ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
-----------------------------------------------------
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN HẢI ANH
ẢNH HƢỞNG CỦA TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU
ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƢỜI DÂN Ở HẢI PHÒNG HIỆN NAY
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Chủ nghĩa Xã hội Khoa học
Mã số: 60220308
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN THỊ KIM OANH
Hà Nội - 2015
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Trần Thị Kim Oanh. Các nhận định
nêu ra trong luận văn là kết quả nghiên cứu nghiêm túc, độc lập của
bản thân tác giả luận văn trên cơ sở tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu
khoa học đã được công bố. Luận văn đảm bảo tính khách quan, trung
thực và khoa học.
Học viên
2
Nguyễn Hải Anh
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới PGS. TS.Trần
Thị Kim Oanh, người đã trực tiếp chỉ bảo tận tình, hướng dẫn và giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình học tập và thực hiện Luận văn này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các Thầy, các Cô và tập thể cán bộ
trong Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN, đặc biệt
các thầy cô ở Khoa Triết học đã giúp đỡ, dạy bảo, động viên và trao đổi ý
kiến khoa học quý báu trong suốt thời gian học tập để tôi có thể hoàn thành
Luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin được gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè đã luôn
ủng hộ và giúp đỡ để tôi có thể thực hiện tốt luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Học viên
3
Nguyễn Hải Anh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu .............................................................................. 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................... 6 4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu ........................................................... 7 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ............................................. 7 6. Đóng góp của luận văn ............................................................................ 8 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ............................................... 8 8. Kết cấu luận văn ...................................................................................... 8 Chƣơng 1: TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU VÀ ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƢỜI DÂN HẢI PHÒNG HIỆN NAY .................................... 10 1.1. Tín ngƣỡng thờ Mẫu .......................................................................... 10 1.1.1. Một số khái niệm ......................................................................... 10 1.1.2. Đặc trưng cơ bản của tín ngưỡng thờ Mẫu ................................. 13 1.2. Đời sống văn hóa tinh thần ngƣời dân ở Hải Phòng hiện nay ....... 32 1.2.1. Một số khái niệm ......................................................................... 32 1.2.2. Địa kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và đặc điểm đời sống văn hóa tinh thần người dân ở Hải Phòng hiện nay ..................................... 42 Tiểu kết chƣơng 1 ...................................................................................... 49 Chƣơng 2: ẢNH HƢỞNG TÍCH CỰC VÀ TIÊU CỰC TRÊN MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN CỦA TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƢỜI DÂN Ở HẢI PHÒNG HIỆN NAY ..................... 50 2.1. Phƣơng diện tinh thần ...................................................................... 52 2.2. Phƣơng diện lối sống .......................................................................... 59 2.3. Phƣơng diện thực hành tín ngƣỡng .................................................. 66 2.4. Một số giải pháp nhằm phát huy những ảnh hƣơng tích cực, hạn chế những ảnh hƣởng tiêu cực của tín ngƣỡng thờ Mẫu đến đời sống văn hóa tinh thần của ngƣời dân Hải Phòng hiện nay .......................... 75 Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 84 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 89 PHỤ LỤC
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tín ngưỡng, tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, một thực thể xã hội và
là sản phẩm lịch sử do con người tạo ra. Tầm ảnh hưởng của tín ngưỡng, tôn
giáo đến chính trị, văn hóa, xã hội đã được thể hiện rõ nét trong quá khứ và
tiếp tục được khẳng định trong xã hội đương đại. Ở nước ta tín ngưỡng, tôn
giáo có vị trí quan trọng trong đời sống chính trị, văn hóa, tinh thần của xã
hội. Tín ngưỡng và tôn giáo gắn bó lâu dài với dân tộc và phục vụ lợi ích dân
tộc trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, mục đích của tín
ngưỡng, tôn giáo khá phù hợp với mục đích xây dựng xã hội mới ở nước ta
hiện nay.
Nhận thức được vị trí, vai trò của tín ngưỡng, tôn giáo trong giai đoạn
hiện nay, trong Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ V (khóa VIII),
Đảng ta đã ra Nghị quyết Về xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó xác định một trong mười nhiệm vụ cụ
thể là “chính sách văn hóa đối với tôn giáo”. Nghị quyết ghi: “Về tôn giáo, thi
hành nhất quán chính sách tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không
theo một tôn giáo nào của công dân. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp
luật” [21, tr.126]. Như vậy, trong quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước,
ta nhận thấy rõ vị trí và tầm quan trọng của tín ngưỡng, tôn giáo trong đời
sống văn hóa xã hội. Tín ngưỡng, tôn giáo với tính cách là một yếu tố cấu trúc
của xã hội, đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến con người và xã hội trên
cả hai mặt, tích cực và tiêu cực, góp phần tạo nên sắc thái đặc biệt cho đời
sống văn hóa tinh thần của nhân loại. Ảnh hưởng của tôn giáo đối với đời
sống văn hóa tinh thần được đánh giá hết sức khác nhau, thâm chí đối lập
nhau trong lịch sử. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến thống nhất với nhau rằng: tôn
1
giáo, tín ngưỡng vừa có khả năng tạo nên những giá trị làm phong phú và
thúc đẩy đời sống văn hóa tinh thần của xã hội song cũng có thể tạo nên
những cản trở đối với sự phát triển của đời sống văn hóa tinh thần, đời sống
xã hội.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là sản phẩm của văn hoá của người Việt trong mối
quan hệ với tự nhiên và xã hội mà nền tảng là nền nông nghiệp lúa nước. Tín
ngưỡng thờ Mẫu (nói rộng ra là tín ngưỡng thờ Nữ thần) chỉ có ở cộng đồng
người Việt. Dân tộc Việt tôn thờ người phụ nữ, người mẹ, coi người mẹ là
đấng bảo trợ cho sự tồn tại, sinh tồn, phát triển của con người, tự nhiên. Qua
đó, tín ngưỡng thờ Mẫu đã phản ánh rõ nét đặc trưng của văn hoá dân gian,
tăng cường ý thức liên kết cộng đồng cũng như việc đề cao vai trò người phụ
nữ.... Trong suốt tiến trình từ hình thành, phát triển và ngày càng hoàn thiện, tín
ngưỡng thờ Mẫu đã chịu ảnh hưởng nhiều từ các tôn giáo ngoại nhập như Phật
Giáo, Công giáo, Hồi giáo... hoặc tôn giáo nội sinh như Cao Đài, Hòa Hảo... và
tín ngưỡng dân gian tồn tại quanh nó. Tuy vậy tín ngưỡng thờ Mẫu là một
trong những loại hình tín ngưỡng mang tính đặc trưng của người Việt và ngày
càng trở thành loại hình tâm linh không thể thiếu trong đời sống của một bộ
phận quần chúng nhân dân, đặc biệt là nhân dân vùng châu thổ sông Hồng.
Thành phố Hải Phòng là mảnh đất ven biển thuộc đồng bằng châu thổ
sông Hồng, là một trong những thành phố đa tín ngưỡng, tôn giáo và đa văn
hóa; trong đó các loại hình tín ngưỡng và đặc biệt là tín ngưỡng thờ Mẫu rất
phát triển, tùy theo mỗi thời kỳ thăng trầm của đất nước mà tín ngưỡng thờ
Mẫu ở Hải Phòng có những nét phát triển riêng biệt và đã để lại những dấu ấn
đậm nét trong lối sống của người dân đất biển từ xưa đến nay.
Tín ngưỡng thờ Mẫu đã có vai trò nhất định trong xã hội của một bộ
phận người dân Hải Phòng nói riêng cũng như nhiều địa phương khác nói
chung mà vai trò này không phải tôn giáo nào đáp ứng được. Bởi vậy, tín
2
ngưỡng thờ Mẫu tồn tại ở Hải Phòng là điều tất yếu, nên việc đi sâu tìm
hiểu những ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu đến đời sống văn hóa tinh
thần người dân Hải Phòng là vấn đề rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay
của xã hội.
Vì vậy, việc nhận thức đúng đắn về tín ngưỡng thờ Mẫu đặc biệt là tín
ngưỡng thờ Mẫu ở Hải Phòng mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn cần thiết cho
xã hội hiện nay. Đồng thời, luận văn chỉ ra được những ảnh hưởng tích cực của
tín ngưỡng thờ Mẫu đến đời sống văn hóa tinh thần người dân và đưa ra những
giải pháp nhằm hạn chế những tồn tại mà tín ngưỡng thờ Mẫu đem lại. Với lý
do trên, người viết chọn vấn đề Ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu đến đời
sống văn hóa tinh thần người dân ở Hải Phòng hiện nay làm đề tài luận văn
thạc sĩ triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ sau Đổi mới đến nay, tín ngưỡng thờ Mẫu và ảnh hưởng của nó đến
đời sống văn hóa tinh thần ngày càng được rất nhiều người biết đến không chỉ
với tư cách một tín ngưỡng có lượng tín đồ ngày càng đông đảo mà còn nhận
được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả. Các học giả đã có những
nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu, văn hóa, đời sống văn hóa tinh thần ở các
khía cạnh khác nhau nhưng chưa có tác giả nào đề cập đến những ảnh hưởng
cụ thể của loại hình tín ngưỡng này đến các khía cạnh của đời sống văn hóa
tinh thần.
Nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu, văn hóa, văn hóa đời sống tinh
thần có các công trình tiêu biểu cho các mảng đề tài như sau:
1. Các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu
Những ai tìm hiểu về tín ngưỡng thờ Mẫu sẽ thấy những nghiên cứu
của tác giả Ngô Đức Thịnh đưa cho chúng ta một cái nhìn hệ thống nhất, tổng
quan nhất về tín ngưỡng thờ Mẫu với một số công trình tiêu biểu như Sách
3
Đạo Mẫu Việt Nam [72], sách Hát văn [74], sách Đạo Mẫu và các hình thức
Shaman trong các tộc người ở Việt Nam và Châu Á [73], sách Lên đồng hành
trình của thần linh và thân phận [75], sách Tín ngưỡng văn hóa tín ngưỡng ở
Việt Nam [76].
Ngoài ra ta có thể kể đến các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng thờ
Mẫu khác như: Tam tòa Thánh Mẫu của Đặng Văn Lung [51], Văn hóa
Thánh Mẫu của Đặng Văn Lung [52], Các nữ thần Việt Nam của Đỗ Thị Hảo
và Mai Thị Ngọc Chúc, sách Nữ thần và thánh Mẫu Việt Nam do Vũ Ngọc
Khánh, Mai Thị Ngọc Chúc, Phạm Hồng Hà biên soạn [29], Tục thờ Đức
Mẫu Liễu Hạnh, Đức Thánh Trần của Vũ Ngọc Khánh [46]....
Bên cạnh các công trình được xuất bản dưới dạng sách in, còn có nhiều
bài viết được công bố trên các tạp chí cũng đã đề cập đến tín ngưỡng thờ Mẫu
như: Đinh Gia Khánh, Tục thờ Mẫu và những truyền thống văn hóa dân gian
Việt Nam, Tạp chí Văn học, số 5/1992; Văn Ty, Bước đầu tìm hiểu âm nhạc
chầu văn trong tín ngưỡng Mẫu Liễu, Tạp chí Văn học, số 5/1992; Nguyễn
Minh San, Đạo Mẫu nước ta – nhìn từ hệ thống đền miếu và thần tích, Tạp
chí Dân tộc học, số 1/1992; Hương Nguyên, Quanh tục thờ Thánh Mẫu, Tạp
chí Di sản văn hóa, số 7/2004; Trần Lâm Biền, Quanh tín ngưỡng dân giã,
Mẫu Liễu và điện thờ, Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật, số 5/1990;
Nguyễn Minh San (1992), Đạo Mẫu ở nước ta – nhìn từ hệ thống đền miếu và
thần tích, Tạp chí Dân tộc học, số 1, tr 42-47; Nguyễn Minh San (1993), Tứ
pháp – tín ngưỡng độc đáo của người Việt, Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa nghệ
thuật, số 5, tr 62-64; Phạm Quỳnh Phương (1994), Khát vọng của người phụ
nữ Việt Nam qua truyền thuyết về Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Tạp chí Khoa học về
phụ nữ, số 4, tr 4-5; Nguyễn Kim Hiền (2001), Lên đồng một sinh hoạt tâm
linh mang tính trị liệu, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4, tr 69-78; Nguyễn
Quốc Tuấn (2004), Chu Xuân Giao, Phan Lan Hương (2008), Truy tìm những
4
chân thực riêng lẻ: về thời điểm xuất hiện của phủ Tây Hồ từ góc nhìn nhân
loại học lịch sử, Tạp chí Văn hóa dân gian, 3, tr 21-44; Nguyễn Ngọc Mai
(2009), Múa đồng trong nghi lễ lên đồng của người Việt và mối quan hệ với
múa bóng (Chăm) một đôi điều suy nghĩ, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3, tr
56-61....
Các công trình luận văn, luận án và hội thảo khoa học có đề cập đến tín
ngưỡng thờ Mẫu như: Hội thảo khoa học quốc tế Văn hóa thờ nữ thần (Mẫu)
ở Việt Nam và văn hóa – Bản sắc và giá trị được tổ chức trong hai ngày 29 và
30/9/2012 tại Nam Định. Gần đây thì Th.S Vũ Thị Thu An có bảo về đề tài
Thạc sỹ Triết học Tìm hiểu nghi lễ thờ cúng của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Kiến
An – Hải Phòng.
2. Các công trình nghiên cứu về văn hóa, văn hóa đời sống tinh thần
Những đầu sách nghiên cứu về văn hóa, văn hóa tinh thần phải kể đến
Cơ sở văn hóa Việt Nam của Trần Quốc Vượng [92], cuốn Việt Nam văn hóa
sử cương của Đào Duy Anh [4], cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam của
Trần Ngọc Thêm [70], sách Văn hóa và văn hóa học thế kỷ XX của Viện Khoa
học Xã hội, sách Văn hóa và đổi mới của Phạm Văn Đồng [24], Giá trị tinh
thần truyền thống của dân tộc Việt Nam của Trần Văn Giàu [26]; Văn hóa
phong tục của Hoàng Quốc Hải [28], Phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trong
bối cảnh công nghiệp hóa của Lê Như Hoa [33], Góp phần nghiên cứu cách
mạng tư tưởng văn hóa của Vũ Khiêu [48], Nhận diện mấy vấn đề văn hóa
của Viện Văn hóa và NXB Văn hóa - Thông tin....
Bên cạnh đó là các công trình được công bố trên các tạp chí có đề cập
đến văn hóa và đời sống văn hóa tinh thần như: Đỗ Huy với Xây dựng môi
trường văn hóa ở nước ta từ góc nhìn giá trị học, Văn hóa nghệ thuật số 4;
Phùng Đông với bài viết Một số vấn đề về thực trạng và định hướng phát
5
triển đời sống tinh thần của nước ta; Tô Duy Hợp với bài viết Sự biến đổi của
làng xã Việt Nam ngày nay ở đồng bằng sông Hồng; Vũ Ngọc Khánh với bài
viết Tín ngưỡng làng xã...
Các tác phẩm trên đã đề cập tổng quan về tín ngưỡng thờ Mẫu và đặc
trưng, vai trò của văn hóa và văn hóa tinh thần cũng như đề cập đến các giải
pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên
những tác phẩm khoa học đó nghiên cứu trên một phạm vi rộng, đề xuất
những giải pháp ở tầm vĩ mô và chưa đi sâu vào tìm hiểu những ảnh hưởng
trên các khía cạnh của đời sống văn hóa tinh thần của người dân, cụ thể đời
sống văn hóa tinh thần người dân thành phố Hải Phòng hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn chỉ ra những ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu trên một số
phương diện của đời sống văn hóa tinh thần người dân Hải Phòng, qua đó
thấy được những giá trị tích cực cũng như những mặt hạn chế của tín ngưỡng
thờ Mẫu ảnh hưởng đến đời sống văn hóa tinh thần người dân Hải Phòng.
Đồng thời luận văn cũng đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy những ảnh
hưởng tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực còn tồn tại của tín ngưỡng thờ
Mẫu đến một số phương diện của đời sống văn hóa tinh thần người dân Hải
Phòng hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được đề tài luận văn “Ảnh hƣởng của tín ngƣỡng thờ
Mẫu đến đời sống văn hóa tinh thần ngƣời dân ở Hải Phòng hiện nay”,
chúng tôi triển khai thực hiện được những nhiệm vụ sau:
- Giới thiệu được tín ngưỡng thờ Mẫu nói chung và tín ngưỡng thờ
6
Mẫu của người dân Hải Phòng nói riêng;
- Khái quát về đời sống văn hóa tinh thần và đời sống văn hóa tinh thần
người dân Hải Phòng hiện nay;
- Chỉ ra những ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu trên hai phương
diện tích cực và tiêu cực đến một số phương diện của đời sống văn hóa tinh
thần người dân Hải Phòng hiện nay;
- Đưa ra những giải pháp nhằm hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực và
giữ gìn những nét tích cực của tín ngưỡng thờ Mẫu đến đời sống văn hóa tinh
thần người dân Hải Phòng.
4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của tín ngưỡng thờ Mẫu đến một số
phương diện của đời sống văn hóa tinh thần người dân Hải Phòng hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Không gian: Luận văn nghiên cứu ở địa phận thành phố Hải Phòng.
Thời gian: Luận văn nghiên cứu ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu
trong khoảng thời gian từ năm 1986 đến năm 2014.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về tín ngưỡng, tôn giáo; những quan điểm, đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp logic lịch sử, phân tích tổng hợp, phương
7
pháp mô tả, nghiên cứu tài liệu, điền dã…
6. Đóng góp của luận văn
Với việc đi sâu khảo sát, nghiên cứu về ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ
Mẫu đến một vài phương diện của đời sống văn hóa tinh thần ở Hải Phòng,
luận văn góp phần làm rõ ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu tại Hải Phòng.
Qua đó, luận văn không chỉ ra ảnh hưởng tích cực và những hạn chế còn tồn tại
của tín ngưỡng thờ Mẫu đối với đời sống văn hóa của người dân Hải Phòng mà
còn đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế
những tiêu cực của tín ngưỡng thờ Mẫu đối với một số phương diện của đời
sống văn hóa tinh thần người dân Hải Phòng hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Về mặt lý luận
Từ việc chỉ ra những ảnh hưởng và vai trò tích cực và tiêu cực của tín
ngưỡng thờ Mẫu, luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy và hạn chế
những ảnh hưởng của loại hình tín ngưỡng này đến đời sống văn hóa tinh thần
người dân Hải Phòng hiện nay. Bên cạnh đó luận văn góp phần làm sáng tỏ
việc phát triển nghiên cứu lý luận trong thực tiễn đối với ngành khoa học xã
hội nói chung và nghiên cứu tôn giáo, chủ nghĩa xã hội nói riêng hiện nay.
7.2. Về mặt thực tiễn
Luận văn đóng góp vào nguồn tài liệu tham khảo phục vụ cho việc
học tập, giảng dạy cũng như nghiên cứu của sinh viên, giảng viên trong các
trường đại học, các cơ quan, tổ chức chuyên trách về công tác tín ngưỡng,
tôn giáo.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
8
phần nội dung luận văn gồm 2 chương chính:
Chương 1: Tín ngưỡng thờ Mẫu và đời sống văn hóa tinh thần của
người dân Hải Phòng hiện nay.
Chương 2: Ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của tín ngưỡng thờ Mẫu
trên một số phương diện đời sống văn hóa tinh thần người dân Hải Phòng
9
hiện nay.
Chƣơng 1
TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU VÀ ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN
CỦA NGƢỜI DÂN HẢI PHÒNG HIỆN NAY
1.1. Tín ngƣỡng thờ Mẫu
1.1.1. Một số khái niệm
Tín ngưỡng là một khái niệm chủ yếu được dùng trong lĩnh vực tôn giáo.
Ở một số quốc gia thì không có sự phân biệt giữa tín ngưỡng và tôn giáo, điều
đó có nghĩa nói đến tín ngưỡng là nói đến tôn giáo và ngược lại. Ở Việt Nam
và một số nước ở Đông Nam Á, đôi khi nói đến tín ngưỡng cũng được hiểu
như nói đến tôn giáo. Ví dụ ở Việt Nam, việc bàn đến quyền tự do tín ngưỡng
cũng bao hàm cả quyền tự do về tôn giáo, tuy nhiên về mặt ngữ nghĩa của tiếng
Việt và quá trình sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo cho thấy những nét khác biệt.
Xét dưới góc độ ý thức, giữa tôn giáo và tín ngưỡng khó có thể phân
chia rạch ròi. Tín ngưỡng theo góc độ tín ngưỡng tôn giáo là sự tin tưởng,
ngưỡng mộ vào một thế lực siêu nhiên. Như vậy ta có thể thấy cả tín ngưỡng
(thờ thần, thờ cúng tổ tiên...) và tôn giáo (Hồi giáo, Kito giáo...) đều có chung
niềm tin này. Qua đó cho thấy cả tín ngưỡng và tôn giáo xét về mặt ý thức nó
đều là đặt niềm tin vào cái siêu nhiên thần thánh.
Xét trên bình diện hoạt động, và góc độ cấu trúc, tín ngưỡng và tôn giáo
có sự khác biệt. Tín ngưỡng và tôn giáo có kết cấu tương đối giống nhau tuy
nhiên trong nội hàm kết cấu của chúng thể hiện sự khác biệt rõ ràng, cụ thể:
- Kết cấu của tôn giáo bao gồm: ý thức tôn giáo (được chia thành hai
phần: tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo (trong đó hạt nhân là thần học:
đối với tôn giáo mang tính triết học thần học); sự thờ cúng (nối kết giữa chủ
10
thể thờ cúng và đối tượng thờ cúng bằng hệ thống giáo lý, giáo luật rõ ràng,
rành mạch mang tính chất chặt chẽ); cơ cấu tổ chức (chặt chẽ, rõ ràng và có
sự liên kết cụ thể);
- Kết cấu của tín ngưỡng bao gồm: ý thức tôn giáo (hệ tư tưởng tín
ngưỡng mang tính triết lý dân gian); sự thờ cúng (nối kết giữa chủ thể thờ
cúng và đối tượng thờ cúng không có giáo lý, giáo luật và không có tính chặt
chẽ, rõ ràng và còn lỏng lẻo); cơ cấu tổ chức (lỏng lẻo, không có sự liên kết
chặt chẽ);
Qua đó cho thấy kết cấu giữa tín ngưỡng và tôn giáo: kết cấu trong tín
ngưỡng mang tính lỏng lẻo hơn so với kết cấu của tôn giáo; bởi trong bản
thân tôn giáo, ngoài tâm lý tôn giáo nó còn bao gồm cả hệ tư tưởng tôn giáo,
trong hệ tư tưởng tôn giáo nó có hạt nhân là thần học thể hiện tính triết học
trong thần học. Còn đối với tín ngưỡng, kết cấu của nó mang tính truyền
thuyết, không mang tính triết học rõ ràng.
Căn cứ vào đặc trưng cơ bản của tín ngưỡng trên cơ sở phân biệt sự
giống nhau và khác nhau giữa tín ngưỡng và tôn giáo, có thể quan niệm: tín
ngưỡng là một bộ phận của ý thức xã hội, là sản phẩm của các quan hệ xã hội
được hình thành trong quá trình lịch sử, là niềm tin con người đối với cái thiêng
liêng. Nó thể hiện tính chất phong phú, song cũng rất đặc thù trong sinh hoạt
văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng và của mỗi cá nhân.
Qua khảo cứu các công trình nghiên cứu từ trước đến nay, chúng tôi
nhận thấy có những cách hiểu, cách đặt vấn đề khác nhau về tín ngưỡng thờ
Mẫu như sau:
Thứ nhất: Tín ngưỡng thờ Mẫu đã và đang trở thành một loại hình tôn
giáo sơ khai của người Việt.
Theo như tác giả Hoàng Lương: “Đạo Mẫu trong quá trình nảy sinh,
11
vận động và biến đổi đã và đang chuyển hóa từ tín ngưỡng nguyên thủy để trở
thành một tôn giáo sơ khai” [54, tr.88]. Chính vì lẽ đó mà tín ngưỡng thờ
Mẫu: “đã là một tôn giáo chứ không còn là một tín ngưỡng, theo kiểu thờ cúng
tổ tiên trong gia đình hay thờ cúng anh hùng dân tộc tại một số đền riêng lẻ.
Đạo Mẫu đã có những hoạt động mang tính đặc trưng tôn giáo” [52, tr. 502].
Trên thực tế, trước những năm 1975, ở miền Nam Việt Nam cũng hình thành
một cộng đồng thờ Mẫu mang tính chất giáo hội với tên gọi là Tiên Thiên
Thánh Mẫu Giáo, tập hợp các tín đồ toàn Miền Nam. Còn ở miền Bắc hiện nay
cũng hình thành một số trung tâm thờ Mẫu như Đền Đồng Bằng (Thái Bình),
Phủ Dầy (Nam Định), Đền Sòng (Thanh Hóa), Phủ Tây Hồ (Hà Nội).
Thứ hai: Tín ngưỡng thờ Mẫu chỉ dừng lại ở loại hình một tín ngưỡng
dân gian. Bởi lẽ: “Về mặt tâm linh, cũng như quy mô tín đồ nó đầy đủ yếu tố
một tôn giáo, nhưng nó lại thiếu hẳn một triết thuyết để đủ sức trở thành một
tôn giáo hoàn chỉnh” [28, tr.276]. Theo tác giả Nguyễn Hữu Thông: “hình
tượng Mẫu hoàn toàn là sản phẩm của loại hình tín ngưỡng dân gian chứ
không phải là một tôn giáo chính thống. Xu thế biến Mẫu thành tôn giáo
chính thống hiện nay của một số cá nhân là việc làm trái quy luật, không đúng
với tiến trình phát triển” [78, tr.53-54]. Còn tác giả Đinh Gia Khánh cho rằng:
“thờ Mẫu là một tín ngưỡng có nguồn gốc dân gian, một tín ngưỡng bản địa,
khác với các tôn giáo phổ quát”.
Thứ ba: Xem thờ Mẫu là một tập tục, một tín ngưỡng truyền thống của
người Việt. Theo tác giả Trương Sĩ Hùng: “trường hợp tục thờ Mẫu ở Việt
Nam biểu hiện rất rõ, phát triển đến mức gần như một tôn giáo của người
Kinh” [39, tr.8]. Cùng với quan điểm đó, tác giả Mai Thanh Hải cũng đưa ra
nhận định: “Tục thờ Mẫu có sức lan truyền mạnh tới mức nhiều nơi đã lan tỏa
mạnh mẽ…” [27, tr.151].
Thứ tư: Quan niệm cho rằng tín ngưỡng thờ Mẫu là một Đạo. Đại biểu
12
của cách nhìn nhận này là tác giả Ngô Đức Thịnh. Theo ông: “chúng tôi sử
dụng thuật ngữ đạo như Đạo Mẫu, Đạo tổ tiên… Khái niệm “Đạo” ở đây theo
ý nghĩa là con đường, cách thức đưa con người đạt tới niềm tin vào cái thiêng
liêng, siêu nhiên” [76, tr.17].
Qua đó cho thấy có rất nhiều cách hiểu khác nhau về tín ngưỡng thờ
Mẫu, tuy nhiên cách hiểu đúng nhất về tín ngưỡng thờ Mẫu là một loại
hình tín ngưỡng dân gian có khởi thủy là tín ngưỡng sùng bái nữ thần, tôn
xưng người phụ nữ, khoác lên mình họ những sức mạnh siêu nhiêu thần
thánh. Trải qua quá trình phát triển và biến đổi, loại hình tín ngưỡng này
vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Mặc dù đã có sự thay đổi về diện mạo, nhưng
trên thực tế xét trên phương diện cấu trúc và tiêu chí về một tôn giáo, tín
ngưỡng thờ Mẫu vẫn chỉ dừng lại là tín ngưỡng dân gian chứ chưa thể được
công nhận là một tôn giáo vì bản thân nó chưa có kết cấu hoàn chỉnh và
trên thực tế chưa được Nhà nước ta công nhận là tôn giáo.
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của tín ngưỡng thờ Mẫu
a) Đặc trưng về sự ra đời
Sự ra đời của tín ngưỡng thờ Mẫu cho thấy tín ngưỡng thờ Nữ thần
xuất hiện từ rất sớm trong đời sống xã hội. Ngay từ thời kỳ của xã hội công
sản nguyên thủy ở giai đoạn Mẫu hệ người ta đã thấy dấu hiệu của tục thờ Nữ
thần, trong giai đoạn này người phụ nữ đóng vai trò là người tổ chức, quản lý
xã hội và là người lãnh đạo xã hội. Cũng trong thời kỳ này trồng trọt và hái
lượm là phương thức tạo nguồn thức ăn cho cả thị tộc, những hoạt động kể
trên gắn chặt con người với tự nhiên mà người trực tiếp, thường xuyên tiếp
xúc chính là người phụ nữ (đàn ông hoạt động trong lĩnh vực săn bắn và
không mang lại nguồn thức ăn thường xuyên, ổn định). Với tính đặc trưng ấy
đã tạo ra cho họ một niềm tin, một khát vọng cho một cuộc sống sinh sôi, nảy
nở của sản vật tự nhiên phục vụ con người, sự sinh sôi ấy đương nhiên thuộc
13
về giống cái. Về mặt logic, đây chính là hình thức tín ngưỡng của tất cả cộng
đồng, tộc người ở một giai đoạn lịch sử trong tiến trình phát triển. Sự phát
triển của tín ngưỡng từ sơ khai đến hiện đại đều cho thấy có những hình thức
tín ngưỡng tôn giáo được thay bởi hình thức tín ngưỡng khác để phù hợp với
những đòi hỏi của đời sống trần tục và tâm linh. Những phần bị mất đi, bị
thay thế không phải là sự phủ định sạch trơn và không để lại những dấu vết
trong đời sống của con người mà nó được những tín ngưỡng sau đó chọn lọc,
tiếp thu và kế thừa.
Việt Nam là một quốc gia có sự hình thành và phát triển rất sớm, những
tài liệu khảo cổ học gần đây chứng minh rằng không chỉ tộc Việt ở khu vực
phía Bắc, mà cả các tộc ở khu vực Tây Nguyên, khu vực Nam bộ đã được
hình thành từ rất sớm và đạt trình độ phát triển kinh tế – xã hội – văn hóa khá
cao. Thông qua sự phát triển này chúng ta có thể khẳng định phần nào tín
ngưỡng của Việt Nam xuất hiện từ rất xa xưa trong lịch sử và hình thành các
tộc người. Trong các tín ngưỡng đa thần thời kỳ ấy, tín ngưỡng thờ Mẫu là
một hình thức xuất hiện từ khá sớm, với một số những khảo vật còn tồn tại
đến ngày nay giúp chúng ta xác định được việc này. Ví dụ như hình tượng
quan hệ nam nữ trên thạp trống đồng ở đền Hùng, hình tượng đánh trống bằng
chày ở đền Hùng, lễ hội Nõ – Nường ở Lâm Thao, Phú Thọ, lễ hội Tắt đèn –
Hà Tây... vừa là biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực vừa là biểu hiện của tín
ngưỡng thờ Mẫu và cũng là những dấu hiệu để xác định tín ngưỡng thờ Mẫu.
Việc tín ngưỡng thờ Mẫu tồn tại từ xa xưa cho đến nay được lý giải
thông qua đặc điểm của cư dân Việt. Cư dân Việt là cư dân trồng lúa nước, do
vậy họ coi trọng chủ thể của cái sinh sôi nảy nở, mà cái chủ thế ấy là giống
cái và cho đến nay nông nghiệp - nông thôn - nông dân chiếm một tỷ lệ lớn
trong tổng thu nhập, địa bàn lớn và tỷ lệ dân cư. Trong khi Nho giáo được
truyền bá vào Việt Nam từ rất sớm, tuy nhiên trong làng xã nông nghiệp
14
những yếu tố truyền thống (trong đó có đề cao vai trò của người phụ nữ) đã
được duy trì, củng cố, bảo lưu nên vai trò của Nho giáo ở đây bị hạn chế. Mặc
dù Nho giáo đề cao vai trò của người đàn ông, của con trưởng, nhưng trong
mỗi gia đình làng xã Việt Nam, vai trò của người phụ nữ vẫn không hề bị xem
nhẹ, họ vẫn là “tay hòm chìa khóa” và được quyền quyết định những việc
quan trọng, ví dụ như câu “lệnh ông không bằng cồng bà” cho đến hiện nay
vẫn tồn tại và mang tính quyết định.
Nền sản xuất nông nghiệp lúa nước đã sớm hình thành nên lối tư duy
trọng thủy, trọng âm, trọng nữ. Trong tâm thức của người xưa, những đặc tính
“nữ - cái” hay tính chất “nảy nở - con” luôn gắn cho nhiều đối tượng như
đường cái, trống cái, cột cái… Sự gán ghép ấy không phải là ngẫu nhiên, vì
đằng sau đó là mong muốn cây lúa ngoài đồng sinh ra nhiều nhánh đem lại
mùa màng bội thu và còn cả khát vọng lớn lao được “con đàn, cháu đống”
trong nếp nghĩ của người nông dân. Trải qua hàng nghìn năm của xã hội thị tộc
Mẫu hệ, vai trò của người mẹ được đề cao hoàn toàn. Hình ảnh người mẹ là tất
cả trong mỗi thành viên và của cộng đồng từng đơn vị cư trú. Cho đến khi hình
thái gia đình một vợ một chồng phát triển thay thế cho hình thái gia đình thị tộc
mẫu hệ thì vai trò của người mẹ vẫn giữ vị trí chủ yếu trong gia đình.
Đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu là thờ sinh sản mà sinh sản ở đây có
cội nguồn từ tự nhiên, nơi con người và sinh vật sinh ra và phát triển. Quan
niệm trời là cha, đất là mẹ cũng xuất phát từ đó. Ngửa mặt lên là bầu trời bao la
với biết bao bí ẩn của thời tiết, khí hậu; dưới chân là mặt đất với muôn vàn
động thực vật giúp kiếm tìm sự sống, đất cũng chính là mẹ. Con người khi sinh
ra, trưởng thành rồi chết đi trở về với đất, đó vừa là nhận thức vừa là cách ứng
xử của con người với tự nhiên.
Cùng với tiến trình của nhân loại, ý thức mẹ đã thường trực trong từng
cá thể và ngày nay nó càng được củng cố. Mẹ là tất cả, là chỗ dựa cả về vật
15
chất lẫn tinh thần. Từ thời nguyên sơ con người đã tôn sùng thiên nhiên như
là Mẹ: Mẹ Trời, Mẹ Núi, Mẹ Sông, Mẹ Biển. Về mặt ngữ nghĩa Mẫu chính là
Mẹ, Mẫu Thiên tức Mẹ Trời, Mẫu Thượng Ngàn là Mẹ Núi rừng, Mẫu Thoải
là Mẹ Nước. Rồi tôn các Mẫu là Thánh đế để từ đó hình thành lên khái niệm
Tam tòa Thánh Mẫu.
Theo Nguyễn Đăng Duy, tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt (Kinh)
hay ở Việt Nam khởi đầu gắn với chế độ xã hội nguyên thủy mẫu hệ và nền
kinh tế nông nghiệp lúa nước từ đầu gắn với con người cư trú trên các miền
rừng núi. Có nghĩa là tín ngưỡng thờ Mẫu khởi nguyên từ vùng rừng núi, thờ
Mẹ Cây (sau này gọi là Mẫu Thượng Ngàn hay Mẫu Sơn Lâm) rồi theo dòng
lịch sử đi dần xuống trung du, đồng bằng bổ sung thêm những Mẫu khác. Khi
con người xuống trung du, đồng bằng sống bằng nghề nông nhiệp lúa nước,
cây lúa hạt gạo là yếu tố quan trọng hàng đầu nuôi sống con người rồi các hoa
màu, cây ăn quả. Mẹ cây vẫn gắn chặt chẽ với đời sống con người. Và con
người làm nông nghiệp lúa nước thì đất và nước là hai đối tượng quan trọng
tiếp theo được tôn thờ. Đất và Nước được tôn vinh thành Mẹ Đất, Mẹ Nước
(Mẫu Địa, Mẫu Thủy). Thế nhưng quyết định có nước lại do mưa trên trời rơi
xuống, con người chưa hiểu được quy luật của mưa là nước bốc hơi tạo thành
mây và mưa, mà cho đó là do trời quyết định, Mẹ Trời được tôn vinh, Mẫu
Thiên ra nhập vào hàng ngũ Mẫu. Tín ngưỡng là từ thực tế cuộc sống kinh tế,
xã hội, con người đặt ra những lực lượng tôn vinh, tôn thờ phù hợp với cuộc
sống của mình là thế và dần hình thành lên hệ thống Mẫu Tam Phủ - Tứ Phủ.
Qua tín ngưỡng thờ Mẫu chúng ta hiểu cách con người xưa sùng bái hóa
tự nhiên chính là để bảo vệ tự nhiên. Và đến lúc nào đó sự sùng bái ấy chuyển
sang sùng bái Nữ thần mà suy cho cùng đó cũng là cách nhân thần hóa tự
nhiên, bởi lẽ giữa tự nhiên và tính nữ đều có chung những đặc tính đó là sự sản
sinh, bảo trợ và che chở. Ở cả ba cõi trời – non – nước từ thiên nhiên trở thành
16
các đấng siêu nhiên. Và sau này đến thế kỷ XVI đã hình thành thêm một Mẫu
nữa là Địa Cung Thánh Mẫu hay thường gọi là Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Ở bà
tựu chung nét đẹp của một người mẹ, người chủ, một vị tướng và vị thánh. Sự
xuất hiện của Thánh Mẫu Liễu Hạnh vừa là nhu cầu phát triển nội tại của tín
ngưỡng thờ Mẫu đã có từ trước, vừa phản ánh khát vọng của quần chúng nhân
dân dưới thời Lê. Vốn là một tín ngưỡng mang đậm màu sắc tự nhiên, nay nó
được đời thường hóa, đáp ứng những khát vọng của con người về: tài lộc, chữa
bệnh, ban phúc, phán truyền. Từ đây, tín ngưỡng thờ Mẫu mang trên mình diện
mạo mới vừa truyền thống lại rất hiện đại. Chính điều đó làm cho loại hình này
nhanh chóng phát triển, lan tỏa khắp mọi miền đất nước. Và cùng với sự xuất
hiện của vị thần chủ này thì hệ thống điện thần, quan niệm nhân sinh và vũ trụ,
đặc biệt là các nghi lễ - lễ hội càng thể hiện tính hệ thống hơn.
Như vậy, trong tâm thức người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ nói chung luôn
hướng trọn về Mẫu – người Mẹ lớn linh thiêng của vũ trụ và muôn loài, của
giống nòi và xứ sở. Tâm thức ấy tồn tại xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc,
trở thành yếu tố bản chật trong tâm linh dân tộc cho đến tận ngày nay với nhiều
thăng trầm và biến cố lịch sử cùng với chiều dài lịch sử của dân tộc. Tín
ngưỡng thờ Mẫu cùng với nhiều tín ngưỡng bản địa khác đã chống chọi và
khẳng định sức sống lâu bền của mình qua sự tác động không nhỏ của các tôn
giáo ngoại nhập, ngoại lai với các hình thức xâm nhập phong phú và hệ thống
giáo lý hoàn chỉnh. Tuy nhiên tín ngưỡng thờ Mẫu vẫn có những sức sống
riêng nhờ những nét đặc sắc, những phương diện mà chỉ ở tín ngưỡng thờ Mẫu
mới đáp ứng đủ về mặt tâm linh cho quần chúng nhân dân.
Việc Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ XVI vừa xuất
phát từ nhu cầu phát triển nội tại của tín ngưỡng thờ Mẫu đã có từ trước
nhưng cũng vừa phản ánh khát vọng của quần chúng nhân dân thời Lê mạt,
một xã hội buôn bán, nhất là buôn bán chợ quê phát triển, gắn với vai trò
17
người phụ nữ; xã hội rối loạn, nhân tâm ly tán mà một trong những biểu hiện
rõ ràng nhất là khởi nghĩa diễn ra triền miên. Với vị thần chủ này, tín ngưỡng
thờ Mẫu vốn là một tín ngưỡng gắn với thiên nhiên, trời đất, nay được “đời
thường hóa”, gắn liền với khát vọng của con người, thân phận của con người
trong đời sống hằng ngày và những tài lộc, ban phúc, chữa bệnh, giáng họa
chính từ đây. Tín ngưỡng thờ Mẫu vừa mang tính dân tộc, truyền thống tuy
nhiên lại cập nhật rất kịp thời nhu cầu của quần chúng nhân dân, làm cho nó
nhanh chóng phát triển, lan tỏa khắp mọi miền đất nước.
Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hải Phòng nằm trong dòng chảy chung của tín
ngưỡng thờ Mẫu, bên cạnh những nét tương đồng chung thì nó có những đặc
trưng riêng mang tính cơ bản trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hải Phòng. Điều
này được thể hiện qua đối tượng thờ cúng, chủ thể thờ cúng, địa điểm thờ
cúng và thông qua những ảnh hưởng của nó đến với các khía cạnh cụ thể của
đời sống văn hóa tinh thần người dân Hải Phòng. Tín ngưỡng thờ Mẫu Hải
Phòng đặc biệt phát triển bởi nét dân gian, đời thường như: phản ánh về
những nét đẹp của người phụ nữ như Bà Đế với tấm lòng son sắt hay Chúa Bà
Năm Phương với những lần hiển linh để dạy dỗ người đời, những kẻ ngang
tàng ngạo ngược... Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hải Phòng có sự tiếp nối và phát
triển dựa trên đặc trưng của vùng miền và nhu cầu về đời sống của nhân dân
tại Hải Phòng. Chính điều này phản ánh rõ nét về sức sống mạnh mẽ của tín
ngưỡng trong mọi hoàn cảnh và trước sự phát triển của nền kinh tế thị trường
cùng nhiều làn sóng tín ngưỡng khác. Tuy nhiên bản sắc, đặc trưng của tín
ngưỡng thờ Mẫu vẫn được giữ gìn và không ngừng phát huy ảnh hưởng của
mình trước xu thế của thời đại.
b) Đặc trưng về niềm tin
Chính từ đặc trưng về nguồn gốc ra đời của tín ngưỡng thờ Mẫu và cụ
thể là tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hải Phòng đã cho thấy được sức sống mạnh mẽ
18
của tín ngưỡng thờ Mẫu qua nhiều thế kỷ và tồn tại cho đến ngày nay, đồng
thời tín ngưỡng thờ Mẫu đã phản ảnh chân thực niềm tin của người dân vào
các thế lực siêu nhiên mà ở đây chính là Mẫu và hội đồng các thánh. Tuy
rằng, niềm tin của mỗi cá nhân cũng như ở các địa phương là khác nhau
nhưng nhìn chung chúng ta có thể thấy được đặc trưng về niềm tin của tín
ngưỡng thờ Mẫu được thể hiện như sau:
Thứ nhất: Tín ngưỡng thờ Mẫu đã khẳng định niềm tin và sức mạnh tối
cao của Mẫu đến đời sống văn hóa tinh thần người dân
Từ thời nguyên thủy, con người bắt đầu có ý thức sâu sắc về sự sinh sôi
nảy nở, ý thức ấy thường biện lý từ cái cụ thể. Cái cụ thể về giá trị sinh sôi
nảy nở, không gì khác ngoài người mẹ mang nặng đẻ đau, sinh thành dưỡng
dục những đứa con. Sinh sản và chở che chính là thiên chức của người Mẹ.
Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, hình tượng Mẹ được coi là trọng với triết lý tất cả
mọi vật sinh ra từ mẹ, được Mẹ nuôi dưỡng mà trưởng thành.
Thờ Mẫu lấy việc tôn thờ Mẫu (mẹ) làm đấng sáng tạo và bảo trì cho
vũ trụ - con người, là nơi con người ký thác những mong ước, khát vọng về
đời sống trần thế của mình, đạt tới sức khỏe, tài lộc. Một hệ thống thần điện
tuy là đa thần (có khoảng trên dưới 60 vị thần thánh), nhưng đứng đầu là
Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Mặc dù sự xuất hiện của Bà khá muộn (từ thế kỷ
XVI) nhưng lại chiếm vị trí thần chủ trong điện thần đạo Mẫu. Sự tuyệt đối
hóa vị trí cũng như quyền năng của Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong tín ngưỡng
thờ Mẫu khiến chúng ta liên tưởng tới quan niệm về “tam vị nhất thể” trong
giáo lý Ki-Tô giáo. Nếu Đức Chúa Jê-su vừa là con của Thiên chúa trên Thiên
đàng vừa là con người thực được Đức Mẹ Maria mang nặng đẻ đau, và Ngài
còn có các phép Thánh thần thì Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở đây cũng là biểu
tượng của sự kết hợp giữa thần và người đó.
Xuất thân vốn là tiên nữ
19
Trên thượng giới vừa ngày khánh hạ
Điện Linh Tiêu thánh giá thung dung
Ngọc Hoàng chính ngự đàn cung
Bách quan chầu chực sân rồng bệ giai
Chốn thiên đài vừa khi tơ trúc
Sáu cung đều xướng khúc ca tâu
Sảy thấy tiên nữ vào chầu
Khoan thai chân bước đền chầu bên ngai
(Liễu Hạnh công chúa diễn âm)
Khi Bà trót tay đánh vỡ chén ngọc, bị Ngọc Hoàng đày xuống trần gian
đầu thai vào nhà họ Trần:
Tay nâng chén ngọc đã rơi
Thượng đế linh bài quan pháp vô thân
Cho làm con họ nhà Trần
Ở đất Thiên Bản là dân Phủ Dầy
(Liễu Hạnh công chúa diễn âm)
Với phép thần thông biến hóa khôn lường, Bà đã ra tay trừng trị kẻ ác
đem lại cuộc sống yên bình cho nhân dân. Đặc biệt, Thánh Mẫu còn cầm quân
xung trận phò vua dẹp giặc Chiêm Thành. Với công trạng đó, người đã được
triều đình phong kiến phong thần:
Sắc phong “Chế Thắng” đường hoàng,
Lại gia Hòa Diệu Đại Vương, chữ đề
Huyền Tông Cảnh Trị đời Lê
Ngõa Từ có sắc dụ về Sòng Sơn
Chính Hòa đến hiệu Hy Hoàng
20
Sái phu mười suất chỉ ban quê nhà
Liệt triều trải mấy đế vương
Ân phong thượng đẳng, thần thường trứ linh
(Liễu Hạnh công chúa diễn âm)
Có thể nói, hình tượng Mẫu Liễu Hạnh là kết quả của cả một quá trình
phát triển hệ tư tưởng của người Việt. Bởi lẽ, chính trong sức mạnh nhân thần
trong con người Bà đã chứa đựng tất cả quyền năng của nhiên thần trước đó.
Và Bà xuất hiện với tư cách đại diện cho Tam tòa Thánh Mẫu (Thiên – Ngàn
– Thoải), điều này chúng ta dễ dàng nhận ra ở một số nơi thờ Mẫu người ta
chỉ thờ Mẫu Liễu cùng hai thị nữ của Bà là Quỳnh và Quế.
Trong đời sống gia đình Việt, người phụ nữ chiếm vị thế rất quan trọng,
không phải ngẫu nhiên mà người ta gọi cột Cái trong nhà, hay đường Cái,
trống Cái… Bởi lẽ, phụ nữ chính là người giữ kinh tế “tay hòm chìa khóa”,
quản lý kinh tế “chồng như cái giỏ, vợ như cái hom”; là người có trách nhiệm
dạy dỗ con cái, dân gian thường có câu: “con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”.
Ngoài xã hội, trong quan hệ họ hàng, anh em bè bạn thì phụ nữ cũng là người
thay mặt gia đình đối nhân xử thế. Dù đàn ông là người “đứng mũi chịu sào”,
có thể có vị trí trong xã hội, nhưng trong nhà thì: “lệnh ông không bằng cồng
bà”… Xuất phát từ chính thực tế đó, đặc trưng về niềm tin của tín ngưỡng thờ
Mẫu với việc dạy dỗ con cái học hành, lao động sản xuất, biết cung cách ứng
xử, biết sống thuận hòa, hướng thiện được thể hiện rõ.
Là một tín ngưỡng gắn liền với sinh hoạt của nhân dân, được nhân dân
bảo tồn và phát triển qua nhiều thế hệ, tín ngưỡng thờ Mẫu Hải Phòng đã xây
dựng cho mình một hệ thống thờ phụng mang tính gần gũi với đời sống
thường nhật của nhân dân. Chính bởi lẽ đó mà tín ngưỡng thờ Mẫu đã ăn sâu
dần vào suy nghĩ, vào tiềm thức của mỗi người dân về niềm tin, sức mạnh tối
21
cao của thánh Mẫu, của những vị thánh trong tín ngưỡng. Bởi họ đã dùng
năng lực siêu nhiên của mình để đem đến cho các con nhang đệ tử và cho cả
người dân có một cuộc sống tốt đẹp, đồng thời họ dùng tài đức của mình để
cảm hóa con người, dạy dỗ con người từ những việc nhỏ để sinh sống cho đến
những phép tắc để làm người, làm quan. Tất cả những gì gần gũi với cuộc
sống thường nhật đã được tín ngưỡng thờ Mẫu hướng đến, qua đó cho thấy
được tính phổ dụng và niềm tin tối cao vào đức thánh Mẫu cũng như hội đồng
các thánh được thờ trong tín ngưỡng đối với đời sống văn hóa tinh thần của
người dân.
Khi tìm đến với tín ngưỡng thờ Mẫu, người dân, con nhang mong
muốn được Mẫu chở che, “chỉ đường soi lối” bằng quyền năng tối cao của
Mẫu trước những khó khăn trong đời sống mà họ gặp phải để hướng đến một
cuộc sống tốt hơn, hạnh phúc hơn… Có rất nhiều lý do để con người tìm đến
với Mẫu: khi khó khăn trong cuộc sống, khi tìm sự ổn định trong cuộc sống
và ngay cả khi họ đã có được một cuộc sống tốt họ vẫn hướng đến với cửa
Mẫu để duy trì sự ổn định trong cuộc sống của họ. Điều này cho thấy niềm tin
tuyệt đối mà người dân, các con nhang cái bán hướng đến cửa Mẫu là rất lớn
mà không phải tín ngưỡng nào cũng có đủ khả năng thay thế cũng như xây
dựng niềm tin ở nhân dân lớn như vậy.
Thứ hai: tín ngưỡng thờ Mẫu đặt vấn đề giải thoát cho con người ngay tại
cuộc sống trần gian.
Tín ngưỡng có nhiều chức năng, nhưng nói đến chức năng mang tính
tiên quyết cho sự tồn tại thì phải kể đến chức năng đền bù hư ảo hay còn có thể
gọi là chức năng giải thoát. Ngay từ khi ra đời mỗi một tín ngưỡng, tôn giáo lại
xây dựng cho mình con đường, thế giới tốt đẹp riêng. Ví dụ, Phật giáo đưa con
người hướng tới Niết Bàn, ở đó không còn phải vướng bận trong vòng tham –
sân – si, sẽ không còn đau khổ. Hay giáo lý Ki Tô lại dạy tín đồ sống tuân theo
22
nhưng điều răn của Chúa để sau này hạnh phúc trên Thiên đường. Ngay cả
trong quan niệm của người Việt, từ rất sớm người ta đã ý thức được việc phải
sống thiện để sau khi chết linh hồn sớm được đầu thai. Nhưng tín ngưỡng thờ
Mẫu lại khác, những gì mà tín ngưỡng thờ Mẫu hướng đến không phải là
những thứ xa xôi ở hậu kiếp mà ngay tại cuộc sống trần gian. Chính vì thế
người ta không bàn nhiều đến sự sống – cái chết, không bàn đến cõi Diêm La
địa ngục mà bàn ngay tại cuộc sống này. Cho nên, Tam tòa chỉ có ba Bà Thiên
– Ngàn – Thoải hay Mẫu Liễu dù có gây ra trọng tội nhưng cuối cùng lại được
quy y ăn mày cửa Phật, và các thần linh trong công đồng Tứ phủ vẫn hiển linh
qua xác phàm của các thanh đồng.
Một thực tế cho thấy, trong xã hội hiện đại ngày nay có một bộ phận
rất lớn tìm đến với tín ngưỡng thờ Mẫu chứ không phải là các loại hình tín
ngưỡng nào khác. Họ đại diện cho đủ các thành phần trong xã hội, không
phân biệt lứa tuổi, giới tính. Điều mà người ta quan tâm nhất ở tín ngưỡng
này không hẳn là những giá trị tâm linh hay đạo đức mà vấn đề giải thoát lại
mang tính chất cốt lõi. Nếu như các tín ngưỡng, tôn giáo khác hứa hẹn một
cuộc sống tốt đẹp ở tương lai sau khi chết thì tín ngưỡng thờ Mẫu lại mang
tới cho con người tất cả những gì họ đang thiếu hụt như sức khỏe, tài lộc,
công danh, con cái ở ngay cuộc sống hiện tại. Đó là một nhân sinh quan
mang tính tích cực phù hợp với quan niệm hiện sinh của con người trong thế
giới hiện đại.
Tìm đến với tôn giáo, con người ta tìm đến với những điều còn khuyết,
còn thiếu trong cuộc sống trần thế họ không hoặc chưa có được với mong
muốn chức năng đền bù hư ảo mà tôn giáo mang đến cho họ những thứ họ
mong muốn có được tại cuộc sống trần thế. Cũng không phải bỗng dưng mà
tín ngưỡng thờ Mẫu có đông đảo con nhang đệ tử và người dân tin và theo
nhiều như vậy, không chỉ bởi tính gần gũi trong quá trình hình thành và phát
23
triển mà còn bởi chức năng đền bù hư ảo của tín ngưỡng thờ Mẫu đem đến
cho họ. Họ hướng đến cửa Mẫu với niềm tin, lòng thành kính tối cao với
mong muốn một cuộc sống tốt đẹp, đồng thời cũng mong muốn Mẫu cho họ
có được những thứ họ còn chưa đạt được trong cuộc sống; đó là có những
người đã đủ đầy về cuộc sống thì họ muốn có công danh, có những người có
vật chất họ lại mong muốn có tình cảm, có những người muốn có con, có
lộc... và họ đều tìm đến cửa Mẫu để xin những điều đó. Qua đó chúng ta thấy
được vấn đề niềm tin đã được tín ngưỡng thờ Mẫu thực hiện rất tốt và đem lại
cho con nhang, đệ tử của họ một niềm tin cũng như lòng thành kính tuyệt đối
đối với đức thánh Mẫu.
Ở Hải Phòng, đặc trưng về niềm tin của tín ngưỡng thờ Mẫu được biểu
hiện rõ thông qua cách thức biểu hiện về những mong muốn hay ước vọng
của quần chúng nhân dân đối với Mẫu. Điều đó được minh chứng rõ nét khi ta
phân tích về đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa của người dân nơi đây, cái mà
sẽ quy định, thể hiện bản sắc vùng miền như: nền kinh tế thị trường với sự
phân hóa giàu nghèo, sự chênh lệch về đẳng cấp thông qua so sánh về kinh tế
đã dẫn tới xã hội mất cân bằng, sự ổn định và từ đó nảy sinh những nhu cầu
của quần chúng nhân dân về một xã hội công bằng hơn, không có phan biệt,
không có sự chênh lệch về đẳng cấp cũng như nhu cầu cuộc sống. Hoặc khi
nền kinh tế thị trường dẫn tới việc nền kinh tế chạy đua theo thế giới kéo theo
hàng loạt hệ lụy như những bệnh công nghiệp (street, thần kinh, trầm cảm)
hay mất cân bằng cuộc sống của rất nhiều người dân. Chính vì lẽ đó đã tạo
nên những nhu cầu, mong muốn từ đại bộ phận quần chúng nhân dân đến với
tín ngưỡng thờ Mẫu, đến với Mẫu để thỏa lấp đi những hiện thực mà họ đang
phải đương đầu.
Chúng ta có thể thấy được vai trò đáp ứng niềm tin của tín ngưỡng thờ
Mẫu xuất phát từ chính nhu cầu của quần chúng nhân dân, được nhân dân đề
24
xuất và mong muốn sự đáp ứng từ Mẫu với quyền năng tối thượng của mình.
Khi mà niềm tin được đáp ứng đồng nghĩa với việc sự sùng kính của các tín đồ,
thậm chí những người dân đặt niềm tin vào Mẫu là rất nhiều với hàng loạt các
cơ sở thờ tự được trùng tu, tôn tạo và xây mới, cùng với đó là hệ thống tín đồ,
con nhang đệ tử cũng tăng theo từng ngày. Điều này cho chúng ta thấy được
niềm tin của quần chúng nhân dân dành cho tín ngưỡng thờ Mẫu là rất lớn, nó
được biểu hiện phương diện đáp ứng lại những nhu cầu, mong muốn của họ
ngay chính tại kiếp sống hiện tại.
c) Đặc trưng về thực hành nghi lễ
Từ nguồn gốc ra đời của tín ngưỡng thờ Mẫu Hải Phòng mang những
nét đặc trưng riêng khác với các tín ngưỡng khác cho đến đặc trưng về niềm
tin cũng được biểu hiện một cách riêng, không mang tính trùng lặp với niềm
tin của bất kỳ một tín ngưỡng nào khác. Chính vì vậy, biểu hiện niềm tin của
tín ngưỡng thờ Mẫu Hải Phòng cũng được thể hiện rất riêng thông qua việc
thực hành nghi lễ ở nơi đây.
Khi tiếp xúc với tín ngưỡng thờ Mẫu chúng ta dễ nhận thấy vốn là một
loại hình tín ngưỡng dân gian cho nên nó chưa được phát triển hoàn thiện như
kết cấu tôn giáo hiện đại. Đó là niềm tin, sự ngưỡng vọng trong đời sống văn
hóa tâm linh của nhân dân, ở đó chưa có tính tổ chức chặt chẽ, chưa hoàn
thiện về giáo lý và quan trọng nghi lễ còn mang bản chất địa phương. Trên
lãnh thổ nước ta, tín ngưỡng thờ Mẫu có mặt ở cả Bắc – Trung và Nam bộ;
nhưng mỗi vùng lại có cách biểu đạt riêng và ngay trong nội bộ từng vùng
cũng có sự khác biệt.
Là một loại hình tín ngưỡng dân gian nên bản thân các nghi lễ của tín
ngưỡng thờ Mẫu chịu ảnh hưởng của nhiều tôn giáo tín ngưỡng như Phật
giáo, Thờ cúng tổ tiên, thờ Thành Hoàng làng… Qua quá trình khảo sát thực
tế, chúng tôi đã tìm hiểu được một số nghi lễ cơ bản và đặc trưng về thực
25
hành nghi lễ của tín ngưỡng thờ Mẫu. Ngoài những nghi lễ thờ cúng thường
nhật thì bản thân nó mang trong mình nhiều nghi lễ đặc biệt. Mỗi một dịp đặc
biệt đều có những ý nghĩa khác nhau, đem đến những ước mong, khát vọng
của các tín đồ thờ Mẫu. Chúng ta có thể kể đến các nghi lễ cơ bản được biểu
hiện thông qua các lễ hội như lễ hội đền Đồng Bằng, lễ hội Phủ Dầy, lễ hội
đền Công đồng Bắc Lệ… mang tính quốc gia hay các nghi lễ: hầu xông đền,
lễ thượng nguyên, lễ đội bát nhang, lễ trình đồng, lễ tiến căn, lễ mở phủ, lễ trả
nợ Tào Quan, lễ phả độ gia tiên…
Trong tín ngưỡng thờ Mẫu Hải Phòng, nghi lễ là một phần mang lại
những nét đặc sắc riêng, bản thân nghi lễ của tín ngưỡng thờ Mẫu ở các địa
phương khác dù có những đặc điểm chung về không gian, thời gian, chủ thể,
khách thể, cách thức nhưng ở mỗi nơi lại có những sắc thái rất riêng biệt. Sau
khi so sánh và chắt lọc, chúng tôi xin nêu ra một số biểu hiện mang tính đặc
trưng của nghi lễ thờ Mẫu nói chung và ở Hải Phòng nói riêng, cụ thể qua một
vài nghi lễ và việc thực hành nghi lễ điển hình như sau:
- Nghi lễ Hầu đồng là một nghi lễ đặc biệt và không thể thiếu trong tín
ngưỡng thờ Mẫu. Qua nhiều công trình nghiên cứu, người ta thường đồng
nhất một số thuật ngữ Lên đồng, Hầu đồng, Hầu bóng là một. Nhưng trong
Luận văn, chúng tôi xin dùng chữ Hầu đồng. Đó là một nghi thức những ông
đồng, bà đồng tình nguyện để các vị thần linh trong công đồng Tứ Phủ và các
vị thần bản địa được nhân dân thờ cúng nhập vào thân xác và thực hiện các
động tác diễn xướng làm tái hiện hình ảnh các vị thần linh đó để các tín đồ,
con nhang đệ tử có thể giao tiếp tôn giáo với các sức mạnh siêu nhiên.
Ở Hải Phòng, việc thực hành nghi lễ hầu đồng được các thanh đồng,
con nhang đệ tử rất chú trọng. Ngoài các buổi hầu, vấn hầu vào các ngày lễ
tiết và vào các ngày tiệc của các vị thánh bản địa, đặc biệt là Chúa Bà Năm
Phương và Đức Ông Đệ Tam nhà Trần, Bà Lê Chân, Bà Đế thì các đền, điện,
26
phủ ở Hải Phòng không thể thiếu các vấn hầu của các thanh đồng, có những
đền được các thanh đồng đặt lịch hầu từ sáng đến đêm. Và đặc biệt, với các
thanh đồng ở Hải Phòng, bao giờ họ cũng có một bộ khăn áo riêng của Chúa
Năm Phương Bản Cảnh, Bà Lê Chân, Bà Đế là những vị thần mang đặc điểm
riêng của vùng đất này. Trang phục hầu đồng của các thanh đồng ở Hải Phòng
rất đẹp và cầu kỳ, có khi rất đắt tiền vì họ rất để ý đến trang phục ăn mặc khi
ra bắc ghế hầu thánh. Đi cùng với đó là các bản chầu văn dành riêng cho các
vị thánh bản địa được các cung văn trình bày cụ thể thông qua từng vấn hầu,
điều này thể hiện sự chuẩn bị chu đáo, tươm tất cũng như đặc trưng riêng của
từng địa phương mà cụ thể ở đây là Hải Phòng.
- Nghi lễ Đội bát nhang là lễ bốc và đặt bát nhang thờ những vị thần
thánh là quân gia thị thần của Mẫu cho những người ốm đau vì có căn cao số
nặng, nhằm cầu cúng cho khỏe bệnh và khỏe mạnh. Lễ được tiến hành ở
những nơi thờ Mẫu. Sau khi bốc, bát nhang được đặt tại đó, và vào những
ngày sóc vọng hàng tháng, người này phải đến thắp nhang và cúng lễ. Theo
quan niệm của những tín đồ tín ngưỡng thờ Mẫu, mỗi người đang sống trên
cõi trần đều do một số chư vị thần thánh của Mẫu quản cai (hay người nắm
giữ bản mệnh cho mình). Khi người ta đau ốm tức là người đó bị vị thần quản
cai “hành” (làm cho ốm đau, gặp nhiều phiền toái). Đã bị chấm đồng làm lính
hầu thì họ không thể từ chối. Càng chối bỏ thì họ lại càng bị gặp nhiều tai vạ
(thường thì người ta hay tôn một bát nhang bản mệnh, nhưng cũng có trường
hợp, một người có nhiều người độ mệnh thì phải tôn đủ số bát hương tương
ứng). Họ tin rằng, sau khi tôn thờ vị thần thánh nắm giữ bản mệnh cho mình,
họ sẽ không bị các vị ấy “hành” nữa, như thế, bệnh tật sẽ khỏi.
Việc đội bát nhang thờ thần bản mệnh ở Hải Phòng còn mang một ý
gắn liền với phong tục cũng như đặc trưng của nơi đây. Khi mà trước kia đa
phần nhân dân ở Hải Phòng thường làm nghề đánh bắt thủy hải sản nên việc
27
thờ các vị thần sông nước, những vị thần có công đánh giặc giúp nước hay
khai dân lập ấp, giúp dân làm ăn, phát triển gia tộc được nhân dân nơi đây thờ
phụng rất chu đáo và trang nghiêm. Việc tôn nhang cũng là cách thức đặt
niềm tin tôn giáo vào các vị thần nơi đây với mong muốn được che chở cho
họ có được công việc hanh thông, thuận buồm xuôi gió, cho cuộc sống ấm êm
bình an, an hưởng thái bình. Ngày nay việc tôn nhang đã mang những ý nghĩa
rộng hơn, họ tin rằng với việc bản mệnh của mình được các thánh phù hộ như
vậy thì làm việc gì cũng thuận lợi vì đã được che chở, được nâng đỡ, từ việc
làm ăn buôn bán cho đến học hành công danh thành đạt, cuộc sống ấm êm,
hạnh phúc.
- Nghi lễ trình giầu là một trong cách thức khác để giao tiếp với thế
giới siêu thực – công đồng Tứ Phủ đối với những tín đồ ngoài những hoạt
động thờ cúng thường nhất, thường niên. Khi một người nào đó thấy trong
cuộc sống luôn bị những tai ương bệnh tật, chạy chữa không khỏi. Sau khi
xem bói, hay bị chấm đồng… thì phải ra trình giầu. Trình giầu tức là ra diện
kiến trước Tam Tòa Thánh Mẫu, nhận mình là con Cha con Mẹ. Ngoài ra
nghi lễ này cũng thức hiện đối với người đã ra đồng. Mỗi năm, họ thường đi
trình giầu một cho đến vài lần tùy vào các vấn hầu của đồng thầy của họ.
Người Việt có câu, “miếng trầu là đầu câu chuyện”, thì trong tín ngưỡng Thờ
Mẫu nghi lễ này còn thể hiện cung cách ứng xử của con cái (những ông Đồng,
bà Đồng) với Cha Mẹ bề trên, để tưởng nhớ công lao đã giúp mình thoát khỏi
những tai ương, được ra làm việc Thánh. Việc trình giầu được diễn ra hết sức
nhanh gọn, và trang trọng thể hiện việc cung kính của những người con trước
vua Cha, Mẫu mẹ.
Ở Hải Phòng, việc trình giầu thường được diễn ra khi các thanh đồng
tiến hành các vấn hầu, có thể là các ngày lễ, ngày tiệc hay đơn giản chỉ là hầu
đồng để giao tiếp tôn giáo với thế giới thần linh với mục đích giải tỏa tâm linh
28
và có sự việc cần xin ý kiến của các vị thánh để giải quyết vấn đề ở trần gian.
Việc trình giầu thường được diễn ra vào giá Chầu Đệ nhị, Chầu sẽ về dùng
đuốc khai quang cho các con nhang đệ tử, sau đó thì lần lượt từng con nhang
sẽ được lên sập công đồng, phủ khăn đỏ và trên đầu được đặt một mâm trầu,
cau được tết rất công phu và cầu kỳ. Khi các cung văn hát bản chầu văn với ý
nghĩa thực hiện nghi lễ trình giầu thì khi đó các ông đồng, bà đồng sẽ múa
mồi khai quang cho con nhang, đệ tử đồng thời xin đài âm dương để xem ý
kiến của các thánh có nhận lễ cho con nhang hay không. Việc này diễn ra rất
nhanh và bài bản với mục đích diện kiến trước công đồng Tứ phủ của các con
nhang cái bán....
- Nghi lễ Trình đồng tiến căn diễn ra trong trường hợp sau khi tôn
nhang mà mọi việc vẫn chưa có gì thay đổi hoặc có khi còn trầm trọng hơn
trước thì các tín đồ tín ngưỡng thờ Mẫu cho rằng như vậy là căn nặng, hay
sát căn, buộc phải ra đàn Tứ Phủ sơn trang để chính thức trở thành ghế đệm
cho ngài thì mới khỏi được. Nghi lễ này mang ý nghĩa, từ đây bản thân họ đã
chính thức ra đồng, trình diện với chư vị Thánh Mẫu, Vua Cha, với các ông
Hoàng bà Chúa, vì vậy gọi là trình đồng, và gia nhập công đồng Tứ Phủ để
hầu Tứ Phủ, làm đẹp lòng Cha lòng Mẹ thông qua việc thực hiện các nghi
thức lễ Hầu đồng để thay Mẫu ban phát tài lộc, sức khỏe chăm sóc cho con
nhang đệ tử. Đó là tiến căn. Trong văn khấn của ông Đồng, bà Đồng khi làm
lễ này có câu: “Tam Phủ trình đồng, Tứ Phủ tiến căn, nay cho con được thay
tâm đổi tính…”. Tức là lúc này, họ không thể cưỡng lại việc mình sẽ chấp
nhận cho nhận cách thứ hai kia tồn tại, chấp nhận trở thành một ông Đồng,
bà Đồng thực thụ Mở đàn ra trình diện với Tứ Phủ, sau lễ ấy thì mới chính
thức làm ghế đệm để các ngài về phán bảo và làm việc quan. Việc trình đồng
tiến căn cũng được thực hiện cùng các nghi lễ khác trong vấn hầu của các
ông đồng, bà đồng. Khi thực hiện nghi thức trình đồng tiến căn thì các ông
29
đồng, bà đồng thường sử dụng rất nhiều khi thức cũng như các lễ vật dâng
lên hội đồng Tam, Tứ phủ để thực hiện những thủ tục cho con nhang của
mình chính thức trở thành ghế đệm cho các nhà Ngài, đi theo hầu hạ các
Ngài và làm những công việc của con nhà thánh ở trần gian.
- Nghi lễ Mở phủ diễn ra khi đã trở thành ông đồng, bà đồng bước tiếp
theo là phải mở phủ. Nếu như trong triều đình phong kiến, khi được vua phong
là ông quan, ông tướng với những danh tước, chức vị, họ sẽ được vua ban cho
dinh phủ riêng, để thay vua chăn dân. Và ở đây cũng vậy, khi đã trở thành ông
Đồng, bà Đồng, được cấp sắc (mảnh lụa màu vàng, trên đó có viết chữ do một
vị đồng cựu làm cho) từ nay họ mang trong mình một sứ mạng mới, thay mặt
Thánh Mẫu để thực thi phép màu. Phủ được lập lên, được đặt tại khu đất có địa
thế đẹp theo quan niệm phong thủy, đó là khu đất tụ thủy, tụ phúc, có những
thế rồng chầu… Trước là để thờ cúng Tam tòa Thánh Mẫu và Tứ Phủ công
đồng, sau là nơi thay Mẫu làm việc Thánh, chăm lo cho con Cha, con Mẹ. Ở
Hải Phòng, việc mở phủ diễn ra rất trang trọng và cầu kỳ, việc mở phủ cũng
chính là bước ngoặt quan trọng của các thanh đồng từ khi ra trình cửa Cha, cửa
Mẹ, là họ đã chính thức có một nơi để thờ phụng mà họ đứng ra làm thủ nhang
đồng đền chăm lo dầu đèn, đăng hoa trà quả. Ngoài các nghi thức đặc trưng kể
trên thì tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hải Phòng còn có một số nghi lễ khác như: lễ
phả độ gia tiên, lễ trả nợ tào quan, lễ di cung hoán số…
Như vậy, cũng như ở các hình thái tôn giáo khác việc thực hành nghi lễ
là những hình thức giao tiếp với thần linh giữa chủ thể thờ cúng và chúng đệ
tử với đối tượng thờ cúng là các vị thần linh oai nghi siêu phàm. Trong nội
dung tín ngưỡng Mẫu ở Hải Phòng, các việc thực hành nghi lễ còn là một dấu
hiệu đặc trưng của loại hình tín ngưỡng dân gian đặc trưng này của người
Việt. Sự khác biệt về tính vùng miền địa phương được thể hiện trong tất cả
30
các nghi lễ và cùng với đó là việc hướng lòng tin, cung kính tới Mẫu, tới các
vị thần mang tính vùng miền ở nơi đây. Ở các nơi khác thì Thánh Mẫu là đối
tượng thờ cúng chung của mọi vùng, mọi miền, trước Mẫu không còn sự khác
biệt về vùng miền, tộc người mà chỉ còn lại là những đứa con đang nhất tâm
hướng về cửa Mẫu. Tuy nhiên, đối tượng thờ cúng ở Hải Phòng đã khẳng
định thêm tính vùng miền khi những vị Thánh bản địa có vị trí, quyền năng
nhất định và được các con nhang đệ tử hết mực thành kính hướng theo với tất
cả niềm tin như hướng tới Mẫu.
Những đặc trưng về nghi lễ của tín ngưỡng thờ Mẫu Hải Phòng cho
thấy được những đặc điểm chung độc đáo trong việc thực hành nghi lễ của tín
ngưỡng thờ Mẫu chính là hệ thống nghi lễ được tiến hành rất bài bản và theo
các cấp độ khác nhau. Tuy mỗi vùng có một cách thức thực hiện riêng biệt
nhưng đều cho thấy được sự tôn kính và lề lối trong việc thực hành các nghi
lễ thờ cúng với chủ thể chung là Mẫu và hội đồng các thánh trong công đồng
tứ phủ. Tuy nhiên, chính những đặc trưng của vùng miền mà ở đây cụ thể là
đối tượng thờ cúng có sự khác biệt dẫn tới những văn hóa đặc trưng của từng
vùng miền đã được ứng dụng vào nghi lễ riêng của tín ngưỡng thờ Mẫu theo
từng địa phương. Sự khác biệt được thể hiện rõ nét nhất thông qua chủ thể thờ
cúng của các vùng miền khác nhau đã xây dựng nên hệ thống nghi lễ thờ cúng
đặc trưng riêng mang bản sắc vùng miền tuy nhiên vẫn bám sát nội dung và
hình thức của tín ngưỡng thờ Mẫu.
Chính những nét đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hải Phòng đã tạo
nên cho tín ngưỡng thờ Mẫu những nét riêng, từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến
đời sống văn hóa tinh thần người dân ở Hải Phòng. Đời sống văn hóa tinh
thần của người dân không ngừng được phát triển và nâng cao cũng do những
ảnh hưởng tích cực của tín ngưỡng và những ảnh hưởng tích cực đó đã và
31
đang hoàn thiện và ngày càng phát triển hơn.
1.2. Đời sống văn hóa tinh thần ngƣời dân ở Hải Phòng hiện nay
1.2.1. Một số khái niệm
a) Khái niệm văn hóa
Khái niệm văn hóa, theo nhà ngôn ngữ học người Đức W. Vun-đơ
(W.Wundt) bắt nguồn từ một động từ tiếng La Tinh "Colere" và sau chuyển
thành "Cultura" với nghĩa là cày cấy, vun trồng. Trong sự vận động của ngôn
ngữ, "Cultura" chuyển nghĩa từ trồng trọt cây cối sang hàm nghĩa trồng trọt
tinh thần, trí tuệ; gắn bó với con người dưới dạng thức mới, được biểu hiện
trong mô thức phức tạp hơn song lại hàm chứa nội dung sâu sắc hơn so với
nghĩa ban đầu của nó.
Văn hóa là sản phẩm sáng tạo của con người trong hoạt động thực tiễn
của lịch sử xã hội. Văn hóa là một khái niệm phức tạp và có rất nhiều cách
hiểu khác nhau, tùy theo hướng tiếp cận nghiên cứu của mỗi ngành khoa học,
mà khái niệm văn hóa được sử dụng có những nội dung khác nhau. Tuy
nhiên, nhìn chung cho tiếp cận nghiên cứu văn hóa từ bất cứ hướng nào đi
chăng nữa, từ góc độ sử học, triết học, xã hội học... hay thậm chí là tôn giáo
học, thì các học giả đều có chung một quan điểm về sự tồn tại của văn hóa là
văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể.
Văn hóa là một đề tài rộng như con người và sự sống. "Văn hóa" có
ngoại diên rộng lớn là sự sáng tạo của con người đã diễn ra trong quá khứ cũng
như đang diễn ra trong hiện tại. Sự sáng tạo của con người và loài người là
không ngừng và vô tận. Do đó, khái niệm "văn hóa" đã và sẽ không ngừng
nhận được những sắc thái ý nghĩa mới. Văn hóa là một hiện tượng xã hội
xuyên thấm trong mọi mặt của đời sống, hoạt động và quan hệ con người. Sự
năng động và linh hoạt của đời sống xã hội tất yếu kéo theo sự năng động và
32
linh hoạt của khái niệm văn hóa. Cho đến nay, đã có hàng trăm định nghĩa về
văn hóa. Các tác giả khác nhau thường hiểu khái niệm văn hóa theo những nội
dung khác nhau tùy theo góc độ tiếp cận của từng người.
Tuyên bố chung của Hội nghị thế giới về chính sách văn hóa do
UNESCO tổ chức tại Mê-xi-cô năm 1982 đã đề xuất một định nghĩa trong đó
văn hóa được hiểu là: "Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét
riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của
một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật
và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ
thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng" [67, tr.5-6].
Năm 1986, tại lễ phát động Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa, Tổng
giám đốc UNESCO Federico Mayor đưa ra định nghĩa: “Văn hoá là tổng thể
sống động các hoạt động sáng tạo (của các cá nhân và các cộng đồng) trong
quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình
thành nên các giá trị, các truyền thống và các thị hiếu - những yếu tố xác định
đặc tính riêng của mỗi dân tộc” [41, tr.32].
Qua hai định nghĩa vừa nêu trên, nhận thấy yếu tố cốt lõi của văn hóa là
hệ thống các giái trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá
trình con người làm nên lịch sử của mình, là cái mà dựa vào đó từng dân tộc
khẳng định bản sắc riêng của mình.
Ở Việt Nam, thuật ngữ văn hóa đã được nhiều nhà lãnh đạo Đảng, Nhà
nước và nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và định nghĩa. Ở đây,
chúng tôi chỉ nêu một số định nghĩa mà chúng tôi thấy cần cho hướng tiếp cận
của luận án này. Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa về văn hóa như sau: “Vì lẽ
sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc và phương
33
thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn
hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với những biểu hiện
của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thíc ứng những nhu cầu đời sống,
và đòi hỏi của sự sinh tồn” [59, tr. 431]. Định nghĩa này xuất phát từ nghĩa
rộng của văn hóa là toàn bộ những sản phẩm vật chất và tinh thần được sáng
tạo bởi con người và vì con người. Vì con người ở đây không chỉ vì sự sinh
tồn mà còn vì mục đích của cuộc sống con người. Tổng thể những sản phẩm
do con người sáng tạo ra đáp ứng được đòi hỏi của sự sinh tồn và mục đích
của cuộc sống con người - những giá trị vật chất và tinh thần - hợp thành nội
dung của khái niệm văn hóa.
Bên cạnh các định nghĩa trên, trong tác phẩm Văn hóa và đổi mới, cố
vấn Phạm Văn Đồng viết: "Theo nghĩa rộng, nói một cách giản đơn văn hóa
là tất cả những gì do con người, ở trong người và liên quan trực tiếp đến con
người" [24, tr. 9]. Với định nghĩa này, văn hóa được khẳng định như là cái
đặc hữu, cái riêng có ở con người, do con người, thể hiện ở con người, là lĩnh
vực tồn tại chân chính của con người. Còn trong cuốn Góp phần nghiên cứu
cách mạng tư tưởng văn hóa, tác giả Vũ Khiêu đã đề xuất một quan niệm:
"Văn hóa thể hiện trình độ được vun trồng của con người, của xã hội... văn
hóa là trạng thái con người ngày càng tách rời khỏi giới động vật để khẳng
định những đặc tính của con người" [48, tr.8].
Qua những quan điểm trên, chúng ta có thể hiểu rằng văn hóa được
hình thành và phát triển trong quan hệ thích nghi giữa con người với thiên
nhiên, giữa con người với con người. Trải qua hàng ngàn năm thích nghi và
cải tạo thế giới, những kinh nghiệm mà con người tích lũy được đã trở thành
nền tảng cơ bản cho sự phát triển của văn hóa. Văn hóa không chỉ bó hẹp
trong quan hệ cá nhân gia đình và cộng đồng mà còn mở rộng trong mối quan
hệ giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Văn hóa hình thành trong quá trình
34
tiếp xúc, giao lưu, sàng lọc, cải biến giữa văn hóa bản địa với những nền văn
hóa khác. Do đó, văn hóa bao giờ cũng thể hiện sự đa dạng, phong phú nhưng
luôn mang những nét độc đáo của dân tộc, đồng thời bao hàm tiềm ẩn những
giá trị chung của nhân loại.
b) Khái niệm văn hóa tinh thần
Từ điển triết học của Liên Xô (cũ) định nghĩa văn hóa tinh thần là văn hóa
hiểu theo nghĩa hẹp, là "toàn bộ những hình thức của đời sống tinh thần của xã
hội" [87, tr. 973]. Trong Từ điển chủ nghĩa xã hội khoa học của Liên Xô (cũ), tại
mục từ "Văn hóa cộng sản chủ nghĩa" có giải thích văn hóa tinh thần bao hàm
lĩnh vực sản xuất tinh thần (nhận thức, đạo đức, giáo dục và khai hóa).
Trong sách giáo khoa phương pháp dùng cho học viên trường Đảng cao
cấp ở Liên Xô (cũ), văn hóa tinh thần được định nghĩa là “Tổng thể các giá trị
văn hóa, quá trình hình thành những giá trị đó, là bản thân những nhu cầu tinh
thần, những lợi ích, những thị hiếu của con người, những phương thức thỏa
mãn những nhu cầu đó. Văn hóa tinh thần gắn với những thể chế xã hội như
hệ thống giáo dục nhân dân, các cơ quan văn hóa nghệ thuật, các phương tiện
thông tin đại chúng, các hội sáng tạo...” [10, tr. 355-356]. Định nghĩa này có ưu
điểm là đã xác định được phẩm chất, tính giá trị của sự vật và hiện tượng mà
khái niệm văn hóa phản ánh nhưng lại chưa phân định được loại hình văn hóa
vật chất và loại hình văn hóa tinh thần trong hệ thống chỉnh thể của văn hóa.
Để đi tới khái niệm văn hóa tinh thần, theo chúng tôi, phải xuất phát từ
nghĩa rộng của khái niệm văn hóa là toàn bộ những giá trị do con người sáng
tạo ra bằng lao động của mình trên cả hai lĩnh vực sản xuất vật chất và sản xuất
tinh thần, từ đó phân loại văn hóa thành văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
Thực ra trong sinh hoạt học thuật ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây người
ta đã từng phân loại văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần theo nhiều cách khác
nhau. Có người lấy dạng tồn tại của sản phẩm sáng tạo để phân loại thành văn
35
hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Nhưng có ngành khoa học xác định "văn hóa
vật chất" liên quan đến sản xuất của cải vật chất và đời sống vật chất của con
người và xã hội. Còn "văn hóa tinh thần" thì liên quan đến sản xuất của cải tinh
thần và đời sống tinh thần của con người, của xã hội... Theo các các phân loại
truyền thống đó, khái niệm "văn hóa vật chất" và "văn hóa tinh thần" có nội
hàm khác nhau tùy theo ngành khoa học, thậm chí tùy từng tác giả sử dụng
chúng. Tuy nhiên, chúng cũng có ý nghĩa cơ bản mà hầu hết mọi quan điểm
đều bảo lưu đó là tính "vật chất" và tính "tinh thần" của sự vật hiện tượng.
Sự phân biệt giá trị vật chất và giá trị tinh thần tất nhiên chỉ có tính chất
tương đối. Không thể phân biệt một cách rạch ròi, tuyệt đối giữa giá trị vật
chất và giá trị tinh thần. Bởi lẽ không có giá trị vật chất nào lại không bao
hàm những giá trị tinh thần trong đó, ngược lại không có giá trị tinh thần nào
lại có thể tồn tại ngoài những hình thức vật chất của nó. Nhưng chính ngay sự
tồn tại của các khái niệm "văn hóa vật chất" và "văn hóa tinh thần" trong sinh
hoạt khoa học của các nước thuộc hệ thống XHCN trước đây; "văn minh vật
chất" và "văn minh tinh thần" trong các tài liệu khoa học ở Trung Quốc cũng
nói lên rằng hai giá trị đó không phải là một. Mặt khác, bản thân cuộc sống
cũng cho thấy, cái mà con người cần có, đòi hỏi và mong muốn có để duy trì
sự tồn tại và phát triển của mình thì không phải chỉ là cái vật chất mà cả cái
tinh thần. Sống ở trên đời này, con người đâu phải chỉ cần cơm ăn áo mặc, mà
còn cần, rất cần tình thương, lòng vị tha, độ lượng... Do đó, sự phân biệt giá
trị vật chất - văn hóa vật chất và giá trị tinh thần - văn hóa tinh thần ở một
mức độ và phạm vị nhất định là điều có thể và cần thiết để nhận thức và đưa
ra được những kiến giải nhằm nâng cao hiện thực đời sống xã hôi nói chung,
đời sống tinh thần nói riêng.
Chính C.Mác và F.Ănghen trong khi nghiên cứu quy luật vận động và
phát triển của xã hội loài người đã khái quát toàn bộ các hính thức hoạt động
36
của xã hội thành hai lĩnh vực hoạt động cơ bản: "sản xuất vật chất" và "sản
xuất tinh thần" [85, tr.625]. Từ "sản xuất" được hai ông sử dụng trong cặp
phạm trù "sản xuất vật chất" và "sản xuất tinh thần" có nghĩa bao quát là qua
trình sản xuất, trao đổi, tiêu dùng; sản xuất và tái sản xuất. Dựa vào sự phân
chia này có thể quan niệm rằng: văn hóa vật chất gắn liền với với sản xuất vật
chất chủ yếu được sinh thành và phát triển từ lĩnh vực sản xuất vật chất. Từ
đó có thể định nghĩa: văn hóa vật chất là toàn bộ những giá trị vật chất do con
người sáng tạo ra trong lịch sử bằng lao động của mình trên lĩnh vực sản xuất
vật chất. Còn văn hóa tinh thần gắn với sản xuất tinh thần chủ yếu được sinh
thành và phát triển từ lĩnh vực sản xuất tinh thần. Đương nhiên chúng tôi
không nói rằng mọi sản phẩm được tạo ra từ sự sản xuất tinh thần đều mặc
nhiên là giá trị tinh thần, là văn hóa tinh thần. Chỉ những sản phẩm tinh thần
nào mang giá trị, tức chỉ những sản phẩm tinh thần nào thể hiện và thúc đẩy
sự phát triển những năng lực bản chất người của con người, sự hoàn thiện xã
hội theo hướng chân thiện mỹ mới được coi là văn hóa tinh thần. Trong mục
"Mấy lời giới thiệu" trong cuốn Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc
Việt Nam của tác giả Trần Văn Giàu, Vũ Khiêu viết: "Giá trị tinh thần của xã
hội bao gồm những giá trị khoa học đạo đức, nghệ thuật... đánh dấu về các
mặt chân thiện mỹ của đời sống xã hội" [26, tr. 11].
Từ sự phân tích, kế thừa một số cách tiếp cận, cách phân loại giá trị
văn hóa và các loại hình văn hóa nêu trên. Chúng tôi quan niệm văn hóa
tinh thần là tổng thể những giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra
trong quá trình lịch sử bằng lao động của mình trên lĩnh vực sản xuất
tinh thần.
c) Khái niệm đời sống văn hóa tinh thần
Khái niệm đời sống văn hóa tinh thần là nói hoạt động của con người
trên lĩnh vực tinh thần - hoạt động sản xuất, trao đổi và tiêu dùng giá trị tinh
37
thần diễn ra trên các lĩnh vực tư tưởng nghệ thuật, khoa học, giáo dục, tín
ngưỡng, tôn giáo. Đời sống văn hóa tinh thần không phải là một cơ cấu tĩnh tại,
một hệ thống đóng kín, nằm im của những giá trị loại biệt mà là một tổng thể
đang vận động của các giá trị tinh thần được thực hiện và thể hiện thông qua
hoạt động của con người trên các lĩnh vực khác nhau của sự sản xuất, trao đổi
và tiêu dùng tinh thần.
Các hoạt động ở các khâu nhu cầu, sản xuất, trao đổi tiêu dùng giá trị
tinh thần cũng như ở từng lĩnh vực tư tưởng, nghệ thuật, khoa học, giáo dục ,
tín ngưỡng tôn giáo không tách biệt nhau mà hòa quyện vào nhau. Trong tổng
hòa sống động của các hoạt động đó, các giá trị tinh thần được tạo ra, lan tỏa
và thấm sâu vào từng con người, tạo thành niềm tin bên trong, thành tình cảm,
tâm lý, tập quán, thành lối sống, thành hành động tự nhiên hằng ngày của họ.
Nhờ đó và do đó mà mỗi người và mọi người đạt được những phẩm chất tinh
thần cao quý và tồn tại như một giá trị - giá trị "gốc" và tiếp tục sáng tạo ra
những giá trị mới cao hơn, thúc đẩy không ngừng sự phát triển về các mặt
chân thiện mỹ của đời sống xã hội, đáp ứng nhu cầu về giá trị tinh thần ngày
càng tăng lên của mọi thành viên trong xã hội. Chuẩn mực của sự hình thành
đời sống văn hóa tinh thần là chỉnh thể toàn vẹn của các quá trình và hiện
tượng đó.
Các giá trị tinh thần được con người và loài người tạo ra trong quá khứ
cũng như trong hiện tại là văn hóa tinh thần chứ chưa phải là đời sống văn
hóa tinh thần. Chỉ trong các hoạt động văn hóa tổng thể, các giá trị tinh thần
được vận hành và thấm sâu vào từng con người, từng cộng đồng làm nền và
định hướng cho thế ứng xử của họ (thể hiện ở tâm hồn, đạo lý, lối sống, thị
hiếu, hành vi...) của cá nhân và cộng đồng hướng tới cái tốt cái đúng cái đẹp
trong quan hệ với mình với người với môi trường xã hội và môi trường tự
38
nhiên thì mới có đời sống văn hóa tinh thần.
Điểm xuất phát cũng như điểm đến của đời sống văn hóa tinh thần
là con người. Trung tâm chuyển động của đời sống văn hóa tinh thần là ở
sự chuyển động của con người. Con người - với lý tưởng, niềm tin, phẩm
giá và nhân cách - "vốn là quả tim đích thực của một nền văn hóa”. Hành
trình con người là hành trình văn hóa. Con người "ra đời từ văn hóa,
trưởng thành nhờ văn hóa, nắm chắc tương lai bằng văn hóa”. Con người
tạo ra văn hóa và con người lại chính là công trình quan trọng nhất của
chính nền văn hóa của mình. Con người là giá trị cao quí nhất của văn
hóa, bởi lẽ, đó là giá trị "gốc" sản sinh ra mọi giá trị văn hóa. Trình độ
được vun trồng của con người, sự gia tăng giá trị của con người thể hiện
trong mọi mặt đời sống, trong mọi hoạt động và quan hệ thức tiễn đa dạng
của nó là tiêu chí và chuẩn mực của sự hình thành và phát triển của đời
sống văn hóa tinh thần.
Đời sống văn hóa tinh thần là biểu hiện của đời sống tinh thần, nhưng
nó không đồng nhất với đời sống tinh thần. Sự khác nhau của hai khái niệm
này không phải ở phạm vi báo quát rộng hẹp mà ở chất lượng đạt tới của hoạt
động tinh thần, ở ý nghĩa con người, ý nghĩa xã hội, ý nghĩa văn hóa của hoạt
động tinh thần và thành quả của nó. Nói đến văn hóa là nói đến các giá trị cao
đẹp trong đời sống tinh thần. Mọi con người, mọi gia đình, mọi xã hội đều có
đời sống tinh thần. Nhưng cũng có đời sống tinh thần cao đẹp mà cũng có đời
sống tinh thần thấp kém. Đời sống tinh thần cao đẹp chính là đời sống văn
hóa tinh thần. Khi Đảng ta nếu phương hướng: "tạo ra một đời sống tinh thần
cao đẹp, phong phú và đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ" trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội,
hay "tạo ra trên đất nước ta một đời sống tinh thần cao đẹp" trong Nghị quyết
hội nghị Trung ương V (khóa VIII) thì cái cần phải tạo ra đó chính là đời sống
39
văn hóa tinh thần.
Với tính cách là một hệ thống, đời sống văn hóa tinh thần diễn ra trong
sự vận động tương tác giữa các khâu nhu cầu, sản xuất, trao đổi, tiêu dùng giá
trị tinh thần.
Nhu cầu về giá trị tinh thần bao gồm hưởng thụ và sáng tạo giá trị tinh
thần là nhu cầu cơ bản, thiết yếu trong đời sống của con người của xã hội. Nói
nhu cầu của con người hay của xã hội là nói sự đòi hỏi, mong muốn của nó
đối với cái mà nó cần có, đòi hỏi và mong muốn có để tồn tại và phát triển.
Cái mà con người và xã hội cần có, đòi hỏi và mong muốn có để duy trì sự
tồn tại và phát triển của mình thì không chỉ là vật chất mà còn là giá trị tinh
thần. Nhờ có nhu cầu giá trị tinh thần mà sự tồn tại của con người mang tính
người thực sự, đối lập với tính tự nhiên, tính động vật. Không có nhu cầu thì
không có sản xuất. Nhu cầu giá trị tinh thần kích thích con người sáng tạo
những giá trị tinh thần mới, kích thích trao đổi giao lưu và tiêu dùng các giá
trị tinh thần, tóm lại là kích thích con người tham gia tích cực vào đời sống
văn hóa tinh thần.
Sản xuất giá trị tinh thần là hoạt động tìm tòi phát hiện và làm ra các
giá trị chân thiện mỹ nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của con người
của xã hội. Sản xuất giá trị tinh thần là cơ sở của toàn bộ đời sống văn hóa
tinh thần.
Trao đổi giá trị tinh thần là một hoạt động tất yếu, tự nhiên của một cơ
thể văn hóa lành mạnh. Tính tất yếu của hoạt động này trước hết bắt nguồn từ
quan hệ phong phú của con người – những quan hệ vốn làm nên bản chất con
người như C.Mác đã khẳng định.
Đời sống văn hóa tinh thần là một cơ thể sống. Và cũng như mọi cơ thể
sống khác, nó chỉ sống, phát triển nhờ thông qua sự trao đổi với môi trường.
Một con người, một cộng đồng, hay một quốc gia dân tộc có thể tự túc được
40
cái ăn, cái mặc, nhưng không thể tự túc được văn hóa. Để có nhiều món ăn
tinh thần cho mình, mỗi người, mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia đều phải có sự
giao lưu, trao đổi, vay mượn các giá trị văn hóa của nhau.
Cố nhiên, với tính cách là một khâu của đời sống văn hóa tinh thần, giao
lưu văn hóa phải là trao cái hay của mình và nhận cái hay của người. Trong
quá trình giao lưu đó, mỗi cơ thể văn hóa thực hiện sự chọn lọc, đồng hóa và dị
hóa, tiếp thu và gạt bỏ theo cơ chế tiến hóa. Nhờ đó, đời sống văn hóa tinh thần
của các bên tham gia giao lưu được mở rộng và nâng cao hơn, đa dạng và
phong phú hơn.
Tiêu dùng giá trị tinh thần là quá trình con người lựa chọn, tiếp nhận và
cảm thụ các giá trị tinh thần nhằm đáp ứng như cầu hưởng thụ và sáng tạo giá
trị tinh thần của mình.
Giữa nhu cầu, sản xuất, trao đổi – giao lưu, tiêu dùng có quan hệ tương
tác, chế định lẫn nhau. Không có nhu cầu thì không sản xuất. Nhưng chính
tiêu dùng lại tái sản xuất ra nhu cầu. Nhu cầu kích thích và định hướng sản
xuất, ngược lại sản xuất thúc đẩy định hướng và nhu cầu. Nhu cầu tinh thần
thấp kém, lệch lạc thì sản xuất tinh thần khó có thể phát triển và tiến bộ;
ngược lại sản xuất tinh thần không phát triển và tiến bộ thì nhu cầu tinh thần
cũng khó có thể phát triển và tiến bộ.
Từ những phân tích về các chuẩn mực của sự hình thành của đời sống
văn hóa tinh thần, về các khâu, các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của đời sống
văn hóa tinh thần, chúng tôi quan niệm: Đời sống văn hóa tinh thần là tổng
hòa sống động các hoạt động sản xuất, trao đổi, tiêu dùng các giá trị tinh
thần, làm cho các giá trị đó thấm sâu vào từng con người, từng cộng đồng,
trở thành yếu tố khăng khít của toàn bộ cuộc sống, hoạt động và quan hệ con
người, đáp ứng nhu cầu giá trị tinh thần ngày càng tăng của mọi thành viên
41
trong xã hội.
1.2.2. Địa kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và đặc điểm đời sống văn
hóa tinh thần người dân ở Hải Phòng hiện nay
a) Địa kinh tế, chính trị, xã hội
Hải Phòng nằm ở toạ độ 21o30’39’’ - 21o01’15’’ vĩ độ Bắc và 106o23’39’’ – 107o08’39’’ kinh tuyến Đông. Với diện tích là 1.519 km2, chiếm
0,47 % diện tích cả nước gồm phần đồng bằng ven biển và phần biển đảo. Trong đó vùng đồng bằng với 940,6 km2, chiếm 62% diện tích tự nhiên, phần diện tích đảo và vùng đất ngập triều là 567 km2, chiếm 37,6% diện tích tự
nhiên. Phía Đông giáp vịnh Bắc Bộ, phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Quảng
Ninh, phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh Thái Bình, phía Tây và Tây Bắc giáp
tỉnh Hải Dương. Hải Phòng tọa lạc tại khu vực đồng bằng sông Hồng với độ
cao trung bình 0,7 - 1,7 mét so với mực nước biển. Hải Phòng là một khu vực
đồng bằng ven biển rộng lớn thuận lợi phát triển kinh tế biển và là khu vực có khí hậu nhiệt đới gió mùa với nhiệt độ trung bình 23 – 24oC, lượng mưa trung
bình hàng năm khoảng 1.600 - 1.800 mm, độ ẩm trung bình 85% - 86%.
Hải Phòng nằm giáp biển, có bờ biển dài 125km, hội tụ mọi điều kiện
cho việc khai thác và phát triển các ngành kinh tế đặc biệt kinh tế biển. Vùng
biển và dải ven biển Thành phố có vị trí đặc biệt về quốc phòng - an ninh, có
nhiều điều kiện thuận lợi để ngày một nâng cao hơn mức sống của người dân.
Hải Phòng là thành phố Cảng, là cửa chính ra biển của vùng châu thổ sông
Hồng và các tỉnh phía Bắc, có tiềm năng đa dạng, phong phú để phát triển kinh
tế biển, là cực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, có vị trí chiến
lược, đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển vùng kinh tế trọng
điểm Bắc bộ và miền Bắc, trong hợp tác hai hành lang một vành đai kinh tế
giữa Việt Nam và Trung Quốc và hội nhập với khu vực, quốc tế.
Trong những năm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
42
đất nước 2001-2010, kinh tế thành phố ổn định, tăng trưởng khá nhanh và
toàn diện; quy mô kinh tế được mở rộng, năng lực sản xuất - kinh doanh được
nâng lên, đặc biệt là nội lực. GDP tăng liên tục với tốc độ bình quân
11,1%/năm; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, tỷ trọng 2 nhóm ngành công nghiệp - dịch vụ tăng từ 82,22% năm 2000
lên 90% năm 2010 (tốc độ tăng bình quân 12%/năm); thị trường xuất khẩu
được mở rộng, tăng nhanh về giá trị, chủng loại sản phẩm với kim ngạch xuất
khẩu tăng bình quân 20%/năm (năm 2010 gấp trên 6 lần năm 2000). Thu hút
vốn đầu tư phát triển tăng nhanh, bình quân 19,1%/năm. Năng lực sản xuất
của nhiều ngành kinh tế tăng mạnh. Thu ngân sách gấp hơn 6 lần, đạt tốc độ
tăng trưởng bình quân 20,23%/năm, trong đó thu nội địa tăng bình quân
18,83%/năm. Tỷ lệ đô thị hoá tăng nhanh (dân số đô thị từ 35% năm 2000 lên
48% năm 2010), lập thêm 2 quận mới và chuyển 1 thị xã thành quận; quy mô
và diện mạo đô thị phát triển rõ nét.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn có
nhiều chuyển biến. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội, nhất là hạ tầng giao thông,
cảng biển được chú trọng đầu tư, theo hướng hiện đại, tạo nền tảng đẩy nhanh
quá trình phát triển Hải Phòng trở thành thành phố cảng, công nghiệp văn minh
hiện đại. Quan hệ sản xuất phát triển và ngày càng phù hợp hơn, tạo điều kiện
phát triển lực lượng sản xuất. Các thể chế, cơ chế, chính sách của Nhà nước đã
được chủ động, tích cực triển khai áp dụng, đạt hiệu quả rõ. Lĩnh vực văn hóa,
xã hội đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Khoa học công nghệ bước đầu gắn
với thực tế sản xuất, đời sống xã hội, phát huy hiệu quả tích cực. Công tác đối
ngoại và mở rộng không gian kinh tế được đẩy mạnh. Cải cách hành chính
được tập trung cao, nhất là cải cách thủ tục hành chính. Nhận thức của nhân dân
về bảo vệ môi trường ngày càng được nâng lên. Tình hình chính trị, trật tự an
toàn xã hội được giữ vững, quốc phòng, an ninh được bảo đảm. Đại đoàn kết
43
dân tộc được tăng cường. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy.
Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được được cải thiện rõ rệt;
thu nhập thực tế của người dân năm 2010 gấp hơn 5 lần so với năm 2000;
phúc lợi xã hội và an sinh xã hội được coi trọng và từng bước mở rộng, tỷ lệ
hộ nghèo giảm nhanh. Hệ thống chính trị được kiện toàn, đổi mới nội dung,
phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động. Đảng bộ thành phố trưởng
thành cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, năng lực, sức chiến đấu được nâng
cao; nhận thức về cơ hội, thách thức của đất nước cũng như tiềm năng, lợi thế,
vai trò của thành phố trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
ngày càng rõ và đẩy đủ hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, thành phố còn một số
hạn chế, yếu kém: Kinh tế tuy tăng trưởng nhanh nhưng chưa bền vững, quy
mô kinh tế còn nhỏ, tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng, năng suất
hiệu quả còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng, vị trí, vai trò là cực
tăng trưởng quan trọng của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc. Phát triển và
quản lý đô thị còn nhiều bất cập; tốc độ phát triển đô thị, đô thị hoá nông thôn
chưa đáp ứng yêu cầu. Quản lý sử dụng đất đai còn bị buông lỏng, gây thiếu
sót, khuyết điểm ở một số nơi. Hệ thống các giải pháp an sinh xã hội được
quan tâm hơn, song kết quả đạt được thiếu vững chắc. Xã hội hoá trong các
lĩnh vực văn hoá - xã hội chậm. Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao. Tệ nạn
ma tuý, mại dâm, tai nạn giao thông còn diễn biến phức tạp. Tình hình an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội ở một số địa bàn trọng điểm và khu vực nông
thôn, nhất là khu vực phải thực hiện giải phóng mặt bằng, giao đất để triển
khai các dự án còn tiềm ẩn yếu tố mất ổn định.Việc giải quyết một số vụ khiếu
nại, tố cáo phức tạp, bức xúc còn chậm, kéo dài.
Hải Phòng đang tiếp tục là một trong những địa phương đi đầu trong
công cuộc đổi mới, cùng cả nước đi lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Với
44
cơ sở vật chất kỹ thuật và quy mô kinh tế ngày càng tiếp tục phát triển rõ nét;
cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng tiên tiến; tiềm năng, lợi thế
của thành phố cảng được khai thác, phát huy toàn diện và hiệu quả hơn, vị thế,
vai trò của thành phố đang ngày càng được nâng cao, đóng góp ngày càng lớn
vào sự phát triển chung của vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và cả nước; tạo
nền tảng vững chắc để Hải Phòng tự tin phát triển trong bước tiếp theo, cơ bản
trở thành thành phố công nghiệp văn minh, hiện đại.
Chính sự ổn định về tình hình kinh tế, văn hóa, chính trị đã tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hải Phòng. Những
điều kiện này đã làm cho tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hải Phòng có những đặc
trưng riêng, không giống với địa phương nào khác và đồng thời những đặc
điểm này là lý do đưa con người ta tìm đến với tín ngưỡng thờ Mẫu, tìm đến
sự che chở của Mẫu cho cuộc sống hiện tại.
b) Đặc điểm đời sống văn hóa tinh thần người dân Hải Phòng hiện nay
Từ những đặc điểm riêng về địa văn hóa, kinh tế, chính trị của Hải
Phòng đã phần nào ảnh hưởng đến các đặc điểm về đời sống văn hóa tinh thần
người dân. Cùng sự chuyển mình của đất nước trên con đường công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, mặc dù chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của sự phát triển kinh tế
xã hội, sự giao lưu hợp tác quốc tế trên tất cả các lĩnh vực nhưng Hải Phòng
vẫn bảo lưu được những nét tinh hoa trong vốn văn hoá cả vật thể và phi vật
thể. Ngành văn hoá - thông tin thành phố Hải Phòng đã và đang tích cực chỉ
đạo người dân trong tỉnh gìn giữ, phát huy những giá trị văn hoá truyền thống
và xây dựng những giá trị văn hoá mới, góp phần thực hiện mục tiêu xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Trên nền tảng đó, bằng sự phấn đấu bền bỉ, thành phố Hải Phòng đang
từng bước tạo nên diện mạo mới với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hoá” sôi động, có sức lan toả và thấm sâu đến mọi mặt đời sống
45
xã hội ở từng cơ sở. Bên cạnh những lễ hội truyền thống được tổ chức sôi nổi
hàng năm, lãnh đạo thành phố đã chỉ đạo xây dựng và mở rộng nhiều hình
thức hoạt động mới mẻ như: khôi phục các làng nghề truyền thống, khôi phục
những văn hóa truyền thống như: lễ hội chọi trâu, các lễ hội tại các đình, đền,
miếu tại các làng truyền thống trên địa bàn thành phố… thu hút hàng vạn lượt
người dân tham gia. Bên cạnh đó là mở các lớp bồi dưỡng, tập huấn nghiệp
vụ và kỹ năng cho cán bộ cơ sở trong việc triển khai, tiếp cận trong việc khôi
phục và phát triển nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá mang tính bản sắc của
thành phố, đồng thời thúc đẩy phong trào giao lưu văn hoá, phát triển đời
sống tâm linh, tín ngưỡng phát triển.
Đặc biệt, trong phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hoá”, các phong trào “Xoá đói, giảm nghèo”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Thanh
niên lập nghiệp”,... đã và đang trở thành nguồn lực vật chất và tinh thần to
lớn, đóng góp có hiệu quả vào các chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế -
xã hội ở địa phương như: giảm tỷ lệ hộ đói, nghèo, nâng cao mức sống của
người dân, đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế,… Diện mạo nông nghiêp,
nông thôn Hải Phòng nhờ đó cũng đổi thay từng ngày. Phong trào xây dựng
“Làng văn hoá, Gia đình văn hoá, Đơn vị văn hoá” tại các khu dân cư đi vào
chiều sâu.
Hệ thống cơ sở vật chất phục vụ các hoạt động văn hoá cũng được
ngành chú trọng phát triển. Được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo Trung
ương và địa phương, ngành đã xây dựng được nhiều công trình văn hoá có giá
trị, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của người dân.
Kinh tế phát triển đã kéo theo nhu cầu thưởng thức văn hoá, nghệ thuật
của nhân dân Hải Phòng cũng tăng lên rõ rệt. Nắm bắt kịp thời yêu cầu đó,
ngoài việc phát triển nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá - văn nghệ kiểu mới,
ngành văn hoá thông tin Hải Phòng đã quan tâm khai thác vốn văn hoá truyền
46
thống, coi đây là nhiệm vụ quan trọng.
Công tác bảo tồn văn hóa, tín ngưỡng đã có nhiều cố gắng bảo lưu, gìn
giữ các sản phẩm, di tích văn hoá, thu hút hàng nghìn lượt khách tham quan
mỗi năm. Các phương tiện truyền thông đại chúng trong tỉnh thường xuyên có
chương trình giới thiệu giá trị các di tích lịch sử - văn hoá nhằm quảng bá rộng
rãi và kêu gọi nhân dân từ giác bảo vệ gìn giữ ngành văn hoá - thông tin, phục
hồi nhiều lễ hội dân gian; sưu tầm, nghiên cứu và gìn giữ nhiều tác phẩm văn
bia, dân ca, văn học dân gian. Với giá trị tinh thần quý báu, giúp nuôi dưỡng
tình yêu quê hương đất nước và bồi đắp thêm tâm hồn mỗi con người, văn hóa
dân gian Hải Phòng luôn khẳng định vẻ đẹp và sức sống trường tồn trong nền
văn hoá dân tộc. Với những giá trị tinh thần ấy ngày nay mặc dù dưới sự phát
triển mạnh mẽ của kinh tế trị trường dù có những giá trị bị phai nhạt nhưng sức
sống trường tồn của những giá trị ấy vẫn ngày một phát triển và được nuôi
dưỡng tốt đẹp.
Con người Việt Nam nói chung, người dân Hải Phòng nói riêng vốn có
truyền thống yêu nước trọng tình nghĩa, uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ
người trồng cây, do vậy đời sống tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo ở Hải Phòng
cũng thấm đượm tinh thần ấy. Truyền thống ấy được thể hiện trong tín ngưỡng
thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và được ghi nhận rõ nét trong hệ thống
đền, miếu, phủ, nhà thờ... Trong những năm vừa qua đời sống tâm linh tín
ngưỡng, tôn giáo ở Hải Phòng có bước phát triển, hệ thống cơ sở thờ tự được
nâng cấp tu bổ toàn tỉnh thành phố.
Thành phố Hải Phòng có 04 tôn giáo chính là Phật giáo, Công giáo,
Cao đài, Tin lành và 03 tín ngưỡng chính là: tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng
thờ Thành hoàng làng, tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, trong đó có 1400 cơ sở
thờ tự các tôn giáo; trên 43 vạn tín đồ, chiếm 21,8% dân số thành phố. Trong
đó, các tín đồ nơi đây không có sự phân chia rạch ròi về việc theo một hay
47
nhiều tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau. Các tín đồ ở nới đây có thể cùng một
lúc theo từ một đến một vài tôn giáo tín ngưỡng, ví dụ: một người dân có thể
vừa theo tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, vừa theo tín ngưỡng thờ Thành hoàng
làng và theo cả tín ngưỡng thờ Mẫu và đại đa số người dân có thể theo cả ba
tín ngưỡng bản địa, đồng thời quy y Tam bảo theo Phật giáo. So với các tôn
giáo ngoại lai khác, có lẽ Phật giáo là tôn giáo gần gũi với đời sống tín
ngưỡng dân gian nhiều nhất. Đi vào bằng con đường hòa bình, Phật giáo đã
được người dân tiếp nhận và nhanh chóng trở thành quốc giáo. Trải qua nhiều
biến động của lịch sử, Phật giáo vẫn khẳng định được vị trí trong đời sống
nhân dân Hải Phòng với 598 chùa, 351 nhà tu hành, 1.330 chức việc, 350.000
phật tử. Hiện nay ở Hải Phòng, Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu luôn có sự
giao thoa với nhau. Trong các ngôi chùa vẫn còn phối thờ theo kiểu “tiền
Phật, hậu Mẫu” hay trong hệ thống thần linh công đồng thờ Mẫu thì Phật Bà
Quan Âm được thờ ở mức cao nhất. Bên cạnh đó, Nho giáo và Đạo giáo cũng
khẳng định được vị trí của mình trong tín ngưỡng thờ Mẫu. Hai loại hình tôn
giáo ngoại lai này đã giúp thờ Mẫu “lên khuôn” một cách hệ thống hơn, hoàn
chỉnh hơn. Ngoài ra thì tín ngưỡng dân gian với đạo thờ thần, tôn xưng các vị
anh hùng trong lịch sử cũng đã cùng nhau cố kết bền chặt hơn trong tín
ngưỡng thờ Mẫu.
Việc trùng tu nâng cấp các cơ sở thờ tự được nhân dân quan tâm, sinh
hoạt tín ngưỡng dân gian hướng vào giữ gìn, phát huy truyền thống thờ cúng
tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc, dân tộc, với nhân dân, đáp
ứng nhu cầu tinh thần của một bộ phận lớn nhân dân, khơi dậy lòng hiếu thảo
với ông bà cha mẹ, hòa thuận với anh chị em, trách nhiệm với cộng đồng làng
xóm, thể hiện nét đẹp của đời sống văn hóa tinh thần. Đó là những giá trị hết
48
sức quý giá cần được bảo lưu kế thừa và phát triển trong thời gian tới.
Tiểu kết chƣơng 1
Nói tóm lại, qua chương 1, chúng ta đã phần nào hiểu được một số đặc
điểm khái quát của tín ngưỡng và tín ngưỡng thờ Mẫu; nhận thấy được vị trí,
vai trò của tín ngưỡng, cụ thể là tín ngưỡng thờ Mẫu với những đặc trưng
riêng như: đặc trưng về sự ra đời, đặc trưng về niềm tin và đặc trưng về thực
hành nghi lễ... Tất cả những đặc điểm đó đã được thể hiện rõ nét trong đời
sống sinh hoạt tín ngưỡng của người dân Hải Phòng hiện nay. Có thể nói, tín
ngưỡng thờ Mẫu được xem như là tín ngưỡng điển hình của người Việt và
ngày càng trở thành loại hình tâm linh không thể thiếu trong đời sống của một
bộ phận quần chúng nhân dân, đặc biệt là nhân dân vùng châu thổ sông Hồng.
Tín ngưỡng thờ Mẫu có những chức năng xã hội cần thiết về phương diện văn
hóa, đời sống văn hóa tinh thần của người dân Hải Phòng nói riêng cũng như
nhiều địa phương khác trên cả nước nói chung. Để tìm hiểu rõ hơn những ảnh
hưởng sâu sắc của tín ngưỡng thờ Mẫu tại Hải Phòng, những lý luận trên sẽ là
công cụ hỗ trợ đắc lực để chúng tôi có thể bước đầu phân tích những ảnh
hưởng tích cực và tiêu cực mà tín ngưỡng thờ Mẫu mang lại cho người dân ở
Hải Phòng. Qua đó, việc đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu này sẽ giúp cho chúng ta
nhận thức và thừa nhận đúng đắn về vai trò của tín ngưỡng thờ Mẫu, đặc biệt
trên những khía cạnh ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống văn hóa tinh thần
mang lại ý nghĩa lý luận sâu sắc làm phong phú hơn các hoạt động văn hóa,
tín ngưỡng và hướng đến các giá trị đạo đức truyền thống, bảo tồn, lưu giữ
49
những nét đẹp và hạn chế những tồn tại của tín ngưỡng thờ Mẫu.
Chƣơng 2
ẢNH HƢỞNG TÍCH CỰC VÀ TIÊU CỰC TRÊN MỘT SỐ
PHƢƠNG DIỆN CỦA TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU ĐẾN ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA TINH THẦN NGƢỜI DÂN Ở HẢI PHÒNG HIỆN NAY
Nói đến ảnh hưởng của tín ngưỡng đến đời sống văn hóa tinh thần và
cụ thể ở đây là tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hải Phòng, chúng ta không thể quên
rằng với tư cách là một thành tố của kiến trúc thượng tầng, tín ngưỡng luôn có
sự tác động ngược trở lại với cơ sở hiện thực, cái đã sản sinh ra nó và đôi khi
có những tác động rộng lớn, sâu sắc, đáp ứng những khát vọng của con người.
Chừng nào con người, nhất là những người có niềm tin tín ngưỡng còn
tồn tại trên thế gian, họ vẫn mong muốn sống trong một xã hội công bằng,
nhân ái thông qua những hành động chủ động được thôi thúc bằng lý trí và
tình cảm tự nhiên của những cá thể trong một cộng đồng. Tín ngưỡng đã tìm
thấy trong cuộc sống những chất liệ chân thật, gần gũi với con người để tạo
dựng nên hệ thống giáo lý riêng, bản sắc riêng của mình. Trong Báo cáo
Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VII có nêu: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân, Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín
ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương giáo và giữa các
tôn giáo. Khắc phục tư tưởng, thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử
với đồng bào có đạo, chống những hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, đồng
thời nghiêm cấm và ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập
và đoàn kết dân tộc, chống phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nghĩa
vụ công dân” [20, tr.78].
Ngay từ thuở sơ khai, con người choáng ngợp trước các hiện tượng
50
thiên nhiên kỳ bí. Thiên nhiên là nơi sinh sống là nơi cung cấp nguồn của cải
vô tận cho con người, tuy nhiên cũng chính thiên nhiên cũng đem lại những
ảnh hưởng nguy hại đến tính mạng con người thông qua các thảm họa, thiên
tai. Với tư duy chưa phát triển, con người nghĩ rằng các hiện tượng của tự
nhiên cũng có những suy nghĩ, có linh hồn và có cuộc sống như con người nơi
trần tục. Và để tồn tại, phát triển, ngoài niềm tin vào bản thân còn là niềm tin
ở một thế giới siêu thực, nơi mà sức mạnh của thiên nhiên (hay con người) tạo
ra đều là những vị thần. Người dân tin rằng tất cả những vị thần đều có ảnh
hưởng đến đời sống, vận mệnh của họ từ khi họ còn là bào thai, được sinh ra,
trưởng thành và chết đi, tất cả những biến cố trong cuộc đời đều do các vị
thần linh đem lại.
Lòng tin vào thần lực – các lực lượng siêu nhiên, chính là tinh thần tín
ngưỡng của người Việt từ thuở xưa. Tín ngưỡng của người Việt bắt đầu từ đó
và trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, tín ngưỡng vẫn là một trong các điểm
tựa vững chắc – điểm tựa văn hóa tâm linh giúp người Việt tồn tại và phát
triển, giữ được bản sắc của mình. Điều này cho thấy tín ngưỡng của người
Việt đã hóp một phần không nhỏ: đó là quá trình thăng hoa và linh thiêng hóa
những cố kết cộng đồng bằng những sợi dây tâm linh, tín ngưỡng góp phần cố
kết cộng đồng trong ba cấp độ: Một – Dân tộc, Nhà nước, Quốc gia; Hai –
Làng, xã; Ba – Dòng họ, tổ tiên.
Với ba cấp độ với ba hình thức tín ngưỡng nói trên xuất hiện từ thực tế
tín ngưỡng người Việt, góp phần tích cực nhất định vào sự nghiệp dựng nước
và giữ nước của con người Việt Nam, đã trở thành đặc trưng tiêu biểu của lịch
sử tín ngưỡng người Việt trong hơn bốn nghìn năm văn hiến.
Bởi vậy, có thể nói rằng, tín ngưỡng, tôn giáo và cụ thể ở đây là tín
ngưỡng thờ Mẫu ở Hải Phòng là một bộ phận không thể thiếu của tín ngưỡng
tôn giáo Việt Nam. Nó đã hình thành và phát triển với những đặc trưng riêng
51
của mình và không ngừng góp phần vào công cuộc phát triển đất nước, nhất là
mặt đời sống văn hóa tinh thần của người dân. Với mục đích hiểu rõ những
ảnh hưởng sâu sắc và mang tính riêng của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hải Phòng,
chúng tôi sẽ phân tích những ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu trên một số
phương diện như: văn hóa tư tưởng, lối sống và thực hành tín ngưỡng đến đời
sống văn hóa tinh thần người dân nơi đây.
2.1. Phƣơng diện tinh thần
Ở Hải Phòng, ban thờ Mẫu được thờ ở rất nhiều nơi từ các ngôi chùa
làng cho đến các đền, điện, phủ. Với tinh thần đem lại niềm tin về một cuộc
sống tốt đẹp hơn cho các con nhang đệ tử ngay trong cuộc sống hiện tại, chính
bởi điều đó tín ngưỡng thờ Mẫu đã dễ dàng thu hút đông đảo số lượng người
dân tham gia sinh hoạt tín ngưỡng. Khi tham gia các sinh hoạt tín ngưỡng thờ
Mẫu, người dân nơi đây cũng như người dân nhiều vùng miền khác bên cạnh
các thủ tục, nghi lễ cúng bái để cầu xin sự phú quý giàu sang mà còn phải đến
với cửa Mẫu với lòng thành kính, nhất tâm với cửa nhà ngài với tâm hướng
đến đến Mẫu và các vị Thánh bản địa để cầu mong sự an bình cho mình, cho
gia đình và cầu mong những điều tốt đẹp sẽ đến với gia đình.
Bằng những biểu hiện thông qua nghi lễ đặc trưng của tín ngưỡng thờ
mẫu là các vấn hầu hay những nghi lễ ngày khánh tiết, các ông đồng, bà đồng
nơi đây thường tổ chức những buổi hầu đồng nhằm kết nối tâm linh giữa hai
thế giới: thần thánh và trần gian. Qua những buổi hầu đồng đó, lần lượt những
vị thánh sẽ về ngự đồng và có những lời phán truyền theo hình thức “sang tai,
lai lời” những gì mà họ muốn nhắn nhủ cho các thanh đồng, dặn dò họ những
việc tại trần gian để hướng cho họ và các con nhang đệ tự một cuộc sống tốt
đẹp, giàu sang… Đồng thời qua những vấn hầu với các giá khác nhau của nhà
Thánh, lần lượt các cung văn sẽ thỉnh mời và hát những sự tích các thánh về
ngự đồng. Các bản văn được cung văn thể hiện đã lột tả được hết cuộc đời,
52
tầm ảnh hưởng và đức hạnh của những vị thánh, những công lao họ đóng góp
cho đất nước, cho nhân dân và cùng với đó là những lễ nghi, phép tắc được
lồng ghép để răn dạy những người trần gian theo lẽ phải, theo thuần phong
mỹ tục tục của dân tộc.
Khi các ông đồng, bà đồng ở Hải Phòng hầu đồng, điều không thể thiếu
là những vấn hầu các vị thánh bản địa của Hải Phòng như: Chúa bà Năm
Phương, Đức ông Đệ Tam nhà Trần, bà Lê Chân, bà Đế…, điều này tùy thuộc
vào nơi mà các thanh đồng bắc ghế đầu thánh. Và nếu như thanh đồng hầu tại
các điện chính thờ của các vị thánh bản địa như: đền Chúa bà Năm Phương,
đền Bà Đế, đền Bà Lê Chân… thì không thể không hầu “các Ngài”. Điều này
cho thấy được sự tôn sùng và tầm ảnh hưởng rất lớn của các vị thánh bản địa,
cùng với đó là một đời sống tâm linh phong phú với các tầng lớp khác nhau
của hội đồng các thánh được lồng ghép rất công phu và đem lại sức sống
riêng cho tín ngưỡng thờ Mẫu ở nơi đây.
Những con nhang đệ tử hay những người dân theo tín ngưỡng thờ Mẫu
ở Hải Phòng thường nằm trong độ tuổi từ 18 – 50 tuổi và đang có xu hướng
trẻ hóa do được tiếp cận với tín ngưỡng thờ Mẫu ngày càng sớm. Điều này thể
hiện tín ngưỡng thờ Mẫu nơi đây phần nào đáp ứng được những nhu cầu,
mong muốn của các tín đồ tham gia. Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy: người
già đến với tín ngưỡng thờ Mẫu để tìm đến một không gian thanh tịnh, để cầu
cho bản thân, gia đình, con cháu được khỏe mạnh, bình an, làng xóm thuận
hòa; thanh niên đi lễ với mong muốn về công danh, sự nghiệp và phát triển
bản thân. Tất cả họ tìm đến với cửa Mẫu mong chờ một sự trợ giúp từ phía
các vị Thánh phù hộ cho họ và gia đình có nhiều sức khỏe, may mắn, rộng mở
hơn trong con đường công danh sự nghiệp. Điều này cũng cho thấy việc đi lễ
ở nơi đây đã trở thành một thói quen, một việc làm mang tính văn hoá tinh
thần của người dân và không thể thiếu trong cuộc sống của họ. Và các ngày
53
người dân cũng như các tín đồ thường đi lễ là: ngày Rằm, mồng Một đầu
tháng, ngày lễ tết, các Tháng tiệc như “Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ
(Mẫu), hay các ngày tiệc (đản sinh, đản nhật) của các vị Thánh. Việc đi lễ
thánh của các tầng lớp nhân dân nơi đây tuy đang có xu hướng trẻ hóa và
ngày càng mở rộng về quy mô nhưng phần lớn những người đang trực tiếp
thực hành tín ngưỡng, tham gia tín ngưỡng chưa hiểu hết về tín ngưỡng thờ
Mẫu tuy nhiên với việc đem lại một cuộc sống tốt đẹp và những điều may
mắn do đi lễ đem lại đã làm cho đại bộ phận những người dân nơi đây hình
thành những quy tắc về đời sống tâm linh rất phong phú như: đi lễ, thực hiện
lời dăn dạy của hội đồng các Thánh….
Phật giáo Hải Phòng cũng như Phật giáo ở các vùng miền khác trong cả
nước là một trong những tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong các tôn giáo
đang tồn tại ở Việt Nam. Tuy nhiên để có một tôn giáo phát triển như Phật
giáo thì chính tôn giáo đó là có cách thức hòa hợp với tín ngưỡng bản địa
nhằm chiến được niềm tin của người dân. Với cách thức phối thờ “tiền Phật,
hậu Mẫu”, Phật giáo đã từng bước lấy được niềm tin và có chỗ đứng trong
lòng các người dân nơi đây. Và việc hòa hợp với tín ngưỡng bản địa, và ở đây
là tín ngưỡng thờ Mẫu đã đem lại sức sống cho Phật giáo cũng như tín
ngưỡng thờ Mẫu. Với giáo lý của nhà Phật và những điều dăn của nhà Thánh
đã đem lại một đời sống tâm linh vô cùng phong phú không thể tách rời ở nơi
đây. Người dân khi đến chùa, đền, phủ điện họ như được che trở, giúp đỡ,
nâng lên, nhờ đó mà thấy tư tưởng, tâm linh của mình được thánh thiện, đẹp
đẽ hơn, có ý nghĩa hơn.
Trong đời sống, nhiều người quan niệm rằng có bệnh thì vái tứ phương
và đối với những con hương đệ tử của tín ngưỡng thờ Mẫu thì bên cạnh việc
chữa bệnh theo hướng hiện đại là đi bệnh viện cho bác sĩ điều trị thì họ còn
kêu cầu các vị thần, thánh giúp họ tai qua, bệnh khỏi. Do đó, nhiều gia đình
54
có người bị ốm nặng ngoài việc đưa đi bệnh viện, thì người nhà vẫn đến cửa
Chùa, cửa Đền, phủ, điện làm lễ cầu xin Thánh Mẫu phù hộ độ trì cho mau
khỏi bệnh. Một số gia đình có trẻ con luôn bị đau ốm đã làm lễ “bán con”
vào đền, phủ để nhờ Thánh Mẫu và các vị Thánh bản địa trông nom, nuôi
dưỡng “vía”, sau khi khoẻ mạnh, mười tám, đôi mươi lại xin chuộc ra…
Trong những hoàn cảnh như vậy, tín ngưỡng thờ Mẫu đã giúp củng cố niềm
tin để người dân an tâm vượt qua những khó khăn, trở ngại của cuộc sống để
vươn lên.
Trong trích đoạn của bản chầu văn của Chúa bà Năm phương đã thể
hiện được phần nào quyền năng tối cao, sự uy linh của các vị thánh”
“Dâng văn Bản Cảnh Chúa bà
Ngũ Phương Thánh Chúa ngự tòa tiên cung
Thanh tân cốt cách hình dung
Danh thơm Tiên Chúa khắp vùng ai đang
Tiếng đồn trong Bắc ngoài Nam
Ngũ phương thập hướng mọi đàng thiếu đâu
Đông Phương giá ngự điện lầu
Xem trong bốn bể cứu cầu chúng sinh
Tây Phương hiển hách anh linh
Tày, Dao, Mán , Thái hiện hình bách nhân...”
Hay:
“Chúa thương những kẻ đói nghèo
Biết ra lại được lộc nhiều hơn xưa
Phút biến đi về nơi bản cảnh
Sai tiên nàng đủng đỉnh dâng hoa
55
Ai mà ngạo mạn điêu ngoa
Chúa sai thị nữ thu ba hồn về
Đêm nằm mơ thấy ma cùng quỷ
Ngày chúa làm liệt vị chân tay...”
(Bản văn Chúa bà Năm Phương bản cảnh)
Các vị Thánh bản địa ở Hải Phòng như Bà Đế, Chúa bà Năm phương,
bà Lê Chân, Đức ông Đệ Tam nhà Trần….hầu như có nguồn gốc gần với đời
sống thường nhật của vùng ven biển hoặc họ có công trong quá trình xây dựng,
bảo vệ và phát triển đất nước cũng như xay dựng và bảo vệ thành phố Hải
Phòng. Các vị thánh khi còn ở trần gian đã dùng tài đức, năng lực của mình để
giúp dân, giúp nước trước các tai họa của xâm lăng ngoại bang, hay sự thiên
tai, dịch họa của thiên nhiên để đem lại cho nhân dân cuộc sống yên bình, ấm
no, hạnh phúc. Sau khi những vị thánh không còn ở trần gian nữa, nhân dân
tưởng nhớ đến công ơn của họ đã đem lại nên lập điện thờ cúng với mong
muốn họ sẽ dùng những năng lực siêu nhiên để bảo trợ cho nhân dân có một
cuộc sống tốt đẹp hơn. Điều này được thể hiện rất rõ thông qua các ngày lễ hội
của các đền, điện, phủ tại khắp nơi trên địa bàn thành phố, khi đó các con
nhang đệ tự, người dân khắp nơi đổ về dâng lên các vị thánh lễ vật và cầu
mong cho mình và gia đình những điều họ mong muốn đạt được trong thời
gian tới, nhằm có cuộc sống tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn.
Các phong tục, tập quán của người dân Hải Phòng cũng chịu ảnh hưởng
sâu sắc của tín ngưỡng thờ Mẫu như: Khi ốm đau, bệnh tật, hay cả khi cưới
hỏi, làm nhà mới… người dân Hải Phòng cũng thường mời “thầy” (ở đây là
các thanh đồng) đến cầu an; trong các dịp lễ quan trọng như: cúng, giỗ, bốc
mộ,… cũng được người dân mời thanh đồng về làm lễ với mong muốn có
được những điều may mắn, bình an. Vào những ngày lễ hội của đền, phủ….,
56
nơi thờ Mẫu và các vị thánh bản địa đã trở thành ngày hội văn hoá, thu hút
đông đảo con nhang đệ tử và quần chúng nhân dân tham gia và mỗi lần tham
dự lễ hội là một lần thấy gắn bó hơn với cộng đồng, quê hương và dân tộc.
Những ngày đại lễ của tín ngưỡng thờ Mẫu đã quy tụ các con nhang đệ tử từ
khắp nơi kéo về tụ hội và đây cũng là chất keo gắn bó những người có niềm
tin vào tín ngưỡng thờ Mẫu nâng cao tình thương đồng loại và nảy sinh lòng
vị tha, củng cố lòng hiếu kính với ông bà, cha mẹ.
Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hải Phòng còn mang nét đặc trưng riêng thông
qua hệ thống những vị Thánh được phối thờ cùng với hội đồng Tam, Tứ phủ.
Điều này cho thấy sự ngưỡng vọng và tin tưởng của nhân dân đối với những
vị Thánh bản địa, họ có những quyền năng đặc biệt và có thể giúp họ giải tỏa
tâm linh thông qua các sinh hoạt tín ngưỡng như: hầu đồng, tôn nhang, trình
giầu… Những vị Thánh bản địa được phối thờ ngoài những vị anh hùng dân
tộc có công với đất nước thì còn là những người có tư chất đạo đức, phẩm
hạnh đã có công giúp dân, giúp nước và đem lại ấm no hạnh phúc cho nhân
dân nơi đây. Với mong muốn của người dân khi đi lễ là cầu những điều mà
trong cuộc sống họ mong ước đạt được cho cá nhân họ, cho gia đình họ và
tựu chung lại là họ mong muốn cho xã hội có cuộc sống tốt đẹp hơn nữa. Điều
này cho ta thấy tính cố kết cộng đồng rất lớn của tín ngưỡng thờ Mẫu thông
qua các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng, mà ở đây là tín ngưỡng thờ Mẫu,
những vị Thánh được phối thờ ở Hải Phòng thường liên quan mật thiết đến
miền sông nước và thường được thờ ở các cửa sông, cửa biển. Những vị
Thánh ngoài năng lực bảo trợ cho vùng đất họ được thờ phụng không bị xâm
lăng, chiến tranh và tránh những thảm họa từ thiên nhiên, ngoài ra các tín đồ
còn đồng nhất các vị Thánh với các chức năng của họ và cho rằng họ có thể
làm được tất cả với năng lực siêu nhiên của mình.
Thông qua quá trình điều tra, khảo sát trên địa bàn Hải Phòng với các
57
địa điểm khác nhau của các đền, phủ cho thấy đa số những người tìm đến với
tín ngưỡng thờ Mẫu thường là gặp những biến cố lớn trong cuộc đời khiến họ
có sự thay đổi lớn về nhận thức tâm linh. Dường như khi đó học được thức
tỉnh những tiềm năng của bản thân khi nhận thấy mình còn có rằng buộc bởi
nhiều yếu tố, lực lượng tác động đến bản thân như các lực lượng siêu nhiên
mà ở đây là các vị thánh trong hội đồng Tam, Tứ phủ. Họ tìm đến với tín
ngưỡng trước tiên là nhằm mục đích đem lại sự bình an, mong muốn cuộc
sống trở về như trước khi có sự cố và mong muốn một cuộc sống ngày càng
tốt đẹp hơn nữa. Tuy nhiên, khi những tín đồ tìm đến với tín ngưỡng thờ Mẫu
họ chỉ có những nhận thức sơ lược về hệ thống của tín ngưỡng, những kiến
thức của họ về hệ thống các vị Thánh được thờ, các nghi lễ và những sinh
hoạt thường nhật của tín ngưỡng thờ Mẫu thì dường như họ chỉ nắm bắt được
một phần nhỏ. Qua đó ta thấy quan niệm và sự hiểu biết về tín ngưỡng thờ
Mẫu cũng như ảnh hưởng của nó trong đời sống văn hoá tinh thần của người
dân không nhất quán, những tín đồ của tín ngưỡng thờ Mẫu có xu hướng ngày
cảng trẻ về độ tuổi, đa dạng về giới tính mà lại không am hiểu về hệ thống
cũng như những ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu đem lại, do đó rất có thể
có những tư tưởng “chệch hướng” nếu không được định hướng rõ ràng. Họ có
thể bị lợi dụng bởi những cá nhân và những lực lượng xấu nhân danh những
người “làm việc nhà Thánh”. Do vậy, việc đánh giá những ảnh hưởng của tín
ngưỡng Thờ Mẫu đến người dân Hải Phòng có một ý nghĩa quan trọng để
phát huy những giá trị tích cực của tín ngưỡng thờ Mẫu trong đời sống xã hội.
Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực thì tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hải
Phòng với tư tưởng mang tính duy tâm chủ quan thần bí đã làm cho một bộ
phận con nhang, đệ tử và người dân theo tín ngưỡng thờ Mẫu không xuất phát
từ hiện thực và hướng vào thực tiễn cuộc sống để giải quyết những vấn đề đặt
ra, mà chỉ đi vào cái tâm cá nhân, hướng vào những lợi ích cá nhân mang tính
58
vụ lợi, không hướng vào cải tạo hiện thực xã hội. Vì ở một góc độ nhất định,
tín ngưỡng thờ Mẫu đã tạo dựng thế giới quan hư vô, niềm tin không tưởng,
đạo lý cốt nhục, hành vi thụ động bất lực trước thiên nhiên và xã hội trói buộc
con người, làm lu mờ cá tính, cá nhân và sự phát triển nhân cách. Điều này đã
và đang tác động tiêu cực đến quá trình xây dựng một đời sống văn hoá tinh
thần lành mạnh.
Tín ngưỡng thờ Mẫu gần như tuyệt đối hóa năng lực siêu nhiên của
Mẫu và hội đồng các thánh được thờ. Tuy nhiên, việc tuyệt đối hóa năng lực
của các thánh này là do chính con người tạo nên. Nhiều đồng thầy lợi dụng sự
tin tưởng, nhiều khi là sự mù quáng, không hiểu biết của các con nhang đệ tử,
tín đồ để tạo dựng nên danh tiếng của mình cũng như củng cố niềm tin tuyệt
đối vào thánh thần. Chia sẻ của một đồng thầy kỳ cựu tên Đ ở huyện An
Dương, Hải Phòng cho biết, nhiều người ốm đau không đi bệnh viện, thuốc
thang mà chỉ ra lễ bái, hầu đồng để mong khỏi. Có người muốn thăng quan
tiến chức cũng đi lễ bái, tổ chức hầu đồng mặc dù tài cán chỉ có hạn, có người
không chịu học hành, ôn luyện cũng ra xin thánh cho con thi đỗ trường nọ
trường kia…; một thanh đồng ở Kiến An, Hải Phòng cũng chia sẻ rằng, có
nhiều người khi đến năm có sao hạn như Thái Bạch, Kế Đô, La Hầu, Vân
Hớn thì sẵn sàng bỏ ra rất nhiều tiền để lập đàn giải sao, cúng khấn xin Phật
Thánh cho tai qua nạn khỏi mặc dù đang vướng vào các sao xấu kia chiếu
mệnh… Điều này cho thấy mức độ am hiểu về tín ngưỡng, tôn giáo của không
nhỏ người dân là rất thấp, không những họ không hiểu được nghi lễ, phép tắc mà
họ còn không hiểu về chức năng cũng như khả năng mà tôn giáo, tín ngưỡng
đem lại cũng có những giá trị hạn chế và không phải là toàn năng trên tất cả các
phương diện.
2.2. Phƣơng diện lối sống
Với quá trình phát triển và chiếm được niềm tin của đông đảo quần
59
chúng nhân dân Hải Phòng, thì bên cạnh những ảnh hưởng sâu sắc trên
phương diện tinh thần, tín ngưỡng thờ Mẫu còn có những ảnh hưởng không
nhỏ đến phương diện lối sống của người dân Hải Phòng.
Lối sống của một dân tộc được hình thành từ đặc điểm nhân chủng và
các điều kiện sống của dân tộc. Và lối sống người dân Hải Phòng được hình
thành do điều kiện địa lý, kinh tế, chính trị, trước hết là tâm lý và văn hóa
vùng ven biển. Vì vậy lối sống người dân Hải Phòng chính là sự hóa thân của
các đặc điểm truyền thống dân tộc, mang những nét riêng của vùng miền, bản
sắc con người và nền văn hóa Việt Nam. Lịch sử hình thành và phát triển Hải
Phòng cũng là lịch sử hình thành và phát triển lối sống người dân Hải Phòng.
Nó được vun đắp, được làm phong phú và đâm đà thông qua hoạt động lao
động sản xuất, chiến đấu, học tập, giao tiếp xã hội, trong đó quan trọng là giao
lưu văn hóa với các dân tộc khác và điều ảnh hưởng không nhỏ trong quá
trình giao lưu đó chính là tín ngưỡng thờ Mẫu ở nơi đây. Trải qua quá trình
gio lưu, tiếp biến văn hóa, tôn giáo tín ngưỡng, lối sống người Hải Phòng
ngày càng phong phú và phát triển.
Một trong những ảnh hưởng mang tín đặc sắc của tín ngưỡng thờ Mẫu
ở Hải Phòng đến lối sống người dân không chỉ là sự cởi mở, phản ánh những
mong muốn, khát vọng về tự do, hướng thiện về hạnh phúc của con người
trong quan hệ với xã hội mà còn thể hiện tính cố kết cộng đồng thông qua
truyền thống yêu nước, tinh thần tộc. Chúng ta thấy rằng, mục đích và nội
dung chủ yếu của tín ngưỡng phải là duy trì truyền thống dân tộc, nhưng ở khía
cạnh lối sống thì việc thực hành niềm tin, duy trì tín ngưỡng của các tín đồ là
phương thức để các giá trị truyền thống tốt đẹp được bảo tồn, củng cố và phát
triển. Điều này đã được minh chứng rõ nét trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hải
Phòng. Đối với những tín đồ của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hải Phòng khi tìm đến
các vị thánh cùng quân gia nhị thần của Ngài, bên cạnh việc cầu xin sự yên ổn,
60
sự ấm no hạnh phúc, thành đạt và thịnh vượng của họ, của gia đình họ, của
cộng đồng họ sinh sống thì họ còn được tiếp xúc với những tư tưởng đề cao
tinh thần yêu quê hương đất nước, tinh thần chống giặc ngoại xâm của các vị
Thánh họ đang kêu cầu. Điều này là đặc biệt quan trọng trong việc tăng cường
và không ngừng củng cố truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm trong
mỗi tín đồ và trong cộng đồng người Việt. Ở Hải Phòng, có nhiều vị thần
đưuọc thờ là người có thật trong lịch sử dân tộc (nằm trong chính sử) khi còn
sống đã có nhiều công với dân, với nước và khi chết đi được nhân dân tôn thờ
và tôn vào hàng Tứ phủ. Những vị thần này đóng vai trò rất quan trọng trong
đời sống của các tín đồ, có thể kế đến như: Bà Lê Chân, Đức Ông Đông Hải,
Công chúa Thiên Thụy, Chúa Bà Năm Phương...
Việc đề cao truyền thống yêu nước không chỉ được thể hiện qua hệ
thống thần linh được thờ trong hàng Tứ phủ mà còn được thể hiện đậm nét
trong nghi lễ hầu đồng và đặc biệt là thể hiện qua lời hát của các bài chầu
văn. Lời hát của các bài chầu văn ngoài việc thể hiện được sự tích, công
trạng to lớn của các vị Thánh đóng góp cho đất nước, về sự màu nhiệm của
vị Thánh, bên cạnh đó các bản văn còn thể hiện được cảnh đẹp của quê
hương đất nước, nơi mà các vị thánh đã từng ghi công trạng, bảo vệ và là
chốn đi về của nhà Ngài.
Ngoài ra, trong quá trình hầu đồng không chỉ có lời hát văn mà ngay cả
những điệu bộ, cử chỉ của những thanh đồng khi được giáng đồng (nhất là giá
các hàng Quan Lớn, hay các quan Hoàng) đã toát lên vẻ uy phong, lẫm liệt,
hùng dũng của các vị tướng. Điều này đã thể hiện được niềm tin và xây dựng
niềm tin của con nhang đệ tử của tín ngưỡng thờ Mẫu khi phải đối mặt với
giặc ngoại xâm và bảo vệ đất nước. Trong mỗi vấn hầu, với những động tác
và cách thức ăn mặc khác nhau các ông đồng, bà đồng không chỉ là diễn lại
những công trạng, sự tích của nhà Ngài mà còn gián tiếp nhắc nhở tín đồ và
61
các con cháu về sau công trạng hào hùng của các vị thánh thần, để từ đó tôn
vinh những vị anh hùng lịch sử, danh nhân văn hóa; bồi dưỡng lòng yêu nước
thương dân, tinh thần hướng đến cái chân thiện mỹ của người dân.
Đời sống văn hóa tinh thần của người dân được nâng cao, được cố kết
một cách chặt chẽ thông qua những sinh hoạt tín ngưỡng mà cụ thể ở đây là
tín ngưỡng thờ Mẫu. Các con nhang đệ tử đã tụ họp về cửa Mẫu, cùng một
lòng hướng về Mẫu với tất cả niềm tin họ có mang theo tinh thần dân tộc, tình
yêu tổ quốc, lòng biết ơn và kính trọng đối với các vị thần, thánh, anh hùng
lịch sử. Chính từ sự cố kết cộng đồng và lưu giữ, bảo tồn và phát huy những
giá trị truyền thống dân tộc của tín ngưỡng thờ Mẫu đã đem lại sức sống, tinh
thần và là kim chỉ nam của các thế hệ sau này. Sự cố kết này được nâng lên
nhờ sự linh thiêng của các Mẫu và các thần trong tín ngưỡng thờ Mẫu. Nếu tổ
chức tốt, bài bản các sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu ở các vùng, các địa
phương sẽ làm tăng cường tình đoàn kết, cảm thông lẫn nhau một cách sâu
sắc hơn giữa các thành phần và các tầng lớp khác nhau trong xã hội.
Đối với cuộc sống của nhân dân nói chung và người dân ở Hải Phòng
nói riêng, tín ngưỡng thờ Mẫu mang lại cho không chỉ cho cộng đồng những
người theo tín ngưỡng này mà còn cho toàn thể người dân một hệ giá trị đạo
đức, lối sống cao đẹp, phản ánh những chuẩn mực mà xã hội đưa ra cho chính
con người. Những chuẩn mực ấy thể hiện qua những bản văn chầu, các bản
thần tích kể về các vị thánh trong Tứ phủ, ví dụ như:
Trong bản văn thỉnh Mẫu đệ nhị Thượng ngàn có đoạn:
“Hình dong nhan sắc khác thường
Giá danh đổi một hoa vương khôn bì
Trải bao lá thắm tơ bài
62
Lòng trinh không quản một vài cơn gió xuân”
Ở đây, chúng ta có thể thấy những thước đo, những giá trị mà xã hội
định ra về vẻ đẹp của người con gái đều hội tụ lại ở hình tượng Thánh Mẫu
quyền năng. Đó có thể được coi là một cái đích, một tấm gương để con
người phấn đấu, rèn luyện để có thể đạt được đến những chuẩn mực cao nhất
như vậy.
Hay như trong thần tích Đền Bà Đế có viết: Nàng vật vã gào khóc,
thương cho cha mẹ chưa được một ngày báo công dưỡng dục, thương cho nỗi
oan tình chưa được khai hoa để báo đền ơn Chúa, nàng quì bên bờ biển ngửa
mặt lên trời chắp tay than rằng: “Phận gái thân cô, gặp Chúa yêu thương tôi
đâu dám chống, nghĩa cha mẹ, họ hàng tôi đâu dám quên. Xin Trời Phật
chứng giám cho lòng con. Khi con bị dìm xuống nước, nếu có oan ức, Trời
Phật cho nổi lên ba lần, họ hàng hãy cho con được sống. Nếu con dối trá,
thân này sẽ chìm xuống để làm gương cho đời”. Qua thần tích đền Bà Đế, cho
thấy bài học về tấm lòng của người con gái kiên trinh, tiết liệt. Đó chính là
những lời dăn dạy về danh dự, chữ tín nghĩa của con người, của cuộc sống thủy
chung trong cuộc sống từ xưa đến nay của người dân Hải Phòng.
Hay như trong văn Quan Hoàng Bảy có đoạn nói về công lao của Đức
thánh với đất nước, nhân dân mà đó cũng chính là một chuẩn mực về sự hy
sinh, cống hiến cho nhân dân, Tổ quốc cho không chỉ nam giới mà còn cả thế
hệ trẻ ngày nay:
“Cõi Bắc địa còn truyền cổ tích
Đức Bảy Hoàng thực đích trung quân
Sinh thời làm tướng trung thần
Tấc lòng yêu nước thương dân hãy còn”
hay như đoạn văn kể lại sau khi về tiên, Đức Hoàng Bảy cầm cân nảy mực,
63
xem xét những người ăn ở hiền lành để lưu phúc, còn những ai ăn gian ở ác
thì ra tay trừng phạt: “Thông qua Nam Tào, Bắc Đẩu mệnh trần gian, Lão Ấu
chép biên; Ai người phúc hậu thảo hiền, tu nhân tích đức, Ông Bảy chép biên
cho thọ trường, [….] Ông Bảy bảo rằng, chữ Đức kia mà đã kém, Ông Bảy cầm
cân sao cho vừa”.
Hay trong bản văn chầu Chúa bà Năm Phương đất Hải Phòng có ghi
về việc Chúa hay đi cứu giúp kẻ đói nghèo, trừng trị kẻ điêu ngoa, ăn không
nói có:
“Chúa thương những kẻ đói nghèo
Biết ra lại được lộc nhiều hơn xưa
[…] Ai mà ngạo mạn điêu ngoa
Chúa sai thị nữ thu ba hồn về
Đêm nằm mơ thấy ma cùng quỷ
Ngày Chúa làm liệt vị chân tay…”
Qua những bản văn chầu, thần tích về các vị thánh, cho thấy được
những đạo lý làm người xuyên suốt chiều dài lịch sử, dân tộc. Đó là những lời
dặn cho từng cá nhân trong xã hội phải sống sao cho trọn đạo lý, xây dựng
hình tượng một con người hoàn hảo với đầy đủ các yếu tố: chân, thiện, mỹ.
Cùng với đó tín ngưỡng thờ Mẫu nơi đây cũng cho chúng ta thấy được tính cố
kết cộng đồng thông qua tình yêu quê hương đất nước, tinh thần uống nước
nhớ nguồn. Đó chính là sợi chỉ đỏ xuyên xuốt chiều dài lịch sử dân tộc đã và
đang được bảo tồn và phát huy thông qua các nghi lễ, cách thức tiến hành của
tín ngưỡng thờ Mẫu.
Những giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ Mẫu Hải Phòng đã đem lại
trong đời sống tín ngưỡng của người dân những sắc thái sinh động, phong phú
và được xem là có một vị trí vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo tồn,
64
lưu trữ và phát triển những phẩm chất tốt đẹp của người dân Việt Nam nói
chung, Hải Phòng nói riêng. Từ truyền thuyết, văn chầu, trang phục… đều là
những nét văn hóa nghệ thuật cho đến những ảnh hưởng trong sự cố kết
cộng đồng từ các cá nhân có chung một tín ngưỡng đến một cộng đồng bao
hàm nhiều tôn giáo tín ngưỡng đan xen lẫn nhau như Hải Phòng. Đó chính là
văn hóa phi vật thể của dân tộc và cần có những hình thức bảo tồn, phát triển
hợp lý.
Tuy nhiên, khi nhắc đến tôn giáo, tín ngưỡng được nhắc đến với các
mặt tích cực và tiêu cực ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của con người.
Một mặt, nó giúp cho con người thỏa mãn được những ước vọng về cuộc
sống trần thế. Nhưng mặt khác, nó cũng tồn tại những điểm hạn chế không chỉ
trong đời sống, niềm tin tâm linh mà còn cả về đạo đức, lối sống trong cuộc
sống thực tại. Tín ngưỡng thờ Mẫu cũng không tránh khỏi có những hạn chế
như vậy. Cùng với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, các
trang mạng xã hội, cộng theo đó là sự phát triển của nền kinh tế thị trường,
những giá trị đạo đức, lối sống của một bộ phận con nhang đệ tử, các thanh
đồng của Mẫu đang xuống cấp, khiến cho người dân có những băn khoăn,
ngờ vực về loại hình tín ngưỡng dân gian bản địa lâu đời này của dân tộc nói
chung và ở Hải Phòng nói riêng. Một số các thanh đồng mang chuyện đời tư
của những người khác lên các trang mạng xã hội để bàn tán, bình luận. Và kết
quả là những trận cãi cọ, thậm chí chửi rủa nhau bằng những lời lẽ thô tục, có
những khi còn mang cả nhà Thánh ra để chửi mắng nhau. Vô tình những
người ngoài cuộc, những người không theo tín ngưỡng thờ Mẫu khi nhìn
những cuộc cãi vã, những từ ngữ tục tĩu này đã nảy ra cái nhìn không mấy
thân thiện và tích cực về đội ngũ con nhang đệ tử nhà Thánh, đặc biệt là con
nhang đệ tử trẻ tuổi hiện nay. Bên cạnh đó, theo chia sẻ của một đồng thầy kỳ
cựu ở Vĩnh Bảo, Hải Phòng, ông cho biết: một bộ phận con nhang đệ tử
65
không giữ được chính bản thân mình, để bị cuốn đồng tiền và những mối
quan hệ nhập nhằng, không rõ ràng. Có nhiều người bỏ chồng bỏ con, bỏ bê
làm ăn, công việc để đi hầu đồng. Rồi sinh ra bồ bịch, quan hệ ngoài luồng.
Như vậy hoàn toàn không đúng với chuẩn mực đạo đức mà xã hội định ra cho
một người, và sau hết là không đúng với chuẩn mực của con cái nhà Thánh.
Kinh tế mở cửa kéo theo sự du nhập của các nền văn hóa khác, tuy
nhiên việc mở cửa kéo theo hệ lụy là khó có thể ngăn chặn cũng như cấm
đoán những luồng văn hóa ngoại lai không đúng thuần phong mỹ tục của
người Việt Nam. Đi cùng với đó là những ảnh hưởng trực tiếp đến tín ngưỡng
thờ Mẫu và ở đây là tín ngưỡng thờ Mẫu Hải Phòng, nó đã có những ảnh
hưởng tiêu cực không nhỏ đến lối sống của các thanh đồng, những con nhang
đệ tử của tín ngưỡng thờ Mẫu khi mà lối sống buông thả, không coi trọng
phép tắc, đạo lý mà chạy theo sự hào nhoáng, chạy theo vật chất. Điều này
dẫn tới lối sống đạo đức bị suy thoái, lối sống về tâm sinh lý bị đảo
lộn…khiến cho tín ngưỡng thờ Mẫu bị ảnh hưởng không nhỏ. Những biểu
hiện tiêu cực trên về đạo đức, lối sống trong xã hội hiện nay đã một phần
khiến cho môi trường trong tín ngưỡng thờ Mẫu bị vẩn đục. Và liệu có thể
“gạn đục khơi trong” để trả lại cho tín ngưỡng thờ Mẫu sự trong sạch, thanh
tịnh như vốn có hay không? Đây là câu hỏi và cũng là một thách thức đặt ra
cho chính các tín đồ, con nhang đệ tử của riêng tín ngưỡng thờ Mẫu nói riêng
và các tôn giáo, tín ngưỡng khác.
2.3. Phƣơng diện thực hành tín ngƣỡng
Khi nhắc đến việc thực hành nghi lễ thờ cúng trong tín ngưỡng Mẫu
chính là một chặng đường hướng những con nhang đệ tử nói chung về quy tụ
bên Mẫu hưởng sự che chở, bảo trì của Mẫu. Không cần đến khổ tu, lánh tục
để hưởng hạnh phúc về sau mà trước Mẫu hiền từ, công bằng với tấm lòng
thành, tin Mẫu, Mẫu sẽ độ cho mà hưởng hạnh phúc ngay trong cuộc sống
66
hiện tại. Đối với những người được xem là có căn đồng thì những nghi lễ thờ
cúng còn được xem là một quá trình tự rèn luyện học hỏi để tìm lại những
phẩm chất con nhà thánh trong chính bản thân, trong cuộc sống hiện tại.
Khi xã hội ngày càng phát triển thì đời sống của nhân dân cũng không
ngừng được cải thiện và nâng cao về mọi mặt. Trong đó tín ngưỡng, tôn giáo
thành thứ không thể thiếu đối với một bộ phân dân cư có nhu cầu trong đời
sống tâm linh của họ, và tín ngưỡng thờ Mẫu là tín ngưỡng không thể thiếu
trong đời sống tâm linh đa dạng đó. Qua việc nghiên cứu khảo sát tín ngưỡng
thờ Mẫu tại Hải Phòng hiện nay bằng các nghi lễ thờ cúng và được biểu hiện
rõ nét qua vai trò của phần “lễ” và phần “hội” trong xã hội hiện nay là rất to
lớn. Ngoài việc chấn hưng nền văn hóa dân tộc, nó còn khuyến khích tinh hoa
văn hóa của từng vùng miền, nó giúp thế hệ con cháu đời sau nhớ về cội
nguồn lịch sử dân tộc, ca ngợi Mẹ khởi thủy, Mẹ dạy trồng trọt… bởi vì các
Mẹ là cội nguồn văn hóa về ý thức cộng đồng được lưu truyền thông qua các
tín ngưỡng bản địa.
Ở một góc độ khác, kế thừa những nghiên cứu khoa học liên ngành
khác, các nghi lễ thờ cúng trong tín ngưỡng Mẫu ở Hải Phòng còn chất chứa
những giá trị văn hóa truyền thống của cư dân Đại Việt. Tầm ảnh hưởng của
tín ngưỡng thờ Mẫu đối với đời sống văn hóa tinh thần người dân là rất sâu
rộng, và đi sâu vào tiềm thức nhân dân với vai trò là một tín ngưỡng bản địa
thuần túy, được bổ sung và vun đắp qua từng giai đoạn lịch sử cho phù hợp
với đời sống nhân dân.
Tín ngưỡng thờ Mẫu không có một hệ thống luật lệ, nghi lễ quy chuẩn
được in thành sách và trở thành giáo lý của tín ngưỡng bởi tính đa dạng và
sâu sắc, đồng thời tín ngưỡng còn mang bản chất của từng vùng miền, địa
phương đã tạo ra sự thay đổi khác nhau trong cách hiểu và thực hành theo
67
giáo lý. Nghi lễ thờ Mẫu ở Hải Phòng mang tính chung tương đối và được
quy định bởi tính vùng miền nơi đây, chính những nghi lễ này đã làm đặc sắc
và phong phú thêm cho đời sống văn hóa tin thần người dân bản địa.
Những người thực hành nội dung các nghi lễ của tín ngưỡng thờ Mẫu
không chỉ có những con nhang, đệ tử mà còn cả những người dân có niềm tin
vào những đấng tối cao, có quyền năng làm cuộc sống của họ thay đổi theo
chiều hướng tốt đẹp hơn. Những người này tìm đến với tín ngưỡng thờ Mẫu
bằng sự tôn kính với thánh Mẫu và các vị thánh được thờ ở bản địa, họ thông
qua những thần tích, thần phả hay thông qua những nghi lễ đặc sắc của từng
địa phương mà biểu hiện sự ngưỡng vọng và tôn thờ. Sau nhiều lần tìn hiểu
và cảm nhận được đời sống tâm linh của bản thân, của gia đình và của cộng
đồng xã hội đã có sự thay đổi theo hướng tính cực, mang lại cho họ những
mong muốn trong cuộc sống hiện tại.
Với những người dân hướng đến của Mẫu bằng sự thành kính và qua sự
tìm hiểu rõ ràng họ sẽ thấy được lễ nghi phép tắc, sự phân bậc trên dưới, trước
sau của tín ngưỡng thờ Mẫu. Với những nhân chứng rõ ràng trong lịch sử có
công với dân tộc với vùng miền mà họ coi là quê hương thì khiến cho những
người dân ngưỡng vọng với lòng tôn kinh tối cao nhất, tuy rằng niềm tin tôn
giáo của họ không được khai phá hết nhưng họ cũng cho thấy được rằng sức
thu hút của tín ngưỡng là rất lôi cuốn.
Việc chịu ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu còn ảnh hưởng đến
những sinh hoạt thường nhật của bản thân và gia đình, trong đời sống hằng
ngày họ cũng lồng ghép những lời ăn tiếng nói, những cử chỉ, lề lối của
những thanh đồng thực hiện nghi lễ. Ngay cả khi họ thực thi những tín
ngưỡng khác như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên hay đi lễ Phật họ cũng có những
lời văn khấn rất vần và mang đậm phong cách nghi lễ, hành lễ của nhà Thánh.
Điều này chứng tỏ sức ảnh hưởng của tín ngưỡng và ở đây là những nghi lễ
68
của tín ngưỡng đã tạo nên một sức sống riêng cho từng vùng miền, từng khu
vực. Chính những người dân, những người “không có căn có số” đã góp một
phần không nhỏ vào việc xây dựng, bảo tồn và phát triển những nghi thức của
tín ngưỡng thờ Mẫu, điều đó đã làm cho tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hải Phòng có
những nét sinh động và đặc sắc hơn các vìng miền khác, và ở Hải Phòng
người ta gọi đó là tính mở của tín ngưỡng.
Việc thực hành các nghi lễ của tín ngưỡng thờ Mẫu chính là cội nguồn,
là xương sống của tín ngưỡng thờ Mẫu và chính là cách thức đưa những con
nhang đệ tử, những người có niềm tin tôn giáo đến với Mẫu cùng các vị thánh
trong tín ngưỡng này. Các nghi lễ là cách thức để họ tiếp cận được gần với
Mẫu nhất, được hưởng đặc ân của Mẫu ban tặng bằng niềm tin tối cao nhất,
với những mong muốn đời thường nhất từ sức khỏe cho đến công danh sự
nhiệp, cuộc sống bình an, hạnh phúc cho cá nhân họ và những cộng đồng
người quanh họ. Đa phần những người tìm đến với cửa Mẫu thường gặp
những biến cố lớn trong cuộc đời, biến cố đó khiến họ suy sụp về mặt tinh
thần (đôi khi cả vật chất) và khi đó họ tìm đến tín ngưỡng với niềm tin sẽ
thoát khỏi những tháng ngày u tối, và cuộc sống tốt đẹp sẽ tiếp tục chờ đón họ
ở tương lai. Tín ngưỡng thờ Mẫu đã đem đến cho họ những niềm tin như vậy
thông qua những nghi lễ đặc sắc và riêng biệt của mình. Từ cách thức hòa
nhập, gia nhập vào tín ngưỡng đã cho thấy sự dung nạp các đệ tử một cách
khá dễ dàng bởi họ cho rằng những biến cố mà họ gặp phải trong cuộc đời là
bởi vì họ chưa ra trình cửa Cha, cửa Mẹ, và chưa “biết mặt, đặt tên” nên họ
mới gặp những tai ương trong cuộc sống. Khi họ tìm đến với cửa mẫu, họ đã
được điểm danh, được biết đến vị trí, bản thân con người thật của họ trong đời
sống tâm linh mà bấy lâu nay họ chưa từng được khai phá.
Mặt khác, tín ngưỡng thờ Mẫu với xuất thân từ nền nông nghiệp lúa
nước với vai trò quan trọng của người phụ nữ, bên cạnh đó là hệ thống nghi
69
thức, cách thức trang trí sắp đặt của tín ngưỡng thờ Mẫu khiến cho nhân dân
thấy gần gũi bởi tính trên dưới, trước sau rất lễ nghi, phép tắc giống như cuộc
sống thường nhật vậy. Bằng cách đó, tín ngưỡng thờ Mẫu đã dần ăn sâu vào
tiềm thức của những con nhang đệ tử, những người “có căn, có số” và được
Cha, Mẹ chấm để làm việc cho nhà Thánh, để hầu hạ các Ngài.
Bên cạnh những ông đồng, bà đồng hay hệ thống con nhang của tín
ngưỡng thờ Mẫu được biết đến cửa Mẫu thông qua những biến đổi lớn trong
cuộc đời thì còn có một bộ phận không nhỏ những cá nhân theo tín ngưỡng thờ
Mẫu va am hiểu về tín ngưỡng từ rất sớm. Có thể là được “chấm đồng từ thuở
mười ba, đến năm mười bảy là ra trình đồng”, họ được các Ngài về báo mộng,
về dạy dỗ từ đi đứng, nói năng cho đến phán truyền và tường tận các việc của
nhà thánh. Đây là những người “căn cốt” làm thanh đồng, họ được bảo ban dạy
dỗ từ rất sớm, thậm chí sớm hơn cả thuở “mười ba” để ra làm việc cho nhà
thánh, hầu các Ngài. Một thanh đồng tên K, ở Vĩnh Bảo Hải Phòng cho biết:
“Năm lên mười, tôi đã mơ thấy mình được các Ngài chấm. Các Ngài cho tôi ăn
lộc xem bói (đoán trước tương lai) và tôi có xem cho nhiều người và họ đều
bảo đúng với cuộc sống hiện thực của họ. Nhưng tôi rất hay bị đau đầu và có
những giấc mơ kỳ lạ như: có người dạy múa, dạt hát, dạy xem mặt người,
tướng người… thậm chí tôi còn mơ đi đánh giặc giúp dân, cứu nước. Sau khi
tôi ra mở phủ trình đồng thì mọi chuyện đều tốt đẹp, cuộc sống của tôi trở lại
bình thường. Hiện nay tôi vẫn đi làm công chức nhà nước tuy nhiên tôi vẫn làm
việc cho nhà Thánh (hầu đồng)”.
Có thể những người đến với cửa Mẫu có nhiều nguyên do khác nhau
nhưng có một điểm chung lớn của họ chính là có “duyên” với cửa Mẫu. Dù
bằng nhiều hình thức, cách thức hay thâm chí là những biến cố nhưng đích
đến của họ đều là của Mẫu với mong muốn được che chở, được sống với đời
sống tâm linh của mình. Đối với họ, để có một đời sống tâm linh mà hiểu
70
được bản chất, hiểu được những phép tắc lễ nghi của nhà Thánh thì không
phải dễ. Có nhiều cách thức tìm hiểu khác nhau, tuy nhiên họ có thể hiểu ít,
hiểu nhiều và thậm chí hiểu sai lệch về nội dung nghi lễ và tín ngưỡng thờ
Mẫu. Điều đó làm cho tín ngưỡng trở nên đa dạng, đa cách thức nhưng cũng
góp phần tạo nên sự trái chiều về cách hiểu, cách thực hành tín ngưỡng. Tuy
nhiên phép tắc, lễ nghi của nhà thánh rất nghiêm ngặt và không phải ai cũng
có thể theo được. Không phải ngẫu nhiên mà có những người “căn cơ” được
dạy về lễ nghi phép tắc từ rất sớm, kể cả từ những giấc mơ cho đến các cụ
đồng cựu dạy lại thông qua các nghi lễ của tín ngưỡng và theo cách thức
truyền miệng trực tiếp.
Qua nghiên cứu và khảo sát cách thực hành tín ngưỡng thông qua nghi
thức thờ cúng và các thủ tục khác cho thấy tính xuyên suốt trong lịch sử của
nghi lễ thờ cúng trong tín ngưỡng thờ Mẫu. Với nhiều thế kỷ tồn tại và phát
triển, tín ngưỡng bản địa cũng đã va chạm với dất nhiều các tôn giáo, tín
ngưỡng khác nhau tuy nhiên về bản chất cơ bản và ở đây là các nghi lễ vẫn
được bảo tồn, gần như là nguyên vẹn. Những sự đổi mới của nghi lễ chỉ là
những nét văn hóa đặc sắc được thu nạp từ những tôn giáo, tín ngưỡng khác
để làm đa dạng và phong phú thêm cho tín ngưỡng bản địa với bản chất là
không thay đổi.
Những thủ tục tiến hành nghi lễ từ trước cho đến nay vẫn không hề
thay đổi. Ví dụ như một người bình thường khi có niềm tin và theo tín
ngường thờ Mẫu thì họ cần tìm cho mình một “đồng thầy” có duyên với mình
và có đủ đức độ để có thể dẫn dắt họ, chỉ cho họ những lễ nghi phép tắc của
nhà thánh. Khi mà người đó thấm nhuần về tín ngưỡng thờ Mẫu cũng như
hiểu được vai trò vị trí của bản thân trong tín ngưỡng và sự cần thiết phải theo
như một đệ tử chân truyền của nhà thánh thì đồng thầy sẽ tiến hành nghi lễ
“tôn nhang” cho người đó. Sau khi nghi lễ tôn nhang được thực hiện thì người
71
đó vẫn tiếp tục được dạy dỗ và tìm hiểu sâu hơn về tín ngưỡng của mình, khi
mà đủ độ chín thì đồng thầy sẽ cho họ được ra “mở phủ trình đồng”. Từ đây
họ chính thức là con nhà thánh, được Cha biết mặt, Mẹ biết tên và làm việc
cho nhà thánh, giúp đỡ người dân và đệ tử của tín ngưỡng, đồng thời vẫn phải
trau dồi đạo đức, lễ nghi phép tắc của nhà thánh và phát triển nơi thờ tự cũng
như lề lối tác phong của một ông đồng, bà đồng.
Lề lối, tác phong trong việc thực hành nghi lễ của tín ngưỡng thờ Mẫu
ở Hải Phòng đã được du nhập nhiều từ tôn giáo, tín ngưỡng khác tuy nhiên
những lễ nghi có từ cổ xưa do các cụ truyền lại không hề có sự thay đổi và
vẫn đang được con cháu Tứ phủ nơi đây duy trì và phát triển. Chính điều đó
đã làm nên sức ảnh hưởng không nhỏ của tín ngưỡng đến đời sống văn hóa
tinh thần người dân nơi đây.
Tuy nhiên, với một nền nền kinh tế thị trường đang trên đà phát triển
như ở Việt Nam nói chung và thành phố Hải Phòng nói riêng thì việc ảnh
hưởng tiêu cực đến tín ngưỡng thờ Mẫu và các tôn giáo có trên địa bàn là điều
không thể tránh khỏi. Khi mà tín ngưỡng thờ Mẫu mang trong mình một loạt
các nghi lễ khác nhau với các mục đích khác nhau, các nghi lễ ấy ngày nay lại
đang phần nào bị biến đổi so với cái ban đầu vốn có của nó. Trong đó phải kể
đến nghi lễ Hầu đồng, dưới tác động của kinh tế thị trường, hầu đồng đã bị
biến đổi cả về hình thức lẫn nội dung. Trước hết về hình thức của nghi lễ hầu
đồng, sự nở rộ của các vấn hầu, canh hầu hiện nay ở các đô thị lớn, trong đó
có Hải Phòng hay các nơi đền phủ cho thấy những vùng đất tâm linh nay có
xu hướng trở thành các trung tâm văn hóa hơn là tâm linh. Sự chuyên nghiệp
trong thực hành Hầu đồng của các thanh đồng cộng với việc đưa Hầu đồng từ
ở đền phủ lên sân khấu, sàn diễn đã khiến cho Hầu đồng trở thành “biểu
diễn”, chứ không còn tính chất linh thiêng. Theo đó, sự tăng vọt về số lượng
thanh đồng, con nhang đệ tử ra mở phủ cũng làm cho “hầu mở phủ” trở thành
72
một “nghề kiếm cơm” cho các đồng thầy, trong đó, tính cạnh tranh, dịch vụ
trở nên rõ nét. Vấn đề kinh tế cũng thể hiện rõ trong việc mua nhiều đồ lễ, đặc
biệt là việc sính hàng ngoại hiện nay, cùng số lượng tiền của của một vấn hầu
lên đến hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu. Số lượng vàng mã nhiều, trị giá
hàng triệu đến hàng chục triệu cuối cùng chỉ để mang đi đốt, vừa lãng phí tiền
của, vừa gây ô nhiễm môi trường, nguy cơ hỏa hoạn, mặc dù không biết liệu
các Thánh thần có cần tới hay không? Về nội dung và nghi thức của nghi lễ,
trước đây, việc kiêng kỵ được thực hiện rất nghiêm ngặt, nhưng hiện nay sự
nghiêm ngặt ấy đã giảm dần. Hay như việc khăn áo của các thanh đồng cũng
rất phong phú, đa dạng. Những thanh đồng giàu có thì chuẩn bị cho mình
hàng chục bộ khăn áo khác nhau, mỗi giá hầu là một bộ khăn áo riêng chứ
không dùng chung khăn áo như trước đây. Thậm chí, khăn áo cực kỳ xa hoa,
đắt tiền để phần nào phô trương danh diện của đồng. Hầu đồng hiện nay, các
thanh đồng luôn cầu kỳ trong việc phải chọn được cung văn hay, nổi tiếng để
về hát cho canh hầu của mình. Sự nổi tiếng của cung văn giờ thực hiện chức
năng thúc đẩy cảm xúc, góp phần khoa trương thanh thế của thanh đồng hơn
là việc thỉnh mời các Thánh thần về ngự. Hay như các nghi thức trong hầu
đồng giờ phần nào mất đi sự oai linh, nể sợ bởi những thủ thuật biểu diễn.
Việc phán truyền giờ đây gần như chỉ còn là những lời nói mang tính chất ban
khen vô thưởng vô phạt,…
Đối với nghi lễ Mở phủ, hiện nay thì việc mở phủ cho các con nhang đệ
tử của tín ngưỡng thờ Mẫu diễn ra tràn lan, không tuân theo phép tắc, luật lệ
hay quy tắc mà các cụ xưa để lại. Ngày nay các thanh đồng thi nhau mở phủ
cho những con nhang của mình với mục đích thu về những món lợi từ việc
mở phủ. Nghi lễ Mở phủ là nghi lễ đưa một con nhang trở thành một ông
đồng, bà đồng thực thụ, chính là một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời
của những thanh đồng. Khi đã trở thành ông đồng, bà đồng, được cấp sắc
73
(mảnh lụa màu vàng, trên đó có viết chữ do một vị đồng cựu làm cho) từ nay
họ mang trong mình một sứ mạng mới, thay mặt Thánh Mẫu để thực thi phép
màu. Phủ được lập lên. Được đặt tại khu đất có địa thế đẹp theo quan niệm
phong thủy, đó là khu đất tụ thủy, tụ phúc, có những thế rồng chầu… Trước là
để thờ cúng Tam tòa Thánh Mẫu và Tứ Phủ công đồng, sau là nơi thay Mẫu
làm việc Thánh, chăm lo cho con Cha, con Mẹ. Việc mở phủ tràn lan đã gây
ra ảnh hưởng rối loạn trong tín ngưỡng thờ Mẫu, có những thanh đồng không
biết phép tắc, lễ nghi khi hầu đồng và làm các thủ tục của tín ngưỡng thờ
Mẫu. Từ đó sẽ gây ra những cái nhìn khác về tín ngưỡng dân tộc này, họ coi
rằng việc ra hầu đồng là để trục lợi, làm giàu và kinh tế hóa bản thân cũng
như gia đình. Họ sẽ bị những giá trị vật chất khỏa lấp đi những giá trị vô giá
về mặt tinh thần mà tín ngưỡng thờ Mẫu đem lại trong cuộc sống.
Cùng với đó là những nghi lễ khác của tín ngưỡng thờ Mẫu cũng bị lợi
dung triệt để: như nghi lễ trình giầu, nghi lễ tôn nhang.... Đây là những nghi lễ
thường diễn ra đối với các con nhang, đệ tử theo tín ngưỡng thờ Mẫu, tuy
nhiên đây cũng là những nghi lễ dễ trục lợi nhất đối với những thanh đồng coi
việc hầu thánh là để nâng cao đời sống kinh tế. Qua khảo sát, chúng tôi được
anh X ở Đồ Sơn, Hải Phòng cho biết: trong vấn hầu Thượng Nguyên đầu
năm, khi anh làm lễ trình giầu, đồng thầy xin đài 3 lần không được (xin âm
dương bằng tiền xu cổ) và phán rằng năm nay anh gặp nhiều vận hạn, buôn
bán thua lỗ, đi lại khó khăn.... và bảo phải làm lễ tạ các cụ; còn cụ H, Kiến
Thụy, Hải Phòng kể lại rằng, đầu năm cụ có đi tôn nhang cho đứa cháu trai
của cụ tại một điện tư gia tại huyện Kiến Thụy Hải Phòng vì cháu còn nhỏ mà
khó nuôi, hay ốm khóc. Cụ đến xin tôn nhang cho cháu trai với mục đích có
đấng bề trên bao bọc, trở che cho cháu hay ăn chóng lớn, không bị ốm đau,
bệnh tật. Tuy nhiên khi đến điện tư gia, thanh đồng yêu cầu cụ phải dâng 3
mâm lễ và có công đức (bằng tiền mặt) cho bản điện thì thanh đồng mới giúp
74
và các Ngài (các vị Thánh) mới chứng và nhận cháu... Điều này cho thấy việc
tiến hành các thủ tục của tín ngưỡng đã được thị trường hóa một cách tối đa,
bản sắc và chức năng của các nghi lễ bị khỏa lấp đi bởi những lễ cao, mâm
đầy chứ không phải là những thủ tục theo lề lối, nghi lễ mà các thế hệ đi trước
để lại với một giá trị văn hóa vô cùng nhân văn và sâu sắc.
2.4. Một số giải pháp nhằm phát huy những ảnh hƣơng tích cực,
hạn chế những ảnh hƣởng tiêu cực của tín ngƣỡng thờ Mẫu đến đời sống
văn hóa tinh thần của ngƣời dân Hải Phòng hiện nay
Cùng với sự đổi mới của đất nước, thành phố Hải Phòng đang từng
bước thiết lập các yếu tố của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Ảnh hưởng của cơ chế mới không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn
trong tất cả các lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có hoạt động của
tín ngưỡng thờ Mẫu. Đời sống của người dân Hải Phòng hiện nay đang có sự
thay đổi, nhịp độ lao động ngày càng khẩn trương hơn, sôi nổi và linh hoạt
hơn. Đời sống chính trị, văn hoá đã có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng tình
cảm của người dân vùng đất này. Chính sự thay đổi những quan hệ cơ bản ấy
mà đời sống văn hoá tinh thần của người dân cũng dần thay đổi. Mặt khác,
quan hệ giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng thông qua nhiều phương thức
khác nhau đã giúp cho tầm nhìn của con người nơi đây không còn bị giới hạn
bởi vị trí địa lý mà đã có khả năng vươn xa hơn để tiếp cận với những giá trị
mới, hiện đại của đất nước và thế giới. Vì vậy, những ảnh hưởng của tín
ngưỡng thờ Mẫu ở hải Phòng trên thực tế đã có những biến đổi khác trước. Tuy
nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng, ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu hiện nay
còn thấm sâu trong đời sống văn hoá tinh thần của nhiều gia đình và cộng đồng
dân cư ở Hải Phòng. Do đó, không thể ngăn cản chức năng và vai trò xã hội
của tín ngưỡng thờ Mẫu đối với cư dân và cộng đồng xã hội nơi đây.
Tín ngưỡng thờ Mẫu Hải Phòng ra đời từ sự tồn tại xã hội, phát triển
75
trong những điều kiện lịch sử xã hội phù hợp, nó tác động đến mọi mặt của
đời sống xã hội. Vì vậy, nếu việc nhìn nhận, đánh giá tôn giáo một cách giáo
điều, cục bộ, máy móc, thiển cận về sự hình thành, tồn tại và ảnh hưởng của
nó thì chúng ta không giải quyết đúng đắn về vấn đề này. Do đó, sẽ không
phát huy được hết những khả năng, những giá trị của ý thức xã hội cho sự
phát triển kinh tế - xã hội.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa văn hóa hiện nay, chúng ra đang đứng
trước những thách thức nghiêm trọng. Các sản phẩm của văn hóa truyền
thống, các chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực xã hội, lối sống dân tộc càng ngày
bị coi nhẹ và thay vào đó là lối sống ích kỷ, xa đọa, đua đòi, sùng ngoại và
không phù hợp với truyền thống dân tộc, đang dần chiếm lĩnh, đặc biệt là giới
trẻ hiện nay. Phải làm sao để một mặt chúng ta tiếp thu được nhiều nhất
những thành tựu văn hóa mà nhân loại đạt được, mặt khác cũng không để mất
đi bản sắc văn hóa của riêng mình? Việc tiếp xúc với nền văn hóa bên ngoài
sẽ giúp cho nền văn hóa Việt Nam trở nên phong phú hơn, hiện đại và tiên
tiến hơn, đồng thời còn điều chỉnh, bổ sung một số nét của các giá trị truyền
thống cho phù hợp với thời đại. Tuy nhiên việc tiếp xúc đó cũng mang lại
nguy cơ nền văn hóa mang đậm bản sắc riêng của dân tộc Việt Nam sẽ bị phai
nhạt và dần bị đồng hóa bởi các nền văn hóa khác. Mà một quốc gia đã đánh
mất đi bản sắc văn hóa của dân tộc mình thì coi như quốc gia đó đã bị diệt
vong. Vì vậy, vấn đề được đặt ra ở đây là chúng ta phải xử lý thế nào để có
thể vẫn phát huy truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc mà vẫn tiếp thu
được tinh hoa văn hóa của nhân loại trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là loại hình tín ngưỡng dân gian đã có từ hàng
nghìn năm nay, đã ăn sâu vào đời sống tinh thần vào ý thức của người dân và
trở thành một phần không thể thiếu để tạo nên bản sắc văn hóa Việt. Nó
không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm linh của người Việt mà trong quá khứ cũng
76
như ở hiện tại mà còn để lại một kho tàng vô giá các tác phẩm âm nhạc, văn
học và diễn xướng tâm linh... Chính vì vậy chúng ta cần phải có những hành
động tích cực trong việc thừa nhận và phổ biến những giá trị văn hóa tốt đẹp
của tín ngưỡng thờ Mãu trong đời sống nhân dân và trong xã hội. Điều này sẽ
giúp sức tăng cường sức mạnh cho văn hóa truyền thống Việt Nam trước sự
xâm lăng của văn hóa ngoại lai và chỉ có thể dùng chính sức mạnh của văn
hóa truyền thống để chống lại văn hóa ngoại lai thì chúng ta mới có thể giữ
được bản sắc mình trong xu hướng toàn cầu hóa đang diễn ra rộng khắp trên
thế giới hiện nay.
Xuất phát từ những quan điểm chung của chủ nghĩa Mác - Lênin và
Đảng, Nhà nước ta về tôn giáo; trên cơ sở nghiên cứu, phân tích sự ảnh hưởng
của tín ngưỡng thờ Mẫu trong đời sống văn hoá tinh thần người dân ở Hải
Phòng hiện nay, vì vậy để phát huy hơn nữa những ảnh hưởng tích cực và
khắc phục một số tồn tại hạn chế của tín ngưỡng thờ Mẫu đến đời sống văn
hóa tinh thần người dân Hải Phòng, chúng tôi đưa ra một số giải pháp sau:
Thứ nhất, Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền đối
với công tác tín ngưỡng và nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về tín
ngưỡng
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, trước yêu cầu mở cửa và hội
nhập, quá trình giao lưu quốc tế diễn ra mạnh mẽ. Trước sự xâm nhập của
những luồng văn hóa ngoại lai, tính rủi ro của kinh tế thị trường, sự “nhạy bén”
trong việc tiêm nhiễm những thói hư tật xấu, trong một bộ phận quần chúng
nhân dân, thói tham ô, quan liêu, nhũng nhiễu… là cơ sở cho sự tồn tại và phát
triển các tệ nạn của xã hội và những hủ tục mê tín dị đoan trỗi dậy, đạo đức xã
hội vị suy thoái. Hiện tượng lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo của một số tổ chức
và cá nhân, “buồn thần bán thánh” đang diễn ra phổ biến trong xã hội.
Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và lãnh đạo thành phố Hải Phòng cần phải
77
có những chính sách pháp luật cụ thể hơn nữa tăng cường công tác quản lý
tôn giáo. Ngay trong bản thân các tín ngưỡng, tôn giáo cũng phải tự mình có
những biện pháp cụ thể để quản lý các hoạt động tôn giáo của mình. Có hình
thức xử phạt nghiêm ngặt đối với các hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động lợi
dụng tôn giáo hoặc bất kỳ những mục đích nào khác như: kinh tế, chính trị…
gây rối trật tự công cộng, an ninh xã hội, xuyên tạc chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước, chống phá công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Mặt
khác Đảng, Nhà nước và nhất là lãnh đạo thành phố cần phải tiếp tục đẩy
mạnh phát triển kinh tế xã hội, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho người dân. Nâng cao nhận thức cho cán bộ công chức về chủ trương,
quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về tôn giáo và công
tác tôn giáo. Tập trung củng cố, kiện toàn, có giải pháp cụ thể nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ làm công tác chuyên trách về tôn giáo ở thành phố, các
quận huyện. Tăng cường phối hợp, tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể chính trị-xã hội tham gia có hiệu quả vào việc tuyên truyền, vận
động, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân trong đồng bào có đạo, các chức
sắc, chức việc…
Các cấp chính quyền, các ngành tiếp tục cụ thể hoá và thực hiện tốt các
cơ chế, chính sách, biện pháp triển khai thực hiện Nghị quyết, Pháp lệnh,
Nghị định của Trung ương và các văn bản chỉ đạo của thành phố về công tác
tín ngưỡng, tôn giáo; tiến hành sơ kết, đánh giá hiệu quả việc thực hiện các cơ
chế, chính sách về tôn giáo trên cơ sở đó điều chỉnh, bổ sung và tháo gỡ
vướng mắc cho cơ sở; tăng cường kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật
về tôn giáo và các quy định của địa phương liên quan đến tôn giáo trên địa
bàn thành phố.
Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo đúng
hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo và quy định của pháp luật; đảm bảo
78
cho các chức sắc, tín đồ các tôn giáo sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo bình
thường theo quy định của pháp luật. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh với việc
lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị
đoan, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, chống phá Đảng và Nhà nước. Giải
quyết dứt điểm, đúng đắn, tránh nóng vội hoặc hữu khuynh, thụ động trong
giải quyết các vụ việc phức tạp liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo. Kiên
quyết xử lý những cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm, vi phạm trong quản lý
Nhà nước về tôn giáo gây hậu quả xấu đến tình hình an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội và đến sự phát triển chung của địa phương, cơ sở… ảnh
hưởng đến niềm tin của nhân dân với cấp uỷ, chính quyền và khối đại đoàn
kết toàn dân.
Làm tốt công tác tuyên truyền, vận động hội viên, đoàn viên, quần
chúng nhân dân là người có đạo thực hiện các chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, chương trình, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã
hội, giữ vững an ninh, quốc phòng, xây dựng nông thôn mới; cảnh giác, đấu
tranh với việc lợi dụng tôn giáo xâm hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc, chia rẽ
khối đại đoàn kết toàn dân. Nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc vận động,
các phong trào thi đua yêu nước trong đồng bào các tôn giáo. Có hình thức
phù hợp để thu hút, tập hợp đông đảo các thành phần giáo dân tham gia sinh
hoạt tổ chức đoàn, hội.
Thứ hai, nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần của người
dân, giữ vững ổn định xã hội về mặt kinh tế và chính trị
Có rất nhiều con đường cách thức để nhân dân tìm đến với tín ngưỡng
thờ Mẫu và nguyên nhân chủ yếu dẫn tới điều đó chính là những ảnh hưởng
trực tiếp từ đời sống vật chất, đời sống tinh thần của mỗi cá nhân trong xã hội.
Và một trong những giải pháp cơ bản, mang tính quyết định trong việc giải
quyết vấn đề tín ngưỡng, chống lại việc người dân bị lợi dụng trong các hoạt
79
động tín ngưỡng và ở đây là tín ngưỡng thờ Mẫu chính là giữ vững ổn định về
mặt kinh tế, chính trị, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Giải pháp này bao
gồm nâng cao đời sống kinh tế, thỏa mãn nhu cầu văn hóa tinh thần của người
dân, củng cố niềm tin của quần chúng nhân dân đối với thể chế chính trị xã
hội thông qua việc tăng cường hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị xã
hội và bộ máy nhà nước.
Song hành cùng với việc nâng cao đời sống kinh tế là nâng cao đời
sống văn hóa tinh thần dành cho người dân. Đảng ta đã xác định “Xây dựng
và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì công bằng, văn minh,
con người phát triển toàn diện”, và “thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành
mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với
tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền
vững” [21.tr 64-65]. Văn hóa hiện nay được xem như động lực cho sự phát
triển, là nền tảng của đời sống xã hội trên cơ sở bảo tồn và phát huy những giá
trị văn hóa truyền thống của dân tộc, chúng ta tiếp tục bổ sung những giá trị
văn hóa tiên tiến từ bên ngoài vào, góp phần xây dựng một môi trường văn
hóa xã hội tiên tiến, lành mạnh, thỏa mãn nhu cầu của quần chúng nhân dân
trong tình hình mới.
Bên cạnh việc nâng cao đời sống kinh tế, văn hóa cho quần chúng nhân
dân thì chúng ta cũng cần chú ý đến việc củng cố niềm tin của nhân dân đối
với hệ thống chính trị xã hội. Quá trình mở cửa cải cách kinh tế không chỉ
đem lại những thành tựu to lớn trong đời sống xã hội mà còn có những tác
động ảnh hưởng không hề nhỏ đến xã hội như: tham nhũng, cửa quyền, quan
liêu, sách nhiễu nhân dân... coi trọng vật chất, coi trọng đồng tiền và danh lợi,
những điều này đã làm hao mòn những giá trị tinh thần truyền thống. Những
tệ nạn đó cùng với “những yếu kém khó khăn của một số mẹt về kinh tế - xã
80
hội đã ảnh hưởng tới lòng tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo và
quản lý của Nhà nước” [21, tr. 64-65], ảnh hưởng đến niềm tin sâu sắc của
nhân dân.
Thứ ba, đẩy mạnh công tác tuyên truyền về tín ngưỡng thờ Mẫu, đổi
mới và nâng cao nhận thức không chỉ của người dân mà cả đối với những
người làm công tác quản lý về tôn giáo, tín ngưỡng trong giai đoạn hiện nay.
Qua thực trạng về tình hình tôn giáo, tín ngưỡng và ảnh hưởng của tín
ngưỡng thờ Mẫu trong đời sống văn hóa tính thần người dân ở Hải Phòng bao
gồm cả những mặt tích cực và hạn chế đan xen lẫn nhau. Chính vì vậy khiến
cho nhiều người trong xã hội có những nhận thức chưa rõ ràng về bản chất,
vai trò, chức năng của tôn giáo, tín ngưỡng trong đời sống xã hội dẫn đến
những nhận thức lệch lạc. Hoặc có thể chỉ nhìn thấy những ảnh hưởng tích
cực, tuyệt đối hóa vai trò của tôn giáo dẫn đến sự sùng bái, mê tín dị đoan.
Hoặc có thể chỉ nhìn thấy những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo, tín ngưỡng
đem lại và có thái độ kỳ thị, bài xích tôn giáo, tín ngưỡng. Do đó để tránh
nhận thức lệch, rơi vào hai khuynh hướng trên chúng ta cần đẩy mạnh hơn
nữa những hoạt động tuyên truyền quan điểm chủ trương chính sách của
Đảng của Nhà nước và thành phố Hải Phòng về tôn giáo, tín ngưỡng đến
người dân. Cùng với việc truyên truyền và phổ biến những kiến thức về tín
ngưỡng thờ Mẫu trong xã hội là việc phát triển giáo dục, nâng cao trình độ
nhận thức trong nhân dân sẽ góp phần làm cho người dân hiểu được bản chất,
những giá trị cũng như mặt trái của tín ngưỡng thờ Mẫu, từ đó có ý thức hơn
trong việc thực hành hành vi tín ngưỡng của bản thân cũng như đấu tranh
chống lại cái xấu, phat huy cái tốt, không để diễn ra hiệ tượng lợi dụng tín
ngưỡng gây hậu quả xấu cho xã hội cả về vật chất và tinh thần.
Đổi mới nhận thức về cơ sở khách quan của sự tồn tại, xu hướng biến
đổi của tôn giáo trong đời sống xã hội. Vận dụng quan điểm khoa học về tôn
81
giáo để có khả năng phân tích đánh giá khách quan nhất cơ sở tồn tại, xu
hướng biến đổi của từng tôn giáo, tín ngưỡng cụ thể (Phật giáo, Thiên Chúa
giáo…, tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng,…) trong đời
sống văn hóa xã hội. Nắm được những giá trị và hạn chế của các tôn giáo
trong mỗi chiều vận động và từng giai đoạn lịch sử cụ thể khác nhau.
Một trong những vấn đề gây tranh cãi khi nghiên cứu cũng như khi đưa
ra những quản lý hành chính đối với tín ngưỡng thờ Mẫu nói chung, thờ Mẫu
ở Hải Phòng nói riêng đó chính là yếu tố mê tín dị đoan nó gây ra cho cộng
đồng xã hội. Chính vì vậy, các nhà quản lý, các nhà khoa học cần phải làm
sáng tỏ và thống nhất các nội dung mang tính mê tín dị đoan trong tín ngưỡng
thờ Mẫu để từ đó tuyên truyền đến các tín đồ, các ông đồng, bà đồng thông
qua các phương tiện truyền thông, truyền hình, báo, đài....Và chỉ khi nào
chúng ta hạn chế được những yếu tố mê tín dị đoan trong tín ngưỡng thờ Mẫu
thì khi đó tín ngưỡng thờ Mẫu mới được trả về vị trí đích thực trong đời sống
tâm linh của người Việt, không bị lợi dung, bị thương mại hóa bởi những
đồng đú, đồng đua....từ đó, những giá trị tích cực của tín ngưỡng thờ Mẫu mới
được khẳng đinh và phát huy.
Bên cạnh đó, Đảng, Nhà nước và lãnh đạo thành phố cần phối hợp với
các tổ chức tôn giáo, các chức sắc tôn giáo nhằm có những biện pháp cụ thể
hơn nữa nhằm nâng cao nhận thức của các tín đồ tôn giáo và các quần chúng
nhân dân. Giúp cho các tín đồ tôn giáo và quần chúng nhân dân ngoài tôn
giáo có những hiểu biết về giáo lý, phương châm và đường hướng lãnh đạo
cho từng tín ngưỡng, tôn giáo cụ thể, cùng nhau thực hiện khối đại đoàn kết
dân tộc, phấn đấu vì mục tiêu chung: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”. Đối với các tổ chức tôn giáo và các chức sắc tôn
giáo cần nêu cao tinh thần nhập thế, gắn đạo với đời, thực hiện phương châm
sống “sống trên thế gian nhưng không năm ngoài thế gian”. Các tôn giáo phải
82
đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động xã hội của mình. Tham gia phát triển kinh tế
xã hội, thực hiện các hoạt động từ thiện và phúc lợi xã hội. Không ngừng đổi
mới, phát huy những giá trị tích cực của tín ngưỡng, tôn giáo của mình, cần
loại bỏ và khắc phục những tồn tại coi như là “hủ tục” trong các nghi lễ, lề
luật, sinh hoạt tôn giáo. Các tín ngưỡng, tôn giáo khác cùng với tín ngưỡng
thờ Mẫu hướng các tín đồ của mình sống “tốt đời đẹp đạo”, phát huy một
cách hiệu quả nhất vai trò của mình vừa là con người niềm tìn tín ngưỡng, tôn
giáo, vừa là con người dân tộc, tham gia tích cực vào công cuộc đổi mới, xây
dựng và phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Muốn làm được điều này, đòi hỏi bản thân các tín ngưỡng, tôn giáo
không ngừng nỗ lực trong việc hội nhập với các văn hóa dân tộc. Quá trình hội
nhập của các tín ngưỡng, tôn giáo vào văn hóa người Việt và cụ thể ở đây là
văn hóa người dân Hải Phòng diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, từ sự đổi
mới khách thể thờ cúng, lưu giữ và lưu truyền các bản chầu văn, nghi lễ, hình
thức sinh hoạt, kiến trúc… để phù hợp với tinh thần truyền thống, bản sắc văn
hóa của người dân Việt Nam nói chung, người dân Hải Phòng nói riêng.
Bản thân con nhang, đệ tử, những người trực tiếp thực hành các nghi lễ
của tín ngưỡng thờ Mẫu phải luôn có ý thức học hỏi, nghiên cứu để có những
kiến thức thấu đáo không chỉ về tín ngưỡng, tôn giáo của mình mà còn mở
mang kiến thức tín ngưỡng, tôn giáo khác. Tránh xảy ra tình trạng “niềm tin
tôn giáo mù quáng” phổ biến trong nhiều tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay như
“tin mà không hiểu”. Phải biết phát huy giá trị luân lý, đạo đức tôn giáo, bảo
lưu và phát huy các giá trị văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo kết hợp với giá trị văn
hóa truyền thống của dân tộc và thời đại. Góp phần xây dựng đời sống văn
hóa tinh thần người dân Hải Phòng trong xu thế đổi mới, mở cửa, hội nhập đa
83
dạng, phong phú, giàu bản sắc nhân đạo.
Tiểu kết chƣơng 2
Trong giai đoạn hiện nay, với sự biến đổi mạnh mẽ của kinh tế, văn
hóa, xã hội Hải Phòng nói riêng và tình hình Việt Nam cũng như thế giới nói
chung, tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hải Phòng không những bị mai một mà ngày
càng phát triển mạnh mẽ, để lại dấu dấn với những ảnh hưởng đặc trưng của
mình. Tuy nhiên bên cạnh những ảnh hưởng tích cực đến đời sống văn hóa
tinh thần người dân thông qua các khía cạnh cụ thể thì tín ngưỡng thờ Mẫu
cũng đã để lại những ảnh hưởng tiêu cực không nhỏ như: mê tín dị đoan,
buôn thần bán thánh, bị các thế lực lợi dụng tín ngưỡng để trục lợi gây ảnh
hưởng đến tình hình an ninh, văn hóa, chính trị xã hội của Hải Phòng cũng
như các địa phương khác trên cả nước.
Những điều trên đã đặt ra không chỉ cho các cấp quản lý, những người
thưucj thi luật mà ngay cả những tín đồ của tín ngưỡng thờ Mẫu trong việc
bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ Mẫu đến các
mặt của đời sống văn hóa tinh thần người dân, đồng thời hạn chế và đi đến
xóa bỏ những hạn chế, tiêu cực của tín ngưỡng mà nó gây ra cho xã hội và
con người.
Bên cạnh những giải pháp là nâng cao vai trò, sự lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước, cũng như các cấp có thẩm quyền và nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của người dân thì chúng ta cũng cần chú đến những giải pháp mang
tính hỗ trợ thiết thực như nâng cao trình độ nhận thức của người dân về những
giá trị văn hóa, những ảnh hưởng tích cực của tín ngưỡng thờ Mẫu đến đời
sống văn hóa tinh thần cũng như phát huy, phát triển những giá trị truyền
thống của tín ngưỡng thờ Mẫu để từ đó tạo ra môi trường giữ gìn và phát huy
những giá trị tốt đẹp của tín ngưỡng thờ Mẫu. Có như vậy mới khắc phục
84
được những hạn chế còn tồn tại cũng như phát huy những ảnh hưởng tích cực,
giá trị truyền thống của tín ngưỡng thờ Mẫu đến đời sống văn hóa tinh thần
của người dân Hải Phòng nói riêng và Việt Nam nói chung.
Nói chung, để thực hiện tốt các công tác bảo tồn và phát huy những giá
trị tốt đẹp của tín ngưỡng thờ Mẫu thì không chỉ trông chờ vào các cấp quản
lý lãnh đạo cũng như các điều luật thực thi mà phải là tổng hợp sự phối hợp
của liên ngành các giải pháp với sự tham gia tích cực của các cơ quan quản lý,
các tổ chức xã hội và cộng đồng dân cư, các tín đồ - những người tham gia
85
trực tiếp vào các hoạt động của tín ngưỡng thờ Mẫu.
KẾT LUẬN
Tín ngưỡng, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội và là nhu cầu không
hề nhỏ của một bộ phận quần chúng nhân dân. Trong những năm qua, nhờ có
các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, VII, VIII, IX, X, XI và Đại
hội Đảng bộ thành phố Hải Phòng lần thứ VIII, IX, X, XI, XII, XIII, XIV với
những chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo đã có nhiều điểm mới, những điểm
thay đổi cho phù hợp với tình hình của thành phố và đất nước. Đó chính là
việc bám sát các tư tưởng chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và thành phố theo tư
tưởng của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với tình hình thực
tiễn trong công tác tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó mục tiêu đại đoàn kết tín
ngưỡng, tôn giáo là sợi chỉ đỏ xuyên suốt. Chính sách văn hóa đối với từng
tín ngưỡng, tôn giáo cũng được quan tâm hơn.
Hơn bốn nghìn năm lịch sử, đời sống văn hóa tinh thần người dân Việt
Nam nói chung, người dân Hải Phòng nói riêng luôn bị chi phối bởi nhiều
hình thái, tư tưởng của các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Tùy từng giai
đoạn lịch sử dân tộc đều có một học thuyết tôn giáo, tín ngưỡng nắm vai trò
chủ đạo đối với đời sống văn hóa tinh thần của xã hội. Tuy nhiên vẫn tồn tại
các học thuyết, tín ngưỡng, tôn giáo có ảnh hưởng song song cùng tác động
vào những khu vực, tầng lớp khác nhau đối với cả học thuyết chủ đạo. Tín
ngưỡng, tôn giáo tham gia vào tất cả các hoạt động và mọi lĩnh vực của đời
sống văn hóa tinh thần và nhất là tín ngưỡng thờ Mẫu ở các đại phương với
các hình thái biểu hiện khác nhau sẽ đem đến những ảnh hưởng khác nhau đối
với đời sống văn hóa tinh thần người dân từng địa phương. Nhưng cho dù tín
ngưỡng thờ Mẫu có những ảnh trên các khía cạnh cụ thể của đời sống văn hóa
tinh thần đậm nét hay không đậm nét thì đã cùng với các tín ngưỡng, tôn giáo
86
khác tạo thành một bộ phận không thể tách rời của văn hóa dân tộc. Khẳng
định những giá trị và dấu ấn văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo và điều đó cho
chúng ta thấy được tính đa dạng của đời sống văn hóa tinh thần người dân
Việt Nam nói chung, người dân Hải Phòng nói riêng mà còn tạo ra cầu nối
của khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết chặt chẽ giữa các tín ngưỡng thờ Mẫu
với các tín ngưỡng, tôn giáo dân tộc.
Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hải Phòng cùng với các tín ngưỡng, tôn giáo khác
ở trong nước và trên thế giới trong thời đại toàn cầu hóa đang đứng trước nhiều
thời cơ và thách thức. Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hải Phòng luôn phải “chuyển
mình” để bắt kịp với xu thế của thời đại và từng bước hội nhập văn hóa theo tinh
thần dân tộc, và đồng thời tín ngưỡng thờ Mẫu Hải Phòng đã biết gạn đục, khơi
trong chọn ra những tinh hoa văn hóa, đồng thời loại bỏ đi những yếu tố mê tín,
dị đoan, phi văn hóa trong quá trình hội nhập và phát triển. Điều này có ý nghĩa
quyết định đối với sự nghiệp đổi mới văn hóa, góp phần đẩy mạnh công cuộc
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam nói chung và Hải
Phòng nói riêng.
Luận văn đã trình bày ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu đến đời sống
văn hóa tinh thần người dân ở Hải Phòng hiên nay và đề ra một số giải pháp
có tính khả thi nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa tích cực, hạn
chế, ngăn chặn những biểu hiện lạc hậu của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hải Phòng.
Có giải pháp cụ thể đối với các khía cạnh cấu thành của văn hóa tín ngưỡng
thờ Mẫu, theo hướng giữ gìn, phát huy văn hóa truyền thống dân tộc, tăng
cường sự quản lý của Nhà nước đối với tín ngưỡng, tôn giáo, chăm lo phát
triển kinh tế, nâng cao trình độ dân trí cho các tín đồ, xây dựng môi trường
văn hóa lành mạnh. Các giải pháp mang tính toàn diện, vì đã nhắm tới các yêu
tố từ nhận thức tới thực tiễn nhưng nó cũng đảm bảo nguyên tắc, phương
pháp của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong khi đặc biệt coi trọng yếu tố kinh tế
87
vật chất - nền tảng căn bản mọi biến đổi của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hải Phòng
hiện nay. Nếu các giải pháp đó được thực hiện, chúng tôi hy vọng sẽ đóng
góp, thúc đẩy sự phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu trong công cuộc xây dựng
đời sống văn hóa tinh thần đâm đà bản sắc, đồng thời đóng góp tích cực các
giá trị vật chất, chinh tế cũng như giá trị tinh thần trong công cuộc công
88
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung, Hải Phòng nói riêng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sabino Acquaviva, Enzo Pace (1998), Xã hội học tôn giáo, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
2. Trần Thị An (1992), Sự vận động của truyền thuyết về Mẫu qua những
truyện kể về Liễu Hạnh và truyền thuyết về Nữ thần Chăm, Tạp chí Văn
học, (5), tr. 44-99.
3. Vũ Thị Thu An (2013), “Tìm hiểu nghi lễ thờ cúng của tín ngưỡng thờ
Mẫu ở Kiến An – Hải Phòng”, Luận văn Thạc sỹ Triết học.
4. Đào Duy Anh (2002), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa Thông
tin, Hà Nội.
5. Toan Ánh (1992), Nếp cũ tín ngưỡng Việt Nam, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh.
6. Ăng-ghen (1972), Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của
nhà nước, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
7. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2001), Một số Văn kiện của Đảng
về công tác tư tưởng - văn hóa, tập 2 (1986 - 2000), Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
8. Trần Lâm Biền (1990), Quanh tín ngưỡng dân dã Mẫu Liễu và điện thờ,
Tạp chí Nghiên Cứu Văn Hóa Nghệ Thuật,(5), tr. 42 – 45.
9. Phan Kế Bính (2004), Việt Nam phong tục, Nxb.TP.Hồ Chí Minh.
10. Bộ Văn hóa – Thông tin (2003), Hội thảo truyền thống và phát triển
trong xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở vùng Tây Bắc, 2003.
11. Nguyễn Huệ Chi (1998), “Về hiện tượng dung hợp trong văn hoá Việt
Nam”, Tạp chí Xưa Và Nay, số 57.
12. Lê Thị Chiêng (2008), Điện thờ tư gia - một hình thức tín ngưỡng dân
gian trong xã hội hiện đại (qua khảo sát tại Hà Nội), Tạp chí nghiên cứu
89
Tôn giáo,(11) d, tr. 59 – 64.
13. Phạm Văn Chung (2007), Triết học Mác về lịch sử, Nxb Chính Trị Quốc
Gia, Hà Nội.
14. Nguyễn Đăng Dung (2002), Văn hoá học Việt Nam, Nxb. Văn hoá -
Thông tin, Hà Nội.
15. Nguyễn Đăng Duy (2001), Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
16. Nguyễn Hồng Dương (2004), Tôn giáo trong mối quan hệ văn hoá và
phát triển văn hoá ở Việt Nam, Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội.
17. Nguyễn Hồng Dương, Phùng Đạt Văn (2009), Tín ngưỡng tôn giáo và
xã hội dân gian, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
18. Phùng Đông (2006), Một số vấn đề về thực trạng và định hướng phát
triển đời sống tinh thần ở nước ta. Theo Vietnam.net tr.1
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Phạm Văn Đồng (1994), Văn hoá và đổi mới, NXB. Chính trị quốc gia
Hà Nội.
25. Trần Mạnh Đức (2001), Toàn cầu hóa và tôn giáo, Tạp chí Nghiên Cứu
90
Tôn giáo, (4), tr. 20-25.
26. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
27. Mai Thanh Hải (2005), Tìm hiểu tín ngưỡng truyền thống Việt Nam, Nxb
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
28. Hoàng Quốc Hải (2001), Văn hóa phong tục, Nxb Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
29. Đỗ Thị Hảo, Mai Thị Ngọc Chúc (1984), Các nữ thần Việt Nam, Nxb
Phụ nữ, Hà Nội.
30. Nguyễn Kim Hiền (2001), Lên đồng, một sinh hoạt tâm linh mang tính
trị liệu, Tạp chí Văn Hóa Dân Gian, (4), tr. 69 – 78.
31. Nguyễn Thanh Hiền (2008), Then bắc cầu xin hoa. Nxb Văn hóa Dân tộc,
Hà Nội.
32. Nguyễn Duy Hinh (2007), Một số bài viết về tôn giáo học, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội
33. Lê Như Hoa (1996), Phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối cảnh
công nghiệp hóa, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.
34. Hồ Trọng Hoài (1995): Vai trò xã hội của tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb.Đại học Tổng hợp, Hà Nội.
35. Học Viện Chính Trị Quốc Gia Hồ Chí Minh, Bộ môn Khoa học về tín
ngưỡng và tôn giáo (1996), Trích tác phẩm kinh điển chủ nghĩa Mác-
Lênin về tôn giáo, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
36. Học Viện Chính Trị Quốc Gia Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình lý luận
văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
37. Nguyễn Thị Huế (1992), Từ Phật Mẫu Man Nương đến Thánh Mẫu Liễu
91
Hạnh, Tạp chí Văn học, (5), tr.50-53.
38. Đỗ Trinh Huệ (2006), Văn hóa, tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam dưới nhãn
quan học giả L.Cadiere Chủ bút tạp chí Bulletin des Amis Du Vieux Hue
Đô Thành Hiếu cổ (1914-1944), Nxb Thuận Hóa – Huế.
39. Trương Sĩ Hùng (1992), Mẫu Thoải – Nữ thần nước tiêu biểu từ khởi
thủy Hùng Vương, Tạp chí Văn hóa dân gian,
40. Khoa Văn hoá xã hội chủ nghĩa - Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh (1997), Giáo trình văn hoá xã hội chủ nghĩa, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
41. Khoa Văn hoá xã hội chủ nghĩa - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(2004), “Kết luận Hội nghị lần thứ Mười Ban chấp hành Trung ương Đảng
(khoá IX)” (2004), Tạp chí Thông tin Văn hoá và phát triển, tr.4.
42. Đinh Gia Khánh (1995), Các vùng văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa,
Hà Nội.
43. Vũ Ngọc Khánh (1998), Văn hoá gia đình Việt Nam, NxbVăn hoá dân
tộc, Hà Nội.
44. Vũ Ngọc Khánh (2001), Tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Nxb.Văn hoá
dân tộc.
45. Vũ Ngọc Khánh, Mai Thị Ngọc Chúc, Phạm Hồng Hà (2002), Nữ
thần và Thánh Mẫu Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội
46. Vũ Ngọc Khánh (2008), Tục thờ Đức Mẫu Liễu - Đức Thánh Trần,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
47. Nguyễn Xuân Khánh (2006), Mẫu Thượng Ngàn, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội.
48. Vũ Khiêu (1987), Góp phần nghiên cứu cách mạng tư tưởng văn hóa,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
49. Phan Thị Kim (Thích Đàm Kiên) (2011), “Tìm hiểu mối quan hệ giữa
Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu ở khu vực Bắc Bộ”, Luận văn Thạc sĩ
92
Tôn giáo học.
50. Vũ Tự Lập (chủ biên, 1991), Văn hoá và cư dân vùng đồng bằng sông
Hồng, Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội.
51. Đặng Văn Lung (1991), Tam tòa Thánh Mẫu, Nxb Văn hóa Dân tộc,
Hà Nội.
52. Đặng Văn Lung (2004), Văn hóa Thánh Mẫu, Nxb Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
53. Nguyễn Đức Lữ (2009), Tôn giáo – quan điểm, chính sách đối với tôn
giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị - Hành
chính, Hà Nội.
54. Hoàng Lương (2002), Lễ hội truyền thống của các dân tộc Việt Nam khu
vực phía Bắc, Nxb Đại Học Quốc gia Hà Nội.
55. Lê Văn Lợi (1999), Sự tác động qua lại giữa văn hoá và tôn giáo,
Nxb.Đại học Quốc gia, Hà Nội.
56. Nguyễn Ngọc Mai (2009), “Múa đồng trong nghi lễ Hầu đồng của người
Việt và mối quan hệ với Múa bóng (Chăm) một đôi điều suy nghĩ”, Tạp
chí Văn Hóa Dân Gian, (3), tr. 56 – 61.
57. Nguyễn Ngọc Mai (2010), “Hiện tượng lên đồng trong bối cảnh đổi
mới”, Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
58. C.Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
59. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, 3 tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
60. Phạm Xuân Nam (1993), Phương pháp luận về vai trò của văn hóa trong
phát triển, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
61. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa - Thông tin
Hà Nội.
62. Phạm Quỳnh Phương (1994), “Khát vọng của người phụ nữ Việt Nam
qua truyền thuyết về Thánh Mẫu Liễu Hạnh”, Tạp chí Khoa học về Phụ
93
nữ, (4), tr. 4-5
63. Nguyễn Minh San (1992), “Đạo Mẫu ở nước ta – nhìn từ hệ thống đền
miếu và thần tích”, Tạp chí Dân học học, (1), tr 42-47
64. Nguyễn Minh San (2006), Những thần nữ danh tiếng trong văn hóa tín
ngưỡng Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
65. Nguyễn Minh San (1998), Tiếp cận tín ngưỡng dân giã Việt Nam, Nxb
Văn Hóa Dân Tộc, Hà Nội.
66. Trần Đăng Sinh – Đào Đức Doãn (2005), Giáo trình Tôn giáo học, Nxb
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
67. Tạp chí Người đưa tin của UNESCO (11/1988), tr.5-6.
68. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh.
69. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm hiểu về bản sắc văn hoá Việt Nam: Cái
nhìn hệ thống loại hình, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
70. Trần Ngọc Thêm (2006), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh.
71. Lê Quang Thiêm (chủ biên), Trần Đình Hượu, Nguyễn Kim Đính
(1998), Văn hoá với sự phát triển của xã hội Việt Nam theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
72. Ngô Đức Thịnh (2009), Đạo Mẫu Việt Nam, 2 tập, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
73. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2004), Đạo Mẫu và các hình thức shaman
trong các tộc người ở Việt Nam và Châu Á, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
74. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (1992), Hát văn, Nxb Văn hóa Dân tộc Hà Nội.
75. Ngô Đức Thịnh (2008), Lên đồng hành trình của thần linh và thân phận,
Nxb Trẻ, Hà Nội.
76. Ngô Đức Thịnh (2001), Tín ngưỡng văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam,
94
Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội.
77. Ngô Đức Thịnh (2007), Về tín ngưỡng và lễ hội cổ truyền, Nxb Văn Hóa
Thông Tin và Viện Văn Hóa.
78. Nguyễn Hữu Thông (1995), Tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung Việt
Nam, Nxb Thuận Hóa, Huế.
79. Nguyễn Hữu Thụ (2012), “Về cơ sở hình thành và phát triển của tín
ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ - xét dưới góc
độ triết học”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (1), tr. 20-32
80. Nguyễn Tài Thư chủ biên (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 1,
Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội.
81. Nguyễn Tài Thư (1994), Tôn giáo và tín ngưỡng hiện nay, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
82. Nguyễn Tài Thư (1997), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối
với con người Việt Nan hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
83. X.A.Tocarev (1994), Các hình thức tôn giáo sơ khai và sự phát triển của
chúng, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn – Đại học Quốc gia Hà
Nội, Trung tâm nghiên cứu Tôn giáo Đương đại (2009), Văn hóa tôn
giáo trong bối cảnh toàn cầu hóa, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
85. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (1995), 50 năm Đề
cương văn hóa Việt Nam,Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
86. Nguyễn Quốc Tuấn (2004), “Mẫu Liễu Hạnh qua góc nhìn tôn giáo
học”, Tạp chí Nghiên Cứu Tôn Giáo, (6), tr.50 – 59.
87. Từ điển triết học, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1960, tr. 312
88. Đặng Nghiêm Vạn (1996), Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay,
95
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
89. Đặng Nghiệm Vạn (2003), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở
Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
90. Lê Trung Vũ (1995), Sinh hoạt Phật giáo và các tín ngưỡng tôn giáo ở
Hải Phòng, (Báo cáo kết quả nghiên cứu tôn giáo), Hà Nội.
91. Nguyễn Hữu Vui (1995), Lý luận về tôn giáo, Nxb Chính trị quốc gia
Hà Nội.
92. Nguyễn Hữu Vui (1998), Lịch sử triết học, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
93. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (2007), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb
Giáo Dục.
94. www.daomau.com
95. www.daomauvietnam.com
96. www.dongaphu.vn
97. www.dangcongsan.vn
98. www.hatvan.com.vn
99. www.hoangbo.vn
100. www.vanhoahoc.vn
96
101. www.wikipedia.org
Ban thờ Thánh Mẫu Lê Chân (Đền Nghè, Hải Phòng)
97
Ban thờ Chúa bà Năm Phƣơng tại Hải Phòng
Giá hầu Đức Ông Nhà Trần
98
Giá hầu Đức Ông Nhà Trần
Nghi lễ Trình Giầu
99
Ngậm mồi lửa, Giá hầu Chầu Bà Đệ Nhất
Múa mồi, Giá hầu Chầu Lục
100
Giá hầu Quan lớn Đệ Tam
Giá hầu Chúa bà Ngũ Phƣơng bản cảnh
101
Giá hầu Chầu Bát
Phát lộc, Giá hầu Chầu Lục
102
Múa mồi, Giá hầu Chầu Bé
Ra dấu, Giá hầu Quan đệ Ngũ Tuần Tranh
103
Giá hầu quan Hoàng Mƣời
Giá hầu Chầu Đệ Tam
104
Múa mồi, Giá hầu Chầu Bé
Giá hầu Cô Bé Sapa
105
Giá hầu Cô Bé
Xin lộc
106
Đón lộc