ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-------------------------------- TRƢƠNG THỊ LÊ NA PHƢƠNG THỨC SẢN XUẤT CHƢƠNG TRÌNH

THỜI SỰ Ở KÊNH TRUYỀN HÌNH VOVTV

NHÌN TỪ GÓC ĐỘ TRUYỀN THÔNG

ĐA PHƢƠNG TIỆN

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: BÁO CHÍ HỌC

Hà Nội - 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------

TRƢƠNG THỊ LÊ NA PHƢƠNG THỨC SẢN XUẤT CHƢƠNG TRÌNH

THỜI SỰ Ở KÊNH TRUYỀN HÌNH VOVTV

NHÌN TỪ GÓC ĐỘ TRUYỀN THÔNG

ĐA PHƢƠNG TIỆN

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học

Mã số: 60 32 01 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. TRƢƠNG THỊ KIÊN

Hà Nội - 2015

LỜI CẢM ƠN

Xin trân trọng cảm ơn Tiến sĩ Trƣơng Thị Kiên - ngƣời đã trực tiếp

hƣớng dẫn tôi nghiên cứu và hoàn thành luận văn với đề tài: “Phương thức

sản xuất Chương trình Thời sự ở kênh VOVTV nhìn từ góc độ truyền

thông đa phương tiện”. Xin chân thành cảm ơn Ban Lãnh đạo, Ban Biên tập

mà đặc biệt là Nhóm sản xuất Chƣơng trình Thời sự kênh VOVTV - Đài

Tiếng nói Việt Nam đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.

Tác giả luận văn

Trƣơng Thị Lê Na

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng đề tài “Phương thức sản xuất Chương trình

Thời sự ở kênh VOVTV nhìn từ góc độ đa phương tiện” là công trình

nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu và dẫn chứng trong luận văn có cơ sở

rõ ràng và trung thực.

Tác giả luận văn

Trƣơng Thị Lê Na

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ SẢN XUẤT

CHƢƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH DƢỚI GÓC ĐỘ TRUYỀN THÔNG

ĐA PHƢƠNG TIỆN ....................................................................................... 8

1.1. Về một số khái niệm, quan niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu . 8

1.1.1. Đa phương tiện ................................................................................. 8

1.1.2. Truyền thông đa phương tiện ......................................................... 10

1.1.3. Hội tụ truyền thông ........................................................................ 12

1.1.4. Cơ quan báo chí đa phương tiện và Tập đoàn truyền thông ......... 14

1.2. Phƣơng thức sản xuất chƣơng trình truyền hình dƣới góc độ đa

phƣơng tiện ................................................................................................. 16

1.2.1. Quan niệm về phương thức sản xuất chương trình truyền hình .... 16

1.2.2. Quan niệm về phương thức sản xuất chương trình truyền hình dưới

góc độ truyền thông đa phương tiện ........................................................ 18

1.2.3. Thế mạnh của chương trình truyền hình được sản xuất dưới góc độ

truyền thông đa phương tiện .................................................................... 20

1.2.4. Một số yêu cầu để tổ chức sản xuất thành công chương trình truyền

hình dưới góc độ truyền thông đa phương tiện ........................................ 23

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG SẢN XUẤT CHƢƠNG TRÌNH THỜI SỰ

TRÊN KÊNH VOVTV DƢỚI GÓC ĐỘ ĐA PHƢƠNG TIỆN ................ 28

2.1. Tổng quan về Chƣơng trình Thời sự kênh VOVTV - Đài Tiếng nói

Việt Nam ..................................................................................................... 28

2.1.1. Đôi nét về kênh VOVTV ................................................................. 28

2.1.2. Về Chương trình Thời sự VOVTV .................................................. 30

2.2. Tính đa phƣơng tiện trong phƣơng thức sản xuất Chƣơng trình

Thời sự của kênh VOVTV ........................................................................ 38

2.2.1. Đa phương tiện trong khai thác chất liệu nội dung cho VOVTV ... 38

2.2.2. Cách thức biên tập tin, bài phục vụ sản xuất Chương trình Thời sự

của kênh VOVTV ...................................................................................... 39

2.2.3. Đa phương tiện trong ứng dụng các hình thức chuyển tải thông tin

khác nhau ................................................................................................. 44

2.2.4. Nội dung thông tin của Chương trình Thời sự VOVTV ................. 46

2.2.5. Đa phương tiện trong truyền phát chương trình của kênh VOVTV

.................................................................................................................. 46

2.2.6. Đa phương tiện thể hiện ở khả năng tương tác với công chúng .... 48

2.2.7. Đội ngũ nhân sự tác nghiệp đa phương tiện .................................. 49

2.3. Đánh giá chung về thành công, hạn chế trong phƣơng thức sản

xuất Chƣơng trình Thời sự VOVTV dƣới góc độ truyền thông đa

phƣơng tiện ................................................................................................. 51

2.3.1. Thành công ..................................................................................... 51

2.3.2. Hạn chế........................................................................................... 54

2.4. Nguyên nhân thành công, hạn chế và những vấn đề đặt ra ........... 59

2.4.1. Nguyên nhân thành công ................................................................ 59

2.4.2. Nguyên nhân hạn chế ..................................................................... 63

Chƣơng 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NÂNG CAO HIỆU QUẢ SẢN XUẤT

CHƢƠNG TRÌNH TRÊN KÊNH VOVTV NHÌN TỪ GÓC ĐỘ

TRUYỀN THÔNG ĐA PHƢƠNG TIỆN ................................................... 68

3.1. Cơ sở đề xuất ....................................................................................... 68

3.1.1. Truyền thông đa phương tiện là xu thế tất yếu tại các cơ quan báo

chí ............................................................................................................. 68

3.1.2. Nhu cầu tiếp nhận sản phẩm truyền thông nói chung, truyền hình

nói riêng theo phương thức đa phương tiện của công chúng hiện đại .... 69

3.1.3. Sự quan tâm của lãnh đạo Đài Tiếng nói Việt Nam tới sản xuất

chương trình truyền hình theo phương thức đa phương tiện ................... 69

3.2. Một số đề xuất ..................................................................................... 70

3.2.1. Thường xuyên có cơ chế đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ sản xuất

chương trình đa phương tiện .................................................................... 70

3.2.2. Đổi mới quy trình sản xuất gắn chặt với phương thức đa phương

tiện ............................................................................................................ 74

3.2.3. Kiện toàn kỹ thuật phục vụ sản xuất chương trình ........................ 77

3.2.4.Tăng đầu tư tài chính để sản xuất các chương trình truyền hình đa

phương tiện ............................................................................................... 78

3.2.5. Tăng cường hợp tác, liên kết sản xuất giữa các bộ phận trong Đài

Tiếng nói Việt Nam và kênh VOVTV ........................................................ 80

KẾT LUẬN .................................................................................................... 83

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 85

PHỤ LỤC ....................................................................................................... 89

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Ý nghĩa

Truyền hình Công an nhân dân ANTV

Biên tập viên BTV

Phƣơng thức sản xuất PTSX

Phóng viên PV

Tổ chức sản xuất TCSX

Tổ chức sản xuất chung TCSXC

Tiếng nói Việt Nam TNVN

Đài Tiếng nói Việt Nam VOV

Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC VTC

Đài Truyền hình Việt Nam VTV

TTXVN Thông tấn xã Việt Nam

DANH MỤC HÌNH VẼ

Hình 2.1a. Khâu 1: Biên tập và dựng tin, bài .................................................. 32

Hình 2.1b. Khâu 2: Duyệt Vỏ kịch bản ........................................................... 34

Hình 2.2. Giao diện Cổng thông tin điện tử VOV - Trung tâm tin ................. 38

Hình 2.3. Giao diện trực tuyến của kênh VOVTV trên website Vov.vn ........ 47

Hình 2.4. Khán giả có thể tải ứng dụng xem miễn phí các chƣơng trình của

kênh VOVTV qua điện thoại di động, máy tính bảng... ................................. 48

Hình 2.5. Cấu trúc mô hình VOV trực tuyến giai đoạn 2011 – 2016 ............. 61

Hình 3.1. Quy trình sản xuất Chƣơng trình Thời sự theo đề xuất .................. 75

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Sự ra đời của Internet đã tạo đƣợc bƣớc đột phá mang tính cách mạng

trong truyền tải và thể hiện thông tin những năm đầu của thế kỷ 21. Chính sự

phát triển cùa web 2.0 cùng những kỹ thuật truyền thông hiện đại đã tạo nền

tảng vững chắc cho sự ra đời của một phƣơng thức truyền thông mới: truyền

thông đa phƣơng tiện. Ngày nay, trên thế giới, việc một cơ quan báo chí sở

hữu nhiều loại hình báo chí khác nhau đã không còn xa lạ. Công chúng trong

thời đại truyền thông đa phƣơng tiện đƣợc hƣởng thụ rất nhiều lợi ích mà xu

thế này đem lại. Không chỉ đƣợc đọc thông tin trên báo in, họ còn có thể theo

dõi thông tin đó qua phát thanh, truyền hình, thậm chí đƣợc cập nhật thƣờng

xuyên và liên tục qua báo mạng điện tử. Hơn thế, ở cấp độ sản phẩm truyền

thông đa phƣơng tiện, chẳng hạn, trên các tờ báo mạng đa phƣơng tiện, các

chƣơng trình truyền hình đa phƣơng tiện…, công chúng đƣợc tiếp cận thông

tin phong phú, đa dạng và vô cùng tiện lợi không chỉ qua văn bản text, qua

tranh ảnh, đồ họa, mà còn qua âm thanh, video clip.

Không đứng ngoài xu thế này, ngành truyền thông Việt Nam nói chung

và nền báo chí nƣớc ta nói riêng đang từng bƣớc có những chuyển biến lớn để

tận dụng đƣợc những lợi thế mà truyền thông đa phƣơng tiện mang lại. Một

số tòa soạn đã và đang áp dụng mô hình này trong hoạt động nhƣ Đài Truyền

hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC,

Thông tấn xã Việt Nam, báo Nhân Dân v.v... Trong đó, Đài Tiếng nói Việt

Nam với lợi thế là Đài Phát thanh Quốc gia có mạng lƣới thƣờng trú và cộng

tác viên đông đảo cả trong nƣớc lẫn ngoài nƣớc cũng đang tận dụng tiềm năng

sẵn có để phát huy thế mạnh của truyền thông đa phƣơng tiện.

Đối với kênh truyền hình VOVTV của Đài Tiếng nói Việt Nam, ngay từ

khi ra đời cách đây 5 năm (7/9/2008), kênh đã tận dụng đƣợc lợi thế sẵn có

2

của Đài Phát thanh Quốc gia để đƣa tin trên cả lĩnh vực truyền hình lẫn phát

thanh, báo mạng; một số bài bình luận sắc sảo còn đƣợc đăng tải trên báo in.

Mặc dù vẫn gặp nhiều khó khăn đan xen nhƣ hầu hết các cơ quan báo chí, các

kênh chƣơng trình khác trong thời kỳ bão hòa truyền hình, khủng hoảng kinh

tế, nhƣng VOVTV, trong đó có Chƣơng trình Thời sự VOVTV đã từng bƣớc

khẳng định đƣợc vị trí của mình và có đƣợc một lƣợng khán giả ổn định. Các

chƣơng trình Thời sự VOVTV- với khả năng sản xuất chƣơng trình dƣới góc

độ đa phƣơng tiện, đã cung cấp cho công chúng nhiều thông tin hơn, tiếp cận

đƣợc một lƣợng khán giả đông đảo hơn- không chỉ là khán giả xem ti vi, mà

còn là khán giả - độc giả của Thời sự VOVTV trên tờ báo mạng điện tử

VOV.vn, khán giả- công chúng sử dụng điện thoại di động… Hình thức

chuyển tải thông tin của Thời sự VOVTV cũng sinh động hơn. Đến với Thời

sự VOVTV đƣợc sản xuất dƣới góc độ đa phƣơng tiện, công chúng có thể trải

nghiệm cảm giác hƣởng thụ thông tin bằng nhiều giác quan- thị giác, thính

giác, xúc giác. Thƣơng hiệu, uy tín của Thời sự VOVTV cũng đƣợc tăng lên

đáng kể…

Tuy nhiên, trong hoạt động của mình, kênh VOVTV nói chung, Chƣơng

trình Thời sự VOVTV nói riêng còn có một số hạn chế nhƣ: chất lƣợng nhân

lực còn chƣa cao; cơ cấu tổ chức còn bất cập; khâu tổ chức sản xuất các

chƣơng trình còn chƣa nhất quán, dẫn đến chồng chéo và lãng phí tiềm năng

về thông tin của một Đài Phát thanh cấp Trung ƣơng. Trong khi đó, ở nƣớc ta,

truyền thông đa phƣơng tiện lại là một xu hƣớng khá mới mẻ, do đó việc áp

dụng phƣơng thức sản xuất chƣơng trình dựa trên sự liên kết nội dung giữa

các loại hình báo chí khác nhau trong chƣơng trình Thời sự VOVTV, Đài

TNVN không tránh khỏi những lúng túng, bất cập. Chính vì vậy, làm sao để

hạn chế bất cập, phát huy mạnh mẽ những tiềm năng sẵn có của Đài TNVN,

làm cho chƣơng trình truyền hình VOVTV ngày càng phát triển là yêu cầu có

3

tính thực tiễn trong giai đoạn hiện nay. Vì lý do này, chúng tôi triển khai thực

hiện Luận văn nghiên cứu về Phương thức sản xuất chương trình thời sự ở

kênh VOVTV nhìn từ góc độ truyền thông đa phương tiện (khảo sát chƣơng

trình Thời sự hàng ngày từ tháng 6/2013 đến tháng 06/2014).

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Liên quan đến vấn đề truyền thông đa phương tiện, đến nay, theo tìm

hiểu của chúng tôi, đã có một số cuốn sách cũng nhƣ bài viết của các nhà

khoa học có uy tín trong lĩnh vực báo chí - truyền thông. Dƣới đây là một số

công trình nghiên cứu mà chúng tôi tiếp cận đƣợc:

- Cuốn “Báo chí truyền thông hiện đại (từ hàn lâm đến đời thường)” của

PGS. TS. Nguyễn Văn Dững (Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội, H. 2011).

Trong cuốn này, cùng với việc cung cấp các kiến thức lý luận và thực tiễn báo

chí Việt Nam, tác giả dành một vài trang để nhận định về truyền thông đa

phƣơng tiện. Theo tác giả, truyền thông đa phƣơng tiện chính là thế mạnh nổi

trội của báo điện tử - loại hình báo chí tuy “sinh sau đẻ muộn” nhƣng sở hữu

khả năng tích hợp các loại hình báo chí khác nhƣ một trong những đặc tính ƣu

việt nhất.

- Bài viết của GS. TS. Tạ Ngọc Tấn: “Phát triển báo chí trước những

yêu cầu mới của đất nước” (Tạp chí Cộng sản, số 15/2005). Trong bài viết

này, tác giả nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới báo chí, bắt kịp xu thế phát

triển của truyền thông hiện đại trong thời kỳ hội nhập, đặc biệt là sự “chuyển

mình” của các cơ quan báo chí nhằm thỏa mãn ngày càng nhiều hơn nhu cầu

của công chúng.

- Luận văn Thạc sĩ “Cách thức đưa tin đa phương tiện trên báo mạng

điện tử ở Việt Nam hiện nay” (2010) của tác giả Phạm Thị Hồng chỉ ra cách

thức sản xuất tin tức đa phƣơng tiện trong một tòa soạn báo mạng điện tử mà

cụ thể là Vietnam.vn và VnExpress.net; những ƣu, nhƣợc điểm của các tin đa

4

phƣơng tiện hiện nay cũng nhƣ các giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng nội

dung và kỹ thuật của các tin Multimedia.

- “Đổi mới mô hình tổ chức hoạt động của Tòa soạn Báo in trong cơ quan

báo chí đa loại hình” (2012) của tác giả Nguyễn Quý Hoài cung cấp một số

mô hình cơ quan báo in nằm trong cơ quan báo chí đa loại hình trên thế giới và

tại Việt Nam; những hiệu quả và hạn chế mà các mô hình cơ quan này gặp

phải, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới mô hình tổ chức hoạt

động của tòa soạn báo in trong cơ quan báo chí đa loại hình tại Việt Nam.

- “Mô hình tổ chức tòa soạn đa loại hình của báo An ninh thủ đô – Thực

trạng và vấn đề đặt ra” (2012) của tác giả Lý Hoàng Tú Anh nghiên cứu mô

hình tòa soạn đa loại hình của báo An ninh Thủ đô, chỉ ra khả năng, ƣu điểm

của sự phối hợp giữa các loại hình trong tòa soạn, sự hội tụ các loại hình trong

từng tác phẩm của phóng viên, cũng nhƣ những trở ngại trong quá trình phát

triển của tòa soạn; đồng thời đƣa ra đề xuất nhằm khắc phục những trở ngại

đó, góp phần xây dựng một mô hình cơ quan báo chí đa loại hình theo kịp sự

phát triển của xu thế báo chí hiện đại.

- Luận văn “Xây dựng mô hình tòa soạn đa phương tiện của báo Kinh tế

và Đô thị” của tác giả Phùng Thị Hồng Hạnh (2013) đề cập đến vấn đề diện

mạo của báo in và báo điện tử trong bối cảnh hiện nay với việc phân tích,

đánh giá những ƣu, nhƣợc điểm của từng loại hình, trong đó có báo Kinh tế

và Đô thị; từ đó nêu lên những cơ sở để báo Kinh tế & Đô thị phát triển lên

mô hình tòa soạn đa phƣơng tiện; đồng thời nêu lên những khuyến nghị, giải

pháp để xây dựng mô hình tòa soạn đa phƣơng tiện phù hợp với tình hình

thực tế của tờ báo này.

Gần đây, vào tháng 6/2013, Viện Nghiên cứu Báo chí và Truyền thông

thuộc Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã tổ chức một Hội thảo khoa học

với chủ đề “Sự vận động, phát triển của Báo chí, Truyền thông trong thời kỳ

5

Hội tụ truyền thông, tích hợp phương tiện”. Hội thảo đã thu hút nhiều bài viết

có liên quan đến vấn đề truyền thông đa phƣơng tiện, hội tụ truyền thông,

nhƣ: “Tòa soạn hội tụ và xu thế phát triển ở Việt Nam hiện nay” (TS. Trƣơng

Thị Kiên – Phó Tổng biên tập tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông, Học

viện Báo chí và Tuyên truyền); “Xu thế báo chí đa phương tiện thời truyền

thông hội tụ” (TS. Nguyễn Thị Trƣờng Giang, Phó trƣởng khoa Phát thanh –

Truyền hình, Học viện Báo chí và Tuyên truyền); “Mấy suy nghĩ về việc ứng

dụng đa phương tiện đối với những người hoạt động trong lĩnh vực báo chí,

truyền thông hiện nay” (TS. Nguyễn Đức Hạnh, Phó Viện trƣởng Viện nghiên

cứu Báo chí và Truyền thông, Học viện Báo chí và Tuyên truyền); “Truyền

thông đa phương tiện – Xu thế tất yếu toàn cầu” (TS. Đỗ Thị Hằng, Viện

nghiên cứu Báo chí và Truyền thông, Học viện Báo chí và Tuyên truyền)

v.v… Hội thảo thực sự mang lại những kiến thức, kinh nghiệm quý báu về cả

lý thuyết lẫn hoạt động thực tiễn liên quan đến xu thế truyền thông đa phƣơng

tiện, cung cấp những cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng cho chúng tôi trong

quá trình thực hiện Luận văn này.

Ngoài ra còn một số bài viết của các tác giả đăng trên các tạp chí khoa

học hoặc trên báo chí. Tuy nhiên, những bài viết này chỉ mới dừng ở

mức đánh giá chung, sơ lƣợc, chƣa tập trung nghiên cứu đầy đủ những nét

đặc trƣng của báo chí trong xu thế truyền thông đa phƣơng tiện. Một số tài

liệu bằng tiếng Anh cũng có đề cập đến xu thế này, nhƣng do bất đồng ngôn

ngữ, chúng tôi cũng gặp khó khăn khi cố gắng tiếp cận các tài liệu này.

Đáng chú ý, cho đến nay, chƣa có tài liệu nào nghiên cứu về truyền

thông đa phƣơng tiện tại Đài Tiếng nói Việt Nam, đặc biệt, chƣa có bất kỳ

công trình nào tiếp cận nghiên cứu về chƣơng trình Thời sự VOVTV dƣới góc

độ truyền thông đa phƣơng tiện. Vì vậy, đề tài “Phương thức sản xuất

Chương trình Thời sự ở kênh VOVTV nhìn từ góc độ truyền thông đa phương

6

tiện” là đề tài hoàn toàn mới, không trùng lắp với bất kỳ công trình nghiên

cứu nào trƣớc đó.

3. Mục đích nghiên cứu

Đề tài nhằm khảo sát thực trạng sản xuất chƣơng trình Thời sự của kênh

VOVTV dƣới góc độ đa phƣơng tiện; đánh giá những thành công, hạn chế,

nguyên nhân thành công, hạn chế của chƣơng trình nhìn từ góc độ đa phƣơng

tiện, từ đó, đề xuất một số giải pháp phù hợp, góp phần nâng cao chất lƣợng,

hiệu quả chung của chƣơng trình.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt đƣợc mục đích trên, Luận văn triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu

sau đây:

- Trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về truyền thông đa phƣơng tiện

nói chung, phƣơng thức sản xuất chƣơng trình truyền hình dƣới góc độ đa

phƣơng tiện nói riêng.

- Khảo sát thực trạng sản xuất chƣơng trình Thời sự VOVTV tại Đài

Tiếng nói Việt Nam dƣới góc độ đa phƣơng tiện nhằm nhận diện các góc độ

đa phƣơng tiện trong sản xuất chƣơng trình, từ đó, đánh giá chung về những

thành công, hạn chế, nguyên nhân thành công, hạn chế của chƣơng trình.

- Bƣớc đầu đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những mặt hạn

chế, bất cập trong phƣơng thức sản xuất chƣơng trình Thời sự VOVTV dƣới

góc độ truyền thông đa phƣơng tiện nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng, hiệu

quả chƣơng trình.

5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Đối tƣợng nghiên cứu của Luận văn là Phương

thức sản xuất chương trình Thời sự trên kênh VOVTV - Đài Tiếng nói Việt

Nam dưới góc độ truyền thông đa phương tiện.

7

- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu ở chƣơng

trình Thời sự hàng ngày, khung giờ 6h-6h30; 11h30-12h; 18h-18h45 trên

Kênh VOVTV; thời gian từ tháng 06/2013 đến tháng 06/2014.

6. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Luận văn sử dụng các phƣơng pháp sau:

• Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đọc tài liệu, sách báo, văn bản...

để chắt lọc các kiến thức lý thuyết có liên quan tới đề tài.

• Phương pháp phỏng vấn: gặp gỡ và trao đổi, phỏng vấn sâu một

số nhà báo tại Đài Tiếng nói Việt Nam để tìm hiểu cách thức mà họ áp dụng

trong sản xuất Chƣơng trình Thời sự trên kênh VOVTV dƣới góc độ đa

phƣơng tiện.

• Phương pháp khảo sát hoạt động sản xuất chương trình trên thực

tế: khảo sát thực tế sản xuất Chƣơng trình Thời sự VOVTV ở các góc độ quy

trình sản xuất, nhân lực, kỹ thuật sản xuất chƣơng trình v.v, làm cơ sở để

đánh giá, nhận xét về thành công, hạn chế của chƣơng trình.

• Phương pháp phân tích, tổng hợp: dựa trên các dữ liệu có đƣợc từ

khảo sát thực tiễn, tác giả phân tích, đánh giá những mặt đƣợc, chƣa đƣợc của

việc sản xuất Chƣơng trình Thời sự VOVTV dƣới góc độ đa phƣơng tiện, từ đó,

tổng hợp thành các luận điểm nhằm làm sáng rõ mục đích nghiêm cứu đề tài.

7. Kết cấu luận văn:

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc triển

khai thành 3 chƣơng:

- Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về sản xuất chƣơng trình

truyền hình dƣới góc độ truyền thông đa phƣơng tiện

- Chƣơng 2: Thực trạng sản xuất chƣơng trình thời sự trên kênh

VOVTV dƣới góc độ truyền thông đa phƣơng tiện

- Chƣơng 3: Một số đề xuất nâng cao hiệu quả sản xuất chƣơng trình

Thời sự trên kênh VOVTV nhìn từ góc độ truyền thông đa phƣơng tiện

8

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN

VỀ SẢN XUẤT CHƢƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH

DƢỚI GÓC ĐỘ TRUYỀN THÔNG ĐA PHƢƠNG TIỆN

1.1. Về một số khái niệm, quan niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu

1.1.1. Đa phương tiện

“Phƣơng tiện” đƣợc hiểu là “những cách thức, công cụ, con đường để

thực hiện một công việc cụ thể nào đó” [29, tr. 403]. Với truyền thông nói

chung và báo chí nói riêng, phƣơng tiện chính là những cách thức, công cụ,

con đƣờng để truyền thông điệp (nội dung thông tin) đến với công chúng.

“Đa phƣơng tiện” là thuật ngữ xuất phát từ cụm từ “Multimedia” trong

tiếng Anh, xuất hiện khoảng vào giữa thế kỷ 20 – khi internet còn chƣa ra đời.

Theo đó, “Media” là phƣơng tiện, “Multi” là nhiều; “Multimedia” là sản

phẩm đƣợc tạo ra để “chạy” trên nhiều thiết bị đầu cuối khác nhau, hay nói

cách khác, là sản phẩm đƣợc truyền tải bởi nhiều phƣơng tiện khác nhau.

Lần đầu tiên, cụm từ “đa phƣơng tiện” xuất hiện là vào năm 1965, đƣợc

sử dụng để miêu tả một buổi trình diễn đặc biệt mang tên “Exploding Plastic

Inevitable” (tạm dịch: “Sự kết hợp hoàn hảo mang tính đột phá từ những điều

quen thuộc). Đây là buổi biểu diễn đầu tiên có sự kết hợp của nhạc rock,

chiếu bóng, ánh sáng và trình diễn nghệ thuật. Sau đó, cụm từ này dần đƣợc

sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực với nhiều ý nghĩa khác nhau.

Cách đây gần 20 năm, Viện Xã hội Ngôn ngữ Đức “Gesellschaft für

deutsche Sprache” đã quyết định công nhận ý nghĩa của từ “đa phƣơng tiện”

bằng cách trao cho nó danh hiệu “Từ của năm” vào năm 1995 và khẳng định:

“Đa phương tiện đã trở thành một từ trung tâm trong các phương tiện truyền

thông thế giới mới” [44, tr8].

9

Khái niệm “đa phƣơng tiện” đƣợc rất nhiều tác giả đề cập đến trong nhiều

công trình nghiên cứu cũng nhƣ các bài báo, bài thảo luận... Tùy vào lĩnh vực,

khái niệm “đa phƣơng tiện” đƣợc định nghĩa không hoàn toàn giống nhau.

Chẳng hạn, trong lĩnh vực điện tử công nghệ, “multimedia” hay “đa

phƣơng tiện” là sự kết hợp giữa phƣơng tiện truyền thông (media) và các

dạng nội dung (contents) khác nhau bao gồm tổ hợp văn bản (text), âm thanh

(audio), hình ảnh tĩnh (still image), hình ảnh động (video), đồ hình – đồ họa

(graphic), và những nội dung mang tính tƣơng tác (interactive programs) vào

trong cùng một thiết bị công nghệ nhƣ điện thoại di động, máy vi tính, máy

ảnh, máy nghe nhạc…

Trong cuốn “Multimedia Technologies”, tác giả Ashok Banerji cho rằng:

“Khi được sử dụng như một danh từ: Đa phương tiện đề cập đến công nghệ

và các thiết bị, phương tiện truyền thông. Đó là việc sử dụng kết hợp các hình

thức khác nhau của các phương tiện truyền thông âm thanh và hình ảnh như:

văn bản, đồ họa, hoạt hình, âm thanh và video; khi sử dụng như một tính từ:

Đa phương tiện mô tả sự trình bày liên quan đến việc sử dụng nhiều phương

tiện truyền thông cùng một lúc”. [41, tr45]

Trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, PGS. TS. Đỗ Trung Tuấn – Giảng viên

Khoa Toán Cơ Tin học, Trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên đƣa ra định nghĩa:

“Đa phương tiện là kỹ thuật mô phỏng và sử dụng đồng thời nhiều dạng

phương tiện chuyển hóa thông tin và các tác phẩm từ kỹ thuật đó”.[38, tr.28].

Trong khi đó, lĩnh vực truyền thông, đặc biệt là trong lĩnh vực báo chí,

thuật ngữ “đa phƣơng tiện” lại đƣợc dùng thiên về cách hiểu là phƣơng thức

truyền tải thông tin trên các thiết bị khác nhau, với các dạng thức ngôn ngữ

khác nhau phù hợp cho mỗi loại thiết bị.

Tóm lại, mỗi lĩnh vực, thuật ngữ đa phương tiện có cách hiểu tƣơng đối

khác nhau tùy vào mục đích, đối tƣợng sản xuất, phƣơng tiện kỹ thuật, nội

10

dung thông tin, đối tƣợng tiếp nhận. Tuy nhiên, một cách chung nhất, có thể

hiểu: Đa phương tiện là sự kết hợp của nhiều loại phương tiện thiết bị kỹ

thuật và nhiều loại ngôn ngữ khác nhau để chuyển hóa, truyền tải thông tin

đến công chúng.

1.1.2. Truyền thông đa phương tiện

- Truyền thông:

Trong tiếng Anh, từ “communication” có nghĩa là sự truyền đạt, thông

tin, thông báo, giao tiếp, trao đổi, liên lạc, giao thông...

Truyền thông là hoạt động gắn liền với sự phát triển của con ngƣời và xã

hội loài ngƣời. Nhờ truyền thông, giao tiếp mà con ngƣời tự nhiên phát triển

thành con ngƣời xã hội. Cùng với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, công

nghệ, các phƣơng thức truyền thông của loài ngƣời cũng phát triển từ đơn

giản đến phức tạp, từ thô sơ đến hiện đại. Ngày nay, con ngƣời đã biết sử

dụng những kỹ thuật công nghệ tiên tiến để truyền thông nhƣ: truyền hình

cáp, vệ tinh địa tĩnh, Internet... Các phƣơng tiện truyền thông trở thành một

nhu cầu của đời sống, một công cụ đảm bảo cho sự phát triển bền vững của

mỗi quốc gia, một phƣơng tiện hữu hiệu để tăng cƣờng sự hiểu biết lẫn nhau

của con ngƣời, một nhịp cầu nối liền các dân tộc trên hành tinh chúng ta.

Có rất nhiều quan niệm khác nhau về truyền thông. Ở góc độ báo chí

tuyên truyền, nhiều nhà nghiên cứu đã đƣa ra quan niệm về truyền thông.

Chúng tôi đồng ý với quan điểm của PGS. TS. Lƣơng Khắc Hiếu khi cho rằng:

Truyền thông là quá trình giao tiếp, chia sẻ, trao đổi thông tin giữa các

cá nhân hay các nhóm người nhằm đạt được sự hiểu biết, nâng cao nhận

thức, hình thành thái độ và thay đổi hành vi của con người. [18, tr.5]

- Truyền thông đa phương tiện

Theo Từ điển bách khoa Wikipedia, “Truyền thông đa phương tiện là việc

dùng một số phương tiện khác nhau như văn bản, âm thanh, đồ họa, video và

11

khả năng tương tác để chuyển tải thông tin. Đa phương tiện theo nghĩa rộng là

việc tổ hợp các phương tiện khác nhau để tạo nên một cách mô tả nhiều mặt ý

tưởng, khái niệm hay tư tưởng. Đa phương tiện đơn giản có nghĩa là có khả

năng liên lạc, giao tiếp theo nhiều hơn một cách thức. Như vậy, đa phương tiện thật ra là liên lạc, giao tiếp theo vài cách thức khác nhau”. [4]

Trong cuốn “Multimedia Journalism – A practical guide” (Báo chí đa

phƣơng tiện – Hƣớng dẫn thực hành), tác giả Andy Bull cho rằng: “Báo chí

đa phương tiện là sự phát triển của Báo mạng điện tử khi các tác phẩm báo

chí trên Báo mạng điện tử được tích hợp đa phương tiện nhiều hơn”.

Trong bài viết “What is Multimedia Journalism” (Thế nào là nhà báo đa

phƣơng tiện”), tác giả Mark Deuze, giảng viên báo chí thuộc trƣờng Đại học

Amsterdam (Hà Lan) cho rằng: “Báo chí đa phương tiện đơn giản là hình

thức báo chí dựa vào các loại phương tiện truyền thông như văn bản, hình

ảnh, đồ họa, âm thanh, video, chương trình tương tác để truyền tải thông tin

đến độc giả một cách đa dạng, sống động và chân thực”. [42, tr.37]

PGS. TS. Nguyễn Văn Dững – Trƣởng khoa Báo chí, Học viện Báo chí

& Tuyên truyền nhận định: “Đa phương tiện chính là khả năng kết hợp các

tài liệu văn bản, hình ảnh, âm nhạc, video, hình động và tài liệu in ấn có thể

được sử dụng ở nhiều mức độ khác nhau nhằm “thay đổi” sự chú ý và truyền

đạt một cách có hiệu quả thông điệp của bạn (…) Đa phương tiện cho phép

kết hợp các loại hình truyền thông trong việc chuyển tải thông điệp nhằm gây

chú ý, hấp dẫn và thuyết phục công chúng”. [8, tr.26]

Qua một số ý kiến trên, chúng tôi cho rằng:

Truyền thông đa phương tiện là hình thức truyền thông sử dụng đồng

thời nhiều phương thức truyền tải thông tin như văn bản (text), hình ảnh tĩnh

(still image), hình ảnh động (animation), âm thanh (audio), video và các

12

chương trình tương tác (interactive programs) để đưa thông tin đến với công

chúng, thỏa mãn khả năng tiếp nhận thông tin bằng nhiều giác quan của họ.

Theo chúng tôi, Truyền thông đa phương tiện có 2 cấp độ (hình thức

thể hiện):

- Thứ nhất là Truyền thông đa phương tiện trên cùng một sản phẩm báo

chí, chẳng hạn nhƣ trong cùng một chƣơng trình truyền hình (có thể gọi là

chƣơng trình truyền hình theo phƣơng thức đa phƣơng tiện), trên cùng một tác

phẩm/một tờ báo mạng...

- Thứ hai là Truyền thông đa phương tiện trong một cơ quan báo chí, hay

còn gọi là cơ quan báo chí đa phƣơng tiện, tức là một cơ quan báo chí có

nhiều loại hình báo chí khác nhau: báo viết, báo phát thanh, báo truyền hình,

báo mạng…

Ở Luận văn này, khi nghiên cứu về phƣơng thức sản xuất chƣơng trình

truyền hình dƣới góc độ đa phƣơng tiện, là chúng tôi đang tiếp cận thuật ngữ

Truyền thông đa phương tiện ở cấp độ 1: truyền thông đa phƣơng tiện trong

cùng 1 chƣơng trình truyền hình.

1.1.3. Hội tụ truyền thông

Liên quan đến thuật ngữ đa phương tiện, các nhà nghiên cứu còn sử

dụng thuật ngữ hội tụ truyền thông.

Thực tế cho thấy, khái niệm hội tụ truyền thông bao hàm hai ý nghĩa:

“hội tụ” và “kết hợp”. Xét theo nghĩa hẹp, hội tụ truyền thông là sự tích hợp

các loại hình báo chí, tạo ra sự biến đổi về chất, hình thành hàng loạt phƣơng

tiện truyền thông mới nhƣ sách điện tử, blog, mạng xã hội…

Nếu xét từ nghĩa rộng, hội tụ truyền thông có phạm vi rộng hơn, gồm sự

kết hợp các phƣơng tiện truyền thông, không chỉ về loại hình truyền thông,

mà còn là sự hội tụ cả về chức năng, phƣơng thức đƣa tin, quyền sở hữu, cơ

cấu tổ chức của các cơ quan báo chí, truyền thông… Nói cách khác, hội tụ

13

truyền thông là quá trình phát triển tiệm tiến từ thấp đến cao, là sự phát triển

tất yếu của báo chí truyền thông hiện đại.

PGS. TS. Đinh Thị Thúy Hằng (2008) viết trong cuốn “Báo chí thế giới

và xu hướng phát triển” cho rằng: “Trong khuôn khổ của lĩnh vực truyền

thông, hội tụ được hiểu theo hai nghĩa như sau:

Thứ nhất, nội dung quan trọng nhất của hội tụ truyền thông là cùng với

việc phá bỏ “hàng rào” kiểm soát thông tin, các loại hình báo chí như báo in,

phát thanh, truyền hình, báo chí trực tuyến và cá thiết bị di động đã và đang

hội tụ với nhau về mặt công nghệ. Công nghệ thông tin đã dẫn đến việc liên

hợp các loại phương tiện báo chí khác nhau vào trong một phương thức hoạt

động. Sự hội tụ này đã mở ra một kỷ nguyên mới của đa truyền thông. Hội tụ

của các loại hình báo chí: báo in, truyền hình, phát thanh, phim ảnh được kết

hợp để đưa các dịch vụ tới người sử dụng.

Thứ hai là sự tập trung sở hữu truyền thông đại chúng. Các “tập đoàn

báo chí, một công ty sở hữu nhiều loại hình kinh doanh báo chí khác nhau.

Điều này dẫn đến sự hội tụ về kinh tế: các hãng truyền thông hội tụ qua việc

liên kết, sáp nhập hoặc mua cổ phần của nhau” [17, tr. 18].

PGS. TS. Nguyễn Đức Dũng cho rằng: thuật ngữ “Hội tụ truyền thông”

đƣợc dùng để chỉ sự tích hợp các phƣơng tiện báo chí khác nhau vào trong

một phƣơng thức hoạt động. Theo đó, các phƣơng tiện truyền thông cũ và mới

sẽ tƣơng tác với nhau theo những cách phức tạp hơn so với dự đoán trƣớc

đây. Sự hội tụ này đã mở ra một kỷ nguyên mới của truyền thông đa phƣơng

tiện, trong đó các loại hình báo chí, truyền thông nhƣ báo in, phát thanh,

truyền hình, tivi, phim ảnh, báo điện tử… đƣợc kết hợp để đƣa các dịch vụ

mới có chất lƣợng cao hơn đến ngƣời sử dụng”. [6, tr. 55]

Tóm lại, theo chúng tôi, hội tụ truyền thông nghĩa là sự tích hợp các

phƣơng thức truyền tải thông tin hay tích hợp các phƣơng tiện trong cùng một

14

cơ quan báo chí nhằm đem đến cho công chúng khả năng tiếp nhận thông tin

tiện lợi, gần nhƣ bằng mọi giác quan nhƣ: nghe, xem, đọc... trên nền tảng báo

điện tử. Và nhƣ vậy, hội tụ truyền thông và truyền thông đa phương tiện (ở

cấp độ 1) đƣợc hiểu tƣơng đồng về nghĩa.

1.1.4. Cơ quan báo chí đa phương tiện và Tập đoàn truyền thông

Từ khái niệm về Truyền thông đa phương tiện, thực tiễn đã xuất hiện

thêm một mô hình cơ quan truyền thông mà giới nghiên cứu gọi bằng thuật

ngữ: Cơ quan báo chí đa phương tiện, hay Tòa soạn báo đa phương tiện. Cơ

quan báo chí đa phƣơng tiện có thể hiểu nôm na là một cơ quan báo chí sở

hữu nhiều loại hình báo chí khác nhau trong cùng một thời điểm.

Và nhƣ vậy, cơ quan báo chí đa phương tiện, tòa soạn báo đa phương

tiện chính là biểu hiện của truyền thông đa phương tiện ở cấp độ thứ 2. Tại cơ

quan báo chí đa phƣơng tiện, ngƣời ta cùng lúc sở hữu nhiều loại hình báo

chí, chẳng hạn: vừa có báo in, vừa có phát thanh, truyền hình, vừa có báo

mạng điện tử...

Trong Đại hội lần thứ IX Hội Nhà báo Việt Nam, TS. Đinh Thế Huynh,

Nguyên Chủ tịch Hội nhà báo Việt Nam, Nguyên Tổng Biên tập báo Nhân

dân nhận định: “Báo chí thời gian tới không còn đơn nhất một loại hình mà sẽ

dần trở thành báo chí đa phương tiện”. [20, tr. 8]

Nhận định này đã chỉ ra rằng, đa phƣơng tiện là xu thế toàn cầu, nhiều

cơ quan báo chí trên thế giới đã hƣớng đến, sớm hay muộn là tùy thuộc vào

điều kiện của từng nƣớc, từng cơ quan báo chí. Hiện nay, nhiều cơ quan báo

chí của Việt Nam đã theo hƣớng phát triển đa phƣơng tiện. Nhiều cơ quan báo

in đã có thêm đài phát thanh, truyền hình và báo mạng điện tử; nhiều đài phát

thanh, truyền hình có thêm tạp chí và báo mạng điện tử. Chẳng hạn nhƣ Đài

Truyền hình Việt Nam có báo điện tử VTV (www.vtv.vn) và Tạp chí truyền

hình; Đài TNVN có báo điện tử VOV Online (www.vov.vn), Kênh truyền

15

hình VOVTV, Kênh truyền hình Quốc hội Việt Nam và Báo in VOV; Báo

Nhân dân ngoài cho ra đời báo Nhân Dân điện tử (www.nhandan.com.vn) từ

năm 1998 và hiện nay có thêm Kênh truyền hình Nhân Dân.

Mô hình cơ quan báo chí đa phƣơng tiện giúp giảm thiểu đƣợc các chi

phí cho nhân lực, cơ sở hạ tầng, vừa đảm bảo đƣợc chất lƣợng và hiệu quả

thông tin, phát huy nội lực và tăng cƣờng mối quan hệ tƣơng tác giữa các

kênh truyền thông trong cùng một tòa soạn. Phóng viên của tòa soạn có nhiều

kỹ năng tác nghiệp cùng một lúc trên nhiều thiết bị kỹ thuật và đảm bảo cung

cấp đƣợc thông tin cho nhiều loại hình báo chí.

Từ hình thức tồn tại cơ quan báo chí đa phƣơng tiện, một thuật ngữ cũng

tƣơng đồng với nó đƣợc ứng dụng trên thực tế đã ra đời: thuật ngữ tập đoàn

truyền thông, Tập đoàn báo chí.

Thực tế cho thấy, mô hình Tập đoàn báo chí là một mô hình kinh tế khi

các cơ quan báo chí lớn thực hiện hai chiến lược là tập trung hàng dọc, thẳng

đứng (Vertical) hay tập trung hàng ngang (Horizontal).

Mở rộng theo trục dọc là cơ quan báo chí nắm quyền sở hữu trong nhiều

lĩnh vực truyền thông khác nhau tạo thành một mạng lƣới sản xuất và tiêu thụ

liên hoàn nhằm tăng cƣờng ƣu thế trong một ngành hoạt động nhất định. Mở

rộng trục ngang là cơ quan báo chí thâu tóm gần nhƣ trọn vẹn một lĩnh vực

truyền thông nào đó, chẳng hạn nhƣ lĩnh vực xuất bản sách… Ví dụ nhƣ vào

năm 1986, Công ty điện lực General Electric đã mua mạng truyền hình Mỹ

NBC; Công ty viễn thông Mỹ AT&T năm 1999 đã nắm quyền kiểm soát hệ

thống truyền hình cáp TCI, năm 2004 mua tiếp mạng Mediaone…

Theo nghiên cứu của các nƣớc Tƣ bản chủ nghĩa thì đặc điểm lớn nhất

của mô hình Tập đoàn báo chí, đó là các tập đoàn này chủ yếu đƣợc hình

thành theo kiểu “cá lớn nuốt cá bé”, thôn tính và lũng đoạn lẫn nhau nhằm

phân chia khu vực và lợi nhuận.

16

Một tập đoàn báo chí thƣờng sẽ là cơ quan báo chí đa loại hình với sự

phát triển theo trục dọc. Tuy nhiên, một cơ quan báo chí đa loại hình chƣa hẳn

là một tập đoàn báo chí. Tại Việt Nam, cơ quan báo chí đa loại hình không

đƣợc gọi là một tập đoàn báo chí.

Nhƣ vậy, thuật ngữ “Tập đoàn báo chí”, “Cơ quan truyền thông đa

phƣơng tiện”, “Tòa soạn đa loại hình” đều có chung một đặc điểm: đó là cơ

quan truyền thông mà ở đó có thể có nhiều loại hình truyền thông cùng hoạt

động, nhƣng tùy theo điều kiện và cách nhìn nhận cơ quan báo chí đó để có

cách gọi cụ thể và chính xác. “Tập đoàn báo chí” là sự nhìn nhận dƣới góc độ

kinh tế; “Tòa soạn đa loại hình” hay “Tòa soạn hội tụ” là cái nhìn dƣới góc độ

tổ chức, còn “Cơ quan truyền thông đa phƣơng tiện” là cách nhìn dƣới góc độ

kỹ thuật.

1.2. Phƣơng thức sản xuất chƣơng trình truyền hình dƣới góc độ đa

phƣơng tiện

1.2.1. Quan niệm về phương thức sản xuất chương trình truyền hình

1.2.1.1. Quan niệm về chương trình truyền hình

Để tìm hiểu về phƣơng thức sản xuất chƣơng trình truyền hình, trƣớc

hết, cần hiểu thế nào là chƣơng trình truyền hình.

Chương trình truyền hình là sự liên kết, sắp xếp bố trí hợp lý các tin bài,

băng tư liệu, hình ảnh, âm thanh trong một thời gian nhất định, được mở đầu

bằng nhạc hiệu, hình hiệu, lời giới thiệu, kết thúc bằng lời chào tạm biệt

nhằm đáp ứng yêu cầu tuyên truyền của cơ quan báo chí truyền hình và mang

lại hiệu quả thông tin cao nhất cho khán giả. [31, tr.113]

Truyền hình cũng nhƣ trên phát thanh, có nhiều dạng chƣơng trình khác

nhau. Nếu phân chia theo tiêu chí tính chất thời sự của thông tin, có: chƣơng

trình Thời sự, chƣơng trình Chuyên đề. Nếu phân chia theo lĩnh vực phản ánh,

có: chƣơng trình Kinh tế, Văn hóa, Quân đội, Giáo dục đào tạo, Y tế, Thể

17

thảo… Nếu chia theo tiêu chí giới và lứa tuổi, có các chƣơng trình: Phụ nữ,

Thiếu nhi, Thanh niên, Ngƣời cao tuổi… Nếu theo tiêu chí mục đích thông

tin, chủ yếu có các chƣơng trình Giải trí (gameshows), các chƣơng trình tin

tức thời sự…

Mỗi chƣơng trình truyền hình có tôn chỉ mục đích, chức năng nhiệm vụ

khác nhau, đối tƣợng khán giả khác nhau. Căn cứ vào các yếu tố đó, ngƣời ta

thƣờng xây dựng chƣơng trình có cấu trúc, format tƣơng đối ổn định, có thời

lƣợng xác định, thời điểm phát cụ thể. Các chƣơng trình đƣợc phát trên từng

kênh sóng khác nhau.

1.2.1.2. Quan niệm về Phương thức sản xuất

Theo từ điển tiếng Việt, “phƣơng thức” đƣợc định nghĩa là “cách thức, phương pháp được quy định để tiến hành”. [29, tr.402], còn “sản xuất” là “quá trình tạo ra của cải, vật chất”.

Nhƣ vậy, có thể hiểu “phƣơng thức sản xuất” chính là cách thức, phương

pháp tạo ra một sản phẩm theo tiến trình đã định sẵn.

1.2.1.3. Phương thức sản xuất chương trình truyền hình

Phƣơng thức sản xuất Chƣơng trình Truyền hình có thể hiểu là toàn bộ

những công việc nhằm làm ra một chương trình truyền hình trong một thời

gian nhất định, được sắp xếp theo một quy trình định sẵn.

Cũng nhƣ trong phát thanh, ngƣời ta thƣờng chia phƣơng thức sản xuất

chƣơng trình truyền hình thành 2 phƣơng thức: chƣơng trình đƣợc sản xuất

trực tiếp và chƣơng trình truyền hình có hậu kỳ.

Trong cuốn Giáo trình báo chí truyền hình, tác giả - PGS. TS. Dƣơng

Xuân Sơn nhận định: “Dựa vào khả năng kỹ thuật và công nghệ, có thể phân

chia các loại phương thức sản xuất chương trình truyền hình như sau:

- Chương trình băng từ

- Chương trình phim nhựa

18

- Chương trình phát trực tiếp.

(...) Riêng chương trình sản xuất bằng phim nhựa vì giá thành rất cao

nên hầu như không được sử dụng trong truyền hình. Vì vậy, trong sản xuất

chương trình truyền hình thường có hai loại: băng từ và trực tiếp”.

Theo nhận định này, phƣơng thức sản xuất chƣơng trình có hậu kỳ chính là

phƣơng thức chƣơng trình băng từ nhƣ ý kiến của PGS. TS. Dƣơng Xuân Sơn.

Trong luận văn, khi nghiên cứu về phương thức sản xuất chương trình

truyền hình, chúng tôi không chỉ tiếp cận để tìm hiểu xem chƣơng trình truyền

hình đƣợc sản xuất theo phƣơng thức trực tiếp hay có hậu kỳ, mà thực chất,

chúng tôi còn nghiên cứu kỹ về quy trình tổ chức sản xuất một chương trình

truyền hình với những cách thức tổ chức sản xuất cụ thể trong từng quy trình đó.

1.2.2. Quan niệm về phương thức sản xuất chương trình truyền hình dưới

góc độ truyền thông đa phương tiện

1.2.2.1. Về thuật ngữ Góc độ

Góc độ là “chỗ đứng để nhìn nhận, đánh giá sự vật, sự việc” . Ở luận văn

này, khi nói đến góc độ truyền thông đa phƣơng tiện trong sản xuất chƣơng

trình truyền hình, là chúng tôi muốn tìm hiểu những biểu hiện của tính đa

phương tiện trong một chương trình truyền hình cũng nhƣ tìm hiểu những đặc

tính của truyền thông đa phương tiện đã ảnh hưởng, chi phối như thế nào đến

quá trình sản xuất chương trình truyền hình.

1.2.2.2. Các góc độ đa phương tiện trong sản xuất chương trình truyền hình

Theo chúng tôi, góc độ đa phƣơng tiện trong sản xuất chƣơng trình

truyền hình đƣợc biểu hiện nhƣ sau:

- Đa phương tiện trong khai thác tư liệu để xây dựng nội dung truyền

thông: “chất liệu” hay nguồn tin đƣợc sử dụng trong các sản phẩm truyền hình

đƣợc sản xuất, khai thác từ nhiều loại phƣơng tiện truyền thông đại chúng

khác nhau, chẳng hạn nhƣ từ báo in, báo mạng điện tử, phát thanh...

19

- Đa phương tiện trong khâu biên tập nội dung: thông tin sau khi đã

đƣợc khai thác từ các phƣơng tiện truyền thông khác nhau (từ báo in, báo phát

thanh, báo mạng) sẽ đƣợc các biên tập viên biên tập lại cho phù hợp với

những tiêu chí của chƣơng trình truyền hình, đảm bảo phù hợp với thói quen,

khả năng tiếp nhận của khán giả.

- Đa phương tiện trong sử dụng đồng thời các phương tiện ngôn ngữ

chuyển tải thông tin: chẳng hạn nhƣ trong một chƣơng trình truyền hình,

ngoài hình ảnh truyền hình và âm thanh, còn có cả hình ảnh tĩnh (tranh ảnh),

đồ hình - đồ họa (bảng biểu, biểu đồ, hình mô phỏng...), chữ viết (text) và

những hình thức tƣơng tác khác (điện thoại nối trực tiếp từ hiện trƣờng; tƣơng

tác qua máy tính có kết nối mạng Internet v.v...).

- Đa phương tiện trong khâu truyền phát các chương trình truyền hình:

việc sở hữu nhiều phƣơng tiện truyền thông giúp các cơ quan truyền thông

“vƣơn” xa hơn trong chiếm lĩnh các nhóm công chúng đích, thỏa mãn nhiều

hơn nhu cầu tiếp nhận thông tin của họ. Truyền hình truyền thống chỉ phát

sóng trên TV thông qua sóng vô tuyến, còn bây giờ, trong môi trƣờng truyền

thông đa phƣơng tiện, truyền hình còn phát sóng trên các thiết bị thông minh

nhƣ điện thoại di động smartphone, máy tính, máy tính bảng... dựa trên nền

tảng Internet. Mỗi cơ quan hoặc kênh truyền hình có yếu tố đa phƣơng tiện

nhƣ vậy đều có một bộ phận chuyên đảm trách nhiệm vụ kết nố, đăng tải các

chƣơng trình đang phát sóng lên mạng, phục vụ mục đích phát sóng trực

tuyến, đồng thời chịu trách nhiệm “đẩy” các chƣơng trình đã phát sóng lên

trang web của cơ quan, đơn vị mình để công chúng có thể theo dõi lại chƣơng

trình bất cứ lúc nào.

- Cách thức tương tác đa phương tiện với công chúng: không chỉ sử

dụng những hình thức tƣơng tác truyền thống nhƣ thƣ tay, các chuyên mục

bạn đọc đăng tải trên ấn phẩm truyền thông, điện thoại..., công chúng còn

20

hoàn toàn có thể tƣơng tác với cơ quan truyền thông đó thông qua email, hoặc

tƣơng tác trực tiếp với ban biên tập thông qua website trực tuyến với các ô

phản hồi ngay bên dƣới mỗi bài viết. Cách thức tƣơng tác này thực sự tạo

thuận lợi cho cả cơ quan truyền thông lẫn công chúng vì tính nhanh gọn, tiện

dụng. Hơn nữa, cơ quan truyền thông cũng không cần mất công mở các cuộc

điều tra xã hội học tốn kém, quy mô nhƣ trƣớc đây mà vẫn có thể thu đƣợc

kết quả phản ánh thái độ, ý kiến của công chúng thông qua các bình chọn trực

tuyến dành cho họ.

- Đội ngũ nhân lực có khả năng tác nghiệp đa phương tiện: trƣớc đây,

ngƣời làm truyền hình chỉ tác nghiệp theo quy trình sản xuất cho truyền hình,

phục vụ tiêu chí chỉ cho truyền hình, nhƣng trong môi trƣờng đa phƣơng tiện,

ngƣời đó còn phải đáp ứng đƣợc kỹ năng của một phóng viên phát thanh, báo

in, báo mạng điện tử... đồng thời sử dụng thành thạo thiết bị kỹ thuật dùng để

sản xuất cho từng loại hình báo chí.

Nói tóm lại, những góc độ truyền thông đa phƣơng tiện trong sản xuất

chƣơng trình truyền hình mà chúng tôi vừa nêu sẽ làm cơ sở để tác giả khảo

sát phƣơng thức sản xuất chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV dƣới góc độ

truyền thông đa phƣơng tiện trong Chƣơng 2.

1.2.3. Thế mạnh của chương trình truyền hình được sản xuất dưới góc độ

truyền thông đa phương tiện

1.2.3.1. Đối với cơ quan báo chí truyền hình

Rõ ràng, việc sản xuất chƣơng trình truyền hình dựa trên nền tảng đa

phƣơng tiện sẽ giúp cơ quan báo chí - truyền thông có thêm nhiều lợi thế

trong việc đáp ứng những nhu cầu phức tạp và đa dạng của công chúng. Hoạt

động báo chí, truyền thông ngày nay không chỉ đơn thuần là cung cấp thông

tin, các loại hình giải trí mà đòi hỏi sự trực quan và tƣơng tác cao. Nhờ công

nghệ, họ có thể có đƣợc những sản phẩm sáng tạo thỏa mãn xã hội ở những

21

khu vực khác nhau nhất một cách nhanh chóng, kịp thời và thuận tiện nhất,

đồng thời đảm bảo đƣợc sự đa dạng của thông tin.

Không chỉ có vậy, cơ quan báo chí truyền hình còn có thể tiết kiệm đƣợc

chi phí dùng để chi trả cho nhân lực, kinh phí sản xuất, đồng thời giảm đƣợc

thời gian thực hiện chƣơng trình truyền hình.

Một thuận lợi nữa của việc sản xuất chƣơng trình truyền hình đa phƣơng

tiện là khả năng thu hút đƣợc nhiều đối tƣợng công chúng. Càng có nhiều loại

hình truyền thông đại chúng, cơ quan báo chí đó càng “tận dụng” đƣợc lƣợng

độc giả của báo mạng, báo in hay thính giả của phát thanh... theo dõi sản

phẩm truyền hình của mình.

Nhờ có đa phƣơng tiện, thƣơng hiệu của cơ quan báo chí truyền hình

cũng đƣợc mở rộng hơn thông qua việc quảng bá dƣới nhiều hình thức khác

nhau. Một ngƣời là độc giả báo mạng của một cơ quan báo chí đa phƣơng tiện

cũng đồng thời có thể trở thành khán giả của chƣơng trình truyền hình đƣợc

phát trên tờ báo điện tử của cơ quan đó.

1.2.3.2. Đối với người làm truyền hình

Sự phát triển của truyền hình đƣợc sản xuất theo phƣơng thức đa phƣơng

tiện chắc chắn sẽ vừa đặt ra yêu cầu, vừa tạo ra cơ hội cho ngƣời làm truyền

hình thỏa sức sáng tạo. Họ đƣợc làm việc trong môi trƣờng năng động hơn,

đồng thời bản thân họ cũng phải rèn luyện thêm nhiều kỹ năng khác ngoài

chuyên môn gốc của mình để có thể đáp ứng đƣợc nhu cầu công việc.

Ngoài ra, ngƣời làm truyền hình cũng có cơ hội đƣợc tiếp cận với nhiều

nguồn thông tin dƣới nhiều hình thức khác nhau hơn. So với truyền thống, đội

ngũ phóng viên, biên tập viên truyền hình sẽ phải chờ thông tin đƣợc khai thác

đầy đủ về cả âm thanh lẫn hình ảnh (video) rồi thực hiện khâu hậu kỳ mới có

thể cho ra sản phẩm hoàn chỉnh đƣợc thì nay, họ hoàn toàn có thể nắm đƣợc

22

thông tin chính xác từ rất sớm thông qua phát thanh, báo mạng điện tử... và tiến

hành xử lý thông tin, phát sóng luôn chứ không cần chờ đợi hình ảnh nữa.

1.2.3.3. Đối với công chúng

Thời đại của truyền hình đa phƣơng tiện giúp cho thị hiếu của công

chúng đƣợc thỏa mãn hơn bao giờ hết. Họ rất dễ dàng và thuận lợi trong việc

tiếp cận với sản phẩm truyền thông. Nếu không thể xem đƣợc truyền hình

ngay lúc cần, họ có thể mua báo in, hoặc lên mạng Internet để theo dõi cả văn

bản text lẫn xem sản phẩm truyền hình đang đƣợc phát trực tuyến. Hoặc nếu

bận không theo dõi đƣợc đúng lúc sản phẩm truyền hình lên sóng, họ vẫn có

thể xem lại chƣơng trình đó sau nếu cơ quan báo chí - truyền thông có dịch vụ

đăng tải file chƣơng trình lên mạng Internet qua website.

Hơn nữa, công chúng không còn phải “chịu đựng” tính thoảng qua của

truyền hình mà họ còn có thể đọc thông tin thông qua dòng tin chạy (hay còn

gọi là “tin text”) trên màn hình vô tuyến. Nhờ đó, khả năng lƣu giữ thông tin

của họ đƣợc tăng lên, thông điệp của nhà truyền hình muốn gửi tới khán giả

của mình cũng đƣợc chuyển tải trọn vẹn hơn.

Tuy nhiên, việc sản xuất chƣơng trình truyền hình đa phƣơng tiện cũng

có những mặt hạn chế. Bản thân những hạn chế này nằm ngay trong chính sự

phát triển những kỹ năng tổng hợp để đáp ứng đòi hỏi của mô hình hoạt động

đa phƣơng tiện. Đó chính là sự mâu thuẫn giữa việc mở rộng các khả năng

hoạt động của con ngƣời và những đòi hỏi chính đáng đối với sự phát triển

chiều sâu trí tuệ cần thiết trong từng khả năng của nó.

Có nhà tƣ tƣởng từng phát biểu rằng: đối với bản thân con ngƣời, với tƣ

cách một sinh thể theo quy luật tự nhiên thì mỗi bƣớc tiến về văn minh là một

bƣớc thụt lùi về năng lực. Sự ra đời của phƣơng tiện kỹ thuật đã thay thế cơ

bản các hoạt động con ngƣời từ lao động cơ bắp đến năng lực giác quan hay

trí não, Máy móc làm con ngƣời lƣời đi và phụ thuộc vào nó. Dù khả năng

23

con ngƣời nói chung đƣợc coi là vô hạn thì trong từng phạm vi mỗi cá nhân

nó lại là hữu hạn.

Công nghệ có thể giúp cá nhân thích ứng và mở rộng các kỹ năng trong

những điều kiện nhất định, song cũng vì thế, nó rất có nguy cơ làm thui chột

các năng lực tự nhiên ở con ngƣời. Đáng lẽ một nhà báo có thể trở thành một

phóng viên truyền hình với những phóng sự sắc sảo và chỉ cần nhƣ thế là đủ,

thì trong môi trƣờng đa phƣơng tiện, anh ta lại phải “phân thân” ra làm những

công việc của loại hình khác: phải biết chụp ảnh, sử dụng máy ghi âm, biết

viết cho báo in, báo mạng, phát thanh... chứ không chỉ truyền hình - một sự

phát triển năng lực thiếu chiều sâu. Cái xu thế chung mà mọi sản phẩm phục

vụ đời sống đều phải thỏa mãn đƣợc đòi hỏi “nhanh, nhiều, tốt, rẻ” cuốn theo

nhiều giá trị mà đôi khi đồng tiền khó mà đo đếm đƣợc.

1.2.4. Một số yêu cầu để tổ chức sản xuất thành công chương trình truyền

hình dưới góc độ truyền thông đa phương tiện

Trong xu thế phát triển mạnh mẽ của truyền thông đa phƣơng tiện, nhiều

mặt vốn dĩ tồn tại lâu nay trong đời sống truyền thông - báo chí truyền thống

dù tốt, dù hay đến mấy cũng phải dần nhƣờng chỗ cho những cái mới lạ, hợp

thời. Vấn đề đặt ra cho sự phát triển của truyền thông là đào tạo đội ngũ

phóng viên trẻ có khả năng thích nghi với Multimedia ngay từ bây giờ để kịp

thời nâng cao chất lƣợng truyền thông đa phƣơng tiện trên Internet. Đào tạo

phóng viên chuyên nghiệp, thành thạo trong tác nghiệp với các phƣơng tiện

nhƣ máy ảnh số, máy quay số, công nghệ mạng, dựng phim… là điều quan

trọng có ý nghĩa thiết thực hiện nay.

Để làm đƣợc việc này cần sự thay đổi to lớn về hầu nhƣ mọi mặt của cả

cơ quan báo chí lẫn đội ngũ những ngƣời làm truyền hình, cụ thể nhƣ sau:

24

1.2.4.1. Đối với cơ quan báo chí, cụ thể với cơ quan báo hình

Để mô hình hiện đại này thành công rất cần những tƣ duy đột phá của

các nhà quản lý các toà soạn báo nói chung và truyền hình nói riêng. Trƣớc

hết các tổng biên tập phải là ngƣời đầu tiên có tƣ duy “tích hợp”, nhận thấy

đƣợc rõ ràng những lợi ích mà toà soạn tích hợp, đa phƣơng tiện mang lại, bắt

đầu bằng cách sắp xếp lại bộ máy sao cho mối quan hệ đa chiều và tính tƣơng

tác giữa các bộ phận, phóng viên trong tòa soạn đảm bảo linh hoạt, rõ ràng.

Cần thiết phải có đào tạo và chọn lựa phóng viên thích hợp với tác nghiệp đa

phƣơng tiện.

Hơn nữa, cần nhận thức rằng việc đầu tƣ cơ sở vật chất về thiết bị kỹ

thuật cần thiết cho sản xuất chƣơng trình truyền hình đa phƣơng tiện, bố trí

phòng ban phù hợp với nhu cầu công việc... là một trong những yêu cầu trọng

yếu hàng đầu. Các tòa soạn cần có không gian rộng để tổ chức văn phòng

theo mô hình hội tụ; phải đƣợc trang bị các phƣơng tiện kỹ thuật hiện đại cho

các phóng viên (thiết bị di động, truyền phát các gói tin, các thiết bị phục vụ

tác nghiệp hiện trƣờng nhƣ máy tính, máy quay…), tại trung tâm xử lý thông

tin đòi hỏi phải có hệ thống quản lý nội dung dựa trên nền tảng của web, đảm

bảo tin bài có thể đƣợc khai thác bằng tất cả các thiết bị có thể và đƣợc truyền

tải đến nhiều loại hình báo chí. Chỉ có xây dựng đƣợc một nền tảng kỹ thuật

vững chắc mới tạo cơ sở cho sự phát triển sau này.

Những lợi ích từ những việc làm trên mang lại không chỉ giúp tối ƣu

hóa bộ máy, nâng cao chất lƣợng thông tin nhanh nhạy mà còn mang về

nguồn lợi kinh tế. Ngoài ra, xây dựng tòa soạn đa phƣơng tiện cũng là cách

tận dụng các công cụ mạng xã hội để nghiên cứu, thu thập tin tức, sản xuất và

phổ biến tin tức. Từ đó, báo in, phát thanh, truyền hình, báo điện tử hay báo

chí trên các thiết bị di động sẽ có sự tƣơng hỗ quảng bá lẫn nhau.

25

Đối với khán giả, cơ quan báo hình cần chú trọng đến công tác điều tra xã

hội học các đối tƣợng công chúng để nắm bắt đƣợc nhu cầu, thị hiếu của họ về

chƣơng trình truyền hình đa phƣơng tiện. Việc làm này phải đƣợc tiến hành

thƣờng xuyên, kết quả thu thập về phải đƣợc nhanh chóng xử lý thành các nhận

định nắm bắt về xu hƣớng phát triển trong thị hiếu của công chúng, bởi nhu cầu

của họ là cái thay đổi hàng ngày; cơ quan báo chí - truyền thông nào đáp ứng

càng nhanh nhạy lại càng tạo cho mình đƣợc lợi thế thu hút công chúng.

1.2.4.2. Đối với nhà báo truyền hình

Để có đƣợc kỹ năng sản xuất chƣơng trình truyền hình đa phƣơng tiện,

ngƣời làm truyền hình phải đƣợc đào tạo để có thể ứng dụng, làm chủ các

thiết bị công nghệ mới, đặc biệt là các thiết bị di động và thiết bị cầm tay (ghi

âm, quay phim, xử lý kỹ thuật cơ bản, truyền phát dữ liệu….). Trong công

việc, phóng viên cũng đƣợc đòi hỏi vừa linh hoạt, sáng tạo, song phải phát

huy tối đa tinh thần cộng tác, làm việc theo nhóm, có sự nhạy bén để xử lý

thông tin từ nhiều nguồn khác nhau để đƣa vào chƣơng trình.

1.2.4.3. Đối với công chúng

Sự thành bại của bất cứ sản phẩm truyền thông nào cũng đƣợc đánh giá

từ khả năng tiếp nhận và hiệu quả từ phía công chúng. Để đƣợc đáp ứng tốt

hơn nhu cầu thông tin của mình, công chúng trong thời đại truyền thông đa

phƣơng tiện nói chung, khán giả truyền hình nói riêng cần tăng cƣờng gửi góp

ý, phản hồi về chất lƣợng chƣơng trình mà cơ quan báo chí - truyền thông sản

xuất; đƣa ra những yêu cầu, mong muốn, nguyện vọng để cơ quan đó lấy làm

cơ sở hình thành những thay đổi trong sản xuất chƣơng trình, phục vụ tốt hơn

nhu cầu công chúng.

26

*Tiểu kết chương 1

Với xu thế hình thành những cơ quan báo chí đa phƣơng tiện dựa trên

nền tảng Multimedia hoạt động trên môi trƣờng Internet, mỗi cơ quan báo chí

muốn tồn tại và phát triển đều cần phải dựa trên nền tảng phát triển này, đặc

biệt là với truyền hình - một loại hình báo chí tuy không mới mẻ, lạ lẫm

nhƣng vẫn có sức cuốn hút rất lớn đối với công chúng tại Việt Nam. Vấn đề

đặt ra là làm thế nào để biến xu thế đa phƣơng tiện - Multimedia trở thành

công cụ đắc lực, là đòn bẩy để tạo nên những sản phẩm truyền hình độc đáo,

sáng tạo nhƣng vẫn đảm bảo tôn chỉ, mục đích và phong cách mà cơ quan báo

chí - truyền thông đã, đang và sẽ xây dựng. Nắm bắt đƣợc xu thế này không

những sẽ tạo ra hiệu quả cao trong truyền thông mà còn tạo ra đƣợc những giá

trị kinh tế.

Trên tinh thần đó, trong Chƣơng 1 của Luận văn, ngoài việc trình bày hệ

thuật ngữ có liên quan đến truyền thông đa phƣơng tiện nhƣ: đa phƣơng tiện,

truyền thông đa phƣơng tiện, các cấp độ của truyền thông đa phƣơng tiện, tác

giả còn trình bày hệ thống quan niệm liên quan đến phƣơng thức sản xuất

chƣơng trình truyền hình dƣới góc độ truyền thông đa phƣơng tiện. Theo

chúng tôi, có 6 biểu hiện của một chƣơng trình truyền hình đƣợc sản xuất

dƣới góc độ đa phƣơng tiện. Đó là:

- Đa phƣơng tiện trong khai thác tƣ liệu để xây dựng nội dung truyền thông

- Đa phƣơng tiện trong khâu biên tập nội dung

- Đa phƣơng tiện trong sử dụng đồng thời các phƣơng tiện ngôn ngữ

chuyển tải thông tin

- Đa phƣơng tiện trong khâu truyền phát các chƣơng trình truyền hình

- Cách thức tƣơng tác đa phƣơng tiện với công chúng

- Đội ngũ nhân lực có khả năng tác nghiệp đa phƣơng tiện.

27

Ngoài ra, trong Chƣơng 1, chúng tôi cũng trình bày thế mạnh của

chƣơng trình truyền hình sản xuất dƣới góc độ đa phƣơng tiện, những yêu cầu

đặt ra để có thể tổ chức sản xuất thành công chƣơng trình truyền hình dƣới

góc độ đa phƣơng tiện.

Đây sẽ là những kiến thức lý thuyết cơ bản giúp chúng tôi có cơ sở để

khảo sát, phân tích, đánh giá một cách cụ thể về phƣơng thức sản xuất chƣơng

trình truyền hình Thời sự VOVTV – Đài Tiếng nói Việt Nam dƣới góc độ

truyền thông đa phƣơng tiện ở Chƣơng 2.

28

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG SẢN XUẤT CHƢƠNG TRÌNH THỜI SỰ

TRÊN KÊNH VOVTV DƢỚI GÓC ĐỘ ĐA PHƢƠNG TIỆN

2.1. Tổng quan về Chƣơng trình Thời sự kênh VOVTV - Đài Tiếng nói

Việt Nam

2.1.1. Đôi nét về kênh VOVTV

Kênh Truyền hình VOVTV chính thức lên sóng đến với khán giả truyền

hình cả nƣớc vào đúng dịp kỷ niệm 63 năm thành lập Đài TNVN, vào ngày

7/9/2008. Cùng với việc ra đời kênh truyền hình VOVTV, Đài TNVN đã

đánh dấu một bƣớc tiến mới trong lĩnh vực truyền thông, trở thành cơ quan

báo chí hội tụ đủ 4 loại hình báo chí đa phƣơng tiện gồm: Phát thanh, truyền

hình, báo mạng điện tử, báo in.

Kênh Truyền hình VOVTV là đơn vị báo chí thuộc Đài TNVN, hoạt

động theo tôn chỉ và mục đích của Đài TNVN, với định hƣớng là Kênh truyền

hình Thời sự - Chính trị - Tổng hợp. Với nền tảng và bề dày phát triển của

Đài TNVN, VOVTV luôn xác định thông tin kịp thời, chính xác các chủ

trƣơng, đƣờng lối chính sách của Đảng và Nhà nƣớc; tin tức thời sự cập nhật

liên tục sẽ làm nên sức sống và đảm bảo cho khán giả luôn có thông tin mới

mỗi khi lựa chọn VOVTV.

Kênh Truyền hình VOVTV với sứ mệnh cùng với các loại hình truyền

thông khác của Đài TNVN, tạo nên một sức mạnh chung. Qua 3 năm phát

sóng, VOVTV đã có một vị trí nhất định đối với khán giả xem truyền hình tại

Việt Nam và lƣợng khán giả trung thành với các chƣơng trình của VOVTV

không ngừng tăng lên.

Với sự cố gắng của đội ngũ phóng viên, biên tập viên cùng sự chỉ đạo và

quan tâm của Lãnh đạo Đài TNVN, Kênh Truyền hình VOVTV không ngừng

chuyển mình, từng bƣớc đổi mới công nghệ phát sóng và nội dung các

29

chƣơng trình để ngày càng thu hút khán giả. Từ những ngày đầu phát sóng

thử nghiệm 3 tiếng một ngày, đến nay VOVTV đang phát sóng 19 tiếng mỗi

ngày, từ 5h sáng đến 24h đêm, với các chƣơng trình thời sự, nội chính,

chuyên đề, văn nghệ…

Đồng thời, qua 3 năm phát sóng, VOVTV liên tục mở rộng diện phủ

sóng, hiện tại VOVTV đã phủ sóng toàn quốc trên hệ thống truyền hình Cáp

Việt Nam VCTV, hệ thống truyền hình kỹ thuật số VTC, truyền hình Analog,

truyền hình internet IPTV, truyền hình di động Mobile TV, đặc biệt ngày

28/02/2011 VOVTV đƣợc phát sóng trực tuyến trên internet thông qua trang

website của báo mạng điện tử VOV Online.

Phát huy sức mạnh của một cơ quan truyền thông đa phƣơng tiện, Kênh

Truyền hình VOVTV liên kết sản xuất và chia sẻ thông tin với các đơn vị

trong Đài TNVN nhƣ Trung tâm tin, Hệ VOV1, Hệ VOV2, Hệ VOV3, Hệ

VOV4, Hệ VOV5 và Báo Tiếng nói Việt Nam, Báo Điện tử VOV Online,

nhằm đa dạng hóa các chƣơng trình phát sóng. Một số chƣơng trình VOVTV

đã và đang tạo đƣợc chỗ đứng trong lòng khán giả xem truyền hình nhƣ:

Chƣơng trình Thời sự, các chƣơng trình bản tin hàng ngày, chƣơng trình

Chính phủ với ngƣời dân, chƣơng trình Quốc hội với cử tri, chƣơng trình

chuyên đề Sống để yêu thƣơng, Các vấn đề xã hội, Xây dựng nông thông

mới; chƣơng trình văn nghệ có Nghệ thuật & Cuộc sống, Nghệ sĩ phía sau

thành công…

Kể từ đầu năm 2012, VOVTV bổ sung thêm một số chƣơng trình mới,

bên cạnh những chƣơng trình đã quen thuộc với khán giả của VOVTV nhƣ:

Chƣơng trình Nƣớc non ngàn dặm, Chuyển động thể thao, Nhìn ra thế giới,

Vóc dáng khỏe đẹp, Trƣớc giờ bóng lăn, Sức sống âm nhạc, Thƣởng thức

nghệ thuật… Ngoài những chƣơng trình mang tính tổng hợp và giải trí,

VOVTV còn hƣớng tới những chƣơng trình mang tính thời sự, bình luận

30

chuyên sâu nhƣ: Chƣơng trình thời sự tổng hợp điểm các sự kiện trong nƣớc

nổi bật, chƣơng trình Thế giới tuần qua, chƣơng trình Góc nhìn thẳng.

Với tầm nhìn trở thành một kênh truyền thông mũi nhọn trong hệ thống

đa phƣơng tiện của Đài TNVN, Kênh Truyền hình VOVTV đang từng ngày,

từng giờ đổi mới nội dung truyền tải tới khán giả truyền hình, phục vụ ngày

càng tốt hơn nhu cầu của mọi tầng lớp công chúng khán giả.

2.1.2. Về Chương trình Thời sự VOVTV

2.1.2.1. Thời điểm ra đời

Ra đời cùng với sự hình thành và phát triển của kênh VOVTV

(7/9/2008), với định hƣớng là một kênh truyền hình chuyên về mảng Thời sự

- Chính trị - Tổng hợp, Chƣơng trình Thời sự có vị trí, vai trò rất quan trọng

trong hệ thống các chƣơng trình của kênh ngay từ khi mới ra đời.

Hiện nay, Chƣơng trình Thời sự trên kênh VOVTV đƣợc phát sóng ở 4

khung giờ: 06h (thời lƣợng 30 phút), 11h30 (30 phút), 18h (45 phút) và 22h30

(45 phút). Với các khung giờ chƣơng trình đƣợc bố trí nhƣ vậy đảm bảo cho

Chƣơng trình Thời sự của VOVTV luôn đƣa tin đƣợc sớm nhất, nhanh nhất

so với các kênh truyền hình chuyên về Thời sự - Chính trị - Tổng hợp của các

cơ quan, báo đài khác.

Ngoài mảng nội dung tất yếu là những thông tin đƣợc sản xuất dƣới

nhiều thể loại phong phú, đa dạng về tất cả các mặt của đời sống chính trị,

kinh tế, xã hội… trong nƣớc và quốc tế, Chƣơng trình Thời sự trên kênh

VOVTV còn chú trọng đến việc thông tin nhanh nhạy và sâu sắc những hoạt

động của Đài Tiếng nói Việt Nam nói chung cũng nhƣ các đơn vị khác trực

thuộc Đài nói riêng; giữ vai trò là kênh quảng bá chéo hiệu quả những chƣơng

trình, ấn phẩm… của các đơn vị sản xuất nội dung khác trong Đài.

31

Chính vì vai trò nhƣ vậy, Chƣơng trình Thời sự trên kênh VOVTV luôn

giữ đƣợc vị trí trọng tâm nhất, đƣợc ban lãnh đạo quan tâm nhất và đƣợc đầu

tƣ nhiều nhất cả về nhân lực, vật lực để sản xuất.

2.1.2.2. Quy trình tổ chức sản xuất Chương trình thời sự của kênh VOVTV

Thông thƣờng, một quy trình sản xuất chƣơng trình tin tức thời sự bắt

đầu bằng một cuộc họp nhóm sản xuất để Tổ chức sản xuất chung giao đề tài

cho PV, BTV sản xuất và ngƣợc lại: PV, BTV đề xuất đề tài lên TCSX; hoặc

rộng hơn là cuộc họp có TCSXC và các TCSX chuyên mục cộng với PV,

BTV (và một số chức danh khác nếu cần thiết) để TCSXC có thể nắm đƣợc

dự kiến sản xuất của PV, BTV mà TCSX chuyên mục báo cáo...

Tuy nhiên, quy trình sản xuất Chƣơng trình Thời sự tại kênh VOVTV lại

khác: không có cuộc họp triển khai nội dung trƣớc khi bắt tay vào sản xuất

chƣơng trình; thay vào đó, TCSXC là ngƣời giữ vai trò nắm dự kiến tin bài

của các TCSX chuyên mục, cộng với nguồn tin bài từ các đơn vị CTV (nhƣ:

cơ quan thƣờng trú, các kênh truyền hình khác, các Đài truyền hình địa

phƣơng, thông tin từ báo in, báo mạng điện tử chính thống v.v…), từ đó quyết

định Chƣơng trình Thời sự hôm đó sẽ phát những tin bài nào, theo thứ tự nhƣ

thế nào. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau trong quy trình

sản xuất Thời sự của kênh VOVTV với nhiều đơn vị thuộc các cơ quan khác

là do Chƣơng trình Thời sự VOVTV đƣợc sản xuất theo hình thức “đóng

gói”: thu sẵn, phát sau chứ không phải là chƣơng trình phát sóng trực tiếp.

Có thể hình dung quy trình sản xuất Chƣơng trình Thời sự trên kênh

VOVTV qua 2 khâu liên tiếp nhau nhƣ sau:

32

PHÒNG

PHÒNG

PHÒNG

PHÒNG

TIN

TIN

CHUYÊN

TIN

CHÍNH TRỊ

TRONG NƢỚC

ĐỀ

QUỐC TẾ

BIÊN TẬP

PHÒNG

PHÒNG

NỘI DUNG

VĂN

KINH TẾ

(BTND)

NGHỆ

XÃ HỘI

CÁC ĐƠN VỊ

TỔ CHỨC SẢN

CỘNG TÁC

XUẤT CHUNG

VIÊN

(TCSXC)

NGUỒN TIN, BÀI KHAI THÁC

CHỊU TRÁCH NHIỆM

SẢN XUẤT

(CTNSX)

BIÊN TẬP

DỰNG HÌNH

(BTDH)

Hình 2.1a. Khâu 1: Biên tập và dựng tin, bài

33

Trong quy trình này, bƣớc đầu tiên chính là quá trình bàn giao nội dung

tin, bài mà trƣớc hết là văn bản text của các phòng nội dung (đã đƣợc Tổ chức

sản xuất (TCSX) của các phòng nội dung và Lãnh đạo kênh – Chịu trách

nhiệm sản xuất - duyệt) và các đơn vị CTV (Bao gồm các cơ quan thƣờng trú

của Đài và các kênh truyền hình thuộc cơ quan, đơn vị khác; Đài truyền hình

địa phƣơng) cho Biên tập nội dung (BTND) của Nhóm Thời sự. Nội dung tin,

bài thƣờng đƣợc gửi qua email, đƣờng truyền FTP hoặc nộp văn bản trực tiếp.

Sau khi nhận đƣợc văn bản text này, BTND sẽ giao cho Biên tập dựng

hình (BTDH) cùng với file video của các tin, bài này để tiến hành dựng hình.

Riêng đối với các tin, bài của các đơn vị CTV; tin, bài khai thác (từ Internet,

các tờ báo khác…), BTND có quyền biên tập lại cho phù hợp với tiêu chí của

Kênh VOVTV cũng nhƣ thời lƣợng cho phép trƣớc khi trình Tổ chức sản xuất

chung (TCSXC) và Lãnh đạo kênh duyệt.

Sau Quy trình 1, các tin bài sẽ đƣợc tổng hợp thành Kịch bản chƣơng

trình (hay còn đƣợc gọi là Vỏ kịch bản) để TCSXC và CTNSX ký duyệt. Quy

trình này đƣợc thể hiện qua sơ đồ sau:

34

BIÊN TẬP NỘI DUNG

LÊN VỎ

TỔ CHỨC SẢN XUẤT CHUNG

DUYỆT VỎ

CHỊU TRÁCH NHIỆM SẢN XUẤT

KÝ VỎ

BIÊN TẬP NỘI DUNG

SỬA LẠI VỎ LẦN CUỐI

DẪN CHƢƠNG

BIÊN TẬP

TRÌNH

DỰNG HÌNH,

KỸ THUẬT

LÊN HÌNH

DỰNG HÌNH

THƢ KÝ TRƢỜNG QUAY, KỸ THUẬT TRƢỜNG QUAY

TỔ CHỨC SẢN XUẤT CHUNG KIỂM TRA FILE THEO KỊCH BẢN

Hình 2.1b. Khâu 2: Duyệt Vỏ kịch bản

Ở quy trình 2, dƣới sự chỉ đạo và “ý đồ” của TCSXC, BTND thực hiện

lên Vỏ kịch bản. Sau khi hoàn thành, TCSXC sẽ chỉnh sửa và ký duyệt vỏ rồi

trình CTNSX để duyệt vỏ hoàn thiện. BTND sẽ nhận lại vỏ đã duyệt và sửa

lại theo bản đã duyệt nhận từ CTNSX. Sau khi chỉnh sửa hoàn thiện, BTND

có nhiệm vụ gửi cho các thành viên trong ekip thực hiện Chƣơng trình thời sự

mỗi bộ phận 1 bản để phục vụ phát sóng.

35

2.1.2.3. Về mặt nhân lực, tổ chức

Số lƣợng nhân lực phục vụ cho việc sản xuất Chƣơng trình Thời sự kênh

VOVTV khá “khiêm tốn”, với mỗi vị trí, chức danh nhƣ sau:

STT Chức danh Số lƣợng Số lƣợng ngƣời Ghi chú

ngƣời có trong 1 kíp sản

thể đảm xuất

trách

Chịu trách nhiệm 3 ngƣời 1 ngƣời 1.

sản xuất

Tổ chức sản xuất 4 ngƣời 1 ngƣời 2. Có thể kiêm

chung nhiệm vị trí

Biên tập nội

dung; Biên

tập dựng

hình nếu cần

thiết

3. Tổ chức sản xuất 6 ngƣời 1 ngƣời đối với

phần tin quốc tế;

ngoài ra tùy

thuộc vào các

phòng ban nội

dung khác có sản

xuất nội dung

cho chƣơng trình

Thời sự buổi đó

hay không

36

4. Biên tập viên nội 5 ngƣời đối 1 ngƣời đối với Có thể kiêm

dung với phần phần tin trong nhiệm vị trí

tin trong nƣớc; 1 ngƣời Biên tập

nƣớc; 8 đối với phần tin dựng hình

ngƣời đối quốc tế nếu cần thiết

với phần

tin quốc tế

5. Biên tập viên dựng 8 ngƣời đối 2 ngƣời đối với

hình, thƣ ký trƣờng với phần phần tin trong

quay tin trong nƣớc; 2 ngƣời

nƣớc; 8 đối với phần tin

ngƣời đối quốc tế

với phần

tin quốc tế

6. Dẫn chƣơng trình 5 ngƣời 1 ngƣời Có thể kiêm

nhiệm vị trí

Biên tập nội

dung hoặc

Biên tập

dựng hình

nếu cần thiết

7. Kỹ thuật viên dựng 9 ngƣời 3 - 4 ngƣời

hình (kiêm Kỹ

thuật viên đồ họa)

8. Kỹ thuật viên 10 ngƣời 1 ngƣời

trƣờng quay (kiêm

quay phim trƣờng

quay)

9. Kỹ thuật phát sóng 4 ngƣời 1 ngƣời

37

2.1.2.4. Về mặt kỹ thuật

Hệ thống kỹ thuật máy móc thiết bị của VOVTV hiện nay còn một số bất

cập, gây ảnh hƣởng đến tiến độ và chất lƣợng chƣơng trình, đặc biệt là những

chƣơng trình có thời gian phát sóng gấp gáp nhƣ Thời sự.

Điểm hạn chế đầu tiên là hệ thống máy móc phục vụ cho công tác sản

xuất - dựng hình - phát sóng của kênh còn chƣa đồng bộ, dẫn đến thƣờng xảy

ra sự cố treo máy, sai sót, hình ảnh phát sóng không đẹp. Theo anh Nguyễn

Văn Nghị - tổ trƣởng tổ Kỹ thuật trƣờng quay kênh VOVTV: hiện nay công

nghệ quay phim và ghi hình trƣờng quay của kênh đã đạt chuẩn HD; tuy

nhiên hệ thống dựng hình và phát sóng chỉ đáp ứng đƣợc tiêu chuẩn SD,

nghĩa là dù hình quay và phần ghi hình có đạt chuẩn HD đi chăng nữa thì lúc

trải qua khâu dựng hình và phát sóng, các file hình này sẽ bị “nén” xuống

chuẩn SD, gây nên tình trạng “đầu voi đuôi chuột”: hình ảnh lên sóng không

đẹp, không sắc nét, màu sắc không chuẩn.

Hơn nữa, một số máy móc phục vụ công tác dựng hình có cấu hình trung

bình, nếu cƣờng độ làm việc nhiều và liên tục dễ dẫn đến hiện tƣợng xử lý

thao tác chậm, treo máy… , nhiều khi còn gây ảnh hƣởng đến tiến độ dựng

hình cho Chƣơng trình Thời sự. Đã có một số trƣờng hợp vì máy dựng gặp sự

cố nên file hình không thể hoàn thành kịp thời gian phát sóng.

Trong khi đó, một số máy quay phim (camera) của kênh sau một quá

trình sử dụng lâu dài đã bắt đầu xuống cấp, chất lƣợng kém, nhƣng lại chậm

đƣợc bảo trì, khắc phục. Điều này gây ảnh hƣởng không nhỏ đến chất lƣợng

hình ảnh, đặc biệt là hình ảnh của những chƣơng trình cần sử dụng nhiều

camera một lúc cho các cỡ cảnh cố định khác nhau (chẳng hạn nhƣ các

chƣơng trình tọa đàm, trao đổi tại trƣờng quay; Chƣơng trình Thời sự; các

chƣơng trình truyền hình trực tiếp…).

38

2.2. Tính đa phƣơng tiện trong phƣơng thức sản xuất Chƣơng trình Thời

sự của kênh VOVTV

2.2.1. Đa phương tiện trong khai thác chất liệu nội dung cho VOVTV

Hiện Đài TNVN đang vận hành rất hiệu quả mô hình Trung tâm tin -

một cổng thông tin điện tử có vai trò sản xuất, phân phối và lƣu trữ thông tin

cho toàn bộ hệ thống sản xuất tin tức của Đài. Trung tâm tin có đƣờng link

riêng trên Internet, các đơn vị khác đƣợc cấp quyền truy cập hoàn toàn có thể

vào khai thác tin bài, âm thanh mà Trung tâm tin sản xuất. Mặc dù các tin bài

mà bộ phận này sản xuất đều mang đặc trƣng của phát thanh, nhƣng các bộ

phận khác (báo in, báo mạng điện tử, kênh truyền hình) đều có thể khai thác

và biên tập lại cho phù hợp với loại hình của mình để đăng tải hoặc phát sóng.

Hình 2.2. Giao diện Cổng thông tin điện tử VOV - Trung tâm tin [11]

Trung tâm tin cũng là nguồn thông tin phong phú mà kênh VOVTV

thƣờng xuyên sử dụng cho Chƣơng trình Thời sự. Nội dung mà Trung tâm tin

sản xuất bao gồm tất cả các lĩnh vực trong đời sống, từ chính trị, kinh tế đến

văn hóa, xã hội; từ thành thị đến nông thôn, vùng sâu, vùng xa; từ dân cƣ ở

các khu vực phát triển, hiện đại đến đồng bào dân tộc thiểu số; từ các vấn đề

39

trong nƣớc đến các vấn đề khu vực và thế giới; bao hàm tất cả các thể loại báo

chí, từ tin, phản ánh, phóng sự đến bình luận v.v... Chính vì tiêu chí sản xuất

tin tức tổng hợp nhƣ vậy nên Trung tâm tin đã thực sự trở thành một “ngân

hàng” tin tức hoạt động hiệu quả, đƣợc tất cả các đơn vị sản xuất nội dung của

Đài TNVN sử dụng triệt để.

Nhƣ vậy, không chỉ sử dụng tin, bài do phóng viên của kênh sản xuất,

VOVTV còn tận dụng tối đa tiềm năng, lợi thế sẵn có của “ngân hàng tin tức”

của Đài TNVN, đáp ứng nhu cầu thông tin đa chiều, phong phú cần có của

một chƣơng trình tin tức thời sự.

Ngoài ra, các cơ quan thƣờng trú của Đài TNVN cũng đƣợc giao nhiệm

vụ đảm bảo sản xuất tin, bài cho cả các kênh phát thanh lẫn truyền hình, đặc

biệt là tin, bài cung cấp cho Chƣơng trình Thời sự VOVTV.

Theo thống kê từ tháng 6/2013 - 06/2014, Chƣơng trình Thời sự của

kênh VOVTV sử dụng đến 9.300 tin, bài khai thác từ Trung tâm tin và các cơ

quan thƣờng trú trong và ngoài nƣớc (trong tổng số hơn 19.000 tin, bài của 1.580 chƣơng trình), chiếm tỷ lệ 48,9% [Phụ lục 1]. Đây là một con số không nhỏ, chứng tỏ công tác sản xuất tin tức đa phƣơng tiện, tại Đài TNVN rất

đƣợc coi trọng, phát huy.

2.2.2. Cách thức biên tập tin, bài phục vụ sản xuất Chương trình Thời sự

của kênh VOVTV

2.2.2.1. Biên tập tít (title)

Đối với tin tức trên báo in, báo mạng điện tử, phần tít thƣờng bao gồm tít

chính và các tít phụ (nếu có). Phần tít (title) thƣờng bao gồm các bộ phận: chủ

ngữ - động từ - bổ ngữ hoặc câu không động từ; nhiều khi có thể là những câu

trích dẫn lời nói của một cá nhân v.v… Title trên báo in, báo mạng thƣờng đa

dạng, phong phú hơn rất nhiều so với các loại hình báo chí khác, thậm chí độc

giả chỉ cần liếc qua cũng có thể nắm đƣợc nội dung của bài viết.

40

Trong khi đó, title trên truyền hình, đặc biệt là title của các chƣơng trình

tin tức, thời sự, chính luận lại khuôn mẫu, “khô khan” và chung chung hơn.

Đa số title sử dụng cho tin tức truyền hình đƣợc đặt theo khuôn mẫu: chủ ngữ

- động từ - bổ ngữ (Ví dụ: “Phát biểu của Thủ tướng tại Hội nghị Bộ trưởng Y

tế ASEAN”, “Việt Nam đặt mục tiêu cụ thể ứng phó với biến đổi khí hậu”);

địa danh/địa điểm: chủ ngữ - động từ; Vấn đề: chủ ngữ - động từ (Ví dụ: “Nứt

cao tốc Hà Nội - Lào Cai: Chủ đầu tư phải xác định rõ nguyên nhân”; “Phát

triển công nghiệp hỗ trợ: Chính sách phải “thoáng”).

Do đó, khi biên tập title của các tin, bài khai thác từ báo in, báo mạng,

các biên tập viên Chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV phải bỏ bớt các tít

phụ, đồng thời chỉnh sửa tít chính cho phù hợp với tiêu chí của chƣơng trình.

Đối với những tin, bài đƣợc sản xuất cho truyền hình từ các đơn vị báo

đài địa phƣơng, việc biên tập title cũng luôn đƣợc chú ý. Các địa phƣơng

thƣờng không đề cập đến tên địa danh, tên tỉnh/thành phố trong tít, vì vậy khi

biên tập lại, các Biên tập viên VOVTV thƣờng xuyên phải chú ý điều chỉnh,

thêm địa danh, địa điểm vào để khán giả cả nƣớc có thể theo dõi.

Bên cạnh đó, những tin bài đƣợc các đơn vị thƣờng trú của Đài TNVN

sản xuất thƣờng không có title kèm theo do đặc trƣng của phát thanh ít khi giới

thiệu tên tin, bài trƣớc khi phát. Vì vậy, trong những trƣờng hợp này, TCSX

Chƣơng trình Thời sự phải viết thêm title cho tin, bài đó. Chẳng hạn, một

phóng sự có nội dung về xây dựng nhà ở thu nhập thấp cho ngƣời dân và lao

động nhập cƣ tại Bình Dƣơng (năm 2013) đƣợc gửi cho kênh VOVTV phát

sóng trong Chƣơng trình Thời sự nhƣng không có title. Do đó, TCSXC của

chƣơng trình hôm đó phải biên tập thêm vào phóng sự đó title có nội dung:

“Bình Dương cung cấp 4.500 căn hộ cho người thu nhập thấp”. [Phụ lục 4].

Một số những tin, bài khác có title không phù hợp với nội dung, thể loại

cũng đƣợc biên tập lại. Chẳng hạn, trong phóng sự đề cập đến bốn cá nhân tại

41

TP. Hồ Chí Minh đƣợc Bộ Ngoại giao tặng bằng khen vì đã hiến tặng tài liệu

phục vụ công tác bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam đối với 2 quần đảo

Hoàng Sa và Trƣờng Sa, phóng viên đặt title là “TP. Hồ Chí Minh trao tặng

bằng khen cho các cá nhân hiến tặng tài liệu phục vụ công tác bảo vệ chủ quyền

biển đảo”. Đây là title đặc trƣng của thể loại tin chứ không phải phóng sự, do

đó, TCSXC Chƣơng trình Thời sự VOVTV phải sửa lại thành: “TP. Hồ Chí

Minh: Lòng yêu nước từ những tài liệu lịch sử được hiến tặng”. [Phụ lục 6].

2.2.2.2. Biên tập nội dung tin, bài của báo in, báo mạng điện tử

Cũng nhƣ những chƣơng trình tin tức thuộc các kênh truyền hình khác,

Chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV sử dụng một khối lƣợng lớn những

tin tức khai thác trên các tờ báo in, báo mạng điện tử… khác. Tuy nhiên,

những nội dung trên các trang báo này thƣờng dài và chi tiết, cặn kẽ với

những lĩnh vực, con số thống kê cụ thể, chính xác. Với đặc điểm tính hình

tuyến, thoảng qua của phát thanh và truyền hình, ngƣời xem/ngƣời nghe sẽ

khó mà nhớ đƣợc từng con số nếu nhƣ con số đó không đƣợc làm tròn. Do

vậy, quy tắc đầu tiên khi biên tập tin, bài từ các loại hình báo chí khác sang

tin tức truyền hình là phải chú ý quy tròn các con số, thậm chí đƣa ra các so

sánh để khán giả dễ nhớ, dễ hình dung hơn.

Ví dụ: Trong bài tổng hợp “Nhìn lại công tác an toàn giao thông năm

2013” do PV Ngọc Hòa thực hiện có đƣa ra con số: “Theo thống kê, năm

2013, cả nước xảy ra 24.369 vụ TNGT (...)” và đƣợc TCSXC sửa lại thành

“gần 24.500 vụ TNGT”. [Phụ lục 7]

Nguyên tắc tiếp theo khi biên tập tin, bài trên báo in và báo mạng điện

tử, đó là phải ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu. Đối với những tin tức khai thác có

nhiều nội dung, dài dòng, biên tập viên phải rút ngắn bớt nội dung tin, chỉ tập

trung cô đọng vào những thông tin chính nhất, đƣợc quan tâm nhất. Việc đƣa

42

vào quá nhiều nội dung sẽ khiến thông tin bị “loãng”, dàn trải, khó nhớ, khó

theo dõi, gây ức chế tâm lý ngƣời xem.

Ngoài ra, vấn đề sai chính tả cũng luôn đƣợc các biên tập viên Chƣơng

trình Thời sự VOVTV rất quan tâm, chú ý. Đặc biệt, đối với báo mạng điện

tử, việc sai chính tả không phải là chuyện hiếm. Mặc dù những nguồn tin trên

báo mạng điện tử mà kênh VOVTV khai thác cho Chƣơng trình Thời sự là

những nguồn tin chính thống, đảm bảo (chẳng hạn nhƣ: website Chinhphu.vn;

Báo mạng Vietnamnet; VietnamPlus…) nhƣng không có nghĩa rằng hiện

tƣợng sai chính tả hoàn toàn không xảy ra.

2.2.2.3. Biên tập nội dung tin, bài của các cơ quan thường trú

Các cơ quan thƣờng trú thuộc Đài Tiếng nói Việt Nam thƣờng xuyên sản

xuất tin, bài cho các Hệ phát thanh khác thuộc Đài. Do đó, văn phong, phong

cách làm tin, bài khi gửi cộng tác cho kênh VOVTV cũng mang đậm dấu ấn

phát thanh: diễn giải, miêu tả nhiều; nhiều chi tiết đã có hình (video) nhƣng

nội dung text vẫn tiếp tục diễn giải. Một phóng sự truyền hình thƣờng có độ

dài từ 2 – 3 phút, thậm chí ngắn hơn, nhƣng nhiều phóng sự do các cơ quan

thƣờng trú của Đài Tiếng nói Việt Nam sản xuất và gửi cho kênh VOVTV lại

có độ dài hơn 3 phút, thậm chí 4 – 4,5 phút. Do đó, các biên tập viên Chƣơng

trình Thời sự phải cắt gọt ngắn bớt để đảm bảo chất lƣợng của phóng sự đó

cũng nhƣ thời lƣợng toàn bộ chƣơng trình. Chẳng hạn trong phóng sự “Cần

Thơ vươn lên trở thành thành phố trung tâm động lực của vùng ĐBSCL”

[Phụ lục 5], tác giả có nhắc đến thành tựu của Công ty Cổ phần Dƣợc Hậu

Giang và trƣờng Đại học Cần Thơ nhƣ sau:

- “Đây là doanh nghiệp làm nên thương hiệu của thành phố không chỉ

trong nước mà còn trên thế giới. Từ một xí nghiệp bên bờ vực phá sản, năm

1988, Dược Hậu Giang đã bứt phá vươn lên biến thành công ty dược lớn nhất

sàn chứng khoán Việt. Dược Hậu Giang hiện sản xuất và kinh doanh hơn 300

43

loại dược phẩm. Năm qua, công ty đạt doanh thu 140 triệu USD. Lợi nhuận

ròng tăng 18% lên 24 triệu USD.”

- “Theo PGS. TS. Hà Thanh Toàn - Hiệu trưởng trường ĐH. Cần Thơ: 10

năm qua trường ĐH Cần Thơ đã đóng góp tích cực trong nhiều lĩnh vực của

thành phố. Đặc biệt, dự án ký kết hợp tác đào tạo toàn diện nguồn nhân lực

cho thành phố, làm việc trực tiếp với các sở ngành đào tạo nguồn nhân lực, tư

vấn khoa học kỹ thuật công nghệ, làm đầu mối các đơn vị hợp tác quốc tế…”

Đây là 2 đoạn nội dung vừa dài dòng, vừa mang tính chất “PR” cho 2

đơn vị này, làm tăng dung lƣợng của toàn phóng sự một cách không cần thiết.

Đo đó, TCSXC Chƣơng trình Thời sự VOVTV đã cắt bỏ bớt.

Một “dấu ấn” khác của các tác phẩm phát thanh là trƣớc các phỏng vấn

bao giờ cũng có câu: “Ông/Anh/Bạn Nguyễn Văn A. cho biết/nhấn

mạnh/nói…”. Khi dùng cho truyền hình, những dạng câu này luôn đƣợc cắt bỏ.

Ngoài ra, khi biên tập tin, bài từ phát thanh sang truyền hình tại Đài

TNVN thƣờng gặp trƣờng hợp thứ tự và logic hình ảnh quay đƣợc tại hiện

trƣờng không theo nhƣ trình tự diễn biến đƣợc mô tả trong văn bản; nếu để

nguyên theo thứ tự nhƣ văn bản, khi dựng hình rất dễ gặp phải lỗi phi logic về

mặt không gian, thời gian. Chẳng hạn nhƣ từ buổi ngày sang buổi đêm rồi lại

sang buổi ngày; từ trong nhà ra ngoài trời rồi lại vào trong nhà... Trong khi

đó, một tin tức đƣợc phát sóng trên truyền hình luôn phải đảm bảo yếu tố hợp

lý về mặt không gian - thời gian, diễn biến sự việc phải theo một trình tự nhất

định, tạo thành một “câu chuyện” đƣợc kể bằng hình ảnh. Vì vậy, khi gặp

trƣờng hợp này, BTV Chƣơng trình Thời sự VOVTV phải sắp xếp lại bố cục,

cấu trúc văn bản, sửa lại nội dung (nếu cần thiết) để tránh gặp lỗi phi logic khi

dựng hình.

44

2.2.2.4. Biên tập nội dung tin, bài của các đơn vị CTV khác

Những đơn vị CTV hay cung cấp tin bài cho kênh VOVTV gồm có:

VTC, Thông tấn xã Việt Nam, ANTV cùng các Đài Phát thanh – Truyền hình

(PT-TH) địa phƣơng v.v…

Những đơn vị báo chí Trung ƣơng, đặc biệt là các kênh truyền hình của

những đơn vị này đều có chất lƣợng tin, bài khá tốt, đáp ứng tiêu chí phát cho

truyền hình. Do đó, công tác biên tập cũng “nhàn” hơn so với những nguồn

thông tin khác.

Các Đài PT-TH địa phƣơng cũng là những CTV tích cực, giúp Chƣơng

trình Thời sự của kênh VOVTV bao quát đƣợc vùng miền, đăng tải những tin

tức địa phƣơng một cách nhanh nhạy. Tuy nhiên, một số tin, bài của các CTV có

văn phong, chính tả theo lối nói, cách diễn đạt mang dấu ấn địa phƣơng, vùng

miền; chất lƣợng hình ảnh còn nhiều bất cập, tình trạng thiếu hình, mất nét…

xảy ra khá nhiều, gây không ít khó khăn cho công tác biên tập, dựng hình.

2.2.3. Đa phương tiện trong ứng dụng các hình thức chuyển tải thông tin

khác nhau

Thông thƣờng, ngôn ngữ của truyền hình bao gồm hình ảnh (động và

tĩnh) kết hợp với lời nói (của phóng viên, nhân chứng, phát thanh viên...), âm

nhạc (nhạc nền...). Ngoài ra, trong những trƣờng hợp cụ thể, hình thức chuyển

tải thông tin bằng văn bản (text), đồ hình - đồ họa... để minh họa cũng đƣợc

sử dụng nhằm làm đa dạng hóa mặt hình ảnh cho chƣơng trình truyền hình.

Tất cả những hình thức này đều đƣợc kênh VOVTV sử dụng để chuyển tải và

minh họa cho thông tin trong Chƣơng trình Thời sự.

- Những thông tin đƣợc chuyển tải dƣới dạng văn bản (text) thƣờng đƣợc

ngƣời dẫn chƣơng trình đọc thẳng, không kèm hình minh họa lúc phát sóng

(không trám hình). Những dạng tin tức nhƣ thế này đƣợc gọi là “Tin lời”.

Dạng tin này thƣờng dùng cho các tin tức chính trị hoặc những tin tức mang

45

tính bảo mật về hình ảnh (để bảo đảm an ninh, an toàn hay vì lý do gì đó mà

hình ảnh không đƣợc công bố); tin tức ban biên tập mới nhận đƣợc sát giờ

chƣơng trình lên sóng, vừa mới xảy ra, phóng viên không kịp gửi hình hoặc

bộ phận biên tập không có đủ thời gian để dựng hình; tin tức liên quan đến

vấn đề thời tiết và những thông tin cảnh báo liên quan. Những dạng tin tức

này (trừ tin liên quan đến chính trị trong nƣớc và những tin, bài có dự kiến từ

trƣớc) thƣờng không có trong kịch bản mà là tình huống phát sinh, tùy vào

mức độ cần thiết, cấp bách mà TCSXC quyết định có cho phép lên sóng hay

không. Và khi đó, tất nhiên dù là chƣơng trình không phát sóng trực tiếp thì

bản thân ngƣời dẫn Chƣơng trình Thời sự cũng không hề đƣợc chuẩn bị trƣớc

mà phải lên sóng ngay lập tức. Phần tin tức này thƣờng đƣợc sử dụng không

nhiều, hơn nữa vì là chƣơng trình thu trƣớc nên tin lời hầu nhƣ chỉ đƣợc sử

dụng trong Chƣơng trình Thời sự 11h30 và 18h - những múi giờ thƣờng chịu

áp lực lớn về thời gian nhất. Trong 13 tháng khảo sát Chƣơng trình Thời sự,

Tin lời đƣợc sử dụng với mật độ chiếm khoảng 2,07% tổng số tin, bài đƣợc sử

dụng [Phụ lục 1].

- Ngoài ra, có những thông tin đƣợc minh họa bằng chữ kết hợp với đồ

họa để khán giả dễ tiếp nhận và đỡ nhàm chán hơn. Những tin dạng này thƣờng

là tin tức liên quan đến những quy định, luật, pháp lệnh, chính sách mới ban

hành (bao gồm nhiều chƣơng, điều, mục...); tin tức về giá cả thị trƣờng, tình

hình kinh tế, tài chính... với nhiều con số thống kê. Do đó, ban biên tập chƣơng

trình thƣờng sử dụng đồ họa bằng chữ để minh họa, giúp thông tin đó trực

quan, sống động, dễ nhớ hơn thay vì trám hình nhƣ thông thƣờng.

- Những thông tin đƣợc minh họa bằng đồ họa nếu đƣợc khéo léo sử

dụng kèm theo hình ảnh (động và tĩnh) chắc chắn sẽ tạo nên sức hút đối với

khán giả, giúp thông tin đƣợc chuyển tải một cách có điểm nhấn hơn. Tuy

nhiên những dạng thông tin đƣợc biên tập “công phu” nhƣ vậy lại ít đƣợc sử

46

dụng trong Chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV. Thống kê trong số 13

tháng khảo sát chƣơng trình (6/2013 - 6/2014), chỉ có khoảng gần 200 tin

trong tổng số 19.000 tin đƣợc minh họa bằng hình thức này, chiếm tỷ lệ chƣa

tới 1,1%. [Phụ lục 1]

2.2.4. Nội dung thông tin của Chương trình Thời sự VOVTV

Ngay từ khi ra đời, kênh VOVTV đã đƣợc định hƣớng nội dung Thời sự

- Chính trị - Tổng hợp. Chính vì vậy, Chƣơng trình Thời sự của kênh luôn chú

trọng đến những mảng tin tức chính luận (nội chính, ngoại giao, các sự kiện

chính trị quan trọng…); những vấn đề “nóng” (các vấn đề xã hội đƣợc dƣ

luận quan tâm; những chính sách, quyết định mới đƣợc ban hành và những

hiệu quả hoặc bất cập của chúng trong đời sống thực tiễn; các báo cáo về các

chỉ số thuộc tất cả các lĩnh vực kinh tế, thƣơng mại, đầu tƣ, xuất nhập khẩu…

qua các thời kỳ, giai đoạn; tình hình giao thông, y tế, thiên tai, dịch bệnh

v.v… cùng những phƣơng án giải quyết cụ thể của Chính phủ và các cơ quan

chức năng…); những sự kiện nổi bật trong ngày (lễ động thổ, khởi công,

khánh thành; kỷ niệm các ngày lễ lớn; hoạt động của các ban ngành, đoàn thể

từ trung ƣơng tới địa phƣơng v.v…). Ngoài ra, những tin tức, sự kiện quốc tế

cũng là mảng tin tức đƣợc chú trọng khai thác trong Chƣơng trình Thời sự.

Trong khi đó, những mảng tin tức mang tính gây sốc, tạo sự tò mò, quá

nặng nề, bạo lực... (các vụ án cƣớp, giết, hiếp; những sự kiện lùm xùm của

showbiz v.v...) không phải là mảng tin tức đƣợc chú trọng đƣa tin. Nếu có thì

cũng thƣờng ở dƣới dạng bài tổng hợp, phân tích, bình luận, đánh giá hơn là

cập nhật tính thời sự, “nóng hổi”.

2.2.5. Đa phương tiện trong truyền phát chương trình của kênh VOVTV:

Hƣớng đến mục tiêu đa dạng hóa, đa phƣơng tiện hóa, kênh VOVTV nói

riêng và Đài TNVN nói chung luôn chú trọng đến việc phát triển khâu truyền

dẫn, phát sóng trên càng nhiều phƣơng tiện, trang mạng càng tốt. Đối với

47

Chƣơng trình Thời sự cũng nhƣ các chƣơng trình khác của kênh VOVTV,

khán giả có thể xem trực tuyến và xem lại các chƣơng trình đã phát sóng trên

website vov.vn một cách thuận tiện, dễ dàng. Không chỉ xem bằng vô tuyến,

khán giả có thể theo dõi bằng cả máy vi tính, điện thoại thông minh, máy tính

bảng có kết nối mạng Internet.

Hình 2.3. Giao diện trực tuyến của kênh VOVTV trên website Vov.vn [13]

Những Chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV đƣợc website Vov.vn

đăng tải khá đầy đủ về số lƣợng. Mặc dù chất lƣợng chƣa cao (liên quan đến

tốc độ đƣờng truyền, chất lƣợng file hình sau khi tải lên mạng Internet...)

nhƣng không thể phủ nhận nhờ có dịch vụ phát trực tuyến, các chƣơng trình

của kênh VOVTV đã đƣợc công chúng biết đến nhiều hơn.

48

Hình 2.4. Khán giả có thể tải ứng dụng xem miễn phí các chương trình của

kênh VOVTV qua điện thoại di động, máy tính bảng... [13]

Hiện nay, ứng dụng phần mềm theo dõi chƣơng trình của kênh VOVTV

thông qua điện thoại di động và máy tính bảng đã đƣợc tích hợp sẵn trên trang

web vovtv.vov.vn với 3 phiên bản riêng dành cho điện thoại dùng hệ điều

hành Android; điện thoại sử dụng hệ điều hành IOS của Apple và phiên bản

dành riêng cho máy tính bảng, Ipad. Công chúng muốn theo dõi chƣơng trình

của kênh đều có thể dễ dàng tải các ứng dụng này về thiết bị di động của mình

và sử dụng.

2.2.6. Đa phương tiện thể hiện ở khả năng tương tác với công chúng

Đối với truyền thông đa phƣơng tiện, tính tƣơng tác cũng là một thành tố

quan trọng trong sự phát triển của tòa soạn xây dựng mô hình này. Rõ ràng,

với mục tiêu thu hút ngày càng nhiều công chúng của các loại hình TTĐC, sự

tƣơng tác giữa tòa soạn nói chung, các phƣơng tiện nói riêng đối với công

chúng và ngƣợc lại: giữa công chúng với tòa soạn đóng vai trò hết sức quan

trọng. Nếu nhƣ những nhu cầu của công chúng phản ánh đƣợc lắng nghe,

quan tâm và giải đáp cụ thể, nhanh chóng, chắc chắn sự hài lòng của họ sẽ

49

tăng lên, kéo theo đó là những sự quan tâm, chia sẻ trong cộng đồng về dịch

vụ tƣơng tác mà tòa soạn đó mang lại.

Công chúng của kênh VOVTV cũng hoàn toàn có đƣợc sự dễ dàng về

mặt tƣơng tác với ban biên tập của kênh thông qua nhiều phƣơng thức, từ

truyền thống nhƣ: thƣ tay, điện thoại, chuyên mục Hồi âm khán thính giả

(phát sóng trên phát thanh lẫn truyền hình) cho đến các phƣơng thức hiện đại,

mới mẻ hơn nhƣ: email, gửi bình luận/phản hồi tƣơng tác trực tuyến trên

website Vov.vn. Tất cả các tin bài, video clip... đều có phần bình luận dành

cho ngƣời xem ở bên dƣới, giúp công chúng sử dụng Internet hoàn toàn dễ

dàng tƣơng tác với tòa soạn một cách nhanh chóng.

2.2.7. Đội ngũ nhân sự tác nghiệp đa phương tiện

Ngay từ khi thành lập kênh VOVTV, ban lãnh đạo Đài TNVN đã đặt ra

yêu cầu đặc biệt đối với đội ngũ nhân sự của kênh theo tiêu chí: một ngƣời có

thể làm nhiều đầu việc khác nhau. PV/BTV phải tác nghiệp, viết bài đồng thời

phải có kỹ năng biên tập cho ít nhất là phát thanh và truyền hình. Chính vì

vậy, đối với những tin tức phát sóng trong Chƣơng trình Thời sự hàng ngày,

ngƣời phóng viên của kênh VOVTV có thể vừa viết và dựng hình, đồng thời

đọc và gửi tin, bài hoàn chỉnh cho Hệ phát thanh của Đài. Khâu khai thác,

biên tập tin tức cho Chƣơng trình Thời sự là khâu cần nhiều kỹ năng biên tập

đa phƣơng tiện. Nguồn thông tin đƣợc khai thác từ Trung tâm tin và các cơ

quan thƣờng trú của Đài TNVN là rất lớn; ngoài ra còn tin tức khai thác từ

mạng Internet... đều cần đƣợc biên tập cẩn thận, phù hợp với tiêu chí của

truyền hình.

Ví dụ: Phóng viên Nguyễn Thành Chung - Trƣởng phòng Tin Chính trị -

kênh VOVTV là phóng viên chuyên trách Thủ tƣớng Chính phủ. Công việc

của anh là luôn theo dõi hoạt động của Thủ tƣớng Nguyễn Tấn Dũng để phản

ánh một cách nhanh, đầy đủ nhất về hoạt động của Thủ tƣớng cả trong lẫn

50

ngoài nƣớc. Mỗi lần tác nghiệp, anh luôn thực hiện bài phản ánh do chính anh

đọc và gửi file video do quay phim thực hiện về kênh VOVTV; mặt khác, anh

cũng viết bài và gửi file âm thanh hoàn chỉnh (sau khi đã cắt lỗi sạch) cho Hệ

phát thanh VOV1 của Đài TNVN để phát sóng trong Chƣơng trình Thời sự

của Hệ này.

Ngoài ra, đội ngũ PV/BTV của kênh còn đƣợc tạo điều kiện nhiều mặt

để gửi bài cộng tác cho các phƣơng tiện truyền thông khác của Đài TNVN

nhƣ báo mạng hay báo in. Tuy nhiên, tin bài đƣợc sản xuất theo cách này lại

rất hiếm gặp.

Trong khi đó, đội ngũ KTV của kênh cũng phải thành thạo sử dụng và

lắp đặt hệ thống dựng hình, ghi hình, phát sóng cũng nhƣ làm việc với hệ

thống của phát thanh. Vì vậy, mỗi khi Đài TNVN có chƣơng trình lớn, đƣợc

phát sóng trực tiếp trên cả kênh VOVTV lẫn các Hệ phát thanh, đội ngũ KTV

của VOVTV cũng nhƣ các hệ phát thanh đó luôn phải gánh trên vai trọng

trách rất lớn trong việc lắp đặt, kết nối và đảm bảo tín hiệu đƣờng truyền cho

tất cả các kênh sóng.

Ví dụ: Phụ trách trƣờng quay tại kênh VOVTV - KTV Nguyễn Văn

Nghị là ngƣời có kinh nghiệm lâu năm trong công tác tại Đài TNVN. Từng có

nhiều năm công tác ở vị trí kỹ thuật viên phát thanh thuộc Trung tâm âm

thanh - Đài TNVN, anh đƣợc điều chuyển công tác về kênh VOVTV từ

những ngày đầu thành lập kênh. Trong quá trình vừa thay đổi môi trƣờng làm

việc sang loại hình mới, anh không chỉ trau dồi mở mang kiến thức tại những

khóa đào tạo do kênh VOVTV tổ chức mà còn tự mày mò nghiên cứu để đáp

ứng nhu cầu công việc của một kỹ thuật viên trƣờng quay truyền hình. Chính

vì vậy, trong những chƣơng trình đƣợc phát sóng trên cả truyền hình VOVTV

và các kênh phát thanh của Đài TNVN (Studio M, Quà tặng âm nhạc, Chính

phủ với ngƣời dân...), KTV Nguyễn Văn Nghị luôn đƣợc ban lãnh đạo tin

51

tƣởng, giao phó những nhiệm vụ quan trọng trong việc di chuyển, lắp đặt, vận

hành hệ thống thiết bị của cả phát thanh lẫn truyền hình.

2.3. Đánh giá chung về thành công, hạn chế trong phƣơng thức sản xuất

Chƣơng trình Thời sự VOVTV dƣới góc độ truyền thông đa phƣơng tiện

2.3.1. Thành công

2.3.1.1. Đa dạng hơn nội dung thông tin trong chương trình

Điều đầu tiên phải khẳng định khi nhắc tới thành công của Chƣơng trình

Thời sự mà kênh VOVTV sản xuất đó là việc luôn đảm bảo đúng định hƣớng

mà Đảng và Nhà nƣớc đã chỉ đạo: Đài Tiếng nói Việt Nam là đài phát thanh

quốc gia, là cơ quan thuộc Chính phủ, thực hiện chức năng thông tin, tuyên

truyền đƣờng lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc, góp phần

nâng cao dân trí, phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân.

Kể từ khi ra đời đến nay, Chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV luôn

hoàn thành tốt mục tiêu, nhiệm vụ của một cơ quan báo chí trung ƣơng: là cánh

tay đắc lực của Đảng, góp phần tuyên truyền những chủ trƣơng, đƣờng lối, chính

sách lãnh đạo của cấp trên tới mọi tầng lớp nhân dân; đồng thời là cầu nối giữa

nhân dân với Đảng và Chính phủ: bày tỏ nguyện vọng, phản ánh những ý kiến,

đóng góp, tâm tƣ, tình cảm của nhân dân đối với các cấp lãnh đạo.

Việc “lợi dụng” đƣợc tính đa phƣơng tiện trong quá trình sản xuất giúp

Chƣơng trình Thời sự của kênh vừa tiết kiệm đƣợc chi phí, vừa đảm bảo tính

nhanh nhạy, thời sự cần thiết của một bản tin.

Chƣơng trình Thời sự trên kênh VOVTV luôn cập nhật một cách nhanh

nhất, mới nhất những thông tin chính trị: các chuyến thăm cấp cao, trao đổi

hữu nghị giữa Việt Nam và các nƣớc trên thế giới; các kỳ họp Quốc hội, Hội

đồng Nhân dân, các kỳ bầu cử; các Hội nghị báo cáo tổng kết, đề ra mục tiêu,

nhiệm vụ của các ban ngành từ trung ƣơng đến địa phƣơng v.v…

52

Không chỉ vậy, những “điểm nóng” đƣợc cả xã hội quan tâm nhƣ: các

vấn nạn trong giao thông, giáo dục, y tế và những vấn đề dân sinh khác đều

đƣợc Chƣơng trình Thời sự - kênh VOVTV phát sóng kịp thời, góp tiếng nói

phản ánh tâm tƣ, nguyện vọng chính đáng của ngƣời dân tới các cấp có thẩm

quyền, nhờ đó nhiều vụ việc đã đƣợc giải quyết, giúp ngƣời dân an tâm sinh

sống, lao động.

Ngoài ra, Chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV cũng luôn chú trọng

cập nhật những thông báo mới nhất về các quy định, thay đổi mới đƣợc ban

hành về các mặt của đời sống xã hội (kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế,…)

chẳng hạn nhƣ: sự tăng giảm giá xăng, dầu; tăng giảm dịch vụ y tế, giáo dục;

các quy định mới về pháp luật; kim ngạch xuất nhập khẩu các ngành hàng

công – nông nghiệp v.v…

Bên cạnh đó, các tin tức quốc tế của Chƣơng trình cũng luôn bám sát với

tình hình thế giới, đặc biệt là các đề tài: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai, thảm

họa, các hoạt động có tầm ảnh hƣởng lớn đến cục diện thế giới của các nƣớc

lớn hoặc những tin tức văn hóa thế giới nổi bật…

2.3.1.2. Đội ngũ phóng viên ngày càng năng động, đa kỹ năng

Việc “đa phƣơng tiện” hóa hình thức thể hiện để các tác phẩm sản xuất

xong có thể phát trên cả phát thanh lẫn truyền hình, thậm chí cả trên báo

mạng điện tử và báo in của Đài thực sự đã bƣớc đầu góp phần hình thành nên

những phóng viên, biên tập viên đa năng: có kỹ năng tác nghiệp, viết bài cho

nhiều loại hình báo chí khác nhau. Để làm đƣợc điều này, bản thân các phóng

viên phải có tƣ duy đa phƣơng tiện, nghĩa là khi nghĩ về cách tổ chức thực

hiện, họ phải ngay lập tức nghĩ đến cách thể hiện nội dung thông tin trên các

phƣơng tiện truyền thông khác nhau mà cơ quan báo chí của mình có.

53

2.3.1.3. Tăng lượng công chúng

Việc sản xuất Chƣơng trình Thời sự có sử dụng các yếu tố đa phƣơng

tiện, vừa phát trên truyền hình, vừa trực tuyến trên Internet và có bản lƣu lại

để độc giả trên mạng (tại địa chỉ trang web: www.vovtv.vov.vn) có thể theo dõi

lại giúp kênh VOVTV thỏa mãn đƣợc nhu cầu thông tin của công chúng. Nhờ

đó, lƣợng công chúng quan tâm đến Chƣơng trình Thời sự nói riêng và các

chƣơng trình đƣợc phát sóng trên kênh truyền hình VOVTV nói chung dần

tăng lên theo thời gian.

Từ khi đi vào hoạt động chính thức đến nay, trang web vovtv.vov.vn đã

nhận đƣợc rất nhiều các phản hồi tích cực của khán giả, đặc biệt là đáp ứng

đƣợc khán giả mọi lúc mọi nơi để xem trực tiếp hoặc xem lại chƣơng trình.

Đến nay, website này đã cập nhật đƣợc khoảng gần 12.800 tin, bài,

chƣơng trình lên website.; bình quân mỗi tháng cập nhật đƣợc khoảng 300 tin,

bài, chƣơng trình; tổng số lƣợng truy cập đạt hơn 2,4 triệu lƣợt ngƣời; đầu

năm 2014 đến nay đạt đƣợc 1.536.482 lƣợt truy cập, tăng 17% so với năm

2013 [Phụ lục 2]; trung bình tại các thời điểm trong ngày, website này thu hút

khoảng gần 900 ngƣời trực tuyến; cao điểm đạt khoảng 1200 - 1500 ngƣời

hoạt động; đƣợc đa số độc giả đánh giá tốt về hoạt động của trang.

2.3.1.4. Tiết kiệm về nhân lực

Rõ ràng, với việc áp dụng đa phƣơng tiện trong sản xuất Chƣơng trình

Thời sự, kênh VOVTV nói riêng, Đài TNVN nói chung đã bớt đƣợc một

lƣợng nhân sự nhất định mà vẫn đảm bảo hiệu quả thông tin. Đội ngũ phóng

viên chuyên trách các Nguyên thủ quốc gia cộng với hệ thống các cơ quan

thƣờng trú khắp mọi miền Tổ quốc và tại nhiều nƣớc trên thế giới đƣợc Đài

TNVN xây dựng từ những ngày mới thành lập cũng đồng thời là nguồn cung

cấp thông tin quan trọng, đầy đủ, nhanh chóng cho Chƣơng trình. Bên cạnh

đó, Trung tâm tin của Đài TNVN - nguồn cung cấp thông tin quan trọng cho

54

cả Đài - cũng giúp kênh VOVTV giảm đƣợc lƣợng nhân sự tham gia vào quá

trình sản xuất mà vẫn đảm bảo sự đa dạng và chất lƣợng của thông tin.

2.3.1.5. Tiết kiệm về chi phí sản xuất

Song song với việc giảm đƣợc lƣợng nhân sự cần thiết, việc bố trí nhân

lực sản xuất theo hƣớng đa phƣơng tiện cũng giúp kênh VOVTV tiết kiệm

đƣợc một phần không nhỏ kinh phí sản xuất, khi chỉ phải chi trả cho 1 kíp đi

hiện trƣờng (thông thƣờng bao gồm 1 phóng viên, 1 quay phim, 1 kỹ thuật

viên lƣu động (nếu có) và chi phí phƣơng tiện đi lại (xe Đài, taxi)) nhƣng vẫn

có tác phẩm để phát sóng, đăng tải trên các phƣơng tiện truyền thông mà Đài

sở hữu.

Mặt khác, việc khai thác các tin, bài từ nguồn báo mạng, báo in, Trung

tâm tin cũng nhƣ nguồn tin mà các hệ khác thuộc Đài cung cấp vừa đảm bảo

độ chính xác, tin cậy lại vừa không phải tốn chi phí mua những tin tức này về.

2.3.1.6. Hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước và Đài

Tiếng nói Việt Nam giao phó

Với lợi thế phát sóng cả trên truyền hình lẫn trực tuyến trên Internet,

chƣa kể một lƣợng nhất định nội dung thông tin đƣợc sản xuất thông qua đội

ngũ phóng viên chuyên trách và khai thác từ Trung tâm tin cũng nhƣ các cơ

quan thƣờng trú đƣợc phát trên cả các kênh phát thanh của Đài TNVN,

Chƣơng trình Thời sự VOVTV thực sự đƣợc “nối dài cánh tay” trong việc

thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền chủ trƣơng của Đảng, Pháp luật của Nhà

nƣớc; góp phần tăng cƣờng cầu nối giữa chính quyền với nhân dân, đảm bảo

hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị đƣợc cấp trên giao phó.

2.3.2. Hạn chế

Bên cạnh những thành công, việc áp dụng phƣơng thức sản xuất đa

phƣơng tiện trong Chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV cũng còn bộc lộ

một số hạn chế, bất cập.

55

- Nội dung chương trình còn quá nặng tính chính trị

Với định hƣớng Thời sự - Chính trị - Tổng hợp, tất nhiên Chƣơng trình

Thời sự của kênh sẽ phải “ôm đồm” rất nhiều mảng nội dung rộng lớn dàn trải

đều trên khắp cả nƣớc mà vẫn phải đặc biệt chú trọng đến thủ đô Hà Nội – nơi

tập trung bộ máy lãnh đạo tối cao của nƣớc Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt

Nam. Trong đó, mảng thời sự chính trị luôn phải là phần nội dung đƣợc chú

trọng đặc biệt: dành ƣu tiên thời lƣợng trƣớc hết, sau đó mới đến các mảng

khác trong đời sống xã hội.

Trong khi đó, các tin tức, phản ánh về mảng nội dung này thƣờng có

dung lƣợng khá dài, thƣờng từ 1 – 2 phút, thậm chí 3 – 4 phút đối với những

tin tức đặc biệt quan trọng, liên quan đến hoạt động của Chủ tịch nƣớc, Tổng

Bí thƣ, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tƣớng Chính phủ. Có những chƣơng trình

phần thời lƣợng dành cho mảng chính trị đã chiếm hết gần nhƣ 45 phút, khiến

ban biên tập buộc phải cắt bỏ những tin tức khác kém quan trọng hơn và cả

phần tin quốc tế.

Chính vì vậy, để làm đƣợc một Chƣơng trình Thời sự hay, hấp dẫn, sinh

động, “có hồn” là rất khó, trong khi các đơn vị khác có cùng định hƣớng là Đài

Truyền hình Việt Nam với Chƣơng trình Thời sự VTV1 hay Thông tấn xã Việt

Nam với Chƣơng trình Thời sự trên kênh truyền hình TTXVN đã làm rất tốt.

- Nội dung chương trình vẫn còn mang yếu tố phát thanh do biên tập

chưa kỹ

Không chỉ phẩm truyền hình hiện nay trên kênh VOVTV nói chung và

Chƣơng trình Thời sự nhiều khi bị yếu tố phát thanh chi phối: lời nhiều hơn

hình; hình quay không “đắt” và ít hình; phần lời mang “màu sắc” phát thanh,

chƣa chọn đƣợc chi tiết quan trọng phù hợp với tiêu chí của truyền hình.

Chẳng hạn, truyền hình rất hạn chế những câu dẫn đặc trƣng của phát thanh

nhƣ: “Sau đây mời quý vị và các bạn cùng theo dõi”, “Một số thông tin về

56

(…) sẽ tiếp nối chương trình”, “Phản ánh của phóng viên Nguyễn Văn A.”

v.v… Thế nhƣng, không hiếm gặp những câu dẫn nhƣ thế này trong các

Chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV.

Một ví dụ khác: trong phóng sự “Bất cập nạn khai thác cát trái phép

trên sông Thạch Hãn - Quảng Trị” của phóng viên Vinh Thông - thƣờng trú

VOV khu vực miền Trung khi gửi cho Chƣơng trình Thời sự kênh VOVTV

vẫn chƣa đƣợc viết lại theo phong cách phóng sự truyền hình mà còn “sót” rất

nhiều yếu tố phát thanh. Chẳng hạn, trong phóng sự này có đoạn: “Chiếc ca-

nô chở các chiến sĩ cảnh sát xé dòng nước lao đi vun vút trong màn đêm dày

đặc”. Đây là phần thông tin không cần thiết phải mô tả chi tiết và giàu hình

ảnh bởi phần hình quay đã có cảnh ca-nô chở các chiến sĩ cảnh sát đi làm

nhiệm vụ.

- Quy trình sản xuất còn nhiều bất cập

Quy trình tổ chức sản xuất tại kênh VOVTV còn bộc lộ nhiều bất cập,

hạn chế: ngƣời TCSXC không hoàn toàn nắm đƣợc trƣớc những nội dung sẽ

phát trong các Chƣơng trình Thời sự của ngày hôm sau, đồng thời không

đƣợc quyền chỉ định phóng viên/biên tập viên thực hiện những nội dung cần

thiết cho chƣơng trình (phần việc này là của các TCSX từng phòng, ban nội

dung). Do đó, TCSXC gần nhƣ bị động trong quá trình lên phƣơng án sản

xuất và lập vỏ chƣơng trình; chỉ có thể chờ đến ca làm việc để bắt đầu tiếp

nhận tin bài từ các phòng, ban khác trong kênh cũng nhƣ các đơn vị CTV gửi

về, đồng thời luôn phải dự trù sẵn những tin, bài “lấp chỗ trống” phòng khi tin

tức dự kiến sản xuất không về kịp hoặc xảy ra những sự cố ngoài ý muốn.

Chính vì vậy, các Chƣơng trình Thời sự trên kênh VOVTV dƣờng nhƣ không

để lại “dấu ấn” của ngƣời TCSXC; nhiều khi trở nên lộn xộn, không liền

mạch, không tạo đƣợc những “đỉnh” cao về nội dung để giữ khán giả đi từ

hứng thú này sang hứng thú khác cho tới tận lúc kết thúc chƣơng trình. Trái

57

lại, đây là điều mà Chƣơng trình Thời sự VTV1 của Đài Truyền hình Việt

Nam và một số chƣơng trình tin tức của các đơn vị khác đã làm rất tốt.

Bên cạnh đó, quy trình sản xuất Chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV

cũng không phát huy tối đa năng lực sản xuất của mỗi cá nhân trong ê-kip,

trái lại nhiều lúc còn khiến tốc độ làm việc bị trì trệ, “chây ì”, thiếu sự phối

hợp hỗ trợ giữa các phòng, ban và nhóm sản xuất chƣơng trình. Một số những

khúc mắc thƣờng gặp phải nhƣ: các phòng, ban nộp tin, bài không đúng thời

gian quy định, để lọt lỗi; các thành viên trong ê-kip làm Chƣơng trình Thời sự

không nắm rõ đƣợc nội dung tin, bài hôm đó sản xuất, biên tập…

- Đội ngũ nhân lực còn thiếu, chưa có những cá nhân thực sự xuất sắc

trong lĩnh vực truyền hình

Một hạn chế nữa góp phần làm giảm chất lƣợng nội dung của Chƣơng

trình Thời sự kênh VOVTV chính là khâu tự sản xuất tin, bài phát sóng. Với

đội ngũ khoảng 40 phóng viên/biên tập viên thuộc 4 phòng nội dung, chƣa kể

nhiều ngƣời trong số các phóng viên/biên tập viên này phải kiêm nhiệm thêm

các công việc khác hoặc chuyên sản xuất những chƣơng trình, chuyên mục

không dành để phát Thời sự (chẳng hạn: các bản tin thể thao, chuyên mục văn

nghệ, chuyên đề…), thật sự không có nhiều phóng viên/biên tập viên tham gia

sản xuất tin tức hàng ngày. Trong khi đó, những đề tài dân sinh – nhóm vấn

đề mà ngƣời dân quan tâm nhất - liên tục phát sinh những vƣớng mắc, đòi hỏi

phải có ngay phóng viên đến hiện trƣờng để thực hiện thông tin, phản ánh.

Thế nhƣng với lực lƣợng “mỏng”, không phải lúc nào mong muốn này cũng

có thể thực hiện.

Mặt khác, nhân lực thực hiện Chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV

đa phần đều trƣởng thành trong nghề từ các Hệ phát thanh khác của Đài, do

đó nghiệp vụ truyền hình của họ gần nhƣ đi lên từ con số 0. Trong khi đó, để

có thể làm một phóng viên, biên tập viên truyền hình giỏi, ngoài năng lực báo

58

chí ra rất cần phải có tố chất và kinh nghiệm làm truyền hình. Chỉ có nhƣ vậy,

đội ngũ những thế hệ phóng viên, biên tập viên đi trƣớc mới có thể chỉ dẫn,

đào tạo, “cầm tay chỉ việc” lớp “đàn em” tiếp sau, mới rèn dũa đƣợc những

ngƣời làm truyền hình thực thụ: có nghề, có bản lĩnh truyền hình, sắc sảo,

thạo việc.

Mặc dù kênh VOVTV thƣờng tổ chức các lớp học với chuyên gia về kỹ

năng làm truyền hình, đặc biệt là làm Chƣơng trình Thời sự cho các phóng

viên, biên tập viên, nhƣng khi đào tạo xong quay trở về với môi trƣờng công

việc lại khó thực hiện. Nguyên nhân lại quy trở về bài toán quản lý, tổ chức

và quy trình sản xuất không có điều kiện để áp dụng những cái mới.

- Thiếu đầu tư về hình ảnh và phong cách cho đội ngũ Người dẫn

Chương trình Thời sự

Khâu Ngƣời dẫn chƣơng trình lên hình là khâu đóng vai trò rất quan

trọng trong bất kỳ chƣơng trình tin tức, thời sự nào. Chính vì vậy, để phục vụ

cho công tác này đƣợc trơn tru, mang lại hiệu quả lên hình tốt, vấn đề trƣờng

quay (bao gồm việc bố trí, sắp đặt hệ thống máy móc ghi hình, âm thanh, ánh

sáng, phông nền, bàn ghế…) là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, vì nguồn kinh

phí eo hẹp nên hiện nay, trƣờng quay Chƣơng trình Thời sự của kênh

VOVTV còn thiếu nhiều cơ sở vật chất đồng bộ, khiến chất lƣợng hình ảnh

của Ngƣời dẫn chƣơng trình không đƣợc nhƣ mong muốn.

Hơn nữa, sự đầu tƣ trang phục, đầu tóc, công nghệ trang điểm… cho

Ngƣời dẫn chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV còn chƣa đƣợc thỏa đáng:

không có nhà tài trợ, ngƣời dẫn phải tự đầu tƣ và lựa chọn trang phục lên

hình; không có ngƣời làm tóc mà do ngƣời trang điểm đảm nhận; ngƣời dẫn

không đƣợc bồi dƣỡng chi phí độc hại...

- Cơ sở vật chất kỹ thuật chưa được đầu tư đúng mức, thiếu đồng bộ

59

Một bất cập nữa trong hình thức thể hiện là vấn đề liên quan đến trình độ

máy móc và kỹ thuật dựng hình. Theo đó, hệ thống máy móc giữa các bộ

phận từ ghi hình, dựng hình cho đến phát sóng chƣa có sự nhất quán, đồng bộ,

dẫn đến chất lƣợng từ lúc sản xuất cho đến khi phát sóng đã có sự sụt giảm

đáng kể. Quá trình dựng hình còn để xảy ra nhiều sai sót, lọt lỗi khi lên sóng

(vỡ hình, giật hình, rung hình, thừa hoặc thiếu hình, quay phim và dựng hình

sai logic hình ảnh, trái trục v.v…).

Ngoài ra, kênh VOVTV cũng chƣa chú trọng đến khâu quảng bá các

chƣơng trình truyền hình nói chung và Chƣơng trình Thời sự nói riêng trên

Internet, điện thoại di động... Việc làm này đòi hỏi không chỉ một kỹ thuật

viên chuyên trách mà còn cần một biên tập viên có kỹ năng tốt để viết giới

thiệu chƣơng trình, phục vụ cho độc giả Internet biết sơ lƣợc nội dung của các

clip đƣợc đăng tải. Hiện nay, các clip trên website Vov.vn đều chƣa đƣợc viết

giới thiệu mà chỉ dừng lại ở việc chú thích tên chƣơng trình - ngày, giờ phát

sóng hoặc tên tin, bài. Hơn nữa, tốc độ đăng tải clip cũng nhƣ truy cập của

website Vov.vn còn chậm; mỗi lần up web một Chƣơng trình Thời sự phải

mất rất nhiều thời gian (ít nhất 45 phút với điều kiện đƣờng truyền ổn định).

Điều này gây ảnh hƣởng lớn tới hiệu quả làm việc của Kỹ thuật viên website

cũng nhƣ nhu cầu tiếp nhận của công chúng.

2.4. Nguyên nhân thành công, hạn chế và những vấn đề đặt ra

2.4.1. Nguyên nhân thành công

- Về phía cơ quan chủ quản

Một trong những nguyên nhân hàng đầu giúp Chƣơng trình Thời sự -

kênh VOVTV luôn đảm bảo đúng định hƣớng đề ra chính là nhờ bề dày lịch

sử gần 70 năm hình thành và phát triển. Đài Tiếng nói Việt Nam với vị thế là

một cơ quan báo chí trung ƣơng, nắm giữ một trong bốn loại hình báo chí

truyền thông chính thống hiện nay, đồng thời là đơn vị duy nhất sở hữu loại

60

hình báo chí phát thanh, vì vậy Đài luôn đƣợc Đảng, Nhà nƣớc quan tâm chỉ

đạo sát sao hoạt động và định hƣớng phát triển.

Sinh ra trong lòng Đài TNVN, kênh truyền hình VOV kế thừa đƣợc tiềm

năng sẵn có không chỉ về con ngƣời mà còn về cả yếu tố vật chất, đặc biệt là

vị trí làm việc thuận lợi tại trung tâm Thủ đô; cùng với đó là hệ thống cung

cấp thông tin (Trung tâm tin VOV, các Hệ phát thanh, báo mạng VOV, báo in

VOV, các cơ quan thƣờng trú, các đơn vị Cộng tác viên, đội ngũ cộng tác

viên đông đảo trong và ngoài nƣớc...) và trang thiết bị vốn có phục vụ cho sản

xuất các chƣơng trình phát thanh của Đài. Nhờ đó, nguồn tin của kênh

VOVTV luôn đƣợc đảm bảo tính nhanh nhạy, phong phú, đa dạng.

Một điểm khác cần nhấn mạnh, đó chính là tƣ duy đổi mới của ban lãnh

đạo Đài TNVN trong việc tái cơ cấu tổ chức của VOV theo hƣớng tinh giản,

gọn nhẹ theo trục dọc để gắn kết các đơn vị trong Đài lại với nhau nhằm làm

tăng “sản lƣợng” và hiệu quả sản xuất thông tin của Đài.

Theo báo cáo đề tài khoa học năm 2011 của Đài TNVN “Nghiên cứu

xây dựng mô hình VOV trực tuyến” [19], kênh VOVTV trong mô hình phát

triển VOV Online là một mắt xích quan trọng trong hệ thống của VOV. Với

một lƣợng thông tin đa phƣơng tiện khổng lồ từ các Hệ phát thanh VOV1,

VOV2, VOV3, VOV4, VOV5, Kênh VOV-GT Hà Nội và VOV-GT TP. Hồ

Chí Minh, Trung tâm tin, Báo Tiếng nói Việt Nam, báo mạng điện tử Vov.vn,

các cơ quan thƣờng trú trong nƣớc và nƣớc ngoài, các phóng viên, biên tập

viên của kênh VOVTV luôn có thể khai thác hết sức thuận lợi, tận dụng đƣợc

thế mạnh của các loại hình báo chí khác trong thời đại công nghệ số.

61

Hình 2.5. Cấu trúc mô hình VOV trực tuyến giai đoạn 2011 – 2016

[19, tr. 105]

Trong tƣơng lai, mục tiêu của Đài TNVN là mở rộng cổng truyền thông

trực tuyến VOV Online, tích hợp nhiều thể loại báo, mở rộng đa phƣơng tiện

và mạng xã hội. Điều quan trọng là các mối liên hệ phải đƣợc duy trì thƣờng

xuyên và bền chặt để có thể tận dụng và không bỏ phí tài nguyên chung của

Đài TNVN, với hơn 700 phóng viên ở khắp các vùng miền trên đất nƣớc và ở

nƣớc ngoài. Nhƣ vậy, có thể khẳng định rằng: sự tồn tại và phát triển của

kênh VOVTV chính là hƣớng đến sự hòa nhập trong mô hình hoạt động

chung của Đài TNVN.

Với mục tiêu này, có thể nói Đài TNVN đang dần định hƣớng sự phát

triển của mình thành một khối thống nhất: một “cỗ máy” sản xuất tin tức đa

phƣơng tiện quy mô lớn mà xu thế truyền thông hội tụ với mô hình tòa soạn

hội tụ là “hạt nhân”.

Theo sơ đồ này, có thể nhận thấy khi đó VOV hoạt động nhƣ một trung

tâm sản xuất nội dung, là một thƣơng hiệu thống nhất, hoạt động theo phƣơng

62

thức một cơ quan báo chí đa nền tảng. Toàn bộ nội dung sẽvđƣợc chuyên biệt

hóa theo mảng: chính trị, kinh tế, tin tức, âm nhạc, thể thao… có thể đáp ứng

đƣợc các tiêu chí cao nhất về số lƣợng, chất lƣợng, tốc độ, sự nhất quán.

Đồng thời, ranh giới giữa các hệ trở nên nhạt nhòa, Toàn bộ thƣơng hiệu

riêng nhƣ VOV1, VOV2, VOV3, VOV4, VOV5, VOVGT, VOVTV… phải

nhƣờng chỗ cho một thƣơng hiệu duy nhất: VOV.

Đây là hƣớng đi đƣợc đánh giá có tính khả thi cao, đầu tƣ không nhiều,

có thể ứng dụng sớm. Tuy nhiên, một số trở ngại đặt ra chính là hiệu quả của

nó phụ thuộc vào năng lực của từng đơn vị và sự phối hợp giữa các đơn vị;

khi bộ máy tái cơ cấu theo hƣớng tinh giản sẽ xảy ra tình trạng thừa nhiều

nhân sự. Để giải quyết tình trạng này, nhất thiết cần có một mô hình và cơ chế

chỉ đạo, điều phối thích hợp để vận hành; đồng thời cần đầu tƣ nhiều trang

thiết bị và đào tạo, đào tạo lại nhân lực.

- Về phía đội ngũ nhân lực sản xuất

Là một trong những cơ quan báo chí hình thành lâu đời nhất ở nƣớc ta,

Đài TNVN đã xây dựng đƣợc lực lƣợng những ngƣời làm nghề ở khắp đất

nƣớc và nhiều nơi trên thế giới. Không thể phủ nhận rằng, đội ngũ những

ngƣời làm nghề đều dày dạn kinh nghiệm, đặc biệt là trong lĩnh vực phát

thanh. Cùng với đó là bản lĩnh chính trị vững vàng, chuyên môn báo chí tốt.

Chính vì vậy, những chƣơng trình tin tức, thời sự mà Đài Tiếng nói Việt Nam

nói chung và kênh VOVTV nói riêng sản xuất luôn đảm bảo đƣợc tính định

hƣớng mà Đảng, Nhà nƣớc đã đề ra.

Thêm vào đó, đội ngũ PV, BTV, KTV của kênh VOVTV cũng thƣờng

xuyên đƣợc lãnh đạo quan tâm trau dồi kỹ năng sản xuất chƣơng trình truyền

hình đa phƣơng tiện. Mặc dù khó có thể ngày một ngày hai nâng cao nghiệp

vụ cho đội ngũ sản xuất, nhƣng việc làm này cũng đóng góp một phần quan

63

trọng trong việc thay đổi tƣ duy, khơi gợi niềm cảm hứng sáng tạo trong quá

trình làm nghề của họ.

- Về phía công chúng

Là một đơn vị “sinh sau đẻ muộn”, kênh VOVTV ra đời đã có sẵn một

bộ phận thính giả của các Hệ phát thanh khác thuộc Đài TNVN đón nhận.

Chính tình cảm, sự yêu mến dành cho những chƣơng trình phát thanh mà Đài

TNVN sản xuất là nhịp cầu giúp thính giả biết đến kênh VOVTV, theo dõi và

ủng hộ, góp ý cho nội dung chƣơng trình của kênh.

Chƣơng trình Thời sự trên kênh VOVTV luôn đƣợc khán giả tận tình

góp ý để nâng cao chất lƣợng chƣơng trình. Chẳng hạn, khán giả thƣờng

xuyên gọi điện để nêu ý kiến về việc chữ của tiêu đề các tin, bài (title) nhỏ

quá, khó đọc đƣợc; một số tiêu đề, nội dung tin... còn để lọt lỗi chính tả; sai

ngày tháng, tên địa danh, địa điểm v.v... Trung bình mỗi ngày, Phòng Thƣ ký

- Đạo diễn phát sóng của kênh VOVTV nhận đƣợc từ 8 - 10 cuộc gọi góp ý,

thắc mắc của khán giả, trong đó có khoảng 2 - 3 cuộc gọi có liên quan đến

Chƣơng trình Thời sự.

2.4.2. Nguyên nhân hạn chế

Để một chƣơng trình tin tức thời sự tạo đƣợc tiếng vang không hề dễ

dàng, đặc biệt lại là với định hƣớng theo nội dung thông tin chính trị - tổng

hợp: vừa phải đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao phó, nhƣng đồng

thời cũng phải thỏa mãn nhu cầu thông tin thời sự của khán giả khắp mọi

vùng miền của Tổ quốc.

Tuy nhiên, với những khó khăn, bất cập còn tồn tại, thực sự rất khó để

Chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV vừa có thể vừa hoàn thành nhiệm vụ

chính trị, vừa đảm bảo nội dung hấp dẫn, thu hút công chúng.

Một số nguyên nhân hạn chế có thể kể đến nhƣ:

64

- Một số phóng viên, biên tập viên quen lối tư duy làm truyền hình

truyền thống.

Xu thế chung của truyền hình là cảnh quay phải “đắt”, trong khi lời càng

ít và “sắc” bao nhiêu càng tốt, bổ trợ tốt cho hình chứ không phải hình đi diễn

giải cho lời.

Tuy nhiên, nếu PV, BTV quen lối tƣ duy cũ: viết lời trƣớc rồi quay hình

theo lời, chắc chắn sẽ dẫn đến hệ quả là hình quay về thiếu, không đƣa ra

đƣợc nhiều thông tin, hình quay không chất lƣợng... Khi đó, chắc chắn PV,

BTV sẽ phải viết lời làm sao cho đủ thời lƣợng, còn phần hình sẽ “chạy theo”

nội dung câu chữ: nói đến cái gì, phát hình cái đó; nếu không có hình đúng

nhƣ nội dung của lời đƣa ra thì buộc phải dùng cảnh chung chung để “đắp”

vào. Thậm chí một số trƣờng hợp không thể “đắp” đƣợc nên buộc phải bỏ

phần nội dung đó đi, mặc dù có chứa những chi tiết quan trọng.

Đây là thực trạng vẫn còn tồn tại trong tƣ duy làm nghề của một số

phóng viên, biên tập viên của VOVTV. Điều này khiến sản phẩm truyền hình

khi lên sóng bị lặp hình nhiều, khiến khán giả cảm thấy bị “nhàm” hình bởi

đƣa ra nội dung nhƣng hình ảnh thì lại không đáp ứng đƣợc.

- Kinh phí sản xuất chưa được đầu tư thỏa đáng

Với cơ chế dựa gần nhƣ hoàn toàn vào ngân sách Nhà nƣớc, kinh phí sản

xuất luôn là “bài toán” hóc búa mà Ban lãnh đạo kênh VOVTV luôn phải cân

nhắc xử lý. Mỗi năm kênh đƣợc cấp 18 tỷ phục vụ cho quá trình hoạt động,

bao gồm chi phí phát sóng, mua mới và sửa chữa máy móc thiết bị, kinh phí

sản xuất, quỹ lƣơng, hoạt động đối nội – đối ngoại, công tác hành chính và tất

cả các hoạt động liên quan. Trong khi đó, kênh VTC14 - Đài Truyền hình Kỹ

thuật số VTC - với nguồn nhân lực hơn khoảng gần 100 ngƣời đƣợc cấp kinh

phí mỗi năm khoảng từ 30 - 40 tỷ đồng dành cho việc chi trả tiền lƣơng và sản

xuất chƣơng trình; chi phí mua sắm trang thiết bị thuộc một dự án khác. Đối

65

với kênh VOVTV, với hơn 100 nhân sự, nguồn kinh phí này quả thực rất eo

hẹp, khó có thể đủ cho một kênh truyền hình có thể hoạt động hết công suất,

đạt hiệu quả cao đƣợc.

Có nhiều trƣờng hợp nguồn kinh phí không đủ cho các phóng viên đi sản

xuất, mặc dù đang có rất nhiều đề tài hay cần đƣợc khai thác ngay để kịp tính

thời sự. Do đó, việc thắt chặt chi tiêu, “liệu cơm gắp mắm”, chỉ tung nhân lực

đi sản xuất các tin, bài cực kỳ cần thiết là việc làm thƣờng xuyên tại kênh

VOVTV.

Mặc dù kênh cũng có những nguồn thu từ quảng cáo, thực hiện chƣơng

trình xã hội hóa…, nhƣng nguồn thu này không đƣợc phân phối trực tiếp về

bộ phận tài chính của kênh mà lại “dồn” về Trung tâm Quảng cáo của Đài

Tiếng nói Việt Nam rồi mới đƣợc trích trả một phần cho kênh. Do đó, nguồn

tiền này gần nhƣ không đóng góp gì nhiều vào việc tăng kinh phí sản xuất –

điều tối quan trọng làm nên sự thành công của một kênh truyền hình.

- Nội bộ kênh VOVTV thiếu sự liên kết, hỗ trợ chặt chẽ trong hoạt động

Chƣơng trình Thời sự luôn đƣợc xem là chƣơng trình “đinh” của kênh

VOVTV: thời lƣợng phát sóng trong ngày nhiều nhất, vị trí quan trọng nhất,

đƣợc đầu tƣ nhiều nhất về mọi mặt... Các phòng, ban trong kênh đều có

nhiệm vụ sản xuất tin bài đóng góp cho Chƣơng trình Thời sự.

Tuy nhiên, hoạt động phối hợp sản xuất giữa các phòng, ban của kênh

VOVTV với Nhóm sản xuất Chƣơng trình Thời sự còn nhiều bất cập. TCSX

Thời sự không nắm đƣợc kế hoạch sản xuất của các phòng nội dung khác quá

1 ngày. Trong trƣờng hợp có những dịp lễ, ngày kỷ niệm quan trọng, chƣơng

trình hành động quốc gia... cần sự phối hợp tuyên truyền, Nhóm sản xuất Thời

sự rất bị động trong việc lên khung nội dung chƣơng trình. Nếu biết đƣợc kế

hoạch sản xuất theo tuần của các phòng nội dung, các TCSX Thời sự mới có

thể định rõ đƣợc ngày nào, chƣơng trình nào nên phát sóng tin tức nào, đƣa

66

tin ở mức độ nào, thể loại nào; kết nối giữa các thông tin và mảng nội dung

trong cùng một chƣơng trình nhƣ thế nào cho hay, hiệu quả. Nguyên nhân này

khiến Quy trình sản xuất Chƣơng trình Thời sự VOVTV gặp nhiều khó khăn.

- Sự hỗ trợ sản xuất nội dung giữa các Hệ, Kênh của Đài TNVN chưa

thực sự tích cực

Với định hƣớng phát triển thành một cơ quan báo chí đa phƣơng tiện

mang tầm cỡ quốc gia, Đài Tiếng nói Việt Nam cần có cơ chế quản lý, tận

dụng triệt để hạ tầng kỹ thuật cũng nhƣ nguồn nhân lực dồi dào để thiết lập

một guồng máy sản xuất có năng suất lớn. Tuy nhiên, điều bất cập hiện nay là

các bộ phận sản xuất nội dung của Đài chƣa thực sự liên kết chặt chẽ với

nhau, gây lãng phí về nhiều mặt. Không lạ khi trong cùng một sự kiện, ngƣời

ta bắt gặp cả phóng viên phát thanh đi làm tin cho Hệ phát thanh, đồng thời

phóng viên truyền hình cũng đến tham gia sản xuất, rồi cả phóng viên báo

mạng, báo in của Đài cũng có mặt.

Hiện nay, Chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV hầu nhƣ chỉ khai thác

thông tin thông qua nội bộ từ Trung tâm tin, báo điện tử VOV và các cơ quan

thƣờng trú; còn các bộ phận sản xuất khác nhƣ Hệ VOV1, VOV2, VOV3,

VOV4, VOV5, VOV-GT, báo in VOV... hầu nhƣ không có sự liên kết hoạt

động nào. Đây là sự lãng phí to lớn đối với một cơ quan báo chí Quốc gia có

đầy đủ yếu tố phát triển lên tầm vóc Tòa soạn Hội tụ.

Hơn nữa, trong mối quan hệ liên kết với Trung tâm tin lẫn các cơ quan

thƣờng trú vẫn còn nhiều bất cập, ở chỗ: Nhóm sản xuất Chƣơng trình Thời

sự VOVTV luôn rất bị động trong việc nắm đƣợc kế hoạch sản xuất của các

đơn vị khác thuộc Đài. Họ chỉ có thể biết đƣợc các đơn vị khác cung cấp cho

mình tin, bài nào khi nhận đƣợc email về nội dung bản text và video clip tác

phẩm mà các phóng viên thuộc những đơn vị này đi sản xuất về. Chính vì

vậy, Chƣơng trình Thời sự VOVTV luôn lâm vào tình trạng “có gì dùng nấy”

chứ không đƣợc chuẩn bị sẵn kế hoạch nội dung phát sóng cụ thể.

67

*Tiểu kết chương 2

Bằng các phƣơng pháp: Nghiên cứu tài liệu, phỏng vấn sâu, quan sát trực

quan, khảo sát thống kê…, Chƣơng 2 của luận văn đã trình bày về thực trạng

sản xuất Chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV dƣới góc độ đa phƣơng tiện

cũng nhƣ thực trạng mối liên kết giữa kênh VOVTV với các Hệ, Kênh khác

thuộc Đài Tiếng nói Việt Nam.

Trong đó, luận văn đã trình bày quy trình sản xuất Chƣơng trình Thời sự,

kênh VOVTV, làm rõ những ƣu điểm, hạn chế của chƣơng trình cũng nhƣ

chất lƣợng nội dung, hình thức của Chƣơng trình Thời sự trong phạm vi thời

gian khảo sát từ tháng 6/2013 đến tháng 06/2014. Đặc biệt, qua nghiên cứu

phƣơng thức sản xuất Chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV, luận văn cho

thấy những bất cập về cơ cấu tổ chức, nhân sự, cách thức tổ chức sản xuất của

kênh đồng thời chỉ ra nguyên nhân của những bất cập đó.

Trong chƣơng 3, chúng tôi sẽ tiến hành đƣa ra các giải pháp nhằm nâng

cao chất lƣợng Chƣơng trình Thời sự VOVTV nói riêng, các chƣơng trình

đƣợc sản xuất theo phƣơng thức đa phƣơng tiện tại kênh nói chung.

68

Chƣơng 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NÂNG CAO HIỆU QUẢ

SẢN XUẤT CHƢƠNG TRÌNH TRÊN KÊNH VOVTV NHÌN TỪ

GÓC ĐỘ TRUYỀN THÔNG ĐA PHƢƠNG TIỆN

3.1. Cơ sở đề xuất

3.1.1. Truyền thông đa phương tiện là xu thế tất yếu tại các cơ quan báo chí

Với lợi thế là cơ quan báo chí trung ƣơng, lại nắm giữ trong tay đầy đủ

các loại hình báo chí - truyền thông đại chúng, việc sản xuất chƣơng trình trên

nền tảng đa phƣơng tiện là điều tất yếu đối với bất kỳ cơ quan báo chí nào có

điều kiện nhƣ Đài TNVN.

Với quy mô phủ sóng toàn quốc, các kênh sóng chuyên biệt về nội dung

thông tin, hệ thống cộng tác viên cũng nhƣ số lƣợng lớn các cơ quan thƣờng

trú khắp đất nƣớc và cả trên thế giới đang không ngừng tăng thêm, Đài

TNVN có nhiều điều kiện để phát triển thành một cơ quan báo chí đa phƣơng

tiện hùng mạnh.

Hơn nữa, vào năm 2008, Đài TNVN cũng đã thành lập Trung tâm tin -

đầu mối tổ chức sản xuất tin, bài cung cấp cho các hệ phát thanh và phát

thanh có hình, báo Tiếng nói Việt Nam, báo điện tử VOVNews của Đài

TNVN về chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và

Nhà nƣớc; phản ánh nhanh nhạy, kịp thời những vấn đề thời sự, kinh tế, văn

hóa, xã hội; an ninh, quốc phòng, đối ngoại trong nƣớc và quốc tế… Đây là

đơn vị đóng vai trò sản xuất, cung cấp nguồn thông tin và tƣ liệu rất lớn cho

toàn bộ Đài TNVN trong suốt thời gian từ khi thành lập đến nay.

Chính vì vậy, không chỉ tại kênh VOVTV mà ngay cả với những hệ phát

thanh và kênh khác thuộc Đài TNVN, việc sản xuất chƣơng trình dựa trên mô

hình truyền thông đa phƣơng tiện chính là xu thế khách quan, cần đƣợc tạo

điều kiện phát triển hơn nữa.

69

3.1.2. Nhu cầu tiếp nhận sản phẩm truyền thông nói chung, truyền hình

nói riêng theo phương thức đa phương tiện của công chúng hiện đại

Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, các phƣơng tiện truyền thông

hiện đại đang là công cụ tốt nhất để giúp cho báo chí truyền tải một lƣợng

thông tin khổng lồ đến với công chúng. Cùng với tốc độ phát triển của khoa

học, công nghệ đã tạo cho công chúng nhiều cơ hội để tiếp cận với báo chí.

Tiện ích của các phƣơng tiện truyền thông mới đã góp phần tạo ra những

nhóm công chúng mới với những nhu cầu ngày càng cao hơn. Không chỉ vậy,

công chúng còn là đối tác của cơ quan báo chí, là nguồn cung cấp dữ liệu và

nguồn nuôi dƣỡng báo chí.

Mỗi một loại hình báo chí có những ƣu, nhƣợc điểm riêng biệt, góp phần

tạo thành đặc trƣng cho từng loại hình. Những đặc trƣng đó lại phù hợp với

nhu cầu tiếp nhận cho từng nhóm công chúng khác nhau, đƣợc phân biệt theo

độ tuổi, giới tính, vùng miền, trình độ... Chính vì vậy, cơ quan báo chí nào sở

hữu nhiều loại hình truyền thông sẽ có cơ hội nắm bắt đƣợc lƣợng công chúng

đông đảo hơn, thỏa mãn nhu cầu công chúng tốt hơn. Tƣơng tự, với những

sản phẩm truyền hình đƣợc sản xuất theo phƣơng thức đa phƣơng tiện, công

chúng có cơ hội đƣợc tiếp cận với nhiều thông tin hơn, đƣợc thỏa mãn nhiều

giác quan hơn chứ không chỉ dừng lại ở đọc, nghe, hoặc xem...

Với những lý do nhƣ vậy, công chúng trong thời kỳ truyền thông đa

phƣơng tiện càng có nhiều “quyền lực” hơn trong việc lựa chọn kênh thông

tin phù hơp với nhu cầu của họ.

3.1.3. Sự quan tâm của lãnh đạo Đài Tiếng nói Việt Nam tới sản xuất

chương trình truyền hình theo phương thức đa phương tiện

Ngay từ khi mới thành lập kênh VOVTV, Lãnh đạo Đài TNVN đã chủ

trƣơng tạo ra và duy trì các mối liên kết sản xuất, trao đổi thông tin giữa các

đơn vị nội dung trong Đài, giữa các hệ phát thanh với kênh truyền hình, giữa

70

các cơ quan thƣờng trú trong, ngoài nƣớc với kênh VOVTV. Chính vì vậy, sự

ra đời của kênh VOVTV có vai trò nhƣ một sự đánh dấu bƣớc phát triển mới

trong quá trình xây dựng một cơ quan báo chí đa phƣơng tiện cấp trung ƣơng:

từ một cơ quan báo chí sở hữu loại hình chủ lực là phát thanh, cộng thêm báo

in và báo mạng điện tử, tiếp theo là sự xuất hiện của loại hình truyền hình.

Trong “bộ máy khổng lồ” này, Trung tâm tin của Đài TNVN đƣợc xem

nhƣ là “cái nôi” thông tin - nơi sản sinh và phân phối tin tức về cho các đơn vị

nội dung khác của Đài, còn các cơ quan thƣờng trú, các đơn vị báo chí cùng

báo đài địa phƣơng là những “kho” tin tức vệ tinh, đóng vai trò cung cấp

thông tin theo nhu cầu của từng đơn vị.

Trong quá trình xây dựng và phát triển, đến thời điểm hiện tại, có thể

khẳng định rằng kênh VOVTV đã thực hiện rất tốt việc liên kết, trao đổi sản

xuất thông tin với các đơn vị khác thuộc Đài TNVN, đặc biệt là Chƣơng trình

Thời sự.

3.2. Một số đề xuất

3.2.1. Thường xuyên có cơ chế đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ sản xuất chương

trình đa phương tiện

3.2.1.1. Đào tạo các phóng viên đa phương tiện

Trong xã hội hiện đại, công chúng báo chí có xu thế phát triển theo

hƣớng thích đọc, nghe và xem những loại thông tin ngắn gọn, súc tích, giàu

hình ảnh, gợi cảm xúc… Muốn đạt đƣợc hiệu quả nhƣ vậy, kênh VOVTV nói

chung, Chƣơng trình Thời sự nói riêng cần một đội ngũ những nhà thiết kế

chuyên nghiệp, những đạo diên đa năng để có thể cùng một lúc chia tách

thành các nhóm xử lý hình ảnh, ánh sáng, âm thanh, hình vẽ, đồ họa, biểu

đồ… dành cho không chỉ truyền hình mà còn có thể dùng đƣợc cho báo viết,

báo nói và báo điện tử của Đài TNVN. Các phóng viên, biên tập viên của

Chƣơng trình Thời sự cần tìm ra nhiều cách tiếp cận công chúng của mình,

71

tìm cách để chƣơng trình trở nên gần gũi hơn với khán giả, thu hút, hấp dẫn

họ tƣơng tác nhiều hơn với chƣơng trình của mình.

Đội ngũ làm báo chí đa phƣơng tiện phải có trình độ ngoại ngữ, tin học

tốt, năng động, nhanh nhạy, kiến thức sâu rộng và quan trọng là phải có kinh

nghiệm xử lý các loại thông tin đa phƣơng tiện.

Qua đó, Đài TNVN phải có cơ chế đào tạo liên tục cho phóng viên, từ

cấp kỳ cựu đến những ngƣời mới đƣợc tuyển vào để họ hiểu rõ cách viết cho

truyền hình, tự hình thành cho mình tƣ duy nhà báo truyền hình, đặc biệt là

cách viết tin bài sao cho phù hợp với từng loại hình truyền thông của Đài;

đồng thời cần đảm bảo mọi phóng viên đều hiểu biết rõ về đối tƣợng mục tiêu

của mỗi loại hình báo chí, đối tƣợng công chúng đó cần biết thông tin nào, họ

sử dụng loại hình báo chí đó ra sao.

Nói cách khác, trong quá trình làm báo đa phƣơng tiện, các phóng viên,

biên tập viên phải có khả năng tác nghiệp tốt ở các loại hình báo chí khác

nhau. Cùng một đề tài, phóng viên có thể viết bài phát trên truyền hình với

hình quay minh họa, nhƣng cũng có thể “biến” bài viết đó sang bài dành cho

phát thanh với cách viết giàu hình ảnh, mô tả tỉ mỉ nhƣng cũng cần ngắn gọn,

tƣờng minh và có tiếng động hiện trƣờng đi kèm; hoặc một bài báo khác với

ảnh minh họa, với số liệu thống kê chi tiết, đầy đủ và phân tích sâu sắc dành

cho báo in; cùng một bài báo khác dành cho báo mạng với nhiều ảnh đi kèm

và nhiều hộp box-text chứa thông tin bên lề và nhiều đƣờng link để tham khảo

những nội dung có liên quan.

Để làm đƣợc điều này, một phần đòi hỏi các phóng viên, biên tập viên

phải đƣợc đào tạo và đào tạo lại một cách chuyên nghiệp trên thực tế sống

động. Đồng thời, họ cũng phải đƣợc trang bị đẩy đủ các thiết bị kỹ thuật cần

thiết nhƣ máy ghi âm kỹ thuật số thông thƣờng hay chuyên dụng, máy ghi âm

qua điện thoại, qua Internet,… đi kèm với những bộ phần mềm chuyên biệt.

72

Đồng thời, giữa các phƣơng tiện truyền thông phải có sự quảng bá chéo lẫn

nhau để công chúng nắm rõ nội dung chƣơng trình của kênh.

Để có thể đặt ra trách nhiệm đối với phóng viên trong một cơ quan báo

chí đa loại hình thì cần đặt ra các mức chỉ tiêu sản xuất nội dung dự kiến cụ

thể (số lƣợng tin bài một ngày và tần số cập nhật). Chuyển đổi những định

mức này thành các số liệu tƣơng ứng, ví dụ cần bao nhiêu phóng viên, làm

việc bao nhiêu giờ, cần đào tạo những kỹ năng gì. Đồng thời, mọi phóng viên

phải biết sử dụng tất cả những công cụ trong hệ thống sản xuất của kênh và hệ

thống quản lý nội dung trực tuyến để đăng phát tin bài trên mọi loại hình báo

chí của Đài. Cùng với đó, kênh VOVTV cũng cần có các chế độ nhuận bút,

mức lƣơng thƣởng xứng đáng để khuyến khích các phóng viên hoàn thành tốt.

Nhiều cơ quan báo chí hiện nay đều có thể có những phóng viên chuyên

nghiệp, ngƣời làm báo tài năng, nhƣng để phát huy đƣợc hết năng lực, sở

trƣờng thì họ phải đƣợc gieo vào mảnh đất ƣơm trồng tốt. Vì vậy, vấn đề đào

tạo họ luôn hết sức cần thiết và cần đƣợc chú trọng. Yếu tố quan trọng của

việc đào tạo đó là cần trang bị cho ngƣời làm báo tƣ duy lý luận khoa học,

biện chứng. Chính tƣ duy lý luận khoa học có giá trị định hƣớng cho hoạt

động nhận thức và hoạt động thực tiễn cũng nhƣ đóng vai trò cơ sở phƣơng

pháp luận để phóng viên đa năng có thể tạo ra những tác phẩm có chất lƣợng

tốt, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của độc giả.

3.2.1.2. Đào tạo kỹ năng quản lý đối với đội ngũ lãnh đạo, tổ chức sản xuất

Do định hƣớng về nhu cầu đối với phóng viên báo chí và với xã hội thay

đổi, nên phƣơng pháp đào tạo và việc tổ chức, quản lý phóng viên cũng cần

đƣợc vận động, biến đổi cho phù hợp với bản thân ngƣời làm báo. Và do

phóng viên, biên tập viên là những ngƣời thực hiện công việc hàng ngày trong

cơ quan báo chí nên cần cho họ có đủ thời gian và những điều kiện cần và đủ

73

để họ cùng một lúc làm đƣợc cả công việc ở báo hình, phát thanh lẫn báo

mạng, báo viết.

Để phát huy sở trƣờng, hạn chế sở đoản của ngƣời khác, hình thành các

nhóm ngƣời khác nhau để tòa soạn hoạt động tốt, ngƣời lãnh đạo cơ quan báo

chí đa phƣơng tiện cần tạo ra một môi trƣờng làm việc thật cởi mở với nhau,

không chỉ hàng ngày mà hàng giờ, với 3 tiêu chí: Cộng đồng phải khuyến

khích, giúp đỡ, tạo điều kiện, chan hòa; Cá nhân phải thể hiện, trình bày ý

kiến riêng, hết mình cho công việc; tập thể và mọi cá nhân phải luôn gắn bó,

toàn tâm toàn ý, sống chết với thƣơng hiệu.

Cơ quan báo chí đa phƣơng tiện còn cần những ngƣời có kỹ năng quản

lý nhân sự. Đó là những ngƣời biết rõ đặc điểm của các loại hình báo chí cũng

nhƣ ƣu nhƣợc điểm của từng nhân viên để có sự chỉ đạo hiệu quả công việc

cho các phóng viên, biên tập viên đa phƣơng tiện.

Trong kỹ năng quản lý nhân sự thì điều quan trọng chính là “dụng nhân

nhƣ dụng mộc” và những ngƣời đặc biệt phải đƣợc quản lý, đối xử một cách

đặc biệt, cũng đồng nghĩa với ngƣời lãnh đạo giỏi là ngƣời không phải tự

mình làm nhiều việc. Điều đó cũng có nghĩa là phải làm cho họ hiểu họ đang

làm trong một tập thể, phải tạo ra môi trƣờng làm việc, có những quy tắc tối

thiểu phải tuân thủ.

Riêng đối với kênh VOVTV, cần nâng cao hơn nữa trình độ đội ngũ

TCSX, đặc biệt là TCSXC: am hiểu và có kỹ năng biên tập cho các loại hình

báo chí khác nhau; nhanh nhẹn, có khả năng quản lý, điều hành tốt; nhạy bén,

phản ứng nhanh trƣớc mọi tình huống, đặc biệt là những tình huống phát sinh

trong quá trình sản xuất; có bản lĩnh vững vàng, am hiểu nhiều mặt của đời

sống; có kinh nghiệm, kiến thức ở nhiều lĩnh vực.

74

3.2.2. Đổi mới quy trình sản xuất gắn chặt với phương thức đa phương tiện

Bên cạnh chất lƣợng nguồn nhân lực, một quy trình sản xuất chuyên

nghiệp chính là chìa khóa giúp biến đổi căn bản và toàn diện chất lƣợng nội

dung Chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV.

Quy trình sản xuất chƣơng trình tin tức thời sự hiệu quả phải đảm bảo

tiêu chí: đồng bộ, nhất quán về mặt điều động sản xuất và chịu trách nhiệm về

nội dung sản xuất. Trong đó, vai trò “hạt nhân”, mang tính then chốt chính là

ngƣời Tổ chức sản xuất (TCSX): là cầu nối giữa Ban lãnh đạo với ê-kip sản

xuất, biên tập nội dung và ngƣợc lại.

Có thể hình dung quy trình sản xuất lý tƣởng đó qua mô hình sau:

75

CHỊU TRÁCH NHIỆM SẢN XUẤT

TỔ CHỨC SẢN XUẤT CHUNG

PHÒNG TIN TRONG NƢỚC

PHÒNG TIN QUỐC TẾ

PHÒNG CHUYÊN ĐỀ

PHÒNG TIN CHÍNH TRỊ

CÁC CƠ QUAN THƢỜNG TRÚ

CÁC ĐƠN VỊ CỘNG TÁC VIÊN

CÁC ĐƠN VỊ SX KHÁC CỦA ĐÀI

TRỢ LÝ SẢN XUẤT

BIÊN TẬP VIÊN TRONG NƢỚC

BIÊN TẬP VIÊN TRONG NƢỚC

BIÊN TẬP VIÊN TRONG NƢỚC

BIÊN TẬP VIÊN QUỐC TẾ

KỸ THUẬT DỰNG

THÀNH PHẨM PHÁT SÓNG

DẪN CHƢƠNG TRÌNH, THƢ KÝ TRƢỜNG QUAY, KỸ THUẬT TRƢỜNG QUAY, QUAY PHIM TRƢỜNG QUAY

PHÁT SÓNG

PHÒNG VĂN NGHỆ

Hình 3.1. Quy trình sản xuất Chương trình Thời sự theo đề xuất

76

Theo quy trình này, CTNSX vẫn là vị trí cao nhất trong một kíp sản

xuất; TCSXC vẫn theo sát tất cả các khâu trong quy trình. Tuy nhiên, điểm

khác ở đây so với quy trình mà kênh VOVTV đang áp dụng, đó chính là sự

chủ động của TCSXC trong tất cả các khâu:

- TCSXC có nhiệm vụ làm việc với tất cả các đơn vị sản xuất, các nguồn

tin… để nắm rõ những đầu tin sẽ có và sắp có;

- Đƣợc quyền “đặt hàng” các đơn vị nói trên sản xuất nội dung theo yêu cầu;

- Kiểm soát nội dung và tiến độ dựng tin, bài của các BTV;

- Làm việc với Trợ lý sản xuất để lập vỏ kịch bản chƣơng trình;

- Kiểm tra chất lƣợng nội dung thành phẩm phát sóng;

- Kiểm soát khâu dẫn chƣơng trình.

Ngoài ra, các vị trí khác cũng có những sự thay đổi: không còn sự phân

biệt giữa BTND và BTDH nữa, thay vào đó chỉ có vị trí BTV trong nƣớc và

BTV quốc tế đảm nhận những đầu việc nhƣ:

- Chịu trách nhiệm khai thác, biên tập nội dung các tin tức từ các nguồn

theo chỉ đạo của TCSXC;

- Chịu trách nhiệm nhận tin, bài từ các đơn vị CTV gửi về, biên tập nội

dung các tin, bài đó;

- Dựng hình tin, bài khai thác đƣợc từ các nguồn, tin bài CTV…

Nhƣ vậy, yêu cầu của BTV trong quy trình sản xuất lý tƣởng là phải biết

dựng hình thành thạo chứ không chỉ dừng lại ở kỹ năng khai thác, biên tập

thông tin.

Vị trí Trợ lý sản xuất là vị trí mới so với quy trình sản xuất Thời sự của

kênh VOVTV. Đây là vị trí sẽ luôn theo sát TCSXC trong tất cả các khâu: từ

theo dõi dự kiến tin bài, trợ giúp TCSXC trong vấn đề đặt hàng với các đơn vị

sản xuất nội dung cho đến lập vỏ kịch bản, làm việc với trƣờng quay và các vị

trí liên quan (kỹ thuật trƣờng quay, thƣ ký trƣờng quay (đôi khi Trợ lý sản

77

xuất cũng có thể kiêm nhiệm luôn vị trí này), dẫn chƣơng trình, quay phim

trƣờng quay…) để đảm bảo khâu lên sóng đƣợc trơn tru, thuận lợi; bàn giao

file phát sóng cho Tổng khống chế. Trợ lý trƣờng quay còn có thể kiêm thêm

một công việc khác nữa sau khi chƣơng trình đã hoàn tất phát sóng, đó là

thống kê chi tiết nội dung, thể loại… của các tin, bài đã phát sóng để làm cơ

sở tính định mức (thù lao) cho các vị trí trong e-kip cũng nhƣ các đơn vị sản

xuất nội dung.

Còn vị trí Kỹ thuật dựng thay vì tốn đến 3 ngƣời nhƣ hiện nay quy trình

sản xuất Thời sự kênh VOVTV thì chỉ cần 1 - 2 ngƣời, có nhiệm vụ “chuốt”

lại hoàn chỉnh các tin, bài mà các BTV trong nƣớc và quốc tế đã dựng; thêm

các hiệu ứng, làm các bảng biểu, vẽ đồ thị (nếu cần)…

Với quy trình này, TCSXC đƣợc sự chủ động tối đa, đồng thời các vị trí

còn lại đều nắm bắt đƣợc sơ bộ nội dung chƣơng trình sắp sản xuất, từ đó chủ

động hơn trong công việc. Tuy nhiên, để quy trình này phát huy tối đa hiệu

quả, cần phải có thêm các cuộc họp giao/nhận đề tài; nhận xét, rút kinh

nghiệm chƣơng trình đã lên sóng; họp lên vỏ để các thành viên thực sự nắm

rõ đƣợc yêu cầu công việc của chƣơng trình hôm đó là gì.

3.2.3. Kiện toàn kỹ thuật phục vụ sản xuất chương trình

Để nâng cao hơn nữa chất lƣợng về mặt kỹ thuật đòi hỏi kênh VOVTV

phải đầu tƣ nhiều hơn nữa vào việc kiện toàn trang thiết bị hiện có, chƣa kể

phải đầu tƣ thay và mua mới nhiều thiết bị phục vụ cho công tác sản xuất:

nâng cấp hệ thống máy dựng, máy khai thác biên tập nội dung và hệ thống

phát sóng; đồng bộ hóa máy móc ở các bộ phận khác nhau; nâng cao chất

lƣợng máy quay phim, hệ thống máy móc thiết bị trƣờng quay; cải thiện hệ

thống mạng để đạt tốc độ tải dữ liệu và truy cập nhanh chóng hơn v.v...

Giải quyết đƣợc vấn đề này trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn

quả thực là bài toán hóc búa đối với kênh và Đài TNVN. Hơn nữa, vấn đề

78

kinh tế - tài chính còn liên quan đến rất nhiều mặt khác, chẳng hạn: muốn tiết

kiệm đƣợc chi phí sản xuất thì phải thay đổi cơ cấu tổ chức, nhân sự theo

hƣớng cộng gộp, tinh giản. Để thay đổi đƣợc điều này không phải là trong một

sớm một chiều, cũng không thể do một mình “ý chí chủ quan” của kênh

VOVTV đƣợc, mà phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác, kể cả vĩ mô lẫn vi mô.

Một điểm quan trọng khác liên quan đến việc hƣớng tới xây dựng mô

hình VOV trực tuyến: việc phổ biến các chƣơng trình đa phƣơng tiện trên

mạng Internet đòi hỏi cấu hình cũng nhƣ dung lƣợng lƣu trữ của máy chủ rất

lớn, vì file video, audio cũng nhƣ hình ảnh chiếm bộ nhớ rất nhiều. Do vậy,

muốn nâng cao chất lƣợng truyền tải, cần thiết phải trang bị máy chủ cấu hình

mạng, cùng lúc chịu đựng đƣợc hàng chục ngàn ngƣời truy cập một lúc với bộ

nhớ hàng chục terabyte (tƣơng đƣơng với vài nghìn gigabyte) để lƣu trữ dữ

liệu. Nếu đã nghĩ tới viêc xây dựng một trang web hỗ trợ tính năng đa phƣơng

tiện thì chắc chắn phải đầu tƣ xứng đáng cho các thiết bị phần cứng này.

3.2.4.Tăng đầu tư tài chính để sản xuất các chương trình truyền hình đa

phương tiện

3.2.4.1. Hỗ trợ cho kênh VOVTV

Để có thể giải quyết đƣợc những khó khăn trong chi phí hoạt động

không thể chỉ một mình kênh VOVTV tự giải quyết đƣợc. Hoạt động của

kênh phụ thuộc rất nhiều vào cơ chế của Đài TNVN, do đó, để kênh có thể

đảm bảo vận hành thuận lợi, bắt buộc Đài TNVN phải có những chính sách

hợp lý. Đài TNVN cần tạo cơ chế thuận lợi hơn nữa để kênh VOVTV có

thêm nguồn thu thay vì chỉ hoạt động dựa trên kinh phí của Đài cấp. Chẳng

hạn nhƣ nguồn thu từ quảng cáo của kênh VOVTV, Đài TNVN cần để cho

kênh đƣợc quyền sử dụng cho hoạt động của mình, thay vì nộp hết về Trung

tâm Quảng cáo của Đài nhƣ hiện nay. Trong bối cảnh kinh phí sản xuất eo

79

hẹp, nguồn thu này sẽ đóng góp một phần lớn giúp kênh VOVTV có thêm chi

phí hoạt động, cải thiện chất lƣợng nội dung nhanh chóng hơn.

Mặt khác, kênh VOVTV cũng cần đƣợc tạo điều kiện để mời gọi đối tác

bên ngoài tham gia xã hội hóa nội dung chƣơng trình bằng cách cho thuê

sóng; mua các chƣơng trình bên ngoài để phát... với điều kiện phải kiểm

duyệt chặt chẽ chất lƣợng nội dung. Với cách làm này, kênh không tốn chi phí

sản xuất mà vẫn có chƣơng trình để phát, đồng thời có thêm nguồn thu đầu tƣ

cho hoạt động sản xuất.

3.2.4.2. Tăng thù lao cho đội ngũ phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên

Đầu tiên, Đài TNVN cần hỗ trợ tài chính cho kênh nhiều hơn nữa để có

thể giải quyết thu nhập chính đáng cho các phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật

viên…, góp phần giải quyết những bất cập trong thu nhập của họ, chẳng hạn

nhƣ tình trạng làm nhiều, công việc vất vả nhƣng thù lao không xứng đáng

với công sức bỏ ra; phóng viên ra hiện trƣờng làm việc vất vả nhƣng thù lao

lại quá thấp v.v… Có nhƣ vậy mới khích lệ, động viên ngƣời lao động hăng

say với công việc, chịu khó tìm tòi sáng tạo nên các tác phẩm hay hơn.

Ngoài ra, kênh VOVTV cũng cần có cơ chế trả nhuận bút cho các cộng

tác viên, khán giả gửi tin bài cho kênh. Điều này sẽ thu hút sự hợp tác của

khán giả với kênh, khuyến khích họ tiếp tục gửi tin, bài, làm phong phú thêm

nội dung chƣơng trình cho kênh.

Đối với máy móc, trang thiết bị kỹ thuật, Đài TNVN nói chung và

VOVTV nói riêng cần chủ động thu hút nguồn lực xã hội hóa, thông qua việc

cho thuê thời lƣợng phát sóng, kêu gọi tài trợ, quảng cáo, hoặc nhận sản xuất

các chƣơng trình phù hợp với cơ sở nhân lực, vật lực mà kênh hiện có. Qua

đó, kênh VOVTV có thể tạo thêm đƣợc nguồn tài chính, góp phần tăng cƣờng

năng lực kỹ thuật của mình cũng nhƣ nhiều mặt khác.

80

3.2.5. Tăng cường hợp tác, liên kết sản xuất giữa các bộ phận trong Đài

Tiếng nói Việt Nam và kênh VOVTV

3.2.5.1. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các phòng, ban trong kênh

Để cải thiện chất lƣợng chƣơng trình truyền hình đa phƣơng tiện, một

trong những điều kiện cần là sự phối hợp giữa các phòng, ban trong kênh

VOVTV phải thay đổi. Thay vì phân chia theo bề ngang nhƣ hiện nay, kênh

nên bố trí vị trí trong quy trình sản xuất Chƣơng trình Thời sự theo chiều dọc:

các phòng, ban nội dung sẽ “bám” xung quanh Chƣơng trình Thời sự, sản

xuất tin, bài cho chƣơng trình dƣới sự điều động của một TCSXC. Có nhƣ

vậy, các TCSX Chƣơng trình Thời sự mới nắm bắt đƣợc nội dung cần thiết để

hình thành khung nội dung trƣớc khi bắt tay vào xây dựng kịch bản.

Mặt khác, các phòng, ban khác cũng phải nhận thức rõ rằng việc hỗ trợ

cho Chƣơng trình Thời sự là việc làm cần thiết, bởi đây cũng là nhiệm vụ

chính trị của Đài TNVN, bởi nếu chƣơng trình càng hay, càng hấp dẫn bao

nhiêu thì lại càng thực hiện tốt hơn yêu cầu chính trị, tƣ tƣởng mà cấp trên

giao phó cho lãnh đạo Đài, lãnh đạo kênh.

Kênh VOVTV cũng cần xây dựng chỉ tiêu cho các phòng, ban trong việc

cung cấp thông tin cho Chƣơng trình Thời sự, chẳng hạn: mỗi ngày “khoán”

chỉ tiêu bao nhiêu tin, bài; thời hạn nộp muộn nhất trƣớc giờ phát sóng bao

nhiêu thời gian; quy chế thƣởng, phạt nếu hoàn thành và không hoàn thành...

để các phòng, ban chủ động lên kế hoạch sản xuất, đảm bảo mục tiêu đề ra;

đồng thời TCSXC Thời sự cũng nắm đƣợc nội dung, ƣớc lƣợng đƣợc thời

lƣợng phát sóng để có những phƣơng án bố trí, sắp xếp, thay đổi hợp lý.

3.2.5.2. Tăng cường sự hỗ trợ, liên kết sản xuất giữa kênh VOVTV với các bộ

phận sản xuất khác trong Đài Tiếng nói Việt Nam

Với lợi thế tiềm năng to lớn mà rất ít cơ quan báo chí tại Việt Nam có

đƣợc, VOVTV rất cần một sự liên kết khai thác, sản xuất thông tin chặt chẽ,

81

quy củ và mạnh mẽ hơn nữa với các hệ và kênh phát thanh khác trong Đài

TNVN. Để làm đƣợc điều này, Đài TNVN cần có quy chế quy định sự phối

hợp giữa các đơn vị sản xuất nội dung trong Đài với nhau, đồng thời giao

khoán số lƣợng đầu tin, bài hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng... cho từng đơn

vị để sản xuất cho kênh VOVTV. Đài cũng cần có cơ chế thù lao thích hợp để

chi trả cho phóng viên của các đơn vị khác khi sản xuất tác phẩm truyền hình

cho kênh, bởi quá trình thực hiện một tin, bài phát sóng trên vô tuyến đòi hỏi

mất nhiều công sức, tƣ duy tổng hợp hơn so với khi sản xuất cho phát thanh,

báo in hay mạng điện tử...

82

* Tiểu kết chương 3

Trong chƣơng 3 này, chúng tôi đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao

hiệu quả các chƣơng trình đa phƣơng tiện trên kênh VOVTV. Các giải pháp

bao gồm giải pháp về mặt quản lý, cơ cấu tổ chức; giải pháp về mặt nội dung,

hình thức; về quy trình sản xuất cũng nhƣ các giải pháp về mặt kỹ thuật, tài

chính. Những giải pháp này hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc nâng

cao hiệu quả sản xuất, khai thác các chƣơng trình đa phƣơng tiện.

Trong những giải pháp này, chúng tôi cho rằng giải pháp về mặt thay đổi

quy trình sản xuất, đào tạo và đào tạo lại nhân lực, tăng cƣờng sự hỗ trợ, phối

hợp sản xuất giữa các đơn vị thuộc Đài Tiếng nói Việt Nam là những giải

pháp quan trọng nhất. Đó chính là những cái sẽ làm thay đổi căn bản chất

lƣợng nội dung các chƣơng trình phát sóng trên kênh VOVTV. Còn giải pháp

về mặt quản lý, cơ cấu tổ chức là giải pháp cần thiết để phát triển một hệ

thống truyền thông đa phƣơng tiện ổn định; giải pháp về mặt kỹ thuật và tài

chính là tiền đề để đảm bảo cho sƣ phát triển bền vững của kênh VOVTV.

83

KẾT LUẬN

Phát triển tòa soạn đa phƣơng tiện là xu hƣớng mà các cơ quan báo chí

tại Việt Nam hiện nay đã và đang xây dựng. Tuy nhiên, trong giai đoạn này,

sự phát triển đó đang tạm thời ở bƣớc “quá độ”: vẫn còn nhiều khó khăn và

thách thức về rất nhiều mặt làm giảm tốc độ cũng nhƣ chất lƣợng của quá

trình đa phƣơng tiện hóa. Mặc dù vậy, có thể nhận thấy sự nỗ lực tự thay đổi

mình rất lớn từ phía các cơ quan báo chí để nhanh chóng đạt mục tiêu đa

phƣơng tiện hình thức hoạt động một cách hoàn chỉnh trong bối cảnh còn đầy

rẫy những rào cản về cơ chế, chính sách, nhân lực, tài chính, kinh tế, thậm chí

tƣ tƣởng nhận thức.

Đài TNVN những năm qua đã áp dụng xu thế Truyền thông đa phƣơng

tiện. VOVTV cũng là một trong các đơn vị tiên phong trong lĩnh vực này.

Việc sản xuất chƣơng trình theo phƣơng thức đa phƣơng tiện giúp đa dạng

thông tin, mở rộng thƣơng hiệu cho cơ quan, đồng thời thỏa mãn và phục vụ

nhu cầu công chúng tốt hơn. Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi nghiên cứu

phƣơng thức sản xuất một chƣơng trình cụ thể của kênh VOVTV dƣới góc độ

đa phƣơng tiện.

Trong Chƣơng 1 của luận văn, chúng tôi đã chỉ ra những tiêu chí để phân

biệt đặc trƣng của một chƣơng trình truyền hình đƣợc sản xuất theo phƣơng

thức đa phƣơng tiện so với những chƣơng trình truyền hình truyền thống

khác. Bên cạnh đó, trong chƣơng này, chúng tôi cũng chỉ ra thế mạnh của

chƣơng trình truyền hình sản xuất dƣới góc độ đa phƣơng tiện, những yêu cầu

đặt ra để có thể tổ chức sản xuất thành công chƣơng trình truyền hình dƣới

góc độ đa phƣơng tiện.

Chƣơng 2 của luận văn tiếp tục đi sâu phân tích về cách thức, quy trình

sản xuất Chƣơng trình Thời sự VOVTV thông qua các góc độ đa phƣơng tiện,

qua đó nêu lên những thành công chƣơng trình. Trong đó, đáng chú ý là thành

84

công về mặt đa dạng hóa nội dung chƣơng trình, đảm bảo đúng định hƣớng

hoạt động của Đài TNVN.

Bên cạnh đó, phƣơng thức sản xuất Chƣơng trình Thời sự VOVTV vẫn

còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập về kỹ năng, trình độ của đội ngũ nhân lực

của kênh; hệ thống máy móc còn thiếu, chƣa đồng bộ...

Trên cơ sở đó, trong Chƣơng 3, chúng tôi nêu một số đề xuất nhằm nâng

cao chất lƣợng Chƣơng trình Thời sự VOVTV. Trong số những giải pháp đƣa

ra, giải pháp trọng tâm là phải nâng cao trình độ năng lực cho đội ngũ PV,

BTV, KTV... của kênh; có quy chế chặt chẽ, rõ ràng trong liên kết sản xuất

nội dung giữa các đơn vị của Đài.

Qua việc nghiên cứu phƣơng thức sản xuất Chƣơng trình Thời sự của

kênh VOVTV dƣới góc độ đa phƣơng tiện, đề tài sẽ là cơ sở để lãnh đạo kênh

VOVTV, lãnh đạo Đài TNVN xây dựng lộ trình phù hợp cho tờ báo trong

những năm tiếp theo, đồng thời giúp ngƣời viết và phóng viên, biên tập viên

đang công tác tại kênh VOVTV nói riêng, phóng viên trong các cơ quan báo

chí có mô hình tƣơng tự nói chung có tài liệu phục vụ công việc tại tòa soạn.

Ngoài ra, những đề xuất đƣợc đƣa ra trong luận văn còn nhằm khắc phục

những mặt hạn chế của kênh VOVTV, đồng thời góp phần xây dựng một mô

hình cơ quan báo chí đa phƣơng tiện theo kịp dòng chảy của yêu cầu thông tin

chung trong đời sống xã hội hiện địa, góp phần đƣa báo chí Việt Nam nói

chung và Đài TNVN nói riêng hòa nhập vào dòng chảy của báo chí thế giới./.

85

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đinh Hồng Anh (2012), Báo chí đa phương tiện thời Hội tụ truyền thông

ở Việt Nam hiện nay, Khóa luận tốt nghiệp, Học viện Báo chí và Tuyên

truyền

2. Lý Hoàng Tú Anh, Mô hình tổ chức tòa soạn đa loại hình của báo An

ninh Thủ đô – thực trạng và vấn đề đặt ra, Luận văn Thạc sĩ Báo chí

học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền

3. Nguyễn Thị Ngọc Ánh, Xu thế và điều kiện thực tế hình thành tập đoàn

truyền thông ở Đài Truyền hình Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Báo chí

học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền

4. Bách khoa toàn thƣ mở Wikipedia,

http://vi.wikipedia.org/wiki/Multimedia

5. Báo cáo tổng kết năm 2013 của Bộ TT&TT, mic.gov.vn,

http://mic.gov.vn/solieubaocao/solieuthongke/baochi/Trang/Soluonganp

hambaochi.aspx, 11/02/2014

6. Hoàng Đình Cúc, Nguyễn Đức Dũng (2006), Những vấn đề của báo chí

hiện đại, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội

7. Dƣơng Xuân Sơn, Đinh Văn Hƣờng, Trần Quang (2005), Cơ sở lý luận

báo chí truyền thông, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội

8. Nguyễn Văn Dững (2011), Báo chí truyền thông hiện đại – Từ hàn lâm

đến đời thường, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội

9. Nguyễn Văn Dững chủ biên (2001), Báo chí – Những điểm nhìn từ thực

tiễn, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội

10. Đài Tiếng nói Việt Nam (2005), 60 năm Tiếng nói Việt Nam

11. Đài Tiếng nói Việt Nam, www.tinvov.vn

12. Đài Tiếng nói Việt Nam, www.vovtv.vov.vn

13. Thomas Friedman (2005), Thế giới phẳng, NXB Trẻ, 2008

86

14. G.V.Cudơnhetxốp, X.L Xvích, A.La. Iurôpxki, Báo chí truyền hình,

Tập 1+2, NXB Văn hóa Thông tin, 2004

15. Lê Hải (2012), Xây dựng tập đoàn truyền thông ở Việt Nam, Luận án

Tiến sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền

16. TS. Nguyễn Đức Hạnh (2013), Báo chí trong thời đại truyền thông đa

phƣơng tiện, Báo Văn nghệ, số 25

17. TS. Đinh Thị Thúy Hằng (2008), Báo chí thế giới và xu hướng phát

triển, NXB Thông tấn, Hà Nội

18. PGS. TS. Lƣơng Khắc Hiếu (2013), Lý thuyết Truyền thông, NXB

Chính trị Quốc gia

19. Nguyễn Quý Hoài, Đổi mới mô hình tổ chức hoạt động của tòa soạn

báo in trong cơ quan báo chí đa loại hình, Luận văn Thạc sĩ Báo chí

học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền

20. Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2013), Sự vận động, phát triển của

báo chí, truyền thông trong thời kỳ hội tụ truyền thông, tích hợp phương

tiện, Hà Nội

21. Phạm Thị Hồng, Cách thức đưa tin đa phương tiện trên báo mạng điện

tử ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí

và Tuyên truyền

22. Đào Duy Hứa (chủ nhiệm), Nghiên cứu xây dựng mô hình VOV trực

tuyến, vov.vn, http://nckh.vov.vn/DeTai/0bcac573-291e-4f1c-a4f1-

66dd0fa86625Bao%20cao%20tong%20hop.pdf, 2014

23. Khoa Báo chí và Truyền thông – Trƣờng Đại học KHXH&NV (2013),

Báo chí – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Thông tin và Truyền

thông, Hà Nội

24. V.I.Lênin (1975), Bắt đầu từ đâu?, toàn tập, tập 5, NXB Tiến Bộ

Matxcơva, Matxcơva

87

25. Nguyễn Thành Lợi (2013), Xu hƣớng phát triển của báo chí hiện đại,

Hồ sơ sự kiện, số 218

26. Max Arena, (Multimedia = Mỹ Thuật Đa Phương Tiện) là gì?,

maxarena.edu.vn, http://www.maxarena.edu.vn/chi-tiet-my-thuat-da-

phuong-tien-multimedia-la-gi.html, 24/03/2013

27. Hạnh Nguyên, Truyền thông xã hội định hình lại báo chí, Tuổi trẻ

Online, http://nhipsongso.tuoitre.vn/Blog-quanh-ta/322495/Truyen-

thong-xa-hoi-dinh-hinh-lai-bao-chi.html, 26/06/2009

28. Nhiều tác giả, Viện Nghiên cứu Báo chí và Truyền thông – Học viện

Báo chí và Tuyên truyền (2013), Kỷ yếu Hội thảo khoa học về sự vận

động, phát triển của báo chí, truyền thông trong thời kỳ hội tụ truyền

thông, tích hợp phương tiện

29. Hoàng Phê chủ biên (2000), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng

30. Dƣơng Xuân Sơn (2011), Giáo trình báo chí truyền hình, NXB Đại học

Quốc gia Hà Nội

31. Giang Trung Sơn (2006), Trung tâm tin - Một yêu cầu tất yếu của phát

thanh hiện đại, Đại học Quốc gia Hà Nội

32. Tạ Ngọc Tấn (chủ biên) (2005), Cơ sở lý luận báo chí, NXB Lý luận

chính trị, Hà Nội

33. Tạ Ngọc Tấn (2005), Phát triển báo chí trước những yêu cầu mới của

đất nước, Tạp chí Cộng sản (số 15)

34. Tạ Ngọc Tấn (2010), Toàn cầu hóa truyền thông đại chúng và những hệ

quả của nó, Tạp chí Triết học số 14/2010

35. The Missouri Group (2007), Nhà báo hiện đại, Nxb Trẻ, 2009

36. Phạm Thị Thanh Tịnh (2004), Công chúng báo phát thanh hiện nay,

Luận văn Thạc sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền

88

37. Nguyễn Vũ Diệu Trang (2005), Cơ quan báo chí đa loại hình ở Việt

Nam, Luận văn Thạc sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền

38. Đỗ Trung Tuấn (2007), Giáo trình giảng dạy Công nghệ thông tin, Học

viện Công nghệ Bƣu chính Viễn thông, Hà Nội

39. Trần Hồng Vân (2004), Thực trạng và giải pháp xử lý thông tin trong

Tòa soạn báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Báo

chí học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền

40. Viện Ngôn ngữ học (2001), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng

41. Ashok Banerji (2010), Multimedia Technologies, Tata Mc Graw Hill

Education Private, New Delhi

42. Mark Deuze (2004), What is Multimedia Journalism?, Journalism

Studies, Taylor and Francis Group, Netherland, pg. 35-42

43. Janet Kolodzy (2006), Convergence Journalism – Writing and Reporting

across the new media, Rowan and Littlefield Publishers, USA

44. Stephen Quin (2005), Convergence Journalism, The Foundamentals of

Multimedia Reporting, N.Y: Peter Lang Publishing, Inc, pg. 47-54

45. Medienhaus Wien (2008), Newsroom Convergence A Transnational

Comparison,

https://www.rtr.at/de/ppf/Kurzberichte2007/Konvergenz_im_Newsroom

_Newsroom_Convergence.pdf

89

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1

THỐNG KÊ SỐ LƢỢNG TIN TỨC ĐA PHƢƠNG TIỆN

ĐƢỢC SỬ DỤNG TRONG CHƢƠNG TRÌNH THỜI SỰ VOVTV

(6/2013 - 6/2014)

Tháng Tin lời Tin trám Tin, bài Tin, bài Tổng số Tổng số

hình khai thác khai thác tin bài Chƣơng

bằng đồ từ Trung từ các cơ trình

họa tâm tin quan Thời sự

thƣờng trong

trú tháng

15 286 427 1.447 120 6/2013 31

10 291 434 1.488 124 7/2013 33

18 277 443 1.471 124 8/2013 22

9 288 412 1.438 120 9/2013 19

19 298 417 1.492 124 10/2013 32

14 304 420 1.430 120 11/2013 31

19 323 415 1.477 124 12/2013 31

13 338 421 1.520 124 1/2014 35

11 320 416 1.456 112 2/2014 37

19 306 426 1.474 124 3/2014 41

17 265 410 1.420 120 4/2014 26

17 240 416 1.469 124 5/2014 24

15 278 417 1.440 120 6/2014 24

Tổng 386 196 3.814 5.474 19.022 1.580

90

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

PHỤ LỤC 2

KÊNH TRUYỀN HÌNH VOVTV

PHÒNG THƢ KÝ – ĐẠO DIỄN

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Hà Nội, ngày 18 tháng 11 năm 2014

ĐỀ ÁN NÂNG CẤP WEBSITE

http://vovtv.vov.vn

A. Tính cấp thiết

Thực hiện việc chỉ đạo của Lãnh đạo Đài Tiếng nói Việt Nam, Lãnh đạo

Kênh Truyền hình VOV về việc tăng cƣờng công tác truyền thông cho độc

giả của Kênh Truyền hình VOV. Với xu hƣớng hội nhập và phát triển công

tác truyền thông của thế giới của thế giới. Do nhu cầu quảng bá kênh Phát

thanh có hình đến với đông đảo độc giả trong và ngoài nƣớc. Xây dựng một

hệ thống tích hợp chung thuận lợi cho việc tìm kiếm, theo dõi của độc giả

internet. Mặt khác, có thể phục vụ đông đảo khán giả có thể xem lại các

chuyên mục hấp dẫn đã đƣợc phát trên kênh Truyền hình VOV.

Interner đã gần gũi hàng ngày, hàng giờ với từng cá nhân. Công tác phục

vụ việc xem truyền hình VOVTV cần đòi hỏi đến với số lƣợng độc giả càng

nhiều càng tốt, với phạm vi mang tính toàn cầu. Hiện nay, website

http://vovtv.vov.vn đã phần nào đáp ứng đƣợc đối với việc cung cấp thông tin

đến từng khán giả có nhu cầu ở mọi lúc, mọi nơi. Tuy nhiên trong tình hình

mới, cùng với sự chuyển biến mạnh mẽ về phƣơng thức tiếp cận, định hƣớng

đƣờng đi của Kênh Truyền hình VOV, việc nâng cấp website trở nên ngày

một cấp thiết hơn.

91

B. Mục tiêu cần hƣớng tới

Với sự bùng nổ về công nghệ thông tin, mạng lƣới internet đã đƣợc phủ

kín mọi lúc, mọi nơi trên khắp cả nƣớc và trên toàn thế giới, truyền hình

không chỉ là để xem TV bằng phƣơng thức truyền dẫn thông thƣờng. Điều

này đòi hỏi chúng ta cần phải áp dụng mọi phƣơng thức truyền dẫn, mọi thiết

bị đầu cuối để đáp ứng phục vụ cho từng khán giả nhƣ: Điện thoại di động,

máy tính cá nhân, máy tính xách tay, máy tính bảng,… đều có thể xem Kênh

Truyền hình VOV.

C. Thực trạng

I. Hoạt động

Website đƣợc xây dựng từ tháng 5/2012 theo dự án đồng bộ các hoạt

động chuyên môn của Đài Tiếng nói Việt Nam. Tháng 2/2013 trang web đã đi

vào hoạt động và chính thức vào tháng 5/2013.

1. Cấu trúc của website

Địa chỉ hoạt động của website http://vovtv.vov.vn là tên miền con của

http://www.vov.vn. Việc vận hành trang web dựa trên hợp tác giữa báo điện

tử VOV Online (xây dựng cấu trúc website, quản lý server) và Kênh Truyền

hình VOV (Quản lý, cập nhật nội dung).

Cấu trúc của trang web bao gồm 2 phần chính:

- Thời sự: Gồm 9 chuyên mục: Chính trị, kinh tế, đời sống – xã hội,

văn hóa – giá dục, quốc tế, thể thao, thời sự tổng hợp, thế giới tuần qua, hình

ảnh trong tuần. Trong đó 6 chuyên mục nằm ở màn hình chính và 3 chuyên

mục nằm ở modul bên phải màn hình.

- Chuyên đề gồm 18 chuyên mục: Đối thoại; Muôn màu cuộc sống;

Đoàn kết là sức mạnh; Tiêu điểm giao thông; Văn hóa giao thông; Xe và giao

thông; Thanh niên; Các vấn đề xã hội; Đổi mới sáng tạo Việt Nam; MV của

bạn; Xem phim cùng nhân vậpt; Quà tặng âm nhạc; Hồi âm khán thính giả;

92

Thông tin liệt sỹ; Sống để yêu thƣơng; Y học sức khỏe; Nƣớc non ngàn dặm;

Nhìn ra thế giới.

- Ngoài ra gồm có các chức năng khác: Giới thiệu về Kênh, Lịch phát

sóng, Cơ cấu tổ chức, Liên hệ.

2. Hoạt động thường nhật

2.1 Công việc của VOV Online

Duy trì hoạt động của server, đảm bảo an toàn bảo mật của hệ thống, đáp

ứng đảm bảo về kỹ thuật theo yêu cầu của Kênh Truyền hình.

2.2. Công việc của Kênh Truyền hình

- Quản lý chung về hoạt động của website

- Cập nhật dữ liệu nội dung tin, bài, chƣơng trình hàng ngày

- Cập nhật lịch phát sóng hàng ngày

- Kiểm tra hoạt động của từng chƣơng trình, chuyên mục

- Thêm, bớt, sửa chữa các chuyên mục cho phù hợp với yêu cầu thực tế

- Tiếp nhận, trả lời các yêu cầu của khán thính giả

II. Kết quả đạt đƣợc

Từ khi đi vào hoạt động chính thức đến nay, trang web đã nhận đƣợc rất

nhiều các phản hồi tích cực của khán giả, đặc biệt là đáp ứng đƣợc khán giả

mọi lúc mọi nơi để xem trực tiếp hoặc xem lại chƣơng trình.

Đến nay đã cập nhật đƣợc khoảng gần 12.800 tin, bài, chƣơng trình lên

website. Bình quân mỗi tháng cập nhật đƣợc khoảng 300 tin, bài, chƣơng

trình. Với những con số nhận đƣợc từ khán giả: hơn 2,4 triệu lƣợt ngƣời truy

cập; năm 2014 đã đạt đƣợc 1.536.482 lƣợt truy cập, bình quân 3 tháng gần

đây đã có khoảng 180.000 lƣợt truy cập/tháng; đƣợc đa số độc giả đánh giá

tốt về hoạt động của trang.

93

III. Hạn chế, tồn tại

Bên cạnh những thành tựu đạt đƣợc của website, còn rất nhiều điều hạn

chế cần phải khắc phục để website ngày càng hoàn thiện hơn, đáp ứng đƣợc

mọi yêu cầu của khán giả đề ra. Đó là:

1. Tin tức thời sự hiện không đƣợc cập nhật điều này làm giảm sức hấp

dẫn, không đáp ứng đƣợc yêu cầu của khán giả đề ra.

2. Nội dung bằng văn bản ít, điều này tạo sự khó khăn trong công tác

tìm kiếm của khán giả.

3. Tin, bài, chƣơng trình còn cập nhật chậm, chƣa theo kịp với yêu cầu

của khán giả.

4. Giao diện website diện còn đơn điệu, chƣa gần gũi với khán giả.

5. Công tác tìm kiếm còn chƣa tối ƣu khó khăn cho khán giả truy xuất

thông tin

6. Các chức năng, chuyên mục trên trang web còn ít, đơn điệu.

7. Một số chuyên mục đã chuyển sang Kênh Truyền hình Quốc hội phụ

trách, không còn phù hợp với nội dung của Kênh.

8. Công tác phối hợp với các đơn vị chức năng còn chƣa thƣờng xuyên,

liên tục.

9. Việc quảng bá thông tin của trang còn chƣa mạnh mẽ.

10. Chƣa chú ý đến việc thu lợi từ ngay trên website

D. Giải pháp

I. Cơ sở triển khai thực hiện

Thực tiễn đặt ra cho chúng ta là cần phải đổi mới để tạo những điều kiện

thuận lợi để phục vụ đƣợc tốt nhất nhu cầu đƣợc tiếp nhận thông tin của khán

giả, cùng với định hƣớng mới của Kênh là đi sâu vào lĩnh vực văn hoá – giải

trí – giao thông. Hiện nay Kênh Truyền hình VOV đã và đang thay đổi một

cách toàn diện cách tiếp cận nội dung cần đòi hỏi phải thay đổi toàn bộ

94

phƣơng thức thực hiện, cách tiếp cận phục vụ khán giả, lấy khán giả làm

trung tâm để triển khai thực hiện công việc.

Việc đổi mới, nâng cấp website Kênh Truyền hình VOV đƣợc dựa trên

nhu cầu thực tiễn của khán giả, cùng với nhu cầu đổi mới bộ nhận diện thƣơng

hiệu mới của Kênh và bắt kịp đòi hỏi về hội nhập quốc tế. Trong quá trình vận

hành, website vovtv.vov.vn đã thu đƣợc những đúc kết rất quý báu từ nhu cầu

tìm hiểu thông tin và những phản hồi của khán giả yêu cầu đƣợc xem trực tiếp

và xem lại các chƣơng trình đã phát trên Kênh Truyền hình VOV.

II. Giải pháp cụ thể

Từ những đòi hỏi thực tiễn trong quá trình vận hành hoạt động của

website, dựa trên những hạn chế, thiếu xót mà website đang gặp phải chúng ta

sẽ triển khai theo trình tự và nhóm công việc cụ thể.

1. Đổi mới giao diện của website phù hợp với bộ nhận diện thƣơng hiệu

của Kênh.

Giao diện mới với màu sắc đảm bảo phù hợp đối với bộ nhận diện

thƣơng hiệu của Kênh. Các chức năng có thể bố trí to, nhỏ khác nhau để tạo

điểm nhấn, tạo sức hấp dẫn đối với khán giả, dễ dàng trong quá trình sử dụng

và đảm bảo đầy đủ thông tin nhất có thể.

2. Hoàn thiện các chức năng đã có sẵn trên website.

Các chức năng sẵn có hiện nay cơ bản đang thực hiện tốt, tuy nhiên vẫn

còn nhiều hạn chế nhƣ: quản lý dữ liệu khó, cập nhật còn mất nhiều thời gian,

vẫn tạo ra những hiện tƣợng giật hình trong quá trình phát video clip, chức

năng xem trực tuyến truyền hình (treamming) còn có hiện tƣợng lệch tiếng và

hình, công cụ tìm kiếm (search engine) còn chƣa tối ƣu…

3. Bổ sung những chức năng còn thiếu

Một trong những chức năng quan trọng hiện nay vẫn chƣa thực hiện

đƣợc đó là ghi lại trực tiếp chƣơng trình phát trên truyền hình (record), điều

95

này sẽ phục vụ trực tiếp cho chúng ta trích xuất dữ liệu đã phát để có thể tái

sử dụng một cách dễ dàng, là nơi để lƣu dữ liệu tạo điều kiện kiểm soát quá

trình phát trên truyền hình có đúng hay không, tạo điều kiện để khán giả có

thể xem lại theo khung giờ đã phát.

Chức năng cần phải có nữa đó là video theo yêu cầu (video on demand)

đây là một chức năng mà rất nhiều kênh truyền hình trên thế giới đã làm, mặt

khác đây cũng là nơi tƣơng tác để có thể thu phí đối với khán giả và phục vụ

dịch vụ đối với khán giả tốt nhất.

Một chức năng cũng rất quan trọng để tăng tính tƣơng tác đối với khán

giả và giúp chúng ta có thể thống kê số liệu tốt để đƣa ra những định hƣớng

thích hợp cho từng giai đoạn cụ thể đó là chức năng điều tra xã hội học (vote).

4. Thêm các chuyên mục do Kênh mới thực hiện.

Các chuyên mục mới do Kênh thực hiện theo từng giai đoạn nhƣ: Tiêu

điểm giao thông, Văn hoá giao thông, Xe và giao thông, Tiếng nói ngƣời lao

động… Vấn đề này sẽ đƣợc cập nhật thƣờng xuyên liên tục song hành với

việc bỏ đi các chuyên mục đã lỗi thời không còn đƣợc sản xuất.

5. Thêm chức năng giới thiệu quảng cáo trên Kênh Truyền hình và

quảng cáo ngay trên website

Tạo ra một chuyên mục để có thể cung cấp mọi thông tin cần thiết cho

các đối tác, doanh nghiệp có thể liên hệ quảng cáo trên truyền hình.

Tạo những khoảng trống theo yêu cầu của đối tác, doanh nghiệp để

doanh nghiệp có thể đặt quảng cáo ngay trên trang web.

6. Tăng cƣờng quảng bá Kênh, quảng bá trang web trên các phƣơng tiện

công cụ hỗ trợ khác.

Tăng cƣờng tính quảng bá dựa trên các doanh nghiệp truyền thông khác,

dựa trên các công cụ có sẵn: google, youtube, facebook,…

96

7. Tạo điều kiện tốt nhất để tăng tính tƣơng tác với khán giả

Tạo chức năng dễ sử dụng đối với khán giả để tạo tính tƣơng tác giữa

khán giả với chúng ta và giữa khán giả với khán giả:comment, like,…

8. Cập nhật dữ liệu thƣờng xuyên liên tục

Một điều quan trọng nhất và là điều kiện tiên quyết để website thành

công đó là việc cung cấp thông tin đến với khán giả. Việc cung cấp càng

nhiều thông tin phong phú, bổ ích thì ngày càng thu hút đƣợc khán giả và sẽ

tạo đƣợc uy tín lớn cho khán giả, đối tác… Đặc biệt là chuyên mục tin tức,

chuyên mục này đã thu hút đƣợc đông đảo khán giả quan tâm, tuy nhiên hiện

nay chuyên mục này không đƣợc cập nhật thƣờng xuyên, đã làm giảm đi đáng

kể lƣợng khán giả quan tâm, theo dõi website. Khi các thông tin đƣợc cập

nhật kịp thời sẽ tạo đƣợc sức hút lớn đối với khán giả.