ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------------------------------------

CHU THỊ HỒNG VÂN

BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG THƠ NGUYỄN DUY

VÀ ĐỒNG ĐỨC BỐN

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

1

Hà Nội - 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------------------------------------

CHU THỊ HỒNG VÂN

BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG THƠ NGUYỄN DUY

VÀ ĐỒNG ĐỨC BỐN

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Mai Hƣơng

2

Hà Nội - 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng đề tài Bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn Duy và

Đồng Đức Bốn là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi. Tất cả các số

liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực. Mọi tài liệu tham khảo,

trích dẫn khoa học đều có nội dung chính xác. Các kết luận khoa học chưa

công bố ở bất kì công trình nghiên cứu nào khác.

Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2014

Học viên

3

Chu Thị Hồng Vân

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân

thành và sâu sắc tới PGS. TS. Mai Hương, người đã tận tình hướng dẫn, giúp

đỡ tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.

Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong Ban giám hiệu, phòng

Đào tạo sau đại học, các quý thầy cô đã tận tình chỉ bảo và dạy dỗ, truyền đạt

kiến thức, kinh nghiệm cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới gia đình, người thân,

bạn bè đã luôn bên cạnh khuyến khích, động viên giúp tôi vượt qua những

khó khăn để hoàn thành khóa học của mình.

Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2014

4

Chu Thị Hồng Vân

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 5

1. Lí do lựa chọn đề tài ...................................................................................... 5

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................ 7

3. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 17

4. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 17

5. Đóng góp của luận văn ................................................................................ 18

6. Cấu trúc của luận văn .................................................................................. 18

PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................ 20

Chƣơng 1: VỀ KHÁI NIỆM BẢN SẮC DÂN TỘC VÀ HÀNH TRÌNH

SÁNG TẠO CỦA NGUYỄN DUY, ĐỒNG ĐỨC BỐN ............................ 20

1.1. Về khái niệm bản sắc dân tộc ............................................................... 20

1.2. Hành trình thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn ....................................... 25

1.2.1. Thơ Nguyễn Duy ............................................................................ 26

1.2.2. Thơ Đồng Đức Bốn ........................................................................ 35

Chƣơng 2: BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG THƠ NGUYỄN DUY, ĐỒNG

ĐỨC BỐN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NỘI DUNG CẢM HỨNG ..................... 45

2.1. Quê hương, đất nước ............................................................................. 45

2.1.1. Quê hương, đất nước trong thơ ca Việt Nam ................................. 45

2.1.2. Quê hương đất nước trong thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn ........ 48

2.2. Bản sắc của con người .......................................................................... 62

2.2.1. Về những người thân trong gia đình ............................................... 66

2.2.2. Về những chàng trai nơi thôn dã..................................................... 73

5

2.2.3. Về những cô gái quê, cô thôn nữ .................................................... 77

Chƣơng 3: BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG THƠ NGUYỄN DUY, ĐỒNG

ĐỨC BỐN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN .................. 83

3.1. Vận dụng sáng tạo thể thơ lục bát truyền thống ................................... 83

3.2. Khai thác và vận dụng hình ảnh của thơ truyền thống ......................... 87

3.3. Ngôn ngữ, giọng điệu............................................................................ 96

3.3.1. Ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn .................................. 96

3.3.2. Giọng điệu thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn .............................. 102

PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................... 108

6

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 111

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do lựa chọn đề tài

1.1. Công cuộc đổi mới được khởi xướng vào năm 1986 là một sự kiện

trọng đại tạo nên những chuyển đổi cơ bản trong đời sống xã hội Việt Nam.

Trong không khí đổi mới, dân chủ, văn nghệ đã được “cởi trói”, văn nghệ sĩ

có thể “nói thẳng”, “nói thật” về nhiều vấn đề của đời sống xã hội và con

người. Theo đó, cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ cũng được giải phóng triệt

để hơn. Cuộc gặp gỡ giữa Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và giới văn nghệ sĩ

cả nước vào tháng 10 năm 1987 đã tác động rất lớn đến tinh thần của những

người cầm bút, nhất là ý thức tự “cởi trói” trong lĩnh vực sáng tạo. Điều đó

dẫn tới sự thay đổi sâu sắc về tư duy nghệ thuật giai đoạn này. Từ chỗ là

những nghệ sĩ ngợi ca đất nước và nhân dân bằng cái nhìn sử thi và cảm hứng

lãng mạn, giờ đây các nhà thơ chuyển từ “bè cao” sang “giọng trầm”. Cái

nhìn sử thi dần phai nhạt thay vào đó là cái nhìn mang đậm chất đời tư thế sự.

Đây là yếu tố hết sức quan trọng khiến cho nghệ thuật giai đoạn này thể hiện

tinh thần dân chủ hóa sâu sắc. Cảm hứng nhân bản và sự thức tỉnh ý thức cá

nhân đã trở thành nền tảng và cảm hứng chủ đạo của văn học và thơ ca sau

1975. Nhà thơ không còn bị vướng bận với những kiểu hiện thực chủ yếu và

hiện thực thứ yếu, không bị bó buộc trong những khung tư tưởng định sẵn mà

cố gắng thể hiện tính đa chiều của hiện thực đời sống và con người.

1.2. Tư duy thơ thay đổi, quan niệm thơ thay đổi kéo theo một hệ quả

tất yếu là sự đổi mới toàn diện và sâu sắc của thơ. Theo đó, những khuynh

hướng mới trong thơ cũng như sự đa dạng trong phong cách sáng tạo của các

nhà thơ được phát triển. Khảo sát qua thơ Việt Nam sau 1975, chúng tôi nhận

thấy, thơ có những khuynh hướng tìm tòi, đổi mới phương thức thể hiện đa

dạng. Trong đó có thể thấy, khuynh hướng trở về tiếp thu, sáng tạo truyền

5

thống, hiện đại hóa trên cơ sở tiếp

thu truyền thống là một trong những khuynh hướng tìm tòi khá đậm, khá

thành công của thơ đương đại.

1.3. Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn là những cây bút tiêu biểu của

thơ Việt Nam hiện đại. Xuất hiện và trưởng thành trong phong trào thơ

chống Mỹ, Nguyễn Duy đã sớm tạo được phong cách riêng độc đáo và

ngày càng thu hút được sự mến mộ của công chúng. Đến với thơ muộn hơn

và đời thơ cũng ngắn ngủi, nhưng với “giọng” riêng không lẫn, thơ Đồng

Đức Bốn cũng đã tạo được dấu ấn riêng trong thơ Việt đương đại. Mỗi

người một vẻ nhưng một trong những điểm gặp gỡ và góp phần không nhỏ

tạo nên nét riêng, thành công riêng cho cả hai cây bút là sự tiếp thu sáng

tạo, hiệu quả thơ truyền thống - đổi mới trên cơ sở tiếp thu truyền thống

thơ dân tộc. Có thể nói các nhà thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn cùng

nhiều cây bút khác đã khẳng định một trong những hướng tìm tòi đổi mới

giàu hiệu quả của thơ đương đại Việt Nam.

1.4. Tuy nhiên, qua khảo sát của chúng tôi, cho đến nay vẫn chưa có

công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, thấu đáo về vấn đề bản sắc dân

tộc trong thơ đương đại nói chung và hai cây bút Nguyễn Duy, Đồng Đức

Bốn nói riêng. Các công trình, bài viết mới chỉ dừng lại ở một vài khía cạnh

riêng biệt ở một tác giả hay cụm tác phẩm. Từ những lí do đó, người viết đã

lựa chọn nghiên cứu đề tài: Bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn Duy và Đồng

Đức Bốn. Từ đó, nhằm khẳng định một trong những nét độc đáo trong phong

cách sáng tạo và đóng góp của hai cây bút Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn góp

phần tạo nên diện mạo mới của thơ Việt Nam đương đại. Ở một phạm vi nhất

định, luận văn cũng góp phần vào việc tổng kết, đánh giá tiến trình vận động,

6

đổi mới của thơ đương đại Việt Nam.

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

2.1. Lịch sử nghiên cứu chung về bản sắc dân tộc trong thơ Việt

Nam hiện đại

Qua tìm hiểu nghiên cứu, có thể thấy vấn đề bản sắc dân tộc không chỉ

đến nay mới được đem ra bàn bạc, mà ở mỗi thời đại khác nhau, quá trình này

diễn ra với mức độ và quy mô khác nhau. Chúng tôi xin được điểm qua một

số công trình, bài viết tiêu biểu để thấy được tính hệ thống trong vấn đề mình

đang nghiên cứu.

Tác giả Nguyễn Hữu Quýnh với bài Hai xu hướng thơ hiện nay đã chỉ

ra sự khác biệt giữa cái mới của những thế hệ cầm bút trên thi đàn Việt Nam

sau 1946. Tác giả bày tỏ thái độ trước những yêu cầu cách tân thơ hiện nay là:

Để có một nền thơ thuần hậu, nhân văn, trong sáng và đa dạng cần đối xử

công bằng với mọi nhà thơ. Đừng vì nhân danh đổi mới, hiện đại hay truyền

thống mà bên trọng bên khinh. Hãy để cho các khuynh hướng thơ được bình

đẳng tồn tại với nhau, đừng dạy dỗ, đừng áp đặt, đừng khắt khe và cũng đừng

ôm ấp chiều chuộng thái quá ai cả. Tự thơ nói lên tất cả. Tự bạn đọc bầu chọn

nhà thơ của họ. Tự cuộc sống lâu dài định danh cho thơ. Tóm lại cứ để cho

thơ phát triển tự nhiên vì nó là thơ. Tuy nhiên, tác giả chỉ dừng lại nhìn nhận

một cách khái quát về xu hướng thơ hiện nay mà không đi vào nghiên cứu

một tác giả, tác phẩm cụ thể nào.

Phạm Vĩnh trong bài Tính dân tộc trong thơ Việt Nam: vĩnh cửu và

luôn luôn biến đổi đã nghiên cứu tính dân tộc trong thơ Việt Nam trong suốt

chiều dài phát triển lịch sử thơ ca, để khẳng định: Người sáng tạo càng sâu

sắc, độc đáo bao nhiêu thì càng đạt tính dân tộc, tính nhân loại ở độ cao bấy

nhiêu. Đồng thời tác giả khẳng định, tính dân tộc phải có xu thế mở, tức là nói

đến tính dân tộc không có nghĩa là nói đến một giá trị bất biến, khuôn khổ và

7

cứng nhắc mà phải luôn kế thừa và sáng tạo tiếp.

Tác giả Trần Sáng với bài Thử tìm hiểu tính dân tộc trong thơ hôm nay

đã ngợi ca cái mượt mà đằm thắm, cái chia sẻ, thấu hiểu mà thơ dân tộc đã có

được. Những gì mang tính dân tộc trong thơ hôm nay “Đó là những lời từ trái

tim, là chủ nghĩa nhân đạo cao cả của người Việt cũng là cái đích hướng đến

của nhân loại. Những vần thơ đó đã chinh phục trái tim nhân loại trong khi

nhà thơ vẫn đứng vững hai chân trên mảnh đất dân tộc mình”.

Ngoài những bài nghiên cứu trên, chúng tôi thấy đã có những bài

nghiên cứu chung về thơ của các tác giả Trần Đình Sử, Mã Giang Lân, Lý

Hoài Thu, Nguyễn Văn Long, Mai Hương, Bích Thu... trong đó ít nhiều đã đề

cập đến yếu tố dân gian, chất dân gian trong thơ đương đại. Tuy nhiên, những

công trình nghiên cứu này mới chỉ tập trung vào vấn đề chung của thơ đương

đại, chưa có điều kiện đi sâu vào bản sắc dân tộc trong thơ đương đại, đặc biệt

của hai cây bút Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn.

2.2. Lịch sử nghiên cứu về bản sắc dân tộc trong thơ của Nguyễn

Duy và Đồng Đức Bốn.

2.2.1. Các công trình nghiên cứu về thơ Nguyễn Duy

Nguyễn Duy xuất hiện trên thi đàn và mang đến một tiếng nói riêng

đầy bản sắc, thu hút sự chú ý của nhiều độc giả. Đã có khá nhiều bài viết

đánh giá, thẩm bình về thơ ông. Mỗi công trình nhìn nhận thơ Nguyễn Duy

từ một phương diện khác nhau, một khía cạnh nào đó trong đời thơ của

ông. Để thấy rõ hơn quá trình thẩm bình đánh giá đó, luận văn chủ yếu đi

vào khảo sát các công trình nghiên cứu liên quan tới bản sắc dân tộc trong

thơ Nguyễn Duy.

Ngay từ những sáng tác đầu tay, nhất là sau giải thưởng cuộc thi thơ

của tuần báo Văn nghệ 1973, Nguyễn Duy đã nhanh chóng thu hút được sự

mến mộ của đông đảo công chúng và gây được sự chú ý của các nhà nghiên

cứu, phê bình. Trước hết phải kể đến ý kiến của Hoài Thanh về thơ Nguyễn

8

Duy trong bài viết Đọc một số bài thơ của Nguyễn Duy [48] :…“đọc thơ

Nguyễn Duy thấy anh thường hay cảm xúc với những chuyện lớn, chuyện nhỏ

quanh mình. Cái điều ở người khác có thể chỉ là chuyện thoảng qua thì ở anh

nó lắng sâu và dường như dừng lại”. Những nhận xét của Hoài Thanh đã

giúp chúng ta thấy được điểm riêng trong sáng tác của Nguyễn Duy. Bằng

cảm nhận tinh tế, sắc sảo, ông đã nhận ra vị quê mùa đằm thắm, chân chất

trong thơ Nguyễn Duy, “quen thuộc mà không nhàm”, là “khúc dân ca” vùng

“đồng bằng miền Bắc đã cùng anh đi vào giữa đỉnh Trường Sơn”. Chất thơ đó

“nhẹ nhàng hiền hậu”, “rất Việt Nam mà chúng ta vẫn giữ nguyên trong thử

lửa”. Bài viết đã đề cập đến tư duy thơ của Nguyễn Duy, đó là sự kết hợp của

cảm xúc, tình thơ với ý thơ và sự suy ngẫm.

Nhà phê bình Hà Minh Đức trong bài Về một số cây bút trẻ gần đây

trong quân đội [20] đã viết về triết lí dân gian trong thơ Nguyễn Duy: “Thơ

Nguyễn Duy mang nhiều màu sắc dân gian. Cách suy nghĩ và cảm xúc trên

trực tiếp hay gián tiếp đều nằm trong mạch suy nghĩ quen thuộc của dân gian

và tự nhiên là anh phải tìm đến một lối phô diễn, một giọng điệu thơ thích

hợp”, “anh chú ý nhiều đến thể lục bát, đến sự mềm mại, nhịp nhàng của các

làn điệu dân ca”. Cũng bàn về thơ lục bát, Lê Quang Trang nhận ra đây là thế

mạnh của Nguyễn Duy “anh vốn là người sở trường về sử dụng thơ lục bát –

một thể thơ có phần tĩnh và biến hóa không nhiều” [49].

Năm 1984, khi tập thơ Ánh trăng đoạt giải thưởng của Hội nhà văn

Việt Nam (công bố 1986), Nguyễn Duy được người đọc biết đến nhiều qua

hàng loạt bài viết của các tác giả: Từ Sơn, Tế Hanh, Lại Nguyên Ân, Nguyễn

Hữu Sơn, Ngô Vĩnh Bình, Lê Giang, Lê Quang Hưng, Nguyễn Quang

Sáng… Những cây bút này đã có nhiều phát hiện mới mẻ, xác đáng về thơ

Nguyễn Duy trong đó có đề cập tính dân gian ẩn chứa trong thơ Nguyễn Duy.

Nhà thơ Tế Hanh với tâm hồn nhạy cảm luôn gắn bó với quê hương đã cảm

9

nhận sâu sắc về hồn quê, tình quê trong thơ Nguyễn Duy: “Một điểm đáng

chú ý nữa là thơ Nguyễn Duy nói về ruộng đồng dù đó là Thanh Hóa quê anh

hay Cà Mau quê bạn, có cái gì đó rất tha thiết” [24].

Lê Quang Hưng với bài Thơ Nguyễn Duy và Ánh trăng [25] đăng trên

Tạp chí văn học số 3 năm 1986 có nhận định: “Những bài thơ trong Ánh trăng

thật đậm đà tính ca dao, nhiều đoạn thơ nhuần nhụy ngọt ngào khiến cho

người ta khó phân biệt được đâu là ca dao đâu là thơ…”. Ông cũng đã tìm ra

cái đặc sắc riêng của tập thơ Ánh trăng trong đó chúng ta thấy cái bóng dáng

của tính triết lí qua sự chiêm nghiệm suy tư của Nguyễn Duy về cuộc sống:

“Với Cát trắng, người đọc thích một tâm hồn cảm nhận được ý nghĩa và bề

sâu của cuộc sống từ sự vật, sự việc có vẻ bình thường. Giờ đây, Nguyễn Duy

vẫn nhạy cảm, giàu suy tư như thế và từng trải sâu sắc hơn. Ý nghĩa phổ quát,

sự suy nghĩ trong thơ Nguyễn Duy thường có điểm tựa từ một âm thanh, một

sự vật đậm tính dân tộc”.

Viết về giọng điệu thơ của Nguyễn Duy, Lại Nguyên Ân trong bài Tìm

giọng mới thích hợp với người của thời đại mình [2] đã làm rõ giọng điệu trữ

tình trong tập thơ Ánh trăng, tác giả đã nêu bật được thành công của Nguyễn

Duy khi “dệt nên những giai điệu trữ tình”. Bên cạnh đó, Lại Nguyên Ân

khẳng định trong thơ lục bát của Nguyễn Duy: “Có cái gì đó bên trong như

cãi lại vẻ êm nhẹ nuột nà của câu hát ru truyền thống”. Chính nhà thơ khi

sáng tác đã “tạo nên cái tiếng cười khúc khích, giọng bông lơn bỡn cợt ngay

giữa dòng trữ tình như là để phá bớt cái vẻ rưng rưng thống thiết cứ dâng

trào…”. Chính giọng điệu trữ tình là yếu tố chủ đạo tạo nên bản sắc dân tộc

độc đáo trong thơ Nguyễn Duy, đặc biệt từ sau năm 1975.

Năm 1987, Nguyễn Quang Sáng trong bài viết Đi tìm tiềm lực trong

thơ Nguyễn Duy [45] cũng đã nhận định: “Nguyễn Duy vốn có ưu thế và trội

hẳn lên trong thể thơ lục bát, loại thơ ngỡ như là dễ làm, ai cũng làm được,

nhưng để đạt tới hay thì khó thay, nếu không nói là khó nhất. Thơ lục bát của

10

Nguyễn Duy không rơi vào tính trạng quen tay, nó có sự biến đổi, chuyển

động trong câu chữ”. Thơ lục bát Nguyễn Duy “đượm tính dân tộc và nhuần

nhuyễn ngôn ngữ dân gian. Lời thơ đơn sơ, gần với khẩu ngữ. Tư duy thơ thì

hiện đại, hình thức thơ thì phảng phất hương vị cổ điển phương Đông…”.

Tác giả Đỗ Ngọc Thạch đi sâu vào hình ảnh Người vợ trong thơ

Nguyễn Duy [50] và thấy rõ “hồn quê” có sức “lay động tận sâu thẳm tâm

linh… đưa ta trở về với bản ngã, với những gì con người nhất”.

Vũ Văn Sỹ trong bài viết Nguyễn Duy – Người thương mến đến tận

cùng chân thật [47] đánh giá: “Cái đáng quý nhất trong thơ Nguyễn Duy là

anh viết về đất nước, về nhân dân, về đồng đội, về những người thân và về

chính mình bằng tấm lòng “thương mến đến tận cùng chân thật” ”. Tác giả

thấy được sự chân thành hết mực của tâm hồn thơ được thể hiện trong thơ lục

bát của Nguyễn Duy đồng thời khẳng định tài năng của ông ở thể loại này.

Phạm Thu Yến nghiên cứu về đặc điểm thơ Nguyễn Duy mà chủ yếu là

trên thể thơ lục bát đã đi sâu vào những biểu hiện trong mối quan hệ giữa ca

dao và thơ hiện đại, cụ thể là tiếng vọng của ca dao trong thơ lục bát Nguyễn

Duy: “Đọc thơ Nguyễn Duy, ta như được gặp một thế giới ca dao sinh động,

phập phồng làm nền cho tiếng đàn độc huyền đầy sáng tạo của hồn thơ thi sĩ”.

Tác giả cũng khẳng định “thể thơ lục bát – thể thơ đặc trưng của dân tộc được

Nguyễn Duy sử dụng nhuần nhụy, giúp tác giả chuyển tải một cách nhẹ

nhàng trong sáng những suy nghĩ và tình cảm sâu sắc của con người. Có lẽ,

những bài thành công nhất của Nguyễn Duy là những bài làm theo thể lục

bát” [55] và thơ Nguyễn Duy rõ ràng là phản ca dao qua việc khai thác các ý

đối lập với những tứ quen thuộc trong ca dao để tạo nên những tứ mới khiến

cho cả ca dao và thơ càng bay bổng hơn.

Chu Văn Sơn trong bài viết Nguyễn Duy – Thi sĩ thảo dân [46] đã có

nhiều khám phá mới mẻ, mang tính hệ thống về thơ Nguyễn Duy. Tác giả đã

đi vào khai thác nhiều khía cạnh trong thơ Nguyễn Duy từ quan niệm nghệ

11

thuật, quan niệm thẩm mĩ đến cái tôi, thế giới nhân vật và giọng điệu thơ,

trong đó có đề cập đến triết lí mang đậm tính nhân sinh “Ta là dân vậy thì ta

tồn tại” của thơ Nguyễn Duy. Tác giả đánh giá “Nguyễn Duy là thi sĩ thảo

dân ngay từ quan niệm nhân sinh và nghệ thuật” và cũng chính quan niệm

nghệ thuật này đã đồng hành cùng Nguyễn Duy suốt con đường sáng tạo

nghệ thuật của ông và càng về sau thì nó càng rõ ràng và sắc nét hơn.

Nguyễn Duy là nhà thơ “ham mê chiêm nghiệm triết lí” nhưng triết lí trong

thơ của Nguyễn Duy là triết lí “thảo dân” nhưng chất “thảo dân” không chỉ

mang tính ý thức xã hội mà đồng thời còn là ý thức thẩm mĩ được chuyển

hóa trong hình tượng cái tôi thi sĩ.

Ngoài ra còn khá nhiều bài viết phân tích, bình giá về các bài thơ của

Nguyễn Duy như: Vũ Quần Phương viết về Hơi ấm ổ rơm, Nguyễn Bùi

Vợi viết về bài thơ Ánh trăng, tác giả Lê Trí Viễn, Chu Huy viết về bài Tre

Việt Nam, Hoàng Nhuận Cầm viết về Tiếc thay áo trắng má hồng, Nhị Hà

viết về bài Xuồng đầy. Bên cạnh đó, còn có nhiều bài viết của các tác giả

Trần Hòa Bình, Trần Đăng Khoa, Văn Giá, Đoàn Minh Tuấn, Nguyễn Thị

Bích Nga... Nhìn chung các tác giả đều nhận thấy ở thơ Nguyễn Duy có sự

biến hóa sáng tạo, mang tính trí tuệ. Với sự cách tân linh hoạt, nhuần

nhuyễn giữa lục bát truyền thống và hiện đại cùng với một tâm hồn thơ đầy

cảm xúc, thơ của Nguyễn Duy đã chạm được vào sâu thẳm trái tim người

đọc, đánh thức các giác quan để người đọc có thể thẩm thấu ý nghĩa thơ

ông ở nhiều phương diện.

Bài Tre Việt Nam [53] đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu

văn học. GS. Lê Trí Viễn đã chỉ ra phẩm chất con người Việt Nam thông qua

hình ảnh cây tre, đồng thời thấy được giọng điệu quen thuộc của ca dao dân

gian trong bài thơ: “Người ta gặp ở đây vừa âm hưởng của ca dao – dân ca

ngọt ngào thân mật, vừa vang vọng của thơ ca bác học lắng sâu vào trí tuệ.

Cách tân linh hoạt nhưng lại nhuần nhuyễn cả xưa lẫn nay, cả truyền thống

12

lẫn hiện đại”. Cũng về bài thơ này, Chu Huy khẳng định “Tre Việt Nam là

một trong những bài thơ hay của Nguyễn Duy. Bài thơ dào dạt cảm hứng cấu

tứ sâu sắc, độc đáo kết tinh từ những hình ảnh cuộc sống dân dã đời thường

mà ai đã đọc một lần thì nhớ mãi” [26].

Trần Hòa Bình trong Bình văn ấn tượng với “giai điệu thư thái lâng

lâng” của bài thơ cất lên từ nhịp thơ lục bát thân quen trong bài Tiếng hát mùa

gặt của Nguyễn Duy. Nguyễn Thị Bông lại mang cảm giác xốn xang khi phát

hiện ra Điểm gặp nhau thú vị của Tú Xương với Nguyễn Duy [4] qua hai bài

thơ Thương vợ và Vợ ốm: “hai thi nhân của hai thời đại, một thì ngang

ngạnh… một thì trầm lắng… dịu dàng đằm thắm… lại có những điểm gặp

nhau tuyệt vời”.

Ngoài những bài viết mang tính chất nghiên cứu, phê bình phân tích,

bình giảng về thơ Nguyễn Duy còn có một số khóa luận, luận văn thạc sĩ chọn

thơ Nguyễn Duy làm đề tài nghiên cứu.

2.2.2. Các công trình nghiên cứu về tác giả Đồng Đức Bốn

Cho đến nay, các bài viết về nhà thơ Đồng Đức Bốn chủ yếu tập trung

vào thơ lục bát và xoay quanh một số khía cạnh như: tài năng bẩm sinh của

nhà thơ, nét độc đáo, chất thơ mộc mạc, cá tính nghệ sĩ, giọng điệu hay chất

dân gian. Có thể kể tới một số bài viết tiêu biểu: Đồng Đức Bốn vị cứu tinh

của thơ lục bát (Nguyễn Huy Thiệp), Đồng Đức Bốn – kẻ mượn bút của trời

(Đỗ Minh Tuấn), Múa võ trong không gian hẹp (Lê Quang Trang), Đồng Đức

Bốn – phiêu du vào lục bát (Nguyễn Đăng Điệp), Những câu thơ tình tang

quê mùa (Đoàn Hương), Đọc thơ lục bát của Đồng Đức Bốn (Nguyễn Thị

Anh Thư), Đóng gạch nơi nao? (Phạm Tiến Duật), Nhà thơ Đồng Đức Bốn

nhàu nát và trau chuốt (Trần Huy Quang), Đồng Đức Bốn – tựa bão để sống

làm người (Nguyễn Anh Quân), Đồng Đức Bốn - thi sĩ đồng quê (Băng

Sơn)…

Những bài viết này đã có một số ý kiến đề cập đến chất dân gian, chất

13

đồng quê của thơ Đồng Đức Bốn, tuy nhiên mới ở mức độ đan xen khi khảo

sát thơ lục bát hoặc lướt qua chứ chưa đi sâu vào bản chất vấn đề. Ở phần

này, chúng tôi tập trung vào khảo sát một số bài viết liên quan đến vấn đề bản

sắc dân tộc trong thơ Đồng Đức Bốn.

Trong bài Đồng Đức Bốn - Vị cứu tinh của thơ lục bát, Nguyễn Huy

Thiệp viết: “Đồng Đức Bốn đã từng nhận nhiều giải thưởng trong các cuộc thi

thơ của báo Văn nghệ, tạp chí Văn nghệ Quân đội và báo Tiền phong. Anh là

người sở trường làm thơ lục bát. Có lẽ anh là người làm thơ lục bát hay nhất

trong khoảng 50 năm trở lại đây ở nước ta, kể từ khi Nguyễn Bính – một nhà

thơ chân quê đồng thời cũng là một thi sĩ đệ nhất lãng tử giang hồ qua đời”.

Bài viết còn đề cập đến hình ảnh nông thôn trong thơ Đồng Đức Bốn, vẫn là

những thôn Đoài, thôn Đông, vẫn là cái ngậm ngùi của sự nghèo nàn, mất mát

khiến lòng ta nhói đau nhưng trong thơ Đồng Đức Bốn lại mang một màu sắc

khác, tạo nên cái mới lạ, độc đáo riêng biệt, không trộn lẫn của thơ anh.

Nguyễn Huy Thiệp cũng đã nêu lên tính đặc trưng của thơ lục bát là dễ

làm, khó hay. “Có thể nói thơ lục bát là một thể thơ nôm na cổ truyền đặc

trưng Việt Nam. Người Việt Nam vị tình. Thơ lục bát cũng là một thể thơ vị

tình. Nó gần gũi với lối sống, nếp nghĩ của người nông dân Việt Nam thật thà,

chất phác, thơ lục bát rất dễ làm nhưng chính vì thế mà khó hay… Đồng Đức

Bốn là người tự dưng đốn ngộ với thể thơ lục bát”. Như vậy có thể thấy một

số bài viết đã bắt đầu quan tâm đến vấn đề thể loại và mối liên hệ mật thiết

giữa thơ lục bát Đồng Đức Bốn và dòng thơ lục bát truyền thống.

Đỗ Minh Tuấn trong bài Đồng Đức Bốn – Kẻ mượn bút của trời nhận

xét: “Sự xuất hiện của Đồng Đức Bốn đã đem lại cho thơ lục bát, thơ truyền

thống một niềm tự tin đáng kể”, “thơ Bốn vụt lên với sự sáng trong giản dị mà

không kém phần sâu sắc, mới lạ và ấn tượng như mang cả hồn thiêng của tổ

tiên trong mỗi lời đối thoại, mỗi tiếng nhủ thầm”. Còn trong bài viết Trời đưa

14

anh đến cõi thơ, Đỗ Minh Tuấn lại chỉ ra niềm kiêu hãnh, biết ơn của Đồng

Đức Bốn với thơ lục bát: “cái tình cảm của Bốn với thơ lục bát nhìn bề ngoài

giống như tình cảm của người nông dân với con trâu”.

Nguyễn Đăng Điệp cũng đánh giá rất cao thơ lục bát Đồng Đức Bốn:

“Từ lục bát của ca dao, Nguyễn Du đã tạo nên một đột biến: “Khi Nguyễn Du

viết Kiều đất nước hóa thành văn” (Chế Lan Viên). Thể thơ dân tộc này hiện

hình một cách tài hoa qua “khối tình lớn – khối tình con” (Tản Đà) rồi chia

thành hai ngả trong Thơ mới: Cái chân quê trong sáu – tám của Nguyễn Bính

và cái hàm súc cổ điển trong thơ Huy Cận. Hiện giờ, ngoài cái “thượng thừa”

của Bùi Giáng, lục bát sống trong hồn Nguyễn Duy, rồi Đồng Đức Bốn…

Làm được lục bát hóa ra là việc khó khăn… Là một thể loại ai cũng quen mặt,

ai cũng thuộc tên, nếu không có cái mới, lập tức kẻ làm thơ sẽ bị đuổi khỏi

chiếu. May thay, Đồng Đức Bốn đã trụ lại được”. Rõ ràng Đồng Đức Bốn

được đánh giá là một trong những tên tuổi sáng giá nhất trong làng thơ lục bát

Việt Nam. Ở phần cuối bài viết, tác giả còn nhấn mạnh, Đồng Đức Bốn rồi

cuối cùng cũng trở về với ca dao, với tình đời dù cay đắng nhưng vẫn ngọt

ngào. Cái chất dân gian trong thơ Đồng Đức Bốn vẫn là cầu nối anh với thế

hệ độc giả bây giờ. Dù có thế nào đi chăng nữa thì khuynh hướng sáng tác của

Đồng Đức Bốn vẫn là trở về với cội nguồn.

Trong phần đầu của bài viết Những câu thơ tình tang quê mùa, Đoàn

Hương đề cập đến chất dân ca, ca dao trong thơ lục bát Đồng Đức Bốn. Bài

viết đã có những phân tích khá kĩ về chất quê trong thơ Đồng Đức Bốn –

mạch nguồn cảm hứng chủ đạo của nhà thơ. Đọc thơ lục bát của Đ ồng

Đức Bốn, Đoàn Hương cảm nhận “như một kẻ đánh mất quê được trở về

quê”. Đọc thơ Đồng Đức Bốn để ta tìm thấy quê, trở về với quê hương trong

tâm tưởng của ta.

Với giọng điệu tự nhiên pha chút ngang tàng trong bài Đóng gạch nơi

15

nao, Phạm Tiến Duật đã khẳng định: “Một mình Đồng Đức Bốn tự làm một

cuộc trường chinh. Gã xông thẳng vào trận địa lục bát và chỉ một thời gian

ngắn Đồng Đức Bốn trở thành ông vua trẻ của thể loại này”.

Nhà văn Trần Huy Quang trong bài Đồng Đức Bốn – Nhàu nát và trau

chuốt đánh giá về chất đồng quê trong thơ Đồng Đức Bốn từ góc độ câu thơ:

“Thơ Đồng Đức Bốn đấy, mỗi câu giống như lời nói của các bà nông dân lam

lũ, yếm trễ ngực, váy xắn quai cồng, đòn gánh oằn vai”.

Trong Tựa bão để sống làm người, Anh Quân thấy được nhạc tính giàu

chất dân gian trong thơ lục bát nói chung và thơ Đồng Đức Bốn nói riêng:

“Thực ra trong thơ ca, lục bát là thể thơ mang tính nhạc đậm nhất, ở thơ Đồng

Đức Bốn càng thấy rõ điều này. Bất kì một bài nào của anh đều như những

bài hát dân ca, điệu hò câu ví thuở xưa”.

Băng Sơn trong bài Đồng Đức Bốn – Thi sĩ đồng quê đã nhận định khá

sâu sắc về hồn quê mùa trong thơ Đồng Đức Bốn, coi ông là “Một nhà thơ

kiệt xuất trong lục bát, có lẽ là hồn Việt chắt lọc ngàn năm để ứ dồn vào tâm

hồn thi sĩ làm ta nghiêng ngả mê say những vần thơ như từ ca dao đi ra, như

từ thơ đi vào ca dao, cứ ngọt lịm và ở lại”.

Trong Vài ý nghĩ tản mạn về thơ Đồng Đức Bốn, Nguyễn Thanh Toàn

cũng nhận xét: “Thế mạnh thơ Đồng Đức Bốn là thể thơ đồng quê, ngôn ngữ

đồng quê, cảm hứng đồng quê… Đặc biệt là tình ý tư tưởng đồng quê”.

Ngoài ra một số bài viết của Nguyễn Ánh Ngân, Nguyễn Thanh Phong,

Nguyễn Việt Hà, Văn Chinh… cũng đã có những ý kiến đánh giá khá sâu sắc,

xác đáng về thơ Đồng Đức Bốn .

Qua những bài viết, nghiên cứu về Đồng Đức Bốn có thể thấy, anh

được đánh giá là nhà thơ xuất sắc của dòng thơ lục bát Việt Nam đương đại.

Thơ lục bát của Đồng Đức Bốn khẳng định lại một lần nữa thể thơ lục bát ưu

thế của thơ Việt. Tuy nhiên cũng có nhiều ý kiến cho rằng, thơ lục bát của

16

Đồng Đức Bốn còn gai góc, thô mộc, còn có vẻ gì chất phác, ngô nghê. Nhìn

chung, Đồng Đức Bốn xứng đáng được coi là người tiếp nối dòng chảy dân

gian trong thơ ca Việt Nam và có những đóng góp không nhỏ trên thi đàn.

Tóm lại, qua lịch sử tìm hiểu nghiên cứu về thơ Nguyễn Duy và Đồng

Đức Bốn, chúng tôi thấy trong một số bài viết về thơ của hai tác giả ít nhiều

đã đề cập đến vấn đề bản sắc dân tộc trong thơ của từng cây bút. Tuy nhiên,

qua khảo sát, có thể thấy những bài viết này mới chỉ đề cập đến một số khía

cạnh hoặc một vài yếu tố dân gian trong thơ của từng tác giả riêng biệt, chưa

đề cập một cách trực tiếp, chưa khảo sát vấn đề một cách hệ thống, toàn diện.

Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài: Bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn Duy

và Đồng Đức Bốn nhằm đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về

bản sắc dân tộc trong thơ của hai cây bút đặc sắc này, từ đó góp phần nhận

diện, khẳng định một hướng tìm tòi, đổi mới thành công của thơ đương đại

Việt Nam.

3. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài, người viết sử dụng các pháp nghiên cứu chủ

yếu như:

- Phương pháp phân tích

- Phương pháp tổng hợp

- Phương pháp so sánh, đối chiếu

- Phương pháp thống kê, phân loại

4. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu bản sắc dân tộc trong sáng tác của hai

tác giả Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn. Phạm vi khảo sát là các tập thơ chính

của Nguyễn Duy và toàn bộ thơ Đồng Đức Bốn.

* Nguyễn Duy

- Cát trắng (Thơ, 1973)

- Ánh trăng (Thơ, 1984)

17

- Mẹ và em (Thơ, 1987)

- Đường xa (Thơ, 1989)

- Qùa tặng (Thơ, 1990)

- Về (Thơ, 1994)

- Sáu và Tám (Thơ, 1994)

- Bụi (Thơ, 1997)

* Đồng Đức Bốn

- Con ngựa trắng và rừng quả đắng (1992)

- Chăn trâu đốt lửa (Thơ, 1993)

- Trở về với mẹ ta thôi (2000)

- Cuối cùng vẫn còn dòng sông (2000)

- Chuông chùa kêu trong mưa (2002)

- Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc (2006)

Ngoài ra, để có điều kiện so sánh, chúng tôi cũng mở rộng khảo sát thơ

của một số tác giả khác.

5. Đóng góp của luận văn

- Từ khảo sát, phân tích thơ của hai tác giả, luận văn nhận diện, đúc kết

những nét đặc sắc của các cây bút về phương diện kế thừa và phát huy những

giá trị truyền thống trong việc hiện đại hóa thơ; khẳng định nỗ lực đổi mới thơ

của hai tác giả.

- Luận văn cũng khảo sát và nhận diện một trong những khuynh hướng

tìm tòi sáng tạo có hiệu quả của thơ đương đại Việt Nam.

- Ở một phạm vi nhất định, luận văn góp phần tổng kết, đánh giá về

tiến trình vận động, đổi mới của thơ đương đại Việt Nam và sự vận động của

thơ lục bát trong thơ Việt Nam hiện đại.

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính

18

của luận văn gồm 3 chương:

- Chương 1: Về khái niệm bản sắc dân tộc và hành trình sáng tạo

của Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn

- Chương 2: Bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức

Bốn nhìn từ góc độ nội dung cảm hứng

- Chương 3: Bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức

19

Bốn nhìn từ góc độ nghệ thuật thể hiện

PHẦN NỘI DUNG

Chƣơng 1: VỀ KHÁI NIỆM BẢN SẮC DÂN TỘC VÀ HÀNH TRÌNH

SÁNG TẠO CỦA NGUYỄN DUY, ĐỒNG ĐỨC BỐN

1.1 Về khái niệm bản sắc dân tộc

Ngày nay, khi sự giao lưu trên thế giới đang được đẩy mạnh hơn bao

giờ hết, thì vấn đề văn hóa dân tộc trở thành mối quan tâm hàng đầu, là tâm

điểm chú ý của các bộ môn khoa học xã hội và khoa học nhân văn. Để có thể

giải quyết được nhiệm vụ của đề tài, trước hết chúng tôi thấy cần làm rõ về

khái niệm bản sắc dân tộc.

Theo Từ điển văn học (Bộ mới) [39]: “Bản sắc dân tộc và tính dân tộc

là những thuật ngữ gần như tương đương nhau, biểu thị một số thuộc tính dân

tộc học văn hóa nhất định. “Tính (hoặc bản sắc) dân tộc của văn học” - chỉ là

những đặc tính mà một nền văn học dân tộc có được do sự liên hệ mật thiết

của nó với đời sống văn hóa – lịch sử của chính dân tộc ấy”. Cuốn Từ điển

thuật ngữ văn học [38] cũng định nghĩa tính dân tộc là khái niệm thuộc phạm

trù tư tưởng - thẩm mĩ chỉ mối liên hệ khăng khít giữa văn học và dân tộc, thể

hiện qua tổng thể những đặc điểm độc đáo tương đối bền vững chung cho các

sáng tác của một dân tộc, được hình thành trong quá trình phát triển lịch sử

phân biệt với văn học của các dân tộc khác. Nói như vậy, văn học và văn hóa

của một dân tộc có mối quan hệ khăng khít, không thể tách rời. Và không thể

hiểu đúng văn học nếu không tìm hiểu bình diện văn hóa của nó.

Truyền thống văn hóa là một trong những loại hình tồn tại của xã hội

đương đại. Nó “Ghi dấu ấn lịch sử đã qua của chính bản thân nó, nhưng còn

kéo dài một cách cực kì dai dẳng trong hiện tại và luôn có tham vọng xác lập

truyền thống mới” [27]. Thật vậy, truyền thống văn hóa không chỉ thu hẹp ở

việc duy trì hay truyền lại các thành quả văn hóa ngày trước, mà còn tích hợp

20

trong diễn trình lịch sử những truyền thống mới bằng cách đem thích nghi cái

mới này với các truyền thống cũ. Vì thế, truyền thống văn hóa có vai trò và

ảnh hưởng to lớn đối với đời sống xã hội và con người. Đặc biệt đối với sáng

tạo nghệ thuật thì truyền thống văn hóa càng giữ vị trí quan trọng. Nó đóng

vai trò là cơ sở, nền tảng của mọi sự sáng tạo, nó quy định mọi cảm nhận và

sự miêu tả của các nhà văn về đối tượng.

Tóm lại: “Việc nghiên cứu truyền thống văn hóa cũng tức là nghiên cứu

tính dân tộc, bản sắc dân tộc. Bởi vì tính dân tộc của văn học không chỉ là một

phạm trù tư tưởng xã hội và nghệ thuật mà còn là một phạm trù văn hóa, là

kết tinh của văn hóa dân tộc trong sáng tác văn học nghệ thuật” [3, tr. 6-7].

Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đã từng nhấn mạnh: “Vấn đề dân tộc là vấn

đề văn hóa, đừng tìm vấn đề dân tộc ở chỗ khác” [22, tr. 155]. Sau này, nhà

nghiên cứu Hồ Sĩ Vịnh cũng tiếp tục khẳng định: “Nói đến văn hóa là nói đến

dân tộc. Văn hóa là gương mặt của dân tộc. Một dân tộc đánh mất truyền

thống văn hóa (…) thì dân tộc ấy sẽ mất tất cả” [54, tr. 6].

Khái niệm “dân tộc” ở tiếng Việt hiện đại có hai nghĩa chính: 1) “dân

tộc – quốc gia”, tức là một cộng đồng xã hội người, được tạo nên do quá trình

hình thành tính cộng đồng về lãnh thổ, về quan hệ kinh tế, về ngôn ngữ văn

học, về một số đặc điểm văn hóa và tính cách; 2) các cộng đồng chủng tộc

người – bộ lạc, bộ tộc, sắc tộc… nằm trong và hợp thành dân tộc – quốc gia.

Văn học, nghệ thuật là một trong những phương diện hoạt động về tinh thần

của cộng đồng dân tộc trong quá trình lịch sử, gắn bó với đời sống lịch sử của

dân tộc. Nó là một bộ phận của lịch sử dân tộc. Tính dân tộc có mặt ổn định

nếu nhìn nó trong sự tương quan giữa các dân tộc với nhau. Đọc một bài thơ

Việt Nam và một bài thơ Trung Quốc, người ta vẫn phân biệt được bài thơ

này với bài thơ kia. Bài thơ Việt Nam vẫn có cái gì Việt Nam có thể trong tứ

thơ, trong giai điệu… Những cái đó cho phép người nghiên cứu rút ra tính

dân tộc trong thơ. Nhưng nói rằng tính dân tộc có mặt ổn định không có nghĩa

21

là tính dân tộc là cố định nhất thành bất biến. Bài viết “Tính dân tộc trong văn

học hiện nay”, trích từ cuốn “Tìm hiểu bản sắc dân tộc trong thơ Chủ tịch Hồ

Chí Minh” [36] giải thích: “Dân tộc là một cộng đồng người hình thành trong

quá trình lịch sử. Các dân tộc không phải là bao giờ cũng có, nó ra đời trong

một giai đoạn tiến hóa lịch sử nhất định và khi đã hình thành dân tộc rồi thì

dân tộc không ngừng tiến hóa. Vì vậy những bản sắc dân tộc cũng luôn luôn

tiến hóa, tính dân tộc không phải cứ như thế mãi từ thời kì này qua thời kì lịch

sử khác […] Dân tộc có những truyền thống, truyền thống dân tộc là bản sắc,

là đặc tính, là nét sinh hoạt của dân tộc được phát huy đến trình độ rất cao, có

một hiệu lực rất lớn ở một thời kì lịch sử và từ đó về sau trở thành một bài

học, một tấm gương cho đời sau tiếp tục noi theo. Thí dụ truyền thống đoàn

kết chống giặc ngoại xâm thời Trần, truyền thống kiên trì chịu khổ, chịu khó

đánh giặc của quân dân Lam Sơn chống quân Minh. Như thế những truyền

thống của dân tộc có nguồn gốc lịch sử của nó…” [3, tr. 11-12].

Riêng về văn học, khác với một số loại hình nghệ thuật khác, văn học

dân tộc gắn với chất liệu của nó là ngôn ngữ dân tộc; văn học là một bộ phận

hợp thành quan trọng của văn hóa ngôn từ dân tộc. Lịch sử hình thành, tồn tại

và phát triển của các nền văn học dân tộc đều gắn (ở mức khác nhau) với quá

trình hình thành, sinh tồn và phát triển của xã hội – dân tộc. Trên cơ sở này

tác giả cuốn Từ điển văn học đưa ra những biểu hiện của bản sắc dân tộc

trong văn học: Bản sắc dân tộc của văn học thể hiện ở ngôn ngữ dân tộc (bản

ngữ), tức là cái chất liệu đặc thù, phân biệt một nền văn hóa ngôn từ này với

những nền văn hóa ngôn từ khác. (Ở những bộ phận hoặc giai đoạn văn học

viết bằng ngôn ngữ chung của khu vực hoặc bằng một ngôn ngữ quốc tế hóa

nào đó, tính dân tộc ở chất liệu ngôn ngữ sẽ bộc lộ gián tiếp, kết hợp các yếu

tố khác). Sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ (bản ngữ) là bộ phận văn học bộc lộ rõ

nhất những tiềm năng văn hóa (nhất là những ký ức lịch sử dân tộc đã in sâu

vào bản ngữ) và khả năng nghệ thuật của ngôn ngữ dân tộc, bảo toàn, phát

22

triển và làm giàu cho nó. Bản sắc dân tộc được bộc lộ khá rõ ở nội dung đời

sống dân tộc được văn học miêu tả và thể hiện: Màu sắc dân tộc ở thiên nhiên

và cảnh quan đất nước; những nét độc đáo của các giá trị và định hướng giá

trị vốn tiêu biểu cho dân tộc, những nét độc đáo về cách nhìn cách cảm của

dân tộc; tóm lại là tâm lí và tính cách dân tộc được thể hiện trong văn học.

Cùng chung quan điểm trên, cuốn Từ điển thuật ngữ văn học giải thích

một cách cụ thể hơn: Tính dân tộc thể hiện ở mọi yếu tố từ nội dung cho đến

hình thức của sáng tác văn học. Về nội dung, dễ dàng nhận thấy trước hết,

tính dân tộc biểu hiện trong sự phản ánh “màu sắc” dân tộc của thiên nhiên,

của đời sống vật chất và tinh thần của xã hội. Đọc sáng tác của một dân tộc, ta

như sống cuộc sống của dân tộc đó với những đặc điểm của thế giới riêng.

Tuy nhiên, tính dân tộc của văn học không chỉ biểu hiện ở những vật thể,

đường nét, màu sắc có thể nắm bắt được. Nội dung căn bản của tính dân tộc là

ở tinh thần dân tộc, thể hiện ở tính cách dân tộc và cái nhìn dân tộc đối với

cuộc đời. Đó là những yếu tố tương đối bền vững được hình thành và phát

triển trong những hoàn cảnh địa lí và con đường phát triển lịch sử riêng của

dân tộc, là một phẩm chất chỉnh thể biểu hiện trong một phức hợp liên kết các

phẩm chất nhất định.

Tính dân tộc còn biểu hiện ở hình thức văn học. Mỗi nền văn học dân

tộc có hệ thống thể loại truyền thống, có các phương tiện miêu tả, biểu hiện

riêng, nhất là có ngôn ngữ dân tộc thể hiện bản sắc riêng trong tư duy và tâm

hồn dân tộc mình.

Tính dân tộc còn thể hiện ở quá trình phát triển lịch sử độc đáo của văn

học cùng các đặc sắc do quá trình lịch sử ấy mang lại. Ví dụ, có thể nhận thấy

sự khác biệt về văn học dân tộc giữa chủ nghĩa hiện thực Nga và chủ nghĩa

hiện thực Pháp thế kỉ XIX.

Gớt đã từng khẳng định một nghệ sĩ chỉ có thể được coi là một nhà văn

mẫu mực của dân tộc nếu tác phẩm của anh ta “thấm nhuần tinh thần dân

23

tộc”. Nói như vậy, một tác phẩm đạt đến đỉnh cao, là đại diện của nền văn học

dân tộc phải là tác phẩm không những xây dựng được “những hình tượng văn

học vừa đơn lẻ, vừa có thể mang tính khái quát, điển hình cho dân tộc ấy” mà

“tinh thần dân tộc thấm sâu vào toàn bộ các yếu tố của tác phẩm khiến cho

người đọc khi tiếp xúc với tác phẩm như thấy được cả “mùi hương của đất

đai”, ở mỗi từ ngữ người đọc có thể cảm nhận thấy “dường như có hai lần ý

nghĩa nghệ thuật, một ý nghĩa hôm nay, và một ý nghĩa mang từ thời ấu thơ

đầy xúc cảm, trong những từ thân thuộc nghe vừa ngon lành, vừa hữu hình, ý

vị”” [40, tr. 77-78].

Bản sắc dân tộc ở văn hóa nói chung, ở văn học nói riêng, không phải

là một đại lượng nhất thành bất biến, cũng không có sẵn từ khởi thủy. Con

đường hình thành của nó không phải theo lối tự sinh, biệt lập, trái lại, từ trong

giao lưu, tiếp nhận, cộng sinh, tạp giao, đồng hóa với các nhân tố văn hóa,

văn học từ bên ngoài dân tộc, rồi từ đó sinh thành, phát triển, tạo ra bản sắc.

Những đổi mới trên cơ sở tiếp nhận ảnh hưởng từ các yếu tố ngoại lai, một

khi đã có thành tựu, lại mang vào văn hóa, văn học dân tộc những phẩm chất

và truyền thống mới, phát triển và đổi mới nó. Sự phát triển văn học, nhất là

văn học hiện đại, gắn liền với thành tựu của những cá tính sáng tạo kiệt xuất,

chính những thành tựu của họ đã góp phần quyết định vào việc duy trì, phát

triển, làm giàu bản sắc dân tộc cho văn học.

Ở cuối thể kỉ XX, xu thế giao lưu, hòa nhập của các nền văn hóa, văn

học, xu hướng thế giới hóa – trở nên một tất yếu không tránh khỏi. Đồng thời

chính quá trình này lại đề ra vấn đề duy trì tính đa dạng văn hóa, duy trì

những giá trị mang bản sắc dân tộc trong thế giới hiện đại.

Tóm lại, có thể tổng kết một vài ý chính về khái niệm bản sắc dân tộc

như sau: Bản sắc dân tộc hay tính dân tộc của văn học mang nội dung lịch sử

và phải được xem xét theo quan điểm lịch sử. Nó được hình thành trong cả

một quá trình lâu dài mà những cái mốc quan trọng là sự hình thành dân tộc

24

và sự vận dụng ngôn ngữ dân tộc làm ngôn ngữ văn học. Trong suốt quá trình

ấy, nó không ngừng được phong phú thêm bởi sự tiếp thu tinh hoa của nước

ngoài. Vì vậy, một sáng tác văn học có tính dân tộc cao phải vừa kế thừa được

truyền thống văn học dân tộc, vừa đổi mới và có đóng góp vào sự phát triển

của truyền thống ấy. Nói như vậy, tính dân tộc hiện nay là sự kế thừa có chọn

lọc, có cải biến, có phát triển tính dân tộc trong lịch sử, là sự hấp thụ tất cả

những tinh hoa của văn hóa nhân loại. Tính dân tộc hiện nay là một sự hài hòa

cả mới lẫn cũ. Cái mới không có nghĩa là cái gì từ bên ngoài đem vào. Cái từ

ngoài đem vào phải phù hợp với ta, phải được đồng hóa thành cái của ta. Như

vậy, cái mới không còn là “của người” nữa mà chính là “của ta” rồi. Cái mới

cũng là cái cũ của ta được chọn lọc và hiện đại hóa. Mặt khác, cái cũ không

phải chỉ là cái bản sắc di sản cũ của dân tộc ta mà còn là cái kho tàng quý báu

về tư tưởng và văn hóa của nhân loại từ bao nhiêu đời nay nữa. Vì vậy, quan

niệm cho rằng cũ là tính dân tộc, mới là không phải tính dân tộc là một quan

niệm mơ hồ, không chính xác [36, tr. 17]. Cũng cần phải chú ý tới những biểu

hiện phong phú, đa dạng của tính dân tộc trong sáng tác văn học trên cả hai

phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Có như vậy mới có thể đánh

giá một cách đúng đắn, tổng thể, toàn diện về tính dân tộc trong văn học. Đây

cũng là mục tiêu của đề tài đặt ra khi xem xét những biểu hiện của tính dân

tộc trong sáng tác của hai nhà thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn. Vấn đề

này sẽ được người viết tiếp tục triển khai trong những chương tiếp theo của

luận văn.

1.2. Hành trình thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn

Khi nói đến những chặng đường sáng tạo của một tác giả, nhà thơ

P.Antokolxky cho rằng: “Cũng như trong bất kì một lĩnh vực nào cái quan

trọng nhất trong nghệ thuật là quá trình, là sự hình thành, là cuộc đấu tranh, là

sự tìm tòi, là một dòng nước không bao giờ cạn tự khơi lấy một dòng sông”.

Để tìm hiểu về hành trình sáng tạo và những quan niệm nghệ thuật trong thơ

25

Nguyễn Duy cũng như Đồng Đức Bốn, chúng tôi cho rằng không thể chỉ

dừng lại ở phạm vi xem xét từng tác phẩm của các tác giả mà phải nhìn nhận

sự nghiệp sáng tác của họ như một hành trình mà mỗi tác phẩm chỉ là một sự

kiện, một mắt xích, một cột mốc trong hành trình đó.

1.2.1. Thơ Nguyễn Duy

1.2.1.1. Hành trình sáng tạo

Chúng ta biết rằng, thời đại Nguyễn Duy sống và sáng tạo là một thời

đại đầy biến động của lịch sử, văn hóa, xã hội Việt Nam. Có thể nói, chưa bao

giờ trong lịch sử dân tộc lại dồn dập nhiều biến cố, sự kiện đến vậy. Nó đã có

những tác động sâu sắc đến đời sống văn học, mà trước hết là quan điểm, tư

tưởng - nghệ thuật của các nhà văn trong đó có Nguyễn Duy. Vốn rất nghiêm

túc với nghề nghiệp, lại luôn khao khát khẳng định mình, Nguyễn Duy không

ngừng trăn trở làm sao viết cho hay, cho dễ đi vào lòng người. Suy nghĩ ấy đã

thôi thúc ông phải tìm tòi, đổi mới và sáng tạo. Trong kháng chiến chống Mỹ,

những nhà thơ cùng thời với Nguyễn Duy thường nói nhiều về cái chung,

nhân danh cộng đồng, dân tộc. Trong khi đó, Nguyễn Duy lại lặng lẽ một lối

đi riêng - tìm về với nguồn cội dân gian. Nguyễn Duy quan niệm “nếu quá

hiện đại thì dễ mất chân”. Quan niệm này đã chi phối đến quan điểm thẩm mĩ

của ông. Ông vẫn theo sát cuộc chiến tranh, vẫn bám sát những sự kiện trọng

đại của đất nước, có điều ông nhìn nó bằng cái nhìn của dân gian và phản ánh

nó với lối nói quen thuộc giản dị, đời thường.

Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh tại xã Đông Vệ, thị xã

Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa), tỉnh Thanh Hóa. Nơi đây từng

được coi là vùng đất thiêng vừa mang tính huyền thoại, vừa mang tính lịch sử

lại giàu truyền thống văn hóa. Cũng giống như nhiều vùng miền khác, Thanh

Hóa là một vùng quê có nhiều lễ hội dân gian và hình thức sinh hoạt văn hóa

của cộng đồng. Đây cũng là miền quê nổi tiếng về âm nhạc dân gian với

26

những làn điệu dân ca trong trẻo, mượt mà.

May mắn được sinh ra và hầu như sống nhiều trên mảnh đất thiêng,

vùng đất có một nền văn hóa dân gian phong phú, đặc sắc, nên con người

Nguyễn Duy đã thấm một cách tự nhiên nền văn hóa ấy, từ lối sống đến tư

tưởng, tình cảm, cách nhìn, cách nghĩ. Đọc các tác phẩm của Nguyễn Duy,

người đọc thấy niềm tự hào của ông về mảnh đất quê hương đã sinh ra nhiều

tài năng cho dân tộc. Người ta thấy cái không khí thiêng liêng của đền chùa,

miếu mạo phảng phất trong khá nhiều bài thơ của Nguyễn Duy. Đặc biệt là

hình ảnh vùng quê nghèo lặp đi lặp lại khá nhiều đến trở thành một ám ảnh

miên man không bao giờ dứt trong đời thơ của nhà thơ.

Xét về hoàn cảnh gia đình, từ nhỏ Nguyễn Duy đã mồ côi mẹ. Ông ở

với bà ngoại và lớn lên trong tiếng ầu ơ mang hơi ấm tình thương của bà.

Trong tâm hồn Nguyễn Duy, bà ngoại là hình ảnh gần gũi, thân thuộc nhất.

Bà ngoại Nguyễn Duy không biết chữ nhưng thuộc rất nhiều ca dao, hò vè,

truyện tiếu lâm… Những ngày tháng thơ ấu sống cùng bà ngoại, Nguyễn

Duy được đắm mình trong những câu ca dao, những câu chuyện cổ tích.

Nguồn văn hóa dân gian ấy như dòng sữa ngọt ngào của mẹ đã nuôi ông

lớn lên rồi ngấm vào tâm hồn ông, ngấm vào thơ ông một cách tự nhiên lúc

nào không biết. Đây có thể là điều khiến sau này nhà thơ viết thành công

thể loại lục bát và vận dụng ca dao một cách điêu luyện, tài tình. Hòa nhập

với thơ ca đương đại, song cái cội rễ, cái linh hồn của thơ Nguyễn Duy vẫn

là chất truyền thống, vẫn mang mạch thuần Việt.

Năm 1965, Nguyễn Duy từng làm tiểu đội trưởng tiểu đội dân quân

trực chiến tại khu vực cầu Hàm Rồng, một trọng điểm đánh phá ác liệt của

không quân Mỹ trong những năm chiến tranh chống Mỹ. Năm 1966 ông nhập

ngũ, trở thành lính đường dây của bộ đội thông tin, tham gia chiến đấu nhiều

năm trên các chiến trường Đường 9 Khe Sanh, Đường 9 Nam Lào, chiến

trường miền Nam, biên giới phía Bắc (năm 1979). Sau đó ông giải ngũ, làm

27

việc tại Tuần báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam và là trưởng đại diện văn

phòng báo tại phía Nam. Có thể nói những năm vào quân ngũ trở thành người

lính và sau đó lại làm báo đã tạo điều kiện cho Nguyễn Duy đi qua nhiều

vùng đất của Tổ quốc. Rồi tiếp tục cuộc hành trình vượt ra ngoài biên giới,

Nguyễn Duy đã đi tới các nước Xã hội chủ nghĩa, qua các nước Tây Âu và

Mĩ. Ông được ví như con ngựa sung sức, luôn ở tư thế động, đôi chân không

biết mỏi. Đến đâu ông cũng viết, cũng xúc cảm và suy ngẫm. Ông khám phá

cuộc sống để nếm trải, lắng nghe, quan sát và suy nghiệm. Vì vậy, Nguyễn

Duy đã chắt lọc, đã “đãi cát tìm vàng” từ núi cát của đời sống thực tế. Ông

chắt gạn lấy những hạt bụi vàng và chuyển hóa thành thơ. Đó cũng là lí do vì

sao các sáng tác của Nguyễn Duy có bản sắc riêng, không biến dạng, không

pha tạp do hoàn cảnh sống.

Nguyễn Duy làm thơ rất sớm, khi đang còn là học sinh trường phổ

thông Lam Sơn, Thanh Hóa. Năm 1973, ông đoạt giải nhất cuộc thi thơ tuần

báo Văn nghệ với chùm thơ: Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, Tre Việt Nam sau

này được đưa vào trong tập Cát trắng. Ngoài thơ, ông cũng viết tiểu thuyết,

bút kí. Năm 1997, Nguyễn Duy tuyên bố “gác bút” để chiêm nghiệm lại bản

thân rồi tập trung vào làm lịch thơ, in thơ nên các chất liệu tranh, tre, nứa, lá,

thậm chí bao tải. Từ năm 2001, ông in nhiều thơ trên giấy dó. Nguyễn Duy đã

biên tập và năm 2005 cho ra mắt tập thơ thiền in trên giấy dó (gồm 30 bài thơ

thiền thời Lý, Trần do ông chọn lọc) có nguyên bản tiếng Hán, phiên âm, dịch

nghĩa và dịch thơ tiếng Việt, dịch nghĩa và dịch thơ tiếng Anh với ảnh nền và

ảnh minh họa của ông.

Nguyễn Duy được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật

năm 2007 và nhiều phần thưởng cao quý khác.

Tác phẩm chính:

Thơ: Cát trắng (1973), Ánh trăng (1984), Đãi cát tìm vàng (1987), Mẹ và em

28

(1987), Đường xa (1989), Sáu và Tám (1994), Về (1994), Bụi (1997)

Thể loại khác: Em Sóng (kịch thơ - 1983), Khoảng cách (tiểu thuyết - 1986),

Nhìn ra bể rộng trời cao (bút kí - 1986)

Thơ Nguyễn Duy nhiều bài có cái ngang tàng nhưng vẫn trầm tĩnh và

giàu chiêm nghiệm, vì thế cứ ngấm vào người đọc và có lúc khiến người ta

phải giật mình suy nghĩ với nhiều bài thơ được bạn đọc yêu thích: Tre Việt

Nam, Ánh trăng, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Đò Lèn, Sông Thao,… Ông được

đánh giá cao trong thơ lục bát, một thể thơ có cảm giác dễ viết nhưng viết

được hay thì lại rất khó. Thơ lục bát của Nguyễn Duy được viết theo phong

cách hiện đại, câu thơ vừa phóng túng lại vừa uyển chuyển, chặt chẽ.

Nguyễn Duy được giới phê bình đánh giá là người đã góp phần làm mới thể

thơ truyền thống này. Bài thơ Tre Việt Nam của ông đã được đưa vào sách

giáo khoa phổ thông.

Nguyễn Duy còn có bộ ba bài thơ theo thể tự do nổi tiếng được công

chúng biết tới viết về những trăn trở, suy nghĩ của ông về tương lai đất nước,

tương lai của con người và môi sinh. Bài thơ đầu mang tên Đánh thức tiềm

lực viết từ năm 1980 đến năm 1982 với những suy tư về tiềm lực và tương lai

của đất nước. Bài thơ thứ hai được viết lúc ông tới thăm Liên Xô và đến năm

1988 mới hoàn thành mang tên “Nhìn từ xa… Tổ quốc”. Bài thơ viết về

những trì trệ, bất cập mà ông mắt thấy tai nghe trong thời kì bao cấp, với

những câu thơ rất mạnh mẽ “như những nhát dao cứa vào lòng người đọc”

(Lê Xuân Quang). Bài thơ thứ ba viết sau đó chục năm, mang tên Kim, Mộc,

Thủy, Hỏa, Thổ vẫn cùng thi pháp với hai bài thơ trước nhưng chủ đề lại rộng

hơn: Những suy nghĩ về thiên nhiên, không gian và tương lai con người.

Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ xuất thân từ cuộc kháng chiến chống

Mỹ, khi mà chiến tranh là đời sống và chiến đấu là lẽ sống của mỗi con

người. Nguyễn Duy là con của người mẹ “Áo nhuộm bùn váy nhuộm nâu bốn

mùa”, người mẹ của “đồng đất quê mình” nên chất chân chỉ mộc mạc đã ăn

29

vào máu thịt nhà thơ. Khi cuộc chiến bảo vệ quê hương mới khép lại, ta vẫn

nghe những lời thơ nặng đằm tình cảm đồng đội, quê hương, lời thơ phát ra từ

trái tim của người trẻ tuổi mở lòng mình để hiến dâng và yêu thương. “Gừng

càng già càng cay” - thơ Nguyễn Duy cũng vậy. Thời gian càng làm những

câu thơ thêm sâu sắc, ý nghĩa. Đọc thơ Nguyễn Duy trước và sau đổi mới, ta

dễ nhận thấy một sự chuyển mình trong lối suy nghĩ khiến thơ ông giàu chiêm

nghiệm và đậm màu sắc triết lí. Nếu trước đổi mới, dư âm của cuộc chiến

tranh, với chiến thắng lẫy lừng của toàn dân tộc ảnh hưởng tới nhiều bài thơ

Nguyễn Duy, thì sau đổi mới, dòng thơ Nguyễn Duy thể hiện một cái nhìn

khá toàn diện về cuộc chiến tranh với cả nước mắt và nụ cười, cả động, cả

tĩnh, đồng thời tác giả đi sâu khám phá về cuộc sống con người – cả một thế

giới đời thường xô bồ, ồn ã đi vào thơ ông trong những phút tĩnh lặng nhất

của lòng mình. Trong cuộc sống vội vã, con người có ít thói quen nhìn lại

ngày hôm qua, thơ Nguyễn Duy cho ta những phút giây giật mình, để nhận ra

đã bỏ qua chính mình, chạy theo những gì khó lí giải được bằng sự gần gũi,

bình dị. Thơ Nguyễn Duy như lời đánh thức, đánh thức cõi tâm tình đang dần

ngủ quên giữa bao bộn bề đời thường.

Thơ Nguyễn Duy mang nỗi nhớ của một người con xa quê, đồng thời

lại chất chứa một dự cảm về tương lai. Nỗi nhớ quê như nhớ về một giá trị

đẹp đẽ của văn hóa dân tộc sẽ dần nhạt nhòa với thời gian và nhịp sống. Có

thể nói, thơ Nguyễn Duy trước đổi mới đã có chút nuối tiếc, muốn níu kéo

những giá trị đẹp đẽ đó, đã lo lắng và đã buồn. Buồn vì chính mình và buồn

hơn ở quanh mình. Đổi mới là cái bản lề, con người được tự do và tự chủ

nhiều hơn nên cuộc sống vận động mạnh mẽ, có lúc lấn át những riêng tư và

suy tư. Thơ Nguyễn Duy chứa cái nhìn dữ dội hơn: nếu trước đó chỉ là dự

cảm thì giờ hiện thực phơi bày trước mắt, nếu trước đó là lời vỗ về an ủi mình

và mọi người thì giờ là lời thẳng thắn, sắc cạnh.

Thơ Nguyễn Duy cả trước và sau đổi mới đều mang đến cho người đọc

30

những xúc cảm sâu lắng, bởi một điều giản dị là tác giả viết bằng một tấm

lòng chân thật, bộc bạch hết mình cái tôi chân quê. Trong thơ Nguyễn Duy,

vừa đậm dấu ấn truyền thống lại vừa thể hiện những cách tân đáng ghi nhớ.

Tác giả đã kết hợp hai giá trị này trong thơ mình một cách nhuần nhị khiến

cho mỗi dòng thơ là một hơi thở tự nhiên và chân tình đến gan ruột. Đó là yếu

tố quan trọng bậc nhất để thơ Nguyễn Duy đến được và “kết kén” được trong

tâm tình của người đọc.

Sau hơn ba mươi năm với hơn mười tập thơ, Nguyễn Duy tuyên bố

không làm thơ nữa. Nguyễn Duy chân thành bộc bạch: “thơ bỏ tôi chứ tôi

không bỏ thơ”. Ông nhận ra rằng mình cứ lặp đi lặp lại mình nên không làm

thơ nữa. Tuy vậy, cái nghĩa vụ của một người công dân yêu nước vẫn theo

đuổi ông. Những năm gần đây, Nguyễn Duy làm lịch bằng thơ, làm thơ bằng

lịch với những minh họa của gồng gánh, thúng mủng, nong nia, giành mẹt, rổ

rá, dần sàng, chum vại, cái nồi đất, cái điếu cày… như để bày tỏ cái tông tích,

cái cội rễ của thơ mình. Có lẽ ông là người đầu tiên đưa thơ đi triển lãm. Bởi

thế, khi Nguyễn Duy tuyên bố gác thơ, ngừng thơ thì chúng ta chỉ nên hiểu là

ngừng làm thơ chứ không ngừng sống với thơ. Năm 2010, ông đã cho ra đời

tuyển tập thơ Nguyễn Duy.

1.2.1.2. Quan niệm nghệ thuật của nhà thơ Nguyễn Duy

Đến với thơ Nguyễn Duy gần như không rõ một tuyên ngôn nghệ thuật

nào. Thơ Nguyễn Duy đem đến cho người đọc cảm giác dường như nhà thơ

làm thơ như một nhu cầu tự tại để giãi bày những gì đang diễn ra trong hồn

cốt mình, có cái hăm hở, có cái lắng sâu, có cả cái “tào lao” như chuyện

phiếm… thơ chính là mình, là mình không chút gọt rũa. Chính vì vậy, nếu đi

tìm một tuyên ngôn nghệ thuật trong thơ Nguyễn Duy quả thật không dễ

dàng. Nhưng hãy lắng nghe lời thú nhận chân thực của ông về “cái nghề thiên

phú” này, ta sẽ hiểu được sâu sắc hơn thiên chức của một nghệ sĩ - một nhà

31

thơ trong quan niệm của Nguyễn Duy.

Nguyễn Duy nói: “Có đụng chạm xã hội mới ra cái thần hồn văn

chương… Còn nhà văn… thật? Ở anh nhà văn thật ấy có một nhà hiền triết,

một nhà văn hóa, một nghệ sĩ. Thực ra cái lõi của văn chương là triết. Từ cả

những chuyện tầm phào nhất cũng có thể phả triết học vào, có thế mới dội lại

được cuộc đời. Chỉ khác nhà triết học trình bày triết học của mình bằng lí lẽ,

khoa học, còn nhà văn bằng cảm xúc. Thời buổi hiện đại rồi đâu phải ai cũng

thành nhà thơ được. Làm thơ phải đọc, phải đi đó đi đây, không có kiến thức

tổng hợp xã hội sao làm thơ ra cái thời hôm nay? Để thành một nhà văn lớn ở

nước mình khó lắm, phải là một nhà văn hóa lớn, không thâu tóm được tinh

hoa văn hóa dân tộc vào một cá thể không thể trở thành một nhà văn hóa

lớn!...”. Chỉ bằng từng ấy ngôn từ ta đã hiểu khá trọn vẹn về quan niệm nghệ

thuật của nhà thơ. Nguyễn Duy đặt ra cái trách nhiệm tất yếu của người làm

thơ là phải đi, phải tìm hiểu - phải dấn thân mới tìm được bản sắc cuộc sống,

nhất là cuộc sống đầy biến động của hiện tại. Nhưng không phải là bản chất

nông cạn ai tìm cũng thấy, mà phải là bản chất chứa trong đó triết lí của cuộc

sống, triết lí của cảm xúc. Thơ Nguyễn Duy giàu triết lí, những triết lí không

thuần túy lí lẽ mà được tạo nên từ cách lí giải hiện tượng cuộc sống rất tinh tế

và thông minh, chen lẫn cảm xúc chân thành như “Cơm bụi ca”, “Tháp

Chàm”, “Tiếng hát hòa bình”, “Gặp một người lính trẻ”… Có khi triết lí từ

những đối tượng tưởng như không thể triết lí: Ti vi, Sida, ly hôn, chứng

khoán, cơm bụi… Thơ Nguyễn Duy bắt kịp với thời đại, nói được nỗi niềm

của con người thời đại bởi trong quan niệm của nhà thơ luôn đề cao ý thức về

thời đại mình đang sống. Không thể chạy theo lối thoát li riêng mình, thơ phải

gắn với cuộc sống, dù cuộc sống ấy thế nào nhà thơ cũng phải đứng vững trên

mảnh đất hiện tại. Nguyễn Duy đã ý thức rất rõ thời cuộc, chính vì vậy nhận

ra rất rõ nhiệm vụ của một người nghệ sĩ trong thời cuộc hiện tại. Nhà thơ

trân trọng và yêu mến truyền thống, song đi vào những giá trị hiện đại lại

32

cũng là một thế mạnh của nhà thơ, nó làm cho thơ ông vừa có cái mềm mại,

ngọt ngào của truyền thống, vừa có cái linh hoạt, mới mẻ của hiện đại. Chính

vì có cái linh hoạt của hiện đại mà trong quan niệm của nhà thơ, nhà văn “có

năm bảy loại” và có một loại nhà văn… thật. Nhà văn Thật phải song hành

cùng với nhà văn “năm bảy” kia trong một cộng đồng, và có thể ngay trong

một con người. Điều quan trọng là giữa hai loại nhà văn này có tồn tại đấu

tranh? Và nhà văn Thật có khẳng định được giá trị của mình hay không? Nhà

văn Thật – đó là nhà văn trước hết phải có sự chủ động trong việc nhập cuộc,

vào đời. Nhưng nhà văn – giống như một giá trị tinh thần cao khiết, không thể

làm việc dưới sự hối thúc của đồng tiền. Có cực đoan quá chăng khi xem yếu

tố tài chính là một động lực không xứng đáng để sáng tạo trong thời hiện đại

này? Từ xưa, các cụ đã coi cái tài văn chương là cái tài thiên bẩm, và để xứng

với cái thiên bẩm ấy phải là đạo làm người cao khiết, một cốt cách thanh cao,

nho nhã… Nguyễn Duy là người “phục cổ” thì chẳng lý gì lại có thể phủ nhận

một quan niệm đẹp và giàu tính nhân văn của cha ông mình. Một nhà văn

phải là một nhà văn hóa lớn! Nguyễn Duy đặt ra nhiệm vụ cho người nghệ sĩ

– một nhiệm vụ cả cuộc đời chứ không phải ngày một ngày hai. Và chính ông

trên con đường sáng tạo của mình cũng không ngừng trau dồi vốn văn hóa,

không chỉ riêng văn hóa dân tộc mình mà văn hóa nhân loại để làm giàu thêm

cho tâm hồn và đẹp thêm mỗi trang thơ. Nguyễn Duy luôn tạo nên cái mới

trong thơ bởi ông nhận thức một cách sâu sắc về sự sáng tạo và trách nhiệm

của nhà thơ trong thời đại, của một duyên kiếp nặng nợ với văn chương, với

cuộc đời. Trong thơ Nguyễn Duy, giá trị nào cũng được thể hiện trong sự kết

hợp nhuần nhị giữa cái hiện đại và cái truyền thống, nó đã trả lời thực tế hơn

cả cho quan niệm nghệ thuật của nhà thơ. Đó là thơ – sự kết hợp giữa những

nỗ lực giữ gìn và tìm kiếm. Đọc thơ Nguyễn Duy người ta luôn có cảm giác

như được gặp gỡ hai con người, mới mẻ và truyền thống, nhưng ở tâm hồn

nào cũng cuốn hút và gợi suy ngẫm. Đó là cái riêng mà không phải nhà thơ

33

nào cũng tạo dựng được trong thơ mình. Nguyễn Duy với quan niệm nghệ

thuật gan ruột này và bằng những trang thơ đã chứng minh cho lối suy nghĩ

nghiêm túc và đầy trách nhiệm về người nghệ sĩ, và Nguyễn Duy đã khẳng

định được vị thế của mình trong tâm thế của những người từng đọc thơ ông.

Ngay từ những ngày đầu làm thơ, quan niệm nghệ thuật của Nguyễn

Duy đã khá rõ và càng về sau càng sâu sắc hơn “Ta là dân vậy thì ta tồn tại”.

Đây không hẳn là quan điểm nghệ thuật mà đúng hơn là một nhận thức, một

chiêm nghiệm về cuộc đời của Nguyễn Duy, mà ở đó thơ ca đã là một phần

máu thịt. Ý thức được điều đó, Nguyễn Duy đã tìm về với văn hóa, văn học

dân gian, tiếp tu ̣c phát huy hồn cốt của văn học dân gian trong thơ ca bở i theo . Cái mới nằm ngay trong cái ông văn chương không nhất thiết phải khác la ̣ tưởng chừng như đã xưa cũ. Ông từ ng phát biểu:

Nghìn năm trên dải đất nà y

Cũ sao được cánh cò bay la đà

Cũ sao được sắc mây xa

Cũ sao được khúc dân ca quê mình

(Khúc dân ca)

Bám chặt vào cội rễ dân gian, thơ ông luôn hiển hiện cái chất mô ̣c ma ̣c,

ngọt ngào củ a những làn điê ̣u dân ca . Từng là nhà thơ khoác áo lính xông pha trên nhiều chiến trường khốc liệt, Nguyễn Duy có cách nhìn, cách thể hiện

riêng về chiến tranh. Ông nhìn chiến tranh bằng cái nhìn của một thi sĩ thảo

dân. Một thảo dân đích thực bao giờ cũng vừa thiết tha với số phận đất nước,

vừa lo âu cho thân phận chúng sinh. Trong cái nhìn ấy, phần trăn trở nhất của

chiến tranh vẫn là thân phận người, thân phận lương dân [46, tr. 7]. Vì vậy

quan niệm nhân sinh bao trùm trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn Duy là

“Nghĩ cho cùng mọi cuộc chiến tranh/ Phe nào thắng thì nhân dân đều bại”.

Có lẽ ảnh hưởng từ nét văn hóa làng quê xứ Thanh - một vùng quê

nghèo nên cái tôi trong thơ Nguyễn Duy không phải là cái tôi cao đạo, ngông

34

ngạo với đời, mà là một cái tôi giản dị, giàu lòng yêu nước “Dù ở đâu cũng

Tổ quốc trong lòng/ Cột biên giới đóng từ thương đến nhớ”. Thơ Nguyễn

Duy cũng thường nói về cái khổ, điều mà ông hiểu sâu sắc trong những ngày

còn thơ ấu. Nguyễn Duy nhạy cảm với cái khổ "Tôi trót sinh ra nơi làng quê

nghèo/ quen cái thói hay nói về gian khổ/ dễ chạnh lòng trước cảnh thương

tâm". Điều đó không có nghĩa là Nguyễn Duy than nghèo kể khổ. Xu hướng

của ông là tìm cái đẹp trong cái khổ. Đứng trong cái khổ, Nguyễn Duy vẫn

giàu tinh thần lạc quan yêu đời, không ngừng vươn mình, vượt khổ. Quan

điểm này của ông thể hiện rất phổ biến trong các sáng tác. Vì vậy mà cái đẹp

bao trùm trong sáng tác của nhà thơ đó là cái đẹp đơn sơ. Có thể nói quan

niệm nghệ thuật này của Nguyễn Duy đã tiếp thu từ quan niệm về cái đẹp

trong văn hóa của người Việt. Cái đẹp không phải là cái cao sáng, mĩ miều

mà là cái đơn sơ, bình dị. Quan niệm nghệ thuật này đã giúp nhà thơ vững

vàng trong suốt hành trình sáng tạo thơ.

1.2.2. Thơ Đồng Đức Bốn

1.2.2.1. Hành trình sáng tạo

Đồng Đức Bốn sinh ngày 30/3/1948, ở xóm Lê Lác, thôn Song Mai

(tức làng Moi), xã An Hồng, huyện An Hải, thành phố Hải Phòng. Theo lời kể

lại của chính Đồng Đức Bốn, tuổi thơ của thi sĩ gắn liền với những buổi chiều

lang thang trên đồng cỏ hoe vàng, bắt châu chấu về nướng ăn hoặc tát cá đồng

mang ra chợ bán. Mẹ Đồng Đức Bốn là người phụ nữ chân quê, lam lũ nhưng

bà thuộc nhiều ca dao tục ngữ và những khúc hát ru trong lành. Còn người

cha lại có tư chất nghệ sĩ, hồi trẻ cũng đã từng khát vọng thơ ca nhưng bất đắc

chí, mộng văn chương không thành. Đồng Đức Bốn khi sinh ra đã hội tụ cả

hai yếu tố: tiếp tục mang khát vọng của người cha và lại được hấp thu nguồn

văn học dân gian từ người mẹ.

Để đến với nghệ thuật, với thơ ca, Đồng Đức Bốn đã phải vật lộn với

những thử thách khắc nghiệt của cuộc sống. Có lẽ, chính cuộc đời - trường đại

35

học chân chính của mọi thiên tài - đã giúp nhà thơ có nhân sinh quan sâu sắc

ngay từ lúc bắt đầu cầm bút cũng như luyện rèn cho ông cái bản lĩnh kiên gan

bước vào mảnh đất thơ lục bát, mảnh đất đã trồng nên nhiều cây cổ thụ lớp

trước như Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Bính,… mà nếu không

khéo, ông sẽ bị chết rợp dưới tán các cây cổ thụ đó. Tâm huyết, tài năng, sự

khổ luyện đã giúp con thuyền thơ Đồng Đức Bốn vượt qua mọi thử thách để

vượt trùng dương trên hành trình chinh phục độc giả thơ của thời đại mới.

Thuở hàn vi, chàng thanh niên chân chất làng Moi “đã từng là thanh

niên xung phong. Giải ngũ, Đồng Đức Bốn về làm việc tại Xí nghiệp sửa chữa

ô tô Hải Phòng làm thợ gò bậc 6/7”, sau đó về làm việc tại Xí nghiệp xuất

nhập khẩu gia cầm Hải Phòng, anh giữ chân đại diện cho Xí nghiệp ở Hà

Nội… (Nguyễn Huy Thiệp). Những tháng ngày ấy, có ai ngờ Đồng Đức Bốn

đã ấp ủ tấm lòng tri ân với thơ ca.

Từ những ngày đầu sáng tác, Đồng Đức Bốn có viết thơ lục bát và cả

những thể thơ khác. Tập thơ xuất bản năm 1992, Con ngựa trắng và rừng quả

đắng, “chen lẫn với một số bài thơ lục bát khá độc đáo là rất nhiều bài thơ tự

do, ỡm ờ, nửa dơi, nửa chuột, lúc cao giọng chính trị, lúc học đòi cung cách

trí thức lả lơi…” [10, tr. 535] và chính sau bước thể nghiệm “ném đá dò

đường” ấy, nhà thơ đã phát hiện ra lục bát mới hợp tạng với mình nhất. Với

định hướng này, Đồng Đức Bốn không bơ vơ giữa muôn nẻo lộ trình đến với

thơ nữa mà rẽ vào một con đường cụ thể - thơ lục bát và thể thơ dân tộc này

đã gắn bó, góp phần định hình phong cách sáng tạo của nhà thơ.

Đồng Đức Bốn đến với thơ không phải là sớm, sau phút ngỡ ngàng ban

đầu, ông đã định vị ngay được sở trường của mình – thơ lục bát. Với giọng

thơ lạ trên lãnh địa này, tác giả dần khẳng định được vị trí vững chắc của

mình trong lòng độc giả yêu mến thơ. Cái lạ ở thơ Đồng Đức Bốn, không phải

do những cách tân cầu kì về hình thức hay câu chữ, mà chính ở khả năng phát

hiện cái sâu sắc, tinh tế trong cái giản đơn thường ngày, lồng trong một giọng

36

điệu thơ chua xót, đặc trưng và nhất là ở năng lực kết nối hình ảnh, tạo ra

những biểu tượng lạ lẫm mà đầy quyến rũ, kiểu như: “Mải mê đuổi một con

diều/ Củ khoai nướng để cả chiều thành tro” (Chăn trâu đốt lửa). Nói cách

khác, “sự hiện đại trong thơ Đồng Đức Bốn chính là ở nội lực bên trong của

từng câu thơ”[10, tr. 547].

Theo Nguyễn Huy Thiệp, Đồng Đức Bốn làm thơ như một định mệnh

thiêng liêng của trời đất dành cho ông, vị trí thơ Đồng Đức Bốn do vậy cũng

vô cùng đặc biệt – vị cứu tinh của thơ lục bát: “Đồng Đức Bốn là một nhà thơ

khai sáng và sáng tạo ra những cái mới trong thơ lục bát. Anh thuộc diện nhà

thơ bảo tồn, bảo lưu các giá trị thơ ca truyền thống”. Quả thật, “đây là một

điều khá đặc biệt trong chợ trời lẫn lộn trắng, đen, thật giả, lẫn lộn chuyên

nghiệp và nghiệp dư hôm nay” [10, tr. 546].

Như đã hoàn thành sứ mệnh được giao phó, sau khoảng 15 năm cầm

bút sáng tác, Đồng Đức Bốn rời cõi người, cõi thơ: “Chăn trâu đốt lửa xong

rồi/ Thì ta trả bút cho trời làm hoa” (Trả bút cho trời), để lại một gia tài thơ

gồm sáu tập thơ dầy dặn mà có đến gần 80% là thơ lục bát: Con ngựa trắng

và rừng quả đắng (1992), Chăn trâu đốt lửa (1993), Trở về với mẹ ta thôi

(2000), Cuối cùng vẫn còn dòng sông (2000), Chuông chùa kêu trong mưa

(2002) và Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc (2006).

Hành trình thơ Đồng Đức Bốn phát triển khá nhanh, khi đã bén duyên

lục bát, ông viết liên tục, khỏe và đều tay. Những mạch nguồn lớn trong thơ

Đồng Đức Bốn không mấy thay đổi qua các tập thơ. Ấy là những nguồn cảm

hứng mạnh mẽ bắt nguồn từ quê hương, làng mạc, từ cuộc sống, từ đời tư, từ

chính hình ảnh cái tôi ngạo nghễ “Hiểu tôi là ngọn núi cao/ Thương tôi có

một ngôi sao cuối trời”… cùng lối viết tự nhiên, giọng điệu vừa chua xót vừa

kiêu bạc, hình ảnh thơ quen thuộc nhưng đầy ấn tượng: dòng sông, con đò,

con đường, mưa, nắng, gió, bão, con ngựa, gai, chùa chiền…

Trong thơ Đồng Đức Bốn có quê hương, có làng mạc, có những bức

37

tranh quê êm ả và dữ dội, còn có cả hương bồ kết đặc sệt quê mùa phả vào

thơ… Thơ Đồng Đức Bốn bàn đến chuyện tình yêu, thất tình, tình đơn

phương, tình yêu nở muộn… và bàn đến phố phường, chuyện nhân sinh –

cuộc sống… với những triết lí sâu sắc đến bất ngờ. Đặc biệt giai đoạn nhà thơ

trên giường bệnh, khát vọng cuộc sống, ý thức dâng hiến đã khiến cho Đồng

Đức Bốn sáng tác được nhiều bài thơ, nhiều câu thơ “thánh” như bắt được của

Trời vậy. Ý thơ ám ảnh, dư ba… những tình cảm vốn chân thật, mạnh mẽ lại

thiết tha, da diết của một người ham sống, yêu sống.

1.2.2.2. Quan niệm nghệ thuật của Đồng Đức Bốn

Mỗi nghệ sĩ đến với thơ ca đều mang theo những quan niệm nghệ thuật

của riêng mình dù nói hay không nói trực tiếp bằng lời. Đồng Đức Bốn đã

nhiều lần trực tiếp bộc lộ quan niệm thơ trong thực tiễn sáng tác và cả khi trả

lời phỏng vấn của độc giả. Ông không ngần ngại đưa ra những ý kiến đầy tâm

huyết: “…mỗi ngày tôi đều nghiệm ra rằng thơ là thứ tôi tâm huyết”[10, tr.

681], “Thơ hay là sự thăng hoa Trời cho cộng với những trải nghiệm khổ

hạnh của một đời người”[10, tr. 682], “Thơ là lộc của Trời, cũng là cái Tội

trời đày” [10, tr. 687]. Đặc biệt, Đồng Đức Bốn ý thức: “thơ phải đạt đến độ

giản dị. Không có nghĩa có sao nói vậy, mà giản dị chính là cách tiếp cận để

đến với bản chất cuộc đời cũng như cõi sâu xa của tâm hồn. Lối nói giản dị là

lối nói của dân gian. Tri thức kinh nghiệm dân gian, chính là phần tiềm thức

trong mỗi con người hiện đại” [10, tr. 690]. Những quan niệm này nhất quán

và càng ngày càng sâu sắc hơn trong hành trình sáng tác của nhà thơ Đồng

Đức Bốn.

*Trời cho được chút lộc thơ

Với Đồng Đức Bốn làm thơ là một cái duyên và là ân huệ mà ông Trời

đã dành riêng cho mình:

Trời cho được cái lộc thơ

Cứ leo núi Tản Tây hồ lội sương

38

(Tôi viết tặng tôi)

Nhưng nhận lộc thơ của Trời, Đồng Đức Bốn phải trả giá bằng những

nỗi đau khôn cùng, chính ông đã từng thốt lên “Trời lấy của tôi nhiều quá”,

mà toàn những thứ không bao giờ có lại lần thứ hai: mẹ, các con trai, hai đứa

cháu ngoại bé bỏng… Cứ mỗi lần một tập thơ của Đồng Đức Bốn được in ra

thì lại thêm một người thân yêu của tác giả rời bỏ thế gian này. Làm thơ nguy

hiểm đến vậy nhưng tại sao Đồng Đức Bốn vẫn không từ bỏ? Phải chăng vì

thơ ca đối với thi sĩ đã là một thứ định mệnh.

Xưa kia, Tản Đà, Nguyễn Bính từng than thở về sự bèo bọt của kiếp

thơ nhưng ở Đồng Đức Bốn, ta thấy một tâm thế chủ động đón nhận, tự ý

thức sâu sắc về nhiệm vụ cao cả, thiêng liêng của mình: Ngai vàng là của

thần linh/ Còn thơ là của chúng sinh muôn loài (Vu vơ I).

Với Đồng Đức Bốn, thơ có nhiều thiên chức quan trọng, trời hãy còn

cao thì thơ hãy còn phải làm cho kiếp người thêm thanh cao, tươi đẹp:

Nếu trời còn mãi biết cao

Thì thơ còn mãi thanh tao kiếp người

(Kính gửi anh Điềm)

Và quan trọng hơn cả, những vần thơ được viết ra phải để cho người

yêu nhau (Chuông chùa kêu trong mưa).

Đồng Đức Bốn làm thơ như là một sự thi hành ý trời, mà nhiệm vụ

quan trọng bậc nhất phải làm là bắt được những câu thơ Trời ban. Rất nhiều

độc giả yêu thơ cùng đồng tình nhận xét, thơ Đồng Đức Bốn quê mùa, mộc

mạc như lúa, như khoai nhưng thi thoảng lại đột ngột xuất hiện những câu thơ

hay đến mức ngỡ ngàng mà chỉ có thể giải thích bằng thần hứng Trời cho.

*Bằng câu thơ của trời cho riêng mình

Đồng Đức Bốn nợ thơ của Trời và cách duy nhất để: “Tôi đi mua cái tự

do” là “Bằng câu thơ của Trời cho riêng mình” (Chín xu đổi lấy một hào).

Suốt một đời, Đồng Đức Bốn đau đáu về thơ, tích lũy vốn sống, nếm trải mọi

39

khổ đau để khi “trong ta cuộc sống đã tràn đầy” (Tố Hữu), ông bắt đầu viết.

Thơ Đồng Đức Bốn có khi làm một cây đàn để hóa giải nỗi oan cho

con người, thấu hiểu cho từng số phận của con người:

Câu thơ làm một cây đàn

Tôi ngồi tôi gảy khúc oan cho người

(Lấy thơ làm một cây đàn)

Trong quan niệm của Đồng Đức Bốn, thơ biến hóa vạn năng, có lúc thơ

giải cứu cho con người qua cơn sóng gió của cuộc đời:

Đưa em qua trận bão người

Bằng câu lục bát của trời cho anh

(Đưa em qua trận bão người)

Có khi thơ hóa thành nén tâm nhang thắp tri ân kiếp trước:

Tôi vẫn đi dọc về ngang

Câu thơ thắp những nén nhang cho người!

(Thăm mộ Nguyễn Du)

Đồng Đức Bốn không chỉ ý thức về giá trị thơ ca mà còn ý thức rất sâu

sắc về giá trị của thể thơ lục bát. Lục bát hóa thành nén nhang, con thuyền, vị

cứu tinh … và còn có thể biến những điều không thể thành có thể:

Ước gì sang dải ngân hà

Bằng câu lục bát hương hoa móng rồng

(Về đây với bến sông)

Đúng là trong lịch sử văn học nước nhà, “… Chưa có ai kỳ vọng vào

thơ và kiêu hãnh với thơ lục bát như Đồng Đức Bốn” [10, tr. 597]. Thi sĩ say

sưa với lục bát tình tang quê mùa, coi nó như là toàn bộ tài sản quý giá của

mình, mà thương ai, yêu ai, ông lại mang ra biếu tặng với tấm lòng thơm thảo.

Cũng như nhiều thi sĩ khác, Đồng Đức Bốn quan niệm, viết thơ phải

xuất phát từ động lực thôi thúc từ bên trong:

Bài thơ anh viết cho mình

Mà cây trúc mọc sân đình tương tư.

40

(Gai rào ngõ quê)

Với Đồng Đức Bốn, lục bát là nơi để kết nối tình yêu thương của

nhân loại; người ta tìm thấy tâm hồn đồng đỉệu của mình trong vườn lục

bát tâm tình:

Tôi thương những hạt mưa dầm

Trong câu lục bát người cầm trao nhau

(Bây giờ vàng chẳng là thau)

Cũng có khi, tác giả lại dùng lục bát để khẳng định vị trí độc tôn của

người tình:

Em là lục bát của tôi

Tôi là hạt bụi xa xôi của nguời.

(Em là lục bát của tôi)

Cách tôn vinh người tình của Đồng Đức Bốn thật độc đáo: “em là lục

bát”. Tại sao lại lục bát?... Bởi lục bát đã trở thành bản mệnh của Đồng Đức

Bốn, là máu thịt, là tất cả những gì mà thi nhân có. Nói về điều này, nhà thơ

Đỗ Minh Tuấn đã rất đắc địa khi phát hiện ra: “… lục bát là … ngai vàng kiêu

hãnh của nhà thơ mà khi nhà thơ đứng dậy khỏi ngai vàng ấy, trao vương

miện lục bát cho người tình, anh ta chỉ còn là hạt bụi mà thôi” [10, tr. 599].

Nói chuyện với những cây cỏ dại – những sinh linh hiền lành nhất, thi

sĩ đem lòng tâm sự cả về chuyện thơ của mình:

Tao không theo đám ăn tàn

Mày không trâu lấm vẩy càn ngõ quê

Chỉ còn tao biết đam mê

Lấy thơ làm cõi đi về bơ vơ.

(Nói chuyện với những cây cỏ dại)

Có thể thấy tâm hồn rất đỗi trong sáng và hồn hậu của thi nhân. Đồng

Đức Bốn không bao giờ theo gót kẻ ăn tàn mà giản dị lấy thơ làm cõi đi về bơ

vơ... Cái bơ vơ này liên quan tới sự nhặt nhạnh những nỗi buồn nhân tình thế

41

thái trong thơ ông.

*Thơ tôi nhặt cái người ta vẫn buồn

Khác với nhiều người, Đồng Đức Bốn góp nhặt những bức tranh đời

đau thương, những tâm sự chua xót có từ trong cuộc sống của mình, của mọi

người để kết dệt nên lục bát:

Chuông chùa đếm giọt mưa sa

Thơ tôi nhặt cái người ta vẫn buồn.

(Nhà quê)

Sự định hướng này ảnh hưởng trực tiếp đến cảm hứng, đề tài, chủ đề

của thơ Đồng Đức Bốn. Ông thường làm thơ khi buồn, khi lòng tràn đầy nỗi

chua xót:

Buồn thì tôi vẫn làm thơ

Để em có cái vu vơ mà tìm

Nếu rơi xuống biển không chìm

Thì bay cao vẫn cánh chim giang hồ.

(Gửi Tân Cương)

Người buồn, thơ cũng buồn theo nhưng cái buồn trong thơ Đồng Đức

Bốn không làm cho con người ủy mị. Tác giả từng nói: “Thơ tôi buồn. Nhưng

đó là cái buồn không mềm yếu. Nó làm cho con người ta thêm tin yêu và

mạnh mẽ hơn trong cuộc sống”. [10, tr. 681]. Theo đó, khi làm thơ, Đồng

Đức Bốn biết mình viết gì đồng thời cũng ý thức rất rõ cái mình sẽ để lại cho

đời không phải cái gì khác ngoài một thứ - kinh đọc buồn:

Tôi là một kẻ mồ côi

Thế gian mắc nợ còn tôi nợ tình

Đến khi mình trả được mình

Thì thơ tôi đã thành Kinh đọc buồn.

(Nửa đêm Đà Lạt)

Địa hạt của thơ Đồng Đức Bốn chính là nỗi buồn của nhân thế – một sự

42

lựa chọn ngọn nguồn cảm hứng thơ có đường nét rõ ràng và thực tiễn sáng tác

cũng thống nhất với quan niệm ấy. Vô tình hay hữu ý, chính sự lựa chọn đó

đã góp phần mang lại thành công cho Đồng Đức Bốn trên con đường đến với

thơ ca.

*Thì ta trả bút cho Trời làm hoa

Khi xem xét đặc điểm thơ của một tác giả cụ thể, sẽ thiếu đi phần sâu

sắc nếu chúng ta không tìm hiểu quan niệm thơ của chính người sáng tác

được thể hiện qua chính những câu thơ mang tính “tuyên ngôn” vì quan niệm

thơ chi phối trực tiếp đến toàn bộ sự nghiệp thơ ca của họ.

Đồng Đức Bốn làm thơ có sự thôi thúc mạnh mẽ từ trong bản thể của

mình, như thể do ông Trời bắt nhà thơ phải tham gia cái sự nghiệp này. Suốt

một đời sáng tác, Đồng Đức Bốn chưa bao giờ quên nhiệm vụ của mình, cho

đến một ngày, nhận thấy mình đã sắp trả xong món nợ truyền kiếp, thi sĩ báo

hiệu trước một sự giã từ:

Chăn trâu đốt lửa xong rồi

Thì ta trả bút cho trời làm hoa.

Này ta bảo cho các ngươi

Ta đến chỉ ở với người không lâu.

(Trả bút cho trời)

Đồng Đức Bốn sáng tác theo thánh chỉ của Trời! Quan niệm này buộc

nhà thơ riết róng cống hiến hết sức mình cho thơ, không được phép bỏ dở nửa

chừng mặc dù ông phải trả cái giá bằng nhiều bi kịch đau đớn trong đời tư.

Qua khảo sát các tập thơ của Đồng Đức Bốn, chúng tôi thấy quan niệm

thơ của tác giả nối một mạch thống nhất từ tập đầu tiên cho đến tập cuối cùng,

càng về sau, triết luận thi ca càng đậm nét hơn. Có thể nói, với Đồng Đức

Bốn, thơ là một dự nghiệp đa đoan dâu bể thật nhưng nó cũng đầy vinh

quang [10, tr. 683]. Kẻ mượn bút của Trời để phiêu du vào lục bát, khi đã

43

hoàn thành sứ mệnh của mình, thì đồng thời với ngừng bút là bản mệnh cũng

đi về với tổ tông, cùng Nguyễn Du, Nguyễn Bính, Tản Đà, Huy Cận, Tố

Hữu… Một đời thơ như thế là trọn vẹn.

Quan niệm sáng tác là một cơ sở chắc chắn để độc giả đi vào giải mã

văn chương. Trên cơ sở hiểu tâm nguyện về thơ của Đồng Đức Bốn, chúng ta

lại có thêm một chìa khóa để mở ra những cánh cửa bí ẩn thơ trong các sáng

44

tác của nhà thơ

Chƣơng 2: BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG THƠ NGUYỄN DUY,

ĐỒNG ĐỨC BỐN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NỘI DUNG CẢM HỨNG

Khảo sát thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn có thể thấy tính dân tộc đậm

đà được thể hiện sâu sắc trên phương diện nội dung cảm hứng. Cả hai nhà thơ

đã tiếp thu nguồn thi liệu truyền thống để làm nên nét bản sắc mang dấu ấn

riêng trong các sáng tác của mình. Nguồn thi liệu đó được biểu hiện sâu đậm

ở những nguồn cảm hứng chủ đạo về quê hương, đất nước và con người Việt

Nam. Hiện lên trên những trang thơ là hình ảnh làng quê với vẻ đẹp bình dị,

thân thương…, là những con người hồn hậu mang trong mình bao phẩm chất

cao đẹp của con người Việt Nam truyền thống.

2.1. Quê hƣơng, đất nƣớc

2.1.1. Quê hương, đất nước trong thơ ca Việt Nam

Quê hương - hai tiếng thiêng liêng đã ăn sâu vào tâm hồn, máu thịt mỗi

người con đất Việt. Trong văn học nói chung, thơ ca nói riêng, quê hương, đất

nước đã trở thành một trong những nguồn cảm hứng chủ đạo, dào dạt nhất.

Cũng chính bởi: “Quê hương mỗi người chỉ một - Như là chỉ một mẹ thôi -

Quê hương nếu ai không nhớ - Sẽ không lớn nổi thành người” (Đỗ Trung

Quân) cho nên mỗi nhà thơ đều có những bài thơ hay viết về đất mẹ, để lại

được ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Viết về quê hương, các tác giả

đều thể hiện một tình yêu quê chân thành, đằm thắm. Và có thể nói, tình yêu

quê hương đất nước là thứ tình cảm cao đẹp nhất, sâu sắc nhất trong truyền

thống thơ ca Việt Nam từ xưa đến nay.

Tùy từng thời kì và bản thân từng tác giả trên con đường sáng tạo nghệ

thuật của riêng mình đều có những sáng tạo rất riêng và mới mẻ về nội dung

tác phẩm và hình thức nghệ thuật đã tạo nên hình hài quê hương với nhiều

diện mạo hết sức phong phú. Tuy nhiên, tựu trung lại, cái làm nên hồn cốt,

45

bản sắc dân tộc trong mảng thơ ca về đề tài quê hương đất nước là việc tạo

dựng hình ảnh một làng quê Việt mộc mạc mà thanh bình, yên ả với biết bao

cảnh vật quen thuộc, thân thương: bờ tre, gốc rạ, mái đình, cây đa, bến nước,

con đò…

Tình yêu quê hương đất nước là một mảng đề tài lớn trong ca dao. Đó

là những tình cảm chân thành, tự nhiên mà sâu sắc nồng nàn: sự gắn bó với

quê hương, với nghề nông, lòng yêu mến, tự hào về cảnh đẹp, về cuộc sống

thanh bình, về những danh lam thắng cảnh của đất nước…

Anh đi anh nhớ quê nhà

Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương

Nhớ ai dãi nắng dầm sương

Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao

Bài thơ là lời tâm sự chân thành, đằm thắm về nỗi nhớ quê nhà da diết,

cồn cào của chàng trai. Thật đẹp và đáng trân trọng biết bao khi hiện lên trong

nỗi nhớ quê ấy là hình hài quê hương qua những món ăn dân dã, đạm bạc, là

những con người tần tảo, chịu thương chịu khó của đồng quê. Cảnh và người

của quê hương đã in sâu trong tâm khảm của người con xa xứ và trở thành

nguồn động lực, điểm tựa nương náu cho mỗi tâm hồn.

Đến văn học trung đại - nền văn học mang tính quy phạm, phi ngã thì

thiên nhiên vẫn trở thành đối tượng để thể hiện tâm tư, cảm xúc của con

người, nhưng do sự chi phối của quan niệm “văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ ngôn chí”

nên phần nào thiếu vắng vẻ đẹp hồn nhiên vốn có. Nói như vậy, không có

nghĩa là thi nhân xưa đã bớt cái say sưa khi ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên đất

nước. Thiên nhiên vẫn trở thành nguồn cảm hứng bất tận trong thơ ca giai

đoạn này. Ta vẫn luôn bắt gặp những hình ảnh thiên nhiên quen thuộc của

làng quê Việt Nam trong cả thơ chữ Hán và chữ Nôm của Nguyễn Trãi. Đó là

tiếng cuốc kêu khắc khoải gọi hè, là hình ảnh hoa xoan lớp lớp trong cơn mưa

46

bụi mùa xuân lất phất nơi thôn dã:

Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn

Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan

(Cuối xuân tức sự - Nguyễn Trãi)

Đến cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX, ta thấy xuất hiện những

vần thơ đẹp viết về thiên nhiên trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào dân

tộc Nguyễn Du. Và quả đúng như một lời nhận xét: “Truyện Kiều là cái gì rất

Việt Nam, đậm đà tình nghĩa Việt Nam, tình nghĩa quê hương xứ sở”. Tình

yêu thiên nhiên đất nước ấy được thể hiện một cách thầm kín qua việc ngợi ca

cảnh đẹp bốn mùa của quê hương:

Ngày xuân con én đưa thoi

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi

Cỏ non xanh rợn chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

Dưới trăng quyên đã gọi hè

Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông

Tiếp nối mạch cảm xúc ngợi ca những nét đẹp của quê hương xứ sở,

nhóm thi sĩ đồng quê của phong trào thơ Mới với những đại diện tiêu biểu

như Anh Thơ, Nguyễn Bính, Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ… đã có những bài

thơ hay viết về quê hương. Làm sao có thể quên được một bức tranh quê đẹp

đến say lòng trong Bến đò ngày mưa của Anh Thơ:

Tre rũ rượi ven bờ chen ướt át

Chuối bơ phờ đầu bến đứng dầm mưa

Và dầm mưa dòng sông trôi dào dạt

Mặc con thuyền cắm lại dậu trơ vơ

Vẫn sử dụng những thi liệu quen thuộc mang đậm dấu ấn văn hóa làng

quê với những hình ảnh gần gũi, thân thương: dòng sông, bến bãi, con đò…

47

Anh Thơ đã khắc họa thành công một góc không gian quê Việt tự bao đời.

Được mệnh danh là thi sĩ “quê mùa” (Hoài Thanh), Nguyễn Bính lại

góp thêm một hương vị riêng trong việc cảm nhận và thể hiện hồn quê dân

tộc. Quê hương trong thơ Nguyễn Bính là hình ảnh thiên nhiên và con người

chất phác, mộc mạc như khoai lúa đã làm bâng khuâng bao thế hệ độc giả.

Đến thơ ca cách mạng, khung cảnh làng quê Việt được khắc họa với

nhiều sắc màu khác nhau nhưng đều thể hiện niềm tự hào dân tộc và tình yêu

quê hương đất nước tha thiết, sâu nặng:

Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong

Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

(Bên kia sông Đuống – Hoàng Cầm)

Chiến tranh kết thúc, đất nước bước vào thời kì đổi mới, những nhà thơ

như Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn đã tìm về với cội nguồn dân tộc, trở về với

những giá trị đạo đức, thẩm mỹ từ lâu đời. Qua những sáng tác của mình, họ

tìm về với nguồn cội để kí thác tâm sự, những nỗi niềm của cả một thế hệ thi

sĩ trong thời buổi văn hóa dân tộc đang có nguy cơ bị mai một, mất đi bản sắc

dân tộc. Hay nói cách khác, cảm hứng về quê hương đất nước với hình ảnh

làng quê mang những nét đẹp văn hóa truyền thống, đậm đà bản sắc dân tộc

đã trở thành nguồn mạch mát trong nuôi dưỡng biết bao hồn thơ Việt trong đó

có hồn thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn.

2.1.2. Quê hương đất nước trong thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn

Yêu quê hương, đất nước là một tư tưởng cao đẹp trong thơ ca tự bao

đời. Cả hai nhà thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn đều tìm chỗ đứng cho riêng

mình trên mảnh đất quê hương màu mỡ để từ đó khẳng định bản lĩnh của một

nghệ sĩ chân chính thực sự. Hãy cùng lắng nghe lời tâm sự từ đáy lòng của hai

nhà thơ này:

Trọn kiếp người ta chập chờn nguồn cội

Có một miền quê trong đi đứng nói cười

48

(Quê hương – Nguyễn Duy)

Bao nhiêu là thứ bùa mê

Cũng không bằng được nhà quê của mình

(Gửi Tân Cương – Đồng Đức Bốn)

Đó là những lời bộc bạch từ sâu thẳm tâm linh khẳng định tình yêu sâu

nặng đối với quê hương và cũng là nguyên nhân dẫn tới con đường thơ của

hai tác giả. Quê hương chính là cội nguồn, là cái nôi hình thành và nuôi

dưỡng một con người, nơi lưu giữ bao kỉ niệm vui buồn thuở ấu thơ, nơi mẹ

cha ta đang tần tảo mưa nắng từng ngày…

Về với làng quê, về với cội nguồn sinh dưỡng, Nguyễn Duy, Đồng Đức

Bốn không đi vào khai thác, thể hiện những hình ảnh kì vĩ, lớn lao mà tập

trung ngòi bút vào những vẻ đẹp đơn sơ, bình dị chốn quê mùa - nơi mà họ đã

sống hoặc đã đi qua trong những cuộc hành quân hay những chuyến đi của

cuộc đời. Cảnh sắc quê hương trong thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn hiện

lên trước hết với hình ảnh của những cánh đồng quê, khu vườn quê mang

những nét đặc trưng riêng, mang cảm xúc và tâm hồn quê mùa của thi sĩ. Đó

còn là hình ảnh của gốc lúa, bờ tre hồn hậu, là khúc sông quê tắm mát với con

đò hiền lành đợi khách sang sông, là mảnh trăng cong đong đưa trước gió…

Đó còn là những phiên chợ quê với cảnh trao đổi, bán mua đạm bạc gắn với

cuộc sống bao đời nay của những cư dân thuộc nền văn minh nông nghiệp lúa

nước. Và cũng không thể không kể đến những con vật hết sức gần gũi, quen

thuộc chốn thôn quê: con cò, con ve, con cuốc… Tất cả đều được khắc họa

với một vẻ đẹp thật thanh bình, nên thơ.

Thiên nhiên quê trong thơ Nguyễn Duy luôn được nhìn nhận trong mối

quan hệ gắn bó với con người, là biểu tượng cho con người Việt Nam. Cây tre

trong bài Tre Việt Nam - một hình ảnh quen thuộc của làng quê Bắc Bộ luôn

bao bọc, chở che cho mỗi ngôi làng quê thâm nghiêm cổ kính, lặng lẽ chứng

49

kiến, chia sẻ mọi thăng trầm của dân tộc, mọi buồn vui của con người… đã

trở thành một biểu tượng đẹp cho những phẩm chất cao quý của dân tộc và

con người Việt Nam:

Thân gầy guộc lá mong manh

Mà sao nên lũy nên thành tre ơi

Ở đâu tre cũng xanh tươi

Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu

….

Lưng trần phơi nắng phơi sương

Có manh áo cộc tre nhường cho con

Tre là hiện thân cho những đức tính cần cù, chịu thương chịu khó, giàu

đức hi sinh, anh dũng, kiên cường… của con người Việt Nam trên mảnh đất

quê cằn cỗi, nghèo khó. Và Nguyễn Duy phải là nhà thơ thấm cảnh quê, “phải

chân quê, chân cảm lắm mới vận vào thơ được”[47], mới tìm ra được mối liên

kết vô hình giữa con người và cảnh vật. Với hình ảnh cây tre, có thể nói

Nguyễn Duy đã thật sự thành công khi xây dựng một biểu tượng đẹp về thiên

nhiên và con người Việt Nam, mặc dù “có biết bao nhà thơ, nhà văn đã viết

về cây tre Việt Nam, nhưng cách nói, sự liên tưởng, nhân hóa mang tính hình

tượng độc đáo kiểu Nguyễn Duy thì quả là chưa gặp ở bài thơ nào, ở tác giả

nào” [23].

Là người yêu quê, gắn bó sâu nặng với những gì giản dị, gần gũi, thân

thuộc nên trong thơ Nguyễn Duy ta thường bắt gặp tầng tầng lớp lớp những

hình ảnh quen thuộc của xứ đồng. Mảnh vườn quê trong thơ Nguyễn Duy

hiện hình sinh động với vẻ đẹp của những cảnh sắc rất đời thường, mộc mạc

nơi quê mùa. Đi qua vùng đất thơ mộng của xứ Huế, nhà thơ trào dâng một

cảm xúc nhớ bạn. Và hiện lên trong nỗi nhớ ấy là hình ảnh của những gì thân

thuộc nhất với hàng dâu loáng thoáng cùng đồi hoa mơ trắng:

Bến Tuần loáng thoáng vườn dâu

50

Em xa vườn lựu từ lâu lắm rồi

Lối mòn đá cuội rong chơi

Lơ thơ trắng dưới chân đồi hoa mơ

(Nhớ bạn)

Cảnh sắc làng quê trong thơ Nguyễn Duy có khi chỉ là những loài cỏ

dại mọc dọc đường xa nhưng cũng đầy lưu luyến, nhớ thương:

Mùi hương hoang dại thơm lừng

từ thăm thẳm núi bỗng dưng bay về

(Hoa dại)

Nhiều lúc nhà thơ cực kì say mê, thích thú làm bạn với những loài côn

trùng, với cây cỏ hoang dại đồng nội. Ta cảm nhận sâu sắc niềm thỏa thuê,

vui thích của tác giả giữa không gian thiên nhiên khoáng đạt, rộng mở:

Dang tay ngang mặt thảo nguyên

Dang chân ta ngả mình bên côn trùng

Ngỡ bay lên khoảng không cùng

Lại đằm xuống cỏ giữa đồng hoang vu

(Cỏ dại)

Nói tới cảnh sắc làng quê là phải nhắc đến những cánh đồng lúa bạt

ngàn trong nắng vàng với những bông lúa nặng trĩu bông mang theo biết bao

ân tình của người trồng lúa:

Đồng chiêm phả nắng lên không

Cánh cò dẫn gió qua thung lúa vàng

Gió nâng tiếng hát chói chang

Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời

(Lúa chín)

Thơ Nguyễn Duy bắt rễ sâu trong cội nguồn dân dã và vững bền của

làng quê nên anh trân trọng biết bao sự sống của từng hạt lúa quê hương:

Phải đất nghèo nên hạt lúa giàu tình

51

Biết thương người như người thương lúa

Quen nắng bỏng dẫu dầm vào lửa

Lúa vẫn nguyên lành màu xanh

(Hạt lúa cháy nảy mầm)

Qua hình ảnh của hạt lúa cháy nảy mầm ta cảm nhận được sự sống

mãnh liệt, bền bỉ của làng quê nghèo đói, mộc mạc, cực nhọc mà hồn hậu bao

dung hay đó cũng chính là sự sống của một hồn thơ đậm đà hương sắc đồng

quê, dân dã.

“Quê hương”, hai tiếng ấy đối với Nguyễn Duy vô cùng thiêng liêng.

Vì vậy khi viết về cảnh vật chốn làng quê, Nguyễn Duy thường cảm nhận và

đưa vào thơ những gì bình dị, đời thường, mộc mạc nhất như cái bản chất vốn

có của chốn quê mùa thôn dã, thậm chí đó còn là “Cái điều ở người khác đôi

khi chỉ là chuyện thoáng qua. Nhưng ở anh, nó lắng sâu và dường như dừng

lại” (Hoài Thanh). Chính bởi lẽ đó, Nguyễn Duy đã chắt chiu đến từng li để

làm nên sự sống cho thơ. Anh gom nhặt tất cả: Hương đồng, mùi bùn, màu

đất… gom góp tất thảy những nhọc nhằn, lam lũ để gửi vào thơ. Vì thế, ta đâu

có gì xa lạ với hình ảnh khu vườn quê quá đỗi dân dã, mộc mạc trong thơ

Nguyễn Duy.

Cũng giống như Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn xây dựng trong thơ mình

một khu vườn quê với những hình ảnh cây cỏ, hoa lá rất đỗi quen thuộc. Đó là

những hàng rào quê thanh mảnh được tô điểm bằng những thứ cây thanh nhã,

giản dị như cây rau, cây thuốc hay một vài loài hoa: cúc tần, tầm xuân, râm

bụt… Thậm chí, ở những bờ rào ấy có khi chỉ là những thứ cây lá, những loài

hóa, loài cây nghèo nàn chốn quê mùa nhưng lại gắn bó với tiềm thức văn hóa

dân gian:

Khổ thân cho cả bờ rào

Dây tơ hồng héo quắt vào mùa thu

52

(Cơn mưa dừng ở Sóc Sơn)

Như nhiều nhà thơ khác, Đồng Đức Bốn đã tiếp thu và sáng tạo nhiều

hình ảnh quen thuộc đã trở thành biểu tượng trong thơ ca dân gian và thơ ca

truyền thống. Đó là hình ảnh cây đa đầu làng hiện diện như một dấu mốc

quan trọng để nhận ra làng quê từ phía xa hay những bụi tầm xuân muôn đời

trong ca dao:

Bây giờ chờ đợi tháng ba

Tôi ra đứng ở cây đa đầu làng

(Chờ đợi tháng ba)

Vẫn còn thấy bụi tầm xuân

Áo em phơi để nhạt dần nắng mưa

(Qua nhà người yêu cũ)

Cũng viết về những bờ tre, bụi dứa, tuy chưa thật cụ thể như trong thơ

Nguyễn Duy nhưng ta vẫn nhận ra ở đó những suy nghĩ về sự tan vỡ của

những giá trị truyền thống, tâm trạng buồn thương, xót xa trước những giá trị

xưa cũ của con người bị mờ dần trong cuộc sống hiện tại:

Bờ tre bụi dứa tan rồi

Cuốc kêu ai biết cho lời cuốc đâu

(Cuốc kêu)

Khu vườn quê trong thơ Đồng Đức Bốn còn có sự xuất hiện trở đi trở

lại của nhiều hình ảnh cây cỏ nơi thôn dã như vườn cau, ao cá, cánh bèo, cây

bồ kết, hoa dong riềng… Tất cả đều hiện lên thật hiền hòa, gần gũi. Thế

nhưng những thứ cây mọc trên mảnh đất nhà quê Đồng Đức Bốn còn gợi sự

tàn úa, muộn màng của một mối tình không trọn vẹn:

Mỗi lần cây cải nở hoa

Thì tôi lại nhớ người ta chưa về

(Chuông chùa kêu trong mưa)

Nói đến cây cỏ nơi làng quê của Đồng Đức Bốn, ta không thể không

53

nhắc đến một thứ cây kì lạ không có tên gọi về chủng loại, hình hài, màu sắc

cụ thể nhưng có cảm giác nó luôn có mặt ở khắp mọi nơi trên mảnh đất quê,

đó là gai. Với hình ảnh này ta cũng nhận thấy sự khác biệt rõ rệt của Nguyễn

Duy và Đồng Đức Bốn trong việc khắc họa cảnh sắc quê hương: “Lục bát

Đồng Đức Bốn ngoài sự bình dị, mượt mà còn gợi ra sự gai góc, sắc nhọn của

những chìm nổi đời người” [43, tr. 40].

Gai quê hiện hữu ở khắp mọi nơi. Những cây bồ kết lắm gai, hoa có

gai, bụi tre gai, bờ rào gai, rồi xéo gai, gai rào ngõ quê… đều mang đậm một

sắc thái quê mùa, thôn dã nhưng đồng thời nó cũng gợi lên một cái gì đó đầy

gai góc, sắc cạnh.

Chạy mưa không chạy qua rào

Sao áo em bị gai cào rách lưng

(Chạy mưa không chạy qua rào)

hay:

Đã nông lại lắm gai rào

Tưởng trong sạch thế mà sao vẫn bùn

(Đi qua bến lở sông bồi)

Cây cỏ trong thơ Đồng Đức Bốn không có cái bé bỏng, cam chịu như

trong ca dao mà dường như sống táo bạo hơn, sắc nhọn hơn. Đó phải chăng là

cảm quan, thái độ của nhà thơ trước cuộc đời nhiều biến động, khó hòa nhập

của cuộc sống hiện tại nhiều bon chen, xô bồ, là “quan niệm về một cuộc sống

nhiều nỗi lo, nhiều nguy cơ của anh” [32, tr. 78].

Như vậy, có thể thấy khu vườn quê trong thơ Nguyễn Duy và Đồng

Đức Bốn được khắc họa một cách thật chân thực, sinh động dưới ngòi bút

tài hoa của các nhà thơ đồng quê. Từ những cây cỏ, hoa lá bình dị chốn quê

mùa, dân dã các thi sĩ đã thổi hồn mình vào sự vật, gửi gắm trong đó những

suy nghĩ cảm xúc trước cuộc đời và thể hiện một tình yêu quê hương đất

54

nước sâu lắng.

Nói tới cảnh sắc đồng quê, ta không thể không kể tới sự góp mặt của

những con vật gần gũi với người dân quê. Thế giới loài vật nơi làng quê khi

thì là những con vật mang số kiếp long đong, thảm thương như một biểu

tượng cho thân phận người dân quê, khi thì là những con vật ngộ nghĩnh đem

lại những niềm vui nhỏ bé cho đời sống tâm hồn người dân quê.

Con cò và cánh cò từ lâu đã trở thành biểu tượng văn hóa của người

dân đất Việt. Nó lắng sâu vào đời sống tâm hồn, tình cảm của người dân quê

và hiện lên thật gần gũi, thân thương. Trong thơ Nguyễn Duy, ta vẫn thấy

thân thuộc biết bao với cánh cò “bay lả bay la” từ những cánh đồng quê yêu

dấu vào câu quan họ đằm thắm ân tình, rồi lại theo câu quan họ của những

người bình dân đi ra chiến trường. Cánh cò chao nghiêng ấy mang theo cả

bóng hình quê hương, giúp con người trở lại với những phút bình tâm, thảnh

thơi để rồi lại vững tâm hơn khi vào trận đánh:

Con cò bay lả bay la

Theo câu quan họ bay ra chiến trường

Nghe ai hát giữa núi non

Mà hương đồng cứ dập dờn trong mây

(Khúc dân ca I)

Với Nguyễn Duy, hình ảnh cánh cò trắng mãi là biểu tượng cho vẻ đẹp

truyền thống mang bản sắc dân tộc của tâm hồn người Việt tần tảo, lam lũ mà

trắng trong, tinh khiết. Chính vì vậy, cánh cò đã, đang và sẽ mãi là thi liệu

truyền thống mang những giá trị trường tồn cùng năm tháng:

Nghìn năm trên dải đất này

Cũ sao được cánh cò bay la đà

(Khúc dân ca II)

Đôi lúc trong thơ Nguyễn Duy ta lại bắt gặp hình ảnh cánh cò biển

cùng những con sò, con ốc, con nghêu. Làm trắng “cả một bờ đại dương”

55

nhưng cánh cò vẫn như cô đơn, lạc lõng trước sự đổi thay của thời cuộc. Đó

phải chăng cũng chính là tâm trạng của con người trước những biến thiên,

dâu bể cuộc đời. Trước sự đổi mới của đất nước, bên cạnh niềm vui mừng

hân hoan thì một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm và mang nặng hồn quê như

Nguyễn Duy sao tránh khỏi những phút giây lo sợ sự đổi mới ấy sẽ làm

phai nhạt đi, mai một đi, thậm chí tàn lụi đi những giá trị truyền thống của

văn hóa làng quê:

Mênh mông không một cánh buồm

Toàn ghe gắn máy với xuồng đuôi tôm

Đáy giăng, lưới quét, sóng chồm

Lấy ai làm bạn sớm hôm với cò

(Lời ru con cò biển)

Nguyễn Duy là nhà thơ đi nhiều. Vì vậy, có thể thấy sự góp mặt của

nhiều loài vật trong khu vườn quê của ông - nơi những vùng đất mà nhà thơ

có dịp đi qua. Đó là rừng Trường Sơn thời chiến rộn rã tiếng ve ngày hè, là

vùng Đồng Tháp Mười trong mùa nước nổi với những bầy rắn, con cò mang

đặc trưng riêng của một vùng đất phì nhiêu, trù phú…

Nếu Nguyễn Duy thường hướng về sự triết lí hóa khi khắc họa các loài

vật thì Đồng Đức Bốn lại thiên về tâm trạng hóa. Trong thơ Đồng Đức Bốn ta

vẫn thấy xuất hiện những con vật quen thuộc của chốn đồng quê bùn đất rơm

rạ với cánh cò, cánh vạc… Thế nhưng, những con vật này đã hao hụt đi vẻ

yên ả vốn có, thay vào đó là một số kiếp long đong, thảm thương:

Ngang trời tiếng vạc mảnh mai

Chém trăng đã đứt làm hai mảnh rồi

(Cái đêm em ở với chồng)

Hay như những con trâu, con bò hiền lành trong cơn lũ vỡ đê, phải chịu

cảnh tang thương cùng với con người:

Trâu bò thất thểu long đong

Trên bè tre rối bòng bong xoong nồi

56

(Vỡ đê)

Bên cạnh hình ảnh những loài vật mang số kiếp long đong, lận đận của

một hồn thơ đầy hoang mang, day dứt, luôn đi tìm cho mình những giá trị

sống cao quý, ta còn thấy trong khu vườn quê Đồng Đức Bốn những con vật

ngộ nghĩnh, thân thuộc mang lại niềm vui nhỏ bé cho đời sống tâm hồn người

dân quê. Đó là hai chú cào cào gây xao xác cả một vùng cỏ dại: Tưởng rằng

gió đến xôn xao/ Không ngờ hai chú cào cào đánh nhau (Viết ở bờ sông), là

những loài chim hiền lành, thản nhiên bay nhảy như không hề biết đến một

cuộc đời giông bão: Mỗi lần cỏ dại trên đê/ Chim ngói đi thả bùa mê khắp

đồng (Chuông chùa kêu trong mưa), là tiếng chim đánh thức niềm hi vọng: Ở

trong những bụi gai tre/ Vẫn còn những tiếng chích chòe gọi mưa (Đi tìm lại

những lời ru)… Thiên nhiên trong thơ Đồng Đức Bốn thường gắn với tâm

trạng con người, gắn với cuộc sống nơi làng quê. Đó là những hình ảnh, âm

thanh rất đỗi thân thương, quen thuộc với mỗi chúng ta nhưng lại chất chứa

bao tâm trạng suy nghĩ của một tâm hồn vốn bình dị mộc mạc nay sống giữa

cuộc đời mới, những gì là đối cực của cuộc sống làng quê yên ả đang dần xâm

lấn khiến nhà thơ hoang mang, mong tìm ra cho mình giá trị sống đích thực.

Đến với thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn chúng ta bắt gặp tầng tầng

lớp lớp hình ảnh thân thuộc của làng quê. Tất cả đều được nhìn nhận bằng

cảm quan quê mùa, bình dị, thuần hậu và cái tình của người trong cuộc. Vì

thế, ta dễ dàng nhận thấy những hiện tượng tự nhiên như nắng, gió, trăng, sao

không còn là cảnh sắc của đất trời nữa mà đã trở thành một phần máu thịt của

tâm hồn con người, mang trong đó linh hồn dân tộc từ ngàn năm vọng lại.

Bầu trời quê với vầng trăng thơ mộng đã khơi nguồn cảm hứng cho

tâm hồn của biết bao thi sĩ. Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn yêu trăng bằng

cả tấm lòng của một con người quê mùa thực sự. Dưới ngòi bút tài hoa của

Nguyễn Duy, vầng trăng quê trở nên lung linh, đẹp đẽ, huyền ảo và thanh

57

bình biết bao:

Ô kìa đột ngột trăng lên

Trăng, trời, trăng láng bạc trên lá rừng

(Trăng)

Khi còn là người lính giữa đại ngàn Trường Sơn, ánh trăng đã không ít

lần làm xao động tâm hồn thi sĩ, trở thành người tri âm tri kỉ với con người:

Tình cờ đó khéo giống đây

Trăng kia cùng cánh võng này soi nhau

Đêm nay em anh ở đâu

Cứ nhìn trăng ấy – nhìn lâu thấy người

(Võng trăng)

Chính bởi yêu trăng, gắn bó thân thiết với trăng đến thế nên khi về

sống giữa thành thị nơi ánh điện cửa gương, nhìn vầng trăng tình nghĩa một

thời vẫn tròn đầy, vẹn nguyên, nhà thơ không khỏi nghĩ suy, day dứt về sự

vững bền của những giá trị xưa cũ trước cuộc sống đô thị hóa hiện đại. Vì

vậy, có thể nói Ánh trăng đã một lần nữa khẳng định bản chất “nhà quê” trong

con người Nguyễn Duy. Yêu tha thiết đồng quê, nhà thơ đã ví bầu trời sao với

chiếc “bánh đa rắc vừng”:

Nở bung hoa cải hoa cà

Trời sao như chiếc bánh đa rắc vừng

(Sao)

Đồng Đức Bốn cũng yêu trăng quê tha thiết. Trong một bài thơ viết khi

xa xứ, tác giả mong ước được trở lại quê nhà để hòa mình vào vẻ đẹp của

vầng trăng quê:

Đã đành ngang dọc sơn hà

Cũng nên về chốn quê nhà ngắm trăng

Quê nhà chẳng có đâu bằng

Anh đi rất nhớ sao giăng trắng trời

58

(Đã đành ngang dọc sơn hà)

Thế nhưng, ta cũng thấy vầng trăng trong thơ Đồng Đức Bốn có sự

biến hóa muôn hình vạn dạng, mang theo những cảm xúc, tâm trạng của con

người. Đó là hình ảnh trăng với các biến thể: trăng gầy, trăng cong, trăng

tròn, trăng khuyết, trăng vàng, trăng ngà… Tất cả đều gợi cho người đọc một

cảm giác về sự cô đơn, lẻ loi hay đó cũng chính là tâm trạng và nỗi niềm của

nhà thơ.

Bên cạnh hình ảnh trăng, ngọn gió đồng quê cũng được nhắc đến nhiều

trong thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn. Những cơn gió mùa thu mát lành gợi

nhớ đến một tuổi thơ êm đềm với những câu hát ru ngọt ngào của bà, của mẹ

nay trở về trong những vần thơ đằm thắm của hai tác giả:

Gió mùa thu đẹp đêm rằm

Mẹ ru con, gió ru trăng sáng ngời

Ru con, mẹ hát à ơi

Ru trăng, gió hát bằng lời cỏ cây

(Mùa thu – Nguyễn Duy)

Hãy về đây với bến sông

Với tôi ở giữa cánh đồng heo may

(Hãy về đây với bến sông – Đồng Đức Bốn)

Thế nhưng những ngọn gió quê mùa cũng có lúc mang đến cái giá lạnh,

xa xót trong lòng người. Nguyễn Duy cảm nhận sâu sắc cái cơ cực của đời

người với cuộc sống quẩn quanh:

Gió làm cho nón đứt quai

Cho xuồng ba lá xoay hoài dưới mưa

(Mùa nước nổi)

Còn Đồng Đức Bốn thì cảm thấy lạnh giá cả cõi lòng trong “Cái đêm

em ở với chồng”. Có thể nói, cái đêm gió mùa ấy đã trở thành một nỗi ám ảnh

59

khắc gợi nỗi buồn, nỗi đau của thi sĩ:

Cái đêm hôm ấy gió mùa

Tơ nhện giăng đến cổng chùa thì tan

Cùng với gió, mưa cũng là hình ảnh đặc sắc trong thơ Nguyễn Duy và

Đồng Đức Bốn. Những cơn mưa nơi rừng Trường Sơn dễ gợi nhớ, gợi buồn

trong lòng người. Với Nguyễn Duy, giọt mưa đã trở thành “giọt nhớ”, “giọt

mong”, mang theo những tâm tư, tình cảm của người lính nơi phương xa:

Mùa mưa gõ trống mái tăng

Lưới trời bủa trắng vây giăng cõi người

Giọt nhớ cứ nhỏ nhẻ rơi

Giọt mong rả rích nhão lời tha hương

(Mưa)

Còn mưa trong thơ Đồng Đức Bốn mang theo nhiều sắc thái hình hài.

Lúc là cơn mưa rào mùa hạ, gắn với kỉ niệm: “Chia tay một trận mưa rào/

Thấy gì ở phía ngôi sao bây giờ” (Chia tay một trận mưa rào), khi lại là cơn

mưa giông: “Một ngày ở với mưa giông/ Đường đi chẳng có cầu vồng bắc

qua” (Ở với mưa giông), hay cơn mưa mau: “Nhuộm buồn những hạt mưa

mau/ Thành sao nở trắng vườn cau trước nhà” (Cuối cùng vẫn còn dòng

sông). Thế nhưng, cơn mưa giữa nơi phố thị của Đồng Đức Bốn cũng quê đến

kì lạ dưới cái nhìn, cái cảm đầy chân quê của nhà thơ:

Chiều trên phố Huế ra đi

Mưa mùa đông cứ rù rì bên tôi

(Chiều mưa trên phố Huế)

Cơn mưa mùa đông “rù rì” ấy đã để lại những ấn tượng khó phai, khắc

chạm trong tâm khảm của người thi sĩ nặng tình với đồng quê.

Sau cơn mưa là hình ảnh nắng quê trong trẻo, đẹp tươi. Cái nắng trong

thơ Nguyễn Duy thật bình dị, mượt mà lại vô cùng đẹp đẽ:

Nắng se thành sợi dệt mành

60

(Nắng)

Nhưng đôi khi, đó là cái nắng chói chang lẫn với màu đất đỏ vì lửa đạn

chiến tranh. Cái khắc nghiệt, gian khổ của cuộc chiến như càng được nhân lên

trong màu nắng lửa:

Bom đào đất đỏ, đỏ au

Chói chang trưa nắng một màu lửa nung

(Đất đỏ - nước xanh)

Trong thơ Đồng Đức Bốn, cái nắng quê thường được đẩy tới mức tận

cùng của sự nghiệt ngã. Đó là hình ảnh nắng với các sắc thái: nắng gắt, nắng

tái nắng tê, nắng bơ phờ… làm nổi lên tâm trạng đau đáu, quay quắt những

nỗi đau đời của con người quê cơ cực, chìm nổi. Thế nhưng, chính nhà thơ

cũng nhận ra giá trị của chất quê trong cuộc sống hôm nay với những vần thơ

triết lí mà cũng đầy dung dị, mộc mạc:

Nhà cao dẫu đến lưng trời

Nếu không có cỏ cũng vơi sắc hồng

Huống chi cả một cánh đồng

Nếu không mọc nắng thì không có gì

(Tôi từ ngõ nhỏ ra đi)

Như vậy, có thể thấy các hiện tượng tự nhiên trong thơ Nguyễn Duy và

Đồng Đức Bốn đều có những phút giây trong lành, êm ái, hiền dịu mang một

tâm sự buồn man mác. Nhưng cũng có khi là sự dữ dội, là những phút giận dữ

của thiên nhiên trong cảm nhận riêng của từng tác giả. Những hình ảnh thơ

như thế thường gợi ra sự chìm nổi, nghiệt ngã của cuộc sống làng quê trong

những ngày bom đạn thời chiến hay sự chen lấn, xô đẩy, xót xa của đời người

thời hiện đại.

Con sông quê là một hình ảnh quen thuộc và phổ biến trong thơ ca khi

viết về làng quê. Cả Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đều tiếp thu nguồn thi

liệu truyền thống này từ nền văn học dân tộc. Những dòng sông quê hương

61

nơi mà họ đã sống hoặc đã từng đi qua đều để lại những ấn tượng khó phai

mờ. Nguyễn Duy khi đi qua mảnh đất xứ Huế mộng mơ đã bị hút hồn bởi vẻ

đẹp thơ mộng, trữ tình của dòng sông Hương:

Lan báo hỉ nở tình cờ

Bóng ngô đồng rụng xuống bờ Hương giang

(Nhớ bạn)

Con sông Mê-kông trong mùa nước lũ dữ dội và hùng vĩ nơi vùng đất

Nam Bộ cũng được Nguyễn Duy nắm bắt và thể hiện trong thơ mình:

Sông Mê-kông đổ hồng hào

Chạc ba nào biết rốn nào nông sâu

(Hàng Châu)

Mỗi dòng sông quê đều mang một vẻ đẹp riêng, một sắc thái riêng biệt,

nhưng chúng đều được khắc họa bởi tấm lòng yêu quê, yêu cái đẹp làng quê

của nhà thơ. Mỗi con sông quê khi đi vào thơ ca đều góp phần gợi ra cái

không khí, quang cảnh làng quê nhưng cũng chứa đựng cả những tâm sự, băn

khoăn day dứt của nhà thơ đồng quê trước sự chuyển mình của cuộc sống

hiện đại.

Vênh vênh nửa nước nửa trời

Bàn chân kim loại quậy sôi bến tàu

Soi mình úp mặt nông sâu

Long bong ngũ sắc váng dầu hoang mang

(Sông Cấm)

Đồng Đức Bốn viết nhiều về sông quê, cả những con sông mang

danh cụ thể và những con sông không tên. Tất cả đều hiện lên đầy mĩ cảm

và ngập tràn tâm trạng. Đó là dòng sông Thương mang nặng nỗi đau, nỗi

buồn của con người:

Sông Thương như gỗ hóa trầm

Mùi hương để vết tím bầm trên da

Sông Thương từ buổi em xa

Tay anh quờ xuống hóa ra bị chàm

62

(Sông Thương)

Đó có khi là con “sông mưa” với nỗi thất vọng khi mong ngóng

người tình:

Sông mưa tầm tã trong chiều

Tôi ngồi tôi đợi người yêu tôi về

Tôi ngồi đợi chán đợi chê

Người yêu tôi vẫn chưa về sông mưa

(Viết ở bờ sông)

Như vậy có thể thấy, sông quê trong thơ Đồng Đức Bốn luôn được

khắc họa trong cái nhìn đầy tâm trạng của tác giả. Đó đa phần là những dòng

sông chở nặng nỗi buồn, nỗi đau của con người tạo nên một giai điệu buồn

man mác của thơ anh. Thế nhưng, đọc thơ Đồng Đức Bốn, ta vẫn thấy ánh lên

khát vọng mạnh hơn nỗi đau. Nhà thơ đã hơn một lần gửi vào hình ảnh dòng

sông niềm tin, niềm hi vọng và bản lĩnh:

Sang sông không ngại đắm đò

Mặc cho sóng gió giở trò trêu ngươi

(Đời tôi)

Cùng nói về sông quê nhưng Nguyễn Duy thiên hơn về miêu tả cảnh

vật với những tâm sự có phần nhẹ nhàng, kín đáo hơn trong thơ Đồng Đức

Bốn. Dòng sông quê trong những vần thơ Đồng Đức Bốn nghiêng về gợi tả

tâm trạng, trải bày nỗi lòng với những buồn phiền ưu tư trong tâm hồn con

người. Thậm chí có khi, đó là dòng sông của tâm trạng, nỗi niềm, dòng sông

của cmar thức:

Đừng buông giọt mắt xuống sông

Anh về dẫu chẳng đò đông cũng chìm

(Dòng sông của cảm thức)

Một hình ảnh thường lặp đi lặp lại trong thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức

63

Bốn là những hội hè đình đám - một không gian văn hóa dân gian mang đậm

đặc trưng cuộc sống của con người miền quê. Ta thấy trong thơ của các tác

giả, những ngày hội quê thường được khắc họa một cách trực tiếp như những

ghi chép khi nhà thơ đến thăm hội. Chùm bài “Ghi chép chùa Hương” của

Nguyễn Duy đã ghi lại khá đầy đủ những gì diễn ra trong dịp lễ. Cảnh lễ chùa

vẫn tấp nập như xưa nhưng trong thời đại mới, phương tiện đi lễ của con

người cũng khác. Bên cạnh những “nón mê chân đất” là từng “bầy xe cúp lùa

nhau”, nét đẹp văn hóa truyền thống đã có sự đan xen của cuộc sống hiện đại:

Từng đôi anh trước chị sau

Từng bầy xe cúp lùa nhau trên đường

Cũng là đi hội chùa Hương

Nón mê chân đất thập phương gập ghềnh

(Đi chùa)

Còn trong thơ Đồng Đức Bốn, những ngày hội quê hiện lên với nét đẹp

quen thuộc của những ngày hội truyền thống. Đó là những lễ hội chùa Hương,

hội Lim hay hội mùa hiện lên đầy thiêng liêng, mượt mà, êm ái như những

ngày hội làng thuở xưa:

Tôi về đây với hội Lim

Nghe câu xe chỉ luồn kim thuở nào

Ai người đội nón quai thao

Ngực che thêm dải yếm đào làm duyên

Ở đây trên bến dưới thuyền

Hoa thơm bướm lượn để nghiêng mái chèo

Người ơi để lá ngừng reo

Bướm bay lên núi xuống đèo ngẩn ngơ

Người ơi em vẫn đợi chờ

Sông sâu đã nhện nhả tơ bắc cầu

64

(Hội Lim)

Về với hội Lim là về với giai điệu chín nhớ mười thương trong câu hát

cũ, là đôi mắt lúng liếng đa tình trao gửi của người quan họ khi câu giã bạn

buông lơi.

Đặc biệt, Đồng Đức Bốn hết sức thành công với hình ảnh đình làng

cùng tiếng chuông chùa. Đây là hình ảnh rất đỗi thân thương, ăn sâu vào tiềm

thức và đời sống tinh thần của người dân đất Việt. Đình làng là nơi hội họp

hoặc sinh hoạt văn hóa cộng đồng của người dân quê, nơi để con người quê

được giao lưu và thể hiện sự gắn kết cộng đồng. Đình quê, chùa quê trong thơ

Đồng Đức Bốn hiện lên như một không gian của cõi tâm linh thiêng liêng, là

nơi nương tựa để mỗi tâm hồn Việt tìm đến sự thanh thản:

Mải mê ngồi dựa cột đình

Nghe sư gõ mõ tụng kinh chiều chiều

(Về lại chốn xưa)

Tiếng chuông chùa thanh bình, mênh mang và sâu lắng nơi làng quê là

âm thanh, hình ảnh đầy sức ám ảnh và để lại nhiều dư ba trong thơ Đồng Đức

Bốn. Nó giúp cho thơ ông tĩnh hơn, sâu hơn, “thiền” hơn và trong sáng hơn:

Một tay cầm những xót chua

Một tay vịn tiếng chuông chùa để yêu

(Gửi người một chút mộng mơ)

Bởi tin vào tiếng chuông chùa

Đời còn có lúc thiệt thua vẫn cười

(Đưa em qua trận bão người)

Tiếng chuông chùa đã trở thành một điểm tựa của lòng tin, đức tin, tạo

nên nguồn sức mạnh thiêng liêng giúp con người vượt qua mọi giông bão

cuộc đời.

Tóm lại, bức tranh thiên nhiên, cảnh sắc quê hương đất nước trong thơ

Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn hiện lên hết sức phong phú, đa dạng với việc

65

sử dụng những thi liệu truyền thống quen thuộc. Bằng tài năng nghệ thuật và

tình yêu sâu sắc với làng quê, các nhà thơ đã vẽ lên một bức tranh quê mang

những nét đặc trưng, bản sắc của làng quê Việt Nam. Đó là một quê hương

còn nghèo khó, cơ cực mà yên ả, thanh bình, bình dị mà cũng rất đỗi nên thơ.

Tấm lòng yêu quê, cái tình quê lai láng đã giúp tâm hồn thi nhân thăng hoa để

viết nên những vần thơ tuyệt tác về làng cảnh quê hương Việt Nam.

2.2. Bản sắc của con ngƣời

Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đều là những con người của đồng quê.

Họ gắn bó sâu sắc và yêu tha thiết cuộc sống cũng như con người thôn quê.

Chính vì vậy, hình ảnh con người quê trong thơ của các tác giả hiện lên với

những nét bản sắc riêng không lẫn và thật gần gũi, thân thương. Đó là hình

ảnh người bà, người mẹ, người cha cùng những chàng trai, cô gái của xứ

đồng… Những con người bình dị ấy được khắc họa với những đặc điểm và vẻ

đẹp phẩm chất của con người Việt Nam truyền thống từ bao đời nay. Họ là

những con người giản dị, chân chất mà cũng đầy hồn hậu, bao dung với lối

sống nhân ái, nặng nghĩa tình; sống nghèo khổ, lam lũ mà vẫn bản lĩnh, lạc

quan, tin tưởng vào tương lai… Đó chẳng phải là những nét đẹp bản sắc của

con người Việt Nam từ ngàn xưa đó sao.

2.2.1. Về những người thân trong gia đình

Nguồn cảm hứng lớn trong sáng tác của Nguyễn Duy và Đồng Đức

Bốn bắt nguồn từ chính những người thân. Đó là hình ảnh của những người

mẹ, người cha, người vợ… Tất cả đều hiện lên vô cùng chân thật, sinh động

với tình cảm mến yêu vô bờ của nhà thơ.

Nguyễn Duy là người viết nhiều và viết rất hay về mẹ. Để ngợi ca

người mẹ, anh đã trân trọng đặt nhan đề cho một tập thơ của mình là Mẹ và

em. Có thể thấy trong thơ Nguyễn Duy sự tồn tại của hai hình ảnh người mẹ.

Trước hết đó là người mẹ thực đã mang nặng đẻ đau và cũng là người mẹ của

quê hương xứ sở, kết tinh những phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt

66

Nam truyền thống. Nguyễn Duy đã góp phần công lao không nhỏ để tạc nên

tượng đài người mẹ Việt Nam bằng thơ ca trong thời kháng chiến nói riêng và

trong thơ Việt nói chung. Với lời thơ đằm thắm, thiết tha, trân trọng và hàm

ơn một cách trong trẻo, Nguyễn Duy đã khắc họa thành công hình ảnh người

mẹ quê nghèo khó, cơ cực, vất vả mà đảm đang, giàu tình thương con:

Mẹ ta không có yếm đào

Nón mê thay nón quai thao đội đầu

Rối ren tay bí tay bầu

Váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa

(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa)

Lưng trần phơi nắng phơi sương

Có manh áo cộc tre nhường cho con

(Tre Việt Nam )

Giữa làng quê nghèo, bình dị, lam lũ, hình ảnh người mẹ hiện lên cũng

lam lũ, tần tảo mà quá đỗi thân thương. Đó là người mẹ của làng quê, người

mẹ yêu nước thương con, không quản hi sinh vì con vì nước.

Viết về mẹ, Nguyễn Duy luôn gắn với những lời ru như một sự tìm về

cội nguồn, về với tầng sâu văn hóa dân gian. Những lời ru êm ái, ngọt ngào

của mẹ đã thức dậy cả tầng sâu văn hóa, đi theo con suốt những năm tháng

của cuộc đời:

Cái cò… sung chát… đào chua

Câu ca mẹ hát gió đưa về trời

Ta đi trọn kiếp con người

Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru

(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa)

Nguyễn Duy đã tiếp thu nguồn mạch của ca dao truyền thống nhưng

không hề lẫn vào ca dao. Ta vẫn thấy một sắc thái riêng biệt trong giọng điệu

67

thơ Nguyễn Duy, có cái gì vừa êm ái vừa đi vào chiều sâu của sự suy tưởng.

Tiếp nối mạch cảm xúc từ trong ca dao khi viết về mẹ, người mẹ trong

thơ Đồng Đức Bốn hiện lên với vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm, tình tứ mang âm

điệu ca dao:

Mẹ đi gánh nước giếng đình

Bỏ quên cái tình vào chiếc võng gai

Bỏ quên vào những ban mai

Chiếc cầu bắc bởi hai quai yếm đào

(Con ơi)

Đó còn là người mẹ một đời giông bão với biết bao chịu đựng, hi sinh

vì sự no ấm của các con:

Cả đời ra bể vào ngòi

Mẹ như cây lá giữa trời gió rung

Cả đời buộc bụng thắt lưng

Mẹ như tằm nhả bỗng dưng tơ vàng

(Mẹ tôi)

Có thể thấy, gần gũi với người mẹ hết lòng hi sinh cho chồng con

“Miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương” trong thơ Nguyễn Duy, người mẹ

trong thơ Đồng Đức Bốn là những đấng hi sinh hết mình cho chồng con.

Người mẹ ấy luôn nhẫn nhịn, hi sinh, nén lòng vì sự bình an cho mái ấm gia

đình, lam lũ, vất vả mà vẫn thầm lặng quên nỗi đau hướng về các con:

Mẹ đau vẫn giữ tiếng cười

Mẹ vui vẫn để một đời nhớ thương

Bát cơm và nắng chan sương

Đói no con mẹ sẻ nhường cho nhau

(Trở về với mẹ ta thôi)

Trong thơ Đồng Đức Bốn, mẹ cũng là hiện thân của quê hương, đất

nước. Nhà thơ luôn khát khao trở về với mẹ, trở về với chốn yên bình, tĩnh

68

lặng cho tâm hồn. Có thể nói, Trở về với mẹ ta thôi là những dòng nước

mắt khóc mẹ của một đứa con đứng tuổi, đã thấu hiểu lẽ đời và chiêm

nghiệm ra rằng:

Trở về với mẹ ta thôi

Giữa bao la một khoảng trời đắng cay

Trở về với mẹ ta thôi

Lỡ mai chết lại mồ côi dưới mồ

Nhà thơ luôn tin rằng tình mẫu tử sẽ còn sống mãi, vượt qua mọi ranh

giới âm dương, vượt qua mọi không gian, thời gian. Đồng Đức Bốn đã dựng

lên bức tượng đài về người mẹ với những nét vẽ khắc chạm của người mẹ

Việt Nam nghèo khó, lam lũ, hay lam hay làm, nhẫn nhịn, hi sinh tất cả vì

con. Và vì vậy, tình mẹ đã trở thành bất tử và “nằm sâu trong trái tim anh”.

Với cảm xúc yêu thương chân thành sâu sắc từ tận đáy lòng những

người con hiếu nghĩa, Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đã viết nên những

vần thơ thật hay, thật xúc động và thấm thía về mẹ. Người mẹ trong thơ

của họ thể hiện được những kế tục và cách tân của hai nhà thơ này đối với

thơ ca truyền thống.

Bên cạnh hình tượng người mẹ, các nhà thơ cũng xây dựng hình ảnh

người cha – trụ cột trong gia đình. Nguyễn Duy thể hiện niềm tự hào, yêu

thương, khâm phục với người cha đã mang cả tuổi xuân dâng hiến cho cuộc

kháng chiến bảo vệ quê hương đất nước:

Ở đây có những người con

nửa đời Việt Bắc nửa đời Trường Sơn

(Người cha)

Thế nhưng, người cha anh dũng trong chiến đấu “Xả hết mình khi nước

gặp tai ương” ấy lại thanh thản trở về sống với ruộng đồng, cây cỏ trong vườn

69

khi được “Về làng”. Người cha lúc này mang nét đẹp bình dị, chất phác với

cuộc sống nghèo khó, lam lũ như bao người nông dân khác từ muôn đời nay.

Có cái gì đó như xót đau, nghẹn đắng biết bao trước hình ảnh:

Cha ta cầm cuốc trên tay

Nhà ta xơ xác hơn ngày ta xưa

Lưng còng bạc nắng thâm mưa

Bụng nhăn lép kẹp như chưa có gì

Cái nghèo, cái đói cứ đeo đẳng người nông dân suốt bao đời. Thế

nhưng, giữa cuộc sống còn nhiều gian nan, vất vả ấy, người cha “vẫn cười

khì”, vẫn lạc quan tin tưởng, vui vẻ với cuộc sống nơi đồng ruộng làng quê:

Không răng… cha vẫn cười khì

Giàu nghèo có số nghĩ chi cho buồn

(Về làng)

Cũng giống như Nguyễn Duy khi viết về người cha nông dân, Đồng

Đức Bốn đã xây dựng hình ảnh người cha cần mẫn, lam lũ, hăng say với công

việc để chăm lo cho gia đình. Người cha ấy hiện lên thật gần gũi, thân thương

với tiếng lanh canh, lạch cạch của đôi bàn tay lao động thoăn thoắt:

Lanh canh, lạch cạch ngoài hiên

Bố tôi đan chiếc trăng lên làm sàng

(Bố tôi)

Người cha cần mẫn với công việc đan vót ấy trở nên thật vĩ đại trong

con mắt của Đồng Đức Bốn:

Lạ chưa chỉ một tay chiêu

Mà đập vỡ mặt trời chiều tháng ba

Và kết thúc bài “Bố tôi” là một âm điệu buồn mênh mang với hình

ảnh “Tôi ra hứng gió vọng hồn bố tôi”. Người cha giờ đây đã không còn

nữa, tất cả giờ chỉ là quá khứ, là kí ức về cha. “Viết về các đấng sinh thành,

Đồng Đức Bốn không chỉ giản đơn dừng lại ở ngợi ca ân đức mà cái sâu

70

sắc chính là sự thấu hiểu đến tận đáy lòng nỗi cực nhọc bần hàn của mẹ

cha, chưa kịp hưởng một ngày thái lai thì đã vội vã giã từ cuộc sống dương

thế” [42, tr. 61-62].

Qua những vần thơ viết về mẹ, về cha, cả Nguyễn Duy và Đồng Đức

Bốn đều bộc lộ những tình cảm yêu thương chân thành, lòng kính trọng và

biết ơn sâu sắc. Các nhà thơ đã xây dựng được hình ảnh của những người mẹ,

người cha mang những nét đẹp truyền thống, mang bản sắc văn hóa của con

người Việt Nam sống mãi cùng thời gian.

Một hình tượng khác cũng rất đặc sắc trong thơ Nguyễn Duy và Đồng

Đức Bốn là hình tượng người vợ và những tình cảm nhân bản, những dòng

thơ nặng nghĩa tình mà các tác giả dành cho vợ.

Nguyễn Duy có hẳn một tập thơ “Vợ ơi” dành viết về vợ. Và người vợ

trong thơ ông là hình ảnh người phụ nữ mang những nét đẹp truyền thống với

cái chân chất, mộc mạc từ ngàn đời. Nguyễn Đức Thọ đã có nhận xét thật sâu

sắc: “Có lẽ sau Tú Xương, tôi chưa thấy ai ca ngợi vợ tài như Nguyễn Duy.

Thông thường thì làm thơ về tình yêu, về những người tình… nhà thơ nào

cũng làm được cả. Từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, có vô khối bài thơ tình

tuyệt hay, còn về vợ thì từ xưa đến nay thì chỉ thấy văn tế và câu đối là có

người làm hay, chứ rất ít người có thơ hay về vợ” [41]. Bằng tấm lòng yêu

thương sâu sắc dành cho người vợ thân yêu của mình, Nguyễn Duy đã xây

dựng thành công hình ảnh một người vợ với những phẩm chất truyền thống

đáng quý của người phụ nữ Việt Nam hay lam hay làm, tần tảo, chịu thương

chịu khó với “nghìn việc không tên” mà làm nên “cõi bình yên nhẹ nhàng”

cho cả gia đình:

Thông thường thượng đế dong chơi

Trần gian choang choác sự đời là em

Nghìn tay nghìn việc không tên

Mình em làm cõi bình yên nhẹ nhàng

71

(Vợ ốm)

Nhà thơ cảm nhận sâu sắc những vất vả, hi sinh lớn lao của người vợ

quê mùa. Vì chồng vì con, người vợ ấy phải “quanh năm tất bật”, phải “loay

hoay” với nỗi lo cơm áo gạo tiền. Cuộc sống vất vả với bao nỗi lo toan đã dần

lấy đi nhan sắc và tuổi xuân của người vợ theo tháng năm. Nhà thơ xót xa biết

bao trước mái tóc “bạc bạc dần” của người vợ yêu dấu:

Gót chân ăn vẹt bậc thềm

Quanh năm tất bật đi tìm ngày xuân

Tóc loay hoay bạc bạc dần…

(Mời vợ uống rượu)

Và để bày tỏ lòng tri ân với vợ, Nguyễn Duy đã trân trọng “mời vợ

uống” rượu”:

Mỗi năm tết có một lần

Mời em li rượu tay nâng ngang mày

Dường như tết đến là dịp để nhà thơ bày tỏ lòng biết ơn vô vàn với vợ

mình. Chén rượu xuân mà Nguyễn Duy dành tặng cho vợ chứa đựng trong đó

biết bao tình yêu thương và sự tri ân với người vợ giàu đức hi sinh.

Không viết nhiều về vợ như Nguyễn Duy nhưng ta vẫn nhận ra thấp

thoáng trong thơ Đồng Đức Bốn bóng hình người phụ nữ dịu dàng, đảm đang

truyền thống. Nhà thơ đã nhận ra vẻ đẹp của một người vợ đồng thời cũng là

một người mẹ qua lời kể đầy tự hào của người cha về kỉ niệm thơ mộng của

mẹ cha thuở trước:

Mẹ đi gánh nước giếng đình

Bỏ quên cái tình vào chiếc võng gai

Bỏ quên vào những ban mai

Chiếc cầu bắc bởi hai quai yếm đào

(Con ơi)

Trên phông nền văn hóa miền Bắc, hình ảnh người mẹ lúc ấy khi tuổi

72

mới đôi mươi hiện lên thật trong trẻo và duyên dáng.

Khác với Nguyễn Duy và nhiều nhà thơ khác, người vợ quê trong thơ

Đồng Đức Bốn ít khi hiện lên với dáng vẻ cơ cực, vất vả mà thường mang vẻ

đẹp quyến rũ lòng người. Vẻ đẹp ấy toát ra từ hình thể, là sự kết tinh từ thiên

chức của người làm mẹ. Nhà thơ đã có những vần thơ rất hay ngợi ca cái mặn

mà, đằm thắm, hấp dẫn của những người vợ, người mẹ một con:

Đúng là gái có một con

Để tôi ngơ ngẩn trông mòn mắt ra

Chẳng thể nào dám đi xa

Gái một con cứ nhởn nha trong đầu

(Gái một con trông mòn con mắt)

Vẻ đẹp của người phụ nữ trong cái thiên chức làm vợ, làm mẹ đã được

dân gian đúc kết trong nhiều câu ca dao, thành ngữ. Nói như vậy có thể thấy,

Đồng Đức Bốn đã tiếp nối cái mạch truyền thống trong cách cảm cách nghĩ

về vẻ đẹp con người. Nhưng đồng thời ta cũng thấy trong thơ anh cái mới mẻ,

mạnh bạo của một nhà thơ quê sống giữa thời hiện đại.

Tóm lại, bằng tình cảm yêu thương chân thành xuất phát từ tận đáy

lòng, cả Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đều có những vần thơ hay làm nên

tên tuổi của mình khi viết về những người thân trong gia đình. Các nhà thơ đã

xây dựng trong thơ mình hình ảnh những người mẹ, người cha, người vợ

mang những nét đẹp truyền thống của con người Việt Nam với tình yêu vô

vàn, lòng trân trọng và biết ơn sâu sắc.

2.2.2. Về những chàng trai nơi thôn dã

Nói đến những con người của quê hương không thể bỏ quên hình ảnh

của những anh trai làng ngộc nghệch đáng mến nơi thôn dã. Đó đều là những

con người thực được Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn khắc họa trong thơ.

Sống nhiều trong chiến tranh, Nguyễn Duy có điều kiện gần gũi hơn

với những anh trai quê ngoài mặt trận. Người lính trong thơ Nguyễn Duy hiện

73

lên thật chân thực, bình dị ngay từ xuất thân của mình. Họ đều là những người

con của làng quê ra đi chiến đấu, bỏ lại sau lưng là giếng nước, gốc đa cùng

những người thân yêu và cả tuổi thanh xuân của mình. Từ những người con

trai thật thà, chất phác của ruộng đồng, họ trở thành những anh hùng nồng nàn

lí tưởng chiến đấu bảo vệ quê hương:

Ở đây có những người con

Mang theo cái nõn nòn non lên rừng

(Người con trai)

Và trong những tháng ngày chiến đấu, người lính ngời sáng vẻ đẹp tâm

hồn với nỗi nhớ quê hương, gia đình và người yêu. Nhớ về quê hương là họ

nhớ về chốn làng quê nghèo khó với “cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng”

(Đò Lèn), là nhớ về thời trẻ với những vất vả gieo neo:

Tuổi trẻ anh áo nâu, chân đất

bữa cháo, bữa khoai, đi cày và đi học

bụng cồn cào con chữ chạy liêu xiêu

(Gửi về Lam Sơn)

Nhớ về quê hương là người lính nhớ về những kỉ niệm tuổi thơ êm đềm

nơi quê nghèo còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Thế nhưng, đó cũng là nơi in

bóng biết bao người thân thuộc để người lính nhớ mãi không quên trong suốt

chặng đường hành quân:

Nơi ấy

nhá nhem giữa quên và nhớ

đỉnh núi hiện lên bóng bà và mẹ

mây chiều hôm gánh gạo đưa ta

tất tưởi đường xa cầu vồng sáng đỏ

(Xó bếp)

Từ nỗi nhớ da diết về quê hương, gia đình ta thấy được tình yêu quê

sâu sắc của người lính. Bên cạnh đó, người lính còn ngời sáng với vẻ đẹp của

74

tình đồng chí, đồng đội. Trong hoàn cảnh của cuộc chiến đấu gian khổ, những

người lính xích lại gần nhau hơn, sát cánh bên nhau trong chiến đấu, sinh

hoạt. Tình đồng đội được xây dựng trên cơ sở của những người cùng lập

trường, tư tưởng, cùng chí hướng, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì độc lập tự do

của Tổ quốc. Người lính trong thơ Nguyễn Duy có sự quan tâm, chia sẻ hết

sức đặc biệt. Họ luôn có sự cảm thông, yêu thương nhau bằng tình cảm gia

đình ruột thịt. Người chiến sĩ đi vào chiến trường, gắn bó cuộc đời mình với

đồng chí, đồng đội như “anh”, “em”. Họ có thể hiểu được nhau trong từng

hành động, suy nghĩ để rồi sau những chặng đường hành quân mệt mỏi họ lại

ru nhau trong từng giấc ngủ:

“Ngủ đi bạn, ngủ đi anh”

“Ngủ đi bạn, ngủ đi em”

(Lời ru đồng đội)

Cuộc sống trong chiến tranh là vô cùng gian khổ. Thế nhưng, trước cái

ác liệt của cuộc chiến, người lính vẫn thể hiện một lối sống tình nghĩa, chia sẻ

cùng nhau những tâm tình:

Có người con gái tôi yêu

Tiếc chưa kịp nói cái điều ấy thôi

Biết là em cũng yêu tôi

Cũng chưa kịp nói cái điều ấy ra

Đó còn là những người lính tràn đầy tinh thần lạc quan giữa khó khăn

gian khổ. Đi vào nơi lửa đạn, đối mặt với cái chết nhưng người lính không hề

sợ hãi mà vẫn luôn thể hiện niềm tin tưởng vào ngày mai chiến thắng. Giữa

bom đạn khốc liệt, người lính vẫn tìm được cho mình những phút giây bình

yên, thư thái cho tâm hồn. Và nguồn động viên lớn nhất với người lính có lẽ

là những lá thư chứa đựng muôn vàn tình cảm của người thân nơi hậu

phương. Sau trận chiến, người lính lại đem những lá thư ra đọc. Những phút

75

giây ấy, người lính không còn bận tâm về trận đánh ác liệt vừa xảy ra hay trận

đận đánh sắp tới nữa. Lúc này, họ được trở về với con người thật, với những

phút bình yên thật quý báu:

Khoái nào bằng phút ngả lưng

mở trang thư dưới bóng rừng đu đưa

(Bầu trời vuông)

Chiến tranh mang lại bao nỗi đau, nỗi xót xa cho con người. Nó đã

lấy đi tuổi xuân và xương máu của biết bao chàng trai. Thế nhưng, cũng

đáng tự hào và vinh dự biết bao trước những người con anh hùng bất khuất

ấy của quê hương.

Tuổi hai mươi trắng răng cười

Trắng con đường Chín bạn tôi không về

(Giấc mộng trắng)

Tóm lại, có thể thấy hình ảnh người lính là một hình ảnh hết sức đặc

sắc trong sáng tác của Nguyễn Duy. Nhà thơ đã xây dựng thành công bức

chân dung về người lính mang những vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất cao quý

của người lính Việt Nam truyền thống. Đó là những con người bình dị, chất

phác với tình yêu quê hương, gia đình, với tình đồng chí, đồng đội sâu sắc và

niềm lạc quan tin tưởng vào tương lai.

Nguyễn Duy khắc họa hình ảnh người lính bằng cảm quan của người

trong cuộc, còn với Đồng Đức Bốn, hình ảnh ấy lại thường hiện lên qua nỗi

nhớ, kí ức của người thời bình. Khi được trực tiếp thăm nghĩa trang Trường

Sơn, Đồng Đức Bốn như thấy mình được sống tiếp nối những nguồn sống cha

anh của một thời oanh liệt hào hùng:

Bám tay vào tấm bia hoa

Bỗng nghe máu chảy sang ta dập dồn

Thơm trong cỏ mộ hoàng hôn

Tiếng chân anh vượt Trường Sơn chẳng già

76

(Ở nghĩa trang Trường Sơn)

Thế mạnh của Đồng Đức Bốn là những vần thơ viết về cuộc sống đời

thường với việc khắc họa hình ảnh những anh trai làng trong cuộc sống hôm

nay – một cuộc sống hiện đại nhập nhòe mà văn minh đô thị đang tràn lấn về

thôn quê:

Nhà quê có mấy trai tơ

Quần bò mũ cối giả vờ sang chơi

(Nhà quê)

Cũng có khi, với những vần thơ thật thà, trần trụi, Đồng Đức Bốn vẽ

lên một cảnh quê kệch, ngộ nghĩnh lạ đời với hình ảnh những lão thợ cày đã

không còn đủ ruộng đất để quanh năm cày cấy mà quay ra rượu chè rồi trút sự

quẫn bách lên đầu nhau:

Ngả nghiêng mấy lão thợ cày

Rượu say vác cả cối chày nện nhau

(Chờ đợi tháng ba)

Đến với thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, ta thấy các tác giả đều tập

trung ngòi bút tìm về vẻ đẹp của những người trai làng từ ngàn xưa để có cái

nhìn đúng đắn hơn về sự ảnh hưởng của văn hóa dân tộc tới cuộc sống thời

đại. Những anh trai làng quê kệch, ngộc nghệch mà đáng mến là những hình

ảnh đẹp, kết tinh từ những tình cảm cao đẹp trong tâm hồn nhà thơ.

2.2.3. Về những cô gái quê, cô thôn nữ

Hình ảnh những cô gái quê, cô thôn nữ trong thơ Nguyễn Duy và Đồng

Đức Bốn là những hình ảnh đẹp. Đó là những con người chân lấm tay bùn,

mang nét đẹp truyền thống của người con gái Việt Nam nơi đồng quê. Đó còn

là những người tình mang tâm sự sâu lắng tha thiết của thi nhân.

Nguyễn Duy đi nhiều và ở bất cứ miền đất nào, nhà thơ cũng đều

nhìn ra được bóng dáng thân thương của những cô thôn nữ. Ông phát hiện

và ngợi ca vẻ đẹp của những cô thiếu nữ khắp mọi miền quê: từ những cô

77

gái xứ đồng miền Bắc tới những cô gái miền Trung hay vùng đồng bằng

sông Cửu Long, từ cô gái xứ Thanh tới cô nữ sinh trường Đồng Khánh…

Nguyễn Duy đã phát hiện ra ở họ vẻ đẹp duyên dáng e ấp của người con

gái Việt Nam truyền thống.

“Em” trong thơ Nguyễn Duy mang vẻ đẹp thanh xuân, tươi trẻ, là hình

ảnh gợi nhớ về một thời tuổi trẻ và quê hương yêu dấu:

Em thanh xuân như ngày xưa của anh

dưới sân trường có một viên sỏi xanh rất nhỏ

anh cất giấu tuổi trẻ mình ở đó

(Gửi về Lam Sơn)

Nhà thơ như cảm thấy cuộc đời thêm đẹp tươi và tràn đầy sức sống kể

từ khi có “em”. “Em” đã đến và làm cho cuộc sống này thêm ý nghĩa hơn.

Thế mới biết tình yêu quả có sức mạnh vô biên và to lớn biết nhường nào:

Bộn bề công việc bấy lâu

hẹn nhau dành dụm cho nhau một chiều

đường nào cũng lắm thương yêu

lối nào cũng đẹp rất nhiều lứa đôi

(Mưa trong nắng)

“Em” trong thơ Nguyễn Duy có khi lại là một người con gái “chợt qua

đường” nhưng cũng đủ để nhà thơ nắm bắt và thể hiện được vẻ đẹp thanh tân,

trong trẻo của “em”:

Người con gái chợt qua đường

Áo em mong mỏng màn sương núi đồi

Chợt rơi lại một nụ cười

Và… sương rười rượi một trời phía sau

(Bất chợt)

Hình ảnh bóng hồng thoáng qua trong phút giây bất chợt đã để lại niềm

xốn xang khó tả trong lòng thi nhân. Để rồi nhà thơ lại ao ước được gặp lại vẻ

78

đẹp ấy vào mỗi buổi sớm mai:

Sáng nay ra ngõ gặp may

Ước chi mai lại người này đi qua

(Bất chợt)

Nguyễn Duy đã thay đổi hẳn quan niệm của người xưa trong cái sự “ra

ngõ gặp gái”. Cái mà người đời kiêng kị thì nhà thơ lại ước ao, mong mỏi. Ta

cũng thấy thơ Nguyễn Duy có nhiều cái mới, cái lạ so với các nhà thơ đồng

quê trước kia. Cũng viết về hình ảnh những cô gái quê mùa, nhưng thơ

Nguyễn Bính thiên hơn về tính dân gian, truyền thống. Còn ở thơ Nguyễn

Duy ta thấy cái mới mẻ, tân thời hơn trong hình ảnh những cô gái quê. Cô em

đi lễ chùa mà Nguyễn Duy gặp được nơi chùa Hương không phải là đi để dạo

chơi, thưởng ngoạn phong cảnh mà là để “cầu cạnh” mong cho công việc làm

ăn, mua bán được thuận lợi. Rõ ràng, văn hóa thành thị đã dần len lỏi vào nếp

cảm nếp nghĩ của những cô gái quê.

Dưới trần bến Đục bến Trong

Trên trời Hương Tích, Hinh Bồng trắng mây

Cô em cầu cạnh gì đây

Cầu cho giá gạo hàng ngày đừng lên

(Nguyện cầu)

Cũng giống như Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn phát hiện và ngợi ca vẻ

đẹp hình thức và vẻ đẹp tâm hồn của những cô thôn nữ. Những cô gái yếm

thắm quai thao của vùng quê Kinh Bắc trong cuộc sống hôm nay mà vẫn

mang dáng vẻ truyền thống duyên dáng, người con gái đồng trinh gắn liền với

hình ảnh cây trúc mảnh mai bên giếng đình… Đặc biệt, Đồng Đức Bốn tỏ ra

yêu thích và ấn tượng hơn cả với những mái tóc mượt mà, đen óng và man

mác hương quê nơi những cô thôn nữ. Mái tóc theo quan niệm của người xưa

đã trở thành biểu tượng của vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam truyền thống.

79

Chính vì vậy, với Đồng Đức Bốn, dáng đi uyển chuyển mềm mại cùng mùi

hương thơm ngát toát ra từ mái tóc người thiếu nữ có một sức mạnh phi

thường làm bừng lên sức sống của thiên nhiên một vùng:

Dáng em thánh thót qua làng

Tóc thơm làm cỏ vội vàng lên nhanh

(Khi em ở Thái Nguyên về)

Hình ảnh “em” – người tình trong thơ Đồng Đức Bốn là một thiếu nữ

có vẻ đẹp đắm say của chốn đồng quê:

Em ngồi chải nắng vào trưa

Trong hương bồ kết thơm vừa vừa thơm

(Mưa gió về đâu)

“Em” ở đây không rực rỡ, kiêu sa mà chỉ giản dị với tóc xõa ngang vai

và hương bồ kết dịu dàng, quyến rũ. Đặc biệt, trong tâm thức của Đồng Đức

Bốn, “em” còn là câu lục bát mượt mà, đằm thắm:

Em là lục bát của tôi

Tôi là hạt bụi xa xôi của người

(Em là lục bát của tôi)

Đồng Đức Bốn suốt một đời tôn thờ thơ ca và cũng hết sức trân trọng,

nâng niu “em” – nàng thơ của mình như điều linh thiêng nhất. Bởi một điều

đơn giản, “em” với Đồng Đức Bốn là niềm tin và sức sống bất diệt:

Dẫu em là mái tranh nghèo

Cũng không toan tính bọt bèo như ai

Em tươi tốt tựa cơn giông

Lẽ nào tôi lại sang sông đắm đò

(Em là lục bát của tôi)

Có thể thấy, biểu tượng “em” trong thơ Đồng Đức Bốn mang vẻ đẹp

80

trọn vẹn cả hình thức lẫn tâm hồn, tuy nhiên “em” lại thường là ngôi sao xa

xôi chỉ để tôn thờ, ngưỡng mộ nên bao giờ thi sĩ cũng là kẻ nhớ nhung và

khao khát tình. “Sông Thương ngày không em” thật quạnh quẽ và trống vắng:

Sông Thương từ buổi em xa

Tay anh quờ xuống hóa ra bị chàm…

Nỗi nhớ nhung, khao khát được dồn nén, tích tụ, và tất cả như vỡ òa

trong hạnh phúc “Khi em ở Thái Nguyên về”:

Khi em ở Thái Nguyên về

Cây đang say bão lại mê nắng vàng

Tình yêu trong thơ Đồng Đức Bốn hạnh phúc ít mà âu lo thì nhiều.

Về phương diện này, Đồng Đức Bốn có nét gần gũi với Nguyễn Bính trong

tâm trạng dở dang có nhiều bi kịch. Trong nhiều thi phẩm, Đồng Đức Bốn

không hề giấu giếm tình cảnh trớ trêu của mình - một người thứ ba thật lẻ

loi và cay đắng:

Em mang câu hát theo chồng

Thuyền tôi đậu nắng trên sông gãy sào

(Câu hát theo chồng)

Không gì đau khổ bằng yêu người mà phải xa người. Sau bao bi kịch

đắng cay trong tình yêu, Đồng Đức Bốn đã chiêm nghiệm ra rằng:

Tình yêu là thứ trời đày

Càng đi đến cõi càng ngây ngất buồn

(Chiếc gió ngụ ngôn)

Thế nhưng, đau khổ vậy mà người ta vẫn muốn yêu. Đặc biệt, với một

người như Đồng Đức Bốn thì cái ngang tàng, quyết liệt trong tình yêu càng

đẩy khát khao yêu và được yêu dâng lên cháy bỏng. Chính vì vậy, có những

lúc thi sĩ thật thẳng thắn và liều lĩnh với câu hỏi táo bạo: “Em bỏ chồng về ở

với tôi không”. Sự táo tợn này của Đồng Đức Bốn xuất phát từ trong bản chất

81

thật thà, ít nhiều có phần cục mịch của anh chàng nhà quê chân đất:

Xui mãi gái chẳng bỏ chồng

Đành về ăn vạ cánh đồng heo may

(Nhớ nàng)

Rõ ràng, trong tình yêu Đồng Đức Bốn là một người ấm áp quê mùa mà

ngang tàng, liều lĩnh. Đó là hệ quả tất yếu của cuộc gặp gỡ giữa những giá trị

đồng quê với đời sống hiện đại mới mẻ và cá tính riêng của một con người.

Tóm lại, Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đã xây dựng khá thành công

hình ảnh những cô gái quê, cô thôn nữ. Đó là những con người sống giữa

cuộc sống hiện đại nhưng vẫn giữ được những vẻ đẹp dịu dàng của người con

gái Việt Nam truyền thống. Viết về họ, các tác giả cũng thể hiện những tình

cảm nâng niu, trân trọng và một tình yêu rất “chân quê”.

Có thể nói Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn là những đại diện tiêu biểu

của thơ Việt Nam hiện đại đã tiếp nhận sáng tạo, thành công thơ ca truyền

thống để lại được bản sắc dân tộc đậm đà trong thơ của riêng mình. Đọc

những vần thơ viết về quê hương đất nước và những con người Việt Nam của

Nguyễn Duy, ta thường liên tưởng đến những cảm xúc êm ái, mượt mà, có da

diết, băn khoăn thì cũng rất nhẹ nhàng. Còn thơ Đồng Đức Bốn lại mang đến

những cảm giác bất ổn, day dứt, khắc khoải sâu đậm về cuộc sống hiện tại.

Thế nhưng điểm chung trong sáng tác của hai tác giả này là đã làm sống dậy

những giá trị quý báu của thơ ca dân tộc – những giá trị khởi phát từ chính

cuộc sống đời thường mộc mạc, giản dị. Là những đứa con của làng quê,

Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đã gửi gắm vào những vần thơ đậm đà tính

82

dân tộc tình yêu quê và tình yêu con người sâu sắc.

Chƣơng 3: BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG THƠ NGUYỄN DUY,

ĐỒNG ĐỨC BỐN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN

Tính dân tộc đậm đà trong sáng tác của Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn

không chỉ được thể hiện qua nội dung cảm hứng mà còn được biểu hiện ở

hình thức nghệ thuật với nhiều bình diện khác nhau như thể thơ, hệ thống

hình ảnh, biểu tượng, ngôn ngữ, giọng điệu, không gian và thời gian nghệ

thuật… Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một luận văn, người viết chỉ có điều

kiện tìm hiểu nét bản sắc dân tộc trong sáng tác của hai nhà thơ trên một số

phương diện nghệ thuật tiêu biểu hơn cả: vận dụng sáng tạo thể thơ lục bát

truyền thống, khai thác và vận dụng hình ảnh của thơ truyền thống, vận dụng

ngôn ngữ, giọng điệu thơ truyền thống.

3.1. Vận dụng sáng tạo thể thơ lục bát truyền thống

Đi ra từ cái nôi văn hóa dân gian, Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đã

vận dụng một cách sáng tạo các thể thơ dân tộc để tạo nên tính dân tộc đậm

đà trong các thi phẩm. Nguyễn Duy sáng tác với nhiều thể thơ: Thể thơ năm

chữ, thể thơ bảy chữ, tám chữ nhưng nói đến ông, phần nhiều độc giả biết đến

bộ phận thơ lục bát. Còn với Đồng Đức Bốn, lục bát dường như đã tạo nên

một “thương hiệu” cho riêng ông. Trong khuôn khổ của luận văn, người viết

chỉ tập trung đi vào tìm hiểu việc vận dụng thể thơ lục bát để thấy được sự

tiếp thu truyền thống trong sáng tác của hai nhà thơ.

Lục bát là một thể thơ tồn tại ít nhất hai dòng câu: một dòng sáu chữ,

một dòng tám chữ, vần với nhau ở tiếng thứ sáu của câu sáu và tiếng thứ sáu

(hoặc thứ tư) của câu tám. Có thể nói đây là thể thơ đắc dụng nhất cho việc

thể hiện những cảm xúc mượt mà, đằm thắm, những rung cảm tinh tế và sâu

lắng của con người.

Hầu hết các nhà nghiên cứu khi tìm hiểu về thể thơ lục bát của Nguyễn

83

Duy và Đồng Đức Bốn để đi đến kết luận, lục bát của hai nhà thơ này đều

cắm rễ sâu vào ca dao truyền thống của dân tộc. Tuy nhiên, bên cạnh những

kế thừa, lục bát của hai ông vẫn có nhiều mới lạ. Xét ngay trên bình diện khổ

thơ, bài thơ, những đặc điểm này biểu hiện khá nổi bật.

Chúng ta biết rằng, cấu trúc của một bài ca dao cổ truyền thường rất

ngắn, phần lớn là những bài ca dao ngắn chỉ gồm một cặp câu lục bát. Khảo

sát thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn, có thể thấy nhiều khổ thơ trong các

bài lục bát chỉ gồm hai câu thơ, tức là một cặp sáu - tám. Mỗi cặp thơ như vậy

lại có nội dung tương đối độc lập, giống như những bài ca dao. Vì thế, mỗi

khổ thơ lục bát của Nguyễn Duy và Đồng Đức Bồn từ nội dung, âm điệu đều

rất gần ca dao. Chẳng hạn, trong thơ lục bát Nguyễn Duy:

Mai rồi lại hát à ơi

Con cò lặn lội bên bờ đại dương

(Lời ru con cò biển)

Hay trong thơ lục bát Đồng Đức Bốn:

Không em ra ngõ kéo diều

Nào ngờ được mảnh trăng chiều trong mây

(Sông Thương ngày không em)

Điều đặc biệt, mỗi khổ thơ đều có khả năng đứng độc lập mà vẫn có thể

coi là một chỉnh thể thơ đặc sắc. Số bài thơ lục bát có các khổ thơ như thế

trong thơ hai tác giả Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn là tương đối nhiều nếu

không muốn nói là phổ biến. Trong tập Sáu và tám của Nguyễn Duy, nếu

không kể 18 bài thơ chỉ có hai câu thì có tới 42/83 bài thơ lục bát có các khổ

thơ chỉ gồm một cặp lục bát. Phần lớn các bài thơ lục bát của Nguyễn Duy và

Đồng Đức Bốn đều có các khổ thơ hai câu. Và những bài lục bát như vậy có

thể coi là sự cách tân của lục bát hiện đại. Những cách tân trở về gần gũi hơn

với thơ ca truyền thống.

Ở phạm vi bài thơ, những bài lục bát của Nguyễn Duy và Đồng Đức

84

Bốn thường ở quy mô nhỏ, có khi là cực nhỏ. Đó là những bài: Gặp ma,

Thiền sư, Gói... của Nguyễn Duy; Khóc một dòng dòng sông, Lời ru cho cỏ

buồn... của Đồng Đức Bốn. Thậm chí, Đồng Đức Bốn còn cố gắng rút ngắn

dung lượng bài thơ đến mức tối đa. Cả phần tiêu đề bài thơ “Chiều nay hồ

Tây có giông” lẫn phần nội dung bài thơ “Tôi ngồi trên sóng mà không thấy

chìm” mới hợp thành một cặp sáu – tám. Tức là trừ phần tiêu đề đi, bài thơ

chỉ còn lại vỏn vẹn một dòng duy nhất. Sự mới mẻ này chưa hề có trong lục

bát truyền thống.

Trong thơ lục bát, Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn còn có lối bắt vần

nối tiếp từ câu thơ tiêu đề. Câu thơ đầu tiên của bài thơ vì thế cũng là tiêu

đề của bài thơ. Những đổi mới này trong thơ lục bát Nguyễn Duy và Đồng

Đức Bốn quả là đặc sắc, mới lạ. Đó là “Đám mây dừng lại trên trời” của

Nguyễn Duy:

Đám mây dừng lại trên trời

...Để cho dưới đất đám người chạy mưa

Để cho có lúc nương nhờ

Mái hiên ai cứ như thừa vậy thôi

Còn với Đồng Đức Bốn, có không ít những bài thơ như thế:

Thăm mộ Nguyễn Du

Bỗng dưng tôi gặp mùa thu trở về...

Hay:

Cuối cùng vẫn còn dòng sông

Khi xa thì nhớ đứng trông lại buồn...

Về cách ngắt nhịp, có thể thấy thơ lục bát Nguyễn Duy và Đồng Đức

Bốn đều tuân thủ theo lối ngắt nhịp của lục bát truyền thống. Đa số các câu

thơ lục bát đều ngắt nhịp theo lối xưa, lối cũ, góp phần tạo nên âm hưởng ca

dao dễ đi vào nếp cảm, nếp nghĩ của người đọc.

Về gieo vần trong thơ lục bát, Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đã triệt

85

để tận dụng những thành tựu của lục bát truyền thống: gieo vần bằng tại tiếng

thứ sáu của câu lục, tiếng thứ sáu và tiếng thứ tám của câu bát. Ta không hề

thấy câu lục bát nào gieo vần trắc, qua đó đủ giúp ta thấy được sự trung thành

với lục bát truyền thống của các nhà thơ. Tuân theo những nguyên tắc gieo

vần của lục bát xưa, cả Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đều góp phần khẳng

định giá trị bền vững của thể thơ dân tộc này.

Về cách phối thanh thơ lục bát của Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đã

theo rất sát với cách phối thanh của lục bát truyền thống. Tuy nhiên để tạo nên

sự mới lạ cho thơ và thể hiện cá tính riêng, các nhà thơ đã cố gắng tận dụng

các thanh ở tiếng tự do. Nếu Nguyễn Duy thiên về tận dụng thanh trắc thì

Đồng Đức Bốn lại nghiêng về tận dụng các thanh bằng.

Phần nhiều thơ lục bát Nguyễn Duy có số thanh trắc ngang bằng hoặc

nhiều hơn thanh bằng. Điều đó đã góp phần tạo nên chất “tình tang”, chất bụi,

chất ghẹo mang đặc trưng riêng trong thơ ông:

Thướt tha áo trắng nói cười

Để ta thương nhớ một thời áo nâu

(Áo trắng má hồng)

Đồng Đức Bốn cũng có cách phối thanh mang đậm dấu ấn cá nhân với

cách phối thanh tự nhiên, theo đúng những cung bậc cảm xúc vốn có của

người sáng tác. Nhà thơ cũng có những cặp lục bát sử dụng nhiều thanh trắc

nhưng có lẽ giọng điệu trầm buồn, chua xót trong thơ Đồng Đức Bốn lại hợp

hơn cả với sự lấn át của những thanh bằng:

Bài thơ anh viết cho mình

Mà cây trúc mọc sân đình tương tư

(Gai rào ngõ quê)

Em từ buổi ấy xa tôi

Cây bên đường chẳng đâm chồi nở hoa

86

(Em xa)

3.2. Khai thác và vận dụng hình ảnh của thơ truyền thống

Hình ảnh đóng một vai trò vô cùng quan trọng nhằm tạo nên sức hấp

dẫn cho mỗi tác phẩm thơ. Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng nói: “Thơ phải có

hình ảnh. Có người đã nói: triết học nghĩ bằng ý, tiểu thuyết nghĩ bằng nhân

vật, thơ nghĩ bằng hình ảnh”. Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức thì quan niệm:

“Hình ảnh trong thơ là một yếu tố được sử dụng để thực hiện nhiều chức năng

khác nhau. Hình ảnh có khi là những nhân tố trực tiếp của nội dung, là những

bức tranh nhỏ của cuộc sống (…) nhưng cũng có khi hình ảnh trong thơ được

vận dụng như một nhân tố tương ứng với nội dung nào đấy thông qua một so

sánh, ẩn dụ”. Nói như vậy, hình ảnh là một yếu tố không thể thiếu của thơ ca

và “nhà thơ có thể quan tâm đặc biệt đến việc xây dựng, miêu tả hình ảnh

trong thơ và xem đó như một yếu tố thứ nhất của thơ”. Chính vì vậy, việc giải

mã các hình ảnh văn học sẽ giúp người đọc cảm thụ sâu sắc hơn về tác phẩm.

Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn là những nhà thơ rất chú trọng đến việc

xây dựng hình ảnh trong thơ. Xuất thân từ chốn đồng ruộng, gắn bó sâu nặng

với nhành cây, ngọn cỏ quê hương, vì vậy hình ảnh quê hương và những tình

cảm thắm thiết với làng quê luôn đằm sâu trong những vần thơ thắm đượm

tình quê của cả hai nhà thơ. Khảo sát thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, chúng

ta phải ghi nhận những nỗ lực sáng tạo không ngừng của các nhà thơ trên cái

phông nền văn hóa dân gian. Bên cạnh đó, các nhà thơ còn tiếp thu từ vốn văn

học dân gian bằng cách mượn lại những hình ảnh ca dao, dân ca như một chất

liệu đặc biệt để tạo nên tính dân tộc đậm đà trong các sáng tác của mình.

Trong thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn xuất hiện hàng loạt những hình ảnh

được khai thác từ văn học truyền thống đã trở nên rất đỗi quen thuộc, thân

thương với mỗi người dân Việt Nam. Ấy là hình ảnh gốc đa, bến nước, con

đò, là mái đình cổ kính, ánh trăng vàng… Những hình ảnh này xuất hiện với

87

tần xuất rất lớn như một mô típ trong thơ các anh, đặc biệt là thơ lục bát.

Trong khuôn khổ của luận văn, người viết xin đi vào tìm hiểu việc khai thác

và vận dụng sáng tạo những hình ảnh tiêu biểu của thơ ca truyền thống để tạo

nên bản sắc dân tộc đậm đà trong thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn: hình

ảnh dòng sông, bến nước, con đò; hình ảnh trăng; hình ảnh vườn quê; hình

ảnh con cò.

Dòng sông - bến nước - con đò là những hình ảnh quen thuộc của thơ

ca dân gian từ lâu đã trở thành những biểu tượng mang sức sống mãnh liệt

trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam thì nay lại xuất hiện đậm

đặc trong thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn. Cùng một phông văn hóa dân

gian, nhưng nếu sông trong thơ Nguyễn Bính thường gắn với những trôi nổi

đường đời, với những lỡ dở ngang trái trong tình yêu thì trong thơ Nguyễn

Duy đó vừa là dòng sông thực của làng quê xứ Thanh “Giòng sông Mạ”, đồng

thời cũng là dòng sông của tiềm thức, của nhiều cung bậc tâm trạng. Dòng

sông ấy đã gắn bó với biết bao biến thái của cuộc đời, gắn với bao nỗi niềm

trăn trở của nhà thơ. Hình ảnh giọt nước, nguồn sông, biển lớn… trong thơ

truyền thống trở về thật sáng tạo trong hình ảnh dòng sông cội nguồn, nơi

nuôi dưỡng tâm hồn tình cảm của mỗi người, nơi đong đầy kỉ niệm với biết

bao người thân yêu… tần tảo, lam lũ với ruộng đồng:

Từ giòng sông ấy

tôi đi

giọt nước lìa nguồn ra bể

mát suốt đời tôi gió nồm sông Mạ

mẹ và em sinh thành ở đó

quê nhà và tình yêu của tôi

88

(Giòng sông Mạ)

Ngay trong hình ảnh dòng “sông Cấm” “váng dầu mỡ” bị khuấy động

trước nhiều vấn đề của đời sống hôm nay vẫn ẩn hiện những hình ảnh quen

thuộc của thơ ca truyền thống:

Vênh vênh nửa nước nửa trời

Bàn chân kim loại quậy sôi bến tàu

Ôm mình úp mặt nông sâu

Long bong ngũ sắc váng dầu hoang mang

Trong con “Sông duyên” nên thơ, trở thành nguồn cảm hứng dạt dào

của thi sĩ cũng dễ dàng nhận ra dấu ấn của những hình ảnh con sông trong thơ

dân gian truyền thống được vận dụng rất sáng tạo tinh tế:

Trong leo lẻo nước và thơ

Cỏ liêu trai lún phún bờ sông duyên

Trên sông dậm dật mạn thuyền

Trên thuyền he hé một miền lăn tăn

Tóm lại, hình ảnh dòng sông quen thuộc trong thơ truyền thống đã hiện

diện dưới nhiều cấp độ trong thơ Nguyễn Duy và trở thành một biểu tượng

thể hiện cái nhìn đa diện, đa chiều của nhà thơ về cuộc sống. Đó là dòng sông

quê, dòng sông cội nguồn và cũng là dòng đời. Trong thơ Nguyễn Duy, hình

ảnh dòng sông gắn với cuộc sống sôi động lúc thăng, lúc trầm, lúc trữ tình thơ

mộng, lúc kiêu hùng mạnh mẽ… Sông gắn với cuộc sống lao động và chiến

đấu, những biến thái trong cuộc đời, sông chất chứa tình cảm của con người,

khi hạnh phúc khi khổ đau… Tất cả đều cho thấy cái nhìn khỏe khoắn và tỉnh

táo của nhà thơ Nguyễn Duy về cuộc sống. Trong mỗi dòng sông của thơ

Nguyễn Duy, người đọc vẫn dễ dàng cảm nhận những dấu ấn đậm, nhạt của

hình ảnh dòng sông trong thơ truyền thống được nhà thơ chú tâm khai thác,

vận dụng.

Nếu dòng sông trong thơ Nguyễn Duy là những con sông thực ngoài

89

đời, gắn với những địa danh mà nhà thơ đã từng sống và đi qua (sông Mạ,

sông Tiền, sông Thao, sông Đa-Nuýp) thì sông trong thơ Đồng Đức Bốn là

những con sông mang ý nghĩa trừu tượng hơn gắn với những trôi nổi của

đường đời, với những lỡ dở ngang trái trong tình yêu. Đồng Đức Bốn cũng

rất có ý thức sử dụng những hình ảnh về sông (gián tiếp hay trực tiếp) của thơ

truyền thống để tạo dựng hình ảnh dòng sông trong thơ mình. Đó thường là

dòng sông buồn, đau thương, gắn với cái tôi đa đoan, với những nỗi buồn đau,

trắc trở, những chiêm nghiệm đớn đau… Sông có khi trở thành tri kỉ của thi

nhân, nơi gửi gắm những nỗi niềm riêng tư của nhà thơ:

Bây giờ sông hóa lưỡi cưa

Để tôi đi sớm về trưa nát lòng

Bây giờ em đã sang sông

Để tim tôi búp sen hồng bỏ rơi

Vớt buồn trên mặt sông trôi

Bây giờ vẫn chỉ mình tôi giữa dòng

(Sang sông)

Trong thơ Đồng Đức Bốn, ta thường gặp lại hình ảnh những dòng sông,

mái chèo, những con đò lang thang trong thơ ca dân gian để diễn tả nỗi buồn

mênh mang của con người:

Mái chèo cứ nhẹ thế thôi

Không là đứt ruột gan tôi bây giờ

Mái chèo trên sóng làm thơ

Đỡ cho cánh vạc bơ vơ xuống dòng

(Đi đò)

Không chỉ khi viết về những dòng sông cội nguồn, sông gắn với mẹ, là

nơi che chở hướng về, sông cũng gắn với những suy tư trăn trở về đời nhưng

90

đó là dòng sông buồn, cô đơn đầy bế tắc:

Bờ sông có một con đò

Gác chèo ông mái nằm lo trăng buồn

(Viết ở bờ sông)

Hình ảnh dòng sông, bến, thuyền, bến đợi thuyền trong truyền thống

cũng thường trở về ẩn hiện trong thơ Đồng Đức Bốn để diễn tả nỗi niềm và

tấm tình thủy chung của con người:

Thế mà không bỏ dòng sông

Để đi tìm những cái không có gì

(Xin người một khúc mộng mơ)

Bên cạnh dòng sông, con thuyền, hình ảnh trăng của thơ dân gian cũng

được Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn khai thác để thể hiện nhiều ý nghĩa.

Trăng xuất hiện nhiều lần và mang những sắc thái khác nhau. Viết về trăng,

Nguyễn Duy có cả một tập thơ Ánh trăng với 11 lần nhắc đến trăng trong tổng

số 30 bài thơ. Nhà thơ khai thác triệt để nghệ thuật của thơ truyền thống,

mượn trăng để nói chuyện cái tình cái nghĩa ở đời bởi với ông đó là “vầng

trăng tình nghĩa”, “vầng trăng thành tri kỉ”. Trăng đã trở thành biểu tượng của

nghĩa tình thủy chung, son sắt, gắn với quá khứ, cội nguồn. Ánh trăng mang

vẻ đẹp bình dị, hiền hậu đã đánh thức lương tri của con người, khiến mỗi

người phải nhìn nhận lại chính mình, hoàn thiện mình: Trăng cứ tròn vành

vạnh/ kể chi người vô tình/ ánh trăng im phăng phắc/ đủ cho ta giật mình

(Ánh trăng).

Trong khói lửa chiến tranh, trăng là vẻ đẹp của thiên nhiên và cũng là

mảnh hồn trong sáng của người lính nơi chiến trường ác liệt. Có thể nói với

Nguyễn Duy, vầng trăng là tượng trưng cho vẻ đẹp tâm hồn của người lính:

Ô kìa! Đột ngột trăng lên

Trăng trời trăng láng bạc trên lá rừng

91

(Trăng)

Cong cong võng bạt anh nằm

khuyên lên nền lá mảnh trăng lưỡi liềm

… Em ơi dù có mưa giăng

đêm Trường Sơn vẫn sáng trăng lưỡi liềm

(Võng trăng)

Như vậy, Nguyễn Duy đã mượn hình ảnh trăng trong thơ ca dân gian

để sáng tạo nên những ý nghĩa mới mẻ. Trăng trong thời kì chiến tranh

thường gắn với vẻ đẹp trong sáng, tròn đầy, thể hiện tâm hồn con người, còn

trăng trong thời kì hậu chiến phần lớn là đề cập đến những vấn đề của cuộc

sống. Trăng thực sự đã trở thành một biểu tượng nghệ thuật độc đáo, thể hiện

một trí tuệ sắc sảo của nhà thơ.

Trăng trong thơ Đồng Đức Bốn mang nhiều dáng hình, cung bậc tâm

trạng khác nhau. Đó là hình ảnh trăng gầy trong đêm thức ở Côn Sơn đầy ám

ảnh, gợi đến hình ảnh “vầng trăng khuyết đĩa dầu hao” quen thuộc trong thơ

dân gian hay hình ảnh vầng trăng khuya khoắt trong “Truyện Kiều”:

Chênh vênh một chiếc trăng gầy

Đường non khúc khuỷu sương bay nhạt nhòa

(Thức với Côn Sơn)

Trong thơ Đồng Đức Bốn, dù viết về một vâng trăng mềm mại có thể

thắt buộc con đò tình yêu:

Rút trăng buộc lại con đò

Thu lời em hát chỉ cho riêng mình

(Đêm sông Cầu)

Hay là một vầng trăng mang nỗi buồn thương man mác vì một tình yêu

không thành:

Tôi giờ còn có ai mong

Mà người mượn gió bẻ cong trăng ngà

92

(Đời tôi)

Người đọc đều có thể cảm nhận những phong vị dân gian truyền thống

có được trong cách nói, cách thể hiện vầng trăng của thơ ca dân gian đặc biệt

là những vầng trăng gợi cảm giác cô đơn, lẻ loi.

Xuất thân từ chốn ruộng đồng, cả Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đều

chú ý thể hiện hình ảnh vườn quê trong thơ của mình. Có thể nói, vườn là

biểu tượng về văn hóa làng quê Việt Nam, là hình ảnh thu nhỏ bức tranh thôn

quê Việt Nam. Chính vì vậy, hình ảnh vườn quê trở nên quen thuộc trong thơ

của nhiều nhà thơ với biết bao tình cảm yêu thương, trìu mến. Nguyễn Duy

vận dụng tài tình cách phác họa chấm phá của thơ ca trong nghệ thuật tạo

dựng hình ảnh dân gian để tạo dựng hình ảnh khu vườn nơi xứ Huế mộng và

thơ, mang nét đẹp trữ tình đằm thắm, thi vị:

Bến Tuần loáng thoáng hàng dâu

Em xa vườn lựu từ lâu lắm rồi

Lối mòn đá cuội rong chơi

Lơ thơ trắng dưới chân đồi hoa mơ

(Nhớ bạn)

Đồng Đức Bốn cũng đánh thức tâm hồn những con người quê trong

cuộc sống hiện đại khi xây dựng được một khu vườn quê với những cây cỏ,

hoa lá quen thuộc, đạm phong vị, dáng dấp hình ảnh của thơ dân gian. Đó là

bờ tre, bụi dứa rất đỗi giản dị, thân thương nhưng cũng đủ gợi lên tâm trạng,

suy nghĩ về sự tan vỡ của những giá trị truyền thống trong cuộc sống hiện tại:

Bờ tre bụi dứa tan rồi

Cuốc kêu ai biết cho lời cuốc đâu

(Cuốc kêu)

Đó là những hàng rào quê thanh mảnh, được tô điểm bằng những cây

cỏ, loài hoa (cúc tần, dâm bụt, mồng tơi…) càng làm tăng vẻ đẹp dung dị của

93

khu vườn quê:

Khổ thân cho cả bờ rào

Dây tơ hồng héo quắt vào mùa thu

(Cơn mưa dừng ở Sóc Sơn)

Và đặc biệt trong hình ảnh vườn quê khắc đậm trong tâm hồn, tình cảm

của nhà thơ với những vần thơ trĩu nặng tâm tình:

Xéo gai anh chẳng sợ đau

Bởi yêu ruộng lúa vườn cau trước nhà

(Xéo gai anh chẳng sợ đau)

Bên cạnh việc xây dựng hình ảnh tiêu biểu cho thiên nhiên làng quê,

Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn còn mượn lại hình ảnh con cò trong ca dao làm

biểu tượng cho sự cần cù, lam lũ của những người bà, người mẹ, của những

người lao động nghèo Việt Nam. Hình ảnh con cò trong ca dao Việt Nam là

biểu tượng văn hóa, mang bản sắc tâm hồn Việt, một hiện thân của thân phận

người Việt. Trên cái nền dân gian ấy, các anh đã tạo nên hình ảnh những con

cò đầy sức gợi.

Trong thơ Nguyễn Duy, hình ảnh con cò hiện lên thật sinh động. Đó

là cánh cò bay lả bay la trong Khúc dân ca ở đồng bằng Bắc Bộ, rồi “cò

bay trắng cả một bờ đại dương” nơi mũi Cà Mau (Lời ru con cò biển) đến

cánh cò trong lời ru của mẹ (Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa), hay cánh cò trong

Mùa nước nổi ở Đồng Tháp Mười…Biểu tượng đồng quê mang bản sắc

văn hóa truyền thống này như một mạch nguồn chảy suốt hành trình thơ

Nguyễn Duy và là biểu tượng của quê hương, của truyền thống cội nguồn,

của những gì mộc mạc bình dị hiền hậu. Trong hình ảnh cánh cò mang theo

tình mẫu tử bất diệt của Nguyễn Duy, ta gặp lại hình ảnh con cò đầy ám

ảnh của thơ ca truyền thống:

Cái cò…sung chát…đào chua

câu ca mẹ hát gió đưa về trời

ta đi trọn kiếp con người

cũng không đi hết mấy lời mẹ ru

94

(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa)

Hay cánh cò biểu tượng cho những gì trắng trong, thuần khiết: “Tuổi

thơ tôi trắng muốt cánh cò” (Tuổi thơ). Con cò cũng gợi lên hình ảnh về

những cuộc đời lam lũ truyền kiếp:

Mẹ trót ru ta câu sấm mệnh con cò

Thôi đừng trách cành tre sao mềm thế

(Chợ)

Hình ảnh cánh cò trong thơ Đồng Đức Bốn cũng gợi sự long đong,

phiêu bạt hình ảnh cánh cò ttrong ca dao:

Chuông chùa tiếng đục tiếng trong

Thảo nào cát bụi long đong thân cò

(Viết ở bờ sông)

Ngoài những hình ảnh trên, khảo sát qua thơ của Nguyễn Duy, Đồng

Đức Bốn, ta còn bắt gặp rất nhiều những ảnh của ca dao dân ca như ngõ trúc,

cây đa, dải yếm, đôi mắt, giếng nước, sân đình… Được khai thác và vận dụng

sáng tạo, tinh tế, những hình ảnh truyền thống quen thuộc này đã góp phần

tạo thành một không gian văn hóa rất đặc trưng của làng quê, một không gian

mang hồn cốt, bản sắc dân tộc:

Yếm đào còn ở chốn quê

Nên cây trúc mọc còn mê sân đình

(Xéo gai anh chẳng sợ đau)

Tóm lại, xuất phát từ cái nôi văn hóa dân gian, cả Nguyễn Duy và

Đồng Đức Bốn đã mượn lại những hình ảnh, biểu tượng quen thuộc của ca

dao, dân ca như sông, trăng, con cò, cây trúc, cây tre, bến nước, sân đình… để

từ đó làm mới và phát triển. Qua các sáng tác ta thấy được sự gắn bó sâu sắc

với cội nguồn văn hóa dân tộc và tài năng sáng tạo nghệ thuật độc đáo của hai

nhà thơ và đó chính là cơ sở tạo nên bản sắc đậm đà trong thơ của Nguyễn

95

Duy và Đồng Đức Bốn:

Bên cạnh việc tiếp thu, vận dụng các hình ảnh của dân gian, truyền

thống linh hoạt, sáng tạo với tần số dày đặc thì Nguyễn Duy và Đồng Đức

Bốn đã tiếp thu, vận dụng nghệ thuật xây dựng hình ảnh của thơ ca dân

gian với lối nói, cách cảm, cách nghĩ dân gian cùng với các phương pháp

ẩn dụ, ví von, so sánh… mà chúng tôi sẽ kết hợp phân tích ở phần ngôn

ngữ, giọng điệu.

3.3. Ngôn ngữ, giọng điệu

3.3.1. Ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn

Nguyễn Tuân đã từng nói: “Ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo

ngôn ngữ”. Ngôn ngữ hay ngôn từ nghệ thuật là sản phẩm cụ thể của cá nhân.

Ngôn ngữ là chất liệu đầu tiên và không thể thiếu của sáng tác văn chương.

Một mặt, nó mang đặc trưng chung của ngôn ngữ dân tộc. Mặt khác, nó cũng

in đậm dấu ấn cá nhân của từng tác giả. Vì vậy, để tìm hiểu những nét đặc sắc

về mặt nghệ thuật của từng tác giả, ta không thể không nghiên cứu phương

diện ngôn ngữ. Trong thơ, ngôn ngữ đòi hỏi phải có tính hàm súc, gợi tả, giàu

nhạc điệu, giàu liên tưởng. Ngôn ngữ thơ chú trọng tới việc bộc lộ thế giới

của cái tôi nội cảm bên trong con người. Và để tác phẩm mang tính thẩm mĩ,

nghệ thuật cao, ngôn ngữ thơ thường sử dụng các biện pháp tu từ để thể hiện.

Trong các sáng tác của mình, Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đã thể

hiện rõ tài năng và cá tính sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ. Cả hai tác

giả đều có lối dùng từ ngữ bình dị, gần gũi với cuộc sống nhân dân, thời đại

và ca dao truyền thống. Ngôn ngữ trong tác phẩm của họ được khơi nguồn từ

đời sống: đời sống văn hóa, đời sống sinh hoạt, đời sống tâm linh… mộc mạc,

dân dã, gần gũi với đời thường nhưng lại có sức biểu đạt cao. Vốn coi trọng

cội nguồn và những giá trị bền vững của đời sống, Nguyễn Duy và Đồng Đức

Bốn đã tìm thấy ở thơ ca dân gian nguồn từ ngữ phong phú để từ đó khai thác

và vận dụng nhuần nhuyễn ngôn ngữ dân gian, luôn làm trẻ ca dao bằng

96

những ngôn từ, những lối kết hợp và phép tu từ mới, lạ, độc đáo rất thú vị.

Ở thơ Nguyễn Duy, ta bắt gặp vốn từ dân gian, từ địa phương hết sức

phong phú được sử dụng một cách nhuần nhụy. Hàng loạt các từ ngữ quê mùa

dân dã như: “mần răng”, “không răng”, “bên ni… bên tê”, “lôi thôi lếch

thếch”, “tỏng tòng tong”… qua bàn tay của người nghệ sĩ bỗng trở nên sinh

động, tự nhiên và đem lại giá trị nghệ thuật cao.

Trong bài “Dân ơi”, từ “tỏng tòng tong” là từ quen dùng trong cách nói

thường ngày của dân gian đã được Nguyễn Duy vận dụng tài tình đắc địa, vừa

diễn tả cảnh lụt trắng đồng mất không còn gì, vừa thể hiện niềm xót xa

thương cảm của nhà thơ đối với làng quê trong cảnh mất mùa đói kém:

Năm nay lại lụt trắng đồng

Quê ta lại tỏng tòng tong mùa màng

(Dân ơi!)

Ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Duy là thứ ngôn ngữ rất gần gũi với lời ăn

tiếng nói hàng ngày của người dân quê:

Sớm mai đánh bệt trước thềm

Đừ đừ phun khói thuốc lên tận trời

(Thuốc lào)

Những từ “đánh bệt”, “đừ đừ” giản dị, tự nhiên như lời nói cửa miệng

hàng ngày của người dân quê được tác giả đưa vào thơ bỗng trở nên giàu sức

gợi hình, gợi cảm.

Qua cách sử dụng ngôn ngữ thơ, có thể thấy cùng là vốn ngôn ngữ dân

gian, ngôn ngữ nhà quê nhưng ở Nguyễn Bính, ngôn ngữ dân gian ấy có vẻ

lắng dịu, mượt mà, ngọt ngào hơn. Còn ở Nguyễn Duy, ngôn ngữ nhà quê

mang nét vẽ táo bạo hơn, suồng sã hơn, ngôn ngữ truyền thống nhưng cũng

rất hiện đại.

Cũng tiếp thu tinh hoa từ vốn ngôn ngữ dân gian với lối nói giản dị, đời

thường, Đồng Đức Bốn đã cho chúng ta thấy được không khí quê, cảnh sắc

97

làng quê qua những vần thơ mộc mạc, chân chất:

Chăn trâu đốt lửa trên đồng

Rạ rơm thì ít gió đông thì nhiều

(Chăn trâu đốt lửa)

Thơ ca dân gian là kho báu ngôn ngữ đượm màu sắc dân tộc. Cả

Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đều đã học hỏi ở ca dao cách sử dụng lối

xưng hô với các đại từ quen thuộc trong ca dao: mình, ta, ai, ấy, người dưng,

đó, đây… Hệ thống đại từ nhân xưng này đã tạo cho câu thơ chất trữ tình, tình

tứ, ngọt ngào, đằm thắm như những câu ca xưa:

Thôi ta về với mình thôi

Chân trời đành để chim trời nó bay

(Đường xa - Nguyễn Duy)

Có ai còn nhớ đến tôi

Có thương thuyền giữa sông trôi lững lờ

(Chợ Thương - Đồng Đức Bốn)

nhưng cũng có lúc suồng sã, vui đùa, tếu táo với cách xưng hô ta - mình,

tao - mày:

Mình vô tư với ta đi

Vô tư nên chẳng cần chi nhiều lời

(Vô tư - Nguyễn Duy )

Giang hồ ở khắp mọi nơi

Mày là cỏ dại suốt đời lang thang

Tao như một ngọn gió hoang

Về đây hát khúc tình tang quê mùa

(Nói chuyện với những cây cỏ dại - Đồng Đức Bốn)

Cách xưng hô trong thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đã cho thấy rất

rõ tính khẩu ngữ và gần gũi thơ ca dân gian. Mặc dầu vậy, cách xưng hô của

hai nhà thơ vẫn giàu chất thơ và là những sản phẩm mang đậm dấu ấn sáng

98

tạo của cá nhân, thể hiện cách cảm, cách nghĩ của con người hiện đại.

Là những nhà thơ xuất thân từ ruộng đồng, gắn bó chặt chẽ với cuộc

sống chốn thôn quê, Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đã sử dụng linh hoạt

cách nói dân gian gần gũi, thân mật với những thành ngữ, tục ngữ, ca dao. Ta

thấy xuất hiện với mật độ cao những thành ngữ, tục ngữ trong thơ Nguyễn

Duy: gừng cay muối mặn, đau như xát muối, nửa đường đứt gánh, dãi nắng

dầu mưa, quýt làm cam chịu, tiền nào của ấy, vã mồ hôi sôi nước mắt… Quả

đúng là đọc thơ Nguyễn Duy, ta bắt gặp một “thế giới ca dao phập phồng sinh

động”. Ca dao đi vào thơ Nguyễn Duy hết sức tự nhiên và được vận dụng một

cách sáng tạo để diễn tả những vấn đề của đời sống hiện đại đầy sức thuyết

phục. Có những bài thơ được bắt đầu bằng một câu ca dao, sau đó được triển

khai theo một hướng đầy sáng tạo:

Con cò bay lả bay la

theo câu quan họ bay ra chiến trường

(Khúc dân ca)

Và có nhiều bài được kết thúc bằng những câu ca dao nguyên vẹn:

Nhìn về quê mẹ xa xăm

Lòng ta chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa

Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa

Miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương

(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa)

Nguyễn Duy cũng hết sức tài tình khi cải biên sáng tạo ca dao truyền

thống. Từ câu ca dao mang tính chiêm nghiệm, đúc kết của dân gian “Mấy

đời bánh đúc có xương/ Mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng”, Nguyễn Duy

đã sáng tạo những câu thơ đầy tính đúc kết, thấm thía:

Mấy đời xương trắng hóa vôi

Tro tàn âm ỉ mấy đời chiến tranh

Rõ ràng, vận dụng triết lí của dân gian xưa, Nguyễn Duy đã nói lên

99

được triết lí của thời đại: chiến tranh là tàn khốc, là đau thương, mất mát.

Nhiều bài thơ của Nguyễn Duy lại sử dụng lối nói ngược quen thuộc

của ca dao. Ở bài Xẩm ngọng, lối nói ngược được vận dụng để phê phán

những thói hư tật xấu, mặt trái của xã hội. Thơ Nguyễn Duy nhiều bài mang

âm hưởng lời ru: Lời ru đồng đội, Lời ru con cò biển, Lời ru trong bão, Ca

dao vọng về, Mùa thu… đã tạo nên tính mượt mà, truyền cảm, dễ đi vào nếp

cảm, nếp nghĩ của người đọc.

Cũng giống như Nguyễn Duy, ngôn ngữ thơ Đồng Đức Bốn là thứ

ngôn ngữ được chắt lọc từ ca dao, thành ngữ, tục ngữ. Những cách nói của

cha ông từ ngàn năm như được vọng về trong những vần thơ lục bát giản dị

mà sâu sắc ý tình:

Bát cơm và nắng chan sương

Đói no con mẹ sẻ nhường cho nhau

(Trở về với mẹ ta thôi)

Nhà bạn cũng giống nhà tôi

Mái tranh vách đất nhìn trời qua vung

(Con sáo sang sông III)

Nhà thơ cũng thật sáng tạo khi vận dụng tục ngữ “Gái một con trông

mòn con mắt”:

Đúng là gái có một con

Để tôi ngơ ngẩn trông mòn mắt ra

(Gái một con trông mòn con mắt)

Hay câu ca dao “Mình về em dặn câu này/ Sông sâu chớ lội đò đầy chớ

qua” đã được Đồng Đức Bốn khai thác và vận dụng tài tình:

Đừng buông giọt mắt xuống sông

Anh về dẫu chẳng đò không cũng chìm

Tiếp thu vốn ngôn ngữ dân gian, Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn sử

dụng trong thơ của mình nhiều thán từ và tình thái từ của ca dao. Nhà thơ

100

Nguyễn Duy từng thốt lên đầy bất ngờ, xao xuyến khi phát hiện vẻ đẹp tuyệt

mĩ của thiên nhiên tạo vật. Cảm xúc ấy được bộc lộ trực tiếp qua các thán từ:

chao, ô kìa… bật lên như lời nói thường ngày của cuộc sống:

Ô kìa đột ngột trăng lên

Trăng, trời, trăng láng bạc trên lá rừng

(Trăng)

Trước cảnh đê vỡ đầy tang thương, Đồng Đức Bốn cũng không kiềm

chế được nỗi lòng mà phải thốt lên:

Ối mẹ ơi đê vỡ rồi

Đồng ta trắng xóa cả trời nước trong

(Vỡ đê)

Các tình thái từ: sao, mà, với, rồi,… được sử dụng một cách linh hoạt,

tự nhiên góp phần không nhỏ vào việc thể hiện sắc thái tình cảm, cảm xúc của

nhân vật trữ tình:

Thịt xương xưa hóa đất rồi

Nợ xưa còn để nặng đời sau ư?

(Chi Lăng – Nguyễn Duy)

Bây giờ mưa gió về đâu

Để tôi nhớ mãi một màu tóc xưa

(Mưa gió về đâu)

Trong ca dao xưa thường xuất hiện những địa danh đất Việt. Hệ thống

các từ địa danh cũng được Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn vận dụng vào thơ

một cách tự nhiên, linh hoạt. Những từ ngữ chỉ địa danh không phải là những

con chữ khô cứng mà gắn với những kỉ niệm, những tâm sự, tình cảm mà nhà

thơ từng sống, từng trải nghiệm. Đó có khi là nỗi đau và sự hào hùng của một

thời lửa đạn đã qua:

Cồn Tiên áo trắng qua cầu

Bạn tôi nằm dưới trắng phau Đông Hà

101

(Giấc mộng trắng - Nguyễn Duy)

Nhiều khi những tên địa danh cho ta thấy được vẻ đẹp thanh bình, giản

dị của quê hương:

Gió sông Hồng đã lên ngôi

Trăng Tây Hồ hết mồ côi tội tình

(Gai rào ngõ quê)

Qua khảo sát có thể thấy, ngôn ngữ thơ của Nguyễn Duy và Đồng Đức

Bốn là thứ ngôn ngữ dân dã, quê mùa, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày

của nhân dân. Nói cách khác, đó là thứ ngôn ngữ mang đậm dấu ấn dân gian

và bản sắc dân tộc. Chính đặc điểm này đã tạo nên sức hấp dẫn mạnh mẽ của

thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đối với các thế hệ độc giả Việt Nam.

3.3.2. Giọng điệu thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn

Giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học, là một

phương diện biểu hiện quan trọng của chủ thể sáng tạo. Giọng điệu nghệ thuật

không chỉ là yếu tố hàng đầu của phong cách nhà văn mà còn là yếu tố có vai

trò thống nhất mọi yếu tố khác của hình thức nghệ thuật tác phẩm vào một

chỉnh thể thống nhất. Các yếu tố tư tưởng, hình tượng, chủ đề tác phẩm được

cảm nhận trên một phạm vi giọng điệu nào đó mà từ đó người đọc có thể

thâm nhập vào thế giới tinh thần của tác giả. Giọng điệu làm nên phong cách

riêng biệt của mỗi nhà văn, nhà thơ, là hồn cốt của tác phẩm.

Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn là những nhà thơ xuất thân từ chốn

đồng quê mà sáng tác của họ luôn đậm đà tính dân tộc. Xét trên phương diện

giọng điệu, có thể thấy nét nổi bật của thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn là

giọng điệu trữ tình dân gian với nhiều sắc thái khác nhau của giọng điệu ca

dao, dân ca. Đó có khi là chất giọng châm biếm, hài hước; có khi lại là giọng

ghẹo, bông đùa và có lúc lại là giọng tâm tình, giãi bày hay thở than quen

102

thuộc của ca dao xưa.

Khảo sát thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn, có thể khẳng định các

nhà thơ đã kế thừa hai điệu chính trong thơ ca dân gian mà cụ thể là ca dao.

Đó là điệu than trong ca dao than thân và điệu ghẹo trong ca dao giao duyên.

Đến thơ Nguyễn Duy, người đọc thường bắt gặp những lời ca êm ái,

ngọt ngào như trong lời ru của ca dao:

Con cò bay lả bay la

Theo câu quan họ bay ra chiến trường

Nghe ai hát giữa núi non

Mà hương đồng cứ dập dờn trong mây

(Khúc dân ca I)

Thơ Nguyễn Duy mang đậm hơi thở của ca dao, dân ca. Mỗi vần thơ

như những tiếng vang vọng từ ngàn xưa, như điệu hồn dân tộc với nhiều cung

bậc, sắc thái khác nhau. Đó có khi là cái êm ái, mượt mà trong Ca dao vọng

về, Lời ru mùa thu, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Đàn bầu… Cũng có lúc lại là

cái đằm thắm, tình tứ kiểu dân gian với Xuồng đầy, Mắt na, Vải thiều…

Ghẹo là một trong những sắc thái của ca dao dân ca. Nguyễn Duy đã

vận dụng điệu ghẹo một cách thần tình. Không phải ngẫu nhiên mà nhà

nghiên cứu Chu Văn Sơn lại so sánh Nguyễn Duy với Nguyễn Bính - hai nhà

thơ đều gắn bó với cái nôi dân gian. Nếu như Nguyễn Bính thiên về điệu than

thì Nguyễn Duy lại thiên về điệu ghẹo. Giọng điệu ghẹo kết hợp với chất bụi

bặm đã cho thấy được tận cùng bản ngã của Nguyễn Duy. Nhà thơ ghẹo trong

tình yêu, cái giọng ghẹo dễ khiến người ta liên tưởng tới hình ảnh của một

chàng trai xứ đồng thông minh, lém lỉnh với lời tỏ tình táo bạo mà không kém

phần ý nhị kín đáo:

Chúng mình nhắm mắt đi em

Cho na mở mắt ra xem chúng mình

103

(Mắt na)

Nguyễn Duy còn ghẹo đời bằng cái giọng cá tính, tưng tửng, bụi bặm

rất riêng:

Đàn kêu tưng tửng từng tưng

Con trâu xúc phạm sợi thừng cột trâu

Cái sang xúc phạm cái nghèo

Cái ngay xúc phạm cái khoèo bẩm sinh

(Xẩm ngọng)

Chất hài hước ở Nguyễn Duy thường được đi kèm với các từ ỡm ờ,

buông lơi, rất duyên dáng của ca dao:

Đố em bán gió cho giời

Để anh đánh thuế bọn người buôn nhau

(Thách thức)

Tuy nhiên trong thơ Nguyễn Duy ta còn thấy yếu tố phản ca dao rất rõ.

Ca dao xưa thiết tha khuyên rằng: “Con ơi mẹ dặn câu này/ Sông sâu chớ lội

đò đầy chớ đi” thì Nguyễn Duy lại tinh nghịch xui khiến: “Mẹ răn vẫn nhớ

xuồng đầy vẫn đi”. Trong sự đối lập ấy “cả ca dao và cả thơ cùng bay bổng

hơn, sống động hơn, sâu sắc hơn”. “Phản” nhau nhưng lại nâng nhau lên, làm

rõ nhau hơn trong mạch đời hiện đại, đa dạng, đa chiều” [55, tr. 78]. Đúng

như Lại Nguyễn Ân nhận xét: “Nguyễn Duy đã tạo nên cái tiếng cười khúc

khích, giọng bông lơn bỡn cợt ngay giữa những dòng trữ tình để phá vỡ cái vẻ

rưng rưng cứ dâng trào lên làm căng thẳng và mệt mỏi tâm lý cảm thụ”. Và ở

đằng sau cái vẻ phớt đời đó, lại là tâm trạng đầy bi phẫn, chua xót, một thái

độ sống tích cực. Rõ ràng trong giọng ghẹo, chúng ta vẫn nhận thấy giọng

than chất chứa sự xót xa, buồn thương sâu lắng của nhà thơ. Và có lẽ, đó mới

chính là giọng điệu của một thi sĩ quê mùa đích thực: Trong vui có buồn,

trong ngọt bùi có cả xót xa, cay đắng. Giọng điệu đó được hấp thụ rồi “tinh

104

lọc, thăng hoa” từ giọng điệu đặc sắc của thơ ca truyền thống.

Nếu ở Nguyễn Duy, giọng ghẹo nhiều hơn than thì Đồng Đức Bốn lại

ám ảnh người đọc hơn với giọng thở than, tê tái của ca dao.

Đời tôi có một người thương

Đói cơm rách áo nằm sương cùng nhà

Sang giàu mặc kệ người ta

Đời tôi chỉ những xót xa đi tìm

(Đời tôi)

Kế thừa hình thức thể hiện của thơ ca dân gian, thơ Đồng Đức Bốn ở

giọng điệu thở than tê tái cũng dùng lối kể tâm trạng là chủ yếu kết hợp với kể

hành động nhưng kể ít mà gợi nhiều:

Chẳng ai biết đến mẹ tôi

Bạc phơ mái tóc bên trời hoa mơ

Còng lưng gánh chịu gió mưa

Nát thân tìm cái chửa chưa có gì

Cầm lòng bán cái vàng đi

Để mua những cái nhiều khi không vàng

(Trở về với mẹ ta thôi)

Ở một bài thơ khác, lời than thất tình của Đồng Đức Bốn với lối kể sự

việc thì ít mà kể tâm trạng thì vời vợi. Đó là nỗi đau, nỗi buồn vì tình duyên

dang dở:

Cái đêm em ở với chồng

Để ai hóa đá bên sông đợi đò

Cái đêm hôm ấy gió mùa

Tơ nhện giăng đến cổng chùa thì tan

(Cái đêm em ở với chồng)

Thơ Đồng Đức Bốn cũng sử dụng lối chì chiết, đay đả của ca dao để

105

tạo nên những vần thơ nghe đến xót xa:

Duyên mình chả bén trầu cau

Thì làm hạt muối ướp đau lòng chờ

(Mùa xuân đi phủ Tây Hồ)

Có thể thấy, nội dung cảm xúc trong thơ Đồng Đức Bốn là nỗi buồn,

nỗi đau. Nỗi buồn trong mưu sinh, trong lập nghiệp, trong sáng tạo nghệ

thuật, trong đời tư cùng sự ảnh hưởng của điệu than trong ca dao đã tạo nên

chất giọng thở than tê tái mang bản sắc riêng của Đồng Đức Bốn.

Cùng với giọng điệu trầm buồn, chua xót, thơ Đồng Đức Bốn còn có giọng

ghẹo dí dỏm của ca dao:

Em bán gì đấy em ơi

Để tôi mua một nụ cười làm duyên

Nếu không trả được bằng tiền

Tôi lấy trăng liềm làm bím tóc cho

(Duyên quê)

Bên cạnh đó là cái giọng tưng tửng dân gian, bỡn cợt, thách thức nhưng

cũng rất đằm thắm, yêu thương:

Yêu em nếu phải đốt trời

Cũng vui vẻ chết như chơi vườn đào

(Gửi Tân Cương)

Cánh hoa sắc một lưỡi dao

Vì yêu tôi cứ cầm vào như chơi

(Hoa dong riềng)

Tóm lại, trên phương diện giọng điệu, cả Nguyễn Duy và Đồng Đức

Bốn đã kế thừa sắc điệu trữ tình dân gian của ca dao, dân ca với hai điệu

chính là điệu than và điệu ghẹo. Nếu Nguyễn Duy ghẹo nhiều hơn than thì

Đồng Đức Bốn lại thiên về điệu than. Tất cả cho ta thấy một cá tính sáng tạo

106

độc đáo của hai nhà thơ.

Như vậy có thể thấy, bản sắc dân tộc trong sáng tác của Nguyễn Duy và

Đồng Đức Bốn không chỉ được biểu hiện ở nội dung cảm hứng mà còn được

thể hiện ở nhiều bình diện nghệ thuật khác nhau. Qua khảo sát có thể thấy

ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn là thứ ngôn ngữ mang đậm sắc

thái dân gian, gần gũi với cách nói của thơ ca dân gian, đậm đà tính dân tộc.

Bên cạnh đó là việc tiếp thu nhiều sắc thái giọng điệu của ca dao, dân ca mà

điển hình là điệu than và điệu ghẹo. Hai nhà thơ cũng tập trung xây dựng một

hệ thống hình ảnh, biểu tượng đã trở nên quen thuộc gần gũi với đời sống tinh

thần của con người Việt Nam cùng với thể thơ lục bát truyền thống tạo âm

điệu mượt mà, êm ái… Tất cả đã cho thấy tài năng tiếp thu và sáng tạo vốn

văn hóa truyền thống của Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn để từ đó định hình

nên những phong cách thơ in dấu đậm nét tinh hoa của truyền thống nhưng lại

107

cũng vô cùng hiện đại.

PHẦN KẾT LUẬN

Qua khảo sát những biểu hiện của bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn

Duy và Đồng Đức Bốn, chúng tôi đi đến những kết luận sau:

1. Tìm hiểu bản sắc dân tộc trong sáng tác văn học nói chung và thơ ca

nói riêng là một vấn đề cấp thiết, cần được quan tâm hàng đầu đặc biệt trong

bối cảnh xã hội hiện nay khi mà sự giao lưu trên thế giới đang được đẩy mạnh

hơn bao giờ hết. Nói như vậy, tính dân tộc đậm đà trong sáng tác của Nguyễn

Duy và Đồng Đức Bốn chính là nhịp cầu nối quan trọng để hiểu về văn hóa,

văn học Việt Nam, về đất nước, con người Việt Nam.

Khảo sát thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, ta thấy rõ một khuynh

hướng làm mới thơ sau 1975 bằng việc trở về tiếp thu, sáng tạo truyền thống,

hiện đại hóa trên cơ sở tiếp thu truyền thống. Hai nhà thơ đã không ngừng tìm

tòi những cách thể hiện mới trên cái phông nền văn hóa dân tộc để từ đó

khẳng định một bản lĩnh nghệ thuật độc đáo.

2. Bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn được thể

hiện trên cả phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Trên bình diện nội

dung cảm hứng, cả Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đã tiếp thu nguồn thi liệu

truyền thống để tạo nên tính dân tộc đậm đà trong các sáng tác của mình.

Nguồn thi liệu đó được biểu hiện sâu đậm ở những nguồn cảm hứng chủ đạo

về quê hương đất nước và con người Việt Nam. Có thể nói, bằng những vần

thơ đậm đà bản sắc truyền thống hai nhà thơ đã xây dựng được một bức tranh

chân thực về cảnh sắc làng quê và con người đất Việt.

Cảnh sắc quê hương trong thơ lục bát Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn

hiện lên trước hết với vẻ đẹp đơn sơ, bình dị của những cánh đồng quê, khu

vườn quê. Những cây cỏ, hoa lá cùng những con vật gần gũi, thân thuộc chốn

108

thôn quê đều được các nhà thơ khắc họa, cảm nhận dưới cái nhìn, sự suy

ngẫm của con người xứ đồng. Tất cả đã tạo nên bức tranh phong cảnh quê

hương mang đậm hồn cốt làng quê xứ sở.

Bức tranh quê ấy còn được làm giàu thêm bởi hình ảnh của những con

người quê chất phác, mộc mạc. Đó là hình ảnh của những người mẹ, người

vợ, người cha cùng những chàng trai, cô gái của xứ đồng… Những con người

bình dị ấy được khắc họa với những đặc điểm và vẻ đẹp phẩm chất của con

người Việt Nam truyền thống từ bao đời nay. Họ là những con người giản dị,

chân chất, đầy hồn hậu, bao dung với lối sống nhân ái, nặng nghĩa tình; sống

nghèo khổ, lam lũ mà vẫn bản lĩnh, lạc quan, tin tưởng vào tương lai… Tất cả

đều hiện lên thật đẹp qua những vần thơ ngọt ngào.

3. Để truyền tải được những tình cảm sâu nặng với quê hương, cả

Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đều lựa chọn cho mình một hình thức thể hiện

phù hợp trên cơ sở khai thác và vận dụng sáng tạo thơ truyền thống mà trước

hết là thể thơ lục bát. Như duyên tiền định, cả hai nhà thơ tìm đến thể lục bát

và rồi nổi danh với những sáng tác theo thể thơ truyền thống này. Họ đã tạo

nên những vần thơ lục bát ngọt ngào, êm ái, ăn sâu vào nếp cảm, nếp nghĩ của

mỗi tâm hồn Việt. Những vần lục bát truyền thống nhưng cũng rất hiện đại

dưới tài năng sáng tạo của các nhà thơ càng khắc đậm bản sắc dân tộc của thơ

Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn và góp phần tạo nên sức sống lâu bền cho thể

thơ dân tộc này.

Bên cạnh đó, Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn còn sử dụng vốn ngôn

ngữ mang đậm màu sắc dân gian, gần gũi với ca dao, dân ca, với lời ăn tiếng

nói hàng ngày của nhân dân. Những đại từ nhân xưng quen thuộc, những lớp

từ địa danh vốn xuất hiện trong ca dao nay hiện lên thật sinh động trong thơ

Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn. Cùng với đó là một giọng điệu thơ mang âm

hưởng dân gian với sự kết hợp của hai điệu chính là điệu than và điệu ghẹo.

Ngôn ngữ và giọng điệu đã góp phần hữu hiệu tạo nên tính dân tộc đậm đà

109

trong sáng tác của Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn.

Trong suốt cả đời thơ, các nhà thơ đều có ý thức khai thác và vận dụng

sáng tạo những hình ảnh đặc sắc của thơ truyền thống vốn trở nên gần gũi,

thân thương trong đời sống tinh thần của mỗi con người Việt Nam. Đó đều là

những hình ảnh đã tỏa bóng ngàn năm trong ca dao với sức sống trường tồn,

bất diệt. Tuy nhiên, Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn không chỉ vận dụng hình

ảnh theo nguyên mẫu của ca dao, dân ca mà còn sáng tạo cho phù hợp với suy

nghĩ, tình cảm của con người thời đại. Hình ảnh trong thơ Nguyễn Duy và

Đồng Đức Bốn do vậy vừa thân thiết, quen thuộc vừa mới lạ, độc đáo, tạo

được sức hấp dẫn đặc biệt với người đọc.

Có thể nói gắn kết với cội nguồn truyền thống, từ trên nền tảng của văn

hóa dân gian, Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đã tiếp thu và sáng tạo một

cách tài tình vốn tinh hoa dân tộc. Thành công của hai tác giả, đặc biệt trong

mảng thơ lục bát đã cho thấy một hướng đi hiệu quả và tích cực trong nỗ lực

đổi mới thơ ca sau 1975. Tìm về với cội nguồn, tiếp thu và sáng tạo vốn văn

hóa dân gian là việc làm thiết thực nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa

110

dân tộc trong thời đại mới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Dương Tú Anh (2002), Phong cách thơ Nguyễn Duy, Luận văn Thạc sĩ ĐH

KHXH và NV, Hà Nội.

2. Lại Nguyên Ân (1986), Tìm giọng mới thích hợp với người thời mình, Báo

Văn nghệ, số 15, tr. 11.

3. Nguyễn Duy Bắc (1998), Bản sắc dân tộc trong thơ ca Việt Nam hiện đại

(1945-1975), Nxb văn hóa dân tộc, Hà Nội.

4. Nguyễn Thị Bông (1998), Điểm gặp nhau thú vị của Tú Xương và Nguyễn

Duy, Nxb Thành phố HCM.

5. Đồng Đức Bốn (1992), Con ngựa trắng và rừng quả đắng, Nxb Văn học,

Hà Nội.

6. Đồng Đức Bốn (1993), Chăn trâu đốt lửa, Nxb Lao động, Hà Nội.

7. Đồng Đức Bốn (2000), Trở về với mẹ ta thôi, Nxb Văn học, Hà Nội.

8. Đồng Đức Bốn (2000), Cuối cùng vẫn còn dòng sông, Nxb Hội nhà văn,

Hà Nội.

9. Đồng Đức Bốn (2002), Chuông chùa kêu trong mưa, Nxb Hội nhà văn,

Hà Nội.

10. Đồng Đức Bốn (2006), Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc, Nxb Hội nhà văn,

Hà Nội.

11. Bùi Thị Minh Châu (2013), Tính triết lí trong thơ Nguyễn Duy, Luận văn

Thạc sĩ ĐH KHXH & NV, Hà Nội.

12. Nguyễn Duy (1973), Cát trắng, Nxb Quân đội nhân dân.

13. Nguyễn Duy (1884), Ánh trăng, Nxb Tác phẩm mới.

14. Nguyễn Duy (1987), Mẹ và em, Nxb Thanh Hóa.

15. Nguyễn Duy (1989), Đường xa, Nxb Trẻ.

16. Nguyễn Duy (1994), Sáu và Tám, Nxb Văn học, Hà Nội.

111

17. Nguyễn Duy (1994), Về, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

18. Nguyễn Duy (1997), Bụi, Nxb Văn học, Hà Nội.

19. Nguyễn Duy (2010), Nguyễn Duy thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.

20. Hà Minh Đức (1985), Về một số cây bút trẻ gần đây của quân đội, Báo

Nhân dân.

21. Hà Minh Đức (1998), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

22. Phạm Văn Đồng (1983), Tổ quốc ta, nhân dân và người nghệ sĩ, Nxb

Văn học.

23. Lê Thị Thanh Đạm (2009), Đặc điểm thẩm mỹ thơ Nguyễn Duy, Chuyên

luận, Nxb Văn học, Hà Nội.

24. Tế Hanh (1986), Hoa trên đá và Ánh trăng, Báo Văn nghệ, số 15.

25. Lê Quang Hưng (1986), Thơ Nguyễn Duy và Ánh trăng, Tạp chí văn học,

số 3.

26. Chu Huy (1998), Tre Việt Nam (Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Vũ Cao,

Nguyễn Duy), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

27. Đỗ Huy (1984), Mấy suy nghĩ về hướng phát triển của truyền thống văn

hóa dân tộc, Tạp chí nghiên cứu nghệ thuật, số 2, tr. 3.

28. Đặng Thị Liên Hương (2007), Thơ lục bát qua ba tác giả Nguyễn Duy, Lê

Đình Cánh, Phạm Công Trứ, Luận văn Thạc sĩ ĐH KHXH & NV, Hà Nội.

29. Vũ Thị Hằng (2011), Thơ lục bát Việt Nam trong phong trào thơ mới lãng

mạn 1932 - 1945, Luận văn Thạc sĩ ĐH KHXH & NV, Hà Nội.

30. Hoàng Trung Hiếu (2002), Ánh trăng của Nguyễn Duy hay tiếng lòng ai

đó, Tạp chí Văn học và Tuổi trẻ, số 13, tr. 11 - 12.

31. Lê Thị Hoài (2006), Xu hướng tìm về thi pháp dân gian trong thơ Việt

Nam đương đại qua thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, Phạm Công Trứ, Luận

văn Thạc sĩ ĐHSP Hà Nội.

32. Nguyễn Quốc Khánh (2008), Yếu tố ca dao trong thơ lục bát Đồng Đức

112

Bốn, Luận văn Thạc sĩ, ĐH KHXH&NV, Hà Nội.

33. Mã Giang Lân, Bùi Việt Thắng (2007), Văn học Việt Nam sau 1975, ĐH

Quốc gia Hà Nội, Trường ĐH KHXH & NV, Hà Nội.

34. Mai Ngọc Lê (2008), Truyền thống và cách tân trong thơ Nguyễn Duy,

Luận văn Thạc sĩ ĐH KHXH & NV, Hà Nội.

35. Nguyễn Văn Long (2002), Văn học Việt Nam trong thời đại mới (Từ sau

Cách mạng tháng Tám 1945), Nxb Giáo dục.

36. Hoàng Như Mai (1998), Nguyễn Văn Huấn, Tìm hiểu bản sắc dân tộc

trong thơ chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Giáo dục.

37. Nguyễn Thị Bích Nga (2000), Thơ lục bát Nguyễn Duy, Luận văn Thạc sĩ

ĐHSP Hà Nội.

38. Nhiều tác giả (1999), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội.

39. Nhiều tác giả (2005), Từ điển văn học (Bộ mới), Nxb Thế giới.

40. Nhiều tác giả (2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục.

41. Nhiều tác giả (2002), Giáo trình Lí luận văn học, Nxb Giáo dục.

42. Đặng Thị Lĩnh Ninh (2007), Đặc điểm thơ lục bát Đồng Đức Bốn, Luận

văn Thạc sĩ ĐH KHXH & NV, Hà Nội.

43. Phạm Mai Phong (2008), Chất đồng quê trong thơ lục bát Việt Nam hiện

đại (qua thơ lục bát Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn), Luận văn Thạc sĩ, ĐH

KH XH & NV, Hà Nội.

44. Phạm Thị Phương (2008), Thơ Nguyễn Duy nhìn từ góc độ tư duy nghệ

thuật, Luận văn Thạc sĩ ĐH KHXH & NV, Hà Nội.

45. Nguyễn Quang Sáng (1987), Đi tìm tiềm lực trong thơ Nguyễn Duy (Phần

phụ lục II trong tập thơ Mẹ và Em), Nxb Thanh Hóa.

46. Chu Văn Sơn (2003), Nguyễn Duy - Thi sĩ thảo dân, Tạp chí Nhà văn, số 3.

47. Vũ Văn Sỹ (1999), Người thương mến đến tận cùng chân thật, Tạp chí

văn học số 10.

113

48. Hoài Thanh (1972), Đọc một số bài thơ Nguyễn Duy, báo Văn nghệ .

49. Lê Quang Trang (1985), Đọc “Ánh trăng”, Báo Nhân dân.

50. Đỗ Ngọc Thạch (1997), Người vợ trong thơ Nguyễn Duy, Báo Phụ nữ

Việt Nam, số 1.

51. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm hiểu về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb

Thành phố Hồ Chí Minh.

52. Hoàng Trinh (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam trong tiến trình lịch sử,

Tạp chí văn học, số 8, tr. 3 - 6.

53. Lê Trí Viễn, Đến với bài thơ hay, Nxb Giáo dục, 1997.

54. Hồ Sĩ Vịnh (1993), Tìm về bản sắc văn hóa dân tộc, Tạp chí Nghiên cứu

văn hóa nghệ thuật.

55. Phạm Thu Yến (1998), Ca dao vọng về trong thơ Nguyễn Duy, Tạp chí

114

văn học số 7.