BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
............/........... ...../......
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN VĂN HƯNG
BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SOÁT
HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK NÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
ĐẮK NÔNG, THÁNG 6 NĂM 2023
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
............/........... ....../.....
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN VĂN HƯNG
BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SOÁT
HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK NÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN CƯƠNG
ĐẮK NÔNG, THÁNG 6 NĂM 2023
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ về
“Bảo đảm thực hiện quyền công tố và kiểm soát hoạt động tư pháp tại Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp
với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực; số liệu trong Luận văn là chính xác
phản ánh tính khách quan trong quá trình nghiên cứu.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Đắk Nông, ngày tháng năm 2022
Học viên
Nguyễn Văn Hưng
LỜI CẢM ƠN
Việc viết Luận văn là kết quả quá trình học tập, nghiên cứu ở nhà
trường, với sự giảng dạy, hướng dẫn nhiệt tình, trách nhiệm của thầy, cô Học
viện Hành chính quốc gia, kết hợp với kinh nghiệm của bản thân trong thực
tiễn công tác.
Để hoàn thành được luận văn này, ngoài sự nổ lực cố gắng của bản
thân, tôi còn nhận được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của tập thể,
cá nhân trong và ngoài Học viện hành chính. Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc tới:
Ban Giám đốc và quý thầy, cô thuộc Học viện Hành chính Quốc gia đã
tạo điều kiện giúp đỡ cho tôi trong quá trình học tập, hoàn thành luận văn tốt
nghiệp này.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Văn Cương,
công tác tại Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp là người đã trực tiếp hướng
dẫn đề tài cho tôi với tất cả lòng nhiệt tình và sự quan tâm sâu sắc.
Bên cạnh đó, tôi cũng gửi lời cảm ơn chân thành đến lãnh đạo Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông, bạn bè, đồng nghiệp, luôn quan tâm, tạo
điều kiện, chia sẻ, động viên tôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện luận
văn.
Mặc dù bản thân đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện nhưng
luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả mong nhận được sự
góp ý của quý thầy, cô và bạn bè.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các phụ lục
MỞ ĐẦU …………………………………………………………………01
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT CÁC HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Thực hiện quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân………………...07
1.2. Kiểm soát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân ………15
1.3. Bảo đảm thực hiện quyền công tố và kiểm soát các hoạt động tư pháp của
Viện kiểm sát nhân dân …………………………………………………...18
1.4. Các yếu tố tác động tới bảo đảm thực hiện quyền công tố và kiểm soát
các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân…………………….…23
Tiểu kết chương 1 ………………………………………………………….30
Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN CÔNG
TỐ VÀ KIỂM SOÁT CÁC HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP CỦA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG
2.1. Khái quát về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông
trong việc thực hiện quyền công tố và kiểm soát các hoạt động tư pháp... 31
2.2. Phân tích thực trạng bảo đảm thực hiện quyền công tố và kiểm soát các
hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông…………….47
2.3. Đánh giá chung thực trạng bảo đảm thực hiện quyền công tố và kiểm soát
các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông………...60
Tiểu kết chương 2 ………………………………………………………….78
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC
HIỆN QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SOÁT CÁC HOẠT ĐỘNG TƯ
PHÁP CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG
3.1. Phương hướng bảo đảm thực hiện quyền công tố và kiểm soát các hoạt
động tư pháp …...................................……………………………………...79
3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện quyền công tố và kiểm soát các hoạt động
tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông ……………………….87
Tiểu kết chương 3 …………………………………………………………104
KẾT LUẬN……………………………………………………………….105
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADPL: Áp dụng pháp luật
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
CAND: Công an nhân dân
CQĐT: Cơ quan điều tra
ĐTV: Điều tra viên
HĐND: Hội đồng nhân dân
HĐXX: Hội đồng xét xử
HTND: Hội thẩm nhân dân
KSĐT: Kiểm sát điều tra
KSV: Kiểm sát viên
KSVTTPL: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật
KSXX: Kiểm sát xét xử
KTBC: Khởi tố bị can
KTVA: Khởi tố vụ án
MTTQ: Mặt trận tổ quốc
QCT: Quyền công tố
TAND: Tòa án nhân dân
THADS: Thi hành án dân sự
THQCT: Thực hiện quyền công tố
THTGTG: Thi hành tạm giữ tạm giam
TNHS: Trách nhiệm hình sự
TTDS: Tố tụng dân sự
TTHC: Tố tụng hành chính
TTHS: Tố tụng hình sự
TTLT: Thông tư liên tịch
UBTV: Ủy ban thường vụ
VKS: Viện kiểm sát
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
XXST: Xét xử sơ thẩm
DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Thống kê tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố từ năm 2019 đến tháng 6/2022 ………………...……108
Phụ lục 2: Thống kê công tác thực hiện quyền công tố và kiểm soát điều
tra các vụ án hình sự từ năm 2019 đến tháng 6/2022 .……………….……108
Phụ lục 3: Thống kê công tác THQCT và kiểm soát hoạt động tư pháp
trong giai đoạn truy tố từ năm 2019 đến tháng 6/2022……………………109
Phụ lục 4: Thống kê công tác thực hiện quyền công tố và kiểm soát xét
xử sơ thẩm các vụ án hình sự từ năm 2019 đến tháng 6/2022 …................109
Phụ lục 4a: Thống kê công tác thực hiện quyền công tố và kiểm soát xét
xử phúc thẩm các vụ án hình sự từ năm 2019 đến tháng 6/2022 …………110
Phụ lục 5: Thống kê công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam từ năm
2019 đến tháng 6/2022 ……………………………………….………..….110
Phụ lục 5a: Thống kê công tác kiểm sát thi hành án hình sự từ năm 2019
đến tháng 6/2022 ………………………………………………………... 111
Phụ lục 6: Thống kê công tác kiểm sát việc giải quyết sơ thẩm các vụ,
việc dân sự, hôn nhân từ năm 2019 đến tháng 6/2022 ……………………111
Phụ lục 6a: Thống kê công tác kiểm sát việc giải quyết phúc thẩm các
vụ, việc dân sự, hôn nhân từ năm 2019 đến tháng 6/2022 ………………..112
Phụ lục 7: Thống kê công tác kiểm sát việc giải quyết án sơ thẩm hành
chính, vụ việc kinh doanh thương mại, lao động từ năm 2019 đến tháng
6/2022 …………………………………………………………………….112
Phụ lục 7a: Thống kê công tác kiểm sát việc giải quyết án phúc thẩm
hành chính, vụ việc kinh doanh thương mại, lao động từ năm 2019 đến tháng
6/2022 …………………………………………………………………….113
Phụ lục 8: Thống kê công tác kiểm sát thi hành án dân sự từ năm 2019
đến tháng 6/2022 ………………………………………………………….113
Phụ lục 9: Thống kê công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc
giải quyết KNTC tại cơ quan tư pháp từ năm 2019 đến tháng 6/2022……114
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: “Viện kiểm sát
nhân dân tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp” [12]. Yêu cầu trên đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm1992 (sửa
đổi năm 2001) và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, BLTTHS
năm 2003 và được tiếp tục khẳng định ở Hiến pháp 2013; Luật tổ chức Viện
kiểm sát năm 2014 và BLTTHS năm 2015.
Quan điểm về cải cách tư pháp được nhấn mạnh trong Văn kiện Đại hội
XII của Đảng Cộng sản Việt Nam: Cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Đại hội Đảng lần thứ XII khẳng định mục
tiêu chiến lược là xây dựng nền tư pháp “trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng
sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[15] Và khẳng định vị trí pháp lý của
Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước với vai trò kép: vừa là cơ
quan thực hành quyền công tố vừa là cơ quan giữ quyền kiểm sát hoạt động tư
pháp. Một lần nữa Đại hội Đảng lần thứ XIII xác định nhiệm vụ trọng tâm
trong nhiệm kỳ là: “Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính
sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân;
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh; cải
cách tư pháp, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội…”.
Tại phiên họp lần thứ tư, ngày 12/03/2012 của Ban chỉ đạo cải cách tư
pháp Trung ương, Đồng chí Trương Tấn Sang - Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ
tịch nước, Trưởng ban cải cách tư pháp Trung ương đã kết luận như sau:
“Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
1
các hoạt động tư pháp; được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án
nhân dân, đồng thời tiếp tục đổi mới, kiện toàn đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp và nhiệm vụ chính trị theo đúng chủ trương, đường lối đã được xác định
trong các văn kiện của Đảng”.
Nhận thức và quán triệt nghiêm túc tinh thần Nghị quyết của Đảng,
trong những năm qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp của ngành Kiểm sát nhân dân đã có nhiều chuyển biến tích cực.
Với số lượng rất lớn các vụ án hình sự được phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử
nhanh chóng, kịp thời bảo đảm sự nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, hạn chế thấp nhất không làm oan người vô
tội đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã
hội.
Trong những năm qua, VKSND tỉnh Đắk Nông đã thực hiện tốt công
tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động của các cơ quan tư pháp trên địa bàn tỉnh, bảo đảm cho pháp luật được
tuân thủ nghiêm chỉnh và thống nhất, phát huy vai trò tích cực của mình trong
cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, nâng cao hiệu lực quản lý nhà
nước, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Song, bên cạnh
những ưu điểm trên, công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp còn bộc lộ những sai sót cần khắc phục. Để hoàn thành tốt chức
năng của mình, xứng đáng là một công cụ sắc bén của Đảng trong việc bảo vệ
Hiến pháp, ngành KSND phải tiếp tục phấn đấu phát huy thành tích, hạn chế
và khắc phục khuyết điểm. Nhằm góp phần làm sáng rõ thêm về mặt lý luận
và thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp, tác giả chọn đề tài: “Bảo đảm thực hiện quyền công tố và kiểm soát
hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông” làm luận
văn thạc sĩ Luật, chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
2
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu về công tác thực hiện
quyền công tố và kiểm soát hoạt động tư pháp. Các công trình nghiên cứu này
đã được công bố trên các sách, báo, tạp chí chuyên ngành và trong các luận án
Tiến sỹ, các luận văn Thạc sỹ, một số giáo trình giảng dạy về chuyên ngành,
về đào tạo Kiểm sát viên, các sách tham khảo và trong các đề tài nghiên cứu
cấp bộ do VKSND tối cao thực hiện. Đáng chú ý là một số công trình như:
Đỗ Xuân Hưng (2016), Chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn
xét xử phúc thẩm hình sự, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội;
Phạm Anh Đức (2016), Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, Luận văn thạc sĩ
Luật học, Đại học Luật Hà Nội
Nguyễn Công Cường (2016), Thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội;
Nguyễn Kim Ngân (2016), Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng dân sự, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội;
Và nhiều công trình khoa học của nhiều tác giả khác. Vì vậy có thể coi
đề tài “Bảo đảm thực hiện quyền công tố và kiểm soát các hoạt động tư pháp
của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông” đã kế thừa, phát triển và là công
trình đầu tiên nghiên cứu về lĩnh vực này tại VKSND tỉnh Đắk Nông.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Hệ thống hoá cơ sở lý luận, pháp lý về bảo đảm thực hiện quyền công
tố và kiểm soát các hoạt động tư pháp.
Đánh giá đúng thực trạng quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện
quyền công tố và kiểm soát các hoạt động tư pháp của VKSND tỉnh Đắk
3
Nông, qua đó chỉ ra những như khó khăn, thách thức đối với việc bảo đảm
thực hiện quyền công tố và kiểm soát các hoạt động tư pháp đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp;
Đưa ra phương hướng, giải pháp bảo đảm thực hiện quyền công tố và
kiểm soát các hoạt động tư pháp của VKSND tỉnh Đắk Nông trong thời gian
tới.
3.2. Nhiệm vụ
Nhằm thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất, Nghiên cứu cơ sở lý luận về bảo đảm thực hiện quyền công tố
và kiểm soát các hoạt động tư pháp đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp;
- Thứ hai, Nghiên cứu phân tích, đánh giá thực trạng bảo đảm thực hiện
quyền công tố và kiểm soát các hoạt động tư pháp của VKSND tỉnh Đắk
Nông;
- Thứ ba, Rút ra khó khăn, thách thức để đề xuất những phương hướng
và giải pháp nhằm bảo đảm hoạt động thực hiện quyền công tố và kiểm soát
các hoạt động tư pháp của VKSND tỉnh Đắk Nông.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung phân tích các cơ sở lý luận và thực tiễn việc bảo
đảm hoạt động thực hiện quyền công tố và kiểm soát các hoạt động tư pháp,
nên đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn
việc bảo đảm thực hiện quyền công tố và kiểm soát các hoạt động tư pháp của
Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông nói riêng và Việt Nam nói chung.
Tác giả xác định phạm vi của đề tài tập trung nghiên cứu giải quyết
những vấn đề pháp lý liên quan đến bảo đảm thực hiện quyền công tố và kiểm
soát các hoạt động tư pháp tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông bởi lẽ
đây là cấp trực tiếp kiểm sát giải quyết phần lớn các vụ, việc theo quy định và
cũng là vấn đề cần phải làm rõ để xác định cơ chế bảo đảm và vì sao cần phải
4
bảo đảm hoạt động đối với ngành kiểm sát về tổ chức và hoạt động theo pháp
luật hiện hành; cơ sở bảo đảm; những thuận lợi và khó khăn, thách thức trong
tổ chức và hoạt động Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông, trên cơ sở đó đề
xuất phương hướng, giải pháp nhằm xây dựng có hiệu quả bảo đảm thực hiện
quyền công tố và kiểm soát các hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát nhân
dân tỉnh Đắk Nông.
5. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận, nền tảng về nhà nước
và pháp luật; các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về tăng cường đấu
tranh phòng, chống tội phạm; về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của
Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Đặc biệt là quan điểm chỉ đạo về cải
cách tư pháp được thể hiện trong Nghị quyết số: 08-NQ/TW ngày
02/01/2002, Nghị quyết số: 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị,
Nghị quyết số: 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị và Kết luận số:
79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị, những quan điểm trên được cụ
thể hóa trong Hiến pháp 2013.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Mác - Lê
Nin, học viên sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống của khoa
học xã hội, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn như phân tích, tổng hợp, thống
kê, so sánh...để triển khai nghiên cứu của mình trong quá trình viết luận văn.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học cấp độ Thạc sỹ một cách
tương đối toàn diện và có hệ thống về thực trạng THQCT và kiểm soát các
hoạt động tư pháp của Viện KSND tỉnh Đắk Nông, qua đó có một số đong1
5
góp sau đây:
- Về lý luận: Hệ thống hóa và góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận về bảo
đảm quyền thực hiện quyền công tố và kiểm soát các hoạt động tư pháp.
- Về thực tiễn: Đánh giá đúng thực trạng bảo đảm thực hiện quyền công
tố và kiểm soát các hoạt động tư pháp tại VKSND tỉnh Đắk Nông; đề xuất
một số giải pháp khả thi nhằm bảo đảm hoạt động thực hiện quyền công tố và
kiểm soát các hoạt động tư pháp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn, gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận, pháp lý về bảo đảm thực hiện quyền công tố
và kiểm soát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 2: Thực trạng bảo đảm thực hiện quyền công tố và kiểm soát
các hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp bảo đảm thực hành quyền công
tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk
6
Nông.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN
CÔNG TỐ VÀ KIỂM SOÁT CÁC HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Bảo đảm thực hiện quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân
1.1.1. Khái niệm thực hiện quyền công tố
1.1.1.1. Khái niệm quyền công tố
Để tìm hiểu quyền công tố là gì, thì trước tiên cần hiểu “Công tố” là gì?
Theo Đại từ điển tiếng Việt, “công” có nghĩa là “thuộc về Nhà nước, tập thể,
trái với tư” [62, tr.453], còn “tố” có nghĩa là “nói về những sai phạm, tội lỗi
của người khác một cách công khai trước người có thẩm quyền hoặc trước
nhiều người” [62, tr.459]; “Công tố” có nghĩa là “điều tra, truy tố, buộc tội kẻ
phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Tòa án” [62, tr.1663].
Ở Việt Nam, thuật ngữ "quyền công tố" chính thức được ghi nhận lần
đầu tiên về mặt hiến định trong Hiến pháp năm 1980 (Điều 138) và sau đó là
Hiến pháp năm 1992 (Điều 137) [19, 20]; ngoài ra, cụm từ này còn được đề
cập trong BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 (Điều 23); Điều 20
BLTTHS năm 2015 [30]; Luật Tổ chức VKSND năm 1981 (Điều 1- 3) [21] ;
Luật tổ chức VKSND năm 1992 (các Điều 15-16) [22]; Luật tổ chức VKSND
năm 2002 (Điều 1, 3, 12, 13,16,17, 19) [23]; Luật tổ chức VKSND năm 2014
(Điều 2, 3) [27]. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có văn bản của Nhà nước ta (từ
UBTV Quốc hội đến VKSNDTối cao) chính thức giải thích nội dung của
quyền công tố.
Quan điểm cho rằng: Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực
hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này
7
thuộc về nhà nước, được nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta
là Viện kiểm sát) để phát hiện tội phạm và truy cứu TNHS đối với người
phạm tội. Để làm được điều này, cơ quan có chức năng THQCT phải có trách
nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm
và người phạm tội. Trên cơ sở đó truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự
buộc tội trước phiên tòa [37, tr.40].
Theo quan điểm này, quyền công tố là quyền buộc tội nhân danh Nhà
nước đối với người phạm tội.
Với nhận thức của mình, tác giả ủng hộ quan điểm này về khái niệm
quyền công tố, bởi các lý do sau đây:
Thứ nhất, tác giả nhận thấy quan điểm này đã khẳng định được QCT là
quyền của Nhà nước, nhân danh Nhà nước để buộc tội đối với người có hành
vi vi phạm mà pháp luật hình sự coi là tội phạm xâm hại trật tự chung của xã
hội và nó chỉ có trong lĩnh vực hình sự.
Thứ hai, quan điểm cũng thừa nhận QCT gắn liền với quyền tài phán của
Tòa án. Đó là quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội ra
tòa và bảo vệ sự buộc tội trước phiên tòa. Tuy nhiên, cũng cần nhận thức
rằng, không có nghĩa cứ phải đưa được người phạm tội ra tòa mới là thực
hành QCT. Trên thực tế, QCT có thể bị triệt tiêu bất cứ lúc nào khi đối tượng
tác động của QCT có đủ căn cứ để triệt tiêu.
Thứ ba, quan điểm cũng thừa nhận quyền công tố chỉ có thể do một cơ
quan thực hiện và độc lập với cơ quan tài phán (ở Việt Nam thực hiện quyền
này là Viện kiểm sát).
Thứ tư, quan điểm này cũng phù hợp với quan điểm của Đảng về xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, phù hợp với tiến trình cải cách
tư pháp, cụ thể là: Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8
khóa VII khẳng định: “Tập trung làm tốt chức năng công tố, bảo đảm mọi
8
hành vi phạm tội đều bị phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời” [11, tr.38];
Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương khóa IX của Đảng
đã chỉ rõ: “Viện kiểm sát tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp” [12, tr.51]; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng đã chỉ rõ: “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều
tra, gắn công tố với hoạt động điều tra” [14]; Đặc biệt, Nghị quyết 49-NQ/TW
của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nhấn mạnh
“Trước mắt, VKSND giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp” [3,tr.6]. Như vậy, chức năng
THQCT từ trước đến nay vẫn luôn được giao cho VKSND thực hiện.
Từ những ý kiến phân tích như trên tác giả đi đến kết luận: Quyền công
tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện các chức năng do Bộ luật tố tụng
hình sự qui định để kiểm sát tính hợp pháp của việc điều tra tội phạm, truy tố
và buộc tội người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Quyền này theo
Hiến pháp 2013 được giao cho Viện kiểm sát nhân dân để phát hiện tội phạm,
truy cứu TNHS đối với người phạm tội ra trước Toà án.
1.1.1.2. Khái niệm thực hiện quyền công tố
Như đã phân tích ở trên, quyền công tố là quyền của Nhà nước truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền công tố thể hiện rõ mối
quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội do chính hành vi phạm tội làm phát
sinh. Để bảo đảm thực hiện quyền công tố trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm, Quốc hội đã ban hành pháp luật, trong đó quy định các quyền năng
pháp lý mà cơ quan có thẩm quyền được áp dụng để truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội. Các quyền năng đó được giao cho cơ quan
nhà nước nào thực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội thì cơ quan đó được coi là thực hiện quyền công tố.
Theo pháp luật nước ta, thuật ngữ “thực hành quyền công tố” lần đầu tiên
9
được quy định trong Hiến pháp năm 1980 khi quy định về chức năng của
Viện kiểm sát nhân dân [19]. Từ đó đến nay, Viện kiểm sát nhân dân tiếp tục
thực hiện chức năng thực hành quyền công tố theo quy định tại Điều 137 Hiến
pháp năm 1992 [20], Điều 107 Hiến pháp năm 2013 [26], Điều 20 BLTTHS
năm 2015 [30]. Như vậy, trong tiến trình cải cách tư pháp, chức năng thực
hành quyền công tố của Viện kiểm sát vẫn được giữ nguyên. Hay nói cách
khác, chủ thể của việc thực hành quyền công tố theo quy định của nước ta là
Viện kiểm sát nhân dân.
Quá trình giải quyết vụ án hình sự phải trải qua nhiều giai đoạn tố tụng
khác nhau, mỗi giai đoạn có tính độc lập tương đối nhưng liên quan chặt chẽ
với nhau. Mỗi giai đoạn thể hiện một nội dung nhất định của hoạt động tố
tụng và giai đoạn tố tụng trước là tiền để cho giai đoạn tố tụng tiếp theo; giai
đoạn tố tụng sau kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động của giai đoạn trước đó
nhằm phát hiện và khắc phục kịp thời những thiếu sót, sai lầm của giai đoạn
trước và tạo thành một quá trình tố tụng thống nhất và hoàn chỉnh. Theo pháp
luật TTHS nước ta, VKS thực hiện các hành vi tố tụng thuộc nội dung của
quyền công tố trong tất cả các giai đoạn tố tụng (từ khởi tố, điều tra, truy tố và
xét xử). Tuỳ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng cụ thể mà việc sử dụng các
quyền năng pháp lý của VKS cũng khác nhau. Như vậy, thực hành quyền
công tố là quá trình hiện thực hoá quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội bằng các quyền năng tương ứng mà Nhà nước trao cho một cơ
quan nhất định.
Từ những nội dung nêu trên có thể hiểu: Thực hiện quyền công tố là
việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung QCT để thực
hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay
từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt
quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
10
1.1.1.3. Khái niệm bảo đảm thực hiện quyền công tố
Theo từ điển Tiếng Việt, bảo đảm là làm cho chắc chắn thực hiện được,
giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết. Công tố là quyền của nhà
nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Thực hiện quyền
công tố là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc
nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người phạm tội trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Bảo đảm về
chính trị, bảo đảm về kinh tế, bảo đảm về pháp luật.
1.1.2. Đối tượng của thực hiện quyền công tố
Với quan điểm coi QCT là đại diện cho Nhà nước để đưa các vụ việc vi
phạm pháp luật hình sự ra trước Tòa án để xét xử nhằm bảo vệ lợi ích Nhà
nước, bảo vệ lợi ích chung, bảo vệ lợi ích cá nhân và bảo vệ trật tự pháp luật
thì đối tượng của quyền công tố là các hành vi vi phạm pháp luật hình sự (tội
phạm).
Với quan điểm cho rằng, QCT là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện
sự buộc tội (thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự) đối với người phạm
tội và bảo vệ sự buộc tội đó thì đối tượng của QCT là tội phạm và người
phạm tội.
Từ quan điểm nhận thức về quyền công tố đã trình bày ở trên, tôi thống
nhất với quan điểm cho rằng đối tượng của quyền công tố là tội phạm và
người phạm tội.
Tội phạm và người phạm tội cũng chính là đối tượng của hoạt động
THQCT.
1.1.3. Nội dung của thực hiện quyền công tố
1.1.3.1. Nội dung của quyền công tố
Tương tự như đối tượng của QCT, nội dung QCT hiện nay cũng có
nhiều quan điểm khác nhau, nhưng xuất phát từ quan điểm về bản chất của
11
QCT là sự buộc tội nhân danh Nhà nước, đối tượng của QCT là tội phạm và
người phạm tội, tôi đồng tình với quan điểm cho rằng “nội dung của quyền
công tố chính là sự buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi tội phạm”
[41,tr.40]. Còn việc tiến hành những biện pháp gì và cơ quan Nhà nước nào
được giao thực hiện các biện pháp ấy để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội lại là việc thực hành quyền công tố.
1.1.3.2. Nội dung của thực hiện quyền công tố
Hiện nay vẫn còn một số quan điểm chưa thống nhất về nội dung
THQCT. Có quan điểm cho rằng, nếu coi khởi tố vụ án hoặc bắt, tạm giam bị
can là nội dung THQCT thì cả Cơ quan điều tra và Toà án cũng là cơ quan
THQCT. Tôi cho rằng nhận thức này là không chính xác vì không phải cứ
khởi tố vụ án hoặc bắt tạm giam bị can, bị cáo đều là THQCT và cũng không
phải chỉ có truy tố và buộc tội mới là THQCT. Nội dung của THQCT là việc
sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý để thực hiện việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Vì vậy, chỉ có cơ quan nào được phép
sử dụng tất cả các quyền năng pháp lý này để truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội trong suốt quá trình TTHS thì mới là cơ quan
THQCT. Ở nước ta chỉ có VKS mới là cơ quan THQCT.
Trên cơ sở các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân, tôi cho rằng những quyền năng pháp lý mà Viện
kiểm sát tự quyết định và liên quan đến việc cáo buộc bị can, bị cáo là những
quyền năng thuộc nội dung thực hành quyền công tố.
1.1.4. Phạm vi của thực hiện quyền công tố
Có quan điểm cho rằng “phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm
được thực hiện và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng
12
nghị” [41, tr.42].
Trên cơ sở quan điểm này, phạm vi QCT bắt đầu từ khi tội phạm được
thực hiện và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo,
kháng nghị, tức là QCT kết thúc khi việc buộc tội không còn nữa.
Tóm lại, chỉ khi nào và ở đâu có việc thực hiện tội phạm, thì khi ấy và ở
đó mới có thể nói đến sự buộc tội nhân danh Nhà nước, chức năng quan trọng
của quyền công tố và như vậy, chức năng buộc tội là thuộc tính và là bộ phận
cấu thành chủ yếu tạo nên nội dung cơ bản của quyền công tố với tính chất là
một chế định pháp lý độc lập qui định trong TTHS. Nói một cách khác, quyền
công tố chỉ tồn tại trong hoạt động TTHS.
Toàn bộ phạm vi (giới hạn) của quyền công tố trong luật TTHS diễn ra
trong ba giai đoạn ứng với ba chức năng mà VKSND thực hiện, đó là:
Giai đoạn điều tra: VKS kiểm tra tính hợp pháp của việc điều tra;
Giai đoạn truy tố: VKS quyết định truy tố bị can và ban hành Cáo trạng
gửi cùng với hồ sơ đến Tòa án, nếu như VKS xét thấy không có các căn cứ để
trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án theo luật
định;
Giai đoạn xét xử: VKS buộc tội bị cáo tại phiên tòa xét xử và thực hiện
các hành vi tố tụng khác do luật định để góp phần đạt được mục đích cuối
cùng là sau khi kết thúc phiên tòa, thì Tòa án tuyên phạt một bản án (quyết
định) có hiệu lực pháp luật, thực sự công minh, có căn cứ, đúng pháp luật.
Ba chức năng nêu trên đây của QCT trong luật TTHS mà VKSND thực
hiện luôn luôn có mối quan hệ chặt chẽ và hữu cơ, thống nhất và biện chứng
với nhau. Vì vậy, nếu VKSND thực hiện không tốt bất kỳ một chức năng nào
sẽ dẫn đến tình trạng không đồng bộ, thiếu sự nhất quán do đó sẽ không đạt
được hiệu quả và mục đích cao cả của việc thực hiện quyền công tố.
Về nguyên tắc thì phạm vi của quyền công tố và thực hành quyền công
13
tố là đồng nhất với nhau, tức là đều xuất hiện từ khi có tội phạm xảy ra cho
đến khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, không phải tội
phạm nào xảy ra cũng đều được phát hiện kịp thời và tiến hành khởi tố
(những trường hợp tội phạm ẩn) hoặc khi đã phát hiện tội phạm xảy ra nhưng
cũng cần có những hoạt động xác minh, thu thập tài liệu trước khi khởi tố (các
hoạt động tiền tố tụng). Mặt khác, không phải mọi trường hợp việc thực hành
quyền công tố đã được phát động đều được kết thúc bằng một bản án có hiệu
lực pháp luật mà có thể kết thúc sớm hơn khi có một trong các căn cứ được
quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Như vậy, trong thực tế thì phạm vi
thực hành quyền công tố thường hẹp hơn phạm vi của quyền công tố.
Với quy định trên, thì phạm vi của THQCT bắt đầu từ khi giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, nghĩa là có hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ
làm rõ sự thật khách quan của vụ việc có tính chất hình sự xảy ra để xác định
có hành vi phạm tội hay không, ai là người đã gây nên tội phạm, thì hoạt động
công tố tiến hành trên cơ sở kết quả điều tra để quyết định việc buộc tội, gỡ
tội (có KTVA hình sự, KTBC hay không). Tác động của kết quả điều tra đến
hoạt động công tố không chỉ giới hạn ở số lượng, chất lượng chứng cứ mà còn
nhận định, đánh giá tội phạm, áp dụng pháp luật của CQĐT. Những sai lầm
thiếu sót trong hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ để tiến hành khởi tố ở
giai đoạn này tất yếu sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng THQCT như việc
bắt, tạm giam, truy tố xét xử oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm. Do vậy khi
nào và ở đâu, CQĐT bắt đầu xác minh, điều tra các vụ việc có tính chất hình
sự thì khi đó VKS có trách nhiệm THQCT để truy cứu TNHS có căn cứ và
hợp pháp.
Tóm lại, phạm vi thực hiện quyền công tố là hoạt động của VKSND
trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người
14
phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án
hình sự [27].
1.2. Kiểm soát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
1.2.1. Khái niệm kiểm soát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát
nhân dân và bảo đảm kiểm soát hoạt động tư pháp
Hoạt động tư pháp là hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án do
các cơ quan Điều tra, viện kiểm sát, tòa án thực hiện trong khuôn khổ pháp
luật tố tụng quy định nhằm bảo vệ các quyền lợi của nhà nước, của các tổ
chức xã hội và của công dân.
VKSND không chỉ là cơ quan thực hiện chức năng công tố mà còn là cơ
quan kiểm soát hoạt động tư pháp. Các hoạt động tư pháp là đối tượng của
hoạt động kiểm sát của VKSND bao gồm hoạt động tố tụng hình sự, tố tụng
dân sự, tố tụng hành chính và hoạt động thi hành án hình sự, dân sự, hành
chính. Hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND được thực hiện
ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, thi
hành án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án dân sự,
thi hành án hành chính, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư
pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật [26, 27].
1.2.2. Đối tượng của kiểm soát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát
nhân dân
Hoạt động tư pháp là hoạt động do các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ
quan thi hành án thực hiện trên cơ sở quy định của pháp luật. Đó là hoạt động
phát hiện tội phạm, điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ về các vụ án hình sự;
hoạt động của Viện kiểm sát trong việc kiểm sát khởi tố vụ án hình sự; khởi
15
tố bị can; kiểm sát điều tra; kiểm sát giam giữ, cải tạo; kiểm sát xét xử; kiểm
sát thi hành án; trong qúa trình giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao
động, hành chính Viện kiểm sát tham gia các phiên tòa xét xử khi các tranh
chấp liên quan tới lợi ích của Nhà nước, của xã hội, của người chưa thành
niên và những người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần không tự thực
hiện được các quyền năng tố tụng của mình cũng như không có khả năng tự
bảo vệ được các quyền và lợi ích hợp pháp mà họ được hưởng; đó là hoạt
động của Tòa án khi xét xử hoặc tham gia giải quyết các tranh chấp (thông
qua thủ tục thương lượng, hòa giải) liên quan tới hình sự, dân sự, kinh tế, lao
động, hành chính và cuối cùng hoạt động tư pháp bao gồm cả hoạt động của
Cơ quan thi hành án (Cơ quan chuyên trách), một số cơ quan khác được giao
nhiệm vụ thi hành án (Như UBND xã, phường; cơ quan Thừa phát lại) trong
việc thi hành các quyết định và bản án đó có hiệu lực pháp luật.
Đối tượng của kiểm soát các hoạt động tư pháp chính là các hoạt động
tư pháp, việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, thi hành án
và các đối tượng tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án và các
tranh chấp khác.
1.2.3. Mục đích của kiểm soát hoạt động tư pháp
Hoạt động tư pháp hướng tới mục tiêu bảo đảm pháp luật được thực
hiện nghiêm minh, thống nhất, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
trong đó có cả những người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự cũng như
quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội được bảo đảm một cách tốt
nhất, không bị vi phạm.
Mục đích của kiểm sát các hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự là
nhằm bảo đảm các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đúng pháp
luật, đúng người, đúng tội, không để xảy ra việc oan, sai hay bỏ lọt tội phạm.
16
1.2.4. Phạm vi của kiểm soát các hoạt động tư pháp
Các hoạt động tư pháp rất rộng, do nhiều cơ quan tiến hành trong một
thời gian dài, ở nhiều địa phương và đặc biệt liên quan tới quyền và lợi ích
hợp pháp, thậm chí sinh mạng chính trị, mạng sống của nhiều cá nhân, pháp
nhân. Chính vì vậy hoạt động tư pháp muốn có hiệu quả, các tranh chấp muốn
được giải quyết nhanh chóng, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã
hội, của cá nhân và pháp nhân muốn được bảo đảm một cách tốt nhất thì cần
thiết phải có một cơ chế giám sát từ bên ngoài các cơ quan tư pháp. Trong
thực tiễn tồn tại và phát triển, cũng như các cơ quan nhà nước khác, trong nội
bộ Cơ quan điều tra, Tòa án, Cơ quan thi hành án đều có bộ phận thực hiện sự
giám sát, kiểm tra nội bộ. Nhưng cũng như ở các cơ quan nhà nước khác, sự
giám sát và kiểm tra nội bộ đó vẫn mang tính chủ quan và nó sẽ không thể đạt
hiệu quả cao khi không có một cơ quan chuyên trách giám sát từ bên ngoài và
ngay cả bộ phận thực hiện công việc giám sát, kiểm tra nội bộ cũng là đối
tượng của hoạt động kiểm tra, giám sát từ bên ngoài. Ở nước ta, chức năng
kiểm tra, giám sát từ bên ngoài các cơ quan tư pháp thuộc về ngành kiểm sát.
Buộc tội đúng đối tượng, đúng tội danh, đúng và đầy đủ các hành vi vi
phạm của đối tượng là yêu cầu đối với Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự và
chỉ thực hiện được khi hoạt động tư pháp của các cơ quan tiến hành tố tụng
được thực hiện đúng pháp luật và có hiệu quả.
Phạm vi không gian của kiểm soát các hoạt động tư pháp chỉ giới hạn
trong phạm vi hoạt động của các cơ quan tư pháp. Đó là việc chấp hành pháp
luật trong suốt quá trình giải quyết các vụ án hình sự và giải quyết các tranh
chấp khác.
Phạm vi về thời gian của kiểm soát các hoạt động tư pháp là từ khi cơ
quan có thẩm quyền khởi tố vụ án và đương sự khởi kiện cho đến khi thi hành
17
xong bản án và các quyết định khác của Toà án.
1.3. Bảo đảm thực hiện quyền công tố và kiểm soát các hoạt động tư
pháp của Viện kiểm sát nhân dân
1.3.1. Khái niệm bảo đảm thực hiện quyền công tố và kiểm soát các
hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
Bảo đảm THQCT của Viện kiểm sát chính là bảo đảm việc THQCT đáp
ứng các yêu cầu sau:
Thứ nhất, mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện,
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người
phạm tội.
Thứ hai, không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị
hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật [29, tr.8].
Bảo đảm của Viện kiểm sát nhân dân chính là bảo đảm việc kiểm soát
hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát đáp ứng các yêu cầu sau:
Thứ nhất, việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố; việc giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án;
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư
pháp khác được thực hiện đúng quy định pháp luật.
Thứ hai, việc bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù, chế độ tạm
giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo đúng quy
định pháp luật; quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của
người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, người chấp hành án phạt tù không bị luật hạn
chế phải được tôn trọng và bảo vệ.
Thứ ba, bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải
18
được thi hành nghiêm chỉnh.
Thứ tư, mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải được phát
hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh [29, tr.11].
1.3.2. Nội dung bảo đảm thực hiện quyền công tố và kiểm soát các
hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
1.3.2.1. Bảo đảm nội dung thực hiện quyền công tố
Theo Điều 6 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định Viện kiểm sát
nhân dân thực hiện chức năng THQCT bằng các nội dung sau [27, tr.13]:
THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố;
THQCT trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự;
THQCT trong giai đoạn truy tố;
THQCT trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự;
THQCT trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự. Căn cứ Điều 3
Luật tổ chức VKSND 2014 khi thực hiện chức năng THQCT, VKSND có
nhiệm vụ, quyền hạn [27, tr.9-10]:
Thứ nhất, yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi
tố vụ án trái pháp luật, phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can
của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra; trực tiếp khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong những trường hợp do Bộ
luật tố tụng hình sự quy định.
Thứ hai, quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện
pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra, truy tố
theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Thứ ba, hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật khác trong việc giải
19
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố,
điều tra của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra.
Thứ tư, khi cần thiết đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra,
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện.
Thứ năm, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu
để làm rõ tội phạm, người phạm tội.
Thứ sáu, trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố; tiến hành một số hoạt động điều tra để làm rõ căn cứ quyết định việc buộc
tội đối với người phạm tội.
Thứ bảy, điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, các tội
phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định
của luật.
Thứ tám, quyết định việc áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn điều
tra, truy tố.
Thứ chín, quyết định việc truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa.
Thứ mười, kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp
Viện kiểm sát nhân dân phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội.
1.3.2.2. Nội dung bảo đảm kiểm soát các hoạt động tư pháp của Viện
kiểm sát nhân dân
Điều 6 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, quy định Viện
kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp bằng các
nội dung sau [27, tr.14-15]:
Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố;
Kiểm sát việc khởi tố, điều tra vụ án hình sự;
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng trong giai
20
đoạn truy tố;
Kiểm sát việc xét xử vụ án hình sự;
Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự;
Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo
quy định của pháp luật;
Kiểm sát việc thi hành án dân sự, thi hành án hành chính
Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp của
các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền
Căn cứ Điều 4 Luật tổ chức VKSND 2014 [27, tr.10-12] khi thực hiện
chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, VKSND có nhiệm vụ, quyền hạn:
Thứ nhất, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tư
pháp theo đúng quy định pháp luật; tự kiểm tra việc tiến hành hoạt động tư
pháp thuộc thẩm quyền và thông báo kết quả cho VKSND; cung cấp hồ sơ, tài
liệu để VKSND kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định trong hoạt
động tư pháp.
Thứ hai, trực tiếp kiểm sát; xác minh, thu thập tài liệu để làm rõ vi
phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp.
Thứ ba, xử lý vi phạm; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền khắc phục, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật trong hoạt động
tư pháp; kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng
ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm.
Thứ tư, kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật;
kiến nghị hành vi, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kháng nghị
hành vi, quyết định có vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền
21
khác trong hoạt động tư pháp.
Thứ năm, kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư
pháp; giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền.
Thứ sáu, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát hoạt động
tư pháp theo quy định pháp luật.
1.3.3. Mối quan hệ giữa bảo đảm thực hiện quyền công tố với kiểm
soát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức VKSND năm
2014, hệ thống tổ chức, hoạt động, bộ máy, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn
của VKSND được quy định một cách cụ thể. Điều 107, Hiến pháp 2013 quy
định Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp [26].
Hai chức năng của Viện kiểm sát có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
chức năng kiểm soát các hoạt động tư pháp luôn là tiền đề cho chức năng thực
hiện quyền công tố, đó là mối liên hệ hữu cơ giữa hai chức năng, đơn cử hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm giam, tạm giữ, kiểm sát điều
tra, xét xử làm cơ sở cho các quyết định về thực hành quyền công tố của Viện
kiểm sát chuẩn xác hơn. Đặc biệt, quá trình thực hiện hoạt động tư pháp, các
cơ quan tiến hành tố tụng còn được pháp luật trao thẩm quyền áp dụng các
biện pháp cưỡng chế tố tụng (bắt, tạm giữ, tạm giam…). Những sai sót, vi
phạm trong hoạt động tư pháp luôn có khả năng dẫn đến những thiệt hại
không thể bù đắp được. Do vậy, hoạt động tư pháp phải chịu sự kiểm tra,
giám sát của nhiều cơ chế khác nhau bao gồm cả cơ chế tự kiểm tra bên trong
hệ thống và cơ chế giám sát bên ngoài hệ thống, cơ chế giám sát trực tiếp và
gián tiếp. Những cơ chế này phải thường xuyên, có tính chuyên nghiệp cao.
Thực tiễn kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát thời gian qua đạt
được những kết quả rất quan trọng, hàng năm Viện kiểm sát các cấp đã phát
22
hiện, ban hành hàng nghìn kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu các cơ quan tư
pháp khắc phục vi phạm. Thực tiễn đó đã kiểm nghiệm và chứng minh trong
điều kiện cụ thể của Nhà nước ta,Viện kiểm sát với chức năng kiểm sát hoạt
động tư pháp là cơ chế giám sát tư pháp hữu hiệu và bổ trợ hiệu quả nhất cho
chức năng thực hành quyền công tố.
1.4. Các yếu tố tác động tới bảo đảm thực hiện quyền công tố và
kiểm soát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
1.4.1. Mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật
Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay đã được Đảng ta
đề ra trong Nghị quyết số 48 của Bộ Chính trị năm 2005. Vì vậy, việc xây
dựng, bổ sung và sửa đổi luật đang được Nhà nước ta chú trọng. Song, thực tế
hiện nay hệ thống pháp luật hình sự của nước ta chưa được hoàn thiện nên dễ
dẫn đến khởi tố, truy tố, xét xử oan, sai, hoặc bỏ lọt tội phạm…, nếu xảy ra
sai sót sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường, có khi phải trả giá bằng quyền
lợi chính trị, sinh mạng con người. Tuy nhiên, pháp luật không thể một sớm
một chiều hoàn thiện đầy đủ, chính xác những mối quan hệ phát sinh trong xã
hội cần được điều chỉnh. Bởi hệ thống pháp luật không đầy đủ, đồng bộ,
chồng chéo, khó hiểu sẽ dẫn đến mỗi nơi áp dụng một kiểu, ADPL sẽ không
được thống nhất, do đó nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN khó có thể thành
công. Hơn nữa, hiện nay Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực thi hành đã sửa đổi,
bổ sung BLHS và Bộ luật TTHS cho phù hợp với những quy định mới bổ
sung để bảo vệ quyền con người, quyền công dân “Mọi người có quyền sống.
Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng
trái luật”. Điều 19 Hiến pháp quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm;
không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào
khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm” và Điều
23
20 quy định: “ Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được
chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật”[26]. Và các nguyên tắc như: Nguyên tắc suy đoán vô tội,
nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật…khi hệ thống pháp luật mà còn thiếu
các quy định để điều chỉnh các quan hệ mới phát sinh, kết quả là những quyền
và lợi ích của người dân sẽ không được bảo vệ kịp thời, dẫn đến khó hoàn
thành tốt được nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao cho đó là xây dựng một
Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
1.4.2. Ý thức chính trị, đạo đức và vốn sống của Kiểm sát viên
Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để
thực hiện chức năng thực hiện quyền công tố, kiểm soát hoạt động tư pháp.
Lập trường tư tưởng chính trị vững vàng của KSV sẽ là tiền đề vững
chắc bảo đảm cho hoạt động thực hành quyền công tố đúng với đường lối của
Đảng và pháp luật của Nhà nước. Vai trò ý thức chính trị của KSV đặc biệt
phát huy khi phải áp dụng pháp luật trong điều kiện kinh tế thị trường hiện
nay với những mặt trái của nó. Chính ý thức chính trị của mỗi KSV là nhân tố
thường trực nhắc nhở khi tiến hành các hoạt động áp dụng pháp luật. Chính vì
vậy, một trong những tiêu chuẩn quan trọng trước tiên để xem xét bổ nhiện
KSV theo Điều 75 Luật tổ chức VKSND 2014 là: “ Là công dân Việt Nam
trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, bản lĩnh chính trị vững
vàng, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa” [27, tr.73].
Đạo đức cách mạng là cơ sở quan trọng tạo nên nhân cách KSV và xác
lập vị trí của KSV trong xã hội. Chủ tích Hồ Chí Minh đã từng xem đạo đức
cách mạng là cái gốc của người cách mạng. Người viết: “Người cán bộ phải
có đạo đức cách mạng, không có đạo đức cách mạng thì có tài giỏi đến mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân” [17]. Đạo đức, phẩm chất của cán bộ,
24
KSV bao gồm những đức tính: trung thực, thẳng thắn, long nhân ái, sự dũng
cảm, tính công bằng, tinh thần trách nhiệm, sự tự tin, dám nghĩ, dám làm, dám
chịu trách nhiệm... ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động thực hành quyền công tố.
1.4.3. Tác động từ công luận và dư luận xã hội
Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy, quá trình giải quyết vụ án là
quá trình mà có thể báo chí, truyền thông sẽ đưa tin về vụ án, trong đó có
những bài có tính chất đưa tin, nhưng cũng có những bài bình luận về vụ án.
Đây là một trong những biểu hiện dân chủ, công khai trong đời sống chính trị,
xã hội ở nước ta. Tuy nhiên, những thông tin này cũng có hai mặt tích cực và
tiêu cực ảnh hưởng đến bảo đảm THQCT và kiểm soát các hoạt động tư pháp
của Viện KSND nói chung và những người tiến hành tố tụng nói riêng. KSV
là người trực tiếp THQT trong XXST án hình sự, KSV cũng chịu những áp
lực từ phía dư luận này; do đó KSV phải hết sức bình tĩnh, cầu thị nghiên cứu
các thông tin này và có biện pháp xử lý.
Xét về mặt ảnh hưởng tích cực, thì đây cũng chính là một trong những
nguồn tin quan trọng giúp cho KSV có những tư liệu để xem xét, đánh giá các
tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện hơn. Mặt khác, khi chú ý
nghiên cứu các thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, KSV còn
cần phải tổng hợp, đối chiếu, so sánh với các tình tiết của vụ án để xem xét
thông tin đó phản ánh như thế nào, có điểm nào đúng, điểm nào phản ánh sai,
điểm nào mới mà hồ sơ chưa phản ánh; từ đó KSV lưu ý khi nghiên cứu hồ sơ
vụ án. Thông tin đó không phải chỉ là của phóng viên mà có thể, đây là ý kiến
của bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Vì vậy, đòi hỏi KSV phải chú ý nghiên cứu,
xem xét xử lý cho phù hợp tại phiên tòa xét xử được chính xác, đúng pháp
luật và được dư luận nhân dân đồng tình ủng hộ.
Ngược lại, nếu KSV không chú ý nghiên cứu đến các thông tin trên báo
25
chí, truyền thông về vụ án mà mình thụ lý, thì khi ra phiên tòa sẽ khó có thể
chủ động được để tranh luận với bị cáo, người bào chữa; do đó sẽ dẫn đến
việc THQCT trong xét xử không chính xác, đúng pháp luật, thấu tình, đạt lý,
không được những người tham dự phiên tòa và nhân dân ủng hộ; thậm chí dễ
dẫn đến THQCT trong xét xử không đúng, làm oan người vô tội.
Về mặt ảnh hưởng tiêu cực, những dư luận của các báo chí, các phương
tiện truyền thông cũng là một trong những áp lực ảnh hưởng lớn đến tâm lý
của KSV, từ đó ảnh hưởng đến bảo đảm THQCT của KSV trong xét xử các
vụ án hình sự nói riêng, của những người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành
tố tụng nói chung; nó cũng tạo ra tâm lý đối phó, tâm lý làm theo sự định
hướng của dư luận truyền thông…do đó nó ảnh hưởng không nhỏ đến quyết
định ADPL của KSV trong XXST án hình sự. Điều đó sẽ ảnh hưởng đến việc
đánh giá chứng cứ vụ án thiếu chính xác, khách quan, dẫn đến quyết định
THQCT trong không được chính xác, đúng pháp luật. Vì vậy, nếu KSV
không có bản lĩnh vững vàng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ chắc chắn sẽ dễ
dẫn đến oan, sai, bỏ lọt tội phạm bởi dư luận của báo chí, truyền thông.
1.4.4. Sự giám sát của các cơ quan dân cử, các thiết chế xã hội
Theo Kết luận số 01-KL/TW, ngày 04/4/2016 của Bộ Chính trị về việc
tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020: Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền con
người, quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền giám sát, kiểm tra hoạt động
của các cơ quan nhà nước phù hợp thực tiễn phát triển đất nước; mở rộng dân
chủ trực tiếp, tạo điều kiện để nhân dân tham gia vào công việc của Nhà
nước; tăng cường sự gắn kết giữa giám sát của Quốc hội với kiểm tra, giám
sát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên; bảo đảm quyền
26
giám sát của nhân dân [2].
Nghị quyết số 08 năm 2002 của Bộ Chính trị đã nhấn mạnh “Tăng cường
sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, của các tổ chức xã hội và của
công dân đối với công tác tư pháp...” [1,tr.7], điều đó chứng minh rằng Đảng
ta rất chú trọng và đặc biệt quan tâm, nhìn nhận chính xác tầm quan trọng của
việc phải tăng cường giám sát đối với các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm bảo
đảm sự độc lập trong xét xử, nhưng cũng tránh trường hợp lạm dụng quyền
lực của Nhà nước phương hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Cụ
thể sự giám sát đó thể hiện ở những cơ quan sau:
Để tránh việc lạm dụng quyền lực của người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, Nhà nước ta một mặt có những quy định và bảo đảm những điều kiện
tối đa cho sự độc lập, khách quan của các cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng, mặt khác Nhà nước còn có cơ chế hữu hiệu để kiểm tra tính
hợp hiến, hợp pháp trong hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến
hành tố tụng, đó chính là cơ chế giám sát và xử lý việc lạm quyền của họ
trong khi thi hành công vụ. Một trong những cơ chế kiểm tra, giám sát hữu
hiệu hoạt động tư pháp đó là sự giám sát từ phía cơ quan lập pháp (Quốc hội),
cơ quan đại diện nhân dân (HĐND các cấp), các tổ chức xã hội khác: Mặt trận
tổ quốc Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ…
Với sự giám sát của các cơ quan dân cử, sẽ giúp cho VKS thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình một cách có trách nhiệm, đúng pháp luật; qua đó
phát hiện sớm, kịp thời những việc làm sai trái của cán bộ, KSV ngành KSND
kịp thời phán ánh, chấn chỉnh nhằm bảo đảm việc tuân thủ Hiến pháp và pháp
luật ở địa phương nói riêng, trên toàn nước nói chung, ngăn chặn được tình
trạng lạm quyền, độc quyền của VKS.
Trong giai đoạn KSĐT, để bảo đảm việc khởi tố hành vi phạm tội của cá
nhân nào đó được khách quan, đúng pháp luật, không những phải có cơ quan
27
có chuyên môn, người có chuyên môn nghiệp vụ am hiểu pháp luật thực thi
quyền này, mà Nhà nước còn quy định cụ thể vai trò của các cơ quan giám sát
hoạt động của VKS là Nhân dân trong việc giám sát các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra.
Nhân dân là người phát hiện, tố giác tội phạm, đồng thời cũng là ngừơi
giám sát hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, thi hành án của CQĐT, VKSND.
Vì vậy, mọi hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong giai đoạn này
đều có sự giám sát của Nhân dân. Do đó, KSV cần lắng nghe ý kiến của Nhân
dân khi nhận được tin báo tội phạm, cũng như cần xem xét kỹ những ý kiến
trình bày của Nhân dân để xác định chính xác người có hành vi tham nhũng
có phạm tội hay không. Do vậy, sự giám sát của Nhân dân có vai trò quan
trọng giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nói
chung và KSV thực hiện hoạt động THQCT, KSĐT các vụ án tham nhũng
được chính xác, đúng pháp luật.
1.4.5. Sự tác động của người có chức vụ, quyền hạn và những người
thân quen
KSV ngoài quan hệ công tác còn có các mối quan hệ xã hội bình thường
như những người bình thường khác như các quan hệ gia đình, bạn bè, họ
hàng, làng xóm... Tư tưởng nhờ vả vào người thân, hàng xóm láng giềng của
mình quan tâm giải quyết những vụ án có lợi cho mình vẫn còn tồn tại khá
phổ biến, đặc biệt là ở nông thôn nước ta hiện nay. Tư tưởng “một người làm
quan cả họ được nhờ”, “nhất thân, nhì quen” đã ăn sâu vào trong suy nghĩ,
hành động của đá số người dân Việt Nam và đã ảnh hưởng không tốt đến hoạt
động thực hành quyền công tố của KSV. Nếu KSV không vững vàng; không
kiên quyết bảo vệ pháp luật và sự công bằng; không thực hiện được tư tưởng
“công pháp bất vị thân” thì chắc chắn các quyết định áp dụng pháp luật của
28
KSV khó đạt được các chuẩn mực cần thiết.
Ngoài những người thân, bạn bè, làng xóm ra thì KSV cũng khó tránh
khỏi sự nhờ vả của những người có chức, có quyền có mối quan hệ công tác
và các đơn vị khác….Do đó, cần phải có hình thức bổ nhiệm KSV không có
thời hạn (nghĩa là không phụ thuộc vào chính quyền địa phương, cấp ủy địa
phương); đồng thời có qui định xử lý kỷ luật nghiêm khắc nếu KSV vi phạm;
có như vậy thì mới bảo đảm cho việc thực hiện đúng chức năng, nhiệm của
Ngành và đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới - xây dựng Nhà nước Pháp
29
quyền XHCN Việt Nam.
Tiểu kết Chương 1
Trong nội dung Chương 1, tác giả phân tích những vấn đề lý luận cơ
bản, đưa ra quan điểm về “quyền công tố”, “thực hiện quyền công tố”, “kiểm
soát các hoạt động tư pháp” và bảo đảm THQCT và kiểm soát HĐTP của
VKSND. Trên cơ sở nhận thức về THQCT và kiểm soát các hoạt động tư
pháp, tác giả làm rõ khái niệm, đối tượng, nội dung, phạm vi THQCT và kiểm
soát các hoạt động tư pháp.
Bên cạnh đó, Chương 1 cũng xác định được những yếu tố ảnh hưởng tới
quá trình THQCT và kiểm soát các hoạt động tư pháp, trong đó đáng chú ý là
những ảnh hưởng của trình độ, năng lực, đạo đức của KSV, của báo chí, của
nhân dân …Tuy nhiên, điều ảnh hưởng quan trọng nhất, quyết định đến bảo
đảm THQCT và kiểm soát các HĐTP của VKSND, đó chính là yếu tố con
người - trình độ, năng lực, đạo đức của KSV.
Khung lý luận của Chương 1 là cơ sở cho việc phân tích, đánh giá thực
trạng bảo đảm THQCT và kiểm soát HĐTP của VKSND tỉnh Đắk Nông theo
30
quy định của pháp luật trong Chương 2.
Chương 2
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN CÔNG TỐ VÀ
KIỂM SOÁT CÁC HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG
2.1. Khái quát về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk
Nông trong việc thực hiện quyền công tố và kiểm soát các hoạt động tư
pháp
2.1.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội, tình hình vi phạm, tội phạm trên địa
bàn tỉnh Đắk Nông và công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
Đắk Nông là tỉnh nằm ở phía Tây - Nam của vùng Tây Nguyên (trọn
trong khối cao nguyên cổ Mơ Nông), có toạ độ địa lí từ 110 45’ đến 120 50’
vĩ độ Bắc và 1070 10’ đến 1080 10’ kinh độ Đông. Phía Bắc và Đông Bắc
giáp tỉnh Đắk Lắk. Phía Đông và Đông Nam giáp tỉnh Lâm Đồng. Phía Nam
và Tây Nam giáp tỉnh Bình Phước. Phía Tây Nam giáp với tỉnh Munđukiri
của Vương quốc Campuchia với trên 141 km đường biên giới. Có diện tích tự
nhiên là 6.509,27 km2 (650.927 ha) gồm 07 huyện và 01 thành phố (thành phố
Gia Nghĩa là 28.410 ha; huyện Đắk Glong là 144.810ha; huyện Cư Jút là
72.080ha; huyện Đắk Mil là 68.160ha; huyện Krông Nô là 81.350ha; huyện
Đắk Song là 80.650ha; huyện Đắk R’Lấp là 63.580ha; huyện Tuy Đức
111.890ha); với 71 xã, phường, thị trấn (5 phường, 5 thị trấn, 61 xã), trong đó
có 07 xã vùng biên giới. Các đường giao thông quan trọng như đường quốc lộ
14, quốc lộ 28, kết nối giữa vùng Tây Nguyên và vùng kinh tế trọng điểm
Đông Nam Bộ. Dân số có khoảng 710.600 người, chiếm 0,64% dân số của cả
nước; có 40 dân tộc cùng sinh sống. Mật độ dân số bình quân toàn tỉnh là 98
người/km2 [61].
Về phát triển kinh tế-xã hội: Từ khi thành lập tỉnh đến nay
31
(01/01/2004), kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk Nông có bước phát triển khá. Tốc
độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân đạt 7,22%. Trong đó, khu vực công
nghiệp- xây dựng tăng 19,84%; khu vực dịch vụ tăng 4,36%; khu vực nông
lâm nghiệp, thủy sản tăng 4,9%. Thu ngân sách trên địa bàn tỉnh năm 2021
ước đạt trên 2.750 tỷ đồng, GDP bình quân đầu người 50,62 triệu
đồng/người/năm. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 16.000 tỉ đồng; tỷ lệ hộ
nghèo giảm trên 2%; tăng thêm 3 xã đạt nông thôn mới (lũy kế 32 xã); các
thành phần kinh tế có bước phát triển mạnh mẽ [61].
Giáo dục và đào tạo đạt được nhiều thành tựu quan trọng, khoa học,
công nghệ, bảo vệ môi trường được quan tâm. Công tác chăm sóc sức khỏe
nhân dân (đạt 8,1 bác sỹ/vạn dân; tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt
91%); dân số kế hoạch hóa gia đình có bước tiến bộ, thực hiện có hiệu quả
các chính sách an sinh xã hội, giải quyết việc làm (11,11% người lao động
trong độ tuổi lao động tham gia bảo hiểm xã hội), tỷ lệ hộ nghèo giảm theo
từng năm, đời sống nhân dân được cải thiện. Tình hình an ninh chính trị và
trật tự an toàn xã hội cơ bản ổn định, giữ vững, cải cách tư pháp đạt nhiều
hiệu quả tích cực...
Trong những năm gần đây tình hình kinh tế Đắk Nông phát triển đáng
kể nhất là Khu Công nghiệp Nhân Cơ như: Nhà máy chế biến quặng
ALUMIN; Khu Công nghiệp Tâm Thắng, Thuận An đi vào hoạt động. Đã thu
hút và tạo việc làm cho nhiều lao động trong và ngoài tỉnh. Do đó, cùng với
sự phát triển kinh tế, tình hình tội phạm cũng có những diễn biến rất phức tạp
với phương thức, thủ đoạn phạm tội ngày một tinh vi, xảo quyệt. Đối tượng
phạm tội có tuổi đời trẻ, số vụ phạm tội có đông người tham gia ngày một
tăng và tăng cả về số lượng. Đa số người dân tỉnh Đắk Nông làm nghề nông
nghiệp (trồng và chăm sóc cây công nghiệp, lâm nghiệp); trình độ văn hóa,
dân trí còn thấp, phong tục tập quán có nơi còn lạc hậu, đặc biệt là các huyện
32
vùng sâu, vùng xa trình độ văn hoá phần lớn mới phổ cập tiểu học, số dân mù
chữ và tái mù chữ còn nhiều, địa hình đối núi hiểm trở, dân cư thưa thớt, tình
trạng di dân tự do của đồng bào dân tộc phía bắc đến sinh sống ngày càng
nhiều; giao thông không thuận lợi chỉ có duy nhất bằng đường bộ. Vì vậy,
trình độ hiểu biết và nhận thức về pháp luật còn rất hạn chế. Đây là một trong
những nguyên nhân, điều kiện dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật và tội
phạm.
Với tình hình trên các cơ quan bảo vệ pháp luật ở tỉnh Đắk Nông đã ban
hành nhiều văn bản, kế hoạch, biện pháp để huy động các lực lượng đấu tranh
phòng, chống tội phạm. Các ngành, các cấp, các lực lượng và quần chúng
nhân dân đã tích cực vào cuộc tham gia đấu tranh, tố giác tội phạm và xử lý
tội phạm.
2.1.2. Khái quát về tổ chức, bộ máy hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Đắk Nông
Cách đây 62 năm (ngày 26-7-1960), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký lệnh
công bố Luật Tổ chức VKSND, đánh dấu sự ra đời của hệ thống cơ quan
VKSND trong bộ máy Nhà nước CHXHCN Việt Nam.
Ngày 26-7-1960 đã trở thành ngày khai sinh của hệ thống VKSND các
cấp (khoản 1 Điều 11 Luật tổ chức VKS năm 2014). Cũng từ đó hệ thống
VKSND đã trở thành một trong những công cụ của chuyên chính vô sản; một
công cụ bảo vệ pháp chế XHCN; bảo vệ và tạo điều kiện để nhân dân lao
động thực hiện quyền lực của mình với vai trò của người làm chủ.
Cũng như hệ thống VKSND trong cả nước, VKSND tỉnh Đắk Nông
được thành lập vào năm 2004, từ đó đến nay VKSND tỉnh Đắk Nông đã cùng
các cơ quan bảo vệ pháp luật của tỉnh có nhiều đóng góp vào việc bảo đảm an
ninh chính trị, giữ vững trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự phát triển kinh tế
33
của tỉnh.
VKSND tỉnh Đắk Nông tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung
thống nhất lãnh đạo trong ngành và chịu sự chỉ đạo thống nhất của Viện
trưởng VKSND tối cao; cơ cấu tổ chức gồm: 08 VKS cấp huyện, thành phố
và 11 phòng nghiệp vụ trực thuộc VKS tỉnh. Theo đó trên cơ sở Luật tổ chức
VKSND năm 2014, VKSND tỉnh Đắk Nông đã tổ chức lại các khâu công tác
nghiệp vụ của VKS tỉnh còn 08 phòng là: Phòng Thực hành quyền công tố -
Kiểm sát điều tra và Kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự về an ninh, ma túy,
kinh tế, chức vụ (Phòng 1); Phòng Thực hành quyền công tố - Kiểm sát điều
tra và Kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự về trật tự xã hội (Phòng 2); Phòng
Kiểm sát xét xử phúc thẩm án hình sự (Phòng 7); Phòng Kiểm sát việc tạm
giữ, tạm giam và THA (Phòng 8); Phòng Kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc
dân sự, hôn nhân gia đình, hành chính, kinh tế, thương mại và các việc khác
theo quy định của pháp luật (Phòng 9); Phòng Tổ chức cán bộ ( Phòng 15);
Phòng Thanh tra – Khiếu tố và Văn phòng tổng hợp.
Ngành Kiểm sát tỉnh Đắk Nông đến ngày 31/5/2022 có 137 biên chế
(cấp tỉnh 55, cấp huyện 82) và 33 HĐLĐ theo Nghị định 68, trong đó, cán bộ
nữ 63 đ/c, chiếm 38%; cán bộ là người dân tộc thiểu số có 9 đ/c, chiếm 5,4%;
toàn ngành có 126 đảng viên, chiếm 75,4%; có KSV cao cấp 01 người, chiếm
0,59%, 38 Kiểm sát viên trung cấp (tỉnh 30, huyện 8), chiếm 22,7% biên chế
toàn tỉnh; Kiểm sát viên sơ cấp 63 người ( tỉnh 10, huyện 43), chiếm 37,7 %
tổng biên chế; Kiểm tra viên 14 người ( tỉnh 06, huyện 28), chuyên viên và
cán sự 47 người (tỉnh 14, huyện 33). Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ toàn
tỉnh có 10 Thạc sĩ ngành luật (công tác ở cấp tỉnh 05, cấp huyện 05) chiếm
6% và đang theo học Thạc sỹ 06đ/c, 109 Cử nhân luật, chiếm 65,2%; Đại học
khác 08, chiếm 7,7% và 02 Cao đẳng kiểm sát, chiếm 1,3% [58].
Để triển khai thực hiện theo lộ trình của Nghị quyết 49-NQ/TW ngày
34
02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,
VKSND tỉnh Đắk Nông đã quan tâm đến công tác đào tạo nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ; trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, KSV, nhất là
đối với đội ngũ KSV sơ cấp làm công tác THQCT và kiểm sát điều tra,
KSXX các vụ án hình sự. Tuy nhiên, so với yêu cầu hiện nay, lực lượng KSV
làm công tác THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp còn thiếu về số
lượng và năng lực, trình độ chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình
hình mới đề ra, như chưa được đào tạo nhiều về kiến thức quản lý nhà nước,
kiến thức khoa học, tin học, ngoại ngữ, kỹ năng kiểm sát tội phạm sử dụng
công nghệ cao…Tóm lại, trình độ của KSV hiện nay tuy đã được cải thiện
nhưng chưa hoàn toàn đáp ứng đầy đủ những đòi hỏi ngày càng cao của xã
hội trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
2.1.3. Kết quả hoạt động thực hiện quyền công tố và kiểm soát các hoạt
động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 tại Điều 107 quy định: “Viện
kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” [26].
Trong thời gian qua, VKSND tỉnh Đắk Nông đã làm tốt công tác thực
hiện quyền công tố và kiểm soát hoạt động tư pháp, đã đạt được những kết
quả đáng kể, góp phần quan trọng vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội
phạm, bảo vệ lợi ích của xã hội, quyền tự do, dân chủ của công dân tỉnh nhà.
Để có kết quả đánh giá toàn diện việc bảo đảm THQCT và kiểm soát
HĐTP của Viện KSND tỉnh Đắk Nông, tác giả phân tích, đánh giá (Theo số
liệu báo cáo tổng kết các năm 2019 đến 06 tháng đầu năm 2022 của VKSND
35
tỉnh), về các mặt sau đây:
2.1.3.1. Thực hiện quyền công tố, kiểm soát việc tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Trong những năm qua, công tác THQCT, kiểm soát việc giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (nguồn tin về tội phạm) của
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, góp
phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng công tác giải quyết án hình sự. Do
xác định rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác này, nên Lãnh đạo Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông đã kịp thời bố trí Kiểm sát viên, Kiểm tra
viên có năng lực trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm để thực hiện có hiệu
quả công tác này. Đồng thời đồng chí Viện trưởng Viện KSND tỉnh chỉ đạo
khi phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội
phạm mà VKS đã yêu cầu nhưng không được khắc phục thì phân công KSV
trực tiếp thực hiện việc xác minh giải quyết nguồn tin về tội phạm.
Từ năm 2019 đến ngày 31/5/2022, VKSND tỉnh Đắk Nông đã
THQCT và kiểm sát 3994 nguồn tin về tội phạm của CQĐT. Đã giải quyết
3676 nguồn tin, đạt tỷ lệ 92%. Tiến hành 26 cuộc kiểm sát trực tiếp việc tiếp
nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm của CQĐT, đã ban hành kết luận và
kiến nghị. Ban hành 14 kiến nghị bằng văn bản riêng đối với CQĐT và 3980
văn bản yêu cầu xác minh trong hoạt động kiểm sát việc giải quyết nguồn tin
về tội phạm [59, 60].
2.1.3.2. Công tác thực hiện quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ
án hình sự
Thực hiện các quy định của BLTTHS và Quy chế phối hợp liên ngành,
trong những năm qua VKSND tỉnh Đắk Nông đã chủ động THQCT, KSĐT,
bám sát các hoạt động điều tra để làm rõ người phạm tội. Kịp thời đề ra các
yêu cầu điều tra có chất lượng ngay sau khi khởi tố, có tác dụng định hướng
36
điều tra, xác định tội phạm, chủ động cùng với Cơ quan điều tra Công an cùng
cấp trao đổi, thảo luận để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong
quá trình điều tra. Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định
của pháp luật (đã yêu cầu nhưng CQĐT không thực hiện) để chủ động thu
thập và kiểm tra chứng cứ khi cần thiết. Kiên quyết không phê chuẩn hoặc
hủy bỏ các quyết định không có căn cứ, trái pháp luật của cơ quan điều tra,
góp phần bảo đảm không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan
người vô tội. Qua đó đã từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác
THQCT trong kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án hình sự. Chính vì thế, tỷ
lệ bắt giữ chuyển xử lý hình sự hàng năm luôn đạt từ 98% trở lên, trong đó
phê chuẩn bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp sau đó khởi tố đạt
100%. Không có trường hợp nào bắt, giữ không có căn cứ vi phạm pháp luật.
Tỷ lệ giải quyết án trong giai đoạn điều tra cao, không có án quá hạn cũng
như oan, sai.
Tổng số thụ lý từ năm 2019 đến 6 tháng năm 2022 là: 2978 vụ/5456 bị
can. Đã giải quyết: 2453 vụ/4391 bị can, đạt tỷ lệ 82,3%, trong đó có đình chỉ
điều tra 114 vụ/135 bị can (do người bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố). Án trọng
điểm: 66 vụ, tỷ lệ 2,2%; án rút gọn 18 vụ. Không có án để quá hạn giải quyết.
Qua hoạt động kiểm sát điều tra VKSND tỉnh Đắk Nông đã ban hành 29
kiến nghị với CQĐT (cấp tỉnh: 4; cấp huyện: 25) yêu cầu khắc phục vi phạm
trong công tác điều tra, ban hành 33 kiến nghi phòng ngừa vi phạm (cấp tỉnh:
8; cấp huyện: 25). Không phê chuẩn 12 Lệnh bắt người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp [59, 60].
2.1.3.3. Công tác thực hiện quyền công tố trong giai đoạn truy tố
Không có trường hợp nào VKS truy tố, Toà án tuyên không phạm tội ở
các giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, thể hiện được chất
lượng công tác KSĐT các vụ án tốt. Đây là kết quả công tác kiểm sát điều tra
37
của KSV tốt ngay từ đầu và việc chuẩn bị đầy đủ hồ sơ, tổng hợp đánh giá
chứng cứ, luận tội, dự liệu những tình huống có thể xảy ra tại phiên toà để
đưa ra lập luận, nhằm nâng cao vai trò trách nhiệm của KSV trong việc
THQCT tại phiên toà theo tinh thần cải cách tư pháp. Tỷ lệ giải quyết án của
VKS hàng năm đều đạt 97% trở lên, truy tố bảo đảm tội danh 100%, các vụ
án sau khi truy tố đã phối hợp với TA đưa ra giải quyết nhanh, kịp thời, đúng
các quy định pháp luật, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị tại địa phương.
Tổng số án hình sự thụ lý của VKSND tỉnh từ năm 2019 đến tháng 6
năm 2022 là: 2138 vụ/4290 bị can. VKS đã giải quyết: 2072 vụ/4119 bị can,
đạt tỷ lệ 96,9%, trong đó truy tố chuyển toà: 2040 vụ/4058 bị can; đình chỉ:
29 vụ/58 bị can (Người bị hại rút đơn và miễn TNHS); tạm đình chỉ: 03 vụ/03
bị can (do bị can bỏ trốn).
Theo kết quả thống kê trong báo cáo tổng kết hàng năm của VKS tỉnh
cho thấy từ năm 2019 đến tháng 6 năm 2022, VKSND tỉnh Đắk Nông đã trả
hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung là 31 vụ, chiếm tỷ lệ 1,44%.
Qua rà soát án tạm đình chỉ VKSND cấp tỉnh đã thống nhất với CQĐT ban
hành 40 Quyết định đình chỉ điều tra đối với 40 vụ án hiện đang tạm đình chỉ
do đã hết thời hiệu truy cứu TNHS theo Điều 27 BLHS [59, 60].
2.1.3.4. Công tác thực hiện quyền công tố và xét xử các vụ án hình sự
VKSND tỉnh Đắk Nông đã có sự đổi mới mạnh mẽ để nâng cao chất
lượng tranh tụng của KSV tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp. Vai
trò của KSV tại phiên tòa là thay mặt Nhà nước THQCT và kiểm sát các hoạt
động tư pháp. Do vậy, tại phiên tòa, kiểm sát viên đã chủ động trong xét hỏi
và tranh luận, trách nhiệm, bản lĩnh, lý luận chặt chẽ để bảo vệ quan điểm
truy tố và làm rõ các nội dung mà những người tham gia tố tụng nêu ra một
cách khách quan, toàn diện, tôn trọng kết quả tranh luận công khai tại phiên
38
tòa để đề xuất quan điểm xử lý vụ án đúng pháp luật, có sức thuyết phục cao.
Công tác THQCT và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự được chú trọng và
chất lượng được nâng cao hơn.
Từ năm 2019 đến tháng 6 năm 2022, VKSND tỉnh Đắk Nông đã tham
gia THQCT, kiểm sát xét xử sơ thẩm 1945 vụ/2863 bị cáo, tỷ lệ KSXX đạt
87,4% (1945/2223 vụ). Tòa án trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung 87 vụ,
chiếm tỷ lệ 3,9%. Tòa án cấp cao tại TP Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm, giám
đốc thẩm hủy 08 vụ; THQCT và kiểm sát xét xử phúc thẩm án hình sự của
VKSND tỉnh là: 463 vụ/861 bị cáo, Tòa án đã giải quyết 376 vụ/661 bị cáo,
đạt tỷ lệ 81,2%, trong đó huỷ án sơ thẩm để điều tra lại: 13 vụ; xét xử lại: 02
vụ [59, 60].
Qua công tác kiểm sát, VKSND tỉnh phối hợp cùng Toà án đưa ra xét
xử lưu động 12 vụ án hình sự được dư luận xã hội quan tâm, qua đó đã phục
vụ kịp thời yêu cầu nhiệm vụ chính trị địa phương và tổ chức 286 phiên tòa
rút kinh nghiệm nhằm nâng cao kỹ năng THQCT tại phiên tòa; 04 phiên toà
xét xử trực tuyến có kết nối đến các điểm cầu thành phần. Qua kiểm sát,
VKSND tỉnh đã ban hành 39 kiến nghị đối với Tòa án và Đoàn luật sư tỉnh.
Ban hành 49 kháng nghị phúc thẩm; rút kháng nghị: 16 vụ; Tòa án đã xét xử
chấp nhận 28/33 kháng nghị, đạt 84,4% [59, 60].
2.1.3.5. Công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự
- Công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam
Trách nhiệm của VKSND trong việc kiểm sát việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam là rất quan trọng nhằm bảo đảm cho
việc tạm giữ, tạm giam có căn cứ, đúng pháp luật; bảo đảm chế độ của người
bị tạm giữ, tạm giam được thực hiện nghiêm chỉnh, đồng thời bảo vệ tính
mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam
cũng như các quyền khác của họ không bị tước bỏ và luôn được tôn trọng và
39
bảo vệ; phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý người bị tạm
giữ, tạm giam để từ đó yêu cầu Trưởng Nhà tạm giữ, Giám thị Trại tạm giam
có biện pháp chấn chỉnh và tổ chức phòng ngừa vi phạm, tội phạm có thể xảy
ra.
Từ năm 2019 đến 6 tháng năm 2022 VKSND tỉnh Đắk Nông đã kiểm
sát: 2682 trường hợp tạm giữ, đã giải quyết 2659 trường hợp, tỷ lệ xử lý hình
sự đạt 99,1%; kiểm sát 4648 đối tượng tạm giam, đã giải quyết 2925. Hiện
còn 1723 đối tượng tạm giam.
Trong 03 năm 06 tháng VKSND tỉnh đã tiến hành 66 cuộc kiểm sát trực
tiếp tại Nhà tạm giữ, 12 cuộc kiểm sát tại Trại tạm giam. Qua kiểm sát trực
tiếp đã ban hành 78 kiến nghị trong kết luận; 05 kháng nghị; 43 kiến nghị
riêng yêu cầu khắc phục vi phạm [59, 60].
- Công tác kiểm sát thi hành án hình sự
Kiểm sát thi hành án hình sự là một trong những khâu công tác quan
trọng nhằm bảo đảm Bản án có hiệu lực pháp luật được thi hành nghiêm
chỉnh và thống nhất, thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của
Viện KSND theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm: Việc thi hành, quản
lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù; phạt tù nhưng cho hưởng án treo
và các hình phạt khác, quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác
của người chấp hành án không bị hạn chế mà được tôn trọng và bảo vệ.
Qua kiểm sát thấy các Nhà tạm giữ; Trại giam Công an tỉnh Đắk Nông
đã tổ chức thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về việc quản lý và
giáo dục người chấp hành án phạt tù. Việc tiếp nhận phạm nhân đến chấp
hành án cũng như giải quyết các trường hợp phạm nhân chấp hành xong hình
phạt, tạm đình chỉ, chết được thực hiện theo đúng quy định; Công tác tuần tra,
canh gác được duy trì đảm bảo 24/24 giờ hàng ngày, không để xảy ra trường
hợp phạm nhân trốn trại, mang vật cấm vào khu giam giữ; Việc thực hiện các
40
chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế,... của phạm nhân được đảm bảo
theo quy định của Luật thi hành án hình sự năm 2019, Nghị định
49/2020/NĐ-CP ngày 17/4/2020 của Chính phủ qui định về tổ chức quản lý
phạm nhân về chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân
[8] và Thông tư liên tịch 02/2021/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC
ngày 12/8/2021 quy định về quan hệ phối hợp trong việc thực hiện trình tự,
thủ tục tạm đình chỉ và giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.
Trong thời gian từ năm 2019 đến 6 tháng năm 2022 Viện KSND tỉnh
Đắk Nông đã kiểm sát chặt chẽ việc ra quyết định và tổ chức đưa bị án đi thi
hành án, việc hoãn chấp hành án phạt tù và thực hiện tốt các chế độ, chính
sách đối với phạm nhân; việc xét giảm, tha tù trước thời hạn có điều kiện đảm
bảo đúng quy định pháp luật. Số bị án thi hành hình phạt tử hình: 01; chung
thân 06; tổng số bị án phải thi hành hình phạt tù có thời hạn là 2517 người, đã
thi hành 2053 người. Tham gia xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù cho
2749 phạm nhân, trong đó chấp nhận 2734 trường hợp, không chấp nhận 15
trường hợp; kiểm sát 46 hồ sơ đề nghị đặc xá của Trại tạm giam, Trại giam
ĐắkP’Lao, cơ quan Thi hành án hình sự Công an tỉnh và TAND tỉnh đối với
người bị kết án phạt tù đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phát tù.
Kết quả tổng cộng có 46 người được đặc xá (36 phạm nhân đang chấp hành
án tại Trại tạm giam Công an tỉnh, Trại giam ĐắkP’Lao; 10 người tại Nhà tạm
giữ Công an huyện, thành phố).
Đã phối hợp với UBMT tổ quốc Việt Nam, Ban pháp chế HĐND cùng
cấp tiến hành 29 cuộc kiểm sát trực tiếp tại cơ quan thi hành án hình sự, Trại
tạm giam Công an tỉnh và Trại giam ĐắkP’Lao; kiểm sát trực tiếp 63 lượt
UBND xã có bị án thi hành án phạt tù nhưng cho hưởng án treo và cải tạo
không giam giữ, đã ban hành 92 kết luận, kiến nghị. Qua kiểm sát đã ban
hành 62 kiến nghị riêng và 60 kháng nghị yêu cầu khắc phục các vi phạm [59,
41
60].
2.1.3.6. Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân
gia đình, vụ án hành chính; vụ, việc kinh doanh, thương mại, lao động và
những việc khác theo quy định của pháp luật
- Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân và gia
đình
Án tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình của Viện KSND tỉnh Đắk
Nông thụ lý kiểm sát tăng theo từng năm. Án dân sự chủ yếu là tranh chấp về:
Quyền sử dụng đất, chia di sản thừa kế, tranh chấp hợp đồng vay tài sản, tranh
chấp nghĩa vụ thanh toán hợp đồng, tranh chấp thanh toàn tiền biêu... Tranh
chấp dân sự ngày càng phức tạp, một số vụ án liên quan đến nhiều người, kéo
dài nhiều năm chưa được giải quyết dứt điểm. Đặc biệt nổi cộm là loại tranh
chấp hợp đồng vay tiền với lãi suất cao, nhiều đương sự là nguyên đơn trong
vụ án vay mượn này và cũng là bị đơn trong một số vụ án vay mượn khác. Án
hôn nhân gia đình chủ yếu tranh chấp về ly hôn, chia tài sản chung sau ly hôn,
trong đó đương sự là các cặp vợ chồng trẻ mới cưới trong thời gian 03 năm
đầu chiếm tỷ lệ nhiều, nguyên nhân chủ yếu là trong thời gian đầu về chung
sống, đời sống chung chưa phù hợp, hai bên lại không biết nhường nhịn, chia
sẻ khó khăn nên dẫn đến ly hôn. Kiểm sát chặt chẽ thụ lý, giải quyết các vụ,
việc dân sự; KSV tham gia 100% phiên tòa, phiên họp theo quy định pháp
luật VKS phải tham gia.
Trước khi tham dự phiên tòa, phiên họp Kiểm sát viên đều nghiên cứu
kỹ hồ sơ, nắm chắc nội dung, báo cáo đề xuất quan điểm giải quyết vụ, việc
và chuẩn bị đề cương tham gia xét hỏi, dự thảo bài phát biểu đảm bảo chặt
chẽ, đúng căn cứ pháp luật và được Lãnh đạo đơn vị phê duyệt, do vậy chất
lượng bài phát biểu, nội dung tranh luận của KSV tại phiên tòa tiếp tục được
nâng cao. Kiểm sát chặt chẽ 100% biên bản phiên tòa, 100% các bản án,
42
quyết định giải quyết vụ , việc của TA để kịp thời phát hiện vi phạm, kiên
quyết ban hành kiến nghị, kháng nghị yêu cầu khắc phục, qua đó đã góp phần
bảo đảm việc giải quyết các vụ, việc đúng quy định pháp luật.
Từ năm 2019 đến 6 tháng năm 2022 VKSND tỉnh Đắk Nông đã kiểm
sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân gia đình: Kiểm sát thụ lý giải
quyết án sơ thẩm: 15468 vụ, việc, đã giải quyết: 11534 vụ, việc, tỷ lệ giải
quyết đạt 74,5%. Kiểm sát thụ lý giải quyết án phúc thẩm: 451 vụ, việc, đã
giải quyết: 384 vụ, việc, tỷ lệ giải quyết đạt 85,1%. Trong thời gian trên bị
TAND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hủy án
sơ thẩm, phúc thẩm của TAND cấp tỉnh 22 vụ; 13 vụ cải sửa.
Phối hợp với TAND tổ chức 142 phiên tòa rút kinh nghiệm. Ban hành
40 kháng nghị phúc thẩm, đã giải quyết 40 kháng nghị (trong đó: Chấp nhận
24 kháng nghị, không chấp nhận 06 kháng nghị và rút kháng nghị 10). Qua
kiểm sát đã ban hành 51 kiến nghị yêu cầu khắc các vi phạm [59, 60].
- Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính; vụ, việc kinh
doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật
Án tranh chấp về hành chính, kinh doanh thương mại, lao động và các
việc khác theo quy định của pháp luật hàng năm Viện KSND cấp tỉnh đều
tăng. Án hành chính chủ yếu là các khiếu kiện về quyết định hành chính của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đặc biệt là các quyết định hành chính trong
quản lý đất đai của UBND các cấp về thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận
Quyền sử dụng đất, việc xét cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất khi có
tranh chấp, thủ tục chưa đúng theo quy định của pháp luật. Án kinh doanh
thương mại chủ yếu là tranh chấp về vi phạm nghĩa vụ thanh toán trong hợp
đồng tín dụng, vay ngân hàng; tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa. Án
lao động chủ yếu là tranh chấp về doanh nghiệp nợ tiền bảo hiểm xã hội của
người lao động. Lãnh đạo VKSND tỉnh chỉ đạo quán triệt KSV tiếp tục
43
nghiên cứu, rèn luyện các kỹ năng nghiệp vụ về phương pháp nghiên cứu đối
với từng loại án, việc khởi kiện, yêu cầu; nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, nắm
vững kiến thức pháp luật ở những lĩnh vực liên quan đến vụ án nhằm thực
hiện đầy đủ chức năng của VKS theo luật định và nâng cao chất lượng kiểm
sát việc giải quyết của tòa án. Tiếp tục thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 10/CT-
VKSTC ngày 06/4/2016 của Viện trưởng VKSND tối cao về tăng cường công
tác kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ việc dân sự, vụ án
hành chính[49]; phát hiện kịp thời những vi phạm, thiếu sót trong quá trình
giải quyết án của tòa án để kiến nghị, kháng nghị.
Đã kiểm sát thụ lý giải quyết án sơ thẩm: 434 vụ, việc; đã giải quyết:
419 vụ, việc, tỷ lệ giải quyết đạt 96,5%. Kiểm sát thụ lý giải quyết án phúc
thẩm: 13 vụ, việc; đã giải quyết: 11 vụ, việc, tỷ lệ giải quyết đạt 84,6%. Số vụ
án bị TAND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm
hủy án sơ thẩm 02 vụ, 03 vụ sửa. Không kháng nghị, kiến nghị vụ nào [59,
60].
2.1.3.7. Công tác kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính
VKSND tỉnh Đắk Nông đã phối hợp với Cục THADS tỉnh thực hiện tốt
Quy chế phối hợp liên ngành về công tác THA dân sự. Kiểm sát và đôn đốc
cơ quan THADS xử lý vật chứng tồn kho và tiền tạm ứng án phí, lệ phí còn
tồn đọng; rà soát, đề nghị TAND xử lý các Bản án tuyên không rõ, khó thi
hành, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác THA dân sự; phối hợp
với Ủy ban MTTQ Việt Nam tiến hành các cuộc kiểm sát trực tiếp tại cơ quan
THA dân sự cùng cấp; phối hợp với cơ quan THA dân sự và các ngành hữu
quan giải quyết cơ bản những việc thi hành án kéo dài. Chủ động phối hợp
với Cơ quan THADS trong việc theo dõi, đối chiếu số liệu thi hành án; kiểm
sát 100% quyết định thi hành án; cử KSV tham gia kiểm sát 100% các hoạt
động về thi hành án; trực tiếp xác minh một số trường hợp về điều kiện thi
44
hành án nhằm đảm bảo việc phân loại điều kiện thi hành án của cơ quan thi
hành án đúng quy định. Chủ động phối hợp với Trưởng ban chỉ đạo, Cơ quan
THA họp bàn giải quyết những việc thi hành án phức tạp.
Từ năm 2019 đến 6 tháng năm 2022 VKSND tỉnh đã kiểm sát số việc
phải thi hành án là: 33.451 việc, với số tiền là 4.866.540.589 đồng. Số việc đã
giải quyết: 18.010 việc, với số tiền là 760.856.937 đồng, tỷ lệ giải quyết đạt
53,8% về việc và 15,6% về tiền. Số việc còn chưa thi hành: 15.441 việc.
VKSND đã tiến hành 27 cuộc kiểm sát trực tiếp tại Cơ quan thi hành án dân
sự, đã ban hành kết luận. Qua kiểm sát đã ban hành 07 văn bản yêu cầu trong
hoạt động thi hành án dân sự, 05 kháng nghị, 44 kiến nghị yêu cầu cơ quan thi
hành án dân sự khắc phục các vi phạm [59, 60].
Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng các cuộc kiểm sát trực tiếp; chú
trọng thực hiện các hoạt động kiểm sát thường xuyên như: kiểm sát việc
chuyển giao bản án, quyết định của TA cho Cơ quan THADS; kiểm sát 100%
việc Cơ quan THADS ban hành quyết định về THA và việc chuyển giao các
quyết định, tài liệu liên quan đến việc tổ chức thi hành; việc thực hiện trình
tự, thủ tục tổ chức THA; việc giao, nhận, quản lý, xử lý tang vật, tài sản thu
hồi trong quá trình tố tụng; kiểm sát chặt chẽ việc phân loại điều kiện THA;
chủ động tiến hành xác minh đối với các vụ việc được phân loại chưa có điều
kiện THA. Kiểm sát chặt chẽ việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế kê biên,
thẩm định giá, bán đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất, các tài sản có giá trị
lớn. Theo dõi và lập hồ sơ kiểm sát 100% việc thi hành án về thu hồi tài sản
trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế. Tăng cường kiểm sát và có
nhiều biện pháp tác động, đẩy nhanh tiến độ các vụ việc THA tồn đọng, kéo
dài, các vụ việc liên quan đến các tổ chức tín dụng, các vụ việc THAHC.
Đã kiểm sát 15/15 quyết định THA hành chính, đã thi hành xong đạt tỷ
45
lệ 100%.
2.1.3.8. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm của
Viện kiểm sát và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại các cơ quan tư
pháp
Tiếp tục quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các Chỉ
thị, quy trình, quy chế của Ngành về công tác tiếp công dân, giải quyết và
kiểm sát việc giải quyết khiếu nại tố cáo trong hoạt động tư pháp. Tăng cường
trách nhiệm của lãnh đạo đơn vị trong công tác tiếp công dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền đảm bảo thời hạn và đúng quy định pháp
luật; gắn công tác tiếp công dân với công tác phổ biến, giáo dục, giải thích
pháp luật cho công dân. Đồng thời tăng cường kiểm sát việc giải quyết khiếu
nại tố cáo về hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp cùng cấp, bảo đảm
việc giải quyết đúng pháp luật, không để đơn tồn đọng kéo dài. Thực hiện tốt
công tác theo dõi, đôn đốc và thường xuyên phối hợp với các cơ quan tư pháp
trong giải quyết khiếu nại, tố cáo; thông qua công tác kiểm sát, giải quyết
KNTC trong hoạt động tư pháp kịp thời phát hiện vi phạm, tổng hợp ban hành
kiến nghị khắc phục đối với các cơ quan tư pháp tại địa phương.
Công dân đến Viện kiểm sát nhân dân thường phản ánh, kiến nghị,
khiếu nại, tố cáo chủ yếu liên quan đến việc giải quyết các vụ án hình sự như:
yêu cầu, khiếu nại các quyết định khởi tố, không khởi tố vụ án hình sự, khởi
tố bị can, khiếu nại Cáo trạng, Kết luận điều tra, khiếu nại việc bắt, tạm giữ,
tạm giam…; về dân sự thì phản ánh, khiếu nại về việc Tòa án để vụ án quá
lâu không giải quyết, khiếu nại các quyết định của Toà án xét xử về tranh
chấp tài sản, tranh chấp đất đai…
VKSND tỉnh Đắk Nông đã tiếp 927 lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo,
đề nghị, kiến nghị, phản ánh, trong đó Lãnh đạo tiếp 243 lượt. Đồng thời,
nhằm thực hiện hiệu quả Luật tiếp công dân, Lãnh đạo Viện kiểm sát tỉnh đã
46
xây dựng lịch tiếp công dân của Lãnh đạo Viện theo qui định. Triển khai thực
hiện đổi mới công tác tiếp công dân, gắn với giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc
thẩm quyền. Thường xuyên rà soát và đề xuất những trường hợp khiếu nại, tố
cáo cần được Viện trưởng tiếp để có biện pháp chỉ đạo giải quyết dứt điểm.
Qua công tác tiếp công dân đã đề xuất giải quyết được nhiều vụ việc khiếu
kiện gay gắt, kéo dài, việc giải quyết đảm bảo đúng pháp luật, phù hợp với
thực tế và mang tính chuyên sâu về nghiệp vụ.
Đã tiếp nhận: 3579 đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh và đề
nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật. Trong đó số đơn thuộc thẩm quyền: 504 đơn; không thuộc thẩm
quyền 2392 đơn. VKSND cấp tỉnh đã ban hành quyết định giải quyết đơn
thuộc thẩm quyền đúng quy trình và quy định. Đặc biệt là các khiếu nại, tố
cáo về việc khởi tố hoặc không khởi tố trái pháp luật và các quyết định tố
tụng khác trong quá trình THQCT, KSĐT các vụ án hình sự. VKSND tỉnh đã
tiến hành 21 cuộc kiểm sát trực tiếp việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại các cơ
quan tư pháp, đã ban hành kết luận và kiến nghị. Qua kiểm sát đã ban hành 11
yêu cầu và kiểm sát 56 quyết định giải quyết KNTC của các cơ quan tư pháp
[59, 60].
2.2. Thực trạng bảo đảm thực hiện quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông
2.2.1. Bảo đảm thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp trong việc giải quyết nguồn tin về tội phạm
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 lần đầu tiên quy định rõ
nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công
tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm (Điều 12 và Điều
13) [27]. Các quy định này đã mở ra những thuận lợi cho Viện kiểm sát khi
thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong giải quyết tố giác, tin báo
47
về tội phạm, góp phần chống làm oan, sai và bỏ lọt tội phạm. Do xác định rõ
ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác này, nên Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Đắk Nông đã phân công, sắp xếp, bố trí Kiểm sát viên, Kiểm tra viên
có năng lực trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm để kiểm sát việc giải quyết
tin báo, tố giác ngay từ đầu, 100% tin báo sau khi tiếp nhận kiểm sát có yêu
cầu kiểm tra xác minh nhằm đảm bảo kiểm sát chặt chẽ, không để tin báo, tố
giác quá hạn.
Kiểm sát tốt việc giải quyết nguồn tin về tội phạm sẽ quyết định chất
lượng thực hành quyền công tố, kiếm sát điều tra, kiểm sát xét xử, những
bước quan trọng để có thể khẳng định có hay không có hành vi phạm tội xảy
ra, người nào thực hiện hành vi phạm tội, tính chất, mức độ và hậu quả do
hành vi phạm tội đó gây ra như thế nào.
Trong thời gian qua Viện KSND tỉnh Đắk Nông đã phát hiện nhiều vi
phạm pháp luật của cơ quan chức năng trong công tác tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Đã ban hành 14 kiến nghị trong
hoạt động kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, yêu cầu CQĐT
khắc phục vi phạm trong hoạt động tiếp nhận giải quyết nguồn tin về tội phạm
để kịp thời chấn chỉnh vi phạm, thiếu sót (PC01, 02, 03, 04 và PA09), gây
khó khăn cho công tác kiểm sát của VKS, một số trường hợp giao cho cán bộ
điều tra không phải là Điều tra viên trực tiếp xác minh tin báo. Khi giải quyết
tin báo không ra quyết định giải quyết mà ra thông báo giải quyết. Có trường
hợp cơ quan CSĐT giải quyết tin báo không đúng quy định pháp luật hoặc đủ
căn cứ khởi tố nhưng không ban hành quyết định khởi tố vụ án hình sự. Sau
khi đã thụ lý, cơ quan CSĐT chậm triển khai xác minh, củng cố chứng cứ,
làm kéo dài thời hạn xử lý tin báo,....tất cả kiến nghị, yêu cầu của VKSND
cấp tỉnh được CQĐT Công an tỉnh chấp nhận [59, 60].
Sau khi Bộ luật TTHS năm 2015 có hiệu lực, VKSND cấp tỉnh đã thực
48
hiện việc bảo đảm THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc giải quyết
nguồn tin về tội phạm một cách chính xác, hiệu quả. VKSND cấp tỉnh đã chủ
động phối hợp cùng các ngành thực hiện nghiêm túc Thông tư liên tịch số
01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNN-VKSNDTC ngày 29/12/2017
của Liên ngành Trung ương về Quy chế phối hợp giữa các cơ quan để kiểm sát
chặt chẽ việc tiếp nhận, thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố [8].
VKSND cấp tỉnh đã trực tiếp giải quyết 02 tố giác, tin báo về tội phạm,
đây là một điểm mới mà BLTTHS năm 2015 bổ sung thẩm quyền cho VKS,
để bảo đảm mọi hành vi phạm tội được phát hiện, khởi tố, điều tra, xử lý theo
pháp luật, không để lọt người, lọt tội, không làm oan người vô tội, thì các hoạt
động công tố phải được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm. Hơn nữa, trong tiến trình cải cách tư pháp và thực tiễn đấu
tranh phòng, chống tội phạm, Đảng và Nhà nước luôn yêu cầu VKS phải tăng
cường hơn nữa trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với
hoạt động điều tra để bảo đảm các hoạt động tố tụng hình sự phải được kiểm
tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ, bởi vì các hoạt động này đều có tác động,
liên quan đến quyền con người, quyền công dân, thậm chí là sinh mệnh chính
trị của con người... đây là nguyên tắc tối thượng được Hiến pháp năm 2013
ghi nhận, bảo vệ.
BLTTHS năm 2015 bổ sung thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố tại điểm c khoản 3 Điều 145 “Viện kiểm sát giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát
hiện Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra,
xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ
lọt tội phạm mà Viện kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được
49
khắc phục” và tại Khoản 3, Điều 153 BLTTHS năm 2015 quy định bổ sung
thêm hai trường hợp Viện kiểm sát có quyền khởi tố vụ án, đó là khi Viện
kiểm sát trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm và khi Viện kiểm sát trực tiếp
giải quyết tin báo [30].
2.2.2. Thực trạng công tác thực hiện quyền công tố và kiểm sát điều
tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự
Trong các giai đoạn tố tụng hình sự, thì giai đoạn khởi tố, điều tra là
giai đoạn dễ xâm phạm quyền con người nhất. Vì vậy, trong giai đoạn này,
Viện kiểm sát có trách nhiệm THQCT, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc khởi tố, điều tra vụ án hình sự; đảm bảo mọi tội phạm được phát hiện
phải bị khởi tố, việc khởi tố vụ án có căn cứ, đúng pháp luật. Đồng thời, khi
tiến hành hoạt động kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra, Viện kiểm sát
được sử dụng tất cả những quyền năng pháp lý do luật định để phát hiện vi
phạm và yêu cầu xử lý vi phạm của các cơ quan, của những người có thẩm
quyền tiến hành các hoạt động điều tra, nhằm bảo đảm cho pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình điều tra vụ án, bảo đảm
bất cứ hành vi phạm tội nào xâm phạm đến quyền con người đều phải được
phát hiện, xử lý trước pháp luật; các hoạt động điều tra, các biện pháp tư pháp
áp dụng đối với người bị bắt, bị tạm giữ, bị can được tuân thủ đúng quy định
của pháp luật.
Nhìn chung công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự trong
thời gian qua của VKSND tỉnh Đắk Nông đạt được một số kết quả tích cực.
Chất lượng điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự ngày càng nâng cao; tiến
độ giải quyết án được đẩy mạnh, không có án kéo dài nhiều năm; trách nhiệm
công tố được thể hiện rõ nét, gắn công tố với điều tra, không có trường hợp
nào oan, sai hoặc Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội. Một số vụ án hình sự
được dư luận quan tâm, án thuộc diện ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng,
50
tiêu cực theo dõi đã được xử lý nghiêm minh, đúng người đúng tội, đúng pháp
luật, được dự luận đồng tình, góp phần ổn định tình hình chính trị, trật tự an
toàn xã hội ở tỉnh.
Thông qua công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp, VKSND tỉnh
cương quyết không phê chuẩn 12 Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp vì chứng cứ yếu, không đảm bảo dễ dẫn đến oan, sai và đã ban hành
nhiều kiến nghị với các cơ quan tư pháp, các cơ quan quản lý nhà nước có
biện pháp khắc phục nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm, vi phạm
pháp luật. Hoạt động thực hành quyền công tố KSĐT và kiểm sát xét xử của
VKSND tỉnh Đắk Nông đã thực sự trở thành một trong những công cụ có
hiệu quả trong đấu tranh phòng chống tội phạm của tỉnh. Trong quá trình
kiểm sát đã ban hành 62 kiến nghị (đối với CQĐT Công an tỉnh, Tòa án tỉnh,
Đoàn luật sư tỉnh, CQĐT, Toà án, UBND huyện và Công ty truyền tải điện)
[59, 60].
Xác định việc thực hiện tốt công tác kháng nghị hình sự phúc thẩm có
vai trò, vị trí rất quan trọng trong việc thực hiện chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp (hạt nhân là kiểm sát xét xử), bởi thông
qua đó yêu cầu Toà án đưa vụ án ra xét xử theo trình tự phúc thẩm, góp phần
nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự, vì vậy trong kỳ Viện KSND
tỉnh đã ban hành 49 kháng nghị phúc thẩm án hình sự, được chấp nhận tỷ lệ
tương đối cao [59, 60].
Ngoài những vụ án do cấp huyện ĐT, TT, XX thì những vụ án do
VKSND cấp tỉnh THQCT và kiểm sát điều tra đều là những vụ án lớn, phức
tạp, nhất là những vụ án về tham nhũng, kinh tế, chức vụ, được dư luận xã hội
quan tâm. Quá trình giải quyết vụ án thường gặp nhiều khó khăn như số bị
can đông, ở nhiều địa bàn khác nhau, liên quan đến nhiều người, do đó có
một số vụ án tình trạng trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung nhiều lần vẫn còn xảy
51
ra. Tỷ lệ án trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa các cơ quan tố tụng trong kỳ là
5,34% (118 vụ). Trong kỳ có 01 vụ/01 bị can do CQĐT Công an tỉnh đình chỉ
vì hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được hành vi phạm tội của bị
can theo điểm b Khoản 1 Điều 230 BLTTHS 2015 [22]. Có 21 vụ bị TAND 2
cấp (cấp cao 3 và cấp tỉnh) xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hủy án để điều
tra, xét xử lại [59, 60].
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, mà theo đó,
nhiều nội dung được bổ sung nhằm bảo đảm quyền con người trong giai đoạn
khởi tố, điều tra các vụ án hình sự. Lãnh đạo Viện KSND cấp tỉnh đã chỉ đạo
các Kiểm sát viên nghiên cứu kỹ những điểm mới của Bộ luật TTHS năm
2015. Đối với các vụ án phức tạp, bị can không nhận tội hoặc lời khai còn
nhiều mâu thuẫn, Kiểm sát viên đã chủ động phối hợp với Điều tra viên tiến
hành hỏi cung, lấy lời khai và tổng hợp đánh giá chứng cứ. Trong quá trình rà
soát án tạm đình chỉ điều tra Viện KSND tỉnh đã phối hợp với CQĐT ban
hành 40 quyết định đình chỉ vụ án đối với 40 quyết định tạm đình chỉ điều tra
vụ án vì hết thời hiệu truy cứu TNHS theo Điều 27 BLHS.
Khi THQCT và kiểm sát xét xử, KSV được phân công đã nghiên cứu
kỹ hồ sơ vụ án để nắm chắc nội dung vụ án, chứng cứ gỡ tội, buộc tội, các
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, xây dựng đề cương xét hỏi, lập phương
án đấu tranh, dự kiến các tình huống có thể xảy ra để đối đáp, tranh luận với
Luật sư, người bào chữa... bảo vệ tốt Cáo trạng truy tố; xây dựng dự thảo
Luận tội để báo cáo Lãnh đạo Viện duyệt trước khi tham gia xét xử. Phối hợp
với Tòa án tỉnh tổ chức nhiều phiên Tòa rút kinh nghiệm, trực tuyến, số hoá
hồ sơ. Sau khi xét xử đã thực hiện việc kiểm sát 100% bản án, quyết định của
Tòa án, qua đó phát hiện vi phạm, kịp thời ban hành kiến nghị, kháng nghị
[59, 60].
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của VKSND cấp tỉnh đối với các VKS cấp huyện,
52
thành phố luôn được Ban cán sự đảng, Lãnh đạo Viện KSND tỉnh quan tâm.
Các Phòng nghiệp vụ đã ban hành nhiều thông báo rút kinh nghiệm trong
kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử (ban hành 24 thông báo rút kinh nghiệm
trong hoạt động kiểm sát điều tra, xây dựng Cáo trạng đối với cấp huyện, TP
và 12 thông báo rút kinh nghiệm trong công tác THQCT và KSXX án hình sự
đối với cấp huyện, thành phố) [59, 60].
2.2.3. Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự
2.2.3.1. Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam
VKSND hai cấp tỉnh Đắk Nông chịu trách nhiệm kiểm sát việc tạm giữ,
tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh và 08 Nhà tạm giữ Công an cấp
huyện. Theo đó, đã tiến hành kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam theo quy
định của BLTTHS hàng tuần tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Nông, hàng
ngày tại Nhà tạm giữ Công an cấp huyện; ba tháng trực tiếp kiểm sát một lần
theo từng nội dung tại Nhà tạm giữ, Trại tạm giam và sáu tháng một lần trực
tiếp kiểm sát toàn diện về việc bắt, tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ, Trại
tạm giam.
VKSND tỉnh Đắk Nông đã tiến hành kiểm sát trực tiếp Nhà tạm giữ,
Trại tạm giam Công an tỉnh. Qua kiểm sát đã phát hiện một số vi phạm như:
ghi chép chưa đầy đủ sổ sách theo dõi; tài liệu còn tẩy xoá tuỳ tiện, hồ sơ
thiếu các tài liệu như lý lịch bị can, danh, chỉ bản của người bị tạm giữ, tạm
giam... Có trường hợp cán bộ Nhà tạm giữ tự ý cho người bị tạm giữ, tạm
giam thăm gặp và nhận quà từ thân nhân trong khi không được sự đồng ý của
Lãnh đạo đơn vị; giam chung buồng giữa người có án phạt tù chờ chuyển đi
Trại giam với người đang tạm giam trong giai đoạn điều tra... Có trường hợp
người bị tạm giam bị nhiễm HIV nhưng Nhà tạm giữ không lập hồ sơ bệnh án
và thông báo cho gia đình để theo dõi, quản lý và có biện pháp tư vấn hỗ trợ,
điều trị...Qua đó, đã ban hành tổng số 121 kết luận, kiến nghị. Tất cả các bản
53
kết luận, kiến nghị của VKSND đều được Trưởng Nhà tạm giữ Công an cấp
huyện, Giám thị Trại tạm giam Công an tỉnh tiếp thu, khắc phục và tổ chức
họp rút kinh nghiệm, phúc đáp bằng văn bản đúng thời hạn [59, 60].
Tại khoản 6 Điều 183 BLTTHS năm 2015 quy định: “Việc hỏi cung bị
can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở cơ quan điều tra, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình
có âm thanh. Việc hỏi cung bị can tại các địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi
hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can, của cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng” [30]. Với quy định này, tuy trong điều kiện chưa được
trang bị cơ sở vật chất, trang thiết bị chuyên dùng nhưng VKSND tỉnh Đắk
Nông yêu cầu các KSV phối hợp với ĐTV Công an cùng cấp tiến hành hỏi
cung 36 lượt và thực hiện phúc cung 09 lượt qua thiết bị điện thoại di động để
đưa dữ liệu vào hồ sơ vụ án phục vụ việc xét xử được thuận lợi. Đây là những
vụ án phức tạp, nguồn chứng cứ chỉ qua lời khai nên cần thiết phải thực hiện,
mặt khác nhằm bảo đảm minh bạch trong quá trình hỏi cung, chống tra tấn,
bức cung, dùng nhục hình, bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo quy
định của Hiến pháp. Vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong
việc bắt, tạm giữ, tạm giam được Đảng, Nhà nước ta quan tâm đặc biệt, đây
không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia mà còn là vấn đề Nhân quyền
Quốc tế. VKSND tỉnh Đắk Nông đã kiểm sát trực tiếp Nhà tạm giữ, Trại tạm
giam đảm bảo đúng quy định, đã ban hành nhiều kết luận, kiến nghị [59, 60].
2.2.3.2. Kiểm sát thi hành án hình sự
Theo Quy chế công tác kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam và THA
hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 501 ngày 12/12/2017 của Viện
trưởng VKSND tối cao [46], đây là nhiệm vụ quan trọng nhằm thực hiện tốt
hơn chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của ngành, bảo đảm cho hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự được thực hiện thông suốt theo
54
trình tự, thủ tục tố tụng hình sự, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm,
bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền con người, quyền tự do, dân chủ và lợi ích
hợp pháp của mọi công dân; đây cũng được xem là khâu then chốt góp phần
bảo đảm mọi Bản án và Quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được
đưa ra thi hành nghiêm chỉnh bảo đảm tính thống nhất, nghiêm minh của pháp
luật. Do đó, trong tiến trình cải cách tư pháp, Đảng và Nhà nước ta rất quan
tâm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát thi hành án hình sự. Theo quy
định, hàng năm có 3 đợt xét giảm án, tha tù trước thời hạn có điều kiện nhân
dịp Tết Nguyên đán; 30/4 và Lễ Quốc khánh 2/9, VKSND cấp tỉnh cùng với
các cơ quan hữu quan tham gia họp xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù
cho những phạm nhân có quá trình cải tạo, lao động, học tập tốt trở về với
cộng đồng. Đây là nội dung có ý nghĩa hết sức quan trọng, vừa mang tính
nhân đạo, nhân văn sâu sắc, vừa đem lại hiệu quả trong công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội,
bảo đảm sự ổn định của đời sống chính trị, văn hóa, kinh tế - xã hội của đất
nước.
VKSND tỉnh Đắk Nông cũng đã kiểm sát chặt chẽ việc hoãn, tạm đình
chỉ thi hành án, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù bảo đảm đúng pháp
luật, thực hiện đầy đủ các chế độ chính sách đối với phạm nhân theo quy
định; kiểm sát 100% các quyết định thi hành án của TAND. Đối với Cơ quan
thi hành án hình sự; Nhà tạm giữ và Phân trại tạm giam thuộc Công an tỉnh đã
thực hiện chế độ đối với người thi hành án cơ bản bảo đảm đúng qui định của
pháp luật; tăng cường công tác quản lý, giáo dục phạm nhân. Trong thời gian
trên Viện KSND tỉnh đã kiểm sát trực tiếp Cơ quan thi hành án hình sự; Phân
trại tạm giam Công an tỉnh; Nhà tạm giữ và UBND cấp xã tổng cộng 92 lượt,
qua kiểm sát đã ban hành kết luận, kháng nghị, kiến nghị về các vi phạm chủ
yếu như quản lý sổ sách, gửi các văn bản cho các cơ quan liên quan, chỉ đạo
55
và kiểm tra cấp dưới không chặt chẽ, thực hiện chế độ và quản lý bị án, ra các
quyết định theo quy định...VKSND tỉnh đã ban hành ban hành 19 yêu cầu, 62
kiến nghị riêng và 60 kháng nghị khắc phục các vi phạm. Ban hành 14 thông
báo rút kinh nghiệm đối với VKS cấp huyện, thành phố [59, 60].
2.2.4. Kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân gia đình,
kinh doanh thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của
pháp luật
2.2.4.1. Kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân gia đình
Thực hiện chức năng kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự,
HNGĐ theo pháp luật, VKSND tỉnh Đắk Nông (cấp huyện và Phòng 9) đã
phát hiện Tòa án có một số vi phạm pháp luật về thủ tục tố tụng nói chung và
trong việc gửi các văn bản tố tụng, hồ sơ cho Viện kiểm sát nói riêng nên đã
tổng hợp kiến nghị yêu cầu Tòa án khắc phục, sửa chữa vi phạm kịp thời, bảo
đảm cho pháp luật dân sự được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi tham gia
tố tụng dân sự.
Trong thời gian qua Viện KSND tỉnh Đắk Nông đã ban hành 51 kiến
nghị yêu cầu Toà án khắc phục vi phạm như: Việc chậm gửi thông báo thụ lý
cho Viện kiểm sát cùng cấp, vi phạm trong việc gửi bản án, quyết định giải
quyết vụ án cho Viện kiểm sát theo Khoản l Điều 196, khoản 1 Điều 365 và
khoản 2 Điều 269 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định; Vi phạm trong
việc gửi bản án, quyết định đối với cấp phúc thẩm cho Viện kiểm sát cùng
cấp tại Điều 315 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Tòa án không thông báo và
chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu để tham gia phiên tòa,
phiên họp trong trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia theo quy định tại
khoản 2 Điều 21 và khoản 2 Điều 97 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 [31].
Kháng nghị phúc thẩm dân sự là một trong những quyền năng pháp lý
56
của Viện kiểm sát nhân dân được quy định trong BLTTDS, là nhiệm vụ trọng
tâm của công tác kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ của Ngành, góp phần vào việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn
nhân và gia đình của Tòa án theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm các
quyền và lợi ích của Nhà nước, của công dân được tôn trọng và bảo vệ, trong
thời gian trên Viện KSND cấp tỉnh đã ban hành 40 kháng nghị phúc thẩm,
được cấp trên chấp nhận với tỷ lệ cao 80%. Đồng thời đã đề nghị VKSND cấp
cao kháng nghị giám đốc thẩm 09 vụ.
Phòng 9 Viện KSND tỉnh đã ban hành 14 thông báo rút kinh nghiệm
nghiệp vụ đối với VKS cấp huyện, thành phố trong công tác [59, 60].
2.2.4.2. Kiểm sát giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại, lao động
và những việc khác theo quy định của pháp luật
VKSND tỉnh Đắk Nông đã thực hiện có hiệu quả hoạt động kiểm sát
việc giải quyết các vụ án hành chính, kinh doanh thương mại, lao động và các
việc khác theo quy định của PL. Đã kiểm sát chặt chẽ việc trả lại đơn khởi
kiện của Tòa án, mở sổ thụ lý, theo dõi và lập phiếu kiểm sát việc thụ lý án
hành chính, kinh doanh thương mại, lao động, phân công KSV nghiên cứu hồ
sơ ngay sau khi tiếp nhận kiểm sát vụ án. Chú trọng kiểm sát các quyết định
tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án, Viện kiểm sát đã phát hiện nhiều quyết định tạm
đình chỉ không đúng căn cứ pháp luật và vi phạm pháp luật của Tòa án trong
việc áp dụng pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung,….. Chính vì vậy đã ban
hành 19 kiến nghị yêu cầu Tòa án khắc phục.
Kháng nghị phúc thẩm đối với bản án, quyết định hành chính, kinh
doanh thương mại, lao động… sơ thẩm là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm của Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính, tố tụng dân sự, một trong
những biện pháp thể hiện rõ nhất chức năng kiểm sát việc giải quyết vụ việc
dân sự, hành chính. Kháng nghị phúc thẩm góp phần khắc phục, sửa chữa vi
57
phạm của Toà án trong việc giải quyết vụ án về khiếu kiện quyết định hành
chính, hành vi hành chính, về hợp đồng xây dựng, hợp đồng mua bán, hợp
đồng lao động góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, bảo
đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất.
Viện KSND tỉnh đã ban hành 03 thông báo rút kinh nghiệm nghiệp vụ
đối với VKS cấp huyện, thành phố [59, 60].
2.2.5. Kiểm sát việc thi hành án dân sự, thi hành án hành chính
Thực hiện chức năng kiểm sát HĐTP trong lĩnh vực thi hành án,
VKSND tỉnh Đắk Nông luôn hoàn thành tốt các chỉ tiêu nhiệm vụ của ngành
cũng như Nghị quyết của Quốc hội đề ra về số việc cũng như số tiền. Các
trường hợp kê biên cưỡng chế, đấu giá tài sản và tiêu hủy tang vật đều được
kiểm sát chặt chẽ, chú trọng kiểm sát việc phân loại án của cơ quan THA.
Trực tiếp xác minh và phối hợp cùng với Cơ quan thi hành án giải quyết
những việc thi hành án tồn đọng phức tạp kéo dài. Trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ đã có sự linh hoạt, chủ động hơn khi áp dụng các phương thức kiểm
sát nên kết quả công tác kiểm sát thi hành án từng bước đạt hiệu quả cao hơn.
VKSND tỉnh đã kiểm sát và phối hợp chặt chẽ với Cơ quan thi hành án
và các ban ngành có liên quan họp bàn giải quyết được nhiều việc thi hành án
có khó khăn phức tạp, khiếu kiện kéo dài. Định kỳ ba ngành Toà án, Viện
kiểm sát, Cơ quan thi hành án họp rà soát xử lý đối với các trường hợp bản án
tuyên không rõ, khó thi hành trong việc tổ chức thi hành án, từ đó đề ra được
phương án tháo gỡ xử lý đúng quy định của pháp luật, không để điểm nóng
xảy ra góp phần bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa
phương.
Thông qua công tác kiểm sát thi hành án VKSND cấp tỉnh đã ban hành
05 kháng nghị, 44 kiến nghị đối với cơ quan thi hành án về các vi phạm như:
Chậm chuyển giao bản án, quyết định của tòa án cho cơ quan thi hành án
58
cùng cấp; vi phạm trong việc giải thích bản án; vi phạm việc xác minh điều
kiện thi hành án, việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án, vi phạm
trong việc lập hồ sơ sổ sách thi hành án, xử lý tang vật, tài sản tạm giữ; chậm
thanh toán, hoàn trả, …. Kết quả phúc tra việc thực hiện kiến nghị, kháng
nghị, đều được cơ quan THA dân sự tỉnh chấp nhận về những sai sót trong
quá trình ra quyết định và tổ chức thi hành. Do có sự kiểm sát chặt chẽ nên
các sai sót trong hoạt động thi hành án đã được giảm đáng kể. Phòng 8
VKSND tỉnh ban hành 03 thông báo rút kinh nghiệm nghiệp vụ đối với VKS
cấp huyện, thành phố [59, 60].
2.2.6. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm của Viện
kiểm sát và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại các cơ quan tư pháp
Nhìn chung, khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp tại tỉnh Đắk
Nông vẫn diễn biến phức tạp, số lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh và số lượng đơn đã tiếp nhận tăng nhanh đáng kể, có nhiều
đơn gửi vượt cấp, nhiều lần về cùng một vụ; Đơn gửi đến VKSND cấp tỉnh
tập trung chủ yếu về các nội dung: khiếu nại Cơ quan điều tra chậm giải quyết
tin báo, tố giác tội phạm, quyết định không khởi tố vụ án hình sự, kết luận
điều tra; khiếu nại Tòa án chậm đưa vụ án ra xét xử; khiếu nại Cơ quan Thi
hành án dân sự chậm thi hành án; khiếu nại VKSND truy tố không đúng
người, đúng tội; nhiều trường hợp đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm các bản
án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật đã được các cơ quan có
thẩm quyền giải quyết nhưng không chấp nhận kết quả mà tố cáo người tiến
hành tố tụng.
Qua công tác kiểm sát, Phòng Thanh tra - Khiếu tố Viện KSND cấp tỉnh
phát hiện một số các cơ quan tư pháp có vi phạm như: Có trường hợp ban
hành văn bản và áp dụng pháp luật giải quyết đơn tố cáo không đúng quy định
pháp luật; không gửi thông báo thụ lý đơn khiếu nại cho công dân; thụ lý
59
không đầy đủ đơn khiếu nại và chưa kịp thời hướng dẫn công dân đến cơ
quan có thẩm quyền khiếu nại; tiến hành lưu đơn không đúng quy định… ban
hành 03 thông báo rút kinh nghiệm nghiệp vụ đối với VKS cấp huyện, thành
phố trong kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại các cơ quan tư pháp
[59, 60].
2.3. Đánh giá chung thực trạng bảo đảm thực hiện quyền công tố và
kiểm soát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk
Nông
2.3.1. Những kết quả đạt được
Thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội, Chỉ thị công tác của ngành,
Viện KSND tỉnh Đắk Nông đã phấn đấu thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ
trên tất cả các khâu và lĩnh vực công tác; chú trọng, tăng cường nâng cao chất
lượng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần đảm bảo hoạt động
điều tra, xét xử, THA đều tuân thủ đúng quy định của pháp luật, đáp ứng yêu
cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Theo đó, VKSND tỉnh đã phối hợp chặt
chẽ với liên ngành tư pháp trong các khâu công tác từ khi khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử các vụ án; trong công tác bắt, giam, giữ, xử lý tội phạm; công
tác THA hình sự; THA dân sự; công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc
dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, vụ án hành chính; giải quyết khiếu
nại, tố cáo... Chính vì vậy quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được bảo
vệ; không để xảy ra oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm, từng bước đáp ứng được
yêu cầu cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 08, Nghị quyết 49 của Bộ
Chính trị; các Chỉ thị số 06 ngày 06/12/2013 và 04/CT-VKSTC ngày
10/7/2015 của Viện trưởng VKSND tối cao [1, 3, 44, 52]… Vì vậy, vị trí, vai
trò của Viện KSND tỉnh Đắk Nông trong hệ thống chính trị nói chung và
trong khối các cơ quan tư pháp tỉnh Đắk Nông nói riêng được nâng lên rõ rệt;
60
cũng cố được lòng tin với cấp ủy và chính quyền địa phương và cán bộ, công
chức, nhân dân trên địa bàn tỉnh đối với ngành kiểm sát nói chung và VKSND
tỉnh nói riêng.
VKSND tỉnh Đắk Nông và Ban thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam
tỉnh đã có quy chế phối hợp và xây dựng chương trình công tác để triển khai
thực hiện, đạt được nhiều kết quả nổi bật như việc phối hợp để bảo vệ quyền
con người theo Hiến pháp năm 2013. Qua công tác kiểm sát, giám sát lĩnh
vực tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố; bắt,
tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự; thi hành án dân sự và giải quyết
khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật. Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh
và VKSND tỉnh đã kịp thời kiến nghị đến cơ quan chức năng khắc phục vi
phạm trong lĩnh vực này; chấn chỉnh vi phạm về thẩm quyền, trình tự thủ tục
giải quyết khiếu nại, tố cáo; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị
tạm giữ, tạm giam; bảo đảm việc phân loại giam giữ đúng quy định của pháp
luật.
Thông qua công tác kiểm sát, VKSND tỉnh Đắk Nông đã phát hiện
nhiều vi phạm của các cơ cơ quan tư pháp trong việc áp dụng pháp luật, đã
kịp thời kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu các cơ quan khắc phục sửa chữa. Hầu
hết các kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu của VKS đều được các cơ quan tư
pháp chấp nhận và thực hiện, khắc phục vi phạm một cách hiệu quả, góp phần
đảm bảo pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất.
Các phòng nghiệp vụ VKSND tỉnh thường xuyên tổng hợp những sai
sót, vi phạm trong công tác THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp để thông
báo rút kinh nghiệm chung trong toàn ngành nhằm nâng cao chất lượng giải
quyết.
Qua thực trạng bảo đảm THQCT và kiểm soát hoạt động tư pháp của
VKSND tỉnh Đắk Nông như đã phân tích, thấy rằng đã đạt được những kết
61
quả như:
Thứ nhất, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đã có nhiều biện pháp
nghiệp vụ đổi mới công tác kiểm sát điều tra nhằm thực hiện tốt hơn chức
năng kiểm sát và THQCT như đã chủ động cùng các ngành sơ kết rút kinh
nghiệm công tác quản lý nguồn tin về tội phạm theo Thông tư liên tịch số
01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29/12/2017
[8]. Những năm gần đây VKSND tỉnh Đắk Nông đã có nhiều kiến nghị đối
với những vi phạm của cơ quan điều tra. VKSND cấp tỉnh đã tổng hợp những
mặt thiếu sót qua kiểm sát trong công tác quản lý để tham mưu cho thường
trực Tỉnh ủy và UBND tỉnh có biện pháp chấn chỉnh, tổ chức các Hội nghị để
phòng ngừa tội phạm. Phối hợp với Ban Nội chính Tỉnh ủy xây dựng Quy chế
phối hợp giữa Ban Nội chính Tỉnh ủy với Ban Cán sự đảng VKS tỉnh trong
công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng. VKSND tỉnh đã tham gia
Đoàn kiểm tra của Ban Thường vụ Tỉnh ủy kiểm tra việc thực hiện Chỉ thị số
48-CT/TW của Bộ Chính trị tại một số cơ quan trong tỉnh.
Thứ hai, VKS đã thực hiện đúng quy định của pháp luật, quy chế của
Ngành về công tác kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam. Đối với việc kiểm sát
áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong bắt, tạm giữ, tạm giam đảm bảo, vừa
thận trọng và bám sát các quy định của pháp luật nên chất lượng của hoạt
động THQCT và kiểm sát điều tra của VKS trong việc kiểm sát và phê chuẩn
các biện pháp này được nâng lên rõ rệt. Kiểm sát chặt chẽ tính hợp pháp của
các Lệnh, Quyết định, thời hạn tạm giữ, tạm giam. Đảm bảo tất cả các trường
hợp bị bắt, tạm giữ, tạm giam phải có căn cứ, đúng pháp luật.
Thứ ba, VKSND tỉnh đã thực hiện tốt các biện pháp tăng cường trách
nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra
theo Chỉ thị 06/CT-VKSTC ngày 06/12/2013 của Viện trưởng Viện KSND tối
cao; Chỉ thị số: 05/CT-VKSTC ngày 27/4/2020 về tăng cường trách nhiệm
62
công tố trong giải quyết các vụ án hình sự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng,
chống tội phạm [44, 47]. KSV thực hiện nghiêm túc việc xây dựng hồ sơ
kiểm sát, xây dựng kế hoạch kiểm sát điều tra, nhật ký công tác THQCT và
KSĐT để nắm chắc tiến độ điều tra vụ án; chủ động tham gia cùng ĐTV lấy
lời khai người bị tình nghi thực hiện tội phạm trước khi phê chuẩn lệnh, quyết
định, bảo đảm các quyết định phê chuẩn của VKS có căn cứ, đúng pháp luật;
kịp thời đề ra yêu cầu điều tra đạt chất lượng và hiệu quả;
Thứ tư, VKS đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
công tác THQCT và KSXX, trong đó: Đã chủ động phối hợp với Tòa án tổ
chức các phiên tòa rút kinh nghiệm, nâng cao chất lượng, kỹ năng tranh tụng
của KSV. Trong những năm qua không có vụ nào VKS truy tố, tòa tuyên
không phạm tội. Thực hiện tốt Chỉ thị số 09/CT-VKSTC ngày 06/4/2016 của
Viện trưởng Viện KSND tối cao, về tăng cường các biện pháp nâng cao chất
lượng tranh trụng của KSV tại phiên tòa [54], Chỉ thị số 08/CT-VKSTC ngày
06/4/2016 của Viện trưởng Viện KSND tối cao về nâng cao số lượng, chất
lượng kháng nghị phúc thẩm [53]; thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm sát bản án,
quyết định của TAND hai cấp; Điều đáng nghi nhận là số lượng cũng như
chất lượng kháng nghị năm sau thường tăng cao hơn năm trước, các kháng
nghị được Viện kiểm sát cấp trên bảo vệ tỷ lệ thuận với số bị cáo có kháng
nghị được Toà án chấp nhận. Đạt được những kết quả nêu trên là do Chỉ thị
của Viện trưởng VKSNDTC ban hành kịp thời và có tác động tích cực vào
việc xây dựng chương trình, kế hoạch công tác của Viện KSND tỉnh nói
chung và các Viện KSND huyện, thành phố trong ngành nói riêng.
Thứ năm, VKSND tỉnh đã thực hiện đúng quy định của pháp luật, Quy
chế của Ngành về công tác kiểm sát thi hành án hình sự, tăng cường kiểm sát
thi hành án hình sự nên công tác thi hành án hình sự cơ bản đảm bảo đúng thủ
63
tục; duy trì tốt chế độ kiểm sát thường kỳ, kiểm sát bất thường tại Nhà tạm
giữ, Trại tạm giam và cơ quan được giao nhiệm vụ tổ chức thi hành án hình
sự..
Thứ sáu, VKSND tỉnh đã triển khai và thực hiện nghiêm túc quy định
Bộ luật tố tụng dân sự 2015 [31], Bộ luật dân sự năm 2015 [36], Luật TTHC
năm 2015 [33], Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC
ngày 31/8/2016 của Viện KSND tối cao, Tòa án nhân dân tối cao quy định
việc phối hợp giữa Viện KSND tối cao và Tòa án nhân dân tối cao trong việc
thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự [49] và Thông tư liên
tịch số 03/2016 ngày 31/8/2016 của Viện KSNDTC, TANDTC quy định việc
phối hợp giữa VKS và TA trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật
tố tụng hành chính [48] và Quy chế nghiệp vụ của Ngành; đề cao trách nhiệm
kiểm sát chặt chẽ, ngay từ việc thụ lý, giải quyết yêu cầu khởi kiện của Tòa
án. Những vi phạm trong hoạt động tư pháp được VKSND cấp tỉnh phát hiện
kịp thời, nội dung kiến nghị, kháng nghị đảm bảo chính xác được Tòa án tiếp
thu thực hiện.
Thứ bảy, VKSND tỉnh đã phối hợp với Cơ quan THA dân sự tỉnh thực
hiện tốt Quy chế phối hợp Liên ngành về công tác thi hành án dân sự và Luật
thi hành án dân sự năm 2019 [28]. Đôn đốc cơ quan THA dân sự xử lý vật
chứng tồn kho và tiền tạm ứng án phí, lệ phí còn tồn đọng; rà soát, đề nghị
TAND xử lý các bản án tuyên không rõ, khó thi hành, góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự; phối hợp với cơ quan thi hành án
dân sự và các ngành hữu quan giải quyết cơ bản những việc thi hành án kéo
dài. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát thi hành án dân sự, thi
hành án hành chính theo Chỉ thị của Viện trưởng VKSND tối cao số 07/CT-
VKSTC ngày 23/11/2017 [56].
Thứ tám, VKSND đã thực hiện tốt giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt
64
động tư pháp thuộc thẩm quyền. Đối với đơn khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm
quyền giải quyết của VKSND cấp tỉnh, Lãnh đạo Viện đã trực tiếp đối thoại,
làm việc với người khiếu nại để làm rõ nội dung khác biệt giữa nội dung với
kết quả xác minh đơn khiếu nại đồng thời hướng dẫn, giải thích pháp luật cho
người khiếu nại nên giải quyết đơn được nhanh chóng, thuận lợi. Bên cạnh
đó, Lãnh đạo Viện KSND cấp tỉnh đã quan tâm chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc,
các quan điểm chỉ đạo của Trung ương Đảng, nhất là Chỉ thị 35-CT/TW ngày
26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác tiếp công dân giải quyết khiếu nại, tố cáo [5], coi đây là nhiệm vụ quan
trọng, thường xuyên; quán triệt Chỉ thị số 04/CT-VKSTC ngày 28/7/2017 của
Viện trưởng VKSND tối cao về tăng cường công tác tiếp công dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động
tư pháp [57].
Những hạn chế Công tác kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử hình sự;
công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành
chính, kinh tế, lao động; công tác kiểm sát giam giữ và THA hình sự, công tác
kiêm sát THA dân sự và công tác kiểm sát giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc
trách nhiệm của Viện kiểm sát và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại
các cơ quan tư pháp của Viện KSND đã có sự phối hợp khá chặt chẽ và có
hiệu quả. Không chỉ có trong nội bộ ngành kiểm sát mà còn phối hợp với các
ngành tư pháp khác để cùng đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm
pháp luật. Vì vậy những năm qua, VKSND tỉnh Đắk Nông đã đạt được những
thành tích nhất định trong việc thực hiện chức năng bảo đảm THQCT và kiểm
sát các hoạt động tư pháp, xứng đáng là đơn vị 02 lần được Nhà nước tặng
thương Huân chương lao động hạng 3 và hạng nhì.
2.3.2. Những hạn chế, tồn tại
Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm đạt được, thấy rằng vẫn còn bộc lộ
65
một số điểm tồn tại như:
Thứ nhất, tuy không để xảy ra tình trạng nguồn tin về tội phạm để quá
thời hạn giải quyết nhưng phần lớn các tin báo, tố giác về tội phạm và kiến
nghị khởi tố phức tạp, đặc biệt là các kiến nghị khởi tố liên quan đến các dự
án kinh tế, gói thầu công trình xây dựng, tố giác bị chiếm đoạt tài sản liên
quan đến nhiều địa bàn, có nhiều người tham gia, sử dụng công nghệ cao để
chiếm đoạt đã ảnh hưởng và gây khó khăn cho hoạt động xác minh…Công
tác nắm tin báo, tố giác tội phạm của VKS chưa được kịp thời, phần lớn dựa
trên sổ tiếp nhận giải quyết của CQĐT.
Thứ hai, công tác phối hợp trong điều tra, truy tố, xét xử nhiều khi còn
chưa chặt chẽ, kịp thời; dẫn đến bị VKSND cấp cao hủy án hình sự để điều
tra, xét xử lại; tình trạng án trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng tuy nằm trong tỷ lệ cho phép của ngành nhưng vẫn còn cao, có 1
số vụ án trả đi trả lại nhiều lần; một số vụ án vận dụng pháp luật không chính
xác nên dẫn đến phải đình chỉ điều tra; hạn chế này đã gây ảnh hưởng không
nhỏ đến hiệu quả công tác đấu tranh xử lý tội phạm.
Thứ ba, VKS là cơ quan phải chịu trách nhiệm chính trong việc để xảy
ra tình trạng án hình sự bị đình chỉ điều tra do hành vi không cấu thành tội
phạm. Bởi lẽ, trong tố tụng hình sự, VKS là cơ quan có chức năng THQCT
(quyết định phê chuẩn khởi tố bị can, quyết định việc áp dụng biện pháp ngăn
chặn, quyết định việc truy tố người thực hiện hành vi phạm tội) và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự ngay từ khi
tiếp nhận tin báo xảy ra và trong suốt quá trình điều tra của CQĐT, nhằm bảo
đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội
phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Trong thời gian qua,
66
CQĐT Công an tỉnh đã đình chỉ điều tra 01 vụ, trong đó có 01 vụ/01 bị can vì
hết thời hạn điều tra không chứng minh được hành vi phạm tội quy định tại
điểm b Khoản 1 Điều 230 BLTTHS 2015 [30].
Thứ tư, số vụ án hiện đang theo dõi tạm đình chỉ cao (trên 500 vụ); tin
nguồn tin về tội phạm đang tạm đình chỉ gần 300 vụ việc. Việc rà soát án tạm
đình chỉ điều tra tuy đã thực hiện nhưng chưa được thường xuyên (chưa thành
lập ban chỉ đạo và Tổ giúp việc để rà soát), bởi nếu thường xuyên rà soát phát
hiện trường hợp nào tạm đình chỉ mà có căn cứ phục hồi thì tiến hành phục
hồi hoặc có căn cứ đình chỉ thì tiến hành đình chỉ, trong kỳ liên ngành chỉ mới
phối hợp đình chỉ được 40 vụ do hết thời hiệu truy cứu TNHS.
Thứ năm, một số vụ án dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại bị
hủy tổng số là 24 vụ, cải sửa 16 vụ đều có trách nhiệm của VKS, việc tham
gia phiên tòa dân sự, hành chính, kinh doanh, thương mại của Kiểm sát viên
tuy đảm bảo nhưng trình độ phát hiện vi phạm trong quá trình lập hồ sơ, hòa
giải, xét xử còn hạn chế, trong khi án có vi phạm bị hủy, cải sửa còn chiếm tỷ
lệ tương đối cao, chất lượng kháng nghị một số vụ án chưa tốt, còn có trường
hợp phải rút kháng nghị hoặc không được Tòa án xét xử chấp nhận.
Thứ sáu, trong kiểm sát THA dân sự, THA hành chính có số lượng việc
và tiền thi hành lớn, có nhiều đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động thi hành
án dân sự nhưng thống kê thấy chỉ kháng nghị được 05 vụ việc, năm 2021 và
6 tháng năm 2022 không kháng nghị vụ việc nào. Thực trạng này chưa phản
ánh đúng và đầy đủ về tình trạng vi phạm trong hoạt động THA dân sự, hoạt
động kiểm sát THA dân sự của ngành THA. Kiểm sát việc xác minh điều kiện
thi hành án của VKS ít, vì thế không phát hiện hoặc phát hiện chưa kịp thời,
đầy đủ dẫn đến việc tác động đến cơ quan THA dân sự chưa kịp thời.
Thứ bảy, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm của
Viện kiểm sát và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại các cơ quan tư
67
pháp: Trong kỳ chưa ban hành kháng nghị, kiến nghị nào đối với các cơ quan,
tổ chức, đơn vị có liên quan mà chỉ mới dừng lại là yêu cầu. Số vụ việc vi
phạm được phát hiện trong quá trình kiểm sát trực tiếp về nội dung giải quyết
còn ít, chủ yếu chỉ phát hiện vi phạm về thẩm quyền, hình thức, thời hạn, thủ
tục. Kiểm sát giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm
quyền VKSND tỉnh trong thời gian qua vẫn còn tình trạng để quá thời hạn
giải quyết đơn.
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế
* Về nguyên nhân chủ quan
- Về THQCT và kiểm sát các HĐTP trong lĩnh vực hình sự
Một là, trình độ, năng lực chuyên môn của một bộ phận KSV còn có
hạn chế nhất định. Vẫn còn có KSV chưa nắm vững quy định của pháp luật
nói chung, pháp luật hình sự nói riêng liên quan đến trình tự thủ tục tiếp nhận
giải quyết, còn lúng túng trong việc ADPL; năng lực hiểu, biết, phân tích,
tổng hợp, đánh giá chứng cứ còn hạn chế trong quản lý kinh tế, tài chính...
thuần tuý trong hoạt động nghiệp vụ THQCT và kiểm sát các hoạt động tư
pháp, chưa chuyên sâu, do đó không hiểu hết được bản chất của các vụ việc,
không đủ căn cứ, lý luận để bảo vệ cho quan điểm quyết định của mình, dẫn
đến số lượng án bị huỷ, sửa, phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung chiếm đa số, có
vụ trả nhiều lần.
Hai là, công tác bố trí, sắp xếp và sử dụng cán bộ, KSV chưa chú trọng
đến trình độ, năng lực, bố trí KSV thiếu những kiến thức và kinh nghiệm cần
thiết để THQCT, KSĐT, KSXX đối với các vụ án kinh tế, tham nhũng, chức
vụ, nhưng chưa chú trọng đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về quản lý kinh tế, tài
chính, ngân hàng, xây dựng. Chưa có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng dài hạn,
chuyên sâu để tạo nguồn chuyên gia trong các lĩnh vực công tác. Phải bị luân
68
chuyển, điều động nhiều dẫn đến chưa an tâm công tác.
Ba là, công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành của Lãnh đạo VKSND tuy
đã được tăng cường đổi mới nhưng có lúc có nơi còn bất cập. Trước hết là
việc kiểm tra, chỉ đạo KSV thực hiện các thao tác nghiệp vụ theo Quy chế
THQCT và KSĐT cũng như việc lập hồ sơ kiểm sát theo quy định của Ngành
còn chưa bảo đảm chặt chẽ nên những thiếu sót của KSV trong quá trình
THQCT chưa được phát hiện, chấn chỉnh, khắc phục kịp thời. Công tác kiểm
tra, hướng dẫn nghiệp vụ, chỉ đạo của lãnh đạo đối với KSV có lúc, có nơi
chưa được chú trọng.
Bốn là, công tác phối hợp liên ngành giữa các cơ quan tư pháp, đặc biệt
là giữa VKS với CQĐT và Toà án trong việc giải quyết các vụ việc phức tạp
nói chung, đối với các vụ án kinh tế, tham nhũng, chức vụ nói riêng chưa
chặt chẽ, chất lượng chưa cao; vẫn còn tình trạng né tránh, sợ trách nhiệm,
ngại va chạm khi được phân công tham gia tố tụng, nhất là làm việc, lấy lời
khai người có chức vụ, quyền hạn. Các vụ án kinh tế, tham nhũng, chức vụ
thường được dư luận quan tâm, bình luận trên các phương tiện thông tin đại
chúng; có những vụ án việc giải quyết chứa đựng các yếu tố chính trị, kinh tế
... cần được quan tâm, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, do vậy cũng tạo áp lực, kéo
dài thời gian xử lý cho các cơ quan và người tiến hành tố tụng.
Năm là, hoạt động tổng kết rút kinh nghiệm, xây dựng các chuyên đề
của VKSND tỉnh hàng năm trong việc nâng cao chất lượng THQCT và kiểm
sát các HĐTP chưa được chú trọng thực hiện. Do đó chưa rút ra được bài học
kinh nghiệm, các giải pháp để khắc phục những hạn chế để KSV học hỏi, vận
dụng, áp dụng vào THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Sáu là, theo Luật Bồi thường nhà nước quy định về trách nhiệm bồi
thường oan, sai trong hoạt động tố tụng, khi VKS đã phê chuẩn quyết định
69
khởi tố bị can, các biện pháp ngăn chặn theo quy định thì VKS phải chịu trách
nhiệm bồi thường khi xảy ra oan, sai. Chính vì vậy dẫn đến tâm lý chủ quan
cho Điều tra viên, Cơ quan điều tra trong quá trình điều tra xác minh.
- Trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định
của pháp luật
Một là, KSV chưa phát huy hết tinh thần trách nhiệm khi được phân
công kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động; chưa thật sự tự giác nghiên cứu tài liệu, văn bản pháp
luật liên quan đến giải quyết án; dễ dàng chấp thuận hoặc đồng ý với quan
điểm giải quyết của Tòa án. Năng lực trình độ nghiệp vụ của một số KSV làm
công tác kiểm sát giải quyết các loại án này còn hạn chế, chưa đáp ứng nhu
cầu công tác và đòi hỏi của thực tiễn.
Hai là, Lãnh đạo đơn vị có lúc chưa chú trọng về công tác kiểm sát giải
quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động nên việc triển khai, chỉ đạo công tác, phân công KSV tham gia kiểm sát
giải quyết còn chưa phù hợp yêu cầu, tính chất công việc.
Ba là, việc thực hiện chế độ kiểm tra, thanh tra của cấp trên đối với cấp
dưới chưa được thường xuyên, có lúc thiếu sâu sát.
Bốn là, quy định của pháp luật về cơ chế thực hiện quyền năng của
VKS chưa bảo đảm như theo quy định của pháp luật, khi phát hiện vi phạm,
VKS chỉ có quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị mà không có cơ chế bắt
buộc thực hiện kiến nghị, yêu cầu. Vì vậy, trên thực tế có rất nhiều kiến nghị,
yêu cầu của VKS nhưng chưa được thực hiện đầy đủ và nghiêm túc nên vi
phạm để kéo dài hoặc lặp lại nhiều lần. Ví dụ, VKS đã nhiều lần kiến nghị
TAND khắc phục việc gửi bản án, quyết định chậm cho VKS nhưng tình
70
trạng vi phạm đó vẫn chưa được khắc phục triệt để, còn lặp đi lặp lại hàng
năm; nhiều vụ án dân sự, kinh doanh, thương mại vi phạm thời hạn chuẩn bị
xét xử, VKS đã kiến nghị nhưng chưa được giải quyết kịp thời.
- Trong công tác kiểm sát THA dân sự, thi hành án hành chính:
Một là, nhận thức của 1 bộ phận kiểm sát viên còn xem nhẹ khi được
phân công thực hiện khâu công tác này, cho rằng công việc THA dân sự do
Cơ quan THA dân sự, Chấp hành viên thực hiện. VKS chỉ kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong quá trình tổ chức THA của Cơ quan THA dân sự, Chấp
hành viên. Trách nhiệm của VKS trong công tác này chưa được thể hiện rõ
nét, còn bị phụ thuộc vào ngành bạn.
Hai là, Lãnh đạo phòng thường được bố trí là người lớn tuổi, có văn
bằng khác chưa được đào tạo chuyên sâu nghiệp vụ kiểm sát, KSV mới vào
ngành chưa có kinh nghiệm trong công tác, còn thờ ơ xem nhẹ với công tác
được giao, có lúc có nơi chưa nắm vững qui định của pháp luật liên quan đến
lĩnh vực THADS … Công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho kiểm sát
viên làm công tác kiểm sát THADS chưa được chú trọng.
Ba là, KSV khi kiểm sát quyết định THA chưa chú trọng nhiều đến
công việc, còn thụ động, lơ là, không nghiên cứu các quy định của pháp luật;
chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm trong quá trình kiểm sát quyết định về
thi hành dân sự; chưa thực hiện đúng và đầy đủ theo Quy chế công tác kiểm
sát THA dẫn đến công tác kiểm sát vẫn còn hạn chế. Các vi phạm của Cơ
quan THA, Chấp hành viên trong việc ban hành, tổ chức thực hiện quyết định
thi hành, quyết định về THA chưa được phát hiện kịp thời. Việc tổng hợp vi
phạm để kháng nghị, kiến nghị với các cơ quan chức năng chưa nhiều, chất
lượng chưa cao.
Bốn là, việc chuyển giao bản án, quyết định của Toà án cho VKS chưa
kịp thời, đầy đủ ảnh hưởng đến việc kiểm sát thời hạn ra quyết định THA của
71
Cơ quan THADS.
- Trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm của
VKS và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại các cơ quan tư pháp
Một là, trước đây việc giải quyết đơn khiếu nại tại VKS tỉnh Đắk Nông
chưa được quan tâm và chỉ đạo thực hiện đúng về quy trình, thủ tục giải quyết
theo quy định nhưng kể từ khi VKSNDTC ban hành Quyết định số 51 ngày
02/02/2016 về quy chế tiếp công dân, giải quyết KNTC và kiểm sát việc giải
quyết KNTC trong hoạt động tư pháp [51]; Quyết định số 546 ngày
03/12/2018 của VKSTC quy định về quy trình giải quyết KNTC; Thông tư
liên tịch số 02/2018/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT
ngày 05/9/2018 quy định về phối hợp thi hành một số quy định của BLTTHS
về KNTC ....thì hoạt động này được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chặt
chẽ hơn, đã chỉ đạo yêu cầu VKS các huyện, thành phố nghiên cứu đầy đủ các
quy định để thực hiện đảm bảo giải quyết đúng trình tự, nội dung và thời hạn,
Phòng Thanh tra-Khiếu tố Viện KSND tỉnh tăng cường công tác theo dõi,
hướng dẫn, kiểm tra để tham mưu cho Lãnh đạo viện.
Hai là, đối với các phòng nghiệp vụ có nhiệm vụ phối hợp, do khối
lượng công việc chuyên môn nhiều và tăng dần theo từng năm, thiếu biên chế
và người có chức danh tư pháp, một số KSV được phân công tham gia phối
hợp còn chưa chủ động nghiên cứu thực hiện nhiệm vụ được giao, nên ảnh
hưởng đến việc phối hợp tham mưu giải quyết đơn.
Ba là, theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 13 quy chế tiếp công dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
hoạt động tư pháp (Quyết định số 51/QĐ-VKSTC-V12 ngày 02/02/2016 của
VKSNDTC) [45] thì phòng nghiệp vụ chịu trách nhiệm về nội dung và đảm
nhiệm làm việc với người khiếu nại, còn thông báo kết quả kiểm sát Quyết
định giải quyết khiếu nại lần đầu lại giao cho Phòng Thanh tra, Khiếu tố
72
(trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận được QĐ giải quyết khiếu nại).
* Về nguyên nhân khách quan
- Công tác THQCT và kiểm sát các HĐTP trong lĩnh vực hình sự:
BLHS năm 2015, bổ sung, sửa đổi năm 2017 có hiệu lực từ ngày
01/01/2018 đã thay thế BLHS năm 1999, sửa đổi năm 2009. Do thời điểm đầu
khi áp dụng các cơ quan tiến hành tố tụng còn gặp nhiều khó khăn trong việc
nghiên cứu hành vi, tội danh mới quy định để áp dụng khi xử lý. Thực trạng
này một mặt là do trình độ lập pháp của chúng ta còn hạn chế, nhà làm luật
chưa dữ liệu được hết các hành vi xảy ra trên thực tế của đời sống xã hội để
xây dựng điều chỉnh. Những nguyên nhân khách quan từ phía pháp luật thực
định làm ảnh hưởng, hạn chế đến chất lượng THQCT, KSĐT các vụ án hình
sự dẫn đến việc khởi tố, truy tố, xét xử còn có những bất cập, vướng mắc,
chưa được thống nhất giữa giữa các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và ở
cả VKSND tỉnh Đắk Nông nói riêng như: Hành vi làm giả con dấu, tài liệu
của cơ quan, tổ chức và sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức để chiếm
đoạt tài sản hiện vẫn còn nhiều quan điểm và cách giải quyết khác nhau giữa
các cơ quan tiến hành tố tụng tại địa phương và trong khu vực như hành vi đặt
người khác làm giả tài liệu để sử dụng, sau đó sử dụng tài liệu giả này để lừa
đảo CĐTS thì xử lý 3 tội: Làm giả, sử dụng tài liệu của cơ quan tổ chức và
Lừa đảo CĐTS hay chỉ xử lý 2 tội là sử dụng tài liệu giả và Lừa đảo CĐTS;
Việc vận dụng khoản 3 Điều 29 BLHS để miễn trách hình sự, đặc biệt là
nhóm tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo khoản 1
Điều 260 BLHS giữa các huyện, TP trong tỉnh chưa thống nhất; Hành vi “gây
ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”, là tình tiết định khung
trong một số tội về xâm phạm sở hữu và tội Gây rối trật tự công cộng nhưng
chưa có hướng dẫn áp dụng như thế nào được xem là gây ảnh hưởng xấu.
Về công tác giải thích hướng dẫn ADPL của cơ quan có thẩm quyền
73
còn nhiều bất cập và chưa kịp thời. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan có
thẩm quyền giải thích Luật, Pháp lệnh.... Nhưng trên thực tế, UBTV Quốc hội
hầu như ít thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mang tính Hiến định này, bởi lẽ,
việc xây dựng các dự án luật cũng như việc xây dựng và ban hành pháp lệnh
theo sự uỷ quyền của Quốc hội cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội luôn phải
hoạt động quá tải. Chính vì vậy mọi vướng mắc trong việc ADPL đều trông
chờ vào văn bản hướng dẫn của cơ quan tư pháp Trung ương (HĐTP
TANDTC; Thông tư liên tịch....). Thực tế cho thấy việc ban hành văn bản
hướng dẫn của các cơ quan tư pháp trung ương còn chậm, mâu thuẫn, không
thống nhất còn chồng chéo lẫn nhau, chưa đáp ứng được tình hình yêu cầu
thực thi pháp luật. Nguyên nhân là do chậm nghiên cứu tổng kết thực tiễn để
có sự giải thích, hướng dẫn kịp thời và chưa có cơ chế phối hợp có hiệu quả
giữa các cơ quan ở Trung ương trong việc xây dựng và ban hành văn bản
hướng dẫn thi hành pháp luật.
Trong một số vụ án phức tạp, Viện KSND cấp tỉnh xin ý kiến thỉnh thị
của VKSND cấp cao, Vụ nghiệp vụ Viện KSND tối cao nhưng chưa được trả
lời kịp thời hoặc xin thỉnh thị của Liên ngành Trung ương. Vì vậy, thực tế đã
có một số vụ án hình sự phải tạm đình chỉ giải quyết, trả hồ sơ để điều tra bổ
sung nhiều lần, kéo dài thời gian xử lý.
Tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp, quy mô, tính chất, mức độ
phạm tội, thủ đoạn hoạt động phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt, địa bàn
rộng, đồi núi hiểm trở, xa khu dân cư; gây án xong xóa dấu vết, tạo hiện
trường giả, bỏ trốn khỏi địa phương nên gây khó khăn trong quá trình thu thập
chứng cứ chứng minh tội phạm, nhất là án xâm phạm tính mạng, sức khoẻ;
trong lĩnh vực kinh tế, chức vụ có tính “động” cao nhưng pháp luật hình sự
của nước ta chưa hoàn chỉnh, thiếu định lượng cụ thể, liên ngành tư pháp
Trung ương chưa có hướng dẫn kịp thời nên khó khăn cho việc thu thập
74
chứng cứ, đánh giá tính chất, mức độ phạm tội, gây khó khăn trong việc xác
định tội danh, nhiều trường hợp quan điểm của các cơ quan tiến hành tố tụng
hình sự vận dụng khác nhau nên dẫn đến không thống nhất trong công tác xử
lý tội phạm.
Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo quy định hiện
hành là quá ngắn không phù hợp với một số vụ việc phức tạp. Ví dụ như vụ
án liên quan đến mua bán hóa đơn giá trị gia tăng trái phép, trốn thuế, quản lý
đất đai, không thể xác minh trong thời gian tối đa 4 tháng (kể cả gia hạn).
Ngoài ra có những trường hợp phải tiến hành định giá tài sản, phải chờ kết
quả của trưng cầu giám định, nhất là giám định tâm thần hoặc giám định tỷ lệ
thương tật, gen, ADN.....
Khách thể của tội phạm kinh tế, chức vụ bị xâm hại đa dạng, muôn
hình, muôn vẻ, thủ đoạn phạm tội tinh vi nên ranh giới, khó phân biệt tội
phạm này với tội phạm khác dẫn đến các cơ quan tiến hành tố tụng không
thống nhất với nhau về tội danh, dẫn đến có vụ bị hủy án điều tra lại hoặc sửa
án.
Bên cạnh đó, có nguyên nhân tác động đến tư tưởng và trách nhiệm của
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán trong quá trình tiến hành tố tụng về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị oan, sai còn nặng nề, tỏ ra dè
dặt, thận trọng quá mức trong việc đấu tranh xử lý tội phạm.
- Trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định
của pháp luật:
Văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này khá rộng, hay thay đổi,
quy định chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu đồng bộ, chậm ban hành văn bản dưới
luật dẫn tới nhận thức và vận dụng không thống nhất.
Số lượng các khiếu kiện về án hành chính, kinh doanh, thương mại, lao
75
động ngày càng tăng và tính chất phức tạp hơn. Các tranh chấp bị khởi kiện
đa phần về lĩnh vực tài chính, ngân hàng, đầu tư... Trong khi công tác quản lý
trên lĩnh vực này thời gian qua ở địa phương chưa được tốt, sự biến động về
chính sách tiền tệ, đầu tư, sự thay đổi, điều chỉnh về cách thức quản lý nên khi
tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án của cơ quan tố
tụng gặp nhiều khó khăn.
- Trong công tác kiểm sát THA dân sự, THA hành chính:
Nhiều vụ việc qua xác minh thể hiện đương sự không có điều kiện thi
hành án, có trường hợp đi khỏi địa phương không xác định được nơi cư trú
mới hoặc tuy họ có tài sản nhưng không đủ để bảo đảm thi hành và chưa đủ
điều kiện để được đưa ra xem xét miễn, giảm THA vẫn chưa có hướng xử lý
nên để tồn đọng kéo dài.
Ý thức tuân thủ pháp luật của người phải THA chưa cao, có trường hợp
người phải THA cố tình chây ỳ, tẩu tán, chống đối lại cán bộ thi hành án,
khiếu nại vượt cấp nhằm mục đích kéo dài hoặc không thi hành án.
Việc chuyển giao bản án, quyết định của Toà án cho VKS để bộ phận
kiểm sát THADS theo dõi chưa kịp thời, đầy đủ ảnh hưởng đến việc kiểm sát
thời hạn ra quyết định THA của Cơ quan THADS.
Cơ chế pháp lý, hướng dẫn, chỉ đạo của cấp có thẩm quyền chậm được
ban hành nên các cơ quan thực thi pháp luật chưa có cơ sở để giải quyết dứt
điểm đối với những bản án còn sai sót do Toà án tuyên không rõ, khó thi
hành, còn tồn đọng nhiều năm chưa giải quyết được.
- Trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm của
VKS và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại các cơ quan tư pháp:
Một số công dân chưa hiểu đúng về nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân
dân trong công tác tiếp công dân và tiếp nhận, giải quyết đơn, thư khiếu nại,
76
cũng như công tác kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan
tư pháp (không có thẩm quyền giải quyết, kiểm sát việc giải quyết mọi khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân).
Công tác quản lý đơn chưa được Viện KSND tối cao xây dựng phần
mềm để cập nhập. Vì vậy, việc quản lý, theo dõi đơn như hiện nay chưa được
bảo đảm; hiệu quả công tác quản lý đơn còn gặp nhiều hạn chế như không
quản lý đơn, số đơn trùng ...
Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của VKSND tỉnh Đắk Nông mặc
dù đã được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư nhưng vẫn chưa đáp ứng tốt
yêu cầu thực thi nhiệm vụ, đó cũng là một trong những nguyên nhân làm ảnh
hưởng đến chất lượng và hiệu quả công tác THQCT và kiểm sát các hoạt
77
động tư pháp.
Tiểu kết chương 2
Nội dung chương 2, tác giả sử dụng các phương pháp tổng hợp, phân
tích, thống kê, so sánh để làm rõ thực trạng THQCT và kiểm soát các hoạt
động tư pháp của VKSND tỉnh Đắk Nông. Qua phân tích số liệu của VKS, có
thể thấy được những kết quả đạt được, bên cạnh đó cũng còn không ít những
hạn chế, yếu kém đã được chỉ ra cần phải sớm được khắc phục. Những phân
tích trên cho thấy, hoạt động THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp của
VKSND tỉnh Đắk Nông trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tích
đáng kể; kết quả đó đã góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội, góp phần đấu tranh tội phạm trên địa bàn đạt kết quả; thúc đẩy phát triển
kinh tế xã hội của tỉnh, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của các tổ chức và cá nhân trong xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện
chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp còn có những tồn tại, hạn
chế, những hạn chế đó do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng chủ yếu vẫn
là yếu tố con người như: Năng lực, trình độ của cán bộ, KSV còn hạn chế
chưa theo kịp với tiến trình phát triển hội nhập quốc tế, sự phát triển kinh tế
của nước ta; tiếp đến là những nguyên nhân khách quan khác như hệ thống
pháp luật của chúng ta chưa được hoàn thiện, đầy đủ, thống nhất, chưa có
những hướng dẫn kịp thời, còn nhiều bất cập; phương tiện vật chất còn thiếu;
do đó còn chưa thể phát hiện, xử lý được nhiều nhóm tội như kinh tế, chức
vụ, tham nhũng, cũng như những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của tội phạm
này.
Thực trạng trên cho thấy, cần phải có những phương hướng, giải pháp
bảo đảm THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND tỉnh Đắk
Nông, nhằm góp phần đáp ứng cơ bản yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp
78
ở nước ta hiện nay.
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN
CÔNG TỐ VÀ KIỂM SOÁT CÁC HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG
3.1. Phương hướng bảo đảm thực hiện quyền công tố và kiểm soát
các hoạt động tư pháp
3.1.1. Quán triệt đầy đủ các chủ trương, định hướng của Đảng và
Nhà nước ta về cải cách tư pháp liên quan đến bảo đảm thực hiện quyền
công tố và kiểm soát các hoạt động tư pháp
Ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Nâng cao
chất lượng hoạt động và đề cao trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ tư
pháp: “Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được
thực hiện ngày từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo
đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội,
xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng
khi thi hành nhiệm vụ. Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại
phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sưư, người bào chữa và những
người tham gia tố tụng khác…
Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ, bảo đảm đúng pháp
luật; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết không
phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện và xử lý kịp thời các trường
hợp oan, sai trong bắt, giữ. Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những
oan sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê
79
chuẩn của mình” [1].
Tiếp đó ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48 về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020. Cụ thể: Xây dựng và hoàn thiện pháp luật
về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp phù hợp với mục tiêu, định
hướng của Chiến lược cải cách tư pháp; xác định đúng, đủ quyền năng và
trách nhiệm pháp lý cho từng cơ quan, chức danh tư pháp :“Hoàn thiện pháp
luật về tổ chức và hoạt động của viện kiểm sát nhân dân theo hướng bảo đảm
thực hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Nghiên cứu
hướng tới chuyển thành viện công tố” [2].
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, với phương hướng: “Hoàn thiện chính
sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố
tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng
và bảo vệ quyền con người”.
Đồng thời, Nghị quyết số 49-NQ/TW xác định: Trước mắt VKSND giữ
nguyên chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
VKSND được tổ chức phù hợp với tổ chức của Tòa án và tăng cường trách
nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với điều tra [3].
Với 03 Nghị quyết trên, Bộ Chính trị đã xác định các định hướng quan
trọng, toàn diện cho Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và việc xây
dựng hệ thống pháp luật Việt Nam.
Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng cũng xác định: “Cải cách tổ
chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng cao
tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp trong công tác bắt, giam,
80
giữ, truy tố, xét xử, thi hành án, không được để xảy ra những trường hợp oan
sai. Viện kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp. Sắp xếp lại hệ thống Tòa án nhân dân, tổ chức lại Cơ quan điều
tra và Cơ quan thi hành án theo nguyên tắc gọn đầu mối”[12].
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng
sản Việt Nam cũng đã nêu rõ: Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch,
vững mạnh, dân chủ nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người. Đẩy
mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cải cách tư
pháp khẩn trương, đồng bộ; lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm; thực
hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra. Xây dựng cơ chế phán quyết
về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp
[13].
Thực hiện chủ trương “tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải
cách tư pháp” đã được Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng thông
qua và định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 theo Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII là “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công
khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt
kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của nhà nước và của cán bộ, công chức,
viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí,
quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội” [16]. Trên cơ sở Kết luận số 92-KL/TW
ngày 12/3/2014 về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020: “Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ
Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 về cơ bản là
đúng đắn. Các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương cần phát huy
những kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế, vướng mắc, tiếp tục
81
thực hiện mục tiêu, quan điểm, phương hướng cải cách tư pháp nêu trong
Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX vẫn còn phù hợp. Đồng
thời, quán triệt nghiêm túc các chủ trương, đường lối của Đảng nêu trong các
văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI và các quy định mới của Hiến
pháp năm 2013 có liên quan đến tổ chức, hoạt động tư pháp” [6].
Kết luận số 01-KL/TW ngày 4/4/2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục
thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW khóa IX về Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến 2020:
“Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam qua 10 năm thực hiện khẳng định tính đúng đắn, kịp thời
và tầm nhìn dài hạn của Đảng ta, đáp ứng yêu cầu bảo vệ, xây dựng và phát
triển đất nước. Bộ Chính trị yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc
Trung ương tiếp tục quán triệt, thực hiện mục tiêu, yêu cầu, quan điểm chỉ
đạo xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nêu trong Nghị quyết” [7].
Từ các Nghị quyết, Kết luận của Bộ Chính trị cho thấy: Quan điểm,
đường lối, mục tiêu xuyên suốt trong Chiến lược cải cách tư pháp của Đảng
và Nhà nước ta là: Công cuộc cải cách tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng, bảo đảm ổn định chính trị và bản chất Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam là của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Quyền lực Nhà nước
là thống nhất, có sự phân công, kiểm soát, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Cải
cách tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc gắn với cải cách
hành chính và đổi mới công tác lập pháp. Cải cách tư pháp phải được tiến
hành có trọng tâm, trọng điểm với những bước đi vững chắc, bảo đảm tính
đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con
người. Các cơ quan tư pháp phải đặt dưới sự giám sát của các cơ quan dân cử
82
và nhân dân. Đồng thời cải cách tư pháp phải hoàn thiện chính sách pháp luật
hình sự, dân sự, kế thừa những thành tựu đạt được của nền tư pháp XHCN
Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài, phù hợp
với điều kiện hoàn cảnh của nước ta, chủ động hội nhập quốc tế, đáp ứng xu
thế phát triển của xã hội.
Để thực hiện cải cách tư pháp có hiệu quả, Đảng và Nhà nước yêu cầu
VKS phải đổi mới về hệ thống tổ chức bộ máy và yếu tố con người: tổ chức
hệ thống các cơ quan tư pháp, cơ quan bổ trợ tư pháp một cách khoa học, hợp
lý về cơ cấu tổ chức, hiện đại điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện, trang thiết
bị làm việc. Xây dựng, đào tạo, đào tạo lại và rèn luyện đội ngũ cán bộ tư
pháp, bổ trợ tư pháp trong sạch, vững mạnh, đề cao quyền hạn, trách nhiệm
pháp lý, tiêu chuẩn hóa về chính trị, phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp
vụ, kiến thức, kinh nghiệm, nhất là đối với đội ngũ cán bộ có chức danh tư
pháp.
Trong tiến trình thực hiện cải cách tư pháp, VKSND đã là một trong
những cơ quan đi đầu, thực hiện có hiệu quả việc đổi mới sâu rộng cả về mặt
tổ chức hoạt động, đội ngũ cán bộ, KSV đến phương pháp, phương châm thực
hiện, đóng góp một phần quan trọng vào thành quả chung của sự nghiệp đổi
mới của đất nước.
3.1.2. Quán triệt đầy đủ các Chỉ thị của Ngành kiểm sát theo yêu cầu
cải cách tư pháp
Cải cách tư pháp là yêu cầu cấp thiết của Đảng, Nhà nước ta hiện nay,
nhằm mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thực sự của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Đảng cộng sản Việt
Nam lãnh đạo. Các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về cải cách tư pháp xác
định: Viện kiểm sát phải chịu trách nhiệm chính về những oan, sai trong việc
khởi tố, bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố; phải bảo đảm việc truy tố có
83
căn cứ, đúng pháp luật, cùng với cơ quan điều tra khắc phục những vi phạm,
tồn tại trong quá trình điều tra, bảo đảm không để lọt tội phạm, người phạm
tội cũng như không làm oan người vô tội.
Không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả các khâu công tác và tổ
chức hoạt động của ngành kiểm sát, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp của
Đảng và Nhà nước, trong nhiều năm qua,Viện trưởng VKSNDTC đã ban
hành nhiều Chỉ thị quán triệt VKSND các cấp tổ chức triển khai thực hiện
nghiêm chủ trương cải cách tư pháp như: Kế hoạch số 63/BCSĐ-VKSTC
ngày 18/01/2006 định hướng hoạt động của ngành Kiểm sát nhân dân trong
giai đoạn năm năm 2005-2010; Kế hoạch số 02-KH/BCSĐ ngày 19/5/2009
thực hiện kết luận Hội nghị Trung ương 9 (Khóa X) về tiếp tục đẩy mạnh thực
hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong
ngành kiểm sát nhân dân; Kế hoạch số 04-KH/BCSĐ ngày 30/8/2010 thực
hiện Kết luận số 79-KL/TW ngày 28 tháng 7 năm 2010 của Bộ Chính trị về
Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan
điều tra theo Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020; Kế hoạch số 08-KH/BCSĐ ngày 09/05/2014 triển khai
thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 trong ngành kiểm sát nhân dân.
Ngành kiểm sát xác định tiếp tục thực hiện Nghị quyết số
37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 [24] và triển khai thực hiện Nghị quyết số
63/2013/QH13 ngày 27/11/2013 của Quốc hội khóa XIII và Nghị quyết số
96/2019/QH14 ngày 27/11/2019 về công tác phòng, chống tội phạm và vi
phạm pháp luật, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và
công tác thi hành án [40] trong Ngành kiểm sát nhân dân là một trong những
nhiệm vụ chính trị quan trọng của Ngành, là căn cứ pháp lý để thực hiện hiệu
quả chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp và công
84
tác xây dựng Ngành. Theo đó, Viện trưởng VKSND tối cao đã ban hành Chỉ
thị công tác số 01/CT-VKSTC ngày 02/01/2014 quán triệt, yêu cầu Viện kiểm
sát các cấp thực hiện tốt các chỉ tiêu, nhiệm vụ nêu trong các Nghị quyết liên
quan đến trách nhiệm của Ngành; tập trung thực hiện 3 nhóm nhiệm vụ trọng
tâm đó là: Xây dựng và hoàn thiện thể chế về chức năng nhiệm vụ của
VKSND; tăng cường các biện pháp nhằm chống oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm;
cải cách chế độ công vụ, công chức, chú trọng công tác xây dựng Đảng, xây
dựng Ngành. Ban hành Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày 06/12/2013 về tăng
cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt
động điều tra, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình
hình mới; Chỉ thị số 05/CT-VKSTC ngày 27/4/2020 về tăng cường trách
nhiệm công tố trong giải quyết các vụ án hình sự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh
phòng, chống tội phạm nhằm phấn đấu đạt và vượt chỉ tiêu đề ra đối với
Ngành kiểm sát theo Nghị quyết số 96/2019/QH14 ngày 27/11/2019 của
Quốc hội [40].
Quán triệt và thực hiện nghiêm túc các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng,
Quốc hội, đặc biệt là Nghị quyết số 96/2015 ngày 26/6/2015 của Quốc hội về
tăng cường các biện pháp chống oan, sai và bồi thường cho người bị thiệt hại
trong tố tụng hình sự [32] và Chỉ thị 04/CT-VKSTC ngày 10/7/2015 của Viện
trưởng VKSTC về tăng cường các biện pháp phòng, chống oan, sai, bảo đảm
bồi thường cho người bị thiệt hại trong tố tụng hình sự [38].
Viện trưởng VKSNDTC chỉ đạo, quán triệt toàn ngành Kiểm sát quyết
tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên: “Vững về chính trị, giỏi về
nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách
nhiệm”. Thực hiện chủ trương “Hướng về cơ sở”, tăng cường cho cơ sở; thực
hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ ngành kiểm sát
phải: “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng và khiêm tốn”; đẩy
85
mạnh việc “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ” theo tinh
thần Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị phát động phong
trào thi đua sôi nổi, mạnh mẽ, tạo bước chuyển biến căn bản, đột phá và hiệu
quả trong tổ chức, hoạt động của ngành Kiểm sát, nâng cao hình ảnh, vị thế,
vai trò của ngành trước nhân dân, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà
nước và nhân dân.
3.1.3. Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Tỉnh ủy Đắk Nông và các cơ
quan có thẩm quyền đối với hoạt động tư pháp
Tỉnh ủy Đắk Nông đã ban hành Kế hoạch số 01-KH/TU và Chương
trình hành động số 08-CTr/TU ngày ngày 27/3/2006 về trọng tâm công tác cải
cách tư pháp trên địa bàn tỉnh [42] và đã ban hành quyết định số 1244 -
QĐ/TU ngày 26/4/2019 kiện toàn Ban chỉ đạo cải cách tư pháp tỉnh, qua đó
Ban cán sự đảng Viện KSND tỉnh Đắk Nông đều ban hành kế hoạch thực hiện
và báo cáo kết quả công tác cải cách tư pháp hàng năm [43].
Bên cạnh đó, Ban cán sự Đảng Viện KSND tỉnh tiếp tục quán triệt và
triển khai thực hiện có hiệu quả các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và Quốc
hội chỉ đạo về hoạt động tư pháp và cải cách tư pháp, trong đó trọng tâm Nghị
quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 và Kết luận 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị
về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 49 nhằm nâng cao nhận thức của công chức,
đảng viên đối với công tác cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay và yêu
cầu tiếp tục rà soát, bổ sung, xây dựng các quy chế phối hợp giữa các ngành
nội chính trong giải quyết án hình sự, dân sự, hành chính, lao động và thi
hành án. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác THQCT và kiểm sát các
hoạt động tư pháp, tập trung công tác điều tra, xử lý tội phạm có tổ chức, tội
phạm kinh tế, tham nhũng, tội phạm ma túy, tội phạm mua bán người, tội
phạm sử dụng công nghệ cao…thực hiện nghiêm túc thời hạn điều tra, hạn
86
chế gia hạn điều tra nhằm đảo bảo quyền con người trong suốt quá trình tố
tụng. Đồng thời nghiên cứu xem xét thực hiện quyết định số 1681/QĐ-TTg
ngày 31/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Chương trình
thực hiện Nghị quyết số 96/2015/QH13 của Quốc hội về về tăng cường các
biện pháp chống oan, sai và bồi thường cho người bị thiệt hại trong tố tụng
hình sự.
3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện quyền công tố và kiểm soát các
hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông
Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị được ban hành, thực hiện
đường lối chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về Chiến lược cải cách tư pháp với
mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ khi có Nghị quyết số 49-NQ/TW, chất
lượng THQCT và kiểm sát HĐTP tại Viện KSND hai cấp tỉnh Đắk Nông
được nâng lên rõ rệt; đội ngũ chuyên viên, Kiểm tra viên, Kiểm sát viên từng
bước trưởng thành, có bản lĩnh chính trị vững vàng, giỏi về chuyên môn tinh
thông về nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của tiến trình cải cách tư
pháp trong tình hình mới.
Quán triệt chủ trương chung của ngành với chủ trương "Đoàn kết, đổi
mới – Trách nhiệm, kỷ cương – Thực chất, hiệu quả", tiếp tục đẩy mạnh, đổi
mới, nâng cao chất lượng công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngành,
hoàn thành tốt các chỉ tiêu theo các Nghị quyết của Quốc hội về công tác tư
pháp, nhất là Nghị quyết số 111/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội
về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện
KSND, của TAND và công tác thi hành án năm 2016; Nghị quyết
96/2019/QH14 [31] và thực hiện tốt Kế hoạch; Chương trình công tác của
Tỉnh ủy Đắk Nông về cải cách tư pháp trên địa bàn tỉnh [42], góp phần thực
87
hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương. Để thực hiện tốt các Nghị
quyết, Chỉ thị, ngành KSND tỉnh Đắk Nông thực hiện các giải pháp cụ thể
như:
3.2.1. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật
Thực tế chỉ ra, hệ thống pháp luật của nước ta hiện nay tuy đã hoàn thiện
nhưng vẫn còn một số hạn chế, bất cập, chưa bao quát điều chỉnh hết các hành
vi trong xã hội, nhất là các hành vi mới phát sinh trước tác động của việc ứng
dụng các thành tựu công nghệ mới, tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu rõ
ràng trong các quy định... Để nâng cao chất lượng THQCT và kiểm sát HĐTP
của Viện kiểm sát, việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có
vị trí, vai trò rất quan trọng. Hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ và thống nhất
chính là cơ sở vững chắc cho quá trình THQCT và kiểm sát các HĐTP một
cách có hiệu quả và chất lượng. Vì vậy trong thời gian tới, cần phải khẩn
trương khắc phục những hạn chế, bất cập trong hệ thống pháp luật đã được
chỉ ra qua thực tiễn, đặc biệt là những văn bản hướng dẫn liên quan trực tiếp
đến hoạt động THQCT và kiểm sát HĐTP của Viện kiểm sát và những văn
bản dưới Luật hướng dẫn: Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tổ
chức cơ quan điều tra hình sự...
Thứ nhất, sửa đổi quy định về trình tự xét hỏi trong thủ tục tranh tụng tại
phiên tòa theo hướng bảo đảm tranh tụng trong xét xử. Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015 (khoản 2 Điều 307 BLTTHS) quy định khi xét hỏi thì chủ tọa phiên
tòa hỏi trước, sau đó đến Thẩm phán, Hội thẩm và tiếp theo mới là Kiểm sát
viên và người bào chữa. Quy định như vậy chưa đáp ứng được yêu cầu nâng
cao vai trò của Kiểm sát viên trong THQCT cũng như yêu cầu tăng cường
tính tranh tụng tại phiên tòa.
Pháp luật tố tụng hình sự cần sửa đổi theo hướng Hội đồng xét xử chủ
yếu làm công việc của người tổ chức điều khiển phiên toà còn Kiểm sát viên
88
và người bào chữa phải chủ động tham gia xét hỏi cũng như đưa ra các quan
điểm, kiến nghị của mình khi tranh luận. Trình tự xét hỏi nên quy định Kiểm
sát viên hỏi trước để đưa ra các chứng cứ buộc tội trước, sau đó người bào
chữa hỏi về những tình tiết liên quan đến việc bào chữa, Hội đồng xét xử có
quyền xét hỏi bất cứ lúc nào để làm sáng tỏ thêm các tình tiết của vụ án, phục
vụ cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.
Từ những phân tích trên, tác giả kiến nghị sửa đổi Điều 307 BLTTHS
năm 2015 như sau: “Khi xét hỏi, Chủ toạ phiên toà điều khiển quá trình xét
hỏi. Kiểm sát viên xét hỏi để bảo vệ quan điểm truy tố, người bào chữa xét
hỏi để bảo vệ quyền lợi cho bị cáo, những người tham gia tố tụng có quyền và
lợi ích pháp lý liên quan đến vụ án, người bảo vệ quyền lợi đương sự có
quyền đề nghị Hội đồng xét xử hỏi về những vấn đề có liên quan đến họ.
Thẩm phán, hội thẩm có thể xét hỏi thêm về những vấn đề mà Kiểm sát viên,
người bào chữa chưa xét hỏi rõ”.
Thứ hai, quy định trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Viện kiểm sát chỉ xem
xét rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố khi giải quyết yêu cầu trong
quyết định trả hồ sơ của Toà án. Trong quá trình điều tra bổ sung, nếu xét
thấy có căn cứ để rút toàn bộ quyết định truy tố thì Viện kiểm sát đình chỉ vụ
án và thông báo cho Toà án biết. Trên thực tế, những chứng cứ để Viện kiểm
sát rút quyết định truy tố trước khi mở phiên toà không thể làm rõ trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử, chỉ có xét hỏi công khai tại phiên toà mới có thể làm
sáng tỏ được. Bởi vậy, nên quy định Viện kiểm sát chỉ rút một phần hoặc toàn
bộ quyết định truy tố sau khi xét hỏi công khai tại phiên toà. Theo hướng này,
Điều 285 BLTTHS năm 2015 cần sửa đổi, bổ sung như sau: “Khi giải quyết
việc yêu cầu điều tra bổ sung của Toà án, xét thấy có một trong các căn cứ
quy định tại Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16
89
hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi
năm 2017 thì Viện kiểm sát rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa và
đề nghị Toà án đình chỉ vụ án”.
Thứ ba, đề nghị sửa đổi Khoản 3 Điều 258 BLTTHS năm 2015 theo
hướng: “Ngay sau khi kết thúc phiên toà, chủ toạ phiên toà phải kiểm tra biên
bản và cùng với Thư ký Toà án ký vào biên bản đó”. Việc quy định chủ toạ
phiên toà kiểm tra biên bản và cùng Thư ký Toà án ký vào biên bản ngay sau
khi kết thúc phiên toà là nhằm tránh tình trạng biên bản được lập sau khi xét
xử xong hoặc sau khi kết thúc phiên toà một thời gian sẽ không bảo đảm tính
khách quan, không phản ánh được đầy đủ diễn biến tại phiên toà.
Xem xét sửa đổi khoản 4 Điều 258 BLTTHS năm 2015 như sau: “4. Sau
khi chủ tọa phiên tòa và Thư ký Tòa án ký vào biên bản phiên tòa, Kiểm sát
viên, bị cáo, người bào chữa, bị hại, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của bị hại, đương sự hoặc đại diện của những người đó được xem
biên bản phiên tòa. Nếu có người yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào
biên bản phiên tòa thì Thư ký Tòa án phải ghi sửa đổi, bổ sung đó vào biên
bản phiên tòa. Không được tẩy xóa, sửa chữa trực tiếp mà phải ghi sửa đổi, bổ
sung tiếp vào cuối biên bản phiên tòa và cùng chủ tọa phiên tòa ký xác nhận;
nếu chủ tọa phiên tòa không chấp nhận yêu cầu thì phải nêu rõ lý do và ghi
vào biên bản phiên tòa. Kiểm sát viên có quyền xem biên bản phiên toà ngay
sau khi kết thúc phiên toà”. Quy định như vậy nhằm thực hiện tốt và hoàn
thiện hoạt động kiểm sát của Kiểm sát viên trong xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự.
Ngoài ra, các văn bản dưới luật được ban hành hàng năm khá nhiều. Tuy
nhiên, văn bản nào còn hiệu lực, văn bản nào còn hiệu lực một phần và văn
bản nào hết hiệu lực không được hệ thống hóa. Thông thường, các văn bản ra
sau thường chỉ sửa đổi, bổ sung một số vấn đề của văn bản trước. Vì vậy,
90
trong trường hợp giải quyết các vụ án đã quá lâu thì việc tìm kiếm các văn
bản pháp luật có hiệu lực vào thời điểm đó để giải quyết vụ án mất rất nhiều
thời gian, công sức và ảnh hưởng nhiều đến thời hạn tố tụng. Cụ thể, ngày
08/10/2021, TANDTC ban hành Quyết định số 355/QĐ-TANDTC về việc
công bố danh mục văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ thuộc lĩnh
vực của TANDTC theo đó đã công bố 06 Nghị quyết của HĐTP TANDTC và
08 Thông tư liên tịch do TANDTC chủ trì soạn thảo hướng dẫn áp dụng các
quy định của BLHS năm 1999 do BLHS năm 1999 đã hết hiệu lực. Do vậy,
hiện nay để áp dụng các quy định của BLHS năm 2015, sửa đổi năm 2017 đối
với 1 số điều luật đã tạo ra khoảng trống pháp luật do chưa có văn bản hướng
dẫn thay thế áp dụng nên gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng trong xử lý các vụ việc phát sinh. Tuy đã hết hiệu lực
không còn giá trị pháp luật nhưng vẫn còn giá trị tham khảo.
Cho đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn, quy định cụ thể về trách
nhiệm của các cơ quan tư pháp, tổ chức trong việc thực hiện nghiêm túc
kháng nghị, kiến nghị của Viện kiểm sát đã được chấp nhận.
3.2.2. Đẩy mạnh phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ các cơ quan
tư pháp nói chung, Viện kiểm sát nhân dân nói riêng cũng như cho nhân
dân
Trình độ nhận thức pháp luật và văn hóa pháp lý của công chức, viên
chức và nhân dân chưa được nâng lên tương xứng với sự đổi mới hệ thống
pháp luật. Đại đa số người dân ở vùng sâu, vùng cao, người dân tộc thiểu số
vẫn còn ở trong trạng thái thiếu hiểu biết về pháp luật. Nhận thức pháp luật tối
thiểu của công dân trước hết đó là sự am hiểu các quy định của pháp luật và
nắm vững các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân mà Hiến pháp và pháp
luật đã quy định. Trình độ nhận thức pháp luật này của người dân cư trú trên
địa bàn tỉnh Đắk Nông còn rất hạn chế. Còn lúng túng trong việc thực hiện
91
các quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định cho mình để tự bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp cho bản thân. Do vậy họ sẽ không có những ứng xử tích
cực trong việc đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm.
Do đó, giáo dục pháp luật nâng cao ý thức pháp luật cho mỗi cá nhân
và toàn xã hội là hết sức cần thiết, đóng vai trò quan trọng trong việc giúp cho
người dân quan tâm tìm hiểu hệ thống pháp luật, xây dựng động cơ đúng đắn
trong việc thực hiện pháp luật, tích cực đấu tranh phòng, chống các vi phạm
pháp luật. Ngành KSND và các cơ quan tư pháp nói riêng, phải coi công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật là một nhiệm vụ ưu tiên trong hệ thống giáo dục
nói chung, là trách nhiệm của các cơ quan Đảng, Nhà nước và của các tổ chức
trong hệ thống chính trị. Hoạt động của VKSND và các cơ quan tư pháp nói
chung, kiến thức pháp luật phải được đặt ngang hàng với kiến thức về các vấn
đề xã hội, cuộc sống để phổ biến cho nhân dân. Có như vậy mới phát huy
được quyền làm chủ của công dân; kích thích tinh thần dân chủ trong nhân
dân nhằm xây dựng một xã hội công bằng, thượng tôn pháp luật (Nhà nước
pháp quyền XHCN) dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
3.2.3. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự quan tâm của chính
quyền địa phương đối với thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp
Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị đã xác định: Đảng lãnh đạo các cơ quan
tư pháp chặt chẽ về chính trị, tổ chức và cán bộ; bảo đảm cho hoạt động tư
pháp thực hiện đúng quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Để thực
hiện Chiến lược cải cách tư pháp, Đảng đã luôn quan tâm đổi mới và tăng
cường sự lãnh đạo đối với công tác tư pháp nói chung, hoạt động của ngành
Kiểm sát nói riêng. Trong thời gian tới cần phải tiếp tục hoàn thiện nội dung,
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp, khắc phục tình
trạng buông lỏng lãnh đạo hoặc cấp ủy can thiệp không đúng vào hoạt động
92
tư pháp [1];
Sớm nghiên cứu xem xét tổ chức hệ thống cơ quan Đảng theo ngành
dọc trong ngành KSND. Theo đó Chi bộ VKSND cấp huyện, thành phố trực
thuộc Đảng bộ VKSND cấp tỉnh. Đảng bộ VKSND cấp tỉnh trực thuộc cấp ủy
cấp tỉnh và và Ban cán sự Đảng VKSND tối cao. Đảng bộ VKSND tối cao
trực thuộc Đảng bộ Khối các cơ quan nội chính Trung ương;
Ở từng giai đoạn, căn cứ yêu cầu, nhiệm vụ của Trung ương, Ban cán
sự Đảng cấp tỉnh nên có Nghị quyết chuyên đề về công tác kiểm sát nhằm
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp [44, tr.4].
Thực hiện nguyên tắc Đảng lãnh đạo nhưng không làm ảnh hưởng đến
nguyên tắc độc lập, khách quan và chỉ tuân theo pháp luật của các chức danh
tư pháp. Đảng không can thiệp vào công tác chuyên môn của các cơ quan tư
pháp như khởi tố, truy tố về tội nào hoặc xử mức án như thế nào, mà chỉ định
hướng về chủ trương đường lối chính sách cho các cơ quan tư pháp cho phù
hợp với từng thời kỳ, giai đoạn phát triển của đất nước. Chẳng hạn, để thực
hiện thành công Nghị quyết Trung ương 3 khóa X, một trong các nhiệm vụ
đặt ra đối với các cơ quan tư pháp là phải xử lý nghiêm mọi hành vi tham
nhũng. Về tổ chức cán bộ, Đảng lãnh đạo toàn diện, việc xây dựng và thực
hiện chiến lược quy hoạch cán bộ, lãnh đạo, bổ nhiệm các chức danh tư pháp,
đặc biệt là đối với các chức danh quản lý trong ngành tư pháp.
Thực hiện nghiêm các kế hoạch kiểm tra, giám sát của cấp ủy Đảng,
đây là phương thức phổ biến thường được các cấp ủy Đảng áp dụng. Thông
qua đó đánh giá ưu, khuyết điểm trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ, đồng
thời đề ra các chủ trương lãnh đạo, kiện toàn, nâng cao chất lượng và hiệu quả
93
hoạt động của VKS.
VKSND cấp tỉnh cần chủ động tham mưu, đề xuất cấp ủy Đảng chỉ đạo
xây dựng, sửa đổi hoàn thiện Quy chế phối hợp giữa VKS với các cơ quan tư
pháp và với các cơ quan chuyên môn của Đảng, chính quyền.
3.2.4. Nâng cao ý thức chính trị và phẩm chất đạo đức cho công
chức, kiểm sát viên
Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Ban Chấp hành Trung
ương đánh giá về công tác cán bộ của các cơ quan tư pháp:
“Phần lớn cán bộ làm công tác tư pháp giữ vững phẩm chất chính trị, có
tinh thần trách nhiệm và hoàn thành nhiệm vụ, nhiều đồng chí đã tận tụy với
công việc, có trường hợp hy sinh cả tính mạng trong cuộc đấu tranh chống tội
phạm” [1].
Đối với ngành kiểm sát, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm, chỉ đạo;
Người yêu cầu cán bộ kiểm sát phải: "Công minh, chính trực, khách quan,
thận trọng"[18]. Đó cũng chính là khẩu hiệu mà toàn ngành kiểm sát ra sức
phấn đấu, thực hiện. Hầu hết cán bộ, kiểm sát viên ngành kiểm sát nhân dân
đã quán triệt sâu sắc tinh thần trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh; luôn rèn luyện
ý thức chính trị, đạo đức nghề nghiệp, có lập trường tư tưởng vững vàng, kiên
định.
Hiện nay, trong giai đoạn cải cách tư pháp; việc nâng cao ý thức chính
trị và phẩm chất đạo đức cho cán bộ, kiểm sát viên ngành kiểm sát nói chung
và trong hoạt động THQCT và kiểm sát các HĐTP nói riêng được đặt ra cấp
bách. Để làm được điều này, cần thực hiện một số vấn đề sau:
Quán triệt sâu sắc và sâu rộng đường lối chính sách của Đảng; pháp
luật của Nhà nước; cụ thể hóa bằng nhiệm vụ phù hợp với điều kiện của từng
94
đơn vị mình.
Tổ chức các lớp học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh cho đội ngũ kiểm sát viên; phấn đấu 100% kiểm sát viên sơ cấp
có trình độ lý luận chính trị từ trung cấp trở lên.
Hưởng ứng các cuộc vận động; các cuộc thi tìm hiểu về Đảng, về Bác
Hồ, về địa phương và về ngành Kiểm sát nhân dân để dấy lên phong trào thi
đua sôi nổi trong từng cán bộ, kiểm sát viên ở các đơn vị trong toàn ngành
kiểm sát tỉnh nhà.
Lấy kết quả học tập; nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là một trong những tiêu chuẩn đánh giá, xếp loại hàng năm.
Qua đó cho thấy, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm của người cán bộ,
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân đã quy định trong Hiến pháp năm
2013, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và đã được cụ thể hóa
trong các đạo luật có liên quan đến hoạt động tư pháp và quy chế ngành Kiểm
sát nhân dân. Mỗi cán bộ, Kiểm sát viên thực hiện đúng những quy định trên
sẽ góp phần xây dựng ngành Kiểm sát nhân dân trong sạch, vững mạnh toàn
diện, tạo được niềm tin với Đảng, Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ và là địa
chỉ đáng tin cậy của nhân dân.
3.2.5. Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng thực hiện
quyền công tố và kiểm soát hoạt động tư pháp cho đội ngũ kiểm sát viên
Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017 và Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015 có hiệu lực, đã bổ sung nhiều điểm mới khẳng định trong các giai
đoạn tố tụng, Viện kiểm sát luôn có vị trí quan trọng trong bảo vệ quyền con
người, người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị can và những người tham gia tố
tụng khác. Do vậy, Lãnh đạo VKSND tỉnh phải tăng cường nâng cao năng lực
cho Kiểm sát viên về mọi mặt như: vai trò, vị trí của mình trong kiểm sát điều
tra vụ án hình sự; trình độ chuyên môn; kiến thức ngoại ngữ, tin học và kiến
95
thức hiểu biết xã hội, là điều kiện tiên quyết, thước đo chuẩn mực trong việc
bảo vệ quyền con người cho những người tham gia tố tụng hình sự và bảo vệ
quyền con người cho chính bản thân mình. Do đó, việc nâng cao nhận thức
cho kiểm sát viên về quyền con người cũng như việc bảo đảm quyền con
người trong tố tụng hình sự là hết sức cần thiết, nhằm tránh sự thờ ơ, vô cảm,
thiếu trách nhiệm của một số công chức trong ngành kiểm sát về bảo đảm
quyền con người trong các giai đoạn tố tụng.
Để nâng cao nhận thức pháp luật và chuyên môn nghiệp vụ cho kiểm
sát viên thì một biện pháp cũng không kém phần quan trọng, đó là VKSND
cấp tỉnh cần phải thường xuyên tổ chức những cuộc hội thảo theo các chuyên
đề; tổ chức những cuộc thi tìm hiểu kiến thức pháp luật; những cuộc thi xử lý
các tình huống trong hoạt động THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp
như: viết cáo trạng, luận tội, đối đáp … nhằm thúc đẩy phong trào nghiên
cứu, học tập nhiệm vụ chuyên môn. Tổ chức quán triệt nghiêm túc cho Kiểm
sát viên nhận thức đầy đủ các văn bản pháp luật mới và thi viết tìm hiểu về
BLHS; BLTTHS; Bộ luật Dân sự; Luật TTDS, TTHC, Luật THTGTG....
Tiếp tục phối hợp với Tòa án tổ chức tốt các phiên tòa rút kinh nghiệm,
theo tinh thần cải cách tư pháp để nâng cao kỹ năng THQCT và kiểm sát các
hoạt động tư pháp cho Kiểm sát viên.
Kiểm sát viên khi được giao thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp phải chủ động tự học tập, tự nghiên cứu; nâng cao trách nhiệm
trong quá trình thực thi công vụ, đáp ứng yêu cầu và mục tiêu xây dựng đội
ngũ cán bộ, kiểm sát viên "Vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về
pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm" theo phong trào thi
đua do Viện KSND tối cao phát động.
3.2.6. Kiện toàn tổ chức bộ máy ngành Kiểm sát tỉnh Đắk Nông đáp
96
ứng yêu cầu trong tình hình mới
Tăng cường công tác tự đào tạo qua các hội nghị, hội thảo chuyên đề,
cập nhật kiến thức pháp luật, nhất là các kiến thức mới về quản lý kinh tế, về
hội nhập quốc tế và chuyên môn nghiệp vụ kiểm sát cho đội ngũ KSV. Trước
yêu cầu của cải cách tư pháp, VKSND tỉnh Đắk Nông muốn thực hiện tốt
chức năng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp, thì công tác tổ chức
cán bộ phải được tiếp tục đổi mới một cách mạnh mẽ. Nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp của
VKS hai cấp, cần thực hiện một số giải pháp sau:
Hiện nay ngành kiểm sát đã thực hiện quy chế thông khâu trong hoạt
động KSĐT các vụ án hình sự. Đây là quy định cần thiết nhưng ở Viện
KSND cấp tỉnh nên nghiên cứu xem xét thực hiện chuyên khâu nhằm bảo
đảm khả năng giám sát chéo giữa các giai đoạn kiểm sát vụ án.
Cần có phương án, kế hoạch nghiên cứu lý luận, nghiệp vụ, kỹ năng
THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp cho các công chức, KSV của các
đơn vị trong toàn ngành. Có những hình thức, biện pháp tiếp cận pháp luật khi
có văn bản mới có hiệu lực pháp luật; giúp cho các đơn vị trong toàn ngành
nhận thức pháp luật được thống nhất và đầy đủ. Ví dụ, khi có các Nghị quyết
của HĐTP TANDTC; Thông tư liên tịch….. có những quy định, quy phạm
pháp luật mang tính tùy nghi, thì cần phải được giải thích áp dụng đầy đủ
thống nhất trong toàn ngành.
Lãnh đạo VKS cần chú trọng bố trí, sắp xếp KSV có kinh nghiệm,
năng lực, năng khiếu đối với công tác THQCT và kiểm sát các hoạt động tư
pháp. BCSĐ Viện KSND cấp tỉnh phải nắm chắc, hiểu rõ về đội ngũ công
chức của mình; Xây dựng kế hoạch tuyển dụng, sử dụng, điều động, luân
chuyển công chức trên nguyên tắc bảo đảm tính ổn định, kế thừa và lâu dài,
phù hợp với yêu cầu công việc; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ kiểm sát
97
viên đủ về số lượng, giỏi về nghiệp vụ, trong sáng về đạo đức, vững vàng về
lý luận, phẩm chất chính trị để đáp ứng yêu cầu của nền tư pháp trong tình
hình mới.
Xem xét thành lập các Tổ chuyên gia chuyên sâu trong từng lĩnh vực
và khâu công tác để thảo luận cho ý kiến về các vụ việc phức tạp, còn có ý
kiến khác nhau.
3.2.7. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tư pháp
trên địa bàn
Tăng cường phối kết hợp giữa các cơ quan tư pháp trong việc giải quyết
các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, hành
chính, lao động, thi hành án.... là cần thiết; việc này phải được tiến hành
thường xuyên để cho công tác phối kết hợp đạt kết quả tốt. Để thực hiện tốt
nội dung này, các cơ quan tư pháp phải thực hiện tốt các yêu cầu sau:
Thực hiện tốt quy chế phối hợp liên ngành (Công an – VKS – Tòa án),
duy trì giao ban tháng, quí, 6 tháng, năm, đồng thời tiến hành họp trao đổi liên
ngành giữa các cơ quan để thúc đẩy tiến độ giải quyết các vụ việc, giải quyết
kịp thời những vướng mắc, kiến nghị của từng ngành; xác lập những vụ án
trọng điểm để ĐT, TT, XX nhằm phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của địa
phương. Liên ngành thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, hội nghị chuyên
đề về các lĩnh vực, thông qua đó trao đổi kiến thức pháp lý và kỹ năng trong
quá trình điều tra các vụ án hình sự, giải quyết án dân sự, hành chính, hành
chính, lao động.......Xây dựng và ký Qui chế phối hợp với Tòa án trong giải
quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, hành
chính, lao động...
Tăng cường phối hợp giữa VKS với các cơ quan khác trong kiểm sát
giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp đặc biệt là sự phối
hợp giữa các cơ quan tư pháp, cũng như với các Cơ quan hành chính, Mặt
98
trận, đoàn thể chính trị xã hội trên địa bàn. Phối hợp với các cơ quan tư pháp
cùng cấp để xây dựng các quy chế, quy định liên ngành về phối hợp trong
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và cả trong công tác kiểm sát việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp, kịp thời trao đổi thông tin để
có nhận thức đúng, thống nhất trong việc áp dụng pháp luật khi trả lời.
3.2.8. Hoàn thiện cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử và của
Nhân dân đối với công tác thực hiện quyền công tố và kiểm soát hoạt động
tư pháp
Đổi mới, nâng cao chất lượng giám sát của đại biểu HĐND, đại biểu
Quốc hội là một đòi hỏi khách quan, mà trước hết phải đổi mới chất lượng
của HĐND các cấp theo hướng tăng cường đại biểu hoạt động chuyên trách;
nâng cao chất lượng đại biểu theo hướng phải có trình độ học vấn và trình độ
chuyên môn tương xứng mới được ứng cử làm đại biểu Hội đồng nhân dân.
Phát huy vai trò giám sát của đại biểu HĐND, đại biểu Quốc hội đối
với hoạt động của VKS và các cơ quan tư pháp khác. Phân công những đại
biểu có chuyên môn về lĩnh vực pháp luật trực tiếp theo dõi, phụ trách việc
giám sát hoạt động áp dụng pháp luật của VKS và các cơ quan tư pháp khác.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với hoạt động THQCT
KSĐT các vụ án của VKS và các cơ quan tư pháp thông qua HTND, nhất là
vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Vì thế, phải tăng cường bồi
dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho Hội thẩm nhân dân để bảo đảm ý
kiến của HTND với Thẩm phán trong phiên tòa xét xử sơ thẩm là có chất
lượng và chỉ tuân theo pháp luật. VKS phải chủ động phối hợp với thường
trực Mặt trận Tổ quốc để ban hành quy chế phối hợp công tác, đề ra các hình
thức phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức, sự hiểu biết pháp luật cho các
tầng lớp nhân dân, để họ tham gia tích cực, có hiệu quả vào công cuộc đấu
tranh phòng, chống tội phạm cũng như kiểm tra, giám sát hoạt động ADPL
99
trong giải quyết án hình sự nói chung, dân sự, hôn nhân gia đình, hành chính,
kinh doanh, thương mại, lao động của ngành Kiểm sát và các cơ quan tư pháp
khác nói riêng.
3.2.9. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong thực hiện quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp
Quán triệt, thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các Nghị quyết, Chỉ thị,
văn bản pháp luật về công tác thanh tra, đặc biệt Chỉ thị số 04/CT-VKSTC
ngày 14/8/2013 về tăng cường công tác thanh tra trong Ngành kiểm sát nhân
dân [50]; Chỉ thị 08/CT-VKSTC ngày 28/11/2017 của Viện trưởng VKSND
tối cao về tăng cường công tác thanh tra đột xuất đối với các vụ việc có dấu
hiệu vi phạm trong lĩnh vực hình sự, trong đó có nội dung chỉ đạo về công tác
thanh tra, kiểm tra [55]:
“Đổi mới công tác thanh tra theo hướng giảm thanh tra theo kế hoạch,
tăng cường thanh tra đột xuất, chú ý những đơn vị có đơn thư nặc danh phản
ánh cụ thể về nội dung vụ việc, những vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật
nghiêm trọng; kiên quyết xử lý nghiêm trách nhiệm cá nhân, trước hết của
người đứng đầu cơ quan, đơn vị, lãnh đạo phụ trách không làm hết trách
nhiệm, để xảy ra vi phạm dẫn đến oan, sai ”.
Thanh tra, kiểm tra thông qua dưới nhiều hình thức như: kiểm tra việc
xây dựng kế hoạch công tác hàng năm; trực tiếp kiểm tra việc thực hiện
nhiệm vụ kế hoạch một năm từ một đến hai lần ở mỗi đơn vị cấp huyện, thành
phố; kiểm tra đột xuất của lãnh đạo cấp trên đối với đơn vị cấp dưới; kiểm tra
thường xuyên việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của lãnh đạo cấp huyện,
thành phố và cấp phòng. Trong những năm qua, tại VKSND tỉnh Đắk Nông
đã thực hiện khá tốt công tác thanh tra, kiểm tra. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu
cầu nhiệm vụ mới trong giai đoạn hiện nay, công tác thanh tra, kiểm tra cần
100
thực hiện tốt những yêu cầu sau:
Cần xác định công tác thanh tra, kiểm tra là một trong những biện pháp
quan trọng và cần thiết để nâng cao vai trò, vị trí của ngành; thông qua thanh
tra, kiểm tra, bảo đảm cho đơn vị thực hiện tốt hơn chức năng nhiệm vụ của
ngành. Nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ, kỷ luật công vụ
và trật tự nội vụ theo Chỉ thị số 05/2014 ngày 31/3/2014 của Viện trưởng
Viện KSND tối cao [51] để kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các sai phạm;
bảo đảm thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Khi cử đoàn kiểm tra các đơn vị trong ngành; cần cử những kiểm sát
viên có kinh nghiệm, nghiệp vụ vững vàng để thông qua kiểm tra kịp thời
phát hiện sai phạm, những thiếu sót cụ thể để tham mưu đề ra biện pháp khắc
phục. Những vi phạm cần phải được phát hiện, xử lý kịp thời, tránh việc xử lý
dễ dãi bỏ qua để lần sau các sai phạm này vẫn còn mắc phải. Khi phát hiện
những vi phạm, thiếu sót cần phải xác định nguyên nhân, trách nhiệm của
từng cá nhân cụ thể.
VKSND cấp tỉnh cần có kế hoạch để cho hoạt động kiểm tra được toàn
diện đối với các đơn vị trong toàn ngành; có thể cho tiến hành kiểm tra chéo
giữa các VKS cấp huyện với các phòng nghiệp vụ và ngược lại.
Thường xuyên thông báo rút kinh nghiệm trong các khâu công tác
THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp nhằm giúp cho các đơn vị phát
huy được điểm mạnh, hạn chế được những sai sót đã mắc phải.
3.2.10. Tăng cường cơ sở vật chất và chế độ chính sách hợp lý
Để bảo đảm cho hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong tình
hình mới, ngành kiểm sát tiếp tục tập trung nghiên cứu, xây dựng, thực hiện
các đề án về tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm
việc. Đồng thời, đẩy nhanh tiến độ xây dựng và triển khai thực hiện Đề án
101
phát triển ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao hiệu quả ứng dụng công
nghệ thông tin trong hoạt động nghiệp vụ, số hóa hồ sơ đáp ứng yêu cầu của
nền tư pháp hiện đại.
Sớm đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng, trang thiết bị phương tiện, kỹ thuật
sử dụng để ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo quy định của BLTTHS;
Thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP thực
hiện ghi âm, ghi hình có âm thanh trong điều tra, truy tố, xét xử.
Mục tiêu đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào việc bảo đảm
chất lượng công tác thực hành quyền công tố, KSĐT, KSXX của Viện kiểm
sát, công tác xét xử của Tòa án và nâng cao hiệu quả chất lượng tranh tụng tại
phiên tòa, thực sự dân chủ, khách quan theo đúng tinh thần Nghị quyết số 49-
NQ/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Ngành kiểm sát cần trang bị hệ thống camera hiện đại để theo dõi các phiên
Tòa rút kinh nghiệm. Viện KSND cấp tỉnh chủ trì Hội nghị trực tuyến các
phiên Tòa rút kinh nghiệm, coi đây là biện pháp tự đào tạo, vừa học tập, vừa
rút kinh nghiệm để nâng cao chất lượng hoạt động của ngành, từ đó xác định
các biện pháp, xây dựng thành chỉ tiêu thi đua trong kế hoạch công tác hàng
năm để triển khai thực hiện ở từng phòng, từng VKS cấp huyện, thành phố.
Không tinh giảm biên chế của ngành để bảo đảm đủ con người để thực
thi nhiệm vụ. Một số quy định mới của BLTTHS năm 2015 cần được sớm
quan tâm, bố trí dự toán kinh phí, trang thiết bị để bảo đảm thực hiện (xây
dựng phòng hỏi cung, đầu tư thiết bị chuyên dùng để thực hiện việc ghi âm,
ghi hình có âm thanh khi hỏi cung bị can...); Bổ sung trách nhiệm của Kiểm
sát viên bắt buộc phải có mặt trong 05 hoạt động: đối chất, nhận dạng, nhận
biết giọng nói, thực nghiệm điều tra, khám xét (các Điều 189, 190, 191, 193,
204).
Xây dựng phần mềm cơ sở dữ liệu quản lý, theo dõi việc tiếp công dân
102
và xử lý đơn, thư để khai thác, tra cứu phục vụ việc tiếp công dân và xử lý
đơn. Khi đủ điều kiện sẽ kết nối mạng thông tin đến hệ thống các cơ quan trên
địa bàn.
Nghiên cứu, xây dựng phần mềm theo dõi thời hạn giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Qua thực tiễn công tác tham mưu,
tổng hợp giúp lãnh đạo VKSND tỉnh theo dõi thời hạn giải quyết nguồn tin về
tội phạm, thời hạn điều tra được sát sao để có sự chỉ đạo kịp thời trong thực
hiện nhiệm vụ.
Bố trí Phòng tiếp công dân riêng (gần cổng ra vào), không nằm trong
trụ sở của Viện kiểm sát, đầu tư trang, thiết bị cần thiết như tủ sách pháp luật,
camera… cho Phòng Tiếp công dân bảo đảm khang trang, hiện đại nhằm phục
vụ tốt hơn nữa công tác tiếp công dân trong thời gian tới. Không sắp xếp, bố
trí công chức yếu về nghiệp vụ chuyên môn, tính cách nóng nảy, bị xử lý kỷ
luật về Phòng tiếp công dân.
Bên cạnh việc tạo những điều kiện tốt để làm việc, cần phải xây dựng
chế độ tiền lương, phụ cấp, chính sách đãi ngộ và chế độ khen thưởng cho
tương xứng với trách nhiệm, tính chất hoạt động; bảo đảm cho công chức yên
103
tâm công tác, không bị tác động, mua chuộc.
Tiểu kết chương 3
Như phân tích ở Chương 2, hoạt động THQCT và kiểm soát các hoạt
động tư pháp của VKSND tỉnh Đắk Nông trong thời gian từ năm 2019 đến 6
tháng đầu năm 2022 đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, vẫn còn
tồn tại những hạn chế trong thực hiện nhiệm vụ. Để khắc phục những hạn chế
này, Chương 3 đưa ra quan điểm và các giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm việc
THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS đáp ứng được yêu cầu
công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, đó là: nâng cao ý thức chính
trị, đạo đức của đội ngũ KSV; không ngừng tăng cường tập huấn, đào tạo và
đào tạo lại chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ KSV; tăng cường và đổi mới
công tác quản lý, chỉ đạo điều hành và công tác thanh tra, kiểm tra của VKS
tỉnh đối với VKS cấp huyện, thành phố và các phòng nghiệp vụ Viện KSND
tỉnh; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, của cấp ủy và sự quan tâm của chính
quyền đối với công tác THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp; tăng
cường mối quan hệ phối hợp giữa VKS với các cơ quan tiến hành tố tụng trên
địa bàn trong đấu tranh phòng, chống vi phạm và tội phạm; hoàn thiện cơ chế
giám sát của các cơ quan dân cử và của Nhân dân đối với hoạt động THQCT
và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS.
Thực hiện tốt các giải pháp THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp
nêu trên sẽ bảo đảm đạt được kết quả tốt hơn nữa, hạn chế oan, sai, bỏ lọt tội
phạm; công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm tại địa phương sẽ tốt hơn,
qua đó đóng góp chung vào công cuộc đổi mới trong tiến trình cải cách tư
104
pháp ở nước ta hiện nay.
KẾT LUẬN
Xuất phát từ thực tiễn việc bảo đảm THQCT và kiểm soát các HĐTP
của VKSND là một tất yếu khách quan bắt nguồn từ đòi hỏi phải tăng cường
hiệu lực hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và của chính hoạt động
thực hiện quyền công tố và kiểm soát các hoạt động tư pháp của VKSND nói
riêng và cũng chính là bắt nguồn từ đòi hỏi xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam.
Từ việc nêu cơ sở lý luận, ảnh hưởng đến hoạt động THQCT và kiểm
soát các HĐTP, tác giả đã chỉ ra được những kết quả của VKSND cấp tỉnh
trong THQCT và kiểm sát các hoạt tư pháp. Bên cạnh đó, tác giả đã đi sâu
phân tích những tồn tại hạn chế trong hoạt động THQCT và kiểm soát các
hoạt động tư pháp trong các lĩnh vực của Viện KSND tỉnh Đắk Nông, đó là:
Vẫn còn án khởi tố, sau đó phải đình chỉ vì hành vi không cấu thành tội phạm,
án bị cấp phúc thẩm kháng nghị đề nghị hủy, sửa vẫn còn xảy ra; quá trình
KSĐT chưa chặt chẽ, theo sát tiến độ điều tra nên tình trạng VKS, Tòa án trả
hồ sơ điều tra bổ sung vẫn còn chiếm tỷ lệ cao…Để góp phần khắc phục tình
trạng trên và bảo đảm THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp của
VKSND tỉnh Đắk Nông, chủ đề tài đã sử dụng, kết hợp các phương pháp
nghiên cứu khoa học như phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê…để đánh giá
thực trạng của việc THQCT và kiểm soát các hoạt động tư pháp của Viện
KSND tỉnh và những ảnh hưởng của nó, tìm ra những nguyên nhân của các
khuyết điểm, hạn chế như: Hệ thống pháp luật chưa được hoàn thiện, đầy đủ,
thống nhất, còn bất cập nhưng chưa được hướng dẫn kịp thời để áp dụng;
năng lực, trình độ của cán bộ, KSV tuy cơ bản đáp ứng yêu cầu nhưng vẫn
105
còn có mặt hạn chế….
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động bảo đảm THQCT và
kiểm soát các hoạt động tư pháp của VKSND tỉnh Đắk Nông, tác giả đã đề
xuất các giải pháp để bảo đảm tốt hơn cho việc THQCT và kiểm sát các
HĐTP, đó là:
Giải pháp cần thực hiện: Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy định
của pháp luật và đẩy mạnh phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức của
Viện kiểm sát nhân dân và các cơ quan tư pháp nói riêng, cũng như cho nhân
dân nói chung và giải pháp lâu dài: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, của
cấp ủy; nâng cao ý thức chính trị và phẩm chất đạo đức, nhận thức về năng
lực chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ kiểm sát viên về tinh thần trách
nhiệm, trình độ pháp luật, phẩm chất đạo đức chính trị của các chủ thể có
thẩm quyền áp dụng pháp luật; tăng cường và đổi mới công tác quản lý, chỉ
đạo điều hành, tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành
tố tụng và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; kiện toàn bộ máy ngành
kiểm sát trong hoạt động KSĐT các vụ án hình sự; hoàn thiện cơ chế giám sát
của các cơ quan dân cử và của Nhân dân đối với hoạt động bảo đảm THQCT;
Nâng cao chất lượng THQCT và KSĐT gắn công tố với hoạt động điều tra;
tăng quyền hạn TTHS cho KSV để nâng cao tính độc lập của họ trong thực thi
nhiệm vụ và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi, quyết định tố
tụng của mình. Trong đó, giải pháp quan trọng nhất, quyết định đến chất
lượng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND tỉnh Đắk
Nông, đó chính là yếu tố con người: Bồi dưỡng, nâng cao trình độ, năng lực
chuyên môn, đạo đức của KSV.
Tóm lại, Luận văn đã phân tích cơ sở lý luận,pháp lý và thực trạng bảo
đảm THQCT và kiểm soát các HĐTP của VKSND tỉnh Đắk Nông, qua đó đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác này, góp
106
phần cho công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm hiện nay và trên địa bàn
tỉnh Đắk Nông, nhằm củng cố và xây dựng niềm tin ngày càng vững chắc của
Nhân dân vào Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp
107
quyền XHCN Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.
2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/05/2005 về Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020.
3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
4. Bộ Chính trị (2010), Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 về đổi mới tổ
chức và hoạt động của Toà án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra theo Nghị
quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
5. Bộ Chính trị (2014), Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 26/5/2014 về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân giải quyết khiếu nại,
tố cáo.
6. Bộ Chính trị (2014), Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 về tiếp tục
thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị khóa
IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
7. Bộ Chính trị (2016), Kết luận số 01-KL/TW ngày 04/4/2016 của Bộ chính
trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/05/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
8. Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Bộ tài chính - Bộ Nông nghiệp và phát
triển nông thôn - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2017), Thông tư liên
tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày
29/12/2017 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ tài chính, Bộ Nông
nghiệp và phát triển nông thôn, Viện KSND tối cao quy định việc phối
hợp giữa cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện quy định của
BLTTHS năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố.
9. Bộ Công an – Bộ Quốc phòng – Bộ Nông nghiệp và PTNT – Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao (2012), Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-
BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 02/8/2013 của Bộ Công an, Bộ
Quốc phòng, Bộ tài chính, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Viện
KSND tối cao về Hướng dẫn thi hành qui định của Bộ luật tố tụng hình sự
về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố.
10. Chính phủ (2020), Nghị định số 49/2020/NĐ-CP ngày 17/4/2020 cảu
Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thi hành án hình sự về tái hòa
nhập cộng đồng.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban
Chấp hành Trung ương khóa VII.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban
Chấp hành Trung ương khóa IX.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X của Đảng.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII của Đảng.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII của Đảng.
17. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Quốc hội (1980), Hiến pháp Việt Nam năm 1980.
20. Quốc hội (1992), Hiến pháp Việt Nam năm 1992.
21. Quốc hội (1981), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981.
22. Quốc hội (1992), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992.
23. Quốc hội (2002), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002.
24. Quốc hội (2012), Nghị quyết số 37/2012/QH13 về phòng, chống vi phạm
pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án
nhân dân và công tác thi hành án năm 2013.
25. Quốc hội (2013), Nghị quyết số 63/2013/QH13 về tăng cường biện pháp
đấu tranh phòng, chống tội phạm.
26. Quốc hội (2013), Hiến pháp Việt Nam năm 2013.
27. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
28. Quốc hội (2014), Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thi hành án
dân sự.
29. Quốc hội (2015), Nghị quyết số 111/2015/QH13 về phòng chống vi phạm
pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án
nhân dân và công tác thi hành án năm 2016 và các năm tiếp theo.
30. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
31. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
32. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13, Hà Nội.
33. Quốc hội (2015), Luật tố tụng hành chính năm 2015.
35. Quốc hội (2015), Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015.
36. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự năm 2015.
37. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
38. Quốc hội (2015), Nghị quyết số 96/2015/QH13 về tăng cường các biện
pháp phòng, chống oan, sai và bảo đảm bồi thường cho người thiệt hại
trong hoạt động tố tụng hình sự.
39. Quốc hội (2017), Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều
của Bộ Luật Hình sự số 100/2015/QH13, Hà Nội.
40. Quốc hội (2019), Nghị quyết số: 96/2019/QH14 về công tác phòng,
chống tội phạm và vi phạm pháp luật, công tác của Viện kiểm sát nhân
dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án.
41. Lê Hữu Thể (Chủ biên) (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
42. Tỉnh ủy Đắk Nông (2006), Kế hoạch số 01-KH/TU và Chương trình hành
động số 08-CTr/TU ngày ngày 27/3/2006 về trọng tâm công tác cải cách
tư pháp trên địa bàn tỉnh, Đắk Nông.
43. Tỉnh ủy Đắk Nông (2019), Quyết định số 1244-QĐ/TU ngày 26/4/2019
của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về kiện toàn ban chỉ đạo cải cách tư pháp
trên địa bàn tỉnh, Đắk Nông.
44. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2013), Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày
06/12/2013 về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra,
gắn công tố với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng,
chống tội phạm.
45. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2016), Quyết định số 51/QĐ-VKSTC-
V12 ngày 02/02/2016 về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp.
46. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2017), Quyết định số 501/QĐ-
VKSNDTC ngày 12/12/2017 về quy chế công tác kiểm sát việc bắt, tạm
giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, Hà Nội.
47. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2020), Chỉ thị số 05/CT-VKSTC ngày
27/4/2020 về tăng cường trách nhiệm công tố trong giải quyết các vụ án
hình sự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm.
48. Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao (2016), Thông
tư liên tịch số 03/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao quy định việc
phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao
trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hành chính.
49. Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao (2016), Thông
tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao quy định việc
phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao
trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
50. Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2013), Chỉ thị số 04/CT-
VKSTC ngày 14/8/2013 về tăng cường công tác thanh tra trong ngành
kiểm sát nhân dân.
51. Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2014), Chỉ thị số 05/CT-
VKSTC ngày 31/3/2014 về tăng cường kỷ cương, kỷ luật công vụ và trật
tự nội vụ trong ngành kiểm sát nhân dân.
52. Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2015), Chỉ thị số 04/CT-
VKSTC ngày 10/7/2015 về tăng cường biện pháp phòng,chống oan, sai và
nâng cao trách nhiệm trong giải quyết bồi thường thiệt hại cho người bị
oan trong hoạt động tố tụng hình sự.
53. Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2016), Chỉ thị số 08/CT-
VKSTC ngày 06/4/2016 về tiếp tục tăng cường công tác kháng nghị án
hình sự.
54. Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2016), Chỉ thị số 09/CT-
VKSTC ngày 06/04/2016 về tăng cường các biện pháp nâng cao chất
lượng tranh tụng của KSV tại phiên tòa.
55. Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2017), Chỉ thị số 08/CT-
VKSTC ngày 28/11/2017 về tăng cường thanh tra đột xuất đối với các vụ,
việc có dấu hiệu vi phạm trong lĩnh vực hình sự.
56. Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2017), Chỉ thị số 07/CT-
VKSTC ngày 23/11/2017 về nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm
sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính.
57. Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2017), Chỉ thị số 04/CT-
VKSTC ngày 28/7/2017 về tăng cường công tác tiếp công dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt
động tư pháp.
58. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông (2022), Báo cáo chất lượng công
chức và người lao động theo chức danh đến 31/5/2022.
59. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông (2021), Báo cáo tổng kết công
tác kiểm sát các năm từ 2019 đến 2021.
60. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông (2022), Báo cáo sơ kết công tác
kiểm sát 6 tháng đầu năm 2022.
61. . Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông (2021), Báo cáo tình hình kinh tế - xã
hội, quốc phòng, an ninh năm 2021 của và Báo cáo giữa kỳ lập Quy
hoạch tỉnh Đắk Nông thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
62. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hoá Thông tin,
Hà Nội.
Phụ lục số 1
THỐNG KÊ TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT NGUỒN TIN VỀ TỘI PHẠM
(Từ năm 2019 đến 6 tháng đầu năm 2022)
Tổng số Tỷ lệ Năm Tổng số
2019 1074 giải quyết 1011 giải quyết 94,4%
2020 1115 1056 95%
2021 1157 1089 94,1%
6 tháng 2022 648 520 71%
Tổng 3994 3676
(Nguồn: Viện KSND tỉnh Đắk Nông)
Phụ lục số 2
THỐNG KÊ CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ
KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
(Từ năm 2019 đến 6 tháng đầu năm 2022)
Tạm đình Kết thúc Tổng số Đình chỉ Tỷ lệ Kiến chỉ Năm giải Bị Bị Bị nghị Vụ Vụ Vụ quyết can can can điều tra đề Bị nghị truy Vụ can tố
2019 810 1499 32 36 80 34 581 1190 86% 23
2020 847 1479 38 46 79 26 627 1204 88% 26
2021 809 1496 28 28 68 30 583 1128 84% 18
6 tháng 512 982 16 25 27 17 294 627 66% 12 2022
Tổng 2978 5456 114 135 254 107 2085 4149 82,4% 79 cộng
(Nguồn: Viện KSND tỉnh Đắk Nông)
Phụ lục số 3
THỐNG KÊ CÔNG TÁC THQCT VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG
TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ
(Từ năm 2019 đến 6 tháng đầu năm 2022)
Trả hồ Truy tố Tạm sơ điều Tổng số Đình chỉ chuyển Tỷ lệ đình chỉ tra bổ Tòa Năm giải sung quyết Bị Bị Bị Bị Bị Vụ Vụ Vụ Vụ Vụ can can can can can
2019 600 1228 09 01 01 17 576 1150 09 98%
2020 642 1262 12 02 02 29 618 1209 08 98,4%
2021 592 1147 7 0 0 7 577 1121 9 99%
6 tháng 0 0 304 653 01 05 269 578 05 89% 2022
Tổng 2138 4290 29 58 3 3 2040 4058 31 97% cộng
(Nguồn: Viện KSND tỉnh Đắk Nông)
Phụ lục số 4
THỐNG KÊ CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ
KIỂM SÁT XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
(Từ năm 2019 đến 6 tháng đầu năm 2022)
Số
Tạm
Kiế
Tổng số Đình chỉ
Xét xử
vụ
Kháng
đình chỉ
Năm
n
trả
nghị
nghị
HS
Bị
Bị
Bị
Bị
Không
Vụ
Vụ
Vụ
Vụ
cáo
cáo
cáo
PT
cáo 116
56
2019
605 1293
01
05
01
01
21
12
20
0
1
4
111
59
2020
660 1336
05
09
0
0
18
18
11
0
3
4
102
55
2021
627 1307
5
5
32
8
14
0
6
6
6 tháng
23
331
844
02
03
01
04
16
01
04
563
0
2022
1
Tổng
222
286
19
4780
13
22
3
5
87
39
49
0
cộng
3
45
3
(Nguồn: Viện KSND tỉnh Đắk Nông)
Phụ lục số 4a
THỐNG KÊ CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ
KIỂM SÁT XÉT XỬ PHÚC THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
(Từ năm 2019 đến 6 tháng đầu năm 2022)
Tổng số
Đã xét xử
Số vụ,
Rút
Số
Số
Số vụ hủy
Số
Tuyê
bị cáo
khá
VKS
VKS
Số
vụ
BC
án ST
Năm
BC
Bị
n
Điều
Xét
đình
ng
Vụ
kháng
kháng
BC
đã
đã
sửa
cáo
khôn
tra
xử
chỉ
nghị
nghị
nghị
y án
xét
xét
án
g PT
lại
lại
xử
xử
2019
142
03
05
15/30
07
126
231
112
116
262
02
01
2020
114
01
02
16/28
02
123
204
119
82
237
02
01
2021
147
02
02
46/67
7
96
179
99
69
256
9
0
06
tháng
60
01
106
03
17/25
0
31
47
10
36
0
0
2022
Tổng
463
07
861
12
94/150
16
376
661
340
303
13
02
cộng
(Nguồn: Viện KSND tỉnh Đắk Nông)
Phụ lục số 5
THỐNG KÊ CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC TẠM GIỮ, TẠM GIAM
(Từ năm 2019 đến 6 tháng đầu năm 2022)
Tạm giữ Tạm giam
Kiến Kháng Đã Tỷ lệ Đã Năm Tổng Tổng nghị nghị giải xử lý giải số số quyết HS quyết
751 98% 1230 772 755 02 2019 14
789 98% 1374 965 792 01 2020 15
695 99,1% 1211 786 706 01 2021 10
6 tháng 429 424 99% 833 402 01 04 2022
Tổng 2682 2659 99,1% 4648 2925 43 05 cộng
(Nguồn: Viện KSND tỉnh Đắk Nông)
Phụ lục số 5a
THỐNG KÊ CÔNG TÁC KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
(Từ năm 2019 đến 6 tháng đầu năm 2022)
Tù có thời hạn Tham gia xét giảm
Kiến Kháng Đã thi Không Năm Tổng Tổng Chấp nghị nghị hành chấp số số nhận án nhận
618 732 784 725 28 59 59 2019
607 707 794 794 18 0 0 2020
583 733 750 749 12 01 1 2021
6
0 tháng 345 245 421 421 04 0
2022
Tổng 2517 2053 2749 2734 60 62 60 cộng
(Nguồn: Viện KSND tỉnh Đắk Nông)
Phụ lục số 6
THỐNG KÊ CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT ÁN SƠ
THẨM CÁC VỤ, VIỆC DÂN SỰ, HÔN NHÂN
(Từ năm 2019 đến 6 tháng đầu năm 2022)
Tòa đã giải Kháng nghị quyết Kiến Tổng Năm Không Rút số nghị Vụ KSV Tổng Chấp chấp kháng việc TGPT số nhận nhận nghị
2019 3832 3281 709 14 16 12 02 02
2020 4081 2896 560 12 07 01 03 03
2021 4792 3962 680 08 14 09 01 04
6
tháng 2763 1395 805 03 03 02 0 01
2022
Tổng 15468 11534 2754 44 40 24 06 10 cộng
(Nguồn: Viện KSND tỉnh Đắk Nông)
Phụ lục số 6a
THỐNG KÊ CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT ÁN
PHÚC CÁC VỤ, VIỆC DÂN SỰ, HÔN NHÂN
(Từ năm 2019 đến 6 tháng đầu năm 2022)
Tòa đã giải Kháng nghị quyết
Tổng Kiến KSV Năm Không Rút số nghị Vụ tham Tổng Chấp chấp kháng việc số nhận gia nhận nghị PT
123 103 126 02 02 02 2019 0 0
80 117 95 01 01 0 2020 01 0
82 132 103 03 04 02 2021 0 0
6 tháng 76 63 60 01 01 01 0 0 2022
Tổng 451 384 325 07 08 05 01 0 cộng
(Nguồn: Viện KSND tỉnh Đắk Nông)
Phụ lục số 7
THỐNG KÊ CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT ÁN SƠ
THẨM HÀNH CHÍNH, VỤ VIỆC KINH DOANH THƯƠNG MẠI,
LAO ĐỘNG
(Từ năm 2019 đến 6 tháng đầu năm 2022)
Tòa đã giải Kháng nghị quyết Kiến Tổng Năm Không Rút số nghị Vụ, KSV Tổng Chấp chấp kháng việc TGPT số nhận nhận nghị
2019 175 148 41 0 0 0 0 0
2020 134 92 42 0 0 0 0 0
2021 148 123 35 0 0 0 0 0
6 tháng 125 56 17 0 0 0 0 0 2022
Tổng 434 419 135 0 0 0 0 0 cộng
(Nguồn: Viện KSND tỉnh Đắk Nông)
Phụ lục số 7a
THỐNG KÊ CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT ÁN
PHÚC THẨM HÀNH CHÍNH, VỤ VIỆC KINH DOANH THƯƠNG
MẠI, LAO ĐỘNG
(Từ năm 2019 đến 6 tháng đầu năm 2022)
Tòa đã giải Kháng nghị quyết Kiến Tổng Năm Không Rút số nghị Vụ, KSV Tổng Chấp chấp kháng việc TGPT số nhận nhận nghị
03 03 02 0 0 0 0 0 2019
05 05 05 0 0 0 0 0 2020
2 2 2 0 0 0 0 0 2021
6 tháng 03 01 0 0 0 0 0 0 2022
Tổng 13 11 9 0 0 0 0 0 cộng
(Nguồn: Viện KSND tỉnh Đắk Nông)
Phụ lục số 8
THỐNG KÊ CÔNG TÁC KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
(Từ năm 2019 đến 6 tháng đầu năm 2022)
Số Số tiền đã Tổng việc Tổng số tiền giải quyết Kiến Kháng Năm số đã (ngàn đồng) (ngàn nghị nghị việc giải đồng) quyết
2019 8.270 915.628.488 4.637 123.734.560 09 02
2020 8.372 1.085.277.105 4.890 124.216.953 11 03
2021 9.773 1.355.816.155 5.649 269.076.522 16 0
6 tháng 7.036 1.509.818.841 2.834 243.828.902 08 0 2022
Tổng 33.451 4.866.540.589 18.010 760.856.937 44 05 cộng
(Nguồn: Viện KSND tỉnh Đắk Nông)
Phụ lục số 9
THỐNG KÊ CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VÀ
KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TỐ CÁO TẠI CƠ
QUAN TƯ PHÁP
(Từ năm 2019 đến 6 tháng đầu năm 2022)
Công tác giải
Công tác tiếp nhận, phân quyết khiếu Công tác tiếp loại xử lý đơn khiếu nại, nại, Tố cáo công dân Tố cáo thuộc thẩm
quyền Năm
Không Lãnh Thuộc Đã Tổng Tổng thuộc Tổng đạo thẩm giải số số thẩm số tiếp quyền quyết quyền
348 19 1114 707 136 136 136 2019
321 96 1019 635 189 188 188 2020
158 96 929 652 138 138 138 2021
6 tháng 100 32 517 398 41 41 39 2022
Tổng 927 243 3579 2392 504 503 501 cộng
(Nguồn: Viện KSND tỉnh Đắk Nông)