VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ NA

BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – năm 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ NA

BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số:

838.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

GS.TS. NGUYỄN VĂN HUYÊN

Hà Nội – năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được

ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả

Nguyễn Thị Na

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO

ĐẢM TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ ..................................... 7

1.1. Những vấn đề lý luận về bảo đảm tranh tụng phiên tòa hình sự .................... 7

1.2. Quy định pháp luật về bảo đảm tranh tụng phiên tòa hình sự ...................... 19

CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TẠI PHIÊN

TÒA HÌNH SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG..... 27

2.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo

đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng . 27

2.2. Nguyên nhân những hạn chế về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự

Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng .................................................................. 47

CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM TRANH

TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ ............................................................. 55

3.1. Yêu cầu tăng cường bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự trong giai

đoạn hiện nay ....................................................................................................... 55

3.2. Các giải pháp bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự ............................... 57

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 72

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự

HĐXX: Hội đồng xét xử

TTHS: Tố tụng hình sự

VKS: Viện kiểm sát

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong thực tiễn xét xử, quy định tranh tụng tại phiên tòa hình sự là một

trong những nội dung quan trong trong hoạt động tố tụng hình sự của nươc ta.

Thực hiện tốt vấn đề về bảo đảm tranh tụng nhằm đảm bảo pháp chế xã hội chủ

nghĩa, đảm bảo dân chủ, sự công bằng giữa các chủ thể tham gia tố tụng, đảm

bảo tốt tranh tụng còn là cơ sở để HĐXX đưa ra quyết định, bản án đúng người,

đúng tội, khách quan và đúng pháp luật.

Xuất phát từ lý luận cũng như thực tiễn trong quá trình xét xử, đánh giá

tầm quan trọng hoạt động bảo đảm tranh tụng tại phiên toa hình sự đã được

Đảng và Nhà nước ta quan tâm, cụ thể các Nghị quyết về cải cách tư pháp kể đến

như: Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002; Nghị quyết 49/NQ-TW ngày

02/6/2005. Theo đó, Nghị quyết 49/NQ-TW nêu “Nâng cao chất lượng hoạt

động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét

xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp...” [7]; Nghị quyết 08/NQ-

TW nêu một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, như

“Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại

phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm

sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những

người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp

luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy định” [6].. Vấn đề tranh tụng

được Đảng và Nhà nước ta quan tâm trong thời gian gần đây. Hiến pháp năm

2013, tại khoản 5 Điều 103 quy định“Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được

bảo đảm” [23]; nguyên tắc “tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” được

BLTTHS năm 2015 đã bổ sung, ghi nhận [22]. Bảo đảm tranh tụng trong xét xử

được ghi nhận trong Bộ luật tô tụng hình sự là nguyên tắc, điều đó thể hiện áp

dụng tinh thần, bước tiến tiến bộ, trong quá trình xây dựng pháp luật của Nhà

1

nước ta, phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp trong các nghị quyết đã đề ra.

Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự trong thời gian qua cho thấy hoạt động

tranh tụng tại các phiên toà hình sự trên phạm vi cả nước nói chung và địa bàn

thành phố Đà Nẵng nói riêng, đã có tiến bộ nhưng đánh giá chung vẫn còn nhiều

tồn tại, thiếu sót tạo, chưa đảm bảo đúng yêu cầu của cải cách tư pháp về bảo

đảm tranh tụng tại phiên tòa. Nhiều trường hợp Tòa án chưa giải quyết thỏa đáng

yêu cầu triệu tập người làm chứng, hoãn phiên Tòa. Có phiên tòa việc tranh luận

chỉ mang tính hình thức. Quyết định của bản án ở nhiêu tòa án còn thiếu sót chưa

căn cứ và diễn biến và kết quả tranh tụng tại phiên tòa mặc dù đã có tranh luận.

Vì vậy, nâng cao chất lượng đảm bảo tranh tụng là một đòi hỏi mà Đảng, nhà

nước và xã hội đặt ra cho các cơ quan tư pháp. Đối với Tòa án bảo đảm tranh

tụng tại phiên toà là vấn đề rất quan trọng, là cơ quan thực hiện quyền tư pháp,

khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 đã đưa lên hàng đầu vai trò và nhiệm vụ

Toàn án là “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân sau đó mới

quy định tiếp bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi

ích hợp pháp của tổ chức cá nhân” [23]. Đây là hoạt động ảnh hưởng trực tiếp

uy tín, vai trò của ngành Tòa án nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự nhằm

thực hiện vai trò, nhiệm vụ của mình.

Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Bảo đảm tranh tụng

tại phiên tòa hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng” làm

luận văn Thạc sỹ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Với những chủ trương của Đảng và Nhà nước đã đề ra trên cơ sở Nghị

quyết của Bộ chính trị về cải cách tư pháp, Quốc hội đã có kế hoạch và ban hành

nhiều văn bản, quy định pháp luật ở văn bản có giá trị pháp lý cao như Hiến

phóa, Bộ luật, Luật… liên quan đến vấn đề bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa

hình sự, đây là những quy định tiến bộ đảm bảo tranh tụng được thực hiện tốt

trong quá trình xét xử hiện nay. Trong lĩnh vực khoa học pháp lý có nhiều tác

giả nghiên cứu về vấn đề đảm bảo tranh tụng tại phiên tòa hình sự ở nhiều gốc

2

độ khác nhau: “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và

thực tiễn” của tác giả Nguyễn Thái Phúc năm 2007; “Nguyên tắc tranh tụng

trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS” của GS.TSKH. Lê Cảm,

Đặc san Luật học số 6/2004; “Về nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa

hình sự” của ThS. Ngô Hồng Phúc, Tạp chí Tòa án nhân dân năm 2003;

“Phương hướng hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả

Phạm Hồng Hải năm 2009; “Vấn đề tranh tụng hình sự” của ThS. Nguyễn Đức

Mai, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ năm 1995; Chuyên đề “Tiến tới xây dựng

TTHS ở Việt Nam theo kiểu tranh tụng hình sự” của PGS.TS. Phạm Hồng Hải,

Nhà xuất bản Công an Nhân dân năm 2003; Luận án tiến sĩ “Mô hình tố tụng

hình sự Việt Nam và những vấn đề áp dụng tranh tụng” của tác giả Nguyễn Thị

Thủy năm 2014; “Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm”, Dương Thanh Biểu, Nxb

Tư pháp, Hà Nội; “Nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên qua các

phiên tòa rút kinh nghiệm ở Phú Thọ”, Đoàn Minh Hương, Tạp chí kiểm sát

năm 2014; “Kỹ năng giao tiếp của Kiểm sát viên trong hoạt động tranh tụng tại

phiên tòa hình sự” Nguyễn Đức Hạnh, Tạp chí kiểm sát, 2013; “Thực trạng và

giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng trong phiên tòa hình sự”, Nguyễn Kim

Chi, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 191, năm 2011; “Bảo đảm quyền của bị

can, bị cáo trong phiên tòa mở rộng tranh tụng”, Thanh Nghị, Cần nâng cao

năng lực và kỹ năng luận tội, tranh luận của KSV tại phiên tòa hình sự sơ thẩm;

Nguyễn Văn Thuận (2014), Hiến pháp 2013 về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và

bảo đảm quyền con người và định hướng sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự, Kỷ

yếu hội thảo “Hiến pháp 2013 và vấn đề đổi mới TTHS ở Việt Nam”, PGS.TS

Nguyễn Văn Huyên, Tạp chí dân chủ và Pháp luật, số 08/2003; Phan Văn Sơn,

“Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành nhằm nâng cao chất lượng

tranh tụng của KSV tại các phiên tòa hình sự”, Tạp chí kiểm sát, số 12

(06/2014); Lê Hữu Thể (2005), “Những giải pháp nâng cao chất lượng tranh

tụng tại phiên tòa của Kiểm sát viên”, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Kiểm sát

nhân dân tối cao …

3

Những công trình nghiên cứu trên đã giải quyết được một số vấn đề về

tranh tụng như: Nguyên tắc tranh tụng, mô hình tranh tụng, tranh tụng tại phiên

tòa…Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về bảo đảm

tranh tụng tại phiên tòa ở một địa phương như Thành phố Đà Nẵng. Những

công trình nghiên cứu trên có giá trị để học viên tham khảo nghiên cứu để hoàn

thành luận văn của mình.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu đảm bảo tranh tụng tại phiên tòa hình sự góp phần

làm sáng tỏ lý luận, thực tiễn về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự. Bên

cạnh đó, đưa ra những yêu cầu và giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về

bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật về tranh tụng, bảo đảm

tranh tụng, mô hình tranh tụng tại phiên tòa hình sự.

- Nghiên cứu bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự từ thực tiễn Thành

phố Đà Nẵng.

- Yêu cầu và các giải pháp tăng cường bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa

hình sự theo tinh thần cải các tư pháp.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng của Luận văn là những vấn đề lý luận, các quy định của pháp

luật TTHS hiện hành liên quan đến tranh tụng và thực tiễn bảo đảm tranh tụng

tại phiên tòa ở Thành phố Đà Nẵng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Đề tài nghiên cứu về vấn đề bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa theo Pháp

luật TTHS Việt Nam.

- Về không gian: Đề tài nghiên cứu thực tiễn bảo đảm tranh tụng tại phiên

tòa hình sự tại Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng.

4

- Số liệu thể hiện thực trạng công tác xét xử tại Tòa án nhân dân Thành

phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến 2018.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác –

Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật để giải quyết vấn đề.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, diễn giải, bình luận, so

sánh đối chiếu, khảo sát thực tế. Trong quá trình nghiên cứu, các phương pháp

này được vận dụng đan xen để tạo ra kết quả nghiên cứu của đề tài, cho phép rút

ra những kết luận khoa học, kiến nghị hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam về

bảo đảm tranh tụng.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Đây là công trình nghiên cứu có hệ thống về bảo đảm tranh tụng tại phiên

tòa hình sự. Việc nghiên cứu để tài có ý nghĩa tham khảo cho cán bộ, những

những người quan tâm đến lĩnh vực này.

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn sẽ góp phần nghiên cứu sâu thêm những quy định pháp luật, cơ

sở khoa học, pháp lý về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa, là cơ sở để sửa đổi bổ

sung những quy định còn bất cập, hạn chế.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

- Góp phần mở rộng dân chủ trong TTHS, đảm bảo quyền con người của

bị can, bị cáo, phù hợp với xu thế dân chủ hóa của thời đại.

- Ngoài ra, đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm nghiên

cứu vấn đề tranh tụng trong TTHS Việt Nam.

7. Kết cấu của đề tài

Kết cấu luận văn như sau, nội dung đề tài được bố cục thành 3 Chương:

Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về bảo đảm tranh tụng tại

phiên tòa hình sự.

5

Chương 2.Thực tiễn bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại Toà án

nhân dân thành phố Đà Nẵng

Chương 3. Các giải phảp tăng cường bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa

6

hình sự.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRANH

TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ

1.1. Những vấn đề lý luận về bảo đảm tranh tụng phiên tòa hình sự

1.1.1. Khái niệm tranh tụng tại phiên tòa hình sự

Đến nay, vẫn chưa có văn bản nào nêu rõ khái niệm hay định nghĩa thế

nào là “tranh tụng”. Thuật ngữ “tranh tụng” chỉ mới được đề cập trong các văn

bản của Đảng như Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị

về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp đề cập "nâng cao chất lượng

tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên toà, đảm bảo việc tranh tụng dân chủ với

luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác", trong các tài

liệu hội thảo nên hiện còn nhiều cách hiểu, nhận thức về “tranh tụng”, ngay cả

Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó quy định tại

khoản 5 Điều 103: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo” và Bộ

luật tố tụng hình sự 2015 cũng chỉ có quy định về tranh tụng trong xét xử được

bảo đảm được xem là nguyên tắc nhưng chưa có quy định hay giải thích thế nào

là “tranh tụng” [16, tr.32-38].

Theo Đại từ tiếng Việt năm 1998 thì tranh tụng có nghĩa là “Kiện tụng”

dùng để “kiện cáo nhau”.

Trong khoa học Pháp lý khái niệm tranh tụng hiểu theo hai nghĩa:

Theo nghĩa rộng: Tranh tụng là những hoạt động tố tụng được bắt đầu từ

khi các đương sự thực hiện quyền khởi kiện và kết thúc khi có bản án, quyết định

của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Quá trình tranh tụng bao gồm toàn bộ các giai

đoạn khởi kiện, thụ lý vụ án, chuẩn bị xét xử, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và cả

giai đoạn giám đốc thẩm, tại thẩm.

Theo nghĩa hẹp: Tranh tụng là sự đối đáp, đấu tranh giữa các bên trong

vụ án với nhau về chứng cứ, yêu cầu, phản đối yêu cầu của mỗi bên để từ đó

nhằm chứng minh cho đối phương và Tòa án rằng yêu cầu và phản đối của mình

7

có căn cứ và hợp pháp.

Theo từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý, nhà xuất bản tư pháp

năm 2005 thì: “Tranh tụng là hoạt động tố tụng được thực hiện bởi các bên

tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên gỡ tội) có quyền bình đẳng với nhau trong

việc đưa ra chứng cứ để bảo vệ quan điểm và lợi ích của mình, phản bác lại

quan điểm và lợi ích của phía đối lập” [42].

Vậy tranh tụng trong tố tụng hình sự được bắt đầu từ giai đoạn nào của

hoạt động tố tụng? Trong TTHS luôn tồn tại ba chức năng cơ bản là buộc tội,

bào chữa và xét xử. Ba chức năng này đan quyện qua lại với nhau và trong sự

thống nhất của mình, chúng bảo đảm cho việc giải quyết vụ án. Khi một nguời bị

bắt, bị áp dựng biện pháp tạm giữ hoặc khi một người bị khởi tố với tư cách là bị

can thì trong TTHS đồng thời xuất hiện chức năng buộc tội và chức năng bào

chữa. Chính từ thời điểm này mới xuất hiện sự tranh tụng giữa bên buộc tội và

bên bào chữa [9, tr.34-37]. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã khẳng định quá

trình tranh tụng được diễn ra trong suốt quá trình tố tụng, bắt đầu từ giai đoạn

khởi tố và xuyên suốt đến giai đoạn xét xử. Đây là quan điểm hợp lý, đã khái

quát đầy đủ quá trình tranh tụng.

So với chức năng xét xử, thì chức năng buộc tội và chức năng bào chữa

xuất hiện sớm hơn, song song tồn tại và đối trọng với nhau trong suốt quá trình

tố tụng. Chức năng buộc tội và chức năng bào chữa luôn đối lập nhau và các chủ

thể tham gia thực hiện hai chức năng này tạo thành hai bên đối tụng: Bên buộc

tội và bên bào chữa. Còn chức năng xét xử do chủ thể duy nhất là Toà án thực

hiện. Bên có thế mạnh là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán được nhân

danh quyền lực nhà nước và được sử dụng quyền lực nhà nước để tiến hành các

hoạt động tố tụng đối với “bên yếu thế” là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và

“bên yếu thế” buộc phải chấp hành các biện pháp tố tụng mà những người tiến

hành tố tụng áp dụng [47, tr.214].

Tuy nhiên, chúng tôi thấy rằng quá trình tranh tụng chỉ thực sự được tiến

hành khi có sự hiện diện đầy đủ các bên buộc tội, bên bào chữa dưới sự điều

8

khiển của Tòa án… Chính vì vậy bản chất tranh tụng được thể hiện đầy đủ nhất

từ khi bắt đầu từ giai đoạn xét xử, đặc biệt là xét xử tại phiên tòa. Tại phiên tòa

xét xử, với sự có mặt đầy đủ các chủ thể đó là bị cáo và người bào chữa; kiểm

sát viên – đại diện cho VKS và người bị hại , quá trình tranh tụng được tiến hành

thông qua hoạt động của các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên bào chữa và Hội

đồng xét xử với ba chức năng tương ứng xem xét việc buộc tội, bào chữa và xét

xử Hội đồng xét xử chỉ có thể ra Bản án, quyết định sau khi đã căn cứ vào kết

quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

Tranh tụng - xét dưới góc độ là một “nguyên tắc cơ bản” của tố tụng hình

sự: Theo quan niệm chung, nguyên tắc của tố tụng hình sự là những tư tưởng chỉ

đạo đối với toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự hoặc đối với một loại hoạt động

nhất định “ là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ các chế

định pháp luật, các quy phạm pháp luật cụ thể về tố tụng hình sự”; hoặc đó là

“những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự và

được các văn bản pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận.

Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định “Nguyên tắc tranh tụng trong xét

xử được bảo đảm”, đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, tranh tụng được ghi

nhận là một nguyên tắc. Vấn đề là cụ thể hoá nguyên tắc tranh tụng trong

BLTTHS như thế nào? Nguyên tắc này có những nội dung gì? Phạm vi điều

chỉnh của nguyên tắc này?...là những vấn đề đang được nghiên cứu, xây dựng

BLTTHS sửa đổi, bổ sung.

Như vậy, Tranh tụng được hiểu là các hoạt động được thực hiện bởi các

bên tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc tội) có quyền bình đẳng với

nhau trong việc thu nhập và đưa ra chứng cứ, trình bày ý kiến để bảo vệ các quan

điểm và lợi ích của mình và phản bác lại các quan điểm và lợi ích của phía đối

lập. Tranh tụng tại phiên tòa là những hoạt động tố tụng được tiến hành tại phiên

toà xét xử bởi hai bên tham gia tố tụng, nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi

bên và bác bỏ ý kiến, luận điểm của phía bên kia, dưới sự điều khiển, quyết định

9

của Tòa án với vai trò trung gian, trọng tài [24].

1.1.2. Khái niệm bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự

Tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp 2013 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng

trong xét xử được đảm bảo” và Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định tại Điều

26 Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. Để hiểu thế nào là bảo đảm tranh tụng

tại phiên tòa, trước hết cần tìm hiểu thế nào là bảo đảm. Bảo đảm có thể được

hiểu là: “Làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ

những gì cần thiết” [42]. Đặt trong ngữ cảnh để hiểu rõ nội hàm khái niệm bảo

đảm, Từ điển luật học diễn giải: Nhà nước các trách nhiệm “bảo đảm cho các

quyền công dân đã được ghi trong các đạo luật phải được thực thi, phải tạo điều

kiện cho công dân hưởng các quyền đó” [42].

Trong tố tụng hình sự, việc xác định sự thật khách quan của vụ án được

trải qua các giai đoạn khác nhau, ở mỗi giai đoạn tố tụng khác nhau, cơ quan tiến

hành tố tụng, người tiến hành tố tụng sẽ thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền

và nghĩa vụ của mình theo luật định; mỗi giai đoạn tố tụng đều có vai trò, ý

nghĩa quan trọng trong giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật.

Theo đó, để tiến hành được việc tranh tụng và tranh tụng có hiệu quả, các

bên cần phải có thời gian và điều kiện cần thiết để thu thập các chứng cứ, tài liệu

và các tình tiết của vụ án trước khi bước vào cuộc tranh tụng tại phiên tòa. Trong

các vụ án hình sự, các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trên cơ sở chức năng

nhiệm vụ được giao thực hiện chức năng chứng minh tội phạm, vì vậy họ thường

chỉ thu thập những chứng cứ, bằng chứng mang tính chất buộc tội, việc thu thập

chứng cứ gỡ tội thường ít chú trọng, trong khi đó bị cáo và người bào chữa thì

hạn chế trong việc thu thập các chứng cứ gỡ tội. Thế cho nên, pháp luật tố tụng

hình sự cần có những quy định bảo đảm các bên tham gia tố tụng có thể chủ

động sử dụng các phương tiện được pháp luật cho phép để thu thập và xuất trình

chứng cứ nhằm lập luận cho quan điểm của mình. Theo quy định của pháp luật,

các bên tham gia vào hoạt động tố tụng có nghĩa vụ pháp lý như nhau, trong quá

10

trình thu thập, đánh giá kiểm tra chứng cứ và được đánh giá trong trường hợp cụ

thể. Việc quyết định bản án, xác định sự thật của vụ án phải được căn cứ trên cơ

các kết quả, tranh tụng công khai tại phiên tòa giữa các bên.

Bảo đảm tranh tụng nhằm bảo vệ quyền hạn, trách nhiệm của các chủ thể

tham gia trong quá trình tố tụng được thực hiện đầy đủ các biện pháp, các

phương tiện được pháp luật cho phép để thu thập và xuất trình chứng cứ chứng

minh cho quan điểm của mình; tranh tụng mở ra cơ hội và tạo điều kiện ngang

nhau cho các bên trình bày quan điểm, lý lẽ, cung cấp chứng cứ và phần tranh

luận của mình tại phiên tòa. Nhiệm vụ của tố tụng hình sự phải thực hiện nhiệm

vụ, xác định sự thật vụ án, đảm bảo công bằng, để công lý được thực [20].

Từ những phân tích có thể đưa ra khái niệm bảo đảm tranh tụng tại phiên

tòa hình sự là đảm bảo các điều kiện cần và đủ về chủ thể, các quy định pháp

luật, cơ chế thực hiện nhằm đảm bảo để các chủ tham gia tố tụng được đưa ra

quan điểm, chứng cứ, luận điểm để tranh luận nhằm sáng tỏ sự thật của vụ án,

làm cho kết quả tranh tụng đạt hiệu quả cao; là căn cứ để tòa án đưa ra phán

quyết có tính thuyết phục, đảm bảo pháp chế, đảm bảo công lý được thực hiện

đún với các quy định của pháp luật.

1.1.3. Đặc điểm đảm bảo tranh tụng tại phiên tòa hình sự

Tranh tụng là quá trình đi tìm sự thật khách quan của vụ án, đây là nhiệm

vụ mà hoạt động tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng hướng tới. Trong quá trình

thực hiện tốt các phương thức tranh tụng với nhiệm vụ xác định sự thật khách

quan vụ án và cũng là công cụ hữu hiệu bảo đảm quyền con người, quyền công

dân, tranh bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội. Có thể hiểu: “Tranh tụng là

việc các bên trong tham gia tố tụng được đưa ra các quan điểm, ý kiến, yêu cầu

của mình của mình và tranh luận lại để bác bỏ một phần hay toàn bộ quan điểm

của phía bên kia”. Với ý nghĩa là một nguyên tắc của luật tố tụng hình sự,

nguyên tắc tranh tụng là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng cho các chủ thể

trong việc thực hiện quá trình tranh luận bình đẳng dựa trên chứng cứ.

Quá trình tranh tụng được tiến hành thông qua hoạt động của các chủ thể

11

của bên buộc tội, bên bào chữa và Hội đồng xét xử với ba chức năng tương ứng,

xem xét việc buộc tội, bào chữa và Hội đồng xét xử chỉ có thể ra Bản án, quyết

định sau khi đã căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh

tụng tại phiên tòa. Từ đó, có thể khẳng định rằng tranh tụng tại phiên tòa là giai

đoạn mà ở đó có sự hiện diện đầy đủ các bên buộc tội, bào chữa và dưới sự điều

khiển của chủ tọa phiên tòa thể hiện đầy đủ nhất bản chất tranh tụng. Do vậy, đặc

điểm bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự thể hiện ở những nội dung sau

đây:

Thứ nhất, có thể thấy rằng Tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của hoạt động

tố tụng hình sự, do vậy hoạt động tranh tụng bắt buộc phải tuân theo các qui định

của Bộ luật TTHS. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và các thành viên Hội đồng xét

xử, có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện, thực thi các qui định của pháp luật

theo qui định của BLTTHS để các bên thực hiện tranh tụng.

Thứ hai, chủ thể của tranh tụng gồm có Kiểm sát viên (chủ thể buộc tội)

và người tham gia tố tụng khác như Luật sư, bị cáo, người bị hại, người đại diện

hợp pháp của bị cáo, người bị hại… (cũng có thể là chủ thể buộc tội hoặc gỡ tội).

Các chủ thể thực hiện chức năng tố tụng được phân định rõ ràng, tuy xuất phát

từ những địa vị pháp lý khác nhau nhưng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình

sự thì họ bình đẳng với nhau trong quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, yêu cầu, quan

điểm về giải quyết vụ án. Tại phiên tòa, Tòa án là cơ quan xét xử điều khiển

phiên tòa, Kiểm sát viên có trách nhiệm tranh tụng với người bào chữa, bị cáo và

những người tham gia tố tụng khác để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.

Người bào chữa, bị cáo, bị hại, được bình đẳng với Kiểm sát viên trong việc đưa

ra chứng cứ và tranh luận đối đáp tại phiên tòa. Pháp luật quy định rất rõ Kiểm

sát viên, người bị buộc tội, người bào chữa và những người tham gia tố tụng

khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa

ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.

Thứ ba, hoạt động tranh tụng tại phiên toà thực hiện dưới sự điều khiển

của chủ toạ phiên tòa. Để làm tốt vấn đề này, phụ thuộc rất nhiều vào kỹ năng

12

điều hành phần tranh tụng của Thẩm phán chủ tọa và Hội đồng xét xử. Chủ tọa

phiên tòa có quyền yêu cầu các bên tiến hành tranh tụng để trả lời những ý kiến

của phía bên kia đặt ra. Chủ tọa phiên tòa cũng có quyền cắt bỏ ý kiến của các

bên tranh tụng nếu ý kiến đó trùng lặp hoặc không liên quan đến vụ án. Chủ tọa

phiên tòa phải tạo điều kiện để các bên tranh tụng bình đằng, dân chủ và không

được hạn chế thời gian tranh tụng.

Thứ tư, để hoạt động tố tụng đạt hiệu quả, HĐXX có trách nhiệm bảo đảm

điều kiện cần thiết cho tranh tụng. Đó là bảo đảm sự có mặt của những người

tham gia tố tụng, bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng, bảo đảm

các tài liệu chứng cứ mới đều được xem xét tại phiên tòa.

Phiên tòa hình sự được đánh giá chất lượng tranh tụng cần có các tiêu chí

đánh giá sau đây:

+ Các bên tham gia tố tụng phải thực hiện đúng nhiệm vụ quyền hạn của

mình, thực hiện nghiêm các quy định pháp luật, đảm bảo được thực hiện trên

thực tế một cách, công bằng, dân chủ. Các bên tham gia tranh tụng phải đảm bảo

thực hiện có trách nhiệm nhiệm vụ của mình, lập luận có căn cứ pháp luật, cần

tôn trọng ý kiến của nhau, có văn hóa và ứng xử đúng mực trong tranh luận.

+ Các bên tham gia tố tụng có quyền đưa ra quan điểm, cung cấp các chứng

cứ, buộc tội cũng như gỡ tội, việc đưa ra chứng cứ bảo đảm có căn cứ pháp luật,

được hội đồng xét xử chấp nhận những quan điểm của mình, nếu việc đưa ra

luận điểm, chứng cứ không được chấp nhận thì chất lượng tranh tụng chưa tốt.

+ Kết quả đánh giá chất lượng giải quyết các vụ án hình sự thể hiện xét xử

đúng người, đúng tội, không để xảy ra trường hợp oan sai. Hạn chế tình trạng xét

xử oan sai, làm cho các bản án bị cấp trên hủy, sửa.

+ Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Luật sư thực hiện

tốt chức năng của mình, chủ động, tích cực, có kế hoạch trong việc nghiên cứu

hồ sơ vụ án, đảm bảo tốt cho phiên tòa. Việc chuẩn bị tốt, có kế hoạch, đảm bảo

vụ án xét xử một cách toàn diện, các bên đưa ra quan điểm, bác bỏ quan điểm có

căn cứ, làm cơ sở Thẩm phán ra quyết định bản án, đúng người, đúng tội, đúng

13

pháp luật, thông qua đó góp phần bảo đảm chất lượng tranh tụng của được tốt.

1.1.4. Cơ chế bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự

Với việc ghi nhận và bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được

đảm bảo tại Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Đây là tư

tưởng, quan điểm có tính chỉ đạo xuyên suốt quá trình xây dựng và đã được cụ

thể trong các thủ tục tố tụng nói chung, thủ tục xét xử nói riêng, bởi xét xử được

coi là hoạt động trọng tâm của toàn bộ hoạt động tố tụng với các thủ tục xét xử

công khai, bảo đảm cho những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các

quyền và nghĩa vụ của mình bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự,

góp phần khắc phục tình trạng để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Để nguyên tắc

tranh tụng trong xét xử được bảo đảm thực hiện trên thực tế thì cần bảo đảm sau:

Một là, đảm bảo về mặt pháp lý.

Thứ nhất, việc ghi nhận các nguyên tắc và quy định về nguyên tắc tranh

tụng trong xét được bảo đảm ở những văn bản có giá trị pháp lý cao như Hiến

pháp và Bộ luật là bước tiến bộ của lập pháp nước ta. Vì vậy, pháp luật cần có cụ

thể hóa, bằng các quy định đầy đủ, rõ ràng, về địa vị tố tụng của các chủ thể

tham gia tố tụng tại phiên tòa để họ có thể thực hiện được đầy đủ các nội dung

tranh tụng theo chức năng, nhiệm vụ hoặc lợi ích của mình, đảm bảo cho các chủ

thể được chủ động thu thập vật chứng, chứng cứ, được yêu cầu cung cấp các tài

liệu phục vụ cho qua trình xác định sự thật vụ án.

Thứ hai, pháp luật quy định rõ mối quan hệ, sự bình đẳng trước Tòa án

của giữa những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng trong

việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách

quan của vụ án. Đây là tiền đề quan trọng để các chủ thể thực hiện hoạt động

tranh tụng bảo vệ quan điểm, quyền lợi của mình khi tham gia tố tụng. Chỉ trên

cơ sở các quy định về bảo đảm sự bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh

giá chứng cứ thì hoạt động tranh tụng tại phiên tòa mới thực chất. Do vậy, cần

mở rộng phạm vi các vụ án hình sự có sự tham gia bắt buộc của luật sư nhằm tạo

14

điều kiện cho tranh tụng được bảo đảm.

Hai là, bảo đảm về mặt tổ chức.

Cần có sự quy định rõ rằng về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tiến

hành tố tụng đảm bảo đúng chức năng của tố tụng hình sự; quy định nhiệm vụ,

trách nhiệm của người tiến hành tố tụng trong quá trình hoạt động tố tụng tạo

điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực đảm bảo thực hiện tranh tụng

tại phiên tòa phù hợp với cơ chế tranh tụng. Cần có sự quan tâm cũng như hỗ trợ

của Nhà nước đối với các tổ chức hành nghề luật sư, các trung tâm tư vấn pháp

lý miễn phí, để cho người dân, những đối tượng thuộc diện khó khăn có điều

kiện được hưởng tư vấn pháp luật; mở rộng phạm vi bào chữa bắt buộc, thời

điểm tham gia bào chữa của luật sư trong vụ án để đảm bảo các vụ án hình sự có

người bào chữa được tham gia ngày càng nhiều.

Ba là, bảo đảm cơ sở vật chất cho quá trình tranh tụng.

Hiện nay, việc áp dụng ghi âm, ghi hình có âm thanh trong điều tra vụ án

hình sự được quy định tại Điều 3 Thông tư liên tịch 03/2018/TTLT-BCA-

VKSNDTC-TANDTC-BQP hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm

hoặc ghi hình có âm thanh; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm hoặc ghi

hình có âm thanh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử do Bộ trưởng Bộ Công

an - Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Chánh án Tòa án nhân dân tối

cao - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành (có hiệu lực ngày 18/03/2018), đây là

một trong những quy định tiến bộ bảo đảm sự khách quan trong quá trình giải

quyết vụ án, hạn chế tình trạng, bức cung, mớm cung, dùng nhục hình của các cơ

quan tố tụng. Vì vậy, cần có sự đảm bảo trang bị đầy đủ, hệ thống cơ sở vật chất

của các phòng hỏi cung, lấy lời khai trong quá trình điều tra, truy tố. Đối với hội

trường xét xử cần có sự sắp xếp, cấu trúc đảm bảo phù hợp mô hình tranh tụng,

vị trí của các bên tham gia phiên tòa bảo đảm thể hiện sự bình đẳng, công bằng,

khách quan của bên buộc tội và bên bào chữa, gỡ tội. Hệ thống âm thanh, thiết bị

15

ghi âm, ghi hình rõ ràng, chất lượng để đảm bảo tính nghiêm minh của phiên tòa.

Bốn là, nâng cao trình độ, năng lực của các chủ thể thực hiện nguyên

tắc tranh tụng tại phiên tòa.

Đối với những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cần nâng

cao trình độ, năng lực công tác, cũng như những hiểu biết của những người tham

gia tố tụng, để họ thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình.

Đối với các Thẩm phán, cán bộ công tác tại Tòa án, cần đảm bảo về số

lượng và chất lượng, có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, đạo

đức nghề nghiệp để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình được giao.

Trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, đáp ứng các yêu

cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay, các Thẩm phán, Hội thẩm cần xác

định trách nhiệm, có nhận thức, đảm bảo thống nhất, xác định tầm quan trọng

tinh thần cải cách tư pháp về bảo đảm tranh tụng. Trong quá trình thực hiện

nhiệm vụ của mình, Thẩm phán là người cầm cần nảy mực, nên đòi hỏi phải vô

tư, khách quan trong quá trình giải quyết vụ án, điều khiển phiên tòa đúng thủ

tục, trình tự đảm bảo công bằng, khách quan. Việc ra quyết định, bản án cần xem

xét một cách toàn diện trên cơ sở kết quả tranh luận tại phiên tòa.

Viện kiểm sát các cấp quan tâm, có kế hoạch về đào tạo cán bộ, bồi dưỡng

nghiệp vụ đội ngũ Kiểm sát viên làm công tác tranh tụng tại phiên tòa. Thường

xuyên học tập, tranh bị kỹ năng cần thiết, các kỹ năng nghiệp vụ nhằm đáp ứng

yêu cầu cải cách tư pháp. Đối với kiểm sát viên tham gia phiên tòa cần có sự

chuẩn bị kế hoạch chu đáo, dự lường những trường hợp phát sinh tại phiên tòa,

nhất là trong những vụ án có nhiều bị cáo, nhiều luật sư tham gia, đảm bảo tranh

tụng đúng mực, có căn cứ, tranh luận cần đi vào những nội dung trọng tâm của

vụ án.

Đối với tổ chức Luật sư tham gia tranh tụng cần tổ chức đào tạo bài bản,

đảm chất lượng hoạt động của đội ngũ Luật sư nhằm đáp ứng sự phát triển của xã

hội cần phát triển đội ngũ Luật sư cả về số lượng và chất lượng, giỏi về chuyên

16

môn nghiệp vụ, có đạo đức nghề nghiệp.

1.1.5. Ý nghĩa bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự

Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự mang nhiều ý nghĩa:

Thứ nhất, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa có ý nghĩa chính trị

sâu sắc, thể chế hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp.Từ

trước tới nay vấn đề tranh tụng và nâng cao chất lượng tranh tụng được quan

tâm và đề cập tới nhiều. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương về vấn đề

này, cụ thể: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một

số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, Tiếp đó, Nghị

quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020 [7]. Nghị quyết 37/NQ-QH13 ngày 23/11/2012 yêu cầu:

“…Đặc biệt các chủ trương trên đã được thể chế hóa tại Khoản 5 Điều 103 của

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 và Bộ luật

TTHS năm 2015 khẳng định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo

đảm” Điều 26.

Thứ hai, bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa tạo sự chuyển biến mạnh mẽ cả

về nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn trong việc xét xử.

Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng được quy định cụ thể trong các văn bản

luật, tạo chuyển biến mạnh mẽ về ý thức, nhận thức của các cán bộ, những người

tham gia tố tụng khi tham gia vào hoạt động tranh tụng. Với những quy định của

pháp luật được ghi nhận, trong hoạt động xét xử của Tòa án sẽ thay đổi cách

thwucs thực hiện, đổi mới đảm bảo tranh tụng để có một phiên tòa công bằng,

dân chủ.

Thứ ba, bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa là bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của công dân.

Trong hoạt động tố tụng hình sự, một bên cơ quan tiến hành tố tụng với

đầy đủ trang thiết bị, chức năng nhiệm vụ, một bên là người bị buộc tội yếu thế

nên đây được xem là hoạt động nhạy cảm ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực

hiện quyền con người. Việc bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa được Quy định

17

trong Hiến pháp, pháp luật tố tụng hình sự bằng các quy định đúng đắn, hợp lý,

khả thi và đảm bảo thực hiện các quy định đó trên thực tế, trở thành mục tiêu

cao nhất trong xây dựng Nhà nước pháp quyền ở các quốc gia.

Thứ tư, bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa thể hiện tính nhân văn, nhân đạo

được trong những trường hợp theo quy định của pháp luật, nếu bị cáo hoặc

người đại diện hợp pháp của họ không có điều kiện để mời Luật sư bào chữa

thì các cơ quan tiến hành tố tụng trong chức năng, nhiệm vụ của mình yêu

cầu đoàn luật sư cử người bào chữa cho họ (nếu các vụ án thuộc trường hợp chỉ

định). Trong các trường hợp khác cần tạo điều kiện để người bào chữa và bị cáo

thực hiện các quyền đặc biệt là quyền thu thập, đánh giá chứng cứ tranh luận tại

phiên tòa, để đảm bảo quyền cho người được bào chữa.

Thứ năm, bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa biểu hiện của việc thực hiện

bình đẳng, dân chủ trong hoạt động tư pháp TTHS. Pháp luật quy định rõ mối

quan hệ, vị trí giữa những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố

tụng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự

thật khách quan của vụ án đảm bảo bình đẳng, đây là tiền đề quan trọng để các

chủ thể thực hiện hoạt động tranh tụng bảo vệ quan điểm, quyền lợi của mình

khi tham gia tố tụng. Chỉ trên cơ sở bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh

giá chứng cứ thì hoạt động tranh tụng mới đảm bảo chất lượng, tính thực thi.

Thứ sáu, bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa góp phần xác định sự thật

khách quan của vụ án, bảo đảm xét xử đúng người đúng tội, không để lọt tội

phạm, không để oan sai. Hoạt động tố tụng với các thủ tục xét xử công khai, bảo

đảm cho những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ

của mình. Bản án của Toà án chỉ dựa trên cơ sở kết quả tranh tụng giữa các bên.”

Với quy định của nguyên tác tranh tụng góp phần khắc phục tình trạng để xảy ra

oan, sai, bỏ lọt tội phạm, hạn chế đến mức tối đa tình trạng bị oan, sai trong quá

trình giải quyết vụ án hình sự, đảm bảo Tòa án ra bản án đúng người, đúng tội,

18

đúng pháp luật.

1.2. Quy định pháp luật về bảo đảm tranh tụng phiên tòa hình sự

Trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền, việc các quy định pháp

luật về mở rộng quyền dân chủ, đã được Đảng và nhà nước ta đặc biệt quan tâm,

nhằm đảm bảo công bằng xã hội, sự nghiêm minh của pháp luật được thực thi.

Vấn đề đảm bảo quyền con người được Đảng và Nhà nước ta quan tâm chú trọng,

đặc biệt trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Xác định được tầm quan trọng đó, đảng và

nhà nước ta có nhiều chính sách, chủ trương về công tác cải cách tư pháp, nâng

cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, chất lượng giải quyết các vụ án.

Các chính sách, quy định của tố tụng hình sự đảm bảo đầy đủ, công bằng

đảm bảo khách quan, chính xác, không bỏ lọt tội phạm cũng như không được

làm oan người vô tội được Đảng và Nhà nước ta quan tâm và xem đây là một

trong những nội dung lớn của cải cách tư pháp đã được Nghị quyết số 49-

NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp

đến năm 2020 ghi rõ "nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử,

coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp" [7]; Nghị quyết 08-NQ/TW

ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác

tư pháp đề cập "nâng cao chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên

toà, đảm bảo việc tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những

người tham gia tố tụng khác" [6]. Tuy nhiên, trước đây Bộ luật Tố tụng hình sự

năm 2003 (BLTTHS 2003) vẫn chưa ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ

bản trong hoạt động tố tụng hình sự.

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 được ban

hành, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, nguyên tắc tranh tụng được thừa nhận

chính thức trong một văn bản pháp lý tối cao của Nhà nước. Hiến pháp 2013, tại

khoản 5 Điều 103 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo

đảm”. Đây là định hướng chỉ đạo cho việc tiếp tục quy định nguyên tắc tranh

tụng trong BLTTHS. Ngày 27/12/2015 BLTTHS đã được Quốc hội thông qua,

19

nguyên tắc tranh tụng được thể hiện tại Điều 26 như sau:

“Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát

viên, người bị buộc tội, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác

đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra

yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án….[22].

Trên cơ sở bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, Bộ luật tố tụng

hình sự năm 2015 có nhiều nội dung để cụ thể hóa, bảo đảm nguyên tắc này

được thực hiện trên thực tế:

- Một là: Quy định đầy đủ các quyền và các cơ chế để đảm bảo các quyền

của người bị buộc tội, nhất là quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác

bào chữa. Theo đó, người buộc tội (người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị can, bị

cáo), đã bổ sung một nhóm các quyền mới nhằm giúp họ nắm bắt kịp thời chứng

cứ buộc tội làm cơ sở cho việc chuẩn bị bào chữa, như: Quyền được các cơ quan

THTT cung cấp đầy đủ các quyết định liên quan đến việc buộc tội; Quyền được

trình bày lời khai, đưa ra ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình

hoặc buộc phải nhận mình có tội; Quyền đọc, ghi chép ban sao hoặc tài liệu đã

được đã được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao các tài liệu

khác liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra; Quyền đưa ra chứng

cứ thay vì chỉ có quyền đưa ra các tài liệu, đồ vật như hiện nay. Bị can quyền

đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc

tội, gỡ tội (Điều 60).

Để bảo đảm quyền tự bào chữa, quyền nhờ luật sư hoặc người khác bào

chữa của người bị bắt, tạm giữ, bị can, bị cáo, tăng cường trách nhiệm của các cơ

quan trong việc bảo đảm quyền bào chữa cho người bị buộc tội, BLTTHS năm

2015 có rất nhiều sự sửa đổi, bổ sung quan trọng, cụ thể: Mở rộng chủ thể được

đảm bảo quyền bào chữa, theo đó, ngoài 03 chủ thể đã được bảo đảm quyền bào

chữa: Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm

người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt cũng được đảm bảo quyền

20

bào chữa (Điều 58);

Mở rộng và chính thức ghi nhận địa vị pháp lý của Trợ giúp viên pháp lý

theo đó, BLTTHS năm 2015, Người bào chữa có thể là: Luật sư; Người đại diện

của người bị buộc tội; Bào chữa viên nhân dân; và Trợ giúp viên pháp lý trong

trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý. Mở rộng

diện người bào chữa theo chỉ định, theo đó cơ quan tiến hành tố tụng bắt buộc

phải chỉ định người bào chữa cho bị can, bị cáo bị truy cứu trách nhiệm hình sự

về tội mà BLHS quy định mức cao nhất là 20 năm tù, thay vì mức cao nhất là tử

hình như quy định của BLTTHS năm 2003; Bổ sung người thân thích của người

bị buộc tội có quyền mời người bào chữa, thay vì chỉ có người bị buộc tội và

người đại diện hợp pháp của họ có quyền mời người bào chữa (Điều 75);

- Hai là: Quy định đầy đủ các quyền và cơ chế bảo đảm các quyền của

người bào chữa, tạo sự bình đẳng và các điều kiện thuận lợi cho người bào chữa

tham gia các hoạt động tố tụng hình sự.

Để bảo đảm tranh tụng dân chủ, cũng như đảm bảo quyền bào chữa cho bị

can, bị cáo, BLTTHS 2015 quy định cho người bào chữa có quyền thu thập

chứng cứ thay vì chỉ có quyền thu thập tài liệu, đồ vật như hiện nay; đồng thời,

quy định người bào chữa có quyền kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng

cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng

kiểm tra, đánh giá (Điều 73); BLTTHS năm 2015 quy định thời điểm người bào

chữa tham gia tố tụng sớm hơn (kể từ khi có người bị bắt) thay vì tham gia từ khi

có quyết định tạm giữ như hiện nay (Điều 74). Đồng thời, ngay từ giai đoạn giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm, luật sư có quyền tham gia tố tụng để bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố (Điều 83);

Nhằm bảo đảm tính minh bạch của pháp luật, tránh sự nhận thức không

chính xác rằng người người bào chữa tham gia tố tụng hoàn toàn phụ thuộc vào

sự chấp nhận hay không của cơ quan TTHS, BLTTHS năm 2015 đã quy định

chuyển đổi thủ tục “cấp giấy chứng nhận người bào chữa” bằng thủ tục “đăng ký

bào chữa”, đồng thời rút ngắn thời gian đăng ký bào chữa từ 03 ngày xuống còn

21

24h nhằm tạo điều kiện cho người bào chữa nhanh chóng tiếp cận vào quá trình

giải quyết vụ án. Văn bản thông báo người bào chữa (hình thức pháp lý công

nhận đủ điều kiện đăng ký bào chữa) có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tố

tụng, thay vì chỉ có giá trị trong từng giai đoạn tố tụng như trước đây;

Nhằm tạo điều kiện cho người bào chữa được gặp bị can, bị cáo trong trại

tạm giam, tiếp cận ngay từ đầy với các chứng cứ buộc tội, gỡ tội trong hồ sơ vụ

án liên quan đến việc bào chữa, BLTTHS năm 2015 đã quy định rõ trình tự, thủ

tục để người bào chữa được gặp bị can, bị cáo trong trại tạm giam, cụ thể: Để

gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam, người bào

chữa phải xuất trình văn bản thông báo người bào chữa, Thẻ luật sư hoặc Thẻ trợ

giúp viên pháp lý hoặc Chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước công dân. Bổ

sung quy định về trách của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng về việc bố

trí thời gian, địa điểm để người bào chữa đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong

hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra khi người bào chữa có yêu cầu (Điều 82);

Bổ sung và quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng phải thông

báo trước cho người bào chữa về thời gian, địa điểm tiến hành các hoạt động tố

tụng để người bào chữa tham gia theo quy định của pháp luật (Điều 79);

BLTTHS năm 2015 quy định về cách thức người bào chữa thu thập chứng

cứ, theo đó để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình

bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi,

nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ

chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào

chữa (Khoản 2 Điều 88).

- Ba là: Quy định đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Viện kiểm

sát, Kiểm sát viên và các trình tự, thủ tục trong giai đoạn điều tra, truy tố để bảo

đảm việc buộc tội, tranh tụng tại phiên tòa.

BLTTHS năm 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung nhằm nâng cao vị trí, vai

trò của các cơ quan THTT, như Viện kiểm sát, kiểm sát viên thực hành quyền

công tố ngay từ khi cơ quan điều tra tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm;

22

trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong trường

hợp phát hiện Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số

hoạt động điều tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra,

xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ lọt

tội phạm mà Viện kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc

phục (Điều 145).

- Bốn là: Quy định rõ trách nhiệm của Tòa án và các thủ tục tố tụng tại

phiên tòa để bảo đảm việc tranh tụng trong xét xử.

Tòa án là trung tâm, xét xử là trọng tâm, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng

trong xét xử, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung nhiều quy định để bảo

đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa theo tinh

thần cải cách tư pháp, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung một điều luật về

giải quyết yêu cầu, đề nghị trước khi mở phiên tòa (Điều 279), trong đó quy định

rõ trách nhiệm của Tòa án đối với việc giải quyết yêu cầu của Kiểm sát viên, người

tham gia tố tụng về việc cung cấp, bổ sung chứng cứ; triệu tập người làm chứng,

người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác đến phiên tòa.

Đây là quy định mới có ý nghĩa quan trọng trong việc sàng lọc các chứng cứ buộc

tội được thu thập không hợp pháp, việc tranh tụng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội

liên quan việc đánh giá chứng cứ có cơ hội được thực hiện ngay trước khi mở phiên

tòa và bảo đảm các chứng cứ, tài liệu, đồ vật được đưa đến Tòa án để xét xử phải

đầy đủ và hợp pháp, phiên tòa có đầy đủ các chủ thể tố tụng.

Thứ hai, nhằm khắc phục tình trạng chất lượng tranh tụng còn hạn chế ở

một số phiên tòa có đông bị cáo, có nhiều luật sư tham gia, do chỉ cho phép tối

đa hai Kiểm sát viên tham gia (Điều 189 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003), Bộ

luật tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi theo hướng Kiểm sát viên Viện kiểm sát

cùng cấp phải có mặt để thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa.

Theo quy định mới của bộ luật tố tụng hình sự tron vụ án phức tạp có nhiều kiểm

sát viên tham gia. Việc căn cứ và tính chất vụ án và công việc, Viện trưởng

23

quyết định phân công số Kiểm sát viên tham gia phiên tòa (Điều 289).

Thứ ba, để đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo, đồng thời nhấn mạnh đến

việc tôn trọng ý chí của bị cáo trong trường hợp bị cáo nhận thấy sự vắng mặt

của người bào chữa không ảnh hưởng đến quyền tự bào chữa và khắc phục tình

trạng phải hoãn phiên tòa nhiều lần do vắng mặt người bào chữa như hiện nay,

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi quy định về sự có mặt của người bào

chữa theo hướng trường hợp người bào chữa vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất

khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì cần hoãn phiên tòa.

Thứ tư, khắc phục tình trạng trong thực tế trong nhiều phiên tòa, bị cáo

không nhận tội và cho rằng việc khai nhận tại Cơ quan điều tra là do bị ép, bức

cung, bảo đảm thống nhất với quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm

2014, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung quy định sự có mặt của Điều tra

viên tại phiên tòa với tư cách là người đã điều tra vụ án (Điều 296) để góp phần

làm rõ những chứng cứ hoặc những vấn đề có liên quan đến vụ án, làm rõ trách

nhiệm của Điều tra viên, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình

thụ lý, giải quyết vụ án, bảo đảm các chứng cứ được đưa ra có tính thuyết phục

cao hơn, có cơ sở chắc chắn xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Thứ năm, để bảo đảm sự độc lập của Tòa án trong xét xử, bảo đảm phán

quyết của Tòa án phải trên cơ sở kết quả xét hỏi, tranh tụng và những chứng cứ

đã được kiểm tra công khai tại phiên tòa, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bổ

sung quy định về giới hạn của việc xét xử trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo

về tội danh khác nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố thì Tòa án trả hồ

sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại

diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên tội danh

đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó nhưng quá

trình xét xử phải bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo và tuân thủ các quy định

khác của Bộ luật (Điều 298).

Thứ sáu, nhằm cụ thể hóa nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, bảo đảm việc

tranh tụng không chỉ thể hiện ở phần tranh luận mà còn được thể hiện ngay trong

24

phần xét hỏi, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã nhập thủ tục xét hỏi tại phiên

tòa với thủ tục tranh luận tại phiên tòa (Chương XX và Chương XXI của Bộ luật

tố tụng hình sự năm 2003) thành “Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa” (Mục V

Chương XXI – Xét xử sơ thẩm), coi đây là nội dung cốt lõi thể hiện nguyên tắc

tranh tụng trong xét xử được bảo đảm theo tinh thần Hiến pháp năm 2013.

Thứ bảy, đã đổi mới trình tự xét hỏi tại phiên. Các quy định mới của Bộ

luật tố tụng hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung, quy định cụ thể việc tranh tụng

đảm bảo được thực hiện nhiều giai đoạn, ngay cả giai đoạn xét hỏi, đảm bảo làm

rõ đầy đủ các nội dung, và những người tố tụng tham gia. Luật cũng quy định rõ

việc Thẩm phán chủ tọa là người tiến hành điều hành việc hỏi, quy định cho

phép ai được hỏi trước, ai được hỏi sau nhằm đảm bảo quá trình hợp lý khi giải

quyết vụ án.

Thứ tám, để có cơ sở tranh luận dân chủ tại phiên tòa xét xử các vụ án hình

sự, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung quy định nội dung luận tội của

Kiểm sát viên phải phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những

chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm

cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân

và vai trò của bị cáo trong vụ án; tội danh, hình phạt, áp dụng điểm, khoản, điều

của Bộ luật hình sự, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự;

mức bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều

kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.

Thứ chín, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định rõ bản án phải căn cứ

vào kết quả thẩm vấn, tranh tụng và những chứng cứ đã được xem xét tại phiên

tòa, theo đó bổ sung yêu cầu đối với bản án sơ thẩm là phải rõ ý kiến của người

bào chữa, bị hại, đương sự, người khác tham gia phiên tòa được Tòa án triệu tập;

phân tích lý do mà Hội đồng xét xử không chấp nhận những chứng cứ buộc tội,

chứng cứ gỡ tội, yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, bị

hại, đương sự và người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ

đưa ra; phân tích tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra

25

viên, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.

Kết luận Chương 1

Trong tranh tụng các bên tham gia tố tụng có lợi ích đối trọng nhau thực

hiện, dựa trên nguyên tắc bình đẳng trong thu thập, đưa ra chứng cứ để bảo vệ

quan điểm của mình, phản bác quan điểm của phía đối lập nhằm làm sáng tỏ sự

thật khách quan của vụ án, được thực hiện chủ yếu giữa bên buộc tội, bên gỡ tội

trong tất cả các giai đoạn tố tụng, nhưng tranh tụng tại phiên tòa thể hiện đầy đủ

nhất vì được tiến hành công khai giữa các bên tham gia tố tụng bên buộc tội, bên

gỡ tội, bào chữa và Tòa án thực hiện chức năng xét xử, với vai trò trung gian,

trọng tài.

Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự là bảo các điều kiện cần và đủ về

chủ thể, các quy định pháp luật, cơ chế thực hiện nhằm đảm bảo để các chủ tham

gia tố tụng được đưa ra quan điểm, chứng cứ, luận điểm để tranh luận nhằm sáng

tỏ sự thật của vụ án, làm cho kết quả tranh tụng đạt hiệu quả cao; là căn cứ để tòa

án đưa ra phán quyết có tính thuyết phục, đảm bảo pháp chế, đảm bảo công lý

được thực hiện đún với các quy định của pháp luật.

Tranh tụng là nguyên tắc quan trọng trong tố tụng nói chung và xét xử nói

riêng. Để đảm bảo cho nguyên tắc tranh tụng được thực hiện đầy đủ trong tố

tụng nhằm giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án, bảo vệ các quyền và lợi ích

hợp pháp của các bên tham gia tố tụng, cần thiết phải có một hệ thống các bảo

đảm về pháp lý, về tổ chức, về cơ sở vật chất và trình độ, năng lực của các chủ

26

thể tham gia thực hiện nguyên tắc tranh tụng.

CHƯƠNG 2

THỰC TIỄN BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ

TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

2.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về

bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại Tòa án nhân dân Thành phố

Đà Nẵng

2.1.1. Những kết quả đạt được về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình

sự Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, tình hình kinh tế - xã hội của Đà

Nẵng đã có những chuyển biến khá vững chắc, đời sống nhân dân ngày được

nâng cao. Công tác giữ gìn AN-TT đã thu được nhiều kết quả nổi bật. Tuy nhiên

tình hình tội phạm vẫn tiếp tục có diễn biến phức tạp với tính chất, mức độ nguy

hiểm và tinh vi. Theo thống kê, trung bình mỗi năm (từ năm 2014-2018) tại Đà

Nẵng xảy ra trên 1.000 vụ án hình sự. Đáng chú ý, tội phạm về giết người do

nguyên nhân xã hội tăng cao gây bất an lo lắng trong nhân dân. Tội phạm về tín

dụng đen diễn biến phức tạp tiềm ẩn nhiều nguy cơ, hệ lụy xấu cho xã hội, làm

phức tạp tình hình an ninh trật tự trên địa bàn. Tình trạng người nước ngoài vi

phạm pháp luật về xuất nhập cảnh, trộm cắp, đánh bạc qua mạng, cướp giật, tổ

chức điều hành, hướng dẫn viên du lịch trái phép có xu hướng gia tăng nhưng

chưa có giải pháp ngăn chặn hiệu quả. Tội phạm và vi phạm pháp luật về kinh tế,

chức vụ nổi lên trên lĩnh vực đất đai với hành vi chủ yếu, cố ý làm trái quy định

nhà nước, Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, làm giả các giấy tờ giao

dịch để giao dịch nhằm chiếm đoạt tài sản; tội phạm công nghệ cao lừa đảo

chiếm đoạt tài sản cũng có chiều hướng gia tăng. Đặc biệt, tội phạm về ma túy

vẫn còn diễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng nhanh chóng mà nguyên

nhân được xác định là sự xuất hiện của các loại ma tuý tổng hợp và chất gây

nghiện mới đã làm tăng số người nghiện ma tuý, nhất là người trong độ tuổi

27

chưa thành niên đã tạo ra nhiều khu vực mất an ninh trật tự, tiềm ẩn nguy cơ tội

phạm rất lớn. Ngoài ra, cùng quá trình đô thị hóa nhanh, tình hình vi phạm pháp

luật trong lĩnh vực đất đai, tài chính đầu tư xây dựng, đô thị môi trường, an toàn

thực phẩm gây bức xúc dư luận, trong đó nổi lên là tình trạng xây dựng không

phép, sai phép, xả thải ra môi trường chưa qua xử lý, rò rỉ nước thải, chất thải

rắn không đúng quy định có xu hướng tăng trongg những năm gần đây. Kết quả

giải quyết các vụ án hình sự của Tòa án hai cấp thành phố Đà Nẵng qua Báo cáo

tổng kết công tác 5 năm từ năm 2014 đến năm 2018 như sau:

Năm 2014: Tổng số án đã thụ lý là 1.050 vụ 1.793 bị cáo; giải quyết 1.051

vụ 1.778 bị cáo, đạt tỷ lệ 99,8 % về số vụ và 99,4% số bị cáo. Tăng 07 vụ so với

năm công tác 2013. Số vụ án trả hồ sơ điều tra bổ sung là 52 vụ. Trong đó Tòa

án thành phố trả hồ sơ điều tra bổ sung 12 vụ đều được Viện kiểm sát thành phố

chấp nhận, đạt tỷ lệ 100%. Tòa án nhân dân các quận huyện trả hồ sơ điều tra bổ

sung 40 vụ, Viện kiểm sát chấp nhận 25 vụ, không chấp nhận 15 vụ. Số án

bị hủy do sai là 3,5 vụ, chiếm tỷ lệ 0,33%, số án bị sửa do sai là 03 vụ, chiếm tỷ

lệ 0,28% số án đã giải quyết [33].

Năm 2015: Tổng số án đã thụ lý là 990 vụ 1.637 bị cáo; giải quyết 987 vụ

1.626 bị cáo, đạt tỷ lệ 99,7 % về số vụ và 99,3% về số bị cáo. Giảm 58 vụ, 150

bị cáo so với năm công tác 2014. Số vụ án trả hồ sơ điều tra bổ sung là 70 vụ

được Viện kiểm sát nhân dân chấp nhận 52 vụ, không chấp nhận 12 vụ còn lại

06 vụ chưa có kết quả. Số án bị hủy do sai là 2.5 vụ, chiếm tỷ lệ 0,25%, số án bị

sửa do sai là 03 vụ, chiếm tỷ lệ 0,5% số án đã giải quyết [34].

Năm 2016: Hai cấp Tòa án đã thụ lý tổng cộng 1.021 vụ 1.800 bị cáo

(Trong đó: Thụ lý theo trình tự sơ thẩm là 740 vụ, 1.407 bị cáo; theo trình tự

phúc thẩm là 281 vụ, 393 bị cáo). Đã giải quyết 1.004 vụ 1.750 bị cáo, đạt tỷ lệ

98,3% về số vụ và 97,2% về số bị cáo. Tăng 31 vụ, 163 bị cáo so với năm công

tác 2015. Trả hồ sơ điều tra bổ sung là 74 vụ được Viện kiểm sát nhân dân chấp

nhận 64 vụ, không chấp nhận 10 vụ. Tỷ lệ bản án bị hủy do lỗi chủ quan là

28

0,64%, tỷ lệ bản án bị sửa do chủ quan là 0,54% so với số án đã giải quyết [35].

Năm 2017: Tổng thụ lý 1.085 vụ, 1.806 bị cáo. So với năm 2016 tăng 64

vụ, 77 bị cáo. Đã giải quyết 1.080 vụ, 1.789 bị cáo. Đạt tỷ lệ 99,5% về số vụ và

99,1% về số bị cáo. Còn lại 05 vụ, 17 bị cáo đang trong thời hạn giải quyết. Hai

cấp Tòa án đưa ra xét xử lưu động 227 vụ, tăng 61 vụ so với năm 2016, đạt tỷ lệ

21% trên tổng số án hình sự giải quyết. Trả hồ sơ điều tra bổ sung 94 vụ, Viện

kiểm sát nhận tiến hành điều tra lại 63 vụ; có 19 vụ quan điểm giữa Tòa án và

Viện kiểm sát còn khác nhau, căn cứ vào Điều 196 Bộ luật Tố tụng hình sự quy

định về giới hạn của việc xét xử, Tòa án đã đưa vụ án ra xét xử; còn lại chưa có

kết quả. Tỷ lệ bản án bị hủy do lỗi chủ quan là 0,47%, tỷ lệ bản án bị sửa do chủ

quan là 0,72% so với số án đã giải quyết [36].

Năm 2018: Tổng thụ lý 1.240 vụ, 2.130 bị cáo (theo trình tự sơ thẩm là

970 vụ, 1694 bị cáo, theo trình tự phúc thẩm là 270 vụ, 436 bị cáo). Đã giải

quyết 1.233 vụ, 2.116 bị cáo. Đưa ra xét xử lưu động 67 vụ, đạt tỷ lệ 5,4% trên

tổng số án đã giải quyết, xét xử; việc trả hồ sơ điều tra bổ sung cơ bản đảm bảo

có căn cứ đúng pháp luật, Viện kiểm sát chấp nhận 57/74 vụ, tỷ lệ 77,02%, các

vụ việc còn lại là do quan điểm giữa các cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau

chiếm 22,08%. Đạt tỷ lệ 99,4% về số vụ và 99,3% về số bị cáo. Số bản án, quyết

định bị hủy do sai là 2,5 vụ, chiếm tỷ lệ 0,2%. Số bản án, quyết định bị sửa do

sai là 19 vụ, chiếm tỷ lệ 1,54% [37].

Qua Báo cáo công tác Tòa án các năm trên chúng tôi thấy rằng: Các vụ án

hình sự đều được giải quyết trong thời hạn luật định, Tòa án nhân dân hai cấp

thành phố Đà Nẵng đã nỗ lực rất lớn trong việc đưa ra xét xử, giải quyết kịp thời

các vụ án về hình sự, tỷ lệ giải quyết tiếp tục duy trì ở mức cao trên 99,8% số án

thụ lý đây là tỷ lệ cao so với các tòa án Thành phố và tỉnh khác; chất lượng giải

quyết các vụ án hình sự đạt kết quả cao, án bị hủy và bị sửa thấp chiếm tỷ lệ

0,2% đến 0,5% ; việc xét xử đảm bảo đúng pháp luật, không có trường hợp bị

kết án oan đảm bảo nghiêm minh, đúng pháp luật, được dư luận quần chúng

nhân dân đồng tình, đồng thời đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội

29

phạm của chính quyền địa phương và góp phần vào việc tuyên truyền, giáo dục ý

thức pháp luật trong nhân dân. Hình phạt được áp dụng tron các vụ án tương

xứng với mức độ của hành vi phạm tội, đáp ứng yêu cầu trong đấu tranh phòng

ngừa tội phạm xảy ra. Đặc biệt các vụ án về tham nhũng đều xử mức án nghiêm

minh, không có trường hợp được hưởng án treo.

Quá trình công tác xét xử của Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng

trong những năm qua, các cơ quan tố tụng của Thành phố Đà Nẵng về cơ bản đã

thực hiện đúng các quy định về đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được

thực hiện. Qua nghiên cứu các hồ sơ vụ án, các giai đoạn tiến hành tố tụng thì

thấy rằng ngay tại giai đoạn Điều tra, có nhiều vụ án Luật sư bào chữa tham gia,

đã được các cơ quan tiến hành tố tụng tạo điều kiện trong thủ tục đăng ký bào

chữa, việc thu thập cung cấp chứng cứ, giải quyết nhiều yêu cầu của Luật sư như

cung cấp nhiều chứng cứ mới gỡ tội được chấp nhận, yêu cầu trả hồ sơ để điều

tra bổ sung về thay đổi tội danh trong giai đoạn Điều tra, Truy tố đã được chấp

nhận trước khi chuyển đến Tòa án. Tỷ lệ Luật sư tham gia bào chữa trong các vụ

án hình sự qua các năm đạt tỷ lệ 30% đến 40% là tương đối cao so với các tỉnh

thành khác. Ở nước ta, tính trung bình cứ 20.500 dân mới có 1 luật sư, trong khi

tỷ lệ này ở Singapore là 1000 dân/1 luật sư, ở Thái Lan là 1.700 dân/1 luật sư, ở

Nhật Bản là 5.500 dân/1 luật sư. So với các nước phát triển, độ chênh của tỷ lệ

này còn thấp hơn nhiều. Ví dụ, ở Mỹ, cứ 270 dân có 1 luật sư, ở Pháp là 500

dân/1 luật sư. Như vậy, so với chỉ tiêu mà Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp đề ra

đến năm 2020 cố gắng nước ta có khoảng 18.000 luật sư thì con số luật sư hiện

có còn rất khiêm tốn. Nếu tính theo hoạt động của luật sư tham gia bào chữa ở

các phiên toà hình sự thì nước ta có tới 80% các vụ án chưa có luật sư tham gia

tố tụng. Thực trạng trên đã gây khó khăn cho cả luật sư lẫn các cơ quan tiến hành

tố tụng. Điều này khiến cho mục tiêu mà Nghị quyết 08 và Nghị quyết 49 của Bộ

Chính trị đề ra là tranh trụng tại phiên phải đảm bảo dân chủ, bình đẳng và kết

quả xét xử phải dựa trên kết quả tranh tụng chưa được hiện thực nhanh chóng.

Trong quá trình chuẩn xét xử và tại phiên tòa, Tòa án luôn tạo điều kiện

30

cho Luật sư đảm bảo đủ thời gian nghiên cứu hồ sơ không hạn chế thời gian

nghiên cứu. Tại phiên tòa hình sự, thủ tục bắt đầu phiên tòa, các yêu cầu của

Luật sư như triệu tập thêm Người làm chứng, Người giám định, Điều tra viên,

cung cấp thêm các chứng cứ mới…để đảm bảo quá trình tranh tụng hiệu quả đã

có nhiều phiên tòa Thẩm phán chủ Tọa phiên tòa đã cho tạm dừng phiên tòa

hoặc hoãn phiên tòa theo đúng quy định pháp luật để triệu tập thêm đầy đủ thành

phần. Quá trình xét hỏi Tòa án tạo điều kiện cho Luật sư thực hiện quyền xét hỏi

không giới hạn thời gian, không ngắt lời như một số phiên Tòa trước đây các

Luật sư phản ánh. Tòa án cũng tạo điều kiện cho Luật sư tham gia tranh luận với

Viện kiểm sát, nhiều phiên Tòa Hội đồng xét xử yêu cầu Viện kiểm sát phải đối

đáp lại các quan điểm của luật sư đưa ra, yêu cầu Đại diện viện kiểm sát đối đáp

rõ chấp nhận hoặc không chấp nhận, căn cứ pháp lý, đã hạn chế được tình trạng

Kiểm sát viên không đối đáp mà nêu bảo lưu quan điểm của mình tại Cáo trạng.

Trong các bản án, áp dụng đúng nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa các yêu cầu,

lập luận của Luật sư, quan điểm của Viện kiểm sát đa số đã được các Chủ tọa

phiên tòa phân tích trong các bản án.

Qua số liệu và phân tích trên thấy rằng, Tòa án nhân dân hai cấp thành

phố Đà Nẵng là địa phương có tỷ lệ án hình sự bị hủy, bị cải sửa do sai thấp so

với các địa phương khác cả nước. Cụ thể toàn ngành hằng năm tỷ lệ án hủy

khoảng 0,3% án đã giải quyết; án bị sửa do sai 0,62% số án đã giải quyết.

Án hình sự được xét xử trong hạn luật định, đạt 100% số án thụ lý. Quá

trình giải quyết các vụ án được thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng

hình sự và tinh thần cải cách tư pháp, đảm bảo cho những người tham gia tố tụng

thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình; phán quyết của Toà án căn cứ chủ

yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà nên đảm bảo xét xử đúng người, đúng

tội, đúng pháp luật; không để xảy ra tình trạng oan sai hay bỏ lọt tội phạm.

Về đảm bảo cơ sở vật chất, hội trường xét xử, chỗ ngồi của những người

tham gia tố tụng. BLTTHS 2015 là quy định về phòng xử án (Điều 257). Thực

hiện quy định của Nhà nước, các phòng xử án được bố trí, sắp xếp thể hiện sự

31

trang nghiêm, an toàn nhưng đảm bảo được sự bình đẳng giữa luật sư và người

thực hành quyền công tố. Điều luật cũng giao cho Chánh án TANDTC quy định

cụ thể về phòng xử án theo tinh thần trên.

Tại phiên tòa hoạt động tranh tụng có ý nghĩa vô cùng quan trọng, góp

phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, là căn cứ để HĐXX đưa ra phán

quyết. Do đó, để đảm bảo nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng thì những chủ

thể có quyền tranh tụng phải có vị trí ngồi ngang bằng với nhau. Trong phiên tòa

hình sự Viện kiểm sát là cơ quan thực hiện quyền công tố và Kiểm sát viên thực

hiện chức năng chứng minh hành vi phạm tội, họ phải có nghĩa vụ tranh trụng

với bị cáo, người bảo vệ quyền vào lợi ích hợp pháp của bị cáo cũng như những

người tham gia tố tụng khác. Xét về quan hệ tranh tụng thì quyền và nghĩa vụ

của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng là ngang bằng nhau nên đại

diện Viện kiểm sát không thể có vị trí ngồi cao hơn những người tham gia tố

tụng.

Sau nhiều năm thực hiện theo mô hình trên, Tòa án nhân dân thành phố

Đà Nẵng nhận thấy việc bố trí ngồi như trên là không phù hợp với nền tư pháp

hiện đại, không đảm bảo đúng định hướng theo tinh thần cải cách tư pháp được

đề ra tại Nghị quyết 08 - NQ/TW và Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị;

không đáp ứng được yêu cầu dân chủ, tiến bộ trong hoạt động xét xử, gây khó

khăn cho hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Việc bố đại diện Viện kiểm sát và

Thư ký phiên tòa ngồi ngang hàng với HĐXX khiến vai trò của mỗi chủ thể

không được thể hiện đúng, dẫn đến việc ngộ nhận về thẩm quyền, chức năng của

HĐXX và các chủ thể khác trong hoạt động xét xử .

Trước những hạn chế, bất cập đó, năm 2012, Tòa án nhân dân hai cấp

thành phố Đà Nẵng đã chủ động báo cáo với Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp thành

phố, Thành ủy Đà Nẵng và đã thay đổi vị trí ngồi của những người tiến hành tố

tụng và người tham gia tố tụng tại phiên tòa theo mô hình mà hiện nay hầu hết

các nước trên thế giới đang áp dụng, kể cả các nước có chế độ chính trị tương

đồng với Việt Nam như Trung Quốc…. Theo đó, chỉ có Hội đồng xét xử mới

32

được ngồi ở vị trí cao nhất, riêng biệt, dưới Quốc huy và chính giữa hội trường.

Ngồi phía dưới và ngay trước HĐXX là bàn của Thư ký phiên tòa. Cũng ngồi

phía dưới và bên tay phải HĐXX là bàn của đại diện Viện kiểm sát, bên tay trái,

đối diện với Viện kiểm sát là bàn của Luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của đương sự. Riêng những người tham gia tố tụng ngồi phía dưới, đối diện

với thư ký phiên tòa.

Như vậy, Phòng xử của TAND thành phố Đà Nẵng là Tòa án đầu tiên

trong cả nước thay đổi vị trí chỗ ngồi theo tinh thần Điều 257 BLTTHS 2015

trước khi bộ luật Tố tụng hình sự có hiệu lực. Theo đó, HĐXX ngồi ở vị trí cao

nhất, riêng biệt, dưới Quốc huy và chính giữa hội trường. Ngồi phía dưới và

ngay trước HĐXX là bàn Thư ký phiên tòa. Cũng phía dưới và bên tay phải

HĐXX là bàn của đại diện VKS, bên tay trái đối diện VKS là bàn của Luật sư,

người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Những người tham gia tố

tụng khác ngồi phía dưới đối diện với Thư ký phiên tòa. Đặc biệt, việc bố trí chổ

ngồi của KSV và LS ngang hàng và đối diện nhau là thể hiện sự bình đẳng theo

nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được quy định tại Hiến pháp năm 2013. Ngày

2/11/2015, tại Hà Nội, TANDTC đã tổ chức hội thảo về “Đề án đổi mới trang

phục của thẩm phán, hội thẩm và mô hình phòng xét xử”. Rất nhiều ý kiến ủng

hộ việc bố trí lại vị trí chỗ ngồi của KSV và LS để thể hiện sự bình đẳng, tạo tâm

lý thuận lợi cho LS khi tranh tụng. Cách thức bố trí vị trí ngồi tại phiên tòa của

Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng đã được các cấp ủy, chính quyền

thành phố đánh giá cao, các cơ quan tố tụng của thành phố ủng hộ và nhận được

đồng tình rất lớn của dư luận quần chúng nhân dân. Nhiều đoàn công tác của

Ban Chỉ đạo cải cách Trung ương, Ủy ban Pháp luật, Ủy Ban Tư pháp Quốc hội

đến làm việc và đánh giá cao về cách thức bố trí vị trí ngồi của Tòa án nhân dân

hai cấp thành phố Đà Nẵng. Nhiều đại biểu ủng hộ mô hình phòng xử của

TAND thành phố Đà Nẵng. Ngày 28/7/2017, Chánh án TANDTC Nguyễn Hòa

Bình đã ban hành Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC Quy định về phòng xử

án. Cách bố trí về mô hình phòng xử án cơ bản như các bố trí của Tòa án nhân

33

dân Thành phố Đà Nẵng đã áp dụng từ năm 2015. Cách bố trí mô hình này được

đánh giá là đáp ứng được tinh thần của Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về chiến

lược cải cách tư pháp, đảm bảo thể hiện được vị trí, vai trò trung tâm của

HĐXX. Cách bố trí như trên cũng thể hiện sự linh động trong xét xử các loại vụ

án, vừa đáp ứng được tình hình thực tế của Tòa án trên cả nước hiện nay. Đây là

cơ sở Tòa án đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được thực hiện trên

thực tế, là thực hiện tinh thần cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng tranh tụng tại

phiên tòa giữa kiểm sát viên (bên buộc tội) và luật sư (bên gỡ tội)”.

Có thể thấy rằng, tại các phiên tòa hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp

Thành phố Đà Nẵng được tổ chức theo tinh thần cải cách tư pháp, nguyên tắc

tranh tụng trong Hiến pháp năm 2013 được vận dụng trong thực tiễn xét xử.

Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, các thành viên Hội đồng xét xử nghiên cứu kỹ hồ

sơ vụ án, các tình tiết, tài liệu mới hoặc có mâu thuẫn trong lời khai bị cáo,

người tham gia tố tụng đều được các bên tranh luận làm sáng tỏ, nếu không làm

rõ tại phiên tòa thì trả hồ sơ điều tra bổ sung. Tỷ lệ Tòa án trả hồ sơ để điều tra

tra bổ sung được đánh giá có căn cứ và được Viện kiểm sát cùng chấp nhận đạt

tỷ lệ cao.

Ngoài ra, qua công tác xét xử các năm, Tòa án nhân dân hai cấp thành phố

Đà Nẵng, trong quá trình xét xử, thực hiện nguyên tắc đảm bảo tranh tụng tại

phiên tòa cho các bên, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, chấp nhận đề nghị,

yêu cầu của Luật sư HĐXX, đã đề nghị khởi tố thêm bị can được, khởi tố thêm

tội danh được cơ quan điều tra, Viện kiểm sát chấp nhận như: bị can Nguyễn

Thanh Quang trong vụ án "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", truy tố thêm Nguyễn

Thanh Quang hoặc vụ án Trịnh Võ Tàu và đồng bọn bị Viện kiểm sát truy tố về

tội giết người, cố ý gây thương tích, chống người thi hành công vụ; sau khi Tòa

án nhân dân thành phố nghiên cứu hồ sơ tiến hành xét xử đã trả hồ sơ đề nghị

Viện kiểm sát truy tố thêm bị cáo Thái Văn Vy về tội đe dọa giết người và được

Viện kiểm sát nhân dân thành phố chấp nhận hoặc vụ án Võ Thanh Dũng bị Viện

kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn truy tố về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài,

34

Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn đã tiến hành trả hồ sơ điều tra bổ sung và

được Viện Kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án trả tự do cho bị cáo, hoặc trong

vụ án Lê Thị Ngọc Mai bị cấp sơ thẩm xét xử về tội "Cướp tài sản": qua xét hỏi

và tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, xét thấy chứng cứ buộc tội đối với bị cáo

chưa đầy đủ, còn nhiều vấn đề chưa được điều tra làm rõ nên đã hủy vụ án này

để điều tra, xét xử lại.

Như vậy, có thể thấy rằng, trong những năm qua vấn đề đảm bảo tranh

tụng đã cải thiện đáng kể, góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội. Tòa án

nhân dân hai cấp Thành phố Đà Nẵng, đã nghiêm túc thực hiện chủ trương tranh

tụng, phiên tòa xét xử theo yêu cầu cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng tranh

tụng tại phiên tòa.

2.1.2. Những hạn chế về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự Tòa

án nhân dân Thành phố Đà Nẵng

Nghiên cứu thực tiễn áp dụng việc bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình

sự của TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng có rất nhiều nỗ lực nên đã đạt được

những thành quả nhất định, tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được thì vẫn còn

nhiều hạn chế cần khắc phục.

Trong tố tụng hình sự, luật sư tham gia vào nhiều giai đoạn của vụ án với

tư cách người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị

tạm giữ, bị can, bị cáo đã được pháp luật quy định ở nhiều văn bản có giá trị

pháp lý cao như Hiến pháp, Bộ luật tố tụng hình sự. Đặc điểm nổi bật trong giai

đoạn điều tra là: Cán bộ điều tra là người nắm quyền chủ động, dễ coi thường

người bị tình nghi phạm tội, thường không khách quan, toàn diện, phần lớn thiên

về hướng “quy tội”; Người bị “tình nghi phạm tội” là người yếu thế, bị động,

thường có tâm lý hoang mang, dao động, không ổn định trong lời khai (dễ có lời

khai khác nhau); Luật sư bào chữa đóng vai trò tư vấn pháp lý cho bị can, người

được tiếp cận bị can với tư cách người bào chữa, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp

pháp của họ, có trách nhiệm giải thích cho bị can về những quyền được pháp luật

bảo đảm, chuẩn bị tâm lý để từ đó giúp người bị “tình nghi phạm tội” bình tĩnh,

35

sáng suốt trong quá trình khai báo, trung thực, khách quan, toàn diện, đúng quy

định của pháp luật và xem xét toàn bộ nội dung điều tra để minh oan cho người

bị “tình nghi phạm tội”.

Mặc dù pháp luật đã có nhiều quy định về đảm bảo về quyền bào chữa,

tham gia bào chữa của Luật sư. Vì vậy, mặc dù sau khi đăng ký bào chữa được

cơ quan điều tra chấp nhận thì việc tiếp cận bị can vẫn còn có thể gặp những khó

khăn mới nảy sinh. Việc gặp gỡ bị can trong giai đoạn này là hoạt động cần thiết

và được luật tố tụng hình sự cho phép, tuy nhiên nhiều trường hợp khi luật sư

muốn tiếp cận bị can thì thường không thực hiện được do cơ quan điều tra đưa ra

lý do là “điều tra viên đang bận công tác khác” hoặc “án phức tạp nên chưa gặp

được bị can”… Quá trình lấy lời khai, hỏi cung ở những giai đoạn quan trọng

thường ít có sự chứng kiến của luật sư. Thông tư 70/2011/TT-BCA của Bộ Công

an quy định điều tra viên phải thông báo thời gian, địa điểm hỏi cung cho luật sư

trước 24 giờ hoặc trước 48 giờ với người bào chữa ở xa. Nhưng thực tế, có

những trường hợp luật sư bị hẹn sai giờ, không được thông báo hoặc thậm chí có

trường hợp bắt đầu hỏi cung bị can thì điều tra viên mới thông báo cho luật sư

biết nên luật sư không thế bố trí thời gian kịp để tham gia hỏi cung… Việc luật

sư tiếp cận tài liệu, chứng cứ của vụ án còn có phần hạn chế. Pháp luật tố tụng

hình sự cho phép luật sư được sao chụp hồ sơ vụ án, nhưng có nhiều vụ án luật

sư rất khó tiếp cận hồ sơ do cơ quan điều tra trả lời hồ sơ chưa được hoàn thiện,

vụ án có tính chất phức tạp, viện kiểm sát chưa phúc cung…dẫn đến kéo dài thời

gian không cho Luật sư nghiên cứu hồ sơ. Sau nay, giai đoạn xét xử khi được hỏi

lý do từ chối Luật sư có bị cáo đã khai rằng, trong quá trình điều tra Điều tra

viên đã ép buộc bị cáo từ chối luật sư bào chữa, với lý do nếu có luật sư tham tội

bị cáo sẽ bị nặng hơn. Vì vậy, khi được giải thích quyền của mình bị cáo đã yêu

cầu luật sư bào chữa, dẫn đến hoãn phiên tòa, hay hủy án làm vụ án kéo dài mất

thời gian, tốn kém.

Ví dụ: Vụ Nguyễn Hữu Tài cùng các bị cáo khác phạm tội “Cướp tài sản”

(Bản án hình sự sơ thẩm số 41/2016/HSST ngày 15/4/2016 của Tòa án nhân dân

36

quận Thanh Khê) bị hủy án để điều tra lại vì lý do: Quá trình điều tra đã vi phạm

nghiêm trọng thủ tục tố tụng, ảnh hưởng đến quyền lợi của các bị cáo. Tại thời

điểm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án và cho đến nay các bị cáo Nguyễn

Hữu Tài, Nguyễn Thành Quang, Lê Ngọc Khoa, Võ Công Thành là người chưa

thành niên. Tuy nhiên, khi cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai đối với các bị

cáo Nguyễn Thành Quang, Lê Ngọc Khoa, Võ Công Thành thì không có Luật sư

bào chữa cho các bị cáo tham gia. Do đó bản án bị huy do vi phạm nghiêm trọng

thủ tục tố tụng, các bị cáo là người chưa thành niên nhưng khi khởi tố, điều tra,

xét xử không có Luật sư bào chữa cho các bị cáo tham gia.

Việc gây khó khăn cho Luật sư ở giai đoạn Điều tra có những trường đã

xảy ra tình trạng ép cung, dùng nhục hình. Ví dụ vụ án Trương Huy Liệu phạm

tội Buôn lậu: Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát Nhân dân thành phố Đà Nẵng,

ngày 17.12.2011, bị can Trương Huy Liệu, Phó Giám đốc Công ty Ngọc Hưng

chỉ đạo các cá nhân trong Công ty Ngọc Hưng làm giả hồ sơ, tài liệu, sử dụng bộ

hồ sơ này để nhập khẩu lậu gỗ từ Lào về Việt Nam. Ngày 18.12.2011, Trương

Huy Liệu chỉ đạo các cá nhân trong Công ty Ngọc Hưng làm giả hồ sơ, tài liệu,

sử dụng bộ hồ sơ này để xuất khẩu lậu gỗ từ Việt Nam đi Trung Quốc với khối

lượng 614,672m3 gỗ, trị giá 63.691.706.500 đồng. Bị can Trần Thị Dung, Giám

đốc Công ty Ngọc Hưng, vợ của Trương Huy Liệu, có hành vi ký các hồ sơ, giấy

tờ giả mạo để làm thủ tục nhập khẩu, xuất khẩu lậu gỗ; giúp sức cho bị can

Trương Huy Liệu thực hiện hành vi buôn lậu. Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành là

công chức Hải quan Chi cục Hải quan Cảng Cửa Việt, được giao nhiệm vụ kiểm

lô hàng gỗ xuất khẩu theo Tờ khai Hải quan số 849/XK/KD/C32D ngày

19.12.2011 của Công ty Ngọc Hưng, nhưng đã thực hiện không đúng, không đầy

đủ các quy định về địa điểm, trình tự, thủ tục kiểm tra hàng hóa xuất khẩu nên đã

đề xuất cho thông quan đối với lô hàng buôn lậu của Công ty Ngọc Hưng. Đỗ

Danh Thắng là Chi Cục trưởng Chi cục Hải quan Cảng Đà Nẵng, được giao

nhiệm vụ tổ chức việc khám xét theo thủ tục hành chính đối với lô hàng gỗ xuất

khẩu có vi phạm của Công ty Ngọc Hưng nhưng thực hiện không đúng, không

37

đầy đủ các quy định về trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp khám xét theo thủ tục

hành chính trong lĩnh vực hải quan nên không phát hiện được hành vi buôn lậu

của Công ty Ngọc Hưng. Hành vi của các bị can trên đã gây thất thu, thiệt hại

cho ngân sách nhà nước số tiền thuế Công ty Ngọc Hưng không nộp là

1.852.298.923 đồng. Có 2 bị can bị truy tố tội “buôn lậu” là vợ chồng bà Trần

Thị Dung, Giám đốc và ông Trương Huy Liệu, Phó Giám đốc Công ty Ngọc

Hưng cùng 3 bị can bị truy tố tội “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”

gồm Đỗ Danh Thắng (công chức Cục Hải quan Đà Nẵng), Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân

Thành (công chức Cục Hải quan Quảng Trị).

Trong vụ án có Anh Quang là cháu họ của bà Trần Thị Dung (SN 1961),

Giám đốc Công ty Ngọc Hưng, thường được giao công việc lên cửa khẩu Lao

Bảo mở tờ khai hải quan nhập khẩu gỗ. Sau khi vụ án này xảy ra, ông Liệu bị

bắt tạm giam thì anh Quang cũng liên tục được Cục CSĐT (Bộ Công an) mời ra

Hà Nội phục vụ công tác điều tra, bắt đầu từ ngày 22/4/2013. Ngày 25/4/2013,

anh Quang có đơn kêu cứu gửi VKSNDTC, Cục trưởng Cục CSĐT (Bộ Công

an), đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Trị và ngày sau 26/4/2013 có đơn gửi Trưởng ban

Nội chính Trung ương Nguyễn Bá Thanh kêu cứu vì cho rằng mình bị điều tra

viên ép cung. Nhưng đến ngày 22/5/2013, mọi người phát hiện anh đã treo cổ tự

vẫn, để lại 4 bức di thư cho gia đình. Trong di thư của Trần Đình Quang để lại

có nội dung: Ngày 20/5/2013 cơ quan điều tra gọi Quang đến làm việc để giải

quyết về khiếu nại của Quang về việc bị ép cung và tại buổi làm việc này,

Quang cũng bị ép cung như hai lần lấy lời khai vào ngày 22 và 23/4/2013. Tại

phiên tòa, bị cáo Dung khai có nhìn thấy cán bộ điều tra đánh đập Quang. Nếu

trong giai đoạn điều tra nếu có sự tham gia của Luật sư, hạn chế tình trạng ép

cung, dùng nhục hình đáng tiếc xẩy ra như trên, vì vậy trong bản án Sơ thẩm của

Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã kiến nghị Bộ Công an và Viện Kiểm sát

Nhân dân Tối cao xem xét chỉ đạo, tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý theo pháp luật

về việc ép cung, nhục hình đối với anh Trần Đình Quang và việc làm mất bản

khai của bị can Quang ở giai đoạn Điều tra, rất tiếc thời gian đã lâu nhưng việc

38

điều tra và xử lý cán bộ liên quan vẫn chưa làm rõ.

Qua phân tích trên chúng ta thấy rằng, việc gây khó khăn cho Luật sư

trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, tiếp cận với bị can ở giai đoạn điều tra của Cơ

quan và người tiến hành tố tụng, nhất là Cơ quan điều tra và Điều tra viên chưa

nhận thức đúng chủ trương tranh tụng nên trong thực tiễn tố tụng chủ thể gỡ tội

chưa thực sự bình đẳng với bên buộc tội, đây là nguyên nhân hạn chế tiến trình

bảo đảm tranh tụng ảnh hưởng đến kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

Hạn chế thứ hai trong giai đoạn chuẩn bị xét xử Tòa án không giải quyết

các yêu cầu của Luật sư về trả hồ sơ điều tra bổ sung, yêu cầu về thu thập vật

chứng; Luật sư đề nghị triệu tập Điều tra viên thường tòa không chấp nhận; vấn

đề liên quan đến tiếp nhận chứng cứ của Luật sư đưa ra Tòa án thường từ chối

không chấp nhận. Đây cũng là nguyên nhân ảnh hưởng đến quá trình bảo đảm

tranh tụng.

Đối với thủ tục bắt đầu phiên tòa: Để bảo đảm cho việc tranh tụng tại phiên

tòa thì những người có liên quan phải có mặt tại phiên tòa, nhưng thẩm quyền

triệu tập những người này chỉ có thẩm phán mà không quy định cho đại diện

Viện kiểm sát, bị cáo, người bào chữa. Mặc dù, tại Điều 205 Bộ luật Tố tụng

hình sự (BLTTHS) 2015 phần thủ tục bắt đầu phiên tòa có quy định “Chủ tọa

hỏi luật sư và những người tham gia tố tụng xem có ai yêu cầu triệu tập thêm

người làm chứng, hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét hay

không... ” đa số những người tham gia tố tụng họ chưa biết quyền này trước khi

xét xử nên tại phiên tòa chủ tọa mới hỏi thì họ mới biết và có yêu cầu dẫn đến

trong trường hợp họ yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, xét việc triệu tập

người làm chứng đó là cần thiết dẫn đến phiên tòa phải hoãn, kéo dài thời gian

giải quyết vụ án. Có trường hợp Luật sư đề nghị triệu tập thêm Người làm

chứng, Người giám định, Điều tra viên… Luật sư yêu cầu tạm dừng phiên tòa

hoặc hoãn phiên tòa nhưng hội đồng xét xử ít chấp nhận yêu cầu và vẫn tiến

hành xét xử. Theo quy định của Bộ luật TTHS 2015, lời khai của người làm

chứng là một trong các loại chứng cứ [22]. Như vậy, để đảm bảo nguyên tắc

39

tranh tụng, lời khai của người làm chứng cũng phải được kiểm tra tại phiên tòa

chứ không chỉ dựa vào lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố. Tuy nhiên, quy

định về việc kiểm tra lời khai của người làm chứng tại phiên tòa vẫn còn một số

điểm chưa rõ. Theo quy định tại Điều 86 của Bộ luật TTHS 2015, thì một lời

khai được xem là chứng cứ nếu có đủ ba yếu tố xác thực, liên quan và hợp pháp.

Nếu tính liên quan và tính hợp pháp có thể được kiểm tra bằng các tài liệu,

chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, thì tính xác thực của lời khai của người làm

chứng có thể kiểm tra bằng hai cách. Một là thông qua việc đối chiếu, so sánh

với các chứng cứ khác. Hai là thông qua sự thẩm vấn người cho lời khai tại

phiên tòa bởi Hội đồng xét xử và của phía phản đối lời khai đó. Thế nhưng,

trong trường hợp người làm chứng không có mặt tại phiên tòa, nghĩa là tính xác

thực trong lời khai của họ không thể bị kiểm tra bởi sự thẩm vấn của Hội đồng

xét xử và của người phản đối lời khai, thì liệu lời khai đó có được xem là chứng

cứ hay không vẫn chưa được các quy định của Bộ luật TTHS 2015 trả lời. Mặt

khác, trong trường hợp người làm chứng không có mặt tại phiên tòa, thì lời khai

của họ sẽ không đương nhiên bị loại trừ bởi Bộ luật TTHS 2015 không có quy

định nào về vấn đề này. Bộ luật TTHS 2015 cũng quy định rằng trong trường

hợp người làm chứng vắng mặt và đã có lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố,

thì phiên tòa vẫn tiếp tục diễn ra. Ngay cả khi những lời khai đó có chứa đựng

thông tin về những vấn đề quan trọng của vụ án, thì Hội đồng xét xử vẫn có

quyền tùy nghi lựa chọn việc tiếp tục xét xử hay hoãn phiên tòa. Tuy nhiên, các

căn cứ pháp lý làm cơ sở cho sự tùy nghi lựa chọn của Tòa án trong việc xét xử

vụ án với sự vắng mặt của người làm chứng cũng không được quy định. Có

nghĩa là, Bộ luật TTHS 2015 đã gián tiếp trao cho Tòa án quyền tùy nghi loại bỏ

quyền kiểm tra người làm chứng của các bên tham gia tố tụng trong trường hợp

người làm chứng không có mặt tại phiên tòa.

Từ những phân tích trên chúng ta thấy rằng khả năng lời khai của một

người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa, vẫn có khả năng trở thành chứng cứ và

được sử dụng để làm căn cứ tuyên án. Một mặt, khả năng này tạo ra nguy cơ cho

40

việc sử dụng các lời khai mang thông tin sai trái như là chứng cứ trong vụ án

hình sự. Mặt khác, khả năng này cũng đã xâm phạm đến nguyên tắc cốt lõi trong

phiên tòa tranh tụng tại Việt Nam là bản án, quyết định của Tòa án phải “căn cứ

vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa”.

Quay trở lại vụ án Trương Huy Liệu phạm tội buôn lậu: Trong giai đoạn

thủ tục bắt đâu phiên tòa, Bị cáo và Luật sư của bị cáo yêu cầu triệu tập Điều tra

viên Trần Đức Dũng đến phiên tòa vì có dấu hiệu ông Dũng tạo chứng cứ, làm

sai lệch hồ sơ vụ án. “Bút lục số 3191, 3193 vụ án là biên bản ghi lời khai của

Trần Đình Quang (nhân viên Công ty Ngọc Hưng và cháu ruột của vợ chồng tôi)

vào các ngày 22/4/2013, 23/4/2013 thể hiện về việc tôi chỉ đạo Quang lập giả

hợp đồng và các giấy tờ kèm theo để nhập khẩu lô hàng gỗ. Tuy nhiên, ngay sau

đó, Trần Đình Quang đã làm đơn kêu cứu gửi đến Viện KSNDTC, Cục trưởng

Cục C44 – Bộ Công an, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Trị, Chánh thanh

tra Bộ Công an và Trưởng ban Nội chính Trung ương để kêu cứu, cho rằng các

biên bản ghi lời khai nói trên do Điều tra viên Văn phòng Cơ quan CSĐT – Bộ

Công an (C44) Trần Đức Dũng lập sẵn rồi dùng nhục hình, đánh đập, bỏ đói

buộc Quang phải ký. Qua đó, Quang đề nghị quý cơ quan, người có thẩm quyền

chỉ đạo C44 hủy các biên bản ghi lời khai, bản tự khai cùng các tài liệu khác có

chữ ký của Quang ngày 22, 23/4/2013 “để đảm bảo sự nghiêm túc, công minh

trong hoạt động tố tụng” và Quang tự tử vào sáng 22/5/2013 ngay sau khi từ C44

trở về. Trong di thư Quang vẫn nhắc đến việc bị ép cung, nhục hình. Thêm nữa,

ngày 20/5/2013, C44 có mời Quang ra Hà Nội để làm việc nhưng biên bản ghi

lời khai của Quang ngày 20/5/2013 không có bản chính, chỉ có bản phô tô. Nên

Bị cáo và Luật sư bào chữa yêu cầu triệu tập ông Dũng đến tòa để làm rõ nhưng

rất tiếc yêu cầu không được chấp nhận. Ngoài ra, Trong phần thủ tục, các bị cáo

và luật sư đã đề nghị HĐXX triệu tập thêm giám sát viên, người định giá lô hàng

cũng như yêu cầu đưa số gỗ là tang vật của vụ án ra xem xét tại tòa để phục vụ

việc xét xử. HĐXX cho rằng danh sách giám định viên và những người định giá

tòa triệu tập đã được ghi trong danh sách kèm theo quyết định xét xử gửi các bị

41

cáo và luật sư bào chữa cho các bị cáo. Đây là danh sách triệu tập chính thức.

Đối với những người ngoài danh sách, HĐXX không triệu tập tham gia tại phiên

tòa hôm nay. Tuy nhiên, đây là phiên tòa diễn ra trong nhiều ngày. Do đó đối với

những nội dung có liên quan đến những người ngoài danh sách trên, HĐXX có

thể xem xét triệu tập bổ sung khi nhận thấy thực sự cần thiết để đảm bảo việc xét

xử diễn ra khách quan, đúng thực chất.

Nhưng như thế nào là cần thiết thì chỉ có HĐXX mới biết nên việc có triệu

tập thêm người tham gia tố tụng hay không vẫn tùy nghi theo quan điểm chủ

quan của người tiến hành tố tụng. Ngoài ra, pháp luật chưa có chế tài đối với

người giám định được triệu tập cố tình không tham gia phiên tòa đã ảnh hưởng

đến việc giải quyết đúng đắn vụ án mà không có lý do chính đáng Điều 294 Bộ

luật Tố tụng hình sự năm 2015. Đây cũng là một trong những hạn chế không

đảm bảo tranh tụng tại phiên tòa.

Quá trình xét hỏi tại phiên tòa, Tòa án nên chỉ giữ vai trò là trọng tài điều

khiển tranh tụng tại phiên tòa giữa đại diện Viện Kiểm sát với luật sư và bị cáo,

các bên tranh tụng thực hiện trách nhiệm chứng minh và tiến hành xét hỏi là chủ

yếu. Tòa án thực hiện duy trì trì, xét hỏi và có quyền xét hỏi ở bất kỳ thời điểm

nào khi thấy cần thiết phải làm sáng tỏ các tình tiết chưa được các bên làm rõ

trong quá trình xét hỏi. Mặc dù, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, đã quy định

nguyên tắc “ tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”, nhưng tại Điều 307 Bộ luật

Hình sự năm 2015 vẫn quy định trình tự hỏi: Chủ tọa phiên tòa hỏi trước, sau đó

quyết định để thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, Người bào chữa...

Với những quy định trên, thực tiễn xét xử thấy rằng Chủ tọa phiên tòa hỏi trước

theo hướng buộc tội, khi báo cáo trả lời không đúng nội dung cáo trạng, thì

HĐXX có thái độ bắt bẻ, cho rằng bị cáo không thành khẩn khai báo, ăn năn hối

cãi, và cho rằng không đủ điều kiện để được hưởng tình tiết giảm nhẹ thần khẩn

khai báo, ăn năn hối cãi. Qua thực tiễn xét xử thấy rằng, khi các nội dung đã

được HĐXX dành nhiều thời gian hỏi rất nhiều, rồi thẩm phán ngồi cánh, Hội

Thẩm nhân dân. Đến lượt Kiểm sát viên việc xét hỏi rất ít, do những tình tiết nào

42

HĐXX đã hõi, làm rõ thì không hỏi lại; đến Luật sư khi xét hỏi thì thời gian còn

hạn chế hơn, có những trường hợp Chủ tọa cắt không cho Luật sư hỏi vì cho

rằng vấn đề này đã được hỏi rõ. Việc này đã hạn chế rất nhiều khả năng tranh

Luận của Kiểm sát viên và Luật sư ở giai đoạn sau. Tòa án đóng vai trò “trung

gian”, chỉ xét xử và ra phán quyết thông qua đánh giá khách quan và căn cứ vào

quá trình tranh tụng tại phiên tòa.

Vì vậy, theo chúng tôi trong trường hợp này, các điều luật về xét hỏi cần

quy định: Khi xét hỏi Kiểm sát viên trước sau đó đến người bào chữa, người bảo

vệ quyền lợi của đương sự. Các thành viên Hội đồng xét xử có thể hỏi ở bất kỳ

thời điểm nào về các tình tiết của vụ án chưa được các bên tranh tranh tụng làm

sáng tỏ trong quá trình xét hỏi. Tòa án cần đóng vài trò là trọng tài, người điều

khiển phiên tòa duy trì quá trình tranh tụng như vậy hoạt động tranh tụng mới

đảm bảo.

Nguyên tắc tranh tụng không chỉ là một bảo đảm để thực hiện quyền bào

chữa của bị cáo mà còn là phương tiện để xác định sự thật khách quan của vụ án.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 26 BLTTHS 2015 [22]. Khoản 1 Điều 322

BLTTHS 2015 [22].

Để tranh tụng có hiệu quả thì một trong những điều kiện quan trọng nhất

là các bên buộc tội và gỡ tội phải thực sự bình đẳng với nhau và Tòa án phải

đứng ở vị trí trung gian, độc lập, khách quan, bảo đảm cho hai bên thực hiện

chức năng của mình. Tuy nhiên, qua thực tiễn xét xử thấy rằng, Tòa án thường

tôn trọng Kiểm sát viên hơn Luật sư, thể hiện ở chỗ Kiểm sát viên hỏi rất nhiều

không cắt lời, nhưng khi Luật sư hỏi thì thường nhắc nhở cắt nội dung hỏi của

Luật sư. Như vậy có sự phân biệt… giữa các chủ thể trong quá trình tranh tụng,

nó ảnh hưởng đến bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa. Ví dụ: Vụ Thái Đặng Đình

Hậu (Bản án số 94/2015/HSST ngày 17/12/2015 của Tòa án nhân dân quận Sơn

Trà): Bị cáo là lái xe ô tô, điều khiển xe tải lùi trong khu vực bãi đất trống nhưng

chủ quan, không quan sát dẫn đến hậu quả làm chết người. Hành vi của bị cáo

phạm vào tội “Vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp”. Tại phiên

43

tòa Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng bị cáo phạm tội “Vô ý làm chết người

do vi phạm quy tắc nghề nghiệp” với nhiều lập luận có căn cứ. Tuy nhiên, Kiểm

sát viên lập luận cho rằng bị cáo phạm tội “Vô ý làm chết người”, cấp sơ thẩm từ

điều tra, truy tố, xét xử bị cáo về tội “Vô ý làm chết người” là không đúng. Vụ

án sau này bị hủy để điều tra, truy tố, xét xử lại.

HĐXX phải tập trung cao độ, chú ý theo dõi, ghi chép nhanh và đủ ý việc

tranh luận Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự

và. Những ý kiến và đề nghị của bị cáo, người bào chữa và người tham gia tố

tụng khác về luận tội của Kiểm sát viên. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử thấy rằng,

một số Thẩm phán chủ tọa không lắng nghe các yêu cầu luật sư, có trường hợp

làm việc riêng, không ghi chép nội dung tranh luận, ở số phiên tòa hạn chế thời

gian bào chữa của Luật sư yêu cầu cho luật sư 30’ trình bày. Vì vậy, có nhiều

luật sư bức xúc, bỏ về. Chủ tọa ngắt lời trình bày của Luật sư vì cho rằng trình

bày dài dòng. Ví dụ trong phiên xử Bùi Tiến Dũng (Dũng 'Tổng'), Chủ tọa phiên

tòa Ngô Thị Yến lại đề nghị các luật sư không được nhắc lại những điều đã nói

và hạn chế mỗi người chỉ được nói 10 phút. Luật sư Hồng Hải đứng dậy cho

rằng: "Theo quy định, chủ tọa không được hạn chế thời gian tranh luận của các

luật sư. Còn nếu tình trạng này tiếp tục, chúng tôi sẽ không tham dự tiếp". Luật

sư Hải (bào chữa cho Vũ Mạnh Tiên) bỏ ra về kéo theo sự ra về của các luật sư:

Nguyễn Hồng Bách, Hằng Nga, Ngô Ngọc Thủy, Phạm Hưng Thạch, Trần Anh

Tuấn, Trần Đình Triển, Tôn Nữ Thu Hà…, phiên tòa trở nên hỗn loạn. Lực

lượng cảnh sát cùng chủ tọa kêu gọi mọi người ở lại. Sau khoảng 15 phút tạm

dừng, phiên xử lại tiếp tục. Đây cũng là một trong những hạn chế quá trình tranh

tụng diễn ra một số tòa hiện nay.

Trong phần đối đáp, Chủ tọa phiên tòa phải tạo điều kiện để những người

tham gia phiên tòa thực hiện quyền đối đáp lại những ý kiến của người khác.

Điều luật không quy định người tham gia tranh luận chỉ có quyền phát biểu một

lần với mỗi ý kiến mà mình không đồng ý. Tuy nhiên, Chủ tọa phiên tòa cũng có

quyền cắt ý kiến đối đáp khi thấy những ý kiến đối đáp không liên quan đến vụ

44

án hoặc người tham gia tố tụng phát biểu nhiều lần về một vấn đề nhưng lời phát

biểu đó trùng lặp nhau hoặc trùng lặp với ý kiến của người khác đã phát biểu,

tránh kéo dài phiên tòa một cách không cần thiết. Trong quá trình tranh luận, chủ

tọa phiên tòa không được có ý kiến mang tính kết luận, bình luận, nhận định

những luận điểm của các bên đối đáp hay có tính chất bênh vực Kiểm sát viên

hay người tham gia tranh luận với Kiểm sát viên mà phải luôn giữ thái độ khách

quan. Những ý kiến hay đề nghị họ đưa ra chưa rõ ràng thì HĐXX đề nghị Kiểm

sát viên yêu cầu trình bày rõ hơn để đảm bảo tranh luận đúng nội dung. Nếu

người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền lợi của đương sự đưa ra những ý kiến

đề nghị Kiểm sát viên tranh luận nhưng Kiểm sát viên không tranh luận thì chủ

tọa phiên tòa phải phải yêu cầu Kiểm sát viên đối đáp lại toàn bộ những ý kiến

của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Nếu đại diện Viện

kiểm sát không đối đáp thì yêu cầu Kiểm sát viên nói rõ lý do và việc này phải

được ghi vào biên bản phiên toà. Tuy nhiên, thực tế nhiều phiên tòa hình sự,

thẩm phán duy trì đối đáp còn sơ sài, những nội dung Luật sự và bị cáo đưa ra

nhưng kiểm sát viên không đối đáp hết yêu cầu đó. Nhưng Hội đồng xét xử

không yêu cầu đối đáp những vấn đề còn lại, dẫn đến nhiều phiên tòa Luật sư và

người tham gia tố tụng không cảm thấy hài lòng về chất lượng tranh tụng tại

phiên tòa.

Bên cạnh những hạn chế đã phân tích trên, trong quá trình thực tiễn xét

xử chúng tôi còn thấy rằng vẫn còn nhiều hạn chế, sai sót trong quá trình tố tụng

như: Các thẩm phán vẫn chưa nghiên cứu kỹ các chứng cứ buộc tội và gỡ tội,

chưa chú ý đánh giá các quan điểm trong tranh tụng của các bên, dẫn đến định

tội danh sai, áp dụng tình tiết tăng nặng giảm nhẹ không đúng, các chứng cứ

trong vụ án không được kiểm tra đánh giá đầy đủ tại phiên tòa. Ví dụ các sai sót

ở các vụ án sau đây:

Xác định không đúng tội danh dẫn đến oan sai: Vụ Trần Công Tây phạm

tội “Trộm cắp tài sản” và “Chứa chấp và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội

mà có” (Bản án số 29/2016/HS-ST ngày 06.5.2016 của TAND quận Sơn Trà) bị

45

huỷ một phần, với lý do: Mặc dù Trần Công Tây có hành vi giúp sức cất dấu xe

mô tô cho Nghĩa nhưng việc cất dấu nhằm mục đích để sử dụng và sau đó bán

cho người khác. Chuỗi hành vi liên tiếp – cất dấu, sử dụng và đem bán cho người

khác đối với cùng một đối tượng là xe mô tô Air Blade của bị cáo Trần Công

Tây chỉ phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1

Điều 250 BLHS nhưng cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về 02 tội danh – tội “Chứa

chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” và “Tiêu thụ tài sản do người khác

phạm tội mà có” là không chính xác. Do đó, cấp phúc thẩm tuyên bị cáo Trần

Công Tây không phạm tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”

theo khoản 1 Điều 250 BLHS.

Chưa đánh giá đúng tính chất hành vi phạm tội, định mức hình phạt nhẹ,

chưa nghiêm, chưa tương xứng với hành vi phạm tội. Ví dụ trong vụ án:

Nguyễn Văn Hiếu cùng các bị cáo khác phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo

khoản 2 Điều 104 BLHS (Bản án số 82/2015/HSST ngày 17/8/2015 của TAND

quận Hải Châu, TP Đà Nẵng): Trong vụ án này, các bị cáo dùng kiếm là hung

khí nguy hiểm xông vào chém người bị hại tại nơi công cộng, kể cả khi người bị

hại đã bỏ chạy vào bên trong phòng cấp cứu của bệnh viện nhưng các bị cáo vẫn

tiếp tục truy đuổi chém bị hại nhiều nhát. Các bị cáo phạm tội thể hiện tính côn

đồ, quyết tâm phạm tội đến cùn. Tuy nhiên cấp sơ thẩm chưa áp dụng tình tiết

tăng nặng “Cố tính thực hiện tội phạm đến cùng” đối với các bị cáo là có thiếu

sót. Đồng thời, xử các bị cáo Hiếu, Vinh, Phi mỗi bị cáo 18 tháng tù là quá nhẹ

không tương xứng, thiếu tính răn đe.

Áp dụng pháp luật không đúng quy định dẫn đến huỷ bản án, như: Vụ

Đặng Gia Khánh phạm tội “Vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới” (Bản

án hình sự sơ thẩm số 118/2014/HSST ngày 08/12/2014 của Tòa án nhân dân

quận Sơn Trà) bị Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng hủy theo trình tự giám

đốc thẩm. Lý do hủy: Bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “thành

khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải” quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS

nhưng lại có nhân thân xấu và bị truy tố theo khoản 3 Điều 154 BLHS nhưng

46

cấp sơ thẩm áp dụng Điều 47 BLHS xử phạt bị cáo theo khoản 2 Điều 154 là quá

nhẹ. Đồng thời, về vật chứng trong vụ án là chiếc xe ô tô mà Đặng Gia Khánh sử

dụng làm phương tiện phạm tội là tài sản chung nhưng cấp sơ thẩm tuyên trả lại

toàn bộ là không đúng.

Ngoài ra, một trong những hạn chế bảo đảm tranh tụng hiện nay không

chỉ Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng mà còn hạn chế chung của

nhiều tỉnh thành trên cả nước đó là. Trong các phiên tòa Hình sự tỷ lệ Luật sư

tham gia bào chữa chiếm tỉ lệ còn thấp khoảng 20 đến 40%, có địa phương còn

thấp hơn, việc Luật sư tham gia tại phiên tòa hình sự chiếm tỉ lệ thấp hạn chế

đảm bảo tranh tụng bởi lẽ nếu vụ án không có Luật sư tham gia thì phần tranh

luận hầu như rất ít, có phiên tòa bị cáo gần như không tranh luận. Mặc dù pháp

luật đã có nhiều quy định tiến bộ để tạo điều kiện cho Luật sư được tham gia bào

chữa ở những giai đoạn rất sớm, hay mở rộng đối tượng được chỉ định Luật sư

đối với các bị cáo có khung hình phạt từ 20 năm chung thân, tử hình là yếu tố tạo

điều kiện để các Luật sư tham gia bào chữa nhưng làm thế nào để các vụ án có

luật sư tham gia nhiều vụ án hình sự vẫn là câu hỏi lớn. Mặc dù có nhiều quy

định tiến bộ, tuy nhiên, với quy định hiện hành như không bắt buộc người bào

chữa phải có mặt tại phiên, dẫn đến không ít phiên tòa vắng mặt người bào chữa,

Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử, ảnh hưởng đến đối đáp, tranh luận. Đây cũng là

một trong những yếu tố hạn chế bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa, vì khi vắng

Luật sư bào chữa thì chất lượng tranh tụng thường rất thấp.

2.2. Nguyên nhân những hạn chế về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa

hình sự Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng

Từ những phân tích lý luận, thực trạng quy định pháp luật, kết quả đạt

được, những hạn chế trong quá trình áp dụng BLTTHS 2015 chúng tôi rút ra

được những nguyên nhân thực tiễn hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế trong việc

bảo đảm tắc tranh tụng tại phiên tòa hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp thành

47

phố Đà Nẵng:

Thứ nhất, quy định pháp luật chưa đầy đủ, có sự chồng chéo mâu thuẫn,

chưa phù hợp thực tiễn xét xử:

Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị đã xác định rõ cơ chế hoàn

thiện các quy định của pháp luật nói chung trong đó có quy định của pháp luật về

tranh tụng. Hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành như: Hiến

pháp 2013, pháp luật TTHS hiện hành của chúng ta đã có những quy định khá

tiến bộ về tranh tụng tại phiên toà, như: ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong xét

xử được bảo đảm; quy định về bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên toà;

quy định về nguyên tắc bình đẳng giữa kiểm sát viên với người bào chữa, bị cáo

trong việc đưa ra chứng cứ, đưa ra yêu cầu và tranh luận trước Toà án, nhằm bảo

đảm tính khách quan của hoạt động xét xử… Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS)

cũng quy định khi xét hỏi và tranh luận, chủ toạ phiên toà không hạn chế thời

gian để xét hỏi cũng như để tranh luận… Pháp luật quy định theo hướng mở

rộng các quyền của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Các chế

định bổ trợ tư pháp được thừa nhận và phát triển. Đây là điều kiện thuận lợi để

góp phần thực hiện việc tranh tụng.

Tuy nhiên, hệ thống qui phạm pháp luật làm cơ sở cho tranh tụng còn

chưa hoàn thiện, có nhiều vướng mắc chưa kịp thời được hướng dẫn, các qui

định là cơ sở pháp lý cho hoạt động tranh tụng như: các qui định về quyền và

nghĩa vụ của KSV, Luật sư bào chữa tại phiên toà; các qui định về trách nhiệm

của HĐXX, của Thẩm phán trong việc đảm bảo cho hoạt động tranh tụng; các

qui định về trình tự, thủ tục tranh tụng; về văn hoá tư pháp… và các qui định

pháp luật về nội dung có liên quan đến các vấn đề đưa ra tranh tụng như: các qui

định của pháp luật hình sự và văn bản hướng dẫn làm cơ sở đánh giá về vụ án.

Hiện nay còn rất nhiều qui định của BLHS còn có vướng mắc nhưng chưa được

cấp có thẩm quyền hướng dẫn, do vậy khi tranh tụng, giữa KSV với người bào

chữa vẫn có những quan điểm khác nhau, và phán quyết của Toà án giữa nơi này

với nơi khác hoặc giữa hai cấp về cùng vấn đề nhưng cũng khác nhau. Nên hiện

48

nay việc điều hành phiên tòa theo hướng tranh tụng cũng chưa thống nhất, chưa

thể hiện hết toàn bộ tinh thần của tranh tụng và như thế việc đảm bảo cho tranh

tụng tại phiên tòa chưa đạt hiệu quả cao nhất.

Ngoài ra, như đã phân tích ở phần hạn chế đó là các quy định trong Bộ

luật tố tụng hình sự hiện hành đã hạn chế, giảm tính bảo đảm nguyên tắc tranh

tụng như: Quy định chưa rạch ròi giữa các chức năng, vai trò, nhiệm vụ của các

cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình TTHS, có một số quy định Tòa án thực

hiện chức năng buộc tội thay cho Viện kiểm sát như khởi tố vụ án, xét xủ tội

danh nặng hơn tội danh truy tố…là chưa thật sự phù hợp với chức năng xét xử

của Tòa án trong TTHS. Theo quy định hiện hành bên Tòa án vừa giữ chức năng

xét xử và khởi tố vụ án sẽ không đảm bảo tính trung lập giữa hai chức năng bào

chữa và buộc tội. BLTTHS quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về

các cơ quan tiến hành tố tụng trong đó có Tòa án, điều này dễ gây hiểu nhầm

Tòa án cũng thuộc về bên buộc tội. Quy định này tạo thế không cân bằng giữa ba

bên là xét xử, buộc tội và bào chữa theo nguyên tắc tố tụng vì bên buộc tội là

Viện kiểm sát được thi hành quyền giám sát đối với bên xét xử. Điều này không

tạo ra sự độc lập trong xét xử mà cụ thể là giữa Viện kiểm sát và Tòa án.

Thứ hai, nguyên nhân hạn chế bảo đảm tranh tụng đó là đội ngũ Thẩm

phán, Kiểm sát viên, Luật sư chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ Đội ngũ

Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư hiện nay còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến

chất lượng tranh tụng nói chung, chất lượng xét xử vụ án hình sự nói riêng.

Năng lực, trình độ chuyên môn: Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, truy tố,

xét xử, năng lực, trình độ của Thẩm phán, kiểm sát viên có ảnh hưởng đến quá

trình tranh trụng tại phiên tòa, chất lượng việc tranh tụng, cũng như việc xét xử

thể hiện chất lượng bản án, tỷ lệ án bị hủy, sửa.

Thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư phải là những người được trang bị đầy

đủ về kiến thức và kỹ năng cho các phiên tòa tranh tụng theo định hướng cải

cách tư pháp, nhưng do nhận thức về tranh tụng, quy định tranh tụng thiếu

hướng dẫn kịp thời, chưa có kinh nghiệm thực tiễn về tranh tụng nên vẫn còn

49

nhiều vấn đề bất cập khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của từng chủ thể khi

tham gia vào hoạt động tố tụng. Thói quen và kinh nghiệm giải quyết vụ án theo

một quy trình mang tính thẩm vấn trước đây vẫn còn ảnh hưởng đến định hướng

giải quyết vụ án và là lối mòn tư duy của người tiến hành tố tụng. Việc nêu cao

tinh thần trách nhiệm, thượng tôn công lý, những nguyên tắc nghề nghiệp bị vi

phạm nghiêm trọng cũng là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến Thẩm phán,

Kiểm sát viên, Luật sư khi tổ chức các phiên tòa mang bản chất tranh tụng.

Trong thực tiễn hiện nay, có thể thấy rằng ở nhiều tòa, năng lực, trình độ

của Thẩm phán, Kiểm sát viên, có nơi chưa đảm bảo chất lượng. Một số người

tiến hành tố tụng có biểu hiện sa sút về phẩm chất đạo đức, bị cơ chế thị trường,

tiền bạc chi phối dẫn đến nhiều trường hợp có tiêu cực trong công tác..

Trong quá trình xét xử, chất lượng phụ thuộc rất nhiều vào vai trò điều

khiển của thẩm phán Chủ tọa phiên tòa, vai trò chủ động xét hỏi tranh luận của

luật sư. Nghị quyết 08/NQ-TW và Nghị quyết 49 về chiến lược cải cách tư pháp

của Bộ Chính trị đã có nhưng tinh thần của nó về tranh tụng không phải là đã được

toàn bộ thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, KSV quán triệt.

Nhiều thẩm phán chỉ căn cứ vào hồ sơ vụ án để giải quyết là chính, còn sự

có mặt của người làm chứng, tài liệu, đồ vật, ý kiến của những người được triệu

tập đến phiên tòa chỉ là một thủ tục để hoàn thiện hồ sơ vụ án và đúng trình tự

theo luật định chứ chưa thực sự quan tâm đúng mức đến tranh tụng và giá trị của

hoạt động tranh tụng khi đưa ra các phán quyết cuối cùng. Mặc khác, với số

lượng án phải xét xử rất lớn nên thẩm phán cũng không chăm chút kỹ lưỡng cho

từng vụ án và dành đủ thời gian giải quyết vụ án. Một vụ án có thể diễn ra rất

nhanh chóng do sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa và sự rút ngắn thời gian đã

làm cho chất lượng phát biểu tranh luận tại các phiên tòa chưa thể hiện được đầy

đủ các lý lẽ mà các bên muốn hướng đến.

Trong giai đoạn hiện nay, do thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày

17/4/2015 của Bộ chính trị về tinh giảm biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ

công chức, viên chức thì số lượng biên chế của Tòa án nhân dân sẽ không được

50

bổ sung thêm, gây nên tình trạng quá tải trong công việc, do áp lực công việc

quá lớn, nên một số Thẩm phán không sắp xếp được thời gian và công việc cho

các khóa học để nâng cao trình độ chuyên môn, dẫn đến công việc nhiều, áp lực

về thời gian cần giải quyết đảm bảo thời gian nên ảnh hưởng đến chất lượng giải

quyết vụ án, chất lượng tranh tụng.

Bên cạnh, năng lực của Thẩm phán, KSV cũng có vai trò rất lớn đến chất

lượng của quá trình tranh tụng tại phiên tòa, được thể hiện ở hai khía cạnh là

trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm khi tham gia phiên tòa, đối với

thẩm phán là kỹ năng điều khiển phiên tòa và KSV là kỹ năng tranh tụng. Trong

đó trình độ có vai trò rất lớn vì chủ yếu các trường hợp án sửa, huỷ là do việc

nắm và vận dụng pháp luật của thẩm phán và KSV.

Các kiểm sát viên, người thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các

vụ án hình sự tại tòa án, KSV phải nắm vững hồ sơ vụ án, nắm vững chứng cứ

buộc tội và gỡ tội, các chứng cứ được thể hiện ở các tài liệu nào, bút lục số bao

nhiêu, những hạn chế, vướng mắc trong hồ sơ và ảnh hưởng của nó trong quá

trình sử dụng chứng cứ tranh luận tại phiên tòa.

Tuy nhiên, cũng còn nhiều Kiểm sát viên thiếu tinh thần, trách nhiệm khi

tham gia vào thủ tục tranh luận tại tòa. Nhiều kiểm sát viên chưa chuẩn bị hồ sơ

và kiến thức liên quan đến nội dung vụ án nên rất nhiều trường hợp, kiểm sát

viên khá lúng túng trước những đòi hỏi, yêu cầu và lý lẽ của các bên tham gia

đối đáp, tranh luận với kiểm sát viên. Thực tế, có nhiều trường hợp kiểm sát viên

không nắm vững quy định của pháp luật nên phát biểu đưa ra luận cứ pháp lý

chứng minh còn sai lệnh, chưa đúng hoặc chưa biết được quy định pháp luật mà

bên đối đáp dẫn chứng nên tìm cách lẩn tránh phần đối đáp của bên bị cáo, người

bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Có thể nói, luật sư là một phần không thể thiếu của các phiên tòa tranh

tụng, chính luật sư là người am hiểu pháp luật nên khả năng tranh tụng đối đáp

với các quan điểm của viện kiểm sát, của bên đối lập hoặc đối với hội đồng xét

xử sẽ tốt hơn rất nhiều. Tuy nhiên, đội ngũ luật sư thiếu về số lượng và hạn chế

51

về chất lượng. Mặt khác, luật sư tham gia bào chữa còn nặng về đề nghị HĐXX

khoan hồng, giảm nhẹ nên các bài bào chữa của họ cũng ít quan tâm tới việc làm

rõ các vấn đền về chứng cứ, đánh giá các tình tiết của vụ án một cách đầy đủ, toàn

diện; thiếu kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm đối đáp, tranh luận trực tiếp, dẫn

đến sự tẻ nhạt và không đi vào trọng tâm của vấn đề khi tham gia các phiên tòa.

Thứ ba, các nguyên nhân khác: Cơ chế đảm bảo cho việc tranh tụng tại

phiên tòa chưa hợp lý: hiện nay cơ chế để đảm bảo cho việc thực hiện tranh tụng

tại phiên tòa còn nhiều vấn đề. Thu thập tài liệu chứng cứ là việc rất quan trọng để

luật sư có thể tham gia tranh luận một cách bình đẳng tại phiên tòa, nhưng nếu Cơ

quan điều tra, Viện kiểm sát gây khó khăn trong việc cấp thông báo bào chữa cho

luật sư thì chế tài nào xử lý? Và rất nhiều vấn đề cần phải có sự quy định cụ thể để

tạo ra một cơ chế đồng bộ chuẩn xác cho việc thực hiện tranh tụng.

Cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu: Một nguyên nhân cũng không

kém phần quan trọng ảnh hưởng đến quá trình tranh tụng tại phiên tòa, đảm bảo

tính trang nghiêm của Tòa án là cơ sở vật chất, trang thiết bị của ngành Tòa án

hiện nay có nhiều nơi cũ, xuống cấp, chưa được cải tạo sữa chữa, kịp thời, nên

có nhiều hội trường không phù hợp với việc sắp xếp chỗ ngồi theo đúng quy

định pháp luật hiện nay. Một số Tòa án hiện nay vẫn còn đang đi thuê hoặc

mượn trụ sở, nên cơ sở vật chất, phòng xử án, phòng làm việc chưa đồng bộ,

thiếu thống nhất đã làm mất đi tính uy nghiêm của phiên tòa. Việc một số Tòa

hiện nay, trang thiết bị vật chất như ghi âm, ghi hình, ghi hình có âm thanh diễn

biến tại phiên tòa vẫn chưa được trang bị mặc dù pháp luật đã có quy định. Phần

lớn các tòa hiện nay thiếu các phòng cách ly của bị cáo, người làm chứng…nên

ảnh hưởng nhiều đến quá trình tranh tụng tại phiên tòa.

Ý thức pháp luật trong một bộ phận nhân dân vẫn còn hạn chế: Trình độ

hiểu biết những người tham gia tố tụng có nhiều hạn chế. Họ tham gia vào các

giai đoạn tố tụng còn chưa nắm vững được luật để bảo vệ quyền lợi hợp pháp

cho mình, nhiều đương sự có rất nhiều chứng cứ có thể chứng minh để đảm bảo

quyền lợi cho mình nhưng do thiếu hiểu biết nên không xuất trình chứng cứ

52

trước tòa án để làm căn cứ hoặc bởi sự hạn chế của thủ tục xét xử vụ án tại tòa

(chỉ đưa ra quan điểm giải quyết vụ án trong phần tranh luận) nên nhiều trường

hợp ở phần xét hỏi thì trình bày rất nhiều, nhiều đến mức chủ tọa phải cắt lời để

dành cho thủ tục tranh tụng, nhưng khi bước vào phần thủ tục tranh luận tại

phiên tòa họ lại không có khả năng để lập luận trước tòa án. Hiện nay công tác

hướng dẫn, tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về lĩnh vực tư pháp chưa

sâu rộng Việc đương sự không có mặt theo giấy triệu tập của tòa án cũng là một

nguyên nhân làm giảm đi chất lượng tranh tụng.

Kết luận Chương 2

Tranh tụng trong xét xử được đảm bảo là nguyên tắc mới, lần đầu tiên

được quy định là nguyên tắc riêng biệt trong Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS)

năm 2015. Quy định cụ thể hóa nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng, thể hiện

rõ nét tư tưởng đề cao tranh tụng trong hoạt động tố tụng hình sự, vấn đề này

được thể hiện thành quan điểm chỉ đạo, định hướng tư tưởng xuyên suốt trong

quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật của các chủ thể tham gia vào hoạt động

tố tụng.

Chương 2 của luận văn tác giả tập trung nghiên cứu các quy định của

pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa, nghiên

cứu phân tích những nội dung sửa đổi, bổ sung của Bộ luật tố tụng hình sự như :

Để bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, Bộ luật tố tụng hình sự năm

2015 đã bổ sung nhiều quy định, cụ thể: Những chủ thể có quyền tham gia tranh

tụn được Tòa án đảm bảo quyền, nghĩa vụ đầy đủ, được bình đẳng trước tòa;

Quy định trách nhiệm của Tòa án trong việc giải quyết yêu cầu, đề nghị của

Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng về việc cung cấp, bổ sung chứng cứ; sự có

mặt của người bào chữa; người giám định, người định giá, người dịch thuật;

Điều tra viên và những người khác.

Trên cơ sở quy định pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm tranh tụng tại

phiên tòa và đánh giá thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà

53

Nẵng trong thời gian từ năm 2014 đến 2018, tác giả phân tích những kết quả đạt

được cũng như những hạn chế, bất cập trong quá trình xét xử. Từ những quy

định của pháp luật về tố tụng hình sự quy định về bảo đảm tranh tụng, thực tiễn

áp dụng tại Tòa án nhân dân hai cấp Thành phố Đà Nẵng, những kết quả đạt

được, những hạn chế. Tác giả chỉ ra được những nguyên nhân của hạn chế, từ

nguyên nhân pháp luật, công tác cán bộ đây là cơ sở để tác đưa ra những yêu cầu

bảo đảm tranh tụng cũng như những giải pháp bảo đảm tranh tụng ở chương 3

54

của luận văn.

CHƯƠNG 3

CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TẠI

PHIÊN TÒA HÌNH SỰ

3.1. Yêu cầu tăng cường bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự

trong giai đoạn hiện nay

Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, chất lượng công tác tư pháp nhìn chung

chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân, chưa thể hiện hết quyền

lực của Nhà nước mà vẫn còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người

vô tội, vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin

của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp. Công cuộc cải

cách tư pháp trong những năm gần đây được Đảng, Nhà nước ta hết sức quan

tâm và được đặt trong mối quan hệ với việc đẩy mạnh cải cách hành chính và

nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, hướng tới xây

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân

dân. Tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được của việc tổ chức thực hiện

Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công

tác tư pháp trong thời gian tới, đã định hướng “…bảo đảm tranh tụng dân chủ

với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác… phải đảm

bảo cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách

quan…Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa….”.

Những kết quả mà chúng ta đã đạt được có thể khái quát trên một số nội

dung cụ thể sau đây: Đã hoàn thiện một bước về chính sách, pháp luật hình sự,

tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, đưa Nghị quyết đi vào đời sống xã hội.

Sau khi nghị quyết ban hành, nhiều dự án luật, pháp lệnh liên quan đến

lĩnh vực công tác tư pháp đã được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp

lệnh của Quốc hội. Nội dung các dự án luật, pháp lệnh đã bám sát và kịp thời thể

chế hoá nhiều chủ trương, chính sách của Nghị quyết số 49-NQ/TW về hình sự.

55

Đặc biệt, Hiến pháp 2013 tại khoản 5 Điều 103 quy định Nguyên tắc tranh tụng

trong xét xử được bảo đảm lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, nguyên tắc tranh

tụng được thừa nhận chính thức trong một văn bản pháp lý của Nhà nước,

BLTTHS đã được Quốc hội thông qua, nguyên tắc tranh tụng được thể hiện tại

Điều 26 cũng được cụ thể hóa Hiến pháp.

Những quy định của pháp luật trên đã thể chế hóa những quan điểm, chủ

trương, đường lối của Đảng ta tại các như Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

02/6/2005, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005, Nghị quyết số 08-

NQ/TW ngày 02/01/2002.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, pháp luật của các quốc gia có xu

hướng giảm bớt những yếu tố đặc thù, “xích lại gần nhau” hơn và trong đó pháp

luật tố tụng hình sự không phải là ngoại lệ. Nghiên cứu các mô hình tố tụng hình

sự cho thấy, đến nay không tồn tại mô hình tố tụng hình sự thuần túy là thẩm vấn

hay tranh tụng. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người bào chữa của họ còn

khá thụ động và trong nhiều trường hợp lệ thuộc vào các cơ quan tiến hành tố

tụng. Điều tra, thẩm vấn là phương pháp chủ yếu được áp dụng ở tất cả các giai

đoạn tố tụng, thậm chí tại phiên tòa. Thực tiễn thi hành mô hình tố tụng hình sự

ở nước ta thời gian qua cho thấy, mô hình tố tụng hình sự hiện hành đã phát huy

tác dụng tích cực trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm trật

tự an toàn xã hội và từng bước đáp ứng được yêu cầu bảo đảm dân chủ, bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, quá trình vận hành mô hình

này đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập. Vì vậy, cần tham khảo kinh nghiêm về mô

hình tố tụng với những ưu, nhược điểm, cùng với một số đánh giá về thực trạng

mô hình tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay, có thể thấy, việc hoàn thiện mô

hình tố tụng hình sự là cần thiết nhưng phải được thực hiện trên cơ sở giữ nền

tảng của mô hình tố tụng thẩm vấn hiện tại. Các yếu tố tranh tụng chỉ nên áp

dụng ở mức độ giúp nâng cao chất lượng của quá trình tố tụng, tìm kiếm sự thật

56

khách quan và bảo vệ tốt hơn quyền cơ bản của công dân.

3.2. Các giải pháp bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự

3.2.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật về b ả o đ ả m tranh tụng tại

phiên tòa hình sự

Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, đã có nhiều nội dung tiến bộ

nhằm tăng cường hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Tuy nhiên, hoạt động tranh

tụng tại phiên tòa là một vấn đề mới so với truyền thống pháp luật hỏi đáp của

nước ta trước đây, nên về mặt lý luận, vẫn còn nhiều quan điểm, nhận thức khác

nhau, hệ thống các quy định pháp luật còn hạn chế, chưa thể hiện tính đồng bộ,

thống nhất cao mà còn nhiều mâu thuẫn, chưa phân định rõ ràng giữa thủ tục

tranh tụng và thủ tục hỏi đáp trong phiên tòa hình sự. Pháp luật tố tụng quy định

nhiều về thủ tục hỏi đáp tại phiên tòa, đặc biệt là vai trò xét hỏi của hội đồng xét

xử, kiểm sát viên, và thông qua thủ tục xét hỏi, các nội dung của vụ án cũng đã

được làm rõ tương đối, nên phần thủ tục tranh luận tại phiên tòa trở nên tẻ nhạt,

ảnh hưởng đến vai trò, trách nhiệm thực hiện của các chủ thể tham gia tranh tụng

tại phiên tòa mà đặc biệt là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư. Bộ luật tố tụng

hình sự cần quy định trong luật nguyên tắc tranh là nguyên tắc cơ bản của TTHS,

có như vậy mới thể chế hóa, cụ thể các quy định về tranh tụng, có cơ chế bảo

đảm tranh tụng, các hoạt động bổ trợ nhằm bảo đảm tranh tụng được thực hiện

trên thực tế. Khi các quy định về tranh tụng được xem là nguyên tắc cơ bản, thì

đòi hỏi những người tham gia tố tụng cần nhận thức tầm quan trọng, ý nghĩa và

vai trò của tranh tụng tại phiên tòa, phải thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc ấy.

Có thể thấy rằng, các quy định của pháp luật hiện hành đã ghi nhận rõ

quyền tranh luận, nghĩa vụ tranh luận và các quy định khác hổ trợ cho việc tranh

luận tại phiên tòa. Tính đến thời điểm hiện tại các quy định của pháp luật đã

tương đối đầy đủ và rõ ràng đáp ứng tốt cho công tác cải cách tư pháp nói cung

và thực hiện việc tranh luận nói riêng. Tuy nhiên, cũng có nhiều quy định gây

còn chồng chéo gây khó khăn cho việc tranh tụng. Và thực tế chưa có quy định

nào hướng dẫn cụ thể tranh luận tại phiên tòa phải được thực hiện như thế nào,

57

giới hạn tranh luận, nghĩa vụ tranh luận…Nên hiện nay việc điều hành phiên tòa

theo hướng tranh luận còn chưa thống nhất, chưa bảo đảm tranh tụng. Để nâng

cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, bên cạnh việc ghi nhận nguyên

tắc “bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa” cần hoàn thiện, bổ sung những quy định

khác nhằm cụ thể hoá những quy định về tranh tụng tại phiên tòa, tạo ra cơ chế

thích hợp và hiệu quả cho quá trình tranh tụng trong xét xử, các giải pháp:

Cần loại bỏ những trách nhiệm, nghĩa vụ tố tụng không thuộc chức năng

xét xử của tòa án để bảo đảm chất lượng tranh tụng trong xét xử.

Đối với trách nhiệm khởi tố vụ án và xử lý vụ án hình sự theo quy định tại

Điều 18 và Điều 145 BLTTHS 2015 thì TA có thẩm quyền khởi tố vụ án hình

sự. Cùng với nhiệm khởi tố vụ án hình sự thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm

sát. Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp thì phải

“xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy

các cơ quan tư pháp”; và tranh tụng tại phiên tòa phải được coi là khâu đột phá.

Với định hướng này cần cân nhắc có nên giao trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự

cho tòa án hay không. Nếu phải thực thi trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự liệu

có ảnh hưởng đến chức năng xét xử của Tòa án và có lấn sân sang chức năng

công tố không. Cho nên, việc quy định thẩm quyền khởi tố vụ án của Tòa án khi

phát hiện tội phạm mới trong quá trình xét xử là không hợp lý, đây là chức năng

của cơ quan điều tra và viện kiểm sát, có quy định hay chăng tòa chỉ kiến nghị

Viện kiểm sát khởi tố.

Nguyên tắc “xác định sự thật của vụ án” (Điều 15 Bộ luật Tố tụng hình sự

2015). Theo chúng tôi, với định hướng phân định rõ chức năng, thẩm quyền của

các cơ quan tiến hành tố tụng như Nghị quyết số 49 Bộ Chính trị đã nêu thì nên

bỏ trách nhiệm chứng minh tội phạm của Tòa án do trách nhiệm này thuộc chức

năng của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát. Mặt khác, việc phải chứng minh tội

phạm sẽ ảnh hưởng tới tính khách quan của Tòa án khi ra bản án và quyết của mình,

đồng thời thêm chức “trọng tài anh minh”, “người cầm cân nảy mực” của Tòa án dễ

58

bị hiểu sai lệch [28]. Vì vậy, nguyên tắc này cũng nên sửa đổi theo hướng Tòa án

không có trách nhiệm chứng minh tội phạm, mà chứng minh tội phạm thuộc về Cơ

quan điều tra, Viện kiểm sát.

Giai đoạn xét hỏi tại phiên tòa được coi là giai đoạn trung tâm của hoạt

động xét xử và cũng là giai đoạn quan trọng nhất các bên tham gia tố tụng đều có

quyền điều tra dưới sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa từ hỏi người khác, xem

xét vật chứng, tài liệu để trên cơ sở đó Hội đồng xét xử cùng Kiểm sát viên và

những người tham gia tố tụng như người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của

đương sự có điều kiện kiểm tra các chứng cứ, Kết luận điều tra, bản Cáo trạng

một cách công khai về những tình tiết của vụ án, thông qua các câu hỏi và những

câu trả lời tại phiên tòa luôn được đặt ra và trả lời một cách công khai, tự nguyện

mang tính kiểm nghiệm kết quả, cho dù các câu hỏi hoặc câu trả lời ở giai đoạn

xét hỏi có nội dung không khác với những câu hỏi và câu trả lời ở giai đoạn điều

tra, nhưng nó có một ý nghĩa vô cùng quan trọng ở chỗ: Việc hỏi và trả lời được

diễn ra công khai, nó là hình thức kiểm nghiệm kết quả điều tra của Cơ quan

điều tra cũng như các căn cứ để Viện kiểm sát ra bản Cáo trạng truy tố. Tòa án

nên chỉ giữ vai trò là trọng tài điều khiển tranh tụng tại phiên tòa giữa đại diện

Viện Kiểm sát với luật sư và bị cáo, các bên tranh tụng thực hiện trách nhiệm

chứng minh và tiến hành xét hỏi là chủ yếu. Tuy nhiên, với quy định về trình tự

xét hỏi tại phiên tòa tại khoản 1 Điều 307 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 [22].

Với quy định trên các chủ thể tham gia tranh tụng không nhận thức đúng và đầy

đủ về vai trò của mình trong tranh tụng nên không tích cực, chủ động trong việc

thực hiện chức năng của mình mà, Tòa án thì hỏi quá nhiều, vì vậy Kiểm sát viên

ỷ lại và phụ thuộc vào Tòa án, Luật sư chỉ hỏi những vấn đề chưa được hỏi. Cần

phải thực hiện đúng các chức năng, nhiêm vụ Viện kiểm sát thực hiện chức năng

buộc tội, căn cứ làm phát sinh vụ án hình sự là bản cáo trạng của Viện kiểm sát;

cho nên, tại phiên tòa Kiểm sát viên thực hiện việc xét hỏi đề bảo vệ sự buộc tội

đó.

BLTTHS cần sửa đổi về trình tự xét hỏi theo hướng: Khi xét hỏi từng

59

người, kiểm sát viên hỏi trước, đến người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của

đương sự, người tham gia tố tụng có quyền, lợi ích liên quan có quyền đề nghị

Chủ tọa phiên tòa được hỏi; các thành viên Hội đồng xét xử chỉ xét hỏi thêm về

những tình tiết mà mình cho rằng chưa rõ ràng, chưa được xét hỏi đầy đủ hoặc

có mâu thuẫn.

* Cần có hướng dẫn cụ thể để có sự thống nhất nhận thức, tạo điều kiện

cho Hội đồng xét xử áp dụng các điều luật sau:

Điều 296 Bộ luật TTHS quy định: Trong quá trình xét xử, khi xét thấy cần

thiết, Hội đồng xét xử có thể triệu tập Điều tra viên, người có thẩm quyền tiến

hành tố tụng đã thụ lý, giải quyết vụ án và những người khác đến phiên tòa để

trình bày các vấn đề liên quan đến vụ án [22]. Điều luật chưa quy định rõ thế

nào là: “khi xét thấy cần thiết” thế nào là “có thể”. Quy định như vậy mang tính

tuỳ nghi, dẫn đến không thống nhất về nhận thức, sẽ xảy ra trường hợp áp dụng

điều luật theo ý chủ quan của Thẩm phán chủ toạ phiên toà.

Với quy định: “khi xét thấy cần thiết”. Quy định này là không cụ thể, nên

cần hướng dẫn những trường hợp nào là “xét thấy cần thiết”. Quy định yêu cầu

“Điều tra viên” mà Hội đồng xét xử yêu cầu là Điều tra viên trực tiếp điều tra vụ

án, hay Điều tra viên thuộc cơ quan điều tra đó. Đối với trường hợp Điều tra viên

đó chuyển công tác đi cơ quan khác thì xử lý như thế nào?

Điều luật trên đều quy định “khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử…”.

Với quy định như vậy có thể hiểu là chỉ quy định Hội đồng xét xử mới có thẩm

quyền triệu tập còn trường hợp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, khi nghiên cứu

hồ sơ vụ án, Chủ tọa phiên tòa thấy có một số nội dung cần thiết phải yêu cầu

Điều tra viên nêu ý kiến để làm rõ, thì Thẩm phán phải chờ đến khi xét xử tại

phiên toà, Hội đồng xét xử mới triệu tập Điều tra viên đến phiên toà. Ngoài ra, tư

cách tham gia tố tụng của những người này như thế nào, có phải là người chứng

kiến hay người làm chứng không. Trong giai đoạn điều tra, truy tố thì Họ là

những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, đặc biệt là Kiểm sát viên thực

hành quyền công tố, kiểm sát xét xử sơ thẩm thông thường là người tiến hành tố

60

tụng đã thụ lý, giải quyết vụ án trong các giai đoạn điều tra, truy tố, dẫn đến sự

không thống nhất trong việc nhận thức vai trò, vị trí của những người đã tiến

hành tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử khi được triệu tập đến

phiên tòa. Về việc, Điều tra viên, Kiểm sát viên trình bày ý kiến tại phiên tòa,

Điều 317 chỉ quy định HĐXX tự mình hoặc theo đề nghị của người tham gia tố

tụng yêu cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên trình bày ý kiến làm rõ những quyết

định hành vi của mình trong giai đoạn điều tra, truy tố. Vậy sau khi những người

này trình bày ý kiến nếu thấy ý kiến chưa rõ hoặc mâu thuẫn thì người bào chưa,

người tham gia tố tụng khác có quyền nhận xét ý kiến của họ hay không? Có

quyền hỏi về những vấn đề chưa rõ hoặc có mâu thuẫn không? Chúng tôi cho

rằng cần bổ sung Điều 317 BLTTHS thêm một khoản tương tự như khoản 2

Điều 316 hỏi người giám định, định giá tài sản. Cụ thể là: 2. Người bào chữa,

người tham gia tố tụng khác có mặt tại phiên tòa có quyền nhận xét về ý kiến của

Điều tra viên, Kiểm sát viên; được hỏi về những vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâu

thuẫn về những tình tiết của vụ án. Vì vậy, khi chưa bổ sung quy định của luật

cần sớm hướng dẫn cụ thể để có sự thống nhất nhận thức, áp dụng đúng pháp

luật.

Theo quy định pháo luật, hiện nay Viện kiểm sát tham gia trong phiên tòa

hình sự vừa là cơ quan đại diện cho nhà nước thực hành quyền công tố vừa là cơ

quan thực hiện chức năng kiểm sát việc xét xử của Tòa án sẽ tạo tình trạng

không khách quan và bình đẳng giữa các chủ thể tham gia tranh tụng. Do đó, cần

tách rời hai chức năng này của Viện kiểm sát để hoạt động tố tụng mang lại sự

bình đẳng và phán quyết của Tòa án mang tính khách quan hơn.

3.2.2. Nâng cao năng lực, trình độ Thẩm phán, Kiểm sát viên và Người

bào chữa trong bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa

Để nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự trong giai đoạn

hiện nay cần có nhiều giải pháp thực hiện như hoàn thiện những quy định

pháp luật còn hạn chế, còn có các giải pháp như về con người như nâng cao

năng lực, trình độ của những người tiến hành tố tụng và người bào chữa,

61

người gỡ tội hay cơ bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị… để có những cơ

chế bảo đảm tranh tụng được thực hiện trong thực tiễn nhằm nâng cao chất

lượng tranh tụng.

Thứ nhất, nâng cao năng lực, trình độ và chất lượng đối với Thẩm

phán.

Bảo đảm tranh tụng là bảo đảm các quyền cho những người tham gia tố

tụng được thực hiện quyền của mình, trước hết cần có sự tôn trọng của Thẩm

phán người trực tiếp xét xử vụ án hình sự, theo đó đối với đội ngũ Thẩm phán

cần nâng cao trình độ và năng lực, bởi đây là nhân tố trực tiếp bảo đảm tranh

tụng. Thực tiễn đã chứng minh vai trò rất quan trọng, trung tâm của thẩm phán

trong hoạt động xét xử, bởi nếu để tình trạng thẩm phán chất lượng kém hay

“ngồi nhầm chỗ” [48] sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả chất lượng xét xử, tính

nghiêm minh của pháp luật cũng như kèm theo những hệ lụy khác. Vì vậy, để

thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, đáp ứng các yêu cầu trong giai đoạn hiện nay

Thẩm phán phải thường xuyên tự học, tự nghiên cứu để nâng cao trình độ nghiệp

vụ và kiến thức về mọi mặt, tích lũy kinh nghiệm thực tiễn, phục vụ quá trình

công tác.

Nhằm nâng cao chất lượng xét xử, nâng cao trách nhiệm, đạo đức và năng

lực của thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao đã ban hành Chỉ thị số 01/2017/CT-

CA, ngày 16-01-2017, của Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao, “Về việc triển

khai tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2017 của các tòa

án nhân dân” và Hướng dẫn số 136/HD-TANDTC, ngày 30-3-2017, về “Công

tác tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm theo yêu cầu cải cách tư pháp”; Nghị

quyết số 03/HĐTP, ngày 16-3-2017, “Về việc công bố bản án, quyết định của

tòa án trên Cổng thông tin điện tử của tòa án”; Quyết định số 120/QĐ-

TANDTC, ngày 19-6-2017, về “Ban hành Quy định xử lý trách nhiệm người giữ

chức danh tư pháp trong tòa án nhân dân”; Quyết định số 346a/2017/QĐ-

TANDTC, ngày 01-3-2017, về “Ban hành Quy chế công tác kiểm tra trong tòa

án nhân dân”, trong đó có nội dung kiểm tra về thực hiện chuyên môn, nghiệp

62

vụ . Với những quy định trên có thể thấy rằng, việc tổ chức các phiên tòa rút

kinh nghiệm là biện pháp giúp thẩm phán nhìn nhận ra những sai sót, khiếm

khuyết trong thực thi nhiệm vụ, phòng ngừa những vi phạm, kịp thời khắc phục

ngay những tồn tại, hạn chế sau mỗi phiên tòa. Việc công khai các bản án, quyết

định của tòa án trên cổng thông tin điện tử của tòa án là nhằm công khai, minh

bạch hoạt động, phán quyết của tòa án, ràng buộc thẩm phán phải tự giác học

tập, nâng cao trình độ nghiệp vụ, ban hành những bản án chuẩn mực, đúng pháp

luật. Đặc biệt, Quyết định số 120/QĐ-TANDTC, ngày 19-6-2017, của Chánh án

Tòa án Nhân dân tối cao, quy định xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư

pháp trong Tòa án là một giải pháp mạnh mẽ nhằm nâng cao năng lực và đạo

đức đối với thẩm phán, thẩm tra viên và thư ký trong công tác. Đây là những

quyết định, giải pháp mới, lần đầu tiên được ban hành và thực hiện trong hệ

thống Tòa án nhân dân. Đây là một trong những giải pháp nhằm nâng cao trách

nhiệm của cán bộ khi thi hành nhiệm vụ được giao.

Để nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán đảm bảo tốt công tác xét xử,

Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 có nhiều quy định mới liên quan đến

đội ngũ Thẩm phán như quy định nhiệm kỳ đầu của Thẩm phán là 5 năm, nếu tái

nhiệm lại nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm. Cùng với đó, việc đổi mới toàn diện cơ

chế tuyển chọn thẩm phán theo hướng chuyển đổi hình thức tuyển chọn thẩm

phán thông qua việc thi tuyển cấp quốc gia cũng được cho là sẽ tạo ra sự cạnh

tranh lành mạnh, bình đẳng giữa những ứng cử viên cho chức danh thẩm phán.

Đây cũng sẽ là cơ sở pháp lý để tiếp tục xây dựng đội ngũ Thẩm phán đủ về số

lượng, tốt về chất lượng đáp ứng nhiệm vụ trong thời kỳ mới.

Ngoài việc nâng cao trình độ, năng lực của Thẩm phán, bằng việc tự học,

tự nghiên cứu để nâng cao trình độ, ngành Tòa án cần đổi mới nội dung, chương

trình, phương thức đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán phù hợp với yêu cầu chuyên

môn, công việc và từng ngạch của thẩm phán. Chú trọng truyền đạt các nội

dung: kiến thức pháp luật mới, kỹ năng nghiệp vụ, quản lý nhà nước, lý luận

chính trị, pháp luật quốc tế, ngoại ngữ, tin học. Tòa án Nhân dân tối cao đang

63

tiếp tục nghiên cứu, xây dựng, ban hành một số văn bản nhằm nâng cao chất

lượng công tác chuyên môn, đồng thời nâng cao phẩm chất đạo đức của thẩm

phán (xây dựng “Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng của bản án, quyết định của tòa

án”; cuốn “Sổ tay thẩm phán hướng dẫn kỹ năng tranh tụng tại phiên tòa, kỹ

năng hòa giải”; nghiên cứu, xây dựng “Tiêu chí thi đua - khen thưởng đối với

bản án, quyết định có tính chuẩn mực; để khuyến khích thẩm phán tự trau dồi,

nâng cao kỹ năng viết bản án, quyết định; đồng thời động viên các thẩm phán có

nhiều bản án, quyết định có tính chuẩn mực.

Thứ hai, nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ của Kiểm sát

viên.

Có thể thấy rằng, trong phiên toà xét xử các vụ án hình sự Kiểm sát viên

là chủ thể chính của tranh tụng. Việc Kiểm sát viên tranh tụng trước hết nhằm

mục đích bảo vệ tính đúng đắn, khách quan, tính hợp pháp và có căn cứ của

quan điểm truy tố (thể hiện trong bản cáo trạng). Nói cách khác, xuất phát điểm

của tranh tụng của Kiểm sát viên với những người tham gia tố tụng khác là

nhằm bảo vệ tính có căn cứ, hợp pháp của quan điểm truy tố.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ Kiểm sát viên phải thường xuyên tự học, tự

nghiên cứu để nâng cao trình độ nghiệp vụ và kiến thức về mọi mặt, tích lũy

kinh nghiệm thực tiễn, rèn luyện tác phong, phương pháp, kỹ năng tranh tụng.

Chính vì vậy, đòi hỏi KSV khi thực hiện các thao tác, kỹ năng nghiệp vụ của

mình tại phiên tòa phải bảo đảm những chuẩn mực cơ bản về “văn hóa”, nhất là

văn hóa pháp lý trong xét hỏi, tranh tụng với Luật sư, người bào chữa... tại phiên

tòa. KSV phải hết sức chú ý tác phong, tính kỷ luật, tính tôn nghiêm, phải luôn

tập trung cao độ trong suốt quá trình xét xử.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, chất lượng tranh tụng của một số

Kiểm sát viên tại phiên tòa còn có những hạn chế. Còn có những Kiểm sát viên

chưa chủ động tranh luận để làm rõ căn cứ buộc tội; cá biệt có trường hợp phát

biểu “giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố”, không đưa ra được

chứng cứ hoặc đối đáp thuyết phục…

64

Do vậy, để nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng Đảng, Nhà nước,

Viện kiểm sát nhân dân tối cao quan tâm đã ban hành quy định như: Nghị quyết

số 37/NQ-QH13 ngày 23/11/1012 tiếp tục khẳng định “Kiểm sát viên phải chủ

động, tích cực tranh luận, đối đáp tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự…Tòa

án nhân dân tối cao chỉ đạo các Tòa án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại

phiên tòa”. Cụ thể hóa những quy định trên, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã

ban hành Chỉ thị 06/CT-VKSTC, ngày 6/12/2013 về tăng cường trách nhiệm

công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra, đáp ứng

yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Bởi vì tăng cường trách nhiệm công tố

trong hoạt động điều tra chính là một trong những biện pháp đảm bảo tốt cho

các hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Hay Chỉ thị số 09/CT-

VKSTC về tăng cường các biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng

của Kiểm sát viên tại phiên tòa, nhằm đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp

cũng như là thực hiện các quy định mới của BLTTHS 2015. Từ những quy định

trên, cần quán triệt, nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của việc tranh

tụng tại phiên tòa cho toàn ngành, đặc biệt là kiểm sát viên, từ đó có nhận thức

đúng về vấn đề tranh tụng. Từ đó, KSV cần có sự chuyển biến thực chất về nhận

thức, xác định tranh luận tại phiên tòa không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ.

Với những quy định trên có thể thấy rằng nâng cao ý thức, trách nhiệm của

Kiểm sát viên trong việc thực hiện đảm bảo tranh tụng tại phiên tòa có hiệu quả.

Ngoài việc nâng cao trình độ, năng lực của kiểm sát viên, bằng việc tự

học, tự nghiên cứu để nâng cao trình độ; Ngành kiểm sát phải thường xuyên bồi

dưỡng, đào tạo và đào tạo lại cho đội ngũ Kiểm sát viên, trong đó có chương

trình chuyên sâu về kỹ năng tranh tụng. Để nâng cao năng lực, trình độ chuyên

môn nghiệp vụ cho đội ngũ KSV tham gia hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét

xử các vụ án hình sự, bên cạnh những nỗ lực của KSV, hằng năm ngành Kiểm

sát phải có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại cho đội ngũ KSV tham gia hoạt động

tranh tụng tại phiên tòa; thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra về nghiệp vụ của cấp

trên với cấp dưới để kịp thời khắc phục những thiếu sót để không ngừng nâng

65

cao chất hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự. Đã có nhiều

hình thức đào tạo được áp dụng, trong đó có rất nhiều các hình thức đào tạo đổi

mới mà thực tiễn đã chứng minh là rất hiệu quả - Đó là tổ chức các phiên tòa rút

kinh nghiệm. Mỗi năm ngành Kiểm sát tổ chức hàng nghìn phiên tòa rút kinh

nghiệm, trong đó có nhiều phiên tòa rút kinh nghiệm được tổ chức trực tuyến

trên phạm vi toàn quốc. Thông qua các phiên tòa rút kinh nghiệm, đội ngũ Kiểm

sát viên toàn ngành có điều kiện học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Thực hiện tốt

giải pháp nâng cao năng lực, trình độ cho KSV nêu trên có ý nghĩa hết sức quan

trọng để nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên tòa xét xử các vụ án

hình sự, góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ cải cách tư pháp trong tình

hình hội nhập hiện nay.

Thứ ba, đội ngũ Luật sư cần được thường xuyên nâng cao, trình độ, năng

lực, kỹ năng nghề nghiệp

BLTTHS năm 2015 đã khẳng định nguyên tắc tranh tụng phải được bảo

đảm và ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tố tụng

hình sự. Nguyên tắc tranh tụng được thể chế hóa từ nguyên tắc hiến định trong

Hiến pháp 2013 [23]. Song song với việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng thì vai

trò, vị trí của luật sư khi tham gia tố tụng cũng được đề cao. Cùng với việc quy

định rõ chức năng buộc tội của Viện kiểm sát, chức năng xét xử của Tòa án thì

chức năng bào chữa của luật sư được tôn trọng và bảo vệ. Luật sư, người bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự là những người thể hiện cao nhất vai trò

của tranh tụng. Là chủ thể gỡ tội, luật sư có vai trò quan trọng đối với việc thực

thi nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử. Luật sư tham gia vào giai đoạn

nào thì luật sư sẽ phát huy vai trò tranh tụng của mình ở giai đoạn đó. Luật sư

được thực hiện các quyền của người bào chữa.

Chủ trương, quan điểm về cải cách tư pháp cần được quán triệt và triển

khai thực hiện, theo tinh thần của Nghị quyết 49-NQ/TW, của Bộ Chính trị, về

Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020: “Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư

đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn. Hoàn

66

thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa…”

[7]. Đồng thời, dưới góc độ pháp lý, thiết lập cơ chế thực hiện “Nguyên tắc tranh

tụng trong xét xử được bảo đảm”, theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Bộ

Luật tố tụng hình sự 2015. Ngoài ra, qui tắc 23.3 Qui tắc đạo đức và Ứng xử

nghề nghiệp luật sư qui định hành vi ứng xử của luật sư tại phiên tòa như sau:

“Tại phiên tòa, luật sư chấp hành nội qui phiên tòa, tôn trọng Hội đồng xét xử,

đại diện Viện kiểm sát; có thái độ ứng xử đúng mực, có văn hóa khi thực hiện

quyền xét hỏi người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác; không

suy đoán chủ quan mang tính chất kích động, quy chụp, kết tội người khác hoặc

có lời lẽ gây bất lợi cho khách hàng của mình; không cố tình trì hoãn, gây trở

ngại cho việc xét xử bằng những phương pháp bất hợp pháp hay trái đạo đức”.

Việc qui định trong Qui tắc đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư cũng đồng

nghĩa với việc luật sư tôn trọng và chấp hành pháp luật, bởi pháp luật tố tụng.

Như vậy, trong tiến trình cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế, nghề luật

sư luôn nhận được sự quan tâm của Nhà nước và xã hội. Nâng cao vị thế của luật

sư trong tố tụng là yếu tố góp phần làm cho hoạt động tố tụng trở nên minh bạch

hơn và giảm bớt những hạn chế, bất cập trong hoạt động tư pháp, đòi hỏi đội ngũ

này cần có sự hợp lý về số lượng và sự bảo đảm về chất lượng. Vì vậy, để nâng

cao năng lực, trình độ Luật sư cần sự nỗ lực của mỗi Luật sư cần tích cực tự học

tâp nâng cao trình độ, năng lực của mình, thì Đoàn Luật sư cần quan tâm bồi

dưỡng, rèn luyện đội ngũ Luật sư có bản lĩnh chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp

vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sáng, lương tâm, trách nhiệm, tận tụy.

Việc phát triển đội ngũ Luật sư theo phương hướng, nhiệm vụ của tiến trình cải

cách tư pháp, cũng như quá trình cải cách hoạt động của từng cơ quan tư pháp;

nâng cao vai trò của luật sư trong tố tụng và thực hiện nguyên tắc tranh tụng

trong xét xử được bảo đảm. Cần phải có một quy trình đào tạo, phương thức đào

tạo, bồi dưỡng Luật sư phù hợp với xu thế cải cách tư pháp và cấp chứng chỉ

hành nghề nghiêm ngặt để nâng cao năng lực, trình độ đảm bảo chất lượng của

67

Luật sư khi tranh tụng.

Cần chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa nghề luật sư về quy mô, tổ

chức, khả năng cung cấp dịch vụ… theo tiêu chí chung về hoạt động của luật sư

trong khu vực và thế giới; mở rộng phạm vi hoạt động; thúc đẩy năng lực cạnh

tranh của luật sư Việt Nam nhằm chiếm lĩnh thị trường cung cấp dịch vụ pháp lý

trong nước, từng bước tham gia, giải quyết những vụ việc pháp lý ở nước ngoài.

Hoạt động thanh tra, kiểm tra các tổ chức hành nghề luật sư trong thời

gian qua đã được tăng cường nhưng hiệu quả chưa thật sự đáp ứng được yêu

cầu. Nhiều trường hợp khi phát hiện vi phạm chỉ dừng lại ở mức độ nhắc nhở,

cảnh cáo nên chưa đủ sức răn đe, phòng ngừa vi phạm, thậm chí còn làm cho

một bộ phận luật sư có phần chủ quan, thiếu nghiêm túc trong hành nghề và

trong việc tuân thủ pháp luật.

Vì vậy, cần có sự quản lý, theo giỏi hoạt động của các tổ chức hành nghề

luật, kịp thời phát hiện, xử lý những tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật, đạo đức

nghề nghiệp khi hành nghề để đảm bảo đội ngũ Luật sư có chất lượng.

Các giải pháp cụ thể của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng nhằm bảo

đảm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa:

Tòa án nhân dân hai cấp thành phố đẩy mạnh thực hiện 05 giải pháp đột

phá tại Nghị quyết số 01/NQ-BCS ngày 18 tháng 02 năm 2016 của Ban cán sự

đảng Tòa án nhân dân thành phố là:

+ Tiếp tục tăng cường và đổi mới thủ tục tranh tụng tại phiên tòa theo

hướng thực chất, đảm bảo dân chủ, công khai, bình đẳng, đúng pháp luật.

+ Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng

chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa

án, nhất là các Luật, Bộ luật mới được Quốc hội ban hành.

+ Tổ chức tốt công tác rút kinh nghiệm xét xử, chú trọng các vụ án bị hủy,

sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán và đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật.

(4) Đổi mới thủ tục hành chính tư pháp, tăng cường ứng dụng công nghệ thông

tin nhằm công khai minh bạch các hoạt động của Tòa án, tạo điều kiện thuận lợi

68

nhất cho tổ chức, cá nhân khi có công việc liên hệ với Tòa án.

+ Tiếp tục thực hiện tốt chủ trương và kế hoạch luân chuyển cán bộ quy

hoạch, chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức khác theo đúng quy

định.

Tăng cường tổ chức kiểm tra án quá hạn luật định, án tuyên không rõ ràng,

cho hưởng án treo không đúng quy định pháp luật, … để phát hiện chấn chỉnh,

rút kinh nghiệm kịp thời các sai sót, vi phạm tố tụng hoặc kiến nghị kháng nghị

giám đốc thẩm theo quy định pháp luật. Đồng thời cần tiếp tục tăng cường thanh

tra công vụ, duy trì việc tổ chức giao ban hàng tháng của Tòa án hai để nắm bắt

và chỉ đạo kịp thời việc thực hiện chức trách nhiệm vụ.

- Ngoài việc hằng tháng tiếp tục thông báo rút kinh nghiệm, các Tòa

chuyên trách phối hợp với phòng kiểm tra, kiểm tra việc xét xử ở Tòa án quận,

huyện để phát hiện và có hướng giải quyết kịp thời nhằm khắc phục những sai

sót, hướng dẫn, giải đáp vướng mắc, khó khăn nảy sinh trong quá trình giải

quyết án.

3.2.3. Các bảo đảm khác

* Đảm bảo điều kiện về cơ sở vật chất:

Nhằm nâng cao chất lượng công tác xét xử, một trong những yêu cầu là

phải bảo đảm tính trang trọng, nghiêm minh của phiên xét xử, tạo điều kiện

thuận lợi cho nhân dân đến dự phiên toà và tăng cường chất lượng tranh tụng tại

phiên tòa. Muốn vậy, ngoài tác phong của người tiến hành tố tụng, thái độ của

các đối tượng tham gia tố tụng, điều kiện cơ sở vật chất mà đặc biệt là Hội

trường xét xử đóng vai trò không nhỏ.

Trong những năm qua, Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng là địa

phương tiên phong trong việc đổi mới vị trí ngồi của những người tiến hành tố

tụng và những người tham gia tố tụng tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư

pháp. Theo đó, mô hình vị trí ngồi hiện nay được Tòa án thành phố triển khai

đảm bảo sự ngang bằng giữa đại diện Viện kiểm sát và người bảo vệ quyền và

69

lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng. Chất lượng tranh tụng tại

phiên tòa được chú trọng triển khai với nhiều giải pháp, phương thức làm mới

bước đầu mang lại hiệu quả tích cực.

Bên cạnh các điều kiện cơ sở vật chất đảm bảo cho hoạt động của Tòa án

còn thiếu, chưa được trang bị kịp thời chưa đáp ứng yêu cầu đề ra như xây dựng

Phòng xử án riêng cho từng đối tượng, Tòa vị thành niên, hay các phòng cách ly

người làm chứng chưa đảm bảo….Một số thủ tục hành chính tư pháp vẫn còn

được thực hiện theo hình thức thủ công, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong

hoạt động của Tòa án trong những năm qua mặc dù đã được chú trọng nhưng

vẫn còn chậm, thiếu các điều kiện về trang thiết bị, máy móc. Do đó, việc cung

cấp và trang bị cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động xét xử tòa án

cần được quan tâm kịp thời.

Bên cạnh việc đảm bảo các yếu tố về cơ sở vật chất, trang thiết bị, thì chế

độ chính sách cho chủ thể thực hiện quyền tư pháp cũng cần được quan tâm. Cụ

thể, hiện nay công chức Tòa án, Viện kiểm sát đang được đánh đồng là công

chức nói chung theo luật cán bộ, công chức, nên dẫn đến việc chi trả tiền lương

và các chính sách khác cũng được đánh đồng như vậy. Trong khi đó, những

người tiến hành tố tụng đang phải gánh một khối lượng công việc và trách nhiệm

khi tiến hành tố tụng rất lớn, đòi hỏi phải có những quy định về tiền lương và

chế độ, chính sách mang tính đặc thù đối với từng chủ thể trong quy trình tố tụng

đủ để đảm bảo chăm lo tốt cho đời sống vật chất và tinh thần, quyết tâm đấu

tranh với những biểu hiện tiêu cực.

Ngoài ra, ý thức pháp luật trong một bộ phận nhân dân vẫn còn hạn chế:

tham gia vào quá trình tranh tụng còn có bị cáo, người bị hại, người liên quan

v.v.. nhưng nhận thức, ý thức pháp luật trong một bộ phận nhân dân vẫn còn hạn

chế. Vì vậy, có có sự quan tâm hơn công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật

đến người dân, để người nâng cao hiểu biết pháp luật về quyền và nghĩa vụ của

mình, việc hiểu biết pháp luật và nâng cao ý thức của mình góp phần đảm bảo

70

tranh tụng đạt chất lượng cao.

Kết luận Chương 3

Ở chương 3 tác giả chỉ ra những yêu cầu bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa,

các chủ trương, đường lối, chính sách, quy định pháp luật nước ta về vấn đề cải

cách tư pháp về đảm bảo tranh tụng.

Trên cơ sở quy định pháp luật đã đươc Bộ luật tố tụng hình sự quy định,

quá trình thực tiễn thực hiện đã bộ lộ những hạn chế, bất câp của luật. Tác giả đã

đưa ra những giải pháp về hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tranh tụng như cần

thiết sửa đổi, bổ sung hoặc bỏ một số quy định của Bộ luật hình sự nhằm bảo

đảm chất lượng tranh tụng tại phiên tòa.

Ngoài ra, tác giả còn đề xuất một số giải pháp khác để bảo đảm tranh tụng

tại phiên tòa như: Bảo đảm về cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các cơ quan tiến

hành tố tụng, đặc biệt là Tòa án, về hội trường, phòng xử án đảm bảo yêu cầu

tinh thần yêu cầu cải cách tư pháp; bảo đảm về chế độ chính sách đối với cán bộ,

Tòa án, Kiếm sát viên trong quá trình thi hành công vụ; nâng cao ý thức pháp

luật của những người tham gia tố tụng, đó là tăng cường tuyên truyền giáo dục

71

pháp luật đến người dân.

KẾT LUẬN

Có thể nói, với việc Hiến định nguyên tắc “tranh tụng trong xét xử được

bảo đảm” và việc cụ thể hóa nội dung nguyên tắc này trong các thủ tục tố tụng

của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã phản ánh bước tiến của nền tư pháp

nước nhà, tạo sự chuyển biến về chất, có tính quyết định đối với hiệu quả hoạt

động tố tụng hình sự, mở rộng và tăng cường tính dân chủ, công khai, công bằng

trong quá trình giải quyết vụ án hình sự; bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con

người, quyền công dân, tạo ra các khả năng và điều kiện tốt nhất để họ thực hiện

quyền tự bào chữa, bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tranh tụng tại phiên

tòa của bị can, bị cáo.

Trong cải cách tư pháp đối với hoạt động tòa án, trong hoạt động xét xử,

tổ chức phiên tòa cần có sự đổi mới, quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn, của

những người tham gia tố tụng, đảm bảo thực hiện đúng, nghiêm chỉnh, nghiêm

minh, dân chủ, công bằng là một trong các nhiệm vụ cải cách tư pháp được đặt

ra trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Có thể thấy rang, trong thời gian qua các cơ

quan tư pháp nhận thức và thực hiện với quyết tâm cao, chất lượng hoạt động

từng bước được nâng lên, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn

xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự đạt kết quả

tác giả nghiên cứu làm rõ những nội dung sau:

Những vấn đề lý luận về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự như:

khái niệm, đặc điểm, điều kiện bảo đảm, ý nghĩa bảo đảm tranh tụng tại phiên

tòa hình sự.

Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về bảo đảm tranh tụng tại

phiên tòa hình sự Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng, tác giả đánh giá, khái quát

hoạt động xét xử các vụ án, những kết quả đạt được trong 05 năm từ năm 2014 đến

72

2018, chỉ ra những hạn chế bất cập, của Bộ luật tố tụng hình sự, nguyên nhân hạn

chế bất cập về việc bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa.

Từ việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về bảo đảm tranh tụng tại phiên

tòa và thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật, nghiên cứu những bất cập, hạn

chế của pháp luật tố tụng hình sự, trên cơ sở những yêu cầu cải cách tư pháp về

bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa trong thời gian tới. Tác giả mạnh dạn đề xuất

những giải pháp về hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa,

nâng cao năng lực cán bộ tố tụng và người bào chữa và đề xuất các bảo đảm

khác.

Có thể nói, với việc Hiến định nguyên tắc “tranh tụng trong xét xử được

bảo đảm” và việc cụ thể hóa nội dung nguyên tắc này trong các thủ tục tố tụng

của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã phản ánh bước tiến của nền tư pháp

nước nhà, tạo sự chuyển biến về chất, có tính quyết định đối với hiệu quả hoạt

động tố tụng hình sự, mở rộng và tăng cường tính dân chủ, công khai, công bằng

trong quá trình giải quyết vụ án hình sự; bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con

người, quyền công dân, tạo ra các khả năng và điều kiện tốt nhất để họ thực hiện

quyền tự bào chữa, bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tranh tụng tại phiên

tòa của bị can, bị cáo, bảo đảm quá trình giải quyết vụ án được khách quan, toàn

diện, triệt để, vô tư, giải quyết vụ án được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,

73

đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của tố tụng hình sự trong tình hình mới.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Huỳnh Thế Anh (2013), Vấn đề tranh tụng của KSV tại phiên tòa,

http://vks.kiengiang.gov.vn/chitietbantin.aspx?MaTin=10, 25/9/2013.

2. Dương Thanh Biểu (2007), Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm, Nxb Tư pháp,

Hà Nội

3. Nguyễn Kim Chi (2011), Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tranh

tụng trong phiên tòa hình sự, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 191, 03/2011,

tr. 12-17

4. Nguyễn Kim Chi (2012), Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tranh

tụng trong phiên tòa hình sự, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (số 6), Hà Nội, tr.

1-5.

5. Nguyễn Chí Dũng (2014), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xét

hỏi và tranh luận của KVS tại phiên tòa sơ thẩm hình sự, Tạp chí kiểm sát,

số 12 (06/2014), tr.2-8.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002

của Bộ Chính trị, Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời

gian tới, Ban chấp hành Trung ương, Hà Nội.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005,

của Bộ Chính trị, về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Ban chấp

hành Trung ương, Hà Nội.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Báo cáo tổng kết 8 năm thực hiện Nghị

quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách đến năm 2020,

Ban chấp hành Trung ương, Hà Nội, tr. 6-30.

9. Phạm Hồng Hải (2003), Vai trò của Luật sư trong hoạt động TTHS và

phương hướng đổi mới, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (số 4), tr. 6.

10. Nguyễn Đức Hạnh, Kỹ năng giao tiếp của KVS trong hoạt động tranh tụng

tại phiên tòa hình sự, Tạp chí Kiểm Sát, số 18/2013, tr.2-6.

11. Nguyễn Hữu Hậu, Về kỹ năng xây dựng và trình bày luận tội, Tạp chí Kiểm

sát, số 12 (06/2014, tr.15-19

12. Đoàn Minh Hương (2014), Nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV qua

các phiên tòa hình sự rút kinh nghiệm ở Phú Thọ, Tạp chí Kiểm sát, số 12

(06/2014), tr.50-56.

13. Nguyễn Văn Huyên (2003), Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo trong phiên

tòa mở rộng tranh tụng, tạp chí dân chủ và pháp luật, số 08/2003.

14. La Hồng (2014), Đảm bảo nguyên tắc tranh tụng: Nguyên tắc Hiến định

quan trọng trong việc đổi mới BLTTHS Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo “Hiến

pháp 2013 và vấn đề đổi mới TTHS ở Việt Nam”, An Giang, tr. 298.

15. Nguyên Hồng Ly, Các quy định về nguyên tắc “Bảo đảm tranh tụng trong

xét xử” trong Hiến pháp 1992 sửa đổi 2013,

http://vienkiemsathaiphong.gov.vn/index.php/home /detail/1072/cac-quy-

dinh-ve-nguyen- tac--Bao-dam-tranh-tung-trong-xet-xu---trong-Hien-phap-

1992-sua-doi-2013-, 2014.

16. Nguyễn Đức Mai (2003), Vấn đề tranh tụng trong Dự thảo BLTTHS sửa đổi,

Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số 10), tr. 32-38.

17. Lê Thị Nga, “Suy đoán vô tội” khá phổ biến, http://tuoitre.vn/tin/phap-

luat/20150617/dai-bieu-le-thi-nga-suy-doan-co-toi-kha-pho-bien/762669.html,

ngày 17/6/2015, tr. 1.

18. Thanh Nghị, Cần nâng cao năng lực và kỹ năng luận tội, tranh luận của

KSV tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, http://tapchikiemsat.org.vn/

ArtDetails.aspx?id=4343#.VPEEqHyG-L4, 24/02/2014.

19. Trương Thị Thanh Nhàn, Một số kiến nghị sửa đổi BLTTHS nhằm nâng cao

chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự,

http://vienkiemsathaiphong.gov.vn/index.php/home/detail/1022/Mot-so-

kien-nghi-sua-doi-BLTTHS-nham-nang-cao-chat-luong-tranh-tung-tai-

phien-toa-hinh-su.

20. Nguyễn Thái Phúc (2003), Dự thảo BLTTHS (sửa đổi) và nguyên tắc tranh

tụng, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Góp ý Dự thảo BLTTHS sửa đổi, Trường Đại

học luật TP. HCM, tr. 12.

21. Đinh Văn Quế, Những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc xét hỏi của KSV

tại phiên tòa hình sự. http://toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/

Baiviet?p_page_id=1754190&p_cateid=1751909&article_detail=1&item_id

=11419778.

22. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội

23. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.

24. Hoàng Thị Quỳnh, Chi Viện khoa học kiểm sát, VKSNDTC, bàn về tranh

tụng trong tố tụng Hình sự.

25. Phan Văn Sơn (2014), Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành

nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV tại các phiên tòa hình sự,

Tạp chí kiểm sát, số 12 (06/2014), tr.57-64.

26. Nguyễn Văn Tâm (2005), Các đảm bảo cho hoạt động tranh tụng trong Tố

tụng hình sự, tr. 2-3.

27. Nguyễn Văn Thuận (2014), Hiến pháp 2013 về công nhận, tôn trọng, bảo vệ

và bảo đảm quyền con người và định hướng sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự,

Kỷ yếu hội thảo “Hiến pháp 2013 và vấn đề đổi mới TTHS ở Việt Nam”, An

Giang, tr. 34.

28. Trần Đại Thắng (2003), Tố tụng “tranh tụng” và tố tụng “thẩm cứu”, Tạp

chí Nghiên cứu Lập pháp, (số 9), tr. 51-52.

29. Lê Hữu Thể (2005), “Những giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng tại

phiên tòa của Kiểm sát viên”, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Kiểm sát nhân

dân tối cao.

30. Lê Hữu Thể (2008), “Tranh tụng trong TTHS Việt Nam theo tinh thần cải

cách tư pháp”, Đề tài khoa học cấp Bộ. VKSNDTC.

31. Thanh Thủy (2014), Nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án – yếu tố quan trọng để nâng

cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, Tạp chí kiểm sát, số 12 (06/2014),

tr.9-14.

32. Nguyễn Trương Tín (2008), Một số vấn đề về tham gia tranh tụng của KSV

tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí Tòa án

nhân dân (19), Hà Nội.

33. Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng (2014), Báo cáo tổng kết công tác năm

2014 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2015 của ngành Tòa án nhân dân,

Đà Nẵng.

34. Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng (2015), Báo cáo tổng kết công tác năm

2014 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2016 của ngành Tòa án nhân dân,

Đà Nẵng.

35. Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng (2016), Báo cáo tổng kết công tác năm

2014 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2017 của ngành Tòa án nhân dân,

Đà Nẵng.

36. Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng (2017), Báo cáo tổng kết công tác năm

2014 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2018 của ngành Tòa án nhân dân,

Đà Nẵng.

37. Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng (2018), Báo cáo tổng kết công tác năm

2014 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2019 của ngành Tòa án nhân dân,

Đà Nẵng.

38. Trịnh Khắc Triệu, Kỹ năng tranh tụng của Luật sư trong phiên tòa hình sự,

http://lsvn.vn/news/Dien-dan/Ky-nang-tranh-tung-cua-luat-su-trong-phien-toan-

hinh-su-79/, ngày 26/6/2014, tr. 1-3.

39. Lại Văn Trình (2014), Nghiên cứu bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật

Tố tụng dân sự, Tạp chí Khoa học, (số 4), tr 41.

40. Trần Văn Trung (2008), Một số ý kiến hoàn thiện BLTTHS theo yêu cầu tăng

cường tranh tụng đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí Kiểm sát (11)

41. Nguyễn Văn Trượng (2009), Bàn về tranh tụng và các yếu tố tranh tụng

trong pháp luật TTHS Việt Nam, Tạp chí TAND (10)

42. Trung tâm Từ điển học, NXB. Khoa học xã hội (1999). Từ điển Tiếng Việt,

NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr 36.

43. Nguyễn Minh Tuấn (2003), Vai trò của Thẩm phán trước yêu cầu của cải cách

tư pháp, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (số 9), tr. 37.

44. Phạm Văn Tuấn (2014), Các điều kiện đảm bảo hoạt động tranh tụng của

KVS tại phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm, http://vienkiemsat.

nghean.gov.vn/wps/portal/vienkiemsat/!ut?p?c4?04_SB8K8xLLM9SSzPy8x

Bz9CP0os3j3ED8XX8tgYxZM_X19jA0-

PMEcDdycP32BvQ_2CbEdFAJyAIm4!/?WCM_GLOBAL_CONTEXT=/w

ps/wcm/connect/vien+kiem+sat/vks/lvcm/nvks/de16b08043ab3815afa2ef2a2

2aab3da, 17/4/2014.

45. Phạm Minh Tuyên (2014), Bàn về tranh tụng tại các phiên tòa hình sự, Tạp

chí kiểm sát, số 12 (06/2014), tr.20-26.

46. Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2007), Bàn về tranh tụng tại phiên tòa xét sử sơ thẩm

hình sự và các giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên

tòa, Tạp chí Nghề luật, Học viên tư pháp (6).

47. Võ Khánh Vinh (2012), Xã hội học pháp luật: Những vấn đề cơ bản, Nxb

Khoa học xã hội, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 174-314 Trang web.

48. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2013) Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình

sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội

Trang web

49. http://dangcongsan.vn/phap-luat/mo-rong-nguon-tuyen-chon-tham-phan-

207137.html.