ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------*------ NGUYỄN THỊ HỒNG TẢN ĐÀ VÀ SỰ HÌNH THÀNH LOẠI HÌNH KÝ GIẢ - VĂN NHÂN CHUYÊN NGHIỆP GIAI ĐOẠN GIAO THỜI LUẬN VĂN THẠC SỸ Chuyên ngành: Văn học Hà Nội - 2013
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------* ----------------------------- NGUYỄN THỊ HỒNG TẢN ĐÀ VÀ SỰ HÌNH THÀNH LOẠI HÌNH KÝ GIẢ - VĂN NHÂN CHUYÊN NGHIỆP GIAI ĐOẠN GIAO THỜI Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Mã số: 60 22 34
Người hướng dẫn: PGS.TS TRẦN NGỌC VƯƠNG
Hà Nội-2013
2
A. PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................... 6
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 6
2. Mục đích nghiên cứu ............................................................................... 9
3. Lịch sử vấn đề .......................................................................................... 9
4. Phạm vi đề tài ........................................................................................ 13
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 13
6. Đóng góp mới của luận văn .................................................................. 13
7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................... 14
B. PHẦN NỘI DUNG ................................................................................... 15
Chương 1: “Giấc mộng báo chí” của Tản Đà ............................................. 15
1.1. Con đường làm báo của Tản Đà ....................................................... 15
1.2. Tản Đà và An Nam tạp chí ................................................................. 26
Chương 2: Sự phát triển của báo chí, nhà xuất bản và sự hình thành loại
hình ký giả - văn nhân chuyên nghiệp giai đoạn giao thời ........................ 31
2.1. Vai trò báo chí, nhà xuất bản - môi trường tồn tại, lưu hành của
văn chương phi truyền thống giai đoạn giao thời .................................. 31
2.2. Tản Đà - người đóng vai trò tiên phong trong việc hình thành đội
ngũ ký giả - văn nhân chuyên nghiệp ...................................................... 40
2.3. Quan niệm báo chí của Tản Đà ........................................................ 46
2.4. Tản Đà trong so sánh với các nhà báo giai đoạn đương thời ........ 53
2.4.1. Trong mối quan hệ tương sinh: Ảnh hưởng và dấu ấn của Tản Đà
với Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, Ngô Tất Tố,… ........................ 53
2.4.2. Trong mối quan hệ tương khắc: Phạm Quỳnh ............................. 61
2.5. Những giới hạn của ký giả Tản Đà và mâu thuẫn của một nhà Nho
làm báo ....................................................................................................... 64
4
Chương 3: Khảo sát mục: Việt Nam nhị thập thế kỷ xã hội thiển đàm và
Việt Nam nhị thập thế kỷ xã hội ba đào ký ................................................ 81
3.1. Việt Nam nhị thập thế kỷ xã hội thiển đàm ..................................... 81
3.2. Việt Nam nhị thập thế kỷ xã hội ba đào ký ..................................... 84
C. KẾT LUẬN ............................................................................................... 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 91
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 96
5
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Đọc Tản Đà, ta thấy ông hiện lên mồn một trước hết không chỉ là một
nhà thơ mà ông còn là hay chính là một nhà báo đầy bản lĩnh và tâm huyết,
một nhà văn xuôi sắc sảo, một cây bút viễn tưởng tài hoa, một nhà biên khảo
tận tụy và thận trọng” [51, 26, tập 1].
Nhận định trên của nhà nghiên cứu Đào Thái Tôn đã tổng kết Tản Đà với
rất nhiều tư cách khác nhau: nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà biên khảo, … Tuy
nhiên, xưa nay, người ta vốn chỉ nhắc nhiều tới Tản Đà với vai trò của nhà
thơ, nhà văn, đề cao ông là thi sỹ mở đầu cho nền thơ ca Việt Nam hiện đại.
Còn một Tản Đà - nhà báo thì có phần ít được nhắc tới hoặc chưa đánh giá
đúng mức vai trò của báo chí trong sự nghiệp của Tản Đà. Trên thực tế, có
nhìn nhận sự nghiệp sáng tác của Tản Đà một cách đầy đủ và thấu đáo mới
hiểu được những nỗ lực và tâm huyết của Tản Đà dành cho báo chí - cụ thể và
điển hình nhất là An Nam tạp chí - nơi ông gửi gắm tâm huyết của cả cuộc đời
mình. Không ngẫu nhiên mà An Nam tạp chí đình bản rồi lại tải bản tới 6 lần
và mỗi lần tái bản, ông lại có một bài cảm tác, thể hiện niềm tin và hi vọng
vào sứ mệnh của tờ báo.
Trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, Tản Đà là người đầu tiên đưa ra quan
niệm “nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng”, tức coi viết văn, làm báo như một
nghề (theo cái nghĩa là một công việc để người ta có thể làm và nhờ đó mà
tồn tại) - điều này chưa từng xảy ra ở xã hội Việt Nam trước đó. Ông hăm hở
bước vào địa hạt báo chí với biết bao dự định cách tân, đổi mới. Nhiều bài
báo của ông có tính thời sự cao và mang đậm hơi thở của cuộc sống - hai đặc
điểm quan trọng và không thể thiếu của báo chí. Đặt sự nghiệp làm báo của
Tản Đà trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ mới nhận thấy hết những nỗ lực của
một nhà Nho trong việc dùng báo chí để tự khẳng định mình, hay nói cách
6
khác là dùng việc viết văn, làm báo để xác lập vị trí của mình một cách đường
hoàng, đĩnh đạc. Với hành động đó, Tản Đà đã mạnh bạo và dũng cảm chứng
minh một cách hùng hồn rằng: văn chương không phải chỉ để ngâm ngợi cho
khuây hay “mua vui cũng được một vài trống canh” như trong quan niệm của
các nhà Nho xưa mà còn có thể là một “công cụ” để kiếm sống. Người ta có
thể dựa vào nó để đường hoàng nhận những phần nhuận bút (từ những bài báo
hay những cuốn sách được xuất bản). Trước đây, các nhà Nho dù là những
quan lại hay thầy đồ, ẩn sĩ thì cũng thường chỉ tìm đến với văn chương như
một cách để giải khuây hay bày tỏ nỗi lòng, chứ ít ai coi đó là một cách để
kiếm sống. Văn chương và cuộc sống vì thế, bỗng trở thành hai phạm trù
riêng biệt và khó lòng hòa hợp. Người ta coi văn chương là cái gì đó tách biệt
hẳn và vượt ra những bon chen của cuộc sống thường nhật, bởi thế, nó chỉ có
thể là những gì thuộc về đời sống tinh thần chứ không thể gắn với gánh nặng
áo cơm, với những lo toan vật chất bộn bề. Bởi thế, hành động “đem văn
chương đi bán phố phường” hay “nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng” mang
vẻ ngoài của một sự ngông nghênh, bất cần và dường như khác người ấy thực
chất đã chứa đựng trong nó mầm mống của một quan niệm hoàn toàn mới mẻ
so với truyền thống. Hay nói cách khác, chính là một sự phá rào, vượt ra khỏi
những quan niệm thông thường lúc bấy giờ để tạo tiền đề cho sự hình thành
một xu hướng tất yếu: viết văn, làm báo theo hướng chuyên nghiệp, cũng
đồng nghĩa với việc hình thành một đội ngũ ký giả - văn nhân chuyên nghiệp.
Khái niệm “chuyên nghiệp” ở đây không phải chỉ là một sự thể hiện về trình
độ mà còn là cách thức, là tuân theo sự vận động của cơ chế thị trường với
những ngặt nghèo và quy luật cạnh tranh tất yếu. Lẽ dĩ nhiên, đã là sáng tác
để đi bán thì không thể không nói tới vai trò của người mua, ở đây chính là
đội ngũ độc giả đông đảo thuộc nhiều tầng lớp khác nhau. Từ đây hình thành
một mối liên hệ chặt chẽ giữa người sáng tác và người tiếp nhận, tức độc giả.
7
Điều này trong sáng tác của các nhà Nho trước đó có lẽ ít được quan tâm tới
bởi người ta chỉ quan niệm văn chương như một cách để bày tỏ nỗi lòng
mình, đâu cần nghĩ đến người tiếp nhận nó sẽ như thế nào.
Trong quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam giai đoạn giao thời, Tản
Đà là một tác giả có vị trí đặc biệt. Trong bài Công của thi sỹ Tản Đà, Xuân
Diệu đã viết: “Tản Đà là người thi sỹ đầu tiên mở đầu cho thơ Việt Nam hiện
đại. Tản Đà là người thứ nhất đã có can đảm làm thi sỹ, đã làm thi sỹ một
cách đường hoàng, bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám có một cái Tôi”
[9,166]. Và từ xưa đến nay, người ta vẫn nhắc tới Tản Đà như một dấu nối
giữa hai hệ hình văn học, giữa văn học truyền thống và văn học hiện đại.
Nhưng độc đáo hơn hết, vẫn là một Tản Đà với những quan niệm và phong
cách sáng tác đặc biệt, mới mẻ: “Đem văn chương đi bán phố phường” hay
“Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng”. Những tuyên ngôn dường như “gây
sốc” trong giới sáng tác thời bấy giờ không đơn thuần chỉ là biểu hiện của cái
Tôi ngông, sự đề cao vai trò của bản ngã cá nhân, mà chính là sự báo hiệu sự
xuất hiện một xu hướng mới, một loại hình tác giả mới với những quan niệm
sáng tác mới - loại hình ký giả, văn nhân chuyên nghiệp. Và đó cũng là xu thế
tất yếu trong quy luật vận động, phát triển và hiện đại hóa văn học Việt Nam
giai đoạn giao thời.
Là một người đảm lĩnh vai trò đặc biệt đó, Tản Đà, chắc hẳn có những
cách tân, phá rào, nhưng cũng có những giới hạn và hạn chế nhất định với vai
trò là “gạch nối văn chương” - người đặt ra những nền móng cơ bản với vai
trò là tiền đề, là bước đệm ban đầu cho quá trình hình thành và phát triển của
văn học Việt Nam hiện đại sau này.
8
2. Mục đích nghiên cứu
Trong bối cảnh xã hội - lịch sử Việt Nam giai đoạn giao thời, luận văn
muốn khẳng định Tản Đà với những đóng góp và công lao to lớn trong vai trò
người đi tiên phong, mở đường cho sự hình thành loại hình ký giả, văn nhân
chuyên nghiệp. Vai trò mở đường ở đây, bao gồm cả những đổi mới, cách tân,
và cả những giới hạn mang tính đặc định của lịch sử trong quá trình phát triển
tất yếu của văn học, báo chí. Việc giải thích lý do vì sao Tản Đà thất bại với
giấc mộng báo chí của mình chính là cách để làm nổi bật những đặc điểm của
lịch sử, văn hóa, văn học và báo chí giai đoạn giao thời 30 năm đầu thế kỷ 20,
đồng thời cũng để hiểu được tại sao Tản Đà có thể ghi dấu ấn đậm nét của
mình trong giai đoạn lịch sử đầy hụt hẫng và biến động ấy.
3. Lịch sử vấn đề
Việc nhìn nhận Tản Đà với tư cách là ký giả - văn nhân là một vấn đề đã
được một số nhà nghiên cứu đề cập tới. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những nhận
xét mang tính đơn lẻ, nằm trong một hệ thống những nghiên cứu trên những
bình diện khác về cuộc đời và sự nghiệp của Tản Đà. Chưa có một công trình
riêng biệt nào dành riêng cho việc nghiên cứu Tản Đà với vai trò là nhà báo,
nhà văn chuyên nghiệp, mặc dù hầu hết đều công nhận ông là người tiên
phong, mở đường cho quan niệm “mang văn chương đi bán phố phường”. Vai
trò ký giả của Tản Đà vì thế chưa được đánh giá đúng với ý nghĩa là một phần
quan trọng trong quan niệm cũng như tư tưởng của Tản Đà. Nói đúng hơn đó
mới là giấc mơ mà ông theo đuổi để trở thành một “Á Châu Khổng phu tử chi
đồ” chứ không phải chỉ đơn thuần là việc sáng tác thơ văn. Khi Tản Đà tuyên
bố: Chữ nghĩa Tây Tàu trót dở dang/Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng chính
là lúc ông tuyên bố nhập cuộc với vai trò là một nhà báo chứ không phải một
nhà Nho làm thơ như lối đi quen thuộc trong truyền thống. Đây là một lựa
chọn táo bạo nhưng có chủ định của nhà thơ núi Tản sông Đà về một cách lập
9
công danh mới trong bối cảnh xã hội mà văn chương khoa cử truyền thống đã
nhạt màu.
Người đầu tiên “phát hiện” và đánh giá cao vai trò nhà báo của Tản Đà
chính là Phan Khôi, một trong những nhà báo lớn lúc bấy giờ. Điều này càng
khẳng định vị thế và ảnh hưởng rất lớn của Tản Đà với tư cách nhà báo. Phan
Khôi cũng như một thế hệ độc giả thời bấy giờ không khỏi ngạc nhiên và trầm
trồ trước lối viết sáng tạo kiểu như “Cái chứa trong bụng thằng người” của
Tản Đà trên Đông Dương tạp chí. Ông ngạc nhiên đến mức phải thốt lên:
“Anh Quỳnh anh Vĩnh chỉ viết theo sách, theo tư tưởng của Tây; chứ đến
thằng cha này hắn viết ra tư tưởng của hắn, chính hắn mới là tay sáng tạo”
[62, 43]. Tài viết báo của Nguyễn Khắc Hiếu khiến Phan Khôi “như muốn
nằm rạp xuống đất, không dám ngước mặt lên nữa”. Phan Khôi còn khâm
phục tài làm báo của Tản Đà ở chỗ, nhiều bài báo ông viết cho Hữu Thanh bị
kiểm duyệt, không được đăng. Còn Tản Đà thì khéo léo hơn nên đều đã “trót
lọt”… Điều này cho thấy một chân dung nhà báo Tản Đà lúc ấy, tuy mới xuất
hiện, nhưng đã có tiếng tăm lẫy lừng và được đông đảo độc giả đón nhận.
Tiếp nối Phan Khôi, ngoài việc đề cao tài thơ Tản Đà, Trương Tửu trong
bài “Sự thai nghén một thiên tài: Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu” cũng cho rằng,
với hoài bão hành đạo, Tản Đà đã bước ra làm báo. Nhưng rồi lần lượt với
Hữu Thanh, An Nam tạp chí… ông đều đã thất bại. Nguyên nhân của sự thất
bại ấy, theo Trương Tửu, không phải do Tản Đà “không quen với nghiệp
doanh thương” mà bởi một căn nguyên sâu xa hơn: Tinh thần lập đức và tính
chất hành đạo của Tản Đà. Cả hai điều đó đều bắt nguồn trong di truyền và
trong cái giáo dục Nho phong mà Tản Đà đã thụ hưởng từ thủa lọt lòng. Đây
là một nhận định rất thấu đáo và nêu được đúng bản chất nhà Nho trong con
người nhà báo Tản Đà - nó chính là lời giải cho lý do vì sao Tản Đà, từ chỗ
10
xông xáo, hăng hái đến chỗ phải vật lộn rồi mỏi mệt với báo chí, cuối cùng
phải chấp nhận thất bại trong cay đắng.
Nguyễn Danh Kế trong lời giới thiệu Tản Đà vận văn của nhà xuất bản
Hương Sơn (tháng 11/1944) cũng hết lời ca ngợi ngòi bút của nhà báo Tản
Đà. Ông cho rằng, những bài viết của Tản Đà ở Hữu Thanh tạp chí và An
Nam tạp chí là những bài nghị luận về các vấn đề hiện đại và những vấn đề
đạo đức, luân lý, dịch thuật những văn hay lẽ phải ở các sách Nho rất có ích
cho nhân tâm thế đạo. Nguyễn Danh Kế nhấn mạnh: “Vì số đông người xem
quốc văn chỉ là xem để giải trí, cho nên những món ấy chưa dễ đã dám sưu
tập lại xuất bản ra. Nhưng ta phải biết ảnh hưởng của tiên sinh ở đương thời
trong phong hóa nước nhà thật là to lớn sâu xa lắm”.
Sau Cách mạng tháng Tám, nhiều nghiên cứu cũng tiếp tục nhìn nhận và
đánh giá nhiều bình diện khác nhau ở chân dung nhà báo Tản Đà. Nghiên cứu
được xem là đầy đủ nhất về cuộc đời làm báo của Tản Đà lúc này chính là
Tập 3 trong cuốn Tản Đà toàn tập của người hậu duệ của ông - nhà nghiên
cứu Nguyễn Khắc Xương. Tuy nhiên, ngoài những nhận định khái quát ban
đầu về việc khẳng định Tản Đà với vai trò chủ báo và ký giả, cuốn sách cũng
chỉ là một tập hợp các tác phẩm tiêu biểu của Tản Đà được đăng trên An Nam
tạp chí, Đông Pháp thời báo cùng những bài viết lẻ trên một số báo khác.
Trong nhiều nghiên cứu của mình, GS Trần Đình Hượu cũng khẳng định
và đề cao vai trò của Tản Đà là một nhà Nho đem văn chương bán phố
phường. Ông khẳng định, viết báo, viết văn với ý nghĩa làm một nghề nghiệp
trong xã hội là chuyện mới có đầu thế kỷ 20 ở nước ta. Trước đây trong xã
hội phong kiến, có nhiều nhà Nho suốt đời làm phú, làm thơ, có nhiều nghệ sỹ
chuyên biểu diễn nghệ thuật; triều đình có chức quan chuyên viết văn, nhưng
văn nghệ chưa tách khỏi văn thành một ngành nghệ thuật. Viết văn chưa
thành một nghề nghiệp. “Vào những năm 10 của thế kỷ này, một số người tập
11
hợp quanh Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí viết báo, viết văn. Xã hội
coi họ làm nghề người ký giả, văn sỹ. Trong đám ký giả, văn sỹ lúc đó, có
người là cựu học, có người là tân học, thái độ chính trị, quan niệm mục đích
nghề nghiệp có khác nhau, nhưng họ đều là nhà văn, nhà báo, khác hẳn với
nhà Nho làm thơ, làm phú trước đây. Tản Đà thuộc thế hệ nhà văn, nhà báo
đầu tiên đó” [16, 429]. Tản Đà từ một Nhà Nho mà trở thành một nhà văn
chuyên nghiệp. Khi ấy, con đường đi của ông chưa phải là bình thường.
Chính cái không bình thường ấy là điều cần được đề cao và làm nên vị thế của
Tản Đà trong lịch sử văn học, báo chí lúc bấy giờ.
Tiếp nối vị ân sư của mình, PGS.TS Trần Ngọc Vương trong nhiều
nghiên cứu đã khẳng định có một sự thống nhất giữa những mâu thuẫn phức
tạp trong con người nhà văn, nhà báo Tản Đà. Từ khi Tản Đà cho in những
tác phẩm đầu tiên trên Đông Dương tạp chí (1915), văn đàn Việt Nam như rộ
lên một luồng sinh khí mới. Theo PGS.TS Trần Ngọc Vương, Tản Đà từ lúc
vừa xuất hiện đã gặp ngay một “nền kinh tế thị trường” trong văn chương.
“Cơn gió lạ” trên văn đàn thổi suốt trong Nam ngoài Bắc, làm dấy lên một
luồng không khí thưởng thức Tản Đà ở nhiều tầng lớp. Nhờ điều kiện giao
lưu và truyền bá văn học mới, Tản Đà là người đầu tiên trong lịch sử văn học
tìm được một lượng độc giả khổng lồ trong một thời gian kỷ lục. “Điều kiện
mới” mà PGS.TS Trần Ngọc Vương nhắc tới, chính là sự xâm nhập của báo
chí phương Tây vào Việt Nam trong giai đoạn giao thời lúc bấy giờ.
Những nghiên cứu, đánh giá trên đã khắc họa chân dung nhà báo Tản Đà
rất sinh động trên nhiều bình diện khác nhau. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là
chưa có một công trình nào hệ thống hóa một cách chi tiết và rõ ràng những
chặng đường báo chí gian nan và đầy phức cảm ấy của Tản Đà. Chính điều đó
đã gợi mở cho chúng tôi tiến hành luận văn này với những hướng nghiên cứu
12
sâu hơn về chân dung nhà báo Tản Đà với những khắc họa đầy đủ và đậm nét
hơn.
4. Phạm vi đề tài
Sáng tác của Tản Đà phong phú, đa dạng, bao gồm nhiều thể loại, trên cả
địa hạt văn chương và báo chí. Các thể loại đều có những đóng góp riêng
trong vai trò khẳng định vai trò tiên phong, mở đường của Tản Đà giai đoạn
giao thời. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn, chỉ xin bước đầu có những
nghiên cứu, đánh giá khái quát trên cơ sở những sáng tác quan trọng của nhà
thơ trên một số báo như Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí, An Nam
tạp chí và những nhận định cơ bản của các nhà nghiên cứu về Tản Đà.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đặt vấn đề về Tản Đà với vai trò mở đường cho sự hình thành loại hình
ký giả, văn nhân chuyên nghiệp giai đoạn giao thời, phương pháp tiếp cận chủ
yếu của luận văn là phương pháp nghiên cứu loại hình học tác giả văn học.
Ngoài ra, chúng tôi cũng sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu
khác như phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, đối chiếu… nhằm làm
nổi bật vai trò, giới hạn của Tản Đà ở cả hai tư cách mới: Ký giả - văn nhân
chuyên nghiệp.
6. Đóng góp mới của luận văn
Với cách tiếp cận khoa học, luận văn cố gắng đem đến những lý giải đầy
đủ và có sức thuyết phục, sâu sắc trong việc nhìn nhận hiện tượng Tản Đà
trong tính thống nhất giữa những mâu thuẫn, phức tạp trong nội tại của nó,
nhằm làm nổi bật quá trình phát triển có tính bước ngoặt của văn học và báo
chí giai đoạn giao thời.
Đặc biệt, đề cập đến Tản Đà với phương thức hành xử mới trước thời
cuộc - dấn thân vào địa hạt báo chí với giấc mơ xác lập công danh bằng con
13
đường mới, luận văn cũng bàn đến bài học về cách thức ứng xử của một cá
nhân khi gia nhập một xã hội dân sự trong một giai đoạn xã hội phức tạp và
nhiều biến động.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: “Giấc mộng báo chí” của Tản Đà.
Chương 2: Vai trò của báo chí, nhà xuất bản và sự hình thành loại hình
ký giả - văn nhân chuyên nghiệp giai đoạn giao thời.
Chương 3: Khảo sát mục “Việt Nam nhị thập thế kỷ Xã hội thiển đàm”
và “Việt Nam nhị thập thế kỷ Ba đào ký”.
14
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: “Giấc mộng báo chí” của Tản Đà
Cùng với những “Giấc mộng con”, “Giấc mộng lớn”, Tản Đà còn có một
giấc mộng khác, rất hiện thực chứ không phải chỉ là mây gió, trăng hoa hay
những giai nhân, người đẹp nơi bồng lai tiên cảnh. Đó chính là giấc mộng báo
chí. Giấc mộng ấy chiếm hầu hết sự nghiệp sáng tác của Tản Đà và là cách để
ông mong muốn khẳng định, xác lập được vị trí xã hội mới của mình trong
bối cảnh văn chương khoa cử truyền thống đã nhạt nhòa, không còn nhiều sức
cuốn hút như trước. Việc Tản Đà dốc hết tâm sức vào báo chí cho thấy khát
vọng rất lớn cũng như ý thức khá rõ ràng của ông về vai trò, sức mạnh của
báo chí trong bối cảnh xã hội mới. Để làm sáng tỏ nhận định này, chúng tôi đã
tiến hành khảo sát sự nghiệp báo chí của Tản Đà theo trục thời gian và những
biến cố lớn trong cuộc đời, nhằm làm nổi bật và hiểu rõ hơn những phức cảm
đa chiều trong tư tưởng cũng như sáng tác của Tản Đà.
1.1. Con đường làm báo của Tản Đà
Cuộc đời làm báo của Tản Đà là một hành trình có nhiều biến động, đứt
gãy. Việc tái hiện toàn bộ quá trình này sẽ cho thấy những diễn biến phức tạp
và đa chiều trong quan niệm, tư tưởng của nhà báo Tản Đà cũng như những
biến thiên mang tính tất yếu của lịch sử văn học, báo chí phương Tây trong
buổi đầu xâm nhập vào Việt Nam.
Có thể khái quát chặng đường làm báo của Tản Đà theo 3 giai đoạn:
* Khởi sự (từ năm 1913-1915) Đây là thời kỳ ngọn lửa đam mê báo chí trong ông bắt đầu hình thành và
nhen nhóm. Tản Đà có những sáng tác đầu tiên được đăng báo và nó là khởi
đầu cho những thành công và cả những thất bại của ông sau này.
Năm 1913, Tản Đà bắt đầu “bén duyên” với báo giới. Ông được Nguyễn
Văn Vĩnh - một tri thức Tây học, cũng là cái tên có tiếng trong làng báo bấy
15
giờ mời làm cộng sự trên Đông Dương tạp chí. Những sáng tác của ông được
in thành một mục riêng Một lối văn nôm, sau đổi thành mục Tản Đà văn tập.
Những bài báo của “ký giả” Tản Đà ngay lập tức chiếm được cảm tình của
độc giả, tên tuổi của ông nhanh chóng có được tiếng vang trên văn đàn.
Năm 1915, Tản Đà lấy vợ là bà Nguyễn Thị Tùng, con gái một người tri
huyện ở Hà Đông. Những tác phẩm của ông trên Đông Dương tạp chí vẫn
tiếp tục là một “hiện tượng” và Tản Đà nhanh chóng có một lượng lớn độc giả
hâm mộ. Năm 1916, ông lấy bút danh Tản Đà là tên ghép giữa núi Tản, sông
Đà, và chính thức chọn con đường của một người viết văn, làm báo chuyên
nghiệp.
Cần nói thêm rằng quyết định này xuất phát từ một sự kiện trong cuộc
đời ông, đó là năm 1916, anh cả Nguyễn Tái Tích mất. Tản Đà mất đi chỗ dựa
cả về vật chất và tinh thần, trong khi ông lại gánh trên vai trách nhiệm gia
đình với vợ con. Tản Đà khi ấy bắt đầu phải tự ý thức rằng mình cần phải
kiếm sống. Và tất nhiên, như một điều không thể khác, cái “cần câu cơm
cơm” của Tản Đà chính là ngòi bút. Tản Đà đến với báo chí trong hoàn cảnh
đó và nó như một con đường đã được vạch sẵn. Tản Đà dường như không có
sự lựa chọn nào khác. Ông đã dấn thân vào nó với một khát vọng, niềm đam
mê vô tận của một người cầm bút.
Ngược dòng thời gian một chút, Tản Đà hỏng khoa thi năm 1912, khi ấy
ông mới 23 tuổi. Đó là cái tuổi còn rất trẻ để tiếp tục sự nghiệp thi thố, học
hành để lập thân, thành danh bằng con đường khoa cử. Nhưng lúc bấy giờ,
khoa cử truyền thống cũng đã trở nên bèo bọt. Dư âm của cái cũ vẫn còn
nhưng sức hấp dẫn của cái mới, của những luồng tư tưởng, văn hóa mới thâm
nhập từ phương Tây cũng rất mạnh nên Tản Đà mới bộc lộ một thái độ ỡm ờ
với lối nói úp úp mở mở rất… Tản Đà:
16
“Rủ nhau quang gánh với đời Mà cho thiên hạ chê cười cũng hay”.
“Chê cười” là vì chắc chắn có người dèm pha cách ông đi trái với con
đường cũ. Nhưng cũng có người hưởng ứng, nên mới có chuyện “rủ nhau”, và
nó hẳn là một thứ có ý nghĩa tích cực và có danh giá nên mới nói là “quang
gánh với đời”, nên “chê cười” mà… vẫn hay.
Hay cách nói ngông nghênh:
“Còn trời, còn đất, còn non nước Còn có văn chương bán phố phường”
Cũng biểu hiện một thái độ muốn thi thố, muốn thể hiện tài năng của
mình ở một lĩnh vực mới và rõ ràng ông ý thức rất rõ được tài năng của mình
nên mới dùng những mệnh đề so sánh rất lớn lao như: Còn trời/Còn đất/Còn
non nước để đối với “Còn có văn chương bán phố phường”. Thế mới thấy văn
chương trong cách nghĩ của Tản Đà không hề bèo bọt mà rất có giá và có một
sức sống, sức mạnh nhất định, ngay cả khi vật đổi sao đời, đặt trong bối cảnh
lúc bấy giờ là những biến thiên của bối cảnh xã hội nhiều biến động.
Giấc mộng báo chí của Tản Đà rõ ràng không phải chỉ là ước mong có
một chiếc cần câu cơm. Hơn thế, nó là mộng ước được khẳng định mình bằng
một thái độ tự tin và tự hào về tài năng của bản thân. Đó là lý do vì sao sau
này, ông khước từ lời mời cộng tác của Nguyễn Văn Vĩnh cho tờ Trung Bắc
Tân văn - hành động mà nhiều người cho là gàn, dở, nhưng thực chất là họ
chưa có đủ “trình độ” để hiểu ông. Nguyễn Văn Vĩnh yêu cầu Tản Đà viết
mỗi tháng 4 bài xã thuyết, 4 bài thơ. Tiền nhuận bút mỗi bài xã thuyết là mười
lăm đồng, mỗi bài thơ là mười đồng. Số tiền ấy với cảnh túng quẫn của Tản
Đà không hề nhỏ. Nhưng ông đã dứt khoát từ chối cơ hội đầy hấp dẫn ấy. Lý
do là bởi ông muốn “tự mình chủ trương một cơ quan ngôn luận”: “Cơ quan
ngôn luận đó sẽ hoàn toàn thực hành những quan niệm về văn chương, sẽ
17
trình bày những lý tưởng của mình noi theo với quốc dân, chứ nếu mình viết
giúp cho một cơ quan khác, thời mình chỉ là phụ thuộc vào cơ quan đó, lẽ tất
nhiên những tư tưởng, quan niệm riêng về xã hội, văn chương, sẽ không thể
làm theo như ý muốn của mình được. Vả lại ông Nguyễn Văn Vĩnh, lúc đó là
một nhà văn ra đời trước, đã có tiếng, nếu tôi viết cho tờ báo ông thời dư
luận của độc giả bên ngoài không khỏi cho tôi là đi theo để ăn cánh với ông.
Đó là một điều mà tôi kỵ nhất”. [29,17].
* Thời kỳ vinh hiển (1916-1926) Từ năm 1916 đến năm 1926 là những năm tháng rực rỡ và thành công
nhất của Tản Đà. Ông lao vào sáng tác, viết văn, làm báo. Năm 1915, cuốn
sách đầu tiên của Tản Đà được xuất bản, gây tiếng vang lớn, đó là tập thơ
Khối tình con I.
Sau thành công đó, ông viết liền cuốn Giấc mộng con (cho in năm 1917)
và một số vở tuồng: Người cá, Tây Thi, Dương Quý Phi, Thiên Thai (diễn lần
đầu năm 1916 tại Hải Phòng).
Năm 1917, Phạm Quỳnh sáng lập ra Nam Phong tạp chí, và bài của Tản
Đà có trên tạp chí này từ số đầu tiên. Năm 1918, Phạm Quỳnh ca ngợi cuốn
Khối tình con I và phê phán cuốn Giấc mộng con I, cả khen lẫn chê đều dùng
những lời lẽ sâu cay, biến Tản Đà trở thành một hiện tượng trên văn đàn. Sau
bài phê phán tư tưởng của "Giấc mộng con", Tản Đà thôi cộng tác với Nam
Phong tạp chí và mở một số cuộc hội đàm để chống lại những lời phê phán
đó, sự kiện này cũng được nhiều giới quan tâm. Việc Tản Đà thôi cộng tác với
Nam Phong tạp chí thể hiện rất rõ quan điểm, lập trường báo chí riêng của
ông. Tản Đà không cậy cục, không nhún nhường ai và muốn làm báo theo
cách riêng của mình. Đó không phải chỉ là nơi để ông có thể múa bút sáng tác,
thể hiện tài năng của mình mà còn là cách để ông đánh dấu, khẳng định chỗ
đứng của mình trong xã hội. Tản Đà không có quan niệm “lập thân” phải “lụy
18
thế”, một quan niệm của thời hiện đại nhưng không phải không tồn tại ngay từ
buổi giao thời tranh tối tranh sáng với sự lập lờ giữa hai thế lực cũ và mới.
Bởi vậy, việc Phạm Quỳnh phê phán Tản Đà nghiễm nhiên là một lý do chính
đáng để Tản Đà thôi cộng tác với Nam Phong tạp chí và tìm một chỗ đứng
cho riêng mình.
Từ 1919 tới 1921, Tản Đà viết một loạt sách; truyện thì có "Thần tiền",
"Đàn bà Tàu" (1919); sách giáo khoa, luân lý thì có "Đài gương", "Lên sáu"
(1919), "Lên tám" (1920), thơ thì có tập "Còn chơi" (1921). Thời kỳ này ông
quen với một nhà tư sản nữa là ông Bùi Huy Tín, cùng nhau du lịch khắp Bắc,
Trung kỳ và làm chủ bút Hữu thanh tạp chí. Đây là cơ quan ngôn luận của
“Bắc kỳ công nông thương tương tế”. Nhưng Tản Đà chỉ làm chủ bút được 6
tháng rồi từ chức vì bất đồng ý kiến với nhóm sáng lập về tôn chỉ, mục đích
của tờ báo.
Báo chí đến thời của Tản Đà nở rộ với nhiều xu hướng, quan điểm và
cách thức tồn tại riêng. Có thể chia những người làm báo thời này làm ba
dạng. Một là những người chủ trương dùng báo chí để làm cách mạng như
Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng. Hai là những người làm báo dưới sự
quản lý, điều hành của thực dân Pháp, thực chất là ôm chân chính quyền, xu
nịnh để được lợi. Ba là những người làm báo kiểu Tản Đà. Tức là những
người không thành danh trên con đường học hành, khoa cử nhưng lại ý thức
rất rõ về tài năng của mình và coi nó như một con đường để lập công danh,
ghi dấu tên tuổi của mình bằng sự nghiệp báo chí. Tương ứng với 3 loại người
làm báo đó là 3 loại hình báo chí: Báo chí tư nhân, báo chí chính thống của
chính quyền thực dân Pháp và báo chí của các hội, tổ chức đoàn thể chính trị -
xã hội mà “Bắc kỳ công nông thương tương tế” và Hữu Thanh tạp chí như
vừa kể trên là một ví dụ. Nhưng rõ ràng, Tản Đà chỉ có thể làm ở một tờ báo
phi chính trị hóa, tức là không chịu ảnh hưởng, tác động của những quan điểm
19
chính trị - xã hội nào. Mặt khác, Tản Đà, một mặt nhận thấy rõ những ưu
điểm, những thành tựu của xã hội Âu Mỹ nhưng ông không chủ trương hợp
tác với Pháp, không dùng báo chí để xu nịnh, ve vuốt theo những toan tính
của chính quyền thực dân. Tính cách Tản Đà cũng như con đường báo chí mà
ông lựa chọn là hoàn toàn khác với những tờ báo đương thời, bởi vậy những
bất đồng quan điểm của Tản Đà với Nam Phong tạp chí, Hữu Thanh tạp chí
như trên là điều hoàn toàn dễ hiểu. Và do đó, sự ra đời của An Nam tạp chí
sau này cũng chính là cách để Tản Đà chứng tỏ và khẳng định rõ ràng hơn
quan điểm, cách thức làm báo mà ông lựa chọn cho riêng mình trong thời
điểm nhiều biến động xã hội lúc bấy giờ.
Năm 1922, Tản Đà thành lập "Tản Đà thư điếm" (sau đổi thành "Tản Đà
thư cục"), đây là nhà xuất bản riêng đầu tiên của ông. Tại đây, đã xuất và tái
bản hết những sách quan trọng trong sự nghiệp của Tản Đà; "Tản Đà tùng
văn" (tuyển cả thơ và văn xuôi, trong đó có truyện "Thề Non Nước", 1922);
"Truyện thế gian" tập I và II (1922), "Trần ai tri kỷ" (1924), "Quốc sử huấn
nông (1924), và tập "Thơ Tản Đà" (1925). Ngoài ra thư cục này còn cho xuất
bản sách của Ngô Tất Tố, Đoàn Tự Thuật. Những thư điếm, thư cục, ấn
quán… thời kỳ này cũng nở rộ và là nơi khai sinh ra nhiều tác phẩm văn học
nghệ thuật có giá trị. Sự ra đời của nhà xuất bản cũng như báo chí ở giai đoạn
này, đóng vai trò là bà đỡ cho hầu hết các tác phẩm văn học và có vai trò quan
trọng trong quá trình hiện đại hóa văn học buổi giao thời.
Sự chia tay với Hữu Thanh tạp chí đã khiến Tản Đà nghĩ đến việc phải
thành lập một tờ báo của riêng mình. Đó sẽ là nơi ông thể hiện được lý tưởng,
chí nguyện của mình với sự nghiệp làm báo. Tháng 7/1926, Tản Đà cho ra đời
An Nam tạp chí số đầu tiên, tòa soạn ở phố Hàng Lọng.
* Từ khi “An Nam tạp chí” ra đời đến năm Tản Đà mất (1939)
20
Sự ra đời của An Nam tạp chí, tờ báo mà Tản Đà dành hết tâm huyết, đã
bắt đầu quãng đời lận đận của ông. Đây là tờ báo gắn với sự nghiệp của Tản
Đà, đồng thời chiếm nhiều trang, nhiều bài viết nhất trong sự nghiệp báo chí
của nhà thơ. Trong điều kiện mới, An Nam tạp chí chính là phương tiện để
Tản Đà thực hiện lý tưởng lớn lao của mình với đất nước, điều mà ông đã
không thể làm được khi không thành danh bằng khoa cử. Bởi vậy mà năm
1927, khi lãnh tụ Nguyễn Thái Học của Việt Nam quốc dân Đảng đến bàn với
ông về việc dùng An Nam tạp chí như một cơ quan ngôn luận để đấu tranh và
tuyên truyền, ông đã vui vẻ chấp nhận không điều kiện. Nhưng rồi, bản giao
kèo mà Nguyễn Thái Học đưa ra đã vô tình chạm vào lòng tự ái của Tản Đà,
nên việc lớn đã không thành. Nhiều người tỏ ra tiếc nuối về điều này, nhưng
thực chất, đó là điều không thể tránh khỏi khi tính tình và phong cách của Tản
Đà và Nguyễn Thái Học là hoàn toàn khác nhau: một bên làm việc tùy hứng,
một bên theo đường lối chủ trương.
Ngoài An Nam tạp chí, Tản Đà còn cộng tác với nhiều báo khác như:
Đông Pháp thời báo, Sống, Văn học tạp chí, Tiểu thuyết thứ Bảy, Thanh Nghệ
Tĩnh, Phụ nữ tân văn, Phụ nữ thời đàm… Tuy nhiên, trong luận văn này,
chúng tôi chủ yếu đi sâu vào mối quan hệ giữa Tản Đà và An Nam tạp chí.
Nhìn lại toàn bộ hành trình làm báo của Tản Đà, có thể thấy ông vẫn
mang nặng phong cách của một nhà Nho làm báo. Chính điều này đã tạo nên
một Tản Đà - ký giả không giống ai và con đường làm báo của ông cũng lênh
đênh, lận đận với không ít những ba đào. Với vai trò một ký giả, ông mang
trong mình nhiều hoài bão to lớn về việc dùng báo chí để gánh vác những sứ
mệnh to lớn của quốc dân. Trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, báo chí giống
như một cứu cánh, một luồng gió mới mát lành để Tản Đà có thể thỏa sức vẫy
vùng và bày tỏ những quan niệm cá nhân, những thái độ xã hội của mình,
điều mà trước đây các nhà Nho vẫn thường phải giấu vào trong hoặc ẩn ý
21
trong những câu thơ, những hình ảnh mang tính ước lệ tượng trưng. Với báo
chí, Tản Đà giống như một con người được nói và phải nói hết những cá tính,
những tâm sự thời cuộc trước những điều mắt thấy tai nghe. Đó là một lợi thế
của báo chí so với các loại hình văn chương trước đây. Tản Đà ý thức rõ được
điều đó và muốn sử dụng sức mạnh của báo chí như một “cơ quan tiến thủ
của quốc dân” - cách ông vẫn thường nói về báo chí trong hầu hết những bài
viết của mình.
Tuy nhiên, con đường làm báo với Tản Đà cũng chính là hành trình trải
nghiệm với chính bản thân ông. Những vấp ngã, những hạn chế mang tính đặc
định của lịch sử và của chính bản thân ông, thực ra, là không thể tránh khỏi.
Dễ hiểu tại sao từ một ký giả với những háo hức, mê say thủa ban đầu dần
dần thay vào đó là những trầm lắng, suy tư và những khoảng lặng mang tính
trải nghiệm về nghề báo, về cuộc đời. Tuy nhiên, ngọn lửa nhiệt huyết của
ông với báo chí, cho đến tận cuối đời, vẫn chưa bao giờ tắt. Một tờ báo ra đời
rồi lại liên tiếp đình bản đến 6 lần trong vòng 8 năm đủ thấy những khó khăn
và cả những nỗ lực lớn lao của Tản Đà trong việc gây dựng một tờ báo với
những quan niệm của riêng mình, do mình làm chủ và đi theo những đường
hướng, tiêu chí của riêng mình. Tuy nhiên, có một điều cần nhấn mạnh rằng,
ở bất kỳ thời nào, mục đích cũng như tiêu chí hoạt động của một tờ báo cũng
chịu những ảnh hưởng, những tác động nhất định của xã hội và phản ảnh
những quan niệm xã hội nhất định của thời ấy. An Nam tạp chí của Tản Đà
cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Bởi thế, Tản Đà không thể lái con thuyền
báo chí của mình đi ngược dòng. Ông như một người độc hành với con
thuyền độc mộc mải miết ngụp lặn giữa biển khơi mênh mông, mong tìm
được một ngọn hải đăng để dẫn dắt mình đi đến một bến bờ. Người thuyền
trưởng ấy, cuối cùng, đã không thể đi đến tận cùng con đường của mình. Ông
đã bị mắc cạn, không chỉ một mà rất nhiều lần, và cuối cùng đành phải ôm
22
mộng bỏ dở giữa chừng. Nhưng ông vẫn là người có một vai trò vô cùng quan
trọng trong việc khai phá, mở mang một con đường mới, một cách đi mới.
Những trải nghiệm báo chí của ông với nhiều thác ghềnh, giông bão đã cho
những người cùng thời với ông và những người đi sau bài học cần thiết để
trang bị cho mình đầy đủ những kiến thức cho nghề báo. Sự thất bại của Tản
Đà là một thất bại đau xót của cả một cuộc đời đắm mình trong nghề nhưng
đến cuối đời vẫn không thể hiểu vì sao mình lại thất bại. Nhưng nó chính là
tấm gương phản chiếu của thời đại, của lịch sử để người làm báo thời sau có
thể soi vào và nhận ra đâu là con đường đúng đắn nhất.
Báo chí mang đến cho Tản Đà nhiều thứ nhưng cũng lấy đi của ông nhiều
điều. Tuy nhiên, so sánh được - mất ở đây thực chất chỉ có ý nghĩa là những
đánh giá cảm quan. Bởi với một người đã nặng gánh văn chương, “Chữ nghĩa
Tây Tàu trót dở dang/Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng” thì những đong
đếm ấy không nằm trong suy nghĩ của ông. Mới nghe, cứ ngỡ Tản Đà khiêm
nhường, hạ thấp mình. Nhưng thực tình, đó là cách nói ngạo nghễ rất...Tản
Đà. Cách nói “Chữ nghĩa Tây Tàu trót dở dang” cũng là cách ông tự phụ,
hơn người bởi vốn chữ nghĩa, hiểu biết và năng lực của mình. Ông ý thức rất
rõ về điều đó và bởi vậy, “Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng” cũng là cái
mộng lớn của ông về con đường mới mà ông tự hào là người tiên phong - nên
mới có chữ dùng là “phá nghiệp”. Bản thân chữ “nghiệp” đã cho thấy giấc
mộng của ông không hề nhỏ và “xoàng” như ông đã nói. Điều ông thực sự
trăn trở, quan tâm và ngày đêm suy tư là làm sao gây dựng được một tờ báo
theo những đường hướng, tôn chỉ, mục đích của riêng mình.
Cuộc đời làm báo của Tản Đà được tái hiện khá đầy đủ qua câu chuyện
của những người đương thời với ông, cũng là những bạn văn hoặc những văn
sỹ- ký giả trưởng thành từ sự dẫn dắt và ảnh hưởng của Tản Đà. Đó là những
ghi chép, những hồi ký lượm lặt nhưng lại cho thấy bức tranh khá chân thực
23
về hành trình làm báo đầy vất vả, long đong của ký giả Tản Đà khi ông chủ
trương xây dựng một cơ quan ngôn luận riêng của mình - An Nam tạp chí
trong buổi đầu báo chí vào Việt Nam.
Việc Tản Đà quyết định “bỏ bút lông cầm bút sắt” và trở thành một ký
giả lúc bấy giờ là một hiện tượng lạ, một sự va đập mạnh với lối đi truyền
thống, trong khi chính ông cũng là một con nòi của nền cựu học. Bởi vậy,
không mấy ngạc nhiên khi “hiện tượng Tản Đà” trở thành tâm điểm chú ý lúc
bấy giờ với những việc làm “không giống ai”. Có thể thấy điều đó qua lời kể
của Lưu Trọng Lư trong hồi ký “Bây giờ đây, khi nắp quan tài đã đậy lại”:
“Năm 1932, tôi ra Hà Nội học. Một hôm đi qua phố Hàng Da, tôi thấy có
bảng treo mấy chữ: An Nam tạp chí. Tôi thường được nghe người ta nói đến
cái ông chủ nhiệm dị thường của tờ tạp chí khác đời ấy”. Lúc bấy giờ, Tản
Đà được Lưu Trọng Lư coi như “một vị sứ giời sai xuống, hay là bị đày
xuống cõi trần gian để làm một anh nhà nho ngông, một nhà thi sĩ nghèo, một
ông chủ báo phiêu bạt, làm cái ông Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, mà khắp trần
gian đều khét tiếng” [62, 35]. Chỉ qua mấy dòng ngắn ngủi ấy thôi cũng thấy
tiếng tăm của Tản Đà khi ấy lừng lẫy như cồn. Nhưng ông chủ báo Nguyễn
Khắc Hiếu cũng nổi tiếng với lắm sự lôi thôi, rắc rối với cung cách làm báo
ngật ngưỡng, chẳng giống ai. Vậy nên mới có chuyện chàng thi sĩ Lưu Trọng
Lư đợi để “yết kiến” ông chủ báo mà 8 giờ sáng thì ông đang ngủ. Mười giờ
trở lại, thi sĩ núi Tản sông Đà vẫn chưa dậy. Mười một giờ, ông vẫn còn giấc.
Hai rưỡi chiều, Tản Đà mới dậy và ngồi vào chiếu rượu. Bốn giờ chiều, ông
mới hạ đũa. Cả ngày chuếnh choáng với hơi rượu, đến đêm ông mới chong
đèn viết báo. Nhưng cũng có khi, vì rượu mà An Nam tạp chí cũng chẳng có
bài để in. Cái cung cách làm báo tùy tiện, tùy hứng ấy chịu ảnh hưởng thâm
căn cố đế từ chính cốt lõi nhà Nho trong con người ông. Và nó hoàn toàn trái
ngược với phong cách làm báo từ nơi khởi nguyên của báo chí là phương Tây.
24
Mặt khác, buổi đầu của báo chí phương Tây chính là tin tức. Và bản chất của
báo chí cũng chính là tin tức. Nhưng khi vào nước ta, gặp một đội ngũ những
nhà Nho chuyên làm văn như Tản Đà, nó được tiếp nhận theo một lối khác
nên tính tin tức đã giảm đi và tính văn học đã được tăng lên, hình thành một
đội ngũ những người làm báo văn nghệ. Đó chính là đặc điểm nổi bật của báo
chí trong buổi đầu xâm nhập vào Việt Nam những năm đầu thế kỷ 20.
Quãng đời làm báo lận đận của Tản Đà còn được kể lại qua hồi ký “Tản
Đà ở Nam Kỳ” của Ngô Tất Tố. Với nỗi đau vì sự thất bại của An Nam tạp
chí ở phố Hàng Lọng, Hà Nội, Tản Đà khăn gói vào Nam để ôm mộng gây
dựng An Nam tạp chí ở trong Nam, những mong môi trường mới có phần dân
chủ và rộng mở hơn nơi đây có thể giúp ông thực hiện được mộng ước của
mình. Nhưng Tản Đà đã lầm. Ty kiểm duyệt trong ấy đã không nhận kiểm
duyệt bài của một tờ báo ngoài Bắc, An Nam tạp chí không thể ngụ cư trong
đó. Vậy là Tản Đà lại phải cùng với thầy đồ Ngô làm trợ bút cho mục văn
chương của Đông Pháp thời báo do Diệp Văn Kỳ phụ trách.
Càng những năm cuối đời, Tản Đà càng trở nên lạc lõng giữa cuộc đời và
giấc mơ của ông cũng càng trở nên xa vời. Ông phải xoay đủ nghề để kiếm
sống và từ một người nổi danh tài tử, ngông nghênh, ông quay dần về với mô
hình đạo đức truyền thống. Tản Đà mở lớp Hán văn diễn giảng và Quốc văn
hàm thụ, quảng cáo Hà lạc lý số (trên báo Ngày Nay) và tiếp tục dịch thơ
Đường với món nhuận bút bèo bọt là 5 đồng bạc. “Hễ ra báo, thấy có bài của
mình, tiên sinh liền đến ngay tòa soạn. Khái Hưng cấp cho tiên sinh một
phiếu xuất, tiên sinh cầm đến quỹ lãnh tiền. Đó là theo nguyên tắc. Song nào
phải đến là nhận được ngay phiếu, lãnh được ngay tiền. Có khi tiên sinh phải
chờ hàng giờ nơi phòng đợi hoặc trước cửa quỹ!” [62, 107].
25
1.2.Tản Đà và An Nam tạp chí
An Nam tạp chí ra đời năm 1926. Đây là tờ báo ông gửi gắm rất nhiều
hoài bão. Nó thể hiện tập trung nhất những đặc điểm, quan niệm báo chí của
ký giả Tản Đà. Nó cũng bộc lộ rất rõ ràng những hạn chế của một nhà Nho
làm báo. Tờ báo có một đời sống rất lận đận. Chỉ trong vòng 8 năm, nó đã bị
đình bản tới 6 lần. Điều này cho thấy những bế tắc của ký giả Tản Đà trong
bối cảnh xã hội lúc bấy giờ. Tuy nhiên, trong những quãng thời gian tồn tại
ngắn ngủi, đứt quãng, tờ báo vẫn chiếm được một vị trí nhất định trong lòng
độc giả và sự tồn tại của nó có vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển
của lịch sử báo chí nước nhà. Có thể nói, đây là một giai đoạn quá độ của báo
chí trong bối cảnh xã hội chuyển từ xã hội cũ sang xã hội mới, với sự xâm
nhập của những luồng văn hóa, tư tưởng mới từ Phương Tây.
Có thể tóm tắt quá trình phát triển lận đận của Tản Đà cùng An Nam tạp
chí như sau:
1/7/1926, An Nam tạp chí ra số đầu tiên tại phố Hàng Lọng, Hà Nội, khi
Tản Đà 38 tuổi. Có thể thấy rõ quyết tâm cũng như khí thế hừng hực của ông
chủ bút trong những ngày đầu An Nam tạp chí ra mắt:
Non sông thề với hai vai Quyết đem bút sắt mà mài lòng son Dư đồ rách nước non tô lại Đồng bào xa trai gái kêu lên Doanh hoàn là cuộc đua chen Rồng tiên phải giống ngu hèn mà cam (Xuân sầu)
38 tuổi, sau biết bao vất vả, long đong với vai trò cộng tác với các tờ báo,
Tản Đà thỏa chí nguyện khi lập được tờ báo của riêng mình. Bởi vậy, dễ hiểu
vì sao bài thơ lại có giọng phấn khởi, hào hứng và hân hoan đến vậy. Tản Đà
coi đó như cách để ông xác lập công danh và mong muốn làm được điều có
26
ích cho xã hội nên câu thơ giống như lời nguyện ước của một đấng anh hùng,
hào kiệt muốn gánh vác nghiệp lớn: Non sông thề với hai vai/quyết đêm bút
sắt mà mài lòng son. Tản Đà ví mình làm An Nam tạp chí như việc bồi lại bức
dư đồ rách. Đó chính là giấc mộng báo chí hay cũng chính là giấc mộng công
danh mà bấy lâu ông hằng đeo đuổi. Điều đó cho thấy Tản Đà ý thức rất rõ về
vai trò, sức mạnh của báo chí lúc bấy giờ. Khi các cuộc cách mạng đã vào giai
đoạn thoái trào, xu hướng cứu nước theo chủ nghĩa Đông Du, Duy Tân hay
Đông Kinh nghĩa thục bộc lộ nhiều hạn chế, Tản Đà coi An Nam tạp chí là
cách để ông nhập cuộc với xã hội mới và hơn thế, ông tự mang trong mình
trọng trách gánh vác giang sơn trong bối cảnh mới. Chính với tư tưởng chỉ
đạo ấy mà tờ báo có tên An Nam. Không những thế, ông đặt cho tờ báo danh
hiệu “Cơ quan tiến thủ của quốc dân” và khẩu hiệu “Quốc dân An Nam - Tạp
chí An Nam”. Với ý nghĩa ấy, Tản Đà tin tưởng và không ngần ngại hô hào,
kêu gọi mọi người tham gia, hưởng ứng cùng với mình “bồi lại bức dư đồ
rách”. Tuy nhiên, ông cũng ý thức được những khó khăn sẽ phải trải qua, nên
ở câu cuối, chủ báo An Nam hạ bút: Doanh hoàn là cuộc đua chen/Rồng Tiên
phải giống ngu hèn mà cam.
An Nam tạp chí ra tới số 10 thì đình bản (tháng 3/1927). Tản Đà vào Sài
Gòn gặp Diệp Văn Kỳ và với một trăm đồng bạc, ông ra Bắc trang trải công
nợ rồi vào Sài Gòn phụ trách trang văn chương của Đông Pháp thời báo.
Năm 1930, Tản Đà 42 tuổi, An Nam tạp chí tái bản ở Bờ Hồ (nay là phố
Đinh Tiên Hoàng, Hà Nội). Khi tờ báo ra đời, Tản Đà có lời cảm tác: “Năm
xưa Đinh Mão ta ngơi/ Năm nay Canh Ngọ ta thời lại ra”. Nhưng lần này,
cũng chỉ ra được 3 số. Tờ báo ra lần thứ 2, Tản Đà vẫn rất mực tin tưởng vào
con đường mình đi. “Năm xưa Đinh Mão ta ngơi” cũng là cách nói rất Tản
Đà. Chữ “ngơi” là một từ dùng rất đắt. Ông coi việc tờ báo bị đình bản chỉ
như một sự ngừng nghỉ, một chặng dừng chân trên con đường hoạn lộ của
27
mình. Và rồi như một lẽ dĩ nhiên, ông lại đường hoàng, đĩnh đạc: Năm nay
Đinh Ngọ ta thời lại ra.
An Nam tạp chí ra lần 3 tại Phố Khách, Nam Định từ số 14 đến số 21
(tháng 12/1930 - tháng 4/1931).
Năm 1932, An Nam tạp chí ra lần 4 ở phố Hàng Khoai, Hà Nội.
Trong bài “Bức thư đưa người có quen biết”, An Nam tạp chí số 27,
1932, Tản Đà đã thuật lại quá trình làm báo 15 năm nhiều gian truân của mình
qua những lời tâm sự với “cố nhân”.
“Báo quán đêm thanh, điện đăng lửa sáng; một mình tựa ghế, đối bóng
nhớ người xưa. Hồi tưởng mới ngày nào bài văn đánh bạn in ra ở Đông
Dương tạp chí, rồi đến Khối tình con xuất bản, rồi đến báo Hữu Thanh ra đời
ở Mã Vỹ, rồi đến Tản Đà thư cục tiến hành ở Hàng Bông, rồi đến An Nam tạp
chí lần thứ nhất cờ biển ở Hàng Lọng, rồi đến Đông Pháp thời báo ở Nam Kỳ
có phụ trương văn chương, rồi đến Giấc mộng lớn ấn hành ở Hải Phòng, rồi
đến An Nam tạp chí ra lần thứ hai ở Bờ Hồ Hoàn Kiếm, ra lần thứ ba ở phố
Khách Nam Định, cho đến nay Báo quán an định ở Hàng Khoai”.
Thơ văn từ thủa ra đời Mười lăm năm đã với người tương tri trí!
Câu thơ này thể hiện rất rõ giấc mộng của Tản Đà. Giấc mộng ông ôm
ấp, đeo đuổi những 15 năm và ví nó như không chỉ là một bóng hình mơ
màng chỉ có mộng mơ và nhan sắc mà là người tương tri. 15 năm, Tản Đà đã
trải qua bao thăng trầm với nghề cầm bút. Trải qua 4 tờ báo, long đong khắp
trong Nam ngoài Bắc, từ Hà Nội tới Nam Định, Hải Phòng rồi Sài Gòn, con
đường làm báo của Tản Đà thật lắm nhọc nhằn. Nhưng kể lại quãng thời gian
ấy, Tản Đà vẫn nhớ như in bài báo đầu tiên, rồi thuật lại rành mạch từng sự
kiện, từng địa danh mình đặt chân trong cuộc đời làm ký giả - văn nhân của
mình. Điều đó cho thấy, làm báo với ông không phải là một con đường phiêu
28
dạt, theo kiểu “nước chảy bèo trôi”, tiện đâu đi đó. Tản Đà làm báo một cách
chủ định và coi nó là một giấc mộng lớn, đeo đẳng cả cuộc đời.
Hãy nghe ông kể về chuyện làm báo của mình ở An Nam tạp chí khi tái
bản lần thứ 4 này:
Tạp chí An Nam lại ra lần này là thứ tư, về phận sự của tôi ở trong Báo
quán hiện nay cũng chỉ độ bằng một phần tư trong khi ở Hàng Lọng… Phận
sự của tôi chỉ chuyên về phương diện cựu học, ngoài một hai bài luận thuyết
hoặc khảo cứu, thời nặng trách nhiệm ở mục Văn đàn mà thôi. Mỗi tuần lễ cứ
thứ tư, thứ năm, thứ sáu, thường phải đi đến nhà in một buổi sáng, cho được
tiện xem về việc in. Ngoài ra nữa thời ngày thường tiếp chuyện những ông
khách, bạn đến chơi thăm Báo quán và phúc đáp những thư trát của các thân
bằng ở nơi xa. Cứ như nay mà so với hồi Hàng Lọng, có thể gọi là nhàn hơn
nhiều, vậy mà tôi cũng tự thấy là bận rộn. Có nhẽ người ta mỗi ngày mỗi tuổi,
cái sức chịu việc cũng mỗi ngày mỗi kém chăng? Nghĩ đến chỗ đó thực rất là
đáng buồn…
So với khi báo mới ra ở Hàng Lọng, công việc ở Báo quán của Tản Đà đã
không còn được như trước. Tản Đà cũng đã ý thức rất rõ được sở trường, sở
đoản của mình là về phần Cựu học. Còn “về phương diện Tân học đều do
Ngô quân (tức Cử nhân Ngô Thúc Địch - người bỏ vốn cho An Nam tạp chí)
và những anh em có từng du học ở Pháp về trông coi”. Điều đó cho thấy Tản
Đà cũng nhìn thấy những hạn chế của mình khi dấn thân vào một cuộc chơi
mới. Giọng của ông đã phần nào mất đi nét khảng khái, hào khí như trước mà
trầm lắng, ưu tư hơn. Nhưng hoài bão, niềm tin vào sự nghiệp báo chí thì vẫn
còn đó:
Hiện nay An Nam tạp chí lại ra đời, cái công việc nặng nề của xã hội,
được có các nhà hữu lực trong xã hội cùng gánh vác, thời bao nhiêu những
cái lo vị lai, cái buồn quá khứ, mình chỉ nên gạt rẽ cả ra hai bên tả hữu, để
29
hiện tại làm chính lộ cho tiên phong thân thế tiến hành. Nếu Tạp chí An Nam
nhờ cảm tình của quốc dân An Nam mà từ đây vững với non sông, thời như
những cái lo buồn riêng của phần tôi, chắc cũng có tựa theo hạnh phúc của
Tạp chí mà chuyển sang khoái lạc vậy. Phải chăng? Cố nhân.
Lại một giọng hồ hởi, đầy niềm tin và hoài bão về một tương lai xán lạn
của tờ báo. Và ông cũng vẫn hy vọng thành công của tờ báo có thể gây dựng
nên tiếng tăm cho mình một cách đĩnh đạc, đường hoàng.
Nhưng cũng chỉ trong năm 1932, An Nam tạp chí đình bản rồi lại tái bản
lần 5 ở phố Hàng Bông, Hà Nội.
Năm 3/1933, An Nam tạp chí ra lần 6 ở phố Hàng Da, Hà Nội. Nhưng
chỉ được 3 số lại đình bản.
Càng về sau, An Nam tạp chí càng èo uột với thời gian tồn tại ngày càng
ngắn dần. Từ chỗ hơn một năm tới chỗ chỉ chừng vài chục số và cuối cùng là
3 số, tờ báo nói lời chung cục khi đã tái bản đến lần thứ 6.
Ở An Nam tạp chí, Tản Đà tha hồ có đất dụng võ. Người đọc có thể thấy
tính đa dạng trên các thể loại văn học và bút lực của Tản Đà. Đó là các thể
loại: bình giảng văn học, ngôn ngữ học, luận thuyết triết học, nghiên cứu lịch
sử, du ký, phóng sự, ghi chép, những vấn đề xã hội nhân sinh, bình giảng Hán
học, hài văn, thơ.
30
Chương 2: Sự phát triển của báo chí, nhà xuất bản và sự hình thành loại hình ký giả - văn nhân chuyên nghiệp giai đoạn giao thời
2.1. Vai trò báo chí, nhà xuất bản - môi trường tồn tại, lưu hành của văn chương phi truyền thống giai đoạn giao thời
Với bất kỳ dân tộc nào trên thế giới, báo chí bao giờ cũng có vai trò lớn
trong đời sống xã hội, bởi những đặc điểm mang tính ưu việt của nó là tính
thời sự và diện phát tin rộng lớn. Ở Việt Nam, trong giai đoạn giao thời này,
báo chí đóng vai trò cực kì quan trọng. “Hơn bao giờ hết báo chí như một
chiếc nôi màu nhiệm, một bà đỡ lành nghề đã nâng niu tiếp sức, tạo luồng
sinh khí cho văn học hiện đại từ khi nó còn trứng nước nhanh chóng đi tới
trưởng thành” [39, 7].
Sự ra đời của báo chí, lẽ tự nhiên, làm xuất hiện một chân dung mới: ký
giả, hay nhà báo. Những danh xưng này, trong ngôn ngữ đương đại thiên về ý
nghĩa nghề nghiệp thuần túy nhưng ở vào thời điểm cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX lại có nét nghĩa chỉ một nhóm có vai trò ưu đẳng trong xã hội (status
group). Với quốc dân, họ là đại diện cho luân lý và tri thức, có chức phận dẫn
dắt, hướng đạo. Trong một xã hội vốn có truyền thống trọng quan tước, ký giả
thậm chí được liệt vào tầng lớp “quan lại cao cấp”. Danh xưng ký giả thời kỳ
ấy thậm chí còn danh giá hơn cả ấn tri huyện. Đây là lý do khiến Tản Đà, năm
1916, khước từ lời mời vào học đặc cách của Giám đốc trường Hậu Bổ để lựa
chọn con đường trở thành một ký giả, một nhà báo (chứ không phải là một
nhà văn theo nghĩa hiện đại như vẫn thường được quan niệm).
Điểm tương cận giữa nhà báo và kẻ sĩ, như trên đã nói, là vị thế của một
nhóm tinh hoa có khả năng là đại diện cho đời sống tinh thần cộng đồng. Hẳn
phải có lý do để Phạm Quỳnh, năm 1917, sau khi đưa ra một thực tế: “Lắm
nước như nước Pháp nước Anh, dư luận (do nhà báo khởi xướng) thật là giữ
quyền chúa tể trong nước, chi phối cả cuộc sinh hoạt quốc dân về chính trị, xã
31
hội, kinh tế” đã hồ hởi tuyên bố: “Nước Nam ta sau này hay hay dở, các nhà
báo cũng có phần vào đấy”. Tuy nhiên, quan trọng hơn, báo chí còn đem lại
một không gian mới cũng như một khả năng mới cho sự tồn tại độc lập cũng
như khả năng tác động đến thực tiễn của nhà báo với tư cách người trí thức
trong xã hội hiện đại.
Trước hết, công chúng của tờ báo khiến cho viết báo trở thành một nghề.
Nếu như ông quan luôn bị ràng buộc bởi ơn mưa móc, bổng lộc từ thiên tử và
vì thế không thể giữ một vai trò phản biện cho trật tự xã hội hiện hành thì tư
cách nhà báo cho phép người trí thức hiện đại có khả năng tồn tại độc lập.
Chẳng những thế anh ta có điểm tựa từ công chúng để đối diện với bộ máy
quyền lực. Người trí thức đến đây đã thoát khỏi thân phận ký sinh vào tồn tại
của ông quan. Mặt khác, báo chí đưa lại cho nhà báo khả năng tác động đến
thực tiễn xã hội một cách trực tiếp và hết sức sâu rộng. Nếu như tác động của
nhà trường chủ yếu trong phạm vi học sinh sinh viên thì bất kỳ ai, thuộc về
bất kỳ tầng lớp nào, chỉ cần biết đọc cũng là đối tượng tiềm tàng cho sự tác
động của báo chí. Sự nghiệt ngã trong chế độ kiểm duyệt của nhà nước bảo hộ
không phải lúc nào cũng có thể duy trì, và dù thế nào chăng nữa vẫn luôn có
kẽ hở trước một thực tiễn báo chí sinh động. Những tư tưởng của nhà báo vì
thế luôn tìm được đường đến với công chúng. Số lượng lớn của những tờ báo,
đặc biệt là báo chí tư nhân cũng là một không gian rộng lớn để những ký giả
xuất hiện với những tư tưởng mà họ theo đuổi từ đó tác động trực tiếp đến đời
sống xã hội. Điều này giải thích vì sao những trí thức lớn nhất của thời kỳ này
(dù xuất thân từ những địa hạt tri thức khác nhau) đều tìm đến với những tờ
báo và không hiếm khi họ gắn chặt tên tuổi của mình với một tờ báo nào đó.
Nhà báo là biểu hiện tập trung nhất phẩm chất, năng lực đối diện với thực tế
đời sống của người trí thức hiện đại. Trên thực tế, không ít những tờ báo đã
đóng vai trò như là trung tâm của sự diễn tiến tư tưởng xã hội. Lục Tỉnh Tân
32
Văn là tiếng nói của cuộc vận động Minh Tân với những tên tuổi của Trần
Chánh Chiếu, Trương Duy Toản. Đăng Cổ Tùng Văn là cơ quan ngôn luận
của Đông Kinh Nghĩa Thục - những nhà chí sĩ cũng đồng thời là những nhà
báo. Phong trào Âu hóa rầm rộ những năm 30 được xúc tiến dưới sự dẫn đạo
của Nguyễn Tường Tam và những yếu nhân của Phong Hóa và Ngày Nay…
Vai trò quan trọng của báo chí, ngay từ “Văn minh tân học sách” (của
Đông Kinh Nghĩa Thục) đã được nhắc đến. Một trong 6 đường mà sách đã chỉ
ra là “Mở toà báo” (cùng với việc dùng văn tự nước nhà, sửa đổi phép thi,
hiệu đính sách vở, cổ võ nhân tài, chấn hưng công nghệ). Bằng việc dẫn ra sự
phát triển của báo chí Tây Phương và cả Đông Phương, sách đã chỉ ra sự vắng
bóng của báo chí nước ta. Từ đó kêu gọi phải mở toà báo. “Pháp có hơn 1300
báo quán, Đức có hơn 2350 báo quán, Anh có hơn 2180 báo quán… Nhật
Bản không quận nào không có báo quán. Trung Quốc gần đây cũng mở báo
quán rất nhiều. Dân trí sở dĩ được mở mang là chính nhờ đó”. Cho nên
“…Dùi mài mấy tập giấy cũ, sao bằng xem báo mới mà trên giấy mực đều là
thần tri. Thế thì không thể không mở báo quán là rõ ràng lắm!”.
Tuy nhiên, một thực tế là, trước khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược,
Việt Nam vẫn chưa có báo chí. Ngay từ những năm đầu, khi thực dân Pháp
đặt bộ máy cai trị của chúng lên đất Nam Bộ, báo chí đã được phổ biến rộng
rãi. Ban đầu, các tờ báo được xuất bản bằng tiếng Pháp, tiếp đó được xuất bản
bằng Tiếng Việt. Tờ báo đầu tiên ở Việt Nam xuất hiện ở Nam Bộ năm 1861
là tờ “Nam Kì Viễn chinh công báo”, do thuỷ sư đô đốc Bonard phụ trách.
Chỉ một năm sau, viên võ quan này cho ra tờ báo thứ hai là tờ “Xã thôn công
báo”, viết bằng chữ Hán, dùng để “hiểu dụ nhân dân quy thuận”.
Điểm qua sự phát triển của báo chí trong giai đoạn này, chúng tôi muốn
nhấn mạnh bức tranh toàn cảnh với những mảng màu đa dạng của các loại
hình báo chí lúc bấy giờ. Điều này xuất phát từ sự xâm lấn dần dần của báo
33
chí phương Tây vào xã hội thuộc địa Việt Nam một cách từ tự phát sang tự
giác. Từ đó, tìm ra Tản Đà đứng ở đâu trong đó và vì sao ông lại thất bại với
An Nam tạp chí.
Tờ báo Quốc ngữ đầu tiên xuất hiện ở Nam Bộ - Gia Định báo, do một
nghị định của chính quyền thực dân Pháp cho phép, ra đời 1/4/1865 được
Ernest Potteaux, một thông ngôn người Pháp làm chủ nhiệm. Đến 1869, tờ
báo này mới được chuyển sang cho Trương Vĩnh Ký - người Việt Nam đầu
tiên viết trên các báo Pháp.
Ở Bắc Bộ, nhà in chữ Latinh theo lối phương Tây đầu tiên của chính
quyền thực dân Pháp lập năm 1883, do Chneider làm quản lí. Tờ báo đầu tiên
ở Bắc Bộ cũng là tờ báo Pháp nhan đề: “Tạp chí của ban nghiên cứu ngôn
ngữ, kĩ nghệ và thương mại ở Trung Kì và Bắc Kì”.
1893, Schneider lập nhà in riêng và xuất bản tờ Đăng Cổ tùng báo
(1907), thêm một phần Quốc văn, do Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút và Phan
Kế Bính là trợ bút.
1905, có tờ Đại Việt tân báo, do Babut làm chủ nhiệm và Đào Nguyên
Phổ là chủ bút, gồm hai phần: chữ Hán và chữ Quốc ngữ.
15/5/1913, sau cuộc ném bom ở khách sạn Hà Nội, được trợ cấp của
chính quyền thực dân Pháp, Nguyễn Văn Vĩnh chủ trương ra tờ Đông Dương
tạp chí. Tờ tạp chí này ra hàng tuần, có các cây bút giúp việc là: Phạm Quỳnh,
Nguyễn Văn Tố, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục, Dương Bá Trạc. Trong số
những người này, sau có một số tách ra, chủ trương những cơ quan báo chí
riêng, chỉ còn Nguyễn văn Vĩnh, Nguyễn Đỗ Mục và Phan Kế Bính làm biên
tập tạp chí này đến ngày cuối cùng. Đông Dương tạp chí chuyên về mặt học
thuật, văn chương. Các nhà Nho giới thiệu văn học cổ với quần chúng, còn
các nhà Tân học thì phiên dịch và ca tụng văn chương Pháp.
34
1915, Nguyễn Văn Vĩnh cho ra tờ Trung Bắc tân văn, Hoàng Tăng Bí,
Dương Bá Trạc luôn thay nhau giữ hai cột xã thuyết, cũng như Nguyễn Đỗ
Mục luôn giữ việc dịch tiểu thuyết cổ Trung Quốc trên mặt báo.
Nam Phong tạp chí (1917) lúc đầu do Phạm Quỳnh làm chủ bút phần
Quốc ngữ, Nguyễn Bá Trác làm chủ phần chữ Hán, có các trợ bút như Đông
Châu Nguyễn Hữu Tiến, Sở Cuồng Lê Dư, Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục…
Sau khi Nguyễn Bá Trác vào Huế làm quan thì Phạm Quỳnh làm chủ bút cả
hai phần, nhưng thực tế phần chữ Hán giao cho Sở Cuồng Lê Dư phụ trách.
Tạp chí Nam Phong ra hàng tháng, nhân danh cơ quan của Hội Khai Trí
Tiến Đức, có ba phần: Quốc văn, Hán văn và Pháp văn. Trong đó, Quốc văn
là phần quan trọng hơn cả. Tờ báo này do ba người sáng lập là Louis Marty
(giám đốc phòng chính trị ở phủ toàn quyền Đông Dương), Phạm Quỳnh (tay
sai đắc lực cho thực dân Pháp) và Nguyễn Bá Trác.
Có thể khẳng định, Đông Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí giữ một
địa vị tối yếu trong lịch sử văn học Việt Nam bởi hầu hết các sản phẩm văn
chương có giá trị hay đã gây được một ảnh hưởng sâu rộng đều xuất hiện trên
hai tạp chí này; các văn sĩ thế hệ này chưa có thói quen in sách, dù xuất bản
đã phát triển. Công lao lớn nhất của hai tạp chí này là nhiệt tâm ủng hộ và vun
trồng cho chữ Quốc ngữ. Đông Dương tạp chí đã hoạt động để dưa đến sự sụp
đổ nền Hán học và khoa cử cổ điển tại Bắc Kì năm 1915, Nam Phong tạp chí
cũng làm công việc ấy ở Trung Kì năm 1919.
Mặc dầu có thâm ý hiểm độc, người Pháp đã vô tình giúp một cách hiệu
lực vào công cuộc tái sinh tinh thần cho Việt Nam, sau khi đã cởi thoát được
mọi xiềng xích nô lệ của chế độ độc tài Nho giáo. Công đầu trong việc đó
phải ghi cho báo chí là những cơ quan đắc lực trong việc truyền bá chữ Quốc
ngữ. Hầu hết các văn sĩ tiên phong đều lấy báo chí làm chỗ luyện tập ngòi bút
35
và hầu hết các nhà học giả thế giá trong giai đoạn này đều đã chấm bút vào
bình mực Đông Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí.
Ngoài những tờ tạp chí và báo được trợ cấp của thực dân Pháp, làm việc
cho thực dân Pháp, ở Bắc Bộ còn có những tờ báo do tư nhân và các đoàn thể
doanh nghiệp đứng ra chủ trương. Từ đại chiến thế giới lần thứ nhất kết thúc
đến 1929, Bắc Bộ còn lần lượt xuất hiện các báo chí bằng chữ Quốc ngữ như:
Thực nghiệp dân báo (1920), Học báo (1920), Khai hoá (1921), Hữu Thanh
(1922), Đông Pháp (1925), An Nam tạp chí (1926), Hà Thành ngọ báo
(1927)…
Đặc biệt, năm 1927, Hoàng Tích Chu sáng lập báo Đông Tây, thay lối
văn rườm rà, nặng nề của lối văn biền ngẫu đầy chữ Nho, bắt chước cách viết
theo lối văn báo chí Phương Tây, mở ra những mục mới trên tờ báo.
Đó đều là những cơ quan ngôn luận đã gieo được ảnh hưởng, tác động ít
nhiều mạnh mẽ vào đường lối, tư ttưởng, cảm nghĩ và hành động của quốc
dân ta lúc bấy giờ; chúng đã tạo đà thúc đẩy cho sự phát triển của văn hoá
mới, cho sự thành công của chữ Quốc ngữ, củng cố cho địa vị văn học khỏi bị
các lực lượng ngoại lai phá hoại, lấn át.
Như vậy là không lâu sau khi xuất hiện, báo chí đã nhanh chóng chuyển
từ chữ Hán, chữ Pháp sang chữ Quốc ngữ. Cũng có nghĩa là sau gần hai thế kỉ
tẩy chay và khinh bỉ (vì coi đó là thứ chữ của ngoại bang du nhập vào, không
phải là thứ chữ của dân tộc), giờ đây nhà Nho chí sĩ lại dễ dàng “đồng thuận”
với người Pháp trong việc sử dụng thứ chữ này. Trước thời cục mới, họ đã
nhận ra ưu thế và khả năng sử dụng chữ Quốc ngữ như một thứ chữ của dân
tộc (tiện dụng và hữu ích hơn hẳn chữ Hán và chữ Nôm) và nghiễm nhiên
biến nó thành công cụ đắc lực cho hoạt động tuyên truyền cách mạng dưới sự
kiểm duyệt của kẻ thù.
36
Một điểm đáng lưu ý là báo chí xuất hiện đầu tiên ở Nam Kỳ, sau đó mới
ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Điều này có thể lý giải bởi Nam Kỳ, sau hai hiệp ước
của triều đình nhà Nguyễn, đã trở thành xứ bảo hộ của Pháp, một “hạt” của
nước Pháp ở Viễn Đông. Nhờ vậy mà báo chí Nam Kỳ được hưởng phần nào
chế độ báo chí của chính quốc. Ngoài ra, những điều kiện khác như công
chúng văn học hay cơ sở vật chất ở Nam Kỳ cũng thuận lợi hơn so với Bắc
Kỳ và Trung Kỳ.
Con đường xâm lược của thực dân Pháp là đi từ Nam ra Bắc rồi mới trở
lại Trung Kỳ. Sự phát triển của báo chí cũng tuân theo trình tự này. Các tờ tạp
chí, nguyệt san, bán nguyệt san và các báo ra hàng tuần, hàng ngày bằng chữ
Quốc ngữ trong những năm đầu tiên của chính quyền thực dân Pháp đặt trên
đất nước ta, tính cho đến năm 1925, nhiều nhất là ở Nam Bộ, rồi đến Bắc Bộ,
còn Trung Bộ thì hầu như không có gì. Mãi đến năm 1927, ở Trung Kỳ mới
xuất hiện tờ báo Quốc ngữ đầu tiên là báo Tiếng Dân của Huỳnh Thúc Kháng.
Trong khi ấy, số lượng báo chí bằng tiếng Pháp nhiều hơn hẳn gấp hai, thậm
chí ba lần. Có thể thấy rõ điều này qua bảng tổng kết các ấn phẩm lưu chiểu
từ 1/1923 đến 6/1923:
Loại báo Nam Bộ Bắc Bộ Trung Bộ
Báo chí bằng tiếng Pháp 15 6 0
Tạp chí tiếng Pháp 8 18 3
Báo bằng chữ Quốc ngữ 7 3 0
Tạp chí bằng chữ Quốc ngữ 6 4 1
Sự phát triển ấy lẽ dĩ nhiên cũng đã kéo theo nhiều đội ngũ làm báo từ
Bắc Kỳ và đặc biệt là Trung Kỳ chuyển vào Nam Kỳ (như trường hợp của
Phan Khôi, từ tạp chí Hữu Thanh, Nam Phong chuyển vào cộng tác với Thần
Chung, Phụ Nữ Tân văn…).
37
Có thể nói, báo chí chính là môi trường thuận lợi cho đội ngũ nhà Nho
thử sức ở nhiều lĩnh vực. Dù muốn dù không, là tầng lớp tinh hoa, đặt mình
trước dân tộc, trong sáng tác, họ đã phải nỗ lực tự vượt mình, bứt ra khỏi
những rào cản không dễ dàng vượt qua của lối viết và quan niệm truyền
thống. Không đâu khác, báo chí chính là địa hạt thuận lợi và khả dĩ hơn cả để
họ tiến hành công cuộc thử nghiệm ấy.
Bàn về vai trò quan trọng của báo chí với quá trình hiện đại hoá văn học,
nhiều công trình nghiên cứu đều thống nhất với nhau ở những điểm cơ bản
như sau:
Thứ nhất, báo chí được coi là “bà đỡ”, là một phương tiện quan trọng để
chuyển tải và truyền bá tác phẩm văn học. Đặc biệt, ở thời kỳ đầu, trước khi
có sự ra đời của nhà xuất bản thì hầu như báo chí là phương tiện duy nhất để
truyền bá tác phẩm, là nơi giới thiệu kinh nghiệm sáng tác, nghiên cứu phê
bình, dịch thuật. Xuất bản đi sau báo chí một bước nên trong buổi đầu báo chí
đã kiêm nhiệm luôn công việc của nhà xuất bản. Có thể ví báo chí như trung
tâm văn hoá lớn của thời đại. Trong hoàn cảnh lúc ấy, báo chí giữ vai trò như
địa bàn chính cho những cuộc đấu tranh, thử sức để tự trưởng thành. Những
tác phẩm văn học hay sẽ được đông đảo công chúng báo chí đón nhận và
hưởng ứng, cổ vũ. Ngược lại, những tác phẩm không đáp ứng được nhu cầu,
thị hiếu của công chúng mới, sẽ nhanh chóng bị đào thải và gạt bỏ ngay trên
những trang báo. Đồng thời, cũng ngay trên mặt báo, sự xuất hiện của những
luồng tư tưởng, văn hóa mới, những phong cách và bút pháp nghệ thuật mới
sẽ nhanh chóng được phổ biến và giới thiệu cho đông đảo độc giả các tầng
lớp. Sự thẩm định và đánh giá của công chúng sẽ giúp cho việc dần định hình
và phát triển những luồng tư tưởng, trào lưu văn hoá - văn học mới.
Gắn liền với quá trình đó là sự xuất hiện và nổi danh của hàng loạt những
tên tuổi đã được chính công chúng báo chí kiểm nghiệm.
38
Cũng trên các tờ báo, các ký giả - văn nhân lại có dịp đóng vai trò của
mình trong việc cách tân những thể loại văn chương truyền thống và thúc đẩy
sự ra đời của những thể loại văn học mới, thích hợp hơn với nhu cầu, thị hiếu
của một kiểu công chúng mới. Những thể loại truyền thống như thơ, phú, văn
biền ngẫu… dường như đã mất vị trí độc tôn trong văn học truyền thống trước
đó, thay thế nó và có phần được công chúng đón nhận mạnh mẽ hơn là những
thể loại văn xuôi thế thuật - hoàn toàn mới mẻ và chưa từng xuất hiện, nhưng
lại thích hợp với thời đại hơn như tiểu thuyết, ký, truyện ngắn…
Báo chí ra đời cũng đã dẫn đến sự xuất hiện của một đội ngũ những trí
thức - người làm báo chuyên nghiệp, sống bằng nghề báo. Nhờ đó, làm xuất
hiện và “chính thức hoá” một đội ngũ những văn sĩ - ký giả chuyên viết văn,
làm báo và coi đó là một nghề nghiệp. Tản Đà chính là một trong số đó. Đây
là một biến đổi quan trọng và có tác dụng thúc đẩy rất lớn với việc phát triển
nền văn học dân tộc. Trước đây, việc viết thơ, bình văn chỉ là do “cảm hứng”,
tức cảnh mà sinh tình chứ không được coi là một nghiệp kiếm sống. Người ta
tuy đã nhận thức rõ tầm quan trọng và luôn đề cao “Văn” nhưng vẫn chỉ coi
đó là thứ văn chơi, văn tiêu khiển, “mua vui cũng được một vài trống canh”
(Nguyễn Du). Nhờ chuyên tâm vào việc viết văn làm báo nên họ cũng có điều
kiện cách tân những lối văn cũ, thể nghiệm mình trên những thể loại và hình
thức mới, phù hợp hơn với đời sống và phong cách hiện đại. Chính vì thế, văn
học có cơ hội rất lớn để bứt phá và vượt thoát khỏi những quy phạm nặng nề,
lạc hậu của lối viết truyền thống, bước vào quá trình hiện đại hoá một cách
toàn diện trên cả hai phương diện nội dung và hình thức.
Sự xuất hiện của báo chí với tư cách một “hiện tượng lạ”, chưa từng có
trong truyền thống, ban đầu nằm trong âm mưu thống trị, nô dịch của chính
quyền thực dân, nhưng với vai trò là một “công cụ không tự giác của lịch sử”
(chữ dùng của Marx) đã làm thay đổi cả một hệ thống quan niệm và tư tưởng
39
truyền thống, thổi một làn gió mới và tạo nên những không khí, sắc diện mới
cho văn học. Có thể thấy rõ điều này qua gương mặt của một số tờ báo như
Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí, An Nam tạp chí, Tiếng Dân, Hữu
Thanh, Phụ Nữ Tân văn, Đông Tây, Khai Hoá…
2.2. Tản Đà - người đóng vai trò tiên phong trong việc hình thành đội ngũ ký giả - văn nhân chuyên nghiệp
Trong buổi giao thời 30 năm đầu thế kỷ 20 đã xuất hiện vấn đề hiện đại
hóa, quốc tế hóa nền văn học - văn hóa, phá vỡ khuôn khổ khu vực và việc xã
hội dân sự hóa sinh hoạt đời sống tinh thần. Trước đây, sinh hoạt văn hóa
truyền thống có 2 bộ phận hoàn toàn khác nhau là văn hóa quan phương cung
đình và văn hóa làng xã. Tương ứng với nó, các sinh hoạt văn học nghệ thuật
cũng theo hai hướng ấy. Bây giờ, hệ thống báo chí xuất hiện, tác động vào xã
hội Việt Nam với đặc điểm là tính xã hội hóa thông tin đã phá vỡ sự ngăn
cách giữa 2 nếp sinh hoạt văn hóa như thế và lôi cuốn mọi tầng lớp tham gia
vào sinh hoạt đó. Báo chí làm cho sinh hoạt tinh thần vừa mang tính xã hội
hóa rộng rãi vừa dân chủ hóa sâu sắc hơn. Nói nôm na rằng, trước đây, ông
quan không thèm nói trực tiếp với dân mà nói qua một hệ thống chức sắc làng
xã như mõ. Nhưng bây giờ trên báo chí, ông quan ấy phải nói trực tiếp và mọi
người đều bình đẳng khi tiếp nhận thông tin. Và văn học nghệ thuật cũng như
vậy.
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh lại rằng, xã hội Việt Nam được hiện đại hóa
một cách cưỡng bức, trong bối cảnh thuộc địa, nô dịch nên quá trình hiện đại
hóa ấy cũng là cưỡng bức đầu tiên. Tức là tính chất tự nguyện ở đây xuất hiện
từng bước một chứ không phải ngay từ đầu. Chẳng hạn, Nguyễn Đình Chiểu
đề kháng tất cả những gì liên quan đến Pháp: không cho con học chữ quốc
ngữ, đi ăn cỗ thà lội ruộng chứ không đi đường gạch, thà giặt bằng nước tro
chứ không dùng xà bông, không dùng đèn Hoa Kỳ… Nhưng qua các giai
40
đoạn, người ta chấp nhận từng bước một. Trường hợp Trần Tế Xương là một
ví dụ. Chỗ ông bị cuốn vào thì vẫn nhập cuộc hăng say, chỗ lại đề kháng rất
dữ. Trần Tế Xương mỉa mai người đi học quốc ngữ nhưng trong lối sống, ông
bị lôi cuốn thành một người thị dân chứ không phải là nhà Nho về các chừng
mực đạo đức, ứng xử xã hội. Đến giai đoạn sau, giữa những năm bản lề của
thế kỷ 20, có một sự kiện đánh dấu sự chung cục của Văn học Trung đại, mở
ra quá trình hiện đại hóa văn học. Đó là ý thức tự giác, chủ động tiếp nhận cái
mới của một bộ phận mà động cơ, nguyên nhân xuất phát từ nhu cầu cứu
nước, duy tân. Họ nhận ra một điều rất đơn giản là không duy tân, không cứu
nước được. Chính duy tân, về một nghĩa nào đó là buộc phải làm theo phương
thức của xã hội Âu Mỹ. Trong đó có những sinh hoạt tinh thần theo phương
thức mới mà báo chí là một trong những kênh quan trọng. Văn học nghệ thuật
cũng biến đổi theo hướng đó. Nhưng ở đây có một nghịch lý. Chủ nghĩa hiện
thực Phương Tây chống mọi biểu hiện tùy tiện theo lối tự nhiên chủ nghĩa.
Với thuộc địa, họ lại muốn dân ngu, lạc hậu để dễ bề cai trị. Nhưng họ không
thể tổ chức, quản lý xã hội theo cách nào khác ngoài cách của nước bản địa.
Chính điều đó làm cho xã hội Việt Nam hiện đại hóa từng bước một. Ở đây,
rõ ràng mục đích chủ quan và ý nghĩa khách quan là khác nhau. Đó chính là
tính chất “công cụ không tự giác của lịch sử” theo như cách nói của Marx.
Phương Tây đã có vài thế kỷ phát triển báo chí và có kinh nghiệm rất
nhiều về sự tồn tại, lưu hành của loại hình văn chương trên báo chí. Với người
Việt Nam lúc bấy giờ, tất cả đều là mới. Các nhà khoa bảng rất có ý thức về
vai trò của báo chí. Nhưng họ là những người con nòi của Cựu học nên kinh
nghiệm với cái mới là không có, vậy nên phải học cách người Pháp bày cho
làm. Bởi vậy mới có hẳn 1 lớp ông quan đi làm báo: Vũ Phạm Hàm, Đào
Nguyên Phổ, Kiều Oánh Mậu… nhưng tất cả những kiến thức, kinh nghiệm
làm báo họ có được đều là nhờ người Pháp dạy cho. Tản Đà không thuộc lớp
41
người ấy. Ông ý thức về vai trò của báo chí một cách tự phát bởi nhãn quan
lich sử của mình. Nhưng lúc bấy giờ, những hạn chế về điều kiện, hoàn cảnh
khách quan cũng như hạn chế ngay trong chính bản thân ông đã khiến Tản Đà
không tiếp cận được với kinh nghiệm làm báo một cách bài bản và đầy đủ.
Những gì ông có được đều là do tự mày mò, học hỏi, thậm chí là tự làm theo
cách nghĩ của riêng mình. Bởi vậy, tính chất tùy tiện, tùy hứng và phần nào
mang tính tự phát là một biểu hiện rất rõ nét và xuyên suốt trong phong cách
làm báo của Tản Đà.
* Trước hết, cần phải hiểu rõ khái niệm: Ký giả - văn nhân “chuyên
nghiệp”.
“Ký giả” nghĩa là người làm báo. “Văn nhân” là người viết văn, làm thơ,
gọi chung là người sáng tác. Tuy nhiên, đối với Tản Đà, giữa ký giả và văn
nhân có mối quan hệ qua lại, gắn bó với nhau và trong một số trường hợp,
điều này không thực sự tách bạch. Tản Đà là văn nhân thì đã rõ. Những sáng
tác văn chương của ông với cái Tôi ngông nghênh, thị tài và đa tình, không
giống ai là một hiện tượng trên văn đàn lúc bấy giờ. Với những cách tân, phá
rào của mình, ông được mệnh danh là “hòn gạch nối văn chương”, là dấu nối
giữa hai thời kỳ văn học cổ điển và hiện đại. Khái niệm “ký giả” với Tản Đà
và cả xã hội lúc bấy giờ, là một khái niệm còn mới mẻ, được xâm nhập từ
phương Tây. Gắn liền với khái niệm này là những quan niệm về một nghề
mới trong xã hội với một chức danh mới: Nhà báo. Khái niệm “văn nhân” ở
đây cũng không còn là những người viết văn, làm thơ theo lối truyền thống,
đơn thuần, mà là theo cách chuyên nghiệp, tức là coi việc sáng tác văn thơ là
một phương tiện để kiếm sống. Điều này khác hẳn với quan niệm của các nhà
Nho trước đây, coi văn chương là cách để “mua vui cũng được một vài trống
canh” hay để gửi gắm nỗi niềm, chuyển tải “Tâm, Chí, Đạo”.
42
Bởi vậy, khái niệm “Ký giả - văn nhân chuyên nghiệp” ở đây tức là Tản
Đà coi viết văn, làm báo là một nghề, là công cụ để kiếm sống. Điều này chỉ
có khi xã hội có một sự phân hóa nhất định, văn thơ, báo chí trở thành một
loại hàng hóa, một hình thức dịch vụ hướng tới việc phục vụ nhu cầu tinh
thần của con người. Xã hội phát triển, nhu cầu về thưởng thức văn hóa và các
sản phẩm tinh thần của con người càng tăng. Từ đó dẫn đến việc hình thành
một nghề mới với đội ngũ những người chuyên cung cấp các sản phẩm dịch
vụ về tinh thần: người viết văn, làm báo chuyên nghiệp. Như vậy, việc hình
thành một đội ngũ các nhà văn, nhà báo chuyên nghiệp mà Tản Đà là một
trong những người tiên phong chính là một xu thế phát triển tất yếu của văn
học, báo chí lúc bấy giờ. Cần có một cái nhìn đúng đắn rằng, Tản Đà hoàn
toàn không phải là một hiện tượng mang tính đột biến, bất thường. “Hiện
tượng” Tản Đà nằm trong dòng chảy của lịch sử, mang dấu ấn của những đổi
mới, cách tân và cả những hạn chế đặc định của lịch sử.
Khái niệm chuyên nghiệp bao gồm ở cả hai phương diện: Nội dung và
hình thức thể hiện. Về nội dung, tính đối tượng ở đây là rất rõ ràng, đó là
hướng tới việc phục vụ số đông quần chúng, hướng tới sở thích, thị hiếu của
độc giả. Người viết không phải viết cho mình, viết để giải khuây, gửi gắm nỗi
lòng của mình qua trang viết, mà là viết cho người khác đọc. Nội dung sáng
tác cũng vì thế mà không thể chỉ bó buộc trong phạm vi của những tâm sự,
cảm xúc cá nhân mà mở rộng ra phạm vi xã hội với những vấn đề của hiện
thực đời sống, những vấn đề được nhiều người quan tâm. Những thay đổi về
nội dung cũng tất yếu dẫn đến thay đổi về hình thức thể hiện. Từ cách miêu tả
ước lệ, tượng trưng, người viết phải dùng lối tả thực, cách viết giản dị, dễ
hiểu, ngôn ngữ bình dân để hướng đến số đông người đọc. Báo chí, văn
chương nói chung muốn đến được với người đọc phải phản ánh được chân
thực đời sống xã hội và những tâm tư, tình cảm của con người trong xã hội
43
ấy. Ký giả chính là người có sứ mệnh chuyển tải, khám phá sự phong phú, đa
dạng và phức tạp nhiều chiều của đời sống. Tản Đà đã lĩnh hội được sứ mệnh
đó và hăm hở, hăng hái hết mình để chèo lái con thuyền An Nam tạp chí. Trên
các trang báo, hiện thực cuộc sống ngồn ngộn được phản ánh chân thực, sống
động nhất và nó có giá trị như cuốn biên niên sử của thời đại.
Tính chuyên nghiệp về nội dung - hình thức sẽ được chúng tôi phân tích,
làm rõ trong phần cuối của luận văn: Khảo sát mục “Việt Nam nhị thập thế kỷ
Xã hội thiển đàm” và “Việt Nam nhị thập thế kỷ Ba đào ký”.
* Đặt trong bối cảnh lịch sử - xã hội Việt Nam giai đoạn giao thời. Theo PGS.TS Trần Ngọc Vương, từ sau năm 1908, đã xuất hiện một
khoảng chân không (vacuum) trong đời sống tinh thần nói chung, đời sống
văn học dân tộc nói riêng. “Trạng thái khủng hoảng lịch sử này có lẽ là trạng
thái tất yếu ở những xã hội quá độ, nhất là những thời kỳ quá độ không diễn
ra một cách tự nhiên, mà theo lối áp đặt, bị động” [50, 351]. Bộ phận tinh
hoa của Nho giáo, người thì bị giết, bị bắt, bị lưu đày, quản thúc, người thì
phải trốn tránh, phiêu bạt sang Trung Quốc, Xiêm, Lào, Nhật Bản. Một số
khác, hoặc chỉ bày tỏ sự bất mãn, bất phục, bất hợp tác với chính quyền mới
bằng thái độ kín đáo, hoặc cộng tác với chính quyền, tham gia vào chính thể
mới ở các mức độ mẫn cán khác nhau thì không còn duy trì nổi cảm hứng để
có thể có được những sáng tạo tinh thần hấp dẫn, cuốn hút, thậm chí tuyệt đại
đa số họ không nghĩ đến việc cầm bút. Chỉ có một nhóm nhỏ những nhà Nho
vào đầu thế kỷ XX “bỏ bút lông, cầm bút sắt” tập viết theo các thể loại văn
học mới. “Các nhà Nho làm văn” như thế sống trong hoặc gần các đô thị lớn,
sự nghiệp văn học của họ gắn chặt với sự ra đời của báo chí, nhà xuất bản.
Thời kỳ đầu, thực dân Pháp thậm chí hướng dẫn, hỗ trợ cho chính quyền Nam
triều ra các tờ công báo, quan báo, một số quan lại Nam triều được cắt cử
sang phụ trách các tờ báo này, chẳng hạn các nhà Nho - ông quan như Vũ
44
Phạm Hàm, Chu Mạnh Trinh, Đào Nguyên Phổ, Kiều Oánh Mậu... với tờ Đại
Nam đồng văn nhật báo, nhưng dần về sau, các “cây bút” nhà Nho chủ yếu
làm cộng sự, cộng tác viên cho các tờ báo được sự bảo trợ trực tiếp của chính
quyền Pháp hoặc do một số người Việt có quan hệ mật thiết với chính quyền
thực dân lập nên, mà hai tờ tiêu biểu nhất cho giai đoạn ba mươi năm đầu thế
kỷ XX là Đông Dương tạp chí (1913 - 1918) và Nam Phong tạp chí (1917 -
1933). Do số lượng tác giả còn thưa thớt, tri thức và kinh nghiệm làm văn
chương hay báo chí kiểu mới chưa được chuẩn bị, kiến thức chung nặng về
cựu học, rất ít người trong số đó biết Pháp văn đến mức thành thục khả dĩ so
với những trí thức trẻ Tây học, ...cùng nhiều nguyên nhân khác nữa đã khiến
nhóm tác giả này không đưa lại thật nhiều đóng góp đặng có thể thỏa mãn yêu
cầu “điều hòa tân cựu, thổ nạp Á Âu” - tôn chỉ được nêu trên Nam Phong tạp
chí, thực chất cũng là con đường tốt nhất có thể mà nền văn hóa, văn học Việt
Nam trên hành trình hiện đại hóa phải trải qua.
Khoảng chân không của sáng tạo văn học xuất hiện khi đội ngũ tác giả
của hệ hình văn học truyền thống đã có dấu hiệu kiệt lực, mà đội ngũ tác giả
của hệ hình văn học mới, nói một cách chặt chẽ, lại chưa xuất hiện một cách
thực thụ. Trong hoàn cảnh ấy, Tản Đà đã dũng cảm nói lên tiếng nói của
người nghệ sỹ muốn được khẳng định tài năng, phẩm giá của mình với tư
cách là một ký giả, văn nhân dùng chính ngòi bút để thể hiện mình, để kiếm
sống.
Sự lựa chọn của Tản Đà ít nhiều chịu chi phối của hoàn cảnh lịch sử - xã
hội lúc bấy giờ. Xã hội đã đổi thay, nhưng lòng người lại dở dang. Tản Đà
trước hết vẫn là một nhà Nho từ trong căn cốt, được đào tạo bài bản. Nhưng
trước làn gió Tân văn, Tản Đà đã đi theo một hướng mới, coi viết văn, làm
báo là một nghề, một phương tiện để kiếm sống như bao công việc khác trong
xã hội. Việc đề cao văn chương, báo chí và những sứ mệnh to lớn của nó,
45
cũng đồng nghĩa với việc Tản Đà khẳng định vị trí xã hội của mình. Vị trí của
một ký giả - văn nhân cũng giống như bất kỳ một nghề nghiệp nào trong xã
hội. Hơn thế, còn đóng vai trò là chủ sự của “cơ quan tiến thủ của quốc dân”,
gánh trên vai những sứ mệnh và trách nhiệm nặng nề.
Việc coi sáng tác văn chương, viết báo là một nghề, như bất cứ một nghề
nghiệp nào khác trong xã hội - chính là cách để Tản Đà khẳng định giá trị của
sáng tác văn học và báo chí với ý nghĩa tự thân của nó, với những chức năng
riêng của nó, không phải là công cụ chuyển tải đạo lý hay để mua vui, giải trí.
Đây chính là đặc điểm quan trọng phản ánh bước chuyển biến lớn trong tư
tưởng cũng như sáng tác của Tản Đà, cũng là của một lớp người mới trong
bối cảnh có tính bước ngoặt của lịch sử dân tộc.
Người mở đường, tiên phong cho sự hình thành một loại hình tác giả
mới, đương nhiên không thể tránh được những giới hạn mang tính lịch sử
không thể vượt qua. Vì thế, điểm dừng của Tản Đà cũng chính là bước đệm
để những thế hệ sau, những nhà thơ trong phong trào thơ Mới có thể cất lên
tiếng nói khẳng định bản ngã của mình.
2.3. Quan niệm báo chí của Tản Đà
Quan niệm báo chí của Tản Đà được thể hiện trực tiếp và gián tiếp thông
qua các phát ngôn, các giai thoại hay trong chính các tác phẩm của ông. Đó là
những quan niệm mới mẻ nhưng cũng đầy phức tạp, phản ánh những mâu
thuẫn trong chính con người Tản Đà.
* Quan niệm báo chí của ông thể hiện trước hết ở việc đặt tên cho tờ
báo.
Trong bài “Kính ngỏ cùng độc giả chư vị”, An Nam tạp chí số 11 - 1930,
Tản Đà đã giải thích rõ lý do vì sao ông lại đặt tên cho tờ báo của mình là “An
Nam tạp chí”:
46
“Nay cuốn tạp chí in ra là đối với khắp thảy quốc dân mà trần thuyết mọi
sự, không phải là riêng đối với những người có học mà thôi. Cho nên lấy
quốc hiệu đặt tên mà định là hai chữ “An Nam”, là ý kiến cả tôi như thế.
Mong rằng tạp chí lưu hành khắp cả toàn quốc, phàm là người An Nam đều
biết có tạp chí An Nam, mà sự hay dở của tạp chí có quan hệ mật thiết với sự
thịnh suy của quốc dân, thời tạp chí mới không phụ đặt tên bằng quốc hiệu
vậy”.
Tính đối tượng ở đây được Tản Đà khẳng định rất rõ, rằng “không phải là
riêng đối với những người có học mà thôi”. Đối tượng của tờ báo là đại bộ
phận quần chúng nhân dân với nhiều tầng lớp, địa vị xã hội khác nhau. Điều
này cũng có nghĩa nội dung của các tác phẩm phải gần gũi, gắn bó với hiện
thực đời sống và không thể chỉ có những nội dung mang tính học thuật. Đặt
tên tạp chí là An Nam, Tản Đà đã gửi gắm trong đó một sứ mệnh rất lớn, đó
là “in ra khắp thảy quốc dân mà trần thuyết mọi sự”. Bởi vậy nên “sự hay dở
của báo chí có quan hệ mật thiết với sự thịnh suy của quốc dân”. Gắn báo chí
với dòng chảy của những biến cố lịch sử, sự thịnh suy của đất nước, Tản Đà
đã nhận thức rất rõ rằng, báo chí phải thuộc về đời sống, phải là bức tranh thu
nhỏ của hiện thực xã hội lúc bấy giờ. Tờ báo gắn mình với vận mệnh của dân
tộc, là tiếng nói của nhân dân, cũng là của lịch sử, đất nước.
* Báo chí có vai trò quan trọng trong xã hội, là “cơ quan tiến thủ của
quốc dân”.
Trong “Lời yêu cầu của An Nam tạp chí đối với quốc dân An Nam ta”
(An Nam tạp chí số 15, tháng 1/1931), Tản Đà đã khẳng định vai trò quan
trọng của báo chí với xã hội, thời đại:
“Nước An Nam ta ngày nay đương thời kỳ quá độ, phàm các công việc
phải tiến thủ rất cần mà cơ quan thời trông ở Báo giới. Cứ tình hình trong
Báo giới hiện nay, mong được có một báo chí nào đủ làm cơ quan tiến thủ
47
của quốc dân thật khó. An Nam tạp chí tự nhận cái thiên chức như đó cũng
chỉ là do ở phát nguyện còn sự thực có quả được như thế chăng thời nhờ ở
quốc dân ta vậy”.
Đây là một phát ngôn tương đối rõ ràng của Tản Đà về sứ mệnh của báo
chí. Ở đây, báo chí đóng vai trò như người đại diện, tiên phong để phản ánh
những vấn đề của xã hội trong thời kỳ quá độ. Tuy nhiên, trong bối cảnh báo
chí nở rộ theo nhiều khuynh hướng, mục đích khác nhau, Tản Đà nhận thấy
rằng, cần phải đưa báo chí đi đúng đường của nó, tức là đưa nó trở về với quỹ
đạo phát triển tự nhiên, vốn có, không chịu sự chi phối, áp đặt hay lệ thuộc về
đường hướng, tư tưởng. Có như thế mới mong được là “cơ quan tiến thủ của
quốc dân”. Với An Nam tạp chí, Tản Đà tự nhận lấy thiên chức đó, coi đó là
một mục đích, tiêu chí phấn đấu của mình. Tản Đà ôm tham vọng đó và thẳng
thắn tuyên bố một cách công khai, quyết liệt. Điều đó phần nào thể hiện cái
Tôi rất rõ của ông và sự tự ý thức về năng lực, giá trị của mình.
* Quan niệm báo chí bao gồm cả quan niệm về người làm báo (gồm
cả ký giả - văn nhân).
Theo Tản Đà, người làm báo phải là “người có học thức, có duyệt lịch, có
công tâm với xã hội, có giá trị với công chúng nếu không đủ đại lược như thế
thời mong gì làm ích cho quốc dân”. Ngoài tri thức, Tản Đà đã đặc biệt đề cao
và nhấn mạnh tới đạo đức của người làm báo. Đó chính là sự công tâm, khách
quan, trung thực của nhà báo khi phản ánh các vấn đề hiện thực. Đây có thể
nói cũng chính là tiêu chí của mọi thời với người làm báo. Có như thế, báo chí
mới có thể được ví như “công cụ không tự giác của lịch sử”. Đặt ra vấn đề
này và coi đó là một tiêu chí quan trọng với người làm báo, Tản Đà xứng
đáng là người đóng vai trò tiên phong trong việc hình thành đội ngũ ký giả -
văn nhân chuyên nghiệp giai đoạn giao thời lúc bấy giờ.
48
Cùng với việc đặt ra những tiêu chí với người làm báo, Tản Đà cũng
đồng thời khẳng định nghề làm báo là một nghề cao quý và nâng người làm
báo lên một vị trí xã hội nhất định.
Trong bài “Người làm văn” (Đông Pháp thời báo, số 641-1927), Tản Đà
đã chia người làm văn ra làm ba hạng:
Một là những người có thì giờ thanh nhàn mà làm chơi thành văn như các
ông giáo học các trường, các ông làm việc ở các sở, các nhà dật sĩ ở thôn quê,
các bậc văn hòa trong nữ giới, ngẫu nhiên cảm xúc mà viết ra bài văn, lai cảo
cho các nhà báo, đó là một hạng người phong lưu thứ nhất trong văn giới hiện
thời.
Hai là những người làm văn in ra thành cuốn, hoặc luận thuyết, hoặc tiểu
thuyết, hoặc thơ ca, trước là muốn dự một phần chiếu trong làng văn, sau nữa
cũng có tính về phần lời lỗ.
Ba là các người làm văn trong báo giới, ăn lương của tòa báo mà viết
văn.
Tản Đà tự nhận mình là loại người thứ ba này. Ông coi mình so với hai
hạng người trên kém vẻ thanh cao, nhưng lại hơn bể trách nhiệm. Điều này đã
được tác giả phân tích, lý giải rất cụ thể, kín kẽ:
“Các báo quán đã là một đạo quân tiên phong trong trận tiến thủ của xã
hội, thời phàm các người viết văn trong báo giới đều là một tên lính trong đội
tiên phong. Oai nghiêm thay! Hùng dũng thay. Ngọn bút sắt tung hoành có
quan hệ đến vận hội của đồng bào hai mươi lăm triệu. Vậy thời trước khi
chúng ta cầm ngọn bút mà viết một bài văn xã thuyết, thời đàm, vận văn, tiểu
thuyết, đều phải nên hết lòng trân trọng, tưởng như có mấy trăm nghìn độc
giả đứng chung quanh. Những người độc giả kia mỗi người mỗi việc, cũng
không ai có nhiều thì giờ mà xem xét kỹ về tờ báo, quyển tạp chí mà trích
49
những chỗ hay chỗ dở làm chi, nhưng nếu có một người xét thấy chỗ không
phải của chúng ta, thời tức là chúng ta có lỗi với người đó”.
Một lần nữa, Tản Đà lại khẳng định báo chí với vai trò là đội quân tiên
phong trong trận tiến thủ của xã hội. Và người viết văn chính là một tên lính
trong đội tiên phong ấy. Hình ảnh “ngọn bút sắt tung hoành” gửi gắm rất
nhiều hoài bão của Tản Đà về một con đường tiến thân, thành danh mới trong
xã hội mà ngọn bút chính là công cụ. Đạo đức của người làm báo vì vậy có
hơi hướng của một kẻ sỹ với các hình ảnh “tung hoành”, “oai nghiêm”, “hùng
dũng” - một cách thể hiện kín đáo nhưng sâu sắc của Tản Đà về quyền năng
của báo chí.
Về đạo đức của người làm văn, lám báo, Tản Đà cũng khẳng định, người
làm văn, làm báo phải “tế tâm’, “trì thủ” và giải thích rõ lý do như sau:
“Nay ví như có một bài văn hay, đăng ở một tờ báo không biết là của ai,
thời xã hội cứ biết ở văn mà không có thiên khinh thiên trọng, nếu như nghe
biết bài văn ấy của một bậc vĩ nhân, một nhà đạo đức như cụ Phan Sào Nam,
cụ Phan Tây Hồ, thời bài ấy lại có giá trị thêm, lại nếu như nghe biết bài văn
là của một người xưa nay vô phẩm hạnh hoặc mại quốc bất lương, thời bao
nhiêu cái hay trong bài văn còn chăng có ít vậy…. Và cứ chính lý mà mói, tự
mình không thương nước mà viết ra những lời ái quốc, tự mình vô phẩm hạnh
mà viết ra những giọng luân thường, vậy thời để lừa gạt ai. Dẫu có lừa gạt
được ai chăng, ắt cũng có ngày bại lộ vậy. Nguy lắm thay mà sợ lắm thay!”.
Đây chính là cách nói thể hiện quan điểm “Văn là Người”. Tuy nhiên,
nếu trong văn chương truyền thống, cái Tôi được giấu kín, có chăng cũng chỉ
là cách nói bóng gió kiểu “có bóng mây hơi nước đến dân xã”. Người viết
giấu mình vào trong và thường được ẩn dụ trong hình ảnh những kẻ sĩ với
nhiều tâm sự. Đến đây, Tản Đà cho rằng, với trách nhiệm của mình, người
cầm bút phải bày tỏ rõ quan điểm của mình, nhưng phải xuất phát từ tấm lòng
50
trong sáng, không vẩn đục. Báo chí không phải là những lời hô hào suông, bởi
vậy, nó phải xuất phát từ cái tâm của người cầm bút mới có sức lay động tới
xã hội.
* Quan niệm về tự do ngôn luận trong báo chí
Ngay từ lúc này, Tản Đà đã nhận thức rõ được vai trò của sự phản biện
xã hội, về tự do ngôn luận trong báo chí. Đây cũng chính là một chức năng,
đặc điểm quan trọng của báo chí:
“Phàm là một bài viết đã đăng lên báo trương, dù hay dở thế nào, tất có
ảnh hưởng đến xã hội… Mội bài viết đã công hành trong báo giới, tiếp xúc
đến xã hội, thời phàm người trong xã hội, nhất là trong báo giới, ai có ý kiến
gì đối với bài nói đó, thực nên tỏ bầy” (Đọc bài “Tự do diễn đàn” là ở trong
báo Trung Bắc ngỏ cùng ai các bạn thanh niên” (An Nam tạp chí số 23,
1931).
Bày tỏ quan niệm, thái độ với một vấn đề xã hội nêu trên báo chí hay sự
tranh luận với tác giả về bài viết là một cách thể hiện trách nhiệm cũng như
quyền tự do, dân chủ trong xã hội. Điều này phản ánh mối quan hệ qua lại hai
chiều giữa báo chí và độc giả, báo chí và xã hội. Tạo điều kiện rộng rãi cho
người đọc được bày tỏ thái độ đối với tờ báo cũng là cách Tả Đà thu hút độc
giả và thể hiện sức mạnh của báo chí, như mong muốn của ông, là “cơ quan
tiến thủ của quốc dân”.
Ở một bài khác, Tản Đà cũng nhấn mạnh rằng, bình luận là một quyền
của người đọc, và nó là động lực để người cầm bút có trách nhiệm hơn với
công việc của mình:
“Vì chúng ta có quyền viết văn thời những người xem văn cũng có quyền
bình luận. Sự bình luận đó mà là phải, thời cổ lệ cho chúng ta thực nhiều, sự
bình luận đó mà là do một người không hiểu văn, thời cũng không hại chi cho
51
ta mà cũng là cổ lệ cho chúng ta càng thêm gắng sức cố công vậy. Cho nên
các bạn làm văn trong báo giới, đối với những lời bình luận của độc giả chỉ
nên giữ một thái độ rất ôn hòa”. (Người làm văn, Đông Pháp thời báo số
641-1927).
Sự tôn trọng đối với ý kiến của độc giả cũng là một trong những đặc
điểm về sự “chuyên nghiệp” trong cách làm báo của Tản Đà lúc bấy giờ do
ảnh hưởng từ văn hóa Phương Tây. Trong văn chương truyền thống, người
viết chỉ cốt bày tỏ tâm tư, tình cảm, thái độ của mình mà không cần quan tâm
đến người tiếp nhận như thế nào. Nói cách khác, khi văn chương, báo chí đã
trở thành một thứ hàng hóa, dịch vụ trong xã hội thì người viết phải quan tâm
tới “khách hàng” của mình là ai, có nhu cầu gì để phục vụ.
* Tính đấu tranh, phản biện xã hội của báo chí “Chúng ta may được để thân vào báo giới, cầm quyền phủ việt của quốc
dân, thời phàm các loại hung nhân phải trọng phạt nghiêm hình để hả lòng
cho công chúng, Một sự hình phạt đó, tuy cũng là bất đắc dĩ, song mà có bổ
cứu cho thế đạo nhân tâm thực chẳng ít, thời chúng ta cũng không thể được
khoan dung. Đó là cái chức trách của chúng ta đối với quốc dân, còn như cái
tình đồng bào đổng chủng cùng nhau, thời như sao cũng có như sao vậy”.
(Người làm văn, Đông Pháp thời báo số 641-1927).
Tản Đà đã mở ra một xu hướng làm báo chống tiêu cực và dùng báo chí
như một công cụ đắc lực để chống lại cái xấu, cái ác, góp phần cải biến xã
hội: “Thời phàm các loại hung nhân phải trọng phạt nghiêm hình để hả lòng
cho công chúng… Đó là cái chức trách của chúng ta đối với quốc dân”. Ẩn
sau câu nói ấy là một mơ ước của ông về một con đường dấn thân mới bằng
cuộc cách mạng về văn hóa, tư tưởng mà báo chí chính là một vũ khí sắc bén.
Tính chiến đấu là một trong những đặc trưng quan trọng của báo chí so
với các loại hình sáng tác khác. Chính nhờ tính chiến đấu này mà quyền lực
52
của báo chí được nâng cao và tác động xã hội của nó trở nên rộng rãi hơn.
Tính phản biện xã hội, thực chất cũng chính là những tác động của báo chí đối
với xã hội. Sự phản biện ấy thể hiện tính dân chủ rộng rãi và sâu sắc khi tất cả
mọi người đều có quyền bày tỏ ý kiến và bình đẳng với việc tiếp nhận thông
tin. Chính bởi đặc điểm này nên báo chí mới là công cụ đắc lực để nối dài hơn
tới đông đảo quần chúng nhân dân trong xã hội.
Tóm lại, với những quan niệm về báo chí rất mới mẻ, tiến bộ này, Tản
Đà được coi là người đóng vai trò quan trọng trong việc định hình và phát
triển báo chí trong giai đoạn giao thời đầu thế kỷ XX. Đây là những tiền đề
quan trọng để những nhà báo sau này có điều kiện xây dựng và phát triển một
nền báo chí hiện đại với những đặc trưng cơ bản của nó.
2.4. Tản Đà trong so sánh với các nhà báo giai đoạn đương thời
2.4.1. Trong mối quan hệ tương sinh: Ảnh hưởng và dấu ấn của Tản Đà với Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, Ngô Tất Tố,…
Như đã nói ở trên, Tản Đà có ảnh hưởng rất lớn đến phong cách làm báo
cũng như tư tưởng, quan niệm của các nhà báo giai đoạn đương thời và cả sau
này. Quan niệm mới mẻ, táo bạo, tài thơ văn trời phú và việc lực chọn một
con đường dấn thân mới của Tản Đà trong thời điểm lúc bấy giờ có một sức
hút rất mạnh mẽ. Bởi vậy, Tản Đà có một số lượng lớn các đệ tử, người hâm
mộ và đi theo trong suốt quá trình làm báo của ông. Nhiều tác giả chính nhờ
sự dẫn dắt của Tản Đà, qua những chuyên mục trên An Nam tạp chí đã thành
danh và được nhiều người biết đến.
* Tản Đà và Nguyễn Công Hoan Nguyễn Công Hoan viết về mối quan hệ của mình với Tản Đà: “Tôi quen
biết Tản Đà từ năm tôi trọ học ở phố Hàng Bài. Ông Tản Đà thấy tôi khôi ngô
lanh lợi nên tuy tôi ít tuổi hơn ông nhiều nhưng ông không coi tôi như trẻ con.
Tôi đọc thơ ca của ông, khi ấy chưa xuất bản thành Khối tình con thứ nhất,
53
đã biết là hay. Tôi học thuộc lòng, nghỉ hè về nhà dạy lại các em tôi. Thơ Tản
Đà tôi rất nhớ. Nhiều lần nghe ông đọc một lượt là tôi thuộc ngay. Có nhiều
đoạn văn xuôi của ông nhịp nhàng như thơ thì chính tôi lại nhớ dai hơn ông”
(Đời viết văn của tôi, Tạp chí Văn học, 1971).
Nguyễn Công Hoan sinh năm 1903, khi ấy Tản Đà đã 15 tuổi. Nguyễn
Công Hoan thông minh, nhanh nhẹn nên được Tản Đà rất mến, thường đọc
thơ và đưa bản thảo thơ cho xem. Nhà Nguyễn Công Hoan ở số 8 phố Hàng
Hài, đối với nhà Tản Đà số lẻ là 13.
Nguyễn Công Hoan đến với văn học bắt đầu từ Tản Đà, đi vào đời văn
cũng từ Tản Đà và cũng Tản Đà đã khuyến khích Nguyễn Công Hoan viết
văn học hiện thực phê phán mà hồi đó gọi là văn tả chân.
“Lớn lên, bước vào cuộc đời hẩm hiu của một nhà giáo, bị thuyên chuyển
hết miền rừng đến miền biển, Nguyễn Công Hoan càng cảm thấy cái thôi thúc
phải cầm bút. Những truyện ngắn đầu tay của ông ra mắt được là nhờ sự
khuyến khích của bạn bè, sự giúp đỡ của Tản Đà. Tập truyện ngắn đầu tiên
“Kiếp hồng nhan” in khoảng 1923, sau những “Truyện thế gian” in chung
với người khác, đã làm người đọc chú ý. Nhưng chỉ từ khi ông chuyên viết
cho mục “Việt Nam nhị thập thế kỷ xã hội ba đào ký” trên An Nam tạp chí
của Tản Đà thì giá trị của ngòi bút hiện thực Nguyễn Công Hoan mới dần
được khẳng định. Về sau, mấy chữ ba đào ký nghiễm nhiên trở thành tên gọi
để chỉ truyện Nguyễn Công Hoan”. (Tạp chí Văn học số 2 -1971 thuật lại
cuộc nói chuyện của Nguyễn Công Hoan).
Như vậy, nhờ có An Nam tạp chí mà Nguyễn Công Hoan đã có điều kiện
và cơ hội để thể hiện tài năng và tên tuổi của ông đã được thành danh. Ngòi
bút hiện thực của ông trưởng thành từ chính hai chuyên mục: “xã hội thiển
đàm” và “xã hội ba đào ký” - hai mục Tản Đà đặt ra để nêu lên “những cảnh
huống của xã hội”. Nguyễn Công Hoan viết “Hai thằng khốn nạn” đưa Tản
54
Đà đọc, Tản Đà vỗ đùi khen hay. Đọc thêm vài bản thảo nữa của Nguyễn
Công Hoan, Tản Đà hết lời khen ngợi và bảo: “Đúng với ý tôi đặt ra mục “xã
hội ba đào”, đúng với ý các mục đó!”. Và thế là “Hai thằng khốn nạn” được
in trên báo An Nam tạp chí số 12/1930, rồi lần lượt là “Ván cách”, “Người
ngựa và ngựa người”, “Răng con vật nhà tư bản”, “Bố anh ấy chết”…
Câu chuyện “Ngựa người và người ngựa” được viết ra trong một ngẫu
nhiên theo gợi ý của Tản Đà. Đó là lần Tản Đà về chơi thăm ông anh vợ ở
phố Hàng Bông. Một đêm, Tản Đà ra sân thượng, thấy một phu xe đòi tiền xe
một cô gái giang hồ. Cô này không có tiền trả mới nói “Tôi đây, anh muốn
làm gì thì làm”. Tản Đà kể lại câu chuyện cho Nguyễn Công Hoan và sau này
Nguyễn Công Hoan viết thành “Ngựa người và người ngựa”. Tản Đà đọc rất
thích, sau 3 năm truyện in trên An Nam tạp chí số 18-1931, Tản Đà lại viết bài
khen trên báo Thanh Nghệ Tĩnh số 2-1934: “Được đến chỗ đau đớn của người
đời, truyện như bịa chơi, trò đời thường có và muốn thêm một giọt nước mắt
khóc chung cả người ngựa lẫn ngựa người”.
Nguyễn Công Hoan viết xong truyện “Chữ trinh” đưa Tản Đà xem, Tản
Đà khen nhưng góp ý sửa lại và thay tên “Chữ trinh” bằng tên “Oẳn tà rằn”
rồi in trên An Nam tạp chí.
Tuy tuổi tác và tính tình khác nhau nhưng hai người rất thân thiết. Mọi
việc đời văn Tản Đà thường bàn với Nguyễn Công Hoan và có tác phẩm nào
mới lại đưa Nguyễn Công Hoan xem và nói cho biết ý mình, biết chủ đề tư
tưởng.
Hồi Tản Đà làm chủ bút “Hữu Thanh” (1928), bị nhóm sáng lập Nguyễn
Huy Lợi khống chế, đòi hỏi nhà thơ viết theo ý họ, Tản Đà liền từ chức sau 6
tháng cộng tác. Nguyễn Công Hoan sau đó có hỏi vì sao? Tản Đà nói: “Vì tôi
là chủ bút mà không được làm chủ cái bút của mình”.
55
* Tản Đà và Ngô Tất Tố Giữa Ngô Tất Tố và Tản Đà có nhiều kỷ niệm và câu chuyện đáng nhớ,
gắn liền với những sóng gió của An Nam tạp chí. Có thể nói, lúc bấy giờ, Ngô
Tất Tố đóng vai trò là cánh tay phải, là người trợ thủ đắc lực, cùng chí hướng
và tâm huyết với Tản Đà trong nghề báo.
Ngô Tất Tố sinh năm 1894 nên có thể là bạn cùng lứa với Tản Đà, khác
với Nguyễn Công Hoan (1900) và Nguyễn Tuân (1910) kém Tản Đà tới hai
chục tuổi nên là bạn vong niên. Nhưng đối với Tản Đà, Ngô Tất Tố vẫn là lứa
sau, người đi bước sau. Ông quý mến Ngô Tất Tố và là người có ảnh hưởng
lớn đối với các sáng tác của Ngô Tất Tố.
Ngô Tất Tố đỗ đầu xứ tỉnh Bắc Ninh nên thường được gọi là ông đầu xứ
Tố. Ngô Tất Tố từ lâu đã rất ngưỡng mộ danh tiếng của Tản Đà. Qua giới
thiệu của một người bạn làm báo, Ngô Tất Tố đã làm quen được với Tản Đà.
Không lâu sau, bản dịch vở kịch cổ Trung Quốc “Cẩm Hương Đình” của
Ngô Tất Tố được Tản Đà tu thư cục xuất bản.
Khi Tản Đà ra báo An Nam tạp chí lần thứ nhất ở phố Hàng Lọng, Hà
Nội, đã mời Ngô Tất Tố làm thư ký tòa soạn. Khi tờ báo đình bản lần thứ
nhất, Ngô Tất Tố chia tay Tản Đà về quê.
Đến khi Tản Đà vào Sài Gòn cộng tác với Diệp Văn Kỳ làm trợ bút
“Đông Pháp thời báo”, phụ trách phụ trương “văn chương”, lại viết thư nhắn
Ngô Tất Tố vào Sài Gòn với mình và còn nhờ Ngô Tất Tố đưa cả vợ và con
mình vào nữa.
Từ đó, Ngô Tất Tố ở chung với gia đình Tản Đà và làm biên tập phụ
trương “Văn chương”. Khi thôi cộng tác với Đông Pháp thời báo, trở ra Bắc
để lo tái bản An Nam tạp chí, Tản Đà giao phụ trương “Văn chương” cho Ngô
56
Tất Tố và gửi cả vợ con cho Ngô Tất Tố trông hộ. Câu chuyện này đã được
Tản Đà ghi lại bằng lời cảm tác:
Trợ bút đã xin từ bác Diệp Phụ trương để lại cậy thày Ngô Dám quên Đông Pháp người tri kỷ Riêng nhớ An Nam bức địa đồ (Sài Gòn tới Nha Trang hữu cảm)
Trong “Hồi ký Tản Đà ở Nam Kỳ”, Ngô Tất Tố có kể lại quãng thời gian
ấy như sau:
“Khi ấy, An Nam tạp chí ở Hàng Lọng, trong tòa soạn có ông và tôi, cái
tài viết báo của ông thế nào chắc ai cũng rõ cả, còn tôi thì mới bắt đầu bước
vào làng báo, sức lực hãy còn non nớt, nhiều bài đến nay nhớ lại mà xấu hổ
mướt mồ hôi”
… “Lần này, ông có ý muốn “đóng đô” ở Nam cho nên tới nơi ít lâu thì
ông có thư ra gọi gia quyến và bảo tôi vào đến viết An Nam tạp chí.
Chẳng ngờ khi tôi vào đến Sài Gòn, ty kiểm duyệt trong ấy không nhận
duyệt bài của một tờ báo ngoài Bắc, An Nam tạp chí không thể ngụ cư ở đó.
Ông Tản Đà nói giới thiệu tôi vào viết với ông cái trang văn chương trong
Đông Pháp thời báo của ông Diệp Văn Kỳ” [43, 24].
Câu chuyện của Ngô Tất Tố đã cho thấy những quãng thời gian long
đong, lận đận của Tản Đà và An Nam tạp chí. Thất bại với An Nam tạp chí ở
đất Bắc, Tản Đà quyết định “Nam tiến”, mong tìm kiếm một vùng đất mới để
lập nghiệp. Nhưng chính sách kiểm soát gắt gao của chính quyền thực dân đã
không cho phép một người làm báo tư nhân như Tản Đà được tồn tại. Với bản
chất nô dịch, người Pháp muốn dùng báo chí như một công cụ để truyền đạt
tư tưởng và thống trị về mặt tinh thần, tạo ra những tờ báo do họ quản lý qua
một hệ thống tay sai chứ không muốn có sự phát triển của một tờ báo kiểu
57
như An Nam tạp chí. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn
đến sự thất bại của Tản Đà trong nghề báo.
Thầy đồ Ngô là người kề vai sát cánh và là trợ thủ đắc lực nhất của Tản
Đà khi ông làm báo, từ An Nam tạp chí tới Đông Pháp thời báo và cả những
quãng về sau này. Ngô Tất Tố là người xuất thân khoa bảng, đỗ đầu xứ tỉnh
Bắc Ninh, tức là người có chút công danh, nhưng lại lựa chọn con đường đi
theo Tản Đà để viết văn, làm báo. Điều này cho thấy khoa cử truyền thống đã
dần mất vị trí độc tôn. Những người xuất thân khoa cử vẫn được trọng vọng
nhưng trong bối cảnh xã hội thuộc địa lúc bấy giờ, việc lập thân, thành danh
bằng khoa bảng đã không còn là việc dễ dàng. Bởi vậy, Ngô Tất Tố thay vì đi
dạy học đã quyết định theo Tản Đà làm báo, một con đường mới, dẫu nhọc
nhằn nhưng nhiều sức hút và khả dĩ, hợp thời hơn so với những con đường cũ.
Tuy nhiên, tính cách và tư duy, học thuật của một thầy đồ dạy học đã lỗi thời
và không phải là lựa chọn phù hợp của người làm báo, nhất là với nhu cầu
làm báo ít nhiều mang tính thị trường, buôn văn bán chữ. Vì thế, vị trí thư ký
tòa soạn, một vị trí khả dĩ phù hợp với Ngô Tất Tố nhất bởi tính cách cẩn
thận, chu toàn - những tố chất cần thiết của một người thư ký tòa soạn, vẫn
bộc lộ nhiều hạn chế do thiếu tư duy nhạy bén, nhanh nhạy. Mặt khác, những
kiến thức Ngô Tất Tố học được từ nghề báo cũng đều là từ Tản Đà nên chưa
đủ để ông có thể trở thành một nhà báo thực thụ và lành nghề. Tuy nhiên,
chính quãng thời gian làm báo với Tản Đà với nhiều thăng trầm sóng gió đã
rèn luyện cho Ngô Tất Tố một ngòi bút hiện thực sắc sảo và là nền tảng ra đời
những tác phẩm hiện thực xuất sắc của ông sau này, phần lớn đều được khai
sinh từ An Nam tạp chí và những tờ báo khác tương tự An Nam tạp chí.
Trong “Ngô Tất Tố như tôi đã biết”, Nguyễn Đức Bính có kể lại câu
chuyện vui của Tản Đà và Ngô Tất Tố:
58
“Quan hệ giữa Ngô Tất Tố và Tản Đà cũng có lúc sóng gió (sóng gió
trong chiếu rượu mà thôi). Một lần hồi ấy, tác giả “Khối tình con” mới tái
bản An Nam tạp chí ở Hàng Bông, uống rượu với Ngô Tất Tố, nói:
Báo An Nam tạp chí lần này tái bản, mong nhờ ông giúp cho một tay.
Ngô Tất Tố trả lời: - Tôi sẽ xin viết giúp.
Tản Đà vui vẻ nói: - Ông cứ viết giúp, tiền nhuận bút sẽ xin đưa lại tử tế.
Ngô Tất Tố khiêm tốn chối từ: - Tôi viết giúp ông chứ chỗ chúng mình,
tiền nong làm gì.
Tản Đà lúc này đã ngà ngà say: - Ông không lấy, tôi cũng cứ giả, đó là
quyền của tôi.
Ngô Tất Tố (cũng hơi chếnh choáng): - Ông có giả, tôi cũng không lấy,
đó là quyền của tôi.
Thế là hai ông cãi lộn nhau và cuộc rượu giải tán. [43, 32].
Câu chuyện vui bên bàn rượu này cho thấy thấm thía cảnh nghèo của Tản
Đà và Ngô Tất Tố cũng như cái khó khăn vất vả của nghề báo lúc bấy giờ.
Nghề “buôn văn bán chữ” lúc này đã bắt đầu thịnh hành, nhưng vẫn rất bèo
bọt. Chỉ trừ những tờ báo được chính quyền thực dân bảo hộ và chu cấp, còn
phần lớn đều èo uột và lay lắt do trong bối cảnh xã hội nghèo nàn, lạc hậu lúc
bấy giờ, báo chí vẫn là thứ hàng hóa xa xỉ với nhiều người.
"Ngô Tất Tố trước hết là một nhà báo, một nhà báo cả những khi viết
tiểu thuyết, một nhà báo có biệt tài", "là một tay ngôn luận xuất sắc trong
đám nhà nho... làng báo Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ cũng như độc giả, hẳn
không ai mà lại không biết danh tiếng người ra đời từ hồi thi sĩ Nguyễn Khắc
Hiếu chủ trương An Nam tạp chí, và đã viết nhiều bài đại luận, khảo cứu bút
chiến phê bình, nhiều truyện lịch sử rất có giá trị trong nhiều tuần báo và tạp
chí cả Nam lẫn Bắc" [43, 58]. Dưới nhiều bút danh: Thiết Khẩu Nhi, Thục
59
Ðiểu, Dân chơi, Lộc Hà, Lộc Ðình, Thôn Dân, Phó Chi, Ngô Công, Tuệ
Nhỡn, Côi Giang, Thuyết Hải, Xuân Trào, Ðạm Hiên, Hy Cừ... trong ngót hai
thập kỷ, ngòi bút Ngô Tất Tố đã tung hoành ngang dọc trên nhiều tờ báo Bắc
- Trung - Nam: An Nam tạp chí, Ðông Pháp thời báo, Thần chung, Phụ nữ
Tân Văn , Phổ thông, Ðông phương, Thực nghiệp, Công dân, Hải Phòng tuần
báo, Con ong, Tương lai, Việt nữ, Tiểu thuyết thứ ba, Ðông thanh, Trung -
Bắc chủ nhật, Thời vụ, Hà Nội tân văn...
* Tản Đà với Nguyễn Tuân Trong số những nhà văn lớp trẻ được gần gụi nhiều với Tản Đà, chỉ có
hai người được Tản Đà coi là bạn: Nguyễn Công Hoan và Nguyễn Tuân. Hai
người bạn này lại có hai phong cách sống khác nhau. Nếu Nguyễn Công Hoan
mực thước và tỉnh táo, không thích rượu và cũng không có cốt cách “giang hồ
mê chơi” thì Nguyễn Tuân lại rất gần, rất hợp với tản Đà ở chất tài tử, tài hoa
và lối sống phóng túng.
Nguyễn Tuân kể lại lần đầu gặp gỡ Tản Đà như sau:
“Lần đầu tiên tôi giáp mặt ông Tản Đà là ở tòa soạn An Nam tạp chí ở
phố Hàng Da. Đầu năm 1932 gì đó sau cái hồi rời bỏ phố Hàng Khoai, lúc
ông Hiếu còn cộng sự với ông cử Ngô Thúc Địch. Sau bài thơ trường thiên
của tôi gửi đăng ở An Nam tạp chí lấy tên là tương tư hành, Vũ Lang đưa tôi
lại giới thiệu cùng ông Tản Đà. Tôi còn nhớ buổi đầu đó, chúng tôi nói rất
nhiều về bản dịch bài Tỳ bà của Bạch Cư dị mà nhiều người gán cho Nguyễn
Công Trứ và một số người nữa thì bảo là của ông đồ Phù Long. Những đoạn
nhắc đến chữ dịch hay quá, hay đến nỗi hóa được cả chữ cả nguyên văn như
“tẩm” chẳng hạn, ông Tản Đà hút một điếu thuốc lào. Chúng tôi thông điếu
lẫn cho nhau và người hút thuốc thường giữ một thanh đóm lửa vẫn cháy để
chờ người sau kịp dịt một mồi thuốc thứ hai vào nõ điếu. Lẽ cố nhiên tôi
thông điếu và giữ thanh đóm cháy nhiều hơn ông Tản Đà” [53, 36].
60
Ngay từ lần đầu tiên “tương ngộ” ấy, Tản Đà và Nguyễn Tuân đã trở
thành bạn tâm giao. Đây là điều dễ hiểu bởi những nét gần gũi trong tính cách
của hai người: tài hoa và ngông, ưa thích chủ nghĩa xê dịch. Nguyễn Tuân
biết đến Tản Đà cũng là ở tài văn và những sáng tác đầu tay của Nguyễn
Tuân, chưa phải là văn mà là những bài thơ trường thiên như chính ông kể ở
trên cũng đã ra đời từ những trang báo của An Nam tạp chí.
Chỉ có Nguyễn Tuân trong lớp nhà văn trẻ có thể ngồi “chịu trận” với
Tản Đà bên mâm rượu suốt giờ này sang giờ khác, bất kể thời gian. Có lần, có
người hỏi Nguyễn Tuân: Cái gì đã làm bác trở nên bạn vong niên của Tản Đà,
cái gì làm cho bác gần gụi và gắn bó được với Tản Đà? Tác giả Vang bóng
một thời trả lời: “Đó là bởi nghệ thuật rượu, nghệ thuật sống, cách sống của
Tản Đà. Hồi đó tôi cho rằng tôi cũng phải sống như Tản Đà”.
Sau này, khi Tản Đà mất, Nguyễn Tuân trân trọng suy tôn Tản Đà:
“Trong chốn tao đàn, Tản Đà xứng đáng ngòi chủ súy; trong Hội tài tình,
Tản Đà xứng đáng ngôi hội chủ mà làng văn làng báo xứ này, ai dám ngồi
chung một chiếu với Tản Đà?” [53, 39].
“Làng văn làng báo xứ này, ai dám ngồi chung một chiếu với Tản Đà?”,
câu nói ấy của tác giả “Vang bóng một thời” nổi tiếng ngông và tài hoa cho
thấy vai trò, vị trí rất lớn của Tản Đà lúc bấy giờ.
2.4.2. Trong mối quan hệ tương khắc: Phạm Quỳnh
Mối quan hệ giữa Tản Đà và Phạm Quỳnh, thực ra là mâu thuẫn giữa hai
người, là câu chuyện thu hút sự chú ý của nhiều người. Đó là cuộc tranh luận
của hai văn sỹ, đồng thời là chủ bút của hai tờ báo. Nó thể hiện sâu sắc những
quan điểm, tư tưởng trái chiều của hai ông. Tản Đà đại diện cho luồng tư
tưởng mới, với những cách tân, đổi mới, ít nhiều mang tính phá cách còn
Phạm Quỳnh là chuẩn mực của những tư tưởng giáo điều truyền thống với
61
những khuôn mẫu, rào cản phong kiến. Mâu thuẫn của hai người không chỉ
đơn thuần là mâu thuẫn cá nhân mà còn là tiêu biểu cho cách nhìn, quan điểm
của hai phái khác nhau trong bối cảnh xã hội giao thời lúc bấy giờ.
Mâu thuẫn giữa hai người được châm ngòi bắt đầu từ việc Phạm Quỳnh
mỉa mai, chế giễu cuốn “Giấc mộng con” (xuất bản năm 1917) của Tản Đà.
Trên báo Nam Phong số 7, tháng 1/1918, với bài viết nhan đề “Mộng hay
mị”, Phạm Quỳnh đã dành cho “Người mộng” Tản Đà những lời lẽ mỉa mai,
cay độc:
“Đương buổi quốc văn mới phôi thai này, trông thấy xuất hiện một người
nào có biệt tài về nghề nôm, quốc dân tất ai ai cũng vui lòng mà đón rước.
Nhưng phải hiểu rằng trong sự hoan nghênh ấy, phần sự thực cũng có mà
phần hy vọng cũng nhiều. Ông Khắc Hiếu từ khi xuất bản tập “Khối tình
con”, được mấy bài thơ văn từ khúc, có giọng mới, có ý lạ, được quốc dân
nhiều người cổ võ, cũng là để tưởng lệ mà mong cho cái văn nghiệp ông mỗi
ngày tinh tiến mãi lên. Chớ cứ bình tĩnh mà nói, mấy bài đoản văn, mấy câu
dặm dò, dù hay đến đâu, khéo đến đâu, cũng chưa đủ làm sự nghiệp một nhà
văn sỹ. Nếu có thế mà đủ xưng là bậc thiên tài thì cũng khá thương thay cho
cái hậu vận quốc văn ta. Nhưng ông Hiếu xem ra không hiểu nhẽ đó”.
Bài “Mộng hay mị”, Phạm Quỳnh cũng chủ yếu phê phán Tản Đà chứ
không phải là một bài phê bình tác phẩm.
Về mẫu thuẫn giữa Tản Đà và Phạm Quỳnh, Khái Hưng trong bài “Cái
duyên của Tản Đà” (1939) viết: “Sự hiềm khích giữa hai nhà văn họ Phạm và
họ Nguyễn trong làng văn còn ai không biết. Tản Đà xuất bản “Khối tình
con” được ông Phạm Quỳnh khen. Nhưng thi sĩ vừa cho ra đời quyển “Giấc
mộng con” liền bị ông chủ bút Nam Phong công kích bằng những lời mát mẻ.
62
Thế là hai người bạn trở nên hai kẻ thù. Rồi trong văn giới, trong nước
nữa, họp thành hai phái - không phải văn phái- phái Phạm Quỳnh và phái
Tản Đà, công kích nhau, nói xấu nhau, hằn học nhau”.
Mâu thuẫn giữa hai ông chủ báo được nhiều người quan tâm và muốn tìm
ra một lời lý giải về thực chất vấn đề. Một người ký tên X.X trong “Bài học
Tản Đà” trên 1 tờ báo ở Sài Gòn đã viết:
“Tôi còn nhớ trên tạp chí Nam Phong, chính Thượng Chi đã phê phán
Tản Đà 1 cách rất khéo léo. Ông chủ bút Nam Phong cũng nhìn nhận thi tài
của Tản Đà nhưng chê tác giả đã đi sai đường… Bài phê bình như thế có
công dụng là đuổi nhà thi sĩ ra khỏi “sở làm” của các ông. Nhà thi sĩ buộc
lòng phải tách khỏi tập đoàn của mấy nhà “học phiệt” … Còn mấy nhà “học
phiệt” thủa đó chỉ là những tay sai của thực dân. Họ có ưu thế, có những đặc
quyền, họ không muốn chia sớt cho ai và do đó mà nhà thơ bị loại”.
Trong những lời lẽ rất sâu cay này, Phạm Quỳnh đã bị mỉa mai là tay sai
của thực dân và tờ Nam Phong tạp chí của ông được ví với “tập đoàn của mấy
nhà học phiệt”. Mâu thuẫn giữa Tản Đà và Phạm Quỳnh, dưới cách phân tích
của tác giả trên, chính là mâu thuẫn giữa hai phái làm báo khác nhau. Một là
những tờ báo tay sai của chính quyền thực dân, được hưởng đặc quyền đặc lợi
thì dễ dàng hoạt động nhưng lại bị chửi là hèn mạt, phản quốc, ôm chân chính
quyền. Còn những người làm báo như Tản Đà thì đại diện cho một luồng tư
tưởng mới nhưng bị chèn ép và không cẩn thận lại bị chính quyền thực dân gõ
vào đầu. Tác giả giấu tên trên lý giải rằng sở dĩ Phạm Quỳnh “chê Tản Đà đi
sai đường” và công kích ông là bởi Phạm Quỳnh nhìn nhận thấy rõ thi tài của
Tản Đà nên “muốn đuổi nhà thi sĩ ra khỏi “sở làm” của các ông” để dễ bề
hoạt động. Điều này phản ánh rất rõ môi trường hoạt động báo chí phức tạp,
nhạy cảm trong giai đoạn giao thời lúc bấy giờ khi có sự va chạm và mâu
thuẫn giữa cái mới và cái cũ.
63
2.5. Những giới hạn của ký giả Tản Đà và mâu thuẫn của một nhà Nho làm báo
Trong tạp bút “Tản Đà, kẻ làm loạn với mình”, Dương Nghiễm Mậu đã
có những phân tích, lý giải khá sâu sắc về những mâu thuẫn cũng như bi kịch
của con người Tản Đà: “Đời sống Tản Đà là tất cả nỗi bi đát của kẻ bất lực
hẩm hiu trong số mệnh. Là phản ánh sự ngây thơ lạc lõng của một thế hệ ở
giữa thời buổi nhá nhem của một hoàn cảnh lịch sử bi đát: Sự mất tự chủ của
xứ sở, sự thay đổi của văn hóa từ cũ sang mới, từ văn minh truyền thống sang
văn minh Thái Tây” [4, 39].
Như vậy, mâu thuẫn cũng như giới hạn trong con người Tản Đà chịu sự
chi phối rất lớn của hoàn cảnh lịch sử- xã hội lúc bấy giờ. Chúng tôi xin khái
quát một số nét cơ bản về hoàn cảnh lịch sử- xã hội, văn hóa- văn học-báo chí
giai đoạn giao thời để đưa ra những lý giải cũng như có một cái nhìn đầy đủ
nhất về “hiện tượng” Tản Đà.
* Những sự kiện lịch sử - xã hội - Tản Đà là một nhà Nho buổi giao thời, chịu tác động của một thời kỳ
thoái trào cách mạng. Đây là giai đoạn các phong trào yêu nước và duy tân
thất bại, các phong trào yêu nước theo đường lối duy tân chưa hình thành.
- Xã hội Việt Nam chuyển mình 1 cách đau đớn, nhục nhã sang hướng tư
sản. Nền kinh tế bản xứ lạc hậu tự cổ xưa bị phân hóa, cả xã hội bị kéo vào
quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.
- Tầng lớp trí thức nho học trước sự thay đổi của diện mạo xã hội, đã có
dịp qua Tân thư chữ Hán mà đến được với một ít ánh sáng văn hóa phương
Tây.
* Những sự kiện văn chương - Khoảng 30 năm đầu thế kỷ 20, văn học Việt Nam có bước quá độ từ
văn học trung đại chuyển sang văn học hiện đại. Ra đời tiếp sau nền văn
64
chương phong kiến, giai đoạn văn chương buổi giao thời phải đối mặt với
hiện thực xã hội lúc bấy giờ, dẫn đến sự đối lập giữa văn chương yêu nước và
văn chương nô dịch, giữa văn chương phong kiến và văn chương tư sản.
- Tản Đà là một nhà nho khác với lớp nhà nho chính thống, do hoàn cảnh
xã hội và hoàn cảnh riêng của mình, ông cầm bút sắt để trở thành cây bút
chuyên nghiệp viết văn, làm thơ, làm báo. Ông chọn nghề thi sỹ và viết báo
vào thời văn thơ đang chuyển thành một thứ hàng hóa xã hội, đã là 1 nhu cầu
của công chúng, đã được đưa ra thị trường. Đem “văn chương đi bán phố
phường”, thi sỹ đã chấp nhận thử thách, chấp nhận định mệnh nghiệt ngã
bằng một bản lĩnh, một tài năng:
Còn trời, còn đất, còn non nước Còn có văn chương bán phố phường
Một Tản Đà ký giả - văn nhân thì đã rõ. Còn một Tản Đà của đời sống
hiện thực thì như thế nào? Trong bài “Phác họa hình dung và tâm tính thi sỹ
Tản Đà”, Lan Khai đã mô tả như sau: “Thi sĩ Tản Đà là một người đàn ông
đẫy đà, hơi thấp; đầu đội chiếc khăn xếp không che kín mái tóc cắt theo kiểu
bàn chải, mình mặc áo sa tanh bóng. Thi sỹ có một gương mặt nở nang và
thường đỏ hồng vì men rượu. Tiên sinh nổi tiếng về rượu cũng như về thơ.
Tiên sinh lại tự bào chữa trước sự đùa cợt của thế nhân bằng hai câu thơ rất
tài tình: Đất say, đất cũng lăn quay/Trời say, mặt cũng đỏ gay ai cười? [62,
60].
Theo Nguyễn Mạnh Bổng thì thời Tản Đà làm báo, ông có tự tay vẽ một
bức địa đồ Việt Nam để bày trên văn án và đi đâu cũng mang theo cho đến lúc
rách vẫn cứ giữ. Trên An Nam tạp chí có đăng bài “Vịnh bức dư đồ rách” ấy
như sau:
Nọ bức dư đồ thử đứng coi
65
Sông sông núi núi khéo bia cười Biết bao lúc mới công vừa vẽ Sao đến bây giờ rách tả tơi Ấy trước ông cha mua để lại Mà sao con cháu lấy làm chơi Thôi thôi có trách chi đàn trẻ Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi.
Bồi bức dư đồ rách là bồi đắp lại giang sơn tổ quốc bị ngoại xâm giày
xéo. Ông có chí bồi đắp giang sơn bằng cách nào? Đó chính là cách dùng văn
đàn, nhất là tờ An Nam tạp chí, nơi hô hào cảnh tỉnh quốc dân đồng bào.
Điểm qua cuộc đời làm báo của Tản Đà với một số dấu ấn, chúng ta có thể
thấy rõ điều đó.
Chí khí “bồi bức dư đồ” đã phát lộ mầm mống ngay từ thủa Tản Đà còn
là cậu học trò theo học ở trường Tân Quy (Hà Nội) và viết bài “Âu Á nhị châu
hiện thế” được một phóng viên Tàu ở Hà Nội gửi về một tờ báo Trung Hoa
đăng vào mục xã thuyết. Sau này khi ông Nguyễn Tài Tích tạ thế, Tản Đà
phải ra đời thực thụ đã chọn con đường viết văn, làm báo chuyên nghiệp để
làm kế sinh nhai. Được cụ Trịnh Xuân Nham, cử nhân giáo thụ trường Hậu bổ
giới thiệu cho Nguyễn Văn Vĩnh và Tản Đà tuy có viết cho Đông Dương tạp
chí nhưng vì nghề báo chưa phát đạt nên Nguyễn Văn Vĩnh lúc bấy giờ chưa
thể sắp xếp cho Tản Đà một vị trí rõ rệt trong toà soạn.
Khi Nam Phong tạp chí thành lập, những tưởng Tản Đà có đất dụng văn,
nhưng Phạm Quỳnh đã bình phẩm quá nặng “Giấc mộng con” của Tản Đà, vì
thế việc làm Nam Phong tạp chí cũng không xong.
Mấy năm sau, vì trọng văn của Tản Đà nên hội “Bắc kỳ công nông
thương tế” nhờ ông làm chủ bút cơ quan ngôn luận của hội: tạp chí Hữu
Thanh. Dưới đây là bài thơ chào độc giả của Tản Đà trong số ra mắt.
Tạp chí ra đời gọi “Hữu Thanh”
66
Chim tìm tiếng bạn mượn để danh Dám đâu sườn núi kêu con phượng Âu cũng trên cành học cái oanh Nam Bắc hỡi ai đường tiến hoá! Đông tây nào những sách văn minh? Hai mươi nhăm triệu đồng bào thanh cả, Hữu ái mong ai một chút tình
Trung Nam Bắc, chị cùng em Chị em trông đó con chim gọi đàn Chim kia còn biết gọi đàn Chút tình hữu ái chị bàn cùng em
Vẫn một giọng hô hào rất hăng hái, say mê. Tản Đà cũng ôm mộng dùng
tờ báo để làm cuộc cải cách văn hóa, qua đó đưa xã hội tiến lên: Nam Bắc hỡi
ai đường tiến hoá!/Đông tây nào những sách văn minh? Nhưng rồi cũng
không thành vì phải tuân theo những khuôn khổ, ràng buộc của một tổ chức
chính trị- xã hội. Tản Đà không chịu bó mình với quy củ nên bất đắc chí với
Hữu Thanh mà từ chức. Thế là tiếng gọi đàn gióng lên được nửa năm thì đã
có lời tạm biệt:
Mới nửa năm giời báo Hữu Thanh Biệt ly lai láng biết bao tình! Chút tình hữu ái bao thương nhớ Tiếng gọi đàn xa núi tản xanh
Từ giã Hữu Thanh về quê được ít lâu, Tản Đà cùng ông Nghiêm Thượng
Văn, Đặng Đức Tô lập ra Tản Đà thư cục ở Hàng Gai, dịch được thiên Quốc
phong, Kinh thi, sách Đại học, soạn được cuốn Quốc sử huấn mông…
Có lẽ vì thấy sách in ảnh hưởng kém sâu rộng so với báo chí nên ông đã
cố xin phép ra An Nan tạp chí rồi từ đó suốt đời lận đận với đứa con tinh thần
đó.
67
Báo quán lần đầu ở Hàng Lọng, gần ga Hàng Cỏ. Số ra mắt có bài của
Tản Đà với nhan đề:
Sông cái chiếc thuyền nan Thả chiếc thuyền nan bé tẻo teo Cũng buồm cũng cột cũng dây lèo Nghìn trùng sóng gió, ba khoang nước Bốn mặt non sông một mái chèo Những hẹn nước mây thu mấy độ Thử xem trời biển rộng bao nhiêu? Con đường vô hạn vui chăng tá Mà hỡi dòng sông tiếng nước reo.
Hình ảnh chiếc thuyền nan “bé tẻo teo” nhưng lại mang trên mình một sứ
mệnh lớn lao và đối mặt với biết bao hiểm nguy, thác ghềnh: “nghìn trùng
sóng gió”, “bốn mặt non sông”… Vậy mà con thuyền ấy vẫn ra khơi đầy khí
thế và niềm vui với tiếng nước reo, với con đường vui, tiếng mái chèo khua
nước. Chiếc thuyền nan chính là hình ảnh ẩn dụ của An Nam tạp chí trong
buổi đầu ra mắt đầy hào hứng. Tản Đà đã kín đáo gửi gắm trong đó niềm tin
và mơ ước của mình về một con đường lập thân, thành danh mới của mình.
Đằng sau cách ví von “thuyền nan” đối mặt với “sóng dữ” còn là niềm tự hào
của Tản Đà khi là người chèo lái con thuyền ấy.
Nhưng rồi, số phận An Nam tạp chí cũng mong manh như chiếc thuyền
nan trên sông sóng lớn. Báo bị đình bản ở Hà Nội, Tản Đà vào Nam Định nhờ
ông Diệp Văn Kỳ - chủ nhiệm Đông Pháp thời báo giúp tái bản An Nam tạp
chí trong Nam:
Nước non khởi diễn nghìn trùng, Dư đồ một bức ôm lòng ra đi
Không may cho Tản Đà, thể lệ kiểm duyệt không cho phép An Nam tạp
chí được tái bản ở Nam kỳ là đất thuộc địa, Tản đà đành viết giúp Đông Pháp
68
thời báo và Thần Chung. Qua đi một thời gian, vì còn nặng nợ với An Nam
tạp chí nên Tản Đà từ biệt xóm gà Gia Định, từ biệt toà soạn Đông Pháp thời
báo và độc giả miền Nam trở về Nam Định tái bản “tờ báo nghiệp chướng
đó”.
Xóm gà tan giấc rạng vừng ô Tối đến Nha Trang rượu một bồ Trợ bút đã xin từ bác Điệp Văn chương để lại cậy thầy Ngô Dám quên Đông Pháp người tri kỷ Riêng nhớ “An Nam bức địa đồ” Hai chuyến chơi xuân thìn với mão Đi ra còn nhận những đường vô (Gửi cho toà soạn Đông Pháp thời báo)
Với Hữu Thanh, Đông Pháp thời báo hay Tiểu thuyết thứ Bẩy, Phụ nữ
tân văn… Tản Đà đều chỉ làm trợ bút, tức là đi làm báo thuê. Ông không có
quyền quyết định nội dung, định hướng tờ báo, bởi vậy, trước sau ông vẫn ôm
mộng gây dựng một sự nghiệp của riêng mình với An Nam tạp chí: Dám quên
Đông Pháp người tri kỷ/Riêng nhớ “An Nam bức địa đồ”.
Thế là An Nam tạp chí tái bản ở Nam Định. Chiếc thuyền nan trên sông
Cái dạo nào nay đã thành chiếc tàu ra khơi:
Chiếc tàu An Nam
Bốn bể năm châu náo cuộc đời Con tàu bản quốc chị em ơi. Tấm thân dầm nước đà nên sắt Tiếng hiệu vang sông mới hết còi Vồn vã gió mưa cơn giục khách Mênh mông trời bể bước ra khơi Hỏi thăm Âu Mỹ bờ đâu bến? Mở máy quay guồng quá độ chơi
69
Tản Đà gọi đó là “con tàu bản quốc”. Con tàu ra khơi với khí thế giục giã
của tiếng còi, tiếng máy quay nhưng cũng có trải nghiệm sâu lắng của một tờ
báo đã qua 2 lần đình bản với “vồn vã gió mưa”, “tấm thân dầm nước đà nên
sắt”… Nhưng con tàu tiếng thế cũng không vững chãi gì hơn thuyền nan nên
chẳng bao lâu, báo lại đình bản.
Lên Hà Nội, Tản Đà gặp ông Thắng Long và Ngô Thúc Địch cùng chung
lưng góp sức gắng tái bản An Nam tạp chí, in đi in lại rồi có lần phải cùng ông
Phó Đức Thành và ông chủ nhà in Châu Tịnh xuất bản báo ở Nghệ An. Làm
chung mãi không xong, Tản Đà tự chủ trương lấy, giúp việc có Nguyễn Công
Hoan, Nguyễn Tiến Lãng. Tản Đà có bài cảm tác như sau:
An Nam tạp chí lại ra lần thứ năm ở Hàng Bông Hà Nội cảm tác
Thần Chung lên tiếng phương Nam Phổ thông xứ Bắc ai làm tắt hơi? Duy Tân thôi đã cũ rồi Đông Tây lại cũng đi đời đằng mô! Khóc ai! Riêng cũng mừng cho An Nam tạp chí dư đồ còn đây Mới xưa Hàng Lọng cờ bay Thứ năm lại có phen này Hàng Bông Cuộc đời xoay chuyển lung tung Mà trong báo giới tranh hùng những ai? Thức lâu mới biết đêm dài Tiền chưa mạnh sức mà tài cũng thua! Hơn nhau một bức dư đồ Khi thiêng sông núi hộ phù nước non Hơn nhau một tấm lòng son Cho người chung nước, chung non, chung tình Đêm thu, gió thoảng bên mình Sạch đem tâm sự bất bình thôi xuôi Bút hoa chép lại đôi lời Đưa ai bốn bể là người tình chung
70
Đi về xin nhớ Hàng Bông
Báo ra lần thứ 5, An Nam tạp chí không còn giọng khảng khái, hối hả của
con tàu ra khơi, nhưng vẫn còn nguyên hoài bão về một tờ báo vững vàng
trước sóng gió, giữa thời buổi cạnh tranh của nhiều tờ báo khác nhau. Lúc bấy
giờ, việc một tờ báo bị đình bản không phải là hiếm. Nhiều tờ báo cũng cùng
chung cảnh ngộ như An Nam tạp chí: Thần Chung, Phổ thông xứ Bắc, Duy
Tân, Đông Tây… Chỉ có điều, những tờ báo này ra một lần rồi chết hẳn chứ
không tái bản đi tái bản lại tới…6 lần như An Nam tạp chí. Điều này đủ để
thấy nghị lực và khát vọng với sự nghiệp báo chí của nhà văn núi Tản sông
Đà lớn tới nhường nào.
Đã đành là Tản Đà hơn người “một tấm lòng son” nhưng không vì thế mà
An Nam tạp chí trường thọ hơn. Báo ra sau đó ít lâu lại tự đình bản!
Không phải trông nom báo, Tản Đà dịch Đường thi cho báo Ngày Nay,
chú thích Truyện Kiều và dịch Liêu Trai cho nhà xuất bản Tân Dân. Mộng
giữ cho An Nam tạp chí sống đến vạn thiên thu tới đây hoàn toàn bị xẹp:
Biết bao ra Bắc vào Nam Bức dư đồ rách đã cam khó lòng!
Đến đây, Tản Đà đã hoàn toàn chịu chấp nhận thất bại sau quãng thời
gian bao năm lận đận vào Nam, ra Bắc. Mộng ước bồi bức dư đồ rách đến đây
đã vĩnh viễn không thành. Ông hạ bút viết về thất bại với An Nam tạp chí một
cách xót xa: Bức dư đồ rách đã cam khó lòng!
Câu chuyện về cuộc đời làm báo lận đận của Tản Đà là một “sự kiện” với
làng văn, làng báo lúc bấy giờ, thu hút sự chú ý của nhiều người. Báo Phong
hoá đổi mới (số 14, bộ mới, ngày 22/9/1932) có bài giễu cợt Tản Đà bị trời
phạt. Đó là bài của Khái Hưng Trần Khánh Dư dưới bút hiệu Bán Than. Bên
bài thơ là bức tranh hài hước về Tản Đà tay cầm bút lông, tay nâng cốc rượu,
chung quanh chai bố, chai con ngổn ngang:
71
Trời đày Nguyễn Khắc Hiếu
Trong phòng khách cụ Trời Cậu nhỏ dưng văn bôi Sảy tay đánh rơi vỡ Nguyễn Khắc Hiếu ra đời
Từ khi Hiếu xuất thế Vẫn nhớ cảnh thiên tiên Bữa cơm thường phải rượu Nhưng túi lại rỗng tiền
Liền xoay nghề văn chương, Viết bừa bán phố phường Thơ chạy tha hồ uống Say khướt suốt đêm trường Rượu ngon thức nhắm ngon Giọng văn lại càng dòn Khối tình con, tình lớn Giấc mộng lớn, mộng con
Thích chí nằm ngâm nga Tiếng động vang Ngân Hà Trời hỏi: Ai ngâm thế? Muôn tâu : Ông Tản Đà
Trời nổi trận lôi đình Rằng: Cái thằng tiên ranh! Ta đày xuống hạ giới Để hắn chịu nhục hình
Ai ngờ hắn vẫn nhàn Ngày tháng ngâm thơ tràn Các người, ai có cách Bắt hắn phải gian nan?
Chư tiên đồng thanh nói Tội nặng nhất trần gian
72
Là bắt anh Khắc Hiếu Làm chủ bút An Nam
Bài thơ đã dựng lên một hình ảnh đầy tính biểu cảm và hài hước nhưng
cũng rất đúng chất… Tản Đà. Sự giễu cợt Tản Đà ở đây chỉ là sự mua vui, hài
hước chứ không phải là đả kích sâu cay. Bởi vậy, bài thơ giống một hoạt cảnh
được dàn dựng rất sinh động và chân thực về con người, cốt cách Tản Đà với
tài thơ, tài rượu và lối sống phóng túng. Đặc biệt, việc Tản Đà mang văn
chương bán phố phường và làm chủ bút An Nam được ví là “tội nặng nhất
trần gian”. Nó là một cách nói cho người đời sau thấy Tản Đà đã lao tâm, khổ
tứ và đã phải gian nan như thế nào trên con đường làm báo.
Tuy giễu cợt Tản Đà nhưng chính báo Ngày Nay đã mở mục dịch thơ
Đường cho Tản Đà thi thố sở trường của mình.
Vậy nguyên nhân Tản đà thất bại trong nghề báo là do đâu? Vì đâu mà
Tản Đà phải vất vả, long đong đến vậy trong nghề báo?
Thiếu Sơn trong “Phê bình và cảo luận” đã lý giải:
“Đã chủ trương một cơ quan ngôn luận, lý ưng phải có giọng dạy đời.
Song nói cái nghề dạy đời, nó không phải là cái sở trường của ông, thì sao
ông không lại “ru đời” là cái việc Tạo hoá đã trao cho ông…” [31, 42].
Theo Thiếu Sơn, sở dĩ Tản Đà không thể thành công và thành danh với
An Nam tạp chí là do “cái nghề dạy đời không phải là sở trường của ông”.
Mà với một cơ quan ngôn luận, một tòa báo, đó lại là điều cốt yếu. Tức là Tản
Đà sinh ra để mơ mộng với thơ và rượu, và ông hợp với những gì phóng túng,
tiêu dao chứ không phải là giọng trịnh trọng, kẻ cả dạy đời.
Còn theo Ngô Tất Tố, người đã từng cộng tác nhiều với Tản Đà trong
nghề báo thì nguyên nhân sự thất bại đó là ma men. Trong tạp chí Tao đàn số
đặc biệt về Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu số ra ngày 1/7/1939, Ngô Tất Tố viết:
73
“Nguyên nhân làm cho tờ tạp chí ấy phải chết là rượu. Đành rằng nếu
không có rượu thì ông Tản Đà sẽ không thành ông Tản Đà. Nhưng trong khi
nó làm ông Tản Đà thành ông Tản Đà chính nó cũng là thủ phạm làm cho An
Nam tạp chí không có bài đưa cho nhà in”.
Việc đổ lỗi sự thất bại của An Nam tạp chí là do rượu cũng chỉ là một
cách nói. Giới hạn của Tản Đà thể hiện ở chỗ, một mặt, ông kiên quyết, đam
mê theo đuổi sự nghiệp nhưng mặt khác, vẫn có lối sống, lối sáng tác tùy
hứng, nương theo cảm xúc và bị chi phối bởi rượu. Bởi thế, ông không vượt
thoát được chính những giới hạn, mâu thuẫn đó trong chính bản thân ông.
Một trong những lý do khiến Tản Đà lận đận trong nghề báo, như ông đã
từng nhận, là do sự nghèo. Tản Đà nói đến cảnh nghèo, đến sự túng quẫn của
mình một cách rất thành thực, không chút giấu diếm. Ở ông, không có giọng
kẻ cả hay cố căng mình lên, không mỹ hóa cảnh nghèo và không nói kiểu
khẩu khí như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát. Vì nghèo nên Tản Đà phải nhờ
vào các nhà tư sản khi làm báo, mà đã nhờ là phải bị phụ thuộc, chi phối. Tản
Đà lại vốn bản chất ngông, không chịu khuất phục ai nên khó lòng chịu luồn
cúi. Bởi vậy, ông phải tự mình gồng gánh. Tản Đà ra báo An Nam tạp chí
nhưng thực ra không có đồng nào trong túi. Ông chiêu tập mấy người bạn thất
nghiệp đặt dưới quyền Ngô Tất Tố rồi đưa cả vào làng Văn Quán, thị xã Hà
Đông chuẩn bị bài vở, còn Tản Đà thì đi vay tiền. Vay không được, Tản Đà
chỉ còn biết thở dài. Ngô Tất Tố nhận đi vay hộ, Tản Đà dặn: “Dù cho lãi bốn
mươi phân cũng cứ vay”, nhưng Ngô Tất Tố cũng thất bại. Đi vay lãi để lấy
tiền làm báo, khi ấy, có lẽ cũng chỉ có riêng mình Tản Đà. Đối mặt với cơ chế
thị trường, phải tự xoay sở, chạy vạy, Tản Đà đã bộc lộ rõ những hạn chế của
một nhà Nho trước thời cuộc mới. Đó là sự ngây thơ của cả một thế hệ trước
ngưỡng cửa của cơn lốc Âu hóa, của Tân văn, tân thư và những luồng văn
74
hóa, tư tưởng mới. Tài năng, khát khao, nỗ lực thôi không đủ để Tản Đà lập
nên sự nghiệp lớn.
Chuyện lận đận do sự nghèo của Tản Đà khi làm báo còn được nhà văn
Lan Khai (1906 - 1945), đệ tử một thời của Tản Đà kể lại trong một hồi ký
xúc động với bút danh Lâm Tuyền Khách:
“Năm 1929, An Nam tạp chí ra đời ở số 1 Francis Garnier trên một căn
gác rộng rãi trông thẳng ra hồ Hoàn Kiếm. Lần này tiên sinh hợp tác với một
ông ấm ở Hàng Gai. Sở dĩ có sự hợp tác ấy là do một lẽ về tiền tài. Hồi ấy,
tiên sinh còn thiếu ông ấm nói trên một số tiền độ vài trăm đồng nên ông này
muốn cho An Nam tạp chí lại ra đời để có dịp thu lấy nợ. Ông chỉ đứng trông
nom về mặt tiền tài, mọi khoản chi tiêu của tòa soạn, còn Tản Đà tiên sinh chỉ
trông nom về văn bài. Cho nên trên bìa An Nam tạp chí hồi đó có những danh
từ “chủ nhân” và “chủ sự” rất lôi thôi.
Sớm có khuynh hướng về văn chương nên năm đó tôi thường có bài lai
cảo trong An Nam tạp chí, tuy còn đang đi học ở Hà thành. Tôi đang ao ước
được gặp tiên sinh thì một hôm, bạn tôi, anh Nguyễn Danh Đăng, cháu gọi
tiên sinh bằng chú, đưa tôi đến giới thiệu với tiên sinh. Tôi không còn nhớ rõ
cái cảm giác của tôi lúc ấy như thế nào, nhưng tôi, một người vẫn hâm mộ
tiên sinh, mê văn tiên sinh hơn mê gái, được tiên sinh tiếp kiến hẳn trong lòng
phải thấy sung sướng như có thánh phúc được trông thấy một đấng thiêng
liêng mà xưa nay mình vẫn thờ trong tâm tưởng...
Tiên sinh tiếp tôi rất niềm nở: “Thưa cụ, tôi đến đây với một ý muốn
được cụ thu dụng trong tòa soạn, để được luôn trực tiếp với cụ và mong cụ để
tâm rèn luyện cho”. Tiên sinh đáp: “Rất vui lòng, nhưng tôi hỏi thật “cậu
đồ” có cần một số lương hàng tháng để cấp đỡ gia đình không?”. “Thưa cụ,
vì yêu mến văn chương mà đến đây hầu cụ, thực không dám có một mảy may
ý nghĩ về tiền tài. Vả, tôi thực chưa đến tuổi đi kiếm tiền để nuôi gia đình”.
75
“Nếu vậy hay! Cậu đồ ạ, lương chủ bút như tôi đây cũng chỉ có mỗi ngày hai
bữa rượu mà thôi! Vậy thì hãy tạm “phong” cho cậu làm thư ký tòa soạn nhé!
Cậu đã yêu mến cái nghề văn tự này, tuy nó là một nghề bạc bẽo nhưng cũng
phải thành tâm với nó thì mới làm được. Có thành tâm với nghề mới thành
nghề. Nếu bây giờ đi buôn gỗ lãi ngay tiền vạn, Hiếu đây cũng không buôn.
Bổ đi làm Tổng đốc lương tháng bốn trăm, Hiếu đây cũng không làm. Hiếu
chỉ phụng sự nghề thơ văn mà thôi...”. Sau những lời khích lệ ấy, tiên sinh thu
dùng tôi như một tiên ông thu dùng đồ đệ... Thế rồi, với cái tuổi còn non nớt,
với cái học lực còn thiển cận, tôi đã bỏ cái đời học sinh vui thú để làm thư ký
riêng cho một ông chủ báo, và hơn nữa, một nhà thi sĩ có danh.
Công việc của tôi không lấy gì làm khó khăn, chỉ phải sao chép những
bài tiên sinh đã viết ra, nhận thư từ các nơi gởi đến, trả lời khi độc giả hỏi
những việc thường, và nhất là khi có khách, đem văn của tiên sinh mới viết ra
đọc cho khách nghe. Kể trong mấy trăm lá thư mà tay tôi đã bóc, có một cái
khiến tiên sinh, khi nghe tôi đọc phải bồi hồi cảm động. Đó là lá thư của một
nữ sinh lớp đệ tứ (4e anée) trường Đồng Khánh (Huế). Trong thư, cô ca tụng
thi tài của tiên sinh và chúc mừng An Nam tạp chí lại ra đời. Ở cuối thư, sau
khi xin tiên sinh một tấm ảnh, cô viết: “Thưa tiên sinh, con dám tin rằng tiên
sinh cũng như thi hào Vitor Hugo nước Pháp, rất có lòng yêu mến con trẻ.
Vậy trước khi dừng bút, tiên sinh cho phép con được nói thế này: “Je vous
embrasse tendrement, mon chéri, papa !” (tạm dịch: Cho con được trìu mến
ôm cha - Người yêu của con!). Tiên sinh đọc cho tôi viết trả lời bức thư ấy,
sau khi cảm ơn những thiện cảm của cô dành cho mình và An Nam tạp chí,
tiên sinh nói bình sinh mình chưa chụp ảnh bao giờ nên không có ảnh để tặng
cô. Rồi để tạ lại tấm lòng yêu mến của cô đã coi mình như cha, cuối thư tiên
sinh bảo tôi viết: “Je vous embrasse tendrement ma chère enfant.” (tạm dịch:
Cha trìu mến ôm con, con gái thân yêu ạ!). Ký tên: “papa Tản Đà”. Tiên sinh
76
coi đó cũng là một chuyện rất lý thú trong đời thi sĩ của mình, cũng như câu
chuyện “rau sắng chùa Hương” khi trước vậy!
Ngày nào nhiều việc, tiên sinh thường giữ tôi lại, ăn ngủ ở đấy. Ban ngày
tiên sinh không làm việc, chỉ uống rượu, nói chuyện hay đọc sách. Cứ vào
khoảng hai ba giờ sáng, lúc ấy là lúc thành phố Hà Nội đã ngủ im, tiên sinh
mới trở dậy thắp nến viết văn cho đến sáng...
Được gần một tháng. Một buổi sáng kia, tôi vừa đến tòa soạn thì... trời
ơi, một cảnh tượng đã khiến tôi, hồi ấy mười bảy tuổi, đã thấy đời thực xấu
xa, mà ngao ngán cho đời các văn gia, thi sĩ ở cái xã hội Việt Nam thiếu lịch
sự và không biết trọng nhân tài này. Tôi thấy một người đàn bà to béo, mặt
đanh ác đang nhảy lên như một người hóa dại, sỉa sói những câu nói rất tục
tằn, thô bỉ vào trước mặt nhà thi sĩ lúc ấy đang điềm nhiên ngồi trên ghế dựa
với một nụ cười khinh bỉ... Thấy tôi đến, tiên sinh gọi: “Đi thôi, cậu đồ ơi!”.
Tôi lục trong tủ thấy hai cái tay nải không biết để đấy tự bao giờ. Tôi đem
bao nhiêu sách vở (phần nhiều bằng chữ Hán) và quần áo của tiên sinh sắp
vào đấy, rồi - như một anh hàng tấm gánh hàng đi chợ - tôi, theo lời tiên sinh
dặn, gánh chạy trước ra bến tàu điện Hà Đông. Một khắc sau, tiên sinh áo sa,
nón dứa, guốc kinh, ung dung bước lên tàu. Tuy văn chương hạ giới thật có rẻ
như bèo, nhưng lần này tôi gánh văn hầu tiên sinh không phải đem lên bán
chợ trời, nhưng để đi vào làng Văn Quán trong Hà Đông lánh nạn.
Sau này tôi được biết sở dĩ có cuộc xô xát với người đàn bà vạm vỡ và
bất lịch sự ấy là vì tiên sinh nhận thấy người ta đã ỷ vào số nợ để bức hãm,
lợi dụng mình nên muốn cùng mấy người bạn thân, trong đó có ông Kính Đài
Nguyễn Thống, lập lại Tản Đà thư cục, lấy lại An Nam tạp chí ở trong quyền
chi phối của ông ấm Hàng Gai. Miếng mồi ngon nào ai chịu bỏ, nên người ta
đã nhẫn tâm phá đám bằng một cách tục tằn đó...
77
Tiên sinh có gia quyến trong Văn Quán. Tôi ở đó với tiên sinh trong ít
hôm. Rồi một buổi sáng, ở trước ga Hàng Cỏ, tiên sinh cầm tay tôi ngậm
ngùi: “Tôi rất cám ơn cậu đồ đã thành tâm với tôi từ bấy đến nay. Nhưng bây
giờ là lúc thầy trò ta phải tạm biệt nhau trong ít lâu...”. Tiên sinh đi Nam. Tôi
trở lại Hàng Trống để nối lại cái đời học sinh của tôi bị lũng đoạn. Từ ngày
ấy đến nay, đã mười năm rồi...” [72, 64].
Câu chuyện trên phần nào giúp ta hiểu được vì sao Tản Đà có đủ nỗ lực
để tái bản An Nam tạp chí tới 6 lần. Đó là bởi thái độ điềm tĩnh, ung dung
trước những biến cố và phần nào là việc tách mình ra khỏi hoàn cảnh trớ trêu
của hiện thực, tự coi mình đứng trên mọi thứ tầm thường của cuộc sống và
những quy luật nghiệt ngã của đồng tiền thời cơ chế thị trường. Nhưng ngược
lại, cung cách làm việc rất amature của Tản Đà cũng là nguyên nhân khiến
ông không thể tạo dựng một sự nghiệp lớn ổn định, bền vững. Ảnh hưởng của
lối tư duy cũ khiến Tản Đà vẫn chưa thể tách bạch được việc dấn thân vào
nghề báo như là một nghề nghiêm túc với một công việc thảnh thơi, tiêu dao,
thích thì làm, không thích thì nghỉ. Mặc dù trong tư tưởng, ông xác định rất rõ
con đường mình phải đi: “Nếu bây giờ đi buôn gỗ lãi ngay tiền vạn, Hiếu đây
cũng không buôn. Bổ đi làm Tổng đốc lương tháng bốn trăm, Hiếu đây cũng
không làm. Hiếu chỉ phụng sự nghề thơ văn mà thôi...”. Câu nói khảng khái
của nhà văn núi Tản sông Đà thể hiện niềm đam mê của ông đối với sự
nghiệp văn chương. Tản Đà làm báo không phải chỉ để kiếm tiền mà còn vì
muốn gây dựng một sự nghiệp và thành danh với nó. Bởi thế, dù tự nhận và
hiểu rất rõ văn chương là nghề bèo bọt nhưng ông vẫn dấn thân và ngạo nghễ
coi nó là một nghề thời thượng và có giá ngang với những nghề kiếm được
bộn tiền lúc bấy giờ.
“Ngông” có thể coi là tính cách nổi bật, thậm chí, có người ví là “đặc
sản” của Tản Đà. Nó khiến ông không thể trộn lẫn vào đâu, không thể nhầm
78
với bất cứ ai, nhưng chính cái khác người ấy khiến ông trở nên lạc lõng và
cũng chính là một trong những nguyên nhân thất bại của ông trong nghề báo
khi hó tìm được tiếng nói chung với mọi người.
Vũ Bằng kể: "Người như Tản Đà để ở xa mà kính trọng cảm phục thì
được, chứ ở gần thì không thể nào chịu nổi!". Lưu Trọng Lư nhận xét: "Gặp
Tản Đà một bận thì thật là một điều khoái trá vô cùng, gặp ông ấy lần thứ hai
thì vẫn còn là một cái vui thích đã bắt đầu gượng gạo, và gặp đến lần thứ ba
thì là một điều khó chịu. Và lần thứ tư, thứ năm... thì xin thú thực là một... tai
nạn". Phan Khôi, được xem là khắc tinh với Tản Đà trên văn đàn, trong "Tôi
với Tản Đà thi sỹ" viết: Cái lối đánh chén của ông Hiếu kề cà mất thì giờ lắm,
tôi không chịu được, nên ít khi tôi ngồi trọn bữa rượu với ông. Ông đem hỏa
lò để ở bàn mà tự làm lấy món ăn, có khi mãn một tiệc ăn người nhà phải
thay than trong hỏa lò đến năm sáu bận. Thường thường một mình ông vừa
ăn uống lại vừa viết nữa. Ông cho có thế mới là thú” [62, 44].
Chính Tản Đà cũng thường tự coi mình là "Khổng tử chi đồ", "trích tiên",
một thế ngoại cao nhân, tỏ ra khác biệt với người dương thế. Ông thường làm
những chuyện xưa nay hiếm: theo lời Ngô Tất Tố, lần vào Sài Gòn viết báo,
Tản Đà đem theo vợ con nhưng cả lúc đến lẫn lúc đi, vợ con ông gửi cho Ngô
Tất Tố thu xếp cả. Ngô Tất Tố là bạn thân của Tản Đà, có lần phác họa về con
người ông: "Không có tiền thì rầu rĩ, oán trách, rũ người ra như con cú, thế
mà một khi có tiền thì lại không muốn làm việc gì hết, chỉ uống và ăn, hết ăn
lại uống. Chưa uống thì bảo không có rượu như cái máy không xăng nhớt
không chạy được, uống vào say rồi thì nằm khoèo ra ngủ và lý luận một mình
rằng say mà làm việc thì hỏi đời còn có cái gì thú nữa?" [43, 38]. Tản Đà còn
có tính tự phụ, không biết sửa sai, lại thích nghe nịnh nọt, Ngô Tất Tố kể:
"Không biết nghe lời anh em khuyên bảo. Cái số anh em thành thực khuyên
ông rất hiếm, còn cái số nâng ông lên, sợ cái tài ông mà không dám làm mích
79
lòng ông thì cả đống. Vì có nhiều kẻ nịnh ông một cách mù quáng như thế,
ông bị hại mà không biết, mỗi ngày mỗi tự phụ thêm lên..." [43, 52].
Đến cuối đời, Tản Đà ngậm ngùi nhìn lại sự nghiệp của mình với biết bao
lận đận mà tay trắng vẫn hoàn trắng tay. Ước mơ đổi bút lông ra bút sắt tưởng
sẽ la cơ hội để lập nên nghiệp lớn, nào ngờ “bút sắt chẳng hơn gì bút lông”:
Khi làm chủ báo, lúc viết mướn, Hai chục năm dư cảnh khốn cùng... Trần gian thước đất vẫn không có, Bút sắt chẳng hơn gì bút lông Ngày xuân như ngựa, đầu xanh bạc, Chán cả giang hồ, hết cả ngông (Tiễn ông Công lên trời).
Bản thân Tản Đà không có nhiều kinh nghiệm trong việc điều hành, tổ
chức một tờ báo theo hướng chuyên nghiệp. Trong khi đó, Tản Đà cũng
không có khả năng tập hợp được một đội ngũ đủ mạnh và dày dặn kinh
nghiệm. Đội ngũ làm báo theo ông như Ngô Tất Tố, Lan Khai… cũng mới
chập chững vào nghề và chưa thực sự hiểu cung cách làm một tờ báo. Đó hầu
hết là những môn đồ, đệ tử hâm mộ tài năng của Tàn Đà mà theo ông chứ
không ai ý thức được rõ ràng công việc mình đang làm. Đó chính là một trong
những lý do khiến Tản Đà thất bại với giấc mơ báo chí của mình.
Trong bài “Cảm tưởng gửi báo Sống” đăng trên An Nam tạp chí, Tản Đà
mới đưa ra những lý do, điều kiện cần có của một tờ báo là tài chính, sự ủng
hộ của chính quyền… nhưng một lý do quan trọng là kinh nghiệm, kiến thức
làm báo của người làm nghề thì ông không nêu tới. Tản Đà không được trang
bị đầy đủ những kiến thức làm báo nên ông làm báo một cách tùy hứng và
chịu ảnh hưởng nhiều của chủ nghĩa tự nhiên, cảm tính. Cho đến những ngày
thất bại về cuối đời cũng như lúc chết vẫn không hiểu được vì sao mình lại
thất bại với An Nam tạp chí, một tờ báo mà ông đã dồn hết tâm sức và tiền
80
bạc suốt gần cả cuộc đời. Nó xuất phát từ chính nhãn quan lịch sử và tầm nhìn
hạn hẹp của một lớp người ở giai đoạn giao thời. Nhưng nó cũng là tiền đề để
những thế hệ sau này, trong đó có những đệ tử và môn đồ của ông, thành danh
và nổi tiếng trên con đường báo chí.
Chương 3: Khảo sát mục: Việt Nam nhị thập thế kỷ xã hội thiển đàm và Việt Nam nhị thập thế kỷ xã hội ba đào ký
Sở dĩ chúng tôi chọn khảo sát hai mục này là bởi đây là những chuyên
mục mang tính hiện thực cao và là những chuyên mục hiện thực - xã hội đầu
tiên ở báo chí nước ta đi sâu vào những chuyện đời thường, những vấn đề xã
hội mang tính thời sự. Điều đó khẳng định những đóng góp to lớn của Tản Đà
đối với lịch sử phát triển của báo chí nước ta. Tính hiện thực trong những tác
phẩm này khiến chúng trở nên gần gũi với đông đảo người đọc và mang đậm
phong cách báo chí, có những ảnh hưởng, tác động nhất định đến xã hội lúc
bấy giờ.
3.1. Việt Nam nhị thập thế kỷ xã hội thiển đàm
Chữ “thiển đàm”, như chính Tản Đà đã giải thích: “Chỉ là câu nói chuyện
nông nổi không cần dùng ý tứ sâu xa gì, sự viết bài cũng chỉ cứ theo những
điều trong thấy, nghe thấy mà viết ra cho rõ nghĩa xuôi câu, quý hồ đắc thực
là hơn, không cần có lời lẽ văn chương chi hết”.
Về mục đích của “xã hội thiển đàm” là “để người ở nơi nọ được biết sự
tình ở nơi kia, kẻ sinh thủa sau được nghe câu chuyện về thủa trước. Đó là có
ích cho sự giao dịch kiến văn vậy”.
Nhìn nhận Tản Đà là nhà thơ lãng mạn bậc thầy và người khơi dòng của
văn học lãng mạn hiện đại là hoàn toàn có cơ sở, nhưng chưa đủ và chưa đúng
với Tản Đà. Ông không chỉ là một nhà lãng mạn chủ nghĩa mà còn là một cây
bút hiện thực có tầm cỡ, có nhiều đóng góp với văn học hiện thực hồi đầu thế
81
kỉ. Những đóng góp ấy có ý nghĩa là bước đi khởi đầu của dòng văn học hiện
thực thời chữ Quốc ngữ mới phôi thai. “Không chỉ dám cho trái tim và linh
hồn có quyền được sống cái đời sống riêng của chúng” mà còn có đôi mắt
quan sát và trí óc nhạy cảm để thể hiện và phân tích xã hội học hiện thực
khách quan, để lại cho đời những bức tranh hiện thực trung thực, sắc nét về
một xã hội buổi giao thời” [54, 70].
Phản ánh hiện thực của thân thế và đẳng cấp, Tản Đà đã tái hiện được
tình hình văn hóa buổi giao thời với những chi tiết cụ thể, với sự trung thực
khách quan là yêu cầu quan trọng có tính nguyên tắc đối với các tác phẩm
hiện thực chủ nghĩa. Nhưng Tản Đà không chỉ nói về mình và đẳng cấp của
mình. Cả một xã hội trên đường tư bản hóa đã phơi bày những mặt tiêu cực,
sư tha hóa của đạo đức, sự bần cùng của nhân dân lao động, sự bất công trong
xã hội, cái gọi là “muôn mặt đời thường” ấy đã được phản ánh sắc nét dưới
ngòi bút Tản Đà. Đó là những bất công và sự phân hóa giàu nghèo hiện rõ
trong mọi cảnh huống của xã hội:
“Nhớ năm ngoái tôi ăn Tết ở ấp Đồng Sành gần Hải Phòng, khoảng trưa
hôm ba mươi tết, các nhà trong ấp đã rộn sự mổ lợn cùng là tiếng giã giò mà
ngoài bờ ruộng kia vẫn có những người đi mò cua mò rạm, hỏi ra thời là
những người ấy đi kiếm cua kiếm rạm mang đem ra chợ bán để kiếm tiền Tết.
Than ôi!”.
... “Chiều hôm ba mươi tết thời mấy đứa đầy tớ giai gái xin phép về cả.
Qua ngày mồng một thành ra chỉ có hai vợ chồng ông phán mà bốn năm mâm
cỗ, sự cúng xong đã đành mà ăn sao cho hết, lại ngày tết cũng không tiện gọi
ai mà cho. Vậy rồi bao nhiều những vây, bóng, hải sâm, long tu, cứ nguyễn
bát cho cả vào trong thùng nước rác”.
(Xã hội thiển đàm, An Nam tạp chí, số 18/1931)
82
Trong mục “xã hội thiển đàm”, Tản Đà đề cập đến rất nhiều địa danh.
Đôi khi, đó chỉ là những lát cắt, những câu chuyện nhỏ được ghép vào nhau,
giữa chúng không có mối liên hệ gì. Xin dẫn ra một ví dụ:
“…Hồi tôi chơi ở Huế, ở trong nhà một người anh em bạn trông ra
đường, thấy có người con gái mặc áo lụa bạch, cổ và tay áo có đeo kiềng
vàng mà gánh một cái gánh, hai bên hai cái rổ rá đựng trong là mấy buồn
chuối và những vật như quả dưa quả bí mà thôi, trông rất là thanh nhã mà
như ở ngoài Bắc thời cái quang cảnh ấy cũng không có.
Ở Sài Gòn có hôm tôi đi chơi đêm với các người anh em bạn, thấy hai
người đàn ông, đàn bà giải chiếu mà ngủ với nhau ở trên bờ đường, một bên
ở dưới đường thời để cái xe kéo, một bên trên bờ đường thời có một cái gánh
không rõ lá gánh rau gánh quả chi đó. Tôi hỏi những người bạn thời nghe nói
chuyện rằng đó là hai vợ chồng người ta, người chồng làm xe kéo, người vợ
bán hàng rong, tối thời ngủ như thế là thường. Như thế thời Hà Nội cũng
không có cái quanh cảnh ấy.
Hồi xưa, An Nam tạp chí tạm đình bản, tôi đi chơi vào Nam. Qua Nha
Trang cùng một người bạn đi chơi ra Cửa Chuột (Chỗ cửa bể có sở làm nước
mắm theo cách mới). Chúng tôi đi xe kéo mà gặp một cái ô tô ở Cửa Chuột đi
về, ở trong ngồi một người An Nam. Cái xe ô tô ấy đi qua rồi dọc đường nghe
người bạn tôi nói chuyện về cái xe ô tô rằng:
Nguyên cái xe ô tô ấy của một sở buôn dùng đã hư hỏng, bán lại cho một
người bồi xe, giá năm trăm đồng bạc. Người ấy đem về chữa lại dùng được
bán cho ông chủ xe tức là người hiện ngồi trong xe giá tám trăm đồng…”.
(An Nam tạp chí, số 11/1930)
Chỉ trong một đoạn ngắn mà Tản Đà dẫn ra câu chuyện ở 3 nơi: Huế, Sài
Gòn, Cửa Chuột (Nha Trang). Những câu chuyện như cách ăn mặc của người
83
phụ nữ Huế khác ngoài Bắc như thế nào, cảnh hai vợ chồng người xe kéo ngủ
ở bên bờ đường ra sao, chuyện về lai lịch của chiếc ô tô bắt gặp trên đường
đi… đều được kể lại để vẽ nên bức tranh chân thực nhất về đời sống của các
tầng lớp nhân dân.
Trong mục “xã hội thiển đàm”, Tản Đà còn kể nhiều chuyện như ghé
thăm hàng sách ở Sài Gòn, tả cảnh chập tối ở Sài Gòn, chuyện uống rượu và
ăn thịt chó ở ngoài Bắc, các món ăn của người An Nam…
Hầu hết các tác phẩm trong mục này đều là những ghi chép, phản ánh
hiện thực ở thời điểm nó đang diễn ra, ít bình luận, tô vẽ. Giọng văn ở đây
chủ yếu là giọng kể, ngôn ngữ bình dân, đôi khi suồng sã.
3.2. Việt Nam nhị thập thế kỷ xã hội ba đào ký
Việt Nam nhị thập thế kỷ ba đào ký được mở ra “để hoan nghênh các bài
lai cảo của đại đa số quốc dân trong ba kỳ, cứ những điều mắt thấy tai nghe
trong khoảng ba mươi năm nay, viết gửi về cho Bản chí, Bản chí rất vui lòng
đăng tải để trước là giao dịch kiến văn mà sau thời để tài liệu cho người sau
làm sử” [51, 243, tập 3].
Chữ “ba đào” được Tản Đà giải nghĩa như sau: “Hai chữ cùng có nghĩa
là sóng, tỏ ý biến động bất thường, xưa thế nọ mà nay thế kia, nay thế này mà
mai ra thế khác. Một người riêng có cảnh huống ba đào của một người, một
xã hội có cảnh huống ba đào của một xã hội, thành quách giang sơn có cảnh
huống ba đào của thành quách giang sơn, tóm lại cùng là cái cảnh ba đào
của xã hội vậy”.[51, 244, tập 3].
Như vậy, nếu như mục xã hội thiển đàm là những sự việc, sự vật ở thời
điểm hiện tại thì mục “Ba đào ký” nhấn mạnh đến quá trình vận động, biến
đổi của nó. Tức là nhìn nhận sự việc theo quá trình, ở trạng thái động chứ
84
không phải là tĩnh. Bởi vậy, nó thể hiện được cả cảm nhận, đánh giá của tác
giả trước vấn đề hay sự vật, sự việc mà ông mô tả.
Về thể loại của mục này cũng khá đa dạng, như Tản Đã đã nêu ra: “Sự
viết bài, hoặc ký sự, hoặc thêm đàm luận hoặc theo tiểu thuyết, mặc ý”.
Xin dẫn ra một vài ví dụ:
“Tôi từ khi nghỉ việc An Nam tạp chí hồi xưa, vào Nam ra Bắc, cái cảnh
huống như sao, đã tường ở trong quyển Giấc mộng lớn. Lại như lúc bỏ đất
Vĩnh Yên đứng dậy, cửa nhà tan nát, cái công phu phí tổn hơn hai nghìn đồng
bạc, bán được bốn chục đồng. Trừ những sự chi phối quanh co, còn vừa đủ
tiền tàu cho một tên người nhà thân đưa gia quyến đi trước về Hà Nội, tạm ký
trú ở ngoại gia. Mình thời còn phải lưu lại ở Vĩnh Yên, đợi tên người nhà xuôi
Hà Nội lại lên rồi cùng đi về ga Gia Lâm, để thẳng xuống Hải Phòng cho
tiện. Trước khi chạy xuống Hải Phòng đó, thực cũng chưa rõ sẽ định nương
thân vào đâu, chỉ là ở Vĩnh Yên không yên thời phải đi, đi mà cũng không biết
đi đâu thời chạy xuống quấy về nơi hải cảng vậy.
… Kể từ khi ở Vĩnh Yên đứng dậy là khoảng cuối tháng chín An Nam,
Tản Đà thư cục lại thành lập ở Hải Phòng là nhanh vậy. Duy tưởng lại trong
khi ở Hải Phòng đi lại Hà Nội để thu xếp công việc Thư cục, ngoài tiền xe
không kể, từ cái quần áo trắng cho đến như cái áo gilê … nhất thiết trông nhờ
ở người bạn; lại sau lúc mấy quyển sách mới của Tản Đà Thư cục đã xuất
hiện, các báo chương bình luận có nhiều câu chế giễu dèm chê, lại trong thời
vợ con sầu vì nỗi phiền lưu; lại ngoài thời công nợ khẩn đưa tin đòi hỏi, còn
những ý tứ gì ác cảm ở đâu nữa không biết song cứ như bấy nhiêu cái cuồng
sóng giận dữ. Nay An Nam Tạp chí lại ra đời, cái thân phù thế đem ra mà giả
nợ phù sinh: Thuyền nan còn lắm rập rình, thử xem đưa gánh tài tình đến
đâu”… [51, 245, tập 3].
85
Một trong những đặc điểm nổi bật của văn xuôi Tản Đà là ngôn ngữ giàu
nhạc điệu. Nhiều người nhận xét, câu văn của ông đọc lên như tiếng chuông
bởi âm hưởng ngân nga, luyến láy của câu chữ. Đó chính là sự đồng vọng xa
xôi giữa những kinh nghiệm và sự tiếp xúc thủa ban đầu (chủ yếu qua báo chí
phương Tây) trong những năm Tàn Đà ở nhà Bạch Thái Bưởi. Nó tạo nên một
thứ thơ - văn xuôi và đó chính là khởi đầu trong việc xây dựng ngôn ngữ văn
học dân tộc.
Như vậy, ở “Ba đào ký”, ngoài việc kể chuyện, tác giả còn bày tỏ cảm
xúc, tâm trạng, suy tư của mình trước mỗi sự việc. Trong đoạn văn trên, tác
giả dẫn ra những lận đận, long đong của mình trong nghề văn, nghề báo, đặc
biệt là An Nam tạp chí. Đó quả thực là một sự nghiệp với lắm ba đào, gian
truân, khó khăn, thiếu thốn. Duy chỉ có tấm lòng và nhiệt huyết của nhà báo
Tản Đà là dường như chưa bao giờ vơi cạn!
Chính cách viết tinh tế, ngòi bút hiện thực sắc xảo mà giàu cảm xúc trên
những trang văn xuôi của Tản Đà khiến Kiều Thu Hoạch phải thốt lên: “Điều
lạ kỳ là Tản Đà là người học chữ Hán, theo lối học cử nghiệp, vốn quen thuộc
với văn sách, với phú, với lối văn tứ lục, với luật thơ đường… thế mà ông viết
văn xuôi lại rất hay, rất sắc sảo, rất nhuần nhuyễn, thuần thục” [22, 45].
Tuy nhiên, cần thừa nhận rằng, văn xuôi Tản Đà với những bài bút ký,
tiểu luận, nhàn đàm… vẫn chưa thực sự hấp dẫn và bộc lộ nhiều hạn chế.
Đúng như nhận xét của TS Phạm Xuân Thạch: Là tác gia điển hình cho văn
học Việt Nam giai đoạn giao thời, sáng tác văn xuôi của Tản Đà đại diện luôn
cho cả tính “chưa hoàn thành”, tính ngổn ngang của một thời đại. “Văn xuôi
là mảnh đất giao tranh giữa những xung đột gay gắt tồn tại bên trong Tản Đà
mà mâu thuẫn lớn nhất là giữa nhà nghệ sĩ và nhà tư tưởng-đạo đức, môn đồ
nhiệt thành của Khổng Tử cố níu kéo những giá trị cũ trong một thời đại mới,
giữa phương thức tư duy và tư duy nghệ thuật đặc thù của “loại hình tác giả
86
nhà Nho” và những yêu cầu của một thời đại văn học mới. Cuộc xung đột đó
không chỉ chi phối hệ thống nội dung tư tưởng trong sáng tác của ông mà
quan trọng hơn, còn chi phối cả phương thức cảm thụ, cái nhìn về thế giới và
phương thức phản ánh những mệnh đề nghệ thuật, hay nói cách khác, phương
thức tư duy nghệ thuật của ông” [37, 24].
87
C. KẾT LUẬN
Tản Đà có một vị trí đặc biệt trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc, một
vị trí mà trong toàn bộ lịch sử kéo dài đến mười thế kỷ chỉ vài ba người, có ý
thức hay do sự đưa đẩy ngẫu nhiên của tình huống, đã được số phận lựa chọn
để đặt vào. Đó là việc mở đường cho một xu hướng viết văn, làm báo mang
tính chuyên nghiệp.
Cần phải nhấn mạnh rằng, nhận định của Xuân Diệu: “Tản Đà là người
đầu tiên dám làm thi sỹ một cách đường hoàng, bạo dạn” không có nghĩa
trước Tản Đà không có ai đáng gọi là thi sỹ. Đó là bởi chỉ đến Tản Đà mới có
ký giả, văn nhân coi việc sáng tác của mình là một nghề nghiệp. Ký giả, văn
nhân chính là vị trí xã hội của cá nhân Tản Đà. Sự giằng co, níu kéo giữa cái
mới và cái cũ trong một con người có cả 3 tố chất: Nhà Nho - Ký giả -Văn
nhân đã tạo nên một tâm trạng đầy phức cảm ở Tản Đà. Chính nó đã tạo nên
tính chất lưỡng cực, khiến Tản Đà thành hình mẫu và được thế hệ sau suy tôn
là người của hai thế kỷ.
Nhà văn chuyên nghiệp và văn chương trở thành hàng hóa - những quan
niệm mới mẻ này kéo theo nó một loạt những hệ quả mà quan trọng nhất là
tác động của người đọc đến sáng tác của nhà văn. Tự nhìn nhận mình với
chức phận: đem “thơ ca bán phố phường” một cách tự nhiên những nhu cầu,
thị hiếu của tầng lớp thị dân đã có những tác động không nhỏ đến thực tế sáng
tác của Tản Đà. Dễ dàng nhìn thấy những tương đồng (ở những mức độ đậm
nhạt khác nhau) trong các đề tài và mô-tip nghệ thuật nói trên giữa Tản Đà và
một loạt những cây bút đương thời như: Nguyễn Bá Trác, Đoàn Như Khuê,
Phạm Quỳnh và muộn hơn một chút là Đông Hồ, Tương Phố, Hoàng Ngọc
Phách... Những tương đồng này cho thấy rất rõ đằng sau những sáng tác văn
học là những nhu cầu và thị hiếu mới của thời đại mà những người cầm bút
88
một khi đã đi vào con đường một nhà văn chuyên nghiệp ít nhiều đều chịu sự
tác động và định hướng của chúng.
Nuôi lý tưởng cũ bằng một phương tiện, cách thức mới, Tản Đà là điển
hình cho những nỗ lực bất thành của một thế hệ nhà Nho buổi giao thời. Đó
chính là cách phản ứng của ông trước thời cuộc mới. Nhưng hạn chế mà Tản
Đà đã không tự ý thức được, chính là sự khác biệt giữa một nhà Nho làm văn
và làm báo. Với một nhà Nho làm văn, bao giờ cũng phải là sự chau chuốt về
câu chữ, hình ảnh và cách biểu hiện. Nhưng với báo chí, yêu cầu đầu tiên và
trên hết là thông tin. Nó đòi hỏi thông tin phải nhanh nhạy, chính xác, mang
tính thời sự. Chính vì không nhận ra được sự khác biệt này nên báo chí của
Tản Đà là một loại báo văn nghệ, đặc trưng của báo chí ít nhiều đã bị mờ đi.
Đó cũng chính là đặc điểm cơ bản của báo chí trong buổi đầu xâm nhập vào
nước ta.
Tản Đà đã thất bại với giấc mơ báo chí của mình. Nhưng rõ ràng, sự tồn
tại của những tờ báo như của Tản Đà đã mở rộng trường hoạt động của báo
chí trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Rất đông đảo những người làm báo tư nhân
kiểu như Tản Đà cũng “chết” âm thầm lặng lẽ và vắng mặt hẳn trên văn đàn.
Đó cũng là logic tất yếu của loại hình hoạt động này. Nhưng nó đã góp một
phần không nhỏ vào sự phát triển chung của nền văn học với những tác phẩm
phần lớn được xuất hiện trên báo chí. Rất nhiều những tác phẩm của Nam
Cao, Nguyễn Tuân, Tô Hoài… mà sau này còn lưu lại được và trở thành nổi
tiếng hầu hết giai đoạn ấy đều được in trên báo chí. Vai trò của An Nam tạp
chí cũng như các tờ báo khác giống nó chính là việc xã hội hóa tác phẩm văn
học, đưa chúng đến đông đảo công chúng trong cả nước.
Cũng như bất kỳ một nhà Nho nào khác, Tản Đà chịu ảnh hưởng của
truyền thống và ôm mộng thực hiện lý tưởng lớn. Nhưng đứt gánh với khoa
cử truyền thống giữa đường, ông đã lựa chọn báo chí như một phương thức
89
mới để thực hiện ước mơ của mình là giáo hóa quốc dân, vẽ lại bức dư đồ bị
rách. Giấc mơ cũ được phủ trên mình một tấm áo mới. Nhưng kết cục, nó vẫn
không thể đưa Tản Đà đi đến tận cùng giấc mơ của mình. Tản Đà trở nên lạc
lõng giữa cuộc đời. Nhưng với những gì đã làm được, ông đã là người khơi
dòng và đem lại một luồng sinh khí mới, một khí thế mới cho những thế hệ
sau tiếp tục sự nghiệp vĩ đại của mình: Cách tân nền văn hóa, văn học và mở
ra thời kỳ mới cho lịch sử văn hóa, văn học và báo chí nước nhà.
Chúng tôi xin kết lại bằng một nhận định mang tính tổng quan về ký giả -
văn nhân Tản Đà: “Trường hợp Tản Đà trong môi trường và bối cảnh ấy phát
triển trở thành một văn sỹ chuyên nghiệp với thành tựu chủ yếu là sáng tác
văn chương, đặc biệt là thơ - là một trong những trường hợp hiếm hoi. Những
tên tuổi khác cùng thế hệ này cũng tự khẳng định mình trong tư cách nhà văn
hay nhà thơ, đều có những thành tựu nhất định những không thành hiện
tượng đột xuất, hoặc trải những hoạt động tinh thần của mình trên nhiều quỹ
đạo khác nữa,… nhưng chỉ có duy nhất Tản Đà được ngay từ chính lớp đàn
em trên văn đàn thời bấy giờ định vị và được hầu như tất cả những đồng
nghiệp thuộc mọi thế hệ sau thừa nhận là “người của hai thế kỷ”, là người
bằng toàn bộ những gì làm được trở thành dấu nối, thành nhu cầu gắn bó hai
thời đại văn học lớn trong lịch sử văn học dân tộc” [49, 391].
90
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Tam Lang Vũ Đình Chí (1970), Những giai thoại về Tản Đà, NXB Văn
học, Hà Nội.
[2] Nguyễn Đình Chú (1993), Thơ văn Tản Đà, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[3] Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn An (1990), Tác giả văn
học Việt Nam tập 1, TP Hồ Chí Minh.
[4] Nguyễn Mạnh Cổn (1965), Mối tình mầu hoa đào, Tạp chí Văn, Sài Gòn.
[5] Hồng Chương (1985), Báo chí Việt Nam, NXB Sự thật, Hà Nội.
[6] Hồng Chương (1962), Phương pháp sáng tác trong văn học nghệ thuật,
NXB Sự thật, Hà Nội.
[7] Quản Chi (1942), Thử tìm long mạch của tờ báo ta, Trung Bắc tân văn
chủ nhật, số 102.
[8] Phạm Văn Diêu (1961), Việt Nam văn học giảng bình, NXB Tân Việt, Sài
Gòn.
[9] Xuân Diệu (1929), Công của thi sĩ Tản Đà, NXB Đời Nay, Hà Nội.
[10] Tầm Dương (1964), Tản Đà - Khối mâu thuẫn lớn, NXB Khoa học, Hà
Nội.
[11] Tầm Dương, Hữu - Vô tương tác trong thi pháp Tản Đà, Tạp chí Văn học
số 3/1989.
[12] Lê Chí Dũng (2007), Những suy nghĩ mới – Những tiếp cận mới về ngữ
văn, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
[13] Nguyễn Đức Dũng (2006), Đặc điểm và mối quan hệ giữa ký văn học và ký báo chí. Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
[14] Phan Đức Thành Dũng (2000), Khoa cử và các nhà khoa bảng triều
Nguyễn, NXB Thuận Hoá.
91
[15] Phan Cự Đệ (2006), Văn học Việt Nam thế kỷ XX: Những vấn đề lịch sử
và lý luận, NXB Giáo Dục, Hà Nội.
[16] Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại,
NXB Thông tin, Hà Nội.
[17 Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng (1998), Văn học Việt Nam giai đoạn giao
thời 1900 - 1930, NXB Đại học và THCN, Hà Nội.
[18] Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu (2002), Trung tâm học
liệu xuất bản, Hà Nội.
[19] Đỗ Quang Hưng (chủ biên), Lịch sử báo chí Việt Nam 1865 - 1945. NXB
Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1998.
[20] Nguyễn Văn Hà, Gia Định báo, tờ báo Việt ngữ đầu tiên, Nhà xuất bản
Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh.
[21] Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1995), Lý luận Văn học - Vấn
đề và suy nghĩ, NXB Giáo dục, TP Hồ Chí Minh.
[22] Lưu Trọng Lư, bài viết về Tản Đà, Tan đàn số đặc biệt, 1939.
[23] Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam (1987), tập 3, NXB Xây Dựng, Hà
Nội.
[24] Nguyễn Đăng Mạnh, Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam nửa đầu
thế kỷ XX, tạp chí văn học, số 5, 1997.
[25] Nguyễn Văn Mùi - Nguyễn Sỹ Tế (1959), Luận về Tản Đà Nguyễn Khắc
Hiếu, NXB Thăng Long, Sài Gòn.
[26] Phạm Thế Ngũ (1997), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập 3),
NXB Đồng Tháp.
[27] Vũ Ngọc Phan (1942), Nhà văn hiện đại (tập 2), NXB Tân Dân, Hà Nội.
[28] Vũ Tiến Quỳnh (tuyển chọn), 1994, Phê bình bình luận văn học, Tản Đà,
NXB Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh.
[29] Thiếu Sơn (1993), Phê Bình và cảo luận, NXB Nam Ký, Hà Nội.
92
[30] Doãn Quốc Sỹ (1969), Khảo luận về Tản Đà, NXB Nam Sơn, Sài Gòn.
[31] Lê Thanh (1939), thi sĩ Tản Đà, Tản Đà thư cục.
[32] Lê Thanh (1942), Cuộc phỏng vấn các nhà văn, NXB Đời mới, Hà Nội.
[33] Trịnh Vân Thanh, Trần Đình Bửu, Giảng luận Việt văn (1971), NXB
Hồn Thiêng, Sài Gòn.
[34] Thơ Tản Đà (1982), Xuân Diệu giới thiệu, Nguyễn Nghiệp sưu tầm,
tuyển chọn, NXB Văn học.
[35] Hoài Thanh (1943), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.
[36] Trần Nho Thìn, Mối quan hệ giữa cái Tôi nhà Nho và thực tại trong văn
chương thời cổ, TCVH, số 2, 1994.
[37] Trần Thị Trâm, Vai trò của báo chí trong quá trình phát triển của văn
học dân tộc từ đầu thế kỷ XX, Tạp chí văn học, Hà Nội, 1994.
[38] Bùi Đức Tịnh, Những bước đầu của báo chí, truyện ngắn, tiểu thuyết và
thơ mới, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2002.
[39] Huỳnh Văn Tòng, Lịch sử báo chí Việt Nam từ khởi thuỷ đến 1945, NXB
Trí Đăng, Sài Gòn, 1962.
[40] Nguyễn Khánh Toàn (1955), Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, tập 1,
Bộ Giáo dục, Hà Nội.
[41] Ngô Tất Tố, Tản Đà ở Nam Kỳ (1939), NXB Tân Dân, Hà Nội.
[42] Nguyễn Ngọc Thiện (bs), Tuyển tập phê bình, nghiên cứu văn học Việt
Nam (1900 - 1945), NXB Văn học, Hà Nội, 1997.
[43] Nguyễn Tuân (1982), Tuyển tập, NXB Văn học, Hà Nội.
[44] Chương Thâu, Đông Kinh Nghĩa Thục và phong trào cải cách văn hoá
đầu thế kỷ XX, NXB Hà Nội, 1982.
[45] Trần Ngọc Vương (1995), Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
93
[46] Trần Ngọc Vương (1998), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn
chung, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[47] Trần Ngọc Vương (2010), Thực thể Việt nhìn từ các tọa độ chữ, Nhà
xuất bản Tri thức, Hà Nội.
[48] Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học Trung đại Việt Nam, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
[49] Nguyễn Khắc Xương (1986), Tản Đà toàn tập, NXB Văn học, Hà Nội.
[50] Nguyễn Khắc Xương (1995), Tản Đà thơ và đời, NXB Văn học, Hà Nội.
[51] Nguyễn Khắc Xương (1990), Giai thoại Tản Đà, Nhà xuất bản văn học,
Hà Nội.
[52] Nguyễn Khắc Xương (1989), Vấn đề Tản Đà dưới ánh sáng tư duy mới,
Báo GDVN số 7/1989.
[53] Hợp tuyển thơ văn Việt Nam 1858 -1930 (1963), NXB Văn học, Hà Nội.
[54] Lịch sử Việt Nam (tập 2), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985.
[55] Nhiều tác giả (1997), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[56] Nhiều tác giả, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu – Á Nam Trần Tuấn Khải (1997), tủ sách VH trong trường (Hồ Sĩ Hiệp chủ biên), NXB Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh.
[57] Nhiều tác giả (1997), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam,
NXB Giáo dục, TP Hồ Chí Minh.
[58] Tản Đà thực phẩm (1943), NXB Duy Tân thư xã, Hà Nội.
[59] Tản Đà tùng văn (1941), NXB Hương Sơn, Hà Nội.
[60] Tản Đà về tác gia và tác phẩm (2007), NXB Giáo dục tái bản lần thứ 3,
Hà Nội.
[61] Tản Đà tùng văn (1941), NXB Hương Sơn, Hà Nội
94
[62] Tản Đà về tác gia tác phẩm (2007), NXB Giáo dục, tái bản lần thứ 3, Hà
Nội.
95
PHỤ LỤC
Thi sỹ Tản Đà với món tiền thù bút
(Trích Tiểu thuyết Thứ Bẩy)
Và còn một bút tích nữa là một bức thư của Tản Đà gởi cho ông chủ
nhiệm báo Sống nói về tiền thù bút 10 đồng bạc, để biết thêm cảnh nghèo của
thi sĩ. 10 đồng bạc hồi năm 1935, không biết giá trị bằng bao nhiêu ở năm
1965 này. Bởi không phải là nhà kinh tế, nên chúng tôi không biết, độc giả
thử tính xem.
Duy có một điều biết được là khi đọc xong tài liệu này, chúng ta thấy thi
sĩ chẳng những không muốn giấu giếm cái nghèo của mình mà còn có ý muốn
khoe nó ra cho thiên hạ cùng biết, và lấy đó làm tự đắc.
Tản Đà
Sontay le 15 Avril 1935
Monsieur Trần Thiên Thới
Saigon
Thưa Ngài,
Tôi có tiếp nhận được số tiền Ngài gửi cho và thư xin có lời cảm tạ. Tiện
xin có câu nói thưa Ngài như sau.
Trong lúc tiếp được mandat của Ngài, thực tôi không khỏi lấy làm buồn
riêng. Vì sự nghèo của tôi, có lẽ cả xã hội đã cùng rõ, mà ngoài việc văn bút,
không lại có việc gì là sinh nhai. Cho nên viết bài văn gửi đi, mà phải tính
đến việc tiền, thực là bỉ tiện bất đắc dĩ. Cũng mong được các Ngài thể lượng
mà miễn sự khinh trách cho. Đương lúc kinh tế này, theo như số tiền của Ngài
96
gửi cho, thật là trọng hậu. Tôi lại mong rằng từ nay mỗi tháng hoặc tôi có ít
nhất là một bài, nhiều hơn nữa là vài ba bài gửi vô, các Ngài xét nếu nên lấy
thời đăng cho. Còn việc tiền thời một tháng, hoặc hai tháng, các Ngài gửi
giúp cho một kỳ, dẫu mười đồng, hay năm đồng, ở chỗ thôn quê cũng là
trọng. Sự thể khó khăn trong việc làm báo, tôi cũng đã trải biết, duy phần
riêng tôi muốn được có bài ở trên tờ Sống về lâu mãi, thời cũng phải theo tinh
thiệt thưa với Ngài biết cho.
Nói về việc bài vở, ông Đông Hồ muốn rằng kiếm ở trong lịch sử nước
nhà, lấy nhân vật làm tài liệu, ý đó thiệt hay lắm, song mà sự thiệt không dễ,
để tôi thử lựa xem sao.
Sau khi thư này gửi đi, ít lâu nữa tôi sẽ có bài gửi vô, cũng mong được
lúc rảnh thì giờ, Ngài cùng ông Đông Hồ, hoặc có thư nói chuyện, cho được
thấu tình đạt ý.
Kính chúc hai Ngài vạn an.
Tản Đà