ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------------

NGUYỄN HỒNG HẠNH

THU THẬP VÀ XỬ LÝ THÔNG TIN KINH TẾ

CỦA NHÀ BÁO

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Báo chí học

Hà Nội – 2016

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------------

NGUYỄN HỒNG HẠNH

THU THẬP VÀ XỬ LÝ THÔNG TIN KINH TẾ

CỦA NHÀ BÁO

Chuyên ngành: Báo chí học

Mã số: 60 32 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Trần Bá Dung

Hà Nội - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi,

dưới sự hướng dẫn của TS. Trần Bá Dung. Những số liệu trong luận văn là

trung thực. Kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất

cứ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Hồng Hạnh

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn trân trọng đến các giảng viên khoa Báo chí và

Truyền thông, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc

gia Hà Nội đã tận tình giảng dạy trong thời gian tôi học tại trường.

Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến TS. Trần Bá Dung đã

tận tâm hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn.

Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Lãnh đạo, nhà báo, phóng viên của Báo Đầu

tư, Thời báo Kinh tế Việt Nam, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Báo Quân đội

nhân dân và các cơ quan báo chí khác, cùng người thân, bạn bè đã giúp đỡ tôi

trong quá trình hoàn thiện luận văn.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Hồng Hạnh

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .................................................... 3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 7

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 8

6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn của đề tài .................................................. 8

7. Bố cục của luận văn ...................................................................................... 9

CHƢƠNG 1: KỸ NĂNG THU THẬP VÀ XỬ LÝ THÔNG TIN KINH

TẾ CỦA NHÀ BÁO – TIẾP CẬN TỪ LÝ THUYẾT ................................ 10

1.1. Khái niệm ................................................................................................ 10

1.1.1. Thông tin và thông tin kinh tế ............................................................... 10

1.1.2. Thu thập thông tin kinh tế ..................................................................... 11

1.1.3. Xử lý thông tin kinh tế ........................................................................... 12

1.1.4. Kỹ năng ................................................................................................. 13

1.2. Đặc trƣng loại hình báo in ..................................................................... 15

1.3. Kỹ năng thu thập thông tin kinh tế của nhà báo ................................ 17

1.3.1. Kỹ năng giao tiếp .................................................................................. 17

1.3.2. Kỹ năng nghiên cứu tài liệu văn bản .................................................... 20

1.3.3. Kỹ năng quan sát ................................................................................... 23

1.3.4. Kỹ năng phỏng vấn................................................................................ 28

1.4. Kỹ năng xử lý thông tin kinh tế của nhà báo ...................................... 31

1.4.1. Tập hợp, hệ thống hoá thông tin theo từng vấn đề, lĩnh vực ................ 31

1.4.2. Phân tích và kiểm tra độ chính xác của thông tin, tính hợp lý của tài

liệu, số liệu ...................................................................................................... 32

1.4.3. Thống kê số liệu, tính tỷ lệ, tính xác suất, sử dụng ngôn ngữ thông tin

phi văn tự ......................................................................................................... 34

1.4.4. Chuyển thuật ngữ chuyên ngành kinh tế sang ngôn ngữ báo chí ......... 38

1.5. Mối quan hệ giữa hai kỹ năng thu thập và xử lý thông tin kinh tế ... 39

Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 41

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG THU THẬP VÀ XỬ LÝ THÔNG TIN

KINH TẾ CỦA NHÀ BÁO........................................................................... 42

2.1. Khái quát về hai tờ báo khảo sát .......................................................... 42

2.1.1. Báo Đầu tư ............................................................................................ 42

2.1.2. Thời báo Kinh tế Việt Nam .................................................................... 43

2.2. Thực trạng thu thập và xử lý thông tin kinh tế của nhà báo .................... 44

2.2.1. Kỹ năng thu thập thông tin kinh tế ........................................................ 44

2.2.2. Kỹ năng xử lý thông tin kinh tế ............................................................. 66

2.3. Đánh giá chung về kỹ năng thu thập và xử lý thông tin kinh tế của

nhà báo ........................................................................................................... 86

2.3.1. Ưu điểm ................................................................................................. 86

2.3.2. Hạn chế ................................................................................................. 89

Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 93

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN

NÂNG CAO KỸ NĂNG THU THẬP VÀ XỬ LÝ THÔNG TIN KINH

TẾ CỦA NHÀ BÁO ...................................................................................... 94

3.1. Một số giải pháp ..................................................................................... 94

3.1.1. Nâng cao kiến thức, tích luỹ kinh nghiệm và nghiệp vụ báo chí .......... 94

3.1.2. Nâng cao kiến thức chuyên ngành kinh tế .......................................... 100

3.1.3. Nâng cao trách nhiệm xã hội của người làm báo ............................... 106

3.1.4. Minh bạch hoá thông tin ..................................................................... 110

3.2. Một số kiến nghị ................................................................................... 116

3.2.1. Đối với cơ quan báo chí ...................................................................... 116

3.2.2. Đối với Hội Nhà báo Việt Nam ........................................................... 121

Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................ 123

KẾT LUẬN .................................................................................................. 124

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 128

PHỤ LỤC ..................................................................................................... 134

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Mức độ sử dụng kỹ năng nghiên cứu tài liệu văn bản để thu thập

thông tin kinh tế............................................................................................... 53

Bảng 2.2: Về thông tin mà nhà báo quan tâm khi nghiên cứu văn bản .......... 55

Bảng 2.3: Mức độ sử dụng kỹ năng quan sát để thu thập thông tin kinh tế ... 59

Bảng 2.4: Về mức độ sử dụng kỹ năng kiểm tra độ chính xác của thông tin,

tính hợp lý của tài liệu, số liệu ........................................................................ 70

Bảng 2.5: Về phương pháp chuyển thuật ngữ chuyên ngành kinh tế sang ngôn

ngữ báo chí (người trả lời chọn nhiều đáp án) ................................................ 83

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1: Mức độ sử dụng kỹ năng giao tiếp để thu thập thông tin kinh tế ...... 45

Biều đồ 2.2: Những yếu tố cần thiết để duy trì và phát triển mối quan hệ với

nguồn tin nhằm thu thập thông tin kinh tế ................................................................. 51

Biểu đồ 2.3: Mức độ sử dụng kỹ năng phỏng vấn để thu thập thông tin kinh tế ... 61

Biểu đồ 2.4: Những yếu tố cần thiết để thu thập thông tin kinh tế thành công nhà

báo trong phỏng vấn (người trả lời chọn nhiều đáp án) ........................................... 64

Biểu đồ 2.5: Mức độ sử dụng kỹ năng tập hợp, hệ thống hoá thông tin theo từng

vấn đề, lĩnh vực ............................................................................................................ 67

Biểu đồ 2.6: Về tin, bài được nhà báo phân tích, kiểm tra độ chính xác, tính hợp lý

của thông tin.................................................................................................................. 71

Biểu đồ 2.7: Phương pháp kiểm tra độ chính xác, tính hợp lý của thông tin kinh tế

(ông/bà có thể chọn nhiều đáp án) .............................................................................. 72

Biểu đồ 2.8: Mức độ sử dụng kỹ năng tính tỷ lệ, tính xác suất, sử dụng ngôn ngữ

thông tin phi văn tự ...................................................................................................... 76

Biểu đồ 2.9: Trường hợp nhà báo sử dụng kỹ năng tính tỷ lệ, tính xác suất, ngôn

ngữ thông tin phi văn tự trong xử lý thông tin kinh tế (người trả lời chọn nhiều

đáp án) ........................................................................................................................... 77

Biểu đồ 2.10: Mức độ sử dụng kỹ năng chuyển thuật ngữ chuyên ngành kinh tế

sang ngôn ngữ báo chí ................................................................................................. 82

Biểu đồ 3.1: Các giải pháp để nâng cao kỹ năng thu thập và xử lý thông tin kinh tế

của nhà báo (người trả lời chọn nhiều đáp án) ........................................................112

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Ngân hàng Phát triển Châu Á ADB

Consumer Price Index CPI

Chỉ số giá tiêu dùng

European Union EU

Liên minh châu Âu

Foreign Direct Investment FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

Gross Domestic Product GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

Nhà xuất bản Nxb

Official Development Assistance ODA

Hỗ trợ phát triển chính thức

Quân đội nhân dân QĐND

Thời báo Kinh tế Sài Gòn TBKTSG

Thời báo Kinh tế Việt Nam TBKTVN

Trans-Pacific Partnership Agreement TPP

Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương

World Bank WB

Ngân hàng Thế giới

World Trade Organization WTO

Tổ chức Thương mại Thế giới

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá, hoạt động kinh tế thực sự là

động lực quan trọng của bất kỳ nền kinh tế với quy mô và thể chế nào. Vấn đề

thông tin kinh tế cần phải được lan toả và kiểm chứng thông qua nhiều hoạt

động khác nhau, trong đó, kênh báo chí luôn được đánh giá là một kênh

truyền thông khách quan, kịp thời và có sức mạnh thực sự, góp phần minh

bạch hơn những vấn đề khác nhau trong hoạt động kinh tế của các chủ thể và

khách thể liên quan.

Không chỉ ở Việt Nam mà nhiều nước trên thế giới, thông tin kinh tế

luôn xuất hiện dày đặc và thường xuyên trên các trang nhật báo, các kênh

truyền hình và đài phát thanh. Công chúng luôn có nhu cầu lớn về thông tin

kinh tế bởi nó có tầm quan trọng trong đời sống. Và các cơ quan báo chí cũng

tìm mọi cách để thỏa mãn công chúng. Tuy nhiên, nhà báo nào và cơ quan

báo chí nào thường xuyên có được tin kinh tế sốt dẻo đúng nhu cầu của công

chúng? Để có được thông tin kinh tế đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của công

chúng đòi hỏi nhà báo phải có kỹ năng về thu thập và xử lý thông tin kinh tế.

Thế nhưng, không phải nhà báo nào cũng có được kỹ năng thu thập và xử lý

thông tin kinh tế thành thục. Bởi lẽ đó, việc tìm hiểu và nghiên cứu về kỹ

năng thu thập và xử lý thông tin kinh tế của nhà báo có tính cấp thiết và có

nhiều ý nghĩa không chỉ trong lý luận mà cả trong thực tiễn.

Việt Nam gia nhập WTO (năm 2006), tiếp đó là ký kết các hiệp định

thương mại tự do với Hàn Quốc, Nga... Đặc biệt là Hiệp định xuyên Thái

Bình Dương (TPP), bên cạnh thách thức đã mở ra cơ hội để nền kinh tế nước

nhà cất cánh. Nước ta đang ngày càng hòa nhập sâu vào kinh tế thế giới.

Trong đó, thông tin về kinh tế không chỉ là nhu cầu cần thiết cho giới lãnh

đạo tham khảo đưa ra quyết sách phù hợp, mà đã trở thành nhu cầu không thể

1

thiếu với các doanh nghiệp và doanh nhân nước nhà. Và tầng lớp công chúng

khác cũng đang nhận được sự quan tâm lớn. Do đó, thông tin kinh tế đang có

vai trò rất quan trọng trong bối cảnh đẩy mạnh hội nhập hiện nay.

Nhà báo kinh tế không chỉ cần biết rõ các thông tin cơ bản của tình

hình kinh tế nói chung, mà họ còn phải dự báo được các sự kiện kinh tế như

một kịch bản sắp xảy ra theo cả hai chiều tích cực và tiêu cực, có biện pháp

tiếp cận khai thác thông tin hợp lý. Đồng thời có năng lực tiếp cận với những

nhân vật quan trọng trong lĩnh vực mà mình phụ trách, để viết được những bài

báo hay, súc tích, chính xác, hấp dẫn bạn đọc có thể cạnh tranh với những nhà

báo khác.

Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng còn không ít những nhà báo kinh tế dù đã

làm việc lâu năm nhưng do tinh thần trách nhiệm chưa cao, không thường

xuyên trau dồi bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, hoặc không đam mê nghề

nghiệp, thờ ơ không bám sát theo dòng sự kiện của ngành mình theo dõi và

phụ trách, dẫn đến hệ lụy: Không bao quát được và hiểu vấn đề mà mình viết,

năng lực phân tích, bình luận vấn đề còn yếu, dẫn đến những hậu quả đáng

tiếc cho cả xã hội và cho chính bản thân nhà báo.

Do vậy, nghiên cứu về kỹ năng thu thập và xử lý thông tin kinh tế đối

với nhà báo là một việc làm cần thiết. Nhất là với hoàn cảnh hiện nay, khi báo

chí ngày càng phải thể hiện vai trò thông tin và định hướng của mình trong xã

hội hiện đại. Với mong muốn nghiên cứu sâu hơn về công tác thu thập và khai

thác thông tin kinh tế đối với nhà báo, từ đó đưa ra những giải pháp khắc phục

hạn chế đang tồn tại hiện nay, học viên đã quyết định chọn đề tài “Thu thập và

xử lý thông tin kinh tế của nhà báo” làm đề tài luận văn cao học của mình.

Để thực hiện luận văn này, tác giả cũng gặp không ít khó khăn. Bản

thân tác giả luận văn đang làm việc tại Trung tâm Tư liệu, Đài Truyền hình

Việt Nam nên kiến thức và thực tế làm việc không có nhiều liên quan đến kỹ

năng của nhà báo. Tuy nhiên, tác giả nghiêm túc, cầu thị với mong muốn

2

mang lại kết quả tốt nhất.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trên thế giới đã có một số công trình nghiên cứu về các kỹ năng cần

thiết đối với nhà báo như:

Cuốn “Nhà báo - Bí quyết kỹ năng - nghề nghiệp” (Nxb Lao động,

1998) do Nguyễn Văn Dững và Hoàng Anh biên dịch, dựa theo tác phẩm

“Nhà báo và Thông tin” của tác giả Vootsxkobonhicop và Iyview, trình bày

một cách tỉ mỉ và sinh động các kinh nghiệm xử lý thông tin, xử lý văn bản

của phóng viên, nhà báo và biên tập viên.

Cuốn “Mười bí quyết kỹ năng nghề báo” (Nxb Lao động, 2002) của

Eric Fikhtelius, đưa ra 10 lời khuyên về các vấn đề lý luận báo chí, kỹ năng

làm báo, những yêu cầu đối với người làm báo, kỹ thuật ghi chép, phỏng vấn,

dàn dựng.

Cuốn “Hướng dẫn tìm kiếm trên Internet và viết báo của hãng thông

tấn AP” (Nxb Thông tấn, 2007) của Frank Bass, ngoài việc chỉ ra cách tìm

kiếm thông tin nhanh và hiệu quả nhất, còn hướng dẫn các nhà báo cách tạo,

sắp xếp và lưu cơ sở dữ liệu của mình với sự hỗ trợ của một vài phần mềm

trên máy tính.

Cuốn “Kỹ năng phỏng vấn dành cho các nhà báo” (Nxb Thông tấn,

2007) của Sally Adams và Wynford Hicks, đưa ra những lời khuyên về cách

xử lý với từng đối tượng được phỏng vấn, những mách nước về các phương

pháp ghi chép và ghi âm…

Cuốn “Nhà báo hiện đại” (Nxb Trẻ, 2009). Đây là bản dịch tiếng Việt

đầu tiên của giáo trình nổi tiếng News Reporting and Writing của ban biên

soạn The Missouri Group thuộc Khoa báo chí Đại học Missouri, đề cập đầy

đủ những kỹ năng làm báo hiện đại trên thế giới, giúp người cầm bút trong

nước cùng sánh vai với sự trui rèn của các đồng nghiệp khắp năm châu.

Ở Việt Nam, lĩnh vực này cũng đã thu hút sự quan tâm của các nhà

3

khoa học:

Cuốn “Công việc của người viết báo” (Nxb Giáo dục, 1997) của nhà

báo Hữu Thọ, trình bày chi tiết những kĩ năng, những vấn đề cơ bản nhất để

công việc của người viết báo nói chung và đặc biệt là công việc của một

phóng viên diễn ra được suôn sẻ, mang lại hiệu quả cao nhất cho từng sản

phẩm báo chí.

Cuốn “Kỹ năng cho người làm báo” (Nxb Thông tấn, 2014) cung cấp

những thông tin cơ bản, những kinh nghiệm cần thiết để có được một bài

báo thu hút độc giả, biến những nguyên liệu sự kiện thành những “món ăn”

thông tin thỏa mãn nhu cầu của độc giả đang ngày càng trở nên khó tính và

khắt khe hơn.

Cuốn “Lao động nhà báo – Lý thuyết và kỹ năng cơ bản” (Nxb Chính

trị - Hành chính, 2010) của TS. Lê Thị Nhã, giới thiệu những kỹ năng cơ bản

về phương pháp thu thập thông tin, tư liệu và quy trình sáng tạo tác phẩm

báo chí.

Cuốn “Ngôn ngữ báo chí” (Nxb Thông tấn, 2012) của PGS. TS. Vũ

Quang Hào, với cách viết ngắn gọn, súc tích, kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý

luận và thực tế, tác giả cho bạn đọc hiểu rõ hơn những vấn đề cần thiết, cơ

bản nhất của ngôn ngữ báo chí.

Cuốn “Viết tin, bài đăng báo” (Nxb Trẻ, 2014) của nhà báo Ngọc Trân,

đúc kết các nguyên tắc, kỹ năng để giúp những người muốn viết báo có thể

tác nghiệp tốt hơn, hiệu quả hơn.

Cuốn "Tác nghiệp báo chí trong môi trường truyền thông hiện đại"

(Nxb Thông tin và Truyền thông, 2014) của nhà báo, TS. Nguyễn Thành Lợi,

giới thiệu những nét khái quát nhất về những vấn đề mới mẻ đang được

nghiên cứu rộng rãi trên thế giới nhiều năm qua như truyền thông xã hội, các

lý thuyết truyền thông, hội tụ truyền thông, tòa soạn hội tụ, đồng thời trình

bày đặc điểm và những kỹ năng cần thiết đối với “nhà báo đa năng” trong môi

4

trường hội tụ truyền thông.

Ở phạm vi nghiên cứu hẹp hơn, một số học viên cao học và sinh viên

tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền, khoa Báo chí – Truyền thông trường

Đại học Khoa học xã hội và nhân văn đã có một số luận văn thạc sĩ, khoá luận

tốt nghiệp về những đề tài liên quan đến hoạt động sáng tạo của nhà báo như:

Luận văn thạc sĩ của Káp Thành Long (Trường Đại học Khoa học xã

hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008) “Kỹ năng xử lý đề tài

pháp luật trên báo in hiện nay” trình bày công việc của một phóng viên theo

dõi mảng đề tài pháp luật; các vấn đề đặt ra đối với phóng viên khi xử lý

thông tin về đề tài pháp luật; các cơ sở pháp lý ràng buộc và có ảnh hưởng

đến công việc của phóng viên.

Luận văn thạc sĩ của Sầm Vũ Thăng (Trường Đại học Khoa học xã hội

và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010) “Phương thức thực hiện đề

tài pháp luật trên báo mạng điện tử” nghiên cứu thực tiễn thực hiện đề tài

pháp luật trên báo mạng điện tử qua việc khảo sát trường hợp Vietnamnet và

VTCnews.

Luận văn thạc sĩ của Ngô Bá Thành (Trường Đại học Khoa học xã hội

và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010) “Thông tin kinh tế trên Đài

Truyền hình kỹ thuật số VTC” phân tích được thực trạng thông tin kinh tế trên

sóng Truyền hình kỹ thuật số VTC; Rút ra những ưu điểm, hạn chế của hoạt

động thông tin kinh tế trên Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC; Từ đó đề xuất

một mô hình Kênh thông tin kinh tế ưu việt hơn so với thực tại, nhằm nâng

cao hiệu quả truyền tải thông tin kinh tế trên sóng của Đài truyền hình kỹ

thuật số VTC.

Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Hữu Tuấn (Trường Đại học Khoa học xã

hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014) “Việc tiếp cận thông tin

tài chính của nhà báo Việt Nam hiện nay” tìm hiểu, đánh giá thực trạng vấn

đề tiếp cận và xử lý thông tin về lĩnh vực tài chính của đội ngũ nhà báo trong

5

giai đoạn hiện nay. Từ đó, phát hiện những vấn đề đang được đặt ra, thảo

luận, kiến nghị và đưa ra giải pháp nhằm giúp nhà báo tiếp cận và xử lý thông

tin về lĩnh vực tài chính đạt được hiệu quả tốt nhất.

Khoá luận tốt nghiệp của Đỗ Thị Lan Anh (Học viện Báo chí và Tuyên

truyền, 2007), “Hoạt động xử lý thông tin của biên tập viên tại các toà soạn

báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay” tìm hiểu về hoạt động xử lý thông tin

của các biên tập viên tại các toà soạn báo mạng điện tử tại Việt Nam thông

qua quá trình khảo sát ba tờ báo mạng điện tử điển hình: Vietnamnet,

VnExpress và Hà Nội mới điện tử. Từ đó đưa ra các đề xuất, giải pháp nhằm

nâng cao hiệu quả hoạt động xử lý thông tin của biên tập viên tại các tờ báo

mạng điện tử.

Khoá luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Thanh Tâm (Học viện Báo chí và

Tuyên truyền, 2008) “Khai thác, xử lý tin trong chương trình Thời sự Đài

Phát thanh - Truyền hình Hải Phòng” khảo sát về hoạt động khai thác và xử

lý tin của đội ngũ phóng viên, biên tập viên của đài. Rút ra những thành công

và hạn chế về nghiệp vụ khai thác, xử lý tin. Từ đó, đóng góp một số đề xuất

và kiến nghị nhằm nâng cao kỹ năng khai thác, xử lý tin và nâng cao chất

lượng tin trong chương trình Thời sự.

Nhìn chung, những công trình nghiên cứu trên đây đã có những đóng

góp đáng kể đối với hoạt động tác nghiệp của nhà báo. Song qua khảo sát,

chưa có một nghiên cứu cụ thể và riêng biệt về kỹ năng thu thập và xử lý

thông tin chuyên ngành đối với nhà báo viết về lĩnh vực kinh tế, nên đề tài

nghiên cứu sẽ không có sự lặp lại với những công trình nghiên cứu khác.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu, đánh giá kỹ năng thu

thập và xử lý thông tin kinh tế của nhà báo. Trong luận văn này, tác giả tập

trung vào kỹ năng thu thập và xử lý thông tin kinh tế của báo in.

Từ những mục đích nêu trên, luận văn tập trung vào những nhiệm vụ cụ

6

thể như sau:

Làm rõ một số thuật ngữ, khái niệm cũng như những vấn đề có tính

phương pháp luận có liên quan đến đề tài.

Đánh giá thực trạng thu thập và xử lý thông tin kinh tế của nhà báo qua

các báo khảo sát.

Đề xuất một số kiến nghị và giải pháp nhằm góp phần nâng cao kỹ

năng thu thập và xử lý thông tin đối với nhà báo kinh tế ở Việt Nam hiện nay.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Để bao quát hết những gì mà tên đề tài đặt ra

cần đề cập đến những vấn đề như xác định nguồn thu thập, phương pháp thu

thập, yêu cầu trong thu thập và xử lý, những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng

thu thập và xử lý thông tin kinh tế. Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu trong

luận văn này, tác giả luận văn chỉ tập trung vào kỹ năng thu thập và xử lý

thông tin kinh tế của nhà báo, còn những vấn đề khác đã được nhắc đến ở trên

sẽ được nghiên cứu trong một công trình ở tầm cao hơn. Theo đó, tác giả luận

văn tiến hành khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng thu thập và xử lý thông

tin của nhà báo kinh tế. Từ đó đưa ra giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao

hiệu quả thu thập và xử lý thông tin kinh tế của nhà báo.

Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung khảo sát trong phạm vi các nhà

báo và các bài báo chuyên ngành kinh tế ở Thời báo Kinh tế Việt Nam và Báo

Đầu tư. Đây là hai tờ báo chuyên về kinh tế hàng đầu và có uy tin ở nước ta hiện

nay. Ngoài ra tác giả cũng khảo sát, tham khảo một số cơ quan báo chí khác như

Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Quân đội nhân dân, Kinh tế đô thị, Tuổi trẻ…

Về thời gian khảo sát từ tháng 03/2015 đến tháng 03/2016. Đây là

khoảng thời gian mà kinh tế nước ta có nhiều sự kiện nổi bật. Đặc biệt là Việt

Nam ký các Hiệp định thương mại tự do với Hàn Quốc, Nga… và Hiệp định

kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Để có thể hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, tác giả tiến hành phỏng vấn

7

sâu 10 nhà báo chuyên viết về kinh tế bao gồm Thời báo Kinh tế Việt Nam,

Báo Đầu tư, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Báo Quân đội nhân dân để tìm hiểu

cách thu thập và xử lý thông tin chuyên ngành của nhà báo.

Bên cạnh đó, tác giả tiến hành khảo sát bằng bảng hỏi đối với 294 nhà

báo kinh tế tại các cơ quan báo chí thuộc các loại hình khác nhau để làm rõ

hơn vấn đề.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn sẽ sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học như:

Phương pháp nghiên cứu tài liệu, văn bản, quan sát trên các tác phẩm

báo chí (để tìm hiểu cách thu thập và xử lý thông tin, đánh giá độ xác thực của

thông tin).

Phương pháp phỏng vấn sâu: Tác giả luận văn phỏng vấn 10 nhà báo

chuyên viết về kinh tế của Thời báo Kinh tế Việt Nam, Báo Đầu tư, Thời báo

Kinh tế Sài Gòn và Báo Quân đội nhân dân.

Phương pháp điều tra xã hội học bằng bảng hỏi anket với các nhà báo

chuyên viết về kinh tế. Kết quả: Tổng số 350 phiếu phát ra, thu về được 294

phiếu hợp lệ. Để xử lý kết quả thu được, tác giả sử dụng phần mềm SPSS

(Statistical Package for the Social Sciences). SPSS được sử dụng rộng rãi

trong công tác thống kê xã hội. Đây là phần mềm chuyên dụng và phổ biến để

phân tích các kết quả điều tra trong mọi lĩnh vực, từ xã hội, giáo dục, kinh tế,

sản xuất kinh doanh...

Phương pháp thống kê - phân tích – tổng hợp.

6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn của đề tài

Về mặt lý luận: Luận văn khẳng định tầm quan trọng và hệ thống hóa

lý thuyết về kỹ năng thu thập và xử lý thông tin chuyên ngành đối với nhà

báo. Từ đó, bổ sung vào lý luận báo chí.

Về mặt thực tiễn: Thông qua việc tìm hiểu, phân tích, đánh giá ưu điểm

8

và hạn chế của kỹ năng thu thập và xử lý thông tin kinh tế của nhà báo, luận

văn cung cấp tài liệu tham khảo có cơ sở khoa học, góp phần giúp nhà báo có

thêm kiến thức và rèn luyện kỹ năng thu thập và xử lý thông tin kinh tế.

Đới với các cơ quan báo chí, luận văn có ý nghĩa trong việc tham khảo

các giải pháp để nâng cao trình độ thu thập và xử lý thông tin kinh tế của các

nhà báo.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung

luận văn bao gồm ba chương:

Chương 1: Kỹ năng thu thập và xử lý thông tin kinh tế của nhà báo -

Tiếp cận từ lý thuyết.

Chương 2: Thực trạng thu thập và xử lý thông tin kinh tế của nhà báo.

Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị góp phần nâng cao kỹ năng

9

thu thập và xử lý thông tin kinh tế của nhà báo.

CHƢƠNG 1

KỸ NĂNG THU THẬP VÀ XỬ LÝ THÔNG TIN KINH TẾ

CỦA NHÀ BÁO – TIẾP CẬN TỪ LÝ THUYẾT

1.1. Khái niệm

1.1.1. Thông tin và thông tin kinh tế

Theo cuốn “Đại từ điển Tiếng Việt” (tác giả Nguyễn Như Ý chủ biên

NXB Văn hóa – Thông tin ấn hành năm 1999) thì thông tin được hiểu rằng:

“Truyền tin, đưa tin, báo cho nhau biết tin tức về các sự kiện diễn ra trong thế

giới xung quanh”. [44, tr. 16]

Khái niệm “thông tin” được bắt nguồn từ chữ Latinh là informetio, gốc

của từ tiếng Anh là information. Hai ông Philipppe và Serge Proulx trong

cuốn sách “Bùng nổ thông tin” giải thích rằng: khái niệm này có liên quan

đến đặc trưng Rooma, biểu hiện sự mong muốn giảng dạy, truyền đạt.

Trong lý luận báo chí, khái niệm “thông tin” cũng đang tồn tại hai cách

hiểu. Một là, tri thức tư tưởng do nhà báo tái tạo và sáng tạo từ hiện thực cuộc

sống. Hai là sự loan báo cho mọi người biết.

Trong hoạt động báo chí, khi tìm hiểu về khái niệm thông tin cần đặt nó

trong mối liên hệ trực tiếp với vấn đề hiệu quả, tức là ảnh hưởng trực tiếp của

thông tin đến công chúng, hướng dẫn nhận thức và giáo dục đạo đức cho họ

để họ hành động đúng đắn. Vì vậy, có thể đồng tình với định nghĩa: “Thông

tin là phần tri thức được sử dụng để định hướng, tác động đến hành động tích

cực và quản lý xã hội, thực hiện mục đích giữ gìn những đặc điểm phẩm chất,

sự hoàn thiện và phát triển hệ thống”. [40; tr. 59]

Trong các thông tin được đăng tải trên báo chí, có một mảng rất quan

trọng, đó là thông tin kinh tế. Đầu tiên, cần hiểu kinh tế là gì? Đó là “tổng thể

nói chung các hoạt động sản xuất và tái sản xuất của cải vật chất cho con

người và xã hội”. [35, tr. 693] Nó liên quan đến các hoạt động sản xuất, phân

10

phối, trao đổi, tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ. Tuy nhiên định nghĩa về kinh tế

đã thay đổi theo lịch sử các hoạt động kinh tế. Thông tin kinh tế là những

thông tin liên quan đến lĩnh vực kinh tế như đã nói ở trên. Thông tin bắt

nguồn từ nhu cầu giao lưu kinh tế giữa các vùng, các quốc gia. Nó phản ánh

tình trạng và kinh doanh hiện thời của tổ chức kinh tế, tới tình trạng sản xuất,

trao đổi, phân phối và tiêu dùng các loại sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ. Vì

vậy, nó có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp vì tất cả các thông tin này

sẽ liên quan tới tổ chức, quản lý, điều hành ra quyết định của một doanh

nghiệp. Qua đó có thể đánh giá nhịp sống và quy mô phát triển của doanh

nghiệp, triển vọng và nguy cơ tiềm ẩn của doanh nghiệp.

1.1.2. Thu thập thông tin kinh tế

Thu thập là hoạt động có chủ đích của con người nhằm “tìm kiếm, góp

nhặt và tập hợp lại” một vật, vấn đề nào đó [35, tr. 1258]. Thu thập thông tin

là quá trình tìm kiếm, góp nhặt và tập hợp thông tin theo những tiêu chí cụ

thể, xác định nhu cầu thông tin, tìm nguồn thông tin, thực hiện tập hợp thông

tin theo yêu cầu nhằm làm rõ những vấn đề, nội dung liên quan đến lĩnh vực

nhất định. Trong báo chí, thu thập thông tin là một hoạt động nhằm tìm kiếm,

thu gom các sự kiện, thông tin từ nhiều nguồn phát sinh khác nhau để xây

dựng, hình thành nên tác phẩm báo chí.

Thu thập thông tin kinh tế là nhiệm vụ của các nhà báo kinh tế. Họ đi

tìm kiếm, thu thập các sự kiện, thông tin có liên quan đến lĩnh vực kinh tế từ

nhiều nguồn khác nhau để xây dựng nên tác phẩm báo chí.

Thu thập thông tin là hoạt động có tính mục đích. Quá trình thu thập

thông tin phải giải đáp cụ thể các câu hỏi: Thông tin này thu thập để làm

gì, phục vụ cho công việc gì, liên quan đến những khía cạnh nào của vấn đề?

Thu thập thông tin có tính đa dạng về phương pháp, cách thức. Tùy

theo yêu cầu về thông tin, nguồn lực mà có thể áp dụng các phương pháp,

11

cách thức thu thập thông tin cho phù hợp.

Thu thập thông tin có thể tìm kiếm từ các nguồn, kênh thông tin khác

nhau. Mỗi kênh thông tin có những ưu điểm và nhược điểm riêng, phù hợp

với mỗi loại thông tin cần thu thập. Việc lựa chọn nguồn thông tin thích hợp

bảo đảm hiệu quả quá trình thu thập thông tin và chất lượng của thông tin.

Thu thập thông tin là một quá trình liên tục, nhằm bổ sung, hoàn chỉnh

thông tin cần thiết.

Thu thập thông tin chịu tác động của nhiều nhân tố về kỹ năng thu thập

thông tin, kỹ năng sử dụng các phương pháp, cách thức thu thập thông tin.

Thu thập thông tin là một khâu trong quá trình thông tin của một tổ

chức. Thu thập thông tin gắn với yếu tố đầu vào của tổ chức. Thu thập thông

tin không tách rời quá trình xử lý thông tin, nhằm đảm bảo thông tin cho hoạt

động của tổ chức. [5]

1.1.3. Xử lý thông tin kinh tế

Từ khái niệm “xử lý là sắp xếp và giải quyết công việc hoặc nhiệm vụ

trong điều kiện cụ thể” [50, tr. 5] trong cuốn “Đại từ điển Tiếng Việt” có thể

hiểu thuật ngữ xử lý thông tin là một hoạt động nghiệp vụ nhằm chỉnh sửa cả

về mặt nội dung lẫn hình thức thông tin để đảm bảo độ chính xác và hấp dẫn

của tin. Công việc xử lý thông tin là công việc đòi hỏi cần có nhiều kinh

nghiệm, sự hiểu biết về xã hội cũng như về ngôn ngữ.

Xử lý thông tin kinh tế là việc sắp xếp, phân tích các dữ liệu kinh tế có

được theo yêu cầu, tiêu chí cụ thể một cách khoa học, chính xác, khách quan

nhằm cung cấp những cơ sở để xem xét, giải quyết một vấn đề kinh tế. Đó là

quá trình đối chiếu, chọn lọc, chỉnh lý, biên tập thông tin theo mục đích, yêu

cầu xác định. Đây là công việc bắt buộc nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả

sử dụng thông tin, tránh sự quá tải, nhiễu thông tin. Thông qua việc kiểm tra

tính chính xác, tính hợp lý của các tài liệu, số liệu; hệ thống hóa, phân tích tổng

hợp số liệu, tài liệu; chỉnh lý chính xác số liệu, tài liệu để chúng phản ánh được

12

tình hình, xác định đúng bản chất của các sự việc, các hoạt động, từ đó đưa ra

các giải pháp, phương án cho các vấn đề kinh tế dưới các hình thức kiến nghị,

đề xuất sáng kiến giải quyết. Đây là khâu then chốt, phản ánh nội dung trọng

tâm hoặc kết quả cần đạt tới của quy trình thông tin, bởi lẽ kết quả của nó là tạo

lập những thông tin mới phục vụ trực tiếp cho hoạt động kinh tế. Chính điều đó

làm cho hoạt động xử lý thông tin khác biệt với hoạt động lưu trữ, thư viện, bảo

tàng, mặc dù trong mọi hoạt động này đều tiến hành công tác thu thập, xử lý,

bảo quản và tổ chức sử dụng thông tin. Trong thời đại ngày nay việc xử lý

thông tin không chỉ được thực hiện bằng mỗi trí tuệ con người, mà còn được

trợ giúp bởi nhiều thiết bị kỹ thuật ngày càng hiện đại và “thông minh hơn”.

Điều đó cũng đòi hỏi, nhà báo phải đạt tới những trình độ nhất định và ngày

càng phải tự hoàn thiện mình, nâng cao tri thức chuyên môn.

Kết quả của việc xử lý thông tin trong yêu cầu hiện nay là phải góp

phần tạo ra những quyết định đúng đắn và sự năng động của cơ quan, tổ chức

trong cạnh tranh. Nó phải giúp cho các cấp quản lý đạt tới sự sáng tạo, dự báo

vấn đề nảy sinh và giải quyết các vấn đề.

Việc xử lý thông tin còn có khả năng tạo ra những thông tin mới hoặc

bổ sung những thông tin mà trước đó chưa được biết đến.

Chất lượng thông tin mà người xử lý cung cấp tới đối tượng tiếp nhận

có thể bị tác động bởi nhiều yếu tố như trình độ, sự nhạy bén trong phân tích,

thái độ khách quan...

1.1.4. Kỹ năng

Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu và đưa ra nhiều cách

định nghĩa khác nhau về kỹ năng, những định nghĩa này thường bắt nguồn từ

góc nhìn chuyên môn và quan niệm cá nhân của người viết. Cụ thể như sau:

Theo PGS. TS. Lưu Xuân Mới [32], kỹ năng là sự biểu hiện kết quả thực

hiện hành động trên cơ sở kiến thức đã có. Kỹ năng là tri thức trong hành động.

Tác giả Huỳnh Văn Sơn cho rằng, kỹ năng là khả năng thực hiện có kết

quả một hành động nào đó bằng cách vận dụng những tri thức, kinh nghiệm

13

đã có để thực hiện hoạt động phù hợp với những điều kiện nhất định. Kỹ năng

không đơn thuần là mặt kỹ thuật của hành động mà là biểu hiện về năng lực

của chủ thể hành động. [41, tr. 20]

Theo A.G. Covaliov, kỹ năng là những phương thức thực hiện hành

động thích hợp với mục đích và những điều kiện hành động phụ thuộc vào

nhiều yếu tố, đặc biệt là năng lực của con người mà không đơn giản là cứ nắm

vững cách thức hành động thì sẽ có kết quả tương ứng. Ta nhận thấy quan

niệm trên xem xét kỹ năng nghiêng về mặt kỹ thuật của hành động, coi kỹ

năng là cách thức thực hiện hành động phù hợp với mục đích và điều kiện của

hành động mà con người đã nắm được. [28, tr. 13]

V.A. Cruchetxki cho rằng, kỹ năng là phương thức thực hiện hành động

đã được con người nắm vững từ trước [55, tr. 78]. Còn V.X. Cudin cho rằng,

kỹ năng là phương thức hoạt động không cần sự củng cố bắt buộc bằng luyện

tập từ trước. [28, tr. 13]. Theo các tác giả này thì chỉ cần nắm vững phương

thức hành động là con người có được kỹ năng, còn hoạt động có kết quả hay

không, việc thực hiện hành động có liên quan gì đến mục đích cũng như các

điều kiện thực hiện mục đích thì lại chưa nói rõ.

“Từ điển của tâm lý học” do Vũ Dũng chủ biên, tác giả đã có một cách

hiểu khác về kỹ năng: “Năng lực vận dụng có kết quả có tri thức hành động

đã được chủ thể lĩnh hội thực hiện những nhiệm vụ tương ứng”. [12, tr. 195]

Có nghĩa kỹ năng hình thành qua luyện tập, kỹ năng là một trong những năng

lực mà cá nhân có thể rèn luyện và hình thành phát triển qua quá trình học tập

thực tiễn.

Từ các quan niệm trên, tác giả luận văn đi đến kết luận: Kỹ năng là năng

lực hay khả năng của chủ thể thực hiện thuần thục một hay một chuỗi hành

động nào đó bằng cách vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm đã có,

kết hợp với thao tác tư duy, năng lực hành động của cá nhân trong những điều

kiện tâm lý nhất định nhằm tạo ra kết quả mong đợi.

14

Kỹ năng gồm kỹ năng mềm và kỹ năng cứng:

Kỹ năng mềm là thuật ngữ dùng để chỉ các kỹ năng quan trọng trong

cuộc sống con người như: kỹ năng sống, giao tiếp, lãnh đạo, làm việc theo

nhóm, kỹ năng quản lý thời gian, thư giãn, vượt qua khủng hoảng, sáng tạo và

đổi mới...

Kỹ năng cứng thường được hiểu là những kiến thức, đúc kết và thực

hành có tính chất nghề nghiệp. Kỹ năng cứng được cung cấp thông qua các

môn học đào tạo chính khóa, có liên kết logic chặt chẽ, và xây dựng tuần tự.

Thời gian để có được kỹ năng cứng thường rất dài, hàng chục năm, bắt đầu từ

những kiến thức - kỹ năng cơ bản ở nhà trường phổ thông và những kiến thức

kỹ năng này được phát triển dần lên các mức độ cao hơn, thông qua giảng

dạy, thực hành và tự học một cách hệ thống.

1.2. Đặc trƣng loại hình báo in

Trong luận văn này, tác giả tập trung vào kỹ năng thu thập và xử lý

thông tin của báo in. Sau đây là phân tích về đặc trưng loại hình báo in:

Báo in là ấn phẩm định kỳ chuyển tải nội dung thông tin mang tính thời

sự và được phát hành rộng rãi trong xã hội. Định kỳ của báo in có nhiều loại

khác nhau như: hàng ngày, thưa kỳ (2, 3, 5 ngày một số), hàng tuần. Định kỳ

của báo in chính là sự xuất hiện theo chu kỳ đều đặn và cố định của sản phẩm

báo. Chu kỳ xuất nhiện của báo in có ý nghĩa quan trọng đối với báo in vì nó

quy định thời điểm mà công chúng đón nhận sản phẩm báo in.

Tính thời sự của báo in được hiểu là sự phản ánh nhanh chóng những

sự kiện mới xảy ra, vấn đề mới nảy sinh hoặc vừa mới được phát hiện trong

đời sống xã hội. Mỗi tờ báo in có công chúng tiếp nhận khác nhau và công

chúng thực hiện phương thức tiếp nhận theo những hướng khác nhau.

Báo in chuyển tải nội dung thông tin thông qua văn bản in gồm: chữ in,

hình vẽ, tranh ảnh, sơ đồ, biểu đồ… Toàn bộ các yếu tố thể hiện nội dung

thông tin của các tác phẩm báo in xuất hiện đồng thời trước mắt người đọc

15

hầu như ngay trên cùng một trang báo. Sự đồng hiện của báo in được thể hiện

bằng những thông tin cùng xuất hiện đồng thời trên trang báo in thông qua

việc trình bày tổ chức trang báo, bao gồm các phần: tên chuyên mục, tiêu đề,

tít, sapô hoặc những dòng chữ gây chú ý, tít phụ cùng sự hỗ trợ của hình vẽ,

tranh ảnh, sơ đồ, biểu đồ… Công chúng đọc một bài báo in có thể do tít và

sapô hấp dẫn hay cũng có thể do tranh ảnh, biểu đồ minh họa gây chú ý cho

họ. Cũng chính vì vậy mà có thể nói sự đồng hiện thông tin của bài viết trên

cùng một trang báo in là một trong những lợi thế nhất định của báo in. Công

chúng có thể cùng lúc lướt mắt trên toàn bộ bài báo và sau đó có thể tìm

những thông tin thú vị hoặc cần thiết cho mình. Cũng chính sự đồng hiện các

yếu tố thể hiện của một bài báo trên một trang báo cũng làm ảnh hưởng lớn

đến công tác biên tập nội dung tít, sapô và phần chính văn của một bài báo in.

Do phương thức thông tin đặc thù trên, báo in có những đặc điểm ưu việt sau:

Thứ nhất, người đọc hoàn toàn chủ động trong việc tiếp nhận thông tin

từ báo in. Sự chủ động bao gồm từ việc bố trí thời điểm đọc, lựa chọn trình tự

đọc đến việc chủ động về tốc độ đọc, cách thức đọc khi trong tay có một tờ

báo in cụ thể. Buổi sáng người ta có thể mua một tờ báo in của một cơ quan

báo chí nào đó, đọc lướt qua các tin tức, bình luận quan trọng rồi chiều tối về

nhà mới đọc tiếp những bài báo dài và đáng quan tâm như phóng sự, phản

ánh, các loại ký… Khi đọc các tờ báo in, người ta hoàn toàn có thể đọc lướt

nhanh những nội dung quen thuộc, đọc kỹ hay đọc lại những nội dung phức

tạp mà đọc lần đầu chưa rõ. Đặc điểm này tạo cho báo in khả năng thông tin

những nội dung sâu sắc, phức tạp. Nhà báo có thể trình bày, lý giải các nội

dung thông tin với những mối quan hệ đan chéo, những biểu hiện trên nhiều

bình diện, nhiều tầng lớp khác nhau. Những thông tin có thể được tổ chức

theo nhiều cách khác nhau mà người đọc vẫn có thể hiểu, miễn là những

16

thông tin, nội dung bài viết là bổ ích, đáp ứng được nhu cầu của người đọc.

Thứ hai, vì sự tiếp nhận thông tin báo in của công chúng là quá trình

chủ động, đòi hỏi người đọc phải tập trung cao độ, phải huy động sự làm việc

tích cực của trí não. Vì thế làm tăng khả năng ghi nhớ thông tin, giúp người

đọc có thể nhận thức sâu sắc những mối quan hệ bên trong phức tạp. Nội

dung thông tin đề cập các vấn đề, sự kiện trong cả một chu kỳ xuất bản.

Thông tin về các vấn đề, sự kiện thời sự diễn ra trong chu kỳ sau đó chỉ có thể

được đề cập trong sản phẩm được xuất bản vào thời điểm định kỳ sau. Vì thế

trong báo in bao giờ cũng tồn tại một khoảng thời gian trống thông tin, hay

nói cách khác, độ nhanh, tính thời sự của báo in bị hạn chế hơn so với các loại

hình phát thanh và truyền hình và đặc biệt là báo mạng điện tử. Để khắc phục

hạn chế này người ta đưa ra các tờ báo buổi chiều.

Hơn nữa nguồn thông tin từ báo in đảm bảo sự chính xác và độ xác

định cao. Dù thông tin chậm hơn so với các loại hình báo chí khác nhưng đảm

bảo sự chính xác về thông tin vì đã được kiểm định. Báo in có thể làm tài liệu,

minh chứng cho các công trình nghiên cứu khoa học.

1.3. Kỹ năng thu thập thông tin kinh tế của nhà báo

Để thu thập thông tin kinh tế, nhà báo phải sử dụng nhiều kỹ năng khác

nhau. Tuy nhiên, nhà báo thường sử dụng bốn kỹ năng quan trọng và phổ biến

nhất. Đó là kỹ năng giao tiếp, kỹ năng nghiên cứu tài liệu văn bản, kỹ năng

quan sát và kỹ năng phỏng vấn.

1.3.1. Kỹ năng giao tiếp

Giao tiếp là một trong các kỹ năng thu thập thông tin kinh tế quan trọng

hàng đầu của nhà báo. Có những nhà báo, cơ quan báo chí nhờ khả năng giao

tiếp, thiết lập mối quan hệ tốt đẹp, thân thiện, tạo niềm tin với các nguồn tin

mà có được những thông tin độc quyền mà nhà báo khác, cơ quan báo chí

khác không thể có. Kỹ năng giao tiếp tốt giúp nhà báo có được mối quan hệ

rộng và sâu với nhiều nguồn tin khác nhau. Nhờ đó mà có thể dễ dàng thu

17

thập thông tin nói chung và thông tin kinh tế nói riêng.

Tác giả Đỗ Thu Hằng trong cuốn “Giáo trình tâm lý học báo chí” cho

rằng mọi cuộc giao tiếp nghề nghiệp trực tiếp của nhà báo đều nằm trong hai

nhóm mục đích: thu thập hoặc thẩm định thông tin báo chí và thiết lập các

mối quan hệ cho giao tiếp nghề nghiệp. [20, tr.73]

Bàn về kỹ năng giao tiếp để thu thập thông tin của nhà báo, tác giả

Nguyễn Văn Hà, trong cuốn “Giáo trình cơ sở báo chí” khẳng định: “Muốn

xây dựng nguồn tin, nhà báo cần có kỹ năng giao tiếp tốt, biết ứng xử khéo

léo, tạo được niềm tin cậy, sự cảm thông với người khác, nhất là anh ta phải

thể hiện được tính chính trực của mình qua các bài viết”. [16, tr.278]

Trong quá trình thực hiện kỹ năng giao tiếp để thu thập thông tin kinh

tế từ các nguồn tin, nhà báo phải thể hiện tinh thần tự chủ, lối ứng xử khéo léo

và chân thành. Nhà báo phải biết kiềm chế nhu cầu tự khẳng định trong giao

tiếp, tránh ba hoa, khoe khoang.

Nhà báo cần có tính chủ động khi giao tiếp. Chủ động thiết lập các

cuộc giao tiếp, có khả năng định hướng, điều khiển các giao tiếp theo mục

đích thu thập thông tin. Cùng với đó, nhà báo cũng phải linh hoạt và mềm dẻo

khi giao tiếp.

Cũng trong cuốn “Giáo trình tâm lý học báo chí”, tác giả Đỗ Thanh

Hằng đã đưa ra bốn giai đoạn trong thực hiện kỹ năng giao tiếp. Đó là giai

đoạn thiết lập quan hệ, thực hiện các cuộc tiếp xúc, duy trì và củng cố mối

quan hệ, tạo chiều rộng và chiều sâu của mối quan hệ. Ở mỗi giai đoạn trong

kỹ năng giao tiếp lại đòi hỏi nhà báo các kỹ năng nhất định.

Giai đoạn thiết lập mối quan hệ, nhà báo cần có kỹ năng xác định

nguồn tin, phân tích mối quan hệ, phân tích bối cảnh. Kỹ năng làm quen,

tìm người trung gian, chọn trang phục, xác định phong cách giao tiếp. Kỹ

năng lắng nghe, chia sẻ đồng cảm. Kỹ năng thu hút sự chú ý, quan tâm,

thuyết phục, tạo ấn tượng tốt. Và kỹ năng lấy các địa chỉ liên lạc như số

18

điện thoại, mail…

Giao đoạn tiếp xúc, nhà báo cần có kỹ năng trò chuyện, hành động và

nắm bắt tâm lý của đối tượng. Kỹ năng nghe, ghi chép, ghi âm, phân tích,

phán đoán. Kỹ năng khơi gợi hứng thú, kích thích nhu cầu chia sẻ chủ động

dẫn dắt câu chuyện. Kỹ năng ứng phó với những tình huống tức thời, tổ chức

cuộc nói chuyện, sự kiện.

Giai đoạn duy trì và củng cố mối quan hệ đòi hỏi nhà báo có kỹ năng

sử dụng các phương tiện/kênh truyền thông. Kỹ năng phân tích, xác định mối

quan hệ, trao đổi cách liên lạc với đối tượng. Kỹ năng thương lượng và xử lý

khủng hoảng.

Giai đoạn tạo chiều rộng và sâu các mối quan hệ, nhà báo cần có kỹ

năng phân tích và xác định đối tượng; kỹ năng điều chỉnh khoảng cách; kỹ

năng làm việc nhóm; kỹ năm tìm cầu nối trung gian và thiết lập, phát triển

mạng lưới; kỹ năng đàm phán và thương lượng.

Để duy trì được mối quan hệ với các nguồn tin thì nhà báo cần phải đưa

thông tin trung thực, đúng với tư tưởng của nguồn tin, không nên cắt xén

thông tin làm sai lệnh nội dung thông tin. “Nếu bạn thiếu lịch sự hoặc nếu bạn

sai mục đích thông tin họ cung cấp, có thể họ không bao giờ gặp lại bạn” [48,

tr. 22]. Cùng bàn về vấn đề này, trong cuốn sách nổi tiếng “News Reporting

And Writing”, tác giả cuốn sách đã khẳng định tầm quan trọng về tính trung

thực khi đưa thông tin kinh tế của nhà báo để tạo ra sự tin tưởng của nguồn

tin, nhất là nguồn tin kinh tế từ doanh nghiệp. “Sự không tin cậy mà nhiều

doanh nghiệp dành cho báo chí có thể khiến việc tường thuật khó lòng thỏa

đáng, ngay cả khi chính doanh nghiệp cũng muốn cho báo chí biết. Cho dù

các nhà quản lý doanh nghiệp bằng lòng nói, họ cũng dễ nổi giận nếu như

phóng viên trích dẫn một quan điểm đối lập hay chỉ ra một nốt mụn trên bộ

mặt công ty. Thuốc giải độc hay nhất để phóng viên trị được chứng thù địch

này là phải tường thuật công bằng và chính xác những gì doanh nghiệp đang

19

làm và đang nói. Nhờ luôn luôn công bằng, bạn có thể dành được lòng tin cậy

và tín nhiệm của các doanh nhân – hay ít ra là sự kính trọng bất đắc dĩ của

họ” [59, tr. 334].

Như vậy, giao tiếp là một trong các kỹ năng thu thập thông tin kinh tế

rất quan trọng đối với nhà báo. Kỹ năng giao tiếp đòi hỏi nhà báo phải khiêm

tốn, ứng xử khéo léo và cầu thị, chân thành để mang lại kết quả tốt nhất là lấy

được các thông tin kinh tế cần thiết và độc quyền từ các nguồn tin. Để duy trì

quan hệ với các nguồn tin nhằm thu thập thông tin kinh tế thì nhà báo cần

thông tin trung thực và công bằng những thông tin mà nguồn tin đã cung cấp.

1.3.2. Kỹ năng nghiên cứu tài liệu văn bản

Theo Đại từ điển Tiếng Việt, văn bản có nghĩa: Là bản chép tay hoặc

in ấn với một nội dung nhất định, thường để lưu lại lâu dài; là những chuỗi ký

hiệu ngôn ngữ hay loại ký hiệu nào đó, tạo nên một chỉnh thể với ý nghĩa trọn

vẹn [52, tr. 1795].

Ta có thể hiểu tư liệu văn bản là những thông tin được chứa đựng trong

các dạng cơ bản sau đây: Sách (sách văn học, lịch sử, văn hoá, pháp luật, kinh

tế...); báo (báo in, báo hình, báo nói, báo mạng...); Internet; Băng, đĩa (hình

ảnh, âm thanh); các văn bản giấy tờ (văn bản quản lý hành chính nhà nước,

văn bản đời thường…).

Văn bản quản lý hành chính nhà nước là loại tư liệu quan trọng, phổ biến

mà phóng viên hàng ngày thường khai thác và xử lý. Văn bản quản lý hành

chính nhà nước gồm các loại chủ yếu sau đây:

Văn bản quy phạm pháp luật (văn bản luật, dưới luật): Luật, nghị quyết,

quyết định, nghị định, thông tư, chỉ thị... của các cơ quan quản lý nhà nước;

văn bản hành chính: Báo cáo, tổng kết, biên bản, hợp đồng, thông báo, giấy

mời... của các đơn vị, cơ quan nhà nước.

Văn bản đời thường là loại tư liệu có tính chất cá nhân, riêng tư. Văn

bản đời thường bao gồm các loại chủ yếu sau đây: Thư từ, nhật kí, giấy viết

20

tay, sổ sách, ghi chép cá nhân…

Theo TS. Lê Thị Nhã thì: “ Đối với phóng viên kỹ năng nghiên cứu văn

bản là việc thu thập, phân tích, xem xét các thông tin trong văn bản để rút ra

những thông tin, tư liệu cần thiết cho hoạt động sáng tạo tác phẩm” [33, tr. 93]

Khi sử dụng kỹ năng nghiên cứu tài liệu văn bản để thu thập thông tin

kinh tế, nhà báo cần chú ý:

Xác định giá trị pháp lý của văn bản (văn bản thuộc loại nào: luật, báo

cáo, tổng kết, thư cá nhân...). Xác định nguồn gốc, tác giả văn bản (của ai, của

tổ chức nào, ở đâu...). Xác định xem văn bản đó có phải là bản gốc (bản

chính) hay bản sao. Phóng viên cần phải xem xét văn bản với thói quen của

nhà điều tra. Nếu văn bản dùng làm căn cứ, chứng cứ trong những sự việc

quan trọng thì nhất thiết phải có hoặc cần phải đối chiếu với văn bản gốc để

đảm bảo tính chính xác cao. Chú ý thời gian ra đời của văn bản.

Kiểm tra tính xác thực của một số tư liệu văn bản. Phóng viên cần chú

ý: Phân biệt sự việc và ý kiến; tìm hiểu ý đồ của người soạn thảo văn bản;

xem xét bối cảnh tác động đến sự ra đời của văn bản... Khi nghiên cứu một số

văn bản, cần phát hiện ra các con số, các chi tiết quan trọng, nổi bật, có yếu tố

tin tức. Đó là những con số, chi tiết “biết nói”.

Nên có thái độ nghi ngờ trong khai thác tư liệu văn bản. Phóng viên

không nên coi các bản thông cáo như là thứ thông tin vô hại có sẵn để sử

dụng viết tin, bài. Chuyện một số cơ quan, đơn vị “làm thì láo, báo cáo thì

hay” cũng không phải là hiếm. Thực tế đã có nhà báo bị “lừa” vì không chịu

thẩm định thông tin trong thực tế mà chỉ dựa vào báo cáo của cơ sở. Nên xem

các văn bản báo cáo, tổng kết là một phần tư liệu làm căn cứ, tham khảo, còn

phóng viên phải kết hợp kiểm chứng, so sánh tư liệu văn bản với các nguồn

tin khác.

Cẩn trọng với các tài liệu bí mật của Nhà nước. (Tài liệu bí mật Nhà

nước là những tài liệu, thông tin có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính

21

trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ, các lĩnh vực

khác mà Nhà nước không công bố hoặc chưa công bố. Tuỳ vào tính chất quan

trọng của nội dung tin, mức độ nguy hại nếu bị tiết lộ, các tin thuộc phạm vi

bí mật Nhà nước được chia làm ba mức độ: Tuyệt mật, tối mật, mật).

Phóng viên không được phép tiết lộ, công bố những thông tin bí mật đó

bởi nếu những tài liệu này bị tiết lộ sẽ gây nguy hại cho Nhà nước. Nếu vi

phạm, phóng viên sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.

Văn bản đời thường là loại văn bản thuộc sở hữu riêng của cá nhân.

Cung cấp hay không cung cấp cho phóng viên là quyền của họ. Trừ trường

hợp các văn bản đó có liên quan đến những hành động gây nguy hiểm cho xã

hội cần có sự can thiệp của cơ quan luật pháp, còn lại phóng viên phải khích

lệ sự tự nguyện cung cấp của chủ nhân văn bản.

Thông tin từ báo chí giúp phóng viên nắm tình hình thời sự một cách

nhanh chóng và chính xác. Phóng viên có thể thường xuyên cập nhật được

những tin tức nóng hổi, đáng tin cậy.

Đối với tìm kiếm tư liệu văn bản trên Internet: Internet là kho thông tin,

tư liệu khổng lồ. Nó cho phép phóng viên khai thác thông tin, tư liệu thuộc

nhiều lĩnh vực và ngành nghề khác nhau. Với những tiện ích lớn lao, nó đã trở

thành một công cụ phổ biến, lý tưởng, hỗ trợ đắc lực phóng viên trong hoạt

động thu thập tư liệu.

Tuy nhiên, khai thác thông tin trên Internet cũng có bất lợi: Quá nhiều

các nguồn tin dẫn đến việc phân tán thông tin; nhiều thông tin không rõ nguồn

gốc. Phóng viên có thể tìm thấy trên Internet những thông tin có giá trị nhưng

cũng có thể chỉ thu được những thông tin rác. Vì vậy việc kiểm tra các nguồn

tin nhiều khi cũng rất khó khăn và tốn thời gian.

Như vậy, nghiên cứu tài liệu văn bản là một trong các kỹ năng thu thập

thông tin kinh tế quen thuộc của nhà báo. Khi nghiên cứu văn, nhà báo cần phải

xác định được nguồn gốc, tính pháp lý, mốc thời gian của văn bản. Đặc biệt

22

nhà báo cần chú ý đến các con số, chi tiết nổi bật có vấn đề trong văn bản.

1.3.3. Kỹ năng quan sát

Theo tác giả Lê Thị Nhã trong cuốn “Lao động nhà báo – Lý thuyết và

kỹ năng cơ bản”, do Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính, ấn hành năm 2010

thì quan sát là khả năng cảm thụ hiện thực của con người nhờ vào các cơ quan

cảm giác chủ yếu như thị giác và thính giác thông qua sự tiếp xúc nghe nhìn.

Bản chất của hoạt động quan sát là sự cảm nhận trực tiếp của người

quan sát đối với hiện thực sinh động. Quan sát thường đem lại những thông

tin có đặc tính mô tả.

Quan sát là một trong các kỹ năng thu thập thông tin nói chung và

thông tin kinh tế nói riêng của nhà báo. Với phóng viên, quan sát không có

nghĩa chỉ là nhìn, trông mà là thấy được sự vật, hiện tượng. Quan sát khác với

hoạt động nhìn, trông vì quan sát có sự tham gia của hoạt động tư duy như:

phân tích, tổng hợp, suy luận, phán đoán...

Theo các nhà nghiên cứu, người có năng lực quan sát là người có khả

năng tri giác nhanh chóng và chính xác những điểm quan trọng, chủ yếu và đặc

sắc của sự vật, hiện tượng cho dù những điểm đó có khó nhận thấy hoặc có vẻ

là thứ yếu. “Quan sát phải trở thành thói quen nghề nghiệp của mỗi phóng viên.

Người ta thường dùng khái niệm nhà quan sát để chỉ nhà báo và cho rằng: nghệ

thuật làm báo trước hết là nghệ thuật nhìn thế giới” [33, tr. 101 - 115]

Khi quan sát nhà báo cần quan tâm đến: Đối tượng quan sát. Trong môi

trường tự nhiên và xã hội, xuất hiện khá nhiều sự việc, hiện tượng với vô vàn

các chi tiết khác nhau. Trong quá trình thu thập thông tin để viết báo, phóng

viên có thể dùng phương pháp quan sát để thu vào tầm mắt của mình những chi

tiết chứa đựng những thông tin, dữ liệu có ích cho chủ đề tác phẩm. Đối tượng

quan sát rất phong phú, đa dạng. Có thể tổng hợp thành các dạng cơ bản sau

đây: quan sát quang cảnh, hiện trạng; quan sát con người; quan sát đồ vật...

Quan sát quang cảnh, hiện trạng: Đó có thể là hình ảnh một con sông bị

23

ô nhiễm nặng nề; những vạt rừng bị chặt phá; một bãi khai thác vàng trái phép

bị đào bới nham nhở; không khí của một công sở trong giờ làm việc; một

quán cafe trá hình... Có những hiện trạng, quang cảnh rộng lớn như cảnh một

thị trấn hoang tàn, đổ nát sau một đêm bị lũ quét; toàn cảnh thành phố, làng

mạc được nhìn từ trên cao...

Cận cảnh hơn như hình ảnh một ngôi nhà ở “làng ung thư” hoang lạnh

đã từ lâu không ai dám ở, cũng chẳng ai dám mua. Họ coi đây là mảnh đất

“tuyệt tự” bởi vợ chồng con cái nhà này đều đã chết hết vì căn bệnh ung thư.

Hay như cảnh một cây cầu bị hư hỏng xuất hiện nhiều vết nứt; cảnh lớp học

vùng cao trống huơ, trống hoác trong mùa đông giá lạnh...

Qua việc quan sát và mô tả lại quanh cảnh, hiện trạng của những sự

kiện, hiện tượng diễn ra trong thực tế, phóng viên đã cung cấp cho bạn đọc

bức tranh hiện thực nóng hổi, sinh động. Đặc biệt với phóng sự, thể loại cần

có sự chứng kiến ít nhiều của người viết thì các chi tiết quan sát quang cảnh,

hiện trạng được sử dụng trong tác phẩm khá nhiều.

Quan sát diện mạo và hoạt động của con người. Mỗi tác phẩm báo chí

đều trực tiếp hoặc gián tiếp gắn với số phận của những con người trong cuộc

sống. Họ thuộc đủ các lứa tuổi, thành phần khác nhau trong xã hội, từ những

người có địa vị cho tới những người lao động bình thường, từ những người

nổi tiếng cho tới những con người không ai biết đến.

Dưới ngòi bút của phóng viên, hình ảnh của những con người với tư

cách là nguồn tin, nhân chứng xuất hiện với mức độ đậm nhạt khác nhau.

Việc phác hoạ về vóc dáng, khuôn mặt, cử chỉ, hoạt động... của con người

một cách phù hợp sẽ làm tăng sự chân thật, sinh động cho bài báo, phần nào

thể hiện được năng lực thu thập và xử lý thông tin của người viết. Nhà báo

giỏi không nói cho chúng ta biết người đàn ông đó già mà chỉ cho chúng ta

thấy: ông ta tóc hoa râm, tay nhăn nheo và đi lề mề. Hình ảnh khuôn mặt nhoè

nước mắt của đứa trẻ trước những quyển vở rách nát vì mưa bão; bộ mặt khắc

24

khổ nhưng cương nghị, quyết đoán của người thương binh trước những thử

thách trong cuộc sống cơm áo đời thường; khuôn mặt thẫn thờ, tuyệt vọng của

một bà mẹ đang trông chờ tin tức của đứa con bị bán qua biên giới... Tất cả

những hình ảnh đó qua nét phác khéo léo của phóng viên có sức lay động

người đọc hơn là những câu chữ khô khan.

Quan sát là thao tác sử dụng thường xuyên của phóng viên trong hoạt

động tác nghiệp. Trong điều kiện có thể, tất cả những gì diễn ra trong thực tế

đều được thu vào mắt của họ. Tất nhiên, không phải tất cả những gì quan sát

được, phóng viên cũng đưa vào tác phẩm của mình. Có khi sự quan sát đó chỉ

dùng để tìm hiểu, thẩm định thêm cho những thông tin, chi tiết nào đó mà

phóng viên sẽ viết trong bài báo. Thường thì trong những tin, bài ngắn với

tính chất thông báo là chủ yếu ít đưa vào bài những chi tiết thu thập từ quan

sát. Còn trong các phóng sự, tưởng thuật, ghi chép... thì những chi tiết đó xuất

hiện nhiều hơn.

Tuy nhiên, nếu phóng viên lạm dụng phương pháp quan sát, đưa vào

tác phẩm của mình những chi tiết thiếu chọn lọc, kém ý nghĩa sẽ chỉ làm bài

viết thêm rườm rà, loãng thông tin.

Các loại quan sát cơ bản. Có thể phân chia quan sát thành các loại cơ

bản sau đây:

Theo vị trí của người quan sát:

 Quan sát tham dự

Người quan sát trực tiếp tham dự vào các hoạt động cùng với những đối

tượng được quan sát. Hoạt động tham dự để quan sát có nhiều mức độ khác

nhau: Tham dự một phần hoặc nhập cuộc hoàn toàn.

Quan sát tham dự có thể cung cấp những thông tin chân thật, vốn có

trong điều kiện tự nhiên về đối tượng được quan sát. Sự tham dự cho phép

người quan sát hiểu biết và cảm nhận được những gì sâu xa, thầm kín ẩn chứa

25

đằng sau mỗi hành động quan sát.

Ví dụ phóng viên vào vai hành khách để chứng kiến cảnh cơm tù; vào vai

người đi khám bệnh để quan sát cảnh “cò” khám chữa bệnh lộng hành ở các

bệnh viện; vào vai phụ xe để chứng kiến nạn mãi lộ, vào vai một phu đào

vàng để quan sát nạn đãi vàng trái phép...

 Quan sát không tham dự

Người quan sát không tham dự vào các hoạt động cùng với những đối

tượng được quan sát. Họ đứng ngoài cuộc và đơn thuần ghi lại những gì đang

diễn ra. Do nhìn từ bên ngoài nên người quan sát khó khăn hơn trong việc

muốn tìm hiểu những gì xảy ra đằng sau mỗi hành động của đối tượng được

quan sát như: nguyên nhân, động cơ...

Theo cách thức quan sát:

 Quan sát công khai

Đối tượng được quan sát biết rõ mình đang bị quan sát. Sự có mặt của

người quan sát dù sao vẫn có ảnh hưởng (ít hay nhiều) đến đối tượng quan

sát. Do vậy, quan sát công khai có thể sẽ gây ra sự căng thẳng, mất tự nhiên

cho đối tượng được quan sát. Có trường hợp quan sát công khai không đưa

đến kết quả đúng như nó vốn có.

 Quan sát bí mật

Đối tượng được quan sát không biết mình đang bị quan sát. Vì vậy quan

sát bí mật có thể nó tạo ra khả năng nhận thức tốt hơn vì lúc đó các hành

động, tình huống xảy ra tự nhiên, ít sai lệch hơn.

Tuy nhiên, cũng có những ý kiến đặt ra vấn đề vi phạm pháp luật, đạo

đức trong một số trường hợp phóng viên thực hiện quan sát bí mật và quan sát

tham dự. Họ cho rằng quan sát bí mật có thể sẽ xâm phạm vào quyền lợi riêng

tư của người được quan sát nhất là trong trường hợp phóng viên còn ghi lại

những gì quan sát được qua các bức ảnh hoặc băng hình (chẳng hạn việc

phóng viên nhật báo Anh The Sun đã bí mật ghi lại hình ảnh riêng tư của ông

26

Saddam Hussein – cựu Tổng thống Iraq khi ông ở trong tù. Các luật sư của

ông cho rằng: The Sun đã công bố những “bức ảnh phản cảm và hạ nhục” là

vi phạm rõ ràng và thô bạo các nguyên tắc đạo đức và nhân quyền... (bài “Các

luật sư của ông Hussein doạ kiện báo The Sun” đăng trên báo Tuổi Trẻ, ngày

24-5-2005).

Hoặc cũng có người đặt ra câu hỏi: phóng viên có cách nào tốt hơn để

chứng kiến nạn mãi lộ thay cho việc đóng giả phụ xe trực tiếp đưa tiền mãi lộ

cho cảnh sát hay không? Phóng viên có nên tham dự một cách thái quá, bất

chấp những hành vi vi phạm pháp luật để quan sát, kể cả việc quan sát ấy có

mục đích tốt...

Để đạt hiệu quả cao, nhà báo có các cách quan sát sau: Thứ nhất, quan

sát để tìm ra ý nghĩa. Quan sát là cần thiết nhưng điều đó cũng không phải là

tất cả, “một áng mây màu gì, một khu rừng cảnh sắc ra sao là những cái rất

cần và trong một bối cảnh xã hội nào đó sẽ góp phần làm rung động người

đọc. Nhưng bạn đọc sẽ rất chán nếu như những vấn đề xã hội và cuộc sống

con người không được miêu tả phong phú mà lại chỉ đem đến cho họ màu sắc

của một ít mây...”[57, tr.72]

Quan sát không chỉ là mô tả lại những gì nhìn thấy mà phải đi liền với

sự phân tích, bình giá để tìm ra ý nghĩa, giá trị của chi tiết, sự kiện. Các nhà

báo có kinh nghiệm khuyên rằng: Có thể bạn để ý thấy một thương nhân mà

mình đang phỏng vấn đeo một chiếc cà vạt vẽ in hình con voi. Nếu chiếc cà

vạt không nói lên điều gì quan trọng về thương nhân đó thì đừng viết nó ra.

Nhưng nếu như thương nhân đó là một người bảo vệ động vật hoang dã và

ông ta đeo một chiếc cà vạt với hình một con voi trên đó, thì đấy sẽ là một chi

tiết đáng nói” [47, tr. 68]

Trước một sự kiện, con người, quan sát của phóng viên bao giờ cũng là

quan sát có chủ đích. Phóng viên không chỉ sao chép sự kiện một cách máy

móc mà bằng thông tin tác động vào ý thức người đọc, góp phần vào việc

27

định hướng dư luận xã hội.

Thứ hai, quan sát phải có suy luận, phán đoán. Năng lực quan sát của

phóng viên thể hiện ở chỗ họ nhìn thấy những cái mà người khác nhìn không

ra. Có nghĩa là những gì diễn ra trước mắt mọi người thì ai cũng nhìn thấy

nhưng giá trị của chúng như thế nào thì phụ thuộc vào khả năng phát hiện của

mỗi người. Cùng nhìn thấy một cái gì đó, đối với người này thì chẳng đáng

lưu tâm, nhưng với người kia lại là một điều rất đặc biệt...

Thứ ba, quan sát trong sự so sánh. Như đã nói ở trên, những thông tin

thu được từ quan sát không chỉ là những gì mà phóng viên nhìn thấy mà còn

là những gì mình cảm nhận được từ những chính kinh nghiệm cuộc sống của

mình. Đặc điểm này là hạn chế nhưng cũng có trường hợp lại trở thành thế

mạnh trong hoạt động quan sát.

Cái mà phóng viên quan sát và cảm nhận trực tiếp ở thời điểm hiện tại

được so sánh, đối chiếu với những cái mà anh ta đã biết. Phóng viên có thể so

sánh những gì quan sát được ở sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng

khác hoặc so sánh với bản thân chúng trong các thời điểm, hoàn cảnh, giai

đoạn... khác nhau để làm nổi bật nên những nét đặc sắc của chúng. Chính sự

so sánh, đối chiếu này làm cho sự quan sát có chiều sâu hơn.

Tóm lại, quan sát là một kỹ năng cần thiết để thu thập thông tin kinh tế

của nhà báo. Khi sử dụng kỹ năng này, nhà báo cần quan sát để tìm ra ý nghĩa

của bối cảnh, xem phản ứng của nguồn tin để tìm ra các chi tiết đặc sắc.

1.3.4. Kỹ năng phỏng vấn

Phỏng vấn là kỹ năng quan trọng và cơ bản hàng đầu để nhà báo thu

thập thông tin, trong đó có thông tin kinh tế. Thông tin là chất liệu để nhà báo

tạo nên tác phẩm báo chí. Để thu thập thông tin kinh tế, nhà báo sử dụng

nhiều kỹ năng, nhưng phần lớn có được là nhờ kỹ năng phỏng vấn của nhà

báo. Chúng ta cũng cần phân biệt phỏng vấn để thu thập thông tin khác với

28

thể loại phỏng vấn.

Khi nhà báo có kỹ năng phỏng vấn tốt thì sẽ thu thập được nhiều thông

tin, trong đó có những thông tin bí mật mà có khi nhà báo khác không có

được nếu kỹ năng phỏng vấn tồi. Phỏng vấn để thu thập thông tin là cả một

nghệ thuật. “Phỏng vấn là một cuộc trò chuyện mạng tính nghệ thuật nhiều

hơn là khoa học. (…). Thông tin chính là vốn liếng của nhà báo. Một số thông

tin được thu thập từ các hồ sơ và số khác từ việc quan sát, nhưng hầu hết được

thu thập từ những cuộc trò chuyện trực tiếp. Vì lý do đó, mọi phóng viên đều

phải nâng cao kỹ năng phỏng vấn của mình” [59, tr. 66, 67].

Trong cuốn “Kỹ năng cho người làm báo” của tác giả Đinh Thuận, do

Nhà xuất bản Thông tấn ấn hành năm 2014, đã lược trích bài giảng tổng kết

của giảng viên Fabienne Gérault, Đại học Báo chí Lille của Pháp về các

nguyên tắc cơ bản của kỹ năng phỏng vấn.

Theo đó, nhà báo muốn thực hiện cuộc phỏng vấn thành công để thu

thập thông tin cần các bước sau: chuẩn bị cho cuộc phỏng vấn, làm chủ cuộc

phỏng vấn và dẫn dắt câu chuyện.

Bước chuẩn bị cho cuộc phỏng vấn để thu thập thông tin, nhà báo cần

chọn đúng người để phỏng vấn cho phù hợp với chủ đề và tìm hiểu về người

được phỏng vấn. Liên hệ với người được phỏng vấn, trình bày chủ đề phỏng

vấn đề có sự chuẩn bị trước. Tìm hiểu để biết rõ những sự việc quan trọng,

các số liệu, các vấn đề đặt ra, từ đó xác định góc độ của cuộc phỏng vấn.

Chuẩn bị các câu hỏi và sắp xếp theo thứ tự. “Sự thành công của nhiều cuộc

phỏng vấn phụ thuộc rất nhiều vào những gì bạn chuẩn bị trước khi bạn đặt

câu hỏi đầu tiên chẳng kém những gì bạn được nghe trả lời và nghi chép lại.

Bạn phải nghiên cứu cả chủ đề lẫn bản thân nguồn tin” [59, tr. 69].

Khi thiết lập cho cuộc phỏng vấn với nguồn tin, nhà báo xác định thời

gian thuận lợi cho người được phỏng vấn. Tính toán khoảng thời gian cần

thiết. Khả năng cho những lần phỏng vấn tiếp theo. Lựa chọn không gian

29

quen thuộc của người phỏng vấn hoặc một địa điểm trung lập. Đôi khi cách

ăn mặc cũng ảnh hưởng ít nhiều đến cuộc phỏng vấn. Bạn phải ăn mặc cho

phù hợp với cuộc phỏng vấn. Bạn sẽ không thể mặc quần soọc ngắn vào văn

phòng hiệu trưởng trường đại học, và bạn cũng sẽ không thể mặc veston đeo

cà vạt để nói chuyện với các nhà cách mạng đang hoạt động bí mật.

Giai đoạn làm chủ cuộc phỏng vấn, nhà báo phải tập trung vào chủ đề

phỏng vấn, nhưng đồng thời phải cởi mở để tạo sự quan tâm, húng thú chung

đối với cuộc trò chuyện. Tự giới thiệu, nhắc lại mục đích phỏng vấn, nói rõ

điều mình trông đợi. Ngồi ở tư thế thoải mái để ghi chép được dễ dàng. Tránh

dùng máy ghi âm, trừ trường hợp cần thiết.

Trong giai đoạn dẫn dắt cuộc phỏng vấn thì câu hỏi đầu tiên mang tính

chung chung. Không bắt đầu bằng câu hỏi quan trọng nhất hay khó nhất, tạo

tự tin cho người đối thoại. Đẩy cuộc phỏng vấn đến từng chi tiết cụ thể nhất

có thể được. Nhà báo nên đặt các câu hỏi mở. Quay lại chủ đề, nếu người

được phỏng vấn đi quá xa hoặc quá ba hoa. Đặt lại một câu hỏi khác, nếu

người phỏng vấn trả lời quá chung chung. Đặt câu hỏi mở, nếu người được

phỏng vấn trả lời quá kiệm lời, sau đó quay lại chủ đề. Đừng ngại ngắt lời

người được phỏng vấn, hay yêu cầu người đó nói cho rõ. Biết cách ra khỏi

câu hỏi ban đầu, nếu có một phát biểu ra khỏi chủ đề nhưng thú vị, có thể

phục vụ cho phỏng vấn. Ghi chép chính xác các công thức, giai thoại. Không

tranh luận, không đưa ý kiến của riêng mình. Giữ mối liên hệ trước khi chia

tay để chắc chắn có thể liên lạc lại được với người được phỏng vấn.

Daphne Gray-Grant đang là chủ bút của trang Publicationcoach.com,

một trang viết về các kỹ năng viết dành cho các nhà báo và người làm truyền

thông, đã chia sẻ các kỹ năng để nhà báo có cuộc phỏng vấn thu thập thông

tin thành công trên chuyên trang báo chí Journalism.co.uk của Anh. Quan

điểm của ông cũng tương tự như trên. Ông cho rằng để cuộc phỏng vấn thành

công, nhà báo cần: đảm bảo phỏng vấn đúng người; hãy bắt đầu bằng câu hỏi

30

dễ; tạo sự đồng cảm; nhắc lại những gì họ đã nói; thật sự lắng nghe; hãy chú ý

đến những câu chuyện bên lề, giai thoại hay ví dụ có liên quan; hỏi về cảm

nhận hay ý kiến người được phỏng vấn; khéo léo từ chối việc sử dụng thuật

ngữ; ghi lại những ý chính tốt hơn là ghi âm lại cuộc phỏng vấn; biết rằng bạn

sẽ có được câu bình luận hay nhất ở phút cuối. [25]

Tóm lại, phỏng vấn là một kỹ năng thu thập thông tin kinh tế không thể

thiếu của nhà báo. Để có cuộc phỏng vấn thành công, nhà báo cần có bước

chuẩn bị chu đáo, làm chủ cuộc phỏng vấn và dẫn dắt cuộc phỏng vấn. Nếu nhà

báo thực hiện tốt kỹ năng phỏng vấn và khéo léo, tạo được thiện cảm và niềm

tin của người được phỏng vấn thì dễ dàng thu thập được những thông tin kinh

tế cần thiết, hấp dẫn và đặc biệt là thông tin “độc quyền” mà các nhà báo khác

chưa hẳn đã có được. Khi có được thông tin đầy đủ, có chiều sâu và hấp dẫn,

nhà báo sẽ thuận lợi trong việc sáng tạo ra tác phẩm báo chí có chất lượng.

1.4. Kỹ năng xử lý thông tin kinh tế của nhà báo

Thu thập xong thông tin, nhà báo phải tiến hành xử lý để đưa thông tin

ấy vào bài viết một cách phù hợp nhất. Không phải thông tin nào thu thập

được cũng phù hợp. Việc xử lý thông tin phải đảm bảo các yêu cầu nhất định.

Để xử lý, ta có thể tiến hành như sau:

1.4.1. Tập hợp, hệ thống hoá thông tin theo từng vấn đề, lĩnh vực

Để tập hợp và hệ thống hoá thông tin có hiệu quả, nhà báo phải hoà

nhập vào dữ kiện đã thu thập bằng cách đọc đi đọc lại. Trước hết phải đọc để

xem nội dung có phù hợp với ý định đã đưa ra, thông tin có đầy đủ, chi tiết

hay chỉ ở bề mặt, người phỏng vấn có sử dụng các kỹ thuật định tính một cách

thích hợp? Phải chú ý chất lượng của thông tin thu thập bằng cách xem lại các

phương pháp, kỹ thuật thu thập thông tin của những người cộng tác có phù

hợp không.

Tiếp đó, nhà báo hệ thống hoá thông tin. Khi xử lý thông tin cần sắp

xếp các dữ kiện theo những đề mục, phạm trù nhất định. Đây là cách tổ chức

31

và phân loại các dữ kiện để sau này có thể so sánh các trường hợp, tìm ra các

khuôn mẫu chung lý giải các vấn đề. Nhà báo nên tóm tắt thông tin và phân

loại thông tin theo các nhóm như thông tin quá khứ, hiện tại, thông tin dự

báo… Tóm tắt những thông tin cơ bản, những thông tin mới, thông tin có

điểm khác biệt với những thông tin trước. Việc thống kê tương tự việc cắm

những ký hiệu giao thông, giúp cho biết được ta đang ở đâu, thấy gì, và cho

phép phân tích một lượng thông tin lớn dễ dàng và chính xác hơn. Nó giúp ta

lọc ra các thông tin có cùng nội dung, tập hợp thành những tập tin riêng, từ đó

có thể tìm ra những chủ đề chi tiết hơn. Ta có thể sử dụng công nghệ thông tin

để tiến hành việc hệ thống hóa này. Hiện nay, có những phần mềm có chức

năng sắp xếp, phân loại các dữ kiện định tính - như phần mềm Aquad,

Hyperresearch, Nudist, Nvivo (Úc), Ethnograth, Qualpro, Meca... Nhưng

việc phân ra các đề mục, mã hoá vẫn là công việc của người xử lý thông tin.

Máy tính chỉ giúp lọc ra các sự kiện, sắp xếp sự kiện còn việc dựa trên các sự

kiện này để lý luận vẫn là công việc của người xử lý thông tin.

Hệ thống hóa là tinh lọc thông tin để có thể thấy rõ những khái niệm chủ

yếu và tương quan giữa chúng. Thực hiện bước này khi việc thu thập thông

tin kết thúc và sau khi hệ thống hóa tư liệu. Mục tiêu của giai đoạn này là để

có một cái nhìn, nắm ý nghĩa tổng quát của tư liệu và phân biệt được các chủ

đề trung tâm với các chủ đề phụ, phân biệt cái chủ yếu và không chủ yếu. Để

có cái nhìn tổng quát như vậy về tư liệu đôi lúc cần những sơ đồ dễ nhìn bằng

cách sử dụng các bản tóm tắt, bản ma trận, sơ đồ, đồ thị… Cuối cùng là tổng

hợp kết quả, cung cấp thông tin, rút ra thông tin cuối cùng về đối tượng, sự

vật, sự việc.

1.4.2. Phân tích và kiểm tra độ chính xác của thông tin, tính hợp lý của tài

liệu, số liệu

Thông tin thu thập được có từ nhiều nguồn khác nhau, với mức độ tin

cậy khác nhau. Việc quan sát, so sánh và đối chiếu thông tin có nhiều ý nghĩa.

32

Một mặt, hoạt động này cho phép xác định mức độ tin cậy của thông tin. Mặt

khác, quan sát, so sánh và đối chiếu thông tin giúp kết hợp thông tin, bổ sung

thông tin để nhận diện đầy đủ hơn về một vấn đề. Cần lưu ý, các nguồn thông

tin chính thống, từ các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ có mức độ tin cậy

cao hơn thông tin từ các nguồn khác. Nguồn thông tin cập nhật sẽ có ý nghĩa

nhiều hơn thông tin đã cũ. Nguồn thông tin có quy mô mẫu lớn sẽ đáng tin

cậy hơn nguồn thông tin thu thập ở quy mô mẫu nhỏ hơn. Khi so sánh và đối

chiếu thông tin cần phải giải đáp cụ thể các vấn đề sau đây: Xác định độ tin

cậy của các nguồn tin, lý giải được sự mâu thuẫn giữa các thông tin (nếu có).

Chọn ra những thông tin đầy đủ hơn, có độ tin cậy cao hơn, chỉnh lý chính

xác tài liệu, số liệu. Thông tin trong quá trình quản lý phải bảo đảm các yêu

cầu [5]:

Thông tin phải đúng. Nghĩa là thông tin phải trung thực, chính xác và

khách quan. Để đạt tiêu chuẩn này cần có yếu tố con người, yếu tố vật chất,

yếu tố phương pháp thu thập và xử lý thông tin.

Thông tin phải đủ. Tiêu chuẩn này thể hiện thông tin phải phản ánh các

khía cạnh cần thiết để có thể tái tạo được hình ảnh tương đối trung thực về đối

tượng đang được xem xét. Thông tin đủ cũng đồng thời với nghĩa không dư

thừa, không lãng phí. Để có được tiêu chuẩn này đòi hỏi các nhà lãnh đạo,

quản lý phải có tầm nhìn chiến lược;

Thông tin phải kịp thời. Nghĩa là thông tin phải được thu thập, phản ánh

đúng lúc để kịp phân tích, phán đoán, xử lý. Tuy nhiên tiêu chuẩn này phụ

thuộc vào khả năng con người, trang thiết bị, phương pháp áp dụng.

Thông tin phải gắn với quá trình, diễn biến của sự việc. Nghĩa là thông tin

đó thuộc giai đoạn nào, thuộc quá trình quản lý, thuộc cấp quản lý nào? Đây là

tiêu chuẩn rất quan trọng đánh giá chất lượng thông tin thời kỳ hiện đại;

Thông tin phải dùng được, phải có giá trị thực sự, thông tin có thể đóng

góp vào một trong các công việc. Đồng thời thông tin phải được xử lý để dễ

33

đọc, dễ tiếp thu, dễ hiểu, dễ nhớ.

1.4.3. Thống kê số liệu, tính tỷ lệ, tính xác suất, sử dụng ngôn ngữ thông

tin phi văn tự

Thống kê là một trong những công cụ quản lý vĩ mô quan trọng, cung

cấp các thông tin thống kê trung thực, khách quan, chính xác, đầy đủ, kịp

thời. Số liệu thu thập được sẽ không có ý nghĩa nếu không được xử lý. Số liệu

trong nhiều trường hợp chỉ là sự mô tả giản đơn, tập hợp lại, chưa phản ánh

được xu hướng, bản chất của vấn đề. Số liệu thu thập được có thể xử lý ở mức

độ, cấp độ khác nhau. Thống kê, tính tỷ lệ, tính xác suất là các công cụ cơ bản

để tìm hiểu ý nghĩa của các số liệu. Thống kê số liệu có thể thực hiện bằng

việc xác định tần suất, tỷ lệ, tìm ra mối tương quan giữa các số liệu, ý nghĩa

của các số liệu...

Thông tin kinh tế có nhiều số liệu, bởi vậy, khi xử lý thông tin kinh tế

đòi hỏi nhà báo cần kỹ năng xử lý số liệu cho phù hợp với mục đích của bài

viết. Không phải tất cả các số liệu mà các nguồn tin cung cấp đều có thể sử

dụng được ngay. Nhà báo cần chọn lựa các số liệu cần thiết và đôi khi phải

chuyển sang tỷ lệ, xác suất để nêu bật được ý nghĩa của các số liệu đó. “Một

trong những điều quan trọng nhất mà các nhà báo đem đến cho độc giả là mối

tương quan của những số liệu trong các tin tức – giải thích những điều có liên

quan đến độ lớn hoặc tầm quan trọng của toàn bộ sự việc” [59, tr. 134].

Có nhiều lúc nhà báo phải chuyển các số liệu có được từ các nguồn tin

sang tỉ lệ phần trăm để nêu bật ý nghĩa của tỉ lệ đó. Chẳng hạn, một công ty

cung cấp cho nhà báo số tiền đóng góp vốn của các cổ đông, nhà báo cần

chuyển sang tỷ lệ phần trăm để biết được các cổ đông chiếm bao nhiêu phần

trăm trong tổng số vốn của công ty đó. Với mỗi tỷ lệ phần trăm vốn khác, các

cổ đông lại có quyền hạn khác nhau. Nếu một cổ đông sở hữu chiếm 51% số

vốn của công ty sẽ có quyền hạn đưa ra các quyết định đến công ty khác với

34

cổ đông chiếm 49% số vốn.

Thông thường để tính tỷ lệ %, lấy phần muốn tính chia cho tổng số, sau

đó rời dấu thập phân về bên phải hai đơn vị. Ví dụ, bạn muốn biết ngân sách

của thành phố Hà Nội trả cho ngành cảnh sát là bao nhiêu. Lấy ngân sách

dành cho cảnh sát chia cho ngân sách thành phố Hà Nội, rồi rời dấu thập về

bên phải hai số. Kết quả là tỉ lệ % ngân sách chi trả cho ngành cảnh sát. Một

khía cạnh quan trọng khác của tỷ lệ phân trăm là khái niệm biến đổi tỷ lệ phần

trăm. Con số này lý giải việc tăng hay giảm. “Nếu sự thay đổi lớn thì tốt hơn

nên diễn dịch những con số thành những lời lẽ đơn giản chứ đừng sử dụng số

chỉ tỷ lệ phần trăm” [59, tr. 137].

Để tính toán tỷ lệ phần trăm: phần muốn tính / Tổng = xxx. Di chuyển

dấu thập phân hai đơn vị: ,xxx=xx,x%. Để tính toán sự biến đổi tỷ lệ: (số mới)

– (Số cũ) = Số biến đổi. (Số biến đổi) / Số cũ = ,xxx. Di chuyển dấu thập phân

hai đơn vị: ,xxx = xx,x. Biến đổi tỉ lệ phần trăm có thể cho ra một số dương

hoặc một số âm.

Tuy nhiên, nhà báo khi xử lý thông tin kinh tế với việc tính toán xác suất

và tỷ lệ cần tránh nhầm lẫn giữa “xác suất” và “tỉ lệ”. “Xác suất nghĩa là khả

năng một điều gì đó có thể xảy ra. Ví dụ khả năng đồng xu lật mặt hình người

là ½ (một trong hai kết quả có thể) hay 0,5. Tỉ lệ có nghĩa là khả năng một điều

gì đó có thể xảy ra hơn là một điều khác. Như với ví dụ trên thì khả năng đồng

xu lật mặt hình người và lật mặt có chữ là 0,5 : 0,5 hay là 1” [59, tr. 134].

Cùng với việc xử lý thông tin bằng việc thống kê, tính xác suất, tính tỷ

lệ thì một trong các kỹ năng xử lý thông tin kinh tế rất quan trọng nữa của nhà

báo là sử dụng ngôn ngữ thông tin phi văn tự (biểu đồ, đồ thị, bảng số liệu…).

Theo cuốn “Ngôn ngữ báo chí” của tác giả Vũ Quang Hào, do Nxb

Thông tấn ấn hành năm 2012 thì biểu đồ là hình vẽ biểu diễn một khái niệm,

quy luật hay quan hệ nào đó, nó mô tả một cách trực quan sự phụ thuộc giữa

35

các đại lượng.

Các thông tin kinh tế thường có nhiều số liệu. Nếu nhà báo không biết

xử lý một cách khôn ngoan mà đưa toàn bộ các số liệu vào trong bài báo thì

dễ dẫn đến tình trạng công chúng nhiễu hoặc rối thông tin. Hơn nữa, việc có

quá nhiều số liệu trong một bài báo làm công chúng khó nhớ được thông tin.

Bởi vậy, xử lý thông tin kinh tế thường có nhiều số liệu đòi hỏi nhà báo cần

chuyển các số liệu thành các biểu đồ, đồ thị, bảng số liệu khi cần thiết. Cách

xử lý thông tin này vừa làm thể hiện được đầy đủ nhiều số liệu, nêu bật lên ý

nghĩa của các con số và quan trọng hơn cả là công chúng có thể tiếp nhận

được nhiều thông tin. Việc xử lý thông tin kinh tế bằng việc vẽ biểu đồ, đồ thị

cũng tạo ra một cách thể hiện mới lạ, có sức hấp dẫn với công chúng. “Biểu

đồ là hình thức thông tin hữu ích đối với những nội dung có liên quan đến số

liệu, đặc biệt là trong các lĩnh vực thông tin kinh tế, ngân hàng, tài chính, thị

trường chứng khoán. Trong một số trường hợp, biểu đồ tỏ rõ tính yêu việt so

với bài viết dài bằng thông tin phi văn tự” [18, tr. 243].

Trên báo chí, cho đến nay đã sử dụng phổ biến một số loại biểu đồ sau:

Thứ nhất, biểu đồ hình cột, bao gồm biểu đồ cột đứng và biểu đồ cột

nằm. Trên báo chí, biểu đồ được trình bày dưới khá nhiều dạng. Chẳng hạn

biểu đồ cột đứng có thể được in trên nền hình vẽ minh họa hoặc ảnh chụp.

Trong một số trường hợp, người ta có thể dùng hình vẽ thay cho các cột hoặc

bỏ đi các trục mà chỉ còn dùng con số trên một trục tưởng tượng…

Thứ hai, biểu đồ hình quạt (hay còn gọi là biểu đồ hình tròn). Dạng biểu đồ

này giúp nhận diện, so sánh tỷ lệ đại lượng qua độ to – nhỏ của các múi. Nó

có thể nằm thẳng, nằm nghiêm, có thể đặc hoặc có lỗ ở giữa. Các múi có thể

phân biệt nhau bằng màu sắc, có thể tách rời khỏi tâm vòng tròn, lùi xa khỏi

vòng tròn và có khi chỉ còn là một múi độc lập của đại lượng. Hình dáng biểu

đồ loại này có tác dụng gây sự chú ý mạnh từ người đọc. Nếu chúng được

36

dùng gam màu nóng, đậm thì khả năng “níu mắt” càng cao.

Thứ ba, biểu đồ minh họa: Đây thực chất là một tranh minh họa nhưng

lại vẽ theo dạng biểu đồ hoặc vừa kết hợp biểu đồ cột đứng với tranh minh

họa hay với ảnh.

Thứ tư, biểu đồ hình hộp: Đây là dạng biểu đồ rất hiếm khi xuất hiện

trên báo chí. Đây là dạng biểu đồ dùng một mặt phẳng của hình hộp rồi

chia cắt diện tích mặt phẳng đó theo các tỷ lệ tương ứng với các đại lượng

cần diễn đạt.

Cùng với vẽ biểu đồ thì đồ thị cũng được nhà báo sử dụng làm kỹ năng

xử lý thông tin kinh tế. Đối với báo chí, đồ thị là hình vẽ biểu diễn sự biến

thiên của một hay nhiều đại lượng bằng một hay nhiều đường nối các điểm

đặt trên một trục tọa độ. So với biểu đồ thì đồ thị sử dụng ít hơn, nhưng nó lại

có ưu điểm nổi bật mà đồ thị không có khi thể hiện thông tin kinh tế. “So với

biểu đồ, sơ đồ, thì trên báo chí đồ thị được sử dụng ít hơn, nhưng nó lại có vai

trò đáng kể đối với một số loại thông tin báo chí nhất định, chẳng hạn thông

tin về thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ. Do chỗ đồ thị có đặc điểm

riêng nguyên thủy là hàm số biến thiên theo từng giá trị như đã nói trên, cho

nên nếu so sánh về mặt biến thiên của một đại lượng trong một quãng thời

gian nào đó thì rõ ràng đồ thị có ưu thế hơn so với biểu đồ. Và đây cũng chính

là lý do giải thích vì sao đối với báo chí nước ngoài, ở các trang tiền tệ, chứng

khoán… đồ thị xuất hiện nhiều đến thế” [18, tr.249].

Trong kỹ năng xử lý thông tin kinh tế bằng biểu đồ, đồ thị, các nhà báo

thường phối hợp với bộ phận đồ họa của tòa soạn.

Tóm lại, trong các kỹ năng xử lý thông tin kinh tế của nhà báo, tác giả

luận văn tập trung vào 3 kỹ năng, đó là kỹ năng tập hợp, hệ thống hoá thông

tin theo từng vấn đề, lĩnh vực; kỹ năng phân tích và kiểm tra độ chính xác của

các thông tin, tính hợp lý của các tài liệu, số liệu; kỹ năng thống kê số liệu,

37

tính tỷ lệ, tính xác suất, sử dụng biểu đồ, đồ thị.

1.4.4. Chuyển thuật ngữ chuyên ngành kinh tế sang ngôn ngữ báo chí

Nhà báo Loic Hervouet, Tổng Giám đốc Đại học Báo chí Lill (Pháp),

đã khẳng định: “Không có gì trừu tượng hơn là con số, nhất là khi con số vượt

qua tầm tưởng tượng của người đọc” [18, tr. 99].

Trong những thông tin về kinh tế, nhà báo sẽ bắt gặp các thuật ngữ

chuyên ngành về kinh tế như tỷ giá, lãi suất… Đối với những người am hiểu

về lĩnh vực kinh tế thì những thuật ngữ chuyên ngành kinh tế không phải là

vấn đề khó hiểu. Tuy nhiên, công chúng báo chí gồm nhiều đối tượng khác

nhau, trình độ khác nhau. Không phải công chúng nào cũng hiểu được các

thuật ngữ chuyên ngành kinh tế. Bởi vậy trong kỹ năng xử lý thông tin kinh

tế, nhà báo cần có kỹ năng chuyển các thuật ngữ chuyên ngành kinh tế sang

ngôn ngữ báo chí phổ thông, dễ hiểu. Điều này nhằm giúp nhiều đối tượng

công chúng có trình độ khác nhau có thể biết, hiểu về thông tin kinh tế. “Các

nhà báo kinh tế cũng đang loại bỏ dần những từ chuyên môn thường gây rối

rắm cho độc giả tiềm năng. Thay vào đó, họ đang giải thích mọi chuyện bằng

ngôn ngữ phổ thông mà ai cũng hiểu biết. Kết quả là lượng độc giả - và lượng

báo in sẵn sàng cung cấp tin kinh tế - đang tăng lên” [59, tr. 330].

Để phân biệt một câu chuyện kinh tế với một chuyện về bóng đá – hay

tương tự, phân biệt chuyện bóng đá với chuyện về các thành phần nguyên tử -

chính là kiến thức và ngôn ngữ cần thiết để đặt câu hỏi đúng, biết nhận ra các

câu trả lời có giá trị thông tin, và biết viết thành câu chuyện sao cho độc giả

không có kiến thức chuyên môn vẫn hiểu được. Một nhà báo hiểu rõ vấn đề

giải thích các thuật ngữ chuyên ngành kinh tế.

Ví dụ, nếu ngân hàng thay đổi lãi suất cơ bản thì nhà báo chuyên về tài

chính cá nhân có thể sẽ là người viết bài giải thích rằng chỉ cần tăng 1% thôi

cũng khiến cho lãi suất của các món nợ mua nhà hay xe trả góp tăng cao.

Nhưng vấn đề là khi chuyển thuật ngữ chuyên ngành kinh tế sang ngôn

38

ngữ báo chí phổ thông, nhà báo cần tránh tình trạng ngôn ngữ tầm thường,

không có sức hấp dẫn công chúng. “Các phóng viên kinh tế phải dùng ngôn

ngữ dễ hiểu. Nhưng đơn giản hóa quá mức có thể làm độc giả xa lánh tờ báo.

Tờ The Wall Street đã tránh được cả hai cạm bẫy này bằng cách tránh dùng từ

chuyên môn càng nhiều càng tốt và giải thích bất kỳ thuật ngữ nào quan trọng

đối với bài viết” [59, tr. 333].

PGS. TS Vũ Quang Hào, trong cuốn “Ngôn ngữ báo chí” đã đưa ra một

số lưu ý khi nhà báo sử dụng thuật ngữ chuyên ngành. Một là, đối với tạp chí

chuyên ngành, việc dùng thuật ngữ chuyên ngành là đương nhiên, là tất yếu.

Song, yêu cầu ở đây là dùng thuật ngữ nhất quán theo một hệ thống, có nghĩa

là không dùng các biến thể thuật ngữ khác nhau trong cùng một tạp chí hoặc

trong cùng một bài báo.

Hai là, đối với báo chí dùng cho đông đảo công chúng, cần tính đến các

điểm: tránh hoặc hạn chế thấp nhất dùng thuật ngữ chuyên ngành hẹp; cần

dùng thống nhất thuật ngữ theo một hệ thống đặc biệt lưu ý hiện tượng các

biến thể thuật ngữ để tránh tình trạng cùng một bài báo xuất hiện nhiều biến

thể; không dùng thuật ngữ theo sở thích cá nhân cũng như không tùy tiện rút

ngọn cấu trúc thuật ngữ; không dùng thuật ngữ chuyên ngành để diễn đạt

những nội dung thông thường trong bài báo, tránh hiện tượng làm nhòe, làm

rối nghĩa của thuật ngữ [18, tr. 107, 108].

Như vậy, trong các kỹ năng xử lý thông tin kinh tế, nhà báo cần lưu ý

kỹ năng chuyển thuật ngữ chuyên ngành kinh tế sang ngôn ngữ báo chí phổ

thông, dễ hiểu để giúp nhiều đối tượng công chúng với trình độ nhận thức và

văn hóa khác nhau có thể hiểu được thông tin kinh tế. Tuy nhiên, nhà báo

cũng cần thận trọng trong kỹ năng xử lý thông tin này, tránh đơn giản hóa quá

mức làm mất đi sự hấp dẫn của thông tin kinh tế.

1.5. Mối quan hệ giữa hai kỹ năng thu thập và xử lý thông tin kinh tế

Đây là hai kỹ năng quan trọng và cần thiết đối với nhà báo chuyên

39

ngành kinh tế. Khi có kỹ năng thu thập thông tin tốt thì việc xử lý thông tin

của nhà báo cũng dễ dàng hơn. Ngược lại, khi nhà báo thu thập thông tin

không hiệu quả thì việc xử lý sẽ gặp khó khăn.

Tuy nhiên, để có được những thông tin kinh tế chất lượng, đòi hỏi cả

hai kỹ năng này đều phải thành thục. Dù nhà báo thu thập được nhiều thông

tin nhưng kỹ năng xử lý không tốt, dẫn đến chất lượng thông tin không cao.

Do đó, thông tin thu thập được không đạt được hiệu quả như mong muốn. Ví

dụ nhờ có kỹ năng thu thập thông tin tốt, nhà báo có được rất nhiều các số

liệu về kinh tế nhưng lại không biết chuyển các số liệu sang thông tin phi văn

tự (biểu đồ, đồ thị, bảng biểu…) mà bê nguyên vào một đoạn chính văn làm

40

cho công chúng khó nhớ.

Tiểu kết chƣơng 1

Trong chương 1, tác giả luận văn đã thống kê những vấn đề chung về

kỹ năng thu thập và xử lý thông tin kinh tế của nhà báo – Tiếp cận từ góc độ

lý thuyết. Ở đó, tác giả đã nêu ra các khái niệm về thông tin kinh tế, thu thập

và xử lý thông tin kinh tế. Từ đó, đi sâu vào kỹ năng thu thập và xử lý thông

tin của nhà báo kinh tế. Đây là hai kỹ năng quan trọng và cần thiết đối với nhà

báo chuyên ngành kinh tế. Khi có kỹ năng thu thập thông tin tốt thì việc xử lý

thông tin của nhà báo cũng dễ dàng hơn. Ngược lại, khi nhà báo thu thập

thông tin không hiệu quả thì việc xử lý sẽ gặp khó khăn.

Kỹ năng quan trọng, phổ biến trong hoạt động thu thập thông tin kinh

tế của nhà báo là: kỹ năng giao tiếp, nghiên cứu tài liệu văn bản, quan sát,

phỏng vấn. Mỗi kỹ năng có thế mạnh và hạn chế khác nhau. Sau thu thập, nhà

báo phải xử lý thông tin. Khi xử lý cần tập hợp, hệ thống hoá thông tin theo

từng vấn đề, lĩnh vực.Thứ hai, cần phân tích và kiểm tra độ chính xác của

thông tin, tính hợp lý của tài liệu, số liệu. Thứ ba, cần thống kê số liệu, tính tỷ

lệ, tính xác suất của các thông tin định lượng. Đồng thời cần chuyển thuật ngữ

chuyên ngành kinh tế sang ngôn ngữ báo chí phổ thông. Trong quá trình thu

thập, khai thác, xử lý tư liệu, nhà báo cần kết hợp và vận dụng các phương

pháp một cách linh hoạt, hợp lý để đảm bảo cho tư liệu chân thực, chính xác,

41

khách quan và sinh động.

CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG THU THẬP VÀ XỬ LÝ THÔNG TIN KINH TẾ

CỦA NHÀ BÁO

2.1. Khái quát về hai tờ báo khảo sát

2.1.1. Báo Đầu tư

Báo Đầu tư là cơ quan ngôn luận của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Bản sắc

riêng biệt của Báo được hình thành và phát triển trên cơ sở bám sát mục đích

tôn chỉ, theo sát và phản ánh kịp thời, có trọng tâm trọng điểm hoạt động của

ngành Kế hoạch - Đầu tư và thống kê của Bộ tham mưu kinh tế tổng hợp cho

Đảng, Chính phủ và Quốc hội. Dòng thông tin chính thống này đã góp phần

quan trọng tạo nên giá trị cốt lõi của thương hiệu “Đầu tư”, thu hút sự quan

tâm ngày càng lớn của cộng đồng doanh nghiệp, các nhà đầu tư, nhà quản lý.

Các ấn phẩm báo in bằng tiếng Việt gồm Đầu tư và Đầu tư Chứng

khoán xuất bản mỗi tuần 3 kỳ, Đầu tư Bất động sản xuất bản một tuần một kỳ

cùng hai ấn phẩm xuất bản bằng tiếng Anh là Vietnam Investment Review

mỗi tuần một kỳ và Time Out một tháng một kỳ. Các ấn phẩm báo điện tử

gồm baodautu.vn, vir.com.vn, tinnhanhchungkhoan.vn.

Cũng giống như các tờ báo chuyên ngành khác, Đầu tư cũng tập hợp

được một đội ngũ chuyên gia đầu ngành làm cố vấn. Đầu tư cũng đã khá khôn

ngoan trong cách lựa chọn hội đồng cố vấn và phản biện - một hội đồng có sự

hài hoà giữa lý luận và thực tiễn như: TS Đào Lê Minh - Giám đốc Trung tâm

Nghiên cứu khoa học và Đào tạo chứng khoán (Uỷ ban Chứng khoán Việt

Nam); TS Lê Đăng Doanh - Chuyên gia kinh tế cao cấp; hay về thực tế kinh

doanh chứng khoán như ông Nguyễn Duy Hưng - Chủ tịch Hội đồng quản trị

Công ty Chứng khoán Sài Gòn (SSI), và thậm chí là một doanh nghiệp nước

ngoài làm ăn tại Việt Nam: Ông Dominic Scriven - Giám đốc điều hành

42

Dragon Capital...

Trong chiến lược phát triển của mình, Báo Đầu tư sẽ tiếp tục đầu tư

nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hiện đại hóa công nghệ, phát triển mạnh

các báo điện tử, phấn đấu xây dựng một cơ quan báo chí đa phương tiện, đa

ấn phẩm hướng tới cộng đồng độc giả chính yếu là các doanh nghiệp, các nhà

đầu tư trong và ngoài nước, các cơ quan hoạch định chính sách.

2.1.2. Thời báo Kinh tế Việt Nam

Tờ Thời báo Kinh tế Việt Nam ra đời ngày 13–3-1991 theo quyết định

số 378B/C do Bộ Văn hoá thông tin ký duyệt, là cơ quan ngôn luận của Hội

Khoa học Kinh tế Việt Nam. Người sáng lập và giữ cương vị Tổng biên tập

đầu tiên của báo là giáo sư, nhà báo Đào Nguyên Cát.

Hiện Thời báo Kinh tế Việt Nam vẫn là một trong những tờ báo tài

chính - kinh tế uy tín nhất hiện nay ở Việt Nam. Báo liên tục cập nhật các vấn

đề về những sự kiện kinh tế, tài chính và kinh doanh trong và ngoài nước trên

cơ sở khách quan và đa chiều. Đây xứng đáng là cổng thông tin về nhịp sống

kinh tế Việt Nam và thế giới với những bài báo cập nhật về tình hình kinh tế

xã hội mỗi ngày và là nơi chia sẻ và thảo luận dành cho giới doanh nhân, nhà

đầu tư, nhà nghiên cứu và những người quan tâm đến kinh tế.

Đến nay, tổ hợp nhóm Thời báo Kinh tế Việt Nam đang sở hữu 6 ấn

phẩm, gồm tờ “Thời báo Kinh tế Việt Nam” ra hàng ngày bằng tiếng Việt, tờ

“Vietnam Economic Times” ra hàng tháng bằng tiếng Anh, tờ “The Guide” ra

hàng tháng bằng tiếng Anh, tờ “Tư vấn Tiêu & Dùng” ra hàng tháng bằng

tiếng Việt, báo điện tử tiếng Việt Vneconomy.vn và mới nhất là

“vneconomictimes.com” bằng tiếng Anh.

Điểm mạnh của tờ báo này là có một đội ngũ nhà báo chuyên sâu, các

biên tập viên dày dặn kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh tế, có chuyên môn cao

và được đào tạo bài bản theo phong cách làm báo nước ngoài, nhằm chuyển

tải đường lối xây dựng đất nước, kiến thức kinh tế để mọi người ra sức làm

43

giàu cho mình và cho đất nước. Ngoài ra, một lực lượng các chuyên gia đầu

ngành là các giáo sư, tiến sĩ, các nhà kinh tế cũng tham gia đóng góp viết bài

và cố vấn cũng khiến cho tờ báo có một tiếng nói quan trọng trong làng báo

kinh tế Việt Nam. Đối tượng chủ yếu tập trung ở những người quan tâm đến

các vấn đề kinh tế, giới kinh doanh, nhà nghiên cứu. Tính đến nay, tổng nhân

sự của nhóm Thời báo Kinh tế Việt Nam là hơn 200 cán bộ, phóng viên, nhân

viên có trình độ chuyên môn giỏi, có bản lĩnh vững vàng, có nghiệp vụ báo

chí đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ.

2.2. Thực trạng thu thập và xử lý thông tin kinh tế của nhà báo

2.2.1. Kỹ năng thu thập thông tin kinh tế

2.2.1.1. Kỹ năng giao tiếp

Một hiện tượng hiếm gặp đã diễn ra vào đầu mùa hè năm 2016 ở vùng

biển Kỳ Anh, Hà Tĩnh khiến vùng quê vốn yên bình này trở nên xôn xao. Đó

là cá chết hàng loạt trên bãi biển. Sau đó, hiện tượng bất thường này còn xảy

ra ở nhiều tỉnh ven biển miền Trung trong tháng 4, với tính chất nghiêm trọng

làm cho đời sống của hàng vạn ngư dân trở nên thê thảm. Sự kiện trên đã trở

thành thông tin sốt dẻo và nóng bỏng trên tất cả các phương tiện thông tin đại

chúng nước nhà. Một luồng dư luận đặt nghi ngờ nguyên nhân cá chết hàng

loạt có thể do nước thải của nhà máy Formosa. Lúc này, để có được thông tin

từ nguồn phát ngôn của nhà máy Formosa là niềm mơ ước của rất nhiều nhà

báo. Tuy nhiên, không phải nhà báo nào cũng có thể tiếp cận được với lãnh

đạo công ty này. Trên con đường thu thập thông tin từ nguồn phát ngôn chính

thức của Formosa, một nhà báo nữ của kênh truyền hình VTC14 đã bước về

đích trước hàng trăm cơ quan báo chí khác. Nữ nhà báo của VTC đã có cuộc

phỏng vấn với Giám đốc Đối ngoại của công ty này (ông Chu Xuân Phàm)

vào ngày 25/4. Phát ngôn của ông Phàm trên VTC đã trở thành thông tin “đắt

giá” gây “sốc” cho dư luận, khi ông đặt vấn đề chọn đánh bắt cá, tôm hay

chọn ngành công nghiệp thép. Để có được thông tin “độc quyền” đó, nữ nhà

44

báo của VTC đã rất tài tình trong việc sử dụng kỹ năng giao tiếp, thiết lập mối

quan hệ để Giám đốc Đối ngoại của Formosa chấp nhận trả lời phỏng vấn

trong lúc dầu sôi lửa bỏng như vậy.

Kỹ năng giao tiếp là một kỹ năng không thể thiếu của nhà báo khi thu

thập thông tin, trong đó có cả thông tin kinh tế. Nhà báo luôn cần phải có các

nguồn tin ổn định để có thể thu thập thông tin liên tục. Kỹ năng giao tiếp giúp

nhà báo thiết lập, duy trì và phát triển với nguồn tin để có được thông tin.

Thậm chí, nhờ kỹ năng giao tiếp mà nhà báo có thể lấy được thông tin đắt giá.

Kỹ năng này được các nhà báo sử dụng nhiều và khá thường xuyên trong quá

trình thu thập thông tin kinh tế.

Qua cuộc điều tra xã hội học bằng bảng hỏi anket của tác giả luận văn

với tổng số 294 phiếu cho nhà báo chuyên viết về kinh tế ở nhiều cơ quan báo

chí: Báo Đầu tư, Báo Quân đội nhân dân, Thời báo Kinh tế Việt Nam, Thời

báo Kinh tế Sài Gòn, Kinh tế Đô thị, Tuổi trẻ… kết quả cho thấy 81% ý kiến

khẳng định họ thường xuyên sử dụng kỹ năng giao tiếp để thu thập thông tin

kinh tế; chỉ 9.5% ý kiến cho rằng bình thường và 9.5% tuỳ từng thông tin mà

có sử dụng kỹ năng giao tiếp hay không.

Biểu đồ 2.1: Mức độ sử dụng kỹ năng giao tiếp để thu thập thông tin kinh tế

Để phục vụ cho viết luận văn, tác giả đã thực hiện 10 cuộc phóng vấn

sâu với các nhà báo chuyên viết về kinh tế của Thời báo Kinh tế Việt Nam,

45

Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Báo Đầu tư và Báo Quân đội nhân dân. Trong tất

cả các cuộc phỏng vấn sâu, các nhà báo đều khẳng định giao tiếp là kỹ năng

được sử dụng thường xuyên trong quá trình thu thập thông tin. Khi sử dụng

kỹ năng này, các nhà báo có nhiều điểm giống nhau trong việc thiết lập mối

quan hệ, duy trì và phát triển với nguồn tin. Tuy nhiên, mỗi nhà báo lại có

“ngón” nghề riêng về giao tiếp để thu thập thông tin kinh tế, nhất là những

thông tin “đắt giá”.

Khi sử dụng kỹ năng giao tiếp để thu thập thông tin kinh tế, nhà báo

tiến hành qua nhiều giai đoạn. Đầu tiên là thiết lập mối quan hệ với nguồn tin.

Ở giai đoạn này nhà báo khi được tòa soạn phân công theo lĩnh vực sẽ tìm đến

các nguồn tin cần thiết, có liên quan. Sau khi xác định được các nguồn tin cơ

bản và quan trọng nhất, nhà báo bằng nhiều cách khác nhau như trực tiếp đến

gặp, gọi điện, gửi công văn hoặc thông qua người trung gian (bạn bè, đồng

nghiệp, người thân...) để đặt quan hệ.

Bàn về vấn đề này, trả lời phỏng vấn sâu tác giả luận văn, nhà báo Lan

Hương – Phó phòng Phóng viên – Ban Phóng viên, người đã có gần 20 năm

theo dõi mảng Tài chính – Ngân hàng của Thời báo Kinh tế Việt Nam khẳng

định: “80% thông tin quyết định thành công của bài báo. Do vậy, việc sử

dụng kỹ năng giao tiếp để có được sự tin tưởng và thông tin từ nguồn tin là

điều quan trọng nhất. Đây là kỹ năng rất quan trọng trong quá trình thu thập

thông tin kinh tế của nhà báo. Để có thông tin thường xuyên, tôi phải xây

dựng mối quan hệ với nhiều nguồn tin. Đặc biệt là nguồn tin có liên quan mật

thiết với chuyên trang tôi phụ trách – chuyên trang chứng khoán và tài chính.

Tùy từng đối tượng khác nhau: người bình thường, doanh nghiệp, công chức,

người lãnh đạo, chuyên gia, người nước ngoài mà có cách giao tiếp cho phù

hợp. Nguyên tắc chung là phải gây được thiện cảm với nguồn tin.

Để thiết lập mối quan hệ với nhân vật không quen biết từ trước, tôi

thường xác định các nguồn tin có thể cung cấp thông tin cho chuyên mục

46

mình theo dõi như Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, các tạp chí chuyên phân

tích về chứng khoán, Bộ Tài chính, công ty chứng khoán, chuyên gia, nhà

phân tích, nhà quản lý sàn chứng khoán…

Khi gặp trực tiếp, tôi luôn chú ý gây ấn tượng, tình cảm với nguồn tin.

Cách ăn mặc, trò chuyện cũng cần phải phù hợp với từng đối tượng khác

nhau. Trong quá trình giao tiếp tôi thể hiện tinh thần cầu thị, chân thành và

cởi mở. Không nên đề cao bản thân, dễ làm mất thiện cảm của nguồn tin”.

Bàn về vấn đề này, nhà báo Lê Hường (TBKTVN) cho rằng: “Khi viết

bài, tôi thường đặt mình vào tư cách người đọc. Công chúng cần gì, tôi sẽ tìm

cái đó. Khi cần thông tin nào, tôi sẽ tìm nguồn tin cần thiết, phù hợp và thiết

lập quan hệ với nguồn tin bằng mọi cách để có được thông tin. Đầu tiên, tôi

thường giao tiếp với nguồn tin bằng những cách chính thống, tức là gọi điện

liên hệ, nếu không được mới vận dụng các mối quan hệ khác như đồng

nghiệp, bạn bè hoặc dùng văn bản của cơ quan. Trước khi tiếp cận nguồn tin,

tôi tìm đọc tài liệu rất kĩ, đọc tất cả thông tin xoay quanh vấn đề, tìm ra những

thông tin mà các báo khác chưa tiếp cận đến. Ban đầu sẽ hỏi những câu hỏi

dễ, khi nguồn tin thấy tin cậy sẽ hỏi tiếp về các số liệu “nhạy cảm” hơn hoặc

những vấn đề mà báo khác chưa nói đến”.

Cùng quan điểm khẳng định tầm quan trọng của kỹ năng giao tiếp trong

thu thập thông kinh tế kinh tế, nhà báo Phan Chiến Thắng, Trưởng Văn phòng

đại diện Hà Nội của Thời báo Kinh tế Sài Gòn khẳng định: “Đã là nhà báo

đương nhiên phải có kỹ năng giao tiếp, bởi nghề báo là nghề gặp gỡ, khai thác

thông tin. Nếu không có kỹ năng giao tiếp, công việc của nhà báo sẽ rất hạn

chế. Có giao tiếp, làm cho nguồn tin cảm thấy tin cậy, thoải mái, yên tâm thì

mới cung cấp thông tin cho mình”.

Nhà báo Phan Chiến Thắng cũng chia sẻ thêm “bí quyết” trong kỹ năng

giao tiếp của mình để thu thập thông tin kinh tế hiệu quả: “Trong giao tiếp, tôi

thường nói chuyện với nguồn tin bằng thái độ chân thành, lịch sự đồng thời

47

tạo cảm giác tin tưởng cho nguồn tin. Báo kinh tế là báo chuyên ngành, thông

tin kinh tế ảnh hưởng nhiều đến doanh nghiệp. Do đó để doanh nghiệp hay

chuyên gia kinh tế chia sẻ thông tin đòi hỏi phóng viên phải có trình độ về

kinh tế nhất định. Nếu không nắm chắc kiến thức sẽ không khai thác được

nhiều thông tin cũng như không tạo được sự tin tưởng của nguồn tin”.

Nhà báo Đỗ Mến của Báo Đầu tư lại chỉ ra kinh nghiệm giao tiếp với

những nhân vật có đơn thư: “Tôi được phân công theo dõi mảng Pháp luật

kinh tế bên Báo Đầu tư. Trong quá trình làm việc, tôi thường xuyên khai thác

thông tin kinh tế từ nhiều nguồn khác nhau như toà án, công an, đơn thư bạn

đọc… Khi có đơn thư bạn đọc gửi đến phải tìm đọc tài liệu để nắm được

thông tin. Sau đó, tôi sẽ liên lạc với nhân vật, nguồn tin. Khi gặp phải lựa

chọn trang phục lịch sự, tuỳ vào đối tượng mà có cách thể hiện khác nhau”.

Trong khi đó, nhà báo Đỗ Mạnh Hưng, người đã có hơn 10 năm theo

nghiệp cầm bút, chuyên viết về mảng kinh tế của Báo Quân đội nhân dân đưa

ra quan điểm về kỹ năng giao tiếp như sau: “Theo tôi hiểu giao tiếp là trọn

vẹn quá trình tiếp xúc với nguồn tin bao gồm gặp mặt ban đầu, gây sự chú ý,

thiện cảm, sau đấy là hỏi han để lấy thông tin, rồi duy trì mối quan hệ về sau

này”. Nhà báo cũng chia sẻ thêm với tác giả luận văn: Có nhiều cách để xây

dựng mối quan hệ với nguồn tin. Đường chính ngạch là sử dụng danh nghĩa

của cơ quan đến liên hệ công tác, làm việc. Nhà báo cần khẳng định sẽ đưa tin

trung thực, tạo sự tin tưởng đối với nguồn tin. Tuỳ vào hoàn cảnh và đối

tượng mà lựa chọn trang phục hay lời ăn tiếng nói phù hợp.

Nhà báo Mạnh Hưng chia sẻ tình huống khi đi hỏi ý kiến người dân

liên quan đến việc đền bù giải phóng mặt bằng của dự án giao thông. Với

người dân đang bức xúc về việc bị mất đất cần gây được thiện cảm với họ để

họ chia sẻ thông tin, suy nghĩ, tâm tư, nguyện vọng với mình. Cũng ở trường

hợp này khi hỏi cơ quan chức năng, cụ thể là Ban Bồi thường giải phóng mặt

bằng, lãnh đạo địa phương, ban quản lý dự án cần có cách thức giao tiếp khác.

48

Trong trường hợp nguồn tin từ chối cung cấp thông tin, phải chỉ cho họ thấy

công luận cần được biết câu trả lời thỏa đáng bởi quyền lợi của người dân

đang bị ảnh hưởng.

Trong khi đó, nhà báo Chu Khôi, chuyên phụ trách về Kinh tế Nông

nghiệp của Thời báo Kinh tế Việt Nam lại vận dụng kỹ năng giao tiếp bằng

cách tận dụng các mối quan hệ đã có từ trước để thu thập thông tin kinh tế.

“Do trước đây học ở trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, tôi đã có nhiều mối

quan hệ thân thiết với bạn bè trong lớp. Sau khi ra trường tôi vẫn tiếp tục duy

trì được mối quan hệ này. Trong các bạn cùng lớp, có nhiều người hiện đang

làm việc tại các cơ quan, tổ chức có liên quan đến lĩnh vực tôi được phân

công theo dõi ở TBKTVN như Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Sở

Nông nghiệp các tỉnh, Hiệp hội Lương thực, Hiệp hội Cà phê, Hiệp hội

Điều… Do vậy đối với những nguồn tin này tôi chỉ việc duy trì và phát triển,

không cần trải qua giai đoạn thiết lập mối quan hệ”.

Nhà báo Kỳ Thành (Báo Đầu tư) cũng khẳng định sự cần thiết và tầm

quan trọng của kỹ năng giao tiếp trong thu thập thông tin kinh tế: “Kỹ năng

giao tiếp trong quá trình thu thập thông tin khá quan trọng, nhất là với những

mối quan hệ mới. Để xây dựng quan hệ với đầu mối thông tin nào đó, cần

thiết nhất là sự chân thành, đôi bên cùng có lợi, nhà báo thể hiện sự tôn trọng

với những thông tin mà đối phương cung cấp, đồng thời biết cách hỏi, khai

thác thông tin để người cung cấp không đề phòng, khó chịu”.

Một trong yếu tố quan trọng hàng đầu khi sử dụng kỹ năng giao tiếp là

duy trì và phát triển mối quan hệ với nguồn tin. Vậy các nhà báo nói gì về

việc này? Bây giờ chúng ta hãy nghe một số nhà báo tâm sự.

Trả lời phỏng vấn sâu tác giả luận văn, nhà báo Lan Hương (TBKTVN)

cho rằng: “Sau khi thiết lập được mối quan hệ với nguồn tin, tôi rất coi trọng

việc duy trì và phát triển mối quan hệ với họ bằng cách thường xuyên gặp gỡ,

trao đổi”. Bà nhấn mạnh là nhà báo cần thông tin trung thực lên mặt báo tất cả

49

thông tin mà nguồn tin cung cấp.

Đồng quan điểm với nhà báo Lan Hương, nhà báo Lê Hường

(TBKTVN) cho biết bà duy trì nguồn tin bằng chính thông tin, sản phẩm của

mình trên báo. Nhà báo phải thông tin trung thực, tạo cho nguồn tin cảm thấy

tin cậy, thì lần sau mới tiếp tục cộng tác. Sau đó, nhà báo cần duy trì mối quan

hệ với nguồn tin bằng nhiều cách. Nguồn tin cảm thấy người phóng viên vẫn

theo dõi vấn đề của họ thì sẽ hỗ trợ mình tốt hơn. Tức là thường xuyên tương

tác sẽ duy trì tốt nguồn tin của mình.

Nhà báo Đỗ Mến (Báo Đầu tư) cũng cho rằng nhà báo cần trao đổi với

nguồn tin, tương tác lại với họ. Có như vậy mới duy trì được mối quan hệ tốt.

Tuy nhiên, với nguồn tin từ chuyên gia hay luật sư phải xây dựng theo cách

khác. Nói chuyện trực tiếp là cách tốt nhất để lấy được thông tin. Ban đầu

nhà báo phải viết đúng, khách quan mới tạo được sự tin cậy cho nguồn tin.

Nhân vật thường lo ngại phóng viên chỉ đưa thông tin một chiều, thông tin

nào hay, giật gân thì đưa lên.

Trả lời phỏng vấn sâu của tác giả luận văn, nhà báo Mạnh Hưng (Báo

QĐND) cho biết ông duy trì mối quan hệ với nguồn tin bằng chính kết quả

mình thể hiện. Thông tin đưa lên báo, người đọc cảm thấy bài báo đạt được

hiệu quả về truyền thông, có sự chính xác, chân thực, khách quan cao, không

bị sử dụng vào mục đích xấu thì họ sẽ tin tưởng mình. Lần sau sẽ dễ dàng,

thuận lợi hơn. Thậm chí có trường hợp nguồn tin chủ động cung cấp thông tin

cho phóng viên. Bên cạnh đó, ông Hưng cũng thường xuyên liên hệ với

nguồn tin nhằm xây dựng mối quan hệ ổn định.

Kết quả điều tra xã hội học khi được hỏi về cách nhà báo duy trì và

phát triển mối quan hệ với nguồn tin nhằm thu thập thông tin kinh tế thì có

9.5% ý kiến cho rằng cần đăng tải trung thực thông tin mà nguồn tin đã

cung cấp; 28.6% thường xuyên liên hệ với nguồn tin; 52.4% chọn cả hai ý

kiến trên; trong khi chỉ có 9.5% ý kiến cho là chỉ liên hệ với nguồn tin khi

50

cần thiết.

Biều đồ 2.2: Những yếu tố cần thiết để duy trì và phát triển mối quan hệ với

nguồn tin nhằm thu thập thông tin kinh tế

Như vậy, qua biểu đồ trên chúng ta nhận thấy, có hai cách phổ biến để

nhà báo duy trì và phát triển mối quan hệ với nguồn tin là đăng tải thông tin

trung thực mà nguồn tin cung cấp và thường xuyên liên hệ với nguồn tin.

Khảo sát tin bài trên các báo, tác giả luận văn thấy, nhà báo đều sử dụng

kỹ năng giao tiếp để thu thập thông tin kinh tế. Trong bài “Nông nghiệp đang

hấp dẫn nhà đầu tư” đăng trên Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 246 (ngày

14/10/2015), có đưa thông tin từ ông Dương Ngọc Minh, Chủ tịch Hội đồng

quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Hùng Phương. Ông Minh đã

cung cấp những thông tin quý báu về giống heo nổi tiếng và cách chăm sóc

heo hiện nay. Rõ ràng, nhà báo muốn có được thông tin từ ông Dương Ngọc

Minh thì phải sử dụng kỹ năng giao tiếp để có được sự đồng ý cung cấp thông

tin từ nguồn tin này.

Trong bài “Kỳ vọng „sóng‟ phục hồi sau nghỉ lễ” đăng trên báo Đầu tư,

số 105 (ngày 2/9/2015) của tác giả Chí Tín, có đưa thông tin từ ông Hang Jin

Yun, chuyên gia phân tích cao cấp thuộc Công ty Đầu tư chứng khoán KIS

của Hàn Quốc. Ông đã cho biết mức độ rủi ro tài chính bên ngoài ảnh hưởng

đến chứng khoán Việt Nam là không lớn. Nhà báo muốn có thông tin từ ông

51

Hang Jin Yun thì cũng phải sử dụng kỹ năng giao tiếp.

Hay trong bài “Nặng gánh tái cơ cấu dự án xi măng ốm yếu” đăng trên

báo Đầu tư, số 140 (ngày 23/11/2015) của tác giả Thế Hải, có đưa thông tin từ

ông Lương Quang Khải, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng công ty Công

nghiệp xi măng Việt Nam (Vicem). Qua trao đổi với phóng viên, ông cho biết

việc thực hiện cổ phần hoá của Vicem về cơ bản là ổn, đồng thời cũng đưa ra

nguyên nhân gây ra sự chậm trễ của tiến trình cổ phần hoá. Như vậy, nhà báo

muốn có thông tin từ ông Khải thì phải sử dụng kỹ năng giao tiếp để có được

sự đồng ý cung cấp thông tin từ nguồn tin.

Từ các cuộc phỏng vấn sâu, kết quả điều tra xã hội học và các bài báo

khảo sát, tác giả luận văn cho rằng giao tiếp là một kỹ năng quan trọng được

nhà báo sử dụng thường xuyên để thu thập thông tin kinh tế. Trong quá trình

giao tiếp nhà báo phải gây được thiện cảm với nguồn tin, có hiểu biết vững

chắc về chuyên ngành. Nhà báo cần phải có sự chân thành, cầu thị và cởi mở.

Muốn duy trì và phát triển với nguồn tin để thu thập được thông tin ổn định,

lâu dài và độc đáo thì nhà báo phải đăng tải thông tin trung thực mà nguồn tin

đã cung cấp, thường xuyên liên hệ với nguồn tin qua điện thoại, mail, gặp gỡ

trực tiếp… và cần thể hiện được hiệu quả thông tin mà nguồn tin đã cung cấp.

2.2.1.2. Kỹ năng nghiên cứu tài liệu văn bản

Đã quá 0 giờ, nhưng một nhóm nhà báo viết cho chuyên mục “Spotlight"

thuộc The Boston Globe vẫn cặm cụi đánh vật với đống hồ sơ, tài liệu văn bản

để lọc ra các linh mục có biểu hiện lạm dụng tình dục trẻ em trong tổng số

1.500 linh mục. Đó là hình ảnh trong bộ phim nổi tiếng về báo chí “Spotlight”

được trình chiếu vào đầu tuần tháng 11/2015. Bộ phim đạt giải Oscar danh giá

này làm từ câu chuyện có thật về loạt bài điều tra của một nhóm phóng viên từ

The Boston Globe đề cập đến nạn ấu dâm của linh mục năm 2003. Loạt bài này

đã đứng đỉnh vinh quang khi nhận giải báo chí Puziter.

Nghiên cứu tài liệu văn bản là một kỹ năng có tầm quan trọng hàng đầu

trong thu thập thông tin báo chí nói chung và thông kinh tế nói riêng. Đối với

52

những nhà báo chuyên theo dõi mảng kinh tế thì thường xuyên phải tiếp xúc

với nhiều loại văn bản như thông cáo báo chí, báo cáo tài chính, báo cáo tình

hình hoạt động kinh doanh sản xuất của doanh nghiệp, bản phân tích thị

trường chứng khoán hàng ngày… Các văn bản đó luôn chứa đựng các thông

tin mà nhà báo cần. Bởi vậy, nhà báo cần có kỹ năng nghiên cứu tài liệu văn

bản để thu thập thông tin kinh tế.

Theo kết quả cuộc điều tra xã hội học của tác giả luận văn, có đến

66.7% ý kiến khẳng định họ thường xuyên sử dụng kỹ năng nghiên cứu tài

liệu văn bản trong quá trình thu thập thông tin kinh tế viết bài; 9.5% ý kiến

cho rằng tuỳ từng thông tin; và chỉ có 23.8% ý kiến đánh giá kỹ năng này

bình thường.

Bảng 2.1: Mức độ sử dụng kỹ năng nghiên cứu tài liệu văn bản để thu thập

thông tin kinh tế

Quan điểm Số lượng (người) Tỷ lệ (%)

Thường xuyên 196 66.7

Tùy từng thông tin 28 9.5

Bình thường 70 23.8

Nguồn: Cuộc điều tra tháng 3/2016

Như vậy, hầu hết nhà báo chuyên viết về kinh tế khẳng định họ sử dụng

kỹ năng nghiên cứu tài liệu văn bản trong quá trình thu thập thông tin kinh tế,

trong đó có đến 66,7% là thường xuyên sử dụng kỹ năng này.

Khi phỏng vấn sâu các nhà báo để viết luận văn, tác giả nhận được

nhiều câu trả lời khẳng định rất quan tâm và sử dụng phổ biến kỹ năng nghiên

cứu tài liệu văn bản để lấy thông tin kinh tế.

Nhà báo Lan Hương (TBKTVN) đánh giá: “Đây là một kỹ năng quan

trọng, không thể thiếu đối với tất cả các ngành kinh tế”.

Nhà báo Lê Hường (TBKTVN) khi đề cập đến kỹ năng này lại đặc biệt

quan tâm đến vấn đề giải mật các văn bản có dấu mật. Nhà báo không được

53

phép thu thập và trích dẫn thông tin từ văn bản đó. Tuy nhiên, khi thấy trong

văn bản dấu mật có thông tin thực sự cần thiết thì nhà báo cần phải giải mật

văn bản đó. Kinh nghiệm của bà là nhờ một người phát ngôn thông tin mà

trong văn bản mật có hoặc lấy thông tin đó từ một nguồn tin khác.

Nhà báo Đỗ Mến (Báo Đầu tư), bày tỏ quan điểm: Người phóng viên

cần xác định loại văn bản nào cần cho đề tài của mình, như báo cáo tài chính,

báo cáo kiểm toán, văn bản đấu giá, đấu thầu, bố cáo, thông báo, kết luận của

cơ quan điều tra, công an, toà án, báo cáo của bộ, ngành...

Nhà báo Kỳ Thành (Báo Đầu tư), cũng khẳng định vai trò của kỹ năng

nghiên cứu tài liệu văn bản trong quá trình làm việc: “Với đặc thù công việc

theo dõi là phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp, các văn bản tôi thường

sử dụng bao gồm báo cáo tài chính hàng quý, hàng năm của doanh nghiệp,

công bố thông tin, tài liệu đại hội đồng cổ đông”.

Nhà báo Chiến Thắng (TBKTSG), cùng chung quan điểm về sử dụng

kỹ năng nghiên cứu tài liệu văn bản: “Khi làm về một vấn đề, để phục vụ cho

bài viết, tôi sẽ tìm các tài liệu liên quan. Sườn bài tôi đã chuẩn bị từ trước, sau

đó tìm tài liệu để chứng minh cho ý tưởng đó”.

Nhà báo Mạnh Hưng (Báo QĐND) thì cho biết: “Bất cứ văn bản nào

trước khi sử dụng đều phải nghiên cứu. Khi nghiên cứu văn bản tôi thường

quan tâm đến những thông tin mới, hấp dẫn và phục vụ cho việc sử dụng để

đưa tin. Thứ hai là tính chính xác của thông tin đó. Phóng viên kinh tế lâu

năm, khi thấy có thông tin bất thường sẽ cảm thấy nghi ngờ. Và một khi đã

nghi ngờ là phải kiểm tra lại. Kể cả văn bản nhà nước đôi khi cũng không

chính xác 100%. Sử dụng tư liệu văn bản nào là do mục đích của bài viết

nhưng nên tham khảo các văn bản khác nhau, ví dụ như cùng bàn về một vấn

đề nhưng cơ quan nhà nước đánh giá khác với hiệp hội hoặc cơ quan nghiên

cứu. Phóng viên cần xem xét kỹ tư liệu văn bản đó tác động thế nào nếu được

công bố cả mặt tích cực và hạn chế.”.

Nhà báo Mạnh Hưng cũng có cùng quan điểm vơi nhà báo Lê Hường về

54

giải mật văn bản nhà nước: “Phải để ý kỹ văn bản có đóng dấu mật không. Nếu

có, phải giải mật mới được sử dụng. Giải mật có nhiều cách, ví dụ hỏi nguồn

tin, họ nói cho mình một số nội dung có trong văn bản, dẫn nguồn từ nguồn tin

đó chứ không dẫn nguyên văn bản đóng dấu mật dù nội dung là như nhau”.

Khi sử dụng kỹ năng nghiên cứu tài liệu văn bản, các nhà báo trả lời

phỏng vấn sâu tác giả luận văn có cùng một điểm chung dễ nhận thấy là nhấn

mạnh chú ý đến các chi tiết, số liệu nổi bật, có vấn đề và được công chúng

quan tâm.

Nhà báo Đỗ Mến của Báo Đầu tư chia sẻ: “Tôi xác định những thông

tin cần thiết, những câu hỏi nghi vấn, những vấn đề “nóng”, chỉ ra các số liệu

quan trọng để nhìn ra bức tranh toàn cảnh của vấn đề, sự kiện”.

Cùng quan điểm trên, nhà báo Kỳ Thành cũng của Báo Đầu tư khẳng

định: “Cách nghiên cứu và sử dụng các văn bản này là xoáy sâu vào các số

liệu tăng giảm đột biến, các thông tin bất hợp lý, mâu thuẫn nhau”.

Còn nhà báo Chiến Thắng (TBKTSG) đưa ra quan điểm: “Tôi thường

quan tâm đến những thông tin, dữ liệu, con số nổi bật, tác động lớn đến doanh

nghiệp hoặc người dân, sau đó kiểm tra lại tính chính xác của thông tin, tìm ra

mâu thuẫn giữa những con số nhằm nêu bật vấn đề”.

Cũng theo kết quả điều tra xã hội học của tác giả khi được hỏi trong

quá trình nghiên cứu tài liệu văn bản kinh tế, nhà báo thường quan tâm đến

những thông tin nào thì có đến hơn 61.9% cho rằng họ tập trung vào các chi

tiết, số liệu nổi bật; trong khi 38.1% còn lại quan tâm đến toàn bộ nội dung

văn bản.

Bảng 2.2: Về thông tin mà nhà báo quan tâm khi nghiên cứu văn bản

Quan điểm Số lượng (người) Tỷ lệ (%)

Tập trung vào các chi tiết, số liệu nổi bật 182 61.9

Toàn bộ nội dung văn bản 112 38.1

55

Nguồn: Cuộc điều tra tháng 3/2016

Qua bảng số liệu trên chúng ta dễ dàng nhận thấy khi nghiên cứu tài liệu

văn bản để thu thập thông tin, phần lớn các nhà báo tập trung vào các chi tiết và

số liệu nổi bật. Để lí giải cho vấn đề này, khi được hỏi nguyên nhân tại sao nhà

báo chỉ tập trung vào các chi tiết, số liệu nổi bật trong tài liệu văn bản khi thu

thập thông tin kinh tế, trong số 61.9% nhà báo ở trên, có 66.3% ý kiến cho là

họ cần thông tin đó; 53.4% ý kiến khẳng định thông tin đó nêu bật được vấn

đề; 81% ý kiến cho rằng đó là những thông tin mà công chúng quan tâm.

Mặt khác, có đến 38.1% nhà báo quan tâm đến toàn bộ nội dung văn

bản khi thu thập thông tin kinh tế. Có 88.1% ý kiến cho là muốn có cái nhìn

bao quát với toàn bộ vấn đề; 46.3% ý kiến muốn phát hiện ra cái mới ngoài

vấn đề đang theo dõi; và 10.2% chọn ý kiến khác.

Khảo sát tin bài trên Thời báo Kinh tế Việt Nam và Báo Đầu tư, tác giả

luận văn thấy, các nhà báo có sử dụng kỹ năng nghiên cứu văn bản để thu

thập thông tin kinh tế. Điều đó thể hiện qua việc số liệu, thông tin đều được

chắt lọc theo hướng nghiên cứu chuyên sâu từ các tài liệu chính thống.

Ví dụ trong bài “Ổn định kinh tế vĩ mô” đăng trên Thời báo Kinh tế

Việt Nam số 13+14 ngày 15/1/2016, tác giả Minh Nhung có tiến hành nghiên

cứu văn bản về kinh tế Việt Nam trong năm 2015 của Tổng cục Thống kê và

mục tiêu, nghị quyết của Quốc hội. Trong đó, tác giả đã tìm hiểu sâu vào tăng

trưởng GDP, vốn đầu tư GDP, xuất nhập khẩu hàng hóa, CPI, thu chi ngân

sách, bội chi,… Từ đó, tác giả đưa ra những đánh giá cụ thể về tình hình kinh

tế Việt Nam hiện nay. Ta có thể thấy, ngoài việc lựa chọn nguồn tin đúng thì

việc tìm hiểu sâu những văn bản đã giúp cho bài báo có được thông tin chất

lượng và đánh giá sâu sắc.

Hay trong bài báo “Đà tăng trưởng của kinh tế Ấn Độ chững lại” (Thời

báo Kinh tế Việt Nam số 212+213, đăng ngày 4-5/9/2015), tác giả Quốc

Trung đã phải nghiên cứu nhiều báo chí kinh tế của Ấn Độ, trong đó có cả

56

chọn lọc những phát biểu ý nghĩa của bà Lagarde - Tổng giám đốc Quỹ Tiền

tệ quốc tế (IMF) và ông A. Subramanian – Cố vấn trưởng về kinh tế của

Chính phủ Ấn Độ. Ngoài ra, tác giả còn nghiên cứu cả tài liệu mà văn phòng

thống kê của Ấn Độ vừa công bố. Từ đó mới có thể khẳng định tăng trưởng

GDP của nước này trong quý I chỉ đạt 7%, thấp hơn dự kiến 7.4% và thấp hơn

so với quý trước 0.1%.

Trong bài “Nhà thật tồn kho, nhà ảo sốt nóng!” đăng trên báo Đầu tư

số 105 (ngày 2/9/2015), tác giả Hà Quang đã phải nghiên cứu văn bản thống

kê của Cục Quản lý Nhà và Thị trường bất động sản (Bộ Xây dựng) tháng 7 -

8 năm 2015 về lượng bất động sản tồn kho cả nước. Ngoài ra, tác giả còn

nghiên cứu văn bản của Hiệp hội Bất động sản Việt Nam trong tháng 7. Từ đó

cho độc giả thấy rõ thực trạng trong khi nhiều dự án bất động sản xây xong

không bán được, bán xong không có người đến ở, nhưng vẫn có những dự án

mới manh nha lại được giao dịch mạnh, thậm chí có tiền chênh lệch.

Như vậy, từ các cuộc phỏng vấn sâu các nhà báo và kết quả điều tra xã hội

học với 294 nhà báo chuyên viết về lĩnh vực kinh tế, cùng khảo sát tin bài thực tế

trên Thời báo Kinh tế Việt Nam và Báo Đầu tư, tác giả luận văn đi đến kết luận

nghiên cứu tài liệu văn bản là một kỹ năng thu thập thông tin kinh tế được nhà

báo rất quan tâm và sử dụng nhiều trong quá trình làm việc. Khi sử dụng kỹ

năng này, phần lớn các nhà báo chú ý nhiều đến các con số và chi tiết nổi bật, có

vấn đề, có sự mâu thuẫn và nhận được sự quan tâm của công chúng.

2.2.1.3. Kỹ năng quan sát

Một kỹ năng thu thập thông kinh tế của nhà báo là quan sát. Khác với

người bình thường, nhà báo thường có sự nhạy cảm khi quan sát để tìm ra vấn

đề. Nhà báo có thể quan sát hiện trường, quan sát đối tượng mình đang trò

chuyện để có sự điều chỉnh cho phù hợp, quan sát phản ứng của nguồn tin, nét

nổi bật. Tuy nhiên mỗi nhà báo lại có đánh giá và góc nhìn khác nhau về kỹ

57

năng này.

Nhà báo Lan Hương (TBKTVN) chủ yếu sử dụng kỹ năng này để quan

sát tìm ra nguồn tin phù hợp với đề tài bài viết: Căn cứ trên đặc thù của sự

kiện tham gia để quan sát những vấn đề quan trọng, nóng hổi. Nhà báo bên

cạnh quan sát diễn biến của sự kiện còn đọc nội dung tài liệu, quan sát và

chọn đối tượng để phỏng vấn. Đối tượng đó phải chịu ảnh hưởng hoặc liên

quan đến vấn đề mình tham gia.

Nhà báo Đỗ Mến của Báo Đầu tư lại có cái nhìn khác về kỹ năng quan

sát: “Quan trọng nhất là nhìn và nghe. Trong những vấn đề có nhiều luồng ý

kiến khác nhau, nhà báo nghe nhiều tai nhưng phải quan sát, tiếp xúc với nhân

vật chủ chốt. Nếu không sẽ bị loãng tin và mất nhiều thời gian”.

Còn nhà báo Chiến Thắng, của Thời báo Kinh tế Sài Gòn lại cho rằng

quan sát để tìm ra vấn đề đằng sau hiện tượng, góc nhìn khác biệt: “Quan sát

là một trong những kỹ năng cần thiết đối với nhà báo. Quan sát ở đây là tìm ra

được góc nhìn để nhà báo thể hiện. Bản thân nghề báo có rất nhiều cạnh

tranh. Tại một sự kiện, hội thảo, nhà báo phải có óc quan sát để tìm ra cách

tiếp cận thông tin riêng. Thứ nhất là sự kiện được nhiều người quan tâm. Hai

là ít báo đề cập để tạo cái riêng cho mình. Ba là phải phù hợp với tiêu chí của

từng tờ báo”.

Nhà báo Mạnh Hưng (Báo QĐND) khẳng định: “Trong báo kinh tế ít

sử dụng kỹ năng quan sát hơn so với báo xã hội. Tuy nhiên, thông tin quan sát

là hơi thở của bài báo, làm mềm hoá bài viết về kinh tế. Khi bài viết chỉ có số

liệu, nhận xét hoặc đánh giá sẽ rất khô khan, người đọc khó tiếp nhận. Trong

một bài viết, tôi xây dựng thông tin quan sát ngay từ đầu, sau đó tiếp tục lồng

thêm một số chi tiết trong bài. Hoặc khi phỏng vấn cũng có thể thêm một vài

chi tiết quan sát để miêu tả nhân vật. Qua quan sát tôi có thể thấy được tâm

trạng của nguồn tin. Nó làm cụ thể hoá và sinh động hơn cho bài viết”.

Kết quả điều tra xã hội học của tác giả luận văn về mức độ sử dụng kỹ

58

năng quan sát để thu thập thông tin kinh tế như sau: 66.7% ý kiến cho biết

thường xuyên sử dụng kỹ năng quan sát trong quá trình thu thập thông tin

kinh tế; 28.6% được hỏi cho là bình thường; và chỉ có 4.7% chưa bao giờ sử

dụng kỹ năng quan sát khi thu thập thông tin viết bài.

Bảng 2.3: Mức độ sử dụng kỹ năng quan sát để thu thập thông tin kinh tế

Số lượng (người) Tỷ lệ (%) Quan điểm

Thường xuyên 196 66.7

Bình thường 84 28.6

Chưa bao giờ 14 4.7

Nguồn cuộc điều tra tháng 3/2016

Nhìn vào bảng số liệu trên, chúng ta nhận thấy, có đến 66.7% nhà báo

sử dụng kỹ năng này thường xuyên. Tuy nhiên có một điểm tác giả luận văn

muốn nhấn mạnh là trong kết quả điều tra xã hội học về bốn kỹ năng thu thập

thông tin kinh tế của nhà báo thì duy nhất chỉ có kỹ năng quan sát là có đến

4.7% ý kiến được hỏi không sử dụng kỹ năng này.

Khảo sát tin bài trên Thời báo Kinh tế Việt Nam và Báo Đầu tư, tác giả

luận văn thấy, nhà báo có sử dụng kỹ năng quan sát để thu thập thông tin kinh

tế. Ví dụ: Trong bài “Doanh nghiệp, doanh nhân sau 30 năm đổi mới” (đăng

trên Thời báo Kinh tế Việt Nam số 245, ngày 13/10/2015), nhà báo Dương

Ngọc đã thể hiện việc quan sát bằng cách chọn lọc những bức hình về công

nghệ hiện đại của các doanh nghiệp.

Hay trong bài “Trắng đêm trên cửa Lạch Giang” (Thời báo Kinh tế

Việt Nam, cùng số 245), nhà báo Đinh Tịch đã thực hiện việc quan sát dự án

cửa Lạch Giang cả trên thực tế và cả qua các thông tin liên quan. Tác giả đã

mất nhiều công sức theo dõi dự án này để từ đó phát hiện dự án bị hụt tiến độ

những 8 tháng – một khoảng thời gian lãng phí do điều kiện, kỹ thuật thi công

cực khó. Ngân hàng Thế giới cũng đánh giá đây là một trong những dựa án

59

khó nhất của WB trên thế giới.

Trong bài “Ngân hàng chắc tay, người dân khát vốn” đăng trên báo

Đầu tư, số 140 ngày 23/11/2015, nhà báo Trần Mạnh đã thực hiện việc quan

sát phản ứng, cảm xúc của người dân – bà Hoàng Thị Sinh, công nhân một

nhà máy dệt may tại Hà Nội “buồn rầu” khi cầm hồ sơ vay vốn vừa bị một

ngân hàng lớn từ chối cho vay. Tác giả cũng thể hiện kỹ năng quan sát của

mình thông qua việc theo dõi diễn biến phức tạp của tình trạng tín dụng đen.

Từ đó mới nhận định việc tiếp cận vốn ngân hàng của những khách hàng

không có việc làm ổn định, không có tài sản thế chấp hiện nay rất khó khăn và

theo sau cũng có nhiều câu chuyện đau lòng vì tín dụng đen xảy ra.

Tóm lại, quan sát là một kỹ năng để nhà báo thu thập thông tin kinh tế.

Qua các cuộc phỏng vấn sâu, tác giả luận văn nhận thấy các nhà báo tập trung

quan sát đối tượng nguồn tin liên quan đến bài viết, hiện trường và tìm ra các

vấn đề, sự khác biệt từ sự quan sát đó. Tuy nhiên, có nhà báo trả lời phỏng

vấn sâu đã không đánh giá cao kỹ năng quan sát, còn kết quả điều tra xã hội

cho thấy một số nhà báo thậm chí chưa sử dụng kỹ năng này để thu thập

thông tin kinh tế. Như vậy, trong bốn kỹ năng thu thập thông tin kinh tế thì kỹ

năng quan sát kém ưa chuộng hơn với các nhà báo.

2.2.1.4. Kỹ năng phỏng vấn

Có thể xem phỏng vấn là “linh hồn” trong kỹ năng thu thập thông tin

kinh tế của nhà báo. Đã là nhà báo thì phải biết phỏng vấn để khai thác thông

tin. Biết cách đặt câu hỏi và điều khiển cuộc trò chuyện với nguồn tin sẽ giúp

nhà báo có được thông tin kinh tế cần thiết cho bài viết, nhất là thông tin

“độc”. Trong quá trình thực hiện kỹ năng này, nhà báo tiến hành qua nhiều

bước: hẹn gặp nguồn tin, chuẩn bị câu hỏi, tạo không khí thân thiện.

Theo cuộc điều tra xã hội học của tác giả luận văn bằng bảng hỏi anket

khi được hỏi về mức độ sử dụng kỹ năng phỏng vấn để thu thập thông tin

60

kinh tế, có 73.7% ý kiến khẳng định thường xuyên sử dụng kỹ năng phỏng

vấn khi thu thập thông tin kinh tế; 10.5% cho là bình thường; và 15.8% ý kiến

cho rằng tuỳ từng thông tin mà có sử dụng kỹ năng phỏng vấn hay không.

Biểu đồ 2.3: Mức độ sử dụng kỹ năng phỏng vấn để thu thập thông tin kinh tế

Khi hỏi về nguyên nhân nhà báo thường xuyên sử dụng kỹ năng phỏng

vấn để thu thập thông tin kinh tế (người trả lời chọn nhiều đáp án), có 89.8%

ý kiến khẳng định phỏng vấn giúp nhà báo thu thập thông tin hiệu quả; 84.4%

ý kiến cho là kỹ năng phỏng vấn giúp nhà báo nhanh chóng có được thông

tin; và 61.6% ý kiến chia sẻ phỏng vấn giúp nhà báo có được những thông tin

“độc” mà báo khác chưa khai thác đến.

Trả lời phỏng vấn sâu tác giả luận văn, nhiều nhà báo đã khẳng định

tầm quan trọng hàng đầu của kỹ năng này trong thu thập thông tin kinh tế.

Nhà báo Chiến Thắng (TBKTSG) nhấn mạnh: “Đây là kỹ năng quan trọng

nhất bởi nó tổng hợp các kỹ năng: giao tiếp, nghiên cứu văn bản, quan sát.

Khi hiểu vấn đề, nắm rõ kiến thức thì buổi nói chuyện sẽ thành công. Trước

khi phỏng vấn, tôi phải chuẩn bị câu hỏi nhưng không lệ thuộc vào đó, mà

biến cuộc phỏng vấn thành buổi trò chuyện thông thường, càng thoải mái

càng tốt. Khi có vấn đề mới phát sinh trong cuộc phỏng vấn, tôi sẽ mở rộng

61

thêm câu hỏi chứ không hoàn toàn chỉ dựa vào khuôn mẫu đã chuẩn bị”.

Cùng quan điểm với nhà báo Chiến Thắng, nhà báo Mạnh Hưng, của

Báo Quân đội nhân dân khẳng định: Tất cả các bước thu thập thông tin suy

cho cùng đều là phỏng vấn. Có thể xem phỏng vấn là một trong những kỹ

năng quan trọng nhất. Cần linh hoạt giữa câu hỏi đóng và mở. Khi cần khai

thác tối đa thông tin, sử dụng câu hỏi mở. Khi cần sự khẳng định dứt khoát,

sử dụng câu hỏi đóng...

Qua phỏng vấn sâu các nhà báo kinh tế, tác giả nhận thấy nhìn chung

các nhà báo có điểm chung là phải tạo được không khí cởi mở, thân thiện với

nguồn tin và biết cách đặt câu hỏi. Tuy nhiên, mỗi nhà báo khi thực hiện kỹ

năng phỏng vấn lại có những sáng tạo riêng.

Nhà báo Lan Hương (TBKTVN) cho rằng: “Khi phỏng vấn, sự phối

hợp, hỗ trợ, chia sẻ từ hai bên (cơ quan có nguồn tin và phóng viên) là rất

quan trọng. Cơ quan càng minh bạch, công khai với báo chí thì càng tốt. Tuy

nhiên, nhà báo cần tôn trọng, không được ép buộc nguồn tin. Hiện nay đã có

quy chế phỏng vấn, nếu phỏng vấn xong, gửi lại mà nguồn tin không đồng ý

cũng không được đăng. Việc phỏng vấn và đưa bài phỏng vấn phải được sự

chấp thuận của đối tượng phỏng vấn”.

Bí quyết của nhà báo Lê Hường (TBKTVN) là tuỳ vào từng nguồn tin,

đối tượng sẽ có cách đưa ra câu hỏi và tiếp cận để hỏi khác nhau. Trước khi

tiến hành cuộc phỏng vấn, nhà báo cần tìm hiểu kĩ đối tượng, sau đó tuỳ từng

đối tượng mà đưa ra loại hình câu hỏi phù hợp, có khi là câu hỏi vào thẳng

vấn đề, cũng có khi là câu hỏi mang tính chất cởi mở, thoải mái trước, rồi sau

đó mới vào vấn đề.

Nhà báo Đỗ Mến (Báo Đầu tư) lại chia sẻ thêm: Có những cuộc phỏng

vấn chuyên sâu hoặc chỉ cần kiểm tra thông tin. Ban đầu, nhà báo nên tạo

không khí cởi mở, dẫn dắt câu chuyện dần dần, nhất là đối với những nguồn

tin tiêu cực, hoặc người mới gặp. Sau đó mới hỏi sâu về vấn đề, đưa ra những

62

câu hỏi gai góc hơn. Khi quan sát gương mặt của đối tượng không thoải mái,

nhà báo lại đưa ra những câu hỏi thư giãn. Tiếp đó mới quay trở lại vấn đề để

có được thông tin.

Nhà báo Chu Khôi (TBKTVN) cũng có những kỹ năng, thái độ ôn

hòa, khéo léo trong phỏng vấn. Nhà báo tâm sự: Khó nhất là phỏng vấn quan

chức về những vấn đề “nóng”, “nhạy cảm”, họ thường né tránh, không trả

lời. Nhà báo cần xử lý khéo léo để sau đó vẫn giữ được mối quan hệ với

nguồn tin. Trước khi phỏng vấn, cần hỏi thời gian người trả lời dành cho

cuộc phỏng vấn. Như vậy có thể cân đối thời gian cho các câu hỏi vì nhiều

trường hợp đến khi hỏi sang câu hỏi “nhạy cảm” thì người trả lời phỏng vấn

cáo bận. Không dùng câu hỏi đóng, cần hỏi câu hỏi ngắn nhất mà người

phóng viên trả lời dài nhất.

Nhà báo Kỳ Thành (Báo Đầu tư) cho rằng: “Tôi có thể phỏng vấn nhân

vật bằng nhiều hình thức như email, điện thoại, phỏng vấn trực tiếp. Tuy

nhiên, phỏng vấn trực tiếp là hình thức được ưu tiên hơn cả. Để thực hiện

phỏng vấn, thu thập thông tin, tôi sử dụng cách giao tiếp là trao đổi cùng làm

rõ vấn đề, đặt câu hỏi dựa trên chủ đề mà mình muốn và thông tin nhân vật

cung cấp”.

Nhà báo Mạnh Hưng (Báo QĐND) lại nhấn mạnh đến tạo không khí tự

nhiên để cuộc trò chuyện thành công: “Trong quá trình phỏng vấn, nguồn tin

càng tự nhiên, thoải mái như giao tiếp bình thường bao nhiêu thì càng chia sẻ

được nhiều hơn”.

Cũng theo kết quả điều tra xã hội học khi được hỏi về cách nhà báo xây

dựng một cuộc phỏng vấn thu thập thông tin kinh tế thành công, có 52.4% ý

kiến cho rằng cần biết cách đặt câu hỏi; 57.1% cần tạo không khí thân thiện,

cởi mở; 19% ý kiến cho là nhà báo cần phải khiêm tốn; 47.6% cần chuẩn bị

63

câu hỏi từ trước; và 42.9% chọn tất cả các ý kiến trên.

Biểu đồ 2.4: Những yếu tố cần thiết để thu thập thông tin kinh tế thành công

nhà báo trong phỏng vấn (người trả lời chọn nhiều đáp án)

Nhìn vào biểu đồ trên, chúng ta nhận thấy để một cuộc phỏng vấn thu

thập thông tin thành công, nhà báo cần tạo không khi cởi mở, thân thiện, biết

cách đặt câu hỏi và chuẩn bị câu hỏi từ trước.

Ta cũng có thể thấy được kỹ năng phỏng vấn của các nhà báo thông

qua chính bài viết của họ. Qua khảo sát các bài báo kinh tế của hai báo:

Thời báo Kinh tế Việt Nam, Báo Đầu tư từ tháng 3 năm 2015 đến tháng 3

năm 2016, tác giả luận văn thấy khoảng 70% bài viết có sử dụng đến kỹ

năng phỏng vấn. Điều đó thể hiện qua những trích dẫn trực tiếp hoặc gián

tiếp ý kiến của một số nhân vật được phỏng vấn. Với những bài phỏng vấn

chuyên sâu, các câu hỏi đều theo hệ thống: từ dễ đến khó, từ chung tới

riêng, từ nội dung phụ tới nội dung chính và lại quay về nội dung phụ…

Nhân vật được phỏng vấn trong một bài báo không chỉ là một người duy

nhất mà có thể phỏng vấn nhiều đối tượng, mỗi đối tượng đưa ra một góc

64

cạnh, cái nhìn cụ thể.

Ví dụ: Phóng viên Lê Hường đã tiến hành phỏng vấn bà Phan Thị

Minh, CEO công ty Nhật Minh (đăng trên Thời báo Kinh tế số 245,

13/10/2015) rất bài bản. Các câu hỏi đều có hệ thống, hướng tới thái độ của

bà Phan Thị Minh với Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), từ

đó tìm ra con đường cho các doanh nghiệp Việt tham gia vào con đường hội

nhập quốc tế. Câu hỏi đi từ vấn đề riêng, nói về cảm xúc của đối tượng được

phỏng vấn cho tới hỏi về kế hoạch của công ty, các sản phẩm sẽ ra mắt.

Những câu hỏi về sau mang tính khó và hấp dẫn hơn, như hỏi về khó khăn

của công ty, cách thức để các công ty Việt Nam hội nhập.

Trong bài “Đón dòng đầu tư mới từ Đài Loan” đăng trên báo Đầu tư,

số 54 (ngày 6/5/2015) của tác giả Thanh Tùng, có đưa thông tin từ ông Berton

B.C. Chiu, Cố vấn kinh tế của Phòng Các dự án hội nhập kinh tế khu vực,

thuộc Cục Ngoại thương (Bộ Kinh tế Đài Loan). Qua cuộc trao đổi với phóng

viên, ông Berton đã đưa ra quan điểm về sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư

Đài Loan tới thị trường Việt Nam, đặc biệt trong các ngành nông nghiệp, dệt

may, công nghệ thông tin, chế tạo ô tô và xe máy. Tiếp đến, ông nhấn mạnh

“ngành sản xuất phụ tùng ô tô và xe máy của Việt Nam đang rất hấp dẫn đối

với các doanh nghiệp Đài Loan”. Có thể nhận thấy nhà báo Thanh Tùng đã rất

linh hoạt đi từ câu hỏi dễ đến khó, từ chung chung đến cụ thế. Như vậy bằng

kỹ năng phỏng vấn, tác giả đã thu thập được thêm nhiều dẫn chứng, tư liệu

cho bài viết của mình.

Cũng trên số báo này, trong bài “Tham nhũng diễn biến phức tạp,

nghiêm trọng” của tác giả Mạnh Bôn, phỏng vấn TS.Nguyễn Đình Quyền,

Phó chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội. Các câu hỏi của nhà báo đều

có tính hệ thống, hướng tới quan điểm của ông Nguyễn Đình Quyền về thực

trạng của công tác chống tham nhũng tại Việt Nam, từ đó đưa ra giải pháp

65

trong phòng ngừa vấn nạn này.

Như vậy, từ kết quả điều tra xã hội học, các cuộc phỏng vấn sâu của tác

giả luận văn với 10 nhà báo chuyên viết về kinh tế và các bài báo khảo sát

trên Thời báo Kinh tế Việt Nam và Báo Đầu tư, tác giả luận văn đi đến kết

luận phỏng vấn là kỹ năng quan trọng hàng đầu, thậm chí có một số nhà báo

khẳng định là quan trọng nhất trong thu thập thông tin kinh tế. Để cuộc phỏng

vấn khai thác thông tin thành công, nhà báo cần coi trọng việc đặt câu hỏi, tạo

không khí thân thiện, tự nhiên và điều chỉnh câu hỏi cho phù hợp.

2.2.2. Kỹ năng xử lý thông tin kinh tế

2.2.2.1. Kỹ năng tập hợp, hệ thống hoá thông tin theo từng vấn đề, lĩnh vực

Vì thông tin thu thập được chỉ ở dạng thô nên đương nhiên phóng viên

kinh tế phải có quá trình hệ thống hóa để chọn ra thông tin phù hợp và có hệ

thống về vấn đề đang viết. Hầu hết các nhà báo được hỏi đều có kỹ năng này

trong quá trình xử lý thông tin. Tuy nhiên, họ không cho rằng đây là kỹ năng

quan trọng nhất. Họ cho rằng đây là một kỹ năng mang tính chuyển tiếp giữa

quá trình thu thập và xử lý thông tin. Đã thu thập thì phải có tập hợp thông

tin. Đồng thời, thông tin thu thập phải được sắp xếp theo hệ thống ngay từ đầu

quá trình thu thập và đầu quá trình xử lý. Vì vậy, kỹ năng này mang tính “ẩn”

và không được thể hiện rõ nét lắm trên các bài báo kinh tế, trừ một số bài

mang tính nghiên cứu hàn lâm. Lúc đó, quá trình tập hợp và hệ thống thông

tin thể hiện qua mục Tài liệu tham khảo cuối các bài viết.

Trong cuộc điều tra xã hội học của tác giả luận văn bằng bảng hỏi anket

đối với 294 nhà báo kinh tế ở các báo: Báo Đầu tư, Thời báo Kinh tế Việt

Nam, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Báo Quân đội nhân dân, Kinh tế đô thị, Tuổi

trẻ…, hơn nửa các nhà báo được hỏi khẳng định thường xuyên sử dụng kỹ

năng tập hợp, hệ thống hoá thông tin theo từng vấn đề, lĩnh vực trong quá

trình xử lý thông tin (52.4%); 23.8% cho là bình thường; 19% ý kiến cho biết

66

tuỳ từng thông tin; và 5.8% là chưa bao giờ sử dụng kỹ năng này.

Biểu đồ 2.5: Mức độ sử dụng kỹ năng tập hợp, hệ thống hoá thông tin theo

từng vấn đề, lĩnh vực

Từ biểu đồ trên, chúng ta nhận thấy đa số nhà báo đều sử dụng kỹ năng

tập hợp, hệ thống hoá thông tin theo từng vấn đề, lĩnh vực trong quá trình xử

lý thông tin; trong đó có đến 52% là thường xuyên sử dụng kỹ năng này.

Trả lời phỏng vấn sâu của tác giả luận văn, một số nhà báo cũng chia sẻ

cách tập hợp và hệ thống thông tin của mình. Mỗi người có cách tập hợp, hệ

thống hóa khác nhau.

Nhà báo Đỗ Mến (Báo Đầu tư) bày tỏ: “Tôi tập hợp thông tin từ các

văn bản, báo cáo, tài liệu, đơn thư bạn đọc, các công ty có liên quan đến kinh

tế… đặc biệt vào mùa Đại hội cổ đông của các công ty. Bên cạnh đó, các

thông tin cần được hệ thống hóa, nhằm tìm ra thông tin cốt lõi, từ đó phát hiện

ra các vấn đề”.

Nhà báo Lê Hường (TBKTVN) thì tập hợp thông tin bằng cách hỏi, gọi

điện liên hệ với nguồn tin. Không được mới vận dụng các mối quan hệ khác

như đồng nghiệp, bạn bè hoặc dùng văn bản của cơ quan. Sau đó, thông tin

được tập hợp lại theo vấn đề kinh tế mà nhà báo đang tìm hiểu. Đặc biệt, nhà

67

báo Lê Hường thường tập hợp thông tin theo chuỗi thời gian và theo từng

công ty, doanh nghiệp, cơ quan. Cùng một đơn vị, bà khai thác thông tin ở

nhiều thời điểm, tập hợp lại thành chuỗi để đánh giá biến động của đơn vị đó.

Còn nhà báo Mạnh Hưng (Báo QĐND) thì đánh giá kỹ năng tập hợp,

hệ thống hoá thông tin theo từng vấn đề, lĩnh vực khá quan trọng trong quá

trình xử lý thông tin: “Tôi thường xuyên sử dụng kỹ năng này. Khi có văn

bản, tôi sẽ tập hợp lại tất cả những thông tin cần thiết phục vụ cho đề tài đang

viết, lọc ra những thông tin hay, mới, từ đó mới xử lý thành bài được. Khi có

số liệu, tôi sẽ xem lại những nguồn trước đó để so sánh, đối chiếu định kỳ, từ

đó ra được nhiều vấn đề hay”.

Nhà báo Chiến Thắng của Thời báo Kinh tế Sài Gòn lại có cái nhìn

khác về kỹ năng này: Đây gần như là bước đầu tiên khi xử lý thông tin đối với

những bài “nguội”. Tuy nhiên, báo chí rất đa dạng, nhiều khi không có thời

gian chuẩn bị. Nhà báo phải vận dụng linh hoạt, có thông tin, sự kiện là phải

viết luôn. Bài viết hay đến đâu là do khả năng tích luỹ kiến thức và kinh

nghiệm của nhà báo.

Đồng quan điểm với nhà báo Chiến Thắng, nhà báo Lan Hương của

Thời báo Kinh tế Việt Nam cũng cho rằng: Tập hợp, hệ thống lại các thông

tin cần thiết, phù hợp với chủ đề, đề tài của bài báo là bước đầu tiên khi xử lý

thông tin kinh tế. Chúng ta có thể thu thập được rất nhiều thông tin, nhưng

không phải thông tin nào cũng được sử dụng trong bài viết. Bởi vậy, cần chọn

lựa các thông tin làm nổi bật, đúng trọng tâm của bài báo.

Bàn về vấn đề này, nhà báo Kỳ Thành (Báo Đầu tư) khi trả lời phỏng

vấn sâu tác giả luận văn, cho biết đây là kỹ năng cần thiết trước khi ông bắt

đầu thực hiện sáng tạo tác phẩm báo chí. Ông khẳng định: “Khi tập hợp một

khối lượng thông tin, số liệu về một vấn đề mà mình cảm thấy đủ để lập luận,

khái quát vấn đề đó, tôi sẽ bắt tay vào viết bài. Với số liệu, cần tìm ra điểm

68

bất hợp lý để phản ánh, đi kèm với các lập luận dẫn chứng cụ thể”.

Khi tiến hành khảo sát tin, bài trên Báo Đầu tư và Thời báo Kinh tế

Việt Nam, tác giả luận văn bắt gặp nhiều bài viết sử dụng kỹ năng xử lý thông

tin này. Đơn cử trong bài “Ẩn số hàng tồn kho của Thuỷ hải sản Việt Nhật”

của nhà báo Kỳ Thành về tình hình kinh doanh của Công ty cổ phần Thủy hải

sản Việt Nhật, từ sự bất hợp lý của báo cáo tài chính mà doanh nghiệp này

công bố, tác giả đã thu thập các thông tin mà doanh nghiệp công bố từ trước

đó và thắc mắc của cổ đông để lập luận cho bài viết thêm chặt chẽ, chứng

minh giữa số liệu và thông tin có những sơ hở, thiếu logic.

Hay trong bài “Đón làn sóng thứ ba về FDI” của tác giả Đoàn Trần

đăng trên Thời báo Kinh tế Việt Nam số 46 ngày 23/2/2016 viết về việc Việt

Nam đón làn sóng đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Đây là lần thứ ba Việt Nam

có cơ hội thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. Tác giả đưa ra lý giải cho điều

này là do nước ta ký hàng loạt Hiệp định thương mại tự do (FTA) với nhiều

nước trên thế giới và chuyển vốn từ Trung Quốc do nước này không còn

nhiều hấp dẫn như trước. Sau khi thu thập thông tin, tác giả đã tập hợp, hệ

thống hoá các tư liệu, số liệu nhằm làm nổi bật chủ đề, vấn đề của bài viết. Cụ

thể, trong bài, tác giả đưa ra các dẫn chứng khảo sát các công ty của Hàn

Quốc nói về việc dự kiến đầu tư vào Việt Nam, dẫn chứng các số liệu về tăng

vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta, sự sụt giảm vốn đầu tư vào Trung Quốc,

đưa ra lời phát biểu của các giáo sư phân tích kinh tế... nhằm làm rõ vấn đề

của bài viết.

Như vậy, từ các cuộc phỏng vấn sâu với 10 nhà báo chuyên viết về

kinh tế và kết quả điều tra xã hội học với 294 nhà báo kinh tế, cùng việc khảo

sát tin bài, chúng ta thấy rằng kỹ năng tập hợp, hệ thống hoá thông tin theo

69

chủ đề, lĩnh vực là kỹ năng đầu tiên trong xử lý thông tin kinh tế của nhà báo.

2.2.2.2. Kỹ năng phân tích, kiểm tra độ chính xác của thông tin, tính hợp lý

của tài liệu, số liệu

Sự thật là sức mạnh của thông tin báo chí. Đối với thông tin kinh tế

cũng không ngoại lệ. Chính sự thật, độ chính xác của thông tin sẽ đảm bảo

được uy tín của cơ quan báo chí. Bởi vậy, thông tin báo chí nói chung và

thông tin về kinh tế nói riêng phải đảm bảo được sự chính xác, trung thực.

Việc kiểm tra độ chính xác, tính hợp lý của thông tin là yêu cầu bắt buộc đối

với kỹ năng xử lý thông tin kinh tế của nhà báo. Mỗi nhà báo lại có cách kiểm

tra thông tin khác nhau. Trong đó có một số cách khá phổ biến là kiểm tra từ

chính nguồn tin, từ đồng nghiệp, từ các nguồn tin khác.

Kết quả điều tra xã hội học của tác giả luận văn cho thấy có 70.1% ý

kiến khẳng định thường xuyên kiểm tra độ chính xác của thông tin; 19.7% là

bình thường; 10.2% ý kiến cho rằng tuỳ từng thông tin mới kiểm tra lại độ

chính xác và tính hợp lý của thông tin.

Bảng 2.4: Về mức độ sử dụng kỹ năng kiểm tra độ chính xác của thông tin,

tính hợp lý của tài liệu, số liệu

Quan điểm Số lượng (người) Tỷ lệ (%)

Thường xuyên 206 70.1

Bình thường 58 19.7

Tuỳ từng thông tin 30 10.2

Nguồn cuộc điều tra tháng 3/2016

Cũng theo kết quả điều tra xã hội học, khi hỏi nhà báo sử dụng kỹ năng

phân tích, kiểm tra độ chính xác, tính hợp lý của thông tin trong trường hợp

nào, có đến 47.6% ý kiến cho rằng sẽ kiểm tra lại thông tin khi cảm thấy nghi

ngờ về độ chính xác, tính hợp lý; trong khi 42.9% ý kiến khẳng định luôn

kiểm tra lại tất cả các thông tin kinh tế đã thu thập được trước khi viết bài,

70

đăng báo.

Biểu đồ 2.6: Về tin, bài được nhà báo phân tích, kiểm tra độ chính xác, tính

hợp lý của thông tin

Khi hỏi 42.9% ý kiến trên nguyên nhân tại sao nhà báo luôn kiểm tra

lại tất cả thông tin kinh tế đã thu thập, có 20.4% ý kiến cho biết đó là yêu cầu

bắt buộc của toà soạn; 42.5% ý kiến khẳng định trách nhiệm của người làm

báo đòi hỏi họ luôn kiểm tra lại tất cả thông tin thu thập được; và có đến 83%

ý kiến cho rằng nhà báo cần kiểm tra lại tất cả thông tin thu thập được nhằm

đảm bảo tính chính xác của thông tin.

Tác giả luận văn cũng tiến hành điều tra xã hội học về cách nhà báo sử

dụng kỹ năng kiểm tra độ chính xác, tính hợp lý của thông tin kinh tế và kết

quả cho thấy có 76.2% ý kiến cho rằng họ thường kiểm tra lại thông tin từ

chính nguồn tin cung cấp; 57.1% là từ các nguồn tin khác; 66.7% ý kiến kiểm

tra từ đồng nghiệp, bạn bè; và 57.1% kiểm tra lại thông tin bằng cách tìm đến

71

các chuyên gia trong ngành.

Biểu đồ 2.7: Phương pháp kiểm tra độ chính xác, tính hợp lý của thông tin

kinh tế (ông/bà có thể chọn nhiều đáp án)

Phỏng vấn sâu 10 nhà báo chuyên viết về kinh tế, tác giả luận văn nhận

được nhiều câu trả lời khẳng định tầm quan trọng hàng đầu và chia sẻ về sử

dụng kỹ năng này. Tất cả các nhà báo đều khẳng định kỹ năng này là rất cần

thiết. Tuy nhiên, ở từng cơ quan báo chí và mỗi nhà báo lại có yêu cầu về

kiểm tra độ chính xác, tính hợp lý thông tin khác nhau. Có nhà báo chỉ chú

trọng đến các thông tin cảm thấy nghi ngờ. Có nhà báo lại kiểm tra đối với tất

cả các thông tin kinh tế thu thập được.

Nhà báo Lan Hương (TBKTVN) khẳng định: “Việc đính chính lại

thông tin trên mặt báo sẽ làm giảm uy tín của cơ quan báo chí. Nếu nghi ngờ

chi tiết, số liệu nào đó, tôi sẽ cầm điện thoại hỏi lại nguồn tin hoặc kiểm tra từ

các nguồn tin khác để có được thông tin tin cậy”.

Nhà báo Lê Hường cũng có cùng quan điểm trên. Bà cho rằng: “Kỹ

năng xử lý thông tin này rất quan trọng và cần thiết. Bởi thông tin báo chí nói

chung và thông tin kinh tế nói riêng phải đảm bảo tính chính xác, trung thực.

Nếu thông tin không đúng thì sẽ làm mất niềm tin của công chúng. Bởi vậy,

72

kỹ năng kiểm tra độ chính xác của thông tin được tiến hành thường xuyên

trong quá trình xử lý thông tin kinh tế. Ngay cả thông tin từ các nguồn chính

thống như cơ quan nhà nước vẫn cần kiểm tra độ chính xác. Sai sót về số liệu

có thể xảy ra do nhân viên nhầm lẫn, cũng có thể cơ quan chức năng cung cấp

các thông tin, số liệu có lợi cho họ, nhưng lại không đúng với thực tế”.

Bàn về vấn đề này, nhà báo Đỗ Mến chia sẻ với tác giả luận văn khi trả

lời phỏng vấn sâu, càng tìm được nguồn tin gốc từ các cơ quan nhà nước càng

tốt. Nhiều khi có thông tin vẫn phải kiểm tra lại để đảm bảo tính chính xác

hoặc kiểm tra từ nhiều nguồn khác nhau, bởi nhân vật có thể giấu thông tin,

đưa thông tin có lợi cho họ.

Trong khi phỏng vấn sâu, tác giả luận văn nhận thấy ở Thời báo Kinh

tế Sài Gòn có sự khác biệt lớn với nhiều cơ quan báo chí khác trong kỹ năng

xử lý thông tin kinh tế. Đó là tòa soạn yêu cầu tất cả phóng viên đều phải

kiểm tra lại độ chính xác, tính hợp lý của thông tin. Đặc biệt, tòa soạn còn ra

hẳn một quy chế là phóng viên sẽ bị trừ lương rất nặng nếu xảy ra thông tin

không trung thực, chính xác. Nhà báo Phan Chiến Thắng, Trưởng văn phòng

đại diện Thời báo Kinh tế Sài Gòn tại Hà Nội chia sẻ: “Tất cả các bài viết đều

phải kiểm tra lại thông tin. Lĩnh vực kinh tế dễ gây ảnh hưởng đến doanh

nghiệp, cộng đồng, cho nên tất cả thông tin đều phải kiểm tra lại. TBKTSG có

các chế tài nghiêm khắc đối với những người đưa tin sai như trừ lương, trừ

thưởng. Thông tin sai do phóng viên thiếu kiểm chứng, tối thiểu cả tháng sẽ

không có lương. Phải làm thế phóng viên mới có trách nhiệm với bài viết.

Nếu dễ dãi, đưa tin ẩu, doanh nghiệp bị ảnh hưởng, giá trị thiệt hại chưa xảy

ra nhưng người phóng viên như thế là không có trách nhiệm, toà soạn không

thể chấp nhận cách làm việc như thế”.

Nhà báo Mạnh Hưng của Báo Quân đội nhân dân lại nhấn mạnh ông

chú trọng kiểm tra thông tin khi cảm thấy nghi ngờ: “Trước khi sử dụng thông

73

tin bao giờ cũng cần kiểm tra lại xem có chính xác hay không. Phóng viên lâu

năm khi cảm thấy nghi ngờ sẽ kiểm tra lại ngay, có thể từ nguồn mình vừa lấy

hoặc từ nguồn khác như hỏi lại chuyên gia”.

Thực tế khi khảo sát tin, bài, tác giả luận văn đã thấy một số bài báo

mắc lỗi trong kỹ năng xử lý độ chính xác và tính hợp lý của thông tin kinh tế.

Điển hình là vào tháng 10/2015 Báo Dân Trí giật tít lên đầu tiên: “Bộ trưởng

tiết lộ “sốc” về tình hình ngân sách” trong đó trích dẫn lời của Bộ trưởng Bùi

Quang Vinh “ngân sách chỉ còn 45.000 tỷ đồng, không có tiền để chi tiêu”.

Vấn đề ở đây là người phóng viên đã không kiểm tra tính hợp lý của thông tin

dẫn đến đưa ra thông tin khiến công chúng hiểu chưa đúng và đầy đủ về cấu

phần ngân sách, dẫn đến những hiểu lầm đáng tiếc. Trước tình thế đó, nhà báo

Duy Cường (TBKTVN), khi trả lời phỏng vấn sâu tác giả luận văn đã cho biết

ông không thể đặt bút viết khi thấy thông tin thu thập được chưa có tính hợp

lý, sức thuyết phục, không khớp số liệu. Ông đã gọi cho một số chuyên gia

của Bộ Tài chính để kiểm tra lại thông tin. Trong bài “Hiểu thế nào về “chỉ

còn 45.000 tỷ vốn ngân sách”?” đăng trên Thời báo Kinh tế Việt Nam ngày

28/10/2015, tác giả đã giải thích con số 45.000 tỷ đồng mà Bộ trưởng Bùi

Quang Vinh nêu chưa tính thêm 50.000 tỷ đồng vốn ODA. Như vậy, 45.000

tỷ đồng này chỉ là khoản mục còn lại của vốn đầu tư phát triển – một khoản

mục tương đối nhỏ trong cấu phần của các khoản chi ngân sách Trung ương

nói chung, chứ không phải của toàn bộ ngân sách. Từ đó có thể thấy kinh

nghiệm của nhà báo Duy Cường là phải hiểu rõ số liệu và phải biết đúng

người để kiểm tra lại thông tin.

Hay trong bài “Vinatex trầy trật mà lợi nhuận không tăng” đăng trên Báo

Đầu tư số 156 ngày 30/12/2015 của nhà báo Thế Hải. Sau khi nhận được kết quả

kinh doanh của Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) trong năm 2015, tác giả

đã phải kiểm tra lại độ chính xác của những con số từ nguồn cung cấp thông tin,

đồng thời trực tiếp phỏng vấn ông Hoàng Vệ Dũng, Phó tổng giám đốc Vinatex

74

xin ông giải thích rõ hơn về những kết quả kinh doanh này.

Tóm lại, từ kết quả điều tra xã hội học, các cuộc phỏng vấn sâu và khảo

sát tin, bài, tác giả luận văn đưa ra kết luận kiểm tra độ chính xác, tính hợp lý

của thông tin là một kỹ năng xử lý thông tin kinh tế cần thiết, quan trọng hàng

đầu và được nhà báo coi trọng. Tuy nhiên, mỗi nhà báo lại kiểm tra độ chính

xác của thông tin ở mức độ khác nhau. Phần lớn là kiểm tra đối với các thông

tin cảm thấy nghi ngờ. Chỉ riêng Thời báo Kinh tế Sài Gòn, tác giả luận văn

nhận thấy sự khác biệt so với các tòa soạn khác mà tác giả tiến hành phỏng

vấn sâu là yêu cầu bắt buộc tất cả các nhà báo phải kiểm tra tính chính xác

của thông tin đối với tất cả thông tin kinh tế. Toà soạn có cả chế tài xử phạt

đối với phóng viên sai phạm. Để kiểm tra độ chính xác, tính hợp lý của thông

tin, mỗi nhà báo có cách khác nhau, nhưng phổ biển là kiểm tra từ chính

nguồn tin, từ các nguồn tin khác, từ đồng nghiệp và bạn bè, từ chuyên gia.

2.2.2.3. Kỹ năng thống kê số liệu, tính tỷ lệ, tính xác suất, sử dụng ngôn

ngữ thông tin phi văn tự

Một đặc thù của thông tin kinh tế đối với các nhà báo đó là họ phải tiếp

xúc với rất nhiều số liệu. Thật nhàm chán và đơn điệu nếu như một bài báo cứ

bê nguyên si các con số và quá nhiều số liệu. Độc giả sẽ không hứng thú với

các bài báo như thế. Bởi vậy, nhà báo cần phải có kỹ năng xử lý thông tin

kinh tế, nhất là với các con số. Việc tính toán sang tỷ lệ (%), vẽ biểu đồ, đồ

thị, lập bảng số liệu được xem là giải pháp “cứu cánh” để nhà báo xử lý các

số liệu trở nên “mềm” hóa, có sức hấp dẫn và thông tin kinh tế thú vị hơn.

Trả lời phỏng vấn sâu tác giả luận văn, nhà báo Lan Hương (TBKTVN)

nói: “Khi xử lý các con số trong một văn bản kinh tế, cụ thể là cơ cấu vốn vay

của một công ty tài chính, tôi vẫn thường xuyên chuyển đổi số liệu từ tuyệt

đối sang tương đối. Như vậy mới cụ thể hóa được các thông tin từ số liệu”.

Nhà báo Lê Hường cũng cho biết: “Khi viết bài về thoái vốn, để biểu lộ được

giá trị thông tin là không đạt yêu cầu, tôi phải quy tất cả số liệu ra % và so

75

sánh. Giả dụ theo quy định đến năm 2015 phải thoái hết 15.000 tỷ, nhưng đến

giữa năm mới được 3000 tỷ, tức là hết nửa năm rồi mới thoái được 20% của

tổng số vốn”.

Cũng theo kết quả điều tra xã hội học của tác giả luận văn về mức độ sử

dụng kỹ năng thống kê, tính tỷ lệ, tính xác suất, vẽ biểu đồ, đồ thị, bảng số liệu

thì có đến 38.1% ý kiến được hỏi cho rằng thường xuyên sử dụng khi xử lý

thông tin kinh tế; 28.6% là bình thường; 28.6% là tuỳ từng thông tin; và chỉ có

4.7% ý kiến chưa bao giờ sử dụng kỹ năng này trong quá trình xử lý thông tin.

Biểu đồ 2.8: Mức độ sử dụng kỹ năng tính tỷ lệ, tính xác suất, sử dụng

ngôn ngữ thông tin phi văn tự

Nhìn vào bảng số liệu trên, so với các kỹ năng xử lý thông tin kinh tế

khác thì kỹ năng này có tỷ lệ nhà báo sử dụng thường xuyên là ít hơn cả, chỉ

có 38% ý kiến được hỏi là thường xuyên sử dụng kỹ năng này. Còn các kỹ

năng khác (như kiểm tra độ chính xác có đến 70% ý kiến trả lời là thường

xuyên sử dụng), cao gần gấp đôi.

Tuy nhiên, không phải số liệu hay con số nào cũng sử dụng kỹ năng xử

76

lý thông tin kinh tế trên. Việc sử dụng kỹ năng này phụ thuộc vào các số liệu

khi cần thiết. Kỹ năng xử lý thông tin kinh tế giúp làm nổi bật ý nghĩa của

thông tin kinh tế và thể hiện được nhiều số liệu mà không bị rối.

Theo kết quả điều tra xã hội học về nhà báo sử dụng kỹ năng tính tỷ lệ,

tính xác suất, vẽ biểu đồ, đồ thị, bảng số liệu trong xử lý thông tin kinh tế

trong trường hợp nào, có đến 76.2% ý kiến khẳng định khi cần làm nổi bật ý

nghĩa và thể hiện được nhiều số liệu; 33.3% ý kiến cho là sử dụng kỹ năng

này với tất cả số liệu thu thập được; 47.6% ý kiến sử dụng kỹ năng này khi

cảm thấy cần thiết; chỉ có 28.6% ý kiến cho biết Ban biên tập bắt buộc làm.

Biểu đồ 2.9: Trường hợp nhà báo sử dụng kỹ năng tính tỷ lệ, tính xác suất,

ngôn ngữ thông tin phi văn tự trong xử lý thông tin kinh tế (người trả lời

chọn nhiều đáp án)

Lý giải về điều này, 48% nhà báo được hỏi chia sẻ việc tính tỷ lệ, xác

suất, sử dụng ngôn ngữ thông tin phi văn tự trong xử lý thông tin kinh tế giúp

công chúng dễ hiểu, dễ tiếp cận; 44.9% ý kiến cho biết kỹ năng này giúp thể

hiện thông tin sinh động hơn; và 7.1% nhà báo có ý kiến khác. Như vậy có thể

khẳng định, kỹ năng thống kê số liệu, tính tỷ lệ, xác suất, vẽ biểu đồ, đồ thị

giúp nhà báo làm nổi bật được ý nghĩa và thể hiện được nhiều số liệu hơn

77

trong bài viết.

Tuy nhiên, khi trả lời phỏng vấn sâu tác giả luận văn thì mỗi nhà báo

lại đưa ra quan điểm riêng của mình về vấn đề này. Nhà báo Đỗ Mến của Báo

Đầu tư cho rằng: “Với các báo xã hội, số liệu chỉ mang tính chất tương đối để

độc giả nhìn vào thấy dễ nhớ, dễ đọc. Còn với báo kinh tế, số liệu càng chính

xác thì càng tốt.”.

Thời báo Kinh tế Sài Gòn lại chưa thực sự chú trọng nhiều đến kỹ năng

này. Nhà báo Phan Chiến Thắng, Trưởng văn phòng đại diện của Thời báo

Kinh tế Sài Gòn tại Hà Nội khẳng định “Phóng viên của Thời báo Kinh tế Sài

Gòn sử dụng vẽ biểu đồ, đồ thị, tỷ lệ khi xử lý thông tin cũng không nhiều.

Nếu cảm thấy cần phải đơn giản hoá số liệu, giúp độc giả dễ tiếp nhận thông

tin hay so sánh các quãng thời gian khác nhau, nhà báo sẽ sử dụng

infographic như một bức tranh minh hoạ để bài viết dễ nhìn hơn. Việc tính tỷ

lệ % cũng vậy. Khi cần làm nổi bật vấn đề, nhà báo sẽ chuyển từ số liệu tuyệt

đối sang tương đối. Và khi cần làm rõ vấn đề, những con số tương đối cần mở

ngoặc (...) số tuyệt đối bên cạnh”.

Nhà báo Mạnh Hưng của Báo Quân đội nhân dân lại có quan điểm khác

về vấn đề này. Trong văn bản, nhà báo cần xử lý số liệu cho người đọc dễ tiếp

nhận. Bên Báo QĐND số liệu thường được làm tròn số. Không ghi những số

liệu quá chi tiết, đến hàng chục, hàng trăm. Người đọc chỉ quan tâm đến

thông tin mang tính phổ quát. Lý giải về điều này, ông Hưng cho biết Báo

QĐND không phải báo chuyên sâu về kinh tế, đối tượng không phải những

chuyên gia, nhà phân tích thị trường hay doanh nhân - những người cần số

liệu chính xác, cụ thể mà là toàn bộ công chúng trong xã hội. Do đó, để tiện

cho người đọc theo dõi, Báo QĐND không sử dụng các số liệu quá chi tiết,

chuyên sâu. Khi muốn độc giả dễ tiếp thu hơn, phóng viên của Báo QĐND

cũng phải xử lý thông tin bằng các thông tin đồ hình. Sau khi trình bày ý

tưởng, cung cấp thông tin, số liệu, cán bộ kỹ thuật sẽ giúp nhà báo vẽ biểu đồ

78

theo ý mình.

Thông tin sẽ được cụ thể hóa qua các biểu đồ (biểu đồ hình tròn là %

theo số tương đối, biểu đồ hình cột là số tuyệt đối). Đối với lĩnh vực theo dõi

kinh tế, con số đấy thường xuyên được quy đổi ra tỷ trọng, số tương đối, tuyệt

đối luôn luôn được dùng.

Trong cuốn “Ngôn ngữ báo chí” của PGS. TS. Vũ Quang Hào đã đưa

ra kết quả khảo sát 40 số của Thời báo Kinh tế Việt Nam (từ tháng 7 –

12/1997) đã sử dụng 75 biểu đồ hình cột. Ở Thời báo Kinh tế Việt Nam trung

bình 1 số báo có tới 6,6 bảng số liệu, chiếm 2,6% lượng thông tin phi văn tự

[18, tr. 243, 256].

Khảo sát các bài báo kinh tế của hai báo: Thời báo Kinh tế Việt Nam,

Đầu tư từ tháng 3 năm 2015 đến tháng 3 năm 2016, tác giả luận văn thấy có

nhiều bài báo đã xử lý thông tin kinh tế bằng việc vẽ biểu đồ, đồ thị và bảng

số liệu. Ví dụ: Trong bài “Phiên 28/3: MBS giảm mạnh 23% sau ngày đầu

giao dịch” (báo Đầu tư, xuất bản ngày 28/3/2015), nhà báo đã cụ thể hóa tình

hình chứng khoán bằng hệ thống các đồ thị. Từ đó ta thấy được sự hồi phục

tích cực của các cổ phiếu bluechip cùng các cổ phiếu trong nhóm bất động

sản, xây dựng.

Hình ảnh đồ thị trong bài báo “Phiên 28/3: MBS giảm mạnh 23% sau ngày

79

đầu giao dịch”

Trong bài “9 tháng: bội chi gần 141.000 tỷ đồng” đăng trên Thời báo

Kinh tế Việt Nam số 238 ngày 5/10/2015, tác giả Lê Hường đã cụ thể hoá tình

hình thu ngân sách 9 tháng qua các năm (từ năm 2012 đến năm 2015) bằng

biểu đồ hình cột. Nhìn vào biểu đồ ta có thể dễ dàng nhận thấy tổng thu ngân

sách nhà nước 9 tháng năm 2015 đạt 683 nghìn tỷ đồng, năm 2014 là 636

nghìn tỷ đồng, như vậy là năm 2015 tăng 47 nghìn tỷ đồng, tức là tăng 7% so

với cùng kỳ năm 2014.

Hình ảnh biểu đồ trong bài báo “9 tháng: bội chi gần 141.000 tỷ đồng”

Tuy nhiên, trong quá trình khảo sát tin bài, tác giả luận văn nhận thấy

có nhiều tin kinh tế không có đánh giá, bình luận mà chỉ bê nguyên số liệu

vào làm bài viết trở nên phức tạp và buồn tẻ. Ví dụ: bài viết “Bảo hiểm MIC

tăng vốn điều lệ lên 800 tỷ đồng” (Báo Đầu tư 28/3/2015) của nhà báo Chí

Tín mang tính chất một bản tin thường. Nội dung chủ yếu là các số liệu về

tình hình vốn của MIC. Nếu một người am hiểu về kinh tế, họ sẽ ghi nhớ

những gì bài báo mang lại. Song với một người bình thường thì những tin này

thật khó hiểu, nhàm chán. Nhà báo nên có đánh giá khái quát về tình hình

tăng vốn, các số liệu có thể lập biểu đồ để người đọc dễ hiểu.

Như vậy, tác giả luận văn cho rằng, thống kê, tính tỷ lệ, tính xác suất,

80

sử dụng ngôn ngữ thông tin phi văn tự là một kỹ năng xử lý thông tin kinh tế

cơ bản của nhà báo. Tuy nhiên, phần lớn nhà báo qua trả lời phỏng vấn sâu và

kết quả điều tra xã hội học thì họ chỉ sử dụng kỹ năng này đối với thông tin

cần thiết khi cần làm nổi bật ý nghĩa của con số. Thậm chí, Thời báo Kinh tế

Sài Gòn còn ít sử dụng kỹ năng này.

2.2.2.4. Kỹ năng chuyển thuật ngữ chuyên ngành kinh tế sang ngôn ngữ

báo chí

Một kỹ năng xử lý thông tin kinh tế nữa mà tác giả luận văn muốn đề

cập đến đó là chuyển thuật ngữ chuyên ngành kinh tế sang ngôn ngữ báo chí.

Đối với những người am hiểu về kinh tế sẽ không cảm thấy khó khăn khi bắt

gặp các từ ngữ chuyên ngành về kinh tế như “bội chi”, “nới room”… Tuy

nhiên, công chúng của báo chí là đông đảo các tầng lớp người dân với trình

độ nhận thức, học vấn khác nhau. Để có thể phục vụ được nhiều đối tượng

bạn đọc khác nhau, khi xử lý thông tin kinh tế, nhà báo cần chú ý đến việc

chuyển thuật ngữ chuyên ngành kinh tế sang ngôn ngữ báo chí.

Trao đổi với tác giả luận văn về vấn đề này, TS. Chử Văn Lâm – Phó

Tổng biên tập Thời báo Kinh tế Việt Nam chỉ ra: Nhiều phóng viên ưa dùng

quá nhiều thuật ngữ chuyên ngành mà không giải thích cho người xem. Liệu

có bao nhiều người dân hiểu được khi chính phủ của họ giãn nợ với Quỹ Tiền

tệ Quốc tế?. Liệu có bao nhiều người hiểu sự khác biệt giữa doanh số của một

công ty với lợi nhuận của công ty đó? Thực tế, do không ý thức được rằng

việc chính phủ giãn nợ hoặc lợi nhuận của một công ty có thể ảnh hưởng trực

tiếp đến cuộc sống của mình, nhiều người thấy những vấn đề đó thật buồn tẻ –

ít nhất là khi so sánh với những vụ bê bối chính trị. Một lý do là những vấn đề

này thường phức tạp và rối rắm. Ngay bản thân nhà báo Lê Hường cũng thừa

nhận đây là một hạn chế của các phóng viên. Toà soạn cũng khuyến khích

nhưng không bắt buộc.

Theo kết quả điều tra xã hội học bằng bảng hỏi anket của tác giả luận

81

văn về mức độ sử dụng kỹ năng chuyển đổi thuật ngữ chuyên ngành kinh tế

sang ngôn ngữ báo chí, chỉ có 42.9% ý kiến khẳng định thường xuyên sử

dụng kỹ năng này; 28.6% là bình thường; 23.8% ý kiến cho rằng tuỳ từng

thông tin mới sử dụng kỹ năng này; 4.7% ý kiến là chưa bao giờ chuyển đổi

từ thuật ngữ chuyên ngành sang ngôn ngữ báo chí.

Biểu đồ 2.10: Mức độ sử dụng kỹ năng chuyển thuật ngữ chuyên ngành kinh

tế sang ngôn ngữ báo chí

Nhìn vào kết quả điều tra xã hội học ở trên, chúng ta nhận thấy đây là

một kỹ năng xử lý thông tin kinh tế được nhà báo quan tâm, nhưng mức độ

không thực sự quá chú trọng. Trong 294 ý kiến được hỏi thì có 42% là thường

xuyên sử dụng kỹ năng xử lý thông tin kinh tế này.

Cũng theo kết quả điều tra xã hội học của tác giả luận văn khi hỏi nhà

báo về cách chuyển thuật ngữ chuyên ngành kinh tế sang ngôn ngữ báo chí

khi xử lý thông tin viết bài, có 42.9% ý kiến trả lời bằng cách đưa ra định

nghĩa; 52.4% diễn giải thông qua ví dụ cụ thể; 33.3% ý kiến giải thích thuật

ngữ bằng sự hiểu biết của mình; nhưng có đến 71.4% ý kiến mượn lời chuyên

82

gia.

Bảng 2.5: Về phương pháp chuyển thuật ngữ chuyên ngành kinh tế sang ngôn

ngữ báo chí (người trả lời chọn nhiều đáp án)

Số lượng (người) Tỷ lệ (%) Quan điểm

Đưa ra định nghĩa 126 42.9

Lấy một ví dụ 154 52.4

Bằng sự hiểu biết của mình 98 33.3

Mượn lời chuyên gia 210 71.4

Khác 28 9.5

Nguồn: Cuộc điều tra tháng 3/2016

Trong xử lý thông tin kinh tế bằng chuyển thuật ngữ chuyên ngành

sang ngôn ngữ báo chí, nhà báo có nhiều cách khác nhau, cách phổ biến nhất

là mượn lời chuyên gia.

Trả lời phỏng vấn sâu của tác giả luận văn, nhà báo Lan Hương

(TBKTVN) cho rằng: Đầu tiên nhà báo phải hiểu thuật ngữ đó trong lý thuyết

là gì, sau đó diễn giải cho hợp lý. Từ chuyên ngành kinh tế trong trường hợp

thông dụng thì vẫn có thể dùng nhưng phải mở ngoặc đơn (...) giải thích bên

cạnh. Khi xem một thông cáo báo chí, nhà báo cần quan tâm đến sự kiện và

trích lời của công ty. Tuy nhiên, có nhiều bài báo có cách giải thích thuật ngữ

chưa đúng chuẩn.

Nhà báo Lê Hường của Thời báo Kinh tế Việt Nam cho biết kỹ năng xử

lý này được Tòa soạn khuyến khích, nhưng không bắt buộc. Bà chia sẻ với tác

giả luận văn: “Do xác định đối tượng công chúng là những người am hiểu về

kinh tế nên TBKTVN không chú trọng việc xử lý thông tin kinh tế từ chuyên

gia và thuật ngữ chuyên ngành kinh tế. Ban Biên tập tòa soạn cũng khuyến

khích phóng viên chuyển thuật ngữ chuyên ngành kinh tế sang ngôn ngữ báo

chí. Tuy nhiên, không bắt buộc phóng viên phải làm việc này thường xuyên.

Cá nhân tôi cho rằng, nếu nhà báo diễn giải các thuật ngữ chuyên ngành kinh

83

tế sang ngôn ngữ báo chí sẽ tạo cảm giác gần gũi với bạn đọc hơn”.

Trong bài “9 tháng: bội chi gần 141.000 tỷ đồng” đăng trên Thời báo

Kinh tế Việt Nam số 238 ngày 5/10/2015 của tác giả Lê Hường, trong khi từ

“bội chi” ngân sách được các tờ báo khác diễn giải ra là chênh lêch dương

giữa tổng số chi ngân sách nhà nước thực tế và tổng số thu ngân sách nhà

nước thực tế, tức là ngân sách chi nhiều hơn thu bao nhiêu, thì Thời báo Kinh

tế Việt Nam vẫn giữ nguyên từ “bội chi” và đưa ra các ví dụ, dẫn chứng cụ

thể để người đọc hình dung ra được “tổng thu cân đối ngân sách nhà nước

thực hiện tháng 9 ước đạt 61.3 nghìn tỷ đồng”, trong khi “chi ngân sách nhà

nước tháng 9 ước đạt 88.85 nghìn tỷ đồng”. Như vậy, “bội chi ngân sách nhà

nước tháng 9 ước 27.54 nghìn tỷ đồng”.

Nhà báo Đỗ Mến của Báo Đầu tư cho hay: Đối với các số liệu, thuật

ngữ từ các chuyên gia, khi chưa hiểu rõ bà sẽ hỏi thẳng chuyên gia đó hoặc

tìm đến các chuyên gia khác tham khảo. Cụ thể trong trường hợp khi nhắc đến

từ “vi bằng” bà đã tìm đến các văn phòng thừa phát lại là nơi cấp vi bằng hoặc

tìm đến chuyên gia trong ngành để làm rõ hơn thông tin trong bài viết.

Bàn về vấn đề này, nhà báo Chiến Thắng của Thời báo Kinh tế Sài Gòn

trả lời phỏng vấn sâu tác giả luận văn, đưa ra quan điểm: Với các thuật ngữ

chuyên ngành, TBKTSG “dung hoà” giữa báo chính trị, chính thống và báo

chuyên ngành, không đưa ra định nghĩa mà diễn giải bằng cách khác. Đối với

những khái niệm mới xuất hiện thì đưa ra các ví dụ cụ thể để độc giả hiểu

thuật ngữ đó là gì.

Trong bài “Nới room chi phối – Liều thuốc mạnh cho tái cơ cấu ngân

hàng” đăng trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn của tác giả Phong Hiếu có nhắc

đến từ “nới room”. Đây là một thuật ngữ trong ngân hàng, được hiểu là mở

rộng tỷ lệ sở hữu cho nhà đầu tư nước ngoài. Trong bài, phóng viên không

giải thích “nới room” là gì mà viết là: “rào cản lớn nhất của dòng vốn ngoại

đầu tư vào ngành ngân hàng lâu nay chính là quy định về tổng tỷ lệ sở hữu

84

của nhà đầu tư nước ngoài và người liên quan không vượt quá 30% vốn điều

lệ của một tổ chức tín dụng” và “muốn vốn ngoại tham gia tái cơ cấu ngân

hàng yếu kém thì cả Chính phủ và các cổ đông trong nước phải chấp nhận nới

room lên tỷ lệ chi phối, tức trên 50% vốn điều lệ của ngân hàng”. Như thế là

tăng hơn 20% so với trước đây.

Cùng nói đến từ “nới room”, tác giả Hoài Vũ (TBKTVN) có bài “Hiệu

ứng nới room đẩy thị trường tăng mạnh” đăng trên số 46 ngày 23/2/2016.

Tuy nhiên, trong bài viết tác giả không đưa ra giải thích ý nghĩa của cụm từ

này mà đi thẳng vào vấn đề: Sau khi nhà nước ra chính sách nới room (nhà

đầu tư nước ngoài được mua nhiều cổ phiếu hơn trước ở các ngành nghề được

cho phép) thì mang lại hiệu quả cho thị trường chứng khoán.

Trong khi đó, nhà báo Mạnh Hưng lại đưa ra cái nhìn khác. Ông khẳng

định với tác giả luận văn rằng đối với phóng viên kinh tế ở Báo QĐND, các

thuật ngữ chuyên ngành đều được giải thích rõ ràng. Nếu nhà báo không biết

thì phải hỏi chuyên gia. Quan điểm của Báo QĐND là phổ thông đại chúng,

càng đại chúng bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Với những độc giả có trình độ,

thông tin phải chi tiết hơn, không hời hợt.

Như vậy, việc chuyển thuật ngữ chuyên ngành sang ngôn ngữ báo chí

trong quá trình xử lý thông tin của nhà báo kinh tế còn ít. Thực tế là khi tác

giả luận văn khảo sát tin, bài trong tháng 12 năm 2015 của Thời báo Kinh tế

Việt Nam thì chỉ có 1 - 2 bài giải thích thuật ngữ chuyên ngành. Còn lại gần

như không thấy phóng viên diễn giải.

Cụ thể là TBKTVN số 292 thứ 2 ngày 7/12/2015 có bài “Tín dụng cà

phê đơn thương độc mã” của tác giả Nguyễn Hoài, trong bài báo có giải thích

thuật ngữ chuyên ngành kinh tế là từ “kèm ân hạn” được tác giả giải thích là

“trì hoãn thu lãi, gốc”.

Tóm lại, tác giả luận văn nhận thấy, chuyển từ thuật ngữ chuyên ngành

kinh tế sang ngôn ngữ báo chí dễ hiểu là một kỹ năng cần thiết trong quá trình

85

xử lý thông tin kinh tế. Tuy nhiên, kỹ năng này chưa thực sự được chú trọng.

Tùy từng cơ quan báo chí lại có quan điểm khác nhau về vấn đề này. Trả lời

phỏng vấn sâu tác giả luận văn, các nhà báo ở Thời báo Kinh tế Việt Nam và

Báo Đầu tư khẳng định tòa soạn khuyến khích, nhưng không bắt buộc phóng

viên sử dụng kỹ năng này. Trong khi, Báo Quân đội nhân dân lại có sự quan

tâm nhiều hơn đến kỹ năng xử lý thông tin kinh tế này. Để chuyển thuật ngữ

chuyên ngành kinh tế sang ngôn ngữ báo chí, nhà báo có nhiều cách, việc

dùng lời của chuyên gia được các nhà báo ưu chuộng hơn cả.

2.3. Đánh giá chung về kỹ năng thu thập và xử lý thông tin kinh tế của

nhà báo

Từ kết quả khảo sát thực trạng kỹ năng thu thập và xử lý thông tin kinh

tế trên và các cuộc phỏng vấn sâu với 10 nhà báo chuyên viết về kinh tế, tác

giả luận văn đưa ra một số đánh giá về ưu điểm và hạn chế về kỹ năng thu

thập và xử lý thông tin kinh tế của nhà báo.

2.3.1. Ưu điểm

Về ưu điểm kỹ năng thu thập và xử lý thông tin kinh tế của nhà báo, tác

giả luận văn có một số nhận xét như sau:

Thứ nhất, nhà báo có khả năng giao tiếp tốt, biết cách nói chuyện, gợi

chuyện, tạo cảm giác thoải mái, thân thiện cho người trả lời phỏng vấn. Nhờ

kỹ năng giao tiếp tốt, nhà báo có được những thông tin mới mẻ, chân thật, độc

đáo mà nhân vật trong quá trình trò chuyện bộc lộ một cách tự nhiên. Đó là

khi nhà báo mang đến cho nhân vật cảm giác được hiểu, được chia sẻ, được

ghi nhận. Thực tế là những nhà báo giỏi giao tiếp luôn tạo ra được không gian

chia sẻ thoải mái và chân thành. Trên sóng phát thanh, truyền hình, nhiều

cuộc nói chuyện giữa nhà báo và khách mời thu hút sự chú ý của công chúng

từng phút từng giây bởi tính hấp dẫn của câu chuyện. Chính khả năng giao

tiếp tạo nên sự thành công của nhà báo.

Thứ hai là nhà báo sẵn sàng lắng nghe, hiểu nguồn tin. Trong kỹ năng

86

giao tiếp để thu thập thông tin thì việc biết cách lắng nghe nguồn tin cũng là

một cách để hiểu và lấy được cảm tình với nguồn tin. Trong cuộc trò chuyện,

tiếp xúc với nguồn tin để khai thác thông tin, nếu nhà báo không tập trung

nghe, nhìn vào nguồn tin thì rất dễ khiến người nói chuyện với nhà báo cảm

giác như không được tôn trọng. Ngay cả khi nhà báo phải ghi chép thì vẫn

phải thể hiện là mình đang nghe nguồn tin. Nếu nhà báo không làm như vậy,

nguồn tin sẽ mất hứng thú và có thể không muốn tiếp tục trò chuyện với nhà

báo. Như vậy, việc thu thập thông tin sẽ gặp nhiều khó khăn. Khi đó, việc duy

trì và phát triển mối quan hệ với nguồn tin cũng bất lợi. Khi phỏng vấn sâu 10

nhà báo chuyên viết về kinh tế thì các nhà báo đều khẳng định họ rất coi trọng

việc lắng nghe nguồn tin trong các cuộc tiếp xúc và trò chuyện để có được

cảm tình của nguồn tin. Thậm chí, nhà báo Chiến Thắng của Thời báo Kinh tế

Sài Gòn chia sẻ rằng nhờ việc lắng nghe và hiểu nguồn tin, cùng với kiến thức

sâu về kinh tế mà nhà báo Hải Lý của TBKTSG đã nhận được sự tin tưởng

của ông Trần Bắc Hà, Chủ tịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

(BIDV). Ông Hà chỉ nhận trả lời phỏng vấn của nhà báo Hải Lý và nhà báo

Lê Bình của Đài Truyền hình Việt Nam.

Thứ ba là các nhà báo đều sử dụng tốt ngoại ngữ. Trong khi khảo sát và

phỏng vấn sâu các nhà báo để viết luận văn, tác giả nhận thấy phần lớn nhà

báo kinh tế có khả năng giao tiếp tốt bằng tiếng Anh và các ngoại ngữ khác.

Đặc biệt ở Thời báo Kinh tế Việt Nam, Đầu tư và Thời báo Kinh tế Sài Gòn

thì gần như tất cả phóng viên phải sử dụng thành thạo tiếng Anh. Đây là một

ưu điểm vượt trội của các nhà báo kinh tế so với mặt bằng chung về trình độ

ngoại ngữ của nhà báo nước ta hiện nay. Nhờ có trình độ ngoại ngữ tốt, nhà

báo chuyên về kinh tế có thể tiếp cận và giao tiếp với nguồn tin và tài liệu

nước ngoài. Nhờ vậy, nhà báo có nguồn tin đa dạng, thu thập được nhiều

thông tin hơn và nhiều chiều. Trong lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là trong nền

kinh tế hội nhập hiện nay, phóng viên kinh tế muốn có được những bài viết

87

hay, bài viết sâu sắc cần phải thường xuyên trao đổi ý kiến với những chuyên

gia kinh tế. Các chuyên gia kinh tế không phải thuần nhất chỉ là người Việt

Nam mà còn có rất nhiều người nước ngoài, nhà báo cần phải biết ngoại ngữ

thì mới có thể giao tiếp, trao đổi và lắng nghe ý kiến của họ.

Thứ tư là, các nhà báo có kiến thức chuyên sâu về kinh tế. Ở Thời báo

Kinh tế Việt Nam, Báo Đầu tư, Thời báo Kinh tế Sài Gòn phần lớn phóng

viên lấy nguồn từ các trường kinh tế như Đại học Ngoại Thương, Kinh tế

Quốc dân... Trả lời phỏng vấn sâu của tác giả luận văn, Tổng Biên tập Báo

Đầu tư Lê Trọng Minh cho biết: Nhà báo kinh tế đa phần không học từ các

trường báo chí. Tại Báo Đầu tư, số lượng nhà báo tốt nghiệp trường báo chí

rất ít mà chủ yếu là những người có kiến thức kinh tế sẵn có như những bạn

tốt nghiệp từ các trường Ngoại thương, Kinh tế, Ngoại ngữ, Sư phạm… Đồng

quan điểm đó, Phó Tổng biên tập Chử Văn Lâm của Thời báo Kinh tế Việt

Nam, lực lượng cán bộ phóng viên của báo có tới 80% tốt nghiệp đại học kinh

tế chuyên ngành. Chính vì có sẵn kiến thức chuyên ngành kinh tế nên khi tiếp

xúc với các nguồn tin nhà báo thường tự tin hơn về sự am hiểu của mình và

dễ dàng hiểu thông tin kinh tế mà nguồn tin đề cập đến. Từ đó, việc thu thập

và xử lý thông tin kinh tế sẽ tốt hơn. Nhà báo cần phải có kiến thức kinh tế tối

thiểu mới làm được báo kinh tế. Do vậy, đối với những phóng viên chỉ được

đào tạo từ các trường báo chí, khi về Thời báo Kinh tế Việt Nam sẽ được cử

đi học thêm văn bằng hai về kinh tế. Khảo sát tin, bài viết về chứng khoán, tác

giả luận văn nhận thấy phóng viên nắm được rõ chỉ số giao dịch, các biến

động về chứng khoán trong ngày, có cách xử lý thông tin thông minh, mang

tính chuẩn xác trong dự đoán xu thế phát triển của chứng khoán. Các bài viết

lý giải được đằng sau biến động ấy là “cái gì đang xảy ra?”, “Nó sẽ tác động

đến thị trường chứng khoán như thế nào” và liệu ta có thể “dự báo” cho

những ngày tới. Hoặc mục viết về bất động sản, nhà báo đã cập nhật, có các

nguồn tin mới và nóng về giá cả, sự phát triển của các khu vực đất đai để viết.

88

Bản thân người viết không chỉ là người ghi chép mà còn là những chuyên gia

kinh tế, thực sự am hiểu những lĩnh vực mà họ đang phụ trách để đưa ra thông

tin mới và quan trọng.

Bên cạnh đó, vì có nhạy cảm nghề nghiệp, nhà báo có sự quan sát tinh

tế hơn, dựa vào phản ứng của nguồn tin, điều chỉnh giao tiếp cho phù hợp.

Nhà báo thường quan sát để tìm ra vấn đề mới, hay.

Từ những ưu điểm trên, có thể nhận thấy hiệu quả đạt được từ việc thu

thập và xử lý thông tin khá cao. Chất lượng thông tin đầu vào khá chuẩn xác

bởi sau khi phóng viên viết bài sẽ được biên tập viên xử lý lại cả về nội dung

và hình thức. Bài báo hoàn thiện đạt được chuẩn mực cả về tiêu chuẩn báo chí

lẫn kiến thức kinh tế căn bản. Phóng viên cũng biết cách biến các kiến thức

kinh tế chuyên sâu, khó đọc trở thành ngôn ngữ gần gũi, dễ đọc, dễ tiếp thu.

2.3.2. Hạn chế

Về mặt hạn chế, tác giả luận văn chỉ ra một số hạn chế trong kỹ năng

thu thập và xử lý thông tin kinh tế của nhà báo như sau:

Hạn chế đầu tiên là nhà báo vẫn chưa chú trọng kiểm tra độ chính xác

với tất các thông tin kinh tế đã thu thập được. Một nguyên tắc mà không nhà

báo nào không biết, đó là khi đề cập đến những nội dung liên quan đến thông

tin khai thác được khi tác nghiệp thì phải kiểm chứng lại một cách chính xác

và không đăng tải các thông tin chưa rõ nguồn. Nhưng thực tế cho thấy vẫn có

một số nhà báo chưa thực sự coi trọng việc kiểm chứng nguồn tin. Qua phỏng

vấn sâu 10 nhà báo kinh tế, tác giả nhận được câu trả lời khá phổ biến là đa

phần các nhà báo chỉ kiểm tra lại thông tin khi họ cảm thấy nghi ngờ về độ

chính xác. Cũng theo kết quả điều tra xã hội học có 47.6% ý kiến chỉ kiểm tra

độ chính xác của thông tin khi họ cảm thấy nghi ngờ, trong khi chỉ có 42.9%

ý kiển kiểm tra lại tất cả thông tin thu thập được. Còn nhớ, cũng vì tin vào

nguồn tin của phóng viên mà một số cơ quan báo chí đã cho đăng thông tin

phản ánh thiếu khách quan, cảnh báo quá mức cần thiết hoặc sai sự thật, gây

89

khốn đốn cho doanh nghiệp. Điển hình là vụ báo chí đưa tin nước tương có

chứa chất gây ung thư 3-MCPD gây thiệt hại nhiều tỷ đồng cho toàn ngành

sản xuất này. Rồi vụ báo chí đưa tin bình chứa nước Inox Toàn Mỹ có chất

gây ung thư; hoặc thông tin ăn vải dễ bị viêm não Nhật Bản; ăn nhiều bưởi

làm tăng nguy cơ ung thư vú gây hoang mang trong dư luận và làm thiệt hại

nghiêm trọng về vật chất cho những người nông dân trồng bưởi. Lại có không

ít trường hợp, cơ quan báo chí chỉ khai thác thông tin từ một nguồn duy nhất

và không có sự kiểm chứng, đơn cử như trường hợp tháng 8/2010, báo Người

Lao động cho đăng hai bài về đồ gỗ ngoại nhập. Theo bài báo thì chính sách

thuế của Nhà nước đã đẩy doanh nghiệp gỗ trong nước vào tình trạng khó

khăn, tạo thuận lợi cho các sản phẩm gỗ nước ngoài tràn vào nước ta, trong đó

có phỏng vấn đại diện lãnh đạo Hiệp hội Gỗ Việt Nam nhưng không kiểm

chứng từ cơ quan quản lý nhà nước (Bộ Tài chính, Bộ Công Thương) dẫn đến

thông tin sai về các mức thuế xuất nhập khẩu, số liệu nhập khẩu sản phẩm gỗ.

Đây là một bài học sâu sắc về cách làm báo thiếu trách nhiệm, coi thường

khâu thẩm định nguồn tin dẫn đến sai lầm “chết người” không đáng có.

Hai là, trong quá trình khảo sát tin bài, tác giả luận văn nhận thấy có

nhiều tin kinh tế không có đánh giá, bình luận mà chỉ bê nguyên số liệu vào

làm bài viết trở nên phức tạp và buồn tẻ. Nếu một người am hiểu về kinh tế,

họ sẽ ghi nhớ những gì bài báo mang lại. Song với một người bình thường thì

những tin này thật khó hiểu, nhàm chán.

Ba là, việc chuyển thuật ngữ chuyên ngành sang ngôn ngữ báo chí chưa

được tiến hành thường xuyên và thống nhất. Trả lời phỏng vấn sâu của tác giả

luận văn, nhà báo Lê Hường cho biết đối tượng độc giả chủ yếu của Thời báo

Kinh tế Việt Nam là các doanh nhân, lãnh đạo và chuyên viên cao cấp các

doanh nghiệp nhà nước, công ty kinh doanh. Do vậy, vấn đề xử lý thông tin

kinh tế từ chuyên gia và thuật ngữ chuyên ngành kinh tế không được coi

trọng. Toà soạn có khuyến khích phóng viên nhưng không bắt buộc. Có thể

90

thấy với những chuyên gia kinh tế, doanh nhân, nhà đầu tư thì điều này hoàn

toàn bình thường. Nhưng mục tiêu của chúng ta là hướng tới tất cả công

chúng mà đối với những độc giả bình thường, thuật ngữ chuyên ngành vừa

khó hiểu lại vừa gây nhàm chán.

Bốn là, một số nhà báo còn hạn chế kiến thức chuyên ngành kinh tế,

nhất là phóng viên mới vào nghề mà không không học từ các trường kinh tế.

Báo chí kinh tế đa phần phục vụ đối tượng độc giả là các chuyên gia, các nhà

kinh tế am hiểu chuyên sâu về đời sống kinh tế nên người làm báo kinh tế

không vững vàng kiến thức sẽ cho ra những bài viết kiểu “ngô nghê” hay

“múa rìu qua mắt thợ”… Các nhà kinh tế, chuyên gia sẽ rất thích thú với các

bài viết khiến họ nhận thấy những điều mới mẻ trong đó hoặc đánh trúng vào

tâm lý của họ, vấn đề họ đang quan tâm. Đó có thể là bài viết phân tích sâu

sắc một yếu tố kinh tế, thị trường, một cách làm kinh tế hiệu quả, một vài

động thái tích cực của thị trường hoặc có khi chỉ là những bài viết về cá nhân,

doanh nghiệp làm kinh tế giỏi, thành công trong kinh doanh… với một vài

câu trúng tâm lý của đối tượng sẽ khiến họ cảm tình cả với nhà báo và tờ báo.

Ngược lại, những bài viết hời hợt, chỉ nói đến bề nổi của vấn đề - cái mà ai

cũng nhìn thấy chỉ nhằm tính chất thông báo thường ít giá trị với công chúng,

đặc biệt đối tượng là các nhà kinh tế, chuyên gia kinh tế.

Đó là một số đánh giá về ưu điểm và hạn chế của kỹ năng thu thập và

xử lý thông tin kinh tế của nhà báo.

Tóm lại, qua khảo sát thực trạng kỹ năng thu thập và xử lý thông tin

kinh tế của nhà báo, tác giả luận văn đưa ra kết luận như sau: Để thu thập

thông tin kinh tế, nhà báo sử dụng nhiều kỹ năng khác nhau, nhưng tập trung

vào bốn kỹ năng chính là kỹ năng giao tiếp, nghiên cứu tài liệu văn bản, quan

sát và phỏng vấn. Nhà báo có sự kết hợp hài hòa nhiều kỹ năng, như kỹ năng

giao tiếp thường gắn liền với kỹ năng phỏng vấn. Trong bốn kỹ năng thu thập

thông tin kinh tế thì kỹ năng phỏng vấn, giao tiếp và nghiên cứu tài liệu văn

91

bản được các nhà báo coi trọng hơn so với kỹ năng quan sát. Về kỹ năng xử

lý thông tin kinh tế thì kỹ năng kiểm tra độ chính xác, tính hợp lý của thông

tin được nhà báo chú ý nhiều nhất. Trong khi đó kỹ năng chuyển từ thuật ngữ

chuyên ngành kinh tế sang ngôn ngữ báo chí dễ hiểu lại mang tính khuyến

92

khích, không mang tính bắt buộc ở nhiều tờ báo kinh tế.

Tiểu kết chƣơng 2

Trong chương 2, tác giả tìm hiểu kỹ năng thu thập và xử lý thông tin

của đội ngũ nhân lực – các nhà báo kinh tế của Báo Đầu tư, Thời báo Kinh tế

Việt Nam, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Báo Quân đội nhân dân và một số báo

khác thông qua điều tra xã hội học bằng bảng hỏi anket và phỏng vấn sâu các

nhà báo chuyên về kinh tế cùng tổng biên tập, phó tổng biên tập ở các tờ báo

nói trên. Lấy khung lý thuyết ở chương 1 làm thước đo, từ đó, tác giả luận

văn thấy được đội ngũ phóng viên của các tờ báo có nhiều ưu điểm nhưng

cũng còn không ít hạn chế trong kỹ năng thu thập và xử lý thông tin kinh tế.

Ưu điểm lớn là các phóng viên đều được đào tạo chuyên ngành kinh tế, sử

dụng thành thạo ngoại ngữ, có kỹ năng giao tiếp, quan sát và phỏng vấn tốt,

sẵn sàng lắng nghe và thấu hiểu nguồn tin. Bên cạnh đó, một số nhà báo đang

coi nhẹ việc kiểm chứng và xác thực các nguồn tin, dẫn tới hậu quả thông tin

đưa lên mặt báo sai sự thật và ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín của báo chí đối

với nhân dân. Có phóng viên dùng quá nhiều thuật ngữ chuyên ngành mà

không giải thích cho người xem. Một số bài cho thấy trình độ hiểu biết và tác

nghiệp của nhà báo viết về đề tài kinh tế còn yếu. Chính vì điều đó, ở chương

3, tác giả luận văn xin đưa ra một số giải pháp và kiến nghị giúp việc thu thập

93

và xử lý thông tin kinh tế của nhà báo đạt hiệu quả cao hơn.

CHƢƠNG 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN NÂNG CAO KỸ

NĂNG THU THẬP VÀ XỬ LÝ THÔNG TIN KINH TẾ CỦA NHÀ BÁO

3.1. Một số giải pháp

3.1.1. Nâng cao kiến thức, tích luỹ kinh nghiệm và nghiệp vụ báo chí

Thứ nhất là nhà báo cần tự học hỏi thông qua đọc sách vở, tham khảo

trên mạng Internet… để nâng cao nghiệp vụ về thu thập và xử lý thông tin

kinh tế. Học đi liền với đọc, vốn kiến thức của nhân loại được tập hợp trong

sách vở, chính vì vậy người làm báo cần phải tự học bằng cách đọc sách báo,

vốn kiến thức toàn diện ấy chính là ở trong sách báo. Nghiệp vụ báo chí luôn

vận động phát triển và có thêm nhiều cái mới. Trước kia khi thu thập thông

tin, nhà báo có khi phải mang theo máy ghi âm to và bất tiện. Nhưng hiện nay

một chiếc điện thoại di động cũng có thể thay thể chức năng của máy ghi âm

hỗ trợ nhà báo trong quá trình thu thập thông tin. Với sự phát triển của công

nghệ thông tin, nhà báo cũng phải biết kỹ năng khai thác thông tin trên mạng

Internet nhất là mạng xã hội. Trả lời phỏng vấn sâu của tác giả luận văn, nhà

báo Chu Khôi (TBKTVN) cho biết có một nhóm các nhà báo chuyên viết về

nông nghiệp đã lập ra một group trên mạng xã hội Facebook để sẵn sàng chia

sẻ thông tin với nhau. Thông qua nhóm đó mà kỹ năng thu thập thông tin của

ông cũng nhanh và tốt hơn. Đối với các phóng viên không xuất thân từ trường

báo chí, kỹ năng về nghiệp vụ báo chí không được đào tạo từ trước nên khi

vào nghề có những hạn chế nhất định. Do đó để nâng cao nghiệp vụ của nhà

báo, cụ thể là nâng cao kỹ năng thu thập và xử lý thông tin được tốt hơn đòi

hỏi các nhà báo phải tự tìm hiểu thêm về nghiệp vụ báo chí như các kỹ năng

giao tiếp, phỏng vấn, kỹ năng kiểm tra độ chính xác, tính hợp lý của thông

tin… qua các sách chuyên ngành báo chí, tài liệu có liên quan hay trên mạng

94

Internet. Trả lời phỏng vấn sâu của tác giả luận văn, nhà báo Đỗ Mến của Báo

Đầu tư cho biết bên cạnh tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ do Toà soạn

tổ chức, bà còn tìm đọc thêm các sách nâng cao nghiệp vụ báo chí như cuốn

Hướng dẫn tìm kiếm trên Internet và viết báo của hãng Thông tấn AP hay

cuốn Nhà báo hiện đại của Khoa Báo chí Đại học Missori… Đây đều là

những cuốn cẩm nang dạy nghề bổ ích không chỉ cho các phóng viên trẻ mới

vào nghề mà cả với những nhà báo kinh nghiệm hay lãnh đạo các cơ quan báo

chí cũng sẽ rút ra được nhiều bài học thực tiễn quý báu.

Thứ hai là học hỏi qua đồng nghiệp. Mặc dù cơ bản các kỹ năng thu

thập thông tin (giao tiếp, phỏng vấn, nghiên cứu tài liệu văn bản, quan sát) và

kỹ năng xử lý thông tin được nhà báo vận dụng. Tuy nhiên, mỗi nhà báo lại

có cách thức thực hiện, ngón nghề khác nhau để thu thập và xử lý thông tin

kinh tế. Có nhà báo lại có bí quyết riêng để lấy được thông tin “độc quyền”

mà phóng viên khác không có. Bởi vậy, nhà báo cần có sự trao đổi nghiệp vụ,

kinh nghiệm thường xuyên với nhau để cùng nâng cao kỹ năng thu thập và xử

lí thông tin kinh tế. Trong khi trả lời phỏng vấn sâu tác giả luận văn, nhà báo

Đỗ Mạnh Hưng, chuyên viết về lĩnh vực kinh tế của Báo Quân đội nhân dân

có chia sẻ rằng ông đã học được từ đồng nghiệp của Báo Tuổi trẻ về kỹ năng

để thu thập thông tin kinh tế hiệu quả qua tình huống cụ thể sau. Ông cho biết

là khi họp Quốc hội xong, giờ giải lao, nhiều nhà báo cùng tìm đến phỏng vấn

một lãnh đạo cấp cao trong Chính phủ. Sau đó, vị lãnh đạo này xin phép đi vệ

sinh thì phóng viên của Báo Tuổi trẻ đã đeo bám quan chức trong Chính phủ

này để xin phỏng vấn nhanh riêng. Và kết quả là phóng viên của Báo Tuổi trẻ

đã có được thông tin kinh tế mà các phóng viên khác không có.

Thứ ba, nhà báo cần tự tham gia các lớp nâng cao nghiệp vụ báo chí.

Đối với các nhà báo, cần nhận thức việc học tập phải là một hoạt động thường

xuyên, học không bao giờ cùng thì mới có thể yêu thích, mong muốn đi học

các khóa đào tạo, bồi dưỡng về kỹ năng nghiệp vụ báo chí chứ không phải là

95

bị “bắt đi học”. Bản thân mỗi nhà báo, phóng viên nên dành thời gian để tham

gia các khoá học về kỹ năng thu thập và xử lý thông tin báo chí, nhất là về

lĩnh vực kinh tế, đặc biệt quan trọng hơn đối với các nhà báo không qua

đào tạo trong các trường báo chí. Nhà báo cần tự ý thức tham gia các lớp

nâng cao nghiệp vụ báo chí như các khoá bồi dưỡng về “Kỹ năng báo chí”,

“Khai thác thông tin trên Internet để tác nghiệp báo chí”, “Kỹ năng phỏng

vấn và đạo đức người làm báo”, “Bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ báo in”…

đặc biệt là các chương trình đào tạo liên quan đến kỹ năng thu thập và xử

lý thông tin kinh tế.

Bên cạnh đó, theo tác giả luận văn, để nâng cao kỹ năng thu thập thông

tin kinh tế, nhà báo cũng cần chú trọng đến khả năng giao tiếp. Nhà báo kinh

tế phải có kỹ năng giao tiếp tốt và có khả năng giữ liên lạc tốt. Bởi lẽ, viết về

kinh tế là tiếp xúc với những vấn đề khó khăn và phức tạp, tiếp xúc với nhiều

người ở nhiều ngành nghề kinh tế khác nhau, tiếp xúc với nhứng nhân vật

quan trọng. Sau những lần tiếp xúc, gặp mặt đó, nhà báo phải làm tốt công tác

“ngoại giao”. Giữ liên lạc với tất cả những người từng gặp, nhất là với những

nhân vật quan trọng , thậm chí là kết thân với những người có tiếng tăm trong

giới kinh doanh sẽ giúp nhà báo tiết kiệm thời gian liên hệ và tìm hiểu thông

tin cho những lần sau. Mặt khác, nhà báo kinh tế cũng phải giữ mối quan hệ

tốt với những nhân vật, đối tượng trong bài viết của mình. Quần chúng nhân

dân chính là nguồn thông tin phong phú nhất cung cấp đề tài cho nhà báo.

Điểm thứ 2, phải xây dựng mối quan hệ thân thiết với các chuyên gia

kinh tế, các VIP kinh tế, các bộ ngành và các đồng nghiệp làm báo khác. Tất

nhiên, xây dựng mối quan hệ ở đây không phải là cầu cạnh, xin xỏ hay nhờ

vả, mà kết thân ở đây cần hiểu theo tinh thần xây dựng kết thân với họ, cần

dựa trên các mối quan hệ bình đẳng, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau. Trong

mảng quốc tế, thì yếu tố xây dựng quan hệ cũng không kém phần quan trọng

so với mảng kinh tế. Tại các cuộc họp, hội nghị, nhóm tư vấn, các nhà tài trợ

96

cho Việt Nam, nếu không quen và thân họ (đặc biệt là các chuyên gia, các nhà

tài trợ nước ngoài như EU, ADB, WB...) sẽ rất khó khi tiếp cận và để phỏng

vấn họ những vấn đề mà mình mong muốn. Nhà báo không thể đến gặp ông

Lê Đăng Doanh, bà Phạm Chi Lan, ông Trần Thiên Kim, ông Kung Paul Man

hay Tom Cannon… khi không am hiểu gì về kinh tế. Họ không chỉ trả lời

phỏng vấn, mà họ sẽ chia sẻ với mình những điều họ nghĩ.

Kinh nghiệm của phóng viên Lê Hường là khi viết về doanh nghiệp nhà

nước thì chỉ khoảng một tháng sau bà sẽ hỏi lại xem tình hình có gì biến động

không. Hoặc khi có bất thường như cuộc họp của Ban Chỉ đạo Đổi mới về

việc Thủ tướng sẽ đẩy nhanh tiến độ, bà sẽ gọi lại cho nguồn tin ngay dù mới

được nửa tháng từ cuộc phỏng vấn gần nhất. Đối tượng được phỏng vấn cảm

thấy mình vẫn theo dõi vấn đề của người ta thì sẽ hỗ trợ mình tốt hơn. Tức là

thường xuyên tương tác và có các cuộc điện thoại gặp gỡ thì sẽ duy trì tốt

nguồn tin của mình.

Một kinh nghiệm nữa mà nhà báo Lê Hường chia sẻ là: Trong cuộc

phỏng vấn, khi người được phỏng vấn (đại diện cho cơ quan chức năng) tỏ ra

không hợp tác thì phóng viên có thể yêu cầu họ nói câu từ chối và ghi âm cả

câu từ chối này. Đó là phương thức đảm bảo chắc chắn nhất về mặt khách

quan cho cuộc phỏng vấn. Tuy nhiên, phần lớn trường hợp yêu cầu như vậy,

người được phỏng vấn sẽ tự nói thêm các thông tin mà phóng viên yêu cầu.

Khi tiến hành phỏng vấn sâu 10 nhà báo kinh tế và lãnh đạo cơ quan

báo chí , có nhiều ý kiến cho rằng họ chưa thật sự chú trọng đến việc chuyển

thuật ngữ chuyên ngành sang ngôn ngữ báo chí mà mới chỉ khuyến khích

phóng viên sử dụng kỹ năng đó. Tuy nhiên, thực tế công chúng của báo chí

trong đó có cả tầng lớp bình dân, chưa am hiểu sâu về kinh tế. Do đó tác giả

luận văn đề xuất rằng để nâng cao kỹ năng xử lý thông tin cho nhà báo kinh

tế, toà soạn cần quan tâm hơn đến việc chuyển từ thuật ngữ chuyên ngành

sang ngôn ngữ báo chí dễ hiểu. Vì việc thông tin dễ hiểu sẽ làm báo kinh tế

97

thu hút được thêm lượng người đọc là tầng lớp bình dân. Nếu nhà báo có thể

giải thích được một điều mà độc giả cảm thấy quan trọng nhưng khó hiểu thì

họ sẽ nghe một cách say sưa như khi nghe các câu chuyện của các phóng viên

viết tin về tội phạm hay những phóng viên đưa tin chính trị đầy bí ẩn. Trả lời

phỏng vấn sâu của tác giả luận văn, nhà báo Lan Hương cho biết đối tượng

độc giả chủ yếu của Thời báo Kinh tế Việt Nam là các doanh nhân, lãnh đạo

và chuyên viên cao cấp, các doanh nghiệp nhà nước, công ty kinh doanh. Các

nhà kinh tế sử dụng thuật ngữ bởi họ hiểu ý nhau. Nhưng đối với một độc giả

bình thường, thuật ngữ vừa khó hiểu lại vừa nhàm chán. Do vậy, tác giả luận

văn đề xuất các nhà báo nên chú trọng nhiều hơn đến việc diễn giải thuật ngữ

chuyên ngành kinh tế sang ngôn ngữ báo chí dễ hiểu, toà soạn không chỉ

khuyến khích mà cần có quy tắc, quy chế bắt buộc đối với phóng viên để

phóng viên có ý thức hơn trong xử lý thuật ngữ chuyên ngành.

Qua khảo sát tin bài, tác giả luận văn nhận thấy có không ít tin kinh tế

không có đánh giá, bình luận mà chỉ bê nguyên số liệu vào làm bài viết trở

nên phức tạp và buồn tẻ. Nhồi nhét quá nhiều con số ngay phần đầu của bài

báo thì chẳng khác nào làm nhụt chí hầu hết độc giả, khiến họ chẳng còn

hứng thú đọc tiếp. Nếu một người am hiểu về kinh tế, họ sẽ ghi nhớ những gì

bài báo mang lại. Song với một người bình thường thì những tin này thật khó

hiểu, nhàm chán. Thậm chí, có những đoạn chỉ một câu nhưng đã dẫn giải rất

nhiều số liệu. Đơn cử như trong bài viết “Chỉ số cạnh tranh về giao thông

tăng” của tác giả Đoàn Trần đăng số 238, ngày 5/10/2015, có câu “Trong 9

tháng năm 2015, lực lượng Cảnh sát giao thông toàn quốc đã kiểm tra hơn 3

triệu trường hợp vi phạm, thu trên 3.000 tỷ đồng, tạm giữ 29.560 xe ô tô và

377.420 môtô; tước 260.884 giấy phép lái xe”. Như vậy, chỉ trong một câu mà

tác giả đã đưa đến 5 số liệu. Điều đó khiến cho người đọc cảm thấy rối và khó

nhớ hết các số liệu. Cá nhân học viên mạnh dạn đề xuất nhà báo phải có cách

98

xử lý thông tin mới lạ hơn, hấp dẫn hơn nhưng vẫn thể hiện được đầy đủ các

số liệu. Cụ thể ngay trong cách sử dụng số liệu, nhà báo vẫn có thể làm nó trở

nên hấp dẫn bằng các cách sau [58]:

So sánh với những con số khác. Ví dụ: Nếu đề cập tới sự phát triển

kinh tế năm nay, thì nên so sánh với số liệu năm ngoái. Rồi so sánh cả hai con

số với nhiều năm. Tương tự đối với ngân sách. Tất cả các tin, bài viết về ngân

sách mới của một cơ quan thì nên so sánh nó với ngân sách năm ngoái. Cao

hơn hay thấp hơn và là bao nhiêu? Nếu là số liệu quý I thì so nó với quý I

năm ngoái. Tốt hơn là để những con số đó trong một bảng riêng.

Chỉ sử dụng những con số quan trọng nhất. Đồng thời, cần phải giải

thích lý do đằng sau sự thay đổi con số đó để nhấn mạnh ý nghĩa của bài viết:

Vì sao ngân sách năm nay cao hơn...

Đừng đưa quá 2 con số vào khổ đầu của bài. 2 con số cũng đã có thể là

quá nhiều. Hãy rải các con số khắp các phần của bài viết. Đừng dồn vào thành

một cụm. Hãy để các con số liên quan đến nhau ở gần nhau.

Hãy biến một vài con số thành bảng hoặc đồ thị để vẫn có thể cung cấp

cho độc giả toàn bộ thông tin và không làm ảnh hưởng đến luồng văn.

Một giải pháp nữa là, qua phỏng vấn sâu các nhà báo, tác giả luận văn

nhận thấy kỹ năng quan sát không được coi trọng trong quá trình thu thập

thông tin kinh tế. Để bài báo được hấp dẫn hơn, khi thu thập thông tin, tác giả

đề xuất nhà báo nên quan sát trực tiếp và có phần miêu tả chi tiết và ví dụ cụ

thể để minh hoạ cho ý trong bài. Phần miêu tả càng chi tiết, sống động càng

tốt. Ví dụ: Miêu tả sự phát triển kinh tế một công ty, một địa phương; nhà báo

không chỉ đưa ra số liệu mà hãy miêu tả lại những gì mình mắt thấy tai nghe

tại đó.

Đó là những đề xuất cuả tác giả về nâng cao nghiệp vụ báo chí của nhà

báo để kỹ năng thu thập và xử lý thông tin kinh tế được tốt hơn. Dưới đây, tác

99

giả sẽ đề cập đến giải pháp thứ hai.

3.1.2. Nâng cao kiến thức chuyên ngành kinh tế

Nhà báo muốn thu thập và xử lý thông tin kinh tế tốt cần phải có kiến

thức cơ bản và chuyên sâu về kinh tế. Do đó, nhà báo, trong đó có báo kinh tế

luôn phải cập nhật kiến thức về kinh tế. Bởi nền kinh tế luôn có biến động

từng ngày, từng giờ. Nhất là kinh tế trong nước. Hiện nay kinh tế nước ta

đang đi theo hướng cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế. Vì vậy, nó

đang đặt ra nhiều vấn đề phức tạp. Ở thời điểm hiện tại nền kinh tế nước ta

đang đối mặt với nhiều thách thức lớn, nhất là kinh tế vĩ mô mất ổn định, lạm

phát cao, thị trường chứng khoán suy giảm mạnh, thị trường bất động sản

đóng băng, tỷ giá, lãi suất biến động, dòng vốn FDI suy giảm và bộc lộ rõ

những yếu tố phức tạp như chuyển giá, gây ô nhiễm môi trường, sử dụng vốn

vay trong nước quá lớn… Trong bối cảnh đó, thông tin kinh tế càng chiếm tỷ

trọng ngày càng lớn trên tất cả các loại hình báo chí, kể cả báo in, báo hình,

báo nói và báo điện tử. Nó càng trở nên quan trọng và nhạy cảm. Để thực hiện

mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội,

đòi hỏi phải nâng cao chất lượng thông tin kinh tế. Vì vậy, để nâng cao chất

lượng báo chí đòi hỏi phải nâng cao chất lượng thông tin kinh tế trên báo chí

và để làm được điều đó, nhất thiết đội ngũ nhà báo viết về kinh tế luôn phải

cập nhật kiến thức.

Đội ngũ nhà báo viết về kinh tế phải có đủ năng lực để có thể phát hiện

vấn đề và xử lý thông tin chuẩn xác vì lợi ích chung của đất nước và của

cộng đồng doanh nghiệp. Các nhà báo và đặc biệt là những nhà báo viết về

kinh tế trước hết phải trang bị cho mình một hành trang với tri thức và vốn

sống phong phú. Ngoài ra, phóng viên kinh tế cũng cần phải có kiến thức

nền tảng về kinh tế và kiến thức chuyên sâu một mặt, một khía cạnh nào đó

mà mình đang viết. Chẳng hạn sẽ không thể viết về tổ chức thương mại thế

giới nếu chính họ không hiểu về WTO, quan hệ của Việt nam với tổ chức

100

này hay những lợi ích mà Việt nam có được khi gia nhập WTO. Hoặc viết

về ODA , nếu không hiểu cơ chế cho vay ODA các nước dành cho Việt nam

thế nào có lẽ cũng sẽ khó viết. Chẳng hạn, phóng viên viết cho Đầu tư chứng

khoán phải có kiến thức sâu về tài chính – chứng khoán – ngân hàng; phóng

viên viết cho tờ Đầu tư đòi hỏi phải có kiến thức kinh tế vĩ mô và các

chuyên ngành kinh tế như đầu tư, công nghiệp, xây dựng, thương mại;

phóng viên viết cho tờ VIR phải có kiến thức sâu về kinh tế đối ngoại, đầu

tư nước ngoài, hội nhập quốc tế.

Viết về kinh tế không có nghĩa là chỉ tìm hiểu về kinh tế. Tất cả các

mặt, các lĩnh vực đời sống xã hội đều có liên quan mật thiết đến nhau. Nhà

báo kinh tế phải tích lũy kiến thức của nhiều nghề nghiệp, nhiều chuyên

môn, nhiều lĩnh vực. Ví dụ bài viết về “hàng giả, hàng nhái”, tác giả cũng

cần có những kiến thức về thương nghiệp, luật pháp… Nói về một sự kiện

nhưng lại động chạm đến nhiều mặt xã hội. Chính vì thế mà nhà báo kinh tế

cần tích lũy cho mình vốn kiến thức rộng rãi. Nhà báo Hữu Thọ từng nói:

“Vấn đề nào bây giờ thì cũng là sự tổng hợp nhiều kiến thức của nhiều vấn

đề. Biết nhiều thì nghiên cứu vấn đề mới sâu sắc và viết bài thêm hay.

Người ta thường nói áo dài dễ mua là như vậy. Có kiến thức rộng thì xoay

xở thế nào cũng được”. [44, tr. 69]

Phóng viên, nhà báo phải được đào tạo bài bản, được học nghề viết báo

một cách chính quy. Việc nắm bắt được những kiến thức kinh tế từ cơ bản

đến đào sâu sẽ giúp cho các phóng viên kinh tế nhạy bén với thông tin, đề tài,

sự kiện, vấn đề kinh tế, từ đó bài viết sẽ trở nên sâu sắc hơn, chi tiết và cụ thể

hơn, hấp dẫn và thuyết phục hơn. Người không được học nghề báo có thể vẫn

phát hiện được những vấn đề, tình huống phức tạp nhưng khó có thể xử lý

thông tin một cách sắc sảo, hiệu quả và chuyên nghiệp. Nếu không bám sát sự

kiện, theo dõi sự kiện, các yếu tố thị trường, thông tin từ thị trường toàn cầu,

phóng viên sẽ bị “cũ”, lạc hậu và sai lệch khi viết bài. Kinh tế lại là một lĩnh

101

vực rất rộng, nên đối với các cơ quan báo chí kinh tế lại đòi hỏi phóng viên

phải có kiến thức kinh tế chuyên ngành. Một ví dụ rõ nét là khi viết về chứng

khoán, ngoài kiến thức nền người viết phải nắm được chỉ số giao dịch, các

biến động về chứng khoán trong ngày. Tất yếu bài viết phải lý giải được đằng

sau biến động ấy là “cái gì đang xảy ra?”, “Nó sẽ tác động đến thị trường

chứng khoán như thế nào” và liệu ta có thể “dự báo” cho những ngày tới.

Hoặc viết về bất động sản, người viết không chỉ phải nắm vững luật mà còn

phải cập nhật, có các nguồn tin mới và nóng để viết. Tóm lại đã làm báo kinh

tế thì bản thân người viết phải là những chuyên gia kinh tế, thực sự am hiểu

những lĩnh vực mà họ đang phụ trách.

Nếu hiểu vấn đề, nhà báo sẽ không chỉ viết với trách nhiệm mà còn viết

với niềm đam mê. Chính vì thế, bồi đắp thêm kiến thức cũng chính là nhà báo

đang tăng thêm niềm đam mê để có những bài viết đầy nhiệt huyết. Viết về

kinh tế không được hời hợt mà phải rõ ràng, dễ hiểu. Những điều này chỉ có thể

có khi người viết ra những bài báo đó nắm được các quy luật kinh tế cơ bản,

những kiến thức kinh tế chung nhất và hiểu sâu sắc về vấn đề mình đang viết.

Đầu tiên, một nhà báo kinh tế cần chú trọng các yếu tố sau: Về lý

thuyết, cấn nắm vững các nguyên lý trọng yếu có trong cuốn “Kinh tế vĩ mô”

và “Kinh tế vi mô”. Vì rằng, cái gì cũng cần có nền tảng, anh không thể có

những thông tin về chính sách về chủ trương mới, không thể chọn lọc những

thông tin đa chiều nếu không có cái gốc để so sánh. Ví dụ, cuốn kinh tế vĩ mô

sẽ giúp nhà báo kinh tế khái quát 4 vấn đề chính, 4 công cụ chính sách của

Nhà nước là: Chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, chính sách ngoại thương

và chính sách thu nhập.

Đối tượng của báo chí nói chung và báo kinh tế nói riêng rất rộng rãi,

bên cạnh những chuyên gia và tầng lớp có trình độ, học vấn cao thì còn có cả

những người dân lao động bình thường. Nhà báo kinh tế phải nắm bắt và hiểu

rõ những kiến thức chuyên sâu mình đang viết để có những tác phẩm hay,

102

chất lượng mà tất cả mọi đối tượng đều có thể hiểu.

Báo chí không chỉ thông tin mà còn phải làm nhiệm vụ định hướng.

Với một bài viết trên lĩnh vực báo chí, thông tin đưa ra còn phải dự đoán được

xu hướng phát triển của vấn đề trong tương lai (gần hoặc xa) và phải định

hướng phát triển phù hợp cho các đơn vị kinh tế. Nếu nhà báo không nắm bắt

được những vấn đề kinh tế cơ bản và không có óc nhanh nhạy thì không thể

nào làm tốt chức năng này.

Ví dụ thông tin về chất tạo nạc trong thịt lợn suốt thời gian qua đã

khiến toàn ngành chăn nuôi nghẹt thở, người tiêu dùng e dè, nông dân lỗ nặng

vì lợn mất giá, khó bán. Chính việc nhà báo không tìm hiểu kĩ vấn đề mà đã

đưa ra những thông tin thiếu kiểm chứng đã gây ra hậu quả nghiêm trọng này.

Vì vậy, các nhà báo viết về kinh tế cần phải thường xuyên trang bị kiến thức

và hiểu biết, tránh trường hợp viết bài trong trạng thái mơ hồ, thiếu hiểu biết,

thiếu kiểm chứng. Một sự sai lệch trong thông tin đưa ra có thể làm thiệt hại

đến quyền lợi của nhiều người, mà đôi khi là làm rối loạn cả xã hội. [34]

Nhà báo kinh tế cũng cần phải thường xuyên cập nhật những thông tin

kinh tế trong nước và quốc tế. Hàng ngày, hàng giờ luôn có những sự kiện

diễn ra mà nếu như nhà báo không kịp thời cập nhật thì sẽ tạo ra những lỗ

hổng trong kiến thức. Hiểu biết nhiều thì viết bài sẽ sâu rộng hơn.

Tri thức, vốn sống là yếu tố nền móng tạo nên sức mạnh cho nhà báo,

đặc biệt là phóng viên kinh tế. Nó chính là chỗ dựa để nhà báo phát huy khả

năng sáng tạo nghề nghiệp một cách có chất lượng và hiệu quả.

Nhà báo cũng nên tự trang bị kiến thức pháp luật về kinh tế để có thể

phán xét vấn đề đúng sai dựa trên cơ sở quy định của pháp luật.

Trong môi trường giao lưu quốc tế rộng rãi hiện nay, ngoại ngữ cần cho

tất cả các ngành nghề trong xã hội. Với nghề báo, đặc biệt là báo chí viết về

kinh tế thì yếu tố yếu tố này càng quan trọng. Ngoại ngữ là công cụ quan trọng

để giúp cho các nhà báo kinh tế có thể dễ dàng tiếp cận thông tin, dễ dàng tìm

103

kiếm tài liệu và dễ dàng hành nghề. Trong môi trường kinh tế toàn cầu hóa,

việc sử dụng ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh để làm tên gọi cho các khái niệm

kinh tế đang dần trở nên phổ biến. Mặt khác, có rất nhiều tài liệu, bài báo nước

ngoài chứa nhứng nội dung quan trọng mà nhà báo kinh tế có thể thông qua đó

mà xây dựng những tác phẩm chất lượng. Nếu trình độ ngoại ngữ kém thì

không thể làm được điều này. Cùng với xu thế khu vực hóa mạnh mẽ, ngoài

những ngoại ngữ thông dụng như tiếng Anh, tiếng Pháp, các thứ tiếng khác

trong khu vực cũng sẽ là một lợi thế rất lớn cho nhà báo khi tác nghiệp.

Để nâng cao kiến thức, một con đường phóng viên nên đi theo là học

tập để nâng cao kiến thức về kinh tế và kinh tế chuyên ngành. Đặc biệt, đối

với phóng viên tốt nghiệp ngành báo chí cần được khuyến khích học văn bằng

2 về kinh tế, hoặc tham gia các khóa đào tạo về kinh tế. Con đường thứ hai là

học hỏi đồng nghiệp trong cùng Tòa soạn và đồng nghiệp ở các báo khác từ

việc phát hiện đề tài đến việc thu thập, xử lý thông tin kinh tế. Đồng thời,

thường xuyên tự rút kinh nghiệm để hoàn thiện kiến thức kinh tế qua từng bài

viết sau khi được biên tập viên, lãnh đạo Ban và lãnh đạo Ban Biên tập chỉnh

sửa các bài viết của mình.

Vậy kiến thức về kinh tế chuyên sâu giúp kỹ năng về thu thập và xử lý

thông tin kinh tế của nhà báo tốt hơn thế nào?

Nhờ có hiểu biết sâu thì khi giao tiếp, phỏng vấn với nguồn tin, nhất là

các chuyên gia thì nhà báo tự tin hơn khi đối diện với bất kỳ vấn đề nào trong

cuộc sống. Trả lời phỏng vấn sâu của tác giả luận văn, nhà báo Lê Hường

(TBKTVN) chia sẻ một kinh nghiệm trong giao tiếp của mình, hồi mới vào

nghề, khi chưa có kinh nghiệm, bà cảm thấy không tự tin về bản thân, nhất là

lĩnh vực kinh tế có quá nhiều kiến thức vượt tầm, đòi hỏi va chạm nhiều mới

nắm được. Trong lần phỏng vấn chuyên gia đầu tiên, dù đã nắm chắc vấn đề

nhưng bà vẫn bị ngợp ngay từ đầu. Bà lí giải sự bối rối là do chưa đủ tự tin

vào kiến thức của mình khi giao tiếp với nguồn tin. Kiểm tra lại bà đã hiểu

104

được vấn đề. Sau này nguồn tin có hỏi lại, bà sẽ trả lời là do công việc của

nhà báo là phải truyền tải cho những người không biết, bà phải hiểu kĩ thì mới

viết tốt được.

Cũng nhờ có kiến thức sâu và am hiểu về kinh tế nên nhà báo dễ gây

được ấn tượng với nguồn tin, gây được thiện cảm và sự tin tưởng của nguồn

tin vì thế nguồn tin dễ chia sẻ thông tin cho nhà báo. Trả lời phỏng vấn sâu

của tác giả luận văn, nhà báo Phan Chiến Thắng – Trưởng Văn phòng đại

diện TBKTSG tại Hà Nội đã nhấn mạnh kinh nghiệm rằng: Để có được thiện

cảm và sẵn sàng chia sẻ thông tin từ nguồn tin, nhà báo cần phải có sự hiểu

biết về kinh tế. Bởi khi nói chuyện thấy nhà báo am hiểu vấn đề đang trao đổi

thì nguồn tin sẽ có cảm hứng để tiếp tục câu chuyện. Thậm chí có thể chia sẻ

những thông tin mang tính chất riêng tư. Nếu nhà báo không có kiến thức về

kinh tế, khi tiếp xúc nguồn tin cứ phải giải thích liên tục với nhà báo về những

vấn đề đang trao đổi, họ sẽ cảm thấy nhàm chán, không muốn tiếp tục câu

chuyện nữa. Việc thu thập thông tin của nhà báo sẽ trở nên khó khăn hơn. Khi

có kiến thức về kinh tế, nhà báo cũng dễ dàng phát hiện ra được thông tin mới

lạ, đặc sắc. Như thế là kiến thức chuyên sâu về kinh tế sẽ giúp kỹ năng thu

thập thông tin kinh tế của nhà báo được hiệu quả hơn.

Về kỹ năng xử lý thông tin kinh tế, nhà báo khi có kiến thức nền tảng

và chuyên sâu về kinh tế thì sẽ nhanh chóng hiểu được những thông tin kinh

tế mà nguồn tin cung cấp và cũng biết cách chọn lọc, sắp xếp các thông tin

theo chủ đề và lĩnh vực nhất định.

Đồng thời vì cũng hiểu biết về kinh tế nên nhà báo khi xử lý thông tin

kinh tế cũng dễ dàng diễn giải thông tin kinh tế để độc giả hiểu được vấn đề.

Nếu nhà báo thiếu kiến thức về kinh tế thì việc xử lý, lựa chọn, sắp xếp và

diễn giải thông tin kinh tế cho phù hợp với đề tài và giúp công chúng dễ hiểu

sẽ có sự bỡ ngỡ, khó khăn nhất định.

Từ đó, tác giả luận văn cho rằng để nâng cao kỹ năng thu thập và xử lý

105

thông tin kinh tế thì một giải pháp quan trọng nhất là nhà báo phải trang bị

kiến thức nền và chuyên sâu về kinh tế. Đặc biệt, đối với nhà báo mà không

được đào tạo bài bản từ các trường kinh tế thì cần phải có ý thức trang bị kiến

thức về kinh tế và không ngừng bổ sung thêm bằng cách tự tìm tòi, học hỏi và

tham gia các lớp học về kinh tế.

3.1.3. Nâng cao trách nhiệm xã hội của người làm báo

Trong phần giải pháp về trách nhiệm xã hội của người làm báo, tác giả

luận văn muốn nhấn mạnh nhà báo phải đề cao ý thức, trách nhiệm xã hội của

mình. Đó là nói lên sự thật với tinh thần khách quan, chân thực. Nhà báo

chuyên viết về lĩnh vực kinh tế thường tiếp xúc nhiều đối tượng có liên quan

trực tiếp đến kinh tế, tiền bạc như doanh nghiệp, lãnh đạo các tập đoàn kinh

tế. Bởi vậy, nhà báo cũng dễ gặp phải sự cám dỗ về tiền bạc, nhất là khi tiến

hành thu thập và xử lý thông tin kinh tế cho các bài điều tra thì có hiện tượng

nhà báo sẽ được đối tượng đưa tiền để làm sai lệch thông tin từ bất lợi thành

có lợi hoặc nhà báo cũng có thể được các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đề

nghị viết bài theo hợp đồng kinh tế nhằm PR. Như vậy việc thu thập và xử lý

thông tin sẽ bị ảnh hưởng theo. Ví dụ khi đã nhận tiền theo hợp đồng kinh tế

nhà báo sẽ ít coi trọng vấn đề kiểm tra độ chính xác của thông tin khi nguồn

tin cung cấp mà phải viết theo ý muốn của đối tượng đưa tiền. Từ đó khẳng

định để nâng cao kỹ năng thu thập và xử lý thông tin kinh tế, nhà báo phải đề

cao trách nhiệm, đạo đức của nhà báo là nói lên sự thật, khách quan, trung

thực. Nhà báo không vì đặt nặng vấn đề tiền bạc mà bẻ cong ngòi bút. Nhà

báo luôn phải có ý thức mình là người nói lên sự thật mang lại niềm tin cho

công chúng.

Người làm báo có trách nhiệm rất nặng nề đối với xã hội và con người

trong đưa tin vì báo chí tạo ra dư luận xã hội và đưa sự kiện, con người ra

trước sự phán xét của xã hội. Đã là nhà báo thì trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ

công dân phải đi đôi với nhau. Mặc dù bây giờ làm báo thuận lợi hơn thời

106

trước, mọi thông tin dễ dàng tra cứu trên mạng, do vậy nhà báo càng cần phải

tỉnh táo và sáng suốt trong việc xử lý thông tin, đặc biệt không được đưa

những thông tin chộp giật, thiếu tính xây dựng. Nhà báo phải luôn thận trọng

khi tiếp cận những thông tin chúng ta nhận được: những thông tin này từ đâu

tới, nguồn cung cấp thông tin có những lợi ích gì,… Bản thân nhà báo cần nói

chuyện thêm với nhiều người khác, đặc biệt là các chuyên gia kinh tế để xác

nhận độ chính xác của thông tin.

Thực tế cho thấy, một bài báo viết về một cá nhân với dụng ý không

trong sáng, cố tình phản ảnh sai lệch thực tế sẽ có ảnh hưởng ghê gớm đối với

tư tưởng, tình cảm, danh dự, nhân phẩm, giá trị của họ. Một bài báo viết về

một doanh nghiệp kinh tế với động cơ xấu, tìm mọi cách moi móc có thể làm

cho doanh nghiệp lao đao trên thị trường, uy tín và thương hiệu của họ bị

giảm sút. Những năm gần đây, trên một số tờ báo thỉnh thoảng xuất hiện

những thông tin “sốt” như [45, tr. 81]: Ăn vải thiều Lục Ngạn bị ngộ độc; ăn

bưởi Năm Roi bị ung thư vú; rau xà lách “siêu tăng trưởng” vô cùng nguy hại;

“công nghệ” tẩy trứng gà Trung Quốc thành trứng gà ta… đã ảnh hưởng

nghiêm trọng đến đời sống, sản xuất, tiêu thụ sản phẩm của người nông dân

và tâm lý của người tiêu dùng.

Từ ví dụ trên chúng ta có thể hiểu rằng nhà báo thông tin sai sự thật

không chỉ làm mất niềm tin đối với công chúng mà còn có thể làm mất niềm

tin của chính nguồn tin cung cấp thông tin cho nhà báo. Khi nhà báo muốn

tiếp tục khai thác thông tin, trong đó có thông tin kinh tế thì sẽ gặp rất nhiều

khó khăn bởi nguồn tin né tránh hoặc từ chối tiếp xúc vì không còn tin tưởng

nữa.

Kinh tế là một lĩnh vực có nhiều điều tế nhị nếu như không muốn nói là

nhiều cám dỗ. Nhà báo khi hoạt động trong lĩnh vực này luôn luôn phải tỉnh

táo nhìn nhận vấn đề, luôn vững vàng lập trường, giữ thái độ khách quan và

công tâm trong quá trình thu thập, xử lý thông tin. Nhà báo kinh tế không

107

được vì lợi nhuận hoặc vì những mục đích cá nhân nào đó mà chỉ chú ý đến

việc khai thác những thông tin để tô hồng hay bôi đen vấn đề. Nhà báo kinh tế

cũng cần biết cách khai thác như thế nào và dừng lại ở đâu, cần phải cân nhắc

giữa cái mình thích với cái xã hội cần, cái mình muốn với cái mình không nên

làm và không được làm.

Có nhiều nhà báo vì đồng tiền mà đã đi trái lại lương tâm, vi phạm luật

pháp và đạo đức nghề nghiệp. Chúng ta đã từng biết đến những vụ việc lợi

dụng danh nghĩa của nhà báo để tống tiền như hồi tháng 6/2009, hai nhà báo

của Báo Hợp tác Việt đã chủ động tìm gặp giám đốc công ty, đòi chi 500 triệu

đồng thì sẽ không phản ánh những sai phạm của công ty. Những hành vi sai

trái này đã bị phát hiện và xử lý, nhưng nó đã báo động cho tình trạng suy

thoái đạo đức nghề nghiệp trong một bộ phận lớn các nhà báo, nhất là những

nhà báo viết về kinh tế. Hay như vụ nhà báo Hà Phan – nguyên Phó tổng thư

ký Toà soạn Báo Tiền phong, trong quá trình thu thập thông tin vào tháng

9/2010, khi biết tình hình thực hiện dự án kinh tế của các công ty thành viên

Tập đoàn Đầu tư Sài Gòn gặp khó khăn thì đã đến gặp bà Nguyễn Cẩm

Phương (Giám đốc Truyền thông của tập đoàn) yêu cầu được "bồi dưỡng" để

không viết bài gây bất lợi cho họ.

Như vậy, cũng như những nhà báo viết về các lĩnh vực khác thì nhà báo

kinh tế phải có lương tâm nghề nghiệp, có đạo đức của một người hoạt động

báo chí. Có khi, sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm, sự nhận xét vội vàng, những định

kiến và suy diễn chủ quan của nhà báo lại là thứ thuốc độc làm hại chính nhân

vật trong bài viết. Cần chân thật và không đánh cắp tin của các phương tiện

truyền thông khác.

Bên cạnh trách nhiệm nói lên sự thật, để thu thập được những thông tin

kinh tế nhất là những thông tin hay và độc đáo, nhà báo cần phải có bản lĩnh

vượt qua những gian khổ, đôi khi cả là sự đe doạ. Nghề báo là vinh quang

nhưng cũng là “chiến tranh” khốc liệt và đầy cám dỗ. Bởi vậy, nghề báo, ở

108

một góc độ nào đấy chẳng khác gì một cái lò lửa rèn luyện bản lĩnh, trí tuệ

con người. Sống trong lò lửa ấy và không bị lò lửa ấy thiêu cháy mình – đó là

khát vọng mà bất cứ nhà báo chân chính nào cũng hướng tới, và cũng quyết

thực hiện bằng mọi giá. Muốn thực hiện những điều đó, trước hết, các nhà

báo kinh tế cần phải có niềm đam mê nghề nghiệp. Nhà báo Nguyễn Thiêm,

Báo An ninh thế giới chia sẻ: “Đã chọn con đường chông gai thì chấp nhận

đau thương là chuyện thường tình. Điều quan trọng là trong bất kỳ tình huống

nào thì bản thân người viết cũng phải giữ được bản lĩnh của mình, đừng để

những tác động xung quanh làm ảnh hưởng đến tinh thần và nhụt chí. Đôi lúc

sức ép, sự vất vả, va chạm… lại trở thành chất xúc tác để bản thân người viết

điều tra rèn luyện và nâng cao bản lĩnh của mình!” [44, tr. 58].

Nghề báo là một trong những nghề được nhiều người trong xã hội quý

trọng, vị nể. Nhưng sự quý trọng, vị nể đó chỉ dành cho những người làm việc

với động cơ lành mạnh, thái độ nghiêm túc, tấm lòng trong sáng, không vụ lợi

hay đòi hỏi người khác và công chúng phải “phục vụ” mình chu đáo, cầu

toàn. Nói như nhà báo Tạ Ngọc Tấn: “Bất cứ một sai lầm nào của một nhà

báo đều có thể ảnh hưởng đến uy tín, danh dự nghề nghiệp của chính mình,

cũng như của cả giới báo chí. Vì thế, hành nghề một cách có lương tâm, giữ

gìn danh dự và bản lĩnh nghề nghiệp là yêu cầu lớn nhất về đạo đức với người

làm báo” [1, tr. 17]. Hơn ai hết, những nhà báo viết về lĩnh vực kinh tế cần ý

thức rõ điều này để hoạt động đúng với lương tâm nghề nghiệp của mình.

Tóm lại, trong giải pháp này, tác giả luận văn cho rằng để có được niềm

tin với công chúng, nhà báo cần đề cao trách nhiệm xã hội, cụ thể là nói lên

sự thật với tinh thần khách quan, trung thực và có đủ bản lĩnh để vượt qua

những gian khổ, thử thách, sự nguy hiểm nhằm thu thập thông tin kinh tế nói

chung và thông tin kinh tế nói riêng. Khi có được niềm tin của công chúng

cũng như nguồn tin thì việc thu thập thông tin của nhà báo sẽ thuận lợi hơn,

109

nguồn tin cũng dễ dàng chia sẻ thông tin cho nhà báo.

3.1.4. Minh bạch hoá thông tin

Thực tế trong hoạt động thu thập thông tin kinh tế của nhà báo đã gặp

rất nhiều khó khăn, thậm chí né tránh, cản trở từ các cơ quan chức năng nhà

nước, doanh nghiệp. Do đó, trong giải pháp này, tác giả luận văn nhận thấy để

việc thu thập và xử lý thông tin kinh tế của nhà báo được thuận lợi hơn thì cần

phải có sự minh bạch hoá thông tin và tiếp cận thông tin từ các cơ quan nhà

nước, các tổ chức dễ dàng hơn.

Chúng ta đã nhận được nhiều bài học đắt giá trong thực tiễn khi các

thông tin kinh tế nhất là những thông tin nóng hổi, bức xúc mà dư luận quan

tâm nhưng lại bị bưng bít. Thông tin không được minh bạch hoá sẽ dẫn đến

nhiều tác hại nghiêm trọng. Nhà báo khó có thể thu thập thông tin nếu các cơ

quan nhà nước, các tổ chức doanh nghiệp cứ giấu diếm thông tin. Có thể ví dụ

cụ thể như thảm hoạ cá chết ở các tỉnh miền Trung Việt Nam. Trong khi

người dân và dư luận đang có nhu cầu cấp thiết về nguyên nhân cá chết. Thế

nhưng trong suốt nhiều tháng qua trên các phương tiện truyền thông đại

chúng không hề có thông tin này. Điều đó có thể dẫn đến sự nguy hiểm là tạo

ra một luồng dư luận có tâm lý nghi ngờ về sự che đậy của các cơ quan chức

năng về nguồn thông tin này. Cũng vì không biết được nguyên nhân cá chết

nên dẫn đến tình trạng ngư dân đi đánh bắt về, tuy cá không chết, nhưng

không có ai mua bởi họ sợ cá bị ô nhiễm. Thậm chí ở Quảng Bình người dân

phản ứng dữ dội, đổ cá ra đường, dựng lều ngay tại đường quốc lộ đòi câu trả

lời từ phía các cơ quan chức năng. Ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã

xảy ra nhiều cuộc biểu tình để tìm ra nguyên nhân cá chết hàng loạt. Tình

trạng trên đã tạo ra sự bất ổn nhất định trong xã hội. Thế nhưng, phải sau 3

tháng, đến ngày 30/6/2016 Chính phủ mới công bố nguyên nhân hải sản chết

hàng loạt ở bốn tỉnh miền Trung. Theo đó, Công ty TNHH Gang thép Hưng

Nghiệp (Formosa Hà Tĩnh) chính là thủ phạm. Thời hạn 3 tháng cơ quan chức

110

năng mới có thể xác định và công bố thông tin là quá chậm. Như vậy có thể

thấy tác hại của việc chưa cung cấp thông tin kịp thời là như thế nào. Rõ ràng

không phải nhà báo yếu kém về kỹ năng thu thập thông tin mà vấn đề ở đây là

các cơ quan nhà nước, cơ quan chức năng có thẩm quyền đã không chủ động

cung cấp thông tin, không minh bạch hoá thông tin về nguyên nhân đó. Việc

tiếp cận thông tin, trong đó có thông tin kinh tế không được thuận lợi.

Đối với doanh nghiệp, cơ quan kinh tế nhà nước, với những thông tin

kinh tế bất lợi thường tìm cách giấu diếm thông tin. Càng giấu diếm thì càng

gây ra nhiều tác hại. Bài học điển hình nhất là Công ty Vedan xả chất thải ra

sông Thị Vải (Đồng Nai) và bị báo chí phanh phui. Nếu Vedan hay các nhà

máy khác chủ động cung cấp thông tin để người dân hiểu hơn thì công chúng

đã không phẫn nộ như vậy. Minh bạch hoá thông tin kể cả những thông tin bất

lợi không phải giết chết doanh nghiệp đó mà để cho báo chí có thông tin. Khi

đó công chúng sẽ có thông tin, sẽ hiểu hơn vấn đề, sẵn sàng thông cảm cho

những sai trái đó.

Vì vậy, khi công chúng đang cần thông tin, nhất là thông tin kinh tế dư

luận đang hết sức quan tâm mà thông tin đó không phải là bí mật quốc gia thì

nên minh bạch hoá thông tin càng nhanh càng tốt. Tác giả luận văn cho rằng

một giải pháp quan trọng để việc thu thập và xử lý thông tin kinh tế của nhà

báo hiệu quả hơn, các cơ quan chức năng của nhà nước phải cung cấp thông

tin chính thống, kịp thời, chính xác, minh bạch cho các cơ quan báo chí và

nhà báo.

Trả lời phỏng vấn sâu của tác giả luận văn, các phóng viên cũng đánh

giá minh bạch hoá thông tin là giải pháp quan trọng nhất để nâng cao kỹ năng

thu thập và xử lý thông tin của nhà báo. Cũng theo kết quả điều tra xã hội học

với 294 nhà báo kinh tế về giải pháp nâng cao kỹ năng thu thập và xử lý

thông tin kinh tế của nhà báo, tác giả nhận thấy có đến 76.2% ý kiến khẳng

định cần phải minh bạch hoá thông tin; 71.4% ý kiến cho là rằng các cơ quan

111

nhà nước nên tạo điều kiện để nhà báo dễ dàng tiếp cận thông tin hơn; 61.9%

ý kiến đồng ý với giải pháp thường xuyên mở các lớp nâng cao nghiệp vụ báo

chí và kiến thức chuyên ngành kinh tế; chỉ có 38.1% ý kiến đề xuất tăng

lương, thưởng cho nhà báo; và 9.5% ý kiến khác.

Biểu đồ 3.1: Các giải pháp để nâng cao kỹ năng thu thập và xử lý thông tin

kinh tế của nhà báo (người trả lời chọn nhiều đáp án)

Như vậy, tác giả có thể khẳng định là minh bạch hoá thông tin là một

trong những giải pháp hàng đầu giúp nhà báo nâng cao kỹ năng thu thập

thông tin kinh tế. Để nguồn tin cởi mở hơn giúp nhà báo thu thập thông tin tốt

hơn thì chủ thể nguồn tin phải có ý thức trách nhiệm nhưng quan trọng nhất là

các cơ quan nhà nước phải có luật hoá về minh bạch thông tin trong đó có

thông tin về kinh tế.

Một giải pháp nữa có thể đưa ra trong luận văn, tác giả kiến nghị các

cơ quan chức năng của nhà nước, các doanh nghiệp nên tạo điều kiện thuận

lợi cho nhà báo tiếp cận thông tin dễ dàng hơn. Thời gian qua, Chính phủ đã

ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm đảm bảo quyền tiếp cận thông tin

của báo chí. Theo nghiên cứu “Báo chí với quyền tiếp cận thông tin” do

nhóm nghiên cứu Sài Gòn Truyền thông thực hiện theo đơn đặt hàng của

112

Ngân hàng Thế giới công bố tại buổi Tọa đàm diễn ra ngày 22-4-2015 tại Hà

Nội thì có gần 50/330 Luật, Pháp lệnh có nội dung liên quan đến quyền tiếp

cận thông tin. Gần đây nhất, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quy chế

phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí vào ngày 4-5-2013.

Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin báo chí đã quy định rõ trách

nhiệm các cơ quan Chính phủ trong việc cung cấp thông tin cho báo chí. Theo

quy chế này, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ chủ trì, phối hợp

với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức cung cấp thông tin cho báo chí theo

định kỳ 1 tháng 1 lần về hoạt động và công tác chỉ đạo, điều hành của Chính

phủ, Thủ tướng Chính phủ bằng hình thức họp báo và đăng tải trên Cổng

Thông tin điện tử Chính phủ.

Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức cung cấp thông tin định kỳ cho báo

chí về hoạt động của cơ quan mình, về lĩnh vực, địa bàn thuộc phạm vi quản

lý của mình thông qua các hình thức như: Hằng tháng cung cấp thông tin định

kỳ cho báo chí và cập nhật thông tin trên Cổng thông tin điện tử hoặc trang tin

điện tử của cơ quan mình; Ít nhất 3 tháng một lần tổ chức họp báo để cung

cấp thông tin định kỳ cho báo chí; Cung cấp thông tin kịp thời, chính xác cho

Cổng Thông tin điện tử Chính phủ theo quy định hiện hành.

Trường hợp cần thiết, cơ quan hành chính Nhà nước tổ chức cung cấp

thông tin định kỳ cho báo chí bằng văn bản hoặc thông tin trực tiếp tại cuộc

giao ban hàng tuần do Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền

thông và Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức.

Đồng thời, Quy chế cũng nêu rõ, Người phát ngôn hoặc Người được ủy

quyền phát ngôn có trách nhiệm phát ngôn và cung cấp thông tin kịp thời,

chính xác cho báo chí trong 3 trường hợp đột xuất bất thường [Quyết định]:

1- Khi thấy cần thiết phải thông tin trên báo chí về các sự kiện, vấn đề

quan trọng có tác động lớn trong xã hội thuộc phạm vi quản lý của cơ quan

113

hành chính Nhà nước nhằm cảnh báo kịp thời và định hướng dư luận.

Trường hợp xảy ra vụ việc cần ngay thông tin ban đầu của cơ quan hành

chính Nhà nước thì Người phát ngôn hoặc Người được ủy quyền phát ngôn có

trách nhiệm chủ động phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí trong thời

hạn chậm nhất là 1 ngày, kể từ khi vụ việc xảy ra.

2- Khi cơ quan báo chí hoặc cơ quan chỉ đạo, quản lý Nhà nước về báo

chí có yêu cầu phát ngôn hoặc cung cấp thông tin về các sự kiện, vấn đề của

cơ quan, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của cơ quan đã được nêu trên báo chí

hoặc về các sự kiện, vấn đề nêu trên.

3- Khi có căn cứ cho rằng báo chí đăng tải thông tin sai sự thật về lĩnh

vực, địa bàn do cơ quan mình quản lý, Người phát ngôn hoặc Người được ủy

quyền phát ngôn yêu cầu cơ quan báo chí đó phải đăng tải ý kiến phản hồi, cải

chính theo quy định của pháp luật.

Cơ quan báo chí, nhà báo có trách nhiệm đăng, phát, phản ánh trung

thực nội dung phát ngôn và thông tin do Người phát ngôn, Người được ủy

quyền phát ngôn cung cấp, đồng thời phải ghi rõ họ tên Người phát ngôn hoặc

Người được ủy quyền phát ngôn.

Mặc dù đã có rất nhiều văn bản pháp luật quy định quyền tiếp cận

thông tin của báo chí. Nhưng thực thế, báo chí vẫn gặp khó khăn trong việc

tiếp cận thông tin từ các cơ quan nhà nước. Nhiều cơ quan nhà nước tìm

cách né tránh, thậm chí từ chối cung cấp thông tin cho báo chí. Thực tế nhà

báo vẫn khó tiếp cận được thông tin báo chí nói chung, trong đó có thông

tin kinh tế.

Ông Đỗ Quý Doãn, nguyên Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông

cũng đã từng nhấn mạng đến việc báo chí gặp khó khăn khi tiếp cận thông tin

từ các cơ quan nhà nước. “Báo chí tiếp cận các nguồn thông tin vô cùng khó

khăn, các cơ quan hành chính nhà nước tổ chức cung cấp thông tin cho báo

114

chí không thường xuyên, không đầy đủ” [8, tr. 264, 265].

Một vấn đề cần quan tâm và có biện pháp giải quyết là tình trạng nhiều

cơ quan nhà nước đã dựa vào Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho

báo chí để trì hoãn, né tránh báo chí với lý do người phát ngôn đi vắng hoặc

bận công việc. Thậm chí có tình trạng, có cơ quan nhà nước còn gây khó dễ

khi nhà báo tác nghiệp. “Trong số 384 nhà báo được hỏi có tới 327 (tỷ lệ

85%) từng bị cản trở tác nghiệp trong thực tế. Kết quả nghiên cứu cũng cho

thấy phóng viên, nhà báo bị cản trở tác nghiệp bởi cán bộ, nhân viên nhà

nước. Cụ thể có 287 nhà báo được hỏi trong số 384 nhà báo trả lời từng bị cán

bộ, nhân viên cơ quan nhà nước cản trở” [27, tr. 31].

Còn theo nhóm nghiên cứu Sài Gòn Truyền thông đưa ra vấn đề đáng

lo ngại là gần đây nổi lên xu hướng cản trở quyền tiếp cận thông tin của báo

chí từ cơ quan nhà nước. Theo đó, một là hiện tượng lạm dụng dấu mật đã trở

nên phổ biến trong các văn bản hành chính. Pháp luật đã trao cho các cơ quan

Nhà nước quá nhiều thẩm quyền để bưng bít thông tin.

Hai là sự phát triển các rào cản kỹ thuật. Sau khi có quy chế phát ngôn,

cung cấp thông tin, thì các nhà báo đều kêu là khó tiếp cận thông tin hơn

trước. Hầu hết các cơ quan Nhà nước đều thành thục trong việc dựng nên rào

cản kỹ thuật để ngăn chặn thông tin. “Có đến 47,06% ghi nhận tình trạng này

là phổ biến; 23,53% cho rằng tình trạng này rất phổ biến” [15].

Mối lo ngại thường xuyên của nhà báo, phóng viên không chỉ là khó

tiếp cận thông tin mà còn là sau khi lấy thông tin về lại không đăng được vì lý

do nhạy cảm. Gần đây, có tình trạng các quan chức năng khá tùy tiện trong

việc xác định thông tin nào là nhạy cảm.

Như vậy, việc tiếp cận thông tin của báo chí từ các cơ quan nhà nước

không dễ dàng, thuận lợi. Ngay cả khi các cơ quan nhà nước cung cấp thông

tin cho báo chí thì chất lượng thông tin chưa hẳn đã tốt để các cơ quan báo chí

có thể sử dụng được. Nhiều thông tin mà các cơ quan nhà nước cung cấp còn

115

chung chung, chưa cụ thể, trúng trọng tâm vấn đề mà báo chí và công chúng

quan tâm. Trong số 48 nhà báo được hỏi về chất lượng thông tin từ các cơ

quan nhà nước cung cấp cho báo chí thì có đến 54% cho rằng thông tin không

tốt, không thể sử dụng và có tới 56,2% là thông tin chung chung. [27, tr. 37].

Đáng lo ngại hơn là có khi cơ quan nhà nước cung cấp thông tin còn

sai, đánh lạc hướng dư luận. Đơn cử như vụ việc cưỡng chế đất của ông Đoàn

Văn Vươn ở Hải Phòng. Lúc đầu, nhà báo được cung cấp thông tin ông Đoàn

Văn Vươn là côn đồ, sau này, thực tế lại không phải như vậy.

Tác giả luận văn mạnh dạn đề xuất Chính phủ nên có chế tài để các cơ

quan không lợi dụng vào quy chế phát ngôn kéo dài việc cung cấp thông tin,

ngăn cản, gây khó khăn cho nhà báo trong việc tiếp cận thông tin trong đó có

thông tin kinh tế của nhà báo.

3.2. Một số kiến nghị

3.2.1. Đối với cơ quan báo chí

Đầu tiên đội ngũ lãnh đạo không chỉ giỏi về quản lý mà còn phải thông

hiểu về nghiệp vụ báo chí, kiến thức kinh tế. Lãnh đạo có năng lực, phẩm chất

sẽ nhìn ra những hạn chế và khuyết điểm trong kỹ năng thu thập và xử lý

thông tin kinh tế của nhà báo. Từ đó có những ý kiến đóng góp và trao đổi để

nâng cao kỹ năng nghề nghiệp của nhà báo. Cán bộ lãnh đạo quản lý cấp ban

biên tập và các phòng, ban nội dung phải có khả năng định hướng và chỉ đạo

đề tài chính yếu về kinh tế, đồng thời phải đủ kiến thức chuyên môn để hiểu

được giá trị và nội dung kinh tế của các đề tài do phóng viên đề xuất.

Công việc thứ hai từ phía các cơ quan báo chí đó là phải chủ động mở

các khoá học để nâng cao nghiệp vụ báo chí và kiến thức chuyên ngành kinh

tế nhằm nâng cao kỹ năng thu thập và xử lý thông tin kinh tế của nhà báo.

Ngay cả những nhà báo được tuyển dụng lâu năm thì các cơ quan báo chí vẫn

cần đào tạo, uốn nắn bổ sung cho các phóng viên này một cách nghiêm khắc.

Ở mỗi cơ quan báo chí sẽ lựa chọn hình thức học phù hợp với cơ quan mình.

116

Theo Tổng biên tập Báo Đầu tư Lê Trọng Minh, có ba hình thức đào tạo. Thứ

nhất là đào tạo thực hành, không mang tính hệ thống mà thường xuyên, liên

tục. Sau khi phóng viên viết xong, người đào tạo đầu tiên là người biên tập.

Biên tập viên sẽ đặt những câu hỏi và thảo luận trực tiếp với phóng viên, qua

đó nâng cao chất lượng bài viết. Qua hình thức hỏi và đáp, tự phóng viên sẽ

phát hiện ra những lỗ hổng về mặt kiến thức, từ đó tích luỹ dần kiến thức báo

chí. Thứ hai là đào tạo ở cấp lãnh đạo ban. Ở Báo Đầu tư có 3 ban giống như

một mô hình toà soạn thu nhỏ: Ban Đầu tư, Ban Chứng khoán, Ban Tiếng

Anh. Các trưởng ban, phó ban làm việc giống như các tổng biên tập, tổ chức

sản xuất, trao đổi với phóng viên về nghiệp vụ. Đây cũng là một hình thức

đào tạo cả về kiến thức báo chí và kiến thức kinh tế. Thông qua đó phóng viên

có thể rút kinh nghiệm và tiếp thu. Thứ ba là đào tạo căn bản. Hình thức này

chia làm 2 loại. Chi Hội Nhà báo tổ chức các lớp học nghiệp vụ, mời nhà báo

lão thành ở các tờ báo khác sang. Hai là tự bản thân lãnh đạo đơn vị tổ chức

các lớp học cho phóng viên mới theo những giáo trình căn bản. Lãnh đạo ban

cũng khuyến khích các phóng viên đọc thêm các giáo trình hiện đại khác và

đọc trước để tranh luận. Ngoài ra, nên cử phóng viên đi học các khoá ngắn

hạn hoặc tiến hành đào tạo kiến thức theo chuyên đề. Chi Hội Nhà báo mời

chuyên gia đến giảng giải, trao đổi các vấn đề nổi cộm, mang tính thời sự

giúp cho các phóng viên hiểu rõ hơn về vấn đề.

Còn ở TBKTVN lại có hình thức đào tạo khác. Nhà báo Lan Hương –

Phó phòng Phóng viên (TBKTVN) cho rằng: Cách học tốt nhất là từ thực tế,

từ những bậc tiền bối đi trước, học bằng tình huống, bằng những case study.

Một hình thức đào tạo khác, theo tác giả luận văn chúng ta không nên chỉ bó

hẹp ở phạm vi trong nước mà nên có sự giao lưu, mở rộng với các cơ quan

báo chí ở nước ngoài nhất là những cơ quan báo chí lớn, có uy tín như báo Le

Monde của Pháp, tổ chức SIDA (Thuỵ Điển), hay các hãng thông tấn BBC,

Reuters, AFP… Đồng quan điểm với tác giả luận văn đề xuất ý kiến này, nhà

117

báo Lan Hương – Phó phòng Phóng viên (TBKTVN) đã chia sẻ trong cuộc

phỏng vấn sâu rằng kỹ năng thu thập và xử lý thông tin kinh tế của bà đã thực

sự trưởng thành lên rất nhiều khi bà tham gia các lớp học do Thời báo Kinh tế

Việt Nam tổ chức với tổ chức SIDA hay hãng thông tấn Reuters. Từ những ý

trên, tác giả luận văn muốn nhấn mạnh để kỹ năng thu thập và xử lý thông tin

của nhà báo được tốt hơn, về mặt nghiệp vụ báo chí, chúng ta nên chú trọng

mở rộng giao lưu với nước ngoài nhất là các cơ quan báo chí uy tín.

Như vậy theo học viên, các cơ quan báo chí cần thường xuyên mở các

lớp đào tạo để giúp nhà báo chuyên viết về kinh tế có thể trau dồi thêm kiến

thức, kỹ năng và trao đổi nghiệp vụ về thu thập và xử lý thông tin kinh tế. Tuỳ

theo từng toà soạn mà lựa chọn cách thức mở khoá đào tạo sao cho hiệu quả.

Tuy nhiên, theo tác giả luận văn cần đẩy mạnh giao lưu, trao đổi với các cơ

quan báo chí, các tổ chức giáo dục về báo chí quốc tế có uy tín.

Một công việc nữa mà lãnh đạo toà soạn cần phải làm, theo tác giả luận

văn cần phải đưa ra những chế tài, quy định để bắt buộc nhà báo kiểm tra độ

chính xác, tính hợp lý của thông tin kinh tế - một trong những kỹ năng quan

trọng trong xử lý thông tin kinh tế. Qua phỏng vấn sâu 10 nhà báo, tác giả

nhận được câu trả lời khá phổ biến là đa phần các nhà báo chỉ kiểm tra lại

thông tin khi họ cảm thấy nghi ngờ về độ chính xác. Tuy nhiên theo đề xuất

của tác giả luận văn để nâng cao tính hợp lý của thông tin, các nhà báo nên

kiểm tra lại tất cả thông tin thu thập được bởi lẽ đối với báo chí yếu tố trung

thực và chính xác là quan trọng nhất. Khi báo chí thông tin đúng sự thật mới

có được niềm tin của công chúng. Chỉ cần sai sự thật dù sau đó có đính chính

thì uy tín của toà soạn và nhà báo cũng bị giảm sút. Do vậy để đảm bảo tính

chính xác của thông tin, nhà báo cần kiểm tra lại tất cả thông tin thu thập

được. Tác giả đề xuất giải pháp các toà soạn cần đưa ra quy chế bắt buộc đối

với phóng viên phải kiểm tra độ chính xác với tất cả thông tin thu thập được

chứ không chỉ riêng thông tin nghi ngờ để đảm bảo tất cả thông tin đều có độ

118

chính xác cao. Khi tiến hành phỏng vấn sâu Thời báo Kinh tế Sài Gòn, ông

Phan Chiến Thắng – Trưởng Văn phòng đại diện tại Hà Nội đã khẳng định

với tác giả luận văn rằng: Đối với Thời báo Kinh tế Sài Gòn yêu cầu bắt buộc

là tất cả phóng viên đều phải kiểm tra độ chính xác của thông tin. Tờ báo này

đã ra một quy chế phóng viên sẽ bị trừ lương nặng, đã có những phóng viên bị

trừ hết tiền vì đưa thông tin sai. Sau khi có quy chế này, ý thức trách nhiệm

của phóng viên trong tờ báo này rất được chú trọng. Cá nhân tác giả nhận

thấy đây là một ý tưởng hay, một giải pháp hay nhằm nâng cao hiệu quả xử lý

thông tin của nhà báo. Bởi vậy, học viên xin đề xuất mỗi cơ quan báo chí cần

đưa ra một chế tài quy định bắt buộc phóng viên phải kiểm chứng lại tất cả

thông tin thu thập được.

Một kiến nghị nữa mà tác giả luận văn cũng muốn đề cập đến giúp cho

kỹ năng xử lý thông tin của nhà báo được tốt hơn, đó là để phóng viên yên

tâm trong sản xuất, làm việc, các cơ quan báo chí nên có chế độ tiền lương,

tiền thưởng cho phóng viên sống tốt. Vẫn biết không phải toà soạn nào cũng

làm được, nhưng theo tác giả, tất cả các toà soạn đều nên hướng tới điều đó.

Khi phóng viên yên tâm làm việc thì họ mới chuyên tâm được vào công việc.

Như thế họ mới có thể trau dồi được kỹ năng một cách tốt nhất khi thu thập

và xử lý thông tin. Nếu điều kiện kinh tế của phóng viên vẫn chưa tốt, chưa

ổn, họ sẽ tìm cách lách luật, ký hợp đồng quảng cáo... Thay vì chỉ lấy nhưng

thông tin hay, đắt giá, phóng viên chỉ tìm cách lôi kéo để có được hợp đồng

kinh tế bằng cách viết những bài điều tra mang tính chất đe doạ doanh nghiệp.

Khi đó kỹ năng thu thập thông tin của phóng viên sẽ bị ảnh hưởng. Do vậy,

tác giả luận văn xin đưa ra kiến nghị để kích thích tinh thần làm việc của

phóng viên, động viên các phóng viên có ý thức trong thu thập tin tức, tòa

soạn có thể phân phối thu nhập dựa trên năng suất, chất lượng và hiệu quả

công việc. Cuối tháng, cuối năm, có thể trao phần thưởng cho một số phóng

119

viên có ý thức trong việc thu thập thông tin.

Tiếp nữa, tòa soạn cần tạo môi trường làm việc cho phóng viên. Môi

trường ấy là sự hỗ trợ, đoàn kết với nhau trong quá trình khai thác, xử lý tư

liệu. Khi có vấn đề nóng hổi, các phóng viên có thể họp, trao đổi với nhau

phương thức khai thác tin để tránh việc lãng phí thời gian, công sức. Bây giờ,

với sự phát triển công nghệ thông tin, các cuộc họp có thể được tổ chức online

qua mạng chứ không cần thủ tục rườm rà. Về cơ sở vật chất, tòa soạn cần

trang bị tối thiểu cho phóng viên trang thiết bị để thực hiện việc tìm kiếm tin,

như mic, máy thu, máy chụp,… Một số báo cung cấp tiền, tài chính để mua

tài liệu, nguồn tin. Trước đây việc đó khá khó nhưng hiện nay tương đối dễ

dàng. Có những nơi nguồn tin cung cấp thông tin cho phóng viên một cách

chính thống, có tính phí. Có những nơi không có chức năng cung cấp, đôi khi

ở hình thức thù lao, cảm ơn lẫn nhau để họ giúp mình, nhất là thông tin kinh

tế. Phóng viên có thể không sẵn sàng chi nhuận bút của mình cho việc đó. Có

những toà soạn áp dụng mức chi trả cố định, trả thẳng cho nguồn cung cấp

thông tin đều đặn. Có toàn soạn trả thông qua nhuận bút, tăng nhuận bút lên.

Việc bắt phóng viên phải trực ở tòa soạn đã trở nên lạc hậu. Cần tạo thời gian

làm việc linh hoạt cho phóng viên để họ có thể đi “săn tin”. Kết quả chính cần

đạt là số lượng bài đầy đủ và chất lượng mà thôi.

Tòa soạn cũng phải có mối liên hệ với doanh nghiệp, cơ quan kinh tế

để khi có các vấn đề kinh tế, đội ngũ nhà báo có thể nhanh chóng đón nhận

được tin mới. Các đơn vị, cơ quan này sẽ là nguồn cung cấp tin nhanh và

chính xác cho tòa soạn. Tòa soạn ngược lại cũng là đơn vị quảng bá cho hình

ảnh doanh nghiệp và là tiếng nói cho các cơ quan kinh tế của Nhà nước. Để

việc thu thập thông tin diễn ra nhanh chóng, hiệu quả; Ban Biên tập có thể

phân chia nhà báo quản lí các đơn vị, cơ quan trên. Mỗi nhà báo được phân

chia có trách nhiệm quản lí những thay đổi kinh tế liên quan tới đơn vị ấy.

Như vậy đối với cơ quan báo chí, tác giả luận văn đề xuất cần thường

120

xuyên mở các lớp đào tạo giúp nhà báo trau dồi thêm kiến thức, kỹ năng và

trao đổi nghiệp vụ. Lãnh đạo toà soạn cần phải đưa ra những chế tài bắt buộc

nhà báo kiểm tra độ chính xác, tính hợp lý của thông tin kinh tế. Tòa soạn cần

tạo môi trường làm việc cho phóng viên, đồng thời phải có mối liên hệ với

doanh nghiệp, cơ quan kinh tế để khi có các vấn đề kinh tế, đội ngũ phóng

viên có thể nhanh chóng đón nhận được thông tin mới.

3.2.2. Đối với Hội Nhà báo Việt Nam

Hội Nhà báo Việt Nam nên tăng cường hơn nữa đào tạo, nâng cao

nghiệp vụ cho đội ngũ nhà báo trong lĩnh vực kinh tế. Ngoài các hoạt động

ngoại khóa và các khóa đào tạo ngắn hạn do cơ quan báo chí tổ chức, cần có

sự hỗ trợ của Bộ Thông tin và Truyền thông mà cụ thể là Cục Báo chí và của

Hội Nhà báo Việt Nam trong công tác đào tạo. Từ thực tiễn hiện nay, tác giả

luận văn cho rằng cần tăng cường các khóa đào tạo trung và ngắn hạn dành

riêng cho phóng viên viết về kinh tế. Các khóa đào tạo này tập trung vào

những nội dung chủ yếu sau đây: Kiến thức chung về kinh tế và kinh tế

chuyên ngành, nhất là các khái niệm, thuật ngữ chuyên ngành; Những vấn đề

nhạy cảm trong thông tin kinh tế và phương pháp xử lý; Danh mục bí mật

quốc gia trong lĩnh vực kinh tế; Kỹ năng phát hiện đề tài kinh tế.

Đồng thời cần tổ chức một số khóa đào tạo ngắn hạn cho cán bộ quản lý

cơ quan báo chí về quản trị báo chí và quản trị kinh tế báo chí. Các khóa học

này cần tập trung vào một số nội dung sau: Kiến thức cơ bản về tài chính

doanh nghiệp, cách đọc báo cáo tài chính doanh nghiệp; Phương pháp xây

dựng kế hoạch tài chính – kinh doanh; Các quy định hiện hành của nhà nước

về tài chính đối với cơ quan báo chí; Quản lý hoạt động kinh doanh quảng

cáo, phát hành và chiến lược marketing đối với cơ quan báo chí.

Một vấn đề nữa mà tác giả muốn đề cập. Đó là Hội Nhà báo cần tăng

cường bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhà báo trong quá trình thu thập thông

tin, đặc biệt là thông tin “nhạy cảm”. Thực tế đã có những trường hợp nhà báo

121

bị đánh trong lúc tác nghiệp. Nguyên nhân là do các nhà báo đi thu thập thông

tin và viết loạt bài điều tra, phanh phui các vụ việc tiêu cực. Từ thực tế đó, tác

giả luận văn đề xuất Hội Nhà báo nên phối hợp với các cơ quan chức năng

nhất là công an có những biện pháp bảo vệ nhà báo nhanh chóng, kịp thời,

hiệu quả hơn, hạn chế nguy hiểm cho các nhà báo khi đi thu thập thông tin

một cách chính đáng. Khi nhà báo được bảo vệ, họ cảm giác yên tâm hơn

trong quá trình tác nghiệp, từ đó việc thu thập và xử lý thông tin của nhà báo

122

sẽ được tốt hơn.

Tiểu kết chƣơng 3

Trong chương 3, tác giả luận văn đã đưa ra một số giải pháp và kiến

nghị để nâng cao hơn kỹ năng thu thập và xử lý thông tin của nhà báo kinh tế.

Cụ thể, đối với nhà báo, bên cạnh việc tự tìm tòi, học hỏi và trang bị cho mình

kiến thức nền về báo chí và kinh tế, nhà báo cần đề cao trách nhiệm xã hội,

dám nói lên sự thật với tinh thần khách quan, trung thực và có đủ bản lĩnh để

vượt qua những gian khổ, thử thách, sự nguy hiểm nhằm thu thập thông tin

kinh tế nói chung và thông tin kinh tế nói riêng. Đối với cơ quan báo chí, tác

giả đề xuất cần thường xuyên mở các lớp đào tạo giúp nhà báo trau dồi thêm

kiến thức, kỹ năng và trao đổi nghiệp vụ. Cần đẩy mạnh giao lưu, trao đổi với

các cơ quan báo chí, các tổ chức giáo dục về báo chí quốc tế có uy tín. Lãnh

đạo toà soạn cần phải đưa ra những chế tài, quy định bắt buộc nhà báo kiểm

tra độ chính xác, tính hợp lý của thông tin kinh tế. Tòa soạn cần tạo môi

trường làm việc cho phóng viên, đồng thời phải có mối liên hệ với doanh

nghiệp, cơ quan kinh tế để khi có các vấn đề kinh tế, đội ngũ phóng viên có

thể nhanh chóng đón nhận được thông tin mới. Các cơ quan chức năng phải

có luật hoá về minh bạch thông tin trong đó có thông tin về kinh tế. Nên tạo

điều kiện thuận lợi cho nhà báo tiếp cận thông tin dễ dàng hơn. Chính phủ

nên có chế tài để các cơ quan không lợi dụng vào quy chế phát ngôn kéo dài

việc cung cấp thông tin, ngăn cản, gây khó khăn cho nhà báo trong việc tiếp

cận thông tin trong đó có thông tin kinh tế của nhà báo. Hội Nhà báo Việt

Nam nên có chính sách đào tạo, nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ nhà báo

trong lĩnh vực kinh tế. Đồng thời tổ chức một số khóa đào tạo ngắn hạn cho

cán bộ quản lý cơ quan báo chí về quản trị báo chí và quản trị kinh tế báo chí.

Hội Nhà báo nên phối hợp với các cơ quan chức năng nhất là công an có

những biện pháp bảo vệ nhà báo nhanh chóng, kịp thời, hạn chế nguy hiểm

123

cho các nhà báo khi đi thu thập thông tin một cách chính đáng.

KẾT LUẬN

Làm phóng viên là một nghề đặc biệt, có khả năng ảnh hưởng tới thái độ,

quan điểm của hàng trăm ngàn, thậm chí hàng triệu người. Trong đó, phải kể

tới các phóng viên kinh tế. So với những phóng viên ở mảng khác như: Báo

chí chính trị; báo chí văn hóa – xã hội,… phóng viên kinh tế ở nước ta còn hết

sức mới mẻ. Khác với phóng viên trong các lĩnh vực khác, để trở thành một

nhà báo kinh tế chuyên nghiệp, điều đầu tiên cần là: phải có kỹ năng thu thập

và xử lí thông tin tốt. Bởi lĩnh vực kinh tế quan trọng nhất là có thông tin

nhanh và đúng.

Trong luận văn này, tác giả luận văn đã đi vào tìm hiểu yêu cầu về kỹ

năng thu thập và xử lý thông tin của phóng viên kinh tế nói chung. Thông qua

các nguồn tư liệu và bài giảng; học viên tổng hợp một số yêu cầu chính khi

thu thập và xử lý tài liệu như sau:

Khi thu thập, phóng viên có thể khai thác từ nhiều nguồn: tin từ các

hãng thông tấn cho tới mạng lưới cộng tác viên, thông tin viên…; áp dụng các

kỹ năng đa dạng, như: giao tiếp, nghiên cứu tài liệu văn bản, quan sát, phỏng

vấn.

Khi xử lý thông tin cần tập hợp, hệ thống hoá thông tin theo từng vấn

đề, lĩnh vực. Cần phân tích và kiểm tra độ chính xác của các thông tin, tính

hợp lý của các tài liệu, số liệu. Đồng thời cần thống kê số liệu, tính tỷ lệ, tính

xác suất của các thông tin định lượng. Và chuyển thuật ngữ chuyên ngành

kinh tế sang ngôn ngữ báo chí.

Vậy kỹ năng thu thập và xử lý thông tin của các phóng viên kinh tế

hiện ra sao? Tác giả luận văn đã tiến hành điều tra xã hội học bằng bảng hỏi

anket và phỏng vấn sâu các nhà báo kinh tế ở các báo: Thời báo Kinh tế Sài

Gòn, Thời báo kinh tế Việt Nam, Đầu tư và Quân đội nhân dân để tìm ra câu

trả lời. Qua việc tổng hợp các bản phỏng vấn sâu, cá nhân tôi nhận thấy các

124

phóng viên ở các tờ báo trên đều được tuyển lựa kỹ càng, đều có kỹ năng tốt.

Đa số phóng viên đều được đào tạo chuyên ngành kinh tế, sử dụng thành thạo

tiếng Anh, có kỹ năng giao tiếp, quan sát và phỏng vấn tốt, sẵn sàng lắng

nghe và thấu hiểu nguồn tin. Bên cạnh đó, một số phóng viên đang coi nhẹ

việc kiểm chứng và xác thực các nguồn tin, dẫn tới hậu quả thông tin đưa lên

mặt báo sai sự thật. Có người xử lý thông tin chưa tốt, như: sử dụng quá nhiều

thuật ngữ chuyên ngành kinh tế mà không giải thích cho người đọc; bài viết

có quá nhiều số liệu gây khó hiểu và nhàm chán… Điều này cho thấy trình độ

hiểu biết và tác nghiệp của một số phóng viên viết về đề tài kinh tế còn yếu.

Dựa trên điều đó, tác giả xin đưa ra một số giải pháp và kiến nghị giúp

việc thu thập và xử lý thông tin kinh tế của các phóng viên đạt hiệu quả cao hơn.

Đối với nhà báo, cần phải nâng cao nghiệp vụ báo chí, phải nắm bắt

được nhiều thông tin, tự nâng cao kiến thức về kinh tế và trách nhiệm người

làm báo; phát triển mối quan hệ rộng rãi cũng như nâng cao hơn kỹ năng

phỏng vấn. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhà báo cần phải luôn

trau dồi kiến thức phong phú về kinh tế, luôn lắng nghe mọi nguồn tin và biết

chọn lọc nguồn tin có lợi và nguồn tin thất thiệt. Bên cạnh việc tự tìm tòi, học

hỏi và trang bị cho mình kiến thức nền về báo chí và kinh tế, nhà báo cần đề

cao trách nhiệm xã hội, dám nói lên sự thật với tinh thần khách quan, trung

thực và có đủ bản lĩnh để vượt qua những gian khổ, thử thách, sự nguy hiểm

nhằm thu thập thông tin nói chung và thông tin kinh tế nói riêng

Đối với cơ quan báo chí, cần thường xuyên mở các lớp đào tạo giúp

nhà báo trau dồi thêm kiến thức, kỹ năng và trao đổi nghiệp vụ. Đẩy mạnh

giao lưu, trao đổi với các cơ quan báo chí, các tổ chức giáo dục về báo chí

quốc tế có uy tín. Lãnh đạo toà soạn cần phải đưa ra những chế tài, quy định

bắt buộc nhà báo kiểm tra độ chính xác, tính hợp lý của thông tin kinh tế. Tòa

soạn cần tạo môi trường làm việc cho phóng viên, đồng thời phải có mối liên

hệ với doanh nghiệp, cơ quan kinh tế để khi có các vấn đề kinh tế, đội ngũ

125

phóng viên có thể nhanh chóng đón nhận được thông tin mới.

Đối với các cơ quan chức năng phải có luật hoá về minh bạch thông tin

trong đó có thông tin về kinh tế. Nên tạo điều kiện thuận lợi cho nhà báo tiếp

cận thông tin dễ dàng hơn. Chính phủ nên có chế tài để các cơ quan không lợi

dụng vào quy chế phát ngôn kéo dài việc cung cấp thông tin, ngăn cản, gây

khó khăn cho nhà báo trong việc tiếp cận thông tin trong đó có thông tin kinh

tế của nhà báo.

Hội Nhà báo Việt Nam nên có chính sách đào tạo, nâng cao nghiệp vụ

cho đội ngũ nhà báo trong lĩnh vực kinh tế. Đồng thời tổ chức một số khóa

đào tạo ngắn hạn cho cán bộ quản lý cơ quan báo chí về quản trị báo chí và

quản trị kinh tế báo chí. Hội Nhà báo nên phối hợp với các cơ quan chức năng

nhất là công an có những biện pháp bảo vệ nhà báo nhanh chóng, kịp thời,

hạn chế nguy hiểm cho các nhà báo khi đi thu thập thông tin một cách chính

đáng.

Ngoài ra, bản thân các nhà báo kinh tế vẫn cần tu dưỡng, rèn luyện và

không ngừng bồi đắp cho mình những kỹ năng liên quan. Có như vậy thì

những tác phẩm báo chí về lĩnh vực kinh tế mới hay và hấp dẫn và mang tính

định hướng cao.

Nâng cao kỹ năng thu thập và xử lý thông tin cho đội ngũ nhà báo viết

về kinh tế là điều không dễ, đòi hỏi phải thực hiện một loạt các giải pháp

đồng bộ. Ngoài nỗ lực của chính mình, tác giả luận văn mong muốn các cơ

quan chức năng của nhà nước và Hội Nhà báo Việt Nam quan tâm xem xét

thực hiện các kiến nghị nói trên để điều mong muốn chung của chúng ta trở

thành hiện thực.

Luận văn đã nêu và phân tích khái quát về những kỹ năng thu thập và

xử lý thông tin của nhà báo kinh tế, cung cấp thêm những cách nhìn và biện

pháp giúp những nhà báo kinh tế rèn tốt những kỹ năng, kiến thức cần thiết

trong môi trường hoạt động báo chí. Tác giả luận văn tin các nhà báo đã rút ra

126

được cho mình nhiều bài học trong quá trình thu thập và xử lý thông tin, đồng

thời nâng cao bản lĩnh chính trị và đạo đức nghề nghiệp để mang lại những

bài báo hay, đảm bảo tính thời sự cũng như hiệu quả xã hội tích cực. Tác giả

luận văn cũng mong muốn luận văn sẽ khai triển thêm theo hướng đi sâu vào

kỹ năng thu thập tin tức, kỹ năng xử lý thông tin của nhà báo hoặc điều tra mở

127

rộng ở các tờ báo khác.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tiếng Việt

1. Đỗ Thị Lan Anh (2007), Hoạt động xử lý thông tin của biên tập viên tại

các toà soạn báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay, Khoá luận tốt nghiệp, Học

viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.

2. Nguyễn Trọng Báu (1995), Biên tập ngôn ngữ sách và báo chí, NXB Quân

đội nhân dân, Hà Nội.

3. Ngọc Bích, Hồng Nhung, Học kinh nghiệm viết bài báo kinh tế của phóng

viên Thời báo Ngân hàng, http://www.songtre.tv/news/chuyen-nghe-bao/hoc-

kinh-nghiem-viet-bai-bao-kinh-te-cua-phong-vien-thoi-bao-ngan-hang-44-

1988.html

4. Nguyễn Ngọc Bích (2008), Kỹ năng của biên tập viên báo mạng điện tử,

Khoá luận tốt nghiệp, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.

5. Bộ Nội vụ, Kỹ năng thu thập và xử lý thông tin, Chuyên đề 16,

http://dtbd.moha.gov.vn/uploads/resources/admin/CDLD/Chuyen%20Vien/C

huyenDe16.pdf

6. Trần Ngọc Châu (2009), Nhà báo viết về nghề báo, Nxb Trẻ, Thành phố

Hồ Chí Minh.

7. Hoàng Đình Cúc (2013), Đạo đức nghề báo – Những vấn đề lý luận và

thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

8. Đỗ Quý Doãn (2014), Quản lý và phát triển thông tin báo chí ở Việt Nam,

Nxb Thông tấn, Hà Nội

9. Đức Dũng (2000), Sáng tạo tác phẩm báo chí, Nxb Văn hóa – Thông tin,

Hà Nội.

10. Đức Dũng (2006), Viết báo như thế nào?, Nxb Văn hoá – Thông tin, Hà

128

Nội.

11. Bùi Tiến Dũng, Đỗ Anh Đức, Nguyễn Sơn Minh (2003), Lý thuyết và

thực hành báo chí trực tuyến, Khoa Báo chí, Đại học Khoa học Xã hội và

Nhân văn, Hà Nội.

12. Vũ Dũng (2000), Từ điển tâm lý học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

13. Nguyễn Văn Dững (2011), Báo chí truyền thông hiện đại, Nxb Đại học

Quốc gia Hà nội, Hà Nội.

14. Nguyễn Văn Dững, Hữu Thọ, Nguyễn Thị Thoa, Lê Thị Thanh Xuân

(2006), Tác phẩm báo chí, tập II, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

15. Giao lưu trực tuyến “Báo chí với quyền tiếp cận thộng tin”,

http://phapluattp.vn/ban-doc/giao-luu-truc-tuyen-bao-chi-voi-quyen-tiep-can-

thong-tin-546214.html

16. Nguyễn Văn Hà (2012), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Đại học Quốc gia

Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

17. Thanh Hải, Văn hoá nhà báo,

http://baobaclieu.vn/newsdetails/1D3FE18467D/Van_hoa_nha_bao.aspx

18. Vũ Quang Hào (2012), Ngôn ngữ báo chí, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,

Hà Nội.

19. Đinh Thu Hằng, Giao tiếp – Kỹ năng nền tảng của nhà báo,

http://ctv.vtv.vn/cdthhn/vn/home/InfoDetail.jsp?ID=794

20. Đỗ Thu Hằng, (2013), Giáo trình tâm lý học báo chí, Nxb Đại học Quốc

gia Thành phố Hồ Chí Minh.

21. Hội đồng quốc gia biên soạn (2005), Từ điển bách khoa Việt Nam, Nxb

Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

22. Hội Nhà báo Việt Nam, Làm gì để nâng cao năng lực đội ngũ nhà báo

viết về kinh tế,

http://www.vja.org.vn/vi/detail.php?pid=7&catid=31&id=29386&dhname=L

129

am-gi-de-nang-cao-nang-luc-doi-ngu-nha-bao-viet-ve-kinh-te

23. Hội Nhà báo Việt Nam, nhiều tác giả (1992), Nghề nghiệp và công

việc của nhà báo, Hà Nội.

24. Phạm Thành Hưng (2006), Thuật ngữ báo chí – truyền thông, Nxb Đại

học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

25. Lê Hương, 10 kỹ năng của nhà báo để có cuộc phỏng vấn thành công,

http://infonet.vn/10-ky-nang-cua-nha-bao-de-co-cuoc-phong-van-thanh-cong-

post133091.info

26. Đinh Văn Hường (2006), Các thể loại báo chí thông tấn, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

27. Ngô Thị Thùy Linh, (2014), Mức độ phản ứng ban đầu của cơ quan nhà

nước với báo chí”, Khoá luận tốt nghiệp, khoa Báo chí và Truyền thông,

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội

28. Phan Thanh Long (2004), Các biện pháp rèn luyện kỹ năng dạy học cho

sinh viên Cao đẳng Sư phạm, Luận án tiến sĩ Giáo dục, Hà Nội.

29. Káp Thành Long (2008), Kỹ năng xử lý đề tài pháp luật trên báo in hiện

nay, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.

30. Nguyễn Thành Lợi (2014), Tác nghiệp báo chí trong môi trường truyền

thông hiện đại, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.

31. Diệu Minh, Cuộc sống và cái chết của tác giả ảnh “Kền kền chờ đợi”,

http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/tu-lieu/cuoc-song-va-cai-chet-cua-tac-gia-

anh-ken-ken-cho-doi-2144993.html

32. Lưu Xuân Mới (2000), Lý luận dạy học Đại học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

33. Lê Thị Nhã (2010), Lao động nhà báo – Lý thuyết và kỹ năng cơ bản, Nxb

Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

34. Võ Thị Hồng Nhung, Phẩm chất của một nhà báo viết về kinh tế,

https://vothihongnhung.wordpress.com/2013/05/28/pham-chat-cua-mot-nha-

130

bao-viet-ve-kinh-te/

35. Hoàng Phê (2015), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển

học, Hà Nội.

36. Trần Thị Kim Phụng, Nhà báo cần rèn luyện kỹ năng giao tiếp tốt,

http://baolongan.vn/nha-bao-can-ren-luyen-ky-nang-giao-tiep-tot-a733.html

37. Khánh Phương, Giao tiếp – Kỹ năng quan trọng của nhà báo giỏi,

http://baolongan.vn/giao-tiep-ky-nang-quan-trong-cua-nha-bao-gioi-

a802.html

38. Phạm Ngọc Quang (2005), Đào tạo phóng viên báo chí trong thời đại

ngày nay, Tạp chí Lý luận chính trị, số 6, tr.6.

39. Quyết định số 25/2013/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ về Ban hành

Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí.

40. Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (2004), Cơ sở lý luận

báo chí truyền thông, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

41. Huỳnh Văn Sơn (Chủ biên), Nguyễn Thị Tứ, Bùi Hồng Quân, Nguyễn

Hoàng Khắc Hiếu (2011), Tâm lý học giao tiếp, Nxb Đại học Sư phạm, Hà

Nội.

42. Nguyễn Thị Thanh Tâm (2008), Khai thác, xử lý tin trong chương trình

Thời sự Đài Phát thanh - Truyền hình Hải Phòng, Khoá luận tốt nghiệp, Học

viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.

43. Đoàn Phan Tân (2001), Thông tin học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà

Nội.

44. Ngô Bá Thành (2010), Thông tin kinh tế trên Đài Truyền hình kỹ thuật số

VTC, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Hà

Nội.

45. Sầm Vũ Thăng (2010), Phương thức thực hiện đề tài pháp luật trên báo

mạng điện tử, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân

131

văn, Hà Nội.

46. Nguyễn Văn Thắng (2015), Tác động của thông tin báo chí đối với hoạt

động điều hành của Chính phủ, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học

xã hội và Nhân văn, Hà Nội

47. Hữu Thọ (1997), Công việc của người viết báo, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

48. Đinh Thuận (2014), Kỹ năng cho người làm báo, Nxb Thông tấn, Hà Nội.

49. Ngọc Trân (2014), Viết tin, bài đăng báo, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.

50. Nguyễn Uyển (1998), Xử lý thông tin – Công việc của nhà báo, Nxb Văn

hoá – Thông tin, Hà Nội.

51. Trần Hồng Vân (2004), Thực trạng và giải pháp xử lý thông tin trong toà

soạn báo mạng điện tử hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Học viện Báo chí và Tuyên

truyền, Hà Nội.

52. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1999), Đại từ điển Tiếng Việt,Nxb Văn hóa-

Thông tin.

II. Tài liệu tiếng nƣớc ngoài dịch sang tiếng Việt

53. Sally Adams, Wynford Hicks (2007), Kỹ năng phỏng vấn dành cho các

nhà báo, Nxb Thông tấn, Hà Nội.

54. Frank Bass (2007), Hướng dẫn tìm kiếm trên Internet và viết báo của

hãng thông tấn AP, Nxb Thông tấn, Hà Nội.

55. V.A. Cruchetxki (1981), Những cơ sở của tâm lý học sư phạm, tập II, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

56. James H. Donnelley và các tác giả (2004), Quản trị học căn bản, Nxb

Thống kê, Hà Nội, trang 663 - 670.

57. Peter Eng và Jeff Hodson (2007), Tường thuật và viết tin, sổ tay những

điều cơ bản, Nxb Thông tấn, Hà Nội

58. Eric Fikhtelius (2002), Mười bí quyết kỹ năng nghề báo, Nxb Lao động,

Hà Nội.

132

59. Missouri Group (2009), Nhà báo hiện đại, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.

60. Makxim Kuznhesop, Irop Sukunop (2003), Cách điều khiển phỏng vấn,

Nxb Thông tấn, Hà Nội.

61. Tom Plate (2010), Lời tự thú của một nhà báo Mỹ, Nxb Trẻ, Thành phố

Hồ Chí Minh.

62. Leonard Ray Teel, Ron Taylor (2003), Bước vào nghề báo, Nxb Trẻ,

133

Thành phố Hồ Chí Minh.

PHỤ LỤC

Phiếu điều tra xã hội học về kỹ năng thu thập và xử lý thông tin

kinh tế của nhà báo

Chào ông/bà, tôi là Nguyễn Hồng Hạnh, Học viên Khoá 17, Khoa Báo

chí và Truyền thông, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội.

Tôi đang thực hiện luận văn thạc sĩ với đề tài “Thu thập và xử lý thông tin

kinh tế của nhà báo”. Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu, phân tích,

đánh giá về kỹ năng thu thập và xử lý thông tin kinh tế của nhà báo. Rất mong

ông/bà bớt chút thời gian trả lời phiếu điều tra xã hội học. Toàn bộ kết quả

điều tra chỉ phục vụ cho luận văn. Trân trọng cảm ơn ông/bà!

A. Kỹ năng thu thập thông tin kinh tế của nhà báo

Câu 1. Ông/bà sử dụng kỹ năng giao tiếp để thu thập thông tin kinh tế

nhƣ thế nào?

ờng xuyên

h thường

ỳ từng thông tin

Câu 2: Để duy trì và phát triển mối quan hệ với nguồn tin nhằm thu thập

thông tin kinh tế, ông/bà thƣờng làm thế nào?

ải trung thực thông tin mà nguồn tin đã cung cấp

ờng xuyên liên hệ với nguồn tin (gọi điện, mail, gặp mặt trực tiếp...)

ả hai ý kiến trên

ỉ liên hệ với nguồn tin khi cần thông tin

Câu 3: Ông/bà sử dụng kỹ năng nghiên cứu tài liệu văn bản để thu thập

thông tin kinh tế nhƣ thế nào?

ờng xuyên

ờng

iờ

ỳ từng thông tin

Câu 4: Khi nghiên cứu văn bản, ông/bà thƣờng quan tâm đến thông tin

gì?

ập trung vào các chi tiết, số liệu nổi bật (Trả lời tiếp từ câu 5)

ộ nội dung văn bản (Trả lời tiếp từ câu 6)

Câu 5. Tại sao ông/bà chỉ tập trung vào các chi tiết, số liệu nổi bật khi

nghiên cứu tài liệu văn bản? (Có thể chọn nhiều đáp án)

Cần thông tin đó

Thông tin nêu bật vấn đề

Công chúng quan tâm

Câu 6. Tại sao ông/bà quan tâm đến toàn bộ nội dung văn bản khi nghiên

cứu tài liệu? (Có thể chọn nhiều đáp án)

Muốn có cái nhìn bao quát

Phát hiện ra cái mới

Khác

Câu 7: Ông/bà sử dụng kỹ năng quan sát để thu thập thông tin kinh tế

nhƣ thế nào?

ờng xuyên

ờng

ỳ từng thông tin

Câu 8: Khi quan sát, ông/bà thƣờng quan tâm đến gì? (Có thể lựa chọn

nhiều câu trả lời)

ối cảnh

ản ứng, cảm xúc của nguồn tin

Câu 9: Ông/bà sử dụng kỹ năng phỏng vấn để thu thập thông tin kinh tế

nhƣ thế nào?

ờng xuyên

ờng

ỳ từng thông tin

Câu 10. Tại sao ông/bà thƣờng xuyên sử dụng kỹ năng phỏng vấn để thu

thập thông tin kinh tế? (Có thể chọn nhiều đáp án)

Giúp nhà báo thu thập thông tin hiệu quả

Nhanh có được thông tin

Có được thông tin “độc”

Câu 11: Để cuộc phỏng vấn thu thập thông tin kinh tế thành công, theo

ông/bà cần làm gì? (Có thể lựa chọn nhiều đáp án)

ết cách đặt câu hỏi với nguồn tin

ạo không khí thân thiện, cởi mở

ải khiêm tốn

ẩn bị câu hỏi chu đáo từ trước

ất cả ý kiến trên

Câu 12: Theo ông/bà trong các kỹ năng thu thập thông tin kinh tế trên

thì kỹ năng nào quan trọng nhất?

ỹ năng giao tiếp

ỹ năng nghiên cứu tài liệu văn bản

ỹ năng quan sát

ỹ năng phỏng vấn

ỹ năng quan trọng như nhau

Câu 13: Ông/bà đánh giá nhƣ thế nào về kỹ năng thu thập thông tin kinh

tế của nhà báo?

ất tốt

ốt

ốt

ờng

ợc tốt

B. Kỹ năng xử lý thông tin kinh tế của nhà báo

Câu 14. Ông/bà sử dụng kỹ năng tập hợp, hệ thống hoá thông tin theo

từng vấn đề, lĩnh vực để xử lý thông tin kinh tế nhƣ thế nào?

ờng xuyên

ờng

ỳ từng thông tin

Câu 15. Ông/bà sử dụng kỹ năng tập hợp, hệ thống hoá thông tin theo

từng vấn đề, lĩnh vực để xử lý thông tin kinh tế đối với:

ất cả các tin, bài

ới các tin, bài cần thiết

ới các tin, bài có thời gian chuẩn bị

Câu 16. Ông/bà sử dụng kỹ năng kiểm tra độ chính xác, tính hợp lý của

thông tin kinh tế nhƣ thế nào?

ờng xuyên

ờng

ỳ từng thông tin

Câu 17. Ông/bà sử dụng kỹ năng kiểm tra độ chính xác, tính hợp lý của

thông tin kinh tế đối với:

ất cả các thông tin kinh tế đã thu thập

ảm thấy nghi ngờ về độ chính xác

Câu 18. Tại sao ông/bà sử dụng kỹ năng kiểm tra độ chính xác, tính hợp

lý của thông tin đối với tất cả thông tin kinh tế đã thu thập đƣợc? (Có thể

chọn nhiều đáp án)

Yêu cầu bắt buộc của toà soạn

Trách nhiệm của nhà báo

Đảm bảo tính chính xác của thông tin

Câu 19. Ông/bà sử dụng kỹ năng kiểm tra độ chính xác, tính hợp lý của

thông tin bằng cách nào? (Có thể chọn nhiều đáp án)

ừ nguồn tin cung cấp

ừ nguồn tin khác

ừ đồng nghiệp và bạn bè

ừ chuyên gia

Câu 20. Theo ông/bà kỹ năng tính tỷ lệ, tính xác suất, sử dụng ngôn ngữ

thông tin phi văn tự (vẽ biểu đồ, đồ thị, bảng số liệu) trong xử lý thông tin

kinh tế có cần thiết không?

Câu 21. Ông/bà sử dụng kỹ năng tính tỷ lệ, tính xác suất, vẽ biểu đồ, đồ

thị, bảng số liệu nhƣ thế nào?

ờng xuyên

ờng

ỳ từng thông tin

Câu 22. Ông/bà sử dụng kỹ năng tính tỷ lệ, tính xác suất, vẽ biểu đồ, đồ

thị, bảng số liệu trong trƣờng hợp nào? (Có thể chọn nhiều đáp án)

ổi bật ý nghĩa và thể hiện được nhiều số liệu

ới tất cả các số liệu đã thu thập được

ảm thấy cần thiết

Ban Biên tập bắt buộc làm

Câu 23. Tại sao ông/bà cho rằng việc tính tỷ lệ, tính xác suất, vẽ biểu đồ,

đồ thị, bảng số liệu làm nổi bật ý nghĩa và thể hiện đƣợc nhiều số liệu?

Giúp công chúng dễ hiểu hơn

Thể hiện thông tin sinh động, hấp dẫn hơn

Khác

Câu 24. Ông/bà sử dụng kỹ năng chuyển thuật ngữ chuyên ngành kinh tế

sang ngôn ngữ báo chí trong xử lý thông tin kinh tế nhƣ thế nào?

ờng xuyên

ờng

ỳ từng thông tin

Câu 25. Ông/bà thƣờng chuyển thuật ngữ chuyên ngành kinh tế sang

ngôn ngữ báo chí bằng cách nào? (Có thể lựa chọn nhiều đáp án)

ịnh nghĩa của thuật ngữ đó

ấy một ví dụ cụ thể

ằng sự hiểu biết của mình

ợn lời chuyên gia

Câu 26. Theo ông/bà trong các kỹ năng xử lý thông tin kinh tế trên thì kỹ

năng nào quan trọng nhất?

ập hợp, hệ thống hoá, cô đọng thông tin theo từng chủ đề, lĩnh vực

ểm tra độ chính xác, tính hợp lý của thông tin

ỷ lệ, xác suất, sử dụng ngôn ngữ thông tin phi văn tự

ển thuật ngữ chuyên ngành kinh tế sang ngôn ngữ báo chí

ất cả các kỹ năng đều quan trọng như nhau

Câu 27. Theo ông/bà, nhà báo đã sử dụng các kỹ năng xử lý thông tin

kinh tế nhƣ thế nào?

ất tốt

ốt

ốt

ờng

ợc tốt

Câu 28. Để nâng cao kỹ năng thu thập và xử lý thông tin kinh tế của nhà

báo, theo ông/bà cần phải làm gì? (Có thể chọn nhiều đáp án)

ếp cận thông tin dễ dàng hơn từ các cơ quan nhà nước, tổ chức

và doanh nghiệp

ạch hoá thông tin

ờng xuyên mở lớp nâng cao nghiệp vụ báo chí và kiến thức chuyên

môn kinh tế

ởng, thưởng cho nhà báo

Ông/bà vui lòng cho biết:

Giới tính

Độ tuổi

ừ 22 - 30

ừ 31 – 40

Trình độ học vấn

ẳng

ại học

ại học

Chuyên ngành đào tạo

chí

ế

ại ngữ

Cơ quan công tác

ầu tư

ế đô thị

ội nhân dân

ời báo Kinh tế Sài Gòn

ời báo Kinh tế Việt Nam

Câu hỏi phỏng vấn sâu

Câu hỏi đối với Tổng Biên tập và Trƣởng Ban Biên tập

Kính gửi các Nhà báo

Tôi là Nguyễn Hồng Hạnh, Học viên Cao học Báo chí K17, Khoa Báo

chí và Truyền thông, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân Văn. Hiện

nay tôi đang thực hiện luận văn tốt nghiệp với đề tài “Thu thập và xử lý thông

tin kinh tế của nhà báo”. Mục đích nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu, đánh

giá kỹ năng thu thập và xử lý thông tin kinh tế của nhà báo.

Kính mong ông/bà vui lòng trả lời một số câu hỏi sau để tôi có thêm tư

liệu tham khảo nhằm hoàn thiện luận văn tốt nghiệp của mình.

Xin chân thành cảm ơn!

Họ tên:

Chức vụ:

Đơn vị công tác:

Điện thoại:

Email:

Nội dung phỏng vấn

Phần I. Kỹ năng thu thập thông tin kinh tế

Câu 1. Ông/bà đánh giá như thế nào về kỹ năng giao tiếp trong quá trình thu

thập thông tin của phóng viên kinh tế báo mình?

Câu 2. Ông/bà đánh giá như thế nào về kỹ năng nghiên cứu văn bản trong quá

trình thu thập thông tin của phóng viên kinh tế báo mình?

Câu 3. Ông/bà đánh giá như thế nào về kỹ năng quan sát trong quá trình thu

thập thông tin của phóng viên kinh tế báo mình?

Câu 4. Ông/bà đánh giá như thế nào về kỹ năng phỏng vấn trong quá trình

thu thập thông tin của phóng viên kinh tế báo mình?

Câu 5. Theo Ông/bà, ưu và nhược điểm của kỹ năng thu thập thông tin của

phóng viên báo mình là gì?

Câu 6. Ông/bà có thể đưa ra lưu ý quan trọng nhất trong kỹ năng thu thập

thông tin kinh tế đối với phóng viên?

Phần II. Kỹ năng xử lý thông tin kinh tế

Câu 7. Ông/bà có đánh giá gì về kỹ năng xử lý thông tin của phóng viên kinh

tế báo mình?

Câu 8. Theo Ông/bà, ưu và nhược điểm của xử lý thông tin của phóng viên

báo mình là gì?

Câu 9. Ông/bà có thể đưa ra một số lưu ý trong kỹ năng xử lý thông tin kinh

tế đối với phóng viên?

Câu 10. Ông/bà có kiến nghị gì để nâng cao hiệu quả của việc thu thập và xử

lý thông tin kinh tế?

Câu hỏi phỏng vấn sâu

Câu hỏi đối với phóng viên báo

Kính gửi các Nhà báo

Tôi là Nguyễn Hồng Hạnh, Học viên Cao học Báo chí K17, Khoa Báo

chí và Truyền thông, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân Văn. Hiện

nay tôi đang thực hiện luận văn tốt nghiệp với đề tài “Thu thập và xử lý thông

tin kinh tế của nhà báo”. Mục đích nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu, đánh

giá kỹ năng thu thập và xử lý thông tin kinh tế của nhà báo.

Kính mong Ông/Bà vui lòng trả lời một số câu hỏi sau để tôi có thêm tư

liệu tham khảo nhằm hoàn thiện luận văn tốt nghiệp của mình.

Xin chân thành cảm ơn!

Họ tên:

Chức vụ:

Đơn vị công tác:

Điện thoại:

Email:

Nội dung phỏng vấn

Phần I. Kỹ năng thu thập thông tin kinh tế

Câu 1. Ông/bà sử dụng kỹ năng giao tiếp như thế nào trong quá trình thu thập

thông tin?

Câu 2. Ông/bà có thể kể một số tình huống cụ thể trong khi tác nghiệp mà

ông/bà đã sử dụng kỹ năng giao tiếp?

Câu 3. Ông/bà có thể đưa ra một vài bài báo cụ thể đã được đăng mà ông/bà

sử dụng kỹ năng giao tiếp?

Câu 4. Ông/bà sử dụng kỹ năng nghiên cứu văn bản như thế nào trong quá

trình thu thập thông tin?

Câu 5. Ông/bà có thể kể một số tình huống cụ thể trong khi tác nghiệp mà

ông/bà đã sử dụng kỹ năng nghiên cứu văn bản?

Câu 6. Ông/bà có thể đưa ra một vài bài báo cụ thể đã được đăng mà ông/bà

sử dụng kỹ năng nghiên cứu văn bản?

Câu 7. Ông/bà sử dụng kỹ năng quan sát như thế nào trong quá trình thu thập

thông tin?

Câu 8. Ông/bà có thể kể một số tình huống cụ thể trong khi tác nghiệp mà

ông/bà đã sử dụng kỹ năng quan sát?

Câu 9. Ông/bà có thể đưa ra một vài bài báo cụ thể đã được đăng mà ông/bà

sử dụng kỹ năng quan sát?

Câu 10. Ông/bà sử dụng kỹ năng phỏng vấn như thế nào trong quá trình thu

thập thông tin?

Câu 11. Ông/bà có thể kể một số tình huống cụ thể trong khi tác nghiệp mà

ông/bà đã sử dụng kỹ năng phỏng vấn?

Câu 12. Ông/bà có thể đưa ra một vài bài báo cụ thể đã được đăng mà ông/bà

sử dụng kỹ năng phỏng vấn?

Câu 13. Trong quá trình thu thập thông tin kinh tế, ông/bà nhận thấy có

những thuận lợi và khó khăn gì?

Phần II. Kỹ năng xử lý thông tin kinh tế

Câu 14. Kỹ năng tập hợp, hệ thống hoá thông tin theo từng vấn đề, lĩnh vực

được ông/bà sử dụng như thế nào?

Câu 15. Ông/bà có thể kể một số tình huống cụ thể trong khi tác nghiệp mà

ông/bà đã sử dụng kỹ năng này?

Câu 16. Ông/bà có thể đưa ra một vài bài báo cụ thể đã được đăng mà ông/bà

sử dụng kỹ năng tập hợp, hệ thống hoá thông tin theo từng vấn đề, lĩnh vực?

Câu 17. Kỹ năng phân tích và kiểm tra độ chính xác của các thông tin, tính

hợp lý của các tài liệu, số liệu được ông/bà sử dụng như thế nào?

Câu 18. Ông/bà có thể kể một số tình huống cụ thể trong khi tác nghiệp mà

ông/bà đã sử dụng kỹ năng này?

Câu 19. Ông/bà có thể đưa ra một vài bài báo cụ thể đã được đăng mà ông/bà

sử dụng kỹ năng phân tích và kiểm tra độ chính xác của các thông tin, tính

hợp lý của các tài liệu, số liệu?

Câu 20. Kỹ năng thống kê số liệu, tính tỷ lệ, tính xác suất được ông/bà sử

dụng như thế nào?

Câu 21. Ông/bà có thể kể một số tình huống cụ thể trong khi tác nghiệp mà

ông/bà đã sử dụng kỹ năng này?

Câu 22. Ông/bà có thể đưa ra một vài bài báo cụ thể đã được đăng mà ông/bà

sử dụng kỹ năng thống kê số liệu, tính tỷ lệ, tính xác suất?

Câu 23. Kỹ năng chuyển thuật ngữ chuyên ngành kinh tế sang ngôn ngữ báo

chí dễ hiểu được ông/bà sử dụng như thế nào?

Câu 24. Ông/bà có thể kể một số tình huống cụ thể trong khi tác nghiệp mà

ông/bà đã sử dụng kỹ năng này?

Câu 25. Ông/bà có thể đưa ra một vài bài báo cụ thể đã được đăng mà ông/bà

sử dụng kỹ năng thống kê số liệu, tính tỷ lệ, tính xác suất?

Câu 26. Trong quá trình xử lý thông tin kinh tế, ông/bà nhận thấy có những

thuận lợi và khó khăn gì?

Câu 27. Ông/bà có kiến nghị gì để nâng cao hiệu quả của việc thu thập và xử

lý thông tin kinh tế?

Bảng 2.1: Mức độ sử dụng kỹ năng nghiên cứu tài liệu văn bản để thu thập

thông tin kinh tế

Quan điểm Số lượng (người) Tỷ lệ (%)

Thường xuyên 196 66.7

Tùy từng thông tin 28 9.5

Bình thường 70 23.8

Bảng 2.2: Về thông tin mà nhà báo thường quan tâm khi nghiên cứu văn bản

Quan điểm Số lượng (người) Tỷ lệ (%)

Tập trung vào số liệu, chi tiết nổi bật 182 61.9

Toàn bộ nội dung văn bản 112 38.1

Bảng 2.3: Mức độ sử dụng kỹ năng quan sát để thu thập thông tin kinh tế

Số lượng (người) Tỷ lệ (%) Quan điểm

Thường xuyên 66.7 196

Bình thường 28.6 84

Chưa bao giờ 4.7 14

Bảng 2.4: Mức độ sử dụng kỹ năng kiểm tra độ chính xác của thông tin, tính

hợp lý của tài liệu, số liệu

Số lượng (người) Tỷ lệ (%) Quan điểm

Thường xuyên 70.1 206

Bình thường 19.7 58

Tuỳ từng thông tin 10.2 30

Bảng 2.5: Phương pháp chuyển thuật ngữ chuyên ngành kinh tế sang ngôn

ngữ báo chí (người trả lời chọn nhiều đáp án)

Số lượng (người) Tỷ lệ (%) Quan điểm

Đưa ra định nghĩa 126 42.9

Lấy một ví dụ 154 52.4

Bằng sự hiểu biết của mình 98 33.3

Mượn lời chuyên gia 210 71.4

Khác 28 9.5