BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐẶNG HƢNG THỊNH

ÁP DỤNG BIỆN PHÁP ĐƢA NGƢỜI VÀO

CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC - TỪ THỰC TIỄN

TẠI QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI -2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐẶNG HƢNG THỊNH

ÁP DỤNG BIỆN PHÁP ĐƢA NGƢỜI VÀO

CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC - TỪ THỰC TIỄN

TẠI QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Mã số: 8 38 01 02

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Hà.

HÀ NỘI -2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng

tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính

xác, tin cậy và trung thực, có nguồn gốc rõ ràng từ các cơ quan tổ

chức. Kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ

công trình nào khác. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh

toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định.

Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2018

HỌC VIÊN Đặng Hƣng Thịnh

LỜI CÁM ƠN

Trong thời gian học tập, nghiên cứu tại Học viện Hành chính

Quốc gia, tôi đã hoàn thành luận văn "Áp dụng biện pháp đưa người

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc - từ thực tiễn quận Lê Chân, tp. Hải

Phòng". Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, Khoa Sau đại học,

Khoa Nhà nước - Pháp luật, Trung tâm thư viện của Học viện Hành

chính Quốc gia và các thầy, cô tại Học viện đã tạo điều kiện cho tôi

hoàn thành luận văn.

Tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Hà đã dành

nhiều thời gian tận tình giúp đỡ chỉ bảo tôi trong quá trình nghiên cứu,

có những gợi mở rất sâu sắc, khoa học để tôi hoàn thiện luận văn.

Tôi xin cảm ơn các đồng chí Lãnh đạo, cán bộ Công an quận Lê

Chân, tp.Hải Phòng; Cơ sở cai nghiện ma túy số 02 và Cơ sở cai

nghiện ma túy Gia Minh, tp.Hải Phòng; Phòng Lao động thương binh

và xã hội, Phòng Tư pháp, UBND quận Lê Chân; Tòa án nhân dân

quận Lê Chân, tp.Hải Phòng đã tạo điều kiện giúp đỡ, cho phép tôi

được khai thác, nghiên cứu, tài liệu để tôi hoàn thành luận văn.

Luận văn được hoàn thành từ kết quả nghiên cứu của bản thân,

mặc dù đã có nhiều cố gắng, song luận văn chắc chắn không thể tránh

khỏi những thiếu sót và hạn chế nhất định. Kính mong nhận được sự

góp ý, chỉ dẫn quý báu của quý thầy, cô và bạn bè đồng nghiệp, để

luận văn hoàn thiện tốt hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 15 tháng 10 năm 2018

HỌC VIÊN Đặng Hƣng Thịnh

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ1.1: Thang nhu cầu của Abra-ham Maslow (1943).........................24

Biểu đồ 2.2: Số lượng người nghiện ma túy quận Lê Chân qua các năm

(2015 đến năm 2017)......................................................................................32

Biểu đồ 2.3: Số lượng người nghiện lập hồ sơ đi cai nghiện bắt buộc (2015

đến năm 2017)................................................................................................36

Biểu đồ 2.4: Tình hình người nghiện tại quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng

(từ 2015 đến 2017).........................................................................................38

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP ĐƢA NGƢỜI VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC ............................ 9 1.1. Khái niệm chung về áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ............................................................................................................. 9 1.2. Nội dung áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc .. 12 1.3 Các yếu tố tác động đến việc áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ............................................................................................... 21 Tiểu kết Chương 1 ........................................................................................... 29

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP ĐƢA NGƢỜI VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TẠI QUẬN LÊ CHÂN, TP. HẢI PHÒNG... 30 2.1.Đặc điểm tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của quận Lê Chân, HP 2.2. Đặc điểm tình hình cai nghiện bắt buộc tại quận Lê Chân, tp. Hải Phòng30 2.3. Tình hình áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng .............................................................. 35 2.4. Đánh giá chung tình hình áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng. .............................. 41 Tiểu kết Chương 2 ........................................................................................... 55

Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG BIỆN PHÁP ĐƢA NGƢỜI VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TỪ THỰC TIỄN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG .............. 56 3.1. Phương hướng bảo đảm áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ............................................................................................... 56 3.2. Giải pháp bảo đảm việc áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng ............................... 58 3.3. Quan điểm của tác giả: Xây dựng qui trình áp dụng hiệu quả biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại quận Lê Chân, HP ........ 72 Tiểu kết Chương 3 ........................................................................................... 77 KẾT LUẬN .................................................................................................... 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ma túy và tác hại của ma túy gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho

xã hội. Nghiện ma túy là tệ nạn xã hội. Người nghiện ma túy là người mắc

bệnh cả về tinh thần và thể chất; gây nên hậu quả khôn lường cho cho chính

bản thân, gia đình họ và là hiểm họa cho xã hội, cần thiết phải xử lý để ngăn

chặn tệ nạn này.

Hiện nay, tệ nạn nghiện ma túy đang lan tràn khắp nơi, rất nhiều người

ma túy đã có những hành vi mù quáng, bột phát gây nhiều hậu quả nghiêm

trọng cho chính bản thân, gia đình họ và xã hội. Để loại trừ tệ nạn nghiện ma

túy có nhiều biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp đưa người vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc.

Nhiều biện pháp cai nghiện cho bệnh nhân đã được tiến hành. Tuy

nhiên trong thực tế, các biện pháp này, kể cả biện pháp đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc còn chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Đặc biệt áp dụng các

biện pháp đưa người nghiện vào các cơ sở cai nghiện còn đạt hiệu quả thấp.

Cần có giải pháp thích hợp, cần thiết, có tính khả thi để biện pháp này đạt

hiệu quả cao. Do vậy việc nghiên cứu đề tài này là cần thiết.

Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, văn bản, chính sách nhằm

phòng, chống ma túy, đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đã thu

được những kết quả quan trọng, góp phần ổn định trật tự an toàn xã hội, bảo

đảm quyền cơ bản của con người, đồng thời giúp cho những người nghiện

hoàn lương trở lại với cộng đồng và gia đình.

Đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một trong những biện pháp

xử lý hành chính được quy định tại Điều 95, và đối tượng bị áp dụng biện

pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được quy định tại Điều 96 Luật Xử lý

1

vi phạm hành chính. Đây là vấn đề nhạy cảm, hệ trọng liên quan đến quyền

cơ bản của con người nên cần được nghiên cứu để không ngừng hoàn thiện.

Theo Bộ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, hiện nay (tính

đến đầu năm 2017) cả nước có hơn 210.000 người nghiện ma túy ở mọi thành

phần xã hội và lứa tuổi. Trong đó, hơn 70% người dưới 35 tuổi, 35% người

nghiện có tiền án, tiền sự liên quan đến tội phạm. Hiện tình hình buôn bán,

sản xuất, vận chuyển ma túy với quy mô ngày càng lớn, đặc biệt là việc mua

bán và sử dụng ma túy tổng hợp tăng nhanh trong thanh thiếu niên. Người sử

dụng ma túy tổng hợp ảnh hưởng hệ thần kinh, thường có những hoang

tưởng, ảo giác không làm chủ được hành vi của mình, có hành động gây nguy

hiểm cho bản thân và xã hội.

Trước tình hình phức tạp của tệ nạn ma túy, ngày 13/12/2013, Thủ

tướng Chính phủ có Quyết định số 2434/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch thống

kê người nghiện ma túy. Theo đó, giao cho Bộ Công an chủ trì phối hợp với

Bộ LĐTB&XH, Bộ Y tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê) và các

địa phương rà soát thống kê người nghiện ma túy trên toàn quốc. Mục đích

của Kế hoạch này là để khắc phục và chấn chỉnh những tồn tại, thiếu sót trong

công tác thống kê người nghiện ma túy, đánh giá đúng thực trạng số người

nghiện ma túy, số người sử dụng trái phép chất ma túy trên toàn quốc, làm cơ

sở cho việc hoạch định chính sách, xây dựng kế hoạch phòng chống ma túy

và công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Chính phủ, các Bộ ngành, UBND các tỉnh

địa phương, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng chống ma túy.

Trước tình hình người nghiện ma túy gia tăng, những năm qua Đảng,

Chính phủ đã có nhiều Chỉ thị, Nghị quyết, Chương trình Quốc gia về phòng

chống ma túy, mỗi năm chỉ hàng nghìn tỷ đồng cho phòng chống ma túy,

công tác cai nghiện, đã áp dụng nhiều biện pháp cai nghiện như: cai nghiện tại

gia đình, tại cộng đồng, tại trung tâm cai nghiện bắt buộc. Luật Xử lý vi phạm

2

hành chính số 15/2012/QH13 được Quốc hội thông qua ngày 20 tháng 06 năm

2012 đã quy định khá cụ thể về trình tự thủ tục cũng như các quy định về việc

thực hiện đưa vào cơ sở cai nghiện, ngoài ra Chính phủ cũng đã có những văn

bản hướng dẫn cụ thể nhằm thực thi hiệu quả về vấn đề về công tác đưa người

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Việc quy định các văn bản pháp luật của Nhà

nước đã có những kết quả đáng ghi nhận trong thời gian qua. Đồng thời, qua

quá trình áp dụng các văn bản pháp luật cũng có phát sinh các hạn chế và bất

cập trong quá trình đưa người cai nghiện vào các cơ sở cai nghiện bắt buộc tại

một số địa phương điển hình.

Hải Phòng nói chung và quận Lê Chân nói riêng là địa phương có nhiều

đặc thù về kinh tế, chính trị, xã hội có liên quan đến áp dụng biện pháp đưa

người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Do vậy, việc lựa chọn một địa bàn cụ thể

như quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng để nghiên cứu về áp dụng biện pháp

đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc càng có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.

Trong phạm vi tìm hiểu nghiên cứu này, tôi chọn đề tài: "Áp dụng

biện pháp đƣa ngƣời vào cơ sở cai nghiện bắt buộc - từ thực tiễn quận Lê

Chân, thành phố Hải Phòng" làm công trình nghiên cứu cho luận văn thạc

sĩ của mình. Bởi đẩy lùi được tệ nạn ma túy phải quản lý được người nghiện

ma túy thì phải có phương pháp, cách thức và các thủ tục pháp luật chặt chẽ

trong việc lập hồ sơ đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đạt hiệu

quả. Đây là điều kiện để rà soát lại các quy định của pháp luật về quy định

của pháp luật về biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc để chỉ ra

những điểm vướng mắc trong pháp luật và trong quá trình thực hiện để tìm ra

giải pháp hoàn thiện.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Với tình hình hiện nay, khi mà vấn đề tệ nạn ma túy có xu hướng phát

triển ngày càng tăng, đang ngày càng nhận được nhiều hơn sự quan tâm của

3

cộng đồng thế giới nói chung và người dân Việt Nam nói riêng thì việc

nghiên cứu các quy định của pháp luật về áp dụng biện pháp đưa người vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc cũng ngày càng trở nên bức thiết hơn đặc biệt là

việc nghiên cứu trên phạm vi một địa phương điển hình và cụ thể. Việc nghiên

cứu vấn đề trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn sẽ giúp cho chúng ta có cái

nhìn toàn diện và cụ thể hơn về pháp luật hiện hành của nước ta.

Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu hoạt động đưa người

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc như:

- Luận văn Thạc sĩ của tác giả Lê Thị Lan Phương năm 2017 về: “Biện

pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thực tiễn thành phố

Đà Nẵng” chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính .

Luận văn đã có những phân tích cụ thể và chi tiết về người nghiện ma

túy, đặc biệt tác giả phân tích cụ thể thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng và đã có

những giải thích và giải pháp phù hợp cho địa phương này nhằm cải thiện tình

hình cai nghiện.

- Luận văn của tác giả Lê Văn Sua về đề tài: “Hoàn thiện quy định về

việc đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định của Luật

Xử lý vi phạm hành chính”, Luận văn đã có phân tích cụ thể về một số thực

tiễn diễn ra và có những giải pháp mang tính định hướng cụ thể để hạn chế tối

đa tình trạng bất cập hiện có trong thời điểm đó.

- Luận văn của tác giả Phạm Tiến Thành với đề tài: “Từ biện pháp xử lý

hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh đến biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc”. Trong Luận văn, tác giả đã có những phân tích rất cụ thể các khái

niệm liên quan đồng thời có đề cập đến vấn đề thực tiễn để có một số giải

pháp hiệu quả hơn.

- Bài viết của tác giả Nguyễn Thành Công, "Nghiên cứu các giải pháp

nhằm nâng cao hiệu quả quản lý cai nghiện ma túy và sau cai Hà Nội” đã có

4

những phân tích rất cụ thể về việc quản lý cai nghiện đồng thời có đề cập đến

vấn đề thực tiễn để có một số giải pháp hiệu quả.

- Luận án Tiến sĩ của tác giả Lê Văn Nhân (2007 – 2010), “Nghiên cứu

thực trạng bệnh tật và hiệu quả một số giải pháp chăm sóc y tế cho người cai

nghiện ma túy tại các Trung tâm chữa bệnh giáo dục lao động xã hội của

thành phố Hồ Chí Minh”. Tác giả đã có những nghiên cứu, phân tích rất cụ

thể các khái niệm, thực trạng sức khỏe của người nghiện đồng thời có đề cập

đến vấn đề thực tiễn để có một số giải pháp hiệu quả hơn.

Ngoài những bài phân tích chuyên sâu về vấn đề áp dụng các biện pháp

đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì cũng có không ít bài báo, tạp chí,

các bài viết liên quan đến vấn đề được đề cập. Tuy nhiên, nghiên cứu về việc

áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thực tiễn tại

quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng chưa có đề tài nào nghiên cứu và phân

tích cụ thể về địa phương này.

Trên bình diện khoa học, “Áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc - từ thực tiễn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng” là đề

tài cũng đang dần dần được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Nó là vấn đề

phức tạp, cũ mà luôn mới. Nói đây là vấn đề cũ vì đã có không ít các bài viết,

công trình khoa học nghiên cứu, còn xét đây là một vấn đề mới ở chỗ các bài

viết và công trình nghiên cứu khoa học đó nghiên cứu vấn đề theo những cách

nhìn, cách đánh giá khác nhau. Đồng thời, mỗi địa phương có những thực tiễn

áp dụng khác nhau nên việc phân tích thực tiễn tại quận Lê Chân, thành phố

Hải Phòng đã có những đặc điểm tách biệt với các đề tài đã nghiên cứu.

Chính vì thế, nghiên cứu pháp luật về áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc từ thực tiễn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng vẫn là

một vấn đề có vai trò quan trọng.

5

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích

Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn trong áp dụng

biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thực tiễn quận Lê Chân,

thành phố Hải Phòng, luận văn đưa ra các giải pháp góp phần bảo đảm việc

áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ

- Nghiên cứu các vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng biện pháp đưa

người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

- Phân tích thực trạng về áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc tại quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng;

- Đưa ra các giải pháp, xây dựng quy trình nhằm bảo đảm việc áp dụng

biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại quận Lê Chân, thành

phố Hải Phòng đạt hiệu quả.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Việc áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thực

tiễn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp

luật về biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cụ thể:

- Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng biện

pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại quận Lê Chân, thành phố

Hải Phòng.

- Phạm vi về nội dung:

Đề tài luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp

luật về biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trên cơ sở đó tìm

6

ra những vướng mắc, bất cập trong quá trình áp dụng những quy định của

pháp luật trong tổ chức và thực tiễn thực hiện.

- Phạm vi về thời gian:

Luận văn nghiên cứu việc áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc từ thực tiễn tại quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng trong

khoảng thời gian từ 2015 đến những bốn tháng đầu năm 2018.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

- Phương pháp luận:

Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, tác giả nghiên cứu dựa

trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa

duy vật lịch sử, đồng thời vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường

lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về xây dựng và phát triển

các nội dung liên quan đến việc áp dụng các biện pháp đưa người vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc.

- Phương pháp nghiên cứu:

+ Phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý

luận pháp lý cơ bản về biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

+ Phương pháp thống kê để thấy được số lượng, hiện trạng thực hiện

biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thực tế tại quận Lê

Chân, thành phố Hải Phòng.

+ Phương pháp so sánh trong các quy định của pháp luật về biện pháp

đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc giữa các địa điểm phân tích và các

địa phương khác.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn là công trình chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu một cách

tương đối toàn diện và có hệ thống ở cấp độ luận văn thạc sĩ về hoạt động áp

dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thực tiễn tại quận

7

Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

Ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng

làm tư liệu tham khảo phục vụ cho cán bộ trong cơ quan tư pháp, nhất là

những cán bộ trực tiếp áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc. Bên cạnh đó, luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo

cho sinh viên, học viên luật, cán bộ nghiên cứu giảng dạy và nghiên cứu một

số chuyên đề khác có liên quan đến hoạt động áp dụng biện pháp đưa người

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

7. Kết cấu của luận văn

Đề tài với tiêu đề: “Áp dụng biện pháp đƣa ngƣời vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc - từ thực tiễn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng” được

chia làm 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Trong đó,

phần nội dung gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận, pháp lý về việc áp dụng biện pháp đưa người

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Chương 2: Thực trạng áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc tại quận Lê Chân, tp. Hải Phòng.

Chương 3: Phương hướng, giải pháp bảo đảm việc áp dụng biện pháp

đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thực tiễn quận Lê Chân, tp. Hải

Phòng.

8

Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP

ĐƢA NGƢỜI VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC

1.1. Khái niệm chung về áp dụng biện pháp đƣa ngƣời vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc

1.1.1. Khái niệm cai nghiện bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc

Theo quy định tại Khoản 11 Điều 2 Luật Phòng, chống ma túy số

13/VBHN-VPQH của Văn phòng Quốc hội ngày 23 tháng 7 năm 2013 định

nghĩa khái niệm “Người nghiện ma túy là người sử dụng chất ma túy, thuốc

gây nghiện, thuốc hướng thần và bị lệ thuộc vào chất này” [26,tr.2].. Theo Tổ

chức Y tế thế giới (WHO) thì nghiện ma túy là tình trạng lệ thuộc về mặt tâm

thần hoặc thể chất hoặc cả hai khi một người sử dụng ma túy lặp đi lặp lại

theo chu kỳ hoặc dùng kéo dài liên tục một thứ ma túy và tình trạng lệ thuộc

này làm thay đổi cách cư xử, bắt buộc đương sự luôn cảm thấy sự bức bách

phải dùng ma túy để có những hiệu ứng ma túy về mặt tâm thần của ma túy

và thoát khỏi sự khó chịu, vật vã do thiếu ma túy. Tình trạng lệ thuộc này có

thể kèm theo hiện tượng quen ma túy hoặc không, và một người có thể bị lệ

thuộc nhiều loại ma túy. Như vậy, bản chất nghiện ma túy là một căn bệnh

mãn tính làm thay đổi các tế bào thần kinh trong não do sử dụng ma túy nhiều

lần. Khi nghiện ma túy, người bị nghiện sẽ bị lệ thuộc về tâm thần và về thể

chất, người nghiện ma túy sẽ phải cần chất ma túy để cân bằng cơ thể, nó thể

hiện sự ham muốn không thể nào cưỡng lại được và đưa ma túy vào cơ thể

bằng bất cứ giá nào. Người nghiện ma túy khi đã đến giai đoạn cơ thể mất cân

bằng, họ sẽ không tự chủ được bản thân, dễ dẫn đến các hành vi có hại cho

chính gia đình và cộng đồng của họ. Vì vậy việc cai nghiện bắt buộc đối với

người nghiện ma túy là một yêu cầu và là yếu tố cần thiết trong công tác quản

lý trật tự an toàn xã hội hiện nay.

9

Cai nghiện ma túy là việc áp dụng các hoạt động điều trị, tư vấn, học

tập, lao động, rèn luyện nhằm giúp cho người nghiện ma túy phục hồi về sức

khỏe, nhận thức, tâm lý và hành vi, nhân cách để trở về tình trạng bình

thường. Bên cạnh đó, quy trình cai nghiện ma túy là tổng hợp các phương

pháp, biện pháp thực hiện theo một trình tự, thời gian nhất định do cơ quan

Nhà nước có thẩm quyền ban hành và áp dụng thống nhất.

Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là biện pháp xử lý hành chính áp

dụng đối với người có hành vi vi phạm thuộc đối tượng quy định tại Điều 96

của Luật Xử lý vi phạm hành chính áp dụng đối với người nghiện ma túy từ

đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà

vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư

trú ổn định để chữa bệnh, lao động, học văn hóa, học nghề dưới sự quản lý

của cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đối tượng cai nghiện có thể là tự nguyện và có

thể là bắt buộc. Cai nghiện bắt buộc là việc sử dụng các phương pháp nhằm

làm giảm sử dụng ma túy bất hợp pháp, giảm tỷ lệ phạm pháp liên quan sử

dụng chất ma túy, giảm tỷ lệ truyền bệnh cho tiêm chích ma túy, giảm tỷ lệ tai

biến do dùng chất ma túy từ đó phục hồi chức năng lao động, sinh lý, tái hòa

nhập gia đình, xã hội. Cai nghiện là hình thành, cải tạo lại nhân cách của đối

tượng vi phạm. Đây là biện pháp xử lý hành chính bắt buộc đối với những đối

tượng theo đúng quy định phải cách ly để thực hiện cai nghiện.

Cơ sở cai nghiện bắt buộc là một đơn vị sự nghiệp công lập thành lập

theo quy định của Nhà nước về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự

nghiệp công lập. Cơ sở cai nghiện bắt buộc được thành lập theo địa bàn tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương, nó chịu sự quản lý trực tiếp của Sở Lao

động - Thương binh và Xã hội. Việc thành lập cơ sở cai nghiện bắt buộc tùy

thuộc vào tình hình của địa phương mà cơ quan chức năng quyết định việc

thành lập, giải thể và hoạt động của cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quản lý các cơ sở cai nghiện bắt

10

buộc căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, căn cứ số lượng học

viên, số lượng công chức, viên chức, người lao động tại cơ sở để quy định cơ

cấu tổ chức các phòng ban phù hợp với tính chất và quy mô của lĩnh vực cai

nghiện bắt buộc.

Như vậy, để thực hiện áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai

nghiện được hiệu quả, Nhà nước đã có những quy định cụ thể về hoạt động và

cơ cấu tổ chức, đối tượng của các cơ sở cai nghiện và những đặc điểm của

người bị cai nghiện nhằm có những phương án thực hiện hiệu quả.

1.1.2. Khái niệm áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc

Ma túy và tác hại của ma túy gây ra đã có những nguy hại rất nghiêm

trọng đến gia đình và trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, Nhà nước đã ban hành

nhiều văn bản, chính sách nhằm phòng, chống ma túy trong đó có biện pháp

hành chính áp dụng đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhằm tác động

đến người nghiện và có những quy trình, phương pháp đưa đối tượng vi phạm

trở lại với cuộc sống bình thường.

Áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện là biện pháp xử lý

hành chính áp dụng đối với người có hành vi vi phạm thuộc đối tượng người

nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,

phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện ma túy hoặc chưa bị áp dụng biện pháp

này nhưng không có nơi cư trú ổn định để chữa bệnh, lao động, học văn hóa,

học nghề dưới sự quản lý của cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đây là biện pháp

hành chính bắt buộc đối với những đối tượng quy định tại Luật Xử lý vi phạm

hành chính.

Quan điểm của tác giả: "Áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc là biện pháp xử lý hành chính được cơ quan nhà nước có

thẩm quyền áp dụng khi phát hiện người nghiện chất ma túy từ đủ 18 tuổi trở

11

lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã/ phường hoặc chưa bị áp dụng

biện pháp giáo dục tại xã/ phường mà không có nơi cư trú ổn định mà vẫn

còn nghiện chất ma túy thì bị lập hồ sơ. Tòa án nhân dân cấp quận/huyện ra

quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn từ 1 năm đến 2 năm".

Trong các biện pháp hành chính được xem xét, quyết định áp dụng tại

Tòa án nhân dân thì chiếm đa số là biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc. Đây là công cụ hữu hiệu để giảm thiểu tối đa các đối tượng nghiện, lang

thang, giúp cho gia đình các đối tượng nghiện ma túy bớt gánh nặng, xã hội

được trong sạch, lành mạnh.

1.2. Nội dung áp dụng biện pháp đƣa ngƣời vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc

Biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được quy định cụ

thể tại Điều 96 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và được cụ thể hóa

chi tiết tại Khoản 1 Điều 1 Nghị định 136/2016/NĐ-CP để chữa bệnh, lao

động, văn hóa, học nghề dưới sự quản lý của cơ sở cai nghiện bắt buộc. Nhà

nước đã có những quy định rất cụ thể về việc đưa người vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc, những đối tượng theo quy định phải đưa vào cơ sở cai nghiện sẽ tiến

hành theo đúng thủ tục và thời gian theo quy định của pháp luật nhằm ổn định

gia đình và xã hội, tạo điều kiện để người cai nghiện ổn định tinh thần, tách

biệt và kiểm soát được bản thân. Về biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện

có những đặc điểm và nội dung cụ thể gồm:

Thứ nhất: Về đối tượng áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai

nghiện.

"Đối tượng áp dụng biện pháp này là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi

trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn

nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú ổn

định"[11,tr.53].

12

Pháp luật quy định người 18 tuổi đã là người thành niên và có năng lực

đầy đủ để chịu trách nhiệm về những hành vi mà mình thực hiện. Vì vậy, Luật

Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 cũng đã có quy định về đối tượng nghiện

ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đều phải áp dụng các biện pháp đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc, bao gồm những trường hợp cụ thể khác nhau gồm: "Người

nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, có nơi cư trú ổn định, trong thời hạn 2

năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,

phường, thị trấn do nghiện ma túy hoặc trong thời hạn một năm kể từ ngày

hết thời hiệu thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường,

thị trấn do nghiện ma túy mà vẫn còn nghiện; Người nghiện ma túy từ đủ 18

tuổi trở lên, có nơi cư trú ổn định, bị chấm dứt thi hành quyết định giáo dục

tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy hoặc người nghiện ma túy từ 18 tuổi

trở lên, không có nơi cư trú ổn định"[6,tr.1].

Luật Phòng, chống ma túy số: 13/VBHN-VPQH ngày 23 tháng 7 năm

2013 do Văn phòng Quốc hội ban hành cũng quy định về đối tượng "người

nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi tùy vào những trường hợp khác

nhau, tuy nhiên đối với đối tượng này không coi là việc xử phạt vi phạm hành

chính. Đối với người nghiện ở độ tuổi từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi đã được

cai nghiện tại gia đình, cộng đồng hoặc đã được giáo dục nhiều lần tại xã,

phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc không có nơi cư trú nhất định thì

được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc dành riêng cho họ. Đối với trường

hợp tự nguyện cai nghiện hoặc được gia đình làm đơn xin cai nghiện thì được

nhận vào cai nghiện tại cơ sở cai nghiện bắt buộc dành riêng cho họ"[26,tr.9]..

Căn cứ tại Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012, Nghị định 81/2013

ngày 19 tháng 7 năm 2013 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành

Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định đối tượng độ tuổi bị áp dụng biện

pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc gồm: người từ đủ 14 tuổi đến

13

dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm hành chính do cố ý;

người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi hành vi.

Việc xác định nơi cư trú của đối tượng cai nghiện giúp các cơ quan

chức năng xác định được thẩm quyền và thực hiện hiệu quả phạm vi chức

năng quyền hạn trong việc cai nghiện bắt buộc. Nghị định số 111/2013/NĐ-

CP quy định nơi cư trú ổn định là nơi người vi phạm thường trú hoặc tạm trú,

nhưng phải là nơi người đó hiện đang thường xuyên sinh sống. Có nhiều

trường hợp các cơ quan áp dụng không thống nhất sẽ dẫn đến việc mâu thuẫn

giữa nhiệm vụ và quyền hạn. Trong thực tế, các đối tượng nghiện ma túy

nhiều trường hợp không cư trú hoặc sinh sống ổn định ở một nơi mà có thể di

chuyển từ địa phương này sang địa phương khác, hoặc tham gia vào những

nhóm sử dụng ma túy và thường xuyên thay đổi địa điểm sinh hoạt, hút chích

ma túy. Xác minh nơi cư trú ổn định của người nghiện ma túy tại các tỉnh,

thành phố khác thường chậm trễ, trả lời chung chung, đa số các trường hợp

không trả lời kết quả xác minh, làm mất thời gian của cơ quan công an gửi hồ

sơ đi xác minh dẫn đến khó khăn trong việc hoàn thiện hồ sơ xét duyệt đưa

người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Việc xác định đúng đối tượng có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả đối

với các cơ sở cai nghiện. Những đối tượng khác nhau thường có những đặc

điểm về tâm sinh lý khác nhau. Vì vậy, xác định đúng độ tuổi, mức độ nghiện

ma túy và các đặc điểm khác nhau sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả cai

nghiện ở các trung tâm cai nghiện hiện nay. Chúng ta cần phải xác định rõ đối

tượng có thật sự nghiện ma túy, có phụ thuộc vào ma túy để cai nghiện tại

Trung tâm điều trị cắt cơn hay không. Vấn đề này cần phải quan tâm vì nếu đối

tượng sử dụng lần đầu do không có nơi cư trú ổn định, chưa bị áp dụng biện

pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn bị đưa đi kiểm tra thì dương tính với ma

túy vẫn thuộc đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc như quy định tại

14

khoản 2 Điều 3 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chế độ

áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Ngoài ra, có những trường hợp pháp luật quy định không áp dụng biện

pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với trường hợp: "Người không có

năng lực trách nhiệm hành chính; người đang mang thai có chứng nhận của

bệnh viện; phụ nữ hoặc người duy nhất đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi

được Ủy ban Nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận"[11,tr.61].

Như vậy, Nhà nước căn cứ vào độ tuổi và tùy vào những trường hợp

khác nhau sẽ có những biện pháp áp dụng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

mang tính chất xử lý hành chính hoặc tự nguyện đối với những trường hợp

nghiện ma túy.

Thứ hai: Về thời hiệu và thời hạn áp dụng biện pháp đưa người vào cơ

sở cai nghiện.

Điều 149 Bộ luật Dân sự 2015 quy định khái niệm “Thời hiệu là thời

hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh hậu quả pháp

lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy định” [12,tr.70].. Khi hết thời

gian quy định thì chủ thể không phải chịu hậu quả pháp lý.Theo quy định tại

Điều 4 Nghị định 221/2013/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2013 quy định chế

độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc quy

định: "Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 03

tháng, kể từ ngày cá nhân thực hiện hành vi sử dụng ma túy trái phép lần cuối

bị phát hiện và lập biên bản"[5,tr.1]..

Thời hạn là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến

thời điểm khác. Thời hạn do cơ quan Nhà nước xác định khi xem xét, giải

quyết các vụ việc cụ thể. Đối với thời hạn áp dụng biện pháp đưa người vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc là từ 12 tháng đến 24 tháng. Đây là khoảng thời

gian người bị nghiện được áp dụng thực hiện quy trình cai nghiện bắt buộc.

15

Thứ ba: Trình tự thủ tục áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc.

Về trình tự thủ tục áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc được thực hiện theo đúng trình tự được Luật Xử lý vi phạm hành

chính năm 2012 và Nghị định 221/2013/NĐ-CP quy định chế độ áp dụng biện

pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

"Khi phát hiện người sử dụng ma túy trái phép, Công an cấp xã nơi

người đó có hành vi vi phạm lập biên bản về hành vi sử dụng ma túy trái phép

của người đó và tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị áp

dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trường hợp cá nhân, tổ

chức phát hiện người sử dụng ma túy trái phép thì báo cho cơ quan Công an

cấp xã nơi người có hành vi vi phạm để lập biên bản và xác minh, thu thập tài

liệu, lập hồ sơ"[5,tr.3]..

"Trường hợp người vi phạm cư trú tại xã, phường, thị trấn nơi xảy ra vi

phạm và đã được giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy thì lập hồ

sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy

định. Trường hợp người vi phạm có nơi cư trú không thuộc xã, phường, thị

trấn nơi xảy ra vi phạm thì bàn giao người và biên bản vi phạm cho cơ quan

Công an cấp xã nơi người vi phạm cư trú để tiến hành lập hồ sơ đề nghị áp

dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định. Trường hợp

chưa xác định được nơi cư trú ổn định của người vi phạm, thì tiến hành xác

định nơi cư trú ổn định của người đó.

Trong quá trình điều tra, thụ lý các vụ vi phạm pháp luật, cơ quan Công

an cấp huyện hoặc cơ quan Công an cấp tỉnh phát hiện hành vi sử dụng ma

túy trái phép hoặc dấu hiệu nghiện ma túy của người vi phạm thì tiến hành lập

biên bản, xác minh, thu thập tài liệu và lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với người đó"[5,tr.4]..

16

Tùy theo từng đối tượng và địa bàn cụ thể mà có những trình tự khác

nhau tùy theo mức độ vi phạm và các nội dung cần xác minh.

Ngoài ra, Thông tư của Bộ Công an số 05/2018/TT-BCA ngày 07 tháng

2 năm 2018 quy định việc thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện

pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người

nghiện ma túy có nơi cư trú ổn định gồm có:

"Bản tóm tắt lý lịch của người bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có xác nhận của thủ trưởng cơ quan

Công an nơi lập hồ sơ. Trường hợp có căn cứ cho rằng người vi phạm cố tình

che giấu lý lịch của bản thân thì cơ quan lập hồ sơ lập danh, chỉ bản của người

vi phạm kèm theo Bản tóm tắt lý lịch; Bản tường trình của người bị đề nghị

áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc

của người đại diện hợp pháp của họ; Biên bản vi phạm hành chính về hành vi

sử dụng ma túy trái phép; Bản sao Giấy chứng nhận đã chấp hành xong Quyết

định giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với trường hợp đã chấp hành xong

quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma

túy; Phiếu xét nghiệm kết quả có dương tính với chất ma túy tại thời điểm lập

hồ sơ"[3,tr.4]..

Đối với người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định, thì hồ sơ đề

nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

gồm có các tài liệu như trên, đồng thời bổ sung tài liệu phiếu trả lời kết quả

của người có thẩm quyền về xác định tình trạng nghiện hiện tại của người bị

đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc và xác minh nơi đăng ký thường trú (có ảnh) của người nghiện được địa

phương nơi đăng ký thường trú của người nghiện xác nhận về nhân thân lai

lịch người nghiện.

17

Sau khi hoàn thành việc lập hồ sơ, cơ quan Công an nơi lập hồ sơ phải

gửi trực tiếp hoặc gửi qua đường bưu điện văn bản thông báo về việc lập hồ

sơ cho người bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc hoặc người đại diện hợp pháp của họ.

Hết thời hạn đọc hồ sơ theo quy định là 05 ngày kể từ ngày người

nghiện bị lập hồ sơ nhận được thông báo, cơ quan Công an nơi lập hồ sơ

chuyển hồ sơ kèm theo văn bản đề nghị kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề

nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

cho Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện.

Bộ Tài chính đã ban hành văn bản hướng dẫn về việc quy định quản lý

và sử dụng kinh phí thực hiện chế độ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc và tổ chức cai nghiện ma túy bắt buộc tại cộng đồng.

Theo đó, Thông tư 117/2017/TT-BTC ngày 6/11/2017 quy định quản lý

và sử dụng kinh phí thực hiện chế độ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc và tổ chức cai nghiện ma túy bắt buộc tại cộng đồng có hiệu

lực từ ngày 01/01/2018 đã có những quy định cụ thể về mục đích sử dụng

kinh phí, việc phân bổ kinh phí để phù hợp với đối tượng người nghiện ma

túy tại cộng đồng. Theo đó, nội dung chi cho công tác áp dụng biện pháp xử

lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện để quản lý người nghiện ma túy bắt

buộc bao gồm: "Chi cho công tác lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý

hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; chi quản lý người nghiện ma

túy không có nơi cư trú ổn định tại các tổ chức xã hội, cơ sở xã hội, cơ sở đa

chức năng trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; chi tiền tàu xe hoặc thuê mướn phương tiện

vận chuyển đưa người nghiện không có nơi cư trú ổn định vào tổ chức xã hội,

cơ sở xã hội; đưa người nghiện ma túy đã có quyết định của Tòa án nhân dân

cấp huyện áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; đưa người

18

không bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ tổ chức xã

hội, cơ sở xã hội, cơ sở đa chức năng sang cơ sở bảo trợ xã hội, đưa người cần

xác định nghiện ma túy chuyển tuyến để xác định tình trạng nghiện ma túy.

Chi truy tìm người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định bỏ trốn trong

thời gian lập hồ sơ lưu trú tạm thời tại tổ chức xã hội, cơ sở xã hội, cơ sở đa

chức năng; truy tìm người nghiện ma túy đã có quyết định áp dụng biện pháp

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc bỏ trốn trước khi đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc; truy tìm học viên bỏ trốn khỏi cơ sở cai nghiện bắt buộc"[2]. và

những nội dung cần thiết khác theo thực tiễn hiện nay.

Thông tư cũng quy định về các khoản chi phí cho học viên tham gia

chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện gồm: chi phí cai

nghiện, tiền ăn, chi phí sinh hoạt, hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao, các

hoạt động vui chơi giải trí khác. Thông tư cũng đã có những quy định cụ thể

về việc lập thủ tục thực hiện hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và bắt đầu

có hiệu lực vào ngày 01 tháng 01 năm 2018.

Tùy thuộc vào những đối tượng khác nhau mà trình tự thủ tục thực hiện

đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được áp dụng đầy đủ hoặc thực hiện

nhanh chóng nhưng vẫn đúng thủ tục theo quy định của pháp luật. Việc thực

hiện xác định vi phạm hành chính để áp dụng cai nghiện bắt buộc hoặc việc

xác định trình tự, thủ tục lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện có nơi cư trú ổn định cũng phải cần

khá nhiều loại giấy tờ (Bảng tóm tắt lý lịch; phiếu kết quả về tình trạng

nghiện ma túy; giấy xác nhận hết thời gian cai nghiện tại gia đình hoặc tại

cộng đồng của chủ tịch UBND cấp xã...). Trình tự thủ tục đưa người đi cai

nghiện chỉ cần một mắt xích không thống nhất là hồ sơ đưa đi cai nghiện có

thể bị dừng lại. Vì vậy, để việc áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai

nghiện được thực hiện hiệu quả thì vấn đề trình tự thủ tục cần có những

19

phương án giải quyết thực sự hiệu quả và nhanh chóng để người cai nghiện

được điều trị và quản lý kịp thời.

Khi đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc phải thực hiện đúng theo

quy định của pháp luật về trình tự thủ tục và xác định đúng thẩm quyền, đối

tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Để áp dụng

biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện được thực hiện có hiệu quả và

mang lại những tác động tích cực trong công tác đảm bảo an ninh trật tự, việc

thực hiện áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có

những yêu cầu cần đảm bảo thực hiện.

Việc xác định thẩm quyền áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc giúp các cơ quan chức năng thực hiện thống nhất trong việc

phối hợp nhiệm vụ đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Khi thực hiện

biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện được hiệu quả sẽ đảm bảo thực thi

pháp luật đồng thời ổn định trật tự xã hội. Qua quá trình phát triển và điều

chỉnh, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 đã có những điều chỉnh cho

phù hợp với thực tiễn pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng các quy định của

pháp luật về việc đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền quyết định áp dụng các biện

pháp đưa người vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trong một người vi phạm hành chính mà Tòa

án xử lý sẽ có những hình phạt khác nhau đồng thời có những biện pháp xử lý

hành chính giúp cho sự việc được xử lý hiệu quả và đảm bảo tuân theo quy

định của pháp luật. Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 đã có điểm mới liên

quan đến thẩm quyền áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc từ Chủ tịch Ủy ban nhân dân sang Tòa án nhân dân, từ thủ tục hành

chính sang thủ tục tư pháp. Luật đã quy định rất chặt chẽ điều kiện áp dụng

một số biện pháp ngăn chặn liên quan đến nhân thân, quyền và lợi ích người

dân, đồng thời kiểm soát chặt chẽ hơn, tránh việc lạm dụng của người có thẩm

20

quyền trong quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn, ảnh hưởng đến sinh

hoạt, hoạt động của người dân.

1.3. Các yếu tố tác động đến việc áp dụng biện pháp đƣa ngƣời vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc

Quá trình dẫn dắt đối tượng đến với ma túy rất phức tạp. Nghiện ma túy

xuất hiện như một hậu quả cuối cùng do hoà trộn nhiều tác nhân: gia đình,

bạn bè, xã hội, ảnh hưởng bằng nhiều hình thức và mang tính đặc thù riêng

cho mỗi trường hợp. Để áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc được hiệu quả bên cạnh những quy định của pháp luật. Nhà nước

cũng cần quan tâm đến những yếu tố có thể tác động đến biện pháp đưa người

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cụ thể chúng ta có thể nêu lên một số yếu tố

điển hình như sau:

1.3.1. Yếu tố gia đình, nhà trường và xã hội

Môi trường sống xung quanh người bị cai nghiện là yếu tố quan trọng

để người cai nghiện có một thái độ nghiêm túc trong việc thực hiện cai nghiện

bắt buộc. Có nhiều yếu tố nguy cơ đưa đẩy một người đến tình trạng nghiện

ma túy, nhưng cũng có nhiều tác nhân giúp một người không bao giờ sử dụng

ma túy hoặc đã lạm dụng mà thoát ra được. Yếu tố môi trường sống xung

quanh có vai trò rất quan trọng trong việc định hướng và động viên người bị

nghiện trong quá trình cai nghiện bắt buộc. Một người bị nghiện thường xuất

phát từ nhiều yếu tố ảnh hưởng trong đó có yếu tố về nội tâm, ảnh hưởng từ

môi trường xung quanh. Từ đó, yếu tố tác động ảnh hưởng đến việc áp dụng

biện pháp cai nghiện bắt buộc cũng phải được tìm hiểu và tác động đến môi

trường sống của đối tượng cai nghiện.

Gia đình là một phần của xã hội, việc hình thành nhân cách của mỗi cá

nhân là tác động rất lớn từ môi trường trong gia đình, nghiện ma túy nhiều khi

là hậu quả của việc mâu thuẫn gia đình, tình cảm không được trọn vẹn từ bố

hoặc mẹ. Có rất nhiều yếu tố về việc ảnh hưởng đến mỗi cá nhân dẫn đến

nghiện ma túy, gia đình là yếu tố có vai trò rất quan trọng. Trong gia đình,

21

nếu phát hiện ra người bị nghiện ma túy, nhiều trường hợp người nghiện bị

các thành viên trong gia đình lên án, chửi mắng và sỉ nhục, bị cô lập hoặc bị

từ mặt. Nhiều gia đình muốn bảo vệ danh dự của họ bằng cách giấu về thông

tin có con em hoặc người thân là người bị nghiện ma túy. Điều này sẽ gây ảnh

hưởng rất lớn trong việc hình thành nên tâm lý của người nghiện ma túy trong

việc người nghiện tự nguyện cai nghiện hoặc bắt buộc đi cai nghiện.

Nhà trường là môi trường giáo dục chủ yếu những kiến thức cơ bản cho

công dân trước khi tiếp cận với môi trường xã hội. Ở nhà trường, học sinh sẽ

học được những kiến thức cơ bản về quyền và nghĩa vụ của cá nhân, đồng

thời, việc hình thành nhân cách, đạo đức của học sinh là một yếu tố vô cùng

quan trọng trong quá trình phát triển của con người.

Xã hội là một tập thể hay một nhóm những người được phân biệt với

các nhóm người khác bằng các lợi ích, mối quan hệ đặc trưng, chia sẻ cùng

một thể chế và có cùng văn hóa. Môi trường xã hội ảnh hưởng rất nhiều đến

người nghiện ma túy, xã hội phức tạp sẽ ảnh hưởng đến nhận thức của mỗi

công dân, những vấn đề phức tạp, những yếu tố ảnh hưởng từ xã hội khác

nhau sẽ hình thành nên nhân cách và thói quen của mỗi công dân khác nhau

tạo nên môi trường xã hội phát triển lành mạnh hoặc tệ nạn. Xã hội rất phức

tạp, người dân thường hay chỉ trỏ và có những phán xét tiêu cực về người

nghiện ma túy. Việc kỳ thị này làm mọi người cấm con cái, người thân của họ

tiếp xúc vì sợ bị lây nhiễm thói hư tật xấu của người nghiện ma túy. Điều này

ảnh hưởng rất lớn đến việc người nghiện ma túy hòa nhập cộng đồng, tham

gia các tổ chức cộng đồng, vui chơi giải trí, thể dục thể thao. Nhiều trường

hợp người lao động bị mắc nghiện ma túy thì việc tiếp tục lao động, làm việc

của người nghiện rất khó khăn, có thể họ bị nghỉ việc.

1.3.2. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật

Nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc chỉ đạo và định hướng

trong việc thực hiện các biện pháp xử lý người nghiện ma túy, thông qua việc

22

quy định các văn bản pháp luật Nhà nước trực tiếp thực hiện các chủ trương

chính sách nhằm đảm bảo trật tự an ninh xã hội.

Hệ thống các văn bản pháp luật có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình thực

hiện áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Hệ thống

pháp luật đồng bộ, thống nhất và rõ ràng sẽ giúp các cơ quan có chức năng thực

hiện nhanh chóng và hiệu quả nhiệm vụ của mình. Điển hình như trong trình tự

thủ tục của việc áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc,

các thủ tục được cơ quan chức năng xác định nhanh chóng về đối tượng thuộc

cai nghiện bắt buộc, xác định về nơi ở của đối tượng nhanh chóng thì việc xác

định chức năng và nhiệm vụ của cơ quan liên quan nhanh chóng sẽ tạo điều

kiện cho việc xử lý kịp thời đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Hệ thống văn bản từ trung ương đến địa phương thống nhất sẽ tạo cơ sở

pháp lý vững chắc cho việc thực hiện hiệu quả công tác đưa người vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc. Hiện nay ở Việt Nam, hệ thống văn bản quy phạm pháp

luật điều chỉnh đối tượng nghiện ma túy đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

được quan tâm và quy định một cách có hệ thống từ trước tới giờ. Luật Xử lý

vi phạm hành chính 2012 là luật cơ bản quy định về việc đưa người vào cơ sở

cai nghiện, đồng thời Nhà nước đã có những văn bản hướng dẫn cụ thể về

trình tự thủ tục cũng như những quy định về đối tượng thông qua các nghị

định, thông tư. Bên cạnh đó, quyết định của các cơ quan địa phương cũng đã

có vai trò quan trọng trong việc thực hiện hiệu quả việc đưa người vào cơ sở

cai nghiện ở địa phương nhằm tạo nên một hệ thống văn bản pháp lý vững

chắc cho việc thực hiện hiệu quả công tác cai nghiện bắt buộc.

1.3.3. Trình độ, ý thức trách nhiệm của các cán bộ thuộc cơ quan có

thẩm quyền

Việc thực hiện đúng và hiệu quả chức năng của các cơ quan có thẩm

quyền giúp công tác áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc được thực hiện nhanh chóng và hiệu quả hơn. Trình tự thủ tục đưa người

vào cơ sở cai nghiện đòi hỏi những bộ phận liên quan có những kiến thức

23

chuyên môn về ma túy, về tác hại của ma túy đặc biệt là mức độ nghiện của

đối tượng áp dụng là mức độ nhẹ hay nặng để có những phương pháp và phân

loại đối tượng hiệu quả. Có được những kết quả chính xác trong bước đầu xác

định đối tượng thì việc áp dụng biện pháp xử lý này mới đạt hiệu quả cao.

Trong thực tế, trường hợp các đối tượng nghiện ma túy khi không phát hiện

và ngăn chặn kịp thời, khi người nghiện lên cơn thèm ma túy mà không có

tiền ma túy sử dụng để thỏa mãn cơn nghiện thì sẽ xảy ra trường hợp đi trộm

cắp, cướp tài sản,...của gia đình hoặc ngoài xã hội và các vấn đề tệ nạn xã hội

khác rất nghiêm trọng. Trình độ của các bác sỹ thì chưa được tập huấn chuyên

sâu trong xác định tình trạng nghiện, do không xử lý, xác định chính xác được

tình trạng nghiện nên cơ quan Công an đang cực kỳ khó khăn trong việc phát

hiện và ngăn chặn các tệ nạn xã hội xảy ra.

Thực tế, tại một số địa phương trên cả nước, việc phân bổ bác sỹ, những

người có chuyên môn trong việc thực hiện hiệu quả công tác xác định được đối

tượng người nghiện ma túy rất phức tạp. Nhiều địa phương không thực hiện

được đầy đủ các bước khiến việc đưa người vào cơ sở cai nghiện không đạt

hiệu quả cao vì đối tượng không được xác định chính xác và hiệu quả.

1.3.4. Điều kiện cơ sở vật chất của các cơ sở cai nghiện ở địa phương

Điều kiện vật chất của các cơ sở cai nghiện bắt buộc có ảnh hưởng rất

quan trọng trong việc thực hiện hiệu quả công tác đưa người vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc. Việc trang bị những thiết bị hiện đại trong các bước thực hiện

cai nghiện cho các đối tượng giúp cho việc thực hiện cai nghiện được hiệu quả

và có chất lượng hơn. Một môi trường có cơ sở vật chất thuận lợi sẽ tạo điều

kiện cho mọi người hoàn thành nhiêm vụ của mình đồng thời các kết quả thực

hiện trong quá tình cai nghiện được đánh giá chính xác, chất lượng hơn.

Mỗi địa phương tùy theo tình hình thực tế về điều kiện kinh tế, xã hội,

tình hình về người nghiện ma túy mà cơ quan nhà nước địa phương có những

chủ trương đầu tư vào cơ sở vật chất phục vụ công tác cai nghiện ma túy của

24

người nghiện. Cơ sở vật chất phục vụ công tác đưa người vào cơ sở cai

nghiện bao gồm những yếu tố như: thiết bị máy móc phục vụ công tác phát

hiện người bị cai nghiện, môi trường sinh hoạt cho người bị cai nghiện được

cải thiện, tiện nghi tạo cảm giác thoải mái và không ảnh hưởng đến tâm lý của

người cai nghiện.

1.3.5. Nhu cầu tâm sinh lý của người nghiện ma túy

Về tâm lý: người bị nghiện trong nhiều trường hợp vì bị lạnh nhạt, kỳ

thị từ phía gia đình, xã hội mà không hòa đồng với xã hội, không thể hiện

được tình yêu thương với mọi người xung quanh. Việc thực hiện cai nghiện

bắt buộc, người nghiện muốn được yêu thương, được tin tưởng, xây dựng lại

mối quan hệ, lập gia đình, tình dục, và được tham gia vào các hoạt động của

gia đình, cộng đồng và xã hội.

Trong tài liệu Quản lý trường hợp với người sử dụng ma túy có phân

tích về những mức độ tâm lý của người nghiện ma túy thông qua thang nhu

cầu của Abra-ham Maslow (1943), cụ thể:

Biểu đồ 1.1: Thang nhu cầu của Abra-ham Maslow (1943)

25

Những nhu cầu người nghiện ma túy sẽ thể hiện qua thang nhu cầu như

người bình thường, đồng thời có những đặc điểm đặc trưng về tâm sinh lý của

đối tượng này,

Nhu cầu cơ bản nhất của con người là nhu cầu thể lý về khí oxy, thực

phẩm, nước và thân nhiệt tương đối ổn định. Đó là những nhu cầu mạnh mẽ

nhất vì sự sống của con người phụ thuộc vào những điều này. Người sử dụng

ma túy cũng là con người bình thường nên có đầy đủ những nhu cầu này,

ngoài ra họ còn rất cần có những nhu cầu vật chất thiết thực hơn cho sức khỏe

của họ. Khi các nhu cầu về thể lý được đảm bảo và các yếu tố về thể lý không

còn chi phối đến suy nghĩ và hành vi của họ thì họ có thể tập trung vào nhu

cầu được an toàn: an toàn về thông tin, an toàn về cuộc sống, an toàn về thể

trạng, an toàn trong quá trình điều trị nghiện, v.v...Khi người sử dụng ma túy

cảm thấy tương đối an toàn và yên tâm, họ sẽ hướng đến nhu cầu yêu thương,

được yêu mến. Đó là việc con người cho và nhận được sự yêu thương, quý mến

và cảm nhận rằng mình có mối liên hệ với những người xung quanh như:

những người thân trong gia đình, hàng xóm láng giềng, cộng đồng, đồng

nghiệp và cả những người chăm sóc điều trị nghiện cho họ. Khi 3 bậc nhu cầu

nêu trên đối với người nghiện đã được đảm bảo thì nhu cầu được quý trọng sẽ

rất quan trọng với họ. Điều này bao hàm cả nhu cầu con người quý trọng người

khác và muốn được người khác quý trọng. Khi các nhu cầu này được thỏa mãn,

người nghiện trở nên tự tin hơn vào những giá trị mà họ đã xác định.

Khi các nhu cầu nêu trên được thỏa mãn, thì đó chính là lúc nhu cầu

được tự khẳng định của người nghiện xuất hiện và là nhu cầu chính đáng của

con người khẳng định chính mình mong muốn và được làm nhữngviệc họ

muốn làm. Trong quá trình điều trị nghiện, xác định nhu cầu này sẽ giúp cho

người nghiện nhìn thấy rõ bản thân của họ hơn, xác định tâm lý và bản lĩnh vững vàng hơn và từ đó cũng có những quyết định đúng đắn hơn.

26

Về xã hội: người nghiện ma túy muốn được hướng nghiệp, được tạo

điều kiện vay vốn, được có việc làm, không bị kỳ thị hay thuộc về một nhóm

nào đó, được thực hiện các thủ tục hành chính, có mối quan hệ tốt trong cộng

đồng quan hệ với các cơ quan và những người trong xã hội. Người sau khi cai

nghiện, họ muốn hòa nhập xã hội, không bị kỳ thị và tách biệt với mọi người

xung quanh. Vì vậy, gia đình và xã hội có mối quan hệ rất quan trọng trong

việc hình thành nhân cách của mỗi con người nói chung và người nghiện nói

riêng.

Về sức khỏe cá nhân: Người cai nghiện sẽ theo dõi và muốn biết được

tình trạng sức khỏe, HIV của bản thân, muốn được điều trị các bệnh đang mắc

phải, được chăm sóc sức khỏe, mong muốn có sức khỏe tốt để làm người có

ích cho xã hội nhiều hơn. Trước khi thực hiện cai nghiện, người nghiện là

người thuộc đối tượng không quan tâm đến sức khỏe của mình. Thông

thường, đối với người sử dụng ma túy thường có những đặc điểm như bức

xúc về mặt tâm lý muốn sử dụng lại chất gây nghiện, khi lên cơn nghiện,

người nghiện khó có thể kiểm soát được suy nghĩ và hành vi của mình nên dễ

dàng gây ra những tổn thương cho người khác hoặc gây ra những hành động

làm ảnh hưởng xấu đến gia đình và người xung quanh. Để giúp người nghiện

chiến thắng được bản thân mình, vượt qua sự cám dỗ của chất gây nghiện, gia

đình, cộng đồng, xã hội và những nhà chuyên môn như nhân viên quản lý

trường hợp cần tích cực hỗ trợ, giúp đỡ.

Nghiên cứu đã cho thấy:

Nếu mới nghiện ma túy, cảm xúc cô đơn, trống vắng; mặc cảm tội lỗi,

cảm giác lo sợ, mặc cảm mình bị ghét bỏ. Từ đó có thể dẫn đến những hành vi

như: tiếp tục sử dụng ma túy để tự lừa dối cảm xúc; che giấu, sống tách biệt

với thế giới riêng, ngại giao tiếp; lừa dối; phản kháng, bỏ nhà đi, tiếp tục sử

dụng ma túy. Nếu mắc nghiện ma túy lâu, mặc cảm thua sút anh em, bạn bè;

27

mặc cảm mình bị ghét bỏ, là thành phần xấu của xã hội; tự ái rằng mình có

thừa khả năng, có thể thành đạt nhưng chỉ tại vì nghiện, tại vì hoàn cảnh, đổ

lỗi cho hoàn cảnh. Đối với những người đã sử dụng ma túy trong thời gian dài

có cảm giác chán chường, buông xuôi vì đã từng nỗ lực từ bỏ nhiều lần nhưng

không thành công. Họ muốn được làm người bình thường, muốn có và sống

với vợ con, muốn nói chuyện và giao tiếp với người khác; có nhận thức về

mình, đôi lúc có tính cách triết lý, nói chuyện cố gắng có đầu có đuôi.

Chính vì vậy, việc phân tích tâm lý đối với người bị nghiện là vô cùng

quan trọng để có những giải pháp thực hiện hiệu quả công tác cai nghiện tại

các cơ sở, đồng thời áp dụng những phân tích tâm lý sẽ tạo điều kiện cho việc

thực hiện hiệu quả công tác theo dõi, quản lý người nghiện khi đối tượng này

trở về gia đình và xã hội.

28

Tiểu kết Chƣơng 1

Ma túy có ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của người nghiện, gia đình

và xã hội. Người nghiện ma túy khi bị ảnh hưởng của ma túy sẽ có những

hành vi nguy hại cho xã hội, gây gia tăng các tệ nạn xã hội, gây mất trật tự, an

toàn xã hội như: lừa đảo, trộm cắp, cướp, giết người, mại dâm, hoạt động

băng ổ nhóm… nó ảnh hưởng rất lớn đến đạo đức, thuần phong mỹ tục lâu

đời của dân tộc. Khi con người đã ảnh hưởng do nghiện ma túy sẽ làm giảm

sức lao động sản xuất trong xã hội, đồng thời nó làm tăng chi phí ngân sách

xã hội trong việc ngăn ngừa, khắc phục, giải quyết các hậu quả do ma túy gây

ra. Vì vậy, những đối tượng bị nghiện ma túy cần phải có những biện pháp

kịp thời nhằm cách ly và giúp người nghiện cai được ma túy, tránh tái nghiện

để trở về hòa nhập với gia đình, cộng đồng và xã hội.

Trong chương 1 của luận văn, tác giả đã phân tích, đánh giá những vấn

đề lý luận liên quan đến hoạt động áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc. Đây cũng là cơ sở lý luận quan trọng để tác giả tiến hành

đánh giá thực trạng về hoạt động áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc trên địa bàn cụ thể, và đưa ra phương hướng, giải pháp bảo

đảm hiệu quả hoạt động trên.

Để hoạt động cai nghiện được thực hiện hiệu quả và không bị tái

nghiện thì đòi hỏi Nhà nước cần có những quy trình, phương pháp áp dụng

biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc một cách hiệu quả. Hệ

thống pháp luật Việt Nam đã có những quy định khá cụ thể và chi tiết, tiến bộ

trong việc thực hiện phương pháp xử lý hành chính đưa người vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc khi phát hiện ra đối tượng cần phải thực hiện điều chỉnh.

Việc quy định các văn bản pháp luật về việc áp dụng cai nghiện bắt buộc,

đồng thời có những văn bản hướng dẫn tại địa phương giúp chúng ta có cái

nhìn toàn diện, chi tiết từ việc áp dụng cũng như hiệu quả cai nghiện bắt buộc

mang lại.

29

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP ĐƢA NGƢỜI

VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TẠI QUẬN LÊ CHÂN,

THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

2.1 Đặc điểm tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của quận Lê Chân, tp.

Hải Phòng

Hải Phòng là một "trung tâm kinh tế quan trọng" của miền Bắc nói

riêng và của cả Việt Nam nói chung. Hải Phòng là một trong những trung tâm

kinh tế quan trọng nhất của Việt Nam, từ năm 2005 đến nay luôn đứng trong

top 5 các tỉnh thành phố đóng góp ngân sách nhiều nhất cả nước, cụ thể là

luôn đứng ở vị trí thứ 3 sau Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Năm 2015,

tổng thu ngân sách của thành phố đạt 56.288 tỷ đồng. Năm 2016 thu ngân

sách 62.640 tỷ đồng. Thu ngân sách năm 2017 đạt 72.100 tỷ đồng. Hiện nay,

thành phố Hải Phòng đã và đang là một địa điểm đầu tư hấp dẫn của giới đầu

tư nước ngoài tại Việt Nam, hàng loạt các dự án FDI lớn tập trung vào các

ngành công nghệ cao[25].

Với lợi thế là một thành phố trực thuộc trung ương, Hải Phòng là một

trung tâm giáo dục lớn của Việt Nam. Các trường của Hải Phòng đều có cơ sở

vật chất rất tốt và toàn diện. Năm 2012, trên địa bàn thành phố có 5 trường

Đại học, 16 trường Cao đẳng, 26 trường Trung cấp chuyên nghiệp, 56 trường

Trung học phổ thông và hàng trăm trường học từ bậc học cơ sở tới ngành học

mầm non. Thành phố những năm gần đây quan tâm khá nhiều đến công nghệ

thông tin và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm việc.

Lê Chân là một quận thuộc Thành phố Hải Phòng với vị trí tiếp giáp

quận Ngô Quyền và một phần quận Dương Kinh ở phía Đông, quận Kiến An,

huyện An Dương ở phía Tây, quận Dương Kinh ở phía Nam và quận Hồng

30

Bàng ở phía Bắc. Lê Chân là quận có diện tích đất tự nhiên nhỏ lại không có

các trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá lớn, song quận Lê Chân lại là nơi tập

trung nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Thế mạnh ấy

chính là động lực giúp quận Lê Chân vượt qua mọi khó khăn và phát triển

mạnh mẽ, với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân luôn ở mức hai con số trong

nhiều năm qua (25 - 31%/năm).

Quận Lê Chân có diện tích tự nhiên là 12 km2, có những đặc điểm rất

phát triển so với các quận khác trong cả nước. Trong những năm gần đây, tốc

độ phát triển kinh tế quận Lê Chân đã trở thành một hiện tượng, một kỳ tích

không chỉ với Hải Phòng mà với nền kinh tế cả nước. Mức tăng trưởng GDP

bình quân dao động trong khoảng 25 - 31%/năm. Thành công ấy có lẽ xuất

phát từ nhận thức đúng đắn của chính quyền địa phương nơi đây khi thấy

được vai trò của sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đối với sự phát

triển kinh tế. Vì thế, trong những năm qua, Ủy ban nhân dân quận Lê Chân

luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi, khuyến khích đầu tư mở rộng sản xuất - kinh

doanh trong hai lĩnh vực xương sống này. Hiện nay, “ngành kinh tế này đang

chiếm 35% GDP toàn quận” [28].

Ở quận Lê Chân, hệ thống doanh nghiệp ngoài quốc doanh với 450

doanh nghiệp tư nhân, 78 hợp tác xã, xí nghiệp tập thể và 3.000 hộ kinh

doanh cá thể. Với 47 dự án có tổng giá trị đầu tư phát triển là 105 tỷ mà hệ

thống doanh nghiệp này đầu tư trong thời gian qua đã mang lại diện mạo mới

cho ngành công nghiệp quận Lê Chân. Trong đó, phải kể đến các dự án tiêu

biểu như: nhà máy giầy xuất khẩu công suất 3 triệu đôi/năm, trị giá đầu tư 29

tỷ đồng của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Vạn Đạt (hiện tại, dự án này đã

đưa vào sản xuất giai đoạn 1 có hiệu quả với công suất 1,5 triệu đôi/năm); nhà

máy Bao bì của Xí nghiệp Ngọc Quyển, công suất 13 triệu bao/năm, trị giá

đầu tư 10 tỷ đồng; Xưởng sản xuất Nhựa Ngọc Hải, công suất 2 triệu sản

31

phẩm/năm, trị giá đầu tư 12 tỷ đồng; Xưởng Sản xuất Giấy DUPLEX của hợp

tác xã Mỹ Hương, công suất 4.000 tấn/năm, trị giá 14 tỷ đồng[28].

Từ những đặc điểm cơ bản của nên kinh tế của Quận Lê Chân, có thể

nhận thấy việc tăng trưởng phát triển nền kinh tế của quận Lê Chân rất lớn,

tốc độ phát triển rất nhanh và thúc đẩy sự phát triển của thành phố Hải Phòng.

Nền kinh tế phát triển càng nhanh thì vấn đề kéo theo là dân cư, xã hội ở quận

Lê Chân cũng có những thay đổi cho phù hợp với tình hình kinh tế điển hình là

dân số có tổng 21 vạn người, có 15 phường trực thuộc. Những đặc điểm về

kinh tế, chính trị và xã hội của quận Lê Chân giúp chúng ta có cái nhìn khái

quát về chủ trương của Quận, từ đó có thể phân tích được những đặc điểm ảnh

hưởng đến tình hình người nghiện và cai nghiện của quận Lê Chân trong thời

gian hiện nay cũng như có những dự báo trong xu hướng ngày càng phát triển

trong thời gian tới. Quận Lê Chân là một trong những quận đi đầu trong việc

góp phần phát triển nền kinh tế của Hải Phòng. Lê Chân là một quận có môi

trường xã hội đặc thù có nhiều tác động đến người dân, những người dân ảnh

hưởng đến việc nghiện ma túy, đồng thời có những dấu hiệu của việc nhiễm

HIV là rất quan trọng và được quận chú trọng quan tâm giải quyết cai nghiện.

Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng thực hiện năm năm Chỉ thị số 21-

CT/T.Ư ngày 26-3-2008 của Bộ Chính trị (khóa X) về tiếp tục tăng cường

lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình

mới tại địa phương. Theo đó, Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố Hải

Phòng đã triển khai các giải pháp tích cực trong thực hiện chỉ thị của Bộ

Chính trị bao gồm: tăng cường tuyên truyền, huy động sức mạnh của cả hệ

thống chính trị và các tầng lớp nhân dân tham gia ngăn ngừa, kiểm soát, trấn

áp, đấu tranh với việc vận chuyển, mua bán, tàng trữ, tổ chức sử dụng trái

phép chất ma túy; Tổ chức cai nghiện ma túy tập trung; Triển khai thí điểm

điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone cho 3.200

người nghiện...

32

2.2. Tình hình cai nghiện bắt buộc tại quận Lê Chân, thành phố Hải

Phòng

Trong năm năm qua, các lực lượng đấu tranh phòng, chống ma túy trên

toàn thành phố Hải Phòng đã phối hợp điều tra, phát hiện, bắt giữ 2.571 vụ

với 4.174 tên tội phạm về ma túy. Trong đó, các băng, nhóm tội phạm ma túy

lớn, xuyên quốc gia và liên quan quốc tế, tang vật thu giữ 23,8 kg hê-rô-in,

34,6 kg ma túy tổng hợp, gần 70 kg cần sa cùng 82 khẩu súng, hơn 4,2 tỷ

đồng và nhiều tang vật khác liên quan[28].

Như vậy, ở Hải Phòng nói chung, quận Lê Chân nói riêng, tình trạng

nghiện ma túy và tội phạm về ma túy đang diễn ra rất phổ biến và có những

ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến tình hình sinh hoạt và cuộc sống của người

dân nơi đây. Theo số liệu của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công

an quận Lê Chân trong thời gian ba năm trở lại đây, con số người nghiện ma

túy của quận Lê Chân có sự thay đổi rất đáng kể, cụ thể:

650

645

640

Người

635

630

625

2015

2016

2017

Số lƣợng ngƣời nghiện ma túy qua các năm (Từ 2015 đến 2017)

Biểu đồ 2.2. Số lượng người nghiện ma túy quận Lê Chân qua các năm:

- Năm 2015: 636 người nghiện ma túy.

- Năm 2016: 643 người nghiện ma túy.

33

- Năm 2017: 650 người nghiện ma túy.

- Bốn tháng đầu năm 2018: 573 người nghiện ma túy.

(Nguồn: Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an quận Lê Chân)

Quận Lê Chân ngày càng được chú trọng đầu tư và phát triển thuộc

trường hợp đi đầu và vượt bậc so với các quận còn lại của thành phố Hải

Phòng. Song song với việc phát triển kinh tế thì những tệ nạn xã hội ngày

càng nhiều và diễn ra phổ biến điển hình là số lượng người nghiện ma túy tại

quận Lê Chân theo biểu đồ trên. Thực tế cho thấy, cơ quan quản lý địa

phương cần có những biện pháp nhằm hạn chế tình trạng tăng nhanh về số

lượng người nghiện ma túy như hiện nay. Theo số liệu thống kê của Đội Cảnh

sát điều tra tội phạm về ma túy thuộc Công an quận Lê Chân cho chúng ta

thấy rõ sự tăng trưởng rất đều về con số:

Nhìn chung, số lượng người nghiện ma túy của quận Lê Chân trong

năm 2015 tăng đột biến từ 636 người đã tăng 46 người, giảm 39 người. Năm

2016 là 643 người nghiện tăng 34 người nghiện, giảm 27 người. Năm 2017 là

650 người nghiện, tăng 54 người, giảm 131 người. Bốn tháng đầu năm 2018

là 573 tăng 07, giảm 82, hiện có 498 người nghiện ma túy. Tỷ lệ người nghiện

ma túy luôn tăng đều từ năm 2015 đến giữa năm 2018 qua các năm. Hơn thế

nữa, chỉ 4 tháng đầu năm 2018, số người nghiện của quận Lê Chân là 498

người (tháng 4/2018). Chỉ trong vòng bốn tháng đầu của năm 2018 đã có sự

tăng trưởng trong việc phát hiện và thống kê được số lượng người nghiện ma

túy của Quận. Điều này cho thấy việc người nghiện ma túy không có xu

hướng giảm mà số lượng ngày càng thay đổi theo chiều hướng tăng thêm dù

các lực lượng cơ quan chức năng đã dùng mọi biện pháp tấn công, phòng

ngừa, kìm hãm sự phát triển tệ nạn ma túy.

34

Từ thực tiễn như trên, các cơ quan chính quyền quận Lê Chân cần có

những biện pháp thực tiễn mang tính cụ thể để giải quyết những trường hợp

người nghiện ma túy trong thời gian tới. Trong xu hướng phát triển kinh tế và

hội nhập ngày càng cao của Việt Nam nói chung và Hải Phòng nói riêng, việc

kiểm soát và hạn chế tối đa người nghiện ma túy là nhu cầu bức thiết hiện nay.

Số liệu của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an quận Lê

Chân giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện về tình hình nghiện ma túy ở quận

Lê Chân. Số liệu đã nêu chưa kể những trường hợp bị nghiện ma túy nhưng

chưa phát hiện ra hoặc chưa thống kê do việc di chuyển nhiều địa điểm của

đối tượng nghiện ma túy. Một thực tiễn đặt ra lý giải con số ngày càng tăng

ngoài thực tiễn số lượng người nghiện ngày càng tăng do phát hiện mới của

cơ quan chức năng về tình hình cai nghiện của quận, ngoài ra số liệu có sự gia

tăng do có những trường hợp những người phạm tội liên quan đến ma túy đến

hạn ra tù và họ được hòa nhập vào cộng đồng thì thuộc trường hợp tái nghiện

ma túy và cần có những phương án giải quyết đưa người vào cơ sở cai nghiện.

Ngoài ra, người nghiện ma túy khi đã hết thời hạn thực hiện cai nghiện bắt

buộc trở về địa phương, trường hợp không thực hiện phương pháp tự cai

nghiện tốt, người bị nghiện rất dễ bị tái nghiện và quay trở lại con đường

nghiện ma túy như trước đây. Điều này cần có sự phân tích và đánh giá về

mức độ hiệu quả trong công tác áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc sao cho hiệu quả và tránh tái nghiện.

2.3. Tình hình áp dụng biện pháp đƣa ngƣời vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc tại quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng

Tại quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, khi phát hiện người sử dụng

ma túy trái phép, Công an cấp phường nơi người đó có hành vi vi phạm lập

biên bản về hành vi sử dụng ma túy trái phép của người đó và tiến hành xác

minh, thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai

35

nghiện bắt buộc. Trường hợp cá nhân, tổ chức phát hiện người sử dụng ma

túy trái phép thì báo cho cơ quan Công an cấp phường nơi người có hành vi vi

phạm để lập biên bản và xác minh, thu thập tài liệu, lập hồ sơ.

Trường hợp người vi phạm cư trú tại phường trên địa bàn quận Lê

Chân, thành phố Hải Phòng nơi xảy ra vi phạm và đã được giáo dục tại xã,

phường, thị trấn do nghiện ma túy thì lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định. Trường hợp người vi phạm

có nơi cư trú không thuộc phường nơi xảy ra vi phạm thì bàn giao người và

biên bản vi phạm cho cơ quan Công an cấp phường nơi người vi phạm cư trú

để tiến hành lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc theo quy định. Trường hợp chưa xác định được nơi cư trú ổn định của

người vi phạm, thì tiến hành xác định nơi cư trú ổn định của người đó.

Trong quá trình điều tra, thụ lý các vụ vi phạm pháp luật, cơ quan Công

an quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng hoặc cơ quan Công an thành phố Hải

Phòng phát hiện hành vi sử dụng ma túy trái phép hoặc dấu hiệu nghiện ma

túy của người vi phạm thì tiến hành lập biên bản, xác minh, thu thập tài liệu

và lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với

người đó.

Tùy theo từng đối tượng và địa bàn cụ thể mà có những trình tự khác

nhau tùy theo mức độ vi phạm và các nội dung cần xác minh với các địa bàn

khác nhau.

Số liệu về người nghiện tại quận Lê Chân hàng năm có sự thay đổi và

tăng đều so với các năm trước. Việc này đòi hỏi cần có sự kiểm soát chặt chẽ

vì nó có những ảnh hưởng rất nhiều trong quản lý trật tự xã hội. Việc gia tăng

số lượng người trong thời gian ba năm trở lại đây đòi hỏi cơ quan quản lý

quận Lê Chân có những bước quản lý chặt chẽ hơn nữa và tăng cường biện

pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

36

Phòng Lao động Thương binh và Xã hội thuộc Ủy ban nhân dân quận

Lê Chân, thành phố Hải Phòng đã có những số liệu thống kê cho ta thấy thực

tiễn những cố gắng của cơ quan chính quyền địa phương trong việc kiểm soát

hoạt động áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Cụ thể

chúng ta có thể thấy qua biểu đồ sau:

120

100

80

60

Người

40

20

0

2015

2016

2017

Số lƣợng ngƣời nghiện lập hồ sơ đi cai nghiện bắt buộc (Từ 2015 đến 2017)

Biểu đồ 2.3: Số lượng người nghiện lập hồ sơ đi cai nghiện bắt buộc

- Năm 2015: 03 người nghiện được lập hồ sơ.

- Năm 2016: 25 người nghiện được lập hồ sơ.

- Năm 2017: 110 người nghiện được lập hồ sơ.

- Bốn tháng đầu năm 2018: 52 người nghiện được lập hồ sơ.

(Nguồn: Phòng Lao động Thương binh và Xã hội, Ủy ban nhân dân

quận Lê Chân, tp. Hải Phòng)

Từ năm 2015 đến năm 2017, số lượng người nghiện lập hồ sơ đi cai

nghiện bắt buộc có sự gia tăng đáng kể và tăng vượt bậc trong khoảng thời

gian ba năm. Điều này chứng tỏ cơ quan có thẩm quyền của quận Lê Chân đã

37

có những nỗ lực đáng ghi nhận trong việc áp dụng biện pháp đưa người vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc. Số lượng người nghiện ma túy do tình hình phát

triển kinh tế xã hội ngày càng tăng, trong khi số lượng người nghiện ma túy

có những biến động phức tạp và gia tăng về tính chất phức tạp và số lượng.

Nhìn chung, chúng ta có thể thấy rằng số lượng người áp dụng biện

pháp đưa vào cơ sở cai nghiện có sự gia tăng đáng kể từ 03 người trong năm

2015 tăng đột biến lên 110 người vào năm 2017. Việc gia tăng rất lớn con số

áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dưỡng cho chúng ta thấy hiệu quả trong

công tác tập trung vào việc đưa người vào cơ sở cai nghiện. Trong khoảng

năm 2015, số liệu rất ít (3 người) và hầu như không đáng kể, có thì đến năm

2016 tăng lên khá đáng kể là 25 người. Đến năm 2017, con số tăng lên rất

nhanh so với năm 2016 - cụ thể là tăng lên gấp 4 lần so với năm 2016. Cơ

quan chính quyền quận Lê Chân đã có những bước tiến đáng ghi nhận trong

công tác quản lý và đưa người vào cơ sở cai nghiện. Việc này tạo điều kiện

đảm bảo được trật tự an ninh xã hội, đồng thời đáp ứng được nhu cầu ngày càng

bức thiết của xã hội trong tình hình tội phạm về ma túy ngày càng tăng nhanh.

Đến tháng 4/2018 con số người nghiện áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc là 52 người. Mới bốn tháng đầu năm 2018, quận Lê Chân đã có

số lượng hơn gấp đôi so với năm 2016, điều này dự đoán rằng đến cuối năm 2018,

con số người nghiện được đưa vào cơ sở để cai nghiện bắt buộc sẽ tăng hơn rất

nhiều so với hiện tại. Điều này chứng minh được hiệu quả trong công tác quản lý

và nỗ lực thực hiện đưa người vào cơ sở cai nghiện của cơ quan nhà nước.

Tuy nhiên, nếu so sánh số lượng người nghiện ở Lê Chân với số lượng

người nghiện được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc qua các năm thì vẫn

còn những vấn đề cần phải bàn luận và phân tích cụ thể hơn. Qua số liệu của

Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an quận Lê Chân và Phòng

Lao động Thương binh và Xã hội thuộc ủy ban nhân dân quận Lê Chân, thành

phố Hải Phòng chúng ta có thể so sánh bằng biểu đồ sau:

38

700

600

500

Người nghiện ma túy

400

300

Ngườinghiện lập hồ sơ cai nghiện bắt buộc

200

100

0

2015

2016

2017

Biểu đồ 2.4. Tình hình người nghiện ma túy tại quận Lê Chân (Nguồn: Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an quận Lê Chân và Phòng Lao động Thương binh và Xã hội thuộc Ủy ban nhân dân Quận Lê Chân, tp.Hải Phòng)

- Năm 2015: 03/636 (người nghiện được lập hồ sơ/ người nghiện ma túy).

- Năm 2016: 25/643 (người nghiện được lập hồ sơ/ người nghiện ma túy).

- Năm 2017: 110/650 (người nghiện được lập hồ sơ/ người nghiện ma túy).

- Bốn tháng đầu năm 2018: 52/573 (người nghiện được lập hồ sơ/

người nghiện ma túy).

Mặc dù con số về việc đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có gia

tăng đột biến từ năm 2015 đến bốn tháng đầu năm 2018, tuy nhiên nếu so

sánh trên tổng số người nghiện ma túy ở địa bàn quận Lê Chân cũng ngày

càng tăng thì số liệu này rất nhỏ và không đáng kể trong tổng người nghiện ở

quận Lê Chân. Năm 2017, tổng số người nghiện là 650 người, tuy nhiên trong

tổng đó thì cũng chỉ có 110 người được áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc. Con số áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

chỉ chiếm 17% trong tổng người cai nghiện. Như vậy, chúng ta thấy rằng cơ

39

quan chính quyền địa phương đã có những thành tựu đáng ghi nhận, tuy nhiên

quận Lê Chân cần có những giải pháp điều chỉnh con số chênh lệch này nhằm

tạo điều kiện cho việc phát triển quản lý người nghiện tại quận Lê Chân.

Quá trình dẫn dắt đối tượng đến với ma túy rất phức tạp. Nghiện ma túy

xuất hiện như một hậu quả cuối cùng do hoà trộn nhiều tác nhân: gia đình,

bạn bè, xã hội, ảnh hưởng bằng nhiều hình thức và mang tính đặc thù riêng

cho mỗi trường hợp. Để áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc được hiệu quả, bên cạnh những quy định của pháp luật. Chính quyền

quận Lê Chân nói riêng, thành phố Hải Phòng nói chung cũng đã quan tâm

đến những yếu tố có thể tác động đến biện pháp đưa người vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc.

Bên cạnh đó, việc thực hiện đúng và hiệu quả chức năng của các cơ

quan có thẩm quyền trên địa bàn quận Lê Chân giúp công tác áp dụng biện

pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được thực hiện nhanh chóng và

hiệu quả hơn. Trình tự thủ tục đưa người vào cơ sở cai nghiện đòi hỏi những

bộ phận liên quan có những kiến thức chuyên môn về ma túy, về tác hại của

ma túy đặc biệt là mức độ nghiện của đối tượng áp dụng là mức độ nhẹ hay

nặng để có những phương pháp và phân loại đối tượng hiệu quả. Có được

những kết quả chính xác trong bước đầu xác định đối tượng thì việc áp dụng

biện pháp xử lý này mới đạt hiệu quả cao.

Thực tế, trường hợp các đối tượng nghiện ma túy khi không phát hiện

và ngăn chặn kịp thời sẽ xảy ra trường hợp trộm cắp, tệ nạn xã hội rất nghiêm

trọng. Trình độ của các bác sỹ thì chưa được tập huấn chuyên sâu trong xác

định tình trạng nghiện, do không xử lý, xác định được tình trạng nghiện nên

cơ quan Công an đang cực kỳ khó khăn trong việc phát hiện và ngăn chặn các

tệ nạn xã hội xảy ra.

40

Thực tế, tại thành phố Hải Phòng, việc phân bổ bác sỹ, những người có

chuyên môn trong việc thực hiện hiệu quả công tác xác định được đối tượng

người nghiện ma túy rất phức tạp. Việc không thực hiện được đầy đủ các

bước khiến việc đưa người vào cơ sở cai nghiện không đạt hiệu quả cao vì đối

tượng không được xác định chính xác và hiệu quả.

Điều kiện vật chất của cơ sở cai nghiện bắt buộc tại thành phố Hải

Phòng nói chung có ảnh hưởng rất quan trọng trong việc thực hiện hiệu quả

công tác đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Việc trang bị những thiết

bị hiện đại trong các bước thực hiện quy trình cai nghiện cho các đối tượng

giúp cho việc thực hiện cai nghiện được hiệu quả và có chất lượng hơn. Một

môi trường có cơ sở vật chất thuận lợi sẽ tạo điều kiện cho mọi người hoàn

thành nhiệm vụ của mình đồng thời các kết quả thực hiện trong quá trình cai

nghiện được đánh giá chính xác, chất lượng hơn, hiệu quả hơn

Thành phố Hải Phòng theo tình hình thực tế về điều kiện kinh tế, xã

hội, tình hình về người nghiện ma túy mà cơ quan nhà nước địa phương đã có

những chủ trương đầu tư vào cơ sở vật chất phục vụ công tác cai nghiện ma

túy của người nghiện. Cơ sở vật chất phục vụ công tác đưa người vào cơ sở

cai nghiện bao gồm những yếu tố như: thiết bị máy móc phục vụ công tác

phát hiện người bị cai nghiện, môi trường sinh hoạt cho người bị cai nghiện

được cải thiện, tiện nghi tạo cảm giác thoải mái và không ảnh hưởng đến tâm

lý của người bị cai nghiện.

2.4. Đánh giá chung tình hình áp dụng biện pháp đƣa ngƣời vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc tại quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng

2.4.1. Kết quả đạt được

Sáu tháng đầu năm 2013, Công an quận Lê Chân đã phát hiện, bắt giữ

51 vụ, truy tố 65 đối tượng buôn bán ma túy; đưa vào trường giáo dưỡng một

đối tượng liên quan ma túy. Bên cạnh đó, Công an quận đã phối hợp Mặt trận

41

tổ quốc và các ban, ngành, đoàn thể xây dựng và nhân rộng mô hình hay, có

hiệu quả về phòng, chống ma túy như: "Liên kết bảo vệ an ninh - trật tự" ở

các phường giáp ranh Dư Hàng Kênh, Lam Sơn, Vĩnh Niệm,... mô hình liên

kết "phường - trường", "tuần tra nhân dân".

Mặt khác, để triển khai công tác phòng, chống ma túy có hiệu quả,

Công an quận đã phối hợp Phòng Văn hóa - Thông tin tuyên truyền trên hệ

thống loa phát thanh, tuyên truyền lưu động, treo dán bản tin tại tổ dân phố

với nhiều nội dung liên quan hình thức phạm tội, các loại ma túy mới; thủ

đoạn lôi kéo dụ dỗ thanh, thiếu niên sa vào tệ nạn ma túy... nhằm nâng cao

nhận thức cho người dân và giúp họ có kỹ năng tự phòng, tự chống tệ nạn

trong gia đình, người thân của mình.

Đáng chú ý, Công an quận đã chỉ đạo công an 15 phường tham mưu

cho chính quyền phường tăng cường tuyên truyền pháp luật về phòng, chống

ma túy, nêu gương tốt, điển hình tốt về công tác này; chỉ đạo cảnh sát khu vực

cùng bí thư chi bộ, tổ trưởng dân phố "đến từng nhà, gặp từng người" tuyên

truyền cách chăm sóc, quan tâm từng thành viên trong gia đình để không bị

lôi kéo, dụ dỗ dính vào ma túy, tệ nạn xã hội; Công an quận đã kết hợp tòa án

nhân dân quận xét xử lưu động sáu vụ, bảy đối tượng mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy tại các địa bàn trọng điểm phức tạp[22].

Với mục tiêu không để hình thành tụ điểm mua bán, vận chuyển, tàng

trữ, sử dụng trái phép chất ma túy trên địa bàn và đặc biệt là không để phát

sinh đối tượng nghiện mới, ngăn chặn nạn ma túy xâm nhập học đường, kịp

thời giúp đỡ người nghiện sau cai hòa nhập cộng đồng. Các cơ quan địa

phương đã có những chính sách rất hiệu quả trong công tác kiểm soát và hạn

chế các tác hại ảnh hưởng của người nghiện ma túy.

Ở quận Lê Chân đã xuất hiện một số phường trực thuộc thực hiện rất

tiêu biểu những cách thức giúp hạn chế rất hiệu quả tình hình nghiện ma túy ở

42

địa phương, mô hình này được Ủy ban nhân dân Quận theo dõi và có chủ

trương nhân rộng ra cho thành phố nếu hiệu quả. Điển hình là phường Hàng

Kênh thuộc quận Lê Chân: phường Hàng Kênh có gần 60 đối tượng liên quan

đến ma túy rải rác ở 25 tổ dân phố trong năm 2017, mô hình “Toàn dân tham

gia phòng chống ma túy tại cộng đồng dân cư” do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

phường Hàng Kênh, quận Lê Chân chủ trì đã phát huy tốt hiệu quả trong việc

duy trì trật tự an toàn xã hội tại địa phương đồng thời hạn chế tối đa đối tượng

nghiện ma túy trên địa bàn quận[28].

Từ thực tiễn phân tích số liệu tại quận Lê Chân cho chúng ta thấy nhận

thức trong công tác bảo vệ đưa người vào cai nghiện của quận đã có những

bước phát triển nổi trội so với các quận huyện khác trong tỉnh. Số lượng

người vào cơ sở cai nghiện trên tổng số người bị cai nghiện ngày càng tăng và

có những bước phát triển vượt bậc. Những chính sách nhằm tạo điều kiện cho

việc thực hiện biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ngày càng

nhiều và ngày càng nhân rộng từ quy mô một phường xã của một quận.

2.4.2. Hạn chế

Tùy vào thực tiễn mỗi địa phương mà có những hạn chế hay khó khăn

trong công tác quản lý đối với người nghiện ma túy ở trên địa bàn khác nhau.

Lê Chân là một quận ở tp. Hải Phòng và được xem là một quận đi tiên phong

trong công cuộc phát triển kinh tế, xã hội cũng như những vấn đề về phát triển

kinh tế xã hội của thành phố. Ở địa bàn quận Lê Chân, số lượng người nghiện

phân bổ khá lớn và nó ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống sinh hoạt của người

dân địa phương này đòi hỏi cơ quan địa phương cần có phương án quan tâm

và giải quyết nhiều hơn nữa những thực tiễn còn tồn tại nơi địa phương này.

Trước tiên, đối tượng chúng ta đang nghiên cứu và bàn đến đó là người

nghiện ma túy. Việc kiểm soát và điều khiển được đối tượng này rất khó và

rất phức tạp vì khi họ đã phụ thuộc vào thuốc nghiện thì hành vi của họ nhiều

43

khi không điều khiển được cũng như có những hành vi rất nguy hiểm đối với

cán bộ thực hiện các công việc chuyên môn hay cán bộ phụ trách. Những đối

tượng nghiện ma túy khi đưa vào cơ sở cai nghiện trực tiếp thường không tự

nguyện, những đối tượng này thường xuyên chống đối và không muốn thực

hiện các biện pháp cai nghiện mà các trung tâm cai nghiện của quận, của

thành phố có và trang bị. Tại quận Lê Chân, nhiều trường hợp khi đưa người

nghiện vào trung tâm cai nghiện theo đúng trình tự thủ tục thì người nghiện

có những hành vi chống đối rất nguy hiểm như lao đầu vào tường để phản đối

và có ý định tự tử. Bên cạnh đó, đây cũng là phương án phản đối việc vào

trung tâm vì không đủ sức khỏe khi người nghiện họ tự hủy hoại sức khỏe của

mình hoặc họ tìm mọi cách để không kiểm tra được tình trạng dương tính với

ma túy như: họ tìm mọi cách để không cung cấp nước tiểu để xét nghiệm ma

túy; thực hiện uống thuốc tránh thai, các loại chất khác để tránh việc kiểm tra

dương tính với ma túy…. Điều này gây ra rất nhiều khó khăn trong công tác

thực hiện các thủ tục đưa đối tượng vào cai nghiện theo đúng trình tự thủ tục

và các căn cứ của pháp luật.

Thứ hai, trình tự thực hiện thủ tục đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc gặp một số khó khăn trong công tác xác định lập hồ sơ đưa người vào

các trung tâm cai nghiện khi họ thuộc đối tượng cần phải thực hiện cai nghiện

bắt buộc.

Tại quận Lê Chân, thực tiễn đã có những trường hợp khi thông báo

thực hiện hồ sơ đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đã tiến hành bỏ trốn quá

thời hạn lập hồ sơ cai nghiện mới trở về, việc này gây ra rất nhiều khó khăn

trong công tác thực hiện các thủ tục thuận lợi đưa người vào cơ sở cai nghiện.

Ngoài ra, ở địa phương có những trường hợp người bị nghiện không có

nơi cư trú ở địa phương, khi lập hồ sơ đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng

đang trong thời gian xét duyệt, phiên họp quyết định về vấn đề này cũng thời

44

gian sớm nhất là 20 ngày thì việc này rất khó có thể quản lý đối với những đối

tượng nghiện lang thang, Công an phường theo quy định không thể giữ người

trong thời gian dài khi không được quy định, nếu thả người ra thì việc trốn tránh

khỏi địa phương để tránh bị áp dụng đưa vào cơ sở cai nghiện là tình trạng

thường xuyên và không kiểm soát được. Hơn nữa, địa phương không có cơ sở để

lưu trú tạm thời cho các đối tượng thuộc những trường hợp cần xác định này.

Thứ ba: trình độ và thực tiễn xác định tình trạng nghiện ma túy ở quận

Lê Chân có những đặc điểm hạn chế và bất cập. Việc xác định người nghiện

có phải bị nghiện thuộc đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hay

không được thực hiện thông qua trạm y tế. Việc xác định tình trạng nghiện

này cần đòi hỏi phải chính xác theo mức độ nghiện, tình trạng sức khỏe của

người nghiện để khi vào cơ sở cai nghiện có thể theo dõi và tách biệt ra các

đối tượng sẽ dễ theo dõi và để tiến hành các biện pháp cai nghiện phù hợp. Vì

vậy, đội ngũ xác định về mức độ nghiện của người nghiện ma túy phải có

trình độ chuyên môn cao hơn và thực hiện các biện pháp xác định người

nghiện nhanh chóng kịp thời hơn. Thực tế có một số trường hợp trạm trưởng

trạm y tế khi đã được cử đi tập huấn công tác xác định đối tượng nghiện ma

túy này thì đồng thời họ đến tuổi về hưu và từ đó không có chức năng gì trong

việc xác định đối tượng cần áp dụng đưa vào cơ sở cai nghiện. Đồng thời, một

thực tiễn xảy ra đối với trường hợp xác định người nghiện ma túy là cần một

khoảng thời gian để biết được người đó có nghiện hay không, thường thì

chúng ta cần theo dõi vài ngày đến một tuần để xác định chính xác tình trạng

nghiện của đối tượng. Vì vậy, việc giữ người trong trường hợp này cũng gây

ra sự khó khăn trong công tác thực thi của công an quận Lê Chân.

Việc xác định người nghiện ma túy thuộc đối tượng đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc hiện nay đang có những vướng mắc về thủ tục xác định đầu

45

vào. Vì vậy, chúng ta cần có những giải pháp cho việc thực hiện đưa người

vào cơ sở cai nghiện được hiệu quả.

Thứ tư: việc thực hiện đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có trình

tự và thủ tục khác nhau, thực tiễn thực hiện qua nhiều giai đoạn và yêu cầu

phải chính xác đến từng vấn đề cụ thể. Tuy nhiên, vấn đề chi phí cho việc lập

hồ sơ đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, kinh phí cho việc giữ người

nghiện để theo dõi mức nghiêm trọng của người nghiện hay kinh phí cho việc

dùng que thử cho đối tượng, chụp ảnh đối tượng cùng nhiều các chi phí phát

sinh khác. Nếu một quy trình mà không được bổ sung kinh phí cho việc hoạt

động thì quy trình đó cũng rất khó mang lại hiệu quả trong việc thực hiện.

Về trình tự, thủ tục lập hồ sơ quản lý người nghiện hiện nay phải qua

nhiều cơ quan như Công an cấp xã, Công an cấp huyện, Phòng Tư pháp,

Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội, cùng sự kiểm soát trình tự thủ tục

của Viện kiểm sát, cuối cùng là Tòa án nhân dân cấp huyện nên mất rất nhiều

thời gian. Nếu thực hiện theo đúng quy trình, thời gian đưa ra được quyết

định đưa người đi cai nghiện nhanh nhất là 20 ngày.

Trong thời gian chờ có quyết định, người nghiện có hộ khẩu thường trú

tại địa phương sẽ được bàn giao về gia đình quản lý, những người không rõ

nơi cư trú phải đưa đến các cơ sở xã hội quản lý. Tuy nhiên, các địa phương

chưa có nhà lưu giữ, không có cán bộ chuyên môn để xử lý cắt cơn nghiện

nên việc quản lý, lưu giữ đối tượng rất khó khăn, không an toàn.

Bên cạnh đó, còn lúng túng hoặc đã triển khai nhưng chưa đạt hiệu quả.

Sự “ùn tắc” trong thủ tục lập hồ sơ đề nghị, xem xét, quyết định áp dụng biện

pháp xử lý hành chính dẫn đến tình trạng các đối tượng vi phạm, đặc biệt là

các đối tượng nghiện ma túy ở ngoài cộng đồng ngày càng tăng, gia tăng các

nguy cơ phát sinh các hành vi vi phạm pháp luật như trộm cắp, cướp giật,

46

tiêm chích ma túy nơi công cộng, gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội ở

một số địa phương trong thời gian vừa qua.

Thứ năm: Tình trạng tái nghiện thường xuyên xảy ra trên địa bàn quận

Lê Chân nói riêng và địa bàn thành phố Hải Phòng nói chung.

Việc điều trị nghiện ma túy thực hiện theo phác đồ điều trị theo quy

định của Bộ Y tế. Tuy nhiên, để việc cai nghiện đạt hiệu quả cao đòi hỏi phải

kết hợp nhiều phương pháp khác nhau như: Kết hợp cai nghiện với hoạt động

đào tạo nghề, giáo dục, phục hồi nhân cách, giải trí... Trong thời gian qua,

mặc dù các cơ sở cai nghiện ma túy trên địa bàn tỉnh đã phối hợp, kết hợp với

các cơ quan liên quan đưa ra nhiều biện pháp để nâng cao hiệu quả cai nghiện

nhưng vẫn gặp nhiều khó khăn về kinh phí thực hiện. Tình trạng tái nghiện

sau khi chấp hành xong thời hạn tại các cơ sở cai nghiện còn cao. Tuy nhiên,

hiện nay do ngành Y tế vẫn chưa có phát đồ điều trị nghiện ma túy tổng hợp,

Cơ sở Hỗ trợ và điều trị nghiện ma túy áp dụng phác đồ an thần kinh để hỗ

trợ, cắt cơn cho người nghiện khi họ vào Cơ sở.

Mục đích của việc đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhằm

tạo điều kiện cho người nghiện được phục hồi sức khỏe, không còn phụ thuộc

vào ma túy, đồng thời giúp cho người nghiện tái hòa nhập với cộng đồng và với

xã hội. Sau khi ra khỏi cơ sở cai nghiện, người nghiện phải thực sự hòa nhập

được với xã hội, không còn phụ thuộc vào ma túy. Tuy nhiên, hiện nay vì nhiều

lý do về gia đình và xã hội mà có nhiều đối tượng khi trở lại với xã hội họ lại tái

sử dụng ma túy và trở lại con đường trước đây. Điều này do ảnh hưởng bởi gia

đình, người xung quanh, đồng thời cũng một phần nào xem xét lại hiệu qủa của

công tác cai nghiện theo quy trình cai nghiện của cơ sở cai nghiện.

2.4.3. Nguyên nhân của hạn chế

Khi thực hiện biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc luôn

có những hạn chế và những thuận lợi nhất định. Việc xác định được nguyên

47

nhân sẽ giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện vấn đề hơn và có những giải pháp

nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Thứ nhất: quy định của pháp luật vẫn còn tồn tại những bất cập chưa

quy định cụ thể dẫn đến việc áp dụng còn chưa thống nhất.

Quy định của pháp luật mang tính định hướng chung, tuy nhiên khi áp

dụng vào thực tế mới xuất hiện ra những vấn đề cần điều chỉnh, cần bổ sung.

Hệ thống văn bản pháp luật hiện hành đã có những quy định khá cụ thể trong

việc xác định đưa người vào cơ sở cai nghiện, tuy nhiên trong lĩnh vực nào

khi áp dụng cũng có những yếu tố cần xem xét và vướng mắc trong thực tiễn

cần hướng dẫn cụ thể từ cơ quan địa phương.

Tại điều 4, khoản 3, Pháp lệnh trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp

dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân số

09/2014/UBTVQH13 ngày 20/01/2014 (“Pháp lệnh 09”) quy định: “Sau khi

nhận được thông báo thụ lý hồ sơ của Tòa án cùng cấp, Viện kiểm sát có

quyền nghiên cứu hồ sơ vụ việc tại Tòa án đã thụ lý vụ việc đó”, bên cạnh đó

Điều 7 Nghị quyết 04/2015/NQ-HĐT Nghị quyết hướng dẫn thi hành một số

quy định của pháp luật về xem xét quyết định áp dụng các biện pháp xử lý

hành chính tại Tòa án nhân dân ngày 24 tháng 12 năm 2015 của Hội đồng

thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định: “Sau khi những người tham gia

phiên họp kết thúc tranh luận, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo

pháp luật trong việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính

và ý kiến của Viện kiểm sát về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính”. Quy

định như trên được hiểu là Viện kiểm sát vừa có trách nhiệm kiểm sát quá

trình lập hồ sơ, kiểm sát việc mở phiên họp, phát biểu ý kiến về việc tuân theo

pháp luật trong việc xem xét, áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, đồng

thời phát biểu quan điểm về đường lối giải quyết việc hành chính. Để thực

hiện được chức năng kiểm sát lập hồ sơ cũng như phát biểu ý kiến cả về tố

48

tụng và nội dung theo quy định của pháp luật, Kiểm sát viên cần phải có thời

gian nghiên cứu hồ sơ cũng như đề xuất quan điểm báo cáo lãnh đạo trước khi

tham gia phiên họp. Ngoài ra, khi không có thời gian để nghiên cứu trước đó,

dẫn đến việc Viện kiểm sát không thực hiện được chức năng kiểm sát việc

xem xét, áp dụng biện pháp xử lý hành chính kể từ khi bắt đầu lập hồ sơ của

các cơ quan chức năng đối với đối tượng mà chỉ kiểm sát hồ sơ tại Tòa án

theo quy định. Do vậy đây là quy định chưa phù hợp với thực tế.

Ngoài ra, về mặt thực tiễn, việc áp dụng Pháp lệnh 09 cũng có vướng

mắc trong một số vấn đề như về xác định nơi cư trú, trên thực tế các đối

tượng nghiện đa số không cư trú ổn định tại một địa điểm trong một thời gian

nhất định mà thường di chuyển liên tục từ địa phương này đến địa phương

khác dẫn đến việc xác minh nơi cư trú ổn định của đối tượng nghiện ma túy

thường chậm có kết quả, làm mất thời gian trong quá trình hoàn thiện hồ sơ

xét duyệt đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Còn đối với những người nghiện ma túy có nơi cư trú ổn định, điều kiện

bắt buộc để áp dụng biện pháp đi cai nghiện bắt buộc là đã bị áp dụng biện

pháp giáo dục tại xã, phường nhưng vẫn tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy.

Điều 3 khoản 1 Nghị định 221 quy định về đối tượng bị đề nghị áp dụng biện

pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc: “Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi

trở lên có nơi cư trú ổn định, đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường,

thị trấn do nghiện ma túy mà vẫn còn nghiện” [5]... Tuy nhiên trên thực tế có

rất nhiều đối tượng nghiện nhưng lại chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành

chính giáo dục tại xã phường bởi việc thực hiện giáo dục trước rất khó khăn.

Quy định về việc lập hồ sơ đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

rườm rà, nhiều thủ tục và phải thông qua nhiều cơ quan nhà nước như Công

an xã phường, UBND xã phường, Phòng tư pháp, Phòng Lao động thương

binh và xã hội và TAND cấp huyện nên mất rất nhiều thời gian. Làm đúng

49

các trình tự trên thì để đưa được đối tượng nghiện đi cai nghiện phải mất thời

gian ít nhất là 20 ngày đến hơn 01 tháng. Trong thời gian chờ đợi hoàn tất các

thủ tục của các cơ quan nêu trên, các đối tượng nghiện nếu có nơi cư trú ổn

định tại địa phương sẽ được đưa về gia đình quản lý, nếu không có nơi cư trú

ổn định sẽ phải đưa đến các trung tâm xã hội để quản lý, sẽ dẫn đến việc tại

gia đình và các trung tâm xã hội không có điều kiện vật chất cũng như chuyên

môn để quản lý các đối tượng nghiện.

Ở một số địa phương, cơ quan nhà nước có thẩm quyền rất chú trọng

đến công tác hướng dẫn cụ thể bằng các văn bản địa phương mang tính cụ thể

hóa và có những quy định khá rõ ràng cho công tác thực hiện cai nghiện tại

địa phương. Hệ thống văn bản từ trung ương đã có những bước quy định cụ

thể từ trung ương đến địa phương sẽ giúp cho việc thực hiện các biện pháp cai

nghiện được hiệu quả hơn và có những ảnh hưởng tích cực đến môi trường

sống của người nghiện. Những quy định này được tuyên truyền rộng rãi đến

người dân sẽ giúp cho họ cảnh giác và thực hiện hiệu quả hơn công tác đề

phòng tránh trường hợp cai nghiện đồng thời cũng tránh được những hậu quả

nghiêm trọng.

Thứ hai: Cơ sở vật chất còn hạn chế dẫn đến việc thực hiện công việc

liên quan đến đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có những khó khăn vì

chưa đủ điều kiện để hoàn thiện công việc được giao. Để công việc được thực

hiện hiệu quả cần có chi phí và quan tâm nhiều hơn nữa về chế độ chính sách,

cơ sở vật chất giúp công tác thực hiện các nhiệm vụ đạt được hiệu quả cao

hơn. Cơ sở vật chất của một địa phương tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã

hội của địa phương đó. Một quận lớn của Hải Phòng, quận Lê Chân hiện nay

được đầu tư ngày càng nhiều cơ sở hệ thống từ việc kiểm tra xét nghiệm đến

cơ sở cai nghiện. Tuy nhiên, Lê Chân hiện nay nhìn chung cơ sở vật chất vẫn

chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển của đất nước nói chung.

50

Cơ sở vật chất của Trung tâm Giáo dục - Lao động và dạy nghề phục

vụ cho công tác cai nghiện bắt buộc, quản lý người nghiện ma túy không có

nơi cư trú ổn định trong thời gian Tòa án xem xét, quyết định đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc nhiều nơi đã xuống cấp, quá tải, chưa đáp ứng đầy đủ các

điều kiện về điều trị nghiện trong tình hình mới, nhất là hạng mục nhà ở và

trang thiết bị vệ sinh phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày cho học viên quá

tải, không đáp ứng được nhu cầu tối thiểu học viên đang quản lý; đồng thời

không đảm bảo an ninh trật tự tại các cơ sở cai nghiện ma túy. Nhân lực còn

thiếu so với nhu cầu thực tế để quản lý học viên; có nhiều trường hợp vì sợ

ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng nên đã xin nghỉ làm. Một số đơn vị chưa

thống nhất về mặt thời hạn quản lý học viên tại Trung tâm tiếp nhận trong

thời gian chờ Tòa án xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

(có trường hợp địa phương phải gia hạn thời gian quản lý hoặc quá thời hạn

quản lý). Có những trường hợp đưa vào lưu trú tạm thời tại Trung tâm tiếp

nhận chưa đúng đối tượng (như: phụ nữ đang mang thai; người đang tham

gia điều trị thay thế chất gây nghiện bằng Methadone; người nghiện có nơi

cư trú ổn định; dưới 18 tuổi…).

Thứ ba: việc đưa người vào cơ sở cai nghiện được hiệu quả phụ thuộc

rất nhiều yếu tố khác nhau. Vì đối tượng hướng đến là người nghiện ma túy

nên đặc điểm của họ là thường xuyên không ổn định về tinh thần và tâm lý.

Vì vậy, sự quan tâm của gia đình và xã hội là yếu tố rất quan trọng và rất cần

thiết. Tuy nhiên, những đối tượng người nghiện ma túy hiện nay chưa được

xã hội chú trọng nhiều và có những biện pháp ổn định tâm lý cho đối tượng

cần cai nghiện bắt buộc. Gia đình và xã hội sẽ là những người có sức ảnh

hưởng rất lớn đến tâm lý tự nguyện hoặc ép buộc khi vào các cơ sở cai

nghiện. Một điều hiển nhiên là khi tâm lý người nghiện ổn định và họ có ý

định tự nguyện muốn cai nghiện thì vấn đề cai nghiện ma túy rất hiệu quả và

51

họ không có suy nghĩ phản kháng. Việc này giúp việc cai nghiện bắt buộc

được dễ dàng và mang lại hiệu quả cao hơn.

Thứ tư: công tác tuyên truyền tác hại của nghiện ma túy hiện nay tại

quận Lê Chân có thực hiện nhưng thực hiện chưa thực sự chú trọng và hiệu quả

cao đối với công tác hạn chế đối tượng nghiện ma túy hiện nay tại địa phương.

Tuyên truyền, giáo dục pháp luật là một yếu tố rất quan trọng trong việc thực

hiện hiệu quả công tác thực hiện phòng ngừa người nghiện đồng thời tuyên

truyền về những đường lối chính sách của Đảng giúp người nghiện có những

tác động rất lớn đến tư tưởng. Việc này có ảnh hưởng rất lớn đến công tác vận

động người bị nghiện đi cai nghiện bắt buộc hay thực hiện các biện pháp kiểm

tra xét nghiệm, cưỡng chế thi hành đối với người nghiện ma túy.

Công tác tuyên truyền, giáo dục phòng, chống ma túy tại địa bàn dân cư

trọng điểm phức tạp, các đối tượng có hành vi nguy cơ cao về nghiện ma túy

vẫn còn nhiều bất cập, chưa được thường xuyên, làm có thời vụ, chưa thật sự

xuống tới cơ sở, các hình thức, biện pháp chưa tiếp cận đầy đủ các đối tượng

cần được tuyên truyền, giáo dục.

Tài liệu tuyên truyền giáo dục còn thiếu, nội dung và biện pháp tuyên

truyền, giáo dục chưa sáng tạo, khô cứng, thiếu sức thu hút; chưa tạo ra động

lực mạnh mẽ để thay đổi nhận thức, từ đó tác động tích cực đến hành vi của

mỗi người.

Công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng nhân dân Phòng

chống ma túy cũng có nhiều hạn chế, hiệu quả thấp và chưa đáp ứng được yêu

cầu của cuộc đấu tranh. Chưa tạo ra được các phong trào toàn dân lên án và

đấu tranh với tệ nạn ma túy ở mọi lúc mọi nơi. Vẫn còn nhiều quần chúng

chưa được trang bị những kiến thức cơ bản về tác hại của ma túy, về đấu tranh

phòng, chống ma túy cũng như trách nhiệm công dân trong cuộc đấu tranh.

Điều này dẫn đến một bộ phận nhân dân lao động do thiếu hiểu biết hoặc vì

52

mưu sinh bị đối tượng phạm tội ma túy mua chuộc lôi kéo, khống chế, sa vào

con đường vận chuyển, tàng trữ trái phép chất ma túy, bao che cho bọn tội

phạm mà không biết mình đang đồng lõa với bọn tội phạm gây tội ác với

đồng bào, con em mình.

Việc triển khai phòng chống tội phạm ma túy trong tình hình mới chưa

được thường xuyên, sâu rộng, còn hình thức, nhiều cơ sở thực hiện chưa

nghiêm, một số con em, vợ chồng của cán bộ, đảng viên ở cơ sở liên quan đến

tội phạm ma túy nhưng chưa bị xử lý.

Thứ năm: kinh phí thực hiện các thủ tục đưa người vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc được Bộ Tài chính quy định rất cụ thể trong Thông tư 117/2017/TT-

BTC ngày 6/11/2017 quy định quản lý và sử dụng kinh phí thực hiện chế độ

áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại cộng đồng.

Thông tư này mới có hiệu lực vào ngày 1/1/2018 do vậy việc triển khai thực

hiện vẫn mang tính chất ban đầu áp dụng và vẫn có nhiều yếu tố cần được

điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Ở quận Lê Chân, có những biện pháp

đưa người vào cơ sở cai nghiện mang tính chất phổ biến và có chi phí nhiều

hơn, phát sinh nhiều hơn theo quy định của pháp luật hiện hành. Thông tư là

cơ sở để việc thực hiện các biện pháp hỗ trợ và rõ ràng về chi phí để thực hiện

đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Thứ sáu, sự kỳ thị, phân biệt với người nghiện. Một trong những yếu tố

tác động đến việc người nghiện hình thành động cơ tìm và sử dụng lại ma túy

chính là ảnh hưởng của việc người nghiện khi trở về cuộc sống thường ngày

từ những trung tâm cai nghiện thường phải chịu sự kỳ thị của những người

xung quanh. Một trong những nhân tố kích hoạt động cơ tái sử dụng ma túy ở

người nghiện là việc trong họ xuất hiện những cảm xúc tiêu cực, từ đó hình

thành xu hướng tìm đến ma túy để giải tỏa sự căng thẳng. Trong đó, kỳ thị và

sự phân biệt đối xử với người nghiện ma túy hiện đang là một trong những

rào cản lớn trên con đường loại bỏ hành vi sử dụng ma túy và tái hòa nhập

53

cộng đồng của họ. Vì đây là yếu tố dẫn tới sự căng thẳng tâm lý (sự xuất hiện

những cảm xúc tiêu cực) ở người nghiện ma túy.

Chúng ta không thể phủ nhận một thực tế rằng người nghiện ma túy

đang bị gán nhãn với những gì là xấu xa, tồi tệ và thậm chí là vô dụng. Trong

quan điểm của số đông người dân hiện nay, người nghiện là những kẻ trộm

cắp, dối trá, cần tránh xa, tránh giao du kết bạn...từ thái độ tiêu cực đó, những

người xung quanh hình thành nên xu hướng né tránh, nhìn thấy người nghiện

là nhìn thấy những gì xấu xa, là tệ nạn.

Sự kỳ thị dẫn tới những hành động phân biệt đối xử, không công bằng,

gây áp lực, hắt hủi, trừng phạt, gây phiền hà, đổ lỗi cho người nghiện ma túy

ngay cả những việc họ không làm…Điều này ở trong nhiều trường hợp đã

đẩy người nghiện ma túy vào tình trạng tự kỳ thị chính bản thân mình. Họ trở

nên không chấp nhận bản thân, áp đặt cái nhìn tiêu cực đối với chính bản thân

mình như: tự căm ghét, xấu hổ, phê phán bản thân, cảm thấy vô dụng, …Từ

đó họ tự cô lập, tự tách mình ra khỏi cộng đồng, tìm tới những người - những

hoàn cảnh mà ở đó họ tìm thấy sự đồng điệu - những người bạn cùng nghiện.

54

Tiểu kết Chƣơng 2

Quận Lê Chân là một quận trực thuộc thành phố Hải Phòng và được

xem là quận đi tiên phong trong công cuộc phát triển kinh tế, xã hội. Việc

phát triển kinh tế, xã hội kéo theo nhu cầu hưởng thụ ngày càng cao của người

dân, Lê Chân đã có những thay đổi trong công cuộc phát triển xã hội, đồng

thời, qua quá trình phát triển của mình, tỷ lệ người nghiện ma túy tại quận Lê

Chân ngày càng gia tăng về số lượng và mức độ phức tạp của các vụ việc. Để

đối phó với những tình trạng xảy ra ngày càng tăng về số lượng người nghiện

tại quận Lê Chân, hiện nay cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở quận Lê Chân

đã có phương hướng chú trọng hơn trong việc gia tăng số lượng người nghiện

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trong ba năm trở lại đây, tình trạng người

nghiện của quận Lê Chân ngày càng tăng, đồng thời số lượng người nghiện

tham gia vào trung tâm cai nghiện ngày càng nhiều và tăng vượt bậc so với

thời gian năm 2015.

Việc gia tăng số lượng người nghiện trong việc đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc là một nỗ lực rất lớn của các cơ quan có thẩm quyền của

quận Lê Chân trong công tác đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện, giúp cho

người nghiện ma túy có cơ hội cải tạo và hòa nhập với cộng đồng.

55

Chƣơng 3

PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG BIỆN PHÁP

ĐƢA NGƢỜI VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC - TỪ THỰC

TIỄN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

3.1 Phƣơng hƣớng bảo đảm áp dụng biện pháp đƣa ngƣời vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc

Hệ thống pháp luật của Việt Nam hiện nay đã có những thành tựu nhất

định về việc quan tâm đến chế độ chính sách của người vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc góp phần tạo hành lang pháp lý hiệu quả trong công tác quản lý nhà

nước về chế độ nghiện hiện nay. Từ những phân tích cụ thể về hệ thống quy

định của pháp luật về biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Thực tế ở quận Lê Chân đã giúp chúng ta nhìn nhận được những tiến bộ trong

việc hoàn thiện việc đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, từ đó có những

hạn chế và thực tiễn thi hành khác nhau.

Phương hướng hoàn thiện giúp chúng ta định hướng được những vấn

đề cần phải được giải quyết để công tác đưa người vào cơ sở cai nghiện được

hiệu quả và có những vai trò nhất định trong xã hội.

Trước tiên, xuất phát từ yêu cầu đổi mới cơ chế kinh tế đất nước. Quận

Lê Chân đã có những đặc điểm kinh tế phát triển vượt bậc, những đặc điểm

về kinh tế của quận đã hình thành nên xã hội có những nét đặc trưng khác biệt

với các địa phương khác nhau. Đổi mới nhằm phát triển kinh tế đòi hỏi việc

đổi mới hệ thống các văn bản pháp luật cho phù hợp với thực tiễn tại địa bàn

đồng thời đưa ra những phương hướng nhằm đáp ứng nhu cầu khách quan của

xã hội, thúc đẩy sự phát triển về văn hóa, chính trị, xã hội. Các cơ quan có

chức năng chuyên môn thực hiện nhiệm vụ đưa người vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc phải phối hợp cùng với nhau thực hiện những nhiệm vụ đặt ra. Yêu

56

cầu của quá trình cải cách hành chính cũng giúp cho việc thực hiện hiệu quả

biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Thứ hai: cần hoàn thiện hệ thống pháp luật từ các văn bản cấp trung

ương đến những hướng dẫn chi tiết ở cấp địa phương những vấn đề còn mâu

thuẫn, chưa áp dụng được hoặc chưa vận dụng được thuận tiện trong quá trình

thực hiện pháp luật. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật từ các văn bản cấp

trung ương phải được áp dụng đúng và phù hợp với thực tiễn quận Lê Chân.

Quận Lê Chân được đánh giá có sự phát triển khá vượt bậc cũng như mang lại

những hiệu quả trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Chính sách của địa

phương cũng là những yếu tố quan trọng trong việc phát triển và thực hiện

hiệu quả biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Thứ ba: tạo mọi điều kiện cho việc hỗ trợ công tác đưa người vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc về cơ sở vật chất và nguồn vốn trong vấn đề hoạt động.

Việc hoạt động của các cơ sở cai nghiện, đồng thời thực hiện hiệu quả biện

pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc yêu cầu nhà nước có hệ thống

cơ sở vật chất và điều kiện hoạt động. Đồng thời, muốn thực hiện các biện

pháp này hiệu quả đòi hỏi các cơ quan phải phối hợp chức năng nhiệm vụ với

nhau, tăng cường công tác tuyên truyền nhận thức của người dân cũng như

người đưa vào cơ sở cai nghiện.

Thứ tư: hoàn thiện trong việc vận dụng các văn bản pháp luật, muốn

các văn bản pháp luật được thực thi hiệu quả phải có một đội ngũ cán bộ

chuyên môn thực thi pháp luật. Đội ngũ chuyên môn cần thực hiện hiệu quả

những quy định của pháp luật. Trình độ cán bộ công chức của địa phương

quận Lê Chân đã có những phát triển và thành tích cụ thể trong công cuộc

thực hiện nhiệm vụ đề ra. Tuy nhiên, bên cạnh đó, những người có chức năng

và nhiệm vụ chuyên môn ở quận Lê Chân trong công cuộc đưa người vào cơ

sở cai nghiện cần có những biện pháp hiệu quả.

57

3.2. Giải pháp bảo đảm việc áp dụng biện pháp đƣa ngƣời vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc tại quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng

3.2.1. Giải pháp chung của toàn quốc

Hoàn thiện giải pháp áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện

nói chung trên toàn quốc là yêu cầu bức thiết đặt ra đối với việc đảm bảo

được trật tự an toàn xã hội cũng như sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của

toàn quốc. Các đối tượng nghiện ma túy khi đã được phát hiện sớm và được

áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc kịp thời, phù hợp, họ sẽ

được cơ quan chức năng thực hiện các biện pháp cách ly, cai nghiện để giúp

họ hòa nhập lại với cuộc sống và xã hội được sớm hơn. Vì vậy, từ việc vận

động người nghiện vào cơ sở cai nghiện đến các thủ tục cưỡng chế người

nghiện cần một môi trường hoàn thiện và chất lượng về lĩnh vực pháp lý.

Đồng thời, việc thực hiện đưa người vào cơ sở cai nghiện muốn thực hiện

được hiệu quả đòi hỏi cần phải có sự phối hợp với tất cả các cơ quan ban

ngành liên quan với nhau và thực hiệu tốt nhiệm vụ của chính họ sẽ đảm bảo

tốt được công tác đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trước mắt, chúng

ta cần có những giải pháp mang tính vi mô, khái quát chung mang tính định

hướng, bao gồm:

Thứ nhất, thực hiện đưa những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà

nước cụ thể hóa vào các quy định của pháp luật sẽ giúp thực hiện hiệu quả

hơn công tác cai nghiện cho người nghiện ma túy ở khu vực Hải Phòng nói

riêng và Việt Nam nói chung. Chính sách của Đảng và Nhà nước muốn thực

thi hiệu quả cần có những hướng dẫn và quy định cụ thể trong các văn bản

của Nhà nước nói chung và của địa phương nói riêng. Tội phạm về ma túy

ngày càng gia tăng và nó có sự ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển nền kinh

tế, chính trị và xã hội của địa phương. Việc phát hiện ra những người bị

nghiện để có những biện phái giáo dục, cách ly kịp thời là những biện pháp

58

mang tính chủ trương cần tiên phong trong công cuộc bảo vệ trật tự an toàn và

ổn định xã hội.

Thứ hai, cơ quan có thẩm quyền có vai trò rất quan trọng trong việc áp

dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Sự chủ động tiến

hành kiểm tra, giám sát, tuần hành sẽ giúp cơ quan có thẩm quyền phát hiện

thêm những trường hợp nghiện ma túy để có phương án giải quyết kịp thời.

Thông thường, sự chủ động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tạo điều

kiện cho hiệu quả của việc đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Việc phát

hiện sớm tình trạng nghiện của đối tượng bị nghiện, có thể phân tích mức độ

ảnh hưởng của ma túy vào cơ thể của người nghiện giúp cho các cơ quan chức

năng thực hiện được nhanh chóng những phương án cai nghiện một cách phù

hợp và hiệu quả. Chính vì vậy, trình độ hiểu biết về ma túy của một số cán bộ

chuyên môn có vai trò rất quan trọng, chúng ta cần có những buổi tuyên truyền,

tập huấn kiến thức về người nghiện ma túy, dấu hiệu nghiện ma túy để các cơ

quan có thẩm quyền có những nhận thức nhất định về những vấn đề đó.

Thứ ba, việc đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ sở cai nghiện là vấn đề cần

được chú trọng trong công tác đảm bảo việc áp dụng đưa người vào cơ sở cai

nghiện được hiệu quả. Cơ sở vật chất được đầu tư sẽ tạo nên môi trường cai

nghiện cho người nghiện được thoải mái, cung cấp đầy đủ những vật dụng cần

để chăm sóc sức khỏe cũng như những hiệu quả trong công tác đảm bảo cho

người cai nghiện được sinh hoạt bình thường, ổn định và mang lại hiệu quả cai

nghiện được tốt hơn. Việc người cai nghiện trốn trại, không muốn vào trại cai

nghiện là những thực tiễn khó khăn mà cơ quan nhà nước hiện đang gặp phải.

Điều kiện cơ sở vật chất được cải thiện sẽ phần nào tạo môi trường cai nghiện

được tiện nghi và tạo tâm lý thoải mái hơn cho đối tượng bị nghiện.

Thứ tư, ý thức tự cai nghiện của người nghiện ma túy rất quan trọng, do

vậy Nhà nước cần tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền và vận động

59

hơn nữa những người bị mắc nghiện giúp cho các người nghiện có một tâm lý

tự nguyện cai nghiện khi áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc. Việc này có vai trò rất quan trọng vì một khi người nghiện đã tự nguyện

được sẽ giúp cho quá trình cai nghiện được hiệu quả. Người nghiện khi đã

nhận thức được tác hại của ma túy, đồng thời quyết tâm cai nghiện sẽ có

những ảnh hưởng tích cực rất lớn trong công tác cai nghiện ma túy. Sự phản

kháng kịch liệt khi kên cơn, tự tử, bỏ trốn sẽ được hạn chế rất nhiều khi được

thực hiện. Tâm lý của người sử dụng ma túy là họ sợ bị tái nghiện, sợ bị

người thân ruồng bỏ, sợ bị đối mặt với sự kỳ thị của gia đình, xã hội trong

trường hợp bị HIV, lo lắng về tương lai, người nghiện sau khi cai nghiện họ

không biết bắt đầu cuộc sống mới của họ từ đâu. Việc xét nghiệm, lo lắng

công an đến gần nhà để tiếp cận người nghiện cũng có.

3.2.2. Giải pháp cụ thể đối với việc áp dụng biện pháp đưa người vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc tại quận Lê Chân

3.2.2.1. Hướng dẫn có hiệu quả việc thực hiện các văn bản

Hiện nay các văn bản hướng dẫn về công tác cai nghiện ma tuý đã được

Quốc hội, Chính phủ ban hành khá đầy đủ, tuy nhiên vẫn còn những nội dung

chưa được thống nhất, còn bất cập dẫn đến khó khăn trong việc thực hiện ở

các địa phương.

Thực hiện hướng dẫn cho các cơ quan chức năng về thẩm quyền của cơ

quan mình và vai trò của cơ quan trong công tác đưa người vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc. Mỗi cơ quan chức năng có những vai trò quan trọng khác

nhau trong công tác đảm bảo hiệu quả các bước áp dụng đưa người vào cơ sở

cai nghiện. Cơ quan chính quyền quận Lê Chân cũng đã có những vai trò nhất

định trong công tác đưa người vào cơ sở cai nghiện.

Mỗi địa phương có một hệ thống chính quyền sẽ thực hiện hiệu quả

những vai trò của mình trong tất cả các lĩnh vực có liên quan. Địa phương

60

thuộc thành phố Hải Phòng - một thành phố trực thuộc trung ương còn có vai

trò quan trọng hơn nữa trong công tác góp phần phát triển kinh tế xã hội đất

nước. Địa phương phát triển nó thể hiện rõ vai trò của một đội ngũ cơ quan

địa phương thực hiện rõ được chức năng và thẩm quyền quản lý hiệu quả.

Địa phương thuộc thành phố Hải Phòng cần định kỳ tổ chức họp liên

ngành giữa các đơn vị: Công an, Phòng Tư pháp, Phòng Lao động, Thương

binh & Xã hội, Viện kiểm sát, Tòa án để cùng bàn bạc, tháo gỡ những khó

khăn, vướng mắc trong quá trình lập hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử

lý hành chính.

Do đó, trong thời gian tới, việc hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực cai

nghiện ma tuý là rất quan trọng, đặc biệt là các Bộ, ngành cần nghiên cứu đề

xuất Chính phủ trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số Luật liên quan đến

công tác cai nghiện ma túy, hướng tới quan điểm coi nghiện ma túy là bệnh

mãn tính do rối loạn não bộ, người nghiện ma túy là người bệnh, điều trị

nghiện là quá trình lâu dài, bao gồm tổng thể các can thiệp về y tế, tâm lý, xã

hội. Theo đó cần khẩn trương xây dựng Nghị định cai nghiện tự nguyện, mở

rộng việc cai nghiện theo hình thức tự nguyện, cung cấp dịch vụ cho người

nghiện, tạo tâm lý thoải mái để người nghiện xóa bỏ mặc cảm hòa nhập cộng

đồng. Tăng số người điều trị, cai nghiện tự nguyện, giảm số điều trị, cai

nghiện bắt buộc, phấn đấu đến năm 2020 cai nghiện bắt buộc còn 6% tổng số

người nghiện có hồ sơ quản lý. Cụ thể, đối với Luật Phòng, chống ma tuý bổ

sung Chương can thiệp dự phòng nghiện ma tuý; bỏ việc đưa người nghiện từ

đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; bỏ biện pháp quản

lý sau cai đối với người đã hết thời gian chấp hành biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đối với Luật Xử lý vi phạm hành

chính đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định xử lý người nghiện ma túy theo

hướng xử lý hành vi sử dụng ma túy; đối với những người cố tình sử dụng ma

61

túy, vi phạm pháp luật phải áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc; đề xuất sửa đổi Điều 131 theo hướng giao người nghiện không có nơi

cư trú ổn định cho cơ sở xã hội quản lý trong thời gian làm thủ tục xem xét

đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc.

3.2.2.2. Hồ sơ cai nghiện, xét nghiệm phải được lập chuẩn xác

Trong thời gian lập hồ sơ cai nghiện, xét nghiệm xem xét về kết quả cai

nghiện cần một khoảng thời gian để có kết luận. Tuy nhiên, trong thời gian

này, việc kiểm soát đối với người nghiện không được thực hiện hiệu quả khi

chưa có một cơ quan chức năng nào có thẩm quyền xử lý nhất là trong trường

hợp người nghiện không có nơi cư trú cụ thể. Thiết nghĩ, trong khoảng thời

gian này cơ quan công an cấp địa phương nơi phát hiện người nghiện có thẩm

quyền tạm giữ người nghiện đến khi có quyết định kết luận của cơ quan y tế

địa phương.

Đặc biệt, tác giả kiến nghị tất cả các hồ sơ đều phải có chứng minh

nhân dân, giấy khai sinh để tránh trường hợp đối tượng chưa đủ tuổi bị áp

dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Mặc khác, nếu hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

không có phiếu trả lời kết quả xét nghiệm dương tính với chất ma túy của cơ

quan y tế tại thời điểm lập hồ sơ, mà chỉ có biên bản vi phạm hành chính về

hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, thì khi Tòa án nhân dân xem xét quyết

định đưa người bị đề nghị vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, mà người đó khiếu

nại cho rằng họ không sử dụng ma túy, không bị nghiện, và biên bản vi phạm

hành chính là do các cơ quan chức năng lập không khách quan. Lúc này, cơ

quan đề nghị sẽ không có căn cứ nào khác chứng minh người đó bị nghiện,

dẫn đến không thể áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với họ.

Để đảm bảo hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc được chặt chẽ và thống nhất, đề nghị Viện KSND tối cao kiến nghị

62

đến cơ quan có thẩm quyền, quy định hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa

người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, phải có phiếu trả lời kết quả dương tính

với chất ma túy của người có thẩm quyền trong cơ quan y tế.

3.2.2.3. Công tác tuyên truyền cần được chú trọng hơn

Cơ quan chức năng tại các trại cai nghiện cần có các buổi công tác

tuyên truyền về tác hại của ma túy hơn nữa cho người dân được hiểu biết

thêm, đồng thời tác động một phần không nhỏ đến tâm lý của người nghiện,

từ đó buộc người nghiện có những suy nghĩ tích cực hơn trong việc tự nguyện

cai nghiện, hiệu quả của việc cai nghiện và trở thành một công dân tốt cho xã

hội. Thực tiễn quận Lê Chân đang xảy ra tình trạng người nghiện trốn biệt

tăm khi có quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện. Việc thực hiện hành vi này

của người nghiện gây ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề ổn định dân cư cũng như

việc trật tự an ninh xã hội của địa phương. Vì vậy, gia đình, xã hội, các trung

tâm cai nghiện có vai trò rất lớn trong công cuộc tạo nên tâm lý tự nguyện cho

người nghiện sẽ mang lại hiệu quả tốt hơn.

Ngành Công an phối hợp với các huyện, thành phố, thị xã và cấp cơ sở

thường xuyên rà soát, thống kê về đối tượng ma túy trên địa bàn tỉnh. Từ đó, có

các giải pháp nghiệp vụ nhằm phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý có hiệu quả các

hành vi phạm tội về ma túy, sử dụng trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh.

Để sớm đẩy lùi, tiến tới loại trừ tệ nạn ma túy ra khỏi đời sống xã hội

thì việc ngăn chặn và giải quyết dứt điểm tệ nạn ma túy ngay tại điểm nó phát

sinh sẽ là nhiệm vụ và giải pháp mang tính căn cơ và bền vững nhất. Đó cũng

chính là lý do Chính phủ quyết định đưa dự án “Xây dựng xã, phường, thị

trấn không tệ nạn ma túy” vào Chương trình mục tiêu quốc gia về phòng,

chống ma túy giai đoạn 2011 - 2015 nhằm phát huy sức mạnh của các thể chế

sẵn có tại cộng đồng như lực lượng công an, y tế, trường học, các tổ chức

chính trị - xã hội. Dự án được Chính phủ giao Bộ Công an chủ trì, phối hợp

63

với các bộ, ngành xây dựng và phê duyệt và tổ chức triển khai trên địa bàn

11.165 xã, phường, thị trấn của cả nước.

(kiểm tra)

xã, công tác tổ chức cai nghiện ma túy có

sự tham gia của các ngành, trong đó công chức Lao động - Thương binh và

Xã hội, Công an phường/ xã

truyền, vận động, nhiều người nghiện ma túy đã tự nguyện đăng ký cai nghiện

tại gia đình và cộng đồng; được cán bộ y tế phường chăm sóc sức khỏe toàn

diện, cung cấp thuốc hỗ trợ cắt cơn. Trong quá trình cai nghiện, cán bộ các

đoàn thể của phường và khu dân cư thường xuyên phối hợp cùng gia đình

động viên, hỗ trợ, quản lý, giám sát chặt chẽ, giúp đỡ người nghiện cai nghiện

và chống tái nghiện ma túy. Nhờ đó, những người cai nghiện ma túy tại gia

đình và cộng đồng đều nhanh chóng cắt cơn, phục hồi sức khỏe.

3.2.2.4. Tăng cường chi phí phục vụ công tác cai nghiện

Việc trích lập một quỹ từ ngân sách nhà nước trong công tác thực hiện

thủ tục đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là rất cần thiết. Quản lý và

kiểm soát đối tượng người nghiện là rất phức tạp và có nhiều vấn đề có thể

xảy ra mà các cơ quan không lường trước được. Những chi phí về thủ tục hồ

sơ, giấy tờ, vật dụng thử cần có nguồn quỹ để tạo nên cơ sở vật chất trình tự

đưa vào cơ sở cai nghiện được thống nhất và hiệu quả. Bộ Tài chính đã có văn

64

bản quy định cụ thể về các khoản tài chính liên quan đến công tác đưa người

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cần triển khai và thực hiện sớm, rõ ràng biện

pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện đồng thời với các chi phí liên quan đến

công tác này. Cơ quan địa phương cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về kinh

phí áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được hiệu quả

phù hợp với địa phương của mình về đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội.

3.2.2.5. Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ

Cần bồi dưỡng, tập huấn để nâng cao trình độ chuyên môn cho các cán

bộ xét nghiệm ma túy ở địa phương về điều trị cắt cơn nghiện ma túy cho các

đối tượng. Cụ thể, cần ban hành khung chương trình thống nhất chung về điều

trị nghiện ma túy bào gồm chương trình đào tạo cơ bản, đào tạo chuyên sâu

cho tất cả cán bộ, công chức, viên chức và người lao động làm việc trong lĩnh

vực điều trị và cai nghiện ma túy. Khung chương trình này áp dụng cho thủ

trưởng cơ sở đào tạo về tư vấn điều trị nghiện ma túy và tổ chức, cá nhân có

liên quan thực hiện hoạt động bồi dưỡng, đào tạo cấp chứng chỉ về tư vấn điều

trị nghiện ma túy nhằm mục đích cung cấp kiến thức và kỹ năng về tư vấn điều

trị nghiện cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động làm việc trong

lĩnh vực cai nghiện ma túy để thực hiện mục tiêu cai nghiện ma túy, đáp ứng

yêu cầu đổi mới công tác cai nghiện ma túy trong tình hình hiện nay.

Ngành Y tế nghiên cứu hướng dẫn chẩn đoán và điều trị các chất ma

túy hiệu quả nhất và đơn giản dễ thực hiện, phù hợp với tình hình thực tế tại

địa phương; Xây dựng tài liệu và đào tạo tập huấn cho cán bộ y tế cấp xã về

chẩn đoán nghiện; Bố trí kinh phí hỗ trợ địa phương, hỗ trợ điều trị nghiện ma

túy tại cộng đồng theo Đề án Đổi mới công tác cai nghiện ma túy; Thành lập

các điểm tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ điều trị nghiện tại cộng đồng gắn với việc

cấp phát hoặc bán thuốc cho người điều trị nghiện.

65

Xây dựng kế hoạch tiếp tục mở các lớp đào tạo cán bộ làm công tác quản

lý, điều trị cai nghiện phục hồi và quản lý sau cai tại Trung tâm và cộng đồng.

Tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực quản lý và chuyên môn

nghiệp vụ cho cho cán bộ lãnh đạo, cán bộ chuyên trách làm công tác phòng

chống tệ nạn xã hội, Đội hoạt động xã hội tình nguyện xã, phường, thị trấn và

cán bộ chuyên môn nghiệp vụ tại các Trung tâm và tại cộng đồng.

3.2.2.6. Xác minh làm rõ đối tượng là người nghiện không có nơi cư trú

rõ ràng

Các cơ quan chức năng cần phải quy định rõ đối với trường hợp người

nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định thì trong thời gian chờ lập hồ sơ,

xem xét và quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc,

người nghiện ma túy sẽ được quản lý ở đâu? Xác minh làm rõ các trường hợp

đối tượng không có nơi cư trú. Tác giả kiến nghị cần sớm có hướng dẫn cụ

thể, thống nhất về cách xác định nơi cư trú đối với người nghiện ma túy.

Đồng thời, cần quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan chức năng khi tiếp

nhận yêu cầu xác định nơi cư trú của người nghiện. Trường hợp cơ quan đã

gửi văn bản xác minh nơi cư trú tới các cơ quan chức năng (nơi đối tượng

nghiện cư trú) nhưng hết thời hạn 15 ngày mà không có văn bản trả lời thì xử

lý sao, có được xem là trường hợp không có nơi cư trú ổn định không.

Đẩy mạnh việc chuyển đổi các cơ sở cai nghiện bắt buộc, đồng thời

nâng cao chất lượng dịch vụ và có chính sách hỗ trợ để thu hút người nghiện

vào cai nghiện tự nguyện; Kiện toàn, củng cố tổ chức, cơ sở vật chất, bổ sung

chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm Giáo dục - Chữa bệnh - Lao động xã hội

thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, đảm bảo yêu cầu tổ chức cai

nghiện tự nguyện và cai nghiện bắt buộc đối với các đối tượng nghiện ma túy

trên địa bàn tỉnh; thực hiện việc tiếp nhận, quản lý, điều trị ban đầu đối với

đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy không có nơi cư trú ổn định trong

66

thời gian chờ xác định tình trạng nghiện ma túy. Quan tâm hơn nữa đến việc

đầu tư cơ sở, vật chất, chế độ sinh hoạt, ăn uống của người nghiện đang chữa

bệnh tại cơ sở cai nghiện bắt buộc.

3.2.2.7. Xã hội hóa công tác cai nghiện

Thành lập các nhóm hỗ trợ xã hội, là những nhóm bao gồm những người

đã từng sử dụng ma túy đã cai nghiện, những người bình thường. Như thành lập

với mục đích chia sẻ các quan điểm, cảm xúc cá nhân về các vấn đề trong cuộc

sống, được cung cấp kiến thức và kỹ năng dự phòng tái nghiện, giải quyết các

vấn đề liên quan đến tái nghiện. Ngoài ra, các đối tượng này được tư vấn xét

nghiệm điều trị ma túy, xét nghiệm thường xuyên sau khi cai nghiện xong. Việc

này được hình thành sẽ giúp cho việc định hình sức khỏe, bảo vệ sức khỏe sau

thời gian cai nghiện được đảm bảo và hiệu quả cho người bị nghiện.

Các dịch vụ vay vốn, hướng nghiệp cũng có vai trò rất quan trọng trong

việc định hướng tương lai cho người cai nghiện ma túy. Căn cứ vào tình trạng

sức khỏe của khách hàng và các quy định cụ thể tại các địa phương, nhân viện

quản lý trường hợp cần tìm hiểu thông tin về các dịch vụ sẵn có để giới thiệu,

kết nối khi khách hàng có nhu cầu. Chế độ học nghề và hướng nghiệp sau cai

nghiện đã được nhà nước quy định rất rõ ràng, tuy nhiên, việc thực hiện đến

hiện nay vẫn chưa chú trọng và đạt kết quả cai, do đó, tình hình cai nghiện

diễn ra khá phổ biến và tái nghiện cũng xuất hiện. Việc kiểm soát và phát

triển được trường hợp này sẽ giúp cho công việc cai nghiện được chất lượng

và hiệu quả, không có tái nghiện đảm bảo xã hội ổn định. Những công việc

định hướng nghề nghiệp cho người nghiện phải là những công việc phù hợp

và có những hướng dẫn cụ thể cho đối tượng này.

3.2.2.8. Chú trọng công tác sau cai nghiện

Các cơ quan chức năng cần chú trọng công tác sau cai nghiện. Đối tượng

cai nghiện xong là đối tượng có rất nhiều thay đổi, đồng thời đối tượng này rất

67

nhạy cảm so với các đối tượng. Tổ chức đánh giá công tác cai nghiện tại gia đình,

cai nghiện tại cộng đồng và quản lý sau cai nghiện. Hướng tới nên có sự hướng

dẫn rèn luyện thân thể khoẻ mạnh, tạo công ăn việc làm cho lao động, không phân

biệt đối xử, giúp đỡ người đã cai nghiện về trở thành người tốt.

Tiếp tục nâng cao tinh thần trách nhiệm, tăng cường công tác tuyên

truyền (tập trung trong cộng đồng dân cư và học sinh, sinh viên cách nhận

biết nhanh người nghiện, người sử dụng ma túy), giáo dục không để phát sinh

người nghiện mới tại các địa phương; đồng thời, tăng cường quản lý, giáo

dục, can thiệp, trợ giúp đối với số người nghiện tham gia đợt vận động cai

nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng vừa qua, không để họ tái

nghiện sau khi đã cắt cơn, giải độc.

Phối hợp giữa trung tâm quản lý sau cai với cơ sở dạy nghề, doanh

nghiệp sản xuất kinh doanh để tạo điều kiện cho người sau cai nghiện ma tuý

thuận lợi trong học nghề và lao động sản xuất, giải quyết việc làm sau cai.

Tăng cường hỗ trợ công tác dạy nghề cho người sau cai nghiện tại cơ sở quản

lý sau cai và tại nơi cư trú. Tổ chức tạo việc làm cho người sau cai nghiện

dưới nhiều hình thức như giúp người sau cai nghiện tham gia lao động sản

xuất, tạo thu nhập ổn định cuộc sống tại Trung tâm quản lý sau cai nghiện, gia

đình và các doanh nghiệp, tạo thu nhập ổn định cuộc sống. Duy trì và phát

triển các mô hình quản lý sau cai, Câu lạc bộ. Hàng năm, tổ chức đánh giá kết

quả và xếp loại của từng Câu lạc bộ, nâng cao chất lượng hoạt động các Câu

lạc bộ hiện có. Tổng kết, nhân rộng các mô hình quản lý sau cai nghiện có

hiệu quả tại cộng đồng.

Nhìn chung các trung tâm nên bám sát vào các văn bản hướng dẫn để

thực hiện tốt công tác xét duyệt hồ sơ quản lý sau cai nghiện tại trung tâm,

các trường hợp miễn, giảm thời gian cai nghiện bắt buộc đã được đề nghị áp

dụng biện pháp quản lý sau cai tại nơi cư trú. Sau khi tiếp nhận đối tượng, các

trung tâm phải áp dụng biện pháp quản lý, giáo dục chặt chẽ và tích cực liên

68

kết, phối hợp với cơ sở dạy nghề, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh để tạo

điều kiện cho người sau cai nghiện ma tuý thuận lợi trong học nghề và lao

động sản xuất, giải quyết việc làm sau cai. Chẳng hạn như: Trung tâm Quản

lý sau cai nghiện ma túy nên ký kết hợp đồng với một số doanh nghiệp lắp ráp

đồ điện tử, hàn, mộc, làm gốm, làm má phanh xe máy, mi giả…Ngoài ra, còn

phát triển hình thức lao động ngoài trung tâm như xây dựng, đổ bê tông.

Còn tại cộng đồng, các quận, huyện, thị xã phải phối hợp tốt với các

trung tâm trong việc ra quyết định, bàn giao hồ sơ người thuộc diện quản lý

sau cai theo quy định. Chi cục Phòng, chống tệ nạn xã hội nên tổ chức tiếp

xúc trực tiếp với người quản lý sau cai nghiện tại nơi cư trú của xã, phường,

thị trấn. Qua đó tìm hiểu người sau cai nghiện về cộng đồng có được UBND

xã, phường, thị trấn phân công cán bộ của các ban, ngành, đoàn thể quản lý,

giúp đỡ hay không.

3.2.2.9. Thực hiện hợp tác quốc tế trong công tác cai nghiện

Tranh thủ sự tài trợ về tài chính, giúp đỡ về chuyên môn kỹ thuật và

kinh nghiệm, sử dụng có hiệu quả các nguồn tài trợ huy động được của các tổ

chức quốc tế. Tiếp tục triển khai các dự án được các tổ chức hỗ trợ, phát triển

các dự án mới trong lĩnh vực cai nghiện và hỗ trợ quản lý sau cai tại cộng

đồng, điều trị cai nghiện giảm hại lây nhiễm HIV/AIDS.

Ngoài việc hợp tác với các nước láng giềng, Việt Nam còn tăng cường

hợp tác về Phòng chống Ma túy với các đối tác chủ yếu trong khu vực và trên

thế giới như: Thái Lan, Myanmar, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga, Úc…

Thông qua các mối quan hệ này đã tranh thủ được nguồn lực của các đối tác

tiềm năng, cũng như góp phần ngăn chặn ma túy từ xa vào nước ta và từ Việt

Nam đi các nước thứ ba. Từ năm 2000 đến nay, Việt Nam đã kêu gọi hàng

chục dự án quốc tế tài trợ cho công tác phòng chống Ma túy ở trong nước về

các lĩnh vực cai nghiện, đấu tranh, tuyên truyền, trong đó có nhiều dự án do

UNODC tài trợ được triển khai và đạt kết quả tốt.

69

Ngoài ra, chúng ta còn chủ động tiếp xúc, tổ chức các đợt vận động

chung và tranh thủ các nhà tài trợ khác như Nhật Bản, Hàn Quốc qua các dự

án có qui mô nhỏ. Các cơ quan chức năng của Việt Nam đã chủ động triển

khai kế hoạch, chương trình hợp tác quốc tế và quản lý dự án về phòng chống

Ma túy, tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế về phòng chống Ma túy theo các

hiệp định, thỏa thuận đa phương, song phương đã ký giữa Việt Nam với các

nước và các tổ chức quốc tế. Tổ chức cho cán bộ, lãnh đạo các cấp tham dự

các hội nghị, hội thảo, tập huấn về phòng chống Ma túy ở các nước; chỉ đạo

các cơ quan thành viên Ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng,

chống tệ nạn ma túy, mại dâm của Việt Nam thực hiện đầy đủ và tích cực các

nghĩa vụ hợp tác đa phương và song phương; các tỉnh biên giới giáp Trung

Quốc, Lào, Campuchia đã duy trì quan hệ hợp tác phòng chống Ma túy ở cấp

tỉnh, huyện, xã, đồn Biên phòng, giữa các lực lượng Công an, Hải quan của

các nước, vì thế đã góp phần nâng cao hiệu quả bắt giữ tội phạm ma túy ở các

tỉnh biên giới, kể cả bắt đối tượng truy nã nguy hiểm.

Trong giai đoạn hiện nay, tình hình tội phạm về ma túy xuyên quốc gia

ngày càng có những diễn biến phức tạp, đòi hỏi việc hợp tác quốc tế về phòng

chống ma túy ở nước ta cần được trú trọng hơn. Để công tác hợp tác quốc tế

về phòng chống ma túy đạt hiệu quả, chúng ta cần triển khai thực hiện tốt một

số nhiệm vụ sau:

Một là: tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả việc hợp tác với các

nước, các tổ chức quốc tế theo tinh thần các hiệp định, biên bản ghi nhớ đã ký

kết. Việt Nam cần tích cực tham gia các diễn đàn khu vực và thế giới về phối

hợp phòng chống Ma túy để hội nhập, trao đổi thông tin, kinh nghiệm. Thông

qua đó từng bước nâng cao vị thế của Việt Nam trên diễn đàn quốc tế về

phòng chống ma túy. Đặc biệt, cần xây dựng, củng cố và phát huy hiệu quả cơ

chế phối hợp đấu tranh phòng chống ma túy về ma túy qua biên giới đường

bộ với các nước láng giềng như: Trung Quốc, Lào, Campuchia. Ngoài ra, cần

70

hợp tác thường xuyên với Thái Lan, Myanmar và các nước liên quan để phối

hợp phòng ngừa và ngăn chặn tội phạm về ma túy từ xa, học tập những kinh

nghiệm hay trong công tác phòng chống Ma túy.

Hai là: tiếp tục tranh thủ sự giúp đỡ về tài chính và kỹ thuật của cộng

đồng quốc tế cho công tác phòng chống ma túy; đưa nội dung tài trợ cho công

tác phòng chống ma túy vào các kỳ họp tư vấn hàng năm cũng như các đoàn

cấp cao thăm song phương. Đặc biệt là với UNODC để kêu gọi sự hỗ trợ,

giúp đỡ Việt Nam trong việc nâng cao năng lực chỉ đạo điều hành, điều phối,

kỹ thuật công nghệ, đào tạo cán bộ và hỗ trợ tài chính nhằm thực hiện các đề

án, dự án trong công tác phòng chống ma túy.

Ba là: xây dựng mạng lưới thông tin hợp tác phòng ngừa tấn công tội

phạm về ma túy, hình thành cơ chế trao đổi thông tin với các nước láng giềng.

Tăng cường công tác thông tin đối ngoại, xây dựng và biên soạn sách trắng về

phòng chống Ma túy bằng tiếng Anh.

Bốn là: tăng cường năng lực của các cơ quan chức năng trong hợp tác quốc

tế phòng chống ma túy, tiến hành đào tạo nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ

làm công tác hợp tác quốc tế và chuẩn bị cán bộ tham gia các tổ chức quốc tế và

khu vực về phòng chống ma túy. Tổ chức các đoàn liên ngành đi thăm quan, khảo

sát, học tập kinh nghiệm, tiếp xúc kêu gọi đầu tư tài trợ tại một số nước có tiềm

năng như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Úc, Liên minh châu Âu...

3.3. Quan điểm của tác giả: Xây dựng qui trình áp dụng hiệu quả

biện pháp đƣa ngƣời nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại quận Lê

Chân, thành phố Hải Phòng.

3.3.1. Đối với người nghiện có nơi cư trú rõ ràng

* Quản lý người nghiện ma túy trên địa bàn Công an cấp phường, xã có

thẩm quyền và trách nhiệm quản lý người nghiện trên địa bàn bằng cách lập

tiểu hồ sơ người nghiện gồm:

- Lý lịch cá nhân (có ảnh người nghiện).

71

- Bản tự khai: về việc nghiện ma túy và sử dụng ma túy.

- Biên bản ghi lời khai:

Làm rõ về quá trình mắc nghiện và toàn bộ việc sử dụng trái phép loại

ma túy gì (Morphin/ Heroin/ Methylenedioxy methamphetamine/

Amphetamin/ Marijuana/...); cách thức mức độ nghiện (Hút, hít, chích), ;

Nguồn tiền; Nơi và nguồn mua bán chất ma túy, dụng cụ sử dụng ma túy,

cách thức sử dụng; tình trạng sức khỏe (có mắc bệnh truyền nhiễm gì); có

tham gia chương trình cai nghiện tại gia đình, cộng đồng, uống Methadone;

Tiền án - Tiền sự bản thân;...

- Phiếu kết quả test (kiểm tra) nước tiểu dương tính chất ma túy(loại ma

túy).

Việc lập hồ sơ quản lý người nghiện ma túy có vai trò vô cùng quan

trọng, giúp lực lượng công an quản lý tốt người nghiện ma túy, sàng lọc

người nghi nghiện. Việc lập hồ sơ người nghiện này làm cho người nghiện

thấy được sự quan tâm của lực lượng công an, quen với việc tiếp xúc với

Công an, Y tế,.... và là nền tảng việc vô cùng thuận lợi cho việc lập hồ sơ đưa

người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

* Lập hồ sơ giáo dục tại xã/ phường người nghiện ma túy thời hạn 3

tháng hoặc 6 tháng.

(Căn cứ theo Luật xử lý vi phạm hành chính ngày 20 tháng 6 năm

2012; Nghị định số 111/2013/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2013 của Chính

phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục áp dụng tại

xã, phường, thị trấn; Nghị định số 56/2016/NĐ-CP ngày 29/6/2016 của Chính

* Rà soát những người nghiện ma túy trên địa bàn cần thiết phải lập hồ

phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 111/2013/NĐ-CP);

sơ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có những đặc điểm

như:

72

Người nghiện có biểu hiện những hành vi vi phạm pháp luật (như:

Trộm cắp, cướp, chiếm đoạt tài sản, gây rối trật tự công cộng,"ngáo đá", Mua

bán bán, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy,... mà không đủ căn cứ xử lý;

hoặc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính như phạt tiền, cảnh cáo không

đảm bảo tính răn đe, giáo dục.

* Kiểm tra phát hiện hành vi hành vi sử dụng trái phép chất ma túy để

lập biên bản vi phạm hành chính (biểu mẫu qui định tại Nghị định

97/2017/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18/8/2017)

Trong tất cả các phần trong qui trình lập hồ sơ đưa người nghiện đi cai

nghiện bắt buộc trong thực tế thì việc phát hiện hành vi sử dụng trái phép chất

ma túy là khó khăn nhất. Vì thường sau khi người nghiện mua được ma túy để

sử dụng thì lén lút vào nhà riêng khóa cổng, khóa cửa, vào phòng riêng chốt

cửa tiếp hoặc vào nhà vệ sinh để một mình sử dụng ma túy do sợ bị phát hiện;

Hoặc người nghiện hay chọn địa điểm để sử dụng ma túy như: ra khu nhà vệ

sinh công cộng vào phòng vệ sinh riêng chốt cửa; Nhà hoang ít người biết

đến; Nghĩa địa hoang vắng; Thuê nhà nghỉ, khách sạn; ...

Giải pháp: Lực lượng công an cấp phường/ xã cần làm tốt công tác

quản lý người nghiện bằng các biện pháp nghiệp vụ như: Vận động quần

chúng nhân dân xung quanh nơi ở người nghiện cung cấp thông tin gồm cán

bộ tổ dân phố, hàng xóm gần nhà, người thân trong gia đình, bạn nghiện, bạn

thân,... cung cấp thông tin về thời gian đi mua ma túy ở đâu, loại ma túy gì,

địa điểm sử dụng thì sẽ rất thuận lợi cho việc phát hiện hành vi sử dụng trái

phép chất ma túy, từ đó người nghiện bắt buộc phải chấp hành việc lập biên

bản vi phạm hành chính và công an đưa người nghiện về trụ sở để mời Y tế

đến xác định tình trạng nghiện lập hồ sơ cai nghiện bắt buộc.

Hoặc có thể công an phường/xã có thể sử dụng biện pháp hành chính

như thường xuyên thăm hỏi người nghiện, phát hiện người nghiện có biểu

73

hiện nghi vấn mới sử dụng ma túy; đấu tranh người nghiện khai nhận vừa mới

sử dụng ma túy xong, đưa người nghiện đi kiểm tra nước tiểu dương tính ma

túy thì cũng đảm bảo tính pháp lý về chứng cứ để lập biên bản vi phạm hành

chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Lưu ý: Khi tiến hành việc đưa người nghiện đi test nước tiểu về ma túy,

Công an hoặc Y tế tuyệt đối không báo trước cho người nghiện trước. Đề

phòng các trường hợp người nghiện sẽ sử dụng cách thức chống đối như bỏ

đi khỏi nơi ở, uống thuốc tránh thai khẩn cấp hoặc các loại thuốc có tác dụng

vô hiệu hóa chất ma túy trong nước tiểu người nghiện.

Sau đó triển khai tiếp thủ tục hồ sơ gồm:

- Bản tóm tắt lý lịch (cần thiết có ảnh người nghiện - nhưng trong biểu

mẫu theo Thông tư 05/2018/TT-BCA ngày 07/02/2018 của Bộ Công an,

Thông tư quy định việc thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp

xử lý hành chính đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là không yêu cầu

dán ảnh người nghiện) [3]..;

- Bản tường trình;

- Giấy chứng nhận tập huấn của Trưởng trạm y tế cấp phường/xã về

việc xác định tình trạng nghiện;

- Phiếu xác định tình trạng nghiện ma túy;

- Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường hoặc giấy

chứng nhận chấp hành xong Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã/

phường; (Trường hợp chưa hết thời hạn Giáo dục tại xã/phường thì phải có

Quyết định chấm dứt việc giáo dục tại xã/ phường; phải chấp hành quá 2/3

thời gian giáo dục mà bị phát hiện hành vi sử dụng trái phép chát ma túy);

- Thông báo về việc lập hồ sơ trong thời hạn 05 ngày; Có lập biên bản

về việc đọc hồ sơ;

- Văn bản đề nghị kiểm tra tính pháp lý.

74

Hoàn thiện xong hồ sơ, công an xã/phường tạm bàn giao người nghiện

cho gia đình quản lý, báo cáo Chủ tịch UBND xã/phường chuyển hồ sơ về

phòng Tư pháp - UBND cấp quận/huyện kiểm tra tính pháp lý; Chuyển tiếp

hồ sơ về Phòng Lao động - Thương binh - Xã hội cấp huyện/quận làm đề nghị

Tòa án nhân dân cấp huyện/quận là cơ quan có thẩm quyền xem xét mở phiên

họp cùng sự tham gia của Viện kiểm sát cấp quận/huyện ra quyết định áp

dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có thời

hạn từ 01 năm đến 02 năm.

- Công an xã/phường có trách nhiệm thi hành Quyết định dẫn giải, đưa

người nghiện, bàn giao vào Trung tâm cai nghiện của thành phố cấp tỉnh/

thành phố; và có trách nhiệm đăng ký nộp lưu hồ sơ cai nghiện bắt buộc theo

chế độ công tác lưu trữ hồ sơ.

3.3.2. Đối với người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định (lang

thang)

Hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc gồm:

Quá trình Công an phường/xã quản lý địa bàn phát hiện người nghiện

lang thang có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy thì lập biên bản vi phạm

hành chính, đưa về trụ sở làm việc.

- Bản tóm tắt lý lịch của người bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, có xác nhận của thủ trưởng cơ quan

Công an nơi lập hồ sơ. Trường hợp có căn cứ cho rằng người vi phạm cố tình

che giấu lý lịch của bản thân thì cơ quan lập hồ sơ lập danh, chỉ bản của người

vi phạm kèm theo Bản tóm tắt lý lịch;

- Bản tường trình của người bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc của người đại diện hợp pháp

của họ (theo mẫu số 04 ban hành kèm theo Thông tư này);

75

- Biên bản vi phạm hành chính về hành vi sử dụng ma túy trái phép

(theo mẫu biên bản số 01 ban hành kèm theo Nghị định số 97/2017/NĐ-

CP ngày 18 tháng 8 năm 2017) hoặc phiếu xét nghiệm có kết quả dương tính

với chất ma túy tại thời điểm lập hồ sơ.

- Tài liệu xác định người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định;

- Thông báo về việc lập hồ sơ trong thời hạn 05 ngày; Có lập biên bản

về việc đọc hồ sơ;

- Văn bản đề nghị kiểm tra tính pháp lý.

- Bản tường trình;

- Biên bản ghi lời khai;

- Giấy chứng nhận tập huấn của Trưởng trạm y tế cấp phường/xã về

việc xác định tình trạng nghiện;

- Phiếu xác định tình trạng nghiện ma túy của Trưởng trạm y tế;

- Phiếu trả lời xác minh của địa phương nơi người nghiện đăng ký thường

trú

- Biên bản tập trung người lang thang (để gửi, bàn giao người nghiện

vào Trung tâm bảo trợ xã hội quản lý người nghiện trong thời hạn 3 tháng chờ

Tòa án nhân dân cấp quận/huyện ra quyết định đưa người nghiện đi cai

nghiện bắt buộc).

Hoàn thiện xong hồ sơ, công an xã/phường bàn giao người nghiện cho

Trung tâm bảo trợ xã hội quản lý, báo cáo Chủ tịch UBND xã/ phường

chuyển hồ sơ về phòng Tư pháp - UBND cấp quận/huyện kiểm tra tính pháp

lý; Chuyển tiếp hồ sơ về Phòng Lao động - Thương binh - Xã hội cấp huyện/

quận làm đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện/quận là cơ quan có thẩm quyền

xem xét mở phiên họp cùng sự tham gia của Viện kiểm sát cấp quận/huyện ra

quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc có thời hạn từ 01 năm đến 02 năm.

76

- Công an xã/phường có trách nhiệm thi hành Quyết định dẫn giải, đưa

người nghiện, bàn giao vào Trung tâm cai nghiện của thành phố cấp tỉnh/

thành phố; và có trách nhiệm đăng ký nộp lưu hồ sơ cai nghiện bắt buộc theo

chế độ công tác lưu trữ hồ sơ.

Tiểu kết Chƣơng 3

Từ những bất cập, khó khăn trong công tác quản lý người nghiện ở

quận Lê Chân giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề cai nghiện ở

một địa phương. Mỗi một địa phương có tình hình người cai nghiện thường

khác nhau và có ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Khi

một địa phương quản lý được tình hình cai nghiện của địa phương mình một

cách hiệu quả sẽ giúp địa phương đó thuận lợi phát triển khi ổn định về xã hội

và lao động.

Bất cập của việc đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đặt ra yêu

cầu quận Lê Chân cần có những định hướng trong việc giải quyết các thực

trạng được hiệu quả. Chỉ khi tình hình cai nghiện ở Quận được ổn định thì các

công tác khác trong lĩnh vực quản lý trật tự xã hội mới được hiệu quả.

Lê Chân là một quận có vai trò chủ đạo trong công cuộc phát triển kinh

tế của Hải Phòng. Vì vậy, những tệ nạn ở Lê Chân cần trước mắt giải quyết

đồng thời với các địa phương khác tạo môi trường đồng bộ cho việc giải

quyết hiệu quả việc phát triển ổn định kinh tế. Đưa ra những giải pháp mang

tính khái quát chung từ thực tiễn áp dụng pháp luật về áp dụng biện pháp đưa

người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc giúp cá nhân có những kiến thức rất cơ

bản về người nghiện ma túy, những thực tiễn còn bất cập và từ đó có những

phương án phù hợp với địa phương nhất.

77

KẾT LUẬN

Cai nghiện ma túy là một nội dung quan trọng trong phòng, chống ma

túy, quy định chính sách của Nhà nước về cai nghiện, trách nhiệm của người

nghiện ma túy, các biện pháp và hình thức cai nghiện, vấn đề quản lý sau cai,

trách nhiệm của UBND các cấp trong việc lập kế hoạch tổ chức cai nghiện và

phòng, chống tái nghiện tại địa phương; kinh phí để xây dựng cơ sở vật chất

cai nghiện... đã được quy định và phân tích cụ thể tạo điều kiện cho hoạt động

cai nghiện được hiệu quả và mang lại nhiều lợi ích cho xã hội.

Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng là địa phương đã và đang tồn tại

tình hình người nghiện khá phức tạp và con số gia tăng theo từng giai đoạn,

từng năm. Điều này xảy ra mang tính tất yếu khách quan vì Lê Chân là một

quận rất phát triển thuộc thành phố Hải Phòng, vì vậy việc kéo theo những tệ

nạn về xã hội là một vấn đề tất yếu. Việc phát triển kinh tế đòi hỏi cơ quan có

thẩm quyền cũng cần quan tâm đến việc ổn định an ninh chính trị, tránh các

hoạt động về tệ nạn xã hội xảy ra tại địa phương. Qua thời gian nghiên cứu

việc thực hiện biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cho chúng

ta thấy rằng Lê Chân đã và đang có những chính sách nhằm hạn chế những

trường hợp bị nghiện. Đồng thời, số lượng người bị nghiện đưa vào các cơ sở

cai nghiện như hiện nay ở quận Lê Chân có sự gia tăng đáng kể từ năm 2015

đến năm 2017. Tuy nhiên, nhìn chung số liệu quận Lê Chân về người nghiện

tại Quận và số liệu người nghiện được đưa vào các cơ sở cai nghiện còn ít và

chiếm một phần nhỏ trong tổng số lượng người nghiện. Con số này ngày được

cải thiện hiệu quả, đồng thời quận Lê Chân đang có những định hướng và giải

pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật địa phương để có những giải pháp

tiến bộ, hiệu quả hơn nữa trong công tác bảo đảm hiệu quả của địa phương

trong việc phòng chống tệ nạn xã hội. Quận Lê Chân cũng đã và đang chú

78

trọng đến chất lượng cơ sở cai nghiện, đảm bảo được việc sau khi đưa người

nghiện vào cơ sở cai nghiện thì kết quả đạt được mang tính bền vững, người

nghiện không tái phạm, trở thành một công dân tốt cho xã hội.

Hiện nay, công tác áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc ở Việt Nam nói chung, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng nói

riêng đã đạt được những hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả

hơn nữa, giảm thiểu đáng kể số lượng người nghiện trên địa bàn đòi hỏi cơ

quan địa phương cần nỗ lực hơn nữa trong công tác kiểm soát và phát hiện

những đối tượng cần phải cai nghiện bắt buộc. Bài viết của cá nhân đã đưa ra

một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng thời cá nhân cũng

có những ý kiến nằm hoàn thiện hệ thống pháp luật được hiệu quả hơn trong

công tác thực thi.

Trước tình hình người nghiện ma túy gia tăng, những năm qua Đảng,

Chính phủ đã có nhiều Chỉ thị, Nghị quyết, Chương trình Quốc gia về phòng

chống ma túy, mỗi năm chỉ hàng nghìn tỷ đồng cho phòng chống ma túy,

công tác cai nghiện, đã áp dụng nhiều biện pháp cai nghiện như: cai nghiện tại

gia đình, tại cộng đồng, tại trung tâm cai nghiện bắt buộc. Luật Xử lý vi phạm

hành chính số 15/2012/QH13 được Quốc hội thông qua ngày 20 tháng 06 năm

2012 đã quy định khá cụ thể về trình tự thủ tục cũng như các quy định về việc

thực hiện đưa vào cơ sở cai nghiện, ngoài ra Chính phủ cũng đã có những văn

bản hướng dẫn cụ thể nhằm thực thi hiệu quả về vấn đề về công tác đưa người

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Việc quy định các văn bản pháp luật của Nhà

nước đã có những kết quả đáng ghi nhận trong thời gian qua. Đồng thời, qua

quá trình áp dụng các văn bản pháp luật cũng có phát sinh các hạn chế và bất

cập trong quá trình đưa người cai nghiện vào các cơ sở giáo dục bắt buộc tại

một số địa phương điển hình.

79

Trong phạm vi tìm hiểu nghiên cứu này, tôi chọn đề tài: "Áp dụng

biện pháp đƣa ngƣời vào cơ sở cai nghiện bắt buộc - từ thực tiễn quận Lê

Chân, tp. Hải Phòng" làm công trình nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của

mình. Bởi đẩy lùi được tệ nạn ma túy phải quản lý được người nghiện ma túy

thì phải có phương pháp, cách thức và các thủ tục pháp luật chặt chẽ trong

việc lập hồ sơ đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đạt hiệu quả.

Đây là điều kiện để rà soát lại các quy định của pháp luật về quy định của

pháp luật về biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc để chỉ ra

những điểm vướng mắc trong pháp luật và trong quá trình thực hiện để tìm ra

giải pháp hoàn thiện.

80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (2004), Sơ kết 3 năm thực hiện

quyết định 151 của Thủ tướng Chính phủ về cai nghiện - phục hồi, Việt

Nam.

2. Bộ tài chính (2017), Thông tư 177/2017/TT-BTC ngày 6/11/2017 quy định

quản lý và sử dụng kinh phí thực hiện chế độ áp dụng biện pháp đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc và tổ chức cai nghiện ma túy bắt buộc tại cộng

đồng, Việt Nam.

3. Bộ Công an (2018), Thông tư số 05/2018/TT-BCA ngày 07/02/2018,

Thông tư quy định việc thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện

pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, Việt Nam.

4. Nguyễn Thành Công (2003), "Nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao

hiệu quả quản lý cai nghiện ma túy và sau cai Hà Nội”.

5. Chính phủ (2013), Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm

2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, Việt Nam.

6. Chính phủ (2016), Nghị định số 136/2016/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số

điều của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính

đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, Việt Nam.

7. Chính phủ (2010), Nghị định số 94/2010/NĐ-CP ngày 09/9/2010 quy định

về tổ chức cai nghiện ma túy tại gia đình, cai nghiện ma túy tại cộng

đồng, Việt Nam.

8. Momimura Mokotoichi, Danh vọng và tội ác, NXB Công an nhân dân

năm 2007.

9. Lê Văn Nhân (2007 – 2010), “Nghiên cứu thực trạng bệnh tật và hiệu quả

một số giải pháp chăm sóc y tế cho người cai nghiện ma túy tại các Trung

81

tâm chữa bệnh giáo dục lao động xã hội của thành phố Hồ Chí Minh”,

Luận án Tiến sĩ Y học chuyên ngành Vệ sinh xã hội học và Tổ chức y tế.

10. Lê Thị Lan Phương (2017), “Biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng”, Luận văn Thạc sĩ Luật

Hiến pháp và Luật Hành chính .

11. Quốc hội (2012), Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Việt Nam.

12. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự năm 2015, Việt Nam.

13. Quốc hội (2017), Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017,

Việt Nam.

14. Lê Văn Sua (2015), “Hoàn thiện quy định về việc đưa người vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính”. Cổng

thông tin Bộ Tư pháp.

15. Phạm Tiến Thành (2014), Từ biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở

chữa bệnh đến biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, Cổng thông

tin điện tử Bộ Tư pháp.

16. Nguyễn Hữu Toàn (2004), “Tìm hiểu tự ý thức của thanh niên tái nghiện

ma túy tại địa bàn Hà Nội”, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Tâm lý học.

17. Trường Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh (2006), Thực trạng,

phương pháp quản lý học viên cai nghiện tại Trung tâm Bình Đức.

18. Trường Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh (2006), Tìm hiểu nhu

cầu tái hòa nhập cộng đồng của học viên cai nghiện tại Trung tâm Bình

Đức.

19. Trường Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh (2006), Tìm hiểu những

chuẩn bị cho học viên trước khi hòa nhập cộng đồng tại Trung tâm chữa

bệnh Phú Văn.

20. Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật hành chính Việt

Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

82

21. Ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng chống tệ nạn ma túy, mại

dâm (2002), Kế hoạch tổng thể cai nghiện phục hồi, giai đoạn 2001 –

2010.

22. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2013), Báo cáo tình hình, kết quả

công tác phòng, chống HIV/AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại

dâm 6 tháng đầu năm 2013; phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng

cuối năm 2013.

23. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2014), Báo cáo tình hình, kết quả

công tác phòng, chống HIV/AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại

dâm 6 tháng đầu năm 2014; phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng

cuối năm 2014.

24. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2015), Báo cáo tình hình, kết quả

công tác phòng, chống HIV/AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại

dâm 6 tháng đầu năm 2015; phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng

cuối năm 2015.

25. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2016), Báo cáo tình hình, kết quả

công tác phòng, chống HIV/AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại

dâm 6 tháng đầu năm 2016; phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng

cuối năm 2016.

26. Văn phòng Quốc hội (2013), Luật Phòng chống ma túy 2013, Việt Nam.

27. Viện Ngôn ngữ học (20x10), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Từ điển bách khoa,

Hà Nội.

28. http://www.haiphong.gov.vn/quanlechan/

83