BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ VĂN KHÁNH

BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN,

HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT- TỪ THỰC TIỂN TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ QUẢNG TRỊ, TỈNH QUẢNG TRỊ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2021

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ VĂN KHÁNH

BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN,

HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT- TỪ THỰC TIỂN TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ QUẢNG TRỊ, TỈNH QUẢNG TRỊ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN THỊ THU HÀ

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi tên là Lê Văn Khánh, xin cam đoan rằng:

- Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và

chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.

- Các thông tin được trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ

nguồn gốc.

Thừa Thiên Huế, ngày 15 tháng 01 năm 2021

Học viên

Lê Văn Khánh

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập và thực hiện luận văn này, ngoài sự cố gắng

của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của nhiều tập thể và cá

nhân. Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân

thành đến các tập thể và cá nhân đó.

Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS. Nguyễn Thị

Thu Hà, người trực tiếp hướng dẫn, đã hết lòng tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp

đỡ tôi rất nhiều trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.

Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới toàn thể các

thầy, cô giáo của Học viện Hành chính Quốc gia, những người đã giảng dạy,

động viên, khuyến khích và tạo mọi điều kiện cho tôi trong quá trình học tập

và thực hiện luận văn.

Xin chân thành cảm ơn gia đình, những người thân và bạn bè đã chia

sẻ cùng tôi những khó khăn, động viên và khích lệ tôi trong học tập, nghiên

cứu để hoàn thành luận văn này.

Do giới hạn về mặt thời gian và trình độ còn hạn chế nên luận văn

không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong nhận được sự đóng góp

ý kiến của các thầy, cô giáo để luận văn này được hoàn thiện hơn.

Xin chân thành cảm ơn!

Học viên

Lê Văn Khánh

MỤC LỤC

Trang bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục viết tắt

Danh mục bảng biểu

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC THẨM

PHÁN, HỘI THẨM NHÂN DÂN XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN

THEO PHÁP LUẬT .................................................................................... 9

1.1. Khái niệm chung.................................................................................... 9

1.1.1. Khái niệm bảo đảm ............................................................................... 9

1.1.2. Khái niệm Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân ......................................... 10

1.1.3. Khái niệm nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ............. 15

1.1.4. Khái niệm bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. ................................................................ 18

1.2. Nội dung nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập

và chỉ tuân theo pháp luật .......................................................................... 21

1.2.1. Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập ........................... 21

1.2.2. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật ...................... 26

1.2.3. Mối quan hệ giữa tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt

động xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm. ........................................................ 31

1.3. Ý nghĩa của việc bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân

dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. ......................................... 38

1.3.1. Ý nghĩa về pháp lý ............................................................................. 38

1.3.2. Ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội ........................................................ 39

1.3.3. Ý nghĩa về mặt thực tiễn ..................................................................... 40

1.4. Các yêu cầu, điều kiện bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm

nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ................................. 41

1.4.1. Yêu cầu bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. ................................................................ 41

1.4.2. Điều kiện bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ................................................................. 42

Chương 2. THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN,

HỘI THẨM NHÂN DÂN XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO

PHÁP LUẬT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ QUẢNG TRỊ, TỈNH

QUẢNG TRỊ ............................................................................................... 45

2.1. Các yếu tố tác động đến việc bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội

thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ....................... 45

2.1.1. Yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội của thị xã Quảng Trị .......................... 45

2.1.2. Cơ cấu tổ chức, cán bộ Tòa án nhân dân thị xã Quảng Trị .................. 48

2.2. Thực tiễn bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét

xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật tại TAND thị xã Quảng Trị ......... 53

2.2.1 Thực tiễn bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

trong quá trình xét xử ................................................................................... 53

2.2.2. Bảo đảm việc chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Thẩm

phán và Hội thẩm nhân dân .......................................................................... 56

2.3. Đánh giá chung .................................................................................... 67

2.3.1. Kết quả đạt được ................................................................................ 67

2.3.2. Hạn chế .............................................................................................. 68

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế ........................................................ 72

Chương 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC

THẨM PHÁN, HỘI THẨM NHÂN DÂN XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ

TUÂN THEO PHÁP LUẬT TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN

THỊ XÃ QUẢNG TRỊ, TỈNH QUẢNG TRỊ ............................................. 82

3.1. Quan điểm bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét

xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ....................................................... 82

3.2. Giải pháp bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét

xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ....................................................... 86

3.2.1. Giải pháp về hoàn thiện thể chế .......................................................... 87

3.2.2. Giải pháp trong tổ chức thực hiện ....................................................... 94

KẾT LUẬN ............................................................................................... 106

TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Bộ luật tố tụng dân sự BLTTDS

Bộ luật tố tụng hình sự BLTTHS

Luật tố tụng hành chính LTTHC

Tòa án nhân dân TAND

Trách nhiệm hình sự TNHS

Viện kiểm sát nhân dân VKSND

Xã hội chủ nghĩa XHCN

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Số liệu các loại án đã giải quyết, xét xử từ năm 2015-2019 .......... 54

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài luận văn

Trong Nhà nước pháp quyền, tính độc lập của tư pháp là một trong

những đặc trưng cơ bản. Tầm quan trọng của tư pháp độc lập từ lâu đã được

ghi nhận tại Điều 10 Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế năm 1948 (UDHR) ghi

nhận, mọi người đều có “quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một

Tòa án độc lập và khách quan”. Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân

sự và chính trị năm 1966 (ICCPR) thì mọi người có “quyền được xét xử công

bằng, công khai bởi một Tòa án có thẩm quyền, độc lập, công minh được thiết

lập theo pháp luật”. Ở nước ta, tính độc lập khi xét xử của Thẩm phán và Hội

thẩm từ lâu đã là một nguyên tắc Hiến định (được ghi nhận trong các bản

Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013), được cụ thể hóa trong các

đạo luật quan trọng như Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật

Tố tụng hành chính, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân.

Tòa án là cơ quan có chức năng đặc biệt trong bộ máy nhà nước Nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan duy nhất có quyền xét xử và

chỉ Tòa án mới có quyền phán quyết một người có tội hay không có tội. Tòa

án xét xử và giải quyết những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình,

kinh doanh thương mại, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy

định của pháp luật.

Trong phạm vi chức năng của mình, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp

chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của

nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản,

tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Bằng chính hoạt động của mình,

Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành

nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những nguyên tắc của cuộc sống xã hội, ý

1

thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp

luật khác. Để bảo đảm cho Tòa án thực hiện đúng chức năng của mình, Hiến

pháp cùng nhiều văn bản luật có quy định những nguyên tắc cơ bản cho cơ

quan đặc biệt này.

Nguyên tắc "Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật" là một trong những nguyên tắc cơ bản để Tòa án thực hiện nhiệm

vụ xét xử, thể hiện quan điểm của Nhà nước trong hoạt động xét xử, Hội thẩm

và Thẩm phán có quyền đưa ra phán quyết trên cơ sở quyết định của pháp luật

để giải quyết vụ án một cách khách quan và chính xác mà không phải phụ

thuộc vào bất cứ sự tác động nào khác.

Mặc dù được quy định trong Hiến pháp và nhiều văn bản luật khác

nhưng trên thực tế việc bảo đảm nguyên tắc này còn nhiều bất cập, chưa thực

sự đem lại hiệu quả thiết thực trong quá trình Tòa án giải quyết các vụ việc.

Để đáp ứng yêu cầu đổi mới trong hoạt động xét xử, Đảng và Nhà nước ta đã

ban hành nhiều chính sách pháp luật, đề ra phương hướng, mục tiêu cụ thể về

hoạt động xét xử của Tòa án, đặc biệt theo tinh thần Nghị quyết 49/NQ-TW

của Bộ Chính trị ngày 02/06/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020 thì việc đi sâu nghiên cứu việc bảo đảm “Nguyên tắc Thẩm phán, Hội

thẩm nhân xét xử dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” từ thực tiễn tại Tòa

án nhân dân thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị là vấn đề có ý nghĩa thiết thực

góp phần làm rỏ về mặt lý luận và thực tiễn, chỉ ra những hạn chế, nguyên

nhân; từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc bảo đảm

“Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật” trong thời gian tới.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu, các

bài viết về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ

2

tuân theo pháp luật.Trong điều kiện của bản thân, học viên đã tham khảo các

tài liệu sau:

- Luận văn Thạc sỹ về “Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo luật tố tụng dân sự” của Phan

Bá Bảy, Trường Đại học quốc gia Hà Nội năm 2015.

Luận văn này mới chỉ khái quát về cơ sở lý luận của nguyên tắc

Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật tố tụng dân

sự; phần thực tiễn chỉ đưa ra một số thực tiễn mà chưa đánh giá hết việc thực

hiện áp dụng nguyên tắc này cũng như chưa chỉ rõ những hạn chế chủ quan

và khách quan; các giải pháp còn chung chung ...

- Luận văn Thạc sỹ về “Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong công cuộc cải cách tư pháp ở

Việt Nam hiện nay” của Vũ Thị Bích Diệp, Trường Đại học quốc gia Hà Nội

năm 2007.

Luận văn này cơ bản khái quát cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý của

nguyên tắc, phần thực tiễn chỉ nêu lên một số thực tiễn trong quá trình xét xử

và áp dụng nguyên tắc. Tuy nhiên, phần đánh giá thực tiễn chưa đề cập sâu

đến thực trạng, năng lực, phẩm chất của Thẩm phán, Hội thẩm, các tác động

ảnh hưởng đến nguyên tắc; thiếu một số giải pháp trong việc hoàn thiện cơ

chế, công tác đào tạo bồi dưỡng, các yếu tố đảm bảo nguyên tắc.

- Luận văn “Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và

chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự”, của Trần Thị Nhung San,

Trường Đại học Luật Hà Nội, 1995.

Luận văn này về phần cơ sở lý luận thì đã dựa trên Hiến pháp, các

luật chưa được sửa đổi, phần đánh giá thực tiễn giai đoạn này nền kinh tế thị

trường mới phát triển, tính chất các vụ án chưa phức tạp như giai đoạn ngày

nay, phần giải pháp có nội dung không còn phù hợp với giai đoạn hiện nay...

3

- Khóa luận tốt nghiệp: “Khi xét xử thẩm phán, hội thẩm độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật”, của Hàn Mạnh Thắng, Trường Đại học Luật Hà Nội, 1997;

- Bài viết “Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt

động xét xử của tòa án”, của Đỗ Thị Phương, Đề tài nghiên cứu khoa học,

Viện Khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao;

- Bài viết “Bảo đảm nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm

nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, của Trần Văn Kiểm, Tạp chí

Nghiên cứu lập pháp năm 2011;

Tình hình nghiên cứu đề tài Bảo đảm “Nguyên tắc Thẩm phán, Hội

thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” không còn là vấn đề

mới, trong thời gian qua đã có rất nhiều những bài viết, những công trình

nghiên cứu tìm hiểu về vấn đề này. Hầu hết các đề tài và các bài viết đều nêu

lên các cơ sở lý luận, một số thực tiển và một số giải pháp chung, chưa đi sâu

thực tiễn việc bảo đảm nguyên tắc này, chưa tìm ra hết những hạn chế và

những nguyên nhân của hạn chế từ khách quan, chủ quan để từ đó đưa ra các

giải pháp đồng bộ, toàn diện cho việc bảo đảm nguyên tắc có hiệu quả hơn

trong thực tế. Trên cơ sở tiếp thu, tổng hợp những đề tài, bài viết trước, cùng

với sự tìm tòi, và quá trình nghiên cứu của mình gắn với thực tiễn, tác giả đi

sâu vào phân tích cơ sở lý luận của việc bảo đảm “ Nguyên tắc Thẩm phán,

Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”,đưa ra những

khái niệm, nội dung của nguyên tắc, mối quan hệ, ý nghĩa của việc bảo đảm

nguyên tắc.

Phần thực trạng việc bảo đảm nguyên tắc luận văn đã phân tích nêu

lên các yếu tố kinh tế xã hội, cơ chế chính sách và các điều kiện đảm bảo để

thực hiện nguyên tắc ở cơ sở. Mặt khác đã khắc phục các luận văn trước nêu

rõ thực trạng và hạn chế của việc thực hiện nguyên tắc này tại Tòa án Thị xã

4

nói riêng cũng như Tòa án các cấp nói chung trong giai đoạn hiện nay, để

thấy rằng, việc bảo đảm nguyên tắc này thực tế vẫn còn nhiều bất cập và đưa

ra những quan điểm, giải pháp thích hợp, đồng bộ, toàn diện khắc phục các

luận văn trước. Luận văn này đưa ra hai nhóm giải pháp đó là: nhóm giải

pháp hoàn thiện cơ chế và nhóm giải pháp tổ chức thực hiện. Qua đó nhằm

góp phần bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập chỉ tuân

theo pháp luật được thực hiện có hiệu quả trong giai đoạn hiện nay cũng như

mục đích khẳng định đường lối chủ trương của Đảng trong cải cách tư pháp là

đúng đắn, kịp thời và cần được thống nhất thực hiện trên phạm vi cả nước.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng bảo đảm

nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật tại Tòa án nhân dân thị xã Quảng trị, luận văn đưa ra các giải pháp

góp phần bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập

và chỉ tuân theo pháp luật từ thực tiễn Tòa án nhân dân thị xã Quảng Trị, tỉnh

Quảng Trị.

3.2. Nhiệm vụ

+ Phân tích, làm rõ các vấn đề lý luận về bảo đảm nguyên tắc Thẩm

phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật tại Tòa án

nhân dân;

+ Làm rõ thực trạng bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân

dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật tại Tòa án nhân dân thị xã

Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị, từ đó chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế và

nguyên nhân của hạn chế;

+ Đưa ra được các giải pháp góp phần bảo đảm nguyên tắc Thẩm

phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật từ thực

5

tiễn Tòa án nhân dân thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật”.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: Nghiên cứu việc bảo đảm “Nguyên tắc Thẩm phán,

Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” tại Tòa án nhân

dân thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị.

- Về thời gian: Đề tài lấy số liệu nghiên cứu trong thời gian từ năm

2015 đến năm 2019.

- Về nội dung: Luận văn đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận và

thực tiễn của việc bảo đảm “Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét

xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Nguyên tắc được ghi nhận trong Hiến

pháp và được cụ thể hóa trong rất nhiều các văn bản luật: Luật tổ chức Tòa án

nhân dân, Luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hình sự, Luật tố tụng hành chính,

Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân…

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Phương pháp luận

Dựa trên hệ thống quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư

tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng về nguyên tắc Thẩm

phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp phân tích tài liệu: sử dụng trong phần cơ sở lý luận,

thực tiễn và làm cơ sở để đưa ra các giải pháp.

- Phương pháp thu thập và xử lý thông tin: sử dụng trong phần cơ sở

thực tiễn và làm cơ sở để đưa ra các giải pháp.

6

- Phương pháp so sánh: sử dụng trong phần cơ sở thực tiễn và làm cơ

sở để đưa ra các giải pháp.

- Phương pháp tổng hợp, logic biện chứng, hệ thống: sử dụng trong

phần cơ sở lý luận, thực tiễn và làm cơ sở để đưa ra các giải pháp.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm của hoạt động xét xử, luận văn đã hệ

thống hóa cơ sở lý luận về bảo đảm nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm nhân

dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Trên cơ sở đó, đưa ra khái

niệm khoa học về bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập

và chỉ tuân theo pháp luật. Làm rõ nội dung nguyên tắc, mối quan hệ giữa

tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử. Khẳng định

vai trò, vị trí của cơ quan Tòa án trong hệ thống cơ quan nhà nước, chỉ có

Tòa án mới có quyền xét xử và khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập chỉ

tuân theo pháp luật, không một cá nhân nào được phép can thiệp vào hoạt

động xét xử của Tòa án. Từ đó, củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt động

xét xử của Tòa án, nâng cao uy tín của Tòa án nói riêng và cơ quan tiến hành

tố tụng nói chung.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực tế việc bảo đảm nguyên tắc trong

hoạt động xét xử của Tòa án, chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân của những

hạn chế, từ đó đưa ra những giải pháp đồng bộ, khả thi, phù hợp với yêu cầu

của cải cách tư pháp. Đảm bảo hoạt động xét xử vô tư, khách quan, đúng pháp

luật, bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân, bảo vệ công lý còn góp phần tích

cực vào tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa,

củng cố niềm tin của quần chúng nhân dân và sự nghiệp xây dựng phát triển

đất nước.

7

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội

dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội

thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Chương 2: Thực trạng bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm

nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật tại Tòa án nhân dân thị xã

Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị

Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội

thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật từ thực tiễn Tòa án

nhân dân thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị.

8

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC

THẨM PHÁN, HỘI THẨM NHÂN DÂN XÉT XỬ ĐỘC LẬP

VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT

1.1. Khái niệm chung

1.1.1. Khái niệm bảo đảm

Có nhiều quan niệm khác nhau về bảo đảm. Theo Từ điển Tiếng Việt,

bảo đảm nghĩa là chăm sóc, giữ gìn nhiệm vụ, nghĩa rộng hơn là đoán chắc về

điều gì đó. Cũng có thể hiểu bảo đảm là gánh vác hoặc có nhiệm vụ giữ gìn,

chăm sóc một đối tượng nhất định.

Bảo đảm cũng có thể được hiểu là tạo điều kiện để chăm sóc, giữ gìn

hoặc thực hiện một nhiệm vụ, yêu cầu nhất định. Trong thực tiễn của đời sống

xã hội, chúng ta thường đề cập đến các vấn đề như bảo đảm, phát huy dân

chủ, bảo đảm công bằng xã hội…

Bảo đảm cũng có thể được hiểu là việc tuân theo các quy định của Hiến

pháp và pháp luật, đạt được các mục tiêu và điều kiện đề ra. Ý nghĩa của từ

bảo đảm ở đây còn mang tính quyền lực nhà nước, thể hiện trách nhiệm của

các cơ quan nhà nước, của các tổ chức trong việc bảo đảm tuân thủ đúng và

đầy đủ các quy định của Hiến pháp và pháp luật.

Ở một nghĩa khác, bảo đảm còn gắn với tính chịu trách nhiệm về những

cam kết của mình, bảo đảm cho những cam kết đó được thực hiện. Khi khái

niệm bảo đảm gắn với trách nhiệm thường bao gồm cả những chế tài nếu

không thực hiện những cam kết đó. Như vậy, khái niệm bảo đảm sẽ gắn liền

với trách nhiệm ở cách hiểu này và khi các bảo đảm không thực hiện được, sẽ

kèm theo là các trách nhiệm, chế tài pháp lý.

Từ những khái niệm bảo đảm trên, có thể rút ra khái niệm bảo đảm là

tất cả các biện pháp, phương hướng để bảo đảm cho quyền lợi và nghĩa vụ

9

thực hiện một cách đúng đắn, đầy đủ. Các biện pháp pháp lý có thể bao gồm

các chế định, qui định của pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện các nội dung,

nhiệm vụ, kế hoạch, quy định của pháp luật được thực hiện thông suốt và bảo

đảm việc xử lý các trường hợp vi phạm theo qui định của pháp luật.

1.1.2. Khái niệm Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân

Đảm bảo sự tham gia của nhân dân trong quản lý nhà nước, quản lý xã

hội nói chung và công tác xét xử của Tòa án nói riêng là yêu cầu quan trọng

trong một nhà nước tiến bộ. Ở các nước theo hệ thống thông luật, có chế định

về Bồi thẩm đoàn. Ở những nước theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa,

Hội đồng xét xử có thể bao gồm Thẩm phán chuyên nghiệp và Thẩm phán

không chuyên nghiệp hoặc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Nói chung,

hình thức thể hiện việc nhân dân tham gia công tác xét xử của Tòa án cũng có

sự khác nhau ở mỗi nước.

Ở nước ta, việc nhân dân tham gia hoạt động xét xử của Tòa án được thể

hiện tập trung nhất thông qua chế định về Hội thẩm nhân dân. Chế định Hội

thẩm là sự bảo đảm nguyên tắc thực hiện quyền lực của nhân dân trong hoạt

động xét xử của Tòa án, thể hiện bản chất nhà nước của Nhân dân, do Nhân

dân, vì Nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Đây là một

chế định được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến pháp, từ Hiến pháp năm

1946 đến Hiến pháp năm 2013.

Hội thẩm bằng sự tham gia của mình vào Hội đồng xét xử mà thực hiện

quyền lực tư pháp và thông qua đó để nhân dân tham gia một cách có hiệu

quả vào công tác quản lý Nhà nước nói chung, hoạt động của Tòa án nói

riêng. Chính bằng hoạt động xét xử, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung

thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy

tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi

10

phạm pháp luật khác, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân theo quy

định của pháp luật.

Tại Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1.Việc xét xử sơ thẩm

của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ

tục rút gọn. 2. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp

luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của

Thẩm phán, Hội thẩm…4. Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo

đa số…”. Thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia, Điều 8 Luật Tổ

chức Tòa án nhân dân năm 2014 (viết tắc Luật TCTAND), quy định: “Việc

xét xử sơ thẩm của Tòa án có Hội thẩm tham gia theo quy định của luật tố

tụng, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.” Và khoản 1 Điều 9 của Luật

này quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp

luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của

Thẩm phán, Hội thẩm dưới bất kỳ hình thức nào”.

Ngoài ra, Điều 85 Luật TCTAND có quy định về tiêu chuẩn Hội thẩm

như sau:

“1. Là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh

chính trị vững vàng, có uy tín trong cộng đồng dân cư, có tinh thần dũng cảm

và kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực.

2. Có kiến thức pháp luật.

3. Có hiểu biết xã hội.

4. Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao”; Riêng về

thủ tục bầu, cử, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm; nhiệm kỳ của Hội thẩm;

trách nhiệm của Hội thẩm được quy định tại các điều 85, 87, 89 Luật

TCTAND.

11

Là một nguyên tắc Hiến định nên nếu việc xét xử của Tòa án mà không

có Hội thẩm tham gia thì sẽ không chỉ là vi hiến mà còn vi phạm nghiêm

trọng phạm pháp luật tố tụng. Ngay cả khi Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án

hình sự bảo đảm đủ số lượng 03 thành viên (01 Thẩm phán, 02 Hội thẩm),

nhưng một trong hai Hội thẩm đó không phải là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn

thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, khi bị cáo trong vụ án đó là người chưa

thành niên thì cũng bị coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và chắc

chắn rằng bản án, quyết định của Hội đồng xét xử vụ án đó bị hủy để xét xử

lại. Bởi việc tham gia và tham gia đúng thành phần của Hội thẩm giúp cho

Tòa án xét xử không chỉ đúng pháp luật mà còn phù hợp với nguyện vọng của

nhân dân. Khi được cử hoặc bầu làm Hội thẩm, họ hoàn toàn không tách khỏi

môi trường công tác, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu (đối với Hội thẩm quân

nhân); hoạt động tại cơ quan, lao động sản xuất tại doanh nghiệp (đối với Hội

thẩm nhân dân) và với vốn hiểu biết thực tế, trải nghiệm trong cuộc sống, với

sự am hiểu về phong tục tập quán ở địa phương, Hội thẩm sẽ bổ sung cho

Thẩm phán những kiến thức xã hội cần thiết trong quá trình xét xử để từ đó

Hội đồng xét xử có cơ sở đưa ra phán quyết đúng pháp luật, được dư luận xã

hội đồng tình ủng hộ.

Cùng với Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Hội thẩm khi được phân công

tham gia xét xử vụ án, thì Hội thẩm được xác định là một trong những người

tiến hành tố tụng tại Tòa án. Khi được phân công giải quyết vụ án thì Hội

thẩm có các nhiệm vụ như: nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa;

tham gia xét xử vụ án theo thủ tục sơ thẩm (riêng đối với vụ án hình sự thì

Hội thẩm có thể tham gia xét xử theo thủ tục phúc thẩm trong trường hợp cần

thiết); tiến hành các hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm

quyền của Hội đồng xét xử. Hội thẩm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật

về những hành vi và quyết định của mình. Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành

12

quy định thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm: 01 Thẩm phán và 02 Hội

thẩm; trong trường hợp vụ án có tính chất phức tạp, nghiêm trọng thì Hội

đồng xét xử có thể gồm 02 Thẩm phán và 03 Hội thẩm. Với các quy định nêu

trên thì Hội thẩm có vai trò rất quan trọng trong công tác xét xử, vì khi tham

gia xét xử ở cấp sơ thẩm, Hội thẩm chiếm đa số trong Hội đồng xét xử (2/3

hoặc 3/5) và khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán khi biểu quyết

các vấn đề nghị bàn khi Hội đồng xét xử nghị án, mà không có bất kỳ sự lệ

thuộc nào. Nếu như, khi nghị án ý kiến biểu quyết của các Hội thẩm là giống

nhau và khác với ý kiến của Thẩm phán thì quyết định của Hội đồng xét xử

phải theo ý kiến của đa số, dù Thẩm phán là người đã từng làm công tác xét

xử lâu năm, có nhiều kinh nghiệm, đạt đến trình độ chuyên nghiệp thì cũng

chỉ có quyền bảo lưu ý kiến của mình trong Biên bản nghị án, sau đó báo cáo

lại Chánh án nơi Tòa án mình đang công tác, đề nghị Tòa án cấp trên xem xét.

Hội thẩm được Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu để tham gia xét xử tại

TAND ở địa phương đó gọi là Hội thẩm nhân dân; Hội thẩm được Chủ nhiệm

Cục Chính trị Quân khu và tương đương cử theo đề nghị của các đơn vị thuộc

quyền trên địa bàn gọi là Hội thẩm quân nhân cấp Khu vực, Hội thẩm được

Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị cử theo đề nghị của cơ quan chính trị cấp quân

khu và tương đương gọi là Hội thẩm quân nhân cấp Quân khu. Hội thẩm nhân

dân là các công chức, viên chức nhà nước kiêm nhiệm hoặc đã nghỉ hưu; Hội

thẩm quân nhân là cán bộ, sĩ quan công tác tại các cơ quan đơn vị đóng quân

trên địa bàn, mà Tòa án quân sự đó đảm nhiệm.

Từ những cơ sở trên ta có khái niệm Hội thẩm như sau: Hội thẩm nhân

dân là Người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ

xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án.

Hội thẩm dân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo sự giới

thiệu của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, đồng thời, cũng do

13

Hội đồng nhân dân cùng cấp miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh

án Tòa án nhân dân cùng cấp sau khi thống nhất với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam cùng cấp.

Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân

dân cùng cấp.

Trong khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán và

độc lập, chỉ tuân theo pháp luật.

- Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để

làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm

quyền của Toà án. Thẩm phán Toà án nhân dân ở nước Cộng hoà xã hội chủ

nghĩa Việt Nam gồm có: Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà

án nhân dân cấp tỉnh bao gồm Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố

trực thuộc trung ượng, Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện bao gồm Thẩm

phán Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Thẩm phán

Toà án quân sự các cấp bao gồm Thẩm phán Toà án quân sự trung ương đồng

thời là Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự cấp

quân khu bao gồm Thẩm phán Toà án quân sự quân khu và tương đương,

Thẩm phán Toà án quân sự khu vực.

Công dân Việt Nam trung thành với tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng

hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung

thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có trình độ cử

nhân luật và đã được đào tạo về nghiệp vụ xét xử, có thời gian làm công tác

thực tiễn, có năng lực làm công tác xét xử theo quy định của pháp luật, có sức

khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao thì có thể được tuyển chọn và

bổ nhiệm thẩm phán.

14

Thẩm phán làm nhiệm vụ theo sự phân công của chánh án. Khi xét xử

thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, không lệ thuộc vào bất cứ cơ quan,

tổ chức hay cá nhân nào và phải chịu trách nhiệm về công việc của mình.

Theo quy định tại Điều 64 Luật TCTAND, để được bổ nhiệm làm

Thẩm phán, thì nhiều tiêu chuẩn Thẩm phán phải có, đó là: Trình độ từ cử

nhân luật trở lên; được đào tạo nghiệp vụ xét xử; có thời gian làm công tác

thực tiễn pháp luật;… Theo quy định tại Điều 66 Luật TCTAND, các ngạch

Thẩm phán, gồm: Thẩm phán TANDTC; Thẩm phán cao cấp; Thẩm phán

trung cấp và Thẩm phán sơ cấp. Điều kiện bổ nhiệm Thẩm phán sơ cấp, Thẩm

phán trung cấp, Thẩm phán cao cấp theo quy định tại Điều 68 Luật TCTAND

hết sức chặt chẽ, ví dụ: Để được bổ nhiệm Thẩm phán sơ cấp, ngoài các tiêu

chuẩn quy định tại Điều 66 Luật TCTAND, đòi hỏi có thời gian làm công tác

pháp luật từ 05 năm trở lên, trúng tuyển kỳ thi tuyển chọn Thẩm phán sơ cấp;

tương tự để bổ nhiệm Thẩm phán trung cấp ngoài các tiêu chuẩn quy định tại

Điều 66 Luật TCTAND, đòi hỏi đã là Thẩm phán sơ cấp từ đủ 05 năm trở lên,

trúng tuyển kỳ thi nâng ngạch Thẩm phán trung cấp.

Từ những vấn đề nêu trên ta có khái niệm Thẩm phán như sau: Thẩm

phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét

xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Toà án.

Thẩm phán làm nhiệm vụ theo sự phân công của chánh án. Khi xét xử

thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, không lệ thuộc vào bất cứ cơ quan,

tổ chức hay cá nhân nào và phải chịu trách nhiệm về công việc của mình.

1.1.3. Khái niệm nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật được Hiến pháp và pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam xác định là một nguyên tắc hiến định và được ghi nhận trong các bản

15

Hiến pháp cũng như được thể chế trong các đạo luật về tổ chức Tòa án - cơ

quan xét xử, cũng như các đạo luật về tố tụng của Nhà nước Việt Nam.

Có thể khẳng định rằng, sự ra đời của Tòa án gắn liền với hoạt động xét

xử và xét xử là đặc điểm quan trọng nhất khi nói đến Tòa án. Hiến pháp mới

được Quốc hội thông qua ngày 28/11/2013 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2014)

đã khẳng định Tòa án - với chức năng xét xử - là cơ quan thực hiện quyền tư

pháp. Hoạt động xét xử của Tòa án là biểu hiện tập trung nhất của quyền lực

tư pháp. Kết quả xét xử thể hiện nền công lý, sự đối xử bình đẳng, công bằng

trong tất cả các mối quan hệ và cũng là thể hiện chất lượng hoạt động và uy

tín của hệ thống tư pháp. Xuất phát từ bản chất của hoạt động tư pháp mà Tòa

án là trung tâm của việc thực hiện và xét xử là hoạt động trọng tâm, đòi hỏi

việc xét xử phải bảo đảm tính độc lập. Chính vì vậy, nguyên tắc độc lập xét xử

được coi là tiền đề nền tảng của hoạt động tư pháp trong nhà nước pháp quyền,

là bảo đảm quan trọng cho việc xét xử được bình đẳng, dân chủ, khách quan.

Xuất phát từ nguyên tắc tổ chức, phân công quyền lực nhà nước ở Việt

Nam. Tổ chức bộ máy nhà nước ta hiện nay theo nguyên tắc quyền lực nhà

nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc

thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Vì vậy, tính độc lập của Tòa

án là một trong những biểu hiện rõ nét của cơ chế phân công, kiểm soát quyền

lực nhà nước ở Việt Nam.

Xuất phát từ bản chất của hoạt động tư pháp mà Tòa án nhân danh công

lí và dựa vào công lí mà Tòa án phải xét xử như một người đứng giữa, trung

lập, không phụ thuộc vào bên nào, chỉ xét xử độc lập và tuân theo pháp luật

thì Tòa án mới tồn tại đúng với bản chất của mình là một cơ quan bảo vệ công

lí. Bản án, quyết định của Tòa án là văn bản kết thúc quá trình xét xử một vụ

án. Do vậy, có thể nói bản án chính là tuyên ngôn công lí mà Tòa án thay mặt

nhà nước ban hành thông qua quá trình tố tụng tại phiên tòa. Hơn nữa, bản án

16

đúng đắn sẽ mang lại sự công bằng cho xã hội, bảo vệ công lí và quyền con

người. Vì lẽ đó mà bản án, quyết định của Tòa án cần phải đảm bảo chính xác

tuyệt đối, đảm bảo đúng pháp luật. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân là

những người nhân danh nhà nước ra bản án, quyết định nên đòi hỏi ở họ bản

lĩnh vững vàng, tinh thần trách nhiệm cao, lương tâm nghề nghiệp và phẩm

chất đạo đức trong sáng để độc lập xét xử theo pháp luật

Như vậy, nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật trong suốt quá trình hình thành và phát triển đã khẳng định vị

trí trung tâm của Tòa án trong hoạt động xét xử. Thẩm phán độc lập không

chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố tác động từ bên ngoài cũng như từ bên trong

ngành Tòa án, đồng thời độc lập với các chủ thể tiến hành tố tụng, các chủ thể

tham gia tố tụng trong việc nghiên cứu hồ sơ, xem xét đánh giá chứng cứ và

đưa ra các nhận định, phán quyết của mình về vụ án. Kể cả khi vụ việc được

xét xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm Thẩm phán cũng

không bị lệ thuộc bởi các nhận định, những phán quyết của Toà án cấp dưới.

Mặt khác, tính độc lập trong xét xử không có nghĩa là xét xử tùy tiện

mà phải độc lập trong khuôn khổ pháp luật. Tuân theo pháp luật là cơ sở

không thể thiếu để Thẩm phán độc lập khi xét xử. Nó vừa là quyền vừa là

nghĩa vụ của Thẩm phán. Là quyền nó đảm bảo cho sự độc lập xét xử của họ.

Là nghĩa vụ nó đặt ra yêu cầu buộc Thẩm phán phải luôn trau dồi trình độ

chuyên môn nghiệp vụ cũng như bản lĩnh nghề nghiệp để tránh những tác

động tiêu cực từ bên ngoài ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Nội dung

độc lập khi xét xử và nội dung chỉ tuân theo pháp luật có mối liên hệ rất chặt

chẽ và bổ sung cho nhau. Đó là những tư tưởng chủ đạo, định hướng trở thành

xử sự bắt buộc chung đối với Thẩm phán khi được phân công xét xử vụ án.

Từ những vấn đề nêu trên, có thể đưa ra khái niệm như sau: “Nguyên

tắc Thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc cơ bản

17

trong hoạt động tố tụng của Tòa án Việt Nam, thể hiện tư tưởng pháp lý khi

xét xử các vụ án, Thẩm phán phải tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về bản

án và quyết định của mình mà không bị phụ thuộc vào quan điểm ý kiến của

bất kì cá nhân, cơ quan, tổ chức nào, không bị chi phối bởi ý kiến của nhau

và chỉ căn cứ vào quy định của pháp luật để xem xét và quyết định về từng

vấn đề của vụ án”.

1.1.4. Khái niệm bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân

dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Hiến pháp năm 2013 quy định cụ thể: "Thẩm phán, Hội thẩm xét xử

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can

thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, hội thẩm". Như vậy, Thẩm phán, Hội

thẩm độc lập xét xử là độc lập trong mọi hoạt động của mình theo quy định

của pháp luật tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi kết thúc phiên tòa xét

xử, chứ không chỉ giới hạn bởi "khi xét xử". Cụm từ "nghiêm cấm cơ quan, tổ

chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm" trong

công tác xét xử cũng là bảo đảm cho nguyên tắc này phải được thực thi trong

thực tiễn xét xử. Điều đặc biệt quan trọng để đạt được mục tiêu xây dựng nhà

nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam là phải nhận thức một cách toàn diện về

quyền tư pháp, nâng cao vị thế của quyền tư pháp, của Tòa án, của Thẩm

phán. Có như vậy, thì nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc

lập và chỉ tuân theo pháp luật” mới có ý nghĩa và được bảo đảm một cách

đích thực.

Các nguyên tắc như xét xử có Hội thẩm tham gia, nguyên tắc Thẩm

phán và Hội thẩm xét xử độc lập, nguyên tắc xét xử công khai, xét xử tập thể,

nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích

hợp pháp của đương sự được tiếp tục ghi nhận và phát triển ở mức cao hơn,

chính xác hơn.

18

Quan trọng nhất, việc Hiến pháp quy định nghiêm cấm cơ quan, tổ

chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm là một bảo

đảm hiến định quan trọng cho việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử. Trong

quy định các nguyên tắc này, Hiến pháp năm 2013 có quy định các trường

hợp ngoại lệ đối với một số nguyên tắc để bảo đảm việc áp dụng mềm dẻo,

linh hoạt và có hiệu quả trên thực tế. Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 bổ sung

một số nguyên tắc mới thể hiện tinh thần đổi mới trong cải cách tư pháp ở

nước ta, phù hợp với các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Nguyên

tắc tranh tụng trong xét xử là một bảo đảm quan trọng giúp cho việc xét xử

toàn diện, khách quan, bảo đảm quyền con người, quyền tố tụng của những

người tham gia tố tụng, hạn chế thấp nhất các trường hợp oan sai trong hoạt

động tố tụng tư pháp nói chung, trong xét xử của Tòa án nói riêng. Mặt khác

để bảo đảm nguyên tắc thì cần phải bảo đảm các yêu cầu sau:

Thứ nhất, bảo đảm quyền tư pháp được phân công, phân nhiệm rõ ràng.

Cần nghiên cứu và thay đổi nhiều quy định pháp luật về tổ chức bộ máy, quy

chế hoạt động, quan hệ với các cơ quan nhà nước khác... của hệ thống tòa án

để giảm thiểu sự can thiệp, tác động, cả trực tiếp và gián tiếp, của các chủ thể

bên ngoài, qua đó bảo đảm tính độc lập thực sự của các tòa án.

Thứ hai, cần mở rộng đối tượng xét xử của tư pháp. Trong nhà nước

pháp quyền với cơ chế phân quyền, Quốc hội và Chính phủ cũng phải hoạt

động trong phạm vi khuôn khổ của Hiến pháp. Cần thay đổi nhận thức hay

cách tiếp cận về tòa án, cần xem đó là cơ quan bảo vệ công lý thay bằng, hay

đồng thời với việc coi đó là cơ quan xét xử.

Thứ ba, cần chuyển mạnh phương thức xét xử từ tố tụng buộc tội sang

tố tụng tranh tụng. Điều này không chỉ liên quan đến những thay đổi về pháp

luật tố tụng, mà còn đến việc giáo dục, chuyển đổi nhận thức và thái độ của

các Thẩm phán, Hội thẩm và thư ký tòa án. Ngoài ra, thay đổi về vấn đề này

19

còn cần gắn với việc mở rộng vai trò của luật sư trong hoạt động tố tụng.

Thêm vào đó, cần có những giải pháp hiệu quả về kinh phí hoạt động của hệ

thống tòa án nhằm bảo đảm các tòa án không phụ thuộc vào bất cứ cơ quan

nào, kể cả vào các tòa án cấp trên, về kinh phí hoạt động.

Thứ tư, mặc dù là độc lập để đảm bảo phán xử công bằng, nhưng tòa án

vẫn phải chịu sự giám sát. Hoạt động giám sát của người dân cũng như của

nhiều tổ chức xã hội cũng như trong bản thân của cơ cấu nhà nước đối với

hoạt động của cơ quan nhà nước là biểu hiện của dân chủ cũng như là sự văn

minh của nhân loại. Với nguyên tắc này, hoạt động xét xử của tòa án cũng

phải chịu sự giám sát của nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội. Tuy nhiên,

việc giám sát các hoạt động xét xử của tòa án phải khác với việc giám sát hoạt

động của các cơ quan nhà nước khác ở điểm không được tự tiện thay đổi các

quyết định án đã được xét xử của tòa án. Việc thay đổi các quyết định án phải

tuân theo thủ tục tố tụng các cấp xét xử của hệ thống tòa án: án sơ thẩm phải

được kiện lên phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Nhưng trong trường hợp

có quá nhiều án phải xử đi xử lại, thì phải xem xét lại chất lượng của việc bổ

nhiệm thẩm phán của các cơ quan có thẩm quyền bổ nhiệm thẩm phán.

Thứ năm, giải thích Hiến pháp và luật phải là một trong những biểu

hiện thẩm quyền của quyền tư pháp. Theo quy định của Hiến pháp, UBTVQH

có thẩm quyền giải thích Hiến pháp và pháp luật. Nhưng cho đến nay,

UBTVQH không thực hiện được chức năng này, bởi lẽ, về nguyên tắc đó là

cơ quan lập pháp chứ không phải là cơ quan áp dụng luật. Lập pháp là chức

năng của Quốc hội và thông qua pháp lệnh cũng thuộc chức năng của

UBTVQH. Muốn giải thích được các điều luật một cách chính xác thì phải

trăn trở với nó, vì vậy buộc phải đặt việc giải thích trong một vụ việc cụ thể,

gắn với các sự kiện pháp lý cụ thể. Chỉ có Tòa án với nguyên tắc nghĩa vụ

phải xét xử của thẩm phán mới có điều kiện cũng như nghĩa vụ giải thích các

20

điều luật. Điều này có nghĩa là giải thích điều luật phải gắn với một trường

hợp cụ thể mà không thể là giải thích chung chung, rơi vào tình trạng của việc

giải thích trừu tượng. Việc trao quyền này cho UBTVQH tức là không phân

biệt rõ và thậm chí còn là nhầm lẫn giữa lập pháp và tư pháp.

Có thể khẳng định, việc đặt ra yêu cầu tổ chức Tòa án theo thẩm quyền

xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính là một chủ trương đúng đắn

và để bảo đảm nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử của Tòa án. Độc lập

xét xử là một yêu cầu cao nhất thuộc quyền tư pháp trong Nhà nước pháp

quyền.

Từ những yếu tố trên ta có khái niệm như sau: Bảo đảm nguyên tắc

Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là việc bảo

đảm tính tối cao của pháp luật, đảm bảo sự cân bằng, kiểm soát các quyền

lực nhà nước và bảo vệ quyền con người. đảm bảo cho tòa án độc lập chính

là đảm bảo cho thẩm phán, hội thẩm độc lập. Sự độc lập của tòa án không chỉ

giản đơn có trong giai đoạn xét xử bằng một tuyên bố của Hiến pháp, mà còn

cần phải mở rộng sự độc lập này ra khỏi phạm vi xét xử và cả những cơ chế

chính sách khác kèm theo.

1.2. Nội dung nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

1.2.1. Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập

Thứ nhất, tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm còn thể hiện ở chỉ

đạo của cấp ủy Đảng đối với Tòa án.

Xuất phát từ Điều 4 Hiến pháp 2013, Đảng lãnh đạo cơ quan tư pháp,

trong đó có Tòa án thông qua cấp ủy. Đó là quan hệ chính trị giữa tổ chức

Đảng với cơ quan trong bộ máy nhà nước. Đảng không chỉ đạo, xét xử từng

vụ án cụ thể mà đối với hoạt động của Tòa án nhân dân, Đảng có chủ trương

là xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Sự chỉ đạo của cấp ủy trong

21

cơ quan xét xử nhằm bảo đảm cho hoạt động xét xử thực hiện đúng tính

nghiêm minh, không ảnh hưởng đến việc xét xử độc lập của Thẩm phán và

Hội thẩm. Ý kiến của cấp ủy Đảng trong việc bổ nhiệm và tái bổ nhiệm Thẩm

phán cũng dựa trên những quy định về tiêu chuẩn bổ nhiệm và tái bổ nhiệm

Thẩm phán chứ không phải là yếu tố quy định. Nguyên tắc lãnh đạo của Đảng

không mâu thuẫn với sự độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm. Tuy

nhiên, chế độ đảng lãnh đạo Nhà nước, trong đó có các cơ quan, đơn vị, vị trí

của cấp ủy Đảng trong việc tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán sẽ có những

ảnh hưởng nhất định đến sự độc lập của Thẩm phán khi có sự tác động của

cấp ủy Đảng. Chính vì vậy, Thẩm phán và Hội thẩm phải nhận thức đúng sự

lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động tư pháp để đảm bảo sự độc lập xét xử.

Thứ hai, tính độc lập thể hiện giữa các chủ thể tham gia với Tòa án.

Mối quan hệ giữa Thẩm phán, Hội thẩm và nội bộ ngành Tòa án được

thể hiện ở mối quan hệ giữa Thẩm phán và Chánh án và các đồng nghiệp

cùng Tòa án, quan hệ giữa Hội thẩm và Chánh án Tòa án nơi Hội thẩm tham

gia xét xử… Chánh án là người đứng đầu cơ quan, vừa sử dụng cán bộ đồng

thời cũng là người quản lý cán bộ trong đơn vị mình. Trong đó Hội thẩm và

Thẩm phán lại là người chịu sự quản lý của Chánh án và Tòa án cấp trên.

Thông qua công tác tổ chức, kiểm tra, xét xử như họp bàn bàn án trước khi

xét xử, phân công Thẩm phán và Hội thẩm xét xử vụ án, Chánh án có tác

động đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm. Mặc dù pháp luật đã

quy định khi hủy bản án để xét xử sơ thẩm lại, Tòa án cấp phúc thẩm không

được quy định trước những chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm cần phải chấp

nhận hoặc bác bỏ cũng như không quy định trước về điều khoản BLHS và

hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm sẽ phải áp dụng những việc Tòa cấp trên

hủy án Tòa cấp dưới, cũng ảnh hưởng tới tính độc lập của Thẩm phán và Hội

thẩm. Chính vì vậy, Thẩm phán và Hội thẩm phải có chính kiến, quan điểm

22

của mình trong việc đánh giá chứng cứ, xác định tội danh, mức hình phạt và

giải quyết các vấn đề khác dựa trên quy định của pháp luật, đảm bảo việc xét

xử công bằng, khách quan. Khi án bị hủy án xét xử sơ thẩm lại, hội đồng xét

xử cũng cần phải xem xét một cách khách quan nguyên nhân mà Tòa án cấp

trên hủy, xem xét toàn diện các chứng cứ, thông tin có phù hợp với thực tế

khách quan hay không để xét xử lại đúng pháp luật, không phụ thuộc vào kết

quả bản án bị hủy. Nếu cấp trên hủy đúng cần xem xét để xét xử lại cho chính

xác, nếu cấp trên hủy sai thì phải bảo vệ chính kiến, quan điểm của hội đồng

xét xử, miễn sao bản án, quyết định phải có căn cứ và hợp pháp.

Chẳng hạn, trong quá trình xét xử, khi Thẩm phán điều khiển phiên

tòa trong việc xét hỏi, tranh luận, nghị án để đảm bảo hoạt động xét xử đi

đúng trọng tâm, xác định những việc cần làm để chứng minh tội phạm và

không được hạn chế việc xét hỏi của Hội thẩm nếu những câu hỏi đó nhằm

làm rõ các tình tiết khách quan của vụ án. Theo Điều 222 Bộ luật tố tụng Dân

sự thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến Hội thẩm nhân dân. Hội

thẩm nhân dân có quyền hỏi tất cả các vấn đề mà mình cho là cần thiết để giải

quyết vụ án mà không phụ thuộc vào Thẩm phán. Để đảm bảo cho Thẩm phán

và Hội thẩm độc lập với nhau khi xét xử, Điều 222 Bộ luật tố tụng hình sự,

Điều Điều 236 của Bộ luật tố tụng dân sự quy định: Chỉ Thẩm phán và Hội

thẩm mới có quyền nghị án. Các thành viên của Hội đồng xét xử phải giải

quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số từng vấn đề

một. Hội thẩm biểu quyết trước, Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Người có ý

kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa

vào hồ sơ vụ án… Như vậy, rõ ràng là mỗi cá nhân Thẩm phán và Hội thẩm

đều phải tự chủ và có chính kiến riêng của mình, dù đó là ý kiến thiểu số hay

đa số đều được ghi nhận. Chứ không phải trong trường hợp là ý kiến thiểu số

thì sẽ bị che lấp bởi quyết định của đa số. Quy định này góp phần khuyến

23

khích sự tự chủ và độc lập của mỗi thành viên Hội đồng xét xử. Thêm vào đó,

Thẩm phán và Hội thẩm phải chịu trách nhiệm cá nhân về những quyết định

của riêng mình. Chính trách nhiệm cá nhân này càng thực sự là một đảm bảo

cho Thẩm phán và Hội thẩm mạnh dạn có những quyết định độc lập. Cá nhân

của mỗi người khi tin tưởng ý kiến của mình, cho dù là thiểu số, là đúng pháp

luật thì mạnh dạn quyết định, không phải lệ thuộc vào ý kiến của đa số những

người khác. Bởi vì, nếu ý kiến của riêng mình là đúng thì không có lý do gì

phải e sợ trách nhiệm, cho dù bản án hoặc quyết định cuối cùng là theo ý kiến

của đa số. Những quy định trên đã loại trừ việc Thẩm phán lạm quyền, tác

động đến hoạt động xét xử của Hội thẩm.

Thứ ba, độc lập với yêu cầu của những người tham gia tố tụng.

Với dư luận và với cơ quan báo chí: Phán quyết của Tòa án bao giờ

cũng làm xuất hiện những nhóm mâu thuẫn về lợi ích, đó là mâu thuẫn lợi ích

giữa bị cáo và người bị hại, giữa nguyên đơn dân sự và bị đơn dân sự, giữa

nhà nước và người phạm tội. Ai cũng mong muốn kết quả xét xử phải đưa lại

quyền lợi tối ưu cho họ hoặc chí ít ra cũng tước bỏ tối thiểu quyền và lợi ích

của họ. Sau phán quyết của Tòa có rất nhiều ý kiến khác nhau như từ dư luận

quần chúng nhân dân, từ cơ quan báo chí, rằng xử đúng, xử sai, công bằng

hay không công bằng, nặng hay nhẹ, đặc biệt là đối với các vụ án bị cấp trên

hủy xử lại và những vụ án xét xử lưu động.

Những vấn đề này đều tác động khá mạnh mẽ đến tâm lý của Thẩm

phán và Hội thẩm khi thực hiện nhiệm vụ xét xử. Xử theo đúng pháp luật hay

xử theo xu hướng của dư luận, báo chí yêu cầu, hay xử vì lợi ích của người bị

hại? Xử đúng chưa chắc được dư luận đồng tình, lại có thể đảm bảo theo yêu

cầu của một số người tham gia tố tụng. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc

lập với yêu cầu của người tham gia tố tụng, với báo chí, với dư luận nghĩa là

việc xét xử chỉ dựa trên những chứng cứ, những quy định của pháp luật,

24

không phụ thuộc vào yêu cầu của những người nói trên. Điều đó cũng đồng

nghĩa với việc không ai được phép tác động đến hoạt động xét xử của Thẩm

phán và Hội thẩm.

Thứ tư, độc lập đối với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Là việc Thẩm phán và Hội thẩm trên cơ sở đánh giá tính chính xác

của các thông tin, kiểm tra lại tính xác thực, đúng đắn của kết quả điều tra,

quyết định truy tố, từ đó đưa ra quan điểm chứng minh tội phạm của Hội đồng

xét xử, các tình tiết, thông tin thu thập phải phù hợp với hiện thực khách quan.

Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án chỉ là mô hình để Hội đồng xét xử triển khai

hoạt động xét xử tại phiên tòa thông qua việc kiểm tra và đánh giá chứng cứ,

đánh giá tính xác thực của các thông tin tài liệu đó. Độc lập với các tài liệu có

trong hồ sơ vụ án không có nghĩa là thoát ly khỏi các thông tin đó mà nhiệm

vụ của Hội đồng xét xử là nghiên cứu và đánh giá xem các thông tin đó đúng

hay sai, giữa các tài liệu trong hồ sơ có mối quan hệ với nhau như thế nào, có

mô tả đúng những hành vi đã xảy ra trên thực tế hay không để đưa ra kết luận

chính xác.

Nếu thoát ly khỏi Kết luận điều tra và Cáo trạng, Hội đồng xét xử sẽ

không tận dụng được tối đa kết quả của quá trình điều tra và Viện kiểm sát

tổng hợp đưa ra kết luận. Tuy nhiên, khi nghiên cứu hồ sơ cũng như khi xét

xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không bị phụ thuộc vào Kết luận điều

tra của cơ quan điều tra, không bị lệ thuộc vào Cáo trạng truy tố của Viện

kiểm sát. Quá trình nghiên cứu hồ sơ và tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phải

xem xét, thẩm tra đánh giá chứng cứ và các tình tiết khác của vụ án một cách

thận trọng, tỉ mỉ, khoa học, toàn diện, kể cả chứng cứ có trong hồ sơ và chứng

cứ tại phiên tòa. Bản án của Tòa án chỉ căn cứ vào những chứng cứ đã được

xem xét tại phiên tòa.

25

Khoản 3 Điều 222 Bộ luật tố tụng hình sự quy định “Khi nghị án chỉ

được căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa”.

Tóm lại, độc lập với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nghĩa là: Thẩm

phán và Hội thẩm phải trực tiếp xem xét các chứng cứ của vụ án chứ không

chỉ căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án hay các chứng cứ mà Viện

kiểm sát đã đưa ra trong bản Cáo trạng. Bản án của Tòa chỉ được căn cứ vào

những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, đối chiếu với những quy định

của pháp luật để xử lý vụ án và có quyền kết luận khác với ý kiến của cơ quan

điều tra, Viện kiểm sát.

1.2.2. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật

Một trong những nội dung không kém phần quan trọng của nguyên tắc,

đó là việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật. Điều

này có nghĩa là, khi xét xử, Tòa án không có cấp trên, cấp trên của Hội đồng

xét xử chính là pháp luật. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

không bị ràng buộc, không bị chi phối bởi bất kỳ ý kiến của ai.

Các cơ quan, tổ chức, cá nhân không được can thiệp hoặc tác động vào

các thành viên của Hội đồng xét xử để ép họ phải xét xử vụ án theo ý chủ

quan của mình. Mọi hành động can thiệp dưới bất kỳ hình thức nào đều làm

ảnh hưởng tới tính khách quan của vụ án và đều bị coi là bất hợp pháp. Khi

xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập không có nghĩa là xét xử tùy tiện mà

việc xét xử phải tuân theo pháp luật, có thể tham khảo ý kiến của các cơ quan

chuyên môn, của bất kỳ ai và phải nắm bắt dư luận xã hội, nhưng khi quyết

định Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải thể hiện bản lĩnh nghề nghiệp của

mình, xem xét mọi vấn đề một cách độc lập, không được để cho ý kiến bên

ngoài làm ảnh hưởng tới tính khách quan của vụ án. Do đó, đòi hỏi Thẩm

phán và Hội thẩm không một bước xa rời pháp luật, không có bất kỳ một sự

lẩn tránh nào đối với pháp luật, không tha thứ cho bất kỳ một hành vi vi phạm

26

pháp luật nào. Đây là quy định có tính chất bắt buộc đối với Thẩm phán và

Hội thẩm.

Như vậy, có thể nói “hoạt động của Thẩm phán và Hội thẩm luôn phải

trên cơ sở pháp luật”. Việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm chỉ dựa trên

những quy định của pháp luật và pháp luật là căn cứ duy nhất để quyết định

các vấn đề giải quyết vụ án.

Nội dung Thẩm phán và Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật biểu hiện ở

những vấn đề sau:

- Sự tuân theo pháp luật hình sự: Pháp luật hình sự nói chung thường

bao gồm luật thực định (Bộ luật hình sự) và khoa học về luật hình sự, chúng

có sự bổ trợ lẫn nhau. Bộ luật hình sự có hai phần: Phần chung và phần các

tội phạm. Phần chung quy định về phạm vi áp dụng, các trường hợp phạm tội,

tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, tổng hợp hình phạt, tuổi chịu trách nhiệm hình

sự… Phần các tội phạm quy định cụ thể các hình vi như thế nào thì bị coi là

tội phạm và các khung hình phạt, mức hình phạt tương ứng với các trường

hợp phạm tội.

Tuy nhiên, muốn áp dụng đúng các quy định của Bộ luật hình sự buộc

Thẩm phán và Hội thẩm phải có kiến thức về định tội danh, về quyết định

hình phạt... và khoa học luật hình sự thể hiện ý nghĩa của mình ở chỗ đó.

- Sự tuân theo pháp luật tố tụng hình sự: Có thể chia hoạt động xét xử

của Thẩm phán và Hội thẩm thành hai giai đoạn: Thứ nhất là từ khi có quyết

định đưa vụ án ra xét xử đến trước ngày mở phiên tòa và thứ hai là tại phiên

tòa. Giai đoạn trước khi mở phiên tòa là giai đoạn Hội thẩm nghiên cứu hồ sơ

để xem xét lại các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, từ đó xây dựng kế hoạch xét

hỏi và những tình huống xảy ra tại phiên tòa để có kế hoạch ứng phó thích

hợp và những công việc khác cần thiết cho phiên tòa. Tại phiên tòa, Hội đồng

xét xử cần phải nắm chắc các quy định của bộ luật tố tụng hình sự từ thủ tục

27

bắt đầu phiên tòa đến khi kết thúc phiên tòa, đặc biệt là trong phần xét hỏi,

tranh luận và nghị án.

Trong phần xét hỏi, về phạm vi và trình tự hỏi đã được quy định tại

Điều 207 Bộ luật tố tụng hình sự. Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ các

tình tiết về từng việc và từng tội trong vụ án theo thứ tự xét hỏi hợp lý. Khi

xét hỏi, chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến Kiếm sát

viên và người bào chữa,… Về nội dung hỏi, pháp luật không quy định hỏi cụ

thể như thế nào nhưng mục đích của hoạt động xét hỏi nhằm làm sáng tỏ các

vấn đề được quy định tại Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự. Đó là phải làm rõ

có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết

khác của hành vi phạm tội; ai là người thực hiện hành vi phạm tội, có lỗi hay

không có lỗi, do cố ý hay vô ý, có năng lực trách nhiệm hình sự hay không,

mục đích, động cơ phạm tội; những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ

trách nhiệm hình sự của bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị cáo.

Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.

Đối với các đối tượng cụ thể cần có cách hỏi phù hợp, đảm bảo khách

quan, không được dùng các câu hỏi có tính chất “mớm cung” để buộc những

người tham gia tố tụng khai theo làm mất tính khách quan trong việc khai báo

của họ. Đối với bị cáo được khai nhận thực hiện hành vi phạm tội có thể có

nhiều động cơ khác nhau nên đồng thời với việc hỏi bị cáo cần phải kết hợp

với việc hỏi những người khác, xem xét vật chứng cụ thể xác định phù hợp

hay không phù hợp với lời nhận tội của bị cáo. “Chỉ có thể kết luận bị cáo

phạm tội khi lời nhận tội của họ phù hợp với các chứng cứ khác trong vụ án.

Không được dùng lời nhận tội của bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội”,

bởi vì có nhiều trường hợp, bị cáo nhận tội chỉ là do quá sợ hãi, hoặc do có

người chỉ đạo, xúi giục, và thậm chí là nhận tội thay. Việc xét hỏi phải mang

tính toàn diện, khách quan, không được có định kiến trước là bị cáo có tội.

28

Trong phần tranh luận, Hội đồng xét xử phải xác định mục đích của

tranh luận, chủ thể thực hiện việc tranh luận. Chủ thể tranh luận là Kiểm sát

viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,

người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Mục đích tranh luận là làm

sáng tỏ các vấn đề có tội hay không có tội, ai là người thực hiện hành vi phạm

tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự…

Chủ tọa là người điều khiển phần tranh luận cho phép ai được phát

biểu, ai không, phát biểu ở giới hạn nào, Hội đồng xét xử không tham gia

tranh luận. Khi kiểm sát viên trình bày lời luận tội, Hội đồng xét xử phải chú

ý lắng nghe, ghi chép để nắm bắt những điểm chính thể hiện quan điểm giải

quyết vụ án của Viện kiểm sát, quan điểm đó dựa trên những tài liệu, chứng

cứ nào. Hội đồng xét xử cũng phải lắng nghe lời trình bày ý kiến của những

người tham gia tố tụng khác, phần nào họ đồng ý với luận tội của Kiểm sát

viên, phần nào không đồng ý và nếu không đồng ý thì dựa trên những lập luận

nào, chứng cứ nào.

Vì thế, tranh tụng tại phiên tòa có ảnh hưởng rất lớn đến việc ra quyết

định, ra bản án nên Hội đồng xét xử, do đó Thẩm phán và Hội thẩm cần nắm

rõ những quy định về tranh luận để điều khiển việc tranh luận có hiệu quả,

tránh trường hợp Hội đồng xét xử tranh luận với bị cáo và những người tham

gia tố tụng khác như một số trường hợp xảy ra trong thực tiễn xét xử.

Khi nghị án, Hội đồng xét xử cần nghiêm túc tuân thủ những quy định

về thủ tục nghị án, nội dung nghị án và việc biểu quyết. Chỉ Thẩm phán và

Hội thẩm mới có quyền nghị án. Các thành viên của Hội đồng xét xử phải giải

quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số từng vấn đề

một. Thẩm phán giải quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình

bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án. Nếu có căn cứ

xác định bị cáo không có tội thì Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không có tội.

29

Khi nghị án chỉ được căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được

thẩm tra tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của Kiếm

sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại

phiên tòa. Khi nghị án phải lập biên bản ghi lại các ý kiến đã thảo luận và

quyết định của Hội đồng xét xử. Biên bản nghị án phải được tất cả các thành

viên Hội đồng xét xử ký tại phòng nghị án trước khi tuyên án.

Nghị án là giai đoạn mà tính độc lập và tuân theo pháp luật của Thẩm

phán và Hội thẩm được biểu hiện một cách rõ ràng và tập trung nhất. Vì vậy,

Thẩm phán và Hội thẩm cần phát huy những quyền năng của mình để giải

quyết các vấn đề của vụ án một cách khách quan, chính xác trên cơ sở những

quy định của pháp luật. Thẩm phán không được tác động đến quá trình tư duy

của Hội thẩm khi họ thực hiện việc chứng minh tội phạm cũng như khi quyết

định các vấn đề khác của vụ án. Hội thẩm cũng phải ý thức được việc phải độc

lập và chỉ tuân theo pháp luật đã được quy định thành một nguyên tắc cơ bản.

- Sự tuân theo các văn bản pháp luật khác có liên quan:

+ Pháp luật dân sự: Khi giải quyết vụ án hình sự, cùng với việc quyết

định vấn đề tội danh, mức hình phạt, xử lý vật chứng, Hội đồng xét xử còn

phải giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự, chủ yếu là giải quyết việc bồi

thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Yêu cầu giải quyết những vấn đề trên đòi

hỏi Hội đồng xét xử phải nắm rõ những quy định của các văn bản pháp luật

dân sự về căn cứ bồi thường, mức bồi thường, nguyên tắc bồi thường. Các

quyết định này phải dựa vào luật dân sự và các văn bản hướng dẫn trên cơ sở

tôn trọng nguyên tắc tự định đoạt của đương sự, không được phép quyết định

theo cảm tính, chủ quan, dựa vào tình cảm cá nhân để ấn định mức bồi

thường.

+ Pháp luật chuyên ngành khác: Hoạt động định tội danh là một hoạt

động khá phức tạp đòi hỏi những người làm công tác xét xử phải có kiến thức

30

tổng hợp về pháp luật chứ không đơn thuần là chỉ hiểu biết các quy định của

luật hình sự. Một số tội danh không được mô tả trực tiếp tại điều luật của Bộ

luật hình sự mà hành vi cụ thể được quy định tại các luật, văn bản pháp luật

chuyên ngành như nhiều tội trong chương “Các tội phạm an toàn công cộng,

trật tự công cộng”, các tội xâm phạm liên quan đến những lĩnh vực cụ thể như

y tế, xây dựng… Muốn định tội danh đều phải nắm rõ các quy định của văn

bản pháp luật chuyên ngành. Nếu không am hiểu phải trưng cầu ý kiến của

chuyên gia về các lĩnh vực cụ thể. Ngoài ra, Thẩm phán và Hội thẩm cũng

phải nắm chắc các văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao, các thông

tư liên ngành để giải quyết chính xác từng trường hợp cụ thể.

1.2.3. Mối quan hệ giữa tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong

hoạt động xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm.

Độc lập là biểu hiện của tuân theo pháp luật. Thẩm phán và Hội thẩm xét

xử độc lập là một phần nội dung của nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm nhân

dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập với

nhau, độc lập với các yếu tố khác. Độc lập trong xét xử không những được quy

định thành nguyên tắc của bộ luật tố tụng hình sự, được ghi nhận trong Hiến

pháp, luật tổ chức Tòa án mà nó còn được thể hiện ở những điều luật quan

trọng khác của luật Tố tụng Hình sự, Tố tụng Dân sự, Tố tụng Hành chính như

các điều luật về nghị án, về giới hạn xét xử, về giám đốc thẩm. Nếu Thẩm phán

và Hội thẩm xét xử độc lập, không chịu bất cứ sự tác động nào thì phán quyết

của Hội đồng xét xử mới có tính khách quan, vô tư, quyết định của Hội đồng

xét xử mới đảm bảo đúng pháp luật.

Độc lập là điều kiện cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm tuân theo

pháp luật. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập chính là biểu hiện và bảo

đảm của việc tuân theo pháp luật. Tuân theo pháp luật là cơ sở để thể hiện

tính độc lập trong xét xử. Tuân nghĩa là nghe theo và làm theo. Xét khía cạnh

31

thuần túy của tính độc lập, để có thể tự mình đưa ra phán quyết, Thẩm phán

và Hội thẩm phải có kiến thức pháp luật và phải chấp hành quy định của pháp

luật. Kiến thức pháp luật như đã phân tích ở trên là những kiến thức về khoa

học luật hình sự, dân sự, hành chính và các kiến thức về luật chuyên ngành.

Tuân theo pháp luật là làm theo những quy định của pháp luật (bao hàm

cả pháp luật hành chính, luật dân sự và pháp luật tố tụng hình sự, tố tụng dân

sự, tố tụng hành chính cũng như các luật chuyên ngành khác). Khi nắm chắc

kiến thức pháp luật, Thẩm phán và Hội thẩm có điều kiện để thể hiện sự độc

lập trong phán quyết của mình. Xét ở một khía cạnh khác thì tuân theo pháp

luật đã loại trừ các tác động khác đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội

thẩm, bởi vậy mà Thẩm phán và Hội thẩm mới có được sự độc lập.

Độc lập trong mối quan hệ thống nhất giữa Thẩm phán và Hội thẩm

còn thể hiện ở chỗ cả hai thiết chế này chỉ tuân theo pháp luật trong quá trình

tố tụng, nhưng phải trên cơ sở những quy định của pháp luật: Mọi kết luận

của bản án, quyết định của Hội đồng xét xử phải phù hợp với các tình tiết

khách quan của vụ án. Bản án phải xác định đúng người phạm tội, đúng hành

vi phạm tội, đúng những thiệt hại do tội phạm gây ra; đảm bảo tính khách

quan, chính xác, đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của đương sự. Mỗi nhận

định của bản án đều phải dựa trên những chứng cứ và tình tiết xác thực đã

được thẩm tra tại phiên tòa có lập luận chặt chẽ, không kết luận dựa trên ý chí

chủ quan, cảm tính cá nhân của mỗi thành viên Hội đồng xét xử.

Yếu tố độc lập và tuân theo pháp luật không thể tách rời nhau. Độc lập

nhưng phải tuân theo pháp luật và tuân theo pháp luật nhưng phải đảm bảo sự

độc lập, tránh tình trạng áp đặt. Có ý kiến cho rằng, chỉ cần quy định khi xét

xử, Thẩm phán và Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật vì nếu chỉ cần các thành

viên của Hội đồng xét xử tuân theo pháp luật thì sẽ có được kết luận chính

32

xác. Chúng ta biết rằng, pháp luật là những quy tắc xử sự song pháp luật

không thể chính xác như một phép tính toán học.

Trong các chế tài của quy phạm pháp luật hình sự, ngoại trừ hình phạt

tử hình, các loại phạt tù có thời hạn, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tiền

bao giờ cũng có một khoảng nhất định, không có một mức cụ thể. Khả năng

nhận thức và các điều kiện nhận thức của các thành viên Hội đồng xét xử

khác nhau. Nếu các thành viên của Hội đồng xét xử không có được sự độc lập

dễ dẫn đến việc xét xử theo sự sắp đặt của Thẩm phán, sự lệ thuộc, ỷ lại của

Hội thẩm, sự tác động của các yếu tố khác ngoài Hội đồng xét xử và sẽ dẫn

đến quyết định của bản án không chính xác và thiếu tính khách quan, hoặc xét

xử quá nặng, hoặc xét xử quá nhẹ.

Độc lập mà không theo pháp luật thì độc lập trong xét xử sẽ không còn

ý nghĩa vì sự xét xử tùy tiện, độc đoán, không tránh khỏi sự chủ quan, cảm

tính khi đánh giá vấn đề. Có thể nói rằng, yếu tố độc lập và chỉ tuân theo pháp

luật có mối quan hệ biện chứng với nhau, độc lập trong sự thống nhất với việc

tuân theo pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật có quy định nguyên tắc Hội đồng

xét xử quyết định theo đa số. Điều này có nghĩa là việc độc lập có thể đạt

được nhưng việc chỉ tuân theo pháp luật chưa thể đạt được nếu như các phán

quyết không phải là kết quả của sự đồng thuận tuyệt đối của hội đồng xét xử.

Sự đồng thuận của hội đồng xét xử là yếu tố tối quan trọng trong mọi

giai đoạn của tố tụng, đặc biệt là trong phần nghị án. Khoản 4 Điều 222 Bộ

luật tố tụng hình sự quy định “Khi nghị án phải có biên bản ghi lại các ý kiến

đã thảo luận và quyết định của Hội đồng xét xử. Biên bản nghị án phải được

tất cả các thành viên Hội đồng xét xử ký tại phòng nghị án trước khi tuyên

án”. Điều 264 Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Chỉ có các thành viên Hội

đồng xét xử mới có quyền nghị án. Khi nghị án phải có biên bản ghi lại các ý

kiến đã thảo luận và quyết định của Hội đồng xét xử. Biên bản nghị án phải

33

được các thành viên Hội đồng xét xử ký tên tại phòng nghị án và trước khi

tuyên án”.

Trong trường hợp có sự không thống nhất quan điểm thì việc nghị án

sẽ không thực hiện được, và đương nhiên không thể tuyên án. Điều này

không chỉ gây ảnh hưởng đến chất lượng của phiên tòa xét xử, mà còn tạo

cảm giác hoang mang của những người tham gia phiên tòa, nghị án quá lâu

sẽ hình thành những câu hỏi nghi vấn, dễ dẫn đến mất lòng tin của công

dân vào luật pháp.

- Độc lập với các chủ thể khác của Tòa án.

+ Về việc bổ nhiệm làm Thẩm phán: Tòa án nhân dân phải được Hội

đồng tuyển chọn giám sát Thẩm phán quốc gia tuyển chọn và trình Quốc hội

phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm. Theo Điều 66 Luật tổ chức Tòa án nhân dân

năm 2014 quy định Thẩm phán Tòa án nhân dân ở nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam gồm có các ngạch: Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao,

Thẩm phán Tòa án nhân dân cao cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ

cấp; Thẩm phán Tòa án quân sự bao gồm Thẩm phán Tòa án quân sự trung

ương đồng thời là Thẩm phán Tòa án nhân dân cao cấp, Thẩm phán trung cấp,

Thẩm phán sơ cấp.

Tiêu chí để có thể được tuyển chọn bổ nhiệm Thẩm phán nhằm là

người được lựa chọn phải có phẩm chất đạo đức, năng lực, liêm khiết, do cơ

quan nơi người được tuyển chọn đánh giá thông qua việc bỏ phiếu tín nhiệm.

Chánh án là người đứng đầu cơ quan vừa sử dụng cán bộ nhưng đồng thời

cũng là người quản lý cán bộ trong đơn vị mình, ngoài việc bỏ một phiếu tín

nhiệm như cán bộ công chức khác, Chánh án còn có tiếng nói quan trọng

trong việc lựa chọn, định hướng công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ như trong

việc bổ nhiệm Thẩm phán, sau khi có phiếu tín nhiệm, người được lựa chọn

phải qua Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán mà Chánh án cấp tỉnh là thành viên

34

của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa

án nhân dân, sau đó Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán làm tờ trình, danh sách

trích ngang những người đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán và biên bản họp, đề

nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp,

Thẩm phán sơ cấp.

Theo quy định tại Điều 70 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là Chủ tịch Hội đồng tuyển chọn, giám sát

Thẩm phán quốc gia. Có thể nói Thẩm phán và Hội thẩm là người chịu sự

quản lý của Chánh án và Tòa án cùng và Chánh án và Tòa án cấp trên. Thông

qua công tác tổ chức xét xử như họp bàn án trước khi xét xử, phân công Thẩm

phán, Hội thẩm xét xử vụ án, Chánh án có thể tác động đến hoạt động xét xử

của Thẩm phán và Hội thẩm, định trước về điều khoản Bộ luật hình sự và

hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm sẽ phải áp dụng nhưng việc “Tòa cấp trên”

hủy án “Tòa cấp dưới” cũng ảnh hưởng đến tính độc lập của Thẩm phán và

Hội thẩm.

Đối với Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm là người được bầu hoặc cử theo

quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm

quyền của Tòa án. Hội thẩm Tòa án nhân dân ở nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam gồm có: Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Hội

thẩm nhân dân Tòa án nhân dân cấp huyện (gọi chung là Hội thẩm nhân dân),

Hội thẩm quân nhân Tòa án quân khu và tương đương, Hội thẩm quân nhân

Tòa án quân sự khu vực (gọi chung là Hội thẩm quân nhân).

Hội thẩm nhân dân địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu

theo sự giới thiệu của Ủy ban mặt trận Tổ quốc cùng cấp và do Hội đồng nhân

dân cùng cấp miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân

cùng cấp sau khi thống nhất với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp.

35

+ Về thẩm quyền thực hiện công tác chuyên môn nghiệp vụ

Theo quy định, Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ hướng dẫn các

Tòa án cấp dưới áp dụng thống nhất pháp luật; tổng kết kinh nghiệm xét xử của

các Tòa án cấp dưới; giám đốc viện xét xử của Tòa án các cấp, Tòa án đặc biệt

và các Tòa án khác; giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án quyết

định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị; phúc thẩm những bản án,

quyết định của Tòa án đã tuyên nhưng chưa có hiệu lực của Tòa án cấp dưới

nhưng bị kháng cáo, kháng nghị.

Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền:

Sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng; phúc thẩm

những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án cấp dưới bị

kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng; giám đốc thẩm,

tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án cấp

dưới bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng.

Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa án sơ thẩm, hủy án sơ thẩm,

chuyển hồ sơ cho cấp sơ thẩm điều tra xét xử lại; hủy án sơ thẩm và đình chỉ

vụ án; Hội đồng giám đốc thẩm và Hội đồng tái thẩm có thẩm quyền hủy bản

án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án, hủy bản án

quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra xét xử lại.

Ngoài ra, theo Điều 38 Bộ luật tố tụng hình sự quy định nhiệm vụ,

quyền hạn và trách nhiệm của Chánh án, Phó Chánh án Tòa án: Chánh án Tòa

án có nhiệm vụ và quyền hạn tổ chức công tác xét xử của Tòa án, Quyết định

phân công cho Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm giải quyết xét xử

án hình sự… Quyết định thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm … trước khi mở

phiên Tòa.

Điều 47 của Bộ luật tố tụng dân sự quy định nhiệm vụ, quyền hạn của

Chánh án, Phó Chánh án Tòa án: “Chánh án Tòa án có nhiệm vụ và quyền

36

hạn tổ chức công tác giải quyết vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án;

đảm bảo thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật xét xử, Quyết định phân công cho Thẩm phán thụ lý, giải

quyết vụ việc dân sự, Hội thẩm nhân dân tham gia Hội đồng xét xử vụ án dân

sự…, Quyết định thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm … trước khi mở phiên Tòa”.

Điều 37 của Luật tố tụng hành chính quy định nhiệm vụ, quyền hạn

của Chánh án: Chánh án Tòa án có nhiệm vụ và quyền hạn tổ chức công tác

giải quyết vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của Tòa án; đảm bảo thực hiện

nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật xét

xử, Quyết định phân công cho Thẩm phán thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự,

Hội thẩm nhân dân tham gia Hội đồng xét xử vụ án dân sự…, Quyết định thay

đổi Thẩm phán, Hội thẩm… trước khi mở phiên Tòa.

Từ những quy định pháp lý trên có thể khái quát mối quan hệ giữa

Thẩm phán, Hội thẩm và nội bộ ngành Tòa án được thể hiện ở quan hệ giữa

Thẩm phán với Chánh án và các đồng nghiệp trong cùng đơn vị Tòa án; quan

hệ giữa Thẩm phán và Tòa án cấp trên; quan hệ giữa Thẩm phán với Chánh

án Tòa án nhân dân cấp trên, quan hệ giữa Thẩm phán với Chánh án Tòa án

nhân dân tối cao; Hội thẩm có quan hệ giữa Hội thẩm và Chánh án Tòa án nơi

Hội thẩm tham gia xét xử.

Những mối quan hệ này không đơn thuần là quan hệ về tổ chức hành

chính, càng không đơn thuần là quan hệ tố tụng. Trong quan hệ hành chính có

quan hệ tố tụng và trong quan hệ tố tụng có mối quan hệ hành chính nhất

định, không có sự tách bạch rõ ràng.

Chính vì vậy, Thẩm phán và Hội thẩm cần phải có chính kiến, quan

điểm của mình trong việc đánh giá chứng cứ, xác định tội danh, mức hình

phạt và giải quyết các vấn đề khác dựa trên quy định của pháp luật.

37

Như phần trên đã lý giải, tính độc lập trong hoạt động xét xử của

Chánh án và Tòa án cấp trên không có nghĩa là không lắng nghe, không học

hỏi, chỉ đưa ra quyết định dựa trên những suy nghĩ chủ quan của mình, việc

tranh thủ ý kiến của tập thể Thẩm phán, của cấp trên để áp dụng thống nhất

pháp luật, củng cố niềm tin nội tâm sẽ hạn chế được những sai sót có thể xảy

ra do lỗi chủ quan của Thẩm phán, Hội thẩm. Điều quan trọng là không được

lạm dụng quá mức mối quan hệ này trong việc xét xử, khi đưa ra một bản án

hay thỉnh thị án.

- Độc lập với sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng, Nhà nước cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam,

Nhà nước công khai xác định nguyên tắc Đảng lãnh đạo nhà nước, đó là:

Đảng ra nghị quyết, chỉ thị, đề ra đường lối, chủ trương chính sách; đào tạo và

giới thiệu những đảng viên ưu tú vào cơ quan nhà nước; giám sát hoạt động của

cơ quan nhà nước thông qua các đảng viên và tổ chức đảng trong cơ quan đó.

1.3. Ý nghĩa của việc bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm

nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật” có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong hoạt động xét xử của Tòa

án, có thể khái quát ý nghĩa của nguyên tắc thành ba lĩnh vực như sau:

1.3.1. Ý nghĩa về pháp lý

Thực hiện đúng nghiêm minh nguyên tắc sẽ góp phần bảo vệ pháp chế

XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân và ổn định các quan

hệ kinh tế - xã hội; đảm bảo và nâng cao chất lượng xét xử, đồng thời khẳng

định được vị trí, vai trò và trách nhiệm của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

trong hoạt động xét xử các vụ án.

Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật

vừa là cơ sở pháp lý để Thẩm phán và Hội thẩm tiến hành hoạt động xét xử

38

được khách quan, đúng pháp luật, vừa là cơ sở đảm bảo Hiến pháp và pháp

luật được thực thi một cách nghiêm túc bởi những người thi hành pháp luật và

những người xét xử hành vi vi phạm pháp luật. Nói cách khác, pháp luật chỉ

có ý nghĩa và có tác dụng khi nguyên tắc “độc lập xét xử” được tuân thủ một

cách triệt để. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử vừa là quyền, đồng

thời đó cũng là nghĩa vụ của Thẩm phán và Hội thẩm.

1.3.2. Ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội

Nguyên tắc xác định vai trò, vị trí của cơ quan Tòa án trong hệ thống các

cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng. Chỉ có Tòa

án mới có quyền xét xử và khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc

lập và chỉ tuân theo pháp luật. Không một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào được

phép can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án và hoạt động xét xử của Tòa

án (cụ thể là của Thẩm phán và của Hội thẩm) phải đảm bảo sự độc lập trên cơ

sở chỉ tuân theo pháp luật, không tuân theo bất cứ sự chỉ đạo khác nào ngoài

pháp luật, trái pháp luật.

Nguyên tắc đảm bảo cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.

Tư pháp độc lập là một trong những yếu tố để thực hiện công bằng xã hội,

xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mọi công dân đều sống

và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, pháp luật phải được chấp hành

nghiêm chỉnh.

Độc lập xét xử có ý nghĩa quan trọng để đảm bảo cho môi trường đầu

tư kinh doanh lành mạnh vì khi đó các nhà đầu tư trong và ngoài nước sẽ yên

tâm rằng những tranh chấp đầu tư và hợp đồng kinh doanh của họ sẽ được

bảo vệ bởi một cơ chế tài phán xét xử độc lập, vô tư, khách quan. Các quyền

cơ bản của mỗi con người trong xã hội cũng sẽ được bảo đảm khi những

người cầm cân nảy mực thực sự độc lập xét xử những hành vi vi phạm các

quyền đó. Độc lập xét xử cũng là một điều quan trọng để đảm bảo sự thành

39

công của việc phòng chống tham nhũng, bởi lẽ những kẻ tham nhũng sẽ

không có cơ hội được bao che bởi sự can thiệp hoặc tác động vào quá trình

xét xử của Tòa án.

Hoạt động xét xử không phải là hoạt động của một cá nhân mà là hoạt

động của tập thể, không chỉ là hoạt động của “quan tòa” mà còn có sự tham

gia giám sát, tham gia xét xử của nhân dân thông qua những người đại diện

của họ, đó là Hội thẩm, Nguyên tắc đã gián tiếp thể hiện bản chất nhà nước xã

hội chủ nghĩa là nhà nước do nhân dân làm chủ, nhân dân tham gia giám sát

các hoạt động của nhà nước, trong đó có hoạt động xét xử.

1.3.3. Ý nghĩa về mặt thực tiễn

Thứ nhất, nguyên tắc thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật là nền tảng của tư pháp trong nhà nước pháp quyền. Đây

là công thức pháp lí chứa đựng có giá trị được thừa nhận chung trong nhà

nước pháp quyền đối với không chỉ trong hoạt động xét xử các vụ án dân sự

mà cả trong hoạt động điều tra, truy tố xét xử các vụ án hình sự. Tư pháp có

độc lập mới đảm bảo được tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật, có khả

năng kiểm soát và giới hạn quyền lực cũng như đảm bảo cho quyền con

người. Sự độc lập xét xử của tòa án là một nhân tố thiết yếu trong việc kiểm

chế những hoạt động tùy tiện của các cơ quan nhà nước

Thứ hai, thực hiện nguyên tắc góp phần đảm bảo và nâng cao chất

lượng xét xử các vụ án dân sự của tòa án, đồng thời khẳng định được vị trí,

vai trò và trách nhiệm của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong hoạt động

xét xử các vụ án dân sự. Ở nước ta, tòa án là cơ quan duy nhất có chức năng

xét xử, là nơi người dân đặt niềm tin vào công lí, nơi thể hiện tính nghiêm

minh của pháp luật, nơi mà ở một mức độ nhất định phản ánh tính dân chủ

của một xã hội. Những yêu cầu này phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố con người,

cụ thể là ý thức trách nhiệm trình độ vận dụng pháp luật của thẩm phán và hội

40

thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử. Thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi mỗi

thẩm phán và hội thẩm nhân dân cũng như những cán bộ làm trong các cơ

quan tư pháp phải tuân theo pháp luật một cách nghiêm chỉnh, chí công, vô

tư, không được để tình cảm của các nhân, quyền lợi riêng tư ảnh hưởng đến

việc xét xử. Những người có thẩm quyền trong TTDS phải có lòng trung thực,

dám chịu trách nhiệm, đồng thời chống khuynh hướng phủ nhận tính độc lập

trong hoạt động tư pháp; lợi dụng nguyên tắc Đảng lãnh đạo để một số cá

nhân có chức, có quyền trong tổ chức Đảng hoặc cơ quan nhà nước tác động

hoặc gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động xét xử của tòa án

Thứ ba, thực hiện nguyên tắc này góp phần bảo vệ pháp chế XHCN,

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân và ổn định các quan hệ kinh tế

- xã hội trong giao lưu dân sự. Có thể nói mục đích của việc thực hiện quyền

tư pháp trong nhà nước pháp quyền là nhằm thực thi công lí và bảo vệ quyền

con người. Để đạt được mục đích đó thì hoạt động xét xử của tòa án phải

được tiến hành một cách công bằng và nghiêm minh theo những nguyên tắc tố

tụng đã đề ra trong đó nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc

lập và chỉ tuân theo pháp luật chiếm một vị trí trung tâm trong hoạt động xét

xử của tòa án.

1.4. Các yêu cầu, điều kiện bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội

thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

1.4.1. Yêu cầu bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân

xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

- Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc

lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động nhân danh quyền lực của

Nhà nước để tuyên một bản án kết tội hay không kết tội bị cáo. Phán quyết

của Tòa án ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức xã hội,

41

quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do đó, yêu cầu tối cao và cũng là cái

mốc để đánh giá hiệu quả của công tác xét xử là phải khách quan, toàn diện,

đầy đủ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không

xử oan người vô tội.

Nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của

Thẩm phán, Hội thẩm. Cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử

của Thẩm phán, Hội thẩm dưới bất kỳ hình thức nào thì tùy tính chất, mức độ

vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu

trách nhiệm hình sự theo quy định của luật.”

- Nâng cao nhận thức tầm quan trọng của việc bảo đảm nguyên tắc

Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

- Giám sát, kiểm tra, xử lý vi phạm trong quá trình áp dụng nguyên tắc

Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

1.4.2. Điều kiện bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân

xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Thứ nhất, hệ thống pháp luật phải hoàn thiện theo hướng quy định của

pháp luật phải rõ ràng, đảm bảo tính chính xác khi áp dụng, các quy định pháp

luật phải thống nhất, không mâu thuẫn, không mâu thuẫn với nhau, cần có

những quy phạm pháp luật với chế tài nghiêm khắc để xử lý những biểu hiện

tác động đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm.

Thứ hai, Thẩm phán, Hội thẩm phải có đạo đức, nhân cách trong sáng,

được nhân dân kính mến về đạo đức, về khả năng và sự dũng cảm trong việc

bảo công lý, bảo vệ niềm tin. Điều gì sẽ xảy ra nếu Thẩm phán, Hội thẩm chỉ

chạy theo lợi ích cá nhân, đánh mất đạo đức nghề nghiệp? Đương nhiên, niềm

tin vào công lý sẽ bị xói mòn mà xã hội chỉ còn dựa vào luật rừng.

Thứ ba, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải là người có hiểu biết pháp

luật và ý thức pháp luật cao hơn những người khác và luôn luôn cập nhật được

42

những thành tựu mới của hoạt động lập pháp, của khoa học và thực tiễn pháp

lý. Thẩm phán, Hội thẩm có nghiệp vụ cao tức là phải nắm vững quy định của

pháp luật, có tư duy và khả năng vận dụng pháp luật để giải quyết các vấn đề

pháp lý đặt ra.

Thứ tư, Thẩm phán, Hội thẩm không bị áp lực khác tác động, khiến họ

lúng túng khi tham gia xét xử .

Thứ năm, Thẩm phán và Hội thẩm không lệ thuộc vào kết quả điều tra,

những thông tin, tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Thứ sáu, đội ngũ Thẩm phán “có tâm và có tầm” thông qua chế

độ tuyển cử thẩm phán thi tuyển và thẩm phán bổ nhiệm đủ tiêu chuẩn theo

yêu cầu được qui định trong luật để trở thành thẩm phán suốt đời - Tiêu chuẩn

hóa độ tuổi của Thẩm phán bổ nhiệm.

Thứ bảy, Nhà nước đảm bảo về đời sống vất chất “cần đủ” cho đội ngũ

thẩm phán suốt đời để tăng “đề kháng” trước cám dỗ vật chất; tăng cường

biện pháp thưởng phạt nghiêm minh và có chế độ đãi ngộ đặc biệt cho thẩm

phán tận tụy, liêm chính có công lao đóng góp cho nền tư pháp Việt Nam.

Việc trả lương cho thẩm phán và các chức danh khác của tòa án nên từ

ngân sách riêng, không phụ thuộc vào ngân sách địa phương. Việc khen

thưởng thẩm phán, tăng lương, tăng ngạch nên thực hiện theo kênh độc lập,

không theo phương pháp quản lý đặc trưng của hệ thống hành chính.

43

Tóm tắt chương 1

Nội dung của chương 1, đã tập trung làm rõ hơn về mặt cơ sở pháp lý

của việc bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập

và chỉ tuân theo pháp luật. Đưa ra các khái niệm, nội dung cơ bản của nguyên

tắc, cũng như chỉ ra được mối quan hệ giữa tính độc lập và chỉ tuân theo pháp

luật trong hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Các yêu

cầu và điều kiện bảo đảm nguyên tắc, ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội, về mặt

pháp lý cũng như về phương diện thực tiễn của nguyên tắc Thẩm phán, Hội

thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.Từ đó càng khẳng định rõ

hơn cơ sở pháp lý bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập

chỉ tuân theo pháp luật là một Hiến định được quy định từ Hiến pháp năm

1946 đến Hiến pháp năm 2013 và các quy định pháp luật khác và đang là một

nội dung để nhà nước hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện nay. Đồng thời

khẳng định rỏ Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của dân,

do dân và vì dân.

44

Chương 2

THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN, HỘI THẨM

NHÂN DÂN XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT

TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ QUẢNG TRỊ, TỈNH QUẢNG TRỊ

2.1. Các yếu tố tác động đến việc bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán,

Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

2.1.1. Yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội của thị xã Quảng Trị

Thị xã Quảng Trị là khu vực châu thổ ven sông Thạch Hãn, nơi có khả

năng kết nối giao thông dễ dàng bằng đường bộ hoặc đường sông với các khu

vực phụ cận bao gồm: kết nối,với huyện Triệu Phong phía Tây và phía Bắc,

với huyện Hải Lăng về phía Đông, phía Nam giáp huyện Đăkrông và Hải

Lăng và với thành phố Huế khoảng 60 km về phía Bắc. Địa hình thị xã Quảng

Trị chia thành hai vùng rõ rệt. Phía Tây - Nam là vùng đồi núi với những

thảm rừng có hệ sinh thái phong phú. Phía Đông - Bắc là vùng đồng bằng

tương đối bằng phẳng, thuận lợi cho việc trồng lúa và các loại cây ăn quả lâu

năm. Khí hậu thị xã Quảng Trị mang đậm nét điển hình của khí hậu vùng

nhiệt đới gió mùa. Đặc biệt, khi gió mùa tây - nam, bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 7 hàng năm, nhiệt độ có lúc lên tới 40oC - 41oC, làm cho nguồn nước

sông cạn kiệt, nước mặn tràn vào gây ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất, sinh

hoạt của nhân dân thị xã.

Về vị trí kinh tế - xã hội, thị xã Quảng Trị nằm trên trục đường giao

thông chiến lược của quốc gia: quốc lộ I, tuyến đường sắt Bắc - Nam, địa bàn

thị xã Quảng Trị giao thông ra Bắc vào Nam hết sức thuận lợi. Thị xã cũng là

đầu mối xuất phát của các con đường tỉnh lộ như đường 64 (thị xã Quảng Trị

- Cửa Việt), đường 68 (thị xã Quảng Trị - đồng bằng Triệu Hải - Phong

Quảng) và nhiều con đường khác (thị xã Quảng Trị - La Vang - Phước Môn,

45

thị xã Quảng Trị - Thượng Phước - Trấm - Cùa). Với hệ thống đường bộ,

đường sắt, đường thủy từ trung tâm thị xã có thể mở rộng phát triển khắp các

vùng, tiện lợi cho việc giao lưu kinh tế, văn hóa giữa thị xã Quảng Trị với các

huyện, thị trong tỉnh, trong nước. Như vậy, thị xã Quảng Trị có một vị trí

quan trọng không chỉ về kinh tế mà cả về chính trị, quân sự, văn hóa, xã hội.

Về lịch sử, thị xã Quảng Trị (tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Trị) được toàn

quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập lần đầu tiên vào ngày 17.2.1906.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30.4.1975), thị xã Quảng Trị trở

thành huyện lỵ của huyện Triệu Phong. Tháng 1.1977, Ủy ban nhân dân tỉnh

Bình Trị Thiên ra quyết định thành lập thị trấn Triệu Phong. Tiếp đó, hai

huyện Triệu Phong và Hải Lăng hợp nhất thành huyện Triệu Hải, thị trấn

Triệu Phong được đổi thành thị trấn Triệu Hải. Ngày 18.5.1981, Hội đồng

Chính phủ ra quyết định thành lập thị trấn Quảng Trị (bao gồm thị trấn Triệu

Hải và xã Hải Trí).

Ngày 16.9.1989, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra quyết định thành lập thị xã Quảng Trị.

Ngày 19.3.2008, đáp ứng yêu cầu phát triển của tình hình mới, Chính

phủ ra Nghị định điều chỉnh địa giới hành chính huyện Hải Lăng, huyện Triệu

Phong để mở rộng địa giới hành chính thị xã Quảng Trị, điều chỉnh địa giới

hành chính các xã, phường để thành lập phường thuộc thị xã Quảng Trị với cơ

cấu gồm bốn phường và một xã, gồm: phường 1, phường 2, phường 3,

phường An Đôn và xã Hải Lệ.

Hiện nay, thị xã Quảng Trị có diện tích tự nhiên là 7.402,78 ha, dân số

25.760 người; là trung tâm kinh tế của tỉnh Quảng Trị, bên cạnh thành phố

Đông Hà. Nền kinh tế của thị xã đang được chuyển dịch theo hướng dịch vụ -

công nghiệp - nông nghiệp. Trong đó, du lịch tâm linh - hoài niệm đang sản

phẩm du lịch đặc thù - tạo điểm nhấn cho nền kinh tế thị xã Quảng Trị, khi tại

46

đây có các di tích lịch sử nổi tiếng, như: Thành cổ Quảng Trị, Tháp chuông,

Quảng trường Giải phóng, Cụm di tích đôi bờ sông Thạch Hãn… thu hút

khách tham quan ghé thăm trong các đợt lễ, các ngày kỷ niệm quan trọng của

tỉnh và quốc gia.

Nguồn trích: [Nghị quyết của Ban chấp hành Đảng bộ thị xã Quảng

Trị về phát triển thương mại và du lịch thị xã Quảng Trị giai đoạn 2020 đến

2025 và định hướng đến 2030.]

Về tôn giáo, với vị trí địa lý thuận lợi, các tôn giáo như đạo Nho, đạo

Phật, đạo Thiên Chúa có mặt khá sớm ở thị xã Quảng Trị. Sự hiện diện của

các tôn giáo góp phần làm cho đời sống tâm linh của nhân dân thêm đa dạng

và phong phú.

Thị xã Quảng Trị được xác định là trung tâm kinh tế phía nam tỉnh

Quảng Trị. Trong những năm qua, được sự quan tâm đầu tư của tỉnh thị xã đã

và đang tập trung phát triển các dịch vụ thương mại và du lịch, các cụm công

nghiệp phát triển thu hút đông đảo lực lượng lao động trong và ngoài địa bàn.

Đồng thời tập trung xây dựng thị xã trở thành đô thị văn minh, góp phần nâng

cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.

Tuy nhiên, bên cạnh đó các vấn đề xã hội phức tạp cũng nảy sinh như

tình hình tội phạm, ô nhiễm môi trường và đặc biệt là sự gia tăng các các loại

tội phạm về ma túy, cố ý gây thương tích, tranh chấp dân sự liên quan đến

quyền sử dụng đất từ các hoạt động đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư

trong quá trình thực hiện dự án.

Vì vậy, số lượng các vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh thương mại,

hành chính, lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND Thị xã Quảng

Trị, tăng về số lượng và tính chất vụ việc ngày càng phức tạp, tạo áp lực

không nhỏ cho hoạt động của Tòa án.

47

2.1.2. Cơ cấu tổ chức, cán bộ Tòa án nhân dân thị xã Quảng Trị

- Về tổ chức của Tòa án nhân dân Thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị

Luật tổ chức TAND năm 2014 đã thể chế hóa nội dung các văn kiện

của Đảng về cải cách tư pháp, theo đó, tổ chức TAND 04 cấp bao gồm:

TAND tối cao; các TAND cấp cao; các TAND tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương; các TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương

đương; các Toà án quân sự (quy định tại Điều 3 Luật tổ chức TAND năm

2014).

Tổ chức bộ máy của các Toà án được quy định theo hướng chuyên môn

hoá linh hoạt và tránh cồng kềnh, gây tốn kém, lãng phí.

Về cơ cấu tổ chức, tại mỗi đơn vị hành chính cấp tỉnh có một TAND

cấp tỉnh như hiện nay. Bên cạnh đó, tương tự như đối với tổ chức bộ máy của

TAND cấp cao, TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có các Tòa

chuyên trách bao gồm: Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế,

Tòa lao động, Tòa gia đình và người chưa thành niên. Việc thành lập các Tòa

chuyên trách ở từng TAND cấp tỉnh do Chánh án TAND tối cao quyết định.

Trường hợp do nhu cầu công tác, cần thành lập thêm Tòa chuyên trách khác

trong TAND cấp tỉnh thì Chánh án TAND tối cao đề nghị UBTVQH xem xét,

quyết định.

Như vậy, Tòa án nhân dân huyện, thị là cơ quan xét xử cấp thứ tư trong

hệ thống Tòa án nhân dân bốn cấp của Nhà nước Việt Nam.

Căn cứ Điều 45 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014, cơ cấu tổ chức của

Tòa án nhân dân cấp huyện, thị gồm các tòa chuyên trách: Tòa hình sự, Tòa

dân sự, Tòa gia đình và người chưa thành niên, Tòa xử lý hành chính.

Trường hợp cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập

Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

48

Căn cứ quy định tại khoản này và yêu cầu, thực tế xét xử ở mỗi Tòa án

nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và tương đương,

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc tổ chức Tòa chuyên trách.

Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương

đương có Chánh án, Phó Chánh án, Chánh tòa, Phó Chánh tòa, Thẩm phán,

Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên về thi hành án, công chức khác và người lao

động.

Trên cơ sở quy định trên, tổ chức các Tòa án nhân dân cấp Tỉnh Quảng

Trị gồm các tòa: Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà; Tòa án nhân dân

huyện Vĩnh Linh, Tòa án nhân dân huyện Do Linh, Tòa án nhân dân huyện

Cam Lộ, Tòa án nhân dân huyên Đakrong, Tòa án huyện Hướng Hóa, Tóa án

huyện Triệu Phong, Tòa án huyện Hải Lăng, Tòa án thị xã Quảng Trị.

Tòa án Thị xã Quảng Trị được tổ chức thành lập từ ngày 28 tháng 10

năm 1989 theo theo quyết định số 264/QĐ-QLTA của Bộ trưởng Bộ Tư pháp

trên cơ sở chia tách Tòa án nhân dân huyện Triệu Hải thành 3 đơn vị: Tòa án

thị xã Quảng Trị , Tòa án nhân dân huyện Triệu Phong, Tòa án nhân dân

huyện Hải Lăng.

Tòa án nhân dân thị xã Quảng Trị gồm có 02 Thẩm phán (1 Chánh án,

01 Phó Chánh án), 02 Thẩm phán Trung cấp, 01 Thẩm tra viên, 02 Thư ký, 01

Kế toán và 01 lao động hợp đồng theo Nghị định 68. Theo quy định của Luật

tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Tòa án nhân dân thị xã Quảng Trị chưa

đủ số lượng án theo quy định nên chưa được thành lập các Tòa chuyên trách.

- Về nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân thị xã Quảng Trị, tỉnh

Quảng Trị trong việc tuân thủ nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Theo quy định tại Điều 44 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014,

Tòa án nhân dân thị xã có các nhiệm vụ và quyền hạn như sau:

49

- Sơ thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật.

- Giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật.

Theo đó, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định thành lập và quy

định nhiệm vụ, quyền hạn của bộ máy giúp việc Tòa án nhân dân huyện,

quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương.

Nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành

phố thuộc tỉnh và tương đương là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.

- Chánh án Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh

và tương đương có nhiệm vụ, quyền hạn sau:

- Tổ chức công tác xét xử của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã,

thành phố thuộc tỉnh và tương đương; chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện

nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;

- Báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân có thẩm quyền theo luật

định và Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của luật tố tụng; giải

quyết việc khác theo quy định của pháp luật.

Phó Chánh án Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh

và tương đương do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm,

cách chức.

Nhiệm kỳ của Phó Chánh án Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã,

thành phố thuộc tỉnh và tương đương là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.

- Phó Chánh án Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc

tỉnh và tương đương giúp Chánh án thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công

của Chánh án. Khi Chánh án vắng mặt, một Phó Chánh án được Chánh án ủy

nhiệm lãnh đạo công tác của Tòa án. Phó Chánh án chịu trách nhiệm trước

Chánh án về nhiệm vụ được giao.

50

- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của luật tố tụng.

- Chế độ tiền lương, cơ sở vật chất

Thực hiện Nghị quyết số 730/NQ-UBTVQH11 ngày 30/9/2004 của Ủy

ban Thường vụ Quốc hội về việc phê chuẩn bảng lương chuyên môn nghiệp

vụ ngành Tòa án đã xác định chế độ lương dành cho Thẩm phán có 3 ngạch

A1, A2, A3, trong đó:

- Ngạch A1 áp dụng cho Thẩm phán TAND cấp huyện (Thẩm phán sơ

cấp), gồm 9 bậc, hệ số lương bậc 1 là 2,34 và hệ số lương bậc 9 là 4,98.

- Ngạch A2 áp dụng đối với Thẩm phán TAND cấp tỉnh, gồm 8 bậc, hệ

số lương bậc 1 là 4,40 và hệ số lương bậc 8 là 6,78.

- Ngạch A3 áp dụng đối với Thẩm phán TAND tối cao, gồm 6 bậc, hệ

số lương bậc 1 là 6,20 và hệ số lương bậc 6 là 8,00.

Như vậy, chế độ lương đối với Thẩm phán các cấp, trong đó cấp tỉnh đã

tương đối phù hợp với tính đặc thù của nghề nghiệp xét xử của Thẩm phán.

Tuy nhiên, sự bất cập của ngạch lương Thẩm phán hiện nay thể hiện ở chỗ số

bậc trong một ngạch là quá lớn; nếu tính 03 năm được lên một bậc lương thì

Thẩm phán sơ cấp phải mất 27 năm mới hết ngạch A1 và mất 21 năm mới hết

ngạch A2 (Thẩm phán trung cấp). Vì vậy, toàn bộ cuộc đời công chức của

người Thẩm phán cũng chỉ theo hết các bậc trong ngạch lương A1 mà không

thể theo hết bậc lương A2, chưa kể để trở thành Thẩm phán TAND cấp huyện

phải có ít nhất 4 năm làm công tác pháp luật.

Số lượng cán bộ, Thẩm phán Tòa án nhân dân thị xã Quảng Trị tính đến

thời điểm tháng 12/2019 gồm có 08 người, trong đó 06 biên chế và 02 hợp

đồng lao động theo Nghị định 68:

- Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ: 07/08 đạt 87,5%;

- Về trình độ lý luận chính trị cao cấp: 06/08 đạt 75%;

- Thẩm phán có trình độ cử nhân luật 02/02 đạt 100%;

51

- Thẩm phán có trình độ lý luận chính trị cao cấp: 02/02 đạt 100%;

- 100% Thẩm phán, cán bộ và người lao động đều có phẩm chất đạo

đức tốt đáp ứng với yêu cầu tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức đối với người

cán bộ, đảng viên theo quy định.

Thực hiện Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm của Tòa án nhân dân năm

2002 được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 04/10/2002, được

sửa đổi bổ sung theo Pháp lệnh Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh

Thẩm phán và Hội thẩm của Tòa án nhân dân số 14/2011/UBTVQH12 năm

2011 và Quy chế tổ chức và hoạt động của Hội thẩm Toà án nhân dân; tại kỳ

họp thứ nhất (ngày 09/6/2016), Hội đồng nhân dân thị xã Quảng Trị khóa VI

đã bầu được 15 vị Hội thẩm nhân dân nhiệm kỳ 2016 – 2021 cho Tòa án nhân

dân thị xã Quảng Trị.

* Về thành phần cơ cấu

- Hội thẩm là cán bộ đương chức: 14

- Hội thẩm là cán bộ nghỉ hưu: 01

- Hội thẩm là nữ: 05.

Trong đó:

+ Hội thẩm là cán bộ các cơ quan cấp thị: 04

+ Hội thẩm là cán bộ đoàn thể cấp thị: 04

+ Hội thẩm là cán bộ phường, xã : 05

+ Hội thẩm là giáo viên: 01

* Về trình độ

- Hội thẩm có trình độ đại học: 14/15 đạt 93%, trong đó, Đại học Luật:

05/15 đạt 33%;

- Hội thẩm có trình độ thạc sỹ: 02

- Hội thẩm có trình độ lý luận chính trị cao cấp: 7/15 đạt 46,6%.

52

Theo quy định của Tòa án nhân dân Tối cao, hiện nay mỗi Thẩm phán

trung bình phải tham gia xét xử, giải quyết 60 vụ/năm, trong khi mỗi Tòa án

có lãnh đạo là Chánh án, Phó Chánh án (cũng là Thẩm phán) làm công tác

lãnh đạo, quản lý cũng phải giải quyết án với số lượng án thụ lý, giải quyết

hàng năm trung bình 125 vụ việc. Do đó, chất lượng giải quyết xét xử án

không đảm bảo.

Hội thẩm nhân dân công tác kiêm nhiệm, kiến thức pháp luật chủ yếu là

tự học, tự tìm hiểu nghiên cứu và học tập thông qua các đợt tập huấn của Tòa

án, do đó hạn chế một phần về năng lực của Hội thẩm nhân dân khi tham gia

xét xử, nhiều Hội thẩm còn có phần thiếu tích cực trong việc tự học tập nâng

cao kiến thức pháp lý, kỷ năng xét xử.

2.2. Thực tiễn bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân

xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật tại TAND thị xã Quảng Trị

2.2.1 Thực tiễn bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm

nhân dân trong quá trình xét xử

Mặc dù nhiệm vụ ra đặt ra đối với Tòa án nhân dân thị xã Quảng Trị

ngày càng nặng nề, song với sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của

Ban cán sự đảng, lãnh đạo Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị, Ban Thường

vụ, Thường trực Thị ủy thị xã Quảng Trị và sự ủng hộ của quần chúng

nhân dân, TAND thị xã Quảng Trị đã nỗ lực vượt qua khó khăn, đẩy nhanh

tiến độ, nâng cao chất lượng xét xử các loại án, hoàn thành xuất sắc nhiệm

vụ và chỉ tiêu đã đề ra.

Theo kết quả thống kê của Văn phòng TAND thị xã Quảng Trị, từ năm

2015 đến 2019 Tòa án nhân dân thị xã Quảng Trị thụ lý, giải quyết 625 vụ án

các loại, cụ thể như sau:

53

Bảng 2.1. Số liệu các loại án đã giải quyết, xét xử từ năm 2015-2019

Án có kháng cáo, kháng nghị

Năm

Án hình sự

Án dân sự

Án Kinh tế

Án Lao động

Án Hành chính

Tổng số

Y án

Sửa án

Hủy án

Đình chỉ

Án Hôn nhân và gia đình

19 51 02 01 03 01 02 0 11 2015 0 5

23 43 05 0 02 01 01 0 08 2016

26 52 05 01 01 12 02 01 02 2017

29 65 04 01 03 0 02 0 10 2018

61 66 04 0 01 01 01 0 11 2019 0 4 0 7 0 5 0 8

158 277 20 03 01 52 11 04 08 Tổng cộng 2 9 26 vụ/30 bị cáo 31vụ/40 bị cáo 33vụ/43 bị cáo 36vụ/45 bị cáo 37vụ/49 bị cáo 163vụ /207bị cáo

Nguồn: Tòa án Nhân dân thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị

Theo số liệu về các vụ án nêu trên của Tòa án nhân dân thị xã Quảng

Trị, tỉnh Quảng Trị cho thấy: Trong những năm gần đây, số lượng các loại vụ

án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thị xã Quảng Trị tăng mạnh về số

lượng và tính chất vụ việc ngày càng phức tạp, làm cho việc giải quyết vụ án

kéo dài và liên quan đến nhiều Ban, ngành trên địa bàn thị xã nhất là các vụ

án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình.

Trong công tác xét xử vụ án hình sự, TAND thị xã đã giải quyết cơ

bản đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đặc biệt là đối với vụ án

nghiêm trọng, án điểm được dư luận xã hội quan tâm. Bên cạnh đó, Tòa án đã

chú trọng làm tốt việc đối thoại khi giải quyết án hành chính, hòa giải trong

quá trình giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương

mại, lao động.

54

Bên cạnh những vụ án xét xử tại trụ sở Tòa án, nhiều vụ án điểm, án

ma túy, trộm cắp tài sản, gây rối trật tự công cộng... đã được Tòa án thị xã

Quảng Trị tăng cường công tác phối hợp với cơ quan Công an, Viện kiểm sát

đẩy nhanh tiến độ điều tra, truy tố, xét xử và đưa ra xét xử lưu động, thu hút

được sự quan tâm đông đảo của quần chúng nhân dân, đặc biệt là tại các địa

phương nơi tội phạm xảy ra vì vậy đã có tác dụng tích cực trong việc tuyên

truyền, giáo dục ý thức pháp luật, trong công tác phòng ngừa, răn đe tội phạm

trên địa bàn thị xã. Với sự nỗ lực trong việc tổ chức thực hiện các phiên tòa

xét xử lưu động, TAND thị xã Quảng Trị đã củng cố thêm niềm tin nhân dân

vào sự nghiêm minh của pháp luật, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật

tự an toàn xã và thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương. Thực hiện tốt

việc tổ chức, điều hành phiên tòa và nâng cao chất lượng tranh tụng theo tinh

thần cải cách tư pháp. Hoạt động tố tụng bảo đảm các quyền và lợi ích hợp

pháp cho những người tham gia tố tụng.

Chất lượng xét xử các loại án hình sự, dân sự, án hôn nhân và gia

đình có nhiều chuyển biến, tiến bộ cả về tiến độ và chất lượng giải quyết, đảm

bảo chính sách pháp luật của Nhà nước, công bằng và dân chủ; bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân. Một số loại tranh chấp phức tạp,

nhiều quan hệ pháp luật mới phát sinh nhưng Tòa án thị xã Quảng Trị đã tập

trung thực hiện nhiều giải pháp, đẩy mạnh tiến độ giải quyết, xét xử; kiên trì

hoà giải, góp phần củng cố khối đại đoàn kết trong nội bộ nhân dân, ổn định

chính trị xã hội. Trong giải quyết án hôn nhân và gia đình đã chú trọng hòa

giải đoàn tụ bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên đương sự, đặc biệt là

phụ nữ và trẻ em khi giải quyết cho ly hôn.

Các loại án kinh doanh thương mại, lao động, hành chính là những

loại tranh chấp rất phức tạp, liên quan đến nhiều cơ quan, tổ chức và doanh

nghiệp. Tòa án thị xã Quảng Trị đã có nhiều cố gắng, đầu tư thời gian và công

55

sức để thu thập chứng cứ, tranh thủ các ngành hữu quan, tiến hành hoà giải,

đối thoại trong án hành chính, nâng cao tiến độ và chất lượng giải quyết, xét

xử; chú ý bảo vệ lợi ích của Nhà nước và quyền lợi chính đáng, hợp pháp của

các chủ thể khác; đảm bảo chính sách, pháp luật.

2.2.2. Bảo đảm việc chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử

của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

Trong những năm qua, nhiều Nghị quyết của Đảng đã được lãnh đạo

Tòa án nhân dân thị xã Quảng Trị quán triệt thành các kế hoạch hành động thể

hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong việc cải cách tư pháp. Hệ thống

các văn bản pháp luật được ban hành khá đầy đủ, tương đối phù hợp với thực

tiễn làm cơ sở cho Tòa án áp dụng pháp luật xét xử các vụ án hình sự, dân sự

và hành chính. Sau khi các văn bản luật được ban hành, cơ quan có thẩm

quyền đã có những hướng dẫn chi tiết và tập huấn cho Thẩm phán, Hội thẩm

nhân dân nắm bắt kịp thời và áp dụng thống nhất pháp luật. Trên thực tế,

nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật” đã được Thẩm phán và Hội thẩm xét xử tuân thủ và ngày càng phát

huy ý nghĩa tích cực của nguyên tắc, bảo đảm hoạt động xét xử của Tòa án

được khách quan, đúng pháp luật, hạn chế đến mức tối đa án oan sai, thiếu

chính xác.

Bên cạnh đó, với trách nhiệm của mình, Tòa án đã thực hiện đầy đủ

chức năng quản lý, hỗ trợ Hội thẩm. Việc phân công Hội thẩm nhân dân tham

gia xét xử, nghiên cứu hồ sơ được Tòa án thực hiện nghiêm túc, thường xuyên

tiếp thu ý kiến của các vị Hội thẩm nhân dân phản ánh những bất cập trong

công tác Hội thẩm để kịp thời điều chỉnh. Hầu hết các Hội thẩm đã tích cực

tham gia công tác xét xử với tinh thần nhiệt tình và có ý thức trách nhiệm cao.

Tại Thị xã, theo giới thiệu của Mặt trận tổ quốc, mỗi nhiệm kỳ, Hội

đồng nhân dân thị xã đều tiến hành bầu 15 Hội thẩm nhân dân để tham gia xét

56

xử với Tòa án theo quy định của pháp luật. Số Hội thẩm được bầu hầu hết là

những cán bộ đương chức đang công tác tại các cơ quan nhà nước, ở các tổ

chức chính trị - xã hội như: Liên đoàn Lao động, Hội Liên hiệp phụ nữ, giáo

viên, cán bộ hưu trí, cán bộ Đoàn để bảo đảm cơ cấu khi trong hội đồng xét

xử có bị cáo là người chưa thành niên.

Mặc dù, đa phần các Hội thẩm nhân dân đều đương chức, kiêm nhiệm

nhiều công việc, nhưng khi có yêu cầu của Tòa đều sắp xếp công việc tham

gia xét xử khi được phân công, trường hợp không tham gia được thì kịp thời

báo lại để xử lý phân công Hội thẩm khác nên trong xét xử không xảy ra tình

trạng bị động vì lý do không có Hội thẩm tham gia. Các Hội thẩm đều tích

cực nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, luôn lắng nghe ý kiến, dư luận trong quần

chúng nhân dân, các HTND đã đóng góp nhiều ý kiến xác đáng, phù hợp với

pháp luật. Tại các phiên tòa, các vị HTND đã thể hiện tiếng nói của nhân dân

thông qua việc thẩm vấn, tranh tụng với các câu hỏi đúng trọng tâm, đánh giá

các tình tiết vụ án khách quan, xác định chính xác tình tiết tăng nặng, giảm

nhẹ; kiên quyết đấu tranh với những tội phạm nguy hiểm, đối tượng chủ mưu

cầm đầu, từ đó cùng Thẩm phán nghị án và quyết định về hình phạt một cách

nghiêm minh, khách quan, toàn diện, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,

đảm bảo không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, góp phần đảm

bảo an ninh trật tự trên địa bàn. Những bản án quyết định đều thấu tình, đạt

lý, có căn cứ pháp luật, được nhân dân đồng tình, ủng hộ.

Nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và tuân theo pháp

luật” là nguyên tắc quan trọng được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật.

Thời gian qua việc thực hiện nguyên tắc này đã đạt được kết quả nhất định,

tuy nhiên, cũng vẫn còn nhiều hạn chế trong cơ chế đảm bảo tính độc lập của

Thẩm phán và Hội thẩm trong các quy định về tổ chức và hoạt động của Tòa

án, sự hạn chế về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán và Hội

57

thẩm; vấn đề đạo đức nghề nghiệp chưa được coi trọng; chế độ đãi ngộ đối

với Thẩm phán và Hội thẩm chưa được quan tâm đúng mức. Cụ thể:

Thứ nhất, Hội thẩm có vị trí, vai trò quan trọng đảm bảo tính dân chủ,

khách quan của hoạt động xét xử, góp phần giúp việc xét xử của Tòa án diễn

ra công bằng, chính xác, khách quan. Cùng với Thẩm phán, Hội thẩm là

những thành viên không thể thiếu được trong hoạt động xét xử của mỗi vụ án.

Tuy nhiên, trên thực tế các quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của Hội

thẩm, cơ chế bầu, cử Hội thẩm và thực trạng hoạt động của Hội thẩm còn

nhiều vấn đề vướng mắc, bất cập khiến việc Hội thẩm tham gia hoạt động xét

xử của Tòa án còn mang tính hình thức, vẫn chưa phát huy được hết vị trí, vai

trò quan trọng mà Hiến pháp và pháp luật đã quy định. Qua công tác xét xử

cho thấy, Hội thẩm chưa phát huy được hết quyền năng của mình, có những

Hội thẩm chỉ đến nghiên cứu kết luận điều tra, bản cáo trạng hoặc có trường

hợp không nghiên cứu hồ sơ nhưng vẫn tiến hành hoạt động xét xử tại Tòa án,

vì vậy, Hội thẩm sẽ rơi vào tình trạng lệ thuộc, thiếu chủ động trong quá trình

chứng minh tội phạm cũng như quyết định việc giải quyết vụ án, khiến cho

công chúng nhìn nhận về sự tham gia của Hội thẩm chỉ là hình thức, tham gia

cho đủ thành phần.

Hiện nay, pháp luật cũng chưa chính thức giao cho cơ quan nào quản lý

thống nhất đội ngũ Hội thẩm của các Tòa án nhân dân. Theo quy định của

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc có trách

nhiệm chuẩn bị nhân sự, hiệp thương lập danh sách Hội thẩm để Hội đồng

nhân dân cùng cấp bầu ra Hội thẩm (trừ Hội thẩm quân nhân của Tòa án quân

sự các cấp do cơ quan có thẩm quyền cử theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân).

Trong khi đó, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc hầu như rất ít thực hiện giám sát hoạt

động của Hội thẩm do mình giới thiệu hoặc bầu ra. Tòa án chỉ quản lý Hội

thẩm trong thời gian họ nghiên cứu hồ sơ và tham gia xét xử. Hiện nay, mặc

58

dù các địa phương có thành lập Đoàn Hội thẩm, nhưng là tổ chức hoạt động

theo nguyên tắc tự quản. Ngoài thời gian tham gia hoạt động xét xử, Hội thẩm

sinh hoạt tại cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc hoặc địa phương nơi họ sinh

sống, nên đối với một số vụ án có tính chất nhạy cảm dễ bị tác động, sức ép

và dễ phát sinh tiêu cực.

Thứ hai, Thẩm phán, Hội thẩm cũng có thể bị áp lực khác tác động,

khiến họ lúng túng khi tham gia xét xử như hiện tượng can thiệp của các tổ

chức, các nhân vào hoạt động xét xử. Hiến pháp hiện hành không quy định

mối quan hệ hành chính giữa Tòa án các cấp, mối quan hệ giữa Tòa án các

cấp là mối quan hệ tố tụng, điều này có nghĩa là không có Tòa án cấp trên và

không có Tòa án cấp dưới mà chỉ có Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc

thẩm, các Tòa án thực hiện chức năng giám đốc thẩm và tái thẩm và các Tòa

án thực hiện chức năng xét xử độc lập với nhau.

Tuy nhiên, vẫn tồn tại tình trạng Tòa án cấp trên quản lý Tòa án cấp

dưới cả về tổ chức, tài chính và chỉ đạo chuyên môn nghiệp vụ. Tình trạng

can thiệp từ phía lãnh đạo Tòa án vào hoạt động xét xử, trong một số trường

hợp đã can thiệp sâu vào công việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm hoặc

cũng có trường hợp vì lợi ích cá nhân mà Chánh án chỉ thị, định hướng cho

Hội đồng xét xử. Trên thực tế, tình trạng Thẩm phán tham khảo ý kiến của

lãnh đạo Toà án còn cao. Việc trao đổi ý kiến lãnh đạo về “đường lối giải

quyết vụ án” vẫn chiếm một tỷ lệ lớn trong các thẩm phán tỉnh và huyện, thị.

Tòa án nhân dân tối cao đã có yêu cầu nghiêm cấm sự can thiệp vào

hoạt động xét xử, nhưng trên thực tế không ít Tòa án địa phương vẫn còn tồn

tại cơ chế này. Tình trạng “báo cáo án”, “thỉnh thị án” đã phá vỡ nhiều

nguyên tắc quản lý và nguyên tắc tư pháp trong hoạt động tòa án, như

“nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập”, “nguyên tắc xét xử tập

thể”, làm cho những nguyên tắc này trở nên hình thức và không được tôn

59

trọng, làm giảm vai trò của Hội thẩm, phá vỡ nguyên tắc tính đại diện của

nhân dân trong xét xử. Thẩm phán, Hội thẩm đôi khi còn chịu áp lực của công

luận khi đăng tải nhiều bài viết về một vụ án chưa xét xử; chịu ảnh hưởng và

tác động của bản kết luận điều tra hoặc cáo trạng khi nghiên cứu hồ sơ nên có

thể không độc lập trong quá trình xem xét và đánh giá chứng cứ.

Thứ ba, không ít Thẩm phán và Hội thẩm còn lệ thuộc vào kết quả điều

tra, những thông tin, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Trong nhiều trường hợp,

Hội đồng xét xử tin vào kết quả điều tra có trong hồ sơ vụ án mà không coi

trọng tới những ý kiến trình bày tại phiên tòa, chưa thực sự coi trọng nguyên

tắc tranh tụng mà vẫn nặng về thẩm vấn, xét hỏi, tạo ra sự bất bình đẳng giữa

các bên tham gia tố tụng. Do đó, phán quyết của Hội đồng xét xử còn mang

tính áp đặt, còn tình trạng xét xử oan sai, trái pháp luật; bản án, quyết định

của Tòa án cấp dưới bị Tòa án cấp trên hủy, sửa nhiều:

Ví dụ, việc áp dụng sai quy định pháp luật hình sự tại bản án số

09/2017/HS-GĐT ngày 27/6/2017 của ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp

cao tại Đà Nẵng tuyên hủy bản án hình sự sư thẩm số 07/2016/HSPT ngày

31/3/2016 của tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị và bản án hình sự sơ thẩm số

05/2016/HSST ngày 29/1/2016 của tòa án nhân dân thị xã Quảng Trị, tỉnh

Quảng Trị về vụ án Đoàn Văn Duy, Trần Đức Thành “cướp tài sản” vì các lý

do sau:

Vào đêm 06/08/2015, sau khi hát karraoke tại quán Hương Cau xong,

cho rằng chủ quán Karaoke Hương Cau tính tiền không đúng. Đoàn Văn Duy

đã rủ Trần Đức Thành quay lại quán Karaoke Hương Cau để lấy lại tiền. Duy

đã có hành vi kề dao vào cổ chị Đặng Thị Bích Liên (là con dâu của chủ

quán) đang bế con nhỏ để đe dọa buộc ông Phạm Văn Hiện (là bố chồng chị

Liên) phải đưa cho Duy 1.000.000 đồng. Khi Duy, Giàu, Thành đang ăn cháo

bột tại đường Trần Phú, Duy khởi xướng việc quay lại quán Karaoke Hương

60

Cau để lấy tiền, bị cáo Trần Đức Thành gật đầu đồng ý, biết việc Duy mượn

dao để thực hiện hành vi và đã dùng phương tiện xe mô tô chở Duy đến quán

Karaoke Hương Cau, đứng chờ bên ngoài, Duy thực hiện xong hành vi thì

chở Duy nhanh chóng tẩu thoát, trên đường đi Thành còn hỏi Duy lấy được

tiền chưa và bảo Duy vứt con dao đi, điều đó chứng tỏ bị cáo Thành biết rõ

toàn bộ sự việc. Tại phiên tòa bị cáo Đoàn Văn Duy đã khai nhận toàn bộ

hành vi phạm tội của mình.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 05/2016/HSST ngày 29/1/2016 tòa án

nhân dân thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị quyết định:

“Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46,

Điều 47 của bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đoàn Văn Duy 4 năm 6 tháng tù

về tội “cướp tài sản”,thời hạn tù tính từ ngày 7/8/2015.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133; điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều

46, Điều 47 của Bộ luật hình sự, xử phạt: bị cáo Trần Đức Thành 3 năm 6

tháng tù về tội “cướp tài sản”,thời hạn tù tính từ ngày 7/8/2015.”

Ngày 03/2/2016, Trần Đức Thành kháng cáo.

Tại bản án hình sự phúc thẩm số 07/2016/HSPT ngày 31/3/2016 của tòa án

nhân dân tỉnh Quảng Trị đã quyết định: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Đức

Thành

Áp dụng khoản 1 Điều 133; điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, khoản

1 và khoản 2 Điều 60 của Bộ luật hình sự, xử phạt: bị cáo Trần Đức Thành 3

(ba) năm tù cho hưởng án treo về tội “cướp tài sản”. Thời gian thử thách 5

năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm 31/3/2016.”

Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 49/2016/KH-HS-VC2

ngày 14/10/2016, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề

nghị Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử giám đốc

thẩm, hủy bản án hình sự phúc thẩm số 17/2016/HSPT ngày 31/3/2016 của

61

Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị; giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng

Trị xét xử phúc thẩm lại đối với Trần Đức Thành phạm tội “cướp tài sản” theo

điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự và không cho Trần Đức Thành được

hưởng án treo, với lý do: “Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị xử phạt bị cáo Trần

Đức Thành về tội “cướp tài sản” theo Điều 133 Bộ luật hình sự là đúng người

đúng tội. Tuy nhiên, cấp phúc thẩm thay đổi khung hình phạt đối với bị cáo từ

khoản 2 Điều 133 thành khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự là có sự sai lầm

nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật; mặt khác sử phạt: Trần Đức Thành

3 năm tù cho hưởng án treo về tội “cướp tài sản” là quá nhẹ, không nghiêm

minh, không có tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung”

Tại quyết định bổ sung kháng nghị giám đốc thẩm số 14/QĐ-VC2

ngày 17/2/2017, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề

nghị Uỷ ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử giám đốc

thẩm, hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2016/HSST ngày 29/1/2016 của Tòa

án nhân dân thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị và bản án hình sự phúc thẩm số

07/2016/HSPT ngày 31/3/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị; giao hồ

sơ cho tòa án nhân dân thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị để xét xử sơ thẩm lại

đối với Trần Đức Thành và Đoàn Văn Duy, với lý do: “Tòa án cấp sơ thẩm áp

dụng Điều 47 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Đoàn Văn Duy dưới khung

hình phạt, trong khi Đoàn Văn Duy chỉ được hưởng 1 tình tiết giảm nhẹ tại

điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự là không đúng quy định của pháp

luật. Bị cáo Đoàn Văn Duy chỉ bị xử phạt 4 năm 6 tháng tù là chưa tương

xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo”.

Vì vậy sau khi có Quyết định giám đốc thẩm số 09/2017/HSGĐT

quyết định hủy bản án hình sự sơ thẩm số 05/2016/HSST ngày 29/1/2016 của

Tòa án nhân dân thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị và bản án hình sự phúc

thẩm số 07/2016/HSPT ngày 31/3/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị.

62

Ngày 30/11/2017 Tòa án nhân dân thị xã Quảng Trị tiến hành xử sơ

thẩm vụ án Đoàn Văn Duy và Trần Đức Thành về tội “cướp tài sản” với bản

án số 19/2017/HSST tuyên bố: các bị cáo Đoàn Văn Duy và Trần Đức Thành

phạm tội “cướp tài sản”

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133; điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 47

của bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đoàn Văn Duy 5 (năm) năm tù. Thời hạn

tù tính từ ngày tạm giam 07/08/2015, nhưng được trừ đi thời gian bị cáo được

giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù là 09 (chín) tháng theo quyết định số:

04/2017/GĐ-TA ngày 28 tháng 4 năm 2017 của tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133; điểm h, p khoản 1 Điều 46, Điều 47

của Bộ luật hình sự, xử phạt: bị cáo Trần Đức Thành 4 (bốn) năm tù. Thời

hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, nhưng được trừ đi thời hạn tạm giam từ

ngày 07/8/2015 đến ngày 31/3/2016.

Ví dụ, vụ án “buôn lậu” gỗ trắc xảy ra tại Quảng Trị và thành phố Đà

Nẵng kéo dài gần 8 năm với nhiều phiên xét xử và các bị cáo vẫn tiếp tục kêu

oan, khiến dư luận tỏ ra hoài nghi về tính thượng tôn pháp luật đã bị xem nhẹ.

Nhận thấy vụ án có nhiều uẩn khúc, có dấu hiệu vi phạm pháp luật và gây oan

sai cho người vô tội, các cơ quan dân cử trung ương, địa phương đã tiến hành

giám sát từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và kiến nghị xem xét giám đốc

thẩm.

Tóm tắt vụ án:

Ngày 17/12/2011, Công ty TNHH MTV Ngọc Hưng (Cty Ngọc Hưng)

mở tờ khai hàng hóa nhập khẩu số 1505/NK/ KD/BO33 tại Cửa khẩu quốc tế

Lao Bảo nhập khẩu 535,8m3 gỗ trắc từ Lào vào Việt Nam. Sau khi hoàn tất

thủ tục, lô hàng trên được vận chuyển về Cửa khẩu cảng Cửa Việt để mở tờ

khai xuất khẩu số 849/XK/ KD/C32D sang bên thứ ba là Hồng Kông (Trung

Quốc). Theo quy định pháp luật, lô gỗ nói trên không phải chịu thuế nhập

63

khẩu, thuế xuất khẩu, chỉ chịu thuế giá trị gia tăng (GTGT) và ngày

17/1/2012, Cty Ngọc Hưng đã nộp đủ số tiền thuế GTGT là 3.246.503.317

đồng.

Ngày 30/12/2011, khi lô gỗ đang được bốc xếp lên tàu tại cảng Đà

Nẵng, lãnh đạo Cục Hải quan Đà Nẵng đã có văn bản gửi Cục Điều tra chống

buôn lậu (Tổng cục Hải quan) buộc phải giữ lại lô hàng nói trên vì nghi có

dấu hiệu buôn lậu. Sau khi khám xét, chỉ thấy lẫn vào trong lô gỗ có 21m3 gỗ

giáng hương, ngoài ra không phát hiện thêm bất kì một loại gỗ nào giá trị hơn

gỗ trắc. Tuy nhiên, đến ngày 6/4/2012, Cục Điều tra chống buôn lậu (Tổng

cục Hải quan) vẫn ban hành “Quyết định khởi tố vụ án hình sự” số 02/ QĐ-

ĐTCBL, khởi tố Cty Ngọc Hưng về tội “Buôn lậu” theo Điều 153 Bộ Luật

hình sự, với cáo buộc “xuất khẩu hàng hóa không có nguồn gốc hợp pháp”.

Tiếp đó, ngày 24/5/2012, Vụ 1 - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao có

Công văn số 1213/VKST-V1 gửi Cục Cảnh sát Điều tra tội phạm về trật tự

quản lí kinh tế và chức vụ - Bộ Công an (C46) đề nghị tiếp nhận hồ sơ vụ án

để điều tra theo thẩm quyền. Sau khi thụ lí hồ sơ, ngày 6/6/2012, C46 có

Công văn số 231/C46 (P10) gửi Tổng cục Hải quan: “Đề nghị Tổng cục Hải

quan tổ chức cuộc họp liên ngành tư pháp để nghe báo cáo, thống nhất đánh

giá và hướng xử lí” với lí do “những sai phạm của Cty Ngọc Hưng không trái

với những quy định của nhà nước về công tác quản lí xuất, nhập khẩu nên

chưa đủ yếu tố cấu thành tội buôn lậu quy định tại Điều 153 BLHS”.

Mặc dù Quyết định của C46 khẳng định Cty Ngọc Hưng không có dấu

hiệu phạm tội buôn lậu đối với lô hàng nói trên. Tuy nhiên, ngày 11/6/2012,

Tổng cục Hải quan lại có công văn gửi lãnh đạo Bộ Công an đề nghị chỉ đạo

Văn phòng Cơ quan Cảnh sát Điều tra Bộ Công an (C44) tiếp nhận hồ sơ để

điều tra, khởi tố vụ án. Ngày 12/7/2012, C44 có công văn đề nghị Cục Điều

tra chống buôn lậu (Tổng cục Hải quan) chuyển giao hồ sơ vụ án sang cho

64

C44 để điều tra theo thẩm quyền. Theo đó, ngày 13/7/2012, Cục Điều tra

chống buôn lậu (Tổng cục Hải quan) chính thức chuyển toàn bộ hồ sơ và vật

chứng vụ án cho C44.

Sau hơn 4 tháng thụ lí hồ sơ, ngày 19/11/2012, C44 ra Quyết định

khởi tố bị can số 188/C44-P4 đồng thời bắt tạm giam 12 tháng đối với ông

Trương Huy Liệu, Phó Giám đốc Cty Ngọc Hưng. Cùng lúc ban hành Quyết

định khởi tố bị can số 189/ C44-P4, cấm bà Trần Thị Dung, Giám đốc Cty

Ngọc Hưng đi khỏi nơi cư trú, với cáo buộc “có hành vi không khai báo so

với thực tế tên hàng, chủng loại, số lượng, trọng lượng, khối lượng gỗ giáng

hương, gỗ trắc xẻ khi xuất khẩu từ Việt Nam sang Hồng Kông (Trung

Quốc)”.

Bên cạnh đó, khởi tố các bị cáo: Đỗ Lý Nhi, nguyên cán bộ Chi cục Hải

quan Cửa khẩu cảng Cửa Việt; Lê Xuân Thành, nguyên cán bộ Chi cục Hải

quan Khu thương mại Lao Bảo; Đỗ Danh Thắng nguyên Chi cục trưởng Chi

cục Hải quan cửa khẩu cảng Đà Nẵng bị truy tố về tội “Thiếu trách nhiệm gây

hậu quả nghiêm trọng”.

Sau đó, Tòa án nhân dân TP. Đà Nẵng đưa vụ án “buôn lậu” 535m3 gỗ

trắc ra xét xử theo thủ tục hình sự sơ thẩm. Tuy nhiên, cả 3 lần xét xử, TAND

TP. Đà Nẵng đều phải trả hồ sơ lại cho Viện KSND tối cao để điều tra bổ

sung. Trong phiên xét xử sơ thẩm lần thứ tư từ ngày 14- 23/8/2018, TAND

thành phố Đà Nẵng đã tuyên các bị cáo Trương Huy Liệu và Trần Thị Dung

phạm tội “Buôn lậu” và các bị cáo Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành, Đỗ Danh

Thắng phạm tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”; xử phạt

Trương Huy Liệu 1 năm 16 ngày tù giam (bằng thời gian tạm giam); các bị

cáo cho hưởng án treo gồm: Trần Thị Dung 9 tháng tù; Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân

Thành, Đỗ Danh Thắng mỗi người 6 tháng tù. Bản án sơ thẩm đã bị các bị cáo

kháng cáo và Viện KSND cấp cao tại Đà Nẵng kháng nghị.

65

Từ ngày 3-26/7/2019, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên

tòa xét xử phúc thẩm vụ án trên. Kết thúc phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tuyên

tăng hình phạt đối với ông Trương Huy Liệu lên 7 năm tù giam và bà Trần

Thị Dung lên 3 năm tù cho hưởng án treo; các ông: Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân

Thành 9 tháng tù cho hưởng án treo. (Nguồn: Báo Quảng Trị, ngày

07/11/2019)

Thứ tư, quy trình tuyển chọn Thẩm phán còn nhiều bất cập, việc tuyển

chọn Thẩm phán không được pháp luật quy định phải công bố công khai, rộng

rãi nên không tạo được tính cạnh tranh. Thực tế việc tuyển chọn Thẩm phán

cơ bản là quy trình khép kín trong nội bộ ngành Tòa án, chưa có cơ chế

khuyến khích những người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện đăng ký dự thi hoặc

tuyển chọn làm Thẩm phán, vì thế không thu hút được người tài, giỏi. Hiện

tại, bên cạnh những Thẩm phán được đào tạo bài bản, có trình độ chuyên môn,

nghiệp vụ vững vàng, có bề dày kinh nghiệm và kỹ năng xét xử, vẫn còn không

ít Thẩm phán hạn chế về năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, không có

bản lĩnh chính trị vững vàng, thiếu tự tin, sợ trách nhiệm, không tự quyết định

được các tình huống khi xét xử. Đây cũng là một trong những nguyên nhân ảnh

hưởng tới nguyên tắc xét xử độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm.

Thứ năm, chế độ tiền lương của Thẩm phán và chế độ, chính sách đối

với Hội thẩm chưa hợp lý. Mức lương của Thẩm phán ở nước ta hiện nay là

rất khiêm tốn, không đảm bảo được mức sống tối thiểu của bản thân và gia

đình họ. Điều này sẽ làm cho Thẩm phán không yên tâm công tác, dễ bị

những tác động, cám dỗ hoặc tham nhũng khi tham gia hoạt động tố tụng. Đối

với Hội thẩm, ngoài chế độ về trang phục, Hội thẩm chỉ có chế độ bồi dưỡng

phiên tòa với mức 90.000 đồng/ngày nghiên cứu hồ sơ hoặc xét xử. Trong khi

đó, pháp luật quy định khi tham gia xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm

66

phán, nhưng một số chế độ của Thẩm phán như phụ cấp công vụ, phụ cấp

trách nhiệm nghề, thì Hội thẩm lại không được hưởng cũng là không hợp lý.

Pháp luật cũng chưa quy định các biện pháp bảo vệ Thẩm phán, Hội

thẩm và gia đình họ trong những trường hợp cần thiết. Thực tế đã có nhiều

trường hợp Thẩm phán, Hội thẩm bị các đối tượng đe dọa, trả thù, thậm chí

những người thân của họ cũng bị đe dọa, trả thù, vì vậy, cần phải có những

quy định về bảo vệ đối với tính mạng, tài sản của Thẩm phán, Hội thẩm và gia

đình họ ngoài thời gian tham gia xét xử để họ yên tâm thực hiện nhiệm vụ xét

xử của mình, đặc biệt là xét xử những vụ án lớn, vụ án có bị cáo là đối tượng

nguy hiểm.

2.3. Đánh giá chung

2.3.1. Kết quả đạt được

Trên thực tế, nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật được các chủ thể của hoạt động xét xử tuân thủ và ngày

càng phát huy ý nghĩa tích cực của nó, đảm bảo hoạt động xét xử của Tòa án

được khách quan, đúng pháp luật hạn chế mức tối đa án oan sai, thiếu chính xác.

Xét xử án hình sự đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Không

có trường hợp nào xét xử oan hoặc bỏ lọt tội phạm. Việc đánh giá tính chất,

mức độ nguy hiểm của từng vụ án, xem xét các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ

khi quyết định hình phạt chính xác. Các trường hợp cho bị cáo hưởng án treo,

cải tạo không giam giữ được cân nhắc thận trọng, đủ điều kiện theo quy định

của pháp luật, bảo đảm tính giáo dục phòng ngừa và thể hiện tính nhân đạo

của pháp luật. Thể hiện thông qua chất lượng xét xử hàng năm.

Công tác giải quyết, xét xử các loại án dân sự, án hôn nhân và gia đình,

kinh doanh thương mại, lao động, hành chính có nhiều chuyển biến, tiến bộ cả

về tiến độ và chất lượng giải quyết, đảm bảo chính sách pháp luật của Nhà

nước, công bằng và dân chủ; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và

67

cá nhân. Một số loại tranh chấp phức tạp, nhiều quan hệ pháp luật mới phát

sinh nhưng Tòa án thị xã Quảng Trị đã tập trung thực hiện nhiều giải pháp, đẩy

mạnh tiến độ giải quyết, xét xử; kiên trì hoà giải, góp phần củng cố khối đại

đoàn kết trong nội bộ nhân dân, ổn định chính trị xã hội. Trong giải quyết án hôn

nhân và gia đình đã chú trọng hòa giải đoàn tụ bảo vệ quyền lợi chính đáng của

các bên đương sự, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em khi giải quyết cho ly hôn.

2.3.2. Hạn chế

Qua nghiên cứu, đánh giá về thực tiễn bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán,

Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Tòa án thị xã Quảng

Trị, tỉnh Quảng Trị cho thấy còn có những hạn chế chủ yếu sau đây:

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, thực tế vẫn còn tồn tại rất nhiều hạn

chế trong việc tuân thủ nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập, chỉ tuân

theo pháp luật của Tòa án nhân dân thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị. Điều này

thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất, Hoạt động xét xử chủ yếu là hoạt động của Thẩm phán, Hội

thẩm chưa phát huy hết quyền năng được giao khi thực hiện nhiệm vụ.

Thực tế vị trí, vai trò của Hội thẩm không chỉ được ghi nhận ở nguyên

tắc trên mà còn được quy định bằng một loạt các nguyên tắc và các quy định

khác trong Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành

chính như thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia; nguyên tắc Tòa án

xét xử tập thể, Hội thẩm phải từ chối tiến hành tố tụng nếu thuộc một trong

các trường hợp nhất định, khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán.

Trên thực tế vai trò vị trí của Hội thẩm chỉ phát sinh kể từ thời điểm

Chánh án phân công và Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Từ đó, Hội

thẩm được quyền nghiên cứu hồ sơ để xác định thẩm quyền xét xử, hành vi

phạm tội và những tình tiết có liên quan khác. Tại phiên tòa, cũng như Thẩm

phán, Hội thẩm có quyền xét hỏi để làm rõ các tình tiết khách quan của vụ án,

68

được thảo luận, biểu quyết. Sau khi nghị án, một thành viên trong Hội đồng

xét xử tuyên bản án chính đã được thông qua. Tuy nhiên, có một số vụ án

không phức tạp, Hội thẩm chỉ nghiên cứu hồ sơ sát ngay khi mở phiên tòa,

thậm chí chỉ đến nghiên cứu cáo trạng hoặc không nghiên cứu hồ sơ nhưng

vẫn tiến hành hoạt động xét xử. Điều này khiến cho việc triển khai mô hình

điều tra, đánh giá chứng cứ gặp nhiều lúng túng. Do đó, khi tham gia xét hỏi,

Thẩm phán chủ tọa nắm vai trò “độc diễn”, hỏi hết các vấn đề, trong khi Hội

thẩm thì không. Khi nghị án, Thẩm phán cũng là người đưa ra ý kiến gợi ý là

nên giải quyết như thế này và Thẩm phán là người biểu quyết theo.

Trong nhiều trường hợp này, Hội thẩm sẽ không bị lệ thuộc vào các

chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án nhưng lúng túng không triển khai được

mô hình để điều tra, đánh giá chứng cứ tại phiên tòa, không xác định được

những vấn đề cần phải chứng minh của vụ án. Chính vì thế, Thẩm phán lại

phải tóm tắt nội dung vụ án, gợi ý hoặc có kế hoạch chuẩn cho Hội thẩm

những vấn đề cần hỏi. Khi tham gia xét hỏi, do nắm chắc nội dung vụ án nên

Thẩm phán chủ tọa là người hỏi hết các vấn đề, Hội thẩm không có gì để hỏi.

Có nhiều vụ án, Hội thẩm không hề tham gia xét hỏi.

Khi nghị án, Thẩm phán cũng là người đưa ra ý kiến gợi ý là nên giải

quyết theo hướng này hướng khác, Hội thẩm là người biểu quyết theo. Sau đó

chủ tọa thay mặt Hội đồng xét xử tuyên án. Sự quá chủ động của Thẩm phán làm

cho Hội thẩm ở vào tình trạng lệ thuộc, thiếu chủ động trong quá trình chứng

minh tội phạm và cũng chính vì thế khi đưa ra phán quyết, Hội thẩm cũng chỉ là

người quyết định theo ý chí của Thẩm phán. Như vậy, tính độc lập xét xử không

được bảo đảm.

Ngoài ra, pháp luật cũng đã ghi nhận Hội thẩm có quyền độc lập trong

xét xử và chỉ tuân theo pháp luật, song bản thân một số Hội thẩm không phát

huy được quyền này dẫn đến tình trạng Hội thẩm tham gia xét xử chỉ là hình

69

thức, mọi phán quyết đều phụ thuộc vào ý chí Thẩm phán chủ tọa phiên tòa.

Như vậy, tính độc lập xét xử không được bảo đảm, dẫn đến tình trạng

Hội thẩm tham gia xét xử chỉ là hình thức, mọi phán quyết đều phụ thuộc vào

ý chí của Thẩm phán. Bên cạnh đó hoạt động xét xử của Tòa án hiện nay dù

đã có nhiều tiến bộ những vẫn không thể tránh khỏi những yếu tố tác động

bên ngoài đến hoạt động xét xử bởi cơ chế kinh tế thị trường.

Thứ hai, trình độ năng lực của một số Thẩm phán và Hội thẩm chưa

đáp ứng yêu cầu của hoạt động xét xử.

Thực tế có những vụ án Tòa xét xử “nhẹ” hoặc chưa chính xác làm lợi

cho một số người nhất định thì được báo chí “quan tâm”. Vấn đề đặt ra là nếu

có kháng cáo, kháng nghị thì cấp sơ thẩm xét xử lại như thế nào. Có thể thay

vì phải quyết định mức phạt tương xứng với hành vi phạm tội thì dưới sức ép,

ý kiến của dư luận, Hội đồng xét xử phải cân nhắc dẫn đến án có thể quá nặng

hoặc quá nhẹ. Do số lượng ít, trình độ Thẩm phán và Hội thẩm nhìn chung

còn yếu kém, có một bộ phận đạo đức nghề nghiệp giảm sút đã làm cho công

tác xét xử chưa thực sự hiệu quả. Cơ chế tuyển chọn Thẩm phán và Hội thẩm

còn nhiều bất cập dẫn đến tình trạng Thẩm phán và Hội thẩm xét xử thiếu độc

lập, khách quan. Ngoài ra, còn phải kể đến là chế độ đãi ngộ về kinh tế - xã

hội cho Thẩm phán và Hội thẩm chưa thực sự hợp lý. Đơn cử, có nhiều vụ án

trong quá trình xét xử, do hạn chế về kiến thức pháp luật và không nắm rõ

tình tiết vụ án nên có những Hội thẩm thẩm đưa ra nhiều câu hỏi không có

trọng tâm, ảnh hưởng chất lượng phiên tòa, thậm chí gây cản trở cho những

người tham dự phiên tòa.

Hoặc có những phiên tòa có bị cáo là vị thành niên thì thành phần của

Hội đồng xét xử theo quy định phải có Hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ

Đoàn thanh niên. Tuy nhiên, công tác cán bộ luôn thay đổi, dẫn đến tình trạng

không có ai có đủ điều kiện để tham gia Hội đồng xét xử.

70

Thứ ba, chưa có sự thống nhất chứng cứ và định hướng trước việc xét xử.

Theo quy định việc họp ba ngành Công an, Viện kiểm sát và Tòa án

trước khi xét xử để đưa ra bản án không được quy định trong Bộ luật Tố tụng

hình sự, nên việc xin ý kiến trước khi xét xử chỉ là tiền lệ của ngành Tòa án.

Vì vậy, thực tế có hiện tượng lạm dụng việc thỉnh thị án và họp bàn

án, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong

hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm. Ngược lại, nhiều Thẩm phán

và Hội thẩm xem ý kiến của Tòa án cấp trên là “ý chí” nên tuân theo. Có

nhiều vụ án đã xin đường lối, án sơ thẩm bị kháng cáo hoặc kháng nghị, cấp

phúc thẩm hủy án vì kết luận của Tòa sơ thẩm không có cơ sở pháp lý. Thẩm

phán vẫn cứ khẳng định đã xét xử theo chỉ đạo mà không nhận thức được ý

kiến cấp trên trong trường hợp này chỉ là để tham khảo.

Việc thỉnh thị án tạo nên tâm lý cấp dưới ỷ lại cấp trên, không có sự

độc lập trong quyết định của mình, vi phạm nguyên tắc “Thẩm phán, Hội

thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” ngay từ chính chủ thể của

hoạt động xét xử. Về phần quyết định mức hình phạt cũng như vậy, lời phát

biểu của các Thẩm phán không giải quyết vụ án nhiều khi cũng chỉ là cảm

tính mà hoàn toàn không có căn cứ vì họ không nắm được các tình tiết tăng

nặng hay giảm nhẹ trách nhiệm, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi

phạm tội như thế nào.

Thứ tư, về cơ sở vật chất của Tòa án chưa đáp ứng với yêu cầu trong

tình hình mới.

Trụ sở Tòa án thị xã đã xuống cấp, Phòng xử án nhỏ, trong khi đó yêu

cầu phải có phòng xét xử của người chưa thành niên và Tòa hôn nhân gia

đình, phòng xét xử án Hình sự, án Hành chính. Bên cạnh đó, phương tiện làm

việc, kinh phí hoạt động, chế độ chính sách đối với Tòa án được cấp như định

mức đối với cơ quan hành chính sự nghiệp, chưa thực sự phù hợp với tính

71

chất đặc thù, đặc biệt của công tác xét xử, của cơ quan đặc biệt thực hiện

quyền tư pháp quốc gia, từ đó làm hạn chế đến hiệu quả công tác của các

Tòa án.

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế

Hạn chế trong việc không tuân thủ nguyên tắc “Thẩm phán và Hội

thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” của Tòa án thị xã Quảng Trị,

tỉnh Quảng Trị trong hoạt động xét xử đều xuất phát từ những nguyên nhân

nhất định. Có thể khái quát những nguyên nhân chính sau:

Một là, chưa đảm bảo tính minh bạch, đồng bộ, thống nhất trong hệ

thống các quy định của pháp luật.

Để Thẩm phán, Hội thẩm xét xử chỉ tuân theo pháp luật thì đòi hỏi

pháp luật phải hoàn chỉnh, thống nhất, rõ ràng. Tuy nhiên, pháp luật hiện tại

của Việt Nam chưa đạt đến chuẩn đó. Nói đến mặt hạn chế của pháp luật thì

có nhiều nhưng trong giới hạn của luận văn, tác giả chỉ đề cập đến một số các

quy định chưa cụ thể làm cho hoạt động xét xử của Thẩm phán gặp khó khăn

và ảnh hưởng trực tiếp đến nguyên tắc này. Đơn cử Điều 46 Bộ luật hình sự

quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho thấy trường hợp

nếu bị cáo phạm tội mà rơi một trong các tình tiết tại khoản 1 Điều 46 thì

được xem xét để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên tại khoản 2 lại quy

định ngoài các trường hợp quy định tại khoản 1, Hội đồng xét xử có thể xem

xét một số tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ nhưng phải ghi rõ trong bản án,

điều này dẫn đến tình trạng người áp dụng pháp luật cũng có quyền sáng tạo

ra luật. Bởi, có những tình tiết áp dụng đối với tội này thì đúng nhưng áp

dụng đối với những tội khác xem ra không hợp lý, còn chưa có sự thống nhất.

Ví dụ tình tiết người phạm tội tự thú đối với tội “Vi phạm quy định về điều

khiển phương tiện giao thông”. Có quan điểm cho rằng được áp dụng nếu

người phạm tội tự thú vì luật hình sự quy định chung cho các trường hợp. Có

72

quan điểm lại cho rằng không được áp dụng vì Điều 9 Luật giao thông đường

bộ nghiêm cấm hành vi gây tai nạn rồi bỏ chạy. Việc người phạm tội đến khai

báo là nghĩa vụ và trách nhiệm của người gây tai nạn. Nếu không khai báo,

khi bị cơ quan chức năng phát hiện, còn phải chịu thêm tình tiết tăng nặng

trách nhiệm hình sự gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm (điểm c

khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự). Hình phạt cho mỗi khung cách nhau xa,

điều này rất dễ dẫn đến việc “tùy nghi” trong khi quyết định hình phạt. Nếu

không có sự tác động, không có sự tiêu cực, Hội đồng xét xử có thể cân nhắc

quyết định một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo,

nhưng nếu có sự tác động, Hội đồng xét xử có thể đưa ra mức hình phạt nhẹ

hơn so với mức hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

Bên cạnh đó, sự chi phối của Viện kiểm sát nhân dân. Cụ thể là quy

định về giới hạn xét xử của Tòa án, theo Điều 196 Bộ luật tố tụng hình sự

“Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện

kiểm sát truy tố hoặc Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tòa án có thể

xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong

cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm

sát truy tố”.

Theo hướng dẫn tại điểm 2 mục II Nghị quyết số 04/2004 của Hội

đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 05/11/2004 thì Tòa án có thể

xét xử bị cáo theo các khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát truy tố trong

cùng một điều luật, có nghĩa là với những hành vi mà Viện kiểm sát truy tố,

Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản nặng hơn hoặc theo khoản nhẹ hơn so

với các khoản mà Viện kiểm sát truy tố trong cùng điều luật. Tòa án có thể

xét xử bị cáo về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy

tố. Nhưng nếu trường hợp quan điểm đánh giá chứng cứ của hai cơ quan

không trùng nhau sau khi đã tiến hành các hoạt động cần thiết như trả hồ sơ,

73

trao đổi giữa hai ngành, giữa Viện kiểm sát và Tòa cấp trên thì sẽ giải quyết

như thế nào? Lại vẫn kết tội bị cáo theo Cáo trạng truy tố? Như vậy, Tòa án

vẫn không có quyền độc lập xét xử, kết tội bị cáo theo quan điểm của riêng

mình đối với hành vi Viện kiểm sát truy tố trong trường hợp có căn cứ chính

xác đúng là bị cáo phạm tội nặng hơn? Do đó, một Thẩm phán hiện nay nếu

muốn bản án của mình không bị kháng nghị giám đốc thẩm, không đối mặt

với nguy cơ bị tạm đình chỉ thực hiện nhiệm vụ thì không thể không tính tới

những cáo buộc của Kiểm sát viên. Chính vì lý do này nên trong thực tế có

khá nhiều vụ án trước khi được đưa ra xét xử phải qua thủ tục “họp trù bị” mà

ở đó việc xác định tội danh, khung hình phạt hay các kết luận khác đã được

thống nhất.

Quy định “Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số” (Điều 17 Bộ

luật tố tụng hình sự và Điều 14 trong Bộ luật tố tụng dân sự). Theo đó, việc xét

xử phải được thành lập thành Hội đồng gồm có Thẩm phán và Hội thẩm, hoặc là

tập thể Thẩm phán tại phiên tòa (xét xử phúc thẩm và giám đốc thẩm, tái thẩm

vụ án) chứ không phải là do cá nhân một Thẩm phán tiến hành. Tuy nhiên, trong

thực tiễn, nhiều người vẫn nhận thức rằng “Xét xử tập thể là hoạt động bàn án

trước tập thể Thẩm phán sau đó mới đến hoạt động xét xử tại phiên tòa”. Nhận

thức không đúng này cũng là một trong những nguyên nhân để một số Tòa án

vẫn duy trì hoạt động họp bàn án. Hiểu sai điều luật một mặt do pháp luật quy

định là chưa rõ ràng, gây hiểu nhầm.

Ngoài ra, pháp luật quy định, khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với

Thẩm phán nhưng quy định chuẩn kiến thức không giống nhau. Cụ thể: Các tiêu

chuẩn về chuyên môn vẫn chỉ được quy định một cách chung chung, bao gồm

“có kiến thức pháp luật” và “có hiểu biết xã hội”. Trong khi đó, cùng tham gia

xét xử với họ là những Thẩm phán có trình độ cử nhân luật, được đào tạo, bồi

dưỡng thường xuyên về kiến thức pháp luật và kỹ năng xét xử. Mặt khác, Hội

74

thẩm gần như không phải chịu bất kỳ trách nhiệm hành chính nào liên quan đến

chất lượng xét xử, nên mặc dù chiếm đa số trong Hội đồng xét xử và các phán

quyết của Hội đồng xét xử được quyết định theo đa số, nhưng trên thực tế không

tránh khỏi khi xét xử các Hội thẩm bị phụ thuộc vào ý kiến của Thẩm phán. Việc

lựa chọn, giới thiệu Hội thẩm do Tòa án hiệp thương với Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam, nhưng Mặt trận lại chỉ định những đối tượng được tham gia để bầu, còn

việc bầu Hội thẩm được thực hiện bởi Hội đồng nhân dân các cấp; vai trò của

Tòa án trong những vấn đề quan trọng này rất mờ nhạt, chỉ là “đề xuất nhu cầu

về số lượng, cơ cấu thành phần Hội thẩm” cho hai chủ thể đã nêu. Bên cạnh đó,

cơ chế quản lý Hội thẩm còn lỏng lẻo, thiếu khoa học, tâm lý xem thường Hội

thẩm còn phổ biến. Việc xây dựng chương trình, thực hiện cải cách tư pháp

những năm qua rõ ràng công tác Hội thẩm như bị “lãng quên” hoặc ít nhất đã

không được đặt vấn đề để xem xét thực hiện đầy đủ đúng tầm quan trọng.

Hội thẩm là những người làm công tác kiêm nhiệm nên không phải

lúc nào họ cũng có điều kiện về mặt thời gian để tham gia xét xử. Từ đó xảy

ra tình trạng có vị Hội thẩm xét xử quá nhiều, có vị lại xét xử quá ít. Với

những vị Hội thẩm tham gia xét xử quá nhiều, áp lực công việc cũng ảnh

hưởng đến chất lượng xét xử của họ. Những vị Hội thẩm ít tham gia xét xử thì

không có điều kiện trau dồi kiến thức chuyên môn nghiệp vụ lại trở nên rụt rè,

thụ động khi tham gia xét xử.

Công tác tổ chức tập huấn Hội thẩm cũng chưa được quan tâm đúng

mực, tổ chức không thường xuyên, nội dung tập huấn mới chỉ chú trọng vào

nội dung của Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự; thời gian tập

huấn còn quá ngắn. Nội dung kỹ năng xét xử và các văn bản pháp luật khác

hầu như không được đề cập đến gây ảnh hưởng đến chất lượng xét xử. Những

điều này cũng là nguyên nhân dẫn đến thực tế là trình độ của đội ngũ Hội

75

thẩm nhân dân không đồng đều, chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn về

chuyên môn nghiệp vụ.

Hai là, sự tác động của một số yếu tố tới việc tuân thủ Nguyên tắc

Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật ở Tòa án nhân

dân thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị

Theo Luật tổ chức Tòa án thì hiện nay Tòa án Việt Nam vẫn được tổ

chức như một cơ quan hành chính nhà nước với cơ cấu tòa cấp trên, cấp dưới.

Đây là yếu tố thể hiện tính thiếu độc lập từ bên trong của hệ thống Tòa án.

Cụ thể, sự phụ thuộc của Tòa án cấp dưới đối với Tòa án cấp trên

trong các khía cạnh liên quan đến bổ nhiệm, lương bổng, đánh giá và khen

thưởng thi đua. Việc xem xét kỷ luật, nâng lương, khen thưởng đều thực hiện

theo quy trình tương tự như trong hệ thống hành pháp. Hầu như những báo

cáo của Thẩm phán về một vụ án cụ thể cho lãnh đạo được coi như là yêu cầu

trong hoạt động của Tòa án các cấp. Quan hệ tố tụng giữa các cấp Tòa án,

giữa Chánh án và các Thẩm phán bị nhường chỗ cho những biện pháp phản

ánh tư duy quản lý ngành. Dù Thẩm phán là người được nhân danh nhà nước

để tuyên bố một người có tội hay không có tội nhưng đồng thời họ là những

cán bộ công chức, nhân viên dưới sự quản lý của Chánh án đơn vị và thậm chí

là Tòa cấp trên. Là một cán bộ công chức, bên cạnh việc thực hiện những

nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định, Thẩm phán còn phải chấp hành

sự chỉ đạo của Thủ trưởng đơn vị. Do đó, khi bị lệ thuộc vào Tòa án cấp trên

thì Thẩm phán khó có thể độc lập trong hoạt động xét xử.

Theo Công văn số 62/TANDTC-TĐKT ngày 25/4/2012, của Tòa án

nhân dân tối cao hướng dẫn thi đua khen thưởng trong ngành Tòa án nhân dân

thì một Thẩm phán (do lỗi chủ quan) mà có tỷ lệ số án bị huỷ vượt quá 1,16%

hoặc số án bị sửa vượt quá 4,20% so với số án đã giải quyết sẽ không được

bình xét thi đua trong năm công tác đó. Khi Thẩm phán có án bị hủy, lãnh đạo

76

đơn vị phải tiến hành ngay việc tổ chức họp rút kinh nghiệm trong toàn thể

Thẩm phán của đơn vị; nếu Thẩm phán có lỗi, trong biên bản họp phải thể hiện

rõ những sai lầm, khuyết điểm của Thẩm phán và các ý kiến đề xuất. Khi làm

hồ sơ bổ nhiệm lại chức danh Thẩm phán, Thẩm phán có án hủy phải viết Bản

giải trình án bị hủy, kèm theo Biên bản họp rút kinh nghiệm của đơn vị đối với

từng vụ án bị hủy. Mặc dù tỷ lệ này đã giảm so với Công văn số 38 năm 2011

(án hủy không quá 1,5%, án sửa không quá 4,5%) nhưng cũng gây nên sức ép

không nhỏ đến tâm lý của Thẩm phán. Do đó, không tránh khỏi trường hợp để

đối phó với việc án bị cấp trên hủy, Thẩm phán phải đi “thỉnh thị” án, xử theo

đường lối của cấp trên vẫn là giải pháp an toàn.

Như vậy, tính độc lập trong việc xét xử không thể có được. Nếu như

sự chỉ đạo và ý kiến của Tòa cấp trên hay của Thủ trưởng đơn vị là vô tư

khách quan thì Thẩm phán và Hội thẩm còn có “cơ hội” để tuân theo pháp

luật. Nếu sự chỉ đạo, tác động vì một lý do tích cực nào đó thì nhiều Thẩm

phán và Hội thẩm cũng xét xử theo ý chỉ đạo, tác động.

Bên cạnh đó, sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống Tòa án khi chưa

có nhận thức đúng về vai trò lãnh đạo cũng ảnh hưởng tới việc áp dụng nguyên

tắc. Thực tế, giữa Tòa án và cơ quan Đảng có mối quan hệ khá chặt chẽ với

nhau. Bản thân mỗi Thẩm phán là đảng viên, có nghĩa vụ chấp hành Điều lệ và

sự phân công của Đảng. Đảng hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và

pháp luật. Về mặt lý thuyết, Đảng lãnh đạo đất nước và hệ thống chính trị

thông qua nghị quyết. Người làm công tác đảng vi phạm pháp luật cũng bị đưa

ra xét xử bởi Tòa án như các công dân khác. Tuy nhiên, Chánh án cấp tỉnh

thường là Tỉnh ủy viên, mà lãnh đạo của các Tỉnh ủy viên là Bí thư Tỉnh ủy.

Chánh án cấp thị là Thị ủy viên, chịu sự lãnh đạo của Bí thư Thị ủy. Về mặt tổ

chức, Tòa án không lệ thuộc vào tổ chức cơ quan Đảng nhưng Chánh án vẫn

phải sinh hoạt, vẫn phải hoạt động dưới sự chỉ đạo của Bí thư Tỉnh ủy, Thị ủy.

77

Khi xét xử nhiều vụ án, đặc biệt là các vụ còn phải xin ý kiến của cấp ủy Đảng.

Nếu cấp ủy không chí công vô tư thì liệu Thẩm phán - là “cấp dưới” - của

Chánh án có dám độc lập xét xử, chỉ tuân theo pháp luật nữa hay không?

Ba là, hạn chế về chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của một số

Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân

Hiện nay, ở nước ta chưa có một hiệp hội nghề nghiệp riêng dành cho

các Thẩm phán, Hội thẩm và các chức danh tư pháp khác. Mặc dù, những

người này đều có thể tham gia Hội Luật gia Việt Nam, nhưng tổ chức này bao

trùm tất cả những người có chuyên môn, làm việc trong lĩnh vực pháp luật và

thực tế chưa từng là thiết chế để đào tạo chuyên môn cũng như để bảo vệ

quyền độc lập xét xử của Thẩm phán theo như hướng dẫn củaư luật quốc tế.

Ngoài ra, ở nước ta cũng chưa có bộ “quy tắc về đạo đức nghề

nghiệp” dành riêng cho Thẩm phán, Hội thẩm để làm cơ sở kiểm soát hành vi,

chuẩn mực và lối sống, cũng như thái độ và sự cần mẫn của họ trong quá trình

thực thi nhiệm vụ. Với Thẩm phán, mặc dù TAND tối cao đã ban hành bộ

Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức ngành Tòa án năm 2008, song đối

tượng áp dụng và nội dung của nó quá rộng, chưa phải là bộ quy tắc đạo đức

của Thẩm phán. Do đó, trên thực tế còn xảy ra tình trạng án oan sai và ít

nhiều cũng do yếu tố đạo đức nghề nghiệp chi phối. Dù Thẩm phán là những

người đã được đào tạo nghiệp vụ xét xử, có kinh nghiệm thực tiễn, rất am

hiểu những quy định của pháp luật nhưng vẫn cố tình áp dụng sai pháp luật là

vì nhiều lý do như: có sự tác động của cấp trên muốn được lòng của “Sếp

trên” nên dù biết là không khách quan, họ vẫn xử theo ý chỉ đạo; sự tác động

bằng “tiền, quà biếu”; thậm chí là sự tác động bằng những lời đe dọa, “quan

tòa” - là những người rất đỗi bình thường cũng có những trăn trở về cuộc

sống đời thường với “cơm, áo, gạo, tiền”, với sự bình an của gia đình, vợ con

và bản thân đã không ngại “từ chối” các cám dỗ để xử sai, xử thiếu công

78

bằng, cùng lắm thì “quan hệ ngoại giao” không kháng nghị, nếu có kháng cáo thì

Tòa cấp trên y án… Chính vì vậy, ngày càng đòi hỏi bản thân mỗi Thẩm phán và

Hội thẩm phải sáng suốt và có đủ bản lĩnh để từ chối những cám dỗ đó để đảm

bảo khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Bốn là, hạn chế trong việc tuyển dụng và bổ nhiệm Thẩm phán

Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy, năng lực chuyên môn và phẩm chất

đạo đức của Thẩm phán cũng có mối liên hệ chặt chẽ với tính độc lập của họ.

Một Thẩm phán yếu về chuyên môn và tư cách đạo đức thường không giữ được

tính độc lập trong hoạt động nghề nghiệp, do đó việc tuyển chọn Thẩm phán cần

nhấn mạnh các yếu tố này. Mặc dù vậy, khoản 1 Điều 67 Luật Tổ chức TAND

năm 2014 vẫn đặt yêu cầu Thẩm phán phải có “bản lĩnh chính trị vững vàng”

trước yếu tố “có tinh thần dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và

trung thực, có hiểu biết xã hội phong phú” và các yếu tố về trình độ chuyên môn

(nêu ở các khoản 2,3,4,6 Điều này). Việc đề cao tiêu chuẩn chính trị, tư tưởng

hơn so với tiêu chuẩn chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp là một trong những

nguyên nhân dẫn đến tình trạng có Thẩm phán được bổ nhiệm cho dù yếu kém

về năng lực và phẩm chất, tư cách.

Việc tuyển chọn Thẩm phán cũng tồn tại những vấn đề bất hợp lý.

Hiện tại có khá nhiều Thẩm phán chỉ có trình độ đại học chuyên ngành luật hệ

tại chức, đào tạo từ xa mà vẫn được bổ nhiệm Thẩm phán, trong khi có hàng

ngàn cử nhân luật chính quy tốt nghiệp loại khá, giỏi vẫn thất nghiệp. Mặt

khác, tuy việc tuyển dụng cán bộ ngành Tòa án trong những năm gần đây đã

có những biến chuyển tích cực nhằm nâng cao chất lượng cán bộ công chức

bằng việc quy định điều kiện thi tuyển công chức là tốt nghiệp đại học luật hệ

chính quy. Nhưng không phải không có ngoại lệ “…những người tốt nghiệp

đại học hệ tại chức nhưng có nguyện vọng công tác, phục vụ ở địa bàn miền

núi thì cũng được ưu tiên tuyển dụng vào ngành…”. Số đối tượng này phần

79

lớn là “con em” trong ngành nên có thể khi được tuyển dụng vào, công tác ở

miền núi chưa đủ thời gian quy định thì họ lại được chuyển công tác đến nơi

“thuận lợi” hơn. Qua đó, có thể thấy rằng trong cơ chế thi tuyển của ngành

Tòa án đã bộc lộ nhiều mâu thuẫn về chuẩn trình độ của công chức. Bên cạnh

đó, việc tuyển chọn Thẩm phán hiện nay vẫn có sự tham gia của nhiều chủ thể

ngoài ngành. Cụ thể, khoản 1 Điều 66 Luật tổ chức TAND năm 2014 quy

định thành phần của Hội đồng tuyển chọn, giám sát thẩm phán quốc gia bao

gồm cả Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Văn phòng Chủ tịch

nước, Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng, Trung ương Hội Luật gia Việt Nam. Về

nguyên tắc, quá trình tuyển chọn càng có sự tham gia của nhiều chủ thể, đặc

biệt là các chủ thể ngoài ngành, sẽ càng làm tăng áp lực lên các Thẩm phán,

khiến họ bị phụ thuộc và khó giữ được tính độc lập trong hoạt động nghề

nghiệp.

80

Tóm tắt chương 2

Chương 2 tập trung đánh giá thực tiễn bảo đảm nguyên tắc Thẩm

phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật tại Tòa án

Thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị thời gian qua đã cho thấy rằng, hoạt động

xét xử đã có những thay đổi rõ rệt so với trước đây. Các vụ án hình sự đã

được xét xử đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật, không có tình

trạng xử oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm, không có bản án nào cải sửa

nghiêm trọng do lỗi chủ quan của Thẩm phán, Hội thẩm; các vụ án Dân sự,

Hành chính đã được xét xử đúng quy định của pháp luật, bảo vệ được quyền,

lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên, vẫn còn một số vụ án hình sự, dân

sự bị hủy, sửa sai do áp dụng không đúng pháp luật, nguyên nhân xuất phát từ

chỗ do năng lực của Thẩm phán, Hội thẩm còn hạn chế, chưa được bồi dưỡng

kịp thời, các quy định của pháp luật chưa hoàn thiện, thống nhất, còn sự

chồng chéo, mâu thuẫn mà chưa có sự hướng dẫn của Tòa án cấp trên; sự tác

động của các yếu tố khác nhau, các tổ chức, cá nhân làm cho Thẩm phán và

Hội thẩm xét xử thiếu khách quan nên đã tác động không nhỏ đến việc xét xử.

Vì vậy để bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và

chỉ thuân theo pháp luật ở Tòa án nhân dân Thị xã Quảng Trị nói riêng và Tòa

án các cấp của Việt Nam nói chung thì cần có các giải pháp toàn diện, đồng bộ,

khả thi. Các giải pháp này cần phải xác định phù hợp với yêu cầu của cải cách

tư pháp, quan điểm về nhà nước pháp quyền được đề ra trong chủ trương chính

sách của Đảng.

81

Chương 3

QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN,

HỘI THẨM NHÂN DÂN XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO

PHÁP LUẬT TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN

THỊ XÃ QUẢNG TRỊ, TỈNH QUẢNG TRỊ

3.1. Quan điểm bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân

dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Trong những năm gần đây, Nhà nước rất quan tâm đến hoạt động tư

pháp, bắt đầu bằng nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002

“Về một số nhiệm cụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới”.

Nghị quyết chú trọng đến việc tăng cường và nâng cao hoạt động tranh tụng

tại phiên tòa, bản án, quyết định của Tòa án phải dựa trên chứng cứ đã được

thẩm tra tại phiên tòa trên cơ sở xem xét ý kiến tranh tụng của Kiểm sát viên,

bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên Tòa. Nghị quyết 08-

NQ/TW của Bộ Chính trị như một luồng gió mới thay đổi khá mạnh mẽ nhận

thức của những người tiến hành tố tụng. Từ hình thức “án bỏ túi” chuyển sang

“án tại phiên tòa”. Từ đó mà việc xét xử được công khai, dân chủ và có chất

lượng hơn trước. Quyền của những người tham gia tố tụng được quan tâm

đúng mực hơn. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 Bộ Chính trị về

chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 một lần nữa lại xác định rõ việc

hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân là việc cần thiết; Tiếp

tục đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử theo hướng đảm bảo tính công khai,

dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa xét xử,

xem đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp. Bên cạnh đó, nghị quyết cũng

nhấn mạnh đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch vững mạnh

và bổ trợ, đảm bảo cơ sở vật chất trong hoạt động tư pháp.

82

Trong giai doạn hiện nay xác định, mục tiêu cải cách tư pháp là: “xây

dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công

lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội

chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến

hành có hiệu quả và hiệu lực cao”.

- Trước hết là tăng cường công tác bảo đảm áp dụng thống nhất

pháp luật. Đổi mới tổ chức phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp với yêu

cầu Hội đồng xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; thực hiện tốt nguyên

tắc tranh tụng; tôn trọng quyền con người; Hội đồng xét xử phải thực hiện hết

thẩm quyền của mình theo quy định của pháp luật.

- Nâng cao chất lượng bản án, quyết định của Tòa án. Bản án là

văn bản tố tụng của Tòa án thể hiện các thông tin về nội dung vụ án, pháp luật

áp dụng, kết luận và quyết định của Tòa án về các vấn đề cần giải quyết trong

một vụ án cụ thể. Bản án là sản phẩm thể hiện kết quả toàn bộ hoạt động tố

tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Các thông tin thể hiện trong bản án phải

bảo đảm tính chính xác; các lập luận, kết luận và các quyết định của Tòa án

(Hội đồng xét xử) về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án phải cụ thể, chặt

chẽ, logic có đầy đủ cơ sở thực tiễn và pháp luật.

- Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc

lập và chỉ tuân theo pháp luật

Pháp luật được ban hành có giá trị bắt buộc mọi cơ quan, tổ chức, cá

nhân đều phải nghiêm chỉnh tuân theo, không được làm trái pháp luật. Hoạt

động xét xử của Tòa án là hoạt động nhân danh quyền lực của Nhà nước để

tuyên một bản án kết tội hay không kết tội bị cáo. Phán quyết của Tòa án ảnh

hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích

hợp pháp của công dân. Do đó, yêu cầu tối cao và cũng là cái mốc để đánh giá

hiệu quả của công tác xét xử là phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, đúng

83

người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không xử oan người

vô tội. Muốn vậy, khi xét xử, trước hết Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cần

phải nghiêm túc thực hiện nguyên tắc này.

- Nâng cao nhận thức tầm quan trọng của việc bảo đảm nguyên tắc

Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Nâng cao nhận thức của các cá nhân khác về nguyên tắc “Thẩm phán,

Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Thẩm phán và

Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một nguyên tắc quan trọng đối

với hoạt động xét xử của Tòa án, nó không chỉ được ghi nhận ở Hiến pháp từ

lâu mà còn được cụ thể hóa ở luật tố tụng. Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều người

không hiểu một cách tường tận nguyên tắc này, thậm chí có nhiều người

không biết đến sự tồn tại của nguyên tắc này nên đã “vô tư” tác động và can

thiệp đến hoạt động xét xử hoặc tiếp nhận sự tác động như một sự tất yếu.

Cần có biện pháp để nâng cao nhận thức về nguyên tắc, cách thức hiệu quả

nhất là giải thích, bình luận nguyên tắc trên bằng nhiều phương pháp khác

nhau, đặc biệt là qua các phương tiện thông tin đại chúng và công tác tập huấn

nghiệp vụ trong ngày.

Việc nâng cao nhận thức về nguyên tắc không thể triệt tiêu được sự

tác động bên ngoài và đến hoạt động xét xử, song chắc chắn khi mọi người đã

nhận thức được nội dung và sự cần thiết của nguyên tắc thì việc tác động đó

sẽ hạn chế hơn. Bản thân cán bộ, công chức trong ngành Tư pháp phải nâng

cao tinh thần trách nhiệm, tuân theo pháp luật một cách nghiêm chỉnh, chí

công vô tư, không được để tình cảm cá nhân, quyền lợi riêng tư ảnh hưởng

đến việc xét xử.

Từ thái độ kiên quyết của cán bộ cơ quan tư pháp sẽ góp phần làm cho

nhận thức của các cá nhân khác về nguyên tắc độc lập xét xử cũng được nâng

cao lên. Thẩm phán và Hội thẩm hơn ai hết phải là người thấm nhuần tư

84

tưởng của nguyên tắc, đạo đức nghề nghiệp, xem đó là lời thề nghề nghiệp, đó

là quyền và nghĩa vụ cao cả của Thẩm phán và Hội thẩm.

- Giám sát, kiểm tra, xử lý vi phạm trong quá trình thực hiện nguyên

tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Xét về cơ sở thực tiễn, điều kiện thực tế ở nước ta hiện nay chưa cho

phép chúng ta áp dụng mô hình Thẩm phán và Hội thẩm độc lập xét xử độc

lập mà không chịu bất kỳ sự giám sát, kiểm tra nào. Bởi lẽ trong điều kiện

hiện nay, trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ tư

pháp (trong đó có Thẩm phán và Hội thẩm) còn yếu, thậm chí có một số cán

bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Nếu chỉ chờ Toà

án cấp trên giám đốc việc xét xử để phát hiện và khắc phục các vi phạm thì rất

khó khăn, trước hết là do điều kiện về biên chế cán bộ, Thẩm phán của bộ

phận giám đốc việc xét xử không cho phép có thể nghiên cứu được tất cả các

bản án có hiệu lực của các Toà án cấp dưới. Ngoài ra, còn có những lý do

khác “cản trở” việc phát hiện vi phạm của Toà án cấp dưới. Cơ chế giám sát

việc thực hiện quyền tư pháp nói chung và nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật nói riêng ở nước ta có thể chia thành hai

nhóm:

- Cơ chế tự kiểm tra từ bên trong của mỗi hệ thống là các hệ thống

kiểm tra, giám sát do chủ thể thực thi quyền tư pháp đặt ra để kiểm tra, giám

sát các bộ phận thuộc hệ thống mình trong quá trình thực thi thẩm quyền tư

pháp. Đó là hoạt động thanh tra, kiểm tra của bộ phận thanh tra công vụ, hoạt

động kiểm tra của cơ quan tiến hành tố tụng cấp trung ương với cơ quan tiến

hành tố tụng địa phương, hoạt động kiểm tra của cơ quan tiến hành tố tụng

cấp trên với cơ quan tiến hành tố tụng cấp dưới… Hoạt động tự kiểm tra từ

bên trong của mỗi hệ thống có mục đích bảo đảm cho các chủ thể thuộc hệ thống

của mình thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo đúng quy định của pháp luật.

85

- Cơ chế giám sát từ bên ngoài hệ thống bao gồm hoạt động giám sát

của các cơ quan nhà nước đối với cơ quan thực thi quyền tư pháp, cũng gọi là

giám sát nhà nước (ở nước ta là hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng

nhân dân, giám sát của Viện kiểm sát) và giám sát do các tổ chức chính trị, tổ

chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội trực tiếp thực hiện, cũng gọi là giám sát

xã hội.

Như vậy, hoạt động kiểm sát xét xử hoàn toàn không tác động tiêu

cực tới nguyên tắc độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật. Xuất phát từ mục

tiêu, nhiệm vụ cụ thể của hoạt động tư pháp là xem xét hoạt động xét xử, đưa

ra các phán quyết chính xác, khách quan, công bằng về tính đúng đắn, hợp

pháp trong các hành vi của con người, nên pháp luật trao cho các cơ quan tư

pháp thực thi những thẩm quyền tố tụng mạnh mẽ, thậm chí có những thẩm

quyền có khả năng gây ảnh hưởng đến các quyền cơ bản nhất của con người

như thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng (biện pháp bắt, tạm

giữ, tạm giam…). Kết quả của hoạt động tư pháp (phán quyết của Tòa án) có

ảnh hưởng trực tiếp đến những quyền quan trọng nhất của con người như

quyền sống, quyền tự do… Từ những đặc điểm đó, hoạt động tư pháp cần và

phải chịu sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của nhiều cơ chế kiểm tra, giám sát

khác nhau để từ đó làm cơ sở cho việc phát hiện ra những hành vi vi phạm

pháp luật và có chế tài đủ mạnh để xử lý nghiêm minh.

3.2. Giải pháp bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân

dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Để bảo đảm thực hiện tốt nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, hạn chế oan sai, tiêu cực, xét xử đúng

người, đúng tội và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và

nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động xét xử, thì cần có một số giải pháp sau:

86

3.2.1. Giải pháp về hoàn thiện thể chế

Luật pháp quy định rõ ràng, minh bạch thì việc áp dụng vào thực tế sẽ

chính xác, đúng đắn. Để Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân có thể độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật thì pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng đều phải được

quy định chính xác, thống nhất, chặt chẽ, bảo đảm thẩm phán và hội thẩm khi

xét xử phải độc lập đối với ý kiến của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và các

cơ quan hoặc cán bộ nhà nước khác.

Vì vậy, hoàn thiện pháp luật nói chung là phải xây dựng được hệ

thống pháp luật hoàn chỉnh, không chồng chéo, mâu thuẫn với nhau; các văn

bản hướng dẫn thi hành và giải thích luật phải kịp thời. Có như vậy mới tạo

điều kiện cho Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân khi xét xử có cơ sở pháp lý

vững chắc và chỉ tuân theo pháp luật.

Hoàn thiện các quy định liên quan trực tiếp đến việc thực hiện nguyên

tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét

xử có thể nhìn nhận ở mấy nội dung sau:

- Hệ thống pháp luật dân sự:

+ Cần hoàn thiện một số quy định của Bộ luật dân sự, bảo đảm quyền,

lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi tham gia giao dịch, thúc đẩy các

quan hệ pháp luật dân sự phát triển lành mạnh; hoàn thiện chế định hợp đồng,

bồi thường, bồi hoàn dân sự…

+ Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự, nghiên cứu thực hiện và

phát triển các loại dịch vụ từ phía Nhà nước để tạo điều kiện cho các đương

sự chủ động thu thập chứng cứ, chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của mình. Đổi mới thủ tục hành chính trong các cơ quan tư pháp nhằm

tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý; người dân nộp đơn đến

Tòa án, Tòa án có trách nhiệm nhận và thụ lý đơn. Khuyến khích việc giải

87

quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài, Tòa án

hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó.

- Về hệ thống pháp luật hình sự: Cần hoàn thiện chính sách hình sự và

thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong

việc xử lý người phạm tội. Quy định trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn đối

với những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những

người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ càng cao mà

lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm khắc để

làm gương cho người khác.

+ Bộ luật hình sự: Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền,

hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm, Cần xây dựng

mức hình phạt ở các khung không cách nhau quá xa, bỏ khoản 2 Điều 46 và

bổ sung một số tình tiết giảm nhẹ ở khoản 1 Điều 46. Những tình tiết bổ sung

này phải được đúc kết từ thực tiễn áp dụng, phải liên quan đến hành vi phạm

tội và phải có tính đặc trưng, điển hình, thực sự là những tình tiết giảm nhẹ

trách nhiệm hình sự. Các tình tiết phải rõ ràng, những tình tiết phải liên kết

với nhau và sử dụng liên từ và nếu độc lập trong cùng một điểm thì sử dụng

dấu chấm phẩy (;), tránh trường hợp áp dụng không đúng, suy diễn.

+ Bộ luật tố tụng hình sự cần có những quy định cụ thể hơn về nghị

án. Cụ thể Điều 222 Bộ luật tố tụng hình sự quy định lại như sau: Hội đồng

xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án như định tội danh, quyết

định mức hình phạt, biện pháp chấp hành hình phạt, trách nhiệm dân sự, xử lý

vật chứng và các vấn đề khác (nếu có) bằng cách biểu quyết từng vấn đề

một,…; về giới hạn xét xử, cần quy định lại theo hướng bỏ đoạn 2 của điều

luật, Điều 196 chỉ còn: Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo

tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét

xử; nên bỏ nguyên tắc “Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số” vì nội

88

dung của nguyên tắc này không chỉ được thể hiện ở nguyên tắc tập trung dân

chủ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước tại Điều 8 Hiến

pháp 2013, mà còn được quy định rõ ở điều luật về thực hiện chế độ xét xử có

Hội thẩm tham gia (Điều 15), thành phần xét xử sơ thẩm (Điều 185) và xét xử

phúc thẩm (Điều 244), quyết định theo đa số (Điều 222) Bộ luật tố tụng hình sự.

- Mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các khiếu kiện hành

chính. Đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại Tòa

án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình

đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước Tòa án. Từng bước thực

hiện việc công khai hóa các bản án, trừ những bản án hình sự về tội phạm

xâm phạm an ninh quốc gia hoặc liên quan đến thuần phong mỹ tục. Xây

dựng cơ chế bảo đảm mọi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật phải được

thi hành, các cơ quan hành chính vi phạm bị xử lý theo phán quyết của Tòa án

phải nghiêm chỉnh chấp hành.

- Không nên chỉ giới hạn những đảm bảo cho tính độc lập của Thẩm

phán, Hội thẩm trong việc xét xử, mà cần mở rộng những bảo đảm đó đến các

yếu tố có thể ảnh hưởng đến họ bên ngoài quá trình xét xử, tức là cần lồng

ghép vấn đề độc lập của Thẩm phán vào toàn bộ cơ chế chính sách có liên

quan đến Thẩm phán. Ví dụ, để bảo đảm cho tính độc lập của Thẩm phán, tổ

chức và hoạt động của Tòa án cần tách ra khỏi tổ chức và hoạt động của các

đơn vị hành chính. Tính độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm không những cần

được đảm bảo trong hoạt động xét xử, mà cả trong những vấn đề khác liên

quan đến cuộc sống của họ, có như vậy mới giúp họ chống lại được sự tác

động tùy tiện của các chủ thể khác nắm giữ quyền lực. Theo nghĩa đó, vẫn

cần tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi các quy định hiện hành về tổ chức và hoạt

động của hệ thống tòa án và của Thẩm phán, Hội thẩm ở nước ta.

89

- Hoàn thiện các quy định của pháp luật về địa pháp lý của Hội thẩm

nhằm bảo đảm sự tham gia của Hội thẩm trong hoạt động xét xử. Theo chúng

tôi, cần sửa đổi quy định của pháp luật theo hướng quy định thời hạn dài hơn

cho một nhiệm kỳ của Hội thẩm là 07 năm. Về thành phần Hội đồng xét xử,

có thể giảm số lượng Hội thẩm trong Hội đồng xét xử các vụ án dân sự, hình

sự, hành chính, cụ thể là trong phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử có một Hội

thẩm và hai Thẩm phán (hoặc trong trường hợp đặc biệt có hai Hội thẩm và

ba Thẩm phán). Như vậy, vừa bảo đảm tính chuyên nghiệp của Thẩm phán,

vừa bảo đảm tính nhân dân của Hội đồng xét xử. Bổ sung quy định về đạo

đức nghề nghiệp của Hội thẩm. Quy chế đạo đức nghề nghiệp của Hội thẩm

sẽ quy định những yêu cầu chung về đạo đức nghề nghiệp, phẩm chất cần có

của Hội thẩm, những yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp của Hội thẩm trong

hoạt động tố tụng, trong quan hệ công tác, trong quan hệ với những người tiến

hành tố tụng, với những người tham gia tố tụng và trong mối quan hệ hành

chính…; quy định về cơ chế khen thưởng và xử lý vi phạm đối với Hội thẩm.

Hiện nay, mặc dù các địa phương có thành lập Đoàn Hội thẩm, nhưng

chỉ mang tính chất tự nguyện để các Hội thẩm nhóm họp, trao đổi các vấn đề

về công tác hoặc giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Trong khi đó, xét xử các loại

vụ án là lĩnh vực nhạy cảm dễ bị sức ép, tác động và rất dễ phát sinh tiêu cực.

Do đó, Hội đồng nhân dân và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp

cần xây dựng quy chế phối hợp và thực hiện tốt hơn việc quản lý, giám sát đối

với Hội thẩm từ việc thực thi nhiệm vụ, giữ gìn phẩm chất đạo đức đến việc

tạo điều kiện thuận lợi để họ được bố trí thời gian hợp lý tham gia công tác tại

Tòa án, cũng như bảo đảm các biện pháp bảo vệ Hội thẩm và gia đình họ

trong những trường hợp cần thiết.

- Theo quy định “khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán”

nên chăng cũng cần quy định trách nhiệm của Hội thẩm cũng giống như

90

Thẩm phán khi xét xử oan sai hoặc có tiêu cực vì hiện tại hầu như Hội thẩm

không có bất cứ trách nhiệm nào trước pháp luật về hoạt động xét xử của họ

ngoài hình thức bãi nhiễm hoặc không được đề nghị khen thưởng.

- Ngành Tòa án nên bỏ hình thức họp bàn án trong nội bộ cơ quan cũng

như họp ba ngành (Tòa án, Công an, Viện kiểm sát) cho dù đó là hình thức để

củng cố chứng cứ như quan niệm xưa nay ngành vẫn làm vì chứng cứ cần

được đánh giá độc lập, cơ quan này không phụ thuộc vào cơ quan kia đặc biệt

là Tòa án xét xử không phụ thuộc vào Kết luận của cơ quan điều tra hoặc Cáo

trạng của Viện kiểm sát). Nên chăng cần bỏ ngày hình thức thỉnh thị án cấp

trên, duyệt án, cho đường lối. “Xóa bỏ cơ chế thỉnh thị án, báo cáo, duyệt án”

sẽ tạo điều kiện cho các Thẩm phán đề cao trách nhiệm cá nhân, dám làm,

dám chịu, buộc các Thẩm phán không ngừng học tập, nâng cao trình độ

chuyên môn nghiệp vụ, tránh sự ỷ lại vào cán bộ cấp trên, cán bộ lãnh đạo,

quản lý.

Thẩm phán và Hội thẩm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết

định của mình, ngành Tòa án cũng nên thay đổi cách đánh giá chất lượng xét

xử qua việc đánh giá số lượng án bị hủy của Thẩm phán bởi lẽ có rất nhiều vụ

án các chứng cứ đã đầy đủ, Tòa phúc thẩm và Tòa sơ thẩm chỉ khác nhau về

quan điểm đánh giá chứng cứ. Có trường hợp tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo và

các đương sự xuất trình thêm chứng cứ mới mà cấp sơ thẩm họ không xuất

trình mặc dù đã được hỏi.

Hoặc là có những trường hợp án sơ thẩm bị hủy, xét xử lại, bị kháng

cáo, bị kháng nghị, xét xử phúc thẩm lần hai lại xét xử đúng như án sơ thẩm,

xét xử lần thứ nhất… Như vậy, đâu phải án sơ thẩm bị hủy là do lỗi Thẩm

phán và đâu phải vụ án nào bị hủy cũng do áp dụng sai pháp luật. Việc xem

xét tỷ lệ án bị hủy để đánh giá chất lượng xét xử của Thẩm phán lấy căn cứ để

91

bình xét thi đua sẽ gây ra một áp lực không cần thiết, ảnh hưởng đến tính độc

lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm.

- Cần có những văn bản hướng dẫn kịp thời để có cách áp dụng pháp

luật thống nhất trong xét xử. Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, không

chồng chéo, mâu thuẫn với nhau; các văn bản hướng dẫn thi hành và giải

thích luật phải kịp thời. Có như vậy mới tạo điều kiện cho Thẩm phán và Hội

thẩm nhân dân khi xét xử có cơ sở pháp lý vững chắc và chỉ tuân theo pháp

luật. Biết rằng, pháp luật luôn cần được xem xét, sửa đổi, bổ sung cho hoàn

thiện để đáp ứng nhu cầu điều chỉnh các mối quan hệ ngày một phức tạp trong

xã hội. Tuy nhiên, việc sửa đổi, bổ sung hay ban hành luật mới cũng cần phải

cân nhắc, tránh tình trạng mâu thuẫn chồng chéo sẽ gây lúng túng cho người

áp dụng.

Ở nước ta, mỗi đạo luật ra đời đều có nghị định, thông tư, nghị quyết...

hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, nhiều quy định của đạo luật được ghi nhận

không rõ ràng dẫn đến tình trạng các hướng dẫn không có sự thống nhất với

nhau gây khó khăn cho người áp dụng. Cần phải có sự thống nhất trong việc

cụ thể hóa quy định pháp luật của cả cơ quan lập pháp và hành pháp. Đặc biệt,

tố tụng hình sự lại rất quan trọng, mỗi quyết định của hội đồng xét xử đều ảnh

hưởng trực tiếp và nghiêm trọng đến quyền và lợi ích người tham gia tố tụng.

Vì vậy, việc các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn kịp thời và thống nhất các

quy định của luật mang lại ý nghĩa hết sức to lớn.

- Hiện nay, Luật Tổ chức TAND năm 2014 vẫn chỉ quy định một hình

thức kỷ luật là cách chức (Điều 82), được thực hiện bởi Hội đồng tuyển chọn,

giám sát thẩm phán quốc gia (Điều 71). Tuy nhiên, thủ tục áp dụng chưa thực

sự mang tính dân chủ và khách quan để đảm bảo thẩm phán có tiếng nói của

mình trong quy trình này, khi việc cách chức được xem xét theo đề nghị của

Chánh án TAND tối cao (khoản 1 Điều 83). Ngoài ra, các trường hợp có thể

92

bị cách chức còn chưa rõ ràng (khoản 2 Điều 82) và chưa có các quy định về

thủ tục khiếu nại của thẩm phán đối với quyết định cách chức. Bên cạnh đó,

không có các hình thức kỷ luật nào khác ngoài cách chức (như cảnh cáo và

khiển trách). Gần như không có văn bản nào quy định rõ nếu như vi phạm thủ

tục tố tụng mà chưa đủ cấu thành tội phạm thì Thẩm phán, Hội thẩm tham gia

phiên tòa bị xử lý như thế nào? Khiển trách, cảnh cáo, hay kỷ luật thì cũng chỉ

là những biện pháp xử phạt mang tính hành chính và nội bộ. Trong nhiều

trường hợp, khi biết hành vi của mình không minh bạch, có thể gây ảnh

hưởng đến chất lượng của phiên tòa xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm lại tìm cách

“lo lót” để không bị “soi xét”. Cho nên cần tiếp tục nghiên cứu xây dựng và

hoàn thiện cơ chế độc lập về xử lý kỷ luật Thẩm phán, đưa ra những tiêu chí

để nhận diện lỗi cố ý hay vô ý trong hoạt động xét xử của hội đồng xét xử.

trường hợp, cố ý xử sai, cần phải xem xét trách nhiệm hình sự, có như vậy,

nguyên tắc xét xử độc lập và tuân theo pháp luật cũng như các quy định của

pháp luật về tố tụng mới được thực hiện nghiêm túc và hiệu quả. Bên cạnh đó,

cần rà soát và sửa đổi quy chế hoạt động của các Tòa án nhằm giảm thiểu khả

năng Thẩm phán phụ thuộc vào lãnh đạo của các Tòa án trong công việc

chuyên môn, trong đó bao gồm việc loại bỏ các quy tắc “bất thành văn” như

báo cáo án, thỉnh thị án, duyệt án,…

Để bảo đảm sự công bằng, công khai, minh bạch trong hoạt động xét

xử, cần phải tách bạch được thẩm quyền quản lý hành chính và thẩm quyền tư

pháp giữa Tòa án cấp trên với Tòa án cấp dưới và giữa Chánh án với Thẩm

phán; phải có các cơ chế làm cho các Thẩm phán phải chịu trách nhiệm về

hành động của mình. Cần tăng cường tính chịu trách nhiệm giải trình công

khai, minh bạch của Thẩm phán và Hội thẩm trong hoạt động xét xử. Sự độc

lập của tư pháp cần phải đi cùng với cơ chế trách nhiệm trong hoạt động tư

pháp. Việc tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán cần công khai, minh bạch,

93

chuẩn hóa các tiêu chuẩn đối với Thẩm phán, đồng thời có cơ chế kết hợp thi

tuyển với tuyển chọn người để bổ nhiệm Thẩm phán, mở rộng nguồn bổ nhiệm

để nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán.

Tòa án nhân dân tối cao cần quan tâm nhiều hơn về công tác tổng kết

thực tiễn xét xử và áp dụng thống nhất pháp luật cho Tòa án nhân dân các

cấp. Tăng cường công tác tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ, các văn bản

pháp luật mới được ban hành cho Thẩm phán các cấp. Xây dựng quy chế

quản lý, giám sát đối với Thẩm phán, Hội thẩm trong việc thực thi nhiệm vụ

của mình; có biện pháp chế tài hành chính cụ thể đối với những trường hợp áp

dụng pháp luật một cách tùy tiện theo ý chí chủ quan của Thẩm phán và Hội

thẩm. Kiện toàn nâng cao trình độ, năng lực, bản lĩnh chính trị của đội ngũ

Thẩm phán, Hội thẩm. Nghiên cứu, xây dựng cải cách chế độ tiền lương và

chính sách đãi ngộ đối với Thẩm phán, Hội thẩm phù hợp với vị trí, vai trò và

đặc thù của công tác xét xử. Xây dựng chế độ tiền lương cho Thẩm phán theo

thang, bậc lương riêng. Cần có những biện pháp bảo đảm an ninh nhằm bảo

vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản của Thẩm phán, Hội thẩm và gia đình họ khi

thi hành công vụ. Bên cạnh đó, cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương

tiện phục vụ công tác xét xử của Tòa án như xây dựng trụ sở, mở rộng phòng

xử án, trang bị đầy đủ các phương tiện phục vụ và hỗ trợ cho công tác xét xử

đảm bảo thực hiện các nguyên tắc tố tụng như độc lập xét xử, xét xử công

khai, nguyên tắc tranh tụng… để ngày càng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xét xử

trong tiến trình cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.

3.2.2. Giải pháp trong tổ chức thực hiện

3.2.2.1. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trau dồi đạo đức,

lương tâm nghề nghiệp của Thẩm phán, Hội thẩm trong việc bảo đảm nguyên

tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

94

Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân được Nhà nước giao trọng trách đảm

bảo công lý. Thẩm phán có trách nhiệm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp

luật. Nên rất cần những vị “quan tòa” dũng cảm cao, công bằng, tôn trọng sự thật

khách quan. “Tính khách quan tột bậc, sự lịch thiệp, sự tế nhị cao trong xử sự cá

nhân và những điều kiện khác làm hình thành nên cơ sở đạo đức trong hoạt động

của Thẩm phán”.

Mặt khác, năng lực xét xử và đạo đức phẩm chất trong sáng không thể

tách rời nhau trong con người của thẩm phán. Có năng lực thì đạo đức mới

được phát huy, có đạo đức thì năng lực mới giữ vững phẩm chất trong sạch.

Một yếu tố quan trọng nữa là, nếu thẩm phán chỉ có trình độ nghiệp vụ cao

nhưng không có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp chỉ trở thành những phán

quan độc tài, vô cảm, không thể bảo vệ được công lý. Ngược lại các thẩm

phán chỉ có phẩm chất đạo đức và lương tâm nghề nghiệp thì họ dễ có thể bị

cám dỗ về chất làm mất lòng tin của dân vào Đảng, giảm uy tín chất lượng

độc lập của các thẩm phán trong hoạt động xét xử, khó có thể trở thành những

thẩm phán đủ mạnh và độc lập thực sự, kiên định với Hiến định, “phụng công,

thủ pháp”, chí công vô tư .

Thẩm phán phải là người có ý thức pháp luật cao hơn ý thức pháp luật

của những người khác mà ý thức pháp luật đó cần theo kịp những thành tựu

khoa học pháp lý, thực tiễn pháp lý và văn hóa pháp lý, Thẩm phán có nghiệp

vụ cao tức là họ phải nắm được qui định của pháp luật như lòng bàn tay, có

tư duy pháp lý sâu sắc, có thói quen và phương pháp khoa học để giải quyết

các vấn đề pháp lý đặt ra có như vậy họ mới có thể độc lập khi xét xử và chỉ

tuân theo pháp luật.

Các Thẩm phán phải được đào tạo chuẩn (có trình độ tốt nghiệp đại học

và trên đại học chuyên ngành luật) và thường xuyên được cập nhật những

kiến thức mới về tin học, ngoại ngữ, pháp luật quốc tế…. Cùng với Thẩm

95

phán, các Hội thẩm nhân dân cũng phải được bồi dưỡng tập huấn nâng cao

kiến thức pháp luật, kỹ năng xét xử để đủ năng lực khi xét xử.

Về trình độ nghiệp vụ của Thẩm phán: Tán thành tiêu chuẩn bổ nhiệm

Thẩm phán như quy định tại Luật tổ chức Tòa án, Pháp lệnh Thẩm phán và

Hội thẩm Tòa án nhân dân và quy chế bổ nhiệm Thẩm phán của ngành Tòa

án. Thẩm phán phải là những người có trình độ Cử nhân Luật được đào tạo

chính quy, đã được đào tạo nghiệp vụ xét xử, có thời gian làm công tác pháp

luật từ 4 năm trở lên có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc

khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng, thì có

thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án nhân

dân và đối với Thẩm phán trung cấp, ngoài các quy định trên, còn phải đáp

ứng điều kiện: đã là Thẩm phán sơ cấp ít nhất là 5 năm, còn đối với Thẩm

phán Tòa án nhân dân tối cao, phải đáp ứng điều kiện: đã là Thẩm phán trung

cấp ít nhất là 5 năm. “Khi Thẩm phán có trình độ năng lực, họ sẽ tự tin hơn,

quyết đoán hơn trong công việc và lúc này, cho dù có thể có sự ảnh hưởng, sự

tác động nào đó thì họ vẫn không thể bị chi phối khi đang giải quyết một vụ

án cụ thể”.

Những Thẩm phán đương nhiệm có trình độ Cao đẳng trở xuống phải

được chuẩn hóa trình độ, phấn đấu số lượng Thẩm phán có trình độ Cử nhân

Luật đạt tỷ lệ 100%. Trong trường hợp không được chuẩn trình độ ngành,

không xem xét để bổ nhiệm làm công tác xét xử đối với những Thẩm phán

này. Những Thẩm phán chưa được đào tạo trình độ xét xử, ngành Tòa án cần

có kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên, thời gian mỗi lần tập huấn, bồi dưỡng ít

nhất là 1 tháng và có thể tổ chức 1 năm nhiều lần và làm nhiều đợt.

Khi tuyển dụng cán bộ, công chức vào ngạch Thư ký Tòa án - nguồn

bổ nhiệm Thẩm phán, không tuyển những người có trình độ Cử nhân Luật hệ

96

tại chức, không chuyển ngạch Thư ký nếu không có các tiêu chuẩn như khi

tuyển mới và ngành không nên có bất cứ ngoại lệ nào.

- Đối với Hội thẩm, xuất phát từ ý nghĩa của chế định Hội thẩm là sự

tham gia giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử của Thẩm phán, mặc

dù luật quy định Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán nhưng không nhất

thiết trình độ chuyên môn nghiệp vụ phải tương đương Thẩm phán. Hội thẩm

phải có kiến thức pháp luật nhất định trong các lĩnh vực xét xử.

- Những kiến thức này được bổ sung cho Hội thẩm qua công tác tập

huấn. Kết hợp giữa tập huấn luật nội dung và kỹ năng xét xử. Hội thẩm cần

được trang bị các bộ luật, các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán và các

thông tư có liên quan đến việc giải thích, hướng dẫn, áp dụng pháp luật. Hội

thẩm phải được cung cấp thông tin về hoạt động xét xử và các kiến thức pháp

luật. Với một trình độ chuyên môn về những lĩnh vực nhất định, Hội thẩm

cũng có thể tự bổ sung kiến thức pháp luật cho mình. Việc tập huấn phải được

tổ chức thường xuyên và có chất lượng.

- Tăng cường giáo dục tư tưởng chính trị cho Thẩm phán, Hội thẩm và

cán bộ Tòa án, biểu dương những Thẩm phán, Hội thẩm tiêu biểu, mẫu mực,

dũng cảm, có tinh thần trách nhiệm với nghề nghiệp. Cần sớm xây dựng bộ

“quy tắc về đạo đức nghề nghiệp” cho Thẩm phán để không những bảo đảm

uy tín cho họ trong hoạt động nghề nghiệp mà còn cho phép Thẩm phán được

quyền xét xử theo lương tâm mà không trái pháp luật. Đó là bởi pháp luật thì

cứng nhắc và chỉ mang tính chất định khung, nên sự đúng, sai, công bằng

nhiều khi phải dựa vào lương tâm của người Thẩm phán, nhưng lương tâm

phải được ràng buộc bởi trách nhiệm, thể hiện ở các quy tắc đạo đức nghề

nghiệp của Thẩm phán. Tính trách nhiệm của Thẩm phán ở đây chính là cơ

chế giải trình trong hệ thống tư pháp. Các Thẩm phán phải giải trình được cơ

sở ra phán quyết của mình, mà trước hết và quan trọng nhất đó là nhận định

97

về tình tiết của vụ việc và về cơ sở áp dụng pháp luật, qua đó khắc phục được

tình trạng ra phán quyết tùy tiện, thiếu cơ sở.

Hiện nay, việc giảng dạy đạo đức Thẩm phán tại cơ sở đào tạo nghề

và các trường luật còn chưa được chú trọng, thậm chí còn chưa được đề cập

đến. Thư ký Tòa án được đào tạo nghiệp vụ xét xử trong thời gian 06, 12

tháng nhưng chỉ được giảng dạy về đạo đức nghề nghiệp trong khoảng thời

gian từ 5-10 tiết học (tương đương với một ngày) và nội dung giảng dạy về

đạo đức nghề nghiệp còn thiếu tính bài bản và chuyên nghiệp, các học viên

chưa ý thức được trách nhiệm nghề nghiệp của mình ngoài những quyền và

nghĩa vụ được quy định trong luật tố tụng. Các Thẩm phán tương lai chưa

hình thành được ý thức về đạo đức nghề nghiệp, chưa có lòng tự hào về nghề

của mình. Học viên được đào tạo nghiệp vụ xét xử, nắm vững những kỹ năng

xử án, xử lý các tình huống xảy ra tại phiên tòa nhưng không được trang bị

những kiến thức cần thiết để có bản lĩnh nghề nghiệp, bản lĩnh đấu tranh vì sự

công bằng xã hội, bản lĩnh từ chối mọi cám dỗ vật chất. Vì vậy, để nâng cao

trách nhiệm của Thẩm phán, Hội thẩm trước hết cần đưa nội dung đạo đức

nghề nghiệp Thẩm phán vào chương trình đào tạo nghiệp vụ xét xử tại cơ sở

đào tạo nghề như một phần cơ bản của nội dung đào tạo. Đạo đức của Thẩm

phán, Hội thẩm phải gắn với “nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm” như chủ tịch Hồ

Chí Minh đã dạy.

3.2.2.2. Đổi mới quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm,bãi

nhiệm, kỷ luật Thẩm phán.

Cần tiếp tục nghiên cứu sửa đổi những quy định về tuyển chọn, bổ

nhiệm và miễn nhiệm Thẩm phán để loại bỏ những yếu tố không hoặc ít liên

quan đến năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp; bảo đảm không có sự

phân biệt đối xử về bất cứ yếu tố gì bất hợp lý trong quá trình này, từ đó chọn

ra được những Thẩm phán có năng lực và đạo đức tốt; cũng như khuyến khích

98

những người có năng lực và đạo đức tốt cống hiến cho hệ thống Tòa án. Đổi

mới quy trình bổ nhiệm Thẩm phán theo hướng rút ngắn thủ tục, giảm sự can

thiệp của các cơ quan chính quyền địa phương nhưng vẫn cần đảm bảo được

03 yếu tố cơ bản: (i) thành phần Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cần đảm

bảo phản ánh được ý kiến của giới Thẩm phán, đồng thời các cơ quan đại diện

và các tổ chức nghề nghiệp phải có khả năng giám sát và có tiếng nói trong

việc tuyển chọn; (ii) quy trình tái bổ nhiệm Thẩm phán cần được thay thế bởi

quy trình bỏ phiếu tín nhiệm; (iii) các yếu tố để quyết định không bổ nhiệm

lại cần phải được quy định rõ ràng trong pháp luật. Nếu xét kỹ, Luật Tổ chức

TAND năm 2014 vẫn chưa đảm bảo được toàn bộ những yếu tố này.

Đối với nhiệm kỳ của Thẩm phán cần vững chắc và lâu dài hơn, vì

nếu chỉ được bổ nhiệm trong một nhiệm kỳ ngắn thì dù quy trình thế nào cũng

gây khó khăn cho các Thẩm phán trong việc giữ gìn tính độc lập và cương

quyết trong hoạt động nghề nghiệp. Ngoài ra, nhiệm kỳ suốt đời hoặc nhiệm

kỳ dài còn có tác dụng tăng cường chuyên môn nghiệp vụ của các Thẩm

phán, do làm cho họ yên tâm công tác. Mặc dù, Luật Tổ chức TAND năm

2014 đã nâng nhiệm kỳ của Thẩm phán lên 10 năm từ lần bổ nhiệm thứ hai,

song vẫn cần nghiên cứu quy định nhiệm kỳ dài hơn và ngay từ lần bổ nhiệm

đầu tiên. Cần thấy rằng nhiệm kỳ dài hoặc suốt đời có nhiều thuận lợi như đã

nêu nhưng không ảnh hưởng đến việc quản lý (kỷ luật, miễn nhiệm, cách

chức) Thẩm phán. Mặt khác, để thực hiện bổ nhiệm Thẩm phán có chất

lượng, phải thực hiện thường xuyên quy trình luân chuyển cán bộ, nguồn bổ

nhiệm Thẩm phán cấp trên nên là Thẩm phán cấp dưới trong một thời hạn

nhất định, nguồn bổ nhiệm Chánh án, Phó Chánh án Tòa án cấp trên nên chú

trọng lấy từ các Chánh án, Phó Chánh án Tòa án cấp dưới đã làm tốt công tác

quản lý, xét xử.

99

Việc quy định các quy tắc đạo đức nghề nghiệp sẽ bảo đảm cho Thẩm

phán xét xử khách quan và vô tư. Sự khách quan và vô tư khi xét xử chính là

sự độc lập của Thẩm phán với chính mình. Khách quan, vô tư là một đòi hỏi

không chỉ riêng đối với các chủ thể của Tư pháp, mà nó còn là đòi hỏi đối với

cả Lập pháp và Hành pháp khi thực hiện quyền lực công. Tuy nhiên, khái

niệm khách quan, vô tư thông thường được hiểu khi nói đến trách nhiệm chủ

quan của các chủ thể thực thi quyền lực công - theo đó, họ hành động không

nhằm mục đích tư lợi, trong khi khái niệm độc lập được hiểu khi nói đến trách

nhiệm không được can thiệp và không bị can thiệp. Vai trò độc lập mà Thẩm

phán có được để bảo vệ lẽ phải chỉ có ý nghĩa khi họ phải là người khách

quan vô tư. Nếu không xét xử một cách khách quan vô tư thì khi đó sự độc

lập của Thẩm phán sẽ trở thành thảm họa cho tất cả các bên đương sự trong

vụ án và sẽ hủy hoại Nhà nước pháp quyền.

Như vậy, một trong những yếu tố cơ bản để bảo đảm sự độc lập của

Thẩm phán với chính mình (sự khách quan vô tư khi giải quyết vụ án) là cần

phải bảo đảm sự khách quan và vô tư của Thẩm phán trong toàn bộ quá trình

xét xử. Và để đạt được điều đó thì cần phải có bộ quy tắc đạo đức nghề

nghiệp Thẩm phán nhằm định hướng hành vi ứng xử của Thẩm phán.

Trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán và trách nhiệm bồi thường nhà

nước khi có hành vi trái pháp luật trong thi hành công vụ

Lý do xác định chế độ trách nhiệm của cá nhân Thẩm phán là xu thế

tất yếu hiện nay của pháp luật nhiều quốc gia và được thừa nhận chung là cần

thiết và phải được song hành với việc đảm bảo độc lập xét xử.

Ở Việt Nam, theo khoản 4 Điều 67 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân

năm 2014, thì Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân gây ra thiệt hại có trách

nhiệm hoàn trả số tiền bồi thường cho Tòa án. Thẩm phán cũng có thể phải

chịu trách nhiệm kỷ luật hay trách nhiệm hình sự nếu ra bản án trái pháp luật.

100

Trước khi có Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, Nghị

quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về bồi

thường thiệt hại cho người bị oan sai do người có thẩm quyền trong hoạt động

tố tụng gây ra có quy trách nhiệm cho Tòa án phải bồi thường trong cả những

trường hợp không phải do lỗi cố ý và Thẩm phán có trách nhiệm bồi hoàn cả

khi vô ý ra bản án kết tội người vô tội.

Sau khi Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 được

ban hành và có hiệu lực, các trường hợp Tòa án phải bồi thường do gây oan

sai trong hoạt động tố tụng được quy định rõ ràng hơn, cụ thể: Tòa án có trách

nhiệm bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự (Điều 32); trong

hoạt động tố tụng dân sự và tố tụng hành chính (Điều 33).

Theo Điều 64 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017

và Điều 16 Nghị định số 16/2010/NĐ-CP ngày 03/03/2010 của Chính phủ thì

trường hợp Thẩm phán, cán bộ Tòa án cố ỷa bản án hình sự oan thì phải hoàn

trả cho Tòa án khoản tiền mà Tòa án đã bồi thường cho người bị xử oan, như

tối đa không quá 36 tháng lương của người phải bị bồi hoàn. Trường hợp

trong tố tụng dân sự và tố tụng hành chính cũng được áp dụng tương tự tố

tụng hình sự, riêng trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trái pháp

luật thì phải bồi hoàn không quá 3 tháng lương của người bị bồi hoàn.

Có thể nói, trách nhiệm bồi hoàn của Thẩm phán khi xét xử oan sai

theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 và các văn bản

hướng dẫn thi hành đã được quy định cụ thể và rõ ràng hơn. Tuy nhiên, bên

cạnh việc gia tăng trách nhiệm của Tòa án và Thẩm phán trong trường hợp ra

các bản án oan sai, thì vẫn chưa có những quy định về việc Tòa án và Thẩm

phán phải giải trình vì lý do oan sai, chưa quy định rõ các biện pháp để công

chúng có thể giám sát các hoạt động của Tòa án và Thẩm phán. Cho nên, cần

101

phải có các nghiên cứu và quy định các biện pháp tăng cường trách nhiệm giải

trình trong hoạt động xét xử của Tòa án nói chung và Thẩm phán nói riêng.

Ngoài điều kiện về nhiệm kỳ, để góp phần duy trì tính độc lập của

Thẩm phán, Đảng và Nhà nước cần có sự quan tâm về vật chất hơn đối với

ngành Tòa án nói chung và cán bộ Tòa án nói riêng. Tăng cường cơ sở vật

chất, chế độ chính sách đối với Thẩm phán, cán bộ Tòa án. Như đã đề cập ở

trên, mức lương của các Thẩm phán hiện nay còn khá xa mức thu nhập cần

thiết để chăm sóc chu đáo gia đình, khiến cho Thẩm phán khó giữ được liêm

chính trước những cám dỗ trong hoạt động nghề nghiệp. Do đó, Nhà nước cần

ưu tiên đầu tư xây dựng trụ sở, trang thiết bị, phương tiện làm việc cho các

Tòa án; cần có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với

Thẩm phán, cán bộ Tòa án để họ yên tâm công tác và tăng khả năng tự vệ

phòng, chống tiêu cực trong hoạt động xét xử. Mặt khác, Nhà nước cần quy

định chế độ bảo đảm an ninh đối cơ quan Tòa án, Thẩm phán và gia đình họ

trong khi thi hành công vụ.

3.2.2.3. Xây dựng và đổi mới hoạt động của các cơ quan, tổ chức,

bổ trợ tư pháp

Thực tiễn xét xử cho thấy, hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp

như Luật sư, Công chứng, Giám định, Hộ tịch… tuy không trực tiếp quyết

định các bản án, nhưng sự khách quan, kịp thời, chính xác của các hoạt động

bổ trợ tư pháp sẽ góp phần bảo đảm chất lượng xét xử của Tòa án. Nếu hoạt

động bổ trợ tư pháp kém hiệu quả, sẽ dẫn đến sự sai lệch trong kết quả điều

tra, truy tố và khi xét xử, Thẩm phán rất dễ sai lầm, đưa ra phán quyết không

đúng pháp luật. Vì vậy, trong tiến trình cải cách tư pháp, phải hoàn thiện pháp

luật về Luật sư, Công chứng, Giám định, Hộ tịch theo hướng công khai, minh

bạch, đơn giản và thuận tiện cho người dân. Nâng cao chất lượng đội ngũ làm

công tác bổ trợ tư pháp công chứng viên theo hướng chuyên nghiệp hoá. Đội

102

ngũ này bao gồm Luật sư, Công chứng viên, Giám định viên Tư pháp, người

giám định tư pháp theo vụ việc, Trợ giúp viên pháp lý, Tư vấn viên pháp luật,

Quản tài viên, Thừa phát lại không phải chỉ là người được đào tạo cơ bản về

luật pháp, về lĩnh vực công tác, tinh thông nghề nghiệp, giàu kinh nghiệm,

vốn sống mà còn phải có phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp (trung thực, vô tư,

khách quan, liêm khiết, nhiệt tình, trách nhiệm...). Ngoài ra, cần tăng cường

công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong hoạt động bổ trợ tư pháp.

Đồng thời hướng dẫn, định hướng thực hiện đúng quy định pháp luật có liên

quan đến hoạt động bổ trợ tư pháp; tập trung tăng cường công tác phòng

chống tham nhũng, giải quyết khiếu nại, tố cáo tại tổ chức hành nghề. Thực

hiện thanh tra chuyên ngành đối với các tổ chức hành nghề, đồng thời kiểm

tra việc thực hiện kết luận thanh tra đối với các đơn vị đã được thanh tra trong

năm trước.

Xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách trong lĩnh vực bổ trợ tư

pháp trên địa bàn tỉnh thống nhất, đồng bộ với hệ thống văn bản pháp luật của

trung ương, tạo hành lang pháp lý quan trọng cho các hoạt động bổ trợ tư

pháp và phù hợp với tình hình thực tiễn triển khai thực hiện tại địa

phương. Trong đó, cần cụ thể hóa cơ chế, chính sách khuyến khích cá nhân,

tổ chức tham gia xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp.

Phải xác định phạm vi lãnh đạo của Đảng và Hiến định, các quy định

tổ chức và hoạt động của Đảng để đảm bảo tôn trọng nguyên tắc Thẩm phán

và Hội thẩm xét xử độc lập, tuân theo pháp luật. Như đã trình bày ở trên,

nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

trong xét xử không chỉ là một nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng; mà

còn là một nguyên tắc hiến định, bởi vậy không chỉ có chủ thể của hoạt động

xét xử mà tất cả mọi công dân đều phải tuân thủ. Luật, Hiến pháp quy định là

vậy song trên thực tế, việc tuân thủ nguyên tắc này còn có quá nhiều vấn đề

103

đáng bàn. Việc Thẩm phán, Hội thẩm chưa thực sự độc lập trong xét xử, pháp

luật chưa được tuân thủ vẫn còn diễn ra, việc xét xử theo chỉ đạo, tác động

còn khá phổ biến, nhất là ở Tòa án cấp huyện thị, cấp tỉnh. Đây rõ ràng là hiện

tượng đi ngược lại với sự nỗ lực cố gắng của Đảng và Nhà nước trong chiến

lược cải cách tư pháp. Vì vậy, cần tăng cường vai trò giám sát của các Đoàn

đại biểu Quốc hội, của Hội đồng nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa

án. Đồng thời, nâng cao chất lượng hoạt động của các phương tiện thông tin

đại chúng trong việc tuyên truyền, cung cấp thông tin về hoạt động xét xử,

đảm bảo nguyên tắc được thực thi với hiệu quả cao nhất.

Tăng cường vai trò giám sát của các Đoàn đại biểu Quốc hội, của Hội

đồng nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án. Đồng thời, nâng cao chất

lượng hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên

truyền, cung cấp thông tin về hoạt động xét xử.

Tăng cường cơ sở vật chất, chế độ chính sách đối với Thẩm phán, cán

bộ Tòa án. Nhà nước cần ưu tiên đầu tư xây dựng trụ sở, trang thiết bị,

phương tiện làm việc cho các Tòa án; cần có chính sách tiền lương và chế độ

đãi ngộ thỏa đáng đối với Thẩm phán, cán bộ Tòa án để họ yên tâm công tác

và tăng khả năng tự vệ phòng, chống tiêu cực trong hoạt động xét xử. Mặt

khác, Nhà nước cần quy định chế độ bảo đảm an ninh đối cơ quan Tòa án,

Thẩm phán và gia đình họ trong trường hợp thi hành công vụ.

104

Tóm tắt chương 3

Chương 3 nêu lên những quan điểm và một số giải pháp bảo đảm

nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật. Các giải pháp như: Hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng quy

định của pháp luật phải rõ ràng, đảm bảo tính chính xác khi áp dụng, các quy

định pháp luật phải thống nhất, không mâu thuẫn, không mâu thuẫn với nhau,

cần có những quy phạm pháp luật với chế tài nghiêm khắc để xử lý những

biểu hiện tác động đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm; không

ngừng nâng cao trình độ nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ Thẩm phán và Hội

thẩm, nâng cao tinh thần, trách nhiệm và bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp để

đảm bảo đội ngũ Thẩm phán “vừa hồng, vừa chuyên”; đổi mới tổ chức và

hoạt động của Tòa án, đảm bảo việc xét xử phải thực sự độc lập, không có bất

cứ sự ràng buộc làm ảnh hưởng đến tính khách quan trong hoạt động xét xử;

tăng cường công tác tuyên truyền, giải thích pháp luật, nâng cao ý thức pháp

luật nói chung và ý thức về nguyên tắc độc lập xét xử nói riêng; Nhà nước cần

có sự đầu tư quan tâm hơn nữa đến hoạt động xét xử.

Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam là một nhiệm vụ cơ bản, quan trọng và lâu dài của hệ thống chính trị,

riêng trong lĩnh vực tư pháp, chúng ta sẽ không nói đến một nhà nước pháp

quyền thực sự, của dân, do dân và vì dân nếu còn nhiều người dân chịu oan ức

bất công hoặc tính mạng, tài sản và danh dự của họ bị xâm hại bởi những

quyết định không công bằng, trái pháp luật của cơ quan tư pháp, trong đó có

bản án, quyết định của Tòa án. Bảo đảm nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm

xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Ngoài ý nghĩa đảm bảo hoạt động

xét xử vô tư, khách quan, đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích của nhân

dân, bảo vệ công lý còn góp phần tích cực vào tiến trình xây dựng nhà nước

pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phải củng cố niềm tin của quần chúng

nhân dân và sự nghiệp xây dựng phát triển đất nước.

105

KẾT LUẬN

Bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật là một nguyên tắc quan trọng của pháp luật tố tụng mà những

người tiến hành tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tham

gia tố tụng phải tôn trọng. Nguyên tắc độc lập xét xử được ghi nhận trong

Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khác như là một trong những

yếu tố không thể thiếu được của một nhà nước pháp quyền, là công cụ cần

thiết để bảo vệ quyền con người. Nguyên tắc này thể tư tưởng, quan điểm của

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở sự độc lập của ba hệ thống

lập pháp, hành pháp và tư pháp tất yếu dẫn đến sự độc lập của Thẩm pháp và

Hội thẩm.

Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm của hoạt động xét xử, luận văn đã

làm rõ một số vấn đề lý luận về thuật ngữ “độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”

khi xét xử. Trên cơ sở đó, đưa ra khái niệm khoa học về bảo đảm, Hội thẩm,

Thẩm phán, bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật. Làm rõ nội dung nguyên tắc, điều kiện, mối quan hệ giữa

tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử.

Bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật có ý nghĩa pháp lý, ý nghĩa chính trị, xã hội và ý nghĩa đối với

hoạt động thực tiễn sâu sắc. Nguyên tắc là cơ sở pháp lý để Thẩm phán và Hội

thẩm tiến hành hoạt động xét xử được khách quan, đúng pháp luật, hiến pháp

và pháp luật được tuân thủ nghiêm túc. Nguyên tắc khẳng định vai trò, vị trí

của cơ quan Tòa án trong hệ thống cơ quan nhà nước, chỉ có Tòa án mới có

quyền xét xử và khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp

luật, không một cá nhân nào được phép can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa

án. Nguyên tắc gián tiếp thể hiện bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà

106

nước do dân làm chủ, nhân dân tham gia giám sát các hoạt động của nhà nước,

trong đó có hoạt động xét xử. Kết quả của hoạt động xét xử khách quan, đúng

pháp luật là quyết định, bản án bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà

nước, bảo đảm lợi ích của công dân khi tham gia tố tụng. Từ đó, củng cố lòng

tin của nhân dân vào hoạt động xét xử của Tòa án, nâng cao uy tín của Tòa án

nói riêng và cơ quan tiến hành tố tụng nói chung.

Về cơ bản, việc bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật đã đáp ứng được nhu cầu đối với hoạt động

xét xử, hạn chế việc xử oan, xử sai. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành nguyên tắc

trên còn có những hạn chế như hiện tượng Thẩm phán và Hội thẩm không độc

lập xét xử, pháp luật không phải là căn cứ duy nhất để ra bản án quyết định;

còn có quá nhiều sự tác động đến hoạt động xét xử, thiếu khách quan, ảnh

hưởng tính pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Nguyên nhân của những hạn chế trên bao gồm hệ thống pháp luật

chưa rõ ràng, hoàn chỉnh và thiếu sự thống nhất giữa các quy phạm pháp luật,

việc giải thích hướng dẫn, áp dụng pháp luật chưa kịp thời, đội ngũ làm công

tác xét xử vẫn còn nhiều hạn chế về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có vấn

đề về đạo đức nghề nghiệp, cơ cấu tổ chức và hoạt động của ngành Tòa án có

nhiều điểm chưa phù hợp, sự đầu tư của nhà nước đối với ngành Tòa án là

chưa thỏa đáng.

Để nâng cao hiệu quả của việc đảm bảo nguyên tắc cần có những giải

pháp đồng bộ, khả thi. Các giải pháp này cần phải xác định phù hợp với yêu

cầu của cải cách tư pháp, quan điểm về nhà nước pháp quyền được đề ra trong

chủ trương chính sách của Đảng đó là hoàn thiện hệ thống pháp luật theo

hướng quy định của pháp luật phải rõ ràng, đảm bảo tính chính xác khi áp

dụng, các quy định pháp luật phải thống nhất, không mâu thuẫn, không mâu

thuẫn với nhau, cần có những quy phạm pháp luật với chế tài nghiêm khắc để

107

xử lý những biểu hiện tác động đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội

thẩm; không ngừng nâng cao trình độ nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ Thẩm

phán và Hội thẩm, nâng cao tinh thần, trách nhiệm và bồi dưỡng đạo đức

nghề nghiệp để đảm bảo đội ngũ Thẩm phán “vừa hồng, vừa chuyên”; đổi

mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, đảm bảo việc xét xử phải thực sự độc

lập, không có bất cứ sự ràng buộc làm ảnh hưởng đến tính khách quan trong

hoạt động xét xử; Tăng cường công tác tuyên truyền, giải thích pháp luật,

nâng cao ý thức pháp luật nói chung và ý thức về nguyên tắc độc lập xét xử

nói riêng; Nhà nước cần có sự đầu tư quan tâm hơn nữa đến hoạt động xét xử.

Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam là một nhiệm vụ cơ bản, quan trọng và lâu dài của hệ thống chính trị,

riêng trong lĩnh vực tư pháp, chúng ta sẽ không nói đến một nhà nước pháp

quyền thực sự, của dân, do dân và vì dân nếu còn nhiều người dân chịu oan ức

bất công hoặc tính mạng, tài sản và danh dự của họ bị xâm hại bởi những quyết

định không công bằng, trái pháp luật của cơ quan tư pháp, trong đó có bản án,

quyết định của Tòa án. Tuân thủ nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc

lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Ngoài ý nghĩa đảm bảo hoạt động xét xử vô tư,

khách quan, đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân, bảo vệ công

lý còn góp phần tích cực vào tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền Việt

Nam xã hội chủ nghĩa, phải củng cố niềm tin của quần chúng nhân dân và sự

nghiệp xây dựng phát triển đất nước.

108

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Khắc Bộ (2004), "Để hội thẩm nhân dân không chỉ là hình thức",

Toà án nhân dân, (3), tr. 6.

2. Đỗ Văn Chỉnh (2000), "Những vấn đề cần lưu ý trong xét xử", Toà án

nhân dân, (1), tr. 1-4.

3. Nguyễn Đăng Dung (2007), "Trọng tâm của công tác cải cách tư pháp

hiện nay là đảm bảo cho nguyên tắc tòa án độc lập có hiệu lực trên thực tế",

Dân chủ và pháp luật, (1), tr. 23-25. .

4. Lưu Tiến Dũng (2007), "Tòa án phải xét xử độc lập", http://

www.vnlawfind.com.vn.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp

hành trung ương Đảng (khoá VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01

của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong

thời gian tới, Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6

của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Trần Văn Độ (2000), "Hoàn thiện quy định của pháp luật về giới hạn xét

xử", Tòa án nhân dân, (3).

12. Trần Văn Độ (2000), "Hoàn thiện quy định của pháp luật về giới hạn xét

xử", Tòa án nhân dân, (3).

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Điều lệ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1

14. Nguyễn Văn Hiện (1999), "Vấn đề giới hạn xét xử của Tòa án nhân dân",

Tòa án nhân dân, (8).

15. Phạm Hồng Hải (2003), "Một số biện pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc

khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp",

Nhà nước và pháp luật, (5).

16. Học viện Tư pháp (2004), Giáo trình Kỹ năng xét xử vụ án hình sự, Nxb

Tư pháp, Hà Nội.

17. Khoa Luật - Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (1994), Giáo trình luật

Hiến pháp và các nước tư bản, Hà Nội.

18. Trần Văn Kiểm (2011), "Bảo đảm nguyên tắc khi xét xử thẩm phán và hội

thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật", Nghiên cứu lập pháp,

1(186), tr. 30-32.

19. Hoàng Chí Kiên (2011), "Vài nét về xét xử có bồi thẩm đoàn theo pháp

luật tố tụng Hoa Kỳ", Kiểm sát, (2), tr. 43-44, 48.

20. V.I. Lênin (1974), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.

21. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Đặng Quang Phương (1995), "Nguyên tắc độc lập xét xử và vấn đề giới

hạn xét xử", Kỷ yếu, tập III, Viện Khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao,

Hà Nội.

23. Quốc hội (1946), Hiến pháp, Hà Nội.

24. Quốc hội (1959), Hiến pháp, Hà Nội.

25. Quốc hội (1980), Hiến pháp, Hà Nội.

26. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.

27. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội.

28. Quốc hội (2001), Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.

29. Quốc hội (2002), Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.

30. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội. 88

31. Quốc hội (2005), Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội.

32. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.

33. Nguyễn Thanh Sơn (1991), "Độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm,

Tòa án nhân dân, (11), tr. 1-2.

34. Trần Thị Nhung San (1995), Nguyên tắc khi xét xử thẩm phán, hội thẩm

nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, Khoá luận

tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội.

35. Hoàng Thị Sơn (1996), "Tìm hiểu nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội

thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật", Luật học, (5) tr. 17-21.

36. Ngô Thanh Sơn (1996), Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc

lập và chỉ tuân theo pháp luật, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội.

37. Hoàng Thị Sơn, Bùi Kiên Điện (2000), Những nguyên tắc cơ bản của luật

tố tụng hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

38. Hồ Sỹ Sơn (2008), "Những hạn chế trong các quy định của Bộ luật Hình

sự năm 1999 về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và

hướng khắc phuc", Tòa án nhân dân, (16), tr. 2.

39. Nguyễn Thị Tâm (2010), Nâng cao chất lượng đội ngũ thẩm phán Toà án

nhân dân tỉnh Nam Định trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay, Luận

văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.

40. Cao Viết Thăng (2010), "Bàn về vai trò của chế định hội thẩm nhân dân ở

nước ta hiện nay", Nhà nước và pháp luật, 9(269), tr. 27-30.

41. Hàn Mạnh Thắng (1997), Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật

Hà Nội.

42. Tòa án nhân dân tối cao (1976), Hệ thống hóa luật lệ hình sự, tập 1 (1945

- 1975), Hà Nội. 89

43. Tòa án nhân dân tối cao (2004), Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày

05/11 hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ III “xét xử sơ

thẩm” của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Hà Nội.

44. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Sổ tay Thẩm phán, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

45. Tòa án nhân dân tối cao (2007), Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày

02/10 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự về thời hiệu thi

hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt,

Hà Nội.

46. Tòa án nhân dân tối cao (2007), Báo cáo tổng kết công tác xét xử Tòa án

năm 2007, Hà Nội.

47. Tòa án nhân dân tối cao (2008), Quy tắc ứng xử của cán bộ công chức

ngành Tòa án nhân dân, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

48. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ

(1998), Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BNV

ngày 02/01 hướng dẫn áp dụng Bộ luật hình sự sửa đổi, Hà Nội.

49. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Luật tố tụng hình sự, Nxb

Tư pháp, Hà Nội.

50. Phạm Anh Tuân (1996), Khi xét xử Tòa án và Hội thẩm nhân dân độc lập và

chỉ tuân theo pháp luật, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội.

51. Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2004), "Bàn về nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án và

việc tăng cường tranh luận tại phiên tòa xét xử hình sự", Kiểm sát, (07), tr. 17.

52. Ánh Tuyết (2008), "Cần đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội thẩm Tòa

án nhân dân", Báo Pháp luật, (67) tr. 5.