ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------*------ NGUYỄN THỊ HỒNG TẢN ĐÀ VÀ SỰ HÌNH THÀNH LOẠI HÌNH KÝ GIẢ - VĂN NHÂN CHUYÊN NGHIỆP GIAI ĐOẠN GIAO THỜI LUẬN VĂN THẠC SỸ Chuyên ngành: Văn học Hà Nội - 2013

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------* ----------------------------- NGUYỄN THỊ HỒNG TẢN ĐÀ VÀ SỰ HÌNH THÀNH LOẠI HÌNH KÝ GIẢ - VĂN NHÂN CHUYÊN NGHIỆP GIAI ĐOẠN GIAO THỜI Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Mã số: 60 22 34

Người hướng dẫn: PGS.TS TRẦN NGỌC VƯƠNG

Hà Nội-2013

2

A. PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................... 6

1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 6

2. Mục đích nghiên cứu ............................................................................... 9

3. Lịch sử vấn đề .......................................................................................... 9

4. Phạm vi đề tài ........................................................................................ 13

5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 13

6. Đóng góp mới của luận văn .................................................................. 13

7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................... 14

B. PHẦN NỘI DUNG ................................................................................... 15

Chương 1: “Giấc mộng báo chí” của Tản Đà ............................................. 15

1.1. Con đường làm báo của Tản Đà ....................................................... 15

1.2. Tản Đà và An Nam tạp chí ................................................................. 26

Chương 2: Sự phát triển của báo chí, nhà xuất bản và sự hình thành loại

hình ký giả - văn nhân chuyên nghiệp giai đoạn giao thời ........................ 31

2.1. Vai trò báo chí, nhà xuất bản - môi trường tồn tại, lưu hành của

văn chương phi truyền thống giai đoạn giao thời .................................. 31

2.2. Tản Đà - người đóng vai trò tiên phong trong việc hình thành đội

ngũ ký giả - văn nhân chuyên nghiệp ...................................................... 40

2.3. Quan niệm báo chí của Tản Đà ........................................................ 46

2.4. Tản Đà trong so sánh với các nhà báo giai đoạn đương thời ........ 53

2.4.1. Trong mối quan hệ tương sinh: Ảnh hưởng và dấu ấn của Tản Đà

với Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, Ngô Tất Tố,… ........................ 53

2.4.2. Trong mối quan hệ tương khắc: Phạm Quỳnh ............................. 61

2.5. Những giới hạn của ký giả Tản Đà và mâu thuẫn của một nhà Nho

làm báo ....................................................................................................... 64

4

Chương 3: Khảo sát mục: Việt Nam nhị thập thế kỷ xã hội thiển đàm và

Việt Nam nhị thập thế kỷ xã hội ba đào ký ................................................ 81

3.1. Việt Nam nhị thập thế kỷ xã hội thiển đàm ..................................... 81

3.2. Việt Nam nhị thập thế kỷ xã hội ba đào ký ..................................... 84

C. KẾT LUẬN ............................................................................................... 88

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 91

PHỤ LỤC ....................................................................................................... 96

5

A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

“Đọc Tản Đà, ta thấy ông hiện lên mồn một trước hết không chỉ là một

nhà thơ mà ông còn là hay chính là một nhà báo đầy bản lĩnh và tâm huyết,

một nhà văn xuôi sắc sảo, một cây bút viễn tưởng tài hoa, một nhà biên khảo

tận tụy và thận trọng” [51, 26, tập 1].

Nhận định trên của nhà nghiên cứu Đào Thái Tôn đã tổng kết Tản Đà với

rất nhiều tư cách khác nhau: nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà biên khảo, … Tuy

nhiên, xưa nay, người ta vốn chỉ nhắc nhiều tới Tản Đà với vai trò của nhà

thơ, nhà văn, đề cao ông là thi sỹ mở đầu cho nền thơ ca Việt Nam hiện đại.

Còn một Tản Đà - nhà báo thì có phần ít được nhắc tới hoặc chưa đánh giá

đúng mức vai trò của báo chí trong sự nghiệp của Tản Đà. Trên thực tế, có

nhìn nhận sự nghiệp sáng tác của Tản Đà một cách đầy đủ và thấu đáo mới

hiểu được những nỗ lực và tâm huyết của Tản Đà dành cho báo chí - cụ thể và

điển hình nhất là An Nam tạp chí - nơi ông gửi gắm tâm huyết của cả cuộc đời

mình. Không ngẫu nhiên mà An Nam tạp chí đình bản rồi lại tải bản tới 6 lần

và mỗi lần tái bản, ông lại có một bài cảm tác, thể hiện niềm tin và hi vọng

vào sứ mệnh của tờ báo.

Trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, Tản Đà là người đầu tiên đưa ra quan

niệm “nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng”, tức coi viết văn, làm báo như một

nghề (theo cái nghĩa là một công việc để người ta có thể làm và nhờ đó mà

tồn tại) - điều này chưa từng xảy ra ở xã hội Việt Nam trước đó. Ông hăm hở

bước vào địa hạt báo chí với biết bao dự định cách tân, đổi mới. Nhiều bài

báo của ông có tính thời sự cao và mang đậm hơi thở của cuộc sống - hai đặc

điểm quan trọng và không thể thiếu của báo chí. Đặt sự nghiệp làm báo của

Tản Đà trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ mới nhận thấy hết những nỗ lực của

một nhà Nho trong việc dùng báo chí để tự khẳng định mình, hay nói cách

6

khác là dùng việc viết văn, làm báo để xác lập vị trí của mình một cách đường

hoàng, đĩnh đạc. Với hành động đó, Tản Đà đã mạnh bạo và dũng cảm chứng

minh một cách hùng hồn rằng: văn chương không phải chỉ để ngâm ngợi cho

khuây hay “mua vui cũng được một vài trống canh” như trong quan niệm của

các nhà Nho xưa mà còn có thể là một “công cụ” để kiếm sống. Người ta có

thể dựa vào nó để đường hoàng nhận những phần nhuận bút (từ những bài báo

hay những cuốn sách được xuất bản). Trước đây, các nhà Nho dù là những

quan lại hay thầy đồ, ẩn sĩ thì cũng thường chỉ tìm đến với văn chương như

một cách để giải khuây hay bày tỏ nỗi lòng, chứ ít ai coi đó là một cách để

kiếm sống. Văn chương và cuộc sống vì thế, bỗng trở thành hai phạm trù

riêng biệt và khó lòng hòa hợp. Người ta coi văn chương là cái gì đó tách biệt

hẳn và vượt ra những bon chen của cuộc sống thường nhật, bởi thế, nó chỉ có

thể là những gì thuộc về đời sống tinh thần chứ không thể gắn với gánh nặng

áo cơm, với những lo toan vật chất bộn bề. Bởi thế, hành động “đem văn

chương đi bán phố phường” hay “nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng” mang

vẻ ngoài của một sự ngông nghênh, bất cần và dường như khác người ấy thực

chất đã chứa đựng trong nó mầm mống của một quan niệm hoàn toàn mới mẻ

so với truyền thống. Hay nói cách khác, chính là một sự phá rào, vượt ra khỏi

những quan niệm thông thường lúc bấy giờ để tạo tiền đề cho sự hình thành

một xu hướng tất yếu: viết văn, làm báo theo hướng chuyên nghiệp, cũng

đồng nghĩa với việc hình thành một đội ngũ ký giả - văn nhân chuyên nghiệp.

Khái niệm “chuyên nghiệp” ở đây không phải chỉ là một sự thể hiện về trình

độ mà còn là cách thức, là tuân theo sự vận động của cơ chế thị trường với

những ngặt nghèo và quy luật cạnh tranh tất yếu. Lẽ dĩ nhiên, đã là sáng tác

để đi bán thì không thể không nói tới vai trò của người mua, ở đây chính là

đội ngũ độc giả đông đảo thuộc nhiều tầng lớp khác nhau. Từ đây hình thành

một mối liên hệ chặt chẽ giữa người sáng tác và người tiếp nhận, tức độc giả.

7

Điều này trong sáng tác của các nhà Nho trước đó có lẽ ít được quan tâm tới

bởi người ta chỉ quan niệm văn chương như một cách để bày tỏ nỗi lòng

mình, đâu cần nghĩ đến người tiếp nhận nó sẽ như thế nào.

Trong quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam giai đoạn giao thời, Tản

Đà là một tác giả có vị trí đặc biệt. Trong bài Công của thi sỹ Tản Đà, Xuân

Diệu đã viết: “Tản Đà là người thi sỹ đầu tiên mở đầu cho thơ Việt Nam hiện

đại. Tản Đà là người thứ nhất đã có can đảm làm thi sỹ, đã làm thi sỹ một

cách đường hoàng, bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám có một cái Tôi”

[9,166]. Và từ xưa đến nay, người ta vẫn nhắc tới Tản Đà như một dấu nối

giữa hai hệ hình văn học, giữa văn học truyền thống và văn học hiện đại.

Nhưng độc đáo hơn hết, vẫn là một Tản Đà với những quan niệm và phong

cách sáng tác đặc biệt, mới mẻ: “Đem văn chương đi bán phố phường” hay

“Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng”. Những tuyên ngôn dường như “gây

sốc” trong giới sáng tác thời bấy giờ không đơn thuần chỉ là biểu hiện của cái

Tôi ngông, sự đề cao vai trò của bản ngã cá nhân, mà chính là sự báo hiệu sự

xuất hiện một xu hướng mới, một loại hình tác giả mới với những quan niệm

sáng tác mới - loại hình ký giả, văn nhân chuyên nghiệp. Và đó cũng là xu thế

tất yếu trong quy luật vận động, phát triển và hiện đại hóa văn học Việt Nam

giai đoạn giao thời.

Là một người đảm lĩnh vai trò đặc biệt đó, Tản Đà, chắc hẳn có những

cách tân, phá rào, nhưng cũng có những giới hạn và hạn chế nhất định với vai

trò là “gạch nối văn chương” - người đặt ra những nền móng cơ bản với vai

trò là tiền đề, là bước đệm ban đầu cho quá trình hình thành và phát triển của

văn học Việt Nam hiện đại sau này.

8

2. Mục đích nghiên cứu

Trong bối cảnh xã hội - lịch sử Việt Nam giai đoạn giao thời, luận văn

muốn khẳng định Tản Đà với những đóng góp và công lao to lớn trong vai trò

người đi tiên phong, mở đường cho sự hình thành loại hình ký giả, văn nhân

chuyên nghiệp. Vai trò mở đường ở đây, bao gồm cả những đổi mới, cách tân,

và cả những giới hạn mang tính đặc định của lịch sử trong quá trình phát triển

tất yếu của văn học, báo chí. Việc giải thích lý do vì sao Tản Đà thất bại với

giấc mộng báo chí của mình chính là cách để làm nổi bật những đặc điểm của

lịch sử, văn hóa, văn học và báo chí giai đoạn giao thời 30 năm đầu thế kỷ 20,

đồng thời cũng để hiểu được tại sao Tản Đà có thể ghi dấu ấn đậm nét của

mình trong giai đoạn lịch sử đầy hụt hẫng và biến động ấy.

3. Lịch sử vấn đề

Việc nhìn nhận Tản Đà với tư cách là ký giả - văn nhân là một vấn đề đã

được một số nhà nghiên cứu đề cập tới. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những nhận

xét mang tính đơn lẻ, nằm trong một hệ thống những nghiên cứu trên những

bình diện khác về cuộc đời và sự nghiệp của Tản Đà. Chưa có một công trình

riêng biệt nào dành riêng cho việc nghiên cứu Tản Đà với vai trò là nhà báo,

nhà văn chuyên nghiệp, mặc dù hầu hết đều công nhận ông là người tiên

phong, mở đường cho quan niệm “mang văn chương đi bán phố phường”. Vai

trò ký giả của Tản Đà vì thế chưa được đánh giá đúng với ý nghĩa là một phần

quan trọng trong quan niệm cũng như tư tưởng của Tản Đà. Nói đúng hơn đó

mới là giấc mơ mà ông theo đuổi để trở thành một “Á Châu Khổng phu tử chi

đồ” chứ không phải chỉ đơn thuần là việc sáng tác thơ văn. Khi Tản Đà tuyên

bố: Chữ nghĩa Tây Tàu trót dở dang/Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng chính

là lúc ông tuyên bố nhập cuộc với vai trò là một nhà báo chứ không phải một

nhà Nho làm thơ như lối đi quen thuộc trong truyền thống. Đây là một lựa

chọn táo bạo nhưng có chủ định của nhà thơ núi Tản sông Đà về một cách lập

9

công danh mới trong bối cảnh xã hội mà văn chương khoa cử truyền thống đã

nhạt màu.

Người đầu tiên “phát hiện” và đánh giá cao vai trò nhà báo của Tản Đà

chính là Phan Khôi, một trong những nhà báo lớn lúc bấy giờ. Điều này càng

khẳng định vị thế và ảnh hưởng rất lớn của Tản Đà với tư cách nhà báo. Phan

Khôi cũng như một thế hệ độc giả thời bấy giờ không khỏi ngạc nhiên và trầm

trồ trước lối viết sáng tạo kiểu như “Cái chứa trong bụng thằng người” của

Tản Đà trên Đông Dương tạp chí. Ông ngạc nhiên đến mức phải thốt lên:

“Anh Quỳnh anh Vĩnh chỉ viết theo sách, theo tư tưởng của Tây; chứ đến

thằng cha này hắn viết ra tư tưởng của hắn, chính hắn mới là tay sáng tạo”

[62, 43]. Tài viết báo của Nguyễn Khắc Hiếu khiến Phan Khôi “như muốn

nằm rạp xuống đất, không dám ngước mặt lên nữa”. Phan Khôi còn khâm

phục tài làm báo của Tản Đà ở chỗ, nhiều bài báo ông viết cho Hữu Thanh bị

kiểm duyệt, không được đăng. Còn Tản Đà thì khéo léo hơn nên đều đã “trót

lọt”… Điều này cho thấy một chân dung nhà báo Tản Đà lúc ấy, tuy mới xuất

hiện, nhưng đã có tiếng tăm lẫy lừng và được đông đảo độc giả đón nhận.

Tiếp nối Phan Khôi, ngoài việc đề cao tài thơ Tản Đà, Trương Tửu trong

bài “Sự thai nghén một thiên tài: Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu” cũng cho rằng,

với hoài bão hành đạo, Tản Đà đã bước ra làm báo. Nhưng rồi lần lượt với

Hữu Thanh, An Nam tạp chí… ông đều đã thất bại. Nguyên nhân của sự thất

bại ấy, theo Trương Tửu, không phải do Tản Đà “không quen với nghiệp

doanh thương” mà bởi một căn nguyên sâu xa hơn: Tinh thần lập đức và tính

chất hành đạo của Tản Đà. Cả hai điều đó đều bắt nguồn trong di truyền và

trong cái giáo dục Nho phong mà Tản Đà đã thụ hưởng từ thủa lọt lòng. Đây

là một nhận định rất thấu đáo và nêu được đúng bản chất nhà Nho trong con

người nhà báo Tản Đà - nó chính là lời giải cho lý do vì sao Tản Đà, từ chỗ

10

xông xáo, hăng hái đến chỗ phải vật lộn rồi mỏi mệt với báo chí, cuối cùng

phải chấp nhận thất bại trong cay đắng.

Nguyễn Danh Kế trong lời giới thiệu Tản Đà vận văn của nhà xuất bản

Hương Sơn (tháng 11/1944) cũng hết lời ca ngợi ngòi bút của nhà báo Tản

Đà. Ông cho rằng, những bài viết của Tản Đà ở Hữu Thanh tạp chí và An

Nam tạp chí là những bài nghị luận về các vấn đề hiện đại và những vấn đề

đạo đức, luân lý, dịch thuật những văn hay lẽ phải ở các sách Nho rất có ích

cho nhân tâm thế đạo. Nguyễn Danh Kế nhấn mạnh: “Vì số đông người xem

quốc văn chỉ là xem để giải trí, cho nên những món ấy chưa dễ đã dám sưu

tập lại xuất bản ra. Nhưng ta phải biết ảnh hưởng của tiên sinh ở đương thời

trong phong hóa nước nhà thật là to lớn sâu xa lắm”.

Sau Cách mạng tháng Tám, nhiều nghiên cứu cũng tiếp tục nhìn nhận và

đánh giá nhiều bình diện khác nhau ở chân dung nhà báo Tản Đà. Nghiên cứu

được xem là đầy đủ nhất về cuộc đời làm báo của Tản Đà lúc này chính là

Tập 3 trong cuốn Tản Đà toàn tập của người hậu duệ của ông - nhà nghiên

cứu Nguyễn Khắc Xương. Tuy nhiên, ngoài những nhận định khái quát ban

đầu về việc khẳng định Tản Đà với vai trò chủ báo và ký giả, cuốn sách cũng

chỉ là một tập hợp các tác phẩm tiêu biểu của Tản Đà được đăng trên An Nam

tạp chí, Đông Pháp thời báo cùng những bài viết lẻ trên một số báo khác.

Trong nhiều nghiên cứu của mình, GS Trần Đình Hượu cũng khẳng định

và đề cao vai trò của Tản Đà là một nhà Nho đem văn chương bán phố

phường. Ông khẳng định, viết báo, viết văn với ý nghĩa làm một nghề nghiệp

trong xã hội là chuyện mới có đầu thế kỷ 20 ở nước ta. Trước đây trong xã

hội phong kiến, có nhiều nhà Nho suốt đời làm phú, làm thơ, có nhiều nghệ sỹ

chuyên biểu diễn nghệ thuật; triều đình có chức quan chuyên viết văn, nhưng

văn nghệ chưa tách khỏi văn thành một ngành nghệ thuật. Viết văn chưa

thành một nghề nghiệp. “Vào những năm 10 của thế kỷ này, một số người tập

11

hợp quanh Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí viết báo, viết văn. Xã hội

coi họ làm nghề người ký giả, văn sỹ. Trong đám ký giả, văn sỹ lúc đó, có

người là cựu học, có người là tân học, thái độ chính trị, quan niệm mục đích

nghề nghiệp có khác nhau, nhưng họ đều là nhà văn, nhà báo, khác hẳn với

nhà Nho làm thơ, làm phú trước đây. Tản Đà thuộc thế hệ nhà văn, nhà báo

đầu tiên đó” [16, 429]. Tản Đà từ một Nhà Nho mà trở thành một nhà văn

chuyên nghiệp. Khi ấy, con đường đi của ông chưa phải là bình thường.

Chính cái không bình thường ấy là điều cần được đề cao và làm nên vị thế của

Tản Đà trong lịch sử văn học, báo chí lúc bấy giờ.

Tiếp nối vị ân sư của mình, PGS.TS Trần Ngọc Vương trong nhiều

nghiên cứu đã khẳng định có một sự thống nhất giữa những mâu thuẫn phức

tạp trong con người nhà văn, nhà báo Tản Đà. Từ khi Tản Đà cho in những

tác phẩm đầu tiên trên Đông Dương tạp chí (1915), văn đàn Việt Nam như rộ

lên một luồng sinh khí mới. Theo PGS.TS Trần Ngọc Vương, Tản Đà từ lúc

vừa xuất hiện đã gặp ngay một “nền kinh tế thị trường” trong văn chương.

“Cơn gió lạ” trên văn đàn thổi suốt trong Nam ngoài Bắc, làm dấy lên một

luồng không khí thưởng thức Tản Đà ở nhiều tầng lớp. Nhờ điều kiện giao

lưu và truyền bá văn học mới, Tản Đà là người đầu tiên trong lịch sử văn học

tìm được một lượng độc giả khổng lồ trong một thời gian kỷ lục. “Điều kiện

mới” mà PGS.TS Trần Ngọc Vương nhắc tới, chính là sự xâm nhập của báo

chí phương Tây vào Việt Nam trong giai đoạn giao thời lúc bấy giờ.

Những nghiên cứu, đánh giá trên đã khắc họa chân dung nhà báo Tản Đà

rất sinh động trên nhiều bình diện khác nhau. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là

chưa có một công trình nào hệ thống hóa một cách chi tiết và rõ ràng những

chặng đường báo chí gian nan và đầy phức cảm ấy của Tản Đà. Chính điều đó

đã gợi mở cho chúng tôi tiến hành luận văn này với những hướng nghiên cứu

12

sâu hơn về chân dung nhà báo Tản Đà với những khắc họa đầy đủ và đậm nét

hơn.

4. Phạm vi đề tài

Sáng tác của Tản Đà phong phú, đa dạng, bao gồm nhiều thể loại, trên cả

địa hạt văn chương và báo chí. Các thể loại đều có những đóng góp riêng

trong vai trò khẳng định vai trò tiên phong, mở đường của Tản Đà giai đoạn

giao thời. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn, chỉ xin bước đầu có những

nghiên cứu, đánh giá khái quát trên cơ sở những sáng tác quan trọng của nhà

thơ trên một số báo như Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí, An Nam

tạp chí và những nhận định cơ bản của các nhà nghiên cứu về Tản Đà.

5. Phương pháp nghiên cứu

Đặt vấn đề về Tản Đà với vai trò mở đường cho sự hình thành loại hình

ký giả, văn nhân chuyên nghiệp giai đoạn giao thời, phương pháp tiếp cận chủ

yếu của luận văn là phương pháp nghiên cứu loại hình học tác giả văn học.

Ngoài ra, chúng tôi cũng sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu

khác như phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, đối chiếu… nhằm làm

nổi bật vai trò, giới hạn của Tản Đà ở cả hai tư cách mới: Ký giả - văn nhân

chuyên nghiệp.

6. Đóng góp mới của luận văn

Với cách tiếp cận khoa học, luận văn cố gắng đem đến những lý giải đầy

đủ và có sức thuyết phục, sâu sắc trong việc nhìn nhận hiện tượng Tản Đà

trong tính thống nhất giữa những mâu thuẫn, phức tạp trong nội tại của nó,

nhằm làm nổi bật quá trình phát triển có tính bước ngoặt của văn học và báo

chí giai đoạn giao thời.

Đặc biệt, đề cập đến Tản Đà với phương thức hành xử mới trước thời

cuộc - dấn thân vào địa hạt báo chí với giấc mơ xác lập công danh bằng con

13

đường mới, luận văn cũng bàn đến bài học về cách thức ứng xử của một cá

nhân khi gia nhập một xã hội dân sự trong một giai đoạn xã hội phức tạp và

nhiều biến động.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: “Giấc mộng báo chí” của Tản Đà.

Chương 2: Vai trò của báo chí, nhà xuất bản và sự hình thành loại hình

ký giả - văn nhân chuyên nghiệp giai đoạn giao thời.

Chương 3: Khảo sát mục “Việt Nam nhị thập thế kỷ Xã hội thiển đàm”

và “Việt Nam nhị thập thế kỷ Ba đào ký”.

14

B. PHẦN NỘI DUNG

Chương 1: “Giấc mộng báo chí” của Tản Đà

Cùng với những “Giấc mộng con”, “Giấc mộng lớn”, Tản Đà còn có một

giấc mộng khác, rất hiện thực chứ không phải chỉ là mây gió, trăng hoa hay

những giai nhân, người đẹp nơi bồng lai tiên cảnh. Đó chính là giấc mộng báo

chí. Giấc mộng ấy chiếm hầu hết sự nghiệp sáng tác của Tản Đà và là cách để

ông mong muốn khẳng định, xác lập được vị trí xã hội mới của mình trong

bối cảnh văn chương khoa cử truyền thống đã nhạt nhòa, không còn nhiều sức

cuốn hút như trước. Việc Tản Đà dốc hết tâm sức vào báo chí cho thấy khát

vọng rất lớn cũng như ý thức khá rõ ràng của ông về vai trò, sức mạnh của

báo chí trong bối cảnh xã hội mới. Để làm sáng tỏ nhận định này, chúng tôi đã

tiến hành khảo sát sự nghiệp báo chí của Tản Đà theo trục thời gian và những

biến cố lớn trong cuộc đời, nhằm làm nổi bật và hiểu rõ hơn những phức cảm

đa chiều trong tư tưởng cũng như sáng tác của Tản Đà.

1.1. Con đường làm báo của Tản Đà

Cuộc đời làm báo của Tản Đà là một hành trình có nhiều biến động, đứt

gãy. Việc tái hiện toàn bộ quá trình này sẽ cho thấy những diễn biến phức tạp

và đa chiều trong quan niệm, tư tưởng của nhà báo Tản Đà cũng như những

biến thiên mang tính tất yếu của lịch sử văn học, báo chí phương Tây trong

buổi đầu xâm nhập vào Việt Nam.

Có thể khái quát chặng đường làm báo của Tản Đà theo 3 giai đoạn:

* Khởi sự (từ năm 1913-1915) Đây là thời kỳ ngọn lửa đam mê báo chí trong ông bắt đầu hình thành và

nhen nhóm. Tản Đà có những sáng tác đầu tiên được đăng báo và nó là khởi

đầu cho những thành công và cả những thất bại của ông sau này.

Năm 1913, Tản Đà bắt đầu “bén duyên” với báo giới. Ông được Nguyễn

Văn Vĩnh - một tri thức Tây học, cũng là cái tên có tiếng trong làng báo bấy

15

giờ mời làm cộng sự trên Đông Dương tạp chí. Những sáng tác của ông được

in thành một mục riêng Một lối văn nôm, sau đổi thành mục Tản Đà văn tập.

Những bài báo của “ký giả” Tản Đà ngay lập tức chiếm được cảm tình của

độc giả, tên tuổi của ông nhanh chóng có được tiếng vang trên văn đàn.

Năm 1915, Tản Đà lấy vợ là bà Nguyễn Thị Tùng, con gái một người tri

huyện ở Hà Đông. Những tác phẩm của ông trên Đông Dương tạp chí vẫn

tiếp tục là một “hiện tượng” và Tản Đà nhanh chóng có một lượng lớn độc giả

hâm mộ. Năm 1916, ông lấy bút danh Tản Đà là tên ghép giữa núi Tản, sông

Đà, và chính thức chọn con đường của một người viết văn, làm báo chuyên

nghiệp.

Cần nói thêm rằng quyết định này xuất phát từ một sự kiện trong cuộc

đời ông, đó là năm 1916, anh cả Nguyễn Tái Tích mất. Tản Đà mất đi chỗ dựa

cả về vật chất và tinh thần, trong khi ông lại gánh trên vai trách nhiệm gia

đình với vợ con. Tản Đà khi ấy bắt đầu phải tự ý thức rằng mình cần phải

kiếm sống. Và tất nhiên, như một điều không thể khác, cái “cần câu cơm

cơm” của Tản Đà chính là ngòi bút. Tản Đà đến với báo chí trong hoàn cảnh

đó và nó như một con đường đã được vạch sẵn. Tản Đà dường như không có

sự lựa chọn nào khác. Ông đã dấn thân vào nó với một khát vọng, niềm đam

mê vô tận của một người cầm bút.

Ngược dòng thời gian một chút, Tản Đà hỏng khoa thi năm 1912, khi ấy

ông mới 23 tuổi. Đó là cái tuổi còn rất trẻ để tiếp tục sự nghiệp thi thố, học

hành để lập thân, thành danh bằng con đường khoa cử. Nhưng lúc bấy giờ,

khoa cử truyền thống cũng đã trở nên bèo bọt. Dư âm của cái cũ vẫn còn

nhưng sức hấp dẫn của cái mới, của những luồng tư tưởng, văn hóa mới thâm

nhập từ phương Tây cũng rất mạnh nên Tản Đà mới bộc lộ một thái độ ỡm ờ

với lối nói úp úp mở mở rất… Tản Đà:

16

“Rủ nhau quang gánh với đời Mà cho thiên hạ chê cười cũng hay”.

“Chê cười” là vì chắc chắn có người dèm pha cách ông đi trái với con

đường cũ. Nhưng cũng có người hưởng ứng, nên mới có chuyện “rủ nhau”, và

nó hẳn là một thứ có ý nghĩa tích cực và có danh giá nên mới nói là “quang

gánh với đời”, nên “chê cười” mà… vẫn hay.

Hay cách nói ngông nghênh:

“Còn trời, còn đất, còn non nước Còn có văn chương bán phố phường”

Cũng biểu hiện một thái độ muốn thi thố, muốn thể hiện tài năng của

mình ở một lĩnh vực mới và rõ ràng ông ý thức rất rõ được tài năng của mình

nên mới dùng những mệnh đề so sánh rất lớn lao như: Còn trời/Còn đất/Còn

non nước để đối với “Còn có văn chương bán phố phường”. Thế mới thấy văn

chương trong cách nghĩ của Tản Đà không hề bèo bọt mà rất có giá và có một

sức sống, sức mạnh nhất định, ngay cả khi vật đổi sao đời, đặt trong bối cảnh

lúc bấy giờ là những biến thiên của bối cảnh xã hội nhiều biến động.

Giấc mộng báo chí của Tản Đà rõ ràng không phải chỉ là ước mong có

một chiếc cần câu cơm. Hơn thế, nó là mộng ước được khẳng định mình bằng

một thái độ tự tin và tự hào về tài năng của bản thân. Đó là lý do vì sao sau

này, ông khước từ lời mời cộng tác của Nguyễn Văn Vĩnh cho tờ Trung Bắc

Tân văn - hành động mà nhiều người cho là gàn, dở, nhưng thực chất là họ

chưa có đủ “trình độ” để hiểu ông. Nguyễn Văn Vĩnh yêu cầu Tản Đà viết

mỗi tháng 4 bài xã thuyết, 4 bài thơ. Tiền nhuận bút mỗi bài xã thuyết là mười

lăm đồng, mỗi bài thơ là mười đồng. Số tiền ấy với cảnh túng quẫn của Tản

Đà không hề nhỏ. Nhưng ông đã dứt khoát từ chối cơ hội đầy hấp dẫn ấy. Lý

do là bởi ông muốn “tự mình chủ trương một cơ quan ngôn luận”: “Cơ quan

ngôn luận đó sẽ hoàn toàn thực hành những quan niệm về văn chương, sẽ

17

trình bày những lý tưởng của mình noi theo với quốc dân, chứ nếu mình viết

giúp cho một cơ quan khác, thời mình chỉ là phụ thuộc vào cơ quan đó, lẽ tất

nhiên những tư tưởng, quan niệm riêng về xã hội, văn chương, sẽ không thể

làm theo như ý muốn của mình được. Vả lại ông Nguyễn Văn Vĩnh, lúc đó là

một nhà văn ra đời trước, đã có tiếng, nếu tôi viết cho tờ báo ông thời dư

luận của độc giả bên ngoài không khỏi cho tôi là đi theo để ăn cánh với ông.

Đó là một điều mà tôi kỵ nhất”. [29,17].

* Thời kỳ vinh hiển (1916-1926) Từ năm 1916 đến năm 1926 là những năm tháng rực rỡ và thành công

nhất của Tản Đà. Ông lao vào sáng tác, viết văn, làm báo. Năm 1915, cuốn

sách đầu tiên của Tản Đà được xuất bản, gây tiếng vang lớn, đó là tập thơ

Khối tình con I.

Sau thành công đó, ông viết liền cuốn Giấc mộng con (cho in năm 1917)

và một số vở tuồng: Người cá, Tây Thi, Dương Quý Phi, Thiên Thai (diễn lần

đầu năm 1916 tại Hải Phòng).

Năm 1917, Phạm Quỳnh sáng lập ra Nam Phong tạp chí, và bài của Tản

Đà có trên tạp chí này từ số đầu tiên. Năm 1918, Phạm Quỳnh ca ngợi cuốn

Khối tình con I và phê phán cuốn Giấc mộng con I, cả khen lẫn chê đều dùng

những lời lẽ sâu cay, biến Tản Đà trở thành một hiện tượng trên văn đàn. Sau

bài phê phán tư tưởng của "Giấc mộng con", Tản Đà thôi cộng tác với Nam

Phong tạp chí và mở một số cuộc hội đàm để chống lại những lời phê phán

đó, sự kiện này cũng được nhiều giới quan tâm. Việc Tản Đà thôi cộng tác với

Nam Phong tạp chí thể hiện rất rõ quan điểm, lập trường báo chí riêng của

ông. Tản Đà không cậy cục, không nhún nhường ai và muốn làm báo theo

cách riêng của mình. Đó không phải chỉ là nơi để ông có thể múa bút sáng tác,

thể hiện tài năng của mình mà còn là cách để ông đánh dấu, khẳng định chỗ

đứng của mình trong xã hội. Tản Đà không có quan niệm “lập thân” phải “lụy

18

thế”, một quan niệm của thời hiện đại nhưng không phải không tồn tại ngay từ

buổi giao thời tranh tối tranh sáng với sự lập lờ giữa hai thế lực cũ và mới.

Bởi vậy, việc Phạm Quỳnh phê phán Tản Đà nghiễm nhiên là một lý do chính

đáng để Tản Đà thôi cộng tác với Nam Phong tạp chí và tìm một chỗ đứng

cho riêng mình.

Từ 1919 tới 1921, Tản Đà viết một loạt sách; truyện thì có "Thần tiền",

"Đàn bà Tàu" (1919); sách giáo khoa, luân lý thì có "Đài gương", "Lên sáu"

(1919), "Lên tám" (1920), thơ thì có tập "Còn chơi" (1921). Thời kỳ này ông

quen với một nhà tư sản nữa là ông Bùi Huy Tín, cùng nhau du lịch khắp Bắc,

Trung kỳ và làm chủ bút Hữu thanh tạp chí. Đây là cơ quan ngôn luận của

“Bắc kỳ công nông thương tương tế”. Nhưng Tản Đà chỉ làm chủ bút được 6

tháng rồi từ chức vì bất đồng ý kiến với nhóm sáng lập về tôn chỉ, mục đích

của tờ báo.

Báo chí đến thời của Tản Đà nở rộ với nhiều xu hướng, quan điểm và

cách thức tồn tại riêng. Có thể chia những người làm báo thời này làm ba

dạng. Một là những người chủ trương dùng báo chí để làm cách mạng như

Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng. Hai là những người làm báo dưới sự

quản lý, điều hành của thực dân Pháp, thực chất là ôm chân chính quyền, xu

nịnh để được lợi. Ba là những người làm báo kiểu Tản Đà. Tức là những

người không thành danh trên con đường học hành, khoa cử nhưng lại ý thức

rất rõ về tài năng của mình và coi nó như một con đường để lập công danh,

ghi dấu tên tuổi của mình bằng sự nghiệp báo chí. Tương ứng với 3 loại người

làm báo đó là 3 loại hình báo chí: Báo chí tư nhân, báo chí chính thống của

chính quyền thực dân Pháp và báo chí của các hội, tổ chức đoàn thể chính trị -

xã hội mà “Bắc kỳ công nông thương tương tế” và Hữu Thanh tạp chí như

vừa kể trên là một ví dụ. Nhưng rõ ràng, Tản Đà chỉ có thể làm ở một tờ báo

phi chính trị hóa, tức là không chịu ảnh hưởng, tác động của những quan điểm

19

chính trị - xã hội nào. Mặt khác, Tản Đà, một mặt nhận thấy rõ những ưu

điểm, những thành tựu của xã hội Âu Mỹ nhưng ông không chủ trương hợp

tác với Pháp, không dùng báo chí để xu nịnh, ve vuốt theo những toan tính

của chính quyền thực dân. Tính cách Tản Đà cũng như con đường báo chí mà

ông lựa chọn là hoàn toàn khác với những tờ báo đương thời, bởi vậy những

bất đồng quan điểm của Tản Đà với Nam Phong tạp chí, Hữu Thanh tạp chí

như trên là điều hoàn toàn dễ hiểu. Và do đó, sự ra đời của An Nam tạp chí

sau này cũng chính là cách để Tản Đà chứng tỏ và khẳng định rõ ràng hơn

quan điểm, cách thức làm báo mà ông lựa chọn cho riêng mình trong thời

điểm nhiều biến động xã hội lúc bấy giờ.

Năm 1922, Tản Đà thành lập "Tản Đà thư điếm" (sau đổi thành "Tản Đà

thư cục"), đây là nhà xuất bản riêng đầu tiên của ông. Tại đây, đã xuất và tái

bản hết những sách quan trọng trong sự nghiệp của Tản Đà; "Tản Đà tùng

văn" (tuyển cả thơ và văn xuôi, trong đó có truyện "Thề Non Nước", 1922);

"Truyện thế gian" tập I và II (1922), "Trần ai tri kỷ" (1924), "Quốc sử huấn

nông (1924), và tập "Thơ Tản Đà" (1925). Ngoài ra thư cục này còn cho xuất

bản sách của Ngô Tất Tố, Đoàn Tự Thuật. Những thư điếm, thư cục, ấn

quán… thời kỳ này cũng nở rộ và là nơi khai sinh ra nhiều tác phẩm văn học

nghệ thuật có giá trị. Sự ra đời của nhà xuất bản cũng như báo chí ở giai đoạn

này, đóng vai trò là bà đỡ cho hầu hết các tác phẩm văn học và có vai trò quan

trọng trong quá trình hiện đại hóa văn học buổi giao thời.

Sự chia tay với Hữu Thanh tạp chí đã khiến Tản Đà nghĩ đến việc phải

thành lập một tờ báo của riêng mình. Đó sẽ là nơi ông thể hiện được lý tưởng,

chí nguyện của mình với sự nghiệp làm báo. Tháng 7/1926, Tản Đà cho ra đời

An Nam tạp chí số đầu tiên, tòa soạn ở phố Hàng Lọng.

* Từ khi “An Nam tạp chí” ra đời đến năm Tản Đà mất (1939)

20

Sự ra đời của An Nam tạp chí, tờ báo mà Tản Đà dành hết tâm huyết, đã

bắt đầu quãng đời lận đận của ông. Đây là tờ báo gắn với sự nghiệp của Tản

Đà, đồng thời chiếm nhiều trang, nhiều bài viết nhất trong sự nghiệp báo chí

của nhà thơ. Trong điều kiện mới, An Nam tạp chí chính là phương tiện để

Tản Đà thực hiện lý tưởng lớn lao của mình với đất nước, điều mà ông đã

không thể làm được khi không thành danh bằng khoa cử. Bởi vậy mà năm

1927, khi lãnh tụ Nguyễn Thái Học của Việt Nam quốc dân Đảng đến bàn với

ông về việc dùng An Nam tạp chí như một cơ quan ngôn luận để đấu tranh và

tuyên truyền, ông đã vui vẻ chấp nhận không điều kiện. Nhưng rồi, bản giao

kèo mà Nguyễn Thái Học đưa ra đã vô tình chạm vào lòng tự ái của Tản Đà,

nên việc lớn đã không thành. Nhiều người tỏ ra tiếc nuối về điều này, nhưng

thực chất, đó là điều không thể tránh khỏi khi tính tình và phong cách của Tản

Đà và Nguyễn Thái Học là hoàn toàn khác nhau: một bên làm việc tùy hứng,

một bên theo đường lối chủ trương.

Ngoài An Nam tạp chí, Tản Đà còn cộng tác với nhiều báo khác như:

Đông Pháp thời báo, Sống, Văn học tạp chí, Tiểu thuyết thứ Bảy, Thanh Nghệ

Tĩnh, Phụ nữ tân văn, Phụ nữ thời đàm… Tuy nhiên, trong luận văn này,

chúng tôi chủ yếu đi sâu vào mối quan hệ giữa Tản Đà và An Nam tạp chí.

Nhìn lại toàn bộ hành trình làm báo của Tản Đà, có thể thấy ông vẫn

mang nặng phong cách của một nhà Nho làm báo. Chính điều này đã tạo nên

một Tản Đà - ký giả không giống ai và con đường làm báo của ông cũng lênh

đênh, lận đận với không ít những ba đào. Với vai trò một ký giả, ông mang

trong mình nhiều hoài bão to lớn về việc dùng báo chí để gánh vác những sứ

mệnh to lớn của quốc dân. Trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, báo chí giống

như một cứu cánh, một luồng gió mới mát lành để Tản Đà có thể thỏa sức vẫy

vùng và bày tỏ những quan niệm cá nhân, những thái độ xã hội của mình,

điều mà trước đây các nhà Nho vẫn thường phải giấu vào trong hoặc ẩn ý

21

trong những câu thơ, những hình ảnh mang tính ước lệ tượng trưng. Với báo

chí, Tản Đà giống như một con người được nói và phải nói hết những cá tính,

những tâm sự thời cuộc trước những điều mắt thấy tai nghe. Đó là một lợi thế

của báo chí so với các loại hình văn chương trước đây. Tản Đà ý thức rõ được

điều đó và muốn sử dụng sức mạnh của báo chí như một “cơ quan tiến thủ

của quốc dân” - cách ông vẫn thường nói về báo chí trong hầu hết những bài

viết của mình.

Tuy nhiên, con đường làm báo với Tản Đà cũng chính là hành trình trải

nghiệm với chính bản thân ông. Những vấp ngã, những hạn chế mang tính đặc

định của lịch sử và của chính bản thân ông, thực ra, là không thể tránh khỏi.

Dễ hiểu tại sao từ một ký giả với những háo hức, mê say thủa ban đầu dần

dần thay vào đó là những trầm lắng, suy tư và những khoảng lặng mang tính

trải nghiệm về nghề báo, về cuộc đời. Tuy nhiên, ngọn lửa nhiệt huyết của

ông với báo chí, cho đến tận cuối đời, vẫn chưa bao giờ tắt. Một tờ báo ra đời

rồi lại liên tiếp đình bản đến 6 lần trong vòng 8 năm đủ thấy những khó khăn

và cả những nỗ lực lớn lao của Tản Đà trong việc gây dựng một tờ báo với

những quan niệm của riêng mình, do mình làm chủ và đi theo những đường

hướng, tiêu chí của riêng mình. Tuy nhiên, có một điều cần nhấn mạnh rằng,

ở bất kỳ thời nào, mục đích cũng như tiêu chí hoạt động của một tờ báo cũng

chịu những ảnh hưởng, những tác động nhất định của xã hội và phản ảnh

những quan niệm xã hội nhất định của thời ấy. An Nam tạp chí của Tản Đà

cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Bởi thế, Tản Đà không thể lái con thuyền

báo chí của mình đi ngược dòng. Ông như một người độc hành với con

thuyền độc mộc mải miết ngụp lặn giữa biển khơi mênh mông, mong tìm

được một ngọn hải đăng để dẫn dắt mình đi đến một bến bờ. Người thuyền

trưởng ấy, cuối cùng, đã không thể đi đến tận cùng con đường của mình. Ông

đã bị mắc cạn, không chỉ một mà rất nhiều lần, và cuối cùng đành phải ôm

22

mộng bỏ dở giữa chừng. Nhưng ông vẫn là người có một vai trò vô cùng quan

trọng trong việc khai phá, mở mang một con đường mới, một cách đi mới.

Những trải nghiệm báo chí của ông với nhiều thác ghềnh, giông bão đã cho

những người cùng thời với ông và những người đi sau bài học cần thiết để

trang bị cho mình đầy đủ những kiến thức cho nghề báo. Sự thất bại của Tản

Đà là một thất bại đau xót của cả một cuộc đời đắm mình trong nghề nhưng

đến cuối đời vẫn không thể hiểu vì sao mình lại thất bại. Nhưng nó chính là

tấm gương phản chiếu của thời đại, của lịch sử để người làm báo thời sau có

thể soi vào và nhận ra đâu là con đường đúng đắn nhất.

Báo chí mang đến cho Tản Đà nhiều thứ nhưng cũng lấy đi của ông nhiều

điều. Tuy nhiên, so sánh được - mất ở đây thực chất chỉ có ý nghĩa là những

đánh giá cảm quan. Bởi với một người đã nặng gánh văn chương, “Chữ nghĩa

Tây Tàu trót dở dang/Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng” thì những đong

đếm ấy không nằm trong suy nghĩ của ông. Mới nghe, cứ ngỡ Tản Đà khiêm

nhường, hạ thấp mình. Nhưng thực tình, đó là cách nói ngạo nghễ rất...Tản

Đà. Cách nói “Chữ nghĩa Tây Tàu trót dở dang” cũng là cách ông tự phụ,

hơn người bởi vốn chữ nghĩa, hiểu biết và năng lực của mình. Ông ý thức rất

rõ về điều đó và bởi vậy, “Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng” cũng là cái

mộng lớn của ông về con đường mới mà ông tự hào là người tiên phong - nên

mới có chữ dùng là “phá nghiệp”. Bản thân chữ “nghiệp” đã cho thấy giấc

mộng của ông không hề nhỏ và “xoàng” như ông đã nói. Điều ông thực sự

trăn trở, quan tâm và ngày đêm suy tư là làm sao gây dựng được một tờ báo

theo những đường hướng, tôn chỉ, mục đích của riêng mình.

Cuộc đời làm báo của Tản Đà được tái hiện khá đầy đủ qua câu chuyện

của những người đương thời với ông, cũng là những bạn văn hoặc những văn

sỹ- ký giả trưởng thành từ sự dẫn dắt và ảnh hưởng của Tản Đà. Đó là những

ghi chép, những hồi ký lượm lặt nhưng lại cho thấy bức tranh khá chân thực

23

về hành trình làm báo đầy vất vả, long đong của ký giả Tản Đà khi ông chủ

trương xây dựng một cơ quan ngôn luận riêng của mình - An Nam tạp chí

trong buổi đầu báo chí vào Việt Nam.

Việc Tản Đà quyết định “bỏ bút lông cầm bút sắt” và trở thành một ký

giả lúc bấy giờ là một hiện tượng lạ, một sự va đập mạnh với lối đi truyền

thống, trong khi chính ông cũng là một con nòi của nền cựu học. Bởi vậy,

không mấy ngạc nhiên khi “hiện tượng Tản Đà” trở thành tâm điểm chú ý lúc

bấy giờ với những việc làm “không giống ai”. Có thể thấy điều đó qua lời kể

của Lưu Trọng Lư trong hồi ký “Bây giờ đây, khi nắp quan tài đã đậy lại”:

“Năm 1932, tôi ra Hà Nội học. Một hôm đi qua phố Hàng Da, tôi thấy có

bảng treo mấy chữ: An Nam tạp chí. Tôi thường được nghe người ta nói đến

cái ông chủ nhiệm dị thường của tờ tạp chí khác đời ấy”. Lúc bấy giờ, Tản

Đà được Lưu Trọng Lư coi như “một vị sứ giời sai xuống, hay là bị đày

xuống cõi trần gian để làm một anh nhà nho ngông, một nhà thi sĩ nghèo, một

ông chủ báo phiêu bạt, làm cái ông Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, mà khắp trần

gian đều khét tiếng” [62, 35]. Chỉ qua mấy dòng ngắn ngủi ấy thôi cũng thấy

tiếng tăm của Tản Đà khi ấy lừng lẫy như cồn. Nhưng ông chủ báo Nguyễn

Khắc Hiếu cũng nổi tiếng với lắm sự lôi thôi, rắc rối với cung cách làm báo

ngật ngưỡng, chẳng giống ai. Vậy nên mới có chuyện chàng thi sĩ Lưu Trọng

Lư đợi để “yết kiến” ông chủ báo mà 8 giờ sáng thì ông đang ngủ. Mười giờ

trở lại, thi sĩ núi Tản sông Đà vẫn chưa dậy. Mười một giờ, ông vẫn còn giấc.

Hai rưỡi chiều, Tản Đà mới dậy và ngồi vào chiếu rượu. Bốn giờ chiều, ông

mới hạ đũa. Cả ngày chuếnh choáng với hơi rượu, đến đêm ông mới chong

đèn viết báo. Nhưng cũng có khi, vì rượu mà An Nam tạp chí cũng chẳng có

bài để in. Cái cung cách làm báo tùy tiện, tùy hứng ấy chịu ảnh hưởng thâm

căn cố đế từ chính cốt lõi nhà Nho trong con người ông. Và nó hoàn toàn trái

ngược với phong cách làm báo từ nơi khởi nguyên của báo chí là phương Tây.

24

Mặt khác, buổi đầu của báo chí phương Tây chính là tin tức. Và bản chất của

báo chí cũng chính là tin tức. Nhưng khi vào nước ta, gặp một đội ngũ những

nhà Nho chuyên làm văn như Tản Đà, nó được tiếp nhận theo một lối khác

nên tính tin tức đã giảm đi và tính văn học đã được tăng lên, hình thành một

đội ngũ những người làm báo văn nghệ. Đó chính là đặc điểm nổi bật của báo

chí trong buổi đầu xâm nhập vào Việt Nam những năm đầu thế kỷ 20.

Quãng đời làm báo lận đận của Tản Đà còn được kể lại qua hồi ký “Tản

Đà ở Nam Kỳ” của Ngô Tất Tố. Với nỗi đau vì sự thất bại của An Nam tạp

chí ở phố Hàng Lọng, Hà Nội, Tản Đà khăn gói vào Nam để ôm mộng gây

dựng An Nam tạp chí ở trong Nam, những mong môi trường mới có phần dân

chủ và rộng mở hơn nơi đây có thể giúp ông thực hiện được mộng ước của

mình. Nhưng Tản Đà đã lầm. Ty kiểm duyệt trong ấy đã không nhận kiểm

duyệt bài của một tờ báo ngoài Bắc, An Nam tạp chí không thể ngụ cư trong

đó. Vậy là Tản Đà lại phải cùng với thầy đồ Ngô làm trợ bút cho mục văn

chương của Đông Pháp thời báo do Diệp Văn Kỳ phụ trách.

Càng những năm cuối đời, Tản Đà càng trở nên lạc lõng giữa cuộc đời và

giấc mơ của ông cũng càng trở nên xa vời. Ông phải xoay đủ nghề để kiếm

sống và từ một người nổi danh tài tử, ngông nghênh, ông quay dần về với mô

hình đạo đức truyền thống. Tản Đà mở lớp Hán văn diễn giảng và Quốc văn

hàm thụ, quảng cáo Hà lạc lý số (trên báo Ngày Nay) và tiếp tục dịch thơ

Đường với món nhuận bút bèo bọt là 5 đồng bạc. “Hễ ra báo, thấy có bài của

mình, tiên sinh liền đến ngay tòa soạn. Khái Hưng cấp cho tiên sinh một

phiếu xuất, tiên sinh cầm đến quỹ lãnh tiền. Đó là theo nguyên tắc. Song nào

phải đến là nhận được ngay phiếu, lãnh được ngay tiền. Có khi tiên sinh phải

chờ hàng giờ nơi phòng đợi hoặc trước cửa quỹ!” [62, 107].

25

1.2.Tản Đà và An Nam tạp chí

An Nam tạp chí ra đời năm 1926. Đây là tờ báo ông gửi gắm rất nhiều

hoài bão. Nó thể hiện tập trung nhất những đặc điểm, quan niệm báo chí của

ký giả Tản Đà. Nó cũng bộc lộ rất rõ ràng những hạn chế của một nhà Nho

làm báo. Tờ báo có một đời sống rất lận đận. Chỉ trong vòng 8 năm, nó đã bị

đình bản tới 6 lần. Điều này cho thấy những bế tắc của ký giả Tản Đà trong

bối cảnh xã hội lúc bấy giờ. Tuy nhiên, trong những quãng thời gian tồn tại

ngắn ngủi, đứt quãng, tờ báo vẫn chiếm được một vị trí nhất định trong lòng

độc giả và sự tồn tại của nó có vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển

của lịch sử báo chí nước nhà. Có thể nói, đây là một giai đoạn quá độ của báo

chí trong bối cảnh xã hội chuyển từ xã hội cũ sang xã hội mới, với sự xâm

nhập của những luồng văn hóa, tư tưởng mới từ Phương Tây.

Có thể tóm tắt quá trình phát triển lận đận của Tản Đà cùng An Nam tạp

chí như sau:

1/7/1926, An Nam tạp chí ra số đầu tiên tại phố Hàng Lọng, Hà Nội, khi

Tản Đà 38 tuổi. Có thể thấy rõ quyết tâm cũng như khí thế hừng hực của ông

chủ bút trong những ngày đầu An Nam tạp chí ra mắt:

Non sông thề với hai vai Quyết đem bút sắt mà mài lòng son Dư đồ rách nước non tô lại Đồng bào xa trai gái kêu lên Doanh hoàn là cuộc đua chen Rồng tiên phải giống ngu hèn mà cam (Xuân sầu)

38 tuổi, sau biết bao vất vả, long đong với vai trò cộng tác với các tờ báo,

Tản Đà thỏa chí nguyện khi lập được tờ báo của riêng mình. Bởi vậy, dễ hiểu

vì sao bài thơ lại có giọng phấn khởi, hào hứng và hân hoan đến vậy. Tản Đà

coi đó như cách để ông xác lập công danh và mong muốn làm được điều có

26

ích cho xã hội nên câu thơ giống như lời nguyện ước của một đấng anh hùng,

hào kiệt muốn gánh vác nghiệp lớn: Non sông thề với hai vai/quyết đêm bút

sắt mà mài lòng son. Tản Đà ví mình làm An Nam tạp chí như việc bồi lại bức

dư đồ rách. Đó chính là giấc mộng báo chí hay cũng chính là giấc mộng công

danh mà bấy lâu ông hằng đeo đuổi. Điều đó cho thấy Tản Đà ý thức rất rõ về

vai trò, sức mạnh của báo chí lúc bấy giờ. Khi các cuộc cách mạng đã vào giai

đoạn thoái trào, xu hướng cứu nước theo chủ nghĩa Đông Du, Duy Tân hay

Đông Kinh nghĩa thục bộc lộ nhiều hạn chế, Tản Đà coi An Nam tạp chí là

cách để ông nhập cuộc với xã hội mới và hơn thế, ông tự mang trong mình

trọng trách gánh vác giang sơn trong bối cảnh mới. Chính với tư tưởng chỉ

đạo ấy mà tờ báo có tên An Nam. Không những thế, ông đặt cho tờ báo danh

hiệu “Cơ quan tiến thủ của quốc dân” và khẩu hiệu “Quốc dân An Nam - Tạp

chí An Nam”. Với ý nghĩa ấy, Tản Đà tin tưởng và không ngần ngại hô hào,

kêu gọi mọi người tham gia, hưởng ứng cùng với mình “bồi lại bức dư đồ

rách”. Tuy nhiên, ông cũng ý thức được những khó khăn sẽ phải trải qua, nên

ở câu cuối, chủ báo An Nam hạ bút: Doanh hoàn là cuộc đua chen/Rồng Tiên

phải giống ngu hèn mà cam.

An Nam tạp chí ra tới số 10 thì đình bản (tháng 3/1927). Tản Đà vào Sài

Gòn gặp Diệp Văn Kỳ và với một trăm đồng bạc, ông ra Bắc trang trải công

nợ rồi vào Sài Gòn phụ trách trang văn chương của Đông Pháp thời báo.

Năm 1930, Tản Đà 42 tuổi, An Nam tạp chí tái bản ở Bờ Hồ (nay là phố

Đinh Tiên Hoàng, Hà Nội). Khi tờ báo ra đời, Tản Đà có lời cảm tác: “Năm

xưa Đinh Mão ta ngơi/ Năm nay Canh Ngọ ta thời lại ra”. Nhưng lần này,

cũng chỉ ra được 3 số. Tờ báo ra lần thứ 2, Tản Đà vẫn rất mực tin tưởng vào

con đường mình đi. “Năm xưa Đinh Mão ta ngơi” cũng là cách nói rất Tản

Đà. Chữ “ngơi” là một từ dùng rất đắt. Ông coi việc tờ báo bị đình bản chỉ

như một sự ngừng nghỉ, một chặng dừng chân trên con đường hoạn lộ của

27

mình. Và rồi như một lẽ dĩ nhiên, ông lại đường hoàng, đĩnh đạc: Năm nay

Đinh Ngọ ta thời lại ra.

An Nam tạp chí ra lần 3 tại Phố Khách, Nam Định từ số 14 đến số 21

(tháng 12/1930 - tháng 4/1931).

Năm 1932, An Nam tạp chí ra lần 4 ở phố Hàng Khoai, Hà Nội.

Trong bài “Bức thư đưa người có quen biết”, An Nam tạp chí số 27,

1932, Tản Đà đã thuật lại quá trình làm báo 15 năm nhiều gian truân của mình

qua những lời tâm sự với “cố nhân”.

“Báo quán đêm thanh, điện đăng lửa sáng; một mình tựa ghế, đối bóng

nhớ người xưa. Hồi tưởng mới ngày nào bài văn đánh bạn in ra ở Đông

Dương tạp chí, rồi đến Khối tình con xuất bản, rồi đến báo Hữu Thanh ra đời

ở Mã Vỹ, rồi đến Tản Đà thư cục tiến hành ở Hàng Bông, rồi đến An Nam tạp

chí lần thứ nhất cờ biển ở Hàng Lọng, rồi đến Đông Pháp thời báo ở Nam Kỳ

có phụ trương văn chương, rồi đến Giấc mộng lớn ấn hành ở Hải Phòng, rồi

đến An Nam tạp chí ra lần thứ hai ở Bờ Hồ Hoàn Kiếm, ra lần thứ ba ở phố

Khách Nam Định, cho đến nay Báo quán an định ở Hàng Khoai”.

Thơ văn từ thủa ra đời Mười lăm năm đã với người tương tri trí!

Câu thơ này thể hiện rất rõ giấc mộng của Tản Đà. Giấc mộng ông ôm

ấp, đeo đuổi những 15 năm và ví nó như không chỉ là một bóng hình mơ

màng chỉ có mộng mơ và nhan sắc mà là người tương tri. 15 năm, Tản Đà đã

trải qua bao thăng trầm với nghề cầm bút. Trải qua 4 tờ báo, long đong khắp

trong Nam ngoài Bắc, từ Hà Nội tới Nam Định, Hải Phòng rồi Sài Gòn, con

đường làm báo của Tản Đà thật lắm nhọc nhằn. Nhưng kể lại quãng thời gian

ấy, Tản Đà vẫn nhớ như in bài báo đầu tiên, rồi thuật lại rành mạch từng sự

kiện, từng địa danh mình đặt chân trong cuộc đời làm ký giả - văn nhân của

mình. Điều đó cho thấy, làm báo với ông không phải là một con đường phiêu

28

dạt, theo kiểu “nước chảy bèo trôi”, tiện đâu đi đó. Tản Đà làm báo một cách

chủ định và coi nó là một giấc mộng lớn, đeo đẳng cả cuộc đời.

Hãy nghe ông kể về chuyện làm báo của mình ở An Nam tạp chí khi tái

bản lần thứ 4 này:

Tạp chí An Nam lại ra lần này là thứ tư, về phận sự của tôi ở trong Báo

quán hiện nay cũng chỉ độ bằng một phần tư trong khi ở Hàng Lọng… Phận

sự của tôi chỉ chuyên về phương diện cựu học, ngoài một hai bài luận thuyết

hoặc khảo cứu, thời nặng trách nhiệm ở mục Văn đàn mà thôi. Mỗi tuần lễ cứ

thứ tư, thứ năm, thứ sáu, thường phải đi đến nhà in một buổi sáng, cho được

tiện xem về việc in. Ngoài ra nữa thời ngày thường tiếp chuyện những ông

khách, bạn đến chơi thăm Báo quán và phúc đáp những thư trát của các thân

bằng ở nơi xa. Cứ như nay mà so với hồi Hàng Lọng, có thể gọi là nhàn hơn

nhiều, vậy mà tôi cũng tự thấy là bận rộn. Có nhẽ người ta mỗi ngày mỗi tuổi,

cái sức chịu việc cũng mỗi ngày mỗi kém chăng? Nghĩ đến chỗ đó thực rất là

đáng buồn…

So với khi báo mới ra ở Hàng Lọng, công việc ở Báo quán của Tản Đà đã

không còn được như trước. Tản Đà cũng đã ý thức rất rõ được sở trường, sở

đoản của mình là về phần Cựu học. Còn “về phương diện Tân học đều do

Ngô quân (tức Cử nhân Ngô Thúc Địch - người bỏ vốn cho An Nam tạp chí)

và những anh em có từng du học ở Pháp về trông coi”. Điều đó cho thấy Tản

Đà cũng nhìn thấy những hạn chế của mình khi dấn thân vào một cuộc chơi

mới. Giọng của ông đã phần nào mất đi nét khảng khái, hào khí như trước mà

trầm lắng, ưu tư hơn. Nhưng hoài bão, niềm tin vào sự nghiệp báo chí thì vẫn

còn đó:

Hiện nay An Nam tạp chí lại ra đời, cái công việc nặng nề của xã hội,

được có các nhà hữu lực trong xã hội cùng gánh vác, thời bao nhiêu những

cái lo vị lai, cái buồn quá khứ, mình chỉ nên gạt rẽ cả ra hai bên tả hữu, để

29

hiện tại làm chính lộ cho tiên phong thân thế tiến hành. Nếu Tạp chí An Nam

nhờ cảm tình của quốc dân An Nam mà từ đây vững với non sông, thời như

những cái lo buồn riêng của phần tôi, chắc cũng có tựa theo hạnh phúc của

Tạp chí mà chuyển sang khoái lạc vậy. Phải chăng? Cố nhân.

Lại một giọng hồ hởi, đầy niềm tin và hoài bão về một tương lai xán lạn

của tờ báo. Và ông cũng vẫn hy vọng thành công của tờ báo có thể gây dựng

nên tiếng tăm cho mình một cách đĩnh đạc, đường hoàng.

Nhưng cũng chỉ trong năm 1932, An Nam tạp chí đình bản rồi lại tái bản

lần 5 ở phố Hàng Bông, Hà Nội.

Năm 3/1933, An Nam tạp chí ra lần 6 ở phố Hàng Da, Hà Nội. Nhưng

chỉ được 3 số lại đình bản.

Càng về sau, An Nam tạp chí càng èo uột với thời gian tồn tại ngày càng

ngắn dần. Từ chỗ hơn một năm tới chỗ chỉ chừng vài chục số và cuối cùng là

3 số, tờ báo nói lời chung cục khi đã tái bản đến lần thứ 6.

Ở An Nam tạp chí, Tản Đà tha hồ có đất dụng võ. Người đọc có thể thấy

tính đa dạng trên các thể loại văn học và bút lực của Tản Đà. Đó là các thể

loại: bình giảng văn học, ngôn ngữ học, luận thuyết triết học, nghiên cứu lịch

sử, du ký, phóng sự, ghi chép, những vấn đề xã hội nhân sinh, bình giảng Hán

học, hài văn, thơ.

30

Chương 2: Sự phát triển của báo chí, nhà xuất bản và sự hình thành loại hình ký giả - văn nhân chuyên nghiệp giai đoạn giao thời

2.1. Vai trò báo chí, nhà xuất bản - môi trường tồn tại, lưu hành của văn chương phi truyền thống giai đoạn giao thời

Với bất kỳ dân tộc nào trên thế giới, báo chí bao giờ cũng có vai trò lớn

trong đời sống xã hội, bởi những đặc điểm mang tính ưu việt của nó là tính

thời sự và diện phát tin rộng lớn. Ở Việt Nam, trong giai đoạn giao thời này,

báo chí đóng vai trò cực kì quan trọng. “Hơn bao giờ hết báo chí như một

chiếc nôi màu nhiệm, một bà đỡ lành nghề đã nâng niu tiếp sức, tạo luồng

sinh khí cho văn học hiện đại từ khi nó còn trứng nước nhanh chóng đi tới

trưởng thành” [39, 7].

Sự ra đời của báo chí, lẽ tự nhiên, làm xuất hiện một chân dung mới: ký

giả, hay nhà báo. Những danh xưng này, trong ngôn ngữ đương đại thiên về ý

nghĩa nghề nghiệp thuần túy nhưng ở vào thời điểm cuối thế kỷ XIX đầu thế

kỷ XX lại có nét nghĩa chỉ một nhóm có vai trò ưu đẳng trong xã hội (status

group). Với quốc dân, họ là đại diện cho luân lý và tri thức, có chức phận dẫn

dắt, hướng đạo. Trong một xã hội vốn có truyền thống trọng quan tước, ký giả

thậm chí được liệt vào tầng lớp “quan lại cao cấp”. Danh xưng ký giả thời kỳ

ấy thậm chí còn danh giá hơn cả ấn tri huyện. Đây là lý do khiến Tản Đà, năm

1916, khước từ lời mời vào học đặc cách của Giám đốc trường Hậu Bổ để lựa

chọn con đường trở thành một ký giả, một nhà báo (chứ không phải là một

nhà văn theo nghĩa hiện đại như vẫn thường được quan niệm).

Điểm tương cận giữa nhà báo và kẻ sĩ, như trên đã nói, là vị thế của một

nhóm tinh hoa có khả năng là đại diện cho đời sống tinh thần cộng đồng. Hẳn

phải có lý do để Phạm Quỳnh, năm 1917, sau khi đưa ra một thực tế: “Lắm

nước như nước Pháp nước Anh, dư luận (do nhà báo khởi xướng) thật là giữ

quyền chúa tể trong nước, chi phối cả cuộc sinh hoạt quốc dân về chính trị, xã

31

hội, kinh tế” đã hồ hởi tuyên bố: “Nước Nam ta sau này hay hay dở, các nhà

báo cũng có phần vào đấy”. Tuy nhiên, quan trọng hơn, báo chí còn đem lại

một không gian mới cũng như một khả năng mới cho sự tồn tại độc lập cũng

như khả năng tác động đến thực tiễn của nhà báo với tư cách người trí thức

trong xã hội hiện đại.

Trước hết, công chúng của tờ báo khiến cho viết báo trở thành một nghề.

Nếu như ông quan luôn bị ràng buộc bởi ơn mưa móc, bổng lộc từ thiên tử và

vì thế không thể giữ một vai trò phản biện cho trật tự xã hội hiện hành thì tư

cách nhà báo cho phép người trí thức hiện đại có khả năng tồn tại độc lập.

Chẳng những thế anh ta có điểm tựa từ công chúng để đối diện với bộ máy

quyền lực. Người trí thức đến đây đã thoát khỏi thân phận ký sinh vào tồn tại

của ông quan. Mặt khác, báo chí đưa lại cho nhà báo khả năng tác động đến

thực tiễn xã hội một cách trực tiếp và hết sức sâu rộng. Nếu như tác động của

nhà trường chủ yếu trong phạm vi học sinh sinh viên thì bất kỳ ai, thuộc về

bất kỳ tầng lớp nào, chỉ cần biết đọc cũng là đối tượng tiềm tàng cho sự tác

động của báo chí. Sự nghiệt ngã trong chế độ kiểm duyệt của nhà nước bảo hộ

không phải lúc nào cũng có thể duy trì, và dù thế nào chăng nữa vẫn luôn có

kẽ hở trước một thực tiễn báo chí sinh động. Những tư tưởng của nhà báo vì

thế luôn tìm được đường đến với công chúng. Số lượng lớn của những tờ báo,

đặc biệt là báo chí tư nhân cũng là một không gian rộng lớn để những ký giả

xuất hiện với những tư tưởng mà họ theo đuổi từ đó tác động trực tiếp đến đời

sống xã hội. Điều này giải thích vì sao những trí thức lớn nhất của thời kỳ này

(dù xuất thân từ những địa hạt tri thức khác nhau) đều tìm đến với những tờ

báo và không hiếm khi họ gắn chặt tên tuổi của mình với một tờ báo nào đó.

Nhà báo là biểu hiện tập trung nhất phẩm chất, năng lực đối diện với thực tế

đời sống của người trí thức hiện đại. Trên thực tế, không ít những tờ báo đã

đóng vai trò như là trung tâm của sự diễn tiến tư tưởng xã hội. Lục Tỉnh Tân

32

Văn là tiếng nói của cuộc vận động Minh Tân với những tên tuổi của Trần

Chánh Chiếu, Trương Duy Toản. Đăng Cổ Tùng Văn là cơ quan ngôn luận

của Đông Kinh Nghĩa Thục - những nhà chí sĩ cũng đồng thời là những nhà

báo. Phong trào Âu hóa rầm rộ những năm 30 được xúc tiến dưới sự dẫn đạo

của Nguyễn Tường Tam và những yếu nhân của Phong Hóa và Ngày Nay…

Vai trò quan trọng của báo chí, ngay từ “Văn minh tân học sách” (của

Đông Kinh Nghĩa Thục) đã được nhắc đến. Một trong 6 đường mà sách đã chỉ

ra là “Mở toà báo” (cùng với việc dùng văn tự nước nhà, sửa đổi phép thi,

hiệu đính sách vở, cổ võ nhân tài, chấn hưng công nghệ). Bằng việc dẫn ra sự

phát triển của báo chí Tây Phương và cả Đông Phương, sách đã chỉ ra sự vắng

bóng của báo chí nước ta. Từ đó kêu gọi phải mở toà báo. “Pháp có hơn 1300

báo quán, Đức có hơn 2350 báo quán, Anh có hơn 2180 báo quán… Nhật

Bản không quận nào không có báo quán. Trung Quốc gần đây cũng mở báo

quán rất nhiều. Dân trí sở dĩ được mở mang là chính nhờ đó”. Cho nên

“…Dùi mài mấy tập giấy cũ, sao bằng xem báo mới mà trên giấy mực đều là

thần tri. Thế thì không thể không mở báo quán là rõ ràng lắm!”.

Tuy nhiên, một thực tế là, trước khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược,

Việt Nam vẫn chưa có báo chí. Ngay từ những năm đầu, khi thực dân Pháp

đặt bộ máy cai trị của chúng lên đất Nam Bộ, báo chí đã được phổ biến rộng

rãi. Ban đầu, các tờ báo được xuất bản bằng tiếng Pháp, tiếp đó được xuất bản

bằng Tiếng Việt. Tờ báo đầu tiên ở Việt Nam xuất hiện ở Nam Bộ năm 1861

là tờ “Nam Kì Viễn chinh công báo”, do thuỷ sư đô đốc Bonard phụ trách.

Chỉ một năm sau, viên võ quan này cho ra tờ báo thứ hai là tờ “Xã thôn công

báo”, viết bằng chữ Hán, dùng để “hiểu dụ nhân dân quy thuận”.

Điểm qua sự phát triển của báo chí trong giai đoạn này, chúng tôi muốn

nhấn mạnh bức tranh toàn cảnh với những mảng màu đa dạng của các loại

hình báo chí lúc bấy giờ. Điều này xuất phát từ sự xâm lấn dần dần của báo

33

chí phương Tây vào xã hội thuộc địa Việt Nam một cách từ tự phát sang tự

giác. Từ đó, tìm ra Tản Đà đứng ở đâu trong đó và vì sao ông lại thất bại với

An Nam tạp chí.

Tờ báo Quốc ngữ đầu tiên xuất hiện ở Nam Bộ - Gia Định báo, do một

nghị định của chính quyền thực dân Pháp cho phép, ra đời 1/4/1865 được

Ernest Potteaux, một thông ngôn người Pháp làm chủ nhiệm. Đến 1869, tờ

báo này mới được chuyển sang cho Trương Vĩnh Ký - người Việt Nam đầu

tiên viết trên các báo Pháp.

Ở Bắc Bộ, nhà in chữ Latinh theo lối phương Tây đầu tiên của chính

quyền thực dân Pháp lập năm 1883, do Chneider làm quản lí. Tờ báo đầu tiên

ở Bắc Bộ cũng là tờ báo Pháp nhan đề: “Tạp chí của ban nghiên cứu ngôn

ngữ, kĩ nghệ và thương mại ở Trung Kì và Bắc Kì”.

1893, Schneider lập nhà in riêng và xuất bản tờ Đăng Cổ tùng báo

(1907), thêm một phần Quốc văn, do Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút và Phan

Kế Bính là trợ bút.

1905, có tờ Đại Việt tân báo, do Babut làm chủ nhiệm và Đào Nguyên

Phổ là chủ bút, gồm hai phần: chữ Hán và chữ Quốc ngữ.

15/5/1913, sau cuộc ném bom ở khách sạn Hà Nội, được trợ cấp của

chính quyền thực dân Pháp, Nguyễn Văn Vĩnh chủ trương ra tờ Đông Dương

tạp chí. Tờ tạp chí này ra hàng tuần, có các cây bút giúp việc là: Phạm Quỳnh,

Nguyễn Văn Tố, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục, Dương Bá Trạc. Trong số

những người này, sau có một số tách ra, chủ trương những cơ quan báo chí

riêng, chỉ còn Nguyễn văn Vĩnh, Nguyễn Đỗ Mục và Phan Kế Bính làm biên

tập tạp chí này đến ngày cuối cùng. Đông Dương tạp chí chuyên về mặt học

thuật, văn chương. Các nhà Nho giới thiệu văn học cổ với quần chúng, còn

các nhà Tân học thì phiên dịch và ca tụng văn chương Pháp.

34

1915, Nguyễn Văn Vĩnh cho ra tờ Trung Bắc tân văn, Hoàng Tăng Bí,

Dương Bá Trạc luôn thay nhau giữ hai cột xã thuyết, cũng như Nguyễn Đỗ

Mục luôn giữ việc dịch tiểu thuyết cổ Trung Quốc trên mặt báo.

Nam Phong tạp chí (1917) lúc đầu do Phạm Quỳnh làm chủ bút phần

Quốc ngữ, Nguyễn Bá Trác làm chủ phần chữ Hán, có các trợ bút như Đông

Châu Nguyễn Hữu Tiến, Sở Cuồng Lê Dư, Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục…

Sau khi Nguyễn Bá Trác vào Huế làm quan thì Phạm Quỳnh làm chủ bút cả

hai phần, nhưng thực tế phần chữ Hán giao cho Sở Cuồng Lê Dư phụ trách.

Tạp chí Nam Phong ra hàng tháng, nhân danh cơ quan của Hội Khai Trí

Tiến Đức, có ba phần: Quốc văn, Hán văn và Pháp văn. Trong đó, Quốc văn

là phần quan trọng hơn cả. Tờ báo này do ba người sáng lập là Louis Marty

(giám đốc phòng chính trị ở phủ toàn quyền Đông Dương), Phạm Quỳnh (tay

sai đắc lực cho thực dân Pháp) và Nguyễn Bá Trác.

Có thể khẳng định, Đông Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí giữ một

địa vị tối yếu trong lịch sử văn học Việt Nam bởi hầu hết các sản phẩm văn

chương có giá trị hay đã gây được một ảnh hưởng sâu rộng đều xuất hiện trên

hai tạp chí này; các văn sĩ thế hệ này chưa có thói quen in sách, dù xuất bản

đã phát triển. Công lao lớn nhất của hai tạp chí này là nhiệt tâm ủng hộ và vun

trồng cho chữ Quốc ngữ. Đông Dương tạp chí đã hoạt động để dưa đến sự sụp

đổ nền Hán học và khoa cử cổ điển tại Bắc Kì năm 1915, Nam Phong tạp chí

cũng làm công việc ấy ở Trung Kì năm 1919.

Mặc dầu có thâm ý hiểm độc, người Pháp đã vô tình giúp một cách hiệu

lực vào công cuộc tái sinh tinh thần cho Việt Nam, sau khi đã cởi thoát được

mọi xiềng xích nô lệ của chế độ độc tài Nho giáo. Công đầu trong việc đó

phải ghi cho báo chí là những cơ quan đắc lực trong việc truyền bá chữ Quốc

ngữ. Hầu hết các văn sĩ tiên phong đều lấy báo chí làm chỗ luyện tập ngòi bút

35

và hầu hết các nhà học giả thế giá trong giai đoạn này đều đã chấm bút vào

bình mực Đông Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí.

Ngoài những tờ tạp chí và báo được trợ cấp của thực dân Pháp, làm việc

cho thực dân Pháp, ở Bắc Bộ còn có những tờ báo do tư nhân và các đoàn thể

doanh nghiệp đứng ra chủ trương. Từ đại chiến thế giới lần thứ nhất kết thúc

đến 1929, Bắc Bộ còn lần lượt xuất hiện các báo chí bằng chữ Quốc ngữ như:

Thực nghiệp dân báo (1920), Học báo (1920), Khai hoá (1921), Hữu Thanh

(1922), Đông Pháp (1925), An Nam tạp chí (1926), Hà Thành ngọ báo

(1927)…

Đặc biệt, năm 1927, Hoàng Tích Chu sáng lập báo Đông Tây, thay lối

văn rườm rà, nặng nề của lối văn biền ngẫu đầy chữ Nho, bắt chước cách viết

theo lối văn báo chí Phương Tây, mở ra những mục mới trên tờ báo.

Đó đều là những cơ quan ngôn luận đã gieo được ảnh hưởng, tác động ít

nhiều mạnh mẽ vào đường lối, tư ttưởng, cảm nghĩ và hành động của quốc

dân ta lúc bấy giờ; chúng đã tạo đà thúc đẩy cho sự phát triển của văn hoá

mới, cho sự thành công của chữ Quốc ngữ, củng cố cho địa vị văn học khỏi bị

các lực lượng ngoại lai phá hoại, lấn át.

Như vậy là không lâu sau khi xuất hiện, báo chí đã nhanh chóng chuyển

từ chữ Hán, chữ Pháp sang chữ Quốc ngữ. Cũng có nghĩa là sau gần hai thế kỉ

tẩy chay và khinh bỉ (vì coi đó là thứ chữ của ngoại bang du nhập vào, không

phải là thứ chữ của dân tộc), giờ đây nhà Nho chí sĩ lại dễ dàng “đồng thuận”

với người Pháp trong việc sử dụng thứ chữ này. Trước thời cục mới, họ đã

nhận ra ưu thế và khả năng sử dụng chữ Quốc ngữ như một thứ chữ của dân

tộc (tiện dụng và hữu ích hơn hẳn chữ Hán và chữ Nôm) và nghiễm nhiên

biến nó thành công cụ đắc lực cho hoạt động tuyên truyền cách mạng dưới sự

kiểm duyệt của kẻ thù.

36

Một điểm đáng lưu ý là báo chí xuất hiện đầu tiên ở Nam Kỳ, sau đó mới

ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Điều này có thể lý giải bởi Nam Kỳ, sau hai hiệp ước

của triều đình nhà Nguyễn, đã trở thành xứ bảo hộ của Pháp, một “hạt” của

nước Pháp ở Viễn Đông. Nhờ vậy mà báo chí Nam Kỳ được hưởng phần nào

chế độ báo chí của chính quốc. Ngoài ra, những điều kiện khác như công

chúng văn học hay cơ sở vật chất ở Nam Kỳ cũng thuận lợi hơn so với Bắc

Kỳ và Trung Kỳ.

Con đường xâm lược của thực dân Pháp là đi từ Nam ra Bắc rồi mới trở

lại Trung Kỳ. Sự phát triển của báo chí cũng tuân theo trình tự này. Các tờ tạp

chí, nguyệt san, bán nguyệt san và các báo ra hàng tuần, hàng ngày bằng chữ

Quốc ngữ trong những năm đầu tiên của chính quyền thực dân Pháp đặt trên

đất nước ta, tính cho đến năm 1925, nhiều nhất là ở Nam Bộ, rồi đến Bắc Bộ,

còn Trung Bộ thì hầu như không có gì. Mãi đến năm 1927, ở Trung Kỳ mới

xuất hiện tờ báo Quốc ngữ đầu tiên là báo Tiếng Dân của Huỳnh Thúc Kháng.

Trong khi ấy, số lượng báo chí bằng tiếng Pháp nhiều hơn hẳn gấp hai, thậm

chí ba lần. Có thể thấy rõ điều này qua bảng tổng kết các ấn phẩm lưu chiểu

từ 1/1923 đến 6/1923:

Loại báo Nam Bộ Bắc Bộ Trung Bộ

Báo chí bằng tiếng Pháp 15 6 0

Tạp chí tiếng Pháp 8 18 3

Báo bằng chữ Quốc ngữ 7 3 0

Tạp chí bằng chữ Quốc ngữ 6 4 1

Sự phát triển ấy lẽ dĩ nhiên cũng đã kéo theo nhiều đội ngũ làm báo từ

Bắc Kỳ và đặc biệt là Trung Kỳ chuyển vào Nam Kỳ (như trường hợp của

Phan Khôi, từ tạp chí Hữu Thanh, Nam Phong chuyển vào cộng tác với Thần

Chung, Phụ Nữ Tân văn…).

37

Có thể nói, báo chí chính là môi trường thuận lợi cho đội ngũ nhà Nho

thử sức ở nhiều lĩnh vực. Dù muốn dù không, là tầng lớp tinh hoa, đặt mình

trước dân tộc, trong sáng tác, họ đã phải nỗ lực tự vượt mình, bứt ra khỏi

những rào cản không dễ dàng vượt qua của lối viết và quan niệm truyền

thống. Không đâu khác, báo chí chính là địa hạt thuận lợi và khả dĩ hơn cả để

họ tiến hành công cuộc thử nghiệm ấy.

Bàn về vai trò quan trọng của báo chí với quá trình hiện đại hoá văn học,

nhiều công trình nghiên cứu đều thống nhất với nhau ở những điểm cơ bản

như sau:

Thứ nhất, báo chí được coi là “bà đỡ”, là một phương tiện quan trọng để

chuyển tải và truyền bá tác phẩm văn học. Đặc biệt, ở thời kỳ đầu, trước khi

có sự ra đời của nhà xuất bản thì hầu như báo chí là phương tiện duy nhất để

truyền bá tác phẩm, là nơi giới thiệu kinh nghiệm sáng tác, nghiên cứu phê

bình, dịch thuật. Xuất bản đi sau báo chí một bước nên trong buổi đầu báo chí

đã kiêm nhiệm luôn công việc của nhà xuất bản. Có thể ví báo chí như trung

tâm văn hoá lớn của thời đại. Trong hoàn cảnh lúc ấy, báo chí giữ vai trò như

địa bàn chính cho những cuộc đấu tranh, thử sức để tự trưởng thành. Những

tác phẩm văn học hay sẽ được đông đảo công chúng báo chí đón nhận và

hưởng ứng, cổ vũ. Ngược lại, những tác phẩm không đáp ứng được nhu cầu,

thị hiếu của công chúng mới, sẽ nhanh chóng bị đào thải và gạt bỏ ngay trên

những trang báo. Đồng thời, cũng ngay trên mặt báo, sự xuất hiện của những

luồng tư tưởng, văn hóa mới, những phong cách và bút pháp nghệ thuật mới

sẽ nhanh chóng được phổ biến và giới thiệu cho đông đảo độc giả các tầng

lớp. Sự thẩm định và đánh giá của công chúng sẽ giúp cho việc dần định hình

và phát triển những luồng tư tưởng, trào lưu văn hoá - văn học mới.

Gắn liền với quá trình đó là sự xuất hiện và nổi danh của hàng loạt những

tên tuổi đã được chính công chúng báo chí kiểm nghiệm.

38

Cũng trên các tờ báo, các ký giả - văn nhân lại có dịp đóng vai trò của

mình trong việc cách tân những thể loại văn chương truyền thống và thúc đẩy

sự ra đời của những thể loại văn học mới, thích hợp hơn với nhu cầu, thị hiếu

của một kiểu công chúng mới. Những thể loại truyền thống như thơ, phú, văn

biền ngẫu… dường như đã mất vị trí độc tôn trong văn học truyền thống trước

đó, thay thế nó và có phần được công chúng đón nhận mạnh mẽ hơn là những

thể loại văn xuôi thế thuật - hoàn toàn mới mẻ và chưa từng xuất hiện, nhưng

lại thích hợp với thời đại hơn như tiểu thuyết, ký, truyện ngắn…

Báo chí ra đời cũng đã dẫn đến sự xuất hiện của một đội ngũ những trí

thức - người làm báo chuyên nghiệp, sống bằng nghề báo. Nhờ đó, làm xuất

hiện và “chính thức hoá” một đội ngũ những văn sĩ - ký giả chuyên viết văn,

làm báo và coi đó là một nghề nghiệp. Tản Đà chính là một trong số đó. Đây

là một biến đổi quan trọng và có tác dụng thúc đẩy rất lớn với việc phát triển

nền văn học dân tộc. Trước đây, việc viết thơ, bình văn chỉ là do “cảm hứng”,

tức cảnh mà sinh tình chứ không được coi là một nghiệp kiếm sống. Người ta

tuy đã nhận thức rõ tầm quan trọng và luôn đề cao “Văn” nhưng vẫn chỉ coi

đó là thứ văn chơi, văn tiêu khiển, “mua vui cũng được một vài trống canh”

(Nguyễn Du). Nhờ chuyên tâm vào việc viết văn làm báo nên họ cũng có điều

kiện cách tân những lối văn cũ, thể nghiệm mình trên những thể loại và hình

thức mới, phù hợp hơn với đời sống và phong cách hiện đại. Chính vì thế, văn

học có cơ hội rất lớn để bứt phá và vượt thoát khỏi những quy phạm nặng nề,

lạc hậu của lối viết truyền thống, bước vào quá trình hiện đại hoá một cách

toàn diện trên cả hai phương diện nội dung và hình thức.

Sự xuất hiện của báo chí với tư cách một “hiện tượng lạ”, chưa từng có

trong truyền thống, ban đầu nằm trong âm mưu thống trị, nô dịch của chính

quyền thực dân, nhưng với vai trò là một “công cụ không tự giác của lịch sử”

(chữ dùng của Marx) đã làm thay đổi cả một hệ thống quan niệm và tư tưởng

39

truyền thống, thổi một làn gió mới và tạo nên những không khí, sắc diện mới

cho văn học. Có thể thấy rõ điều này qua gương mặt của một số tờ báo như

Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí, An Nam tạp chí, Tiếng Dân, Hữu

Thanh, Phụ Nữ Tân văn, Đông Tây, Khai Hoá…

2.2. Tản Đà - người đóng vai trò tiên phong trong việc hình thành đội ngũ ký giả - văn nhân chuyên nghiệp

Trong buổi giao thời 30 năm đầu thế kỷ 20 đã xuất hiện vấn đề hiện đại

hóa, quốc tế hóa nền văn học - văn hóa, phá vỡ khuôn khổ khu vực và việc xã

hội dân sự hóa sinh hoạt đời sống tinh thần. Trước đây, sinh hoạt văn hóa

truyền thống có 2 bộ phận hoàn toàn khác nhau là văn hóa quan phương cung

đình và văn hóa làng xã. Tương ứng với nó, các sinh hoạt văn học nghệ thuật

cũng theo hai hướng ấy. Bây giờ, hệ thống báo chí xuất hiện, tác động vào xã

hội Việt Nam với đặc điểm là tính xã hội hóa thông tin đã phá vỡ sự ngăn

cách giữa 2 nếp sinh hoạt văn hóa như thế và lôi cuốn mọi tầng lớp tham gia

vào sinh hoạt đó. Báo chí làm cho sinh hoạt tinh thần vừa mang tính xã hội

hóa rộng rãi vừa dân chủ hóa sâu sắc hơn. Nói nôm na rằng, trước đây, ông

quan không thèm nói trực tiếp với dân mà nói qua một hệ thống chức sắc làng

xã như mõ. Nhưng bây giờ trên báo chí, ông quan ấy phải nói trực tiếp và mọi

người đều bình đẳng khi tiếp nhận thông tin. Và văn học nghệ thuật cũng như

vậy.

Tuy nhiên, cần nhấn mạnh lại rằng, xã hội Việt Nam được hiện đại hóa

một cách cưỡng bức, trong bối cảnh thuộc địa, nô dịch nên quá trình hiện đại

hóa ấy cũng là cưỡng bức đầu tiên. Tức là tính chất tự nguyện ở đây xuất hiện

từng bước một chứ không phải ngay từ đầu. Chẳng hạn, Nguyễn Đình Chiểu

đề kháng tất cả những gì liên quan đến Pháp: không cho con học chữ quốc

ngữ, đi ăn cỗ thà lội ruộng chứ không đi đường gạch, thà giặt bằng nước tro

chứ không dùng xà bông, không dùng đèn Hoa Kỳ… Nhưng qua các giai

40

đoạn, người ta chấp nhận từng bước một. Trường hợp Trần Tế Xương là một

ví dụ. Chỗ ông bị cuốn vào thì vẫn nhập cuộc hăng say, chỗ lại đề kháng rất

dữ. Trần Tế Xương mỉa mai người đi học quốc ngữ nhưng trong lối sống, ông

bị lôi cuốn thành một người thị dân chứ không phải là nhà Nho về các chừng

mực đạo đức, ứng xử xã hội. Đến giai đoạn sau, giữa những năm bản lề của

thế kỷ 20, có một sự kiện đánh dấu sự chung cục của Văn học Trung đại, mở

ra quá trình hiện đại hóa văn học. Đó là ý thức tự giác, chủ động tiếp nhận cái

mới của một bộ phận mà động cơ, nguyên nhân xuất phát từ nhu cầu cứu

nước, duy tân. Họ nhận ra một điều rất đơn giản là không duy tân, không cứu

nước được. Chính duy tân, về một nghĩa nào đó là buộc phải làm theo phương

thức của xã hội Âu Mỹ. Trong đó có những sinh hoạt tinh thần theo phương

thức mới mà báo chí là một trong những kênh quan trọng. Văn học nghệ thuật

cũng biến đổi theo hướng đó. Nhưng ở đây có một nghịch lý. Chủ nghĩa hiện

thực Phương Tây chống mọi biểu hiện tùy tiện theo lối tự nhiên chủ nghĩa.

Với thuộc địa, họ lại muốn dân ngu, lạc hậu để dễ bề cai trị. Nhưng họ không

thể tổ chức, quản lý xã hội theo cách nào khác ngoài cách của nước bản địa.

Chính điều đó làm cho xã hội Việt Nam hiện đại hóa từng bước một. Ở đây,

rõ ràng mục đích chủ quan và ý nghĩa khách quan là khác nhau. Đó chính là

tính chất “công cụ không tự giác của lịch sử” theo như cách nói của Marx.

Phương Tây đã có vài thế kỷ phát triển báo chí và có kinh nghiệm rất

nhiều về sự tồn tại, lưu hành của loại hình văn chương trên báo chí. Với người

Việt Nam lúc bấy giờ, tất cả đều là mới. Các nhà khoa bảng rất có ý thức về

vai trò của báo chí. Nhưng họ là những người con nòi của Cựu học nên kinh

nghiệm với cái mới là không có, vậy nên phải học cách người Pháp bày cho

làm. Bởi vậy mới có hẳn 1 lớp ông quan đi làm báo: Vũ Phạm Hàm, Đào

Nguyên Phổ, Kiều Oánh Mậu… nhưng tất cả những kiến thức, kinh nghiệm

làm báo họ có được đều là nhờ người Pháp dạy cho. Tản Đà không thuộc lớp

41

người ấy. Ông ý thức về vai trò của báo chí một cách tự phát bởi nhãn quan

lich sử của mình. Nhưng lúc bấy giờ, những hạn chế về điều kiện, hoàn cảnh

khách quan cũng như hạn chế ngay trong chính bản thân ông đã khiến Tản Đà

không tiếp cận được với kinh nghiệm làm báo một cách bài bản và đầy đủ.

Những gì ông có được đều là do tự mày mò, học hỏi, thậm chí là tự làm theo

cách nghĩ của riêng mình. Bởi vậy, tính chất tùy tiện, tùy hứng và phần nào

mang tính tự phát là một biểu hiện rất rõ nét và xuyên suốt trong phong cách

làm báo của Tản Đà.

* Trước hết, cần phải hiểu rõ khái niệm: Ký giả - văn nhân “chuyên

nghiệp”.

“Ký giả” nghĩa là người làm báo. “Văn nhân” là người viết văn, làm thơ,

gọi chung là người sáng tác. Tuy nhiên, đối với Tản Đà, giữa ký giả và văn

nhân có mối quan hệ qua lại, gắn bó với nhau và trong một số trường hợp,

điều này không thực sự tách bạch. Tản Đà là văn nhân thì đã rõ. Những sáng

tác văn chương của ông với cái Tôi ngông nghênh, thị tài và đa tình, không

giống ai là một hiện tượng trên văn đàn lúc bấy giờ. Với những cách tân, phá

rào của mình, ông được mệnh danh là “hòn gạch nối văn chương”, là dấu nối

giữa hai thời kỳ văn học cổ điển và hiện đại. Khái niệm “ký giả” với Tản Đà

và cả xã hội lúc bấy giờ, là một khái niệm còn mới mẻ, được xâm nhập từ

phương Tây. Gắn liền với khái niệm này là những quan niệm về một nghề

mới trong xã hội với một chức danh mới: Nhà báo. Khái niệm “văn nhân” ở

đây cũng không còn là những người viết văn, làm thơ theo lối truyền thống,

đơn thuần, mà là theo cách chuyên nghiệp, tức là coi việc sáng tác văn thơ là

một phương tiện để kiếm sống. Điều này khác hẳn với quan niệm của các nhà

Nho trước đây, coi văn chương là cách để “mua vui cũng được một vài trống

canh” hay để gửi gắm nỗi niềm, chuyển tải “Tâm, Chí, Đạo”.

42

Bởi vậy, khái niệm “Ký giả - văn nhân chuyên nghiệp” ở đây tức là Tản

Đà coi viết văn, làm báo là một nghề, là công cụ để kiếm sống. Điều này chỉ

có khi xã hội có một sự phân hóa nhất định, văn thơ, báo chí trở thành một

loại hàng hóa, một hình thức dịch vụ hướng tới việc phục vụ nhu cầu tinh

thần của con người. Xã hội phát triển, nhu cầu về thưởng thức văn hóa và các

sản phẩm tinh thần của con người càng tăng. Từ đó dẫn đến việc hình thành

một nghề mới với đội ngũ những người chuyên cung cấp các sản phẩm dịch

vụ về tinh thần: người viết văn, làm báo chuyên nghiệp. Như vậy, việc hình

thành một đội ngũ các nhà văn, nhà báo chuyên nghiệp mà Tản Đà là một

trong những người tiên phong chính là một xu thế phát triển tất yếu của văn

học, báo chí lúc bấy giờ. Cần có một cái nhìn đúng đắn rằng, Tản Đà hoàn

toàn không phải là một hiện tượng mang tính đột biến, bất thường. “Hiện

tượng” Tản Đà nằm trong dòng chảy của lịch sử, mang dấu ấn của những đổi

mới, cách tân và cả những hạn chế đặc định của lịch sử.

Khái niệm chuyên nghiệp bao gồm ở cả hai phương diện: Nội dung và

hình thức thể hiện. Về nội dung, tính đối tượng ở đây là rất rõ ràng, đó là

hướng tới việc phục vụ số đông quần chúng, hướng tới sở thích, thị hiếu của

độc giả. Người viết không phải viết cho mình, viết để giải khuây, gửi gắm nỗi

lòng của mình qua trang viết, mà là viết cho người khác đọc. Nội dung sáng

tác cũng vì thế mà không thể chỉ bó buộc trong phạm vi của những tâm sự,

cảm xúc cá nhân mà mở rộng ra phạm vi xã hội với những vấn đề của hiện

thực đời sống, những vấn đề được nhiều người quan tâm. Những thay đổi về

nội dung cũng tất yếu dẫn đến thay đổi về hình thức thể hiện. Từ cách miêu tả

ước lệ, tượng trưng, người viết phải dùng lối tả thực, cách viết giản dị, dễ

hiểu, ngôn ngữ bình dân để hướng đến số đông người đọc. Báo chí, văn

chương nói chung muốn đến được với người đọc phải phản ánh được chân

thực đời sống xã hội và những tâm tư, tình cảm của con người trong xã hội

43

ấy. Ký giả chính là người có sứ mệnh chuyển tải, khám phá sự phong phú, đa

dạng và phức tạp nhiều chiều của đời sống. Tản Đà đã lĩnh hội được sứ mệnh

đó và hăm hở, hăng hái hết mình để chèo lái con thuyền An Nam tạp chí. Trên

các trang báo, hiện thực cuộc sống ngồn ngộn được phản ánh chân thực, sống

động nhất và nó có giá trị như cuốn biên niên sử của thời đại.

Tính chuyên nghiệp về nội dung - hình thức sẽ được chúng tôi phân tích,

làm rõ trong phần cuối của luận văn: Khảo sát mục “Việt Nam nhị thập thế kỷ

Xã hội thiển đàm” và “Việt Nam nhị thập thế kỷ Ba đào ký”.

* Đặt trong bối cảnh lịch sử - xã hội Việt Nam giai đoạn giao thời. Theo PGS.TS Trần Ngọc Vương, từ sau năm 1908, đã xuất hiện một

khoảng chân không (vacuum) trong đời sống tinh thần nói chung, đời sống

văn học dân tộc nói riêng. “Trạng thái khủng hoảng lịch sử này có lẽ là trạng

thái tất yếu ở những xã hội quá độ, nhất là những thời kỳ quá độ không diễn

ra một cách tự nhiên, mà theo lối áp đặt, bị động” [50, 351]. Bộ phận tinh

hoa của Nho giáo, người thì bị giết, bị bắt, bị lưu đày, quản thúc, người thì

phải trốn tránh, phiêu bạt sang Trung Quốc, Xiêm, Lào, Nhật Bản. Một số

khác, hoặc chỉ bày tỏ sự bất mãn, bất phục, bất hợp tác với chính quyền mới

bằng thái độ kín đáo, hoặc cộng tác với chính quyền, tham gia vào chính thể

mới ở các mức độ mẫn cán khác nhau thì không còn duy trì nổi cảm hứng để

có thể có được những sáng tạo tinh thần hấp dẫn, cuốn hút, thậm chí tuyệt đại

đa số họ không nghĩ đến việc cầm bút. Chỉ có một nhóm nhỏ những nhà Nho

vào đầu thế kỷ XX “bỏ bút lông, cầm bút sắt” tập viết theo các thể loại văn

học mới. “Các nhà Nho làm văn” như thế sống trong hoặc gần các đô thị lớn,

sự nghiệp văn học của họ gắn chặt với sự ra đời của báo chí, nhà xuất bản.

Thời kỳ đầu, thực dân Pháp thậm chí hướng dẫn, hỗ trợ cho chính quyền Nam

triều ra các tờ công báo, quan báo, một số quan lại Nam triều được cắt cử

sang phụ trách các tờ báo này, chẳng hạn các nhà Nho - ông quan như Vũ

44

Phạm Hàm, Chu Mạnh Trinh, Đào Nguyên Phổ, Kiều Oánh Mậu... với tờ Đại

Nam đồng văn nhật báo, nhưng dần về sau, các “cây bút” nhà Nho chủ yếu

làm cộng sự, cộng tác viên cho các tờ báo được sự bảo trợ trực tiếp của chính

quyền Pháp hoặc do một số người Việt có quan hệ mật thiết với chính quyền

thực dân lập nên, mà hai tờ tiêu biểu nhất cho giai đoạn ba mươi năm đầu thế

kỷ XX là Đông Dương tạp chí (1913 - 1918) và Nam Phong tạp chí (1917 -

1933). Do số lượng tác giả còn thưa thớt, tri thức và kinh nghiệm làm văn

chương hay báo chí kiểu mới chưa được chuẩn bị, kiến thức chung nặng về

cựu học, rất ít người trong số đó biết Pháp văn đến mức thành thục khả dĩ so

với những trí thức trẻ Tây học, ...cùng nhiều nguyên nhân khác nữa đã khiến

nhóm tác giả này không đưa lại thật nhiều đóng góp đặng có thể thỏa mãn yêu

cầu “điều hòa tân cựu, thổ nạp Á Âu” - tôn chỉ được nêu trên Nam Phong tạp

chí, thực chất cũng là con đường tốt nhất có thể mà nền văn hóa, văn học Việt

Nam trên hành trình hiện đại hóa phải trải qua.

Khoảng chân không của sáng tạo văn học xuất hiện khi đội ngũ tác giả

của hệ hình văn học truyền thống đã có dấu hiệu kiệt lực, mà đội ngũ tác giả

của hệ hình văn học mới, nói một cách chặt chẽ, lại chưa xuất hiện một cách

thực thụ. Trong hoàn cảnh ấy, Tản Đà đã dũng cảm nói lên tiếng nói của

người nghệ sỹ muốn được khẳng định tài năng, phẩm giá của mình với tư

cách là một ký giả, văn nhân dùng chính ngòi bút để thể hiện mình, để kiếm

sống.

Sự lựa chọn của Tản Đà ít nhiều chịu chi phối của hoàn cảnh lịch sử - xã

hội lúc bấy giờ. Xã hội đã đổi thay, nhưng lòng người lại dở dang. Tản Đà

trước hết vẫn là một nhà Nho từ trong căn cốt, được đào tạo bài bản. Nhưng

trước làn gió Tân văn, Tản Đà đã đi theo một hướng mới, coi viết văn, làm

báo là một nghề, một phương tiện để kiếm sống như bao công việc khác trong

xã hội. Việc đề cao văn chương, báo chí và những sứ mệnh to lớn của nó,

45

cũng đồng nghĩa với việc Tản Đà khẳng định vị trí xã hội của mình. Vị trí của

một ký giả - văn nhân cũng giống như bất kỳ một nghề nghiệp nào trong xã

hội. Hơn thế, còn đóng vai trò là chủ sự của “cơ quan tiến thủ của quốc dân”,

gánh trên vai những sứ mệnh và trách nhiệm nặng nề.

Việc coi sáng tác văn chương, viết báo là một nghề, như bất cứ một nghề

nghiệp nào khác trong xã hội - chính là cách để Tản Đà khẳng định giá trị của

sáng tác văn học và báo chí với ý nghĩa tự thân của nó, với những chức năng

riêng của nó, không phải là công cụ chuyển tải đạo lý hay để mua vui, giải trí.

Đây chính là đặc điểm quan trọng phản ánh bước chuyển biến lớn trong tư

tưởng cũng như sáng tác của Tản Đà, cũng là của một lớp người mới trong

bối cảnh có tính bước ngoặt của lịch sử dân tộc.

Người mở đường, tiên phong cho sự hình thành một loại hình tác giả

mới, đương nhiên không thể tránh được những giới hạn mang tính lịch sử

không thể vượt qua. Vì thế, điểm dừng của Tản Đà cũng chính là bước đệm

để những thế hệ sau, những nhà thơ trong phong trào thơ Mới có thể cất lên

tiếng nói khẳng định bản ngã của mình.

2.3. Quan niệm báo chí của Tản Đà

Quan niệm báo chí của Tản Đà được thể hiện trực tiếp và gián tiếp thông

qua các phát ngôn, các giai thoại hay trong chính các tác phẩm của ông. Đó là

những quan niệm mới mẻ nhưng cũng đầy phức tạp, phản ánh những mâu

thuẫn trong chính con người Tản Đà.

* Quan niệm báo chí của ông thể hiện trước hết ở việc đặt tên cho tờ

báo.

Trong bài “Kính ngỏ cùng độc giả chư vị”, An Nam tạp chí số 11 - 1930,

Tản Đà đã giải thích rõ lý do vì sao ông lại đặt tên cho tờ báo của mình là “An

Nam tạp chí”:

46

“Nay cuốn tạp chí in ra là đối với khắp thảy quốc dân mà trần thuyết mọi

sự, không phải là riêng đối với những người có học mà thôi. Cho nên lấy

quốc hiệu đặt tên mà định là hai chữ “An Nam”, là ý kiến cả tôi như thế.

Mong rằng tạp chí lưu hành khắp cả toàn quốc, phàm là người An Nam đều

biết có tạp chí An Nam, mà sự hay dở của tạp chí có quan hệ mật thiết với sự

thịnh suy của quốc dân, thời tạp chí mới không phụ đặt tên bằng quốc hiệu

vậy”.

Tính đối tượng ở đây được Tản Đà khẳng định rất rõ, rằng “không phải là

riêng đối với những người có học mà thôi”. Đối tượng của tờ báo là đại bộ

phận quần chúng nhân dân với nhiều tầng lớp, địa vị xã hội khác nhau. Điều

này cũng có nghĩa nội dung của các tác phẩm phải gần gũi, gắn bó với hiện

thực đời sống và không thể chỉ có những nội dung mang tính học thuật. Đặt

tên tạp chí là An Nam, Tản Đà đã gửi gắm trong đó một sứ mệnh rất lớn, đó

là “in ra khắp thảy quốc dân mà trần thuyết mọi sự”. Bởi vậy nên “sự hay dở

của báo chí có quan hệ mật thiết với sự thịnh suy của quốc dân”. Gắn báo chí

với dòng chảy của những biến cố lịch sử, sự thịnh suy của đất nước, Tản Đà

đã nhận thức rất rõ rằng, báo chí phải thuộc về đời sống, phải là bức tranh thu

nhỏ của hiện thực xã hội lúc bấy giờ. Tờ báo gắn mình với vận mệnh của dân

tộc, là tiếng nói của nhân dân, cũng là của lịch sử, đất nước.

* Báo chí có vai trò quan trọng trong xã hội, là “cơ quan tiến thủ của

quốc dân”.

Trong “Lời yêu cầu của An Nam tạp chí đối với quốc dân An Nam ta”

(An Nam tạp chí số 15, tháng 1/1931), Tản Đà đã khẳng định vai trò quan

trọng của báo chí với xã hội, thời đại:

“Nước An Nam ta ngày nay đương thời kỳ quá độ, phàm các công việc

phải tiến thủ rất cần mà cơ quan thời trông ở Báo giới. Cứ tình hình trong

Báo giới hiện nay, mong được có một báo chí nào đủ làm cơ quan tiến thủ

47

của quốc dân thật khó. An Nam tạp chí tự nhận cái thiên chức như đó cũng

chỉ là do ở phát nguyện còn sự thực có quả được như thế chăng thời nhờ ở

quốc dân ta vậy”.

Đây là một phát ngôn tương đối rõ ràng của Tản Đà về sứ mệnh của báo

chí. Ở đây, báo chí đóng vai trò như người đại diện, tiên phong để phản ánh

những vấn đề của xã hội trong thời kỳ quá độ. Tuy nhiên, trong bối cảnh báo

chí nở rộ theo nhiều khuynh hướng, mục đích khác nhau, Tản Đà nhận thấy

rằng, cần phải đưa báo chí đi đúng đường của nó, tức là đưa nó trở về với quỹ

đạo phát triển tự nhiên, vốn có, không chịu sự chi phối, áp đặt hay lệ thuộc về

đường hướng, tư tưởng. Có như thế mới mong được là “cơ quan tiến thủ của

quốc dân”. Với An Nam tạp chí, Tản Đà tự nhận lấy thiên chức đó, coi đó là

một mục đích, tiêu chí phấn đấu của mình. Tản Đà ôm tham vọng đó và thẳng

thắn tuyên bố một cách công khai, quyết liệt. Điều đó phần nào thể hiện cái

Tôi rất rõ của ông và sự tự ý thức về năng lực, giá trị của mình.

* Quan niệm báo chí bao gồm cả quan niệm về người làm báo (gồm

cả ký giả - văn nhân).

Theo Tản Đà, người làm báo phải là “người có học thức, có duyệt lịch, có

công tâm với xã hội, có giá trị với công chúng nếu không đủ đại lược như thế

thời mong gì làm ích cho quốc dân”. Ngoài tri thức, Tản Đà đã đặc biệt đề cao

và nhấn mạnh tới đạo đức của người làm báo. Đó chính là sự công tâm, khách

quan, trung thực của nhà báo khi phản ánh các vấn đề hiện thực. Đây có thể

nói cũng chính là tiêu chí của mọi thời với người làm báo. Có như thế, báo chí

mới có thể được ví như “công cụ không tự giác của lịch sử”. Đặt ra vấn đề

này và coi đó là một tiêu chí quan trọng với người làm báo, Tản Đà xứng

đáng là người đóng vai trò tiên phong trong việc hình thành đội ngũ ký giả -

văn nhân chuyên nghiệp giai đoạn giao thời lúc bấy giờ.

48

Cùng với việc đặt ra những tiêu chí với người làm báo, Tản Đà cũng

đồng thời khẳng định nghề làm báo là một nghề cao quý và nâng người làm

báo lên một vị trí xã hội nhất định.

Trong bài “Người làm văn” (Đông Pháp thời báo, số 641-1927), Tản Đà

đã chia người làm văn ra làm ba hạng:

Một là những người có thì giờ thanh nhàn mà làm chơi thành văn như các

ông giáo học các trường, các ông làm việc ở các sở, các nhà dật sĩ ở thôn quê,

các bậc văn hòa trong nữ giới, ngẫu nhiên cảm xúc mà viết ra bài văn, lai cảo

cho các nhà báo, đó là một hạng người phong lưu thứ nhất trong văn giới hiện

thời.

Hai là những người làm văn in ra thành cuốn, hoặc luận thuyết, hoặc tiểu

thuyết, hoặc thơ ca, trước là muốn dự một phần chiếu trong làng văn, sau nữa

cũng có tính về phần lời lỗ.

Ba là các người làm văn trong báo giới, ăn lương của tòa báo mà viết

văn.

Tản Đà tự nhận mình là loại người thứ ba này. Ông coi mình so với hai

hạng người trên kém vẻ thanh cao, nhưng lại hơn bể trách nhiệm. Điều này đã

được tác giả phân tích, lý giải rất cụ thể, kín kẽ:

“Các báo quán đã là một đạo quân tiên phong trong trận tiến thủ của xã

hội, thời phàm các người viết văn trong báo giới đều là một tên lính trong đội

tiên phong. Oai nghiêm thay! Hùng dũng thay. Ngọn bút sắt tung hoành có

quan hệ đến vận hội của đồng bào hai mươi lăm triệu. Vậy thời trước khi

chúng ta cầm ngọn bút mà viết một bài văn xã thuyết, thời đàm, vận văn, tiểu

thuyết, đều phải nên hết lòng trân trọng, tưởng như có mấy trăm nghìn độc

giả đứng chung quanh. Những người độc giả kia mỗi người mỗi việc, cũng

không ai có nhiều thì giờ mà xem xét kỹ về tờ báo, quyển tạp chí mà trích

49

những chỗ hay chỗ dở làm chi, nhưng nếu có một người xét thấy chỗ không

phải của chúng ta, thời tức là chúng ta có lỗi với người đó”.

Một lần nữa, Tản Đà lại khẳng định báo chí với vai trò là đội quân tiên

phong trong trận tiến thủ của xã hội. Và người viết văn chính là một tên lính

trong đội tiên phong ấy. Hình ảnh “ngọn bút sắt tung hoành” gửi gắm rất

nhiều hoài bão của Tản Đà về một con đường tiến thân, thành danh mới trong

xã hội mà ngọn bút chính là công cụ. Đạo đức của người làm báo vì vậy có

hơi hướng của một kẻ sỹ với các hình ảnh “tung hoành”, “oai nghiêm”, “hùng

dũng” - một cách thể hiện kín đáo nhưng sâu sắc của Tản Đà về quyền năng

của báo chí.

Về đạo đức của người làm văn, lám báo, Tản Đà cũng khẳng định, người

làm văn, làm báo phải “tế tâm’, “trì thủ” và giải thích rõ lý do như sau:

“Nay ví như có một bài văn hay, đăng ở một tờ báo không biết là của ai,

thời xã hội cứ biết ở văn mà không có thiên khinh thiên trọng, nếu như nghe

biết bài văn ấy của một bậc vĩ nhân, một nhà đạo đức như cụ Phan Sào Nam,

cụ Phan Tây Hồ, thời bài ấy lại có giá trị thêm, lại nếu như nghe biết bài văn

là của một người xưa nay vô phẩm hạnh hoặc mại quốc bất lương, thời bao

nhiêu cái hay trong bài văn còn chăng có ít vậy…. Và cứ chính lý mà mói, tự

mình không thương nước mà viết ra những lời ái quốc, tự mình vô phẩm hạnh

mà viết ra những giọng luân thường, vậy thời để lừa gạt ai. Dẫu có lừa gạt

được ai chăng, ắt cũng có ngày bại lộ vậy. Nguy lắm thay mà sợ lắm thay!”.

Đây chính là cách nói thể hiện quan điểm “Văn là Người”. Tuy nhiên,

nếu trong văn chương truyền thống, cái Tôi được giấu kín, có chăng cũng chỉ

là cách nói bóng gió kiểu “có bóng mây hơi nước đến dân xã”. Người viết

giấu mình vào trong và thường được ẩn dụ trong hình ảnh những kẻ sĩ với

nhiều tâm sự. Đến đây, Tản Đà cho rằng, với trách nhiệm của mình, người

cầm bút phải bày tỏ rõ quan điểm của mình, nhưng phải xuất phát từ tấm lòng

50

trong sáng, không vẩn đục. Báo chí không phải là những lời hô hào suông, bởi

vậy, nó phải xuất phát từ cái tâm của người cầm bút mới có sức lay động tới

xã hội.

* Quan niệm về tự do ngôn luận trong báo chí

Ngay từ lúc này, Tản Đà đã nhận thức rõ được vai trò của sự phản biện

xã hội, về tự do ngôn luận trong báo chí. Đây cũng chính là một chức năng,

đặc điểm quan trọng của báo chí:

“Phàm là một bài viết đã đăng lên báo trương, dù hay dở thế nào, tất có

ảnh hưởng đến xã hội… Mội bài viết đã công hành trong báo giới, tiếp xúc

đến xã hội, thời phàm người trong xã hội, nhất là trong báo giới, ai có ý kiến

gì đối với bài nói đó, thực nên tỏ bầy” (Đọc bài “Tự do diễn đàn” là ở trong

báo Trung Bắc ngỏ cùng ai các bạn thanh niên” (An Nam tạp chí số 23,

1931).

Bày tỏ quan niệm, thái độ với một vấn đề xã hội nêu trên báo chí hay sự

tranh luận với tác giả về bài viết là một cách thể hiện trách nhiệm cũng như

quyền tự do, dân chủ trong xã hội. Điều này phản ánh mối quan hệ qua lại hai

chiều giữa báo chí và độc giả, báo chí và xã hội. Tạo điều kiện rộng rãi cho

người đọc được bày tỏ thái độ đối với tờ báo cũng là cách Tả Đà thu hút độc

giả và thể hiện sức mạnh của báo chí, như mong muốn của ông, là “cơ quan

tiến thủ của quốc dân”.

Ở một bài khác, Tản Đà cũng nhấn mạnh rằng, bình luận là một quyền

của người đọc, và nó là động lực để người cầm bút có trách nhiệm hơn với

công việc của mình:

“Vì chúng ta có quyền viết văn thời những người xem văn cũng có quyền

bình luận. Sự bình luận đó mà là phải, thời cổ lệ cho chúng ta thực nhiều, sự

bình luận đó mà là do một người không hiểu văn, thời cũng không hại chi cho

51

ta mà cũng là cổ lệ cho chúng ta càng thêm gắng sức cố công vậy. Cho nên

các bạn làm văn trong báo giới, đối với những lời bình luận của độc giả chỉ

nên giữ một thái độ rất ôn hòa”. (Người làm văn, Đông Pháp thời báo số

641-1927).

Sự tôn trọng đối với ý kiến của độc giả cũng là một trong những đặc

điểm về sự “chuyên nghiệp” trong cách làm báo của Tản Đà lúc bấy giờ do

ảnh hưởng từ văn hóa Phương Tây. Trong văn chương truyền thống, người

viết chỉ cốt bày tỏ tâm tư, tình cảm, thái độ của mình mà không cần quan tâm

đến người tiếp nhận như thế nào. Nói cách khác, khi văn chương, báo chí đã

trở thành một thứ hàng hóa, dịch vụ trong xã hội thì người viết phải quan tâm

tới “khách hàng” của mình là ai, có nhu cầu gì để phục vụ.

* Tính đấu tranh, phản biện xã hội của báo chí “Chúng ta may được để thân vào báo giới, cầm quyền phủ việt của quốc

dân, thời phàm các loại hung nhân phải trọng phạt nghiêm hình để hả lòng

cho công chúng, Một sự hình phạt đó, tuy cũng là bất đắc dĩ, song mà có bổ

cứu cho thế đạo nhân tâm thực chẳng ít, thời chúng ta cũng không thể được

khoan dung. Đó là cái chức trách của chúng ta đối với quốc dân, còn như cái

tình đồng bào đổng chủng cùng nhau, thời như sao cũng có như sao vậy”.

(Người làm văn, Đông Pháp thời báo số 641-1927).

Tản Đà đã mở ra một xu hướng làm báo chống tiêu cực và dùng báo chí

như một công cụ đắc lực để chống lại cái xấu, cái ác, góp phần cải biến xã

hội: “Thời phàm các loại hung nhân phải trọng phạt nghiêm hình để hả lòng

cho công chúng… Đó là cái chức trách của chúng ta đối với quốc dân”. Ẩn

sau câu nói ấy là một mơ ước của ông về một con đường dấn thân mới bằng

cuộc cách mạng về văn hóa, tư tưởng mà báo chí chính là một vũ khí sắc bén.

Tính chiến đấu là một trong những đặc trưng quan trọng của báo chí so

với các loại hình sáng tác khác. Chính nhờ tính chiến đấu này mà quyền lực

52

của báo chí được nâng cao và tác động xã hội của nó trở nên rộng rãi hơn.

Tính phản biện xã hội, thực chất cũng chính là những tác động của báo chí đối

với xã hội. Sự phản biện ấy thể hiện tính dân chủ rộng rãi và sâu sắc khi tất cả

mọi người đều có quyền bày tỏ ý kiến và bình đẳng với việc tiếp nhận thông

tin. Chính bởi đặc điểm này nên báo chí mới là công cụ đắc lực để nối dài hơn

tới đông đảo quần chúng nhân dân trong xã hội.

Tóm lại, với những quan niệm về báo chí rất mới mẻ, tiến bộ này, Tản

Đà được coi là người đóng vai trò quan trọng trong việc định hình và phát

triển báo chí trong giai đoạn giao thời đầu thế kỷ XX. Đây là những tiền đề

quan trọng để những nhà báo sau này có điều kiện xây dựng và phát triển một

nền báo chí hiện đại với những đặc trưng cơ bản của nó.

2.4. Tản Đà trong so sánh với các nhà báo giai đoạn đương thời

2.4.1. Trong mối quan hệ tương sinh: Ảnh hưởng và dấu ấn của Tản Đà với Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, Ngô Tất Tố,…

Như đã nói ở trên, Tản Đà có ảnh hưởng rất lớn đến phong cách làm báo

cũng như tư tưởng, quan niệm của các nhà báo giai đoạn đương thời và cả sau

này. Quan niệm mới mẻ, táo bạo, tài thơ văn trời phú và việc lực chọn một

con đường dấn thân mới của Tản Đà trong thời điểm lúc bấy giờ có một sức

hút rất mạnh mẽ. Bởi vậy, Tản Đà có một số lượng lớn các đệ tử, người hâm

mộ và đi theo trong suốt quá trình làm báo của ông. Nhiều tác giả chính nhờ

sự dẫn dắt của Tản Đà, qua những chuyên mục trên An Nam tạp chí đã thành

danh và được nhiều người biết đến.

* Tản Đà và Nguyễn Công Hoan Nguyễn Công Hoan viết về mối quan hệ của mình với Tản Đà: “Tôi quen

biết Tản Đà từ năm tôi trọ học ở phố Hàng Bài. Ông Tản Đà thấy tôi khôi ngô

lanh lợi nên tuy tôi ít tuổi hơn ông nhiều nhưng ông không coi tôi như trẻ con.

Tôi đọc thơ ca của ông, khi ấy chưa xuất bản thành Khối tình con thứ nhất,

53

đã biết là hay. Tôi học thuộc lòng, nghỉ hè về nhà dạy lại các em tôi. Thơ Tản

Đà tôi rất nhớ. Nhiều lần nghe ông đọc một lượt là tôi thuộc ngay. Có nhiều

đoạn văn xuôi của ông nhịp nhàng như thơ thì chính tôi lại nhớ dai hơn ông”

(Đời viết văn của tôi, Tạp chí Văn học, 1971).

Nguyễn Công Hoan sinh năm 1903, khi ấy Tản Đà đã 15 tuổi. Nguyễn

Công Hoan thông minh, nhanh nhẹn nên được Tản Đà rất mến, thường đọc

thơ và đưa bản thảo thơ cho xem. Nhà Nguyễn Công Hoan ở số 8 phố Hàng

Hài, đối với nhà Tản Đà số lẻ là 13.

Nguyễn Công Hoan đến với văn học bắt đầu từ Tản Đà, đi vào đời văn

cũng từ Tản Đà và cũng Tản Đà đã khuyến khích Nguyễn Công Hoan viết

văn học hiện thực phê phán mà hồi đó gọi là văn tả chân.

“Lớn lên, bước vào cuộc đời hẩm hiu của một nhà giáo, bị thuyên chuyển

hết miền rừng đến miền biển, Nguyễn Công Hoan càng cảm thấy cái thôi thúc

phải cầm bút. Những truyện ngắn đầu tay của ông ra mắt được là nhờ sự

khuyến khích của bạn bè, sự giúp đỡ của Tản Đà. Tập truyện ngắn đầu tiên

“Kiếp hồng nhan” in khoảng 1923, sau những “Truyện thế gian” in chung

với người khác, đã làm người đọc chú ý. Nhưng chỉ từ khi ông chuyên viết

cho mục “Việt Nam nhị thập thế kỷ xã hội ba đào ký” trên An Nam tạp chí

của Tản Đà thì giá trị của ngòi bút hiện thực Nguyễn Công Hoan mới dần

được khẳng định. Về sau, mấy chữ ba đào ký nghiễm nhiên trở thành tên gọi

để chỉ truyện Nguyễn Công Hoan”. (Tạp chí Văn học số 2 -1971 thuật lại

cuộc nói chuyện của Nguyễn Công Hoan).

Như vậy, nhờ có An Nam tạp chí mà Nguyễn Công Hoan đã có điều kiện

và cơ hội để thể hiện tài năng và tên tuổi của ông đã được thành danh. Ngòi

bút hiện thực của ông trưởng thành từ chính hai chuyên mục: “xã hội thiển

đàm” và “xã hội ba đào ký” - hai mục Tản Đà đặt ra để nêu lên “những cảnh

huống của xã hội”. Nguyễn Công Hoan viết “Hai thằng khốn nạn” đưa Tản

54

Đà đọc, Tản Đà vỗ đùi khen hay. Đọc thêm vài bản thảo nữa của Nguyễn

Công Hoan, Tản Đà hết lời khen ngợi và bảo: “Đúng với ý tôi đặt ra mục “xã

hội ba đào”, đúng với ý các mục đó!”. Và thế là “Hai thằng khốn nạn” được

in trên báo An Nam tạp chí số 12/1930, rồi lần lượt là “Ván cách”, “Người

ngựa và ngựa người”, “Răng con vật nhà tư bản”, “Bố anh ấy chết”…

Câu chuyện “Ngựa người và người ngựa” được viết ra trong một ngẫu

nhiên theo gợi ý của Tản Đà. Đó là lần Tản Đà về chơi thăm ông anh vợ ở

phố Hàng Bông. Một đêm, Tản Đà ra sân thượng, thấy một phu xe đòi tiền xe

một cô gái giang hồ. Cô này không có tiền trả mới nói “Tôi đây, anh muốn

làm gì thì làm”. Tản Đà kể lại câu chuyện cho Nguyễn Công Hoan và sau này

Nguyễn Công Hoan viết thành “Ngựa người và người ngựa”. Tản Đà đọc rất

thích, sau 3 năm truyện in trên An Nam tạp chí số 18-1931, Tản Đà lại viết bài

khen trên báo Thanh Nghệ Tĩnh số 2-1934: “Được đến chỗ đau đớn của người

đời, truyện như bịa chơi, trò đời thường có và muốn thêm một giọt nước mắt

khóc chung cả người ngựa lẫn ngựa người”.

Nguyễn Công Hoan viết xong truyện “Chữ trinh” đưa Tản Đà xem, Tản

Đà khen nhưng góp ý sửa lại và thay tên “Chữ trinh” bằng tên “Oẳn tà rằn”

rồi in trên An Nam tạp chí.

Tuy tuổi tác và tính tình khác nhau nhưng hai người rất thân thiết. Mọi

việc đời văn Tản Đà thường bàn với Nguyễn Công Hoan và có tác phẩm nào

mới lại đưa Nguyễn Công Hoan xem và nói cho biết ý mình, biết chủ đề tư

tưởng.

Hồi Tản Đà làm chủ bút “Hữu Thanh” (1928), bị nhóm sáng lập Nguyễn

Huy Lợi khống chế, đòi hỏi nhà thơ viết theo ý họ, Tản Đà liền từ chức sau 6

tháng cộng tác. Nguyễn Công Hoan sau đó có hỏi vì sao? Tản Đà nói: “Vì tôi

là chủ bút mà không được làm chủ cái bút của mình”.

55

* Tản Đà và Ngô Tất Tố Giữa Ngô Tất Tố và Tản Đà có nhiều kỷ niệm và câu chuyện đáng nhớ,

gắn liền với những sóng gió của An Nam tạp chí. Có thể nói, lúc bấy giờ, Ngô

Tất Tố đóng vai trò là cánh tay phải, là người trợ thủ đắc lực, cùng chí hướng

và tâm huyết với Tản Đà trong nghề báo.

Ngô Tất Tố sinh năm 1894 nên có thể là bạn cùng lứa với Tản Đà, khác

với Nguyễn Công Hoan (1900) và Nguyễn Tuân (1910) kém Tản Đà tới hai

chục tuổi nên là bạn vong niên. Nhưng đối với Tản Đà, Ngô Tất Tố vẫn là lứa

sau, người đi bước sau. Ông quý mến Ngô Tất Tố và là người có ảnh hưởng

lớn đối với các sáng tác của Ngô Tất Tố.

Ngô Tất Tố đỗ đầu xứ tỉnh Bắc Ninh nên thường được gọi là ông đầu xứ

Tố. Ngô Tất Tố từ lâu đã rất ngưỡng mộ danh tiếng của Tản Đà. Qua giới

thiệu của một người bạn làm báo, Ngô Tất Tố đã làm quen được với Tản Đà.

Không lâu sau, bản dịch vở kịch cổ Trung Quốc “Cẩm Hương Đình” của

Ngô Tất Tố được Tản Đà tu thư cục xuất bản.

Khi Tản Đà ra báo An Nam tạp chí lần thứ nhất ở phố Hàng Lọng, Hà

Nội, đã mời Ngô Tất Tố làm thư ký tòa soạn. Khi tờ báo đình bản lần thứ

nhất, Ngô Tất Tố chia tay Tản Đà về quê.

Đến khi Tản Đà vào Sài Gòn cộng tác với Diệp Văn Kỳ làm trợ bút

“Đông Pháp thời báo”, phụ trách phụ trương “văn chương”, lại viết thư nhắn

Ngô Tất Tố vào Sài Gòn với mình và còn nhờ Ngô Tất Tố đưa cả vợ và con

mình vào nữa.

Từ đó, Ngô Tất Tố ở chung với gia đình Tản Đà và làm biên tập phụ

trương “Văn chương”. Khi thôi cộng tác với Đông Pháp thời báo, trở ra Bắc

để lo tái bản An Nam tạp chí, Tản Đà giao phụ trương “Văn chương” cho Ngô

56

Tất Tố và gửi cả vợ con cho Ngô Tất Tố trông hộ. Câu chuyện này đã được

Tản Đà ghi lại bằng lời cảm tác:

Trợ bút đã xin từ bác Diệp Phụ trương để lại cậy thày Ngô Dám quên Đông Pháp người tri kỷ Riêng nhớ An Nam bức địa đồ (Sài Gòn tới Nha Trang hữu cảm)

Trong “Hồi ký Tản Đà ở Nam Kỳ”, Ngô Tất Tố có kể lại quãng thời gian

ấy như sau:

“Khi ấy, An Nam tạp chí ở Hàng Lọng, trong tòa soạn có ông và tôi, cái

tài viết báo của ông thế nào chắc ai cũng rõ cả, còn tôi thì mới bắt đầu bước

vào làng báo, sức lực hãy còn non nớt, nhiều bài đến nay nhớ lại mà xấu hổ

mướt mồ hôi”

… “Lần này, ông có ý muốn “đóng đô” ở Nam cho nên tới nơi ít lâu thì

ông có thư ra gọi gia quyến và bảo tôi vào đến viết An Nam tạp chí.

Chẳng ngờ khi tôi vào đến Sài Gòn, ty kiểm duyệt trong ấy không nhận

duyệt bài của một tờ báo ngoài Bắc, An Nam tạp chí không thể ngụ cư ở đó.

Ông Tản Đà nói giới thiệu tôi vào viết với ông cái trang văn chương trong

Đông Pháp thời báo của ông Diệp Văn Kỳ” [43, 24].

Câu chuyện của Ngô Tất Tố đã cho thấy những quãng thời gian long

đong, lận đận của Tản Đà và An Nam tạp chí. Thất bại với An Nam tạp chí ở

đất Bắc, Tản Đà quyết định “Nam tiến”, mong tìm kiếm một vùng đất mới để

lập nghiệp. Nhưng chính sách kiểm soát gắt gao của chính quyền thực dân đã

không cho phép một người làm báo tư nhân như Tản Đà được tồn tại. Với bản

chất nô dịch, người Pháp muốn dùng báo chí như một công cụ để truyền đạt

tư tưởng và thống trị về mặt tinh thần, tạo ra những tờ báo do họ quản lý qua

một hệ thống tay sai chứ không muốn có sự phát triển của một tờ báo kiểu

57

như An Nam tạp chí. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn

đến sự thất bại của Tản Đà trong nghề báo.

Thầy đồ Ngô là người kề vai sát cánh và là trợ thủ đắc lực nhất của Tản

Đà khi ông làm báo, từ An Nam tạp chí tới Đông Pháp thời báo và cả những

quãng về sau này. Ngô Tất Tố là người xuất thân khoa bảng, đỗ đầu xứ tỉnh

Bắc Ninh, tức là người có chút công danh, nhưng lại lựa chọn con đường đi

theo Tản Đà để viết văn, làm báo. Điều này cho thấy khoa cử truyền thống đã

dần mất vị trí độc tôn. Những người xuất thân khoa cử vẫn được trọng vọng

nhưng trong bối cảnh xã hội thuộc địa lúc bấy giờ, việc lập thân, thành danh

bằng khoa bảng đã không còn là việc dễ dàng. Bởi vậy, Ngô Tất Tố thay vì đi

dạy học đã quyết định theo Tản Đà làm báo, một con đường mới, dẫu nhọc

nhằn nhưng nhiều sức hút và khả dĩ, hợp thời hơn so với những con đường cũ.

Tuy nhiên, tính cách và tư duy, học thuật của một thầy đồ dạy học đã lỗi thời

và không phải là lựa chọn phù hợp của người làm báo, nhất là với nhu cầu

làm báo ít nhiều mang tính thị trường, buôn văn bán chữ. Vì thế, vị trí thư ký

tòa soạn, một vị trí khả dĩ phù hợp với Ngô Tất Tố nhất bởi tính cách cẩn

thận, chu toàn - những tố chất cần thiết của một người thư ký tòa soạn, vẫn

bộc lộ nhiều hạn chế do thiếu tư duy nhạy bén, nhanh nhạy. Mặt khác, những

kiến thức Ngô Tất Tố học được từ nghề báo cũng đều là từ Tản Đà nên chưa

đủ để ông có thể trở thành một nhà báo thực thụ và lành nghề. Tuy nhiên,

chính quãng thời gian làm báo với Tản Đà với nhiều thăng trầm sóng gió đã

rèn luyện cho Ngô Tất Tố một ngòi bút hiện thực sắc sảo và là nền tảng ra đời

những tác phẩm hiện thực xuất sắc của ông sau này, phần lớn đều được khai

sinh từ An Nam tạp chí và những tờ báo khác tương tự An Nam tạp chí.

Trong “Ngô Tất Tố như tôi đã biết”, Nguyễn Đức Bính có kể lại câu

chuyện vui của Tản Đà và Ngô Tất Tố:

58

“Quan hệ giữa Ngô Tất Tố và Tản Đà cũng có lúc sóng gió (sóng gió

trong chiếu rượu mà thôi). Một lần hồi ấy, tác giả “Khối tình con” mới tái

bản An Nam tạp chí ở Hàng Bông, uống rượu với Ngô Tất Tố, nói:

Báo An Nam tạp chí lần này tái bản, mong nhờ ông giúp cho một tay.

Ngô Tất Tố trả lời: - Tôi sẽ xin viết giúp.

Tản Đà vui vẻ nói: - Ông cứ viết giúp, tiền nhuận bút sẽ xin đưa lại tử tế.

Ngô Tất Tố khiêm tốn chối từ: - Tôi viết giúp ông chứ chỗ chúng mình,

tiền nong làm gì.

Tản Đà lúc này đã ngà ngà say: - Ông không lấy, tôi cũng cứ giả, đó là

quyền của tôi.

Ngô Tất Tố (cũng hơi chếnh choáng): - Ông có giả, tôi cũng không lấy,

đó là quyền của tôi.

Thế là hai ông cãi lộn nhau và cuộc rượu giải tán. [43, 32].

Câu chuyện vui bên bàn rượu này cho thấy thấm thía cảnh nghèo của Tản

Đà và Ngô Tất Tố cũng như cái khó khăn vất vả của nghề báo lúc bấy giờ.

Nghề “buôn văn bán chữ” lúc này đã bắt đầu thịnh hành, nhưng vẫn rất bèo

bọt. Chỉ trừ những tờ báo được chính quyền thực dân bảo hộ và chu cấp, còn

phần lớn đều èo uột và lay lắt do trong bối cảnh xã hội nghèo nàn, lạc hậu lúc

bấy giờ, báo chí vẫn là thứ hàng hóa xa xỉ với nhiều người.

"Ngô Tất Tố trước hết là một nhà báo, một nhà báo cả những khi viết

tiểu thuyết, một nhà báo có biệt tài", "là một tay ngôn luận xuất sắc trong

đám nhà nho... làng báo Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ cũng như độc giả, hẳn

không ai mà lại không biết danh tiếng người ra đời từ hồi thi sĩ Nguyễn Khắc

Hiếu chủ trương An Nam tạp chí, và đã viết nhiều bài đại luận, khảo cứu bút

chiến phê bình, nhiều truyện lịch sử rất có giá trị trong nhiều tuần báo và tạp

chí cả Nam lẫn Bắc" [43, 58]. Dưới nhiều bút danh: Thiết Khẩu Nhi, Thục

59

Ðiểu, Dân chơi, Lộc Hà, Lộc Ðình, Thôn Dân, Phó Chi, Ngô Công, Tuệ

Nhỡn, Côi Giang, Thuyết Hải, Xuân Trào, Ðạm Hiên, Hy Cừ... trong ngót hai

thập kỷ, ngòi bút Ngô Tất Tố đã tung hoành ngang dọc trên nhiều tờ báo Bắc

- Trung - Nam: An Nam tạp chí, Ðông Pháp thời báo, Thần chung, Phụ nữ

Tân Văn , Phổ thông, Ðông phương, Thực nghiệp, Công dân, Hải Phòng tuần

báo, Con ong, Tương lai, Việt nữ, Tiểu thuyết thứ ba, Ðông thanh, Trung -

Bắc chủ nhật, Thời vụ, Hà Nội tân văn...

* Tản Đà với Nguyễn Tuân Trong số những nhà văn lớp trẻ được gần gụi nhiều với Tản Đà, chỉ có

hai người được Tản Đà coi là bạn: Nguyễn Công Hoan và Nguyễn Tuân. Hai

người bạn này lại có hai phong cách sống khác nhau. Nếu Nguyễn Công Hoan

mực thước và tỉnh táo, không thích rượu và cũng không có cốt cách “giang hồ

mê chơi” thì Nguyễn Tuân lại rất gần, rất hợp với tản Đà ở chất tài tử, tài hoa

và lối sống phóng túng.

Nguyễn Tuân kể lại lần đầu gặp gỡ Tản Đà như sau:

“Lần đầu tiên tôi giáp mặt ông Tản Đà là ở tòa soạn An Nam tạp chí ở

phố Hàng Da. Đầu năm 1932 gì đó sau cái hồi rời bỏ phố Hàng Khoai, lúc

ông Hiếu còn cộng sự với ông cử Ngô Thúc Địch. Sau bài thơ trường thiên

của tôi gửi đăng ở An Nam tạp chí lấy tên là tương tư hành, Vũ Lang đưa tôi

lại giới thiệu cùng ông Tản Đà. Tôi còn nhớ buổi đầu đó, chúng tôi nói rất

nhiều về bản dịch bài Tỳ bà của Bạch Cư dị mà nhiều người gán cho Nguyễn

Công Trứ và một số người nữa thì bảo là của ông đồ Phù Long. Những đoạn

nhắc đến chữ dịch hay quá, hay đến nỗi hóa được cả chữ cả nguyên văn như

“tẩm” chẳng hạn, ông Tản Đà hút một điếu thuốc lào. Chúng tôi thông điếu

lẫn cho nhau và người hút thuốc thường giữ một thanh đóm lửa vẫn cháy để

chờ người sau kịp dịt một mồi thuốc thứ hai vào nõ điếu. Lẽ cố nhiên tôi

thông điếu và giữ thanh đóm cháy nhiều hơn ông Tản Đà” [53, 36].

60

Ngay từ lần đầu tiên “tương ngộ” ấy, Tản Đà và Nguyễn Tuân đã trở

thành bạn tâm giao. Đây là điều dễ hiểu bởi những nét gần gũi trong tính cách

của hai người: tài hoa và ngông, ưa thích chủ nghĩa xê dịch. Nguyễn Tuân

biết đến Tản Đà cũng là ở tài văn và những sáng tác đầu tay của Nguyễn

Tuân, chưa phải là văn mà là những bài thơ trường thiên như chính ông kể ở

trên cũng đã ra đời từ những trang báo của An Nam tạp chí.

Chỉ có Nguyễn Tuân trong lớp nhà văn trẻ có thể ngồi “chịu trận” với

Tản Đà bên mâm rượu suốt giờ này sang giờ khác, bất kể thời gian. Có lần, có

người hỏi Nguyễn Tuân: Cái gì đã làm bác trở nên bạn vong niên của Tản Đà,

cái gì làm cho bác gần gụi và gắn bó được với Tản Đà? Tác giả Vang bóng

một thời trả lời: “Đó là bởi nghệ thuật rượu, nghệ thuật sống, cách sống của

Tản Đà. Hồi đó tôi cho rằng tôi cũng phải sống như Tản Đà”.

Sau này, khi Tản Đà mất, Nguyễn Tuân trân trọng suy tôn Tản Đà:

“Trong chốn tao đàn, Tản Đà xứng đáng ngòi chủ súy; trong Hội tài tình,

Tản Đà xứng đáng ngôi hội chủ mà làng văn làng báo xứ này, ai dám ngồi

chung một chiếu với Tản Đà?” [53, 39].

“Làng văn làng báo xứ này, ai dám ngồi chung một chiếu với Tản Đà?”,

câu nói ấy của tác giả “Vang bóng một thời” nổi tiếng ngông và tài hoa cho

thấy vai trò, vị trí rất lớn của Tản Đà lúc bấy giờ.

2.4.2. Trong mối quan hệ tương khắc: Phạm Quỳnh

Mối quan hệ giữa Tản Đà và Phạm Quỳnh, thực ra là mâu thuẫn giữa hai

người, là câu chuyện thu hút sự chú ý của nhiều người. Đó là cuộc tranh luận

của hai văn sỹ, đồng thời là chủ bút của hai tờ báo. Nó thể hiện sâu sắc những

quan điểm, tư tưởng trái chiều của hai ông. Tản Đà đại diện cho luồng tư

tưởng mới, với những cách tân, đổi mới, ít nhiều mang tính phá cách còn

Phạm Quỳnh là chuẩn mực của những tư tưởng giáo điều truyền thống với

61

những khuôn mẫu, rào cản phong kiến. Mâu thuẫn của hai người không chỉ

đơn thuần là mâu thuẫn cá nhân mà còn là tiêu biểu cho cách nhìn, quan điểm

của hai phái khác nhau trong bối cảnh xã hội giao thời lúc bấy giờ.

Mâu thuẫn giữa hai người được châm ngòi bắt đầu từ việc Phạm Quỳnh

mỉa mai, chế giễu cuốn “Giấc mộng con” (xuất bản năm 1917) của Tản Đà.

Trên báo Nam Phong số 7, tháng 1/1918, với bài viết nhan đề “Mộng hay

mị”, Phạm Quỳnh đã dành cho “Người mộng” Tản Đà những lời lẽ mỉa mai,

cay độc:

“Đương buổi quốc văn mới phôi thai này, trông thấy xuất hiện một người

nào có biệt tài về nghề nôm, quốc dân tất ai ai cũng vui lòng mà đón rước.

Nhưng phải hiểu rằng trong sự hoan nghênh ấy, phần sự thực cũng có mà

phần hy vọng cũng nhiều. Ông Khắc Hiếu từ khi xuất bản tập “Khối tình

con”, được mấy bài thơ văn từ khúc, có giọng mới, có ý lạ, được quốc dân

nhiều người cổ võ, cũng là để tưởng lệ mà mong cho cái văn nghiệp ông mỗi

ngày tinh tiến mãi lên. Chớ cứ bình tĩnh mà nói, mấy bài đoản văn, mấy câu

dặm dò, dù hay đến đâu, khéo đến đâu, cũng chưa đủ làm sự nghiệp một nhà

văn sỹ. Nếu có thế mà đủ xưng là bậc thiên tài thì cũng khá thương thay cho

cái hậu vận quốc văn ta. Nhưng ông Hiếu xem ra không hiểu nhẽ đó”.

Bài “Mộng hay mị”, Phạm Quỳnh cũng chủ yếu phê phán Tản Đà chứ

không phải là một bài phê bình tác phẩm.

Về mẫu thuẫn giữa Tản Đà và Phạm Quỳnh, Khái Hưng trong bài “Cái

duyên của Tản Đà” (1939) viết: “Sự hiềm khích giữa hai nhà văn họ Phạm và

họ Nguyễn trong làng văn còn ai không biết. Tản Đà xuất bản “Khối tình

con” được ông Phạm Quỳnh khen. Nhưng thi sĩ vừa cho ra đời quyển “Giấc

mộng con” liền bị ông chủ bút Nam Phong công kích bằng những lời mát mẻ.

62

Thế là hai người bạn trở nên hai kẻ thù. Rồi trong văn giới, trong nước

nữa, họp thành hai phái - không phải văn phái- phái Phạm Quỳnh và phái

Tản Đà, công kích nhau, nói xấu nhau, hằn học nhau”.

Mâu thuẫn giữa hai ông chủ báo được nhiều người quan tâm và muốn tìm

ra một lời lý giải về thực chất vấn đề. Một người ký tên X.X trong “Bài học

Tản Đà” trên 1 tờ báo ở Sài Gòn đã viết:

“Tôi còn nhớ trên tạp chí Nam Phong, chính Thượng Chi đã phê phán

Tản Đà 1 cách rất khéo léo. Ông chủ bút Nam Phong cũng nhìn nhận thi tài

của Tản Đà nhưng chê tác giả đã đi sai đường… Bài phê bình như thế có

công dụng là đuổi nhà thi sĩ ra khỏi “sở làm” của các ông. Nhà thi sĩ buộc

lòng phải tách khỏi tập đoàn của mấy nhà “học phiệt” … Còn mấy nhà “học

phiệt” thủa đó chỉ là những tay sai của thực dân. Họ có ưu thế, có những đặc

quyền, họ không muốn chia sớt cho ai và do đó mà nhà thơ bị loại”.

Trong những lời lẽ rất sâu cay này, Phạm Quỳnh đã bị mỉa mai là tay sai

của thực dân và tờ Nam Phong tạp chí của ông được ví với “tập đoàn của mấy

nhà học phiệt”. Mâu thuẫn giữa Tản Đà và Phạm Quỳnh, dưới cách phân tích

của tác giả trên, chính là mâu thuẫn giữa hai phái làm báo khác nhau. Một là

những tờ báo tay sai của chính quyền thực dân, được hưởng đặc quyền đặc lợi

thì dễ dàng hoạt động nhưng lại bị chửi là hèn mạt, phản quốc, ôm chân chính

quyền. Còn những người làm báo như Tản Đà thì đại diện cho một luồng tư

tưởng mới nhưng bị chèn ép và không cẩn thận lại bị chính quyền thực dân gõ

vào đầu. Tác giả giấu tên trên lý giải rằng sở dĩ Phạm Quỳnh “chê Tản Đà đi

sai đường” và công kích ông là bởi Phạm Quỳnh nhìn nhận thấy rõ thi tài của

Tản Đà nên “muốn đuổi nhà thi sĩ ra khỏi “sở làm” của các ông” để dễ bề

hoạt động. Điều này phản ánh rất rõ môi trường hoạt động báo chí phức tạp,

nhạy cảm trong giai đoạn giao thời lúc bấy giờ khi có sự va chạm và mâu

thuẫn giữa cái mới và cái cũ.

63

2.5. Những giới hạn của ký giả Tản Đà và mâu thuẫn của một nhà Nho làm báo

Trong tạp bút “Tản Đà, kẻ làm loạn với mình”, Dương Nghiễm Mậu đã

có những phân tích, lý giải khá sâu sắc về những mâu thuẫn cũng như bi kịch

của con người Tản Đà: “Đời sống Tản Đà là tất cả nỗi bi đát của kẻ bất lực

hẩm hiu trong số mệnh. Là phản ánh sự ngây thơ lạc lõng của một thế hệ ở

giữa thời buổi nhá nhem của một hoàn cảnh lịch sử bi đát: Sự mất tự chủ của

xứ sở, sự thay đổi của văn hóa từ cũ sang mới, từ văn minh truyền thống sang

văn minh Thái Tây” [4, 39].

Như vậy, mâu thuẫn cũng như giới hạn trong con người Tản Đà chịu sự

chi phối rất lớn của hoàn cảnh lịch sử- xã hội lúc bấy giờ. Chúng tôi xin khái

quát một số nét cơ bản về hoàn cảnh lịch sử- xã hội, văn hóa- văn học-báo chí

giai đoạn giao thời để đưa ra những lý giải cũng như có một cái nhìn đầy đủ

nhất về “hiện tượng” Tản Đà.

* Những sự kiện lịch sử - xã hội - Tản Đà là một nhà Nho buổi giao thời, chịu tác động của một thời kỳ

thoái trào cách mạng. Đây là giai đoạn các phong trào yêu nước và duy tân

thất bại, các phong trào yêu nước theo đường lối duy tân chưa hình thành.

- Xã hội Việt Nam chuyển mình 1 cách đau đớn, nhục nhã sang hướng tư

sản. Nền kinh tế bản xứ lạc hậu tự cổ xưa bị phân hóa, cả xã hội bị kéo vào

quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.

- Tầng lớp trí thức nho học trước sự thay đổi của diện mạo xã hội, đã có

dịp qua Tân thư chữ Hán mà đến được với một ít ánh sáng văn hóa phương

Tây.

* Những sự kiện văn chương - Khoảng 30 năm đầu thế kỷ 20, văn học Việt Nam có bước quá độ từ

văn học trung đại chuyển sang văn học hiện đại. Ra đời tiếp sau nền văn

64

chương phong kiến, giai đoạn văn chương buổi giao thời phải đối mặt với

hiện thực xã hội lúc bấy giờ, dẫn đến sự đối lập giữa văn chương yêu nước và

văn chương nô dịch, giữa văn chương phong kiến và văn chương tư sản.

- Tản Đà là một nhà nho khác với lớp nhà nho chính thống, do hoàn cảnh

xã hội và hoàn cảnh riêng của mình, ông cầm bút sắt để trở thành cây bút

chuyên nghiệp viết văn, làm thơ, làm báo. Ông chọn nghề thi sỹ và viết báo

vào thời văn thơ đang chuyển thành một thứ hàng hóa xã hội, đã là 1 nhu cầu

của công chúng, đã được đưa ra thị trường. Đem “văn chương đi bán phố

phường”, thi sỹ đã chấp nhận thử thách, chấp nhận định mệnh nghiệt ngã

bằng một bản lĩnh, một tài năng:

Còn trời, còn đất, còn non nước Còn có văn chương bán phố phường

Một Tản Đà ký giả - văn nhân thì đã rõ. Còn một Tản Đà của đời sống

hiện thực thì như thế nào? Trong bài “Phác họa hình dung và tâm tính thi sỹ

Tản Đà”, Lan Khai đã mô tả như sau: “Thi sĩ Tản Đà là một người đàn ông

đẫy đà, hơi thấp; đầu đội chiếc khăn xếp không che kín mái tóc cắt theo kiểu

bàn chải, mình mặc áo sa tanh bóng. Thi sỹ có một gương mặt nở nang và

thường đỏ hồng vì men rượu. Tiên sinh nổi tiếng về rượu cũng như về thơ.

Tiên sinh lại tự bào chữa trước sự đùa cợt của thế nhân bằng hai câu thơ rất

tài tình: Đất say, đất cũng lăn quay/Trời say, mặt cũng đỏ gay ai cười? [62,

60].

Theo Nguyễn Mạnh Bổng thì thời Tản Đà làm báo, ông có tự tay vẽ một

bức địa đồ Việt Nam để bày trên văn án và đi đâu cũng mang theo cho đến lúc

rách vẫn cứ giữ. Trên An Nam tạp chí có đăng bài “Vịnh bức dư đồ rách” ấy

như sau:

Nọ bức dư đồ thử đứng coi

65

Sông sông núi núi khéo bia cười Biết bao lúc mới công vừa vẽ Sao đến bây giờ rách tả tơi Ấy trước ông cha mua để lại Mà sao con cháu lấy làm chơi Thôi thôi có trách chi đàn trẻ Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi.

Bồi bức dư đồ rách là bồi đắp lại giang sơn tổ quốc bị ngoại xâm giày

xéo. Ông có chí bồi đắp giang sơn bằng cách nào? Đó chính là cách dùng văn

đàn, nhất là tờ An Nam tạp chí, nơi hô hào cảnh tỉnh quốc dân đồng bào.

Điểm qua cuộc đời làm báo của Tản Đà với một số dấu ấn, chúng ta có thể

thấy rõ điều đó.

Chí khí “bồi bức dư đồ” đã phát lộ mầm mống ngay từ thủa Tản Đà còn

là cậu học trò theo học ở trường Tân Quy (Hà Nội) và viết bài “Âu Á nhị châu

hiện thế” được một phóng viên Tàu ở Hà Nội gửi về một tờ báo Trung Hoa

đăng vào mục xã thuyết. Sau này khi ông Nguyễn Tài Tích tạ thế, Tản Đà

phải ra đời thực thụ đã chọn con đường viết văn, làm báo chuyên nghiệp để

làm kế sinh nhai. Được cụ Trịnh Xuân Nham, cử nhân giáo thụ trường Hậu bổ

giới thiệu cho Nguyễn Văn Vĩnh và Tản Đà tuy có viết cho Đông Dương tạp

chí nhưng vì nghề báo chưa phát đạt nên Nguyễn Văn Vĩnh lúc bấy giờ chưa

thể sắp xếp cho Tản Đà một vị trí rõ rệt trong toà soạn.

Khi Nam Phong tạp chí thành lập, những tưởng Tản Đà có đất dụng văn,

nhưng Phạm Quỳnh đã bình phẩm quá nặng “Giấc mộng con” của Tản Đà, vì

thế việc làm Nam Phong tạp chí cũng không xong.

Mấy năm sau, vì trọng văn của Tản Đà nên hội “Bắc kỳ công nông

thương tế” nhờ ông làm chủ bút cơ quan ngôn luận của hội: tạp chí Hữu

Thanh. Dưới đây là bài thơ chào độc giả của Tản Đà trong số ra mắt.

Tạp chí ra đời gọi “Hữu Thanh”

66

Chim tìm tiếng bạn mượn để danh Dám đâu sườn núi kêu con phượng Âu cũng trên cành học cái oanh Nam Bắc hỡi ai đường tiến hoá! Đông tây nào những sách văn minh? Hai mươi nhăm triệu đồng bào thanh cả, Hữu ái mong ai một chút tình

Trung Nam Bắc, chị cùng em Chị em trông đó con chim gọi đàn Chim kia còn biết gọi đàn Chút tình hữu ái chị bàn cùng em

Vẫn một giọng hô hào rất hăng hái, say mê. Tản Đà cũng ôm mộng dùng

tờ báo để làm cuộc cải cách văn hóa, qua đó đưa xã hội tiến lên: Nam Bắc hỡi

ai đường tiến hoá!/Đông tây nào những sách văn minh? Nhưng rồi cũng

không thành vì phải tuân theo những khuôn khổ, ràng buộc của một tổ chức

chính trị- xã hội. Tản Đà không chịu bó mình với quy củ nên bất đắc chí với

Hữu Thanh mà từ chức. Thế là tiếng gọi đàn gióng lên được nửa năm thì đã

có lời tạm biệt:

Mới nửa năm giời báo Hữu Thanh Biệt ly lai láng biết bao tình! Chút tình hữu ái bao thương nhớ Tiếng gọi đàn xa núi tản xanh

Từ giã Hữu Thanh về quê được ít lâu, Tản Đà cùng ông Nghiêm Thượng

Văn, Đặng Đức Tô lập ra Tản Đà thư cục ở Hàng Gai, dịch được thiên Quốc

phong, Kinh thi, sách Đại học, soạn được cuốn Quốc sử huấn mông…

Có lẽ vì thấy sách in ảnh hưởng kém sâu rộng so với báo chí nên ông đã

cố xin phép ra An Nan tạp chí rồi từ đó suốt đời lận đận với đứa con tinh thần

đó.

67

Báo quán lần đầu ở Hàng Lọng, gần ga Hàng Cỏ. Số ra mắt có bài của

Tản Đà với nhan đề:

Sông cái chiếc thuyền nan Thả chiếc thuyền nan bé tẻo teo Cũng buồm cũng cột cũng dây lèo Nghìn trùng sóng gió, ba khoang nước Bốn mặt non sông một mái chèo Những hẹn nước mây thu mấy độ Thử xem trời biển rộng bao nhiêu? Con đường vô hạn vui chăng tá Mà hỡi dòng sông tiếng nước reo.

Hình ảnh chiếc thuyền nan “bé tẻo teo” nhưng lại mang trên mình một sứ

mệnh lớn lao và đối mặt với biết bao hiểm nguy, thác ghềnh: “nghìn trùng

sóng gió”, “bốn mặt non sông”… Vậy mà con thuyền ấy vẫn ra khơi đầy khí

thế và niềm vui với tiếng nước reo, với con đường vui, tiếng mái chèo khua

nước. Chiếc thuyền nan chính là hình ảnh ẩn dụ của An Nam tạp chí trong

buổi đầu ra mắt đầy hào hứng. Tản Đà đã kín đáo gửi gắm trong đó niềm tin

và mơ ước của mình về một con đường lập thân, thành danh mới của mình.

Đằng sau cách ví von “thuyền nan” đối mặt với “sóng dữ” còn là niềm tự hào

của Tản Đà khi là người chèo lái con thuyền ấy.

Nhưng rồi, số phận An Nam tạp chí cũng mong manh như chiếc thuyền

nan trên sông sóng lớn. Báo bị đình bản ở Hà Nội, Tản Đà vào Nam Định nhờ

ông Diệp Văn Kỳ - chủ nhiệm Đông Pháp thời báo giúp tái bản An Nam tạp

chí trong Nam:

Nước non khởi diễn nghìn trùng, Dư đồ một bức ôm lòng ra đi

Không may cho Tản Đà, thể lệ kiểm duyệt không cho phép An Nam tạp

chí được tái bản ở Nam kỳ là đất thuộc địa, Tản đà đành viết giúp Đông Pháp

68

thời báo và Thần Chung. Qua đi một thời gian, vì còn nặng nợ với An Nam

tạp chí nên Tản Đà từ biệt xóm gà Gia Định, từ biệt toà soạn Đông Pháp thời

báo và độc giả miền Nam trở về Nam Định tái bản “tờ báo nghiệp chướng

đó”.

Xóm gà tan giấc rạng vừng ô Tối đến Nha Trang rượu một bồ Trợ bút đã xin từ bác Điệp Văn chương để lại cậy thầy Ngô Dám quên Đông Pháp người tri kỷ Riêng nhớ “An Nam bức địa đồ” Hai chuyến chơi xuân thìn với mão Đi ra còn nhận những đường vô (Gửi cho toà soạn Đông Pháp thời báo)

Với Hữu Thanh, Đông Pháp thời báo hay Tiểu thuyết thứ Bẩy, Phụ nữ

tân văn… Tản Đà đều chỉ làm trợ bút, tức là đi làm báo thuê. Ông không có

quyền quyết định nội dung, định hướng tờ báo, bởi vậy, trước sau ông vẫn ôm

mộng gây dựng một sự nghiệp của riêng mình với An Nam tạp chí: Dám quên

Đông Pháp người tri kỷ/Riêng nhớ “An Nam bức địa đồ”.

Thế là An Nam tạp chí tái bản ở Nam Định. Chiếc thuyền nan trên sông

Cái dạo nào nay đã thành chiếc tàu ra khơi:

Chiếc tàu An Nam

Bốn bể năm châu náo cuộc đời Con tàu bản quốc chị em ơi. Tấm thân dầm nước đà nên sắt Tiếng hiệu vang sông mới hết còi Vồn vã gió mưa cơn giục khách Mênh mông trời bể bước ra khơi Hỏi thăm Âu Mỹ bờ đâu bến? Mở máy quay guồng quá độ chơi

69

Tản Đà gọi đó là “con tàu bản quốc”. Con tàu ra khơi với khí thế giục giã

của tiếng còi, tiếng máy quay nhưng cũng có trải nghiệm sâu lắng của một tờ

báo đã qua 2 lần đình bản với “vồn vã gió mưa”, “tấm thân dầm nước đà nên

sắt”… Nhưng con tàu tiếng thế cũng không vững chãi gì hơn thuyền nan nên

chẳng bao lâu, báo lại đình bản.

Lên Hà Nội, Tản Đà gặp ông Thắng Long và Ngô Thúc Địch cùng chung

lưng góp sức gắng tái bản An Nam tạp chí, in đi in lại rồi có lần phải cùng ông

Phó Đức Thành và ông chủ nhà in Châu Tịnh xuất bản báo ở Nghệ An. Làm

chung mãi không xong, Tản Đà tự chủ trương lấy, giúp việc có Nguyễn Công

Hoan, Nguyễn Tiến Lãng. Tản Đà có bài cảm tác như sau:

An Nam tạp chí lại ra lần thứ năm ở Hàng Bông Hà Nội cảm tác

Thần Chung lên tiếng phương Nam Phổ thông xứ Bắc ai làm tắt hơi? Duy Tân thôi đã cũ rồi Đông Tây lại cũng đi đời đằng mô! Khóc ai! Riêng cũng mừng cho An Nam tạp chí dư đồ còn đây Mới xưa Hàng Lọng cờ bay Thứ năm lại có phen này Hàng Bông Cuộc đời xoay chuyển lung tung Mà trong báo giới tranh hùng những ai? Thức lâu mới biết đêm dài Tiền chưa mạnh sức mà tài cũng thua! Hơn nhau một bức dư đồ Khi thiêng sông núi hộ phù nước non Hơn nhau một tấm lòng son Cho người chung nước, chung non, chung tình Đêm thu, gió thoảng bên mình Sạch đem tâm sự bất bình thôi xuôi Bút hoa chép lại đôi lời Đưa ai bốn bể là người tình chung

70

Đi về xin nhớ Hàng Bông

Báo ra lần thứ 5, An Nam tạp chí không còn giọng khảng khái, hối hả của

con tàu ra khơi, nhưng vẫn còn nguyên hoài bão về một tờ báo vững vàng

trước sóng gió, giữa thời buổi cạnh tranh của nhiều tờ báo khác nhau. Lúc bấy

giờ, việc một tờ báo bị đình bản không phải là hiếm. Nhiều tờ báo cũng cùng

chung cảnh ngộ như An Nam tạp chí: Thần Chung, Phổ thông xứ Bắc, Duy

Tân, Đông Tây… Chỉ có điều, những tờ báo này ra một lần rồi chết hẳn chứ

không tái bản đi tái bản lại tới…6 lần như An Nam tạp chí. Điều này đủ để

thấy nghị lực và khát vọng với sự nghiệp báo chí của nhà văn núi Tản sông

Đà lớn tới nhường nào.

Đã đành là Tản Đà hơn người “một tấm lòng son” nhưng không vì thế mà

An Nam tạp chí trường thọ hơn. Báo ra sau đó ít lâu lại tự đình bản!

Không phải trông nom báo, Tản Đà dịch Đường thi cho báo Ngày Nay,

chú thích Truyện Kiều và dịch Liêu Trai cho nhà xuất bản Tân Dân. Mộng

giữ cho An Nam tạp chí sống đến vạn thiên thu tới đây hoàn toàn bị xẹp:

Biết bao ra Bắc vào Nam Bức dư đồ rách đã cam khó lòng!

Đến đây, Tản Đà đã hoàn toàn chịu chấp nhận thất bại sau quãng thời

gian bao năm lận đận vào Nam, ra Bắc. Mộng ước bồi bức dư đồ rách đến đây

đã vĩnh viễn không thành. Ông hạ bút viết về thất bại với An Nam tạp chí một

cách xót xa: Bức dư đồ rách đã cam khó lòng!

Câu chuyện về cuộc đời làm báo lận đận của Tản Đà là một “sự kiện” với

làng văn, làng báo lúc bấy giờ, thu hút sự chú ý của nhiều người. Báo Phong

hoá đổi mới (số 14, bộ mới, ngày 22/9/1932) có bài giễu cợt Tản Đà bị trời

phạt. Đó là bài của Khái Hưng Trần Khánh Dư dưới bút hiệu Bán Than. Bên

bài thơ là bức tranh hài hước về Tản Đà tay cầm bút lông, tay nâng cốc rượu,

chung quanh chai bố, chai con ngổn ngang:

71

Trời đày Nguyễn Khắc Hiếu

Trong phòng khách cụ Trời Cậu nhỏ dưng văn bôi Sảy tay đánh rơi vỡ Nguyễn Khắc Hiếu ra đời

Từ khi Hiếu xuất thế Vẫn nhớ cảnh thiên tiên Bữa cơm thường phải rượu Nhưng túi lại rỗng tiền

Liền xoay nghề văn chương, Viết bừa bán phố phường Thơ chạy tha hồ uống Say khướt suốt đêm trường Rượu ngon thức nhắm ngon Giọng văn lại càng dòn Khối tình con, tình lớn Giấc mộng lớn, mộng con

Thích chí nằm ngâm nga Tiếng động vang Ngân Hà Trời hỏi: Ai ngâm thế? Muôn tâu : Ông Tản Đà

Trời nổi trận lôi đình Rằng: Cái thằng tiên ranh! Ta đày xuống hạ giới Để hắn chịu nhục hình

Ai ngờ hắn vẫn nhàn Ngày tháng ngâm thơ tràn Các người, ai có cách Bắt hắn phải gian nan?

Chư tiên đồng thanh nói Tội nặng nhất trần gian

72

Là bắt anh Khắc Hiếu Làm chủ bút An Nam

Bài thơ đã dựng lên một hình ảnh đầy tính biểu cảm và hài hước nhưng

cũng rất đúng chất… Tản Đà. Sự giễu cợt Tản Đà ở đây chỉ là sự mua vui, hài

hước chứ không phải là đả kích sâu cay. Bởi vậy, bài thơ giống một hoạt cảnh

được dàn dựng rất sinh động và chân thực về con người, cốt cách Tản Đà với

tài thơ, tài rượu và lối sống phóng túng. Đặc biệt, việc Tản Đà mang văn

chương bán phố phường và làm chủ bút An Nam được ví là “tội nặng nhất

trần gian”. Nó là một cách nói cho người đời sau thấy Tản Đà đã lao tâm, khổ

tứ và đã phải gian nan như thế nào trên con đường làm báo.

Tuy giễu cợt Tản Đà nhưng chính báo Ngày Nay đã mở mục dịch thơ

Đường cho Tản Đà thi thố sở trường của mình.

Vậy nguyên nhân Tản đà thất bại trong nghề báo là do đâu? Vì đâu mà

Tản Đà phải vất vả, long đong đến vậy trong nghề báo?

Thiếu Sơn trong “Phê bình và cảo luận” đã lý giải:

“Đã chủ trương một cơ quan ngôn luận, lý ưng phải có giọng dạy đời.

Song nói cái nghề dạy đời, nó không phải là cái sở trường của ông, thì sao

ông không lại “ru đời” là cái việc Tạo hoá đã trao cho ông…” [31, 42].

Theo Thiếu Sơn, sở dĩ Tản Đà không thể thành công và thành danh với

An Nam tạp chí là do “cái nghề dạy đời không phải là sở trường của ông”.

Mà với một cơ quan ngôn luận, một tòa báo, đó lại là điều cốt yếu. Tức là Tản

Đà sinh ra để mơ mộng với thơ và rượu, và ông hợp với những gì phóng túng,

tiêu dao chứ không phải là giọng trịnh trọng, kẻ cả dạy đời.

Còn theo Ngô Tất Tố, người đã từng cộng tác nhiều với Tản Đà trong

nghề báo thì nguyên nhân sự thất bại đó là ma men. Trong tạp chí Tao đàn số

đặc biệt về Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu số ra ngày 1/7/1939, Ngô Tất Tố viết:

73

“Nguyên nhân làm cho tờ tạp chí ấy phải chết là rượu. Đành rằng nếu

không có rượu thì ông Tản Đà sẽ không thành ông Tản Đà. Nhưng trong khi

nó làm ông Tản Đà thành ông Tản Đà chính nó cũng là thủ phạm làm cho An

Nam tạp chí không có bài đưa cho nhà in”.

Việc đổ lỗi sự thất bại của An Nam tạp chí là do rượu cũng chỉ là một

cách nói. Giới hạn của Tản Đà thể hiện ở chỗ, một mặt, ông kiên quyết, đam

mê theo đuổi sự nghiệp nhưng mặt khác, vẫn có lối sống, lối sáng tác tùy

hứng, nương theo cảm xúc và bị chi phối bởi rượu. Bởi thế, ông không vượt

thoát được chính những giới hạn, mâu thuẫn đó trong chính bản thân ông.

Một trong những lý do khiến Tản Đà lận đận trong nghề báo, như ông đã

từng nhận, là do sự nghèo. Tản Đà nói đến cảnh nghèo, đến sự túng quẫn của

mình một cách rất thành thực, không chút giấu diếm. Ở ông, không có giọng

kẻ cả hay cố căng mình lên, không mỹ hóa cảnh nghèo và không nói kiểu

khẩu khí như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát. Vì nghèo nên Tản Đà phải nhờ

vào các nhà tư sản khi làm báo, mà đã nhờ là phải bị phụ thuộc, chi phối. Tản

Đà lại vốn bản chất ngông, không chịu khuất phục ai nên khó lòng chịu luồn

cúi. Bởi vậy, ông phải tự mình gồng gánh. Tản Đà ra báo An Nam tạp chí

nhưng thực ra không có đồng nào trong túi. Ông chiêu tập mấy người bạn thất

nghiệp đặt dưới quyền Ngô Tất Tố rồi đưa cả vào làng Văn Quán, thị xã Hà

Đông chuẩn bị bài vở, còn Tản Đà thì đi vay tiền. Vay không được, Tản Đà

chỉ còn biết thở dài. Ngô Tất Tố nhận đi vay hộ, Tản Đà dặn: “Dù cho lãi bốn

mươi phân cũng cứ vay”, nhưng Ngô Tất Tố cũng thất bại. Đi vay lãi để lấy

tiền làm báo, khi ấy, có lẽ cũng chỉ có riêng mình Tản Đà. Đối mặt với cơ chế

thị trường, phải tự xoay sở, chạy vạy, Tản Đà đã bộc lộ rõ những hạn chế của

một nhà Nho trước thời cuộc mới. Đó là sự ngây thơ của cả một thế hệ trước

ngưỡng cửa của cơn lốc Âu hóa, của Tân văn, tân thư và những luồng văn

74

hóa, tư tưởng mới. Tài năng, khát khao, nỗ lực thôi không đủ để Tản Đà lập

nên sự nghiệp lớn.

Chuyện lận đận do sự nghèo của Tản Đà khi làm báo còn được nhà văn

Lan Khai (1906 - 1945), đệ tử một thời của Tản Đà kể lại trong một hồi ký

xúc động với bút danh Lâm Tuyền Khách:

“Năm 1929, An Nam tạp chí ra đời ở số 1 Francis Garnier trên một căn

gác rộng rãi trông thẳng ra hồ Hoàn Kiếm. Lần này tiên sinh hợp tác với một

ông ấm ở Hàng Gai. Sở dĩ có sự hợp tác ấy là do một lẽ về tiền tài. Hồi ấy,

tiên sinh còn thiếu ông ấm nói trên một số tiền độ vài trăm đồng nên ông này

muốn cho An Nam tạp chí lại ra đời để có dịp thu lấy nợ. Ông chỉ đứng trông

nom về mặt tiền tài, mọi khoản chi tiêu của tòa soạn, còn Tản Đà tiên sinh chỉ

trông nom về văn bài. Cho nên trên bìa An Nam tạp chí hồi đó có những danh

từ “chủ nhân” và “chủ sự” rất lôi thôi.

Sớm có khuynh hướng về văn chương nên năm đó tôi thường có bài lai

cảo trong An Nam tạp chí, tuy còn đang đi học ở Hà thành. Tôi đang ao ước

được gặp tiên sinh thì một hôm, bạn tôi, anh Nguyễn Danh Đăng, cháu gọi

tiên sinh bằng chú, đưa tôi đến giới thiệu với tiên sinh. Tôi không còn nhớ rõ

cái cảm giác của tôi lúc ấy như thế nào, nhưng tôi, một người vẫn hâm mộ

tiên sinh, mê văn tiên sinh hơn mê gái, được tiên sinh tiếp kiến hẳn trong lòng

phải thấy sung sướng như có thánh phúc được trông thấy một đấng thiêng

liêng mà xưa nay mình vẫn thờ trong tâm tưởng...

Tiên sinh tiếp tôi rất niềm nở: “Thưa cụ, tôi đến đây với một ý muốn

được cụ thu dụng trong tòa soạn, để được luôn trực tiếp với cụ và mong cụ để

tâm rèn luyện cho”. Tiên sinh đáp: “Rất vui lòng, nhưng tôi hỏi thật “cậu

đồ” có cần một số lương hàng tháng để cấp đỡ gia đình không?”. “Thưa cụ,

vì yêu mến văn chương mà đến đây hầu cụ, thực không dám có một mảy may

ý nghĩ về tiền tài. Vả, tôi thực chưa đến tuổi đi kiếm tiền để nuôi gia đình”.

75

“Nếu vậy hay! Cậu đồ ạ, lương chủ bút như tôi đây cũng chỉ có mỗi ngày hai

bữa rượu mà thôi! Vậy thì hãy tạm “phong” cho cậu làm thư ký tòa soạn nhé!

Cậu đã yêu mến cái nghề văn tự này, tuy nó là một nghề bạc bẽo nhưng cũng

phải thành tâm với nó thì mới làm được. Có thành tâm với nghề mới thành

nghề. Nếu bây giờ đi buôn gỗ lãi ngay tiền vạn, Hiếu đây cũng không buôn.

Bổ đi làm Tổng đốc lương tháng bốn trăm, Hiếu đây cũng không làm. Hiếu

chỉ phụng sự nghề thơ văn mà thôi...”. Sau những lời khích lệ ấy, tiên sinh thu

dùng tôi như một tiên ông thu dùng đồ đệ... Thế rồi, với cái tuổi còn non nớt,

với cái học lực còn thiển cận, tôi đã bỏ cái đời học sinh vui thú để làm thư ký

riêng cho một ông chủ báo, và hơn nữa, một nhà thi sĩ có danh.

Công việc của tôi không lấy gì làm khó khăn, chỉ phải sao chép những

bài tiên sinh đã viết ra, nhận thư từ các nơi gởi đến, trả lời khi độc giả hỏi

những việc thường, và nhất là khi có khách, đem văn của tiên sinh mới viết ra

đọc cho khách nghe. Kể trong mấy trăm lá thư mà tay tôi đã bóc, có một cái

khiến tiên sinh, khi nghe tôi đọc phải bồi hồi cảm động. Đó là lá thư của một

nữ sinh lớp đệ tứ (4e anée) trường Đồng Khánh (Huế). Trong thư, cô ca tụng

thi tài của tiên sinh và chúc mừng An Nam tạp chí lại ra đời. Ở cuối thư, sau

khi xin tiên sinh một tấm ảnh, cô viết: “Thưa tiên sinh, con dám tin rằng tiên

sinh cũng như thi hào Vitor Hugo nước Pháp, rất có lòng yêu mến con trẻ.

Vậy trước khi dừng bút, tiên sinh cho phép con được nói thế này: “Je vous

embrasse tendrement, mon chéri, papa !” (tạm dịch: Cho con được trìu mến

ôm cha - Người yêu của con!). Tiên sinh đọc cho tôi viết trả lời bức thư ấy,

sau khi cảm ơn những thiện cảm của cô dành cho mình và An Nam tạp chí,

tiên sinh nói bình sinh mình chưa chụp ảnh bao giờ nên không có ảnh để tặng

cô. Rồi để tạ lại tấm lòng yêu mến của cô đã coi mình như cha, cuối thư tiên

sinh bảo tôi viết: “Je vous embrasse tendrement ma chère enfant.” (tạm dịch:

Cha trìu mến ôm con, con gái thân yêu ạ!). Ký tên: “papa Tản Đà”. Tiên sinh

76

coi đó cũng là một chuyện rất lý thú trong đời thi sĩ của mình, cũng như câu

chuyện “rau sắng chùa Hương” khi trước vậy!

Ngày nào nhiều việc, tiên sinh thường giữ tôi lại, ăn ngủ ở đấy. Ban ngày

tiên sinh không làm việc, chỉ uống rượu, nói chuyện hay đọc sách. Cứ vào

khoảng hai ba giờ sáng, lúc ấy là lúc thành phố Hà Nội đã ngủ im, tiên sinh

mới trở dậy thắp nến viết văn cho đến sáng...

Được gần một tháng. Một buổi sáng kia, tôi vừa đến tòa soạn thì... trời

ơi, một cảnh tượng đã khiến tôi, hồi ấy mười bảy tuổi, đã thấy đời thực xấu

xa, mà ngao ngán cho đời các văn gia, thi sĩ ở cái xã hội Việt Nam thiếu lịch

sự và không biết trọng nhân tài này. Tôi thấy một người đàn bà to béo, mặt

đanh ác đang nhảy lên như một người hóa dại, sỉa sói những câu nói rất tục

tằn, thô bỉ vào trước mặt nhà thi sĩ lúc ấy đang điềm nhiên ngồi trên ghế dựa

với một nụ cười khinh bỉ... Thấy tôi đến, tiên sinh gọi: “Đi thôi, cậu đồ ơi!”.

Tôi lục trong tủ thấy hai cái tay nải không biết để đấy tự bao giờ. Tôi đem

bao nhiêu sách vở (phần nhiều bằng chữ Hán) và quần áo của tiên sinh sắp

vào đấy, rồi - như một anh hàng tấm gánh hàng đi chợ - tôi, theo lời tiên sinh

dặn, gánh chạy trước ra bến tàu điện Hà Đông. Một khắc sau, tiên sinh áo sa,

nón dứa, guốc kinh, ung dung bước lên tàu. Tuy văn chương hạ giới thật có rẻ

như bèo, nhưng lần này tôi gánh văn hầu tiên sinh không phải đem lên bán

chợ trời, nhưng để đi vào làng Văn Quán trong Hà Đông lánh nạn.

Sau này tôi được biết sở dĩ có cuộc xô xát với người đàn bà vạm vỡ và

bất lịch sự ấy là vì tiên sinh nhận thấy người ta đã ỷ vào số nợ để bức hãm,

lợi dụng mình nên muốn cùng mấy người bạn thân, trong đó có ông Kính Đài

Nguyễn Thống, lập lại Tản Đà thư cục, lấy lại An Nam tạp chí ở trong quyền

chi phối của ông ấm Hàng Gai. Miếng mồi ngon nào ai chịu bỏ, nên người ta

đã nhẫn tâm phá đám bằng một cách tục tằn đó...

77

Tiên sinh có gia quyến trong Văn Quán. Tôi ở đó với tiên sinh trong ít

hôm. Rồi một buổi sáng, ở trước ga Hàng Cỏ, tiên sinh cầm tay tôi ngậm

ngùi: “Tôi rất cám ơn cậu đồ đã thành tâm với tôi từ bấy đến nay. Nhưng bây

giờ là lúc thầy trò ta phải tạm biệt nhau trong ít lâu...”. Tiên sinh đi Nam. Tôi

trở lại Hàng Trống để nối lại cái đời học sinh của tôi bị lũng đoạn. Từ ngày

ấy đến nay, đã mười năm rồi...” [72, 64].

Câu chuyện trên phần nào giúp ta hiểu được vì sao Tản Đà có đủ nỗ lực

để tái bản An Nam tạp chí tới 6 lần. Đó là bởi thái độ điềm tĩnh, ung dung

trước những biến cố và phần nào là việc tách mình ra khỏi hoàn cảnh trớ trêu

của hiện thực, tự coi mình đứng trên mọi thứ tầm thường của cuộc sống và

những quy luật nghiệt ngã của đồng tiền thời cơ chế thị trường. Nhưng ngược

lại, cung cách làm việc rất amature của Tản Đà cũng là nguyên nhân khiến

ông không thể tạo dựng một sự nghiệp lớn ổn định, bền vững. Ảnh hưởng của

lối tư duy cũ khiến Tản Đà vẫn chưa thể tách bạch được việc dấn thân vào

nghề báo như là một nghề nghiêm túc với một công việc thảnh thơi, tiêu dao,

thích thì làm, không thích thì nghỉ. Mặc dù trong tư tưởng, ông xác định rất rõ

con đường mình phải đi: “Nếu bây giờ đi buôn gỗ lãi ngay tiền vạn, Hiếu đây

cũng không buôn. Bổ đi làm Tổng đốc lương tháng bốn trăm, Hiếu đây cũng

không làm. Hiếu chỉ phụng sự nghề thơ văn mà thôi...”. Câu nói khảng khái

của nhà văn núi Tản sông Đà thể hiện niềm đam mê của ông đối với sự

nghiệp văn chương. Tản Đà làm báo không phải chỉ để kiếm tiền mà còn vì

muốn gây dựng một sự nghiệp và thành danh với nó. Bởi thế, dù tự nhận và

hiểu rất rõ văn chương là nghề bèo bọt nhưng ông vẫn dấn thân và ngạo nghễ

coi nó là một nghề thời thượng và có giá ngang với những nghề kiếm được

bộn tiền lúc bấy giờ.

“Ngông” có thể coi là tính cách nổi bật, thậm chí, có người ví là “đặc

sản” của Tản Đà. Nó khiến ông không thể trộn lẫn vào đâu, không thể nhầm

78

với bất cứ ai, nhưng chính cái khác người ấy khiến ông trở nên lạc lõng và

cũng chính là một trong những nguyên nhân thất bại của ông trong nghề báo

khi hó tìm được tiếng nói chung với mọi người.

Vũ Bằng kể: "Người như Tản Đà để ở xa mà kính trọng cảm phục thì

được, chứ ở gần thì không thể nào chịu nổi!". Lưu Trọng Lư nhận xét: "Gặp

Tản Đà một bận thì thật là một điều khoái trá vô cùng, gặp ông ấy lần thứ hai

thì vẫn còn là một cái vui thích đã bắt đầu gượng gạo, và gặp đến lần thứ ba

thì là một điều khó chịu. Và lần thứ tư, thứ năm... thì xin thú thực là một... tai

nạn". Phan Khôi, được xem là khắc tinh với Tản Đà trên văn đàn, trong "Tôi

với Tản Đà thi sỹ" viết: Cái lối đánh chén của ông Hiếu kề cà mất thì giờ lắm,

tôi không chịu được, nên ít khi tôi ngồi trọn bữa rượu với ông. Ông đem hỏa

lò để ở bàn mà tự làm lấy món ăn, có khi mãn một tiệc ăn người nhà phải

thay than trong hỏa lò đến năm sáu bận. Thường thường một mình ông vừa

ăn uống lại vừa viết nữa. Ông cho có thế mới là thú” [62, 44].

Chính Tản Đà cũng thường tự coi mình là "Khổng tử chi đồ", "trích tiên",

một thế ngoại cao nhân, tỏ ra khác biệt với người dương thế. Ông thường làm

những chuyện xưa nay hiếm: theo lời Ngô Tất Tố, lần vào Sài Gòn viết báo,

Tản Đà đem theo vợ con nhưng cả lúc đến lẫn lúc đi, vợ con ông gửi cho Ngô

Tất Tố thu xếp cả. Ngô Tất Tố là bạn thân của Tản Đà, có lần phác họa về con

người ông: "Không có tiền thì rầu rĩ, oán trách, rũ người ra như con cú, thế

mà một khi có tiền thì lại không muốn làm việc gì hết, chỉ uống và ăn, hết ăn

lại uống. Chưa uống thì bảo không có rượu như cái máy không xăng nhớt

không chạy được, uống vào say rồi thì nằm khoèo ra ngủ và lý luận một mình

rằng say mà làm việc thì hỏi đời còn có cái gì thú nữa?" [43, 38]. Tản Đà còn

có tính tự phụ, không biết sửa sai, lại thích nghe nịnh nọt, Ngô Tất Tố kể:

"Không biết nghe lời anh em khuyên bảo. Cái số anh em thành thực khuyên

ông rất hiếm, còn cái số nâng ông lên, sợ cái tài ông mà không dám làm mích

79

lòng ông thì cả đống. Vì có nhiều kẻ nịnh ông một cách mù quáng như thế,

ông bị hại mà không biết, mỗi ngày mỗi tự phụ thêm lên..." [43, 52].

Đến cuối đời, Tản Đà ngậm ngùi nhìn lại sự nghiệp của mình với biết bao

lận đận mà tay trắng vẫn hoàn trắng tay. Ước mơ đổi bút lông ra bút sắt tưởng

sẽ la cơ hội để lập nên nghiệp lớn, nào ngờ “bút sắt chẳng hơn gì bút lông”:

Khi làm chủ báo, lúc viết mướn, Hai chục năm dư cảnh khốn cùng... Trần gian thước đất vẫn không có, Bút sắt chẳng hơn gì bút lông Ngày xuân như ngựa, đầu xanh bạc, Chán cả giang hồ, hết cả ngông (Tiễn ông Công lên trời).

Bản thân Tản Đà không có nhiều kinh nghiệm trong việc điều hành, tổ

chức một tờ báo theo hướng chuyên nghiệp. Trong khi đó, Tản Đà cũng

không có khả năng tập hợp được một đội ngũ đủ mạnh và dày dặn kinh

nghiệm. Đội ngũ làm báo theo ông như Ngô Tất Tố, Lan Khai… cũng mới

chập chững vào nghề và chưa thực sự hiểu cung cách làm một tờ báo. Đó hầu

hết là những môn đồ, đệ tử hâm mộ tài năng của Tàn Đà mà theo ông chứ

không ai ý thức được rõ ràng công việc mình đang làm. Đó chính là một trong

những lý do khiến Tản Đà thất bại với giấc mơ báo chí của mình.

Trong bài “Cảm tưởng gửi báo Sống” đăng trên An Nam tạp chí, Tản Đà

mới đưa ra những lý do, điều kiện cần có của một tờ báo là tài chính, sự ủng

hộ của chính quyền… nhưng một lý do quan trọng là kinh nghiệm, kiến thức

làm báo của người làm nghề thì ông không nêu tới. Tản Đà không được trang

bị đầy đủ những kiến thức làm báo nên ông làm báo một cách tùy hứng và

chịu ảnh hưởng nhiều của chủ nghĩa tự nhiên, cảm tính. Cho đến những ngày

thất bại về cuối đời cũng như lúc chết vẫn không hiểu được vì sao mình lại

thất bại với An Nam tạp chí, một tờ báo mà ông đã dồn hết tâm sức và tiền

80

bạc suốt gần cả cuộc đời. Nó xuất phát từ chính nhãn quan lịch sử và tầm nhìn

hạn hẹp của một lớp người ở giai đoạn giao thời. Nhưng nó cũng là tiền đề để

những thế hệ sau này, trong đó có những đệ tử và môn đồ của ông, thành danh

và nổi tiếng trên con đường báo chí.

Chương 3: Khảo sát mục: Việt Nam nhị thập thế kỷ xã hội thiển đàm và Việt Nam nhị thập thế kỷ xã hội ba đào ký

Sở dĩ chúng tôi chọn khảo sát hai mục này là bởi đây là những chuyên

mục mang tính hiện thực cao và là những chuyên mục hiện thực - xã hội đầu

tiên ở báo chí nước ta đi sâu vào những chuyện đời thường, những vấn đề xã

hội mang tính thời sự. Điều đó khẳng định những đóng góp to lớn của Tản Đà

đối với lịch sử phát triển của báo chí nước ta. Tính hiện thực trong những tác

phẩm này khiến chúng trở nên gần gũi với đông đảo người đọc và mang đậm

phong cách báo chí, có những ảnh hưởng, tác động nhất định đến xã hội lúc

bấy giờ.

3.1. Việt Nam nhị thập thế kỷ xã hội thiển đàm

Chữ “thiển đàm”, như chính Tản Đà đã giải thích: “Chỉ là câu nói chuyện

nông nổi không cần dùng ý tứ sâu xa gì, sự viết bài cũng chỉ cứ theo những

điều trong thấy, nghe thấy mà viết ra cho rõ nghĩa xuôi câu, quý hồ đắc thực

là hơn, không cần có lời lẽ văn chương chi hết”.

Về mục đích của “xã hội thiển đàm” là “để người ở nơi nọ được biết sự

tình ở nơi kia, kẻ sinh thủa sau được nghe câu chuyện về thủa trước. Đó là có

ích cho sự giao dịch kiến văn vậy”.

Nhìn nhận Tản Đà là nhà thơ lãng mạn bậc thầy và người khơi dòng của

văn học lãng mạn hiện đại là hoàn toàn có cơ sở, nhưng chưa đủ và chưa đúng

với Tản Đà. Ông không chỉ là một nhà lãng mạn chủ nghĩa mà còn là một cây

bút hiện thực có tầm cỡ, có nhiều đóng góp với văn học hiện thực hồi đầu thế

81

kỉ. Những đóng góp ấy có ý nghĩa là bước đi khởi đầu của dòng văn học hiện

thực thời chữ Quốc ngữ mới phôi thai. “Không chỉ dám cho trái tim và linh

hồn có quyền được sống cái đời sống riêng của chúng” mà còn có đôi mắt

quan sát và trí óc nhạy cảm để thể hiện và phân tích xã hội học hiện thực

khách quan, để lại cho đời những bức tranh hiện thực trung thực, sắc nét về

một xã hội buổi giao thời” [54, 70].

Phản ánh hiện thực của thân thế và đẳng cấp, Tản Đà đã tái hiện được

tình hình văn hóa buổi giao thời với những chi tiết cụ thể, với sự trung thực

khách quan là yêu cầu quan trọng có tính nguyên tắc đối với các tác phẩm

hiện thực chủ nghĩa. Nhưng Tản Đà không chỉ nói về mình và đẳng cấp của

mình. Cả một xã hội trên đường tư bản hóa đã phơi bày những mặt tiêu cực,

sư tha hóa của đạo đức, sự bần cùng của nhân dân lao động, sự bất công trong

xã hội, cái gọi là “muôn mặt đời thường” ấy đã được phản ánh sắc nét dưới

ngòi bút Tản Đà. Đó là những bất công và sự phân hóa giàu nghèo hiện rõ

trong mọi cảnh huống của xã hội:

“Nhớ năm ngoái tôi ăn Tết ở ấp Đồng Sành gần Hải Phòng, khoảng trưa

hôm ba mươi tết, các nhà trong ấp đã rộn sự mổ lợn cùng là tiếng giã giò mà

ngoài bờ ruộng kia vẫn có những người đi mò cua mò rạm, hỏi ra thời là

những người ấy đi kiếm cua kiếm rạm mang đem ra chợ bán để kiếm tiền Tết.

Than ôi!”.

... “Chiều hôm ba mươi tết thời mấy đứa đầy tớ giai gái xin phép về cả.

Qua ngày mồng một thành ra chỉ có hai vợ chồng ông phán mà bốn năm mâm

cỗ, sự cúng xong đã đành mà ăn sao cho hết, lại ngày tết cũng không tiện gọi

ai mà cho. Vậy rồi bao nhiều những vây, bóng, hải sâm, long tu, cứ nguyễn

bát cho cả vào trong thùng nước rác”.

(Xã hội thiển đàm, An Nam tạp chí, số 18/1931)

82

Trong mục “xã hội thiển đàm”, Tản Đà đề cập đến rất nhiều địa danh.

Đôi khi, đó chỉ là những lát cắt, những câu chuyện nhỏ được ghép vào nhau,

giữa chúng không có mối liên hệ gì. Xin dẫn ra một ví dụ:

“…Hồi tôi chơi ở Huế, ở trong nhà một người anh em bạn trông ra

đường, thấy có người con gái mặc áo lụa bạch, cổ và tay áo có đeo kiềng

vàng mà gánh một cái gánh, hai bên hai cái rổ rá đựng trong là mấy buồn

chuối và những vật như quả dưa quả bí mà thôi, trông rất là thanh nhã mà

như ở ngoài Bắc thời cái quang cảnh ấy cũng không có.

Ở Sài Gòn có hôm tôi đi chơi đêm với các người anh em bạn, thấy hai

người đàn ông, đàn bà giải chiếu mà ngủ với nhau ở trên bờ đường, một bên

ở dưới đường thời để cái xe kéo, một bên trên bờ đường thời có một cái gánh

không rõ lá gánh rau gánh quả chi đó. Tôi hỏi những người bạn thời nghe nói

chuyện rằng đó là hai vợ chồng người ta, người chồng làm xe kéo, người vợ

bán hàng rong, tối thời ngủ như thế là thường. Như thế thời Hà Nội cũng

không có cái quanh cảnh ấy.

Hồi xưa, An Nam tạp chí tạm đình bản, tôi đi chơi vào Nam. Qua Nha

Trang cùng một người bạn đi chơi ra Cửa Chuột (Chỗ cửa bể có sở làm nước

mắm theo cách mới). Chúng tôi đi xe kéo mà gặp một cái ô tô ở Cửa Chuột đi

về, ở trong ngồi một người An Nam. Cái xe ô tô ấy đi qua rồi dọc đường nghe

người bạn tôi nói chuyện về cái xe ô tô rằng:

Nguyên cái xe ô tô ấy của một sở buôn dùng đã hư hỏng, bán lại cho một

người bồi xe, giá năm trăm đồng bạc. Người ấy đem về chữa lại dùng được

bán cho ông chủ xe tức là người hiện ngồi trong xe giá tám trăm đồng…”.

(An Nam tạp chí, số 11/1930)

Chỉ trong một đoạn ngắn mà Tản Đà dẫn ra câu chuyện ở 3 nơi: Huế, Sài

Gòn, Cửa Chuột (Nha Trang). Những câu chuyện như cách ăn mặc của người

83

phụ nữ Huế khác ngoài Bắc như thế nào, cảnh hai vợ chồng người xe kéo ngủ

ở bên bờ đường ra sao, chuyện về lai lịch của chiếc ô tô bắt gặp trên đường

đi… đều được kể lại để vẽ nên bức tranh chân thực nhất về đời sống của các

tầng lớp nhân dân.

Trong mục “xã hội thiển đàm”, Tản Đà còn kể nhiều chuyện như ghé

thăm hàng sách ở Sài Gòn, tả cảnh chập tối ở Sài Gòn, chuyện uống rượu và

ăn thịt chó ở ngoài Bắc, các món ăn của người An Nam…

Hầu hết các tác phẩm trong mục này đều là những ghi chép, phản ánh

hiện thực ở thời điểm nó đang diễn ra, ít bình luận, tô vẽ. Giọng văn ở đây

chủ yếu là giọng kể, ngôn ngữ bình dân, đôi khi suồng sã.

3.2. Việt Nam nhị thập thế kỷ xã hội ba đào ký

Việt Nam nhị thập thế kỷ ba đào ký được mở ra “để hoan nghênh các bài

lai cảo của đại đa số quốc dân trong ba kỳ, cứ những điều mắt thấy tai nghe

trong khoảng ba mươi năm nay, viết gửi về cho Bản chí, Bản chí rất vui lòng

đăng tải để trước là giao dịch kiến văn mà sau thời để tài liệu cho người sau

làm sử” [51, 243, tập 3].

Chữ “ba đào” được Tản Đà giải nghĩa như sau: “Hai chữ cùng có nghĩa

là sóng, tỏ ý biến động bất thường, xưa thế nọ mà nay thế kia, nay thế này mà

mai ra thế khác. Một người riêng có cảnh huống ba đào của một người, một

xã hội có cảnh huống ba đào của một xã hội, thành quách giang sơn có cảnh

huống ba đào của thành quách giang sơn, tóm lại cùng là cái cảnh ba đào

của xã hội vậy”.[51, 244, tập 3].

Như vậy, nếu như mục xã hội thiển đàm là những sự việc, sự vật ở thời

điểm hiện tại thì mục “Ba đào ký” nhấn mạnh đến quá trình vận động, biến

đổi của nó. Tức là nhìn nhận sự việc theo quá trình, ở trạng thái động chứ

84

không phải là tĩnh. Bởi vậy, nó thể hiện được cả cảm nhận, đánh giá của tác

giả trước vấn đề hay sự vật, sự việc mà ông mô tả.

Về thể loại của mục này cũng khá đa dạng, như Tản Đã đã nêu ra: “Sự

viết bài, hoặc ký sự, hoặc thêm đàm luận hoặc theo tiểu thuyết, mặc ý”.

Xin dẫn ra một vài ví dụ:

“Tôi từ khi nghỉ việc An Nam tạp chí hồi xưa, vào Nam ra Bắc, cái cảnh

huống như sao, đã tường ở trong quyển Giấc mộng lớn. Lại như lúc bỏ đất

Vĩnh Yên đứng dậy, cửa nhà tan nát, cái công phu phí tổn hơn hai nghìn đồng

bạc, bán được bốn chục đồng. Trừ những sự chi phối quanh co, còn vừa đủ

tiền tàu cho một tên người nhà thân đưa gia quyến đi trước về Hà Nội, tạm ký

trú ở ngoại gia. Mình thời còn phải lưu lại ở Vĩnh Yên, đợi tên người nhà xuôi

Hà Nội lại lên rồi cùng đi về ga Gia Lâm, để thẳng xuống Hải Phòng cho

tiện. Trước khi chạy xuống Hải Phòng đó, thực cũng chưa rõ sẽ định nương

thân vào đâu, chỉ là ở Vĩnh Yên không yên thời phải đi, đi mà cũng không biết

đi đâu thời chạy xuống quấy về nơi hải cảng vậy.

… Kể từ khi ở Vĩnh Yên đứng dậy là khoảng cuối tháng chín An Nam,

Tản Đà thư cục lại thành lập ở Hải Phòng là nhanh vậy. Duy tưởng lại trong

khi ở Hải Phòng đi lại Hà Nội để thu xếp công việc Thư cục, ngoài tiền xe

không kể, từ cái quần áo trắng cho đến như cái áo gilê … nhất thiết trông nhờ

ở người bạn; lại sau lúc mấy quyển sách mới của Tản Đà Thư cục đã xuất

hiện, các báo chương bình luận có nhiều câu chế giễu dèm chê, lại trong thời

vợ con sầu vì nỗi phiền lưu; lại ngoài thời công nợ khẩn đưa tin đòi hỏi, còn

những ý tứ gì ác cảm ở đâu nữa không biết song cứ như bấy nhiêu cái cuồng

sóng giận dữ. Nay An Nam Tạp chí lại ra đời, cái thân phù thế đem ra mà giả

nợ phù sinh: Thuyền nan còn lắm rập rình, thử xem đưa gánh tài tình đến

đâu”… [51, 245, tập 3].

85

Một trong những đặc điểm nổi bật của văn xuôi Tản Đà là ngôn ngữ giàu

nhạc điệu. Nhiều người nhận xét, câu văn của ông đọc lên như tiếng chuông

bởi âm hưởng ngân nga, luyến láy của câu chữ. Đó chính là sự đồng vọng xa

xôi giữa những kinh nghiệm và sự tiếp xúc thủa ban đầu (chủ yếu qua báo chí

phương Tây) trong những năm Tàn Đà ở nhà Bạch Thái Bưởi. Nó tạo nên một

thứ thơ - văn xuôi và đó chính là khởi đầu trong việc xây dựng ngôn ngữ văn

học dân tộc.

Như vậy, ở “Ba đào ký”, ngoài việc kể chuyện, tác giả còn bày tỏ cảm

xúc, tâm trạng, suy tư của mình trước mỗi sự việc. Trong đoạn văn trên, tác

giả dẫn ra những lận đận, long đong của mình trong nghề văn, nghề báo, đặc

biệt là An Nam tạp chí. Đó quả thực là một sự nghiệp với lắm ba đào, gian

truân, khó khăn, thiếu thốn. Duy chỉ có tấm lòng và nhiệt huyết của nhà báo

Tản Đà là dường như chưa bao giờ vơi cạn!

Chính cách viết tinh tế, ngòi bút hiện thực sắc xảo mà giàu cảm xúc trên

những trang văn xuôi của Tản Đà khiến Kiều Thu Hoạch phải thốt lên: “Điều

lạ kỳ là Tản Đà là người học chữ Hán, theo lối học cử nghiệp, vốn quen thuộc

với văn sách, với phú, với lối văn tứ lục, với luật thơ đường… thế mà ông viết

văn xuôi lại rất hay, rất sắc sảo, rất nhuần nhuyễn, thuần thục” [22, 45].

Tuy nhiên, cần thừa nhận rằng, văn xuôi Tản Đà với những bài bút ký,

tiểu luận, nhàn đàm… vẫn chưa thực sự hấp dẫn và bộc lộ nhiều hạn chế.

Đúng như nhận xét của TS Phạm Xuân Thạch: Là tác gia điển hình cho văn

học Việt Nam giai đoạn giao thời, sáng tác văn xuôi của Tản Đà đại diện luôn

cho cả tính “chưa hoàn thành”, tính ngổn ngang của một thời đại. “Văn xuôi

là mảnh đất giao tranh giữa những xung đột gay gắt tồn tại bên trong Tản Đà

mà mâu thuẫn lớn nhất là giữa nhà nghệ sĩ và nhà tư tưởng-đạo đức, môn đồ

nhiệt thành của Khổng Tử cố níu kéo những giá trị cũ trong một thời đại mới,

giữa phương thức tư duy và tư duy nghệ thuật đặc thù của “loại hình tác giả

86

nhà Nho” và những yêu cầu của một thời đại văn học mới. Cuộc xung đột đó

không chỉ chi phối hệ thống nội dung tư tưởng trong sáng tác của ông mà

quan trọng hơn, còn chi phối cả phương thức cảm thụ, cái nhìn về thế giới và

phương thức phản ánh những mệnh đề nghệ thuật, hay nói cách khác, phương

thức tư duy nghệ thuật của ông” [37, 24].

87

C. KẾT LUẬN

Tản Đà có một vị trí đặc biệt trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc, một

vị trí mà trong toàn bộ lịch sử kéo dài đến mười thế kỷ chỉ vài ba người, có ý

thức hay do sự đưa đẩy ngẫu nhiên của tình huống, đã được số phận lựa chọn

để đặt vào. Đó là việc mở đường cho một xu hướng viết văn, làm báo mang

tính chuyên nghiệp.

Cần phải nhấn mạnh rằng, nhận định của Xuân Diệu: “Tản Đà là người

đầu tiên dám làm thi sỹ một cách đường hoàng, bạo dạn” không có nghĩa

trước Tản Đà không có ai đáng gọi là thi sỹ. Đó là bởi chỉ đến Tản Đà mới có

ký giả, văn nhân coi việc sáng tác của mình là một nghề nghiệp. Ký giả, văn

nhân chính là vị trí xã hội của cá nhân Tản Đà. Sự giằng co, níu kéo giữa cái

mới và cái cũ trong một con người có cả 3 tố chất: Nhà Nho - Ký giả -Văn

nhân đã tạo nên một tâm trạng đầy phức cảm ở Tản Đà. Chính nó đã tạo nên

tính chất lưỡng cực, khiến Tản Đà thành hình mẫu và được thế hệ sau suy tôn

là người của hai thế kỷ.

Nhà văn chuyên nghiệp và văn chương trở thành hàng hóa - những quan

niệm mới mẻ này kéo theo nó một loạt những hệ quả mà quan trọng nhất là

tác động của người đọc đến sáng tác của nhà văn. Tự nhìn nhận mình với

chức phận: đem “thơ ca bán phố phường” một cách tự nhiên những nhu cầu,

thị hiếu của tầng lớp thị dân đã có những tác động không nhỏ đến thực tế sáng

tác của Tản Đà. Dễ dàng nhìn thấy những tương đồng (ở những mức độ đậm

nhạt khác nhau) trong các đề tài và mô-tip nghệ thuật nói trên giữa Tản Đà và

một loạt những cây bút đương thời như: Nguyễn Bá Trác, Đoàn Như Khuê,

Phạm Quỳnh và muộn hơn một chút là Đông Hồ, Tương Phố, Hoàng Ngọc

Phách... Những tương đồng này cho thấy rất rõ đằng sau những sáng tác văn

học là những nhu cầu và thị hiếu mới của thời đại mà những người cầm bút

88

một khi đã đi vào con đường một nhà văn chuyên nghiệp ít nhiều đều chịu sự

tác động và định hướng của chúng.

Nuôi lý tưởng cũ bằng một phương tiện, cách thức mới, Tản Đà là điển

hình cho những nỗ lực bất thành của một thế hệ nhà Nho buổi giao thời. Đó

chính là cách phản ứng của ông trước thời cuộc mới. Nhưng hạn chế mà Tản

Đà đã không tự ý thức được, chính là sự khác biệt giữa một nhà Nho làm văn

và làm báo. Với một nhà Nho làm văn, bao giờ cũng phải là sự chau chuốt về

câu chữ, hình ảnh và cách biểu hiện. Nhưng với báo chí, yêu cầu đầu tiên và

trên hết là thông tin. Nó đòi hỏi thông tin phải nhanh nhạy, chính xác, mang

tính thời sự. Chính vì không nhận ra được sự khác biệt này nên báo chí của

Tản Đà là một loại báo văn nghệ, đặc trưng của báo chí ít nhiều đã bị mờ đi.

Đó cũng chính là đặc điểm cơ bản của báo chí trong buổi đầu xâm nhập vào

nước ta.

Tản Đà đã thất bại với giấc mơ báo chí của mình. Nhưng rõ ràng, sự tồn

tại của những tờ báo như của Tản Đà đã mở rộng trường hoạt động của báo

chí trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Rất đông đảo những người làm báo tư nhân

kiểu như Tản Đà cũng “chết” âm thầm lặng lẽ và vắng mặt hẳn trên văn đàn.

Đó cũng là logic tất yếu của loại hình hoạt động này. Nhưng nó đã góp một

phần không nhỏ vào sự phát triển chung của nền văn học với những tác phẩm

phần lớn được xuất hiện trên báo chí. Rất nhiều những tác phẩm của Nam

Cao, Nguyễn Tuân, Tô Hoài… mà sau này còn lưu lại được và trở thành nổi

tiếng hầu hết giai đoạn ấy đều được in trên báo chí. Vai trò của An Nam tạp

chí cũng như các tờ báo khác giống nó chính là việc xã hội hóa tác phẩm văn

học, đưa chúng đến đông đảo công chúng trong cả nước.

Cũng như bất kỳ một nhà Nho nào khác, Tản Đà chịu ảnh hưởng của

truyền thống và ôm mộng thực hiện lý tưởng lớn. Nhưng đứt gánh với khoa

cử truyền thống giữa đường, ông đã lựa chọn báo chí như một phương thức

89

mới để thực hiện ước mơ của mình là giáo hóa quốc dân, vẽ lại bức dư đồ bị

rách. Giấc mơ cũ được phủ trên mình một tấm áo mới. Nhưng kết cục, nó vẫn

không thể đưa Tản Đà đi đến tận cùng giấc mơ của mình. Tản Đà trở nên lạc

lõng giữa cuộc đời. Nhưng với những gì đã làm được, ông đã là người khơi

dòng và đem lại một luồng sinh khí mới, một khí thế mới cho những thế hệ

sau tiếp tục sự nghiệp vĩ đại của mình: Cách tân nền văn hóa, văn học và mở

ra thời kỳ mới cho lịch sử văn hóa, văn học và báo chí nước nhà.

Chúng tôi xin kết lại bằng một nhận định mang tính tổng quan về ký giả -

văn nhân Tản Đà: “Trường hợp Tản Đà trong môi trường và bối cảnh ấy phát

triển trở thành một văn sỹ chuyên nghiệp với thành tựu chủ yếu là sáng tác

văn chương, đặc biệt là thơ - là một trong những trường hợp hiếm hoi. Những

tên tuổi khác cùng thế hệ này cũng tự khẳng định mình trong tư cách nhà văn

hay nhà thơ, đều có những thành tựu nhất định những không thành hiện

tượng đột xuất, hoặc trải những hoạt động tinh thần của mình trên nhiều quỹ

đạo khác nữa,… nhưng chỉ có duy nhất Tản Đà được ngay từ chính lớp đàn

em trên văn đàn thời bấy giờ định vị và được hầu như tất cả những đồng

nghiệp thuộc mọi thế hệ sau thừa nhận là “người của hai thế kỷ”, là người

bằng toàn bộ những gì làm được trở thành dấu nối, thành nhu cầu gắn bó hai

thời đại văn học lớn trong lịch sử văn học dân tộc” [49, 391].

90

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Tam Lang Vũ Đình Chí (1970), Những giai thoại về Tản Đà, NXB Văn

học, Hà Nội.

[2] Nguyễn Đình Chú (1993), Thơ văn Tản Đà, NXB Giáo dục, Hà Nội.

[3] Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn An (1990), Tác giả văn

học Việt Nam tập 1, TP Hồ Chí Minh.

[4] Nguyễn Mạnh Cổn (1965), Mối tình mầu hoa đào, Tạp chí Văn, Sài Gòn.

[5] Hồng Chương (1985), Báo chí Việt Nam, NXB Sự thật, Hà Nội.

[6] Hồng Chương (1962), Phương pháp sáng tác trong văn học nghệ thuật,

NXB Sự thật, Hà Nội.

[7] Quản Chi (1942), Thử tìm long mạch của tờ báo ta, Trung Bắc tân văn

chủ nhật, số 102.

[8] Phạm Văn Diêu (1961), Việt Nam văn học giảng bình, NXB Tân Việt, Sài

Gòn.

[9] Xuân Diệu (1929), Công của thi sĩ Tản Đà, NXB Đời Nay, Hà Nội.

[10] Tầm Dương (1964), Tản Đà - Khối mâu thuẫn lớn, NXB Khoa học, Hà

Nội.

[11] Tầm Dương, Hữu - Vô tương tác trong thi pháp Tản Đà, Tạp chí Văn học

số 3/1989.

[12] Lê Chí Dũng (2007), Những suy nghĩ mới – Những tiếp cận mới về ngữ

văn, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

[13] Nguyễn Đức Dũng (2006), Đặc điểm và mối quan hệ giữa ký văn học và ký báo chí. Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.

[14] Phan Đức Thành Dũng (2000), Khoa cử và các nhà khoa bảng triều

Nguyễn, NXB Thuận Hoá.

91

[15] Phan Cự Đệ (2006), Văn học Việt Nam thế kỷ XX: Những vấn đề lịch sử

và lý luận, NXB Giáo Dục, Hà Nội.

[16] Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại,

NXB Thông tin, Hà Nội.

[17 Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng (1998), Văn học Việt Nam giai đoạn giao

thời 1900 - 1930, NXB Đại học và THCN, Hà Nội.

[18] Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu (2002), Trung tâm học

liệu xuất bản, Hà Nội.

[19] Đỗ Quang Hưng (chủ biên), Lịch sử báo chí Việt Nam 1865 - 1945. NXB

Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1998.

[20] Nguyễn Văn Hà, Gia Định báo, tờ báo Việt ngữ đầu tiên, Nhà xuất bản

Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh.

[21] Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1995), Lý luận Văn học - Vấn

đề và suy nghĩ, NXB Giáo dục, TP Hồ Chí Minh.

[22] Lưu Trọng Lư, bài viết về Tản Đà, Tan đàn số đặc biệt, 1939.

[23] Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam (1987), tập 3, NXB Xây Dựng, Hà

Nội.

[24] Nguyễn Đăng Mạnh, Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam nửa đầu

thế kỷ XX, tạp chí văn học, số 5, 1997.

[25] Nguyễn Văn Mùi - Nguyễn Sỹ Tế (1959), Luận về Tản Đà Nguyễn Khắc

Hiếu, NXB Thăng Long, Sài Gòn.

[26] Phạm Thế Ngũ (1997), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập 3),

NXB Đồng Tháp.

[27] Vũ Ngọc Phan (1942), Nhà văn hiện đại (tập 2), NXB Tân Dân, Hà Nội.

[28] Vũ Tiến Quỳnh (tuyển chọn), 1994, Phê bình bình luận văn học, Tản Đà,

NXB Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh.

[29] Thiếu Sơn (1993), Phê Bình và cảo luận, NXB Nam Ký, Hà Nội.

92

[30] Doãn Quốc Sỹ (1969), Khảo luận về Tản Đà, NXB Nam Sơn, Sài Gòn.

[31] Lê Thanh (1939), thi sĩ Tản Đà, Tản Đà thư cục.

[32] Lê Thanh (1942), Cuộc phỏng vấn các nhà văn, NXB Đời mới, Hà Nội.

[33] Trịnh Vân Thanh, Trần Đình Bửu, Giảng luận Việt văn (1971), NXB

Hồn Thiêng, Sài Gòn.

[34] Thơ Tản Đà (1982), Xuân Diệu giới thiệu, Nguyễn Nghiệp sưu tầm,

tuyển chọn, NXB Văn học.

[35] Hoài Thanh (1943), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.

[36] Trần Nho Thìn, Mối quan hệ giữa cái Tôi nhà Nho và thực tại trong văn

chương thời cổ, TCVH, số 2, 1994.

[37] Trần Thị Trâm, Vai trò của báo chí trong quá trình phát triển của văn

học dân tộc từ đầu thế kỷ XX, Tạp chí văn học, Hà Nội, 1994.

[38] Bùi Đức Tịnh, Những bước đầu của báo chí, truyện ngắn, tiểu thuyết và

thơ mới, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2002.

[39] Huỳnh Văn Tòng, Lịch sử báo chí Việt Nam từ khởi thuỷ đến 1945, NXB

Trí Đăng, Sài Gòn, 1962.

[40] Nguyễn Khánh Toàn (1955), Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, tập 1,

Bộ Giáo dục, Hà Nội.

[41] Ngô Tất Tố, Tản Đà ở Nam Kỳ (1939), NXB Tân Dân, Hà Nội.

[42] Nguyễn Ngọc Thiện (bs), Tuyển tập phê bình, nghiên cứu văn học Việt

Nam (1900 - 1945), NXB Văn học, Hà Nội, 1997.

[43] Nguyễn Tuân (1982), Tuyển tập, NXB Văn học, Hà Nội.

[44] Chương Thâu, Đông Kinh Nghĩa Thục và phong trào cải cách văn hoá

đầu thế kỷ XX, NXB Hà Nội, 1982.

[45] Trần Ngọc Vương (1995), Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

93

[46] Trần Ngọc Vương (1998), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn

chung, NXB Giáo dục, Hà Nội.

[47] Trần Ngọc Vương (2010), Thực thể Việt nhìn từ các tọa độ chữ, Nhà

xuất bản Tri thức, Hà Nội.

[48] Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học Trung đại Việt Nam, NXB Khoa

học xã hội, Hà Nội.

[49] Nguyễn Khắc Xương (1986), Tản Đà toàn tập, NXB Văn học, Hà Nội.

[50] Nguyễn Khắc Xương (1995), Tản Đà thơ và đời, NXB Văn học, Hà Nội.

[51] Nguyễn Khắc Xương (1990), Giai thoại Tản Đà, Nhà xuất bản văn học,

Hà Nội.

[52] Nguyễn Khắc Xương (1989), Vấn đề Tản Đà dưới ánh sáng tư duy mới,

Báo GDVN số 7/1989.

[53] Hợp tuyển thơ văn Việt Nam 1858 -1930 (1963), NXB Văn học, Hà Nội.

[54] Lịch sử Việt Nam (tập 2), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985.

[55] Nhiều tác giả (1997), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

[56] Nhiều tác giả, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu – Á Nam Trần Tuấn Khải (1997), tủ sách VH trong trường (Hồ Sĩ Hiệp chủ biên), NXB Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh.

[57] Nhiều tác giả (1997), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam,

NXB Giáo dục, TP Hồ Chí Minh.

[58] Tản Đà thực phẩm (1943), NXB Duy Tân thư xã, Hà Nội.

[59] Tản Đà tùng văn (1941), NXB Hương Sơn, Hà Nội.

[60] Tản Đà về tác gia và tác phẩm (2007), NXB Giáo dục tái bản lần thứ 3,

Hà Nội.

[61] Tản Đà tùng văn (1941), NXB Hương Sơn, Hà Nội

94

[62] Tản Đà về tác gia tác phẩm (2007), NXB Giáo dục, tái bản lần thứ 3, Hà

Nội.

95

PHỤ LỤC

Thi sỹ Tản Đà với món tiền thù bút

(Trích Tiểu thuyết Thứ Bẩy)

Và còn một bút tích nữa là một bức thư của Tản Đà gởi cho ông chủ

nhiệm báo Sống nói về tiền thù bút 10 đồng bạc, để biết thêm cảnh nghèo của

thi sĩ. 10 đồng bạc hồi năm 1935, không biết giá trị bằng bao nhiêu ở năm

1965 này. Bởi không phải là nhà kinh tế, nên chúng tôi không biết, độc giả

thử tính xem.

Duy có một điều biết được là khi đọc xong tài liệu này, chúng ta thấy thi

sĩ chẳng những không muốn giấu giếm cái nghèo của mình mà còn có ý muốn

khoe nó ra cho thiên hạ cùng biết, và lấy đó làm tự đắc.

Tản Đà

Sontay le 15 Avril 1935

Monsieur Trần Thiên Thới

Saigon

Thưa Ngài,

Tôi có tiếp nhận được số tiền Ngài gửi cho và thư xin có lời cảm tạ. Tiện

xin có câu nói thưa Ngài như sau.

Trong lúc tiếp được mandat của Ngài, thực tôi không khỏi lấy làm buồn

riêng. Vì sự nghèo của tôi, có lẽ cả xã hội đã cùng rõ, mà ngoài việc văn bút,

không lại có việc gì là sinh nhai. Cho nên viết bài văn gửi đi, mà phải tính

đến việc tiền, thực là bỉ tiện bất đắc dĩ. Cũng mong được các Ngài thể lượng

mà miễn sự khinh trách cho. Đương lúc kinh tế này, theo như số tiền của Ngài

96

gửi cho, thật là trọng hậu. Tôi lại mong rằng từ nay mỗi tháng hoặc tôi có ít

nhất là một bài, nhiều hơn nữa là vài ba bài gửi vô, các Ngài xét nếu nên lấy

thời đăng cho. Còn việc tiền thời một tháng, hoặc hai tháng, các Ngài gửi

giúp cho một kỳ, dẫu mười đồng, hay năm đồng, ở chỗ thôn quê cũng là

trọng. Sự thể khó khăn trong việc làm báo, tôi cũng đã trải biết, duy phần

riêng tôi muốn được có bài ở trên tờ Sống về lâu mãi, thời cũng phải theo tinh

thiệt thưa với Ngài biết cho.

Nói về việc bài vở, ông Đông Hồ muốn rằng kiếm ở trong lịch sử nước

nhà, lấy nhân vật làm tài liệu, ý đó thiệt hay lắm, song mà sự thiệt không dễ,

để tôi thử lựa xem sao.

Sau khi thư này gửi đi, ít lâu nữa tôi sẽ có bài gửi vô, cũng mong được

lúc rảnh thì giờ, Ngài cùng ông Đông Hồ, hoặc có thư nói chuyện, cho được

thấu tình đạt ý.

Kính chúc hai Ngài vạn an.

Tản Đà

97