LUẬN VĂN:

Tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt

động thực hành quyền công tố và kiểm sát

các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội

Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài

Pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN) là một trong những nguyên tắc cơ bản làm nền

tảng cho việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước XHCN. Nguyên

tắc pháp chế đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước trước hết phải dựa

trên cơ sở pháp luật và được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật; mọi cán bộ, công

chức nhà nước phải nghiêm chỉnh tôn trọng pháp luật trong khi thực hiện quyền hạn và nhiệm

vụ của mình. Tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm

pháp luật cũng là một nội dung quan trọng của nguyên tắc pháp chế XHCN.

Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) là một trong bốn hệ thống cơ quan cấu thành

nên bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chế định về VKSND là một

đặc điểm riêng có của kiểu Nhà nước XHCN theo sáng kiến vĩ đại của V.I. Lênin. Cùng

với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước, thời gian qua ngành Kiểm sát nhân dân

(KSND) đã không ngừng trưởng thành và lớn mạnh. Từ năm 2001 trở về trước, VKSND là

cơ quan duy nhất trong bộ máy nhà nước thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp

luật và thực hành quyền công tố. Từ khi ra đời (ngày 26/7/1960) cho đến nay, hệ thống

VKSND đã phát huy được vị trí, vai trò và thực hiện tốt chức năng của mình, góp phần

đáng kể vào công cuộc bảo vệ nền pháp chế XHCN nhằm mục đích bảo vệ và xây dựng

thành công Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Đảng ta đang chủ trương đổi mới toàn diện

đất nước theo hướng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị

trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Thực hiện chủ trương đó,

Đảng ta xác định phải đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà

nước sao cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh đổi mới của đất nước. Một trong những

trọng tâm của quá trình đổi mới đó là việc cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan

tư pháp, trong đó có hệ thống VKSND các cấp.

Quan điểm về cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp đã được đề

cập trong các văn kiện của Đảng trong các nhiệm kỳ từ Đại hội lần thứ VII của Đảng đến

nay như: Hội nghị Trung ương 8 khóa VII, Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII, Đại hội VIII

và Đại hội IX của Đảng.

Trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương khóa VII tại Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đã xác định rõ nhiệm vụ của cải cách tổ chức và

hoạt động tư pháp trong giai đoạn hiện nay là:

Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật làm cơ

sở cho tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp, bảo đảm mọi vi

phạm pháp luật đều bị xử lý, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.

Củng cố kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp, phân định lại thẩm

quyền xét xử của Tòa án nhân dân, từng bước mở rộng thẩm quyền xét xử sơ

thẩm cho Tòa án nhân dân huyện. Đổi mới tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát

nhân dân, các cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan tổ chức bổ

trợ tư pháp.

Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng cũng xác định:

Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư

pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp trong công

tác bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử, thi hành án, không được để xảy ra những

trường hợp oan sai. Viện kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức năng công tố và

kiểm sát hoạt động tư pháp. Sắp xếp lại hệ thống Tòa án nhân dân, tổ chức lại

Cơ quan điều tra và Cơ quan thi hành án theo nguyên tắc gọn đầu mối.

Trên cơ sở chủ trương của Đảng, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa

X tại kỳ họp thứ 10 đã thông qua Nghị quyết về việc sửa đổi một số điều của Hiến pháp

năm 1992. Theo đó, chức năng của VKSND là: "thực hành quyền công tố và kiểm sát các

hoạt động tư pháp". Để thực hiện chức năng theo Hiến pháp quy định, hệ thống VKSND

phải đổi mới cả về tổ chức và phương pháp hoạt động sao cho phù hợp với điều kiện và

hoàn cảnh mới.

Trong hoàn cảnh đó, việc tăng cường pháp chế XHCN không chỉ là một nhiệm vụ

mà còn là một quan điểm cơ bản có tính nguyên tắc chỉ đạo việc tiếp tục cải cách bộ máy

nhà nước nhằm xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam

nhằm đảm bảo thắng lợi cho quá trình đổi mới và phát triển đất nước. Để tăng cường pháp

chế, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, không chỉ xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp

luật, mà quan trọng hơn là tổ chức thực hiện pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thực

hành thường xuyên và nghiêm chỉnh, đấu tranh kiên quyết với những hành vi vi phạm

pháp luật. Pháp luật không được tuân thủ nghiêm chỉnh và thống nhất thì pháp luật sẽ

không có hiệu lực và trên thực tế cũng sẽ không có pháp chế.

Muốn cho pháp luật của Nhà nước được đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh và thống

nhất thì điều quan trọng trước nhất là các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội,

các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế,các cán bộ của Đảng và công chức nhà nước phải

tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh, phải tôn trọng các quyền tự do, dân chủ của

nhân dân, phải làm đúng trách nhiệm là người thừa hành ý kiến của nhân dân, là người bảo

vệ và phục vụ lợi ích của nhân dân. Từ đó đòi hỏi phải tăng cường pháp chế XHCN trong

hoạt động của VKSND nói chung và của mỗi cán bộ, kiểm sát viên của VKSND thành phố

Hà Nội nói riêng.

Trong những năm qua, VKSND thành phố Hà Nội đã thực hiện tốt công tác kiểm

sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động của các cơ quan tư pháp trên địa bàn Thủ đô và

thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh và thống nhất,

phát huy vai trò tích cực của mình trong cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm,

nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Song, bên cạnh những ưu điểm trên, công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực hành

quyền công tố còn bộc lộ những sai sót cần khắc phục. Để hoàn thành tốt chức năng của

mình, xứng đáng là một công cụ sắc bén của Đảng trong việc bảo vệ nền pháp chế XHCN,

ngành KSND phải tiếp tục phấn đấu phát huy thành tích, hạn chế và khắc phục khuyết điểm.

Nhằm góp phần làm sáng rõ thêm về mặt lý luận và thực tiễn của việc tăng cường pháp chế

trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, tác giả chọn đề

tài: "Tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát

các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội" làm luận văn thạc

sĩ luật, chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Pháp chế XHCN là một phạm trù khoa học pháp lý cơ bản, đã được nhiều nhà

khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu với nhiều góc độ khác nhau. Lý luận về pháp

chế XHCN và tăng cường pháp chế XHCN đã được hình thành và phát triển rực rỡ trong

nền khoa học pháp lý Xô-viết và các nước XHCN trước đây. ở nước ta, vấn đề tăng cường

pháp chế XHCN đã trở thành quan điểm chính thống và nhất quán được thể hiện trong các

văn kiện của Đảng ta qua nhiều kỳ Đại hội; quan điểm đó cũng đã được thể hiện trong

nhiều tác phẩm của các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, vấn

đề pháp chế XHCN và tăng cường pháp chế XHCN đã trở thành một nội dung khoa học có

vị trí không thể thiếu trong giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật của các

trung tâm đào tạo Chính trị - Pháp lý như: Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Đại

học Quốc gia Hà Nội (khoa Luật), Đại học Luật Hà Nội v.v...

Hiện nay vấn đề "tăng cường pháp chế XHCN"đã trở thành một nguyên tắc hiến

định, chính vì vậy nó đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học

pháp lý; có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về pháp chế và tăng cường pháp chế

XHCN gần đây đã được công bố như:

- Luận án TS Luật học của Nguyễn Phùng Hồng về "Tăng cường pháp chế XHCN

trong hoạt động của lực lượng công an nhân dân trên lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia ở

nước ta hiện nay", Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1994.

- Luận án TS học Luật học của Quách Sỹ Hùng về "Tăng cường pháp chế về kinh

tế trong quản lý nhà nước nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta

hiện nay", Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1996.

- Luận án TS Luật học của Nguyễn Nhật Hùng về "Tăng cường pháp chế XHCN

trong lĩnh vực bảo vệ sức khỏe nhân dân ở nước ta hiện nay", Học viện Chính trị Quốc gia

Hồ Chí Minh, năm 1996.

- Luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Huy Bằng về "Tăng cường pháp chế

XHCN trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở nước ta hiện nay", Học viện Chính trị Quốc

gia Hồ Chí Minh, 2001.

Và nhiều công trình khoa học của nhiều tác giả khác.

Như vậy, vấn đề pháp chế và tăng cường pháp chế XHCN trong một số lĩnh vực

cụ thể đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và làm sáng tỏ. Tuy nhiên, về pháp chế và

tăng cường pháp chế XHCN trong lĩnh vực hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát

các hoạt động tư pháp của VKSND thì chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập một cách

toàn diện.

Chính vì vậy có thể coi đề tài " Tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực

hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân

thành phố Hà Nội " là công trình đầu tiên nghiên cứu về lĩnh vực này.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích

Mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm tiếp

tục tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các

hoạt động tư pháp của VKSND thành phố Hà Nội trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ

Nhằm thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:

- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về pháp chế XHCN và pháp chế trong hoạt động

thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.

- Đánh giá thực trạng pháp chế trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm

sát các hoạt động tư pháp thông qua việc phân tích kết quả hoạt động của VKSND thành

phố Hà Nội trong một số năm gần đây.

- Đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường pháp chế XHCN

trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND

thành phố Hà Nội.

4. Phạm vi nghiên cứu

Tác giả nghiên cứu một cách tổng quát cơ sở lý luận về pháp chế XHCN và pháp chế

trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND

thành phố Hà Nội và trong một số năm gần đây.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về

nhà nước và pháp luật; cũng như các quan điểm, lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam để chỉ

đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, từng bước đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ

máy nhà nước theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân

dân và vì nhân dân hiện nay.

Luận văn được thực hiện trên cơ sở các phương pháp nghiên cứu của triết học Mác

- Lênin như: phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn; phương pháp phân tích và tổng

hợp; phương pháp nghiên cứu lịch sử, cụ thể và toàn diện. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng

các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể khác như: phương pháp lôgic, các phương

pháp so sánh, đối chiếu, thống kê, mô hình hóa...

6. Đóng góp mới của luận văn

- Hệ thống hóa và góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận về pháp chế XHCN trong hoạt

động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.

- Lần đầu tiên đánh giá có hệ thống về pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành

quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp VKSND thành phố Hà Nội.

- Đề xuất một số giải pháp khả thi nhằm tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt

động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn

gồm 3 chương, 7 tiết.

Chương 1

cơ sở lý luận về pháp chế và pháp chế

trong hoạt động thực hành quyền công tố

và kiểm sát các hoạt động tư pháp

1.1. Cơ sở lý luận chung về pháp chế xã hội chủ nghĩa

1.1.1. Khái niệm pháp chế XHCN

Pháp chế XHCN là một khái niệm khoa học được hình thành trong nền khoa học

pháp lý XHCN. ở nước ta đã từ lâu, pháp chế XHCN không chỉ được quan tâm về khái

niệm mà đã trở thành nguyên tắc chỉ đạo trong hoạt động lãnh đạo của Đảng Cộng sản

Việt Nam đối với Nhà nước, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước cũng như hoạt

động của công dân trong đời sống xã hội. Hiện nay chúng ta đang xây dựng Nhà nước

pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân; chính vì vậy, pháp chế XHCN càng phải là

một nguyên tắc cơ bản được xếp trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt

động của bộ máy nhà nước XHCN (như các nguyên tắc: Tất cả quyền lực nhà nước thuộc

về nhân dân; tập trung dân chủ; nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự

phân công, phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp; giữa nhà nước

Trung ương và các cơ quan nhà nước ở địa phương...).

Trước khi đi sâu tìm hiểu về khái niệm pháp chế XHCN, chúng ta hãy tìm hiểu

quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng như quan điểm của Chủ

tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề này.

1.1.1.1. Quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin về pháp chế

XHCN

C.Mác và Ph.ăngghen là những người đã đề ra phương pháp luận tiên tiến và khoa

học để nghiên cứu lý luận về Nhà nước và pháp luật. Tuy hai ông không nêu ra một khái

niệm cụ thể nào về pháp chế song qua các tác phẩm của mình, tư tưởng của các ông về

pháp chế đã được đề cập trong khi nghiên cứu pháp luật trong các nhà nước bóc lột.

Trong bộ Tư bản, tuy C. Mác không bàn trực tiếp về vấn đề pháp chế nhưng khi

nghiên cứu các quan hệ giữa nhà nước và công dân trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa,

C.Mác cho rằng pháp chế là một chế độ tuân thủ pháp luật trong thực tiễn.

Còn Ph.ăngghen, trong tác phẩm "Bàn về vấn đề nhà ở" đã luận về pháp chế như

sau:

ở một giai đoạn rất cổ xưa nào đấy của sự phát triển xã hội, nhu cầu làm

cho người ta thấy cần phải tập hợp dưới một quy tắc chung. Những hành vi sản

xuất phân phối và trao đổi sản phẩm tái diễn hàng ngày cần phải làm thể nào để

mọi người phải phục tùng những điều kiện chung về sản xuất, trao đổi. Quy tắc

đó thoạt tiên là thói quen sau đó trở thành pháp luật. Có pháp luật thì những cơ

quan có nhiệm vụ duy trì pháp luật đó tất phải xuất hiện: quyền lực công cộng,

nhà nước. Trong tiến trình phát triển sau này của xã hội, pháp luật phát triển

thành pháp chế ít nhiều rộng rãi. Pháp chế càng phức tạp bao nhiêu thì thuật ngữ

của nó càng xa rời thuật ngữ biểu hiện những điều kiện kinh tế thông thường

của xã hội bấy nhiêu. Lúc đó pháp chế ấy xuất hiện như một nhân tố độc lập mà

lý do tồn tại và cơ sở của sự tiến triển sau này của nó không phải xuất phát từ

những điều kiện kinh tế mà từ chính những nguyên nhân sâu sắc của bản thân

nó hay có thể nói ra từ khái niệm về ý chí [38, tr. 752].

Phát triển tư tưởng pháp chế của C. Mác và Ph. Ăngghen, V.I. Lênin đã đề cập rõ nét

tư tưởng pháp chế XHCN ở nhiều bài nói, bài viết trong đó có thể kể đến những tác phẩm

tiêu biểu như: "Sơ thảo đề cương nghị quyết về tuân thủ pháp luật", "Bàn về chế độ song

trùng trực thuộc và pháp chế’, "Thư gửi công dân và nông dân về việc đánh thắng Côn-

tsắc"... Và chúng ta có thể nói rằng, V.I. Lênin chính là người đầu tiên đã đưa ra các luận

điểm cơ bản về pháp chế XHCN.

Trong các tác phẩm của mình, Lênin đã đưa ra nhưng luận điểm cơ bản về pháp

chế. Không những thế, Người còn cho rằng, việc thực hiện pháp luật là một chế độ trong đời

sống xã hội. Nó là vấn đề thường xuyên phải chăm lo. Pháp chế phải là một chế độ tuân

thủ pháp luật của nhà nước cách mạng. Lênin yêu cầu phải thiết lập một nền pháp chế

thống nhất trong toàn nước cộng hòa. Người cũng quan tâm đến cơ chế bảo đảm pháp chế

được tôn trọng trong đó có nhấn mạnh "nhà nước và mọi công dân phải chịu kiểm sát" mà

sự kiểm sát này được giao cho một cơ quan không tổ chức theo mô hình "song trùng trực

thuộc".

V.I. Lênin là người đầu tiên đưa ra các luận điểm cơ bản về pháp chế XHCN.

Ngay từ năm thứ hai của nhà nước Xô viết, Lênin đã viết "Sơ thảo đề cương quyết định về

việc tuân thủ đúng pháp luật" - Đề cương này đã trở thành cơ sở đề ra nghị quyết về việc tôn

trọng nghiêm chỉnh pháp chế. Năm 1922, trong bức thư "Bàn về chế độ trực thuộc song

trùng và pháp chế", Lênin đã đưa ra những luận điểm cơ bản làm cơ sở cho pháp chế

XHCN. ở đây, Người đã nêu lên những nội dung cơ bản về pháp chế XHCN.

Trong bối cảnh cách mạng Nga mới thành công, một chính sách kinh tế, một đạo

luật, sắc lệnh được ban hành và thực hiện là một cuộc đấu tranh giai cấp hết sức gian khổ.

Bên cạnh sự thù địch của các thế lực phản cách mạng còn là sự cản trở của bệnh hành

chính quan liêu trong bộ máy nhà nước và hiện tượng không tuân thủ các đạo luật của

chính quyền Xô viết trong đời sống xã hội. Một sự thật mà Lênin đã nói là: "Chúng ta

đang sống trong tình trạng mà đâu đâu cũng có những hiện tượng không tôn trọng pháp

luật và ảnh hưởng của địa phương là một trong những trở ngại lớn nhất... cho công cuộc

thiết lập pháp chế" [32, tr. 234].

Người thường gắn việc củng cố quyền lực nhà nước, quyền lực của nhân dân với

việc củng cố pháp chế cách mạng, pháp chế XHCN. V.I. Lênin cho rằng: "Điều kiện của

một chính quyền vững vàng và chắc chắn càng tiến bộ, sự trao đổi của dân chúng càng

phát triển, thì phải cấp bách đề ra khẩu hiệu kiên quyết phải có pháp chế cách mạng rộng

lớn..." [33, tr. 404].

Trong các cơ quan bảo vệ pháp luật, việc tổ chức và hoạt động của nó phải trên cơ

sở bảo vệ chế độ thực hiện pháp luật thống nhất trong cả nước cộng hòa. Vì vậy, V.I.

Lênin cho rằng tổ chức Viện kiểm sát (VKS) theo nguyên tắc "Song trùng trực thuộc" như

các cơ quan nhà nước khác là một sai lầm. VKS theo V.I. Lênin là cơ quan kiểm sát toàn

bộ chế độ tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước, viên chức nhà nước và mọi công

dân. Nó bảo đảm cho "bất cứ quyết định nào của bất cứ một cơ quan hành chính địa

phương nào cũng không đi ngược lại pháp luật" [32, tr. 233]. Cho nên "Viện kiểm sát địa

phương chỉ trực thuộc vào Trung ương" [32, tr. 236].

Tư tưởng pháp chế của V.I. Lênin có thể khái quát như sau:

Thứ nhất: Pháp chế là sự thực hiện nghiêm chỉnh, triệt để pháp luật trong thực tế

của mọi tổ chức, mọi thành viên trong xã hội.

Thứ hai: Chính sách của Đảng cộng sản phải được khẳng định bằng pháp luật. Quá

trình ban hành pháp luật, hoàn thiện pháp luật phải đi đôi với việc thiết lập nền pháp chế

XHCN.

Thứ ba: Đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp - cơ sở thiết lập một chế độ pháp chế

thống nhất trong cả nước.

Thứ tư: Pháp chế là những phương pháp chuyên chính vô sản, phương pháp quản

lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Thứ năm: Pháp chế XHCN là phương pháp bảo đảm, bảo vệ quyền con người,

thực hiện nền dân chủ XHCN, xóa bỏ bóc lột và bất công, thiết lập bình đẳng, công bằng

xã hội.

1.1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về pháp chế XHCN

ý tưởng về việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân và

tăng cường pháp chế không phải gần đây mới được đề cập tới, mà từ lâu đã được Chủ tịch

Hồ Chí Minh và Đảng ta quan tâm và chú trọng. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con

đường của cách mạng Việt Nam, từ năm 1919, Nguyễn ái Quốc (Hồ Chí Minh) đã nói lên

tiếng nói của các dân tộc thuộc địa trong đó có Việt Nam về khao khát một xã hội thực sự

có luật pháp và những thiết chế cần thiết cho sự duy trì và thi hành pháp luật:

"Bẩy xin Hiến pháp ban hành

Trăm điều phải có thần linh pháp quyền".

Đây là một trong 8 yêu sách mà Nguyễn ái Quốc gửi cho các nước đồng minh tại

Hội nghị Vessailles năm 1919. Và trên cơ sở nhận thức được vai trò vô cùng quan trọng

của Hiến pháp trong việc xây dựng và củng cố một Nhà nước kiểu mới, nhằm phát huy các

quyền tự do, dân chủ của nhân dân và bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân

dân, trong cuộc họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam độc lập - Nhà nước Việt Nam

dân chủ cộng hòa, ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:

Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ

thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp. Nhân

dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp

dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử

với chế độ phổ thông đầu phiếu.

Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau một thời gian ngắn, ngày

09-11-1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã được Quốc

hội khóa I thông qua.

Kể từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và bản Hiến pháp đầu tiên của nước

Việt Nam độc lập ra đời cho đến nay, trong suốt hơn 50 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng

Cộng sản Việt Nam, Nhà nước ta trong mọi thời kỳ phát triển khác nhau của đất nước

không chỉ chú trọng tới việc ban hành Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác mà còn

luôn đòi hỏi sự chấp hành và thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật.

Trên cơ sở lý luận Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật, sự kế thừa và phát triển

tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đã sớm hình thành và từng bước hoàn thiện

tư tưởng về pháp chế XHCN, và tăng cường pháp chế XHCN. Điều đó thể hiện rõ trong

văn kiện của các kỳ Đại hội Đảng, các bản Hiến pháp qua các thời kỳ khác nhau của cách

mạng nước ta.

Ngay tại Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần III (Đại hội đầu tiên sau khi

miền Bắc được giải phóng) vấn đề pháp chế đã được quan tâm. Trong Văn kiện Đại hội

Đảng toàn quốc lần thứ III đã ghi:

Nhà nước cần nghiêm trị những cán bộ lợi dụng cương vị công tác của

mình để xâm phạm lợi ích của nhân dân, vi phạm pháp luật của nhà nước, đồng

thời cần khen thưởng những cán bộ có công và có đạo đức.

Cần phải tăng cường vai trò của cơ quan nhà nước các cấp, thực hiện

đúng chế độ tập trung dân chủ trong sinh hoạt của các cơ quan nhà nước. Tất cả

những chế độ pháp luật, thể lệ của Nhà nước phải được cơ quan chính quyền các

cấp chấp hành nghiêm chỉnh. Kế hoạch nhà nước là một pháp lệnh, các cơ quan

nhà nước phải chấp hành đúng và phải đảm bảo cho mọi người chấp hành đúng

[5, tr. 118].

Có thể thấy rằng, cách đề cập này còn sơ sài. Ngay thuật ngữ pháp chế cũng chưa

được nêu một cách trực diện. Điều đó cũng dễ hiểu bởi thời điểm đó đất nước còn chia

thành hai miền với hai nhiệm vụ chiến lược, việc nghiên cứu lý luận còn hạn chế. Đáng

chú ý là tại Đại hội lần này, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã trình bày tham luận quan trọng

với nhan đề "Mấy vấn đề về Nhà nước dân chủ nhân dân" trong đó khẳng định: "Tăng

cường nhà nước dân chủ nhân dân là tăng cường pháp chế XHCN" [5, tr. 64]. Ông còn

nói: "... chúng ta phải rất xem trọng công tác lập pháp, dần dần xây dựng nền pháp chế

XHCN ngày càng đầy đủ. Đồng thời, chúng ta phải ra sức giáo dục nhân dân nghiêm chỉnh

thi hành pháp luật và có thái độ xử lý nghiêm khắc đối với những hành vi vi phạm pháp

luật" [5, tr. 65]. ở đây, pháp chế đã được đề cập rõ hơn song vẫn còn chưa tách bạch giữa

"pháp chế" và "hệ thống pháp luật".

Trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu

toàn quốc lần thứ IV, Đảng ta đã khẳng định:

Quyền làm chủ tập thể của nhân dân bằng Nhà nước dưới sự lãnh đạo

của Đảng phải được xác định bằng Hiến pháp và pháp luật. Sức mạnh và nội

dung cơ bản của pháp chế XHCN chính là quyền làm chủ tập thể của nhân dân.

Cần tăng cường pháp chế XHCN, làm cho mọi hoạt động của các cơ quan Nhà

nước đi vào khuôn phép và quy chế nghiêm chỉnh, thật sự tôn trọng quyền làm

chủ tập thể và đảm bảo quyền lợi của công dân.

... Pháp luật phải quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, đòi

hỏi công dân phải làm tròn nghĩa vụ, phải tuân theo pháp luật. Đối với những

người không tự giác thì phải cưỡng chế và bất cứ ai vi phạm pháp luật đều phải

xử phạt thích đáng [6, tr. 146- 147].

Rõ ràng là trong giai đoạn này, tư tưởng pháp chế XHCN của Đảng ta không

những được xác định rõ hơn về vai trò, nội dung mà còn được quan tâm đến cả cơ chế đảm

bảo. Một mặt nhằm phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân; mặt khác là thực hiện sự

cưỡng chế đối với các hành vi vi phạm pháp luật.

Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V thì vấn đề tăng cường pháp chế XHCN

đã được đề cập một cách trực diện. Đó là: "Tăng cường pháp chế XHCN là một yêu cầu

cấp thiết để nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước, bảo đảm quyền làm chủ tập thể của

nhân dân lao động" [7, tr. 114]. Không những thế trong văn kiện của Đại hội còn nêu lên

vấn đề "khắc phục cho được tình hình không bình thường là nhiều luật và pháp lệnh được

ban hành không được thi hành nghiêm chỉnh, thậm chí không được thi hành" [7, tr. 115].

Nhiều biện pháp nhằm tăng cường pháp chế XHCN đã được đưa ra trong đó đáng chú ý là

"đưa việc giáo dục về pháp luật vào các trường học, các cấp học, xây dựng ý thức sống có

pháp luật và tôn trọng pháp luật" [7, tr. 115]. Bên cạnh đó là việc tăng cường công tác

kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu tố và yêu cầu cán bộ, đảng viên gương mẫu thi hành

pháp luật, đi đầu trong cuộc đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật, tăng cường

pháp chế XHCN.

Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI thì trong Nghị quyết đã chỉ rõ: "Trong

điều kiện Đảng cầm quyền, mọi cán bộ, bất cứ ở cương vị nào, đều phải sống và làm việc

theo pháp luật. Mọi vi phạm đều phải xử lý" [8, tr. 121]. Do vậy, Nghị quyết cũng đặt ra yêu

cầu đối với các cấp ủy Đảng từ Trung ương tới địa phương phải thường xuyên quan tâm

lãnh đạo công tác pháp chế, kiểm tra hoạt động của tất cả các cơ quan và đặc biệt là các cơ

quan pháp chế. Phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân và dư luận xã hội để đấu

tranh kiên quyết, không khoan nhượng với các biểu hiện tiêu cực, vi phạm pháp luật của

bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII cũng xác định: "Điều quan trọng để phát huy

dân chủ là xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ

nghĩa, nâng cao trình độ dân trí, trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức tuân thủ pháp luật

của nhân dân" [9, tr. 121]. Tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, trong công tác xây

dựng và hoàn thiện Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam, Đảng ta tiếp tục quán triệt sâu

sắc quan điểm "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền

Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức"

[10, tr. 79].

Như vậy, vấn đề pháp chế XHCN và tăng cường pháp chế XHCN từ lâu đã trở

thành quan điểm chính thống của Đảng và Nhà nước ta. Pháp chế XHCN và tăng cường

pháp chế XHCN không chỉ đơn thuần là những vấn đề lý luận mà còn mang ý nghĩa thực

tiễn to lớn, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc bảo

đảm và củng cố chế độ xã hội XHCN, và đóng vai trò quyết định trong sự nghiệp xây dựng

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong tình hình mới. Từ sự phân tích về vai trò và

ý nghĩa của pháp chế XHCN và tăng cường pháp chế XHCN, có thể nhận thức một cách

khái quát về pháp chế XHCN.

1.1.1.3. Khái niệm và những nội dung cơ bản của pháp chế XHCN

Dựa vào những nguyên lý cơ bản của Lênin, các nhà khoa học pháp lý ở Liên Xô

trước đây đã xây dựng khái niệm mới về "pháp chế cách mạng" -pháp chế XHCN. Cơ sở

thiết lập pháp chế XHCN là hệ thống pháp luật của Nhà nước kiểu mới. Điều kiện quyết

định để pháp luật đi vào cuộc sống là Nhà nước XHCN và ý thức tự giác của đông đảo

quần chúng nhân dân. Nội dung cơ bản của pháp chế XHCN được các nhà khoa học pháp

lý tập trung nhấn mạnh ở những điểm chủ yếu. Đó là:

Pháp chế XHCN là sự đòi hỏi sự tuân thủ và chấp hành pháp luật đối với các cơ

quan nhà nước, các cán bộ nhân viên trong các cơ quan nhà nước và các tổ chức và nhân

viên của các tổ chức chính trị - xã hội và mọi công dân.

Cùng với sự ra đời của khái niệm pháp chế XHCN, ngày nay với sự phát triển của

khoa học pháp lý các khái niệm, phạm trù pháp lý nói chung và pháp chế nói riêng đã được

xây dựng hoàn thiện hơn; phản ánh thực tế khách quan của đời sống nhà nước và xã hội.

Trong sự hoàn thiện khái niệm pháp chế, nội dung chủ yếu đã được làm rõ là "ranh giới"

của hiện tượng pháp luật với tư cách là hệ thống các quy phạm pháp luật và hiện tượng của

hệ thống các quan hệ xã hội được điều chỉnh bằng pháp luật. Trong thực tế định nghĩa về

pháp chế có tính khoa học được nhiều người thừa nhận và ghi vào sách giáo trình môn Lý

luận chung về Nhà nước và pháp luật là: "Pháp chế XHCN là chế độ của đời sống chính trị

xã hội trong đó Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật; các cơ quan nhà nước; các tổ

chức chính trị; các tổ chức chính trị - xã hội; các đơn vị kinh tế và mọi công dân đều phải

tôn trọng và thực hiện Hiến pháp, pháp luật; mọi vi phạm pháp luật đều bị xử lý".

Trong nền khoa học pháp lý Xô viết, các khái niệm, phạm trù pháp lý khác cũng

hình thành và phát triển. Trong đó phải kể đến các khái niệm gần gũi với khái niệm pháp

chế như: Thực hiện pháp luật và trật tự pháp luật. Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt

động có chủ định của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật nhằm làm cho pháp luật được

thực hiện trong cuộc sống. Quá trình hoạt động đó bao hàm các dạng hành vi thực hiện

pháp luật như: Tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp

luật. Như thế hệ thống quy phạm pháp luật của Nhà nước thông qua chế độ thực hiện pháp

luật đã được chuyển hóa thành pháp chế.

Như vậy, quan điểm cơ bản từ trước tới nay vẫn coi: "Pháp chế chính là sự đòi hỏi

mọi cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước, các tổ chức chính trị, các tổ chức

chính trị - xã hội và các tổ chức kinh tế cũng như mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh

thực hiện pháp luật trong hoạt động của mình". Theo đó, định nghĩa này tập trung nhấn

mạnh nội dung cơ bản đó là sự tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật của mọi chủ thể pháp luật.

Đặc trưng lớn nhất của pháp luật là tính qui phạm phổ biến, pháp luật mang tính

bắt buộc chung đối với mọi đối tượng tham gia các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh, điều

này được nhà nước thừa nhận và được đảm bảo bằng các biện pháp cưỡng chế mang tính

nhà nước. Mọi chủ thể pháp luật đều phải xử sự phù hợp với pháp luật. Bản thân nhà nước

- chủ thể ban hành và đảm bảo sự thi hành pháp luật cũng phải tự đặt mình vào việc

nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật. Bởi Nhà nước và pháp luật của chúng ta mang tính nhân

dân sâu sắc, phục tùng pháp luật là phục tùng ý chí và lợi ích của nhân dân, đường lối

chính sách của Đảng đã được thể chế hóa thành luật. Nhà nước pháp quyền XHCN không

cho phép Nhà nước và các chủ thể quyền lực công đứng ngoài và hành xử ngoài pháp luật.

Đứng trước pháp luật, mọi người đều bình đẳng, tất cả các hành vi vi phạm pháp luật đều bị

trừng trị, mọi chủ thể vi phạm pháp luật đều bị truy cứu trách nhiệm pháp lý. Pháp chế

XHCN xa lạ với sự phân biệt đối xử, đặc quyền đặc lợi, không có đất cho các biểu hiện lạm

dụng chức quyền.

Định nghĩa như vậy không có nghĩa là phủ nhận hay coi nhẹ vai trò tiền đề của

pháp luật đối với pháp chế. Bởi pháp chế và pháp luật là hai khái niệm gần gũi, có quan hệ

chặt với nhau nhưng không đồng nhất. Trong đó pháp luật được hiểu là hệ thống các qui

phạm do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật là một trong

những yếu tố bảo đảm sự phát triển của xã hội. Đồng thời, pháp luật ghi nhận và thể chế

hóa các quyền tự do dân chủ của công dân, thiết lập nên các bảo đảm pháp lý đảm bảo cho

các quyền đó được thực hiện trên thực tế. Qua đó, người dân tìm thấy ở pháp luật phương

tiện bảo vệ cho các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong điều kiện xây dựng Nhà

nước pháp quyền XHCN, pháp luật còn là phương tiện thể chế hóa các đường lối của Đảng

và đưa nó vào cuộc sống.

Tuy nhiên, để pháp luật thực sự phát huy được các vai trò quan trọng đó trong thực

tiễn cuộc sống, để pháp luật không chỉ là những trang giấy chứa đựng các qui phạm, đòi

hỏi phải có pháp chế. Bởi pháp chế là phạm trù thể hiện yêu cầu và đòi hỏi đối với mọi chủ

thể pháp luật trong xã hội phải tôn trọng và tuân thủ triệt để pháp luật. Như vậy, pháp luật

là điều kiện tiền đề của pháp chế. Song việc có pháp luật chưa hẳn là đã tồn tại pháp chế.

Một hệ thống pháp luật thiếu hoàn thiện, mâu thuẫn, chồng chéo sẽ kéo theo một cơ chế

điều chỉnh pháp luật khiếm khuyết. Hay pháp luật khi được ban hành nhưng không được

các chủ thể pháp luật chấp hành và tuân thủ hoặc được thi hành nhưng không thực sự

nghiêm minh thì trật tự xã hội sẽ bị đảo lộn, xã hội rơi vào trạng thái vô pháp chế. Hậu quả

tất yếu sẽ là tình trạng xã hội với các mặt đời sống phát triển không bình thường, các

quyền và lợi ích hợp pháp của người dân không được đảm bảo. Do đó, vấn đề mấu chốt là:

pháp luật chỉ thực sự có hiệu lực khi nó dựa trên nền tảng vững chắc của pháp chế, bên

cạnh đó pháp chế chỉ có thể được củng cố và tăng cường trong điều kiện một hệ thống

pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ.

Trước sự vận động không ngừng của đời sống xã hội, quan điểm trên đây về pháp

chế XHCN dường như đã không còn mang tính chính xác khoa học cao. Quan điểm đó vẫn

đúng nhưng chưa thực sự đủ. Hiện nay đang phổ biến một quan điểm khoa học cho rằng:

"Pháp chế là sự hiện diện của một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ

xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỷ luật, là sự tuân thủ và thực hiện

đầy đủ pháp luật trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, của các cơ quan, đơn vị, tổ

chức và đối với công dân" [49, tr. 680].

Trong định nghĩa này có mấy nội dung chính yếu sau đây:

- Sự hiện diện của một hệ thống pháp luật; và hệ thống pháp luật này là điều kiện

cần và đủ cho sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỷ luật.

- Tổ chức và hoạt động của Nhà nước, của các cơ quan, đơn vị, tổ chức và mọi công

dân phải tuân thủ và thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh pháp luật.

Cách tiếp cận thứ nhất cho ta thấy một cách nhìn cận cảnh về pháp chế, nói một cách

khác, định nghĩa thứ nhất về pháp chế là một định nghĩa hẹp về pháp chế. Cách tiếp cận

thứ hai hàm chứa định nghĩa hẹp về pháp chế đồng thời có bổ sung hai nội dung mới cho ta

một cái nhìn bao quát hơn về pháp chế XHCN. Cách tiếp cận này đáp ứng được những đòi

hỏi hiện nay của lý luận cũng như thực tiễn là phải trả lời câu hỏi: pháp chế dựa trên cơ sở

nào, để làm gì và duy trì nó như thế nào. Nó cho chúng ta một định nghĩa rộng về pháp chế.

Định nghĩa này trước hết đã trực tiếp xác định vai trò vô cùng quan trọng của một

hệ thống pháp luật hoàn chỉnh trong vai trò là nền tảng của việc thiết lập pháp chế XHCN.

Như chúng ta đã biết, bất cứ một xã hội nào cũng đều cần có sự quản lý nhằm ổn

định trật tự xã hội và phục vụ cho nhu cầu phát triển xã hội. Kể từ khi xã hội có giai cấp

dẫn đến xuất hiện nhà nước, giai cấp cầm quyền luôn mong muốn một trật tự xã hội phù

hợp với ý chí giai cấp mình. Giai cấp cầm quyền tìm thấy ở pháp luật công cụ hữu hiệu

nhất trong quản lý xã hội. Chính sự nhập cuộc của pháp luật vào đời sống xã hội đã tạo ra

đời sống pháp lý của xã hội và tạo ra pháp chế. Đến lượt mình, pháp chế tạo ra một trạng

thái bảo đảm cao về mặt pháp luật cho mọi chủ thể trong xã hội. Đó chính là ý nghĩa lớn

lao của pháp chế XHCN; và ngày nay quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền cũng

có những điểm tương đồng trong lĩnh vực này.

Với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân

dưới cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, pháp chế XHCN được

đặt lên như một nguyên tắc hàng đầu trong mọi quan hệ về tổ chức và hoạt động của bất cứ

cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội nào. Do vậy, pháp luật, hơn lúc nào hết, cần

thể chế hóa đường lối lãnh đạo của Đảng làm tiền đề cho pháp chế. Điều đó tạo nên cơ sở

pháp lý cho các quan hệ chính trị đáp ứng nhu cầu ổn định xã hội, phát huy tính dân chủ,

xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. "Tuy nhiên, hệ thống pháp luật cũng chỉ nên

dừng lại ở mức đáp ứng cần và đủ cho các quan hệ xã hội. Pháp chế XHCN đòi hỏi việc

điều chỉnh pháp luật phải đúng cách" [49, tr. 689]. Một triết gia phương Đông nổi tiếng đã

từng nói: việc trị quốc ví như nấu một nồi cá, nếu quấy mạnh thì nó nát, nếu không quấy

thì nó cháy, tốt nhất là nên quấy vừa phải và đúng lúc, đúng cách.

Còn về nội dung cơ bản của pháp chế: đòi hỏi tổ chức và hoạt động của Nhà nước,

của các cơ quan, đơn vị, tổ chức và công dân tuân thủ và thực hiện đầy đủ pháp luật, về nội

hàm không có gì đổi khác so với cách định nghĩa thứ nhất.

Theo lôgíc của các quan hệ biện chứng trên từ pháp luật đến chế độ thực hiện pháp

luật cấu thành chế độ pháp chế; các nhà khoa học pháp lý đã xem xét hiện tượng xã hội

pháp lý đó và cho rằng đó là trạng thái trật tự pháp luật. Trật tự pháp luật phải chăng là

một hệ thống các quan hệ xã hội hình thành và phát triển dưới sự tác động điều chỉnh của

hệ thống các quy phạm pháp luật.Vậy trật tự pháp luật có phải là pháp chế không? Đã từng

có hai quan niệm để lý giải mối quan hệ giữa pháp chế và trật tự pháp luật. Quan niệm thứ

nhất coi trật tự pháp luật là yếu tố cấu thành của pháp chế. Quan niệm thứ hai có thể là hợp

lý hơn khi cho rằng trật tự pháp luật không phải là yếu tố bên trong trùng khớp với nội

hàm pháp chế mà trật tự pháp luật là mục đích của pháp chế, là hiệu quả của quá trình thiết

lập và tăng cường pháp chế.

Tóm lại, trong lịch sử ra đời, tồn tại, phát triển của mỗi nhà nước có một lịch sử ra

đời, tồn tại của pháp luật và pháp chế tương ứng. Thấu suốt trong dòng lịch sử đấu tranh

chống lạm dụng quyền lực, độc đoán chuyên quyền từ phía nhà nước và chống tư tưởng

còng như hoạt động vô chính phủ, coi thường pháp luật của công dân nhằm đảm bảo cho

pháp luật thực sự ngự trị trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội; thành lập nên một

trật tự pháp luật theo ý chí và mục đích của giai cấp thống trị xã hội.

Từ sự phân tích trên có thể rút ra định nghĩa pháp chế XHCN như sau: Pháp chế

XHCN là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị - xã hội, trong đó tất cả các cơ quan

nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, nhân viên nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội

và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để

và chính xác.

1.1.2. Những nguyên tắc của pháp chế XHCN

Ngày nay Đảng ta đang chủ trương xây dựng một Nhà nước pháp quyền Việt Nam

XHCN của dân, do dân, và vì dân. Trong quan niệm về nhà nước pháp quyền có nhiều

điểm trùng hợp với quan niệm về pháp chế. Thí dụ, các yêu cầu về một hệ thống pháp luật

tương đối hoàn chỉnh; về tính tối cao của Hiến pháp và các đạo luật; về sự tuân thủ nghiêm

chỉnh pháp luật của các chủ thể; về sự tôn trọng và bảo đảm các quyền công dân. Tuy

nhiên, quan niệm về Nhà nước pháp quyền có nội dung rộng hơn. Nó bao hàm cả vấn đề

trách nhiệm qua lại giữa nhà nước và công dân, công dân và nhà nước, vấn đề trách nhiệm

của quốc gia trong việc thực hiện các cam kết quốc tế, v.v… Đặt vấn đề từng bước xây

dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là đáp ứng được các đòi hỏi của một xã hội đang

chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đồng thời cũng đáp ứng

được đòi hỏi của một quốc gia đổi mới muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới theo

nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

Những nguyên tắc của pháp chế XHCN là những tư tưởng chủ đạo thể hiện bản

chất và các đặc điểm của pháp chế trong xã hội ta. Các nguyên tắc cơ bản đó là:

1.1.2.1. Bảo đảm tính thống nhất của pháp chế

Nội dung của nguyên tắc này là: pháp luật phải được nhận thức và thực hiện thống

nhất trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia và ở tất cả các ngành, không thể đem lợi ích của địa

phương, lợi ích ngành đối lập với lợi ích chung của nhà nước. Văn bản của cơ quan nhà

nước ở địa phương phải phù hợp, không mâu thuẫn với các văn bản pháp luật do các cơ

quan nhà nước ở trung ương ban hành. Những biểu hiện cục bộ, bản vị địa phương, có hại

cho sự thống nhất pháp chế, đi chệch lợi ích chung của cả nước cần phải được loại trừ.

Không nên quan niệm rằng tính thống nhất của pháp chế loại bỏ việc cân nhắc những điều

kiện của địa phương. Các cơ quan nhà nước ở địa phương có nghĩa vụ, một mặt, thực hiện

nghiêm chỉnh pháp luật đã được quy định thống nhất cho cả nước, mặt khác, trong hoạt

động của mình cần tính toán đầy đủ những hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của địa phương.

Song, sự tính toán đó không phải để vi phạm pháp luật mà để tìm kiếm những hình thức,

biện pháp và phương sách đặc thù của địa phương nhằm thực hiện pháp luật tốt hơn.

Pháp luật luôn mang trong nó tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức nên pháp luật

phải được nhận thức và thực hiện thống nhất trên phạm vi toàn bộ lãnh thổ quốc gia. Điều đó

cũng có nghĩa: Luật, Pháp lệnh không được mâu thuẫn với Hiến pháp, các văn bản dưới luật

không được mâu thuẫn, chồng chéo với các văn bản luật, các văn bản pháp luật của địa

phương, của các bộ, ngành không được đặt lợi ích cục bộ của địa phương và của ngành mình

đối lập với lợi ích của quốc gia. Đặt vấn đề như vậy không có nghĩa là triệt tiêu hoàn toàn tính

chủ động sáng tạo của các địa phương và các bộ ngành, bỏ qua tính đặc thù của từng địa

phương và bộ ngành. Trên cơ sở sự thống nhất, các địa phương và các bộ ngành có thể vừa

tính toán tới những hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của mình vừa thực hiện nghiêm chỉnh pháp

luật đã được qui định thống nhất trong phạm vi cả nước.

Trong quan hệ với các văn bản luật và các văn bản qui phạm dưới luật, Hiến pháp

là đạo luật mang tính tối cao, do Quốc hội ban hành và là đảm bảo cao nhất của pháp chế.

Điều này được chính Hiến pháp qui định: "Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp

luật khác phải phù hợp với Hiến pháp". Bản thân Hiến pháp cũng được xây dựng và ban

hành theo một trình tự thủ tục riêng theo qui trình lập hiến với yêu cầu phải được 2/3 số

đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Về vấn đề này, để đảm bảo tính thống nhất của

pháp luật, tính tối thượng của Hiến pháp và quan trọng hơn để tăng cường pháp chế

XHCN cần sớm khắc phục những sai lầm cơ bản, những biểu hiện vi hiến. Như việc các

cơ quan hữu quan đã đưa cả nội dung sửa đổi Hiến pháp 1992 vào các chương trình lập

pháp năm 2000 và năm 2001 của Quốc hội để rồi nội dung này được thông qua theo qui

trình lập pháp (chỉ cần quá 1/2 số đại biểu Quốc hội tán thành) thay vì lẽ ra phải được

thông qua theo một qui trình lập hiến (yêu cầu phải được 2/3 số đại biểu Quốc hội biểu

quyết tán thành theo đúng qui định tại Điều 147 Hiến pháp 1992).

1.1.2.2. Mọi chủ thể đều có nghĩa vụ phải chấp hành pháp luật

Nguyên tắc này đòi hỏi phải đưa những yêu cầu của pháp luật vào thực tế đời

sống; mọi chủ thể cần phải xử sự phù hợp với pháp luật. Mọi người đều bình đẳng trước

pháp luật, bất cứ chủ thể nào có hành vi vi phạm pháp luật đều bị truy cứu trách nhiệm

pháp lý. Pháp chế XHCN xa lạ với những biểu hiện phân biệt đối xử và đặc quyền, đặc lợi,

không cho phép lạm dụng chức vụ, quyền hạn lẩn tránh hoặc cố tình làm trái pháp luật.

Để tránh tình trạng hệ thống pháp luật của Nhà nước đã được ban hành đáng kể

nhưng chấp hành không nghiêm, trước hết Nhà nước mà cụ thể trong đó là các cơ quan

trong bộ máy nhà nước, các cán bộ công chức phải nghiêm chỉnh thi hành và chấp hành

pháp luật. Nhà nước chỉ được làm những gì luật cho phép nhằm hạn chế tối đa sự lạm

quyền trong tổ chức cũng như hoạt động của bộ máy nhà nước. Đối với các chủ thể pháp

luật khác ngoài nhà nước thì được làm tất cả trừ những gì luật cấm. Đó là cơ sở pháp lý

vững chắc đảm bảo cho các quyền tự do dân chủ của công dân được thực hiện.

1.1.2.3. Bảo đảm tính tối cao của hiến pháp và các đạo luật

Điều 146 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản

pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp". Những đạo luật có hiệu lực thấp hơn Hiến

pháp nhưng cao hơn những văn bản dưới luật. Những văn bản dưới luật phải được ban

hành trên cơ sở và để thi hành Hiến pháp và các đạo luật, không được trái với Hiến pháp

và các đạo luật đó.

1.1.2.4. Bảo đảm thực hiện và bảo vệ các quyền và tự do của công dân đã được

pháp luật quy định

Trong xã hội ta, công dân có những quyền tự do, dân chủ rộng rãi. Một trong

những yêu cầu quan trọng nhất của pháp chế là phải bảo đảm và bảo vệ những quyền dân

chủ đó. Công dân khi sử dụng các quyền tự do được pháp luật ghi nhận, không được gây

thiệt hại cho lợi ích nhà nước và xã hội, cũng như lợi ích của các công dân khác.

1.1.2.5. Ngăn chặn kịp thời và xử lý nhanh chóng, công minh mọi vi phạm pháp

luật

Bất kỳ vi phạm pháp luật nào cũng có hại cho lợi ích của nhà nước, xã hội và công

dân. Bởi vậy, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xử lý nhanh chóng, công minh và

có hiệu quả đối với những vi phạm đó. Để làm được điều này cần phải chỉnh đốn tổ chức,

thi hành những biện pháp có hiệu lực nhằm ngăn chặn và loại trừ tệ tham nhũng, hối lộ,

cửa quyền, nghiêm trị những phần tử biến chất, lợi dụng danh nghĩa Đảng và chính quyền

để đục khoét, áp bức quần chúng. Các cơ quan tòa án, kiểm sát, thanh tra, công an,… phải

dựa vào nhân dân để phát hiện và xử lý kịp thời những vụ vi phạm pháp luật. Mỗi công

dân cũng cần hiểu rõ nếu họ vi phạm pháp luật sẽ không tránh khỏi phải chịu sự cưỡng chế

của nhà nước dưới hình thức các biện pháp trách nhiệm pháp lý.

Các qui phạm pháp luật nói riêng và pháp luật nói chung luôn là đại lượng của dân

chủ, công bằng và tự do. Do đó, nó là khuôn mẫu, là chuẩn mực hành vi, là thước đo của

hành vi xử sự trong đời sống xã hội. Bất cứ hành vi nào vi phạm pháp luật, trái với các qui

phạm pháp luật đều là đi ngược lại với lợi ích của của cộng đồng, lợi ích của toàn xã hội.

Do vậy, để bảo đảm trật tự xã hội cần thiết phải ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi vi

phạm pháp luật, xâm phạm lợi ích hợp pháp của công dân và của nhà nước. Việc ngăn

chặn và xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật cũng đồng thời là phương tiện bảo đảm các

quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Bởi trong Nhà nước pháp quyền XHCN, thì

pháp luật, các cơ quan thi hành pháp luật và pháp chế XHCN luôn là chỗ dựa vật chất và

tinh thần của người dân trong việc tìm đến công lý và công bằng.

1.1.2.6. Tính pháp chế thống nhất với tính hợp lý và sự công bằng

Giữa pháp chế và tính hợp lý có mối liên hệ chặt chẽ, vì pháp luật XHCN thể hiện

chính sách có cơ sở khoa học của Đảng và là ý chí của đại đa số các tầng lớp nhân dân.

Bởi vậy, các quy phạm pháp luật mang tính công bằng và hợp lý. Tính pháp chế đòi hỏi

mọi hoạt động phải trong khuôn khổ pháp luật và không trái với pháp luật. Không một sự

vi phạm pháp luật nào có thể biện hộ bằng tính hợp lý. Sự lạc hậu của những quy phạm

pháp luật trước yêu cầu mới của cuộc sống không làm đình chỉ hiệu lực của nó. Chỉ những cơ

quan nhà nước có thẩm quyền mới có quyền sửa đổi các quy phạm đó.

1.1.2.7. Tuân thủ nghiêm chỉnh kỷ luật nhà nước và xã hội

Trong xã hội ta, những yêu cầu cơ bản của kỷ luật nhà nước, kỷ luật xã hội và

cách thức bảo đảm nó được xác định trong những văn bản pháp luật. Mặt khác, sự tuân thủ

pháp luật là một trong những yêu cầu quan trọng nhất của kỷ luật nhà nước và kỷ luật xã

hội. Để đảm bảo tính tổ chức của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, cần phải chấp

hành nghiêm chỉnh kỷ luật nhà nước.

1.2. Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thực hành quyền công tố và

kiểm sát các hoạt động tư pháp ở nước ta

Pháp chế XHCN là một khái niệm pháp lý sâu rộng. Xét về hình thức, hiện tượng,

pháp chế XHCN là trạng thái hành vi pháp lý (hành vi hành động và không hành động)

phù hợp với quy định của pháp luật của tất cả các chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật.

Xét về bản chất, pháp luật của một nhà nước quy định bản chất của chế độ pháp chế mà

nhà nước đó thiết lập và duy trì. Tính đa dạng của pháp chế thể hiện trong các loại hành vi

pháp lý được thực hiện trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Nói một cách khác,

trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội pháp chế được thiết lập và mang những đặc điểm

riêng. Bởi vì các lĩnh vực của đời sống xã hội khác nhau có các loại quan hệ xã hội khác

nhau; phản ánh và điều chỉnh nó là các ngành luật tương ứng.

Pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng; Vì vậy "nhà lập pháp không

sáng tạo ra các quan hệ xã hội, mà chỉ ghi chép phản ánh nó trong pháp luật". Nhưng nhà

nước ban hành pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm thiết lập trật tự pháp luật.

Vì thế, pháp luật phải được tôn trọng và thực hiện một cách nghiêm chỉnh. Theo lôgíc đó

pháp luật phải là cơ sở, xuất phát điểm của việc đề ra các giải pháp tăng cường pháp chế

trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo hướng đã cần làm rõ khái niệm "pháp chế

XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của

Viện kiểm sát nhân dân" ở nước ta là gì? và xem xét những đặc trưng của pháp chế trong

hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND với

mục đích tìm kiếm các giải pháp tăng cường pháp chế XHCN trên lĩnh vực quan trọng này

theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN hiện nay ở nước ta.

1.2.1. Khái niệm và nội dung thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân

1.2.1.1. Quyền tư pháp và hoạt động thực hiện quyền tư pháp

Để có cơ sở xác định pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và

kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND; trước hết cần làm rõ quyền tư pháp và hoạt

động thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước ta:

Quyền lực nhà nước bao gồm ba quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp và

quyền tư pháp. ở nước ta quyền lực nhà nước là tập trung thống nhất không thể phân chia

song có sự phân công phân nhiệm cho các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện các

quyền đó.

Quyền lập pháp thuộc về Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước.

Quyền lập pháp là quyền làm Hiến pháp và làm luật. Song việc xây dựng hệ thống các văn

bản quy phạm pháp luật ở nước ta ngoài Quốc hội ra còn có các cơ quan nhà nước có thẩm

quyền khác ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Những văn bản quy phạm pháp luật

này là văn bản quy phạm pháp luật dưới Hiến pháp và luật.

Quyền hành pháp do Chính phủ thực hiện. Chính phủ là cơ quan chấp hành của

Quốc hội đồng thời là cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước ta. "Nhà nước quản

lý xã hội bằng pháp luật" nên đương nhiên quản lý hành chính nhà nước cũng chủ yếu

bằng pháp luật. Vì thế, khái niệm quyền hành pháp được hiểu là việc tổ chức thực hiện

pháp luật bằng quyền uy của Nhà nước.

Sản phẩm hoạt động lập pháp và lập quy là hệ thống các văn bản quy phạm pháp

luật; là hệ thống pháp luật hiện hành của nhà nước. Để pháp luật được thực hiện, các cơ

quan hành chính nhà nước, tổ chức, duy trì để pháp luật vào được cuộc sống. Mục đích

chung, chủ yếu của việc thực hiện quyền lập pháp và quyền hành pháp là thiết lập pháp

chế và trật tự pháp luật trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Song do nhiều nguyên nhân

khách quan và chủ quan, pháp luật không phải khi nào cũng vào cuộc sống một cách suôn

sẻ. Pháp luật vẫn bị vi phạm trong đời sống xã hội ở những mức độ và tính chất nguy hiểm

ít nhiều khác nhau, do những hành vi vi phạm pháp luật của con người.

Khoa học pháp lý đã khái quát trong thực tế bốn loại vi phạm pháp luật. Các loại

vi phạm pháp luật đó là: vi phạm pháp luật dân sự, vi phạm pháp luật hành chính, vi phạm

kỷ luật nhà nước và vi phạm pháp luật hình sự. Do đó, nhiệm vụ của Nhà nước phải bảo vệ

pháp luật nhằm loại bỏ các hành vi vi phạm pháp luật ra khỏi đời sống xã hội. Quyền tư

pháp ra đời từ đó. Vậy tư pháp là gì? và quyền tư pháp là gì? Tư pháp theo nghĩa Hán -

Việt là bảo vệ giữ gìn pháp luật. Quyền tư pháp là sự thực hiện quyền lực nhà nước nhằm

bảo vệ, giữ gìn pháp luật. Trong đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các

tranh chấp pháp lý, điều tra, truy tố và xét xử những người có hành vi nguy hiểm cho xã

hội được quy định là tội phạm (trong Bộ luật hình sự) thiết lập lại các trật tự pháp luật đã

bị xâm phạm.

Tư pháp được hiểu ở những cấp độ rộng hẹp khác nhau. Theo ý nghĩa rộng nhất

của từ này, "tư pháp" là bảo vệ pháp luật, ở đâu có vi phạm pháp luật thì ở đó đòi hỏi có sự

bảo vệ pháp luật. Bảo vệ pháp luật bao hàm cả hoạt động hoà giải, giải quyết khiếu nại tố

cáo của công dân, xử lý kỷ luật nhà nước; xử lý vi phạm pháp luật hành chính; giải quyết

các tranh chấp dân sự, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết các vụ án hình sự.

Theo nghĩa hẹp hơn, "tư pháp" là hoạt động xét xử của các Tòa án nhằm bảo vệ chế

độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, lợi ích

của nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân. Đó là hoạt động

xét xử của Tòa án nhân dân (TAND) nhân danh nhà nước xét xử các vụ án dân sự, kinh tế

- lao động - hành chính và hình sự.

Như vậy, thực hiện quyền tư pháp cùng với việc thực hiện quyền lập pháp và

quyền hành pháp là các phương pháp chủ yếu thực hiện quyền lực nhà nước. Nếu thiếu

một trong ba quyền nêu trên thì Nhà nước sẽ mất đi khả năng "cai trị xã hội" hay khả năng

quản lý xã hội.

* Về hoạt động của nhà nước trong thực hiện quyền tư pháp

Theo nghĩa của nội hàm khái niệm "tư pháp" và "quyền tư pháp", hoạt động thực

hiện quyền tư pháp của nhà nước là hoạt động tài phán bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế.

Vấn đề đặt ra là cần xác định khái niệm và phạm vi hoạt động tư pháp của nhà nước. Vì

thế cần phân định các hoạt động nhân danh nhà nước bảo vệ pháp luật và các hoạt động

bảo vệ pháp luật của các tổ chức và cá nhân không nhân danh nhà nước. Thực tiễn của đời

sống pháp luật có các loại hoạt động bảo vệ pháp luật sau đây:

Thứ nhất, đó là các hoạt động bảo vệ pháp luật khi phát sinh tranh chấp về quyền, lợi

ích và nghĩa vụ giữa các đương sự mà chưa cần nhờ nhà nước bảo vệ. Trong những trường

hợp này các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ hòa giải ở cơ sở hoặc các bên đương sự tự

dàn xếp, đàm phán với nhau để giải quyết các tranh chấp về dân sự, lao động, hôn nhân gia

đình và các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ phát sinh trong hoặc ngoài hợp đồng về dân

sự và kinh tế vừa là nguyên tắc vừa là bước hay giai đoạn bắt buộc đối với các tranh chấp

nêu trên. Riêng về việc giải quyết các tranh chấp kinh tế có thể giải quyết qua thủ tục hòa

giải hoặc qua tổ chức trọng tài kinh tế phi chính phủ.

Thứ hai, là các hoạt động bảo vệ pháp luật thông qua việc phát hiện và xử lý các vi

phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không phải là của TAND. Các

hoạt động này rất đa dạng diễn ra trên một phạm vi rất rộng bằng nhiều hình thức bảo vệ

pháp luật - chống vi phạm pháp luật của nhiều cơ quan nhà nước từ Trung ương tới địa

phương, cơ sở. Theo pháp luật hiện hành các cơ quan nhà nước được phân công bảo vệ

pháp luật như sau:

- Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao. Các cơ quan quyền lực nhà nước ở

địa phương thực hiện quyền giám sát việc thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước

cùng cấp và các cơ quan nhà nước cấp dưới. Các cơ quan này xử lý các hành vi vi phạm

Hiến pháp, luật, nghị quyết và các văn bản quy phạm pháp luật khác của các cơ quan nhà

nước hoặc của cán bộ công chức trong khi thi hành công vụ.

- Các cơ quan quản lý hành chính nhà nước từ Trung ương tới địa phương có thẩm

quyền xử lý các vi phạm pháp luật hành chính, xử phạt hành chính đối với cơ quan nhà

nước cấp dưới hoặc đối với các tổ chức, công dân.

Theo Pháp lệnh xử phạt hành chính và các nghị quyết, nghị định của Chính phủ cụ

thể hóa pháp lệnh về xử phạt hành chính, thì cơ quan hành chính nhà nước có quyền hạn

xử phạt hành chính khi có vi phạm xảy ra trên lãnh thổ, lĩnh vực xã hội hoặc ngành kinh tế

kỹ thuật mà mình trực tiếp quản lý. Các cơ quan quản lý nhà nước còn có trách nhiệm bảo

vệ pháp luật trong việc tiếp dân giải quyết các đơn thư, khiếu nại, tố cáo của nhân dân;

thực chất là xử lý các quyết định quản lý, các hành vi hoạt động công vụ trái pháp luật,

xâm phạm đến lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và của công

dân.

- Các cơ quan quản lý hành chính nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật trên các

lĩnh vực như: kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, quốc phòng an ninh và quản lý bảo

vệ trật tự an toàn xã hội. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật không chỉ là tổ chức duy

trì cho các đối tượng bị quản lý tuân thủ và chấp hành pháp luật, mà chính các cơ quan

quản lý nhà nước phải "đặt mình dưới pháp luật", tôn trọng và thực hiện pháp luật. Trong

điều kiện đổi mới ở nước ta khi xóa bỏ cơ chế hành chính quan liêu, bao cấp, chuyển sang

cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước thì hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ

quan quản lý nhà nước là đặc biệt quan trọng. Những vi phạm pháp luật trong việc ra các

quyết định quản lý nhằm cụ thể hóa quyền và nghĩa vụ của các tổ chức và công dân đang

diễn ra rất phức tạp. Các vi phạm đã xảy ra và có thể xảy ra đó là: cho phép trái thẩm

quyền, ra lệnh bác bỏ các yêu cầu đề nghị chính đáng của công dân; xác nhận, chứng nhận

công chứng sai sự thật khách quan; kết luận thanh tra, kiểm tra không khách quan toàn

diện; cưỡng chế sai trái v.v... Những quyết định quản lý nào còn mang nặng tính cục bộ,

bản vị địa phương chủ nghĩa; những quyết định nào nhân danh nhà nước mà lại nhũng

nhiễu nhân dân, gây phiền hà cho nhân dân đều cần được xử lý nghiêm minh trên cơ sở

pháp luật. Hoạt động của thanh tra nhà nước và thanh tra của các ngành có vai trò quan

trọng trong lĩnh vực bảo vệ pháp luật. Thanh tra là dạng hoạt động bảo vệ pháp luật của các

cơ quan Thanh tra nhà nước. Song Thanh tra nhà nước là một loại cơ quan đặc thù nằm trong

hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước chuyên thanh tra các vụ việc phát sinh trong quản lý

hành chính nhà nước nhằm xác định đúng sai, có kết luận để kiến nghị xử lý kỷ luật hành

chính nếu có vi phạm pháp luật. Nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì các cơ quan thanh

tra phải chuyển hồ sơ sang cơ quan bảo vệ pháp luật khác như cơ quan điều tra và VKSND

để xử lý theo trình tự tố tụng hình sự.

Thứ ba, là hoạt động bảo vệ pháp luật của TAND, các cơ quan điều tra, và

VKSND. TAND có chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, lao động, hành chính,

kinh tế. Đối với các tranh chấp dân sự, lao động, kinh tế khi hòa giải không thành, một

trong các bên đương sự có quyền yêu cầu tòa án giải quyết theo pháp luật tố tụng. Như thế

các tranh chấp đó chuyển hóa thành vụ án. Đối với các tranh chấp hành chính khi giải

quyết khiếu nại, tố cáo đến cấp cuối cùng mà người khiếu nại, tố cáo không đồng ý với kết

luận giải quyết của cấp cuối cùng đó thì đương sự có quyền đưa vụ việc ra Tòa án hành

chính để Tòa án hành chính xét xử theo trình tự tố tụng hành chính.

Trong các vụ án hình sự, mối quan hệ giữa nhà nước và tội phạm được giải quyết

theo trình tự của pháp luật tố tụng hình sự. Vai trò của VKSND, cơ quan điều tra hình sự

và TAND là đặc biệt quan trọng. Do tính chất của các vụ án hình sự nói riêng và các loại

án khác nói chung mà khoa học pháp lý coi TAND và VKSND là cơ quan tư pháp tiêu

biểu của nhà nước. Đương nhiên VKSND, TAND và cơ quan điều tra thực hiện hoạt động

tư pháp không chỉ bằng quyền uy của quyền lực nhà nước có tính chất mệnh lệnh thuần

túy mà còn bằng sức mạnh bạo lực cưỡng chế cao nhất của quyền lực nhà nước. Nhưng chỉ

coi các cơ quan nhà nước này mới là cơ quan tư pháp; và chỉ coi các cơ quan nhà nước này

mới thực hiện quyền tư pháp thì lại thiếu toàn diện và không thấy hết sự tinh tế của khoa

học tổ chức phân công lao động thực hiện quyền tư pháp của bộ máy nhà nước ta. Nguyên

tắc quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công phân nhiệm và có sự phối

hợp hoạt động nhằm thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; nguyên tắc này

cũng được vận dụng cụ thể hơn trong thực hiện quyền tư pháp như đã nêu trên.

Thứ tư, là các cơ quan, tổ chức cá nhân hoạt động bổ trợ tư pháp.

Về khái niệm "bổ trợ tư pháp" hay "hỗ trợ tư pháp" hiện còn nhiều ý kiến khác

nhau. Song, các hoạt động bổ trợ tư pháp đang tồn tại cùng với các hoạt động tư pháp chủ

yếu của các cơ quan nhà nước đáp ứng đòi hỏi của quá trình giải quyết các tranh chấp và

các vụ án được khách quan, công bằng, đúng pháp luật và thi hành các quyết định và bản

án đã có hiệu lực pháp luật. Các hoạt động đó là: Tư vấn pháp lý, bào chữa, giám định tư

pháp, công chứng và thi hành án (THA).

Tư vấn pháp lý được hiểu là việc cung ứng các dịch vụ pháp lý để hỗ trợ hay gọi là

trợ giúp các tổ chức, cá nhân thiếu hiểu biết pháp luật. Các dịch vụ pháp lý thường là việc

giải thích pháp luật và chỉ dẫn người có nhu cầu (gọi là khách hàng) bằng cách đưa ra lời

khuyên làm đúng pháp luật và có lợi nhất hoặc đâu là lời khuyến cáo để khách hành làm

những gì pháp luật cấm hay không tiếp tục vi phạm pháp luật. Dịch vụ pháp lý còn là hoạt

động soạn thảo văn bản hợp đồng, soạn thảo di chúc và các đơn từ khác. Nguồn cung ứng

các dịch vụ này có thể là các công ty luật hoặc luật sư với tư cách cá nhân.

Bào chữa là hoạt động tham gia tố tụng của các bên đương sự, trong giải quyết các

tranh chấp, hoặc xét xử các vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính, đặc biệt cần thiết

trong tố tụng hình sự. Bào chữa do các bên đương sự, bên bị hại, bị can, bị cáo tự bào chữa

hoặc thuê bào chữa viên nhân dân, hoặc luật sư. Khi người luật sư được đích danh theo

yêu cầu của bên bị hại, của bị cáo thì bị người luật sư đó có quyền và nghĩa vụ pháp lý

trong quá trình tố tụng. Vì thế luật sư khi tham gia tố tụng hình sự được coi như một chức

danh tư pháp bắt buộc.

Giám định tư pháp bao gồm giám định kỹ thuật hình sự, giám định pháp y và pháp

y tâm thần, giám định công trình xây dựng, giám định hàng hóa, giám định âm thanh, chữ

viết và chữ ký v.v... Giám định tư pháp là giám định mặt khách quan của vi phạm pháp

luật và tội phạm, đó là những bằng chứng sự thật khách quan giúp cho việc giải quyết các

tranh chấp pháp lý và xét xử các vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Kết quả giám

định đóng vai trò quan trọng trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử tội phạm. Các tổ

chức giám định tư pháp do các giám định nên viên thực hiện theo yêu cầu của cơ quan

điều tra, cơ quan công tố hoặc Tòa án.

Công chứng là việc các cơ quan công quyền thừa nhận các căn cứ pháp lý; thừa

nhận các bằng chứng khách quan của công dân nhằm giữ gìn và nâng cao giá trị pháp lý

các văn bằng chứng chỉ, danh hiệu vinh dự, lý lịch tư pháp, di chúc, văn bản hợp đồng,

quyền sở hữu tài sản: Đó là các tài liệu cần thiết cho công dân khi khi tham gia các quan

hệ pháp luật và đó còn là những bằng chứng xác thực căn cứ để giải quyết các tranh chấp

như xét xử các vụ án dân sự, kinh tế, lao động và hình sự. Nếu thiếu nó sẽ không có căn cứ

phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý và các lợi ích hợp pháp. Vì vậy, hoạt động công

chứng của các cơ quan nhà nước hoặc cơ quan công chứng chuyên nghiệp trong việc xác

nhận, chứng thực và công chứng là hoạt động phục vụ của nhà nước theo yêu cầu của công

dân do pháp luật quy định.

Hoạt động thi hành án của các cơ quan THA của nhà nước cũng được coi là hoạt

động bổ trợ tư pháp. Như mọi người đều biết các quyết định pháp luật và các bản án đã có

hiệu lực pháp luật đương nhiên là phải được thi hành ngay. Trong thực tế nói chung là như

vậy, tức là các quyết định pháp luật và các bản án đã có hiệu lực đã được thực thi; song

cũng trong thực tế không ít các quyết định pháp luật, các bản án dân sự, kinh tế, lao động,

kể cả số ít các bản án hình sự vẫn chưa được các bên thực hiện các nghĩa vụ pháp lý và

trách nhiệm hình sự một cách nghiêm túc triệt để và chính xác đúng như nội dung bản án.

Vì sao như vậy? do có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến, nhưng bất

luận là do đâu các phán quyết của cơ quan công quyền phải được thực thi. Do vậy, cơ quan

THA là cơ quan tổ chức THA các bản án bằng quyền uy, bằng sức mạnh cưỡng chế của

nhà nước.

Nói đến hoạt động bổ trợ tư pháp ngoài các cơ quan tổ chức, cá nhân thực hiện kể

trên còn có các hoạt động "thám tử tư" tức là việc các tổ chức, công dân thuê người điều

tra xác minh vụ việc. Dịch vụ thám tử từ ở mức là chưa được nhà nước thừa nhận nhưng

xã hội đang phát sinh yêu cầu này và cần được đáp ứng để công dân có điều kiện bảo vệ

quyền và lợi ích chính đáng của mình mà không chỉ phụ thuộc vào cơ quan điều tra của

nhà nước.

Thực tiễn cho thấy các hoạt động bổ trợ tư pháp là cần thiết cho hoạt động bảo vệ

pháp luật, cho việc thực hiện quyền tư pháp của các cơ quan tư pháp của nhà nước. Đây là

loại hoạt động trợ giúp, hỗ trợ pháp lý do các cơ quan nhà nước thực hiện hoặc xã hội hóa

các hoạt động này để các tổ chức phi nhà nước, trong xã hội công dân tham gia thực hiện.

Như vậy, hoạt động thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước được thực hiện bằng

hai phương pháp:

Một là, Nhà nước trực tiếp thực hiện thông qua sự tham gia của các cơ quan tư

pháp của Nhà nước.

Hai là, Nhà nước gián tiếp thực hiện bằng cách giao cho các tổ chức, cá nhân, các

tổ chức cá nhân này hoạt động tư pháp nhưng với tính chất xã hội nghề nghiệp. Nghề

nghiệp ở đây là nghề nghiệp pháp lý. Cần lưu ý rằng, các hoạt động bảo vệ pháp luật trước

hết thuộc về nhà nước, do nhà nước tổ chức thực hiện. Việc xã hội hóa các hoạt động tư

pháp được nhà nước quy định cụ thể chặt chẽ theo trình tự giải quyết các tranh chấp dân

sự, lao động, kinh tế; và trình tự giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân; và pháp luật tố

tụng hành chính, dân sự, kinh tế và hành chính quy định.

Xem xét khái niệm "tư pháp", "quyền tư pháp" và khái niệm "hoạt động tư pháp

của nhà nước", trong tổ chức hoạt động của Nhà nước ta trong điều kiện đổi mới đã cho

thấy các khái niệm cũng như định nghĩa trước đây đã tỏ ra hạn hẹp. GS.TSKH Đào Trí úc

khi bàn về "Những vấn đề về đổi mới hệ thống tư pháp" đã định nghĩa chung nhất về hoạt

động tư pháp như sau: "Hoạt động tư pháp là hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước

nhằm xem xét, đánh giá và ra phán quyết về tính hợp pháp và tính đúng đắn của hành vi

pháp luật hay quyết định pháp luật khi có tranh chấp và mâu thuẫn giữa các bên có lợi ích

khác nhau tranh chấp hay mâu thuẫn đó" [51, tr. 206]. Tác giả của định nghĩa này đã nhấn

mạnh rất đúng rằng "nhân danh quyền lực nhà nước", song "xem xét, đánh giá ra phán

quyết" chỉ là "yếu tố đặc trưng của hoạt động xét xử và do đó có thể gọi hoạt động tư pháp

là hoạt động xét xử chứ không phải là sự phán quyết của một cấp quản lý này đối với cấp

quản lý khác; cấp trên đối với cấp dưới, "các bên có lợi ích khác nhau". Như vậy, xem xét

đánh giá ra phán quyết chỉ là sự tranh tụng còn được gọi là tố tụng..." [51, tr. 207]. Một ý

kiến khác quan niệm về quyền tư pháp rộng hơn: "Quyền tư pháp được hiểu là hoạt động

xét xử của Tòa án và cả những hoạt động của các cơ quan nhà nước hoặc các tổ chức khác

trực tiếp liên quan đến hoạt động xét xử của tòa án nhằm bảo vệ chế độ XHCN, pháp chế

trật tự pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của xã hội..." [16, tr.

122]. Vì quan niệm như vậy cơ quan tư pháp ở nước ta bao gồm: TAND, VKSND, các cơ

quan điều tra và các tổ chức tư pháp bổ trợ như: Luật sư, cơ quan công chứng, giám định

tư pháp, tư vấn pháp luật.

Những ý kiến trên đã cho thấy sự giống nhau của các quan niệm về tư pháp và quyền

tư pháp. Đó là sự bảo vệ, giữ gìn pháp luật. Còn hoạt động thực hiện quyền tư pháp hiện còn

có những ý kiến khác nhau. Sự khác nhau chủ yếu là ai thực hiện quyền tư pháp? và phạm vi

hoạt động cũng như phương pháp hoạt động thực hiện quyền tư pháp của nhà nước. Phải

chăng chỉ những cơ quan nhà nước thực hiện quyền tư pháp bằng quyền lực nhà nước, nhân

danh nhà nước mà thôi. Về phạm vi thực hiện quyền tư pháp theo nguyên tắc quyền lực nhà

nước là thống nhất không phân chia song có phân công, phân nhiệm và có sự phối hợp hoạt

động của các cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước về mặt lập pháp,

hành pháp và tư pháp; nguyên tắc cơ bản này cũng được cụ thể hóa trong việc tổ chức thực

hiện từng loại quyền một như quyền lập pháp không chỉ là Quốc hội (cố nhiên Quốc hội là cơ

quan quyền lực cao nhất). Việc tổ chức thực hiện quyền tư pháp cũng theo nguyên tắc là tập

trung ở cơ quan nhà nước và có sự phân công phân nhiệm và cơ chế phối hợp chặt chẽ, liên

tục giữa các cơ quan nhà nước với nhau. Cơ quan điều tra, VKS và Tòa án là các cơ quan chủ

yếu, đặc trưng của hoạt động thực hiện quyền tư pháp của nhà nước (theo quan niệm truyền

thống). Trong hoạt động tố tụng hình sự, dân sự, kinh tế v.v... luật sư có vai trò là người tham

gia bắt buộc (trừ khi đương sự, bị cáo không yêu cầu). Đây rõ ràng là một điểm mới trong tư

duy thực hiện quyền tư pháp ở nước ta. Nhưng họ nhân danh pháp luật chứ không nhân danh

nhà nước. Trong điều kiện mới và theo luật tổ chức các cơ quan nhà nước quy định (Luật tổ

chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức TAND, Luật tổ chức VKSND, Luật

khiếu nại tố cáo v.v...). Có quan niệm cho rằng, hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng

nhân dân các cấp, hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước, hoạt động xử phạt hành

chính của các cơ quan hành chính nhà nước, đều là hoạt động thực hiện quyền tư pháp của nhà

nước; ở nước ta hiện nay, dường như quan niệm trên đây chưa thực sự có cơ sở vững chắc cả

về mặt lý luận lẫn thực tiễn hoạt động của các cơ quan trong hệ thống bộ máy nhà nước của ta.

Có thể vì thế, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của của VKSND đã chuyển giao

cho các cơ quan khác.

Từ những vấn đề nêu trên có thể coi hoạt động thực hiện quyền tư pháp của Nhà

nước là hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước trong việc bảo vệ pháp luật chống mọi vi

phạm pháp luật và tội phạm phát sinh trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội nhằm bảo

vệ chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, nền quốc phòng, ngoại giao; bảo vệ an

ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; bảo vệ lợi ích của nhà nước, tính mạng, sức khỏe,

danh dự, nhân phẩm, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và các lĩnh vực trật tự

pháp luật khác trên cơ sở pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng nói riêng.

1.2.1.2. Khái niệm về quyền công tố và thực hành quyền công tố

Theo văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, VKSND tập trung làm

tốt chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Thực hiện chức năng công tố và

kiểm sát hoạt động tư pháp không phải là những vấn đề mới mà đã được nhiều bài viết, nhiều

tài liệu giảng dạy đề cập đến, ở nhiều góc độ và ở nhiều mức độ khác nhau. Song, cho đến nay

chúng ta vẫn chưa có được sự thống nhất về mặt nhận thức đối với vấn đề này. Với nội dung

trình bày dưới đây, chúng tôi đưa ra một số suy nghĩ với mong muốn góp phần làm rõ

thêm khái niệm hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.

Hiến pháp năm 1980 là văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nước ta đưa

ra cụm thuật ngữ "thực hành quyền công tố" khi đề cập đến chức năng của VKSND (Điều

138). Hai mươi năm qua, chúng ta luôn luôn nói về quyền công tố và thực hành quyền công

tố nhưng chưa có một tài liệu chính thức nào ghi nhận rõ ràng, cụ thể khái niệm, nội dung,

phạm vi thực hành quyền công tố và điều quan trọng hơn là những cơ quan nhà nước nào

thực hiện quyền công tố. Theo ý kiến của chúng tôi, nguyên nhân cơ bản có tính chất quyết

định của tình hình trên là do chúng ta chưa có sự thống nhất trong nhận thức về khái niệm,

nội dung, phạm vi quyền công tố. Và, do thiếu thống nhất trong nhận thức về quyền công tố

nên dẫn đến sự thiếu thống nhất trong nhận thức về hoạt động thực hành quyền công tố. Bởi

vậy, để có thể làm rõ thế nào là hoạt động thực hành quyền công tố, trước hết phải làm rõ thế

nào là quyền công tố.

Hiện nay ở nước ta đang tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố,

mỗi quan điểm bên cạnh những mặt còn hạn chế đều có những nội dung hợp lý riêng của

nó. Chung quy lại, chúng tôi thấy có hai loại quan điểm chính. Để có cơ sở làm rõ khái

niệm thực hành quyền công tố và phân biệt nó với công tác kiểm sát hoạt động tư pháp của

VKS, một vấn đề rất quan trọng là phải làm cho thật rõ được phạm vi quyền công tố. Có

thể nói, phạm vi quyền công tố là vấn đề cho đến nay vẫn còn rất nhiều quan điểm khác nhau,

nhưng chung quy lại chúng tôi nhận thấy có hai nhóm quan điểm chính:

Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng, quyền công tố không chỉ có trong lĩnh vực tố

tụng hình sự mà còn cả trong lĩnh vực tư pháp khác như tố tụng dân sự, tố tụng hành

chính, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động v.v...

Nhóm quan điểm thứ hai cho rằng, quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực tố tụng

hình sự, không thể có trong lĩnh vực tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, tố tụng kinh tế, tố

tụng lao động.

Theo chúng tôi thì nhóm quan điểm thứ nhất là phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh

và thực tiễn của pháp luật Việt Nam.

Việc xác định quyền công tố và theo đó là thực hành quyền công tố có ý nghĩa lý

luận và thực tiễn rất quan trọng. Giải quyết được rõ ràng, rành mạch những vấn đề trên

giúp cho việc xác định chính xác vai trò, vị trí của VKS trong hệ thống cơ quan nhà nước

nói chung và trong mối quan hệ với các cơ quan tư pháp nói riêng cũng như chức năng,

nhiệm vụ của VKS, đặc biệt trong tố tụng hình sự. Từ đó mới có thể đưa ra được những

quyết định đúng đắn, hợp lý về mô hình tổ chức VKSND.

Trong các tài liệu pháp lý ở nước ta, khái niệm thực hành quyền công tố cũng như

nội dung, phạm vi của nó, mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố với thực hiện chức

năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp còn ít được đề cập và nếu

có thì cũng chưa rõ ràng. Một số công trình nghiên cứu khoa học gần đây khi đề cập đến

hoạt động thực hành quyền công tố cũng chỉ mới đưa ra được một số biện pháp pháp lý để

nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát hình sự như kiểm sát điều tra, kiểm sát xét

xử hình sự, Kiểm sát giam giữ và cải tạo, Kiểm sát THA. Các công trình nghiên cứu này

lấy những nguyên lý của V.I. Lênin về pháp chế XHCN và vai trò của VKSND, về vai trò

và bổn phận của ủy viên công tố làm cơ sở lý luận và lấy các quy định của Hiến pháp và

Luật tổ chức VKSND từ năm 1960 đến nay làm cơ sở pháp lý. Bởi vậy, trong nhận thức

của không ít người làm công tác nghiên cứu và thực tiễn trong cũng như ngoài ngành kiểm

sát đã nhầm lẫn giữa quyền công tố và hoạt động thực hành quyền công tố trên nhiều

phương diện như đối tượng, nội dung, phạm vi. Đồng thời, các công trình nghiên cứu này

luôn gắn quyền công tố chỉ với VKS, coi đó là quyền của VKS. Do đó đã không lý giải

được vấn đề là khi một số cơ quan khác (cơ quan điều tra, Tòa án...) sử dụng một số biện

pháp như khởi tố vụ án, khởi tố bị can... thì có phải cơ quan này cũng thực hành quyền

công tố hay không.

Thật ra thì thuật ngữ "quyền công tố" và "thực hành quyền công tố" đã được biết

đến từ lâu và chúng ta cũng đã sử dụng quyền này trong thực tiễn hoạt động tư pháp từ

nhiều năm trước đây. Nhưng mãi đến Hiến pháp năm 1980 nó được ghi nhận chính thức về

mặt Hiến định trong Điều 138 khi quy định về chức năng của VKSND. Song cho tới nay,

khái niệm "quyền công tố" và "thực hành quyền công tố" vẫn chưa được lý giải một cách

cặn kẽ dưới góc độ pháp lý cũng như góc độ ngôn ngữ và cũng chưa có văn bản pháp luật

nào của Nhà nước ta chính thức giải thích khái niệm "quyền công tố" và "thực hành quyền

công tố". Hiện nay, ở nước ta đang tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau về quyền công

tố. Chúng tôi nhất trí với quan điểm cho rằng, quyền công tố là quyền của Nhà nước đưa

các vụ việc vi phạm trật tự công cộng hoặc vi phạm pháp luật liên quan đến lợi ích chung

ra cơ quan xét xử, vì Nhà nước nhân danh xã hội có trách nhiệm duy trì trật tự, an toàn

của cộng đồng bằng pháp luật.

Như vậy "quyền công tố" chính là quyền của Nhà nước nhân danh lợi ích xã hội

để truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với pháp nhân hay thể nhân ra trước Tòa án - cơ quan

xét xử, nếu những chủ thể đó có hành vi phạm tội hoặc vi phạm pháp luật xâm hại đến lợi

ích nhà nước, lợi ích công cộng, và lợi ích chính đáng của công dân được pháp luật bảo vệ.

Và vì lẽ đó, quyền công tố không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực hình sự mà còn mở rộng trong

cả những lĩnh vực khác như dân sự, kinh tế, hành chính, lao động.

Và như vậy "thực hành quyền công tố" là hoạt động thực thi pháp luật của cơ

quan nhà nước được Nhà nước giao nhiệm vụ giữ "quyền công tố" nhằm đảm bảo cho việc

truy cứu trách nhiệm pháp lý đúng với quy định của pháp luật đối với các đối tượng có

hành vi vi phạm pháp luật đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng,

và lợi ích chính đáng của cá nhân công dân. Trong bộ máy nhà nước ta thì cơ quan được

giao nhiệm vụ đó chính là hệ thống VKSND từ trung ương đến địa phương.

1.2.1.3. Khái niệm về kiểm sát các hoạt động tư pháp

Hoạt động tư pháp có ý nghĩa rất quan trọng, bởi vậy Đảng và Nhà nước ta rất

quan tâm đến lĩnh vực này. Trong cơ chế kiểm tra, kiểm soát đối với hoạt động của cơ

quan tư pháp thì hoạt động kiểm sát của VKSND có ý nghĩa rất quan trọng vì hoạt động

của VKSND mang tính chuyên trách, có đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên, điều tra viên

chuyên sâu nghiệp vụ, được pháp luật trao cho đầy đủ các quyền năng trong quá trình thực

hiện kiểm sát đối với các hoạt động của cơ quan tư pháp.

Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của VKSND được quy định tại

Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND, tại Bộ luật tố tụng hình sự và các Pháp lệnh thủ tục giải

quyết các vụ án theo trình tự tố tụng tư pháp và các văn bản hướng dẫn thực hiện của các

ngành hữu quan. Theo quy định của Hiến pháp và các văn bản pháp luật của Nhà nước ta

thì nhiệm vụ chính của hệ thống VKSND là: bảo vệ pháp chế XHCN; bảo vệ chế độ

XHCN và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ

tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân; bảo đảm để mọi

hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công

dân đều phải được xử lý theo pháp luật. Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ

của mình, VKSND có nhiều biện pháp, hình thức hoạt động thực hiện chức năng kiểm sát

hoạt động của các cơ quan tư pháp và những người tham gia tố tụng nhưng đều nhằm một

mục đích là bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Trong

quá trình đó, nếu phát hiện có vi phạm VKSND có thể kiến nghị, kháng nghị yêu cầu khắc

phục vi phạm hoặc khởi tố vụ án...

Về kiểm sát hoạt động của các cơ quan tư pháp có thể xem xét ở nhiều khía cạnh,

thứ nhất là việc kiểm sát việc chấp hành pháp luật trong hoạt động đối với từng cơ quan theo

chức năng, nhiệm vụ của cơ quan đó như: kiểm sát hoạt động điều tra của cơ quan điều tra

trong vụ án hình sự, kiểm sát hoạt động xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, lao

động, kinh tế... của Tòa án, kiểm sát công tác THA. Về hoạt động này thì có những việc mà sự

tham gia của VKSND là bắt buộc. Chẳng hạn, việc giải quyết vụ án hình sự, việc công nhận

và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài hoặc đối với những

vụ án dân sự do VKSND khởi tố. Ngoài những lĩnh vực trên thì sự tham gia của VKSND đối

với từng vụ việc cụ thể là không bắt buộc nhưng VKSND có quyền tham gia bất cứ giai đoạn

nào đối với từng vụ việc của từng lĩnh vực cụ thể.

Trong phạm vi trách nhiệm của mình, các VKSND thực hiện chức năng, nhiệm vụ

theo những quy định từ Chương II đến Chương VI của Luật tổ chức VKSND cũng như các

quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến hoạt động của VKSND và

các cơ quan tư pháp.

- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra cơ quan điều tra và các cơ

quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Đây là công tác,

nhiệm vụ quan trọng của VKS. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự thì toàn bộ

hoạt động điều tra của cơ quan điều tra đều có hoạt động kiểm sát bao trùm nhằm mục

đích bảo đảm việc điều tra đúng với quy định của pháp luật. Trong công tác này VKSND

kiểm sát việc tuân thủ pháp luật tố tụng hình sự trong quá trình điều tra của cơ quan điều

tra từ khi khởi tố vụ án (một số trường hợp kiểm sát trước khi khởi tố vụ án như: trường

hợp khám nghiệm hiện trường, bắt khẩn cấp, bắt quả tang) đến khi kết thúc điều tra. Trong

công tác này VKSND được quyền áp dụng mọi biện pháp quy định trong Bộ luật tố tụng

hình sự như: phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các lệnh của cơ quan điều tra, đề nghị thay

đổi điều tra viên, trả lại hồ sơ điều tra bổ sung, đình chỉ điều tra vụ án, bị can, yêu cầu hoặc

kháng nghị đối với hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan điều tra hoặc tự khởi tố vụ án

(đây cũng là sự chỉ đạo điều tra)... nhằm mục đích mọi tội phạm phải được phát hiện kịp

thời, không để lọt kẻ phạm tội cũng như không làm oan người vô tội. Và duy nhất chỉ có

VKSND mới có quyền truy tố người phạm tội để TAND xét xử.

- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án của TAND. Trong

quá trình giải quyết, xét xử các vụ án, và các tranh chấp Tòa án cũng phải tuân theo những

quy định của pháp luật như: đối với việc giải quyết vụ án hình sự thì căn cứ vào Bộ luật

hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự, đối với việc giải quyết vụ việc dân sự, hành chính, kinh

tế, lao động thì căn cứ vào Bộ luật dân sự và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp

dân sự, các luật và văn bản quy phạm pháp luật liên quan v.v... để bảo đảm việc xét xử

đúng quy định của pháp luật về nội dung, thủ tục, trình tự, thành phần phù hợp với tính

chất của từng loại lĩnh vực, bảo đảm những nguyên tắc trong xét xử, bảo đảm các quyền

của đương sự... nếu phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục thì VKSND có quyền

kháng nghị để cơ quan có thẩm quyền xem xét khắc phục.

- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành các bản án hoặc quyết định

đã có hiệu lực pháp luật của TAND. Việc THA dựa vào các bản án hoặc quyết định đã có

hiệu lực pháp luật của TAND và Pháp lệnh THA. Tùy theo từng loại hình phạt, loại việc

thì việc THA được thực hiện bởi các cơ quan Tòa án, việc bắt, dẫn giải, quản lý, giáo dục

người phạm tội trở thành người lương thiện do cơ quan Công an (hoặc Quân đội) thực

hiện. Ngoài ra, chính quyền cơ sở và cơ quan, tổ chức có người phạm tội cũng thực hiện

quản lý, giáo dục người phạm tội bị áp dụng các hình phạt khác nhẹ hơn hình phạt tù. Việc

thi hành các bản án dân sự, hành chính, kinh tế, lao động... do cơ quan THA dân sự tổ

chức thực hiện nhằm bảo đảm để bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật

phải được chấp hành nghiêm chỉnh, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời

bảo vệ quyền, và lợi ích chính đáng tổ chức, cơ quan, và của công dân.

- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam giữ và cải tạo. Trong quá trình

giải quyết vụ án hình sự để đảm bảo cho việc điều tra tội phạm theo quy định của pháp luật

thì cơ quan tiến hành tố tụng hình sự được áp dụng một số biện pháp ngăn chặn trong đó

biện pháp tạm giữ, tạm giam là những biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất vì nó tạm

thời tước bỏ, hạn chế một số quyền cơ bản của dân khi chưa có bản án, quyết định của Tòa

án. Đối với những trường hợp phải chấp hành hình phạt tù thì việc giam để cách ly người

phạm tội ra khỏi xã hội nhằm giáo dục, cải tạo họ trở thành người lương thiện. Công tác

kiểm sát này nhằm đảm bảo việc bắt, tạm giữ, tạm giam phải có căn cứ, việc giam, giữ

đúng thời hạn, bảo đảm đúng chế độ tạm giữ, tạm giam, cải tạo và trật tự nơi giam giữ,...

công tác kiểm sát này nhằm bảo đảm cho việc thực hiện những quyền của người bị tạm

giữ, tạm giam, cải tạo mà pháp luật không tước bỏ. Công tác này có ý nghĩa rất quan trọng,

bởi vậy VKSND có quyền kiểm sát theo kế hoạch hoặc thường xuyên hay kiểm sát bất kỳ

nếu phát hiện vi phạm thì yêu cầu cơ quan giam, giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm

giữ, tạm giam, cải tạo trái với pháp luật, cơ quan có trách nhiệm phải thực hiện ngay yêu

cầu trên của VKSND.

- Giải quyết khiếu nại tố cáo. Theo quy định của pháp luật thì VKSND có trách

nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo có liên quan đến hoạt động của các cơ quan tư pháp nói

chung và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong phạm vi trách nhiệm của mình nói riêng. Chẳng

hạn, đối với các khiếu nại trong tố tụng hình sự thì VKSND giải quyết theo Điều 24, 144

Bộ luật tố tụng hình sự. Công tác này gắn liền với chức năng hiện nay của VKSND. Qua

nghiên cứu tham khảo việc xử lý đơn thư khiếu nại, chúng tôi thấy việc khiếu nại của công

dân đối với hoạt động của cơ quan tư pháp ngày càng tăng do nhiều nguyên nhân nhưng cơ

bản do chất lượng hoạt dộng của cơ quan tư pháp chưa cao, do đó với mức độ nhiều, ít

khác nhau nhưng hầu như ở các giai đoạn trong quá trình hoạt động của cơ quan tư pháp

cũng bị khiếu nại tố cáo. Việc giải quyết khiếu nại tố cáo đang là vấn đề nan giải nhất là

đối với những khiếu nại về những bản án, quyết định của Tòa án. Thực tế cho thấy số

lượng khiếu nại nhiều, lực lượng giải quyết của VKSND còn mỏng, đặc biệt việc giải

quyết khiếu nại phải theo trình tự tố tụng, có nhiều việc phụ thuộc vào các cơ quan khác,

chẳng hạn nếu phát hiện sai lầm của bản án thì VKSND mượn hồ sơ, nghiên cứu, kháng

nghị theo thẩm quyền, Tòa án nghiên cứu xem xét chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng

nghị, nếu chấp nhận thì xét xử theo thẩm quyền theo trình tự chung. Cho nên nhiều việc

giải quyết không kịp thời vì đã hết thời hiệu giải quyết do đó có nhiều vụ khiếu nại kéo

dài, gay gắt.

1.2.2. Khái niệm và đặc trưng của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động

thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp

2.1.2.1. Khái niệm pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố

và kiểm sát các hoạt động tư pháp

Pháp chế XHCN nói chung và làm rõ pháp chế XHCN trong một lĩnh vực nhất

định của hoạt động nhà nước và đời sống xã hội là một vấn đề không đơn giản. Xem xét

pháp chế XHCN trong từng lĩnh vực cụ thể tuy không còn là mới, nhưng trên phương diện

lý luận, nhiều khía cạnh của vấn đề cần phải được làm rõ. Trước hết, cần phải coi pháp chế

là một nguyên tắc hiến định: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng

cường pháp chế XHCN" (Điều 12 Hiến pháp năm 1992). Pháp chế XHCN phải được vận

dụng cụ thể trong điều kiện đổi mới ở nước ta. Đã có nhiều công trình khoa học nghiên

cứu về pháp chế XHCN và tăng cường pháp chế trong hoạt động lập pháp, lập quy, pháp

chế XHCN trong quản lý nhà nước và pháp chế XHCN trong quản lý của Nhà nước đối

với nền kinh tế thị trường ở nước ta. Vậy pháp chế trong hoạt động thực hiện quyền tư

pháp của nhà nước là gì? Nội dung của nó có những điểm gì khác với pháp chế XHCN

được thiết lập trên các lĩnh vực khác.

Khi đặt vấn đề pháp chế XHCN trên một lĩnh vực nào đó, đã có ý kiến cho rằng:

"Pháp chế XHCN là thống nhất, sao có thể chia cắt pháp chế ra từng mảng như vậy được".

Đúng là như vậy nếu xem xét pháp chế trên phương diện pháp chế XHCN là một nguyên

tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước. Đã là nguyên tắc pháp chế thì chỉ có một tư tưởng,

một quan điểm, một định hướng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ hoạt động của Nhà nước và hễ

lơi lỏng nguyên tắc này một chút là pháp chế lại bị vi phạm ngay. Nhưng phải thấy rằng,

trong thực tiễn nguyên tắc pháp chế XHCN đã được cụ thể hóa trong các yếu tố của cơ chế

vận hành toàn bộ đời sống nhà nước và đời sống xã hội. Các yếu tố của cơ chế tổng thể

vận hành đời sống xã hội ở nước ta là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm

chủ. Cụ thể là: Pháp chế là nguyên tắc hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam; các cấp ủy

Đảng từ Trung ương tới địa phương phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp

luật; pháp chế là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước; pháp chế là nguyên tắc xử

sự của công dân.

Nếu coi nội dung của pháp chế đồng nghĩa với nguyên tắc pháp chế là làm nghèo

đi nội hàm sâu rộng của khái niệm pháp chế XHCN đã được giới khoa học pháp chế thừa

nhận. Nội dung pháp chế XHCN đã được quy định tại Điều 12 của Hiến pháp năm 1980 và

Điều 12 của Hiến pháp năm 1992 là:

Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang

nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật,

đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp

luật.

Mọi hành động xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp

pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật.

Rõ ràng nội dung của pháp chế là đời sống của pháp luật trong thực tế, là sự hiện

diện của hệ thống pháp luật trong đời sống xã hội

Loại ý kiến khác thì cho rằng, không có pháp chế trong lĩnh vực hoạt động tư pháp

bởi vì pháp chế mà nội hàm của nó là hành vi thực hiện pháp luật phù hợp với pháp luật

của các chủ thể khi tham gia các quan hệ pháp luật. Khi có tranh chấp pháp luật, vi phạm

pháp luật và vi phạm pháp luật ở một cấp độ cao hơn là hành vi nguy hiểm cho xã hội

được quy định là tội phạm thì không có pháp chế nữa, tức là pháp chế đã bị xâm phạm. Do

đó, hoạt động tư pháp chỉ là để bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế mà thôi. Theo lôgíc hình

thức thì không có pháp chế trong hoạt động tư pháp. Tất nhiên khi nền pháp chế đã được

thiết lập vững chắc thống nhất và bền vững theo lý thuyết, trên lý tưởng về một nền công

lý vĩnh cửu thì làm gì có vi phạm pháp luật. Khi đó xã hội sẽ không còn phân chia giai cấp,

sẽ không có mâu thuẫn đối kháng và cả những mâu thuẫn không đối kháng, và ngay cả nhà

nước và pháp luật cũng không còn. Khi đó pháp chế cũng không cần thiết nữa. Vì vậy,

xem xét pháp chế trong hoạt động thực hiện quyền tư pháp của nhà nước trước hết phải coi

khái niệm pháp chế cũng như nhà nước và pháp luật thuộc phạm trù lịch sử, có nguồn gốc

ra đời, tồn tại và tiêu vong. Vì vậy, xem xét pháp chế trong lĩnh vực tư pháp cần dựa trên

các căn cứ, tức cơ sở tồn tại của nó. Đó là cơ sở xã hội và cơ sở pháp luật của pháp chế

XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của

VKSND.

Về cơ sở chính trị xã hội: Lịch sử cũng như hiện tại, đấu tranh giai cấp là động lực

và quy luật của sự phát triển xã hội loài người. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là

đấu tranh giải phóng loài người khỏi ách áp bức, bóc lột và bất công. Đảng Cộng sản Việt

Nam - chính đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam, đã lãnh đạo

cách mạng Việt Nam đi hết từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Với sự ra đời của Nhà

nước cộng hòa dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam á nay là Nhà nước Cộng hòa

XHCN Việt Nam, Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, đã khẳng định

vai trò lãnh đạo của Đảng với sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam.

Dân tộc ta luôn phải đấu tranh chống lại các thế lực đế quốc xâm lược và các thế

lực thù địch khác chống lại chế độ XHCN của chúng ta. Chính vì vậy nhiệm vụ của

chuyên chính vô sản được cụ thể hóa trong "Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình

mới" như Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX)

đề ra. Trong đời sống xã hội vẫn nảy sinh các tệ nạn như: ma túy, mại dâm và mê tín dị

đoan. Đặc biệt là trong nền kinh tế hàng hóa vận hành theo cơ chế thị trường, với nhiều

thành phần kinh tế cùng tồn tại thường xuyên phát sinh những "mặt trái" vốn có của nó.

Đó là hiện tượng cạnh tranh dẫn đến độc quyền, phá hoại môi trường sống, hiện tượng lừa

đảo, gian lận thương mại, trốn thuế v.v... Do đó, đạo đức xã hội dễ bị xói mòn; một bộ

phận cán bộ công chức nhà nước thoái hóa, biến chất, tệ nạn tham nhũng diễn biến phức

tạp. Tóm lại, trong lòng xã hội luôn tiềm ẩn những nguy cơ phát sinh mâu thuẫn xã hội. Đó

là cơ sở xã hội của hiện tượng vi phạm pháp luật. Điều đó bác bỏ những quan niệm sai lầm

cho rằng vì có pháp luật nên mới phát sinh vi phạm pháp luật.

Về cơ sở pháp lý: Cơ sở và tiền đề của pháp chế là pháp luật. Giả thiết nhà nước

không quản lý xã hội bằng pháp luật thì sẽ không có bóng dáng pháp chế trong đời sống xã

hội. Do nhu cầu điều chỉnh các quan hệ phát sinh khi có sự vi phạm "pháp luật nội dung"

Nhà nước ta đã ban hành pháp luật về hình thức được hiểu là pháp luật về tố tụng. Pháp

luật tố tụng điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong việc giải quyết các tranh chấp

dân sự, kinh tế, lao động, các tranh chấp giữa công dân với các cơ quan hành chính nhà

nước và sự vi phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước, của cán bộ công chức nhà nước

trong khi thi hành công vụ; đặc biệt là quan hệ giữa Nhà nước (đại diện cho Nhà nước là

các cơ quan điều tra, VKSND và TAND) với các vi phạm pháp luật và tội phạm.

Từ hai căn cứ trên cho thấy, vi phạm pháp luật và tội phạm có nguồn gốc phát sinh

từ xã hội; cơ sở xem xét đánh giá và phán xét để xử lý vi phạm pháp luật và tội phạm là

pháp luật. Nhà nước có trách nhiệm chủ yếu và có quyền lực cao nhất trong việc xử lý, giải

quyết và xét xử các vi phạm pháp luật và tội phạm theo nguyên tắc, trình tự và thủ tục luật

định nhằm chặn đứng các hành vi vi phạm pháp luật.

Như vậy, khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện quyền lực nhà nước

để bảo vệ pháp luật bằng pháp luật tố tụng là hoạt động thực hiện pháp luật. Thực hiện

pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền là một dạng thực hiện pháp luật đặc

thù. Đó là hoạt động áp dụng pháp luật, nhưng áp dụng pháp luật thực hiện quyền tư pháp

chỉ trong hai trường hợp: Một là, khi có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các

bên tham gia quan hệ pháp luật. Hai là, trường hợp cần phải áp dụng các biện pháp cưỡng

chế của nhà nước. Trường hợp áp dụng pháp luật khi pháp luật không tự nhiên phát sinh

quyền và nghĩa vụ chủ thể là việc thực hiện quyền lực trong quản lý hành chính nhà nước.

Vì vậy hoạt động quản lý hành chính nhà nước không nằm trong phạm vi hoạt động tư

pháp.

Từ khái niệm pháp chế XHCN và những vấn đề đã phân tích ở trên có thế quan niệm

pháp chế XHCN trong hoạt động thực hiện quyền tư pháp của nhà nước như sau: Pháp chế

XHCN trong hoạt động thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước là sự đòi hỏi các cơ quan nhà

nước và cán bộ công chức nhà nước có thẩm quyền hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước

thực hiện áp dụng pháp luật theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định nhằm xem

xét, đánh giá và phán quyết về tính đúng đắn, tính hợp pháp của hành vi pháp luật hay quyết

định pháp luật và tổ chức thi hành các quyết định pháp luật và các bản án đã có hiệu lực pháp

luật để bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội, lợi ích của các tổ chức;

quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Trong hoạt động thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước thì hoạt động thực hành

quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND có một vị trí rất quan trọng.

Như phần trên đã phân tích thì: "thực hành quyền công tố" chính là thực hiện quyền của

Nhà nước nhân danh lợi ích xã hội để truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với pháp nhân hay

thể nhân ra trước Tòa án - cơ quan xét xử, nếu những chủ thể đó có hành vi phạm tội hoặc

vi phạm pháp luật xâm hại đến lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng và lợi ích chính đáng

của công dân được pháp luật bảo vệ. Và "kiểm sát các hoạt động tư pháp" chính là hoạt

động kiểm sát hoạt động của các cơ quan tư pháp, và nhân viên của các cơ quan này trong

lĩnh vực thực thi pháp luật của họ, nhằm đảm bảo cho hoạt động của các cơ quan này cũng

như việc áp dụng pháp luật của họ trong khi giải quyết công việc phải tuân thủ pháp luật

một cách nghiêm chỉnh và thống nhất. Như vậy hoạt động "thực hành quyền công tố và

kiểm sát các hoạt động tư pháp" của VKSND chính là nhằm duy trì pháp chế XHCN trong

hoạt động thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước, và cũng chính là nhằm bảo vệ pháp chế

XHCN.

Vậy trong phạm vi hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư

pháp của VKSND có khái niệm về pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công

tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp hay không? Từ khái niệm pháp chế XHCN và quan

niệm về pháp chế XHCN trong hoạt động thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước cũng như

những vấn đề đã phân tích ở trên có thể quan niệm pháp chế XHCN trong hoạt động thực

hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp VKSND như sau: Pháp chế XHCN

trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm

sát nhân dân là sự đòi hỏi cơ quan Viện kiểm sát và các kiểm sát viên có thẩm quyền khi

hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước phải thực hiện việc áp dụng pháp luật theo trình

tự, thủ tục pháp luật quy định nhằm xem xét, đánh giá và phán quyết về tính đúng đắn, tính

hợp pháp của hành vi pháp luật hay quyết định pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng

để bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội, lợi ích của các tổ chức;

quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

1.2.2.2. Đặc trưng của pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công

tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp

Pháp chế XHCN là hiện tượng của một chế độ xã hội trong đó mọi tổ chức, mọi

công dân đều tôn trọng và thực hiện Hiến pháp và pháp luật một cách nghiêm minh, chính

xác, triệt để. Pháp chế là thống nhất cũng như một nhà nước đơn nhất không có hai hệ

thống pháp luật. Song pháp chế được thiết lập trong mỗi một lĩnh vực của đời sống nhà

nước và đời sống xã hội; do đối tượng điều chỉnh của các ngành luật khác nhau nên

phương pháp điều chỉnh của các ngành luật không hoàn toàn giống nhau. Bởi vậy, pháp

chế XHCN "là sự hiển hiện của pháp luật" trên mỗi lĩnh vực của đời sống xã hội cũng

mang những đặc trưng riêng. Pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và

kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND nêu trên tuy mới chỉ dừng ở "quan niệm"

chưa phải là một khái niệm khoa học có tính giáo khoa và nội hàm của quan niệm này

không bao quát toàn bộ hoạt động tư pháp như khái niệm "pháp chế về tư pháp".

Tuy vậy, vẫn có thể nhận thấy những đặc trưng cơ bản của pháp chế XHCN trong

hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND.

Những đặc trưng đó là:

Thứ nhất: Pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát

các hoạt động tư pháp của VKSND thể hiện qua hành vi hoạt động mang tính quyền lực

nhà nước.

Các hành vi hoạt động mang tính quyền lực trong hoạt động thực hành quyền công

tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND và cán bộ công chức có thẩm quyền.

Đây là hoạt động áp dụng pháp luật nhân danh quyền lực nhà nước để thực hiện quyền

công tố và giám sát việc chấp hành pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc

giải quyết các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý và các biện pháp cưỡng chế nhà

nước. Tuy cũng là nhân danh nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước nhưng đặc điểm của

pháp chế trong việc thực hiện quyền tư pháp khác với pháp chế trong hoạt động lập pháp,

lập quy và pháp chế trong hoạt động quản lý nhà nước trên các lĩnh vực đời sống xã hội.

Thứ hai: Pháp chế trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp của VKSND được quy định bởi chất lượng của hệ thống các quy phạm pháp

luật trong đó có hệ thống các quy phạm pháp luật về tố tụng.

Khi xử lý các vi phạm pháp luật, các cơ quan bảo vệ pháp luật đều phải xác định

trước hết hành vi vi phạm pháp luật đó trái với những quy phạm pháp luật cụ thể nào; đồng

thời với việc xử lý các vi phạm pháp luật, các cơ quan nhà nước phải tuân theo trình tự, thủ

tục do pháp luật quy định. Ví dụ, các cơ quan điều tra, VKS và Tòa án khi giải quyết các

vụ án hình sự đều chịu sự điều chỉnh của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự. Nếu

đây là những quyết định pháp luật và bản án có hiệu lực pháp luật thì có thể đánh giá hoạt

động thực hiện quyền tư pháp có hiệu quả. Trước đây, đánh giá hoạt động tư pháp hay

thiên về việc các cơ quan tư pháp có tuân theo những quy tắc và trình tự thủ tục tố tụng

hay không. Có nhiều khi thực hiện quyền tư pháp các cơ quan tư pháp phải tuân thủ pháp

luật tố tụng vì pháp luật tố tụng đảm bảo cho việc thực hiện quyền tư pháp đưa ra được các

phán quyết chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Như thế đã thấy rõ đặc điểm

này là dạng hành vi tổng hợp và càng thấy rõ nội hàm phong phú của pháp chế XHCN

trong hoạt động thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước.

Đặc điểm này biểu hiện sự đòi hỏi các cơ quan nhà nước thực hiện quyền tư pháp

phải xem xét, giải quyết hay xét xử đúng thẩm quyền, đúng người, đúng việc, đúng tội,

đúng pháp luật. Bởi vậy, chất lượng của hệ thống pháp luật nói chung và chất lượng của hệ

thống pháp luật tố tụng có tính quy định pháp chế trong hoạt động thực hành quyền công

tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND.

Thứ ba: Pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát

các hoạt động tư pháp của VKSND được thiết lập chủ yếu bằng hành vi hợp pháp của các

chủ thể tham gia các quá trình tố tụng.

Hành vi hợp pháp là yếu tố chủ yếu cấu thành pháp chế; đó là nội dung của pháp

chế. Đây là đặc điểm cơ bản nhất của pháp chế trong hoạt động tư pháp của Nhà nước. Các

cơ quan tư pháp của Nhà nước nói riêng và các cơ quan bảo vệ Hiến pháp và pháp luật nói

chung phải được tổ chức hoạt động trên cơ sở pháp luật. Hành vi hoạt động của các cơ

quan nhà nước trong thực hiện quyền tư pháp trước hết là hành vi thực hiện pháp luật

nhưng là dạng hành vi áp dụng pháp luật. Trên phương diện thực hiện quyền tư pháp và

tính chất của dạng hoạt động tư pháp có thể khái quát hóa hoạt động thực hiện quyền tư

pháp của Nhà nước được biểu hiện tập trung trong các kết quả của các dạng hoạt động tư

pháp cụ thể. Chẳng hạn, kết quả của hoạt động giám sát của các cơ quan quyền lực nhà

nước; biên bản kết luận của hoạt động Thanh tra nhà nước, quyết định xử lý kỷ luật đối với

cán bộ công chức (phạt vi phạm hành chính); kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của công

dân; các quyết định và bản án dân sự, lao động, kinh tế, hành chính và bản án hình sự có

đúng thẩm quyền và phù hợp với chức năng mà luật pháp quy định cho cơ quan tiến hành

giải quyết hay không?

Cho nên, pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát

các hoạt động tư pháp của VKSND còn được quy định bởi các quy phạm pháp luật về tổ

chức và hoạt động của VKSND và của các cơ quan tiến hành tố tụng, cũng như các cơ

quan tư pháp như Luật tổ chức VKSND, Luật tổ chức TAND v.v...

Thứ tư: Pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các

hoạt động tư pháp của VKSND còn được quy định bởi cơ chế xử lý các vi phạm pháp luật

trong hoạt động tư pháp.

Trước hết, cần khẳng định đây là một đặc điểm của pháp chế XHCN trong hoạt

động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND nói riêng và

pháp chế XHCN trong hoạt động tư pháp của Nhà nước nói chung. Giả sử, Nhà nước thực

hiện quyền lập pháp, lập quy tốt rồi và Nhà nước thực hiện hành pháp đúng đắn rồi và các

cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân, các đơn vị

kinh tế và mọi công dân đều tôn trọng và thực hiện Hiến pháp và pháp luật một cách

nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác rồi thì quyền tư pháp nhà nước không phải sử dụng

đến. Lý luận và thực tế của đời sống xã hội đã cho thấy quyền lực nhà nước thuộc về nhân

dân; thực hiện quyền tư pháp là đáp ứng nhu cầu của nhân dân vì lợi ích của nhân dân.

Có thể đặc điểm này không có trong tâm thức của người dân, trong khát vọng của

công chúng khi nghĩ về TAND; nên kỳ vọng cuối cùng của người dân sau khi đã làm tất cả

những hoạt động "tự vệ" chính đáng khác. Đúng là vai trò và thành tích của các cơ quan tư

pháp nước ta là không thể phủ nhận nhưng đặc điểm này đang tồn tại bởi hoạt động thực

hiện quyền tư pháp của Nhà nước xét cho cùng đều thông qua hoạt động của con người.

Ngày nay, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, đội ngũ cán bộ công chức trong

các cơ quan tư pháp khó tránh khỏi những sai lầm, khuyết điểm và vi phạm pháp luật. Nếu

có vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp cán bộ công chức tư pháp có thể phải chịu

trách nhiệm pháp lý về chế độ vật chất, chế độ kỷ luật nhà nước, trách nhiệm hình sự. Tuy

nhiên, vấn đề kiểm tra, giám sát để phát hiện vi phạm của cán bộ công chức trong các cơ

quan tư pháp cũng là một nhiệm vụ quan trọng nhằm bảo đảm pháp chế trong hoạt động

của các cơ quan tư pháp. Vì vậy, cơ chế xử lý các vi phạm pháp luật trong hoạt động tư

pháp là yếu tố quy định đặc điểm của pháp chế trên lĩnh vực này.

Chương 2

thực trạng pháp chế trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp củaViện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội

trong thời gian qua

2.1. Tình hình hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội trong

việc thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp

2.1.1. Quá trình hình thành, phát triển về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm

sát nhân dân thành phố Hà Nội

Cách đây 43 năm (ngày 26-7-1960), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký lệnh công bố

Luật Tổ chức VKSND, đánh dấu sự ra đời của hệ thống cơ quan VKSND trong bộ máy Nhà

nước XHCN Việt Nam.

Và ngày 26-7-1960 đã trở thành ngày khai sinh của hệ thống VKSND các cấp.

Cũng từ đó hệ thống VKSND đã trở thành một trong những công cụ của chuyên chính vô

sản; một công cụ bảo vệ pháp chế XHCN; bảo vệ và tạo điều kiện để nhân dân lao động

thực hiện quyền lực của mình với vai trò của người làm chủ.

Cũng như toàn bộ hệ thống VKSND trong cả nước, VKSND thành phố Hà Nội

được thành lập trên cơ sở Viện công tố trước đây. Đội ngũ cán bộ, công chức đầu tiên của

VKSND thành phố hầu hết đều là cán bộ quân đội chuyển ngành hoặc được chuyển từ đội

ngũ cán bộ làm công tác thanh niên, công tác phong trào thuộc các ngành khác sang. Tổng số

cán bộ toàn ngành kiểm sát Hà Nội lúc đó chỉ có khoảng trên 50 người. Trình độ chuyên

môn của cán bộ, kiểm sát viên hầu như chưa được đào tạo cơ bản về kiến thức pháp lý.

Cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện làm việc thiếu thốn. Trụ sở làm viêc của

VKSND thành phố phải ở nhờ trụ sở của TANDTC từ khi thành lập đến tháng 10 năm

1995. Trụ sở của VKS làm việc các quận huyện thì hầu hết là nhà cấp 4, diện tích không

đáp ứng được nhu cầu phục vụ hoạt động của các đơn vị.

Về cơ cấu tổ chức của ngành trên toàn thành phố gồm có: 7 phòng nghiệp vụ thuộc

VKS thành phố là các phòng: Kiểm sát chung (sau này là Phòng Kiểm sát việc tuân theo

pháp luật), Kiểm sát điều tra án kinh tế, Kiểm sát điều tra án Trị an - An ninh, Kiểm sát xét

xử hình sự (có thời kỳ kiểm sát điều tra kiêm luôn việc xét xử. Sau này tách riêng phòng

Kiểm sát xét xử hình sự), Kiểm sát giam giữ cải tạo, Kiểm sát xét xử án dân sự và Tổ chức

cán bộ; và 8 VKS quận huyện gồm VKS của 4 quận nội thành và VKS của 4 huyện ngoại

thành.

Trải qua hơn 40 năm phấn đấu và phát triển, cùng với các cơ quan khác trong bộ

máy nhà nước, đến nay ngành KSND nói chung và VKSND thành phố Hà Nội nói riêng đã

không ngừng trưởng thành và lớn mạnh.

Về cơ cấu VKSND thành phố Hà Nội hiện có 11 phòng nghiệp vụ thuộc VKS thành

phố và 12 VKSND các quận huyện trực thuộc VKSND thành phố.

Về cơ sở vật chất và phương tiện làm việc so với nhu cầu công tác trong tình hình

mới chưa thật sự được đáp ứng, nhưng về cơ bản đã có thể phục vụ tốt các hoạt động

nghiệp vụ của ngành. Hiện nay, trụ sở VKSND thành phố Hà Nội đặt tại 43B phố Hai Bà

Trưng - Hà Nội, đủ các phòng làm việc cho

11 phòng nghiệp vụ. Các VKSND quận, huyện đều có trụ sở riêng biệt.

Về biên chế quân số đã tăng gấp 8 lần so với khi mới thành lập ngành. Hiện nay

toàn ngành Kiểm sát Hà Nội có gần 400 cán bộ, kiểm sát viên. Trình độ chuyên môn từ

chỗ cán bộ hầu hết không được đào tạo cơ bản về nghiệp vụ pháp lý, nay đã có 95,8% đạt

trình độ Đại học Luật và Cao đẳng Kiểm sát, một số đồng chí đã có trình độ Thạc sĩ Luật.

Chất lượng chính trị cao, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam trong cơ quan chiếm 74,7%,

chức danh pháp lý kiểm sát viên cấp thành phố và kiểm sát viên cấp quận, huyện chiếm

trên 2/3 quân số toàn cơ quan.

Từ năm 2001 trở về trước, VKSND là cơ quan duy nhất trong bộ máy nhà nước

thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố. Từ khi

ra đời (ngày 26-7-1960) cho đến thời điểm đó hệ thống VKSND nói chung cũng như

VKSND thành phố Hà Nội nói riêng đã phát huy được vị trí, vai trò và thực hiện tốt chức

năng của mình, góp phần đáng kể vào công cuộc bảo vệ nền pháp chế XHCN nhằm mục

đích bảo vệ và xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Đảng ta đang chủ trương đổi mới toàn diện

đất nước theo hướng phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần dưới sự quản lý của

Nhà nước theo định hướng XHCN. Thực hiện chủ trương đó, Đảng ta xác định phải đổi mới

tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước sao cho phù hợp với điều kiện

và hoàn cảnh đổi mới của đất nước. Một trong những trọng tâm của quá trình đổi mới đó là

việc cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có hệ thống VKSND

các cấp.

Quan điểm về cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp đã được đề

cập trong các văn kiện của Đảng trong các nhiệm kỳ từ Đại hội lần thứ VII của Đảng đến

nay như: Hội nghị Trung ương 8 khóa VII, Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII, Đại hội VIII

và Đại hội IX của Đảng.

Trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương khóa VII tại Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đã xác định rõ nhiệm vụ của cải cách tổ chức và

hoạt động tư pháp trong giai đoạn hiện nay là:

Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật làm cơ

sở cho tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp, bảo đảm mọi vi

phạm pháp luật đều bị xử lý, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.

Củng cố kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp, phân định lại thẩm

quyền xét xử của TAND, từng bước mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho

TAND huyện. Đổi mới tổ chức, hoạt động của VKSND, các cơ quan điều tra, cơ

quan thi hành án và các cơ quan tổ chức bổ trợ tư pháp [10, tr. 132].

Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng cũng xác định:

Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư

pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp trong công

tác bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử, THA, không được để xảy ra những trường hợp

oan sai. VKSND thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.

Sắp xếp lại hệ thống TAND, tổ chức lại Cơ quan điều tra và Cơ quan THA theo

nguyên tắc gọn đầu mối [11, tr. 133-134].

Trên cơ sở chủ trương của Đảng, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa

X tại kỳ họp thứ 10 đã thông qua Nghị quyết về việc sửa đổi một số điều của Hiến pháp

năm 1992. Theo đó, chức năng của VKSND là: "thực hành quyền công tố và kiểm sát các

hoạt động tư pháp". Và như vậy VKS không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng, ngoại giao… mà

chỉ tập trung làm tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư

pháp. Để thực hiện chức năng của mình theo Hiến pháp quy định, hệ thống VKSND phải

đổi mới cả về tổ chức và phương pháp hoạt động sao cho phù hợp với điều kiện và hoàn

cảnh mới.

Theo đó trên cơ sở Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức VKSND năm

2002, VKSND thành phố Hà Nội đã tổ chức lại các khâu công tác nghiệp vụ của VKS thành

phố còn 11 phòng nghiệp vụ là: phòng Thực hành quyền công tố - Kiểm sát điều tra và

Kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự; phòng Thực hành quyền công tố - Kiểm sát điều tra và

Kiểm sát xét xử sơ thẩm án an ninh - ma túy; phòng Kiểm sát xét xử phúc thẩm - giám đốc

thẩm - tái thẩm án hình sự; phòng Kiểm sát điều tra và Kiểm sát xét xử án dân sự; phòng

Kiểm sát điều tra và xét xử các vụ án hành chính - kinh tế - lao động - phá sản doanh

nghiệp và các việc khác do pháp luật quy định; phòng Kiểm sát THA; phòng Kiểm sát việc

tạm giữ, tạm giam và THA phạt tù; phòng Thống kê tội phạm; phòng Xét khiếu tố; phòng

Tổ chức cán bộ và Văn phòng tổng hợp.

2.1.2. Kết quả hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động

tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội trong những năm gần đây

Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, ngày 8/10/1992 tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội

khóa IX nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Luật tổ chức VKSND năm 1992. Theo

luật này, chức năng của VKSND được quy định: "Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức

năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố theo quy định của Hiến

pháp và pháp luật" (Điều 1 Luật tổ chức VKSND năm 1992).

Và tại Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 1992 quy định chức năng, nhiệm vụ của

VKSND cụ thể là:

VKSND thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực

hành quyền công tố bằng những công tác sau đây:

1. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các văn bản pháp quy của các

Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ và các cơ quan

chính quyền địa phương; kiểm sát việc chấp hành pháp luật của các cơ quan nhà

nước nói trên, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân;

2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của các cơ quan

điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động

điều tra;

3. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử

của TAND;

4. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản án, quyết

định đã có hiệu lực pháp luật của TAND;

5. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam, giữ và cải tạo;

6. Điều tra tội phạm trong những trường hợp do pháp luật tố tụng hình

sự quy định.

Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng về cải cách tổ chức và hoạt

động của các cơ quan tư pháp, Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 10 đã ra Nghị quyết số

51/2001/QH 10 ngày 25/12/2001 sửa đổi bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992 trong

đó có quy định lại chức năng và nhiệm vụ của VKSND tại Điều 138 là: "Viện kiểm sát

nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp".

Căn cứ Hiến pháp 1992 (sửa đổi) Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa

X kỳ họp thứ 1 đã thông qua Luật tổ chức VKSND năm 2002 tại Điều 1 khẳng định:

"VKSND thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của

Hiến pháp và Pháp luật".

Và tại Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định chức năng, nhiệm vụ của

VKSND cụ thể là:

Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ bằng những công

tác sau đây:

1. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc

điều tra các vụ án hình sự của các cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao

nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;

2. Điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm

tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp;

3. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong

việc xét xử các vụ án hình sự;

4. Kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành

chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật.

5. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản án, quyết

định của TAND;

6. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, quản

lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù.

Theo tinh thần của Hiến pháp 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức VKSND năm 2002,

trong phạm vi đề tài của bản luận văn chỉ đánh giá kết quả công tác của VKSND thành phố

Hà Nội trong những năm gần đây trên các mặt công tác thực hành quyền công tố và kiểm

sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự; kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự,

hành chính, kinh tế, lao động; kiểm sát việc THA; kiểm sát việc giam giữ, cải tạo.

Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, văn hóa xã hội và là một trong những trung

tâm kinh tế lớn của cả nước. Trong những năm qua, thực hiện chủ trương đổi mới của

Đảng, cùng với cả nước, Hà Nội đang không ngừng thay da, đổi thịt và ngày càng phát

triển. Cùng với các cơ quan trong hệ thống chính quyền các cấp, VKSND thành phố Hà

Nội với tư cách là người lính xung kích trên mặt trận bảo vệ pháp chế XHCN đã đóng góp

một phần không nhỏ vào những thành quả đó.

Bên cạnh những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị và văn hóa

xã hội; tình hình chấp hành pháp luật trên các mặt của đời sống xã hội cũng có những diễn

biến rất phức tạp. Tình hình đó đòi hỏi các cơ quan trong hệ thống chính quyền, đặc biệt là

các cơ quan bảo vệ pháp luật phải không ngừng nỗ lực nhằm đảm bảo cho tình hình an

ninh chính trị luôn được giữ vững và ổn định. Trong bối cảnh đó, những năm vừa qua ngành

KSND thành phố Hà Nội với việc thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và

thực hành quyền công tố đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần giữ vững và ổn

định chính trị, trật tự an toàn xã hội và bảo đảm trật tự pháp luật trên địa bàn Thủ đô.

Theo số liệu báo cáo tổng kết các năm 1999, 2000, 2001, 2002 của VKSND thành

phố Hà Nội, hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp được

đánh giá trên các mặt sau đây:

a) Về hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động của các cơ

quan tư pháp trong lĩnh vực điều tra và xét xử các vụ án hình sự

Nhằm đảm bảo cho pháp chế XHCN được tuân thủ một cách nghiêm túc, công tác

thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử án hình sự của VKSND có vị trí

đặc biệt quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự, nó quyết định đến sự thành công hay thất

bại trong việc truy tố người phạm tội ra trước tòa án. Đồng thời đó cũng là biện pháp nhằm

bảo đảm không để một người dân vô tội bị bắt, bị tạm giữ, bị tạm giam, hoặc bị truy tố oan

sai, vi phạm quyền tự do dân chủ của công dân. Mặt khác nó còn có nhiệm vụ không để một

hành vi vi phạm, tội phạm nào không bị xử lý trước pháp luật.

Trên lĩnh vực an ninh chính trị, trật tự trị an xã hội, trật tự quản lý kinh tế các loại

tội phạm xảy ra còn nhiều; số lượng án hình sự ở cả hai cấp đã thụ lý kiểm sát điều tra, và

chuyển truy tố như sau:

- Năm 1999, thụ lý 6.612 vụ án hình sự, đã quyết định truy tố 5.708 vụ, đạt tỷ lệ

giải quyết án là 86,3%.

- Năm 2000, thụ lý 4.405 vụ án hình sự, đã quyết định truy tố 3.827 vụ, đạt tỷ lệ giải

quyết án là 90%.

- Năm 2001, thụ lý 4.693 vụ, đã quyết định truy tố 4.117 vụ, đạt tỷ lệ giải quyết án

là 87,8%.

- Năm 2002, thụ lý 5.292 vụ, đã quyết định truy tố 4.555 vụ, đạt tỷ lệ giải quyết án

là 86%.

Tính riêng các phòng nghiệp vụ VKS thành phố:

- Năm 1999, thụ lý 425 vụ, đã truy tố 303 vụ, đạt tỷ lệ giải quyết 71%.

- Năm 2000, thụ lý 406 vụ, đã truy tố 323 vụ, đạt tỷ lệ giải quyết 81%.

- Năm 2001, thụ lý 338 vụ, đã truy tố 260 vụ, đạt tỷ lệ giải quyết 76%.

- Năm 2002, thụ lý 387 vụ, đã truy tố 268 vụ, đạt tỷ lệ giải quyết 69%.

Ngoài nhiệm vụ kiểm sát điều tra án do cơ quan điều tra Công an thành phố Hà Nội

thụ lý điều tra, các phòng nghiệp vụ của VKS thành phố còn phải tiếp nhận giải quyết án

kết thúc điều tra của VKS 12 quận huyện chuyển lên thành phố xét xử theo phân cấp do

luật định. Cụ thể là:

- Năm 1999, thụ lý 2.022 vụ, truy tố 1904 vụ, đạt tỷ lệ giải quyết án 94%.

- Năm 2000, thụ lý 1.139 vụ, truy tố 1.033 vụ, đạt tỷ lệ giải quyết án 90%.

- Năm 2001, thụ lý 837 vụ, truy tố 775 vụ, đạt tỷ lệ giải quyết án 92%.

- Năm 2002, thụ lý 970 vụ, truy tố 922 vụ, đạt tỷ lệ giải quyết án 95%.

Không chỉ riêng việc giải quyết án ở 12 quận huyện chuyển thành phố truy tố,

kiểm sát điều tra các vụ án do thành phố tiến hành điều tra, các phòng nghiệp vụ kiểm sát

cấp thành phố còn phải theo dõi chỉ đạo 12 quận huyện như: nghiên cứu hồ sơ báo cáo

lãnh đạo Viện cho ý kiến các vụ án quận huyện thỉnh thị, nghiên cứu chỉ đạo các vụ án khó

khăn vướng mắc các quận huyện xin ý kiến v.v... Công việc nhiều, cán bộ kiểm sát ở các

phòng nghiệp vụ tuy có trình độ không đồng đều nhưng vẫn luôn giữ vững phẩm chất đạo

đức người cán bộ KSND, có tinh thần chủ động tự giác trong công việc, có tinh thần tương

trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ chung, chất lượng thực hành quyền công

tố cũng như kiểm sát hoạt động điều tra của cơ quan Công an và hoạt động xét xử của cơ

quan Tòa án tiếp tục được nâng cao, có quan điểm rõ ràng trong công tác đấu tranh phòng

chống tội phạm, thận trọng, chắc chắn trong việc quyết định truy tố một con người ra trước

Tòa án. Vì vậy, trong 4 năm 1999, 2000, 2001, 2002 chưa thấy trường hợp nào bắt tạm

giữ, tạm giam, truy tố oan sai.

b) Về hoạt động kiểm sát hoạt động của các cơ quan tư pháp trong việc giải

quyết các vụ dân sự, hôn nhân gia đình, hành chính - kinh tế - lao động v.v...

* Về công tác kiểm sát giải quyết các vụ án Dân sự, Hôn nhân và gia đình:

Trong những năm qua, tình hình vi phạm và tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia

đình đưa đến Tòa án giải quyết không tăng, nhưng tính chất phức tạp. Theo số liệu thống

kê cụ thể:

- Năm 1999, TAND hai cấp thụ lý 5.537 vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, VKS

kiểm sát giải quyết 4.467 vụ (đạt tỷ lệ 80%). Tòa án đưa ra xét xử 1.313 vụ, VKS tham gia

kiểm sát xét xử 1.245 vụ (đạt tỷ lệ 92,7%).

- Năm 2000, TAND hai cấp thụ lý 5.395 vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, VKS

kiểm sát giải quyết 4.467 vụ (đạt tỷ lệ 73,1%). Tòa án đưa ra xét xử 1.254 vụ, VKS tham

gia kiểm sát xét xử 1.143 vụ (đạt tỷ lệ 91,2%).

- Năm 2001, TAND hai cấp thụ lý 4.677 vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, VKS

kiểm sát giải quyết 4.094 vụ (đạt tỷ lệ 87,5%). Tòa án đưa ra xét xử 1.078 vụ, VKS tham

gia kiểm sát xét xử 919 vụ (đạt tỷ lệ 85,2%).

- Năm 2002, TAND hai cấp thụ lý 5.456 vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, VKS

kiểm sát giải quyết 2.679 vụ (đạt tỷ lệ 49%). Tòa án đưa ra xét xử 1.130 vụ, VKS tham gia

kiểm sát xét xử 1.031 vụ (đạt tỷ lệ 91,2%).

Thực hiện chức năng của ngành, VKSND các cấp đã góp phần cùng với Tòa án

giải quyết có hiệu quả án Dân sự. Tuy nhiên, việc tham gia phiên tòa của Kiểm sát viên

ở cá trình tự sơ thẩm, phúc thẩm đạt tỷ lệ còn thấp, trình độ phát hiện vi phạm trong

quá trình lập hồ sơ, hòa giải, xét xử... hạn chế, ít phát hiện được vi phạm để điều tra bổ

sung, tự điều tra bổ sung, kháng nghị theo các trình tự chưa được nhiều, trong khi án có

vi phạm bị cải sửa ở cấp phúc thẩm còn chiếm tỷ lệ cao, chất lượng kháng nghị một số

vụ án còn thấp, phải rút kháng nghị hoặc không được Tòa chấp nhận.

* Về công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án Hành chính - Kinh tế - Lao động:

Trong những năm qua, tình hình thụ lý giải quyết các vụ án Hành chính - Kinh tế -

Lao động của Tòa án cấp sơ thẩm không nhiều, nhưng nội dung thì rất phức tạp và đa dạng,

công tác kiểm sát việc giải quyết án sơ thẩm Hành chính - Kinh tế - Lao động của VKSND

cấp sơ thẩm cũng không đáng kể. Cụ thể là:

- Năm 1999: Tòa án hai cấp của thành phố Hà Nội thụ lý 148 vụ VKS đã kiểm sát

lập hồ sơ 148 vụ (đạt tỷ lệ 100%). Tòa án đưa ra xét xử 37 vụ, VKS tham gia kiểm sát xét

xử 37 vụ (đạt tỷ lệ 100%).

- Năm 2000: Tòa án hai cấp của thành phố Hà Nội thụ lý 198 vụ VKS đã kiểm sát

lập hồ sơ 198 vụ (đạt tỷ lệ 100%). Tòa án đưa ra xét xử 56 vụ, VKS tham gia kiểm sát xét

xử 56 vụ (đạt tỷ lệ 100%).

- Năm 2001: Tòa án hai cấp của thành phố Hà Nội thụ lý 93 vụ VKS đã kiểm sát

lập hồ sơ 93 vụ (đạt tỷ lệ 100%). Tòa án đưa ra xét xử 39 vụ, VKS tham gia kiểm sát xét

xử 34 vụ (đạt tỷ lệ 81,1%).

- Năm 2002: Tòa án hai cấp của thành phố Hà Nội thụ lý 115 vụ, VKS đã kiểm sát

lập hồ sơ 108 vụ (đạt tỷ lệ 93,9%). Tòa án đưa ra xét xử 31 vụ, VKS tham gia kiểm sát xét

xử 31 vụ (đạt tỷ lệ 100%).

Tình trạng vi phạm pháp luật của Tòa án trong việc thụ lý, lập hồ sơ và thực hiện

tố tụng giải quyết các vụ án Hành chính - Kinh tế - Lao động cũng xảy ra nhiều nhưng

VKSND các cấp ít phát hiện được vi phạm để kiến nghị sửa chữa hoặc báo cáo VKS cấp

trên kháng nghị theo thẩm quyền.

c) Về hoạt động kiểm sát hoạt động của các cơ quan tư pháp trong việc thi hành

án

* Năm 1999:

- Về thi hành án phạt tù: Tổng số phải thi hành 2.455 bị án, đã thi hành 2.212 bị

án, còn lại chưa thi hành 231 bị án. Trong đó, hoãn thi hành

62 bị án, Tòa án chưa ra quyết định 1 bị án, chờ xét thời hiệu 1 bị án, Công an chưa áp giải

56 bị án, trốn 110 bị án (trốn đã truy nã 98 bị án, chưa truy nã

12 bị án).

- Về thi hành án dân sự: Tổng số phải thi hành 12.798 việc, đã thi hành xong 6.643

việc, còn lại chưa thi hành 2.924 việc. Tổng số tiền phải thi hành 149.878 triệu đồng, đã

thu được 32.785 triệu đồng, thu 10.678 triệu đồng nhưng chưa THA, còn lại phải thu

108.234 triệu đồng.

Thực hiện chức năng kiểm sát THA, VKSND thành phố Hà Nội tham gia giám sát

THA tử hình 13 bị án, đảm bảo việc THA an toàn, đúng luật. Tiến hành kiểm tra số bị án

phạt tù giam đang tại ngoại, án có hiệu lực pháp luật, phát hiện 7 bị án (năm 1996, 1997),

6 bị án (năm 1998) Tòa án chưa ra quyết định thi hành. Nghiên cứu 16 hồ sơ hoãn THA

phạt tù, phát hiện 3 hồ sơ hoãn không đủ căn cứ theo Điều 231 Bộ luật tố tụng hình sự.

Kiểm sát hồ sơ các bị án trốn thi hành tại PC 14, PC 16 Công an thành phố Hà Nội, Công

an quận Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm, Đống Đa, Ba Đình, Từ Liêm, Thanh Xuân phát hiện

nhiều vi phạm trong việc lập hồ sơ đối tượng THA phạt tù trốn có lệnh truy nã. VKS Hà

Nội đã có kiến nghị yêu cầu các đơn vị vi phạm khắc phục, sửa chữa.

* Năm 2000:

- Về thi hành án hình sự: Tổng số phải thi hành 1.845 bị án, đã thi hành 1.637 bị án,

còn lại chưa thi hành 193 bị án. Trong đó, hoãn thi hành 41 bị án, Tòa án chưa ra quyết

định thi hành 9 bị án, có quyết định THA Công an chưa áp giải 60 bị án, trốn 81 bị án (trốn

đã truy nã 79 bị án, chưa truy nã 2 bị án).

- Về thi hành án dân sự: Tổng số phải thi hành 15.944 việc, đã thi hành xong 7.100

việc, số việc đã giải quyết 3.788 việc, còn lại chưa thi hành 5.056 việc (trong đó số việc

không có điều kiện thi hành 3.048 việc, số việc có điều kiện thi hành 1.761 việc, số việc có

điều kiện thi hành chưa ra quyết định cưỡng chế 128 việc). Tổng số tiền phải thi hành

156.148 triệu đồng, đã thi hành được 29.659 triệu đồng, còn lại phải thi hành 122.850 triệu

đồng (số tiền không có khả năng thi hành 37.480 triệu đồng).

* Năm 2001:

- Về thi hành án phạt tù: Tổng số phải thi hành 2.150 bị án, đã thi hành 1.901 bị án,

còn lại chưa thi hành 240 bị án. Trong đó, hoãn thi hành 76 bị án, Tòa án chưa ra quyết định

thi hành 4 bị án, có quyết định thi hành Công an chưa áp giải 70 bị án, chờ xét thời hiệu 2

bị án, trốn 75 bị án (trốn đã truy nã 75 bị án). Số người phải THA phạt tù cho hưởng án

treo 608 bị án, Tòa án ra quyết định thi hành 593 bị án.

- Về thi hành án dân sự: Tổng số phải thi hành 15.523 việc, đã thi hành xong 6.262

việc, số việc đã giải quyết 3.395 việc, còn lại chưa thi hành 5.866 việc (trong đó số việc

không có điều kiện thi hành 3.820 việc, số việc có điều kiện thi hành 2.046 việc, số việc có

điều kiện thi hành chưa ra quyết định cưỡng chế 77 việc). Tổng số tiền phải thi hành

281.867 triệu đồng, đã thu được 47.770 triệu đồng, còn lại phải thi hành 209.882 triệu

đồng (số tiền không có khả năng thi hành 19.726 triệu đồng).

* Năm 2002:

- Về thi hành án hình sự: Tổng số phải thi hành 1.985 bị án, đã thi hành 1.720 bị án,

còn lại chưa thi hành 259 bị án. Trong đó, hoãn thi hành 92 bị án, Tòa án chưa ra quyết

định thi hành 9 bị án, có quyết định THA Công an chưa áp giải 80 bị án, trốn 71 bị án (trốn

đã truy nã 68 bị án). Số người phải THA phạt tù cho hưởng án treo 643 bị án, Tòa án ra

quyết định thi hành 618 bị án. Số người phải THA cải tạo không giam giữ 17, Tòa án ra

quyết định thi hành 13 bị án.

- Về thi hành án dân sự: Tổng số phải thi hành 21.793 việc, đã thi hành xong

10.385 việc, số việc đã giải quyết 3.435 việc, còn lại chưa thi hành 7.973 việc (trong đó số

việc không có điều kiện thi hành 5.795 việc, số việc có điều kiện thi hành 2.175 việc, số

việc có điều kiện thi hành chưa ra quyết định cưỡng chế 1 việc). Tổng số tiền phải thi hành

316.112 triệu đồng, đã thu được 52.708 triệu đồng, còn lại phải thi hành 260.198 triệu

đồng (số tiền không có khả năng thi hành 90.139 triệu đồng).

d) Về hoạt động kiểm sát hoạt động của các cơ quan tư pháp trong việc giam

giữ, cải tạo

* Năm 1999: Nhằm bảo đảm cho công tác giam giữ được thực hiện theo đúng quy

định của pháp luật, các quyền hợp pháp của người bị tạm giữ, tạm giam được bảo đảm; VKS

Hà Nội đã tổ chức kiểm tra thường kỳ và bất thường 67 lần đối với trại tạm giam và nhà tạm

giữ công an quận, huyện về việc thực hiện chế độ đối với người bị tạm giữ, tạm giam theo quy

định của pháp luật.

VKS quận, huyện đã tiến hành kiểm sát 145 công an phường, xã về công tác bắt

giữ hình sự, hành chính. Qua công tác kiểm sát phát hiện nhiều vi phạm trong công tác bắt

giữ, phân loại xử lý, có kiến nghị yêu cầu công an khắc phục sửa chữa. Các vi phạm VKS

kiến nghị chủ yếu về thủ tục lập hồ sơ bắt giữ hành chính, lạm dụng giữ hành chính đối với

các trường hợp phạm pháp quả tang, sử dụng lệnh tạm giữ hình sự thay cho lệnh tạm giữ

hành chính, tạm giữ người theo thủ tục hành chính quá hạn 24h, xử lý cả đối với người

chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hành chính, lọt tội phạm...

Nghiên cứu 10.000 hồ sơ can phạm ra vào trại, phát hiện 281 trường hợp bị tạm

giữ, tạm giam quá hạn; 87 trường hợp vi phạm thời hạn điều tra, truy tố, xét xử; 401

trường hợp vi phạm thời hạn ra quyết định THA, VKS đã kiến nghị với cơ quan có thẩm

quyền khắc phục vi phạm.

* Năm 2000: VKS Hà Nội đã tổ chức kiểm tra thường kỳ và bất thường 34 lần đối

với trại tạm giam và nhà tạm giữ công an quận, huyện về thực hiện chế độ đối với người bị

tạm giữ, tạm giam, cải tạo. VKS các quận, huyện tiến hành kiểm sát 114 công an phường,

xã về công tác bắt giữ hình sự, hành chính, phát hiện vi phạm có kiến nghị yêu cầu công an

khắc phục sửa chữa. Nghiên cứu hồ sơ ra vào trại, phát hiện thông báo kịp thời đến các

đơn vị thụ lý 246 trường hợp quá hạn tạm giữ, 67 bị cáo kháng cáo Tòa phúc thẩm hình sự

TANDTC chưa có lệnh tạm giam, 26 trường hợp còn bản án nhưng không được tổng hợp

hình phạt hoặc tổng hợp không chính xác, 223 trường hợp án có hiệu lực pháp luật nhưng

chậm ra quyết định THA... để các đơn vị thụ lý biết, khắc phục vi phạm.

* Năm 2001: Phòng kiểm sát giam giữ - cải tạo nghiên cứu hồ sơ ra vào trại, phát

hiện thông báo kịp thời đến các đơn vị thụ lý 240 trường hợp quá hạn tạm giữ (Công an

104, VKS 101, Tòa án 35), 9 trường hợp không tổng hợp hình phạt, 13 trường hợp án tồn

đọng kéo dài trên 1 năm chưa được giải quyết, 27 trường hợp người bị giam giữ là phụ nữ

có thai, có con nhỏ; 84 trường hợp người bị giam giữ xét xử Tòa án phạt án treo hoặc cải

tạo không giam giữ; 276 trường hợp Tòa án sơ thẩm chậm ra quyết định THA phạt tù để

các đơn vị thụ lý biết khắc phục vi phạm.

* Năm 2002: Cơ quan quản lý người bị giam giữ và cải tạo đã tiếp nhận, quản lý

10.415 người (có 2.122 người của năm 2001 chuyển sang). Các cơ quan tiến hành tố tụng

đã giải quyết 7.961 người, còn 2.433 người đang bị tạm giam. Trong đó: giam để điều tra

1.422 người, giam để truy tố 367 người, giam chờ xét xử sơ thẩm 519 người, giam chờ xét

xử phúc thẩm 125 người.

Để đảm bảo cho công tác giam giữ, cải tạo được thực hiện theo đúng quy định của

pháp luật, các quyền hợp pháp của người bị tạm giữ được bảo đảm; VKS Thành phố kiểm

tra định kỳ và bất thường 8 lần (Viện trưởng

trực tiếp kiểm sát 3 lần) đối với trại tạm giam Công an thành phố Hà Nội; Viện trưởng

VKS quận, huyện trực tiếp kiểm sát 38 lần nhà tạm giữ công

an quận, huyện; kiểm tra 93 công an phường, xã về công tác bắt giữ, xử lý người vi phạm.

2.2. Thực trạng pháp chế trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát các

hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội

2.2.1. Thực trạng thực hiện Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, pháp luật

về tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính - kinh tế - lao động, thủ tục thi

hành án...

Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, Luật tổ chức VKSND năm 1992, Hiến pháp 1992

(sửa đổi), và Luật tổ chức VKSND năm 2002; các văn bản pháp luật về tố tụng hình sự, tố

tụng dân sự, tố tụng hành chính - kinh tế - lao động, thủ tục THA... Nhìn lại quá trình thi

hành pháp luật ở các khâu công tác, VKSND thành phố Hà Nội đã luôn bám sát các chức

năng, nhiệm vụ, quán triệt và vận dụng có hiệu quả các quy định của pháp luật vào thực tiễn

đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, luôn hướng các hoạt động trong lĩnh vực kiểm

sát hình sự, phục vụ các nhiệm vụ chính trị của đất nước qua mỗi thời kỳ.

Công tác kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử hình sự; công tác kiểm sát việc giải

quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động; công tác kiểm

sát THA; và công tác kiểm sát giam giữ - cải tạo của ngành kiểm sát Hà Nội đã có sự phối

hợp khá chặt chẽ và có hiệu quả. Không chỉ có trong nội bộ ngành kiểm sát mà còn phối

hợp với các ngành tư pháp khác để cùng đấu tranh phòng và chống tội phạm và vi phạm

pháp luật. Vì vậy những năm qua, VKSND thành phố Hà Nội đã đạt được những thành

tích nhất định trong việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các

hoạt động tư pháp. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng còn bộc lộ một số điểm yếu cần rút kinh

nghiệm.

a) Thực trạng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án

hình sự

Những năm gần đây, đứng trước tình hình tội phạm luôn gia tăng ở các lĩnh vực

nhưng trung bình hàng năm VKSND thành phố và VKSND các quận huyện đã kiểm sát

điều tra được một khối lượng rất lớn các vụ án hình sự, trong đó đã kiểm sát việc khởi tố

vụ án và khởi tố bị can. Do kiểm sát chặt chẽ từ giai đoạn khởi tố nên số bị can đã khởi tố

phải đình chỉ vì không có tội giảm nhiều.

Trong những năm qua ngành KSND thành phố Hà Nội đã có sự cố gắng, phối hợp

chặt chẽ với các cơ quan bảo vệ pháp luật trên địa bàn thành phố đẩy nhanh tốc độ giải

quyết án, bảo đảm đấu tranh chống và phòng ngừa các loại tội phạm có kết quả. Trong đó

phải kể đến kết quả đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực an ninh quốc gia, có sự phối

hợp kịp thời với ngành bạn trong lĩnh vực tiến hành tố tụng đối với những vụ án và những

tên tội phạm nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia. Việc phát hiện và xử lý các vụ án đặc

biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia như những tội có tác động đến dư luận trong

và ngoài nước; làm rõ những âm mưu đen tối của bọn phản động hòng gây mất ổn định

chính trị, cản trở sự nghiệp cách mạng ở nước ta. Đối với các loại tội phạm khác xâm

phạm an ninh quốc gia như tội làm và lưu hành tiền giả, mua bán, sản xuất, tàng trữ, vận

chuyển vũ khí, chất nổ trái phép; buôn lậu qua biên giới cũng đã được phát hiện xử lý

nhanh chóng và đúng pháp luật.

Trong lĩnh vực kinh tế: công tác kiểm sát điều tra đã cố gắng thúc đẩy điều tra đưa

ra truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, buôn lậu, lừa đảo chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn

như vụ Trần Mai Hương lừa đảo chiếm đoạt hơn 14 tỷ đồng của nhiều cơ quan, đơn vị và cá

nhân; vụ Lã Thị Kim Oanh và đồng bọn tham ô, cố ý làm trái, thiếu trách nhiệm... làm thất

thoát của Nhà nước hơn 150 tỷ đồng. Một số vụ được chọn làm án điểm đưa ra xét xử kịp

thời góp phần thực hiện Chỉ thị 53, Nghị quyết 08, Chỉ thị 15 của Bộ Chính trị, Quyết định

240 và 114, Chỉ thị số 10 của Thủ tướng Chính phủ.

Trong lĩnh vực trật tự trị an xã hội: đã tập trung đẩy mạnh điều tra, truy tố các vụ án

nghiêm trọng về giết người, cướp của, hiếp dâm, chống các tệ nạn xã hội như ma túy, mại

dâm, cờ bạc; các vụ vi phạm an toàn giao thông gây hậu quả nghiêm trọng, xóa sổ nhiều

băng xã hội đen, điển hình là các vụ: Vũ Xuân Trường, Nguyễn Văn Tám phạm tội mua

bán, vận chuyển trái phép các chất ma túy, vụ Khánh Trắng và đồng bọn phạm tội giết

người, cướp tài sản của công dân v.v...

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đã có nhiều biện pháp nghiệp vụ đổi mới công

tác kiểm sát điều tra nhằm thực hiện tốt hơn chức năng kiểm sát và thực hành quyền công

tố như đã chủ động cùng các ngành sơ kết rút kinh nghiệm công tác quản lý tin báo tội

phạm theo quy định tại Thông tư liên ngành số 03 ngày 15/5/1992. Bằng các biện pháp

khác nhau, VKS hai cấp trên địa bàn thành phố đã nắm và đánh giá đúng, kịp thời các diễn

biến tình hình tội phạm xảy ra trên địa bàn Thủ đô để chủ động đề xuất tham mưu với các

cấp ủy Đảng và chính quyền trong công tác quản lý đề ra nhiều biện pháp phối hợp với

ngành trong khối nội chính. Thông qua công tác kiểm sát phân loại xử lý các cơ quan điều

tra, VKS đã phát hiện nhiều vụ việc có dấu hiệu tội phạm để yêu cầu cơ quan điều tra, khởi

tố điều tra hoặc VKS ra quyết định khởi tố đến nay hoạt động này có tiến bộ rõ rệt.

Đối với các vụ án trọng điểm và trọng án, các cấp kiểm sát viên tiến hành tốt kiểm

sát điều tra từ đầu đến việc điều tra các vụ án loại này vừa bảo đảm chất lượng, vừa bảo

đảm thời hạn và thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Hoạt động điều tra, truy tố được nâng lên về số lượng và chất lượng, nên số vụ án

đình chỉ điều tra ngày một giảm. Điều đó thể hiện sự chấp hành nghiêm chỉnh các quy định

của pháp luật trong hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng ngày một được nâng lên.

Thông qua công tác kiểm sát điều tra, VKS chú trọng phát hiện và tập hợp vi phạm

pháp luật của cơ quan điều tra để kiến nghị yêu cầu khắc phục, hầu hết các kiến nghị yêu

cầu đều được cơ quan điều tra tiếp thu sửa chữa. Những năm gần đây VKSND thành phố

Hà Nội đã có nhiều kiến nghị đối với những vi phạm vi phạm của quan điều tra cùng cấp,

đồng thời cũng đã báo cáo với VKSND tối cao có một số kiến nghị với Bộ trưởng Bộ

Công an về những vi phạm trong hoạt động điều tra của cơ quan công an.

Viện kiểm sát hai cấp đã tổng hợp những mặt thiếu sót trong quản lý để tham mưu

cho cấp ủy và chính quyền có biện pháp chấn chỉnh, tổ chức các hội nghị pháp chế phòng

ngừa tội phạm.

Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ theo luật định ngoài việc phối hợp với cơ quan tư

pháp trong việc điều tra và xét xử còn phối hợp kiểm tra liên ngành về công tác hình sự để

thúc đẩy tiến độ và chất lượng giải quyết án theo quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự đặc

biệt đối với các vụ án nghiêm trọng, án điểm, hoặc phối hợp kiểm tra việc bắt giam, tha, án

đình chỉ.

Bên cạnh những kết quả chính xác đã đạt được nêu trên, công tác kiểm sát điều tra

còn bộc lộ những thiếu sót, hạn chế là:

Việc quản lý và xử lý tin báo tội phạm theo Thông tư liên ngành số 03 ngày

15/5/1992 tuy có tiến bộ nhưng còn là mặt yếu chung cho toàn ngành. VKS các cấp thiếu

chủ động trong việc phối hợp với các cơ quan điều tra và các cơ quan hữu quan để nắm

nguồn tin báo tội phạm dẫn đến tình trạng nhiều nơi không nắm đầy đủ kịp thời thực trạng

về nguồn tin báo tội phạm dẫn đến hạn chế kết quả kiểm sát ở lĩnh vực này.

Công tác kiểm sát việc khởi tố cũng còn hạn chế, còn để xảy ra tình trạng các cơ

quan có thẩm quyền trong việc khởi tố để lọt tội phạm, lọt người phạm tội hoặc khởi tố

không đúng pháp luật, còn có trường hợp làm oan cho người vô tội, hoặc gây ra những hậu

quả đáng tiếc khác. Ví dụ như vụ Dương Thị Nga, do Công an quận Hoàn Kiếm khởi tố,

bắt giam, điều tra không đúng, nhưng VKSND quận Hoàn Kiếm không phát hiện ra mà

vẫn tuy tố, rồi TAND quận Hoàn Kiếm cũng đưa ra xét xử và tuyên án. Đến khi có khiếu

nại, các cơ quan cấp trên xem xét mới phát hiện vi phạm phải minh oan cho người bị xử lý;

và nhiều cán bộ của các cơ quan tố tụng có liên quan phải bị xử lý kỷ luật.

Tuy đây là thiếu sót của các cơ quan tư pháp, song với trách nhiệm là cơ quan

kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự thì VKS có trách nhiệm rất lớn

trong việc để xảy ra các thiếu sót này.

Công tác kiểm sát tuân theo pháp luật trong việc áp dụng thay đổi các biện pháp

ngăn chặn của cơ quan điều tra: nhiều VKS chưa làm tốt, nên có không ít trường hợp bắt

khẩn cấp không có căn cứ sau đó phải chuyển xử lý hành chính hoặc cần phải tạm giam thì

không được áp dụng dẫn đến bị can tại ngoại trốn, phải tạm đình chỉ vụ án, tình trạng tạm

giữ, tạm giam quá hạn vẫn còn xảy ra ở một vài đơn vị.

Việc đình chỉ điều tra của VKS vẫn còn trường hợp không đúng và cũng còn

những trường hợp cơ quan điều tra đình chỉ điều tra sai nhưng VKS cùng cấp không phát

hiện được để quyết định hủy bỏ mà VKS thành phố kiểm tra phát hiện phải hủy bỏ quyết

định đình chỉ điều tra để phục hồi điều tra.

Có những sai phạm không đáng có đã để xảy ra trong giai đoạn điều tra và kiểm

sát điều tra như: Quá trình điều tra, kiểm sát điều tra không xác minh tuổi chịu trách nhiệm

hình sự của bị cáo dẫn đến khởi tố, điều tra người chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự

theo luật hoặc ở một số tội việc khởi tố phải có yêu cầu của người bị hại, song lại không rõ

được làm rõ, dẫn đến vụ án điều tra rồi lại đình chỉ. Công tác khám nghiệm hiện trường

trong nhiều trường hợp còn lúng túng, thụ động, thậm chí có vụ không thực hiện...

Những vụ án tạm đình chỉ điều tra do bị can trốn, quản lý rất yếu.

Trong công tác nghiệp vụ kiểm sát điều tra, việc xây dựng biểu mẫu quyết định

lệnh ở giai đoạn này không đầy đủ từ đó dẫn đến tình trạng tùy tiện. Việc xây dựng bản

cáo trạng, khá phổ biến là sao chép bản kết luận điều tra mà chưa đi sâu phân tích, đánh

giá chứng cứ xác định tội phạm của bị cáo, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ cũng như các

tình tiết khác của vụ án, viện dẫn điều luật của bản cáo trạng thiếu cụ thể về khung, khoản

và điểm của điều luật. Về hình thức trình bày bản cáo trạng thiếu đầy đủ chặt chẽ như quy

định tại Điều 143 Bộ luật tố tụng hình sự, nhiều bản cáo trạng viện dẫn điều luật thiếu căn

cứ, bố cục của bản cáo trạng thiếu thống nhất theo hướng dẫn chung của ngành, có bản cáo

trạng không có số, không ngày, trong vụ án tồn tại hai bản cáo trạng có cùng giá trị pháp lý

như nhau. Qua kiểm tra việc lập bản cáo trạng trong cùng một đơn vị cũng có sự khác

nhau giữa cấp tỉnh và cấp huyện.

Trong công tác kiểm sát điều tra, còn biểu hiện tư tưởng ngại va chạm xuôi chiều,

nên nhiều nơi, trong nhiều việc chưa đi sâu phát hiện vi phạm. Trong yêu cầu điều tra mới

chú ý đến yêu cầu điều tra tội phạm, chưa chú ý đến chứng cứ gỡ tội và nguyên nhân điều

kiện phát sinh tội phạm. Công tác kiến nghị vi phạm trong hoạt động điều tra làm chưa

thường xuyên và không đồng đều ở cả hai cấp VKSND thành phố cũng như VKSND các

quận huyện.

Việc hướng dẫn chỉ đạo của cấp trên với cấp dưới vẫn còn những vụ việc chưa kịp

thời, không chính xác dẫn đến cấp dưới bị động, lúng túng.

b) Thực trạng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án

hình sự

Những năm qua, công tác kiểm sát xét xử của VKSND thành phố Hà Nội đã chú

trọng nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự

ở thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm. Chất lượng công tác được thể hiện trên cả

hai mặt vừa đẩy nhanh tốc độ giải quyết án, hạn chế dần tình trạng tồn đọng hồ sơ, để

quá hạn luật định, đồng thời vừa hạn chế khắc phục tối đa tình trạng oan sai và vi phạm

nghiêm trọng trong xét xử, góp phần bảo đảm pháp chế trong xét xử các vụ án hình sự.

Với số liệu án đã được xét xử hàng năm, thể hiện luôn có chiều hướng gia tăng,

nhưng sai phạm từng bước được đẩy lùi. Nhìn chung có sự phối hợp giữa VKS với Tòa án

để đưa các vụ án ra xét xử nên tỷ lệ án giải quyết nói chung đã đạt cao. Riêng thủ tục phúc

thẩm cấp thành phố đạt gần 90%.

Viện kiểm sát thành phố đã phối hợp với Tòa án thụ lý giải quyết nhanh và kịp

thời các vụ án lớn, án đặc biệt nghiêm trọng, án điểm, nhiều vụ được xét xử lưu động,

phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị địa phương, góp phần thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của

Đảng về chống tham nhũng, buôn lậu, các tệ nạn xã hội và ma túy.

Các thao tác nghiệp vụ kiểm sát xét xử hình sự đã đi vào nề nếp theo quy chế kiểm

sát xét xử hình sự góp phần đảm bảo chất lượng các vụ án đã truy tố, giảm dần số hồ sơ

các vụ án bị Tòa án trả lại.

Tại phiên tòa, kiểm sát viên đã cố gắng thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn một

cách đầy đủ, nên đã hỗ trợ cho Thẩm phán quyết định bản án đúng pháp luật. Tại các phiên

tòa phúc thẩm, giám đốc thẩm, kiểm sát viên đã kết luận rõ những vi phạm của bản án sơ

thẩm, đề xuất việc khắc phục sai phạm của bản án sơ thẩm, đề xuất việc khắc phục sai

phạm được chính xác. Ngoài ra, công tác kiểm sát xét xử hình sự còn chú ý phát hiện

những vi phạm của Tòa án để kháng nghị, kiến nghị.

Tuy nhiên, công tác kiểm sát xét xử hình sự còn bộc lộ một số điểm cần rút kinh

nghiệm là:

Đối với thủ tục kiểm sát xét xử sơ thẩm, còn tồn tại khá phổ biến việc kiểm tra

hồ sơ vụ án chưa kỹ, chưa thật đầy đủ và đúng với quy chế kiểm sát xét xử hình sự nên

không phát hiện thiếu sót vi phạm trong điều tra truy tố dẫn đến Tòa án phải trả hồ sơ để

điều tra bổ sung. Tỷ lệ này hàng năm là khoảng 3%.

- Về công tác thực trạng quyền công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa còn bộc lộ

một số nhược điểm chủ yếu là:

ở thủ tục sơ thẩm, do chất lượng lập hồ sơ truy tố chưa đầy đủ và chặt chẽ về

chứng cứ nên xảy ra tình trạng án bị cấp phúc thẩm cải sửa còn chiếm tỷ lệ cao (khoảng

35-40% số vụ xét xử phúc thẩm). Nhưng tại các phiên tòa này kiểm sát viên khi công bố

bản cáo trạng cũng như tham gia quá trình xét xử vẫn không kịp thời phát hiện để có biện

pháp khắc phục mà vẫn bảo vệ quan điểm truy tố và đề xuất áp dụng hình phạt đối với bị

cáo.

Việc tham gia xét hỏi tại phiên tòa của kiểm sát viên còn thiếu chủ động, nhạy

bén. Ngay từ khi kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ để tham gia phiên Tòa chưa dự kiến đầy

đủ các tình huống để đề ra nội dung thẩm vấn, nhất là trong quá trình điều tra bị cáo không

nhận tội hoặc chứng cứ còn có điểm chưa vững chắc. Tại phiên tòa chưa tập trung theo dõi

diễn biến khi Hội đồng xét xử thẩm vấn, để đối chiếu với nội dung cáo trạng truy tố và lời

khai, lời trình bày của bị cáo và những người tham gia tố tụng và các nhân chứng khác để

cùng Hội đồng xét xử thẩm vấn rõ ràng.

Nhiều vụ án do kiểm sát viên trước khi tham gia phiên tòa do không trực tiếp đọc

hồ sơ chính nên không nắm chắc nội dung vụ án dẫn đến bị động, bỏ mặc việc thẩm vấn

cho Hội đồng xét xử, không ít vụ án khi xét xử tại phiên tòa các bị cáo lại không nhận tội

nhưng suốt quá trình Hội đồng xét xử thẩm vấn kiểm sát viên vẫn không xét hỏi để đấu

tranh với bị cáo, bảo vệ quan điểm của mình.

- Về bản luận tội, nhìn chung đang là khâu yếu của ngành. Từ việc phân tích, đánh

giá một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ về chứng cứ trong quá trình dự thảo luận tội

đến việc bổ sung chứng cứ trong quá trình tham gia phiên tòa để buộc tội bị cáo còn rất hạn

chế. Tình trạng chung ở các vụ án phức tạp: án kinh tế lớn, án trọng điểm, án điểm, kiểm sát

viên chuẩn bị dự thảo luận tội thường lấy nội dung cáo trạng mô tả sự việc phạm tội để nêu

lại trong bản luận tội, thiếu phần luận chứng, chưa chú ý đưa ra các chứng cứ để chứng minh

cho tội phạm của bị cáo, nhất là trong trường hợp bị cáo chối tội tại phiên tòa. Đối với

những vụ án đơn giản, quả tang chứng cứ rõ ràng thì kiểm sát viên chuẩn bị luận tội theo

khuynh hướng gạch đầu dòng hoặc nói chay. Điều này thể hiện sự chủ quan phiến diện trong

khi dự thảo luận tội, trong phần đề xuất áp dụng pháp luật mới chú ý đến đề xuất áp dụng

hình phạt chính mà chưa chú ý đến đề xuất áp dụng các hình phạt bổ sung, phạt tiền, bồi

thường tài sản.

Về tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên

tòa được xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác công tố, song thời

gian qua còn bộc lộ những mặt yếu nên ít chú ý đến phát biểu của người bào chữa; đáng

lưu ý có những trường hợp lời bào chữa có những điểm không đúng với sự thật, khác với

nội dung buộc tội nhưng kiểm sát viên vẫn không có sự tranh luận để làm rõ sự thật của vụ

án, làm rõ những vấn đề thiếu chính xác, sai sự thật của lời bào chữa. Ngoài ra, ở nhiều vụ

án khi tranh luận chưa chú ý vào những vấn đề cơ bản đang có ý kiến khác nhau để đưa ra

chứng cứ đấu tranh thuyết phục với những quan điểm không đúng của người bào chữa mà

nêu chung chung hoặc khẳng định ngay là có đủ căn cứ như cáo trạng truy tố.

Về thực hiện chức năng kiểm sát xét xử, nhiệm vụ cơ bản của VKS nhằm bảo đảm

tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động xét xử của Tòa án. Điểm yếu của công tác

này là còn tình trạng thiếu nhận thức đầy đủ về những căn cứ pháp lý theo quy định của Bộ

luật tố tụng hình sự để làm cơ sở thực hiện chức năng kiểm sát, do vậy vi phạm của Tòa án

ở thẩm quyền xét xử (Điều 145) còn xảy ra ở cấp quận huyện, vi phạm quy định về thời

hạn xét xử (theo Điều 151 thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Điều 215 thời hạn chuẩn bị

xét xử phúc thẩm, Điều 252 thời hạn chuẩn bị xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm) vẫn còn xảy

ra ở cả hai cấp tòa án, nhưng việc phát hiện để tập hợp kiến nghị với tòa án cùng cấp còn

hạn chế.

Đối với những người tham gia tố tụng tại phiên tòa như người bào chữa, nhân

chứng, người đại diện cho bị cáo là vị thành niên v.v... thì hoạt động kiểm sát chưa được chú

ý đúng mức để kiểm sát ngay từ khi Tòa án ra các quyết định tố tụng cho nên vẫn còn có

các phiên tòa phải hoãn để khắc phục, hoặc một số vụ bị cấp phúc thẩm hủy án để xét xử

lại.

c) Thực trạng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án Dân sự, Hôn nhân và

gia đình, Hành chính - Kinh tế - Lao động...

Trong những năm qua, tình hình vi phạm và tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình

đưa đến Tòa án giải quyết không tăng, nhưng tính chất phức tạp.

Hiện nay, trong các quy định của pháp luật thì nhiệm vụ và quyền hạn của

VKSND trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự, hành chính, kinh tế, lao động

và những việc khác theo quy định của pháp luật được quy định tại các điều 15, 17, 18 Luật

tổ chức VKSND và một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp

lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp

lao động và Luật phá sản doanh nghiệp. Theo các văn bản pháp luật này, khi thực hiện

công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, hành chính, lao động và những

việc khác theo quy định của pháp luật, VKSND có những nhiệm vụ và quyền hạn sau là:

- Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án, yêu cầu TAND hoặc tự mình điều tra, xác minh

những vấn đề cần làm sáng tỏ nhằm giải quyết đúng đắn vụ án;

- Khởi tố vụ án theo quy định của pháp luật; tham gia phiên tòa xét xử những vụ

án mà VKS đã khởi tố, kháng nghị hoặc pháp luật quy định; đối với những vụ án khác,

VKSND có thể tham gia tố tụng vào bất cứ giai đoạn nào nếu thấy cần thiết;

- Yêu cầu TAND cùng cấp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của

pháp luật;

- Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết

định của TAND theo quy định của pháp luật.

Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do luật định, trong những năm qua, mặc dù với

biên chế có hạn nhưng VKSND thành phố Hà Nội và VKSND các quận huyện luôn cố

gắng hoàn thành nhiệm vụ được giao, góp phần bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật và đạt

được những kết quả đáng kể trong việc bảo vệ tài sản của Nhà nước, bảo vệ các quyền và

lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân.

Trong công tác kiểm sát, VKSND hai cấp trên địa bàn thành phố đã phát hiện

được nhiều vi phạm pháp luật của TAND trong việc thụ lý, lập hồ sơ và giải quyết vụ án

về dân sự, lao động, hành chính, kinh tế mà điển hình là:

- Tình hình thụ lý đơn kiện còn chậm, có nhiều trường hợp thụ lý nhưng không

yêu cầu các bên cung cấp tài liệu đầy đủ, kịp thời để làm căn cứ cho việc xem xét, giải

quyết vụ án; nhiều vụ án phúc thẩm, giám đốc thẩm hủy án để điều tra xét xử lại từ đầu,

nhưng tòa án cấp sơ thẩm cũng không điều tra bổ sung theo yêu cầu của bản án phúc thẩm

hoặc giám đốc thẩm nên nhiều vụ án, nhất là án dân sự và án kinh tế phải xử đi xử lại

nhiều lần, qua nhiều cấp vẫn không giải quyết dứt điểm được.

- Trong việc thụ lý, nhiều trường hợp Tòa án xác định không đúng tư cách của

đương sự, có sự lẫn lộn giữa bị đơn và người có quyền và nghĩa vụ liên quan.

- Trong quá trình tiến hành hòa giải, việc ra quyết định công nhận sự thỏa thuận

của các đương sự nhiều khi không đúng thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, hành chính,

kinh tế, lao động, còn xảy ra không ít trường hợp hòa giải vắng mặt đương sự, nhất là án ly

hôn và án kinh tế; hòa giải không có thẩm phán chủ trì ký biên bản hòa giải.

- áp dụng Luật nội dung và Luật tố tụng không đúng, nhất là những vụ án dân sự

và hành chính về tranh chấp đất đai; xác định quan hệ tranh tụng còn nhầm lẫn giữa tranh

tụng dân sự với kinh tế, điều này thường xuyên xảy ra đối với việc giải quyết các tranh

chấp hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng tín dụng,…

- Vi phạm thời hạn giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, lao động,… khá phổ biến

ở Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm. Có nhiều vụ việc ra bản án còn chậm đến 2 hoặc 3

tháng.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế,

hành chính, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật cũng còn nhiều thiếu

sót, khuyết điểm: do số lượng án dân sự cũng như các tranh chấp trong lĩnh vực hành

chính, kinh tế, lao động ngày càng tăng và diễn biến phức tạp, trong khi biên chế cán bộ,

kiểm sát viên làm công tác này hầu như không được tăng dẫn đến tình trạng quá tải, chất

lượng và hiệu quả công tác không cao; thêm vào đó, quy định của pháp luật hiện hành còn

chưa đầy đủ nên việc nhận thức và vận dụng pháp luật để thực hiện công tác kiểm sát còn

gặp nhiều khó khăn, làm hạn chế đến hiệu quả của công tác kiểm sát.

Tình trạng vi phạm tập trung của cơ quan xét xử xảy ra còn nhiều như: Thụ lý đơn

khởi kiện của đương sự không đúng quy định của pháp luật, điều tra trước khi thụ lý vụ án;

điều tra không đầy đủ đã đưa ra xét xử, vi phạm các thủ tục, trình tự trong hòa giải, xét xử;

đáng chú ý là án để quá hạn luật định còn phổ biến, án xét xử bị cải sửa, hủy tỷ lệ bình

quân trong những năm gần đây chiếm xấp xỉ 50%, không được làm rõ nguyên nhân, trách

nhiệm cụ thể nên chưa có giải pháp khắc phục hậu quả.

Thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành, VKSND thành phố và các quận huyện đã

góp phần cùng với ngành Tòa án giải quyết có hiệu quả các vụ án Dân sự. Tuy nhiên, việc

tham gia phiên tòa của Kiểm sát viên ở cá trình tự sơ thẩm, phúc thẩm đạt tỷ lệ còn thấp, trình

độ phát hiện vi phạm trong quá trình lập hồ sơ, hòa giải, xét xử... hạn chế, ít phát hiện được vi

phạm để điều tra bổ sung, tự điều tra bổ sung, kháng nghị theo các trình tự chưa được nhiều,

trong khi án có vi phạm bị cải sửa ở cấp phúc thẩm còn chiếm tỷ lệ cao, chất lượng kháng

nghị một số vụ án còn thấp, phải rút kháng nghị hoặc không được Tòa chấp nhận. Còn tình

trạng tiếp nhận xử lý đơn lúng túng, hiệu quả chưa cao.

Trong những năm qua, tình hình thụ lý giải quyết các vụ án hành chính - kinh tế -

lao động của Tòa án cấp sơ thẩm tăng không nhiều, nhưng nội dung thì rất phức tạp và đa

dạng, công tác kiểm sát việc giải quyết án sơ thẩm hành chính - kinh tế - lao động của

VKSND thành phố cũng như VKS các quận huyện cũng có một số điểm cần lưu ý là:

Tình trạng vi phạm pháp luật của Tòa án trong việc thụ lý, lập hồ sơ và thực

hiện tố tụng giải quyết các vụ án hành chính - kinh tế - lao động cũng xảy ra nhiều

nhưng VKSND các cấp ít phát hiện được vi phạm để kiến nghị sửa chữa hoặc báo cáo

VKS cấp trên kháng nghị theo thẩm quyền.

d) Công tác kiểm sát việc thi hành án

Năm 1994 ngành kiểm sát tái thành lập hệ thống tổ chức kiểm sát THA từ Trung

ương đến cấp huyện. ở VKS thành phố đã thành lập Phòng kiểm sát THA, ở cấp huyện đã

có biên chế các Kiểm sát viên chuyên trách làm công tác THA.

Sau khi ổn định tổ chức bộ máy, hoạt động của công tác kiểm sát THA đã dần đi

vào nề nếp và có hiệu quả, góp phần thúc đẩy công tác THA đạt kết quả đáng kích lệ. Kết

quả hoạt động kiểm sát THA ngày càng toàn diện, thường xuyên và tích cực hơn.

Về kiểm sát THA phạt tù, ở cả hai cấp kiểm sát đã từng bước phối hợp với cơ

quan Công an, Tòa án để rà soát số bị án phạt tù đã có hiệu lực nhưng Tòa án chưa ra

quyết định THA, hoặc số bị án đã có quyết định THA nhưng Công an chưa bắt THA theo

quyết định của Tòa án, tác động yêu cầu kiến nghị của các cơ quan này thực hiện.

Công tác kiểm sát THA ở cả cấp thành phố và quận huyện đã phối hợp với cơ

quan THA ngang cấp để cưỡng chế THA nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng do

phía THA cố tình chây ì hoặc trốn tránh việc THA, phối hợp với Hội đồng THA tử hình

bảo đảm việc THA tử hình đúng pháp luật.

Công tác kiểm sát THA dân sự, hành chính, kinh tế, lao động và tuyên bố phá sản

doanh nghiệp đang từng bước được tổ chức và thực hiện ở các cấp.

Tuy nhiên công tác kiểm sát THA cũng còn bộc lộ một số điểm yếu là:

Tổ chức hệ thống kiểm sát THA được hình thành từ năm 1994, nhưng nhìn chung

bộ máy chưa hoàn chỉnh, cán bộ làm công tác kiểm sát THA vừa thiếu vừa yếu.

Tại VKS thành phố đã có phòng chuyên trách làm công tác kiểm sát THA, nhưng

ở cấp quận huyện thì kiểm sát viên làm công tác kiểm sát THA chủ yếu là kiêm nhiệm mà

kiểm sát THA chỉ là khâu công tác thứ yếu. Do quan niệm không đúng nên còn tình trạng

bố trí những cán bộ yếu từ các khâu công tác khác điều về khâu công tác kiểm sát THA.

Do vậy không nắm bắt được đầy đủ vi phạm của cơ quan THA, không kiểm sát được hoạt

động của họ, không phát hiện được những vi phạm nghiêm trọng trong hoạt động của cơ

quan THA.

Mặt khác, Quyết định số 12 của VKSNDTC phân định về phạm vi kiểm sát của

kiểm sát THA và kiểm sát giam giữ cải tạo chưa thật phù hợp (kiểm sát THA chịu trách

nhiệm từ khi án có hiệu lực pháp luật đến khi bắt bị án vào trại giam và từ khi bị án THA

xong hình phạt chính cho đến khi xóa án). Một thời gian dài cả kiểm sát THA và kiểm sát

giam giữ cải tạo đều không nắm được thực chất việc tạm đình chỉ THA phạt tù có chính

xác hay không và lý do của các trường hợp được tạm chỉ THA phạt tù không quay lại trại

giam thụ án; kiểm sát THA cũng không được tham gia xét giảm án.

Đây là một điểm vướng mắc còn tồn tại cần khắc phục, nhằm bảo đảm cho hoạt

động của công tác kiểm sát THA của VKSND có hiệu quả hơn.

Một vài năm gần đây, Lãnh đạo VKSND thành phố đã quan tâm chỉ đạo khâu

kiểm sát THA. Nhưng nhiều năm qua, công tác chỉ đạo của lãnh đạo các cấp đối với kiểm

sát THA còn rất hạn chế, thể hiện ở khâu bố trí tổ chức bộ máy, chất lượng cán bộ cho

khâu này.

- Việc lãnh đạo chủ động phối hợp với các ngành hữu quan về THA còn rất hạn

chế, thiếu chủ động, thường xuyên, chưa tạo điều kiện cho cán bộ tham mưu thực hiện

kiểm sát THA.

- Luật về THA chưa kiện toàn, vừa thiếu tính thực thi, những vướng mắc trong

hoạt động THA của cơ quan THA và của hoạt động kiểm sát THA không được hướng dẫn,

tháo gỡ kịp thời; một số thông tư hướng dẫn mất khá nhiều thời gian trong quá trình dự

thảo rồi mới được ban hành gây khó khăn cho hoạt động kiểm sát THA và hoạt động THA

của chính cơ quan THA.

e) Công tác kiểm sát việc giam giữ và cải tạo

Để thực hiện công tác kiểm sát giam giữ, cải tạo VKSNDTC đã ban hành Quy chế

01/QĐ-KSGGCT ngày 03/01/1996 về công tác kiểm sát giam giữ cải tạo đến ngày

20/10/1998 Quy chế số 01 được sửa đổi thay thế bằng Quy chế số 43/QĐ-KSGGCT.

Quy chế đã xác định nhiệm vụ: quyền hạn đối tượng, phạm vi, nội dung phương

pháp công tác kiểm sát giam giữ cải tạo.

- Trong những năm qua công tác kiểm sát giam giữ cải tạo đã thực hiện khá tốt

nhiệm vụ nhằm bảo đảm ba mục tiêu là việc giam giữ, cải tạo theo đúng quy định của pháp

luật; chế độ giam giữ cải tạo được bảo đảm cũng như các chế độ chính sách đối với người

bị giam giữ cải tạo được thực hiện.

Việc giam giữ cải tạo bảo đảm đều có lệnh và quyết định, khi nào hết thời hạn

giam giữ hoặc THA xong hình phạt tù người bị giam giữ cải tạo đều được trả tự do kịp

thời. Tình trạng quá hạn giam giữ trước đây tương đối phổ biến nhưng từ năm 2000 đến

nay (sau khi có Chỉ thị 53 của Bộ Chính trị yêu cầu tăng cường công tác kiểm sát việc bắt

giam giữ, xử lý) việc để bị can bị giam giữ quá hạn tạm giam giảm rõ rệt. Tình trạng này

trên địa bàn thành phố đến nay cơ bản đã được chấm dứt. Không để xảy ra việc giam giữ

người trái pháp luật trên địa bàn thành phố.

Các chế độ đối với người bị giam giữ, cải tạo như ăn, mặc, ở, chế độ y tế, thăm

gặp đã được VKSND thông qua kiểm sát thường kỳ trực tiếp tại nơi giam giữ, cải tạo đã

kiến nghị kháng nghị nhiều lần nên các chế độ nêu trên đã được thực hiện khá tốt, không

còn tình trạng suy kiệt dẫn đến chết ở nơi giam giữ, cải tạo. Cơ bản không còn tình trạng

"đầu gấu", "anh chị" trong các trại tạm giam, nhà tạm giữ của Công an hai cấp.

- Kiểm sát việc quản lý giáo dục phạm nhân đã được tăng cường, bảo đảm việc

nhận xét đánh giá xếp loại cải tạo chính xác giúp cho việc đề nghị giảm thời hạn chấp hành

hình phạt tù được công bằng chính xác. Hàng năm đã có hàng ngàn người được giảm thời

hạn tù do cải tạo tiến bộ.

Tuy nhiên, công tác kiểm sát giam giữ, cải tạo cũng còn tồn tại một số nhược điểm

chính như sau:

Tình trạng thiếu sót chung trong toàn ngành Kiểm sát Hà Nội là: số lần kiểm sát

nhà tạm giữ, trại tạm giam, cơ sở chữa bệnh, có kết luận còn ít; chất lượng kiểm tra, và các

bản kết luận kiểm sát nhà tạm giữ, trại tạm giam còn nhiều hạn chế như: chưa phát hiện hết

vi phạm, việc phân tích kiến nghị vi phạm thiếu cụ thể, thiếu sức thuyết phục.

ở cấp quận huyện một số đơn vị trong khi tiến hành kiểm sát thường kỳ và bất

thường chưa thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn, nội dung, biện pháp đã được quy định

trong quy chế. Vì vậy tình trạng tạm giữ, tạm giam quá thời hạn lác đác vẫn còn.

Việc các đối tượng bị bắt giữ hình sự nhưng chuyển xử lý hành chính nhìn chung

đảm bảo đúng chính sách và pháp luật của Nhà nước: Năm 1999 bắt giữ chuyển xử lý

hành chính 68 đối tượng; năm 2000 bắt giữ chuyển xử lý hành chính 379 đối tượng; năm

2001 bắt giữ chuyển xử lý hành chính 326 đối tượng. Thông qua các đợt kiểm tra của

VKSND thành phố cho thấy số đối tượng bắt giữ hình sự phải xử lý hành chính đều là

những đối tượng phạm tội hình sự nhỏ, đối chiếu với chính sách hình sự không cần thiết

phải xử lý truy tố để Tòa án xét xử; một số đối tượng vận dụng Nghị quyết 32 của Quốc

hội và việc áp dụng chế định của Bộ luật hình sự năm 1999 không cấu thành tội phạm nên

không truy cứu trách nhiệm hình sự.

2.2.2. Nguyên nhân của những thành tích ưu điểm và những hạn chế thiếu

sót

a) Nguyên nhân dẫn đến những thành tích và ưu điểm đã đạt được

Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND

thành phố Hà Nội đạt được những thành tích như phân tích ở phần trên cơ bản là do những

nguyên nhân sau:

- Trước hết, từ các cấp lãnh đạo đến từng cán bộ, kiểm sát viên trong ngành Kiểm

sát Hà Nội đã nhận thức đúng và đầy đủ về chức năng và nhiệm vụ do Hiến pháp và Luật

tổ chức VKSND quy định; đồng thời đã bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị mà Đảng và

Nhà nước đặt ra trong từng giai đoạn cách mạng để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của

ngành.

- Cán bộ kiểm sát viên trong từng khâu công tác nghiệp vụ đã bám sát quy chế làm

căn cứ cho các thao tác nghiệp vụ và quản lý chỉ đạo mang tính pháp quy trong ngành.

- Kế thừa và phát huy được những kinh nghiệm tích lũy qua nhiều năm, không chỉ về

mặt nghiệp vụ mà cả về xây dựng tổ chức bộ máy và đào tạo bồi dưỡng đội ngũ kiểm sát

viên, cán bộ làm công tác kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử hình sự, kiểm sát xét xử dân

sự, kiểm sát THA và kiểm sát việc giam giữ, cải tạo.

- Việc nghiên cứu quán triệt và vận dụng các quy định của Bộ luật hình sự và Bộ

luật tố tụng hình sự đảm bảo đúng đắn, chính xác. Mặt khác, từ thực tiễn của công tác

kiểm sát những năm qua đã chú trọng việc nghiên cứu sơ kết đúc rút kinh nghiệm để rút

kinh nghiệm chung và tổ chức tập huấn quán triệt chung trong ngành.

- Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của ngành

đã xác lập được mối quan hệ và có sự phối hợp thực hiện trong từng khâu nghiệp vụ, và

giữa các khâu với nhau; cũng như giữa VKSND thành phố với VKSND của các quận

huyện. Mặt khác, cũng đã tạo ra sự phối hợp khá chặt chẽ với các ngành tư pháp trên địa

bàn thành phố như: Công an, Tòa án, cơ quan THA... trên cơ sở chức năng nhiệm vụ của

từng ngành do luật định. Từ đó tạo ra sức mạnh chung trong đấu tranh chống và phòng

ngừa tội phạm, cũng như các vi phạm trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của

các cơ quan tư pháp trên địa bàn thành phố.

- Có sự phối hợp với các ngành tư pháp để nghiên cứu áp dụng một số quy định

của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật dân sự cũng như các đạo luật và Pháp

lệnh liên quan đến các hoạt động tư pháp nên đã tạo ra sự thống nhất trong nhận thức và áp

dụng giữa các ngành.

b) Nguyên nhân dẫn đến những mặt hạn chế, thiếu sót

* Nguyên nhân chủ quan

- Tinh thần trách nhiệm của một số cán bộ, kiểm sát viên, của cán bộ lãnh đạo

quản lý một số đơn vị chưa được đề cao, chưa chịu khó học hỏi, suy nghĩ, tích lũy kinh

nghiệm… chưa nắm vững các quy định của Luật tổ chức VKSND, Bộ luật hình sự, Bộ luật

tố tụng hình sự, Bộ luật dân sự, cũng như các đạo luật và Pháp lệnh có liên quan đến hoạt

động của VKSND cũng như các cơ quan tư pháp nên khi vận dụng vào các hoạt động nghiệp

vụ cụ thể còn lúng túng, xử lý thiếu chính xác dẫn đến sai phạm.

- Năng lực trình độ của một bộ phận không nhỏ trong đội ngũ cán bộ kiểm sát viên

còn hạn chế nhất định, nhất là bước vào thời kỳ đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi phải nâng cao trình độ nghiệp vụ kiến thức về pháp luật

và quản lý kinh tế - xã hội thì chưa đáp ứng được.

- Tinh thần của một số cán bộ, kiểm sát viên chưa cao nên chưa làm tròn nhiệm vụ

được giao.

- Công tác quản lý chỉ đạo điều hành nói chung của các khâu công tác còn thiếu

chặt chẽ có lúc thiếu kịp thời, mối quan hệ giữa các khâu nghiệp vụ, giữa các bộ phận cũng

thiếu chặt chẽ (đặc biệt là trong khâu hình sự); sự phối hợp chỉ đạo, hỗ trợ giữa các phòng

nghiệp vụ của VKS thành phố với VKS các quận huyện cũng chưa thật chặt chẽ.

- Tổ chức bộ máy, cán bộ, kiểm sát viên còn thiếu nhiều ở cả hai cấp, nhất là cấp

huyện, trình độ công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự còn yếu, ít phát hiện vi phạm

để kiến nghị, kháng nghị, hiệu quả công tác chưa cao.

- Chế độ báo cáo nghiệp vụ theo quy định của ngành có lúc, có nơi thiếu nghiêm

túc dẫn đến khó khăn cho công tác quản lý, chỉ đạo của cấp trên đối với cấp dưới.

- Việc kiểm tra hướng dẫn nghiệp vụ xây dựng chuyên đề của VKS cấp trên đối

với cấp dưới chưa thường xuyên và kết quả còn hạn chế.

* Nguyên nhân khách quan

Trước hết là việc nghiên cứu quán triệt quy định của Luật tổ chức VKSND và việc tổ

chức thực hiện luật này còn bất cập. Bên cạnh đó việc hướng dẫn áp dụng Bộ luật hình sự

và Bộ luật tố tụng hình sự, cũng như Bộ luật dân sự, các luật và Pháp lệnh liên quan đến

hoạt động của VKS tại các thông tư liên ngành và quy chế nghiệp vụ của ngành thiếu đầy

đủ và chính xác trong từng khâu công tác, dẫn đến khó khăn trong việc nhận thức và vận

dụng pháp luật.

Trong lĩnh vực hình sự:

- Các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật còn chưa phù hợp với thực tế diễn

biến của tội phạm và cũng chưa kịp thời, dẫn tới tình trạng vận dụng điều luật không thống

nhất.

- Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự được ban hành nhiều năm song việc

giải thích và hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền còn ít và chậm, có vấn đề tuy đã

hướng dẫn song lại thiếu sát hợp với thực tế, gây khó khăn cho vận dụng. Tình trạng chung

là nhiều vướng mắc đối với hai Bộ luật không được giải quyết kịp thời.

- Lực lượng các cơ quan tiến hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm

phán, Chấp hành viên) vừa thiếu về số lượng vừa yếu về chất lượng làm cho công tác điều

tra, truy tố, xét xử, THA còn nhiều bất cập.

- Sự phối hợp giữa các ngành bảo vệ pháp luật trên địa bàn thành phố có lúc, có

nơi còn thiếu chặt chẽ, thiếu nhất quán, chưa thường xuyên nên không ít vụ việc quá trình

xử lý có biểu hiện không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với nhau.

Trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính - kinh tế - lao động:

- Trong lĩnh vực dân sự hôn nhân và gia đình thì pháp luật về tố tụng mới dừng ở

mức Pháp lệnh, chưa ban hành được Luật; pháp luật về nội dung thì thiếu đồng bộ, nhiều

điểm còn chung chung, chậm hướng dẫn, làm cho việc áp dụng không thống nhất, thiếu

chuẩn xác.

- Trong lĩnh vực hành chính - kinh tế - lao động thì cả pháp luật về nội dung và

pháp luật về thủ tục tố tụng giải quyết các vụ án không hoàn chỉnh, đầy đủ và đồng bộ,

một số điều quy định có tính đặc thù của á hành chính - kinh tế - lao động không được

hướng dẫn nên gặp khó khăn, nhiều điều luật còn chung chung, lại chậm được sửa đổi, bổ

sung và hướng dẫn đến việc hiểu và áp dụng không thống nhất, thiếu chuẩn xác.

- Các văn bản luật liên quan đến các lĩnh vực này như Luật đất đai, Luật thương

mại, Luật ngân hàng v.v... cũng có nhiều bất cập và không đồng bộ cho nên việc vận dụng

cũng gặp không ít khó khăn. Đặc biệt, trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành

phần cùng song song tồn tại như hiện nay đã tác động không nhỏ đến ý thức của các thành

phần dân cư, dẫn đến nhiều loại tranh chấp phát sinh nhưng các cơ quan chức năng lại rất

khó khăn trong việc giải quyết dứt điểm những tranh chấp này.

Điều kiện cơ sở vật chất:

- Điều kiện làm việc, cơ sở vật chất như trụ sở làm việc, trang thiết bị, phương tiện

kỹ thuật và phục vụ cho công tác nghiệp vụ của ngành còn quá khó khăn, eo hẹp và điều

kiện thu nhập phục vụ đời sống nói chung của ngành còn nhiều khó khăn, thiếu thốn cũng

là nguyên nhân làm cho một số cán bộ, Kiểm sát viên thiếu an tâm công tác hoặc lo lắng

nhiều cho đời sống hàng ngày mà chưa tập trung đúng mức cho công tác nghiệp vụ kiểm

sát.

2.2.3. Những vấn đề pháp lý đặt ra

Như phần trên đã phân tích, thuật ngữ "quyền công tố" đã được biết đến từ lâu và

được ghi nhận chính thức về mặt Hiến định trong Hiến pháp năm 1980 (Điều 138). Song

cho tới nay, khái niệm "quyền công tố" và "thực hành quyền công tố" vẫn chưa được lý

giải một cách cặn kẽ dưới góc độ pháp lý cũng như góc độ ngôn ngữ, và cũng chưa có văn

bản pháp luật nào của Nhà nước ta chính thức giải thích khái niệm "quyền công tố" và

"thực hành quyền công tố". Hiện nay, ở nước ta đang tồn tại rất nhiều quan điểm khác

nhau về quyền công tố; nhưng cho đến nay vẫn chưa có một văn bản pháp lý chính thức

nào của Nhà nước định nghĩa hoặc giải thích về các khái niệm này. Về công tác kiểm sát

các hoạt động tư pháp cũng vậy. Hiện nay, các khái niệm về "quyền tư pháp", "cơ quan tư

pháp", và "hoạt động tư pháp" cũng chưa có văn bản pháp lý nào lý giải cụ thể. Do đó

trong thực tế hoạt động thực hành quyền công tố cũng như việc kiểm sát các hoạt động tư

pháp của VKSND gặp rất nhiều khó khăn trong thực tiễn hoạt động

Bên cạnh đó, với việc thay đổi chức năng, nhiệm vụ của ngành KSND theo Hiến

pháp 1992 (sửa đổi), mà theo đó VKSND không còn thực hiện chức năng "kiểm sát việc

tuân theo pháp luật của các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan khác thuộc chính phủ, cơ

quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công

dân" dẫn đến một số vấn đề pháp lý nảy sinh là:

- Việc chuyển chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSNDTC sang Quốc

hội và các cơ quan của Quốc hội. Quốc hội giám sát tối cao, trong đó có giám sát hoạt

động tư pháp, mà trước hết là bảo vệ Hiến pháp. Như thế Quốc hội không phải là cơ quan

tư pháp nhưng thực hiện quyền tư pháp. Vì đó là hoạt động thực hiện quyền tư pháp nên

chúng ta thấy một số nước thành lập Tòa án hay ủy ban bảo vệ Hiến pháp. Luật giám sát

của Quốc hội mới ban hành đang được tổ chức thực hiện; cần có một thời gian đánh giá

hiệu lực và hiệu quả thực tế mới có thể khẳng định tính đúng đắn của nó.

- Về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đối với tổ chức hoạt động của các

cơ quan nhà nước cùng cấp đang tỏ ra ít hiệu quả, hoạt động hình thức. Nếu Viện KSND

cấp tỉnh và cấp huyện không kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các cơ quan nhà

nước nữa thì liệu Hội đồng nhân dân các cấp có thay thế được công việc của Viện KSND

cùng cấp không? Vậy nên phải luật hóa chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân các

cấp.

Chương 3

Các giải pháp tăng cường pháp chế trong việc

thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân

dân thành phố Hà Nội

3.1. Tăng cường pháp chế trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát các

hoạt động tư pháp là yêu cầu khách quan và cấp thiết trong giai đoạn cách mạng hiện

nay

Vấn đề thứ nhất cần phải làm rõ là: Tại sao phải tăng cường pháp chế XHCN

trong hoạt động thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước ta hiện nay? Đây là vấn đề lớn, có

nhiều cách trả lời. Câu trả lời đúng đắn về vấn đề này chắc chắn phải xuất phát từ những

đòi hỏi khách quan sau đây:

Một là, Nhà nước ta từ khi ra đời đến nay có lịch sử phát triển: từ Nhà nước Việt

Nam dân chủ cộng hòa đến Nhà nước Cộng hòa XHCN đến Nhà nước pháp quyền XHCN

của dân, do dân, vì dân.

Bản chất Nhà nước ta không thay đổi, song hình thức tồn tại, phương thức hoạt

động đã có nhiều đổi mới hoàn thiện ở một trình độ nhất định về tổ chức hoạt động thực

hiện quyền lực Nhà nước. Chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền, đây là đòi hỏi

lớn đối với việc tăng cường pháp chế XHCN như Hiến pháp năm 1992 đã quy định: "Nhà

nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường Pháp chế XHCN..." (Điều

12).

Hai là, tăng cường pháp chế XHCN không chỉ là để phát huy hiệu lực, hiệu quả

quản lý nhà nước mà xét đến cùng là để phát huy dân chủ của nhân dân. Các quyền con

người, quyền chính trị, dân sự và kinh tế, các lợi ích hợp pháp của công dân đã được luật

hóa ngày càng đầy đủ trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta. Pháp chế XHCN là

phương thức đảm bảo các quyền tự do dân chủ của nhân dân không chỉ nằm trong luật mà

được thực hiện trong thực tế.

Nếu các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và của mọi công dân bị xâm

phạm thì pháp chế XHCN là phương pháp giải quyết để bảo vệ đến cùng các quyền và lợi

ích hợp pháp ấy. Như vậy, phát huy dân chủ phải gắn liền với pháp chế và tăng cường

pháp chế XHCN.

Ba là, những hạn chế, bất cập kể cả những lạc hậu trong tổ chức và hoạt động của

hệ thống cơ quan tư pháp ở nước ta; trong đó phải kể đến thực trạng vi phạm pháp luật xảy

ra và đang đe dọa xảy ra trong lĩnh vực hoạt động tư pháp của Nhà nước đòi hỏi phải tăng

cường pháp chế XHCN.

Vấn đề thứ hai là: Nâng cao nhận thức đúng đắn về cải cách tư pháp ở nước ta

hiện nay. Vấn đề này là cơ sở lý luận của việc thiết lập pháp chế trong hoạt động tư pháp.

Cơ sở lý luận đúng, có tính khoa học thì cải cách tư pháp sẽ có hiệu quả, hệ thống tư pháp

sẽ hoạt động ổn định, lâu dài. Như vậy cần có nhận thức đúng đắn hệ thống tư pháp và

hoạt động tư pháp ở nước ta là gì? Vì chúng ta trong nhận thức chưa thống nhất nên việc

xây dựng thể chế tư pháp còn chưa hợp lý, ổn định. Những khía cạnh của vấn đề nêu sau

đây có thể chưa hợp lý, hoặc là hợp lý nhưng chưa ổn định vững chắc, còn phải làm rõ để

tiếp tục hoàn thiện:

Một là, như ở phần trên đã phân tích thì: việc chuyển chức năng Kiểm sát việc

tuân theo pháp luật của VKSNDTC sang Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội; việc thực

hiện Luật giám sát của Quốc hội mới ban hành; hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân

đối với tổ chức hoạt động của các cơ quan nhà nước cùng cấp đang được tổ chức thực hiện

cần có một thời gian đánh giá hiệu lực và hiệu quả thực tế mới có thể khẳng định tính đúng

đắn của nó.

Hai là, về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Nếu cấp cuối cùng giải

quyết mà đương sự không chấp nhận thì có quyền đưa ra Tòa án hành chính giải quyết.

Vấn đề đặt ra là làm thế nào để giải quyết nhanh chóng, kịp thời, có hiệu quả đơn thư

khiếu nại, tố cáo của công dân. Biện pháp giải quyết không chỉ ở trình tự "ngắn" hay "dài",

một cấp giải quyết hay nhiều cấp giải quyết mà phải có giải pháp đồng bộ. Trong đó, cần

có biện pháp khắc phục những nguyên nhân và điều kiện phát sinh ra khiếu nại, tố cáo từ

trong "cơ thể" của Nhà nước và hoàn thiện cơ chế tài phán hành chính.

Ba là, cơ quan điều tra các vụ án hình sự ở nước ta là những cơ quan nào? về việc

phân công điều tra các vụ án còn tản mạn, chưa thống nhất về một đầu mối, thiếu tính hệ

thống dẫn đến việc đùn đẩy trách nhiệm hoặc "lấn sân" nhau; thẩm quyền của các cơ quan

điều tra của Cơ quan Kiểm lâm, Hải quan, Bộ đội biên phòng và Tổng cục an ninh Bộ

Công an v.v... chưa cụ thể, cần được phân định rõ hơn để có cơ chế phối hợp hiệu quả hơn

trên cơ sở xác định trách nhiệm cụ thể.

Bốn là, vấn đề phân định thẩm quyền xét xử của các cấp Tòa án còn chưa hợp lý.

Chưa có cơ chế phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả giữa các cơ quan điều tra, VKS và Tòa án.

Năm là, các dịch vụ hỗ trợ tư pháp ở nước ta chưa phát triển, chưa đáp ứng được

nhu cầu của công dân, của các đơn vị kinh tế, hạn chế đến kết quả giải quyết các vụ án nói

chung và các vụ án hình sự nói riêng.

3.2. Phương hướng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong việc thực

hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân

thành phố Hà Nội

3.2.1. Quán triệt các quan điểm cải cách tư pháp trong Nghị quyết 08-NQ/TW

ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị

Hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành công cuộc cải cách bộ máy nhà

nước, đổi mới hệ thống chính trị, trong đó việc cải cách tổ chức bộ máy và hoạt động của

các cơ quan tư pháp là một đòi hỏi khách quan nảy sinh trong tiến trình đổi mới đất nước.

Công tác tư pháp là một lĩnh vực quan trọng được Đảng và Nhà nước ta quan tâm lãnh

đạo, chỉ đạo. Đặc biệt trong những năm gần đây, Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị

đã có một số nghị quyết, chỉ thị về xây dựng, hoàn thiện nhà nước và pháp luật, trong đó

có một số nội dung đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Trong quá trình

tổ chức thực hiện những nội dung trên, tuy có đạt được một số kết quả nhất định nhưng

vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu bức xúc của công tác tư pháp.

Chủ trương cải cách tư pháp đã được thực hiện từ nhiều năm nay, được tiến hành

đồng thời với đổi mới hoạt động lập pháp và cải cách nền hành chính Nhà nước. Nhưng

việc triển khai thực hiện chưa đạt kết quả như mong muốn. Do đó, ngày 2/1/2002 Bộ

Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra Nghị quyết số 08-NQ/TW về "Một

số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới".

Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị đã tiếp tục làm rõ thêm những chủ trương, nhiệm

vụ về cải cách tư pháp đã được đề ra trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII), các Nghị

quyết Trung ương 3, Trung ương 7 (khóa VIII) và Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của

Đảng. Đồng thời, nêu rõ những nhiệm vụ và biện pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh cải cách tư

pháp đáp ứng với yêu cầu của công cuộc đổi mới. Tinh thần Nghị quyết toát lên từ nội

dung, tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị là tính thời sự, bức xúc của việc đưa vào cuộc

sống, tổ chức thực hiện những chủ trương, giải pháp về cải cách tư pháp. Do vậy, việc

quán triệt và thực hiện tốt, thắng lợi những nội dung, nhiệm vụ nêu trong Nghị quyết 08

của Bộ Chính trị không chỉ là yêu cầu mà còn là trách nhiệm của chúng ta trong việc thực

hiện chủ trương cải cách tư pháp của Đảng.

Cải cách tư pháp cần phải tiến hành đồng bộ việc đổi mới tổ chức và nâng cao chất

lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp trong tất cả các khâu tố tụng (điều tra,

truy tố, xét xử, THA) và các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp. Cái đích mà cải cách tư pháp

cần đạt tới là phải làm thế nào để quyền tư pháp được thực thi đúng, bảo vệ được kỷ cương

pháp luật, củng cố và tăng cường pháp chế XHCN, duy trì một xã hội ổn định, công bằng,

dân chủ và phát triển, không để xảy ra những oan, sai đối với người dân tiến tới xây dựng

được nền tư pháp công bằng, dân chủ, nghiêm minh, phục vụ nhân dân.

Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị đề cập khá toàn diện, có hệ thống những

vấn đề liên quan đến công tác tư pháp hiện nay, trong đó xác định những nhiệm vụ trọng

tâm của công tác tư pháp cần thực hiện trong thời gian tới, chủ yếu là giai đoạn từ năm

2002 đến năm 2005. Bộ Chính trị đã đánh giá đúng tình hình công tác tư pháp chủ yếu

trong 5 năm gần đây, những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, yếu kém và chỉ ra

các nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém đó để có các giải pháp khắc phục.

Về những kết quả đạt được, Bộ Chính trị nhận định:

Trong những năm qua, tình hình vi phạm pháp luật, tội phạm và các

tranh chấp xảy ra nghiêm trọng, diễn biến phức tạp nhưng công tác tư pháp đã

đạt được những kết quả, góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính

trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp

pháp của tổ chức, công dân, bảo vệ pháp chế XHCN, phục vụ tích cực công

cuộc đổi mới; phần lớn cán bộ làm công tư pháp giữ vững phẩm chất chính trị,

có tinh thần trách nhiệm và hoàn thành nhiệm vụ, nhiều đồng chí đã tận tụy với

công việc, có những trường hợp hy sinh cả tính mạng trong cuộc đấu tranh chống

tội phạm.

Đây là sự ghi nhận đúng mức thành tích, về sự cố gắng và tinh thần trách nhiệm

cao của các cơ quan tư pháp, của đội ngũ cán bộ tư pháp trong

cả nước.

Tuy nhiên, Bộ Chính trị cũng nghiêm khắc chỉ ra những thiếu sót còn tồn tại

trong hoạt động của các cơ quan tư pháp như: Chất lượng công tác tư pháp nói chung

chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của công cuộc đổi mới đất nước cũng như sự

trông đợi của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm; làm oan người vô tội, vi

phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với

Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp. Những thiết sót, tồn tại trên thể hiện ở tất cả các

khâu trong hoạt động tố tụng: điều tra, truy tố, xét xử và THA. Các hoạt động bổ trợ tư

pháp (bào chữa, tư vấn pháp luật, công chứng, giám định v.v...) cũng chưa đáp ứng yêu

cầu.

Nghị quyết đã nêu rõ: những khuyết điểm còn tồn tại trong tổ chức và hoạt động

của các cơ quan tư pháp là do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng trước

hết là do 5 nguyên nhân chủ quan cơ bản sau đây:

1- Công tác cán bộ của các cơ quan tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu của tình

hình hiện nay. Đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ và năng lực

nghiệp vụ, một bộ phận tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, sa sút về phẩm chất đạo

đức. Đây là vấn đề nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến kỷ cương, pháp luật, giảm hiệu lực

của bộ máy nhà nước.

2- Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư

pháp còn nhiều bất hợp lý nhưng chậm được đổi mới, kiện toàn cho phù hợp.

3- Cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của các cơ quan tư pháp chưa đáp ứng yêu

cầu nhiệm vụ, nhất là ở cấp huyện nhiều nơi trụ sở còn rất chật chội, phương tiện làm việc

vừa thiếu lại vừa lạc hậu; chính sách đối với cán bộ tư pháp còn chưa tương xứng với

nhiệm vụ và chức trách được giao.

4- Pháp luật trong lĩnh vực tư pháp chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ và còn nhiều sơ

hở. Công tác xây dựng, giải thích, hướng dẫn và tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật

trong đó có pháp luật về lĩnh vực tư pháp còn nhiều bất cập và hạn chế.

5- Việc triển khai và tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về cải

cách tư pháp chưa nghiêm. Nhìn chung, sự lãnh đạo của Đảng và sự quan tâm của Nhà

nước đối với công tác tư pháp còn hạn chế, chưa có cơ chế cụ thể để chỉ đạo sự phối hợp

hoạt động của các cơ quan tư pháp. Công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về

lĩnh vực tư pháp chưa được chú ý đúng mức. Cơ quan tham mưu của cấp ủy về lĩnh vực

nội chính chậm được kiện toàn, chất lượng tham mưu yếu.

Xuất phát từ những đánh giá đó, Nghị quyết đã xác định 4 quan điểm chỉ đạo đối

với công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta. Bốn quan điểm này có tính hệ thống hóa những

quan điểm trước đây đã được xác định trong các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung

ương về xây dựng nhà nước. Điều này thể hiện tính nhất quán của Đảng trong lãnh đạo

công tác tư pháp và đòi hỏi chúng ta phải quán triệt thực hiện đầy đủ cụ thể trên mọi

phương diện. Bốn quan điểm chỉ đạo đó là:

Một là, công tác tư pháp phải thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng, bảo

đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà

nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; phát huy dân chủ,

tăng cường pháp chế, góp phần giữ vững và phát huy bản chất của Nhà nước ta là Nhà

nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Hai là, công tác tư pháp cần phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm

minh các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội tham nhũng và các tội hình sự khác; bảo vệ

trật tự, kỷ cương; bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ, quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ

chức và công dân; phục vụ đắc lực công cuộc đổi mới, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Ba là, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia vào công tác tư pháp.

Các cơ quan tư pháp phải dựa vào nhân dân để hoạt động, đồng thời phải là lực lượng

nòng cốt, là chỗ dựa vững chắc của nhân dân trong đấu tranh phòng, chống vi phạm, tội

phạm và giải quyết tranh chấp.

Bốn là, xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh và từng bước hiện

đại, góp phần xây dựng, bảo vệ Đảng và Nhà nước.

3.2.2. Tăng cường pháp chế trong thực hành quyền công tố và kiểm sát các

hoạt động tư pháp phải gắn với việc triển khai thực hiện tám nhiệm vụ cải cách tư

pháp hiện nay

Nhằm thực hiện những quan điểm chỉ đạo về cải cách tư pháp, Nghị quyết đã đề ra

những nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới bao gồm nhiều công việc

cụ thể, nhưng khái quát trong 8 nhiệm vụ trọng tâm cơ bản. Các nhiệm vụ này không chỉ tiếp

tục khẳng định và làm rõ thêm những chủ trương, giải pháp cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà

nước đã đề ra trong các văn kiện trước đây, mà còn đề ra nhiều chủ trương, giải pháp có tính

cụ thể toàn diện hơn.

Nhiệm vụ thứ nhất: Nâng cao chất lượng hoạt động và đề cao trách nhiệm của

các cơ quan và cán bộ tư pháp.

Trong nhiệm vụ này, Nghị quyết đã nêu nhiều giải pháp cụ thể để nâng cao chất

lượng công tác điều tra, công tác kiểm sát, hoạt động xét xử và THA. Trong đó có định

hướng quan trọng là cần phải đề cao sự tranh tụng dân chủ, bình đẳng tại phiên tòa (thực

chất là nâng cao chất lượng giai đoạn tranh luận tại phiên tòa).

Để thực hiện nhiệm vụ này, trước hết phải có một số biện pháp nhằm nâng cao

chất lượng, hiệu quả của khâu đầu tiên, có tính chất quyết định đến chất lượng của các

khâu khác trong hoạt động tố tụng là khâu điều tra. Do đó, trong Nghị quyết một mặt

khẳng định phải bổ sung cán bộ, nâng cao chất lượng, chuyên môn hóa đội ngũ điều tra

viên, nhất là ở cấp huyện. Mặt khác, yêu cầu các cơ quan điều tra, VKS, Tòa án phải tôn

trọng, bảo đảm quyền của luật sư, bào chữa viên trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của bị can, bị cáo và các đương sự khác.

Đối với VKS, ngoài việc khẳng định VKS có chức năng thực hành quyền công tố,

kiểm sát hoạt động tư pháp, trong Nghị quyết còn nêu rõ sự gắn kết giữa công tác điều tra

với hoạt động công tố để một mặt đề cao vai trò của VKS, đồng thời khẳng định rõ trách

nhiệm của VKS trong công tác giám sát điều tra, truy tố tội phạm. Nếu kiểm sát viên có

năng lực và trách nhiệm thì sẽ phát huy vai trò hết sức quan trọng trong việc ngăn ngừa để

lọt tội phạm và hạn chế các vi phạm, oan, sai trong điều tra, xét xử, THA. Do vậy, Bộ Chính

trị nhấn mạnh đến trách nhiệm, năng lực của kiểm sát viên trong hoạt động tư pháp, nhất là

kiểm sát việc khởi tố và áp dụng các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam.

Kết quả, chất lượng của công tác điều tra, truy tố đều được kiểm tra, phán quyết

thông qua các bản án, quyết định của Tòa án. Bản án, quyết định của Tòa án thể hiện công

lý, công bằng xã hội. Do vậy, nâng cao chất lượng hoạt động của Tòa án là một trong

những nội dung quan trọng nêu trong nhiệm vụ này. Để đạt được mục đích đó, phải quán

triệt và có biện pháp nâng cao tính dân chủ, khách quan trong việc tranh tụng tại phiên tòa.

Để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do

nhân dân, vì nhân dân, xây dựng nền tư pháp công bằng, dân chủ, nghiêm minh thì một

định hướng mới trong hoạt động của các cơ quan tư pháp mà trong Nghị quyết đã nêu rõ

là: Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa,

trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào

chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp.

Đây là định hướng quan trọng đối với các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử; tại phiên tòa

xét xử phải thật sự có sự tranh luận dân chủ, bình đẳng giữa các cơ quan tiến hành tố tụng

với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác... nhằm làm sáng tỏ sự việc,

không nên truy xét một chiều theo ý muốn chủ quan.

Nhiệm vụ thứ hai: Tiếp tục cụ thể hóa và tổ chức thực hiện những chủ trương về

cải cách tư pháp đã được đề ra trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII), Nghị quyết

Trung ương 3, Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII) và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ

IX.

Những nghị quyết nêu trên của Đảng đã đề ra nhiều chủ trương, định hướng về

nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Tiếp tục thực hiện các nghị quyết

đó, Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị đã khẳng định một số vấn đề đã chín muồi, rõ

ràng thì cần được thực hiện ngay; còn những vấn đề chưa thật chín thì Nghị quyết nêu định

hướng để chỉ đạo tiếp tục nghiên cứu triển khai thực hiện.

Trong Nghị quyết Bộ Chính trị đã có một số quyết định mới về chức năng, nhiệm vụ

và tổ chức của một số cơ quan tư pháp trong đó khẳng định VKSND các cấp có chức năng thực

hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Chủ trương này đã được tổ chức thực hiện

thông qua việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức VKSND (sửa đổi); sắp xếp lại cơ

quan điều tra trong ngành kiểm sát, cụ thể là trong hệ thống của VKSND chỉ thành lập cơ

quan điều tra tập trung thống nhất tại VKSNDTC để điều tra các vụ án liên quan đến các tội

xâm phạm hoạt động tư pháp, ở VKSND cấp tỉnh không thành lập cơ quan điều tra.

Nhiệm vụ thứ ba: Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh.

Trong Nghị quyết đề ra yêu cầu phải nâng cao tiêu chuẩn cán bộ tư pháp nhằm đáp

ứng đòi hỏi ngày càng cao của nhiệm vụ. Cán bộ có chức danh tư pháp phải vững vàng về

chính trị, có bản lĩnh, có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ chuyên môn, nghề nghiệp cao, có

kinh nghiệm xã hội và thực tiễn công tác.

Để thực hiện được yêu cầu đó cần phải bổ sung cán bộ cho các cơ quan tư pháp

nhất là cán bộ có chức danh tư pháp; phân công lại nhiệm vụ đào tạo, thống nhất về

chương trình, nội dung và đầu mối đào tạo cán bộ tư pháp; phấn đấu tất cả cán bộ có chức

danh tư pháp phải tốt nghiệp Đại học Luật và qua đào tạo nghề nghiệp.

Nhiệm vụ thứ tư: Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất bảo đảm cho các cơ quan tư

pháp có đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ; có chế độ chính sách hợp lý đối với cán bộ

tư pháp.

Các cơ quan tư pháp là lực lượng nòng cốt trong đấu tranh phòng chống tội phạm,

bảo vệ pháp luật; nhiệm vụ ngày càng khó khăn, phức tạp, nặng nề hơn. Do vậy, Nghị

quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị nêu rõ chủ trương tăng cường đầu tư cho các cơ quan tư

pháp để các cơ quan này có đủ kinh phí và được trang bị những phương tiện hiện đại để hoạt

động. Trong những năm tới, trước mắt cần xây dựng trụ sở của VKS, Tòa án, Đội THA, nhà

tạm giữ ở cấp huyện.

Bên cạnh việc tạo những điều kiện tốt để làm việc, cần phải xây dựng chế độ tiền

lương, phụ cấp, chính sách đãi ngộ và chế độ khen thưởng cho cán bộ tư pháp tương xứng

với trách nhiệm, tính chất hoạt động; bảo đảm cho cán bộ tư pháp yên tâm công tác, có thể

đứng vững không bị tác động, mua chuộc.

Nhiệm vụ thứ năm: Huy động sự tham gia rộng rãi và tích cực của nhân dân vào

công tác tư pháp; nâng cao hiệu quả công tác giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, các

tổ chức xã hội và nhân dân đối với các cơ quan tư pháp.

Trong nhiệm vụ này, Nghị quyết đã đề ra nhiều giải pháp cụ thể để huy động sức

mạnh tổng hợp của nhân dân, của toàn xã hội tham gia vào công tác tư pháp. Trong đó

biện pháp hàng đầu là luôn luôn phải lấy phòng ngừa làm phương châm để chỉ đạo công

tác tư pháp.

Một xã hội ổn định, muốn tội phạm và vi phạm bị đẩy lùi, kỷ cương phép nước

được giữ vững thì phải có những biện pháp ngăn chặn và phòng ngừa có hiệu quả có hiệu

quả. Do vậy, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của Bộ Chính trị là: Cần thu hút đông đảo nhân

dân tham gia phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp

luật và tội phạm ngay địa bàn dân cư cơ sở. Xây dựng cơ chế để nâng cao hiệu quả của các

hình thức giải quyết các tranh chấp khác như hòa giải, trọng tài nhằm góp phần xử lý đúng

và nhanh chóng những mâu thuẫn, khiếu kiện trong nội bộ nhân dân và giảm nhẹ công

việc cho Tòa án và cơ quan tư pháp khác.

Nhiệm vụ thứ sáu: Đẩy mạnh xây dựng pháp luật, giải thích, hướng dẫn, tuyên

truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và nghiên cứu khoa học về công tác tư pháp.

Nghị quyết xác định cụ thể nhiệm vụ này là:

Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tư pháp. Khẩn trương ban

hành Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi), Luật THA, Pháp

lệnh giám định tư pháp và một số luật, pháp lệnh khác làm cơ sở pháp lý cho

hoạt động của các cơ quan tư pháp.

Kịp thời ban hành những văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự,

Bộ luật tố tụng hình sự, Pháp lệnh Luật sư... để bảo đảm áp dụng thống nhất

pháp luật trong hoạt động tố tụng, nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác

tư pháp. Đối với những nội dung của các luật, pháp lệnh cần giải thích thì ủy

ban Thường vụ Quốc hội giải thích theo quy định của Hiến pháp.

Bên cạnh việc nhấn mạnh yêu cầu xây dựng hệ thống pháp luật làm cơ sở pháp lý

cho hoạt động của các cơ quan tư pháp và việc phải tích cực, khẩn trương hướng dẫn, giải

thích pháp luật, cũng cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học nhằm giải đáp những

vấn đề bức xúc hiện nay trong công tác tư pháp và phục vụ cho cải cách tư pháp trong thời

kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Nhiệm vụ thứ bảy: Tăng cường hợp tác quốc tế về công tác tư pháp.

Theo quan điểm của Đảng, trong xu thế mở rộng giao lưu, hội nhập quốc tế hiện

nay thì hợp tác giữa nước ta với các nước khác trên thế giới về lĩnh vực tư pháp là rất cần

thiết. Trên cơ sở bảo đảm độc lập chủ quyền, an ninh quốc gia, Đảng ta chủ trương tăng

cường nghiên cứu, tham khảo, học tập có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về tổ chức và hoạt

động của các cơ quan tư pháp, về đào tạo cán bộ tư pháp, về đấu tranh phòng, chống tội

phạm...

Nhiệm vụ thứ tám: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp.

Cũng như toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam, trong công tác tư pháp của Nhà

nước ta sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một nhân tố quyết định mọi thắng lợi.

Điều này đã được Ban chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị quán triệt, chỉ rõ trong nhiều

nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Do vậy, trong nghị quyết lần này, Bộ Chính trị đã xác định các

cấp ủy đảng phải chú trọng định hướng công tác cho các cơ quan tư pháp; tăng cường công tác

xây dựng Đảng, giáo dục, quản lý, kiểm tra hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên

trong các cơ quan tư pháp; chăm lo công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng đúng cán bộ.

Trong Nghị quyết Bộ Chính trị cũng đã xác định rõ là ở các địa phương thì các đồng chí Bí

thư hoặc Phó Bí thư thường trực cấp ủy trực tiếp phụ trách công tác tư pháp. Như vậy Đảng đã

chỉ rõ các đồng chí lãnh đạo cao nhất ở các cấp ủy đảng phải quan tâm, chú trọng đến công tác

lãnh đạo các cơ quan tư pháp.

3.2.3. Thực hiện đồng bộ những biện pháp cơ bản nhằm tăng cường pháp chế

xã hội chủ nghĩa trong các hoạt động tư pháp

Từ những yêu cầu tất yếu khách quan và những vấn đề pháp lý đặt ra ở trên,

những biện pháp cơ bản nhằm tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực hiện

quyền tư pháp của Nhà nước là:

1- Nhà nước cần tổ chức một hệ thống đồng bộ các cơ quan tư pháp ở nước ta để

khắc phục ngay tính tản mạn và sự thay đổi chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan bảo vệ

pháp luật dẫn đến thay đổi về tổ chức bộ máy, thay đổi cán bộ, tránh những xáo trộn không

cần thiết. Muốn vậy trong tổ chức bộ máy các cơ quan bảo vệ pháp luật phải kết hợp giữa

nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất không phân chia với nguyên tắc thống nhất,

có tính hệ thống trong thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước.

2- Hoàn thiện pháp luật nội dung phải đồng thời hoàn thiện pháp luật tố tụng.

Trước hết, cần hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, tố tụng hành

chính.

3- Củng cố, kiện toàn các cơ quan tư pháp chủ yếu đó là: Cơ quan điều tra,

VKSND và hệ thống TAND. Trước mắt kiện toàn các tổ chức ở các mắt khâu yếu nhất

như TAND huyện, quận, thị xã nhất là Tòa án, VKSND ở những huyện vùng sâu, vùng

xa.

4- Có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ công chức tư pháp như: Thẩm

phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Chấp hành viên và cán bộ công chức ở các cơ quan bảo

vệ pháp luật khác.

5- Nhà nước cần tổ chức, quản lý và phát huy vai trò của các tổ chức, cơ quan

THA, các tổ chức giám định tư pháp, các tổ chức tư vấn pháp lý, các Đoàn Luật sư và hoạt

động luật sư.

6- Cần hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ

trong hoạt động thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước. Trong cơ cấu hoàn thiện cơ chế

phối hợp giữa các ban Đảng như: Ban Nội chính, ủy ban Kiểm tra, Ban bảo vệ chính trị nội

bộ với các cơ quan bảo vệ pháp luật của Nhà nước, kết hợp thật hiệu quả giữa vai trò của

báo chí trong việc phát hiện vi phạm pháp luật và tội phạm.

7- Kết hợp giữa giáo dục và cưỡng chế trong thực hiện quyền tư pháp. Tăng cường

xử lý các vi phạm pháp luật, đấu tranh kiên quyết đối với tội phạm, kết hợp với giáo dục đạo

đức cách mạng cho cán bộ công chức và nhân dân.

Vận dụng các quan điểm chỉ đạo của Đảng, kết hợp thực hiện 8 nhiệm vụ trọng

tâm của công tác tư pháp mà Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị đã xác định với

những biện pháp đề xuất nêu trên, nhằm tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực

hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND thành phố Hà Nội, tác

giả xin đề xuất một số giải pháp cụ thể - được trình bày trong mục 3.3.

3.3. Một số giải pháp nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong việc

thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân

dân thành phố Hà Nội

3.3.1. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho cán bộ của Viện kiểm

sát nhân dân và các cơ quan tư pháp nói riêng, cũng như cho nhân dân và cán bộ nói

chung

Như các phần trên đã phân tích, để thực sự có một nền pháp chế XHCN thì cần có

hai yếu tố đó là:

- Sự hiện diện của một hệ thống pháp luật; mà hệ thống pháp luật này phải đảm

bảo là điều kiện cần và đủ cho sự tồn tại một trật tự pháp luật XHCN và kỷ luật của mọi tổ

chức.

- Sự đòi hỏi tuân thủ và thực hiện đầy đủ pháp luật trong tổ chức và hoạt động của

bộ máy nhà nước, của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, nhân viên nhà nước và công dân.

Không nằm ngoài những đòi hỏi chung của việc xây dựng nền pháp chế XHCN,

pháp chế trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của

VKSND cũng đòi hỏi có sự đáp ứng của hai yếu tố trên.

Thứ nhất: Về sự hiện diện của một hệ thống pháp luật; mà hệ thống pháp luật này

phải đảm bảo là điều kiện cần và đủ cho sự tồn tại một trật tự pháp luật XHCN và kỷ luật

của mọi tổ chức.

Yếu tố này đòi hỏi các cơ quan nhà nước ở tầm vĩ mô cần xác định một chiến lược

tổng thể nhằm xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh làm điều kiện pháp lý

cho sự tồn tại của một trật tự pháp luật XHCN.

Thứ hai: Về sự đòi hỏi tuân thủ và thực hiện đầy đủ pháp luật trong tổ chức và

hoạt động của bộ máy nhà nước, của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, nhân viên nhà nước và

công dân.

Yếu tố thứ hai này đòi hỏi một trình độ nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật

cao của các nhân viên, công chức nhà nước và công dân.

Vấn đề ý thức pháp luật giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc áp dụng pháp

luật. Để áp dụng đúng đắn một quy phạm pháp luật đòi hỏi phải có sự hiểu biết chính xác

nội dung và yêu cầu của quy phạm đó, phải giải thích và làm sáng tỏ nội dung và ý nghĩa

của quy phạm ấy. Pháp luật XHCN là cơ sở để củng cố, phát triển và nâng cao ý thức pháp

luật XHCN.

Kinh nghiệm thực tiễn cho chúng ta thấy, cải cách bộ máy nhà nước, dân chủ hóa

mọi mặt đời sống xã hội, xây dựng Nhà nước Pháp quyền phải đi đôi với quá trình hoàn

thiện hệ thống pháp luật, tăng cường Pháp chế XHCN, nâng cao ý thức pháp luật và nâng

cao trình độ văn hóa pháp lý cho cán bộ và nhân dân lao động. Cả ba nhân tố đó được tăng

cường đồng bộ, phát triển hài hòa thì cải cách bộ máy nhà nước mới có hiệu quả, dân chủ

hóa mới đi vào cuộc sống một cách lành mạnh, và có như vậy mới có thể từng bước xây

dựng được một Nhà nước Pháp quyền Việt Nam XHCN.

Nhìn vào thực tiễn đổi mới hơn 17 năm qua ở nước ta có thể thấy rằng, ý thức

pháp luật và văn hóa pháp lý của cán bộ, nhân dân ta chưa được nâng cao tương xứng với

việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Có thể nói, chưa có thời điểm nào mà số

lượng các văn bản pháp luật được Nhà nước ta ban hành nhiều như trong những năm gần

đây. Hàng chục đạo luật và Pháp lệnh mới ra đời hướng tới điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực

khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội. Trong lúc đó trình độ nhận thức pháp luật và văn

hóa pháp lý của cán bộ và nhân dân chưa được nâng lên tương xứng với sự đổi mới hệ

thống pháp luật. Đại đa số nhân dân vẫn còn ở trong trạng thái kém hiểu biết về pháp luật.

Xét trên ba yếu tố tạo nên trình độ văn hóa pháp lý của một người, có thể thấy rõ thực

trạng đó như sau:

- Yếu tố trước tiên của văn hóa pháp lý của cá nhân công dân là tri thức pháp luật.

Đây là yếu tố ban đầu quan trọng để phát triển ý thức pháp luật và là tiền đề của tính tích

cực của hành vi hợp pháp của con người. Nó là điều kiện cần thiết để tiếp xúc với chính trị

và văn hóa, là chất kích thích cho các hành vi hợp pháp, là phương tiện để thực hiện quyền

dân chủ. Nhận thức pháp luật tối thiểu của một công dân trước hết đó là sự am hiểu thấu

đáo các quy định của pháp luật, vai trò của nó trong đời sống xã hội, và nắm vững các

quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân mà Hiến pháp và các đạo luật chủ yếu đã quy định.

Trình độ nhận thức pháp luật này của người dân nước ta còn rất hạn chế. Trên thực tế công

dân rất lúng túng trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho

mình để tự bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do đó họ cũng không có

những ứng xử tích cực trong việc đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật và tội

phạm.

- Yếu tố thứ hai của văn hóa pháp lý của cá nhân công dân là tình cảm tôn trọng

đối với pháp luật hiện hành. Tình cảm ấy trước hết là lòng tin đối với pháp luật. Tin vào sự

cần thiết, vào tính công bằng, vào lợi ích của việc điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp

luật, tin vào tính không khoan nhượng của nó. Đấy là yếu tố rất quan trọng để chuẩn bị tư

tưởng cho mỗi người hành động theo pháp luật. ở nước ta có thể nhận thấy rằng, một bộ

phận không nhỏ công dân nước ta do bị ảnh hưởng nặng nề của hệ tư tưởng phong kiến và

pháp luật của chế độ thực dân với những hình phạt tàn khốc, độc ác dã man, lại thiếu tri

thức pháp luật của xã hội mới nên tình cảm pháp luật của họ là sự sợ hãi chứ không phải là

sự tin tưởng vào pháp luật. Văn hóa pháp lý không thừa nhận sự tôn trọng pháp luật dựa

trên tình cảm sợ hãi pháp luật. Sự sợ hãi không bao giờ dẫn con người đến những hành vi

xử sự tích cực đối với pháp luật. Nó đối lập với dân chủ, với tính tích cực trong hành vi

ứng xử của con người. Ngược lại, một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhất là những người

có chức có quyền, tri thức pháp luật không đến nỗi kém so với những người lao động bình

thường nhưng họ không có tình cảm pháp luật đúng đắn nên có hành vi vi phạm pháp luật,

thậm chí là tội phạm. Tình cảm pháp luật của họ là coi thường pháp luật, đặt mình cao hơn

pháp luật hiện hành để mưu cầu những lợi ích tầm thường cho cá nhân.

- Yếu tố thứ ba của văn hóa pháp lý của cá nhân công dân là hành vi xử sự theo

đúng những đòi hỏi của pháp luật. Hành vi đó phải trở thành thói quen, trở thành niềm tin

nội tâm được xây dựng trên tri thức và tình cảm đúng đắn đối với pháp luật. Như đã nói ở

trên, đa số các thành viên trong xã hội ta chưa có đủ một lượng tri thức pháp luật cần thiết

trong nhận thức, và tình cảm pháp luật lại chưa đúng đắn thì xã hội tất yếu chưa thể hình

thành thói quen "Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật".

Từ ba yếu tố tạo nên văn hóa pháp lý của một người nhìn rộng ra có thể đi đến kết

luận rằng trình độ văn hóa pháp lý của xã hội ta nhìn chung còn thấp kém hơn các dạng văn

hoá khác. Điều đó không còn phù hợp với quá trình đất nước đang từng bước mở rộng dân chủ,

với sự ra đời của nhiều chế định pháp lý mới.

Do đó, giáo dục pháp luật nâng ý thức pháp luật cho mỗi cá nhân và toàn xã hội

đóng một vai trò rất quan trọng trong việc giúp cho người dân quan tâm đến pháp luật, xây

dựng động cơ đúng đắn trong việc thực hiện pháp luật và tích cực đấu tranh phòng chống

các vi phạm pháp luật.

Vai trò quan trọng của giáo dục pháp luật là ở chỗ nó nâng cao sự hiểu biết về

pháp luật, nắm được tri thức pháp luật, xây dựng tình cảm pháp lý và nâng cao ý thức pháp

luật cho nhân dân. Mục đích cuối cùng của giáo dục pháp luật là tạo ra một động lực tư

tưởng chung của toàn xã hội thúc đẩy hành động nhất quán theo một trật tự chung mà

khuôn khổ pháp luật quy định. Biến động lực chung đó thành động cơ thúc đẩy hành vi

tích cực pháp luật một cách tự giác của từng cá nhân công dân và công chức nhà nước.

Tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật là biện pháp phòng ngừa hữu hiệu những

hành vi vi phạm và tội phạm. Đó là một trong những hình thức, phương pháp nhằm đưa

pháp luật đến với những con người cụ thể.

Có thể nói rằng, trong việc tăng cường tuyên truyền và giáo dục pháp luật được

bắt đầu từ việc nhận thức thống nhất và đúng đắn về công tác này. Xuất phát từ nội dung

của pháp luật nói chung, và đặc biệt là các Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự cũng như các

luật và Pháp lệnh liên quan đến hoạt động của VKSND và các cơ quan tư pháp nói riêng,

phải coi công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật là một bộ phận trong hệ thống giáo dục

nói chung, và là trách nhiệm của các cơ quan Đảng, Nhà nước và của các tổ chức trong hệ

thống chính trị. Trong lĩnh vực hoạt động của VKSND và các cơ quan tư pháp nói chung,

kiến thức pháp luật phải được đặt ngang hàng với kiến thức và thông tin về các vấn đề xã

hội và cuộc sống để tuyên truyền cho nhân dân cũng như cho đội ngũ công chức nhà nước,

và thậm chí ngay cả đối với đội ngũ cán bộ công chức của các cơ quan tư pháp.

Từ mục đích của giáo dục pháp luật cần xác định rõ đối tượng nội dung cụ thể cần

được giáo dục tuyên truyền pháp luật mới đề ra được hình thức, phương pháp giáo dục

thích hợp.

Chúng tôi cho rằng, trước hết cần phải phân biệt việc giáo dục pháp luật và tuyên

truyền pháp luật là hai phạm trù khác nhau, tuy chúng có cùng nội dung và mục đích.

Tuyên truyền pháp luật là một hình thức của giáo dục pháp luật. Bởi vì đây là một

trong những hình thức truyền tải nội dung pháp luật các tri thức về luật pháp, thực chất là

đưa thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng đến với các đối tượng cần được giáo

dục. Bởi vì, nhiệm vụ quan trọng của giáo dục pháp luật là nâng ý thức pháp luật cá nhân

nhằm xây dựng ý thức pháp luật chung của toàn xã hội. Vì trình độ ý thức pháp luật cá

nhân ở các công dân có sự khác nhau, khi tiến hành công tác giáo dục pháp luật nói chung

và pháp luật trong lĩnh vực hoạt động của VKSND nói riêng cần chú ý một số vấn đề có

tính nguyên tắc là:

1- Phải tính đến khả năng lĩnh hội những kiến thức pháp lý của các loại đối tượng

(công chức nhà nước nói chung, công chức trong các cơ quan tư pháp nói riêng, công

nhân, nhân dân lao động v.v...) các tầng lớp dân cư để từ đó lựa chọn những phương pháp

và hình thức giáo dục thích hợp.

2- Làm cho công dân hiểu được rằng: bảo vệ trật tự pháp luật, hình thành một nền

pháp chế XHCN vững chắc là sự nghiệp của toàn dân. Công dân có quyền được bảo vệ

trong một môi trường pháp luật lành mạnh. Nhưng tất cả mọi công dân đều phải có nghĩa

vụ thực hiện nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật để giữ gìn sự tự do an toàn cho

cá nhân mình và đồng thời cũng phải tôn trọng sự tự do an toàn của mọi người, cũng như

của toàn xã hội.

3- Kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức, làm sáng tỏ tầm quan trọng xã

hội và giá trị đạo đức của các quy phạm pháp luật nói chúng và các quy phạm pháp luật

trong lĩnh vực hoạt động của VKSND cũng như của các cơ quan tư pháp nói riêng để

người dân cũng như mọi cán bộ công chức của VKSND và các cơ quan tư pháp nghiêm

chỉnh chấp hành pháp luật. Đồng thời tạo điều kiện để công dân thực hiện quyền giám sát

đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và hoạt động của VKSND nói riêng.

4- Kích thích và tạo điều kiện phát triển tâm lý pháp lý tích cực của công dân; hình

thành ở họ thái độ không khoan nhượng đối với những hành vi vi phạm pháp chế và xâm

phạm đến trật tự pháp luật. Có như vậy mới phát huy được quyền làm chủ của công dân;

kích thích tinh thần dân chủ trong nhân dân nhằm xây dựng một xã hội công dân đúng nghĩa

trong môi trường một Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản

Việt Nam.

Như vậy, đồng thời với việc xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng

bộ, kịp thời, công tác giáo dục ý thức pháp luật trong các tầng lớp nhân dân nói chung,

cũng như cán bộ công chức của VKSND và các cơ quan tư pháp nói riêng có ý nghĩa quan

trọng để tăng cường hiệu lực trong lĩnh vực hoạt động của VKSND nói riêng cũng như của

các cơ quan tư pháp nói chung.

3.3.2. Nhận thức và thực hiện đúng các quy định của Luật tổ chức Viện kiểm

sát nhân dân năm 2002 về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn thực hành quyền công tố

và kiểm sát các hoạt động tư pháp

Theo quy định của Điều 138 Hiến pháp 1992 (sửa đổi), và Luật tổ chức VKSND

năm 2002, nhiệm vụ của VKSND là "thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động

tư pháp". Nhiệm vụ trọng tâm của công tác kiểm sát chính là đảm bảo cho việc truy cứu

trách nhiệm pháp lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và bảo đảm cho hoạt động của

các cơ quan tư pháp tuân thủ nghiêm chỉnh, kịp thời, và đúng các quy định của pháp luật.

Trong các giai đoạn của quá trình tố tụng, kiểm sát viên đồng thời thực hiện hai

chức năng đó là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động của các cơ quan tư pháp.

Kiểm sát viên thực hiện chức năng thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm việc

truy tố của VKS đúng người, đúng tội, đúng pháp luật không để lọt tội phạm và người

phạm tội. Việc thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động của các cơ quan tư pháp là nhằm

đảm bảo cho hoạt động điều tra, xét xử, giam giữ cải tạo, THA của các cơ quan tư pháp

tuân thủ đúng theo các quy định của pháp luật.

Với quy định nói trên thể hiện đặc trưng và sự khác biệt cơ bản giữa hoạt động của

VKSND với và các cơ quan tư pháp khác hay nói một cách khác là không có một cơ quan

nhà nước nào có thể thay thế VKS để truy tố kẻ phạm tội ra trước Tòa án và có trách

nhiệm bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan tư pháp đúng quy định của pháp luật.

Theo đó nếu có một người bị truy tố xét xử oan sai hoặc việc hoạt động của các cơ

quan tư pháp không tuân thủ theo đúng quy định của Pháp luật thì trách nhiệm trước hết

vẫn là VKSND vì Đảng và Nhà nước đã giao trọng trách cho VKSND nhiệm vụ là thực

hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động của các cơ quan tư pháp mà không một cơ quan

nhà nước nào có thể thay thế.

Nhận thức về việc bảo đảm truy tố đúng người đó là đúng người đã thực hiện hành

vi phạm tội mà cuộc điều tra của cơ quan điều tra đã kết luận, là người thực hiện hành vi

phạm tội phải đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và họ có năng lực chịu trách nhiệm hình sự

theo quy định của Bộ luật hình sự.

Yêu cầu truy tố đúng tội, đó là hành vi phạm tội đã được thực hiện phải được

VKSND xác định là tội phạm, và hành vi đó vi phạm vào điều luật nào của Bộ luật hình

sự. Việc xác định đúng tội danh các điều khoản để truy tố là yêu cầu hết sức quan trọng và

cần thiết, có xác định đúng tội danh, mới có cơ sở để đề xuất áp dụng mức hình phạt đúng

đắn mới có tác dụng trừng trị kẻ phạm tội và giáo dục chung thông qua vụ án, mới đáp ứng

được đòi hỏi của dư luận xã hội và của nhân dân.

Tóm lại, về yêu cầu truy tố đúng pháp luật phải xem xét toàn diện đầy đủ các quy

định của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự cũng như nhưng văn bản quy phạm

pháp luật khác có liên quan để làm căn cứ.

Về chức năng kiểm sát hoạt động của các cơ quan tư pháp của VKSND là nhằm bảo

đảm cho hoạt động của cơ quan điều tra, cơ quan xét xử, và cơ quan THA tuân thủ đúng

pháp luật một cách nghiêm minh và kịp thời. Nội dung chức năng này thể hiện đối tượng

để tiến hành kiểm sát đó là hoạt động tố tụng của các cơ quan tư pháp phải tuân thủ

nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Khi thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động

tư pháp, trước hết kiểm sát viên phải nắm chắc và đầy đủ các quy định và trình tự thủ tục

của việc tiến hành tố tụng ở từng khâu nghiệp vụ do Luật tổ chức VKS quy định để làm

căn cứ kiểm sát. Đồng thời phải nắm chắc các quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật dân

sự, Bộ luật tố tụng hình sự, cũng như các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, hành

chính, kinh tế, lao động và các quy phạm pháp luật khác có liên quan để làm căn cứ kiểm

sát.

3.3.3. Kiện toàn tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên của

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu

thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp

Để tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm

sát các hoạt động tư pháp thì việc kiện toàn tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ,

kiểm sát viên của VKSND thành phố Hà Nội đủ về số lượng, đảm bảo về phẩm chất, đủ

năng lực, trình độ để hoàn thành nhiệm vụ là có ý nghĩa quyết định. Để thực hiện nhiệm vụ

đó, trong thời gian tới cần phải tiến hành một số nội dung cơ bản sau:

Trước hết, cần bố trí cơ cấu tổ chức bộ máy của VKSND thành phố trên cơ sở

triển khai nghiên cứu, sắp xếp tổ chức bộ máy trong ngành kiểm sát theo tinh thần Luật tổ

chức VKSND năm 2002.

- Tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy lãnh đạo của VKSND

các quận huyện cũng như các phòng nghiệp vụ của VKS thành phố cho phù hợp với Luật

tổ chức VKSND năm 2002.

- Để làm tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư

pháp, cần có đề án nghiên cứu về tổ chức bộ máy các khâu công tác nghiệp vụ, bảo đảm

hoàn thành nhiệm vụ trong tình hình mới.

- Xác định rõ nhu cầu biên chế và cơ cấu kiểm sát viên ở từng địa phương, đơn vị

trong toàn ngành để tổng hợp báo cáo VKSNDTC.

Thứ hai, xây dựng đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên theo tinh thần quán triệt nội dung

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) về "Một số

nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng"; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành

Trung ương Đảng (khóa VIII) về "Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước"; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng

(khóa VIII) về "Một số vấn đề về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị" và đáp ứng yêu

cầu cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 08/ NQ-TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính

trị và Luật tổ chức VKSND năm 2002. Công tác tổ chức cán bộ trong thời gian tới của

VKSND thành phố Hà Nội cần phải quán triệt một cách sâu sắc những quan điểm có tính

nguyên tắc về đổi mới công tác cán bộ, đồng thời gấp rút tổ chức triển khai thực hiện tốt

một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm là:

Thứ nhất: Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của ngành phải xuất phát từ việc

quán triệt sâu sắc tinh thần Nghị quyết số 08/ NQ-TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị, các

Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,

nhiệm vụ chính trị của ngành. Xây dựng đội ngũ cán bộ, kiểm sát trên cơ sở giữ vững và tăng

cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; phải phù hợp với cơ chế chính sách và đường

lối đổi mới của Đảng. Phải quán triệt quan điểm Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và

quản lý đội ngũ cán bộ, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ.

Thứ hai: Xác định rõ mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ ở cả hai cấp kiểm sát trên

cơ sở chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp và

yêu cầu tiêu chuẩn hóa cán bộ, bảo đảm đủ về số lượng, đáp ứng được tiêu chuẩn về trình

độ và năng lực nghiệp vụ chuyên môn; đồng bộ về cơ cấu, bảo đảm sự kế thừa, chuyển

tiếp các thế hệ cán bộ tới năm 2005 và 2010, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và tiêu

chuẩn hóa cán bộ của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Thứ ba: Hết sức coi trọng và tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, trẻ

hóa cán bộ trên cơ sở tiêu chuẩn, bảo đảm tính liên tục, tính kế thừa, khắc phục tình trạng

hẫng hụt chắp vá thiếu cán bộ. Phải nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của công tác điều

động và luân chuyển cán bộ, công tác quy hoạch và kế hoạch đào tạo. Có quan điểm và phương

pháp đánh giá, sử dụng và đề bạt cán bộ một cách khoa học, công tâm, khách quan và bảo đảm

đúng quy trình.

Thứ tư: Đào tạo, bồi dưỡng là một nội dung quan trọng của công tác cán bộ, do

vậy cần phải tập trung tạo điều kiện cho các cán bộ có điều kiện học tập nâng cao trình độ

kiến thức khoa học pháp lý, và nâng cao năng lực nghiệp vụ chuyên môn. Đồng thời tạo

điều kiện cho những cán bộ cần đào tạo lại có cơ hội được đào tạo theo đúng tiêu chuẩn,

chất lượng góp phần đa dạng hóa các mô hình đào tạo và đẩy mạnh tốc độ tiêu chuẩn hóa

cán bộ.

Thứ năm: Tiếp tục đổi mới và kiện toàn cơ quan tham mưu về công tác cán bộ

(phòng Tổ chức cán bộ - VKSND thành phố). Chú trọng công tác dự báo chiến lược, tập

trung nghiên cứu và đề xuất kịp thời một số giải pháp và hoàn thiện quy chế về công tác

cán bộ.

Những giải pháp về công tác cán bộ

- Trên cơ sở quán triệt Nghị quyết số 08/ NQ-TW của Bộ Chính trị về một số

nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và tư tưởng chỉ đạo trong đổi mới

công tác cán bộ, phải tiến hành rà soát, đánh giá lại thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ

toàn ngành, từ đó có sự sắp xếp, bố trí lại một cách hợp lý đáp ứng yêu cầu thực hiện chức

năng, nhiệm vụ của ngành, định hướng cải cách hoạt động tư pháp và các chính sách về

cán bộ.

- Về tiêu chuẩn bổ nhiệm kiểm sát viên, đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc

trong quy trình bổ nhiệm cán bộ, nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao trình độ năng lực thực

tiễn của cán bộ và đồng thời cũng là một thách thức lớn đối với công tác cán bộ của ngành.

Tuy nhiên, để phù hợp với tình hình thực tiễn và giải quyết những bất cập còn tồn tại trong

bước quá độ, ngoài việc thực hiện đúng quy định của luật, có thể đề nghị VKSNDTC xem

xét, chấp thuận vận dụng chính sách cán bộ cho một số trường hợp đặc biệt chưa áp dụng về

tiêu chuẩn trình độ chuyên môn, nghiệp vụ trong việc bổ nhiệm kiểm sát viên từ nay đến năm

2005, để anh em có điều kiện hoàn thiện, nâng cao trình độ theo yêu cầu.

3.3.4. Tăng cường sự phối hợp hoạt động giữa Viện kiểm sát nhân dân với các

cơ quan tư pháp trên địa bàn thành phố Hà Nội

Để thực hiện tốt nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư

pháp của VKSND thì sự phối hợp hoạt động giữa VKSND thành phố cũng như các

VKSND các quận huyện với các cơ quan tư pháp trên địa bàn thành phố đóng một vai trò

hết sức quan trọng.

Như các phần trên đã phân tích thì thực hành quyền công tố chính là hoạt động của

VKSND cũng như các cơ quan tư pháp khác (như: cơ quan điều tra, tòa án...) nhằm truy

cứu trách nhiệm pháp lý của các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật.

Thực hành quyền công tố là nhiệm vụ chính của VKSND. Nhưng việc truy cứu

trách nhiệm pháp lý đối với các đối tượng vi phạm pháp luật còn phụ thuộc vào hoạt động

điều tra của cơ quan điều tra và hoạt động xét xử của cơ quan tòa án; và sau khi bản án có

hiệu lực thì còn phụ thuộc vào hoạt động của cơ quan THA. Mặc dù cùng nằm trong hệ

thống các cơ quan tư pháp nhưng các cơ quan này lại có vị trí độc lập (tương đối) với hoạt

động của VKSND. Chính vì vậy, để đưa một vụ việc ra truy cứu trách nhiệm pháp lý một

cách chính xác, đúng đối tượng và đúng pháp luật thì sự phối hợp hoạt động giữa các cơ

quan tư pháp nói chung với VKSND trên địa bàn thành phố có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Cuộc đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật và tội phạm là nhiệm vụ của toàn

xã hội, của mọi cấp, mọi ngành và của mọi công dân; nhưng trong đó nòng cốt phải là các

cơ quan tư pháp của Nhà nước mà trong đó VKSND là một thành viên quan trọng.

Để cuộc đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm có hiệu quả thì sự

thống nhất về ý chí và phối hợp có hiệu quả trong hành động của các cơ quan tư pháp với

nhau nói chung và giữa VKSND với các cơ quan tư pháp khác nói riêng là điều kiện tiên

quyết.

Đây là quá trình phối hợp giữa các cơ quan tư pháp nhằm kiên quyết đấu tranh,

loại trừ các hành vi vi phạm và tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. Sự phối hợp đó không chỉ

được thể hiện trong quá trình đấu tranh phòng chống các biểu hiện vi phạm pháp luật cụ

thể thông qua việc xử lý, giải quyết những vụ án cụ thể; Mà nó còn phải được thể hiện

trong sự thống nhất ý chí từ khâu chỉ đạo điều hành giữa các cấp lãnh đạo của các cơ quan

tư pháp với nhau cũng như giữa các cơ quan tư pháp với VKSND các cấp.

Trong quá trình chỉ đạo điều hành các cấp lãnh đạo cần chú trọng việc hướng dẫn

thực hiện pháp luật một cách thống nhất, tạo ra một sự nhận thức thống nhất giữa các

ngành đối với các quy phạm pháp luật cụ thể cũng như hệ thống các văn bản pháp luật liên

quan đến hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và hoạt động thực hành quyền công

tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND nói riêng.

Trong khi trực tiếp giải quyết các vụ án cụ thể thì sự phối hợp hành động giữa các

nhân viên các cơ quan tư pháp với tinh thần đoàn kết, nhất trí, kiên quyết đấu tranh với các

hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm cũng như các biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, lãng

phí cũng là yếu tố quan trọng.

Phối hợp hành động giữa VKSND với các cơ quan tư pháp có hiệu quả cũng chính

là biện pháp nhằm tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố

và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND.

3.3.5. Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của Viện kiểm sát nhân

dân thành phố Hà Nội

Bên cạnh việc đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu quả các khâu công tác trong lĩnh

vực thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, việc đổi mới công tác

quản lý chỉ đạo điều hành của VKSND thành phố, mà trước hết là bảo đảm được yêu cầu

tập trung thống nhất hoạt động của ngành cũng là việc làm có ý nghĩa nhằm tăng cường

pháp chế XHCN trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.

Cho đến nay tất cả các khâu công tác: Kiểm sát điều tra; Kiểm sát xét xử hình sự; Kiểm sát

xét xử các vụ án dân sự, hành chính, kinh tế, lao động; Kiểm sát THA và Kiểm sát việc

giam giữ - cải tạo đã có quy chế nghiệp vụ.

ở VKSND thành phố, hàng năm sau khi có chỉ thị công tác của Viện trưởng

VKSNDTC, Lãnh đạo Viện cần kịp thời tổ chức quán triệt cho các phòng nghiệp vụ và

VKSND các quận huyện thực hiện các khâu nghiệp vụ công tác kiểm sát theo sự chỉ đạo

thống nhất trong toàn ngành.

Việc kiểm tra, hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ của cấp trên đối với cấp dưới cần chặt

chẽ hơn, thông qua kiểm tra đã kịp thời thông báo rút kinh nghiệm, uốn nắn thiết sót, vi

phạm để chấn chỉnh khắc phục, đồng thời nắm được tiến độ công tác của cấp dưới để chỉ

đạo.

Đáng lưu ý những năm qua Đảng và Nhà nước phát động phong trào đấu tranh

chống tội phạm và lập lại trật tự kỷ cương trên một số lĩnh vực của đời sống xã hội. Quán

triệt các chủ trương này, VKSND thành phố cần quán triệt sâu sắc, kịp thời hướng dẫn

thực hiện Quyết định 114 của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh chống tham nhũng,

chống tệ nạn xã hội, lập lại trật tự an toàn xã hội, và gần đây là Chỉ thị 53 và Nghị quyết

08 của Bộ Chính trị. VKSND thành phố cần tăng cường, kiểm tra đôn đốc việc thực hiện

của cấp dưới, tổ chức sơ kết rút kinh nghiệm công tác chỉ đạo điều hành, chấn chỉnh kịp

thời những thiếu sót trong hoạt động; đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm, những

cách làm tốt để phát huy, nhằm tăng cường pháp chế trong trong hoạt động thực hành

quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND.

3.3.6. Tăng cường các hoạt động giám sát, kiểm tra; xử lý nghiêm minh các vi

phạm pháp luật trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động

tư pháp

Cuộc đấu tranh phòng và chống các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm là

nhiệm vụ cấp thiết và thường xuyên của Đảng và Nhà nước ta cũng như của các tổ chức

chính trị, xã hội, các tổ chức kinh tế và của mọi công dân. Vì vậy, chúng ta phải kết hợp

sức mạnh tổng hợp của mọi cơ quan, đơn vị, mọi tổ chức và mọi công dân vào cuộc đấu

tranh đó; đồng thời phải vận dụng linh hoạt biện pháp cưỡng chế và giáo dục, thuyết phục

nhằm loại trừ tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật ra khỏi đời sống xã hội của chúng

ta.

Quyền chủ thể là một phạm trù khoa học pháp lý có giới hạn. Đó là vấn đề có tính

nguyên tắc bởi không một xã hội có tổ chức nào có thể chấp nhận cho một người hoặc một

tổ chức nào đó có thể làm tất cả những gì họ muốn. Lênin đã từng nói: "Sống trong một xã

hội mà lại thoát khỏi xã hội ấy để được tự do, đó là điều không thể được" [30, tr. 127].

Trong lĩnh vực đấu tranh phòng và chống các vi phạm pháp luật và tội phạm thì

các cơ quan tư pháp và đặc biệt là hệ thống VKSND với chức năng thực hành quyền công

tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp giữ một vai trò đặc biệt quan trọng.

Nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp nói chung và các hệ thống VKSND nói riêng là

đấu tranh, phòng và chống các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm, giữ gìn an ninh

quốc gia, bảo đảm an toàn xã hội, bảo vệ pháp chế XHCN, giữ gìn trật tự pháp luật XHCN

và bảo đảm để công dân được tự do thực hiện các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy

định.

Do đó để xứng đáng là người lính xung kích trên mặt trận bảo vệ pháp chế XHCN,

mỗi người cán bộ, kiểm sát viên của Ngành KSND nói riêng và mỗi cán bộ của các cơ

quan tư pháp nói chung luôn phải trau dồi đạo đức, rèn luyện phẩm chất, không ngừng

nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để hoàn thành trọng trách mà Đảng và Nhà nước

giao phó.

Trong thực tế nhiều năm qua, đại đa số cán bộ, kiểm sát viên trong hệ thống

VKSND đã tu dưỡng, rèn luyện theo đúng 5 điều Bác Hồ dạy Cán bộ Ngành KSND là:

"Công minh, Chính trực, Khách quan, Thận trọng, Khiêm tốn". Nhiều tấm gương sáng vượt

qua khó khăn, không bị sa ngã trước những cám dỗ của vật chất tầm thường, giữ vững

phẩm chất đạo đức cách mạng để hoàn thành nhiệm vụ.

Tuy nhiên, bên cạnh đó lác đác trong ngành vẫn còn có những cá nhân không chịu

tu dưỡng, rèn luyện, chạy theo lối sống vì lợi ích vật chất tầm thường dẫn đến vi phạm kỷ

luật nghiệp vụ, thậm chí vi phạm pháp luật phải bị xử lý kỷ luật ở nhiều mức độ khác

nhau, cá biệt có trường hợp phải truy tố trước pháp luật như trường hợp Nguyễn Thập Nhất,

nguyên Trưởng phòng kiểm sát giam giữ - cải tạo VKSND thành phố Hà Nội trong vụ án

Trương Văn Cam.

Để tăng cường pháp chế trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các

hoạt động tư pháp. Bên cạnh việc thực hiện tốt chức năng hoạt động của mình đảm bảo

cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất trong hoạt động của các cơ quan

tư pháp, bảo đảm việc xử lý đúng đối tượng, đúng pháp luật, hơn ai hết mỗi cán bộ, kiểm

sát viên trong hệ thống VKSND nói chung và VKSND thành phố Hà Nội nói riêng càng

phải là những người chấp hành pháp luật một cách nghiêm chỉnh nhất. Mọi hành vi vi

phạm Pháp luật và tội phạm đều rất xa lạ với truyền thống và bản chất của đội ngũ cán bộ,

kiểm sát viên VKSND thành phố Hà Nội. Do đó, những hành vi đó phải được kiên quyết

loại trừ; những cá nhân vi phạm nhất định phải bị xử lý. Có như vậy mới xứng đáng với

niềm tin và trọng trách mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho Ngành KSND.

Trên cơ sở xử lý những biểu hiện tiêu cực đã phát sinh, chúng ta phải quan tâm

nghiên cứu, phát hiện những nguyên nhân, điều kiện làm nảy sinh những biểu hiện tiêu

cực đó để đề ra biện pháp loại trừ nó khỏi đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên của VKSND thành

phố Hà Nội.

Để đạt được điều đó các cấp lãnh đạo quản lý trong cơ quan VSKND thành phố

Hà Nội cũng như VKSND các quận, huyện phải không ngừng tăng cường kiểm tra uốn

nắn đối với các cán bộ thuộc quyền có trên lĩnh vực nghiệp vụ chuyên môn cũng như tu

dưỡng rèn luyện.

Theo chúng tôi, việc tăng cường kiểm tra, giám sát trong nội bộ và xử lý nghiêm

minh, triệt để các vi phạm pháp luật phát hiện được trong quá trình hoạt động của các cấp

VKSND cũng chính là giải pháp hữu hiệu để tăng cường pháp chế XHCN trong lĩnh vực

thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND thành phố Hà

Nội.

3.3.7. Một số kiến nghị

Nhằm tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và

kiểm sát các hoạt động tư pháp nói chung và của VKSND thành phố Hà Nội nói riêng xin

nêu hai kiến nghị:

Thứ nhất: Về hoàn thiện pháp luật

Pháp chế XHCN chỉ có thể được củng cố và tăng cường trên cơ sở có một hệ

thống pháp luật ngày càng phát triển và hoàn thiện kịp thời thể chế hóa các chủ trương,

đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, kịp thời phản ánh đúng những đặc điểm của hiện

thực XHCN trong từng giai đoạn phát triển cụ thể. Để làm được như vậy phải thường

xuyên thực hành hệ thống hóa các văn bản pháp luật đã có để phát hiện, loại bỏ những quy

định đã lạc hậu, trùng lặp, mâu thuẫn, bổ sung những quy định mới phù hợp với thực tế

phát triển của xã hội; kịp thời thể chế hóa những chủ trương, đường lối của Đảng thành các

quy định của pháp luật; có kế hoạch xây dựng pháp luật phù hợp với mỗi giai đoạn phát

triển của đất nước.

Hiện nay trong điều kiện Đảng ta đang chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền

XHCN Việt Nam trên cơ sở một nền kinh tế hàng hóa vận động theo cơ chế thị trường

nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển theo định hướng XHCN. Việc xây dựng

một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp với điều kiện phát triển

của đất nước trong giai đoạn cách mạng hiện nay là một vấn đề khó khăn và phức tạp.

Đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và hoạt động thực hành quyền

công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND nói riêng thì việc đòi hỏi phải có

một hệ thống pháp luật đồng bộ và hoàn chỉnh cũng là điều cấp thiết trong điều kiện ngày

nay. Đặc biệt là các văn bản pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư

pháp nói chung cũng như của VKSND nói riêng. Nó bao gồm các văn bản pháp luật nội

dung và pháp luật hình thức. Đặc biệt là các văn bản luật hình thức của ta hiện nay chưa

được hệ thống hóa thành các bộ luật hoàn chỉnh là một điều hết sức bất cập cho hoạt động

của các cơ quan tư pháp nói chung cũng như của VKSND nói riêng.

Hiện nay về pháp luật hình thức, chúng ta mới xây dựng được Bộ luật tố tụng hình

sự (nhưng hiện cũng đang trong quá trình sửa đổi). Còn các quy định về tố tụng dân sự, tố

tụng hành chính - kinh tế - lao động; trình tự thủ tục THA v.v... đều chỉ dừng ở mức quy

định chứ chưa xây dựng được các văn bản luật về các mặt hoạt động này. Trong điều kiện

đó chính bản thân hoạt động của các cơ quan tư pháp trong các lĩnh vực nói trên còn gặp

rất nhiều khó khăn. Do đó hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư

pháp của VKSND càng gặp nhiều khó khăn hơn.

Chính vì vậy, nhằm tăng cường pháp chế XHCN nói chung và đặc biệt là pháp chế

trong lĩnh vực hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của

VKSND nói riêng, chúng tôi đề nghị cần phải tăng cường hoạt động xây dựng một hệ

thống pháp luật đồng bộ và hoàn chỉnh làm cơ sở pháp lý cho việc tăng cường pháp chế

XHCN. Đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng các văn bản pháp luật hình thức, quy định trình

tự thủ tục tiến hành các thao tác pháp lý của các cơ quan nhà nước nói chung và các cơ

quan tư pháp nói riêng.

Trước mắt, kiến nghị Quốc hội sớm thông qua Bộ luật tố tụng hình sự (Sửa đổi) và

có kế hoạch xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự cũng như tố tụng về hành chính - kinh tế - lao

động, trình tự thủ tục THA v.v.. làm cơ sở pháp lý cho hoạt động của các cơ quan tư pháp

nói chung và hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của

VKSND nói riêng.

Có như vậy mới có thể tăng cường pháp chế XHCN trong lĩnh vực hoạt động thực

hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND.

Thứ hai: Về giải thích và hướng dẫn thực hiện, áp dụng pháp luật

Có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đồng bộ nhưng không có sự giải thích, hướng

dẫn thực hiện áp dụng pháp luật tạo ra một cách hiểu thống nhất trong hệ thống các cơ

quan áp dụng pháp luật và người dân thì cũng không thể có pháp chế XHCN nói chung

và đặc biệt là pháp chế trong lĩnh vực hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các

hoạt động tư pháp của VKSND.

Trong thực tế hiện nay có nhiều văn bản luật được các cơ quan hữu quan hướng

dẫn không thống nhất dẫn đến việc nhận thức và vận dụng trong thực tiễn hết sức khó

khăn. Hoặc cùng một văn bản nhưng có cơ quan có văn bản hướng dẫn nhưng cơ quan

khác lại không ban hành văn bản hướng dẫn v.v... cũng dẫn đến việc nhận thức và vận

dụng các quy phạm pháp luật gặp khó khăn.

Vì vậy, chúng tôi xin kiến nghị, cần có sự thống nhất giữa các cơ quan hữu quan

trong việc ban hành các văn bản giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật tạo điều kiện cho

các cấp thực hiện và người dân có một cách nhận thức thống nhất đối với các quy phạm

pháp luật đã ban hành. Có như thế mới có thể xây dựng được một nền pháp chế XHCN

thật sự; và có cơ sở để tăng cường pháp chế XHCN.

Trong lĩnh vực hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và hoạt động thực

hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND nói riêng, chúng tôi

thấy cần có văn bản quy định và giải thích rõ một số khái niệm cụ thể như: Tư pháp, cơ

quan tư pháp, hoạt động tư pháp, quyền công tố, thực hành quyền công tố, kiểm sát các

hoạt động tư pháp v.v... bởi trong thực tế hiện nay những khái niệm này được nhiều nhà

khoa học cũng như các nhà lãnh đạo đề cập trong nhiều bài nói, bài viết nhưng chưa có

một văn bản pháp lý nào quy định hoặc giải thích cụ thể các khái niệm đó. Do đó chính các

cán bộ hoạt động trong các cơ quan tư pháp cũng chưa có cách nhìn nhận chính thống về

các khái niệm này. Và như vậy hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp của VKSND cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong khi các khái niệm trên

chưa được quy định và giải thích một cách chính thức.

Kết luận

Tăng cường pháp chế XHCN trong giai đoạn cách mạng hiện nay là một tất yếu

khách quan gắn liền với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của

nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đảng ta chủ trương cải cách bộ máy nhà nước bao

gồm cả các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm nâng cao hiệu lực của bộ máy

nhà nước ta. Trong bối cảnh đó, việc giữ vững và tăng cường pháp chế XHCN càng trở

thành một đòi hỏi cấp thiết nhằm phục vụ công cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản

Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo.

Pháp chế trong hoạt động tư pháp cũng như pháp chế trong hoạt động thực hành

quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của hệ thống VKSND là một bộ phận cấu

thành nền pháp chế XHCN nói chung. Nội hàm cơ bản của pháp chế XHCN trong hoạt

động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND là chế độ

tuân thủ nghiêm minh pháp luật trong tổ chức và hoạt động của hệ thống VKSND, trước

hết là Luật tổ chức VKSND và hệ thống các văn bản pháp luật nội dung và pháp luật hình

thức liên quan đến tổ chức và hoạt động của VKSND nói riêng và các cơ quan tư pháp nói

chung.

Pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp của VKSND có những đặc trưng cơ bản riêng của nó. Những đặc trưng cơ

bản này là cơ sở lý luận để xác định vai trò cũng như phương hướng tăng cường pháp chế

XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của

VKSND ở nước ta hiện nay.

Pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp của VKSND có vai trò đặc biệt quan trọng trong công cuộc xây dựng Nhà

nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân ở nước ta hiện nay. Vai trò đặc biệt đó

bắt nguồn từ vai trò của hệ thống pháp luật nói chung và của các văn bản quy phạm pháp

luật (cả pháp luật nội dung và pháp luật hình thức) liên quan đến tổ chức và hoạt động của

các cơ quan tư pháp nói chung và của hệ thống cơ quan VKSND nói riêng.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước ta đang tiến hành cải

cách tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền

XHCN của dân, do dân và vì dân. Trong công cuộc cải cách đó thì việc cải cách tổ chức bộ

máy và hoạt động của các cơ quan tư pháp là một trong những khâu then chốt quyết định

sự thành công của công cuộc cải cách. Trong bối cảnh chung như vậy thì việc tăng cường

pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư

pháp của VKSND là một tất yếu khách quan bắt nguồn từ đòi hỏi phải tăng cường hiệu lực

hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và của chính hoạt động thực hành quyền

công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND nói riêng và cũng chính là bắt

nguồn từ đòi hỏi xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.

Căn cứ vào những yêu cầu khách quan và xuất phát từ thực trạng pháp chế XHCN

trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND.

Việc tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát

các hoạt động tư pháp của VKSND trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp

quyền XHCN cần tiến hành theo ba phương hướng cơ bản là:

Một là: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống các văn

bản quy phạm pháp luật (cả pháp luật về nội dung và pháp luật về hình thức) liên quan đến

tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và của VKSND nói riêng.

Hai là: Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật và tổ chức thực hiện

có hiệu quả các văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành.

Ba là: Hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ công chức

ngành KSND nói riêng và của các cơ quan tư pháp nói chung có đủ năng lực và phẩm chất

để hoàn thành trọng trách mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.

Tăng cường pháp chế XHCN nói chung và pháp chế XHCN trong hoạt động thực

hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND nói riêng là đòi hỏi cấp

bách của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Để đảm

bảo thành công cần phải thực hành một cách khẩn trương, đồng bộ với những giải pháp

thiết thực, cụ thể và hiệu quả.

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Huy Bằng, (2001), Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao

thông đường bộ ở nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị

Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

2. Dương Thanh Biểu (2002), Tài liệu tập huấn Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

năm 2002 về công tác giải quyết khiếu nại - tố cáo của Viện kiểm sát.

3. Hoàng Công (1987), "Tính thống nhất của pháp chế xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Cộng

sản, (8).

4. Lê Duẩn (1976), Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa bảo đảm quyền làm chủ tập

thể của nhân dân, Nxb Sự thật, Hà Nội.

5. Đảng Lao động Việt Nam (1960), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III,

Nxb Sự thật, Hà Nội.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb

Sự thật, Hà Nội.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb

Sự thật, Hà Nội.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb

Sự thật, Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,

Nxb Sự thật, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Phạm Văn Đồng (1993), Hồ Chí Minh và con đường Việt Nam trên con đường dân

giàu nước mạnh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Trần Ngọc Đường (1992), Nhà nước pháp quyền với cải cách bộ máy nhà nước và

hoàn thiện hệ thống chính trị dưới ánh sáng của văn kiện Đại hội VII trong xây

dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền, Nxb Sự thật, Hà

Nội.

14. Trần Ngọc Đường (1994), "Một vài suy nghĩ về học thuyết pháp chế xã hội chủ nghĩa

trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta", Luật học, (5).

15. Trần Ngọc Đường (1996), "Một vài suy nghĩ về nguyên tắc chỉ đạo xây dựng pháp

luật ở nước ta hiện nay", Nhà nước và pháp luật, (5).

16. Trần Ngọc Đường (1998), Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tập

2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Trần Ngọc Đường (Chủ biên) (1999), Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Hiến pháp 1946 (1994), Tìm hiểu chế độ kinh tế trong Hiến pháp, Nxb Thống kê, Hà Nội.

19. Hiến pháp 1959 (1994), Tìm hiểu chế độ kinh tế trong Hiến pháp, Nxb Thống kê, Hà

Nội.

20. Hiến pháp 1980 (1981), Nxb Pháp lý, Hà Nội.

21. Hiến pháp 1992 (1992), Nxb Pháp lý, Hà Nội.

22. Phạm Hưng (1986), "Khắc phục những mặt yếu về xã hội chủ nghĩa ở nước ta", Tạp

chí Cộng sản, (10).

23. Phan Hiền (1985), "Mấy vấn đề về tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa", Tạp chí

Cộng sản, (10).

24. Hội Luật gia Việt Nam (1985), Hồ Chủ tịch và pháp chế.

25. Hoàng Văn Hảo (1984), "Dân chủ và pháp chế", Nghiên cứu lý luận, (1).

26. Trần Trọng Hựu (1993), Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân - Sưu tập chuyên

đề Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân, Viện Khoa học xã hội Việt Nam -

Viện Thông tin Khoa học xã hội Hà Nội.

27. Phạm Hùng (1985), Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.

28. Nguyễn Nhật Hùng (1996), Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực bảo

vệ sức khỏe nhân dân ở nước ta hiện nay, Luận án PTS Khoa học Luật học, Học

viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

29. Quách Sĩ Hùng (1996) Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa về kinh tế trong quản lý

nhà nước nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện

nay, Luận án PTS. Khoa học Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

30. V.I. Lênin (1981), Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

31. V.I. Lênin (1976), Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

32. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

33. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

34. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

35. V.I. Lênin (1977), Về pháp chế xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.

36. C.Mác - Ph.Ănghen: Toàn tập, tập 1, Nxb Sự thật Hà Nội 1978.

37. C.Mác - Ph.Ănghen: Tuyển tập, tập 6, Nxb Sự thật Hà Nội 1984.

38. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992 (1998), Nxb Thế giới,

Hà Nội.

39. "Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002" (2002), Phụ trang Tạp chí Kiểm sát,

(10).

40. Hồ Chí Minh (1985), Nhà nước và pháp luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội.

41. Khuất Văn Nga (2003), "Quán triệt một số quan điểm cơ bản về cải cách tư pháp trong

xây dựng Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi)", Kiểm sát, (6).

42. Khuất Văn Nga (2003), "Đổi mới quản lý, chỉ đạo công tác kiểm sát việc giải quyết các

vụ án dân sự của ngành kiểm sát nhân dân", Kiểm sát, (9).

43. Đỗ Khánh Tặng (1985), "Tìm hiểu về pháp chế xã hội chủ nghĩa", Giáo dục lý luận,

(2).

44. Phùng Văn Tửu (1988), "Ngành tư pháp nước ta trong công cuộc xây dựng xã hội chủ

nghĩa", Báo Nhân dân, ngày 22/7.

45. Lê Minh Thông (1996), "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong điều kiện xã hội

nước ta hiện nay", Báo Nhân dân, ngày 1/11.

46. Trần Thu (2002), Tài liệu tập huấn Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 về

công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra - kiểm sát xét xử sơ thẩm án

hình sự của Viện kiểm sát.

47. Hà Mạnh Trí (1992), "Tăng cường kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực

kinh tế", Tạp chí cộng sản, (2).

48. Đào Trí úc (1993), Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

49. Đào Trí úc (1994), "Làm thế nào để xây dựng pháp luật và ý thức sống theo pháp

luật", Nhà nước và pháp luật, (3).

50. Đào Trí úc (1997), Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

51. Đào Trí úc (Chủ biên) (1997), Đại hội VIII Đảng Cộng sản Việt Nam

và những vấn đề cấp bách của khoa học về Nhà nước và pháp luật, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội

52. Phạm Hồng Vượng, Báo cáo tình hình chấp hành pháp luật và công tác kiểm sát của

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội năm 1999.

53. Phạm Hồng Vượng, Báo cáo tình hình chấp hành pháp luật và công tác kiểm sát của

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội năm 2000.

54. Phạm Hồng Vượng, Báo cáo tình hình chấp hành pháp luật và công tác kiểm sát của

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội năm 2001.

55. Phạm Hồng Vượng, Báo cáo tình hình chấp hành pháp luật và công tác kiểm sát của

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội năm 2002.