốn quảng
cáo. Tôn trọng đối thủ cạnh tranh là không “nói xấu”, hạ thấp chất lượng sản phẩm của
đối thủ để nâng cao vị thế của mình. Việc so sánh với sản phẩm khác cần hết sức tế nhị
và tuyệt đối không để lộ tên sản phẩm được so sánh. Khi biết tôn trọng đối thủ, tức là
người viết kịch bản quảng cáo đã nắm được những điểm mạnh của đối thủ, bởi thế khi
viết ý tưởng kịch bản sẽ biết tìm ra điểm khác biệt của sản phẩm cần quảng cáo để lấy
đó làm điểm mạnh riêng cần nhấn mạnh trong phim quảng cáo.
Sự khác biệt chính là điều mà những người viết kịch bản phim quảng cáo luôn
tâm niệm và hướng tới. Một phim quảng cáo hay, một phim quảng cáo độc đáo, cuốn
hút hay ấn tượng phải là một phim quảng cáo khác biệt từ hình ảnh đến âm thanh,
không lẫn với bất kỳ một phim quảng cáo nào khác. Khác biệt chính là sáng tạo. Nó
quyết định sự thành bại của một phim quảng cáo. Sáng tạo đó chính là yếu tố cần thiết
của một người viết kịch bản quảng cáo.
Người viết kịch bản quảng cáo cần có kiến thức tổng quát rộng: Có vốn sống,
kiến thức về âm nhạc, hội hoạ, triết học, văn học, văn hoá xã hội và cả kiến thức tự
nhiên.
Để viết cho phim quảng cáo bỉm cho trẻ sơ sinh, người viết kịch bản quảng cáo
đã phải nghiên cứu, tìm hiểu về sự phát triển của trẻ trong khi ngủ, để ra một kết luận
rằng sử dụng loại bỉm H giúp bé có giấc ngủ ngon và phát triển không ngừng ngay cả
khi đang ngủ.
Nhiều người viết kịch bản quảng cáo đã phải nghiên cứu từ những quy trình sản
xuất ra những chiếc ôtô sang trọng, những chiếc xe máy hiện đại cho đến những chum
nước mắm, những sợi phở trắng và mềm, những chiếc bánh ngọt quyện trong socola…
để mang đến cho người xem những hình ảnh ấn tưởng về nghệ làm nên những sản phẩm
chất lượng. Để quảng cáo sản phẩm tivi Sony Bravia trong dịp Tết Tân Mão, người sáng
tạo ý tưởng đã vận dụng hình ảnh từ bức tranh dân gian Đông Hồ “Đám cưới chuột” để
mang đến những sắc màu dân tộc trong phim quảng cáo. Với cách làm mới câu chuyện,
bộ phim mang đến cách biểu hiện độc đáo, đầy thú vị khi những con chuột và mèo vốn
là kẻ thù của nhau, nay trở thành bạn hữu.
Ngoài ra, một người viết kịch bản quảng cáo cũng cần phải biết tiếp thu những ý
tưởng cũ cũng như ý tưởng mới lạ để vận dụng vào công việc của mình. Những phim
quảng cáo trên thế giới cũng mang đến những ý tưởng độc đáo để học tập và biến tấu
một cách sáng tạo.
Người viết kịch bản quảng cáo cũng phải là người giỏi ngôn ngữ: Ngôn ngữ có
thể chiếm tới 50% sự thành công của phim quảng cáo. Để làm nên những lời bình hay,
những slogan độc đáo, người viết kịch bản quảng cáo phải có vốn ngôn ngữ phong phú,
vừa uyên thâm, lại vừa dân giã, gần gũi với cuộc sống.
Người viết kịch bản quảng cáo trước khi sáng tạo ý tưởng phải nắm rõ được
những thông tin về sản phẩm, dịch vụ hay một công ty nào đó. Nội dung này có trong
bản thông tin sáng tạo ( Creative Brief) . Thông qua đó, để người sáng tạo ý tưởng xác
định được đối tượng khán giả, tính năng của sản phẩm hoặc dịch vụ và thông điệp cần
truyền tải.
Như đã trình bày ở phần trước, cũng giống như phim truyện, phim quảng cáo
cũng phải có những thông điệp truyền tải đến người xem. Người viết kịch bản quảng
cáo cũng giống như nhà biên kịch, cũng phải có những tư tưởng tích cực, tạo những
thông điệp mang tính triết lý. Một thông điệp hay, mang tính tích cực sẽ có tác dụng
định hướng tư duy, hành động cho mọi người.
Khả năng diễn giải và thuyết trình tốt là một yếu tố quan trọng với người viết
kịch bản quảng cáo . Không chỉ là người bán hàng sau chiếc máy tính, người viết kịch
bản còn phải đứng trước cả một hội động kiểm duyệt khá khắt khe. Đó là doanh nghiệp
thuê quảng cáo. Hoạt động này còn gọi là “present” – trình bày ý tưởng trước khách
hàng doanh nghiệp. Tại đây, người viết kịch bản quảng cáo phải trình bày ý tưởng, nội
dung và ý nghĩa của kịch bản; Điều đặc biệt của kịch bản và khả năng thu hút khán giả
truyền hình, hiệu quả kinh doanh khi nó trở thành một phim quảng cáo.
Nếu như sáng tác kịch bản điện ảnh, nhà biên kịch được tự do sáng tác theo
những thôi thúc của cá nhân mình, thì người viết kịch bản quảng cáo lại viết theo đơn
đặt hàng. Bởi vậy, cái tôi cá nhân của người viết đôi khi đứng sau những áp đặt của
khách hàng doanh nghiệp. Kiên nhẫn là tố chất cần có của người viết kịch bản quảng
cáo. Bởi không phải phim quảng cáo nào cũng có thể thực hiện với kịch bản đầu tiên.
Phải có rất nhiều ý tưởng, phải sửa đi sửa lại rất nhiều lần để có được một kịch bản
quảng cáo tốt. Đó là điều mà những người làm quảng cáo đều biết.
Một tố chất vô cùng quan trọng với một người viết kịch bản quảng cáo đó là tôn
trọng sự thật. Việc sáng tạo không có nghĩa là phóng đại về giá trị thực của sản phẩm
hay dịch vụ.
Sau khi xác định được khách hàng mục tiêu, người viết kịch bản quảng cáo cần
tìm hiểu tâm lý đối tượng người tiêu dùng đó. Tuỳ theo từng đối tượng mà quảng cáo
hướng tới: người già, trẻ nhỏ, đàn ông, phụ nữ, người thành thị hay nông thôn mà có
những cách tiếp cận và thuyết phục người tiêu dùng khác nhau. Bởi mỗi đối tượng có
một trình độ nhận thức cũng như nhu cầu và sở thích khác nhau. Theo công trình nghiên
cứu “Nhận thức của người tiêu dùng về quảng cáo” của NFO Việt Nam:
Người tiêu dùng ở nông thôn và những người nội trợ với trình độ học vấn có hạn
thường thích quảng cáo theo kiểu dùng từ ngữ để diễn đạt hơn là những quảng cáo diễn
đạt bằng hình ảnh.
Điều này không có nghĩa là những người tiêu dùng thuộc nhóm này chỉ thích
những quảng cáo bằng từ ngữ. Thật ra, nhiều nghiên cứu định lượng cho thấy những
nhóm người tiêu dùng này cũng hiểu và thích những quảng cáo sử dụng nhiều hình ảnh.
Trong khi đó, thanh niên, nhân viên văn phòng, người thành thị lại thích những
quảng cáo sử dụng ngôn ngữ hình ảnh. Những hình ảnh đôi khi ấn tượng, khó hiểu lại
có sức thu hút họ.
Với những thông điệp thuần tuý về sản phẩm, những phim quảng cáo dựa vào
cảm xúc như khơi gợi về tình yêu, sự sẻ chia, hạnh phúc luôn làm xao động đối tượng
người xem là phụ nữ.
Ngược lại, những quảng cáo với thông điệp dựa trên lý trí lại thu hút đàn ông. Đó
là những quảng cáo nêu lên một cách cụ thể những tính năng, đặc tính, những ưu điểm
vượt trội của sản phẩm. Bởi thế, khi quảng cáo chiếc xe máy cho đàn ông, các nhà làm
phim quảng cáo thường đưa ra những hình ảnh về động cơ, chi tiết máy nhằm thu hút sự
chú ý, nhưng khi quảng cáo xe cho đối tượng khách hàng là phụ nữ thì phim quảng cáo
thường mang đến những hình ảnh về hình dáng, sự tiện lợi, những khoảnh khắc đẹp
trong cuộc sống khi sử dụng chiếc xe đó.
Cũng trong nghiên cứu này, cho thấy trình độ nhận thức về quảng cáo ở Việt
Nam đã đi được một quãng đường khá dài trong một khoảng thời gian ngắn - tốc độ
phát triển sẽ tăng tốc nhờ vào những nhân tố đặc trưng của nền văn hoá Việt Nam, sự
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, địa lý và quá trình đô thị hoá không ngừng ở Việt
Nam.
Bởi vậy, nâng cao trình độ nhận thức cho người tiêu dùng cũng là một nhiệm vụ
của người viết kịch bản quảng cáo.
Một tâm lý dễ thấy ở người tiêu dùng đó là tâm lý đám đông. Theo Jack Trout,
tác giả cuốn “ Khác biệt hay là chết”, thì “người tiêu dùng thường có khuynh hướng
mua những gì mà họ nghĩ là nên có, chứ không phải muốn có. Trong trường hợp này,
con người cũng tương tự như những con cừu, luôn đi theo đàn.” [17, tr.132] Tâm lý
này dẫn đến hành vi bắt chước mua hàng của người tiêu dùng. Nắm bắt được tâm lý đó,
hình thức quảng cáo sử dụng sự chứng nhận, trải nghiệm của người nổi tiếng về sản
phẩm là một cách quảng cáo khá thuyết phục người tiêu dùng.
Trong quá trình viết kịch bản, một người viết kịch bản quảng cáo chuyên nghiệp
luôn biết rằng cần chú trọng đến lợi ích của khách hàng khi sử dụng sản phẩm thay vì
nêu ra những tính năng, đặc điểm của sản phẩm. Người tiêu dùng sẽ quan tâm đến một
chiếc máy giặt đem lại lợi ích tiết kiệm điện, tiết kiệm nước và thời gian, không gây ồn
khi hoạt động hơn là những thông số kỹ thuật như thể tích, công suất hay cấu tạo của
sản phẩm. Cũng như thế, người tiêu dùng thường không mua xe hơi, họ mua tốc độ, tính
an toàn hay địa vị xã hội. Các hãng mỹ phẩm không bán những mỹ phẩm chứa vitamin
hay chứa nước, cái mà họ bán chính là sắc đẹp, sự quyến rũ và tuổi trẻ. Bởi thế, công
việc của người viết quảng cáo chính là việc đưa ra những lời hứa về lợi ích.
Lợi ích đó là những gì mà sản phẩm mang lại cho người tiêu dùng. Lợi ích như
là: Tốt hơn cho tim mạch. Tiết kiệm chi phí. Đánh bay mọi vết bẩn. Không hại da tay;
mang lại sắc đẹp, sự quyến rũ; Sức khoẻ tốt; Sự tinh khiết, tính tự nhiên; tính an toàn;
giá trị dinh dưỡng; sự hoàn hảo …Người viết kịch bản cần hướng đến người tiêu dùng,
chứ không phải hướng đến sản phẩm. Bởi thế, khi tiếp nhận thông tin quảng cáo, người
viết kịch bản đã phải lựa chọn đối tượng tiếp nhận. Việc này quyết định sự thành công
hay thất bại của chiến dịch quảng cáo.
Để làm nên một quảng cáo thành công, tác giả cuốn “Khác biệt hay là chết”
cho rằng: “ Nếu bạn đang quảng cáo cho sản phẩm, bạn phải đưa ra được một lý do đủ
sức thuyết phục người tiêu dùng chọn sản phẩm đó. Nếu bạn có thể kết hợp lý do này
với hình thức giải trí cùng lúc thì không còn gì tuyệt vời hơn.”[17, tr.37]
Quảng cáo không thể đứng tách rời phông văn hoá. Bởi vậy, để trở thành một
người viết quảng cáo thành công, người viết kịch bản quảng cáo còn phải am hiểu văn
hoá dân tộc, văn hoá địa phương.
Am hiểu văn hoá địa phương hay văn hoá dân tộc, để trong quá trình sáng tạo,
người viết kịch bản quảng cáo không mắc những lỗi quảng cáo phản cảm hoặc phi văn
hoá. Kiến thức lịch sử, địa lý, văn học là hành trang cần thiết cho mỗi người làm phim
quảng cáo. Muốn sáng tạo phim quảng cáo cho người Việt thì nhất định người làm sáng
tạo phải am hiểu văn hoá, lịch sử Việt.
Nói như anh Lê Chí Khải - giám đốc sáng tạo của Công ty Hit Advertising, từng
là giám đốc sáng tạo của Công ty Goldsun với các sản phẩm quảng cáo của Coca-Cola,
Mì Vua bếp, Nước hoa Miss Sài Gòn, Similac Mom (phim quảng cáo này đã đoạt giải
thưởng của Abbott toàn cầu tại Mỹ)..: “Tùy theo nền văn hóa của các nước mà làm
phim quảng cáo. Ở Mỹ thì phim quảng cáo phải tạo cú sốc, kinh dị, điên điên, thậm chí
sexy mới hút được công chúng. Ở Thái Lan thì sự hài hước rất được để ý. Còn để có
một quảng cáo hấp dẫn người Việt Nam cần phải có tình cảm, sự hài hước và vẻ đẹp
(của em bé, người phụ nữ, nền văn hóa), dễ làm lay động cảm xúc, tạo ấn tượng với
người xem”.
Ngoài việc lay động cảm xúc người Việt thì quảng cáo do Việt Nam sản xuất cũng có
thể đi đến với khán giả nước ngoài. Chính bản sắc văn hoá sẽ là “đặc sản” mà những người
làm quảng cáo có thể mang đến với các nước bạn. Bản sắc văn hoá được thể hiện bằng
những hình ảnh mang phong tục, tập quán đẹp sẽ là một cách để thu hút người xem đến với
quảng cáo và hàng Việt.
Một phim quảng cáo có văn hoá là phim quảng cáo góp phần nâng cao trình độ
nhận thức của người tiêu dùng, hướng người xem đến với những giá trị nhân văn tốt
đẹp.
Trở lại với vấn đề quảng cáo trên phim truyền hình: Để quảng cáo trở thành một
bộ phận không thể thiếu của phim, để quảng cáo không còn mang tính minh hoạ như
hiện nay, nên chăng trong quá trình viết kịch bản phim truyền hình cần có thêm một đội
ngũ viết quảng cáo chuyên nghiệp, để cố vấn, hoặc tham gia viết xen vào các cảnh
phim những đoạn quảng cáo mà ở đó sản phẩm quảng cáo thực sự trở thành một phần
của câu chuyện. Nó như là một chi tiết trong phim truyện. Khi một chi tiết được đưa ra,
nó phải được sử dụng triệt để. Như chiếc đinh đóng trên tường không bị bỏ quên, mà
được dùng để treo một bức tranh đẹp. Để quảng cáo như là phim, phim không bị “lộ”
quảng cáo, cần có sự kết hợp giữa tố chất của người viết quảng cáo và nhà biên kịch.
Tiểu kết:
Tuy còn ở giai đoạn mới phát triển, nhưng phim quảng cáo trên truyền hình Việt
nam đã có những thành công bước đầu. Sự nở rộ các công ty truyền thông quảng cáo tư
nhân, cùng với số lượng các kênh truyền hình ngày càng gia tăng, các chương trình
truyền hình ngày càng nâng cao cả về số lượng lẫn chất lượng đã cho thấy tương lai đầy
triển vọng của ngành công nghiệp phim quảng cáo. Phim quảng cáo trên truyền hình đã
và đang khẳng định vị trí không thể thiếu của mình với ngành truyền hình, và có tác
động không nhỏ đến đời sống xã hội. Đó là mối quan hệ hỗ trợ, tác động qua lại giữa
chương trình truyền hình và chương trình quảng cáo.
Cùng với sự nâng cao về chất lượng, số lượng, phim quảng cáo trên truyền hình
đã có những tác động tích cực không nhỏ đối với với khán giả nói chung và người tiêu
dùng nói riêng. Phim quảng cáo trên truyền hình Việt Nam đã góp phần phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc thông qua hệ thống hình ảnh, ngôn ngữ đậm đà bản sắc dân tộc.
Hướng khán giả đến với những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta ngàn đời,
bên cạnh đó còn mang đến những lối sống hiện đại, tích cực và đầy tính nhân văn.
Những người làm phim quảng cáo ở Việt Nam thường là những người làm phim
trẻ, mang sức trẻ và sức sáng tạo đột phá dựa trên nền tảng kiến thức điện ảnh truyền
hình. Một ngành công nghiệp làm phim quảng cáo đang hướng tới tính chuyên nghiệp.
Tính chuyên nghiệp thể hiện trong từng bộ phận, thành phần sáng tạo. Việc thành lập
Hiệp hội quảng cáo Việt Nam, việc tổ chức giải Quả chuông Vàng dành cho những
người làm quảng cáo là sự tôn vinh, động viên tinh thần vô cùng lớn lao với những
người làm quảng cáo. Tại đây, những thể loại quảng cáo đã không đơn thuần chỉ là công
cụ bán hàng, mà còn được tôn vinh như những tác phẩm nghệ thuật. Với những thành
công trên, ngành quảng cáo trên truyền hình đã bước đầu xây dựng được tính chuyên
nghiệp, thu hút được các doanh nghiệp đầu tư vào phim quảng cáo. Từ đó, tạo nên một
thị trường đầy tiềm năng cho những người trẻ có đam mê làm phim quảng cáo.
Trên con đường tìm tòi sáng tạo cái mới, không tránh khỏi những hạn chế, bất
cập. Những hạn chế bắt đầu từ khâu ý tưởng, cho đến những lối biểu hiện nặng về khoa
trương trong ngôn ngữ dẫn đến quảng cáo thiếu độ tin cậy đang dần biến khán giả quay
lưng lại với phim quảng cáo. Còn tồn tại những phim quảng cáo thiếu thẩm mỹ, thiếu
văn hóa trong lối ứng xử của nhân vật đã vô tình gây phản cảm với người xem. Phần
nhiều phim quảng cáo trên truyền hình còn đi vào lối mòn thể hiện trong quan niệm về
giới, dẫn đến sự mất cân bằng bình đẳng giới. Sự hạn chế trong việc đầu tư thiết bị kỹ
thuật cũng dẫn đến sự phụ thuộc vào công nghệ của nước ngoài. Một ngành công
nghiệp không thể khỏe mạnh khi khâu sản xuất còn chưa hoàn chỉnh.
Để một nền quảng cáo phát triển, không chỉ cần sự đầu tư về thiết bị kỹ thuật mà
trên hết đó là yếu tố con người. Còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập, dẫn đến những lỗi
phản cảm trong phim quảng cáo. Tuy nhiên, lỗi không phải tại phim, mà do hạn chế của
người làm quảng cáo. Bởi thế cần đào tạo chuyên môn quảng cáo cho những thành phần
sáng tạo như đạo diễn, quay phim, họa sỹ, âm thanh,… và đặc biệt là người sáng tạo ý
tưởng cho phim quảng cáo, để những người làm phim quảng cáo nắm được vai trò, thể
loại và những đặc trưng riêng của phim quảng cáo. Có muôn vàn con đường để dẫn đến
ý tưởng. Nhưng bước chân của người sáng tạo không chấp nhận đi trên những con
đường mòn.
PHẦN KẾT LUẬN
Quảng cáo được ví như làn gió thổi cho chiếc cối xay gió kinh tế hoạt động một
cách trơn tru và nhanh chóng. Khi kinh tế ngày càng phát triển, càng thấy được vị trí
không thể thiếu của quảng cáo trong việc quảng bá sản phẩm/dịch vụ, kích thích nhu
cầu của người tiêu dùng, thúc đẩy sản xuất, tăng tính cạnh tranh và doanh thu cho các
doanh nghiệp, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Là một trong những phương thức quảng cáo hiệu quả nhất hiện nay, phim quảng
cáo trên truyền hình đang là một lựa chọn tối ưu cho các doanh nghiệp trong việc quảng
bá sản phẩm, dịch vụ cũng như thương hiệu. Bằng việc vận dụng sáng tạo ngôn ngữ
điện ảnh và truyền hình, phim quảng cáo trên truyền hình đã tạo nên những ưu thế vượt
trội hơn hẳn các loại hình quảng cáo khác.
Không thể phủ nhận những đóng góp vô cùng to lớn của phim quảng cáo truyền
hình với đời sống xã hội. Một mặt, phim quảng cáo truyền hình có tác dụng quảng bá
thông tin về sản phẩm/ dịch vụ đến với người tiêu dùng, kích thích nhu cầu mua sắm,
tạo động lực cho sản xuất phát triển. Mặt khác, phim quảng cáo trên truyền hình tạo nên
một nguồn thu lớn cho đài truyền hình, góp thêm nguồn kinh phí xây dựng cơ sở vật
chất, sản xuất các chương trình truyền hình. Phim quảng cáo trên truyền hình còn là
động lực to lớn cho các chương trình truyền hình bao gồm cả phim truyện nâng cao chất
lượng. Bởi chỉ khi chương trình hay, chất lượng tốt, có số lượng người xem cao, mới
thu hút được nhiều doanh nghiệp tham gia quảng cáo.
Phim quảng cáo trên truyền hình không chỉ mang tính chất thương mại, mà còn
có giá trị tuyên truyền, phi thương mại, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Nghiên cứu các
phim quảng cáo trên truyền hình, có thể nhận thấy đằng sau những câu chuyện rất ngắn
ấy, không chỉ là một thương điệp, mà còn ẩn chứa những thông điệp rất nhân văn. Bởi
trước hết, phim quảng cáo trên truyền hình cũng là một thể loại phim với dung lượng
cực ngắn. Nó cũng hội tụ những đặc trưng của một bộ phim ngắn với cả tình huống
kịch, kịch tính lẫn kết thúc bất ngờ. Tuy nhiên, với mục đích quảng bá sản phẩm hoặc
dịch vụ trong một phim cực ngắn, người làm phim quảng cáo phải biết cách vận dụng
ngôn ngữ điện ảnh một cách ấn tượng, độc đáo để làm nổi bật sản phẩm/dịch vụ trong
những khoảnh khắc hình ảnh, âm thanh cô đọng nhất.
Ngày nay, nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển, cùng với đó, các doanh
nghiệp đã nhìn ra được tầm quan trọng của quảng cáo, đặc biệt là ưu thế quảng bá
nhanh và rộng của quảng cáo trên truyền hình. Với sự ra đời của hàng trăm công ty
truyền thông quảng cáo tư nhân, hàng nghìn phim quảng cáo phát mỗi ngày trên các
kênh truyền hình cho thấy ngành quảng cáo trên truyền hình Việt Nam đang có những
bước phát triển vượt bậc. Làm phim quảng cáo đã trở thành một nghề hấp dẫn những
người làm phim trẻ. Những tên tuổi đạo diễn điện ảnh trẻ như: Bùi Thạc Chuyên, Lương
Đình Dũng, Đỗ Đức Thành… đã trở thành những tên tuổi thành danh trong “sân chơi”
phim quảng cáo. Quy trình làm phim quảng cáo có nhiều điểm tương đồng với quy trình
sản xuất phim, đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao trong từng bộ phận sáng tạo.
Bằng sự chuyên nghiệp hoá, những nhà làm phim quảng cáo Việt Nam đang dần
chiếm lĩnh được thị trường quảng cáo đầy tiềm năng. Hiệp hội quảng cáo Việt Nam ra
đời đánh dấu bước trưởng thành của ngành quảng cáo.
Bên cạnh những thành công đã đạt được, cần nhìn nhận lại những hạn chế còn
tồn tại trong phim quảng cáo truyền hình. Vẫn còn không ít phim quảng cáo nặng tính
giải trí hoặc gây ấn tượng mà vô tình mắc lỗi phản cảm, thiếu văn hoá trong cách biểu
hiện. Phim quảng cáo lạm dụng hình ảnh trẻ em và phụ nữ, vô tình mặc định cho người
phụ nữ thành hình mẫu của người nội trợ, trong khi đàn ông lại làm nhiệm vụ của các
chuyên gia, người hưởng thụ. Việc bất bình đẳng giới trong phim quảng cáo hiện đang
gây bức xúc cho khán giả, và cũng là một vấn đề được đề cập đến trong Luật quảng cáo
sắp được ban hành. Mặc dù trong phim quảng cáo được phép cường điệu hoá, nhưng
nhiều phim quảng cáo đã phóng đại quá mức về chất lượng sản phẩm, thậm chí nói sai
sự thật khiến khán giả mất lòng tin vào phim quảng cáo trên truyền hình.
Để phim quảng cáo không bị coi như loại phim chỉ có tác dụng “dụ trẻ ăn bột”,
cần nâng cao chất lượng phim quảng cáo. Điều này chỉ có được khi có đội ngũ làm
phim quảng cáo chuyên nghiệp có nền tảng kiến thức về quảng cáo, “phông” văn hoá
sâu rộng, và đặc biệt có sức sáng tạo dựa trên “công cụ” là ngôn ngữ điện ảnh – truyền
hình.
Là một phần quan trọng trong quản trị doanh nghiệp, quảng cáo cũng đồng thời
là một dịch vụ văn hoá thương mại mang tính cộng đồng cao. Sở dĩ vẫn còn những hạt
sạn nổi cộm của không ít những phim quảng cáo hiện nay, có lẽ bắt nguồn từ việc các
nhà quảng cáo sản xuất ra những phim quảng cáo mang tính thuần tuý, ý tưởng bắt
chước nước ngoài một cách máy móc, thiếu tinh tế, chạy theo những mục tiêu lợi nhuận
trước mắt mà xem nhẹ vai trò văn hoá trong hoạt động quảng cáo.
Để hàng hoá Việt Nam vươn ra thị trường khu vực và thế giới, quảng cáo, tiếp
thị phải là “đèn far” đi trước dẫn đường. Phải hiểu được đặc trưng văn hoá vùng miền,
tập quán sinh hoạt, mới có những phim quảng cáo phù hợp. Để phim quảng cáo vừa có
tác dụng kinh doanh vừa có giá trị như một tác phẩm văn hoá nghệ thuật, để phim
quảng cáo không chỉ có tác dụng lay động người Việt mà còn có sức cuốn hút và thuyết
phục với khán giả hay người tiêu dùng nước ngoài, không chỉ đòi hỏi trình độ kỹ thuật
cao, không chỉ đòi hỏi ý tưởng lạ, mà còn đòi hỏi yếu tố bản sắc văn hoá riêng và cả
tính hiện đại trong mỗi phim quảng cáo. “Hãy xem quảng cáo là một hoạt động kinh tế
mang tính văn hóa chứ không nên xem là hoạt động văn hóa mang tính kinh tế” - đó là
lời kiến nghị của Ông Nguyễn Quý Cáp, Chủ tịch Hội quảng cáo TPHCM.
Khi phim quảng cáo thực hiện được những chức năng như một tác phẩm văn học
nghệ thuật thì vô hình chung, nó cũng tự nâng mình lên một tầm giá trị mới - Giá trị văn
hoá.
Để nâng cao chất lượng phim quảng cáo trên truyền hình, cần có những chính
sách hỗ trợ cho các nhà sản xuất phim quảng cáo trong nước. Cần đầu tư hơn nữa vào
yếu tố con người bằng việc đào tạo chuyên sâu kiến thức làm phim quảng cáo ở bậc đại
học.
Khi internet đang dần lấn chiếm các loại hình truyền thông khác, trở thành một
phương tiện tiếp thị nhờ E-Mail, quảng cáo thông qua banner, tin tức, trò chơi trực
tuyến, internet TV v.v…, thì có nhiều ý kiến cho rằng quảng cáo trên internet sẽ lấn át
quảng cáo truyền hình. Thậm chí bi quan hơn, có người cho rằng thời của quảng cáo
trên truyền hình đã hết. Khi giới trẻ dành nhiều thời gian cho internet hơn cho truyền
hình, thì lượng khán giả của phim quảng cáo có thực sự bị cuốn theo internet? Thực ra,
tình hình không đáng bi quan như vậy đối với những người làm quảng cáo trên truyền
hình bởi những lý do sau:
1) Những người thích sử dụng mạng Internet thường cũng là người thích xem
truyền hình.
2)Hình thức và nội dung của quảng cáo trên mạng chưa được phong phú và giúp
ta tiêu khiển bằng nội dung quảng cáo trên truyền hình. Quảng cáo trên truyền hình đa
dạng hơn và kèm theo những chương trình phim ảnh, ca nhạc, thể thao, thời sự, đố vui
tương tác...
3) Xem quảng cáo trên mạng là một hành động có tính cách đơn lẻ, trong khi
xem quảng cáo truyền hình vừa là hành động cá nhân vừa là hành động tập thể (với gia
đình, với bạn bè) và sự giao lưu với những người cùng xem một chương trình gây nên
hiệu qủa tập thể lớn gấp bội hiệu qủa cá nhân..
4) Khả năng dung hợp giữa mạng và truyền hình có thể thực hiện được. ví dụ
trong lúc xem một trận bóng đá có thể dùng net để tra cứu về số liệu cá nhân như chiều
cao, số cân, tuổi tác, thành tích...của một tuyển thủ. Như thế, truyền hình và mạng
không đối chọi với nhau mà còn có thể hoà hợp với nhau .
5) Mỗi phương tiện đều có nhiệm vụ riêng của nó. Trong một xã hội mà thành
phần khách hàng đã phân hóa thành những tầng lớp nhỏ và hàng hóa lại đa dạng, quảng
cáo trên truyền hình tuy tiến nhanh và tiến mạnh đã không làm biến mất quảng cáo trên
báo chí, quảng cáo ngoài trời hay trên các phương tiện giao thông. Cùng một lý do đó,
quảng cáo truyền hình sẽ tiếp tục sống, tuy rằng, với những điều kiện sinh hoạt mới và
kỹ thuật mới, nó bắt buộc phải đuổi kịp để đáp ứng nhu cầu thời đại.
6) Kỹ thuật mạng giúp đỡ quảng cáo truyền hình rất đắc lực trong việc quản lý
tìm hiểu thu thập thông tin. [7]
Như thế, có thể nói, khi truyền hình còn phát triển, khi mà hơn 90% dân số vẫn
còn xem truyền hình, khi mà phim quảng cáo trên truyền hình với những ưu điểm nổi
trội, như đến được với nhiều người trong thời gian rất ngắn, rất nhanh, có thể chuyển tải
được âm thanh, hình ảnh, câu chuyện mà những kênh khác không thể thực hiện được,
khi mà những chương trình truyền hình vẫn được “hỗ trợ kinh phí” bằng nguồn tài trợ
quảng cáo, thì quảng cáo trên truyền hình sẽ vẫn là miền đất hứa. Cùng với sự tiến bộ
không ngừng của công nghệ, sự phát triển trong nhận thức và tri thức nhân loại, thì
quảng cáo trên truyền hình sẽ có những thay đổi về hình thức biểu hiện cho phù hợp với
từng thời đại.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tác giả Việt Nam:
1. Dương Vân Anh, “Phim quảng cáo: “dụ” trẻ con, “dụ” người lớn”,
thethaovanhoa.vn
2. Trần Kim Anh, “Kỹ xảo là một công đoạn quan trọng của điện ảnh”,
thegioidienanh.vn
3. Minh Chi (2011), “10 quảng cáo video thành công nhất của các đạo diễn hàng đầu”,
thegioidienanh.vn
4. Đại học Ngoại Thương, “Giáo trình nguyên lý marketing”
5. TS. Mai Xuân Huy (2005), “Ngôn ngữ quảng cáo dưới ánh sáng của lý thuyết giao
tiếp”, NXB Khoa học xã hội.
6. Thanh Lâm, Đức Mạnh (6/7/2011), “Thị trường quảng cáo – phân định thị phần nội,
ngoại”, baomoi.com.
7. Đậu Nhật Minh (2011), “Giáo trình quảng cáo truyền hình”, Đại học Sân khấu &
Điện ảnh Hà Nội.
8. “Đưa thương hiệu lên phim ảnh”, vietbao.vn/The-gioi-giai-tri/Dua-thuong-hieu-len-
phim-anh
9.. NFO Việt Nam, “Nhận thức của người tiêu dùng về quảng cáo”
10. Bảo Ngọc (20/8/2008), “Kỹ xảo điện ảnh: Hãy đặt lòng tin”, Thegioidienanh.vn.
11. Trần Hoàng Nhị, Phạm Thanh Hà, Nguyễn Anh Tuấn, “Kỹ xảo điện ảnh” (2004) -
Trường đại học Sân khấu điện ảnh Hà Nội.
12. Nhóm cán bộ Oxfam Anh – CSAGA(2011), “Sạn giới trong quảng cáo”, Trung tâm
nghiên cứu ứng dụng Khoa học về Giới- Gia đình – phụ nữ và thanh niên (CSAGA)
13. Vũ Xuân Quang – Trần Thanh Tùng (2009), “Thuật ngữ điện ảnh truyền hình”, Hội
điện ảnh Việt Nam xuất bản.
14. Nghiệp vụ quảng cáo và tiếp thị (1994), NXB Khoa học kỹ thuật.
Tác giả nước ngoài:
(Tài liệu dịch tiếng Việt)
15. Dupont(2009), “1001 ý tưởng đột phá trong quảng cáo”, NXB Trẻ.
16. Iu.A.Suliagin, V.V.Petrov (2004), Nghề quảng cáo, NXB Thông Tấn.
17. Jack Trout, Steve Rivkin(2009), “khác biệt hay là chết”, NXB Trẻ.
18.Marty Neumeiler(2010), “Zag đảo chiều”, NXB Lao động xã hội.
19. Philip Kotler (1998), “Makerting căn bản”, NXB Thống kê, Hà Nội.
20. Philip Kotler (1997), “Giáo trình Quản trị Marketing”, NXB Thống kê, Hà Nội.
21. Robert W. Bly(2009),“Copywriter Khởi nghiệp & Thành đạt”, NXB Thời đại.
22. http://vi.wikipedia.org
DANH MỤC PHIM THAM KHẢO
Phim quảng cáo:
1. Quảng cáo Cocacola Tết 2009
2. Các phim quảng cáo bột giặt Omo
3. Các phim quảng cáo Heineken
4. Neptune xuân sum họp
5. Hạt nêm Maggi
6. Hạt nêm Knorr
7. Bitit nâng niu bàn chân Việt
8. Sữa tươi vinammilk 100% nguyên chất
9. Bia Sàigon
10. Nước xả vải Downy
11. Quảng cáo nước giặt Ariel
12. Bánh Chocopie
Phim truyện tham khảo:
1. Bí mật eva (phim truyền hình)
2. Cô gái xấu xí (Phim truyền hình)
3. Gái nhảy.
4. Italian Job
5.James bond – Quantum of solace
6. Kho báu quốc gia
7. Lọ lem hè phố
8. Lời thú nhận của eva (Phim truyền hình)
9. Người vận chuyển (Transporter) .
10. The Hire
11. Xin thề anh nói thật (Phim truyền hình)
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN ................................................... Error! Bookmark not defined.
BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT, THUẬT NGỮ TRONG LUẬN VĂN………100
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 4
5. Ý nghĩa đóng góp của đề tài ............................................................................ 4
6. Bố cục luận văn .............................................................................................. 5
Chương II: ĐẶC TRƯNG PHIM QUẢNG CÁO VÀ CÁC THỂ LOẠI QUẢNG CÁO
TRÊN TRUYỀN HÌNH .......................................................................................... 5
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 6
Chương I................................................................................................................. 6
VAI TRÒ CỦA QUẢNG CÁO TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI............................... 6
1.1. Quảng cáo - Những khái niệm ...................................................................... 6
1.2 Vai trò của quảng cáo: ................................................................................... 7
1.3. Nhiệm vụ- Mục đích của quảng cáo: ............................................................ 8
1.4. Các hình thức quảng cáo ............................................................................... 9
1.5. Khái niệm về người viết kịch bản quảng cáo. ..........................................10
1.6. Khái niệm về phim quảng cáo trên truyền hình. ..........................................11
1.7. Lịch sử phát triển ngành quảng cáo trên thế giới: .........................................13
1.8. Lịch sử phát triển ngành quảng cáo ở Việt Nam ..........................................20
Chương II ..............................................................................................................22
ĐẶC TRƯNG PHIM QUẢNG CÁO VÀ CÁC THỂ LOẠI QUẢNG CÁO TRÊN
TRUYỀN HÌNH ....................................................................................................22
2.1. Đặc trưng phim quảng cáo: ..........................................................................22
2.2 Nhân vật trong phim quảng cáo ....................................................................34
2.3. Cốt truyện và chủ đề trong phim quảng cáo .................................................35
2.4 Cấu trúc một bộ phim quảng cáo. .................................................................36
2.4. Các thể loại quảng cáo trên truyền hình: ......................................................40
2.5. Quy trình sản xuất TVC ...............................................................................45
Tiểu kết: ................................................................................................................48
Chương III: ............................................................................................................50
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHIM QUẢNG CÁO
TRÊN TRUYỀN HÌNH CỦA VIỆT NAM ............................................................50
3.1. Những thành công đã đạt được ....................................................................50
3.2. Hạn chế của phim quảng cáo trên truyền hình Việt Nam .............................60
3.3. Giải pháp nâng cao chất lượng phim quảng cáo trên truyền hìnhViệt Nam ...........71
Tiểu kết: ................................................................................................................89
PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................96
DANH MỤC PHIM THAM KHẢO ......................................................................98
BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT, THUẬT NGỮ
TRONG LUẬN VĂN
TVC television commercial =
Phim quảng cáo
Copywriter Người viết kịch bản quảng cáo =
Storyboad Kịch bản phân cảnh bằng hình vẽ =
Logo Biểu tượng
slogan Câu khẩu hiệu
Nxb Nhà xuất bản =
tr. trang =
TPHCM Thành phố Hồ Chí Minh