ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------- TRƢƠNG THỊ LÊ NA PHƢƠNG THỨC SẢN XUẤT CHƢƠNG TRÌNH
THỜI SỰ Ở KÊNH TRUYỀN HÌNH VOVTV
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ TRUYỀN THÔNG
ĐA PHƢƠNG TIỆN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: BÁO CHÍ HỌC
Hà Nội - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------
TRƢƠNG THỊ LÊ NA PHƢƠNG THỨC SẢN XUẤT CHƢƠNG TRÌNH
THỜI SỰ Ở KÊNH TRUYỀN HÌNH VOVTV
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ TRUYỀN THÔNG
ĐA PHƢƠNG TIỆN
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học
Mã số: 60 32 01 01
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. TRƢƠNG THỊ KIÊN
Hà Nội - 2015
LỜI CẢM ƠN
Xin trân trọng cảm ơn Tiến sĩ Trƣơng Thị Kiên - ngƣời đã trực tiếp
hƣớng dẫn tôi nghiên cứu và hoàn thành luận văn với đề tài: “Phương thức
sản xuất Chương trình Thời sự ở kênh VOVTV nhìn từ góc độ truyền
thông đa phương tiện”. Xin chân thành cảm ơn Ban Lãnh đạo, Ban Biên tập
mà đặc biệt là Nhóm sản xuất Chƣơng trình Thời sự kênh VOVTV - Đài
Tiếng nói Việt Nam đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tác giả luận văn
Trƣơng Thị Lê Na
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đề tài “Phương thức sản xuất Chương trình
Thời sự ở kênh VOVTV nhìn từ góc độ đa phương tiện” là công trình
nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu và dẫn chứng trong luận văn có cơ sở
rõ ràng và trung thực.
Tác giả luận văn
Trƣơng Thị Lê Na
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ SẢN XUẤT
CHƢƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH DƢỚI GÓC ĐỘ TRUYỀN THÔNG
ĐA PHƢƠNG TIỆN ....................................................................................... 8
1.1. Về một số khái niệm, quan niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu . 8
1.1.1. Đa phương tiện ................................................................................. 8
1.1.2. Truyền thông đa phương tiện ......................................................... 10
1.1.3. Hội tụ truyền thông ........................................................................ 12
1.1.4. Cơ quan báo chí đa phương tiện và Tập đoàn truyền thông ......... 14
1.2. Phƣơng thức sản xuất chƣơng trình truyền hình dƣới góc độ đa
phƣơng tiện ................................................................................................. 16
1.2.1. Quan niệm về phương thức sản xuất chương trình truyền hình .... 16
1.2.2. Quan niệm về phương thức sản xuất chương trình truyền hình dưới
góc độ truyền thông đa phương tiện ........................................................ 18
1.2.3. Thế mạnh của chương trình truyền hình được sản xuất dưới góc độ
truyền thông đa phương tiện .................................................................... 20
1.2.4. Một số yêu cầu để tổ chức sản xuất thành công chương trình truyền
hình dưới góc độ truyền thông đa phương tiện ........................................ 23
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG SẢN XUẤT CHƢƠNG TRÌNH THỜI SỰ
TRÊN KÊNH VOVTV DƢỚI GÓC ĐỘ ĐA PHƢƠNG TIỆN ................ 28
2.1. Tổng quan về Chƣơng trình Thời sự kênh VOVTV - Đài Tiếng nói
Việt Nam ..................................................................................................... 28
2.1.1. Đôi nét về kênh VOVTV ................................................................. 28
2.1.2. Về Chương trình Thời sự VOVTV .................................................. 30
2.2. Tính đa phƣơng tiện trong phƣơng thức sản xuất Chƣơng trình
Thời sự của kênh VOVTV ........................................................................ 38
2.2.1. Đa phương tiện trong khai thác chất liệu nội dung cho VOVTV ... 38
2.2.2. Cách thức biên tập tin, bài phục vụ sản xuất Chương trình Thời sự
của kênh VOVTV ...................................................................................... 39
2.2.3. Đa phương tiện trong ứng dụng các hình thức chuyển tải thông tin
khác nhau ................................................................................................. 44
2.2.4. Nội dung thông tin của Chương trình Thời sự VOVTV ................. 46
2.2.5. Đa phương tiện trong truyền phát chương trình của kênh VOVTV
.................................................................................................................. 46
2.2.6. Đa phương tiện thể hiện ở khả năng tương tác với công chúng .... 48
2.2.7. Đội ngũ nhân sự tác nghiệp đa phương tiện .................................. 49
2.3. Đánh giá chung về thành công, hạn chế trong phƣơng thức sản
xuất Chƣơng trình Thời sự VOVTV dƣới góc độ truyền thông đa
phƣơng tiện ................................................................................................. 51
2.3.1. Thành công ..................................................................................... 51
2.3.2. Hạn chế........................................................................................... 54
2.4. Nguyên nhân thành công, hạn chế và những vấn đề đặt ra ........... 59
2.4.1. Nguyên nhân thành công ................................................................ 59
2.4.2. Nguyên nhân hạn chế ..................................................................... 63
Chƣơng 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NÂNG CAO HIỆU QUẢ SẢN XUẤT
CHƢƠNG TRÌNH TRÊN KÊNH VOVTV NHÌN TỪ GÓC ĐỘ
TRUYỀN THÔNG ĐA PHƢƠNG TIỆN ................................................... 68
3.1. Cơ sở đề xuất ....................................................................................... 68
3.1.1. Truyền thông đa phương tiện là xu thế tất yếu tại các cơ quan báo
chí ............................................................................................................. 68
3.1.2. Nhu cầu tiếp nhận sản phẩm truyền thông nói chung, truyền hình
nói riêng theo phương thức đa phương tiện của công chúng hiện đại .... 69
3.1.3. Sự quan tâm của lãnh đạo Đài Tiếng nói Việt Nam tới sản xuất
chương trình truyền hình theo phương thức đa phương tiện ................... 69
3.2. Một số đề xuất ..................................................................................... 70
3.2.1. Thường xuyên có cơ chế đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ sản xuất
chương trình đa phương tiện .................................................................... 70
3.2.2. Đổi mới quy trình sản xuất gắn chặt với phương thức đa phương
tiện ............................................................................................................ 74
3.2.3. Kiện toàn kỹ thuật phục vụ sản xuất chương trình ........................ 77
3.2.4.Tăng đầu tư tài chính để sản xuất các chương trình truyền hình đa
phương tiện ............................................................................................... 78
3.2.5. Tăng cường hợp tác, liên kết sản xuất giữa các bộ phận trong Đài
Tiếng nói Việt Nam và kênh VOVTV ........................................................ 80
KẾT LUẬN .................................................................................................... 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 85
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 89
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Ý nghĩa
Truyền hình Công an nhân dân ANTV
Biên tập viên BTV
Phƣơng thức sản xuất PTSX
Phóng viên PV
Tổ chức sản xuất TCSX
Tổ chức sản xuất chung TCSXC
Tiếng nói Việt Nam TNVN
Đài Tiếng nói Việt Nam VOV
Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC VTC
Đài Truyền hình Việt Nam VTV
TTXVN Thông tấn xã Việt Nam
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 2.1a. Khâu 1: Biên tập và dựng tin, bài .................................................. 32
Hình 2.1b. Khâu 2: Duyệt Vỏ kịch bản ........................................................... 34
Hình 2.2. Giao diện Cổng thông tin điện tử VOV - Trung tâm tin ................. 38
Hình 2.3. Giao diện trực tuyến của kênh VOVTV trên website Vov.vn ........ 47
Hình 2.4. Khán giả có thể tải ứng dụng xem miễn phí các chƣơng trình của
kênh VOVTV qua điện thoại di động, máy tính bảng... ................................. 48
Hình 2.5. Cấu trúc mô hình VOV trực tuyến giai đoạn 2011 – 2016 ............. 61
Hình 3.1. Quy trình sản xuất Chƣơng trình Thời sự theo đề xuất .................. 75
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự ra đời của Internet đã tạo đƣợc bƣớc đột phá mang tính cách mạng
trong truyền tải và thể hiện thông tin những năm đầu của thế kỷ 21. Chính sự
phát triển cùa web 2.0 cùng những kỹ thuật truyền thông hiện đại đã tạo nền
tảng vững chắc cho sự ra đời của một phƣơng thức truyền thông mới: truyền
thông đa phƣơng tiện. Ngày nay, trên thế giới, việc một cơ quan báo chí sở
hữu nhiều loại hình báo chí khác nhau đã không còn xa lạ. Công chúng trong
thời đại truyền thông đa phƣơng tiện đƣợc hƣởng thụ rất nhiều lợi ích mà xu
thế này đem lại. Không chỉ đƣợc đọc thông tin trên báo in, họ còn có thể theo
dõi thông tin đó qua phát thanh, truyền hình, thậm chí đƣợc cập nhật thƣờng
xuyên và liên tục qua báo mạng điện tử. Hơn thế, ở cấp độ sản phẩm truyền
thông đa phƣơng tiện, chẳng hạn, trên các tờ báo mạng đa phƣơng tiện, các
chƣơng trình truyền hình đa phƣơng tiện…, công chúng đƣợc tiếp cận thông
tin phong phú, đa dạng và vô cùng tiện lợi không chỉ qua văn bản text, qua
tranh ảnh, đồ họa, mà còn qua âm thanh, video clip.
Không đứng ngoài xu thế này, ngành truyền thông Việt Nam nói chung
và nền báo chí nƣớc ta nói riêng đang từng bƣớc có những chuyển biến lớn để
tận dụng đƣợc những lợi thế mà truyền thông đa phƣơng tiện mang lại. Một
số tòa soạn đã và đang áp dụng mô hình này trong hoạt động nhƣ Đài Truyền
hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC,
Thông tấn xã Việt Nam, báo Nhân Dân v.v... Trong đó, Đài Tiếng nói Việt
Nam với lợi thế là Đài Phát thanh Quốc gia có mạng lƣới thƣờng trú và cộng
tác viên đông đảo cả trong nƣớc lẫn ngoài nƣớc cũng đang tận dụng tiềm năng
sẵn có để phát huy thế mạnh của truyền thông đa phƣơng tiện.
Đối với kênh truyền hình VOVTV của Đài Tiếng nói Việt Nam, ngay từ
khi ra đời cách đây 5 năm (7/9/2008), kênh đã tận dụng đƣợc lợi thế sẵn có
2
của Đài Phát thanh Quốc gia để đƣa tin trên cả lĩnh vực truyền hình lẫn phát
thanh, báo mạng; một số bài bình luận sắc sảo còn đƣợc đăng tải trên báo in.
Mặc dù vẫn gặp nhiều khó khăn đan xen nhƣ hầu hết các cơ quan báo chí, các
kênh chƣơng trình khác trong thời kỳ bão hòa truyền hình, khủng hoảng kinh
tế, nhƣng VOVTV, trong đó có Chƣơng trình Thời sự VOVTV đã từng bƣớc
khẳng định đƣợc vị trí của mình và có đƣợc một lƣợng khán giả ổn định. Các
chƣơng trình Thời sự VOVTV- với khả năng sản xuất chƣơng trình dƣới góc
độ đa phƣơng tiện, đã cung cấp cho công chúng nhiều thông tin hơn, tiếp cận
đƣợc một lƣợng khán giả đông đảo hơn- không chỉ là khán giả xem ti vi, mà
còn là khán giả - độc giả của Thời sự VOVTV trên tờ báo mạng điện tử
VOV.vn, khán giả- công chúng sử dụng điện thoại di động… Hình thức
chuyển tải thông tin của Thời sự VOVTV cũng sinh động hơn. Đến với Thời
sự VOVTV đƣợc sản xuất dƣới góc độ đa phƣơng tiện, công chúng có thể trải
nghiệm cảm giác hƣởng thụ thông tin bằng nhiều giác quan- thị giác, thính
giác, xúc giác. Thƣơng hiệu, uy tín của Thời sự VOVTV cũng đƣợc tăng lên
đáng kể…
Tuy nhiên, trong hoạt động của mình, kênh VOVTV nói chung, Chƣơng
trình Thời sự VOVTV nói riêng còn có một số hạn chế nhƣ: chất lƣợng nhân
lực còn chƣa cao; cơ cấu tổ chức còn bất cập; khâu tổ chức sản xuất các
chƣơng trình còn chƣa nhất quán, dẫn đến chồng chéo và lãng phí tiềm năng
về thông tin của một Đài Phát thanh cấp Trung ƣơng. Trong khi đó, ở nƣớc ta,
truyền thông đa phƣơng tiện lại là một xu hƣớng khá mới mẻ, do đó việc áp
dụng phƣơng thức sản xuất chƣơng trình dựa trên sự liên kết nội dung giữa
các loại hình báo chí khác nhau trong chƣơng trình Thời sự VOVTV, Đài
TNVN không tránh khỏi những lúng túng, bất cập. Chính vì vậy, làm sao để
hạn chế bất cập, phát huy mạnh mẽ những tiềm năng sẵn có của Đài TNVN,
làm cho chƣơng trình truyền hình VOVTV ngày càng phát triển là yêu cầu có
3
tính thực tiễn trong giai đoạn hiện nay. Vì lý do này, chúng tôi triển khai thực
hiện Luận văn nghiên cứu về Phương thức sản xuất chương trình thời sự ở
kênh VOVTV nhìn từ góc độ truyền thông đa phương tiện (khảo sát chƣơng
trình Thời sự hàng ngày từ tháng 6/2013 đến tháng 06/2014).
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Liên quan đến vấn đề truyền thông đa phương tiện, đến nay, theo tìm
hiểu của chúng tôi, đã có một số cuốn sách cũng nhƣ bài viết của các nhà
khoa học có uy tín trong lĩnh vực báo chí - truyền thông. Dƣới đây là một số
công trình nghiên cứu mà chúng tôi tiếp cận đƣợc:
- Cuốn “Báo chí truyền thông hiện đại (từ hàn lâm đến đời thường)” của
PGS. TS. Nguyễn Văn Dững (Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội, H. 2011).
Trong cuốn này, cùng với việc cung cấp các kiến thức lý luận và thực tiễn báo
chí Việt Nam, tác giả dành một vài trang để nhận định về truyền thông đa
phƣơng tiện. Theo tác giả, truyền thông đa phƣơng tiện chính là thế mạnh nổi
trội của báo điện tử - loại hình báo chí tuy “sinh sau đẻ muộn” nhƣng sở hữu
khả năng tích hợp các loại hình báo chí khác nhƣ một trong những đặc tính ƣu
việt nhất.
- Bài viết của GS. TS. Tạ Ngọc Tấn: “Phát triển báo chí trước những
yêu cầu mới của đất nước” (Tạp chí Cộng sản, số 15/2005). Trong bài viết
này, tác giả nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới báo chí, bắt kịp xu thế phát
triển của truyền thông hiện đại trong thời kỳ hội nhập, đặc biệt là sự “chuyển
mình” của các cơ quan báo chí nhằm thỏa mãn ngày càng nhiều hơn nhu cầu
của công chúng.
- Luận văn Thạc sĩ “Cách thức đưa tin đa phương tiện trên báo mạng
điện tử ở Việt Nam hiện nay” (2010) của tác giả Phạm Thị Hồng chỉ ra cách
thức sản xuất tin tức đa phƣơng tiện trong một tòa soạn báo mạng điện tử mà
cụ thể là Vietnam.vn và VnExpress.net; những ƣu, nhƣợc điểm của các tin đa
4
phƣơng tiện hiện nay cũng nhƣ các giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng nội
dung và kỹ thuật của các tin Multimedia.
- “Đổi mới mô hình tổ chức hoạt động của Tòa soạn Báo in trong cơ quan
báo chí đa loại hình” (2012) của tác giả Nguyễn Quý Hoài cung cấp một số
mô hình cơ quan báo in nằm trong cơ quan báo chí đa loại hình trên thế giới và
tại Việt Nam; những hiệu quả và hạn chế mà các mô hình cơ quan này gặp
phải, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới mô hình tổ chức hoạt
động của tòa soạn báo in trong cơ quan báo chí đa loại hình tại Việt Nam.
- “Mô hình tổ chức tòa soạn đa loại hình của báo An ninh thủ đô – Thực
trạng và vấn đề đặt ra” (2012) của tác giả Lý Hoàng Tú Anh nghiên cứu mô
hình tòa soạn đa loại hình của báo An ninh Thủ đô, chỉ ra khả năng, ƣu điểm
của sự phối hợp giữa các loại hình trong tòa soạn, sự hội tụ các loại hình trong
từng tác phẩm của phóng viên, cũng nhƣ những trở ngại trong quá trình phát
triển của tòa soạn; đồng thời đƣa ra đề xuất nhằm khắc phục những trở ngại
đó, góp phần xây dựng một mô hình cơ quan báo chí đa loại hình theo kịp sự
phát triển của xu thế báo chí hiện đại.
- Luận văn “Xây dựng mô hình tòa soạn đa phương tiện của báo Kinh tế
và Đô thị” của tác giả Phùng Thị Hồng Hạnh (2013) đề cập đến vấn đề diện
mạo của báo in và báo điện tử trong bối cảnh hiện nay với việc phân tích,
đánh giá những ƣu, nhƣợc điểm của từng loại hình, trong đó có báo Kinh tế
và Đô thị; từ đó nêu lên những cơ sở để báo Kinh tế & Đô thị phát triển lên
mô hình tòa soạn đa phƣơng tiện; đồng thời nêu lên những khuyến nghị, giải
pháp để xây dựng mô hình tòa soạn đa phƣơng tiện phù hợp với tình hình
thực tế của tờ báo này.
Gần đây, vào tháng 6/2013, Viện Nghiên cứu Báo chí và Truyền thông
thuộc Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã tổ chức một Hội thảo khoa học
với chủ đề “Sự vận động, phát triển của Báo chí, Truyền thông trong thời kỳ
5
Hội tụ truyền thông, tích hợp phương tiện”. Hội thảo đã thu hút nhiều bài viết
có liên quan đến vấn đề truyền thông đa phƣơng tiện, hội tụ truyền thông,
nhƣ: “Tòa soạn hội tụ và xu thế phát triển ở Việt Nam hiện nay” (TS. Trƣơng
Thị Kiên – Phó Tổng biên tập tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền); “Xu thế báo chí đa phương tiện thời truyền
thông hội tụ” (TS. Nguyễn Thị Trƣờng Giang, Phó trƣởng khoa Phát thanh –
Truyền hình, Học viện Báo chí và Tuyên truyền); “Mấy suy nghĩ về việc ứng
dụng đa phương tiện đối với những người hoạt động trong lĩnh vực báo chí,
truyền thông hiện nay” (TS. Nguyễn Đức Hạnh, Phó Viện trƣởng Viện nghiên
cứu Báo chí và Truyền thông, Học viện Báo chí và Tuyên truyền); “Truyền
thông đa phương tiện – Xu thế tất yếu toàn cầu” (TS. Đỗ Thị Hằng, Viện
nghiên cứu Báo chí và Truyền thông, Học viện Báo chí và Tuyên truyền)
v.v… Hội thảo thực sự mang lại những kiến thức, kinh nghiệm quý báu về cả
lý thuyết lẫn hoạt động thực tiễn liên quan đến xu thế truyền thông đa phƣơng
tiện, cung cấp những cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng cho chúng tôi trong
quá trình thực hiện Luận văn này.
Ngoài ra còn một số bài viết của các tác giả đăng trên các tạp chí khoa
học hoặc trên báo chí. Tuy nhiên, những bài viết này chỉ mới dừng ở
mức đánh giá chung, sơ lƣợc, chƣa tập trung nghiên cứu đầy đủ những nét
đặc trƣng của báo chí trong xu thế truyền thông đa phƣơng tiện. Một số tài
liệu bằng tiếng Anh cũng có đề cập đến xu thế này, nhƣng do bất đồng ngôn
ngữ, chúng tôi cũng gặp khó khăn khi cố gắng tiếp cận các tài liệu này.
Đáng chú ý, cho đến nay, chƣa có tài liệu nào nghiên cứu về truyền
thông đa phƣơng tiện tại Đài Tiếng nói Việt Nam, đặc biệt, chƣa có bất kỳ
công trình nào tiếp cận nghiên cứu về chƣơng trình Thời sự VOVTV dƣới góc
độ truyền thông đa phƣơng tiện. Vì vậy, đề tài “Phương thức sản xuất
Chương trình Thời sự ở kênh VOVTV nhìn từ góc độ truyền thông đa phương
6
tiện” là đề tài hoàn toàn mới, không trùng lắp với bất kỳ công trình nghiên
cứu nào trƣớc đó.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm khảo sát thực trạng sản xuất chƣơng trình Thời sự của kênh
VOVTV dƣới góc độ đa phƣơng tiện; đánh giá những thành công, hạn chế,
nguyên nhân thành công, hạn chế của chƣơng trình nhìn từ góc độ đa phƣơng
tiện, từ đó, đề xuất một số giải pháp phù hợp, góp phần nâng cao chất lƣợng,
hiệu quả chung của chƣơng trình.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích trên, Luận văn triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu
sau đây:
- Trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về truyền thông đa phƣơng tiện
nói chung, phƣơng thức sản xuất chƣơng trình truyền hình dƣới góc độ đa
phƣơng tiện nói riêng.
- Khảo sát thực trạng sản xuất chƣơng trình Thời sự VOVTV tại Đài
Tiếng nói Việt Nam dƣới góc độ đa phƣơng tiện nhằm nhận diện các góc độ
đa phƣơng tiện trong sản xuất chƣơng trình, từ đó, đánh giá chung về những
thành công, hạn chế, nguyên nhân thành công, hạn chế của chƣơng trình.
- Bƣớc đầu đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những mặt hạn
chế, bất cập trong phƣơng thức sản xuất chƣơng trình Thời sự VOVTV dƣới
góc độ truyền thông đa phƣơng tiện nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng, hiệu
quả chƣơng trình.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tƣợng nghiên cứu của Luận văn là Phương
thức sản xuất chương trình Thời sự trên kênh VOVTV - Đài Tiếng nói Việt
Nam dưới góc độ truyền thông đa phương tiện.
7
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu ở chƣơng
trình Thời sự hàng ngày, khung giờ 6h-6h30; 11h30-12h; 18h-18h45 trên
Kênh VOVTV; thời gian từ tháng 06/2013 đến tháng 06/2014.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng các phƣơng pháp sau:
• Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đọc tài liệu, sách báo, văn bản...
để chắt lọc các kiến thức lý thuyết có liên quan tới đề tài.
• Phương pháp phỏng vấn: gặp gỡ và trao đổi, phỏng vấn sâu một
số nhà báo tại Đài Tiếng nói Việt Nam để tìm hiểu cách thức mà họ áp dụng
trong sản xuất Chƣơng trình Thời sự trên kênh VOVTV dƣới góc độ đa
phƣơng tiện.
• Phương pháp khảo sát hoạt động sản xuất chương trình trên thực
tế: khảo sát thực tế sản xuất Chƣơng trình Thời sự VOVTV ở các góc độ quy
trình sản xuất, nhân lực, kỹ thuật sản xuất chƣơng trình v.v, làm cơ sở để
đánh giá, nhận xét về thành công, hạn chế của chƣơng trình.
• Phương pháp phân tích, tổng hợp: dựa trên các dữ liệu có đƣợc từ
khảo sát thực tiễn, tác giả phân tích, đánh giá những mặt đƣợc, chƣa đƣợc của
việc sản xuất Chƣơng trình Thời sự VOVTV dƣới góc độ đa phƣơng tiện, từ đó,
tổng hợp thành các luận điểm nhằm làm sáng rõ mục đích nghiêm cứu đề tài.
7. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc triển
khai thành 3 chƣơng:
- Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về sản xuất chƣơng trình
truyền hình dƣới góc độ truyền thông đa phƣơng tiện
- Chƣơng 2: Thực trạng sản xuất chƣơng trình thời sự trên kênh
VOVTV dƣới góc độ truyền thông đa phƣơng tiện
- Chƣơng 3: Một số đề xuất nâng cao hiệu quả sản xuất chƣơng trình
Thời sự trên kênh VOVTV nhìn từ góc độ truyền thông đa phƣơng tiện
8
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ SẢN XUẤT CHƢƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH
DƢỚI GÓC ĐỘ TRUYỀN THÔNG ĐA PHƢƠNG TIỆN
1.1. Về một số khái niệm, quan niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Đa phương tiện
“Phƣơng tiện” đƣợc hiểu là “những cách thức, công cụ, con đường để
thực hiện một công việc cụ thể nào đó” [29, tr. 403]. Với truyền thông nói
chung và báo chí nói riêng, phƣơng tiện chính là những cách thức, công cụ,
con đƣờng để truyền thông điệp (nội dung thông tin) đến với công chúng.
“Đa phƣơng tiện” là thuật ngữ xuất phát từ cụm từ “Multimedia” trong
tiếng Anh, xuất hiện khoảng vào giữa thế kỷ 20 – khi internet còn chƣa ra đời.
Theo đó, “Media” là phƣơng tiện, “Multi” là nhiều; “Multimedia” là sản
phẩm đƣợc tạo ra để “chạy” trên nhiều thiết bị đầu cuối khác nhau, hay nói
cách khác, là sản phẩm đƣợc truyền tải bởi nhiều phƣơng tiện khác nhau.
Lần đầu tiên, cụm từ “đa phƣơng tiện” xuất hiện là vào năm 1965, đƣợc
sử dụng để miêu tả một buổi trình diễn đặc biệt mang tên “Exploding Plastic
Inevitable” (tạm dịch: “Sự kết hợp hoàn hảo mang tính đột phá từ những điều
quen thuộc). Đây là buổi biểu diễn đầu tiên có sự kết hợp của nhạc rock,
chiếu bóng, ánh sáng và trình diễn nghệ thuật. Sau đó, cụm từ này dần đƣợc
sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực với nhiều ý nghĩa khác nhau.
Cách đây gần 20 năm, Viện Xã hội Ngôn ngữ Đức “Gesellschaft für
deutsche Sprache” đã quyết định công nhận ý nghĩa của từ “đa phƣơng tiện”
bằng cách trao cho nó danh hiệu “Từ của năm” vào năm 1995 và khẳng định:
“Đa phương tiện đã trở thành một từ trung tâm trong các phương tiện truyền
thông thế giới mới” [44, tr8].
9
Khái niệm “đa phƣơng tiện” đƣợc rất nhiều tác giả đề cập đến trong nhiều
công trình nghiên cứu cũng nhƣ các bài báo, bài thảo luận... Tùy vào lĩnh vực,
khái niệm “đa phƣơng tiện” đƣợc định nghĩa không hoàn toàn giống nhau.
Chẳng hạn, trong lĩnh vực điện tử công nghệ, “multimedia” hay “đa
phƣơng tiện” là sự kết hợp giữa phƣơng tiện truyền thông (media) và các
dạng nội dung (contents) khác nhau bao gồm tổ hợp văn bản (text), âm thanh
(audio), hình ảnh tĩnh (still image), hình ảnh động (video), đồ hình – đồ họa
(graphic), và những nội dung mang tính tƣơng tác (interactive programs) vào
trong cùng một thiết bị công nghệ nhƣ điện thoại di động, máy vi tính, máy
ảnh, máy nghe nhạc…
Trong cuốn “Multimedia Technologies”, tác giả Ashok Banerji cho rằng:
“Khi được sử dụng như một danh từ: Đa phương tiện đề cập đến công nghệ
và các thiết bị, phương tiện truyền thông. Đó là việc sử dụng kết hợp các hình
thức khác nhau của các phương tiện truyền thông âm thanh và hình ảnh như:
văn bản, đồ họa, hoạt hình, âm thanh và video; khi sử dụng như một tính từ:
Đa phương tiện mô tả sự trình bày liên quan đến việc sử dụng nhiều phương
tiện truyền thông cùng một lúc”. [41, tr45]
Trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, PGS. TS. Đỗ Trung Tuấn – Giảng viên
Khoa Toán Cơ Tin học, Trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên đƣa ra định nghĩa:
“Đa phương tiện là kỹ thuật mô phỏng và sử dụng đồng thời nhiều dạng
phương tiện chuyển hóa thông tin và các tác phẩm từ kỹ thuật đó”.[38, tr.28].
Trong khi đó, lĩnh vực truyền thông, đặc biệt là trong lĩnh vực báo chí,
thuật ngữ “đa phƣơng tiện” lại đƣợc dùng thiên về cách hiểu là phƣơng thức
truyền tải thông tin trên các thiết bị khác nhau, với các dạng thức ngôn ngữ
khác nhau phù hợp cho mỗi loại thiết bị.
Tóm lại, mỗi lĩnh vực, thuật ngữ đa phương tiện có cách hiểu tƣơng đối
khác nhau tùy vào mục đích, đối tƣợng sản xuất, phƣơng tiện kỹ thuật, nội
10
dung thông tin, đối tƣợng tiếp nhận. Tuy nhiên, một cách chung nhất, có thể
hiểu: Đa phương tiện là sự kết hợp của nhiều loại phương tiện thiết bị kỹ
thuật và nhiều loại ngôn ngữ khác nhau để chuyển hóa, truyền tải thông tin
đến công chúng.
1.1.2. Truyền thông đa phương tiện
- Truyền thông:
Trong tiếng Anh, từ “communication” có nghĩa là sự truyền đạt, thông
tin, thông báo, giao tiếp, trao đổi, liên lạc, giao thông...
Truyền thông là hoạt động gắn liền với sự phát triển của con ngƣời và xã
hội loài ngƣời. Nhờ truyền thông, giao tiếp mà con ngƣời tự nhiên phát triển
thành con ngƣời xã hội. Cùng với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, công
nghệ, các phƣơng thức truyền thông của loài ngƣời cũng phát triển từ đơn
giản đến phức tạp, từ thô sơ đến hiện đại. Ngày nay, con ngƣời đã biết sử
dụng những kỹ thuật công nghệ tiên tiến để truyền thông nhƣ: truyền hình
cáp, vệ tinh địa tĩnh, Internet... Các phƣơng tiện truyền thông trở thành một
nhu cầu của đời sống, một công cụ đảm bảo cho sự phát triển bền vững của
mỗi quốc gia, một phƣơng tiện hữu hiệu để tăng cƣờng sự hiểu biết lẫn nhau
của con ngƣời, một nhịp cầu nối liền các dân tộc trên hành tinh chúng ta.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về truyền thông. Ở góc độ báo chí
tuyên truyền, nhiều nhà nghiên cứu đã đƣa ra quan niệm về truyền thông.
Chúng tôi đồng ý với quan điểm của PGS. TS. Lƣơng Khắc Hiếu khi cho rằng:
Truyền thông là quá trình giao tiếp, chia sẻ, trao đổi thông tin giữa các
cá nhân hay các nhóm người nhằm đạt được sự hiểu biết, nâng cao nhận
thức, hình thành thái độ và thay đổi hành vi của con người. [18, tr.5]
- Truyền thông đa phương tiện
Theo Từ điển bách khoa Wikipedia, “Truyền thông đa phương tiện là việc
dùng một số phương tiện khác nhau như văn bản, âm thanh, đồ họa, video và
11
khả năng tương tác để chuyển tải thông tin. Đa phương tiện theo nghĩa rộng là
việc tổ hợp các phương tiện khác nhau để tạo nên một cách mô tả nhiều mặt ý
tưởng, khái niệm hay tư tưởng. Đa phương tiện đơn giản có nghĩa là có khả
năng liên lạc, giao tiếp theo nhiều hơn một cách thức. Như vậy, đa phương tiện thật ra là liên lạc, giao tiếp theo vài cách thức khác nhau”. [4]
Trong cuốn “Multimedia Journalism – A practical guide” (Báo chí đa
phƣơng tiện – Hƣớng dẫn thực hành), tác giả Andy Bull cho rằng: “Báo chí
đa phương tiện là sự phát triển của Báo mạng điện tử khi các tác phẩm báo
chí trên Báo mạng điện tử được tích hợp đa phương tiện nhiều hơn”.
Trong bài viết “What is Multimedia Journalism” (Thế nào là nhà báo đa
phƣơng tiện”), tác giả Mark Deuze, giảng viên báo chí thuộc trƣờng Đại học
Amsterdam (Hà Lan) cho rằng: “Báo chí đa phương tiện đơn giản là hình
thức báo chí dựa vào các loại phương tiện truyền thông như văn bản, hình
ảnh, đồ họa, âm thanh, video, chương trình tương tác để truyền tải thông tin
đến độc giả một cách đa dạng, sống động và chân thực”. [42, tr.37]
PGS. TS. Nguyễn Văn Dững – Trƣởng khoa Báo chí, Học viện Báo chí
& Tuyên truyền nhận định: “Đa phương tiện chính là khả năng kết hợp các
tài liệu văn bản, hình ảnh, âm nhạc, video, hình động và tài liệu in ấn có thể
được sử dụng ở nhiều mức độ khác nhau nhằm “thay đổi” sự chú ý và truyền
đạt một cách có hiệu quả thông điệp của bạn (…) Đa phương tiện cho phép
kết hợp các loại hình truyền thông trong việc chuyển tải thông điệp nhằm gây
chú ý, hấp dẫn và thuyết phục công chúng”. [8, tr.26]
Qua một số ý kiến trên, chúng tôi cho rằng:
Truyền thông đa phương tiện là hình thức truyền thông sử dụng đồng
thời nhiều phương thức truyền tải thông tin như văn bản (text), hình ảnh tĩnh
(still image), hình ảnh động (animation), âm thanh (audio), video và các
12
chương trình tương tác (interactive programs) để đưa thông tin đến với công
chúng, thỏa mãn khả năng tiếp nhận thông tin bằng nhiều giác quan của họ.
Theo chúng tôi, Truyền thông đa phương tiện có 2 cấp độ (hình thức
thể hiện):
- Thứ nhất là Truyền thông đa phương tiện trên cùng một sản phẩm báo
chí, chẳng hạn nhƣ trong cùng một chƣơng trình truyền hình (có thể gọi là
chƣơng trình truyền hình theo phƣơng thức đa phƣơng tiện), trên cùng một tác
phẩm/một tờ báo mạng...
- Thứ hai là Truyền thông đa phương tiện trong một cơ quan báo chí, hay
còn gọi là cơ quan báo chí đa phƣơng tiện, tức là một cơ quan báo chí có
nhiều loại hình báo chí khác nhau: báo viết, báo phát thanh, báo truyền hình,
báo mạng…
Ở Luận văn này, khi nghiên cứu về phƣơng thức sản xuất chƣơng trình
truyền hình dƣới góc độ đa phƣơng tiện, là chúng tôi đang tiếp cận thuật ngữ
Truyền thông đa phương tiện ở cấp độ 1: truyền thông đa phƣơng tiện trong
cùng 1 chƣơng trình truyền hình.
1.1.3. Hội tụ truyền thông
Liên quan đến thuật ngữ đa phương tiện, các nhà nghiên cứu còn sử
dụng thuật ngữ hội tụ truyền thông.
Thực tế cho thấy, khái niệm hội tụ truyền thông bao hàm hai ý nghĩa:
“hội tụ” và “kết hợp”. Xét theo nghĩa hẹp, hội tụ truyền thông là sự tích hợp
các loại hình báo chí, tạo ra sự biến đổi về chất, hình thành hàng loạt phƣơng
tiện truyền thông mới nhƣ sách điện tử, blog, mạng xã hội…
Nếu xét từ nghĩa rộng, hội tụ truyền thông có phạm vi rộng hơn, gồm sự
kết hợp các phƣơng tiện truyền thông, không chỉ về loại hình truyền thông,
mà còn là sự hội tụ cả về chức năng, phƣơng thức đƣa tin, quyền sở hữu, cơ
cấu tổ chức của các cơ quan báo chí, truyền thông… Nói cách khác, hội tụ
13
truyền thông là quá trình phát triển tiệm tiến từ thấp đến cao, là sự phát triển
tất yếu của báo chí truyền thông hiện đại.
PGS. TS. Đinh Thị Thúy Hằng (2008) viết trong cuốn “Báo chí thế giới
và xu hướng phát triển” cho rằng: “Trong khuôn khổ của lĩnh vực truyền
thông, hội tụ được hiểu theo hai nghĩa như sau:
Thứ nhất, nội dung quan trọng nhất của hội tụ truyền thông là cùng với
việc phá bỏ “hàng rào” kiểm soát thông tin, các loại hình báo chí như báo in,
phát thanh, truyền hình, báo chí trực tuyến và cá thiết bị di động đã và đang
hội tụ với nhau về mặt công nghệ. Công nghệ thông tin đã dẫn đến việc liên
hợp các loại phương tiện báo chí khác nhau vào trong một phương thức hoạt
động. Sự hội tụ này đã mở ra một kỷ nguyên mới của đa truyền thông. Hội tụ
của các loại hình báo chí: báo in, truyền hình, phát thanh, phim ảnh được kết
hợp để đưa các dịch vụ tới người sử dụng.
Thứ hai là sự tập trung sở hữu truyền thông đại chúng. Các “tập đoàn
báo chí, một công ty sở hữu nhiều loại hình kinh doanh báo chí khác nhau.
Điều này dẫn đến sự hội tụ về kinh tế: các hãng truyền thông hội tụ qua việc
liên kết, sáp nhập hoặc mua cổ phần của nhau” [17, tr. 18].
PGS. TS. Nguyễn Đức Dũng cho rằng: thuật ngữ “Hội tụ truyền thông”
đƣợc dùng để chỉ sự tích hợp các phƣơng tiện báo chí khác nhau vào trong
một phƣơng thức hoạt động. Theo đó, các phƣơng tiện truyền thông cũ và mới
sẽ tƣơng tác với nhau theo những cách phức tạp hơn so với dự đoán trƣớc
đây. Sự hội tụ này đã mở ra một kỷ nguyên mới của truyền thông đa phƣơng
tiện, trong đó các loại hình báo chí, truyền thông nhƣ báo in, phát thanh,
truyền hình, tivi, phim ảnh, báo điện tử… đƣợc kết hợp để đƣa các dịch vụ
mới có chất lƣợng cao hơn đến ngƣời sử dụng”. [6, tr. 55]
Tóm lại, theo chúng tôi, hội tụ truyền thông nghĩa là sự tích hợp các
phƣơng thức truyền tải thông tin hay tích hợp các phƣơng tiện trong cùng một
14
cơ quan báo chí nhằm đem đến cho công chúng khả năng tiếp nhận thông tin
tiện lợi, gần nhƣ bằng mọi giác quan nhƣ: nghe, xem, đọc... trên nền tảng báo
điện tử. Và nhƣ vậy, hội tụ truyền thông và truyền thông đa phương tiện (ở
cấp độ 1) đƣợc hiểu tƣơng đồng về nghĩa.
1.1.4. Cơ quan báo chí đa phương tiện và Tập đoàn truyền thông
Từ khái niệm về Truyền thông đa phương tiện, thực tiễn đã xuất hiện
thêm một mô hình cơ quan truyền thông mà giới nghiên cứu gọi bằng thuật
ngữ: Cơ quan báo chí đa phương tiện, hay Tòa soạn báo đa phương tiện. Cơ
quan báo chí đa phƣơng tiện có thể hiểu nôm na là một cơ quan báo chí sở
hữu nhiều loại hình báo chí khác nhau trong cùng một thời điểm.
Và nhƣ vậy, cơ quan báo chí đa phương tiện, tòa soạn báo đa phương
tiện chính là biểu hiện của truyền thông đa phương tiện ở cấp độ thứ 2. Tại cơ
quan báo chí đa phƣơng tiện, ngƣời ta cùng lúc sở hữu nhiều loại hình báo
chí, chẳng hạn: vừa có báo in, vừa có phát thanh, truyền hình, vừa có báo
mạng điện tử...
Trong Đại hội lần thứ IX Hội Nhà báo Việt Nam, TS. Đinh Thế Huynh,
Nguyên Chủ tịch Hội nhà báo Việt Nam, Nguyên Tổng Biên tập báo Nhân
dân nhận định: “Báo chí thời gian tới không còn đơn nhất một loại hình mà sẽ
dần trở thành báo chí đa phương tiện”. [20, tr. 8]
Nhận định này đã chỉ ra rằng, đa phƣơng tiện là xu thế toàn cầu, nhiều
cơ quan báo chí trên thế giới đã hƣớng đến, sớm hay muộn là tùy thuộc vào
điều kiện của từng nƣớc, từng cơ quan báo chí. Hiện nay, nhiều cơ quan báo
chí của Việt Nam đã theo hƣớng phát triển đa phƣơng tiện. Nhiều cơ quan báo
in đã có thêm đài phát thanh, truyền hình và báo mạng điện tử; nhiều đài phát
thanh, truyền hình có thêm tạp chí và báo mạng điện tử. Chẳng hạn nhƣ Đài
Truyền hình Việt Nam có báo điện tử VTV (www.vtv.vn) và Tạp chí truyền
hình; Đài TNVN có báo điện tử VOV Online (www.vov.vn), Kênh truyền
15
hình VOVTV, Kênh truyền hình Quốc hội Việt Nam và Báo in VOV; Báo
Nhân dân ngoài cho ra đời báo Nhân Dân điện tử (www.nhandan.com.vn) từ
năm 1998 và hiện nay có thêm Kênh truyền hình Nhân Dân.
Mô hình cơ quan báo chí đa phƣơng tiện giúp giảm thiểu đƣợc các chi
phí cho nhân lực, cơ sở hạ tầng, vừa đảm bảo đƣợc chất lƣợng và hiệu quả
thông tin, phát huy nội lực và tăng cƣờng mối quan hệ tƣơng tác giữa các
kênh truyền thông trong cùng một tòa soạn. Phóng viên của tòa soạn có nhiều
kỹ năng tác nghiệp cùng một lúc trên nhiều thiết bị kỹ thuật và đảm bảo cung
cấp đƣợc thông tin cho nhiều loại hình báo chí.
Từ hình thức tồn tại cơ quan báo chí đa phƣơng tiện, một thuật ngữ cũng
tƣơng đồng với nó đƣợc ứng dụng trên thực tế đã ra đời: thuật ngữ tập đoàn
truyền thông, Tập đoàn báo chí.
Thực tế cho thấy, mô hình Tập đoàn báo chí là một mô hình kinh tế khi
các cơ quan báo chí lớn thực hiện hai chiến lược là tập trung hàng dọc, thẳng
đứng (Vertical) hay tập trung hàng ngang (Horizontal).
Mở rộng theo trục dọc là cơ quan báo chí nắm quyền sở hữu trong nhiều
lĩnh vực truyền thông khác nhau tạo thành một mạng lƣới sản xuất và tiêu thụ
liên hoàn nhằm tăng cƣờng ƣu thế trong một ngành hoạt động nhất định. Mở
rộng trục ngang là cơ quan báo chí thâu tóm gần nhƣ trọn vẹn một lĩnh vực
truyền thông nào đó, chẳng hạn nhƣ lĩnh vực xuất bản sách… Ví dụ nhƣ vào
năm 1986, Công ty điện lực General Electric đã mua mạng truyền hình Mỹ
NBC; Công ty viễn thông Mỹ AT&T năm 1999 đã nắm quyền kiểm soát hệ
thống truyền hình cáp TCI, năm 2004 mua tiếp mạng Mediaone…
Theo nghiên cứu của các nƣớc Tƣ bản chủ nghĩa thì đặc điểm lớn nhất
của mô hình Tập đoàn báo chí, đó là các tập đoàn này chủ yếu đƣợc hình
thành theo kiểu “cá lớn nuốt cá bé”, thôn tính và lũng đoạn lẫn nhau nhằm
phân chia khu vực và lợi nhuận.
16
Một tập đoàn báo chí thƣờng sẽ là cơ quan báo chí đa loại hình với sự
phát triển theo trục dọc. Tuy nhiên, một cơ quan báo chí đa loại hình chƣa hẳn
là một tập đoàn báo chí. Tại Việt Nam, cơ quan báo chí đa loại hình không
đƣợc gọi là một tập đoàn báo chí.
Nhƣ vậy, thuật ngữ “Tập đoàn báo chí”, “Cơ quan truyền thông đa
phƣơng tiện”, “Tòa soạn đa loại hình” đều có chung một đặc điểm: đó là cơ
quan truyền thông mà ở đó có thể có nhiều loại hình truyền thông cùng hoạt
động, nhƣng tùy theo điều kiện và cách nhìn nhận cơ quan báo chí đó để có
cách gọi cụ thể và chính xác. “Tập đoàn báo chí” là sự nhìn nhận dƣới góc độ
kinh tế; “Tòa soạn đa loại hình” hay “Tòa soạn hội tụ” là cái nhìn dƣới góc độ
tổ chức, còn “Cơ quan truyền thông đa phƣơng tiện” là cách nhìn dƣới góc độ
kỹ thuật.
1.2. Phƣơng thức sản xuất chƣơng trình truyền hình dƣới góc độ đa
phƣơng tiện
1.2.1. Quan niệm về phương thức sản xuất chương trình truyền hình
1.2.1.1. Quan niệm về chương trình truyền hình
Để tìm hiểu về phƣơng thức sản xuất chƣơng trình truyền hình, trƣớc
hết, cần hiểu thế nào là chƣơng trình truyền hình.
Chương trình truyền hình là sự liên kết, sắp xếp bố trí hợp lý các tin bài,
băng tư liệu, hình ảnh, âm thanh trong một thời gian nhất định, được mở đầu
bằng nhạc hiệu, hình hiệu, lời giới thiệu, kết thúc bằng lời chào tạm biệt
nhằm đáp ứng yêu cầu tuyên truyền của cơ quan báo chí truyền hình và mang
lại hiệu quả thông tin cao nhất cho khán giả. [31, tr.113]
Truyền hình cũng nhƣ trên phát thanh, có nhiều dạng chƣơng trình khác
nhau. Nếu phân chia theo tiêu chí tính chất thời sự của thông tin, có: chƣơng
trình Thời sự, chƣơng trình Chuyên đề. Nếu phân chia theo lĩnh vực phản ánh,
có: chƣơng trình Kinh tế, Văn hóa, Quân đội, Giáo dục đào tạo, Y tế, Thể
17
thảo… Nếu chia theo tiêu chí giới và lứa tuổi, có các chƣơng trình: Phụ nữ,
Thiếu nhi, Thanh niên, Ngƣời cao tuổi… Nếu theo tiêu chí mục đích thông
tin, chủ yếu có các chƣơng trình Giải trí (gameshows), các chƣơng trình tin
tức thời sự…
Mỗi chƣơng trình truyền hình có tôn chỉ mục đích, chức năng nhiệm vụ
khác nhau, đối tƣợng khán giả khác nhau. Căn cứ vào các yếu tố đó, ngƣời ta
thƣờng xây dựng chƣơng trình có cấu trúc, format tƣơng đối ổn định, có thời
lƣợng xác định, thời điểm phát cụ thể. Các chƣơng trình đƣợc phát trên từng
kênh sóng khác nhau.
1.2.1.2. Quan niệm về Phương thức sản xuất
Theo từ điển tiếng Việt, “phƣơng thức” đƣợc định nghĩa là “cách thức, phương pháp được quy định để tiến hành”. [29, tr.402], còn “sản xuất” là “quá trình tạo ra của cải, vật chất”.
Nhƣ vậy, có thể hiểu “phƣơng thức sản xuất” chính là cách thức, phương
pháp tạo ra một sản phẩm theo tiến trình đã định sẵn.
1.2.1.3. Phương thức sản xuất chương trình truyền hình
Phƣơng thức sản xuất Chƣơng trình Truyền hình có thể hiểu là toàn bộ
những công việc nhằm làm ra một chương trình truyền hình trong một thời
gian nhất định, được sắp xếp theo một quy trình định sẵn.
Cũng nhƣ trong phát thanh, ngƣời ta thƣờng chia phƣơng thức sản xuất
chƣơng trình truyền hình thành 2 phƣơng thức: chƣơng trình đƣợc sản xuất
trực tiếp và chƣơng trình truyền hình có hậu kỳ.
Trong cuốn Giáo trình báo chí truyền hình, tác giả - PGS. TS. Dƣơng
Xuân Sơn nhận định: “Dựa vào khả năng kỹ thuật và công nghệ, có thể phân
chia các loại phương thức sản xuất chương trình truyền hình như sau:
- Chương trình băng từ
- Chương trình phim nhựa
18
- Chương trình phát trực tiếp.
(...) Riêng chương trình sản xuất bằng phim nhựa vì giá thành rất cao
nên hầu như không được sử dụng trong truyền hình. Vì vậy, trong sản xuất
chương trình truyền hình thường có hai loại: băng từ và trực tiếp”.
Theo nhận định này, phƣơng thức sản xuất chƣơng trình có hậu kỳ chính là
phƣơng thức chƣơng trình băng từ nhƣ ý kiến của PGS. TS. Dƣơng Xuân Sơn.
Trong luận văn, khi nghiên cứu về phương thức sản xuất chương trình
truyền hình, chúng tôi không chỉ tiếp cận để tìm hiểu xem chƣơng trình truyền
hình đƣợc sản xuất theo phƣơng thức trực tiếp hay có hậu kỳ, mà thực chất,
chúng tôi còn nghiên cứu kỹ về quy trình tổ chức sản xuất một chương trình
truyền hình với những cách thức tổ chức sản xuất cụ thể trong từng quy trình đó.
1.2.2. Quan niệm về phương thức sản xuất chương trình truyền hình dưới
góc độ truyền thông đa phương tiện
1.2.2.1. Về thuật ngữ Góc độ
Góc độ là “chỗ đứng để nhìn nhận, đánh giá sự vật, sự việc” . Ở luận văn
này, khi nói đến góc độ truyền thông đa phƣơng tiện trong sản xuất chƣơng
trình truyền hình, là chúng tôi muốn tìm hiểu những biểu hiện của tính đa
phương tiện trong một chương trình truyền hình cũng nhƣ tìm hiểu những đặc
tính của truyền thông đa phương tiện đã ảnh hưởng, chi phối như thế nào đến
quá trình sản xuất chương trình truyền hình.
1.2.2.2. Các góc độ đa phương tiện trong sản xuất chương trình truyền hình
Theo chúng tôi, góc độ đa phƣơng tiện trong sản xuất chƣơng trình
truyền hình đƣợc biểu hiện nhƣ sau:
- Đa phương tiện trong khai thác tư liệu để xây dựng nội dung truyền
thông: “chất liệu” hay nguồn tin đƣợc sử dụng trong các sản phẩm truyền hình
đƣợc sản xuất, khai thác từ nhiều loại phƣơng tiện truyền thông đại chúng
khác nhau, chẳng hạn nhƣ từ báo in, báo mạng điện tử, phát thanh...
19
- Đa phương tiện trong khâu biên tập nội dung: thông tin sau khi đã
đƣợc khai thác từ các phƣơng tiện truyền thông khác nhau (từ báo in, báo phát
thanh, báo mạng) sẽ đƣợc các biên tập viên biên tập lại cho phù hợp với
những tiêu chí của chƣơng trình truyền hình, đảm bảo phù hợp với thói quen,
khả năng tiếp nhận của khán giả.
- Đa phương tiện trong sử dụng đồng thời các phương tiện ngôn ngữ
chuyển tải thông tin: chẳng hạn nhƣ trong một chƣơng trình truyền hình,
ngoài hình ảnh truyền hình và âm thanh, còn có cả hình ảnh tĩnh (tranh ảnh),
đồ hình - đồ họa (bảng biểu, biểu đồ, hình mô phỏng...), chữ viết (text) và
những hình thức tƣơng tác khác (điện thoại nối trực tiếp từ hiện trƣờng; tƣơng
tác qua máy tính có kết nối mạng Internet v.v...).
- Đa phương tiện trong khâu truyền phát các chương trình truyền hình:
việc sở hữu nhiều phƣơng tiện truyền thông giúp các cơ quan truyền thông
“vƣơn” xa hơn trong chiếm lĩnh các nhóm công chúng đích, thỏa mãn nhiều
hơn nhu cầu tiếp nhận thông tin của họ. Truyền hình truyền thống chỉ phát
sóng trên TV thông qua sóng vô tuyến, còn bây giờ, trong môi trƣờng truyền
thông đa phƣơng tiện, truyền hình còn phát sóng trên các thiết bị thông minh
nhƣ điện thoại di động smartphone, máy tính, máy tính bảng... dựa trên nền
tảng Internet. Mỗi cơ quan hoặc kênh truyền hình có yếu tố đa phƣơng tiện
nhƣ vậy đều có một bộ phận chuyên đảm trách nhiệm vụ kết nố, đăng tải các
chƣơng trình đang phát sóng lên mạng, phục vụ mục đích phát sóng trực
tuyến, đồng thời chịu trách nhiệm “đẩy” các chƣơng trình đã phát sóng lên
trang web của cơ quan, đơn vị mình để công chúng có thể theo dõi lại chƣơng
trình bất cứ lúc nào.
- Cách thức tương tác đa phương tiện với công chúng: không chỉ sử
dụng những hình thức tƣơng tác truyền thống nhƣ thƣ tay, các chuyên mục
bạn đọc đăng tải trên ấn phẩm truyền thông, điện thoại..., công chúng còn
20
hoàn toàn có thể tƣơng tác với cơ quan truyền thông đó thông qua email, hoặc
tƣơng tác trực tiếp với ban biên tập thông qua website trực tuyến với các ô
phản hồi ngay bên dƣới mỗi bài viết. Cách thức tƣơng tác này thực sự tạo
thuận lợi cho cả cơ quan truyền thông lẫn công chúng vì tính nhanh gọn, tiện
dụng. Hơn nữa, cơ quan truyền thông cũng không cần mất công mở các cuộc
điều tra xã hội học tốn kém, quy mô nhƣ trƣớc đây mà vẫn có thể thu đƣợc
kết quả phản ánh thái độ, ý kiến của công chúng thông qua các bình chọn trực
tuyến dành cho họ.
- Đội ngũ nhân lực có khả năng tác nghiệp đa phương tiện: trƣớc đây,
ngƣời làm truyền hình chỉ tác nghiệp theo quy trình sản xuất cho truyền hình,
phục vụ tiêu chí chỉ cho truyền hình, nhƣng trong môi trƣờng đa phƣơng tiện,
ngƣời đó còn phải đáp ứng đƣợc kỹ năng của một phóng viên phát thanh, báo
in, báo mạng điện tử... đồng thời sử dụng thành thạo thiết bị kỹ thuật dùng để
sản xuất cho từng loại hình báo chí.
Nói tóm lại, những góc độ truyền thông đa phƣơng tiện trong sản xuất
chƣơng trình truyền hình mà chúng tôi vừa nêu sẽ làm cơ sở để tác giả khảo
sát phƣơng thức sản xuất chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV dƣới góc độ
truyền thông đa phƣơng tiện trong Chƣơng 2.
1.2.3. Thế mạnh của chương trình truyền hình được sản xuất dưới góc độ
truyền thông đa phương tiện
1.2.3.1. Đối với cơ quan báo chí truyền hình
Rõ ràng, việc sản xuất chƣơng trình truyền hình dựa trên nền tảng đa
phƣơng tiện sẽ giúp cơ quan báo chí - truyền thông có thêm nhiều lợi thế
trong việc đáp ứng những nhu cầu phức tạp và đa dạng của công chúng. Hoạt
động báo chí, truyền thông ngày nay không chỉ đơn thuần là cung cấp thông
tin, các loại hình giải trí mà đòi hỏi sự trực quan và tƣơng tác cao. Nhờ công
nghệ, họ có thể có đƣợc những sản phẩm sáng tạo thỏa mãn xã hội ở những
21
khu vực khác nhau nhất một cách nhanh chóng, kịp thời và thuận tiện nhất,
đồng thời đảm bảo đƣợc sự đa dạng của thông tin.
Không chỉ có vậy, cơ quan báo chí truyền hình còn có thể tiết kiệm đƣợc
chi phí dùng để chi trả cho nhân lực, kinh phí sản xuất, đồng thời giảm đƣợc
thời gian thực hiện chƣơng trình truyền hình.
Một thuận lợi nữa của việc sản xuất chƣơng trình truyền hình đa phƣơng
tiện là khả năng thu hút đƣợc nhiều đối tƣợng công chúng. Càng có nhiều loại
hình truyền thông đại chúng, cơ quan báo chí đó càng “tận dụng” đƣợc lƣợng
độc giả của báo mạng, báo in hay thính giả của phát thanh... theo dõi sản
phẩm truyền hình của mình.
Nhờ có đa phƣơng tiện, thƣơng hiệu của cơ quan báo chí truyền hình
cũng đƣợc mở rộng hơn thông qua việc quảng bá dƣới nhiều hình thức khác
nhau. Một ngƣời là độc giả báo mạng của một cơ quan báo chí đa phƣơng tiện
cũng đồng thời có thể trở thành khán giả của chƣơng trình truyền hình đƣợc
phát trên tờ báo điện tử của cơ quan đó.
1.2.3.2. Đối với người làm truyền hình
Sự phát triển của truyền hình đƣợc sản xuất theo phƣơng thức đa phƣơng
tiện chắc chắn sẽ vừa đặt ra yêu cầu, vừa tạo ra cơ hội cho ngƣời làm truyền
hình thỏa sức sáng tạo. Họ đƣợc làm việc trong môi trƣờng năng động hơn,
đồng thời bản thân họ cũng phải rèn luyện thêm nhiều kỹ năng khác ngoài
chuyên môn gốc của mình để có thể đáp ứng đƣợc nhu cầu công việc.
Ngoài ra, ngƣời làm truyền hình cũng có cơ hội đƣợc tiếp cận với nhiều
nguồn thông tin dƣới nhiều hình thức khác nhau hơn. So với truyền thống, đội
ngũ phóng viên, biên tập viên truyền hình sẽ phải chờ thông tin đƣợc khai thác
đầy đủ về cả âm thanh lẫn hình ảnh (video) rồi thực hiện khâu hậu kỳ mới có
thể cho ra sản phẩm hoàn chỉnh đƣợc thì nay, họ hoàn toàn có thể nắm đƣợc
22
thông tin chính xác từ rất sớm thông qua phát thanh, báo mạng điện tử... và tiến
hành xử lý thông tin, phát sóng luôn chứ không cần chờ đợi hình ảnh nữa.
1.2.3.3. Đối với công chúng
Thời đại của truyền hình đa phƣơng tiện giúp cho thị hiếu của công
chúng đƣợc thỏa mãn hơn bao giờ hết. Họ rất dễ dàng và thuận lợi trong việc
tiếp cận với sản phẩm truyền thông. Nếu không thể xem đƣợc truyền hình
ngay lúc cần, họ có thể mua báo in, hoặc lên mạng Internet để theo dõi cả văn
bản text lẫn xem sản phẩm truyền hình đang đƣợc phát trực tuyến. Hoặc nếu
bận không theo dõi đƣợc đúng lúc sản phẩm truyền hình lên sóng, họ vẫn có
thể xem lại chƣơng trình đó sau nếu cơ quan báo chí - truyền thông có dịch vụ
đăng tải file chƣơng trình lên mạng Internet qua website.
Hơn nữa, công chúng không còn phải “chịu đựng” tính thoảng qua của
truyền hình mà họ còn có thể đọc thông tin thông qua dòng tin chạy (hay còn
gọi là “tin text”) trên màn hình vô tuyến. Nhờ đó, khả năng lƣu giữ thông tin
của họ đƣợc tăng lên, thông điệp của nhà truyền hình muốn gửi tới khán giả
của mình cũng đƣợc chuyển tải trọn vẹn hơn.
Tuy nhiên, việc sản xuất chƣơng trình truyền hình đa phƣơng tiện cũng
có những mặt hạn chế. Bản thân những hạn chế này nằm ngay trong chính sự
phát triển những kỹ năng tổng hợp để đáp ứng đòi hỏi của mô hình hoạt động
đa phƣơng tiện. Đó chính là sự mâu thuẫn giữa việc mở rộng các khả năng
hoạt động của con ngƣời và những đòi hỏi chính đáng đối với sự phát triển
chiều sâu trí tuệ cần thiết trong từng khả năng của nó.
Có nhà tƣ tƣởng từng phát biểu rằng: đối với bản thân con ngƣời, với tƣ
cách một sinh thể theo quy luật tự nhiên thì mỗi bƣớc tiến về văn minh là một
bƣớc thụt lùi về năng lực. Sự ra đời của phƣơng tiện kỹ thuật đã thay thế cơ
bản các hoạt động con ngƣời từ lao động cơ bắp đến năng lực giác quan hay
trí não, Máy móc làm con ngƣời lƣời đi và phụ thuộc vào nó. Dù khả năng
23
con ngƣời nói chung đƣợc coi là vô hạn thì trong từng phạm vi mỗi cá nhân
nó lại là hữu hạn.
Công nghệ có thể giúp cá nhân thích ứng và mở rộng các kỹ năng trong
những điều kiện nhất định, song cũng vì thế, nó rất có nguy cơ làm thui chột
các năng lực tự nhiên ở con ngƣời. Đáng lẽ một nhà báo có thể trở thành một
phóng viên truyền hình với những phóng sự sắc sảo và chỉ cần nhƣ thế là đủ,
thì trong môi trƣờng đa phƣơng tiện, anh ta lại phải “phân thân” ra làm những
công việc của loại hình khác: phải biết chụp ảnh, sử dụng máy ghi âm, biết
viết cho báo in, báo mạng, phát thanh... chứ không chỉ truyền hình - một sự
phát triển năng lực thiếu chiều sâu. Cái xu thế chung mà mọi sản phẩm phục
vụ đời sống đều phải thỏa mãn đƣợc đòi hỏi “nhanh, nhiều, tốt, rẻ” cuốn theo
nhiều giá trị mà đôi khi đồng tiền khó mà đo đếm đƣợc.
1.2.4. Một số yêu cầu để tổ chức sản xuất thành công chương trình truyền
hình dưới góc độ truyền thông đa phương tiện
Trong xu thế phát triển mạnh mẽ của truyền thông đa phƣơng tiện, nhiều
mặt vốn dĩ tồn tại lâu nay trong đời sống truyền thông - báo chí truyền thống
dù tốt, dù hay đến mấy cũng phải dần nhƣờng chỗ cho những cái mới lạ, hợp
thời. Vấn đề đặt ra cho sự phát triển của truyền thông là đào tạo đội ngũ
phóng viên trẻ có khả năng thích nghi với Multimedia ngay từ bây giờ để kịp
thời nâng cao chất lƣợng truyền thông đa phƣơng tiện trên Internet. Đào tạo
phóng viên chuyên nghiệp, thành thạo trong tác nghiệp với các phƣơng tiện
nhƣ máy ảnh số, máy quay số, công nghệ mạng, dựng phim… là điều quan
trọng có ý nghĩa thiết thực hiện nay.
Để làm đƣợc việc này cần sự thay đổi to lớn về hầu nhƣ mọi mặt của cả
cơ quan báo chí lẫn đội ngũ những ngƣời làm truyền hình, cụ thể nhƣ sau:
24
1.2.4.1. Đối với cơ quan báo chí, cụ thể với cơ quan báo hình
Để mô hình hiện đại này thành công rất cần những tƣ duy đột phá của
các nhà quản lý các toà soạn báo nói chung và truyền hình nói riêng. Trƣớc
hết các tổng biên tập phải là ngƣời đầu tiên có tƣ duy “tích hợp”, nhận thấy
đƣợc rõ ràng những lợi ích mà toà soạn tích hợp, đa phƣơng tiện mang lại, bắt
đầu bằng cách sắp xếp lại bộ máy sao cho mối quan hệ đa chiều và tính tƣơng
tác giữa các bộ phận, phóng viên trong tòa soạn đảm bảo linh hoạt, rõ ràng.
Cần thiết phải có đào tạo và chọn lựa phóng viên thích hợp với tác nghiệp đa
phƣơng tiện.
Hơn nữa, cần nhận thức rằng việc đầu tƣ cơ sở vật chất về thiết bị kỹ
thuật cần thiết cho sản xuất chƣơng trình truyền hình đa phƣơng tiện, bố trí
phòng ban phù hợp với nhu cầu công việc... là một trong những yêu cầu trọng
yếu hàng đầu. Các tòa soạn cần có không gian rộng để tổ chức văn phòng
theo mô hình hội tụ; phải đƣợc trang bị các phƣơng tiện kỹ thuật hiện đại cho
các phóng viên (thiết bị di động, truyền phát các gói tin, các thiết bị phục vụ
tác nghiệp hiện trƣờng nhƣ máy tính, máy quay…), tại trung tâm xử lý thông
tin đòi hỏi phải có hệ thống quản lý nội dung dựa trên nền tảng của web, đảm
bảo tin bài có thể đƣợc khai thác bằng tất cả các thiết bị có thể và đƣợc truyền
tải đến nhiều loại hình báo chí. Chỉ có xây dựng đƣợc một nền tảng kỹ thuật
vững chắc mới tạo cơ sở cho sự phát triển sau này.
Những lợi ích từ những việc làm trên mang lại không chỉ giúp tối ƣu
hóa bộ máy, nâng cao chất lƣợng thông tin nhanh nhạy mà còn mang về
nguồn lợi kinh tế. Ngoài ra, xây dựng tòa soạn đa phƣơng tiện cũng là cách
tận dụng các công cụ mạng xã hội để nghiên cứu, thu thập tin tức, sản xuất và
phổ biến tin tức. Từ đó, báo in, phát thanh, truyền hình, báo điện tử hay báo
chí trên các thiết bị di động sẽ có sự tƣơng hỗ quảng bá lẫn nhau.
25
Đối với khán giả, cơ quan báo hình cần chú trọng đến công tác điều tra xã
hội học các đối tƣợng công chúng để nắm bắt đƣợc nhu cầu, thị hiếu của họ về
chƣơng trình truyền hình đa phƣơng tiện. Việc làm này phải đƣợc tiến hành
thƣờng xuyên, kết quả thu thập về phải đƣợc nhanh chóng xử lý thành các nhận
định nắm bắt về xu hƣớng phát triển trong thị hiếu của công chúng, bởi nhu cầu
của họ là cái thay đổi hàng ngày; cơ quan báo chí - truyền thông nào đáp ứng
càng nhanh nhạy lại càng tạo cho mình đƣợc lợi thế thu hút công chúng.
1.2.4.2. Đối với nhà báo truyền hình
Để có đƣợc kỹ năng sản xuất chƣơng trình truyền hình đa phƣơng tiện,
ngƣời làm truyền hình phải đƣợc đào tạo để có thể ứng dụng, làm chủ các
thiết bị công nghệ mới, đặc biệt là các thiết bị di động và thiết bị cầm tay (ghi
âm, quay phim, xử lý kỹ thuật cơ bản, truyền phát dữ liệu….). Trong công
việc, phóng viên cũng đƣợc đòi hỏi vừa linh hoạt, sáng tạo, song phải phát
huy tối đa tinh thần cộng tác, làm việc theo nhóm, có sự nhạy bén để xử lý
thông tin từ nhiều nguồn khác nhau để đƣa vào chƣơng trình.
1.2.4.3. Đối với công chúng
Sự thành bại của bất cứ sản phẩm truyền thông nào cũng đƣợc đánh giá
từ khả năng tiếp nhận và hiệu quả từ phía công chúng. Để đƣợc đáp ứng tốt
hơn nhu cầu thông tin của mình, công chúng trong thời đại truyền thông đa
phƣơng tiện nói chung, khán giả truyền hình nói riêng cần tăng cƣờng gửi góp
ý, phản hồi về chất lƣợng chƣơng trình mà cơ quan báo chí - truyền thông sản
xuất; đƣa ra những yêu cầu, mong muốn, nguyện vọng để cơ quan đó lấy làm
cơ sở hình thành những thay đổi trong sản xuất chƣơng trình, phục vụ tốt hơn
nhu cầu công chúng.
26
*Tiểu kết chương 1
Với xu thế hình thành những cơ quan báo chí đa phƣơng tiện dựa trên
nền tảng Multimedia hoạt động trên môi trƣờng Internet, mỗi cơ quan báo chí
muốn tồn tại và phát triển đều cần phải dựa trên nền tảng phát triển này, đặc
biệt là với truyền hình - một loại hình báo chí tuy không mới mẻ, lạ lẫm
nhƣng vẫn có sức cuốn hút rất lớn đối với công chúng tại Việt Nam. Vấn đề
đặt ra là làm thế nào để biến xu thế đa phƣơng tiện - Multimedia trở thành
công cụ đắc lực, là đòn bẩy để tạo nên những sản phẩm truyền hình độc đáo,
sáng tạo nhƣng vẫn đảm bảo tôn chỉ, mục đích và phong cách mà cơ quan báo
chí - truyền thông đã, đang và sẽ xây dựng. Nắm bắt đƣợc xu thế này không
những sẽ tạo ra hiệu quả cao trong truyền thông mà còn tạo ra đƣợc những giá
trị kinh tế.
Trên tinh thần đó, trong Chƣơng 1 của Luận văn, ngoài việc trình bày hệ
thuật ngữ có liên quan đến truyền thông đa phƣơng tiện nhƣ: đa phƣơng tiện,
truyền thông đa phƣơng tiện, các cấp độ của truyền thông đa phƣơng tiện, tác
giả còn trình bày hệ thống quan niệm liên quan đến phƣơng thức sản xuất
chƣơng trình truyền hình dƣới góc độ truyền thông đa phƣơng tiện. Theo
chúng tôi, có 6 biểu hiện của một chƣơng trình truyền hình đƣợc sản xuất
dƣới góc độ đa phƣơng tiện. Đó là:
- Đa phƣơng tiện trong khai thác tƣ liệu để xây dựng nội dung truyền thông
- Đa phƣơng tiện trong khâu biên tập nội dung
- Đa phƣơng tiện trong sử dụng đồng thời các phƣơng tiện ngôn ngữ
chuyển tải thông tin
- Đa phƣơng tiện trong khâu truyền phát các chƣơng trình truyền hình
- Cách thức tƣơng tác đa phƣơng tiện với công chúng
- Đội ngũ nhân lực có khả năng tác nghiệp đa phƣơng tiện.
27
Ngoài ra, trong Chƣơng 1, chúng tôi cũng trình bày thế mạnh của
chƣơng trình truyền hình sản xuất dƣới góc độ đa phƣơng tiện, những yêu cầu
đặt ra để có thể tổ chức sản xuất thành công chƣơng trình truyền hình dƣới
góc độ đa phƣơng tiện.
Đây sẽ là những kiến thức lý thuyết cơ bản giúp chúng tôi có cơ sở để
khảo sát, phân tích, đánh giá một cách cụ thể về phƣơng thức sản xuất chƣơng
trình truyền hình Thời sự VOVTV – Đài Tiếng nói Việt Nam dƣới góc độ
truyền thông đa phƣơng tiện ở Chƣơng 2.
28
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG SẢN XUẤT CHƢƠNG TRÌNH THỜI SỰ
TRÊN KÊNH VOVTV DƢỚI GÓC ĐỘ ĐA PHƢƠNG TIỆN
2.1. Tổng quan về Chƣơng trình Thời sự kênh VOVTV - Đài Tiếng nói
Việt Nam
2.1.1. Đôi nét về kênh VOVTV
Kênh Truyền hình VOVTV chính thức lên sóng đến với khán giả truyền
hình cả nƣớc vào đúng dịp kỷ niệm 63 năm thành lập Đài TNVN, vào ngày
7/9/2008. Cùng với việc ra đời kênh truyền hình VOVTV, Đài TNVN đã
đánh dấu một bƣớc tiến mới trong lĩnh vực truyền thông, trở thành cơ quan
báo chí hội tụ đủ 4 loại hình báo chí đa phƣơng tiện gồm: Phát thanh, truyền
hình, báo mạng điện tử, báo in.
Kênh Truyền hình VOVTV là đơn vị báo chí thuộc Đài TNVN, hoạt
động theo tôn chỉ và mục đích của Đài TNVN, với định hƣớng là Kênh truyền
hình Thời sự - Chính trị - Tổng hợp. Với nền tảng và bề dày phát triển của
Đài TNVN, VOVTV luôn xác định thông tin kịp thời, chính xác các chủ
trƣơng, đƣờng lối chính sách của Đảng và Nhà nƣớc; tin tức thời sự cập nhật
liên tục sẽ làm nên sức sống và đảm bảo cho khán giả luôn có thông tin mới
mỗi khi lựa chọn VOVTV.
Kênh Truyền hình VOVTV với sứ mệnh cùng với các loại hình truyền
thông khác của Đài TNVN, tạo nên một sức mạnh chung. Qua 3 năm phát
sóng, VOVTV đã có một vị trí nhất định đối với khán giả xem truyền hình tại
Việt Nam và lƣợng khán giả trung thành với các chƣơng trình của VOVTV
không ngừng tăng lên.
Với sự cố gắng của đội ngũ phóng viên, biên tập viên cùng sự chỉ đạo và
quan tâm của Lãnh đạo Đài TNVN, Kênh Truyền hình VOVTV không ngừng
chuyển mình, từng bƣớc đổi mới công nghệ phát sóng và nội dung các
29
chƣơng trình để ngày càng thu hút khán giả. Từ những ngày đầu phát sóng
thử nghiệm 3 tiếng một ngày, đến nay VOVTV đang phát sóng 19 tiếng mỗi
ngày, từ 5h sáng đến 24h đêm, với các chƣơng trình thời sự, nội chính,
chuyên đề, văn nghệ…
Đồng thời, qua 3 năm phát sóng, VOVTV liên tục mở rộng diện phủ
sóng, hiện tại VOVTV đã phủ sóng toàn quốc trên hệ thống truyền hình Cáp
Việt Nam VCTV, hệ thống truyền hình kỹ thuật số VTC, truyền hình Analog,
truyền hình internet IPTV, truyền hình di động Mobile TV, đặc biệt ngày
28/02/2011 VOVTV đƣợc phát sóng trực tuyến trên internet thông qua trang
website của báo mạng điện tử VOV Online.
Phát huy sức mạnh của một cơ quan truyền thông đa phƣơng tiện, Kênh
Truyền hình VOVTV liên kết sản xuất và chia sẻ thông tin với các đơn vị
trong Đài TNVN nhƣ Trung tâm tin, Hệ VOV1, Hệ VOV2, Hệ VOV3, Hệ
VOV4, Hệ VOV5 và Báo Tiếng nói Việt Nam, Báo Điện tử VOV Online,
nhằm đa dạng hóa các chƣơng trình phát sóng. Một số chƣơng trình VOVTV
đã và đang tạo đƣợc chỗ đứng trong lòng khán giả xem truyền hình nhƣ:
Chƣơng trình Thời sự, các chƣơng trình bản tin hàng ngày, chƣơng trình
Chính phủ với ngƣời dân, chƣơng trình Quốc hội với cử tri, chƣơng trình
chuyên đề Sống để yêu thƣơng, Các vấn đề xã hội, Xây dựng nông thông
mới; chƣơng trình văn nghệ có Nghệ thuật & Cuộc sống, Nghệ sĩ phía sau
thành công…
Kể từ đầu năm 2012, VOVTV bổ sung thêm một số chƣơng trình mới,
bên cạnh những chƣơng trình đã quen thuộc với khán giả của VOVTV nhƣ:
Chƣơng trình Nƣớc non ngàn dặm, Chuyển động thể thao, Nhìn ra thế giới,
Vóc dáng khỏe đẹp, Trƣớc giờ bóng lăn, Sức sống âm nhạc, Thƣởng thức
nghệ thuật… Ngoài những chƣơng trình mang tính tổng hợp và giải trí,
VOVTV còn hƣớng tới những chƣơng trình mang tính thời sự, bình luận
30
chuyên sâu nhƣ: Chƣơng trình thời sự tổng hợp điểm các sự kiện trong nƣớc
nổi bật, chƣơng trình Thế giới tuần qua, chƣơng trình Góc nhìn thẳng.
Với tầm nhìn trở thành một kênh truyền thông mũi nhọn trong hệ thống
đa phƣơng tiện của Đài TNVN, Kênh Truyền hình VOVTV đang từng ngày,
từng giờ đổi mới nội dung truyền tải tới khán giả truyền hình, phục vụ ngày
càng tốt hơn nhu cầu của mọi tầng lớp công chúng khán giả.
2.1.2. Về Chương trình Thời sự VOVTV
2.1.2.1. Thời điểm ra đời
Ra đời cùng với sự hình thành và phát triển của kênh VOVTV
(7/9/2008), với định hƣớng là một kênh truyền hình chuyên về mảng Thời sự
- Chính trị - Tổng hợp, Chƣơng trình Thời sự có vị trí, vai trò rất quan trọng
trong hệ thống các chƣơng trình của kênh ngay từ khi mới ra đời.
Hiện nay, Chƣơng trình Thời sự trên kênh VOVTV đƣợc phát sóng ở 4
khung giờ: 06h (thời lƣợng 30 phút), 11h30 (30 phút), 18h (45 phút) và 22h30
(45 phút). Với các khung giờ chƣơng trình đƣợc bố trí nhƣ vậy đảm bảo cho
Chƣơng trình Thời sự của VOVTV luôn đƣa tin đƣợc sớm nhất, nhanh nhất
so với các kênh truyền hình chuyên về Thời sự - Chính trị - Tổng hợp của các
cơ quan, báo đài khác.
Ngoài mảng nội dung tất yếu là những thông tin đƣợc sản xuất dƣới
nhiều thể loại phong phú, đa dạng về tất cả các mặt của đời sống chính trị,
kinh tế, xã hội… trong nƣớc và quốc tế, Chƣơng trình Thời sự trên kênh
VOVTV còn chú trọng đến việc thông tin nhanh nhạy và sâu sắc những hoạt
động của Đài Tiếng nói Việt Nam nói chung cũng nhƣ các đơn vị khác trực
thuộc Đài nói riêng; giữ vai trò là kênh quảng bá chéo hiệu quả những chƣơng
trình, ấn phẩm… của các đơn vị sản xuất nội dung khác trong Đài.
31
Chính vì vai trò nhƣ vậy, Chƣơng trình Thời sự trên kênh VOVTV luôn
giữ đƣợc vị trí trọng tâm nhất, đƣợc ban lãnh đạo quan tâm nhất và đƣợc đầu
tƣ nhiều nhất cả về nhân lực, vật lực để sản xuất.
2.1.2.2. Quy trình tổ chức sản xuất Chương trình thời sự của kênh VOVTV
Thông thƣờng, một quy trình sản xuất chƣơng trình tin tức thời sự bắt
đầu bằng một cuộc họp nhóm sản xuất để Tổ chức sản xuất chung giao đề tài
cho PV, BTV sản xuất và ngƣợc lại: PV, BTV đề xuất đề tài lên TCSX; hoặc
rộng hơn là cuộc họp có TCSXC và các TCSX chuyên mục cộng với PV,
BTV (và một số chức danh khác nếu cần thiết) để TCSXC có thể nắm đƣợc
dự kiến sản xuất của PV, BTV mà TCSX chuyên mục báo cáo...
Tuy nhiên, quy trình sản xuất Chƣơng trình Thời sự tại kênh VOVTV lại
khác: không có cuộc họp triển khai nội dung trƣớc khi bắt tay vào sản xuất
chƣơng trình; thay vào đó, TCSXC là ngƣời giữ vai trò nắm dự kiến tin bài
của các TCSX chuyên mục, cộng với nguồn tin bài từ các đơn vị CTV (nhƣ:
cơ quan thƣờng trú, các kênh truyền hình khác, các Đài truyền hình địa
phƣơng, thông tin từ báo in, báo mạng điện tử chính thống v.v…), từ đó quyết
định Chƣơng trình Thời sự hôm đó sẽ phát những tin bài nào, theo thứ tự nhƣ
thế nào. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau trong quy trình
sản xuất Thời sự của kênh VOVTV với nhiều đơn vị thuộc các cơ quan khác
là do Chƣơng trình Thời sự VOVTV đƣợc sản xuất theo hình thức “đóng
gói”: thu sẵn, phát sau chứ không phải là chƣơng trình phát sóng trực tiếp.
Có thể hình dung quy trình sản xuất Chƣơng trình Thời sự trên kênh
VOVTV qua 2 khâu liên tiếp nhau nhƣ sau:
32
PHÒNG
PHÒNG
PHÒNG
PHÒNG
TIN
TIN
CHUYÊN
TIN
CHÍNH TRỊ
TRONG NƢỚC
ĐỀ
QUỐC TẾ
BIÊN TẬP
PHÒNG
PHÒNG
NỘI DUNG
VĂN
KINH TẾ
(BTND)
NGHỆ
XÃ HỘI
CÁC ĐƠN VỊ
TỔ CHỨC SẢN
CỘNG TÁC
XUẤT CHUNG
VIÊN
(TCSXC)
NGUỒN TIN, BÀI KHAI THÁC
CHỊU TRÁCH NHIỆM
SẢN XUẤT
(CTNSX)
BIÊN TẬP
DỰNG HÌNH
(BTDH)
Hình 2.1a. Khâu 1: Biên tập và dựng tin, bài
33
Trong quy trình này, bƣớc đầu tiên chính là quá trình bàn giao nội dung
tin, bài mà trƣớc hết là văn bản text của các phòng nội dung (đã đƣợc Tổ chức
sản xuất (TCSX) của các phòng nội dung và Lãnh đạo kênh – Chịu trách
nhiệm sản xuất - duyệt) và các đơn vị CTV (Bao gồm các cơ quan thƣờng trú
của Đài và các kênh truyền hình thuộc cơ quan, đơn vị khác; Đài truyền hình
địa phƣơng) cho Biên tập nội dung (BTND) của Nhóm Thời sự. Nội dung tin,
bài thƣờng đƣợc gửi qua email, đƣờng truyền FTP hoặc nộp văn bản trực tiếp.
Sau khi nhận đƣợc văn bản text này, BTND sẽ giao cho Biên tập dựng
hình (BTDH) cùng với file video của các tin, bài này để tiến hành dựng hình.
Riêng đối với các tin, bài của các đơn vị CTV; tin, bài khai thác (từ Internet,
các tờ báo khác…), BTND có quyền biên tập lại cho phù hợp với tiêu chí của
Kênh VOVTV cũng nhƣ thời lƣợng cho phép trƣớc khi trình Tổ chức sản xuất
chung (TCSXC) và Lãnh đạo kênh duyệt.
Sau Quy trình 1, các tin bài sẽ đƣợc tổng hợp thành Kịch bản chƣơng
trình (hay còn đƣợc gọi là Vỏ kịch bản) để TCSXC và CTNSX ký duyệt. Quy
trình này đƣợc thể hiện qua sơ đồ sau:
34
BIÊN TẬP NỘI DUNG
LÊN VỎ
TỔ CHỨC SẢN XUẤT CHUNG
DUYỆT VỎ
CHỊU TRÁCH NHIỆM SẢN XUẤT
KÝ VỎ
BIÊN TẬP NỘI DUNG
SỬA LẠI VỎ LẦN CUỐI
DẪN CHƢƠNG
BIÊN TẬP
TRÌNH
DỰNG HÌNH,
KỸ THUẬT
LÊN HÌNH
DỰNG HÌNH
THƢ KÝ TRƢỜNG QUAY, KỸ THUẬT TRƢỜNG QUAY
TỔ CHỨC SẢN XUẤT CHUNG KIỂM TRA FILE THEO KỊCH BẢN
Hình 2.1b. Khâu 2: Duyệt Vỏ kịch bản
Ở quy trình 2, dƣới sự chỉ đạo và “ý đồ” của TCSXC, BTND thực hiện
lên Vỏ kịch bản. Sau khi hoàn thành, TCSXC sẽ chỉnh sửa và ký duyệt vỏ rồi
trình CTNSX để duyệt vỏ hoàn thiện. BTND sẽ nhận lại vỏ đã duyệt và sửa
lại theo bản đã duyệt nhận từ CTNSX. Sau khi chỉnh sửa hoàn thiện, BTND
có nhiệm vụ gửi cho các thành viên trong ekip thực hiện Chƣơng trình thời sự
mỗi bộ phận 1 bản để phục vụ phát sóng.
35
2.1.2.3. Về mặt nhân lực, tổ chức
Số lƣợng nhân lực phục vụ cho việc sản xuất Chƣơng trình Thời sự kênh
VOVTV khá “khiêm tốn”, với mỗi vị trí, chức danh nhƣ sau:
STT Chức danh Số lƣợng Số lƣợng ngƣời Ghi chú
ngƣời có trong 1 kíp sản
thể đảm xuất
trách
Chịu trách nhiệm 3 ngƣời 1 ngƣời 1.
sản xuất
Tổ chức sản xuất 4 ngƣời 1 ngƣời 2. Có thể kiêm
chung nhiệm vị trí
Biên tập nội
dung; Biên
tập dựng
hình nếu cần
thiết
3. Tổ chức sản xuất 6 ngƣời 1 ngƣời đối với
phần tin quốc tế;
ngoài ra tùy
thuộc vào các
phòng ban nội
dung khác có sản
xuất nội dung
cho chƣơng trình
Thời sự buổi đó
hay không
36
4. Biên tập viên nội 5 ngƣời đối 1 ngƣời đối với Có thể kiêm
dung với phần phần tin trong nhiệm vị trí
tin trong nƣớc; 1 ngƣời Biên tập
nƣớc; 8 đối với phần tin dựng hình
ngƣời đối quốc tế nếu cần thiết
với phần
tin quốc tế
5. Biên tập viên dựng 8 ngƣời đối 2 ngƣời đối với
hình, thƣ ký trƣờng với phần phần tin trong
quay tin trong nƣớc; 2 ngƣời
nƣớc; 8 đối với phần tin
ngƣời đối quốc tế
với phần
tin quốc tế
6. Dẫn chƣơng trình 5 ngƣời 1 ngƣời Có thể kiêm
nhiệm vị trí
Biên tập nội
dung hoặc
Biên tập
dựng hình
nếu cần thiết
7. Kỹ thuật viên dựng 9 ngƣời 3 - 4 ngƣời
hình (kiêm Kỹ
thuật viên đồ họa)
8. Kỹ thuật viên 10 ngƣời 1 ngƣời
trƣờng quay (kiêm
quay phim trƣờng
quay)
9. Kỹ thuật phát sóng 4 ngƣời 1 ngƣời
37
2.1.2.4. Về mặt kỹ thuật
Hệ thống kỹ thuật máy móc thiết bị của VOVTV hiện nay còn một số bất
cập, gây ảnh hƣởng đến tiến độ và chất lƣợng chƣơng trình, đặc biệt là những
chƣơng trình có thời gian phát sóng gấp gáp nhƣ Thời sự.
Điểm hạn chế đầu tiên là hệ thống máy móc phục vụ cho công tác sản
xuất - dựng hình - phát sóng của kênh còn chƣa đồng bộ, dẫn đến thƣờng xảy
ra sự cố treo máy, sai sót, hình ảnh phát sóng không đẹp. Theo anh Nguyễn
Văn Nghị - tổ trƣởng tổ Kỹ thuật trƣờng quay kênh VOVTV: hiện nay công
nghệ quay phim và ghi hình trƣờng quay của kênh đã đạt chuẩn HD; tuy
nhiên hệ thống dựng hình và phát sóng chỉ đáp ứng đƣợc tiêu chuẩn SD,
nghĩa là dù hình quay và phần ghi hình có đạt chuẩn HD đi chăng nữa thì lúc
trải qua khâu dựng hình và phát sóng, các file hình này sẽ bị “nén” xuống
chuẩn SD, gây nên tình trạng “đầu voi đuôi chuột”: hình ảnh lên sóng không
đẹp, không sắc nét, màu sắc không chuẩn.
Hơn nữa, một số máy móc phục vụ công tác dựng hình có cấu hình trung
bình, nếu cƣờng độ làm việc nhiều và liên tục dễ dẫn đến hiện tƣợng xử lý
thao tác chậm, treo máy… , nhiều khi còn gây ảnh hƣởng đến tiến độ dựng
hình cho Chƣơng trình Thời sự. Đã có một số trƣờng hợp vì máy dựng gặp sự
cố nên file hình không thể hoàn thành kịp thời gian phát sóng.
Trong khi đó, một số máy quay phim (camera) của kênh sau một quá
trình sử dụng lâu dài đã bắt đầu xuống cấp, chất lƣợng kém, nhƣng lại chậm
đƣợc bảo trì, khắc phục. Điều này gây ảnh hƣởng không nhỏ đến chất lƣợng
hình ảnh, đặc biệt là hình ảnh của những chƣơng trình cần sử dụng nhiều
camera một lúc cho các cỡ cảnh cố định khác nhau (chẳng hạn nhƣ các
chƣơng trình tọa đàm, trao đổi tại trƣờng quay; Chƣơng trình Thời sự; các
chƣơng trình truyền hình trực tiếp…).
38
2.2. Tính đa phƣơng tiện trong phƣơng thức sản xuất Chƣơng trình Thời
sự của kênh VOVTV
2.2.1. Đa phương tiện trong khai thác chất liệu nội dung cho VOVTV
Hiện Đài TNVN đang vận hành rất hiệu quả mô hình Trung tâm tin -
một cổng thông tin điện tử có vai trò sản xuất, phân phối và lƣu trữ thông tin
cho toàn bộ hệ thống sản xuất tin tức của Đài. Trung tâm tin có đƣờng link
riêng trên Internet, các đơn vị khác đƣợc cấp quyền truy cập hoàn toàn có thể
vào khai thác tin bài, âm thanh mà Trung tâm tin sản xuất. Mặc dù các tin bài
mà bộ phận này sản xuất đều mang đặc trƣng của phát thanh, nhƣng các bộ
phận khác (báo in, báo mạng điện tử, kênh truyền hình) đều có thể khai thác
và biên tập lại cho phù hợp với loại hình của mình để đăng tải hoặc phát sóng.
Hình 2.2. Giao diện Cổng thông tin điện tử VOV - Trung tâm tin [11]
Trung tâm tin cũng là nguồn thông tin phong phú mà kênh VOVTV
thƣờng xuyên sử dụng cho Chƣơng trình Thời sự. Nội dung mà Trung tâm tin
sản xuất bao gồm tất cả các lĩnh vực trong đời sống, từ chính trị, kinh tế đến
văn hóa, xã hội; từ thành thị đến nông thôn, vùng sâu, vùng xa; từ dân cƣ ở
các khu vực phát triển, hiện đại đến đồng bào dân tộc thiểu số; từ các vấn đề
39
trong nƣớc đến các vấn đề khu vực và thế giới; bao hàm tất cả các thể loại báo
chí, từ tin, phản ánh, phóng sự đến bình luận v.v... Chính vì tiêu chí sản xuất
tin tức tổng hợp nhƣ vậy nên Trung tâm tin đã thực sự trở thành một “ngân
hàng” tin tức hoạt động hiệu quả, đƣợc tất cả các đơn vị sản xuất nội dung của
Đài TNVN sử dụng triệt để.
Nhƣ vậy, không chỉ sử dụng tin, bài do phóng viên của kênh sản xuất,
VOVTV còn tận dụng tối đa tiềm năng, lợi thế sẵn có của “ngân hàng tin tức”
của Đài TNVN, đáp ứng nhu cầu thông tin đa chiều, phong phú cần có của
một chƣơng trình tin tức thời sự.
Ngoài ra, các cơ quan thƣờng trú của Đài TNVN cũng đƣợc giao nhiệm
vụ đảm bảo sản xuất tin, bài cho cả các kênh phát thanh lẫn truyền hình, đặc
biệt là tin, bài cung cấp cho Chƣơng trình Thời sự VOVTV.
Theo thống kê từ tháng 6/2013 - 06/2014, Chƣơng trình Thời sự của
kênh VOVTV sử dụng đến 9.300 tin, bài khai thác từ Trung tâm tin và các cơ
quan thƣờng trú trong và ngoài nƣớc (trong tổng số hơn 19.000 tin, bài của 1.580 chƣơng trình), chiếm tỷ lệ 48,9% [Phụ lục 1]. Đây là một con số không nhỏ, chứng tỏ công tác sản xuất tin tức đa phƣơng tiện, tại Đài TNVN rất
đƣợc coi trọng, phát huy.
2.2.2. Cách thức biên tập tin, bài phục vụ sản xuất Chương trình Thời sự
của kênh VOVTV
2.2.2.1. Biên tập tít (title)
Đối với tin tức trên báo in, báo mạng điện tử, phần tít thƣờng bao gồm tít
chính và các tít phụ (nếu có). Phần tít (title) thƣờng bao gồm các bộ phận: chủ
ngữ - động từ - bổ ngữ hoặc câu không động từ; nhiều khi có thể là những câu
trích dẫn lời nói của một cá nhân v.v… Title trên báo in, báo mạng thƣờng đa
dạng, phong phú hơn rất nhiều so với các loại hình báo chí khác, thậm chí độc
giả chỉ cần liếc qua cũng có thể nắm đƣợc nội dung của bài viết.
40
Trong khi đó, title trên truyền hình, đặc biệt là title của các chƣơng trình
tin tức, thời sự, chính luận lại khuôn mẫu, “khô khan” và chung chung hơn.
Đa số title sử dụng cho tin tức truyền hình đƣợc đặt theo khuôn mẫu: chủ ngữ
- động từ - bổ ngữ (Ví dụ: “Phát biểu của Thủ tướng tại Hội nghị Bộ trưởng Y
tế ASEAN”, “Việt Nam đặt mục tiêu cụ thể ứng phó với biến đổi khí hậu”);
địa danh/địa điểm: chủ ngữ - động từ; Vấn đề: chủ ngữ - động từ (Ví dụ: “Nứt
cao tốc Hà Nội - Lào Cai: Chủ đầu tư phải xác định rõ nguyên nhân”; “Phát
triển công nghiệp hỗ trợ: Chính sách phải “thoáng”).
Do đó, khi biên tập title của các tin, bài khai thác từ báo in, báo mạng,
các biên tập viên Chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV phải bỏ bớt các tít
phụ, đồng thời chỉnh sửa tít chính cho phù hợp với tiêu chí của chƣơng trình.
Đối với những tin, bài đƣợc sản xuất cho truyền hình từ các đơn vị báo
đài địa phƣơng, việc biên tập title cũng luôn đƣợc chú ý. Các địa phƣơng
thƣờng không đề cập đến tên địa danh, tên tỉnh/thành phố trong tít, vì vậy khi
biên tập lại, các Biên tập viên VOVTV thƣờng xuyên phải chú ý điều chỉnh,
thêm địa danh, địa điểm vào để khán giả cả nƣớc có thể theo dõi.
Bên cạnh đó, những tin bài đƣợc các đơn vị thƣờng trú của Đài TNVN
sản xuất thƣờng không có title kèm theo do đặc trƣng của phát thanh ít khi giới
thiệu tên tin, bài trƣớc khi phát. Vì vậy, trong những trƣờng hợp này, TCSX
Chƣơng trình Thời sự phải viết thêm title cho tin, bài đó. Chẳng hạn, một
phóng sự có nội dung về xây dựng nhà ở thu nhập thấp cho ngƣời dân và lao
động nhập cƣ tại Bình Dƣơng (năm 2013) đƣợc gửi cho kênh VOVTV phát
sóng trong Chƣơng trình Thời sự nhƣng không có title. Do đó, TCSXC của
chƣơng trình hôm đó phải biên tập thêm vào phóng sự đó title có nội dung:
“Bình Dương cung cấp 4.500 căn hộ cho người thu nhập thấp”. [Phụ lục 4].
Một số những tin, bài khác có title không phù hợp với nội dung, thể loại
cũng đƣợc biên tập lại. Chẳng hạn, trong phóng sự đề cập đến bốn cá nhân tại
41
TP. Hồ Chí Minh đƣợc Bộ Ngoại giao tặng bằng khen vì đã hiến tặng tài liệu
phục vụ công tác bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam đối với 2 quần đảo
Hoàng Sa và Trƣờng Sa, phóng viên đặt title là “TP. Hồ Chí Minh trao tặng
bằng khen cho các cá nhân hiến tặng tài liệu phục vụ công tác bảo vệ chủ quyền
biển đảo”. Đây là title đặc trƣng của thể loại tin chứ không phải phóng sự, do
đó, TCSXC Chƣơng trình Thời sự VOVTV phải sửa lại thành: “TP. Hồ Chí
Minh: Lòng yêu nước từ những tài liệu lịch sử được hiến tặng”. [Phụ lục 6].
2.2.2.2. Biên tập nội dung tin, bài của báo in, báo mạng điện tử
Cũng nhƣ những chƣơng trình tin tức thuộc các kênh truyền hình khác,
Chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV sử dụng một khối lƣợng lớn những
tin tức khai thác trên các tờ báo in, báo mạng điện tử… khác. Tuy nhiên,
những nội dung trên các trang báo này thƣờng dài và chi tiết, cặn kẽ với
những lĩnh vực, con số thống kê cụ thể, chính xác. Với đặc điểm tính hình
tuyến, thoảng qua của phát thanh và truyền hình, ngƣời xem/ngƣời nghe sẽ
khó mà nhớ đƣợc từng con số nếu nhƣ con số đó không đƣợc làm tròn. Do
vậy, quy tắc đầu tiên khi biên tập tin, bài từ các loại hình báo chí khác sang
tin tức truyền hình là phải chú ý quy tròn các con số, thậm chí đƣa ra các so
sánh để khán giả dễ nhớ, dễ hình dung hơn.
Ví dụ: Trong bài tổng hợp “Nhìn lại công tác an toàn giao thông năm
2013” do PV Ngọc Hòa thực hiện có đƣa ra con số: “Theo thống kê, năm
2013, cả nước xảy ra 24.369 vụ TNGT (...)” và đƣợc TCSXC sửa lại thành
“gần 24.500 vụ TNGT”. [Phụ lục 7]
Nguyên tắc tiếp theo khi biên tập tin, bài trên báo in và báo mạng điện
tử, đó là phải ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu. Đối với những tin tức khai thác có
nhiều nội dung, dài dòng, biên tập viên phải rút ngắn bớt nội dung tin, chỉ tập
trung cô đọng vào những thông tin chính nhất, đƣợc quan tâm nhất. Việc đƣa
42
vào quá nhiều nội dung sẽ khiến thông tin bị “loãng”, dàn trải, khó nhớ, khó
theo dõi, gây ức chế tâm lý ngƣời xem.
Ngoài ra, vấn đề sai chính tả cũng luôn đƣợc các biên tập viên Chƣơng
trình Thời sự VOVTV rất quan tâm, chú ý. Đặc biệt, đối với báo mạng điện
tử, việc sai chính tả không phải là chuyện hiếm. Mặc dù những nguồn tin trên
báo mạng điện tử mà kênh VOVTV khai thác cho Chƣơng trình Thời sự là
những nguồn tin chính thống, đảm bảo (chẳng hạn nhƣ: website Chinhphu.vn;
Báo mạng Vietnamnet; VietnamPlus…) nhƣng không có nghĩa rằng hiện
tƣợng sai chính tả hoàn toàn không xảy ra.
2.2.2.3. Biên tập nội dung tin, bài của các cơ quan thường trú
Các cơ quan thƣờng trú thuộc Đài Tiếng nói Việt Nam thƣờng xuyên sản
xuất tin, bài cho các Hệ phát thanh khác thuộc Đài. Do đó, văn phong, phong
cách làm tin, bài khi gửi cộng tác cho kênh VOVTV cũng mang đậm dấu ấn
phát thanh: diễn giải, miêu tả nhiều; nhiều chi tiết đã có hình (video) nhƣng
nội dung text vẫn tiếp tục diễn giải. Một phóng sự truyền hình thƣờng có độ
dài từ 2 – 3 phút, thậm chí ngắn hơn, nhƣng nhiều phóng sự do các cơ quan
thƣờng trú của Đài Tiếng nói Việt Nam sản xuất và gửi cho kênh VOVTV lại
có độ dài hơn 3 phút, thậm chí 4 – 4,5 phút. Do đó, các biên tập viên Chƣơng
trình Thời sự phải cắt gọt ngắn bớt để đảm bảo chất lƣợng của phóng sự đó
cũng nhƣ thời lƣợng toàn bộ chƣơng trình. Chẳng hạn trong phóng sự “Cần
Thơ vươn lên trở thành thành phố trung tâm động lực của vùng ĐBSCL”
[Phụ lục 5], tác giả có nhắc đến thành tựu của Công ty Cổ phần Dƣợc Hậu
Giang và trƣờng Đại học Cần Thơ nhƣ sau:
- “Đây là doanh nghiệp làm nên thương hiệu của thành phố không chỉ
trong nước mà còn trên thế giới. Từ một xí nghiệp bên bờ vực phá sản, năm
1988, Dược Hậu Giang đã bứt phá vươn lên biến thành công ty dược lớn nhất
sàn chứng khoán Việt. Dược Hậu Giang hiện sản xuất và kinh doanh hơn 300
43
loại dược phẩm. Năm qua, công ty đạt doanh thu 140 triệu USD. Lợi nhuận
ròng tăng 18% lên 24 triệu USD.”
- “Theo PGS. TS. Hà Thanh Toàn - Hiệu trưởng trường ĐH. Cần Thơ: 10
năm qua trường ĐH Cần Thơ đã đóng góp tích cực trong nhiều lĩnh vực của
thành phố. Đặc biệt, dự án ký kết hợp tác đào tạo toàn diện nguồn nhân lực
cho thành phố, làm việc trực tiếp với các sở ngành đào tạo nguồn nhân lực, tư
vấn khoa học kỹ thuật công nghệ, làm đầu mối các đơn vị hợp tác quốc tế…”
Đây là 2 đoạn nội dung vừa dài dòng, vừa mang tính chất “PR” cho 2
đơn vị này, làm tăng dung lƣợng của toàn phóng sự một cách không cần thiết.
Đo đó, TCSXC Chƣơng trình Thời sự VOVTV đã cắt bỏ bớt.
Một “dấu ấn” khác của các tác phẩm phát thanh là trƣớc các phỏng vấn
bao giờ cũng có câu: “Ông/Anh/Bạn Nguyễn Văn A. cho biết/nhấn
mạnh/nói…”. Khi dùng cho truyền hình, những dạng câu này luôn đƣợc cắt bỏ.
Ngoài ra, khi biên tập tin, bài từ phát thanh sang truyền hình tại Đài
TNVN thƣờng gặp trƣờng hợp thứ tự và logic hình ảnh quay đƣợc tại hiện
trƣờng không theo nhƣ trình tự diễn biến đƣợc mô tả trong văn bản; nếu để
nguyên theo thứ tự nhƣ văn bản, khi dựng hình rất dễ gặp phải lỗi phi logic về
mặt không gian, thời gian. Chẳng hạn nhƣ từ buổi ngày sang buổi đêm rồi lại
sang buổi ngày; từ trong nhà ra ngoài trời rồi lại vào trong nhà... Trong khi
đó, một tin tức đƣợc phát sóng trên truyền hình luôn phải đảm bảo yếu tố hợp
lý về mặt không gian - thời gian, diễn biến sự việc phải theo một trình tự nhất
định, tạo thành một “câu chuyện” đƣợc kể bằng hình ảnh. Vì vậy, khi gặp
trƣờng hợp này, BTV Chƣơng trình Thời sự VOVTV phải sắp xếp lại bố cục,
cấu trúc văn bản, sửa lại nội dung (nếu cần thiết) để tránh gặp lỗi phi logic khi
dựng hình.
44
2.2.2.4. Biên tập nội dung tin, bài của các đơn vị CTV khác
Những đơn vị CTV hay cung cấp tin bài cho kênh VOVTV gồm có:
VTC, Thông tấn xã Việt Nam, ANTV cùng các Đài Phát thanh – Truyền hình
(PT-TH) địa phƣơng v.v…
Những đơn vị báo chí Trung ƣơng, đặc biệt là các kênh truyền hình của
những đơn vị này đều có chất lƣợng tin, bài khá tốt, đáp ứng tiêu chí phát cho
truyền hình. Do đó, công tác biên tập cũng “nhàn” hơn so với những nguồn
thông tin khác.
Các Đài PT-TH địa phƣơng cũng là những CTV tích cực, giúp Chƣơng
trình Thời sự của kênh VOVTV bao quát đƣợc vùng miền, đăng tải những tin
tức địa phƣơng một cách nhanh nhạy. Tuy nhiên, một số tin, bài của các CTV có
văn phong, chính tả theo lối nói, cách diễn đạt mang dấu ấn địa phƣơng, vùng
miền; chất lƣợng hình ảnh còn nhiều bất cập, tình trạng thiếu hình, mất nét…
xảy ra khá nhiều, gây không ít khó khăn cho công tác biên tập, dựng hình.
2.2.3. Đa phương tiện trong ứng dụng các hình thức chuyển tải thông tin
khác nhau
Thông thƣờng, ngôn ngữ của truyền hình bao gồm hình ảnh (động và
tĩnh) kết hợp với lời nói (của phóng viên, nhân chứng, phát thanh viên...), âm
nhạc (nhạc nền...). Ngoài ra, trong những trƣờng hợp cụ thể, hình thức chuyển
tải thông tin bằng văn bản (text), đồ hình - đồ họa... để minh họa cũng đƣợc
sử dụng nhằm làm đa dạng hóa mặt hình ảnh cho chƣơng trình truyền hình.
Tất cả những hình thức này đều đƣợc kênh VOVTV sử dụng để chuyển tải và
minh họa cho thông tin trong Chƣơng trình Thời sự.
- Những thông tin đƣợc chuyển tải dƣới dạng văn bản (text) thƣờng đƣợc
ngƣời dẫn chƣơng trình đọc thẳng, không kèm hình minh họa lúc phát sóng
(không trám hình). Những dạng tin tức nhƣ thế này đƣợc gọi là “Tin lời”.
Dạng tin này thƣờng dùng cho các tin tức chính trị hoặc những tin tức mang
45
tính bảo mật về hình ảnh (để bảo đảm an ninh, an toàn hay vì lý do gì đó mà
hình ảnh không đƣợc công bố); tin tức ban biên tập mới nhận đƣợc sát giờ
chƣơng trình lên sóng, vừa mới xảy ra, phóng viên không kịp gửi hình hoặc
bộ phận biên tập không có đủ thời gian để dựng hình; tin tức liên quan đến
vấn đề thời tiết và những thông tin cảnh báo liên quan. Những dạng tin tức
này (trừ tin liên quan đến chính trị trong nƣớc và những tin, bài có dự kiến từ
trƣớc) thƣờng không có trong kịch bản mà là tình huống phát sinh, tùy vào
mức độ cần thiết, cấp bách mà TCSXC quyết định có cho phép lên sóng hay
không. Và khi đó, tất nhiên dù là chƣơng trình không phát sóng trực tiếp thì
bản thân ngƣời dẫn Chƣơng trình Thời sự cũng không hề đƣợc chuẩn bị trƣớc
mà phải lên sóng ngay lập tức. Phần tin tức này thƣờng đƣợc sử dụng không
nhiều, hơn nữa vì là chƣơng trình thu trƣớc nên tin lời hầu nhƣ chỉ đƣợc sử
dụng trong Chƣơng trình Thời sự 11h30 và 18h - những múi giờ thƣờng chịu
áp lực lớn về thời gian nhất. Trong 13 tháng khảo sát Chƣơng trình Thời sự,
Tin lời đƣợc sử dụng với mật độ chiếm khoảng 2,07% tổng số tin, bài đƣợc sử
dụng [Phụ lục 1].
- Ngoài ra, có những thông tin đƣợc minh họa bằng chữ kết hợp với đồ
họa để khán giả dễ tiếp nhận và đỡ nhàm chán hơn. Những tin dạng này thƣờng
là tin tức liên quan đến những quy định, luật, pháp lệnh, chính sách mới ban
hành (bao gồm nhiều chƣơng, điều, mục...); tin tức về giá cả thị trƣờng, tình
hình kinh tế, tài chính... với nhiều con số thống kê. Do đó, ban biên tập chƣơng
trình thƣờng sử dụng đồ họa bằng chữ để minh họa, giúp thông tin đó trực
quan, sống động, dễ nhớ hơn thay vì trám hình nhƣ thông thƣờng.
- Những thông tin đƣợc minh họa bằng đồ họa nếu đƣợc khéo léo sử
dụng kèm theo hình ảnh (động và tĩnh) chắc chắn sẽ tạo nên sức hút đối với
khán giả, giúp thông tin đƣợc chuyển tải một cách có điểm nhấn hơn. Tuy
nhiên những dạng thông tin đƣợc biên tập “công phu” nhƣ vậy lại ít đƣợc sử
46
dụng trong Chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV. Thống kê trong số 13
tháng khảo sát chƣơng trình (6/2013 - 6/2014), chỉ có khoảng gần 200 tin
trong tổng số 19.000 tin đƣợc minh họa bằng hình thức này, chiếm tỷ lệ chƣa
tới 1,1%. [Phụ lục 1]
2.2.4. Nội dung thông tin của Chương trình Thời sự VOVTV
Ngay từ khi ra đời, kênh VOVTV đã đƣợc định hƣớng nội dung Thời sự
- Chính trị - Tổng hợp. Chính vì vậy, Chƣơng trình Thời sự của kênh luôn chú
trọng đến những mảng tin tức chính luận (nội chính, ngoại giao, các sự kiện
chính trị quan trọng…); những vấn đề “nóng” (các vấn đề xã hội đƣợc dƣ
luận quan tâm; những chính sách, quyết định mới đƣợc ban hành và những
hiệu quả hoặc bất cập của chúng trong đời sống thực tiễn; các báo cáo về các
chỉ số thuộc tất cả các lĩnh vực kinh tế, thƣơng mại, đầu tƣ, xuất nhập khẩu…
qua các thời kỳ, giai đoạn; tình hình giao thông, y tế, thiên tai, dịch bệnh
v.v… cùng những phƣơng án giải quyết cụ thể của Chính phủ và các cơ quan
chức năng…); những sự kiện nổi bật trong ngày (lễ động thổ, khởi công,
khánh thành; kỷ niệm các ngày lễ lớn; hoạt động của các ban ngành, đoàn thể
từ trung ƣơng tới địa phƣơng v.v…). Ngoài ra, những tin tức, sự kiện quốc tế
cũng là mảng tin tức đƣợc chú trọng khai thác trong Chƣơng trình Thời sự.
Trong khi đó, những mảng tin tức mang tính gây sốc, tạo sự tò mò, quá
nặng nề, bạo lực... (các vụ án cƣớp, giết, hiếp; những sự kiện lùm xùm của
showbiz v.v...) không phải là mảng tin tức đƣợc chú trọng đƣa tin. Nếu có thì
cũng thƣờng ở dƣới dạng bài tổng hợp, phân tích, bình luận, đánh giá hơn là
cập nhật tính thời sự, “nóng hổi”.
2.2.5. Đa phương tiện trong truyền phát chương trình của kênh VOVTV:
Hƣớng đến mục tiêu đa dạng hóa, đa phƣơng tiện hóa, kênh VOVTV nói
riêng và Đài TNVN nói chung luôn chú trọng đến việc phát triển khâu truyền
dẫn, phát sóng trên càng nhiều phƣơng tiện, trang mạng càng tốt. Đối với
47
Chƣơng trình Thời sự cũng nhƣ các chƣơng trình khác của kênh VOVTV,
khán giả có thể xem trực tuyến và xem lại các chƣơng trình đã phát sóng trên
website vov.vn một cách thuận tiện, dễ dàng. Không chỉ xem bằng vô tuyến,
khán giả có thể theo dõi bằng cả máy vi tính, điện thoại thông minh, máy tính
bảng có kết nối mạng Internet.
Hình 2.3. Giao diện trực tuyến của kênh VOVTV trên website Vov.vn [13]
Những Chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV đƣợc website Vov.vn
đăng tải khá đầy đủ về số lƣợng. Mặc dù chất lƣợng chƣa cao (liên quan đến
tốc độ đƣờng truyền, chất lƣợng file hình sau khi tải lên mạng Internet...)
nhƣng không thể phủ nhận nhờ có dịch vụ phát trực tuyến, các chƣơng trình
của kênh VOVTV đã đƣợc công chúng biết đến nhiều hơn.
48
Hình 2.4. Khán giả có thể tải ứng dụng xem miễn phí các chương trình của
kênh VOVTV qua điện thoại di động, máy tính bảng... [13]
Hiện nay, ứng dụng phần mềm theo dõi chƣơng trình của kênh VOVTV
thông qua điện thoại di động và máy tính bảng đã đƣợc tích hợp sẵn trên trang
web vovtv.vov.vn với 3 phiên bản riêng dành cho điện thoại dùng hệ điều
hành Android; điện thoại sử dụng hệ điều hành IOS của Apple và phiên bản
dành riêng cho máy tính bảng, Ipad. Công chúng muốn theo dõi chƣơng trình
của kênh đều có thể dễ dàng tải các ứng dụng này về thiết bị di động của mình
và sử dụng.
2.2.6. Đa phương tiện thể hiện ở khả năng tương tác với công chúng
Đối với truyền thông đa phƣơng tiện, tính tƣơng tác cũng là một thành tố
quan trọng trong sự phát triển của tòa soạn xây dựng mô hình này. Rõ ràng,
với mục tiêu thu hút ngày càng nhiều công chúng của các loại hình TTĐC, sự
tƣơng tác giữa tòa soạn nói chung, các phƣơng tiện nói riêng đối với công
chúng và ngƣợc lại: giữa công chúng với tòa soạn đóng vai trò hết sức quan
trọng. Nếu nhƣ những nhu cầu của công chúng phản ánh đƣợc lắng nghe,
quan tâm và giải đáp cụ thể, nhanh chóng, chắc chắn sự hài lòng của họ sẽ
49
tăng lên, kéo theo đó là những sự quan tâm, chia sẻ trong cộng đồng về dịch
vụ tƣơng tác mà tòa soạn đó mang lại.
Công chúng của kênh VOVTV cũng hoàn toàn có đƣợc sự dễ dàng về
mặt tƣơng tác với ban biên tập của kênh thông qua nhiều phƣơng thức, từ
truyền thống nhƣ: thƣ tay, điện thoại, chuyên mục Hồi âm khán thính giả
(phát sóng trên phát thanh lẫn truyền hình) cho đến các phƣơng thức hiện đại,
mới mẻ hơn nhƣ: email, gửi bình luận/phản hồi tƣơng tác trực tuyến trên
website Vov.vn. Tất cả các tin bài, video clip... đều có phần bình luận dành
cho ngƣời xem ở bên dƣới, giúp công chúng sử dụng Internet hoàn toàn dễ
dàng tƣơng tác với tòa soạn một cách nhanh chóng.
2.2.7. Đội ngũ nhân sự tác nghiệp đa phương tiện
Ngay từ khi thành lập kênh VOVTV, ban lãnh đạo Đài TNVN đã đặt ra
yêu cầu đặc biệt đối với đội ngũ nhân sự của kênh theo tiêu chí: một ngƣời có
thể làm nhiều đầu việc khác nhau. PV/BTV phải tác nghiệp, viết bài đồng thời
phải có kỹ năng biên tập cho ít nhất là phát thanh và truyền hình. Chính vì
vậy, đối với những tin tức phát sóng trong Chƣơng trình Thời sự hàng ngày,
ngƣời phóng viên của kênh VOVTV có thể vừa viết và dựng hình, đồng thời
đọc và gửi tin, bài hoàn chỉnh cho Hệ phát thanh của Đài. Khâu khai thác,
biên tập tin tức cho Chƣơng trình Thời sự là khâu cần nhiều kỹ năng biên tập
đa phƣơng tiện. Nguồn thông tin đƣợc khai thác từ Trung tâm tin và các cơ
quan thƣờng trú của Đài TNVN là rất lớn; ngoài ra còn tin tức khai thác từ
mạng Internet... đều cần đƣợc biên tập cẩn thận, phù hợp với tiêu chí của
truyền hình.
Ví dụ: Phóng viên Nguyễn Thành Chung - Trƣởng phòng Tin Chính trị -
kênh VOVTV là phóng viên chuyên trách Thủ tƣớng Chính phủ. Công việc
của anh là luôn theo dõi hoạt động của Thủ tƣớng Nguyễn Tấn Dũng để phản
ánh một cách nhanh, đầy đủ nhất về hoạt động của Thủ tƣớng cả trong lẫn
50
ngoài nƣớc. Mỗi lần tác nghiệp, anh luôn thực hiện bài phản ánh do chính anh
đọc và gửi file video do quay phim thực hiện về kênh VOVTV; mặt khác, anh
cũng viết bài và gửi file âm thanh hoàn chỉnh (sau khi đã cắt lỗi sạch) cho Hệ
phát thanh VOV1 của Đài TNVN để phát sóng trong Chƣơng trình Thời sự
của Hệ này.
Ngoài ra, đội ngũ PV/BTV của kênh còn đƣợc tạo điều kiện nhiều mặt
để gửi bài cộng tác cho các phƣơng tiện truyền thông khác của Đài TNVN
nhƣ báo mạng hay báo in. Tuy nhiên, tin bài đƣợc sản xuất theo cách này lại
rất hiếm gặp.
Trong khi đó, đội ngũ KTV của kênh cũng phải thành thạo sử dụng và
lắp đặt hệ thống dựng hình, ghi hình, phát sóng cũng nhƣ làm việc với hệ
thống của phát thanh. Vì vậy, mỗi khi Đài TNVN có chƣơng trình lớn, đƣợc
phát sóng trực tiếp trên cả kênh VOVTV lẫn các Hệ phát thanh, đội ngũ KTV
của VOVTV cũng nhƣ các hệ phát thanh đó luôn phải gánh trên vai trọng
trách rất lớn trong việc lắp đặt, kết nối và đảm bảo tín hiệu đƣờng truyền cho
tất cả các kênh sóng.
Ví dụ: Phụ trách trƣờng quay tại kênh VOVTV - KTV Nguyễn Văn
Nghị là ngƣời có kinh nghiệm lâu năm trong công tác tại Đài TNVN. Từng có
nhiều năm công tác ở vị trí kỹ thuật viên phát thanh thuộc Trung tâm âm
thanh - Đài TNVN, anh đƣợc điều chuyển công tác về kênh VOVTV từ
những ngày đầu thành lập kênh. Trong quá trình vừa thay đổi môi trƣờng làm
việc sang loại hình mới, anh không chỉ trau dồi mở mang kiến thức tại những
khóa đào tạo do kênh VOVTV tổ chức mà còn tự mày mò nghiên cứu để đáp
ứng nhu cầu công việc của một kỹ thuật viên trƣờng quay truyền hình. Chính
vì vậy, trong những chƣơng trình đƣợc phát sóng trên cả truyền hình VOVTV
và các kênh phát thanh của Đài TNVN (Studio M, Quà tặng âm nhạc, Chính
phủ với ngƣời dân...), KTV Nguyễn Văn Nghị luôn đƣợc ban lãnh đạo tin
51
tƣởng, giao phó những nhiệm vụ quan trọng trong việc di chuyển, lắp đặt, vận
hành hệ thống thiết bị của cả phát thanh lẫn truyền hình.
2.3. Đánh giá chung về thành công, hạn chế trong phƣơng thức sản xuất
Chƣơng trình Thời sự VOVTV dƣới góc độ truyền thông đa phƣơng tiện
2.3.1. Thành công
2.3.1.1. Đa dạng hơn nội dung thông tin trong chương trình
Điều đầu tiên phải khẳng định khi nhắc tới thành công của Chƣơng trình
Thời sự mà kênh VOVTV sản xuất đó là việc luôn đảm bảo đúng định hƣớng
mà Đảng và Nhà nƣớc đã chỉ đạo: Đài Tiếng nói Việt Nam là đài phát thanh
quốc gia, là cơ quan thuộc Chính phủ, thực hiện chức năng thông tin, tuyên
truyền đƣờng lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc, góp phần
nâng cao dân trí, phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân.
Kể từ khi ra đời đến nay, Chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV luôn
hoàn thành tốt mục tiêu, nhiệm vụ của một cơ quan báo chí trung ƣơng: là cánh
tay đắc lực của Đảng, góp phần tuyên truyền những chủ trƣơng, đƣờng lối, chính
sách lãnh đạo của cấp trên tới mọi tầng lớp nhân dân; đồng thời là cầu nối giữa
nhân dân với Đảng và Chính phủ: bày tỏ nguyện vọng, phản ánh những ý kiến,
đóng góp, tâm tƣ, tình cảm của nhân dân đối với các cấp lãnh đạo.
Việc “lợi dụng” đƣợc tính đa phƣơng tiện trong quá trình sản xuất giúp
Chƣơng trình Thời sự của kênh vừa tiết kiệm đƣợc chi phí, vừa đảm bảo tính
nhanh nhạy, thời sự cần thiết của một bản tin.
Chƣơng trình Thời sự trên kênh VOVTV luôn cập nhật một cách nhanh
nhất, mới nhất những thông tin chính trị: các chuyến thăm cấp cao, trao đổi
hữu nghị giữa Việt Nam và các nƣớc trên thế giới; các kỳ họp Quốc hội, Hội
đồng Nhân dân, các kỳ bầu cử; các Hội nghị báo cáo tổng kết, đề ra mục tiêu,
nhiệm vụ của các ban ngành từ trung ƣơng đến địa phƣơng v.v…
52
Không chỉ vậy, những “điểm nóng” đƣợc cả xã hội quan tâm nhƣ: các
vấn nạn trong giao thông, giáo dục, y tế và những vấn đề dân sinh khác đều
đƣợc Chƣơng trình Thời sự - kênh VOVTV phát sóng kịp thời, góp tiếng nói
phản ánh tâm tƣ, nguyện vọng chính đáng của ngƣời dân tới các cấp có thẩm
quyền, nhờ đó nhiều vụ việc đã đƣợc giải quyết, giúp ngƣời dân an tâm sinh
sống, lao động.
Ngoài ra, Chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV cũng luôn chú trọng
cập nhật những thông báo mới nhất về các quy định, thay đổi mới đƣợc ban
hành về các mặt của đời sống xã hội (kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế,…)
chẳng hạn nhƣ: sự tăng giảm giá xăng, dầu; tăng giảm dịch vụ y tế, giáo dục;
các quy định mới về pháp luật; kim ngạch xuất nhập khẩu các ngành hàng
công – nông nghiệp v.v…
Bên cạnh đó, các tin tức quốc tế của Chƣơng trình cũng luôn bám sát với
tình hình thế giới, đặc biệt là các đề tài: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai, thảm
họa, các hoạt động có tầm ảnh hƣởng lớn đến cục diện thế giới của các nƣớc
lớn hoặc những tin tức văn hóa thế giới nổi bật…
2.3.1.2. Đội ngũ phóng viên ngày càng năng động, đa kỹ năng
Việc “đa phƣơng tiện” hóa hình thức thể hiện để các tác phẩm sản xuất
xong có thể phát trên cả phát thanh lẫn truyền hình, thậm chí cả trên báo
mạng điện tử và báo in của Đài thực sự đã bƣớc đầu góp phần hình thành nên
những phóng viên, biên tập viên đa năng: có kỹ năng tác nghiệp, viết bài cho
nhiều loại hình báo chí khác nhau. Để làm đƣợc điều này, bản thân các phóng
viên phải có tƣ duy đa phƣơng tiện, nghĩa là khi nghĩ về cách tổ chức thực
hiện, họ phải ngay lập tức nghĩ đến cách thể hiện nội dung thông tin trên các
phƣơng tiện truyền thông khác nhau mà cơ quan báo chí của mình có.
53
2.3.1.3. Tăng lượng công chúng
Việc sản xuất Chƣơng trình Thời sự có sử dụng các yếu tố đa phƣơng
tiện, vừa phát trên truyền hình, vừa trực tuyến trên Internet và có bản lƣu lại
để độc giả trên mạng (tại địa chỉ trang web: www.vovtv.vov.vn) có thể theo dõi
lại giúp kênh VOVTV thỏa mãn đƣợc nhu cầu thông tin của công chúng. Nhờ
đó, lƣợng công chúng quan tâm đến Chƣơng trình Thời sự nói riêng và các
chƣơng trình đƣợc phát sóng trên kênh truyền hình VOVTV nói chung dần
tăng lên theo thời gian.
Từ khi đi vào hoạt động chính thức đến nay, trang web vovtv.vov.vn đã
nhận đƣợc rất nhiều các phản hồi tích cực của khán giả, đặc biệt là đáp ứng
đƣợc khán giả mọi lúc mọi nơi để xem trực tiếp hoặc xem lại chƣơng trình.
Đến nay, website này đã cập nhật đƣợc khoảng gần 12.800 tin, bài,
chƣơng trình lên website.; bình quân mỗi tháng cập nhật đƣợc khoảng 300 tin,
bài, chƣơng trình; tổng số lƣợng truy cập đạt hơn 2,4 triệu lƣợt ngƣời; đầu
năm 2014 đến nay đạt đƣợc 1.536.482 lƣợt truy cập, tăng 17% so với năm
2013 [Phụ lục 2]; trung bình tại các thời điểm trong ngày, website này thu hút
khoảng gần 900 ngƣời trực tuyến; cao điểm đạt khoảng 1200 - 1500 ngƣời
hoạt động; đƣợc đa số độc giả đánh giá tốt về hoạt động của trang.
2.3.1.4. Tiết kiệm về nhân lực
Rõ ràng, với việc áp dụng đa phƣơng tiện trong sản xuất Chƣơng trình
Thời sự, kênh VOVTV nói riêng, Đài TNVN nói chung đã bớt đƣợc một
lƣợng nhân sự nhất định mà vẫn đảm bảo hiệu quả thông tin. Đội ngũ phóng
viên chuyên trách các Nguyên thủ quốc gia cộng với hệ thống các cơ quan
thƣờng trú khắp mọi miền Tổ quốc và tại nhiều nƣớc trên thế giới đƣợc Đài
TNVN xây dựng từ những ngày mới thành lập cũng đồng thời là nguồn cung
cấp thông tin quan trọng, đầy đủ, nhanh chóng cho Chƣơng trình. Bên cạnh
đó, Trung tâm tin của Đài TNVN - nguồn cung cấp thông tin quan trọng cho
54
cả Đài - cũng giúp kênh VOVTV giảm đƣợc lƣợng nhân sự tham gia vào quá
trình sản xuất mà vẫn đảm bảo sự đa dạng và chất lƣợng của thông tin.
2.3.1.5. Tiết kiệm về chi phí sản xuất
Song song với việc giảm đƣợc lƣợng nhân sự cần thiết, việc bố trí nhân
lực sản xuất theo hƣớng đa phƣơng tiện cũng giúp kênh VOVTV tiết kiệm
đƣợc một phần không nhỏ kinh phí sản xuất, khi chỉ phải chi trả cho 1 kíp đi
hiện trƣờng (thông thƣờng bao gồm 1 phóng viên, 1 quay phim, 1 kỹ thuật
viên lƣu động (nếu có) và chi phí phƣơng tiện đi lại (xe Đài, taxi)) nhƣng vẫn
có tác phẩm để phát sóng, đăng tải trên các phƣơng tiện truyền thông mà Đài
sở hữu.
Mặt khác, việc khai thác các tin, bài từ nguồn báo mạng, báo in, Trung
tâm tin cũng nhƣ nguồn tin mà các hệ khác thuộc Đài cung cấp vừa đảm bảo
độ chính xác, tin cậy lại vừa không phải tốn chi phí mua những tin tức này về.
2.3.1.6. Hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước và Đài
Tiếng nói Việt Nam giao phó
Với lợi thế phát sóng cả trên truyền hình lẫn trực tuyến trên Internet,
chƣa kể một lƣợng nhất định nội dung thông tin đƣợc sản xuất thông qua đội
ngũ phóng viên chuyên trách và khai thác từ Trung tâm tin cũng nhƣ các cơ
quan thƣờng trú đƣợc phát trên cả các kênh phát thanh của Đài TNVN,
Chƣơng trình Thời sự VOVTV thực sự đƣợc “nối dài cánh tay” trong việc
thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền chủ trƣơng của Đảng, Pháp luật của Nhà
nƣớc; góp phần tăng cƣờng cầu nối giữa chính quyền với nhân dân, đảm bảo
hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị đƣợc cấp trên giao phó.
2.3.2. Hạn chế
Bên cạnh những thành công, việc áp dụng phƣơng thức sản xuất đa
phƣơng tiện trong Chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV cũng còn bộc lộ
một số hạn chế, bất cập.
55
- Nội dung chương trình còn quá nặng tính chính trị
Với định hƣớng Thời sự - Chính trị - Tổng hợp, tất nhiên Chƣơng trình
Thời sự của kênh sẽ phải “ôm đồm” rất nhiều mảng nội dung rộng lớn dàn trải
đều trên khắp cả nƣớc mà vẫn phải đặc biệt chú trọng đến thủ đô Hà Nội – nơi
tập trung bộ máy lãnh đạo tối cao của nƣớc Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Trong đó, mảng thời sự chính trị luôn phải là phần nội dung đƣợc chú
trọng đặc biệt: dành ƣu tiên thời lƣợng trƣớc hết, sau đó mới đến các mảng
khác trong đời sống xã hội.
Trong khi đó, các tin tức, phản ánh về mảng nội dung này thƣờng có
dung lƣợng khá dài, thƣờng từ 1 – 2 phút, thậm chí 3 – 4 phút đối với những
tin tức đặc biệt quan trọng, liên quan đến hoạt động của Chủ tịch nƣớc, Tổng
Bí thƣ, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tƣớng Chính phủ. Có những chƣơng trình
phần thời lƣợng dành cho mảng chính trị đã chiếm hết gần nhƣ 45 phút, khiến
ban biên tập buộc phải cắt bỏ những tin tức khác kém quan trọng hơn và cả
phần tin quốc tế.
Chính vì vậy, để làm đƣợc một Chƣơng trình Thời sự hay, hấp dẫn, sinh
động, “có hồn” là rất khó, trong khi các đơn vị khác có cùng định hƣớng là Đài
Truyền hình Việt Nam với Chƣơng trình Thời sự VTV1 hay Thông tấn xã Việt
Nam với Chƣơng trình Thời sự trên kênh truyền hình TTXVN đã làm rất tốt.
- Nội dung chương trình vẫn còn mang yếu tố phát thanh do biên tập
chưa kỹ
Không chỉ phẩm truyền hình hiện nay trên kênh VOVTV nói chung và
Chƣơng trình Thời sự nhiều khi bị yếu tố phát thanh chi phối: lời nhiều hơn
hình; hình quay không “đắt” và ít hình; phần lời mang “màu sắc” phát thanh,
chƣa chọn đƣợc chi tiết quan trọng phù hợp với tiêu chí của truyền hình.
Chẳng hạn, truyền hình rất hạn chế những câu dẫn đặc trƣng của phát thanh
nhƣ: “Sau đây mời quý vị và các bạn cùng theo dõi”, “Một số thông tin về
56
(…) sẽ tiếp nối chương trình”, “Phản ánh của phóng viên Nguyễn Văn A.”
v.v… Thế nhƣng, không hiếm gặp những câu dẫn nhƣ thế này trong các
Chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV.
Một ví dụ khác: trong phóng sự “Bất cập nạn khai thác cát trái phép
trên sông Thạch Hãn - Quảng Trị” của phóng viên Vinh Thông - thƣờng trú
VOV khu vực miền Trung khi gửi cho Chƣơng trình Thời sự kênh VOVTV
vẫn chƣa đƣợc viết lại theo phong cách phóng sự truyền hình mà còn “sót” rất
nhiều yếu tố phát thanh. Chẳng hạn, trong phóng sự này có đoạn: “Chiếc ca-
nô chở các chiến sĩ cảnh sát xé dòng nước lao đi vun vút trong màn đêm dày
đặc”. Đây là phần thông tin không cần thiết phải mô tả chi tiết và giàu hình
ảnh bởi phần hình quay đã có cảnh ca-nô chở các chiến sĩ cảnh sát đi làm
nhiệm vụ.
- Quy trình sản xuất còn nhiều bất cập
Quy trình tổ chức sản xuất tại kênh VOVTV còn bộc lộ nhiều bất cập,
hạn chế: ngƣời TCSXC không hoàn toàn nắm đƣợc trƣớc những nội dung sẽ
phát trong các Chƣơng trình Thời sự của ngày hôm sau, đồng thời không
đƣợc quyền chỉ định phóng viên/biên tập viên thực hiện những nội dung cần
thiết cho chƣơng trình (phần việc này là của các TCSX từng phòng, ban nội
dung). Do đó, TCSXC gần nhƣ bị động trong quá trình lên phƣơng án sản
xuất và lập vỏ chƣơng trình; chỉ có thể chờ đến ca làm việc để bắt đầu tiếp
nhận tin bài từ các phòng, ban khác trong kênh cũng nhƣ các đơn vị CTV gửi
về, đồng thời luôn phải dự trù sẵn những tin, bài “lấp chỗ trống” phòng khi tin
tức dự kiến sản xuất không về kịp hoặc xảy ra những sự cố ngoài ý muốn.
Chính vì vậy, các Chƣơng trình Thời sự trên kênh VOVTV dƣờng nhƣ không
để lại “dấu ấn” của ngƣời TCSXC; nhiều khi trở nên lộn xộn, không liền
mạch, không tạo đƣợc những “đỉnh” cao về nội dung để giữ khán giả đi từ
hứng thú này sang hứng thú khác cho tới tận lúc kết thúc chƣơng trình. Trái
57
lại, đây là điều mà Chƣơng trình Thời sự VTV1 của Đài Truyền hình Việt
Nam và một số chƣơng trình tin tức của các đơn vị khác đã làm rất tốt.
Bên cạnh đó, quy trình sản xuất Chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV
cũng không phát huy tối đa năng lực sản xuất của mỗi cá nhân trong ê-kip,
trái lại nhiều lúc còn khiến tốc độ làm việc bị trì trệ, “chây ì”, thiếu sự phối
hợp hỗ trợ giữa các phòng, ban và nhóm sản xuất chƣơng trình. Một số những
khúc mắc thƣờng gặp phải nhƣ: các phòng, ban nộp tin, bài không đúng thời
gian quy định, để lọt lỗi; các thành viên trong ê-kip làm Chƣơng trình Thời sự
không nắm rõ đƣợc nội dung tin, bài hôm đó sản xuất, biên tập…
- Đội ngũ nhân lực còn thiếu, chưa có những cá nhân thực sự xuất sắc
trong lĩnh vực truyền hình
Một hạn chế nữa góp phần làm giảm chất lƣợng nội dung của Chƣơng
trình Thời sự kênh VOVTV chính là khâu tự sản xuất tin, bài phát sóng. Với
đội ngũ khoảng 40 phóng viên/biên tập viên thuộc 4 phòng nội dung, chƣa kể
nhiều ngƣời trong số các phóng viên/biên tập viên này phải kiêm nhiệm thêm
các công việc khác hoặc chuyên sản xuất những chƣơng trình, chuyên mục
không dành để phát Thời sự (chẳng hạn: các bản tin thể thao, chuyên mục văn
nghệ, chuyên đề…), thật sự không có nhiều phóng viên/biên tập viên tham gia
sản xuất tin tức hàng ngày. Trong khi đó, những đề tài dân sinh – nhóm vấn
đề mà ngƣời dân quan tâm nhất - liên tục phát sinh những vƣớng mắc, đòi hỏi
phải có ngay phóng viên đến hiện trƣờng để thực hiện thông tin, phản ánh.
Thế nhƣng với lực lƣợng “mỏng”, không phải lúc nào mong muốn này cũng
có thể thực hiện.
Mặt khác, nhân lực thực hiện Chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV
đa phần đều trƣởng thành trong nghề từ các Hệ phát thanh khác của Đài, do
đó nghiệp vụ truyền hình của họ gần nhƣ đi lên từ con số 0. Trong khi đó, để
có thể làm một phóng viên, biên tập viên truyền hình giỏi, ngoài năng lực báo
58
chí ra rất cần phải có tố chất và kinh nghiệm làm truyền hình. Chỉ có nhƣ vậy,
đội ngũ những thế hệ phóng viên, biên tập viên đi trƣớc mới có thể chỉ dẫn,
đào tạo, “cầm tay chỉ việc” lớp “đàn em” tiếp sau, mới rèn dũa đƣợc những
ngƣời làm truyền hình thực thụ: có nghề, có bản lĩnh truyền hình, sắc sảo,
thạo việc.
Mặc dù kênh VOVTV thƣờng tổ chức các lớp học với chuyên gia về kỹ
năng làm truyền hình, đặc biệt là làm Chƣơng trình Thời sự cho các phóng
viên, biên tập viên, nhƣng khi đào tạo xong quay trở về với môi trƣờng công
việc lại khó thực hiện. Nguyên nhân lại quy trở về bài toán quản lý, tổ chức
và quy trình sản xuất không có điều kiện để áp dụng những cái mới.
- Thiếu đầu tư về hình ảnh và phong cách cho đội ngũ Người dẫn
Chương trình Thời sự
Khâu Ngƣời dẫn chƣơng trình lên hình là khâu đóng vai trò rất quan
trọng trong bất kỳ chƣơng trình tin tức, thời sự nào. Chính vì vậy, để phục vụ
cho công tác này đƣợc trơn tru, mang lại hiệu quả lên hình tốt, vấn đề trƣờng
quay (bao gồm việc bố trí, sắp đặt hệ thống máy móc ghi hình, âm thanh, ánh
sáng, phông nền, bàn ghế…) là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, vì nguồn kinh
phí eo hẹp nên hiện nay, trƣờng quay Chƣơng trình Thời sự của kênh
VOVTV còn thiếu nhiều cơ sở vật chất đồng bộ, khiến chất lƣợng hình ảnh
của Ngƣời dẫn chƣơng trình không đƣợc nhƣ mong muốn.
Hơn nữa, sự đầu tƣ trang phục, đầu tóc, công nghệ trang điểm… cho
Ngƣời dẫn chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV còn chƣa đƣợc thỏa đáng:
không có nhà tài trợ, ngƣời dẫn phải tự đầu tƣ và lựa chọn trang phục lên
hình; không có ngƣời làm tóc mà do ngƣời trang điểm đảm nhận; ngƣời dẫn
không đƣợc bồi dƣỡng chi phí độc hại...
- Cơ sở vật chất kỹ thuật chưa được đầu tư đúng mức, thiếu đồng bộ
59
Một bất cập nữa trong hình thức thể hiện là vấn đề liên quan đến trình độ
máy móc và kỹ thuật dựng hình. Theo đó, hệ thống máy móc giữa các bộ
phận từ ghi hình, dựng hình cho đến phát sóng chƣa có sự nhất quán, đồng bộ,
dẫn đến chất lƣợng từ lúc sản xuất cho đến khi phát sóng đã có sự sụt giảm
đáng kể. Quá trình dựng hình còn để xảy ra nhiều sai sót, lọt lỗi khi lên sóng
(vỡ hình, giật hình, rung hình, thừa hoặc thiếu hình, quay phim và dựng hình
sai logic hình ảnh, trái trục v.v…).
Ngoài ra, kênh VOVTV cũng chƣa chú trọng đến khâu quảng bá các
chƣơng trình truyền hình nói chung và Chƣơng trình Thời sự nói riêng trên
Internet, điện thoại di động... Việc làm này đòi hỏi không chỉ một kỹ thuật
viên chuyên trách mà còn cần một biên tập viên có kỹ năng tốt để viết giới
thiệu chƣơng trình, phục vụ cho độc giả Internet biết sơ lƣợc nội dung của các
clip đƣợc đăng tải. Hiện nay, các clip trên website Vov.vn đều chƣa đƣợc viết
giới thiệu mà chỉ dừng lại ở việc chú thích tên chƣơng trình - ngày, giờ phát
sóng hoặc tên tin, bài. Hơn nữa, tốc độ đăng tải clip cũng nhƣ truy cập của
website Vov.vn còn chậm; mỗi lần up web một Chƣơng trình Thời sự phải
mất rất nhiều thời gian (ít nhất 45 phút với điều kiện đƣờng truyền ổn định).
Điều này gây ảnh hƣởng lớn tới hiệu quả làm việc của Kỹ thuật viên website
cũng nhƣ nhu cầu tiếp nhận của công chúng.
2.4. Nguyên nhân thành công, hạn chế và những vấn đề đặt ra
2.4.1. Nguyên nhân thành công
- Về phía cơ quan chủ quản
Một trong những nguyên nhân hàng đầu giúp Chƣơng trình Thời sự -
kênh VOVTV luôn đảm bảo đúng định hƣớng đề ra chính là nhờ bề dày lịch
sử gần 70 năm hình thành và phát triển. Đài Tiếng nói Việt Nam với vị thế là
một cơ quan báo chí trung ƣơng, nắm giữ một trong bốn loại hình báo chí
truyền thông chính thống hiện nay, đồng thời là đơn vị duy nhất sở hữu loại
60
hình báo chí phát thanh, vì vậy Đài luôn đƣợc Đảng, Nhà nƣớc quan tâm chỉ
đạo sát sao hoạt động và định hƣớng phát triển.
Sinh ra trong lòng Đài TNVN, kênh truyền hình VOV kế thừa đƣợc tiềm
năng sẵn có không chỉ về con ngƣời mà còn về cả yếu tố vật chất, đặc biệt là
vị trí làm việc thuận lợi tại trung tâm Thủ đô; cùng với đó là hệ thống cung
cấp thông tin (Trung tâm tin VOV, các Hệ phát thanh, báo mạng VOV, báo in
VOV, các cơ quan thƣờng trú, các đơn vị Cộng tác viên, đội ngũ cộng tác
viên đông đảo trong và ngoài nƣớc...) và trang thiết bị vốn có phục vụ cho sản
xuất các chƣơng trình phát thanh của Đài. Nhờ đó, nguồn tin của kênh
VOVTV luôn đƣợc đảm bảo tính nhanh nhạy, phong phú, đa dạng.
Một điểm khác cần nhấn mạnh, đó chính là tƣ duy đổi mới của ban lãnh
đạo Đài TNVN trong việc tái cơ cấu tổ chức của VOV theo hƣớng tinh giản,
gọn nhẹ theo trục dọc để gắn kết các đơn vị trong Đài lại với nhau nhằm làm
tăng “sản lƣợng” và hiệu quả sản xuất thông tin của Đài.
Theo báo cáo đề tài khoa học năm 2011 của Đài TNVN “Nghiên cứu
xây dựng mô hình VOV trực tuyến” [19], kênh VOVTV trong mô hình phát
triển VOV Online là một mắt xích quan trọng trong hệ thống của VOV. Với
một lƣợng thông tin đa phƣơng tiện khổng lồ từ các Hệ phát thanh VOV1,
VOV2, VOV3, VOV4, VOV5, Kênh VOV-GT Hà Nội và VOV-GT TP. Hồ
Chí Minh, Trung tâm tin, Báo Tiếng nói Việt Nam, báo mạng điện tử Vov.vn,
các cơ quan thƣờng trú trong nƣớc và nƣớc ngoài, các phóng viên, biên tập
viên của kênh VOVTV luôn có thể khai thác hết sức thuận lợi, tận dụng đƣợc
thế mạnh của các loại hình báo chí khác trong thời đại công nghệ số.
61
Hình 2.5. Cấu trúc mô hình VOV trực tuyến giai đoạn 2011 – 2016
[19, tr. 105]
Trong tƣơng lai, mục tiêu của Đài TNVN là mở rộng cổng truyền thông
trực tuyến VOV Online, tích hợp nhiều thể loại báo, mở rộng đa phƣơng tiện
và mạng xã hội. Điều quan trọng là các mối liên hệ phải đƣợc duy trì thƣờng
xuyên và bền chặt để có thể tận dụng và không bỏ phí tài nguyên chung của
Đài TNVN, với hơn 700 phóng viên ở khắp các vùng miền trên đất nƣớc và ở
nƣớc ngoài. Nhƣ vậy, có thể khẳng định rằng: sự tồn tại và phát triển của
kênh VOVTV chính là hƣớng đến sự hòa nhập trong mô hình hoạt động
chung của Đài TNVN.
Với mục tiêu này, có thể nói Đài TNVN đang dần định hƣớng sự phát
triển của mình thành một khối thống nhất: một “cỗ máy” sản xuất tin tức đa
phƣơng tiện quy mô lớn mà xu thế truyền thông hội tụ với mô hình tòa soạn
hội tụ là “hạt nhân”.
Theo sơ đồ này, có thể nhận thấy khi đó VOV hoạt động nhƣ một trung
tâm sản xuất nội dung, là một thƣơng hiệu thống nhất, hoạt động theo phƣơng
62
thức một cơ quan báo chí đa nền tảng. Toàn bộ nội dung sẽvđƣợc chuyên biệt
hóa theo mảng: chính trị, kinh tế, tin tức, âm nhạc, thể thao… có thể đáp ứng
đƣợc các tiêu chí cao nhất về số lƣợng, chất lƣợng, tốc độ, sự nhất quán.
Đồng thời, ranh giới giữa các hệ trở nên nhạt nhòa, Toàn bộ thƣơng hiệu
riêng nhƣ VOV1, VOV2, VOV3, VOV4, VOV5, VOVGT, VOVTV… phải
nhƣờng chỗ cho một thƣơng hiệu duy nhất: VOV.
Đây là hƣớng đi đƣợc đánh giá có tính khả thi cao, đầu tƣ không nhiều,
có thể ứng dụng sớm. Tuy nhiên, một số trở ngại đặt ra chính là hiệu quả của
nó phụ thuộc vào năng lực của từng đơn vị và sự phối hợp giữa các đơn vị;
khi bộ máy tái cơ cấu theo hƣớng tinh giản sẽ xảy ra tình trạng thừa nhiều
nhân sự. Để giải quyết tình trạng này, nhất thiết cần có một mô hình và cơ chế
chỉ đạo, điều phối thích hợp để vận hành; đồng thời cần đầu tƣ nhiều trang
thiết bị và đào tạo, đào tạo lại nhân lực.
- Về phía đội ngũ nhân lực sản xuất
Là một trong những cơ quan báo chí hình thành lâu đời nhất ở nƣớc ta,
Đài TNVN đã xây dựng đƣợc lực lƣợng những ngƣời làm nghề ở khắp đất
nƣớc và nhiều nơi trên thế giới. Không thể phủ nhận rằng, đội ngũ những
ngƣời làm nghề đều dày dạn kinh nghiệm, đặc biệt là trong lĩnh vực phát
thanh. Cùng với đó là bản lĩnh chính trị vững vàng, chuyên môn báo chí tốt.
Chính vì vậy, những chƣơng trình tin tức, thời sự mà Đài Tiếng nói Việt Nam
nói chung và kênh VOVTV nói riêng sản xuất luôn đảm bảo đƣợc tính định
hƣớng mà Đảng, Nhà nƣớc đã đề ra.
Thêm vào đó, đội ngũ PV, BTV, KTV của kênh VOVTV cũng thƣờng
xuyên đƣợc lãnh đạo quan tâm trau dồi kỹ năng sản xuất chƣơng trình truyền
hình đa phƣơng tiện. Mặc dù khó có thể ngày một ngày hai nâng cao nghiệp
vụ cho đội ngũ sản xuất, nhƣng việc làm này cũng đóng góp một phần quan
63
trọng trong việc thay đổi tƣ duy, khơi gợi niềm cảm hứng sáng tạo trong quá
trình làm nghề của họ.
- Về phía công chúng
Là một đơn vị “sinh sau đẻ muộn”, kênh VOVTV ra đời đã có sẵn một
bộ phận thính giả của các Hệ phát thanh khác thuộc Đài TNVN đón nhận.
Chính tình cảm, sự yêu mến dành cho những chƣơng trình phát thanh mà Đài
TNVN sản xuất là nhịp cầu giúp thính giả biết đến kênh VOVTV, theo dõi và
ủng hộ, góp ý cho nội dung chƣơng trình của kênh.
Chƣơng trình Thời sự trên kênh VOVTV luôn đƣợc khán giả tận tình
góp ý để nâng cao chất lƣợng chƣơng trình. Chẳng hạn, khán giả thƣờng
xuyên gọi điện để nêu ý kiến về việc chữ của tiêu đề các tin, bài (title) nhỏ
quá, khó đọc đƣợc; một số tiêu đề, nội dung tin... còn để lọt lỗi chính tả; sai
ngày tháng, tên địa danh, địa điểm v.v... Trung bình mỗi ngày, Phòng Thƣ ký
- Đạo diễn phát sóng của kênh VOVTV nhận đƣợc từ 8 - 10 cuộc gọi góp ý,
thắc mắc của khán giả, trong đó có khoảng 2 - 3 cuộc gọi có liên quan đến
Chƣơng trình Thời sự.
2.4.2. Nguyên nhân hạn chế
Để một chƣơng trình tin tức thời sự tạo đƣợc tiếng vang không hề dễ
dàng, đặc biệt lại là với định hƣớng theo nội dung thông tin chính trị - tổng
hợp: vừa phải đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao phó, nhƣng đồng
thời cũng phải thỏa mãn nhu cầu thông tin thời sự của khán giả khắp mọi
vùng miền của Tổ quốc.
Tuy nhiên, với những khó khăn, bất cập còn tồn tại, thực sự rất khó để
Chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV vừa có thể vừa hoàn thành nhiệm vụ
chính trị, vừa đảm bảo nội dung hấp dẫn, thu hút công chúng.
Một số nguyên nhân hạn chế có thể kể đến nhƣ:
64
- Một số phóng viên, biên tập viên quen lối tư duy làm truyền hình
truyền thống.
Xu thế chung của truyền hình là cảnh quay phải “đắt”, trong khi lời càng
ít và “sắc” bao nhiêu càng tốt, bổ trợ tốt cho hình chứ không phải hình đi diễn
giải cho lời.
Tuy nhiên, nếu PV, BTV quen lối tƣ duy cũ: viết lời trƣớc rồi quay hình
theo lời, chắc chắn sẽ dẫn đến hệ quả là hình quay về thiếu, không đƣa ra
đƣợc nhiều thông tin, hình quay không chất lƣợng... Khi đó, chắc chắn PV,
BTV sẽ phải viết lời làm sao cho đủ thời lƣợng, còn phần hình sẽ “chạy theo”
nội dung câu chữ: nói đến cái gì, phát hình cái đó; nếu không có hình đúng
nhƣ nội dung của lời đƣa ra thì buộc phải dùng cảnh chung chung để “đắp”
vào. Thậm chí một số trƣờng hợp không thể “đắp” đƣợc nên buộc phải bỏ
phần nội dung đó đi, mặc dù có chứa những chi tiết quan trọng.
Đây là thực trạng vẫn còn tồn tại trong tƣ duy làm nghề của một số
phóng viên, biên tập viên của VOVTV. Điều này khiến sản phẩm truyền hình
khi lên sóng bị lặp hình nhiều, khiến khán giả cảm thấy bị “nhàm” hình bởi
đƣa ra nội dung nhƣng hình ảnh thì lại không đáp ứng đƣợc.
- Kinh phí sản xuất chưa được đầu tư thỏa đáng
Với cơ chế dựa gần nhƣ hoàn toàn vào ngân sách Nhà nƣớc, kinh phí sản
xuất luôn là “bài toán” hóc búa mà Ban lãnh đạo kênh VOVTV luôn phải cân
nhắc xử lý. Mỗi năm kênh đƣợc cấp 18 tỷ phục vụ cho quá trình hoạt động,
bao gồm chi phí phát sóng, mua mới và sửa chữa máy móc thiết bị, kinh phí
sản xuất, quỹ lƣơng, hoạt động đối nội – đối ngoại, công tác hành chính và tất
cả các hoạt động liên quan. Trong khi đó, kênh VTC14 - Đài Truyền hình Kỹ
thuật số VTC - với nguồn nhân lực hơn khoảng gần 100 ngƣời đƣợc cấp kinh
phí mỗi năm khoảng từ 30 - 40 tỷ đồng dành cho việc chi trả tiền lƣơng và sản
xuất chƣơng trình; chi phí mua sắm trang thiết bị thuộc một dự án khác. Đối
65
với kênh VOVTV, với hơn 100 nhân sự, nguồn kinh phí này quả thực rất eo
hẹp, khó có thể đủ cho một kênh truyền hình có thể hoạt động hết công suất,
đạt hiệu quả cao đƣợc.
Có nhiều trƣờng hợp nguồn kinh phí không đủ cho các phóng viên đi sản
xuất, mặc dù đang có rất nhiều đề tài hay cần đƣợc khai thác ngay để kịp tính
thời sự. Do đó, việc thắt chặt chi tiêu, “liệu cơm gắp mắm”, chỉ tung nhân lực
đi sản xuất các tin, bài cực kỳ cần thiết là việc làm thƣờng xuyên tại kênh
VOVTV.
Mặc dù kênh cũng có những nguồn thu từ quảng cáo, thực hiện chƣơng
trình xã hội hóa…, nhƣng nguồn thu này không đƣợc phân phối trực tiếp về
bộ phận tài chính của kênh mà lại “dồn” về Trung tâm Quảng cáo của Đài
Tiếng nói Việt Nam rồi mới đƣợc trích trả một phần cho kênh. Do đó, nguồn
tiền này gần nhƣ không đóng góp gì nhiều vào việc tăng kinh phí sản xuất –
điều tối quan trọng làm nên sự thành công của một kênh truyền hình.
- Nội bộ kênh VOVTV thiếu sự liên kết, hỗ trợ chặt chẽ trong hoạt động
Chƣơng trình Thời sự luôn đƣợc xem là chƣơng trình “đinh” của kênh
VOVTV: thời lƣợng phát sóng trong ngày nhiều nhất, vị trí quan trọng nhất,
đƣợc đầu tƣ nhiều nhất về mọi mặt... Các phòng, ban trong kênh đều có
nhiệm vụ sản xuất tin bài đóng góp cho Chƣơng trình Thời sự.
Tuy nhiên, hoạt động phối hợp sản xuất giữa các phòng, ban của kênh
VOVTV với Nhóm sản xuất Chƣơng trình Thời sự còn nhiều bất cập. TCSX
Thời sự không nắm đƣợc kế hoạch sản xuất của các phòng nội dung khác quá
1 ngày. Trong trƣờng hợp có những dịp lễ, ngày kỷ niệm quan trọng, chƣơng
trình hành động quốc gia... cần sự phối hợp tuyên truyền, Nhóm sản xuất Thời
sự rất bị động trong việc lên khung nội dung chƣơng trình. Nếu biết đƣợc kế
hoạch sản xuất theo tuần của các phòng nội dung, các TCSX Thời sự mới có
thể định rõ đƣợc ngày nào, chƣơng trình nào nên phát sóng tin tức nào, đƣa
66
tin ở mức độ nào, thể loại nào; kết nối giữa các thông tin và mảng nội dung
trong cùng một chƣơng trình nhƣ thế nào cho hay, hiệu quả. Nguyên nhân này
khiến Quy trình sản xuất Chƣơng trình Thời sự VOVTV gặp nhiều khó khăn.
- Sự hỗ trợ sản xuất nội dung giữa các Hệ, Kênh của Đài TNVN chưa
thực sự tích cực
Với định hƣớng phát triển thành một cơ quan báo chí đa phƣơng tiện
mang tầm cỡ quốc gia, Đài Tiếng nói Việt Nam cần có cơ chế quản lý, tận
dụng triệt để hạ tầng kỹ thuật cũng nhƣ nguồn nhân lực dồi dào để thiết lập
một guồng máy sản xuất có năng suất lớn. Tuy nhiên, điều bất cập hiện nay là
các bộ phận sản xuất nội dung của Đài chƣa thực sự liên kết chặt chẽ với
nhau, gây lãng phí về nhiều mặt. Không lạ khi trong cùng một sự kiện, ngƣời
ta bắt gặp cả phóng viên phát thanh đi làm tin cho Hệ phát thanh, đồng thời
phóng viên truyền hình cũng đến tham gia sản xuất, rồi cả phóng viên báo
mạng, báo in của Đài cũng có mặt.
Hiện nay, Chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV hầu nhƣ chỉ khai thác
thông tin thông qua nội bộ từ Trung tâm tin, báo điện tử VOV và các cơ quan
thƣờng trú; còn các bộ phận sản xuất khác nhƣ Hệ VOV1, VOV2, VOV3,
VOV4, VOV5, VOV-GT, báo in VOV... hầu nhƣ không có sự liên kết hoạt
động nào. Đây là sự lãng phí to lớn đối với một cơ quan báo chí Quốc gia có
đầy đủ yếu tố phát triển lên tầm vóc Tòa soạn Hội tụ.
Hơn nữa, trong mối quan hệ liên kết với Trung tâm tin lẫn các cơ quan
thƣờng trú vẫn còn nhiều bất cập, ở chỗ: Nhóm sản xuất Chƣơng trình Thời
sự VOVTV luôn rất bị động trong việc nắm đƣợc kế hoạch sản xuất của các
đơn vị khác thuộc Đài. Họ chỉ có thể biết đƣợc các đơn vị khác cung cấp cho
mình tin, bài nào khi nhận đƣợc email về nội dung bản text và video clip tác
phẩm mà các phóng viên thuộc những đơn vị này đi sản xuất về. Chính vì
vậy, Chƣơng trình Thời sự VOVTV luôn lâm vào tình trạng “có gì dùng nấy”
chứ không đƣợc chuẩn bị sẵn kế hoạch nội dung phát sóng cụ thể.
67
*Tiểu kết chương 2
Bằng các phƣơng pháp: Nghiên cứu tài liệu, phỏng vấn sâu, quan sát trực
quan, khảo sát thống kê…, Chƣơng 2 của luận văn đã trình bày về thực trạng
sản xuất Chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV dƣới góc độ đa phƣơng tiện
cũng nhƣ thực trạng mối liên kết giữa kênh VOVTV với các Hệ, Kênh khác
thuộc Đài Tiếng nói Việt Nam.
Trong đó, luận văn đã trình bày quy trình sản xuất Chƣơng trình Thời sự,
kênh VOVTV, làm rõ những ƣu điểm, hạn chế của chƣơng trình cũng nhƣ
chất lƣợng nội dung, hình thức của Chƣơng trình Thời sự trong phạm vi thời
gian khảo sát từ tháng 6/2013 đến tháng 06/2014. Đặc biệt, qua nghiên cứu
phƣơng thức sản xuất Chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV, luận văn cho
thấy những bất cập về cơ cấu tổ chức, nhân sự, cách thức tổ chức sản xuất của
kênh đồng thời chỉ ra nguyên nhân của những bất cập đó.
Trong chƣơng 3, chúng tôi sẽ tiến hành đƣa ra các giải pháp nhằm nâng
cao chất lƣợng Chƣơng trình Thời sự VOVTV nói riêng, các chƣơng trình
đƣợc sản xuất theo phƣơng thức đa phƣơng tiện tại kênh nói chung.
68
Chƣơng 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NÂNG CAO HIỆU QUẢ
SẢN XUẤT CHƢƠNG TRÌNH TRÊN KÊNH VOVTV NHÌN TỪ
GÓC ĐỘ TRUYỀN THÔNG ĐA PHƢƠNG TIỆN
3.1. Cơ sở đề xuất
3.1.1. Truyền thông đa phương tiện là xu thế tất yếu tại các cơ quan báo chí
Với lợi thế là cơ quan báo chí trung ƣơng, lại nắm giữ trong tay đầy đủ
các loại hình báo chí - truyền thông đại chúng, việc sản xuất chƣơng trình trên
nền tảng đa phƣơng tiện là điều tất yếu đối với bất kỳ cơ quan báo chí nào có
điều kiện nhƣ Đài TNVN.
Với quy mô phủ sóng toàn quốc, các kênh sóng chuyên biệt về nội dung
thông tin, hệ thống cộng tác viên cũng nhƣ số lƣợng lớn các cơ quan thƣờng
trú khắp đất nƣớc và cả trên thế giới đang không ngừng tăng thêm, Đài
TNVN có nhiều điều kiện để phát triển thành một cơ quan báo chí đa phƣơng
tiện hùng mạnh.
Hơn nữa, vào năm 2008, Đài TNVN cũng đã thành lập Trung tâm tin -
đầu mối tổ chức sản xuất tin, bài cung cấp cho các hệ phát thanh và phát
thanh có hình, báo Tiếng nói Việt Nam, báo điện tử VOVNews của Đài
TNVN về chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và
Nhà nƣớc; phản ánh nhanh nhạy, kịp thời những vấn đề thời sự, kinh tế, văn
hóa, xã hội; an ninh, quốc phòng, đối ngoại trong nƣớc và quốc tế… Đây là
đơn vị đóng vai trò sản xuất, cung cấp nguồn thông tin và tƣ liệu rất lớn cho
toàn bộ Đài TNVN trong suốt thời gian từ khi thành lập đến nay.
Chính vì vậy, không chỉ tại kênh VOVTV mà ngay cả với những hệ phát
thanh và kênh khác thuộc Đài TNVN, việc sản xuất chƣơng trình dựa trên mô
hình truyền thông đa phƣơng tiện chính là xu thế khách quan, cần đƣợc tạo
điều kiện phát triển hơn nữa.
69
3.1.2. Nhu cầu tiếp nhận sản phẩm truyền thông nói chung, truyền hình
nói riêng theo phương thức đa phương tiện của công chúng hiện đại
Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, các phƣơng tiện truyền thông
hiện đại đang là công cụ tốt nhất để giúp cho báo chí truyền tải một lƣợng
thông tin khổng lồ đến với công chúng. Cùng với tốc độ phát triển của khoa
học, công nghệ đã tạo cho công chúng nhiều cơ hội để tiếp cận với báo chí.
Tiện ích của các phƣơng tiện truyền thông mới đã góp phần tạo ra những
nhóm công chúng mới với những nhu cầu ngày càng cao hơn. Không chỉ vậy,
công chúng còn là đối tác của cơ quan báo chí, là nguồn cung cấp dữ liệu và
nguồn nuôi dƣỡng báo chí.
Mỗi một loại hình báo chí có những ƣu, nhƣợc điểm riêng biệt, góp phần
tạo thành đặc trƣng cho từng loại hình. Những đặc trƣng đó lại phù hợp với
nhu cầu tiếp nhận cho từng nhóm công chúng khác nhau, đƣợc phân biệt theo
độ tuổi, giới tính, vùng miền, trình độ... Chính vì vậy, cơ quan báo chí nào sở
hữu nhiều loại hình truyền thông sẽ có cơ hội nắm bắt đƣợc lƣợng công chúng
đông đảo hơn, thỏa mãn nhu cầu công chúng tốt hơn. Tƣơng tự, với những
sản phẩm truyền hình đƣợc sản xuất theo phƣơng thức đa phƣơng tiện, công
chúng có cơ hội đƣợc tiếp cận với nhiều thông tin hơn, đƣợc thỏa mãn nhiều
giác quan hơn chứ không chỉ dừng lại ở đọc, nghe, hoặc xem...
Với những lý do nhƣ vậy, công chúng trong thời kỳ truyền thông đa
phƣơng tiện càng có nhiều “quyền lực” hơn trong việc lựa chọn kênh thông
tin phù hơp với nhu cầu của họ.
3.1.3. Sự quan tâm của lãnh đạo Đài Tiếng nói Việt Nam tới sản xuất
chương trình truyền hình theo phương thức đa phương tiện
Ngay từ khi mới thành lập kênh VOVTV, Lãnh đạo Đài TNVN đã chủ
trƣơng tạo ra và duy trì các mối liên kết sản xuất, trao đổi thông tin giữa các
đơn vị nội dung trong Đài, giữa các hệ phát thanh với kênh truyền hình, giữa
70
các cơ quan thƣờng trú trong, ngoài nƣớc với kênh VOVTV. Chính vì vậy, sự
ra đời của kênh VOVTV có vai trò nhƣ một sự đánh dấu bƣớc phát triển mới
trong quá trình xây dựng một cơ quan báo chí đa phƣơng tiện cấp trung ƣơng:
từ một cơ quan báo chí sở hữu loại hình chủ lực là phát thanh, cộng thêm báo
in và báo mạng điện tử, tiếp theo là sự xuất hiện của loại hình truyền hình.
Trong “bộ máy khổng lồ” này, Trung tâm tin của Đài TNVN đƣợc xem
nhƣ là “cái nôi” thông tin - nơi sản sinh và phân phối tin tức về cho các đơn vị
nội dung khác của Đài, còn các cơ quan thƣờng trú, các đơn vị báo chí cùng
báo đài địa phƣơng là những “kho” tin tức vệ tinh, đóng vai trò cung cấp
thông tin theo nhu cầu của từng đơn vị.
Trong quá trình xây dựng và phát triển, đến thời điểm hiện tại, có thể
khẳng định rằng kênh VOVTV đã thực hiện rất tốt việc liên kết, trao đổi sản
xuất thông tin với các đơn vị khác thuộc Đài TNVN, đặc biệt là Chƣơng trình
Thời sự.
3.2. Một số đề xuất
3.2.1. Thường xuyên có cơ chế đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ sản xuất chương
trình đa phương tiện
3.2.1.1. Đào tạo các phóng viên đa phương tiện
Trong xã hội hiện đại, công chúng báo chí có xu thế phát triển theo
hƣớng thích đọc, nghe và xem những loại thông tin ngắn gọn, súc tích, giàu
hình ảnh, gợi cảm xúc… Muốn đạt đƣợc hiệu quả nhƣ vậy, kênh VOVTV nói
chung, Chƣơng trình Thời sự nói riêng cần một đội ngũ những nhà thiết kế
chuyên nghiệp, những đạo diên đa năng để có thể cùng một lúc chia tách
thành các nhóm xử lý hình ảnh, ánh sáng, âm thanh, hình vẽ, đồ họa, biểu
đồ… dành cho không chỉ truyền hình mà còn có thể dùng đƣợc cho báo viết,
báo nói và báo điện tử của Đài TNVN. Các phóng viên, biên tập viên của
Chƣơng trình Thời sự cần tìm ra nhiều cách tiếp cận công chúng của mình,
71
tìm cách để chƣơng trình trở nên gần gũi hơn với khán giả, thu hút, hấp dẫn
họ tƣơng tác nhiều hơn với chƣơng trình của mình.
Đội ngũ làm báo chí đa phƣơng tiện phải có trình độ ngoại ngữ, tin học
tốt, năng động, nhanh nhạy, kiến thức sâu rộng và quan trọng là phải có kinh
nghiệm xử lý các loại thông tin đa phƣơng tiện.
Qua đó, Đài TNVN phải có cơ chế đào tạo liên tục cho phóng viên, từ
cấp kỳ cựu đến những ngƣời mới đƣợc tuyển vào để họ hiểu rõ cách viết cho
truyền hình, tự hình thành cho mình tƣ duy nhà báo truyền hình, đặc biệt là
cách viết tin bài sao cho phù hợp với từng loại hình truyền thông của Đài;
đồng thời cần đảm bảo mọi phóng viên đều hiểu biết rõ về đối tƣợng mục tiêu
của mỗi loại hình báo chí, đối tƣợng công chúng đó cần biết thông tin nào, họ
sử dụng loại hình báo chí đó ra sao.
Nói cách khác, trong quá trình làm báo đa phƣơng tiện, các phóng viên,
biên tập viên phải có khả năng tác nghiệp tốt ở các loại hình báo chí khác
nhau. Cùng một đề tài, phóng viên có thể viết bài phát trên truyền hình với
hình quay minh họa, nhƣng cũng có thể “biến” bài viết đó sang bài dành cho
phát thanh với cách viết giàu hình ảnh, mô tả tỉ mỉ nhƣng cũng cần ngắn gọn,
tƣờng minh và có tiếng động hiện trƣờng đi kèm; hoặc một bài báo khác với
ảnh minh họa, với số liệu thống kê chi tiết, đầy đủ và phân tích sâu sắc dành
cho báo in; cùng một bài báo khác dành cho báo mạng với nhiều ảnh đi kèm
và nhiều hộp box-text chứa thông tin bên lề và nhiều đƣờng link để tham khảo
những nội dung có liên quan.
Để làm đƣợc điều này, một phần đòi hỏi các phóng viên, biên tập viên
phải đƣợc đào tạo và đào tạo lại một cách chuyên nghiệp trên thực tế sống
động. Đồng thời, họ cũng phải đƣợc trang bị đẩy đủ các thiết bị kỹ thuật cần
thiết nhƣ máy ghi âm kỹ thuật số thông thƣờng hay chuyên dụng, máy ghi âm
qua điện thoại, qua Internet,… đi kèm với những bộ phần mềm chuyên biệt.
72
Đồng thời, giữa các phƣơng tiện truyền thông phải có sự quảng bá chéo lẫn
nhau để công chúng nắm rõ nội dung chƣơng trình của kênh.
Để có thể đặt ra trách nhiệm đối với phóng viên trong một cơ quan báo
chí đa loại hình thì cần đặt ra các mức chỉ tiêu sản xuất nội dung dự kiến cụ
thể (số lƣợng tin bài một ngày và tần số cập nhật). Chuyển đổi những định
mức này thành các số liệu tƣơng ứng, ví dụ cần bao nhiêu phóng viên, làm
việc bao nhiêu giờ, cần đào tạo những kỹ năng gì. Đồng thời, mọi phóng viên
phải biết sử dụng tất cả những công cụ trong hệ thống sản xuất của kênh và hệ
thống quản lý nội dung trực tuyến để đăng phát tin bài trên mọi loại hình báo
chí của Đài. Cùng với đó, kênh VOVTV cũng cần có các chế độ nhuận bút,
mức lƣơng thƣởng xứng đáng để khuyến khích các phóng viên hoàn thành tốt.
Nhiều cơ quan báo chí hiện nay đều có thể có những phóng viên chuyên
nghiệp, ngƣời làm báo tài năng, nhƣng để phát huy đƣợc hết năng lực, sở
trƣờng thì họ phải đƣợc gieo vào mảnh đất ƣơm trồng tốt. Vì vậy, vấn đề đào
tạo họ luôn hết sức cần thiết và cần đƣợc chú trọng. Yếu tố quan trọng của
việc đào tạo đó là cần trang bị cho ngƣời làm báo tƣ duy lý luận khoa học,
biện chứng. Chính tƣ duy lý luận khoa học có giá trị định hƣớng cho hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn cũng nhƣ đóng vai trò cơ sở phƣơng
pháp luận để phóng viên đa năng có thể tạo ra những tác phẩm có chất lƣợng
tốt, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của độc giả.
3.2.1.2. Đào tạo kỹ năng quản lý đối với đội ngũ lãnh đạo, tổ chức sản xuất
Do định hƣớng về nhu cầu đối với phóng viên báo chí và với xã hội thay
đổi, nên phƣơng pháp đào tạo và việc tổ chức, quản lý phóng viên cũng cần
đƣợc vận động, biến đổi cho phù hợp với bản thân ngƣời làm báo. Và do
phóng viên, biên tập viên là những ngƣời thực hiện công việc hàng ngày trong
cơ quan báo chí nên cần cho họ có đủ thời gian và những điều kiện cần và đủ
73
để họ cùng một lúc làm đƣợc cả công việc ở báo hình, phát thanh lẫn báo
mạng, báo viết.
Để phát huy sở trƣờng, hạn chế sở đoản của ngƣời khác, hình thành các
nhóm ngƣời khác nhau để tòa soạn hoạt động tốt, ngƣời lãnh đạo cơ quan báo
chí đa phƣơng tiện cần tạo ra một môi trƣờng làm việc thật cởi mở với nhau,
không chỉ hàng ngày mà hàng giờ, với 3 tiêu chí: Cộng đồng phải khuyến
khích, giúp đỡ, tạo điều kiện, chan hòa; Cá nhân phải thể hiện, trình bày ý
kiến riêng, hết mình cho công việc; tập thể và mọi cá nhân phải luôn gắn bó,
toàn tâm toàn ý, sống chết với thƣơng hiệu.
Cơ quan báo chí đa phƣơng tiện còn cần những ngƣời có kỹ năng quản
lý nhân sự. Đó là những ngƣời biết rõ đặc điểm của các loại hình báo chí cũng
nhƣ ƣu nhƣợc điểm của từng nhân viên để có sự chỉ đạo hiệu quả công việc
cho các phóng viên, biên tập viên đa phƣơng tiện.
Trong kỹ năng quản lý nhân sự thì điều quan trọng chính là “dụng nhân
nhƣ dụng mộc” và những ngƣời đặc biệt phải đƣợc quản lý, đối xử một cách
đặc biệt, cũng đồng nghĩa với ngƣời lãnh đạo giỏi là ngƣời không phải tự
mình làm nhiều việc. Điều đó cũng có nghĩa là phải làm cho họ hiểu họ đang
làm trong một tập thể, phải tạo ra môi trƣờng làm việc, có những quy tắc tối
thiểu phải tuân thủ.
Riêng đối với kênh VOVTV, cần nâng cao hơn nữa trình độ đội ngũ
TCSX, đặc biệt là TCSXC: am hiểu và có kỹ năng biên tập cho các loại hình
báo chí khác nhau; nhanh nhẹn, có khả năng quản lý, điều hành tốt; nhạy bén,
phản ứng nhanh trƣớc mọi tình huống, đặc biệt là những tình huống phát sinh
trong quá trình sản xuất; có bản lĩnh vững vàng, am hiểu nhiều mặt của đời
sống; có kinh nghiệm, kiến thức ở nhiều lĩnh vực.
74
3.2.2. Đổi mới quy trình sản xuất gắn chặt với phương thức đa phương tiện
Bên cạnh chất lƣợng nguồn nhân lực, một quy trình sản xuất chuyên
nghiệp chính là chìa khóa giúp biến đổi căn bản và toàn diện chất lƣợng nội
dung Chƣơng trình Thời sự của kênh VOVTV.
Quy trình sản xuất chƣơng trình tin tức thời sự hiệu quả phải đảm bảo
tiêu chí: đồng bộ, nhất quán về mặt điều động sản xuất và chịu trách nhiệm về
nội dung sản xuất. Trong đó, vai trò “hạt nhân”, mang tính then chốt chính là
ngƣời Tổ chức sản xuất (TCSX): là cầu nối giữa Ban lãnh đạo với ê-kip sản
xuất, biên tập nội dung và ngƣợc lại.
Có thể hình dung quy trình sản xuất lý tƣởng đó qua mô hình sau:
75
CHỊU TRÁCH NHIỆM SẢN XUẤT
TỔ CHỨC SẢN XUẤT CHUNG
PHÒNG TIN TRONG NƢỚC
PHÒNG TIN QUỐC TẾ
PHÒNG CHUYÊN ĐỀ
PHÒNG TIN CHÍNH TRỊ
CÁC CƠ QUAN THƢỜNG TRÚ
CÁC ĐƠN VỊ CỘNG TÁC VIÊN
CÁC ĐƠN VỊ SX KHÁC CỦA ĐÀI
TRỢ LÝ SẢN XUẤT
BIÊN TẬP VIÊN TRONG NƢỚC
BIÊN TẬP VIÊN TRONG NƢỚC
BIÊN TẬP VIÊN TRONG NƢỚC
BIÊN TẬP VIÊN QUỐC TẾ
KỸ THUẬT DỰNG
THÀNH PHẨM PHÁT SÓNG
DẪN CHƢƠNG TRÌNH, THƢ KÝ TRƢỜNG QUAY, KỸ THUẬT TRƢỜNG QUAY, QUAY PHIM TRƢỜNG QUAY
PHÁT SÓNG
PHÒNG VĂN NGHỆ
Hình 3.1. Quy trình sản xuất Chương trình Thời sự theo đề xuất
76
Theo quy trình này, CTNSX vẫn là vị trí cao nhất trong một kíp sản
xuất; TCSXC vẫn theo sát tất cả các khâu trong quy trình. Tuy nhiên, điểm
khác ở đây so với quy trình mà kênh VOVTV đang áp dụng, đó chính là sự
chủ động của TCSXC trong tất cả các khâu:
- TCSXC có nhiệm vụ làm việc với tất cả các đơn vị sản xuất, các nguồn
tin… để nắm rõ những đầu tin sẽ có và sắp có;
- Đƣợc quyền “đặt hàng” các đơn vị nói trên sản xuất nội dung theo yêu cầu;
- Kiểm soát nội dung và tiến độ dựng tin, bài của các BTV;
- Làm việc với Trợ lý sản xuất để lập vỏ kịch bản chƣơng trình;
- Kiểm tra chất lƣợng nội dung thành phẩm phát sóng;
- Kiểm soát khâu dẫn chƣơng trình.
Ngoài ra, các vị trí khác cũng có những sự thay đổi: không còn sự phân
biệt giữa BTND và BTDH nữa, thay vào đó chỉ có vị trí BTV trong nƣớc và
BTV quốc tế đảm nhận những đầu việc nhƣ:
- Chịu trách nhiệm khai thác, biên tập nội dung các tin tức từ các nguồn
theo chỉ đạo của TCSXC;
- Chịu trách nhiệm nhận tin, bài từ các đơn vị CTV gửi về, biên tập nội
dung các tin, bài đó;
- Dựng hình tin, bài khai thác đƣợc từ các nguồn, tin bài CTV…
Nhƣ vậy, yêu cầu của BTV trong quy trình sản xuất lý tƣởng là phải biết
dựng hình thành thạo chứ không chỉ dừng lại ở kỹ năng khai thác, biên tập
thông tin.
Vị trí Trợ lý sản xuất là vị trí mới so với quy trình sản xuất Thời sự của
kênh VOVTV. Đây là vị trí sẽ luôn theo sát TCSXC trong tất cả các khâu: từ
theo dõi dự kiến tin bài, trợ giúp TCSXC trong vấn đề đặt hàng với các đơn vị
sản xuất nội dung cho đến lập vỏ kịch bản, làm việc với trƣờng quay và các vị
trí liên quan (kỹ thuật trƣờng quay, thƣ ký trƣờng quay (đôi khi Trợ lý sản
77
xuất cũng có thể kiêm nhiệm luôn vị trí này), dẫn chƣơng trình, quay phim
trƣờng quay…) để đảm bảo khâu lên sóng đƣợc trơn tru, thuận lợi; bàn giao
file phát sóng cho Tổng khống chế. Trợ lý trƣờng quay còn có thể kiêm thêm
một công việc khác nữa sau khi chƣơng trình đã hoàn tất phát sóng, đó là
thống kê chi tiết nội dung, thể loại… của các tin, bài đã phát sóng để làm cơ
sở tính định mức (thù lao) cho các vị trí trong e-kip cũng nhƣ các đơn vị sản
xuất nội dung.
Còn vị trí Kỹ thuật dựng thay vì tốn đến 3 ngƣời nhƣ hiện nay quy trình
sản xuất Thời sự kênh VOVTV thì chỉ cần 1 - 2 ngƣời, có nhiệm vụ “chuốt”
lại hoàn chỉnh các tin, bài mà các BTV trong nƣớc và quốc tế đã dựng; thêm
các hiệu ứng, làm các bảng biểu, vẽ đồ thị (nếu cần)…
Với quy trình này, TCSXC đƣợc sự chủ động tối đa, đồng thời các vị trí
còn lại đều nắm bắt đƣợc sơ bộ nội dung chƣơng trình sắp sản xuất, từ đó chủ
động hơn trong công việc. Tuy nhiên, để quy trình này phát huy tối đa hiệu
quả, cần phải có thêm các cuộc họp giao/nhận đề tài; nhận xét, rút kinh
nghiệm chƣơng trình đã lên sóng; họp lên vỏ để các thành viên thực sự nắm
rõ đƣợc yêu cầu công việc của chƣơng trình hôm đó là gì.
3.2.3. Kiện toàn kỹ thuật phục vụ sản xuất chương trình
Để nâng cao hơn nữa chất lƣợng về mặt kỹ thuật đòi hỏi kênh VOVTV
phải đầu tƣ nhiều hơn nữa vào việc kiện toàn trang thiết bị hiện có, chƣa kể
phải đầu tƣ thay và mua mới nhiều thiết bị phục vụ cho công tác sản xuất:
nâng cấp hệ thống máy dựng, máy khai thác biên tập nội dung và hệ thống
phát sóng; đồng bộ hóa máy móc ở các bộ phận khác nhau; nâng cao chất
lƣợng máy quay phim, hệ thống máy móc thiết bị trƣờng quay; cải thiện hệ
thống mạng để đạt tốc độ tải dữ liệu và truy cập nhanh chóng hơn v.v...
Giải quyết đƣợc vấn đề này trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn
quả thực là bài toán hóc búa đối với kênh và Đài TNVN. Hơn nữa, vấn đề
78
kinh tế - tài chính còn liên quan đến rất nhiều mặt khác, chẳng hạn: muốn tiết
kiệm đƣợc chi phí sản xuất thì phải thay đổi cơ cấu tổ chức, nhân sự theo
hƣớng cộng gộp, tinh giản. Để thay đổi đƣợc điều này không phải là trong một
sớm một chiều, cũng không thể do một mình “ý chí chủ quan” của kênh
VOVTV đƣợc, mà phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác, kể cả vĩ mô lẫn vi mô.
Một điểm quan trọng khác liên quan đến việc hƣớng tới xây dựng mô
hình VOV trực tuyến: việc phổ biến các chƣơng trình đa phƣơng tiện trên
mạng Internet đòi hỏi cấu hình cũng nhƣ dung lƣợng lƣu trữ của máy chủ rất
lớn, vì file video, audio cũng nhƣ hình ảnh chiếm bộ nhớ rất nhiều. Do vậy,
muốn nâng cao chất lƣợng truyền tải, cần thiết phải trang bị máy chủ cấu hình
mạng, cùng lúc chịu đựng đƣợc hàng chục ngàn ngƣời truy cập một lúc với bộ
nhớ hàng chục terabyte (tƣơng đƣơng với vài nghìn gigabyte) để lƣu trữ dữ
liệu. Nếu đã nghĩ tới viêc xây dựng một trang web hỗ trợ tính năng đa phƣơng
tiện thì chắc chắn phải đầu tƣ xứng đáng cho các thiết bị phần cứng này.
3.2.4.Tăng đầu tư tài chính để sản xuất các chương trình truyền hình đa
phương tiện
3.2.4.1. Hỗ trợ cho kênh VOVTV
Để có thể giải quyết đƣợc những khó khăn trong chi phí hoạt động
không thể chỉ một mình kênh VOVTV tự giải quyết đƣợc. Hoạt động của
kênh phụ thuộc rất nhiều vào cơ chế của Đài TNVN, do đó, để kênh có thể
đảm bảo vận hành thuận lợi, bắt buộc Đài TNVN phải có những chính sách
hợp lý. Đài TNVN cần tạo cơ chế thuận lợi hơn nữa để kênh VOVTV có
thêm nguồn thu thay vì chỉ hoạt động dựa trên kinh phí của Đài cấp. Chẳng
hạn nhƣ nguồn thu từ quảng cáo của kênh VOVTV, Đài TNVN cần để cho
kênh đƣợc quyền sử dụng cho hoạt động của mình, thay vì nộp hết về Trung
tâm Quảng cáo của Đài nhƣ hiện nay. Trong bối cảnh kinh phí sản xuất eo
79
hẹp, nguồn thu này sẽ đóng góp một phần lớn giúp kênh VOVTV có thêm chi
phí hoạt động, cải thiện chất lƣợng nội dung nhanh chóng hơn.
Mặt khác, kênh VOVTV cũng cần đƣợc tạo điều kiện để mời gọi đối tác
bên ngoài tham gia xã hội hóa nội dung chƣơng trình bằng cách cho thuê
sóng; mua các chƣơng trình bên ngoài để phát... với điều kiện phải kiểm
duyệt chặt chẽ chất lƣợng nội dung. Với cách làm này, kênh không tốn chi phí
sản xuất mà vẫn có chƣơng trình để phát, đồng thời có thêm nguồn thu đầu tƣ
cho hoạt động sản xuất.
3.2.4.2. Tăng thù lao cho đội ngũ phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên
Đầu tiên, Đài TNVN cần hỗ trợ tài chính cho kênh nhiều hơn nữa để có
thể giải quyết thu nhập chính đáng cho các phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật
viên…, góp phần giải quyết những bất cập trong thu nhập của họ, chẳng hạn
nhƣ tình trạng làm nhiều, công việc vất vả nhƣng thù lao không xứng đáng
với công sức bỏ ra; phóng viên ra hiện trƣờng làm việc vất vả nhƣng thù lao
lại quá thấp v.v… Có nhƣ vậy mới khích lệ, động viên ngƣời lao động hăng
say với công việc, chịu khó tìm tòi sáng tạo nên các tác phẩm hay hơn.
Ngoài ra, kênh VOVTV cũng cần có cơ chế trả nhuận bút cho các cộng
tác viên, khán giả gửi tin bài cho kênh. Điều này sẽ thu hút sự hợp tác của
khán giả với kênh, khuyến khích họ tiếp tục gửi tin, bài, làm phong phú thêm
nội dung chƣơng trình cho kênh.
Đối với máy móc, trang thiết bị kỹ thuật, Đài TNVN nói chung và
VOVTV nói riêng cần chủ động thu hút nguồn lực xã hội hóa, thông qua việc
cho thuê thời lƣợng phát sóng, kêu gọi tài trợ, quảng cáo, hoặc nhận sản xuất
các chƣơng trình phù hợp với cơ sở nhân lực, vật lực mà kênh hiện có. Qua
đó, kênh VOVTV có thể tạo thêm đƣợc nguồn tài chính, góp phần tăng cƣờng
năng lực kỹ thuật của mình cũng nhƣ nhiều mặt khác.
80
3.2.5. Tăng cường hợp tác, liên kết sản xuất giữa các bộ phận trong Đài
Tiếng nói Việt Nam và kênh VOVTV
3.2.5.1. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các phòng, ban trong kênh
Để cải thiện chất lƣợng chƣơng trình truyền hình đa phƣơng tiện, một
trong những điều kiện cần là sự phối hợp giữa các phòng, ban trong kênh
VOVTV phải thay đổi. Thay vì phân chia theo bề ngang nhƣ hiện nay, kênh
nên bố trí vị trí trong quy trình sản xuất Chƣơng trình Thời sự theo chiều dọc:
các phòng, ban nội dung sẽ “bám” xung quanh Chƣơng trình Thời sự, sản
xuất tin, bài cho chƣơng trình dƣới sự điều động của một TCSXC. Có nhƣ
vậy, các TCSX Chƣơng trình Thời sự mới nắm bắt đƣợc nội dung cần thiết để
hình thành khung nội dung trƣớc khi bắt tay vào xây dựng kịch bản.
Mặt khác, các phòng, ban khác cũng phải nhận thức rõ rằng việc hỗ trợ
cho Chƣơng trình Thời sự là việc làm cần thiết, bởi đây cũng là nhiệm vụ
chính trị của Đài TNVN, bởi nếu chƣơng trình càng hay, càng hấp dẫn bao
nhiêu thì lại càng thực hiện tốt hơn yêu cầu chính trị, tƣ tƣởng mà cấp trên
giao phó cho lãnh đạo Đài, lãnh đạo kênh.
Kênh VOVTV cũng cần xây dựng chỉ tiêu cho các phòng, ban trong việc
cung cấp thông tin cho Chƣơng trình Thời sự, chẳng hạn: mỗi ngày “khoán”
chỉ tiêu bao nhiêu tin, bài; thời hạn nộp muộn nhất trƣớc giờ phát sóng bao
nhiêu thời gian; quy chế thƣởng, phạt nếu hoàn thành và không hoàn thành...
để các phòng, ban chủ động lên kế hoạch sản xuất, đảm bảo mục tiêu đề ra;
đồng thời TCSXC Thời sự cũng nắm đƣợc nội dung, ƣớc lƣợng đƣợc thời
lƣợng phát sóng để có những phƣơng án bố trí, sắp xếp, thay đổi hợp lý.
3.2.5.2. Tăng cường sự hỗ trợ, liên kết sản xuất giữa kênh VOVTV với các bộ
phận sản xuất khác trong Đài Tiếng nói Việt Nam
Với lợi thế tiềm năng to lớn mà rất ít cơ quan báo chí tại Việt Nam có
đƣợc, VOVTV rất cần một sự liên kết khai thác, sản xuất thông tin chặt chẽ,
81
quy củ và mạnh mẽ hơn nữa với các hệ và kênh phát thanh khác trong Đài
TNVN. Để làm đƣợc điều này, Đài TNVN cần có quy chế quy định sự phối
hợp giữa các đơn vị sản xuất nội dung trong Đài với nhau, đồng thời giao
khoán số lƣợng đầu tin, bài hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng... cho từng đơn
vị để sản xuất cho kênh VOVTV. Đài cũng cần có cơ chế thù lao thích hợp để
chi trả cho phóng viên của các đơn vị khác khi sản xuất tác phẩm truyền hình
cho kênh, bởi quá trình thực hiện một tin, bài phát sóng trên vô tuyến đòi hỏi
mất nhiều công sức, tƣ duy tổng hợp hơn so với khi sản xuất cho phát thanh,
báo in hay mạng điện tử...
82
* Tiểu kết chương 3
Trong chƣơng 3 này, chúng tôi đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả các chƣơng trình đa phƣơng tiện trên kênh VOVTV. Các giải pháp
bao gồm giải pháp về mặt quản lý, cơ cấu tổ chức; giải pháp về mặt nội dung,
hình thức; về quy trình sản xuất cũng nhƣ các giải pháp về mặt kỹ thuật, tài
chính. Những giải pháp này hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc nâng
cao hiệu quả sản xuất, khai thác các chƣơng trình đa phƣơng tiện.
Trong những giải pháp này, chúng tôi cho rằng giải pháp về mặt thay đổi
quy trình sản xuất, đào tạo và đào tạo lại nhân lực, tăng cƣờng sự hỗ trợ, phối
hợp sản xuất giữa các đơn vị thuộc Đài Tiếng nói Việt Nam là những giải
pháp quan trọng nhất. Đó chính là những cái sẽ làm thay đổi căn bản chất
lƣợng nội dung các chƣơng trình phát sóng trên kênh VOVTV. Còn giải pháp
về mặt quản lý, cơ cấu tổ chức là giải pháp cần thiết để phát triển một hệ
thống truyền thông đa phƣơng tiện ổn định; giải pháp về mặt kỹ thuật và tài
chính là tiền đề để đảm bảo cho sƣ phát triển bền vững của kênh VOVTV.
83
KẾT LUẬN
Phát triển tòa soạn đa phƣơng tiện là xu hƣớng mà các cơ quan báo chí
tại Việt Nam hiện nay đã và đang xây dựng. Tuy nhiên, trong giai đoạn này,
sự phát triển đó đang tạm thời ở bƣớc “quá độ”: vẫn còn nhiều khó khăn và
thách thức về rất nhiều mặt làm giảm tốc độ cũng nhƣ chất lƣợng của quá
trình đa phƣơng tiện hóa. Mặc dù vậy, có thể nhận thấy sự nỗ lực tự thay đổi
mình rất lớn từ phía các cơ quan báo chí để nhanh chóng đạt mục tiêu đa
phƣơng tiện hình thức hoạt động một cách hoàn chỉnh trong bối cảnh còn đầy
rẫy những rào cản về cơ chế, chính sách, nhân lực, tài chính, kinh tế, thậm chí
tƣ tƣởng nhận thức.
Đài TNVN những năm qua đã áp dụng xu thế Truyền thông đa phƣơng
tiện. VOVTV cũng là một trong các đơn vị tiên phong trong lĩnh vực này.
Việc sản xuất chƣơng trình theo phƣơng thức đa phƣơng tiện giúp đa dạng
thông tin, mở rộng thƣơng hiệu cho cơ quan, đồng thời thỏa mãn và phục vụ
nhu cầu công chúng tốt hơn. Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi nghiên cứu
phƣơng thức sản xuất một chƣơng trình cụ thể của kênh VOVTV dƣới góc độ
đa phƣơng tiện.
Trong Chƣơng 1 của luận văn, chúng tôi đã chỉ ra những tiêu chí để phân
biệt đặc trƣng của một chƣơng trình truyền hình đƣợc sản xuất theo phƣơng
thức đa phƣơng tiện so với những chƣơng trình truyền hình truyền thống
khác. Bên cạnh đó, trong chƣơng này, chúng tôi cũng chỉ ra thế mạnh của
chƣơng trình truyền hình sản xuất dƣới góc độ đa phƣơng tiện, những yêu cầu
đặt ra để có thể tổ chức sản xuất thành công chƣơng trình truyền hình dƣới
góc độ đa phƣơng tiện.
Chƣơng 2 của luận văn tiếp tục đi sâu phân tích về cách thức, quy trình
sản xuất Chƣơng trình Thời sự VOVTV thông qua các góc độ đa phƣơng tiện,
qua đó nêu lên những thành công chƣơng trình. Trong đó, đáng chú ý là thành
84
công về mặt đa dạng hóa nội dung chƣơng trình, đảm bảo đúng định hƣớng
hoạt động của Đài TNVN.
Bên cạnh đó, phƣơng thức sản xuất Chƣơng trình Thời sự VOVTV vẫn
còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập về kỹ năng, trình độ của đội ngũ nhân lực
của kênh; hệ thống máy móc còn thiếu, chƣa đồng bộ...
Trên cơ sở đó, trong Chƣơng 3, chúng tôi nêu một số đề xuất nhằm nâng
cao chất lƣợng Chƣơng trình Thời sự VOVTV. Trong số những giải pháp đƣa
ra, giải pháp trọng tâm là phải nâng cao trình độ năng lực cho đội ngũ PV,
BTV, KTV... của kênh; có quy chế chặt chẽ, rõ ràng trong liên kết sản xuất
nội dung giữa các đơn vị của Đài.
Qua việc nghiên cứu phƣơng thức sản xuất Chƣơng trình Thời sự của
kênh VOVTV dƣới góc độ đa phƣơng tiện, đề tài sẽ là cơ sở để lãnh đạo kênh
VOVTV, lãnh đạo Đài TNVN xây dựng lộ trình phù hợp cho tờ báo trong
những năm tiếp theo, đồng thời giúp ngƣời viết và phóng viên, biên tập viên
đang công tác tại kênh VOVTV nói riêng, phóng viên trong các cơ quan báo
chí có mô hình tƣơng tự nói chung có tài liệu phục vụ công việc tại tòa soạn.
Ngoài ra, những đề xuất đƣợc đƣa ra trong luận văn còn nhằm khắc phục
những mặt hạn chế của kênh VOVTV, đồng thời góp phần xây dựng một mô
hình cơ quan báo chí đa phƣơng tiện theo kịp dòng chảy của yêu cầu thông tin
chung trong đời sống xã hội hiện địa, góp phần đƣa báo chí Việt Nam nói
chung và Đài TNVN nói riêng hòa nhập vào dòng chảy của báo chí thế giới./.
85
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Hồng Anh (2012), Báo chí đa phương tiện thời Hội tụ truyền thông
ở Việt Nam hiện nay, Khóa luận tốt nghiệp, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền
2. Lý Hoàng Tú Anh, Mô hình tổ chức tòa soạn đa loại hình của báo An
ninh Thủ đô – thực trạng và vấn đề đặt ra, Luận văn Thạc sĩ Báo chí
học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền
3. Nguyễn Thị Ngọc Ánh, Xu thế và điều kiện thực tế hình thành tập đoàn
truyền thông ở Đài Truyền hình Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Báo chí
học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền
4. Bách khoa toàn thƣ mở Wikipedia,
http://vi.wikipedia.org/wiki/Multimedia
5. Báo cáo tổng kết năm 2013 của Bộ TT&TT, mic.gov.vn,
http://mic.gov.vn/solieubaocao/solieuthongke/baochi/Trang/Soluonganp
hambaochi.aspx, 11/02/2014
6. Hoàng Đình Cúc, Nguyễn Đức Dũng (2006), Những vấn đề của báo chí
hiện đại, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội
7. Dƣơng Xuân Sơn, Đinh Văn Hƣờng, Trần Quang (2005), Cơ sở lý luận
báo chí truyền thông, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội
8. Nguyễn Văn Dững (2011), Báo chí truyền thông hiện đại – Từ hàn lâm
đến đời thường, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
9. Nguyễn Văn Dững chủ biên (2001), Báo chí – Những điểm nhìn từ thực
tiễn, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội
10. Đài Tiếng nói Việt Nam (2005), 60 năm Tiếng nói Việt Nam
11. Đài Tiếng nói Việt Nam, www.tinvov.vn
12. Đài Tiếng nói Việt Nam, www.vovtv.vov.vn
13. Thomas Friedman (2005), Thế giới phẳng, NXB Trẻ, 2008
86
14. G.V.Cudơnhetxốp, X.L Xvích, A.La. Iurôpxki, Báo chí truyền hình,
Tập 1+2, NXB Văn hóa Thông tin, 2004
15. Lê Hải (2012), Xây dựng tập đoàn truyền thông ở Việt Nam, Luận án
Tiến sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền
16. TS. Nguyễn Đức Hạnh (2013), Báo chí trong thời đại truyền thông đa
phƣơng tiện, Báo Văn nghệ, số 25
17. TS. Đinh Thị Thúy Hằng (2008), Báo chí thế giới và xu hướng phát
triển, NXB Thông tấn, Hà Nội
18. PGS. TS. Lƣơng Khắc Hiếu (2013), Lý thuyết Truyền thông, NXB
Chính trị Quốc gia
19. Nguyễn Quý Hoài, Đổi mới mô hình tổ chức hoạt động của tòa soạn
báo in trong cơ quan báo chí đa loại hình, Luận văn Thạc sĩ Báo chí
học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền
20. Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2013), Sự vận động, phát triển của
báo chí, truyền thông trong thời kỳ hội tụ truyền thông, tích hợp phương
tiện, Hà Nội
21. Phạm Thị Hồng, Cách thức đưa tin đa phương tiện trên báo mạng điện
tử ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí
và Tuyên truyền
22. Đào Duy Hứa (chủ nhiệm), Nghiên cứu xây dựng mô hình VOV trực
tuyến, vov.vn, http://nckh.vov.vn/DeTai/0bcac573-291e-4f1c-a4f1-
66dd0fa86625Bao%20cao%20tong%20hop.pdf, 2014
23. Khoa Báo chí và Truyền thông – Trƣờng Đại học KHXH&NV (2013),
Báo chí – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Thông tin và Truyền
thông, Hà Nội
24. V.I.Lênin (1975), Bắt đầu từ đâu?, toàn tập, tập 5, NXB Tiến Bộ
Matxcơva, Matxcơva
87
25. Nguyễn Thành Lợi (2013), Xu hƣớng phát triển của báo chí hiện đại,
Hồ sơ sự kiện, số 218
26. Max Arena, (Multimedia = Mỹ Thuật Đa Phương Tiện) là gì?,
maxarena.edu.vn, http://www.maxarena.edu.vn/chi-tiet-my-thuat-da-
phuong-tien-multimedia-la-gi.html, 24/03/2013
27. Hạnh Nguyên, Truyền thông xã hội định hình lại báo chí, Tuổi trẻ
Online, http://nhipsongso.tuoitre.vn/Blog-quanh-ta/322495/Truyen-
thong-xa-hoi-dinh-hinh-lai-bao-chi.html, 26/06/2009
28. Nhiều tác giả, Viện Nghiên cứu Báo chí và Truyền thông – Học viện
Báo chí và Tuyên truyền (2013), Kỷ yếu Hội thảo khoa học về sự vận
động, phát triển của báo chí, truyền thông trong thời kỳ hội tụ truyền
thông, tích hợp phương tiện
29. Hoàng Phê chủ biên (2000), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng
30. Dƣơng Xuân Sơn (2011), Giáo trình báo chí truyền hình, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội
31. Giang Trung Sơn (2006), Trung tâm tin - Một yêu cầu tất yếu của phát
thanh hiện đại, Đại học Quốc gia Hà Nội
32. Tạ Ngọc Tấn (chủ biên) (2005), Cơ sở lý luận báo chí, NXB Lý luận
chính trị, Hà Nội
33. Tạ Ngọc Tấn (2005), Phát triển báo chí trước những yêu cầu mới của
đất nước, Tạp chí Cộng sản (số 15)
34. Tạ Ngọc Tấn (2010), Toàn cầu hóa truyền thông đại chúng và những hệ
quả của nó, Tạp chí Triết học số 14/2010
35. The Missouri Group (2007), Nhà báo hiện đại, Nxb Trẻ, 2009
36. Phạm Thị Thanh Tịnh (2004), Công chúng báo phát thanh hiện nay,
Luận văn Thạc sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền
88
37. Nguyễn Vũ Diệu Trang (2005), Cơ quan báo chí đa loại hình ở Việt
Nam, Luận văn Thạc sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền
38. Đỗ Trung Tuấn (2007), Giáo trình giảng dạy Công nghệ thông tin, Học
viện Công nghệ Bƣu chính Viễn thông, Hà Nội
39. Trần Hồng Vân (2004), Thực trạng và giải pháp xử lý thông tin trong
Tòa soạn báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Báo
chí học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền
40. Viện Ngôn ngữ học (2001), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng
41. Ashok Banerji (2010), Multimedia Technologies, Tata Mc Graw Hill
Education Private, New Delhi
42. Mark Deuze (2004), What is Multimedia Journalism?, Journalism
Studies, Taylor and Francis Group, Netherland, pg. 35-42
43. Janet Kolodzy (2006), Convergence Journalism – Writing and Reporting
across the new media, Rowan and Littlefield Publishers, USA
44. Stephen Quin (2005), Convergence Journalism, The Foundamentals of
Multimedia Reporting, N.Y: Peter Lang Publishing, Inc, pg. 47-54
45. Medienhaus Wien (2008), Newsroom Convergence A Transnational
Comparison,
https://www.rtr.at/de/ppf/Kurzberichte2007/Konvergenz_im_Newsroom
_Newsroom_Convergence.pdf
89
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
THỐNG KÊ SỐ LƢỢNG TIN TỨC ĐA PHƢƠNG TIỆN
ĐƢỢC SỬ DỤNG TRONG CHƢƠNG TRÌNH THỜI SỰ VOVTV
(6/2013 - 6/2014)
Tháng Tin lời Tin trám Tin, bài Tin, bài Tổng số Tổng số
hình khai thác khai thác tin bài Chƣơng
bằng đồ từ Trung từ các cơ trình
họa tâm tin quan Thời sự
thƣờng trong
trú tháng
15 286 427 1.447 120 6/2013 31
10 291 434 1.488 124 7/2013 33
18 277 443 1.471 124 8/2013 22
9 288 412 1.438 120 9/2013 19
19 298 417 1.492 124 10/2013 32
14 304 420 1.430 120 11/2013 31
19 323 415 1.477 124 12/2013 31
13 338 421 1.520 124 1/2014 35
11 320 416 1.456 112 2/2014 37
19 306 426 1.474 124 3/2014 41
17 265 410 1.420 120 4/2014 26
17 240 416 1.469 124 5/2014 24
15 278 417 1.440 120 6/2014 24
Tổng 386 196 3.814 5.474 19.022 1.580
90
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
PHỤ LỤC 2
KÊNH TRUYỀN HÌNH VOVTV
PHÒNG THƢ KÝ – ĐẠO DIỄN
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 18 tháng 11 năm 2014
ĐỀ ÁN NÂNG CẤP WEBSITE
http://vovtv.vov.vn
A. Tính cấp thiết
Thực hiện việc chỉ đạo của Lãnh đạo Đài Tiếng nói Việt Nam, Lãnh đạo
Kênh Truyền hình VOV về việc tăng cƣờng công tác truyền thông cho độc
giả của Kênh Truyền hình VOV. Với xu hƣớng hội nhập và phát triển công
tác truyền thông của thế giới của thế giới. Do nhu cầu quảng bá kênh Phát
thanh có hình đến với đông đảo độc giả trong và ngoài nƣớc. Xây dựng một
hệ thống tích hợp chung thuận lợi cho việc tìm kiếm, theo dõi của độc giả
internet. Mặt khác, có thể phục vụ đông đảo khán giả có thể xem lại các
chuyên mục hấp dẫn đã đƣợc phát trên kênh Truyền hình VOV.
Interner đã gần gũi hàng ngày, hàng giờ với từng cá nhân. Công tác phục
vụ việc xem truyền hình VOVTV cần đòi hỏi đến với số lƣợng độc giả càng
nhiều càng tốt, với phạm vi mang tính toàn cầu. Hiện nay, website
http://vovtv.vov.vn đã phần nào đáp ứng đƣợc đối với việc cung cấp thông tin
đến từng khán giả có nhu cầu ở mọi lúc, mọi nơi. Tuy nhiên trong tình hình
mới, cùng với sự chuyển biến mạnh mẽ về phƣơng thức tiếp cận, định hƣớng
đƣờng đi của Kênh Truyền hình VOV, việc nâng cấp website trở nên ngày
một cấp thiết hơn.
91
B. Mục tiêu cần hƣớng tới
Với sự bùng nổ về công nghệ thông tin, mạng lƣới internet đã đƣợc phủ
kín mọi lúc, mọi nơi trên khắp cả nƣớc và trên toàn thế giới, truyền hình
không chỉ là để xem TV bằng phƣơng thức truyền dẫn thông thƣờng. Điều
này đòi hỏi chúng ta cần phải áp dụng mọi phƣơng thức truyền dẫn, mọi thiết
bị đầu cuối để đáp ứng phục vụ cho từng khán giả nhƣ: Điện thoại di động,
máy tính cá nhân, máy tính xách tay, máy tính bảng,… đều có thể xem Kênh
Truyền hình VOV.
C. Thực trạng
I. Hoạt động
Website đƣợc xây dựng từ tháng 5/2012 theo dự án đồng bộ các hoạt
động chuyên môn của Đài Tiếng nói Việt Nam. Tháng 2/2013 trang web đã đi
vào hoạt động và chính thức vào tháng 5/2013.
1. Cấu trúc của website
Địa chỉ hoạt động của website http://vovtv.vov.vn là tên miền con của
http://www.vov.vn. Việc vận hành trang web dựa trên hợp tác giữa báo điện
tử VOV Online (xây dựng cấu trúc website, quản lý server) và Kênh Truyền
hình VOV (Quản lý, cập nhật nội dung).
Cấu trúc của trang web bao gồm 2 phần chính:
- Thời sự: Gồm 9 chuyên mục: Chính trị, kinh tế, đời sống – xã hội,
văn hóa – giá dục, quốc tế, thể thao, thời sự tổng hợp, thế giới tuần qua, hình
ảnh trong tuần. Trong đó 6 chuyên mục nằm ở màn hình chính và 3 chuyên
mục nằm ở modul bên phải màn hình.
- Chuyên đề gồm 18 chuyên mục: Đối thoại; Muôn màu cuộc sống;
Đoàn kết là sức mạnh; Tiêu điểm giao thông; Văn hóa giao thông; Xe và giao
thông; Thanh niên; Các vấn đề xã hội; Đổi mới sáng tạo Việt Nam; MV của
bạn; Xem phim cùng nhân vậpt; Quà tặng âm nhạc; Hồi âm khán thính giả;
92
Thông tin liệt sỹ; Sống để yêu thƣơng; Y học sức khỏe; Nƣớc non ngàn dặm;
Nhìn ra thế giới.
- Ngoài ra gồm có các chức năng khác: Giới thiệu về Kênh, Lịch phát
sóng, Cơ cấu tổ chức, Liên hệ.
2. Hoạt động thường nhật
2.1 Công việc của VOV Online
Duy trì hoạt động của server, đảm bảo an toàn bảo mật của hệ thống, đáp
ứng đảm bảo về kỹ thuật theo yêu cầu của Kênh Truyền hình.
2.2. Công việc của Kênh Truyền hình
- Quản lý chung về hoạt động của website
- Cập nhật dữ liệu nội dung tin, bài, chƣơng trình hàng ngày
- Cập nhật lịch phát sóng hàng ngày
- Kiểm tra hoạt động của từng chƣơng trình, chuyên mục
- Thêm, bớt, sửa chữa các chuyên mục cho phù hợp với yêu cầu thực tế
- Tiếp nhận, trả lời các yêu cầu của khán thính giả
II. Kết quả đạt đƣợc
Từ khi đi vào hoạt động chính thức đến nay, trang web đã nhận đƣợc rất
nhiều các phản hồi tích cực của khán giả, đặc biệt là đáp ứng đƣợc khán giả
mọi lúc mọi nơi để xem trực tiếp hoặc xem lại chƣơng trình.
Đến nay đã cập nhật đƣợc khoảng gần 12.800 tin, bài, chƣơng trình lên
website. Bình quân mỗi tháng cập nhật đƣợc khoảng 300 tin, bài, chƣơng
trình. Với những con số nhận đƣợc từ khán giả: hơn 2,4 triệu lƣợt ngƣời truy
cập; năm 2014 đã đạt đƣợc 1.536.482 lƣợt truy cập, bình quân 3 tháng gần
đây đã có khoảng 180.000 lƣợt truy cập/tháng; đƣợc đa số độc giả đánh giá
tốt về hoạt động của trang.
93
III. Hạn chế, tồn tại
Bên cạnh những thành tựu đạt đƣợc của website, còn rất nhiều điều hạn
chế cần phải khắc phục để website ngày càng hoàn thiện hơn, đáp ứng đƣợc
mọi yêu cầu của khán giả đề ra. Đó là:
1. Tin tức thời sự hiện không đƣợc cập nhật điều này làm giảm sức hấp
dẫn, không đáp ứng đƣợc yêu cầu của khán giả đề ra.
2. Nội dung bằng văn bản ít, điều này tạo sự khó khăn trong công tác
tìm kiếm của khán giả.
3. Tin, bài, chƣơng trình còn cập nhật chậm, chƣa theo kịp với yêu cầu
của khán giả.
4. Giao diện website diện còn đơn điệu, chƣa gần gũi với khán giả.
5. Công tác tìm kiếm còn chƣa tối ƣu khó khăn cho khán giả truy xuất
thông tin
6. Các chức năng, chuyên mục trên trang web còn ít, đơn điệu.
7. Một số chuyên mục đã chuyển sang Kênh Truyền hình Quốc hội phụ
trách, không còn phù hợp với nội dung của Kênh.
8. Công tác phối hợp với các đơn vị chức năng còn chƣa thƣờng xuyên,
liên tục.
9. Việc quảng bá thông tin của trang còn chƣa mạnh mẽ.
10. Chƣa chú ý đến việc thu lợi từ ngay trên website
D. Giải pháp
I. Cơ sở triển khai thực hiện
Thực tiễn đặt ra cho chúng ta là cần phải đổi mới để tạo những điều kiện
thuận lợi để phục vụ đƣợc tốt nhất nhu cầu đƣợc tiếp nhận thông tin của khán
giả, cùng với định hƣớng mới của Kênh là đi sâu vào lĩnh vực văn hoá – giải
trí – giao thông. Hiện nay Kênh Truyền hình VOV đã và đang thay đổi một
cách toàn diện cách tiếp cận nội dung cần đòi hỏi phải thay đổi toàn bộ
94
phƣơng thức thực hiện, cách tiếp cận phục vụ khán giả, lấy khán giả làm
trung tâm để triển khai thực hiện công việc.
Việc đổi mới, nâng cấp website Kênh Truyền hình VOV đƣợc dựa trên
nhu cầu thực tiễn của khán giả, cùng với nhu cầu đổi mới bộ nhận diện thƣơng
hiệu mới của Kênh và bắt kịp đòi hỏi về hội nhập quốc tế. Trong quá trình vận
hành, website vovtv.vov.vn đã thu đƣợc những đúc kết rất quý báu từ nhu cầu
tìm hiểu thông tin và những phản hồi của khán giả yêu cầu đƣợc xem trực tiếp
và xem lại các chƣơng trình đã phát trên Kênh Truyền hình VOV.
II. Giải pháp cụ thể
Từ những đòi hỏi thực tiễn trong quá trình vận hành hoạt động của
website, dựa trên những hạn chế, thiếu xót mà website đang gặp phải chúng ta
sẽ triển khai theo trình tự và nhóm công việc cụ thể.
1. Đổi mới giao diện của website phù hợp với bộ nhận diện thƣơng hiệu
của Kênh.
Giao diện mới với màu sắc đảm bảo phù hợp đối với bộ nhận diện
thƣơng hiệu của Kênh. Các chức năng có thể bố trí to, nhỏ khác nhau để tạo
điểm nhấn, tạo sức hấp dẫn đối với khán giả, dễ dàng trong quá trình sử dụng
và đảm bảo đầy đủ thông tin nhất có thể.
2. Hoàn thiện các chức năng đã có sẵn trên website.
Các chức năng sẵn có hiện nay cơ bản đang thực hiện tốt, tuy nhiên vẫn
còn nhiều hạn chế nhƣ: quản lý dữ liệu khó, cập nhật còn mất nhiều thời gian,
vẫn tạo ra những hiện tƣợng giật hình trong quá trình phát video clip, chức
năng xem trực tuyến truyền hình (treamming) còn có hiện tƣợng lệch tiếng và
hình, công cụ tìm kiếm (search engine) còn chƣa tối ƣu…
3. Bổ sung những chức năng còn thiếu
Một trong những chức năng quan trọng hiện nay vẫn chƣa thực hiện
đƣợc đó là ghi lại trực tiếp chƣơng trình phát trên truyền hình (record), điều
95
này sẽ phục vụ trực tiếp cho chúng ta trích xuất dữ liệu đã phát để có thể tái
sử dụng một cách dễ dàng, là nơi để lƣu dữ liệu tạo điều kiện kiểm soát quá
trình phát trên truyền hình có đúng hay không, tạo điều kiện để khán giả có
thể xem lại theo khung giờ đã phát.
Chức năng cần phải có nữa đó là video theo yêu cầu (video on demand)
đây là một chức năng mà rất nhiều kênh truyền hình trên thế giới đã làm, mặt
khác đây cũng là nơi tƣơng tác để có thể thu phí đối với khán giả và phục vụ
dịch vụ đối với khán giả tốt nhất.
Một chức năng cũng rất quan trọng để tăng tính tƣơng tác đối với khán
giả và giúp chúng ta có thể thống kê số liệu tốt để đƣa ra những định hƣớng
thích hợp cho từng giai đoạn cụ thể đó là chức năng điều tra xã hội học (vote).
4. Thêm các chuyên mục do Kênh mới thực hiện.
Các chuyên mục mới do Kênh thực hiện theo từng giai đoạn nhƣ: Tiêu
điểm giao thông, Văn hoá giao thông, Xe và giao thông, Tiếng nói ngƣời lao
động… Vấn đề này sẽ đƣợc cập nhật thƣờng xuyên liên tục song hành với
việc bỏ đi các chuyên mục đã lỗi thời không còn đƣợc sản xuất.
5. Thêm chức năng giới thiệu quảng cáo trên Kênh Truyền hình và
quảng cáo ngay trên website
Tạo ra một chuyên mục để có thể cung cấp mọi thông tin cần thiết cho
các đối tác, doanh nghiệp có thể liên hệ quảng cáo trên truyền hình.
Tạo những khoảng trống theo yêu cầu của đối tác, doanh nghiệp để
doanh nghiệp có thể đặt quảng cáo ngay trên trang web.
6. Tăng cƣờng quảng bá Kênh, quảng bá trang web trên các phƣơng tiện
công cụ hỗ trợ khác.
Tăng cƣờng tính quảng bá dựa trên các doanh nghiệp truyền thông khác,
dựa trên các công cụ có sẵn: google, youtube, facebook,…
96
7. Tạo điều kiện tốt nhất để tăng tính tƣơng tác với khán giả
Tạo chức năng dễ sử dụng đối với khán giả để tạo tính tƣơng tác giữa
khán giả với chúng ta và giữa khán giả với khán giả:comment, like,…
8. Cập nhật dữ liệu thƣờng xuyên liên tục
Một điều quan trọng nhất và là điều kiện tiên quyết để website thành
công đó là việc cung cấp thông tin đến với khán giả. Việc cung cấp càng
nhiều thông tin phong phú, bổ ích thì ngày càng thu hút đƣợc khán giả và sẽ
tạo đƣợc uy tín lớn cho khán giả, đối tác… Đặc biệt là chuyên mục tin tức,
chuyên mục này đã thu hút đƣợc đông đảo khán giả quan tâm, tuy nhiên hiện
nay chuyên mục này không đƣợc cập nhật thƣờng xuyên, đã làm giảm đi đáng
kể lƣợng khán giả quan tâm, theo dõi website. Khi các thông tin đƣợc cập
nhật kịp thời sẽ tạo đƣợc sức hút lớn đối với khán giả.