ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------------------
VŨ TIẾN THÀNH
VẤN ĐỀ GAME ONLINE ĐƢỢC PHẢN ÁNH TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Báo chí học Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Thị Minh Thái
Hà Nội - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------------------
VŨ TIẾN THÀNH
VẤN ĐỀ GAME ONLINE ĐƢỢC PHẢN ÁNH TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học Mã số: 60 32 01 01
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Thị Minh Thái
Hà Nội - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Thị Minh Thái. Các nội dung
nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ
hình thức nào trước đây. Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc
phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác
nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng
như số liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú
thích nguồn gốc.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm về nội dung luận văn của mình.
Hà Nội, tháng năm 2016
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin cảm ơn sự quan tâm của các thầy, cô giáo đang giảng dạy và
công tác tại khoa Báo chí & Truyền thông - Trường Đại học KHXH&NV –
ĐHQG Hà Nội trong suốt quá trình học tập của mình tại đây.
Tôi nhận được sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình, sâu sắc, hệ thống của
PGS. TS Nguyễn Thị Minh Thái không chỉ trong luận văn này mà cô còn
nhiệt tình truyền thụ cho tôi nhiều kiến thức, chỉ cho tôi nhiều tài liệu để đọc
về các nội dung liên quan đến công việc nghiên cứu của mình.
Tôi nhận được sự hỗ trợ của các bạn đồng môn, các bạn đồng nghiệp và
gia đình trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tất cả vì sự quan tâm và giúp đỡ đó.
Trong quá trình thực hiện khóa luận, chắc chắn không tránh khỏi những
thiếu sót. Những góp sẽ là những ý kiến quý báu giúp tôi hoàn thiện luận văn
này.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng năm 2016
Tác giả
Vũ Tiến Thành
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: TIẾP CẬN LÝ THUYẾT VỀ GAME ONLINE TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM ....................................................................... 7 1.1.Các khái niệm liên quan .......................................................................... 7 1.1.1.Khái niệm Game online ................................................................... 7
1.1.2.Khái niệm báo điện tử ...................................................................... 7
1.2.Game Online trong đời sống văn hóa Việt Nam và Thế giới ................. 9
1.2.1.Khái lược về sự ra đời của Internet .................................................. 9
1.2.2.Sự du nhập của Game online vào Việt Nam .................................. 12
1.3.Vấn đề Game online được thông tin trên báo chí Việt Nam ................ 20 1.3.1. Game online được phản ánh trên các loại hình báo chí ................ 20
1.3.2. Những lợi thế riêng của báo điện tử trong phản ánh về vấn đề game online ............................................................................................. 22
Tiểu kết chương 1........................................................................................ 28
CHƢƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG THÔNG TIN VỀ VẤN ĐỀ GAME ONLINE TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM .. Error! Bookmark not defined.
2.1. Giới thiệu về các tờ báo được lựa chọn khảo sát Error! Bookmark not defined.
2.1.1. Báo VnExpress .............................. Error! Bookmark not defined.
2.1.2. Báo Tuổi Trẻ Online ..................... Error! Bookmark not defined.
2.1.3. Báo Thanh Niên Online ................ Error! Bookmark not defined.
2.1.4. Báo Dân Trí ................................... Error! Bookmark not defined.
2.2. Tiêu chí lựa chọn các bài báo viết về vấn đề Game online .......... Error! Bookmark not defined. 2.3. Phân tích thực trạng game online trên báo Tuổi Trẻ Online, Thanh Niên Online, VnExpress và Dân Trí ........... Error! Bookmark not defined. 2.3.1. Nội dung thông tin ........................ Error! Bookmark not defined.
2.3.2. Hình thức thông tin ....................... Error! Bookmark not defined.
Tiểu kết chương 2........................................ Error! Bookmark not defined.
CHƢƠNG 3 - GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THÔNG TIN VỀ GAME ONLINE TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ ........ Error! Bookmark not defined.
3.1. Đánh giá chất lượng thông tin về vấn đề Game online trên 4 tờ báo ..................................................................... Error! Bookmark not defined. 3.1.1. Ưu điểm ......................................... Error! Bookmark not defined.
3.1.2. Hạn chế .......................................... Error! Bookmark not defined.
3.2. Một số giải pháp truyền thông về vấn đề game online trên báo điện tử Việt Nam ..................................................... Error! Bookmark not defined.
3.2.1. Giải pháp chung ............................ Error! Bookmark not defined. 3.2.2. Giải pháp riêng .............................. Error! Bookmark not defined.
Tiểu kết chương 3........................................ Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN ........................................................ Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 30
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT& TIẾNG NƢỚC NGOÀI
1. TNO – Thanh Niên Online
2. TTO – Tuổi Trẻ Online
3. VNE – VnExpress
4. DT – Dân Trí
5. GO – Game Online
6. TRACK – Đường âm thanh
7. PUBLIC – Công khai
8. HN: Hà Nội
9. BBT: Ban Biên tập
10. TBT: Tổng Biên tập
11. CHXHCNVN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
12. KT-XH: Kinh tế - Xã hội
13. TTĐC: Truyền thông đại chúng
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
1. Bảng 1.2: Thực trạng game bạo lực và mức độ chơi game bạo lực tại
Việt Nam(tr. 16)
2. Bảng 2.1: Tỷ lệ bài viết về vấn đề Game Online trên bốn tờ báo (tr. 34)
3. Bảng 2.3:Các yếu tố tham gia vào quá trình phản biện về game online
(tr. 36)
4. Bảng 2.4:Tần suất phản biện về Game online trên 4 báo Tuổi Trẻ
Online, Thanh Niên Online, VnExpress, Dân Trí (tr. 38)
5. Bảng 2.5: Ý kiến của độc giả về đề xuất áp thuế tiêu thụ đặc biệt cho
game online trên 4 báo: VnExpress, Thanh Niên Online, Tuổi Trẻ
Online và Dân Trí (tr. 56)
6. Bảng 3.4: Quy trình thông tin về game online trên báo điện tử (tr. 81)
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài:
Trong hơn một thập niên trở lại đây, sự phát triển bùng nổ của mạng
Internet và thiết bị công nghệ cá nhân như: điện thoại di động, máy tính bảng,
sách báo… đã mở ra một thời đại mới có thể gọi là thời đại “số hóa”. Các tiện
ích trên mạng Internet xuất hiện ngày càng đặc biệt và phổ biến, đáp ứng các
nhu cầu văn hóa giải trí đa dạng của toàn cầu. Trong đó là sự xuất hiện của
Game onlineđã mang đến sức hút cùng sự tác động mạnh mẽ tới người dùng ở
mọi lứa tuổi, nhất là giới trẻ. Game online mau chóng trở thành một hình thức
giải trí được ưa chuộng nhất trong xã hội hiện đại.
Sau khi đã đạt được nhiều thành công trên toàn cầu, trong đó có Việt
Nam, Game online đã bắt đầu du nhập và trở nên phổ biến ở Việt Nam từ
những năm 2000 và bắt đầu phát triển bùng nổ hai năm sau đó (2002). Game
(trò chơi điện tử) hay Game Online (trò chơi trực tuyến) trở thành cụm từ
quen thuộc và thường xuyên được nhắc tới trên các phương triện truyền thông
đại chúng.
Thống kê không đầy đủ thì ước tính số lượng các trò chơi trực tuyến
lớn nhỏ ở nước ta hiện nay lên đến con số hàng nghìn trò chơi. Một con số
đáng kinh ngạc cho thấy sự phát triển với tốc độ quá nhanh của trò chơi trực
tuyến tại Việt Nam. Không chỉ nhiều về số lượng mà các trò chơi này còn rất
đa dạng về hình thức và nội dung.Từ chơi trên máy tính (PC), Laptop cho đến
điện thoại di động (mobile)… mang tới cho công chúng một hình thức giải trí
mới mẻ, hấp dẫn.
Sự phát triển đến mức bùng nổ này đã tạo điều kiện cho các phương
tiện truyền thông đại chúng nói chung và báo chí Việt Nam nói riêng trong
việc truyền thông về một mảng đề tài hoàn toàn mới và rất nóng. Nắm bắt lấy
cơ hội đó, hàng loạt các tờ báo, trang tin tức và ấn phẩm phục vụ độc giả của
mảng đề tài này ra đời: Tạp chí game, Việt game, Gamethu.vnexpress,
Gamevn, Game4v, các chương trình chuyên biệt về game online của VTC,
VTV2 … Phần lớn các phương tiện truyền thông đại chúng thời điểm đó chỉ
tập trung vào việc quảng bá và giới thiệu về những trò chơi mới xuất hiện hay
các dịch vụ khuyến mãi của các hãng phát hành chứ không tập trung vào việc
định hướng việc xây dựng một nền văn hóa game (trò chơi điện tử) cho đúng
nghĩa và phù hợp với văn hóa Việt Nam hiện đại.
Có một thực tế đáng chú ý là hầu hết những trò chơi trực tuyến hiện
nay đang thu hút được sự quan tâm chú ý nhất của dư luận xã hội và báo chí
truyền thông trong khoảng vài năm gần đây lại không phải là các trò chơi có
tính thuần Việt, mà lại là những trò chơi mang tính giải trí cao dựa trên cốt
truyện của Trung Quốc từng quen thuộc với người dân Việt Nam lâu nay, hay
các trò chơi hành động của Âu, Mỹ. Điều đáng nói là hầu hết các trò chơi trực
tuyến này đều đạt được thành công rất lớn về lợi nhuận, nhưng nội dunglại
quá thiên về bạo lực . Bản thân mỗi trò chơi khi ra đời ở một quốc gia
nào,cũng phải được tính toán cho phù hợp với đối tượng công chúng tiếp
nhận ở quốc gia đó về mặt văn hóa.Vốn được sản xuất ở nước ngoài, dành
cho công chúng nước ngoài nên khigame online được mang về Việt Nam, nếu
không được “Việt hóa” một cách nhuần nhuyễn, thích hợp thuần phong mỹ
tục, thị hiếu và tâm lý tiếp nhận của người Việt thì rất có thể gây ra những
thảm họa về văn hóa. Các trò chơi này trong thực tế phát triển của xã hội Việt
Nam hiện đại đã nhanh chóng mang đến những tệ nạn xã hội như gia tăng tỷ
lệ phạm tội ở giới trẻ do sự ảnh hưởng của các trò chơi trực tuyến mang nặng
tính kích động.
Vậy phải chăng ở Việt Nam, các cấp quản lý đang bàng quan, không
mấy quan tâm tới sự phát triển thiếu định hướng và đã thành tiêu cực của việc
“Việt hóa”game online, chỉ cho đến khi các hiện tượng, tệ nạn xã hội ngày
càng trở nên phổ biến và game online bị các loại hình báo chí truyền thông
đồng loạt lên án vì sự thiếu lành mạnh và thiếu giáo dục,và cần phải ngăn
chặn ảnh hưởng tiêu cực của game online nhất là đối với người chơi trẻ tuổi
(13 – 19 tuổi), đã mặc nhiên trở thành lý do chính khiến cho xã hội bị xuống
cấp về đạo đức. Đội ngũ những người làm truyền thông trên báo chí và sản
xuất Game online ở Việt Nam cần rút ra được những bài học kinh nghiệm
xương máu gì về việc truyền thông trên báo chí Việt, đặc biệt là việc truyền
thông về game online trên báo điện tử. Và việc truyền thông về vấn đề này có
lẽ buộc phải nhìn nhận dưới góc độ phản biện xã hội từ phía những người
nghiên cứu.
Trước thực trạng này tác giả lựa chọn đề tài luận văn thạc sỹ của mình:
“Vấn đề game online được phản ánh trên báo điện tử ở Việt Nam”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Cho đến nay, chưa có một công trình khoa học nào (ở cấp tương đương
với đề tài) triển khai đồng bộ, liên thông, kết hợp các phương pháp nghiên
cứu như đề tài dự kiến thực hiện. Có nhiều bài báo đăng trên các trang báo,
tin tức trực tuyến, tạp chí bàn về vấn đề tác động của game online đối với xã
hội nói chung, nhưng chưa đề cập riêng cho vấn đề trong việc truyền thông
của báo chí về game online sao cho phù hợp với văn hóa của người chơi Việt
Nam, nhất là giới trẻ vốn đặc biệt thích trò chơi này. Vấn đề truyền thông trò
chơi điện tử trên báo chí cũng chỉ được đề cập dưới dạng bài viết lẻ tẻ của các
nhà báo, các nhà nghiên cứu xã hội hay các đơn vị sản xuất game online đăng
trên các báo và tạp chí. Vấn đề nghiên cứu lý luận về vài trò và tác động của
báo chí khi truyền thông về game online chưa được quan tâm đúng mức, chưa
có một công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về lĩnh vực này.
Trước đó, ở các lĩnh vực khác đã có một số đề tài nghiên cứu về vấn đề
“Việt hóa” nói chung với phát thanh và nhất là Truyền hình thực tế ở Việt
Nam. Luận văn “Truyền hình thực tế ở Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa Việt”
của tác giả Nguyễn Thu Hương hay “Nghiên cứu truyền hình thực tế ở Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hằng.
Có thể cho rằng các nhà nghiên cứu lý luận về báo chí truyền thông vẫn
còn để ngỏ này. Tuy số tư liệu nghiên cứu còn quá ít ỏi, tùy theo tính chất và
mục đích của từng cuốn sách hoặc bài viết của từng tác giả, đều đã đạt được
những kết quả đáng trân trọng. Đây là những tài liệu quý, có giá trị và ý nghĩa
thiết thục, góp phần gợi mở và cung cấp cho tác giả viết luận văn này một số
vấn đề cơ sở lý luận về báo chí truyền thông và đưa thêm dẫn chứng xác đáng
trong quá trình thực hiện luận án.
3. Mục đích và nội dung nghiên cứu
Mục đích đề tài này là nghiên cứu quá trình báo điện tử ở Việt Nam
phản ánh, bình luận, phân tích về vấn đề Game online cùng tác động của nó
tới xã hội trên tinh thần phản biện xã hội. Từ đó, chỉ ra những ưu điểm và hạn
chế trong thực tế văn hóa phản biện về game trên báo điện tử. Đồng thời đưa
ra những giải pháp định hướng, xây dựng và phát triển văn hóa trò chơi điện
tử phù hợp ở nước ta trên tinh thần Việt hoá.
Để thực hiện được những mục đích trên, tác giả luận văn phải thực hiện
những nhiệm vụ sau để thiết lập nội dung nghiên cứu cho thích hợp với mục
tiêu đề ra.
- Nghiên cứu hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về văn hóa và
phát triển, phản biện xã hội và văn hóa phản biện xã hội trên báo chí
nói chung và báo điện tử nói riêng.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn truyền thông các tin bài về game (trò
chơi) trên các trang báo điện tử. Số lượng vào khoảng 200 bài viết.
- Qua phân tích thực trạng, đề tài chỉ ra những bài học kinh nghiệm và
đặt ra những vấn đề cần tiếp tục giải quyết. Từ đó đề xuất giải pháp
truyền thôngtích cực về phản ánh game online trên báo điện tử.
- Nghiên cứu các tài liệu trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài
(sách, công trình nghiên cứu, bài báo).
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Với tên đề tài là: “Vấn đề game online được
phản ánh trên báo điện tử Việt Nam”, đối tượng nghiên cứu của đề tài
là các bài viết phản ánh về Game online trên các báo Thanh Niên
Online, Tuổi Trẻ Online, VnExpress và Dân Trí.
- Phạm vi nghiên cứu: Game online là một đề tài đang trở thành vấn đề
nóng đối với xã hội. Trong khuôn khổ đề tài này, tác giả chỉ khảo sát
các bài viết phản ánh về Game online trên các báo Thanh Niên Online,
Tuổi Trẻ Online, VnExpress và Dân Trí.
Thời gian khảo sát thực tế các loạt tin, bài về game online trên các báo
đã chọn từ năm 2010 – 2014.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả chủ yếu sử dụng các phương
pháp sau:
- Tác giả kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có về văn hóa và phát triển,
văn hóa và báo chí, phản biện xã hội trên báo chí để phục vụ việc
nghiên cứu về vấn đề game trên báo điện tử.
- Nghiên cứu cụ thể cách báo điện tử phản ánh vấn đề game trên 4 báo
điện tử: Tuổi Trẻ Online, Thanh Niên Online, VnExpress và Dân Trí.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài:
Khoảng năm năm trở lại đây, tác động của Game online đối với giới trẻ
trở thành một vấn đề được phản ánh nóng hổi trong xã hội nói chung và báo
chí truyền thông nói riêng. Sự phát triển lệch chuẩn của game onlinetrong một
thời gian dài đã mang đến nhiều hệ lụy hơn là hiệu quả cho xã hội Việt Nam
hiện đại, nhất là cho giới trẻ nghiện game online ở Việt Nam. Trong đó, báo
chí truyền thông về lĩnh vực này đã có những bước phát triển mạnh ở nước ta
với cả những ưu điểm và hạn chế. Vấn đề là chưa có công trình nghiên cứu
chuyên sâu đi vào khảo sát, tổng kết nhận thức, lý luận về vai trò và tác động
của báo chí nói chung và báo điện tử nói riêng trong việc truyền thông về
Game online ở Việt Nam. Vì vậy, đề tài “Vấn đề game online được phản ánh
trên báo điện tử ở Việt Nam” là một nỗ lực của cá nhân tác giả trong việc góp
phần bổ khuyết vào sự thiếu hụt này.
Những phân tích, đánh giá, kinh nghiệm và tổng kết mà luận văn này
đưa ra hy vọng sẽ có ích đối với những sinh viên theo học ngành báo chí, với
các nhà nghiên cứu văn hoá và đặc biệt là các cơ quan báo chí truyền thông và
các đơn vị sản xuất Game online. Từ những kết quả nghiên cứu tác giả đưa ra
những giải pháp, cách thức truyền thông cho báo điện tử nói riêng và báo chí
nói chung khi phản ánh về lĩnh vực game online, và kể cả các đơn vị sản xuất
trò chơi sao cho phù hợp với văn hóa Việt Nam.
7. Bố cục của luận văn
CHƢƠNG 1: TIẾP CẬN LÝ THUYẾT VỀ GAME ONLINE TRÊN BÁO
ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
CHƢƠNG 2 :PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG THÔNG TIN VỀ VẤN ĐỀ GAME
ONLINE TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
CHƢƠNG 3 : GIẢI PHÁPNÂNG CAO HIỆU QUẢ THÔNG TIN VỀ GAME
ONLINE TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ
CHƢƠNG1: TIẾP CẬN LÝ THUYẾT VỀ GAME ONLINE
TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
1.1.Các khái niệm liên quan
1.1.1. Khái niệm Game online
Thông tư 60/2006/TTLT-BVHTT-BBCVT-BCA về Quản lý Game
online có nêu: Trò chơi trực tuyến: Là trò chơi trên mạng Internet có sự
tương tác giữa những người chơi với hệ thống máy chủ của doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ trò chơi trực tuyến và giữa người chơi với nhau. Trò chơi
trực tuyến qui định trong Thông tư này là những trò chơi có nhiều người chơi
(MMOG – Massively Multiplayer Online Games), bao gồm: Trò chơi trực
tuyến nhập vai (MMOPRG – Massively Multiplayer Online Role-Playing
Games) và trò chơi trực tuyến thông thường (Casual Games). Doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ trò chơi trực tuyến: Là doanh nghiệp triển khai hệ thống
thiết bị và trực tiếp cung cấp dịch vụ trò chơi trực tuyến. [2, tr2].
1.1.2. Khái niệm báo điện tử
Thế kỷ XIX, với sự phổ biến của máy in, hệ thống giao thông bắt đầu
phát triển mạnh, cho phép chi phí in ấn và phát hành rẻ hơn, góp phần đưa
đến giai đoạn thống trị của báo in.
Thế kỷ XX chứng kiện việc ứng dụng rộng rãi sóng phát thanh, truyền
hình, là động lực chính cho sự “lên ngôi” của radio và TV ở khắp hang cùng
ngõ hẻm.
Từ cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, với sự phát triển mạnh mẽ của
mạng Interet, các thiết bị có khả năng hoạt động trên nền tảng Internet như
máy tính hay điện thoại, các phương tiện truyền thông trực tuyến online nói
chung và các tờ báo điện tử nói riêng (ở Việt Nam hay gọi là báo điện tử) đã
phát triển với tốc độ đáng kinh ngạc đã và đang có những tác động sâu sắc
đến bộ mặt báo chí thế giới.
Việt Nam chính thức mở cổng Internet vào ngày 19/11/1997. Ngày
31/12/1997, tạp chí Quê hương lần đầu tiên ra mắt bạn đọc trên mạng
Internet, được đánh dấu là ngày quan trọng trong lịch sử báo chí Internet Việt
Nam.Đặt nền tảng và khởi đầu cho sự xuất hiện của hàng loạt các báo điện tử
khác ở Việt Nam.Cùng với tốc độ phủ sóng nhanh chóng của Internet trên thị
trường Việt Nam, báo điện tử ngày càng chiếm lĩnh được một lượng công
chúng đông đảo hơn, đặc biệt là giới trẻ. Nhận thức được điều này, lần lượt
các tờ báo giấy cũng nhanh chóng cho ra phiên bán báo điện tử như: Nhân
dân với nhandan.com.vn, Lao động với laodong.com.vn, Tuổi trẻ với
tuoitre.com.vn, Tiền phong với tienphong.vn, Sài Gòn giải phóng có
sggp.org.vn… đến Đài truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông
tấn xã Việt Nam, các trang web như VnExpress, VDC Media, VASC Orient
(sau này là VietNamNet)... xuất bản sản phẩm báo chí của mình trên mạng
Internet. Hai tờ VietNamNet và VnExpress được công nhận là báo Internet đầu
tiên ở Việt Nam.
Hiện nay, việc sử dụng thuật ngữ định danh loại hình báo chí mà thông
tin được chuyển tải và tiếp nhận qua mạng Internet vẫn chưa thống nhất và
đang là vấn đề gây nhiều tranh cãi.
Trên thế giới, loại hình báo chí này có nhiều tên gọi khác nhau như
“online Newspaper” (báo chí trên mạng, trực tuyến), e-journal
(electronicjournal- báo chi điện tử), “e-zine” (electronic magazine- tạp chí
điện tử)…
Ở Việt Nam, thuật ngữ “Báo điện tử” được sử dụng phổ biến, như
Nhân Dân điện tử, Lao Động điện tử, ngoài ra, nhiều người còn gọi chúng
bằng các tên khác như “Báo mạng”, “báo chí Internet”, “Báo điện tử”…
Điều 3, Chương I của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo
chí quy định rõ: (Báo chí nói trong luật này là báo chi Việt Nam bao gồm:
Báo in (báo, tạp chí, bàn tin thời sự, bản tin thông tấn), báo nói (chương trình
phái thanh), báo hình (chương trình truyền hình, chương trình nghe - nhìn
thời sự được thực hiện bằng các biện pháp khác nhau), báo điện tử (được
thực hiện trên mạng thông tin máy tính) bằng tiếng V i ệ t , tiếng các dân tộc
thiểu số Việt Nam , tiếng nước ngoài)
Các văn bản pháp quy của Việt Nam thường dùng thuật ngữ báo điện
tử. Luật báo chí được sửa đổi, bổ sung tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá X năm
1999 gọi loại hình báo chí này là báo điện tử. Văn bản Luật cùng nêu rõ “báo
điện tử là loại hình báo chí được thực hiện trên mạng thông tin máy tính
Văn bản pháp lý của Bộ Văn hoá Thông tin cấp cho các tờ báo điện tử
đầu tiên cùa Việt Nam cũng được gọi là “Giấy phép hoạt động báo điện tử”.
Đây cũng là thuật ngữ được dùng trong Nghị định 55/2001/NĐ-CP về
quản lý và cung cấp dịch vụ Internet, điều 12: “Dịch vụ thông tin trên Internet
là một loại hình dịch vụ ứng dụng Internet, bao gồm dịch vụ phát hành báo
chí (báo in, báo hình, báo điện tử), phát hành xuất bản phẩm trên Internet và
dịch vụ cung cấp các loại hình điện tử khác trên Internet”.
Có hai thuật ngữ được dùng trong thực tiễn nhiều hơn cả là báo điện tử
và báo điện tử. Tuy nhiên, theo chúng tôi, thuật ngữ “báo điện tử” là một
thuật ngữ mang tính chung chung và không đúng theo quy định của nhà nước.
Vì vậy, để khu biệt hóa loại hình báo chí được truyền tải qua mạng internet,
chúng tôi thống nhất sử dụng thuật ngữ “báo điện tử” cho luận văn của mình.
1.2.Game Online trong đời sống văn hóa Việt Nam và Thế giới
1.2.1. Khái lược vềsự ra đời của Internet
Internet là mạng thông tin diện rộng bao trùm toàn cầu, hình thành
trêncơ sở kết nối các máy tính điện tử, cho phép liên kết con người lại bằng
thôngtin và kết nối nguồn tri thức đã tích luỹ được của toàn nhân loại trong
một mạng lưu thông thống nhất. Quy mô, phạm vi ảnh hưởng của thông tin
trên mạngInternet rộng lớn hơn nhiều so với các phương tiện thông tin thông
thƣờng khác.Với Internet, mọi người có khả năng và điều kiện rất thuận lợi
trong việc tiếpcận trực tiếp với các nguồn thông tin trên thế giới.
Có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về Internet tùy thuộc vào góc
độnghiên cứu.Nhưng dù ở hướng tiếp cận nào, các định nghĩa về Internet đều
dựatrên 3 nội dung là bản chất mạng (network), bản chất số (digital) và bản
chấttruyền thông (communication) của nó.
Internet là một hệ thống thông tin liên kết bằng một không gian địa chỉ
dựa trên công cụ kỹ thuật gọi là giao thức mạng: các máy tính giao tiếp với
nhauthông qua giao thức TCP/IP (2). Đây là một hệ thống thông tin đặc biệt
vì vớihàng triệu mạng máy tính khác liên tục “vào – ra”, không thể có đƣợc
sơđồ cụthể. Internet vừa là hạ tầng kỹ thuật để giao dịch được xem là siêu xa
lộ thôngtin (information super highway), vừa là một thực thể truyền thông
đặc biệt giúpcho mọi người trên thế giới cùng khai thác tài nguyên thông tin,
tri thức.
Không có gì khó khăn để chứng minh rằng Internet vừa là một phƣơng
tiện truyền thông, vừa là một hình thức truyền thông. Vấn đề cần làm rõ ở
đây, chính là tính chất đặc biệt của Internet nhìn từ lý thuyết truyền thông:
Cái mới và độc đáo của phƣơng tiện truyền thông này là bản thân nó có thể
tích hợp chức năng truyền thông, tùy vào mục đích của ngƣời sử dụng, điều
mà các phương tiện truyền thông trước nó (như báo in, phát thanh, truyền
hình) hầu nhưkhông làm được.
Internet, có khả năng làm chức năng phương tiện truyền thông liên
cánhân, mà biểu hiện tiêu biểu là thưđiện tử (e-mail), điện thoại internet
(internet phone), chat, diễn đàn (forum), website nội bộ, weblog (một dạng
nhật ký, website cá nhân trên mạng Internet)... Internet có chức năng tạo môi
trƣờng liên lạc tuyệt vời và rẻ tiền cho các cá nhân hay tổ chức giao dịch với
nhau tương tự như những kỹ thuật truyền thông liên cá nhân truyền thống
hiện nay vẫn còn trong đời sống: gửi thư, điện thoại… Internet còn đảm
nhiệm chức năng của một phương tiện truyền thông tập thể. Nhiều cơquan và
công ty đã ứng dụng việc thiết lập những mạng cục bộ hoặc những trang chủ
internet diện rộng vào việc quản lý và giao dịch thông tin trong nội bộ đơn vị
hay nội bộ ngành của mình, vượt qua những ngăn cách về không gian địa lý
hay thời gian.
Như vậy, nhìn từ góc độ lý luận báo chí – truyền thông, có thể nói,
Internet là một thực thể truyền thông mới: truyền thông trực tuyến (online
communication). Internet vừa là nguồn tài nguyên thông tin quý giá vừa là
mộtcông cụ cần thiết cho hoạt động truyền thông. Con ngƣời trên cả hành
tinh thuộcmọi quốc gia dân tộc, qua Internet, có thể trao đổi với nhau; tri thức
của từngcộng đồng, từng quốc gia được tích lũy và lưu trữ; các ngân hàng dữ
liệu đượcquốc tế hoá, trở thành tài sản của toàn thể loài người. Những ứng
dụng củainternet khẳng định vai trò, ý nghĩa quan trọng của nó đối với đời
sống xã hội,đặc biệt trong thời kỳ bùng nổ thông tin hiện nay. Internet là
mạng thông tin lớn thông nhất quán trên toàn cầu - một mái nhà thông tin
chung của thế giới, khothông tin khổng lồ về tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Internet tạo ra khả năng xử lý, sắp xếp khối lượng thông tin khổng lồ
đó một cách khoa học để sửdụng và trao đổi với nhau một cách nhanh chóng.
Và Internet cũng tạo ra mộtloại hình truyền thông đại chúng mới với ý nghĩa
là hoạt động thông tin mangtính chính trị - xã hội, nghề nghiệp thuộc lĩnh vực
chính trị, tư tưởng, văn hóa -tinh thần của xã hội, góp phần thúc đẩy sự phát
triển của đời sống xã hội cũngnhư công nghệ.
Và đó cũng là lý do mà số người sử dụng Internet trên thế giới cũng
như ở Việt Nam ngày càng tăng lên. Tính đến năm 2015, có tới 48% dân số
Việt Nam sử dụng Internet.
Với khả năng cung cấp lượng thông tin khổng lồ, nhanh nhất, hiệu
quảnhất, có tác động lớn nhất, với lợi thế tích hợp khả năng của các phương
tiệntruyền thông đại chúng khác, thông tin trên mạng Internet ngày càng
phong phú,đa dạng đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của công chúng trong
nƣớc và trên thếgiới; tạo cơ hội thuận lợi cho việc mở rộng quan hệ giao lưu,
hội nhập quốc tế,tăng cường sự hợp tác và hiểu biết lẫn nhau giữa Việt Nam
và bạn bè trên thếgiới. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống quản lý điều hành còn
nhiều hạn chế,chất lượng chưa cao; thông tin đưa trên mạng Internet còn
thiếu chọn lọc, thiếutập trung, chất lượng nội dung thông tin còn thấp; công
tác quản lý mạng, quảnlý nội dung thông tin đưa trên mạng và việc khai thác
thông tin trên mạngInternet còn nhiều thiếu sót, còn thiếu các chế tài, cơ chế
chính sách đối với sựphát triển Internet.
Biết những mặt trái của Internet không phải để thấy “khả năng đến đâu
cho phép phát triển đến đó” mà để chủ động ngăn ngừa những hạn chế,
nhữngkhuyết tật, bất cập. Bởi Internet là một xu thế khách quan, một cuộc
cách mạngtrong tiến trình phát triển công nghệ và truyền thông, một bộ phận
không thểthiếu trong xã hội thông tin, thời đại thông tin.
1.2.2. Sự du nhập của Game online vào Việt Nam
Xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa đang là điều thường xuyên được
nhắc đến từ cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI như một căn nguyên cho sự
biến đổi của văn hóa xã hội. Đó là sự hội nhập, thay đổi để thích nghi của mỗi
quốc gia đối với tình hình chung trên thế giới. Tại Việt Nam, trước những tác
động đó xã hội nước ta cũng đang có những thay đổi lớn từ kiến trúc thượng
tầng cho đến hạ tầng cơ sở đền dần hội nhập và phát triển với quốc tế.Chính
những thay đổi này đang khiến môi trường văn hóa – xã hội Việt Nam có
những biểu hiện phức tạp với nhiều sắc thái.Theo PGS. TS Nguyễn Thị Minh
Thái: “Không một nền văn hóa của quốc gia nào trên trái đất này lại không
được/phải được truyền thông, qua nền báo chí truyền thông của chính mình.
Và như thế, nhiệm vụ xuyên suốt nền báo chí hiện đại Việt Nam, từ khi ra đời,
đương nhiên phải là truyền thông về nền văn hóa Việt, với toàn bộ sinh hoạt
văn hóa của người Việt trong lịch sử dựng nước và giữ nước của mình, dựa
trên nền tảng hai mối quan hệ lớn nhất về ứng xử văn hóa: đó là ứng xử của
người Việt với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, nhằm tạo lập hai
loại giá trị lớn nhất trong lịch sử tồn tại của mình: giá trị văn hóa vật chất và
tinh thần, theo quy luật văn hóa chung của toàn nhân loại, được hiển thị
trong sự phát triển riêng biệt và đặc thù của từng quốc gia, và tùy thuộc vào
quốc gia ấy thuộc một trong hai vùng văn hóa: phương Đông hoặc phương
Tây”[8]. Đứng trước những vấn đề đó, báo chí Việt Nam với tư cách là một
sản phẩm của văn hóa, đồng thời đang hằng ngày làm nhiệm vụ truyền thông
về văn hóa Việt Nam cần nỗ lực làm truyền thông một cách có văn hóa. Báo
chí là tấm gương phản chiếu hiện thực xã hội. Phản ánh một xã hội tốt hay
xấu đều tùy thuộc vào từng nhà báo và cơ quan báo chí.
Trong một xã hội đang có sự đan xen, giằng co giữa việc bảo tồn văn
hóa truyền thống, bản sắc dân tộc với các yếu tố văn hóa ngoại lai thì việc đề
cao văn hóa truyền thông càng cần được coi trọng.Theo PGS. TS Nguyễn Thị
Minh Thái trong bài Truyền thông văn hóa và văn hóa truyền thông: “về bản
chất, văn hóa Việt Nam truyền thống vẫn là nền văn hóa nông nghiệp căn cơ.
Bi kịch xuất hiện, khi nền văn hóa nông nghiệp ấy bị cưỡng đoạt về văn hóa,
khi thực dân Pháp biến Việt Nam thành thuộc địa của Pháp, và Việt Nam
buộc phải chuyển sang một nền văn hóa mới và khác, mang bản chất “Âu
hóa”, theo mô hình của văn hóa văn minh phương Tây” [8]. Và cho đến cuối
thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI, “nhiều nhà nghiên cứu văn hóa Việt vẫn tiếp tục
nghĩ suy để làm sao giải quyết cái bi kịch về sự phát triển này”.
Trong vô vàn sự kiện, hiện tượng và vấn đề được báo chí phản ánh, vấn
đề game online là một trong số những vấn đề gây chú ý và có tác động mạnh
tới dư luận xã hội. Vấn đề này nảy sinh trong bối cảnh mà khoa học và công
nghệ tại Việt Nam ngày càng phát triển.
Tại Việt Nam với sự quan tâm của nhà nước và sự phát triển của công
nghiệp máy tính đã làm cho số người sử dụng Internet tại Việt Nam tăng
nhanh.
Theo dự báo của Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) ngày 19/10/2010
cho biết vào cuối năm 2010 sẽ có 29,4% dân số thế giới sử dụng Internet, với
khoảng 2 tỷ người. Tại Việt Nam, tính đến cuối năm 2013, số lượng tên miền
".vn" duy trì thực tế trên mạng là 261.256 tên. Tên miền ".vn" giữ được tốc độ
tăng trưởng tốt ngay cả những giai đoạn khó khăn của nền kinh tế trong nước
và thế giới. Tốc độ tăng trưởng bình quân 172%/năm. Kể từ năm 2011 đến
nay, tên miền ".vn" liên tục là tên miền quốc gia có số lượng đăng ký sử dụng
cao nhất khu vực Đông Nam Á. Về địa chỉ internet, tổng lượng IPv4 quốc gia
là 15.576.832 địa chỉ. Việt Nam tiếp tục là quốc gia có số lượng địa chỉ IPv4
ở mức cao, đứng thứ 2 trong khu vực Đông Nam Á, thứ 8 châu Á và thứ 25
trên thế giới. Việc thúc đẩy sử dụng thế hệ địa chỉ mới IPv6 có kết quả tốt qua
việc chính thức khai trương mạng lưới và dịch vụ IPv6 Việt Nam ngày
6/5/2013.
Theo định hướng phát triển của nhà nước, Việt Nam đặt mục tiêu trở
thành một trong 70 quốc gia có nền công nghệ thông tin - viễn thông phát
triển hàng đầu thế giới. Hạ tầng viễn thông đến năm 2015 sẽ phủ sóng di động
băng rộng đến 70% cư dân trong cả nước,triển khai xây dựng cáp quang đến
hộ gia đình tại tất cả các khu đô thị mới; 20%-30% số hộ gia đình có máy tính
và internet băng thông rộng. Việt Nam cũng đặt mục tiêu đến năm 2016 trở
thành một trong 20 quốc gia cung cấp dịch vụ gia công phần mềm và nội
dung số hấp dẫn nhất thế giới. Các nhà chuyên môn cho rằng, tương lai của
nền kinh tế internet Việt Nam là đạt 17%-20% GDP vào năm 2015 và từ
20%-30% vào năm 2020.
Sự phát triển nhanh chóng đó đã và đang tạo nên những sản phẩm vật
chất và tinh thần, các sản phẩm này có thể tích cực, tiêu cực hoặc có tính hai
mặt đối với sự phát triển xã hội Việt Nam.Bên cạnh những mặt tích cực như
góp phần phát triển đời sống xã hội, nâng cao dân trí.Internet cũng có đặt ra
những thách thức không nhỏ đến sự phát triển của đời sống xã hội.Vấn đề này
đều đã được báo chí Việt Nam phản ánh và bàn luận công khai để cùng phát
huy cái tích cực, giảm trừ cái tiêu cực.
Tại Việt Nam, đối tượng chính sử dụng Internet là là giới trẻ (học sinh,
sinh viên).Đây cũng là nhóm đối tượng dễ bị tác động nhất từ Internet. Với
những lợi ích to lớn mà Internet mang lại như đã phân tích ở trên thì tự thân
thanh niên, học sinh, sinh viên là người bị hấp dẫn và cuốn hút vào “vòng
xoáy” sử dụng Internet. Thêm vào đó, với những lợi ích to lớn mà Internet
mang lại, các cơ quan chức năng, gia đình, nhà trường và xã hội sẽ có những
định hướng, hoạt động tạo điều kiện, khuyến khích mọi người, trong đó có
đông đảo thanh niên học sinh, sinh viên sử dụng Internet. Song bên cạnh
những mặt tích cực đó là những tác động theo chiều hướng tiêu cực, ảnh
hưởng không tốt của Internet tới giới trẻ.
Chơi game online là một trong những hoạt động có ảnh hưởng lớn tới
tâm sinh lý, suy nghĩ của giới trẻ. Game đã và đang trở thành một hiện tượng
văn hóa trên toàn cầu. Không thể phủ nhận những mặt tích cực từ game như
là một loại hình giải trí, giúp người tham gia giết thời gian rảnh rỗi và giảm
stress, luyện cho người chơi khả năng quan sát nhạy bén, khả năng phản ứng
nhanh nhạy, khả năng tập trung cao độ… Nhưng bên cạnh đó là những tác hại
khó lường, ảnh hưởng không nhỏ tới tư duy , suy nghĩ của giới trẻ. Đặc biệt là
hiện tượng nghiện chơi game online, chơi game bạo lực đang là hồi chuông
cảnh báo đối với người chơi nói riêng, với toàn xã hội nói chung.
Theo kết quả khảo sát tại Việt Nam của Ths. Dương Thị Hồng Loan
trong luận văn “Một số biểu hiện tâm lý của người chơi game bạo lực” vào
năm 2013 về thực trạng các game bạo lực và mức độ chơi game bạo lực ở
người chơi cho thấy 100% game bạo lực đưa ra đều có người từng chơi.
Hầu hết các game bạo lực được nêu trong bảng này là các game (game
online) hết sức phổ biến và có lượng người chơi đông đảo. Trong đó, Đột kích
là game được nhiều người từng chơi nhất (có 50,6% trong số 500 người được
hỏi cho rằng đã từng chơi), xếp sau đó là các game Võ lâm truyền kỳ (47,2%),
Đế chế (42,8%), Kiếm thế - World of JX (38,2%). Và nhóm game ít người đã
từng chơi nhất là các game Splatterhouse (5,2%), Manhunt (6,6%), Dead
Space (7,0%), Postal (7,4%), MadWorld và Soldier of Fortune (7,6%).
Như vậy, có thể thấy được rằng, các trò chơi điện tử du nhập và nước ta
khi Internet phát triển bên cạnh những tựa game lành mạnh thì cũng có không
ít những tựa game mang nặng tính bạo lực. Những thể loại trò chơi dạng bắn
súng, nhập vai kiếm hiệp được hầu hết người tham gia ưa chuộng. Đặc biệt là
các game nhập vai kiếm hiệp có nguồn gốc từ Trung Quốc.
Bảng 1.2: Thực trạng game bạo lực và mức độ chơi game bạo lực tại Việt Nam (Ths. Dương Hồng Loan)
Việc phần lớn giới trẻ hiện nay chọn lựa việc tìm đến Game online để
giải tỏa những áp lực cuộc sống, xua đi cảm giác mệt mỏi là điều bình
thường. Nhưng một bộ phận không nhỏ người chơi game hiện nay không
thích lựa chọn những game mang tính giải trí, giáo dục cao mà thích thử sức ở
những trò chơi mang nặng tính đối kháng, cảm giác mạnh, nhiều bạo lực đầu
rơi máu chảy. Với tâm lý tò mò, hiếu kỳ, bốc đồng, người chơi đã tìm đến
những game mang tính bạo lực, càng chơi thì càng bị cuốn vào.Hậu quả là khi
độ tuổi của giới trẻ còn non nớt, kỹ năng sống chưa nhiều dẫn tới chìm đắm
trong thế giới ảo đầy bạo lực, nhiều người bị rối loạn tâm lý, ảnh hưởng đến
các hoạt động sinh hoạt. Nguy hiểm hơn là một số game thủ trẻ tuổi đã áp
dụng chính những kỹ năng đã “tu luyện” được ở trong trò chơi điện từ (game
bạo lực) vào thực tế cuộc sống, gây nhiều tội ác tổn thất cho xã hội về cả vật
chất lẫn tinh thần. Hàng loạt các vụ việc giết người để lấy tiền chơi game
online được phản ánh trên các tít bài báo điện tử như: Nhóm cướp nhí mê
game; Học sinh nghỉ hè rủ nhau đi cướp; Cơn cuồng sát của cậu học trò mê
chơi điện tử; 9X cạy tủ phòng ngủ nhà bà hàng xóm; Cuộc chiến giành 'số
má' của các băng tuổi teen; Giết người nuôi dưỡng vì mê game online; Học
sinh lớp 11 phá khóa ăn trộm 70 triệu đồng; Nã đạn vào nhau vì mâu thuẫn
khi chơi game; Thiếu tiền chơi game hai sinh viên rủ nhau cướp giật… và rất
nhiều các vụ việc vi phạm pháp luật khác.
Mặt khác, việc đam mê quá mức vào game online còn khiến cho người
chơi tốn kém nhiều tiền bạc. Như hiện nay, trung bình một giờ chơi, người
chơi tốn ít nhất là 2000 đồng/ lần và cao nhất là 100.000 đồng/lần.Nếu chỉ
nhìn sơ qua, có thể thấy rằng số tiền không đang kể.Nhưng tích tiểu thành
đại.Nếu chơi thường xuyên, trung bình mỗi tuần sẽ tiêu tốn hàng trăm thậm
chí hàng triệu đồng.
Cùng với đó là sự tốn kém về thời gian. Một khi đã rơi vào vòng xoáy
của game online thì việc dành ra cả ngày thậm chí là cả tuần ngồi lì trước màn
hình không phải là điều gì xa lạ. Nhiều người còn bỏ ăn, bỏ ngủ, bỏ học để
chơi game online.
Trước thực trạng đó, trong những năm qua nhà nước đã có những chủ
trương chính sách nhằm khuyến khích phát triển Internet ở Việt Nam. Chính
phủ, các cơ quan chức năng, quản lý đã chú trọng hơn trong công tác định
hướng, quản lý và chơi game online sao cho hiệu quả, an toàn và phù hợp
nhằm hạn chế những tác động, ảnh hưởng và hệ quả tiêu cực do game online
mang lại.
Chính phủ, Bộ Thông tin và Truyền thông cùng các bộ ngành cơ quan
liên quan đã ban hành nhiều văn bản quản lý như Quyết định số 95/2002/QĐ-
TTG ngày 17/7/2002 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Kế hoạch tổng thể
về ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin ở Việt Nam; Nghị định số
97/2008/NĐ-CP ngày 28 tháng 08 năm 2008 của Chính phủ về quản lý, cung
cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet.
Cho đến nay, nhà nước đã ban hành ba nghị định (thông tư) về quản lý
Internet và Game online: lần 1 (2006), lần 2 (2009), lần 3 (2013). Tuy nhiên,
cho đến nay sau 3 lần cải cách và nhiều lần đổi mới vẫn chưa đáp ứng được
nhu cầu thực sự trong việc quản lý sự tồn tại và phát triển của game online.
Còn tại Hà Nội, Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội đã có Chỉ thị Số:
38/2009/CT-UBND, ngày 31 tháng 12 năm 2009 về việc tăng cường công tác
quản lý hoạt động kinh doanh đại lý Internet trên địa bàn thành phố Hà Nội;
ngày 26/4/2010, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội ban hành quy định
15/2010/QĐ -UBND về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ tại các đại lý
Internet trên địa bàn thành phố; trên trang web của Sở Thông tin và Truyền
thông đã công khai hồ sơ quản lý tất cả các đại lý Internet trên địa bàn thành
phố (tên đại lý, địa chỉ, điện thoại liên hệ, quận/huyện, nhà cung cấp dịch vụ -
ISP…) và các hoạt động liên quan đến quản lý Internet trên địa bàn.; Nghị
định. Việc cập nhật hàng loạt các nghị định và thông tư mới cho thấy sự quan
tâm rất lớn của Nhà nước tới lĩnh vực kinh doanh Internet và đặc biệt là game
online (trò chơi điện tử).Tiêu biểu nhất chính là vào năm 2006, game online
đã được nêu và quy định rõ trong luật pháp. Đứng trước sự phát triển nóng
của game online cùng với những tác động lớn tới đời sống xã hội, đây là
những cập nhật tất yếu cần có để quản lý, kiểm soát và định hướng lĩnh vực
này phát triển đúng đắn và có văn hóa.
Các game online được đề cập ở trên (Đột kích, Võ lâm truyền kỳ, MU,
Kiếm Thế, Thế giới hoàn mỹ…) đều được truyền thông hầu hết ở trên loại
hình báo điện tử. Quá trình truyền thông này mang đặc trưng của báo điện tử.
Dù chỉ là một vấn đề trong hàng triệu vấn đề của cuộc sống được báo chí
phản ánh nhưng đó là những nét phác họa một cách chân thực, sinh động hiện
thực xã hội Việt Nam đương đại, đặc biệt là đời sống của giới trẻ hiện nay.
Đặt ra những vấn đề cần phải giải quyết và đi tìm giải pháp vì sự phát triển
của quốc gia, đồng thời minh chứng phần nào cho mối quan hệ khăng khít
giữa văn hóa và truyền thông tin cụ thể hơn là văn hóa phản biện xã hội trên
báo điện tử hiện nay.
Với cách tiếp cận này, có thể thấy bối cảnh văn hóa của phản biện về
game online trên báo điện tử chính là thực tiễn đời sống văn hóa – xã hội của
giới trẻ Việt Nam hiện đại. Khi Việt Nam đang hội nhập, xây dựng nền kinh
tế thị trường, giao lưu mở cửa với toàn cầu thì vấn đề giữ gìn bản sắc dân tộc
cần phải được đề cao và phải bắt đầu từ giới trẻ những mầm non tương lai của
đất nước. Điều này đặc biệt quan trọng, nhất là khi Đảng ta đã khẳng định
“văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”.
Phản biện của báo chí đối với các vấn đề thực tiễn là một vấn đề quan
trọng, đồng thời đặt ra cho báo chí phải tìm cách giải quyết vấn đề được phản
biện.Mặt khác, bản thân sự phát triển của báo điện tử và sự tham gia của nó
vào hoạt động phản biện xã hội cũng là minh chứng quan trọng cho sự tồn tại
của báo điện tử trong môi trường văn hóa Việt Nam. Vấn đề game online
chính là một câu chuyện thực đang hết sức cấp bách của xã hội Việt Nam hiện
đại được truyền thông bởi báo chí Việt Nam
1.3.Vấn đề Game online đƣợc thông tin trên báo chí Việt Nam
1.3.1. Game online được phản ánh trên các loại hình báo chí
Game online trong xã hội Việt Nam hiện đại đã trở thanh đề tài nóng
hổi và đang được bàn luận sôi động trong xã hội hiện nay. Hoàn toàn không
phải ngẫu nhiên mà game online thu hút được sự quan tâm của báo chí truyền
thông. Bằng chứng là hàng loạt các bài viết nói về hệ quả xấu của game
online đối với xã hội xuất hiện với tần suất thường xuyên trên các mặt báo,
thậm chí game online còn được đề xuất đánh thuế tiêu thụ đặc biệt như là
rượu, bia, thuốc lá…
Với báo chí, đây là một trong những đề tài nóng bỏng của xã hội Việt
Nam đương đại.Với sức tác động mạnh mẽ vào dư luận xã hội, rất nhiều kênh
báo in, báo phát thanh, báo truyền hình và báo mạng điện tử đã dành nhiều
thời gian để bàn luận về chủ đề game online.Mỗi loại hình báo chí đều khẳng
định thế mạnh riêng khi tác động đến nhận thức của công chúng, đặc biệt là
giới trẻ về vấn đề game online. Báo phát thanh với thế mạnh là âm thanh tổng
hợp, được phát song trên radio, sức lan tỏa, ảnh hưởng của thông tin tới công
chúng trên diện rộng. Báo truyền hình với thế mạnh là âm thanh, hình ảnh
sinh động, chân thực tạo nên sức hấp dẫn đối với công chúng.Sức mạnh đa
phương tiện của báo điện tử cũng khiến công chúng nắm bắt thông tin một
cách nhanh chóng, kịp thời.
Trong số các loại hình báo chí phải kể đến báo điện tử vì đã tham gia
phản ánh vấn đề game online một cách nhanh chóng và hiệu quả bởi số lượng,
chất lượng bài viết về vấn đề này không phải là ít. Mặt khác, báo điện tử và
game online đều sử dụng chung nền tảng là Internet nên báo điện tử là loại
hình phù hợp nhất để truyền tải thông tin về game online. Các bài báo thường
đề cập đến vấn đề này với từ ngữ khá đặc biệt “nghiện game online”, “tệ nạn”
hay là “giết người vì game online”… Trong số các tờ báo điện tử hiện nay,
Tuổi Trẻ Online, Thanh Niên Online, VnExpress và Dân Trí là những tờ báo
có khả năng truyền tải thông tin nhanh, mạnh và hiệu quả. Đây là bốn tờ báo
điện tử có sức tác động mạnh mẽ nhất đến đối tượng công chúng là giới trẻ
trong xã hội. Có thể nói, số lượng lớn bài viết được đăng tải trên bốn tờ báo
này đã cung cấp bằng chứng sinh động mô tả những hệ lụy xã hội lớn do
game online mang lại.
Thông tin về vấn đề game online trên báo chí nói chung và bốn tờ báo
điện tử nói riêng có vai trò đặc biệt quan trọng với công chúng, đặc biệt là
trong vấn đề giáo dục giới trẻ về tác hại của nghiện game online. Nhiều trang
báo điện tử đã mở các diễn đàn tập hợp ý kiến của độc giả về vấn đề game
online, đồng thời góp phần nâng cao ý thức của giới trẻ và xã hội về trách
nhiệm trong hành vi của bản thân.
1.3.2.Những lợi thế riêng của báo điện tử trong phản ánh về vấn đề
game online
Là một loại hình báo chí, báo điện tử cũng thực hiện các chức năng cơ
bản của báo chí nói chung, đó là chức năng thông tin. Trong quá trình thực
hiện các chức năng cơ bản đó, vai trò phản biện xã hội của báo điện tử cũng
được khẳng định một cách cụ thể.
Mặc dù là loại hình báo chí sinh sau đẻ muộn nhất trong các loại hình
báo chí hiện nay nhưng về cơ bản báo điện tử cũng thực hiện vai trò phản
biện xã hội một cách mạnh mẽ. Báo điện tử cũng thực hiện nhiệm vụ thông
tin, phản ánh các sự kiện hiện tượng vấn đề đang xảy ra trong cuộc sống xã
hội; tạo tiền đề cho việc hình thành dư luận xã hội, tạo sức ép phải thay đổi
với các cơ quan chức năng cũng như các đối tượng có liên quan…
Tuy nhiên báo điện tử có những đặc thù riêng mang tính loại hình so
với các loại hình báo chí như: phát thanh, truyền hình hay báo in.
Có thể thấy thông tin trên báo điện tử được chuyển tải bằng nhiều loại
hình ngôn ngữ khác nhau, hội tụ hầu hết các thế mạnh của các loại hình báo
chí khác.Ngôn ngữ hình ảnh, văn tự, phi văn tự, âm thanh … mang đến tính
thuyết phục, tính chân thực của thông tin lớn.Sức hấp dẫn của các bài viết
trên báo điện tử cũng rất lớn, do một bài viết có thể hội tụ được nhiều loại
hình ngôn ngữ khác nhau. Do đó thông tin trên báo điện tử vì thế được lan tỏa
mạnh mẽ hơn. Từ những ưu thế mang tính đặc thù của mình, báo điện tử
cũng thể hiện vai trò phản biện xã hội một cách thuyết phục hơn.Phản biện
bằng những thông tin hình ảnh, âm thanh trung thực, mang tới sức nặng lớn.
Bên cạnh đó, với việc hoạt động trên nền tảng Internet, báo điện tử có
những điểm mạnh riêng trong quá trình phản biện xã hội mà các loại hình báo
chí khác khó theo kịp.
a) Tính cập nhật
Khi nói đến báo in, chúng ta thường nhắc đến “tính định kỳ”. Đặc trưng
định kỳ của báo in được xem như điểm khác biệt cơ bản so với các hình thức
truyền thông đại chúng khác cũng bằng phương tiện in ấn như sách, truyện…
Một lợi thế vượt trội của báo điện tử mà báo in khó có thể cạnh tranh là
tính thời sự và phi định kỳ của thông tin. Về ưu điểm này, chỉ có radio là có
thể “cạnh tranh” với báo điện tử vì thông tin của nó cũng được xem là đưa
đến thính giả ngay tức khắc. Nhưng radio chỉ trực tiếp truyền thanh cho thính
giả trong thời gian ngắn, không thể 24/24. Báo điện tử với sự cơ động nhanh
gọn của công nghệ có thể cập nhật thông tin tới từng giây với những bình
luận, hình ảnh, âm thanh... Việc cập nhật thông tin có thể tiến hành bất cứ nơi
đâu trên thế giới, trừ phi nơi đó không thể truy cập được mạng Internet. Bởi
vậy, ngay khi sự kiện xảy ra, phóng viên đã đưa thông tin ban đầu trên mạng,
có thể chỉ là tít và một câu thông báo sự kiện, sau đó liên tục cập nhật các
thông tin mới.
Nhưng với báo điện tử đã vượt qua được các rào cản này (đối với báo
in, phát thanh, truyền hình, nội dung thông tin của báo Internet không bị cố
định trên mặt giấy và cũng không bị hạn chế bởi thời lượng phát sóng nên có
thể bổ sung, cập nhật thông tin bất cứ lúc nào, bấi kì số lượng là bao nhiêu.
Với sức mạnh công nghệ của mạng Internet, các phóng viên chi cần có máy
tính xách tay, có một địa chỉ Internet, một đường truyền đơn giản như điện
thoại cố định hoặc di động là có thể kết nối vào mạng Internet, cập nhật tin,
bài, làm cho thông tin sống từng giờ, từng phút. Tốc độ cập nhật nhanh giúp
cho báo điện tử luôn mới mẻ, hấp dẫn, thu hút mà còn tạo thành một phương
tiện tiếp thị hiệu quả cho báo in hoặc kênh phát thanh truyền hình tương ứng.
Và gần như ngay lập tức, bạn đọc báo chí Internet đã có thể biết tintức mới
này ở một nơi xa sự kiện vài chục mét cho đến hàng ngàn km. Chỉcó báo chí
Internet mới luôn sẵn sàng cung cấp những thông tin thời sự tức thời một cách
dễ dàng như vậy.
Ngày nay, với sự hỗ trợ của phương tiện máy móc, phát thanh và
truyền hình có thể làm trực tiếp tại hiện trường, nhưng do hạn chế về thời
lượng phát sóng nên tốc độ cập nhật thông tin không thể liên tục được như
báo điện tử, nơi mà phóng viên có thể “tiếp tục cập nhật", bổ sung thông tin
trong từng phút. Chính khả năng cập nhật thông tin liên tục của báo điện tử
giúp cho loại hình báo chí này chiếm ưu thế tuyệt đối về tính thời sự của
thông tin, đồng thời về tính định kỳ vốn là một đặc trưng của báo chí. Đây
cùng là lý do đểmọi người gọi phóng viên báo điện tử là “vừa chạy, vừa xếp
hàng”. Tuy nhiên, điều này cũng đồng nghĩa với việc áp lực về tốc độ thông
tin của phóng viên báo điện tử là rất lớn vì sự cạnh tranh thông tin giữa các
báo có khi chỉ được tính bằng giây… là đặc trựng thể hiện thế mạnh vượt trội
của báo điện tử.
b) Khả năng đa phương tiện
Thời gian gần đây, thuật ngữ đa phương tiện ngày càng xuất hiện nhiều
hơn trên báo chí nhờ có sự phát triển vượt bậc của công nghệ Internet cũng
như các thiết bị di động, báo điện tử có khả năng tích hợp được ưu thế của các
loại hình báo chí khác như tính văn bản và khả năng lưu trữ dưới dạng văn
bản của báo in, hình ảnh động và âm thanhcủa truyền hình, âm thanh của phát
thanh. Nó cũng khắc phục được tính đơn điệu của báo in cũng như hạn chế
trong trật tự tuyến tính thời gian phát sóng của phát thanh và truyền hình.
Trên báo điện tử, công chúng có thể đọc, nghe và xem. Các yếu tố chữ viết,
đồ họa, video clip được sử dụng linh hoạt tạo ra nhiều cổng thông tin để công
chúng tiếp cận dễ dàng. Chính sự tích hợp này làm cho báo điện tử thực sự
phong phú, da dạng, sinh động và hấp dẫn trong cách truyền tải thông tin.
Trong một bình diện nào đó, ta có thể coi báo điện tử là một loại báo
chí tổng hợp của cả báo in, phát thanh và truyền hình. Một trang báo điện tử
có thể cung cấp cho người dùng một tác phẩm báo chí tổng hợp, gồm bài và
ảnh như trên báo in, một seri ảnh động (nhiều bức ảnh lần lượt thay thế nhau
để cho người xem); một đoạn nhạc, một bài báo được chuyển tải qua một
giọng đọc; một đoạn phim hoạt hình, phim phóng sự truyền hình...
Khắc phục được sự đơn điểu trong hình thức trình bày, trang trí "chết"
trên báo in, không buộc người đọc phải tưởng tượng ra diễn biến của sự kiện
bằng những âm thanh "chay" của phát thanh, cũng không biến khán giả thành
thụ động trước hệ thống chương trình có tính định kỳ như truyền hình, báo
điện tử đem lại những thông tin đặc biệt sống động, hấp dẫn. Thông tin của
báo điện tử có sự bổ trợ, nâng đỡ của các track âm thanh, các video clips sinh
động, các vi - nhet minh hoạ đẹp mắt và các seri ảnh báo chí rõ nét đến hoàn
hảo... Với những ưu thế đó, Multimedia đã phát huy tối đa vai trò cùa mình
trong việc truyền tải thông tin sống động và hấp dẫn. Đây chính là ưu việt của
báo điện tửmà cho đến nay, chưa có bất cứ một phương tiện truyền thông nào
tỏ ra năng động và hiệu quả hơn.
c) Tính tương tác
Đây vốn là một hạn chế của các loại hình báo chí khác nhưng lại là một
lợi thế và đặc trưng nổi trội của báo điện tử. Báo chí truyền thống gặp nhiều
khó khăn trong khâu tiếp nhận ý kiến phản hồi này, vì chủ yếu tiếp nhận qua
thư từ gửi bằng đường bưu điện, điện thoại... Thời gian nhận thư ít nhất cũng
chiếm vài ngày, phản ánh qua điện thoại khó lưu giữ được nội dung phản ánh.
Đặc biệt, do hạn chế về khuôn khổ, số trang và thời lượng chương trình nên
toà soạn báo chí truyền thống không thể hồi đáp hết các thư, ý kiến mà bạn
đọc, khán thính giả phản ánh.
Theo lý thuyết truyền thông, tương tác qua lại giữa công chúng vàtoà
soạn qua kênh thông tin phản hồi là một yếu tố quan trọng thể hiện hiệuquả
truyền thông đồng thời tạo ra cơ sở để toà soạn điều chỉnh nội dung,hình thức
thông tin theo hướng tăng cường chất lượng.
Với báo điện tử, độc giả có thể phản hồi ngay tức thì các ý kiến của
mình về bài viết của phóng viên dưới từng bài báo hoặc gửi tới toà soạn các
thông tin, vấn đề mình quan tâm thông qua hệ thống mạng, có thể nói, không
có loại hình báo chí nào hiện nay có thể cạnh tranh với báo điện tử về khả
năng tương tác. Nhiều khi, một bài báo nhưng có tới hàng trăm ý kiến phản
hồi gửi về toà soạn, trong đó có hàng chục ý kiến được đăng tải và có lúc, ý
kiến phản hồi của độc giả cuối bài báo còn dài hơn dung lượng tác phẩm,
thậm chí được toà soạn biên tập, cấu thành các bài báo độc lập.
Gần đây, tính tương tác của báo điện tử ngày càng được nâng cao nhờ
sự phát triển của mạng xã hội (facebook, twitter, zing…). Các báo điện tử lớn
ở Việt Nam như: VnExpress, Vietnamnet, Zing … đều sở hữu những fanpage
lớn trên mạng xã hội facebook với số lượng lượt người quan tâm lên tới hàng
trăm nghìn. Với khả năng tương tác cao và ngay lập tức, mạng xã hội đã góp
phần nâng cao tính tức thời và phản biện ngay lập tức của báo điện tử so với
các loại hình báo chí khác.
Nói như vậy để thấy rằng tính tương tác của báo điện tử là vô cùng
quan trọng bởi tính ẩn danh mà loại hình này mang lại. Chỉ cần vài thao tác
vô cùng đơn giản, người đọc đã có thể bày tỏ quan điểm, ý kiến cá nhân của
mình mà không nhất thiết phải công bố họ tên thật của mình, nghĩa là có thể
ẩn danh.
d) Khả năng truyền tải thông tin không hạn chế
Báo điện tử không có sự hạn định về số lượng.Báo in bị giới hạn bởi số
trang, truyền thanh - truyền hình bị giới hạn bởi khung giờ phát thanh, phát
sóng mỗi ngày.Báo điện tử có thể phát triển và hoạt động liên tục thông qua
các siêu liên kết.
Khả năng siêu liên kết, tìm kiếm và lưu trữ thông tin cùng là một lợi thế
riêng có của báo điện tử.Siêu liên kết tạo ra nhiều lớp thông tin.Chẳng hạn, ở
trang chủ, từ tít và tít dẫn, siêu liên kết sẽ dẫn người đọc đến nội dung chính
cùa tác phẩm báo chí. Trong phần nội dung chính này lại chứa một số các siêu
liên kết dẫn đến các nội dung thông tin khác có liên quan trên từng khía cạnh
cụ thể. Trong phần nội dung chuyên biệt, cụ thể này. lại có tiếp những siêu
liên kết khác... Cứ thế, cứ thế, nó giống như một mạng lưới vô tận, được kết
nối với nhau bằng những đường link.
Đã từng có nhiều tranh luận về vấn đề liệu báo điện tử có giết chết báo
giấy (báo in) hay không.Trước mắt, hiện nay nhiều chuyên gia nhận định rằng
cho đến khi người đọc vẫn còn nhu cầu đọc báo thì báo in sẽ vẫn còn tồn
tại.Tuy nhiên, với những ưu thế vượt trội của mình, báo điện tử đã và đang trở
thành loại hình báo chí tiên phong trong truyền tải thông tin và trở thành một
thế lực mới của nền báo chí hiện đại.
Tiểu kết chƣơng 1
Trong chương này, tác giả luận văn đã trình bày các khái niệm báo điện
tử, game online là những khái niệm đã được nhiều người đề cập tới, tôi chỉ
làm công việc tổng hợp và sắp xếp thành cách diễn giải của riêng mình. Vì
thời gian cũng như khả năng và trình độ lý luận và sự hạn chế về dung lượng
trang nghiên cứu nên những phân tích, nghiên cứu của tôi chưa thực sự thể
hiện hết những kết quả mong muốn.
Bên cạnh đó, tác giả phân tích bối cảnh lịch sử, những thay đổi về công
nghệ có tác động thế nào tới truyền thông Việt Nam hiện đại trong phản ánh
về vấn đề game online, từ đó đưa ra những nhận định báo điện tử là loại hình
báo chí phù hợp nhất để phản ánh về vấn đề này.
Đồng thời, trong chương 1, tác giả cũng phân tích rõ mối quan hệ giữa
báo chí truyền thông đối với vấn đề game online trong đời sống xã hội hiện
nay. Bởi đây là một vấn đề nóng của xã hội, đặc biệt là với giới trẻ.Báo điện
tửvới sức tác động mạnh mẽ, thông tin có chiều xâu, độ xác thực cao, báo
điện tử đã tham gia truyền tải thông tin nhanh, mạnh, hiệu quả về vấn đề
game online bằng các bài viết cụ thể với những hình ảnh ghi lại chân thực
hiện thựcxã hội đang tồn tại, cùng với đó là ý kiến trả lời phỏng vấn của
những người thật, việc thật, của những chuyên gia hàng đầu, những vị lãnh
đạo cấpcao, những bài tường thuật trực tiếp ngay từ hiện trường… Điều này
đặc biệt được thể hiện rõ nét trên bốn tờ báo điện tửthu hút được đa sốcông
chúng hiện nay: Tuổi Trẻ Online, Thanh Niên Online, Vnexpress và Dân Trí
Những vấn đề đặt ra trong chương 1 này là tiền đề lý luận, là cơ sở lý
thuyết dẫn đường để tác giả luận văn thực hiện các chương kế tiếp một cách
có chủ đích và rõ hướng nghiên cứu. Trong chương 2 của luận văn, từ việc
nhìn nhận loạt bài về game online và tác động của nó. Luận văn sẽ phân tích
nội dung thông tin của loạt bài này.
Chương 3 của luận văn sẽ là những ưu nhược điểm, đề xuất những giải
pháp trong việc xây dựng bài viết về lĩnh vực này cũng như các giải pháp
tổng quan khác.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
1. Đào Duy Anh (2002), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hoá -
Thông tin,Hà Nội.
2. Lê Thanh Bình (2004), Quản lý và Phát triển Báo chí – Xuấn bản, Nxb
Chính trị quốc gia.
3. Lê Thanh Bình (2005), Báo chí truyền thông và các vấn đề kinh tế, văn
hóa – xã hội, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
4. Lê Thanh Bình (2008), Truyền thông đại chúng và phát triển xã
hội,Nxb Chính trị Quốc gia.
5. Hoàng Đình Cúc – Đức Dũng (2007), Những vấn đề của báo chíhiện
đại, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
6. Ngô Văn Dụ, Hồng Hà, Trần Xuân Giá (2006), Tìm hiểu một sốthuật
ngữ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng,Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia , Hà Nội.
7. Nguyễn Đăng Duy (2002), Văn hóa học Việt Nam, Nxb VHTTHN.
8. Đức Dũng (2002), Sáng tạo tác phẩm báo chí, Nxb VHT.
9. Đức Dũng (2002), Viết báo như thế nào, Nxb VHTT.
10. Nguyễn Văn Dững, Đỗ Thị Thu Hằng (2012), Truyền thông, Lý thuyết
và kỹ năng cơ bản, Nxb Lý luận Chính trị.
11. Nguyễn Văn Dững (2011), Báo chí truyền thông hiện đại, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
12. Nguyễn Văn Dững (2011), Báo chí và Dư luận xã hội, Nxb Lao động.
13. Hà Minh Đức (2000), Cơ sở lý luận báo chí – Đặc tính chung và phong
cách. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
14. Nguyễn Thị Trường Giang (2011), Báo mạng điện tử - Những vấn đề
cơ bản, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
15. Vũ Quang Hào (2004), Ngôn ngữ Báo chí, Nxb Quốc gia.
16. Vũ Quang Hào (2004), Báo chí và đào tạo Báo chí Thụy Điển, Nxb Văn
hóa Thôngtin.
17. Lương Khắc Hiếu (chủ biên) (1999), Dư luận xã hội trong sự nghiệp
đổimới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia.
20. Đinh Văn Hường (2006), Các thể loại báo chí Thông tấn. Nxb Đại học
Quốc Gia Hà Nội.
21. Đinh Văn Hường (2011), Tổ chức và hoạt động của tòa soạn, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.
22. Đỗ Quang Hưng chủ biên (2000), Lịch sử Báo chí Việt Nam, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.
23. Phạm Thành Hưng, (2007), Thuật ngữ báo chí – truyền thông, Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
24. Vũ Đình Hòe (chủ biên) (2000), Truyền thông đại chúng trong công tác
lãnh đạo, quản lý, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
25. Khoa Báo chí Trường ĐHKHXN&NV (2005), Thể loại báo chí, Nxb
ĐHQGTPHCM.
26. G.V Lazutina (2004), Cơ sở hoạt động sáng tạo của nhà báo, Nxb
Thông tấn.
27. Nhà xuất bản Thông Tấn (2006), Kỹ năng viết bài, Nxb Thông Tấn.
28. Nhiều tác giả (1994, 1996, 1997, 2001, 2005), Báo chí những vấn đề lý
luận và thực tiễn (5 tập), Nxb Giáo dục.
29. Huỳnh Dũng Nhân (2007), Phóng sự, từ giảng đường đến trangviết,
Nxb Thông Tấn.
30. Trần Quang Nhiếp (2002), Định hướng hoạt động và quản lý báochí
trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, NxbChính trị
Quốc gia, Hà Nội.
31. Nghị định Chính Phủ Về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet.
32. Quyết định của Bộ Công An về việc Ban hành Quy định đảm bảo an
toàn,an ninh trong hoạt động quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ
Internet tạiViệt Nam.
33. Trần Quang (2007), Các thể loại báo chí chính luận, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội.
34. Trần Quang (2001), Làm báo, lý thuyết và thực hành, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
35. Trần Hữu Quang (2006), Xã hội học báo chí, Nxb Trẻ, TP.Hồ ChíMinh.
36. Phạm Văn Quyết - Nguyễn Quý Thanh (chủ biên). Phương pháp nghiên
cứu Xã hội học. NxbĐại học Quốc gia Hà Nội.
37. Dương Xuân Sơn (2005), Thể loại báo chí, Nxb Đại học Quốc gia
TPHCM.
38. Dương Xuân Sơn (2004), Các thể loại báo chí chính luận nghệ
thuật,NxbĐại học Quốc gia Hà Nội.
39. Dương Xuân Sơn, Trịnh Đình Thắng (1996), Phương pháp biên tập
sách báo, Nxb Văn hóa thông tin.
40. Anya Schiffrin, Amer Bisat (2004), Đưa tin thời toàn cầu hóa,Nxb Văn
hóa Thông tin.
41. Tạ Ngọc Tấn (2004), Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị Quốc gia.
42. Nguyễn Vũ Tiến (2005), Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí
trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia.
43. Hà Quốc Tri (2005), Báo chí với sự nghiệp đổi mới đất nước, Tạp chí
Người làm báo số tháng 8/2005.
44. Hồ Bá Thâm & Nguyễn Tôn Thị Tường Vân (2010), Phản biện xã hội
và phát huy dân chủ pháp quyền, Nxb Chính trị quốc gia.
45. Trần Đăng Tuấn (2007), Một số vấn đề của lãnh đạo, quản lý báo chí
trong tình hình hiện nay, Tạp chí Cộng sản số 11/2007.
46. Nguyễn Thị Minh Thái (2005), Sân khấu và tôi, Nxb Sân khấu.
47. Nguyễn Thị Minh Thái (2005), Phê bình tác phẩm văn học nghệ thuật
trên báo chí , Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
48. Nguyễn Thị Minh Thái (2012), Mặt người mặt hoa, Nxb Văn hóa – Văn
nghệ.
49. Nguyễn Quý Thanh (2008), Xã hội học về dư luận xã hội, NxbĐại học
Quốc gia Hà Nội.
50. Nguyễn Thị Thoa (2007), Tổ chức và quản lý báo mạng điện tử ở Việt
Nam.
51. Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục.
52. Trần Đăng Tuấn (2006), Phản biện xã hội – những câu hỏi đặt ratừ
cuộc sống, Nxb Đà Nẵng.
53. Trần Quốc Vượng (2010), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục VN.
54. Viện Ngôn ngữ học (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng và Trung
tâm từ điển học, Đà Nẵng.
55. Nguyễn Như Ý (1999), Đại Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin.
Tài liệu dịch
56. Philippe Breton, Serge Proulx (1996), Sự bùng nổ truyền thông(người
dịch: Vũ Đình Phòng), Nxb Văn hóa, Hà Nội.
57. Doris A. Graber (2006), Sức mạnh của truyền thông chính trị(người
dịch: Phạm Minh Sơn, Nguyễn Thị Phương Dung, Phạm ThuHiền, Ngô
Thị Thúy Hiền, Võ Thị Huệ, Nguyễn Thị Việt Nga, NguyễnThị Minh
Nguyệt, Nguyễn Thị Thu Thủy), khoa Quan hệ Quốc tế - Họcviện Báo
chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
58. Priest S. (2003), Nghiên cứu truyền thông, (người dịch: Thu Hồng),Học
viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
59. Michael Schudson (2003), Sức mạnh của tin tức truyền thông –
ThePower of News (người dịch: Thế Hùng, Trà My), Nxb Chính trị
Quốcgia, Hà Nội).
60. Eric Filchtelius (2002), 10 bí quyết kỹ năng nghề báo (Nguyễn Văn
Dững. Hoàng Anh, Nguyễn Ngọc Oanh dịch và biên soạn), Nxb Lao
động.
Luận văn, luận án
61. Hoàng Thủy Chung (2010), Tính phản biện xã hội của tác phẩm báo
chí Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ, Khoa Báo chí & Truyền thông, ĐH
KHXH&NV, ĐH QGHN.
62. Trần Bá Dung (2008), Nhu cầu tiếp nhận thông tin của công chúngbáo
chí Hà Nội, Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Truyền thông đạichúng, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền Hà Nội.
63. Nguyễn Thu Giang, (2007) Công chúng Hà Nội với việc đọc báo in và
báo điện tử, Luận văn Thạc sỹ, Khoa Báo chí và Truyền thông, Trường
ĐH Khoa học Xã hội &Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
64. Phan Văn Kiền (2011), Phản biện xã hội của báo trực tuyến qua một số
sự kiện tiêu biểu, Luận văn Thạc sỹ, Khoa Báo chí & Truyền thông,
ĐH KHXH&NV, ĐH QGHN.
65. Phạm Thị Mai (2010), Ngôn ngữ thể loại tin trên báo mạng điện tử Việt
Nam hiện nay, Luận văn Thạc sỹ, Khoa Báo chí & Truyền thông, ĐH
KHXH&NV, ĐH QGHN.
Bài viết trên báo, tạp chí
66. Nguyễn Quang A (22/06/2010), Báo chí và phản biện, Tiền Phong.
67. Nguyễn Trần Bạt (2007), Phản biện xã hội, Tạp chí The Journal of
Global Issues & Solutions.
68. Phạm Tiến Duật (31/09/2007), Phản biện xã hội và phát triển xã hội.
69. Tương Lai (05/02/2009), Đồng thuận xã hội và phản biện xã hội, Tuần
Việt Nam.
70. Đỗ Văn Quân (02/2009), Vai trò của phản biện xã hội ở Việt Nam hiện
nay, Tạp chí Lý luận Chính trị.
71. Thanh Phong (22/02/2009), Vai trò quan trọng của phản biện xã hội.
72. Nguyễn Thị Minh Thái (03/2015), Truyền thông văn hóa và văn hóa
truyền thông, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông.