ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
HOÀNG THỊ LIỄU
VẤN ĐỀ TÌNH DỤC TRƢỚC HÔN NHÂN TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Báo chí học
Hà Nội-2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
-----------------------------------------------------
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
HOÀNG THỊ LIỄU
VẤN ĐỀ TÌNH DỤC TRƢỚC HÔN NHÂN TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học
Mã số: 60 32 01 01
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Dƣơng Xuân Sơn
Hà Nội - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan toàn bộ nội dung của luận văn Vấn đề tình dục trước
hôn nhân trên báo điện tử là những kiến thức do tôi thu nhận, phân tích và
tổng hợp trong quá trình nghiên cứu đề tài của mình.
Trong luận văn của mình, tôi có sử dụng một số trích dẫn từ các nguồn
tài liệu tham khảo. Các tài liệu trích dẫn đều được dẫn nguồn đầy đủ.
Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về những lời cam đoan của mình.
Hà Nội, ngày 16 tháng 3 năm 2016
Học viên
Hoàng Thị Liễu
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến
các thầy, cô giáo trong khoa Báo chí và Truyền thông, Trường Đại học Khoa
học Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã nhiệt tình truyền dạy
cho tôi những kiến thức trong quá trình theo học bậc Cao học.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc và chân thành tới PGS.TS Dương
Xuân Sơn, người đã tận tình hướng dẫn và góp ý cho tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu để hoàn thành luận văn này.
Xin cảm ơn người thân, bạn bè đã giúp đỡ, động viên tôi trong suốt
quá trình nghiên cứu và viết luận văn.
Luận văn tất yếu còn nhiều thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự góp ý
của các thầy cô giáo cũng như các bạn độc giả quan tâm.
Hà Nội, 16 tháng 3 năm 2016
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: VĂN HÓA HÔN NHÂN - TÌNH DỤC CỦA NGƢỜI
VIỆT VÀ BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG .................................................... 19
1.1. Một số khái niệm công cụ ................................................................... 19
1.1.1. Báo chí ............................................................................................ 19
1.1.2. Báo điện tử ...................................................................................... 19
1.1.3. Vị thành niên ................................................................................... 19
1.1.4. Sống thử .......................................................................................... 19
1.1.5. Hôn nhân ......................................................................................... 20
1.1.6. Tình dục .......................................................................................... 20
1.1.7. Tình dục trước hôn nhân ................................................................. 20
1.1.8. Tình dục không tình yêu ................................................................. 20
1.2. Đặc trƣng của báo điện tử .................................................................. 20
1.2.1. Cập nhật thông tin tức thời, thường xuyên và liên tục ................... 20
1.2.2. Tính đa phương tiện ........................................................................ 21
1.2.3. Tính tương tác cao .......................................................................... 21
1.2.4. Khả năng liên kết lớn ...................................................................... 22
1.2.5. Khả năng lưu trữ và tìm kiếm dễ dàng ........................................... 22
1.2.6. Tính xã hội hóa cao, khả năng cá thể hoá tốt ................................. 22
1.3. Quan niệm của ngƣời Việt về hôn nhân và tình dục từ xã hội
truyền thống đến hiện đại .......................................................................... 23
1.3.1. Quan niệm của người Việt về hôn nhân và tình dục trong xã
hội truyền thống ........................................................................................ 24
1.3.2. Quan niệm của người Việt về hôn nhân và tình dục trong xã
hội hiện đại ................................................................................................ 27
1.4. Vai trò của báo chí trong việc thông tin về vấn đề tình dục
trƣớc hôn nhân ........................................................................................... 32
Tiểu kết chƣơng 1 ....................................................................................... 36
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TÌNH DỤC TRƢỚC HÔN
NHÂN TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ HIỆN NAY .... Error! Bookmark not defined.
2.1. Vài nét về các tờ báo đƣợc lựa chọn khảo sátError! Bookmark not defined.
2.1.1. VnExpress.net ................................. Error! Bookmark not defined.
2.1.2. Tuoitre.vn ........................................ Error! Bookmark not defined.
2.1.3. Thanhnien.vn .................................. Error! Bookmark not defined.
2.2. Cơ sở lựa chọn các bài viết về vấn đề TDTHNError! Bookmark not defined.
2.2.1. Bộ từ khóa để lựa chọn các bài viết khảo sátError! Bookmark not defined.
2.2.2. Về nội dung ..................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.3. Về hình thức .................................... Error! Bookmark not defined.
2.3. Phân tích thực trạng vấn đề tình dục trƣớc hôn nhân trên báo
VnExpress.net, Tuoitre.vn, Thanh nien.vn . Error! Bookmark not defined.
2.3.1. Nội dung thông tin .......................... Error! Bookmark not defined.
2.3.2. Hình thức chuyển tải thông tin ....... Error! Bookmark not defined.
Tiểu kết chƣơng 2 ........................................... Error! Bookmark not defined.
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP THÔNG TIN VỀ VẤN ĐỀ TÌNH DỤC
TRƢỚC HÔN NHÂN TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ Error! Bookmark not defined.
3.1. Đánh giá chung ........................................ Error! Bookmark not defined.
3.1.1. Thành công của ba tờ báo trong việc thông tin về vấn đề TDTHNError! Bookmark not defined.
3.1.2. Hạn chế của ba tờ báo trong việc thông tin về vấn đề TDTHNError! Bookmark not defined.
3.1.3. Nguyên nhân hạn chế của ba tờ báo trong việc thông tin về vấn
đề TDTHN ................................................ Error! Bookmark not defined.
3.2. Định hƣớng thông tin về vấn đề tình dục trƣớc hôn nhân trên
báo điện tử ...................................................... Error! Bookmark not defined.
3.2.1. Quan điểm truyền thông về vấn đề tình dục trước hôn nhânError! Bookmark not defined.
3.2.2. Đối với nguồn nhân lực .................. Error! Bookmark not defined.
3.2.3. Giải pháp về nội dung và hình thức bài viếtError! Bookmark not defined.
Tiểu kết chƣơng 3 ........................................... Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN ........................................................ Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 38
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HN: Hôn nhân
TD: Tình dục
TDTHN: Tình dục trước hôn nhân
TNO: Báo Thanhnien.vn
TTO: Báo Tuoitre.vn
VNE: Báo Vnexpress.net
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ bài viết về vấn đề TDTHN trên ba tờ báo
Bảng 2.2: Tỷ lệ nội dung thông tin về vấn đề TDTHN trên ba tờ báo
Bảng 2.3: Số lượng thể loại được sử dụng để viết về vấn đề TDTHN
Biểu đồ 2.4: Tỷ lệ phản hồi của độc giả về vấn đề TDTHN trên ba tờ báo
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, quá trình hội nhập quốc tế và mở cửa hợp
tác hữu nghị với các nước trên thế giới đã đem lại sự thay đổi đáng mừng cho
đất nước ta. Tuy nhiên, sự du nhập của tư tưởng, lối sống phương Tây hiện
đại với nhiều mặt hạn chế đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến hệ thống giá trị, chuẩn
mực và hành vi lối sống của các nhóm xã hội, trong đó có giới trẻ.
Quá trình hiện đại hóa đã dẫn đến những thay đổi đáng kể trong quan
niệm và hành vi về tình yêu, TD, HN và gia đình. Đã có nhiều tranh luận tại
Việt Nam và trên thế giới về tác động của hiện đại hóa đến việc định hình
phong cách sống của thế hệ trẻ. Điều này đặc biệt đúng ở Việt Nam trong bối
cảnh gia tăng hội nhập về kinh tế, xã hội, văn hóa trong khu vực và với thế
giới. Nhiều người cho rằng hiện đại hóa thúc đẩy tự do cá nhân nhiều hơn, cải
thiện việc tiếp cận thông tin qua nhiều nguồn khác nhau, khiến cho các mối
quan hệ gia đình thêm dân chủ... Kết quả là thanh thiếu niên ngày nay có nhiều
tự do trong hẹn hò, yêu đương, TD và lựa chọn hôn nhân hơn các thế hệ cũ.
Như một xu hướng tất yếu của xã hội hiện đại, cần có thái độ và cách nhìn khác
đối với vấn đề mà từ trước đến nay vẫn được xem là tế nhị và ngại đề cập đến.
Ở một xã hội hiện đại, những quan điểm, thái độ của giới trẻ về cuộc
sống đã thay đổi nhiều so với quan niệm trong xã hội truyền thống của người
Á Đông. Hiện nay, giới trẻ nước ta đang hướng đến những quan niệm và hành
vi mới về cuộc sống, tình bạn, tình yêu và hôn nhân. Họ thể hiện tình yêu một
cách tự do, cởi mở hơn so với các thế hệ trước đây, đi ngược lại với các giá trị
sống đẹp đẽ của truyền thống. Trong đó, hiện tượng tham gia chung sống
trước hôn nhân và TDTHN được coi là “tân tiến” trong quan niệm về tình yêu
của giới trẻ Việt Nam ngày nay.
Không phải ngẫu nhiên khi trên công cụ tìm kiếm Google, số thống kê
bài viết liên quan đến từ khóa “Tình dục trước hôn nhân - TDTHN” lại có
khoảng 870.000 kết quả trong vòng 0,55 giây; hay số bài viết liên quan đến
từ khóa “Sống thử” là 3.900.000 kết quả trong vòng 0,30 giây. Điều này cho
thấy đây là vấn đề được nhiều người quan tâm, đặc biệt là khi Việt Nam đang
ở trong bối cảnh gia tăng hội nhập về kinh tế, xã hội và văn hóa với thế giới.
Hơn nữa, những số liệu thống kê về tình trạng nạo phá thai, trong đó nguyên
nhân chủ yếu là do giải quyết hậu quả của vấn đề TDTHN đã trở thành vấn
nạn của xã hội. Theo bà Tô Thị Kim Hoa, Phó Giám đốc sở Y tế, Chi cục
trưởng Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình Thành phố Hồ Chí Minh cho
biết: hiện nay, tỉ lệ nạo phá thai ở Việt Nam là khoảng 300.000 ca mỗi năm.
Trong đó có khoảng 20% ở độ tuổi vị thành niên. Con số lạnh lùng này cho
thấy chúng ta đang là nước đứng thứ 5 trên thế giới và đứng đầu khu vực
Đông Nam Á về tình trạng nạo phá thai.
Cuộc sống TDTHN là vấn đề khá tế nhị khiến nhiều người ngại đề cập.
Từ trước đến nay chưa được sự đồng tình của dư luận xã hội, nhưng trên thực
tế hiện tượng này vẫn đang diễn ra một cách phổ biến. Kết quả của cuộc Điều
tra Quốc gia về Vị thành niên và Thanh niên Việt Nam lần thứ hai (SAVY2)
được công bố năm 2010 cho thấy: “Có 9,5% thanh niên Việt Nam đã từng có
quan hệ TDTHN (tỉ lệ này ở SAVY 1 là 7,5%). Tuổi quan hệ TD lần đầu trung
bình của thanh niên có xu hướng giảm từ 19,6 tuổi ở SAVY 1 xuống còn 18,1
tuổi ở SAVY 2. Đáng chú ý, nam thanh niên đã từng có quan hệ TD trước HN
(kể cả những người hiện đã kết hôn) là 13,6%, cao gấp hơn 2 lần so với nữ
(5,2%)”. SAVY2 là cuộc điều tra có quy mô lớn và toàn diện nhất về thanh
thiếu niên, được tiến hành với 10.044 vị thành niên, thanh niên trong độ tuổi từ
14-25, hiện đang sống cùng gia đình ở khắp 63 tỉnh, thành trên toàn quốc về rất
nhiều góc cạnh cuộc sống như giáo dục, việc làm, tình trạng sức khoẻ sinh sản,
sức khỏe TD... Ngoài ra, theo số liệu khảo sát của Bộ Y tế công bố vào cuối
tháng 3/2013 cho thấy, có 44% thanh niên và vị thành niên ở Việt Nam chấp
nhận quan hệ TDTHN, tỷ lệ chấp nhận ở nam giới cao hơn nữ giới.
Những hậu quả do TDTHN không an toàn gây nên đã khiến cho thực
trạng này trở thành một vấn nạn trong xã hội ở nước ta hiện nay. Để cổ xúy
đúng đắn những hành vi hợp lý và loại bỏ những hành vi bất hợp lý, hơn bao
giờ hết thực tiễn cuộc sống đặt ra yêu cầu phải có những tìm hiểu thấu đáo về
TDTHN của giới trẻ từ quan điểm, nhận thức, đến thái độ và hành vi.
Trước thực trạng đó, việc phổ biến vấn đề giáo dục giới tính, giáo dục
TD là vô cùng cần thiết để giúp cho mọi công dân nói chung và giới trẻ nói
riêng có được cái nhìn đúng đắn về TD và có cuộc sống lành mạnh, ý nghĩa
hơn. Tuy nhiên, để làm được điều này không phải là điều dễ dàng. Các
chương trình tuyên truyền về TD an toàn và giáo dục giới tính vẫn chưa đạt
hiệu quả cao. Nguyên nhân là do, với đặc điểm văn hóa con người Việt Nam
khép kín, e ngại khi đề cập đến vấn đề TD nhất là TDTHN, muốn tìm hiểu
nhưng không dám tìm hiểu công khai. Việc tự tìm hiểu thông tin qua sách
báo, internet không có sự chỉ dẫn hay chỉ dẫn sơ sài đã không định hướng
được cho các bạn trẻ những quan điểm đúng đắn về TDTHN. Sự sai lệch
trong nhận thức tất yếu dẫn đến những sai lầm trong hành vi. Hậu quả đó là
tình trạng sống thử và quan hệ TDTHN tràn lan trong giới trẻ hiện nay.
Có thể nhận thấy rằng, TDTHN đã trở thành một mảng đề tài nóng
bỏng của báo chí trong những năm gần đây. Chúng ta có thể thấy rằng, vấn đề
này đã và đang được đề cập thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại
chúng, đặc biệt là trên báo điện tử. Nhìn chung, hầu hết các bài báo đều nhận
định rằng, vấn đề TDTHN tồn tại khá phổ biến trong giới trẻ và có tác động
đến nhiều khía cạnh của đời sống gia đình, xã hội Việt Nam hiện đại. Mặt
khác, nó cũng ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sức khỏe thể lực, sức
khỏe tinh thần và đặc biệt là sức khỏe sinh sản đối với nam nữ thanh niên để
xảy ra tình trạng TDTHN. Mặc dù được báo chí truyền thông đề cập nhiều
đến mặt tiêu cực và những hệ lụy khôn lường từ việc có quan hệ TDTHN
nhưng hiện tượng này vẫn diễn ra với sự gia tăng đáng lo ngại. Thực tế cho
thấy, TDTHN của giới trẻ hiện nay cần phải được cân nhắc kỹ lưỡng, phải có
những phương pháp cụ thể để quan hệ TD an toàn nhằm đảm bảo có một sức
khỏe tốt, một tinh thần và trạng thái thoải mái phục vụ cho công việc, học tập.
So với các loại hình báo chí khác, báo điện tử có lợi thế hơn hẳn trong
việc thu hút các độc giả trẻ tuổi. Cùng với sự phát triển vượt bậc của công
nghệ thông tin, báo điện tử đã ngày càng khẳng định được vị trí của mình
trong đời sống xã hội. Với nội dung thông tin phong phú, đa dạng, nhiều
chiều, báo điện tử có khả năng tác động mạnh mẽ vào dư luận xã hội, ít nhiều
sẽ dẫn đến sự thay đổi trong nhận thức, thái độ và hành vi của giới trẻ về mọi
vấn đề của cuộc sống, trong đó có vấn đề TDTHN. Đặc biệt, việc truyền đạt
nội dung thông tin qua hình thức tổ chức các bài viết theo nhiều cửa thường
gây được ấn tượng mạnh mẽ với các bạn trẻ hơn các loại hình báo chí khác.
Tuy nhiên, nhìn vào thực tế, không phải lúc nào các tờ báo điện tử cũng
phát huy được năng lực và hiệu quả tác động đến vấn đề giáo dục đạo đức, lối
sống cho giới trẻ. Thậm chí, có một số tờ báo điện tử đưa thông tin chộp giật,
rẻ tiền, câu khách, đem lại một quan niệm về TD, tình yêu không còn thuần
khiết như truyền thống. Đặc biệt, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường
và sự du nhập mạnh mẽ của lối sống phương Tây hiện đại thì báo chí nói
chung và báo điện tử nói riêng cần phải tham gia tích cực hơn nữa trong việc
giáo dục nhận thức cho giới trẻ về vấn đề TDTHN.
Trong số những báo điện tử hiện nay, 3 tờ báo VnExpress.net,
Tuoitre.vn và Thanhnien.vn có nhiều bài viết chất lượng về vấn đề TDTHN
được đông đảo bạn đọc đón nhận. Uy tín và hiệu quả xã hội từ các tác phẩm
báo chí của ba tờ báo trên là không thể phủ nhận. Nhưng, bên cạnh đó, khi
thông tin về vấn đề TDTHN, 3 tờ báo trên cũng còn tồn tại nhiều hạn chế cần
phải được nhìn nhận khách quan và đưa ra giải pháp kịp thời.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề này trên báo điện tử để tìm ra giải
pháp thông tin hiệu quả nhất là một việc làm cần thiết trong thời đại bùng nổ
thông tin hiện nay. Đó cũng chính là lý do tác giả lựa chọn “Vấn đề tình dục
trƣớc hôn nhân trên báo điện tử” (Khảo sát trên ba tờ báo VnExpress.net,
Tuoitre.vn và Thanhnien.vn từ năm 2012 đến năm 2015) làm đề tài luận văn
thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay, vấn đề sức khỏe sinh sản cho giới trẻ đang là một trong
những nội dung thu hút sự quan tâm của nhiều nước trên thế giới. Bởi vì,
chăm sóc toàn diện cho lớp trẻ hôm nay chính là tạo bước khởi đầu tốt đẹp
cho tương lai. Hơn thế nữa, giới trẻ ngày nay đang phải đối diện với nhiều
thách thức như: lối sống thay đổi, giá trị sống cũng có nhiều biến đổi. Vì thế,
nếu không được trang bị kiến thức một cách đầy đủ sẽ khiến cho những thế hệ
thanh niên, sinh viên gặp nhiều lúng túng, khó khăn trong trong cuộc sống,
đặc biệt là trong việc giải quyết mối quan hệ giữa nam và nữ.
Trong những năm gần đây, ở nước ta nghiên cứu về vấn đề TDTHN
của giới trẻ nói chung và sinh viên nói riêng khá phong phú. Tuy nhiên, phần
lớn đều được thực hiện dưới góc độ tâm lý học hoặc xã hội học. Có thể kể đến
một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau:
Năm 1996, Khuất Thu Hồng đã thực hiện công trình “Nghiên cứu tình
dục ở Việt Nam” với nội dung về vấn đề TD và phá thai trước hôn nhân của
nữ thanh niên trên địa bàn Hà Nội. Nghiên cứu thực hiện trên 259 khách thể
là phụ nữ phá thai trước HN, trong đó có hơn 90% các cô gái ở độ tuổi từ 15-
24, số người từ 18 tuổi trở xuống chiếm 14%. Kết quả nghiên cứu cũng cho
thấy, có gần tới 50% tổng số ý kiến được hỏi trả lời rằng không có ai trao đổi
với họ về TD. Trong số 50% còn lại, 2/3 tiếp nhận thông tin từ bạn gái, tiếp
đó là từ người yêu và gia đình.
Năm 1999, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội cũng đã ban hành hai
cuốn sách “Tình yêu của chúng em không giới hạn” của TS. Tine
Gammeltofft và TS. Nguyễn Minh Thắng và đến năm 2001, nhà xuất bản này
cũng lại cho ra cuốn “Trò chuyện về tình yêu, giới tính, sức khỏe”. Hai cuốn
sách này là bộ tập hợp những câu hỏi, những tình huống mà trẻ vị thành niên
gặp phải thuộc nội dung sức khỏe sinh sản do các chuyên gia tâm lý, các bác
sĩ tư vấn về tình bạn, tình yêu biên soạn. Trong số rất nhiều tình huống ấy có
rất nhiều những câu hỏi, băn khoăn của các em thể hiện một sự thiếu có bản
về những kiến thức tình yêu, TD an toàn.
Dưới góc độ báo chí học, số lượng công trình nghiên cứu về vấn đề này
còn khá mờ nhạt. Có thể kể đến một số nghiên cứu liên quan đến nội dung đề
cập trong luận văn này như sau:
“Một số vấn đề về giới và tình dục trên báo chí ở Việt Nam đầu thế kỷ
XXI (Qua nghiên cứu một số báo in, báo điện tử)” (PGS.TS Hoàng Bá Thịnh,
2014, Kỷ yếu hội thảo: Văn hóa truyền thông trong thời kỳ hội nhập, Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐH Quốc gia Hà Nội). Bằng phương pháp
phân tích tài liệu, báo cáo đã bàn về vấn đề giới và TD qua khảo sát những bài
viết, quảng cáo trên một số báo in và điện tử. Từ đó, chỉ ra tác động của các
thông điệp tình dục trên báo chí đối với xã hội.
“Vấn đề thanh niên sống thử trước hôn nhân trên báo chí hiện nay”
(Nguyễn Thị Hà Giang, 2013, Luận văn thạc sĩ Báo chí, Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn Hà Nội). Tác giả đã nghiên cứu những vấn đề lý luận liên
quan như quan niệm HN của người Việt từ xã hội nông nghiệp truyền thống
đến hiện đại. Khảo sát các tác phẩm báo chí viết về vấn đề sống thử trước HN
trên ba tờ báo in Tiền Phong, Thanh niên, Tuổi trẻ TP.HCM. Từ việc phân
tích thông tin và tổng hợp các kết quả khảo sát, tác giả đã đưa ra những giải
pháp thông tin về vấn đề sống thử trước hôn nhân trên báo in hiện nay.
“Giáo dục giới tính vị thành niên: Thực trạng và giải pháp từ góc độ
báo chí” (Nguyễn Văn Bắc, 2008, Khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Báo
chí, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội). Từ việc khảo sát trên hai
trang báo điện tử http://suckhoedoisong.vn và http://tuoitre.vn, tác giả đã chỉ
ra những thành công và hạn chế của báo chí trong việc giáo dục giới tính cho
lứa tuổi vị thành niên. Qua đó, đề xuất một số giải pháp để quá trình truyền
thông về vấn đề trên đạt hiệu quả hơn.
“Báo chí với việc tuyên truyền, giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên”,
(Trần Thanh Huyền, 2005, Luận văn thạc sĩ Báo chí, Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn Hà Nội). Trong luận văn, tác giả đã nghiên cứu cơ sở lý luận của
sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe sinh sản; thu thập tài liệu gồm các bài
viết trên các báo Sức khỏe và đời sống, Gia đình và xã hội, Phụ nữ Việt Nam. Từ
đó sẽ đi vào phân tích, và tìm ra nguyên nhân, giải pháp đóng góp cho việc tuyên
truyền giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên trên báo chí.
“Khả năng tác động của các phương tiện truyền thông đại chúng đối
với việc hình thành lối sống của thanh niên sinh viên hiện nay” (Hoàng Thị
Xuân Quý, 1999, Luận văn thạc sĩ Báo chí, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền). Trong luận văn, tác giả đã phân tích khả năng tác động ở nhiều mặt
của các phương tiện truyền thông đại chúng đối với việc hình thành lối sống
của thanh niên, sinh viên hiện nay. Từ đó, đề xuất một số giải pháp cơ bản để
các phương tiện truyền thông đại chúng có thể góp phần xây dựng lối sống
chuẩn mực cho thanh niên.
Ngoài những công trình nghiên cứu trên, còn có các báo cáo khoa học
và một số tham luận tại các diễn đàn báo chí với chủ đề xoay quanh vấn đề
sức khỏe sinh sản cho thanh niên hiện nay.
Qua các công trình của các nhà nghiên cứu, đã cho thấy sự quan tâm của
mọi người trong xã hội đối với vấn đề giáo dục sức khỏe sinh sản và giới tính
cho giới trẻ. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu
toàn diện, hệ thống và riêng biệt về vấn đề TDTHN được phản ánh trên báo
điện tử. Chính vì vậy, tác giả mạnh dạn nghiên cứu đề tài này với mục đích đi
sâu khảo sát, tìm hiểu cơ sở lý luận, qua đó đưa ra những nhận xét, đánh giá và
giải pháp thông tin về vấn đề TDTHN trên báo mạng điện tử. Đề tài của luận
văn là một công trình khoa học có góc tiếp cận mới mẻ, độc lập; mang tính thời
sự; có ý nghĩa thực tiễn cao; có kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình
khoa học trước đó cũng như nhiều sách, báo, tạp chí… có liên quan.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
• Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu và đánh giá các bài viết được khảo sát
trong ba tờ báo điện tử: VnExpress.net, Tuoitre.vn và Thanhnien.vn, luận văn
nêu bật lên thực trạng TDTHN trong xã hội hiện nay. Từ việc chỉ ra những
thành công và hạn chế trong việc thông tin về vấn đề TDTHN, luận văn rút ra
những bài học kinh nghiệm, đề xuất các giải pháp nhằm giúp nâng cao hiệu
quả tuyên truyền về vấn đề này trên báo điện tử Việt Nam.
• Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần giải quyết những nhiệm vụ sau:
Nghiên cứu vấn đề lý luận liên quan như: mối quan hệ giữa TD và HN
theo văn hóa của người Việt từ xã hội truyền thống đến hiện đại. Đây là cơ sở
lý luận có ý nghĩa tiền đề để xác định đúng hướng cho quá trình khảo sát.
Phân tích vai trò của báo chí truyền thông, đặc biệt là báo điện tử đối
với việc thông tin về vấn đề TDTHN.
Khảo sát các tin bài viết về vấn đề TDTHN trên 3 tờ báo điện tử:
VnExpress.net, Tuoitre.vn và Thanhnien.vn. Thông qua việc phân tích nội
dung và hình thức các bài báo được khảo sát, luận văn đưa ra sự so sánh giữa
ba tờ báo trong việc thông tin về vấn đề TDTHN.
Đánh giá tổng hợp và chỉ ra những thành công, hạn chế của ba tờ báo
trong việc thông tin về vấn đề TDTHN, từ đó rút ra những bài học kinh
nghiệm, đề xuất các giải pháp giúp nâng cao hiệu quả tuyên truyền của báo
mạng điện tử.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
• Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề TDTHN trên báo điện tử.
Cụ thể là nghiên cứu về nội dung và hình thức thể hiện của những tác phẩm
báo chí viết về vấn đề TDTHN trong diện được khảo sát.
• Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian, điều kiện và phạm vi nghiên cứu của đề tài này được bao
quát qua ba tờ báo điện tử: VnExpress.net, Tuoitre.vn và Thanhnien.vn. Đây
là ba tờ báo uy tín, đã khẳng định được vị trí của mình trong làng báo điện tử
Việt Nam với thế mạnh cập nhật thông tin nhanh nhạy, phong phú, đa dạng.
Hơn nữa, đối tượng bạn đọc của các tờ báo trên đều hướng đến giới trẻ và có
nhiều bài viết rất chất lượng về đề tài TDTHN.
Thời gian khảo sát: từ năm 2012 đến 2015. Đây là thời gian mà thực
trạng TDTHN trở thành một vấn đề xã hội đáng quan tâm và được báo chí ưu
tiên phản ánh với nhiều tác phẩm chất lượng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
• Phương pháp lý luận
Tìm hiểu các quan điểm, lý luận liên quan đến vấn đề TDTHN từ các
văn bản tài liệu sẵn có. Sử dụng các kết quả nghiên cứu của xã hội học để so
sánh, đối chiếu với kết quả khảo sát của luận văn. Bên cạnh đó là dựa vào hệ
thống lý luận về báo chí nói chung, báo điện tử nói riêng và vai trò của nó
trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
• Phương pháp công cụ
Từ sự vận dụng các hướng tiếp cận xã hội học, các phương pháp
nghiên cứu chung của khoa học xã hội-nhân văn, luận văn chú trọng các
phương pháp thực tiễn sau đây:
* Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi (an-két): dùng để lấy ý kiến
nhóm đối tượng là sinh viên tại các trường Đại học trên địa bàn TP.Hà Nội về
vấn đề TDTHN và việc tiếp nhận thông tin của sinh viên trên báo điện tử
VnExpress.net, Tuoitre.vn và Thanhnien.vn. Để phục vụ cho việc nghiên cứu
đề tài luận văn, tác giả đã sử dụng 300 phiếu khảo sát tại trường Đại học Hòa
Bình và Học viên Nông nghiệp Hà Nội.
* Phương pháp so sánh: được sử dụng để chỉ ra những điểm giống
nhau, khác nhau và những điểm khác biệt trong cách phản ánh thông tin về
vấn đề TDTHN trên 3 tờ báo VnExpress.net, Tuoitre.vn, Thanhnien.vn.
* Phương pháp phân tích nội dung: được thực hiện nhằm mục đích tìm
hiểu, phân tích nội dung thông tin của các bài viết được khảo sát. Từ đó, tổng
hợp thành các nhóm nội dung để có cái nhìn khái quát nhất về vấn đề được
nghiên cứu.
* Phương pháp thống kê: sử dụng phép thống kê trong toán học để
phân tích kết quả, số liệu thu thập được từ các phiếu khảo sát. Bên cạnh đó, là
việc xử lý các thông tin định lượng dưới dạng bảng biểu, biểu đồ.
* Phương pháp phỏng vấn sâu: thực hiện phỏng vấn sâu đối với chuyên
gia, biên tập viên, phóng viên phụ trách mảng đời sống và giới trẻ để có sự
hiểu biết hơn về quá trình thông tin đối với vấn đề TDTHN trên tờ báo.
* Phương pháp đánh giá, tổng kết: từ việc phân tích các bài báo được
khảo sát, tác giả sẽ có những đánh giá và tổng hợp về thành công, hạn chế của
ba tờ báo trong việc thông tin về vấn đề TDTHN.
6. Ý nghĩa của đề tài
• Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn là một nguồn tư liệu tập trung, cụ thể,
bổ ích đối với các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý báo chí, các nhà báo và
những ai quan tâm đến vấn đề này.
• Ý nghĩa thực tiễn
Việc ứng dụng kết quả đề tài là một cơ hội để những nhà báo tổng kết,
đúc rút kinh nghiệm nhằm thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình trong quá
trình tác nghiệp đưa thông tin về vấn đề TDTHN. Qua đó, giúp cơ quan báo
chí xác lập kế hoạch tuyên truyền một cách đúng đắn về vấn đề TDTHN.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, mục lục và phụ lục,
luận văn gồm ba chương:
- Chương 1: Văn hóa hôn nhân - tình dục của người Việt và báo chí
truyền thông.
- Chương 2: Phân tích thực trạng vấn đề tình dục trước hôn nhân trên
báo điện tử hiện nay.
- Chương 3: Giải pháp thông tin về vấn đề tình dục trước hôn nhân trên
báo điện tử.
CHƯƠNG 1: VĂN HÓA HÔN NHÂN - TÌNH DỤC CỦA NGƯỜI VIỆT VÀ BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG
1.1. Một số khái niệm công cụ
1.1.1. Báo chí
Theo từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), nói một cách khái quát: “Báo chí là báo và tạp chí xuất bản định kỳ, xuất bản ấn phẩm định kỳ”.
PGS.TS Dương Xuân Sơn trong cuốn “Các loại hình báo chí truyền
thông” đã đưa ra khái niệm như sau: “Báo chí là phương tiện truyền thông đại
chúng truyền tải thông tin các sự kiện, sự việc, hiện tượng đang diễn ra trong
hiện thực khách quan một cách nhanh chóng, chính xác và trung thực đến
đông đao công chúng, nhằm tích cự hóa đời sống thực tiễn”.
1.1.2. Báo điện tử
Tại điều 3, luật Báo chí năm 1989 được sửa đổi, bổ sung tại kỳ họp thứ
5 Quốc hội khóa X quy định: “Báo điện tử là loại hình báo chí được thực hiện
trên mạng thông tin máy tính”.
Theo cách hiểu khác: “Báo điện tử là hình thức báo chí mới được hình
thành từ sự kết họp những ưu thế của báo in, báo nói, báo hình, sử dụng yếu tố
công nghệ cao như một nhân tố quyết định quy trình sản xuất và truyền tải thông
tin dựa trên nền tảng Internet”.
1.1.3. Vị thành niên
Theo từ điển Tiếng Việt 2011 (NXB Đà Nẵng): “Vị thành niên là người
chưa đến tuổi được pháp luật công nhận là công dân với đầy đủ quyền và
nghĩa vụ”.
Theo luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Luật số 25/2004/QHH
ngày 15/6/2004 của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam: “Vị thành niên là
lứa tuổi từ 10-19 tuổi. Trẻ em được luật pháp bảo vệ, chăm sóc, giáo dục là
trẻ dưới 16 tuổi, nhưng về mặt luật pháp vị thành niên là dưới 18 tuổi”.
1.1.4. Sống thử
Sống thử hay sống thử trước hôn nhân là một cụm từ thường được báo
chí Việt Nam dùng để chỉ một hiện tượng xã hội, theo đó các cặp nam nữ về
sống chung với nhau như vợ chồng mà không cần đăng ký kết hôn theo quy
định của pháp luật, không chịu bất kỳ sự chi phối nào của pháp luật trong mối
quan hệ của mình.
1.1.5. Hôn nhân
Theo Luật Hôn nhân & gia đình năm 2000 quy định: “Hôn nhân là
quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn” (điểm 6, điều 8).
Còn theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của trường Đại học
Luật Hà Nội, khái niệm về hôn nhân được hiểu là: “Sự liên kết giữa người
nam và người nữ dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, theo điều kiện và
trình tự nhất định, nhằm chung sống với nhau suốt đời và xây dựng gia đình
hạnh phúc và hoà thuận”.
1.1.6. Tình dục
Quan hệ tình dục, còn gọi là giao hợp hay giao cấu, thường chỉ hành vi
đưa bộ phận sinh dục nam/đực vào trong bộ phận sinh dục nữ/cái. Quan hệ tình
dục cũng có thể là giữa những thực thể khác hoặc cùng giới tính hoặc lưỡng tính.
1.1.7. Tình dục trước hôn nhân
Tình dục trước hôn nhân được hiểu là quan hệ tình dục của những cặp
tình nhân trước khi kết hôn.
1.1.8. Tình dục không tình yêu
Tình dục không tình yêu là quan hệ tình dục của những cặp đôi không
xuất phát từ tình yêu, tình cảm dành cho nhau, mà chủ yếu chỉ là sự ham
muốn, giải quyết nhu cầu.
1.2. Đặc trƣng của báo điện tử
1.2.1. Cập nhật thông tin tức thời, thường xuyên và liên tục
Nhờ vào sự phát triển của công nghệ, máy vi tính và đặc biệt là vai trò
của mạng toàn cầu Internet, các nhà báo có thể dễ dàng xâm nhập sự kiện,
nhanh chóng viết bài và gửi về toà soạn thông qua hệ thống thư điện tử.
Không chỉ tức thời, báo mạng điện tử còn cho phép nhà báo thường xuyên
update thông tin bất cứ lúc nào mà không phải chờ đến giờ lên khuôn hay sắp
xếp chương trình. Chính vì thế mà người ta còn cho báo mạng điện tử một đặc
trưng là tính phi định kì.
Đặc điểm này giúp cho báo mạng dễ dàng vượt trội hơn so với các loại
hình báo chí khác về tốc độ thông tin, lượng thông tin, đảm bảo tính thời sự
và tạo ra sự thuận tiện cho độc giả.
1.2.2. Tính đa phương tiện
Báo mạng điện tử là một loại hình báo chí tổng hợp, tích hợp nhiều
công nghệ (multimedia). Trên một tờ báo mạng, thậm chí ngay trong một tác
phẩm báo mạng có thể tích hợp gồm ít nhất từ hai trong những thành phần sau
trở lên. Đó là:văn bản (text), hình ảnh tĩnh và đồ họa (still image & graphic),
âm thanh (audio), hình ảnh động (video & animation) và gần đây nhất là các
chương trình tương tác (interactive program).
Khi đọc báo mạng độc giả có thể chủ động xem những tác phẩm mình
quan tâm ở bất kì trang nào giống như báo in. Đồng thời cũng được trực quan
những hình ảnh, video clip, lắng nghe những âm thanh mà không hề bị phụ
thuộc vào các yếu tố thời gian, không gian. Sự tích hợp này giúp cho báo
mạng điện tử trở nên sinh động hơn, hấp dẫn hơn.
1.2.3. Tính tương tác cao
Tính tương tác là một trong những đặc trưng quan trọng của báo chí.
Đối với báo mạng, nhờ có những đặc trưng nổi trội về công nghệ mà dường
như tính tương tác có vẻ cao hơn so với các loại hình còn lại. Không dừng lại
ở sự tương tác giữa độc giả với toà soạn, ở báo mạng điện tử, chúng ta còn có
thể thấy sự tương tác nhiều chiều giữa độc giả với nhà báo, độc giả với độc
giả, hay độc giả với nhân vật trong tác phẩm báo chí.
Quá trình tương tác trên báo mạng điện tử nhanh chóng và thuận tiện
hơn nhiều so với các loại hình báo chí khác. Ngay sau mỗi tác phẩm báo chí
đăng trên trang báo mạng điện tử đều có mục phản hồi, ngoài ra còn có rất
nhiều kênh tương tác khác như feedback, vote, email, forum… tiện cho độc
giả dễ dàng đóng góp ý kiến của mình. Điều này khó thấy trên báo hình, phát
thanh hay báo giấy.
1.2.4. Khả năng liên kết lớn
Báo mạng điện tử có khả năng liên kết vô cùng lớn nhờ vào các siêu
liên kết (hyperlink), các từ khoá, web link, hồ sơ… Từ một bài báo, độc giả
có thế dễ dàng tìm kiếm những thông tin liên quan thông qua các liên kết để
tìm hiều sâu hơn về vấn đề quan tâm. Hoặc từ một trang báo, có thể dễ dàng
đi đến các web liên kết khác chỉ với một thao tác click chuột. Khả năng liên
kết của báo mạng điện tử thật sự mở ra một kho thông tin vô hạn cho độc giả.
1.2.5. Khả năng lưu trữ và tìm kiếm dễ dàng
Báo mạng điện tử cho phép lưu trữ bài viết theo hệ thống khoa học, với
một lượng khổng lồ thông tin lưu trữ. Đồng thời với đó là khả năng tìm kiếm
dễ dàng nhờ vào các mục tìm kiếm với các từ khoá được đính kèm trên mỗi
trang báo mạng điện tử. Có thể xem theo ngày, theo bài, hoặc chủ đề… Nếu
không có điều kiện đọc ngay lúc online, độc giả báo mạng có thể lưu bài viết
lại để đọc sau hoặc là độc giả cũng có thể đọc lại nhiều lần tùy thích, mà thao
tác hoàn toàn đơn giản.
1.2.6. Tính xã hội hóa cao, khả năng cá thể hoá tốt
Nhờ vào sự phủ sóng của mạng toàn cầu Internet, báo mạng điện tử
không có giới hạn về khoảng cách, thêm vào đó là tính tương tác cao, do đó
dễ dàng có thể thấy tính xã hội hóa rất cao ở loại hình báo chí mới mẻ này.
Đồng thời báo mạng điện tử cũng có khả năng cá thể hóa tốt. Tính cá thể hóa
được thể hiện ở chỗ người đọc được chủ động lựa chọn tờ báo, trang báo, bài
báo theo nhu cầu, đọc bao lâu tùy thích.
Ngoài ra, báo mạng điện tử có độ lan toả cao, dễ dàng đính chính, chi
phí thấp do chỉ phải post bài một lần duy nhất, đồng thời thông tin lại có giá
trị sử dụng cao hơn do được đọc theo nhu cầu của độc giả.
1.3. Quan niệm của ngƣời Việt về hôn nhân và tình dục từ xã hội
truyền thống đến hiện đại
Trong văn hóa thời xa xưa, để duy trì và phát triển sự sống, ở những
vùng sinh sống bằng nghề nông cần phải có mùa màng tươi tốt, con người
được sinh sôi nảy nở. GS.Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Để duy trì cuộc sống,
cần cho mùa màng tươi tốt. Để cho phát triển cuộc sống cần cho con người
sinh sôi. Trí tuệ của người bình dân nhìn thấy thực tiễn đó ở một sức mạnh
siêu nhiên, bởi vậy mà sùng bái nó như thần thánh và kết quả là xuất hiện tín
ngưỡng phồn thực - tín ngưỡng cầu mong sự sinh sôi nảy nở của tự nhiên và
con người (phồn = nhiều, thực = nảy nở)”. [33, tr.234].
Trong hôn nhân, có một việc khá tế nhị mà nhắc đến nhiều người ái
ngại, đó là TD. Nói một cách khách quan, bản thân của TD là không xấu, nó
cũng được xếp vào nhóm “nhu cầu cơ bản” của con người, chung với ăn,
uống, ngủ nghỉ. Thế nhưng, người đời thường ngại ngùng, khắt khe khi nhắc
tới nó, đặc biệt là ở một nước phương Đông như nước ta. Ông bà ta ngày xưa
tế nhị, nhắc đến TD thường gọi bằng cụm từ “quan hệ vợ chồng”, hiểu đơn
giản là sau khi hai người đã là vợ chồng rồi thì mới có TD.
Từ đó, chúng ta có thể hiểu rằng, TDTHN là quan hệ TD của những cặp
tình nhân trước khi kết hôn. Mỗi dân tộc luôn có một nền văn hóa khác biệt và
một hệ thống những quan niệm khác biệt về văn hoá TD. Tại nhiều nước phát
triển ở phương Tây thì vấn đề TDTHN ngày nay là một chuyện bình thường,
không còn là phạm pháp hay là một điều cấm kỵ. Ở Việt Nam, phần lớn do
ảnh hưởng nặng nề của Nho giáo, nhiều người vẫn chưa có thiện cảm hay còn e
dè khi nhắc đến hai chữ TD, vì theo họ đó chính là chuyện riêng của hai người
trong phòng ngủ, lôi ra trước bàn dân thiên hạ để bàn tán là việc không nên. Lại
có người quan niệm những ham muốn, những ý nghĩ về TD là „tội lỗi‟.
Tuy nhiên, trong cuộc sống hiện đại ngày này, chúng ta phải thoát ra khỏi
lối suy nghĩ khắt khe theo quan niệm đạo đức thời phong kiến để có một cái nhìn
thoáng hơn và mang tính đột phá khi chạm đến cái cốt lõi của vấn đề TD.
1.3.1. Quan niệm của người Việt về hôn nhân và tình dục trong xã
hội truyền thống
Văn hóa Viê ̣t Nam chi ̣u ảnh hưở ng ma ̣nh mẽ củ a Phâ ̣t giáo và Nho
giáo. Chính vì vậy, lối suy nghĩ và nếp sống củ a giớ i trẻ ngày nay có s ự giằng , giữa những niềm tin , giá trị truyền thống xé, vâ ̣t lô ̣n giữa cái cũ và cái mớ i vớ i phong cách hiê ̣n đa ̣i du nhâ ̣p từ các nư ớc phát triển trên thế giới. Xã hội truyền thống đặt ra luật bất thành văn quy định đôi lứa yêu nhau không được
phép quan hệ TD trước khi kết hôn. Về quan niệm đạo đức, việc đôi trai gái
giữ gìn cho nhau thể hiện sự trong trắng trong tâm hồn, đức hạnh trong tình
yêu, ý thức tiết chế dục vọng để giữ gìn thể xác thuần khiết trong HN, thể
hiện sự tôn trọng và chung thủy với người bạn đời.
Ngày xưa, nam nữ dù yêu nhau đến mấy cũng không dám chạm vào
nhau, dù chỉ là một cái nắm tay. Khi một người phụ nữ quan kệ TDTHN khi
chưa lấy chồng mà có con thì sẽ bị cả gia đình, xã hội tẩy chay bằng cách cạo
đầu, bôi vôi, rêu rao và cho lên bè chuối trả trôi sông. Hoặc nếu không còn
trinh trước khi lấy chồng mà bị chồng phát hiện ra, cô gái đó có thể bị nhà
chồng trả về hoặc sống cả đời trong sự hắt hủi của người chồng. Trường hợp
cô gái bị thất trinh là nỗi ô nhục lớn của cha mẹ. Kết cục là cô gái và gia đình
cô ta sẽ bị dân làng dè bỉu, cười chê, trong rất nhiều trường hợp họ không còn
cách nào khác là phải bỏ làng đi biệt xứ.
Chuấn mực văn hóa của người Việt Nam ta rất coi trọng trinh tiết của
người con gái và dựa vào đó người ta biết được người con gái được giáo dục
như thế nào, có biết giữ mình hay không. Thông thường, khi nghiên cứu về đề
tài TDTHN thì trinh tiết cũng là một yếu tố được các nhà nghiên cứu đề cập
đến. Bởi vì khái niệm trinh tiết chính là khái niệm mang tính nền tảng, quyết
định đến việc có nên quan hệ trước HN hay không.
Xã hội truyền thống quy định con gái phải giữ được chữ trinh trước khi
về nhà chồng, vì ba lý do: Một là, bảo vệ sức khỏe cho người chồng và tránh
việc người con gái chửa hoang. Hai là, việc giữ gìn cho chồng thể hiện sự
trong trắng trong tâm hồn, đức hạnh trong tình yêu, ý thức tiết chế dục vọng
để giữ gìn thể xác thuần khiết trong HN, thể hiện sự tôn trọng và chung thủy
với bạn đời của người phụ nữ. Ba là, ngày xưa xã hội trọng nam khinh nữ,
người con gái phải giữ gìn để dâng hiến trọn vẹn cho người con trai chứ
không có chuyện ngược lại.
Ngoài ra, ca dao, tục ngữ cũng có những câu đề cao giá trị của chữ
trinh như: “Gái khôn tránh khỏi đò đưa. Trai khôn tránh khỏi vợ thừa người
ta”. Hoặc nhân vật Lục Vân Tiên của cụ Nguyễn Đình Chiểu, vốn tiêu biểu
cho những bậc nam nhi trọng lễ nghĩa cũng có câu nói với nàng Kiều Nguyệt
Nga như sau: “Trai thời trung hiếu làm đầu. Gái thời tiết hạnh làm câu trau
mình”. Hầu hết các tác phẩm được viết trong các triều đại phong kiến ở Việt
Nam đều xây dựng hình ảnh người phụ nữ e lệ, khép nép trong khuê phòng.
Nếu có yêu thì cũng hết sức rụt rè và chấp nhận sự sắp đặt của cha mẹ. Mặc
dù các tác phẩm văn học chính thống chỉ phản ánh quan niệm và lối sống của
một bộ phận rất nhỏ dân cư thuộc tầng lớp trên và hầu như không đả động đến
đại bộ phận dân chúng thuộc tầng lớp dưới nhưng chúng đã phản ánh hệ tư
tưởng chính thống của các triều đại phong kiến Việt Nam trong nhiều thế hệ.
Ngược lại dòng lịch sử, tiêu biểu nhất cho chế độ HN và gia đình phong
kiến Việt Nam là hai bộ luật: Quốc triều hình luật (thường gọi là bộ luật Hồng
Đức) ban hành dưới thời Lê (thế kỷ XV) và Hoàng Việt luật lệ (thường gọi là Bộ
luật Gia Long) ban hành dưới thời Nguyễn (1815). Quan hệ HN trong thời kỳ
này được thực hiện theo nguyên tắc “không tự nguyện, một chồng nhiều vợ. Vợ
chồng không bình đẳng” và việc kết hôn phải có sự cho phép của cha mẹ. Các bộ
Quốc triều Hình luật và Hoàng Việt luật lệ đều quy định: “Việc kết hôn phải
thực hiện dưới sự đứng đầu sắp đặt của cha mẹ hoặc người trưởng họ hoặc
trưởng làng. Trường hợp đôi nam nữ tự ý sống chung với nhau như vợ chồng mà
không qua nghi lễ luật định gọi là “cấu hợp”, thì bị phạt rất nặng nề “người con
trai phải nộp tiền tạ cho cha mẹ người con gái, đồng thời người con gái bị phạt
50 roi. Sau đó giá thú mới được gọi là hợp pháp. Còn trường hợp “tiền dâm hậu
thú”, trước thông dâm với nhau rồi sau mới cưới thì con trai bị đánh 80 trượng,
luận tội đồ; con gái bị đánh 50 roi” [40, Điều 314]. Như vậy, trong xã hội
phong kiếnViệt Nam cũng có những quy định hết sức nghiêm ngặt về việc nam
nữ sống chung như vợ chồng mà không theo nghi lễ.
Chuyện TD của người Việt trong xã hôi xưa vốn rất khắt khe và kín
đáo. Mục đích của quan hệ TD là để sinh con và duy trì nòi giống. Vì vậy,
việc quan hệ TD luôn luôn gắn liền với hôn nhân và chỉ xảy ra khi hai bên
nam nữ đã nên vợ thành chồng. Hành vi quan hệ trước HN luôn được xem là
trái với đạo đức xã hội, không thể chấp nhận được. Trong đó, người phụ nữ
chịu nhiều sức ép, điều tiếng, luôn bị lên án là hư hỏng và khó được tha thứ
hơn đàn ông. Quan niệm về giá trị của sự trinh tiết, về cái “ngàn vàng” đã
buộc người phụ nữ phải giữ gìn và kìm hãm việc quan hệ TDTHN. Tuy vậy,
có thể nói rằng, tình trạng này vẫn xảy ra, nhưng nói chung là rất ít.
Từ khi đất nước thống nhất, đặc biệt là sau năm 1986 đến nay, Việt
Nam bắt đầu mở cửa, kết nối về mọi mặt với các nước trên toàn thế giới. Việc
giao lưu về kinh tế đã dẫn đến sự tiếp xúc mạnh mẽ về văn hóa. Qua các
phương tiện truyền thông, báo, đài, internet… giới trẻ ngày càng hiểu nhiều
hơn về lối sống của người phương Tây vốn nhìn nhận chuyện TD dưới con
mắt khá cởi mở và thoải mái. Trong đời sống xã hội phương Tây hiện đại ấy,
thanh niên quan hệ TDTHN không bị xem là vi phạm đạo đức xã hội và chữ
trinh không được đánh đồng với giá trị của người phụ nữ như trong xã hội
phương Đông. Những quan niệm khắt khe về đạo đức xã hội theo quan niệm
phong kiến đã có những bất cập và không còn phù hợp xã hội hiện đại.
Như vậy, có thế thấy rằng, quan hệ TDTHN trong xã hội truyền thống
của người Việt là điều không thể chấp nhận được. Vì xã hội quá khắt khe với
chuyện trinh tiết nên buộc người phụ nữ phải gìn giữ sự trong trắng đến sau
khi xuất giá. Đây cũng được coi là một nét đẹp truyền thống trong tâm hồn
người Việt. Đến ngày nay, với nhiều sự thay đổi về quan điểm, lối sống, thì
quan niệm đó vẫn được rất nhiều người coi trọng và giữ gìn.
1.3.2. Quan niệm của người Việt về hôn nhân và tình dục trong xã
hội hiện đại
Khi chính sách mở cử a đươ ̣c áp du ̣ng, đất nướ c chuyển mình vớ i những
thay đổi ma ̣nh mẽ thì cuô ̣c sống TD củ a nam nữ thanh niên cũng có những thay đổi đ ến ngỡ ngàng . Nguyên nhân khiến nhận thức của giới trẻ thay đổi có thể vì tác động của môi trường sống hiện đại, không còn bị ràng buộc quá
nhiều bởi các giá trị truyền thống và đặc biệt là sự tiếp thu luồng văn hóa
khổng lồ trên mạng internet. Theo thống kê trên Google Trends, năm 2012,
Việt Nam là nước xếp thứ 4 về lượng người tìm kiếm từ “sex” và các từ khóa
liên quan.
Một trong những bằng chứng cho thấy sự biến đổi trong quan hệ giới
tính và TD là số lượng ngày càng tăng của các bài báo, ấn phẩm viết về chủ
đề này. Rất nhiều vấn đề xoay quanh tình yêu, TD được đưa ra, từ chuyện
quan hệ TDTHN đến việc làm thế nào để giữ gìn hạnh phúc trong đời sống
tình ái của vợ chồng. Có nhiều quan điểm cho rằng, sự tràn ngập của các chủ
đề này trên các phương tiện thông tin đại chúng có tác dụng “vẽ đường cho
hươu chạy”, kích thích TD và khuyến khích lớp trẻ sống thoải mái, bất chấp
hậu quả. Bởi vì trên thực tế, giới trẻ Việt Nam ngày càng sống thoáng như các
nước phương Tây nhưng không có sự thông minh và tỉnh táo để phòng tránh
hậu quả, bảo vệ bản thân.
Có thể khẳng định rằng, TDTHN đi ngược với giá trị truyền thống dân
tộc. Mặc dù chuẩn mực văn hóa không cho phép, nhưng trên thực tế điều này
vẫn đang diễn ra ngày càng phổ biến. Có những bạn trẻ đều hiểu rõ nền văn
hóa Á Đông đã ăn sâu vào tâm thức của mỗi con người. Tuy nhiên, dường
như với sự hấp dẫn của một nền văn hóa mới mẻ và thoáng về TD như ở
phương Tây đã ảnh hưởng đến suy nghĩ của nhóm đối tượng này. Sự đấu
tranh giữa cái mới và cái cũ diễn ra hết sức mạnh mẽ. Trong đó, một bộ phận
thanh niên đã xem hành vi quan hệ TDTHN là sự lựa chọn lối sống của cá
nhân, không phải là tiêu chuẩn để đánh giá về nhân cách hay đạo đức như
quan niệm truyền thống. Họ cho rằng, khi hai người đến với nhau, đủ yêu
nhau thì việc “đi xa hơn” là điều dễ hiểu. Thậm chí, TD còn được coi là chất
xúc tác giúp cho tình yêu thêm thăng hoa, hạnh phúc.
Ngày nay, việc các cặp đôi đang trong thời kỳ yêu đương có quan hệ
TD không bị đánh giá nặng nề như ngày xưa. Nếu họ đi đến HN thì chuyện
“ăn cơm trước kẻng” hoàn toàn được bỏ qua. Mọi người cũng ít soi mói hơn,
ít kiểm soát hơn đối với những cặp đang hẹn hò. Trong một bài trả lời phỏng
vấn trên báo Nghệ An online ngày 27/6/2015, Tiến sĩ Khuất Thu Hồng, Viện
trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội đã bày tỏ quan điểm: “Rõ ràng là
trong thực tế, thái độ xã hội đối với quan hệ TDTHN ngày càng cởi mở hơn.
Cho dù trinh tiết vẫn được đề cao như một giá trị, nhưng tôi cho rằng chủ yếu
là trong hoài niệm mà thôi. Cho dù một số nam giới vẫn bị ám ảnh về trinh
tiết nhưng họ cũng thừa hiểu rằng vì việc ăn cơm trước kẻng là phổ biến và
bản thân họ cũng ăn cơm trước kẻng nên việc đòi hỏi người vợ còn trinh là
một điều bất hợp lý và không công bằng. Những phẩm chất khác của người
vợ người chồng tương lai mới là những điều họ quan tâm khi đi đến HN. Tôi
cho rằng sự nghiêm túc và chân thành trong tình yêu và tình dục mới là điều
quan trọng nhất trong mối quan hệ”.
Thực tế, có rất nhiều người quan niệm đồng nhất tình yêu với TD. Họ
cho rằng yêu thì không cần lý trí, phải trao thân cho nhau mà không chút đắn
đo. Với những người có tư tưởng sống thoáng, yêu thì phải quan hệ TD, phải
có TD mới giữ được người yêu. Có những bạn trẻ nghĩ về sex với thái độ hời
hợt, coi đó là chuyện nhỏ giống như ăn uống hàng ngày. Họ nghĩ rằng mình là
"người trẻ hiện đại" thì phải thoáng, phải học theo Tây trong những nhu cầu
bản năng như thế. Tuy nhiên, nếu có một cái nhìn khách quan và sâu sắc, văn
hóa phương Tây cũng rất nghiêm túc trong chuyện TD chứ không hề hời hợt,
dễ dãi như họ vẫn nghĩ. Sự học đòi, a dua theo "lối sống Tây" một cách thiếu
hiểu biết khiến tình yêu đang dần mất đi ý nghĩa cao đẹp đích thực của nó. TS
tâm lý Nguyễn Thị Kim Quý cho rằng: "Đây là một hiện tượng xuống cấp về
đạo đức của xã hội. Khi cái tôi cá nhân được đề cao thái quá thì chuyện TD
thoáng sẽ xảy ra. Đã là con người thì không thể tách rời khỏi xã hội. Khi bản
năng không được kiềm chế, con người bản năng thắng thế thì xã hội sẽ suy
thoái, sống theo bản năng, phần "con" nhiều hơn phần người".
Sống trong cơn lốc xoáy của nền kinh tế thị trường, giới trẻ mải chạy
theo những giá trị vật chất mà không lo tu dưỡng những giá trị tinh thần cao
đẹp, thay vào đó họ cứ lao đầu vào cạnh tranh, ganh tị và lối sống ích kỷ. Hệ
quả tất yếu từ những việc này là tâm hồn họ trở nên chai sạn, chuẩn mực và lý
tưởng sống bị lệch lạc. Tình trạng này lan rộng hiển nhiên sẽ kéo theo sự thụt
lùi của các chuẩn mực xã hội cao đẹp. Cuộc sống càng hiện đại bao nhiêu thì
con người càng làm nô lệ cho nhiều thứ chán nản, thất vọng. Khi đó họ muốn
tìm đến với TD dễ dãi, bừa bãi để khỏa lấp cho sự thất vọng đó. Tiến sĩ Xã
hội học Trịnh Hòa Bình (Viện Khoa học xã hội Việt Nam) cho rằng: “Trào
lưu sống thoáng "tình dục không tình yêu" trong xã hội hiện nay là kết quả
của một quá trình con người được giải phóng những hà khắc, cấm đoán một
thời. Quá trình này đang ở cao trào, đi từ việc giải phóng nhu cầu chính đáng
bị cấm đoán của con người đến việc giải phóng bằng mọi giá, giải phóng một
cách tròn trĩnh để quay về đời sống tự nhiên mang tính bản năng”.
Hiện nay, có rất nhiều trào lưu mới về lối sống đang du nhập vào nước
ta, nếu mỗi người, đặc biệt là giới trẻ không biết tiếp thu có chọn lọc tốt - xấu
thì sẽ gây ra những hệ lụy khôn lường. Quan niệm dễ dãi về TD đang làm tổn
hại đến truyền thống tốt đẹp ngàn đời của văn hóa Việt Nam, đó là: tôn trọng
lễ nghĩa Gia phong, nét đẹp trong sáng thùy mị của người con gái. Quan hệ
TDTHN sẽ khiến chuyện TD mất hết giá trị thiêng liêng, trở thành một “thú
chơi” mang tính bản năng. Những cuộc chơi đó sẽ chỉ đem lại sự trống trải, ê
chề trong lòng mỗi con người, đặc biệt là có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tinh
thần và thế chất của người con gái.
Sự ảnh hưởng của lối sống phương Tây đã khiến truyền thống coi
trọng trinh tiết trong giới trẻ Việt Nam bị suy yếu. Nhà Việt Nam học nổi
tiếng, Tiến sĩ kinh tế Nga Vladimir Mazyrin đã có bài viết “Phương Tây đe
dọa sự ổn định của xã hội Việt Nam”, phát biểu tại trường Đại học Tổng hợp
Moskva như sau: "Ảnh hưởng ngày càng tăng của nền văn minh và lối sống
phương Tây đến thanh niên Việt Nam đe dọa phá hủy sự ổn định của xã hội
Việt Nam. Trong xã hội hình thành rõ xu hướng tổn hại các giá trị gia đình
và các mối quan hệ. Đó là tự do TD với kết quả gần 300.000 ca phá thai
hàng năm trong số trẻ vị thành niên. Việc tiêu xài hoang phí và theo đuổi
những lợi ích vật chất là những nét hoàn toàn không đặc trưng cho những
người Việt Nam cần kiệm...".
Qua thông tin trên các phương tiện truyền thông đại chúng những năm
gần đây có thể thấy rằng, quan niệm và tâm thế của người Việt Nam, đặc biệt
là giới trẻ đối với vấn đề TD, tình yêu và HN đã thay đổi nhiều. Nếu như vài
chục năm trước, dư luận xã hội sôi nổi đề cập đến vấn đề TDTHN như một
biểu hiện của nền đạo đức bị xuống cấp thì cho đến nay, người ta có vẻ như
thản nhiên hơn trước thực trạng này. Những quan niệm mới về tình yêu, TD
đã bắt đầu tìm được chỗ đứng và cách ứng xử mới đã bắt đầu được hình thành
và phát triển. Điều đó không có nghĩa là khuôn mẫu mới này đã được xã hội
chấp nhận hoàn toàn và rộng rãi nhưng cũng không thể phủ nhận sự tồn tại
của chúng khi có những bằng chứng rõ ràng về những biến đổi hành vi TD
trong thực tế.
Qua nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy sự mâu thuẫn, sự day dứt,
băn khoăn của giới trẻ trước những giá trị cũ và mới về tình yêu, về trinh tiết
và TDTHN. Không khó để nhận ra rằng, có một sự giằng xé trong nô ̣i tâm củ a
nam nữ thanh niên có quan hê ̣ TDTHN: mô ̣t bên là muốn tiếp nhận quan niê ̣m cở i mở , phóng khoáng của văn hóa hiện đại , mô ̣t bên là muốn giữ gìn nét văn
hóa truyền thống vớ i những giá tri ̣ truyền từ đờ i này sang đờ i khác . Bên cạnh những quan điểm thoáng, cởi mở hơn về TDTHN thì vẫn còn nhiều người
phản đối vì họ cho rằng không phù hợp với phong tục tập quán, sợ ảnh hưởng
đến tinh thần và sức khỏe. Lý do về đạo đức luôn luôn là lý do hàng đầu.
Trinh tiết là cái ngàn vàng. Con gái biết giữ trinh tiết cho tới ngày lấy chồng
là con nhà gia giáo và đồng thời phản ánh sự thủy chung. Thậm chí trong xã
hội rất “thoáng” hiện nay, không chỉ có những bậc phụ huynh, những người
lớn tuổi có cái nhìn nghiêm khắc trong việc “ăn cơm trước kẻng”, không ít
bạn trẻ cũng có những đánh giá cực đoan, lấy việc “thử trái cấm” làm thước
đo để đánh giá một con người. Khi trao cái ngàn vàng trước hôn nhân mà
không thành vợ thành chồng thì người con gái sẽ bị tổn thương nhất, bị xã hội
đánh giá về mặt phẩm hạnh.
Bản chất của việc quan hệ TDTHN thật sự là không xấu, xấu hay
không là phụ thuộc vào lý do của hành động ấy, là ở hậu quả hay hiệu quả mà
nó mang đến. Tuy nhiên, trong một xã hội phương Đông như Việt Nam, việc
quan hệ TDTHN không được khuyến khích. Dưới góc độ văn hoá, phần lớn
người Việt Nam hiện đại gốc gác đều là những người nông dân, vì thế họ khó
chấp nhận với lối sống chung trước HN. Tuy nhiên, hiện tượng này vẫn đang
diễn ra một các khá phổ biến. Đó chính là một thực tế “đắng lòng” của xã hội
hiện đại nên buộc chúng ta phải chấp nhận. Tuy nhiên, các bạn trẻ phải lưu ý
một điều vô cùng quan trọng rằng: Nếu các bạn trẻ muốn sống thử theo cách
của xã hội phương Tây thì nên nhìn nhận nó từ góc nhìn văn hoá phương
Đông để điều chỉnh và chọn lọc cho phù hợp, nên tiếp thu tư tưởng của các
nước phương Tây một cách lành mạnh nhất.
Không thể căn cứ vào hiện tượng quan hệ TDTHN trong giới trẻ ngày
nay mà cho rằng đây là một sự tha hóa về lối sống. Vấn đề là quan niệm sống
và hành xử của chính người trong cuộc. Việc hai người có đi đến kết hôn hay
không không chỉ phụ thuộc vào việc có quan hệ TD trước hay sau HN. Vấn
đề là khi quyết định quan hệ TD, người trong cuộc nhận thức như thế nào về
tình yêu, trách nhiệm đối với nhau và với chính mình. Nhận thức cởi mở với
TD sẽ tốt nếu nó giúp người trẻ chủ động trang bị những hiểu biết cơ bản và
cần thiết về giới tính, mối quan hệ khác giới, tình yêu, HN, quan hệ TD an
toàn… để tự bảo vệ mình trước những cám dỗ của xã hội, những phút nông
nổi của chính bản thân. Tuy nhiên, trên thực tế không phải ai cũng nhìn nhận
đúng đắn khái niệm “cởi mở” này.
Tóm lại, giống như nhiều dân tộc khác trên thế giới, người Việt Nam
cũng có những quan niệm nhất định về tình yêu, TD, HN và những điều này
biến thiên theo thời gian và theo hoàn cảnh lịch sử của đất nước. Những chính
sách đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế sâu rộng của Việt Nam những thập
niên vừa qua đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến quan hệ tình yêu, TD của người
Việt. Những khuôn mẫu của văn hóa truyền thống không còn can thiệp và
kiểm soát quá mạnh quan hệ tình yêu của thế hệ trẻ. Tuy nhiên, sống trong
một xã hội phương Đông như Việt Nam, việc quan hệ TDTHN không được
khuyến khích. Nếu có thể, bạn trẻ cũng không nên quan hệ TD sớm, bởi ngoài
các lý do nói trên, việc bạn dễ dãi trong chuyện thiêng liêng ấy chính là cách
làm giảm giá trị của bản thân mình trong mắt đối phương, trong mắt mọi
người và trong mắt chính mình. Hãy trang bị cho mình những kiến thức về
sức khỏe sinh sản và chịu trách nhiệm trước những việc mình làm khi để xảy
ra chuyện TDTHN.
1.4. Vai trò của báo chí trong việc thông tin về vấn đề tình dục
trƣớc hôn nhân
Thực trạng của vấn đề TDTHN ở Việt Nam đã là những con số đáng
báo động, khi Bộ Y tế nghiên cứu thì có tới 50% người vị thành niên chưa có
tri thức đầy đủ về sinh lý tuổi dậy thì và các vấn đề TD, mang thai. Hiện
tượng quan hệ TDTHN đã trở nên phổ biến trong lứa tuổi vị thành niên ở
nhiều thành phố lớn, kéo theo tỷ lệ nạo hút thai trong độ tuổi này có xu hướng
gia tăng. Thống kê của Hội Kế hoạch hóa gia đình Việt Nam cho thấy, trung
bình mỗi năm cả nước có khoảng 300 ngàn ca nạo hút thai ở độ tuổi 15-19,
trong đó 60-70% là học sinh, sinh viên. Theo Tổng cục Dân số-KHHGĐ, mặc
dù tỷ lệ phá thai ở Việt Nam trong 10 năm gần đây giảm, nhưng tỷ lệ nạo phá
thai ở trẻ VTN, thanh niên lại có dấu hiệu gia tăng, chiếm hơn 20% các
trường hợp nạo phá thai. Có lẽ với những con số biết nói đáng báo động như
trên, thì thực trạng quan hệ TDTHN đã trở thành vấn đề được bàn luận sôi nổi
trong xã hội hiện nay. Và như vậy, cũng không hoàn toàn ngẫu nhiên mà vấn
đề này lại trở thành đề tài được báo chí truyền thông quan tâm.
Trong khoảng những năm 2007-2010, trên báo chí dày đặc những
thông tin về việc sống thử của sinh viên, việc quan hệ TDTHN của giới trẻ.
Bởi thời điểm đó, sống thử trước HN là một vấn đề “nóng”, nổi cộm, được dư
luận xã hội quan tâm và có rất nhiều ý kiến trái chiều xung quanh việc đồng
tình hay phản đối thực trạng này. Đến những năm gần đây, vấn đề này không
còn mới và xa lạ nữa, tuy nhiên nó vẫn đang diễn ra một cách mạnh mẽ. Trên
các tờ báo, tạp chí, phát thanh, truyền hình, vấn đề sức khỏe sinh sản, giới
tính nói chung và vấn đề TDTHN nói riêng vẫn được đề cập đều đặn mặc dù
không được phong phú, đa dạng như trước.
Khi đề cập đến vai trò của báo chí đối với quá trình phản ánh thông tin
về vấn đề TDTHN trong giới trẻ, Tiến sĩ Khuất Thu Hồng - Viện trưởng Viện
Nghiên cứu Phát triển Xã hội (ISDS) đã chia sẻ: “Báo chí góp phần vào việc
thay đổi quan niệm xã hội theo hướng cởi mở hơn. Tuy nhiên, báo chí cũng
thường xuyên đưa ra các thông điệp mâu thuẫn. Một mặt, việc đưa tin dày
đặc về chủ đề TD, tình yêu, dẫn đến sự “bình thường hoá” vấn đề TD vốn ít
được nói đến công khai trong văn hoá Việt Nam. Mặt khác, một số bài báo lại
viết về TD, kể cả TDTHN một cách phê phán. Đặc biệt là rất nhiều bài báo có
thái độ phân biệt đối xử khi viết về vấn đề TD của phụ nữ, làm củng cố thêm
quan niệm giới truyền thống, gắn giá trị của người phụ nữ với trinh tiết.
Những thông điệp mâu thuẫn từ báo chí như vậy khiến cho xã hội, nhất là
giới trẻ bối rối giữa thực tế cuộc sống và những quan niệm lý tưởng”.
Báo chí hiện nay vẫn đang cố gắng nỗ lực đáp ứng nhu cầu thông tin
của giới trẻ vể mảng tâm sinh lý ở lứa tuổi vị thành niên, thanh niên. Mỗi loại
hình báo chí đều khẳng định thế mạnh riêng khi tác động đến nhận thức của
công chúng về vấn đề sức khỏe sinh sản và giới tính. Báo phát thanh với thế
mạnh âm thanh tổng hợp được phát sóng trực tiếp trên radio tạo được sức lan
tỏa nên thông tin có ảnh hưởng đến công chúng trên diện rộng. Báo truyền
hình với thế mạnh là hình ảnh, âm thanh sống động nên đã tạo được sự hấp
dẫn cho công chúng khi tiếp nhận thông tin. Báo in với những ưu thế riêng
của mình cũng đã tham gia vào phản ánh vấn đề TDTHN một cách nhanh
chóng và hiệu quả bởi số lượng, chất lượng các bài báo. Riêng báo điện tử,
với sức mạnh đa phương tiện, loại hình báo chí này đã phản ánh thông tin một
cách nhanh chóng và đa chiều đến công chúng.
Vai trò của báo mạng điện tử trong việc cung cấp kiến thức TD cho
giới trẻ vô cùng quan trọng, đặc biệt là trong thời đại bùng nổ truyền thông
hiện nay. Thông tin về vấn đề TDTHN trên báo điện tử có vai trò đặc biệt
quan trọng đối với công chúng, đặc biệt là khi vấn đề giáo dục giới tính cho
giới trẻ còn nhiều hạn chế về nội dung và cách thức truyền tải. Báo điện tử
góp phần chuyển tải được nội dung thông tin, tuyên truyền, giáo dục về vấn
đề TDTHN đến đúng đối tượng, trong khoảng thời gian nhanh nhất. Từ đó, đã
tạo nên được sự thay đổi trong nhận thức, thái độ, hành vi, niềm tin và cách
hành xử của giới trẻ về tình yêu, TD và HN. Tuy nhiên, một số mặt còn tồn
tại trong quá trình thông tin của các tờ báo điện tử đòi hỏi các nhà quản lý,
các nhà báo phải nghiêm túc nhìn nhận vấn đề và cùng nhau khắc phục để xây
dựng tờ báo ngày càng hấp dẫn, đáp ứng được nhu cầu của công chúng, đặc
biệt là giới trẻ.
Báo điện tử đã tham gia phản ánh vấn đề TDTHN một cách tích cực.
Điều này được thể hiện qua số lượng và chất lượng bài viết về vấn đề này.
Trong số các báo điện tử thông tin về vấn đề TDTHN, chúng ta phải kể đến
sự truyền tải thông tin nhanh nhay, mạnh mẽ và hiệu quả của VnExpress.net,
Tuoitre.vn, Thanh nien.com.vn. Mỗi tờ báo đã chọn một cách khai thác và
phản ánh thông tin riêng biệt, tuy nhiên đều có sự tác động không nhỏ đến
việc hình thành nhân cách, lối sống trong giới trẻ. Qua kết quả khảo sát,
chúng ta sẽ thấy được số lượng lớn bài viết cung cấp những bằng chứng sinh
động, mô tả hiện tượng TDTHN đang diễn ra tràn lan trong giới trẻ ở nước ta
hiện nay. Với cách tác động đến công chúng bằng những thông tin có chiều
sâu, độ tin cậy, độ chính xác cao, ba tờ báo đã góp phần không nhỏ trong việc
định hướng nhận thức đúng đắn cho giới trẻ về vấn đề TDTHN.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng, những thông tin trên báo điện tử
cũng có tác động không nhỏ đến việc hình thành nên quan niệm “thoáng” của
giới trẻ về TD và HN. Bên cạnh nhưng bài viết có mục đích giáo dục rõ ràng,
còn tồn tại nhiều bài viết chỉ mang tính chất hình thức, chiếu lệ, khơi khơi vấn
đề ra rồi để đấy. Những bài viết như thế vừa không có tính định hướng, giáo
dục mà đôi khi lại cổ xúy cho giới trẻ hành động theo trào lưu TDTHN một
cách tràn lan, không được trang bị những kiến thức cần thiết về sức khỏe sinh
sản để bảo vệ mình và “đối tác” của mình. Nhiều tờ báo điện tử đã mở diễn đàn
tập hợp ý kiến của độc giả về vấn đề TDTHN, tuy nhiên, việc định hướng lối
sống cho giới trẻ chưa được hiệu quả. Những bài viết hầu hết đều nghiêng về
việc phản ánh vấn đề một cách chung chung,hời hợt. Đã chỉ ra được những hậu
quả nhãn tiền và lâu dài đối với sức khỏe, tinh thần của các bạn trẻ, tuy nhiên
vẫn chưa đề xuất được những giải pháp thiết thực nhất để hạn chế vấn đề này.
Do quan niệm hẹp về giới tính và bản tính hay e ngại của người Việt
Nam khi nói về vấn đề tế nhị, nên có nhiều ý kiến cho rằng: thông tin, tuyên
truyền về sinh lý, TD là “vẽ đường cho hươu chạy”. Nhưng thực tế cho thấy,
vi giới trẻ thiếu hiểu biết và không được giáo dục để có hành vi đúng nên mới
dẫn đến những quan hệ thiếu trách nhiệm, thiếu văn hóa và đạo đức trong
quan hệ giới tính. Đã đến lúc, chúng ta không thể né tránh mà phải chủ động
giáo dục và định hướng thông tin về vấn đề TDTHN cho giới trẻ. Mặc dù có
nhiều tranh cãi về tính thích hợp trong việc giáo dục TD cho giới trẻ thông
qua các phương tiện truyền thông đại chúng. Nhưng trong thời đại bùng nổ
thông tin hiện nay, thì chúng ta không thể ngăn cản việc giới trẻ tiếp xúc với
các loại hình báo chí, đặc biệt là báo mạng điện tử. Vì vậy, điều quan trọng là
các nhà báo phải có định hướng đúng trong việc thông tin về vấn đề TDTHN,
cốt làm sao để “vẽ đường cho hươu chạy… đúng”.
Việc nhận thức được trách nhiệm, cũng như thấy được tính cấp bách
của công tác thông tin, tuyên truyền giáo dục về sức khỏe sinh sản và giới tính
là rất quan trọng đối với người làm báo và đối với một tờ báo điện tử. Nhưng
quan trọng hơn là việc: làm thế nào để chuyển tải được nội dung thông tin đến
bạn đọc và được bạn đọc chấp nhận; từ đó góp phần cung cấp kiến thức, nâng
cao nhận thức, thay đổi hành vi, tạo dựng mô hình trong cộng đồng về quá
trình thông tin, tuyên truyền giáo dục về vấn đề TDTHN. Để trả lời được câu
hỏi trên, bản thân mỗi nhà báo, tòa soạn báo điện tử cũng như các cơ quan
quản lý cần phải có định hướng truyền thông rõ ràng và sáng tạo trong mỗi
tác phẩm báo chí.
Tiểu kết chƣơng 1
Chương 1, tác giả luận văn đã trình bày và phân tích những thay đổi
trong quan niệm về tình yêu, hôn nhân qua từng thời kỳ lịch sử; từ quan niệm
về HN và TD trong xã hội truyền thống đến xã hội hiện đại. Đó là tiền đề lý
luận, là cơ sở cho việc nghiên cứu sự xuất hiện những quan niệm mới về tình
yêu, hôn nhân và tình dục trong giới trẻ hiện nay.
Trong xã hội nông nghiệp truyền thống, TDTHN được xem là hành vi
cấm kỵ, không phù hợp với thuần phong mỹ tục. Đôi nam nữ có quan hệ thể
xác trước khi kết hôn sẽ bị xử phạt rất nghiêm khắc. Tuy nhiên, khi đất nước
mở cửa hợp tác toàn diện với quốc tế, thì nền văn hóa phương Tây với nhiều
điều “mới-lạ” đã bao trùm lên toàn bộ không gian văn hóa Việt Nam. Một
quan niệm mới và thoáng về tình yêu, HN, TD đã hình thành trong giới trẻ và
dần dần trở thành một trào lưu không thể dập tắt. Chuyện sống thử hay
TDTHN đã không còn là vấn đề xa lạ với dư luận xã hội ngày nay.
Bởi vì TDTHN là một vấn đề nhạy cảm của xã hội nên đã nhận được sự
quan tâm đặc biệt của giới báo chí truyền thông. Với sự tác động mạnh mẽ,
nguồn thông tin phong phú, đa chiều, báo điện tử đã tích cực tham gia vào
việc thông tin về vấn đề TDTHN. Điều này được thể hiện qua số lượng và
chất lượng bài viết về vấn đề này. Trong số các báo điện tử thông tin về vấn
đề TDTHN, chúng ta phải kể đến sự truyền tải thông tin nhanh nhạy, mạnh
mẽ và hiệu quả của VnExpress.net, Tuoitre.vn, Thanh nien.vn. Có thể khẳng
định rằng, đây là ba tờ báo có sự tác động mạnh mẽ nhất đến đối tượng công
chúng là giới trẻ trong xã hội.
Ba tờ báo điện tử thuộc diện khảo sát đã phản ánh một cách khá rõ nét
về thực trạng cũng như hậu quả mà vấn đề TDTHN đem lại, từ đó, góp phần
cảnh tỉnh giới trẻ có những suy nghĩ, hành động đúng đắn hơn trong lối sống
của mình. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại nhiều bài viết không có
tính định hướng, giáo dục và đôi khi vô tình lại cổ xúy cho giới trẻ hành động
theo trào lưu TDTHN.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2002), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa - Thông
tin, Hà Nội.
2. Nguyễn Văn Dững, Hoàng Anh (1998), Nhà báo: Bí quyết kỹ năng nghề
nghiệp, Nxb Lao Động.
3. Claudi Mart, Truyền thông đại chúng công tác biên tập (2007), Nxb
Thông tấn, Hà Nội.
4. Đức Dũng (2001, tái bản các năm: 2002, 2003, 2004), Viết báo như thế
nào?, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
5. Nguyễn Quang Điền (2007), Đời sống văn hóa sinh viên - một số vấn đề
cần quan tâm, Tạp chí tư tưởng-Văn hóa (số 5).
6. Gammeltoft, T (2006), Là một người đặc biệt đối với một ai đó (vấn đề tình
dục tại đô thị trong xã hội Việt Nam đương đại), Nxb Thế giới, Hà Nội.
7. Nguyễn Thị Trường Giang (2011), Báo mạng điện tử: những vấn đề cơ
bản, Nxb Chính trị Hành chính.
8. Mai Văn Hai (2004), Sự mở rộng đường bán kính kết hôn trong hơn nửa
thế kỷ qua ở một làng châu thổ sông Hồng, Hội thảo Gia đình việt Nam
hiện nay, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.
9. Vũ Quang Hào (2004), Ngôn ngữ báo chí, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
10. Nguyễn Quỳnh Hoa (2007), Xu hướng sống thử của thanh niên Việt Nam
hiện nay, Tạp chí nghiên cứu Gia đình và Giới (số 2).
11. Lê Như Hoa (2003), Bản sắc dân tộc trong lối sống hiện đại, Viện văn
hóa, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
12. Trịnh Trung Hòa (2008), Sống thử bất hạnh thật, Tạp chí Hạnh phúc gia
đình, số 3.
13. Phan Đăng Thanh, Trương Thị Hòa (2012), Các chế độ hôn nhân và gia
đình Việt Nam xưa và nay, Nxb Tổng hợp TP.Hồ Chí Minh.
14. Khuất Thu Hồng (1996), Nghiên cứu tình dục ở Việt Nam, Báo cáo Hội
đồng dân số, Hà Nội.
15. Khuất Thu Hồng, Lê Bạch Dương, Nguyễn Thị Ngọc Hường (2009),
Tình dục trong xã hội việt nam đương đại - trích Chuyện dễ đùa khó nói,
Nxb Tri thức.
16. Đinh Văn Hường (2009), Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác báo
chí truyền thông hiện nay - thực trạng và giải pháp, kỷ yếu Hội thảo khoa
học “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng”.
17. Vũ Khiêu (1997), Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
18. Kỹ năng viết bài (2006), Nxb Thông tấn.
19. Lê Ngọc Hùng (2010), Các các cấp độ và xu hướng biến đổi xã hội Việt
Nam, Tạp chí số 4, Viện Thông tin Khoa học Xã hội.
20. Vũ Mạnh Lợi, Tình dục trước hôn nhân: Nghiên cứu so sánh thanh niên
Hà Nội, Thượng Hải và Đài Loan, Viện Xã hội học, Viện Khoa học Xã
hội Việt Nam.
21. Nguyễn Thị Nguyệt (2007), Vấn đề hôn nhân - gia đình và trẻ em qua
góc nhìn báo chí, Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội.
22. Nhiều tác giả (2005), Thể loại báo chí, Nxb Đại học Quốc gia TP.HCM.
23. Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang, Cơ sở lý luận báo chí
truyền thông (2011), tái bản lần thứ 4; Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
24. Đặng Cảnh Khanh, Lê Thị Quý (2009), Gia đình học, Nxb Chính trị-
Hành chính Hà Nội.
25. PGS.TS Dương Xuân Sơn (2012), Giáo trình Lý luận báo chí truyền
thông, Nxb Giáo dục Việt Nam.
26. Nguyễn Thành Lợi, Phạm Minh Sơn (2013), Thông tấn báo chí - lý
thuyết và kỹ năng , Nxb Thông tin và Truyền thông.
27. Nguyễn Thị Minh Thái (2005), Phê bình tác phẩm Văn học nghệ thuật
trên báo chí, Đại học Quốc gia Hà Nội.
28. Nguyễn Quý Thanh (2011), Internet-sinh viên-lối sống, Nxb Đại học
Quốc Gia Hà Nội.
29. Võ Văn Thắng (2006), Ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường đối với việc
xây dựng lối sống ở nước ta hiện nay, Tạp chí cộng sản (số 10).
30. Tạ Ngọc Tấn (1999), Từ lý thuyết đến thực tiễn báo chí, Nxb Văn hoá-
Thông tin, Hà Nội.
31. Tạ Ngọc Tấn (2001), Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị Quốc gia.
32. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục.
33. Trần Ngọc Thêm (2006), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tổng
hợp TP.HCM.
34. Nguyễn Thị Thoa (chủ biên), Nguyễn Thị Hằng Thu (2011), Giáo trình
tác phẩm báo chí đại cương, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
35. Doãn Thị Thuận (2012), Thực trạng phát triển báo chí điện tử, mạng xã
hội ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Tuyên giáo điện tử, ngày 30/9.
36. Tổng cục Dân số-Kế hoạch hóa gia đình, Tổng cục thống kê và Ngân
hàng phát triển Châu Á (2010), Điều tra Quốc gia về Vị thành niên và
Thanh niên Việt Nam (SAVY2).
37. Phạm Hồng Tung (2011), Thanh niên và lối sống của thanh niên Việt
Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
38. Từ điển Tiếng Việt (1994), Trung tâm Từ điển, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
39. Tiến sĩ Kinh tế Nga Vladimir Mazyrin (2013), Phương Tây đe dọa sự ổn
định của xã hội Việt Nam.
40. Viện Sử học Việt Nam (1991), Quốc triều hình luật (Luật hình triều Lê),
Nxb Pháp Lý, Hà Nội.
41. Nguyễn Thị Phương Yến (2011), Nhận thức của thanh niên về tình dục,
Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ.