LUẬN VĂN:

Tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động

thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội

Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài

Pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN) là một trong những nguyên tắc cơ bản làm

nền tảng cho việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước XHCN.

Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước trước

hết phải dựa trên cơ sở pháp luật và được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật;

mọi cán bộ, công chức nhà nước phải nghiêm chỉnh tôn trọng pháp luật trong khi thực hiện

quyền hạn và nhiệm vụ của mình. Tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm minh

các hành vi vi phạm pháp luật cũng là một nội dung quan trọng của nguyên tắc pháp chế

XHCN.

Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) là một trong bốn hệ thống cơ quan cấu thành

nên bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chế định về VKSND là

một đặc điểm riêng có của kiểu Nhà nước XHCN theo sáng kiến vĩ đại của V.I. Lênin.

Cùng với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước, thời gian qua ngành Kiểm sát nhân

dân (KSND) đã không ngừng trưởng thành và lớn mạnh. Từ năm 2001 trở về trước,

VKSND là cơ quan duy nhất trong bộ máy nhà nước thực hiện chức năng kiểm sát việc

tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố. Từ khi ra đời (ngày 26/7/1960) cho đến

nay, hệ thống VKSND đã phát huy được vị trí, vai trò và thực hiện tốt chức năng của

mình, góp phần đáng kể vào công cuộc bảo vệ nền pháp chế XHCN nhằm mục đích bảo

vệ và xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Đảng ta đang chủ trương đổi mới toàn

diện đất nước theo hướng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế

thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Thực hiện chủ trương

đó, Đảng ta xác định phải đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy

nhà nước sao cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh đổi mới của đất nước. Một trong

những trọng tâm của quá trình đổi mới đó là việc cải cách tổ chức và hoạt động của các

cơ quan tư pháp, trong đó có hệ thống VKSND các cấp.

Quan điểm về cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp đã được

đề cập trong các văn kiện của Đảng trong các nhiệm kỳ từ Đại hội lần thứ VII của Đảng

đến nay như: Hội nghị Trung ương 8 khóa VII, Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII, Đại

hội VIII và Đại hội IX của Đảng.

Trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương khóa VII tại Đại hội

đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đã xác định rõ nhiệm vụ của cải cách tổ

chức và hoạt động tư pháp trong giai đoạn hiện nay là:

Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật làm

cơ sở cho tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp, bảo đảm

mọi vi phạm pháp luật đều bị xử lý, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp

luật.

Củng cố kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp, phân định lại thẩm

quyền xét xử của Tòa án nhân dân, từng bước mở rộng thẩm quyền xét xử sơ

thẩm cho Tòa án nhân dân huyện. Đổi mới tổ chức, hoạt động của Viện kiểm

sát nhân dân, các cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan tổ

chức bổ trợ tư pháp.

Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng cũng xác định:

Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan

tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp trong

công tác bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử, thi hành án, không được để xảy ra

những trường hợp oan sai. Viện kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức năng

công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Sắp xếp lại hệ thống Tòa án nhân

dân, tổ chức lại Cơ quan điều tra và Cơ quan thi hành án theo nguyên tắc

gọn đầu mối.

Trên cơ sở chủ trương của Đảng, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam

khóa X tại kỳ họp thứ 10 đã thông qua Nghị quyết về việc sửa đổi một số điều của Hiến

pháp năm 1992. Theo đó, chức năng của VKSND là: "thực hành quyền công tố và kiểm

sát các hoạt động tư pháp". Để thực hiện chức năng theo Hiến pháp quy định, hệ thống

VKSND phải đổi mới cả về tổ chức và phương pháp hoạt động sao cho phù hợp với

điều kiện và hoàn cảnh mới.

Trong hoàn cảnh đó, việc tăng cường pháp chế XHCN không chỉ là một nhiệm

vụ mà còn là một quan điểm cơ bản có tính nguyên tắc chỉ đạo việc tiếp tục cải cách bộ

máy nhà nước nhằm xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt

Nam nhằm đảm bảo thắng lợi cho quá trình đổi mới và phát triển đất nước. Để tăng

cường pháp chế, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, không chỉ xây dựng và hoàn chỉnh

hệ thống pháp luật, mà quan trọng hơn là tổ chức thực hiện pháp luật, bảo đảm cho pháp

luật được thực hành thường xuyên và nghiêm chỉnh, đấu tranh kiên quyết với những

hành vi vi phạm pháp luật. Pháp luật không được tuân thủ nghiêm chỉnh và thống nhất

thì pháp luật sẽ không có hiệu lực và trên thực tế cũng sẽ không có pháp chế.

Muốn cho pháp luật của Nhà nước được đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh và

thống nhất thì điều quan trọng trước nhất là các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị

- xã hội, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế,các cán bộ của Đảng và công chức nhà

nước phải tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh, phải tôn trọng các quyền tự do,

dân chủ của nhân dân, phải làm đúng trách nhiệm là người thừa hành ý kiến của nhân

dân, là người bảo vệ và phục vụ lợi ích của nhân dân. Từ đó đòi hỏi phải tăng cường

pháp chế XHCN trong hoạt động của VKSND nói chung và của mỗi cán bộ, kiểm sát

viên của VKSND thành phố Hà Nội nói riêng.

Trong những năm qua, VKSND thành phố Hà Nội đã thực hiện tốt công tác kiểm

sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động của các cơ quan tư pháp trên địa bàn Thủ đô

và thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh và thống

nhất, phát huy vai trò tích cực của mình trong cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội

phạm, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của

công dân. Song, bên cạnh những ưu điểm trên, công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp và

thực hành quyền công tố còn bộc lộ những sai sót cần khắc phục. Để hoàn thành tốt chức

năng của mình, xứng đáng là một công cụ sắc bén của Đảng trong việc bảo vệ nền pháp

chế XHCN, ngành KSND phải tiếp tục phấn đấu phát huy thành tích, hạn chế và khắc

phục khuyết điểm. Nhằm góp phần làm sáng rõ thêm về mặt lý luận và thực tiễn của việc

tăng cường pháp chế trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động

tư pháp, tác giả chọn đề tài: "Tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành

quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân thành

phố Hà Nội" làm luận văn thạc sĩ luật, chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp

luật.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Pháp chế XHCN là một phạm trù khoa học pháp lý cơ bản, đã được nhiều nhà

khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu với nhiều góc độ khác nhau. Lý luận về pháp

chế XHCN và tăng cường pháp chế XHCN đã được hình thành và phát triển rực rỡ

trong nền khoa học pháp lý Xô-viết và các nước XHCN trước đây. ở nước ta, vấn đề

tăng cường pháp chế XHCN đã trở thành quan điểm chính thống và nhất quán được thể

hiện trong các văn kiện của Đảng ta qua nhiều kỳ Đại hội; quan điểm đó cũng đã được

thể hiện trong nhiều tác phẩm của các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà

nước. Đồng thời, vấn đề pháp chế XHCN và tăng cường pháp chế XHCN đã trở thành

một nội dung khoa học có vị trí không thể thiếu trong giáo trình Lý luận chung về Nhà

nước và Pháp luật của các trung tâm đào tạo Chính trị - Pháp lý như: Học viện Chính trị

Quốc gia Hồ Chí Minh, Đại học Quốc gia Hà Nội (khoa Luật), Đại học Luật Hà Nội

v.v...

Hiện nay vấn đề "tăng cường pháp chế XHCN"đã trở thành một nguyên tắc

hiến định, chính vì vậy nó đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa

học pháp lý; có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về pháp chế và tăng cường pháp

chế XHCN gần đây đã được công bố như:

- Luận án TS Luật học của Nguyễn Phùng Hồng về "Tăng cường pháp chế

XHCN trong hoạt động của lực lượng công an nhân dân trên lĩnh vực bảo vệ an ninh

quốc gia ở nước ta hiện nay", Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1994.

- Luận án TS học Luật học của Quách Sỹ Hùng về "Tăng cường pháp chế về

kinh tế trong quản lý nhà nước nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở

nước ta hiện nay", Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1996.

- Luận án TS Luật học của Nguyễn Nhật Hùng về "Tăng cường pháp chế

XHCN trong lĩnh vực bảo vệ sức khỏe nhân dân ở nước ta hiện nay", Học viện Chính trị

Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1996.

- Luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Huy Bằng về "Tăng cường pháp chế

XHCN trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở nước ta hiện nay", Học viện Chính trị

Quốc gia Hồ Chí Minh, 2001.

Và nhiều công trình khoa học của nhiều tác giả khác.

Như vậy, vấn đề pháp chế và tăng cường pháp chế XHCN trong một số lĩnh vực

cụ thể đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và làm sáng tỏ. Tuy nhiên, về pháp chế

và tăng cường pháp chế XHCN trong lĩnh vực hoạt động thực hành quyền công tố và

kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND thì chưa có công trình nghiên cứu nào đề

cập một cách toàn diện.

Chính vì vậy có thể coi đề tài " Tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động

thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân

dân thành phố Hà Nội " là công trình đầu tiên nghiên cứu về lĩnh vực này.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích

Mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm

tiếp tục tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm

sát các hoạt động tư pháp của VKSND thành phố Hà Nội trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ

Nhằm thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:

- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về pháp chế XHCN và pháp chế trong hoạt

động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.

- Đánh giá thực trạng pháp chế trong hoạt động thực hành quyền công tố và

kiểm sát các hoạt động tư pháp thông qua việc phân tích kết quả hoạt động của VKSND

thành phố Hà Nội trong một số năm gần đây.

- Đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường pháp chế XHCN

trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của

VKSND thành phố Hà Nội.

4. Phạm vi nghiên cứu

Tác giả nghiên cứu một cách tổng quát cơ sở lý luận về pháp chế XHCN và pháp

chế trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của

VKSND thành phố Hà Nội và trong một số năm gần đây.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh

về nhà nước và pháp luật; cũng như các quan điểm, lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam

để chỉ đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, từng bước đổi mới tổ chức và hoạt động

của bộ máy nhà nước theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân,

do nhân dân và vì nhân dân hiện nay.

Luận văn được thực hiện trên cơ sở các phương pháp nghiên cứu của triết học

Mác - Lênin như: phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn; phương pháp phân tích và

tổng hợp; phương pháp nghiên cứu lịch sử, cụ thể và toàn diện. Ngoài ra, luận văn cũng

sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể khác như: phương pháp lôgic, các

phương pháp so sánh, đối chiếu, thống kê, mô hình hóa...

6. Đóng góp mới của luận văn

- Hệ thống hóa và góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận về pháp chế XHCN trong

hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.

- Lần đầu tiên đánh giá có hệ thống về pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành

quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp VKSND thành phố Hà Nội.

- Đề xuất một số giải pháp khả thi nhằm tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt

động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn

gồm 3 chương, 7 tiết.

Chương 1

cơ sở lý luận về pháp chế và pháp chế

trong hoạt động thực hành quyền công tố

và kiểm sát các hoạt động tư pháp

1.1. Cơ sở lý luận chung về pháp chế xã hội chủ nghĩa

1.1.1. Khái niệm pháp chế XHCN

Pháp chế XHCN là một khái niệm khoa học được hình thành trong nền khoa

học pháp lý XHCN. ở nước ta đã từ lâu, pháp chế XHCN không chỉ được quan tâm về

khái niệm mà đã trở thành nguyên tắc chỉ đạo trong hoạt động lãnh đạo của Đảng Cộng

sản Việt Nam đối với Nhà nước, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước cũng

như hoạt động của công dân trong đời sống xã hội. Hiện nay chúng ta đang xây dựng

Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân; chính vì vậy, pháp chế XHCN

càng phải là một nguyên tắc cơ bản được xếp trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản về

tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước XHCN (như các nguyên tắc: Tất cả quyền

lực nhà nước thuộc về nhân dân; tập trung dân chủ; nguyên tắc quyền lực nhà nước là

thống nhất nhưng có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và

tư pháp; giữa nhà nước Trung ương và các cơ quan nhà nước ở địa phương...).

Trước khi đi sâu tìm hiểu về khái niệm pháp chế XHCN, chúng ta hãy tìm hiểu

quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng như quan điểm của

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề này.

1.1.1.1. Quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin về pháp

chế XHCN

C.Mác và Ph.ăngghen là những người đã đề ra phương pháp luận tiên tiến và

khoa học để nghiên cứu lý luận về Nhà nước và pháp luật. Tuy hai ông không nêu ra

một khái niệm cụ thể nào về pháp chế song qua các tác phẩm của mình, tư tưởng của

các ông về pháp chế đã được đề cập trong khi nghiên cứu pháp luật trong các nhà nước

bóc lột.

Trong bộ Tư bản, tuy C. Mác không bàn trực tiếp về vấn đề pháp chế nhưng khi

nghiên cứu các quan hệ giữa nhà nước và công dân trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa,

C.Mác cho rằng pháp chế là một chế độ tuân thủ pháp luật trong thực tiễn.

Còn Ph.ăngghen, trong tác phẩm "Bàn về vấn đề nhà ở" đã luận về pháp chế

như sau:

ở một giai đoạn rất cổ xưa nào đấy của sự phát triển xã hội, nhu cầu

làm cho người ta thấy cần phải tập hợp dưới một quy tắc chung. Những hành

vi sản xuất phân phối và trao đổi sản phẩm tái diễn hàng ngày cần phải làm

thể nào để mọi người phải phục tùng những điều kiện chung về sản xuất, trao

đổi. Quy tắc đó thoạt tiên là thói quen sau đó trở thành pháp luật. Có pháp

luật thì những cơ quan có nhiệm vụ duy trì pháp luật đó tất phải xuất hiện:

quyền lực công cộng, nhà nước. Trong tiến trình phát triển sau này của xã

hội, pháp luật phát triển thành pháp chế ít nhiều rộng rãi. Pháp chế càng phức

tạp bao nhiêu thì thuật ngữ của nó càng xa rời thuật ngữ biểu hiện những điều

kiện kinh tế thông thường của xã hội bấy nhiêu. Lúc đó pháp chế ấy xuất hiện

như một nhân tố độc lập mà lý do tồn tại và cơ sở của sự tiến triển sau này

của nó không phải xuất phát từ những điều kiện kinh tế mà từ chính những

nguyên nhân sâu sắc của bản thân nó hay có thể nói ra từ khái niệm về ý chí

[38, tr. 752].

Phát triển tư tưởng pháp chế của C. Mác và Ph. Ăngghen, V.I. Lênin đã đề cập rõ

nét tư tưởng pháp chế XHCN ở nhiều bài nói, bài viết trong đó có thể kể đến những tác

phẩm tiêu biểu như: "Sơ thảo đề cương nghị quyết về tuân thủ pháp luật", "Bàn về chế

độ song trùng trực thuộc và pháp chế’, "Thư gửi công dân và nông dân về việc đánh

thắng Côn-tsắc"... Và chúng ta có thể nói rằng, V.I. Lênin chính là người đầu tiên đã

đưa ra các luận điểm cơ bản về pháp chế XHCN.

Trong các tác phẩm của mình, Lênin đã đưa ra nhưng luận điểm cơ bản về pháp

chế. Không những thế, Người còn cho rằng, việc thực hiện pháp luật là một chế độ trong

đời sống xã hội. Nó là vấn đề thường xuyên phải chăm lo. Pháp chế phải là một chế độ

tuân thủ pháp luật của nhà nước cách mạng. Lênin yêu cầu phải thiết lập một nền pháp

chế thống nhất trong toàn nước cộng hòa. Người cũng quan tâm đến cơ chế bảo đảm

pháp chế được tôn trọng trong đó có nhấn mạnh "nhà nước và mọi công dân phải chịu

kiểm sát" mà sự kiểm sát này được giao cho một cơ quan không tổ chức theo mô hình

"song trùng trực thuộc".

V.I. Lênin là người đầu tiên đưa ra các luận điểm cơ bản về pháp chế XHCN.

Ngay từ năm thứ hai của nhà nước Xô viết, Lênin đã viết "Sơ thảo đề cương quyết định

về việc tuân thủ đúng pháp luật" - Đề cương này đã trở thành cơ sở đề ra nghị quyết về

việc tôn trọng nghiêm chỉnh pháp chế. Năm 1922, trong bức thư "Bàn về chế độ trực

thuộc song trùng và pháp chế", Lênin đã đưa ra những luận điểm cơ bản làm cơ sở cho

pháp chế XHCN. ở đây, Người đã nêu lên những nội dung cơ bản về pháp chế XHCN.

Trong bối cảnh cách mạng Nga mới thành công, một chính sách kinh tế, một

đạo luật, sắc lệnh được ban hành và thực hiện là một cuộc đấu tranh giai cấp hết sức

gian khổ. Bên cạnh sự thù địch của các thế lực phản cách mạng còn là sự cản trở của

bệnh hành chính quan liêu trong bộ máy nhà nước và hiện tượng không tuân thủ các đạo

luật của chính quyền Xô viết trong đời sống xã hội. Một sự thật mà Lênin đã nói là:

"Chúng ta đang sống trong tình trạng mà đâu đâu cũng có những hiện tượng không tôn

trọng pháp luật và ảnh hưởng của địa phương là một trong những trở ngại lớn nhất...

cho công cuộc thiết lập pháp chế" [32, tr. 234].

Người thường gắn việc củng cố quyền lực nhà nước, quyền lực của nhân dân

với việc củng cố pháp chế cách mạng, pháp chế XHCN. V.I. Lênin cho rằng: "Điều kiện

của một chính quyền vững vàng và chắc chắn càng tiến bộ, sự trao đổi của dân chúng

càng phát triển, thì phải cấp bách đề ra khẩu hiệu kiên quyết phải có pháp chế cách

mạng rộng lớn..." [33, tr. 404].

Trong các cơ quan bảo vệ pháp luật, việc tổ chức và hoạt động của nó phải trên

cơ sở bảo vệ chế độ thực hiện pháp luật thống nhất trong cả nước cộng hòa. Vì vậy, V.I.

Lênin cho rằng tổ chức Viện kiểm sát (VKS) theo nguyên tắc "Song trùng trực thuộc"

như các cơ quan nhà nước khác là một sai lầm. VKS theo V.I. Lênin là cơ quan kiểm

sát toàn bộ chế độ tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước, viên chức nhà nước và

mọi công dân. Nó bảo đảm cho "bất cứ quyết định nào của bất cứ một cơ quan hành

chính địa phương nào cũng không đi ngược lại pháp luật" [32, tr. 233]. Cho nên "Viện

kiểm sát địa phương chỉ trực thuộc vào Trung ương" [32, tr. 236].

Tư tưởng pháp chế của V.I. Lênin có thể khái quát như sau:

Thứ nhất: Pháp chế là sự thực hiện nghiêm chỉnh, triệt để pháp luật trong thực

tế của mọi tổ chức, mọi thành viên trong xã hội.

Thứ hai: Chính sách của Đảng cộng sản phải được khẳng định bằng pháp luật.

Quá trình ban hành pháp luật, hoàn thiện pháp luật phải đi đôi với việc thiết lập nền

pháp chế XHCN.

Thứ ba: Đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp - cơ sở thiết lập một chế độ pháp

chế thống nhất trong cả nước.

Thứ tư: Pháp chế là những phương pháp chuyên chính vô sản, phương pháp

quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Thứ năm: Pháp chế XHCN là phương pháp bảo đảm, bảo vệ quyền con người,

thực hiện nền dân chủ XHCN, xóa bỏ bóc lột và bất công, thiết lập bình đẳng, công

bằng xã hội.

1.1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về pháp chế

XHCN

ý tưởng về việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân và

tăng cường pháp chế không phải gần đây mới được đề cập tới, mà từ lâu đã được Chủ

tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta quan tâm và chú trọng. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về

con đường của cách mạng Việt Nam, từ năm 1919, Nguyễn ái Quốc (Hồ Chí Minh) đã

nói lên tiếng nói của các dân tộc thuộc địa trong đó có Việt Nam về khao khát một xã

hội thực sự có luật pháp và những thiết chế cần thiết cho sự duy trì và thi hành pháp

luật:

"Bẩy xin Hiến pháp ban hành

Trăm điều phải có thần linh pháp quyền".

Đây là một trong 8 yêu sách mà Nguyễn ái Quốc gửi cho các nước đồng minh

tại Hội nghị Vessailles năm 1919. Và trên cơ sở nhận thức được vai trò vô cùng quan

trọng của Hiến pháp trong việc xây dựng và củng cố một Nhà nước kiểu mới, nhằm

phát huy các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và bảo đảm quyền lực nhà nước thực

sự thuộc về nhân dân, trong cuộc họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam độc lập -

Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:

Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế

độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp.

Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một

Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc

Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu.

Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau một thời gian ngắn,

ngày 09-11-1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã

được Quốc hội khóa I thông qua.

Kể từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và bản Hiến pháp đầu tiên của nước

Việt Nam độc lập ra đời cho đến nay, trong suốt hơn 50 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng

Cộng sản Việt Nam, Nhà nước ta trong mọi thời kỳ phát triển khác nhau của đất nước

không chỉ chú trọng tới việc ban hành Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác mà còn

luôn đòi hỏi sự chấp hành và thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật.

Trên cơ sở lý luận Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật, sự kế thừa và phát

triển tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đã sớm hình thành và từng bước

hoàn thiện tư tưởng về pháp chế XHCN, và tăng cường pháp chế XHCN. Điều đó thể

hiện rõ trong văn kiện của các kỳ Đại hội Đảng, các bản Hiến pháp qua các thời kỳ khác

nhau của cách mạng nước ta.

Ngay tại Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần III (Đại hội đầu tiên sau khi

miền Bắc được giải phóng) vấn đề pháp chế đã được quan tâm. Trong Văn kiện Đại hội

Đảng toàn quốc lần thứ III đã ghi:

Nhà nước cần nghiêm trị những cán bộ lợi dụng cương vị công tác

của mình để xâm phạm lợi ích của nhân dân, vi phạm pháp luật của nhà nước,

đồng thời cần khen thưởng những cán bộ có công và có đạo đức.

Cần phải tăng cường vai trò của cơ quan nhà nước các cấp, thực hiện

đúng chế độ tập trung dân chủ trong sinh hoạt của các cơ quan nhà nước. Tất

cả những chế độ pháp luật, thể lệ của Nhà nước phải được cơ quan chính

quyền các cấp chấp hành nghiêm chỉnh. Kế hoạch nhà nước là một pháp lệnh,

các cơ quan nhà nước phải chấp hành đúng và phải đảm bảo cho mọi người

chấp hành đúng [5, tr. 118].

Có thể thấy rằng, cách đề cập này còn sơ sài. Ngay thuật ngữ pháp chế cũng

chưa được nêu một cách trực diện. Điều đó cũng dễ hiểu bởi thời điểm đó đất nước còn

chia thành hai miền với hai nhiệm vụ chiến lược, việc nghiên cứu lý luận còn hạn chế.

Đáng chú ý là tại Đại hội lần này, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã trình bày tham luận

quan trọng với nhan đề "Mấy vấn đề về Nhà nước dân chủ nhân dân" trong đó khẳng

định: "Tăng cường nhà nước dân chủ nhân dân là tăng cường pháp chế XHCN" [5, tr.

64]. Ông còn nói: "... chúng ta phải rất xem trọng công tác lập pháp, dần dần xây dựng

nền pháp chế XHCN ngày càng đầy đủ. Đồng thời, chúng ta phải ra sức giáo dục nhân

dân nghiêm chỉnh thi hành pháp luật và có thái độ xử lý nghiêm khắc đối với những

hành vi vi phạm pháp luật" [5, tr. 65]. ở đây, pháp chế đã được đề cập rõ hơn song vẫn

còn chưa tách bạch giữa "pháp chế" và "hệ thống pháp luật".

Trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ IV, Đảng ta đã khẳng định:

Quyền làm chủ tập thể của nhân dân bằng Nhà nước dưới sự lãnh đạo

của Đảng phải được xác định bằng Hiến pháp và pháp luật. Sức mạnh và nội

dung cơ bản của pháp chế XHCN chính là quyền làm chủ tập thể của nhân

dân. Cần tăng cường pháp chế XHCN, làm cho mọi hoạt động của các cơ

quan Nhà nước đi vào khuôn phép và quy chế nghiêm chỉnh, thật sự tôn trọng

quyền làm chủ tập thể và đảm bảo quyền lợi của công dân.

... Pháp luật phải quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, đòi

hỏi công dân phải làm tròn nghĩa vụ, phải tuân theo pháp luật. Đối với những

người không tự giác thì phải cưỡng chế và bất cứ ai vi phạm pháp luật đều

phải xử phạt thích đáng [6, tr. 146- 147].

Rõ ràng là trong giai đoạn này, tư tưởng pháp chế XHCN của Đảng ta không

những được xác định rõ hơn về vai trò, nội dung mà còn được quan tâm đến cả cơ chế đảm

bảo. Một mặt nhằm phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân; mặt khác là thực hiện sự

cưỡng chế đối với các hành vi vi phạm pháp luật.

Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V thì vấn đề tăng cường pháp chế

XHCN đã được đề cập một cách trực diện. Đó là: "Tăng cường pháp chế XHCN là một

yêu cầu cấp thiết để nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước, bảo đảm quyền làm chủ

tập thể của nhân dân lao động" [7, tr. 114]. Không những thế trong văn kiện của Đại hội

còn nêu lên vấn đề "khắc phục cho được tình hình không bình thường là nhiều luật và

pháp lệnh được ban hành không được thi hành nghiêm chỉnh, thậm chí không được thi

hành" [7, tr. 115]. Nhiều biện pháp nhằm tăng cường pháp chế XHCN đã được đưa ra

trong đó đáng chú ý là "đưa việc giáo dục về pháp luật vào các trường học, các cấp học,

xây dựng ý thức sống có pháp luật và tôn trọng pháp luật" [7, tr. 115]. Bên cạnh đó là

việc tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu tố và yêu cầu cán bộ, đảng

viên gương mẫu thi hành pháp luật, đi đầu trong cuộc đấu tranh chống các hành vi vi

phạm pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN.

Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI thì trong Nghị quyết đã chỉ rõ: "Trong

điều kiện Đảng cầm quyền, mọi cán bộ, bất cứ ở cương vị nào, đều phải sống và làm

việc theo pháp luật. Mọi vi phạm đều phải xử lý" [8, tr. 121]. Do vậy, Nghị quyết cũng đặt

ra yêu cầu đối với các cấp ủy Đảng từ Trung ương tới địa phương phải thường xuyên

quan tâm lãnh đạo công tác pháp chế, kiểm tra hoạt động của tất cả các cơ quan và đặc

biệt là các cơ quan pháp chế. Phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân và dư luận

xã hội để đấu tranh kiên quyết, không khoan nhượng với các biểu hiện tiêu cực, vi phạm

pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII cũng xác định: "Điều quan trọng để phát

huy dân chủ là xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội

chủ nghĩa, nâng cao trình độ dân trí, trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức tuân thủ pháp

luật của nhân dân" [9, tr. 121]. Tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, trong công tác

xây dựng và hoàn thiện Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam, Đảng ta tiếp tục quán

triệt sâu sắc quan điểm "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước

pháp quyền Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục,

nâng cao đạo đức" [10, tr. 79].

Như vậy, vấn đề pháp chế XHCN và tăng cường pháp chế XHCN từ lâu đã trở

thành quan điểm chính thống của Đảng và Nhà nước ta. Pháp chế XHCN và tăng cường

pháp chế XHCN không chỉ đơn thuần là những vấn đề lý luận mà còn mang ý nghĩa

thực tiễn to lớn, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay. Nó đóng vai trò quan trọng trong

việc bảo đảm và củng cố chế độ xã hội XHCN, và đóng vai trò quyết định trong sự

nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong tình hình mới. Từ sự

phân tích về vai trò và ý nghĩa của pháp chế XHCN và tăng cường pháp chế XHCN, có

thể nhận thức một cách khái quát về pháp chế XHCN.

1.1.1.3. Khái niệm và những nội dung cơ bản của pháp chế XHCN

Dựa vào những nguyên lý cơ bản của Lênin, các nhà khoa học pháp lý ở Liên

Xô trước đây đã xây dựng khái niệm mới về "pháp chế cách mạng" -pháp chế XHCN.

Cơ sở thiết lập pháp chế XHCN là hệ thống pháp luật của Nhà nước kiểu mới. Điều

kiện quyết định để pháp luật đi vào cuộc sống là Nhà nước XHCN và ý thức tự giác của

đông đảo quần chúng nhân dân. Nội dung cơ bản của pháp chế XHCN được các nhà

khoa học pháp lý tập trung nhấn mạnh ở những điểm chủ yếu. Đó là:

Pháp chế XHCN là sự đòi hỏi sự tuân thủ và chấp hành pháp luật đối với các cơ

quan nhà nước, các cán bộ nhân viên trong các cơ quan nhà nước và các tổ chức và

nhân viên của các tổ chức chính trị - xã hội và mọi công dân.

Cùng với sự ra đời của khái niệm pháp chế XHCN, ngày nay với sự phát triển

của khoa học pháp lý các khái niệm, phạm trù pháp lý nói chung và pháp chế nói riêng

đã được xây dựng hoàn thiện hơn; phản ánh thực tế khách quan của đời sống nhà nước

và xã hội. Trong sự hoàn thiện khái niệm pháp chế, nội dung chủ yếu đã được làm rõ là

"ranh giới" của hiện tượng pháp luật với tư cách là hệ thống các quy phạm pháp luật và

hiện tượng của hệ thống các quan hệ xã hội được điều chỉnh bằng pháp luật. Trong thực

tế định nghĩa về pháp chế có tính khoa học được nhiều người thừa nhận và ghi vào sách

giáo trình môn Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật là: "Pháp chế XHCN là chế độ

của đời sống chính trị xã hội trong đó Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật; các cơ

quan nhà nước; các tổ chức chính trị; các tổ chức chính trị - xã hội; các đơn vị kinh tế và

mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện Hiến pháp, pháp luật; mọi vi phạm pháp

luật đều bị xử lý".

Trong nền khoa học pháp lý Xô viết, các khái niệm, phạm trù pháp lý khác cũng

hình thành và phát triển. Trong đó phải kể đến các khái niệm gần gũi với khái niệm

pháp chế như: Thực hiện pháp luật và trật tự pháp luật. Thực hiện pháp luật là quá trình

hoạt động có chủ định của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật nhằm làm cho pháp

luật được thực hiện trong cuộc sống. Quá trình hoạt động đó bao hàm các dạng hành vi

thực hiện pháp luật như: Tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật và

áp dụng pháp luật. Như thế hệ thống quy phạm pháp luật của Nhà nước thông qua chế

độ thực hiện pháp luật đã được chuyển hóa thành pháp chế.

Như vậy, quan điểm cơ bản từ trước tới nay vẫn coi: "Pháp chế chính là sự đòi

hỏi mọi cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước, các tổ chức chính trị, các tổ

chức chính trị - xã hội và các tổ chức kinh tế cũng như mọi công dân đều phải nghiêm

chỉnh thực hiện pháp luật trong hoạt động của mình". Theo đó, định nghĩa này tập trung

nhấn mạnh nội dung cơ bản đó là sự tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật của mọi chủ thể

pháp luật.

Đặc trưng lớn nhất của pháp luật là tính qui phạm phổ biến, pháp luật mang tính

bắt buộc chung đối với mọi đối tượng tham gia các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh,

điều này được nhà nước thừa nhận và được đảm bảo bằng các biện pháp cưỡng chế

mang tính nhà nước. Mọi chủ thể pháp luật đều phải xử sự phù hợp với pháp luật. Bản

thân nhà nước - chủ thể ban hành và đảm bảo sự thi hành pháp luật cũng phải tự đặt

mình vào việc nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật. Bởi Nhà nước và pháp luật của chúng

ta mang tính nhân dân sâu sắc, phục tùng pháp luật là phục tùng ý chí và lợi ích của

nhân dân, đường lối chính sách của Đảng đã được thể chế hóa thành luật. Nhà nước

pháp quyền XHCN không cho phép Nhà nước và các chủ thể quyền lực công đứng ngoài

và hành xử ngoài pháp luật. Đứng trước pháp luật, mọi người đều bình đẳng, tất cả các

hành vi vi phạm pháp luật đều bị trừng trị, mọi chủ thể vi phạm pháp luật đều bị truy

cứu trách nhiệm pháp lý. Pháp chế XHCN xa lạ với sự phân biệt đối xử, đặc quyền đặc

lợi, không có đất cho các biểu hiện lạm dụng chức quyền.

Định nghĩa như vậy không có nghĩa là phủ nhận hay coi nhẹ vai trò tiền đề của

pháp luật đối với pháp chế. Bởi pháp chế và pháp luật là hai khái niệm gần gũi, có quan

hệ chặt với nhau nhưng không đồng nhất. Trong đó pháp luật được hiểu là hệ thống các

qui phạm do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật là một

trong những yếu tố bảo đảm sự phát triển của xã hội. Đồng thời, pháp luật ghi nhận và

thể chế hóa các quyền tự do dân chủ của công dân, thiết lập nên các bảo đảm pháp lý

đảm bảo cho các quyền đó được thực hiện trên thực tế. Qua đó, người dân tìm thấy ở

pháp luật phương tiện bảo vệ cho các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong điều

kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, pháp luật còn là phương tiện thể chế hóa

các đường lối của Đảng và đưa nó vào cuộc sống.

Tuy nhiên, để pháp luật thực sự phát huy được các vai trò quan trọng đó trong

thực tiễn cuộc sống, để pháp luật không chỉ là những trang giấy chứa đựng các qui

phạm, đòi hỏi phải có pháp chế. Bởi pháp chế là phạm trù thể hiện yêu cầu và đòi hỏi

đối với mọi chủ thể pháp luật trong xã hội phải tôn trọng và tuân thủ triệt để pháp luật.

Như vậy, pháp luật là điều kiện tiền đề của pháp chế. Song việc có pháp luật chưa hẳn là

đã tồn tại pháp chế. Một hệ thống pháp luật thiếu hoàn thiện, mâu thuẫn, chồng chéo sẽ

kéo theo một cơ chế điều chỉnh pháp luật khiếm khuyết. Hay pháp luật khi được ban

hành nhưng không được các chủ thể pháp luật chấp hành và tuân thủ hoặc được thi hành

nhưng không thực sự nghiêm minh thì trật tự xã hội sẽ bị đảo lộn, xã hội rơi vào trạng

thái vô pháp chế. Hậu quả tất yếu sẽ là tình trạng xã hội với các mặt đời sống phát triển

không bình thường, các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân không được đảm bảo.

Do đó, vấn đề mấu chốt là: pháp luật chỉ thực sự có hiệu lực khi nó dựa trên nền tảng

vững chắc của pháp chế, bên cạnh đó pháp chế chỉ có thể được củng cố và tăng cường

trong điều kiện một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ.

Trước sự vận động không ngừng của đời sống xã hội, quan điểm trên đây về

pháp chế XHCN dường như đã không còn mang tính chính xác khoa học cao. Quan

điểm đó vẫn đúng nhưng chưa thực sự đủ. Hiện nay đang phổ biến một quan điểm khoa

học cho rằng: "Pháp chế là sự hiện diện của một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều

chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỷ luật, là sự

tuân thủ và thực hiện đầy đủ pháp luật trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, của

các cơ quan, đơn vị, tổ chức và đối với công dân" [49, tr. 680].

Trong định nghĩa này có mấy nội dung chính yếu sau đây:

- Sự hiện diện của một hệ thống pháp luật; và hệ thống pháp luật này là điều

kiện cần và đủ cho sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỷ luật.

- Tổ chức và hoạt động của Nhà nước, của các cơ quan, đơn vị, tổ chức và mọi

công dân phải tuân thủ và thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh pháp luật.

Cách tiếp cận thứ nhất cho ta thấy một cách nhìn cận cảnh về pháp chế, nói một

cách khác, định nghĩa thứ nhất về pháp chế là một định nghĩa hẹp về pháp chế. Cách

tiếp cận thứ hai hàm chứa định nghĩa hẹp về pháp chế đồng thời có bổ sung hai nội dung

mới cho ta một cái nhìn bao quát hơn về pháp chế XHCN. Cách tiếp cận này đáp ứng

được những đòi hỏi hiện nay của lý luận cũng như thực tiễn là phải trả lời câu hỏi: pháp

chế dựa trên cơ sở nào, để làm gì và duy trì nó như thế nào. Nó cho chúng ta một định

nghĩa rộng về pháp chế.

Định nghĩa này trước hết đã trực tiếp xác định vai trò vô cùng quan trọng của

một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh trong vai trò là nền tảng của việc thiết lập pháp chế

XHCN.

Như chúng ta đã biết, bất cứ một xã hội nào cũng đều cần có sự quản lý nhằm

ổn định trật tự xã hội và phục vụ cho nhu cầu phát triển xã hội. Kể từ khi xã hội có giai

cấp dẫn đến xuất hiện nhà nước, giai cấp cầm quyền luôn mong muốn một trật tự xã hội

phù hợp với ý chí giai cấp mình. Giai cấp cầm quyền tìm thấy ở pháp luật công cụ hữu

hiệu nhất trong quản lý xã hội. Chính sự nhập cuộc của pháp luật vào đời sống xã hội đã

tạo ra đời sống pháp lý của xã hội và tạo ra pháp chế. Đến lượt mình, pháp chế tạo ra

một trạng thái bảo đảm cao về mặt pháp luật cho mọi chủ thể trong xã hội. Đó chính là

ý nghĩa lớn lao của pháp chế XHCN; và ngày nay quan điểm về xây dựng Nhà nước

pháp quyền cũng có những điểm tương đồng trong lĩnh vực này.

Với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân

dưới cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, pháp chế XHCN

được đặt lên như một nguyên tắc hàng đầu trong mọi quan hệ về tổ chức và hoạt động

của bất cứ cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội nào. Do vậy, pháp luật, hơn lúc

nào hết, cần thể chế hóa đường lối lãnh đạo của Đảng làm tiền đề cho pháp chế. Điều đó

tạo nên cơ sở pháp lý cho các quan hệ chính trị đáp ứng nhu cầu ổn định xã hội, phát

huy tính dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. "Tuy nhiên, hệ thống pháp

luật cũng chỉ nên dừng lại ở mức đáp ứng cần và đủ cho các quan hệ xã hội. Pháp chế

XHCN đòi hỏi việc điều chỉnh pháp luật phải đúng cách" [49, tr. 689]. Một triết gia

phương Đông nổi tiếng đã từng nói: việc trị quốc ví như nấu một nồi cá, nếu quấy mạnh

thì nó nát, nếu không quấy thì nó cháy, tốt nhất là nên quấy vừa phải và đúng lúc, đúng

cách.

Còn về nội dung cơ bản của pháp chế: đòi hỏi tổ chức và hoạt động của Nhà nước,

của các cơ quan, đơn vị, tổ chức và công dân tuân thủ và thực hiện đầy đủ pháp luật, về nội

hàm không có gì đổi khác so với cách định nghĩa thứ nhất.

Theo lôgíc của các quan hệ biện chứng trên từ pháp luật đến chế độ thực hiện

pháp luật cấu thành chế độ pháp chế; các nhà khoa học pháp lý đã xem xét hiện tượng

xã hội pháp lý đó và cho rằng đó là trạng thái trật tự pháp luật. Trật tự pháp luật phải

chăng là một hệ thống các quan hệ xã hội hình thành và phát triển dưới sự tác động điều

chỉnh của hệ thống các quy phạm pháp luật.Vậy trật tự pháp luật có phải là pháp chế

không? Đã từng có hai quan niệm để lý giải mối quan hệ giữa pháp chế và trật tự pháp

luật. Quan niệm thứ nhất coi trật tự pháp luật là yếu tố cấu thành của pháp chế. Quan

niệm thứ hai có thể là hợp lý hơn khi cho rằng trật tự pháp luật không phải là yếu tố bên

trong trùng khớp với nội hàm pháp chế mà trật tự pháp luật là mục đích của pháp chế, là

hiệu quả của quá trình thiết lập và tăng cường pháp chế.

Tóm lại, trong lịch sử ra đời, tồn tại, phát triển của mỗi nhà nước có một lịch sử

ra đời, tồn tại của pháp luật và pháp chế tương ứng. Thấu suốt trong dòng lịch sử đấu tranh

chống lạm dụng quyền lực, độc đoán chuyên quyền từ phía nhà nước và chống tư tưởng

còng như hoạt động vô chính phủ, coi thường pháp luật của công dân nhằm đảm bảo

cho pháp luật thực sự ngự trị trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội; thành lập nên

một trật tự pháp luật theo ý chí và mục đích của giai cấp thống trị xã hội.

Từ sự phân tích trên có thể rút ra định nghĩa pháp chế XHCN như sau: Pháp

chế XHCN là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị - xã hội, trong đó tất cả các cơ

quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, nhân viên nhà nước, nhân viên các tổ

chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách

nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác.

1.1.2. Những nguyên tắc của pháp chế XHCN

Ngày nay Đảng ta đang chủ trương xây dựng một Nhà nước pháp quyền Việt

Nam XHCN của dân, do dân, và vì dân. Trong quan niệm về nhà nước pháp quyền có

nhiều điểm trùng hợp với quan niệm về pháp chế. Thí dụ, các yêu cầu về một hệ thống

pháp luật tương đối hoàn chỉnh; về tính tối cao của Hiến pháp và các đạo luật; về sự

tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật của các chủ thể; về sự tôn trọng và bảo đảm các quyền

công dân. Tuy nhiên, quan niệm về Nhà nước pháp quyền có nội dung rộng hơn. Nó bao

hàm cả vấn đề trách nhiệm qua lại giữa nhà nước và công dân, công dân và nhà nước,

vấn đề trách nhiệm của quốc gia trong việc thực hiện các cam kết quốc tế, v.v… Đặt

vấn đề từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là đáp ứng được các đòi

hỏi của một xã hội đang chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà

nước, đồng thời cũng đáp ứng được đòi hỏi của một quốc gia đổi mới muốn làm bạn với

tất cả các nước trên thế giới theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và không can thiệp

vào công việc nội bộ của nhau.

Những nguyên tắc của pháp chế XHCN là những tư tưởng chủ đạo thể hiện bản

chất và các đặc điểm của pháp chế trong xã hội ta. Các nguyên tắc cơ bản đó là:

1.1.2.1. Bảo đảm tính thống nhất của pháp chế

Nội dung của nguyên tắc này là: pháp luật phải được nhận thức và thực hiện

thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia và ở tất cả các ngành, không thể đem lợi ích

của địa phương, lợi ích ngành đối lập với lợi ích chung của nhà nước. Văn bản của cơ

quan nhà nước ở địa phương phải phù hợp, không mâu thuẫn với các văn bản pháp luật

do các cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành. Những biểu hiện cục bộ, bản vị địa

phương, có hại cho sự thống nhất pháp chế, đi chệch lợi ích chung của cả nước cần phải

được loại trừ. Không nên quan niệm rằng tính thống nhất của pháp chế loại bỏ việc cân

nhắc những điều kiện của địa phương. Các cơ quan nhà nước ở địa phương có nghĩa vụ,

một mặt, thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật đã được quy định thống nhất cho cả nước,

mặt khác, trong hoạt động của mình cần tính toán đầy đủ những hoàn cảnh, điều kiện cụ

thể của địa phương. Song, sự tính toán đó không phải để vi phạm pháp luật mà để tìm

kiếm những hình thức, biện pháp và phương sách đặc thù của địa phương nhằm thực

hiện pháp luật tốt hơn.

Pháp luật luôn mang trong nó tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức nên pháp

luật phải được nhận thức và thực hiện thống nhất trên phạm vi toàn bộ lãnh thổ quốc gia.

Điều đó cũng có nghĩa: Luật, Pháp lệnh không được mâu thuẫn với Hiến pháp, các văn bản

dưới luật không được mâu thuẫn, chồng chéo với các văn bản luật, các văn bản pháp luật

của địa phương, của các bộ, ngành không được đặt lợi ích cục bộ của địa phương và của

ngành mình đối lập với lợi ích của quốc gia. Đặt vấn đề như vậy không có nghĩa là triệt tiêu

hoàn toàn tính chủ động sáng tạo của các địa phương và các bộ ngành, bỏ qua tính đặc thù

của từng địa phương và bộ ngành. Trên cơ sở sự thống nhất, các địa phương và các bộ

ngành có thể vừa tính toán tới những hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của mình vừa thực hiện

nghiêm chỉnh pháp luật đã được qui định thống nhất trong phạm vi cả nước.

Trong quan hệ với các văn bản luật và các văn bản qui phạm dưới luật, Hiến

pháp là đạo luật mang tính tối cao, do Quốc hội ban hành và là đảm bảo cao nhất của

pháp chế. Điều này được chính Hiến pháp qui định: "Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn

bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp". Bản thân Hiến pháp cũng được xây

dựng và ban hành theo một trình tự thủ tục riêng theo qui trình lập hiến với yêu cầu phải

được 2/3 số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Về vấn đề này, để đảm bảo tính

thống nhất của pháp luật, tính tối thượng của Hiến pháp và quan trọng hơn để tăng

cường pháp chế XHCN cần sớm khắc phục những sai lầm cơ bản, những biểu hiện vi

hiến. Như việc các cơ quan hữu quan đã đưa cả nội dung sửa đổi Hiến pháp 1992 vào

các chương trình lập pháp năm 2000 và năm 2001 của Quốc hội để rồi nội dung này

được thông qua theo qui trình lập pháp (chỉ cần quá 1/2 số đại biểu Quốc hội tán thành)

thay vì lẽ ra phải được thông qua theo một qui trình lập hiến (yêu cầu phải được 2/3 số

đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành theo đúng qui định tại Điều 147 Hiến pháp

1992).

1.1.2.2. Mọi chủ thể đều có nghĩa vụ phải chấp hành pháp luật

Nguyên tắc này đòi hỏi phải đưa những yêu cầu của pháp luật vào thực tế đời

sống; mọi chủ thể cần phải xử sự phù hợp với pháp luật. Mọi người đều bình đẳng trước

pháp luật, bất cứ chủ thể nào có hành vi vi phạm pháp luật đều bị truy cứu trách nhiệm

pháp lý. Pháp chế XHCN xa lạ với những biểu hiện phân biệt đối xử và đặc quyền, đặc

lợi, không cho phép lạm dụng chức vụ, quyền hạn lẩn tránh hoặc cố tình làm trái pháp

luật.

Để tránh tình trạng hệ thống pháp luật của Nhà nước đã được ban hành đáng kể

nhưng chấp hành không nghiêm, trước hết Nhà nước mà cụ thể trong đó là các cơ quan

trong bộ máy nhà nước, các cán bộ công chức phải nghiêm chỉnh thi hành và chấp hành

pháp luật. Nhà nước chỉ được làm những gì luật cho phép nhằm hạn chế tối đa sự lạm

quyền trong tổ chức cũng như hoạt động của bộ máy nhà nước. Đối với các chủ thể

pháp luật khác ngoài nhà nước thì được làm tất cả trừ những gì luật cấm. Đó là cơ sở

pháp lý vững chắc đảm bảo cho các quyền tự do dân chủ của công dân được thực hiện.

1.1.2.3. Bảo đảm tính tối cao của hiến pháp và các đạo luật

Điều 146 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản

pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp". Những đạo luật có hiệu lực thấp hơn Hiến

pháp nhưng cao hơn những văn bản dưới luật. Những văn bản dưới luật phải được ban

hành trên cơ sở và để thi hành Hiến pháp và các đạo luật, không được trái với Hiến pháp

và các đạo luật đó.

1.1.2.4. Bảo đảm thực hiện và bảo vệ các quyền và tự do của công dân đã

được pháp luật quy định

Trong xã hội ta, công dân có những quyền tự do, dân chủ rộng rãi. Một trong

những yêu cầu quan trọng nhất của pháp chế là phải bảo đảm và bảo vệ những quyền

dân chủ đó. Công dân khi sử dụng các quyền tự do được pháp luật ghi nhận, không

được gây thiệt hại cho lợi ích nhà nước và xã hội, cũng như lợi ích của các công dân

khác.

1.1.2.5. Ngăn chặn kịp thời và xử lý nhanh chóng, công minh mọi vi phạm

pháp luật

Bất kỳ vi phạm pháp luật nào cũng có hại cho lợi ích của nhà nước, xã hội và

công dân. Bởi vậy, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xử lý nhanh chóng, công

minh và có hiệu quả đối với những vi phạm đó. Để làm được điều này cần phải chỉnh

đốn tổ chức, thi hành những biện pháp có hiệu lực nhằm ngăn chặn và loại trừ tệ tham

nhũng, hối lộ, cửa quyền, nghiêm trị những phần tử biến chất, lợi dụng danh nghĩa Đảng

và chính quyền để đục khoét, áp bức quần chúng. Các cơ quan tòa án, kiểm sát, thanh

tra, công an,… phải dựa vào nhân dân để phát hiện và xử lý kịp thời những vụ vi phạm

pháp luật. Mỗi công dân cũng cần hiểu rõ nếu họ vi phạm pháp luật sẽ không tránh khỏi

phải chịu sự cưỡng chế của nhà nước dưới hình thức các biện pháp trách nhiệm pháp lý.

Các qui phạm pháp luật nói riêng và pháp luật nói chung luôn là đại lượng của

dân chủ, công bằng và tự do. Do đó, nó là khuôn mẫu, là chuẩn mực hành vi, là thước

đo của hành vi xử sự trong đời sống xã hội. Bất cứ hành vi nào vi phạm pháp luật, trái

với các qui phạm pháp luật đều là đi ngược lại với lợi ích của của cộng đồng, lợi ích của

toàn xã hội. Do vậy, để bảo đảm trật tự xã hội cần thiết phải ngăn chặn và xử lý kịp thời

các hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm lợi ích hợp pháp của công dân và của nhà

nước. Việc ngăn chặn và xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật cũng đồng thời là phương

tiện bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Bởi trong Nhà nước pháp

quyền XHCN, thì pháp luật, các cơ quan thi hành pháp luật và pháp chế XHCN luôn là

chỗ dựa vật chất và tinh thần của người dân trong việc tìm đến công lý và công bằng.

1.1.2.6. Tính pháp chế thống nhất với tính hợp lý và sự công bằng

Giữa pháp chế và tính hợp lý có mối liên hệ chặt chẽ, vì pháp luật XHCN thể

hiện chính sách có cơ sở khoa học của Đảng và là ý chí của đại đa số các tầng lớp nhân

dân. Bởi vậy, các quy phạm pháp luật mang tính công bằng và hợp lý. Tính pháp chế

đòi hỏi mọi hoạt động phải trong khuôn khổ pháp luật và không trái với pháp luật.

Không một sự vi phạm pháp luật nào có thể biện hộ bằng tính hợp lý. Sự lạc hậu của

những quy phạm pháp luật trước yêu cầu mới của cuộc sống không làm đình chỉ hiệu lực

của nó. Chỉ những cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới có quyền sửa đổi các quy phạm

đó.

1.1.2.7. Tuân thủ nghiêm chỉnh kỷ luật nhà nước và xã hội

Trong xã hội ta, những yêu cầu cơ bản của kỷ luật nhà nước, kỷ luật xã hội và

cách thức bảo đảm nó được xác định trong những văn bản pháp luật. Mặt khác, sự tuân

thủ pháp luật là một trong những yêu cầu quan trọng nhất của kỷ luật nhà nước và kỷ

luật xã hội. Để đảm bảo tính tổ chức của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, cần

phải chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật nhà nước.

1.2. Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thực hành quyền công tố và

kiểm sát các hoạt động tư pháp ở nước ta

Pháp chế XHCN là một khái niệm pháp lý sâu rộng. Xét về hình thức, hiện

tượng, pháp chế XHCN là trạng thái hành vi pháp lý (hành vi hành động và không hành

động) phù hợp với quy định của pháp luật của tất cả các chủ thể tham gia các quan hệ

pháp luật. Xét về bản chất, pháp luật của một nhà nước quy định bản chất của chế độ

pháp chế mà nhà nước đó thiết lập và duy trì. Tính đa dạng của pháp chế thể hiện trong

các loại hành vi pháp lý được thực hiện trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.

Nói một cách khác, trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội pháp chế được thiết lập và

mang những đặc điểm riêng. Bởi vì các lĩnh vực của đời sống xã hội khác nhau có các

loại quan hệ xã hội khác nhau; phản ánh và điều chỉnh nó là các ngành luật tương ứng.

Pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng; Vì vậy "nhà lập pháp

không sáng tạo ra các quan hệ xã hội, mà chỉ ghi chép phản ánh nó trong pháp luật".

Nhưng nhà nước ban hành pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm thiết lập

trật tự pháp luật. Vì thế, pháp luật phải được tôn trọng và thực hiện một cách nghiêm

chỉnh. Theo lôgíc đó pháp luật phải là cơ sở, xuất phát điểm của việc đề ra các giải pháp

tăng cường pháp chế trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo hướng đã cần làm rõ

khái niệm "pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các

hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân" ở nước ta là gì? và xem xét những đặc

trưng của pháp chế trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động

tư pháp của VKSND với mục đích tìm kiếm các giải pháp tăng cường pháp chế XHCN

trên lĩnh vực quan trọng này theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN hiện

nay ở nước ta.

1.2.1. Khái niệm và nội dung thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân

1.2.1.1. Quyền tư pháp và hoạt động thực hiện quyền tư pháp

Để có cơ sở xác định pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố

và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND; trước hết cần làm rõ quyền tư pháp và

hoạt động thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước ta:

Quyền lực nhà nước bao gồm ba quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp và

quyền tư pháp. ở nước ta quyền lực nhà nước là tập trung thống nhất không thể phân

chia song có sự phân công phân nhiệm cho các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực

hiện các quyền đó.

Quyền lập pháp thuộc về Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước.

Quyền lập pháp là quyền làm Hiến pháp và làm luật. Song việc xây dựng hệ thống các

văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta ngoài Quốc hội ra còn có các cơ quan nhà nước

có thẩm quyền khác ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Những văn bản quy

phạm pháp luật này là văn bản quy phạm pháp luật dưới Hiến pháp và luật.

Quyền hành pháp do Chính phủ thực hiện. Chính phủ là cơ quan chấp hành

của Quốc hội đồng thời là cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước ta. "Nhà nước

quản lý xã hội bằng pháp luật" nên đương nhiên quản lý hành chính nhà nước cũng

chủ yếu bằng pháp luật. Vì thế, khái niệm quyền hành pháp được hiểu là việc tổ chức

thực hiện pháp luật bằng quyền uy của Nhà nước.

Sản phẩm hoạt động lập pháp và lập quy là hệ thống các văn bản quy phạm

pháp luật; là hệ thống pháp luật hiện hành của nhà nước. Để pháp luật được thực hiện,

các cơ quan hành chính nhà nước, tổ chức, duy trì để pháp luật vào được cuộc sống.

Mục đích chung, chủ yếu của việc thực hiện quyền lập pháp và quyền hành pháp là thiết

lập pháp chế và trật tự pháp luật trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Song do nhiều

nguyên nhân khách quan và chủ quan, pháp luật không phải khi nào cũng vào cuộc sống

một cách suôn sẻ. Pháp luật vẫn bị vi phạm trong đời sống xã hội ở những mức độ và

tính chất nguy hiểm ít nhiều khác nhau, do những hành vi vi phạm pháp luật của con

người.

Khoa học pháp lý đã khái quát trong thực tế bốn loại vi phạm pháp luật. Các

loại vi phạm pháp luật đó là: vi phạm pháp luật dân sự, vi phạm pháp luật hành chính, vi

phạm kỷ luật nhà nước và vi phạm pháp luật hình sự. Do đó, nhiệm vụ của Nhà nước

phải bảo vệ pháp luật nhằm loại bỏ các hành vi vi phạm pháp luật ra khỏi đời sống xã

hội. Quyền tư pháp ra đời từ đó. Vậy tư pháp là gì? và quyền tư pháp là gì? Tư pháp

theo nghĩa Hán - Việt là bảo vệ giữ gìn pháp luật. Quyền tư pháp là sự thực hiện quyền

lực nhà nước nhằm bảo vệ, giữ gìn pháp luật. Trong đó, các cơ quan nhà nước có thẩm

quyền giải quyết các tranh chấp pháp lý, điều tra, truy tố và xét xử những người có hành

vi nguy hiểm cho xã hội được quy định là tội phạm (trong Bộ luật hình sự) thiết lập lại

các trật tự pháp luật đã bị xâm phạm.

Tư pháp được hiểu ở những cấp độ rộng hẹp khác nhau. Theo ý nghĩa rộng nhất

của từ này, "tư pháp" là bảo vệ pháp luật, ở đâu có vi phạm pháp luật thì ở đó đòi hỏi có

sự bảo vệ pháp luật. Bảo vệ pháp luật bao hàm cả hoạt động hoà giải, giải quyết khiếu

nại tố cáo của công dân, xử lý kỷ luật nhà nước; xử lý vi phạm pháp luật hành chính;

giải quyết các tranh chấp dân sự, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết các vụ án

hình sự.

Theo nghĩa hẹp hơn, "tư pháp" là hoạt động xét xử của các Tòa án nhằm bảo vệ

chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội,

lợi ích của nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân. Đó là

hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân (TAND) nhân danh nhà nước xét xử các vụ án

dân sự, kinh tế - lao động - hành chính và hình sự.

Như vậy, thực hiện quyền tư pháp cùng với việc thực hiện quyền lập pháp và

quyền hành pháp là các phương pháp chủ yếu thực hiện quyền lực nhà nước. Nếu thiếu

một trong ba quyền nêu trên thì Nhà nước sẽ mất đi khả năng "cai trị xã hội" hay khả

năng quản lý xã hội.

* Về hoạt động của nhà nước trong thực hiện quyền tư pháp

Theo nghĩa của nội hàm khái niệm "tư pháp" và "quyền tư pháp", hoạt động

thực hiện quyền tư pháp của nhà nước là hoạt động tài phán bảo vệ pháp luật, bảo vệ

pháp chế. Vấn đề đặt ra là cần xác định khái niệm và phạm vi hoạt động tư pháp của

nhà nước. Vì thế cần phân định các hoạt động nhân danh nhà nước bảo vệ pháp luật và

các hoạt động bảo vệ pháp luật của các tổ chức và cá nhân không nhân danh nhà nước.

Thực tiễn của đời sống pháp luật có các loại hoạt động bảo vệ pháp luật sau đây:

Thứ nhất, đó là các hoạt động bảo vệ pháp luật khi phát sinh tranh chấp về quyền,

lợi ích và nghĩa vụ giữa các đương sự mà chưa cần nhờ nhà nước bảo vệ. Trong những

trường hợp này các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ hòa giải ở cơ sở hoặc các bên

đương sự tự dàn xếp, đàm phán với nhau để giải quyết các tranh chấp về dân sự, lao

động, hôn nhân gia đình và các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ phát sinh trong hoặc

ngoài hợp đồng về dân sự và kinh tế vừa là nguyên tắc vừa là bước hay giai đoạn bắt

buộc đối với các tranh chấp nêu trên. Riêng về việc giải quyết các tranh chấp kinh tế có

thể giải quyết qua thủ tục hòa giải hoặc qua tổ chức trọng tài kinh tế phi chính phủ.

Thứ hai, là các hoạt động bảo vệ pháp luật thông qua việc phát hiện và xử lý các

vi phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không phải là của TAND.

Các hoạt động này rất đa dạng diễn ra trên một phạm vi rất rộng bằng nhiều hình thức

bảo vệ pháp luật - chống vi phạm pháp luật của nhiều cơ quan nhà nước từ Trung ương

tới địa phương, cơ sở. Theo pháp luật hiện hành các cơ quan nhà nước được phân công

bảo vệ pháp luật như sau:

- Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao. Các cơ quan quyền lực nhà nước ở

địa phương thực hiện quyền giám sát việc thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước

cùng cấp và các cơ quan nhà nước cấp dưới. Các cơ quan này xử lý các hành vi vi phạm

Hiến pháp, luật, nghị quyết và các văn bản quy phạm pháp luật khác của các cơ quan

nhà nước hoặc của cán bộ công chức trong khi thi hành công vụ.

- Các cơ quan quản lý hành chính nhà nước từ Trung ương tới địa phương có

thẩm quyền xử lý các vi phạm pháp luật hành chính, xử phạt hành chính đối với cơ quan

nhà nước cấp dưới hoặc đối với các tổ chức, công dân.

Theo Pháp lệnh xử phạt hành chính và các nghị quyết, nghị định của Chính phủ

cụ thể hóa pháp lệnh về xử phạt hành chính, thì cơ quan hành chính nhà nước có quyền

hạn xử phạt hành chính khi có vi phạm xảy ra trên lãnh thổ, lĩnh vực xã hội hoặc ngành

kinh tế kỹ thuật mà mình trực tiếp quản lý. Các cơ quan quản lý nhà nước còn có trách

nhiệm bảo vệ pháp luật trong việc tiếp dân giải quyết các đơn thư, khiếu nại, tố cáo của

nhân dân; thực chất là xử lý các quyết định quản lý, các hành vi hoạt động công vụ trái

pháp luật, xâm phạm đến lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và

của công dân.

- Các cơ quan quản lý hành chính nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật trên

các lĩnh vực như: kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, quốc phòng an ninh và quản lý

bảo vệ trật tự an toàn xã hội. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật không chỉ là tổ

chức duy trì cho các đối tượng bị quản lý tuân thủ và chấp hành pháp luật, mà chính các

cơ quan quản lý nhà nước phải "đặt mình dưới pháp luật", tôn trọng và thực hiện pháp

luật. Trong điều kiện đổi mới ở nước ta khi xóa bỏ cơ chế hành chính quan liêu, bao

cấp, chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước thì hoạt động áp dụng

pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nước là đặc biệt quan trọng. Những vi phạm pháp

luật trong việc ra các quyết định quản lý nhằm cụ thể hóa quyền và nghĩa vụ của các tổ

chức và công dân đang diễn ra rất phức tạp. Các vi phạm đã xảy ra và có thể xảy ra đó

là: cho phép trái thẩm quyền, ra lệnh bác bỏ các yêu cầu đề nghị chính đáng của công

dân; xác nhận, chứng nhận công chứng sai sự thật khách quan; kết luận thanh tra, kiểm

tra không khách quan toàn diện; cưỡng chế sai trái v.v... Những quyết định quản lý nào

còn mang nặng tính cục bộ, bản vị địa phương chủ nghĩa; những quyết định nào nhân

danh nhà nước mà lại nhũng nhiễu nhân dân, gây phiền hà cho nhân dân đều cần được

xử lý nghiêm minh trên cơ sở pháp luật. Hoạt động của thanh tra nhà nước và thanh tra

của các ngành có vai trò quan trọng trong lĩnh vực bảo vệ pháp luật. Thanh tra là dạng

hoạt động bảo vệ pháp luật của các cơ quan Thanh tra nhà nước. Song Thanh tra nhà nước

là một loại cơ quan đặc thù nằm trong hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước chuyên

thanh tra các vụ việc phát sinh trong quản lý hành chính nhà nước nhằm xác định đúng

sai, có kết luận để kiến nghị xử lý kỷ luật hành chính nếu có vi phạm pháp luật. Nếu

phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì các cơ quan thanh tra phải chuyển hồ sơ sang cơ

quan bảo vệ pháp luật khác như cơ quan điều tra và VKSND để xử lý theo trình tự tố

tụng hình sự.

Thứ ba, là hoạt động bảo vệ pháp luật của TAND, các cơ quan điều tra, và

VKSND. TAND có chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, lao động, hành chính,

kinh tế. Đối với các tranh chấp dân sự, lao động, kinh tế khi hòa giải không thành, một

trong các bên đương sự có quyền yêu cầu tòa án giải quyết theo pháp luật tố tụng. Như

thế các tranh chấp đó chuyển hóa thành vụ án. Đối với các tranh chấp hành chính khi

giải quyết khiếu nại, tố cáo đến cấp cuối cùng mà người khiếu nại, tố cáo không đồng ý

với kết luận giải quyết của cấp cuối cùng đó thì đương sự có quyền đưa vụ việc ra Tòa

án hành chính để Tòa án hành chính xét xử theo trình tự tố tụng hành chính.

Trong các vụ án hình sự, mối quan hệ giữa nhà nước và tội phạm được giải

quyết theo trình tự của pháp luật tố tụng hình sự. Vai trò của VKSND, cơ quan điều tra

hình sự và TAND là đặc biệt quan trọng. Do tính chất của các vụ án hình sự nói riêng

và các loại án khác nói chung mà khoa học pháp lý coi TAND và VKSND là cơ quan tư

pháp tiêu biểu của nhà nước. Đương nhiên VKSND, TAND và cơ quan điều tra thực

hiện hoạt động tư pháp không chỉ bằng quyền uy của quyền lực nhà nước có tính chất

mệnh lệnh thuần túy mà còn bằng sức mạnh bạo lực cưỡng chế cao nhất của quyền lực

nhà nước. Nhưng chỉ coi các cơ quan nhà nước này mới là cơ quan tư pháp; và chỉ coi

các cơ quan nhà nước này mới thực hiện quyền tư pháp thì lại thiếu toàn diện và không

thấy hết sự tinh tế của khoa học tổ chức phân công lao động thực hiện quyền tư pháp

của bộ máy nhà nước ta. Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự

phân công phân nhiệm và có sự phối hợp hoạt động nhằm thực hiện ba quyền lập pháp,

hành pháp và tư pháp; nguyên tắc này cũng được vận dụng cụ thể hơn trong thực hiện

quyền tư pháp như đã nêu trên.

Thứ tư, là các cơ quan, tổ chức cá nhân hoạt động bổ trợ tư pháp.

Về khái niệm "bổ trợ tư pháp" hay "hỗ trợ tư pháp" hiện còn nhiều ý kiến khác

nhau. Song, các hoạt động bổ trợ tư pháp đang tồn tại cùng với các hoạt động tư pháp

chủ yếu của các cơ quan nhà nước đáp ứng đòi hỏi của quá trình giải quyết các tranh

chấp và các vụ án được khách quan, công bằng, đúng pháp luật và thi hành các quyết

định và bản án đã có hiệu lực pháp luật. Các hoạt động đó là: Tư vấn pháp lý, bào chữa,

giám định tư pháp, công chứng và thi hành án (THA).

Tư vấn pháp lý được hiểu là việc cung ứng các dịch vụ pháp lý để hỗ trợ hay

gọi là trợ giúp các tổ chức, cá nhân thiếu hiểu biết pháp luật. Các dịch vụ pháp lý

thường là việc giải thích pháp luật và chỉ dẫn người có nhu cầu (gọi là khách hàng) bằng

cách đưa ra lời khuyên làm đúng pháp luật và có lợi nhất hoặc đâu là lời khuyến cáo để

khách hành làm những gì pháp luật cấm hay không tiếp tục vi phạm pháp luật. Dịch vụ

pháp lý còn là hoạt động soạn thảo văn bản hợp đồng, soạn thảo di chúc và các đơn từ

khác. Nguồn cung ứng các dịch vụ này có thể là các công ty luật hoặc luật sư với tư

cách cá nhân.

Bào chữa là hoạt động tham gia tố tụng của các bên đương sự, trong giải quyết

các tranh chấp, hoặc xét xử các vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính, đặc biệt cần

thiết trong tố tụng hình sự. Bào chữa do các bên đương sự, bên bị hại, bị can, bị cáo tự

bào chữa hoặc thuê bào chữa viên nhân dân, hoặc luật sư. Khi người luật sư được đích

danh theo yêu cầu của bên bị hại, của bị cáo thì bị người luật sư đó có quyền và nghĩa

vụ pháp lý trong quá trình tố tụng. Vì thế luật sư khi tham gia tố tụng hình sự được coi

như một chức danh tư pháp bắt buộc.

Giám định tư pháp bao gồm giám định kỹ thuật hình sự, giám định pháp y và

pháp y tâm thần, giám định công trình xây dựng, giám định hàng hóa, giám định âm

thanh, chữ viết và chữ ký v.v... Giám định tư pháp là giám định mặt khách quan của vi

phạm pháp luật và tội phạm, đó là những bằng chứng sự thật khách quan giúp cho việc

giải quyết các tranh chấp pháp lý và xét xử các vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp

luật. Kết quả giám định đóng vai trò quan trọng trong hoạt động điều tra, truy tố và xét

xử tội phạm. Các tổ chức giám định tư pháp do các giám định nên viên thực hiện theo

yêu cầu của cơ quan điều tra, cơ quan công tố hoặc Tòa án.

Công chứng là việc các cơ quan công quyền thừa nhận các căn cứ pháp lý; thừa

nhận các bằng chứng khách quan của công dân nhằm giữ gìn và nâng cao giá trị pháp lý

các văn bằng chứng chỉ, danh hiệu vinh dự, lý lịch tư pháp, di chúc, văn bản hợp đồng,

quyền sở hữu tài sản: Đó là các tài liệu cần thiết cho công dân khi khi tham gia các quan

hệ pháp luật và đó còn là những bằng chứng xác thực căn cứ để giải quyết các tranh

chấp như xét xử các vụ án dân sự, kinh tế, lao động và hình sự. Nếu thiếu nó sẽ không

có căn cứ phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý và các lợi ích hợp pháp. Vì vậy, hoạt

động công chứng của các cơ quan nhà nước hoặc cơ quan công chứng chuyên nghiệp

trong việc xác nhận, chứng thực và công chứng là hoạt động phục vụ của nhà nước theo

yêu cầu của công dân do pháp luật quy định.

Hoạt động thi hành án của các cơ quan THA của nhà nước cũng được coi là

hoạt động bổ trợ tư pháp. Như mọi người đều biết các quyết định pháp luật và các bản

án đã có hiệu lực pháp luật đương nhiên là phải được thi hành ngay. Trong thực tế nói

chung là như vậy, tức là các quyết định pháp luật và các bản án đã có hiệu lực đã được

thực thi; song cũng trong thực tế không ít các quyết định pháp luật, các bản án dân sự,

kinh tế, lao động, kể cả số ít các bản án hình sự vẫn chưa được các bên thực hiện các

nghĩa vụ pháp lý và trách nhiệm hình sự một cách nghiêm túc triệt để và chính xác đúng

như nội dung bản án. Vì sao như vậy? do có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ

quan dẫn đến, nhưng bất luận là do đâu các phán quyết của cơ quan công quyền phải

được thực thi. Do vậy, cơ quan THA là cơ quan tổ chức THA các bản án bằng quyền

uy, bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.

Nói đến hoạt động bổ trợ tư pháp ngoài các cơ quan tổ chức, cá nhân thực hiện

kể trên còn có các hoạt động "thám tử tư" tức là việc các tổ chức, công dân thuê người

điều tra xác minh vụ việc. Dịch vụ thám tử từ ở mức là chưa được nhà nước thừa nhận

nhưng xã hội đang phát sinh yêu cầu này và cần được đáp ứng để công dân có điều kiện

bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình mà không chỉ phụ thuộc vào cơ quan điều

tra của nhà nước.

Thực tiễn cho thấy các hoạt động bổ trợ tư pháp là cần thiết cho hoạt động bảo

vệ pháp luật, cho việc thực hiện quyền tư pháp của các cơ quan tư pháp của nhà nước.

Đây là loại hoạt động trợ giúp, hỗ trợ pháp lý do các cơ quan nhà nước thực hiện hoặc

xã hội hóa các hoạt động này để các tổ chức phi nhà nước, trong xã hội công dân tham

gia thực hiện.

Như vậy, hoạt động thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước được thực hiện bằng

hai phương pháp:

Một là, Nhà nước trực tiếp thực hiện thông qua sự tham gia của các cơ quan tư

pháp của Nhà nước.

Hai là, Nhà nước gián tiếp thực hiện bằng cách giao cho các tổ chức, cá nhân,

các tổ chức cá nhân này hoạt động tư pháp nhưng với tính chất xã hội nghề nghiệp.

Nghề nghiệp ở đây là nghề nghiệp pháp lý. Cần lưu ý rằng, các hoạt động bảo vệ pháp

luật trước hết thuộc về nhà nước, do nhà nước tổ chức thực hiện. Việc xã hội hóa các

hoạt động tư pháp được nhà nước quy định cụ thể chặt chẽ theo trình tự giải quyết các

tranh chấp dân sự, lao động, kinh tế; và trình tự giải quyết khiếu nại tố cáo của công

dân; và pháp luật tố tụng hành chính, dân sự, kinh tế và hành chính quy định.

Xem xét khái niệm "tư pháp", "quyền tư pháp" và khái niệm "hoạt động tư pháp

của nhà nước", trong tổ chức hoạt động của Nhà nước ta trong điều kiện đổi mới đã cho

thấy các khái niệm cũng như định nghĩa trước đây đã tỏ ra hạn hẹp. GS.TSKH Đào Trí

úc khi bàn về "Những vấn đề về đổi mới hệ thống tư pháp" đã định nghĩa chung nhất về

hoạt động tư pháp như sau: "Hoạt động tư pháp là hoạt động nhân danh quyền lực nhà

nước nhằm xem xét, đánh giá và ra phán quyết về tính hợp pháp và tính đúng đắn của

hành vi pháp luật hay quyết định pháp luật khi có tranh chấp và mâu thuẫn giữa các bên

có lợi ích khác nhau tranh chấp hay mâu thuẫn đó" [51, tr. 206]. Tác giả của định nghĩa

này đã nhấn mạnh rất đúng rằng "nhân danh quyền lực nhà nước", song "xem xét, đánh

giá ra phán quyết" chỉ là "yếu tố đặc trưng của hoạt động xét xử và do đó có thể gọi hoạt

động tư pháp là hoạt động xét xử chứ không phải là sự phán quyết của một cấp quản lý

này đối với cấp quản lý khác; cấp trên đối với cấp dưới, "các bên có lợi ích khác nhau".

Như vậy, xem xét đánh giá ra phán quyết chỉ là sự tranh tụng còn được gọi là tố tụng..."

[51, tr. 207]. Một ý kiến khác quan niệm về quyền tư pháp rộng hơn: "Quyền tư pháp

được hiểu là hoạt động xét xử của Tòa án và cả những hoạt động của các cơ quan nhà

nước hoặc các tổ chức khác trực tiếp liên quan đến hoạt động xét xử của tòa án nhằm

bảo vệ chế độ XHCN, pháp chế trật tự pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của công

dân, lợi ích của xã hội..." [16, tr. 122]. Vì quan niệm như vậy cơ quan tư pháp ở nước ta

bao gồm: TAND, VKSND, các cơ quan điều tra và các tổ chức tư pháp bổ trợ như: Luật

sư, cơ quan công chứng, giám định tư pháp, tư vấn pháp luật.

Những ý kiến trên đã cho thấy sự giống nhau của các quan niệm về tư pháp và

quyền tư pháp. Đó là sự bảo vệ, giữ gìn pháp luật. Còn hoạt động thực hiện quyền tư pháp

hiện còn có những ý kiến khác nhau. Sự khác nhau chủ yếu là ai thực hiện quyền tư pháp?

và phạm vi hoạt động cũng như phương pháp hoạt động thực hiện quyền tư pháp của nhà

nước. Phải chăng chỉ những cơ quan nhà nước thực hiện quyền tư pháp bằng quyền lực nhà

nước, nhân danh nhà nước mà thôi. Về phạm vi thực hiện quyền tư pháp theo nguyên tắc

quyền lực nhà nước là thống nhất không phân chia song có phân công, phân nhiệm và có sự

phối hợp hoạt động của các cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước

về mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp; nguyên tắc cơ bản này cũng được cụ thể hóa trong

việc tổ chức thực hiện từng loại quyền một như quyền lập pháp không chỉ là Quốc hội (cố

nhiên Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất). Việc tổ chức thực hiện quyền tư pháp cũng

theo nguyên tắc là tập trung ở cơ quan nhà nước và có sự phân công phân nhiệm và cơ chế

phối hợp chặt chẽ, liên tục giữa các cơ quan nhà nước với nhau. Cơ quan điều tra, VKS và

Tòa án là các cơ quan chủ yếu, đặc trưng của hoạt động thực hiện quyền tư pháp của nhà

nước (theo quan niệm truyền thống). Trong hoạt động tố tụng hình sự, dân sự, kinh tế v.v...

luật sư có vai trò là người tham gia bắt buộc (trừ khi đương sự, bị cáo không yêu cầu). Đây

rõ ràng là một điểm mới trong tư duy thực hiện quyền tư pháp ở nước ta. Nhưng họ nhân

danh pháp luật chứ không nhân danh nhà nước. Trong điều kiện mới và theo luật tổ chức

các cơ quan nhà nước quy định (Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ

chức TAND, Luật tổ chức VKSND, Luật khiếu nại tố cáo v.v...). Có quan niệm cho rằng,

hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, hoạt động của các cơ quan

thanh tra nhà nước, hoạt động xử phạt hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước,

đều là hoạt động thực hiện quyền tư pháp của nhà nước; ở nước ta hiện nay, dường như

quan niệm trên đây chưa thực sự có cơ sở vững chắc cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn hoạt

động của các cơ quan trong hệ thống bộ máy nhà nước của ta. Có thể vì thế, chức năng

kiểm sát việc tuân theo pháp luật của của VKSND đã chuyển giao cho các cơ quan khác.

Từ những vấn đề nêu trên có thể coi hoạt động thực hiện quyền tư pháp của

Nhà nước là hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước trong việc bảo vệ pháp luật chống

mọi vi phạm pháp luật và tội phạm phát sinh trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội

nhằm bảo vệ chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, nền quốc phòng, ngoại giao;

bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; bảo vệ lợi ích của nhà nước, tính mạng,

sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và các lĩnh

vực trật tự pháp luật khác trên cơ sở pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng nói riêng.

1.2.1.2. Khái niệm về quyền công tố và thực hành quyền công tố

Theo văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, VKSND tập trung

làm tốt chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Thực hiện chức năng công tố

và kiểm sát hoạt động tư pháp không phải là những vấn đề mới mà đã được nhiều bài viết,

nhiều tài liệu giảng dạy đề cập đến, ở nhiều góc độ và ở nhiều mức độ khác nhau. Song,

cho đến nay chúng ta vẫn chưa có được sự thống nhất về mặt nhận thức đối với vấn đề này.

Với nội dung trình bày dưới đây, chúng tôi đưa ra một số suy nghĩ với mong muốn góp

phần làm rõ thêm khái niệm hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động

tư pháp.

Hiến pháp năm 1980 là văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nước ta đưa

ra cụm thuật ngữ "thực hành quyền công tố" khi đề cập đến chức năng của VKSND (Điều

138). Hai mươi năm qua, chúng ta luôn luôn nói về quyền công tố và thực hành quyền

công tố nhưng chưa có một tài liệu chính thức nào ghi nhận rõ ràng, cụ thể khái niệm, nội

dung, phạm vi thực hành quyền công tố và điều quan trọng hơn là những cơ quan nhà

nước nào thực hiện quyền công tố. Theo ý kiến của chúng tôi, nguyên nhân cơ bản có tính

chất quyết định của tình hình trên là do chúng ta chưa có sự thống nhất trong nhận thức

về khái niệm, nội dung, phạm vi quyền công tố. Và, do thiếu thống nhất trong nhận thức

về quyền công tố nên dẫn đến sự thiếu thống nhất trong nhận thức về hoạt động thực hành

quyền công tố. Bởi vậy, để có thể làm rõ thế nào là hoạt động thực hành quyền công tố,

trước hết phải làm rõ thế nào là quyền công tố.

Hiện nay ở nước ta đang tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau về quyền công

tố, mỗi quan điểm bên cạnh những mặt còn hạn chế đều có những nội dung hợp lý riêng

của nó. Chung quy lại, chúng tôi thấy có hai loại quan điểm chính. Để có cơ sở làm rõ

khái niệm thực hành quyền công tố và phân biệt nó với công tác kiểm sát hoạt động tư

pháp của VKS, một vấn đề rất quan trọng là phải làm cho thật rõ được phạm vi quyền

công tố. Có thể nói, phạm vi quyền công tố là vấn đề cho đến nay vẫn còn rất nhiều quan

điểm khác nhau, nhưng chung quy lại chúng tôi nhận thấy có hai nhóm quan điểm

chính:

Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng, quyền công tố không chỉ có trong lĩnh vực

tố tụng hình sự mà còn cả trong lĩnh vực tư pháp khác như tố tụng dân sự, tố tụng hành

chính, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động v.v...

Nhóm quan điểm thứ hai cho rằng, quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực tố tụng

hình sự, không thể có trong lĩnh vực tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, tố tụng kinh tế,

tố tụng lao động.

Theo chúng tôi thì nhóm quan điểm thứ nhất là phù hợp với điều kiện, hoàn

cảnh và thực tiễn của pháp luật Việt Nam.

Việc xác định quyền công tố và theo đó là thực hành quyền công tố có ý nghĩa

lý luận và thực tiễn rất quan trọng. Giải quyết được rõ ràng, rành mạch những vấn đề

trên giúp cho việc xác định chính xác vai trò, vị trí của VKS trong hệ thống cơ quan nhà

nước nói chung và trong mối quan hệ với các cơ quan tư pháp nói riêng cũng như chức

năng, nhiệm vụ của VKS, đặc biệt trong tố tụng hình sự. Từ đó mới có thể đưa ra được

những quyết định đúng đắn, hợp lý về mô hình tổ chức VKSND.

Trong các tài liệu pháp lý ở nước ta, khái niệm thực hành quyền công tố cũng

như nội dung, phạm vi của nó, mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố với thực hiện

chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp còn ít được đề cập

và nếu có thì cũng chưa rõ ràng. Một số công trình nghiên cứu khoa học gần đây khi đề

cập đến hoạt động thực hành quyền công tố cũng chỉ mới đưa ra được một số biện pháp

pháp lý để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát hình sự như kiểm sát điều

tra, kiểm sát xét xử hình sự, Kiểm sát giam giữ và cải tạo, Kiểm sát THA. Các công

trình nghiên cứu này lấy những nguyên lý của V.I. Lênin về pháp chế XHCN và vai trò

của VKSND, về vai trò và bổn phận của ủy viên công tố làm cơ sở lý luận và lấy các

quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND từ năm 1960 đến nay làm cơ sở pháp

lý. Bởi vậy, trong nhận thức của không ít người làm công tác nghiên cứu và thực tiễn

trong cũng như ngoài ngành kiểm sát đã nhầm lẫn giữa quyền công tố và hoạt động thực

hành quyền công tố trên nhiều phương diện như đối tượng, nội dung, phạm vi. Đồng

thời, các công trình nghiên cứu này luôn gắn quyền công tố chỉ với VKS, coi đó là

quyền của VKS. Do đó đã không lý giải được vấn đề là khi một số cơ quan khác (cơ

quan điều tra, Tòa án...) sử dụng một số biện pháp như khởi tố vụ án, khởi tố bị can...

thì có phải cơ quan này cũng thực hành quyền công tố hay không.

Thật ra thì thuật ngữ "quyền công tố" và "thực hành quyền công tố" đã được

biết đến từ lâu và chúng ta cũng đã sử dụng quyền này trong thực tiễn hoạt động tư pháp

từ nhiều năm trước đây. Nhưng mãi đến Hiến pháp năm 1980 nó được ghi nhận chính

thức về mặt Hiến định trong Điều 138 khi quy định về chức năng của VKSND. Song

cho tới nay, khái niệm "quyền công tố" và "thực hành quyền công tố" vẫn chưa được lý

giải một cách cặn kẽ dưới góc độ pháp lý cũng như góc độ ngôn ngữ và cũng chưa có

văn bản pháp luật nào của Nhà nước ta chính thức giải thích khái niệm "quyền công tố"

và "thực hành quyền công tố". Hiện nay, ở nước ta đang tồn tại rất nhiều quan điểm

khác nhau về quyền công tố. Chúng tôi nhất trí với quan điểm cho rằng, quyền công tố

là quyền của Nhà nước đưa các vụ việc vi phạm trật tự công cộng hoặc vi phạm pháp

luật liên quan đến lợi ích chung ra cơ quan xét xử, vì Nhà nước nhân danh xã hội có

trách nhiệm duy trì trật tự, an toàn của cộng đồng bằng pháp luật.

Như vậy "quyền công tố" chính là quyền của Nhà nước nhân danh lợi ích xã hội

để truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với pháp nhân hay thể nhân ra trước Tòa án - cơ

quan xét xử, nếu những chủ thể đó có hành vi phạm tội hoặc vi phạm pháp luật xâm hại

đến lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, và lợi ích chính đáng của công dân được pháp

luật bảo vệ. Và vì lẽ đó, quyền công tố không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực hình sự mà còn

mở rộng trong cả những lĩnh vực khác như dân sự, kinh tế, hành chính, lao động.

Và như vậy "thực hành quyền công tố" là hoạt động thực thi pháp luật của cơ

quan nhà nước được Nhà nước giao nhiệm vụ giữ "quyền công tố" nhằm đảm bảo cho

việc truy cứu trách nhiệm pháp lý đúng với quy định của pháp luật đối với các đối

tượng có hành vi vi phạm pháp luật đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi

ích công cộng, và lợi ích chính đáng của cá nhân công dân. Trong bộ máy nhà nước ta

thì cơ quan được giao nhiệm vụ đó chính là hệ thống VKSND từ trung ương đến địa

phương.

1.2.1.3. Khái niệm về kiểm sát các hoạt động tư pháp

Hoạt động tư pháp có ý nghĩa rất quan trọng, bởi vậy Đảng và Nhà nước ta rất

quan tâm đến lĩnh vực này. Trong cơ chế kiểm tra, kiểm soát đối với hoạt động của cơ

quan tư pháp thì hoạt động kiểm sát của VKSND có ý nghĩa rất quan trọng vì hoạt động

của VKSND mang tính chuyên trách, có đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên, điều tra viên

chuyên sâu nghiệp vụ, được pháp luật trao cho đầy đủ các quyền năng trong quá trình

thực hiện kiểm sát đối với các hoạt động của cơ quan tư pháp.

Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của VKSND được quy định tại

Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND, tại Bộ luật tố tụng hình sự và các Pháp lệnh thủ tục

giải quyết các vụ án theo trình tự tố tụng tư pháp và các văn bản hướng dẫn thực hiện

của các ngành hữu quan. Theo quy định của Hiến pháp và các văn bản pháp luật của

Nhà nước ta thì nhiệm vụ chính của hệ thống VKSND là: bảo vệ pháp chế XHCN; bảo

vệ chế độ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập

thể; bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân;

bảo đảm để mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích

hợp pháp của công dân đều phải được xử lý theo pháp luật. Trong quá trình thực hiện

chức năng, nhiệm vụ của mình, VKSND có nhiều biện pháp, hình thức hoạt động thực

hiện chức năng kiểm sát hoạt động của các cơ quan tư pháp và những người tham gia tố

tụng nhưng đều nhằm một mục đích là bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm

chỉnh và thống nhất. Trong quá trình đó, nếu phát hiện có vi phạm VKSND có thể kiến

nghị, kháng nghị yêu cầu khắc phục vi phạm hoặc khởi tố vụ án...

Về kiểm sát hoạt động của các cơ quan tư pháp có thể xem xét ở nhiều khía

cạnh, thứ nhất là việc kiểm sát việc chấp hành pháp luật trong hoạt động đối với từng cơ

quan theo chức năng, nhiệm vụ của cơ quan đó như: kiểm sát hoạt động điều tra của cơ

quan điều tra trong vụ án hình sự, kiểm sát hoạt động xét xử các vụ án hình sự, dân sự,

hành chính, lao động, kinh tế... của Tòa án, kiểm sát công tác THA. Về hoạt động này thì

có những việc mà sự tham gia của VKSND là bắt buộc. Chẳng hạn, việc giải quyết vụ án

hình sự, việc công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước

ngoài hoặc đối với những vụ án dân sự do VKSND khởi tố. Ngoài những lĩnh vực trên thì

sự tham gia của VKSND đối với từng vụ việc cụ thể là không bắt buộc nhưng VKSND có

quyền tham gia bất cứ giai đoạn nào đối với từng vụ việc của từng lĩnh vực cụ thể.

Trong phạm vi trách nhiệm của mình, các VKSND thực hiện chức năng, nhiệm vụ

theo những quy định từ Chương II đến Chương VI của Luật tổ chức VKSND cũng như

các quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến hoạt động của

VKSND và các cơ quan tư pháp.

- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra cơ quan điều tra và các

cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Đây là công tác,

nhiệm vụ quan trọng của VKS. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự thì toàn bộ

hoạt động điều tra của cơ quan điều tra đều có hoạt động kiểm sát bao trùm nhằm mục

đích bảo đảm việc điều tra đúng với quy định của pháp luật. Trong công tác này

VKSND kiểm sát việc tuân thủ pháp luật tố tụng hình sự trong quá trình điều tra của cơ

quan điều tra từ khi khởi tố vụ án (một số trường hợp kiểm sát trước khi khởi tố vụ án

như: trường hợp khám nghiệm hiện trường, bắt khẩn cấp, bắt quả tang) đến khi kết thúc

điều tra. Trong công tác này VKSND được quyền áp dụng mọi biện pháp quy định

trong Bộ luật tố tụng hình sự như: phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các lệnh của cơ

quan điều tra, đề nghị thay đổi điều tra viên, trả lại hồ sơ điều tra bổ sung, đình chỉ điều

tra vụ án, bị can, yêu cầu hoặc kháng nghị đối với hành vi vi phạm pháp luật của cơ

quan điều tra hoặc tự khởi tố vụ án (đây cũng là sự chỉ đạo điều tra)... nhằm mục đích

mọi tội phạm phải được phát hiện kịp thời, không để lọt kẻ phạm tội cũng như không

làm oan người vô tội. Và duy nhất chỉ có VKSND mới có quyền truy tố người phạm tội

để TAND xét xử.

- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án của TAND.

Trong quá trình giải quyết, xét xử các vụ án, và các tranh chấp Tòa án cũng phải tuân

theo những quy định của pháp luật như: đối với việc giải quyết vụ án hình sự thì căn cứ

vào Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự, đối với việc giải quyết vụ việc dân sự,

hành chính, kinh tế, lao động thì căn cứ vào Bộ luật dân sự và Pháp lệnh thủ tục giải

quyết các tranh chấp dân sự, các luật và văn bản quy phạm pháp luật liên quan v.v... để

bảo đảm việc xét xử đúng quy định của pháp luật về nội dung, thủ tục, trình tự, thành

phần phù hợp với tính chất của từng loại lĩnh vực, bảo đảm những nguyên tắc trong xét

xử, bảo đảm các quyền của đương sự... nếu phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục

thì VKSND có quyền kháng nghị để cơ quan có thẩm quyền xem xét khắc phục.

- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành các bản án hoặc quyết

định đã có hiệu lực pháp luật của TAND. Việc THA dựa vào các bản án hoặc quyết

định đã có hiệu lực pháp luật của TAND và Pháp lệnh THA. Tùy theo từng loại hình

phạt, loại việc thì việc THA được thực hiện bởi các cơ quan Tòa án, việc bắt, dẫn giải,

quản lý, giáo dục người phạm tội trở thành người lương thiện do cơ quan Công an (hoặc

Quân đội) thực hiện. Ngoài ra, chính quyền cơ sở và cơ quan, tổ chức có người phạm tội

cũng thực hiện quản lý, giáo dục người phạm tội bị áp dụng các hình phạt khác nhẹ hơn

hình phạt tù. Việc thi hành các bản án dân sự, hành chính, kinh tế, lao động... do cơ

quan THA dân sự tổ chức thực hiện nhằm bảo đảm để bản án, quyết định của Tòa án đã

có hiệu lực pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh, thể hiện tính nghiêm minh của

pháp luật, đồng thời bảo vệ quyền, và lợi ích chính đáng tổ chức, cơ quan, và của công

dân.

- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam giữ và cải tạo. Trong quá

trình giải quyết vụ án hình sự để đảm bảo cho việc điều tra tội phạm theo quy định của

pháp luật thì cơ quan tiến hành tố tụng hình sự được áp dụng một số biện pháp ngăn

chặn trong đó biện pháp tạm giữ, tạm giam là những biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc

nhất vì nó tạm thời tước bỏ, hạn chế một số quyền cơ bản của dân khi chưa có bản án,

quyết định của Tòa án. Đối với những trường hợp phải chấp hành hình phạt tù thì việc

giam để cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội nhằm giáo dục, cải tạo họ trở thành

người lương thiện. Công tác kiểm sát này nhằm đảm bảo việc bắt, tạm giữ, tạm giam

phải có căn cứ, việc giam, giữ đúng thời hạn, bảo đảm đúng chế độ tạm giữ, tạm giam,

cải tạo và trật tự nơi giam giữ,... công tác kiểm sát này nhằm bảo đảm cho việc thực

hiện những quyền của người bị tạm giữ, tạm giam, cải tạo mà pháp luật không tước bỏ.

Công tác này có ý nghĩa rất quan trọng, bởi vậy VKSND có quyền kiểm sát theo kế

hoạch hoặc thường xuyên hay kiểm sát bất kỳ nếu phát hiện vi phạm thì yêu cầu cơ

quan giam, giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, tạm giam, cải tạo trái với pháp

luật, cơ quan có trách nhiệm phải thực hiện ngay yêu cầu trên của VKSND.

- Giải quyết khiếu nại tố cáo. Theo quy định của pháp luật thì VKSND có trách

nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo có liên quan đến hoạt động của các cơ quan tư pháp

nói chung và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong phạm vi trách nhiệm của mình nói riêng.

Chẳng hạn, đối với các khiếu nại trong tố tụng hình sự thì VKSND giải quyết theo Điều

24, 144 Bộ luật tố tụng hình sự. Công tác này gắn liền với chức năng hiện nay của

VKSND. Qua nghiên cứu tham khảo việc xử lý đơn thư khiếu nại, chúng tôi thấy việc

khiếu nại của công dân đối với hoạt động của cơ quan tư pháp ngày càng tăng do nhiều

nguyên nhân nhưng cơ bản do chất lượng hoạt dộng của cơ quan tư pháp chưa cao, do

đó với mức độ nhiều, ít khác nhau nhưng hầu như ở các giai đoạn trong quá trình hoạt

động của cơ quan tư pháp cũng bị khiếu nại tố cáo. Việc giải quyết khiếu nại tố cáo

đang là vấn đề nan giải nhất là đối với những khiếu nại về những bản án, quyết định của

Tòa án. Thực tế cho thấy số lượng khiếu nại nhiều, lực lượng giải quyết của VKSND

còn mỏng, đặc biệt việc giải quyết khiếu nại phải theo trình tự tố tụng, có nhiều việc

phụ thuộc vào các cơ quan khác, chẳng hạn nếu phát hiện sai lầm của bản án thì

VKSND mượn hồ sơ, nghiên cứu, kháng nghị theo thẩm quyền, Tòa án nghiên cứu xem

xét chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng nghị, nếu chấp nhận thì xét xử theo thẩm

quyền theo trình tự chung. Cho nên nhiều việc giải quyết không kịp thời vì đã hết thời

hiệu giải quyết do đó có nhiều vụ khiếu nại kéo dài, gay gắt.

1.2.2. Khái niệm và đặc trưng của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt

động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp

2.1.2.1. Khái niệm pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố

và kiểm sát các hoạt động tư pháp

Pháp chế XHCN nói chung và làm rõ pháp chế XHCN trong một lĩnh vực nhất

định của hoạt động nhà nước và đời sống xã hội là một vấn đề không đơn giản. Xem xét

pháp chế XHCN trong từng lĩnh vực cụ thể tuy không còn là mới, nhưng trên phương

diện lý luận, nhiều khía cạnh của vấn đề cần phải được làm rõ. Trước hết, cần phải coi

pháp chế là một nguyên tắc hiến định: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không

ngừng tăng cường pháp chế XHCN" (Điều 12 Hiến pháp năm 1992). Pháp chế XHCN

phải được vận dụng cụ thể trong điều kiện đổi mới ở nước ta. Đã có nhiều công trình

khoa học nghiên cứu về pháp chế XHCN và tăng cường pháp chế trong hoạt động lập

pháp, lập quy, pháp chế XHCN trong quản lý nhà nước và pháp chế XHCN trong quản

lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường ở nước ta. Vậy pháp chế trong hoạt động

thực hiện quyền tư pháp của nhà nước là gì? Nội dung của nó có những điểm gì khác

với pháp chế XHCN được thiết lập trên các lĩnh vực khác.

Khi đặt vấn đề pháp chế XHCN trên một lĩnh vực nào đó, đã có ý kiến cho

rằng: "Pháp chế XHCN là thống nhất, sao có thể chia cắt pháp chế ra từng mảng như

vậy được". Đúng là như vậy nếu xem xét pháp chế trên phương diện pháp chế XHCN là

một nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước. Đã là nguyên tắc pháp chế thì chỉ có

một tư tưởng, một quan điểm, một định hướng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ hoạt động

của Nhà nước và hễ lơi lỏng nguyên tắc này một chút là pháp chế lại bị vi phạm ngay.

Nhưng phải thấy rằng, trong thực tiễn nguyên tắc pháp chế XHCN đã được cụ thể hóa

trong các yếu tố của cơ chế vận hành toàn bộ đời sống nhà nước và đời sống xã hội. Các

yếu tố của cơ chế tổng thể vận hành đời sống xã hội ở nước ta là: Đảng lãnh đạo, Nhà

nước quản lý và nhân dân làm chủ. Cụ thể là: Pháp chế là nguyên tắc hoạt động của

Đảng Cộng sản Việt Nam; các cấp ủy Đảng từ Trung ương tới địa phương phải hoạt

động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; pháp chế là nguyên tắc tổ chức và hoạt

động của nhà nước; pháp chế là nguyên tắc xử sự của công dân.

Nếu coi nội dung của pháp chế đồng nghĩa với nguyên tắc pháp chế là làm

nghèo đi nội hàm sâu rộng của khái niệm pháp chế XHCN đã được giới khoa học pháp

chế thừa nhận. Nội dung pháp chế XHCN đã được quy định tại Điều 12 của Hiến pháp

năm 1980 và Điều 12 của Hiến pháp năm 1992 là:

Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ

trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và

pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến

pháp và pháp luật.

Mọi hành động xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp

pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật.

Rõ ràng nội dung của pháp chế là đời sống của pháp luật trong thực tế, là sự

hiện diện của hệ thống pháp luật trong đời sống xã hội

Loại ý kiến khác thì cho rằng, không có pháp chế trong lĩnh vực hoạt động tư

pháp bởi vì pháp chế mà nội hàm của nó là hành vi thực hiện pháp luật phù hợp với

pháp luật của các chủ thể khi tham gia các quan hệ pháp luật. Khi có tranh chấp pháp

luật, vi phạm pháp luật và vi phạm pháp luật ở một cấp độ cao hơn là hành vi nguy hiểm

cho xã hội được quy định là tội phạm thì không có pháp chế nữa, tức là pháp chế đã bị

xâm phạm. Do đó, hoạt động tư pháp chỉ là để bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế mà

thôi. Theo lôgíc hình thức thì không có pháp chế trong hoạt động tư pháp. Tất nhiên khi

nền pháp chế đã được thiết lập vững chắc thống nhất và bền vững theo lý thuyết, trên lý

tưởng về một nền công lý vĩnh cửu thì làm gì có vi phạm pháp luật. Khi đó xã hội sẽ

không còn phân chia giai cấp, sẽ không có mâu thuẫn đối kháng và cả những mâu thuẫn

không đối kháng, và ngay cả nhà nước và pháp luật cũng không còn. Khi đó pháp chế

cũng không cần thiết nữa. Vì vậy, xem xét pháp chế trong hoạt động thực hiện quyền tư

pháp của nhà nước trước hết phải coi khái niệm pháp chế cũng như nhà nước và pháp

luật thuộc phạm trù lịch sử, có nguồn gốc ra đời, tồn tại và tiêu vong. Vì vậy, xem xét

pháp chế trong lĩnh vực tư pháp cần dựa trên các căn cứ, tức cơ sở tồn tại của nó. Đó là

cơ sở xã hội và cơ sở pháp luật của pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền

công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND.

Về cơ sở chính trị xã hội: Lịch sử cũng như hiện tại, đấu tranh giai cấp là động

lực và quy luật của sự phát triển xã hội loài người. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công

nhân là đấu tranh giải phóng loài người khỏi ách áp bức, bóc lột và bất công. Đảng

Cộng sản Việt Nam - chính đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt

Nam, đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi hết từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Với

sự ra đời của Nhà nước cộng hòa dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam á nay là Nhà

nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì

dân, đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng với sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt

Nam.

Dân tộc ta luôn phải đấu tranh chống lại các thế lực đế quốc xâm lược và các

thế lực thù địch khác chống lại chế độ XHCN của chúng ta. Chính vì vậy nhiệm vụ của

chuyên chính vô sản được cụ thể hóa trong "Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình

mới" như Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa

IX) đề ra. Trong đời sống xã hội vẫn nảy sinh các tệ nạn như: ma túy, mại dâm và mê

tín dị đoan. Đặc biệt là trong nền kinh tế hàng hóa vận hành theo cơ chế thị trường, với

nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại thường xuyên phát sinh những "mặt trái" vốn có

của nó. Đó là hiện tượng cạnh tranh dẫn đến độc quyền, phá hoại môi trường sống, hiện

tượng lừa đảo, gian lận thương mại, trốn thuế v.v... Do đó, đạo đức xã hội dễ bị xói

mòn; một bộ phận cán bộ công chức nhà nước thoái hóa, biến chất, tệ nạn tham nhũng

diễn biến phức tạp. Tóm lại, trong lòng xã hội luôn tiềm ẩn những nguy cơ phát sinh

mâu thuẫn xã hội. Đó là cơ sở xã hội của hiện tượng vi phạm pháp luật. Điều đó bác bỏ

những quan niệm sai lầm cho rằng vì có pháp luật nên mới phát sinh vi phạm pháp luật.

Về cơ sở pháp lý: Cơ sở và tiền đề của pháp chế là pháp luật. Giả thiết nhà nước

không quản lý xã hội bằng pháp luật thì sẽ không có bóng dáng pháp chế trong đời sống

xã hội. Do nhu cầu điều chỉnh các quan hệ phát sinh khi có sự vi phạm "pháp luật nội

dung" Nhà nước ta đã ban hành pháp luật về hình thức được hiểu là pháp luật về tố

tụng. Pháp luật tố tụng điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong việc giải quyết các

tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, các tranh chấp giữa công dân với các cơ quan hành

chính nhà nước và sự vi phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước, của cán bộ công

chức nhà nước trong khi thi hành công vụ; đặc biệt là quan hệ giữa Nhà nước (đại diện

cho Nhà nước là các cơ quan điều tra, VKSND và TAND) với các vi phạm pháp luật và

tội phạm.

Từ hai căn cứ trên cho thấy, vi phạm pháp luật và tội phạm có nguồn gốc phát

sinh từ xã hội; cơ sở xem xét đánh giá và phán xét để xử lý vi phạm pháp luật và tội

phạm là pháp luật. Nhà nước có trách nhiệm chủ yếu và có quyền lực cao nhất trong

việc xử lý, giải quyết và xét xử các vi phạm pháp luật và tội phạm theo nguyên tắc, trình

tự và thủ tục luật định nhằm chặn đứng các hành vi vi phạm pháp luật.

Như vậy, khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện quyền lực nhà

nước để bảo vệ pháp luật bằng pháp luật tố tụng là hoạt động thực hiện pháp luật. Thực

hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền là một dạng thực hiện pháp luật

đặc thù. Đó là hoạt động áp dụng pháp luật, nhưng áp dụng pháp luật thực hiện quyền tư

pháp chỉ trong hai trường hợp: Một là, khi có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý

giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật. Hai là, trường hợp cần phải áp dụng các biện

pháp cưỡng chế của nhà nước. Trường hợp áp dụng pháp luật khi pháp luật không tự

nhiên phát sinh quyền và nghĩa vụ chủ thể là việc thực hiện quyền lực trong quản lý

hành chính nhà nước. Vì vậy hoạt động quản lý hành chính nhà nước không nằm trong

phạm vi hoạt động tư pháp.

Từ khái niệm pháp chế XHCN và những vấn đề đã phân tích ở trên có thế quan

niệm pháp chế XHCN trong hoạt động thực hiện quyền tư pháp của nhà nước như sau:

Pháp chế XHCN trong hoạt động thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước là sự đòi hỏi các

cơ quan nhà nước và cán bộ công chức nhà nước có thẩm quyền hoạt động nhân danh

quyền lực nhà nước thực hiện áp dụng pháp luật theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp

luật quy định nhằm xem xét, đánh giá và phán quyết về tính đúng đắn, tính hợp pháp của

hành vi pháp luật hay quyết định pháp luật và tổ chức thi hành các quyết định pháp luật và

các bản án đã có hiệu lực pháp luật để bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi

ích xã hội, lợi ích của các tổ chức; quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Trong hoạt động thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước thì hoạt động thực

hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND có một vị trí rất

quan trọng. Như phần trên đã phân tích thì: "thực hành quyền công tố" chính là thực

hiện quyền của Nhà nước nhân danh lợi ích xã hội để truy cứu trách nhiệm pháp lý đối

với pháp nhân hay thể nhân ra trước Tòa án - cơ quan xét xử, nếu những chủ thể đó có

hành vi phạm tội hoặc vi phạm pháp luật xâm hại đến lợi ích nhà nước, lợi ích công

cộng và lợi ích chính đáng của công dân được pháp luật bảo vệ. Và "kiểm sát các hoạt

động tư pháp" chính là hoạt động kiểm sát hoạt động của các cơ quan tư pháp, và nhân

viên của các cơ quan này trong lĩnh vực thực thi pháp luật của họ, nhằm đảm bảo cho

hoạt động của các cơ quan này cũng như việc áp dụng pháp luật của họ trong khi giải

quyết công việc phải tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh và thống nhất. Như vậy

hoạt động "thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp" của VKSND

chính là nhằm duy trì pháp chế XHCN trong hoạt động thực hiện quyền tư pháp của

Nhà nước, và cũng chính là nhằm bảo vệ pháp chế XHCN.

Vậy trong phạm vi hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động

tư pháp của VKSND có khái niệm về pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền

công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp hay không? Từ khái niệm pháp chế XHCN và

quan niệm về pháp chế XHCN trong hoạt động thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước

cũng như những vấn đề đã phân tích ở trên có thể quan niệm pháp chế XHCN trong hoạt

động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp VKSND như sau: Pháp

chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp

của Viện kiểm sát nhân dân là sự đòi hỏi cơ quan Viện kiểm sát và các kiểm sát viên có

thẩm quyền khi hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước phải thực hiện việc áp dụng

pháp luật theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định nhằm xem xét, đánh giá và phán quyết

về tính đúng đắn, tính hợp pháp của hành vi pháp luật hay quyết định pháp luật của các

cơ quan tiến hành tố tụng để bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi ích xã

hội, lợi ích của các tổ chức; quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

1.2.2.2. Đặc trưng của pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền

công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp

Pháp chế XHCN là hiện tượng của một chế độ xã hội trong đó mọi tổ chức, mọi

công dân đều tôn trọng và thực hiện Hiến pháp và pháp luật một cách nghiêm minh,

chính xác, triệt để. Pháp chế là thống nhất cũng như một nhà nước đơn nhất không có

hai hệ thống pháp luật. Song pháp chế được thiết lập trong mỗi một lĩnh vực của đời

sống nhà nước và đời sống xã hội; do đối tượng điều chỉnh của các ngành luật khác

nhau nên phương pháp điều chỉnh của các ngành luật không hoàn toàn giống nhau. Bởi

vậy, pháp chế XHCN "là sự hiển hiện của pháp luật" trên mỗi lĩnh vực của đời sống xã

hội cũng mang những đặc trưng riêng. Pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành

quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND nêu trên tuy mới chỉ

dừng ở "quan niệm" chưa phải là một khái niệm khoa học có tính giáo khoa và nội hàm

của quan niệm này không bao quát toàn bộ hoạt động tư pháp như khái niệm "pháp chế

về tư pháp".

Tuy vậy, vẫn có thể nhận thấy những đặc trưng cơ bản của pháp chế XHCN

trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của

VKSND. Những đặc trưng đó là:

Thứ nhất: Pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm

sát các hoạt động tư pháp của VKSND thể hiện qua hành vi hoạt động mang tính quyền

lực nhà nước.

Các hành vi hoạt động mang tính quyền lực trong hoạt động thực hành quyền

công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND và cán bộ công chức có thẩm

quyền. Đây là hoạt động áp dụng pháp luật nhân danh quyền lực nhà nước để thực hiện

quyền công tố và giám sát việc chấp hành pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng

trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý và các biện pháp

cưỡng chế nhà nước. Tuy cũng là nhân danh nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước

nhưng đặc điểm của pháp chế trong việc thực hiện quyền tư pháp khác với pháp chế

trong hoạt động lập pháp, lập quy và pháp chế trong hoạt động quản lý nhà nước trên

các lĩnh vực đời sống xã hội.

Thứ hai: Pháp chế trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các

hoạt động tư pháp của VKSND được quy định bởi chất lượng của hệ thống các quy

phạm pháp luật trong đó có hệ thống các quy phạm pháp luật về tố tụng.

Khi xử lý các vi phạm pháp luật, các cơ quan bảo vệ pháp luật đều phải xác

định trước hết hành vi vi phạm pháp luật đó trái với những quy phạm pháp luật cụ thể

nào; đồng thời với việc xử lý các vi phạm pháp luật, các cơ quan nhà nước phải tuân

theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Ví dụ, các cơ quan điều tra, VKS và Tòa án

khi giải quyết các vụ án hình sự đều chịu sự điều chỉnh của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố

tụng hình sự. Nếu đây là những quyết định pháp luật và bản án có hiệu lực pháp luật thì

có thể đánh giá hoạt động thực hiện quyền tư pháp có hiệu quả. Trước đây, đánh giá

hoạt động tư pháp hay thiên về việc các cơ quan tư pháp có tuân theo những quy tắc và

trình tự thủ tục tố tụng hay không. Có nhiều khi thực hiện quyền tư pháp các cơ quan tư

pháp phải tuân thủ pháp luật tố tụng vì pháp luật tố tụng đảm bảo cho việc thực hiện

quyền tư pháp đưa ra được các phán quyết chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp

luật. Như thế đã thấy rõ đặc điểm này là dạng hành vi tổng hợp và càng thấy rõ nội hàm

phong phú của pháp chế XHCN trong hoạt động thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước.

Đặc điểm này biểu hiện sự đòi hỏi các cơ quan nhà nước thực hiện quyền tư

pháp phải xem xét, giải quyết hay xét xử đúng thẩm quyền, đúng người, đúng việc,

đúng tội, đúng pháp luật. Bởi vậy, chất lượng của hệ thống pháp luật nói chung và chất

lượng của hệ thống pháp luật tố tụng có tính quy định pháp chế trong hoạt động thực

hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND.

Thứ ba: Pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát

các hoạt động tư pháp của VKSND được thiết lập chủ yếu bằng hành vi hợp pháp của

các chủ thể tham gia các quá trình tố tụng.

Hành vi hợp pháp là yếu tố chủ yếu cấu thành pháp chế; đó là nội dung của

pháp chế. Đây là đặc điểm cơ bản nhất của pháp chế trong hoạt động tư pháp của Nhà

nước. Các cơ quan tư pháp của Nhà nước nói riêng và các cơ quan bảo vệ Hiến pháp và

pháp luật nói chung phải được tổ chức hoạt động trên cơ sở pháp luật. Hành vi hoạt

động của các cơ quan nhà nước trong thực hiện quyền tư pháp trước hết là hành vi thực

hiện pháp luật nhưng là dạng hành vi áp dụng pháp luật. Trên phương diện thực hiện

quyền tư pháp và tính chất của dạng hoạt động tư pháp có thể khái quát hóa hoạt động

thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước được biểu hiện tập trung trong các kết quả của

các dạng hoạt động tư pháp cụ thể. Chẳng hạn, kết quả của hoạt động giám sát của các

cơ quan quyền lực nhà nước; biên bản kết luận của hoạt động Thanh tra nhà nước, quyết

định xử lý kỷ luật đối với cán bộ công chức (phạt vi phạm hành chính); kết quả giải

quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; các quyết định và bản án dân sự, lao động, kinh tế,

hành chính và bản án hình sự có đúng thẩm quyền và phù hợp với chức năng mà luật

pháp quy định cho cơ quan tiến hành giải quyết hay không?

Cho nên, pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát

các hoạt động tư pháp của VKSND còn được quy định bởi các quy phạm pháp luật về tổ

chức và hoạt động của VKSND và của các cơ quan tiến hành tố tụng, cũng như các cơ

quan tư pháp như Luật tổ chức VKSND, Luật tổ chức TAND v.v...

Thứ tư: Pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát

các hoạt động tư pháp của VKSND còn được quy định bởi cơ chế xử lý các vi phạm

pháp luật trong hoạt động tư pháp.

Trước hết, cần khẳng định đây là một đặc điểm của pháp chế XHCN trong hoạt

động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND nói riêng

và pháp chế XHCN trong hoạt động tư pháp của Nhà nước nói chung. Giả sử, Nhà nước

thực hiện quyền lập pháp, lập quy tốt rồi và Nhà nước thực hiện hành pháp đúng đắn rồi

và các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân, các

đơn vị kinh tế và mọi công dân đều tôn trọng và thực hiện Hiến pháp và pháp luật một

cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác rồi thì quyền tư pháp nhà nước không phải sử

dụng đến. Lý luận và thực tế của đời sống xã hội đã cho thấy quyền lực nhà nước thuộc

về nhân dân; thực hiện quyền tư pháp là đáp ứng nhu cầu của nhân dân vì lợi ích của

nhân dân.

Có thể đặc điểm này không có trong tâm thức của người dân, trong khát vọng

của công chúng khi nghĩ về TAND; nên kỳ vọng cuối cùng của người dân sau khi đã

làm tất cả những hoạt động "tự vệ" chính đáng khác. Đúng là vai trò và thành tích của

các cơ quan tư pháp nước ta là không thể phủ nhận nhưng đặc điểm này đang tồn tại bởi

hoạt động thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước xét cho cùng đều thông qua hoạt động

của con người. Ngày nay, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, đội ngũ cán

bộ công chức trong các cơ quan tư pháp khó tránh khỏi những sai lầm, khuyết điểm và

vi phạm pháp luật. Nếu có vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp cán bộ công chức

tư pháp có thể phải chịu trách nhiệm pháp lý về chế độ vật chất, chế độ kỷ luật nhà

nước, trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, vấn đề kiểm tra, giám sát để phát hiện vi phạm

của cán bộ công chức trong các cơ quan tư pháp cũng là một nhiệm vụ quan trọng nhằm

bảo đảm pháp chế trong hoạt động của các cơ quan tư pháp. Vì vậy, cơ chế xử lý các vi

phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp là yếu tố quy định đặc điểm của pháp chế trên

lĩnh vực này.

Chương 2

thực trạng pháp chế trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp củaViện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội

trong thời gian qua

2.1. Tình hình hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội

trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp

2.1.1. Quá trình hình thành, phát triển về tổ chức và hoạt động của Viện

kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội

Cách đây 43 năm (ngày 26-7-1960), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký lệnh công bố

Luật Tổ chức VKSND, đánh dấu sự ra đời của hệ thống cơ quan VKSND trong bộ máy

Nhà nước XHCN Việt Nam.

Và ngày 26-7-1960 đã trở thành ngày khai sinh của hệ thống VKSND các cấp.

Cũng từ đó hệ thống VKSND đã trở thành một trong những công cụ của chuyên chính

vô sản; một công cụ bảo vệ pháp chế XHCN; bảo vệ và tạo điều kiện để nhân dân lao

động thực hiện quyền lực của mình với vai trò của người làm chủ.

Cũng như toàn bộ hệ thống VKSND trong cả nước, VKSND thành phố Hà Nội

được thành lập trên cơ sở Viện công tố trước đây. Đội ngũ cán bộ, công chức đầu tiên

của VKSND thành phố hầu hết đều là cán bộ quân đội chuyển ngành hoặc được chuyển

từ đội ngũ cán bộ làm công tác thanh niên, công tác phong trào thuộc các ngành khác

sang. Tổng số cán bộ toàn ngành kiểm sát Hà Nội lúc đó chỉ có khoảng trên 50 người.

Trình độ chuyên môn của cán bộ, kiểm sát viên hầu như chưa được đào tạo cơ bản về

kiến thức pháp lý.

Cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện làm việc thiếu thốn. Trụ sở làm viêc của

VKSND thành phố phải ở nhờ trụ sở của TANDTC từ khi thành lập đến tháng 10 năm

1995. Trụ sở của VKS làm việc các quận huyện thì hầu hết là nhà cấp 4, diện tích không

đáp ứng được nhu cầu phục vụ hoạt động của các đơn vị.

Về cơ cấu tổ chức của ngành trên toàn thành phố gồm có: 7 phòng nghiệp vụ

thuộc VKS thành phố là các phòng: Kiểm sát chung (sau này là Phòng Kiểm sát việc tuân

theo pháp luật), Kiểm sát điều tra án kinh tế, Kiểm sát điều tra án Trị an - An ninh,

Kiểm sát xét xử hình sự (có thời kỳ kiểm sát điều tra kiêm luôn việc xét xử. Sau này tách

riêng phòng Kiểm sát xét xử hình sự), Kiểm sát giam giữ cải tạo, Kiểm sát xét xử án dân

sự và Tổ chức cán bộ; và 8 VKS quận huyện gồm VKS của 4 quận nội thành và VKS

của 4 huyện ngoại thành.

Trải qua hơn 40 năm phấn đấu và phát triển, cùng với các cơ quan khác trong

bộ máy nhà nước, đến nay ngành KSND nói chung và VKSND thành phố Hà Nội nói

riêng đã không ngừng trưởng thành và lớn mạnh.

Về cơ cấu VKSND thành phố Hà Nội hiện có 11 phòng nghiệp vụ thuộc VKS

thành phố và 12 VKSND các quận huyện trực thuộc VKSND thành phố.

Về cơ sở vật chất và phương tiện làm việc so với nhu cầu công tác trong tình hình

mới chưa thật sự được đáp ứng, nhưng về cơ bản đã có thể phục vụ tốt các hoạt động

nghiệp vụ của ngành. Hiện nay, trụ sở VKSND thành phố Hà Nội đặt tại 43B phố Hai

Bà Trưng - Hà Nội, đủ các phòng làm việc cho

11 phòng nghiệp vụ. Các VKSND quận, huyện đều có trụ sở riêng biệt.

Về biên chế quân số đã tăng gấp 8 lần so với khi mới thành lập ngành. Hiện nay

toàn ngành Kiểm sát Hà Nội có gần 400 cán bộ, kiểm sát viên. Trình độ chuyên môn từ

chỗ cán bộ hầu hết không được đào tạo cơ bản về nghiệp vụ pháp lý, nay đã có 95,8%

đạt trình độ Đại học Luật và Cao đẳng Kiểm sát, một số đồng chí đã có trình độ Thạc sĩ

Luật. Chất lượng chính trị cao, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam trong cơ quan

chiếm 74,7%, chức danh pháp lý kiểm sát viên cấp thành phố và kiểm sát viên cấp quận,

huyện chiếm trên 2/3 quân số toàn cơ quan.

Từ năm 2001 trở về trước, VKSND là cơ quan duy nhất trong bộ máy nhà nước

thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố. Từ

khi ra đời (ngày 26-7-1960) cho đến thời điểm đó hệ thống VKSND nói chung cũng

như VKSND thành phố Hà Nội nói riêng đã phát huy được vị trí, vai trò và thực hiện tốt

chức năng của mình, góp phần đáng kể vào công cuộc bảo vệ nền pháp chế XHCN

nhằm mục đích bảo vệ và xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Đảng ta đang chủ trương đổi mới toàn

diện đất nước theo hướng phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần dưới sự quản

lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Thực hiện chủ trương đó, Đảng ta xác định phải

đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước sao cho phù hợp với

điều kiện và hoàn cảnh đổi mới của đất nước. Một trong những trọng tâm của quá trình đổi

mới đó là việc cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có hệ

thống VKSND các cấp.

Quan điểm về cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp đã được

đề cập trong các văn kiện của Đảng trong các nhiệm kỳ từ Đại hội lần thứ VII của Đảng

đến nay như: Hội nghị Trung ương 8 khóa VII, Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII, Đại

hội VIII và Đại hội IX của Đảng.

Trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương khóa VII tại Đại hội

đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đã xác định rõ nhiệm vụ của cải cách tổ

chức và hoạt động tư pháp trong giai đoạn hiện nay là:

Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật làm

cơ sở cho tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp, bảo đảm

mọi vi phạm pháp luật đều bị xử lý, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp

luật.

Củng cố kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp, phân định lại thẩm

quyền xét xử của TAND, từng bước mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho

TAND huyện. Đổi mới tổ chức, hoạt động của VKSND, các cơ quan điều tra,

cơ quan thi hành án và các cơ quan tổ chức bổ trợ tư pháp [10, tr. 132].

Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng cũng xác định:

Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan

tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp trong

công tác bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử, THA, không được để xảy ra những

trường hợp oan sai. VKSND thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt

động tư pháp. Sắp xếp lại hệ thống TAND, tổ chức lại Cơ quan điều tra và Cơ

quan THA theo nguyên tắc gọn đầu mối [11, tr. 133-134].

Trên cơ sở chủ trương của Đảng, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam

khóa X tại kỳ họp thứ 10 đã thông qua Nghị quyết về việc sửa đổi một số điều của Hiến

pháp năm 1992. Theo đó, chức năng của VKSND là: "thực hành quyền công tố và kiểm

sát các hoạt động tư pháp". Và như vậy VKS không thực hiện chức năng kiểm sát việc

tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng,

ngoại giao… mà chỉ tập trung làm tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát

các hoạt động tư pháp. Để thực hiện chức năng của mình theo Hiến pháp quy định, hệ

thống VKSND phải đổi mới cả về tổ chức và phương pháp hoạt động sao cho phù hợp

với điều kiện và hoàn cảnh mới.

Theo đó trên cơ sở Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức VKSND năm

2002, VKSND thành phố Hà Nội đã tổ chức lại các khâu công tác nghiệp vụ của VKS

thành phố còn 11 phòng nghiệp vụ là: phòng Thực hành quyền công tố - Kiểm sát điều

tra và Kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự; phòng Thực hành quyền công tố - Kiểm sát

điều tra và Kiểm sát xét xử sơ thẩm án an ninh - ma túy; phòng Kiểm sát xét xử phúc

thẩm - giám đốc thẩm - tái thẩm án hình sự; phòng Kiểm sát điều tra và Kiểm sát xét xử

án dân sự; phòng Kiểm sát điều tra và xét xử các vụ án hành chính - kinh tế - lao động -

phá sản doanh nghiệp và các việc khác do pháp luật quy định; phòng Kiểm sát THA;

phòng Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và THA phạt tù; phòng Thống kê tội phạm;

phòng Xét khiếu tố; phòng Tổ chức cán bộ và Văn phòng tổng hợp.

2.1.2. Kết quả hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội trong những năm gần

đây

Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, ngày 8/10/1992 tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội

khóa IX nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Luật tổ chức VKSND năm 1992. Theo

luật này, chức năng của VKSND được quy định: "Viện kiểm sát nhân dân thực hiện

chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố theo quy định của

Hiến pháp và pháp luật" (Điều 1 Luật tổ chức VKSND năm 1992).

Và tại Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 1992 quy định chức năng, nhiệm vụ

của VKSND cụ thể là:

VKSND thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực

hành quyền công tố bằng những công tác sau đây:

1. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các văn bản pháp quy của

các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ và các cơ

quan chính quyền địa phương; kiểm sát việc chấp hành pháp luật của các cơ

quan nhà nước nói trên, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và

công dân;

2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của các cơ

quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt

động điều tra;

3. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử

của TAND;

4. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản án, quyết

định đã có hiệu lực pháp luật của TAND;

5. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam, giữ và cải tạo;

6. Điều tra tội phạm trong những trường hợp do pháp luật tố tụng

hình sự quy định.

Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng về cải cách tổ chức và

hoạt động của các cơ quan tư pháp, Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 10 đã ra Nghị quyết số

51/2001/QH 10 ngày 25/12/2001 sửa đổi bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992 trong

đó có quy định lại chức năng và nhiệm vụ của VKSND tại Điều 138 là: "Viện kiểm sát

nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp".

Căn cứ Hiến pháp 1992 (sửa đổi) Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam

khóa X kỳ họp thứ 1 đã thông qua Luật tổ chức VKSND năm 2002 tại Điều 1 khẳng

định: "VKSND thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy

định của Hiến pháp và Pháp luật".

Và tại Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định chức năng, nhiệm vụ

của VKSND cụ thể là:

Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ bằng những

công tác sau đây:

1. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong

việc điều tra các vụ án hình sự của các cơ quan điều tra và các cơ quan khác

được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;

2. Điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người

phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp;

3. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật

trong việc xét xử các vụ án hình sự;

4. Kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình,

hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp

luật.

5. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản án, quyết

định của TAND;

6. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam,

quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù.

Theo tinh thần của Hiến pháp 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức VKSND năm

2002, trong phạm vi đề tài của bản luận văn chỉ đánh giá kết quả công tác của VKSND

thành phố Hà Nội trong những năm gần đây trên các mặt công tác thực hành quyền

công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự; kiểm sát việc giải quyết

các vụ án dân sự, hành chính, kinh tế, lao động; kiểm sát việc THA; kiểm sát việc giam

giữ, cải tạo.

Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, văn hóa xã hội và là một trong những

trung tâm kinh tế lớn của cả nước. Trong những năm qua, thực hiện chủ trương đổi mới

của Đảng, cùng với cả nước, Hà Nội đang không ngừng thay da, đổi thịt và ngày càng

phát triển. Cùng với các cơ quan trong hệ thống chính quyền các cấp, VKSND thành

phố Hà Nội với tư cách là người lính xung kích trên mặt trận bảo vệ pháp chế XHCN đã

đóng góp một phần không nhỏ vào những thành quả đó.

Bên cạnh những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị và văn

hóa xã hội; tình hình chấp hành pháp luật trên các mặt của đời sống xã hội cũng có

những diễn biến rất phức tạp. Tình hình đó đòi hỏi các cơ quan trong hệ thống chính

quyền, đặc biệt là các cơ quan bảo vệ pháp luật phải không ngừng nỗ lực nhằm đảm bảo

cho tình hình an ninh chính trị luôn được giữ vững và ổn định. Trong bối cảnh đó, những

năm vừa qua ngành KSND thành phố Hà Nội với việc thực hiện chức năng kiểm sát việc

tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố đã đạt được những kết quả nhất định,

góp phần giữ vững và ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội và bảo đảm trật tự pháp

luật trên địa bàn Thủ đô.

Theo số liệu báo cáo tổng kết các năm 1999, 2000, 2001, 2002 của VKSND

thành phố Hà Nội, hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư

pháp được đánh giá trên các mặt sau đây:

a) Về hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động của các cơ

quan tư pháp trong lĩnh vực điều tra và xét xử các vụ án hình sự

Nhằm đảm bảo cho pháp chế XHCN được tuân thủ một cách nghiêm túc, công tác

thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử án hình sự của VKSND có vị

trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự, nó quyết định đến sự thành công

hay thất bại trong việc truy tố người phạm tội ra trước tòa án. Đồng thời đó cũng là biện

pháp nhằm bảo đảm không để một người dân vô tội bị bắt, bị tạm giữ, bị tạm giam, hoặc bị

truy tố oan sai, vi phạm quyền tự do dân chủ của công dân. Mặt khác nó còn có nhiệm vụ

không để một hành vi vi phạm, tội phạm nào không bị xử lý trước pháp luật.

Trên lĩnh vực an ninh chính trị, trật tự trị an xã hội, trật tự quản lý kinh tế các

loại tội phạm xảy ra còn nhiều; số lượng án hình sự ở cả hai cấp đã thụ lý kiểm sát điều

tra, và chuyển truy tố như sau:

- Năm 1999, thụ lý 6.612 vụ án hình sự, đã quyết định truy tố 5.708 vụ, đạt tỷ lệ

giải quyết án là 86,3%.

- Năm 2000, thụ lý 4.405 vụ án hình sự, đã quyết định truy tố 3.827 vụ, đạt tỷ lệ

giải quyết án là 90%.

- Năm 2001, thụ lý 4.693 vụ, đã quyết định truy tố 4.117 vụ, đạt tỷ lệ giải quyết

án là 87,8%.

- Năm 2002, thụ lý 5.292 vụ, đã quyết định truy tố 4.555 vụ, đạt tỷ lệ giải quyết

án là 86%.

Tính riêng các phòng nghiệp vụ VKS thành phố:

- Năm 1999, thụ lý 425 vụ, đã truy tố 303 vụ, đạt tỷ lệ giải quyết 71%.

- Năm 2000, thụ lý 406 vụ, đã truy tố 323 vụ, đạt tỷ lệ giải quyết 81%.

- Năm 2001, thụ lý 338 vụ, đã truy tố 260 vụ, đạt tỷ lệ giải quyết 76%.

- Năm 2002, thụ lý 387 vụ, đã truy tố 268 vụ, đạt tỷ lệ giải quyết 69%.

Ngoài nhiệm vụ kiểm sát điều tra án do cơ quan điều tra Công an thành phố Hà

Nội thụ lý điều tra, các phòng nghiệp vụ của VKS thành phố còn phải tiếp nhận giải

quyết án kết thúc điều tra của VKS 12 quận huyện chuyển lên thành phố xét xử theo

phân cấp do luật định. Cụ thể là:

- Năm 1999, thụ lý 2.022 vụ, truy tố 1904 vụ, đạt tỷ lệ giải quyết án 94%.

- Năm 2000, thụ lý 1.139 vụ, truy tố 1.033 vụ, đạt tỷ lệ giải quyết án 90%.

- Năm 2001, thụ lý 837 vụ, truy tố 775 vụ, đạt tỷ lệ giải quyết án 92%.

- Năm 2002, thụ lý 970 vụ, truy tố 922 vụ, đạt tỷ lệ giải quyết án 95%.

Không chỉ riêng việc giải quyết án ở 12 quận huyện chuyển thành phố truy tố,

kiểm sát điều tra các vụ án do thành phố tiến hành điều tra, các phòng nghiệp vụ kiểm

sát cấp thành phố còn phải theo dõi chỉ đạo 12 quận huyện như: nghiên cứu hồ sơ báo

cáo lãnh đạo Viện cho ý kiến các vụ án quận huyện thỉnh thị, nghiên cứu chỉ đạo các vụ

án khó khăn vướng mắc các quận huyện xin ý kiến v.v... Công việc nhiều, cán bộ kiểm

sát ở các phòng nghiệp vụ tuy có trình độ không đồng đều nhưng vẫn luôn giữ vững

phẩm chất đạo đức người cán bộ KSND, có tinh thần chủ động tự giác trong công việc,

có tinh thần tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ chung, chất lượng

thực hành quyền công tố cũng như kiểm sát hoạt động điều tra của cơ quan Công an và

hoạt động xét xử của cơ quan Tòa án tiếp tục được nâng cao, có quan điểm rõ ràng

trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, thận trọng, chắc chắn trong việc quyết

định truy tố một con người ra trước Tòa án. Vì vậy, trong 4 năm 1999, 2000, 2001,

2002 chưa thấy trường hợp nào bắt tạm giữ, tạm giam, truy tố oan sai.

b) Về hoạt động kiểm sát hoạt động của các cơ quan tư pháp trong việc giải

quyết các vụ dân sự, hôn nhân gia đình, hành chính - kinh tế - lao động v.v...

* Về công tác kiểm sát giải quyết các vụ án Dân sự, Hôn nhân và gia đình:

Trong những năm qua, tình hình vi phạm và tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia

đình đưa đến Tòa án giải quyết không tăng, nhưng tính chất phức tạp. Theo số liệu

thống kê cụ thể:

- Năm 1999, TAND hai cấp thụ lý 5.537 vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình,

VKS kiểm sát giải quyết 4.467 vụ (đạt tỷ lệ 80%). Tòa án đưa ra xét xử 1.313 vụ, VKS

tham gia kiểm sát xét xử 1.245 vụ (đạt tỷ lệ 92,7%).

- Năm 2000, TAND hai cấp thụ lý 5.395 vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, VKS

kiểm sát giải quyết 4.467 vụ (đạt tỷ lệ 73,1%). Tòa án đưa ra xét xử 1.254 vụ, VKS

tham gia kiểm sát xét xử 1.143 vụ (đạt tỷ lệ 91,2%).

- Năm 2001, TAND hai cấp thụ lý 4.677 vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, VKS

kiểm sát giải quyết 4.094 vụ (đạt tỷ lệ 87,5%). Tòa án đưa ra xét xử 1.078 vụ, VKS

tham gia kiểm sát xét xử 919 vụ (đạt tỷ lệ 85,2%).

- Năm 2002, TAND hai cấp thụ lý 5.456 vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, VKS

kiểm sát giải quyết 2.679 vụ (đạt tỷ lệ 49%). Tòa án đưa ra xét xử 1.130 vụ, VKS tham

gia kiểm sát xét xử 1.031 vụ (đạt tỷ lệ 91,2%).

Thực hiện chức năng của ngành, VKSND các cấp đã góp phần cùng với Tòa

án giải quyết có hiệu quả án Dân sự. Tuy nhiên, việc tham gia phiên tòa của Kiểm

sát viên ở cá trình tự sơ thẩm, phúc thẩm đạt tỷ lệ còn thấp, trình độ phát hiện vi

phạm trong quá trình lập hồ sơ, hòa giải, xét xử... hạn chế, ít phát hiện được vi phạm

để điều tra bổ sung, tự điều tra bổ sung, kháng nghị theo các trình tự chưa được

nhiều, trong khi án có vi phạm bị cải sửa ở cấp phúc thẩm còn chiếm tỷ lệ cao, chất

lượng kháng nghị một số vụ án còn thấp, phải rút kháng nghị hoặc không được Tòa

chấp nhận.

* Về công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án Hành chính - Kinh tế - Lao động:

Trong những năm qua, tình hình thụ lý giải quyết các vụ án Hành chính - Kinh tế -

Lao động của Tòa án cấp sơ thẩm không nhiều, nhưng nội dung thì rất phức tạp và đa dạng,

công tác kiểm sát việc giải quyết án sơ thẩm Hành chính - Kinh tế - Lao động của VKSND

cấp sơ thẩm cũng không đáng kể. Cụ thể là:

- Năm 1999: Tòa án hai cấp của thành phố Hà Nội thụ lý 148 vụ VKS đã kiểm

sát lập hồ sơ 148 vụ (đạt tỷ lệ 100%). Tòa án đưa ra xét xử 37 vụ, VKS tham gia kiểm

sát xét xử 37 vụ (đạt tỷ lệ 100%).

- Năm 2000: Tòa án hai cấp của thành phố Hà Nội thụ lý 198 vụ VKS đã kiểm

sát lập hồ sơ 198 vụ (đạt tỷ lệ 100%). Tòa án đưa ra xét xử 56 vụ, VKS tham gia kiểm

sát xét xử 56 vụ (đạt tỷ lệ 100%).

- Năm 2001: Tòa án hai cấp của thành phố Hà Nội thụ lý 93 vụ VKS đã kiểm

sát lập hồ sơ 93 vụ (đạt tỷ lệ 100%). Tòa án đưa ra xét xử 39 vụ, VKS tham gia kiểm sát

xét xử 34 vụ (đạt tỷ lệ 81,1%).

- Năm 2002: Tòa án hai cấp của thành phố Hà Nội thụ lý 115 vụ, VKS đã kiểm

sát lập hồ sơ 108 vụ (đạt tỷ lệ 93,9%). Tòa án đưa ra xét xử 31 vụ, VKS tham gia kiểm

sát xét xử 31 vụ (đạt tỷ lệ 100%).

Tình trạng vi phạm pháp luật của Tòa án trong việc thụ lý, lập hồ sơ và thực

hiện tố tụng giải quyết các vụ án Hành chính - Kinh tế - Lao động cũng xảy ra nhiều

nhưng VKSND các cấp ít phát hiện được vi phạm để kiến nghị sửa chữa hoặc báo cáo

VKS cấp trên kháng nghị theo thẩm quyền.

c) Về hoạt động kiểm sát hoạt động của các cơ quan tư pháp trong việc thi

hành án

* Năm 1999:

- Về thi hành án phạt tù: Tổng số phải thi hành 2.455 bị án, đã thi hành 2.212 bị

án, còn lại chưa thi hành 231 bị án. Trong đó, hoãn thi hành

62 bị án, Tòa án chưa ra quyết định 1 bị án, chờ xét thời hiệu 1 bị án, Công an chưa áp

giải 56 bị án, trốn 110 bị án (trốn đã truy nã 98 bị án, chưa truy nã

12 bị án).

- Về thi hành án dân sự: Tổng số phải thi hành 12.798 việc, đã thi hành xong 6.643

việc, còn lại chưa thi hành 2.924 việc. Tổng số tiền phải thi hành 149.878 triệu đồng, đã

thu được 32.785 triệu đồng, thu 10.678 triệu đồng nhưng chưa THA, còn lại phải thu

108.234 triệu đồng.

Thực hiện chức năng kiểm sát THA, VKSND thành phố Hà Nội tham gia giám

sát THA tử hình 13 bị án, đảm bảo việc THA an toàn, đúng luật. Tiến hành kiểm tra số

bị án phạt tù giam đang tại ngoại, án có hiệu lực pháp luật, phát hiện 7 bị án (năm 1996,

1997), 6 bị án (năm 1998) Tòa án chưa ra quyết định thi hành. Nghiên cứu 16 hồ sơ

hoãn THA phạt tù, phát hiện 3 hồ sơ hoãn không đủ căn cứ theo Điều 231 Bộ luật tố

tụng hình sự. Kiểm sát hồ sơ các bị án trốn thi hành tại PC 14, PC 16 Công an thành phố

Hà Nội, Công an quận Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm, Đống Đa, Ba Đình, Từ Liêm, Thanh

Xuân phát hiện nhiều vi phạm trong việc lập hồ sơ đối tượng THA phạt tù trốn có lệnh

truy nã. VKS Hà Nội đã có kiến nghị yêu cầu các đơn vị vi phạm khắc phục, sửa chữa.

* Năm 2000:

- Về thi hành án hình sự: Tổng số phải thi hành 1.845 bị án, đã thi hành 1.637 bị

án, còn lại chưa thi hành 193 bị án. Trong đó, hoãn thi hành 41 bị án, Tòa án chưa ra

quyết định thi hành 9 bị án, có quyết định THA Công an chưa áp giải 60 bị án, trốn 81 bị

án (trốn đã truy nã 79 bị án, chưa truy nã 2 bị án).

- Về thi hành án dân sự: Tổng số phải thi hành 15.944 việc, đã thi hành xong

7.100 việc, số việc đã giải quyết 3.788 việc, còn lại chưa thi hành 5.056 việc (trong đó

số việc không có điều kiện thi hành 3.048 việc, số việc có điều kiện thi hành 1.761 việc,

số việc có điều kiện thi hành chưa ra quyết định cưỡng chế 128 việc). Tổng số tiền phải

thi hành 156.148 triệu đồng, đã thi hành được 29.659 triệu đồng, còn lại phải thi hành

122.850 triệu đồng (số tiền không có khả năng thi hành 37.480 triệu đồng).

* Năm 2001:

- Về thi hành án phạt tù: Tổng số phải thi hành 2.150 bị án, đã thi hành 1.901 bị

án, còn lại chưa thi hành 240 bị án. Trong đó, hoãn thi hành 76 bị án, Tòa án chưa ra quyết

định thi hành 4 bị án, có quyết định thi hành Công an chưa áp giải 70 bị án, chờ xét thời

hiệu 2 bị án, trốn 75 bị án (trốn đã truy nã 75 bị án). Số người phải THA phạt tù cho

hưởng án treo 608 bị án, Tòa án ra quyết định thi hành 593 bị án.

- Về thi hành án dân sự: Tổng số phải thi hành 15.523 việc, đã thi hành xong

6.262 việc, số việc đã giải quyết 3.395 việc, còn lại chưa thi hành 5.866 việc (trong đó

số việc không có điều kiện thi hành 3.820 việc, số việc có điều kiện thi hành 2.046 việc,

số việc có điều kiện thi hành chưa ra quyết định cưỡng chế 77 việc). Tổng số tiền phải

thi hành 281.867 triệu đồng, đã thu được 47.770 triệu đồng, còn lại phải thi hành

209.882 triệu đồng (số tiền không có khả năng thi hành 19.726 triệu đồng).

* Năm 2002:

- Về thi hành án hình sự: Tổng số phải thi hành 1.985 bị án, đã thi hành 1.720 bị

án, còn lại chưa thi hành 259 bị án. Trong đó, hoãn thi hành 92 bị án, Tòa án chưa ra

quyết định thi hành 9 bị án, có quyết định THA Công an chưa áp giải 80 bị án, trốn 71

bị án (trốn đã truy nã 68 bị án). Số người phải THA phạt tù cho hưởng án treo 643 bị án,

Tòa án ra quyết định thi hành 618 bị án. Số người phải THA cải tạo không giam giữ 17,

Tòa án ra quyết định thi hành 13 bị án.

- Về thi hành án dân sự: Tổng số phải thi hành 21.793 việc, đã thi hành xong

10.385 việc, số việc đã giải quyết 3.435 việc, còn lại chưa thi hành 7.973 việc (trong đó

số việc không có điều kiện thi hành 5.795 việc, số việc có điều kiện thi hành 2.175 việc,

số việc có điều kiện thi hành chưa ra quyết định cưỡng chế 1 việc). Tổng số tiền phải thi

hành 316.112 triệu đồng, đã thu được 52.708 triệu đồng, còn lại phải thi hành 260.198

triệu đồng (số tiền không có khả năng thi hành 90.139 triệu đồng).

d) Về hoạt động kiểm sát hoạt động của các cơ quan tư pháp trong việc giam

giữ, cải tạo

* Năm 1999: Nhằm bảo đảm cho công tác giam giữ được thực hiện theo đúng quy

định của pháp luật, các quyền hợp pháp của người bị tạm giữ, tạm giam được bảo đảm;

VKS Hà Nội đã tổ chức kiểm tra thường kỳ và bất thường 67 lần đối với trại tạm giam và

nhà tạm giữ công an quận, huyện về việc thực hiện chế độ đối với người bị tạm giữ, tạm

giam theo quy định của pháp luật.

VKS quận, huyện đã tiến hành kiểm sát 145 công an phường, xã về công tác bắt

giữ hình sự, hành chính. Qua công tác kiểm sát phát hiện nhiều vi phạm trong công tác

bắt giữ, phân loại xử lý, có kiến nghị yêu cầu công an khắc phục sửa chữa. Các vi phạm

VKS kiến nghị chủ yếu về thủ tục lập hồ sơ bắt giữ hành chính, lạm dụng giữ hành

chính đối với các trường hợp phạm pháp quả tang, sử dụng lệnh tạm giữ hình sự thay

cho lệnh tạm giữ hành chính, tạm giữ người theo thủ tục hành chính quá hạn 24h, xử lý

cả đối với người chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hành chính, lọt tội phạm...

Nghiên cứu 10.000 hồ sơ can phạm ra vào trại, phát hiện 281 trường hợp bị tạm

giữ, tạm giam quá hạn; 87 trường hợp vi phạm thời hạn điều tra, truy tố, xét xử; 401

trường hợp vi phạm thời hạn ra quyết định THA, VKS đã kiến nghị với cơ quan có thẩm

quyền khắc phục vi phạm.

* Năm 2000: VKS Hà Nội đã tổ chức kiểm tra thường kỳ và bất thường 34 lần đối

với trại tạm giam và nhà tạm giữ công an quận, huyện về thực hiện chế độ đối với người

bị tạm giữ, tạm giam, cải tạo. VKS các quận, huyện tiến hành kiểm sát 114 công an

phường, xã về công tác bắt giữ hình sự, hành chính, phát hiện vi phạm có kiến nghị yêu

cầu công an khắc phục sửa chữa. Nghiên cứu hồ sơ ra vào trại, phát hiện thông báo kịp

thời đến các đơn vị thụ lý 246 trường hợp quá hạn tạm giữ, 67 bị cáo kháng cáo Tòa

phúc thẩm hình sự TANDTC chưa có lệnh tạm giam, 26 trường hợp còn bản án nhưng

không được tổng hợp hình phạt hoặc tổng hợp không chính xác, 223 trường hợp án có

hiệu lực pháp luật nhưng chậm ra quyết định THA... để các đơn vị thụ lý biết, khắc

phục vi phạm.

* Năm 2001: Phòng kiểm sát giam giữ - cải tạo nghiên cứu hồ sơ ra vào trại,

phát hiện thông báo kịp thời đến các đơn vị thụ lý 240 trường hợp quá hạn tạm giữ

(Công an 104, VKS 101, Tòa án 35), 9 trường hợp không tổng hợp hình phạt, 13 trường

hợp án tồn đọng kéo dài trên 1 năm chưa được giải quyết, 27 trường hợp người bị giam

giữ là phụ nữ có thai, có con nhỏ; 84 trường hợp người bị giam giữ xét xử Tòa án phạt

án treo hoặc cải tạo không giam giữ; 276 trường hợp Tòa án sơ thẩm chậm ra quyết

định THA phạt tù để các đơn vị thụ lý biết khắc phục vi phạm.

* Năm 2002: Cơ quan quản lý người bị giam giữ và cải tạo đã tiếp nhận, quản

lý 10.415 người (có 2.122 người của năm 2001 chuyển sang). Các cơ quan tiến hành tố

tụng đã giải quyết 7.961 người, còn 2.433 người đang bị tạm giam. Trong đó: giam để

điều tra 1.422 người, giam để truy tố 367 người, giam chờ xét xử sơ thẩm 519 người,

giam chờ xét xử phúc thẩm 125 người.

Để đảm bảo cho công tác giam giữ, cải tạo được thực hiện theo đúng quy định

của pháp luật, các quyền hợp pháp của người bị tạm giữ được bảo đảm; VKS Thành phố

kiểm tra định kỳ và bất thường 8 lần (Viện trưởng

trực tiếp kiểm sát 3 lần) đối với trại tạm giam Công an thành phố Hà Nội; Viện trưởng

VKS quận, huyện trực tiếp kiểm sát 38 lần nhà tạm giữ công

an quận, huyện; kiểm tra 93 công an phường, xã về công tác bắt giữ, xử lý người vi phạm.

2.2. Thực trạng pháp chế trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát

các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội

2.2.1. Thực trạng thực hiện Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, pháp luật

về tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính - kinh tế - lao động, thủ tục thi

hành án...

Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, Luật tổ chức VKSND năm 1992, Hiến pháp

1992 (sửa đổi), và Luật tổ chức VKSND năm 2002; các văn bản pháp luật về tố tụng

hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính - kinh tế - lao động, thủ tục THA... Nhìn lại

quá trình thi hành pháp luật ở các khâu công tác, VKSND thành phố Hà Nội đã luôn bám

sát các chức năng, nhiệm vụ, quán triệt và vận dụng có hiệu quả các quy định của pháp

luật vào thực tiễn đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, luôn hướng các hoạt động

trong lĩnh vực kiểm sát hình sự, phục vụ các nhiệm vụ chính trị của đất nước qua mỗi

thời kỳ.

Công tác kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử hình sự; công tác kiểm sát việc giải

quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động; công tác

kiểm sát THA; và công tác kiểm sát giam giữ - cải tạo của ngành kiểm sát Hà Nội đã có

sự phối hợp khá chặt chẽ và có hiệu quả. Không chỉ có trong nội bộ ngành kiểm sát mà

còn phối hợp với các ngành tư pháp khác để cùng đấu tranh phòng và chống tội phạm

và vi phạm pháp luật. Vì vậy những năm qua, VKSND thành phố Hà Nội đã đạt được

những thành tích nhất định trong việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và

kiểm sát các hoạt động tư pháp. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng còn bộc lộ một số điểm

yếu cần rút kinh nghiệm.

a) Thực trạng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ

án hình sự

Những năm gần đây, đứng trước tình hình tội phạm luôn gia tăng ở các lĩnh vực

nhưng trung bình hàng năm VKSND thành phố và VKSND các quận huyện đã kiểm sát

điều tra được một khối lượng rất lớn các vụ án hình sự, trong đó đã kiểm sát việc khởi

tố vụ án và khởi tố bị can. Do kiểm sát chặt chẽ từ giai đoạn khởi tố nên số bị can đã

khởi tố phải đình chỉ vì không có tội giảm nhiều.

Trong những năm qua ngành KSND thành phố Hà Nội đã có sự cố gắng, phối

hợp chặt chẽ với các cơ quan bảo vệ pháp luật trên địa bàn thành phố đẩy nhanh tốc độ

giải quyết án, bảo đảm đấu tranh chống và phòng ngừa các loại tội phạm có kết quả.

Trong đó phải kể đến kết quả đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực an ninh quốc gia,

có sự phối hợp kịp thời với ngành bạn trong lĩnh vực tiến hành tố tụng đối với những vụ

án và những tên tội phạm nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia. Việc phát hiện và xử

lý các vụ án đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia như những tội có tác

động đến dư luận trong và ngoài nước; làm rõ những âm mưu đen tối của bọn phản

động hòng gây mất ổn định chính trị, cản trở sự nghiệp cách mạng ở nước ta. Đối với

các loại tội phạm khác xâm phạm an ninh quốc gia như tội làm và lưu hành tiền giả,

mua bán, sản xuất, tàng trữ, vận chuyển vũ khí, chất nổ trái phép; buôn lậu qua biên giới

cũng đã được phát hiện xử lý nhanh chóng và đúng pháp luật.

Trong lĩnh vực kinh tế: công tác kiểm sát điều tra đã cố gắng thúc đẩy điều tra

đưa ra truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, buôn lậu, lừa đảo chiếm đoạt tài sản có giá

trị lớn như vụ Trần Mai Hương lừa đảo chiếm đoạt hơn 14 tỷ đồng của nhiều cơ quan, đơn

vị và cá nhân; vụ Lã Thị Kim Oanh và đồng bọn tham ô, cố ý làm trái, thiếu trách

nhiệm... làm thất thoát của Nhà nước hơn 150 tỷ đồng. Một số vụ được chọn làm án

điểm đưa ra xét xử kịp thời góp phần thực hiện Chỉ thị 53, Nghị quyết 08, Chỉ thị 15 của

Bộ Chính trị, Quyết định 240 và 114, Chỉ thị số 10 của Thủ tướng Chính phủ.

Trong lĩnh vực trật tự trị an xã hội: đã tập trung đẩy mạnh điều tra, truy tố các vụ

án nghiêm trọng về giết người, cướp của, hiếp dâm, chống các tệ nạn xã hội như ma túy,

mại dâm, cờ bạc; các vụ vi phạm an toàn giao thông gây hậu quả nghiêm trọng, xóa sổ

nhiều băng xã hội đen, điển hình là các vụ: Vũ Xuân Trường, Nguyễn Văn Tám phạm

tội mua bán, vận chuyển trái phép các chất ma túy, vụ Khánh Trắng và đồng bọn phạm

tội giết người, cướp tài sản của công dân v.v...

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đã có nhiều biện pháp nghiệp vụ đổi mới

công tác kiểm sát điều tra nhằm thực hiện tốt hơn chức năng kiểm sát và thực hành

quyền công tố như đã chủ động cùng các ngành sơ kết rút kinh nghiệm công tác quản lý

tin báo tội phạm theo quy định tại Thông tư liên ngành số 03 ngày 15/5/1992. Bằng các

biện pháp khác nhau, VKS hai cấp trên địa bàn thành phố đã nắm và đánh giá đúng, kịp

thời các diễn biến tình hình tội phạm xảy ra trên địa bàn Thủ đô để chủ động đề xuất

tham mưu với các cấp ủy Đảng và chính quyền trong công tác quản lý đề ra nhiều biện

pháp phối hợp với ngành trong khối nội chính. Thông qua công tác kiểm sát phân loại

xử lý các cơ quan điều tra, VKS đã phát hiện nhiều vụ việc có dấu hiệu tội phạm để yêu

cầu cơ quan điều tra, khởi tố điều tra hoặc VKS ra quyết định khởi tố đến nay hoạt động

này có tiến bộ rõ rệt.

Đối với các vụ án trọng điểm và trọng án, các cấp kiểm sát viên tiến hành tốt

kiểm sát điều tra từ đầu đến việc điều tra các vụ án loại này vừa bảo đảm chất lượng,

vừa bảo đảm thời hạn và thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Hoạt động điều tra, truy tố được nâng lên về số lượng và chất lượng, nên số vụ

án đình chỉ điều tra ngày một giảm. Điều đó thể hiện sự chấp hành nghiêm chỉnh các

quy định của pháp luật trong hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng ngày một

được nâng lên.

Thông qua công tác kiểm sát điều tra, VKS chú trọng phát hiện và tập hợp vi

phạm pháp luật của cơ quan điều tra để kiến nghị yêu cầu khắc phục, hầu hết các kiến

nghị yêu cầu đều được cơ quan điều tra tiếp thu sửa chữa. Những năm gần đây VKSND

thành phố Hà Nội đã có nhiều kiến nghị đối với những vi phạm vi phạm của quan điều

tra cùng cấp, đồng thời cũng đã báo cáo với VKSND tối cao có một số kiến nghị với Bộ

trưởng Bộ Công an về những vi phạm trong hoạt động điều tra của cơ quan công an.

Viện kiểm sát hai cấp đã tổng hợp những mặt thiếu sót trong quản lý để tham

mưu cho cấp ủy và chính quyền có biện pháp chấn chỉnh, tổ chức các hội nghị pháp chế

phòng ngừa tội phạm.

Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ theo luật định ngoài việc phối hợp với cơ quan

tư pháp trong việc điều tra và xét xử còn phối hợp kiểm tra liên ngành về công tác hình

sự để thúc đẩy tiến độ và chất lượng giải quyết án theo quy định của Bộ Luật tố tụng

hình sự đặc biệt đối với các vụ án nghiêm trọng, án điểm, hoặc phối hợp kiểm tra việc

bắt giam, tha, án đình chỉ.

Bên cạnh những kết quả chính xác đã đạt được nêu trên, công tác kiểm sát điều

tra còn bộc lộ những thiếu sót, hạn chế là:

Việc quản lý và xử lý tin báo tội phạm theo Thông tư liên ngành số 03 ngày

15/5/1992 tuy có tiến bộ nhưng còn là mặt yếu chung cho toàn ngành. VKS các cấp

thiếu chủ động trong việc phối hợp với các cơ quan điều tra và các cơ quan hữu quan để

nắm nguồn tin báo tội phạm dẫn đến tình trạng nhiều nơi không nắm đầy đủ kịp thời

thực trạng về nguồn tin báo tội phạm dẫn đến hạn chế kết quả kiểm sát ở lĩnh vực này.

Công tác kiểm sát việc khởi tố cũng còn hạn chế, còn để xảy ra tình trạng các cơ

quan có thẩm quyền trong việc khởi tố để lọt tội phạm, lọt người phạm tội hoặc khởi tố

không đúng pháp luật, còn có trường hợp làm oan cho người vô tội, hoặc gây ra những

hậu quả đáng tiếc khác. Ví dụ như vụ Dương Thị Nga, do Công an quận Hoàn Kiếm

khởi tố, bắt giam, điều tra không đúng, nhưng VKSND quận Hoàn Kiếm không phát

hiện ra mà vẫn tuy tố, rồi TAND quận Hoàn Kiếm cũng đưa ra xét xử và tuyên án. Đến

khi có khiếu nại, các cơ quan cấp trên xem xét mới phát hiện vi phạm phải minh oan

cho người bị xử lý; và nhiều cán bộ của các cơ quan tố tụng có liên quan phải bị xử lý

kỷ luật.

Tuy đây là thiếu sót của các cơ quan tư pháp, song với trách nhiệm là cơ quan

kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự thì VKS có trách nhiệm rất lớn

trong việc để xảy ra các thiếu sót này.

Công tác kiểm sát tuân theo pháp luật trong việc áp dụng thay đổi các biện

pháp ngăn chặn của cơ quan điều tra: nhiều VKS chưa làm tốt, nên có không ít trường

hợp bắt khẩn cấp không có căn cứ sau đó phải chuyển xử lý hành chính hoặc cần phải

tạm giam thì không được áp dụng dẫn đến bị can tại ngoại trốn, phải tạm đình chỉ vụ án,

tình trạng tạm giữ, tạm giam quá hạn vẫn còn xảy ra ở một vài đơn vị.

Việc đình chỉ điều tra của VKS vẫn còn trường hợp không đúng và cũng còn

những trường hợp cơ quan điều tra đình chỉ điều tra sai nhưng VKS cùng cấp không

phát hiện được để quyết định hủy bỏ mà VKS thành phố kiểm tra phát hiện phải hủy bỏ

quyết định đình chỉ điều tra để phục hồi điều tra.

Có những sai phạm không đáng có đã để xảy ra trong giai đoạn điều tra và kiểm

sát điều tra như: Quá trình điều tra, kiểm sát điều tra không xác minh tuổi chịu trách

nhiệm hình sự của bị cáo dẫn đến khởi tố, điều tra người chưa đến tuổi chịu trách nhiệm

hình sự theo luật hoặc ở một số tội việc khởi tố phải có yêu cầu của người bị hại, song

lại không rõ được làm rõ, dẫn đến vụ án điều tra rồi lại đình chỉ. Công tác khám nghiệm

hiện trường trong nhiều trường hợp còn lúng túng, thụ động, thậm chí có vụ không thực

hiện...

Những vụ án tạm đình chỉ điều tra do bị can trốn, quản lý rất yếu.

Trong công tác nghiệp vụ kiểm sát điều tra, việc xây dựng biểu mẫu quyết định

lệnh ở giai đoạn này không đầy đủ từ đó dẫn đến tình trạng tùy tiện. Việc xây dựng bản

cáo trạng, khá phổ biến là sao chép bản kết luận điều tra mà chưa đi sâu phân tích, đánh

giá chứng cứ xác định tội phạm của bị cáo, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ cũng như

các tình tiết khác của vụ án, viện dẫn điều luật của bản cáo trạng thiếu cụ thể về khung,

khoản và điểm của điều luật. Về hình thức trình bày bản cáo trạng thiếu đầy đủ chặt chẽ

như quy định tại Điều 143 Bộ luật tố tụng hình sự, nhiều bản cáo trạng viện dẫn điều

luật thiếu căn cứ, bố cục của bản cáo trạng thiếu thống nhất theo hướng dẫn chung của

ngành, có bản cáo trạng không có số, không ngày, trong vụ án tồn tại hai bản cáo trạng

có cùng giá trị pháp lý như nhau. Qua kiểm tra việc lập bản cáo trạng trong cùng một

đơn vị cũng có sự khác nhau giữa cấp tỉnh và cấp huyện.

Trong công tác kiểm sát điều tra, còn biểu hiện tư tưởng ngại va chạm xuôi

chiều, nên nhiều nơi, trong nhiều việc chưa đi sâu phát hiện vi phạm. Trong yêu cầu

điều tra mới chú ý đến yêu cầu điều tra tội phạm, chưa chú ý đến chứng cứ gỡ tội và

nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm. Công tác kiến nghị vi phạm trong hoạt động

điều tra làm chưa thường xuyên và không đồng đều ở cả hai cấp VKSND thành phố

cũng như VKSND các quận huyện.

Việc hướng dẫn chỉ đạo của cấp trên với cấp dưới vẫn còn những vụ việc chưa

kịp thời, không chính xác dẫn đến cấp dưới bị động, lúng túng.

b) Thực trạng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án

hình sự

Những năm qua, công tác kiểm sát xét xử của VKSND thành phố Hà Nội đã

chú trọng nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án

hình sự ở thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm. Chất lượng công tác được thể

hiện trên cả hai mặt vừa đẩy nhanh tốc độ giải quyết án, hạn chế dần tình trạng tồn

đọng hồ sơ, để quá hạn luật định, đồng thời vừa hạn chế khắc phục tối đa tình trạng

oan sai và vi phạm nghiêm trọng trong xét xử, góp phần bảo đảm pháp chế trong xét

xử các vụ án hình sự.

Với số liệu án đã được xét xử hàng năm, thể hiện luôn có chiều hướng gia tăng,

nhưng sai phạm từng bước được đẩy lùi. Nhìn chung có sự phối hợp giữa VKS với Tòa

án để đưa các vụ án ra xét xử nên tỷ lệ án giải quyết nói chung đã đạt cao. Riêng thủ tục

phúc thẩm cấp thành phố đạt gần 90%.

Viện kiểm sát thành phố đã phối hợp với Tòa án thụ lý giải quyết nhanh và kịp

thời các vụ án lớn, án đặc biệt nghiêm trọng, án điểm, nhiều vụ được xét xử lưu động,

phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị địa phương, góp phần thực hiện các nghị quyết, chỉ thị

của Đảng về chống tham nhũng, buôn lậu, các tệ nạn xã hội và ma túy.

Các thao tác nghiệp vụ kiểm sát xét xử hình sự đã đi vào nề nếp theo quy chế

kiểm sát xét xử hình sự góp phần đảm bảo chất lượng các vụ án đã truy tố, giảm dần số

hồ sơ các vụ án bị Tòa án trả lại.

Tại phiên tòa, kiểm sát viên đã cố gắng thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn một

cách đầy đủ, nên đã hỗ trợ cho Thẩm phán quyết định bản án đúng pháp luật. Tại các

phiên tòa phúc thẩm, giám đốc thẩm, kiểm sát viên đã kết luận rõ những vi phạm của

bản án sơ thẩm, đề xuất việc khắc phục sai phạm của bản án sơ thẩm, đề xuất việc khắc

phục sai phạm được chính xác. Ngoài ra, công tác kiểm sát xét xử hình sự còn chú ý

phát hiện những vi phạm của Tòa án để kháng nghị, kiến nghị.

Tuy nhiên, công tác kiểm sát xét xử hình sự còn bộc lộ một số điểm cần rút kinh

nghiệm là:

Đối với thủ tục kiểm sát xét xử sơ thẩm, còn tồn tại khá phổ biến việc kiểm tra

hồ sơ vụ án chưa kỹ, chưa thật đầy đủ và đúng với quy chế kiểm sát xét xử hình sự

nên không phát hiện thiếu sót vi phạm trong điều tra truy tố dẫn đến Tòa án phải trả hồ

sơ để điều tra bổ sung. Tỷ lệ này hàng năm là khoảng 3%.

- Về công tác thực trạng quyền công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa còn bộc

lộ một số nhược điểm chủ yếu là:

ở thủ tục sơ thẩm, do chất lượng lập hồ sơ truy tố chưa đầy đủ và chặt chẽ về

chứng cứ nên xảy ra tình trạng án bị cấp phúc thẩm cải sửa còn chiếm tỷ lệ cao (khoảng

35-40% số vụ xét xử phúc thẩm). Nhưng tại các phiên tòa này kiểm sát viên khi công bố

bản cáo trạng cũng như tham gia quá trình xét xử vẫn không kịp thời phát hiện để có

biện pháp khắc phục mà vẫn bảo vệ quan điểm truy tố và đề xuất áp dụng hình phạt đối

với bị cáo.

Việc tham gia xét hỏi tại phiên tòa của kiểm sát viên còn thiếu chủ động, nhạy

bén. Ngay từ khi kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ để tham gia phiên Tòa chưa dự kiến

đầy đủ các tình huống để đề ra nội dung thẩm vấn, nhất là trong quá trình điều tra bị cáo

không nhận tội hoặc chứng cứ còn có điểm chưa vững chắc. Tại phiên tòa chưa tập

trung theo dõi diễn biến khi Hội đồng xét xử thẩm vấn, để đối chiếu với nội dung cáo

trạng truy tố và lời khai, lời trình bày của bị cáo và những người tham gia tố tụng và các

nhân chứng khác để cùng Hội đồng xét xử thẩm vấn rõ ràng.

Nhiều vụ án do kiểm sát viên trước khi tham gia phiên tòa do không trực tiếp

đọc hồ sơ chính nên không nắm chắc nội dung vụ án dẫn đến bị động, bỏ mặc việc thẩm

vấn cho Hội đồng xét xử, không ít vụ án khi xét xử tại phiên tòa các bị cáo lại không

nhận tội nhưng suốt quá trình Hội đồng xét xử thẩm vấn kiểm sát viên vẫn không xét

hỏi để đấu tranh với bị cáo, bảo vệ quan điểm của mình.

- Về bản luận tội, nhìn chung đang là khâu yếu của ngành. Từ việc phân tích,

đánh giá một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ về chứng cứ trong quá trình dự thảo

luận tội đến việc bổ sung chứng cứ trong quá trình tham gia phiên tòa để buộc tội bị cáo

còn rất hạn chế. Tình trạng chung ở các vụ án phức tạp: án kinh tế lớn, án trọng điểm, án

điểm, kiểm sát viên chuẩn bị dự thảo luận tội thường lấy nội dung cáo trạng mô tả sự việc

phạm tội để nêu lại trong bản luận tội, thiếu phần luận chứng, chưa chú ý đưa ra các

chứng cứ để chứng minh cho tội phạm của bị cáo, nhất là trong trường hợp bị cáo chối tội

tại phiên tòa. Đối với những vụ án đơn giản, quả tang chứng cứ rõ ràng thì kiểm sát viên

chuẩn bị luận tội theo khuynh hướng gạch đầu dòng hoặc nói chay. Điều này thể hiện sự

chủ quan phiến diện trong khi dự thảo luận tội, trong phần đề xuất áp dụng pháp luật mới

chú ý đến đề xuất áp dụng hình phạt chính mà chưa chú ý đến đề xuất áp dụng các hình

phạt bổ sung, phạt tiền, bồi thường tài sản.

Về tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại

phiên tòa được xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác công tố,

song thời gian qua còn bộc lộ những mặt yếu nên ít chú ý đến phát biểu của người bào

chữa; đáng lưu ý có những trường hợp lời bào chữa có những điểm không đúng với sự

thật, khác với nội dung buộc tội nhưng kiểm sát viên vẫn không có sự tranh luận để làm

rõ sự thật của vụ án, làm rõ những vấn đề thiếu chính xác, sai sự thật của lời bào chữa.

Ngoài ra, ở nhiều vụ án khi tranh luận chưa chú ý vào những vấn đề cơ bản đang có ý

kiến khác nhau để đưa ra chứng cứ đấu tranh thuyết phục với những quan điểm không

đúng của người bào chữa mà nêu chung chung hoặc khẳng định ngay là có đủ căn cứ

như cáo trạng truy tố.

Về thực hiện chức năng kiểm sát xét xử, nhiệm vụ cơ bản của VKS nhằm bảo

đảm tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động xét xử của Tòa án. Điểm yếu của

công tác này là còn tình trạng thiếu nhận thức đầy đủ về những căn cứ pháp lý theo quy

định của Bộ luật tố tụng hình sự để làm cơ sở thực hiện chức năng kiểm sát, do vậy vi

phạm của Tòa án ở thẩm quyền xét xử (Điều 145) còn xảy ra ở cấp quận huyện, vi phạm

quy định về thời hạn xét xử (theo Điều 151 thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Điều 215

thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, Điều 252 thời hạn chuẩn bị xét xử giám đốc thẩm,

tái thẩm) vẫn còn xảy ra ở cả hai cấp tòa án, nhưng việc phát hiện để tập hợp kiến nghị

với tòa án cùng cấp còn hạn chế.

Đối với những người tham gia tố tụng tại phiên tòa như người bào chữa, nhân

chứng, người đại diện cho bị cáo là vị thành niên v.v... thì hoạt động kiểm sát chưa được

chú ý đúng mức để kiểm sát ngay từ khi Tòa án ra các quyết định tố tụng cho nên vẫn

còn có các phiên tòa phải hoãn để khắc phục, hoặc một số vụ bị cấp phúc thẩm hủy án

để xét xử lại.

c) Thực trạng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án Dân sự, Hôn nhân

và gia đình, Hành chính - Kinh tế - Lao động...

Trong những năm qua, tình hình vi phạm và tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia

đình đưa đến Tòa án giải quyết không tăng, nhưng tính chất phức tạp.

Hiện nay, trong các quy định của pháp luật thì nhiệm vụ và quyền hạn của

VKSND trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự, hành chính, kinh tế, lao

động và những việc khác theo quy định của pháp luật được quy định tại các điều 15, 17,

18 Luật tổ chức VKSND và một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân

sự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các

tranh chấp lao động và Luật phá sản doanh nghiệp. Theo các văn bản pháp luật này, khi

thực hiện công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, hành chính, lao

động và những việc khác theo quy định của pháp luật, VKSND có những nhiệm vụ và

quyền hạn sau là:

- Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án, yêu cầu TAND hoặc tự mình điều tra, xác

minh những vấn đề cần làm sáng tỏ nhằm giải quyết đúng đắn vụ án;

- Khởi tố vụ án theo quy định của pháp luật; tham gia phiên tòa xét xử những

vụ án mà VKS đã khởi tố, kháng nghị hoặc pháp luật quy định; đối với những vụ án

khác, VKSND có thể tham gia tố tụng vào bất cứ giai đoạn nào nếu thấy cần thiết;

- Yêu cầu TAND cùng cấp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định

của pháp luật;

- Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết

định của TAND theo quy định của pháp luật.

Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do luật định, trong những năm qua, mặc dù với

biên chế có hạn nhưng VKSND thành phố Hà Nội và VKSND các quận huyện luôn cố

gắng hoàn thành nhiệm vụ được giao, góp phần bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật và

đạt được những kết quả đáng kể trong việc bảo vệ tài sản của Nhà nước, bảo vệ các

quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân.

Trong công tác kiểm sát, VKSND hai cấp trên địa bàn thành phố đã phát hiện

được nhiều vi phạm pháp luật của TAND trong việc thụ lý, lập hồ sơ và giải quyết vụ án

về dân sự, lao động, hành chính, kinh tế mà điển hình là:

- Tình hình thụ lý đơn kiện còn chậm, có nhiều trường hợp thụ lý nhưng không

yêu cầu các bên cung cấp tài liệu đầy đủ, kịp thời để làm căn cứ cho việc xem xét, giải

quyết vụ án; nhiều vụ án phúc thẩm, giám đốc thẩm hủy án để điều tra xét xử lại từ đầu,

nhưng tòa án cấp sơ thẩm cũng không điều tra bổ sung theo yêu cầu của bản án phúc

thẩm hoặc giám đốc thẩm nên nhiều vụ án, nhất là án dân sự và án kinh tế phải xử đi xử

lại nhiều lần, qua nhiều cấp vẫn không giải quyết dứt điểm được.

- Trong việc thụ lý, nhiều trường hợp Tòa án xác định không đúng tư cách của

đương sự, có sự lẫn lộn giữa bị đơn và người có quyền và nghĩa vụ liên quan.

- Trong quá trình tiến hành hòa giải, việc ra quyết định công nhận sự thỏa thuận

của các đương sự nhiều khi không đúng thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, hành chính,

kinh tế, lao động, còn xảy ra không ít trường hợp hòa giải vắng mặt đương sự, nhất là án

ly hôn và án kinh tế; hòa giải không có thẩm phán chủ trì ký biên bản hòa giải.

- áp dụng Luật nội dung và Luật tố tụng không đúng, nhất là những vụ án dân

sự và hành chính về tranh chấp đất đai; xác định quan hệ tranh tụng còn nhầm lẫn giữa

tranh tụng dân sự với kinh tế, điều này thường xuyên xảy ra đối với việc giải quyết các

tranh chấp hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng tín dụng,…

- Vi phạm thời hạn giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, lao động,… khá phổ

biến ở Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm. Có nhiều vụ việc ra bản án còn chậm đến 2 hoặc

3 tháng.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế,

hành chính, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật cũng còn nhiều

thiếu sót, khuyết điểm: do số lượng án dân sự cũng như các tranh chấp trong lĩnh vực

hành chính, kinh tế, lao động ngày càng tăng và diễn biến phức tạp, trong khi biên chế

cán bộ, kiểm sát viên làm công tác này hầu như không được tăng dẫn đến tình trạng quá

tải, chất lượng và hiệu quả công tác không cao; thêm vào đó, quy định của pháp luật

hiện hành còn chưa đầy đủ nên việc nhận thức và vận dụng pháp luật để thực hiện công

tác kiểm sát còn gặp nhiều khó khăn, làm hạn chế đến hiệu quả của công tác kiểm sát.

Tình trạng vi phạm tập trung của cơ quan xét xử xảy ra còn nhiều như: Thụ lý

đơn khởi kiện của đương sự không đúng quy định của pháp luật, điều tra trước khi thụ

lý vụ án; điều tra không đầy đủ đã đưa ra xét xử, vi phạm các thủ tục, trình tự trong hòa

giải, xét xử; đáng chú ý là án để quá hạn luật định còn phổ biến, án xét xử bị cải sửa,

hủy tỷ lệ bình quân trong những năm gần đây chiếm xấp xỉ 50%, không được làm rõ

nguyên nhân, trách nhiệm cụ thể nên chưa có giải pháp khắc phục hậu quả.

Thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành, VKSND thành phố và các quận huyện

đã góp phần cùng với ngành Tòa án giải quyết có hiệu quả các vụ án Dân sự. Tuy nhiên,

việc tham gia phiên tòa của Kiểm sát viên ở cá trình tự sơ thẩm, phúc thẩm đạt tỷ lệ còn

thấp, trình độ phát hiện vi phạm trong quá trình lập hồ sơ, hòa giải, xét xử... hạn chế, ít phát

hiện được vi phạm để điều tra bổ sung, tự điều tra bổ sung, kháng nghị theo các trình tự

chưa được nhiều, trong khi án có vi phạm bị cải sửa ở cấp phúc thẩm còn chiếm tỷ lệ cao,

chất lượng kháng nghị một số vụ án còn thấp, phải rút kháng nghị hoặc không được Tòa

chấp nhận. Còn tình trạng tiếp nhận xử lý đơn lúng túng, hiệu quả chưa cao.

Trong những năm qua, tình hình thụ lý giải quyết các vụ án hành chính - kinh tế

- lao động của Tòa án cấp sơ thẩm tăng không nhiều, nhưng nội dung thì rất phức tạp và

đa dạng, công tác kiểm sát việc giải quyết án sơ thẩm hành chính - kinh tế - lao động

của VKSND thành phố cũng như VKS các quận huyện cũng có một số điểm cần lưu ý

là:

Tình trạng vi phạm pháp luật của Tòa án trong việc thụ lý, lập hồ sơ và thực

hiện tố tụng giải quyết các vụ án hành chính - kinh tế - lao động cũng xảy ra nhiều

nhưng VKSND các cấp ít phát hiện được vi phạm để kiến nghị sửa chữa hoặc báo

cáo VKS cấp trên kháng nghị theo thẩm quyền.

d) Công tác kiểm sát việc thi hành án

Năm 1994 ngành kiểm sát tái thành lập hệ thống tổ chức kiểm sát THA từ Trung

ương đến cấp huyện. ở VKS thành phố đã thành lập Phòng kiểm sát THA, ở cấp huyện

đã có biên chế các Kiểm sát viên chuyên trách làm công tác THA.

Sau khi ổn định tổ chức bộ máy, hoạt động của công tác kiểm sát THA đã dần

đi vào nề nếp và có hiệu quả, góp phần thúc đẩy công tác THA đạt kết quả đáng kích lệ.

Kết quả hoạt động kiểm sát THA ngày càng toàn diện, thường xuyên và tích cực hơn.

Về kiểm sát THA phạt tù, ở cả hai cấp kiểm sát đã từng bước phối hợp với cơ

quan Công an, Tòa án để rà soát số bị án phạt tù đã có hiệu lực nhưng Tòa án chưa ra

quyết định THA, hoặc số bị án đã có quyết định THA nhưng Công an chưa bắt THA

theo quyết định của Tòa án, tác động yêu cầu kiến nghị của các cơ quan này thực hiện.

Công tác kiểm sát THA ở cả cấp thành phố và quận huyện đã phối hợp với cơ

quan THA ngang cấp để cưỡng chế THA nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng

do phía THA cố tình chây ì hoặc trốn tránh việc THA, phối hợp với Hội đồng THA tử

hình bảo đảm việc THA tử hình đúng pháp luật.

Công tác kiểm sát THA dân sự, hành chính, kinh tế, lao động và tuyên bố phá

sản doanh nghiệp đang từng bước được tổ chức và thực hiện ở các cấp.

Tuy nhiên công tác kiểm sát THA cũng còn bộc lộ một số điểm yếu là:

Tổ chức hệ thống kiểm sát THA được hình thành từ năm 1994, nhưng nhìn

chung bộ máy chưa hoàn chỉnh, cán bộ làm công tác kiểm sát THA vừa thiếu vừa yếu.

Tại VKS thành phố đã có phòng chuyên trách làm công tác kiểm sát THA,

nhưng ở cấp quận huyện thì kiểm sát viên làm công tác kiểm sát THA chủ yếu là kiêm

nhiệm mà kiểm sát THA chỉ là khâu công tác thứ yếu. Do quan niệm không đúng nên

còn tình trạng bố trí những cán bộ yếu từ các khâu công tác khác điều về khâu công tác

kiểm sát THA. Do vậy không nắm bắt được đầy đủ vi phạm của cơ quan THA, không

kiểm sát được hoạt động của họ, không phát hiện được những vi phạm nghiêm trọng

trong hoạt động của cơ quan THA.

Mặt khác, Quyết định số 12 của VKSNDTC phân định về phạm vi kiểm sát của

kiểm sát THA và kiểm sát giam giữ cải tạo chưa thật phù hợp (kiểm sát THA chịu trách

nhiệm từ khi án có hiệu lực pháp luật đến khi bắt bị án vào trại giam và từ khi bị án

THA xong hình phạt chính cho đến khi xóa án). Một thời gian dài cả kiểm sát THA và

kiểm sát giam giữ cải tạo đều không nắm được thực chất việc tạm đình chỉ THA phạt tù

có chính xác hay không và lý do của các trường hợp được tạm chỉ THA phạt tù không

quay lại trại giam thụ án; kiểm sát THA cũng không được tham gia xét giảm án.

Đây là một điểm vướng mắc còn tồn tại cần khắc phục, nhằm bảo đảm cho hoạt

động của công tác kiểm sát THA của VKSND có hiệu quả hơn.

Một vài năm gần đây, Lãnh đạo VKSND thành phố đã quan tâm chỉ đạo khâu

kiểm sát THA. Nhưng nhiều năm qua, công tác chỉ đạo của lãnh đạo các cấp đối với

kiểm sát THA còn rất hạn chế, thể hiện ở khâu bố trí tổ chức bộ máy, chất lượng cán bộ

cho khâu này.

- Việc lãnh đạo chủ động phối hợp với các ngành hữu quan về THA còn rất hạn

chế, thiếu chủ động, thường xuyên, chưa tạo điều kiện cho cán bộ tham mưu thực hiện

kiểm sát THA.

- Luật về THA chưa kiện toàn, vừa thiếu tính thực thi, những vướng mắc trong

hoạt động THA của cơ quan THA và của hoạt động kiểm sát THA không được hướng

dẫn, tháo gỡ kịp thời; một số thông tư hướng dẫn mất khá nhiều thời gian trong quá

trình dự thảo rồi mới được ban hành gây khó khăn cho hoạt động kiểm sát THA và hoạt

động THA của chính cơ quan THA.

e) Công tác kiểm sát việc giam giữ và cải tạo

Để thực hiện công tác kiểm sát giam giữ, cải tạo VKSNDTC đã ban hành Quy

chế 01/QĐ-KSGGCT ngày 03/01/1996 về công tác kiểm sát giam giữ cải tạo đến ngày

20/10/1998 Quy chế số 01 được sửa đổi thay thế bằng Quy chế số 43/QĐ-KSGGCT.

Quy chế đã xác định nhiệm vụ: quyền hạn đối tượng, phạm vi, nội dung phương

pháp công tác kiểm sát giam giữ cải tạo.

- Trong những năm qua công tác kiểm sát giam giữ cải tạo đã thực hiện khá tốt

nhiệm vụ nhằm bảo đảm ba mục tiêu là việc giam giữ, cải tạo theo đúng quy định của

pháp luật; chế độ giam giữ cải tạo được bảo đảm cũng như các chế độ chính sách đối

với người bị giam giữ cải tạo được thực hiện.

Việc giam giữ cải tạo bảo đảm đều có lệnh và quyết định, khi nào hết thời hạn

giam giữ hoặc THA xong hình phạt tù người bị giam giữ cải tạo đều được trả tự do kịp

thời. Tình trạng quá hạn giam giữ trước đây tương đối phổ biến nhưng từ năm 2000 đến

nay (sau khi có Chỉ thị 53 của Bộ Chính trị yêu cầu tăng cường công tác kiểm sát việc

bắt giam giữ, xử lý) việc để bị can bị giam giữ quá hạn tạm giam giảm rõ rệt. Tình trạng

này trên địa bàn thành phố đến nay cơ bản đã được chấm dứt. Không để xảy ra việc

giam giữ người trái pháp luật trên địa bàn thành phố.

Các chế độ đối với người bị giam giữ, cải tạo như ăn, mặc, ở, chế độ y tế, thăm

gặp đã được VKSND thông qua kiểm sát thường kỳ trực tiếp tại nơi giam giữ, cải tạo đã

kiến nghị kháng nghị nhiều lần nên các chế độ nêu trên đã được thực hiện khá tốt,

không còn tình trạng suy kiệt dẫn đến chết ở nơi giam giữ, cải tạo. Cơ bản không còn

tình trạng "đầu gấu", "anh chị" trong các trại tạm giam, nhà tạm giữ của Công an hai

cấp.

- Kiểm sát việc quản lý giáo dục phạm nhân đã được tăng cường, bảo đảm việc

nhận xét đánh giá xếp loại cải tạo chính xác giúp cho việc đề nghị giảm thời hạn chấp

hành hình phạt tù được công bằng chính xác. Hàng năm đã có hàng ngàn người được

giảm thời hạn tù do cải tạo tiến bộ.

Tuy nhiên, công tác kiểm sát giam giữ, cải tạo cũng còn tồn tại một số nhược

điểm chính như sau:

Tình trạng thiếu sót chung trong toàn ngành Kiểm sát Hà Nội là: số lần kiểm sát

nhà tạm giữ, trại tạm giam, cơ sở chữa bệnh, có kết luận còn ít; chất lượng kiểm tra, và

các bản kết luận kiểm sát nhà tạm giữ, trại tạm giam còn nhiều hạn chế như: chưa phát

hiện hết vi phạm, việc phân tích kiến nghị vi phạm thiếu cụ thể, thiếu sức thuyết phục.

ở cấp quận huyện một số đơn vị trong khi tiến hành kiểm sát thường kỳ và bất

thường chưa thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn, nội dung, biện pháp đã được quy

định trong quy chế. Vì vậy tình trạng tạm giữ, tạm giam quá thời hạn lác đác vẫn còn.

Việc các đối tượng bị bắt giữ hình sự nhưng chuyển xử lý hành chính nhìn

chung đảm bảo đúng chính sách và pháp luật của Nhà nước: Năm 1999 bắt giữ chuyển

xử lý hành chính 68 đối tượng; năm 2000 bắt giữ chuyển xử lý hành chính 379 đối

tượng; năm 2001 bắt giữ chuyển xử lý hành chính 326 đối tượng. Thông qua các đợt

kiểm tra của VKSND thành phố cho thấy số đối tượng bắt giữ hình sự phải xử lý hành

chính đều là những đối tượng phạm tội hình sự nhỏ, đối chiếu với chính sách hình sự

không cần thiết phải xử lý truy tố để Tòa án xét xử; một số đối tượng vận dụng Nghị

quyết 32 của Quốc hội và việc áp dụng chế định của Bộ luật hình sự năm 1999 không

cấu thành tội phạm nên không truy cứu trách nhiệm hình sự.

2.2.2. Nguyên nhân của những thành tích ưu điểm và những hạn chế thiếu

sót

a) Nguyên nhân dẫn đến những thành tích và ưu điểm đã đạt được

Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND

thành phố Hà Nội đạt được những thành tích như phân tích ở phần trên cơ bản là do

những nguyên nhân sau:

- Trước hết, từ các cấp lãnh đạo đến từng cán bộ, kiểm sát viên trong ngành

Kiểm sát Hà Nội đã nhận thức đúng và đầy đủ về chức năng và nhiệm vụ do Hiến pháp

và Luật tổ chức VKSND quy định; đồng thời đã bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị mà

Đảng và Nhà nước đặt ra trong từng giai đoạn cách mạng để thực hiện tốt chức năng,

nhiệm vụ của ngành.

- Cán bộ kiểm sát viên trong từng khâu công tác nghiệp vụ đã bám sát quy chế

làm căn cứ cho các thao tác nghiệp vụ và quản lý chỉ đạo mang tính pháp quy trong

ngành.

- Kế thừa và phát huy được những kinh nghiệm tích lũy qua nhiều năm, không chỉ

về mặt nghiệp vụ mà cả về xây dựng tổ chức bộ máy và đào tạo bồi dưỡng đội ngũ kiểm

sát viên, cán bộ làm công tác kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử hình sự, kiểm sát xét xử

dân sự, kiểm sát THA và kiểm sát việc giam giữ, cải tạo.

- Việc nghiên cứu quán triệt và vận dụng các quy định của Bộ luật hình sự và

Bộ luật tố tụng hình sự đảm bảo đúng đắn, chính xác. Mặt khác, từ thực tiễn của công

tác kiểm sát những năm qua đã chú trọng việc nghiên cứu sơ kết đúc rút kinh nghiệm để

rút kinh nghiệm chung và tổ chức tập huấn quán triệt chung trong ngành.

- Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của

ngành đã xác lập được mối quan hệ và có sự phối hợp thực hiện trong từng khâu nghiệp

vụ, và giữa các khâu với nhau; cũng như giữa VKSND thành phố với VKSND của các

quận huyện. Mặt khác, cũng đã tạo ra sự phối hợp khá chặt chẽ với các ngành tư pháp

trên địa bàn thành phố như: Công an, Tòa án, cơ quan THA... trên cơ sở chức năng

nhiệm vụ của từng ngành do luật định. Từ đó tạo ra sức mạnh chung trong đấu tranh

chống và phòng ngừa tội phạm, cũng như các vi phạm trong quá trình thực hiện chức

năng nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp trên địa bàn thành phố.

- Có sự phối hợp với các ngành tư pháp để nghiên cứu áp dụng một số quy định

của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật dân sự cũng như các đạo luật và

Pháp lệnh liên quan đến các hoạt động tư pháp nên đã tạo ra sự thống nhất trong nhận

thức và áp dụng giữa các ngành.

b) Nguyên nhân dẫn đến những mặt hạn chế, thiếu sót

* Nguyên nhân chủ quan

- Tinh thần trách nhiệm của một số cán bộ, kiểm sát viên, của cán bộ lãnh đạo

quản lý một số đơn vị chưa được đề cao, chưa chịu khó học hỏi, suy nghĩ, tích lũy kinh

nghiệm… chưa nắm vững các quy định của Luật tổ chức VKSND, Bộ luật hình sự, Bộ

luật tố tụng hình sự, Bộ luật dân sự, cũng như các đạo luật và Pháp lệnh có liên quan

đến hoạt động của VKSND cũng như các cơ quan tư pháp nên khi vận dụng vào các hoạt

động nghiệp vụ cụ thể còn lúng túng, xử lý thiếu chính xác dẫn đến sai phạm.

- Năng lực trình độ của một bộ phận không nhỏ trong đội ngũ cán bộ kiểm sát

viên còn hạn chế nhất định, nhất là bước vào thời kỳ đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi phải nâng cao trình độ nghiệp vụ kiến thức về

pháp luật và quản lý kinh tế - xã hội thì chưa đáp ứng được.

- Tinh thần của một số cán bộ, kiểm sát viên chưa cao nên chưa làm tròn nhiệm

vụ được giao.

- Công tác quản lý chỉ đạo điều hành nói chung của các khâu công tác còn thiếu

chặt chẽ có lúc thiếu kịp thời, mối quan hệ giữa các khâu nghiệp vụ, giữa các bộ phận

cũng thiếu chặt chẽ (đặc biệt là trong khâu hình sự); sự phối hợp chỉ đạo, hỗ trợ giữa

các phòng nghiệp vụ của VKS thành phố với VKS các quận huyện cũng chưa thật chặt

chẽ.

- Tổ chức bộ máy, cán bộ, kiểm sát viên còn thiếu nhiều ở cả hai cấp, nhất là cấp

huyện, trình độ công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự còn yếu, ít phát hiện vi

phạm để kiến nghị, kháng nghị, hiệu quả công tác chưa cao.

- Chế độ báo cáo nghiệp vụ theo quy định của ngành có lúc, có nơi thiếu

nghiêm túc dẫn đến khó khăn cho công tác quản lý, chỉ đạo của cấp trên đối với cấp

dưới.

- Việc kiểm tra hướng dẫn nghiệp vụ xây dựng chuyên đề của VKS cấp trên đối

với cấp dưới chưa thường xuyên và kết quả còn hạn chế.

* Nguyên nhân khách quan

Trước hết là việc nghiên cứu quán triệt quy định của Luật tổ chức VKSND và việc

tổ chức thực hiện luật này còn bất cập. Bên cạnh đó việc hướng dẫn áp dụng Bộ luật

hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự, cũng như Bộ luật dân sự, các luật và Pháp lệnh liên

quan đến hoạt động của VKS tại các thông tư liên ngành và quy chế nghiệp vụ của

ngành thiếu đầy đủ và chính xác trong từng khâu công tác, dẫn đến khó khăn trong việc

nhận thức và vận dụng pháp luật.

Trong lĩnh vực hình sự:

- Các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật còn chưa phù hợp với thực tế diễn

biến của tội phạm và cũng chưa kịp thời, dẫn tới tình trạng vận dụng điều luật không

thống nhất.

- Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự được ban hành nhiều năm song việc

giải thích và hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền còn ít và chậm, có vấn đề tuy đã

hướng dẫn song lại thiếu sát hợp với thực tế, gây khó khăn cho vận dụng. Tình trạng

chung là nhiều vướng mắc đối với hai Bộ luật không được giải quyết kịp thời.

- Lực lượng các cơ quan tiến hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm

phán, Chấp hành viên) vừa thiếu về số lượng vừa yếu về chất lượng làm cho công tác

điều tra, truy tố, xét xử, THA còn nhiều bất cập.

- Sự phối hợp giữa các ngành bảo vệ pháp luật trên địa bàn thành phố có lúc, có

nơi còn thiếu chặt chẽ, thiếu nhất quán, chưa thường xuyên nên không ít vụ việc quá

trình xử lý có biểu hiện không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với nhau.

Trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính - kinh tế - lao

động:

- Trong lĩnh vực dân sự hôn nhân và gia đình thì pháp luật về tố tụng mới dừng

ở mức Pháp lệnh, chưa ban hành được Luật; pháp luật về nội dung thì thiếu đồng bộ,

nhiều điểm còn chung chung, chậm hướng dẫn, làm cho việc áp dụng không thống nhất,

thiếu chuẩn xác.

- Trong lĩnh vực hành chính - kinh tế - lao động thì cả pháp luật về nội dung và

pháp luật về thủ tục tố tụng giải quyết các vụ án không hoàn chỉnh, đầy đủ và đồng bộ,

một số điều quy định có tính đặc thù của á hành chính - kinh tế - lao động không được

hướng dẫn nên gặp khó khăn, nhiều điều luật còn chung chung, lại chậm được sửa đổi,

bổ sung và hướng dẫn đến việc hiểu và áp dụng không thống nhất, thiếu chuẩn xác.

- Các văn bản luật liên quan đến các lĩnh vực này như Luật đất đai, Luật thương

mại, Luật ngân hàng v.v... cũng có nhiều bất cập và không đồng bộ cho nên việc vận

dụng cũng gặp không ít khó khăn. Đặc biệt, trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều

thành phần cùng song song tồn tại như hiện nay đã tác động không nhỏ đến ý thức của

các thành phần dân cư, dẫn đến nhiều loại tranh chấp phát sinh nhưng các cơ quan chức

năng lại rất khó khăn trong việc giải quyết dứt điểm những tranh chấp này.

Điều kiện cơ sở vật chất:

- Điều kiện làm việc, cơ sở vật chất như trụ sở làm việc, trang thiết bị, phương

tiện kỹ thuật và phục vụ cho công tác nghiệp vụ của ngành còn quá khó khăn, eo hẹp và

điều kiện thu nhập phục vụ đời sống nói chung của ngành còn nhiều khó khăn, thiếu

thốn cũng là nguyên nhân làm cho một số cán bộ, Kiểm sát viên thiếu an tâm công tác

hoặc lo lắng nhiều cho đời sống hàng ngày mà chưa tập trung đúng mức cho công tác

nghiệp vụ kiểm sát.

2.2.3. Những vấn đề pháp lý đặt ra

Như phần trên đã phân tích, thuật ngữ "quyền công tố" đã được biết đến từ lâu

và được ghi nhận chính thức về mặt Hiến định trong Hiến pháp năm 1980 (Điều 138).

Song cho tới nay, khái niệm "quyền công tố" và "thực hành quyền công tố" vẫn chưa

được lý giải một cách cặn kẽ dưới góc độ pháp lý cũng như góc độ ngôn ngữ, và cũng

chưa có văn bản pháp luật nào của Nhà nước ta chính thức giải thích khái niệm "quyền

công tố" và "thực hành quyền công tố". Hiện nay, ở nước ta đang tồn tại rất nhiều quan

điểm khác nhau về quyền công tố; nhưng cho đến nay vẫn chưa có một văn bản pháp lý

chính thức nào của Nhà nước định nghĩa hoặc giải thích về các khái niệm này. Về công

tác kiểm sát các hoạt động tư pháp cũng vậy. Hiện nay, các khái niệm về "quyền tư

pháp", "cơ quan tư pháp", và "hoạt động tư pháp" cũng chưa có văn bản pháp lý nào lý

giải cụ thể. Do đó trong thực tế hoạt động thực hành quyền công tố cũng như việc kiểm

sát các hoạt động tư pháp của VKSND gặp rất nhiều khó khăn trong thực tiễn hoạt động

Bên cạnh đó, với việc thay đổi chức năng, nhiệm vụ của ngành KSND theo

Hiến pháp 1992 (sửa đổi), mà theo đó VKSND không còn thực hiện chức năng "kiểm

sát việc tuân theo pháp luật của các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan khác thuộc chính

phủ, cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang

và công dân" dẫn đến một số vấn đề pháp lý nảy sinh là:

- Việc chuyển chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSNDTC sang

Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội. Quốc hội giám sát tối cao, trong đó có giám sát

hoạt động tư pháp, mà trước hết là bảo vệ Hiến pháp. Như thế Quốc hội không phải là

cơ quan tư pháp nhưng thực hiện quyền tư pháp. Vì đó là hoạt động thực hiện quyền tư

pháp nên chúng ta thấy một số nước thành lập Tòa án hay ủy ban bảo vệ Hiến pháp.

Luật giám sát của Quốc hội mới ban hành đang được tổ chức thực hiện; cần có một thời

gian đánh giá hiệu lực và hiệu quả thực tế mới có thể khẳng định tính đúng đắn của nó.

- Về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đối với tổ chức hoạt động của

các cơ quan nhà nước cùng cấp đang tỏ ra ít hiệu quả, hoạt động hình thức. Nếu Viện

KSND cấp tỉnh và cấp huyện không kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các cơ

quan nhà nước nữa thì liệu Hội đồng nhân dân các cấp có thay thế được công việc của

Viện KSND cùng cấp không? Vậy nên phải luật hóa chức năng giám sát của Hội đồng

nhân dân các cấp.

Chương 3

Các giải pháp tăng cường pháp chế trong việc

thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát

nhân dân thành phố Hà Nội

3.1. Tăng cường pháp chế trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát các

hoạt động tư pháp là yêu cầu khách quan và cấp thiết trong giai đoạn cách mạng

hiện nay

Vấn đề thứ nhất cần phải làm rõ là: Tại sao phải tăng cường pháp chế XHCN

trong hoạt động thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước ta hiện nay? Đây là vấn đề lớn,

có nhiều cách trả lời. Câu trả lời đúng đắn về vấn đề này chắc chắn phải xuất phát từ

những đòi hỏi khách quan sau đây:

Một là, Nhà nước ta từ khi ra đời đến nay có lịch sử phát triển: từ Nhà nước

Việt Nam dân chủ cộng hòa đến Nhà nước Cộng hòa XHCN đến Nhà nước pháp quyền

XHCN của dân, do dân, vì dân.

Bản chất Nhà nước ta không thay đổi, song hình thức tồn tại, phương thức hoạt

động đã có nhiều đổi mới hoàn thiện ở một trình độ nhất định về tổ chức hoạt động thực

hiện quyền lực Nhà nước. Chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền, đây là đòi

hỏi lớn đối với việc tăng cường pháp chế XHCN như Hiến pháp năm 1992 đã quy định:

"Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường Pháp chế XHCN..."

(Điều 12).

Hai là, tăng cường pháp chế XHCN không chỉ là để phát huy hiệu lực, hiệu quả

quản lý nhà nước mà xét đến cùng là để phát huy dân chủ của nhân dân. Các quyền con

người, quyền chính trị, dân sự và kinh tế, các lợi ích hợp pháp của công dân đã được

luật hóa ngày càng đầy đủ trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta. Pháp chế XHCN

là phương thức đảm bảo các quyền tự do dân chủ của nhân dân không chỉ nằm trong

luật mà được thực hiện trong thực tế.

Nếu các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và của mọi công dân bị xâm

phạm thì pháp chế XHCN là phương pháp giải quyết để bảo vệ đến cùng các quyền và

lợi ích hợp pháp ấy. Như vậy, phát huy dân chủ phải gắn liền với pháp chế và tăng

cường pháp chế XHCN.

Ba là, những hạn chế, bất cập kể cả những lạc hậu trong tổ chức và hoạt động

của hệ thống cơ quan tư pháp ở nước ta; trong đó phải kể đến thực trạng vi phạm pháp

luật xảy ra và đang đe dọa xảy ra trong lĩnh vực hoạt động tư pháp của Nhà nước đòi

hỏi phải tăng cường pháp chế XHCN.

Vấn đề thứ hai là: Nâng cao nhận thức đúng đắn về cải cách tư pháp ở nước ta

hiện nay. Vấn đề này là cơ sở lý luận của việc thiết lập pháp chế trong hoạt động tư

pháp. Cơ sở lý luận đúng, có tính khoa học thì cải cách tư pháp sẽ có hiệu quả, hệ thống

tư pháp sẽ hoạt động ổn định, lâu dài. Như vậy cần có nhận thức đúng đắn hệ thống tư

pháp và hoạt động tư pháp ở nước ta là gì? Vì chúng ta trong nhận thức chưa thống nhất

nên việc xây dựng thể chế tư pháp còn chưa hợp lý, ổn định. Những khía cạnh của vấn

đề nêu sau đây có thể chưa hợp lý, hoặc là hợp lý nhưng chưa ổn định vững chắc, còn

phải làm rõ để tiếp tục hoàn thiện:

Một là, như ở phần trên đã phân tích thì: việc chuyển chức năng Kiểm sát việc

tuân theo pháp luật của VKSNDTC sang Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội; việc

thực hiện Luật giám sát của Quốc hội mới ban hành; hoạt động giám sát của Hội đồng

nhân dân đối với tổ chức hoạt động của các cơ quan nhà nước cùng cấp đang được tổ

chức thực hiện cần có một thời gian đánh giá hiệu lực và hiệu quả thực tế mới có thể

khẳng định tính đúng đắn của nó.

Hai là, về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Nếu cấp cuối cùng

giải quyết mà đương sự không chấp nhận thì có quyền đưa ra Tòa án hành chính giải

quyết. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để giải quyết nhanh chóng, kịp thời, có hiệu quả đơn

thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Biện pháp giải quyết không chỉ ở trình tự "ngắn" hay

"dài", một cấp giải quyết hay nhiều cấp giải quyết mà phải có giải pháp đồng bộ. Trong

đó, cần có biện pháp khắc phục những nguyên nhân và điều kiện phát sinh ra khiếu nại,

tố cáo từ trong "cơ thể" của Nhà nước và hoàn thiện cơ chế tài phán hành chính.

Ba là, cơ quan điều tra các vụ án hình sự ở nước ta là những cơ quan nào? về

việc phân công điều tra các vụ án còn tản mạn, chưa thống nhất về một đầu mối, thiếu

tính hệ thống dẫn đến việc đùn đẩy trách nhiệm hoặc "lấn sân" nhau; thẩm quyền của

các cơ quan điều tra của Cơ quan Kiểm lâm, Hải quan, Bộ đội biên phòng và Tổng cục

an ninh Bộ Công an v.v... chưa cụ thể, cần được phân định rõ hơn để có cơ chế phối hợp

hiệu quả hơn trên cơ sở xác định trách nhiệm cụ thể.

Bốn là, vấn đề phân định thẩm quyền xét xử của các cấp Tòa án còn chưa hợp

lý. Chưa có cơ chế phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả giữa các cơ quan điều tra, VKS và

Tòa án.

Năm là, các dịch vụ hỗ trợ tư pháp ở nước ta chưa phát triển, chưa đáp ứng

được nhu cầu của công dân, của các đơn vị kinh tế, hạn chế đến kết quả giải quyết các

vụ án nói chung và các vụ án hình sự nói riêng.

3.2. Phương hướng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong việc thực

hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân

thành phố Hà Nội

3.2.1. Quán triệt các quan điểm cải cách tư pháp trong Nghị quyết 08-

NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị

Hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành công cuộc cải cách bộ máy nhà

nước, đổi mới hệ thống chính trị, trong đó việc cải cách tổ chức bộ máy và hoạt động

của các cơ quan tư pháp là một đòi hỏi khách quan nảy sinh trong tiến trình đổi mới đất

nước. Công tác tư pháp là một lĩnh vực quan trọng được Đảng và Nhà nước ta quan tâm

lãnh đạo, chỉ đạo. Đặc biệt trong những năm gần đây, Ban chấp hành Trung ương, Bộ

Chính trị đã có một số nghị quyết, chỉ thị về xây dựng, hoàn thiện nhà nước và pháp

luật, trong đó có một số nội dung đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp.

Trong quá trình tổ chức thực hiện những nội dung trên, tuy có đạt được một số kết quả

nhất định nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu bức xúc của công tác tư pháp.

Chủ trương cải cách tư pháp đã được thực hiện từ nhiều năm nay, được tiến

hành đồng thời với đổi mới hoạt động lập pháp và cải cách nền hành chính Nhà nước.

Nhưng việc triển khai thực hiện chưa đạt kết quả như mong muốn. Do đó, ngày

2/1/2002 Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra Nghị quyết số 08-

NQ/TW về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới".

Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị đã tiếp tục làm rõ thêm những chủ trương,

nhiệm vụ về cải cách tư pháp đã được đề ra trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII),

các Nghị quyết Trung ương 3, Trung ương 7 (khóa VIII) và Nghị quyết Đại hội lần thứ

IX của Đảng. Đồng thời, nêu rõ những nhiệm vụ và biện pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh

cải cách tư pháp đáp ứng với yêu cầu của công cuộc đổi mới. Tinh thần Nghị quyết toát

lên từ nội dung, tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị là tính thời sự, bức xúc của việc đưa

vào cuộc sống, tổ chức thực hiện những chủ trương, giải pháp về cải cách tư pháp. Do

vậy, việc quán triệt và thực hiện tốt, thắng lợi những nội dung, nhiệm vụ nêu trong Nghị

quyết 08 của Bộ Chính trị không chỉ là yêu cầu mà còn là trách nhiệm của chúng ta

trong việc thực hiện chủ trương cải cách tư pháp của Đảng.

Cải cách tư pháp cần phải tiến hành đồng bộ việc đổi mới tổ chức và nâng cao

chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp trong tất cả các khâu tố tụng

(điều tra, truy tố, xét xử, THA) và các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp. Cái đích mà cải

cách tư pháp cần đạt tới là phải làm thế nào để quyền tư pháp được thực thi đúng, bảo

vệ được kỷ cương pháp luật, củng cố và tăng cường pháp chế XHCN, duy trì một xã hội

ổn định, công bằng, dân chủ và phát triển, không để xảy ra những oan, sai đối với người

dân tiến tới xây dựng được nền tư pháp công bằng, dân chủ, nghiêm minh, phục vụ

nhân dân.

Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị đề cập khá toàn diện, có hệ thống

những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp hiện nay, trong đó xác định những nhiệm

vụ trọng tâm của công tác tư pháp cần thực hiện trong thời gian tới, chủ yếu là giai đoạn

từ năm 2002 đến năm 2005. Bộ Chính trị đã đánh giá đúng tình hình công tác tư pháp

chủ yếu trong 5 năm gần đây, những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, yếu kém

và chỉ ra các nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém đó để có các giải pháp khắc phục.

Về những kết quả đạt được, Bộ Chính trị nhận định:

Trong những năm qua, tình hình vi phạm pháp luật, tội phạm và các

tranh chấp xảy ra nghiêm trọng, diễn biến phức tạp nhưng công tác tư pháp

đã đạt được những kết quả, góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh

chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích

hợp pháp của tổ chức, công dân, bảo vệ pháp chế XHCN, phục vụ tích cực

công cuộc đổi mới; phần lớn cán bộ làm công tư pháp giữ vững phẩm chất

chính trị, có tinh thần trách nhiệm và hoàn thành nhiệm vụ, nhiều đồng chí đã

tận tụy với công việc, có những trường hợp hy sinh cả tính mạng trong cuộc

đấu tranh chống tội phạm.

Đây là sự ghi nhận đúng mức thành tích, về sự cố gắng và tinh thần trách nhiệm

cao của các cơ quan tư pháp, của đội ngũ cán bộ tư pháp trong

cả nước.

Tuy nhiên, Bộ Chính trị cũng nghiêm khắc chỉ ra những thiếu sót còn tồn tại

trong hoạt động của các cơ quan tư pháp như: Chất lượng công tác tư pháp nói chung

chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của công cuộc đổi mới đất nước cũng như sự

trông đợi của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm; làm oan người vô tội,

vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân

đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp. Những thiết sót, tồn tại trên thể hiện

ở tất cả các khâu trong hoạt động tố tụng: điều tra, truy tố, xét xử và THA. Các hoạt

động bổ trợ tư pháp (bào chữa, tư vấn pháp luật, công chứng, giám định v.v...) cũng

chưa đáp ứng yêu cầu.

Nghị quyết đã nêu rõ: những khuyết điểm còn tồn tại trong tổ chức và hoạt

động của các cơ quan tư pháp là do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng

trước hết là do 5 nguyên nhân chủ quan cơ bản sau đây:

1- Công tác cán bộ của các cơ quan tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu của tình

hình hiện nay. Đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ và năng

lực nghiệp vụ, một bộ phận tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, sa sút về phẩm

chất đạo đức. Đây là vấn đề nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến kỷ cương, pháp luật, giảm

hiệu lực của bộ máy nhà nước.

2- Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư

pháp còn nhiều bất hợp lý nhưng chậm được đổi mới, kiện toàn cho phù hợp.

3- Cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của các cơ quan tư pháp chưa đáp ứng yêu

cầu nhiệm vụ, nhất là ở cấp huyện nhiều nơi trụ sở còn rất chật chội, phương tiện làm

việc vừa thiếu lại vừa lạc hậu; chính sách đối với cán bộ tư pháp còn chưa tương xứng

với nhiệm vụ và chức trách được giao.

4- Pháp luật trong lĩnh vực tư pháp chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ và còn nhiều

sơ hở. Công tác xây dựng, giải thích, hướng dẫn và tuyên truyền, phổ biến, giáo dục

pháp luật trong đó có pháp luật về lĩnh vực tư pháp còn nhiều bất cập và hạn chế.

5- Việc triển khai và tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về cải

cách tư pháp chưa nghiêm. Nhìn chung, sự lãnh đạo của Đảng và sự quan tâm của Nhà

nước đối với công tác tư pháp còn hạn chế, chưa có cơ chế cụ thể để chỉ đạo sự phối

hợp hoạt động của các cơ quan tư pháp. Công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực

tiễn về lĩnh vực tư pháp chưa được chú ý đúng mức. Cơ quan tham mưu của cấp ủy về

lĩnh vực nội chính chậm được kiện toàn, chất lượng tham mưu yếu.

Xuất phát từ những đánh giá đó, Nghị quyết đã xác định 4 quan điểm chỉ đạo

đối với công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta. Bốn quan điểm này có tính hệ thống hóa

những quan điểm trước đây đã được xác định trong các Nghị quyết của Ban chấp hành

Trung ương về xây dựng nhà nước. Điều này thể hiện tính nhất quán của Đảng trong

lãnh đạo công tác tư pháp và đòi hỏi chúng ta phải quán triệt thực hiện đầy đủ cụ thể

trên mọi phương diện. Bốn quan điểm chỉ đạo đó là:

Một là, công tác tư pháp phải thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng,

bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan

nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; phát huy dân

chủ, tăng cường pháp chế, góp phần giữ vững và phát huy bản chất của Nhà nước ta là

Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Hai là, công tác tư pháp cần phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời,

nghiêm minh các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội tham nhũng và các tội hình sự

khác; bảo vệ trật tự, kỷ cương; bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ, quyền, lợi ích hợp

pháp của các tổ chức và công dân; phục vụ đắc lực công cuộc đổi mới, thúc đẩy phát

triển kinh tế - xã hội.

Ba là, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia vào công tác tư

pháp. Các cơ quan tư pháp phải dựa vào nhân dân để hoạt động, đồng thời phải là lực

lượng nòng cốt, là chỗ dựa vững chắc của nhân dân trong đấu tranh phòng, chống vi

phạm, tội phạm và giải quyết tranh chấp.

Bốn là, xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh và từng bước hiện

đại, góp phần xây dựng, bảo vệ Đảng và Nhà nước.

3.2.2. Tăng cường pháp chế trong thực hành quyền công tố và kiểm sát các

hoạt động tư pháp phải gắn với việc triển khai thực hiện tám nhiệm vụ cải cách tư

pháp hiện nay

Nhằm thực hiện những quan điểm chỉ đạo về cải cách tư pháp, Nghị quyết đã đề ra

những nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới bao gồm nhiều công

việc cụ thể, nhưng khái quát trong 8 nhiệm vụ trọng tâm cơ bản. Các nhiệm vụ này không

chỉ tiếp tục khẳng định và làm rõ thêm những chủ trương, giải pháp cải cách tư pháp mà

Đảng và Nhà nước đã đề ra trong các văn kiện trước đây, mà còn đề ra nhiều chủ trương,

giải pháp có tính cụ thể toàn diện hơn.

Nhiệm vụ thứ nhất: Nâng cao chất lượng hoạt động và đề cao trách nhiệm của

các cơ quan và cán bộ tư pháp.

Trong nhiệm vụ này, Nghị quyết đã nêu nhiều giải pháp cụ thể để nâng cao chất

lượng công tác điều tra, công tác kiểm sát, hoạt động xét xử và THA. Trong đó có định

hướng quan trọng là cần phải đề cao sự tranh tụng dân chủ, bình đẳng tại phiên tòa

(thực chất là nâng cao chất lượng giai đoạn tranh luận tại phiên tòa).

Để thực hiện nhiệm vụ này, trước hết phải có một số biện pháp nhằm nâng cao

chất lượng, hiệu quả của khâu đầu tiên, có tính chất quyết định đến chất lượng của các

khâu khác trong hoạt động tố tụng là khâu điều tra. Do đó, trong Nghị quyết một mặt

khẳng định phải bổ sung cán bộ, nâng cao chất lượng, chuyên môn hóa đội ngũ điều tra

viên, nhất là ở cấp huyện. Mặt khác, yêu cầu các cơ quan điều tra, VKS, Tòa án phải tôn

trọng, bảo đảm quyền của luật sư, bào chữa viên trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của bị can, bị cáo và các đương sự khác.

Đối với VKS, ngoài việc khẳng định VKS có chức năng thực hành quyền công

tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, trong Nghị quyết còn nêu rõ sự gắn kết giữa công tác

điều tra với hoạt động công tố để một mặt đề cao vai trò của VKS, đồng thời khẳng định

rõ trách nhiệm của VKS trong công tác giám sát điều tra, truy tố tội phạm. Nếu kiểm sát

viên có năng lực và trách nhiệm thì sẽ phát huy vai trò hết sức quan trọng trong việc

ngăn ngừa để lọt tội phạm và hạn chế các vi phạm, oan, sai trong điều tra, xét xử, THA.

Do vậy, Bộ Chính trị nhấn mạnh đến trách nhiệm, năng lực của kiểm sát viên trong hoạt

động tư pháp, nhất là kiểm sát việc khởi tố và áp dụng các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm

giam.

Kết quả, chất lượng của công tác điều tra, truy tố đều được kiểm tra, phán quyết

thông qua các bản án, quyết định của Tòa án. Bản án, quyết định của Tòa án thể hiện

công lý, công bằng xã hội. Do vậy, nâng cao chất lượng hoạt động của Tòa án là một

trong những nội dung quan trọng nêu trong nhiệm vụ này. Để đạt được mục đích đó,

phải quán triệt và có biện pháp nâng cao tính dân chủ, khách quan trong việc tranh tụng

tại phiên tòa.

Để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do

nhân dân, vì nhân dân, xây dựng nền tư pháp công bằng, dân chủ, nghiêm minh thì một

định hướng mới trong hoạt động của các cơ quan tư pháp mà trong Nghị quyết đã nêu

rõ là: Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên

tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của

người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi

ích hợp pháp. Đây là định hướng quan trọng đối với các hoạt động điều tra, truy tố, xét

xử; tại phiên tòa xét xử phải thật sự có sự tranh luận dân chủ, bình đẳng giữa các cơ

quan tiến hành tố tụng với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác...

nhằm làm sáng tỏ sự việc, không nên truy xét một chiều theo ý muốn chủ quan.

Nhiệm vụ thứ hai: Tiếp tục cụ thể hóa và tổ chức thực hiện những chủ trương

về cải cách tư pháp đã được đề ra trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII), Nghị

quyết Trung ương 3, Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII) và Nghị quyết Đại hội Đảng

lần thứ IX.

Những nghị quyết nêu trên của Đảng đã đề ra nhiều chủ trương, định hướng về

nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Tiếp tục thực hiện các nghị

quyết đó, Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị đã khẳng định một số vấn đề đã chín

muồi, rõ ràng thì cần được thực hiện ngay; còn những vấn đề chưa thật chín thì Nghị

quyết nêu định hướng để chỉ đạo tiếp tục nghiên cứu triển khai thực hiện.

Trong Nghị quyết Bộ Chính trị đã có một số quyết định mới về chức năng, nhiệm

vụ và tổ chức của một số cơ quan tư pháp trong đó khẳng định VKSND các cấp có chức năng

thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Chủ trương này đã được tổ chức

thực hiện thông qua việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức VKSND (sửa đổi);

sắp xếp lại cơ quan điều tra trong ngành kiểm sát, cụ thể là trong hệ thống của VKSND chỉ

thành lập cơ quan điều tra tập trung thống nhất tại VKSNDTC để điều tra các vụ án liên

quan đến các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, ở VKSND cấp tỉnh không thành lập cơ quan

điều tra.

Nhiệm vụ thứ ba: Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững

mạnh.

Trong Nghị quyết đề ra yêu cầu phải nâng cao tiêu chuẩn cán bộ tư pháp nhằm đáp

ứng đòi hỏi ngày càng cao của nhiệm vụ. Cán bộ có chức danh tư pháp phải vững vàng về

chính trị, có bản lĩnh, có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ chuyên môn, nghề nghiệp cao, có

kinh nghiệm xã hội và thực tiễn công tác.

Để thực hiện được yêu cầu đó cần phải bổ sung cán bộ cho các cơ quan tư pháp

nhất là cán bộ có chức danh tư pháp; phân công lại nhiệm vụ đào tạo, thống nhất về

chương trình, nội dung và đầu mối đào tạo cán bộ tư pháp; phấn đấu tất cả cán bộ có

chức danh tư pháp phải tốt nghiệp Đại học Luật và qua đào tạo nghề nghiệp.

Nhiệm vụ thứ tư: Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất bảo đảm cho các cơ quan

tư pháp có đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ; có chế độ chính sách hợp lý đối với

cán bộ tư pháp.

Các cơ quan tư pháp là lực lượng nòng cốt trong đấu tranh phòng chống tội phạm,

bảo vệ pháp luật; nhiệm vụ ngày càng khó khăn, phức tạp, nặng nề hơn. Do vậy, Nghị

quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị nêu rõ chủ trương tăng cường đầu tư cho các cơ quan

tư pháp để các cơ quan này có đủ kinh phí và được trang bị những phương tiện hiện đại

để hoạt động. Trong những năm tới, trước mắt cần xây dựng trụ sở của VKS, Tòa án, Đội

THA, nhà tạm giữ ở cấp huyện.

Bên cạnh việc tạo những điều kiện tốt để làm việc, cần phải xây dựng chế độ

tiền lương, phụ cấp, chính sách đãi ngộ và chế độ khen thưởng cho cán bộ tư pháp

tương xứng với trách nhiệm, tính chất hoạt động; bảo đảm cho cán bộ tư pháp yên tâm

công tác, có thể đứng vững không bị tác động, mua chuộc.

Nhiệm vụ thứ năm: Huy động sự tham gia rộng rãi và tích cực của nhân dân vào

công tác tư pháp; nâng cao hiệu quả công tác giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân,

các tổ chức xã hội và nhân dân đối với các cơ quan tư pháp.

Trong nhiệm vụ này, Nghị quyết đã đề ra nhiều giải pháp cụ thể để huy động

sức mạnh tổng hợp của nhân dân, của toàn xã hội tham gia vào công tác tư pháp. Trong

đó biện pháp hàng đầu là luôn luôn phải lấy phòng ngừa làm phương châm để chỉ đạo

công tác tư pháp.

Một xã hội ổn định, muốn tội phạm và vi phạm bị đẩy lùi, kỷ cương phép nước

được giữ vững thì phải có những biện pháp ngăn chặn và phòng ngừa có hiệu quả có

hiệu quả. Do vậy, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của Bộ Chính trị là: Cần thu hút đông

đảo nhân dân tham gia phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, đấu tranh phòng, chống vi

phạm pháp luật và tội phạm ngay địa bàn dân cư cơ sở. Xây dựng cơ chế để nâng cao

hiệu quả của các hình thức giải quyết các tranh chấp khác như hòa giải, trọng tài nhằm

góp phần xử lý đúng và nhanh chóng những mâu thuẫn, khiếu kiện trong nội bộ nhân

dân và giảm nhẹ công việc cho Tòa án và cơ quan tư pháp khác.

Nhiệm vụ thứ sáu: Đẩy mạnh xây dựng pháp luật, giải thích, hướng dẫn, tuyên

truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và nghiên cứu khoa học về công tác tư pháp.

Nghị quyết xác định cụ thể nhiệm vụ này là:

Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tư pháp. Khẩn trương

ban hành Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi), Luật

THA, Pháp lệnh giám định tư pháp và một số luật, pháp lệnh khác làm cơ sở

pháp lý cho hoạt động của các cơ quan tư pháp.

Kịp thời ban hành những văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật hình

sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Pháp lệnh Luật sư... để bảo đảm áp dụng thống

nhất pháp luật trong hoạt động tố tụng, nâng cao chất lượng, hiệu quả của

công tác tư pháp. Đối với những nội dung của các luật, pháp lệnh cần giải

thích thì ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích theo quy định của Hiến

pháp.

Bên cạnh việc nhấn mạnh yêu cầu xây dựng hệ thống pháp luật làm cơ sở pháp

lý cho hoạt động của các cơ quan tư pháp và việc phải tích cực, khẩn trương hướng dẫn,

giải thích pháp luật, cũng cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học nhằm giải đáp

những vấn đề bức xúc hiện nay trong công tác tư pháp và phục vụ cho cải cách tư pháp

trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN

Việt Nam.

Nhiệm vụ thứ bảy: Tăng cường hợp tác quốc tế về công tác tư pháp.

Theo quan điểm của Đảng, trong xu thế mở rộng giao lưu, hội nhập quốc tế

hiện nay thì hợp tác giữa nước ta với các nước khác trên thế giới về lĩnh vực tư pháp là

rất cần thiết. Trên cơ sở bảo đảm độc lập chủ quyền, an ninh quốc gia, Đảng ta chủ

trương tăng cường nghiên cứu, tham khảo, học tập có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về

tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, về đào tạo cán bộ tư pháp, về đấu tranh

phòng, chống tội phạm...

Nhiệm vụ thứ tám: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư

pháp.

Cũng như toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam, trong công tác tư pháp của Nhà

nước ta sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một nhân tố quyết định mọi thắng lợi.

Điều này đã được Ban chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị quán triệt, chỉ rõ trong nhiều

nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Do vậy, trong nghị quyết lần này, Bộ Chính trị đã xác định

các cấp ủy đảng phải chú trọng định hướng công tác cho các cơ quan tư pháp; tăng cường

công tác xây dựng Đảng, giáo dục, quản lý, kiểm tra hoạt động của các tổ chức Đảng và

đảng viên trong các cơ quan tư pháp; chăm lo công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng

đúng cán bộ. Trong Nghị quyết Bộ Chính trị cũng đã xác định rõ là ở các địa phương thì

các đồng chí Bí thư hoặc Phó Bí thư thường trực cấp ủy trực tiếp phụ trách công tác tư

pháp. Như vậy Đảng đã chỉ rõ các đồng chí lãnh đạo cao nhất ở các cấp ủy đảng phải quan

tâm, chú trọng đến công tác lãnh đạo các cơ quan tư pháp.

3.2.3. Thực hiện đồng bộ những biện pháp cơ bản nhằm tăng cường pháp chế

xã hội chủ nghĩa trong các hoạt động tư pháp

Từ những yêu cầu tất yếu khách quan và những vấn đề pháp lý đặt ra ở trên,

những biện pháp cơ bản nhằm tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực hiện

quyền tư pháp của Nhà nước là:

1- Nhà nước cần tổ chức một hệ thống đồng bộ các cơ quan tư pháp ở nước ta

để khắc phục ngay tính tản mạn và sự thay đổi chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan

bảo vệ pháp luật dẫn đến thay đổi về tổ chức bộ máy, thay đổi cán bộ, tránh những xáo

trộn không cần thiết. Muốn vậy trong tổ chức bộ máy các cơ quan bảo vệ pháp luật phải

kết hợp giữa nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất không phân chia với nguyên

tắc thống nhất, có tính hệ thống trong thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước.

2- Hoàn thiện pháp luật nội dung phải đồng thời hoàn thiện pháp luật tố tụng.

Trước hết, cần hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, tố tụng hành

chính.

3- Củng cố, kiện toàn các cơ quan tư pháp chủ yếu đó là: Cơ quan điều tra,

VKSND và hệ thống TAND. Trước mắt kiện toàn các tổ chức ở các mắt khâu yếu nhất

như TAND huyện, quận, thị xã nhất là Tòa án, VKSND ở những huyện vùng sâu,

vùng xa.

4- Có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ công chức tư pháp như:

Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Chấp hành viên và cán bộ công chức ở các cơ

quan bảo vệ pháp luật khác.

5- Nhà nước cần tổ chức, quản lý và phát huy vai trò của các tổ chức, cơ quan

THA, các tổ chức giám định tư pháp, các tổ chức tư vấn pháp lý, các Đoàn Luật sư và

hoạt động luật sư.

6- Cần hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm

chủ trong hoạt động thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước. Trong cơ cấu hoàn thiện cơ

chế phối hợp giữa các ban Đảng như: Ban Nội chính, ủy ban Kiểm tra, Ban bảo vệ

chính trị nội bộ với các cơ quan bảo vệ pháp luật của Nhà nước, kết hợp thật hiệu quả

giữa vai trò của báo chí trong việc phát hiện vi phạm pháp luật và tội phạm.

7- Kết hợp giữa giáo dục và cưỡng chế trong thực hiện quyền tư pháp. Tăng

cường xử lý các vi phạm pháp luật, đấu tranh kiên quyết đối với tội phạm, kết hợp với

giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ công chức và nhân dân.

Vận dụng các quan điểm chỉ đạo của Đảng, kết hợp thực hiện 8 nhiệm vụ trọng

tâm của công tác tư pháp mà Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị đã xác định với

những biện pháp đề xuất nêu trên, nhằm tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động

thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND thành phố Hà

Nội, tác giả xin đề xuất một số giải pháp cụ thể - được trình bày trong mục 3.3.

3.3. Một số giải pháp nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong việc

thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân

dân thành phố Hà Nội

3.3.1. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho cán bộ của Viện

kiểm sát nhân dân và các cơ quan tư pháp nói riêng, cũng như cho nhân dân và

cán bộ nói chung

Như các phần trên đã phân tích, để thực sự có một nền pháp chế XHCN thì cần có

hai yếu tố đó là:

- Sự hiện diện của một hệ thống pháp luật; mà hệ thống pháp luật này phải đảm

bảo là điều kiện cần và đủ cho sự tồn tại một trật tự pháp luật XHCN và kỷ luật của mọi

tổ chức.

- Sự đòi hỏi tuân thủ và thực hiện đầy đủ pháp luật trong tổ chức và hoạt động

của bộ máy nhà nước, của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, nhân viên nhà nước và công

dân.

Không nằm ngoài những đòi hỏi chung của việc xây dựng nền pháp chế XHCN,

pháp chế trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp

của VKSND cũng đòi hỏi có sự đáp ứng của hai yếu tố trên.

Thứ nhất: Về sự hiện diện của một hệ thống pháp luật; mà hệ thống pháp luật

này phải đảm bảo là điều kiện cần và đủ cho sự tồn tại một trật tự pháp luật XHCN và

kỷ luật của mọi tổ chức.

Yếu tố này đòi hỏi các cơ quan nhà nước ở tầm vĩ mô cần xác định một chiến

lược tổng thể nhằm xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh làm điều kiện

pháp lý cho sự tồn tại của một trật tự pháp luật XHCN.

Thứ hai: Về sự đòi hỏi tuân thủ và thực hiện đầy đủ pháp luật trong tổ chức và

hoạt động của bộ máy nhà nước, của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, nhân viên nhà nước

và công dân.

Yếu tố thứ hai này đòi hỏi một trình độ nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật

cao của các nhân viên, công chức nhà nước và công dân.

Vấn đề ý thức pháp luật giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc áp dụng pháp

luật. Để áp dụng đúng đắn một quy phạm pháp luật đòi hỏi phải có sự hiểu biết chính

xác nội dung và yêu cầu của quy phạm đó, phải giải thích và làm sáng tỏ nội dung và ý

nghĩa của quy phạm ấy. Pháp luật XHCN là cơ sở để củng cố, phát triển và nâng cao ý

thức pháp luật XHCN.

Kinh nghiệm thực tiễn cho chúng ta thấy, cải cách bộ máy nhà nước, dân chủ

hóa mọi mặt đời sống xã hội, xây dựng Nhà nước Pháp quyền phải đi đôi với quá trình

hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường Pháp chế XHCN, nâng cao ý thức pháp luật

và nâng cao trình độ văn hóa pháp lý cho cán bộ và nhân dân lao động. Cả ba nhân tố đó

được tăng cường đồng bộ, phát triển hài hòa thì cải cách bộ máy nhà nước mới có hiệu

quả, dân chủ hóa mới đi vào cuộc sống một cách lành mạnh, và có như vậy mới có thể

từng bước xây dựng được một Nhà nước Pháp quyền Việt Nam XHCN.

Nhìn vào thực tiễn đổi mới hơn 17 năm qua ở nước ta có thể thấy rằng, ý thức

pháp luật và văn hóa pháp lý của cán bộ, nhân dân ta chưa được nâng cao tương xứng

với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Có thể nói, chưa có thời điểm nào

mà số lượng các văn bản pháp luật được Nhà nước ta ban hành nhiều như trong những

năm gần đây. Hàng chục đạo luật và Pháp lệnh mới ra đời hướng tới điều chỉnh hầu hết

các lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội. Trong lúc đó trình độ nhận thức

pháp luật và văn hóa pháp lý của cán bộ và nhân dân chưa được nâng lên tương xứng

với sự đổi mới hệ thống pháp luật. Đại đa số nhân dân vẫn còn ở trong trạng thái kém

hiểu biết về pháp luật. Xét trên ba yếu tố tạo nên trình độ văn hóa pháp lý của một

người, có thể thấy rõ thực trạng đó như sau:

- Yếu tố trước tiên của văn hóa pháp lý của cá nhân công dân là tri thức pháp

luật. Đây là yếu tố ban đầu quan trọng để phát triển ý thức pháp luật và là tiền đề của

tính tích cực của hành vi hợp pháp của con người. Nó là điều kiện cần thiết để tiếp xúc

với chính trị và văn hóa, là chất kích thích cho các hành vi hợp pháp, là phương tiện để

thực hiện quyền dân chủ. Nhận thức pháp luật tối thiểu của một công dân trước hết đó là

sự am hiểu thấu đáo các quy định của pháp luật, vai trò của nó trong đời sống xã hội, và

nắm vững các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân mà Hiến pháp và các đạo luật chủ

yếu đã quy định. Trình độ nhận thức pháp luật này của người dân nước ta còn rất hạn

chế. Trên thực tế công dân rất lúng túng trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ mà

pháp luật quy định cho mình để tự bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do

đó họ cũng không có những ứng xử tích cực trong việc đấu tranh với những hành vi vi

phạm pháp luật và tội phạm.

- Yếu tố thứ hai của văn hóa pháp lý của cá nhân công dân là tình cảm tôn trọng

đối với pháp luật hiện hành. Tình cảm ấy trước hết là lòng tin đối với pháp luật. Tin vào

sự cần thiết, vào tính công bằng, vào lợi ích của việc điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng

pháp luật, tin vào tính không khoan nhượng của nó. Đấy là yếu tố rất quan trọng để

chuẩn bị tư tưởng cho mỗi người hành động theo pháp luật. ở nước ta có thể nhận thấy

rằng, một bộ phận không nhỏ công dân nước ta do bị ảnh hưởng nặng nề của hệ tư

tưởng phong kiến và pháp luật của chế độ thực dân với những hình phạt tàn khốc, độc

ác dã man, lại thiếu tri thức pháp luật của xã hội mới nên tình cảm pháp luật của họ là

sự sợ hãi chứ không phải là sự tin tưởng vào pháp luật. Văn hóa pháp lý không thừa

nhận sự tôn trọng pháp luật dựa trên tình cảm sợ hãi pháp luật. Sự sợ hãi không bao giờ

dẫn con người đến những hành vi xử sự tích cực đối với pháp luật. Nó đối lập với dân

chủ, với tính tích cực trong hành vi ứng xử của con người. Ngược lại, một bộ phận cán

bộ, đảng viên và nhất là những người có chức có quyền, tri thức pháp luật không đến

nỗi kém so với những người lao động bình thường nhưng họ không có tình cảm pháp

luật đúng đắn nên có hành vi vi phạm pháp luật, thậm chí là tội phạm. Tình cảm pháp

luật của họ là coi thường pháp luật, đặt mình cao hơn pháp luật hiện hành để mưu cầu

những lợi ích tầm thường cho cá nhân.

- Yếu tố thứ ba của văn hóa pháp lý của cá nhân công dân là hành vi xử sự theo

đúng những đòi hỏi của pháp luật. Hành vi đó phải trở thành thói quen, trở thành niềm

tin nội tâm được xây dựng trên tri thức và tình cảm đúng đắn đối với pháp luật. Như đã

nói ở trên, đa số các thành viên trong xã hội ta chưa có đủ một lượng tri thức pháp luật

cần thiết trong nhận thức, và tình cảm pháp luật lại chưa đúng đắn thì xã hội tất yếu

chưa thể hình thành thói quen "Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật".

Từ ba yếu tố tạo nên văn hóa pháp lý của một người nhìn rộng ra có thể đi đến kết

luận rằng trình độ văn hóa pháp lý của xã hội ta nhìn chung còn thấp kém hơn các dạng văn

hoá khác. Điều đó không còn phù hợp với quá trình đất nước đang từng bước mở rộng dân

chủ, với sự ra đời của nhiều chế định pháp lý mới.

Do đó, giáo dục pháp luật nâng ý thức pháp luật cho mỗi cá nhân và toàn xã hội

đóng một vai trò rất quan trọng trong việc giúp cho người dân quan tâm đến pháp luật,

xây dựng động cơ đúng đắn trong việc thực hiện pháp luật và tích cực đấu tranh phòng

chống các vi phạm pháp luật.

Vai trò quan trọng của giáo dục pháp luật là ở chỗ nó nâng cao sự hiểu biết về

pháp luật, nắm được tri thức pháp luật, xây dựng tình cảm pháp lý và nâng cao ý thức

pháp luật cho nhân dân. Mục đích cuối cùng của giáo dục pháp luật là tạo ra một động

lực tư tưởng chung của toàn xã hội thúc đẩy hành động nhất quán theo một trật tự chung

mà khuôn khổ pháp luật quy định. Biến động lực chung đó thành động cơ thúc đẩy hành

vi tích cực pháp luật một cách tự giác của từng cá nhân công dân và công chức nhà

nước. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật là biện pháp phòng ngừa hữu hiệu

những hành vi vi phạm và tội phạm. Đó là một trong những hình thức, phương pháp

nhằm đưa pháp luật đến với những con người cụ thể.

Có thể nói rằng, trong việc tăng cường tuyên truyền và giáo dục pháp luật được

bắt đầu từ việc nhận thức thống nhất và đúng đắn về công tác này. Xuất phát từ nội

dung của pháp luật nói chung, và đặc biệt là các Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự cũng

như các luật và Pháp lệnh liên quan đến hoạt động của VKSND và các cơ quan tư pháp

nói riêng, phải coi công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật là một bộ phận trong hệ

thống giáo dục nói chung, và là trách nhiệm của các cơ quan Đảng, Nhà nước và của

các tổ chức trong hệ thống chính trị. Trong lĩnh vực hoạt động của VKSND và các cơ

quan tư pháp nói chung, kiến thức pháp luật phải được đặt ngang hàng với kiến thức và

thông tin về các vấn đề xã hội và cuộc sống để tuyên truyền cho nhân dân cũng như cho

đội ngũ công chức nhà nước, và thậm chí ngay cả đối với đội ngũ cán bộ công chức của

các cơ quan tư pháp.

Từ mục đích của giáo dục pháp luật cần xác định rõ đối tượng nội dung cụ thể

cần được giáo dục tuyên truyền pháp luật mới đề ra được hình thức, phương pháp giáo

dục thích hợp.

Chúng tôi cho rằng, trước hết cần phải phân biệt việc giáo dục pháp luật và tuyên

truyền pháp luật là hai phạm trù khác nhau, tuy chúng có cùng nội dung và mục đích.

Tuyên truyền pháp luật là một hình thức của giáo dục pháp luật. Bởi vì đây là

một trong những hình thức truyền tải nội dung pháp luật các tri thức về luật pháp, thực

chất là đưa thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng đến với các đối tượng cần

được giáo dục. Bởi vì, nhiệm vụ quan trọng của giáo dục pháp luật là nâng ý thức pháp

luật cá nhân nhằm xây dựng ý thức pháp luật chung của toàn xã hội. Vì trình độ ý thức

pháp luật cá nhân ở các công dân có sự khác nhau, khi tiến hành công tác giáo dục pháp

luật nói chung và pháp luật trong lĩnh vực hoạt động của VKSND nói riêng cần chú ý

một số vấn đề có tính nguyên tắc là:

1- Phải tính đến khả năng lĩnh hội những kiến thức pháp lý của các loại đối

tượng (công chức nhà nước nói chung, công chức trong các cơ quan tư pháp nói riêng,

công nhân, nhân dân lao động v.v...) các tầng lớp dân cư để từ đó lựa chọn những

phương pháp và hình thức giáo dục thích hợp.

2- Làm cho công dân hiểu được rằng: bảo vệ trật tự pháp luật, hình thành một

nền pháp chế XHCN vững chắc là sự nghiệp của toàn dân. Công dân có quyền được bảo

vệ trong một môi trường pháp luật lành mạnh. Nhưng tất cả mọi công dân đều phải có

nghĩa vụ thực hiện nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật để giữ gìn sự tự do an

toàn cho cá nhân mình và đồng thời cũng phải tôn trọng sự tự do an toàn của mọi người,

cũng như của toàn xã hội.

3- Kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức, làm sáng tỏ tầm quan trọng

xã hội và giá trị đạo đức của các quy phạm pháp luật nói chúng và các quy phạm pháp

luật trong lĩnh vực hoạt động của VKSND cũng như của các cơ quan tư pháp nói riêng

để người dân cũng như mọi cán bộ công chức của VKSND và các cơ quan tư pháp

nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Đồng thời tạo điều kiện để công dân thực hiện

quyền giám sát đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và hoạt động của

VKSND nói riêng.

4- Kích thích và tạo điều kiện phát triển tâm lý pháp lý tích cực của công dân;

hình thành ở họ thái độ không khoan nhượng đối với những hành vi vi phạm pháp chế

và xâm phạm đến trật tự pháp luật. Có như vậy mới phát huy được quyền làm chủ của

công dân; kích thích tinh thần dân chủ trong nhân dân nhằm xây dựng một xã hội công

dân đúng nghĩa trong môi trường một Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo

của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Như vậy, đồng thời với việc xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng

bộ, kịp thời, công tác giáo dục ý thức pháp luật trong các tầng lớp nhân dân nói chung,

cũng như cán bộ công chức của VKSND và các cơ quan tư pháp nói riêng có ý nghĩa

quan trọng để tăng cường hiệu lực trong lĩnh vực hoạt động của VKSND nói riêng cũng

như của các cơ quan tư pháp nói chung.

3.3.2. Nhận thức và thực hiện đúng các quy định của Luật tổ chức Viện

kiểm sát nhân dân năm 2002 về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn thực hành quyền

công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp

Theo quy định của Điều 138 Hiến pháp 1992 (sửa đổi), và Luật tổ chức

VKSND năm 2002, nhiệm vụ của VKSND là "thực hành quyền công tố và kiểm sát các

hoạt động tư pháp". Nhiệm vụ trọng tâm của công tác kiểm sát chính là đảm bảo cho

việc truy cứu trách nhiệm pháp lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và bảo đảm cho

hoạt động của các cơ quan tư pháp tuân thủ nghiêm chỉnh, kịp thời, và đúng các quy

định của pháp luật.

Trong các giai đoạn của quá trình tố tụng, kiểm sát viên đồng thời thực hiện hai

chức năng đó là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động của các cơ quan tư

pháp.

Kiểm sát viên thực hiện chức năng thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm việc

truy tố của VKS đúng người, đúng tội, đúng pháp luật không để lọt tội phạm và người

phạm tội. Việc thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động của các cơ quan tư pháp là

nhằm đảm bảo cho hoạt động điều tra, xét xử, giam giữ cải tạo, THA của các cơ quan tư

pháp tuân thủ đúng theo các quy định của pháp luật.

Với quy định nói trên thể hiện đặc trưng và sự khác biệt cơ bản giữa hoạt động

của VKSND với và các cơ quan tư pháp khác hay nói một cách khác là không có một cơ

quan nhà nước nào có thể thay thế VKS để truy tố kẻ phạm tội ra trước Tòa án và có

trách nhiệm bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan tư pháp đúng quy định của pháp

luật.

Theo đó nếu có một người bị truy tố xét xử oan sai hoặc việc hoạt động của các

cơ quan tư pháp không tuân thủ theo đúng quy định của Pháp luật thì trách nhiệm trước

hết vẫn là VKSND vì Đảng và Nhà nước đã giao trọng trách cho VKSND nhiệm vụ là

thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động của các cơ quan tư pháp mà không một

cơ quan nhà nước nào có thể thay thế.

Nhận thức về việc bảo đảm truy tố đúng người đó là đúng người đã thực hiện

hành vi phạm tội mà cuộc điều tra của cơ quan điều tra đã kết luận, là người thực hiện

hành vi phạm tội phải đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và họ có năng lực chịu trách

nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.

Yêu cầu truy tố đúng tội, đó là hành vi phạm tội đã được thực hiện phải được

VKSND xác định là tội phạm, và hành vi đó vi phạm vào điều luật nào của Bộ luật hình

sự. Việc xác định đúng tội danh các điều khoản để truy tố là yêu cầu hết sức quan trọng

và cần thiết, có xác định đúng tội danh, mới có cơ sở để đề xuất áp dụng mức hình phạt

đúng đắn mới có tác dụng trừng trị kẻ phạm tội và giáo dục chung thông qua vụ án, mới

đáp ứng được đòi hỏi của dư luận xã hội và của nhân dân.

Tóm lại, về yêu cầu truy tố đúng pháp luật phải xem xét toàn diện đầy đủ các

quy định của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự cũng như nhưng văn bản quy

phạm pháp luật khác có liên quan để làm căn cứ.

Về chức năng kiểm sát hoạt động của các cơ quan tư pháp của VKSND là nhằm

bảo đảm cho hoạt động của cơ quan điều tra, cơ quan xét xử, và cơ quan THA tuân thủ

đúng pháp luật một cách nghiêm minh và kịp thời. Nội dung chức năng này thể hiện đối

tượng để tiến hành kiểm sát đó là hoạt động tố tụng của các cơ quan tư pháp phải tuân

thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Khi thực hiện chức năng kiểm sát các

hoạt động tư pháp, trước hết kiểm sát viên phải nắm chắc và đầy đủ các quy định và

trình tự thủ tục của việc tiến hành tố tụng ở từng khâu nghiệp vụ do Luật tổ chức VKS

quy định để làm căn cứ kiểm sát. Đồng thời phải nắm chắc các quy định của Bộ luật

hình sự, Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng hình sự, cũng như các quy định của pháp luật về

tố tụng dân sự, hành chính, kinh tế, lao động và các quy phạm pháp luật khác có liên

quan để làm căn cứ kiểm sát.

3.3.3. Kiện toàn tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên

của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng

yêu cầu thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp

Để tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và

kiểm sát các hoạt động tư pháp thì việc kiện toàn tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán

bộ, kiểm sát viên của VKSND thành phố Hà Nội đủ về số lượng, đảm bảo về phẩm

chất, đủ năng lực, trình độ để hoàn thành nhiệm vụ là có ý nghĩa quyết định. Để thực

hiện nhiệm vụ đó, trong thời gian tới cần phải tiến hành một số nội dung cơ bản sau:

Trước hết, cần bố trí cơ cấu tổ chức bộ máy của VKSND thành phố trên cơ sở

triển khai nghiên cứu, sắp xếp tổ chức bộ máy trong ngành kiểm sát theo tinh thần Luật

tổ chức VKSND năm 2002.

- Tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy lãnh đạo của

VKSND các quận huyện cũng như các phòng nghiệp vụ của VKS thành phố cho phù

hợp với Luật tổ chức VKSND năm 2002.

- Để làm tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư

pháp, cần có đề án nghiên cứu về tổ chức bộ máy các khâu công tác nghiệp vụ, bảo đảm

hoàn thành nhiệm vụ trong tình hình mới.

- Xác định rõ nhu cầu biên chế và cơ cấu kiểm sát viên ở từng địa phương, đơn

vị trong toàn ngành để tổng hợp báo cáo VKSNDTC.

Thứ hai, xây dựng đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên theo tinh thần quán triệt nội

dung Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) về

"Một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng"; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp

hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về "Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước"; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung

ương Đảng (khóa VIII) về "Một số vấn đề về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị" và

đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 08/ NQ-TW ngày 2/1/2002

của Bộ Chính trị và Luật tổ chức VKSND năm 2002. Công tác tổ chức cán bộ trong thời

gian tới của VKSND thành phố Hà Nội cần phải quán triệt một cách sâu sắc những quan

điểm có tính nguyên tắc về đổi mới công tác cán bộ, đồng thời gấp rút tổ chức triển khai

thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm là:

Thứ nhất: Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của ngành phải xuất phát từ việc

quán triệt sâu sắc tinh thần Nghị quyết số 08/ NQ-TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị,

các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nước, nhiệm vụ chính trị của ngành. Xây dựng đội ngũ cán bộ, kiểm sát trên cơ sở giữ vững

và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; phải phù hợp với cơ chế chính sách

và đường lối đổi mới của Đảng. Phải quán triệt quan điểm Đảng thống nhất lãnh đạo công

tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác

cán bộ.

Thứ hai: Xác định rõ mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ ở cả hai cấp kiểm sát

trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư

pháp và yêu cầu tiêu chuẩn hóa cán bộ, bảo đảm đủ về số lượng, đáp ứng được tiêu

chuẩn về trình độ và năng lực nghiệp vụ chuyên môn; đồng bộ về cơ cấu, bảo đảm sự kế

thừa, chuyển tiếp các thế hệ cán bộ tới năm 2005 và 2010, đáp ứng yêu cầu cải cách tư

pháp và tiêu chuẩn hóa cán bộ của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Thứ ba: Hết sức coi trọng và tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp,

trẻ hóa cán bộ trên cơ sở tiêu chuẩn, bảo đảm tính liên tục, tính kế thừa, khắc phục tình

trạng hẫng hụt chắp vá thiếu cán bộ. Phải nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của công tác

điều động và luân chuyển cán bộ, công tác quy hoạch và kế hoạch đào tạo. Có quan điểm và

phương pháp đánh giá, sử dụng và đề bạt cán bộ một cách khoa học, công tâm, khách quan

và bảo đảm đúng quy trình.

Thứ tư: Đào tạo, bồi dưỡng là một nội dung quan trọng của công tác cán bộ, do

vậy cần phải tập trung tạo điều kiện cho các cán bộ có điều kiện học tập nâng cao trình

độ kiến thức khoa học pháp lý, và nâng cao năng lực nghiệp vụ chuyên môn. Đồng thời

tạo điều kiện cho những cán bộ cần đào tạo lại có cơ hội được đào tạo theo đúng tiêu

chuẩn, chất lượng góp phần đa dạng hóa các mô hình đào tạo và đẩy mạnh tốc độ tiêu

chuẩn hóa cán bộ.

Thứ năm: Tiếp tục đổi mới và kiện toàn cơ quan tham mưu về công tác cán bộ

(phòng Tổ chức cán bộ - VKSND thành phố). Chú trọng công tác dự báo chiến lược, tập

trung nghiên cứu và đề xuất kịp thời một số giải pháp và hoàn thiện quy chế về công tác

cán bộ.

Những giải pháp về công tác cán bộ

- Trên cơ sở quán triệt Nghị quyết số 08/ NQ-TW của Bộ Chính trị về một số

nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và tư tưởng chỉ đạo trong đổi

mới công tác cán bộ, phải tiến hành rà soát, đánh giá lại thực trạng chất lượng đội ngũ

cán bộ toàn ngành, từ đó có sự sắp xếp, bố trí lại một cách hợp lý đáp ứng yêu cầu thực

hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành, định hướng cải cách hoạt động tư pháp và các

chính sách về cán bộ.

- Về tiêu chuẩn bổ nhiệm kiểm sát viên, đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc

trong quy trình bổ nhiệm cán bộ, nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao trình độ năng lực thực

tiễn của cán bộ và đồng thời cũng là một thách thức lớn đối với công tác cán bộ của

ngành. Tuy nhiên, để phù hợp với tình hình thực tiễn và giải quyết những bất cập còn

tồn tại trong bước quá độ, ngoài việc thực hiện đúng quy định của luật, có thể đề nghị

VKSNDTC xem xét, chấp thuận vận dụng chính sách cán bộ cho một số trường hợp đặc

biệt chưa áp dụng về tiêu chuẩn trình độ chuyên môn, nghiệp vụ trong việc bổ nhiệm kiểm

sát viên từ nay đến năm 2005, để anh em có điều kiện hoàn thiện, nâng cao trình độ theo yêu

cầu.

3.3.4. Tăng cường sự phối hợp hoạt động giữa Viện kiểm sát nhân dân với

các cơ quan tư pháp trên địa bàn thành phố Hà Nội

Để thực hiện tốt nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động

tư pháp của VKSND thì sự phối hợp hoạt động giữa VKSND thành phố cũng như các

VKSND các quận huyện với các cơ quan tư pháp trên địa bàn thành phố đóng một vai

trò hết sức quan trọng.

Như các phần trên đã phân tích thì thực hành quyền công tố chính là hoạt động

của VKSND cũng như các cơ quan tư pháp khác (như: cơ quan điều tra, tòa án...) nhằm

truy cứu trách nhiệm pháp lý của các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật.

Thực hành quyền công tố là nhiệm vụ chính của VKSND. Nhưng việc truy cứu

trách nhiệm pháp lý đối với các đối tượng vi phạm pháp luật còn phụ thuộc vào hoạt

động điều tra của cơ quan điều tra và hoạt động xét xử của cơ quan tòa án; và sau khi bản

án có hiệu lực thì còn phụ thuộc vào hoạt động của cơ quan THA. Mặc dù cùng nằm

trong hệ thống các cơ quan tư pháp nhưng các cơ quan này lại có vị trí độc lập (tương

đối) với hoạt động của VKSND. Chính vì vậy, để đưa một vụ việc ra truy cứu trách

nhiệm pháp lý một cách chính xác, đúng đối tượng và đúng pháp luật thì sự phối hợp

hoạt động giữa các cơ quan tư pháp nói chung với VKSND trên địa bàn thành phố có ý

nghĩa hết sức quan trọng.

Cuộc đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật và tội phạm là nhiệm vụ của

toàn xã hội, của mọi cấp, mọi ngành và của mọi công dân; nhưng trong đó nòng cốt phải

là các cơ quan tư pháp của Nhà nước mà trong đó VKSND là một thành viên quan

trọng.

Để cuộc đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm có hiệu quả thì

sự thống nhất về ý chí và phối hợp có hiệu quả trong hành động của các cơ quan tư pháp

với nhau nói chung và giữa VKSND với các cơ quan tư pháp khác nói riêng là điều kiện

tiên quyết.

Đây là quá trình phối hợp giữa các cơ quan tư pháp nhằm kiên quyết đấu tranh,

loại trừ các hành vi vi phạm và tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. Sự phối hợp đó không

chỉ được thể hiện trong quá trình đấu tranh phòng chống các biểu hiện vi phạm pháp

luật cụ thể thông qua việc xử lý, giải quyết những vụ án cụ thể; Mà nó còn phải được

thể hiện trong sự thống nhất ý chí từ khâu chỉ đạo điều hành giữa các cấp lãnh đạo của

các cơ quan tư pháp với nhau cũng như giữa các cơ quan tư pháp với VKSND các cấp.

Trong quá trình chỉ đạo điều hành các cấp lãnh đạo cần chú trọng việc hướng

dẫn thực hiện pháp luật một cách thống nhất, tạo ra một sự nhận thức thống nhất giữa

các ngành đối với các quy phạm pháp luật cụ thể cũng như hệ thống các văn bản pháp

luật liên quan đến hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và hoạt động thực hành

quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND nói riêng.

Trong khi trực tiếp giải quyết các vụ án cụ thể thì sự phối hợp hành động giữa

các nhân viên các cơ quan tư pháp với tinh thần đoàn kết, nhất trí, kiên quyết đấu tranh

với các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm cũng như các biểu hiện tiêu cực, tham

nhũng, lãng phí cũng là yếu tố quan trọng.

Phối hợp hành động giữa VKSND với các cơ quan tư pháp có hiệu quả cũng

chính là biện pháp nhằm tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền

công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND.

3.3.5. Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của Viện kiểm sát nhân

dân thành phố Hà Nội

Bên cạnh việc đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu quả các khâu công tác trong

lĩnh vực thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, việc đổi mới công

tác quản lý chỉ đạo điều hành của VKSND thành phố, mà trước hết là bảo đảm được

yêu cầu tập trung thống nhất hoạt động của ngành cũng là việc làm có ý nghĩa nhằm

tăng cường pháp chế XHCN trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp. Cho đến nay tất cả các khâu công tác: Kiểm sát điều tra; Kiểm sát xét xử

hình sự; Kiểm sát xét xử các vụ án dân sự, hành chính, kinh tế, lao động; Kiểm sát THA

và Kiểm sát việc giam giữ - cải tạo đã có quy chế nghiệp vụ.

ở VKSND thành phố, hàng năm sau khi có chỉ thị công tác của Viện trưởng

VKSNDTC, Lãnh đạo Viện cần kịp thời tổ chức quán triệt cho các phòng nghiệp vụ và

VKSND các quận huyện thực hiện các khâu nghiệp vụ công tác kiểm sát theo sự chỉ đạo

thống nhất trong toàn ngành.

Việc kiểm tra, hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ của cấp trên đối với cấp dưới cần

chặt chẽ hơn, thông qua kiểm tra đã kịp thời thông báo rút kinh nghiệm, uốn nắn thiết

sót, vi phạm để chấn chỉnh khắc phục, đồng thời nắm được tiến độ công tác của cấp

dưới để chỉ đạo.

Đáng lưu ý những năm qua Đảng và Nhà nước phát động phong trào đấu tranh

chống tội phạm và lập lại trật tự kỷ cương trên một số lĩnh vực của đời sống xã hội.

Quán triệt các chủ trương này, VKSND thành phố cần quán triệt sâu sắc, kịp thời hướng

dẫn thực hiện Quyết định 114 của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh chống tham

nhũng, chống tệ nạn xã hội, lập lại trật tự an toàn xã hội, và gần đây là Chỉ thị 53 và

Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị. VKSND thành phố cần tăng cường, kiểm tra đôn đốc

việc thực hiện của cấp dưới, tổ chức sơ kết rút kinh nghiệm công tác chỉ đạo điều hành,

chấn chỉnh kịp thời những thiếu sót trong hoạt động; đồng thời rút ra những bài học

kinh nghiệm, những cách làm tốt để phát huy, nhằm tăng cường pháp chế trong trong

hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND.

3.3.6. Tăng cường các hoạt động giám sát, kiểm tra; xử lý nghiêm minh các

vi phạm pháp luật trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp

Cuộc đấu tranh phòng và chống các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm là

nhiệm vụ cấp thiết và thường xuyên của Đảng và Nhà nước ta cũng như của các tổ chức

chính trị, xã hội, các tổ chức kinh tế và của mọi công dân. Vì vậy, chúng ta phải kết hợp

sức mạnh tổng hợp của mọi cơ quan, đơn vị, mọi tổ chức và mọi công dân vào cuộc đấu

tranh đó; đồng thời phải vận dụng linh hoạt biện pháp cưỡng chế và giáo dục, thuyết

phục nhằm loại trừ tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật ra khỏi đời sống xã hội

của chúng ta.

Quyền chủ thể là một phạm trù khoa học pháp lý có giới hạn. Đó là vấn đề có

tính nguyên tắc bởi không một xã hội có tổ chức nào có thể chấp nhận cho một người

hoặc một tổ chức nào đó có thể làm tất cả những gì họ muốn. Lênin đã từng nói: "Sống

trong một xã hội mà lại thoát khỏi xã hội ấy để được tự do, đó là điều không thể được"

[30, tr. 127].

Trong lĩnh vực đấu tranh phòng và chống các vi phạm pháp luật và tội phạm thì

các cơ quan tư pháp và đặc biệt là hệ thống VKSND với chức năng thực hành quyền

công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp giữ một vai trò đặc biệt quan trọng.

Nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp nói chung và các hệ thống VKSND nói riêng

là đấu tranh, phòng và chống các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm, giữ gìn an ninh

quốc gia, bảo đảm an toàn xã hội, bảo vệ pháp chế XHCN, giữ gìn trật tự pháp luật

XHCN và bảo đảm để công dân được tự do thực hiện các quyền và nghĩa vụ mà pháp

luật quy định.

Do đó để xứng đáng là người lính xung kích trên mặt trận bảo vệ pháp chế

XHCN, mỗi người cán bộ, kiểm sát viên của Ngành KSND nói riêng và mỗi cán bộ của

các cơ quan tư pháp nói chung luôn phải trau dồi đạo đức, rèn luyện phẩm chất, không

ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để hoàn thành trọng trách mà Đảng và

Nhà nước giao phó.

Trong thực tế nhiều năm qua, đại đa số cán bộ, kiểm sát viên trong hệ thống

VKSND đã tu dưỡng, rèn luyện theo đúng 5 điều Bác Hồ dạy Cán bộ Ngành KSND là:

"Công minh, Chính trực, Khách quan, Thận trọng, Khiêm tốn". Nhiều tấm gương sáng

vượt qua khó khăn, không bị sa ngã trước những cám dỗ của vật chất tầm thường, giữ

vững phẩm chất đạo đức cách mạng để hoàn thành nhiệm vụ.

Tuy nhiên, bên cạnh đó lác đác trong ngành vẫn còn có những cá nhân không

chịu tu dưỡng, rèn luyện, chạy theo lối sống vì lợi ích vật chất tầm thường dẫn đến vi phạm

kỷ luật nghiệp vụ, thậm chí vi phạm pháp luật phải bị xử lý kỷ luật ở nhiều mức độ khác

nhau, cá biệt có trường hợp phải truy tố trước pháp luật như trường hợp Nguyễn Thập

Nhất, nguyên Trưởng phòng kiểm sát giam giữ - cải tạo VKSND thành phố Hà Nội trong

vụ án Trương Văn Cam.

Để tăng cường pháp chế trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát

các hoạt động tư pháp. Bên cạnh việc thực hiện tốt chức năng hoạt động của mình đảm

bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất trong hoạt động của các

cơ quan tư pháp, bảo đảm việc xử lý đúng đối tượng, đúng pháp luật, hơn ai hết mỗi cán

bộ, kiểm sát viên trong hệ thống VKSND nói chung và VKSND thành phố Hà Nội nói

riêng càng phải là những người chấp hành pháp luật một cách nghiêm chỉnh nhất. Mọi

hành vi vi phạm Pháp luật và tội phạm đều rất xa lạ với truyền thống và bản chất của

đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên VKSND thành phố Hà Nội. Do đó, những hành vi đó phải

được kiên quyết loại trừ; những cá nhân vi phạm nhất định phải bị xử lý. Có như vậy

mới xứng đáng với niềm tin và trọng trách mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho

Ngành KSND.

Trên cơ sở xử lý những biểu hiện tiêu cực đã phát sinh, chúng ta phải quan tâm

nghiên cứu, phát hiện những nguyên nhân, điều kiện làm nảy sinh những biểu hiện tiêu

cực đó để đề ra biện pháp loại trừ nó khỏi đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên của VKSND

thành phố Hà Nội.

Để đạt được điều đó các cấp lãnh đạo quản lý trong cơ quan VSKND thành phố

Hà Nội cũng như VKSND các quận, huyện phải không ngừng tăng cường kiểm tra uốn

nắn đối với các cán bộ thuộc quyền có trên lĩnh vực nghiệp vụ chuyên môn cũng như tu

dưỡng rèn luyện.

Theo chúng tôi, việc tăng cường kiểm tra, giám sát trong nội bộ và xử lý

nghiêm minh, triệt để các vi phạm pháp luật phát hiện được trong quá trình hoạt động

của các cấp VKSND cũng chính là giải pháp hữu hiệu để tăng cường pháp chế XHCN

trong lĩnh vực thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND

thành phố Hà Nội.

3.3.7. Một số kiến nghị

Nhằm tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và

kiểm sát các hoạt động tư pháp nói chung và của VKSND thành phố Hà Nội nói riêng

xin nêu hai kiến nghị:

Thứ nhất: Về hoàn thiện pháp luật

Pháp chế XHCN chỉ có thể được củng cố và tăng cường trên cơ sở có một hệ

thống pháp luật ngày càng phát triển và hoàn thiện kịp thời thể chế hóa các chủ trương,

đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, kịp thời phản ánh đúng những đặc điểm của

hiện thực XHCN trong từng giai đoạn phát triển cụ thể. Để làm được như vậy phải

thường xuyên thực hành hệ thống hóa các văn bản pháp luật đã có để phát hiện, loại bỏ

những quy định đã lạc hậu, trùng lặp, mâu thuẫn, bổ sung những quy định mới phù hợp

với thực tế phát triển của xã hội; kịp thời thể chế hóa những chủ trương, đường lối của

Đảng thành các quy định của pháp luật; có kế hoạch xây dựng pháp luật phù hợp với

mỗi giai đoạn phát triển của đất nước.

Hiện nay trong điều kiện Đảng ta đang chủ trương xây dựng Nhà nước pháp

quyền XHCN Việt Nam trên cơ sở một nền kinh tế hàng hóa vận động theo cơ chế thị

trường nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển theo định hướng XHCN. Việc

xây dựng một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp với điều kiện

phát triển của đất nước trong giai đoạn cách mạng hiện nay là một vấn đề khó khăn và

phức tạp.

Đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và hoạt động thực hành

quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND nói riêng thì việc đòi hỏi

phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ và hoàn chỉnh cũng là điều cấp thiết trong điều

kiện ngày nay. Đặc biệt là các văn bản pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của

các cơ quan tư pháp nói chung cũng như của VKSND nói riêng. Nó bao gồm các văn bản

pháp luật nội dung và pháp luật hình thức. Đặc biệt là các văn bản luật hình thức của ta

hiện nay chưa được hệ thống hóa thành các bộ luật hoàn chỉnh là một điều hết sức bất cập

cho hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung cũng như của VKSND nói riêng.

Hiện nay về pháp luật hình thức, chúng ta mới xây dựng được Bộ luật tố tụng

hình sự (nhưng hiện cũng đang trong quá trình sửa đổi). Còn các quy định về tố tụng

dân sự, tố tụng hành chính - kinh tế - lao động; trình tự thủ tục THA v.v... đều chỉ dừng

ở mức quy định chứ chưa xây dựng được các văn bản luật về các mặt hoạt động này.

Trong điều kiện đó chính bản thân hoạt động của các cơ quan tư pháp trong các lĩnh vực

nói trên còn gặp rất nhiều khó khăn. Do đó hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm

sát các hoạt động tư pháp của VKSND càng gặp nhiều khó khăn hơn.

Chính vì vậy, nhằm tăng cường pháp chế XHCN nói chung và đặc biệt là pháp

chế trong lĩnh vực hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư

pháp của VKSND nói riêng, chúng tôi đề nghị cần phải tăng cường hoạt động xây dựng

một hệ thống pháp luật đồng bộ và hoàn chỉnh làm cơ sở pháp lý cho việc tăng cường

pháp chế XHCN. Đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng các văn bản pháp luật hình thức, quy

định trình tự thủ tục tiến hành các thao tác pháp lý của các cơ quan nhà nước nói chung

và các cơ quan tư pháp nói riêng.

Trước mắt, kiến nghị Quốc hội sớm thông qua Bộ luật tố tụng hình sự (Sửa đổi)

và có kế hoạch xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự cũng như tố tụng về hành chính - kinh

tế - lao động, trình tự thủ tục THA v.v.. làm cơ sở pháp lý cho hoạt động của các cơ

quan tư pháp nói chung và hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp của VKSND nói riêng.

Có như vậy mới có thể tăng cường pháp chế XHCN trong lĩnh vực hoạt động thực

hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND.

Thứ hai: Về giải thích và hướng dẫn thực hiện, áp dụng pháp luật

Có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đồng bộ nhưng không có sự giải thích,

hướng dẫn thực hiện áp dụng pháp luật tạo ra một cách hiểu thống nhất trong hệ thống

các cơ quan áp dụng pháp luật và người dân thì cũng không thể có pháp chế XHCN

nói chung và đặc biệt là pháp chế trong lĩnh vực hoạt động thực hành quyền công tố

và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND.

Trong thực tế hiện nay có nhiều văn bản luật được các cơ quan hữu quan

hướng dẫn không thống nhất dẫn đến việc nhận thức và vận dụng trong thực tiễn hết

sức khó khăn. Hoặc cùng một văn bản nhưng có cơ quan có văn bản hướng dẫn

nhưng cơ quan khác lại không ban hành văn bản hướng dẫn v.v... cũng dẫn đến việc

nhận thức và vận dụng các quy phạm pháp luật gặp khó khăn.

Vì vậy, chúng tôi xin kiến nghị, cần có sự thống nhất giữa các cơ quan hữu

quan trong việc ban hành các văn bản giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật tạo điều

kiện cho các cấp thực hiện và người dân có một cách nhận thức thống nhất đối với các

quy phạm pháp luật đã ban hành. Có như thế mới có thể xây dựng được một nền pháp

chế XHCN thật sự; và có cơ sở để tăng cường pháp chế XHCN.

Trong lĩnh vực hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và hoạt động thực

hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND nói riêng, chúng tôi

thấy cần có văn bản quy định và giải thích rõ một số khái niệm cụ thể như: Tư pháp, cơ

quan tư pháp, hoạt động tư pháp, quyền công tố, thực hành quyền công tố, kiểm sát các

hoạt động tư pháp v.v... bởi trong thực tế hiện nay những khái niệm này được nhiều nhà

khoa học cũng như các nhà lãnh đạo đề cập trong nhiều bài nói, bài viết nhưng chưa có

một văn bản pháp lý nào quy định hoặc giải thích cụ thể các khái niệm đó. Do đó chính

các cán bộ hoạt động trong các cơ quan tư pháp cũng chưa có cách nhìn nhận chính

thống về các khái niệm này. Và như vậy hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát

các hoạt động tư pháp của VKSND cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong khi các khái

niệm trên chưa được quy định và giải thích một cách chính thức.

Kết luận

Tăng cường pháp chế XHCN trong giai đoạn cách mạng hiện nay là một tất yếu

khách quan gắn liền với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN

của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đảng ta chủ trương cải cách bộ máy nhà

nước bao gồm cả các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm nâng cao hiệu lực

của bộ máy nhà nước ta. Trong bối cảnh đó, việc giữ vững và tăng cường pháp chế

XHCN càng trở thành một đòi hỏi cấp thiết nhằm phục vụ công cuộc đổi mới đất nước

do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo.

Pháp chế trong hoạt động tư pháp cũng như pháp chế trong hoạt động thực hành

quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của hệ thống VKSND là một bộ phận

cấu thành nền pháp chế XHCN nói chung. Nội hàm cơ bản của pháp chế XHCN trong

hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND là

chế độ tuân thủ nghiêm minh pháp luật trong tổ chức và hoạt động của hệ thống

VKSND, trước hết là Luật tổ chức VKSND và hệ thống các văn bản pháp luật nội dung

và pháp luật hình thức liên quan đến tổ chức và hoạt động của VKSND nói riêng và các

cơ quan tư pháp nói chung.

Pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp của VKSND có những đặc trưng cơ bản riêng của nó. Những đặc trưng cơ

bản này là cơ sở lý luận để xác định vai trò cũng như phương hướng tăng cường pháp

chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp

của VKSND ở nước ta hiện nay.

Pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp của VKSND có vai trò đặc biệt quan trọng trong công cuộc xây dựng Nhà

nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân ở nước ta hiện nay. Vai trò đặc biệt

đó bắt nguồn từ vai trò của hệ thống pháp luật nói chung và của các văn bản quy phạm

pháp luật (cả pháp luật nội dung và pháp luật hình thức) liên quan đến tổ chức và hoạt

động của các cơ quan tư pháp nói chung và của hệ thống cơ quan VKSND nói riêng.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước ta đang tiến hành cải

cách tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo hướng xây dựng Nhà nước pháp

quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Trong công cuộc cải cách đó thì việc cải cách

tổ chức bộ máy và hoạt động của các cơ quan tư pháp là một trong những khâu then

chốt quyết định sự thành công của công cuộc cải cách. Trong bối cảnh chung như vậy

thì việc tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm

sát các hoạt động tư pháp của VKSND là một tất yếu khách quan bắt nguồn từ đòi hỏi

phải tăng cường hiệu lực hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và của chính

hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND nói

riêng và cũng chính là bắt nguồn từ đòi hỏi xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp

quyền Việt Nam XHCN.

Căn cứ vào những yêu cầu khách quan và xuất phát từ thực trạng pháp chế

XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của

VKSND. Việc tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và

kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện

Nhà nước pháp quyền XHCN cần tiến hành theo ba phương hướng cơ bản là:

Một là: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống các

văn bản quy phạm pháp luật (cả pháp luật về nội dung và pháp luật về hình thức) liên

quan đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và của VKSND nói

riêng.

Hai là: Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật và tổ chức thực

hiện có hiệu quả các văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành.

Ba là: Hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ công chức

ngành KSND nói riêng và của các cơ quan tư pháp nói chung có đủ năng lực và phẩm

chất để hoàn thành trọng trách mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.

Tăng cường pháp chế XHCN nói chung và pháp chế XHCN trong hoạt động

thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND nói riêng là đòi

hỏi cấp bách của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì

dân. Để đảm bảo thành công cần phải thực hành một cách khẩn trương, đồng bộ với

những giải pháp thiết thực, cụ thể và hiệu quả.

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Huy Bằng, (2001), Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực

giao thông đường bộ ở nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật, Học viện

Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

2. Dương Thanh Biểu (2002), Tài liệu tập huấn Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

năm 2002 về công tác giải quyết khiếu nại - tố cáo của Viện kiểm sát.

3. Hoàng Công (1987), "Tính thống nhất của pháp chế xã hội chủ nghĩa", Tạp chí

Cộng sản, (8).

4. Lê Duẩn (1976), Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa bảo đảm quyền làm chủ

tập thể của nhân dân, Nxb Sự thật, Hà Nội.

5. Đảng Lao động Việt Nam (1960), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III,

Nxb Sự thật, Hà Nội.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV,

Nxb Sự thật, Hà Nội.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V,

Nxb Sự thật, Hà Nội.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,

Nxb Sự thật, Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,

Nxb Sự thật, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Phạm Văn Đồng (1993), Hồ Chí Minh và con đường Việt Nam trên con đường dân

giàu nước mạnh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Trần Ngọc Đường (1992), Nhà nước pháp quyền với cải cách bộ máy nhà nước và

hoàn thiện hệ thống chính trị dưới ánh sáng của văn kiện Đại hội VII trong xây

dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền, Nxb Sự thật, Hà

Nội.

14. Trần Ngọc Đường (1994), "Một vài suy nghĩ về học thuyết pháp chế xã hội chủ nghĩa

trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta", Luật học, (5).

15. Trần Ngọc Đường (1996), "Một vài suy nghĩ về nguyên tắc chỉ đạo xây dựng pháp

luật ở nước ta hiện nay", Nhà nước và pháp luật, (5).

16. Trần Ngọc Đường (1998), Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Trần Ngọc Đường (Chủ biên) (1999), Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Hiến pháp 1946 (1994), Tìm hiểu chế độ kinh tế trong Hiến pháp, Nxb Thống kê, Hà

Nội.

19. Hiến pháp 1959 (1994), Tìm hiểu chế độ kinh tế trong Hiến pháp, Nxb Thống kê,

Hà Nội.

20. Hiến pháp 1980 (1981), Nxb Pháp lý, Hà Nội.

21. Hiến pháp 1992 (1992), Nxb Pháp lý, Hà Nội.

22. Phạm Hưng (1986), "Khắc phục những mặt yếu về xã hội chủ nghĩa ở nước ta", Tạp

chí Cộng sản, (10).

23. Phan Hiền (1985), "Mấy vấn đề về tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa", Tạp chí

Cộng sản, (10).

24. Hội Luật gia Việt Nam (1985), Hồ Chủ tịch và pháp chế.

25. Hoàng Văn Hảo (1984), "Dân chủ và pháp chế", Nghiên cứu lý luận, (1).

26. Trần Trọng Hựu (1993), Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân - Sưu tập chuyên

đề Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân, Viện Khoa học xã hội Việt Nam -

Viện Thông tin Khoa học xã hội Hà Nội.

27. Phạm Hùng (1985), Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.

28. Nguyễn Nhật Hùng (1996), Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực

bảo vệ sức khỏe nhân dân ở nước ta hiện nay, Luận án PTS Khoa học Luật học,

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

29. Quách Sĩ Hùng (1996) Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa về kinh tế trong quản

lý nhà nước nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta

hiện nay, Luận án PTS. Khoa học Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ

Chí Minh.

30. V.I. Lênin (1981), Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

31. V.I. Lênin (1976), Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

32. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

33. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

34. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

35. V.I. Lênin (1977), Về pháp chế xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.

36. C.Mác - Ph.Ănghen: Toàn tập, tập 1, Nxb Sự thật Hà Nội 1978.

37. C.Mác - Ph.Ănghen: Tuyển tập, tập 6, Nxb Sự thật Hà Nội 1984.

38. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992 (1998), Nxb Thế giới,

Hà Nội.

39. "Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002" (2002), Phụ trang Tạp chí Kiểm

sát, (10).

40. Hồ Chí Minh (1985), Nhà nước và pháp luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội.

41. Khuất Văn Nga (2003), "Quán triệt một số quan điểm cơ bản về cải cách tư pháp trong

xây dựng Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi)", Kiểm sát, (6).

42. Khuất Văn Nga (2003), "Đổi mới quản lý, chỉ đạo công tác kiểm sát việc giải quyết

các vụ án dân sự của ngành kiểm sát nhân dân", Kiểm sát, (9).

43. Đỗ Khánh Tặng (1985), "Tìm hiểu về pháp chế xã hội chủ nghĩa", Giáo dục lý luận,

(2).

44. Phùng Văn Tửu (1988), "Ngành tư pháp nước ta trong công cuộc xây dựng xã hội

chủ nghĩa", Báo Nhân dân, ngày 22/7.

45. Lê Minh Thông (1996), "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong điều kiện xã

hội nước ta hiện nay", Báo Nhân dân, ngày 1/11.

46. Trần Thu (2002), Tài liệu tập huấn Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002

về công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra - kiểm sát xét xử sơ

thẩm án hình sự của Viện kiểm sát.

47. Hà Mạnh Trí (1992), "Tăng cường kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực

kinh tế", Tạp chí cộng sản, (2).

48. Đào Trí úc (1993), Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

49. Đào Trí úc (1994), "Làm thế nào để xây dựng pháp luật và ý thức sống theo pháp

luật", Nhà nước và pháp luật, (3).

50. Đào Trí úc (1997), Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

51. Đào Trí úc (Chủ biên) (1997), Đại hội VIII Đảng Cộng sản Việt Nam

và những vấn đề cấp bách của khoa học về Nhà nước và pháp luật, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội

52. Phạm Hồng Vượng, Báo cáo tình hình chấp hành pháp luật và công tác kiểm sát

của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội năm 1999.

53. Phạm Hồng Vượng, Báo cáo tình hình chấp hành pháp luật và công tác kiểm sát

của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội năm 2000.

54. Phạm Hồng Vượng, Báo cáo tình hình chấp hành pháp luật và công tác kiểm sát

của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội năm 2001.

55. Phạm Hồng Vượng, Báo cáo tình hình chấp hành pháp luật và công tác kiểm sát

của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội năm 2002.