ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------
CHU THỊ HỒNG VÂN
BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG THƠ NGUYỄN DUY
VÀ ĐỒNG ĐỨC BỐN
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
1
Hà Nội - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------
CHU THỊ HỒNG VÂN
BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG THƠ NGUYỄN DUY
VÀ ĐỒNG ĐỨC BỐN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Mai Hƣơng
2
Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đề tài Bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn Duy và
Đồng Đức Bốn là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi. Tất cả các số
liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực. Mọi tài liệu tham khảo,
trích dẫn khoa học đều có nội dung chính xác. Các kết luận khoa học chưa
công bố ở bất kì công trình nghiên cứu nào khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2014
Học viên
3
Chu Thị Hồng Vân
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân
thành và sâu sắc tới PGS. TS. Mai Hương, người đã tận tình hướng dẫn, giúp
đỡ tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong Ban giám hiệu, phòng
Đào tạo sau đại học, các quý thầy cô đã tận tình chỉ bảo và dạy dỗ, truyền đạt
kiến thức, kinh nghiệm cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới gia đình, người thân,
bạn bè đã luôn bên cạnh khuyến khích, động viên giúp tôi vượt qua những
khó khăn để hoàn thành khóa học của mình.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2014
4
Chu Thị Hồng Vân
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 5
1. Lí do lựa chọn đề tài ...................................................................................... 5
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................ 7
3. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 17
4. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 17
5. Đóng góp của luận văn ................................................................................ 18
6. Cấu trúc của luận văn .................................................................................. 18
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................ 20
Chƣơng 1: VỀ KHÁI NIỆM BẢN SẮC DÂN TỘC VÀ HÀNH TRÌNH
SÁNG TẠO CỦA NGUYỄN DUY, ĐỒNG ĐỨC BỐN ............................ 20
1.1. Về khái niệm bản sắc dân tộc ............................................................... 20
1.2. Hành trình thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn ....................................... 25
1.2.1. Thơ Nguyễn Duy ............................................................................ 26
1.2.2. Thơ Đồng Đức Bốn ........................................................................ 35
Chƣơng 2: BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG THƠ NGUYỄN DUY, ĐỒNG
ĐỨC BỐN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NỘI DUNG CẢM HỨNG ..................... 45
2.1. Quê hương, đất nước ............................................................................. 45
2.1.1. Quê hương, đất nước trong thơ ca Việt Nam ................................. 45
2.1.2. Quê hương đất nước trong thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn ........ 48
2.2. Bản sắc của con người .......................................................................... 62
2.2.1. Về những người thân trong gia đình ............................................... 66
2.2.2. Về những chàng trai nơi thôn dã..................................................... 73
5
2.2.3. Về những cô gái quê, cô thôn nữ .................................................... 77
Chƣơng 3: BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG THƠ NGUYỄN DUY, ĐỒNG
ĐỨC BỐN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN .................. 83
3.1. Vận dụng sáng tạo thể thơ lục bát truyền thống ................................... 83
3.2. Khai thác và vận dụng hình ảnh của thơ truyền thống ......................... 87
3.3. Ngôn ngữ, giọng điệu............................................................................ 96
3.3.1. Ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn .................................. 96
3.3.2. Giọng điệu thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn .............................. 102
PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................... 108
6
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 111
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do lựa chọn đề tài
1.1. Công cuộc đổi mới được khởi xướng vào năm 1986 là một sự kiện
trọng đại tạo nên những chuyển đổi cơ bản trong đời sống xã hội Việt Nam.
Trong không khí đổi mới, dân chủ, văn nghệ đã được “cởi trói”, văn nghệ sĩ
có thể “nói thẳng”, “nói thật” về nhiều vấn đề của đời sống xã hội và con
người. Theo đó, cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ cũng được giải phóng triệt
để hơn. Cuộc gặp gỡ giữa Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và giới văn nghệ sĩ
cả nước vào tháng 10 năm 1987 đã tác động rất lớn đến tinh thần của những
người cầm bút, nhất là ý thức tự “cởi trói” trong lĩnh vực sáng tạo. Điều đó
dẫn tới sự thay đổi sâu sắc về tư duy nghệ thuật giai đoạn này. Từ chỗ là
những nghệ sĩ ngợi ca đất nước và nhân dân bằng cái nhìn sử thi và cảm hứng
lãng mạn, giờ đây các nhà thơ chuyển từ “bè cao” sang “giọng trầm”. Cái
nhìn sử thi dần phai nhạt thay vào đó là cái nhìn mang đậm chất đời tư thế sự.
Đây là yếu tố hết sức quan trọng khiến cho nghệ thuật giai đoạn này thể hiện
tinh thần dân chủ hóa sâu sắc. Cảm hứng nhân bản và sự thức tỉnh ý thức cá
nhân đã trở thành nền tảng và cảm hứng chủ đạo của văn học và thơ ca sau
1975. Nhà thơ không còn bị vướng bận với những kiểu hiện thực chủ yếu và
hiện thực thứ yếu, không bị bó buộc trong những khung tư tưởng định sẵn mà
cố gắng thể hiện tính đa chiều của hiện thực đời sống và con người.
1.2. Tư duy thơ thay đổi, quan niệm thơ thay đổi kéo theo một hệ quả
tất yếu là sự đổi mới toàn diện và sâu sắc của thơ. Theo đó, những khuynh
hướng mới trong thơ cũng như sự đa dạng trong phong cách sáng tạo của các
nhà thơ được phát triển. Khảo sát qua thơ Việt Nam sau 1975, chúng tôi nhận
thấy, thơ có những khuynh hướng tìm tòi, đổi mới phương thức thể hiện đa
dạng. Trong đó có thể thấy, khuynh hướng trở về tiếp thu, sáng tạo truyền
5
thống, hiện đại hóa trên cơ sở tiếp
thu truyền thống là một trong những khuynh hướng tìm tòi khá đậm, khá
thành công của thơ đương đại.
1.3. Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn là những cây bút tiêu biểu của
thơ Việt Nam hiện đại. Xuất hiện và trưởng thành trong phong trào thơ
chống Mỹ, Nguyễn Duy đã sớm tạo được phong cách riêng độc đáo và
ngày càng thu hút được sự mến mộ của công chúng. Đến với thơ muộn hơn
và đời thơ cũng ngắn ngủi, nhưng với “giọng” riêng không lẫn, thơ Đồng
Đức Bốn cũng đã tạo được dấu ấn riêng trong thơ Việt đương đại. Mỗi
người một vẻ nhưng một trong những điểm gặp gỡ và góp phần không nhỏ
tạo nên nét riêng, thành công riêng cho cả hai cây bút là sự tiếp thu sáng
tạo, hiệu quả thơ truyền thống - đổi mới trên cơ sở tiếp thu truyền thống
thơ dân tộc. Có thể nói các nhà thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn cùng
nhiều cây bút khác đã khẳng định một trong những hướng tìm tòi đổi mới
giàu hiệu quả của thơ đương đại Việt Nam.
1.4. Tuy nhiên, qua khảo sát của chúng tôi, cho đến nay vẫn chưa có
công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, thấu đáo về vấn đề bản sắc dân
tộc trong thơ đương đại nói chung và hai cây bút Nguyễn Duy, Đồng Đức
Bốn nói riêng. Các công trình, bài viết mới chỉ dừng lại ở một vài khía cạnh
riêng biệt ở một tác giả hay cụm tác phẩm. Từ những lí do đó, người viết đã
lựa chọn nghiên cứu đề tài: Bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn Duy và Đồng
Đức Bốn. Từ đó, nhằm khẳng định một trong những nét độc đáo trong phong
cách sáng tạo và đóng góp của hai cây bút Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn góp
phần tạo nên diện mạo mới của thơ Việt Nam đương đại. Ở một phạm vi nhất
định, luận văn cũng góp phần vào việc tổng kết, đánh giá tiến trình vận động,
6
đổi mới của thơ đương đại Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Lịch sử nghiên cứu chung về bản sắc dân tộc trong thơ Việt
Nam hiện đại
Qua tìm hiểu nghiên cứu, có thể thấy vấn đề bản sắc dân tộc không chỉ
đến nay mới được đem ra bàn bạc, mà ở mỗi thời đại khác nhau, quá trình này
diễn ra với mức độ và quy mô khác nhau. Chúng tôi xin được điểm qua một
số công trình, bài viết tiêu biểu để thấy được tính hệ thống trong vấn đề mình
đang nghiên cứu.
Tác giả Nguyễn Hữu Quýnh với bài Hai xu hướng thơ hiện nay đã chỉ
ra sự khác biệt giữa cái mới của những thế hệ cầm bút trên thi đàn Việt Nam
sau 1946. Tác giả bày tỏ thái độ trước những yêu cầu cách tân thơ hiện nay là:
Để có một nền thơ thuần hậu, nhân văn, trong sáng và đa dạng cần đối xử
công bằng với mọi nhà thơ. Đừng vì nhân danh đổi mới, hiện đại hay truyền
thống mà bên trọng bên khinh. Hãy để cho các khuynh hướng thơ được bình
đẳng tồn tại với nhau, đừng dạy dỗ, đừng áp đặt, đừng khắt khe và cũng đừng
ôm ấp chiều chuộng thái quá ai cả. Tự thơ nói lên tất cả. Tự bạn đọc bầu chọn
nhà thơ của họ. Tự cuộc sống lâu dài định danh cho thơ. Tóm lại cứ để cho
thơ phát triển tự nhiên vì nó là thơ. Tuy nhiên, tác giả chỉ dừng lại nhìn nhận
một cách khái quát về xu hướng thơ hiện nay mà không đi vào nghiên cứu
một tác giả, tác phẩm cụ thể nào.
Phạm Vĩnh trong bài Tính dân tộc trong thơ Việt Nam: vĩnh cửu và
luôn luôn biến đổi đã nghiên cứu tính dân tộc trong thơ Việt Nam trong suốt
chiều dài phát triển lịch sử thơ ca, để khẳng định: Người sáng tạo càng sâu
sắc, độc đáo bao nhiêu thì càng đạt tính dân tộc, tính nhân loại ở độ cao bấy
nhiêu. Đồng thời tác giả khẳng định, tính dân tộc phải có xu thế mở, tức là nói
đến tính dân tộc không có nghĩa là nói đến một giá trị bất biến, khuôn khổ và
7
cứng nhắc mà phải luôn kế thừa và sáng tạo tiếp.
Tác giả Trần Sáng với bài Thử tìm hiểu tính dân tộc trong thơ hôm nay
đã ngợi ca cái mượt mà đằm thắm, cái chia sẻ, thấu hiểu mà thơ dân tộc đã có
được. Những gì mang tính dân tộc trong thơ hôm nay “Đó là những lời từ trái
tim, là chủ nghĩa nhân đạo cao cả của người Việt cũng là cái đích hướng đến
của nhân loại. Những vần thơ đó đã chinh phục trái tim nhân loại trong khi
nhà thơ vẫn đứng vững hai chân trên mảnh đất dân tộc mình”.
Ngoài những bài nghiên cứu trên, chúng tôi thấy đã có những bài
nghiên cứu chung về thơ của các tác giả Trần Đình Sử, Mã Giang Lân, Lý
Hoài Thu, Nguyễn Văn Long, Mai Hương, Bích Thu... trong đó ít nhiều đã đề
cập đến yếu tố dân gian, chất dân gian trong thơ đương đại. Tuy nhiên, những
công trình nghiên cứu này mới chỉ tập trung vào vấn đề chung của thơ đương
đại, chưa có điều kiện đi sâu vào bản sắc dân tộc trong thơ đương đại, đặc biệt
của hai cây bút Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn.
2.2. Lịch sử nghiên cứu về bản sắc dân tộc trong thơ của Nguyễn
Duy và Đồng Đức Bốn.
2.2.1. Các công trình nghiên cứu về thơ Nguyễn Duy
Nguyễn Duy xuất hiện trên thi đàn và mang đến một tiếng nói riêng
đầy bản sắc, thu hút sự chú ý của nhiều độc giả. Đã có khá nhiều bài viết
đánh giá, thẩm bình về thơ ông. Mỗi công trình nhìn nhận thơ Nguyễn Duy
từ một phương diện khác nhau, một khía cạnh nào đó trong đời thơ của
ông. Để thấy rõ hơn quá trình thẩm bình đánh giá đó, luận văn chủ yếu đi
vào khảo sát các công trình nghiên cứu liên quan tới bản sắc dân tộc trong
thơ Nguyễn Duy.
Ngay từ những sáng tác đầu tay, nhất là sau giải thưởng cuộc thi thơ
của tuần báo Văn nghệ 1973, Nguyễn Duy đã nhanh chóng thu hút được sự
mến mộ của đông đảo công chúng và gây được sự chú ý của các nhà nghiên
cứu, phê bình. Trước hết phải kể đến ý kiến của Hoài Thanh về thơ Nguyễn
8
Duy trong bài viết Đọc một số bài thơ của Nguyễn Duy [48] :…“đọc thơ
Nguyễn Duy thấy anh thường hay cảm xúc với những chuyện lớn, chuyện nhỏ
quanh mình. Cái điều ở người khác có thể chỉ là chuyện thoảng qua thì ở anh
nó lắng sâu và dường như dừng lại”. Những nhận xét của Hoài Thanh đã
giúp chúng ta thấy được điểm riêng trong sáng tác của Nguyễn Duy. Bằng
cảm nhận tinh tế, sắc sảo, ông đã nhận ra vị quê mùa đằm thắm, chân chất
trong thơ Nguyễn Duy, “quen thuộc mà không nhàm”, là “khúc dân ca” vùng
“đồng bằng miền Bắc đã cùng anh đi vào giữa đỉnh Trường Sơn”. Chất thơ đó
“nhẹ nhàng hiền hậu”, “rất Việt Nam mà chúng ta vẫn giữ nguyên trong thử
lửa”. Bài viết đã đề cập đến tư duy thơ của Nguyễn Duy, đó là sự kết hợp của
cảm xúc, tình thơ với ý thơ và sự suy ngẫm.
Nhà phê bình Hà Minh Đức trong bài Về một số cây bút trẻ gần đây
trong quân đội [20] đã viết về triết lí dân gian trong thơ Nguyễn Duy: “Thơ
Nguyễn Duy mang nhiều màu sắc dân gian. Cách suy nghĩ và cảm xúc trên
trực tiếp hay gián tiếp đều nằm trong mạch suy nghĩ quen thuộc của dân gian
và tự nhiên là anh phải tìm đến một lối phô diễn, một giọng điệu thơ thích
hợp”, “anh chú ý nhiều đến thể lục bát, đến sự mềm mại, nhịp nhàng của các
làn điệu dân ca”. Cũng bàn về thơ lục bát, Lê Quang Trang nhận ra đây là thế
mạnh của Nguyễn Duy “anh vốn là người sở trường về sử dụng thơ lục bát –
một thể thơ có phần tĩnh và biến hóa không nhiều” [49].
Năm 1984, khi tập thơ Ánh trăng đoạt giải thưởng của Hội nhà văn
Việt Nam (công bố 1986), Nguyễn Duy được người đọc biết đến nhiều qua
hàng loạt bài viết của các tác giả: Từ Sơn, Tế Hanh, Lại Nguyên Ân, Nguyễn
Hữu Sơn, Ngô Vĩnh Bình, Lê Giang, Lê Quang Hưng, Nguyễn Quang
Sáng… Những cây bút này đã có nhiều phát hiện mới mẻ, xác đáng về thơ
Nguyễn Duy trong đó có đề cập tính dân gian ẩn chứa trong thơ Nguyễn Duy.
Nhà thơ Tế Hanh với tâm hồn nhạy cảm luôn gắn bó với quê hương đã cảm
9
nhận sâu sắc về hồn quê, tình quê trong thơ Nguyễn Duy: “Một điểm đáng
chú ý nữa là thơ Nguyễn Duy nói về ruộng đồng dù đó là Thanh Hóa quê anh
hay Cà Mau quê bạn, có cái gì đó rất tha thiết” [24].
Lê Quang Hưng với bài Thơ Nguyễn Duy và Ánh trăng [25] đăng trên
Tạp chí văn học số 3 năm 1986 có nhận định: “Những bài thơ trong Ánh trăng
thật đậm đà tính ca dao, nhiều đoạn thơ nhuần nhụy ngọt ngào khiến cho
người ta khó phân biệt được đâu là ca dao đâu là thơ…”. Ông cũng đã tìm ra
cái đặc sắc riêng của tập thơ Ánh trăng trong đó chúng ta thấy cái bóng dáng
của tính triết lí qua sự chiêm nghiệm suy tư của Nguyễn Duy về cuộc sống:
“Với Cát trắng, người đọc thích một tâm hồn cảm nhận được ý nghĩa và bề
sâu của cuộc sống từ sự vật, sự việc có vẻ bình thường. Giờ đây, Nguyễn Duy
vẫn nhạy cảm, giàu suy tư như thế và từng trải sâu sắc hơn. Ý nghĩa phổ quát,
sự suy nghĩ trong thơ Nguyễn Duy thường có điểm tựa từ một âm thanh, một
sự vật đậm tính dân tộc”.
Viết về giọng điệu thơ của Nguyễn Duy, Lại Nguyên Ân trong bài Tìm
giọng mới thích hợp với người của thời đại mình [2] đã làm rõ giọng điệu trữ
tình trong tập thơ Ánh trăng, tác giả đã nêu bật được thành công của Nguyễn
Duy khi “dệt nên những giai điệu trữ tình”. Bên cạnh đó, Lại Nguyên Ân
khẳng định trong thơ lục bát của Nguyễn Duy: “Có cái gì đó bên trong như
cãi lại vẻ êm nhẹ nuột nà của câu hát ru truyền thống”. Chính nhà thơ khi
sáng tác đã “tạo nên cái tiếng cười khúc khích, giọng bông lơn bỡn cợt ngay
giữa dòng trữ tình như là để phá bớt cái vẻ rưng rưng thống thiết cứ dâng
trào…”. Chính giọng điệu trữ tình là yếu tố chủ đạo tạo nên bản sắc dân tộc
độc đáo trong thơ Nguyễn Duy, đặc biệt từ sau năm 1975.
Năm 1987, Nguyễn Quang Sáng trong bài viết Đi tìm tiềm lực trong
thơ Nguyễn Duy [45] cũng đã nhận định: “Nguyễn Duy vốn có ưu thế và trội
hẳn lên trong thể thơ lục bát, loại thơ ngỡ như là dễ làm, ai cũng làm được,
nhưng để đạt tới hay thì khó thay, nếu không nói là khó nhất. Thơ lục bát của
10
Nguyễn Duy không rơi vào tính trạng quen tay, nó có sự biến đổi, chuyển
động trong câu chữ”. Thơ lục bát Nguyễn Duy “đượm tính dân tộc và nhuần
nhuyễn ngôn ngữ dân gian. Lời thơ đơn sơ, gần với khẩu ngữ. Tư duy thơ thì
hiện đại, hình thức thơ thì phảng phất hương vị cổ điển phương Đông…”.
Tác giả Đỗ Ngọc Thạch đi sâu vào hình ảnh Người vợ trong thơ
Nguyễn Duy [50] và thấy rõ “hồn quê” có sức “lay động tận sâu thẳm tâm
linh… đưa ta trở về với bản ngã, với những gì con người nhất”.
Vũ Văn Sỹ trong bài viết Nguyễn Duy – Người thương mến đến tận
cùng chân thật [47] đánh giá: “Cái đáng quý nhất trong thơ Nguyễn Duy là
anh viết về đất nước, về nhân dân, về đồng đội, về những người thân và về
chính mình bằng tấm lòng “thương mến đến tận cùng chân thật” ”. Tác giả
thấy được sự chân thành hết mực của tâm hồn thơ được thể hiện trong thơ lục
bát của Nguyễn Duy đồng thời khẳng định tài năng của ông ở thể loại này.
Phạm Thu Yến nghiên cứu về đặc điểm thơ Nguyễn Duy mà chủ yếu là
trên thể thơ lục bát đã đi sâu vào những biểu hiện trong mối quan hệ giữa ca
dao và thơ hiện đại, cụ thể là tiếng vọng của ca dao trong thơ lục bát Nguyễn
Duy: “Đọc thơ Nguyễn Duy, ta như được gặp một thế giới ca dao sinh động,
phập phồng làm nền cho tiếng đàn độc huyền đầy sáng tạo của hồn thơ thi sĩ”.
Tác giả cũng khẳng định “thể thơ lục bát – thể thơ đặc trưng của dân tộc được
Nguyễn Duy sử dụng nhuần nhụy, giúp tác giả chuyển tải một cách nhẹ
nhàng trong sáng những suy nghĩ và tình cảm sâu sắc của con người. Có lẽ,
những bài thành công nhất của Nguyễn Duy là những bài làm theo thể lục
bát” [55] và thơ Nguyễn Duy rõ ràng là phản ca dao qua việc khai thác các ý
đối lập với những tứ quen thuộc trong ca dao để tạo nên những tứ mới khiến
cho cả ca dao và thơ càng bay bổng hơn.
Chu Văn Sơn trong bài viết Nguyễn Duy – Thi sĩ thảo dân [46] đã có
nhiều khám phá mới mẻ, mang tính hệ thống về thơ Nguyễn Duy. Tác giả đã
đi vào khai thác nhiều khía cạnh trong thơ Nguyễn Duy từ quan niệm nghệ
11
thuật, quan niệm thẩm mĩ đến cái tôi, thế giới nhân vật và giọng điệu thơ,
trong đó có đề cập đến triết lí mang đậm tính nhân sinh “Ta là dân vậy thì ta
tồn tại” của thơ Nguyễn Duy. Tác giả đánh giá “Nguyễn Duy là thi sĩ thảo
dân ngay từ quan niệm nhân sinh và nghệ thuật” và cũng chính quan niệm
nghệ thuật này đã đồng hành cùng Nguyễn Duy suốt con đường sáng tạo
nghệ thuật của ông và càng về sau thì nó càng rõ ràng và sắc nét hơn.
Nguyễn Duy là nhà thơ “ham mê chiêm nghiệm triết lí” nhưng triết lí trong
thơ của Nguyễn Duy là triết lí “thảo dân” nhưng chất “thảo dân” không chỉ
mang tính ý thức xã hội mà đồng thời còn là ý thức thẩm mĩ được chuyển
hóa trong hình tượng cái tôi thi sĩ.
Ngoài ra còn khá nhiều bài viết phân tích, bình giá về các bài thơ của
Nguyễn Duy như: Vũ Quần Phương viết về Hơi ấm ổ rơm, Nguyễn Bùi
Vợi viết về bài thơ Ánh trăng, tác giả Lê Trí Viễn, Chu Huy viết về bài Tre
Việt Nam, Hoàng Nhuận Cầm viết về Tiếc thay áo trắng má hồng, Nhị Hà
viết về bài Xuồng đầy. Bên cạnh đó, còn có nhiều bài viết của các tác giả
Trần Hòa Bình, Trần Đăng Khoa, Văn Giá, Đoàn Minh Tuấn, Nguyễn Thị
Bích Nga... Nhìn chung các tác giả đều nhận thấy ở thơ Nguyễn Duy có sự
biến hóa sáng tạo, mang tính trí tuệ. Với sự cách tân linh hoạt, nhuần
nhuyễn giữa lục bát truyền thống và hiện đại cùng với một tâm hồn thơ đầy
cảm xúc, thơ của Nguyễn Duy đã chạm được vào sâu thẳm trái tim người
đọc, đánh thức các giác quan để người đọc có thể thẩm thấu ý nghĩa thơ
ông ở nhiều phương diện.
Bài Tre Việt Nam [53] đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu
văn học. GS. Lê Trí Viễn đã chỉ ra phẩm chất con người Việt Nam thông qua
hình ảnh cây tre, đồng thời thấy được giọng điệu quen thuộc của ca dao dân
gian trong bài thơ: “Người ta gặp ở đây vừa âm hưởng của ca dao – dân ca
ngọt ngào thân mật, vừa vang vọng của thơ ca bác học lắng sâu vào trí tuệ.
Cách tân linh hoạt nhưng lại nhuần nhuyễn cả xưa lẫn nay, cả truyền thống
12
lẫn hiện đại”. Cũng về bài thơ này, Chu Huy khẳng định “Tre Việt Nam là
một trong những bài thơ hay của Nguyễn Duy. Bài thơ dào dạt cảm hứng cấu
tứ sâu sắc, độc đáo kết tinh từ những hình ảnh cuộc sống dân dã đời thường
mà ai đã đọc một lần thì nhớ mãi” [26].
Trần Hòa Bình trong Bình văn ấn tượng với “giai điệu thư thái lâng
lâng” của bài thơ cất lên từ nhịp thơ lục bát thân quen trong bài Tiếng hát mùa
gặt của Nguyễn Duy. Nguyễn Thị Bông lại mang cảm giác xốn xang khi phát
hiện ra Điểm gặp nhau thú vị của Tú Xương với Nguyễn Duy [4] qua hai bài
thơ Thương vợ và Vợ ốm: “hai thi nhân của hai thời đại, một thì ngang
ngạnh… một thì trầm lắng… dịu dàng đằm thắm… lại có những điểm gặp
nhau tuyệt vời”.
Ngoài những bài viết mang tính chất nghiên cứu, phê bình phân tích,
bình giảng về thơ Nguyễn Duy còn có một số khóa luận, luận văn thạc sĩ chọn
thơ Nguyễn Duy làm đề tài nghiên cứu.
2.2.2. Các công trình nghiên cứu về tác giả Đồng Đức Bốn
Cho đến nay, các bài viết về nhà thơ Đồng Đức Bốn chủ yếu tập trung
vào thơ lục bát và xoay quanh một số khía cạnh như: tài năng bẩm sinh của
nhà thơ, nét độc đáo, chất thơ mộc mạc, cá tính nghệ sĩ, giọng điệu hay chất
dân gian. Có thể kể tới một số bài viết tiêu biểu: Đồng Đức Bốn vị cứu tinh
của thơ lục bát (Nguyễn Huy Thiệp), Đồng Đức Bốn – kẻ mượn bút của trời
(Đỗ Minh Tuấn), Múa võ trong không gian hẹp (Lê Quang Trang), Đồng Đức
Bốn – phiêu du vào lục bát (Nguyễn Đăng Điệp), Những câu thơ tình tang
quê mùa (Đoàn Hương), Đọc thơ lục bát của Đồng Đức Bốn (Nguyễn Thị
Anh Thư), Đóng gạch nơi nao? (Phạm Tiến Duật), Nhà thơ Đồng Đức Bốn
nhàu nát và trau chuốt (Trần Huy Quang), Đồng Đức Bốn – tựa bão để sống
làm người (Nguyễn Anh Quân), Đồng Đức Bốn - thi sĩ đồng quê (Băng
Sơn)…
Những bài viết này đã có một số ý kiến đề cập đến chất dân gian, chất
13
đồng quê của thơ Đồng Đức Bốn, tuy nhiên mới ở mức độ đan xen khi khảo
sát thơ lục bát hoặc lướt qua chứ chưa đi sâu vào bản chất vấn đề. Ở phần
này, chúng tôi tập trung vào khảo sát một số bài viết liên quan đến vấn đề bản
sắc dân tộc trong thơ Đồng Đức Bốn.
Trong bài Đồng Đức Bốn - Vị cứu tinh của thơ lục bát, Nguyễn Huy
Thiệp viết: “Đồng Đức Bốn đã từng nhận nhiều giải thưởng trong các cuộc thi
thơ của báo Văn nghệ, tạp chí Văn nghệ Quân đội và báo Tiền phong. Anh là
người sở trường làm thơ lục bát. Có lẽ anh là người làm thơ lục bát hay nhất
trong khoảng 50 năm trở lại đây ở nước ta, kể từ khi Nguyễn Bính – một nhà
thơ chân quê đồng thời cũng là một thi sĩ đệ nhất lãng tử giang hồ qua đời”.
Bài viết còn đề cập đến hình ảnh nông thôn trong thơ Đồng Đức Bốn, vẫn là
những thôn Đoài, thôn Đông, vẫn là cái ngậm ngùi của sự nghèo nàn, mất mát
khiến lòng ta nhói đau nhưng trong thơ Đồng Đức Bốn lại mang một màu sắc
khác, tạo nên cái mới lạ, độc đáo riêng biệt, không trộn lẫn của thơ anh.
Nguyễn Huy Thiệp cũng đã nêu lên tính đặc trưng của thơ lục bát là dễ
làm, khó hay. “Có thể nói thơ lục bát là một thể thơ nôm na cổ truyền đặc
trưng Việt Nam. Người Việt Nam vị tình. Thơ lục bát cũng là một thể thơ vị
tình. Nó gần gũi với lối sống, nếp nghĩ của người nông dân Việt Nam thật thà,
chất phác, thơ lục bát rất dễ làm nhưng chính vì thế mà khó hay… Đồng Đức
Bốn là người tự dưng đốn ngộ với thể thơ lục bát”. Như vậy có thể thấy một
số bài viết đã bắt đầu quan tâm đến vấn đề thể loại và mối liên hệ mật thiết
giữa thơ lục bát Đồng Đức Bốn và dòng thơ lục bát truyền thống.
Đỗ Minh Tuấn trong bài Đồng Đức Bốn – Kẻ mượn bút của trời nhận
xét: “Sự xuất hiện của Đồng Đức Bốn đã đem lại cho thơ lục bát, thơ truyền
thống một niềm tự tin đáng kể”, “thơ Bốn vụt lên với sự sáng trong giản dị mà
không kém phần sâu sắc, mới lạ và ấn tượng như mang cả hồn thiêng của tổ
tiên trong mỗi lời đối thoại, mỗi tiếng nhủ thầm”. Còn trong bài viết Trời đưa
14
anh đến cõi thơ, Đỗ Minh Tuấn lại chỉ ra niềm kiêu hãnh, biết ơn của Đồng
Đức Bốn với thơ lục bát: “cái tình cảm của Bốn với thơ lục bát nhìn bề ngoài
giống như tình cảm của người nông dân với con trâu”.
Nguyễn Đăng Điệp cũng đánh giá rất cao thơ lục bát Đồng Đức Bốn:
“Từ lục bát của ca dao, Nguyễn Du đã tạo nên một đột biến: “Khi Nguyễn Du
viết Kiều đất nước hóa thành văn” (Chế Lan Viên). Thể thơ dân tộc này hiện
hình một cách tài hoa qua “khối tình lớn – khối tình con” (Tản Đà) rồi chia
thành hai ngả trong Thơ mới: Cái chân quê trong sáu – tám của Nguyễn Bính
và cái hàm súc cổ điển trong thơ Huy Cận. Hiện giờ, ngoài cái “thượng thừa”
của Bùi Giáng, lục bát sống trong hồn Nguyễn Duy, rồi Đồng Đức Bốn…
Làm được lục bát hóa ra là việc khó khăn… Là một thể loại ai cũng quen mặt,
ai cũng thuộc tên, nếu không có cái mới, lập tức kẻ làm thơ sẽ bị đuổi khỏi
chiếu. May thay, Đồng Đức Bốn đã trụ lại được”. Rõ ràng Đồng Đức Bốn
được đánh giá là một trong những tên tuổi sáng giá nhất trong làng thơ lục bát
Việt Nam. Ở phần cuối bài viết, tác giả còn nhấn mạnh, Đồng Đức Bốn rồi
cuối cùng cũng trở về với ca dao, với tình đời dù cay đắng nhưng vẫn ngọt
ngào. Cái chất dân gian trong thơ Đồng Đức Bốn vẫn là cầu nối anh với thế
hệ độc giả bây giờ. Dù có thế nào đi chăng nữa thì khuynh hướng sáng tác của
Đồng Đức Bốn vẫn là trở về với cội nguồn.
Trong phần đầu của bài viết Những câu thơ tình tang quê mùa, Đoàn
Hương đề cập đến chất dân ca, ca dao trong thơ lục bát Đồng Đức Bốn. Bài
viết đã có những phân tích khá kĩ về chất quê trong thơ Đồng Đức Bốn –
mạch nguồn cảm hứng chủ đạo của nhà thơ. Đọc thơ lục bát của Đ ồng
Đức Bốn, Đoàn Hương cảm nhận “như một kẻ đánh mất quê được trở về
quê”. Đọc thơ Đồng Đức Bốn để ta tìm thấy quê, trở về với quê hương trong
tâm tưởng của ta.
Với giọng điệu tự nhiên pha chút ngang tàng trong bài Đóng gạch nơi
15
nao, Phạm Tiến Duật đã khẳng định: “Một mình Đồng Đức Bốn tự làm một
cuộc trường chinh. Gã xông thẳng vào trận địa lục bát và chỉ một thời gian
ngắn Đồng Đức Bốn trở thành ông vua trẻ của thể loại này”.
Nhà văn Trần Huy Quang trong bài Đồng Đức Bốn – Nhàu nát và trau
chuốt đánh giá về chất đồng quê trong thơ Đồng Đức Bốn từ góc độ câu thơ:
“Thơ Đồng Đức Bốn đấy, mỗi câu giống như lời nói của các bà nông dân lam
lũ, yếm trễ ngực, váy xắn quai cồng, đòn gánh oằn vai”.
Trong Tựa bão để sống làm người, Anh Quân thấy được nhạc tính giàu
chất dân gian trong thơ lục bát nói chung và thơ Đồng Đức Bốn nói riêng:
“Thực ra trong thơ ca, lục bát là thể thơ mang tính nhạc đậm nhất, ở thơ Đồng
Đức Bốn càng thấy rõ điều này. Bất kì một bài nào của anh đều như những
bài hát dân ca, điệu hò câu ví thuở xưa”.
Băng Sơn trong bài Đồng Đức Bốn – Thi sĩ đồng quê đã nhận định khá
sâu sắc về hồn quê mùa trong thơ Đồng Đức Bốn, coi ông là “Một nhà thơ
kiệt xuất trong lục bát, có lẽ là hồn Việt chắt lọc ngàn năm để ứ dồn vào tâm
hồn thi sĩ làm ta nghiêng ngả mê say những vần thơ như từ ca dao đi ra, như
từ thơ đi vào ca dao, cứ ngọt lịm và ở lại”.
Trong Vài ý nghĩ tản mạn về thơ Đồng Đức Bốn, Nguyễn Thanh Toàn
cũng nhận xét: “Thế mạnh thơ Đồng Đức Bốn là thể thơ đồng quê, ngôn ngữ
đồng quê, cảm hứng đồng quê… Đặc biệt là tình ý tư tưởng đồng quê”.
Ngoài ra một số bài viết của Nguyễn Ánh Ngân, Nguyễn Thanh Phong,
Nguyễn Việt Hà, Văn Chinh… cũng đã có những ý kiến đánh giá khá sâu sắc,
xác đáng về thơ Đồng Đức Bốn .
Qua những bài viết, nghiên cứu về Đồng Đức Bốn có thể thấy, anh
được đánh giá là nhà thơ xuất sắc của dòng thơ lục bát Việt Nam đương đại.
Thơ lục bát của Đồng Đức Bốn khẳng định lại một lần nữa thể thơ lục bát ưu
thế của thơ Việt. Tuy nhiên cũng có nhiều ý kiến cho rằng, thơ lục bát của
16
Đồng Đức Bốn còn gai góc, thô mộc, còn có vẻ gì chất phác, ngô nghê. Nhìn
chung, Đồng Đức Bốn xứng đáng được coi là người tiếp nối dòng chảy dân
gian trong thơ ca Việt Nam và có những đóng góp không nhỏ trên thi đàn.
Tóm lại, qua lịch sử tìm hiểu nghiên cứu về thơ Nguyễn Duy và Đồng
Đức Bốn, chúng tôi thấy trong một số bài viết về thơ của hai tác giả ít nhiều
đã đề cập đến vấn đề bản sắc dân tộc trong thơ của từng cây bút. Tuy nhiên,
qua khảo sát, có thể thấy những bài viết này mới chỉ đề cập đến một số khía
cạnh hoặc một vài yếu tố dân gian trong thơ của từng tác giả riêng biệt, chưa
đề cập một cách trực tiếp, chưa khảo sát vấn đề một cách hệ thống, toàn diện.
Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài: Bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn Duy
và Đồng Đức Bốn nhằm đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về
bản sắc dân tộc trong thơ của hai cây bút đặc sắc này, từ đó góp phần nhận
diện, khẳng định một hướng tìm tòi, đổi mới thành công của thơ đương đại
Việt Nam.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, người viết sử dụng các pháp nghiên cứu chủ
yếu như:
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp thống kê, phân loại
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu bản sắc dân tộc trong sáng tác của hai
tác giả Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn. Phạm vi khảo sát là các tập thơ chính
của Nguyễn Duy và toàn bộ thơ Đồng Đức Bốn.
* Nguyễn Duy
- Cát trắng (Thơ, 1973)
- Ánh trăng (Thơ, 1984)
17
- Mẹ và em (Thơ, 1987)
- Đường xa (Thơ, 1989)
- Qùa tặng (Thơ, 1990)
- Về (Thơ, 1994)
- Sáu và Tám (Thơ, 1994)
- Bụi (Thơ, 1997)
* Đồng Đức Bốn
- Con ngựa trắng và rừng quả đắng (1992)
- Chăn trâu đốt lửa (Thơ, 1993)
- Trở về với mẹ ta thôi (2000)
- Cuối cùng vẫn còn dòng sông (2000)
- Chuông chùa kêu trong mưa (2002)
- Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc (2006)
Ngoài ra, để có điều kiện so sánh, chúng tôi cũng mở rộng khảo sát thơ
của một số tác giả khác.
5. Đóng góp của luận văn
- Từ khảo sát, phân tích thơ của hai tác giả, luận văn nhận diện, đúc kết
những nét đặc sắc của các cây bút về phương diện kế thừa và phát huy những
giá trị truyền thống trong việc hiện đại hóa thơ; khẳng định nỗ lực đổi mới thơ
của hai tác giả.
- Luận văn cũng khảo sát và nhận diện một trong những khuynh hướng
tìm tòi sáng tạo có hiệu quả của thơ đương đại Việt Nam.
- Ở một phạm vi nhất định, luận văn góp phần tổng kết, đánh giá về
tiến trình vận động, đổi mới của thơ đương đại Việt Nam và sự vận động của
thơ lục bát trong thơ Việt Nam hiện đại.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính
18
của luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Về khái niệm bản sắc dân tộc và hành trình sáng tạo
của Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn
- Chương 2: Bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức
Bốn nhìn từ góc độ nội dung cảm hứng
- Chương 3: Bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức
19
Bốn nhìn từ góc độ nghệ thuật thể hiện
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1: VỀ KHÁI NIỆM BẢN SẮC DÂN TỘC VÀ HÀNH TRÌNH
SÁNG TẠO CỦA NGUYỄN DUY, ĐỒNG ĐỨC BỐN
1.1 Về khái niệm bản sắc dân tộc
Ngày nay, khi sự giao lưu trên thế giới đang được đẩy mạnh hơn bao
giờ hết, thì vấn đề văn hóa dân tộc trở thành mối quan tâm hàng đầu, là tâm
điểm chú ý của các bộ môn khoa học xã hội và khoa học nhân văn. Để có thể
giải quyết được nhiệm vụ của đề tài, trước hết chúng tôi thấy cần làm rõ về
khái niệm bản sắc dân tộc.
Theo Từ điển văn học (Bộ mới) [39]: “Bản sắc dân tộc và tính dân tộc
là những thuật ngữ gần như tương đương nhau, biểu thị một số thuộc tính dân
tộc học văn hóa nhất định. “Tính (hoặc bản sắc) dân tộc của văn học” - chỉ là
những đặc tính mà một nền văn học dân tộc có được do sự liên hệ mật thiết
của nó với đời sống văn hóa – lịch sử của chính dân tộc ấy”. Cuốn Từ điển
thuật ngữ văn học [38] cũng định nghĩa tính dân tộc là khái niệm thuộc phạm
trù tư tưởng - thẩm mĩ chỉ mối liên hệ khăng khít giữa văn học và dân tộc, thể
hiện qua tổng thể những đặc điểm độc đáo tương đối bền vững chung cho các
sáng tác của một dân tộc, được hình thành trong quá trình phát triển lịch sử
phân biệt với văn học của các dân tộc khác. Nói như vậy, văn học và văn hóa
của một dân tộc có mối quan hệ khăng khít, không thể tách rời. Và không thể
hiểu đúng văn học nếu không tìm hiểu bình diện văn hóa của nó.
Truyền thống văn hóa là một trong những loại hình tồn tại của xã hội
đương đại. Nó “Ghi dấu ấn lịch sử đã qua của chính bản thân nó, nhưng còn
kéo dài một cách cực kì dai dẳng trong hiện tại và luôn có tham vọng xác lập
truyền thống mới” [27]. Thật vậy, truyền thống văn hóa không chỉ thu hẹp ở
việc duy trì hay truyền lại các thành quả văn hóa ngày trước, mà còn tích hợp
20
trong diễn trình lịch sử những truyền thống mới bằng cách đem thích nghi cái
mới này với các truyền thống cũ. Vì thế, truyền thống văn hóa có vai trò và
ảnh hưởng to lớn đối với đời sống xã hội và con người. Đặc biệt đối với sáng
tạo nghệ thuật thì truyền thống văn hóa càng giữ vị trí quan trọng. Nó đóng
vai trò là cơ sở, nền tảng của mọi sự sáng tạo, nó quy định mọi cảm nhận và
sự miêu tả của các nhà văn về đối tượng.
Tóm lại: “Việc nghiên cứu truyền thống văn hóa cũng tức là nghiên cứu
tính dân tộc, bản sắc dân tộc. Bởi vì tính dân tộc của văn học không chỉ là một
phạm trù tư tưởng xã hội và nghệ thuật mà còn là một phạm trù văn hóa, là
kết tinh của văn hóa dân tộc trong sáng tác văn học nghệ thuật” [3, tr. 6-7].
Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đã từng nhấn mạnh: “Vấn đề dân tộc là vấn
đề văn hóa, đừng tìm vấn đề dân tộc ở chỗ khác” [22, tr. 155]. Sau này, nhà
nghiên cứu Hồ Sĩ Vịnh cũng tiếp tục khẳng định: “Nói đến văn hóa là nói đến
dân tộc. Văn hóa là gương mặt của dân tộc. Một dân tộc đánh mất truyền
thống văn hóa (…) thì dân tộc ấy sẽ mất tất cả” [54, tr. 6].
Khái niệm “dân tộc” ở tiếng Việt hiện đại có hai nghĩa chính: 1) “dân
tộc – quốc gia”, tức là một cộng đồng xã hội người, được tạo nên do quá trình
hình thành tính cộng đồng về lãnh thổ, về quan hệ kinh tế, về ngôn ngữ văn
học, về một số đặc điểm văn hóa và tính cách; 2) các cộng đồng chủng tộc
người – bộ lạc, bộ tộc, sắc tộc… nằm trong và hợp thành dân tộc – quốc gia.
Văn học, nghệ thuật là một trong những phương diện hoạt động về tinh thần
của cộng đồng dân tộc trong quá trình lịch sử, gắn bó với đời sống lịch sử của
dân tộc. Nó là một bộ phận của lịch sử dân tộc. Tính dân tộc có mặt ổn định
nếu nhìn nó trong sự tương quan giữa các dân tộc với nhau. Đọc một bài thơ
Việt Nam và một bài thơ Trung Quốc, người ta vẫn phân biệt được bài thơ
này với bài thơ kia. Bài thơ Việt Nam vẫn có cái gì Việt Nam có thể trong tứ
thơ, trong giai điệu… Những cái đó cho phép người nghiên cứu rút ra tính
dân tộc trong thơ. Nhưng nói rằng tính dân tộc có mặt ổn định không có nghĩa
21
là tính dân tộc là cố định nhất thành bất biến. Bài viết “Tính dân tộc trong văn
học hiện nay”, trích từ cuốn “Tìm hiểu bản sắc dân tộc trong thơ Chủ tịch Hồ
Chí Minh” [36] giải thích: “Dân tộc là một cộng đồng người hình thành trong
quá trình lịch sử. Các dân tộc không phải là bao giờ cũng có, nó ra đời trong
một giai đoạn tiến hóa lịch sử nhất định và khi đã hình thành dân tộc rồi thì
dân tộc không ngừng tiến hóa. Vì vậy những bản sắc dân tộc cũng luôn luôn
tiến hóa, tính dân tộc không phải cứ như thế mãi từ thời kì này qua thời kì lịch
sử khác […] Dân tộc có những truyền thống, truyền thống dân tộc là bản sắc,
là đặc tính, là nét sinh hoạt của dân tộc được phát huy đến trình độ rất cao, có
một hiệu lực rất lớn ở một thời kì lịch sử và từ đó về sau trở thành một bài
học, một tấm gương cho đời sau tiếp tục noi theo. Thí dụ truyền thống đoàn
kết chống giặc ngoại xâm thời Trần, truyền thống kiên trì chịu khổ, chịu khó
đánh giặc của quân dân Lam Sơn chống quân Minh. Như thế những truyền
thống của dân tộc có nguồn gốc lịch sử của nó…” [3, tr. 11-12].
Riêng về văn học, khác với một số loại hình nghệ thuật khác, văn học
dân tộc gắn với chất liệu của nó là ngôn ngữ dân tộc; văn học là một bộ phận
hợp thành quan trọng của văn hóa ngôn từ dân tộc. Lịch sử hình thành, tồn tại
và phát triển của các nền văn học dân tộc đều gắn (ở mức khác nhau) với quá
trình hình thành, sinh tồn và phát triển của xã hội – dân tộc. Trên cơ sở này
tác giả cuốn Từ điển văn học đưa ra những biểu hiện của bản sắc dân tộc
trong văn học: Bản sắc dân tộc của văn học thể hiện ở ngôn ngữ dân tộc (bản
ngữ), tức là cái chất liệu đặc thù, phân biệt một nền văn hóa ngôn từ này với
những nền văn hóa ngôn từ khác. (Ở những bộ phận hoặc giai đoạn văn học
viết bằng ngôn ngữ chung của khu vực hoặc bằng một ngôn ngữ quốc tế hóa
nào đó, tính dân tộc ở chất liệu ngôn ngữ sẽ bộc lộ gián tiếp, kết hợp các yếu
tố khác). Sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ (bản ngữ) là bộ phận văn học bộc lộ rõ
nhất những tiềm năng văn hóa (nhất là những ký ức lịch sử dân tộc đã in sâu
vào bản ngữ) và khả năng nghệ thuật của ngôn ngữ dân tộc, bảo toàn, phát
22
triển và làm giàu cho nó. Bản sắc dân tộc được bộc lộ khá rõ ở nội dung đời
sống dân tộc được văn học miêu tả và thể hiện: Màu sắc dân tộc ở thiên nhiên
và cảnh quan đất nước; những nét độc đáo của các giá trị và định hướng giá
trị vốn tiêu biểu cho dân tộc, những nét độc đáo về cách nhìn cách cảm của
dân tộc; tóm lại là tâm lí và tính cách dân tộc được thể hiện trong văn học.
Cùng chung quan điểm trên, cuốn Từ điển thuật ngữ văn học giải thích
một cách cụ thể hơn: Tính dân tộc thể hiện ở mọi yếu tố từ nội dung cho đến
hình thức của sáng tác văn học. Về nội dung, dễ dàng nhận thấy trước hết,
tính dân tộc biểu hiện trong sự phản ánh “màu sắc” dân tộc của thiên nhiên,
của đời sống vật chất và tinh thần của xã hội. Đọc sáng tác của một dân tộc, ta
như sống cuộc sống của dân tộc đó với những đặc điểm của thế giới riêng.
Tuy nhiên, tính dân tộc của văn học không chỉ biểu hiện ở những vật thể,
đường nét, màu sắc có thể nắm bắt được. Nội dung căn bản của tính dân tộc là
ở tinh thần dân tộc, thể hiện ở tính cách dân tộc và cái nhìn dân tộc đối với
cuộc đời. Đó là những yếu tố tương đối bền vững được hình thành và phát
triển trong những hoàn cảnh địa lí và con đường phát triển lịch sử riêng của
dân tộc, là một phẩm chất chỉnh thể biểu hiện trong một phức hợp liên kết các
phẩm chất nhất định.
Tính dân tộc còn biểu hiện ở hình thức văn học. Mỗi nền văn học dân
tộc có hệ thống thể loại truyền thống, có các phương tiện miêu tả, biểu hiện
riêng, nhất là có ngôn ngữ dân tộc thể hiện bản sắc riêng trong tư duy và tâm
hồn dân tộc mình.
Tính dân tộc còn thể hiện ở quá trình phát triển lịch sử độc đáo của văn
học cùng các đặc sắc do quá trình lịch sử ấy mang lại. Ví dụ, có thể nhận thấy
sự khác biệt về văn học dân tộc giữa chủ nghĩa hiện thực Nga và chủ nghĩa
hiện thực Pháp thế kỉ XIX.
Gớt đã từng khẳng định một nghệ sĩ chỉ có thể được coi là một nhà văn
mẫu mực của dân tộc nếu tác phẩm của anh ta “thấm nhuần tinh thần dân
23
tộc”. Nói như vậy, một tác phẩm đạt đến đỉnh cao, là đại diện của nền văn học
dân tộc phải là tác phẩm không những xây dựng được “những hình tượng văn
học vừa đơn lẻ, vừa có thể mang tính khái quát, điển hình cho dân tộc ấy” mà
“tinh thần dân tộc thấm sâu vào toàn bộ các yếu tố của tác phẩm khiến cho
người đọc khi tiếp xúc với tác phẩm như thấy được cả “mùi hương của đất
đai”, ở mỗi từ ngữ người đọc có thể cảm nhận thấy “dường như có hai lần ý
nghĩa nghệ thuật, một ý nghĩa hôm nay, và một ý nghĩa mang từ thời ấu thơ
đầy xúc cảm, trong những từ thân thuộc nghe vừa ngon lành, vừa hữu hình, ý
vị”” [40, tr. 77-78].
Bản sắc dân tộc ở văn hóa nói chung, ở văn học nói riêng, không phải
là một đại lượng nhất thành bất biến, cũng không có sẵn từ khởi thủy. Con
đường hình thành của nó không phải theo lối tự sinh, biệt lập, trái lại, từ trong
giao lưu, tiếp nhận, cộng sinh, tạp giao, đồng hóa với các nhân tố văn hóa,
văn học từ bên ngoài dân tộc, rồi từ đó sinh thành, phát triển, tạo ra bản sắc.
Những đổi mới trên cơ sở tiếp nhận ảnh hưởng từ các yếu tố ngoại lai, một
khi đã có thành tựu, lại mang vào văn hóa, văn học dân tộc những phẩm chất
và truyền thống mới, phát triển và đổi mới nó. Sự phát triển văn học, nhất là
văn học hiện đại, gắn liền với thành tựu của những cá tính sáng tạo kiệt xuất,
chính những thành tựu của họ đã góp phần quyết định vào việc duy trì, phát
triển, làm giàu bản sắc dân tộc cho văn học.
Ở cuối thể kỉ XX, xu thế giao lưu, hòa nhập của các nền văn hóa, văn
học, xu hướng thế giới hóa – trở nên một tất yếu không tránh khỏi. Đồng thời
chính quá trình này lại đề ra vấn đề duy trì tính đa dạng văn hóa, duy trì
những giá trị mang bản sắc dân tộc trong thế giới hiện đại.
Tóm lại, có thể tổng kết một vài ý chính về khái niệm bản sắc dân tộc
như sau: Bản sắc dân tộc hay tính dân tộc của văn học mang nội dung lịch sử
và phải được xem xét theo quan điểm lịch sử. Nó được hình thành trong cả
một quá trình lâu dài mà những cái mốc quan trọng là sự hình thành dân tộc
24
và sự vận dụng ngôn ngữ dân tộc làm ngôn ngữ văn học. Trong suốt quá trình
ấy, nó không ngừng được phong phú thêm bởi sự tiếp thu tinh hoa của nước
ngoài. Vì vậy, một sáng tác văn học có tính dân tộc cao phải vừa kế thừa được
truyền thống văn học dân tộc, vừa đổi mới và có đóng góp vào sự phát triển
của truyền thống ấy. Nói như vậy, tính dân tộc hiện nay là sự kế thừa có chọn
lọc, có cải biến, có phát triển tính dân tộc trong lịch sử, là sự hấp thụ tất cả
những tinh hoa của văn hóa nhân loại. Tính dân tộc hiện nay là một sự hài hòa
cả mới lẫn cũ. Cái mới không có nghĩa là cái gì từ bên ngoài đem vào. Cái từ
ngoài đem vào phải phù hợp với ta, phải được đồng hóa thành cái của ta. Như
vậy, cái mới không còn là “của người” nữa mà chính là “của ta” rồi. Cái mới
cũng là cái cũ của ta được chọn lọc và hiện đại hóa. Mặt khác, cái cũ không
phải chỉ là cái bản sắc di sản cũ của dân tộc ta mà còn là cái kho tàng quý báu
về tư tưởng và văn hóa của nhân loại từ bao nhiêu đời nay nữa. Vì vậy, quan
niệm cho rằng cũ là tính dân tộc, mới là không phải tính dân tộc là một quan
niệm mơ hồ, không chính xác [36, tr. 17]. Cũng cần phải chú ý tới những biểu
hiện phong phú, đa dạng của tính dân tộc trong sáng tác văn học trên cả hai
phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Có như vậy mới có thể đánh
giá một cách đúng đắn, tổng thể, toàn diện về tính dân tộc trong văn học. Đây
cũng là mục tiêu của đề tài đặt ra khi xem xét những biểu hiện của tính dân
tộc trong sáng tác của hai nhà thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn. Vấn đề
này sẽ được người viết tiếp tục triển khai trong những chương tiếp theo của
luận văn.
1.2. Hành trình thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn
Khi nói đến những chặng đường sáng tạo của một tác giả, nhà thơ
P.Antokolxky cho rằng: “Cũng như trong bất kì một lĩnh vực nào cái quan
trọng nhất trong nghệ thuật là quá trình, là sự hình thành, là cuộc đấu tranh, là
sự tìm tòi, là một dòng nước không bao giờ cạn tự khơi lấy một dòng sông”.
Để tìm hiểu về hành trình sáng tạo và những quan niệm nghệ thuật trong thơ
25
Nguyễn Duy cũng như Đồng Đức Bốn, chúng tôi cho rằng không thể chỉ
dừng lại ở phạm vi xem xét từng tác phẩm của các tác giả mà phải nhìn nhận
sự nghiệp sáng tác của họ như một hành trình mà mỗi tác phẩm chỉ là một sự
kiện, một mắt xích, một cột mốc trong hành trình đó.
1.2.1. Thơ Nguyễn Duy
1.2.1.1. Hành trình sáng tạo
Chúng ta biết rằng, thời đại Nguyễn Duy sống và sáng tạo là một thời
đại đầy biến động của lịch sử, văn hóa, xã hội Việt Nam. Có thể nói, chưa bao
giờ trong lịch sử dân tộc lại dồn dập nhiều biến cố, sự kiện đến vậy. Nó đã có
những tác động sâu sắc đến đời sống văn học, mà trước hết là quan điểm, tư
tưởng - nghệ thuật của các nhà văn trong đó có Nguyễn Duy. Vốn rất nghiêm
túc với nghề nghiệp, lại luôn khao khát khẳng định mình, Nguyễn Duy không
ngừng trăn trở làm sao viết cho hay, cho dễ đi vào lòng người. Suy nghĩ ấy đã
thôi thúc ông phải tìm tòi, đổi mới và sáng tạo. Trong kháng chiến chống Mỹ,
những nhà thơ cùng thời với Nguyễn Duy thường nói nhiều về cái chung,
nhân danh cộng đồng, dân tộc. Trong khi đó, Nguyễn Duy lại lặng lẽ một lối
đi riêng - tìm về với nguồn cội dân gian. Nguyễn Duy quan niệm “nếu quá
hiện đại thì dễ mất chân”. Quan niệm này đã chi phối đến quan điểm thẩm mĩ
của ông. Ông vẫn theo sát cuộc chiến tranh, vẫn bám sát những sự kiện trọng
đại của đất nước, có điều ông nhìn nó bằng cái nhìn của dân gian và phản ánh
nó với lối nói quen thuộc giản dị, đời thường.
Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh tại xã Đông Vệ, thị xã
Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa), tỉnh Thanh Hóa. Nơi đây từng
được coi là vùng đất thiêng vừa mang tính huyền thoại, vừa mang tính lịch sử
lại giàu truyền thống văn hóa. Cũng giống như nhiều vùng miền khác, Thanh
Hóa là một vùng quê có nhiều lễ hội dân gian và hình thức sinh hoạt văn hóa
của cộng đồng. Đây cũng là miền quê nổi tiếng về âm nhạc dân gian với
26
những làn điệu dân ca trong trẻo, mượt mà.
May mắn được sinh ra và hầu như sống nhiều trên mảnh đất thiêng,
vùng đất có một nền văn hóa dân gian phong phú, đặc sắc, nên con người
Nguyễn Duy đã thấm một cách tự nhiên nền văn hóa ấy, từ lối sống đến tư
tưởng, tình cảm, cách nhìn, cách nghĩ. Đọc các tác phẩm của Nguyễn Duy,
người đọc thấy niềm tự hào của ông về mảnh đất quê hương đã sinh ra nhiều
tài năng cho dân tộc. Người ta thấy cái không khí thiêng liêng của đền chùa,
miếu mạo phảng phất trong khá nhiều bài thơ của Nguyễn Duy. Đặc biệt là
hình ảnh vùng quê nghèo lặp đi lặp lại khá nhiều đến trở thành một ám ảnh
miên man không bao giờ dứt trong đời thơ của nhà thơ.
Xét về hoàn cảnh gia đình, từ nhỏ Nguyễn Duy đã mồ côi mẹ. Ông ở
với bà ngoại và lớn lên trong tiếng ầu ơ mang hơi ấm tình thương của bà.
Trong tâm hồn Nguyễn Duy, bà ngoại là hình ảnh gần gũi, thân thuộc nhất.
Bà ngoại Nguyễn Duy không biết chữ nhưng thuộc rất nhiều ca dao, hò vè,
truyện tiếu lâm… Những ngày tháng thơ ấu sống cùng bà ngoại, Nguyễn
Duy được đắm mình trong những câu ca dao, những câu chuyện cổ tích.
Nguồn văn hóa dân gian ấy như dòng sữa ngọt ngào của mẹ đã nuôi ông
lớn lên rồi ngấm vào tâm hồn ông, ngấm vào thơ ông một cách tự nhiên lúc
nào không biết. Đây có thể là điều khiến sau này nhà thơ viết thành công
thể loại lục bát và vận dụng ca dao một cách điêu luyện, tài tình. Hòa nhập
với thơ ca đương đại, song cái cội rễ, cái linh hồn của thơ Nguyễn Duy vẫn
là chất truyền thống, vẫn mang mạch thuần Việt.
Năm 1965, Nguyễn Duy từng làm tiểu đội trưởng tiểu đội dân quân
trực chiến tại khu vực cầu Hàm Rồng, một trọng điểm đánh phá ác liệt của
không quân Mỹ trong những năm chiến tranh chống Mỹ. Năm 1966 ông nhập
ngũ, trở thành lính đường dây của bộ đội thông tin, tham gia chiến đấu nhiều
năm trên các chiến trường Đường 9 Khe Sanh, Đường 9 Nam Lào, chiến
trường miền Nam, biên giới phía Bắc (năm 1979). Sau đó ông giải ngũ, làm
27
việc tại Tuần báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam và là trưởng đại diện văn
phòng báo tại phía Nam. Có thể nói những năm vào quân ngũ trở thành người
lính và sau đó lại làm báo đã tạo điều kiện cho Nguyễn Duy đi qua nhiều
vùng đất của Tổ quốc. Rồi tiếp tục cuộc hành trình vượt ra ngoài biên giới,
Nguyễn Duy đã đi tới các nước Xã hội chủ nghĩa, qua các nước Tây Âu và
Mĩ. Ông được ví như con ngựa sung sức, luôn ở tư thế động, đôi chân không
biết mỏi. Đến đâu ông cũng viết, cũng xúc cảm và suy ngẫm. Ông khám phá
cuộc sống để nếm trải, lắng nghe, quan sát và suy nghiệm. Vì vậy, Nguyễn
Duy đã chắt lọc, đã “đãi cát tìm vàng” từ núi cát của đời sống thực tế. Ông
chắt gạn lấy những hạt bụi vàng và chuyển hóa thành thơ. Đó cũng là lí do vì
sao các sáng tác của Nguyễn Duy có bản sắc riêng, không biến dạng, không
pha tạp do hoàn cảnh sống.
Nguyễn Duy làm thơ rất sớm, khi đang còn là học sinh trường phổ
thông Lam Sơn, Thanh Hóa. Năm 1973, ông đoạt giải nhất cuộc thi thơ tuần
báo Văn nghệ với chùm thơ: Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, Tre Việt Nam sau
này được đưa vào trong tập Cát trắng. Ngoài thơ, ông cũng viết tiểu thuyết,
bút kí. Năm 1997, Nguyễn Duy tuyên bố “gác bút” để chiêm nghiệm lại bản
thân rồi tập trung vào làm lịch thơ, in thơ nên các chất liệu tranh, tre, nứa, lá,
thậm chí bao tải. Từ năm 2001, ông in nhiều thơ trên giấy dó. Nguyễn Duy đã
biên tập và năm 2005 cho ra mắt tập thơ thiền in trên giấy dó (gồm 30 bài thơ
thiền thời Lý, Trần do ông chọn lọc) có nguyên bản tiếng Hán, phiên âm, dịch
nghĩa và dịch thơ tiếng Việt, dịch nghĩa và dịch thơ tiếng Anh với ảnh nền và
ảnh minh họa của ông.
Nguyễn Duy được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật
năm 2007 và nhiều phần thưởng cao quý khác.
Tác phẩm chính:
Thơ: Cát trắng (1973), Ánh trăng (1984), Đãi cát tìm vàng (1987), Mẹ và em
28
(1987), Đường xa (1989), Sáu và Tám (1994), Về (1994), Bụi (1997)
Thể loại khác: Em Sóng (kịch thơ - 1983), Khoảng cách (tiểu thuyết - 1986),
Nhìn ra bể rộng trời cao (bút kí - 1986)
Thơ Nguyễn Duy nhiều bài có cái ngang tàng nhưng vẫn trầm tĩnh và
giàu chiêm nghiệm, vì thế cứ ngấm vào người đọc và có lúc khiến người ta
phải giật mình suy nghĩ với nhiều bài thơ được bạn đọc yêu thích: Tre Việt
Nam, Ánh trăng, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Đò Lèn, Sông Thao,… Ông được
đánh giá cao trong thơ lục bát, một thể thơ có cảm giác dễ viết nhưng viết
được hay thì lại rất khó. Thơ lục bát của Nguyễn Duy được viết theo phong
cách hiện đại, câu thơ vừa phóng túng lại vừa uyển chuyển, chặt chẽ.
Nguyễn Duy được giới phê bình đánh giá là người đã góp phần làm mới thể
thơ truyền thống này. Bài thơ Tre Việt Nam của ông đã được đưa vào sách
giáo khoa phổ thông.
Nguyễn Duy còn có bộ ba bài thơ theo thể tự do nổi tiếng được công
chúng biết tới viết về những trăn trở, suy nghĩ của ông về tương lai đất nước,
tương lai của con người và môi sinh. Bài thơ đầu mang tên Đánh thức tiềm
lực viết từ năm 1980 đến năm 1982 với những suy tư về tiềm lực và tương lai
của đất nước. Bài thơ thứ hai được viết lúc ông tới thăm Liên Xô và đến năm
1988 mới hoàn thành mang tên “Nhìn từ xa… Tổ quốc”. Bài thơ viết về
những trì trệ, bất cập mà ông mắt thấy tai nghe trong thời kì bao cấp, với
những câu thơ rất mạnh mẽ “như những nhát dao cứa vào lòng người đọc”
(Lê Xuân Quang). Bài thơ thứ ba viết sau đó chục năm, mang tên Kim, Mộc,
Thủy, Hỏa, Thổ vẫn cùng thi pháp với hai bài thơ trước nhưng chủ đề lại rộng
hơn: Những suy nghĩ về thiên nhiên, không gian và tương lai con người.
Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ xuất thân từ cuộc kháng chiến chống
Mỹ, khi mà chiến tranh là đời sống và chiến đấu là lẽ sống của mỗi con
người. Nguyễn Duy là con của người mẹ “Áo nhuộm bùn váy nhuộm nâu bốn
mùa”, người mẹ của “đồng đất quê mình” nên chất chân chỉ mộc mạc đã ăn
29
vào máu thịt nhà thơ. Khi cuộc chiến bảo vệ quê hương mới khép lại, ta vẫn
nghe những lời thơ nặng đằm tình cảm đồng đội, quê hương, lời thơ phát ra từ
trái tim của người trẻ tuổi mở lòng mình để hiến dâng và yêu thương. “Gừng
càng già càng cay” - thơ Nguyễn Duy cũng vậy. Thời gian càng làm những
câu thơ thêm sâu sắc, ý nghĩa. Đọc thơ Nguyễn Duy trước và sau đổi mới, ta
dễ nhận thấy một sự chuyển mình trong lối suy nghĩ khiến thơ ông giàu chiêm
nghiệm và đậm màu sắc triết lí. Nếu trước đổi mới, dư âm của cuộc chiến
tranh, với chiến thắng lẫy lừng của toàn dân tộc ảnh hưởng tới nhiều bài thơ
Nguyễn Duy, thì sau đổi mới, dòng thơ Nguyễn Duy thể hiện một cái nhìn
khá toàn diện về cuộc chiến tranh với cả nước mắt và nụ cười, cả động, cả
tĩnh, đồng thời tác giả đi sâu khám phá về cuộc sống con người – cả một thế
giới đời thường xô bồ, ồn ã đi vào thơ ông trong những phút tĩnh lặng nhất
của lòng mình. Trong cuộc sống vội vã, con người có ít thói quen nhìn lại
ngày hôm qua, thơ Nguyễn Duy cho ta những phút giây giật mình, để nhận ra
đã bỏ qua chính mình, chạy theo những gì khó lí giải được bằng sự gần gũi,
bình dị. Thơ Nguyễn Duy như lời đánh thức, đánh thức cõi tâm tình đang dần
ngủ quên giữa bao bộn bề đời thường.
Thơ Nguyễn Duy mang nỗi nhớ của một người con xa quê, đồng thời
lại chất chứa một dự cảm về tương lai. Nỗi nhớ quê như nhớ về một giá trị
đẹp đẽ của văn hóa dân tộc sẽ dần nhạt nhòa với thời gian và nhịp sống. Có
thể nói, thơ Nguyễn Duy trước đổi mới đã có chút nuối tiếc, muốn níu kéo
những giá trị đẹp đẽ đó, đã lo lắng và đã buồn. Buồn vì chính mình và buồn
hơn ở quanh mình. Đổi mới là cái bản lề, con người được tự do và tự chủ
nhiều hơn nên cuộc sống vận động mạnh mẽ, có lúc lấn át những riêng tư và
suy tư. Thơ Nguyễn Duy chứa cái nhìn dữ dội hơn: nếu trước đó chỉ là dự
cảm thì giờ hiện thực phơi bày trước mắt, nếu trước đó là lời vỗ về an ủi mình
và mọi người thì giờ là lời thẳng thắn, sắc cạnh.
Thơ Nguyễn Duy cả trước và sau đổi mới đều mang đến cho người đọc
30
những xúc cảm sâu lắng, bởi một điều giản dị là tác giả viết bằng một tấm
lòng chân thật, bộc bạch hết mình cái tôi chân quê. Trong thơ Nguyễn Duy,
vừa đậm dấu ấn truyền thống lại vừa thể hiện những cách tân đáng ghi nhớ.
Tác giả đã kết hợp hai giá trị này trong thơ mình một cách nhuần nhị khiến
cho mỗi dòng thơ là một hơi thở tự nhiên và chân tình đến gan ruột. Đó là yếu
tố quan trọng bậc nhất để thơ Nguyễn Duy đến được và “kết kén” được trong
tâm tình của người đọc.
Sau hơn ba mươi năm với hơn mười tập thơ, Nguyễn Duy tuyên bố
không làm thơ nữa. Nguyễn Duy chân thành bộc bạch: “thơ bỏ tôi chứ tôi
không bỏ thơ”. Ông nhận ra rằng mình cứ lặp đi lặp lại mình nên không làm
thơ nữa. Tuy vậy, cái nghĩa vụ của một người công dân yêu nước vẫn theo
đuổi ông. Những năm gần đây, Nguyễn Duy làm lịch bằng thơ, làm thơ bằng
lịch với những minh họa của gồng gánh, thúng mủng, nong nia, giành mẹt, rổ
rá, dần sàng, chum vại, cái nồi đất, cái điếu cày… như để bày tỏ cái tông tích,
cái cội rễ của thơ mình. Có lẽ ông là người đầu tiên đưa thơ đi triển lãm. Bởi
thế, khi Nguyễn Duy tuyên bố gác thơ, ngừng thơ thì chúng ta chỉ nên hiểu là
ngừng làm thơ chứ không ngừng sống với thơ. Năm 2010, ông đã cho ra đời
tuyển tập thơ Nguyễn Duy.
1.2.1.2. Quan niệm nghệ thuật của nhà thơ Nguyễn Duy
Đến với thơ Nguyễn Duy gần như không rõ một tuyên ngôn nghệ thuật
nào. Thơ Nguyễn Duy đem đến cho người đọc cảm giác dường như nhà thơ
làm thơ như một nhu cầu tự tại để giãi bày những gì đang diễn ra trong hồn
cốt mình, có cái hăm hở, có cái lắng sâu, có cả cái “tào lao” như chuyện
phiếm… thơ chính là mình, là mình không chút gọt rũa. Chính vì vậy, nếu đi
tìm một tuyên ngôn nghệ thuật trong thơ Nguyễn Duy quả thật không dễ
dàng. Nhưng hãy lắng nghe lời thú nhận chân thực của ông về “cái nghề thiên
phú” này, ta sẽ hiểu được sâu sắc hơn thiên chức của một nghệ sĩ - một nhà
31
thơ trong quan niệm của Nguyễn Duy.
Nguyễn Duy nói: “Có đụng chạm xã hội mới ra cái thần hồn văn
chương… Còn nhà văn… thật? Ở anh nhà văn thật ấy có một nhà hiền triết,
một nhà văn hóa, một nghệ sĩ. Thực ra cái lõi của văn chương là triết. Từ cả
những chuyện tầm phào nhất cũng có thể phả triết học vào, có thế mới dội lại
được cuộc đời. Chỉ khác nhà triết học trình bày triết học của mình bằng lí lẽ,
khoa học, còn nhà văn bằng cảm xúc. Thời buổi hiện đại rồi đâu phải ai cũng
thành nhà thơ được. Làm thơ phải đọc, phải đi đó đi đây, không có kiến thức
tổng hợp xã hội sao làm thơ ra cái thời hôm nay? Để thành một nhà văn lớn ở
nước mình khó lắm, phải là một nhà văn hóa lớn, không thâu tóm được tinh
hoa văn hóa dân tộc vào một cá thể không thể trở thành một nhà văn hóa
lớn!...”. Chỉ bằng từng ấy ngôn từ ta đã hiểu khá trọn vẹn về quan niệm nghệ
thuật của nhà thơ. Nguyễn Duy đặt ra cái trách nhiệm tất yếu của người làm
thơ là phải đi, phải tìm hiểu - phải dấn thân mới tìm được bản sắc cuộc sống,
nhất là cuộc sống đầy biến động của hiện tại. Nhưng không phải là bản chất
nông cạn ai tìm cũng thấy, mà phải là bản chất chứa trong đó triết lí của cuộc
sống, triết lí của cảm xúc. Thơ Nguyễn Duy giàu triết lí, những triết lí không
thuần túy lí lẽ mà được tạo nên từ cách lí giải hiện tượng cuộc sống rất tinh tế
và thông minh, chen lẫn cảm xúc chân thành như “Cơm bụi ca”, “Tháp
Chàm”, “Tiếng hát hòa bình”, “Gặp một người lính trẻ”… Có khi triết lí từ
những đối tượng tưởng như không thể triết lí: Ti vi, Sida, ly hôn, chứng
khoán, cơm bụi… Thơ Nguyễn Duy bắt kịp với thời đại, nói được nỗi niềm
của con người thời đại bởi trong quan niệm của nhà thơ luôn đề cao ý thức về
thời đại mình đang sống. Không thể chạy theo lối thoát li riêng mình, thơ phải
gắn với cuộc sống, dù cuộc sống ấy thế nào nhà thơ cũng phải đứng vững trên
mảnh đất hiện tại. Nguyễn Duy đã ý thức rất rõ thời cuộc, chính vì vậy nhận
ra rất rõ nhiệm vụ của một người nghệ sĩ trong thời cuộc hiện tại. Nhà thơ
trân trọng và yêu mến truyền thống, song đi vào những giá trị hiện đại lại
32
cũng là một thế mạnh của nhà thơ, nó làm cho thơ ông vừa có cái mềm mại,
ngọt ngào của truyền thống, vừa có cái linh hoạt, mới mẻ của hiện đại. Chính
vì có cái linh hoạt của hiện đại mà trong quan niệm của nhà thơ, nhà văn “có
năm bảy loại” và có một loại nhà văn… thật. Nhà văn Thật phải song hành
cùng với nhà văn “năm bảy” kia trong một cộng đồng, và có thể ngay trong
một con người. Điều quan trọng là giữa hai loại nhà văn này có tồn tại đấu
tranh? Và nhà văn Thật có khẳng định được giá trị của mình hay không? Nhà
văn Thật – đó là nhà văn trước hết phải có sự chủ động trong việc nhập cuộc,
vào đời. Nhưng nhà văn – giống như một giá trị tinh thần cao khiết, không thể
làm việc dưới sự hối thúc của đồng tiền. Có cực đoan quá chăng khi xem yếu
tố tài chính là một động lực không xứng đáng để sáng tạo trong thời hiện đại
này? Từ xưa, các cụ đã coi cái tài văn chương là cái tài thiên bẩm, và để xứng
với cái thiên bẩm ấy phải là đạo làm người cao khiết, một cốt cách thanh cao,
nho nhã… Nguyễn Duy là người “phục cổ” thì chẳng lý gì lại có thể phủ nhận
một quan niệm đẹp và giàu tính nhân văn của cha ông mình. Một nhà văn
phải là một nhà văn hóa lớn! Nguyễn Duy đặt ra nhiệm vụ cho người nghệ sĩ
– một nhiệm vụ cả cuộc đời chứ không phải ngày một ngày hai. Và chính ông
trên con đường sáng tạo của mình cũng không ngừng trau dồi vốn văn hóa,
không chỉ riêng văn hóa dân tộc mình mà văn hóa nhân loại để làm giàu thêm
cho tâm hồn và đẹp thêm mỗi trang thơ. Nguyễn Duy luôn tạo nên cái mới
trong thơ bởi ông nhận thức một cách sâu sắc về sự sáng tạo và trách nhiệm
của nhà thơ trong thời đại, của một duyên kiếp nặng nợ với văn chương, với
cuộc đời. Trong thơ Nguyễn Duy, giá trị nào cũng được thể hiện trong sự kết
hợp nhuần nhị giữa cái hiện đại và cái truyền thống, nó đã trả lời thực tế hơn
cả cho quan niệm nghệ thuật của nhà thơ. Đó là thơ – sự kết hợp giữa những
nỗ lực giữ gìn và tìm kiếm. Đọc thơ Nguyễn Duy người ta luôn có cảm giác
như được gặp gỡ hai con người, mới mẻ và truyền thống, nhưng ở tâm hồn
nào cũng cuốn hút và gợi suy ngẫm. Đó là cái riêng mà không phải nhà thơ
33
nào cũng tạo dựng được trong thơ mình. Nguyễn Duy với quan niệm nghệ
thuật gan ruột này và bằng những trang thơ đã chứng minh cho lối suy nghĩ
nghiêm túc và đầy trách nhiệm về người nghệ sĩ, và Nguyễn Duy đã khẳng
định được vị thế của mình trong tâm thế của những người từng đọc thơ ông.
Ngay từ những ngày đầu làm thơ, quan niệm nghệ thuật của Nguyễn
Duy đã khá rõ và càng về sau càng sâu sắc hơn “Ta là dân vậy thì ta tồn tại”.
Đây không hẳn là quan điểm nghệ thuật mà đúng hơn là một nhận thức, một
chiêm nghiệm về cuộc đời của Nguyễn Duy, mà ở đó thơ ca đã là một phần
máu thịt. Ý thức được điều đó, Nguyễn Duy đã tìm về với văn hóa, văn học
dân gian, tiếp tu ̣c phát huy hồn cốt của văn học dân gian trong thơ ca bở i theo . Cái mới nằm ngay trong cái ông văn chương không nhất thiết phải khác la ̣ tưởng chừng như đã xưa cũ. Ông từ ng phát biểu:
Nghìn năm trên dải đất nà y
Cũ sao được cánh cò bay la đà
Cũ sao được sắc mây xa
Cũ sao được khúc dân ca quê mình
(Khúc dân ca)
Bám chặt vào cội rễ dân gian, thơ ông luôn hiển hiện cái chất mô ̣c ma ̣c,
ngọt ngào củ a những làn điê ̣u dân ca . Từng là nhà thơ khoác áo lính xông pha trên nhiều chiến trường khốc liệt, Nguyễn Duy có cách nhìn, cách thể hiện
riêng về chiến tranh. Ông nhìn chiến tranh bằng cái nhìn của một thi sĩ thảo
dân. Một thảo dân đích thực bao giờ cũng vừa thiết tha với số phận đất nước,
vừa lo âu cho thân phận chúng sinh. Trong cái nhìn ấy, phần trăn trở nhất của
chiến tranh vẫn là thân phận người, thân phận lương dân [46, tr. 7]. Vì vậy
quan niệm nhân sinh bao trùm trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn Duy là
“Nghĩ cho cùng mọi cuộc chiến tranh/ Phe nào thắng thì nhân dân đều bại”.
Có lẽ ảnh hưởng từ nét văn hóa làng quê xứ Thanh - một vùng quê
nghèo nên cái tôi trong thơ Nguyễn Duy không phải là cái tôi cao đạo, ngông
34
ngạo với đời, mà là một cái tôi giản dị, giàu lòng yêu nước “Dù ở đâu cũng
Tổ quốc trong lòng/ Cột biên giới đóng từ thương đến nhớ”. Thơ Nguyễn
Duy cũng thường nói về cái khổ, điều mà ông hiểu sâu sắc trong những ngày
còn thơ ấu. Nguyễn Duy nhạy cảm với cái khổ "Tôi trót sinh ra nơi làng quê
nghèo/ quen cái thói hay nói về gian khổ/ dễ chạnh lòng trước cảnh thương
tâm". Điều đó không có nghĩa là Nguyễn Duy than nghèo kể khổ. Xu hướng
của ông là tìm cái đẹp trong cái khổ. Đứng trong cái khổ, Nguyễn Duy vẫn
giàu tinh thần lạc quan yêu đời, không ngừng vươn mình, vượt khổ. Quan
điểm này của ông thể hiện rất phổ biến trong các sáng tác. Vì vậy mà cái đẹp
bao trùm trong sáng tác của nhà thơ đó là cái đẹp đơn sơ. Có thể nói quan
niệm nghệ thuật này của Nguyễn Duy đã tiếp thu từ quan niệm về cái đẹp
trong văn hóa của người Việt. Cái đẹp không phải là cái cao sáng, mĩ miều
mà là cái đơn sơ, bình dị. Quan niệm nghệ thuật này đã giúp nhà thơ vững
vàng trong suốt hành trình sáng tạo thơ.
1.2.2. Thơ Đồng Đức Bốn
1.2.2.1. Hành trình sáng tạo
Đồng Đức Bốn sinh ngày 30/3/1948, ở xóm Lê Lác, thôn Song Mai
(tức làng Moi), xã An Hồng, huyện An Hải, thành phố Hải Phòng. Theo lời kể
lại của chính Đồng Đức Bốn, tuổi thơ của thi sĩ gắn liền với những buổi chiều
lang thang trên đồng cỏ hoe vàng, bắt châu chấu về nướng ăn hoặc tát cá đồng
mang ra chợ bán. Mẹ Đồng Đức Bốn là người phụ nữ chân quê, lam lũ nhưng
bà thuộc nhiều ca dao tục ngữ và những khúc hát ru trong lành. Còn người
cha lại có tư chất nghệ sĩ, hồi trẻ cũng đã từng khát vọng thơ ca nhưng bất đắc
chí, mộng văn chương không thành. Đồng Đức Bốn khi sinh ra đã hội tụ cả
hai yếu tố: tiếp tục mang khát vọng của người cha và lại được hấp thu nguồn
văn học dân gian từ người mẹ.
Để đến với nghệ thuật, với thơ ca, Đồng Đức Bốn đã phải vật lộn với
những thử thách khắc nghiệt của cuộc sống. Có lẽ, chính cuộc đời - trường đại
35
học chân chính của mọi thiên tài - đã giúp nhà thơ có nhân sinh quan sâu sắc
ngay từ lúc bắt đầu cầm bút cũng như luyện rèn cho ông cái bản lĩnh kiên gan
bước vào mảnh đất thơ lục bát, mảnh đất đã trồng nên nhiều cây cổ thụ lớp
trước như Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Bính,… mà nếu không
khéo, ông sẽ bị chết rợp dưới tán các cây cổ thụ đó. Tâm huyết, tài năng, sự
khổ luyện đã giúp con thuyền thơ Đồng Đức Bốn vượt qua mọi thử thách để
vượt trùng dương trên hành trình chinh phục độc giả thơ của thời đại mới.
Thuở hàn vi, chàng thanh niên chân chất làng Moi “đã từng là thanh
niên xung phong. Giải ngũ, Đồng Đức Bốn về làm việc tại Xí nghiệp sửa chữa
ô tô Hải Phòng làm thợ gò bậc 6/7”, sau đó về làm việc tại Xí nghiệp xuất
nhập khẩu gia cầm Hải Phòng, anh giữ chân đại diện cho Xí nghiệp ở Hà
Nội… (Nguyễn Huy Thiệp). Những tháng ngày ấy, có ai ngờ Đồng Đức Bốn
đã ấp ủ tấm lòng tri ân với thơ ca.
Từ những ngày đầu sáng tác, Đồng Đức Bốn có viết thơ lục bát và cả
những thể thơ khác. Tập thơ xuất bản năm 1992, Con ngựa trắng và rừng quả
đắng, “chen lẫn với một số bài thơ lục bát khá độc đáo là rất nhiều bài thơ tự
do, ỡm ờ, nửa dơi, nửa chuột, lúc cao giọng chính trị, lúc học đòi cung cách
trí thức lả lơi…” [10, tr. 535] và chính sau bước thể nghiệm “ném đá dò
đường” ấy, nhà thơ đã phát hiện ra lục bát mới hợp tạng với mình nhất. Với
định hướng này, Đồng Đức Bốn không bơ vơ giữa muôn nẻo lộ trình đến với
thơ nữa mà rẽ vào một con đường cụ thể - thơ lục bát và thể thơ dân tộc này
đã gắn bó, góp phần định hình phong cách sáng tạo của nhà thơ.
Đồng Đức Bốn đến với thơ không phải là sớm, sau phút ngỡ ngàng ban
đầu, ông đã định vị ngay được sở trường của mình – thơ lục bát. Với giọng
thơ lạ trên lãnh địa này, tác giả dần khẳng định được vị trí vững chắc của
mình trong lòng độc giả yêu mến thơ. Cái lạ ở thơ Đồng Đức Bốn, không phải
do những cách tân cầu kì về hình thức hay câu chữ, mà chính ở khả năng phát
hiện cái sâu sắc, tinh tế trong cái giản đơn thường ngày, lồng trong một giọng
36
điệu thơ chua xót, đặc trưng và nhất là ở năng lực kết nối hình ảnh, tạo ra
những biểu tượng lạ lẫm mà đầy quyến rũ, kiểu như: “Mải mê đuổi một con
diều/ Củ khoai nướng để cả chiều thành tro” (Chăn trâu đốt lửa). Nói cách
khác, “sự hiện đại trong thơ Đồng Đức Bốn chính là ở nội lực bên trong của
từng câu thơ”[10, tr. 547].
Theo Nguyễn Huy Thiệp, Đồng Đức Bốn làm thơ như một định mệnh
thiêng liêng của trời đất dành cho ông, vị trí thơ Đồng Đức Bốn do vậy cũng
vô cùng đặc biệt – vị cứu tinh của thơ lục bát: “Đồng Đức Bốn là một nhà thơ
khai sáng và sáng tạo ra những cái mới trong thơ lục bát. Anh thuộc diện nhà
thơ bảo tồn, bảo lưu các giá trị thơ ca truyền thống”. Quả thật, “đây là một
điều khá đặc biệt trong chợ trời lẫn lộn trắng, đen, thật giả, lẫn lộn chuyên
nghiệp và nghiệp dư hôm nay” [10, tr. 546].
Như đã hoàn thành sứ mệnh được giao phó, sau khoảng 15 năm cầm
bút sáng tác, Đồng Đức Bốn rời cõi người, cõi thơ: “Chăn trâu đốt lửa xong
rồi/ Thì ta trả bút cho trời làm hoa” (Trả bút cho trời), để lại một gia tài thơ
gồm sáu tập thơ dầy dặn mà có đến gần 80% là thơ lục bát: Con ngựa trắng
và rừng quả đắng (1992), Chăn trâu đốt lửa (1993), Trở về với mẹ ta thôi
(2000), Cuối cùng vẫn còn dòng sông (2000), Chuông chùa kêu trong mưa
(2002) và Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc (2006).
Hành trình thơ Đồng Đức Bốn phát triển khá nhanh, khi đã bén duyên
lục bát, ông viết liên tục, khỏe và đều tay. Những mạch nguồn lớn trong thơ
Đồng Đức Bốn không mấy thay đổi qua các tập thơ. Ấy là những nguồn cảm
hứng mạnh mẽ bắt nguồn từ quê hương, làng mạc, từ cuộc sống, từ đời tư, từ
chính hình ảnh cái tôi ngạo nghễ “Hiểu tôi là ngọn núi cao/ Thương tôi có
một ngôi sao cuối trời”… cùng lối viết tự nhiên, giọng điệu vừa chua xót vừa
kiêu bạc, hình ảnh thơ quen thuộc nhưng đầy ấn tượng: dòng sông, con đò,
con đường, mưa, nắng, gió, bão, con ngựa, gai, chùa chiền…
Trong thơ Đồng Đức Bốn có quê hương, có làng mạc, có những bức
37
tranh quê êm ả và dữ dội, còn có cả hương bồ kết đặc sệt quê mùa phả vào
thơ… Thơ Đồng Đức Bốn bàn đến chuyện tình yêu, thất tình, tình đơn
phương, tình yêu nở muộn… và bàn đến phố phường, chuyện nhân sinh –
cuộc sống… với những triết lí sâu sắc đến bất ngờ. Đặc biệt giai đoạn nhà thơ
trên giường bệnh, khát vọng cuộc sống, ý thức dâng hiến đã khiến cho Đồng
Đức Bốn sáng tác được nhiều bài thơ, nhiều câu thơ “thánh” như bắt được của
Trời vậy. Ý thơ ám ảnh, dư ba… những tình cảm vốn chân thật, mạnh mẽ lại
thiết tha, da diết của một người ham sống, yêu sống.
1.2.2.2. Quan niệm nghệ thuật của Đồng Đức Bốn
Mỗi nghệ sĩ đến với thơ ca đều mang theo những quan niệm nghệ thuật
của riêng mình dù nói hay không nói trực tiếp bằng lời. Đồng Đức Bốn đã
nhiều lần trực tiếp bộc lộ quan niệm thơ trong thực tiễn sáng tác và cả khi trả
lời phỏng vấn của độc giả. Ông không ngần ngại đưa ra những ý kiến đầy tâm
huyết: “…mỗi ngày tôi đều nghiệm ra rằng thơ là thứ tôi tâm huyết”[10, tr.
681], “Thơ hay là sự thăng hoa Trời cho cộng với những trải nghiệm khổ
hạnh của một đời người”[10, tr. 682], “Thơ là lộc của Trời, cũng là cái Tội
trời đày” [10, tr. 687]. Đặc biệt, Đồng Đức Bốn ý thức: “thơ phải đạt đến độ
giản dị. Không có nghĩa có sao nói vậy, mà giản dị chính là cách tiếp cận để
đến với bản chất cuộc đời cũng như cõi sâu xa của tâm hồn. Lối nói giản dị là
lối nói của dân gian. Tri thức kinh nghiệm dân gian, chính là phần tiềm thức
trong mỗi con người hiện đại” [10, tr. 690]. Những quan niệm này nhất quán
và càng ngày càng sâu sắc hơn trong hành trình sáng tác của nhà thơ Đồng
Đức Bốn.
*Trời cho được chút lộc thơ
Với Đồng Đức Bốn làm thơ là một cái duyên và là ân huệ mà ông Trời
đã dành riêng cho mình:
Trời cho được cái lộc thơ
Cứ leo núi Tản Tây hồ lội sương
38
(Tôi viết tặng tôi)
Nhưng nhận lộc thơ của Trời, Đồng Đức Bốn phải trả giá bằng những
nỗi đau khôn cùng, chính ông đã từng thốt lên “Trời lấy của tôi nhiều quá”,
mà toàn những thứ không bao giờ có lại lần thứ hai: mẹ, các con trai, hai đứa
cháu ngoại bé bỏng… Cứ mỗi lần một tập thơ của Đồng Đức Bốn được in ra
thì lại thêm một người thân yêu của tác giả rời bỏ thế gian này. Làm thơ nguy
hiểm đến vậy nhưng tại sao Đồng Đức Bốn vẫn không từ bỏ? Phải chăng vì
thơ ca đối với thi sĩ đã là một thứ định mệnh.
Xưa kia, Tản Đà, Nguyễn Bính từng than thở về sự bèo bọt của kiếp
thơ nhưng ở Đồng Đức Bốn, ta thấy một tâm thế chủ động đón nhận, tự ý
thức sâu sắc về nhiệm vụ cao cả, thiêng liêng của mình: Ngai vàng là của
thần linh/ Còn thơ là của chúng sinh muôn loài (Vu vơ I).
Với Đồng Đức Bốn, thơ có nhiều thiên chức quan trọng, trời hãy còn
cao thì thơ hãy còn phải làm cho kiếp người thêm thanh cao, tươi đẹp:
Nếu trời còn mãi biết cao
Thì thơ còn mãi thanh tao kiếp người
(Kính gửi anh Điềm)
Và quan trọng hơn cả, những vần thơ được viết ra phải để cho người
yêu nhau (Chuông chùa kêu trong mưa).
Đồng Đức Bốn làm thơ như là một sự thi hành ý trời, mà nhiệm vụ
quan trọng bậc nhất phải làm là bắt được những câu thơ Trời ban. Rất nhiều
độc giả yêu thơ cùng đồng tình nhận xét, thơ Đồng Đức Bốn quê mùa, mộc
mạc như lúa, như khoai nhưng thi thoảng lại đột ngột xuất hiện những câu thơ
hay đến mức ngỡ ngàng mà chỉ có thể giải thích bằng thần hứng Trời cho.
*Bằng câu thơ của trời cho riêng mình
Đồng Đức Bốn nợ thơ của Trời và cách duy nhất để: “Tôi đi mua cái tự
do” là “Bằng câu thơ của Trời cho riêng mình” (Chín xu đổi lấy một hào).
Suốt một đời, Đồng Đức Bốn đau đáu về thơ, tích lũy vốn sống, nếm trải mọi
39
khổ đau để khi “trong ta cuộc sống đã tràn đầy” (Tố Hữu), ông bắt đầu viết.
Thơ Đồng Đức Bốn có khi làm một cây đàn để hóa giải nỗi oan cho
con người, thấu hiểu cho từng số phận của con người:
Câu thơ làm một cây đàn
Tôi ngồi tôi gảy khúc oan cho người
(Lấy thơ làm một cây đàn)
Trong quan niệm của Đồng Đức Bốn, thơ biến hóa vạn năng, có lúc thơ
giải cứu cho con người qua cơn sóng gió của cuộc đời:
Đưa em qua trận bão người
Bằng câu lục bát của trời cho anh
(Đưa em qua trận bão người)
Có khi thơ hóa thành nén tâm nhang thắp tri ân kiếp trước:
Tôi vẫn đi dọc về ngang
Câu thơ thắp những nén nhang cho người!
(Thăm mộ Nguyễn Du)
Đồng Đức Bốn không chỉ ý thức về giá trị thơ ca mà còn ý thức rất sâu
sắc về giá trị của thể thơ lục bát. Lục bát hóa thành nén nhang, con thuyền, vị
cứu tinh … và còn có thể biến những điều không thể thành có thể:
Ước gì sang dải ngân hà
Bằng câu lục bát hương hoa móng rồng
(Về đây với bến sông)
Đúng là trong lịch sử văn học nước nhà, “… Chưa có ai kỳ vọng vào
thơ và kiêu hãnh với thơ lục bát như Đồng Đức Bốn” [10, tr. 597]. Thi sĩ say
sưa với lục bát tình tang quê mùa, coi nó như là toàn bộ tài sản quý giá của
mình, mà thương ai, yêu ai, ông lại mang ra biếu tặng với tấm lòng thơm thảo.
Cũng như nhiều thi sĩ khác, Đồng Đức Bốn quan niệm, viết thơ phải
xuất phát từ động lực thôi thúc từ bên trong:
Bài thơ anh viết cho mình
Mà cây trúc mọc sân đình tương tư.
40
(Gai rào ngõ quê)
Với Đồng Đức Bốn, lục bát là nơi để kết nối tình yêu thương của
nhân loại; người ta tìm thấy tâm hồn đồng đỉệu của mình trong vườn lục
bát tâm tình:
Tôi thương những hạt mưa dầm
Trong câu lục bát người cầm trao nhau
(Bây giờ vàng chẳng là thau)
Cũng có khi, tác giả lại dùng lục bát để khẳng định vị trí độc tôn của
người tình:
Em là lục bát của tôi
Tôi là hạt bụi xa xôi của nguời.
(Em là lục bát của tôi)
Cách tôn vinh người tình của Đồng Đức Bốn thật độc đáo: “em là lục
bát”. Tại sao lại lục bát?... Bởi lục bát đã trở thành bản mệnh của Đồng Đức
Bốn, là máu thịt, là tất cả những gì mà thi nhân có. Nói về điều này, nhà thơ
Đỗ Minh Tuấn đã rất đắc địa khi phát hiện ra: “… lục bát là … ngai vàng kiêu
hãnh của nhà thơ mà khi nhà thơ đứng dậy khỏi ngai vàng ấy, trao vương
miện lục bát cho người tình, anh ta chỉ còn là hạt bụi mà thôi” [10, tr. 599].
Nói chuyện với những cây cỏ dại – những sinh linh hiền lành nhất, thi
sĩ đem lòng tâm sự cả về chuyện thơ của mình:
Tao không theo đám ăn tàn
Mày không trâu lấm vẩy càn ngõ quê
Chỉ còn tao biết đam mê
Lấy thơ làm cõi đi về bơ vơ.
(Nói chuyện với những cây cỏ dại)
Có thể thấy tâm hồn rất đỗi trong sáng và hồn hậu của thi nhân. Đồng
Đức Bốn không bao giờ theo gót kẻ ăn tàn mà giản dị lấy thơ làm cõi đi về bơ
vơ... Cái bơ vơ này liên quan tới sự nhặt nhạnh những nỗi buồn nhân tình thế
41
thái trong thơ ông.
*Thơ tôi nhặt cái người ta vẫn buồn
Khác với nhiều người, Đồng Đức Bốn góp nhặt những bức tranh đời
đau thương, những tâm sự chua xót có từ trong cuộc sống của mình, của mọi
người để kết dệt nên lục bát:
Chuông chùa đếm giọt mưa sa
Thơ tôi nhặt cái người ta vẫn buồn.
(Nhà quê)
Sự định hướng này ảnh hưởng trực tiếp đến cảm hứng, đề tài, chủ đề
của thơ Đồng Đức Bốn. Ông thường làm thơ khi buồn, khi lòng tràn đầy nỗi
chua xót:
Buồn thì tôi vẫn làm thơ
Để em có cái vu vơ mà tìm
Nếu rơi xuống biển không chìm
Thì bay cao vẫn cánh chim giang hồ.
(Gửi Tân Cương)
Người buồn, thơ cũng buồn theo nhưng cái buồn trong thơ Đồng Đức
Bốn không làm cho con người ủy mị. Tác giả từng nói: “Thơ tôi buồn. Nhưng
đó là cái buồn không mềm yếu. Nó làm cho con người ta thêm tin yêu và
mạnh mẽ hơn trong cuộc sống”. [10, tr. 681]. Theo đó, khi làm thơ, Đồng
Đức Bốn biết mình viết gì đồng thời cũng ý thức rất rõ cái mình sẽ để lại cho
đời không phải cái gì khác ngoài một thứ - kinh đọc buồn:
Tôi là một kẻ mồ côi
Thế gian mắc nợ còn tôi nợ tình
Đến khi mình trả được mình
Thì thơ tôi đã thành Kinh đọc buồn.
(Nửa đêm Đà Lạt)
Địa hạt của thơ Đồng Đức Bốn chính là nỗi buồn của nhân thế – một sự
42
lựa chọn ngọn nguồn cảm hứng thơ có đường nét rõ ràng và thực tiễn sáng tác
cũng thống nhất với quan niệm ấy. Vô tình hay hữu ý, chính sự lựa chọn đó
đã góp phần mang lại thành công cho Đồng Đức Bốn trên con đường đến với
thơ ca.
*Thì ta trả bút cho Trời làm hoa
Khi xem xét đặc điểm thơ của một tác giả cụ thể, sẽ thiếu đi phần sâu
sắc nếu chúng ta không tìm hiểu quan niệm thơ của chính người sáng tác
được thể hiện qua chính những câu thơ mang tính “tuyên ngôn” vì quan niệm
thơ chi phối trực tiếp đến toàn bộ sự nghiệp thơ ca của họ.
Đồng Đức Bốn làm thơ có sự thôi thúc mạnh mẽ từ trong bản thể của
mình, như thể do ông Trời bắt nhà thơ phải tham gia cái sự nghiệp này. Suốt
một đời sáng tác, Đồng Đức Bốn chưa bao giờ quên nhiệm vụ của mình, cho
đến một ngày, nhận thấy mình đã sắp trả xong món nợ truyền kiếp, thi sĩ báo
hiệu trước một sự giã từ:
Chăn trâu đốt lửa xong rồi
Thì ta trả bút cho trời làm hoa.
Này ta bảo cho các ngươi
Ta đến chỉ ở với người không lâu.
(Trả bút cho trời)
Đồng Đức Bốn sáng tác theo thánh chỉ của Trời! Quan niệm này buộc
nhà thơ riết róng cống hiến hết sức mình cho thơ, không được phép bỏ dở nửa
chừng mặc dù ông phải trả cái giá bằng nhiều bi kịch đau đớn trong đời tư.
Qua khảo sát các tập thơ của Đồng Đức Bốn, chúng tôi thấy quan niệm
thơ của tác giả nối một mạch thống nhất từ tập đầu tiên cho đến tập cuối cùng,
càng về sau, triết luận thi ca càng đậm nét hơn. Có thể nói, với Đồng Đức
Bốn, thơ là một dự nghiệp đa đoan dâu bể thật nhưng nó cũng đầy vinh
quang [10, tr. 683]. Kẻ mượn bút của Trời để phiêu du vào lục bát, khi đã
43
hoàn thành sứ mệnh của mình, thì đồng thời với ngừng bút là bản mệnh cũng
đi về với tổ tông, cùng Nguyễn Du, Nguyễn Bính, Tản Đà, Huy Cận, Tố
Hữu… Một đời thơ như thế là trọn vẹn.
Quan niệm sáng tác là một cơ sở chắc chắn để độc giả đi vào giải mã
văn chương. Trên cơ sở hiểu tâm nguyện về thơ của Đồng Đức Bốn, chúng ta
lại có thêm một chìa khóa để mở ra những cánh cửa bí ẩn thơ trong các sáng
44
tác của nhà thơ
Chƣơng 2: BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG THƠ NGUYỄN DUY,
ĐỒNG ĐỨC BỐN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NỘI DUNG CẢM HỨNG
Khảo sát thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn có thể thấy tính dân tộc đậm
đà được thể hiện sâu sắc trên phương diện nội dung cảm hứng. Cả hai nhà thơ
đã tiếp thu nguồn thi liệu truyền thống để làm nên nét bản sắc mang dấu ấn
riêng trong các sáng tác của mình. Nguồn thi liệu đó được biểu hiện sâu đậm
ở những nguồn cảm hứng chủ đạo về quê hương, đất nước và con người Việt
Nam. Hiện lên trên những trang thơ là hình ảnh làng quê với vẻ đẹp bình dị,
thân thương…, là những con người hồn hậu mang trong mình bao phẩm chất
cao đẹp của con người Việt Nam truyền thống.
2.1. Quê hƣơng, đất nƣớc
2.1.1. Quê hương, đất nước trong thơ ca Việt Nam
Quê hương - hai tiếng thiêng liêng đã ăn sâu vào tâm hồn, máu thịt mỗi
người con đất Việt. Trong văn học nói chung, thơ ca nói riêng, quê hương, đất
nước đã trở thành một trong những nguồn cảm hứng chủ đạo, dào dạt nhất.
Cũng chính bởi: “Quê hương mỗi người chỉ một - Như là chỉ một mẹ thôi -
Quê hương nếu ai không nhớ - Sẽ không lớn nổi thành người” (Đỗ Trung
Quân) cho nên mỗi nhà thơ đều có những bài thơ hay viết về đất mẹ, để lại
được ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Viết về quê hương, các tác giả
đều thể hiện một tình yêu quê chân thành, đằm thắm. Và có thể nói, tình yêu
quê hương đất nước là thứ tình cảm cao đẹp nhất, sâu sắc nhất trong truyền
thống thơ ca Việt Nam từ xưa đến nay.
Tùy từng thời kì và bản thân từng tác giả trên con đường sáng tạo nghệ
thuật của riêng mình đều có những sáng tạo rất riêng và mới mẻ về nội dung
tác phẩm và hình thức nghệ thuật đã tạo nên hình hài quê hương với nhiều
diện mạo hết sức phong phú. Tuy nhiên, tựu trung lại, cái làm nên hồn cốt,
45
bản sắc dân tộc trong mảng thơ ca về đề tài quê hương đất nước là việc tạo
dựng hình ảnh một làng quê Việt mộc mạc mà thanh bình, yên ả với biết bao
cảnh vật quen thuộc, thân thương: bờ tre, gốc rạ, mái đình, cây đa, bến nước,
con đò…
Tình yêu quê hương đất nước là một mảng đề tài lớn trong ca dao. Đó
là những tình cảm chân thành, tự nhiên mà sâu sắc nồng nàn: sự gắn bó với
quê hương, với nghề nông, lòng yêu mến, tự hào về cảnh đẹp, về cuộc sống
thanh bình, về những danh lam thắng cảnh của đất nước…
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao
Bài thơ là lời tâm sự chân thành, đằm thắm về nỗi nhớ quê nhà da diết,
cồn cào của chàng trai. Thật đẹp và đáng trân trọng biết bao khi hiện lên trong
nỗi nhớ quê ấy là hình hài quê hương qua những món ăn dân dã, đạm bạc, là
những con người tần tảo, chịu thương chịu khó của đồng quê. Cảnh và người
của quê hương đã in sâu trong tâm khảm của người con xa xứ và trở thành
nguồn động lực, điểm tựa nương náu cho mỗi tâm hồn.
Đến văn học trung đại - nền văn học mang tính quy phạm, phi ngã thì
thiên nhiên vẫn trở thành đối tượng để thể hiện tâm tư, cảm xúc của con
người, nhưng do sự chi phối của quan niệm “văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ ngôn chí”
nên phần nào thiếu vắng vẻ đẹp hồn nhiên vốn có. Nói như vậy, không có
nghĩa là thi nhân xưa đã bớt cái say sưa khi ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên đất
nước. Thiên nhiên vẫn trở thành nguồn cảm hứng bất tận trong thơ ca giai
đoạn này. Ta vẫn luôn bắt gặp những hình ảnh thiên nhiên quen thuộc của
làng quê Việt Nam trong cả thơ chữ Hán và chữ Nôm của Nguyễn Trãi. Đó là
tiếng cuốc kêu khắc khoải gọi hè, là hình ảnh hoa xoan lớp lớp trong cơn mưa
46
bụi mùa xuân lất phất nơi thôn dã:
Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn
Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan
(Cuối xuân tức sự - Nguyễn Trãi)
Đến cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX, ta thấy xuất hiện những
vần thơ đẹp viết về thiên nhiên trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào dân
tộc Nguyễn Du. Và quả đúng như một lời nhận xét: “Truyện Kiều là cái gì rất
Việt Nam, đậm đà tình nghĩa Việt Nam, tình nghĩa quê hương xứ sở”. Tình
yêu thiên nhiên đất nước ấy được thể hiện một cách thầm kín qua việc ngợi ca
cảnh đẹp bốn mùa của quê hương:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
…
Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông
Tiếp nối mạch cảm xúc ngợi ca những nét đẹp của quê hương xứ sở,
nhóm thi sĩ đồng quê của phong trào thơ Mới với những đại diện tiêu biểu
như Anh Thơ, Nguyễn Bính, Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ… đã có những bài
thơ hay viết về quê hương. Làm sao có thể quên được một bức tranh quê đẹp
đến say lòng trong Bến đò ngày mưa của Anh Thơ:
Tre rũ rượi ven bờ chen ướt át
Chuối bơ phờ đầu bến đứng dầm mưa
Và dầm mưa dòng sông trôi dào dạt
Mặc con thuyền cắm lại dậu trơ vơ
Vẫn sử dụng những thi liệu quen thuộc mang đậm dấu ấn văn hóa làng
quê với những hình ảnh gần gũi, thân thương: dòng sông, bến bãi, con đò…
47
Anh Thơ đã khắc họa thành công một góc không gian quê Việt tự bao đời.
Được mệnh danh là thi sĩ “quê mùa” (Hoài Thanh), Nguyễn Bính lại
góp thêm một hương vị riêng trong việc cảm nhận và thể hiện hồn quê dân
tộc. Quê hương trong thơ Nguyễn Bính là hình ảnh thiên nhiên và con người
chất phác, mộc mạc như khoai lúa đã làm bâng khuâng bao thế hệ độc giả.
Đến thơ ca cách mạng, khung cảnh làng quê Việt được khắc họa với
nhiều sắc màu khác nhau nhưng đều thể hiện niềm tự hào dân tộc và tình yêu
quê hương đất nước tha thiết, sâu nặng:
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
(Bên kia sông Đuống – Hoàng Cầm)
Chiến tranh kết thúc, đất nước bước vào thời kì đổi mới, những nhà thơ
như Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn đã tìm về với cội nguồn dân tộc, trở về với
những giá trị đạo đức, thẩm mỹ từ lâu đời. Qua những sáng tác của mình, họ
tìm về với nguồn cội để kí thác tâm sự, những nỗi niềm của cả một thế hệ thi
sĩ trong thời buổi văn hóa dân tộc đang có nguy cơ bị mai một, mất đi bản sắc
dân tộc. Hay nói cách khác, cảm hứng về quê hương đất nước với hình ảnh
làng quê mang những nét đẹp văn hóa truyền thống, đậm đà bản sắc dân tộc
đã trở thành nguồn mạch mát trong nuôi dưỡng biết bao hồn thơ Việt trong đó
có hồn thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn.
2.1.2. Quê hương đất nước trong thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn
Yêu quê hương, đất nước là một tư tưởng cao đẹp trong thơ ca tự bao
đời. Cả hai nhà thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn đều tìm chỗ đứng cho riêng
mình trên mảnh đất quê hương màu mỡ để từ đó khẳng định bản lĩnh của một
nghệ sĩ chân chính thực sự. Hãy cùng lắng nghe lời tâm sự từ đáy lòng của hai
nhà thơ này:
Trọn kiếp người ta chập chờn nguồn cội
Có một miền quê trong đi đứng nói cười
48
(Quê hương – Nguyễn Duy)
Bao nhiêu là thứ bùa mê
Cũng không bằng được nhà quê của mình
(Gửi Tân Cương – Đồng Đức Bốn)
Đó là những lời bộc bạch từ sâu thẳm tâm linh khẳng định tình yêu sâu
nặng đối với quê hương và cũng là nguyên nhân dẫn tới con đường thơ của
hai tác giả. Quê hương chính là cội nguồn, là cái nôi hình thành và nuôi
dưỡng một con người, nơi lưu giữ bao kỉ niệm vui buồn thuở ấu thơ, nơi mẹ
cha ta đang tần tảo mưa nắng từng ngày…
Về với làng quê, về với cội nguồn sinh dưỡng, Nguyễn Duy, Đồng Đức
Bốn không đi vào khai thác, thể hiện những hình ảnh kì vĩ, lớn lao mà tập
trung ngòi bút vào những vẻ đẹp đơn sơ, bình dị chốn quê mùa - nơi mà họ đã
sống hoặc đã đi qua trong những cuộc hành quân hay những chuyến đi của
cuộc đời. Cảnh sắc quê hương trong thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn hiện
lên trước hết với hình ảnh của những cánh đồng quê, khu vườn quê mang
những nét đặc trưng riêng, mang cảm xúc và tâm hồn quê mùa của thi sĩ. Đó
còn là hình ảnh của gốc lúa, bờ tre hồn hậu, là khúc sông quê tắm mát với con
đò hiền lành đợi khách sang sông, là mảnh trăng cong đong đưa trước gió…
Đó còn là những phiên chợ quê với cảnh trao đổi, bán mua đạm bạc gắn với
cuộc sống bao đời nay của những cư dân thuộc nền văn minh nông nghiệp lúa
nước. Và cũng không thể không kể đến những con vật hết sức gần gũi, quen
thuộc chốn thôn quê: con cò, con ve, con cuốc… Tất cả đều được khắc họa
với một vẻ đẹp thật thanh bình, nên thơ.
Thiên nhiên quê trong thơ Nguyễn Duy luôn được nhìn nhận trong mối
quan hệ gắn bó với con người, là biểu tượng cho con người Việt Nam. Cây tre
trong bài Tre Việt Nam - một hình ảnh quen thuộc của làng quê Bắc Bộ luôn
bao bọc, chở che cho mỗi ngôi làng quê thâm nghiêm cổ kính, lặng lẽ chứng
49
kiến, chia sẻ mọi thăng trầm của dân tộc, mọi buồn vui của con người… đã
trở thành một biểu tượng đẹp cho những phẩm chất cao quý của dân tộc và
con người Việt Nam:
Thân gầy guộc lá mong manh
Mà sao nên lũy nên thành tre ơi
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu
….
Lưng trần phơi nắng phơi sương
Có manh áo cộc tre nhường cho con
Tre là hiện thân cho những đức tính cần cù, chịu thương chịu khó, giàu
đức hi sinh, anh dũng, kiên cường… của con người Việt Nam trên mảnh đất
quê cằn cỗi, nghèo khó. Và Nguyễn Duy phải là nhà thơ thấm cảnh quê, “phải
chân quê, chân cảm lắm mới vận vào thơ được”[47], mới tìm ra được mối liên
kết vô hình giữa con người và cảnh vật. Với hình ảnh cây tre, có thể nói
Nguyễn Duy đã thật sự thành công khi xây dựng một biểu tượng đẹp về thiên
nhiên và con người Việt Nam, mặc dù “có biết bao nhà thơ, nhà văn đã viết
về cây tre Việt Nam, nhưng cách nói, sự liên tưởng, nhân hóa mang tính hình
tượng độc đáo kiểu Nguyễn Duy thì quả là chưa gặp ở bài thơ nào, ở tác giả
nào” [23].
Là người yêu quê, gắn bó sâu nặng với những gì giản dị, gần gũi, thân
thuộc nên trong thơ Nguyễn Duy ta thường bắt gặp tầng tầng lớp lớp những
hình ảnh quen thuộc của xứ đồng. Mảnh vườn quê trong thơ Nguyễn Duy
hiện hình sinh động với vẻ đẹp của những cảnh sắc rất đời thường, mộc mạc
nơi quê mùa. Đi qua vùng đất thơ mộng của xứ Huế, nhà thơ trào dâng một
cảm xúc nhớ bạn. Và hiện lên trong nỗi nhớ ấy là hình ảnh của những gì thân
thuộc nhất với hàng dâu loáng thoáng cùng đồi hoa mơ trắng:
Bến Tuần loáng thoáng vườn dâu
50
Em xa vườn lựu từ lâu lắm rồi
Lối mòn đá cuội rong chơi
Lơ thơ trắng dưới chân đồi hoa mơ
(Nhớ bạn)
Cảnh sắc làng quê trong thơ Nguyễn Duy có khi chỉ là những loài cỏ
dại mọc dọc đường xa nhưng cũng đầy lưu luyến, nhớ thương:
Mùi hương hoang dại thơm lừng
từ thăm thẳm núi bỗng dưng bay về
(Hoa dại)
Nhiều lúc nhà thơ cực kì say mê, thích thú làm bạn với những loài côn
trùng, với cây cỏ hoang dại đồng nội. Ta cảm nhận sâu sắc niềm thỏa thuê,
vui thích của tác giả giữa không gian thiên nhiên khoáng đạt, rộng mở:
Dang tay ngang mặt thảo nguyên
Dang chân ta ngả mình bên côn trùng
Ngỡ bay lên khoảng không cùng
Lại đằm xuống cỏ giữa đồng hoang vu
(Cỏ dại)
Nói tới cảnh sắc làng quê là phải nhắc đến những cánh đồng lúa bạt
ngàn trong nắng vàng với những bông lúa nặng trĩu bông mang theo biết bao
ân tình của người trồng lúa:
Đồng chiêm phả nắng lên không
Cánh cò dẫn gió qua thung lúa vàng
Gió nâng tiếng hát chói chang
Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời
(Lúa chín)
Thơ Nguyễn Duy bắt rễ sâu trong cội nguồn dân dã và vững bền của
làng quê nên anh trân trọng biết bao sự sống của từng hạt lúa quê hương:
Phải đất nghèo nên hạt lúa giàu tình
51
Biết thương người như người thương lúa
Quen nắng bỏng dẫu dầm vào lửa
Lúa vẫn nguyên lành màu xanh
(Hạt lúa cháy nảy mầm)
Qua hình ảnh của hạt lúa cháy nảy mầm ta cảm nhận được sự sống
mãnh liệt, bền bỉ của làng quê nghèo đói, mộc mạc, cực nhọc mà hồn hậu bao
dung hay đó cũng chính là sự sống của một hồn thơ đậm đà hương sắc đồng
quê, dân dã.
“Quê hương”, hai tiếng ấy đối với Nguyễn Duy vô cùng thiêng liêng.
Vì vậy khi viết về cảnh vật chốn làng quê, Nguyễn Duy thường cảm nhận và
đưa vào thơ những gì bình dị, đời thường, mộc mạc nhất như cái bản chất vốn
có của chốn quê mùa thôn dã, thậm chí đó còn là “Cái điều ở người khác đôi
khi chỉ là chuyện thoáng qua. Nhưng ở anh, nó lắng sâu và dường như dừng
lại” (Hoài Thanh). Chính bởi lẽ đó, Nguyễn Duy đã chắt chiu đến từng li để
làm nên sự sống cho thơ. Anh gom nhặt tất cả: Hương đồng, mùi bùn, màu
đất… gom góp tất thảy những nhọc nhằn, lam lũ để gửi vào thơ. Vì thế, ta đâu
có gì xa lạ với hình ảnh khu vườn quê quá đỗi dân dã, mộc mạc trong thơ
Nguyễn Duy.
Cũng giống như Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn xây dựng trong thơ mình
một khu vườn quê với những hình ảnh cây cỏ, hoa lá rất đỗi quen thuộc. Đó là
những hàng rào quê thanh mảnh được tô điểm bằng những thứ cây thanh nhã,
giản dị như cây rau, cây thuốc hay một vài loài hoa: cúc tần, tầm xuân, râm
bụt… Thậm chí, ở những bờ rào ấy có khi chỉ là những thứ cây lá, những loài
hóa, loài cây nghèo nàn chốn quê mùa nhưng lại gắn bó với tiềm thức văn hóa
dân gian:
Khổ thân cho cả bờ rào
Dây tơ hồng héo quắt vào mùa thu
52
(Cơn mưa dừng ở Sóc Sơn)
Như nhiều nhà thơ khác, Đồng Đức Bốn đã tiếp thu và sáng tạo nhiều
hình ảnh quen thuộc đã trở thành biểu tượng trong thơ ca dân gian và thơ ca
truyền thống. Đó là hình ảnh cây đa đầu làng hiện diện như một dấu mốc
quan trọng để nhận ra làng quê từ phía xa hay những bụi tầm xuân muôn đời
trong ca dao:
Bây giờ chờ đợi tháng ba
Tôi ra đứng ở cây đa đầu làng
(Chờ đợi tháng ba)
Vẫn còn thấy bụi tầm xuân
Áo em phơi để nhạt dần nắng mưa
(Qua nhà người yêu cũ)
Cũng viết về những bờ tre, bụi dứa, tuy chưa thật cụ thể như trong thơ
Nguyễn Duy nhưng ta vẫn nhận ra ở đó những suy nghĩ về sự tan vỡ của
những giá trị truyền thống, tâm trạng buồn thương, xót xa trước những giá trị
xưa cũ của con người bị mờ dần trong cuộc sống hiện tại:
Bờ tre bụi dứa tan rồi
Cuốc kêu ai biết cho lời cuốc đâu
(Cuốc kêu)
Khu vườn quê trong thơ Đồng Đức Bốn còn có sự xuất hiện trở đi trở
lại của nhiều hình ảnh cây cỏ nơi thôn dã như vườn cau, ao cá, cánh bèo, cây
bồ kết, hoa dong riềng… Tất cả đều hiện lên thật hiền hòa, gần gũi. Thế
nhưng những thứ cây mọc trên mảnh đất nhà quê Đồng Đức Bốn còn gợi sự
tàn úa, muộn màng của một mối tình không trọn vẹn:
Mỗi lần cây cải nở hoa
Thì tôi lại nhớ người ta chưa về
(Chuông chùa kêu trong mưa)
Nói đến cây cỏ nơi làng quê của Đồng Đức Bốn, ta không thể không
53
nhắc đến một thứ cây kì lạ không có tên gọi về chủng loại, hình hài, màu sắc
cụ thể nhưng có cảm giác nó luôn có mặt ở khắp mọi nơi trên mảnh đất quê,
đó là gai. Với hình ảnh này ta cũng nhận thấy sự khác biệt rõ rệt của Nguyễn
Duy và Đồng Đức Bốn trong việc khắc họa cảnh sắc quê hương: “Lục bát
Đồng Đức Bốn ngoài sự bình dị, mượt mà còn gợi ra sự gai góc, sắc nhọn của
những chìm nổi đời người” [43, tr. 40].
Gai quê hiện hữu ở khắp mọi nơi. Những cây bồ kết lắm gai, hoa có
gai, bụi tre gai, bờ rào gai, rồi xéo gai, gai rào ngõ quê… đều mang đậm một
sắc thái quê mùa, thôn dã nhưng đồng thời nó cũng gợi lên một cái gì đó đầy
gai góc, sắc cạnh.
Chạy mưa không chạy qua rào
Sao áo em bị gai cào rách lưng
(Chạy mưa không chạy qua rào)
hay:
Đã nông lại lắm gai rào
Tưởng trong sạch thế mà sao vẫn bùn
(Đi qua bến lở sông bồi)
Cây cỏ trong thơ Đồng Đức Bốn không có cái bé bỏng, cam chịu như
trong ca dao mà dường như sống táo bạo hơn, sắc nhọn hơn. Đó phải chăng là
cảm quan, thái độ của nhà thơ trước cuộc đời nhiều biến động, khó hòa nhập
của cuộc sống hiện tại nhiều bon chen, xô bồ, là “quan niệm về một cuộc sống
nhiều nỗi lo, nhiều nguy cơ của anh” [32, tr. 78].
Như vậy, có thể thấy khu vườn quê trong thơ Nguyễn Duy và Đồng
Đức Bốn được khắc họa một cách thật chân thực, sinh động dưới ngòi bút
tài hoa của các nhà thơ đồng quê. Từ những cây cỏ, hoa lá bình dị chốn quê
mùa, dân dã các thi sĩ đã thổi hồn mình vào sự vật, gửi gắm trong đó những
suy nghĩ cảm xúc trước cuộc đời và thể hiện một tình yêu quê hương đất
54
nước sâu lắng.
Nói tới cảnh sắc đồng quê, ta không thể không kể tới sự góp mặt của
những con vật gần gũi với người dân quê. Thế giới loài vật nơi làng quê khi
thì là những con vật mang số kiếp long đong, thảm thương như một biểu
tượng cho thân phận người dân quê, khi thì là những con vật ngộ nghĩnh đem
lại những niềm vui nhỏ bé cho đời sống tâm hồn người dân quê.
Con cò và cánh cò từ lâu đã trở thành biểu tượng văn hóa của người
dân đất Việt. Nó lắng sâu vào đời sống tâm hồn, tình cảm của người dân quê
và hiện lên thật gần gũi, thân thương. Trong thơ Nguyễn Duy, ta vẫn thấy
thân thuộc biết bao với cánh cò “bay lả bay la” từ những cánh đồng quê yêu
dấu vào câu quan họ đằm thắm ân tình, rồi lại theo câu quan họ của những
người bình dân đi ra chiến trường. Cánh cò chao nghiêng ấy mang theo cả
bóng hình quê hương, giúp con người trở lại với những phút bình tâm, thảnh
thơi để rồi lại vững tâm hơn khi vào trận đánh:
Con cò bay lả bay la
Theo câu quan họ bay ra chiến trường
Nghe ai hát giữa núi non
Mà hương đồng cứ dập dờn trong mây
(Khúc dân ca I)
Với Nguyễn Duy, hình ảnh cánh cò trắng mãi là biểu tượng cho vẻ đẹp
truyền thống mang bản sắc dân tộc của tâm hồn người Việt tần tảo, lam lũ mà
trắng trong, tinh khiết. Chính vì vậy, cánh cò đã, đang và sẽ mãi là thi liệu
truyền thống mang những giá trị trường tồn cùng năm tháng:
Nghìn năm trên dải đất này
Cũ sao được cánh cò bay la đà
(Khúc dân ca II)
Đôi lúc trong thơ Nguyễn Duy ta lại bắt gặp hình ảnh cánh cò biển
cùng những con sò, con ốc, con nghêu. Làm trắng “cả một bờ đại dương”
55
nhưng cánh cò vẫn như cô đơn, lạc lõng trước sự đổi thay của thời cuộc. Đó
phải chăng cũng chính là tâm trạng của con người trước những biến thiên,
dâu bể cuộc đời. Trước sự đổi mới của đất nước, bên cạnh niềm vui mừng
hân hoan thì một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm và mang nặng hồn quê như
Nguyễn Duy sao tránh khỏi những phút giây lo sợ sự đổi mới ấy sẽ làm
phai nhạt đi, mai một đi, thậm chí tàn lụi đi những giá trị truyền thống của
văn hóa làng quê:
Mênh mông không một cánh buồm
Toàn ghe gắn máy với xuồng đuôi tôm
Đáy giăng, lưới quét, sóng chồm
Lấy ai làm bạn sớm hôm với cò
(Lời ru con cò biển)
Nguyễn Duy là nhà thơ đi nhiều. Vì vậy, có thể thấy sự góp mặt của
nhiều loài vật trong khu vườn quê của ông - nơi những vùng đất mà nhà thơ
có dịp đi qua. Đó là rừng Trường Sơn thời chiến rộn rã tiếng ve ngày hè, là
vùng Đồng Tháp Mười trong mùa nước nổi với những bầy rắn, con cò mang
đặc trưng riêng của một vùng đất phì nhiêu, trù phú…
Nếu Nguyễn Duy thường hướng về sự triết lí hóa khi khắc họa các loài
vật thì Đồng Đức Bốn lại thiên về tâm trạng hóa. Trong thơ Đồng Đức Bốn ta
vẫn thấy xuất hiện những con vật quen thuộc của chốn đồng quê bùn đất rơm
rạ với cánh cò, cánh vạc… Thế nhưng, những con vật này đã hao hụt đi vẻ
yên ả vốn có, thay vào đó là một số kiếp long đong, thảm thương:
Ngang trời tiếng vạc mảnh mai
Chém trăng đã đứt làm hai mảnh rồi
(Cái đêm em ở với chồng)
Hay như những con trâu, con bò hiền lành trong cơn lũ vỡ đê, phải chịu
cảnh tang thương cùng với con người:
Trâu bò thất thểu long đong
Trên bè tre rối bòng bong xoong nồi
56
(Vỡ đê)
Bên cạnh hình ảnh những loài vật mang số kiếp long đong, lận đận của
một hồn thơ đầy hoang mang, day dứt, luôn đi tìm cho mình những giá trị
sống cao quý, ta còn thấy trong khu vườn quê Đồng Đức Bốn những con vật
ngộ nghĩnh, thân thuộc mang lại niềm vui nhỏ bé cho đời sống tâm hồn người
dân quê. Đó là hai chú cào cào gây xao xác cả một vùng cỏ dại: Tưởng rằng
gió đến xôn xao/ Không ngờ hai chú cào cào đánh nhau (Viết ở bờ sông), là
những loài chim hiền lành, thản nhiên bay nhảy như không hề biết đến một
cuộc đời giông bão: Mỗi lần cỏ dại trên đê/ Chim ngói đi thả bùa mê khắp
đồng (Chuông chùa kêu trong mưa), là tiếng chim đánh thức niềm hi vọng: Ở
trong những bụi gai tre/ Vẫn còn những tiếng chích chòe gọi mưa (Đi tìm lại
những lời ru)… Thiên nhiên trong thơ Đồng Đức Bốn thường gắn với tâm
trạng con người, gắn với cuộc sống nơi làng quê. Đó là những hình ảnh, âm
thanh rất đỗi thân thương, quen thuộc với mỗi chúng ta nhưng lại chất chứa
bao tâm trạng suy nghĩ của một tâm hồn vốn bình dị mộc mạc nay sống giữa
cuộc đời mới, những gì là đối cực của cuộc sống làng quê yên ả đang dần xâm
lấn khiến nhà thơ hoang mang, mong tìm ra cho mình giá trị sống đích thực.
Đến với thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn chúng ta bắt gặp tầng tầng
lớp lớp hình ảnh thân thuộc của làng quê. Tất cả đều được nhìn nhận bằng
cảm quan quê mùa, bình dị, thuần hậu và cái tình của người trong cuộc. Vì
thế, ta dễ dàng nhận thấy những hiện tượng tự nhiên như nắng, gió, trăng, sao
không còn là cảnh sắc của đất trời nữa mà đã trở thành một phần máu thịt của
tâm hồn con người, mang trong đó linh hồn dân tộc từ ngàn năm vọng lại.
Bầu trời quê với vầng trăng thơ mộng đã khơi nguồn cảm hứng cho
tâm hồn của biết bao thi sĩ. Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn yêu trăng bằng
cả tấm lòng của một con người quê mùa thực sự. Dưới ngòi bút tài hoa của
Nguyễn Duy, vầng trăng quê trở nên lung linh, đẹp đẽ, huyền ảo và thanh
57
bình biết bao:
Ô kìa đột ngột trăng lên
Trăng, trời, trăng láng bạc trên lá rừng
(Trăng)
Khi còn là người lính giữa đại ngàn Trường Sơn, ánh trăng đã không ít
lần làm xao động tâm hồn thi sĩ, trở thành người tri âm tri kỉ với con người:
Tình cờ đó khéo giống đây
Trăng kia cùng cánh võng này soi nhau
Đêm nay em anh ở đâu
Cứ nhìn trăng ấy – nhìn lâu thấy người
(Võng trăng)
Chính bởi yêu trăng, gắn bó thân thiết với trăng đến thế nên khi về
sống giữa thành thị nơi ánh điện cửa gương, nhìn vầng trăng tình nghĩa một
thời vẫn tròn đầy, vẹn nguyên, nhà thơ không khỏi nghĩ suy, day dứt về sự
vững bền của những giá trị xưa cũ trước cuộc sống đô thị hóa hiện đại. Vì
vậy, có thể nói Ánh trăng đã một lần nữa khẳng định bản chất “nhà quê” trong
con người Nguyễn Duy. Yêu tha thiết đồng quê, nhà thơ đã ví bầu trời sao với
chiếc “bánh đa rắc vừng”:
Nở bung hoa cải hoa cà
Trời sao như chiếc bánh đa rắc vừng
(Sao)
Đồng Đức Bốn cũng yêu trăng quê tha thiết. Trong một bài thơ viết khi
xa xứ, tác giả mong ước được trở lại quê nhà để hòa mình vào vẻ đẹp của
vầng trăng quê:
Đã đành ngang dọc sơn hà
Cũng nên về chốn quê nhà ngắm trăng
Quê nhà chẳng có đâu bằng
Anh đi rất nhớ sao giăng trắng trời
58
(Đã đành ngang dọc sơn hà)
Thế nhưng, ta cũng thấy vầng trăng trong thơ Đồng Đức Bốn có sự
biến hóa muôn hình vạn dạng, mang theo những cảm xúc, tâm trạng của con
người. Đó là hình ảnh trăng với các biến thể: trăng gầy, trăng cong, trăng
tròn, trăng khuyết, trăng vàng, trăng ngà… Tất cả đều gợi cho người đọc một
cảm giác về sự cô đơn, lẻ loi hay đó cũng chính là tâm trạng và nỗi niềm của
nhà thơ.
Bên cạnh hình ảnh trăng, ngọn gió đồng quê cũng được nhắc đến nhiều
trong thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn. Những cơn gió mùa thu mát lành gợi
nhớ đến một tuổi thơ êm đềm với những câu hát ru ngọt ngào của bà, của mẹ
nay trở về trong những vần thơ đằm thắm của hai tác giả:
Gió mùa thu đẹp đêm rằm
Mẹ ru con, gió ru trăng sáng ngời
Ru con, mẹ hát à ơi
Ru trăng, gió hát bằng lời cỏ cây
(Mùa thu – Nguyễn Duy)
Hãy về đây với bến sông
Với tôi ở giữa cánh đồng heo may
(Hãy về đây với bến sông – Đồng Đức Bốn)
Thế nhưng những ngọn gió quê mùa cũng có lúc mang đến cái giá lạnh,
xa xót trong lòng người. Nguyễn Duy cảm nhận sâu sắc cái cơ cực của đời
người với cuộc sống quẩn quanh:
Gió làm cho nón đứt quai
Cho xuồng ba lá xoay hoài dưới mưa
(Mùa nước nổi)
Còn Đồng Đức Bốn thì cảm thấy lạnh giá cả cõi lòng trong “Cái đêm
em ở với chồng”. Có thể nói, cái đêm gió mùa ấy đã trở thành một nỗi ám ảnh
59
khắc gợi nỗi buồn, nỗi đau của thi sĩ:
Cái đêm hôm ấy gió mùa
Tơ nhện giăng đến cổng chùa thì tan
Cùng với gió, mưa cũng là hình ảnh đặc sắc trong thơ Nguyễn Duy và
Đồng Đức Bốn. Những cơn mưa nơi rừng Trường Sơn dễ gợi nhớ, gợi buồn
trong lòng người. Với Nguyễn Duy, giọt mưa đã trở thành “giọt nhớ”, “giọt
mong”, mang theo những tâm tư, tình cảm của người lính nơi phương xa:
Mùa mưa gõ trống mái tăng
Lưới trời bủa trắng vây giăng cõi người
Giọt nhớ cứ nhỏ nhẻ rơi
Giọt mong rả rích nhão lời tha hương
(Mưa)
Còn mưa trong thơ Đồng Đức Bốn mang theo nhiều sắc thái hình hài.
Lúc là cơn mưa rào mùa hạ, gắn với kỉ niệm: “Chia tay một trận mưa rào/
Thấy gì ở phía ngôi sao bây giờ” (Chia tay một trận mưa rào), khi lại là cơn
mưa giông: “Một ngày ở với mưa giông/ Đường đi chẳng có cầu vồng bắc
qua” (Ở với mưa giông), hay cơn mưa mau: “Nhuộm buồn những hạt mưa
mau/ Thành sao nở trắng vườn cau trước nhà” (Cuối cùng vẫn còn dòng
sông). Thế nhưng, cơn mưa giữa nơi phố thị của Đồng Đức Bốn cũng quê đến
kì lạ dưới cái nhìn, cái cảm đầy chân quê của nhà thơ:
Chiều trên phố Huế ra đi
Mưa mùa đông cứ rù rì bên tôi
(Chiều mưa trên phố Huế)
Cơn mưa mùa đông “rù rì” ấy đã để lại những ấn tượng khó phai, khắc
chạm trong tâm khảm của người thi sĩ nặng tình với đồng quê.
Sau cơn mưa là hình ảnh nắng quê trong trẻo, đẹp tươi. Cái nắng trong
thơ Nguyễn Duy thật bình dị, mượt mà lại vô cùng đẹp đẽ:
Nắng se thành sợi dệt mành
60
(Nắng)
Nhưng đôi khi, đó là cái nắng chói chang lẫn với màu đất đỏ vì lửa đạn
chiến tranh. Cái khắc nghiệt, gian khổ của cuộc chiến như càng được nhân lên
trong màu nắng lửa:
Bom đào đất đỏ, đỏ au
Chói chang trưa nắng một màu lửa nung
(Đất đỏ - nước xanh)
Trong thơ Đồng Đức Bốn, cái nắng quê thường được đẩy tới mức tận
cùng của sự nghiệt ngã. Đó là hình ảnh nắng với các sắc thái: nắng gắt, nắng
tái nắng tê, nắng bơ phờ… làm nổi lên tâm trạng đau đáu, quay quắt những
nỗi đau đời của con người quê cơ cực, chìm nổi. Thế nhưng, chính nhà thơ
cũng nhận ra giá trị của chất quê trong cuộc sống hôm nay với những vần thơ
triết lí mà cũng đầy dung dị, mộc mạc:
Nhà cao dẫu đến lưng trời
Nếu không có cỏ cũng vơi sắc hồng
Huống chi cả một cánh đồng
Nếu không mọc nắng thì không có gì
(Tôi từ ngõ nhỏ ra đi)
Như vậy, có thể thấy các hiện tượng tự nhiên trong thơ Nguyễn Duy và
Đồng Đức Bốn đều có những phút giây trong lành, êm ái, hiền dịu mang một
tâm sự buồn man mác. Nhưng cũng có khi là sự dữ dội, là những phút giận dữ
của thiên nhiên trong cảm nhận riêng của từng tác giả. Những hình ảnh thơ
như thế thường gợi ra sự chìm nổi, nghiệt ngã của cuộc sống làng quê trong
những ngày bom đạn thời chiến hay sự chen lấn, xô đẩy, xót xa của đời người
thời hiện đại.
Con sông quê là một hình ảnh quen thuộc và phổ biến trong thơ ca khi
viết về làng quê. Cả Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đều tiếp thu nguồn thi
liệu truyền thống này từ nền văn học dân tộc. Những dòng sông quê hương
61
nơi mà họ đã sống hoặc đã từng đi qua đều để lại những ấn tượng khó phai
mờ. Nguyễn Duy khi đi qua mảnh đất xứ Huế mộng mơ đã bị hút hồn bởi vẻ
đẹp thơ mộng, trữ tình của dòng sông Hương:
Lan báo hỉ nở tình cờ
Bóng ngô đồng rụng xuống bờ Hương giang
(Nhớ bạn)
Con sông Mê-kông trong mùa nước lũ dữ dội và hùng vĩ nơi vùng đất
Nam Bộ cũng được Nguyễn Duy nắm bắt và thể hiện trong thơ mình:
Sông Mê-kông đổ hồng hào
Chạc ba nào biết rốn nào nông sâu
(Hàng Châu)
Mỗi dòng sông quê đều mang một vẻ đẹp riêng, một sắc thái riêng biệt,
nhưng chúng đều được khắc họa bởi tấm lòng yêu quê, yêu cái đẹp làng quê
của nhà thơ. Mỗi con sông quê khi đi vào thơ ca đều góp phần gợi ra cái
không khí, quang cảnh làng quê nhưng cũng chứa đựng cả những tâm sự, băn
khoăn day dứt của nhà thơ đồng quê trước sự chuyển mình của cuộc sống
hiện đại.
Vênh vênh nửa nước nửa trời
Bàn chân kim loại quậy sôi bến tàu
Soi mình úp mặt nông sâu
Long bong ngũ sắc váng dầu hoang mang
(Sông Cấm)
Đồng Đức Bốn viết nhiều về sông quê, cả những con sông mang
danh cụ thể và những con sông không tên. Tất cả đều hiện lên đầy mĩ cảm
và ngập tràn tâm trạng. Đó là dòng sông Thương mang nặng nỗi đau, nỗi
buồn của con người:
Sông Thương như gỗ hóa trầm
Mùi hương để vết tím bầm trên da
Sông Thương từ buổi em xa
Tay anh quờ xuống hóa ra bị chàm
62
(Sông Thương)
Đó có khi là con “sông mưa” với nỗi thất vọng khi mong ngóng
người tình:
Sông mưa tầm tã trong chiều
Tôi ngồi tôi đợi người yêu tôi về
Tôi ngồi đợi chán đợi chê
Người yêu tôi vẫn chưa về sông mưa
(Viết ở bờ sông)
Như vậy có thể thấy, sông quê trong thơ Đồng Đức Bốn luôn được
khắc họa trong cái nhìn đầy tâm trạng của tác giả. Đó đa phần là những dòng
sông chở nặng nỗi buồn, nỗi đau của con người tạo nên một giai điệu buồn
man mác của thơ anh. Thế nhưng, đọc thơ Đồng Đức Bốn, ta vẫn thấy ánh lên
khát vọng mạnh hơn nỗi đau. Nhà thơ đã hơn một lần gửi vào hình ảnh dòng
sông niềm tin, niềm hi vọng và bản lĩnh:
Sang sông không ngại đắm đò
Mặc cho sóng gió giở trò trêu ngươi
(Đời tôi)
Cùng nói về sông quê nhưng Nguyễn Duy thiên hơn về miêu tả cảnh
vật với những tâm sự có phần nhẹ nhàng, kín đáo hơn trong thơ Đồng Đức
Bốn. Dòng sông quê trong những vần thơ Đồng Đức Bốn nghiêng về gợi tả
tâm trạng, trải bày nỗi lòng với những buồn phiền ưu tư trong tâm hồn con
người. Thậm chí có khi, đó là dòng sông của tâm trạng, nỗi niềm, dòng sông
của cmar thức:
Đừng buông giọt mắt xuống sông
Anh về dẫu chẳng đò đông cũng chìm
(Dòng sông của cảm thức)
Một hình ảnh thường lặp đi lặp lại trong thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức
63
Bốn là những hội hè đình đám - một không gian văn hóa dân gian mang đậm
đặc trưng cuộc sống của con người miền quê. Ta thấy trong thơ của các tác
giả, những ngày hội quê thường được khắc họa một cách trực tiếp như những
ghi chép khi nhà thơ đến thăm hội. Chùm bài “Ghi chép chùa Hương” của
Nguyễn Duy đã ghi lại khá đầy đủ những gì diễn ra trong dịp lễ. Cảnh lễ chùa
vẫn tấp nập như xưa nhưng trong thời đại mới, phương tiện đi lễ của con
người cũng khác. Bên cạnh những “nón mê chân đất” là từng “bầy xe cúp lùa
nhau”, nét đẹp văn hóa truyền thống đã có sự đan xen của cuộc sống hiện đại:
Từng đôi anh trước chị sau
Từng bầy xe cúp lùa nhau trên đường
Cũng là đi hội chùa Hương
Nón mê chân đất thập phương gập ghềnh
(Đi chùa)
Còn trong thơ Đồng Đức Bốn, những ngày hội quê hiện lên với nét đẹp
quen thuộc của những ngày hội truyền thống. Đó là những lễ hội chùa Hương,
hội Lim hay hội mùa hiện lên đầy thiêng liêng, mượt mà, êm ái như những
ngày hội làng thuở xưa:
Tôi về đây với hội Lim
Nghe câu xe chỉ luồn kim thuở nào
Ai người đội nón quai thao
Ngực che thêm dải yếm đào làm duyên
Ở đây trên bến dưới thuyền
Hoa thơm bướm lượn để nghiêng mái chèo
Người ơi để lá ngừng reo
Bướm bay lên núi xuống đèo ngẩn ngơ
Người ơi em vẫn đợi chờ
Sông sâu đã nhện nhả tơ bắc cầu
64
(Hội Lim)
Về với hội Lim là về với giai điệu chín nhớ mười thương trong câu hát
cũ, là đôi mắt lúng liếng đa tình trao gửi của người quan họ khi câu giã bạn
buông lơi.
Đặc biệt, Đồng Đức Bốn hết sức thành công với hình ảnh đình làng
cùng tiếng chuông chùa. Đây là hình ảnh rất đỗi thân thương, ăn sâu vào tiềm
thức và đời sống tinh thần của người dân đất Việt. Đình làng là nơi hội họp
hoặc sinh hoạt văn hóa cộng đồng của người dân quê, nơi để con người quê
được giao lưu và thể hiện sự gắn kết cộng đồng. Đình quê, chùa quê trong thơ
Đồng Đức Bốn hiện lên như một không gian của cõi tâm linh thiêng liêng, là
nơi nương tựa để mỗi tâm hồn Việt tìm đến sự thanh thản:
Mải mê ngồi dựa cột đình
Nghe sư gõ mõ tụng kinh chiều chiều
(Về lại chốn xưa)
Tiếng chuông chùa thanh bình, mênh mang và sâu lắng nơi làng quê là
âm thanh, hình ảnh đầy sức ám ảnh và để lại nhiều dư ba trong thơ Đồng Đức
Bốn. Nó giúp cho thơ ông tĩnh hơn, sâu hơn, “thiền” hơn và trong sáng hơn:
Một tay cầm những xót chua
Một tay vịn tiếng chuông chùa để yêu
(Gửi người một chút mộng mơ)
Bởi tin vào tiếng chuông chùa
Đời còn có lúc thiệt thua vẫn cười
(Đưa em qua trận bão người)
Tiếng chuông chùa đã trở thành một điểm tựa của lòng tin, đức tin, tạo
nên nguồn sức mạnh thiêng liêng giúp con người vượt qua mọi giông bão
cuộc đời.
Tóm lại, bức tranh thiên nhiên, cảnh sắc quê hương đất nước trong thơ
Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn hiện lên hết sức phong phú, đa dạng với việc
65
sử dụng những thi liệu truyền thống quen thuộc. Bằng tài năng nghệ thuật và
tình yêu sâu sắc với làng quê, các nhà thơ đã vẽ lên một bức tranh quê mang
những nét đặc trưng, bản sắc của làng quê Việt Nam. Đó là một quê hương
còn nghèo khó, cơ cực mà yên ả, thanh bình, bình dị mà cũng rất đỗi nên thơ.
Tấm lòng yêu quê, cái tình quê lai láng đã giúp tâm hồn thi nhân thăng hoa để
viết nên những vần thơ tuyệt tác về làng cảnh quê hương Việt Nam.
2.2. Bản sắc của con ngƣời
Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đều là những con người của đồng quê.
Họ gắn bó sâu sắc và yêu tha thiết cuộc sống cũng như con người thôn quê.
Chính vì vậy, hình ảnh con người quê trong thơ của các tác giả hiện lên với
những nét bản sắc riêng không lẫn và thật gần gũi, thân thương. Đó là hình
ảnh người bà, người mẹ, người cha cùng những chàng trai, cô gái của xứ
đồng… Những con người bình dị ấy được khắc họa với những đặc điểm và vẻ
đẹp phẩm chất của con người Việt Nam truyền thống từ bao đời nay. Họ là
những con người giản dị, chân chất mà cũng đầy hồn hậu, bao dung với lối
sống nhân ái, nặng nghĩa tình; sống nghèo khổ, lam lũ mà vẫn bản lĩnh, lạc
quan, tin tưởng vào tương lai… Đó chẳng phải là những nét đẹp bản sắc của
con người Việt Nam từ ngàn xưa đó sao.
2.2.1. Về những người thân trong gia đình
Nguồn cảm hứng lớn trong sáng tác của Nguyễn Duy và Đồng Đức
Bốn bắt nguồn từ chính những người thân. Đó là hình ảnh của những người
mẹ, người cha, người vợ… Tất cả đều hiện lên vô cùng chân thật, sinh động
với tình cảm mến yêu vô bờ của nhà thơ.
Nguyễn Duy là người viết nhiều và viết rất hay về mẹ. Để ngợi ca
người mẹ, anh đã trân trọng đặt nhan đề cho một tập thơ của mình là Mẹ và
em. Có thể thấy trong thơ Nguyễn Duy sự tồn tại của hai hình ảnh người mẹ.
Trước hết đó là người mẹ thực đã mang nặng đẻ đau và cũng là người mẹ của
quê hương xứ sở, kết tinh những phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt
66
Nam truyền thống. Nguyễn Duy đã góp phần công lao không nhỏ để tạc nên
tượng đài người mẹ Việt Nam bằng thơ ca trong thời kháng chiến nói riêng và
trong thơ Việt nói chung. Với lời thơ đằm thắm, thiết tha, trân trọng và hàm
ơn một cách trong trẻo, Nguyễn Duy đã khắc họa thành công hình ảnh người
mẹ quê nghèo khó, cơ cực, vất vả mà đảm đang, giàu tình thương con:
Mẹ ta không có yếm đào
Nón mê thay nón quai thao đội đầu
Rối ren tay bí tay bầu
Váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa
(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa)
Lưng trần phơi nắng phơi sương
Có manh áo cộc tre nhường cho con
(Tre Việt Nam )
Giữa làng quê nghèo, bình dị, lam lũ, hình ảnh người mẹ hiện lên cũng
lam lũ, tần tảo mà quá đỗi thân thương. Đó là người mẹ của làng quê, người
mẹ yêu nước thương con, không quản hi sinh vì con vì nước.
Viết về mẹ, Nguyễn Duy luôn gắn với những lời ru như một sự tìm về
cội nguồn, về với tầng sâu văn hóa dân gian. Những lời ru êm ái, ngọt ngào
của mẹ đã thức dậy cả tầng sâu văn hóa, đi theo con suốt những năm tháng
của cuộc đời:
Cái cò… sung chát… đào chua
Câu ca mẹ hát gió đưa về trời
Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru
(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa)
Nguyễn Duy đã tiếp thu nguồn mạch của ca dao truyền thống nhưng
không hề lẫn vào ca dao. Ta vẫn thấy một sắc thái riêng biệt trong giọng điệu
67
thơ Nguyễn Duy, có cái gì vừa êm ái vừa đi vào chiều sâu của sự suy tưởng.
Tiếp nối mạch cảm xúc từ trong ca dao khi viết về mẹ, người mẹ trong
thơ Đồng Đức Bốn hiện lên với vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm, tình tứ mang âm
điệu ca dao:
Mẹ đi gánh nước giếng đình
Bỏ quên cái tình vào chiếc võng gai
Bỏ quên vào những ban mai
Chiếc cầu bắc bởi hai quai yếm đào
(Con ơi)
Đó còn là người mẹ một đời giông bão với biết bao chịu đựng, hi sinh
vì sự no ấm của các con:
Cả đời ra bể vào ngòi
Mẹ như cây lá giữa trời gió rung
Cả đời buộc bụng thắt lưng
Mẹ như tằm nhả bỗng dưng tơ vàng
(Mẹ tôi)
Có thể thấy, gần gũi với người mẹ hết lòng hi sinh cho chồng con
“Miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương” trong thơ Nguyễn Duy, người mẹ
trong thơ Đồng Đức Bốn là những đấng hi sinh hết mình cho chồng con.
Người mẹ ấy luôn nhẫn nhịn, hi sinh, nén lòng vì sự bình an cho mái ấm gia
đình, lam lũ, vất vả mà vẫn thầm lặng quên nỗi đau hướng về các con:
Mẹ đau vẫn giữ tiếng cười
Mẹ vui vẫn để một đời nhớ thương
Bát cơm và nắng chan sương
Đói no con mẹ sẻ nhường cho nhau
(Trở về với mẹ ta thôi)
Trong thơ Đồng Đức Bốn, mẹ cũng là hiện thân của quê hương, đất
nước. Nhà thơ luôn khát khao trở về với mẹ, trở về với chốn yên bình, tĩnh
68
lặng cho tâm hồn. Có thể nói, Trở về với mẹ ta thôi là những dòng nước
mắt khóc mẹ của một đứa con đứng tuổi, đã thấu hiểu lẽ đời và chiêm
nghiệm ra rằng:
Trở về với mẹ ta thôi
Giữa bao la một khoảng trời đắng cay
…
Trở về với mẹ ta thôi
Lỡ mai chết lại mồ côi dưới mồ
Nhà thơ luôn tin rằng tình mẫu tử sẽ còn sống mãi, vượt qua mọi ranh
giới âm dương, vượt qua mọi không gian, thời gian. Đồng Đức Bốn đã dựng
lên bức tượng đài về người mẹ với những nét vẽ khắc chạm của người mẹ
Việt Nam nghèo khó, lam lũ, hay lam hay làm, nhẫn nhịn, hi sinh tất cả vì
con. Và vì vậy, tình mẹ đã trở thành bất tử và “nằm sâu trong trái tim anh”.
Với cảm xúc yêu thương chân thành sâu sắc từ tận đáy lòng những
người con hiếu nghĩa, Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đã viết nên những
vần thơ thật hay, thật xúc động và thấm thía về mẹ. Người mẹ trong thơ
của họ thể hiện được những kế tục và cách tân của hai nhà thơ này đối với
thơ ca truyền thống.
Bên cạnh hình tượng người mẹ, các nhà thơ cũng xây dựng hình ảnh
người cha – trụ cột trong gia đình. Nguyễn Duy thể hiện niềm tự hào, yêu
thương, khâm phục với người cha đã mang cả tuổi xuân dâng hiến cho cuộc
kháng chiến bảo vệ quê hương đất nước:
Ở đây có những người con
nửa đời Việt Bắc nửa đời Trường Sơn
(Người cha)
Thế nhưng, người cha anh dũng trong chiến đấu “Xả hết mình khi nước
gặp tai ương” ấy lại thanh thản trở về sống với ruộng đồng, cây cỏ trong vườn
69
khi được “Về làng”. Người cha lúc này mang nét đẹp bình dị, chất phác với
cuộc sống nghèo khó, lam lũ như bao người nông dân khác từ muôn đời nay.
Có cái gì đó như xót đau, nghẹn đắng biết bao trước hình ảnh:
Cha ta cầm cuốc trên tay
Nhà ta xơ xác hơn ngày ta xưa
Lưng còng bạc nắng thâm mưa
Bụng nhăn lép kẹp như chưa có gì
Cái nghèo, cái đói cứ đeo đẳng người nông dân suốt bao đời. Thế
nhưng, giữa cuộc sống còn nhiều gian nan, vất vả ấy, người cha “vẫn cười
khì”, vẫn lạc quan tin tưởng, vui vẻ với cuộc sống nơi đồng ruộng làng quê:
Không răng… cha vẫn cười khì
Giàu nghèo có số nghĩ chi cho buồn
(Về làng)
Cũng giống như Nguyễn Duy khi viết về người cha nông dân, Đồng
Đức Bốn đã xây dựng hình ảnh người cha cần mẫn, lam lũ, hăng say với công
việc để chăm lo cho gia đình. Người cha ấy hiện lên thật gần gũi, thân thương
với tiếng lanh canh, lạch cạch của đôi bàn tay lao động thoăn thoắt:
Lanh canh, lạch cạch ngoài hiên
Bố tôi đan chiếc trăng lên làm sàng
(Bố tôi)
Người cha cần mẫn với công việc đan vót ấy trở nên thật vĩ đại trong
con mắt của Đồng Đức Bốn:
Lạ chưa chỉ một tay chiêu
Mà đập vỡ mặt trời chiều tháng ba
Và kết thúc bài “Bố tôi” là một âm điệu buồn mênh mang với hình
ảnh “Tôi ra hứng gió vọng hồn bố tôi”. Người cha giờ đây đã không còn
nữa, tất cả giờ chỉ là quá khứ, là kí ức về cha. “Viết về các đấng sinh thành,
Đồng Đức Bốn không chỉ giản đơn dừng lại ở ngợi ca ân đức mà cái sâu
70
sắc chính là sự thấu hiểu đến tận đáy lòng nỗi cực nhọc bần hàn của mẹ
cha, chưa kịp hưởng một ngày thái lai thì đã vội vã giã từ cuộc sống dương
thế” [42, tr. 61-62].
Qua những vần thơ viết về mẹ, về cha, cả Nguyễn Duy và Đồng Đức
Bốn đều bộc lộ những tình cảm yêu thương chân thành, lòng kính trọng và
biết ơn sâu sắc. Các nhà thơ đã xây dựng được hình ảnh của những người mẹ,
người cha mang những nét đẹp truyền thống, mang bản sắc văn hóa của con
người Việt Nam sống mãi cùng thời gian.
Một hình tượng khác cũng rất đặc sắc trong thơ Nguyễn Duy và Đồng
Đức Bốn là hình tượng người vợ và những tình cảm nhân bản, những dòng
thơ nặng nghĩa tình mà các tác giả dành cho vợ.
Nguyễn Duy có hẳn một tập thơ “Vợ ơi” dành viết về vợ. Và người vợ
trong thơ ông là hình ảnh người phụ nữ mang những nét đẹp truyền thống với
cái chân chất, mộc mạc từ ngàn đời. Nguyễn Đức Thọ đã có nhận xét thật sâu
sắc: “Có lẽ sau Tú Xương, tôi chưa thấy ai ca ngợi vợ tài như Nguyễn Duy.
Thông thường thì làm thơ về tình yêu, về những người tình… nhà thơ nào
cũng làm được cả. Từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, có vô khối bài thơ tình
tuyệt hay, còn về vợ thì từ xưa đến nay thì chỉ thấy văn tế và câu đối là có
người làm hay, chứ rất ít người có thơ hay về vợ” [41]. Bằng tấm lòng yêu
thương sâu sắc dành cho người vợ thân yêu của mình, Nguyễn Duy đã xây
dựng thành công hình ảnh một người vợ với những phẩm chất truyền thống
đáng quý của người phụ nữ Việt Nam hay lam hay làm, tần tảo, chịu thương
chịu khó với “nghìn việc không tên” mà làm nên “cõi bình yên nhẹ nhàng”
cho cả gia đình:
Thông thường thượng đế dong chơi
Trần gian choang choác sự đời là em
Nghìn tay nghìn việc không tên
Mình em làm cõi bình yên nhẹ nhàng
71
(Vợ ốm)
Nhà thơ cảm nhận sâu sắc những vất vả, hi sinh lớn lao của người vợ
quê mùa. Vì chồng vì con, người vợ ấy phải “quanh năm tất bật”, phải “loay
hoay” với nỗi lo cơm áo gạo tiền. Cuộc sống vất vả với bao nỗi lo toan đã dần
lấy đi nhan sắc và tuổi xuân của người vợ theo tháng năm. Nhà thơ xót xa biết
bao trước mái tóc “bạc bạc dần” của người vợ yêu dấu:
Gót chân ăn vẹt bậc thềm
Quanh năm tất bật đi tìm ngày xuân
Tóc loay hoay bạc bạc dần…
(Mời vợ uống rượu)
Và để bày tỏ lòng tri ân với vợ, Nguyễn Duy đã trân trọng “mời vợ
uống” rượu”:
Mỗi năm tết có một lần
Mời em li rượu tay nâng ngang mày
Dường như tết đến là dịp để nhà thơ bày tỏ lòng biết ơn vô vàn với vợ
mình. Chén rượu xuân mà Nguyễn Duy dành tặng cho vợ chứa đựng trong đó
biết bao tình yêu thương và sự tri ân với người vợ giàu đức hi sinh.
Không viết nhiều về vợ như Nguyễn Duy nhưng ta vẫn nhận ra thấp
thoáng trong thơ Đồng Đức Bốn bóng hình người phụ nữ dịu dàng, đảm đang
truyền thống. Nhà thơ đã nhận ra vẻ đẹp của một người vợ đồng thời cũng là
một người mẹ qua lời kể đầy tự hào của người cha về kỉ niệm thơ mộng của
mẹ cha thuở trước:
Mẹ đi gánh nước giếng đình
Bỏ quên cái tình vào chiếc võng gai
Bỏ quên vào những ban mai
Chiếc cầu bắc bởi hai quai yếm đào
(Con ơi)
Trên phông nền văn hóa miền Bắc, hình ảnh người mẹ lúc ấy khi tuổi
72
mới đôi mươi hiện lên thật trong trẻo và duyên dáng.
Khác với Nguyễn Duy và nhiều nhà thơ khác, người vợ quê trong thơ
Đồng Đức Bốn ít khi hiện lên với dáng vẻ cơ cực, vất vả mà thường mang vẻ
đẹp quyến rũ lòng người. Vẻ đẹp ấy toát ra từ hình thể, là sự kết tinh từ thiên
chức của người làm mẹ. Nhà thơ đã có những vần thơ rất hay ngợi ca cái mặn
mà, đằm thắm, hấp dẫn của những người vợ, người mẹ một con:
Đúng là gái có một con
Để tôi ngơ ngẩn trông mòn mắt ra
Chẳng thể nào dám đi xa
Gái một con cứ nhởn nha trong đầu
(Gái một con trông mòn con mắt)
Vẻ đẹp của người phụ nữ trong cái thiên chức làm vợ, làm mẹ đã được
dân gian đúc kết trong nhiều câu ca dao, thành ngữ. Nói như vậy có thể thấy,
Đồng Đức Bốn đã tiếp nối cái mạch truyền thống trong cách cảm cách nghĩ
về vẻ đẹp con người. Nhưng đồng thời ta cũng thấy trong thơ anh cái mới mẻ,
mạnh bạo của một nhà thơ quê sống giữa thời hiện đại.
Tóm lại, bằng tình cảm yêu thương chân thành xuất phát từ tận đáy
lòng, cả Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đều có những vần thơ hay làm nên
tên tuổi của mình khi viết về những người thân trong gia đình. Các nhà thơ đã
xây dựng trong thơ mình hình ảnh những người mẹ, người cha, người vợ
mang những nét đẹp truyền thống của con người Việt Nam với tình yêu vô
vàn, lòng trân trọng và biết ơn sâu sắc.
2.2.2. Về những chàng trai nơi thôn dã
Nói đến những con người của quê hương không thể bỏ quên hình ảnh
của những anh trai làng ngộc nghệch đáng mến nơi thôn dã. Đó đều là những
con người thực được Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn khắc họa trong thơ.
Sống nhiều trong chiến tranh, Nguyễn Duy có điều kiện gần gũi hơn
với những anh trai quê ngoài mặt trận. Người lính trong thơ Nguyễn Duy hiện
73
lên thật chân thực, bình dị ngay từ xuất thân của mình. Họ đều là những người
con của làng quê ra đi chiến đấu, bỏ lại sau lưng là giếng nước, gốc đa cùng
những người thân yêu và cả tuổi thanh xuân của mình. Từ những người con
trai thật thà, chất phác của ruộng đồng, họ trở thành những anh hùng nồng nàn
lí tưởng chiến đấu bảo vệ quê hương:
Ở đây có những người con
Mang theo cái nõn nòn non lên rừng
(Người con trai)
Và trong những tháng ngày chiến đấu, người lính ngời sáng vẻ đẹp tâm
hồn với nỗi nhớ quê hương, gia đình và người yêu. Nhớ về quê hương là họ
nhớ về chốn làng quê nghèo khó với “cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng”
(Đò Lèn), là nhớ về thời trẻ với những vất vả gieo neo:
Tuổi trẻ anh áo nâu, chân đất
bữa cháo, bữa khoai, đi cày và đi học
bụng cồn cào con chữ chạy liêu xiêu
(Gửi về Lam Sơn)
Nhớ về quê hương là người lính nhớ về những kỉ niệm tuổi thơ êm đềm
nơi quê nghèo còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Thế nhưng, đó cũng là nơi in
bóng biết bao người thân thuộc để người lính nhớ mãi không quên trong suốt
chặng đường hành quân:
Nơi ấy
nhá nhem giữa quên và nhớ
đỉnh núi hiện lên bóng bà và mẹ
mây chiều hôm gánh gạo đưa ta
tất tưởi đường xa cầu vồng sáng đỏ
(Xó bếp)
Từ nỗi nhớ da diết về quê hương, gia đình ta thấy được tình yêu quê
sâu sắc của người lính. Bên cạnh đó, người lính còn ngời sáng với vẻ đẹp của
74
tình đồng chí, đồng đội. Trong hoàn cảnh của cuộc chiến đấu gian khổ, những
người lính xích lại gần nhau hơn, sát cánh bên nhau trong chiến đấu, sinh
hoạt. Tình đồng đội được xây dựng trên cơ sở của những người cùng lập
trường, tư tưởng, cùng chí hướng, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì độc lập tự do
của Tổ quốc. Người lính trong thơ Nguyễn Duy có sự quan tâm, chia sẻ hết
sức đặc biệt. Họ luôn có sự cảm thông, yêu thương nhau bằng tình cảm gia
đình ruột thịt. Người chiến sĩ đi vào chiến trường, gắn bó cuộc đời mình với
đồng chí, đồng đội như “anh”, “em”. Họ có thể hiểu được nhau trong từng
hành động, suy nghĩ để rồi sau những chặng đường hành quân mệt mỏi họ lại
ru nhau trong từng giấc ngủ:
“Ngủ đi bạn, ngủ đi anh”
“Ngủ đi bạn, ngủ đi em”
(Lời ru đồng đội)
Cuộc sống trong chiến tranh là vô cùng gian khổ. Thế nhưng, trước cái
ác liệt của cuộc chiến, người lính vẫn thể hiện một lối sống tình nghĩa, chia sẻ
cùng nhau những tâm tình:
Có người con gái tôi yêu
Tiếc chưa kịp nói cái điều ấy thôi
Biết là em cũng yêu tôi
Cũng chưa kịp nói cái điều ấy ra
Đó còn là những người lính tràn đầy tinh thần lạc quan giữa khó khăn
gian khổ. Đi vào nơi lửa đạn, đối mặt với cái chết nhưng người lính không hề
sợ hãi mà vẫn luôn thể hiện niềm tin tưởng vào ngày mai chiến thắng. Giữa
bom đạn khốc liệt, người lính vẫn tìm được cho mình những phút giây bình
yên, thư thái cho tâm hồn. Và nguồn động viên lớn nhất với người lính có lẽ
là những lá thư chứa đựng muôn vàn tình cảm của người thân nơi hậu
phương. Sau trận chiến, người lính lại đem những lá thư ra đọc. Những phút
75
giây ấy, người lính không còn bận tâm về trận đánh ác liệt vừa xảy ra hay trận
đận đánh sắp tới nữa. Lúc này, họ được trở về với con người thật, với những
phút bình yên thật quý báu:
Khoái nào bằng phút ngả lưng
mở trang thư dưới bóng rừng đu đưa
(Bầu trời vuông)
Chiến tranh mang lại bao nỗi đau, nỗi xót xa cho con người. Nó đã
lấy đi tuổi xuân và xương máu của biết bao chàng trai. Thế nhưng, cũng
đáng tự hào và vinh dự biết bao trước những người con anh hùng bất khuất
ấy của quê hương.
Tuổi hai mươi trắng răng cười
Trắng con đường Chín bạn tôi không về
(Giấc mộng trắng)
Tóm lại, có thể thấy hình ảnh người lính là một hình ảnh hết sức đặc
sắc trong sáng tác của Nguyễn Duy. Nhà thơ đã xây dựng thành công bức
chân dung về người lính mang những vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất cao quý
của người lính Việt Nam truyền thống. Đó là những con người bình dị, chất
phác với tình yêu quê hương, gia đình, với tình đồng chí, đồng đội sâu sắc và
niềm lạc quan tin tưởng vào tương lai.
Nguyễn Duy khắc họa hình ảnh người lính bằng cảm quan của người
trong cuộc, còn với Đồng Đức Bốn, hình ảnh ấy lại thường hiện lên qua nỗi
nhớ, kí ức của người thời bình. Khi được trực tiếp thăm nghĩa trang Trường
Sơn, Đồng Đức Bốn như thấy mình được sống tiếp nối những nguồn sống cha
anh của một thời oanh liệt hào hùng:
Bám tay vào tấm bia hoa
Bỗng nghe máu chảy sang ta dập dồn
Thơm trong cỏ mộ hoàng hôn
Tiếng chân anh vượt Trường Sơn chẳng già
76
(Ở nghĩa trang Trường Sơn)
Thế mạnh của Đồng Đức Bốn là những vần thơ viết về cuộc sống đời
thường với việc khắc họa hình ảnh những anh trai làng trong cuộc sống hôm
nay – một cuộc sống hiện đại nhập nhòe mà văn minh đô thị đang tràn lấn về
thôn quê:
Nhà quê có mấy trai tơ
Quần bò mũ cối giả vờ sang chơi
(Nhà quê)
Cũng có khi, với những vần thơ thật thà, trần trụi, Đồng Đức Bốn vẽ
lên một cảnh quê kệch, ngộ nghĩnh lạ đời với hình ảnh những lão thợ cày đã
không còn đủ ruộng đất để quanh năm cày cấy mà quay ra rượu chè rồi trút sự
quẫn bách lên đầu nhau:
Ngả nghiêng mấy lão thợ cày
Rượu say vác cả cối chày nện nhau
(Chờ đợi tháng ba)
Đến với thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, ta thấy các tác giả đều tập
trung ngòi bút tìm về vẻ đẹp của những người trai làng từ ngàn xưa để có cái
nhìn đúng đắn hơn về sự ảnh hưởng của văn hóa dân tộc tới cuộc sống thời
đại. Những anh trai làng quê kệch, ngộc nghệch mà đáng mến là những hình
ảnh đẹp, kết tinh từ những tình cảm cao đẹp trong tâm hồn nhà thơ.
2.2.3. Về những cô gái quê, cô thôn nữ
Hình ảnh những cô gái quê, cô thôn nữ trong thơ Nguyễn Duy và Đồng
Đức Bốn là những hình ảnh đẹp. Đó là những con người chân lấm tay bùn,
mang nét đẹp truyền thống của người con gái Việt Nam nơi đồng quê. Đó còn
là những người tình mang tâm sự sâu lắng tha thiết của thi nhân.
Nguyễn Duy đi nhiều và ở bất cứ miền đất nào, nhà thơ cũng đều
nhìn ra được bóng dáng thân thương của những cô thôn nữ. Ông phát hiện
và ngợi ca vẻ đẹp của những cô thiếu nữ khắp mọi miền quê: từ những cô
77
gái xứ đồng miền Bắc tới những cô gái miền Trung hay vùng đồng bằng
sông Cửu Long, từ cô gái xứ Thanh tới cô nữ sinh trường Đồng Khánh…
Nguyễn Duy đã phát hiện ra ở họ vẻ đẹp duyên dáng e ấp của người con
gái Việt Nam truyền thống.
“Em” trong thơ Nguyễn Duy mang vẻ đẹp thanh xuân, tươi trẻ, là hình
ảnh gợi nhớ về một thời tuổi trẻ và quê hương yêu dấu:
Em thanh xuân như ngày xưa của anh
dưới sân trường có một viên sỏi xanh rất nhỏ
anh cất giấu tuổi trẻ mình ở đó
(Gửi về Lam Sơn)
Nhà thơ như cảm thấy cuộc đời thêm đẹp tươi và tràn đầy sức sống kể
từ khi có “em”. “Em” đã đến và làm cho cuộc sống này thêm ý nghĩa hơn.
Thế mới biết tình yêu quả có sức mạnh vô biên và to lớn biết nhường nào:
Bộn bề công việc bấy lâu
hẹn nhau dành dụm cho nhau một chiều
đường nào cũng lắm thương yêu
lối nào cũng đẹp rất nhiều lứa đôi
(Mưa trong nắng)
“Em” trong thơ Nguyễn Duy có khi lại là một người con gái “chợt qua
đường” nhưng cũng đủ để nhà thơ nắm bắt và thể hiện được vẻ đẹp thanh tân,
trong trẻo của “em”:
Người con gái chợt qua đường
Áo em mong mỏng màn sương núi đồi
Chợt rơi lại một nụ cười
Và… sương rười rượi một trời phía sau
(Bất chợt)
Hình ảnh bóng hồng thoáng qua trong phút giây bất chợt đã để lại niềm
xốn xang khó tả trong lòng thi nhân. Để rồi nhà thơ lại ao ước được gặp lại vẻ
78
đẹp ấy vào mỗi buổi sớm mai:
Sáng nay ra ngõ gặp may
Ước chi mai lại người này đi qua
(Bất chợt)
Nguyễn Duy đã thay đổi hẳn quan niệm của người xưa trong cái sự “ra
ngõ gặp gái”. Cái mà người đời kiêng kị thì nhà thơ lại ước ao, mong mỏi. Ta
cũng thấy thơ Nguyễn Duy có nhiều cái mới, cái lạ so với các nhà thơ đồng
quê trước kia. Cũng viết về hình ảnh những cô gái quê mùa, nhưng thơ
Nguyễn Bính thiên hơn về tính dân gian, truyền thống. Còn ở thơ Nguyễn
Duy ta thấy cái mới mẻ, tân thời hơn trong hình ảnh những cô gái quê. Cô em
đi lễ chùa mà Nguyễn Duy gặp được nơi chùa Hương không phải là đi để dạo
chơi, thưởng ngoạn phong cảnh mà là để “cầu cạnh” mong cho công việc làm
ăn, mua bán được thuận lợi. Rõ ràng, văn hóa thành thị đã dần len lỏi vào nếp
cảm nếp nghĩ của những cô gái quê.
Dưới trần bến Đục bến Trong
Trên trời Hương Tích, Hinh Bồng trắng mây
Cô em cầu cạnh gì đây
Cầu cho giá gạo hàng ngày đừng lên
(Nguyện cầu)
Cũng giống như Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn phát hiện và ngợi ca vẻ
đẹp hình thức và vẻ đẹp tâm hồn của những cô thôn nữ. Những cô gái yếm
thắm quai thao của vùng quê Kinh Bắc trong cuộc sống hôm nay mà vẫn
mang dáng vẻ truyền thống duyên dáng, người con gái đồng trinh gắn liền với
hình ảnh cây trúc mảnh mai bên giếng đình… Đặc biệt, Đồng Đức Bốn tỏ ra
yêu thích và ấn tượng hơn cả với những mái tóc mượt mà, đen óng và man
mác hương quê nơi những cô thôn nữ. Mái tóc theo quan niệm của người xưa
đã trở thành biểu tượng của vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam truyền thống.
79
Chính vì vậy, với Đồng Đức Bốn, dáng đi uyển chuyển mềm mại cùng mùi
hương thơm ngát toát ra từ mái tóc người thiếu nữ có một sức mạnh phi
thường làm bừng lên sức sống của thiên nhiên một vùng:
Dáng em thánh thót qua làng
Tóc thơm làm cỏ vội vàng lên nhanh
(Khi em ở Thái Nguyên về)
Hình ảnh “em” – người tình trong thơ Đồng Đức Bốn là một thiếu nữ
có vẻ đẹp đắm say của chốn đồng quê:
Em ngồi chải nắng vào trưa
Trong hương bồ kết thơm vừa vừa thơm
(Mưa gió về đâu)
“Em” ở đây không rực rỡ, kiêu sa mà chỉ giản dị với tóc xõa ngang vai
và hương bồ kết dịu dàng, quyến rũ. Đặc biệt, trong tâm thức của Đồng Đức
Bốn, “em” còn là câu lục bát mượt mà, đằm thắm:
Em là lục bát của tôi
Tôi là hạt bụi xa xôi của người
(Em là lục bát của tôi)
Đồng Đức Bốn suốt một đời tôn thờ thơ ca và cũng hết sức trân trọng,
nâng niu “em” – nàng thơ của mình như điều linh thiêng nhất. Bởi một điều
đơn giản, “em” với Đồng Đức Bốn là niềm tin và sức sống bất diệt:
Dẫu em là mái tranh nghèo
Cũng không toan tính bọt bèo như ai
…
Em tươi tốt tựa cơn giông
Lẽ nào tôi lại sang sông đắm đò
(Em là lục bát của tôi)
Có thể thấy, biểu tượng “em” trong thơ Đồng Đức Bốn mang vẻ đẹp
80
trọn vẹn cả hình thức lẫn tâm hồn, tuy nhiên “em” lại thường là ngôi sao xa
xôi chỉ để tôn thờ, ngưỡng mộ nên bao giờ thi sĩ cũng là kẻ nhớ nhung và
khao khát tình. “Sông Thương ngày không em” thật quạnh quẽ và trống vắng:
Sông Thương từ buổi em xa
Tay anh quờ xuống hóa ra bị chàm…
Nỗi nhớ nhung, khao khát được dồn nén, tích tụ, và tất cả như vỡ òa
trong hạnh phúc “Khi em ở Thái Nguyên về”:
Khi em ở Thái Nguyên về
Cây đang say bão lại mê nắng vàng
Tình yêu trong thơ Đồng Đức Bốn hạnh phúc ít mà âu lo thì nhiều.
Về phương diện này, Đồng Đức Bốn có nét gần gũi với Nguyễn Bính trong
tâm trạng dở dang có nhiều bi kịch. Trong nhiều thi phẩm, Đồng Đức Bốn
không hề giấu giếm tình cảnh trớ trêu của mình - một người thứ ba thật lẻ
loi và cay đắng:
Em mang câu hát theo chồng
Thuyền tôi đậu nắng trên sông gãy sào
(Câu hát theo chồng)
Không gì đau khổ bằng yêu người mà phải xa người. Sau bao bi kịch
đắng cay trong tình yêu, Đồng Đức Bốn đã chiêm nghiệm ra rằng:
Tình yêu là thứ trời đày
Càng đi đến cõi càng ngây ngất buồn
(Chiếc gió ngụ ngôn)
Thế nhưng, đau khổ vậy mà người ta vẫn muốn yêu. Đặc biệt, với một
người như Đồng Đức Bốn thì cái ngang tàng, quyết liệt trong tình yêu càng
đẩy khát khao yêu và được yêu dâng lên cháy bỏng. Chính vì vậy, có những
lúc thi sĩ thật thẳng thắn và liều lĩnh với câu hỏi táo bạo: “Em bỏ chồng về ở
với tôi không”. Sự táo tợn này của Đồng Đức Bốn xuất phát từ trong bản chất
81
thật thà, ít nhiều có phần cục mịch của anh chàng nhà quê chân đất:
Xui mãi gái chẳng bỏ chồng
Đành về ăn vạ cánh đồng heo may
(Nhớ nàng)
Rõ ràng, trong tình yêu Đồng Đức Bốn là một người ấm áp quê mùa mà
ngang tàng, liều lĩnh. Đó là hệ quả tất yếu của cuộc gặp gỡ giữa những giá trị
đồng quê với đời sống hiện đại mới mẻ và cá tính riêng của một con người.
Tóm lại, Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đã xây dựng khá thành công
hình ảnh những cô gái quê, cô thôn nữ. Đó là những con người sống giữa
cuộc sống hiện đại nhưng vẫn giữ được những vẻ đẹp dịu dàng của người con
gái Việt Nam truyền thống. Viết về họ, các tác giả cũng thể hiện những tình
cảm nâng niu, trân trọng và một tình yêu rất “chân quê”.
Có thể nói Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn là những đại diện tiêu biểu
của thơ Việt Nam hiện đại đã tiếp nhận sáng tạo, thành công thơ ca truyền
thống để lại được bản sắc dân tộc đậm đà trong thơ của riêng mình. Đọc
những vần thơ viết về quê hương đất nước và những con người Việt Nam của
Nguyễn Duy, ta thường liên tưởng đến những cảm xúc êm ái, mượt mà, có da
diết, băn khoăn thì cũng rất nhẹ nhàng. Còn thơ Đồng Đức Bốn lại mang đến
những cảm giác bất ổn, day dứt, khắc khoải sâu đậm về cuộc sống hiện tại.
Thế nhưng điểm chung trong sáng tác của hai tác giả này là đã làm sống dậy
những giá trị quý báu của thơ ca dân tộc – những giá trị khởi phát từ chính
cuộc sống đời thường mộc mạc, giản dị. Là những đứa con của làng quê,
Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đã gửi gắm vào những vần thơ đậm đà tính
82
dân tộc tình yêu quê và tình yêu con người sâu sắc.
Chƣơng 3: BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG THƠ NGUYỄN DUY,
ĐỒNG ĐỨC BỐN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN
Tính dân tộc đậm đà trong sáng tác của Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn
không chỉ được thể hiện qua nội dung cảm hứng mà còn được biểu hiện ở
hình thức nghệ thuật với nhiều bình diện khác nhau như thể thơ, hệ thống
hình ảnh, biểu tượng, ngôn ngữ, giọng điệu, không gian và thời gian nghệ
thuật… Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một luận văn, người viết chỉ có điều
kiện tìm hiểu nét bản sắc dân tộc trong sáng tác của hai nhà thơ trên một số
phương diện nghệ thuật tiêu biểu hơn cả: vận dụng sáng tạo thể thơ lục bát
truyền thống, khai thác và vận dụng hình ảnh của thơ truyền thống, vận dụng
ngôn ngữ, giọng điệu thơ truyền thống.
3.1. Vận dụng sáng tạo thể thơ lục bát truyền thống
Đi ra từ cái nôi văn hóa dân gian, Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đã
vận dụng một cách sáng tạo các thể thơ dân tộc để tạo nên tính dân tộc đậm
đà trong các thi phẩm. Nguyễn Duy sáng tác với nhiều thể thơ: Thể thơ năm
chữ, thể thơ bảy chữ, tám chữ nhưng nói đến ông, phần nhiều độc giả biết đến
bộ phận thơ lục bát. Còn với Đồng Đức Bốn, lục bát dường như đã tạo nên
một “thương hiệu” cho riêng ông. Trong khuôn khổ của luận văn, người viết
chỉ tập trung đi vào tìm hiểu việc vận dụng thể thơ lục bát để thấy được sự
tiếp thu truyền thống trong sáng tác của hai nhà thơ.
Lục bát là một thể thơ tồn tại ít nhất hai dòng câu: một dòng sáu chữ,
một dòng tám chữ, vần với nhau ở tiếng thứ sáu của câu sáu và tiếng thứ sáu
(hoặc thứ tư) của câu tám. Có thể nói đây là thể thơ đắc dụng nhất cho việc
thể hiện những cảm xúc mượt mà, đằm thắm, những rung cảm tinh tế và sâu
lắng của con người.
Hầu hết các nhà nghiên cứu khi tìm hiểu về thể thơ lục bát của Nguyễn
83
Duy và Đồng Đức Bốn để đi đến kết luận, lục bát của hai nhà thơ này đều
cắm rễ sâu vào ca dao truyền thống của dân tộc. Tuy nhiên, bên cạnh những
kế thừa, lục bát của hai ông vẫn có nhiều mới lạ. Xét ngay trên bình diện khổ
thơ, bài thơ, những đặc điểm này biểu hiện khá nổi bật.
Chúng ta biết rằng, cấu trúc của một bài ca dao cổ truyền thường rất
ngắn, phần lớn là những bài ca dao ngắn chỉ gồm một cặp câu lục bát. Khảo
sát thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn, có thể thấy nhiều khổ thơ trong các
bài lục bát chỉ gồm hai câu thơ, tức là một cặp sáu - tám. Mỗi cặp thơ như vậy
lại có nội dung tương đối độc lập, giống như những bài ca dao. Vì thế, mỗi
khổ thơ lục bát của Nguyễn Duy và Đồng Đức Bồn từ nội dung, âm điệu đều
rất gần ca dao. Chẳng hạn, trong thơ lục bát Nguyễn Duy:
Mai rồi lại hát à ơi
Con cò lặn lội bên bờ đại dương
(Lời ru con cò biển)
Hay trong thơ lục bát Đồng Đức Bốn:
Không em ra ngõ kéo diều
Nào ngờ được mảnh trăng chiều trong mây
(Sông Thương ngày không em)
Điều đặc biệt, mỗi khổ thơ đều có khả năng đứng độc lập mà vẫn có thể
coi là một chỉnh thể thơ đặc sắc. Số bài thơ lục bát có các khổ thơ như thế
trong thơ hai tác giả Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn là tương đối nhiều nếu
không muốn nói là phổ biến. Trong tập Sáu và tám của Nguyễn Duy, nếu
không kể 18 bài thơ chỉ có hai câu thì có tới 42/83 bài thơ lục bát có các khổ
thơ chỉ gồm một cặp lục bát. Phần lớn các bài thơ lục bát của Nguyễn Duy và
Đồng Đức Bốn đều có các khổ thơ hai câu. Và những bài lục bát như vậy có
thể coi là sự cách tân của lục bát hiện đại. Những cách tân trở về gần gũi hơn
với thơ ca truyền thống.
Ở phạm vi bài thơ, những bài lục bát của Nguyễn Duy và Đồng Đức
84
Bốn thường ở quy mô nhỏ, có khi là cực nhỏ. Đó là những bài: Gặp ma,
Thiền sư, Gói... của Nguyễn Duy; Khóc một dòng dòng sông, Lời ru cho cỏ
buồn... của Đồng Đức Bốn. Thậm chí, Đồng Đức Bốn còn cố gắng rút ngắn
dung lượng bài thơ đến mức tối đa. Cả phần tiêu đề bài thơ “Chiều nay hồ
Tây có giông” lẫn phần nội dung bài thơ “Tôi ngồi trên sóng mà không thấy
chìm” mới hợp thành một cặp sáu – tám. Tức là trừ phần tiêu đề đi, bài thơ
chỉ còn lại vỏn vẹn một dòng duy nhất. Sự mới mẻ này chưa hề có trong lục
bát truyền thống.
Trong thơ lục bát, Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn còn có lối bắt vần
nối tiếp từ câu thơ tiêu đề. Câu thơ đầu tiên của bài thơ vì thế cũng là tiêu
đề của bài thơ. Những đổi mới này trong thơ lục bát Nguyễn Duy và Đồng
Đức Bốn quả là đặc sắc, mới lạ. Đó là “Đám mây dừng lại trên trời” của
Nguyễn Duy:
Đám mây dừng lại trên trời
...Để cho dưới đất đám người chạy mưa
Để cho có lúc nương nhờ
Mái hiên ai cứ như thừa vậy thôi
Còn với Đồng Đức Bốn, có không ít những bài thơ như thế:
Thăm mộ Nguyễn Du
Bỗng dưng tôi gặp mùa thu trở về...
Hay:
Cuối cùng vẫn còn dòng sông
Khi xa thì nhớ đứng trông lại buồn...
Về cách ngắt nhịp, có thể thấy thơ lục bát Nguyễn Duy và Đồng Đức
Bốn đều tuân thủ theo lối ngắt nhịp của lục bát truyền thống. Đa số các câu
thơ lục bát đều ngắt nhịp theo lối xưa, lối cũ, góp phần tạo nên âm hưởng ca
dao dễ đi vào nếp cảm, nếp nghĩ của người đọc.
Về gieo vần trong thơ lục bát, Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đã triệt
85
để tận dụng những thành tựu của lục bát truyền thống: gieo vần bằng tại tiếng
thứ sáu của câu lục, tiếng thứ sáu và tiếng thứ tám của câu bát. Ta không hề
thấy câu lục bát nào gieo vần trắc, qua đó đủ giúp ta thấy được sự trung thành
với lục bát truyền thống của các nhà thơ. Tuân theo những nguyên tắc gieo
vần của lục bát xưa, cả Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đều góp phần khẳng
định giá trị bền vững của thể thơ dân tộc này.
Về cách phối thanh thơ lục bát của Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đã
theo rất sát với cách phối thanh của lục bát truyền thống. Tuy nhiên để tạo nên
sự mới lạ cho thơ và thể hiện cá tính riêng, các nhà thơ đã cố gắng tận dụng
các thanh ở tiếng tự do. Nếu Nguyễn Duy thiên về tận dụng thanh trắc thì
Đồng Đức Bốn lại nghiêng về tận dụng các thanh bằng.
Phần nhiều thơ lục bát Nguyễn Duy có số thanh trắc ngang bằng hoặc
nhiều hơn thanh bằng. Điều đó đã góp phần tạo nên chất “tình tang”, chất bụi,
chất ghẹo mang đặc trưng riêng trong thơ ông:
Thướt tha áo trắng nói cười
Để ta thương nhớ một thời áo nâu
(Áo trắng má hồng)
Đồng Đức Bốn cũng có cách phối thanh mang đậm dấu ấn cá nhân với
cách phối thanh tự nhiên, theo đúng những cung bậc cảm xúc vốn có của
người sáng tác. Nhà thơ cũng có những cặp lục bát sử dụng nhiều thanh trắc
nhưng có lẽ giọng điệu trầm buồn, chua xót trong thơ Đồng Đức Bốn lại hợp
hơn cả với sự lấn át của những thanh bằng:
Bài thơ anh viết cho mình
Mà cây trúc mọc sân đình tương tư
(Gai rào ngõ quê)
Em từ buổi ấy xa tôi
Cây bên đường chẳng đâm chồi nở hoa
86
(Em xa)
3.2. Khai thác và vận dụng hình ảnh của thơ truyền thống
Hình ảnh đóng một vai trò vô cùng quan trọng nhằm tạo nên sức hấp
dẫn cho mỗi tác phẩm thơ. Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng nói: “Thơ phải có
hình ảnh. Có người đã nói: triết học nghĩ bằng ý, tiểu thuyết nghĩ bằng nhân
vật, thơ nghĩ bằng hình ảnh”. Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức thì quan niệm:
“Hình ảnh trong thơ là một yếu tố được sử dụng để thực hiện nhiều chức năng
khác nhau. Hình ảnh có khi là những nhân tố trực tiếp của nội dung, là những
bức tranh nhỏ của cuộc sống (…) nhưng cũng có khi hình ảnh trong thơ được
vận dụng như một nhân tố tương ứng với nội dung nào đấy thông qua một so
sánh, ẩn dụ”. Nói như vậy, hình ảnh là một yếu tố không thể thiếu của thơ ca
và “nhà thơ có thể quan tâm đặc biệt đến việc xây dựng, miêu tả hình ảnh
trong thơ và xem đó như một yếu tố thứ nhất của thơ”. Chính vì vậy, việc giải
mã các hình ảnh văn học sẽ giúp người đọc cảm thụ sâu sắc hơn về tác phẩm.
Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn là những nhà thơ rất chú trọng đến việc
xây dựng hình ảnh trong thơ. Xuất thân từ chốn đồng ruộng, gắn bó sâu nặng
với nhành cây, ngọn cỏ quê hương, vì vậy hình ảnh quê hương và những tình
cảm thắm thiết với làng quê luôn đằm sâu trong những vần thơ thắm đượm
tình quê của cả hai nhà thơ. Khảo sát thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, chúng
ta phải ghi nhận những nỗ lực sáng tạo không ngừng của các nhà thơ trên cái
phông nền văn hóa dân gian. Bên cạnh đó, các nhà thơ còn tiếp thu từ vốn văn
học dân gian bằng cách mượn lại những hình ảnh ca dao, dân ca như một chất
liệu đặc biệt để tạo nên tính dân tộc đậm đà trong các sáng tác của mình.
Trong thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn xuất hiện hàng loạt những hình ảnh
được khai thác từ văn học truyền thống đã trở nên rất đỗi quen thuộc, thân
thương với mỗi người dân Việt Nam. Ấy là hình ảnh gốc đa, bến nước, con
đò, là mái đình cổ kính, ánh trăng vàng… Những hình ảnh này xuất hiện với
87
tần xuất rất lớn như một mô típ trong thơ các anh, đặc biệt là thơ lục bát.
Trong khuôn khổ của luận văn, người viết xin đi vào tìm hiểu việc khai thác
và vận dụng sáng tạo những hình ảnh tiêu biểu của thơ ca truyền thống để tạo
nên bản sắc dân tộc đậm đà trong thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn: hình
ảnh dòng sông, bến nước, con đò; hình ảnh trăng; hình ảnh vườn quê; hình
ảnh con cò.
Dòng sông - bến nước - con đò là những hình ảnh quen thuộc của thơ
ca dân gian từ lâu đã trở thành những biểu tượng mang sức sống mãnh liệt
trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam thì nay lại xuất hiện đậm
đặc trong thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn. Cùng một phông văn hóa dân
gian, nhưng nếu sông trong thơ Nguyễn Bính thường gắn với những trôi nổi
đường đời, với những lỡ dở ngang trái trong tình yêu thì trong thơ Nguyễn
Duy đó vừa là dòng sông thực của làng quê xứ Thanh “Giòng sông Mạ”, đồng
thời cũng là dòng sông của tiềm thức, của nhiều cung bậc tâm trạng. Dòng
sông ấy đã gắn bó với biết bao biến thái của cuộc đời, gắn với bao nỗi niềm
trăn trở của nhà thơ. Hình ảnh giọt nước, nguồn sông, biển lớn… trong thơ
truyền thống trở về thật sáng tạo trong hình ảnh dòng sông cội nguồn, nơi
nuôi dưỡng tâm hồn tình cảm của mỗi người, nơi đong đầy kỉ niệm với biết
bao người thân yêu… tần tảo, lam lũ với ruộng đồng:
Từ giòng sông ấy
tôi đi
giọt nước lìa nguồn ra bể
mát suốt đời tôi gió nồm sông Mạ
mẹ và em sinh thành ở đó
quê nhà và tình yêu của tôi
88
(Giòng sông Mạ)
Ngay trong hình ảnh dòng “sông Cấm” “váng dầu mỡ” bị khuấy động
trước nhiều vấn đề của đời sống hôm nay vẫn ẩn hiện những hình ảnh quen
thuộc của thơ ca truyền thống:
Vênh vênh nửa nước nửa trời
Bàn chân kim loại quậy sôi bến tàu
Ôm mình úp mặt nông sâu
Long bong ngũ sắc váng dầu hoang mang
Trong con “Sông duyên” nên thơ, trở thành nguồn cảm hứng dạt dào
của thi sĩ cũng dễ dàng nhận ra dấu ấn của những hình ảnh con sông trong thơ
dân gian truyền thống được vận dụng rất sáng tạo tinh tế:
Trong leo lẻo nước và thơ
Cỏ liêu trai lún phún bờ sông duyên
Trên sông dậm dật mạn thuyền
Trên thuyền he hé một miền lăn tăn
Tóm lại, hình ảnh dòng sông quen thuộc trong thơ truyền thống đã hiện
diện dưới nhiều cấp độ trong thơ Nguyễn Duy và trở thành một biểu tượng
thể hiện cái nhìn đa diện, đa chiều của nhà thơ về cuộc sống. Đó là dòng sông
quê, dòng sông cội nguồn và cũng là dòng đời. Trong thơ Nguyễn Duy, hình
ảnh dòng sông gắn với cuộc sống sôi động lúc thăng, lúc trầm, lúc trữ tình thơ
mộng, lúc kiêu hùng mạnh mẽ… Sông gắn với cuộc sống lao động và chiến
đấu, những biến thái trong cuộc đời, sông chất chứa tình cảm của con người,
khi hạnh phúc khi khổ đau… Tất cả đều cho thấy cái nhìn khỏe khoắn và tỉnh
táo của nhà thơ Nguyễn Duy về cuộc sống. Trong mỗi dòng sông của thơ
Nguyễn Duy, người đọc vẫn dễ dàng cảm nhận những dấu ấn đậm, nhạt của
hình ảnh dòng sông trong thơ truyền thống được nhà thơ chú tâm khai thác,
vận dụng.
Nếu dòng sông trong thơ Nguyễn Duy là những con sông thực ngoài
89
đời, gắn với những địa danh mà nhà thơ đã từng sống và đi qua (sông Mạ,
sông Tiền, sông Thao, sông Đa-Nuýp) thì sông trong thơ Đồng Đức Bốn là
những con sông mang ý nghĩa trừu tượng hơn gắn với những trôi nổi của
đường đời, với những lỡ dở ngang trái trong tình yêu. Đồng Đức Bốn cũng
rất có ý thức sử dụng những hình ảnh về sông (gián tiếp hay trực tiếp) của thơ
truyền thống để tạo dựng hình ảnh dòng sông trong thơ mình. Đó thường là
dòng sông buồn, đau thương, gắn với cái tôi đa đoan, với những nỗi buồn đau,
trắc trở, những chiêm nghiệm đớn đau… Sông có khi trở thành tri kỉ của thi
nhân, nơi gửi gắm những nỗi niềm riêng tư của nhà thơ:
Bây giờ sông hóa lưỡi cưa
Để tôi đi sớm về trưa nát lòng
Bây giờ em đã sang sông
Để tim tôi búp sen hồng bỏ rơi
Vớt buồn trên mặt sông trôi
Bây giờ vẫn chỉ mình tôi giữa dòng
(Sang sông)
Trong thơ Đồng Đức Bốn, ta thường gặp lại hình ảnh những dòng sông,
mái chèo, những con đò lang thang trong thơ ca dân gian để diễn tả nỗi buồn
mênh mang của con người:
Mái chèo cứ nhẹ thế thôi
Không là đứt ruột gan tôi bây giờ
Mái chèo trên sóng làm thơ
Đỡ cho cánh vạc bơ vơ xuống dòng
(Đi đò)
Không chỉ khi viết về những dòng sông cội nguồn, sông gắn với mẹ, là
nơi che chở hướng về, sông cũng gắn với những suy tư trăn trở về đời nhưng
90
đó là dòng sông buồn, cô đơn đầy bế tắc:
Bờ sông có một con đò
Gác chèo ông mái nằm lo trăng buồn
(Viết ở bờ sông)
Hình ảnh dòng sông, bến, thuyền, bến đợi thuyền trong truyền thống
cũng thường trở về ẩn hiện trong thơ Đồng Đức Bốn để diễn tả nỗi niềm và
tấm tình thủy chung của con người:
Thế mà không bỏ dòng sông
Để đi tìm những cái không có gì
(Xin người một khúc mộng mơ)
Bên cạnh dòng sông, con thuyền, hình ảnh trăng của thơ dân gian cũng
được Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn khai thác để thể hiện nhiều ý nghĩa.
Trăng xuất hiện nhiều lần và mang những sắc thái khác nhau. Viết về trăng,
Nguyễn Duy có cả một tập thơ Ánh trăng với 11 lần nhắc đến trăng trong tổng
số 30 bài thơ. Nhà thơ khai thác triệt để nghệ thuật của thơ truyền thống,
mượn trăng để nói chuyện cái tình cái nghĩa ở đời bởi với ông đó là “vầng
trăng tình nghĩa”, “vầng trăng thành tri kỉ”. Trăng đã trở thành biểu tượng của
nghĩa tình thủy chung, son sắt, gắn với quá khứ, cội nguồn. Ánh trăng mang
vẻ đẹp bình dị, hiền hậu đã đánh thức lương tri của con người, khiến mỗi
người phải nhìn nhận lại chính mình, hoàn thiện mình: Trăng cứ tròn vành
vạnh/ kể chi người vô tình/ ánh trăng im phăng phắc/ đủ cho ta giật mình
(Ánh trăng).
Trong khói lửa chiến tranh, trăng là vẻ đẹp của thiên nhiên và cũng là
mảnh hồn trong sáng của người lính nơi chiến trường ác liệt. Có thể nói với
Nguyễn Duy, vầng trăng là tượng trưng cho vẻ đẹp tâm hồn của người lính:
Ô kìa! Đột ngột trăng lên
Trăng trời trăng láng bạc trên lá rừng
91
(Trăng)
Cong cong võng bạt anh nằm
khuyên lên nền lá mảnh trăng lưỡi liềm
… Em ơi dù có mưa giăng
đêm Trường Sơn vẫn sáng trăng lưỡi liềm
(Võng trăng)
Như vậy, Nguyễn Duy đã mượn hình ảnh trăng trong thơ ca dân gian
để sáng tạo nên những ý nghĩa mới mẻ. Trăng trong thời kì chiến tranh
thường gắn với vẻ đẹp trong sáng, tròn đầy, thể hiện tâm hồn con người, còn
trăng trong thời kì hậu chiến phần lớn là đề cập đến những vấn đề của cuộc
sống. Trăng thực sự đã trở thành một biểu tượng nghệ thuật độc đáo, thể hiện
một trí tuệ sắc sảo của nhà thơ.
Trăng trong thơ Đồng Đức Bốn mang nhiều dáng hình, cung bậc tâm
trạng khác nhau. Đó là hình ảnh trăng gầy trong đêm thức ở Côn Sơn đầy ám
ảnh, gợi đến hình ảnh “vầng trăng khuyết đĩa dầu hao” quen thuộc trong thơ
dân gian hay hình ảnh vầng trăng khuya khoắt trong “Truyện Kiều”:
Chênh vênh một chiếc trăng gầy
Đường non khúc khuỷu sương bay nhạt nhòa
(Thức với Côn Sơn)
Trong thơ Đồng Đức Bốn, dù viết về một vâng trăng mềm mại có thể
thắt buộc con đò tình yêu:
Rút trăng buộc lại con đò
Thu lời em hát chỉ cho riêng mình
(Đêm sông Cầu)
Hay là một vầng trăng mang nỗi buồn thương man mác vì một tình yêu
không thành:
Tôi giờ còn có ai mong
Mà người mượn gió bẻ cong trăng ngà
92
(Đời tôi)
Người đọc đều có thể cảm nhận những phong vị dân gian truyền thống
có được trong cách nói, cách thể hiện vầng trăng của thơ ca dân gian đặc biệt
là những vầng trăng gợi cảm giác cô đơn, lẻ loi.
Xuất thân từ chốn ruộng đồng, cả Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đều
chú ý thể hiện hình ảnh vườn quê trong thơ của mình. Có thể nói, vườn là
biểu tượng về văn hóa làng quê Việt Nam, là hình ảnh thu nhỏ bức tranh thôn
quê Việt Nam. Chính vì vậy, hình ảnh vườn quê trở nên quen thuộc trong thơ
của nhiều nhà thơ với biết bao tình cảm yêu thương, trìu mến. Nguyễn Duy
vận dụng tài tình cách phác họa chấm phá của thơ ca trong nghệ thuật tạo
dựng hình ảnh dân gian để tạo dựng hình ảnh khu vườn nơi xứ Huế mộng và
thơ, mang nét đẹp trữ tình đằm thắm, thi vị:
Bến Tuần loáng thoáng hàng dâu
Em xa vườn lựu từ lâu lắm rồi
Lối mòn đá cuội rong chơi
Lơ thơ trắng dưới chân đồi hoa mơ
(Nhớ bạn)
Đồng Đức Bốn cũng đánh thức tâm hồn những con người quê trong
cuộc sống hiện đại khi xây dựng được một khu vườn quê với những cây cỏ,
hoa lá quen thuộc, đạm phong vị, dáng dấp hình ảnh của thơ dân gian. Đó là
bờ tre, bụi dứa rất đỗi giản dị, thân thương nhưng cũng đủ gợi lên tâm trạng,
suy nghĩ về sự tan vỡ của những giá trị truyền thống trong cuộc sống hiện tại:
Bờ tre bụi dứa tan rồi
Cuốc kêu ai biết cho lời cuốc đâu
(Cuốc kêu)
Đó là những hàng rào quê thanh mảnh, được tô điểm bằng những cây
cỏ, loài hoa (cúc tần, dâm bụt, mồng tơi…) càng làm tăng vẻ đẹp dung dị của
93
khu vườn quê:
Khổ thân cho cả bờ rào
Dây tơ hồng héo quắt vào mùa thu
(Cơn mưa dừng ở Sóc Sơn)
Và đặc biệt trong hình ảnh vườn quê khắc đậm trong tâm hồn, tình cảm
của nhà thơ với những vần thơ trĩu nặng tâm tình:
Xéo gai anh chẳng sợ đau
Bởi yêu ruộng lúa vườn cau trước nhà
(Xéo gai anh chẳng sợ đau)
Bên cạnh việc xây dựng hình ảnh tiêu biểu cho thiên nhiên làng quê,
Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn còn mượn lại hình ảnh con cò trong ca dao làm
biểu tượng cho sự cần cù, lam lũ của những người bà, người mẹ, của những
người lao động nghèo Việt Nam. Hình ảnh con cò trong ca dao Việt Nam là
biểu tượng văn hóa, mang bản sắc tâm hồn Việt, một hiện thân của thân phận
người Việt. Trên cái nền dân gian ấy, các anh đã tạo nên hình ảnh những con
cò đầy sức gợi.
Trong thơ Nguyễn Duy, hình ảnh con cò hiện lên thật sinh động. Đó
là cánh cò bay lả bay la trong Khúc dân ca ở đồng bằng Bắc Bộ, rồi “cò
bay trắng cả một bờ đại dương” nơi mũi Cà Mau (Lời ru con cò biển) đến
cánh cò trong lời ru của mẹ (Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa), hay cánh cò trong
Mùa nước nổi ở Đồng Tháp Mười…Biểu tượng đồng quê mang bản sắc
văn hóa truyền thống này như một mạch nguồn chảy suốt hành trình thơ
Nguyễn Duy và là biểu tượng của quê hương, của truyền thống cội nguồn,
của những gì mộc mạc bình dị hiền hậu. Trong hình ảnh cánh cò mang theo
tình mẫu tử bất diệt của Nguyễn Duy, ta gặp lại hình ảnh con cò đầy ám
ảnh của thơ ca truyền thống:
Cái cò…sung chát…đào chua
câu ca mẹ hát gió đưa về trời
ta đi trọn kiếp con người
cũng không đi hết mấy lời mẹ ru
94
(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa)
Hay cánh cò biểu tượng cho những gì trắng trong, thuần khiết: “Tuổi
thơ tôi trắng muốt cánh cò” (Tuổi thơ). Con cò cũng gợi lên hình ảnh về
những cuộc đời lam lũ truyền kiếp:
Mẹ trót ru ta câu sấm mệnh con cò
Thôi đừng trách cành tre sao mềm thế
(Chợ)
Hình ảnh cánh cò trong thơ Đồng Đức Bốn cũng gợi sự long đong,
phiêu bạt hình ảnh cánh cò ttrong ca dao:
Chuông chùa tiếng đục tiếng trong
Thảo nào cát bụi long đong thân cò
(Viết ở bờ sông)
Ngoài những hình ảnh trên, khảo sát qua thơ của Nguyễn Duy, Đồng
Đức Bốn, ta còn bắt gặp rất nhiều những ảnh của ca dao dân ca như ngõ trúc,
cây đa, dải yếm, đôi mắt, giếng nước, sân đình… Được khai thác và vận dụng
sáng tạo, tinh tế, những hình ảnh truyền thống quen thuộc này đã góp phần
tạo thành một không gian văn hóa rất đặc trưng của làng quê, một không gian
mang hồn cốt, bản sắc dân tộc:
Yếm đào còn ở chốn quê
Nên cây trúc mọc còn mê sân đình
(Xéo gai anh chẳng sợ đau)
Tóm lại, xuất phát từ cái nôi văn hóa dân gian, cả Nguyễn Duy và
Đồng Đức Bốn đã mượn lại những hình ảnh, biểu tượng quen thuộc của ca
dao, dân ca như sông, trăng, con cò, cây trúc, cây tre, bến nước, sân đình… để
từ đó làm mới và phát triển. Qua các sáng tác ta thấy được sự gắn bó sâu sắc
với cội nguồn văn hóa dân tộc và tài năng sáng tạo nghệ thuật độc đáo của hai
nhà thơ và đó chính là cơ sở tạo nên bản sắc đậm đà trong thơ của Nguyễn
95
Duy và Đồng Đức Bốn:
Bên cạnh việc tiếp thu, vận dụng các hình ảnh của dân gian, truyền
thống linh hoạt, sáng tạo với tần số dày đặc thì Nguyễn Duy và Đồng Đức
Bốn đã tiếp thu, vận dụng nghệ thuật xây dựng hình ảnh của thơ ca dân
gian với lối nói, cách cảm, cách nghĩ dân gian cùng với các phương pháp
ẩn dụ, ví von, so sánh… mà chúng tôi sẽ kết hợp phân tích ở phần ngôn
ngữ, giọng điệu.
3.3. Ngôn ngữ, giọng điệu
3.3.1. Ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn
Nguyễn Tuân đã từng nói: “Ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo
ngôn ngữ”. Ngôn ngữ hay ngôn từ nghệ thuật là sản phẩm cụ thể của cá nhân.
Ngôn ngữ là chất liệu đầu tiên và không thể thiếu của sáng tác văn chương.
Một mặt, nó mang đặc trưng chung của ngôn ngữ dân tộc. Mặt khác, nó cũng
in đậm dấu ấn cá nhân của từng tác giả. Vì vậy, để tìm hiểu những nét đặc sắc
về mặt nghệ thuật của từng tác giả, ta không thể không nghiên cứu phương
diện ngôn ngữ. Trong thơ, ngôn ngữ đòi hỏi phải có tính hàm súc, gợi tả, giàu
nhạc điệu, giàu liên tưởng. Ngôn ngữ thơ chú trọng tới việc bộc lộ thế giới
của cái tôi nội cảm bên trong con người. Và để tác phẩm mang tính thẩm mĩ,
nghệ thuật cao, ngôn ngữ thơ thường sử dụng các biện pháp tu từ để thể hiện.
Trong các sáng tác của mình, Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đã thể
hiện rõ tài năng và cá tính sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ. Cả hai tác
giả đều có lối dùng từ ngữ bình dị, gần gũi với cuộc sống nhân dân, thời đại
và ca dao truyền thống. Ngôn ngữ trong tác phẩm của họ được khơi nguồn từ
đời sống: đời sống văn hóa, đời sống sinh hoạt, đời sống tâm linh… mộc mạc,
dân dã, gần gũi với đời thường nhưng lại có sức biểu đạt cao. Vốn coi trọng
cội nguồn và những giá trị bền vững của đời sống, Nguyễn Duy và Đồng Đức
Bốn đã tìm thấy ở thơ ca dân gian nguồn từ ngữ phong phú để từ đó khai thác
và vận dụng nhuần nhuyễn ngôn ngữ dân gian, luôn làm trẻ ca dao bằng
96
những ngôn từ, những lối kết hợp và phép tu từ mới, lạ, độc đáo rất thú vị.
Ở thơ Nguyễn Duy, ta bắt gặp vốn từ dân gian, từ địa phương hết sức
phong phú được sử dụng một cách nhuần nhụy. Hàng loạt các từ ngữ quê mùa
dân dã như: “mần răng”, “không răng”, “bên ni… bên tê”, “lôi thôi lếch
thếch”, “tỏng tòng tong”… qua bàn tay của người nghệ sĩ bỗng trở nên sinh
động, tự nhiên và đem lại giá trị nghệ thuật cao.
Trong bài “Dân ơi”, từ “tỏng tòng tong” là từ quen dùng trong cách nói
thường ngày của dân gian đã được Nguyễn Duy vận dụng tài tình đắc địa, vừa
diễn tả cảnh lụt trắng đồng mất không còn gì, vừa thể hiện niềm xót xa
thương cảm của nhà thơ đối với làng quê trong cảnh mất mùa đói kém:
Năm nay lại lụt trắng đồng
Quê ta lại tỏng tòng tong mùa màng
(Dân ơi!)
Ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Duy là thứ ngôn ngữ rất gần gũi với lời ăn
tiếng nói hàng ngày của người dân quê:
Sớm mai đánh bệt trước thềm
Đừ đừ phun khói thuốc lên tận trời
(Thuốc lào)
Những từ “đánh bệt”, “đừ đừ” giản dị, tự nhiên như lời nói cửa miệng
hàng ngày của người dân quê được tác giả đưa vào thơ bỗng trở nên giàu sức
gợi hình, gợi cảm.
Qua cách sử dụng ngôn ngữ thơ, có thể thấy cùng là vốn ngôn ngữ dân
gian, ngôn ngữ nhà quê nhưng ở Nguyễn Bính, ngôn ngữ dân gian ấy có vẻ
lắng dịu, mượt mà, ngọt ngào hơn. Còn ở Nguyễn Duy, ngôn ngữ nhà quê
mang nét vẽ táo bạo hơn, suồng sã hơn, ngôn ngữ truyền thống nhưng cũng
rất hiện đại.
Cũng tiếp thu tinh hoa từ vốn ngôn ngữ dân gian với lối nói giản dị, đời
thường, Đồng Đức Bốn đã cho chúng ta thấy được không khí quê, cảnh sắc
97
làng quê qua những vần thơ mộc mạc, chân chất:
Chăn trâu đốt lửa trên đồng
Rạ rơm thì ít gió đông thì nhiều
(Chăn trâu đốt lửa)
Thơ ca dân gian là kho báu ngôn ngữ đượm màu sắc dân tộc. Cả
Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đều đã học hỏi ở ca dao cách sử dụng lối
xưng hô với các đại từ quen thuộc trong ca dao: mình, ta, ai, ấy, người dưng,
đó, đây… Hệ thống đại từ nhân xưng này đã tạo cho câu thơ chất trữ tình, tình
tứ, ngọt ngào, đằm thắm như những câu ca xưa:
Thôi ta về với mình thôi
Chân trời đành để chim trời nó bay
(Đường xa - Nguyễn Duy)
Có ai còn nhớ đến tôi
Có thương thuyền giữa sông trôi lững lờ
(Chợ Thương - Đồng Đức Bốn)
nhưng cũng có lúc suồng sã, vui đùa, tếu táo với cách xưng hô ta - mình,
tao - mày:
Mình vô tư với ta đi
Vô tư nên chẳng cần chi nhiều lời
(Vô tư - Nguyễn Duy )
Giang hồ ở khắp mọi nơi
Mày là cỏ dại suốt đời lang thang
Tao như một ngọn gió hoang
Về đây hát khúc tình tang quê mùa
(Nói chuyện với những cây cỏ dại - Đồng Đức Bốn)
Cách xưng hô trong thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đã cho thấy rất
rõ tính khẩu ngữ và gần gũi thơ ca dân gian. Mặc dầu vậy, cách xưng hô của
hai nhà thơ vẫn giàu chất thơ và là những sản phẩm mang đậm dấu ấn sáng
98
tạo của cá nhân, thể hiện cách cảm, cách nghĩ của con người hiện đại.
Là những nhà thơ xuất thân từ ruộng đồng, gắn bó chặt chẽ với cuộc
sống chốn thôn quê, Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đã sử dụng linh hoạt
cách nói dân gian gần gũi, thân mật với những thành ngữ, tục ngữ, ca dao. Ta
thấy xuất hiện với mật độ cao những thành ngữ, tục ngữ trong thơ Nguyễn
Duy: gừng cay muối mặn, đau như xát muối, nửa đường đứt gánh, dãi nắng
dầu mưa, quýt làm cam chịu, tiền nào của ấy, vã mồ hôi sôi nước mắt… Quả
đúng là đọc thơ Nguyễn Duy, ta bắt gặp một “thế giới ca dao phập phồng sinh
động”. Ca dao đi vào thơ Nguyễn Duy hết sức tự nhiên và được vận dụng một
cách sáng tạo để diễn tả những vấn đề của đời sống hiện đại đầy sức thuyết
phục. Có những bài thơ được bắt đầu bằng một câu ca dao, sau đó được triển
khai theo một hướng đầy sáng tạo:
Con cò bay lả bay la
theo câu quan họ bay ra chiến trường
(Khúc dân ca)
Và có nhiều bài được kết thúc bằng những câu ca dao nguyên vẹn:
Nhìn về quê mẹ xa xăm
Lòng ta chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương
(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa)
Nguyễn Duy cũng hết sức tài tình khi cải biên sáng tạo ca dao truyền
thống. Từ câu ca dao mang tính chiêm nghiệm, đúc kết của dân gian “Mấy
đời bánh đúc có xương/ Mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng”, Nguyễn Duy
đã sáng tạo những câu thơ đầy tính đúc kết, thấm thía:
Mấy đời xương trắng hóa vôi
Tro tàn âm ỉ mấy đời chiến tranh
Rõ ràng, vận dụng triết lí của dân gian xưa, Nguyễn Duy đã nói lên
99
được triết lí của thời đại: chiến tranh là tàn khốc, là đau thương, mất mát.
Nhiều bài thơ của Nguyễn Duy lại sử dụng lối nói ngược quen thuộc
của ca dao. Ở bài Xẩm ngọng, lối nói ngược được vận dụng để phê phán
những thói hư tật xấu, mặt trái của xã hội. Thơ Nguyễn Duy nhiều bài mang
âm hưởng lời ru: Lời ru đồng đội, Lời ru con cò biển, Lời ru trong bão, Ca
dao vọng về, Mùa thu… đã tạo nên tính mượt mà, truyền cảm, dễ đi vào nếp
cảm, nếp nghĩ của người đọc.
Cũng giống như Nguyễn Duy, ngôn ngữ thơ Đồng Đức Bốn là thứ
ngôn ngữ được chắt lọc từ ca dao, thành ngữ, tục ngữ. Những cách nói của
cha ông từ ngàn năm như được vọng về trong những vần thơ lục bát giản dị
mà sâu sắc ý tình:
Bát cơm và nắng chan sương
Đói no con mẹ sẻ nhường cho nhau
(Trở về với mẹ ta thôi)
Nhà bạn cũng giống nhà tôi
Mái tranh vách đất nhìn trời qua vung
(Con sáo sang sông III)
Nhà thơ cũng thật sáng tạo khi vận dụng tục ngữ “Gái một con trông
mòn con mắt”:
Đúng là gái có một con
Để tôi ngơ ngẩn trông mòn mắt ra
(Gái một con trông mòn con mắt)
Hay câu ca dao “Mình về em dặn câu này/ Sông sâu chớ lội đò đầy chớ
qua” đã được Đồng Đức Bốn khai thác và vận dụng tài tình:
Đừng buông giọt mắt xuống sông
Anh về dẫu chẳng đò không cũng chìm
Tiếp thu vốn ngôn ngữ dân gian, Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn sử
dụng trong thơ của mình nhiều thán từ và tình thái từ của ca dao. Nhà thơ
100
Nguyễn Duy từng thốt lên đầy bất ngờ, xao xuyến khi phát hiện vẻ đẹp tuyệt
mĩ của thiên nhiên tạo vật. Cảm xúc ấy được bộc lộ trực tiếp qua các thán từ:
chao, ô kìa… bật lên như lời nói thường ngày của cuộc sống:
Ô kìa đột ngột trăng lên
Trăng, trời, trăng láng bạc trên lá rừng
(Trăng)
Trước cảnh đê vỡ đầy tang thương, Đồng Đức Bốn cũng không kiềm
chế được nỗi lòng mà phải thốt lên:
Ối mẹ ơi đê vỡ rồi
Đồng ta trắng xóa cả trời nước trong
(Vỡ đê)
Các tình thái từ: sao, mà, với, rồi,… được sử dụng một cách linh hoạt,
tự nhiên góp phần không nhỏ vào việc thể hiện sắc thái tình cảm, cảm xúc của
nhân vật trữ tình:
Thịt xương xưa hóa đất rồi
Nợ xưa còn để nặng đời sau ư?
(Chi Lăng – Nguyễn Duy)
Bây giờ mưa gió về đâu
Để tôi nhớ mãi một màu tóc xưa
(Mưa gió về đâu)
Trong ca dao xưa thường xuất hiện những địa danh đất Việt. Hệ thống
các từ địa danh cũng được Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn vận dụng vào thơ
một cách tự nhiên, linh hoạt. Những từ ngữ chỉ địa danh không phải là những
con chữ khô cứng mà gắn với những kỉ niệm, những tâm sự, tình cảm mà nhà
thơ từng sống, từng trải nghiệm. Đó có khi là nỗi đau và sự hào hùng của một
thời lửa đạn đã qua:
Cồn Tiên áo trắng qua cầu
Bạn tôi nằm dưới trắng phau Đông Hà
101
(Giấc mộng trắng - Nguyễn Duy)
Nhiều khi những tên địa danh cho ta thấy được vẻ đẹp thanh bình, giản
dị của quê hương:
Gió sông Hồng đã lên ngôi
Trăng Tây Hồ hết mồ côi tội tình
(Gai rào ngõ quê)
Qua khảo sát có thể thấy, ngôn ngữ thơ của Nguyễn Duy và Đồng Đức
Bốn là thứ ngôn ngữ dân dã, quê mùa, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày
của nhân dân. Nói cách khác, đó là thứ ngôn ngữ mang đậm dấu ấn dân gian
và bản sắc dân tộc. Chính đặc điểm này đã tạo nên sức hấp dẫn mạnh mẽ của
thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đối với các thế hệ độc giả Việt Nam.
3.3.2. Giọng điệu thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn
Giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học, là một
phương diện biểu hiện quan trọng của chủ thể sáng tạo. Giọng điệu nghệ thuật
không chỉ là yếu tố hàng đầu của phong cách nhà văn mà còn là yếu tố có vai
trò thống nhất mọi yếu tố khác của hình thức nghệ thuật tác phẩm vào một
chỉnh thể thống nhất. Các yếu tố tư tưởng, hình tượng, chủ đề tác phẩm được
cảm nhận trên một phạm vi giọng điệu nào đó mà từ đó người đọc có thể
thâm nhập vào thế giới tinh thần của tác giả. Giọng điệu làm nên phong cách
riêng biệt của mỗi nhà văn, nhà thơ, là hồn cốt của tác phẩm.
Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn là những nhà thơ xuất thân từ chốn
đồng quê mà sáng tác của họ luôn đậm đà tính dân tộc. Xét trên phương diện
giọng điệu, có thể thấy nét nổi bật của thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn là
giọng điệu trữ tình dân gian với nhiều sắc thái khác nhau của giọng điệu ca
dao, dân ca. Đó có khi là chất giọng châm biếm, hài hước; có khi lại là giọng
ghẹo, bông đùa và có lúc lại là giọng tâm tình, giãi bày hay thở than quen
102
thuộc của ca dao xưa.
Khảo sát thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn, có thể khẳng định các
nhà thơ đã kế thừa hai điệu chính trong thơ ca dân gian mà cụ thể là ca dao.
Đó là điệu than trong ca dao than thân và điệu ghẹo trong ca dao giao duyên.
Đến thơ Nguyễn Duy, người đọc thường bắt gặp những lời ca êm ái,
ngọt ngào như trong lời ru của ca dao:
Con cò bay lả bay la
Theo câu quan họ bay ra chiến trường
Nghe ai hát giữa núi non
Mà hương đồng cứ dập dờn trong mây
(Khúc dân ca I)
Thơ Nguyễn Duy mang đậm hơi thở của ca dao, dân ca. Mỗi vần thơ
như những tiếng vang vọng từ ngàn xưa, như điệu hồn dân tộc với nhiều cung
bậc, sắc thái khác nhau. Đó có khi là cái êm ái, mượt mà trong Ca dao vọng
về, Lời ru mùa thu, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Đàn bầu… Cũng có lúc lại là
cái đằm thắm, tình tứ kiểu dân gian với Xuồng đầy, Mắt na, Vải thiều…
Ghẹo là một trong những sắc thái của ca dao dân ca. Nguyễn Duy đã
vận dụng điệu ghẹo một cách thần tình. Không phải ngẫu nhiên mà nhà
nghiên cứu Chu Văn Sơn lại so sánh Nguyễn Duy với Nguyễn Bính - hai nhà
thơ đều gắn bó với cái nôi dân gian. Nếu như Nguyễn Bính thiên về điệu than
thì Nguyễn Duy lại thiên về điệu ghẹo. Giọng điệu ghẹo kết hợp với chất bụi
bặm đã cho thấy được tận cùng bản ngã của Nguyễn Duy. Nhà thơ ghẹo trong
tình yêu, cái giọng ghẹo dễ khiến người ta liên tưởng tới hình ảnh của một
chàng trai xứ đồng thông minh, lém lỉnh với lời tỏ tình táo bạo mà không kém
phần ý nhị kín đáo:
Chúng mình nhắm mắt đi em
Cho na mở mắt ra xem chúng mình
103
(Mắt na)
Nguyễn Duy còn ghẹo đời bằng cái giọng cá tính, tưng tửng, bụi bặm
rất riêng:
Đàn kêu tưng tửng từng tưng
Con trâu xúc phạm sợi thừng cột trâu
…
Cái sang xúc phạm cái nghèo
Cái ngay xúc phạm cái khoèo bẩm sinh
(Xẩm ngọng)
Chất hài hước ở Nguyễn Duy thường được đi kèm với các từ ỡm ờ,
buông lơi, rất duyên dáng của ca dao:
Đố em bán gió cho giời
Để anh đánh thuế bọn người buôn nhau
(Thách thức)
Tuy nhiên trong thơ Nguyễn Duy ta còn thấy yếu tố phản ca dao rất rõ.
Ca dao xưa thiết tha khuyên rằng: “Con ơi mẹ dặn câu này/ Sông sâu chớ lội
đò đầy chớ đi” thì Nguyễn Duy lại tinh nghịch xui khiến: “Mẹ răn vẫn nhớ
xuồng đầy vẫn đi”. Trong sự đối lập ấy “cả ca dao và cả thơ cùng bay bổng
hơn, sống động hơn, sâu sắc hơn”. “Phản” nhau nhưng lại nâng nhau lên, làm
rõ nhau hơn trong mạch đời hiện đại, đa dạng, đa chiều” [55, tr. 78]. Đúng
như Lại Nguyễn Ân nhận xét: “Nguyễn Duy đã tạo nên cái tiếng cười khúc
khích, giọng bông lơn bỡn cợt ngay giữa những dòng trữ tình để phá vỡ cái vẻ
rưng rưng cứ dâng trào lên làm căng thẳng và mệt mỏi tâm lý cảm thụ”. Và ở
đằng sau cái vẻ phớt đời đó, lại là tâm trạng đầy bi phẫn, chua xót, một thái
độ sống tích cực. Rõ ràng trong giọng ghẹo, chúng ta vẫn nhận thấy giọng
than chất chứa sự xót xa, buồn thương sâu lắng của nhà thơ. Và có lẽ, đó mới
chính là giọng điệu của một thi sĩ quê mùa đích thực: Trong vui có buồn,
trong ngọt bùi có cả xót xa, cay đắng. Giọng điệu đó được hấp thụ rồi “tinh
104
lọc, thăng hoa” từ giọng điệu đặc sắc của thơ ca truyền thống.
Nếu ở Nguyễn Duy, giọng ghẹo nhiều hơn than thì Đồng Đức Bốn lại
ám ảnh người đọc hơn với giọng thở than, tê tái của ca dao.
Đời tôi có một người thương
Đói cơm rách áo nằm sương cùng nhà
Sang giàu mặc kệ người ta
Đời tôi chỉ những xót xa đi tìm
(Đời tôi)
Kế thừa hình thức thể hiện của thơ ca dân gian, thơ Đồng Đức Bốn ở
giọng điệu thở than tê tái cũng dùng lối kể tâm trạng là chủ yếu kết hợp với kể
hành động nhưng kể ít mà gợi nhiều:
Chẳng ai biết đến mẹ tôi
Bạc phơ mái tóc bên trời hoa mơ
Còng lưng gánh chịu gió mưa
Nát thân tìm cái chửa chưa có gì
Cầm lòng bán cái vàng đi
Để mua những cái nhiều khi không vàng
(Trở về với mẹ ta thôi)
Ở một bài thơ khác, lời than thất tình của Đồng Đức Bốn với lối kể sự
việc thì ít mà kể tâm trạng thì vời vợi. Đó là nỗi đau, nỗi buồn vì tình duyên
dang dở:
Cái đêm em ở với chồng
Để ai hóa đá bên sông đợi đò
Cái đêm hôm ấy gió mùa
Tơ nhện giăng đến cổng chùa thì tan
(Cái đêm em ở với chồng)
Thơ Đồng Đức Bốn cũng sử dụng lối chì chiết, đay đả của ca dao để
105
tạo nên những vần thơ nghe đến xót xa:
Duyên mình chả bén trầu cau
Thì làm hạt muối ướp đau lòng chờ
(Mùa xuân đi phủ Tây Hồ)
Có thể thấy, nội dung cảm xúc trong thơ Đồng Đức Bốn là nỗi buồn,
nỗi đau. Nỗi buồn trong mưu sinh, trong lập nghiệp, trong sáng tạo nghệ
thuật, trong đời tư cùng sự ảnh hưởng của điệu than trong ca dao đã tạo nên
chất giọng thở than tê tái mang bản sắc riêng của Đồng Đức Bốn.
Cùng với giọng điệu trầm buồn, chua xót, thơ Đồng Đức Bốn còn có giọng
ghẹo dí dỏm của ca dao:
Em bán gì đấy em ơi
Để tôi mua một nụ cười làm duyên
Nếu không trả được bằng tiền
Tôi lấy trăng liềm làm bím tóc cho
(Duyên quê)
Bên cạnh đó là cái giọng tưng tửng dân gian, bỡn cợt, thách thức nhưng
cũng rất đằm thắm, yêu thương:
Yêu em nếu phải đốt trời
Cũng vui vẻ chết như chơi vườn đào
(Gửi Tân Cương)
Cánh hoa sắc một lưỡi dao
Vì yêu tôi cứ cầm vào như chơi
(Hoa dong riềng)
Tóm lại, trên phương diện giọng điệu, cả Nguyễn Duy và Đồng Đức
Bốn đã kế thừa sắc điệu trữ tình dân gian của ca dao, dân ca với hai điệu
chính là điệu than và điệu ghẹo. Nếu Nguyễn Duy ghẹo nhiều hơn than thì
Đồng Đức Bốn lại thiên về điệu than. Tất cả cho ta thấy một cá tính sáng tạo
106
độc đáo của hai nhà thơ.
Như vậy có thể thấy, bản sắc dân tộc trong sáng tác của Nguyễn Duy và
Đồng Đức Bốn không chỉ được biểu hiện ở nội dung cảm hứng mà còn được
thể hiện ở nhiều bình diện nghệ thuật khác nhau. Qua khảo sát có thể thấy
ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn là thứ ngôn ngữ mang đậm sắc
thái dân gian, gần gũi với cách nói của thơ ca dân gian, đậm đà tính dân tộc.
Bên cạnh đó là việc tiếp thu nhiều sắc thái giọng điệu của ca dao, dân ca mà
điển hình là điệu than và điệu ghẹo. Hai nhà thơ cũng tập trung xây dựng một
hệ thống hình ảnh, biểu tượng đã trở nên quen thuộc gần gũi với đời sống tinh
thần của con người Việt Nam cùng với thể thơ lục bát truyền thống tạo âm
điệu mượt mà, êm ái… Tất cả đã cho thấy tài năng tiếp thu và sáng tạo vốn
văn hóa truyền thống của Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn để từ đó định hình
nên những phong cách thơ in dấu đậm nét tinh hoa của truyền thống nhưng lại
107
cũng vô cùng hiện đại.
PHẦN KẾT LUẬN
Qua khảo sát những biểu hiện của bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn
Duy và Đồng Đức Bốn, chúng tôi đi đến những kết luận sau:
1. Tìm hiểu bản sắc dân tộc trong sáng tác văn học nói chung và thơ ca
nói riêng là một vấn đề cấp thiết, cần được quan tâm hàng đầu đặc biệt trong
bối cảnh xã hội hiện nay khi mà sự giao lưu trên thế giới đang được đẩy mạnh
hơn bao giờ hết. Nói như vậy, tính dân tộc đậm đà trong sáng tác của Nguyễn
Duy và Đồng Đức Bốn chính là nhịp cầu nối quan trọng để hiểu về văn hóa,
văn học Việt Nam, về đất nước, con người Việt Nam.
Khảo sát thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, ta thấy rõ một khuynh
hướng làm mới thơ sau 1975 bằng việc trở về tiếp thu, sáng tạo truyền thống,
hiện đại hóa trên cơ sở tiếp thu truyền thống. Hai nhà thơ đã không ngừng tìm
tòi những cách thể hiện mới trên cái phông nền văn hóa dân tộc để từ đó
khẳng định một bản lĩnh nghệ thuật độc đáo.
2. Bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn được thể
hiện trên cả phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Trên bình diện nội
dung cảm hứng, cả Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đã tiếp thu nguồn thi liệu
truyền thống để tạo nên tính dân tộc đậm đà trong các sáng tác của mình.
Nguồn thi liệu đó được biểu hiện sâu đậm ở những nguồn cảm hứng chủ đạo
về quê hương đất nước và con người Việt Nam. Có thể nói, bằng những vần
thơ đậm đà bản sắc truyền thống hai nhà thơ đã xây dựng được một bức tranh
chân thực về cảnh sắc làng quê và con người đất Việt.
Cảnh sắc quê hương trong thơ lục bát Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn
hiện lên trước hết với vẻ đẹp đơn sơ, bình dị của những cánh đồng quê, khu
vườn quê. Những cây cỏ, hoa lá cùng những con vật gần gũi, thân thuộc chốn
108
thôn quê đều được các nhà thơ khắc họa, cảm nhận dưới cái nhìn, sự suy
ngẫm của con người xứ đồng. Tất cả đã tạo nên bức tranh phong cảnh quê
hương mang đậm hồn cốt làng quê xứ sở.
Bức tranh quê ấy còn được làm giàu thêm bởi hình ảnh của những con
người quê chất phác, mộc mạc. Đó là hình ảnh của những người mẹ, người
vợ, người cha cùng những chàng trai, cô gái của xứ đồng… Những con người
bình dị ấy được khắc họa với những đặc điểm và vẻ đẹp phẩm chất của con
người Việt Nam truyền thống từ bao đời nay. Họ là những con người giản dị,
chân chất, đầy hồn hậu, bao dung với lối sống nhân ái, nặng nghĩa tình; sống
nghèo khổ, lam lũ mà vẫn bản lĩnh, lạc quan, tin tưởng vào tương lai… Tất cả
đều hiện lên thật đẹp qua những vần thơ ngọt ngào.
3. Để truyền tải được những tình cảm sâu nặng với quê hương, cả
Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đều lựa chọn cho mình một hình thức thể hiện
phù hợp trên cơ sở khai thác và vận dụng sáng tạo thơ truyền thống mà trước
hết là thể thơ lục bát. Như duyên tiền định, cả hai nhà thơ tìm đến thể lục bát
và rồi nổi danh với những sáng tác theo thể thơ truyền thống này. Họ đã tạo
nên những vần thơ lục bát ngọt ngào, êm ái, ăn sâu vào nếp cảm, nếp nghĩ của
mỗi tâm hồn Việt. Những vần lục bát truyền thống nhưng cũng rất hiện đại
dưới tài năng sáng tạo của các nhà thơ càng khắc đậm bản sắc dân tộc của thơ
Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn và góp phần tạo nên sức sống lâu bền cho thể
thơ dân tộc này.
Bên cạnh đó, Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn còn sử dụng vốn ngôn
ngữ mang đậm màu sắc dân gian, gần gũi với ca dao, dân ca, với lời ăn tiếng
nói hàng ngày của nhân dân. Những đại từ nhân xưng quen thuộc, những lớp
từ địa danh vốn xuất hiện trong ca dao nay hiện lên thật sinh động trong thơ
Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn. Cùng với đó là một giọng điệu thơ mang âm
hưởng dân gian với sự kết hợp của hai điệu chính là điệu than và điệu ghẹo.
Ngôn ngữ và giọng điệu đã góp phần hữu hiệu tạo nên tính dân tộc đậm đà
109
trong sáng tác của Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn.
Trong suốt cả đời thơ, các nhà thơ đều có ý thức khai thác và vận dụng
sáng tạo những hình ảnh đặc sắc của thơ truyền thống vốn trở nên gần gũi,
thân thương trong đời sống tinh thần của mỗi con người Việt Nam. Đó đều là
những hình ảnh đã tỏa bóng ngàn năm trong ca dao với sức sống trường tồn,
bất diệt. Tuy nhiên, Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn không chỉ vận dụng hình
ảnh theo nguyên mẫu của ca dao, dân ca mà còn sáng tạo cho phù hợp với suy
nghĩ, tình cảm của con người thời đại. Hình ảnh trong thơ Nguyễn Duy và
Đồng Đức Bốn do vậy vừa thân thiết, quen thuộc vừa mới lạ, độc đáo, tạo
được sức hấp dẫn đặc biệt với người đọc.
Có thể nói gắn kết với cội nguồn truyền thống, từ trên nền tảng của văn
hóa dân gian, Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đã tiếp thu và sáng tạo một
cách tài tình vốn tinh hoa dân tộc. Thành công của hai tác giả, đặc biệt trong
mảng thơ lục bát đã cho thấy một hướng đi hiệu quả và tích cực trong nỗ lực
đổi mới thơ ca sau 1975. Tìm về với cội nguồn, tiếp thu và sáng tạo vốn văn
hóa dân gian là việc làm thiết thực nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
110
dân tộc trong thời đại mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Tú Anh (2002), Phong cách thơ Nguyễn Duy, Luận văn Thạc sĩ ĐH
KHXH và NV, Hà Nội.
2. Lại Nguyên Ân (1986), Tìm giọng mới thích hợp với người thời mình, Báo
Văn nghệ, số 15, tr. 11.
3. Nguyễn Duy Bắc (1998), Bản sắc dân tộc trong thơ ca Việt Nam hiện đại
(1945-1975), Nxb văn hóa dân tộc, Hà Nội.
4. Nguyễn Thị Bông (1998), Điểm gặp nhau thú vị của Tú Xương và Nguyễn
Duy, Nxb Thành phố HCM.
5. Đồng Đức Bốn (1992), Con ngựa trắng và rừng quả đắng, Nxb Văn học,
Hà Nội.
6. Đồng Đức Bốn (1993), Chăn trâu đốt lửa, Nxb Lao động, Hà Nội.
7. Đồng Đức Bốn (2000), Trở về với mẹ ta thôi, Nxb Văn học, Hà Nội.
8. Đồng Đức Bốn (2000), Cuối cùng vẫn còn dòng sông, Nxb Hội nhà văn,
Hà Nội.
9. Đồng Đức Bốn (2002), Chuông chùa kêu trong mưa, Nxb Hội nhà văn,
Hà Nội.
10. Đồng Đức Bốn (2006), Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc, Nxb Hội nhà văn,
Hà Nội.
11. Bùi Thị Minh Châu (2013), Tính triết lí trong thơ Nguyễn Duy, Luận văn
Thạc sĩ ĐH KHXH & NV, Hà Nội.
12. Nguyễn Duy (1973), Cát trắng, Nxb Quân đội nhân dân.
13. Nguyễn Duy (1884), Ánh trăng, Nxb Tác phẩm mới.
14. Nguyễn Duy (1987), Mẹ và em, Nxb Thanh Hóa.
15. Nguyễn Duy (1989), Đường xa, Nxb Trẻ.
16. Nguyễn Duy (1994), Sáu và Tám, Nxb Văn học, Hà Nội.
111
17. Nguyễn Duy (1994), Về, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
18. Nguyễn Duy (1997), Bụi, Nxb Văn học, Hà Nội.
19. Nguyễn Duy (2010), Nguyễn Duy thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.
20. Hà Minh Đức (1985), Về một số cây bút trẻ gần đây của quân đội, Báo
Nhân dân.
21. Hà Minh Đức (1998), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
22. Phạm Văn Đồng (1983), Tổ quốc ta, nhân dân và người nghệ sĩ, Nxb
Văn học.
23. Lê Thị Thanh Đạm (2009), Đặc điểm thẩm mỹ thơ Nguyễn Duy, Chuyên
luận, Nxb Văn học, Hà Nội.
24. Tế Hanh (1986), Hoa trên đá và Ánh trăng, Báo Văn nghệ, số 15.
25. Lê Quang Hưng (1986), Thơ Nguyễn Duy và Ánh trăng, Tạp chí văn học,
số 3.
26. Chu Huy (1998), Tre Việt Nam (Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Vũ Cao,
Nguyễn Duy), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
27. Đỗ Huy (1984), Mấy suy nghĩ về hướng phát triển của truyền thống văn
hóa dân tộc, Tạp chí nghiên cứu nghệ thuật, số 2, tr. 3.
28. Đặng Thị Liên Hương (2007), Thơ lục bát qua ba tác giả Nguyễn Duy, Lê
Đình Cánh, Phạm Công Trứ, Luận văn Thạc sĩ ĐH KHXH & NV, Hà Nội.
29. Vũ Thị Hằng (2011), Thơ lục bát Việt Nam trong phong trào thơ mới lãng
mạn 1932 - 1945, Luận văn Thạc sĩ ĐH KHXH & NV, Hà Nội.
30. Hoàng Trung Hiếu (2002), Ánh trăng của Nguyễn Duy hay tiếng lòng ai
đó, Tạp chí Văn học và Tuổi trẻ, số 13, tr. 11 - 12.
31. Lê Thị Hoài (2006), Xu hướng tìm về thi pháp dân gian trong thơ Việt
Nam đương đại qua thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, Phạm Công Trứ, Luận
văn Thạc sĩ ĐHSP Hà Nội.
32. Nguyễn Quốc Khánh (2008), Yếu tố ca dao trong thơ lục bát Đồng Đức
112
Bốn, Luận văn Thạc sĩ, ĐH KHXH&NV, Hà Nội.
33. Mã Giang Lân, Bùi Việt Thắng (2007), Văn học Việt Nam sau 1975, ĐH
Quốc gia Hà Nội, Trường ĐH KHXH & NV, Hà Nội.
34. Mai Ngọc Lê (2008), Truyền thống và cách tân trong thơ Nguyễn Duy,
Luận văn Thạc sĩ ĐH KHXH & NV, Hà Nội.
35. Nguyễn Văn Long (2002), Văn học Việt Nam trong thời đại mới (Từ sau
Cách mạng tháng Tám 1945), Nxb Giáo dục.
36. Hoàng Như Mai (1998), Nguyễn Văn Huấn, Tìm hiểu bản sắc dân tộc
trong thơ chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Giáo dục.
37. Nguyễn Thị Bích Nga (2000), Thơ lục bát Nguyễn Duy, Luận văn Thạc sĩ
ĐHSP Hà Nội.
38. Nhiều tác giả (1999), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
39. Nhiều tác giả (2005), Từ điển văn học (Bộ mới), Nxb Thế giới.
40. Nhiều tác giả (2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục.
41. Nhiều tác giả (2002), Giáo trình Lí luận văn học, Nxb Giáo dục.
42. Đặng Thị Lĩnh Ninh (2007), Đặc điểm thơ lục bát Đồng Đức Bốn, Luận
văn Thạc sĩ ĐH KHXH & NV, Hà Nội.
43. Phạm Mai Phong (2008), Chất đồng quê trong thơ lục bát Việt Nam hiện
đại (qua thơ lục bát Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn), Luận văn Thạc sĩ, ĐH
KH XH & NV, Hà Nội.
44. Phạm Thị Phương (2008), Thơ Nguyễn Duy nhìn từ góc độ tư duy nghệ
thuật, Luận văn Thạc sĩ ĐH KHXH & NV, Hà Nội.
45. Nguyễn Quang Sáng (1987), Đi tìm tiềm lực trong thơ Nguyễn Duy (Phần
phụ lục II trong tập thơ Mẹ và Em), Nxb Thanh Hóa.
46. Chu Văn Sơn (2003), Nguyễn Duy - Thi sĩ thảo dân, Tạp chí Nhà văn, số 3.
47. Vũ Văn Sỹ (1999), Người thương mến đến tận cùng chân thật, Tạp chí
văn học số 10.
113
48. Hoài Thanh (1972), Đọc một số bài thơ Nguyễn Duy, báo Văn nghệ .
49. Lê Quang Trang (1985), Đọc “Ánh trăng”, Báo Nhân dân.
50. Đỗ Ngọc Thạch (1997), Người vợ trong thơ Nguyễn Duy, Báo Phụ nữ
Việt Nam, số 1.
51. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm hiểu về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh.
52. Hoàng Trinh (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam trong tiến trình lịch sử,
Tạp chí văn học, số 8, tr. 3 - 6.
53. Lê Trí Viễn, Đến với bài thơ hay, Nxb Giáo dục, 1997.
54. Hồ Sĩ Vịnh (1993), Tìm về bản sắc văn hóa dân tộc, Tạp chí Nghiên cứu
văn hóa nghệ thuật.
55. Phạm Thu Yến (1998), Ca dao vọng về trong thơ Nguyễn Duy, Tạp chí
114
văn học số 7.