VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THANH HÀ
BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VĂN LÂM,
TỈNH HƯNG YÊN
ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN NAM
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi được
TS. Nguyễn Văn Nam hướng dẫn thực hiện. Các kết quả nêu trong Luận văn
chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Đồng
thời tôi xin chịu trách nhiệm về nội dung khoa học của luận văn này. Mọi sự
giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cám ơn và các thông tin trích
dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc. Tôi xin trân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 2 năm 2021
Tác giả luận văn
Nguyễn Thanh Hà
1
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ...................................................................... 4
DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................................ 5
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM TRANH TỤNG
TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ . Error! Bookmark not defined.
1.1. Khái niệm, đặc điểm của bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự ...................................................................................................................... 11
1.2. Vị trí, vai trò của bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
................................................................................................................................... 18
1.3. Bảo đảm tranh tụng trong các mô hình tố tụng hình sự chủ yếu và luật tố
tụng hình sự một số nước ........................................ Error! Bookmark not defined.
1.3.1. Tranh tụng trong tố tụng hình sự của các nước theo hệ thống châu Âu
lục địa: ...................................................................................................................... 22
1.3.2. Tranh tụng trong tố tụng hình sự của các nước theo hệ thống pháp luật
Anh- Mỹ: .................................................................................................................. 26
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ....................................................................................... 31
CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRANH TỤNG
TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ............................................... 32
2.1. Quy định của pháp luật về bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự trước năm 2015.................................................................................... 32
2.2. Quy định của pháp luật về bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự theo BLTTHS năm 2015 .................................................................... 40
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ....................................................................................... 56
CHƯƠNG III: THỰC TIỄN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TRANH
TỤNG TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI HUYỆN VĂN
LÂM, TỈNH HƯNG YÊN ...................................................................................... 57
3.1. Khái quát về huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên ............................................. 57
2
3.2. Thực tiễn bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại
huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên ........................................................................... 62
3.2.1. Đánh giá khái quát bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự ...................................................................................................................... 62
3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự ................................................................................................. 73
3.3. Một số giải pháp đảm bảo tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
tại huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. .................................................................... 76
3.3.1. Hoàn thiện nguyên tắc “tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. ........ 76
3.3.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật bảo đảm tranh tụng trong xét xử
................................................................................................................................... 77
3.3.3. Nâng cao trình độ, kỹ năng của những người tiến hành tố tụng trong
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên .................. 80
3.3.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến về việc thực hiện bảo đảm
tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng
Yên ............................................................................................................................ 82
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ....................................................................................... 57
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 87
3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮTbổ
Cụm từ đầy đủ TT Cụm từ viết tắt
Bộ luật hình sự 1 BLHS:
Bộ luật tố tụng hình sự 2 BLTTHS:
Viện kiểm sát nhân dân 3 VKSND:
Kiểm sát viên 4 KSV:
Tòa án nhân dân 5 TAND:
Hội đồng xét xử 6 HĐXX:
4
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.2.1: Số vụ án được xét xử sơ thẩm trong giai đoạn 5 năm (từ
năm 2016 đến năm 2020) .............................................................................. 62
Bảng 3.2.2: Số vụ án sơ thẩm có luật sư tham gia trong giai đoạn 5 năm
(từ năm 2016 đến năm 2020) ....................................................................... 63
5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây tình hình vi phạm pháp luật ở nước ta nói
chung cũng như tình hình vi phạm ở trên địa bàn huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng
Yên ngày càng gia tăng. Việc gia tăng tội phạm đã làm ảnh hưởng không nhỏ
đến quá trình công nghiệp hóa; hiện đại hóa đất nước. Sự ra đời của Hiến
pháp mới 2013 đã mở ra bước ngoặt trong công cuộc cải cách tư pháp nước ta
trên tầm sâu rộng. Số lượng lớn các văn bản luật được sửa đổi trong thời gian
gần đây để phù hợp với nội dung của Hiến pháp mới và trong đó có cả Bộ luật
tố tụng hình sự (BLTTHS) 2015. Trong xu hướng xây dựng nền tư pháp hiện
đại, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế thì việc bảo vệ tối đa quyền con người
và quyền công dân luôn được đặc biệt chú trọng. Để đảm bảo phù hợp với
Hiến pháp 2013, BLTTHS đã chính thức ghi nhận nguyên tắc “tranh tụng
trong xét xử được bảo đảm” tại Điều 26. Đây là một trong các điểm mới quan
trọng, đánh dấu bước ngoặt trong công tác xét xử, nâng cao chất lượng của
quá trình TTHS, xác định sự thật vụ án, đảm bảo tốt nhất yếu tố công bằng,
khách quan trong xét xử và bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân.
Cũng để cụ thể hóa nguyên tắc tranh tụng, BLTTHS đã bổ sung hàng loạt quy
định nhằm bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, nâng cao
quyền con người, quyền công dân trong quá trình xét xử vụ án hình sự.
Hiện nay, khoa học luật TTHS trong và ngoài nước đã có nhiều công
trình khoa học nghiên cứu về tranh tụng tại phiên tòa, bảo đảm nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử...nhưng chủ yếu chỉ đề cập một cách tổng thể và có hệ
thống những khía cạnh lý luận chung nhất về tranh tụng, bảo đảm nguyên tắc
tranh tụng mà chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu có hệ thống,
toàn diện và cụ thể về bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự,
cũng như đánh giá từ thực tiễn áp dụng. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu các
6
quy định của pháp luật, đánh giá thực tiễn bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự trên một địa bàn cụ thể, đưa ra những nội dung của tố tụng
tranh tụng cần được tiếp thu không chỉ có ý nghĩa đối với địa phương đó mà
còn để phục vụ công cuộc cải cách tư pháp hiện nay.
Từ những lý do nêu trên, tác giả đã quyết định lựa chọn đề tài: “Bảo
đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Văn
Lâm, tỉnh Hưng Yên” để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp thạc
sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều bài viết, bài nghiên cứu và sách chuyên khảo đề cập đến vấn
đề tranh tụng tại phiên tòa trong TTHS như:
Luận án tiến sĩ “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam và những vấn đề áp
dụng tranh tụng” của tác giả Nguyễn Thị Thủy năm 2014. Một số luận văn
thạc sỹ như: “Thực hiện pháp luật đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
án hình sự sơ thẩm ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Tiến Long, Học viện
chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2005; “Bảo đảm nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử các vụ án hình sự từ thực tiễn xét xử tại Thành phố Hồ Chí
Minh” của Trần Thị Bích Thủy, Học viện Khoa học xã hội, 2017...Ngoài ra
còn có các bài viết đăng trên Tạp chí khoa học pháp lý, tạp chí Viện kiểm sát,
tạp chí Tòa án nhân dân: “ Cải cách tư pháp và các giải pháp phòng, chống
oan, sai trong tố tụng hình sự” của tác giả TS. Trịnh Tiến Việt năm 2012;
“Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của
tác giả Nguyễn Thái Phúc năm 2007; “Phương hướng hoàn thiện mô hình tố
tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Phạm Hồng Hải năm 2009; “Tranh tụng
tại phiên tòa sơ thẩm hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp một số vấn đề lý
luận và thực tiễn” của Nguyễn Đức Mai, Tạp chí tòa án nhân dân số 7/2007;
"Về tranh tụng tại phiên tòa hình sự" của tác giả Tống Anh Hào trong Tạp chí
7
Tòa án nhân dân số 5/2003.
Như vậy cũng khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề tranh tụng
cũng như bảo đảm tranh tụng trong xét xử. Vì vậy, khi nghiên cứu luận văn,
tác giả không tham vọng là nghiên cứu tất cả những vấn đề của tố tụng tranh
tụng mà chỉ đặt ra và giải quyết trên phương diện lý luận và những cơ sở thực
tiễn về bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, từ đó có thể chắt lọc, tiếp thu
những cái khoa học, đúng đắn, phù hợp trước yêu cầu cải cách tư pháp của
nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của công trình này nhằm làm rõ cơ sở lý luận, quy
định của pháp luật hiện hành và thực tiễn bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự, làm rõ những yêu cầu cải cách tư pháp trong thời kỳ đổi
mới, từ đó đề xuất các quan điểm, giải pháp bảo đảm tranh tụng trong xét xử
án sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích của luận văn, tác giả kế thừa có chọn lọc các kết
quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan và tiếp tục làm rõ
một số vấn đề sau:
- Đưa ra khái niệm và đặc điểm, vị trí, vai trò của bảo đảm tranh tụng
trong xét xử vụ án hình sự, từ đó phân tích được các nội dung cơ bản của nó,
để có cái nhìn sâu rộng nhất về vấn đề luận văn nghiên cứu. Đồng thời luận
văn cũng có sự tham khảo một số mô hình TTHS của một số nước điển hình
trên thế giới, nghiên cứu yếu tố bảo đảm tranh tụng của các mô hình đó, là cơ
sở để nghiên cứu và tiếp thu đối với quá trình tranh tụng trong xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự của nước ta.
- Từ những kiến thức lý luận ở phần 1, tác giả nghiên cứu và phân tích
8
chuyên sâu về những quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến vấn đề
bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, trong đó có sự so
sánh và phân tích những quy định của các BLTTHS giai đoạn trước đó và giai
đoạn hiện hành, giúp làm sáng tỏ thêm các nội dung liên quan để làm tiền đề
cho việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng và đưa ra những giải pháp ở các phần
sau.
- Dựa trên số liệu thực tiễn việc tranh tụng tại các phiên tòa hình sự sơ
thẩm trong 05 năm (2016-2020) tại huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên; đánh giá
thực trạng bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, từ đó rút ra
những ưu điểm, hạn chế bất cập và nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu
quả bảo đảm tranh tụng ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong
giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu, luận văn tập trung nghiên cứu về nội dung bảo
đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, quy định của pháp luật
TTHS Việt Nam về bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Về phạm vi nghiên cứu, để làm sáng tỏ những nội dung về bảo đảm
tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, cần thiết phải làm sáng tỏ các
nội dung về tranh tụng trong xét xử. Phân tích các quy định của pháp luật hiện
hành, đồng thời nghiên cứu thực tiễn thực hiện bảo đảm đảm tranh tụng trong
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự dựa trên số liệu thống kê của Tòa án huyện Văn
Lâm, tỉnh Hưng Yên trong phạm vi 5 năm gần đây. Từ đó đưa ra những giải
pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả bảo đảm tranh tụng ở
Việt Nam.
5. Phương pháp luận và phuơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
9
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về vấn đề cải cách tư pháp. Trong quá trình nghiên cứu đề
tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa
học luật hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so
sánh... để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng
được nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Về nghiên cứu khoa học: công trình luận văn là nguồn tài liệu tham khảo
để các sinh viên, học viên hoặc các chuyên viên pháp lý có nhu cầu nghiên
cứu. Luận văn góp phần bổ sung những kiến thức lý luận, thực tiễn về bảo
đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Về thực tiễn: Luận văn đóng góp vào việc đánh giá chất lượng tranh tụng
hiện nay ở một số địa phương, nâng cao hiệu quả bảo đảm tranh tụng trong
xét xử nói chung và trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng. Thông qua
thực tiễn hoàn thiện về lý luận khoa học.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự.
Chương 2. Quy định của pháp luật về bảo đảm tranh tụng trong xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả tranh tụng trong xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự.
10
Chương 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM TRANH TỤNG
TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm của bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự
Tranh tụng không chỉ là thành tựu pháp lý đơn thuần, mà cao hơn nó là
thành tựu của sự phát triển tư tưởng nền văn minh nhân loại. Tranh tụng là
nguyên tắc và cũng là cơ chế tố tụng có hiệu quả đảm bảo cho Tòa án xác
định sự thật khách quan của vụ án, giải quyết đúng đắn vụ việc, đảm bảo công
bằng và bảo vệ các quyền và lợi ích của các bên tham gia tố tụng. Hiện nay
trong thực tiễn và khoa học pháp lý có nhiều quan điểm khác nhau về tranh
tụng.
Theo từ điển Tiếng Việt, thì “tranh tụng” có nghĩa là “sự kiện cáo nhau”
[10, tr.1238]. Theo nghĩa Hán Việt thì thuật ngữ “tranh tụng” được ghép từ
hai từ “tranh luận” và “tố tụng” có nghĩa là “tranh luận trong tố tụng” [32].
Đó là cuộc tranh luận giữa hai bên: “bên nguyên đơn và bên bị đơn có lập
trường tương phản với nhau, yêu cầu Tòa án làm trọng tài phân xử” [20]. Xét
về bản chất, tranh tụng là “cuộc đấu” giữa hai bên trong TTHS (bên buộc tội
và bên bị buộc tội), mà giai đoạn đương đầu tại Tòa án (tại phiên tòa) là trung
tâm. Theo đúng nghĩa, tranh tụng là việc bên buộc tội cố gắng làm sao thuyết
phục Tòa án tin được rằng bị cáo là người có tội, còn bên bị buộc tội cố gắng
và phải sử dụng mọi lý lẽ chứng cứ để bác bỏ lời buộc tội do bên buộc tội đưa
ra. Và điều đáng lưu ý là trong hệ thống tố tụng tranh tụng gốc, Luật sư của bị
cáo phải bảo vệ thân chủ bằng mọi giá.
Theo Từ điển luật học, “tranh tụng” là các hoạt động tố tụng được thực
hiện bởi các bên tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc tội) có quyền
bình đẳng với nhau trong việc thu thập, đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quan
11
điểm và lợi ích của mình, phản bác lại các quan điểm và lợi ích của phía đối
lập. Tranh tụng tại phiên tòa là những hoạt động tố tụng được tiến hành tại
phiên tòa xét xử bởi hai bên tham gia tố tụng, nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm
của mỗi bên và bác bỏ ý kiến, luận điểm của bên kia, dưới sự điều khiển,
quyết định của Tòa án với vai trò trung gian, trọng tài [4, tr.807-808].
Vấn đề tranh tụng vẫn còn có nhiều quan điểm, nhận thức khác nhau.
Đến nay, chúng ta chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định cụ thể
thế nào là “tranh tụng”. Bản chất và mục đích yêu cầu của tranh tụng là quá
trình xác định sự thật khách quan về vụ án, bảo đảm các phán quyết là đúng
đắn và chính xác. Phiên tòa xét xử là cuộc điều tra công khai, thực hiện bằng
lời nói gồm có phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, phần xét hỏi, phần tranh luận,
nghị án và tuyên án. Tranh luận là giai đoạn các bên trình bày luận điểm của
mình về những vấn đề đã được thẩm tra làm rõ ở giai đoạn trước, trên cơ sở
đối chiếu với những quy định của pháp luật đề xuất hướng xử lý phù hợp.
Kiểm sát viên trình bày quan điểm luận tội, tranh luận đối đáp về những vấn
đề mà bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác đưa ra; và ngược
lại bị cáo hoặc người bào chữa trình bày lời bào chữa, ý kiến phản bác đối với
luận tội, đối đáp các ý kiến của kiểm sát viên và chủ thể khác có liên quan.
Hội đồng xét xử là “trọng tài” điều hành việc tranh luận, đối đáp theo trình tự
tố tụng nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Như vậy, quá trình tranh
tụng được tiến hành thông qua hoạt động của các chủ thể thuộc bên buộc tội,
bên bào chữa và Tòa án với ba chức năng tương ứng: buộc tội, bào chữa và
xét xử.
Thực hiện tranh tụng trong xét xử còn là cách thức nâng cao nhận thức,
tạo ra môi trường dân chủ bình đẳng trong quan hệ tố tụng, buộc các chủ thể
có thẩm quyền từ điều tra, truy tố, xét xử nâng cao năng lực, trình độ, hạn chế
được chủ quan, duy ý chí trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần
12
rất quan trọng để Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế
tình trạng oan sai. Đồng thời, đây cũng là cách thức mà nền tư pháp tham gia
bảo vệ quyền con người, quyền công dân một cách hữu hiệu nhất.
Như vậy có thể khái quát định nghĩa về tranh tụng như sau: Tranh tụng
là hoạt động của các bên tham gia tố tụng đưa ra các quan điểm, chứng cứ để
lập luận, đối đáp lẫn nhau nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của mình, làm sáng
tỏ sự thật của vụ án, từ đó là cơ sở để Tòa án đánh giá toàn bộ nội dung vụ
án, đưa ra phán quyết cuối cùng, bảo đảm tính khách quan, công bằng.
Theo Từ điển tiếng Việt, “bảo đảm” là tạo điều kiện cần thiết để thực
hiện được những nguyên tắc, bảo đảm theo nghĩa chung nhất là “làm cho chắc
chắn thực hiện được những gì cần thiết, là trách nhiệm của mọi chủ thể (cá
nhân, tổ chức) phải làm cho quyền, lợi ích của chủ thể bên kia chắc chắn được
thực hiện, giữ gìn”.
Trong suốt quá trình tranh tụng, các bên có thể liên tục trao đổi những
lập luận, những chứng cứ và lý lẽ để bảo vệ quyền và lợi ích của mình, nhưng
cũng có khi một bên im lặng lắng nghe đối phương trình bày để nghiên cứu và
đưa ra lập luận của mình nhằm chiếm ưu thế. Bảo đảm tranh tụng nhằm bảo
vệ quyền lợi của các bên tham gia tố tụng không thể thực hiện được khi chỉ có
một bên nào đó hoặc chỉ có một bên nào đó hoặc chỉ có cơ quan chức năng
phát hiện có tội phạm; bảo đảm cho các bên có thể chủ động dùng các phương
tiện pháp luật cho phép để thu nhập và xuất trình chứng cứ chứng minh cho
quan điểm của mình, chủ động xác định các vấn đề cần tìm hiểu, cần phải làm
rõ để thuyết phục Tòa án. Tranh tụng tạo điều kiện và cơ hội ngang nhau cho
các bên trình bày quan điểm, lý lẽ và phần tranh luận của mình tại phiên tòa.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm: Bảo đảm tranh tụng
trong xét xử vụ án hình sự là tạo các điều kiện cần và đủ để các bên tham gia
tố tụng đưa ra các quan điểm, chứng cứ để lập luận, đối đáp lẫn nhau nhằm
13
bảo vệ quyền và lợi ích của mình, làm sáng tỏ sự thật của vụ án, từ đó là cơ
sở để Tòa án đánh giá toàn bộ nội dung vụ án, đưa ra phán quyết cuối cùng,
bảo đảm tính khách quan, công bằng.
Từ khái niệm trên có thể thấy bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự có những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, Tòa án là chủ thể bảo đảm tranh tụng trong xét xử, bảo đảm
cho bên buộc tội và bên gỡ tội các điều kiện tốt nhất để tranh tụng.
Hệ tố tụng tranh tụng được xây dựng và vận hành trên cơ sở áp dụng
triệt để nguyên tắc tranh tụng. Theo nguyên tắc này thì trong TTHS luôn tồn
tại ba chức năng cơ bản là buộc tội, bào chữa và xét xử. Ba chức năng này
đan quyện qua lại với nhau và trong sự thống nhất của mình, chúng bảo đảm
cho việc giải quyết vụ án. Thiếu một trong ba chức năng nêu trên, tranh tụng
trong TTHS sẽ không còn đầy đủ ý nghĩa của nó.
Có ý kiến cho rằng quá trình tranh tụng bắt đầu không chỉ từ giai đoạn
khởi tố vụ án mà cả các giai đoạn trước khởi tố và quá trình này sẽ kết thúc
khi vụ án được xét xử xong (xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm), thậm chí quá trình này lại còn được tiếp tục trong một số trường hợp
khi bản án bị Tòa án cấp trên hủy để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử lại.
Những người đồng tình với ý kiến này cho rằng: “Tranh tụng là một quá trình
xác định sự thật khách quan về vụ án đồng thời cũng là phương tiện để đạt
được mục đích và nhiệm vụ đặt ra của tố tụng hình sự”. Tác giả cho rằng quan
điểm này chưa có đầy đủ cơ sở để thuyết phục. Bởi lẽ việc tranh tụng trong
điều kiện mà ở đó chỉ có chủ thể của hai bên buộc tội và bào chữa tham gia,
các chức năng buộc tội và bào chữa mới chỉ được hai bên thực hiện một cách
đơn phương theo ý chí chủ quan của mình là phiến diện, không chính thức…
Quá trình tranh tụng ở đây còn thiếu một chủ thể giữ vai trò quyết định đó là
Tòa án với chức năng xét xử. Theo tác giả, mặc dù tranh tụng xuất hiện ở
14
nhiều giai đoạn khác nhau của quá trình tiến hành tố tụng. Tuy nhiên tranh
tụng chỉ thực sự được tiến hành đầy đủ và rõ nét nhất là khi có sự hiện diện
đầy đủ các bên buộc tội, bên bào chữa dưới sự kiểm tra, giám sát của Tòa
án… Do đó trong phạm vi luận văn, tác giả sẽ chỉ đề cập tranh tụng trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm, đặc biệt chú trọng quá trình tố tụng tại phiên tòa. Tại
đây, với sự có mặt đầy đủ các chủ thể, quá trình tranh tụng được tiến hành
thông qua hoạt động của các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên bào chữa và Tòa
án với ba chức năng tương ứng: buộc tội, bào chữa và xét xử. Tuy nhiên ở đây
cần chú ý rằng để tiến hành được việc tranh tụng và tranh tụng có hiệu quả
các bên cần phải có thời gian và các điều kiện cần thiết để thu thập các chứng
cứ, tài liệu và các tình tiết của vụ án trước khi bước vào cuộc tranh tụng.
Xuất phát từ quan điểm, tranh tụng chỉ xuất hiện từ giai đoạn xét xử vụ
án hình sự, do đó chủ thể tham gia tranh tụng bao gồm: kiểm sát viên – đại
diện cho Viện kiểm sát và người bị hại (trong trường hợp khởi tố vụ án hình
sự theo yêu cầu của người bị hại); bị cáo và người bào chữa; Hội đồng xét xử
tương ứng với ba chức năng cơ bản trong TTHS đó là buộc tội, bào chữa và
xét xử. Các chủ thể khác như: người làm chứng, người giám định, nhà chuyên
môn, người phiên dịch và người chứng kiến... không phải là chủ thể của tranh
tụng mà họ trợ giúp cho các bên và Tòa án để xác định sự thật khách quan của
vụ án.
Bản chất của tranh tụng là sự tranh luận giữa các bên (bên buộc tội và
bên gỡ tội) dựa trên những tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình
giải quyết vụ án, làm cơ sở cho việc ra phán quyết của Tòa án. Do đó, để bảo
đảm tranh tụng trong xét xử, luôn phải có sự hiện diện của các bên tham gia
tố tụng nói trên. Điều kiện quan trọng nhất để tranh tụng có hiệu quả đòi hỏi
chủ thể buộc tội và chủ thể bên gỡ tội phải bình đẳng với nhau trong việc thực
hiện chức năng của mình. Đây là một nguyên tắc được xác định trong suốt
15
quá trình giải quyết vụ án. Sự bình đẳng giữa các chủ thể đại diện cho bên
buộc tội và bên gỡ tội thể hiện trong việc họ được thực hiện các quyền cơ bản
của mình.
Thứ hai, bảo đảm cho các bên tham gia tố tụng được đưa ra các quan
điểm, chứng cứ để lập luận, đối đáp lẫn nhau nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
của mình, làm sáng tỏ sự thật của vụ án.
Hồ sơ, chứng cứ được xác lập trong giai đoạn điều tra là rất quan trọng
cho việc xét xử tại phiên tòa. Tuy nhiên, các chứng cứ có trong hồ sơ là do
các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập, nhiều trường hợp chưa thể hiện đầy đủ
và không loại trừ việc thiếu khách quan. Đặc biệt đối với vụ án hình sự, trách
nhiệm chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng; tuy nhiên một số
trường hợp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát chỉ thu thập chứng cứ buộc tội,
không chú trọng thu thập chứng cứ gỡ tội; trong khi đó bên bào chữa (người
bào chữa, bị cáo) không được quyền chủ động thu thập chứng cứ làm hạn chế
khả năng tranh tụng của họ tại phiên tòa. Vì vậy, để tranh tụng trong xét xử
đạt được hiệu quả thực sự phải bảo đảm cho các bên tham gia tố tụng được
đưa ra các quan điểm, chứng cứ để lập luận trước Tòa án.
Qua việc điều tra chính thức, công khai tại phiên tòa, mỗi bên tham gia
tố tụng đều có cách nhìn nhận, đánh giá của mình về kết quả chứng minh. Để
thực hiện chức năng tố tụng, nhiệm vụ tố tụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình, các bên tham gia tố tụng phải công khai đưa ra ý kiến đánh
giá của mình, đưa ra các chứng cứ để lập luận đối đáp với nhau nhằm làm
sáng tỏ vụ án, giúp cho Tòa án cân nhắc khi ra phán quyết. Các đánh giá khác
nhau, phản biện nhau của các bên tham gia tố tụng tại phiên tòa sẽ giúp cho
Tòa án khách quan hơn, toàn diện hơn, thận trọng hơn khi đánh giá để ra phán
quyết.
16
Thứ ba, kết quả tranh tụng là cơ sở để Tòa án đánh giá toàn bộ nội dung
vụ án, đưa ra phán quyết cuối cùng, bảo đảm tính khách quan, công bằng.
Mục đích chính của tố tụng tranh tụng là tìm ra sự thật khách quan của
vụ án, và nó bắt đầu từ giai đoạn xét xử. Mọi thông tin thu thập được trong
quá trình điều tra đều chưa được xem xét cho đến khi được trình bày trước
Toà. Mỗi bên sẽ trình bày "sự thật của phía mình” và Thẩm phán cùng với
bồi thẩm đoàn sẽ quyết định xem "sự thật” nào có tính thuyết phục hơn...Hệ
thẩm vấn chú trọng đến khía cạnh thực tế, còn hệ tranh tụng lại đánh giá cao
khía cạnh pháp lý.
Tại phiên tòa, bên buộc tội và bên gỡ tội thực hiện chức năng tranh tụng
của mình thông qua việc lập luận và đối đáp, đưa ra các chứng cứ bảo vệ
quyền và lợi ích của mình. Tranh luận để đưa ra quan điểm về vụ án. Đối đáp
thể hiện sự phản đối hoặc đồng ý với quan điểm của phía bên kia. Đưa ra các
chứng cứ chứng minh quyền của mình, bảo vệ lợi ích của mình.
Thông qua hoạt động tranh tụng, bên buộc tội và bên gỡ tội đều có điều
kiện áp dụng các biện pháp cần thiết do luật định để kiểm tra lại tính hợp pháp
và có căn cứ của các chứng cứ, kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kiểm tra các
quyết định của các cơ quan có thẩm quyền tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát) có trong hồ sơ vụ án nhằm hạn chế các những vi phạm tố tụng, hoặc
những sơ xuất, sai lầm không đáng có trong quá trình giải quyết vụ án hình
sự.
Tòa án với vai trò là cơ quan xét xử sẽ là trọng tài kiểm tra đánh giá một
cách đầy đủ, khách quan và toàn diện các chứng cứ, các tình tiết của vụ án
hình sự, thông qua quan điểm tranh luận, đối đáp của của bên buộc tội và bên
gỡ tội để đưa ra những nhận định khách quan, làm rõ bản chất vụ án, đưa ra
phán quyết nghiêm minh, công bằng, tránh bỏ lọt tội phạm và kết án oan
người vô tội.
17
1.2. Vị trí, vai trò của bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự
“Đối với các thẩm phán, tranh tụng là con đường đi đến công lý” [37],
tranh tụng tại phiên tòa có vai trò hết sức quan trọng, không chỉ là sự đánh giá
kết quả hoạt động của các giai đoạn điều tra, truy tố mà còn có tác dụng đối
với chính giai đoạn xét xử; là cơ chế tối ưu nhất để bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của bị cáo, đảm bảo việc truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
đảm bảo quyền con người trong TTHS, góp phần khắc phục tình trạng để xảy
ra oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Tranh tụng tại phiên tòa hình sự không chỉ là
yêu cầu của việc bảo đảm tính dân chủ, công bằng giữa những người tham gia
tố tụng với Viện kiểm sát mà kết quả tranh tụng tại phiên tòa là căn cứ để Hội
đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các đương sự xác định sự thật vụ án.
Trong toàn bộ quá trình tố tụng, xét xử đóng vai trò trung tâm, là giai
đoạn quyết định tính đúng đắn, khách quan của việc giải quyết vụ án, bảo vệ
lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Do đó
tranh tụng tại phiên tòa có vai trò đặc biệt quan trọng và mang tính quyết định
trong giải quyết vụ án, điều đó thể hiện ở những điểm sau:
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử là bảo đảm quyền con người, quyền
công dân một cách tối đa.
Vấn đề nhân quyền luôn là điểm nóng của hầu hết các quốc gia trên thế
giới. Bảo đảm tranh tụng chính là bảo đảm cho người tham gia tố tụng thực
hiện đầy đủ quyền tố tụng của mình; đồng thời thực hiện việc tranh tụng cũng
có nghĩa là các cơ quan tiến hành tố tụng, các bên tham gia tranh tụng phải
thực hiện nghĩa vụ tố tụng của mình để bảo đảm cho người tham gia tố tụng
thực hiện các quyền tố tụng tương ứng. Với nguyên tắc tranh tụng, những
người tham gia không bị hạn chế về thời gian trình bày ý kiến của mình về vụ
18
án, đề nghị Tòa án ra các quyết định cụ thể liên quan đến quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. Nếu không đồng ý với các ý kiến tranh luận của các bên tham
gia tố tụng, HĐXX mới có điều kiện cân nhắc, xem xét để ra đúng đắn, khách
quan và đúng pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người tham
gia tố tụng.
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử là bảo đảm cho hoạt động xét xử
của Tòa án công khai, minh bạch, đúng người, đúng tội.
Thực tiễn cho thấy, tại các phiên tòa do xuất phát từ các lợi ích khác
nhau, do tư cách tố tụng khác nhau cho nên các kết quả đánh giá chứng cứ,
nhận thức về pháp luật cũng như các đề nghị cụ thể giải quyết vụ án về thực
chất là khác nhau. Trên cơ sở các chứng cứ thu thập được, bằng việc phân
tích, đánh giá các chứng cứ và đặc biệt thông qua hoạt động tranh tụng,
HĐXX xem xét quyết định vụ án một cách khách quan, toàn diện, từ đó ra
một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh được việc chỉ thiên về
buộc tội và xem xét một chiều, nâng cao uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng.
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là thể hiện sự tôn
trọng việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, nâng cao hơn
nữa trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự. Nó không chỉ góp phần vào việc xử lý công minh, kịp thời mọi
hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội mà góp
phần vào việc hạn chế những vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố
tụng; tránh được tình trạng oan, sai đáng tiếc có thể xảy ra làm tổn hại uy tín
của cơ quan tiến hành tố tụng và giảm lòng tin của nhân dân đối với sự công
minh của pháp luật.
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử là bảo đảm sự bình đẳng và tính
hiệu quả trong hoạt động tranh tụng.
19
“Tranh tụng tốt, chúng ta lắng nghe được ý kiến phản biện, chúng tôi
không hạn chế việc tranh tụng, Chánh án TAND tối cao nhấn mạnh.
Theo ông Nguyễn Hòa Bình, chủ thể tranh tụng không phải tòa án mà là VKS
và luật sư, bên buộc tội và bên gỡ tội. Tòa chỉ là cơ quan tạo điều kiện tối đa
cho tranh tụng và sử dụng kết quả tranh tụng.
Chất lượng tranh tụng phụ thuộc và các chủ thể chứ tòa án chỉ tạo môi
trường và tôn trọng việc đó. Quan điểm của chúng tôi tranh tụng chính là con
đường đi đến chân lý”, Chánh án Nguyễn Hòa Bình nói. [38].
Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng bảo đảm cho bên buộc tội và bên gỡ tội
bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ tố tụng, giúp có những khả năng
ngang nhau trong việc chứng minh, tranh luận về nội dung cũng như pháp luật
áp dụng, v.v, để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử cho các chủ thể tham gia vào hoạt động
tố tụng thực hiện một cách hiệu quả nhất chức năng, nhiệm vụ tố tụng của
mình. Nó đòi hỏi phải có sự phân định rõ ràng các chức năng buộc tội, chức
năng bào chữa và chức năng xét xử của Tòa án. Tòa án đóng vai trò là trọng
tài điều khiển việc tranh luận giữa các bên và ra phán quyết theo chức năng
độc lập của mình.
Xét cả dưới góc độ lý luận và thực tiễn, bảo đảm tranh tụng trong xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự có vai trò quan trọng trong việc xác định sự thật khách
quan của vụ án. Hoạt động tranh tụng thực chất là hình thức tố tụng mà trong
đó các bên tham gia tố tụng thực hiện việc chứng minh có tính căn cứ và hợp
pháp của cáo trạng trong vụ án hình sự. Các hoạt động của các chủ thể tham
gia tố tụng là hoạt động xem xét, đánh giá chứng minh xoay quanh đơn kiện
của các bên. Hay nói cách khác, nguyên tắc tranh tụng cho phép các bên tham
gia tố tụng có quyền chứng minh. Trên cơ sở đó, Toà án ra phán quyết công
khai tại phiên toà.
20
Bảo đảm tranh tụng còn là cách thức nâng cao nhận thức, tạo ra môi
trường dân chủ bình đẳng trong quan hệ tố tụng, buộc các chủ thể có thẩm
quyền từ điều tra, truy tố, xét xử nâng cao năng lực, trình độ, hạn chế được
chủ quan, duy ý chí trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần rất quan
trọng để Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế tình
trạng oan sai. Đồng thời, đây cũng là cách thức mà nền tư pháp tham gia bảo
vệ quyền con người, quyền công dân một cách hữu hiệu nhất. Áp dụng
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử là phù hợp với xu hướng quốc tế, bởi đa số
các nước có nền dân chủ tiến bộ đều áp dụng nguyên tắc này với các mức độ
và hình thức khác nhau. Kết quả tranh tụng tại phiên tòa đóng góp phần lớn
cho việc ra bản án, quyết định của Tòa án.
Nghiên cứu mô hình tố tụng tranh tụng có ý nghĩa to lớn về nhận thức.
Kết quả của nó cho ta tri thức có tính hệ thống về mô hình. Nó giúp chúng ta
thấy được vai trò của nó trong đời sống xã hội, mối quan hệ giữa mô hình này
với mô hình TTHS, nhà nước và pháp luật. Nghiên cứu nó cho ta thấy có ý
nghĩa về phương pháp luận. Kết quả nghiên cứu của mô hình này là cơ sở
khoa học cho việc xác định hướng giải quyêt những nội dung cụ thể của mô
hình tố tụng này, so sánh với mô hình tố tụng thẩm vấn, mô hình tố tụng pha
trộn, hướng bảo đảm tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự nhằm hoàn thiện
BLTTHS và tìm ra các giải pháp bảo đảm hiệu quả của chúng trong thực tiễn.
1.3. Bảo đảm tranh tụng trong luật tố tụng hình sự một số nước
Mỗi hệ thống tố tụng lại có phương cách xác định sự thật khác nhau, cơ
sở pháp lý khác nhau, nên phạm vi, tính chất và mức độ tranh tụng cũng có
những điểm khác nhau. Căn cứ vào phương cách mà tố tụng được thực hiện,
cơ sở pháp lý cho việc thực hiện phương cách đó, người ta phân tố tụng tư
pháp, đặc biệt là TTHS thành các hệ thống khác nhau: hệ thống tranh tụng, hệ
21
thống xét hỏi (hay thẩm vấn) và hệ thống pha trộn. Và trong mỗi hệ thống đó,
mức độ tranh tụng cũng khác nhau.
1.3.1. Tranh tụng trong tố tụng hình sự của các nước theo hệ thống
châu Âu lục địa:
Hệ thống xét hỏi thường được sử dụng trong các nước theo hệ thống luật
châu Âu lục địa (Continental law). Mục đích chính của tố tụng theo hệ thống
này là cố gắng xác định sự thật khách quan của vụ án để từ đó ra phán quyết.
Vì vậy, quá trình tố tụng được thực hiện bằng văn bản và bằng lời, bao gồm
cả giai đoạn điều tra và xét xử tại phiên tòa. Tòa án thực hiện việc chứng
minh vụ án trên cơ sở sử dụng kết quả đóng vai trò quyết định trong xác định
sự thật khách quan tại phiên tòa. Vì vậy thủ tục tố tụng tại phiên tòa đơn giản
hơn, ít khắt khe hơn về mặt hình thức: việc xét xử không nhất thiết phải có
mặt tất cả những người tham gia tố tụng, chứng cứ thu thập chỉ cần thẩm tra
lại tại phiên tòa, gánh nặng xét hỏi do Tòa án đảm nhận. Phán quyết của Tòa
án được đưa ra trên cơ sở niềm tin nội tâm của Tòa án về sự thật khách quan
của vụ án, chứ không phải là kết qủa của việc ai thuyết phục tòa án tốt hơn tại
phiên tòa…Hiện nay các quốc gia theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa đã
tiếp thu một phần các yếu tố của hệ thống pháp luật tranh tụng vào các thủ
tục TTHS của mình, điển hình là cộng hòa Pháp. Ngày 15/6/2000 Pháp đã
ban hành “Luật về suy đoán vô tội và tăng quyền của nạn nhân” đã bổ sung
một số nội dung của tố tụng tranh tụng nhằm tăng cường vai trò, quyền hạn
của các bên tại phiên toà và đảm bảo tốt hơn nguyên tắc tranh tụng [34, tr.33].
Mô hình tố tụng của Pháp:
Ở Pháp, việc tiếp thu một số nội dung của mô hình tố tụng tranh tụng
được diễn ra từ cuối thế kỷ XVIII, thể hiện thông qua chế định Bồi thẩm
đoàn. Chế định Bồi thẩm đoàn ở Pháp trải qua 3 thời kỳ khác nhau. Thời kỳ
đầu tiên, vào khoảng năm 1808, sau cách mạng Bồi thẩm đoàn chỉ có quyền
22
phát biểu ý kiến về sự việc và tính chất tội phạm, việc xét xử về mặt pháp luật
và định mức hình phạt do các thẩm phán chuyên nghiệp đảm nhận. Năm
1932, với sự sửa đổi của pháp luật thì Bồi thẩm đoàn được phát biểu ý kiến về
tình tiết vụ việc và cùng các thẩm phán chuyên nghiệp quyết định mức hình
phạt. Sau đó, năm 1941, để bảo đảm sự bình đẳng giữa vai trò của Bồi thẩm
đoàn và vai trò của thẩm phán chuyên nghiệp, nguyên tắc xét xử tập thể tuyệt
đối được áp dụng. Thẩm phán chuyên nghiệp và Bồi thẩm đoàn cùng tham gia
xét xử sự việc, các vấn đề pháp luật cũng như mức hình phạt [17, tr.34].
Theo quy định, Bồi thẩm có thể ghi chép lại những điểm quan trọng
trong lời khai của người làm chứng hoặc trong lời bào chữa của bị cáo; có thể
hỏi bị cáo và người làm chứng hoặc xem xét tang vật tại phiên tòa nếu được
chủ tọa phiên tòa cho phép. Tuy nhiên, vai trò của Bồi thẩm đoàn trong phiên
tòa vẫn còn tương đối thụ động và trung lập với nghĩa vụ không được thể hiện
ý kiến của mình. Bồi thẩm đoàn cùng thẩm phán nghị án, biểu quyết bằng
phiếu kín về sự kiện chính và các tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ hình phạt
theo quy định của pháp luật. Các câu trả lời của Bồi thẩm viên dù là “có” hay
“không” đều không thể bị bác bỏ. Tuy không có sự chia sẻ quyền lực giữa Bồi
thẩm đoàn và thẩm phán nhưng cơ cấu 09 Bồi thẩm trong HĐXX bảo đảm ưu
thế của Đoàn Bồi thẩm so với các thẩm phán chuyên nghiệp, đồng nghĩa với
việc các thẩm phán chuyên nghiệp không thể áp đặt quyết định của mình chi
Bồi thẩm đoàn.
Chế định Bồi thẩm đoàn thể hiện sự hy vọng ở công lý của người dân
Pháp. Sự tham gia rộng rãi của nhân dân có thể khiến cho mọi người có cái
nhìn thông dụng hơn đối với Tòa án và khiến cho các phán quyết trở nên công
bằng hơn.
Năm 2000, Pháp tiếp tục đưa một số nội dung của tố tụng tranh tụng vào
hệ thống pháp luật với đạo luật “Luật về suy đoán vô tội và tăng quyền của
23
nạn nhân”. Có thể nói: giai đoạn điều tra sơ bộ của cảnh sát và giai đoạn điều
tra của Tòa là hai giai đoạn thuộc loại hình tố tụng chủ yếu là thẩm cứu; giai
đoạn xét xử thì chủ yếu mang tính chất tranh tụng, công khai [17, tr.19].
Trong giai đoạn điều tra, chủ thể tiến hành điều tra sơ bộ là cơ quan cảnh
sát và cơ quan quân cảnh; chủ thể tiến hành điều tra của tòa là dự thẩm. Các
chủ thể này tiến hành điều tra nhằm tìm kiếm người phạm tội và xác nhận
những dấu hiệu phạm tội. Viện công tố với tư cách là người đại diện cho xã
hội, không phải là một bên tham gia tố tụng như các bên đương sự [17, tr.27],
có quyền giám sát, chỉ đạo toàn bộ hoạt động điều tra. Luật sư ở Pháp không
có quyền điều tra, thay vào đó, Dự thẩm là người chịu trách nhiệm tiến hành
điều tra theo hướng gỡ tội. Trong giai đoạn này, tính chất tranh tụng được thể
hiện ở chỗ mọi án hình sự đều phải có Luật sư.
Luật sư được tham gia vào mọi giai đoạn tố tụng, ngay sau khi thân chủ
bị xem xét. Biên bản ghi lời khai của bị can nếu không có sự có mặt của Luật
sư xem như không có giá trị. Luật sư được quyền xem xét, sao chép hồ sơ,
gặp gỡ, trao đổi với thân chủ và yêu cầu dự thẩm tiến hành giám định, tái
giám định, mời nhân chứng, yêu cầu Thẩm phán điều tra thực hiện một số
hoạt động điều tra cần thiết.
Trong giai đoạn xét xử, sau khi phiên tòa được khai mạc, Chủ tọa phiên
tòa đỏi hòi căn cước của bị cáo nhằm bảo đảm xác định đúng người được xét
xử tại phiên tòa; sau đó mới đề cập tới hồ sơ vụ án. Ở mức độ nào đó, Chủ tọa
phiên tòa phải tiến hành thẩm tra lại vụ việc bằng cách đặt các câu hỏi cho bị
cáo, lấy lời khai của các nhân chứng và có thể cho đối chất. Luật sư bắt buộc
phải có mặt tại phiên tòa (Điều 317). Các Thẩm phán thành viên HĐXX và
Bồi thẩm đoàn có thể hỏi bị cáo và người làm chứng sau khi được Chủ tọa
cho phép (Điều 311). Sau khi kết thúc thẩm vấn tại phiên tòa, nguyên đơn dân
sự hay Luật sư của nguyên đơn dân sự được phép trình bày. Sau đó, Công tố
24
viên nêu rõ lập luận, lý do truy tố bị cáo và nhân danh xã hội đề nghị mức
hình phạt đối với bị cáo. Bị cáo và Luật sư của bị cáo có quyền bào chữa,
tranh luận chống lại cáo trạng truy tố và thời gian biện hộ của Luật sư là
không hạn chế. Nguyên đơn dân sự và Công tố viên được quyền đáp lại
nhưng bị cáo hay Luật sư của bị cáo luôn được nói lời sau cùng (Điều 316 -
BLTTHS Cộng hòa Pháp). Một viên lục sự sẽ ghi lại toàn bộ diễn biến phiên
tòa.
Mặc dù ở Pháp không có sự phân chia quyền lực giữa Bồi thẩm đoàn và
Thẩm phán như trong hệ tranh tụng. Bằng danh dự và lương tâm, Chủ toạ
phiên toà có toàn quyền trong việc áp dụng mọi biện pháp cần thiết để xác
định sự thật (Điều 310), nhưng không được biểu lộ ý kiến của mình về tội
trạng của bị cáo, không được tóm tắt lý do buộc tội hay bào chữa. Thẩm phán
chuyên nghiệp và Bồi thẩm cùng tham gia xét xử, cùng quyết định các vấn đề
về pháp luật cũng như mức hình phạt. Bất kỳ quyết định nào không có lợi cho
bị cáo được tiến hành với số phiếu đa số ít nhất là tám phiếu (cấp sơ thẩm) và
10 phiếu (ở cấp phúc thẩm) - (Điều 359). Bản án mà toà sẽ tuyên dựa hoàn
toàn vào kết quả tranh tụng tại phiên toà. Những người được xử trắng án một
cách hợp pháp (trừ trường hợp Viện Công tố đã bảo lưu quyền truy tố) sẽ
không thể bị bắt hoặc bị truy tố về sự việc tương tự thậm chí dưới một tội
danh khác (Điều 368).
Mô hình tố tụng của Đức:
Cũng như Pháp, là nước điển hình của mô hình tố tụng thẩm vấn nhưng
trong thời gian gần đây, nhiều quy định liên quan đến tranh tụng đã được ghi
nhận trong BLTTHS Cộng hòa liên bang Đức. Điều 137 quy định bị can, bị
cáo có thể nhận sự giúp đỡ của Luật sư bào chữa tại bất cứ giai đoạn nào của
quá trình tố tụng, tối đa ba Luật sư bào chữa có thể được lựa chọn. Điều 140,
141 còn quy định những trường hợp bắt buộc phải có Luật sư bào chữa và
25
việc chỉ định Luật sư bào chữa. Trong quá trình điều tra, nếu một người bị áp
dụng biện pháp ngăn chặn là bị bắt giữ thì theo Điều 115, anh ta phải được
mang tới chỗ Thẩm phán có thẩm quyền ngay lập tức, Thẩm phán sẽ xem xét
việc buộc tội bị can ngay sau khi bắt và không muộn hơn ngày tiếp theo. Tại
phiên xét xử, cơ quan công tố, bị can và Luật sư có quyền tham gia, được
thông báo về thời gian, địa điểm xét xử. Các bên tham gia sẽ được phát biểu
ý kiến trong phiên xét xử. Điều 136 và 163a quy định tại thời điểm lấy lời
khai lần đầu tiên của bị cáo, thì bị cáo sẽ được thông báo về tội danh bị khởi
tố và các điều khoản luật hình sự áp dụng, có quyền trình bày ý kiến đối với
lời buộc tội hoặc không phát biểu bất cứ điều gì về lời buộc tội ngay trước khi
tiến hành kiểm tra, trao đổi với Luật sư bào chữa do anh ta lựa chọn. Tại
phiên tòa chính thức, sau khi nghe công tố viên trình bày bản cáo buộc, bị cáo
có thể lựa chọn việc trả lời cáo buộc hoặc không đưa ra bất kỳ tuyên bố nào
về cáo buộc. Bị cáo cũng có quyền yêu cầu Tòa án mở rộng việc thu thập
chứng cứ. Sau khi tiến hành thu thập chứng cứ kết thúc, công tố viên và bị
cáo sẽ được tạo điều kiện để thể hiện quan điểm tranh luận của mình về yêu
cầu đã đưa ra. Công tố viên có quyền trả lời, bị cáo sẽ nói lời sau cùng. Cho
dù bị cáo có người bào chữa nói thay, bị cáo sẽ được hỏi về vấn đề có bổ sung
thêm hay không đối với việc bào chữa cho mình. (Điều 243, 244, 258) [5].
1.3.2. Tranh tụng trong tố tụng hình sự của các nước theo hệ thống
pháp luật Anh- Mỹ:
Hệ thống tranh tụng thường được sử dụng trong các nước có hệ thống
luật án lệ (Common law). Mục đích chính của tố tụng theo hệ thống này là
phán quyết trên cơ sở thỏa mãn với sự thật pháp lý mà các bên chứng minh tại
phiên tòa. Theo hệ thống này, hoạt động tư pháp thực chất được bó gọn trong
hoạt động xét xử tại phiên tòa với các quy định nghiêm ngặt (nhiều khi đến
mức máy móc) về thủ tục tố tụng. Tính tranh tụng trong xét xử vụ án được
26
thực hiện một cách triệt để, sự thật chỉ được xác lập tại phiên. Tòa án đóng
vai trò là người trọng tài và qua phiên tòa xác định xem “sự thật Tòa” của
aithuyết phục hơn để qua đó phán xét. Quyết định của Tòa án dường như
được thực hiện không phải trên cơ sở sự thật khách quan của vụ án mà là trên
cơ sở sự thật được các bên chứng minh tại phiên tòa có tính thuyết phục cao
hơn. Vì vậy, Tòa án không xét hỏi, không tranh luận và cũng không gợi ý
tranh luận, mà chỉ là người trọng tài điều khiển phiên tòa, đóng vai trò thụ
động trong quá trình chứng minh, nhưng lại toàn quyền phán quyết về vụ án.
Toàn bộ quá trình tố tụng được thực hiện bằng miệng vì vậy, tại phiên tòa
phải có mặt tất cả những người tham gia tố tụng, đặc biệt là người làm chứng,
các vật chứng phải được các bên đưa ra xem xét tại phiên tòa. Thủ tục tố tụng
tại phiên tòa sơ thẩm hình sự của Vương quốc Anh, Hoa Kỳ áp dụng triệt để
nguyên tắc tranh tụng đối kháng. Sau phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, phiên
tòa chuyển ngay sang phần tranh tụng quyết liệt giữa bên buộc tội (Công tố
viên) và bên Luật sư bào chữa. Trách nhiệm chứng minh tội phạm và người
phạm tội hoàn toàn thuộc về Công tố viên và Luật sư bào chữa. Công tố viên
và Luật sư bào chữa có toàn quyền trong việc quyết định mời nhân chứng,
quyết định những chứng cứ được đưa ra phiên tòa phục vụ cho hoạt động
buộc tội hoặc gỡ tội. HĐXX đóng vai trò trọng tài trong lập, ra phán quyết
trên cơ sở chấp thuận những chứng cứ có căn cứ của các bên. HĐXX hầu như
không đặt câu hỏi với bị cáo và người làm chứng vì cho rằng có thể ảnh
hưởng đến tính vô tư, trung lập của Tòa án. Kết thúc thủ tục tranh tụng, phiên
tòa chuyển sang phần nghị án. Đối với những phiên tòa sơ thẩm không có sự
tham gia của Bồi thẩm đoàn, Thẩm phán có toàn quyền trong việc quyết định
hình phạt đối với bị cáo. Đối với phiên tòa sơ thẩm có sự tham gia của Bồi
thẩm đoàn, Luật TTHS quy định Bồi thẩm đoàn có thẩm quyền phán quyết
hành vi của bị cáo là có tội hay không có tội, Thẩm phán có quyền quyết định
27
áp dụng hình phạt với bị cáo trong trường hợp phán quyết của Bồi thẩm đoàn
tuyên bị cáo có tội.
Mô hình tố tụng tại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ:
Vì tầm quan trọng to lớn về kinh tế và chính trị của quốc gia này, hệ
thống pháp luật của nó cần được nghiên cứu một cách độc lập, nghĩa là không
đơn thuần chỉ là phần phụ bản của pháp luật Anh quốc. Khởi nguồn từ nước
Anh nhưng tố tụng tranh tụng lại được tiếp thu và phát huy một cách rực rỡ
tại Hoa Kỳ và có thể nói rằng Hoa Kỳ có một hệ tố tụng hiến định [13, tr.116]
rất điển hình và tiến bộ.
Từ thực tiễn hoạt động của các Toà án Hoa Kỳ, hệ thống tranh tụng là sự
tìm kiếm chân lý trong việc bảo vệ quyền cá nhân của người bị buộc tội. Hệ
thống tranh tụng ở Hoa Kỳ đòi hỏi người bị buộc tội được coi là không có tội
cho đến khi chứng minh được là họ có tội và tội phạm đó cần phải được
chứng minh và loại trừ mọi nghi ngờ có thể. Vì vậy, vai trò của Công tố viên
là phải bảo đảm công lý chứ không chỉ đơn thuần tìm mọi cách để kết tội bị
can, bị cáo, Công tố viên cần phải công bằng đối với cả những người đứng ra
buộc tội và những người bị buộc tội.
Ở Hoa Kỳ có hai dạng bắt giữ người là bắt giữ có lệnh và bắt giữ không
có lệnh. Khi bị bắt giữ người bị tình nghi nhất định phải được thông báo về
các quyền hiến định một cách chính xác, trong đó "bị can nhất định phải được
thông báo trước khi thẩm vấn rằng bị can có quyền giữ im lặng, rằng bất kỳ
những gì bị can nói có thể được sử dụng để chống lại bị can tại Toà án; rằng
bị can có quyền đòi hỏi sự có mặt của Luật sư và rằng nếu bị can không có
khả năng thuê Luật sư thì một Luật sư có thể được chỉ định giúp bị can trước
khi thẩm vấn" [12, tr.5]. Theo luật TTHS Liên bang Mỹ, Luật sư được tham
gia vụ án kể từ khi một nghi phạm bị bắt giữ và thẩm vấn nhân chứng, điều
tra tại hiện trường vụ án và xem xét bất cứ chứng cứ phạm tội nào. Ở Hoa Kỳ,
28
bên buộc tội không có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho bị can trong toàn bộ
quá trình điều tra nhưng công tố viên phải cung cấp cho bị can, bị cáo những
chứng cứ chứng minh bị can, bị cáo vô tội. Luật sư của bị can, bị cáo có
quyền tìm chứng cứ để bác lại những chứng cứ của bên buộc tội và được biết
những chứng cứ mà bên công tố dự định dùng để buộc tội bị cáo tại Toà.
Phiên toà hình sự sẽ được bắt đầu với phần Công tố viên đọc bản cáo trạng,
tiếp theo Công tố viên sẽ đưa ra chứng cứ và nhân chứng để làm rõ việc kết
tội của mình. Luật sư bào chữa có quyền chất vấn những nhân chứng từ phía
công tố và có thể đưa ra sự bác bỏ những chứng cứ này với lý lẽ của mình.
Bên công tố cũng có thể chất vấn những nhân chứng từ phía bào chữa và đưa
ra chứng cứ hoặc lý lẽ để bác bỏ chúng. Bị cáo có quyền đối chất với điều tra
viên. Như vậy quá trình xét xử vụ án hình sự đòi hỏi đáp ứng các nguyên tắc
sau: Nguyên tắc Công tố viên phải chứng minh tội phạm và loại trừ mọi nghi
ngờ về việc thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo; Nguyên tắc thẩm vấn nhân
chứng trước toà và những vấn đề đặc thù liên quan đến bị cáo với tư cách là
người làm chứng; Công tố viên và bị cáo đều có quyền yêu cầu nhân chứng
và người giám định tham dự phiên toà và đối chất với họ [23, tr.13]. Thủ tục
"hỏi - đáp" hết sức được tôn trọng. Tại phiên toà, Thẩm phán cần phải trung
lập nhưng phải bảo vệ các quyền của bị cáo. Trong khi hai bên buộc tội và gỡ
tội thực hiện thủ tục tranh tụng, Thẩm phán đóng vai trò trung gian với công
việc đầu tiên là theo dõi phiên toà, sau đó là xem xét các kiến nghị của Công
tố viên và Luật sư liên quan đến các dạng chứng cứ và các câu hỏi được đặt ra
cho nhân chứng. Phần tranh tụng tại toà kết thúc bằng lời phát biểu cuối cùng
của cả hai bên kết tội và bào chữa. Thẩm phán giới thiệu cho các thành viên
đoàn Bồi thẩm về luật trước khi Đoàn bồi thẩm bắt đầu thảo luận. Bồi thẩm
đoàn - Quan toà về thực tế sẽ thảo luận và quyết định vấn đề bị cáo có tội hay
không có tội. Nếu Bồi thẩm đoàn phán quyết là bị cáo có tội thì giai đoạn kết
29
án sẽ được bắt đầu. Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà là Quan toà về luật, là
người quyết định tộ i danh, hình phạt đối với bị cáo và cách thức thi hành
hình phạt đó. Bị cáo có quyền trực tiếp kháng cáo, quyền kháng nghị của
Công tố là rất hạn chế. Công tố không được quyền kháng nghị đối với quyết
định của Toà án tuyên bị cáo không phạm tội, cho dù có chứng cứ mới được
phát hiện.
Mô hình tố tụng ở Nhật Bản:
Nhật Bản là nước mà hệ thống tư pháp hình sự có ảnh hưởng bởi hai
truyền thống pháp luật (cụ thể là Đức và Hoa Kì). Trong TTHS, vấn đề tranh
tụng cũng được thể hiện qua một số điểm cụ thể như: áp dụng nguyên tắc suy
đoán vô tội trong TTHS; người bị tình nghi, bị can, bị cáo có quyền im lặng
và có quyền có Luật sư bào chữa; việc ra lệnh tạm giam do Thẩm phán quyết
định. Khi nhận được đề nghị của Công tố viên, Thẩm phán phải nghiên cứu
các tài liệu có liên quan, xem xét chứng cứ và tiến hành thẩm vấn riêng người
bị tình nghi [36, tr.50-54].
Sự ra đời và phát triển của khái niệm tranh tụng trong tố tụng gắn liền
với sự hình thành và phát triển của các tư tưởng dân chủ, tiến bộ trong lịch sử
tư tưởng nhân loại. Qua nghiên cứu hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử
vụ án hình sự ở một số quốc gia cho thấy: Hiện nay, ở các nước dù theo mô
hình tố tụng nào thì trong đó cũng đều có yêu tố tranh tụng. Đây là cơ chế tố
tụng có hiệu quả đảm bảo cho Tòa án xác định sự thật khách quan của vụ án,
giải quyết đúng đắn vụ việc, đảm bảo sự công bằng và bảo vệ các quyền và
lợi ích của các bên tham gia tố tụng. Tùy vào điều kiện cụ thể mà mỗi quốc
gia có những lựa chọn mô hình tố tụng riêng. Sự khác biệt giữa mô hình tố
tụng tranh tụng và mô hình tố tụng thẩm vấn ở chỗ trong mô hình thẩm vấn,
Thẩm phán giữ vai trò tích cực trong toàn bộ quá trình xét xử kể từ hoạt động
thẩm vấn, điều tra công khai tại phiên tòa đối với các bên có liên quan và ra
30
phán quyết. Còn trong mô hình tranh tụng thì Công tố viên và Luật sư bào
chữa sẽ kiểm tra nhân chứng và thẩm vấn tất cả các bên, Thẩm phán đóng vai
trò thụ động hơn, làm trọng tài cho công tố viên và Luật sư tranh luận [33].
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo,
định hướng cho toàn bộ hoạt động tố tụng nhằm xác định sự thật khách quan
về vụ án, đồng thời cũng là phương tiện để đạt được mục đích và các nhiệm
vụ đặt ra trong quá trình xét xử vụ án hình sự. Do vậy nghiên cứu cơ sở lý
luận về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có
vai trò đặc biệt quan trọng. Sau khi tham khảo từ các quan điểm khác nhau,
tác giả đã đưa ra khái niệm bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, đồng
thời phân tích vị trí, vai trò của nó trong hoạt động tố tụng. Tác giả cũng đã
tham khảo các mô hình TTHS chủ yếu của một số nước trên thế giới, qua đó
phân tích bảo đảm tranh tụng trong các mô hình đó, từ đó làm tiền đề để phân
tích quy định của pháp luật Việt Nam và đưa ra thực trạng, kiến nghị ở những
chương tiếp theo của luận văn.
31
Chương 2.
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM
TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
2.1. Quy định của pháp luật về bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự trước năm 2015
* Giai đoạn trước khi có BLTTHS năm 1988:
Quá trình hình thành và phát triển các nguyên tắc của pháp luật TTHS
gắn liền với những thành tựu trong lĩnh vực lập pháp ở nước ta. Các nguyên
tắc này dần được hoàn thiện với những nội dung tiến bộ nhằm đáp ứng các
nhu cầu phát triển của xã hội.
Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ngày 02 tháng 9 năm 1945, nhiều văn bản
pháp luật có hàm chứa quy phạm TTHS đã được Nhà nước ban hành nhưng
phải đến những năm 1960 thì những quy định về pháp luật TTHS mới được
hình thành một cách cơ bản. Sau khi Nhà nước ta đã thông qua một số Luật tổ
chức các cơ quan tiến hành tố tụng như: Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật
tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ngày và Pháp lệnh năm 1962 quy định nhiệm
vụ, quyền hạn của Cảnh sát nhân dân. Trong các văn bản đó có rất nhiều quy
phạm pháp luật điều chỉnh việc tổ chức phiên toà và tiến hành tố tụng tại
phiên toà của Toà án nhân dân. Nhìn chung các quy phạm tố tụng trong giai
đoạn này chủ yếu điều chỉnh quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan và người
có trách nhiệm tiến hành tố tụng tại phiên toà, một số nguyên tắc cơ bản của
pháp luật tố tụng trong việc tiến hành và tổ chức các phiên toà của Toà án
như: quyền dùng tiếng nói chữ viết của công dân, quyền bào chữa, việc xét xử
công khai và xử kín, việc mở phiên toà tại trụ sở hay xử lưu động...
32
Sau khi Nhà nước ta ban hành Hiến pháp 1959 và Luật tổ chức Toà án
nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, đến năm 1964 căn cứ vào các quy định
của pháp luật, những kinh nghiệm thực tiễn của gần 20 năm thực tiễn tiến
hành tố tụng và việc tham khảo học tập pháp luật tố tụng của Liên Xô và
nhiều nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, Toà án nhân dân Tối cao đã hệ thống
lại các quy định của pháp luật tố tụng lúc bấy giờ thành Bản đề án về trình tự
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, trong đó có quy định tương đối cụ thể về hình
thức và thủ tục tiến hành tố tụng tại phiên toà của Toà án nhân dân, để gửi về
các Toà án nhân dân địa phương thống nhất áp dụng. Bản đề án đã trở thành
tài liệu hướng dẫn thống nhất áp dụng pháp luật tố tụng tại phiên toà cho tất
cả các Toà án, xác định những hành vi tố tụng cần thiết mà Thẩm phán và Hội
thẩm phải tiến hành kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi mở phiên toà, kết thúc
phiên toà. Tuy nhiên Bản đề án chưa hướng dẫn cụ thể dẫn đến tình trạng một
số Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chỉ tin vào chứng cứ đã có trong hồ sơ
mà coi nhẹ việc thẩm vấn và tranh luận tại phiên toà công khai, hậu quả là
Toà án ra các quyết định không phù hợp với thực tế khách quan. Để khắc
phục nhược điểm này, ngày 27/9/1974, Toà án nhân dân Tối cao đã ban hành
bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm (kèm theo Thông tư số 16-TATC),
trong đó có phần thứ 3 quy định về trình tự tố tụng chuẩn bị cho việc xét xử
tại phiên toà và phần thứ 4 quy định về trình tự tố tụng xét xử tại phiên toà
của Toà án nhân dân.
Tại phần chuẩn bị cho việc xét xử trước phiên toà Thông tư số 16-TATC
đã hướng dẫn cụ thể các hoạt động tố tụng của Toà án trong các khâu nghiên
cứu hồ sơ, họp trù bị với Viện kiểm sát, những việc phải làm để đưa vụ án ra
xét xử như: ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, triệu tập bị cáo và những người
tham gia phiên toà, chuẩn bị kế hoạch thẩm vấn, xử công khai hay xử
kín...Thông tư 16- TATC đã có bước phát triển cao hơn về tri thức hoàn thiện
33
pháp luật tố tụng so với giai đoạn trước đó, nó đã tổng kết được những kinh
nghiệm thực tiễn của nhiều chục năm trước đây và đặc biệt đã có những quy
định thể hiện nội dung tranh tụng trong quá trình xét xử. Thông tư là sự kết
hợp tốt giữa thực tiễn xét xử với việc nghiên cứu lý luận và làm nền tảng
vững chắc, nội dung chủ yếu của BLTTHS sau này.
Qua đó có thể thấy hệ thống pháp luật tố tụng từ năm 1945 đến trước khi
có BLTTHS năm 1988 thì những quy định mang tính tranh tụng còn ít, không
có sự hệ thống.
* Giai đoạn thi hành BLTTHS năm 1988:
Trong giai đoạn này, các quy định về tranh tụng đã tương đối rõ nét hơn
so với các giai đoạn trước. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001),
Luật tổ chức TAND và Luật tổ chức VKSND năm 2002 và đặc biệt là
BLTTHS năm 1988 (được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1990, 1992 và 2000)
và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có nhiều quy định nhằm bảo đảm việc
tranh tụng trong TTHS.
BLTTHS năm 1988 đã được Quốc hội thông qua ngày 28 tháng 6 năm
1988, đây là lần đầu tiên các quy định về xét xử tại phiên toà được hệ thống
hoá và có tính pháp lý cao với tư cách là những quy phạm của một Bộ luật.
Giai đoạn này, tranh tụng tại phiên toà chưa được nhà làm luật nước ta ghi
nhận với tính chất là một nguyên tắc cơ bản của luật TTHS nhưng những dấu
hiệu về tranh tụng cũng đã được quy định rải rác ở một số điều luật.
Một số điều luật có dấu hiệu về tranh tụng có thể kể đến như sau: quy
định về thủ tục tố tụng tại phiên toà ở chương XVII; một số điều tại chương
XVIII về thủ tục bắt đầu phiên toà, chương XX về thủ tục xét hỏi tại phiên
toà, chương XXI về tranh luận tại phiên toà; Điều 159 quy định về việc xét xử
phải trực tiếp, bằng lời nói và liên tục, đây thực chất cũng là một nguyên tắc
của tranh tụng. Theo Điều 159 thì Toà án phải trực tiếp xác định các tình tiết
34
của vụ án bằng cách hỏi và nghe ý kiến của bị cáo, nghe lời bào chữa. Bản án
chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà. Và để
đảm bảo cho quyền bào chữa của bị cáo, đảm bảo cho việc xét xử được khách
quan, Điều 162 quy định bị cáo phải có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập
của Toà án, nếu vắng mặt không có lý do chính đáng thì bị áp giải, nếu vắng
mặt có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên toà. Toà án chỉ xử vắng mặt bị
cáo nếu bị cáo trốn tránh và việc truy nã không có kết quả, bị cáo đang ở nước
ngoài và không thể triệu tập đến phiên toà, sự vắng mặt của bị cáo không trở
ngại cho việc xét xử và họ đã được giao giấy triệu tập hợp lệ.
Tại phiên toà, bên buộc tội là Kiểm sát viên bắt buộc phải có mặt nếu
không phải hoãn phiên toà theo Điều 164 BLTTHS. Người bào chữa cho bị
cáo là bên gỡ tội cũng có nghĩa vụ phải tham gia phiên toà trừ trường hợp có
gửi trước bản bào chữa. Trong một số trường hợp người bào chữa vắng mặt
thì phải hoãn phiên toà theo quy định tại Điều 165 BLTTHS. Ngoài ra để đảm
bảo cho quá trình tranh luận, xác định sự thật vụ án, đảm bảo cho phán quyết
của Toà án khách quan sự có mặt của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc những người
đại diện hợp pháp của họ, sự có mặt của người làm chứng, người giám định
cũng được quy định tại các Điều 166, 167, 168 BLTTHS.
Bước vào quá trình tranh tụng, trước hết Kiểm sát viên sẽ đọc cáo trạng,
sau đó Hội đồng xét xử sẽ xét hỏi theo thứ tự xét hỏi hợp lý. Khi xét hỏi từng
người, Chủ toạ phiên toà hỏi trước rồi đến các Hội thẩm nhân dân, sau đó đến
Kiểm sát viên, người bào chữa. Những người tham gia phiên toà cũng có
quyền đề nghị với Chủ toạ phiên toà hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng
tỏ. Trong quá trình xét hỏi Hội đồng xét xử xem xét những vật chứng có liên
quan trong vụ án. Tiếp đó Kiểm sát viên (bên buộc tội) sẽ luận tội, bị cáo,
người bào chữa cho bị cáo (bên gỡ tội) cũng trình bày quan điểm của mình,
35
trong quá trình tranh luận đó người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý
kiến của người khác nhưng chỉ được phát biểu một lần đối với mỗi ý kiến mà
mình không đồng ý. Chủ toạ phiên toà không được hạn chế thời gian tranh
luận, nhưng có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án. Sau khi
những người tham gia tranh luận không còn trình bày gì thêm, Chủ toạ phiên
toà tuyên bố kết thúc tranh luận. Bị cáo được nói lời sau cùng. Đến đây giai
đoạn tranh tụng tại phiên toà đã cơ bản hoàn thành. Kết quả của quá trình
tranh tụng tại phiên toà được xác định bởi phán quyết của Hội đồng xét xử và
đó cũng đánh dấu sự kết thúc của quá trình tranh tụng tại phiên toà.
Mặc dù quá trình tranh luận giữa các bên tại phiên tòa được thực hiện
khá tốt nhưng nhìn chung có thể nhận thấy quá trình này ở thời kỳ này mới
được coi là quá trình thể hiện quan điểm của các bên, nhưng chưa thực sự là
tranh tụng. Thực tiễn cho thấy, phần xét hỏi tại các phiên toà vẫn được chú
trọng nhiều trong khi phần tranh luận còn mang nặng hình thức. Nếu Luật sư
trình bày phần bào chữa có nội dung khác với kết luận của Viện kiểm sát về
vụ án thì phần đối đáp cũng chẳng có gì nhiều và mới hơn câu “Giữ nguyên
quan điểm như đã nêu trong phần kết luận vụ án”. Tranh luận chỉ là đủ thủ
tục, còn thực chất có thể nói là hầu như không có tranh luận. Về phía hoạt
động của Hội đồng xét xử thì kinh nghiệm điều hành phiên toà theo hướng
tranh tụng còn yếu: Theo quy định của pháp luật, bị cáo, Luật sư bào chữa
cho bị cáo có quyền trình bày lời bào chữa mà không bị hạn chế về thời gian.
Do tâm lý “mở rộng tranh tụng triệt để” nên Chủ toạ phiên toà không có ý
kiến gì khi những người này trình bày những vấn đề đi lạc trọng tâm, không
có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.
Về phía Luật sư bào chữa thì nhiều Luật sư đi lạc trọng tâm vụ án theo
kiểu đối phó về mặt hình thức. Thậm chí có Luật sư thể hiện cách làm việc
thiếu tinh thần trách nhiệm trong quá trình diễn ra phiên toà với những biểu
36
hiện rất khác nhau như ngủ gật tại phiên toà, nghe điện thoại trong phòng xử
án, thậm chí sau khi trình bày lời bào chữa đã bỏ về để đến phần đối đáp Hội
đồng xét xử không còn nhìn thấy Luật sư ngồi ở vị trí của mình. Những phiên
toà Luật sư bào chữa chỉ định tham gia thì bào chữa qua loa theo kiểu nêu tình
tiết giảm nhẹ của bị cáo cho Toà án xem xét nhằm mục đích đủ thủ tục.
Có thể nói, những hạn chế trong quy định của pháp luật và từ thực tiễn
áp dụng là một tro ng những lý do về sự ra đời của BLTTHS năm 2003.
* Giai đoạn thi hành BLTTHS năm 2003:
Kể từ khi có Nghị quyết 08/NQ-TW, giới chuyên môn cũng như những
người làm công tác pháp luật chờ đợi sự ra đời của một văn bản pháp luật mà
nó là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để những hành vi tố tụng của tất cả những
cá nhân và tổ chức có liên quan phải tuân theo, nhằm đáp ứng được yêu cầu
nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và nâng cao
hiệu quả tranh tụng tại phiên toà nói riêng. BLTTHS năm 2003 đã được Quốc
hội khoá XI thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003 đã đáp ứng phần nào yêu
cầu tranh tụng tại phiên tòa.
BLTTHS năm 2003 đã bổ sung đầy đủ hơn các quyền của người tham
gia tố tụng. Theo đó, người tham gia tố tụng: được khiếu nại đối với các quyết
định, hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà có liên
quan đến họ (các Điều 48, 49, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 58 và 59); được quyền
đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu (các Điều 48, 49, 50,51, 52, 53, 54, 58 và 59);
bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên
toà để bảo vệ quyền và lợi ích của mình (các Điều 50, 51, 52, 53 và 54). Bên
cạnh đó, BLTTHS năm 2003 cũng đã quy định bổ sung nghĩa vụ có mặt theo
giấy triệu tập của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án đối với những người
tham gia tố tụng. Trong trường hợp vắng mặt không có lý chính đáng thì bị
37
can, bị cáo có thể bị áp giải, người làm chứng có thể bị dẫn giải; nếu bị can, bị
cáo bỏ trốn thì bị truy nã.
Tại Điều 50 BLTTHS năm 2003 đã ghi nhận bị cáo có quyền trình bày ý
kiến và tranh luận tại phiên toà, được giải thích về quyền và nghĩa vụ và để
thực hiện quyền đó thì Bộ luật cũng đã mở rộng hơn các quyền của người bào
chữa, tạo điều kiện cho họ hoàn thành tốt nhiệm vụ bào chữa, gỡ tội. Tại Điều
58 quy định: trường hợp bắt người theo Điều 81 và Điều 82 thì người bào
chữa được tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Luật sư có quyền đề
nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để
có mặt khi hỏi cung bị can. Có quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên
quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích
của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân nếu không thuộc bí
mật nhà nước, bí mật công tác (đây là những tiền đề để người bào chữa có thể
thu thập chứng cứ, chuẩn bị cho quá trình tranh tụng tại phiên toà). Điều 209
BLTTHS năm 2003 cũng đã quy định về xét hỏi đối với bị cáo theo hướng cụ
thể hơn với các bên tranh tụng: Kiểm sát viên hỏi về những tình tiết buộc tội,
người bào chữa hỏi về tình tiết gỡ tội...
Điều đặc biệt của BLTTHS năm 2003 là khi quy định về tranh luận và
đối đáp tại phiên toà đã có những quy định mới đảm bảo cho việc luận tội của
Viện kiểm sát tại phiên toà được khách quan (Điều 217 quy định: “Luận tội
của Kiểm sát viên phải căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra
tại phiên toà và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi
của đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà”). Và để
đảm bảo cho quá trình tranh tụng tại phiên toà được khách quan, sau khi nghe
lời luận tội bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có
quyền: “..Trình bày ý kiến về luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra đề nghị
của mình, Kiểm sát viên phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý
38
kiến” (Điều 218). Chủ toạ phiên toà không được hạn chế thời gian tranh luận,
tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến. Chủ
toạ phiên toà có quyền đề nghị Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến có
liên quan đến vụ án của người bào chữa và những người tham gia tố tụng
khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận.
BLTTHS năm 2003 đã quy định về thời điểm người bào chữa được tham
gia tố tụng sớm hơn so với quy định của BLTTHS năm 1988, cụ thể: đối với
trường hợp bắt người trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang hoặc
đang bị truy nã thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm
giữ (khoản 1 Điều 58). Quy định này nhằm mục đích bảo đảm quyền con
người cũng như nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong
việc hạn chế truy tố, điều tra, xét xử oan sai. Thủ tục cấp giấy chứng nhận
người bào chữa cũng được bổ sung một cách đầy đủ hơn.
Để mở rộng thêm quyền năng tố tụng của người bào chữa Bộ luật tố tụng
năm 2003 quy định: người bào chữa được có mặt khi lấy lời khai của người bị
tạm giữ, và được hỏi người bị tạm giữ, bị can khi được Điều tra viên đồng ý;
được xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các
quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa; được đề nghị cơ
quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt hỏi
cung bị can (điểm a và điểm b khoản 1 Điều 58). Bên cạnh quyền được đọc
và ghi chép hồ sơ vụ án như quy định của Bộ luật năm 1988, người bào chữa
còn có quyền mới là được sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan
đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra (điểm g khoản 2 Điều 58), người
bào chữa được thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa
từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này
hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can,
39
bị cáo nếu không thuộc bí mật Nhà nước, bí mật công tác (điểm d khoản 2
Điều 58).
Như vậy BLTTHS năm 2003 đã có những tiến bộ hơn trong việc tạo
điều kiện cho việc tranh luận tại phiên toà so với BLTTHS năm 1988. Theo
những quy định đó thì Bộ luật đã bước đầu tạo ra sự khách quan trong quá
trình tranh luận cũng như những tiền đề để quá trình tranh tụng tại phiên toà
đạt hiệu quả. Tuy nhiên, những quy định đó vẫn còn chưa cụ thể và chưa tạo
ra cơ chế hoàn toàn đầy đủ cho quá trình tranh tụng của các bên: Trách nhiệm
chứng minh tội phạm vẫn đặt nặng lên vai Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên và
Luật sư vẫn chưa có vị thế bình đẳng với nhau, những quy định chưa tạo ra
được sự trung lập trọng tài của Hội đồng xét xử, những cơ chế bắt buộc Kiểm
sát viên và Luật sư phải chủ động chứng minh tội phạm và chứng minh sự vô
tội, những quy định để Luật sư có thể thực hiện quyền gỡ tội một cách dễ
dàng nhất....Và như thế quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo cũng như những
bên tham gia vào quá trình tranh tụng chưa hoàn toàn được đảm bảo.
Để đáp ứng được nhiệm vụ lớn lao của cải cách tư pháp, cần có sự quy
định trong Bộ luật tố tụng sâu rộng hơn nữa về tranh tụng tại phiên toà và
những điều kiện để đảm bảo thực hiện. Đó là một trong các cơ sở để các nhà
làm luật nghiên cứu và đưa ra các quy định của BLTTHS năm 2015 được
hoàn thiện hơn.
2.2. Quy định của pháp luật về bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự theo BLTTHS năm 2015
Để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đảng ta
đã đề ra nhiều chủ trương cải cách tư pháp như: Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 26/5/2005, Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010, Kết luận
số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị; Văn kiện Đại hội đại biểu
40
toàn quốc lần X, XI của Đảng. Các nghị quyết của Đảng nhấn mạnh: Cải cách
mạnh mẽ thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai,
minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của
nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các
phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán
quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư
pháp; đồng thời, yêu cầu cải cách nhiều nội dung cụ thể khác của TTHS. Đây
là những định hướng quan trọng, chỉ đạo việc nghiên cứu, hoàn thiện các quy
định của BLTTHS.
Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ
6 đã thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng ta về tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm
quyền con người, quyền công dân, bổ sung nhiều nguyên tắc tư pháp tiến bộ,
bổ sung và làm rõ hơn nhiệm vụ của Tòa án và Viện kiểm sát khi thực hiện
chức năng Hiến định. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử là những quy định
pháp luật TTHS có ý nghĩa chỉ đạo và thể hiện bản chất, mục đích tố tụng xác
định được việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong giai đoạn xét xử
vụ án hình sự.
“Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo” được quy định tại
khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013. Có thể nói, đây là lần đầu tiên trong
lịch sử lập hiến, tranh tụng được ghi nhận là một nguyên tắc. Tuy nhiên việc
cụ thể hoá nguyên tắc tranh tụng trong BLTTHS như thế nào? Phạm vi điều
chỉnh ra sao?... Nguyên tắc này có những nội dung gì? là những vấn đề đang
được nghiên cứu, xây dựng của những nhà làm luật, của những cơ quan có
thẩm quyền.
Để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử và quyền của người bị buộc tội phải được Tòa án xét
xử công bằng, BLTTHS năm 2015 đưa ra các quy định nhằm mục đích tăng
41
cường tranh tụng trong TTHS, nhằm bảo đảm quyền con người, chống oan
sai, nhanh chóng xác định sự thật khách quan của vụ án. Cụ thể như sau:
Ngoài cơ quan tố tụng có quyền thu thập chứng cứ như hiện nay còn
bổ sung người bị buộc tội và người bào chữa có quyền thu thập, cung cấp
chứng cứ (Điều 58, 59, 60, 61, 73). Thu thập chứng cứ là một giai đoạn của
quá trình chứng minh. Nếu không có thu thập chứng cứ thì cũng không có
kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Các cơ quan tiến hành tố tụng có
thẩm quyền thu thập chứng cứ.
Theo quy định tại Điều 88 thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
thu thập chứng cứ bằng cách: Triệu tập những người biết về vụ án để hỏi và
nghe họ trình bày về những vấn đề có liên quan đến vụ án, trưng cầu giám
định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt động điều tra khác theo
quy định của BLTTHS. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp những tài
liệu, đồ vật, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án. Về thủ tục thu thập
chứng cứ trong những trường hợp này phải tuân thủ những quy định như:
- Thủ tục giải thích quyền và nghĩa vụ cho đối tượng bị áp dụng: Thủ tục
này được áp dụng trong các biện pháp hỏi cung; lấy lời khai của người bị bắt,
người bị tạm giữ, người làm chứng, người bị hại; khi tiến hành đối chất, nhận
dạng, khám người, khám nơi làm việc, khám chỗ ở, địa điểm.
- Quy định về việc phải có người chứng kiến trong các trường hợp:
+ Đối với biện pháp khám người, khám xét dấu vết trên thân thể bị can,
bị hại, nhân chứng khám nghiệm hiện trường, khám nghiện tử thi, thực
nghiệm điều tra, nhận dạng thì người chứng kiến là bất kỳ ai và chỉ cần một
người (riêng biện pháp khám người, khám xét dấu vết trên thân thể, thì phải là
người cùng giới).
+ Biện pháp khám chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm đòi hỏi phải có người
láng giềng, đại diện chính quyền địa phương (nơi làm việc thì đại diện cơ
42
quan, tổ chức nơi người đó làm việc) chứng kiến. Trường hợp vắng chủ nhà
thì phải có hai người chứng kiến.
+ Biện pháp thu giữ thư tín, điện tín, bưu phẩm tại bưu điện thì phải có
sự chứng kiến của đại diện cơ quan bưu điện...
Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào
chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe
họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức,
cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa.
Chứng cứ của Luật sư thu thập và đưa ra nhằm chứng minh, có giá trị “gỡ
tội”, mang tính phản biện cao (một phần hoặc toàn bộ) đối với chứng cứ buộc
tội và luận điểm của cơ quan tiến hành tố tụng. Để bào chữa có hiệu quả, Luật
sư sẽ có những hoạt động thu thập chứng cứ và đưa ra những kiến nghị điều
tra bổ sung, điều tra lại, đình chỉ điều tra, rút quyết định truy tố, thay đổi tội
danh... Và những kiến nghị này của Luật sư cũng cần phải được các cơ quan
xem xét một cách đầy đủ.
Những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá
nhân nào đều có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và trình
bày những vấn đề có liên quan đến vụ án.
Việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng có nghĩa là sự đối kháng nhau của
các chủ thể có các chức năng khác nhau trong tố tụng. Chính vì vậy, trong
tranh tụng không thể chỉ cho phép một chủ thể được đơn phương, độc quyền
trong việc thu thập và đánh giá chứng cứ. Điều này là sự bảo đảm cho quá
trình tranh tụng được bình đẳng và hiệu quả cao hơn. Vấn đề này đã được
BLTTHS năm 2015 cụ thể hóa hơn trong các quy định về: quyền và nghĩa vụ
của bị can (Điều 60), quyền và nghĩa vụ của bị cáo (Điều 61), quyền và nghĩa
vụ của người bào chữa (Điều 73)...
43
Quy định người bị buộc tội, người bào chữa có quyền trình bày ý kiến
về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng kiểm tra, đánh giá.
Để đảm bảo tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, vấn đề xác
định chứng cứ là rất quan trọng. Bên cạnh việc quy định quyền bình đẳng
trong việc đưa ra chứng cứ của các bên trong quan hệ tranh tụng, trong
nguyên tắc tranh tụng tại Điều 26 BLTTHS quy định các chứng cứ do Viện
kiểm sát đưa ra Tòa án để xét xử phải được quy định đầy đủ, mọi chứng cứ
xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự để xác
định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo,
xử lý vật chứng và các tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải
được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa. Như vậy, điều này cũng cho
thấy, hoạt động tranh tụng công khai tại phiên tòa là sự thể hiện tập trung
nhất, cơ bản nhất của nguyên tắc tranh tụng. Bản chất của quá trình tranh tụng
này là việc các bên quá quá trình tranh tụng đưa ra những trình bày, tranh luận
để làm rõ các chứng cứ buộc tội và gỡ tội tại phiên tòa.
Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa
án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp. Sau khi nhận được hồ sơ do Viện kiểm
sát chuyển đến, Toà án có trách nhiệm kiểm tra, nếu các tài liệu trong hồ sơ
vụ án, vật chứng kèm theo (nếu có) đã đầy đủ so với bản kê tài liệu, vật chứng
và bản cáo trạng đã được giao cho bị can, người đại diện của bị can thì Toà án
mới nhận hồ sơ vụ án.
Do tranh tụng biểu hiện tập trung nhất tại phiên tòa nên nguyên tắc tranh
tụng cũng có những điều chỉnh để quá trình tranh tụng diễn ra một cách thuận
lợi nhất. Để các chứng cứ của vụ án phải được thể hiện đầy đủ trước phiên
tòa, làm căn cứ cho việc xét hỏi, tranh luận công khai, khách quan, toàn diện
44
đòi hỏi tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa
án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp. Nhằm bảo đảm quyền buộc tội và bào
chữa của các bên, nguyên tắc cũng bảo đảm sự có mặt đầy đủ những người
theo quy định của Bộ luật, nếu vắng mặt phải vì lý do bất khả kháng hoặc do
trở ngại khách quan hoặc trường hợp khác do Bộ luật quy định. Trên cơ sở có
đủ các chủ thể tranh tụng cũng như chứng cứ liên quan đến việc giải quyết vụ
án, các bên sẽ tranh luận công khai tại phiên tòa để bảo vệ quan điểm của
mình; Tòa án kiểm tra, đánh giá chứng cứ và dựa trên kết quả tranh tụng tại
phiên tòa để đưa ra kết luận cuối cùng về các vấn đề có tội hay không có tội,
liên quan đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, căn cứ định tội và
quyết định hình phạt, xác định mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo và đây
cũng chính là cơ sở để Tòa án ra bản án, quyết định cuối cùng.
Quy định chặt chẽ sự có mặt của bị cáo, người bào chữa tại phiên tòa
(Điều 290, 291).
Sự có mặt tại phiên tòa là quyền và nghĩa vụ của bị cáo vì họ là người bị
truy cứu trách nhiệm hình sự và có quyền bào chữa trước tòa. Sự có mặt của
bị cáo tại phiên toà là bắt buộc, nhằm thực hiện nguyên tăc xét xử trực tiếp;
bảo đảm cho Tòa án xác định sự thật khách quan và tạo điều kiện thuận lợi
cho bị cáo thực hiện quyền bào chữa tại phiên tòa theo quy định của pháp
luật.
Bị cáo phải có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập cùa Tòa án. Bị cáo
đang bị tạm giam phải được cơ quan công an, lực lượng cảnh vệ trong quân
đọi dẫn giải đến phiên tòa theo giấy triệu tạp và kế hoạch xét xử của Tòa án.
Bị cáo tại ngoại phải có mặt tại phiên tòa theo giấỳ triệu tập của Tòa án; nếu
vắng mặt không có lý do chính đáng thì bị áp giải. Đối với bị cáo bị áp giai thì
thơi gian giải lao, nghỉ nghị án... phảĩ chịu sự giám sát của cảnh sát hoặc cảnh
vệ; nếu phiên tòa kéo dài trông nhiều ngày thì Hội đồng xét xử có thể quyết
45
định tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc xét xử. Trường hợp bị cáo vắng
mặt có lý do chính đáng như do không nhận được giấy triệu tập cua Tòa án, vì
ốm đau, vì thiên tai không đến được phiên tòa thì phải hoãn phiên tòa.
Tòa án quyết định tạm đình chi vụ án trong các trường hợp:
- Bị cáo bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh hiểm nghèo khác như ung thư,
lao phổi, đột quỵ... thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chi vụ án cho
đến khi bị cáo khỏi bệnh. Việc khẳng định bị cáo bị bệnh tâm thần hay bệnh
hiểm nghèo khác cũng như kết luận bị cáo đã khỏi bệnh hay chưa do Hội
đồng giám định pháp y kết luận bằng văn bản.
- Bị cáo trốn tránh thì Hội đồng xét xừ tạm đình chỉ vụ án và yêu cầu
Cơ quan điều tra truy nã bị cáo.
Tòa án chỉ có thể xử vắng mặt bị cáo trong những trường hợp sau đây
(Điều 290 BLTTHS):
- Bị cáo trốn tránh và việc truy nã không có kết quả. Trong thời hạn 1
tháng kể từ khi có lệnh truy nã mà không bắt được bị cáo thì Tòa án phục hồi
tố tụng và tổ chức phiên tòa xét xử vắng mặt bị cáo;
- Bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa. Không
phải mọi trường hợp bị cáo đang ở nước ngoài Tòa án đều có thể xét xử vắng
mặt. Để Tòa án có thề xét xử vắng mặt bị cáo, ngoài điều kiện bị cáo đang ờ
nước ngoài, phải thêm một điều kiện đủ nữa là Tòa án không thể triệu tập bị
cáo đến phiên tòa được. Thông thường Tòa án không thể triệu tập bị cáo đến
phiên tòa trong những trường hợp bị cáo đang ở một quốc gia mà Việt Nam
chưa có hiệp định tương trợ tư pháp, bị cáo ở nước ngoài nhằm trốn tránh việc
trừng phạt theo pháp luật Việt Nam, không rõ địa chi bị cáo ở nước ngoài...;
Nếu sự vắng mặt của bị cáo không trờ ngại cho việc xét xừ và họ đã
được giao giấy triệu tập hợp lệ. Thông thường Tòa án xét xử vắng mặt bị cáo
trong những trường hợp phạm tội đơn giản, rõ ràng, ít nghiêm trọng, chế tài
46
quy định đôi với tội phạm đó ít nghiêm khắc, bị cáo tại ngoại và nhận tội. Đây
là những trường hợp bị cáo yêu cầu xét xử vắng mặt bị cáo.
Với nhiệm vụ bào chữa cho bị cáo, người bào chữa có nghĩa vụ tham gia
phiên tòa. Tuy nhiên, điều luật không quy định người bào chữa phải có mặt
thì Tòa án mới được xét xử, trừ trường hợp Tòa án đã yêu cầu Đoàn luật sư
cử người bào chữa cho bị cáo. Trong trường hợp này, nếu người bào chữa
vắng mặt thì Tòa án phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo hoặc người đại
diện của bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa. Người bào chữa phải
có mặt tại phiên tòa để bào chữa cho người mà mình đã nhận bào chữa. Người
bào chữa có thể gửi trước bản bào chữa cho Tòa án. Trường hợp người bào
chữa vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách
quan thì Tòa án phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo đồng ý xét xử vắng
mặt người bào chữa. Điều đó cũng có nghĩa rằng không phải trong mọi trường
hợp người bào chữa vắng mặt Tòa án đều vẫn mở phiên tòa xét xử.
Nếu vì lý do chính đáng như ốm đau, thiên tai... mà người bào chữa
không thể có mặt được tại phiên tòa thì có quyền yêu cầu Tòa án hoãn phiên
tòa. Trong trường hợp này Tòa án xem xét yêu cầu của người bào chữa và tùy
theo vụ án cụ thể để quyết định hoãn phiên tòa hay vẫn tiếp tục xét xử. Mọi
trường hợp người bào chữa được bị cáo mời mà vắng mặt không có lý do
chính đáng thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.
Tại phiên tòa xét xử bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm
về thể chất hoặc tâm thần hoặc bị cáo bị xét xử về tội có mức hình phạt cao
nhất là tử hình mà người bào chữa vắng mặt, thậm chí dù đã gửi trước bản
bào chữa cho bị cáo, thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa.Tuy nhiên, nếu
trong trường hợp này bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị cáo chưa thành
niên, bị cáo có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần từ chổi người bào chữa
và khăng định tự mình bào chữa thì Tòa án vẫn xét xử vụ án. Việc từ chối nhờ
47
người khác bào chữa phải được lập thành văn bản hoặc ghi vào biên bản
phiên tòa.
Quyền tự bào chữa, quyền nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa:
Trên cơ sở bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, BLTTHS năm 2015
có các nội dung sửa đổi, bổ sung để cụ thể hóa nguyên tắc này, bảo đảm
nguyên tắc tranh tụng đầy đủ sẽ bảo vệ các quyền của người bị buộc tội, nhất
là quyền tự bào chữa, quyền nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. BLTTHS
năm 2003 có quy định quyền bào chữa, chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội, nhưng đến BLTTHS năm 2015
quy định cụ thể hơn và đảm bảo tốt hơn quyền nhờ luật sư hoặc người khác
bào chữa, nhất là quyền tự bào chữa của người bị buộc tội, bị can, bị cáo (các
Điều 60, 61). Các quy định này có ý nghĩa rất quan trọng nhằm bảo đảm
quyền tự bào chữa, bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tranh tụng tại phiên
tòa của bị can, bị cáo.
Bên cạnh đó, tại Điều 75 BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể về quyền
lựa chọn người bào chữa, tạo thuận lợi về thủ tục cho người bị bắt, người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo được tiếp cận với người bào chữa, đồng thời còn bổ
sung quy định người thân thích của người bị buộc tội có quyền lựa chọn
người bào chữa.
BLTTHS năm 2015 quy định Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên phải thực
hành quyền công tố ngay từ khi Cơ quan điều tra tiếp nhận, giải quyết nguồn
tin về tội phạm và các trình tự, thủ tục trong giai đoạn điều tra, truy tố, để
đảm bảo việc buộc tội, tranh tụng tại phiên tòa có nhiều đổi mới nhằm nâng
cao vị trí, vai trò của Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên. Bên cạnh đó, nhằm khắc
phục tình trạng chất lượng tranh tụng còn hạn chế ở một số phiên tòa có đông
bị cáo, có nhiều luật sư tham gia, nhưng BLTTHS năm 2003 cho cho phép tối
đa 02 Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, đến BLTTHS năm 2015 sửa đổi, bổ
48
sung theo hướng có thể có nhiều Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đối với
những vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp (Điều 289).
Đổi mới trình tự và trách nhiệm xét hỏi theo hướng việc xét hỏi trước
tiên phải thuộc về chủ tòa phiên tòa, sau đó chủ tọa quyết định ai hỏi trước, ai
hỏi sau mà không tuân theo trình tự xét hỏi như trước (Điều 307).
BLTTHS năm 2003 quy định: Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ các
tình tiết về từng sự việc và về từng tội của vụ án theo thứ tự xét hỏi hợp lý.
Chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến Kiểm sát viên,
người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự (Điều 207). Theo
BLTTHS năm 2015 thì chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người
hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý. Chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết
định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi. Người định giá tài
sản được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc định giá tài sản. Mục đích
của việc sửa đổi là để thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo
đảm; tăng sự chủ động của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, phù hợp với từng vụ
án và diễn biến cụ thể tại các phiên tòa xét xử, bảo đảm cho hoạt động tranh
tụng được thực hiện ngay trong phần xét hỏi tại phiên tòa.
Để bảo đảm tranh tụng trong xét hỏi, chủ tọa phiên tòa căn cứ vào đề
cương, kế hoạch xét hỏi để khi xét hỏi phải xác định được đầy đủ các tình tiết
về từng sự việc, từng hành vi phạm tội và các tình tiết khác có liên quan đến
việc giải quyết vụ án theo thứ tự xét hỏi hợp lý. Việc quy định trình tự xét hỏi,
ai hỏi trước, ai hỏi sau vừa thể hiện đúng quy định của pháp luật vừa bảo đảm
tính tranh tụng tại phiên tòa, chủ tọa phiên tòa vẫn phải hỏi trước, nhưng chỉ
đặt câu hỏi có tính chất nêu vấn đề, gợi mở chứ không kết luận. Còn lại những
câu hỏi có tính chất buộc tội hoặc gỡ tội dành cho Kiểm sát viên và người bào
chữa. Nếu trong quá trình điều hành phần xét hỏi, khi thấy câu hỏi có tính
49
chất mớm cung, ép cung hoặc những câu hỏi có liên quan đến bí mật Nhà
nước, bí mật công tác, bí mật điều tra; xúc phạm nhân phẩm, danh dự con
người thì chủ tọa phiên tòa phải yêu cầu người hỏi đặt lại câu hỏi hoặc yêu
cầu người trả lời không trả lời câu hỏi đó. Đối với người Bào chữa khi tham
gia xét hỏi để bào chữa cho bị cáo hoặc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự, thông thường hay đặt câu hỏi nhằm có lợi cho thân chủ mà mình
bảo vệ, đôi khi có tính mớm cung hoặc tạo điều kiện để thân chủ của mình
phản cung tại phiên tòa.
Tuy nhiên, quy định này đã làm tăng vai trò của chủ tọa phiên tòa, ít
nhiều làm lu mờ vai trò của kiểm sát viên với tư cách là chủ thể buộc tội tại
phiên tòa. Điều này chưa phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp, tăng tính
tranh tụng và bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa. Bên cạnh đó, nó có
thể làm lẫn lộn các chức năng tố tụng. Tác giả cho rằng, chủ tọa phiên tòa nên
tập trung vào nhiệm vụ dẫn dắt phiên tranh tụng, chỉ nên hỏi bổ sung và sau
cùng, nếu thấy cần thiết. Nếu hội đồng xét xử và chủ tọa phiên tòa đảm trách
việc hỏi, công bố lời khai, vật chứng, tài liệu để buộc tội thì vô hình trung,
Tòa án đã đứng về phía cơ quan buộc tội. Cách làm này của hội đồng xét xử
sẽ không tránh được định kiến là buộc tội và thiên vị (hỏi để buộc tội), cũng
như sẽ gây bất lợi cho bị cáo và làm cho phiên tranh tụng thiếu tính khánh
quan, công bằng. Trong phiên tòa, trách nhiệm xét hỏi chính thuộc về kiểm
sát viên - người giữ vai trò buộc tội.
Có thể nói rằng, ở giai đoạn tranh tụng, thủ tục xét hỏi và tranh luận
đóng vai trò quan trọng nhất. Bởi lẽ, quá trình chứng minh làm rõ sự thật
khách quan của vụ án phụ thuộc rất lớn vào phần xét hỏi. Đổi mới thủ tục xét
xử và đổi mới phiên tòa theo hướng tăng cường yếu tố tranh tụng là mục tiêu
lớn của quá trình cải cách tư pháp ở nước ta, nhưng quy định này của
50
BLTTHS năm 2015 vẫn chưa tạo ra được sự chuyển biến căn bản về hoạt
động tranh tụng.
Bị cáo có quyền trực tiếp đặt câu hỏi với các bị cáo khác nếu được
Chủ tọa đồng ý thay vì chỉ có quyền đề nghị Chủ tọa hỏi như hiện nay (Điều
309).
Để mở rộng quyền của bị cáo trong thủ tục xét hỏi, Điều 309, Điều 310
và Điều 311 BLTTHS năm 2015 quy định quyền trực tiếp xét hỏi của bị cáo.
Theo đó, bị cáo có quyền hỏi bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của
họ, và cả người làm chứng - nếu được chủ tọa phiên tòa đồng ý. Bị cáo có
quyền đặt câu hỏi trực tiếp với người tham gia tố tụng khác về các vấn đề có
liên quan đến bị cáo, mà không phải truyền đạt câu hỏi của mình cho chủ tọa
phiên tòa như trước đây.
Tuy nhiên, quyền đặt câu hỏi của bị cáo vẫn bị phụ thuộc vào việc đề
nghị của bị cáo có được chủ tọa phiên tòa đồng ý hay không. Chúng tôi cho
rằng, chỉ nên giới hạn là chủ tọa phiên tòa cắt những câu hỏi của bị cáo không
liên quan đến vụ án hoặc câu hỏi trùng lặp, vòng vo. Mặt khác, quy định nêu
trên của Bộ luật TTHS năm 2015 vẫn chưa mở rộng quyền đặt câu hỏi trực
tiếp của những người tham gia tố tụng khác là bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại
diện của họ. Đây là điểm hạn chế cần phải được khắc phục để bảo đảm quyền
chứng minh cho người tham gia tố tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
HĐXX tự mình hoặc theo đề nghị của người tham gia tố tụng yêu cầu
Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng trình bày ý kiến để làm rõ những quyết định, hành vi
tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử (Điều 317):
51
Trong thời gian qua, một số vụ án oan xảy ra như vụ Nguyễn Thanh
Chấn ở Bắc Giang, vụ Huỳnh Văn Nén ở Bình Thuận mà nguyên nhân gây ra
oan sai chính là việc các Điều tra viên đã có hành vi ép cung, dùng nhục hình,
việc tranh tụng tại phiên tòa không được bảo đảm dẫn đến Nguyễn Thanh
Chấn phải ngồi tù oan 10 năm còn Huỳnh Văn Nén phải ngồi tù oan tới 17
năm và như một phản ứng dây chuyền dẫn đến rất nhiều vụ án hình sự khi ra
Tòa xét xử các bị cáo đều phản cung và cho rằng bản thân bị ép cung, dùng
nhục hình, gây rất nhiều khó khăn cho Hội đồng xét xử khi xem xét, đánh giá
và sử dụng chứng cứ khi xét xử. Chính vì vậy, Bộ luật tố tụng 2015 đã quy
định một điều mới là Điều 317 “Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có
thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trình bày ý kiến” quy
định như sau:
“Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử tự mình hoặc theo đề nghị của
người tham gia tố tụng yêu cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có
thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trình bày ý kiến để làm
rõ những quyết định, hành vi tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét
xử”. Quy định này là hết sức cần thiết thể hiện sự công khai, bình đẳng trong
tranh tụng, giúp cho Hội đồng xét xử đánh giá và sử dụng đúng các chứng cứ
buộc tội và gỡ tội tại phiên tòa làm cơ sở cho việc ra Bản án hoặc các Quyết
định của Hội đồng xét xử. Chỉ khi xét thấy những tình tiết của vụ án đã được
xem xét đầy đủ thì chủ tọa phiên tòa hỏi Kiểm sát viên, bị cáo, người bào
chữa, người khác tham gia phiên tòa xem họ có yêu cầu xét hỏi vấn đề gì nữa
không. Nếu không có yêu cầu xét hỏi thì kết thúc việc xét hỏi; nếu có người
yêu cầu và xét thấy yêu cầu đó là cần thiết thì chủ tọa phiên tòa quyết định
tiếp tục việc xét hỏi.
Đưa ra các quy định nhằm đảm bảo cơ chế thực hiện tranh tụng:
52
Để tranh tụng có hiệu quả thì một trong những điều kiện quan trọng nhất
là các bên buộc tội và gỡ tội phải thực sự bình đẳng với nhau và Tòa án phải
đứng ở vị trí trung gian, độc lập, khách quan, bảo đảm cho hai bên thực hiện
chức năng của mình. Tư tưởng bình đẳng này không chỉ được thể hiện tại
phiên tòa mà còn ở các giai đoạn trước khi mở phiên tòa. Theo đó, nguyên tắc
xác định trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, các bên buộc tội
và gỡ tội đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng
cứ và đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án và Tòa án phải
có trách nhiệm trong việc tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào
chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ
của mình và tranh luận dân chủ trước Tòa án.
Khẳng định rõ nội dung “bản án, quyết định của Tòa án chỉ được căn
cứ trên cơ sở kết quả thẩm vấn, tranh tụng và những chứng cứ đã được xem
xét tại phiên tòa” (Điều 26).
Điều 26 BLTTHS quy định: “Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ
vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa”.
Chất lượng tranh tụng tại phiên tòa có được nâng cao hay không, phụ
thuộc chủ yếu vào kỹ năng điều hành phần tranh tụng của Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa và Hội đồng xét xử cũng như kết quả phiên tòa tốt hay không tốt
phụ thuộc chủ yếu vào vai trò của chủ toạ phiên toà vì: Theo quy định của
pháp luật TTHS thì tại phiên toà sơ thẩm hình sự, Chủ tọa phiên tòa vừa là
người tiến hành tố tụng vừa là người điều khiển toàn bộ hoạt động tố tụng tại
phiên tòa của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng khác.
Với vai trò là người tiến hành tố tụng, chủ tọa phiên tòa phải thực hiện
đầy đủ, chính xác các công việc mà BLTTHS quy định, đồng thời phải chịu
trách nhiệm chính về những vấn đề BLTTHS quy định đối với Hội đồng xét
xử, thay mặt Hội đồng xét xử công bố những quyết định đã được thông qua
53
trong phòng nghị án cũng như tại phòng xử án. Với vai trò của người điều
khiển phiên tòa, chủ tọa phiên tòa phải là người tổ chức, người chỉ huy cao
nhất đối với mọi hoạt động tố tụng và hành vi tố tụng tại phòng xử án. Để
điều khiển việc tranh tụng đạt kết quả theo ý muốn, đòi hỏi chủ tọa phiên tòa
phải là người nắm chắc các quy định của BLTTHS; đọc kỹ hồ sơ vụ án; dự
kiến các tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa, có kế hoạch xét hỏi chặt chẽ,
cụ thể và chủ động tìm biện pháp giải quyết mọi tình huống xảy ra tại phiên
tòa.
Do vậy, việc tranh tụng chỉ là hình thức nếu kết quả tranh tụng không
được thể hiện trong bản án, quyết định của Tòa án. Mặc dù không hoàn toàn
dựa vào kết quả tranh tụng như mô hình tố tụng tranh tụng, nhưng việc quy
định bản án, quyết định của toàn án phải dựa vào kết quả kiểm tra, đánh giá
chứng cứ và kết quả tranh tụng là một trong những điểm mới nổi bật trong
quy định về nguyên tắc tranh tụng.
Với ý nghĩa là lần đầu tiên quy định tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản
trong BLTTHS, Việt Nam cho thấy quyết tâm tiếp tục thực hiện tiến trình cải
cách tư pháp với mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân
chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân,
phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Có thể thấy, nguyên tắc này
duy trì và phát huy những ưu điểm của mô hình tố tụng thẩm vấn, đồng thời
tham khảo kinh nghiệm quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những hạt nhân hợp lý
của mô hình tố tụng tranh tụng, phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta.
Nguyên tắc này đòi hỏi hoạt động xét xử phải bảo đảm tranh tụng giữa
Kiểm sát viên, bị hại, nguyên đơn dân sự với bị cáo, người bào chữa, bị đơn
dân sự, giữa các đương sự với nhau và những người này có quyền bình đẳng
trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu và tranh luận dân chủ
54
trước tòa án. Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả xét hỏi,
tranh tụng và những chứng cứ đã được kiểm tra, đánh giá tại phiên tòa.
Ngoài các quy định về nguyên tắc tranh tụng, để bảo đảm tranh tụng
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, BLTTHS quy định về quyền im lặng dành
cho người bị buộc tội. Có thể nói, việc quy định quyền im lặng là một bước
tiến lớn trong việc bảo vệ quyền con người và thực hiện trình tự xét xử công
bằng trong TTHS. Bộ luật TTHS 2015 ghi nhận quyền im lặng dành cho
người bị buộc tội, gồm bốn chủ thể pháp lý khác nhau, bao gồm: người bị bắt;
người bị tạm giữ; bị can; bị cáo. Theo đó, trong quá trình tham gia tố tụng, tất
cả các đối tượng trên đều có quyền “không buộc phải đưa ra lời khai chống
lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”.
Việc quy định quyền không đưa ra lời khai chống lại chính mình có thể
được hiểu là người bị buộc tội có quyền không khai những điều chứa đựng
thông tin bất lợi cho bản thân mình. Quy định này có thể hiểu tương đương
với quyền im lặng. Tuy nhiên, căn cứ theo nội dung điều luật, người bị buộc
tội chỉ có thể từ chối đưa ra lời khai nếu sự thẩm vấn yêu cầu lời khai có chứa
đựng thông tin chống lại họ hoặc buộc họ phải nhận mình có tội. Còn đối với
những câu hỏi khác trong quá trình thẩm vấn, người bị buộc tội không có
quyền giữ im lặng. Mặt khác, một trong các nghĩa vụ của người bị buộc tội là
phải có mặt theo sự triệu tập hoặc chấp hành yêu cầu của của cơ quan, cá
nhân có thẩm quyền, điều này có nghĩa là họ không thể từ chối tham gia cuộc
hỏi cung, lấy lời khai hoặc tại phiên tòa. Suy ra, người bị buộc tội phải có mặt
trong các cuộc thẩm vấn và không thể giữ im lặng trong suốt thời gian này.
Có thể thấy, khi so sánh với luật pháp các nước và luật quốc tế, quy định
về quyền im lặng của Việt Nam có nội dung và phạm vi tương đối hẹp. Lý
giải cho điều này, có thể xét rằng đây là loại quyền mới đối với Việt Nam,
một quyền im lặng tuyệt đối dành cho người bị buộc tội có thể gây ra nhiều
55
rào cản cho các cơ quan TTHS trong việc giải quyết vụ án. Sự quy định quyền
im lặng ở mức độ tương đối, hay còn gọi là quyền không tự buộc tội chính
mình, là sự cân bằng giữa quyền cá nhân và lợi ích xã hội.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong những năm gần đây, vấn đề tranh tụng trong TTHS là một trong
những vấn đề được tranh luận khá sôi nổi trong quá trình nghiên cứu và lập
pháp nhằm cải cách thủ tục tố tụng tư pháp hình sự. Quá trình hình thành và
phát triển các quy định bảo đảm tranh tụng trong pháp luật TTHS gắn liền với
những thành tựu trong lĩnh vực lập pháp ở nước ta. Các quy định này dần
được hoàn thiện với những nội dung tiến bộ nhằm đáp ứng các nhu cầu phát
triển của xã hội. Xuyên suốt theo lịch sử của đất nước từ trước khi có BLHS
năm 1988, giai đoạn thi hành BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 và
hiện nay là BLTTHS năm 2015, các quy định bảo đảm tranh tụng đã dần hoàn
thiện. Luận văn về cơ bản đã tóm tắt, phân tích những điểm thiếu sót của các
BLTTHS trước và điểm mới của BLTTHS năm 2015 hiện hành.
56
Chương 3.
THỰC TIỄN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TRANH TỤNG
TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TẠI HUYỆN VĂN LÂM, TỈNH HƯNG YÊN
3.1. Khái quát về huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên
* Khái quát địa giới hành chính huyện:
Huyện Văn Lâm là huyện phía bắc tỉnh Hưng Yên, phía bắc giáp
huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh; phía tây giáp huyện Gia Lâm, thành phố Hà
Nội; phía tây nam giáp huyện Văn Giang với ranh giới là sông Bắc Hưng Hải;
phía nam giáp huyện Yên Mỹ và thị xã Mỹ Hào; phía đông giáp huyện Cẩm
Giàng, tỉnh Hải Dương. Huyện trước đây thuộc tỉnh Hưng Yên, từ 1968 – 1996
thuộc tỉnh Hải Hưng, từ 1977 hợp nhất với các huyện: Mỹ Hào, Yên Mỹ thành
huyện Mỹ Văn. Từ 24.7.1999, chia huyện Mỹ Văn trở lại 3 huyện cũ thuộc tỉnh
Hưng Yên (6.11.1996); đồng thời chuyển 2 xã Vĩnh Khúc và Nghĩa Trụ về huyện
Văn Giang quản lý.
Văn Lâm có đặc điểm địa hình bằng phẳng, cốt đất cao thấp không đều,
độ dốc thoải dần từ tây bắc xuống đông nam, độ cao trung bình từ 3 - 4 mét.
Là huyện có độ cao trung bình cao nhất tỉnh Hưng Yên, có diện tích là
74,42 km2 và dân số là 122.867 người. Thu nhập bình quân trên 120,000,000
đồng/ người, tăng 45 triệu đồng so với năm 2015) theo Đại hội Đại biểu Đảng
bộ huyện Văn Lâm nhiệm kỳ 2020 - 2025. Đây được coi là một trong các
huyện có kinh tế phát triển nhất tỉnh Hưng Yên.
* Tình hình tội phạm trên địa bàn huyện:
Trong thời gian 05 năm trở lại đây, tình hình tội phạm trên địa bàn huyện
Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên diễn ra khá phức tạp. Mỗi năm phát hiện trung bình
hơn 100 vụ án phạm tội các loại, trong đó chủ yếu là nhóm các tội xâm phạm
57
sở hữu (trộm cắp tài sản, cướp, cướp giật tài sản…), các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe (cố ý gây thương tích, hiếp dâm… và các tội xâm phạm trật
tự công cộng (đánh bạc, gá bạc…).
Tình hình tội phạm tại địa phương có đặc điểm: các vụ án hình sự chứa
nhiều yếu tố phức tạp, có nhiều vụ án có nhiều đồng phạm, xu hướng liên kết
hình thành các băng, nhóm tội phạm ngày càng gia tăng rõ rệt, hoạt động có
tính chất lưu động ở nhiều địa bàn khác nhau, gây nhiều loại án khác nhau.
Trên địa bàn huyện còn xuất hiện loại tội phạm có tổ chức, hoạt động theo
kiểu "xã hội đen" núp dưới nhiều vỏ bọc công khai như khách sạn, nhà hàng,
nghiệp đoàn, doanh nghiệp tư nhân… Với tính chất côn đồ hung hãn, thủ
đoạn tinh vi như bảo kê nhà hàng, cho vay nặng lãi, xiết nợ thuê... hoạt động
ngang nhiên, trắng trợn, táo bạo, thách thức pháp luật. Ngoài ra, các vụ án về
đánh bạc, gá bạc cũng ngày càng gia tăng, nhất là vào các khoảng thời gian
ngày lễ, tết. Các đối tượng rủ nhau tụ tập, chơi cờ bạc, cá độ bóng đá quy mô
lớn, hình thành nhiều tụ điểm trên địa bàn huyện khiến lực lượng chức năng
phải mất nhiều ngày theo dõi và lập tổ vây bắt mới bắt gặp quả tang phạm tội.
Nhiều đối tượng từng có tiền án, tiền sự xong không hối cải vẫn tiếp tục tái
phạm, gây nguy hiểm cho xã hội.
Tội phạm trong lứa tuổi dưới 18 tuổi tăng cao trong những năm gần đây,
thậm chí hình thành những băng nhóm học sinh dùng dao lê, côn, kiếm... đâm
chém, sát phạt lẫn nhau. Hoạt động cờ bạc, cá độ bóng đá xảy ra phức tạp, đã
phát hiện một số đường dây cá độ bóng đá lớn (vụ cá độ bóng đá ở thị trấn
Như Quỳnh do Hồ Văn H cầm đầu với số tiền hơn 500 triệu đồng; vụ cá độ,
dàn xếp tỷ số liên quan đến nhiều trọng tài, cầu thủ, huấn luyện viên…).
* Khái quát hệ thống cơ quan tư pháp:
58
Cùng với sự ra đời và phát triển của hệ thống Tòa án Việt Nam, lịch sử
Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Hưng Yên được hình thành và phát triển trải qua
ba giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất từ khi mới thành lập đến trước khi sáp nhập tỉnh Hưng
Yên và Hải Dương vào tháng 01- 1968.
Giai đoạn thứ hai từ khi sát nhập tỉnh tháng 1 năm 1968 đến tháng 01-
1997 là thời kỳ hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên sáp nhập thành tỉnh Hải
Hưng, là Toà án nhân dân tỉnh Hải Hưng.
Giai đoạn thứ ba từ tháng 1 năm 1997 đến nay, cùng với sự kiện chia tách
tỉnh Hải Hưng thành hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên; Toà án nhân dân tỉnh
Hưng Yên được tái lập phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thiếu thốn về tổ
chức cũng như về cơ sở vật chất; cán bộ thiếu, trình độ lại bất cập, cơ sở vật
chất thiếu thốn, 04 đơn vị cấp huyện và Toà án tỉnh chưa có trụ sở làm việc
phải đi làm việc nhờ trụ sở, 06 đơn vị còn lại cũng trong tình trạng trụ sở
không còn đáp ứng được yêu cầu cần phải cải tạo nâng cấp, nhưng với sự
quan tâm lãnh đạo của Toà án nhân dân tối cao, của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân
dân tỉnh, Toà án nhân dân hai cấp tỉnh HưngYên đã nhanh chóng ổn định tổ
chức bộ máy, chủ động và linh hoạt bố trí địa điểm làm việc và địa điểm xét
xử, tận dụng mọi điều kiện trang thiết bị và cơ sở vật chất, bắt tay ngay vào
hoạt động xét xử.
Trải qua 20 năm xây dựng và phát triển, cùng toàn Đảng, toàn dân tiếp tục
đẩy mạnh công cuộc đổi mới, thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IX, X, XI,
XII của Đảng về cải cách Tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Hưng Yên bao gồm Tòa án nhân dân
tỉnh và 10 tòa án cấp huyện, Thành phố với tổng số 134 cán bộ công chức,
trong đó có 50 thẩm phán và 66 thư ký. Toàn hệ thống luôn phấn đấu hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được Đảng và nhân dân giao phó, kịp thời
59
đưa ra xét xử nhiều vụ án dân sự, hình sự, hành chính, lao động, kinh doanh
thương mại, đúng pháp luật, bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của
Nhà nước, tổ chức và công dân, giữ gìn được sự đoàn kết nội bộ nhân dân,
không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Bên cạnh việc xét xử,
công tác thi hành án hình sự, xét giảm án, đặc xá luôn được thi hành đúng
pháp luật. Đặc biệt có sự phối hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra, Viện Kiểm
sát kịp thời đưa ra xét xử những vụ án lớn, trọng điểm đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ chính trị tại địa phương, đã góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ
quyền, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, duy trì
ổn định trật tự an toàn xã hội. Thông qua công tác xét xử tại Tòa án và tổ
chức các phiên tòa lưu động tại địa phương đã góp phần nâng cao hiệu quả
tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao ý thức đấu tranh, phòng ngừa tội
phạm trong quần chúng nhân dân.
Đứng trước những yêu cầu của nhiệm vụ mới, Toà án nhân dân hai cấp
tỉnh Hưng Yên, trong đó có Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm đã phát huy
truyền thống vẻ vang đoàn kết nhất trí, đồng sức, đồng lòng, khắc phục mọi
khó khăn thử thách, toàn thể cán bộ, công chức không ngừng trau dồi kiến
thức pháp luật, tinh thông nghiệp vụ, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống tiếp
tục đẩy mạnh phong trào thi đua theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại
“ Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” và “Phải gần dân, hiểu dân, giúp dân
và học dân”, dũng cảm đấu tranh bảo vệ sự thật, bảo vệ lẽ phải và sự công
bằng của pháp luật, vững vàng, kiên định trong mọi tình huống, nâng cao
trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, xây dựng tập thể, cơ quan, đơn vị
ngành trong sạch, vững mạnh, thực hiện và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ,
góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định an ninh - chính trị nhất là an
ninh nông thôn, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, phục vụ đắc lực cho việc thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh, khẳng
60
định và ngày càng xứng đáng với vai trò trung tâm của hệ thống cơ quan Tư
pháp mà Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị đã xác định.
Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Tòa án
nhân dân tỉnh Hưng yên. Hiện nay Tòa có 9 biên chế trong đó có 04 Thẩm
phán, 04 Thư ký và 01 lái xe. Được sự quan tâm lãnh đạo trực tiếp của TAND
tỉnh Hưng Yên, Ban thường vụ huyện ủy, sự giám sát của Hội đồng nhân dân
và sự phối kết hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành trong huyện; cán bộ, công
chức TAND huyện Văn Lâm đã có nhiều nỗ lực, cố gắng, vượt qua khó khăn
hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị đặt ra, giúp phần giữ vững an ninh, chính trị
và trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho phát triển kinh
tế xã hội ở địa phương.
Trong công tác xét xử các vụ án hình sự, Toà án huyện Văn Lâm luôn
bám sát các yêu cầu nhiệm vụ chính trị, quán triệt sâu sắc các quan điểm,
đường lối của Đảng, áp dụng đúng đắn các quy định của pháp luật để giải
quyết, xét xử các vụ án. Đặc biệt luôn chú trọng đến việc bảo đảm tranh tụng
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, đảm bảo cho những người tham gia tố
tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của họ. Do vậy, qua các năm (từ
2016 đến 2020) nhìn chung chất lượng giải quyết, xét xử các vụ án hình sự
tiếp tục được đảm bảo, các thủ tục tố tụng cũng như áp dụng hình phạt đối với
các bị cáo trong vụ án là tương đối chuẩn xác. HĐXX đã chú ý hơn tới việc
xem xét, đánh giá chứng cứ buộc tội và gỡ tội cho các bị cáo. Các vụ án đều
được đưa ra xét xử đúng thời hạn quy định của pháp luật, trong quá trình xét
xử, Toà án đó áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với những bị cáo có nhiều
tiền án, tiền sự, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, đồng thời cũng khoan hồng
đối với những người có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, ít nghiêm trọng, biết
ăn năn hối cải. Do vậy, đã đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội
phạm.
61
3.2. Thực tiễn bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
tại huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên
3.2.1. Đánh giá khái quát bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự
Để đánh giá về thực tiễn bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự tại huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, tác giả đã thu thập số liệu thống
kê số vụ án hình sự, số bị cáo được đưa ra xét xử sơ thẩm và số lượng vụ án
có sự tham gia của luật sư trong 5 năm gần đây, tức là từ năm 2016 đến hết
năm 2020 (theo Báo cáo hàng năm của TAND huyện Văn Lâm). Cụ thể như sau:
Bảng 3.2.1: Số vụ án được xét xử sơ thẩm trong giai đoạn 5 năm
(từ năm 2016 đến năm 2020)
Số vụ án Số bị cáo Năm
188 91 2016
124 77 2017
166 91 2018
214 95 2019
166 93 2020
(Nguồn: Báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm)
Thông qua số liệu tại Bảng 3.2.1 trên có thể thấy năm 2016 Tòa xét xử
được tổng số 91 vụ án, trong đó có 188 bị cáo; năm 2017 xét xử được 77 vụ
án với 124 bị cáo; năm 2018 xét xử được 91 vụ án với 166 bị cáo; năm 2019
xét xử được 95 vụ án với 214 bị cáo và đến năm 2020 xét xử được 93 vụ án
với 166 bị cáo. Như vậy trong 05 năm TAND huyện Văn Lâm đã xét xử được
tổng số 447 vụ án bao gồm tất cả 885 bị cáo. Xuyên suốt thời gian 05 năm từ
năm 2016 đến năm 2020, số vụ án được xét xử về cơ bản năm sau cao hơn
năm trước không đáng kể, chỉ có năm 2017 số vụ án giảm đi đáng kể so với
62
năm 2016; số bị cáo được đưa ra xét xử tương ứng tỷ lệ thuận với số lượng vụ
án được xét xử và năm 2017 cũng giảm đi đáng kể so với năm 2016. Qua đó
có thể thấy tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Văn Lâm khá ổn định,
không có sự gia tăng đột biến.
Để nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, sự tham gia của Luật sư
đóng vai trò quan trọng, góp phần đảm bảo tính dân chủ, tranh luận bình đẳng
giữa các bên tham gia tố tụng. Để đánh giá thực trạng bảo đảm tranh tụng
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, tác giả tiếp tục thống kê số liệu về tổng số
vụ án có luật sư tham gia cũng trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020, cụ
thể như sau:
Bảng 3.2.2: Số vụ án sơ thẩm có luật sư tham gia trong giai đoạn
5 năm (từ năm 2016 đến năm 2020)
Số vụ án có luật sư tham gia
Năm Số vụ án Luật sư tham Luật sư tham
gia theo chỉ định gia theo yêu cầu
2016 91 17 05
2017 77 15 04
2018 91 16 06
2019 95 19 04
2020 93 17 06
(Nguồn: Báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm)
Để nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, sự tham gia của Luật sư
đóng vai trò quan trọng, góp phần đảm bảo tính dân chủ, tranh luận bình đẳng
giữa các bên tham gia tố tụng. Hiện nay trên địa bàn huyện Văn Lâm, tỉnh
Hưng Yên có duy nhất 01 văn phòng luật sư đặt trụ sở, trong đó có 02 luật sư
có chứng chỉ hành nghề luật sư và được mời tham gia tố tụng khi có yêu cầu
63
của người bị buộc tội hoặc được chỉ định trong những vụ án có người dưới 18
tuổi hoặc người có nhược điểm về thể chất, tâm thần.
Thông qua các số liệu thống kê xem tại Bảng 3.2.2 cho thấy: Năm 2016
theo 91 vụ án có tổng số 17 luật sư tham gia theo chỉ định, chiếm 18,68% và
05 luật sư tham gia theo yêu cầu, chiếm 5,49%; năm 2017 theo 77 vụ án có
tổng số 15 luật sư tham gia theo chỉ định, chiếm 19,48% và 05 luật sư tham
gia theo yêu cầu, chiếm 5,19%; năm 2018 theo 91 vụ án có tổng số 16 luật sư
tham gia theo chỉ định, chiếm 18,68% và 06 luật sư tham gia theo yêu cầu,
chiếm 6,59%; năm 2019 theo 95 vụ án có tổng số 19 luật sư tham gia theo chỉ
định, chiếm 20% và 04 luật sư tham gia theo yêu cầu, chiếm 4,21%; năm
2020 theo 93 vụ án có tổng số 17 luật sư tham gia theo chỉ định, chiếm
18,27% và 06 luật sư tham gia theo yêu cầu, chiếm 6,45%. Trong 05 năm qua,
số lượng vụ án được xét xử có thay đổi tăng lên hoặc giảm xuống thì số lượng
luật sư tham gia bào chữa cũng tăng lên hoặc giảm đi tương ứng với số lượng
vụ án đó.
Nhìn chung, được sự quan tâm lãnh đạo trực tiếp của TAND tỉnh, Ban
thường vụ huyện uỷ, sự giám sát của Hội đồng nhân dân và sự phối kết hợp
chặt chẽ của các cấp, các ngành trong tỉnh, huyện; cán bộ, công chức TAND
huyện Văn Lâm đã có nhiều nỗ lực, cố gắng, vượt qua khó khăn hoàn thành
tốt nhiệm vụ chính trị đặt ra, giúp phần giữ vững an ninh, chính trị và trật tự
an toàn xã hội, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội ở
địa phương. Trong công tác xét xử các vụ án hình sự, Toà án luôn bám sát các
yêu cầu nhiệm vụ chính trị, quán triệt sâu sắc các quan điểm, đường lối của
Đảng, áp dụng đúng đắn các quy định của pháp luật để giải quyết, xét xử các
vụ án. Đặc biệt luôn chú trọng đến việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại
phiên toà, đảm bảo cho những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các
quyền và nghĩa vụ của họ. Do vậy, qua các năm (từ 2016 đến 2020) nhìn
64
chung chất lượng giải quyết, xét xử các vụ án hình sự tiếp tục được đảm bảo,
các thủ tục tố tụng cũng như áp dụng hình phạt đối với các bị cáo trong vụ án
là tương đối chuẩn xác, không có vụ án nào xét xử oan người phạm tội hoặc
bỏ lọt tội phạm. HĐXX đã chú ý hơn tới việc xem xét, đánh giá chứng cứ
buộc tội và gỡ tội cho các bị cáo. Các vụ án đều được đưa ra xét xử đúng thời
hạn quy định của pháp luật, trong quá trình xét xử, Toà án đó áp dụng hình
phạt nghiêm khắc đối với những bị cáo có nhiều tiền án, tiền sự, phạm tội đặc
biệt nghiêm trọng, đồng thời cũng khoan hồng đối với những người có nhân
thân tốt, phạm tội lần đầu, ít nghiêm trọng, biết ăn năn hối cải. Do vậy, đã đáp
ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.
* Một số hạn chế về bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án
hính sự:
Thứ nhất, về quy định của pháp luật về bảo đảm tranh tụng.
Các nguyên tắc đặc trưng của thủ tục xét xử sơ thẩm còn những hạn
chế:
- Nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo quy định của pháp luật ra đời gắn liền với yêu cầu xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Mọi người đều có quyền được xét xử công
bằng, công khai bởi một tòa án có thẩm quyền, độc lập, công minh được thiết
lập theo quy định của pháp luật”. Ở nước ta, độc lập xét xử là nguyên tắc hiến
định và được nhắc lại trong BLTTHS.
- Nguyên tắc xét xử công khai chưa thể hiện rõ ràng và chưa đầy đủ
những vấn đề của thực tiễn. Tòa án có thể quyết định xử kín một phần nào đó
của vụ án hoặc toàn bộ vụ án nhưng khi tuyên án phải công khai.
- Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số, qua thực
tiễn áp dụng đã nảy sinh những trường hợp bên Hội thẩm chiếm đa số đã
quyết định sai lầm, trái với quyết định đúng đắn của Thẩm phán, dẫn đến phải
65
hủy bản án để xét xử lại.
Quyền nhờ người khác bào chữa cho bị can vẫn chưa được cơ quan tiến
hành tố tụng thật sự tôn trọng, nhất là đối với cơ quan điều tra. Trên thực tế,
hầu hết các bị can, nhất là bị can đang bị tạm giam (kể cả các trường hợp bị
can theo quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS) đều không được điều tra
viên giải thích hoặc giải thích không đầy đủ về quyền được nhờ người khác
bào chữa, quyền được cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn Luật sư chỉ
định Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho mình.
Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật hiện hành chưa xác
định rõ tư cách tố tụng của luật sư bào chữa trong tranh tụng và nghĩa vụ pháp
lý của luật sư trước bị can, bị cáo; các tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn,
năng lực và sức khỏe đối với những người hành nghề luật sư cũng chưa được
quy định chặt chẽ. Điều đó làm hạn chế đến khả năng thực hiện chức năng và
nghĩa vụ của luật sư trong quá trình tranh tụng.
Thứ hai, về áp dụng pháp luật trong bảo đảm tranh tụng.
Giải quyết án hình sự của TAND bao gồm giai đoạn trước xét xử, trong
xét xử và sau xét xử. Đặc trưng của việc giải quyết án của Toà án là xét xử,
hoạt động cụ thể nhất của xét xử là phiên toà hình sự. Áp dụng pháp luật
trong hoạt động giải quyết án hình sự là hoạt động thường xuyên của TAND
trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình do Hiến pháp và
pháp luật quy định. Áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết án hình sự
của Toà án mang những đặc điểm chung của hoạt động áp dụng pháp luật,
bên cạnh đó, nó còn có những đặc điểm riêng. Quy trình áp dụng pháp luật
trong hoạt động giải quyết án hình sự của Toà án được thực hiện theo quy
định của Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng luật nội dung giải quyết vụ án hình sự
phải là BLHS. Việc áp dụng pháp luật trong hoạt động của Toà án luôn là mối
66
quan tâm của xã hội, đặc biệt là khi chúng ta đang tiến hành cải cách tư pháp
nhằm thực hiện tốt nhất công cuộc đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền.
BLTTHS năm 2015 đã có những quy định tiến bộ về bảo đảm tranh tụng
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự, nhìn chung các cơ quan tiến hành tố tụng còn chưa thực sự cập
nhật và áp dụng triệt để các quy định về tranh tụng để bảo đảm quyền con
người, quyền công dân trong hoat động tố tụng và hướng tới mục tiêu cuối
cùng là tìm ra sự thật khách quan của vụ án.
Thực tế cho thấy, quyền nhờ người khác bào chữa cho bị can vẫn chưa
được cơ quan tiến hành tố tụng thật sự tôn trọng, nhất là đối với cơ quan điều
tra. Trên thực tế, hầu hết các bị can, nhất là bị can đang bị tạm giam (kể cả các
trường hợp bị can theo quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS) đều không
được điều tra viên giải thích hoặc giải thích không đầy đủ về quyền được nhờ
người khác bào chữa, quyền được cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn
Luật sư chỉ định Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho mình. Cho nên,
trong thời gian chưa kết thúc điều tra vụ án, hầu hết các bị can đang bị tạm
giam đều không nhờ người khác bào chữa cho mình thông qua cơ quan điều
tra hay được cơ quan điều tra yêu cầu Văn phòng luật sư cử người bào chữa,
mặc dù họ đang có nhu cầu này (nếu họ có người bào chữa là do người khác
mời). Vì vậy, để khắc phục tình trạng này cần có quy định cụ thể về việc các
cơ quan tiến hành tố tụng phải giải thích cụ thể quyền này của bị can.
Có thể nhận định, mô hình tố tụng hiện tại của Việt Nam về cơ bản là mô
hình tố tụng thẩm vấn. Hiện diện trong suốt quá trình tố tụng là một hồ sơ vụ
án hình sự (sau đây gọi là “hồ sơ hình sự”) thống nhất được lập từ giai đoạn
điều tra và là nơi chứa đựng chứng cứ xác định tội phạm. Các cơ quan tiến
hành tố tụng, bao gồm Cơ quan điều tra, VKS và Toà án là những chủ thể
đóng vai trò chính trong toàn bộ quá trình tố tụng và chi phối toàn bộ mô hình
67
tố tụng. BLTTHS đã xác định một nguyên tắc rằng chính các cơ quan tiến
hành tố tụng, chứ không phải là chủ thể nào khác, phải là người xác định sự
thật khách quan của vụ án. Bộ luật cũng quy định các cơ quan này phải có
trách nhiệm xem xét các chứng cứ một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ,
bao gồm cả các chứng cứ xác định có tội và vô tội. Tuy nhiên, không ai trong
số các cơ quan này được pháp luật quy định một cách rõ ràng trách nhiệm
trực tiếp bảo vệ quyền cơ bản của bị can, bị cáo đang vướng vào vòng lao lý,
đặc biệt là trong giai đoạn điều tra và truy tố khi quyền cơ bản của bị can dễ
bị vi phạm nhất. Cơ quan Điều tra là người lập hồ sơ hình sự, sau đó hồ sơ
được chuyển sang VKS và Toà án để dựa vào đó các cơ quan này xem xét
việc truy tố và xét xử. Nếu nội dung bản luận tội của đại diện VKS tại phiên
tòa viện dẫn chứng cứ kết tội mà không tập trung nêu chứng cứ chứng minh
tội phạm dẫn đến tính thuyết phục của bản luận tội không cao. Có trường hợp
bản luận tội được chuẩn bị sẵn, không chú ý kết quả thẩm vấn công khai tại
phiên tòa để bổ sung vào lập luận trước đó. Tại cơ quan điều tra và khi thực
hiện việc phúc cung của Viện kiểm sát, bị cáo chỉ khai nhận một phần hành vi
vi phạm của mình. Nhưng do có đủ chứng cứ kết tội nên Kiểm sát viên đã xây
dựng bản luận tội theo hướng bị cáo ngoan cố, không thành khẩn nhận tội.
Trong phần xét hỏi tại phiên tòa, mặc dù bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn
bộ hành vi phạm tội phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, nhưng
do đề xuất tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo không đúng qui định của pháp luật,
áp dụng pháp luật chưa triệt để làm ảnh hưởng quyền lợi của bị cáo.
Thứ ba, một số hạn chế khác như: trình độ, kỹ năng của người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng; cơ sở vật chất…
Trong công tác xét xử vẫn còn một số hạn chế như: một số bản án sơ thẩm
nhận định, đánh giá áp dụng các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ TNHS chưa
chính xác, một số bản án còn bỏ sót, không áp dụng hết các tình tiết tăng nặng
68
hay giảm nhẹ TNHS với bị cáo; một số bản án xem xét trách nhiệm bồi
thường dân sự trong vụ án hình sự chưa chính xác... Việc tống đạt, triệu tập bị
cáo tại ngoại, người bị hại, người làm chứng… trong một số vụ án còn chưa
đảm bảo. Thẩm phán thiếu trách nhiệm, không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, bỏ
qua những tình tiết quan trọng của vụ án; Thẩm phán cẩu thả trong chuẩn bị
xét xử, xét xử thiếu trách nhiệm, xử cho xong, không tôn trọng quyền tranh
luận và ý kiến của các bên; vi phạm nghiêm trọng thủ tục TTHS.
Ví dụ, tại bản án sơ thẩm đối với bị cáo Nguyễn Văn M phạm tội “Trộm
cắp tài sản”, bị cáo bị bắt quả tang khi đang lén lút lấy ví của anh H, sau khi
bị bắt, bị cáo lại khai về hành vi trước đó đã 01 lần lấy trộm tiền của chị L.
Tuy nhiên bản án sơ thẩm chỉ áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần
đối với bị cáo mà không áp dụng tình tiết giảm nhẹ là tự thú cho bị cáo.
Hoặc tại bản án sơ thẩm đối với bị cáo Nguyễn Văn L và các đồng phạm
phạm tội “đánh bạc”, bị cáo và các đồng phạm bị bắt quả tang khi đang đánh
bạc tại nhà bị cáo, trong quá trình lấy lời khai, bị cáo khai nhận có nhận tiền
hồ của những người chơi và buổi tối khi vợ đi làm về thì anh đưa cho vợ là
chị Trần Thị T chỉ bảo để đóng tiền điện nhưng không nói rõ đó là tiền gì.
Tuy nhiên, bản án sơ thẩm lại tuyên chị Trần Thị T phạm tội gá bạc mà chưa
xác định rõ thời điểm chị T nhận tiền của chồng đưa là khi nào, có biết tiền đó
ở đâu ra không, có biết nhóm các đối tượng chơi đánh bạc tại nhà mình hay
không.
Tại bản án sơ thẩm số 20/2018/HS-ST, vụ án chị Vũ Thị L phạm tội “lừa
đảo chiếm đoạt tài sản”, tại Cơ quan điều tra bị cáo nhận tội nhưng tại phiên
tòa bị cáo không nhận tội với lý do người bị hại xúi giục, đồng thời đưa ra
một số vấn đề chưa rõ ràng trong vụ án và có dấu hiệu người bị hại có thề là
người lừa bị cáo. Tuy nhiên, Chủ tọa phiên tòa đã lấy bản cung tại cơ quan
điều tra đọc và giải thích với bị cáo việc bị cáo nhận tội sẽ được hưởng tình tiết
69
giảm nhẹ là thành khẩn khai báo. Khi những người biết sự việc có mặt tại phiên
tòa xin trình bày nội dung liên quan đến vụ án thì Chủ tọa phiên tòa không cho
phép phát biểu với lý do những người này không được Tòa án triệu tập đến
phiên tòa. Kết quả chị Vũ Thị L bị tuyên 02 năm tù về tội “lừa đảo chiếm đoạt
tài sản”, sau đó chị đã kháng cáo lên Tòa án cấp tỉnh và vụ án đã được xét xử
lại.
Ngoài ra, còn những sai lầm trong một số bản án khi xét xử bị cáo là
người dưới 18 tuổi nhưng không có người đại diện hợp pháp của bị cáo hoặc
nhà trường tham gia đã làm ảnh hưởng đến quyền bào chữa cho bị cáo quyền
được bào chữa, được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình qua quá
trình tranh tụng tại phiên tòa. Những bản án vi phạm đều đã bị hủy theo quy
định của pháp luật. Thực tế tại phiên tòa có Thẩm phán còn giải thích những
tình tiết về nội dung vụ án đối với những người tham gia tố tụng khác, đây là
một nguyên nhân làm cho việc xét xử một số vụ án thiếu khách quan, không
đảm bảo dân chủ và cũng là cái cớ để những người tham gia phiên tòa cho
rằng Tòa án và VKS là một, việc xét xử chỉ là hình thức còn kết quả đã được
định sẵn.
Thực tiễn còn tồn tại thiếu sót của Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa là khi
xét hỏi bị cáo thường thẩm vấn theo hướng buộc tội như cáo trạng của VKS,
giúp Kiểm sát viên bảo vệ cáo trạng, việc xét hỏi tại phiên toà chưa thực sự
đổi mới theo tinh thần cải cách tư pháp, chưa bảo đảm yếu tố tranh tụng trong
xét xử. Không ít trường hợp Kiểm sát viên tham gia phiên tòa trong suốt thời
gian xét hỏi không hỏi một câu nào mà chỉ đọc cáo trạng rồi ngồi xem HĐXX
hỏi, hoạt động xét hỏi chủ yếu vẫn do HĐXX thực hiện, khi HĐXX hỏi xong
và hỏi Kiểm sát viên có hỏi gì không thì Kiểm sát viên không hỏi gì thêm nữa
vì thấy những vấn đề HĐXX hỏi đã đủ. Rõ ràng, Kiểm sát viên đã không ý
thức được mình là một bên của quá trình tranh tụng tại phiên tòa, việc xét hỏi
70
và tranh luận không phải của HĐXX. Có những vụ án, VKS không tham gia
vào việc xét hỏi hoặc có xét hỏi nhưng không đúng vào nội dung chính, hỏi
những câu hỏi mà HĐXX đã hỏi trước đó. Đối với những vụ án có Luật sư
chỉ định thì việc tham gia xét hỏi của Luật sư cũng mang tính hạn chế, cầm
chừng. Trong những trường hợp như vậy, lẽ ra với vai trò là người trọng tài
điều khiển hoạt động tranh tụng, HĐXX phải nhắc nhở Kiểm sát viên không
được lặp lại những câu hỏi trước đó, hoặc đề nghị Luật sư hỏi những câu hỏi
liên quan đến vấn đề mình bào chữa thì HĐXX lại cho qua, xem việc dành
thời gian cho Kiểm sát viên, Luật sư đặt câu hỏi là một thủ tục mang tính hình
thức cần phải có, không cần quan tâm đến nội dung vấn đề cũng như kết quả
đạt được khi dành thời gian cho Kiểm sát viên, Luật sư đặt câu hỏi bởi lẽ mọi
tình tiết, sự kiện của vụ án đã được Toà án thẩm tra, làm rõ trước đó. Trong
những trường hợp như vậy, Toà án vô hình chung đã tự đặt gánh nặng lên vai
mình, tự mình “lấn sân” của bên buộc tội hoặc bên gỡ tội. Điều này đã hạn
chế Toà án trong việc thực hiện chức năng xét xử, không phát huy được tính
chủ động, tích cực của các bên tranh tụng, do vậy kết quả giải quyết vụ án chủ
yếu phụ thuộc vào HĐXX, các phán quyết về vụ án có thể không đảm bảo
tính khách quan, đầy đủ và chính xác.
Thực tiễn không ít cơ quan, người tiến hành tố tụng cho rằng tranh tụng
tại phiên tòa là tại phần tranh luận, các bên tranh luận công khai tại phiên tòa
với sự tham gia đầy đủ của các bên (bên buộc tội và bên gỡ tội). Do nhận thức
như vậy nên quá trình tiến hành tố tụng tại phiên tòa nhiều Thẩm phán – Chủ
tọa phiên tòa chỉ thực sự tạo điều kiện đảm bảo sự công bằng, dân chủ cho
các bên trong giai đoạn tranh luận, còn các giai đoạn trước đó như bắt đầu
phiên tòa, giai đoạn xét hỏi thì Chủ tọa phiên tòa thường đóng vai trò chủ
chốt, vài trò của Kiểm sát viên và nhất là của người bào chữa rất mờ nhạt.
Thực tiễn cũng có trường hợp Luật sư đề nghị triệu tập thêm người làm chứng
71
nhưng nếu người làm chứng đó đã có lời khai trong hồ sơ thì thường bị
HĐXX không chấp nhận. Trong giai đoạn xét hỏi, vai trò chính vẫn là Thẩm
phán – Chủ tọa phiên tòa.
Ngoài ra, bản án của nhiều vụ án còn chưa thể hiện được đầy đủ, cô đọng
những vấn đề đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án không được chuẩn bị
kỹ, nội dung những nhận định, đánh giá của HĐXX qua tranh tụng chưa được
đưa vào làm căn cứ để quyết định, án văn viết vẫn không đúng mẫu, chất
lượng án tuy có được nâng lên nhưng một số Thẩm phán viết án vẫn chưa đạt
yêu cầu trong tình hình hiện nay, Bản án, quyết định của HĐXX trong nhiều
trường hợp vẫn còn hạn chế, nhất là lập luận chấp nhận hoặc không chấp nhận
quan điểm của người bào chữa, nhiều trường hợp đánh giá một cách chung
chung. Ví dụ vẫn còn Bản án ghi: “chấp nhận một phần ý kiến của Luật sư”
mà không ghi rõ một phần ý kiến là ý kiến gì, như thế nào.
Về sự tham gia của Luật sư trong tranh tụng tại phiên tòa, qua Bảng thống
kê 3.2.2 cho thấy số lượng vụ án có Luật sư tham gia còn chiếm tỉ lệ nhỏ
(khoảng từ 18% đến 20 % tổng số vụ án có Luật sư tham gia theo chỉ định và
khoảng từ 4% đến 7% tổng số vụ án có Luật sư tham gia theo yêu cầu). Trong
số các vụ án có Luật sư tham gia, phần lớn là những vụ án cần phải có sự
tham gia của Luật sư và Tòa án tiến hành chỉ định Luật sư cho các bị cáo và
những Luật sư được chỉ định này thường chỉ chuẩn bị sẵn một bản luận cứ để
trình bày tại phiên tòa mà không hoặc ít có ý kiến tranh luận đối đáp tại phiên
tòa. Luật sư ít tham gia vào tranh tụng, số lượng Luật sư được bị cáo mời
chiếm tỉ lệ quá nhỏ chứng tỏ chất lượng tranh tụng chưa đạt được yêu cầu đặt
ra trong chiến lược nâng cao tranh tụng tại phiên tòa.
72
3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế bảo đảm tranh tụng trong xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự
Trong tất cả những nguyên nhân dẫn đến việc tranh tụng tại phiên toà
không đúng với tinh thần tranh tụng nổi lên một nguyên nhân cơ bản đó là
yếu tố con người. Hiện nay còn có những trường hợp mà năng lực, phẩm chất
của Thẩm phán, Kiểm sát viên, Hội thẩm nhân dân không đạt yêu cầu. Trong
đó vấn đề cơ bản nhất là ý thức trách nhiệm, bản lĩnh chính trị và nghề nghiệp
của một số người tiến hành tố tụng chưa cao, một số khác thì sa sút về phẩm
chất đạo đức, không chịu rèn luyện bản lĩnh chính trị và nghề nghiệp. Chất
lượng Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phụ thuộc rất nhiều vào
việc họ tự học tập nâng cao trình độ, nhưng còn có những người không chịu
học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, vì vậy có những sai sót
trong công tác. Đặc biệt về đội ngũ Kiểm sát viên hiện nay trình độ cao đẳng
và trình độ trung cấp là rất phổ biến, như vậy về trình độ chuyên môn là chưa
đảm bảo.
Trong quá trình xét xử, chất lượng phụ thuộc rất nhiều vào vai trò điều
khiển của Thẩm phán Chủ toạ phiên toà, vai trò chủ động xét hỏi tranh luận
của Kiểm sát viên. Do đó đòi hỏi họ phải vừa là người có cái tâm trong sáng
đồng thời vừa là người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng.
Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế không chỉ có những người tiến hành
tố tụng mà đội ngũ Luật sư thiếu về số lượng và hạn chế về chất lượng, mà
tình hình huyện Văn Lâm cho thấy như đã phân tích ở trên là một minh
chứng. Mặt khác, Luật sư tham gia bào chữa còn nặng về khai thác các tình
tiết gỡ tội, giảm nhẹ nên các bài bào chữa của họ cũng ít quan tâm tới việc
làm rõ các tình tiết của vụ án một cách đầy đủ, toàn diện; thậm chí có những
Luật sư có việc làm không trong sáng, làm lộ bí mật điều tra hòng chạy tội
cho bị can, bị cáo. Chính những biểu hiện, việc làm của Luật sư đã tự cản trở
73
việc thực hiện quy định người bào chữa tham gia tố tụng kể từ khi khởi tố vụ
án và tiếng nói của Luật sư bào chữa trong một vài vụ án chưa được người
dân đồng tình, coi trọng.
Bên cạnh đó, dù nguyên tắc bảo đảm tranh tụng đã được ghi nhận chính
thức trong Hiến pháp cũng như BLTTHS nhưng nhận thức của cơ quan tiến
hành tố tụng, những người trực tiếp tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
còn chưa thấy được ý nghĩa, vai trò cả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa,
chưa nắm vững tinh thần tranh tụng tại phiên tòa nên quá trình triển khai hoạt
động tranh tụng tại phiên tòa chưa theo một quy trình chặt chẽ, chưa có sự
nhận thức thống nhất về bản chất, cách thức và phạm vi của vấn đề tranh
tụng, dẫn đến chất lượng tranh tụng phần nào bị hạn chế.
Hơn nữa, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở cho tranh
tụng còn chưa hoàn thiện, có nhiều vướng mắc chưa kịp thời được hướng
dẫn. Chưa có cơ sở pháp lý cho hoạt động tranh tụng như: Quy định về quyền
và nghĩa vụ của Kiểm sát viên, Luật sư bào chữa tại phiên toà; quy định về
trách nhiệm của Hội đồng xét xử, của Thẩm phán trong việc đảm bảo cho
hoạt động tranh tụng; trách nhiệm hoặc chế tài của luật sư bào chữa tại phiên
tòa; quy định về văn hoá pháp lý. Các quy định pháp luật về nội dung có liên
quan đến các vấn đề đưa ra tranh tụng như: Quy định của pháp luật hình sự và
văn bản hướng dẫn làm cơ sở đánh giá về vụ án. Hiện nay còn rất nhiều quy
định của Bộ luật hình sự còn có vướng mắc nhưng chưa được cấp có thẩm
quyền hướng dẫn, do vậy khi tranh tụng, giữa Kiểm sát viên với người bào
chữa vẫn có những quan điểm khác nhau.
Ngoài những nguyên nhân về yếu tố con người nói trên còn một số
nguyên nhân khác cũng ảnh hưởng tới bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự như:
74
- Thực tiễn công tác xét xử gặp vướng mắc trong việc áp dụng các quy
định của pháp luật, đặc biệt là các văn bản quy phạm pháp luật mới liên quan
tới hoạt động của hệ thống TAND chưa được hướng dẫn áp dụng pháp luật
kịp thời, đầy đủ làm ảnh hưởng nhất định tới chất lượng, hiệu quả hoạt động
trên thực tế.
- Tổ chức bộ máy của các cơ quan bổ trợ tư pháp không đủ lớn mạnh,
không đúng tầm với nhiệm vụ, nên đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực đó còn
thiếu, trình độ của nhiều người còn hạn chế không đảm bảo hoàn thành được
một cách tốt nhất nhiệm vụ được giao.
- Chế độ chính sách đối với cán bộ tư pháp nói chung và cán bộ ngành
Toà án nói riêng còn quá hạn chế. Nhìn chung các cán bộ Toà án và Thẩm
phán ở các nước phát triển luôn có chế độ lương cao hơn so với các công
chức khác trong cơ quan nhà nước.
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị của ngành Toà án phần lớn đã xuống cấp,
lạc hậu, chưa có nguồn kinh phí thường xuyên cho việc đầu tư cơ sở vật chất,
trang bị phương tiện làm việc và bảo đảm phù hợp với tranh tụng và cho hoạt
động thường xuyên của ngành Tòa án. Chế độ tiền lương và chính sách đãi
ngộ đối với cán bộ, công chức Tòa án chưa phù hợp với tính chất đặc thù của
hoạt động xét xử. Trong khi số lượng án hàng năm phải giải quyết rất lớn thì
trụ sở làm việc của các Toà án lại quá chật hẹp, xuống cấp, thậm chí còn phải
đi thuê. Toà án thường được coi là biểu tượng công lý, biểu tượng của pháp
luật nhưng có Toà án phải thuê trụ sở làm việc, xét xử ở những khuôn viên
không đảm bảo uy nghiêm.
75
3.3. Một số giải pháp đảm bảo tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự tại huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.
3.3.1. Hoàn thiện nguyên tắc “tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”.
Mặc dù bảo đảm tranh tụng là một nguyên tắc hiến định và Bộ luật TTHS
năm 2015 đã dành hẳn một điều để quy định về nguyên tắc này (Điều 26). Đó
là một nguyên tắc cơ bản xuyên suốt các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ
án hình sự. Tuy nhiên, quá trình thực hiện vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất
định. Để khắc phục một số hạn chế đã nêu trong các phần trên, cần thiết phải
có một số giải pháp sau đây:
Một là, về mặt kỹ thuật lập pháp trong tương lai cần sửa đổi điều luật theo
hướng quy định các quyền năng của chủ thể gỡ tội là quyền chủ động, không
bị phụ thuộc bởi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Xác định rõ trách
nhiệm của các cơ quan, người tiến hành tố tụng trong việc thông báo, giải
thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ
quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của
BLTTHS năm 2015.
Hai là, Cần có quy định cụ thể về việc Toà án tiến hành xác minh, thu
thập bổ sung chứng cứ. Điều 252 BLTTHS quy định về việc Toà án được
quyền xác minh thu thập, bổ sung chứng cứ… đây vấn đề mới, lần đầu tiên
được đưa vào Bộ luật TTHS, qua đó nhằm nâng cao tính chủ động trong việc
thu thập chứng cứ của Toà án. Tuy vậy, Hội đồng Thẩm phán TANDTC cần
ban hành Nghị quyết hướng dẫn riêng về việc Toà án xác minh, thu thập, bổ
sung chứng cứ. Theo đó, quy định cụ thể về những loại việc và trình tự, thủ
tục Toà án xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ.
Ba là, cần thay đổi tư duy, nhận thức của những người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng, xây dựng cơ chế bảo đảm cho mọi bản án, quyết định của Tòa
án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng
76
tại phiên tòa. Nghiêm túc loại bỏ tình trạng “án bỏ túi” vẫn còn tồn tại trong
thực tế đời sống.
Bốn là quy định các nội dung bảo đảm các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng có nghĩa vụ tạo điều kiện cho người bào chữa tham
gia tố tụng thực hiện quyền bào chữa của họ, quy định cụ thể những trường
hợp người bào chữa không được tham gia hoặc hạn chế sự tham gia của họ
vào các hoạt động tố tụng do yêu cầu của việc việc giải quyết vụ án hình sự.
Bên cạnh đó, cần phải vận dụng những quy định tiến bộ của các nước trên
thế giới khi quy định quyền im lặng của người bị buộc tội. Quá trình lấy lời
khai hay hỏi cung bị can, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cần thiết
phải giải thích cho người bị buộc tội hiểu rằng họ không buộc phải đưa ra lời
khai chống lại mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.
3.3.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật bảo đảm tranh tụng trong
xét xử
Để nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên toà, bên cạnh việc
hoàn thiện nguyên tắc “bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa” cần hoàn thiện, bổ
sung những qui định khác nhằm cụ thể hoá những quy định về tranh tụng tại
phiên toà, tạo ra cơ chế thích hợp và hiệu quả cho quá trình tranh tụng trong
xét xử, đó là:
- Việc sửa đổi các quy định về thủ tục xét hỏi cần theo hướng Toà án là
chủ thể điều hành phiên toà, điều hành việc xét hỏi, tranh luận của các bên và
quyết định của HĐXX dựa trên kết quả xét hỏi và tranh luận tại phiên toà.
Mặt khác, trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nên chỉ giữ vai trò
là “trọng tài điều khiển” tranh tụng tại phiên tòa giữa đại diện Viện Kiểm sát
với người bào chữa (luật sư) và bị cáo, các bên tranh tụng thực hiện trách
nhiệm chứng minh và tiến hành xét hỏi là chủ yếu. Theo quy định pháp luật
hiện hành về việc xét hỏi tại phiên toà cho thấy, việc xét hỏi được thực hiện
77
chủ yếu bởi HĐXX, việc làm rõ những tình tiết dùng làm chứng cứ để truy tố
bị cáo phụ thuộc vào HĐXX, mặc dù đây chính là nhiệm vụ của VKS trong
thủ tục xét hỏi. Vì vậy, trong các điều luật về xét hỏi, cụ thể là Khoản 2 Điều
307 BLTTHS 2015 cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng sau: “Khi xét hỏi
từng người, KSV hỏi trước rồi đến người bào chữa, người bảo vệ quyền,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Người tham gia tố tụng tại phiên toà có quyền
đề nghị chủ toạ phiên toà hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ… Hội
đồng xét xử chỉ hỏi khi thấy còn những điểm chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc có
mâu thuẫn”. Sửa đổi theo hướng này là phù hợp với vị trí, trách nhiệm của
từng chủ thể tại phiên toà và phù hợp với nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
đã được Hiến pháp quy định.
- Cần loại bỏ những trách nhiệm, nghĩa vụ tố tụng không thuộc chức năng
xét xử của tòa án để bảo đảm chất lượng tranh tụng trong xét xử:
Thứ nhất, nguyên tắc trách nhiệm khởi tố vụ án và xử lý vụ án hình sự
(Điều 18 BLTTHS năm 2015). Nguyên tắc này quy định trách nhiệm khởi tố
vụ án hình sự thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Tuy nhiên,
nếu phải thực thi trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự liệu có ảnh hưởng đến
chức năng xét xử của Tòa án và có lấn sân sang chức năng công tố không. Vì
vậy, không nên quy định thẩm quyền khởi tố vụ án cho Tòa án, trong trường
hợp phát hiện tội phạm mới khi xét xử tại phiên tòa, Tòa án có thể kiến nghị
để Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố.
Thứ hai, nguyên tắc “xác định sự thật của vụ án” (Điều 15 Bộ luật Tố
tụng hình sự 2015). Nguyên tắc này quy định “Trách nhiệm chứng minh tội
phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng
không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Theo đó, trách nhiệm chứng
minh tội phạm thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Tuy nhiên,
chức năng, thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng đã được phân rõ thì
78
nên bỏ trách nhiệm chứng minh tội phạm của Tòa án do trách nhiệm
này thuộc chức năng của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát. Mặt khác, việc phải
chứng minh tội phạm sẽ ảnh hưởng tới tính khách quan của Tòa án khi ra bản án
và phán quyết của mình, đồng thời thêm chức “trọng tài anh minh”, “người cầm
cân nảy mực” của Tòa án dễ bị hiểu sai lệch.
- Quyền bào chữa của bị can, bị cáo đã có nhiều đổi mới trong Luật
TTHS 2015 hiện hành nhằm đáp ứng được yêu cầu bình đẳng giữa bên buộc
tội và bên gỡ tội theo hướng bảo đảm hơn nữa quyền bình đẳng của luật sư
trước và trong phiên tòa để họ có thể tranh tụng dân chủ, bình đẳng với bên
buộc tội. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành chưa chú ý xây dựng
các quy định tạo ra các cơ chế, điều kiện để thực hiện quyền bình đẳng ấy. Do
đó, tác giả đề xuất cần quy định thêm các nội dung như: Quyền được thu thập,
xuất trình chứng cứ; quyền hỏi nhân chứng, bác bỏ nhân chứng do phía buộc
tội đưa ra; quyền tranh luận, đối đáp bình đẳng với bên buộc tội...
- Điều 88, BLTTHS 2015 quy định: “Để thu thập chứng cứ, người bào
chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và
những người biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên
quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ
liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa”. Theo ý kiến tác giả nên mở rộng
quyền thu thập chứng cứ cho người bào chữa, cụ thể theo hướng: “Để thu
thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại,
người làm chứng và những người biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày, có
quyền được ghi lời khai, ghi âm, ghi hình việc hỏi những người này… Những
phương thức trên được dùng làm chứng cứ tham gia tranh tụng tại phiên toà”.
Quy định này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa thu thập chứng cứ
và tranh tụng tại phiên toà.
79
- Chức năng bào chữa là một chức năng quan trọng trong quá trình tố
tụng, đây là trách nhiệm nghề nghiệp đồng thời cũng là nghĩa vụ của luật sư
trước bị can, bị cáo. Tuy nhiên trong Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản
pháp luật hiện hành chưa xác định rõ tư cách tố tụng của luật sư bào chữa trong
tranh tụng và nghĩa vụ pháp lý của luật sư trước bị can, bị cáo; các tiêu chuẩn
về trình độ chuyên môn, năng lực và sức khỏe đối với những người hành nghề
luật sư cũng chưa được quy định chặt chẽ. Điều đó làm hạn chế đến khả năng
thực hiện chức năng và nghĩa vụ của luật sư trong quá trình tranh tụng. Cần
thiết phải quy định rõ luật sư, bị cáo là một bên tranh tụng bình đẳng trong suốt
quá trình xét xử.
Trong Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật khác cần quy
định rõ trách nhiệm pháp lý của luật sư bào chữa trước bị can, bị cáo trong
những trường hợp luật sư không làm tròn nghĩa vụ và chức năng nghề nghiệp
của mình là bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Trách
nhiệm đó phải là trách nhiệm vật chất dân sự: như phải hoàn trả lại cho thân
chủ tiền thù lao đã nhận và bị phạt một khoản tiền nào đó hoặc là trách nhiệm
kỷ luật - hành chính trước tổ chức đoàn luật sư (phê bình, cảnh cáo, tạm đình
chỉ hành nghề có thời hạn...) thậm chí cả trách nhiệm hình sự nếu để xảy ra
hậu quả nghiêm trọng ví dụ như bị cáo bị xử phạt oan, bị can bị bắt giam
trái pháp luật mà luật sư không can thiệp bảo vệ kịp thời dẫn đến bị can tự
tử hoặc bị dùng nhục hình dẫn đến chết người..) với hình phạt bổ sung cấm
hành nghề luật sư.
3.3.3. Nâng cao trình độ, kỹ năng của những người tiến hành tố tụng
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên
Mọi sự thay đổi, cải cách bảo đảm tăng cường tính tranh tụng tại phiên
tòa, vấn đề quyết định vẫn là con người. Nếu trình độ, năng lực, kinh nghiệm
nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán, Công tố viên, Điều tra viên và Luật sư
80
như hiện nay thì mục tiêu cải cách sẽ không đạt được. Vì vậy, việc tiêu chuẩn
hóa đội ngũ này cần phải tiến hành đồng bộ với quá trình cải cách tư pháp
theo một lộ trình hợp lý.
- Nâng cao kĩ năng điều khiển tranh tụng đối với Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân: Đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay, Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân cần có nhận thức thống nhất về khái niệm, nội dung và ý nghĩa
của thuật ngữ “tranh tụng” là nguyên tắc của TTHS theo tinh thần cải cách tư
pháp. Thẩm phán và Hội thẩm cần phải ý thức được rằng mình chính là người
trọng tài vô tư, khách quan điều khiển quá trình tranh tụng giữa các bên tại
phiên tòa. HĐXX cần luôn nhận thức được rằng “bản án chỉ căn cứ vào
những chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa”, tất cả tài liệu trong hồ sơ và
các vấn đề đều phải thẩm tra tại phiên tòa, trong khi xét hỏi phải “thoát ra
khỏi hồ sơ” để đưa ra những bản án, quyết định có sức thuyết phục. Hiện nay
công tác tập huấn trực tuyến cho các Thẩm phán ở tất cả hệ thống tòa án 02
cấp ở địa phương vẫn thường xuyên được thực hiện, tuy nhiên chưa có những
nội dung tập huấn tập trung về bảo đảm tranh tụng, do vậy các Thẩm phán,
Thư ký Tòa án còn chưa thực sự nắm rõ và có kinh nghiệm về hoạt động tố
tụng đảm bảo yếu tố tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự. Do đó Tòa án
nhân dân tối cao cần có những thay đổi về nội dung tập huấn liên quan đến
vấn đề này để đảm bảo tăng cường kiến thức, kỹ năng về tranh tụng cho đội
ngũ cán bộ Tòa án. Bên cạnh đó, cần thường xuyên tổ chức các khóa tập huấn
nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất chính trị, đạo đức của
đội ngũ Hội thẩm nhân dân; tăng cường bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng điểu
khiển tranh tụng, phổ biến các văn bản pháp luật mới cho Hội thẩm nhân dân.
- Tăng cường biên chế Thẩm phán, Thư ký Tòa án để đáp ứng nhu cầu
giải quyết án. Trình độ, năng lực của Thẩm phán dù có giỏi đến đâu nhưng số
lượng không đủ, công việc quá tải, áp lực công việc đè nặng thì hiệu quả chắc
81
chắn không cao. Do vậy cần thường xuyên quan tâm công tác đào tạo, bồi
dưỡng để nâng cao năng lực, trình độ cho Thẩm phán trước và sau khi bổ
nhiệm, công việc này cần tiến hành thường xuyên.
- Đối với kiểm sát viên, ngoài kiến thức về kiểm sát điều tra thì phải có
kiến thức điều tra và chỉ huy điều tra; năng lực, trình độ, kinh nghiệm xét hỏi,
tranh luận tại phiên tòa.
- Đối với Điều tra viên (là người trực tiếp thực hiện việc điều tra tội
phạm) thì ngoài kiến thức pháp luật cần phải giỏi về nghiệp vụ điều tra, khám
phá tội phạm, hiểu và sử dụng thành thạo các quy định của BLTTHS về hoạt
động điều tra, thu thập chứng cứ.
- Đối với Luật sư, cần tăng về số lượng nhất là những địa bàn cách xa
thành phố như huyện Văn Lâm, cả huyện chỉ có duy nhất 01 văn phòng luật
sư và chỉ có 02 luật sư có chứng chỉ hành nghề thì không thể đáp ứng được
yêu cầu tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án, bảo đảm được quyền của
bị can, bị cáo. Đồng thời với việc tăng cường số lượng cần quan tâm đến chất
lượng, chế độ đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, thi tuyển phải bảo đảm các tiêu
chuẩn về năng lực và đạo đức nghề nghiệp của Luật sư. Cần có quy định bảo
vệ Luật sư khi hành nghề, đồng thời xử lý nghiêm minh đối với Luật sư vi
phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp.
3.3.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến về việc thực hiện bảo
đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại huyện Văn Lâm,
tỉnh Hưng Yên
Việc tăng cường ý thức pháp luật trong nhân dân có tầm ý nghĩa rất quan
trọng trong việc nhận thức và thực hiện các quy định của pháp luật. Trên địa
bàn huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, có thể nói trình độ dân trí khá cao,
người dân cơ bản đều có ít nhiều kiến thức về pháp luật. Tuy nhiên, yếu tố
tranh tụng khi xét xử thì chưa được nhiều người hiểu rõ, cũng chưa biết
82
những bảo đảm tranh tụng trong xét xử, do đó khi bị buộc tội còn chưa nắm
rõ được những quyền lợi của mình. Nhiều người không có niềm tin vào các
cơ quan tiến hành tố tụng, do đó có những nhận thực lệch lạc. Vì vậy, bằng
việc nâng cao nhận thức của người dân về vai trò của Toà án, người bào chữa,
Kiểm sát viên, các nguyên tắc bảo đảm tranh tụng… cũng góp phần nâng cao
chất lượng của hoạt động tranh tụng tại phiên toà. Để thực hiện được điều đó
thì công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của quá trình thi
hành pháp luật và có ý nghĩa, vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng cường
pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân.
Do vậy cần tuyên truyền về các đường lối, quan điểm của Đảng về cải
cách tư pháp, nhất là việc tổ chức phiên tòa xét xử theo tinh thần cải cách tư
pháp, đảm bảo bình đẳng giữa các bên (bên buộc tội và bên gỡ tội), Tòa án
đóng vai trò trọng tài trung gian điểu khiển tranh tụng và đưa ra phán quyết
dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Bên cạnh đó cần thực hiện việc đẩy
mạnh tuyên truyền pháp luật nói chung và pháp luật về hình sự, TTHS nói
riêng để người dân hiểu về những quyền và nghĩa vụ của mình. Cần tuyên
truyền cho người tham gia tranh tụng biết về quyền tự bào chữa cho mình,
nếu họ không có khả năng đó thì nhất thiết phải được sự trợ giúp của Luật sư.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có vai trò hết sức
quan trọng. Nó chính là cơ chế tối ưu nhất để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, nguyên đơn, bị đơn dân
sự, đảm bảo việc truy tố, xét xử ra phán quyết đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật. Tuy nhiên để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động tranh tụng
trong xét xử sơ thẩm nói chung, cụ thể trên địa bàn huyện Văn Lâm, tỉnh
Hưng Yên nói riêng, tác giả đã đánh giá khái quát bảo đảm tranh tụng trong
83
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thông qua số liệu số vụ án, số bị cáo và số vụ án
có luật sư tham gia trong thời gian 05 năm gần đây từ năm 2016 đến năm
2020. Qua đó phân tích được những bất cập, hạn chế của tình hình thực hiện
bảo đảm tranh tụng trong xét xử tại Tòa án huyện, đồng thời phân tích những
nguyên nhân gây ra sự bất cập, hạn chế đó. Tác giả cũng đã nghiên cứu và
đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa yếu tố bảo đảm tranh tụng
trong xét xử, từ việc hoàn thiện các quy định của nguyên tắc tranh tụng được
bảo đảm, hoàn thiện các quy định khác của pháp luật nhằm hỗ trợ, đảm bảo
nguyên tắc này, tới việc hoàn thiện về con người – những người trực tiếp tiến
hành tố tụng, nắm quyền điều tra, công tố, xét xử; tuyên truyền cho người dân
hiểu về bảo đảm tranh tụng, để có cái nhìn toàn diện và sâu sắc, tăng cường
pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân.
84
KẾT LUẬN
Qua những nội dung đã phân tích trong các chương của luận văn, có thể
thấy vai trò quan trọng của việc bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự, nó là cơ chế tối ưu nhất để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị cáo,
đảm bảo việc truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo
quyền con người trong TTHS, góp phần khắc phục tình trạng để xảy ra oan,
sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm không chỉ
là yêu cầu của việc bảo đảm tính dân chủ, công bằng giữa những người tham
gia tố tụng với Viện kiểm sát mà kết quả tranh tụng tại phiên tòa là căn cứ để
Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các đương sự xác định sự thật vụ án. Trong bối cảnh Việt
Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số
08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trong tâm công tác
tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề
ra yêu cầu "Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất
lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là hoạt động đột phá
của các cơ quan tư pháp" và Nghị quyết số 37/2012/HQ13 ngày 23/11/2012
của Quốc Hội cũng yêu cầu Tòa án nhân dân tối cao chỉ đạo các Tòa án tiếp
tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa; đảm bảo việc giải quyết, xét xử và
ra bản án, quyết định đúng pháp luật. Do đó luận văn đã nêu được những vấn
đề nổi trội như: Những vấn đề lý luận về bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự; Quy định của pháp luật từ trước khi có BLTTHS năm
2015 đến khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực; Thực tiễn và một số giải pháp
85
bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại huyện Văn Lâm,
tỉnh Hưng Yên.
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một vấn đề lớn
trong luật TTHS. Tính phức tạp và nhiều mặt về nội dung, về sự thể hiện của
nó không chỉ ở giai đoạn xét xử đã là những khó khăn cho những người
nghiên. Vì nhiều lý do, đề tài này chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu một
cách triệt để và toàn diện tất cả những vấn đề đang được thực tiễn xây dựng
và áp dụng pháp luật đặt ra. Những kết quả khiêm tốn của đề tài này hy vọng
sẽ đóng góp một phần nhỏ bé về mặt lý luận và thực tiễn trong việc hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự, góp
phần thực hiện thành công công cuộc cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước
ta đề ra.
86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành trung ương Đảng (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW
ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới", Hà Nội;
2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 48/NQ-TW ngày 24/5/2005;
3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005;
4. Bộ Tư pháp, Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, NXB từ
điển bách khoa, NXB Tư pháp;
5. Bộ luật tố tụng hình sự cộng hòa liên bang Đức,
http://tks.edu.vn/law/detail/1027_0_Bo-luat-to-tung-hinh-su-Cong-hoalien-
bang-Duc.html
6. Bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản,
http://tks.edu.vn/law/detail/1280_0_Bo-luat-to-tung-hinh-su-Nhat-Ban.html
7. Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội;
8. Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội;
9. Đinh Văn Quế (2015), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015,
NXB Thông tin và truyền thông.
10. Hoàng Phê (chủ biên) (1991), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Khoa
học xã hội;
11. Lê Văn Cảm (chủ biên) (2003), Giáo trình luật hình sự Việt Nam
(phần riêng), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội;
12. Lê Cảm và Nguyễn Ngọc Chí (2004), Cải cách tư pháp ở Việt Nam
trong giai đoạn xây dựng Nhà nước Pháp quyền, Nhà xuất bản đại học Quốc
Gia Hà Nội;
87
13. Michel Bogdan (2002), Luật so sánh, Xưởng in Trung tâm học liệu,
Đại học Sư phạm Hà Nội;
14. Nguyễn Ngọc Chí (2018), Giáo trình các nguyên tắc cơ bản của luật tố
tụng hình sự, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội;
15. Nguyễn Ngọc Kiện (2019), Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm, Nxb Tư pháp;
16. Ngô Huy Cương (2002), “Đổi mới hoạt động xét xử theo nguyên tắc
tranh tụng”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Hà Nội;
17. Nhà pháp luật Việt - Pháp (1997), Tố tụng hình sự và vai trò của Viện
công tố trong tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
18. Nguyễn Mạnh Tiến (2005), “Bàn về một số quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự về tranh tụng tại phiên tòa”, Tạp chí Tòa án nhân dân;
19. Nguyễn Văn Trượng (2008), “Bàn về vần đề tranh tụng và các yếu tố
tranh tụng trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Tòa án nhân
dân.
20. Nguyễn Thúc Linh (1972), Từ điển Luật học diễn giải, Nxb Khai Trí,
Sài Gòn;
21. Phương hướng hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, Tạp chí
Tòa án nhân dân (kỳ 1&2 tháng 12);
22. Phạm Văn Phiếm (2015), Tranh tụng trong xét xử theo luật tố tụng hình sự
Việt Nam trên số liệu thực tiễn tỉnh Đăk Nông, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa luật
Đại học quốc gia Hà Nội;
23. Phan Lan (2002), Mỹ - tranh tụng khi xét xử tại toà, Báo pháp luật
Thành phố Hồ Chí Minh, số ra ngày 21/10/2002;
24. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003, Hà
Nội;
88
25. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam (sửa đổi năm 2013), Hà Nội;
26. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Hà Nội;
27. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hà Nội;
28. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Luật tố tụng hình sự,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
29. Đại học Luật Hà Nội (2011), Bộ luật hình sự Liên bang Nga, NXB
Công an nhân dân, Hà Nội.
30. Trần Thị Bích Thủy (2017), Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét
xử các vụ án hình sự từ thực tiễn xét xử thành phố Hồ Chí Minh; Luận văn
thạc sỹ luật học, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội;
31. Trần Văn Độ (2004), "Bản chất của tranh tụng tại phiên tòa", Tạp chí
khoa học pháp lý;
32. Tống Anh Hào (2003), “Về tranh tụng tại phiên tòa hình sự”, Tạp chí
Tòa án nhân dân;
33. Trần Duy Bình (2012), Thực trạng và một số kiến nghị nhằm nâng
cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự theo tinh thần cải cách tư
pháp,http://www.toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/Baiviet?p_page_id=
&p_cateid=1751909&article_details=1&item_id=11719754
34. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (1999), chuyên đề về
“Tư pháp hình sự so sánh” (do tập thể tác giả biên dịch, hiệu đính bởi PTS.
Dương Thanh Mai và Ths. Cao Thanh Phong), Thông tin khoa học pháp lý,
Hà Nội;
35. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2011), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng
hình sự, NXB Tư Pháp Hà Nội;
89
36. Viện khoa học kiểm sát (1998), Tố tụng hình sự (trích: Truyền thống
luật dân sự châu Âu, Mỹ Latinh và châu Á), Dự án VIE/95/018, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
37. https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/quoc-hoi/vien-truong-le-minh-tri-co-
viec-toi-biet-bi-ghet-nhung-van-phai-lam-704836.html
38. https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/quoc-hoi/vien-truong-le-minh-tri-co-
viec-toi-biet-bi-ghet-nhung-van-phai-lam-704836.html
90