ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THỊ HUYỀN ANH BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG THƠ MA TRƯỜNG NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Thái Nguyên - 2018

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THỊ HUYỀN ANH BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG THƠ MA TRƯỜNG NGUYÊN Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 8.220.121

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thị Ngân

Thái Nguyên - 2018

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu

trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều

trung thực và chưa từng được công bố trong một công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Huyền Anh

ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban

giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí - Truyền thông và Văn học, Trường

Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp

giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.

Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng

dẫn TS. Lê Thị Ngân đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời gian tác giả

nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, người thân, bạn bè và đồng

nghiệp đã động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Huyền Anh

iii

MỤC LỤC

Trang

TRANG BÌA PHỤ

LỜI CAM ĐOAN ......................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN .............................................................................................. ii

MỤC LỤC ................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 1

2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 4

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ............................................................ 6

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ..................................................... 6

5. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 7

6. Cấu trúc của luận văn ................................................................................ 7

7. Đóng góp của luận văn .............................................................................. 7

Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THƠ CA DÂN TỘC THIỂU SỐ

HIỆN ĐẠI VÀ NHÀ THƠ MA TRƯỜNG NGUYÊN............................. 8

1.1. Vài nét về thơ ca dân tộc thiểu số hiện đại ............................................ 8

1.1.1. Giai đoạn trước năm 1945:...................................................................... 8

1.1.2. Giai đoạn 1945-1975: ............................................................................ 11

1.1.3. Giai đoạn từ năm 1975 đến nay: ........................................................... 24

1.2. Nhà thơ Ma Trường Nguyên - cuộc đời, con người và sự nghiệp sáng

tác: ................................................................................................................ 32

1.2.1. Vài nét về cuộc đời, con người nhà thơ Ma Trường Nguyên ............... 32

1.2.2. Sự nghiệp sáng tác của Ma Trường Nguyên:........................................ 34

1.2.3. Quan điểm sáng tác của Ma Trường Nguyên: ...................................... 37

Chương 2. CẢM HỨNG NỔI BẬT TRONG THƠ MA TRƯỜNG

NGUYÊN .................................................................................................... 41

2.1. Cảm hứng về quê hương, con người miền núi: .................................... 41

iv

2.2. Cảm hứng về tình yêu đôi lứa .............................................................. 61

2.3. Cảm hứng viết về phong tục, tập quán đậm bản sắc Tày .................... 69

Chương 3. NHỮNG ĐIỂM NỔI BẬT VỀ NGHỆ THUẬTTRONG THƠ

MA TRƯỜNG NGUYÊN ......................................................................... 82

3.1. Hình ảnh thơ mang đậm sắc miền núi .................................................. 82

3.2. Ngôn ngữ thơ đậm chất Tày ............................................................... 104

3.3. Thơ song ngữ Tày- Việt: .................................................................... 113

PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................. 126

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 129

PHỤ LỤC

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Văn học các dân tộc thiểu số là một bộ phận của văn học Việt Nam,

có vẻ đẹp, sắc thái riêng, in đậm bản sắc văn hóa các dân tộc anh em với nhiều

cá tính sáng tạo độc đáo. Đối với lĩnh vực thơ ca, những nhà thơ các dân tộc ít

người đã đóng góp vào nền thơ ca hiện đại Việt Nam một thế giới nghệ thuật

thực sự mới lạ, sinh động với những gương mặt mới, những giọng điệu riêng.

Mỗi người trong số họ đã tạo ra một tiếng nói, một gương mặt, một phong cách

thơ riêng biệt, độc đáo, tạo nên một vườn hoa thơ dân tộc đầy hương sắc. Đó là

các nhà thơ Bàn Tài Đoàn, Triệu Kim Văn (dân tộc Dao); Cầm Biêu, Vương

Trung, Lò Văn Cậy, Lò Cao Nhum (dân tộc Thái); Mã Thế Vinh (dân tộc

Nùng); Vương Anh (dân tộc Mường); Lò Ngân Sủn (dân tộc Giáy); Lâm Quý

(dân tộc Cao Lan), Pờ Sảo Mìn (dân tộc Pa Dí), Dư Thị Hoàn (dân tộc Hoa)…..

Riêng đối với Dân tộc Tày, đã đánh dấu sự trưởng thành của nhiều

gương mặt như: Nông Quốc Chấn, Nông Viết Toại, Triều Ân, Mai Liễu, Lương

Định, Triệu Lam Châu, Vi Thị Kim Bình, Y Phương, Dương Thuấn, Ma

Trường Nguyên... Có thể thấy ở mỗi tác giả đều gắn với những hoàn cảnh và

điều kiện xã hội cụ thể, trong đó không thể phủ nhận vai trò góp sức của

nhiều yếu tố khác trong xã hội.

Hầu hết những gương mặt trên là những trí thức sống gắn bó với quê

hương dân tộc mình. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ và xây dựng đất

nước, họ sống, lao động, chiến đấu gắn bó với thực tế và nhiều người trong số

đó được học tập đào tạo, bồi dưỡng trở thành văn nghệ sỹ chuyên nghiệp như

Triều Ân, Mã Thế Vinh, Y Phương, Ma Trường Nguyên... Hiện nay, chúng ta

đã có một đội ngũ nhà thơ dân tộc thiểu số vững vàng về tay nghề và có đóng

góp đáng kể cho nền văn học dân tộc nước nhà. Trong số đó có Ma Trường

Nguyên, một trong những nhà thơ dân tộc Tày có bản sắc riêng. Cùng với các

2

nhà thơ khác, ông đã có nhiều đóng góp cho sự nghiệp văn học tỉnh nhà nói

riêng và nền văn học các dân tộc thiểu số nói chung.

Miệt mài “trên cánh đồng chữ nghĩa”, tính đến nay ông đã cho ra đời 20

đầu sách (8 tiểu thuyết, 6 tập thơ, 1 trường ca, 1truyện thiếu nhi, 1 tự truyện, 1

tập ký, 2 tập tiểu luận và phê bình). Sáng tác của nhà thơ Ma Trường Nguyên

mang đậm hơi thở cuộc sống và con người miền núi với những yếu tố nghệ

thuật giàu bản sắc dân tộc. Ông đã đạt khá nhiều giải thưởng, trong đó có Giải

thưởng của Uỷ ban toàn quốc liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam: Tiểu thuyết

"Rễ người dài" (1996). Giải thưởng Hội VHNT các DTTS Việt Nam: Cây nêu,

thơ (2007) giải C; Hiện đại mà dân tộc, tiểu luận (2010) giải Khuyến khích;

Trên cánh đồng chữ nghĩa, tiểu luận (2012), giải Khuyến khích. Giải thưởng

sáng tác, quảng bá tác phẩm VHNT, báo chí về "Học tập và làm theo tấm gương

đạo đức Hồ Chí Minh": Chùm thơ 6 bài (2015) giải Khuyến khích. Giải thưởng

VHNT tỉnh 5 năm: Trái tim không ngủ (thơ), giải C; Mũi tên ám khói, (tiểu

thuyết) giải B 1997; Mùa hoa hải đường, (tiểu thuyết), giải B 2002; Câu hát

vắt qua vai, (thơ) giải B, 2006; Dưới vòm cây thiên tuế (thơ) giải C; Điệu then

Pác Bó, Cây ổi mọc trước cửa hang Pác Bó (thơ), giải B, 2014.

1.2. Đọc thơ Ma Trường Nguyên ta thấy dù ở đề tài nào các sáng tác

cũng mang đậm chất Tày. Nguồn cảm hứng chủ đạo trong các sáng tác của ông,

đó là tình yêu quê hương, đất nước, về những thay đổi lớn lao của số phận dân

tộc, từ kiếp đói nghèo, nô lệ được làm chủ cuộc đời; về cuộc sống và con người

miền núi, tình cảm gia đình, tình yêu đôi lứa, về những nơi tác giả đã từng

qua… Và ở đề tài nào Ma Trường Nguyên cũng thể hiện một cách chân thực,

giản dị như chính suy nghĩ và con người tác giả.

Cùng với các bài thơ viết bằng tiếng Việt, Ma Trường Nguyên còn sáng

tác thơ song ngữ Việt- Tày (Phuối đuổi căn; Roọng Slao; Khay cằm lượn noọng

bên slung; Pắc nỉ; Sài Gòn cầư cụng mì tói…). Nghiên cứu thơ Ma Trường

Nguyên, sẽ thấy ở đó những nét khác lạ. Dấu ấn, bản sắc văn hóa Tày hiện lên

3

đậm nét trong tác phẩm, trong trải nghiệm cuộc đời, ở chiều sâu văn hóa. Nhưng

điều đáng trân quý ở nhà thơ Tày ấy là không bó hẹp chỉ trong cuộc sống sinh

hoạt của người Tày mà vượt lên, vươn xa như một dấu nối với thơ ca các dân

tộc khác. Tác phẩm vì thế mà mở rộng biên độ, phong phú đề tài về cuộc sống,

con người. Ông viết về những nét văn hóa, về vùng đất nơi ông sinh ra và lớn

lên (Cây Nêu; Tiếng lá rừng gọi đôi …), về những vùng đất ông từng đặt chân

đến, từng ghé thăm (Du thuyền trên sông Hương; Trước biển Cửa Lò; Nụ cười

An Giang; Sào Gòn ai cũng có đôi; Sông Bến Hải…), kể cả ở nước ngoài (Dòng

người viếng Lê Nin; Dâng hoa trước tượng Đài; Tôi làm thợ ảnh; Thăm bức

tranh tròn nhà danh họa Ru- Bô; Đến Nam Ninh; Bến Thượng Hải…). Và điều

quan trọng, các sáng tác của ông tuy thấm đẫm bản sắc văn hóa dân tộc mình

nhưng vẫn giao hòa với vùng văn hóa rộng lớn để hợp lưu thành con sông văn

chương Việt Nam và nói như chính tác giả “Hiện đại mà dân tộc”.

1.3. Là một nhà báo công tác tại Đài PT- TH Thái Nguyên, đơn vị truyền

thông với 4 loại hình Báo chí là Báo nói, Báo hình, Báo điện tử và Tạp chí PT-

TH. Hiện Đài có chương trình phát thanh tiếng Tày; chuyên mục truyền hình:

“Văn hóa và Du lịch”, “Dân tộc và Miền núi”, “Đất và Người Thái Nguyên”,

“Văn học nghệ thuật”, “Gương mặt nghệ sỹ” cùng một số chương trình khác.

Chính vì vậy tôi nhận thấy việc nghiên cứu thơ của Ma Trường Nguyên - nhà

thơ người Tày, người con của Thái Nguyên là rất có ý nghĩa. Qua đó, sẽ giúp

tôi hiểu hơn về thơ được sáng tác bằng tư duy và sáng tạo của người Tày, về

nhà thơ và những đóng góp của ông đối với thơ ca dân tộc thiểu số nói riêng,

thơ ca hiện đại Việt Nam nói chung. Đặc biệt, tôi sẽ hiểu sâu sắc hơn về bản

sắc văn hóa dân tộc Tày - một trong những dân tộc thiểu số ở Thái Nguyên,

cũng như có ý thức gìn giữ nép đẹp truyền thống quý báu đó thông qua việc

thực hiện các tác phẩm báo chí. Từ đó, góp phần tuyên truyền, nâng cao nhận

thức của đồng bào dân tộc Tày trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên gìn giữ và phát

4

huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc mình theo tinh thần Nghị quyết Trung

ương 5 (khoá VIII).

2. Lịch sử vấn đề

Ma Trường Nguyên là một nghệ sĩ đa tài. Ông không chỉ làm thơ, viết

văn mà còn viết tiểu luận, phê bình. Ông bắt đầu bằng sáng tác thơ, rồi sau

viết văn xuôi. Tác giả tâm sự rất hồn nhiên: “Cái gì mà thơ không nói được

thì tôi nói trong tiểu thuyết; và ngược lại, cái gì không nói được trong tiểu

thuyết tôi nói trong thơ”. Sống thật để viết thật. Viết từ tâm hồn không có

chút giả dối. Chỗ mạnh và cái hay của tác phẩm Ma Trường Nguyên phần

lớn là ở chỗ đó.

Là nhà thơ dân tộc thiểu số có nhiều tác phẩm được công bố, được nhận

giải thưởng của Trung ương và địa phương, có nhiều bài thơ để lại dấu ấn trong

lòng bạn đọc, như đã nói ở trên, thơ Ma Trường Nguyên đã thu hút được một

số người nghiên cứu, phê bình. Ma Trường Nguyên đã được nhắc đến qua một

số công trình nghiên cứu về thơ dân tộc thiểu số nhưng còn rất ít: Tập sách Văn

học dân tộc Việt Nam thời kỳ hiện đại- một số đặc điểm, NXB Đại học Thái

Nguyên, 2015, do PGS.TS. Trần Thị Việt Trung và PGS.TS. Cao Thi Hảo đồng

chủ biên; Tập sách Bản sắc dân tộc trong thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam

hiện đại, NXB Đại học Thái Nguyên, 2015 do PGS.TS. Trần Thị Việt Trung

chủ biên.

Đã có nhiều nhà văn, nhà thơ viết về Ma Trường Nguyên với những tâm

sự chân thật. Trung Trung Đỉnh cho đó là “Người đốt lửa bằng trái tim” với

“dáng vẻ chân tình đến thật thà và hiền lành”. Ngô Quang Miện sau khi đọc

xong thơ Ma Trường Nguyên đã cảm nhận: “Bắt gặp cái mộc mạc, hồn nhiên

của những con người sống giữa thiên nhiên. Những câu thơ không khắc họa,

không xoáy sâu nhưng để lại cái gì đó như một hương cây cỏ nguyên sơ, giữa

một bầu không khí ban mai trong trẻo”. Phạm Tiến Duật cho đó là “tâm hồn

nhiều say đắm”. Hồ Thủy Giang gọi đó là “một trái tim thức cùng năm tháng”

5

và “hiền lành một cách bẩm sinh”. Nguyễn Đức Thiện cho rằng Ma Trường

Nguyên “nói năng chất phác, thật thà của người Tày gốc”, và “chất rừng núi,

chất dân tộc đã được thể hiện sâu sắc không chỉ ở tả cảnh, tả người mà nó còn

đậm đà trong tình cảm”….Chính vì vậy, Ma Trường Nguyên đã trở thành đối

tượng nghiên cứu qua một số bài viết của các tác giả Phạm Tiến Duật, Ngô

Quân Miện, Vũ Nho, Hoàng Quảng Uyên, Lê Xuân, Nguyễn Đức Hạnh, Lâm

Tiến, Hồ Thủy Giang, Nguyễn Thúy Quỳnh, Nguyễn Đức Thiện; một số bài

viết phê bình trên các báo, tạp chí của các tác giả khác về thơ Ma Trường

Nguyên, đặc biệt là thơ viết về tình yêu.

Ngoài ra có luận văn tốt nghiệp đại học Hình tượng nhân vật phụ nữ

trong một số tiểu thuyết của Ma Trường Nguyên của tác giả Trần Thị Hạnh;

Luận văn Đặc điểm tiểu thuyết Ma Trường Nguyên (2013); luận văn Thơ Ma

Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Nguyễn Thúy Quỳnh- từ góc nhìn văn hóa

(2016). Và nói như Phạm Tiến Duật “Thơ Ma Trường Nguyên thấm đẫm giọng

dân ca và âm điệu đàn Tính của dân tộc Tày nơi quê hương anh…” (Tạp chí

“Diễn đàn văn nghệ Việt Nam”, số 4- 2004).

Điểm lại lịch sử vấn đề nghiên cứu về các tác phẩm của Ma Trường

Nguyên nói chung và thơ Ma Trường Nguyên nói riêng, chúng tôi thấy những

bài nghiên cứu, phê bình mới chỉ dừng lại ở việc nhìn nhận, đánh giá một số

tác phẩm của nhà thơ, đặc điểm ngôn ngữ thơ cũng như về thể loại tiểu thuyết.

Hiện nay chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu, khảo sát một cách có

hệ thống về bản sắc dân tộc Tày trong thơ của Ma Trường Nguyên, trong đó có

thơ song ngữ. Qua quá trình khảo sát, cùng với những ý kiến đánh giá của các

nhà nghiên cứu đi trước sẽ là những gợi ý quý báu cho việc triển khai đường

hướng nghiên cứu của chúng tôi, để từ đó chỉ ra nét duyên riêng của nhà thơ

“rất Tày” trong sự phát triển của văn học Việt Nam nói chung và văn học dân

tộc thiểu số nói riêng.

6

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu trực tiếp của luận văn là toàn bộ những sáng tác thơ

của Ma Trường Nguyên. Nội dung chính của luận văn tập trung vào phân tích

bản sắc dân tộc Tày trong thơ ông. Ngoài ra, còn tham khảo một số tập thơ của

các tác giả dân tộc Tày khác như Y Phương; Dương Thuấn… để có sự so sánh,

làm rõ hơn đặc điểm của thơ Ma Trường Nguyên cũng như sự đồng điệu của các

nhà thơ dân tộc thiểu số khác cùng miền Đông Bắc.

3.2. Mục tiêu nghiên cứu

Luận văn hướng tới việc làm nổi bật những nét đặc sắc về nội dung, nghệ

thuật, tính sáng tạo, tính mới của thơ Ma Trường Nguyên, trong đó có cả thơ

song ngữ. Từ đó thấy được nét riêng mang đậm bản sắc dân tộc cũng như những

đóng góp của Ma Trường Nguyên đối với thơ ca dân tộc thiểu số nói riêng, thơ

ca Việt Nam hiện đại nói chung.

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu

4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu

Làm rõ đặc điểm về nội dung và nghệ thuật trong thơ Ma Trường

Nguyên. Trên cơ sở đó, khẳng định những nét riêng, mang đậm chất Tày, những

đóng góp của tác giả đối với sự phát triển của thơ ca dân tộc thiểu số Việt Nam

và thơ ca Việt Nam thời kỳ hiện đại.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sẽ lựa chọn những phương pháp nghiên

cứu cụ thể sau:

- Phương pháp tiểu sử;

- Phương pháp thống kê, phân loại;

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành;

- Phương pháp so sánh, đối chiếu;

- Vận dụng một số phương pháp nghiên cứu theo hướng Thi pháp học.

7

5. Phạm vi nghiên cứu

- 6 tập thơ, 1 trường ca của nhà thơ Ma Trường Nguyên.

+ Mát xanh rừng cọ, Sở Văn hóa Bắc Thái, 1985

+ Trái tim không ngủ, Hội Văn nghệ Bắc Thái,1988

+ Tiếng lá rừng gọi đôi, NXB Văn hóa Dân tộc, 1996

+ Câu hát vắt qua vai, Hội Văn nghệ Thái Nguyên, 2005

+ Cây Nêu, NXB Nhà văn, 2006

+ Bắc cầu vồng thăm nhau, NXB Hội nhà văn, 2007

+ Mở núi, NXB Hội nhà văn, 2011

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung

chính của Luận văn bao gồm 3 chương:

Chương 1: Khái quát chung về thơ ca dân tộc thiểu số hiện đại và nhà

thơ Ma Trường Nguyên.

Chương 2: Cảm hứng chủ đạo trong thơ Ma Trường Nguyên.

Chương 3: Những điểm nổi bật về nghệ thuật trong thơ Ma Trường

Nguyên.

7. Đóng góp của luận văn

- Luận văn chỉ ra một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật mang bản

sắc dân tộc trong thơ Ma Trường Nguyên.

- Khẳng định những đóng góp đáng trân trọng của nhà thơ Ma Trường

Nguyên trong bộ phận thơ ca dân tộc thiểu số thời kì hiện đại.

- Kết quả của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những

người quan tâm nghiên cứu thơ ca dân tộc thiểu số và thơ ca Việt Nam nói

chung; là tài liệu phục vụ cho việc giảng dạy thơ ca dân tộc thiểu số trong

chương trình giáo dục ở bậc phổ thông nói riêng. Đây cũng là tài liệu giúp bổ

sung thêm kiến thức, hiểu biết phục vụ cho công việc chuyên môn của một

người làm báo.

8

Chương 1

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THƠ CA DÂN TỘC THIỂU SỐ

HIỆN ĐẠI VÀ NHÀ THƠ MA TRƯỜNG NGUYÊN

1.1. Vài nét về thơ ca dân tộc thiểu số hiện đại

Văn học hiện đại các dân tộc thiểu số nói chung, thơ ca hiện đại các dân

tộc thiểu số nói riêng, từ lâu đã được khẳng định là một bộ phận văn học có vẻ

đẹp, có sắc thái riêng, in đậm dấu ấn tâm hồn và giàu bản sắc văn hóa các dân

tộc anh em, với nhiều cá tính sáng tạo độc đáo. Riêng trong lĩnh vực thơ ca,

những nhà thơ các dân tộc ít người đã đóng góp vào nền thơ ca hiện đại Việt

Nam một thế giới nghệ thuật thơ thực sự mới lạ, sinh động với những gương

mặt mới, những giọng điệu riêng. Theo Trần Đăng Xuyền thì: Thơ là nghệ thuật

kì diệu bậc nhất của con người. Thơ của các nhà thơ dân tộc ít người là thứ

nghệ thuật hai lần kì lạ, vì đây là tiếng nói hồn nhiên nhất, thể hiện tinh tế, sâu

sắc điệu tâm hồn độc đáo của từng nhà thơ, qua đó làm ngời lên gương mặt

tinh thần, vẻ đẹp tâm hồn của các dân tộc anh em trên đất nước thân yêu của

chúng ta [61;6]. Trong mỗi giai đoạn phát triển, bên cạnh những nét truyền

thống cơ bản, thơ ca các dân tộc thiểu số lại có những nét riêng phù hợp với sự

phát triển và hoàn cảnh lịch sử.

1.1.1. Giai đoạn trước năm 1945:

Theo một số nhà nghiên cứu thì văn học dân tộc thiểu số nói chung, thơ

ca dân tộc thiểu số nói riêng đã xuất hiện từ thế kỷ XVII với hai tác giả dân tộc

Tày Bế Văn Phùng và Nông Quỳnh Vân với hai bản trường ca Tam nguyên

luận và bài Lượn tứ quý được viết bằng chữ Nôm Tày và thể thơ 7 chữ. Tiếp

đó, cuối thế kỷ XIX xuất hiện thêm hai nhà thơ dân tộc Thái là Ngần Văn Hoan

và Lò Văn Thứ. Hai tác giả này sáng tác thơ chủ yếu để hát. Nhân dân gọi Ngần

Văn Hoan là sláy khắp, với nghĩa là người chuyên sáng tác thơ hát và hát rất

giỏi. Ông kế thừa và vận dụng một cách thuần thục những truyện thần thoại,

9

truyện cổ tích, truyện thơ và tục ngữ, ca dao, dân ca Thái vào tác phẩm thơ hát

của mình. Tác phẩm nổi tiếng của ông là Lời hát nền Văn Hoan, là bài thơ dài

2.300 câu được viết với hình thức đối đáp của 2 nhân vật nam và nữ. Thơ ca

Ngần Văn Hoan gần gũi với văn học dân gian, gần gũi với tiếng nói hàng ngày

của người dân tộc. Với cách viết đó, ông đã đưa văn học dân gian Thái lên đỉnh

cao mới, làm cho thơ dân gian Thái phong phú, trong sáng và giàu hình tượng.

Tuy nhiên, đây chỉ là những hiện tượng lẻ tẻ và số lượng tác phẩm họ

sáng tác cũng không nhiều, vì thi pháp lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học

dân gian, và được viết bằng tiếng dân tộc, nên sức lan tỏa chỉ mang tính phạm

vi vùng miền.

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cùng với sự hình thành và phát triển của

nền văn học quốc ngữ, văn học viết dân tộc thiểu số miền núi cũng đã xuất hiện

với sự tham góp của nhiều tác giả ở nhiều dân tộc khác nhau, trong đó có khá

nhiều tác giả dân tộc Tày sáng tác thơ bằng chữ Hán như Hà Vũ Bằng, Bế Ích

Bồng, Nông Đình Cấp, Bế Đức Cốm, Lê Văn Dự, Nông Đình Đối…Đặc biệt,

có Hoàng Đức Hậu (1890 – 1945) là một hiện tượng đáng chú ý. Nhà thơ dân

tộc Tày ở Cao Bằng này đã sáng tác bằng 3 loại ngôn ngữ Tày, Hán và Quốc

ngữ. Trong số 121 bài thơ Đường luật ông để lại có 115 bài viết bằng chữ Tày,

3 bài là chữ Quốc ngữ và 3 bài bằng chữ Hán. Ông được coi là một hiện tượng

độc đáo của văn học dân tộc thiểu số thời kì đầu thế kỷ XX. Đó là một nhà thơ

có phong cách riêng và không ngừng tìm tòi, cách tân, sáng tạo thể thơ Đường

luật để tạo nên tiếng nói riêng, cách thể hiện riêng, mới mẻ, độc đáo, không

dùng hình tượng thơ mang tính ước lệ, khuôn sáo, như hình ảnh Tùng, Cúc,

Trúc, Mai hay Nguyệt, Phong, Vân… không mang tính khuôn mẫu, phù hợp

với sự tiếp nhận của độc giả. Thơ ông không chỉ ảnh hưởng tới những nhà thơ

cùng thời, mà còn ảnh hưởng tới những nhà thơ Tày thế hệ sau như Nông Quốc

Chấn, Nông Viết Toại, Triều Ân, Dương Thuấn, Y Phương… Chính ông đã

10

góp phần làm nên một hiện tượng thơ độc đáo trong đời sống thơ ca dân tộc

thiểu số cũng như thơ ca Việt Nam nói chung.

Vào những năm 1930 - 1940, cùng với thơ ca cách mạng của đất nước,

một mảng thơ cách mạng của các dân tộc thiểu số ra đời. Tác giả của mảng thơ

này là những chiến sĩ người dân tộc thiểu số hoạt động cách mạng: Hoàng Văn

Thụ, Hoàng Đình Giong, Dương Công Hoạt… Nổi bật trong mảng thơ ca này

là bài thơ “Nhắn bạn” của Hoàng Văn Thụ. Đây là bài thơ viết bằng tiếng Việt

theo thể thơ Đường luật. Còn phần lớn các bài thơ khác được lồng vào các điệu

dân ca quen thuộc. Với những sáng tác này, hiện thực cách mạng đã ùa vào đời

sống văn hóa, văn học các dân tộc thiểu số và đặt nền móng vững chắc cho thơ

ca cách mạng và kháng chiến của các dân tộc thiểu số Việt Nam phát triển.

Những người chịu ảnh hưởng trực tiếp của thơ ca thời kỳ này và sự phát triển

mạnh mẽ ở giai đoạn sau là Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, Nông Viết Toại,

Nông Minh Châu…

Vào cuối những năm 40 của thế XX đã xuất hiện một số bài thơ của các

nhà thơ dân tộc thiểu số có nội dung cách mạng, có tác dụng giác ngộ cao đối

với quần chúng nhân dân các dân tộc vùng cao như Lùa chó dậy (1940) của tác

giả Cầm Biêu; Dặn vợ, dặn con của Bàn Tài Đoàn (1944), Nông Quốc Chấn có

bài Khóc đồng chí hay Mưa gió:

….. Đồi núi bốn bề những cơn gió lốc

Ngược xuôi sôi sục nước lũ ngập ruộng nương

Hùm báo gọi nhau đi kiếm ăn từng lũ,

Chim muông bay nhảy để gìn giữ chim muông.

Mặc gió mặc mưa, chúng ta đừng hoảng hốt!

Ngày mai trời nắng, sông núi sẽ huy hoàng.

Mang tính ẩn dụ cao, tác giả đã mượn hình ảnh của thiên nhiên để nói

về hoàn cảnh hiện tại của đất nước, quê hương ông, và ở đây có tính tư tưởng

rõ rệt: dù đất nước đang rơi vào hoàn cảnh khó khăn, loạn lạc, nhưng một tương

11

lai tươi sáng sẽ đến với đồng bào dân tộc. Có thể coi đây là bài thơ trữ tình

mang tính hiện thực được viết với cảm hứng lãng mạn cách mạng đầu tiên của

thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.

Có thể nói, thơ ca các dân tộc thiểu số giai đoạn trước năm 1945 tuy mới

chỉ là sự bắt đầu, chưa phải đã có nhiều sáng tác nhưng cũng đã để lại dấu ấn

riêng, đã có tính sáng tạo, đổi mới, có tính hiện thực cách mạng. Chính điều

này đã góp phần làm phong phú, đa dạng cho nền thơ ca dân tộc, cũng như đặt

nền móng vững chắc cho thơ ca cách mạng và kháng chiến của các dân tộc

thiểu số Việt Nam phát triển ở những giai đoạn sau.

1.1.2. Giai đoạn 1945-1975:

* Giai đoạn 1945- 1954:

Đây là thời kỳ thơ ca Việt Nam phát triển khá mạnh mẽ, trong đó có thơ

ca các dân tộc thiểu số. Hòa cùng dòng chảy chung của văn học dân tộc với

tinh thần yêu nước, căm thù giặc, ca ngợi cách mạng, thơ ca của các tác giả dân

tộc thiểu số giai đoạn này cũng góp một tiếng nói bảo vệ đất nước, chống giặc

ngoại xâm, với nội dung phản ánh cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ

nhưng chiến thắng lẫy lừng của dân tộc ta.

Ở thời kỳ này, những nhà thơ dân tộc thiểu số đã xuất hiện từ trước năm

1945 đến nay tiếp tục phát triển với hàng loạt các sáng tác về cuộc sống, con

người miền núi trong cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Bên cạnh đó là

sự xuất hiện của một số các nhà thơ dân tộc thiểu số khác, đã hăm hở sáng tác

những bài thơ thấm đẫm tinh thần yêu nước, tinh thần hi sinh vì nền độc lập

dân tộc và lòng tự hào, tự tôn dân tộc.

Về tác giả, chủ đạo vẫn là những tên quen thuộc như Nông Quốc Chấn,

Nông Minh Châu, Nông Viết Toại (dân tộc Tày), Cầm Biêu, Lương Quy Nhân,

Hoàng Nó (dân tộc Thái), Bàn Tài Đoàn (dân tộc Dao)…

Về tác phẩm, Nông Quốc Chấn đã có bài thơ Việt Bắc đánh giặc (1948),

Khâu áo (1948), Dọn về làng (1950):

12

….. Sáng mai về làng sửa nhà phát cỏ,

Cày ruộng vườn, trồng lúa ngô khoai

Mấy năm qua quên tết tháng Giêng, quên rằm tháng bảy,

Chạy hết núi lại khe, cay đắng đủ mùi

Nhớ một hôm mù mịt mưa rơi

Cơn gió bão trên rừng cây đổ

Cơn sấm sét lán sụp xuống nát cửa

Ðường đi lại vắt bám đầy chân…

Ngoài những bài thơ trên, Nông Quốc Chấn còn có các bài Đi Béc Linh

về (1951), Đời chúng em (1952), Nói với các anh (1953), Rời rừng (1954) và

Thư lên Điện Biên (1954); Tác giả Nông Minh Châu có Đêm Ba Khe (1952),

Đuổi nhau (1952), Thầm ca (1953), Người thanh niên giữ Đèo Giàng (1953),

Gửi anh bạn Triều Tiên (1953), Gửi anh Chương (1954), Hai lời gửi mẹ (1954);

Nông Viết Toại có Pây bộ đội (Đi bộ đội), Lần truyện cáu (Nói chuyện cũ-

1954), Kin khẩu mấư (Ăn cơm mới- 1954); Cầm Biêu có Vợ lính ngụy mong

chồng (1949), Gái thời giặc (1950), Mường muổi yên vui (1954); Lương Quy

Nhân có Cán bộ với dân Mường (1947); Hoàng Nó có Tội ác giặc Pháp ở đồn

Pom Nghê (1948); Bàn Tài Đoàn có Chiến thắng Nghĩa Lộ (1952), Mừng thủ

đô giải phóng (1954); Bác về thủ đô…

Chúng ta nhận thấy rằng, lớp nhà thơ đầu tiên của các dân tộc thiểu số

đã được ra đời và trưởng thành luôn gắn liền với phong trào cách mạng Việt

Nam. Hầu hết họ đều xuất thân từ các bản làng miền núi xa xôi, từ các gia đình

lao động nghèo khổ, bị áp bức bóc lột nặng nề. Với điều kiện xuất thân như vậy

nên giữa họ và nhân dân lao động miền núi không có khoảng cách. Họ gắn bó

với nhân dân và đến với cách mạng một cách tự nguyện, tự nhiên. Mặt khác,

họ đều được đắm mình trong mạch nguồn văn hóa, văn học dân gian dân tộc

miền núi, được hấp thụ những tinh hoa văn hóa dân tộc một cách tự nhiên như

ăn cơm, nước uống, như khí thở hàng ngày.

13

Nên có thể nói, cách mạng, quê hương miền núi và nền văn hóa dân gian

dân tộc là 3 nguồn mạch chính đã tạo nên cảm hứng, nuôi dưỡng và phát triển

thơ ca các dân tộc thiểu số trong những năm tháng đấu tranh cách mạng và

trong cuộc kháng chiến chống Pháp thần thánh của dân tộc. Cũng ở giai đoạn

này, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã cất lên tiếng nói cùng những suy nghĩ,

những niềm tâm sự, những tình cảm chân thành, thiết tha và cảm động của dân

tộc mình đối với cách mạng, đối với Đảng, với Bác Hồ vô vàn kính yêu. Sự kết

hợp giữa tư tưởng yêu nước, yêu quê hương với lòng tự hào, tự tôn dân tộc đã

tạo niềm hứng khởi và sự sáng tạo trên cơ sở kế thừa và phát huy vốn văn hóa,

văn học dân gian phong phú, giàu bản sắc cho các nhà thơ dân tộc thiểu số thời

kỳ này. Các tác phẩm của họ đều đậm đặc chất dân tộc. Thơ họ gắn liền với

thiên nhiên, với con người miền núi, gắn liền với những sự kiện, những biến

động lớn lao của xã hội miền núi. Họ hướng ngòi bút vào việc phản ánh cuộc

sống cách mạng và kháng chiến ở vùng dân tộc mình, về những tâm tư, cảm

nhận, những nỗi niềm của đồng bào các dân tộc thiểu số. Nhà thơ Bàn Tài Đoàn

có bài thơ Kể chuyện đời có thể coi như tiếng nói tâm tình của người Dao từ

trong đau khổ, đói rách và tăm tối đến với cách mạng:

Người dân bụng đói và áo rách

Dốt đặc chẳng biết chữ nào chơi

Có hai mắt mà như mù cả

Có tai như điếc cả cuộc đời…

Nhà thơ người Thái Cầm Biêu lại khắc họa chân thực và sinh động số

phận đau khổ, nhục nhã và bế tắc của người phụ nữ dân tộc mình dưới chế độ

thực dân phong kiến qua bài thơ Gái thời giặc:

Gái nhỏ thời sợ quan

Gái to thời sợ lính...

Hay bài thơ Vợ lính ngụy mong chồng:

Hỡi anh ơi! Người chồng em ngàn năm yêu dấu

Nghĩ tới anh, em những héo hon lòng...

14

Một trong những điều làm nên sức mạnh để con người vượt qua những

thử thách, khó khăn trong thời kỳ này là niềm tin vào Đảng và Bác Hồ:

....Chính phủ Cụ Hồ rất thương dân

Có chính sách khoan dung với người lầm đường lạc lối..

(Vợ lính ngụy mong chồng - Cầm Biêu)

Thơ ca giai đoạn này có sự vận động, phát triển khá phong phú. Nhìn

chung đã phản ánh được hiện thực cuộc sống, phản ánh những tâm tư, những

cảm nhận, những nỗi niềm của con người miền núi trong những ngày kháng

chiến gian khổ và anh dũng cùng những ngày sau chiến thắng Điện Biên Phủ

lừng lẫy.

Về nghệ thuật, một trong những đặc điểm nổi bật của thơ ca giai đoạn

này là sự ảnh hưởng và kế thừa thơ ca dân gian truyền thống. Đó là thể thơ 7

chữ 8 dòng, 7 chữ 4 dòng kéo dài, thơ Đường luật, lời thơ trong các làn điệu

dân ca như lượn, sli, páo dung…Bàn Tài Đoàn là người sử dụng trung thành

nhất thể thơ truyền thống xưa của dân tộc Dao. Thơ ông chủ yếu là thơ 7 chữ,

nặng về phương thức tự sự, kể lể:

Mẹ lại được nghe anh cán bộ

Báo tin mừng giải phóng thủ đô

Bộ đội ta vào như nước chảy

Rầm rập cờ đỏ cắm đầy khắp nơi….

Vào cuối giai đoàn này, tức vào những năm đầu của thập kỷ 50, các nhà

thơ dân tộc thiểu số đã có nhiều bài thơ sáng tác theo thể thơ tự do, mang màu

sắc hiện đại hơn. Tiêu biểu như bài “Bộ đội ông cụ” của Nông Quốc Chấn, bài

thơ “Qua cánh đồng Lanh Chanh”, “Tay súng tay bay” của Nông Minh

Châu… Đây là điểm rất đáng khẳng định của thơ ca giai đoạn này.

Bên cạnh đó, một đặc điểm nổi bật cần nhắc đến của thơ dân tộc thiểu số

thời kỳ này, là hầu hết các nhà thơ đều sáng tác bằng tiếng dân tộc, phản ánh

đúng tâm tư, tình cảm, diễn đạt đúng theo cách nói, cách nghĩ của đồng bào dân

15

tộc thiểu số. Do đó, những bài thơ này rất có tác dụng giác ngộ, giáo dục, động

viên đồng bào trong công cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta.

Có thể nói, thơ giai đoạn 1945- 1954 đã mang đậm bản sắc dân tộc từ

hình thức cho đến nội dung. Giá trị nổi bật của thơ ca giai đoạn này chính là

việc các nhà thơ đã phản ánh được thế giới tâm tư tình cảm và con người miền

núi trong một giai đoạn lịch sử. Những con người vượt lên hoàn cảnh khó khăn,

thiếu thốn để chiến đấu cho cuộc sống tự do với một lòng căm thù giặc, có niềm

tin với Đảng, Cách mạng và Bác Hồ.

* Giai đoạn 1954- 1975:

Sau năm 1954, đời sống cách mạng của đất nước ta có nhiều thay đổi:

miền Bắc được giải phóng, đất nước ta bước vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa

xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Người dân tộc thiểu số

được thoát khỏi kiếp nô lệ lầm than. Việc giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội giữa

miền xuôi, miền ngược thuận lợi hơn. Nhân dân các dân tộc có dịp tiếp xúc với

vùng miền xuôi, thành phố, thủ đô… Do đó, tầm nhìn của các nhà thơ dân tộc

cũng được mở rộng, trình độ được nâng cao, các tác giả người dân tộc thiểu số

đã đưa thơ dân tộc thiểu số sau 1954 bước vào một giai đoạn mới với khá nhiều

thành tựu.

Ở thời kỳ này, thơ ca các dân tộc thiểu số được ví như mùa xuân thứ

nhất, bởi sự ra đời của nhiều bông hoa trong vườn thơ nhiều hương sắc. Đội

ngũ sáng tác ngày càng đông đảo, số lượng tác phẩm nhiều, chất lượng sáng

tác ngày càng cao.

Bên cạnh những tác giả thơ thuộc lớp trước vẫn tiếp tục sáng tác một

cách tích cực như Nông Quốc Chấn, Nông Viết Toại, Nông Minh Châu, Cầm

Biêu, Hoàng Nó, Bàn Tài Đoàn…, thời kỳ này còn xuất hiện một lớp tác giả

mới được đào tạo dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, có trình độ văn hóa và ít

nhiều được trang bị kiến thức lý luận về sáng tác như Mã A Lềnh, Mã Thế

Vinh, Vương Anh, Triều Ân…

16

Có thể nói, đây là một thời kỳ thăng hoa của thơ ca các dân tộc thiểu số,

bởi một loạt các tập thơ của các nhà thơ dân tộc thiểu số giai đoạn này đã xuất

hiện trong đời sống thơ ca Việt Nam. “Các nhà thơ miền núi say sưa cất giọng

ca của dân tộc mình hòa chung vào bản hợp xướng thơ ca dân tộc Việt Nam,

tạo nên một đời sống thơ vô cùng phong phú, đầy hào sảng của dân tộc…”.

[61;62].

Đó là các tập thơ của Nông Quốc Chấn: Người núi hoa (1958), Tiếng ca

người Việt Bắc (1959), Đèo gió (1968), Dám kha Pác Bó (1972); Triều Ân có

Tiếng hát rừng xa (1974), Nắng ngàn (1974); Hoàng Nó có Tiếng hát mường

Hoa Ban; Vương Trung có Ing Éng (1967); Mã A Lềnh có Rừng sáng (in

chung); Bàn Tài Đoàn có Xuân về trên núi (1963), Một giấc mơ (1964), Kể

chuyện đời (1968), Rừng xanh (1973), Sáng cả hai miền (1975)...

Nội dung bao trùm thơ ca các dân tộc thiểu số viết về cuộc sống mới

trong hòa bình tràn đầy niềm vui, niềm tự hào, niềm tin vào một tương lai tươi

sáng của dân tộc Việt Nam nói chung, đồng bào các dân tộc thiểu số nói riêng.

Hàng chục tập thơ với hàng trăm bài thơ của các tác giả dân tộc thiểu số đã

viết về đề tài ca ngợi cuộc sống mới - cuộc sống vĩ đại của đồng bào các dân

tộc thiểu số khi miền Bắc sạch bóng quân thù, cả nước bước vào công cuộc

xây dựng XHCN với niềm tin yêu, hi vọng, với bao niềm hân hoan, lòng nhiệt

thành cháy bỏng của mọi tầng lớp nhân dân các dân tộc thiểu số Việt Nam.

Các nhà thơ hướng ngòi bút của mình vào sự đổi thay lớn lao của quê hương

và bày tỏ tâm trạng phấn khởi của mình trước cuộc sống mới tràn đầy niềm vui,

niềm hạnh phúc. Quê hương Việt Bắc đã hoàn toàn sạch bóng quân thù:

Đầu mường hết giặc phản

Cuối bản hết giặc Tây

Dưới chân cầu thang đã sạch bóng giặc Mỹ…

(Biên giới lòng người - Lương Quy Nhân).

Họ tự hào và vui mừng khi thấy quê hương giàu đẹp:

17

Em ơi ! Việt Bắc đẹp giàu

Núi rừng trùng điệp muôn màu cỏ hoa

Trên Phja Dạ mây mù buông chướng

Dưới đất kia: quặng, sắt, bạc, vàng

Đi thuyền Ba Bể dọc ngang...

(Tiếng ca người Việt Bắc - Nông Quốc Chấn)

Hay:

Gà đầy sân đua gáy ấm nhà

Chuồng mới ủn ỉn tiếng lợn nái dỗ đàn con bé…

(Suối Đông và suối Tộc - Vương Trung)

Nhà thơ Tày Triều Ân đã say sưa ca ngợi cuộc sống mới trên quê hương

Việt Bắc:

Cử anh chủ nhiệm đi Hà Nội

Đón máy cày lên với cánh đồng

….

Hôm nay trâu sắt đi cày ruộng

Máy nổ ầm vang thức núi rừng…

(Quê ta, anh biết chăng)

Đúng là một sự đổi thay kì diệu mà theo tác giả, đó thực sự là cuộc đổi

đời lần thứ hai của các dân tộc vùng cao sau Cách mạng Tháng Tám. Đọc bài

thơ ta thấy hiện lên một khung cảnh lao động mới, đã có sự xuất hiện của máy

móc, của KHKT, điều mà trước đây chưa từng có ở các vùng nông thôn miền

núi, vùng xa. Đó thực sự là một cuộc thay da đổi thịt, cuộc sống mới tràn đầy

niềm vui, niềm hạnh phúc. Các dân tộc cùng nhau đoàn kết xây dựng quê

hương.

Những đổi thay về phương thức sản xuất, cảnh lao động tập thể trong

không khí lao động khẩn trương sôi nổi, tinh thần đoàn kết xây dựng quê

hương... cũng là một cảm hứng lớn trong thời kỳ này. Đối tượng mà các nhà

18

thơ phản ánh ngợi ca là những con người đang trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ

sự nghiệp chung của cả dân tộc. Đó là những người lính canh giữ biên thùy, là

người công nhân làm đường, là người nông dân một nắng hai sương trên ruộng

đồng... Từ cảm hứng về cuộc sống mới, hình tượng con người, đặc biệt là người

phụ nữ cũng đã được khắc họa cụ thể hơn. Người phụ nữ không còn mang thân

phận bị phụ thuộc, giờ đây họ có một vị thế mới, đó là những người tự do được

làm chủ cuộc đời mình và tham gia tích cực vào công tác xã hội. Họ tham gia

lao động trong hợp tác xã, trong các tổ đổi công, bộc lộ tài năng, sự khéo léo

của mình trong hội cấy thi, vận dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Họ đã trở

thành hoa trong mường:

Mẹ chờ con trai lại

- Tay mày sờ máy, mở tao nhìn

Mẹ nhìn con gái đến

- Tay mày cầm súng cầm có hay...

(Hoa trong mường - Vương Anh)

Nhiều cô gái đã trở thành người công nhân lao động xây dựng chủ nghĩa

xã hội:

Khăn Piêu nhuộm nắng mưa sa

Sánh vai nam giới, ca vang một lời

Vì chị là người

Công nhân trẻ tuổi...

(Chị em công nhân cầu đường –Hoàng Nó).

Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đem lại cho nhân dân những

biến đổi lớn lao trong cuộc sống. Trước cuộc sống tự do hạnh phúc hiện tại,

đồng bào các dân tộc thiểu số luôn bày tỏ lòng biết ơn Đảng, Bác Hồ. Cầm Biêu

có bài Muốn nhìn thấy Đảng (1958), Công Đảng, công Bác (1960); Bàn Tài

Đoàn viết Muối của cụ Hồ:

… .Từ khi cán bộ cụ Hồ đến

Ngoài chợ có bán nhiều thứ hàng

19

Có hàng bán muối tha hồ chọn

Có hàng bán vải đỏ, vải xanh

Cụ Hồ mang áo về, dân mặc

Cụ Hồ đem muối về, dân ăn

Nay Bác bảo ta đi đào đất

Mở thêm đường cái lên Đồng Văn

Có xe mang thêm nhiều muối đến

Người Mèo ta không sợ đói nghèo.

Có thể nói, chính công cuộc xây dựng xã hội mới - XHCN đã đem lại sự

thay đổi trong nếp cảm, nếp nghĩ, trong tư duy, tư tưởng của đồng bào. Họ luôn

có sự so sánh cuộc sống ngày nay với cuộc sống trước kia để thấy sự khác nhau

sâu sắc giữa hai chế độ nô lệ và tự do. Từ đó càng biết ơn Đảng, Bác Hồ, những

người đã cho họ cuộc sống hôm nay. Đây cũng là cảm hứng chủ yếu của thơ ca

dân tộc thiểu số thời kỳ này:

Thời Tây đem gai góc lấp đường

Thời ta không còn gì uy hiếp

(Có tổ đổi công - Cầm Biêu)

Bên cạnh nội dung ca ngợi cuộc sống mới, con người mới trong không

khí hòa bình ở miền Bắc, cuộc chiến tranh chống Mỹ và đấu tranh thống nhất

nước nhà cũng là một nội dung quan trọng trong thơ ca thời kỳ này. Đồng bào

các dân tộc thiểu số, trong đó có các nhà thơ đã dồn tình cảm và tâm huyết của

mình vào sáng tác, phản ánh cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước ở miền Bắc

và đấu tranh thống nhất ở miền Nam. Đồng bào các dân tộc thiểu số miền Bắc

luôn hướng về miền Nam ruột thịt với tình cảm chân thật, thiết tha. Nhà thơ

Nông Quốc Chấn đã viết bài Tiếng ca người Việt Bắc:

Chúng tôi người Việt Bắc

Không một lúc nào quên

Giành Nam Bắc nối liền

20

Giành lấy ngày thống nhất.

Vương Trung có Chở xác máy bay, Chèo thuyền đưa tiễn hay như bài

Chiếc khăn:

…Vừa bắn máy bay đứt đầu nát đuôi

Ánh lửa hồng chưa nguội

Anh lại sắp xa em đi bộ đội.

Vương Anh có một loạt bài viết về đề tài chống Mỹ như Nghe tiếng dế

Bản Đông, Nửa đêm nghe tiếng sấm, Mây khói Trường Sơn, Theo những dấu

chân….; Tác giả Cầm Biêu thì có bài Nam Bắc thống nhất…

Cũng ở thời kỳ này, các tác giả thơ miền núi không chỉ có sự phát triển

mạnh mẽ về đội ngũ, chất lượng sáng tác mà nhiều nhà thơ dân tộc thiểu số

đã có sự trưởng thành vượt bậc về trình độ, tư tưởng, về nghệ thuật. Họ thậm

chí đã trở thành những tác giả văn học, những nhà hoạt động văn hóa có uy

tín trong nước và quốc tế. Tuy được đi nhiều nơi nhưng họ vẫn luôn hướng về

cội nguồn, nhớ và giành tình yêu cho quê hương miền núi, những con người

miền núi giản dị, chân thật, tự hào về truyền thống văn hóa, bản sắc dân tộc

mình.

Về nghệ thuật, ở giai đoạn 1954 – 1975 ta thấy rõ 3 xu hướng nghệ thuật

trong sáng tác của các nhà thơ:

Thứ nhất, đó là xu hướng có sự ảnh hưởng sâu sắc của thi pháp thơ ca

dân gian. Ở xu hướng này có thể kể đến nhà thơ Bàn Tài Đoàn, Cầm Biêu,

Lương Quy Nhân, Hoàng Nó, Lò Văn Cậy, Mã Thế Vinh…Trong đó, Bàn Tài

Đoàn là người trung thành với thể thơ ca truyền thống lâu bền nhất. Thơ ông ít

yếu tố hiện đại, mà chủ yếu là cách nói dung dị hàng ngày của dân tộc Dao, ông

xa lạ với cách nói bóng gió, trau chuốt. Dù là so sánh, ví von thì ông cũng diễn

đạt một cách cụ thể, rất ít ẩn dụ. Và khi đọc thơ ông, ta luôn cảm nhận được

“cuộc sống thứ hai” của các bài thơ đó:

Hôm nay gặp bạn trên đường Việt Bắc

21

Xưa nay trên đường chỉ gặp con hươu

(Nam Bắc gặp nhau)

Tác giả Cầm Biêu cũng vậy, ông luôn giữ được nét đặc trưng của một

người làm thơ dân tộc truyền thống:

Mường của anh có cầu gang, cầu sắt

Bản của em có cầu lim lõi chắc…

(Cầu vào bản)

Có thể nói, ảnh hưởng sâu sắc của thi pháp thơ ca dân gian là một xu

hướng khá phổ biến trong các sáng tác của các nhà thơ dân tộc thiều số thời kỳ

này, đặc biệt là các nhà thơ lớp trước, lớp nhà thơ “trưởng thành” với thi pháp

thơ ca truyền thống.

Thứ hai, xu hướng có sự ảnh hưởng rõ nét của thi pháp thơ hiện đại. Ở

xu hướng này, các nhà thơ bước đầu có ý thức về việc cần phải sáng tác như

thế nào để có thể một lúc thỏa mãn cả hai yếu tố truyền thống và hiện đại, dân

tộc và quốc tế. Tiêu biểu là nhà thơ Nông Quốc Chấn. Ông từng đi nhiều nơi,

nhiều nước trên thế giới, tiếp xúc với nhiều vùng đất, con người khác nhau,

càng khiến những con người như ông thêm yêu, thêm nhớ nguồn cội:

Bản tôi là dân cày

Người Nùng người Thổ

Cách xa Poragơ muôn ngàn cây số

Chưa biết núi sông Tiệp giống đất Việt những gì…

(Chào các đồng chí)

Nhà thơ Cầm Biêu trong bài Nhớ bản cũ cũng đã viết:

- Mười bản không bằng bản cắt rốn

- Mười chốn không bằng chốn chôn rau.

Còn Triều Ân thì viết:

Chào xóm nhỏ, có cái nôi xưa cất cao trên gác

Có nếp nhà sàn nuôi em lớn khôn….

22

(Xóm nhỏ)

Các tác giả đã có sự trăn trở, băn khoăn, tìm tòi, thể nghiệm về việc sáng

tác, về đổi mới hiện đại hóa thơ ca, về việc làm thơ song ngữ…như nhà thơ

Vương Anh, Lò Văn Cậy, Nông Viết Toại, Cao Hải Sơn…Có khá nhiều tác

phẩm thơ đã được ghi nhận và nhiều người biết đến, có một số bài đã đạt được

độ “hoàn thiện”, vừa có tính hiện đại, vừa có tính truyền thống, vừa đặc sắc,

vừa đậm bản sắc dân tộc nhưng vẫn có tính mới mẻ, như bài Cơm mường Vó,

lúa mường Vang, Tình còn, tình chiêng, Cây sáo gọi tình của Vương Anh; Lời

mẹ, Hạt tình của Lò Văn Cậy; Mối tình đầu của Cầm Biêu…

Thứ ba, xu hướng có sự kết hợp nhuần nhuyễn của cả hai yếu tố truyền

thống và hiện đại. Có thể thấy rõ điều này ở nhà thơ Vương Anh. Tác giả luôn

quan tâm tới việc dùng hình tượng chi tiết, ngôn ngữ trong văn học truyền thống

để biểu hiện con người, cuộc sống mới bằng một giọng điệu riêng, giọng điệu

của lời nói trực tiếp của dân tộc Mường. Cho nên thơ ông có những câu dài,

câu ngắn khác nhau:

Mẹ chờ con trai lại

- Tay mày mới sờ máy, mở tao nhìn!

Mẹ nhìn con gái đến

- Tay mày cầm súng có hay…

(Hoa trong mường)

Câu thơ giản dị, mộc mạc nhưng vô cùng sâu sắc. Người con trai, con gái

không cần nói, chỉ lặng lẽ xòe bàn tay, chính cái lặng lẽ đó đã nói lên rất nhiều

điều, bàn tay không chỉ sờ máy, cầm súng, mà còn làm nhiều việc khác nữa.

Đấy cũng là sự tìm đường đúng đắn của Vương Anh trong sự kết hợp

giữa truyền thống và hiện đại. Nhà thơ Nông Quốc Chấn đã nhận xét về thơ

Vương Anh “Dám nghĩ, dám khám phá, vận dụng những hình tượng cũ trong

các tác phẩm mới”. Như trong bài “Cơm Lam”, Vương Anh viết cũng với

giọng điệu như vậy:

23

Hương cơm đất mẹ

Chở gié lúa vào đời

Anh đi chín bản mười mường

Nhớ vốc gạo nương ngần tay em lắm!

Bên cạnh đó, với những bài thơ như Sao chóp núi, Trăng mắc võng, Tình

còn… Vương Anh đã sớm tạo cho mình có một phong cách, tiếng nói riêng,

đóng góp vào thơ các dân tộc thiểu số. Có thể nói, đây là một xu hướng tích

cực, phù hợp với thời kỳ mới của đất nước, phù hợp với nhu cầu đông đảo của

người đọc, nhất là với những độc giả là người dân tộc thiểu số.

Có thể nói rằng, đây là thời kỳ “đua nở” của thơ ca các dân tộc thiểu số.

Với cả ba xu hướng này làm nên sự phong phú trong nghệ thuật thơ các dân tộc

thiểu số Việt Nam. Trong đó, xu hướng truyền thống mà hiện đại sẽ trở thành

một xu hướng chính của thơ ca dân tộc thiểu số ở giai đoạn sau này.

Nhìn chung, các tác phẩm thơ ca thời kỳ 1945 – 1954 và 1954 – 1975

đều phản ánh lòng yêu nước, yêu quê hương, lòng tự hào, tự tôn dân tộc của

đồng bào miền núi. Hiện thực cuộc sống khổ cực của đồng bào miền núi dưới

sự áp bức bóc lột của giặc Pháp và lũ tay sai; lòng căm thù giặc sâu sắc và tinh

thần đấu tranh dũng cảm, một lòng theo Đảng, theo Bác kháng chiến trường

kỳ... đều được phản ánh một cách sinh động, mộc mạc nhưng xúc động lòng

người. Đặc biệt, hình ảnh cuộc sống và con người Việt Bắc trong cuộc kháng

chiến chống Pháp 9 năm đã trở thành nguồn cảm hứng chính để tạo nên những

áng thơ đầy tính hiện thực nhưng cũng đậm chất trữ tình, đằm thắm, là đề tài

chính của nhiều bài thơ hay, tiêu biểu của thời kỳ này.

Cùng với đó là những trang viết về cuộc sống mới, con người mới trong

kiến thiết, xây dựng lại đất nước ở khu vực miền núi sau ngày hòa bình lập lại.

Đó là niềm tin yêu và sự biết ơn sâu sắc của đồng bào dân tộc thiểu số đối với

Đảng và Bác Hồ kính yêu. Đó là khí thế hăng say lao động xây dựng cuộc sống

24

mới, phản ánh cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước ở miền Bắc và đấu tranh

thống nhất ở miền Nam…

Với đội ngũ sáng tác đông đảo và số lượng lớn các tác phẩm với những

tìm tòi, đổi mới trong nghệ thuật sáng tác, thơ ca giai đoạn 1945 – 1975 đã góp

phần không nhỏ vào sự phát triển của thơ ca dân tộc nói chung và là tiền đề cho

sự phát triển thơ ca dân tộc thiểu số ở giai đoạn tiếp theo.

1.1.3. Giai đoạn từ năm 1975 đến nay:

Có thể nói, đây là giai đoạn thơ ca các dân tộc thiểu số phát triển rất mau

chóng. Chưa bao giờ đội ngũ những người làm thơ lại đông đảo đến thế, tạo

nên một mùa xuân thứ hai với một vườn hoa thơ dân tộc đầy hương sắc, góp

phần quan trọng vào sự phát triển mạnh mẽ chung của đời sống thơ ca nước

nhà. Có nhiều nguyên nhân làm nên bức tranh tươi sáng này, nhưng có một

nguyên nhân không thể bỏ qua là đất nước đã hoàn toàn giải phóng, non sông

liền một dải và công cuộc đổi mới toàn diện, sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực,

trong đó có lĩnh vực văn học nghệ thuật, do Đảng ta chủ trương và trực tiếp

lãnh đạo toàn dân thực hiện thắng lợi.

Đội ngũ tác giả thơ đông đảo với nhiều thế hệ. Các tác giả giai đoạn đầu

vẫn sáng tác đều đặn. Nông Quốc Chấn có Dòng thác (1977), Bài thơ Pác Bó

(1982), Suối và biển (1984); Bàn Tài Đoàn có Trên núi vẫn là nơi ta ở (1979),

Bước đường tôi đi (1985), Ba con đường (1995), Tìm ban rừng (1999), Bó đuốc

sáng (2002); Vương Anh có Hoa li- pa yêu (1989), Rượu mặn (1993), Lá đắng

(1993), Tình Viêng Chăn (2000); Vương Trung có Trường ca Sông Nậm Rốm

(1998)…

Đặc biệt, thơ ca các dân tộc thiểu số dường như trẻ lại với các tên tuổi

như: Y Phương có Tiếng hát tháng giêng (1986), Lửa hồng một góc (1987), Lời

chúc (1991), Đàn then (1996), Chín tháng (2000), Ngược gió (2009)...; Lò

Ngân Sủn có Chiều biên giới (1989), Những người con của núi (1990), Đám

cưới (1992), Ngược dốc (1993), Dòng sông mây (1995), Chợ tình (1995), Con

25

của núi (1996), Đầu nguồn cuối nước (1997), Người đẹp(1999)... Pờ Sảo Mìn

có Cây hai ngàn lá (1992), Bài ca hoang dã (1993), Mắt lửa (1998), Con trai

người Pa Dí (2001), Cung đàn biên giới (2002)...; Lâm Quý với Điều có thật

từ câu dân ca (1998), Tình thơ Cao Lan (1997)..., Dương Thuấn có Cưỡi ngựa

đi săn (1991), Đi tìm bóng núi(1993), Đi ngược mặt trời (1995), Hát với sông

Năng (2001)..., Mai Liễu có Suối làng (1994), Mây vẫn bay về núi (2001)...;

Dư Thị Hoàn có Lối nhỏ (1998), Bài mẫu giáo sáng thế (1993)...; Triệu Kim

Văn có Hoa núi (1990), Mùa sa nhân (1994), Lá tìm nhau (1999), Con của núi

(2002)...; Lò Cao Nhum có Giọt sao trở về (1995), Rượu núi (1996)…; Hùng

Đình Quý có Người Mông nhớ Bác Hồ, Nếu sai tôi sẽ chết không nhắm mắt,

Chỉ vì quá yêu...; Bùi Thị Tuyết Mai có Mưa trong nhà (1998), Trầu đỏ môi ai

(1999), Nơi cất rượu (2003), Mường trong (2006)...

Cho tới giai đoạn này, nhiều dân tộc thiểu số mới có tiếng thơ đại diện

tiêu biểu cho hồn điệu của dân tộc mình như Pờ Sảo Mìn (Pa Dí), Lò Ngân Sủn

(Giáy), Lâm Quý (Cao Lan), Dư Thị Hoàn (Hoa), Bùi Thị Tuyết Mai

(Mường)...Chưa khi nào số lượng các nhà thơ tài năng, các tập thơ hay lại xuất

hiện đông đảo đến như vậy. Hơn nữa, thơ đã bắt nhịp với sự đa chiều của những

bộn bề, lo toan trong cuộc sống thường nhật nên được công chúng đón nhận

nồng nhiệt hơn.

Các nhà thơ đã phản ánh một cách sinh động hình ảnh thiên nhiên, cuộc

sống, con người miền núi với lòng tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc trong thời đại

mới. Họ ca ngợi và tự hào về quê hương miền núi giàu bản sắc, khẳng định tầm

vóc và vị thế lớn lao của con người miền núi với cảm hứng lãng mạn, vui tươi.

Quê hương miền núi chính là một phần quan trọng góp phần hình thành nên

hồn thơ của các nhà thơ dân tộc thiểu số. Chính vì vậy, họ lấy quê hương là đề

tài chủ đạo trong sáng tác của mình. Cảm hứng khám phá, sáng tạo được khơi

dậy một cách mãnh liệt trong từng cây bút, trong từng hồn thơ. Với tình yêu

quê hương của mình, nhà thơ Mai Liễu viết:

Suối làng tôi đã bắt đầu từ nơi ấy

26

Là ngọn nguồn trong trẻo của đời tôi…

(Suối làng trong trẻo)

Mỗi tên đất, tên làng của quê hương đã trở thành phần máu thịt thiêng

liêng trong mỗi nhà thơ. Thơ Dương Thuấn có Bản Hon, Khuổi Luông, Pác

Nặm, Núi Thuyền Đồng; Thơ Y Phương lại có Khau Liêu, sông Hiến, sông

Bằng, làng Hiếu Lễ...; vùng đất Nguyên Bình- Cao Bằng trong thơ Bàn Tài

Đoàn, Cao nguyên đá ở Đồng Văn - Hà Giang, Sa Pa - Lào Cai...trong thơ của

Mã A Lềnh..., Lào Cai, Sa Pa, chợ Cốc Lếu trong thơ Lò Ngân Sủn; Nà Hang,

Chiêm Hóa, Suối Tiên, Nậm Thi trong thơ Mai Liễu...

Quê hương còn là những phong tục, tập quán gắn với lịch sử, văn hóa,

văn minh; là người thân yêu, ruột thịt, đồng bào cùng sống trên mảnh đất ấy.

Từ đề tài quê hương, hình tượng con người miền núi trong thơ các dân tộc thiểu

số đã hiện ra với những phẩm chất cao quý, tốt đẹp. Những người con trai, con

gái miền núi chân thành, hiền lành, chất phác nhưng rất mạnh mẽ, quyết liệt,

dũng cảm và cũng rất đa tình, lãng mạn, hồn nhiên. Các nhà thơ dân tộc thời

kỳ này đã tìm thấy bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số trong hình tượng

con người miền núi, đặc biệt là hình tượng người phụ nữ miền núi. Trong những

trang phục truyền thống, họ chính là người thể hiện và lưu giữ nét đẹp quê

hương. Những cúc bạc, áo cóm, váy hoa, khăn Piêu, cánh áo chàm tươi,... không

chỉ là trang phục mà còn chứa đựng những yếu tố văn hóa đậm bản sắc:

Cúc bạc, áo cóm, khăn Piêu

Nếu được tôn tạo đáng yêu nhường nào

Sánh cùng gấm vóc, lụa đào

Em xòe, em múa, khác nào rồng bay

(Với văn công tỉnh nhà - Cầm Biêu)

Một điểm đáng chú ý ở thời kỳ này là các nhà thơ miền núi đã cố gắng

tìm kiếm, phát hiện và khẳng định cái thần thái, cái hồn vía, cái thế và tầm vóc

...của dân tộc mình trong quá trình vận động của lịch sử dân tộc. Hay nói cách

khác, đó chính là sự tìm kiếm và vươn tới cái Chân - Thiện - Mĩ trong cuộc

27

sống con người miền núi hôm nay. Đó là những phẩm chất tốt đẹp, cao quý,

vừa hiền lành, chất phác, hồn nhiên nhưng cũng rất mạnh mẽ:

Em hiền lành

Em chậm chạp

Em đội chum rượu đến với anh

Người con gái có bàn chân to khỏe

(Em- cơn mưa rào ngọn lửa - Y Phương)

Hình ảnh con người miền núi, đặc biệt là những người phụ nữ thân

yêu bao giờ cũng mang lại cho các nhà thơ nhiều xúc cảm sâu đậm nhất. Họ

thường viết về người vợ, người mẹ của mình với lòng biết ơn vô hạn, với Y

Phương người phụ nữ là nơi bắt đầu cho tình yêu, sự nghiệp và cuộc đời ông

bởi:

Những gì anh có được

Đều bắt đầu từ em…

(Em - Cơn mưa rào - ngọn lửa).

Với Dương Thuấn, người vợ chính là một tài sản vô giá trong nhà mà

ông bỗng nhận ra:

Nghe tiếng cọn cót két đêm qua

Sáng nay bỗng yêu em đến thế

Em như một kho báu trong nhà

Con gái miền núi thường mang một vẻ đẹp khỏe mạnh, vững vàng, chất

phác và đầy tính phồn thực, chứ không phải liễu yếu đào tơ:

Người con gái có bàn chân to khỏe

Đạp qua bao nhiêu đau khổ.

(Em - Cơn mưa rào ngọn lửa - Y Phương)

Còn người con trai miền núi thì gân guốc, thô mộc và mạnh mẽ:

Trán dô

Mũi thô

Môi dày

28

Chân đi dép bốn hai vẫn thừa năm ngón

(Bài ca thứ hai – Y Phương)

Cuộc sống của những con người miền núi còn nhiều vất vả, khó khăn

nên có lúc nỗi vất vả, nhọc nhằn còn in dấu nơi dáng hình chậm chạp, nặng

nhọc, còm cõi của họ. Cao Sơn Hải viết Người đàn bà vùng cao, Y Phương viết

Bài ca thứ chín, Mai Liễu viết Gọi vía, Mùa màng của mẹ, Nông Thị Ngọc

Hòa viết Tìm lại tuổi thơ...

Điều làm nên sự khác biệt trong hình tượng con người miền núi đối sánh

với người miền xuôi không chỉ ở dáng vẻ bề ngoài ấy mà chính là lối sống, suy

nghĩ, là tâm hồn họ. Những con người miền núi rất giàu tình cảm và họ biểu

đạt tình cảm nhiệt thành của mình bằng hành động thật cụ thể:

Khách đến nhà không vội hỏi tên

Mà chỉ hỏi

- Con đường nào đã đưa anh đến (...)

Mà nói rằng:

Hãy uống rượu cùng ta

Khách muốn gì xin tự nói ra

Khách đi chủ nhà chỉ nói

- Đừng để cầu thang tôi mọc cỏ gà

(Người xứ mây - Dương Thuấn)

Thế giới tâm hồn con người cũng được các nhà thơ giai đoạn này biểu

đạt một cách cụ thể và phong phú hơn. Đó có thể là tiếng lòng của những con

người bình thường phải oằn mình với gánh nặng áo cơm để duy trì sự sống, mà

vẫn trăn trở về nghề nghiệp và các giá trị văn hóa truyền thống. Nhiều nhà thơ

đã sáng tác những bài thơ có tính triết lý, nhiều sự suy tư về con người, cuộc

đời. Lò Ngân Sủn có bài Người đẹp; Cầm Biêu với Chỉ cần một loại người;

Ngọt ngào, xảo trá của Lò Vũ Vân; Lời mẹ của Mai Liễu; Mưa xuân của Bùi

Thị Tuyết Mai...

29

Bên cạnh đó, các nhà thơ còn luôn có ý thức khẳng định quá trình “hội

nhập” của dân tộc mình trong cuộc sống thời hiện đại hôm nay. Trước hết đó

là sự “hội nhập” với cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với xã hội hiện đại.

Người miền núi không sống tách rời với cuộc sống của người miền xuôi, kể cả

cuộc sống nơi đô thị thời kỳ mở cửa. Họ chủ động đón nhận bằng cách tự vươn

lên để hòa vào cuộc sống thời hiện đại mà vẫn không đánh mất đi bản sắc của

mình. Đó là một điều vô cùng đáng quý, đáng trân trọng ở họ. Cũng chính bởi

điều đó mà họ đã khẳng định được vị thế, tầm vóc của chính mình trong cuộc

sống hôm nay. Có nhiều bài thơ được cất lên từ tư tưởng này của chính các nhà

thơ miền núi. Dương Thuấn có Quê hương, Biển đông; Bàn Tài Đoàn có Đêm

nằm không ngủ, Được làm chủ, Hai bàn tay…;Triệu Kim Văn có Đất nước

rộng dài; Lương Định có Lời người cha lũng núi; Mùa A Sấu có Ma ly pho,

Núi mọc trong gương; Lò Ngân Sủn có Những chàng trai của núi, Chiều biên

giới, Người mình; Phùng Quỳnh có Trai Tạng Tô gái đồi mường; Giàng A Páo

có Mặt trời hoa mây, Rừng biếc xanh…

Cũng trong giai đoạn này, thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam rất chú

ý những mảng đề tài khác – phản ánh hiện thực cuộc sống với tính nhân văn

cao. Đó là đề tài về tình yêu. Các nhà thơ, đặc biệt là các nhà thơ nữ đã tự bộc

lộ thế giới tâm hồn mình nhiều hơn.

Tôi muốn Người nâng lên

Dịu dàng như Mẹ

Hơi ấm người đàn ông từng trải

Xoa dịu trái tim này…

(Về người đàn ông trẻ tuổi - Bùi Thị Tuyết Mai).

Có lúc là những suy tư đầy chất nhân văn của người thứ ba:

Anh đến thăm em

Có thấy dáng chị ấy thẫn thờ đợi cửa

Anh ngắm nhìn em

30

Có thấy hình chị ấy ôm gối thở dài (...)

Anh ơi

Anh mãi là mặt trời

Của người vợ đáng thương ấy

Lẽ ra trên thế gian này

Đừng nên có em

(Chị ấy – Dư Thị Hoàn)

Nhưng vượt qua tất cả những suy tư, thậm chí là sự khủng hoảng, trống

rỗng, cô đơn, điều mà các nhà thơ dân tộc thiểu số nói riêng và người Việt Nam

nói chung luôn hướng tới là sự tự tin, yêu đời để vươn tới những giá trị nhân

bản của con người:

Dù tóc ta có bạc

Nhưng bên gió trời trở thơm hương cốm

Xanh nhần nhật tương lai…

(Đi từ miền gió hoang - Lò Vũ Vân)

Thiên nhiên, con người miền núi đối với họ luôn đáng trân trọng. Mà cái

đáng yêu, đáng quý nhất đối với họ chính là cái đẹp, cái đẹp của tình người,

tình núi rừng. Người miền núi rất giàu tình cảm, mến khách:

Đã uống vắt kiệt chum mà uống

Đã say để tràn tình mà say

Nào bạn ơi

Cụng bát cùng rẻo cao muôn đời

(Rượu núi – Lò Cao Nhum)

Đây chính là nét đẹp rất đặc trưng trong đời sống tinh thần của họ. Các

nhà thơ đã thể hiện một cách sinh động và cụ thể trong các sáng tác của mình,

và đây cũng là những phát hiện độc đáo của các tác giả thơ dân tộc về tính cách

và bản chất của con người miền núi.

31

Về nghệ thuật, một điều dễ nhận thấy là hầu hết các nhà thơ dân tộc thiểu

số giai đoạn 1975 đến nay sáng tác đã chuyên nghiệp hơn, vì họ được đào tạo

bài bản và may mắn hơn thế hệ trước là được sống trong xã hội mới, một thời

kỳ mới của dân tộc, bởi công cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc trên mọi lĩnh

vực kinh tế, văn hóa, xã hội…của Đảng và đất nước. Họ có điều kiện để học

hỏi, giao lưu và trao đổi trong sáng tác. Chính vì vậy, thơ ca thời kỳ này đã có

tính hiện đại mà vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Các sáng tác dễ đọc hơn, gần gũi

hơn với đông đảo bạn đọc.

Bên cạnh đó, các nhà thơ còn có sự sáng tạo đặc biệt trong ngôn ngữ thơ

với tính tạo hình cao, đã làm nên những nét đẹp riêng, lạ và hấp dẫn. Như bài

“Người đẹp” của Lò Ngân Sủn:

Người đẹp trông như tuyết

Chạm vào lại thấy nóng

Người đẹp trông như lửa

Sờ vào lại thấy mát…

Về mặt thể loại, thơ ca dân tộc thiểu số thời kỳ này rất phong phú và đa

dạng. Do việc mở rộng đề tài phản ánh, tiếp cận với thi pháp thơ hiện đại, lại

được giao lưu, học tập và sự đổi mới tư duy, các nhà thơ đã thỏa sức sáng tạo

với các hình thức thơ khác nhau để thể hiện tâm tư, tình cảm và tư tưởng của

mình. Tất cả các thể thơ truyền thống như thơ Đường luật, thơ lục bát, thơ tứ

tuyệt, thơ bảy chữ, thơ tự do….với những câu chữ không giới hạn đã được các

nhà thơ sử dụng để sáng tác.

Nói chung, thơ ca các dân tộc thiểu số sau năm 1975 đến nay đã có những

bước tiến nhảy vọt cả về lượng lẫn về chất. Các thế hệ nhà thơ người dân tộc

thiểu số đã tiếp nối nhau ngày càng đông đảo hơn, được học tập và trang bị tri

thức một cách bài bản hơn. Chính vì vậy, họ càng thêm yêu, thêm tự hào và

thêm tinh thần trách nhiệm đối với sự phát triển của nền văn học nói chung,

nền thơ ca các dân tộc thiểu số nói riêng. Các nhà thơ luôn ý thức gìn giữ và

32

thể hiện một cách sinh động, một cách nghệ thuật bản sắc văn hóa dân tộc trong

các sáng tác của mình. Nói cách khác, những tác phẩm ấy vừa có tính hiện đại

nhưng vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Mỗi cây bút có những nét đặc sắc, độc đáo

riêng nhưng tất cả đã tạo nên một mảng thơ ca đa thanh, đa sắc, góp phần vào

vườn thơ ca Việt Nam hiện đại.

1.2. Nhà thơ Ma Trường Nguyên - cuộc đời, con người và sự nghiệp sáng tác:

1.2.1. Vài nét về cuộc đời, con người nhà thơ Ma Trường Nguyên

Ma Trường Nguyên là tên thật, cũng là bút danh của nhà thơ dân tộc Tày

sinh ngày 17/5/1944 tại xã Phú Đình, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.

Trung Trung Đỉnh gọi ông là "người đốt lửa bừng trái tim" với "dáng vẻ chân

tình đến thật thà và hiền lành”, và được coi là một trong những tác giả được

nhiều người biết đến của văn học dân tộc thiểu số Việt Nam giai đoạn nửa cuối

thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI.

Ma Trường Nguyên sinh ra và lớn lên bên dòng Suối Quỵnh nhỏ bé, thuộc

xã Phú Đình, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên. Ngay từ thuở thơ ấu, ông đã

đắm mình trong những câu chuyện cổ tích, những điệu hát Sli, hát Lượn của dân

tộc mình. Điều đó đã ảnh hưởng rất nhiều đến việc sáng tạo nghệ thuật của nhà

thơ sau này như nhà văn bộc bạch. Và cũng chính mảnh đất quê hương ấy đã in

dấu khuôn mặt những người thân yêu của ông, nơi ghi dáng hình xứ sở, để rồi

có những ảnh hưởng đến tâm hồn, đến quan niệm nghệ thuật của ông. Quê hương

ông cũng từng trải qua những biến dời của lịch sử, là nơi cuộc đời Ma Trường

Nguyên được đắm mình, trải nghiệm với từng việc làm, từng sự kiện, cả những

cái được và cái mất, cái vui, cái buồn của đồng bào dân tộc trong những biến

động chung của đất nước trong thế kỷ XX.

Ma Trường Nguyên hội tụ trong tâm hồn những giá trị văn hóa truyền

thống đặc sắc của dân tộc mình. Ngay từ nhỏ, nhà văn đã được đắm mình trong

một không gian giàu nét văn hóa. Ông nội của nhà văn là người thuộc rất nhiều

câu chuyện cổ tích, những bài hát ví, hát lượn; cha là người hay chữ Nho, chữ

33

Nôm Tày và hát lượn hay nhất vùng. Vùng núi quê hương ông có thiên nhiên

tươi đẹp, giàu truyền thống văn hóa và lịch sử. Chính môi trường gia đình, quê

hương đã khiến Ma Trường Nguyên có động lực mạnh mẽ để học tập, trau dồi

vốn sống, vốn văn hóa, rèn luyện bút lực, sức sáng tạo. Có thể nói, tất thảy

những giá trị văn hóa độc đáo ấy đã góp phần tạo nên quan niệm thẩm mỹ của

ông. Chính tình yêu quê hương tha thiết, sự gắn bó máu thịt với dòng Suối

Quỵnh chảy từ chân núi Hồng, thác Hin Lạn nước tuôn trắng xóa, những đồi

cọ, rừng sim… đã làm nên cốt cách Ma Trường Nguyên thấm đậm trong những

trang văn, trang thơ giàu chất dân tộc miền núi nói chung và dân tộc Tày của

ông nói riêng.

Hành trình đến với văn chương của Ma Trường Nguyên có lẽ là duyên

nợ. Môi trường văn hóa gia đình, quê hương, tố chất văn thơ trong Ma Trường

Nguyên và sự động viên, cổ vũ của bạn bè, đồng nghiệp đã giúp ông vững bước

đi trên con đường sáng tác đầy khó khăn, thử thách. Cuộc đời của ông trải qua

nhiều gian nan, gắn liền với công cuộc đấu tranh giải phóng, bảo vệ và xây

dựng tỉnh Thái Nguyên. Sau thời gian tham gia quân đội, phục vụ chiến đấu

trong đơn vị pháo cao xạ, Ma Trường Nguyên làm phóng viên báo Quân khu

3, là biên tập viên Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc. Sau đó, Ma Trường Nguyên

học Trường viết văn Nguyễn Du, ngôi trường đã đào tạo cho nền văn học nước

nhà những tác giả tài danh. Tốt nghiệp Trường viết văn Nguyễn Du, Ma Trường

Nguyên về công tác tại tỉnh Thái Nguyên quê nhà. Trải qua quá trình công tác,

nhà thơ đã từng đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trong các cơ quan tỉnh

Thái Nguyên: Phó giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin (1985), Chủ tịch Hội Văn

học nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên (1998 - 2003), Bí thư Đảng đoàn Hội Văn

nghệ, Tổng biên tập báo Văn nghệ tỉnh Thái Nguyên. Những trải nghiệm cuộc

đời ấy đã giúp cho Ma Trường Nguyên có được một vốn sống, vốn văn hóa

phong phú. Chính vốn sống, vốn văn hóa thấm đẫm tinh thần dân tộc ấy đã dệt

34

thành những áng thơ dạt dào tình yêu quê hương, xứ sở trong sáng tác của nhà

thơ.

Một điều đáng chú ý ở đời sống và đời viết của Ma Trường Nguyên là dù

bận rộn với những công việc từ hành chính đến quản lý thì ông vẫn dành phần

lớn tâm lực cho văn thơ. Ma Trường Nguyên viết như một sự trải nghiệm, viết

như một sự thôi thúc trả món nợ cuộc đời như ông đã từng chia sẻ.

Có thể nói, chính tình yêu tha thiết cuộc sống, con người và văn hóa quê

hương là động lực để nhà thơ luôn học tập, tìm tòi, sáng tạo và đồng thời chính

tình yêu ấy đã tinh lọc vốn sống, tạo nên cốt cách dân tộc miền núi thấm đẫm

trong các sáng tác của Ma Trường Nguyên.

1.2.2. Sự nghiệp sáng tác của Ma Trường Nguyên:

Ma Trường Nguyên sáng tác từ rất sớm. Năm 16 tuổi, ông đã khởi đầu

sự nghiệp văn chương của mình với bài thơ Cờ hồng được in trong tập Tiếng

trống đông xuân do Ty văn hóa Thái Nguyên xuất bản. Nhuận bút mà nhà thơ

nhận được rất đặc biệt, đó là năm cuốn sách trong "Tủ sách lí luận - hướng dẫn

sáng tác". Đối với Ma Trường Nguyên, những quyển sách này giống như những

người thầy đầu tiên dìu dắt ông trong những bước đi chập chững đầu tiên vào

sự nghiệp sáng tác.

Giai đoạn từ 1960 - 1990, Ma Trường Nguyên chủ yếu sáng tác thơ in

trên các báo, tạp chí. Những tập thơ in chung có: Đường qua kỉ niệm (1975),

Rừng sáng (1980), Quê núi (1987). Và các tập thơ riêng: Mát xanh rừng cọ

(1985), Trái tim không ngủ yên (1988). Ma Trường Nguyên từng tâm sự “Cái

gì mà thơ không nói được thì tôi nói trong tiểu thuyết; và ngược lại, cái gì

không nói được trong tiểu thuyết thì tôi nói trong thơ”. Năm 1991, tiểu thuyết

đầu tiên được ông cho trình làng với tên gọi "Mũi tên ám khói". Và liên tiếp 8

năm tiếp theo, nhà thơ đã cho ra đời tất cả 6 cuốn tiểu thuyết, một tập truyện

kí:

- Gió hoang (1992)

35

- Tình xứ mây (1993)

- Trăng yêu (1993)

- Bến đời (1995)

- Rễ người dài (1996)

- Mùa hoa hải đường (1998)

- Cơn giông thời niên thiếu (Kí - 1997)

Đến năm 2004, sau một thời gian vắng bóng, ông trở lại với văn chương

và gây ấn tượng với một số thể loại khác như: tự truyện Dòng suối tuổi thơ tôi

và ba tập thơ: Câu hát vắt qua vai (2005), Cây nêu (2006), Bắc cầu vồng thăm

nhau (2007). Năm 2009, ông tiếp tục trình làng tập kí Những người bạn, năm

2011 ra mắt tập thơ Mở núi, năm 2012 là cuốn tiểu thuyết Phượng Hoàng núi.

Với những cố gắng vượt bậc trong sự nghiệp sáng tác, các tác phẩm của

Ma Trường Nguyên đã được bạn đọc đón nhận và trân trọng. Ông cũng đã dành

được sự ghi nhận, đánh giá cao của xã hội. Sau Vi Hồng, Ma Trường Nguyên

là nhà văn thứ hai của tỉnh Thái Nguyên tham gia Hội Nhà văn Việt Nam.

Chặng đường lao động nghệ thuật miệt mài với những tìm tòi, sáng tạo đã đem

đến cho tác giả miền núi này nhiều giải thưởng cả ở Trung ương và địa phương

như:

- Giải thưởng của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật

Việt Nam cho tiểu thuyết Rễ người dài (1996).

- Giải C Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam cho tập

thơ Cây nêu (2007).

- Giải C giải thưởng Văn học nghệ thuật 5 năm (1987 - 1992) của tỉnh

Thái Nguyên cho tập thơ Trái tim không ngủ.

- Giải B giải thưởng Văn học nghệ thuật 5 năm của tỉnh Thái Nguyên với

tiểu thuyết Mũi tên ám khói.

- Giải B giải thưởng Văn học nghệ thuật 5 năm (1992 - 1997) cho tiểu

thuyết Mùi hoa hải đường.

36

- Giải B Văn học nghệ thuật 5 năm (2002 - 2007) cho tập thơ Câu hát

vắt qua vai.

Tháng 6 năm 2009, Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên đã tổ

chức cuộc hội thảo chuyên đề “Nhà văn Ma Trường Nguyên - Tác giả, tác

phẩm”. Tham dự Hội thảo gồm những người làm công tác nghiên cứu - phê

bình văn học (Lâm Tiến, Trần Văn Tác, Bùi Như Lan) và các nhà thơ, nhà

văn Thái Nguyên (Nguyễn Thúy Quỳnh, Mai Liễu, Nguyễn Đức Hạnh, Vũ

Đình Toàn, Hồ Thủy Giang.v.v...). Hội thảo đã khẳng định đóng góp của ngòi

bút Ma Trường Nguyên đối với thành tựu văn học tỉnh Thái Nguyên và tập

trung tìm hiểu sáng tác của Ma Trường Nguyên trên cả hai mảng: văn xuôi và

thơ.

Không chỉ có thơ và văn xuôi, Ma Trường Nguyên còn viết phê bình,

một lĩnh vực mà theo nhà thơ Hữu Thỉnh “Lĩnh vực khó nhất trong những lĩnh

vực khó nhất”. Ông bắt đầu viết phê bình từ năm 1981, với bài viết về tập

trường ca “Đường tới thành phố” của nhà thơ Hữu Thỉnh. Năm 2010 ông in tập

tiểu luận phê bình đầu tiên với 11 bài dài ngắn. Hơn một năm sau, ông đã có

12 bài trong tập thứ hai và chưa đầy một năm lại có 14 bài trong tập mới.

Có thể thấy, Ma Trường Nguyên viết tiểu luận phê bình rất cần mẫn. Đọc

các bài viết của Ma Trường Nguyên người đọc thấy từng tác giả đều được nhà

phê bình nâng niu, chăm chút. Và ta thấy ở đó cách phê bình thơ thủ thỉ, tâm

tình và cũng rất thẳng thắn.

Có thể nói, với hơn 50 năm miệt mài, say sưa với sự nghiệp văn chương,

Ma Trường Nguyên đã để lại nhiều trang viết chân thật, giàu tình cảm, mang

ðậm dấu ấn cá nhân. Các giải thưởng và sự vinh danh lớn lao mà nhà thơ Ma

Trường Nguyên giành được là một minh chứng cho một quá trình sáng tác

không biết mệt mỏi của ông. Nó cũng chính là những mốc son ghi nhận thành

tựu và sự đóng góp của ông đối với nền văn nghệ Thái Nguyên nói riêng và nền

văn nghệ dân tộc nói chung.

37

1.2.3. Quan điểm sáng tác của Ma Trường Nguyên:

Trong cuốn Nhà văn Việt Nam hiện đại, Nxb Hội nhà văn (1997), Ma

Trường Nguyên đã đưa ra lời tự bạch: "Các nhà thiên văn cảnh báo rằng trái

đất đang nóng dần lên đến một ngày nào đó môi trường sống của con người

khó thích nghi nổi. Ngược lại, các nhà văn lại dự báo rằng: Cõi người ngày

càng nguội lạnh dần đi. Lòng người hạ nhiệt, sẽ có thể đóng băng khép kín

trong cuộc sống văn minh kĩ thuật. Để tồn tại, bản thân từng cá thể sống đều

phải lệ thuộc vào không gian thực tại đang sống... Cái kết dính chất người lại

với nhau ấy đích thực là tình yêu. Cái để con người lên ngôi người, khác với

muôn loài, cái không thể mua bán, chỉ có thể trao gửi cho nhau như một phần

tâm hồn của chính mình... Tôi sống thật như tôi. Tôi tự nhủ không phải viết như

thế nào? Mà sống như thế nào để viết. Tôi viết để giữ ấm lòng mình với người

khác". Quan niệm này đã chi phối rất nhiều đến nội dung được phản ánh trong

các tác phẩm của ông.

Khảo sát các tập thơ của Ma Trường Nguyên, chúng tôi thấy cảm hứng

chủ đạo trong thơ ông là cảm hứng tình yêu, chẳng hạn như trong tập Câu hát

vắt qua vai có đến 35/47 bài, tập Cây Nêu có 23/35 bài, tập Bắc cầu vồng thăm

nhau có 33/43 bài viết về chủ đề tình yêu. Trong tiểu thuyết cũng vậy, một

trong hai cảm hứng chủ đạo xuyên suốt trong các tiểu thuyết của ông chính là

tình yêu. Viết về tình cảm giữa con người với con người trong cuộc đời chính

là cách để nhà thơ tồn tại, để giữ ấm lòng mình. Nhà thơ cũng đã tâm niệm:

"Trong sáng tạo văn học cũng như xây dựng một công trình, một tòa nhà nào

đó sang trọng hơn ngôi nhà sàn, điều quan trọng nhất là không đào nền móng

dưới gầm sàn nhà mình đi". Nền móng là một yếu tố vô cùng quan trọng, không

thể thiếu của mỗi một công trình, nếu thiếu nó thì công trình dù có đẹp đến đâu

cũng không được bền vững. Trong văn học, nền móng chính là nền tảng để văn

học phát triển và nền móng văn học không phải là cái gì xa lạ, nó chính là văn

hóa dân tộc. Văn hóa chính là bộ gen di truyền của xã hội, phản ánh trình độ

38

văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc trong từng giai đoạn lịch sử, dùng để phân

biệt giữa quốc gia này với quốc gia kia. Ma Trường Nguyên là một nhà văn,

nhà thơ dân tộc Tày, ngay từ nhỏ ông đã được tiếp xúc, được sống trong nền

văn hóa của người Tày. Chính vì vậy mà đọc các tác phẩm của ông, người đọc

cảm nhận được rõ màu sắc văn hóa mang đậm phong vị Tày. Như vậy, theo

quan niệm của nhà thơ thì sáng tác văn học phải biết tiếp thu có chọn lọc những

tinh hoa văn hóa mới, đồng thời cũng phải giữ gìn, phát huy những nét văn hóa

đẹp của dân tộc mình: hiện đại mà không đánh mất mình, đánh mất tâm hồn

dân tộc mình". Riêng đối với thơ, Ma Trường Nguyên lại có những cảm nhận

riêng: "Thơ là tiếng lòng chân thật nhất, là lời tự thú của trái tim mình". Theo

Ma Trường Nguyên, người làm thơ lúc nào cũng phải nuôi dưỡng trong lòng

mình một "dư vọng ngân nga" của cuộc đời, khi cần chỉ khẽ động vào cũng đã

thành thơ. Thơ chỉ đến với những người biết rung cảm, nồng nhiệt với đời mà

thôi. Người làm thơ phải luôn gắn với đời, giao cảm với đời thì mới có thể có

được những vần thơ chân thật nhất.

Dây đàn anh mắc treo sự sống nảy sinh

Mỗi nốt nhạc hát một đời của nó

Không kéo căng mà lượn theo từng chỗ

Điểm nốt đâu hát thật nhất lòng mình

(Đối thoại núi và biển)

Là một nhà thơ dân tộc thiểu số, ông luôn tâm niệm trước hết phải học

để chắt lọc những di sản tinh túy của dân tộc làm vốn. Nhưng không được lười

biếng, chỉ biết vận dụng máy móc, rập khuôn những di sản của ông cha mà phải

vận dụng sáng tạo để vươn lên, tạo thành cái riêng cho chính mình. Theo Ma

Trường Nguyên: "Trên con đường khám phá, sáng tạo trong sự lao động thơ,

không phải chỉ là kế thừa về mặt hình thức mà là nội dung bên trong của tác

phẩm". Do vậy mà nhà thơ đã tích lũy cho mình một kho tàng những câu Lượn,

câu Ví mang đậm bản sắc dân tộc.

39

Trong các tác phẩm của mình, Ma Trường Nguyên đã sử dụng thành

công ngôn ngữ của dân tộc Tày. Qua đó, người đọc cảm nhận được nét đặc biệt

trong người đàn ông dân tộc Tày, luôn sống và yêu mãnh liệt, đường hoàng.

Không chỉ kế thừa, Ma Trường Nguyên còn thổi vào tác phẩm của mình hơi

hướng của thời đại. Nhờ vậy, chúng ta thấy được sự vận động khách quan của

hiện thực cuộc sống trong thơ ông.

Với những quan niệm nghệ thuật trên, Ma Trường Nguyên đã cho trình

làng một loạt những tác phẩm mang đậm bản sắc dân tộc. Thông qua những tác

phẩm ấy, người đọc không chỉ biết được những nét văn hóa độc đáo của dân

tộc Tày mà còn có thể rút ra cho mình những bài học về đối nhân xử thế, về

tình đời, tình người trong xã hội.

Có thể nói, chính tình yêu tha thiết cuộc sống, con người và văn hóa quê

hương là động lực để nhà thơ luôn học tập, tìm tòi, sáng tạo và đồng thời chính

tình yêu ấy đã tinh lọc vốn sống, tạo nên cốt cách dân tộc miền núi thấm đẫm

trong các trang thơ của Ma Trường Nguyên. Nó mang một nét riêng, vừa có

tính truyền thống nhưng vẫn mang tính sáng tạo, tính mới và hiện đại. Các tác

phẩm của ông đã góp phần đưa thơ ca các dân tộc thiểu số đến gần hơn với độc

giả và trở thành một bộ phận không thể thiếu, đóng góp vào thành công chung

của nền văn học Việt Nam hiện đại.

* Tiểu kết:

Qua nghiên cứu khái quát về thơ ca các dân tộc thiểu số thời kỳ hiện đại

và cuộc đời, con người, sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Ma Trường Nguyên,

chúng tôi nhận thấy:

Thơ ca dân tộc thiểu số Việt Nam được hình thành và phát triển từ sau

cách mạng Tháng Tám năm 1945. Qua các chặng đường vận động, phát triển,

đội ngũ các nhà thơ ngày càng đông đảo, với nhiều thế hệ tiếp nối. Họ là người

của nhiều dân tộc thiểu số anh em như Tày, Nùng, Dao, Chăm, Thái … phân

bố trên nhiều vùng miền trong cả nước đã làm cho các sáng tác thơ ca dân tộc

40

thiểu số trở nên phong phú và đa dạng với bản sắc dân tộc độc đáo. Qua những

sáng tác ấy, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã thể hiện tình yêu quê hương đất

nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Với nhiều giọng điệu, với thế giới ngôn từ

nghệ thuật giản dị, chân thực, đậm chất vùng cao, giống như cách nghĩ, cách

cảm của những con người miền núi chất phác, thật thà, thơ ca dân tộc thiểu số

đã góp vào vườn hoa thơ ca chung một sản phẩm tinh thần đặc sắc, riêng có, để

lại ấn tượng trong lòng người đọc.

Nhà thơ Ma Trường Nguyên, với cuộc đời nhiều gian nan, thử thách tạo

nên một vốn sống và vốn văn hóa phong phú, cùng với tình yêu quê hương miền

núi sâu đậm đã giúp ông rất nhiều trong công việc sáng tác. Với gần 20 đầu sách

thuộc các thể loại: thơ, tiểu thuyết, truyện vừa, tự truyện, kí, tiểu luận và phê

bình..., nhà thơ đã có những đóng góp không nhỏ cho nền văn học các dân tộc

thiểu số Việt Nam nói chung, thơ ca dân tộc thiểu số nói riêng.

41

Chương 2

CẢM HỨNG NỔI BẬT TRONG THƠ MA TRƯỜNG NGUYÊN

Ma Trường Nguyên sinh ra, lớn lên, sống gắn bó với núi rừng Việt Bắc,

được nuôi dưỡng trong chiếc nôi văn hoá của dân tộc mình. Đó là những câu

hát Sli, hát lượn, những phong tục tập quán đến những trò chơi dân gian trong

các lễ hội của quê hương. Tất cả những điều đó đã bồi đắp nên tâm hồn thơ Ma

Trường Nguyên giàu bản sắc dân tộc, mang đậm chất Tày.

Tìm hiểu về thơ Ma Trường Nguyên, chúng ta thấy được dấu ấn của văn

hóa Tày, văn học dân gian Tày trong các thi phẩm. Ở đó, cảm hứng về quê

hương, con người miền núi, tình yêu đôi lứa và những phong tục, tập quán văn

hóa truyền thống dường như là nguồn cảm hứng thường trực và xuyên suốt

trong hầu hết các sáng tác của nhà thơ.

2.1. Cảm hứng về quê hương, con người miền núi:

Cảm hứng hay còn gọi là cảm hứng chủ đạo là “trạng thái tình cảm mãnh

liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư tưởng xác

định, một sự đánh giá nhất định, gây tác động đến cảm xúc của những người

tiếp nhận tác phẩm [18; 44-45].

Khái niệm cảm hứng chủ đạo có quá trình hình thành, phát triển và sự

giới hạn nội hàm nhất định. “Thuật ngữ cảm hứng chủ đạo lúc đầu chỉ yếu tố

nhiệt tình, say sưa diễn thuyết, sau chỉ trạng thái mê đắm khi xuất hiện tứ thơ.

Về sau lý luận văn học xem cảm hứng chủ đạo là một yếu tố của bản thân nội

dung nghệ thuật, của thái độ tư tưởng xúc cảm ở nghệ sĩ đối với thế giới được

mô tả”. [18;45]. Như vậy, cảm hứng chủ đạo ngày càng được nhìn nhận là có

vai trò quan trọng trong thế giới nghệ thuật đi liền với quá trình tự hoàn thiện

của khoa học lý luận văn học. Cảm hứng chủ đạo đem lại cho tác phẩm không

khí xúc cảm tinh thần nhất định, thống nhất tất cả các cấp độ, yếu tố của nội

dung tác phẩm, có vai trò chi phối, gây tác động trực tiếp đến cảm xúc của

người tiếp nhận tác phẩm.

42

* Cảm hứng viết về quê hương:

Theo các nhà nghiên cứu, cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm gắn với tình

cảm của tác giả. Có lẽ vậy nên quê hương luôn là cảm hứng sáng tác của nhiều

nhà văn, nhà thơ. Với tình yêu tha thiết, nhiều tác giả đã dành cho quê hương

của mình những trang viết đầy xúc động để rồi qua thời gian, qua thăng trầm

của cuộc sống, khi họ nhìn về quê hương, những gốc cây, ngọn cỏ, dòng sông,

cánh đồng, núi rừng… như một điểm tựa để nhớ, để yêu.

Là một người con của dân tộc Tày, sinh ra và lớn lên trên mảnh đất núi

rừng Việt Bắc, thơ Ma Trường Nguyên dường như vẫn giữ nguyên hồn của một

người dân tộc, thấm đẫm tình yêu núi rừng. Điều này thể hiện rõ nhất ở tiêu đề

của những tập thơ, bài thơ như: Câu hát vắt qua vai, Bắc cầu vồng thăm nhau,

Mát xanh rừng cọ, Cây nêu. Các bài thơ: Quả còn gieo lửa dậy, Mở núi, Quê tôi

xóm Đồng Chẩn, Con về quê núi, Vùng cao, Mùa xuân trên đèo De.... mang

những đặc trưng của quê hương, của tình cảm đặc biệt mà nhà thơ dành cho

mảnh đất nơi mình sinh ra và lớn lên. Chất thơ trong những bài thơ này đều mộc

mạc, tình cảm và chứa đựng cái hồn của một người dân tộc.

Quê hương, đó là nơi nhà thơ sinh ra và lớn lên, là nơi đi xa thì nhớ và

luôn muốn trở về:

Con về đường núi đèo De

Bên này Rục Rã bên kia Tân Trào

Thác Khuôn nước đổ ào ào

Chim reo trong lá xôn xao Núi Hồng

….

Bước đi mỗi bước bâng khuâng

Đường đèo De vẫn con đường năm nao

(Mùa xuân trên đèo De)

Người con xa quê hương nay trở về, vẫn là đây thác nước, Núi Hồng,

vẫn con đường quen mà lòng tác giả dạt dào cảm xúc bâng khuâng.

43

Tình yêu quê hương luôn hiện hữu trong tâm khảm nhà thơ. Khi nói về

quê hương miền núi của mình, ông viết:

Vùng cao núi bọc mây trời

Núi trùm khăn bạc ngủ ngồi lim dim

Râm ran tiếp nối lời chim

Chông chênh nhà gác nép chìm đêm trăng

(Vùng Cao)

Quê hương có núi, có mây, có nếp nhà chông chênh, và đơn giản có khi

chỉ là chiếc mành, một vật dụng dùng để che cửa chính hoặc cửa sổ của mỗi

ngôi nhà sàn ở miền núi, nhưng với nhà thơ, hình ảnh chiếc mành ấy còn mang

nhiều ý nghĩa khác nhau:

Cái mành chắn gió ấy mà

Nơi ranh giới giữa trong nhà ngoài sân

...

Đung đưa mành gió như sàng

Vọng lời em lọt mơ màng dòng sông

Mành như giữ lại ấm nồng

Cho bàn hoa thắm nở bừng rung rinh

...

Cái mành che trước cửa nhà

Như nơi phân cách đâu là... lứa đôi

(Cái mành chắn gió)

Nhà sàn thường có diện tích sử dụng lớn, chia thành các gian và mỗi gian

đều có chức năng riêng: gian giữa dùng làm bàn thờ, để cầu nguyện ông bà tổ

tiên phù hộ cho gia đình an lành, ấm no và hạnh phúc. Còn các gian phụ được

dùng để sinh hoạt, đồ đạc… Trong các ngôi nhà sàn họ thường treo mành trước

cửa để che chắn, phân định giữa trong nhà và ngoài sân. Cái mành treo trước

cửa nhà trong bài thơ của Ma Trường Nguyên trước hết nó cũng là nơi ranh

44

giới giữa trong nhà và ngoài sân và có tác dụng "chắn gió" như những chiếc

mành thông thường khác. Nhưng có một điều mới lạ và ý nghĩa hơn, chiếc

mành còn là nơi phân cách của những lứa đôi đang yêu. Thường khi đến tìm

hiểu một cô gái, các chàng trai dân tộc ở miền núi chỉ được đứng bên ngoài

mành để nói chuyện chứ không được gặp và nói chuyện trực tiếp. Vì thế cho

nên, người con trai khi nói chuyện sẽ cảm nhận sâu sắc hơn về giọng nói cũng

như hơi ấm của người con gái qua những thanh mành kia. Và ngôi nhà sàn cùng

với chiếc mành xinh xắn đã trở thành biểu tượng chứng kiến tình yêu lứa

đôi trong sáng, được nảy nở, hình thành một cách vô cùng tự nhiên:

… Trước anh một đấng tươi xinh

Xa xôi mấy cũng thân tình gần anh

Khi em chân bước khỏi mành

Vẫn em đấy, đã trở thành mộng mơ

(Cái mành chắn gió)

Trong thơ Ma Trường Nguyên, hình ảnh quê hương còn là những gì quen

thuộc, gắn bó yêu thương giữa con người và thiên nhiên:

Câu hát vướng vào núi chiều

Núi ngây trong mây bọc

Con chim đang ăn mồi rơi xuống đất

Con sóc đang chuyền chân bám vào cây…

(Xây hạnh phúc)

Ngay mở đầu bài thơ chúng ta thấy đã có những hình ảnh quen thuộc của

quê hương nhà thơ, đó là núi, là mây, là sóc…Nhưng ẩn trong đó là hình ảnh

của con người. Với câu hát của người con gái được cất lên đã làm cho mọi thứ

xung quanh đều ngỡ ngàng. Ở đây ta thấy có sự gắn kết giữa thiên nhiên và con

người miền núi. Câu hát ấy không chỉ làm mỗi người con trai rung động, mà

núi, chim và sóc, tất cả đều cảm nhận lời hát hay, say đắm.

45

Trong khung cảnh hùng vĩ của núi rừng, thiên nhiên tươi đẹp, không gian

vũ trụ bao la rộng lớn luôn là cảm hứng trong nhiều sáng tác của Ma Trường

Nguyên.

Trăng xòa láng trên đồng cỏ

Óng ả xanh óng ả mềm

Ào ạt bốn bề gió thổi

Xanh rờn sóng dậy thảo nguyên.

(Vầng trăng thảo nguyên)

Ở đây là trăng, là gió, là thảo nguyên mướt xanh của cỏ. Trăng tỏa rộng

cả đồng cỏ, và khi gió thổi đến thì đồng cỏ ấy dập dìu như làn sóng. Đọc bài

thơ ta có cảm giác tác giả đã có sự hòa mình vào thiên nhiên, trải lòng mình

cùng trăng và gió, để thấy được sự huyền ảo, lung linh của ánh trăng tỏa mình

trong một không gian bao la của thảo nguyên.

Cũng là hình ảnh trăng, nhưng ở bài thơ “Tiếng lá rừng gọi đôi”, Ma

Trường Nguyên lại cho ta thấy một hình ảnh trăng tỏa sáng, tuôn tràn như dòng

suối:

Vầng trăng đã vượt qua đỉnh núi mây mờ

Tuôn suối bạc mượt mà óng ả

Tắm núi đồi phập phồng đất thở…

Ở đây tác giả đã vẽ lên một khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp có cả không

gian và thời gian. Trong khung cảnh này ta thấy một hình ảnh trăng đã lên rất

cao và tỏa sáng giữa mênh mông núi rừng. Trăng lên cao nghĩa là không phải

buổi tối hay buổi sớm mai, mà nó sẽ là giữa đêm. Và trong thời gian ấy, không

gian sẽ rất tĩnh mịch, làm cho trăng tỏa sáng “hết mình”. Liệu ở đây có phải là

hình ảnh ẩn dụ của chàng trai và cô gái qua hình ảnh con trăng và núi đồi? Dẫu

khó khăn nhưng trăng vẫn vượt qua, vẫn sáng lung linh như một dải suối bạc

mượt mà. Và cái duyên tao ngộ đã giúp trăng và núi đồi gặp nhau, tan chảy vào

nhau trong phập phồng hơi thở.

46

Nhà thơ đã dùng một loạt từ láy mượt mà, óng ả, phập phồng nói về tâm

trạng, cảm xúc con người kết hợp biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa để diễn tả

cảnh vật, thiên nhiên đất trời lúc trăng lên: trăng tỏa sáng, đem đến hơi thở, sự

sống cho thiên nhiên đất trời. Trăng được cảm nhận hết sức tinh tế qua tâm hồn

nhạy cảm và tình yêu thiên nhiên của nhà thơ.

Trăng cũng là nguồn cảm hứng vô tận của người Việt ta trong kho tàng

văn học bình dân cũng như của biết bao văn nhân, thi sĩ trong nền văn chương

bác học. Với vẻ đẹp của trăng, dưới ngòi bút của các thi sĩ lại được vẽ lên theo

cách cảm nhận khác nhau. Đọc thơ Ma Trường Nguyên ta thấy, trăng không

chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên, mà có khi lại được tác giả so sánh khá hóm hỉnh,

hình ảnh trăng cuối tháng ví như lương cuối tháng:

Trăng cuối tháng cứ mòn dần khuyết lẹm

Khiến anh hốt hoảng hằng đêm

Lương cuối tháng cứ mòn dần đem đếm

Đến khi tay rỗi răi lặng im

(Trăng cuối tháng)

Cũng giống nhiều nhà thơ khác, thiên nhiên trong thơ Ma Trường

Nguyên thật gần gũi, quen thuộc. Và trong nhiều sáng tác của mình, nhà thơ đã

mượn hình ảnh thiên nhiên để gửi gắm nỗi niềm vào trong đó. Thông qua hình

ảnh về thiên nhiên, tác giả gợi mở một thế giới chứa đựng rất nhiều cảm xúc

chân thực và mộc mạc:

Em là tuyết long lanh núi

Anh yêu anh nhớ khôn cùng

Em đẹp cao sang quý phái

Là mây mềm mại không trung

(Tuyết)

Có lẽ với người đang yêu thì cái gì cũng thấy đẹp. Ở bài thơ này, hình

ảnh người con gái được tác giả vẽ lên thật đẹp, một vẻ đẹp long lanh như tuyết

và mềm mại như mây.

47

Hay đôi khi hình ảnh thiên nhiên trong thõ Ma Trýờng Nguyên nhý một

lời phản chiếu, một cách miêu tả trực quan ðầy thú vị về tâm hồn và tình cảm

của nhà thơ:

Mặc cho núi đứng ngất ngây

Mặc cho chim rừng ngơ ngác

Mặc cho gà gô quên bới đất

Mặc cho sóc bám lưng chừng cây

Mặc cho sương rơi ngược lên mây

Không bằng anh lấy câu hát em về

(Xây hạnh phúc)

Thiên nhiên trong thơ Ma Trường Nguyên nhiều màu sắc, cảm hứng về

thiên nhiên trong thơ ông gợi mở và thể hiện được những hình ảnh khác nhau, vô

cùng đặc sắc và đa dạng. Trong bài “Một mình với thuyền độc mộc” ông viết:

Bồng bềnh trăng nước bồng bềnh

Tròng trành con thuyền độc mộc

Một mình anh - trời – mây - nước

Con thuyền bơi giữa lênh đênh.

Thiên nhiên với ông ở đây có cả trăng, nước, trời, mây, nhưng lòng nhân

vật trữ tình lại lẻ loi, cô đơn, một mình một thuyền lênh đênh giữa bốn bề mây

nước.

Cũng giống như những nhà thơ dân tộc thiểu số miền núi khác, hình ảnh

con sông quê hương, ngọn núi, cảnh đẹp của cuộc sống núi rừng đã đi vào trong

thơ của Ma Trường Nguyên một cách tự nhiên và dung dị. Thiên nhiên ấy gắn

với con người lao động và những dòng sông cũng thường gắn với tình yêu đôi

lứa, với ký ức một thuở…..:

Bài hát bên dòng sông

Lời buông rơi lắng đọng

Bài hát gieo sự sống

Xanh rời rợi tình đầu

(Bài hát không có tuổi)

48

Như chúng ta thấy, trong tình yêu, mối tình đầu bao giờ đẹp nhưng lại

thường dang dở. Có lẽ cũng vì thế mà nó luôn để lại cảm xúc khó quên trong

mỗi người. Tác giả đã mượn hình ảnh dòng sông để nói về cảm xúc ấy. Cảm

xúc không bao giờ quên của những con người đã từng yêu. Tình yêu ấy sâu

lắng như “dòng sông” và đáng trân trọng mỗi khi nhớ về.

Đọc thơ Ma Trường Nguyên chúng ta còn thấy khá nhiều hình ảnh con

sông được gắn với câu hát. Trong bài “Tiếng hát dòng sông” cũng vậy.

Con sông óng ả nghiêng

Theo chiều ngân câu hát

Loang dải xanh ánh bạc

Cuồn cuộn trôi mênh mông

(Ma Trường Nguyên)

Ta thấy trong thơ ông hình ảnh thiên nhiên luôn có con người. Qủa thực

nếu không có sự đồng cảm, không có một tình yêu mãnh liệt thì khó có thể viết

lên những trang thơ đẹp đến vậy. Hay như bài “Mặt suối”, thiên nhiên lại vui

tươi như lòng người vậy:

…Con suối chảy bên nhà

Em mang bương xách nước

Miệng suối hát náo nức

Vào hốc đá rì rà…

(Ma Trường Nguyên)

Ai đã từng sống ở miền núi, từng đến Việt Bắc mới thấy thiên nhiên ở

đây bốn mùa tươi đẹp. Rừng núi hay ven sông đều có hoa nở hòa cùng âm

hưởng cuộc sống của con người. Có khi hoa như là người con gái, quyến rũ tỏa

hương:

Những mùa hoa ven sông

Rắc nhụy hương phơi phới

Thơm như là tiếng gọi

Người bên sông đang chờ

(Tiếng hát bên sông)

49

Và hoa là mùa hoa xa lắc của dĩ vãng, mùa hoa của dại khờ:

Tìm về hoa dại trên đồi

Mất em rồi hoa cũng mất

Ở đâu, đời này mặt đất

Con người và giấc mơ hoa?

(Tìm về thời hoa dại)

Thiên nhiên trong thơ nói chung và thơ Ma Trường Nguyên nói riêng

thường có các“mùa” ở trong đó và được ông nhắc đến nhiều nhất là mùa xuân,

hay nói cách khác, bức tranh về vẻ đẹp của cỏ cây hoa lá, của mùa xuân đã

được thi sĩ vẽ lên trong thơ:

Ngẩn ngơ hoa đào nở

Kề cận cửa sổ nhà

Xuân về bông giấu nụ

Chúm chím mỉm cười mơ

(Hoa đào và thi sĩ)

Mùa xuân trên quê hương Việt Bắc tươi đẹp, thơ mộng thường được tác

giả miêu tả với những hình ảnh đậm màu sắc miền núi.

Mùa xuân đã đến bên anh

Dẫu hoa đua nở thắm cành từ lâu

Lời chào xuân vẫn ngọt ngào

Như xuân không biết phai màu là chi.

(Lối xuân)

Mùa xuân đến, mang theo sức sống tràn đầy cho nhân gian, vạn vật. Nó

mang cho mình âm hưởng tươi vui hạnh phúc, gieo những hạt giống hy vọng

vào mỗi người và tình yêu đôi lứa. Đọc những câu thơ này của Ma Trường

Nguyên ta có cảm nhận rằng tình yêu của nhân vật trữ tình đang thật đẹp, đẹp

như khung cảnh của mùa xuân, với hoa thắm sắc hòa cùng xúc cảm ngọt ngào

của đôi lứa đang yêu và hy vọng về một tình yêu bền chặt, không phai màu.

50

Cũng là cảm xúc như vậy, trong bài “Em như mùa xuân”, nhà thơ viết:

Em như là mùa hoa

Cho anh mùa xuân đẹp

Để ngực anh rung chép

Cuộc đời này thành thơ.

Một người con trai đang yêu say đắm, thổn thức, rạo rực. Tình yêu làm

cho người ta có cảm giác như đang được sống giữa khung cảnh mùa xuân đầy

hoa, cuộc đời sao tươi đẹp thế, đẹp tựa như vần thơ vậy. Đúng là một tình yêu

chân thành giống như tấm chân tình của những chàng trai miền núi.

Những câu thơ viết về mùa xuân của nhà thơ Ma Trường Nguyên

khiến ta liên tưởng tới những câu thơ của nhà thơ Tày Nông Quốc Chấn viết

về mùa xuân ở quê hương Việt Bắc. Đó là bức tranh xuân với hình ảnh hoa và

lá tựa như tấm vải thổ cẩm trải qua mặt bàn rực rỡ sắc màu:

Mùa xuân mới về với chúng ta

Lá hoa nhuộm đồi đèo rừng núi

Như thổ cẩm trải qua mặt bàn

(Nông Quốc Chấn)

Với nhà thơ Dương Thuấn, mùa xuân lại là hình ảnh những ngọn đào

bừng lên như những ngọn lửa bên cạnh những ngôi nhà sàn, hình ảnh trắng

ngần của hoa mơ, hoa mận khắp triền thung:

Mùa xuân lại đến với non ngàn bao la

Dọc thung trời trắng hoa mận, hoa mơ

(Dương Thuấn)

Xuân thường là đẹp trong mắt các thi sĩ, vì đây là thời khắc giao hòa của

đất trời. Có lẽ thế nên với nhà thơ Ma Trường Nguyên, xuân còn là biểu tượng

cho tình yêu đôi lứa. Họ yêu nhau, trao nhau ánh mắt, vòng tay, hòa quyện vào

nhau như hương xuân hòa quyện cùng đất trời.

51

Em cười, mắt tụ đầy ánh nắng

Đôi tay xuân nồng ấm trắng ngần

Ôm cả đất trời bất tận

Vào anh trao mùa xuân

(Mùa xuân đâu rồi em)

Nếu như mùa xuân là mùa khởi đầu thì mùa thu thường mang đến cho ta

cảm giác buồn như chính tiết trời thu vậy, đẹp nhưng buồn. Có lẽ vì thế nên

thường các bài thơ viết về thu hay mang âm hưởng chia ly, nhớ mong, xa

cách… Thơ của Ma Trường Nguyên cũng vậy:

Một mùa thu cùng đến sáng trong

Hương cốm bay một vùng gió mới

Thổi tóc em vương vào tiếng nói

Câu thơ buồn đọng mắt em rơi

(Như mùa thu cùng đến)

Cùng với “xuân”, với “thu”, trong thơ Ma Trường Nguyên hè cũng rực

rỡ mùa hoa phượng.

Cây phượng già bờ sông

Một mùa hè hoa nở

Tôi tình cờ gặp gỡ

Với em dưới bóng hồng

Em đắm nhìn sông trong

Hoa mọc rung rinh nước

(Màu hoa soi tím)

Mùa hè rực rỡ của nắng, của hoa phượng, của người đang nồng nàn yêu.

* Cảm hứng viết về con người miền núi:

Trong sáng tác của Ma Trường Nguyên, cùng với quê hương, cảnh sắc

thiên nhiên tươi đẹp, hình ảnh con người vùng cao cũng luôn là cảm hứng trong

nhiều thi phẩm của ông. Viết về hình ảnh con người vùng cao, Ma Trường

52

Nguyên đã khắc họa thành công hình ảnh con người miền núi nơi quê hương

yêu dấu của ông, những con người mộc mạc nhưng luôn lấp lánh vẻ đẹp thuần

khiết, trong trẻo, khỏe khoắn, rất đáng tự hào. Đó là người Cha với sự khéo léo,

tỷ mỉ để dựng lên ngôi nhà sàn cho những người thân yêu. Và trong đó, nó chứa

đựng biết bao nhiêu tâm huyết, tình cảm của cha:

Tiện cây bố chặt làm nhà

Làm lọ hoa gốc nghẹ già cho con

Đục cây bố chạm trăng tròn

Có thêm ngọn lửa chập chờn chiều sương

Nét cong xinh xẻo cánh buồm

Thuyền ra khơi giữa biển rừng xanh lơ

Đêm con nằm đẹp giấc mơ

(Con về quê núi)

Căn nhà ấy với những vật dụng được làm từ chính đôi bàn tay thân yêu

của người cha đã trở thành nơi thanh bình, đầm ấm nuôi dưỡng tuổi thơ của

những người con được lớn lên từ nơi ấy. Đây cũng là hình ảnh của người cha

miền núi hết lòng chăm lo cho gia đình, cho những người thân yêu. Vậy nên

người con luôn nhớ về những kỉ niệm, về lời dặn của cha:

Cha đi công tác xa nhà

Lời cha dặn dưới tán hoa đồi chè

Cho con học chữ đến khi

Chữ thầy học hết con thì mới thôi

...

Con đang học chữ của thầy

Nước nhà giặc Mỹ thả đầy đạn bom

Chữ thầy chưa được bao lăm

Con cầm súng chống ngoại xâm hàng đầu.

53

Và đến hiện tại người con đã hoàn thành được di nguyện của cha:

Đồi chè mộ mẹ trên cao

Mộ cha cải táng đất sâu phủ dày

Con đi học hết chữ thầy

Lời cha dặn mãi tim đây chẳng nhòa

(Đồi chè xanh mây trắng)

Với người cha, cho dù con có lớn khôn thì lúc nào cũng như còn thơ bé.

Con nép vào cha nũng nịu

Như còn thơ dại đấy thôi

Dẫu đã qua rồi niên thiếu

Đã vào tròn tuổi hai mươi.

(Chụp ảnh cùng con)

Và những người con ấy luôn nhớ đến người sinh thành ra mình:

…Chào đời mùa hạ mẹ sinh

Nuôi từ hạt máu mong manh hình người

Miệng chun chút hôn bầu trời

Áp vào ngực mẹ nhận lời ru êm

Nghe câu mẹ hát mà thèm

Ngây ngô môi chúm chím lên tay cào

Nắm vào hôn ướt ca dao

Vết lem sữa mẹ ngọt ngào lời ca

Tuổi nghe mẹ hát ầu ơ

Mẹ hôn vào má non tơ mọng dầy.

(Đến ngày khép lại trăm năm)

Là người mẹ mang thai con trong mưa bom bão đạn, nhưng dù thế nào

thì chân con vẫn đạp trong bụng mẹ hàng ngày. Đó là sự sống, là niềm hạnh

phúc vô bờ của mẹ, của cha.

54

Ôi nhịp đạp con tôi! Nhịp đạp con tôi

Con cứ đạp đi đạp đi tự do rộng rãi

Đếm bước chân mẹ đi, đếm bước niềm vui

….

Chín tháng trời chân con đạp trong bụng mẹ.

(Hà Nội trong nhịp đạp chân con)

Đó còn là những người thân trong gia đình như bài Ông tôi:

Ông tôi đóng cối với đan lờ

Một đời hồn xác đã trói gô

Vào cối xay quay vòng số mệnh

Gia tài không đủ góc lờ trơ…

(Ông tôi)

Ngày trước, khi chưa có may xay xát gạo, người miền núi thường dùng

cối xay tre để xay xát. Đóng cối là một nghề thủ công truyền thống rất vất vả,

vì người thợ đóng cối sẽ thường phải vừa chặt, pha tre, đan và đắp đất để thành

chiếc cối. Còn Lờ là một dụng cụ dùng đánh bắt cá được đan bằng những nan

tre, mây, được vót tròn. Cái dụng cụ bình dị ấy vừa là phương tiện lao động

phục vụ đời sống, vừa là một sáng tạo đầy chất văn hóa của người miền núi.

Bởi vì, mỗi vành nan được vót, chuốt thật tỉ mỉ bằng đôi bàn tay cần cù, khéo

léo của người lao động. Hình ảnh ấy cho thấy cuộc sống lao động, nhất là lao

động ở miền núi không mấy dễ dàng, bao mồ hôi nhọc nhằn của con người đã

đổ xuống. Người ông trong bài thơ là một người như thế. Nhưng còn một điểm

nữa trong bài thơ ta thấy, ông cũng như những con người miền núi lúc bấy giờ

không chỉ vất vả về thể xác mà còn nhọc cả tinh thần. Cuộc sống của họ quẩn

quanh, nặng nhọc như vòng quay của chiếc cối mà chưa biết ngày mai thế

nào, vì sống dưới ách phong kiến thống trị, chiến tranh xâm lược. Nhưng lòng

căm thù lên đến đỉnh điểm đã khiến họ vụt trở nên dũng mãnh:

Ông bà ngã ngực xuyên bom đạn Mỹ

55

Mẹ vuốt mặt ông bà cùng cha ra đi

Cầm lấy súng

Loang đất quê hương máu giặc đầm đìa…

(Hà Nội trong nhịp đạp chân con)

Một hình ảnh chân thực của thời chiến tranh. Ông bà đã ngã xuống vì

bom đạn kẻ thù, nhưng trước sự mất mát ấy những người con đã nén nỗi đau

để cầm súng chiến đấu, trả thù cho người thân, cho quê hương. Kẻ thù cũng

phải đổ máu trả giá cho sự tàn ác của mình.

Trong thơ Ma Trường Nguyên, ta còn thấy được hình ảnh của những

người thân yêu, những người anh, người chị họ hàng với tình cảm chân thành,

sâu sắc:

Đúng ngày cuối tháng cuối năm

Em về quê được đến thăm anh cùng

Anh người anh họ chung ông

Anh đang ốm nặng mà lòng vẫn vui…

(Nhớ người anh họ)

Một tình cảm thân thiết giữa nhà thơ và người anh họ của mình. Đi xa

lâu ngày không nhìn thấy nhau, nên khi gặp gỡ, dù anh ốm nhưng vẫn rất vui.

Rồi có khi là nỗi buồn của nhà thơ khi tiễn người chị họ khuất núi:

Thế là chị về với anh

Về với tổ tiên gốc đất trái cỏ

Cõi tạm bày mươi sáu năm vất vả

Giờ chị thành thơi…

(Tiễn chị về)

Đọc thơ Ma Trường Nguyên ta còn thấy cả hình ảnh của những người

bạn, những người đồng chí, những cán bộ miền núi từng tham gia hoạt động

cách mạng:

Bản ta đồng chí Bí

56

Đồng chí Tảo Việt Minh

Bước sang thời chống Mỹ

Bao con cháu đồng hành

Hiền bạn thời chọi dế

Cùng tôi thuở chăn trâu…

(Quê tôi xóm Đồng Chẩn)

Đó là hình ảnh cụ Ma Doãn Bí, cụ Ma Doãn Tảo là cán bộ người xóm

Đồng Chẩn, xã Phú Đình, quê hương nhà thơ. Họ tham gia hoạt động cách

mạng thời Việt Minh và là những Đảng viên cộng sản trung kiên. Còn bạn nhà

thơ là Ma Doãn Hiền- đã hi sinh cho nền độc lập tự do của dân tộc trong thời

kỳ kháng chiến chống Mĩ. Tất cả là những tấm gương sáng, biểu tượng cho tinh

thần cách mạng của những người con dân tộc miền núi, vùng quê chiến khu

xưa.

Ngoài những hình ảnh về cha, mẹ, những người thân trong gia đình, hay

những chiến sĩ cách mạng, thơ Ma Trường Nguyên khi nhắc đến các hình tượng

nhân vật trữ tình còn khắc họa sâu đậm tình cảm với Bác Hồ kính yêu:

Hái một bông hoa núi

Kính dâng lên ngày sinh

Của Người tròn trăm tuổi

Là Bác Hồ Chí Minh

….

Tiếng Bác Hồ hiền hậu

Sông núi còn vọng lời

Trong lòng dân dội thấu

Ấm áp đến muôn đời…

(Một trăm năm thưa Bác)

57

Như chúng ta đã biết, Định Hóa, quê hương của nhà thơ từng là ATK kháng

chiến, nơi Bác đã sống và làm việc trong những năm kháng chiến chống thực dân

Pháp. Đồng bào các dân tộc nơi đây đã trở che, đùm bọc cho Bác, cho cách mạng.

Tình cảm ấm áp ấy cũng như những lời dạy của Người luôn khắc sâu trong tim

mỗi người dân nơi đây, trong đó có nhà thơ.

Nhớ hôm trời mới tinh mơ

Gặp ông cụ tóc phơ phơ mái đầu

Đường đèo ngựa cụ bước mau

Áo quần cụ mặc xanh màu núi xanh

Có đôi mắt sáng long lanh

Cao cao vầng trán thanh thanh dáng người

Đến ngày cờ rợp đất trời

Ơi con mới biết chính Người kính yêu…

(Mùa xuân trên đèo De)

Hình ảnh Bác kính yêu thật giản dị, gần gũi với đồng bào miền núi. Hình

ảnh ấy gợi ta nnhớ về bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Nhà thơ cũng đã vẽ lên chân

dung Bác – một lãnh tụ cách mạng đồng thời là một thành viên thân thiết trong

đại gia đình các dân tộc ở chiến khu.

Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời,

Áo nâu, túi vải đẹp tươi lạ thường!

Nhớ Người những sáng tinh sương,

Ung dung yên ngựa trên đường suối reo.

Nhớ chân Người bước lên đèo,

Người đi rừng núi trông theo bóng Người…

(Việt Bắc)

Nhớ Bác, về thăm quê Bác, nhà thơ Ma Trường Nguyên viết:

Nhớ Người chẳng dám đứng lên

Đứng lâu Bác chẳng vui đâu lúc này

58

Đinh ninh lời Bác còn đây

Xốc ba lô súng chắc tay lên đường.

(Đứng nghiêm chào Bác lại lên đường)

Là người miền núi với cái nhìn chân thực, giản dị, nên trong thơ Ma

Trường Nguyên còn có hình ảnh của những người con trai dân tộc mình đa tình,

đa cảm. Họ luôn có một tình yêu thuần khiết, khát khao, say đắm nhưng cũng

rất mạnh mẽ, yêu hết mình. Con người đậm chất núi rừng:

Em đẹp làm anh mê mẩn

Đời này em sẽ của anh

Em đẹp làm anh khao khát

Suốt đời vươn tới thành anh

(Em đẹp làm anh vươn tới)

Hay:

Đấy là em với anh- hai người

Như là một như là đôi cũng thế

Đã chờ nhau đầu non cuối bể

Thoáng gặp rồi lại thoáng cách xa…

(Em thoáng đến như người xin lửa)

Không chỉ yêu say đắm, quyết liệt, những chàng trai miền núi c ̣n phải là

những người khỏe mạnh, rắn rỏi và mạnh mẽ như sóng như gió :

Anh phái Khỏe ầm ào sóng gió

Ngả nghiêng trời đất mê say

(Em đến thời tiểu thuyết)

Bản chất của đàn ông là mạnh mẽ, thế nhưng cũng có khi đàn ông trong

thơ Ma Trường Nguyên lại mang một dáng vẻ khác, hóm hỉnh, hài hước:

Thời nay làm gã đàn ông

Chạy đâu cho thoát cái “gông” đàn bà

59

Nào là cấm ngặt rượu trà

Đi xe máy phải nhẩn nha thẳng nhìn

Chớ mải mê liếc các em…

(Đàn ông thời nay)

Trong vô số những bài thơ đậm chất trữ tình da diết, thì đến bài thơ này

ta thấy có sự khác lạ. Không đắm đuối trong tình yêu nữa, mà nhân vật trữ tình

đang sống cuộc sống hiện tại, của người đã có gia đình, đã bị đeo “gông” và

phải luôn nhớ vô vàn những lời vợ dặn.

Nói về vẻ đẹp của người phụ nữ, ca dao, dân ca Việt Nam đã ghi lại:

Những người con mắt lá dăm

Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền

Hay:

Những người thắt đáy lưng ong

Vừa khéo chiều chồng lại khéo nuôi con.

Với Ma Trường Nguyên, nếu là con gái, thì người con gái ấy luôn dịu

dàng, khỏe khoắn, nét đặc trưng của người con núi rừng, thơ Ma Trường

Nguyên là như vậy:

Em đến thời tiểu thuyết của anh

Là phái Đẹp dịu dàng quyến rũ

(Em đến thời tiểu thuyết)

Vì phải lao động, phải leo núi, lên rừng, lội suối nên con gái miền núi

thường mang một vẻ đẹp tự nhiên, cái đẹp ấy khỏe khoắn, ngực cao đẹp, quyến

rũ:

Em xinh giòn quyến rũ

Dáng thon thả dịu hiền

Khuôn ngực vươn cao thở

Dang tay duỗi bay lên

(Sáng anh tập thể dục)

60

Vẻ đẹp của người con gái còn được nhà thơ khắc họa:

Lúc em đứng khi em ngồi

Nhìn dáng bề nào cũng đẹp

Như tạc trong khuôn trong phép

Như chẳng ai được tuyệt hơn

(Theo đuổi hình bóng đẹp)

Không chỉ có “hai mình”, trong thơ Ma Trường Nguyên còn có cả

“người thứ ba”:

Nghe thơ em lòng anh nôn nao

Dù thơ em viết cho người đàn ông khác

Anh cũng thấy muôn lần mất mát

Thuở mà em chưa gặp được anh.

(Nghe thơ em viết cho người khác)

Ở đây ta thấy đúng là cảm giác của một người đang yêu, vừa độ lượng

bao dung nhưng cũng vừa muôn lần ích kỉ, dù biết đó là quá khứ.

Rồi có khi là người xưa cũ:

Gốc nhội xưa tôi ngơ ngác đến tìm

Gặp người đàn bà như lạ

Chẳng nói với nhau một điều gì cả

Cùng đứng im như gốc nhội già.

(Tìm gốc cây xưa)

Có thể nói, với tình yêu quê hương, tình yêu với những người thân, với

nơi mình sinh ra và lớn lên, đã giúp Ma Trường Nguyên có những sáng tác

mang đậm hơi thở của cuộc sống và con người miền núi với những nét văn hóa

đặc trưng, riêng có. Bên cạnh đó, hình ảnh về các chủ thể, các nhân vật trữ tình

được nhắc đến trong thơ Ma Trường Nguyên rất phong phú và đa dạng, điều đó

thể hiện một tâm hồn thơ tự do, đa sắc và một nguồn cảm hứng dào dạt nhưng

cũng rất tinh tế và chăm chút. Đó cũng là điều đặc biệt mà thơ Ma Trường Nguyên

mang đến cho độc giả.

61

2.2. Cảm hứng về tình yêu đôi lứa

Ma Trường Nguyên vốn là nhà thơ của núi rừng với một tâm hồn trong

trẻo, đầy đa cảm. Nguyễn Đức Thiện đã từng nhận xét:‘‘Trong Ma Trường

Nguyên vẫn còn nguyên vẹn sự trẻ trung, trẻ trung và trong sáng, nhất là khi

viết những bài thõ về tình yêu. Không thấy sự ủ rũ, thất tình như thường gặp

mà ngay cả khi viết về thất tình, Ma Trường Nguyên cũng làm cho nó trong

sáng lên, tươi tắn lên’’. Nói về Ma Trường Nguyên, nhà văn Trung Trung Đỉnh

cho rằng Ma Trường Nguyên là “Người đốt lửa bằng trái tim”. Còn Phạm Tiến

Duật nhận xét “Người ta gọi Ma Trường Nguyên là nhà thơ. Có lẽ bởi tâm hồn

nhiều đắm say của anh”. Sự đắm say đó lại dựa trên một tình cảm rất thật, rất

hồn nhiên, đã đem lại những bài thơ hay, mang sắc thái riêng của tác giả. Và

cũng có lẽ bởi như vậy, nên trong phần lớn các sáng tác của ông, nguồn cảm

hứng chủ đạo là viết về những cuộc đời, những số phận con người nơi quê

hương ông, với niềm khát khao mãnh liệt về tình yêu và hạnh phúc. Trong đó

nổi bật nhất là tình yêu đôi lứa, dù ở thể loại tiểu thuyết hay thơ. Điều đó được

thể hiện ngay từ tên truyện, tên thơ, như “Tình xứ mây”, “Trăng yêu”, “Trái

tim không ngủ”, “Tiếng lá rừng gọi đôi”, “Bắc cầu vồng thăm nhau”…

Khảo sát các tập thơ của Ma Trường Nguyên chúng ta thấy, tình yêu -

đó là trạng thái tình cảm xuyên suốt các tập. Từ tập thơ “Trái tim không ngủ

yên” được đề rõ là thơ tình, đến các tập viết sau này, như tập “Câu hát vắt qua

vai” có đến 35/47 bài là viết về tình yêu, tập “Cây nêu” có 23/35 bài, tập “Bắc

cầu vồng thăm nhau” có 33/43 bài.

Tình yêu trong thơ Ma Trường Nguyên luôn trẻ trung và trong sáng, được

bộc lộ với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Có khi là sự mãnh liệt gây ấn

tượng mạnh, cái mãnh liệt rất đàng hoàng của một người đàn ông miền núi.

Điều đó được thể hiện cả ở thơ song ngữ Tày- Việt:

Hết pò chài slổng muột hâng

62

Lẻ điếp slương na mắn

Rừ noọng nhằng bấu chăn

Dám kha pây sa cần táng

Nghĩa là:

Là đàn ông anh dám sống đến cùng

Và dám yêu đến cùng nữa chứ

Nếu không tin, em còn lưỡng lự

Em cứ việc đi tìm người nào hơn anh.

(Hết pò chài - Là đàn ông)

Có khi là đằm thắm, cái đằm thắm của một người từng trải, biết trân trọng

yêu thương những gì mình đang có. Ở đây ta thấy có hình ảnh núi và sông, một

cặp từ thường được sử dụng trong văn học. Núi là biểu tượng cho sự vững chãi,

còn sông là biểu tượng cho sự mềm mại nhưng sâu lắng. Một tình yêu bền vững,

gắn kết muôn đời, như núi như sông:

Em đã về bên anh

Như trời xanh trở lại

Núi khát gặp suối lành

Dưới mùa xuân hoa trái…

… Em lại về trong anh

Anh trong em mãi mãi

Bên nhau như sông núi

Dưới trời cao thẳm xanh

(Bên nhau như sông núi)

Cũng giống như nhiều nhà thơ miền núi, thơ tình của Ma Trường Nguyên

được diễn đạt theo cách của người miền núi, thật bụng, chân thành mà nồng

nàn, say đắm. Trong bài thơ “Anh sẽ phải nói thật”, Ma Trường Nguyên viết:

Rượu anh không uống say

Thuốc anh không hút say

63

Trầu anh không ăn say

Thế sao anh mê mẩn

Chân đi lệch lõm

Dáng siêu siêu…

Đó là cái say tình mê mệt, ngả nghiêng tự lòng mình. Trong bài thơ này,

hay nhất có lẽ là từ “lệch lõm”. Phải chăng đây là từ sáng tạo của Ma Trường

Nguyên. Cái say tình làm cho dáng đi của người ấy cũng khác.

Hay như “Gọi em” cũng là một trong những bài như thế. Khi người ta

yêu nhau, sự cách bức không gian là nỗi phiền muộn, day dứt, cô đơn đau khổ

luôn hành hạ, dày vò. Làm thế nào đề người ta biết được nỗi lòng thương nhớ

ngổn ngang ấy ? Người con trai cất tiếng gọi người yêu nhưng không gian cách

trở quá, cách núi đồi, sông suối thì phải gọi thế nào để người yêu nghe thấy,

tìm tới anh đây ? Và thế là người con trai phải mượn tới sự trợ giúp của tự nhiên

là nắng, là mưa và là gió:

Anh muốn gọi em bằng đường nắng…

Anh muốn gọi em bằng đường mưa…

Anh muốn gọi em bằng đường gió…

Nắng, mưa, gió có thể đến được mọi nơi, mọi chốn, nhưng lại không thể

mang theo được tiếng gọi của lòng anh đến với em, mà nắng cứ quẩn quanh…,

mưa cứ lặn chìm…, gió cứ uể oải…

Đọc những câu thơ này của Ma Trường Nguyên, ta lại nhớ đến những

câu thơ trong bài “Phải nói” của Xuân Diệu:

...Yêu tha thiết thế vẫn còn chưa đủ ?

Anh tham lam, anh đòi hỏi quá nhiều,

Anh biết rồi, em đã nói em yêu;

Sao vẫn muốn nhắc một lời đã cũ ?

Xuân Diệu yêu thôi chưa đủ, mà phải nói ra thành lời. Ma Trường

Nguyên, cũng mong sự đáp đền, yêu là nhớ, muốn gọi tên, cũng muốn nói lời

64

yêu mới thỏa.

Và khi ấy vì xa, vì cách trở, dù có nhờ cả trời, gió, mưa mà vẫn bất lực

nên người con trai núi rừng ấy đã thể hiện bằng cách khác cũng không kém

phần mãnh liệt:

…. Anh vội lấy dùi da nai bọc

Đánh liên hồi

Vào tim anh làm cồng vang dội…

Yêu là thế đấy. Nên trái tim đa cảm của người con trai đã tự hứng lấy

những nhát đập liên hồi của chiếc dùi bọc da nai, biến thành chiếc cồng dội lên,

vang vọng lên lời thương nhớ, lời của tình yêu nồng nàn, cháy bỏng, mà đau

đớn, bầm dập nỗi nhớ, nỗi cô đơn. Đó là tiếng gọi tỉnh yêu đặc biệt nhất của

anh gửi tới em.

Ma Trường Nguyên là thế, thơ ông thật thà bộc bạch tâm trạng mình,

khai thác tận cùng những suy tư, cảm xúc, dù là có thật hay tưởng tượng. “Câu

hát vắt qua vai” là một trong những bài thơ như thế. Nghe một câu hát mê say

trong núi chiều, anh- người con trai đi nương về bỗng:

…Quên bó củi trên vai đang vác

Đứng im như núi mọc

Mê mẩn lắng nghe…

Trên vai là bó củi, lại thêm câu hát vắt qua, “không thấy nặng đè”, chỉ

hăm hở “mang câu hát ra đi”, quên cả lối về nhà.

…Đôi vai lún xuống

Đôi chân luống cuống

Không thấy lối cửa lối nhà

Ngây nhất theo lời ca

Vắt lên vai êm mượt…

Giọng thơ mang tính tự sự, kể chuyện tình yêu vừa ảo, vừa thực:

Vác củi vẫn trên vai anh đi

65

Muốn đón em về chung nhà chung cửa.

Đó đích thực là một chàng trai Tày, khi yêu rất cần củi lửa- một tổ ấm

lứa đôi:

Được em rồi anh nhóm lên bếp lửa

Dậy chín đỏ má em

Anh tìm trong hơi thở ấm êm

Lấy ra cho mình hạnh phúc.

Bắt gặp câu hát mê say, anh như bắt gặp được một tình yêu đẹp cần phải

giữ gìn, tiếp lửa cho nó. Vác củi trên vai anh đi dù khó nhọc, anh vẫn vác đi để

được nhóm lên ngọn lửa tình yêu, tiếp cho ngọn lửa ấy cháy đượm, cháy bền.

Đó là tình yêu của chàng trai miền núi cẩn thận, chu đáo mong xây dựng một

tổ ấm gia đình, tổ ấm của lứa đôi. Nhưng ở đây ta mới chỉ thấy tình yêu từ một

phía - chàng trai.

Nếu em bực tức

Anh sẽ để em về

Anh chỉ giữ lại lời hát say mê

Không cho lan ra bốn bề được thấy…

Có vẻ như cam chịu, nhẫn nhịn từ phía chàng trai…Thơ tình Ma Trường

Nguyên là thế, nồng hậu và luôn tràn đầy hy vọng. Một lời hát bâng quơ mà

say đắm trong chiều vắng bên rừng cũng đủ cho anh tin vào cuộc sống, tin vào

cái tốt đẹp của cuộc đời.

Với Ma Trường Nguyên, tình yêu là nét đẹp, là sự ấm nồng của cuộc

sống, dẫu chỉ là tình thoáng qua, không trọn vẹn.

Em như khách miền rừng không một nhà

Mà một bếp cùng chung ngọn lửa

Em thoáng đến rộng hồn anh mở

Biết đời còn lắm ấm nhiều nồng.

(Em thoáng đến như người xin lửa)

Có thể nói, người đẹp, hình bóng người đẹp luôn ngự trị trong thơ Ma

Trường Nguyên. Người đẹp mang đến cho thơ ông niềm say mê và sự khát

66

khao vươn tới cái đẹp, cái nhiệm màu của cuộc sống:

Mưa xuân giăng mắc tơ trời

Xa em ngày hiện đêm mơ bóng hình

Vẫn còn xuân vẫn còn tình

Vẫn còn nhau để chúng mình còn xuân.

(Vẫn còn xuân)

Tính tình ông thật thà, chất phác, đôn hậu. Tình thơ ông cũng chất phác

giãi bày. Ông kể tình thật, ước muốn thật, mong mỏi thật...Và ta thấy, khi nói

đến thơ tình của ông, chất trữ tình, nhịp điệu ngân vang của trái tim được thể

hiện trong các bài thơ rất đậm:

Cứ nhìn vào trong mắt nhau

Thấy tình yêu ở dài với người.

(Cứ nhìn vào trong mắt nhau)

Khi yêu, nhớ nhau là chuyện đương nhiên. Nhưng ở miền núi, do địa

hình cách trở nên dù nhớ họ cũng không dễ dàng gặp được nhau ngay. Nên có

khi nhân vật trữ tình ước “Bắc cầu vồng” để đi đến với nhau:

Bắc cầu vồng sáng rực

Vượt trời rộng thăm nhau…

(Bắc cầu vồng thăm nhau)

Người miền núi, sống trong không gian thoáng đãng của núi rừng nên

trong tình yêu đôi lứa, nhà thơ luôn có khát khao hòa nhập với thiên nhiên bao

la, rộng lớn. Có khi, đó còn là khát vọng hòa nhập, giao cảm của tình yêu đôi

lứa mang tầm vóc vũ trụ, hoang sơ, kỳ vĩ và đúng như phong cách thơ Ma

Trường Nguyên, một nỗi khát khao vươn tới cái tận cùng tột độ:

Không gian một cánh đồng chưa tra hạt

Dòng sông vại nước ngọt của trời

Anh đến em lăn đến cánh đồng đời

Sấm gọi mùa màng chín mẩy…

67

(Làn tóc xõa)

Ma Trường Nguyên quan niệm "Thơ là tiếng lòng chân thật nhất, là lời

tự thú của trái tim mình". Còn người ta thì nói Ma Trường Nguyên là thi sĩ đa

tình nhưng chung tình. Ông cứ mãi mơ, mãi nhớ những gì đã qua dù nhỏ nhất,

bình thường nhất đối với mọi người. Khát cả một đời nên cuồng nhiệt uống

trong thơ. Nhưng có một điều lạ trong thơ tình của Ma Trường Nguyên là nỗi

buồn của ông không bao giờ được đẩy đến tận cùng như trong thơ của các nhà

thơ khác. Nhà văn Hồ Thủy Giang đã từng nhận xét “Ma Trường Nguyên rất

sợ nỗi đau!”. Nhưng đã yêu thì luôn mãnh liệt. Có lẽ đây cũng là do tính cách

mạnh mẽ của người Tày nên cách nhìn tình yêu của họ cũng thật đặc biệt .

Đàn ông yêu bằng trời

Đàn bà yêu bằng đất

Chỉ người có yêu thôi

Mọi loài không có được

Mắt đàn ông thất lạc

Gửi vào trăng giữa trời

Mắt đàn bà đánh mất

Gửi lên trăng giữa trời

(Mắt trăng mọc)

Rồi có khi là khát khao thầm kín về sắc dục nhưng vẫn trong veo:

Đồi mọc nghiêng chao

Chung chiêng ngực đất

Mơn mởn

Nhô cao

Rạo rực

Khát

(Đồi)

Một loạt các cặp từ láy “Chung chiêng”, “Mơn mởn”, “Rạo rực”…thể

hiện một tình yêu đang đắm đuối, khát vọng, si tình trong một không gian mở,

68

đó là đồi cao. Ta có cảm giác tất cả đều phập phồng hơi thở của tình yêu nồng

nàn và say đắm – những con người đang yêu. Và còn có cả một niềm dữ dội và

thầm lặng dấu trong một chứ “Khát” ấy…

Thơ tình Ma Trường Nguyên, như ta đã thấy, các sáng tác của ông luôn

đầy tràn khát vọng yêu, hoài vọng yêu, kỷ niệm yêu và những cung bậc muôn

thủa của tình yêu đôi lứa. Nhớ đấy, yêu đấy, nhưng cũng có lúc đầy ghen

tuông:

Xa anh em có ngậm ngùi

Hay đang hớn hở với người mới quen…

(Câu thơ chỉ đường)

Tình yêu trong thơ Ma Trường Nguyên là mơ là mộng cả khi ngủ và khi

thức. Những kỷ niệm tình yêu cũ thường “nhỏ xinh chùm hoa khế”, rồi hương

kỷ niệm thoang thoảng một đời thơ. Nhà thơ đắm đuối và mơ mộng về những

chi tiết của tình yêu đơn phương, tình yêu qua một ánh mắt, một cảm xúc bất

chợt.

Đây là 1 lần gặp tình cờ để rồi thương nhớ mãi:

Cây phượng già bờ sông

Một mùa hè hoa nở

Tôi tình cờ gặp gỡ

Với em dưới bóng hồng.

(Màu hoa soi tìm)

Hay là một tiếng cười xa lắc để ấp ủ cả đời:

Thân hình người hỡi đâu xa

Tiếng cười ấm tự tay ra quanh mình

(Mở tay bỗng thấy)

Rồi bóng em ngày xa xưa về trong anh cả khi thức, khi mơ:

Bây giờ em ở đâu

69

Đêm gối đầu tay phải

Ngày vò đầu tay trái

Bóng em ám đầy lòng.

(Bên sông bóng ám)

Tình yêu là cảm hứng xuyên suốt trong các tập thơ của Ma Trường

Nguyên và có lẽ đây cũng là phần hay nhất trong thơ ông, nơi nhà thơ dám vượt

ra ngoài những “khuôn khổ” của một thời, để được bộc lộ cảm xúc thật của

mình cũng như của những người đang đắm chìm trong tình yêu đôi lứa. Đó là

sự trẻ trung, trong sáng được bộc lộ với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Có

khi là sự mãnh liệt gây ấn tượng rất mạnh, cái mãnh liệt rất đàng hoàng của một

người đàn ông miền núi. Có khi là sự đằm thắm của một người từng trải, biết

trân trọng yêu thương những gì mình đang có. Một tình yêu bền vững đến muôn

đời, như núi, như sông, một tình yêu đắm say, nồng nàn trong hơi thở của thiên

nhiên, đất trời. Không chỉ những mối tình sâu nặng mới được trưng cất thành

thơ, những cảm xúc thoáng qua từ những cuộc gặp gỡ bất ngờ, từ vô vàn những

tình huống thường nhật cũng được nhà thơ neo nhặt, ghi lại bằng con chữ, bằng

cảm xúc. Chính những điều đó đã làm nên những đặc trưng riêng có trong thơ

tình Ma Trường Nguyên.

2.3. Cảm hứng viết về phong tục, tập quán đậm bản sắc Tày

Phong tục “là những thói quen ăn sâu vào đời sống xã hội từ lâu đời,

được đại đa số mọi người thừa nhận và làm theo”. [54].

Cùng với thời gian, các phong tục, tập quán đã thấm sâu vào máu thịt,

vào đời sống sinh hoạt của họ và tạo nên giá trị văn hóa tinh thần khá ổn định.

Nó quy định và chi phối mọi hành vi ứng xử của con người đối với thiên

nhiên, xã hội và nó làm nên bản sắc văn hóa riêng của mỗi dân tộc. Mỗi nhà

văn, nhà thơ khi cầm bút đều ý thức rất rõ bản sắc văn hóa dân tộc và thể hiện

nó ở nhiều phương diện khác nhau. Nhiều nhà văn, nhà thơ đã thành công với

những trang viết về phong tục, tập quán đồng bào các dân tộc Tày, Mông,

70

Thái ở Tây Bắc như các nhà văn: Tô Hoài, Ma Văn Kháng, Nguyễn Minh

Châu, Vi Hồng, Triều Ân, Y Phương… Theo dòng chảy văn chương đó, thơ

của Ma Trường Nguyên tuy chưa phải thực sự đặc sắc, nhưng cũng đã ghi dấu

bản sắc văn hóa Tày với những nét phong tục, tập quán đã gắn bó từ ngàn đời.

Những nét đẹp của phong tục, tập quán trong cuộc sống ngày thường

cũng như sinh hoạt ngày lễ, tết đã đi vào trong thơ Ma Trường Nguyên với

những hình ảnh chân thực, phong phú, sinh động, qua đó gửi gắm niềm tự hào

về đời sống tinh thần giàu có, ấm áp nghĩa tình của những con người “ xứ

mây”. Đó là những phong tục trong ngày lễ tết, hội hè (những câu hát, nhạc

cụ, trang phục...), trong lao động sản xuất, nếp ăn, nếp ở của con người miền

núi quê hương nhà thơ.

Như chúng ta đã biết, những phong tục tập quán của người miền núi hầu

như đều gắn với ngôi nhà sàn. Ngôi nhà gắn liền với nỗi nhớ nhung của đôi

nam nữ yêu nhau mà ở xa nhau, không có nhiều cơ hội để gặp nhau. Trong ngôi

nhà ấy, vị trí của mỗi người được phân biệt, ngăn chia và có những quy định

rạch ròi, không được vi phạm, gái ở gian phía trái còn con trai mới được ở gian

phía phải.

Đỉnh Pú Cấy nhọn nóc nhà sàn

Trai mái phải gái gian phía trái

Thương nhau bốn mùa gió gọi

Không thấy mặt đâu nhìn cánh sương nghiêng

(Mở núi)

Ma Trường Nguyên đã nói về dân tộc mình với những hình ảnh quê

hương giản dị, chân thành nhưng mang ý nghĩa sâu sắc. Những yếu tố phong

tục tập quán hiện lên rất rõ nét qua những bài thơ, câu thơ của ông. Chẳng hạn

như văn hóa đón xuân, đón khách của người Tày mỗi độ xuân về trong ngôi

nhà sàn của mình được nhà thơ viết:

Qua ngõ rừng em bước

71

Lên cầu thang nhà sàn

Rượu xuân em nâng rót

Người ngồi chật quanh mâm

(Quả còn gieo lửa dậy)

Tình cảm chân thành, ấm áp, tấm lòng hiếu khách là những nét đẹp văn

hóa trong đời sống sinh hoạt của người Tày. Người miền núi vốn có bản chất

mộc mạc, chân thành nên cách nói của họ rất tự nhiên. Nhà thơ Dương Thuấn

cũng từng viết:

Khách đến nhà không vội hỏi tên

Mà chỉ hỏi

- Con đường nào đã đưa anh đến

Cũng không hỏi đi từ rừng hay biển Mà hỏi rằng

- Hãy uống cạn rượu cùng ta

...Đừng để nhà tôi mọc cỏ gà

(Dương Thuấn)

Cũng giống với một số dân tộc khác, người Tày trong dịp tết thường

dựng cây nêu. Khởi nguyên cây nêu được dựng với ý nghĩa trừ ma quỷ, thờ

phụng thần linh và vong hồn tổ tiên, trừ những điều xấu xa của năm cũ. Nhưng

theo thời gian cùng với sự phong phú của các đồ lễ treo trên ngọn, cây nêu còn

là cầu nối giữa vũ trụ với đất trời. Và cây nêu ấy cũng đã được đi vào thơ Ma

Trường Nguyên:

Anh nói với em về cây nêu ngày tết

Trên bản nhà sàn dựng vút trước sân

Như bàn tay vẫy gọi của mùa xuân

Giục giã bước chân người đi tới...

Và câu nêu được chọn về dựng là:

Cây vầu nào cao nhất rừng vầu

Cây tre nào ngọn trùm mường rộng

72

Cây mai nào thẳng nhất rừng cây thẳng

Đem về dựng cây nêu lên.

(Cây nêu)

Trong những ngày xuân, người Tày còn có Lễ hội truyền thống là Lễ hội

Lồng tồng, hay là Hội xuống đồng. Ở Định Hóa, Lễ hội này của người Tày

thường được tổ chức vào ngày 10 tháng giêng hằng năm tại những đám ruộng

to nhất, đẹp nhất do dân bản chọn. Lễ hội nhằm cầu mong cho mưa thuận gió

hòa, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu, đời sống ấm no. Mở đầu là hội tung

Còn, một hoạt động vui nhất, thu hút nhiều người tham gia nhất. Ðể chuẩn bị

cho hội tung Còn, ở giữa đám ruộng lớn được chọn làm địa điểm lễ hội, người

ta dựng một cây mai cao từ 20 - 30cm làm cột. Trên đỉnh cột có uốn vòng tròn

đường kính 50 - 60 cm dán giấy hai bên, đề chữ Nhật - Nguyệt tượng trưng cho

mặt trăng và mặt trời. Trong trò chơi này, nam nữ thanh niên thường thi tung

Còn cho nhau.

Cây nêu cao gió thổi

Cờ đỏ gió tung bay

Cây còn chạm chóp núi

Quả còn chạm đỉnh mây...

(Quả còn gieo lửa dậy)

Hội tung Còn diễn ra trong không khí tưng bừng, náo nhiệt của ngày

xuân và là trò tín ngưỡng hấp dẫn nhất của các chàng trai, cô gái trong dịp hội

xuân. Trong những bộ quần áo sặc sỡ như rừng xuân đơm hoa khoe sắc, họ

tung cho nhau những quả Còn bảy sắc cầu vồng. Quả Còn tung lên mang ý

nghĩa tượng trưng cho việc rũ sạch chuyện buồn, việc dở, ốm đau đói rét của

trần gian, để mọi người có một năm mới ấm no, hạnh phúc. Không những thế,

khi con gái ném qua, con trai ném lại, họ cảm nhận hương vị ngọt ngào của tình

yêu qua hình ảnh quả Còn bay đi bay lại.

Trời xuân ấm cánh còn bay vun vút

Bảy sắc cầu vồng tua nở trên cao.

73

Anh mở lòng giữa chợ xuân chờ bắt

Điểm nào rơi trúng đích nao nao.

(Anh kịp về trảy hội Xuân Dương)

Nếu ở lễ hội nào không có ai tung Còn trúng vòng tròn thì dân bản không

vui, vì theo quan niệm của họ, tung Còn trúng vòng tròn làm rách giấy thì năm

đó dân làng làm ăn mới thuận lợi, mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt. Chính

vì vậy nên các nhà thơ dân tộc thiểu số thường nói về nét văn hóa đặc sắc này.

Nhà thơ Dương Thuấn đã viết:

Mùa xuân đến anh lên thăm Ba Bể

Đi hội lồng tồng nghe bao tiếng ca

Có tung Còn, đấu bò, đua thuyền, thi hát

Có cô gái Tày đang đợi khách xa...

(Dương Thuấn)

Nhà thơ Nông Minh Châu cũng có bài “Tung Còn”:

Ta tung Còn tung cả cánh hồng

Tung đón lấy mùa xuân dân tộc...

(Nông Minh Châu)

Hội tan, sau buổi lễ họ thường mời nhau về nhà ăn cơm, uống rượu và

chúc lẫn nhau. Người Tày đến nhà nhau là vì cái tình cho nên nhiều khi ngồi

mâm chỉ là lấy lệ, họ cầm đũa, cầm bát lên rồi lại đặt xuống, chỉ ăn một vài

miếng gọi là lấy may đầu năm rồi chủ yếu ngồi tâm sự với nhau.

Lộc xuân người miền núi

Ăn một chút lấy may

Đũa cầm lên đặt lại

Mắt nhìn mắt ngon say

(Quả còn gieo lửa dậy)

74

Và cũng trong ngày tết, người Tày thường đi thăm người thân, đi trẩy hội:

Đón em về bản núi

Đi tết thăm người thân

Ngã ba rừng mở hội

Người đón người đón xuân

(Quả còn gieo lửa dậy)

Tết cũng là dịp để người con trai đón người yêu của mình đi chúc tết họ

hàng, người thân, đi trẩy hội. Sắc xuân tràn ngập khắp bản làng, trong không khí

xuân ấy làm cho những người đang yêu cũng cảm thấy vui hơn, ấm cúng hơn.

Với đồng bào dân tộc ở miền núi, xuân đến cũng là khi chim Queng Quý

bay về núi rừng. Và trong tiết trời chuyển giao ấy, cây cối đâm chồi, nẩy lộc,

người người nô nức trẩy hội đón xuân. Ma Trường Nguyên đã viết:

Tiếng queng quý gọi rồi

Sao em còn xa cách

Mùa hoa đã thắm tươi

Bừng theo chim xuân hót

(Tiếng chim queng quý)

Mùa xuân, mùa chim queng quý thì thường sẽ là một khung cảnh đa sắc,

đa thanh, tươi vui phấn khởi, nhưng ta thấy trong thơ Ma Trường Nguyên lại là

một cảm xúc buồn. Còn với nhà thơ Nông Viết Toại lại có cách cảm nhận khác:

Mùa xuân về ngàn hoa khoe sắc

Cho đàn chim queng quý hót vui

Cho em ngân lời sli hò hẹn

Xuân về hoa đào tô thắm quê hương

(Lập xuân)

Trong bức tranh Xuân của Ma Trường Nguyên hay Nông Viết Toại đều

được khắc họa bởi muôn hoa khoe sắc, tiếng chim rộn ràng. Nếu như trong thơ

Nông Viết Toại ta thấy một không gian thơ mộng, thanh âm vui nhộn của mùa

75

xuân hòa cùng niềm vui của ðôi trai gái ðang yêu, ðang hò hẹn. Với Ma Trường

Nguyên, cảnh sắc đẹp là vậy nhưng lòng người thương của nhà thơ vẫn còn xa

cách, nên dù “cảnh vui” mà “lòng người” vẫn không thể vui.

Truyền thuyết kể rằng, đàn tính vốn là đàn có chín dây, mỗi khi cất lên,

tiếng đàn lại làm ngẩn ngơ muông thú, cỏ cây. Mỗi khi âm thanh tiếng đàn vọng

ra thì “Cá nghe chết chín đoạn suối. Chuột nghe chết chín quãng rừng. Trai gái

nghe chết chín cõi lòng”. Vì thế, Ngọc Hoàng đành tước bớt số dây đi, chỉ để

lại hai đến ba dây cho một cây đàn. Đọc bài thơ ta thấy, âm thanh của đàn tính

có sự mê hoặc lòng người. Đó là âm thanh tự nhiên của núi rừng, của những

con người yêu thiên nhiên, gắn bó với thiên nhiên. Tiếng đàn tính cất lên bồng

bềnh dưới đôi tay uyển chuyển của người thiếu nữ, khi lại tha thiết ngọt ngào

như câu lượn ngân vang tận đỉnh núi.

Tiếng đàn tính bồng bềnh mây núi đá

Tay em nâng năm ngón dẻo thon

Má em đào rượu hồng men lá

Câu “lượn” ngân vắt vẻo đỉnh chon von.

(Anh kịp về trảy hội Xuân Dương)

Trong đời sống văn hóa của đồng bào các dân tộc, nếu như nhạc cụ của

người Nùng là cây đàn nhị và bộ xóc đồng lục lạc, người Mông là khèn ống

trúc, khèn môi thì cây đàn tính hay còn gọi là Tính tẩu là loại nhạc cụ tiêu biểu

của đồng bào dân tộc Tày. Đàn Tính thường có 3 dây được làm bằng tơ se,

tượng trưng cho cha, mẹ và đất nước. Hầu hết các hoạt động văn hóa của người

Tày như cưới xin, liên hoan văn nghệ và đặc biệt trong các lễ hội… đều có sự

xuất hiện của cây đàn Tính.

Nhà thơ Nông Quốc Chấn đã từng viết về lịch sử của cây đàn tính của

dân tộc mình với niềm tự hào không giấu diếm:

Chiếc đàn tính vốn có mười ba dây

76

Vì tiếng nó vang to vang xa

Nên vua ra lệnh cắt đi gần hết...

Nhưng chẳng vua nào cắt nổi âm thanh dân tộc

Đàn ba dây vẫn thánh thót giữa cuộc đời

(Đàn ba dây)

Để thể hiện tình yêu của mình, người con trai miền núi không chỉ dùng

đàn Tính. Trong bài thơ “Tiếng lá rừng gọi đôi” của Ma Trường Nguyên, có

khi tình cảm của người con trai lại được gửi qua những âm thanh của kèn lá

đến người con gái mình yêu. Kèn lá là nhạc cụ rất đơn giản, phổ biến trong các

cộng đồng dân tộc. Người con trai dân tộc Tày muốn gọi người con gái, anh ý

đã dùng chiếc lá để làm kèn:

Ngọn gió nào mang cánh mỏng bay đi

Tiếng kèn lá anh đang thầm thì dè dặt

Chiếc lá rừng trong môi anh gắn chặt

Nào kèn lá ơi! Hãy phát âm thanh

Khe khẽ chứ! Nào khe khẽ chứ

Còn sớm mà vầng trăng vừa nhú

Chắc mẹ cha chưa ngủ say đâu ?...

Hay:

Nào, kèn lá ơi! Kèn lá thiết tha

Tiếng trầm tiếng lặng

Tiếng nhớ tiếng mong

Tiếng chờ tiếng hẹn…

Người Tày có một nền văn nghệ cổ truyền phong phú, đủ các thể loại

thơ, ca, các truyện cổ tích, truyện cười dân gian, múa nhạc... Các điệu dân ca

phổ biến nhất là hát lượn, hát đám cưới, ru con. Người Tày phổ biến hát lượn

như hát ví ở miền xuôi. Hai bên nam nữ hát đối đáp về mọi khía cạnh của đời

sống xã hội, nhất là về tình yêu đôi lứa. Và những cuộc hát lượn "Nàng ơi"

77

được coi như một món ăn tinh thần không thể thiếu của người Tày.

Ong tìm mật ngày xuân vướng cánh lời “nàng ới”

Bướm vờn hoa quyến nụ môi xinh

Vọng núi gọi lời cau lượn “Cọi”

Ngân chật lòng người lạ người quen…

Đây là những câu thơ trong bài “Anh kịp về trảy hội Xuân Dương” của

Ma Trường Nguyên. Hội chợ truyền thống Xuân Dương vốn được hình thành

từ lâu. Tục truyền rằng, thưở trước có đôi vợ chồng nghèo khó rất mực thương

yêu nhau. Một ngày kia, hai vợ chồng cùng làm đồng, vợ phát cỏ nơi đầu ruộng,

chồng cày cuốc nơi cuối ruộng. Một viên quan đi qua thấy cô vợ xinh đẹp đã

lén bắt cóc nàng mang về. Dù người vợ đã quyết liệt chống cự, kêu khóc thảm

thiết song do thửa ruộng quá dài nên người chồng vẫn không hề hay biết. Đến

lúc tìm vợ thì không thấy vợ đâu. Vài năm sau trong một lần đi chợ hai người

tình cờ gặp lại nhau. Lúc này mỗi người đều đã có cuộc sống riêng, họ chỉ còn

biết ôm nhau mà khóc. Dân làng hay chuyện, thương cho đôi vợ chồng nên đã

lấy ngày 25 tháng 3 âm lịch hàng năm để giúp họ được gặp nhau. Đồng thời,

từ khi ấy, những đôi lứa yêu nhau mà lỡ duyên vợ chồng cũng đến chợ tình

Xuân Dương để tìm lại người thương thủa trước qua những câu hát lượn, hát

ví. Trong đoạn thơ, tác giả đã sử dụng cách nói nhân hóa để miêu tả cái hay của

câu hát lượn, từ “vướng cánh” trong câu thơ cho ta thấy dù đang tìm mật nhưng

ong cũng bị cản lại, giữ lại bởi nghe “nàng ới” hay quá. Những câu hát làm

đắm say mọi vật, đắm say lòng người.

Mây bồng bềnh níu đỉnh núi ngàn cây

Câu lượn ríu chân người lại

Mặt trời chiều rưng rưng chưa muốn về sau núi

Em đã cất lời câu hát lượn “Nàng trăng”…

(Anh kịp về trảy hội Xuân Dương)

Hát lượn được coi như một món ăn tinh thần không thể thiếu của người

78

dân tộc miền núi. Vì thế nhà thơ Dương Khau Luông cũng rất tự hào về những

câu lượn, lời then của dân tộc mình:

Câu lượn nào của quê tôi cũng ấm

Điệu then nào của quê hương tôi cũng thương

(Thổ cẩm)

Nhà thơ Y Phương khi miêu tả âm thanh của tiếng lượn ngọt ngào ông

lại tả rất gợi hình, rất cụ thể:

Tiếng lượn đi vòng

Rồi chui vào quả lê ngọt

Làm người ăn cũng xinh

(Người vùng cao - Y Phương)

Những phong tục ấy đã ăn sâu vào đời sống tâm hồn của những con

người vùng cao từ hàng ngàn năm, đó là những phong tục đẹp trong lễ tết

cũng như trong cuộc sống thường nhật.

Cùng với những phong tục đón xuân, những nhạc cụ độc đáo, những câu

sli, câu lượn, văn hóa truyền thống của người Tày còn được thể hiện qua trang

phục hàng ngày. Trang phục cổ truyền của họ được làm từ vải sợi bông tự dệt,

nhuộm chàm đồng nhất trên trang phục nam và nữ, hầu như không có hoa văn

trang trí. Không ai rõ nghề dệt thổ cẩm của người dân tộc Tày có từ bao giờ,

mà chỉ biết những tấm vải thổ cẩm do chính họ dệt ra từ lâu đã nổi tiếng với

những hoa văn đẹp mắt, sặc sỡ, mang đậm sắc thái dân tộc. Nét văn hóa này

cũng được Ma Trường Nguyên đưa vào trong thơ:

Như đã đợi em sau hàng thế kỷ

Đôi tay em dệt thổ cẩm xong chưa, đã nghỉ ?

(Tiếng lá rừng gọi đôi)

Hò hẹn, đợi chờ là chuyện muôn thuở của tình yêu. Vì là người miền núi,

79

nên con gái phải dệt thổ cẩm, một công việc khá tỉ mỉ, mất nhiều thời gian.

Người con trai chờ đợi, mong mỏi không biết người con gái ấy đã xong công

việc của mình chưa ?. Qua câu hỏi để nhà thơ gửi gắm nỗi nhớ niềm thương

của mình vào trong đó và mong muốn được gặp gỡ. Sự chờ đợi của những

người đang yêu cảm giác dài vô tận. Người con trai mong muốn:

Dệt lòng anh vào thổ cẩm

Lặn vào từng cánh hoa…

Và không chỉ có trang phục thổ cẩm truyền thống, người thiếu nữ dân

tộc Tày thường có thắt lưng xanh, xà tích, nữ trang….

Em xúng xính áo chàm cổ trắng tròn vòng bạc

Thắt lưng xanh đeo xà tích lửng lơ buông

Hàng thổ cẩm la liệt bày in bàn tay em dệt

Gặp câu lượn em đón anh về nơi ấy quê hương.

(Anh kịp về trảy hội Xuân Dương)

Người Tày có nghề thủ công phong phú, đa dạng, nam nữ đều biết đan

các đồ dùng bằng cót, bồ, sọt, rổ, nơm, đó và dệt thổ cẩm:

Anh vụng lắm không biết đan giỏ lạt giang

Để anh đựng hết lời em bằng vàng

Anh vụng nhiều không biết dệt nên tấm chăn thổ cẩm

Để anh xếp anh chồng vào gói kỹ câu em quý mang theo…

(Lời đẹp anh giữ)

Người con trai ở đây đang yêu, cảm giác lóng ngóng, vụng về, và tự nhận

mình vụng cả trong việc đan giỏ, dệt chăn, việc mà đáng nhẽ người miền núi

nào cũng phải thạo. Chính vì vậy, nên dù muốn nói nhiều lời hay thổ lộ tình

cảm của mình với cô gái, nhưng chàng trai lại vụng về không biết nói thế nào

cho cô ấy hiểu và giữ lấy.

Người Tày, họ có truyền thống làm ruộng nước, từ lâu đời đã biết thâm

80

canh và áp dụng các biện pháp thuỷ lợi nhý ðào mýõng, bắc máng, ðắp phai,

làm cọn lấy nýớc týới ruộng. Sản phẩm nông nghiệp có đủ các loại như lúa,

ngô, khoai, sắn…Yêu dân tộc mình, nên ngay cả các sản vật này cũng được Ma

Trường Nguyên đưa vào trong thơ, thậm chí là thơ tình:

Lời em lời lúa

Lời em lời khoai

Lời em nhiều như nước mương phai…

(Lời đẹp anh giữ)

Hay:

Con chim về tổ núi

Đã hót ấm trời xa

Vạt nương đơm vàng mẩy

Lúa theo dây về nhà.

(Bên nhau như sông núi)

Có thể nói, Ma Trường Nguyên là một nhà thơ dân tộc thiểu số luôn miệt

mài "trên cánh đồng chữ nghĩa", viết như "con tằm trả nghĩa dâu tươi" cho

nền văn học dân tộc thiểu số nói riêng và nền văn học nước nhà nói chung. Các

sáng tác của ông mang đậm hơi thở của cuộc sống và con người miền núi với

những nét văn hóa đặc trưng, nhất là văn hóa phong tục. Có lẽ đây là lí do mà

các tác phẩm của ông đã nhận được nhiều giải thưởng văn học khác nhau.

* Tiểu kết:

Là nhà thơ dân tộc thiểu số, Ma Trường Nguyên tạo được một sự nghiệp

văn chương đa dạng với đầy đủ các thể loại và dễ để lại những dấu ấn, bản sắc

của dân tộc mình. Là một người yêu, sống gắn bó và tự hào về dân tộc, nên

trong thơ Ma Trường Nguyên hình ảnh quê hương, con người miền núi với các

phong tục, tập quán, những nét văn hóa đặc trưng luôn là nguồn cảm hứng trong

các sáng tác của ông. Đó là những hình ảnh quen thuộc của núi, sông, cỏ cây

hoa lá, là những con người chân thật, giản dị nhưng giàu tình cảm. Đó cũng là

81

tình yêu đôi lứa của trai- gái “xứ mây” mang đậm chất dân tộc. Chính những

dấu ấn văn hóa Tày đã làm lên cá tính sáng tạo độc đáo trong thơ Ma Trường

Nguyên. Cái “hồn vía” của văn hóa Tày ấy đã làm thơ ông có chất men say

riêng đắm lòng người đọc.

82

Chương 3

NHỮNG ĐIỂM NỔI BẬT VỀ NGHỆ THUẬTTRONG THƠ

MA TRƯỜNG NGUYÊN

Tìm hiểu nghệ thật thơ nghĩa là tìm hiểu hình ảnh, ngôn ngữ trong

thơ. Một sáng tạo nghệ thuật có giá trị không chỉ là sự thành công ở nội dung

hay nghệ thuật mà là sự kết hợp hài hoà ở cả hai yếu tố này. Nội dung và hình

thức nghệ thuật là đồng hành không thể thiếu trong sáng tạo nghệ thuật nói

chung. Qua các sáng tác của Ma Trường Nguyên chúng ta thấy, ông đã phả

hồn vào thơ ca bản sắc dân tộc mình. Vì vậy khi nghiên cứu về bản sắc dân tộc

trong thơ Ma Trường Nguyên, chúng ta không thể không nghiên cứu những

đặc điểm về hình ảnh thơ, ngôn ngữ thơ, đặc biệt là việc sử dụng ngôn ngữ Tày

- Việt trong một số sáng tác của nhà thơ.

3.1. Hình ảnh thơ mang đậm sắc miền núi

Theo Phương Lựu định nghĩa về hình ảnh thơ thì:“Hình ảnh là khả năng

gợi tả sinh động trong cách diễn đạt của con người”. [22; 211]. Chính nhờ khả

năng này mà hình ảnh được sử dụng như một yếu tố cấu thành nên tác phẩm

văn học, đặc biệt là trong thơ. Nói như lời giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh “Triết

học nghĩ bằng ý, tiểu thuyết nghĩ bằng nhân vật, thơ nghĩ bằng hình ảnh". Còn

thiên tài văn học Goethe nói “Tôi tìm những bức tranh trong các câu thơ”. Qua

hình ảnh thơ, người đọc cảm nhận được một góc nhỏ trong đời sống con người,

một nét đẹp trong tính cách hay một nét đẹp trong tâm hồn nhà thơ. Hình ảnh

thơ chính là sản phẩm của quá trình tư duy, tìm tòi sáng tạo nghệ thuật của

người nghệ sĩ. Trong thơ ca, hình ảnh là một trong những yếu tố quan trọng là

sự khách thể hoá những rung cảm nội tại để cái tôi nhìn nhận chính mình. Hình

ảnh trong thơ đòi hỏi sự cảm nhận bằng cả thị giác, thính giác và cả trí tưởng

tượng, có thể cụ thể, có thể trừu tượng. Hình ảnh thơ có vai trò quan trọng trong

việc bộc lộ cảm xúc của nhà thơ.

83

Hình ảnh thơ trong các sáng tác của các thi nhân thường mang dấu ấn

vùng miền. Viết về quê hương, nếu như các nhà thơ ở miền xuôi có cảm giác

gắn bó với sắc xanh ngút ngàn của “bãi mía, bờ dâu, ngô khoai biêng biếc”

(Hoàng Cầm), với “một con đò nhỏ, một chùm khế ngọt” (Đỗ Trung Quân), thì

các nhà thơ dân tộc thiểu số lại thường nhắc tới những hình ảnh rừng núi, bản

làng, dòng sông, con suối, nhà sàn...Đó là “mường Vó, mường Vang” trong thơ

của Vương Anh; “bếp nhà sàn đỏ lửa” trong thơ Mai Liễu; đó là “Núi mọc

trong mặt gương” trong thơ Mùa A Sấu; đó là “ruộng bậc thang cuốn vành

khăn” trong thơ Đinh Lâm; là “Cầu vào bản” trong thơ Cầm Biêu; là “Tình

núi” trong thơ Bùi Thị Tuyết Mai...

Khát khao anh cuồn cuộn trăng mùa lũ

Núi ủ mặt trời chín đỏ mùa đông

(Tình núi - Bùi Thị Tuyết Mai)

Với Ma Trường Nguyên - nhà thơ dân tộc Tày, lớn lên trong một không

gian tràn ngập văn hóa dân tộc Tày với những nhà sàn, áo chàm, những câu hát

Sli, Slượn... cho nên thơ ông cũng mang đậm văn hóa của dân tộc mình.

* Hình ảnh nhà sàn:

Có lẽ bắt gặp nhiều nhất là hình ảnh của nhà sàn với những hoạt động

sinh hoạt, những vật dụng liên quan. Không giống với phương cách sống du

canh du cư của nhiều dân tộc thiểu số khác, người Tày luôn có tư tưởng ổn định

về nơi ở, từ quan niệm đó đã hình thành nên nét độc đáo trong văn hóa kiến

trúc nhà sàn. Hình ảnh ngôi nhà sàn trong thơ Ma Trường Nguyên không chỉ là

nơi cư ngụ truyền đời của gia đình, dòng họ người Tày mà còn có ý nghĩa văn

hóa, nơi diễn ra các sinh hoạt của đồng bào dân tộc. Có lẽ vì thế mà trong tập

thơ “Cây nêu”, ngay ở bài đầu tiên chúng ta đã thấy xuất hiện hình ảnh nhà

sàn:

Anh nói với em về cây nêu ngày tết

Trên bản nhà sàn dựng vút trước sân

84

Như bàn tay vẫy gọi của mùa xuân

Giục giã bước chân người đi tới.

(Cây nêu)

Hình ảnh về ngôi nhà sàn quê hương luôn là niềm tự hào của tác giả,

những ngôi nhà chon von bên núi. Bài thơ "Con về quê núi", nhà thơ đã giới

thiệu về vị trí của ngôi nhà sàn thân yêu ấy:

Sau nhà ta dãy Khau Rì

Chon von núi dựng tứ thì hoa chen

Xung quanh ngôi nhà được bao bọc bởi những ngọn núi cao thấp khác

nhau, tạo thế vững chắc, khỏe khoắn cho ngôi nhà. Nhưng không vì thế mà làm

cho ngôi nhà sàn trở lên khô khan, cứng nhắc bởi sự góp mặt của những bông

hoa "tứ thì", một sự gắn kết giữa con người và thiên nhiên.

Đặc điểm mang tính đặc trưng của nhà sàn, đó là nhà sàn thường được

xây dựng cao, hình ảnh ấy được Ma Trường Nguyên miêu tả khá chi tiết:

Vùng cao núi bọc mây trời

Núi trùm khăn bạc ngủ ngồi lim dim

Râm ran tiếp nối lời chim

Chông chênh nhà gác nép chìm đêm trăng

(Vùng Cao)

Những ngôi nhà sàn dựng trên mép núi cho nên những ngôi nhà ấy luôn

có thế chông chênh. Trên phương diện nghệ thuật chúng ta thấy,“Chông

chênh” là từ láy tượng hình, Ma Trường Nguyên đã rất tinh tế khi miêu tả tư

thế, dáng vẻ của những ngôi nhà sàn chỉ bằng từ này. Từ chông chênh đi liền

với từ nép, từ chìm khiến cho câu thơ “Chông chênh nhà gác nép chìm đêm

trăng” của Ma Trường Nguyên vừa gợi độ cao, vừa gợi sự làm duyên như cô

gái đẹp của ngôi nhà.

Với nhà sàn, cầu thang là điểm nhấn rất đặc biệt:

Sáng ra người bước xuống thang

Bước từ mây trắng xuống sàn sương nâng…

(Vùng cao)

85

Như đã từng nói, cầu thang lên xuống của nhà sàn người Tày được làm

bằng gỗ và thường có 9 bậc, mỗi bậc ấy lại tượng trưng cho một vía của người

phụ nữ. Đọc cả đoạn thơ ta thấy, bên nếp nhà chông chênh ấy, mây trắng và

sương nâng càng khiến cho ta liên tưởng tới hình ảnh cô gái Tày tựa như trong

cõi tiên, bồng bềnh, lãng mạn và tinh khiết.

Nhà sàn vốn là một trong những nét đặc trưng cho văn hóa của dân tộc

Tày. Việc dựng ngôi nhà sàn rất công phu. Bằng ngôn ngữ thơ của mình, Ma

Trường Nguyên đã cho chúng ta thấy hình ảnh ngôi nhà sàn không chỉ có ý

nghĩa vật chất, mà còn có giá trị tình thần đối với tâm hồn mỗi người Tày.

Tiện cây bố chặt làm nhà

Làm lọ hoa gốc nghẹ già cho con

Đục cây bố chạm trăng tròn

Có thêm ngọn lửa chập chờn chiều sương

Nét cong xinh xẻo cánh buồm

Thuyền ra khơi giữa biển rừng xanh lơ

Đêm con nằm đẹp giấc mơ

(Con về quê núi)

Bài thơ ta có cảm giác tác giả dường như rất chăm chú dõi theo từng

động tác, từng cử chỉ chạm, khắc của người cha. Căn nhà ấy với những vật

dụng được làm từ chính đôi bàn tay thân yêu của người cha đã trở thành nơi

thanh bình, đầm ấm nuôi dưỡng tuổi thơ cho những người con thân yêu.

Mỗi vùng miền ngôi nhà có đặc trưng khác nhau. Giới thiệu về ngôi nhà

nơi quê hương Bắc Ninh của cha mình, Võ Sa Hà viết:

Quê bố tôi ven sông Cầu

Đường đánh võng như người say rượu

Làng nhỏ ép mình xuống đất

Những nếp nhà lợp ngói mũi

Cao ngang tầm ngọn chuối

(Đường về quê bố)

86

Ở miền xuôi, đồng bằng, hình ảnh những nếp nhà mái ngói thường được

trở đi trở lại. Còn với nơi đồng bào dân tộc vùng Đông Bắc, hình ảnh nhà sàn

lại xuất hiện nhiều. Nhà thơ Dương Thuấn khi giới thiệu về quê mình với nếp

nhà sàn đặc trưng của miền núi đã viết:

Bản Hon ở xa trên rẻo cao

Hà Nội lên đi xe một ngày

Qua mấy núi mấy đèo sẽ đến

Ở nhà sàn ăn nước sông Năng

(Về bản - Dương Thuấn)

Gắn bó máu thịt với ngôi nhà sàn, Ma Trường Nguyên miêu tả tỉ mỉ từng

chi tiết. Qua mỗi chi tiết của cách dựng nhà, người đọc còn thấy phong tục, tập

quán nề nếp trật tự trong gia đình người Tày:

Đỉnh Pú Cấy nhọn nóc nhà sàn

Trai mái phải gái gian phía trái

(Mở núi)

Nóc nhà sàn được nhà thơ miêu tả, so sánh nhọn như đỉnh Pú Cấy. Còn

với câu thơ “Trai mái phải gái gian phía trái" ta thấy Ma Trường Nguyên đã

rất linh hoạt, khéo léo khi đưa nét văn hóa ứng xử trong nhà sàn vào thơ của

mình. Vì thường bố cục trong nhà sàn cũng được người Tày chia làm hai phần

theo chiều ngang hoặc chiều dọc ngôi nhà (tính từ cửa chính). Thường nửa trên

(phía gần bàn thờ) gần với cửa chính là nơi diễn ra những sinh hoạt của nam

giới, đồng thời đó cũng là nơi tiếp khách. Nửa phía sau bàn thờ dành cho nữ

giới.

Với thơ Ma Trường Nguyên, hình ảnh ngôi nhà sàn ấm cúng hơn khi

nhân vật trữ tình có người thương yêu bên cạnh:

Em về như ngọn lửa

Ấm áp bên nhà sàn

Mấy mùa sương lọt cửa

Em giọt nắng mơn man.

(Bên nhau như sông núi)

87

Ngôi nhà thường gắn với những kỉ niệm của nhân vật trữ tình. Trong

ngôi nhà, bếp, ngọn lửa cũng là những hình ảnh đi liền với đời sống sinh hoạt

nhà sàn của người Tày. Lửa thường tượng trưng cho sự ấm cúng trong gia đình.

Ở đây, hình ảnh người con gái được nhà thơ ví như ngọn lửa, mang hơi ấm đến

với ngôi nhà, điều mà bất cứ ai cũng mong muốn.

(Phụ lục: Bảng 3.1)

* Hình ảnh Trăng:

Không chỉ có nhà sàn, trong thơ Ma Trường Nguyên còn có những hình

ảnh thiên nhiên xuất hiện với tần số lớn mang tính biểu tượng cao, đó là núi,

sông, trăng, hoa....

Đọc thơ Ma Trường Nguyên, độc giả thường bắt gặp hình ảnh Trăng –

Núi. Trăng luôn là nguồn cảm hứng mênh mông cho tâm hồn nghệ sỹ. Mỗi nhà

thơ đều mượn hình ảnh để bộc lộ tâm tình riêng của mình. Đối với các nhà thơ

miền xuôi, hình ảnh trăng đẹp nhưng thường gắn với nỗi buồn lặng lẽ hay

những cuộc tình chia ly buồn thảm, nhưng với các nhà thơ dân tộc miền núi,

trăng thường biểu tượng cho vẻ đẹp vĩnh hằng, bất diệt. Nhà thơ Dương Thuấn

viết:

Người đi trong mây gió

Trăng xuống chơi trên cỏ

Sao chảy về bản sâu.

(Cao Bằng - Dương Thuấn)

Trăng ở đây đã được hiện lên với nhiều cấp độ nghĩa. Đó là trăng của

thiên nhiên, của đất trời và có cả sự giao hòa với con người với một tình yêu

bất tận

Với Ma Trường Nguyên, hình ảnh trăng trong thơ ông cũng được sử

dụng khá nhiều. Qua khảo sát sáu tập thơ với 316 bài thì có 36 bài xuất hiện

hình ảnh trăng. Trong đó, tập Tiếng lá rừng gọi đôi có tần số xuất hiện 17/123

bài, tập Câu hát vắt qua vai xuất hiện 5/47 bài, tập Mở núi có 6/28 bài.

(Phụ lục: Bảng 3.2)

88

Đọc các tập thơ chúng ta thấy, giống như nhiều nhà thơ dân tộc thiểu số

khác, Ma Trường Nguyên thường mượn hình ảnh trăng để nói hộ lòng mình:

Một tiếng chim trong đêm hót

Nói với ánh trăng chơi vơi

Đôi mắt em nhìn rạo rực

Và anh viết lại thành lời

(Nói với nhau)

Hay:

Thắc thỏm lòng không yên

Mắc nợ tình trao gửi

Như ngày nợ đêm tối

Như trăng nợ mặt trời.

(Mắc nợ)

Ma Trường Nguyên mượn hình ảnh trăng để gửi gắm nỗi lòng, gửi gắm

niềm tin, kéo vầng trăng gần mình hơn để tâm sự, coi trăng như người bạn

tâm giao để sẻ chia.

Trăng soi đỉnh trời

Vằng vặc

Đêm trầm mặc

Chơi vơi…

(Làn trăng)

Bài thơ có cả không gian và thời gian. Thời gian là giữa tháng, bởi trăng

rất sáng và thời khắc là giữa đêm, còn không gian thì rộng và rất cao vì trăng ở

tận “đỉnh trời”. Trăng sáng nhưng khung cảnh đêm lại tĩnh lặng. Với cách dùng

từ “trầm mặc” và “chơi vơi”, tác giả cho ta có cảm giác lúc này nỗi lòng của

nhân vật trữ tình đang chìm đắm trong lặng lẽ, suy tư, cô đơn và trơ trọi giữa

khoảng không gian rộng lớn chưa biết bấu víu vào đâu. Thiên nhiên và con

người đã có sự đồng điệu, giao cảm.

89

Người miền núi, do địa hình tự nhiên phức tạp, hay bị ngăn cách bởi núi

cao, nên đôi khi tình yêu của họ cũng bị cách trở do không gian, do tập tục.

Chính vì lẽ đó nên họ thường gửi gắm nỗi niềm vào thiên nhiên. Với Ma Trường

Nguyên cũng vậy, nhớ nhau họ nhìn lên vầng trăng trên đỉnh núi, như hình ảnh

chiếc cầu nối để họ gửi gắm ước mơ hạnh phúc:

Đẹp mối tình sáng đỉnh núi gương trăng

Ta cùng soi để chung tuần trăng mật

Lời lượn cháy đã xanh rắn chắc

Nhưng cây đời núi chẳng mòn tan.

(Mở núi)

Rồi nhà thơ viết:

Sáng em đi mặt trời vừa ngủ dậy

Chiều em về mặt trăng vừa lên

Em đón nắng ra đi đón trăng về lộng lẫy

Trở lại phòng êm ả bình yên.

(Em là riêng anh cùng mưa nắng)

Như chúng ta thấy, lẽ tự nhiên thì bao giờ mặt trời cũng mọc buổi sáng,

còn buổi chiều thì không phải chiều nào cũng có trăng lên. Nhưng trong mắt

nhân vật trữ tình, người thương cũng là mặt trời ban ngày, mặt trăng buổi tối.

Và như thế thì dù không có trăng của đất trời, thì em cũng đã hóa trăng trong

lòng anh rồi.

…Anh nhớ em nhiều

Chân bước liêu xiêu

Dáng đi lệch lõm

Đường nhiều vũng ổ gà

Vầng trăng sắp tà

Anh trực ngã anh trực ngã

Gác đầu xuống đường trăng…

(Anh sẽ phải nói thật)

90

Một người con trai say tình, say nghiêng ngả. Họ yêu nhau, gặp nhau, đến

lúc trăng sắp tà, vừa rời nhau ra mà đã hoảng hốt muốn người con gái quay lại

để lôi anh ra khỏi trận say tình, say lắm, chỉ “trực ngã” thôi. Ở đây tác giả đã cố

tình lặp lại 2 lần từ “trực ngã” làm cho người đọc có cảm giác người con trai ấy

đang cố tình hay giả vờ say để được người con gái lo lắng, quan tâm. Và lúc này,

trăng không đơn thuần là trăng nữa mà đã trở thành biểu trưng cho người con

gái, để anh chàng say tình có thể gác đầu dựa vào đó.

* Hình ảnh Núi:

Núi cũng là một hình ảnh tự nhiên có nhiều ý nghĩa trong thơ Ma Trường

Nguyên. Hình ảnh Núi vừa là tượng trưng cho vẻ đẹp phồn sinh của thiên nhiên,

vừa là biểu hiện của ý nghĩa tình cảm, tình yêu trong cuộc sống, như chúng ta

vẫn nói: sơn thủy hữu tình. Và đôi khi, Núi trở thành một chất liệu đặc biệt,

không đơn thuần là những biểu tượng đẹp mà là một cấu tứ khá thú vị trong lối

thơ của tác giả. Núi không những gắn bó với tuổi thơ của một người, với tuổi

tác của một cộng đồng mà đã nhanh chóng chuyển hoá thành hai nhân vật trữ

tình luôn được nhắc đến.

Qua khảo sát qua 6 tập thơ của Ma Trường Nguyên cho thấy có 55 hình

ảnh Núi được nhắc đến. Trong đó, riêng tập Tiếng lá rừng gọi đôi có 9/123 bài;

tập Mở núi có 14/47 bài; tập Cây nêu có 10/52 bài; tập Câu hát vắt qua vai có

6/47 bài, tập Bắc cầu vồng thăm nhau có 4/43 bài.

(Phụ lục: Bảng 3.3)

Có thể thấy, hình ảnh núi được nhà thơ Ma Trường Nguyên coi như là

linh hồn, là chất liệu quan trọng thường xuyên sử dụng. Điều này càng được

khẳng định khi nhà thơ sử dụng nhiều hình ảnh núi trong tiêu đề bài thơ: Con

về quê núi, Dáng núi anh hùng, Bên nhau như sông núi… và tiêu đề một tập

thơ Mở núi.

Có thể thấy, trong hoạt động sáng tạo của mình, Ma Trường Nguyên luôn

có ư thức t́m về thiên nhiên, hướng tới không gian thiên nhiên đẹp, trong sạch

91

và thuần khiết để nuôi dưỡng, thanh tẩy hồn mình trước những xô bồ, hỗn tạp

của đời sống. Cho nên nói đến Núi trong thơ ông, đầu tiên là nói đến một hình

ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp phồn sinh của thiên nhiên, đời sống.

Câu hát vướng vào núi chiều

Núi ngây trong mây bọc

(Câu hát vắt qua vai)

Một trong những đặc trưng được Ma Trường Nguyên nhắc đến nhiều

trong các sáng tác của mình, đó là không gian núi đồi. Hình ảnh thiên nhiên núi

đồi gắn liền với tính cách mạnh mẽ trong tình yêu của người Tày. Ở câu thơ

trên ta thấy một khung cảnh rất thơ, không gian mở có núi, có mây, có hình ảnh

của con người lồng vào trong đó. Câu hát mê đắm vướng vào núi chiều, khiến

núi như ngây trong vòng tay mềm của mây trắng. Ở câu thơ của Ma Trường

Nguyên, núi không chỉ mang ý nghĩa phồn sinh nữa mà tác giả đã mượn hình

ảnh ẩn dụ ví núi với người con trai. Khi câu hát của người con gái được cất lên,

người con trai vốn mạnh mẽ là thế cũng ngẩn ngơ, đắm đuối. Có lẽ, chỉ những

người đang yêu mới cảm nhận được sự thi vị của câu hát ấy.

Vậy nên, Núi trong thơ Ma Trường Nguyên không đơn thuần là những

hình ảnh đẹp mà là một cấu tứ khá thú vị trong lối thơ của tác giả. Núi không

những gắn bó với tuổi thơ của một người, với tuổi tác của một cộng đồng, mà

đã nhanh chóng chuyển hoá thành nhân vật trữ tình luôn được nhắc đến. Một

lần nữa ta lại bắt gặp hình ảnh Núi ngây:

Mặc cho núi đứng ngất ngây

Mặc cho chim rừng ngơ ngác

(Câu hát vắt qua vai)

Trong quan niệm xưa nay, Núi luôn được xem là yếu tố tĩnh, cố định,

nhưng khi bước vào thế giới thơ Ma Trường Nguyên, nó không còn được hình

dung như một sự vật bất động, vô tri vô giác nữa, ngược lại như một sinh thể

92

luôn chuyển động, luôn “hồi sinh”, “tái sinh”, và mang hơi thở, bóng dáng,

nhịp sống vốn chỉ có ở con người như:

Núi buồn mây quấn khăn tang

Giọt sương lã chã lệ tràn trắng rơi

(Mẹ về trời đất tận cùng)

Dưới ngòi bút của Ma Trường Nguyên, cảnh vật nào cũng có tâm hồn,

dù là hoa, mây hay núi. Đó cũng chính là tâm hồn, tâm trạng của con người,

của nhân vật đã hòa với cảnh, tác động lên ngoại cảnh giống như câu thơ của

Nguyễn Du: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Có lẽ vậy, nên ở bài thơ

trước chúng ta vừa bắt gặp một hình ảnh núi “ngây”, một trạng thái, cảm xúc

của người đang yêu, đang say đắm nên núi cũng vậy. Còn ở bài thơ này ta lại

thấy một hình ảnh núi “buồn”, buồn vì tâm trạng của nhân vật cũng buồn khi

mất đi người mẹ thân yêu. Vì có sự đồng cảm, sự hòa nhập với thiên nhiên, nên

dù vui hay buồn, núi đều có “hồn”, có “tâm trạng” như chính nỗi lòng tác giả

vậy.

Giống như Võ Sa Hà, Y Phương và Dương Thuấn, Núi trong thơ Ma

Trường Nguyên cũng phong phú với nhiều trạng thái, nhiều cảm xúc, muôn

hình, muôn vẻ, đôi khi chứa đầy tâm trạng như một con người. Và có lẽ phải là

một người sinh ra từ núi, lớn lên cùng với núi, mang hồn của núi, yêu núi và

coi núi như một phần máu thịt của mình thì mới có sự cảm nhận tinh tế và sâu

sắc đến như vậy. Trong bài Tiếng hát mặt trời mọc, Ma Trường Nguyên đã vẽ

lên hình ảnh mà chỉ có ở miền núi mới có:

Nhấp nhô, nhấp nhô núi đợi rừng chờ

Quanh năm ấp trong mây bạc

……

Miền núi bốn mùa thở trong bầu tiếng chim

Vẫn mải mê với tiếng em trong vút..

93

Còn trong thơ Võ Sa Hà, Núi được hiện lên với vẻ đẹp mang tầm vóc vũ

trụ, vẻ đẹp huyền thoại, kì vĩ:

Những quả núi cao ngửa mặt nhìn trời

Vẫn vững trãi qua ngút ngàn nắng gió

(Khúc hát quê hương)

Dương Thuấn nói về quê hương miền núi của mình. Nơi ấy bao bọc

toàn núi và sông:

Ba bước chân gặp núi

Ra khỏi cửa là leo, là lội.

(Đi tìm bóng núi – Dương Thuấn)

Hình ảnh Núi cũng được xuất hiện nhiều trong các câu ca dao của người

Tày:

Đét óc lồm vẳt mà lểu sán

Khốn móoc bản tỏa ngản vận pi

Tức:

Nắng lên gió thổi sương tan

Thương cho núi ngàn sương phủ quanh năm

Hay:

Tảng vỉ pây lắt li tin đông

Quá keng kéo khỉn lồng bố ngại

Nghĩa là:

Đường anh chân núi ven ven

Vượt non không ngại xuống lên mấy đèo…

Ở những câu ca dao trên, tác giả dân gian đã mượn hình ảnh núi để nói

về tình yêu đôi lứa với những khó khăn, cách trở vẫn quyết vượt qua. Vận dụng

ý thơ đó, Ma Trường Nguyên đã khắc họa một hình ảnh núi khác:

Cột mốc đỉnh non sông

Đo thời gian sớm, muộn

94

Nắng đi và núi đứng

Xa dần khoảng cách xa.

(Hoàng hôn rơi)

Ma Trường Nguyên thường viết về chủ đề tình yêu thông qua hình ảnh

thiên nhiên, mà ở đây là hình ảnh Núi - thay cho nhân vật trữ tình:

Em đã về bên anh

Như trời xanh trở lại

Núi khát gặp suối lành

Dưới mùa xuân hoa trái

Bên nhau như sông núi)

Rồi đón người thương về quê mình, nơi đó là bản núi.

Đón em về bản núi

Đi tết thăm người thân

Ngã ba rừng mở hội

Người đón người đón xuân

(Quả còn gieo lửa dậy)

Trong bài “Mùa xuân trên đèo De”, Ma Trường Nguyên đã giới thiệu về

quê hương miền núi của mình với tình cảm tha thiết:

Con về đường núi đèo De

Bên này Rục Rã bên kia Tân Trào

Thác Khuôn nước đổ ào ào

Chim reo trong lá xôn xao núi Hồng

(Ma Trường Nguyên)

Hay hình ảnh xinh tươi với nụ cười rạng rỡ của cô gái miền sơn cước, để

núi bớt hoang vu như lòng người con trai bớt buồn:

Nụ cười em giữa núi rừng sơn cước

Để núi bớt hoang vu

Để anh bớt dại khờ

(Em với Thác Giềng)

95

Như vậy, trong thơ Ma Trường Nguyên, Núi là một biểu tượng có nhiều

ý nghĩa văn hóa - thẩm mỹ độc đáo. Nó vừa là tượng trưng cho vẻ đẹp phồn

sinh của thiên nhiên, đời sống, vừa là biểu hiện của hình tượng nhân vật trữ tình

trong thơ. Nhưng hơn hết, qua hình ảnh núi ta sẽ khám phá được những phẩm

tính đặc thù của cái tôi thi nhân.

* Hình ảnh dòng sông:

Hình ảnh dòng sông là đề tài quen thuộc, quyến luyến bước chân của

nhiều nhà văn, nhà thơ, trong đó không thể thiếu hình ảnh dòng sông trong thơ

Ma Trường Nguyên.

Cũng giống nhiều nhà thơ dân tộc Tày, quê hương nhà thơ có địa hình

chủ yếu là núi đồi nên sông suối lại càng có một vị trí quan trọng trong đời sống

của con người. Có lẽ vì thế mà qua thống kê thơ Ma Trường Nguyên cho thấy

có 40 lần từ dòng sông được xuất hiện trong 6 tập thơ đã khảo sát, trong đó phải

kể đến tập thơ “Tiếng lá rừng gọi đôi” với 14/123 bài (thơ tiếng Việt), tập “Bắc

cầu vồng thăm nhau” với 8/43 bài có hình ảnh về sông, tập Mở núi có 4/47 bài,

tập Cây nêu có 6/52 bài, tập Câu hát vắt qua vai có 3/47 bài.

(Phụ lục: Bảng 3.4)

Dù số lượng chưa phải là nhiều nhất nhưng dòng sông cũng đã nằm trong

số những hình ảnh được tác giả phác họa nhiều lần trong thơ của mình. Điều đó

chứng tỏ dòng sông chiếm một vị trí quan trọng trong cảm hứng sáng tác của

Ma Trường Nguyên. Đó là dòng sông mùa lũ:

Biết dòng sông đã trôi

Nước ngầu qua mùa lũ

(Bên sông bóng ám)

Dòng sông Cầu - con sông của quê hương đã đi vào thơ Ma Trường

Nguyên khá nhiều. Trong bài “Dáng núi anh hùng”, ông viết:

Mặt sông Cầu sóng tụ nhanh

Người trai Tày áo chàm xanh khỏa bờ.

(Ma Trường Nguyên)

96

Cũng hình ảnh con sông ấy, nhà thơ viết:

Mùa xuân anh ngược sông Cầu

Hẹn em ở Hích cùng vào Thần Sa

Ngọn nguồn sông- suối hiền hòa

Lung linh in sắc trăm hoa rực hồng.

(Mùa xuân cùng hẹn Thần Sa)

Hay có khi là hình ảnh dòng sông nơi nhà thơ đi qua, đó là con sông

Hương thơ mộng:

Du thuyền trên sông Hương

Ngọt ngào lời ca Huế

Của em - cô gái trẻ

Anh ngỡ mình đế vương

(Du thuyền trên sông Hương)

Hay:

Anh ngẩn ngơ nhìn sông Hoàng Phố

Nắng chiều buông.

(Bến Thượng Hải)

Dòng sông hiền hòa, thân thuộc, giản dị có lẽ là hình ảnh gợi nhớ trong

kí ức của Ma Trường Nguyên rất nhiều kỉ niệm. Chính bởi thế, dòng sông trong

thơ Ma Trường Nguyên thường mang lại hình ảnh thực vốn có của nó cho người

đọc, cũng bởi chính hình ảnh này rất giống với phong cách thơ Ma Trường

Nguyên, chẳng triết lý sâu xa, cũng không gồng lên cường điệu, hình ảnh ấy

hiện lên một cách rất hiện thực và hài hòa, giản dị nhưng có sức hút mãnh liệt,

khiến người đọc thiết tha, say đắm.

Con sông óng ả nghiêng

Theo chiều ngân câu hát

Loang dải xanh ánh bạc

Cuồn cuộn trôi mênh mông

(Tiếng hát dòng sông)

97

Hình ảnh dòng sông rất đỗi bình dị, hài hòa nhưng đâu đó chính dòng

sông quê ấy của Ma Trường Nguyên đầy rạo rực, sâu lắng giống như cảm xúc

của con người:

Con sông có thác nước trào

Biết tìm nơi chảy dạt dào làm sông

Tình yêu cũng có mạch nguồn

Từ trái tim đập sinh muôn cuộc đời…

(Mình tôi không thể)

Và có khi là cảm xúc dạt dào của đôi lứa đang yêu:

Và chúng mình yêu nhau

Bài hát không có tuổi

Dòng sông xanh rời rợi

Tím biếc lời mai sau.

(Bài hát không có tuổi)

Hay đó còn là sự khát vọng hòa nhập, giao cảm của tình yêu đôi lứa vào

thiên nhiên, với hình ảnh dòng sông.

Không gian một cánh đồng chưa tra hạt

Dòng sông vại nước ngọt của trời

Anh đến em lăn đến cánh đồng đời

Sấm gọi mùa màng chín mẩy.

(Làn tóc xõa)

Hình ảnh dòng sông trong thơ Ma Trường Nguyên còn có sự kết hợp rất

đa dạng và phong phú với những biểu tượng khác tạo nên những hình ảnh biểu

đạt với nhiều cảm xúc khác nhau: với bến (Biết là bến sông trong), với trăng

(Sông trở trăng đi xa), với hoa (Những mùa hoa ven sông)…

Không chỉ là hình ảnh dòng sông hiền hòa, giản dị, dòng sông trong thơ Ma

Trường Nguyên còn có ý nghĩa biểu trưng cho dòng thời gian bất khả qui hồi, cho

ý nghĩa về sự mất mát và lãng quên. Có thể thấy với ý nghĩa này, số lượng xuất

98

hiện không nhiều chỉ 5 trong tổng số 40 lần (chiếm 12,5%), nhưng nó lại mang sự

tương phản, sự khác biệt và những tầng ý nghĩa sâu sắc hơn trong thơ Ma Trường

Nguyên. Giống như câu thơ thể hiện sự mất mát dưới đây:

Dòng sông dâng lên âu yếm bãi bờ

Khi lui rồi mới biết mình phía dưới

(Em cứ đến và em đừng có đến)

Rõ ràng việc đưa hình ảnh dòng sông và bãi bờ vào câu thơ này mang lại

một ý nghĩa tượng trưng vô cùng độc đáo và sự diễn tả rất thú vị. Ý nghĩa của

cả bài thơ như được mở ra và tạo nên sức hút cho người đọc. Hay có khi hình

ảnh dòng sông lại ở một khía cạnh khác, khía cạnh của sự diễn tả tâm hồn thông

qua những dòng thơ đầy say đắm.

Nước dòng sông e ấp ngập ngừng

Sóng đánh trong lòng sâu hồi hộp

(Gặp lại tuổi xuân em)

Hay như câu thơ:

Cả trời mây núi sông

Có phải già đi hết

Chỉ anh không được phép

Già đi được với em.

(Nụ xanh chúm chím)

Rõ ràng đây không thể là dòng sông bình thường, dòng sông mà biết

đến cả “e ấp”, “ngại ngùng”, rồi “già” nữa thì phải chăng đó là sự diễn tả

chính tâm tư, tình cảm của nhân vật nhờ dòng sông nói hộ lòng mình?. Chính

hình ảnh dòng sông với ý nghĩa không chân thực, không phải dòng sông quê

đầy thơ mộng này của Ma Trường Nguyên mà chúng ta mới thấy được hình

ảnh biểu đạt sâu rộng và sức ảnh hưởng mạnh mẽ của “dòng sông” trong thơ

ông.

99

* Hình ảnh Hoa:

Hoa tự ngàn xưa luôn là hình ảnh tượng trưng của cái đẹp, của sự sống

tươi trẻ đầy nhựa khí. Trong thơ Ma Trường Nguyên, hình ảnh Hoa cũng xuất

hiện khá nhiều, với 126 lần trong 271 bài thơ khảo sát. Các bài thơ có tiêu đề

về hoa cũng chiếm số lượng tương đối trong thơ ông: Hoa tím, Hoa đào và thi

sĩ, Sắc vàng hoa hồ điệp, Màu hoa soi tìm, Tìm về thời hoa dại, Màu hoa tím

Nam Ninh, Hoa sớm, Chiều tím hoa xoan, Hoa súng đỏ, Sau mùa hoa gạo…

(Phụ lục: Bảng 3.5)

Đọc thơ Ma Trường Nguyên, trước hết ta thấy Hoa trong nhiều sáng tác

của ông có ý nghĩa là dấu hiệu của thực vật đến kì sinh trưởng dồi dào, hoa

trước hết là “hiện thân của sự sống”. Với thuộc tính đẹp điển hình, hoa là biểu

tượng của cái đẹp, như một ý nghĩa của thiên nhiên, luôn luôn rạng rỡ, khoe

sắc, khoe hương…

Con chim đánh rơi tiếng hót vào lòng

Nên tiếng hát em cứ trong veo dịu ngọt

Hoa trên rừng nhờ má em khoe sắc

Nở hắt ánh tươi rực rỡ chói bừng.

(Tiếng hát mặt trời mọc)

Hay:

Màu sắc hoa hồ điệp

Đọng nỗi nhớ nồng nàn

Tung sắc vàng rưng rức

Tràn ngập vào không gian

(Sắc vàng hoa hồ điệp)

Viết về bông hoa chè tinh khôi, loài hoa đặc trưng của quê hương mình,

nhà thơ có bài “Hoa sớm”:

Có loài hoa trắng trong

Nhụy vàng thơm từ tốn

100

Tự nở giữa mùa đông

Không chờ xuân đến đón

….

Bông hoa chè tinh khiêt

Mở cửa mùa hoa thơm

(Ma Trường Nguyên)

Có khi lại là màu rực rỡ của hoa trạng nguyên:

Hoa trạng nguyên đỏ chói

Rạo rực ngõ nhà em

Rì rào cơn gió thổi

Vẫy chào người thân quen.

(Dưới tán hoa trạng nguyên)

Trong thơ Ma Trường Nguyên, Hoa là hình ảnh hiện thân của sự sống,

nhưng đó không phải là một mầm sống cô lập. Sự sống của hoa còn toát lên từ

sợi dây kết nối với các thực thể xung quanh, với vạn vật rất đỗi quen thân.

“Hoa” đi với “nước” (Hoa mọc rung rinh nước), với lửa (Màu hoa tung ánh

lửa), với rừng (Hoa trên rừng nhờ má em khoe sắc) v.v….

Hình ảnh Hoa cũng được nhà thơ Tày Nông Quốc Chấn nhắc đến nhiều.

Trong bài thơ Mở đường xuân, hoa đã được tác giả liệt kê liên tiếp như một tín

hiệu vui trong cùng một khổ thơ:

Hoa đón mùa xuân

Hoa mỉm cười khoe sắc đẹp

Hoa mận, hoa đào, hoa lê…cùng điểm xuyết

Trên nghìn vạn cành cây

Hoa bên chiếc máy giữa đường cày,

Hoa trên nòng súng….

(Nông Quốc Chấn)

Với nhà thơ Dương Thuấn, hình ảnh hoa lại thực sự đem đến nhiều cảm

101

nhận sâu sắc cho người đọc. Hoa trong thơ ông thường tượng trưng cho cái đẹp.

Đó là vẻ đẹp tự nhiên của hoa miền sơn cước:

Đường đi dốc núi quanh co

Quê hương bốn mùa hoa nở.

(Về Bắc Kạn)

Hình ảnh hoa còn là nét đẹp trong văn hóa của người Tày, chẳng hạn, là

phong tục chúc nhau ngày lễ tết:

Sáng mùng một nhớ đến chơi cho khắp

Chúc nhau những lời đẹp như hoa.

(Mùa xuân Bản Hon).

Vì Hoa là biểu tượng của cái đẹp nên ngay cả trong dân ca Tày, hoa luôn

xuất hiện với những tầng nghĩa ẩn hiện giầu sức gợi tả. Hoa có thể là hình ảnh

đẹp của núi rừng nhưng ẩn sau đó là tình yêu, số phận của những người con

gái. Trong bài Than ước là một ví dụ, từ hoa được láy đi láy lại làm cho sức gợi

tả của hình ảnh này càng sâu đậm:

- Tháng hai than hoa nở đã ban

Lại có hoa mẫu đơn thơm ngát

Hoa lồm cùng hoa lạ thơm ngon …

- Tháng ba than hoa nở với xuân

- Tháng bảy em thấy buồn tự ước

Anh sao ở cách bức đường xa

Để em yêu người hoa khác xã. . [21]

Cũng giống như vậy, ngoài mang ý nghĩa biểu tượng của thiên nhiên,

hình ảnh Hoa trong thơ Ma Trường Nguyên đôi khi là sự không bền vững, mau

nở, nhanh tàn, hoa trở thành hình ảnh của con người, đặc biệt là người phụ nữ

mong manh, yếu đuối, cuộc đời trôi nổi. Dù chỉ có 11 lần hoa mang ý nghĩa

tượng trưng cho cuộc đời, cho tình yêu được nhắc đến trong các tập thơ, nhưng

102

những ý nghĩa này mang lại nhiều sắc thái biểu cảm. Dù là trạng thái khi tình

cảm đó thăng hoa, rực rỡ nhất.

Sáng anh đến vòm trời đầy sắc tím

Hay tình em quyến luyến nở thành hoa

(Bốn bài thơ hoa)

Thậm chí cả những lúc chia ly, xa rời…hình ảnh của hoa cũng không thể

thiếu:

Đúng lùm mua này tay em hái hoa tươi

Trao sắc tím màu trăng bỡ ngỡ

Hạt trăng rụng rơi lăn kẽ lá

Anh giật mình tưởng hơi thở vương cây.

(Hoa tím)

Và có khi hình ảnh Hoa còn tô đậm và khắc họa rõ nét hơn cho nỗi buồn,

nỗi sầu, đó là nỗi đau chia cắt do chiến tranh, người ở lại, người chia xa:

Tìm về hoa dại trên đồi

Mất em rồi hoa cũng mất

Ở đâu, đời này mặt đất

Con người và giấc mơ hoa ?

(Tìm về thời hoa dại)

Những câu thơ của Ma Trường Nguyên đã gợi cho người đọc về một

màu sim tím trong thơ của Hữu Loan. Ở đó cũng là sự ra đi của người con gái

và sự nhớ nhung dằng dặc cho người ở lại.

Những đồi hoa sim

Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết

Màu tím hoa sim

Tím chiều hoang biền biệt….

(Màu tím hoa sim)

103

Và với thi sĩ, có loài Hoa mà chỉ ở trong thơ, cũng giống như nỗi niềm

của nhà thơ giành tặng cho người mình yêu:

Có lẽ hoa hạnh phúc

Chỉ có ở trong thơ

Từ lòng thi sĩ nở

Để tặng người hay mơ

(Hoa hạnh phúc)

Như vậy, có thể thấy Hoa là một yếu tố không thể thiếu trong con mắt

một người yêu cái đẹp như Ma Trường Nguyên. Hình ảnh hoa mang nhiều ý

nghĩa cũng như sắc thái rất riêng biệt và được nhà thơ tận dụng triệt để trong

sáng tác của mình. Chính từ cảm hứng yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp kết hợp

với hình ảnh giàu tính biểu đạt mà trong thơ Ma Trương Nguyên, Hoa luôn

luôn ngập tràn hương sắc và thấm đượm những tầng nghĩa văn hoá sâu xa.

Như chúng ta thấy, Nhà sàn, trăng, núi, sông hay hoa là những hình

quen thuộc mang tính biểu tượng cao trong nhiều sáng tác của các nhà thơ dân

tộc thiểu số nói chung và trong thơ Ma Trường Nguyên nói riêng. Trong thơ

Ma Trường Nguyên, hình ảnh nhà sàn, trăng, sông, núi, hoa …được xuất hiện

khá nhiều và trở thành những biểu tượng chính trong các sáng tác của thơ ông.

Một số hình ảnh như trăng, Hoa…tuy không mang đậm bản sắc dân tộc Tày,

như hình ảnh Hoa đặc trưng của người Tày thường là hoa phặc phiền, hoa phón,

hoa lá ngón ….nhưng trong thơ Ma Trường Nguyên, bản sắc dân tộc miền núi

có giao hòa, tích hợp với văn hóa dân tộc thiểu số. 2 biểu tượng văn hóa giao

thoa nhau và được tích hợp trong tác phẩm, tạo nên phong cách riêng của nhà

thơ Ma Trường Nguyên.

Và với cách tư duy giàu hình ảnh, Ma Trường Nguyên còn đưa vào trong

thơ của mình một số hình ảnh quen thuộc như mưa, mây, cầu vồng, lửa... tất cả

đều rất giản dị và mang ý nghĩa khá phong phú, phần nào thể hiện nét đẹp trong

văn hoá của người dân tộc. Mỗi hình ảnh dù giản dị, mộc mạc đều mang những

104

nét riêng của miền núi, ghi dấu được sự gắn bó của nhà thơ với quê hương bản

làng và cuộc sống của những con người nơi đây.

3.2. Ngôn ngữ thơ đậm chất Tày

Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản của

văn học. M.Gorki khẳng định: "ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học". [23].

Ngôn ngữ được sử dụng trong văn học là ngôn ngữ đã được chọn lọc,

rèn giũa qua lao động nghệ thuật của nhà văn, nên ngôn ngữ mang tính chất

chủ quan của nhà văn. Với thơ ca, đặc trưng của loại ngôn ngữ này là sự trong

sáng giản dị, hàm súc, gợi tả, giàu nhạc điệu, giàu liên tưởng... Nếu như ở văn

xuôi tự sự, ngôn ngữ mang tính tạo hình được đề cao thì ngôn ngữ thơ chú trọng

tới việc bộc lộ thế giới nội tâm của con người. Đặc trưng của ngôn ngữ thơ là:

“tính chính xác, tính hàm xúc, tính đa nghĩa, tính tạo hình, tính biểu cảm” [8].

Ngôn ngữ là một trong những yếu tố chính để tạo cho thơ bay cao hơn như

RxunGamzatốp khẳng định "Văn xuôi bay xa hơn nhưng thơ bay cao hơn". Để

có được điều đó, ngôn ngữ trong thơ phải đạt được chức năng biểu cảm cao,

phải thấy được suy nghĩ, cảm xúc và tâm trạng chủ quan của nhà thơ. Và như

người ta vẫn nói, người nghệ sĩ tài năng là người nghệ sĩ biết sáng tạo “chất

liệu” ngôn ngữ của dân tộc để làm nên tác phẩm của mình, xây dựng hình tượng

nghệ thuật của riêng mình và tạo cho mình một giọng điệu riêng, một phong

cách riêng, không lẫn với ai khác.

Giống như nhiều nhà thơ khác, Ma Trường Nguyên đã vận dụng ngôn

ngữ xã hội để sáng tạo nên các tác phẩm nghệ thuật. Điều làm nên những nét

riêng độc đáo của ông chính là cách nói rất riêng mà chỉ có dân tộc Tày mới

có được. Ngôn ngữ thơ của tác giả mộc mạc, giản dị như cách nói, cách kể

hàng ngày như tính cách của người miền núi.

Thơ Ma Trường Nguyên sử dụng nhiều ngôn từ trong sáng, giản dị, cách

nói mang tính truyền thống của con người vùng cao, là sự chân thành, thẳng

thắn trước cuộc sống đời thường và đôi khi nhà thơ dùng những ngôn ngữ được

chọn lọc công phu tạo nên những ẩn ngữ giàu màu sắc triết lý. Ta bắt gặp trong

105

thơ ông cách nói, cách ví von, cách liên tưởng, cách kể rất mộc mạc, mộc mạc

như chính con người ông vậy.

Như chúng ta đã biết, thơ Ma Trường Nguyên chủ yếu là thơ về tình yêu

đôi lứa. Khi nói về tình yêu của người con trai miền núi quê mình, Ma Trường

Nguyên đã vẽ chân dung của một người đang say tình, say đắm đuối, với ngôn

ngữ thật giản dị nhưng cũng rất giàu hình ảnh:

Trầu anh không ăn

Thuốc anh chẳng hút

Rượu anh không uống một giọt

Sao anh say, sao anh say …

(Anh sẽ phải nói thật)

Thường người ta chỉ hay say rượu, say trầu, nhưng ở đây người con trai

không uống rượu, trầu cũng không ăn, thuốc không hút. Vậy mà anh lại say,

không biết vì sao “anh say”. Thực ra đây chỉ là một câu hỏi vờ mà tác giả đã

gửi gắm vào đó tình cảm của mình. Với những ngôn ngữ dễ hiểu, bất cứ ai khi

đọc đoạn thơ đều có thể cảm nhận được rằng nhân vật “anh” đang yêu, yêu say

đắm.

Cũng là hình ảnh say tình, nhưng Ma Trường Nguyên còn có cách viết khác:

Anh muốn tránh lòng mình đi chỗ khác

Sợ gần em bén ngọn lửa tình

Anh muốn vác mặt mình đi lánh mặt

Sợ thấy em say khướt bóng hình

(Tựa vào nhau soi bước)

Còn nhà thơ Y Phương cũng vẽ chân dung của một người đang say tình

theo cách của mình:

Da thịt người da thịt đất đai

Cùng một màu đồng hun lặng lẽ

Nặng nhọc cười

106

Nặng nhọc người đàn bà đeo gùi

Nặng nhọc hai bầu vú mọng căng như nước

Nặng nhọc hai bầu vú phì nhiêu như đất

Đất nước

Sinh ra từ ngực người đàn bà

(Chín tháng - Y Phương)

Nghĩ sao nói vậy, nên Ma Trường Nguyên đã dùng những ngôn ngữ hết

sức giản dị, đời thường:

Thời nay làm gã đàn ông

Chạy đâu cho thoát cái “gông” đàn bà

Nào là cấm ngặt rượu trà

Đi xe máy phải nhẩn nha thẳng nhìn

Chớ mê mải liếc lắm em…

(Đàn ông thời nay)

Hình ảnh rất thật của người đàn ông đã có gia đình, đã được đeo “gông”

như cách nói của tác giả. Tuy nhiên ẩn đằng sau đó là tình yêu, sự quan tâm

của người vợ dành cho chồng mình. Lúc này tình yêu không phải là sự lãng

mạn như mây mưa hay hoa lá. Một tình cảm thật sự bình dị, đời thường nhưng

vô cùng sâu sắc.

Cũng có khi nhà thơ mượn hình ảnh của những vật dụng trong cuộc

sống, sinh hoạt của người miền núi để nói lên tình cảm của mình:

Anh vụng lắm không biết đan giỏ lạt giang

Để anh đựng hết lời em bằng vàng

Anh vụng nhiều không biết dệt nên tấm chăn thổ cẩm

Để anh xếp anh chồng vào gói kỹ câu em quý mang theo

(Lời đẹp anh giữ)

Đó chính là tấm chân tình của người con trai giành cho người con gái miền

107

sơn cước. Để rồi những câu thơ tiếp theo là nỗi nhớ, là ước muốn sum họp:

Hàng cây ngâu nhớ dầm dề

Long lanh hạt nước lời thề trong veo

Mùa ngâu mùa tái hợp yêu

Của trời đất đến dập dìu không gian…

Ở đây nhà thơ đã mượn hình ảnh mưa ngâu để nói đến tình yêu của họ.

Như chúng ta đã biết, theo truyền thuyết thì mùa ngâu là mùa mưa tháng bẩy,

vì ngày xưa có nàng Chức Nữ là con gái yêu của Trời suốt ngày chăm chỉ dệt

vải. Trời xe duyên với một chàng trai tên là Ngưu Lang. Chàng lo chăm sóc

đàn trâu của nhà Trời. Hai người sống rất hạnh phúc. Tuy nhiên chỉ suốt ngày

bên nhau cho nên đã chểnh mảng công việc Trời giao. Trời giận dữ đày cả hai

xuống bờ sông Ngân, nhưng bắt mỗi người ở một bên bờ. Mỗi năm Trời chỉ

cho hai người gặp nhau một lần vào ngày 7 tháng 7 âm lịch. Mỗi khi Ngưu

Lang và Chức Nữ gặp nhau, họ đã khóc và nước mắt của họ rơi xuống trần gian

hóa thành cơn mưa, đó chính là mưa Ngâu. Có lẽ thế mà mưa ngâu có nhiều

trong ca dao Việt Nam như:

- Tục truyền tháng bảy mưa ngâu,

Con trời lấy chú chăn trâu cũng phiền

- Tháng sáu lo chửa kịp tiền

Bước sang tháng bảy lại liền mưa Ngâu

- Nhớ ai như vợ chồng Ngâu

Một năm mới gặp mặt nhau một lần.

Ma Trường Nguyên sử dụng nhiều lớp từ ngữ bộc lộ những trạng thái

khác nhau của tình cảm, tình yêu đôi lứa:

Cả đêm hết nằm lại ngồi

Đợi lòng đi yêu về ngủ

Xoay ngửa nghiêng người đủ chỗ

Lăn lóc như vỏ đỗ queo

(Lòng đi yêu về thôi)

Đó là nỗi nhớ người yêu đến da diết của chàng trai. Chàng trai nhớ người

108

yêu đến mức đêm không thể ngủ được, đành phân thân thành hai nửa lòng và

xác. Lòng đi tìm người yêu làm cho thân xác cứ phải chờ đợi, không thể ngủ

yên.

Cũng có khi, nhà thơ mượn cả hình ảnh đôi môi để nói đến sự ngọt ngào,

gắn kết của thứ tình cảm lãng mạn ấy với ngôn ngữ bình dị, gẫn gũi:

Cái môi nợ ngọt ngào

Người trao người đã nhận

Biết bao giờ trả cạn

Âu yếm này cho nhau.

(Mắc nợ)

Đặc biệt là cặp đại từ xưng hô anh - em xuất hiện rất nhiều trong thơ Ma

Trường Nguyên, bởi đây là cách xưng gọi phổ biến nhất của đôi lứa yêu nhau.

Cách xưng hô này vừa gần gũi, thân mật, tràn đầy tình cảm vừa thể hiện được

sự tôn trọng đối phương của người nói.

Ở phía trời e xa

Bỗng cầu vồng xuất hiện

Nối đầu sông cuối biển

Phương em về phương anh

Bảy sắc màu lung linh

Cầu vồng cong cong bắc...

(Bắc cầu vồng thăm nhau)

Trong bài Hái táo đầu xuân, giản dị như một bức tranh với vài nét phác

thảo, Ma Trường Nguyên lại đem đến một hơi hướng mùa xuân, nhưng ẩn trong

đó là hơi hướng của tình yêu:

Đầu xuân anh cùng em hái táo

Tay đưa lần quả chín lựa tìm

Bất ngờ cùng hái chung một trái

Khẽ chạm tay rồi má ửng lên…

(Hái táo đầu xuân)

Những câu thơ không khắc họa, không xoáy sâu nhưng để lại cái gì đó

109

như một hương cây cỏ nguyên sơ, như một bầu không khí ban mai trong trẻo.

Ngòi bút của ông không chỉ có thế, mà nó còn có cái duyên riêng, đa tình mà

tế nhị:

Cơn gió xuân về che mắc cỡ

Vương cành táo ngọt khoác chung vai

Em cố vô tình không thèm gỡ….

(Hái táo đầu xuân)

Cơn gió xuân thì chỉ có thổi qua chứ sao che nổi mắc cỡ, còn chàng trai cố

vướng vào cành để sát vai cô gái và cô gái kia cố vô tình không gỡ ra…Những

câu thơ, những từ ngữ tưởng như vô lý mà lại rất hợp lý, làm nên cái duyên cho

bài thơ.

Đối với nhà thơ, dù đi đâu thì hình ảnh quê hương vẫn luôn hiện lên và

gợi nhớ về nơi ấy. Thế nên khi miêu tả về một đêm ngủ ở thị thành, nhà thơ

vẫn nhớ đến những hình ảnh, thanh âm của quê mình, với suối và rừng:

Đêm thành phố Hồ Chí Minh

Ngủ lầu cao chợt trở mình tỉnh say

Tiếng tắc kè gọi đâu đây

Nghe như tiếng của ngàn cây rì rào

Gió rừng theo suối ruổi mau.

(Ở nhà lầu nghe tiếng tắc kè)

Khi miêu tả về quê mình, nhà thơ dùng những ngôn từ rất tự nhiên, như

một giọng kể chân thực, giúp cho người đọc hình dung được miền quê ấy như

thế nào:

Quê tôi xóm Đồng Chẩn

Còn gọi bản Tồng Chin

Có dòng suối Khuổi Quỵnh

Bóng núi Hồng xanh in…

(Quê tôi xóm Đồng Chẩn)

Chỉ mấy dòng thơ nhưng người đọc cảm nhận được về quê hương anh

110

là một vùng quê có núi non, sông suối. Bằng ngôn ngữ mộc mạc như cách

nói hàng ngày, Ma Trường Nguyên đã đưa hàng loạt những địa danh của quê

hương vào thơ: suối Quỵnh, núi Hồng, bản Tồng Chin…

Nhà thơ rất tài tình trong việc dùng ngôn ngữ để tô điểm những bức tranh

đẹp mà bình dị đến xốn sang lòng người:

Những mùa hoa dại ven sông

Rắc nhụy hương phơi phới

Thơm như là tiếng gọi

Người bên sông đang chờ…

(Tiếng hát dòng sông)

Rồi bức tranh vùng núi quê hương nhà thơ buổi sáng cũng được vẽ lên với

những hình ảnh quen thuộc:

Sáng ra người bước xuống thang

Bước từ mây trắng xuống sàn sương nâng

Bàn chân giẫm đạp mù giăng

Đàn gà tung cánh gáy vang đỉnh đồi.

(Vùng cao)

Vùng núi buổi sáng thường có mây trắng, nhà sàn có cầu thang để bước

xuống. Tác giả đã nâng hình ảnh thiên nhiên để vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp mà chỉ

riêng có ở miền núi, bước từ trên nhà xuống thôi mà như bước từ mây xuống và

khi bước xuống như vậy đã có sương nâng đỡ rồi.

Hay khi miêu tả về miền quê mình đón mùa xuân mới, một bản làng bình

yên, ấm cúng, Ma Trường Nguyên chọn cho mình một lối diễn tả đầy đủ âm thanh,

sắc màu, hình ảnh, làng bản vào xuân:

Mùa xuân đã về dưới đồng trên núi

Lúa xanh phơi phới gió xuân chao

Đón nắng ấm rì rào sinh nở

Cây nêu làng ngọn cờ đỏ bay cao

(Cây nêu)

Về điểm này Ma Trường Nguyên cũng giống với nhà thơ Dương Thuấn.

111

Khi miêu tả về một miền quê, một bản làng bình yên, ấm cúng, Dương Thuấn

chọn cho mình một lối diễn tả đầy đủ âm thanh, sắc màu, hình ảnh, đường nét

của triền thung vào mùa hạ:

Ôi nắng vàng như mật

Thơm muôn hương cỏ rừng

Tiếng mõ dọc triền thung

Trâu ăn kêu lốc cốc

(Dương Thuấn)

Không chỉ nói về quê hương mình, nhà thơ còn miêu tả những nơi mình

đến với cách tả rất chân thực, khiến cho người đọc dễ dàng cảm nhận và tưởng

tượng ra nơi ấy, khung cảnh ấy:

Đường tàu điện ngầm như cung điện

Xuyên sâu lòng đất dưới đô thành

Hai bên tàu chạy đi và đến

Ghế đợi dừng chân sạch mát lành

(Đường tàu điện ngầm)

Một bài thơ tả rất thực với những hình ảnh mà quê hương tác giả không có,

đó là đường tàu điện ngầm xuyên dưới lòng đất. Vì là ít và có thể là mới nhìn thấy

lần đầu nên tác giả thấy nó thật nguy nga, tráng lệ đến nỗi có cảm giác như đó là

cung điện. Ở đây ta đã thấy lối nói so sánh của tác giả giữa tàu điện ngầm với cung

điện.

Hay một bài thơ khác cũng được tác giả tả rất thực, với một bức tranh buổi

sáng ở Nga có sắc - nắng vàng, có thanh – chim hót, có cả con người mang vẻ

trầm tư:

Khách sạn Vốt Tốc- Phương Đông

Sớm bầy chim hót rộn phòng ríu ran

Từng ô cửa kính nắng vàng

Người trầm tư bước dưới hàng Bạch dương

(Khách sạn Vốt Tốc)

Ngôn từ trong thơ của Ma Trường Nguyên còn là những lời tự sự nhưng lại

112

rất giàu cảm xúc và nỗi niềm trong đó:

Thơ em viết cho người đã xa

Anh nghe vẫn thấy lòng tê tái

Từng chữ, từng câu hiện lại

Tâm hồn em khắc khoải cô liêu…

(Nghe thơ em viết cho người khác)

Một chút kể, một chút tâm sự…và ẩn chứa trong đó là một chút ghen với

người xưa cũ của người yêu mình. Không ầm ĩ, cáu giận nhưng ta vẫn cảm nhận

được sự đau khổ của người con trai khi người con gái vẫn khắc khoải chưa quên

được mối tình cũ.

Ngôn ngữ trong thơ của Ma Trường Nguyên cũng có khi là giọng kể với

những từ ngữ giản dị tưởng chừng như quen thuộc nhưng lại rất giàu cảm xúc,

sinh động và thú vị tạo nên những ẩn ngữ, những hàm nghĩa mới:

Anh về đến ngõ núi mường

Quên bó củi trên vai đang vác

Đứng im như núi mọc

Mê mẩn lắng nghe…

(Câu hát vắt qua vai)

Đây là câu chuyện tác giả kể về người con trai đang vác củi nhưng khi

nghe tiếng hát của cô gái thì quên rằng mình đang vác củi. Lời tự sự ấy chính

là nỗi lòng của người con trai đang yêu, say mê nhưng vẫn còn vụng về như

chính bản chất của người người miền núi vậy.

Theo nhà thơ Ma Trường Nguyên, người làm thơ dân tộc thiểu số trước

hết học để chắt lọc những di sản tinh túy của dân tộc mình để làm vốn. Nhưng

muốn sáng tác được những bài thơ thực sự của mình thì phải biết “thoát” ra ðể

výõn lên, chứ không ðýợc lạm dụng hoặc lýời biếng “ăn cắp tài sản” của cha

ông khoác áo của mình vào để có vẻ có màu sắc dân tộc. Có lẽ chính vì thế, bên

cạnh ngôn ngữ thơ đậm chất Tày, ta còn thấy có những sáng tác mà ở đó bản

113

sắc dân tộc miền núi được giao hòa, tích hợp với văn hóa Việt. Đó là 2 biểu

tượng văn hóa giao thoa nhau và được tích hợp trong tác phẩm. Như trong bài

“Chim sẻ”, Ma Trường Nguyên viết:

Tiếng còi trục dóng dả

Chạy hối hả trên tầng

Vô tình chim đến đậu

Lên đầu cô công nhân…

Những câu thơ ngắn gọn, dễ hiểu. Có hình ảnh chim sẻ thân thiện với cô

công nhân, nghĩa là đã có bóng dáng của nhà máy, chứ không chỉ có núi, có

đồi. Bản sắc dân tộc ở đây đó là sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên, cô

công nhân với chim sẻ. Một sự hòa hợp giữa cuộc sống hiện đại nhưng vẫn

mang bản sắc dân tộc.

Hay:

Cuộc sống chảy lòng tôi suối mát

Hóa tiếng chim xanh ngát núi rừng

Suối ngọt ngào chim uống vào giọng hát

Lại ngọt ngào thêm hòa ngọt suối trong

(Tiếng gọi)

Tìm hiểu ngôn ngữ trong thơ Ma Trường Nguyên ta cảm nhận được ngôn

ngữ thơ tự nhiên, chân thực và mang tính hướng nội. Vẫn bắt nguồn từ những

ngôn ngữ kể, dung dị, mộc mạc về quê hương, cảnh sắc thiên nhiên, đời sống

tinh thần và tình yêu đôi lứa của người vùng cao, nhưng lại mang đến sắc thái

biểu đạt sâu sắc. Đó là tình yêu quê hương da diết, là phong cảnh hùng vĩ của

núi rừng, là thiên nhiên thơ mộng của mây, trời, trăng, nước, là sự đắm đuối,

tình si và say đắm, nồng nàn của tình yêu đôi lứa. Đọc thơ Ma Trường Nguyên

ta còn thấy trong thơ ông vừa có tính truyền thống, vừa mang dáng vẻ hiện đại,

tạo nên những tác phẩm gần gũi, dễ đọc, dễ cảm nhận đối với độc giả.

3.3. Thơ song ngữ Tày- Việt:

Là một nhà thơ dân tộc thiểu số, ngoài sáng tác thơ bằng tiếng Việt, Ma

114

Trường Nguyên còn có những sáng tác thơ bằng song ngữ Tày – Việt. Những

bài thơ này chủ yếu nằm trong tập “Tiếng lá rừng gọi đôi”. Cả tập thơ có 123

bài thì có 20 bài ông viết bằng thứ tiếng này. Đó là các bài: Phuối đuổi căn –

Nói với nhau; Tiểng bâư ngản roọng tói - Tiếng lá rừng gọi đôi; Tiểng queng

quỷ roọng -Tiếng động trong đêm; Chài lèo cảng cằm chăn - Anh sẽ phải nói

thật; Roọng slao - Gọi em; Hết pỏ chài - Là đàn ông; Khay cằm lượn noọng

bên slung - Mở câu hát em bay; Mảc tha tình - Mắt có tình; Mầu lồm - Say gió;

Roẳt - Chợt; Chài mà khoăn noọng rèo mà - Mở câu hát em bay; Pắc nỉ - Mắc

nợ; Sài Gòn cầư cụng mì tói- Sài Gòn ai cũng có đôi; Khuổi ngườm Bó Cáy -

Đến suối Mỏ Gà; Noọng đâư cương – Em trong gương; Thua mon mừ rầu –

Đầu gối tay mình; Thuổn pác vằn vạ cừn – Một trăm ngày và đêm; Cần tồn cạ

sloong lầu – Người ta nói chúng mình; Thâng vằn tha lắp pác pi – Đến ngày

khép lại trăm năm.

Như chúng ta đã biết, ngôn ngữ Tày là một thứ ngôn ngữ khá giàu có về

mặt từ vựng, ngữ nghĩa và giàu hình ảnh. Điều đó đã khiến cho lời ăn tiếng nói

của người Tày trở nên phong phú, uyển chuyển và tinh tế. Ngôn ngữ Tày có

khả năng diễn đạt mọi khía cạnh của đời sống vật chất và tinh thần bên cạnh

vốn từ vay mượn từ tiếng Hán và tiếng Việt. Đặc biệt, ngôn ngữ Tày đã đủ khả

năng diễn tả những suy nghĩ, cảm xúc, tình cảm của con người với tất cả sự

phong phú, phức tạp của nó. Bởi thế, tiếng Tày đã trở thành phương tiện gìn

giữ và lưu truyền kho tàng văn học dân gian phong phú bao gồm: truyện thần

thoại, truyện cổ tích, truyền thuyết cùng với vốn thi ca dân gian phong phú bao

gồm cả Trường ca, các bài dân ca trữ tình, thơ ca đám cưới, hát ru, văn cúng

bái... đã được sáng tác từ xa xưa. Nội dung chủ yếu của những câu chuyện cổ,

những bài thơ đó nhằm giải thích vũ trụ, nguồn gốc loài người, nguồn gốc các

dân tộc, đề cao chính nghĩa, ghét gian tà, thể hiện tinh thần đấu tranh anh dũng,

nhằm giải thích các hiện tượng siêu nhiên thần kỳ, chống giặc ngoại xâm, chống

cường quyền ác bá; đấu tranh chống lại hủ tục, ca ngợi tình yêu chung thuỷ,

115

tình cảm lứa đôi, tình nghĩa gia đình và bạn bè…Như nói về tình cảm giữa con

người với con người, người Tày có câu:

Lảc mạy tẩn, lạc gần rì

(Rễ cây ngắn, rễ người dài).

Hay ca ngợi giá trị của con người được các thế hệ ông cha đúc kết lại:

Ngần chèn tang tôm nhả/Tha nả tảy xiên kim

(Tiền bạc như đất cỏ/Danh dự tựa ngàn vàng)

Hoặc khi nói về tình yêu thương cha mẹ dành cho con cái, người Tày có

câu:

Ún bấu quá phầy/Đây bấu quá pỏ, mẻ

(Ấm không gì hơn đống lửa/ Thân thương không gì hơn bố mẹ).

Khi nói về công ơn cha mẹ, người Tày nhấn mạnh:

Khuý mạ khứn keng/Chắng chắc công lèng pỏ mẻ

(Cưỡi ngựa leo đèo/ Mới biết công lao cha mẹ).

Hay khi phản ánh mối quan hệ vợ chồng và cách ứng xử trong gia đình,

người Tày nhận định:

Phua mìa điếp căn/ Mì chin puộn tởi

(Vợ chồng hoà thuận/ No ấm muôn đời).

Mìa đá phua bấu dăng thắc ý/ Phua đá mìa đắc đí hết chin

(Vợ chửi chồng, chồng không nói một lời/ Chồng chửi vợ nín lời

làm ăn)…

Trong đời sống hàng ngày, tiếng Tày nguyên bản là phương tiện giao

tiếp phổ biến của cộng đồng Tày. Đó là ngôn ngữ trong cuộc sống gia đình,

cộng đồng, xã hội, là thứ ngôn ngữ sử dụng trong sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật

dân gian, dân tộc. Đó là những bài hát Sli, hát lượn… với lời lẽ rất hoa mĩ, bay

bổng, tinh tế… diễn tả được thế giới nội tâm với các cung bậc tình cảm phức

tạp của con người… Như câu lượn ngày thanh minh

* Nữ: Thanh minh thật là đẹp/ Cả năm chỉ một lần/Em đợi mong anh

116

tới/Lượn đôi câu lấy mùa”.

* Nam: Hôm nay ngày thanh minh/Nhiều trai gái trẩy hội/ Đi họp chợ

thanh minh/ Ai cũng xinh cũng đẹp…”

Ví như bài hát Sli được sử dụng trong lời hát giao duyên, biểu hiện tình cảm

riêng tư, sâu lắng, sự mong ước được sum vầy đôi lứa của nam nữ thanh niên:

Vằn đeo mại mại nghịa tối lầu

Fạ đã tặp hẩư bấu pền đôi

Dom sle slin slẩy hẩư đây nỏ

Dom căm đây mịac mại quây lí

Bặng pù pài slung cải bặng fả đàm

Dá bặng phèo luây quá nả pây…

Nghĩa là:

Một ngày muôn thuở nghĩa đôi ta

Trời đã xe duyên, chẳng gọi xa

Dành trúc mai cho kỹ nhé

Giữ lời vàng đá thế ru mà

Sao như non ngất xuyên mấy vững

Chớ tựa bèo trôi lướt sang qua……

Hoặc trong bài hát lượn sau:

Tính vuồn tính khát sai tả coóc

Mèng vuồn mèng hăn bioóc dạn tom

Cáy vuồn cáy hăn non dạn khuế

Lủc vuồn lủc hăn mẻ dạn giăng

Nghĩa vuồn nghĩa hăn căn dạn phuối

Có nghĩa:

Đàn tính buồn, đàn tính đứt dây

Ong buồn hoa nở ong bay chẳng vờn

Gà buồn lười bới sâu ăn

117

Con buồn thấy mẹ ngại ngần dạ thưa

Người buồn gặp nghĩa thờ ơ

Lời sao ngại nói biết chờ đợi chi.

Bên cạnh các điệu hát sli, lượn, then thì phong slư là một thể loại hát thơ

mà người Tày rất thích, rất hay sử dụng trong cuộc sống tình cảm của mình. Đó

là những “bức thư tình” được hát lên để gửi trao tình yêu của đôi trai gái Tày.

Phong slư (thơ - thư hát) thường viết theo thể 7 chữ, có khi viết theo từng khổ

4 câu. Phong slư thường mang nội dung trữ tình, lời lẽ bóng bẩy, như là một

cách thức thể hiện tâm hồn, tình cảm của người viết, cũng như của người hát.

Ví dụ như:

Fạ xuân đắc đỉ bứa lai

Căm búp chép slong bài phác nọong

Vằn xuân đắc đỉ nòn chường bjóoc…

Nghĩa là:

Trời xuân vắng vẻ buồn thay

Cầm bút chép đôi bài gửi bạn

Ngày xuân vắng vẻ ngự giường hoa….

Hay bài phong Slư “Đi ngựa” tổ chức bằng thơ 7 chữ:

Nhớ tới bạn tình nghĩa thiết tha

Nhớ bạn đêm ngày rơi nước mắt….

Cùng với phong slư, người Tày còn có một hình thức giao lưu bước đầu

có mang sắc thái thẩm mĩ là phuối pác (còn gọi là phuối rọi), một kiểu nói có

vần trong giao lưu nam - nữ hàng ngày, hoặc trong các sinh hoạt lễ hội của cộng

đồng. Ví dụ, trong ngày xuân hát hội hay trong các buổi đi chợ về, nam thanh,

nữ tú của các làng Tày thường hát vọng cho nhau nghe những câu phuối rọi trữ

tình:

Noọng nàng nủng sửa đăm píc niếng

Mừa họa chài bản Viểng lẻ mừa

Đin bản Viềng au sơ liệng mọn

118

Phải họa sơ riểng ruổm hóm sắc vầy

Có nghĩa:

Áo em mặc màu đen cánh niếng

Vô theo anh bản Viểng thì vô

Quê anh hái lá ươm tơ

Vải tơ chung xếp cho vừa hòm rương.

Tuy không sáng tác nhiều thơ song ngữ như Y Phương, nhưng thơ song

ngữ của Ma Trường Nguyên cũng khá phong phú, sử dụng ngôn ngữ giàu hình

ảnh, giàu chất so sánh hoa mỹ và tinh tế của người Tày để diễn tả các cung bậc

cảm xúc, các trạng thái tình yêu, tình cảm của mình. Bởi thế, thơ ông rất đậm

chất Tày. Bài thơ “Tiểng bâư ngản roọng tói” của Ma Trường Nguyên như một

câu chuyện kể trong những bài phong slư:

Xá lồm tầư pic bang bên pây

Tiểng kèn bâư mạy chài nằn nắt nỉu

Bâư mạy kheo pấu pác chài khíp khẻo

Hợi bâư kheo! Hạy phác cằm quây quây

Eng ỷ nỏ, lẻ eng ỷ nỏ

Nhằng chạu lai mẻ hai slằng tó

Lẻ pỏ mẻ slằng đắc đua nòn

Tọ hết rừ chài dặng thả lai mòn…

Có nghĩa:

Ngọn gió nào mang cánh mỏng bay đi

Tiếng kèn lá anh đang thầm thì dè dặt

Chiếc lá rừng trong môi anh gắn chặt

Nào, kèn lá ơi, hãy phát âm nhanh

Khe khẽ chứ, nào khe khẽ chứ!

Còn sớm mà, vầng trăng vừa nhú

Chắc mẹ cha chưa ngủ say đâu

Nhưng biết làm sao anh đợi em đã lâu…

119

Như đã nói ở trên, cảm hứng chủ đạo trong thơ Ma Trường Nguyên là

về tình yêu đôi lứa. Chính vì thế nên cho dù thơ được viết bằng song ngữ, thì

tình yêu cũng là đề tài được ông quan tâm. Đó là tình yêu trong sáng, trẻ trung,

có khi là sự mãnh liệt, gây ấn tượng rất mạnh, thể hiện cái mãnh liệt của người

đàn ông miền núi:

Hết pò chài slổng muột hâng

Lẻ điếp slương na mắn

Rừ noọng nhằng bấu chăn

Dám kha pây sa cần táng

Tức:

Là đàn ông anh dám sống đến cùng

Và dám yêu đến cùng nữa chứ

Nếu không tin, em còn lưỡng lự

Em cứ việc đi tìm người nào hơn anh

(Hết pò chài - Là đàn ông)

Có khi lại là tiếng gọi tha thiết của người con trai khi người con gái đi xa:

Sláng noọng mà pây rèo tàng đét

Đét dú chang moóc chang mươi

Slắng slao mà pây rèo tàng phân

Phân dú chang khát khấu

Slắng noọng mà pây rèo tàng lồm

Lồm pặt pẻo dú chang lủng chạn…

Có nghĩa:

Anh muốn gọi em bằng đường nắng

Nắng cứ quẩn quanh trong mây mờ

Anh muốn gọi em bằng đường mưa

Mưa cứ lặn chìm trong khô nỏ

Anh muốn gọi em về bằng đường gió

120

Gió cứ uể oải trong thung lũng lười biếng…

(Roọng slao - Gọi em)

Ở đây, nhân vật trữ tình đã tìm đủ mọi phương cách nhưng thiên nhiên

hờ hững vô tình đều từ chối. Có cảm giác “em” đã đi về một miền xa lắc xa lơ

mà gió, nắng, mưa đều không thể giúp.

Có khi là một bài thơ với ngôn từ, hình ảnh khá hóm hỉnh:

… Khỏi chắc cần pền tôi

Điếp căn cáp cần toọc

Roẳt …khỏi cụng ngỉu pác

Ngoảy oóc chủp pù pài.

Có nghĩa:

…Tôi hiểu ra đôi lứa

Yêu nhau hòa làm một

Chợt…vô tình tôi rót

Nụ hôn vào chơi vơi.

(Roẳt - Chợt)

Yêu, mong ước có đôi và được chung đôi, đó là niềm khao khát của bất

cứ ai. Với nhà thơ cũng vậy. Có lẽ thế nên khi thấy người ta yêu nhau, hôn

nhau, nhà thơ đã tự mình đặt “Nụ hôn vào chơi vơi” mà không có người nhận.

Có khi mong ước có đôi từ rất lâu rồi nhưng người con trai lại không dám thổ

lộ. Vậy nên:

Cần tồn cạ xẩư quây

Sloong lầu pền ruyên cáp

Lẻ chài pjom bái táp

Phuối hẩư pỉ toọng ngầư

121

Có nghĩa:

Người ta đồn xa gần

Chúng mình thành duyên lứa

Riêng anh thầm ơn họ

Nói hộ anh ước mong.

(Người ta nói chúng mình)

Ngôn ngữ Tày đậm “chất thơ”. Có lẽ vì thế nên không chỉ Ma Trường

Nguyên, mà nhà thơ Y Phương cũng có những bài thơ song ngữ nói về tình yêu

rất đặc biệt:

Bại gằm slim tầư phuối

Tán mì chài chắc đai

Ngì ngùm gằm nọong gạ

Tán mì chài chắc đai

Tứ nầy nọong dá xam

Điếp căn lai bặng tâừ.

Nghĩa là:

Những gì trái tim nói

Chỉ mình anh biết thôi

Thì thầm lời em gọi

Chỉ mình anh nghe thôi

Từ giờ em đừng hỏi

Yêu nhau nhiều chừng nào

(Dá xam – Đừng hỏi)

Hay khi Y Phương nói về vẻ đẹp của người con gái được ví như vẻ đẹp

của núi rừng với cây và hoa; với thứ rượu men lá vừa thơm, vừa cay, vừa ngọt;

với bếp lửa vừa hồng vừa ấm…Vẻ đẹp ấy chỉ có ở những người con gái ở miền

núi, vùng cao:

Nọong tồng nậu bjooc

Cần tầư dú xảng tó rường

122

Nọong tồng coong lẩu

Cần tầư dú xảng tó mầu

Nọong tống coong fầy

Cần tầư dú xảng tó.

Nghĩa là:

Em như cây hoa

Ai gần em cũng đẹp

Em như chum rượu

Ai gần em cũng say

Em như bếp lửa

Ai gần em cũng ấm...

(Xảng bjooc - Gần hoa).

Yêu thiên nhiên nên với Ma Trường Nguyên, dù là cảnh đẹp quê hương

hay nơi mình đến đều được ông vẽ lên trong thơ, mà cả ở thơ song ngữ:

Mừa khuổi ngườm Bó Cáy

Nặm luây oóc făn făn

Nằn moòng tỉ phja slẩy

Đán pài mủng đét phân…

Tức:

Hang suối nước Mỏ Gà

Trải ra làn lụa trắng

Từ lòng núi ngân nga

Suối reo cùng mưa nắng…

(Khuổi ngườm Bó Cáy – Đến suối Mỏ Gà)

Cũng có khi là vẻ đẹp của phố thị nơi ông qua, tuy không nhiều. Đó là

khung cảnh của phố xá đông đúc, nhộn nhịp:

Sài Gòn hợi! Dòm lai

Vận van lừ van lứ

Ngợ lăng cụng quá độ

Vận từ tổn đây quai

123

Có nghĩa:

Sài Gòn ơi, nhìn lâu

Nét thị thành đẹp lắm

Cái mặn mà cường tráng

Trong dáng dấp rộn ràng…

(Một trăm ngày và đêm)

Nhà thơ còn mượn thiên nhiên để gửi gắm tình cảm của mình trong đó:

Phân hợi ! Dá phân táp

Pjại nẩy noọng rằm sôm

Lồm hợi ! Lồm dá pặt

Tốc noọng đảng xom cần…

Có nghĩa:

Mưa ơi, đừng nặng hạt

Làm ướt em chiều nay

Gió ơi, gió đừng thốc

Vào người em lạnh gầy…

(Phân hợi ! dá phân táp - Mưa ơi đừng mưa nữa)

Gửi vào mưa, gửi vào gió tình yêu thương và nỗi lo lắng cho người mình

yêu. Điều này cũng được Ma Trường Nguyên nói đến trong bài Mầu lồm - Say

gió:

Chài pín xá lồm

Pjói kèng xu noọng

Lồm pặt lồm dạ củng

Cằm chài phác noọng a…

Có nghĩa:

Anh vít ngọn gió

Thả vào tay em một lời

Gió có bay gió đã nói rồi

Lời anh muốn nói…

(Ma Trường Nguyên)

124

Với Ma Trường Nguyên, một con người giàu tình cảm, chân thật, nên

khi đi xa, dù đó là chốn phồn hoa đô thị vốn ồn ã, nhưng ông vẫn có cảm giác

nhớ và cô đơn khi ở một ḿnh:

Chang Sài Gòn cần mì tói lẹo

Mỉnh hây bấu chắc lỉn cần rừ

….

Mỉnh khỏi slằng ón ké páy thâng

Mừ hây tẻo căm mừ hây puồn quẹng

Lặc hăn chang slẩy lầu voáng voáng

Dặng tẩư tén đăm kha pác phăng.

Có nghĩa:

Sài Gòn ai cũng có đôi

Riêng mình tôi chỉ lẻ loi một mình

Riêng tôi không trẻ chưa già

Tay mình lại nắm tay ta bất ngờ

Nao lòng chạnh thấy ngẩn ngơ

Một mình đứng giữa bóng mờ điện soi.

(Sài Gòn cầu cụng mì tói - Sài Gòn ai cũng có đôi)

Là người con đích thực của cộng đồng Tày, nhận thức được việc “Sáng

tác thơ bằng tiếng dân tộc là rất cần thiết. Đó cũng là một cách tốt nhất để góp

phần bảo tồn văn hóa và chữ viết” [16], cũng giống như một số nhà thơ dân

tộc thiểu số khác, Ma Trường Nguyên đã chủ trương sáng tác thơ bằng ngôn

ngữ mẹ đẻ. Với việc đưa ngôn ngữ ấy vào trong thơ đã giúp cho Ma Trường

Nguyên không chỉ đem thơ của mình đến những độc giả biết chữ Quốc Ngữ mà

cả những người dân tộc Tày chỉ biết tiếng Tày, không biết tiếng Quốc Ngữ vẫn

có thể đọc được, cảm thụ được. Từ đó mà tác phẩm của ông được truyền bá

rộng hơn, có nhiều người biết hơn đồng thời cũng góp phần làm cho đời sống

125

tinh thần cũng như dân trí của người Tày ngày càng cao hơn. Việc dùng tiếng

Tày vào trong sáng tác thơ ca cùng giúp cho tiếng Tày được bảo lưu theo năm

tháng, không bị mai một đi.

* Tiểu kết

Có thể thấy, nhà thơ Ma Trường Nguyên đã biết cách tìm kiếm chất thơ

ngay trong cuộc sống đời thường. Đọc những trang thơ của ông ta thấy hình

ảnh con người, thiên nhiên miền núi vùng cao được hiện lên giản dị, mộc mạc,

chân thành, gần gũi và sinh động như chính cuộc sống của những con người

vùng cao. Bằng tình yêu đối với quê hương núi rừng, bằng sự trân trọng những

nét đẹp mang tính truyền thống trong văn hóa của dân tộc mình, bằng tâm hồn

đa cảm, thông qua hình ảnh, ngôn ngữ dưới ngòi bút tinh tế, tài ba của mình,

nhà thơ đã thể hiện thành công những cảm hứng về quê hương nguồn cội, về

tình yêu đôi lứa, về trải nghiệm và những suy tư với cuộc đời. Bên cạnh đó, với

những bài thơ song ngữ viết bằng ngôn ngữ Tày- Việt đã làm cho những nét

đặc trưng trong văn hóa của dân tộc Tày đến với nhiều người hơn, góp phần

gìn giữ và bảo tồn văn hóa dân tộc.

126

PHẦN KẾT LUẬN

1. Thơ ca dân tộc thiểu số là một bộ phận quan trọng trong nền thơ ca

Việt Nam hiện đại. Những sáng tác của các tác giả người dân tộc thiểu số đã

góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng, với những mảng màu sắc riêng biệt

cho nền thơ ca dân tộc. Trong vườn hoa đầy hương sắc ấy, Ma Trường Nguyên

nổi lên là một nhà thơ Tày với các tác phẩm thơ hay, hấp dẫn người đọc. 6 tập

thơ, trường ca, trong đó có cả thơ song ngữ là một điều khá thành công mà

không phải nhà thơ nào cũng có được.

2. Trong quá trình sáng tác, Ma Trường Nguyên đã xây dựng tác phẩm

của mình từ nền tảng truyền thống văn hoá dân tộc, từ sự kế thừa và chắt lọc

những tinh hoa truyền thống của văn học dân tộc mang tính vùng miền. Trong

các tác phẩm thơ của mình, Ma Trường Nguyên thể hiện hết sức cụ thể, sinh

động những nét bản sắc văn hoá của dân tộc Tày, từ hình ảnh quê hương đến

con người nơi núi rừng Việt Bắc. Đọc thơ ông, ta nhận thấy rất rõ cách cảm,

cách nghĩ, cách thể hiện của người miền núi.

Trong thơ Ma Trường Nguyên, hình ảnh quê hương được hiện lên qua

khung cảnh thiên nhiên của núi rừng Việt Bắc. Đó là quê hương với những nếp

nhà sàn chon von bên núi, là thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ mà thơ mộng. Những

hình ảnh ấy được vẽ lên từ sự giao cảm, gắn bó, hòa nhập giữa con người với

thiên nhiên nơi núi rừng.

Ma Trường Nguyên còn viết về những con người Việt Bắc, những con

người Tày với một tình cảm thiết tha, gần gũi. Họ là những con người chất

phác, tần tảo mà giàu tình cảm. Và đặc biệt, đó còn là hình ảnh những chàng

trai, cô gái Tày khỏe mạnh, tràn đầy sức sống, chân thật, tình cảm. Trong tình

yêu họ là người chân thành, thắm thiết, thủy chung và say đắm. Họ bộc lộ tình

yêu “đậm chất núi rừng”, rất hồn nhiên, nồng nàn, thuần khiết nhưng cực kỳ

mạnh mẽ.

3. Ma Trường Nguyên luôn tự hào về những phong tục, tập quán đẹp

127

trong cộng đồng Tày. Những nét đẹp của phong tục, tập quán trong cuộc sống

ngày thường cũng như sinh hoạt ngày lễ, tết đã đi vào thơ Ma Trường Nguyên

với những hình ảnh phong phú, sinh động, cụ thể. Nhà thơ đã gửi gắm vào đó

niềm tự hào về đời sống tinh thần giàu có, ấm áp nghĩa tình của những con

người xứ núi. Đó là các lễ hội, các trò chơi dân gian, là trang phục, cùng những

phong tục tập quán đẹp trong quan hệ gia đình, người thân, bạn bè và trong

tình yêu lứa đôi. Tất cả những nét đẹp văn hóa đó đã là nguồn cảm hứng đi

vào các sáng tác của nhà thơ một cách tự nhiên, chân thực mà sâu sắc.

4. Đặc biệt, thơ Ma Trường Nguyên mang đậm bản sắc Tày còn ở cách

diễn đạt, sử dụng ngôn ngữ thơ theo lối mộc mạc, giản dị, dễ hiểu giống như

cách nghĩ, cách cảm của người Tày. Hình ảnh trong thơ hết sức dung dị, mang

hơi thở của cuộc sống miền núi, trong đó có những hình ảnh mang tính biểu

tượng cao như: nhà sàn, núi, sông, trăng, hoa…

Một đóng góp nữa của ông và cũng là điểm khác biệt rõ nét so với các

nhà thơ dân tộc của Thái Nguyên là ông đã sử dụng song song hai loại ngôn

ngữ Tày và Việt trong sáng tác của mình. Qua khảo sát và phân tích chúng ta

thấy, thơ song ngữ của Ma Trường Nguyên chưa nhiều, chỉ có 20/233 bài ở tập

thơ “Tiếng lá rừng gọi đôi”, nhưng thật sự là một thứ thơ mang đậm bản sắc

Tày, khá giàu có về từ vựng, ngữ nghĩa và hình ảnh. Ngôn ngữ Tày có khả năng

diễn đạt mọi khía cạnh của đời sống vật chất và tinh thần bên cạnh vốn từ vay

mượn từ tiếng Hán và tiếng Việt, đủ khả năng diễn tả những suy nghĩ, cảm xúc,

tình cảm của con người với tất cả sự phong phú, phức tạp của nó. Bên cạnh đó,

nhà thơ đã vận dụng một cách linh hoạt và hiệu quả các vốn tục ngữ, thành ngữ,

dân ca Tày vào trong các sáng tác thơ của mình. Điều này đã giúp cho các tác

phẩm ấy mang đậm nét văn hóa vùng miền, để lại ấn tượng cho độc giả.

5. Qua quá trình tìm hiểu ta có thể khẳng định, nhà thơ Ma Trường

Nguyên là một trong những tác giả người dân tộc thiểu số có nhiều suy nghĩ,

128

trăn trở trong sáng tác văn chương. Điều đó thể hiện sự ý thức sâu sắc của ông

- một tri thức Tày, một người luôn tự hào về các giá trị văn hóa Tày… trong

công việc sáng tác của mình. Không chỉ có những đóng góp đáng trân trọng

vào sự phát triển của nền thơ ca dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, mà ông

còn góp phần bảo tồn, lưu giữ và phát huy nền văn hoá đặc sắc của dân tộc Tày

trong đời sống văn hoá Việt Nam.

Chúng tôi mong muốn, qua công trình nghiên cứu nhỏ bé này sẽ làm nổi

bật một số đặc điểm về nội dung cũng như một số phương diện nghệ thuật trong

thơ Ma Trường Nguyên. Chúng tôi cũng hy vọng trong thời gian tới sẽ có nhiều

bài viết, nhiều công trình nghiên cứu hơn nữa để có những đánh giá mới mẻ về

nhà thơ dân tộc thiểu số này./.

129

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (2011), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa - Thông

tin, HN.

2. Vũ Tuấn Anh (1997), Nửa thế kỷ thơ Việt Nam 1945- 1975, Nxb Khoa

học xã hội.

3. Nguyễn Duy Bắc (1998), Bản sắc dân tộc trong thơ ca Việt Nam hiện đại,

(1945- 1975), Nxb Văn hóa dân tộc, HN.

4. Nguyễn Phan Cảnh (2001), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn hóa- Thông tin, HN.

5. Nông Quốc Chấn (1996), “Nghĩ về bản sắc dân tộc trong thơ”, Tạp chí

Văn học, tháng 9/1996.

6. Đỗ Hữu Châu(1998), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb Gíao dục, HN.

7. Hoàng Minh Châu (1990), Bàn về thơ, Nxb Văn học, HN.

8. Hữu Đạt (1993), Ngôn ngữ thơ ca Việt Nam, Viện HLKH Nga, Viện ngôn

ngữ học, Mockva. 243 tr (bản bằng tiếng Việt và tiếng Nga)

9. Phan Cự Đệ (2005), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Gíao dục, HN.

10. Nguyễn Đăng Điệp (2014), Thơ Việt Nam hiện đại - Tiến trình & Hiện

tượng, Nxb Văn học.

11. Hà Minh Đức (2003), Lý luận văn học, phần 1, Nxb Giáo dục, HN.

12. Hà Minh Đức (2004), Văn chương, tài năng và phong cách, Nxb Đại học

Quốc gia, HN.

13. Hồ Thủy Giang (2012), “Văn chương hiện đại, hậu hiện đại dưới góc nhìn

của một ngýời sáng tác”, Báo Văn nghệ Thái Nguyên số 30 (470) ra ngày

20/10/2012.

14. Hồ Thủy Giang (2010), Thái Nguyên một dòng chảy văn chương, Nxb Hội

nhà văn.

15. Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết (1997),

Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo Dục, HN.

16. Nguyễn Xuân Hải, “ Nhà thơ Y Phương: "Tự biết mình như chén nước”"

http://antg.cand.com.vn/2.

130

17. Dương Quảng Hàm (2005), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Trẻ, HN.

18. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển thuật ngữ

văn học, Nxb Giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh.

19. Nguyễn Đức Hạnh (chủ biên), 2015, Văn học địa phương miền núi phía

Bắc, Nxb Đại học Thái Nguyên.

20. Đỗ Việt Hùng (2011), Giáo trình từ vựng học, Nxb Giáo dục Việt Nam, HN.

21. Lục Văn Pảo sưu tầm - phiên âm - dịch (1994), Lượn cọi, Nxb Văn hóa

dân tộc, HN.

22. Phương Lựu (1996) (chủ biên), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.

23. M.Gorki (1970), Nói chuyện với nhà văn trẻ. Trong tập Gorki bàn về văn

học, Nxb Văn học, HN.

24. Hội nhà văn Việt Nam (1997), Nhà văn Việt Nam hiện đại, Nxb Hội Nhà

văn Việt Nam, HN.

25. Phan Ngọc (1991), “Thơ là gì?” Tạp chí văn học, (1), tr.18-24.

26. Phan Ngọc (1998), Bản sắc Văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin,

HN.

27. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức, 2003, Thơ ca Việt Nam hình thức và thể

loại, Nxb Đại Học Quốc Gia, HN.

28. Ma Trường Nguyên (1983), Mát xanh rừng cọ, Sở Văn hóa - Thông tin,

Bắc Thái.

29. Ma Trường Nguyên (1985), Trái tim không ngủ, Hội Văn nghệ Bắc Thái.

30. Ma Trường Nguyên (1991), Mũi tên ám khói, Nxb Văn hóa dân tộc.

31. Ma Trường Nguyên (1992), Gió hoang, Nxb Thanh niên.

32. Ma Trường Nguyên (1993), Tình xứ mây, Hội văn học nghệ thuật Bắc Thái.

33. Ma Trường Nguyên (1993), Trăng yêu, Hội văn học nghệ thuật Bắc Thái.

34. Ma Trường Nguyên (1995), Bến đời, Nxb. Văn hóa dân tộc.

35. Ma Trường Nguyên (1996), Rễ người dài, Nxb. Văn hóa dân tộc.

36. Ma Trường Nguyên (1996), Tiếng lá rừng gọi đôi, Nxb Văn hóa dân tộc.

131

37. Ma Trường Nguyên (1998), Mùa hoa hải đường, Nxb. Văn hóa dân tộc.

38. Ma Trường Nguyên (2005), Câu hát vắt qua vai, Hội Văn nghệ Thái Nguyên.

39. Ma Trường Nguyên (2006), Cây nêu, Nxb Hội nhà văn.

40. Ma Trường Nguyên (2007), Bắc cầu vồng thăm nhau, Nxb Hội nhà văn.

41. Ma Trường Nguyên (2010), Hiện đại mà dân tộc (Tập tiểu luận), Nxb Văn

hóa dân tộc.

42. Ma Trường Nguyên (2011), Trên cánh đồng chữa nghĩa (Tập tiểu luận),

Nxb Đại học Thái Nguyên.

43. Ma Trường Nguyên (2011), Mở núi, Nxb Hội Nhà văn.

44. Ma Trường Nguyên (2012), Phượng hoàng núi, Nxb Đại học Thái Nguyên.

45. Octavio Paz (1998), Thơ văn và tiểu luận, Nxb Đà Nẵng.

46. Hoàng Phê (chủ biên), (1988), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, HN.

47. Y Phương (1996), Đàn then, Nxb Hội nhà văn.

48. Sở Giáo dục và Đào tạo Thái Nguyên (2008), Văn học Thái Nguyên, Công

ty cổ phần in Thái Nguyên.

49. Lò Ngân Sủn (1999), Người đẹp, Nxb Văn hoá dân tộc.

50. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục.

51. Trần Đình Sử (2005), “Giáo trình Lý luận văn học”, Nxb Đại học

Sư Phạm, HN.

52. Tạ Văn Sỹ (2008), “Võ Sa Hà nặng lòng quê núi”, trang báo điện tử 360

plus, ngày 13/07/2008.

53. Phạm Thị Phương Thái (Chủ biên) (2014), Sắc diện văn hóa dân tộc thiểu

số vùng núi phía Bắc, Nxb Gíao dục.

54. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục.

55. Trần Ngọc Thêm (2004), Tìm hiểu về bản sắc văn hóa Việt Nam,

Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

56. Nguyễn Đức Thiện (2006), "Một chút tình si trong thơ Ma Trường

Nguyên", trang Văn học và Nghệ thuật, số ra ngày 21/5/2006.

132

57. Thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX (2000), Nxb Văn hoá dân

tộc.

58. Dương Thuấn (2005), Thơ Dương Thuấn, Nxb Kim Đồng.

59. Lâm Tiến (1995), Văn học các dân tộc Việt Nam hiện đại, Nxb Văn hoá

dân tộc.

60. Trần Thị Việt Trung - Cao Thị Hảo (2011), Văn học dân tộc thiểu số Việt

Nam thời kì hiện đại - Một số đặc điểm, Nxb Đại học Thái Nguyên.

61. Trần Thị Việt Trung (chủ biên) (2010), Bản sắc dân tộc trong thơ các dân

tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học Thái Nguyên.

62. Tuyển tập thơ văn Thái Nguyên (1990- 2000)- Hội VHNT Thái Nguyên- 2000.

63. Tuyển tập thơ Thái Nguyên (2001- 2006)- Hội VHNT Thái Nguyên - 2007.

64. Tuyển tập văn học các dân tộc thiểu số (Sau Cách mạng tháng 8) (1995),

Nxb Văn học.

65. Tuyển tập thơ văn Thái Nguyên (2000) - Hội VHNT Thái Nguyên.

66. Tuyển tập thơ Thái Nguyên (2007) - Hội VHNT Thái Nguyên.

67. Nguyễn Như Ý, chủ biên; Hà Quang Năng, Đỗ Việt Hùng, Đặng Ngọc Lệ

(1997), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, HN.

PHỤ LỤC

Bảng 3.1: Số lần xuất hiện hình ảnh Nhà sàn trong thơ Ma Trường Nguyên

qua các tập thơ

Câu thơ

Bài thơ

STT

Tập thơ

Số lần xuất hiện

- Dắt lên cầu thang vào

1

1 Câu hát vắt qua vai

- Tiền em mừng tuổi xuân

nhà sàn chơi

3

2 Mở núi

- Qủa còn gieo dậy lửa - Mở núi - Vùng cao

- Lên cầu thang nhà sàn - Đỉnh Pú Cáy nhọn nóc nhà sàn - Chông chênh nhà gác nép chìm trong mây - Trên bản nhà sàn dựng vút trước sân

2

3 Cây nêu

- Cây nêu - Bên nhau như sông núi

- Ấm áp bên nhà sàn

- Nếp nhà sàn Châu Đốc

1

4 Tiếng lá rừng gọi đôi

- Nếp nhà sàn bịn rịn

Bảng 3.2: Số lần xuất hiện hình ảnh Trăng trong thơ Ma Trường Nguyên

qua các tập thơ

STT

Tập thơ

Câu thơ

Bài thơ

Số lần xuất hiện

1 Câu hát vắt qua vai

4

2

5

Bắc cầu vồng thăm nhau

- Ngõ phố xuân - Mùa xuân cùng hẹn Thần Sa - Đêm nguyên tiêu tìm em. - Ngày sinh em đến - Trăng cuối tháng - Ngõ dân ca - Tiếng hát dòng sông - Làn trăng - Điệu xòe Bản Tông

- Cánh hoa thở làn trăng - Như còn có cả ánh trăng nghiêng - Rằm xuân trăng vẫn sáng. - Mặc cho trăng khuyết trăng tròn…. - Trăng cuối tháng cứ mòn dần… - Như ánh trăng tan vào mái rạ - Vầng trăng tròn sóng sánh - Trăng soi đỉnh trời - Ánh trăng ngạt ngào mặt đất - Gửi vào trăng giữa trời

- Mắt trăng mọc

6

3 Mở núi

4 Trái tim không ngủ

2

- Mở núi - Con về quê núi - Đêm sông Hương - Người thân - Biệt nhau về - Trăm năm đợi chờ - Nửa quả sung chát

5 Tiếng lá rừng gọi đôi

17

- Nói với nhau - Vầng trăng thảo nguyên - Tiếng lá rừng gọi đôi - Anh sẽ phải nói thật - Một mình với thuyền độc mộc. - Hồ Kỳ Hòa - Nũng nịu thời trẻ con - Măc nợ - Gặp em bán gầu - Hoa tím - Ngôi nhà bị dỡ - Đón trăng rằm ở hai miền - Trăng ngọt ngào - Đến ngày khép lại trăm năm - Em là riêng anh cùng mưa nắng - Chén rượu em mời - Đêm thiên thần

- Đẹp mối tình sáng đỉnh núi gương trăng - Đục đây bố chạm trăng tròn - Trăng sáng tỏa đầy dòng - Đêm đêm dưới ánh trăng ngời - Trăng vượt đồi lên cao - Ngửa mặt ngóng trăng đỉnh núi - Gốc sung trăng sáng rất gần - Nói với ánh trăng chơi vơi - Trăng xòa láng trên đồng cỏ - Vầng trăng đã vượt qua đỉnh núi… - Vầng trăng sắp tà - Bồng bềnh trăng nước bồng bềnh - Chiếc hồ như một mảnh trăng - Ông trăng lại bảo chị Hằng trên cao - Như trăng nợ mặt trời - Dưới trăng giữa tháng lên cao - Dỡn trong đêm trăng buông - Dưới đường trăng chụm bao đầu ái ân - Mặt hồ trăng sáng thiết tha - Một vầng trăng ngiêng ngiêng - Đếm rằm đến tháng tròn trăng - Em đón nắng ra đi đón trăng về lộng lẫy. - Vầng trăng đắm giữa - Chỉ biết đêm nay trăng tràn ngập mặt đất đầy xuân.

Bảng 3.3: Số lần xuất hiện hình ảnh Núi trong thơ Ma Trường Nguyên

qua các tập thơ

Câu thơ

Bài thơ

STT Tập thơ

Số lần xuất hiện

- Câu hát vướng vào núi chiều - Em ra đầu núi đón - Con về đường núi đèo De - Một vùng sông núi sương

1 Câu hát vắt qua vai

6

pha

2

4

Bắc cầu vồng thăm nhau

3 Mở núi

14

- Câu hát vắt qua vai - Mặt suối - Mùa xuân trên đèo De - Mùa xuân hẹn cùng Thần Sa - Dáng núi anh hùng - Hà Nội trong nhịp đạp chân con. - Người ta bảo - Tuyết - Anh vùng ra ngõ - Nói chuyện với con qua điện thoại - Qủa còn gieo lửa dậy - Mở núi - Quê tôi xóm Đồng Chẩn - Con suối của đất rừng - Mẹ về trời tận nước cùng - Nhớ người anh họ - Con về quê núi - Vùng cao - Sóng mặn - Người thân - Ngủ rừng - Biệt nhau về - Nhà điêu khắc

4 Trái tim không ngủ

3

- Trăm năm đợi chờ - Ưng nhau rồi đấy - Xuống núi cùng chơi chợ

5 Tiếng lá rừng gọi đôi

9

- Mây xô núi Đuổm chon von - Cái chết giặc gieo rung dập núi đồi - Đừng có núi này đồi khác - Em là tuyết long lanh núi - Mây bay lên núi - Lại xa cách muôn trùng sông núi - Cây còn chạm chóp núi - Chóp núi cao trụ đứng hai vai - Bóng núi Hồng xanh in -Mọc hoa rặng núi đồi - Núi buồn mây quấn khăn tang - Anh đi khuất núi non này - Con về quê núi con thèm con ham - Vùng cao núi bọc mây trời - Yêu núi hay biển sâu - Những mùa xuân đi qua núi đồi - Tiếng chim gọi sáng núi đồi bình minh - Em biệt về cuối núi - Khắp núi trẻ đồi già lang thang - Ngọn núi chắn mặt cao hơn - Anh hóng nhìn lên đỉnh núi - Xuống núi cùng chơi chợ - Tắm núi đồi phập phồng đất thở

- Tiếng lá rừng gọi đôi

- Cả trời mây núi sông - Nắng đi và núi đứng - Tôi bay dọc núi sông - Từ lòng núi ngân nga - Như lăn lóc đá sập hòn núi

cao

- Nụ xanh chúm chím - Hoàng hôn rơi - Đôi cánh mùa xuân - Đến suối Mỏ Gà - Chợt nghe các cụ yêu nhau - Trưa đèo Ngang - Đèo Hải Vân - Gọi gió trở về

6 Cây nêu

10

- Cây nêu - Bên nhau như sông núi - Tiếng hát mặt trời mọc - Một trăm năm, thưa Bác - Ngôi sao lạ - Đợi em từ thung núi - Đứng trên Vạn lý trường thành - Gặp sông Cầu trên

Bắc Kạn

- Thấy sóng biển tràn âu yếm núi - Nơi gặp núi và biển - Quyện trong gió núi sông - Mùa xuân đã về dưới đồng trên núi - Núi khát gặp suối lành - Nhấp nhô núi đợi rừng chờ - Hái một bông hoa núi - Chóp đỉnh núi trên làn mây xốp nổi - Đứng đợi em thung núi sâu - Nhấp nhô đỉnh núi uốn quanh điệp trùng. - Chắp đôi cánh vươn hai bờ núi vượt - Mặt trời chiếu rưng rưng chưa muốn về sau núi. - Đường núi chiều em đi.

- Anh kịp về trảy hội Xuân Dương - Em về theo suối lũ

Bảng 3.4: Số lần xuất hiện hình ảnh Sông trong thơ Ma Trường Nguyên

qua các tập thơ

STT

Tập thơ

Câu thơ

Bài thơ

Số lần xuất hiện

- Ngọn nguồn sông - suối

hiền hòa

- Mùa xuân cùng hẹn Thần Sa - Dáng núi anh hùng - Mình tôi không thể

- Mặt sông Cầu sóng tụ

nhanh

1 Câu hát vắt qua vai

3

- Con sông có thác nước

trào

2

8

Bắc cầu vồng thăm nhau

- Màu hoa soi tìm - Bên sông bóng ám - Tiếng hát dòng sông - Tàn yêu - Làn tóc xõa - Em cứ đến và em đừng có đến - Du thuyền trên sông Hương - Nói chuyện với con qua điện thoại.

- Em đắm nhìn sông trong - Bóng em ám bên sông - Những mùa hoa ven sông - Tình nồng cháy đổ sông sâu lạnh lùng. - Cuộn sôi đáy ruột lòng sông - Dòng sông dâng lên âu yếm bãi bờ. - Du thuyền trên sông Hương - Lại xa cách muôn trùng sông núi - Ôi non sông tươi sáng lạ

thường

3 Mở núi

4

- Kết nạp Đảng trên quê hương Đinh Bộ Lĩnh - Đêm sông Hương - Cái mành chắn gió - Chuyện quanh gốc cây sưa tạc tượng

- Tròng trành sông Hương mát - Vọng lời em lọt mơ màng dòng sông - Ta đứng đây trước sông rộng trời xanh - Bên em dòng sông có nghe ? - Cả trời mây núi sông - Khách đợi phà sang sông - Nhìn quanh: sông, nước, đất, trời - Tôi đi dọc núi sông - Mải vui sông nước lãng

quên đường về

4 Tiếng lá rừng gọi đôi

14

- Điệp khúc tiếng chim xuân - Nụ xanh chúm chím - Trái ngọt bến Hậu Giang - Nụ cười An Giang - Đôi cánh mùa xuân - Gặp nàng công chúa tên mình. - Chào Hậu Giang - Bến lúa Tiền Giang - Đến với sông Vàm Cỏ - Một trăm ngày và đêm - Sông Bến Hải - Qua Huế

- Gọi gió trở về - Theo câu hát em tìm

- Tóc vương dòng sông trong - Tiền Giang thuyền chở lúa về đầy sông - Con sông Vàm Cỏ nhớ mong hẹn chờ - Những dòng sông êm trôi - Một con sông máu và nước mắt - Bước đi trên nhịp Tràng Tiền, sông Hương - Quyện trong gió núi sông Cầu - Bờ sông Hương nắng vỗ

5 Cây nêu

6

- Làm chủ non sông độc lập tự do - Bên nhau như sông núi - Sông núi còn vọng lời - Anh ngẩn ngơ nhìn sông Hoàng Phố nắng chiều buông. - Cô gái nói lời sông muốn nói - Dòng sông ta gặp nhau

- Cây nêu - Bên nhau như sông núi - Một trăm năm, thưa Bác! - Bến Thượng Hải - Gặp sông Cầu trên Bắc Kạn - Bài hát không có tuổi

Bảng 3.5: Số lần xuất hiện hình ảnh Hoa trong thơ Ma Trường Nguyên

qua các tập thơ

STT

Tập thơ

Câu thơ

Bài thơ

Số lần xuất hiện

- Ba ngày tết tháng Giêng - Ngõ phố xuân - Dưới tán hoa trạng nguyên - Mùa xuân cùng hẹn Thần Sa - Dâng hoa trước

1 Câu hát vắt qua vai

9

tượng đài

- Một ngày cho em

- Nhớ em bên hoa đào - Nghiêng nghiêng bên hoa đào. - Hoa trạng nguyên đỏ chói - Lung linh in sắc trăm hoa rực hồng - Chúng tôi từ Việt Nam đến dâng những bó hoa - Mùa hoa bỗng ngát - Anh nghe lòng hoa nở - Ngọt ngào bỗng đóa quỳnh hoa - Mùa xuân hẹn với hoa đào ?

2

8

Bắc cầu vồng thăm nhau

- Sáng anh tập thể dục - Ngày sinh em đến - Mùa xuân trải thảm đợi em - Màu hoa soi tìm - Chủ nhật - Tiếng hát dòng sông - Đứng nghiêm chào Bác lại lên đường. - Tìm về thời hoa dại - Tuyết - Màu hoa tím Nam Ninh - Tự tình dưới vầng sao

- Màu hoa tung ánh lửa - Mang hương hoa xao xuyến - Những mùa hoa ven sông - Đầm hoa sen nở tre nghiêng ngọn chào - Nhớ em bông hoa rừng xanh - Lúc cười như nụ như hoa - Cánh hoa cài tóc vô tình - Họ đang tự tình trên mặt đất đầy hoa

3 Mở núi

12

- Anh ra đi - Đồi chè xanh mây trắng - Con suối của đất rừng - Tiễn chị về - Con về quê núi - Người thân - Cái mành chắn gió - Hoa đào và thi sĩ - Sao em chọn tôi đến “bắt” - Sắc vàng hoa Hồ Điệp - Nguồn gốc loài ve - Chuyện quanh gốc cây sưa tạc tượng.

- Vầng trăng thảo nguyên - Điệp khúc tiếng chim xuân - Say gió

- Sài Gòn ai cũng có

đôi

4 Tiếng lá rừng gọi đôi

26

- Gặp lại tuổi xuân em - Hoa tươi màu đỏ - Lời tình - Lá nụ - Đôi cánh mùa xuân - Hoa tím - Hoa hãy ở nhà nhé - Hoa súng đỏ

- Hoa mận đào nở rộ đón chào xuân - Hoa chè trắng lóa một màu - Mọc hoa rạng núi đồi - Ngắt hoa dại dọc đường tặng chị - Lấy hoa làm bạn mải màng quên ăn - Đến với hoa lại gặp người. - Cho bàn hoa thắm nở bừng rung rinh - Ngẩn ngơ hoa đào nở - Đầu tôi hoa lau trở gió - Hoa rủ buồn cánh úa - Như loài cây trổ đóa hoa - Lại nở hoa dâng không gian hương sắc - Vũ trụ đóa hoa kỳ ảo - Mùa xuân đồng nghĩa mùa hoa - Gió ơi, gió vào rừng với mùa hoa đang rực - Áo quần xúng xính cùng ngồi vườn hoa - Còn non tơ trong sắc hoa sắc nụ - Hoa cứ tươi và đỏ - Như hoa tự nhiên nở - Nụ cười bông hoa mới - Là Đà Lạt hoa nở - Cành hoa xưa thưa lá hoa vơi - Hoa cứ trong ngần thở - Hoa súng đỏ điểm bồng bềnh đồng nước - Dậy mùa hoa mùa nụ - Giữa vườn xuân sớm ngọt ngào đầy hoa - Cánh hoa rừng vương khẽ - Nụ hôn làm bông hoa - Dẫu hoa rừng đang nở - Hoa đỏ vào hôm mai - Mùa hoa xoan tím rụng - Có một bông hoa để thắp - Nghe màu trong cánh hoa tàn

- Một trăm ngày và đêm - Xuân sớm ở công viên Tao Đàn - Đến suối Mỏ Gà - Bài hát của người - Em sẽ nói gì đây - Sau mùa hoa gạo - Chiều tím hoa xoan - Nụ cười ướm thử

- Có cả hoa tươi ánh ngời sắc lá - Mùa hoa đã thắm tươi - Chỉ có hoa của ong - Làm bông hoa biểu hiện - Hoa đẹp hồ trong êm ái

5 Cây nêu

17

- Tiếng chiều - Phút lặng im - Tiếng chim Queng Qúy - Hoa hạnh phúc - Hoa san hô - Tuổi trẻ ở công viên Gorky - Bên nhau như sông núi - Tiếng hát mặt trời mọc - Như mùa thu cùng đến - Một trăm năm, thưa Bác! - Lối xuân - Vườn xuân - Rừng và em - Hoa trước ngày mới mọc - Em như mùa xuân - Mùa xuân đâu rồi em ? - Bốn bài thơ hoa - Em với Thác Giềng

- Anh kịp về trảy hội Xuân Dương - Em về theo suối lũ

- Dưới mùa xuân hoa trái - Hoa trên rừng nhờ má em khoa sắc - Hoa nở nguyên độ dồn hương thắm - Hái một bông hoa núi - Dẫu hoa đua nở thắm cành từ lâu - Trong nụ hoa ấp cánh - Màu hoa lẫn môi cười - Hương hoa dâng quấn quít - Em như là mùa hoa - Hoa lao xao đọng mật vào làm quả - Giật mình hoa mọc tít tầng cao - Khát khao hái một bông hoa ké - Hay tình em quyến luyến nở thành hoa - Hoa không xa mà cũng chẳng gần - Em ở giữa – Và hoa - Bướm rờn hoa quyến nụ

môi xinh

- Hoa rừng vương má đỏ

6 Trái tim không ngủ

7

- Hoa sớm - Câu nói kết trái - Khi yêu nhau thật em à - Nụ cười cô gái lạ - Ngỏ lời với bóng em - Giặt áo cho em

- Hoa nở hoa cứ nở - Cây nở hoa hương ngát - Em vào rừng hái bông hoa thơm - Dẫu biết cô không trao tôi hoa ấy - Nụ cười tươi đóa hoa xinh - Hoa ngâu trên áo dịu hiền