VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THANH HÀ

BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM

VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VĂN LÂM,

TỈNH HƯNG YÊN

ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN NAM

HÀ NỘI, 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi được

TS. Nguyễn Văn Nam hướng dẫn thực hiện. Các kết quả nêu trong Luận văn

chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và

trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Đồng

thời tôi xin chịu trách nhiệm về nội dung khoa học của luận văn này. Mọi sự

giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cám ơn và các thông tin trích

dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc. Tôi xin trân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 2 năm 2021

Tác giả luận văn

Nguyễn Thanh Hà

1

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ...................................................................... 4

DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................................ 5

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM TRANH TỤNG

TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ . Error! Bookmark not defined.

1.1. Khái niệm, đặc điểm của bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án

hình sự ...................................................................................................................... 11

1.2. Vị trí, vai trò của bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

................................................................................................................................... 18

1.3. Bảo đảm tranh tụng trong các mô hình tố tụng hình sự chủ yếu và luật tố

tụng hình sự một số nước ........................................ Error! Bookmark not defined.

1.3.1. Tranh tụng trong tố tụng hình sự của các nước theo hệ thống châu Âu

lục địa: ...................................................................................................................... 22

1.3.2. Tranh tụng trong tố tụng hình sự của các nước theo hệ thống pháp luật

Anh- Mỹ: .................................................................................................................. 26

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ....................................................................................... 31

CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRANH TỤNG

TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ............................................... 32

2.1. Quy định của pháp luật về bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ

án hình sự trước năm 2015.................................................................................... 32

2.2. Quy định của pháp luật về bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ

án hình sự theo BLTTHS năm 2015 .................................................................... 40

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ....................................................................................... 56

CHƯƠNG III: THỰC TIỄN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TRANH

TỤNG TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI HUYỆN VĂN

LÂM, TỈNH HƯNG YÊN ...................................................................................... 57

3.1. Khái quát về huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên ............................................. 57

2

3.2. Thực tiễn bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại

huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên ........................................................................... 62

3.2.1. Đánh giá khái quát bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án

hình sự ...................................................................................................................... 62

3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự ................................................................................................. 73

3.3. Một số giải pháp đảm bảo tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

tại huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. .................................................................... 76

3.3.1. Hoàn thiện nguyên tắc “tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. ........ 76

3.3.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật bảo đảm tranh tụng trong xét xử

................................................................................................................................... 77

3.3.3. Nâng cao trình độ, kỹ năng của những người tiến hành tố tụng trong

xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên .................. 80

3.3.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến về việc thực hiện bảo đảm

tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng

Yên ............................................................................................................................ 82

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ....................................................................................... 57

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 85

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 87

3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮTbổ

Cụm từ đầy đủ TT Cụm từ viết tắt

Bộ luật hình sự 1 BLHS:

Bộ luật tố tụng hình sự 2 BLTTHS:

Viện kiểm sát nhân dân 3 VKSND:

Kiểm sát viên 4 KSV:

Tòa án nhân dân 5 TAND:

Hội đồng xét xử 6 HĐXX:

4

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.2.1: Số vụ án được xét xử sơ thẩm trong giai đoạn 5 năm (từ

năm 2016 đến năm 2020) .............................................................................. 62

Bảng 3.2.2: Số vụ án sơ thẩm có luật sư tham gia trong giai đoạn 5 năm

(từ năm 2016 đến năm 2020) ....................................................................... 63

5

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm gần đây tình hình vi phạm pháp luật ở nước ta nói

chung cũng như tình hình vi phạm ở trên địa bàn huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng

Yên ngày càng gia tăng. Việc gia tăng tội phạm đã làm ảnh hưởng không nhỏ

đến quá trình công nghiệp hóa; hiện đại hóa đất nước. Sự ra đời của Hiến

pháp mới 2013 đã mở ra bước ngoặt trong công cuộc cải cách tư pháp nước ta

trên tầm sâu rộng. Số lượng lớn các văn bản luật được sửa đổi trong thời gian

gần đây để phù hợp với nội dung của Hiến pháp mới và trong đó có cả Bộ luật

tố tụng hình sự (BLTTHS) 2015. Trong xu hướng xây dựng nền tư pháp hiện

đại, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế thì việc bảo vệ tối đa quyền con người

và quyền công dân luôn được đặc biệt chú trọng. Để đảm bảo phù hợp với

Hiến pháp 2013, BLTTHS đã chính thức ghi nhận nguyên tắc “tranh tụng

trong xét xử được bảo đảm” tại Điều 26. Đây là một trong các điểm mới quan

trọng, đánh dấu bước ngoặt trong công tác xét xử, nâng cao chất lượng của

quá trình TTHS, xác định sự thật vụ án, đảm bảo tốt nhất yếu tố công bằng,

khách quan trong xét xử và bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân.

Cũng để cụ thể hóa nguyên tắc tranh tụng, BLTTHS đã bổ sung hàng loạt quy

định nhằm bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, nâng cao

quyền con người, quyền công dân trong quá trình xét xử vụ án hình sự.

Hiện nay, khoa học luật TTHS trong và ngoài nước đã có nhiều công

trình khoa học nghiên cứu về tranh tụng tại phiên tòa, bảo đảm nguyên tắc

tranh tụng trong xét xử...nhưng chủ yếu chỉ đề cập một cách tổng thể và có hệ

thống những khía cạnh lý luận chung nhất về tranh tụng, bảo đảm nguyên tắc

tranh tụng mà chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu có hệ thống,

toàn diện và cụ thể về bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự,

cũng như đánh giá từ thực tiễn áp dụng. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu các

6

quy định của pháp luật, đánh giá thực tiễn bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự trên một địa bàn cụ thể, đưa ra những nội dung của tố tụng

tranh tụng cần được tiếp thu không chỉ có ý nghĩa đối với địa phương đó mà

còn để phục vụ công cuộc cải cách tư pháp hiện nay.

Từ những lý do nêu trên, tác giả đã quyết định lựa chọn đề tài: “Bảo

đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Văn

Lâm, tỉnh Hưng Yên” để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp thạc

sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Đã có nhiều bài viết, bài nghiên cứu và sách chuyên khảo đề cập đến vấn

đề tranh tụng tại phiên tòa trong TTHS như:

Luận án tiến sĩ “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam và những vấn đề áp

dụng tranh tụng” của tác giả Nguyễn Thị Thủy năm 2014. Một số luận văn

thạc sỹ như: “Thực hiện pháp luật đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử

án hình sự sơ thẩm ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Tiến Long, Học viện

chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2005; “Bảo đảm nguyên tắc tranh

tụng trong xét xử các vụ án hình sự từ thực tiễn xét xử tại Thành phố Hồ Chí

Minh” của Trần Thị Bích Thủy, Học viện Khoa học xã hội, 2017...Ngoài ra

còn có các bài viết đăng trên Tạp chí khoa học pháp lý, tạp chí Viện kiểm sát,

tạp chí Tòa án nhân dân: “ Cải cách tư pháp và các giải pháp phòng, chống

oan, sai trong tố tụng hình sự” của tác giả TS. Trịnh Tiến Việt năm 2012;

“Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của

tác giả Nguyễn Thái Phúc năm 2007; “Phương hướng hoàn thiện mô hình tố

tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Phạm Hồng Hải năm 2009; “Tranh tụng

tại phiên tòa sơ thẩm hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp một số vấn đề lý

luận và thực tiễn” của Nguyễn Đức Mai, Tạp chí tòa án nhân dân số 7/2007;

"Về tranh tụng tại phiên tòa hình sự" của tác giả Tống Anh Hào trong Tạp chí

7

Tòa án nhân dân số 5/2003.

Như vậy cũng khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề tranh tụng

cũng như bảo đảm tranh tụng trong xét xử. Vì vậy, khi nghiên cứu luận văn,

tác giả không tham vọng là nghiên cứu tất cả những vấn đề của tố tụng tranh

tụng mà chỉ đặt ra và giải quyết trên phương diện lý luận và những cơ sở thực

tiễn về bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, từ đó có thể chắt lọc, tiếp thu

những cái khoa học, đúng đắn, phù hợp trước yêu cầu cải cách tư pháp của

nước ta.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của công trình này nhằm làm rõ cơ sở lý luận, quy

định của pháp luật hiện hành và thực tiễn bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự, làm rõ những yêu cầu cải cách tư pháp trong thời kỳ đổi

mới, từ đó đề xuất các quan điểm, giải pháp bảo đảm tranh tụng trong xét xử

án sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích của luận văn, tác giả kế thừa có chọn lọc các kết

quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan và tiếp tục làm rõ

một số vấn đề sau:

- Đưa ra khái niệm và đặc điểm, vị trí, vai trò của bảo đảm tranh tụng

trong xét xử vụ án hình sự, từ đó phân tích được các nội dung cơ bản của nó,

để có cái nhìn sâu rộng nhất về vấn đề luận văn nghiên cứu. Đồng thời luận

văn cũng có sự tham khảo một số mô hình TTHS của một số nước điển hình

trên thế giới, nghiên cứu yếu tố bảo đảm tranh tụng của các mô hình đó, là cơ

sở để nghiên cứu và tiếp thu đối với quá trình tranh tụng trong xét xử sơ thẩm

vụ án hình sự của nước ta.

- Từ những kiến thức lý luận ở phần 1, tác giả nghiên cứu và phân tích

8

chuyên sâu về những quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến vấn đề

bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, trong đó có sự so

sánh và phân tích những quy định của các BLTTHS giai đoạn trước đó và giai

đoạn hiện hành, giúp làm sáng tỏ thêm các nội dung liên quan để làm tiền đề

cho việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng và đưa ra những giải pháp ở các phần

sau.

- Dựa trên số liệu thực tiễn việc tranh tụng tại các phiên tòa hình sự sơ

thẩm trong 05 năm (2016-2020) tại huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên; đánh giá

thực trạng bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, từ đó rút ra

những ưu điểm, hạn chế bất cập và nguyên nhân của thực trạng đó.

- Đề xuất những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu

quả bảo đảm tranh tụng ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong

giai đoạn hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Về đối tượng nghiên cứu, luận văn tập trung nghiên cứu về nội dung bảo

đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, quy định của pháp luật

TTHS Việt Nam về bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

Về phạm vi nghiên cứu, để làm sáng tỏ những nội dung về bảo đảm

tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, cần thiết phải làm sáng tỏ các

nội dung về tranh tụng trong xét xử. Phân tích các quy định của pháp luật hiện

hành, đồng thời nghiên cứu thực tiễn thực hiện bảo đảm đảm tranh tụng trong

xét xử sơ thẩm vụ án hình sự dựa trên số liệu thống kê của Tòa án huyện Văn

Lâm, tỉnh Hưng Yên trong phạm vi 5 năm gần đây. Từ đó đưa ra những giải

pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả bảo đảm tranh tụng ở

Việt Nam.

5. Phương pháp luận và phuơng pháp nghiên cứu

Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật

9

lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về

Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà

nước pháp quyền, về vấn đề cải cách tư pháp. Trong quá trình nghiên cứu đề

tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa

học luật hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so

sánh... để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng

được nghiên cứu trong luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Về nghiên cứu khoa học: công trình luận văn là nguồn tài liệu tham khảo

để các sinh viên, học viên hoặc các chuyên viên pháp lý có nhu cầu nghiên

cứu. Luận văn góp phần bổ sung những kiến thức lý luận, thực tiễn về bảo

đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Về thực tiễn: Luận văn đóng góp vào việc đánh giá chất lượng tranh tụng

hiện nay ở một số địa phương, nâng cao hiệu quả bảo đảm tranh tụng trong

xét xử nói chung và trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng. Thông qua

thực tiễn hoàn thiện về lý luận khoa học.

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ

lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1. Những vấn đề lý luận về bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự.

Chương 2. Quy định của pháp luật về bảo đảm tranh tụng trong xét xử

sơ thẩm vụ án hình sự.

Chương 3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả tranh tụng trong xét xử

sơ thẩm vụ án hình sự.

10

Chương 1.

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM TRANH TỤNG

TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1. Khái niệm, đặc điểm của bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự

Tranh tụng không chỉ là thành tựu pháp lý đơn thuần, mà cao hơn nó là

thành tựu của sự phát triển tư tưởng nền văn minh nhân loại. Tranh tụng là

nguyên tắc và cũng là cơ chế tố tụng có hiệu quả đảm bảo cho Tòa án xác

định sự thật khách quan của vụ án, giải quyết đúng đắn vụ việc, đảm bảo công

bằng và bảo vệ các quyền và lợi ích của các bên tham gia tố tụng. Hiện nay

trong thực tiễn và khoa học pháp lý có nhiều quan điểm khác nhau về tranh

tụng.

Theo từ điển Tiếng Việt, thì “tranh tụng” có nghĩa là “sự kiện cáo nhau”

[10, tr.1238]. Theo nghĩa Hán Việt thì thuật ngữ “tranh tụng” được ghép từ

hai từ “tranh luận” và “tố tụng” có nghĩa là “tranh luận trong tố tụng” [32].

Đó là cuộc tranh luận giữa hai bên: “bên nguyên đơn và bên bị đơn có lập

trường tương phản với nhau, yêu cầu Tòa án làm trọng tài phân xử” [20]. Xét

về bản chất, tranh tụng là “cuộc đấu” giữa hai bên trong TTHS (bên buộc tội

và bên bị buộc tội), mà giai đoạn đương đầu tại Tòa án (tại phiên tòa) là trung

tâm. Theo đúng nghĩa, tranh tụng là việc bên buộc tội cố gắng làm sao thuyết

phục Tòa án tin được rằng bị cáo là người có tội, còn bên bị buộc tội cố gắng

và phải sử dụng mọi lý lẽ chứng cứ để bác bỏ lời buộc tội do bên buộc tội đưa

ra. Và điều đáng lưu ý là trong hệ thống tố tụng tranh tụng gốc, Luật sư của bị

cáo phải bảo vệ thân chủ bằng mọi giá.

Theo Từ điển luật học, “tranh tụng” là các hoạt động tố tụng được thực

hiện bởi các bên tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc tội) có quyền

bình đẳng với nhau trong việc thu thập, đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quan

11

điểm và lợi ích của mình, phản bác lại các quan điểm và lợi ích của phía đối

lập. Tranh tụng tại phiên tòa là những hoạt động tố tụng được tiến hành tại

phiên tòa xét xử bởi hai bên tham gia tố tụng, nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm

của mỗi bên và bác bỏ ý kiến, luận điểm của bên kia, dưới sự điều khiển,

quyết định của Tòa án với vai trò trung gian, trọng tài [4, tr.807-808].

Vấn đề tranh tụng vẫn còn có nhiều quan điểm, nhận thức khác nhau.

Đến nay, chúng ta chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định cụ thể

thế nào là “tranh tụng”. Bản chất và mục đích yêu cầu của tranh tụng là quá

trình xác định sự thật khách quan về vụ án, bảo đảm các phán quyết là đúng

đắn và chính xác. Phiên tòa xét xử là cuộc điều tra công khai, thực hiện bằng

lời nói gồm có phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, phần xét hỏi, phần tranh luận,

nghị án và tuyên án. Tranh luận là giai đoạn các bên trình bày luận điểm của

mình về những vấn đề đã được thẩm tra làm rõ ở giai đoạn trước, trên cơ sở

đối chiếu với những quy định của pháp luật đề xuất hướng xử lý phù hợp.

Kiểm sát viên trình bày quan điểm luận tội, tranh luận đối đáp về những vấn

đề mà bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác đưa ra; và ngược

lại bị cáo hoặc người bào chữa trình bày lời bào chữa, ý kiến phản bác đối với

luận tội, đối đáp các ý kiến của kiểm sát viên và chủ thể khác có liên quan.

Hội đồng xét xử là “trọng tài” điều hành việc tranh luận, đối đáp theo trình tự

tố tụng nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Như vậy, quá trình tranh

tụng được tiến hành thông qua hoạt động của các chủ thể thuộc bên buộc tội,

bên bào chữa và Tòa án với ba chức năng tương ứng: buộc tội, bào chữa và

xét xử.

Thực hiện tranh tụng trong xét xử còn là cách thức nâng cao nhận thức,

tạo ra môi trường dân chủ bình đẳng trong quan hệ tố tụng, buộc các chủ thể

có thẩm quyền từ điều tra, truy tố, xét xử nâng cao năng lực, trình độ, hạn chế

được chủ quan, duy ý chí trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần

12

rất quan trọng để Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế

tình trạng oan sai. Đồng thời, đây cũng là cách thức mà nền tư pháp tham gia

bảo vệ quyền con người, quyền công dân một cách hữu hiệu nhất.

Như vậy có thể khái quát định nghĩa về tranh tụng như sau: Tranh tụng

là hoạt động của các bên tham gia tố tụng đưa ra các quan điểm, chứng cứ để

lập luận, đối đáp lẫn nhau nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của mình, làm sáng

tỏ sự thật của vụ án, từ đó là cơ sở để Tòa án đánh giá toàn bộ nội dung vụ

án, đưa ra phán quyết cuối cùng, bảo đảm tính khách quan, công bằng.

Theo Từ điển tiếng Việt, “bảo đảm” là tạo điều kiện cần thiết để thực

hiện được những nguyên tắc, bảo đảm theo nghĩa chung nhất là “làm cho chắc

chắn thực hiện được những gì cần thiết, là trách nhiệm của mọi chủ thể (cá

nhân, tổ chức) phải làm cho quyền, lợi ích của chủ thể bên kia chắc chắn được

thực hiện, giữ gìn”.

Trong suốt quá trình tranh tụng, các bên có thể liên tục trao đổi những

lập luận, những chứng cứ và lý lẽ để bảo vệ quyền và lợi ích của mình, nhưng

cũng có khi một bên im lặng lắng nghe đối phương trình bày để nghiên cứu và

đưa ra lập luận của mình nhằm chiếm ưu thế. Bảo đảm tranh tụng nhằm bảo

vệ quyền lợi của các bên tham gia tố tụng không thể thực hiện được khi chỉ có

một bên nào đó hoặc chỉ có một bên nào đó hoặc chỉ có cơ quan chức năng

phát hiện có tội phạm; bảo đảm cho các bên có thể chủ động dùng các phương

tiện pháp luật cho phép để thu nhập và xuất trình chứng cứ chứng minh cho

quan điểm của mình, chủ động xác định các vấn đề cần tìm hiểu, cần phải làm

rõ để thuyết phục Tòa án. Tranh tụng tạo điều kiện và cơ hội ngang nhau cho

các bên trình bày quan điểm, lý lẽ và phần tranh luận của mình tại phiên tòa.

Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm: Bảo đảm tranh tụng

trong xét xử vụ án hình sự là tạo các điều kiện cần và đủ để các bên tham gia

tố tụng đưa ra các quan điểm, chứng cứ để lập luận, đối đáp lẫn nhau nhằm

13

bảo vệ quyền và lợi ích của mình, làm sáng tỏ sự thật của vụ án, từ đó là cơ

sở để Tòa án đánh giá toàn bộ nội dung vụ án, đưa ra phán quyết cuối cùng,

bảo đảm tính khách quan, công bằng.

Từ khái niệm trên có thể thấy bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm

vụ án hình sự có những đặc điểm như sau:

Thứ nhất, Tòa án là chủ thể bảo đảm tranh tụng trong xét xử, bảo đảm

cho bên buộc tội và bên gỡ tội các điều kiện tốt nhất để tranh tụng.

Hệ tố tụng tranh tụng được xây dựng và vận hành trên cơ sở áp dụng

triệt để nguyên tắc tranh tụng. Theo nguyên tắc này thì trong TTHS luôn tồn

tại ba chức năng cơ bản là buộc tội, bào chữa và xét xử. Ba chức năng này

đan quyện qua lại với nhau và trong sự thống nhất của mình, chúng bảo đảm

cho việc giải quyết vụ án. Thiếu một trong ba chức năng nêu trên, tranh tụng

trong TTHS sẽ không còn đầy đủ ý nghĩa của nó.

Có ý kiến cho rằng quá trình tranh tụng bắt đầu không chỉ từ giai đoạn

khởi tố vụ án mà cả các giai đoạn trước khởi tố và quá trình này sẽ kết thúc

khi vụ án được xét xử xong (xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái

thẩm), thậm chí quá trình này lại còn được tiếp tục trong một số trường hợp

khi bản án bị Tòa án cấp trên hủy để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử lại.

Những người đồng tình với ý kiến này cho rằng: “Tranh tụng là một quá trình

xác định sự thật khách quan về vụ án đồng thời cũng là phương tiện để đạt

được mục đích và nhiệm vụ đặt ra của tố tụng hình sự”. Tác giả cho rằng quan

điểm này chưa có đầy đủ cơ sở để thuyết phục. Bởi lẽ việc tranh tụng trong

điều kiện mà ở đó chỉ có chủ thể của hai bên buộc tội và bào chữa tham gia,

các chức năng buộc tội và bào chữa mới chỉ được hai bên thực hiện một cách

đơn phương theo ý chí chủ quan của mình là phiến diện, không chính thức…

Quá trình tranh tụng ở đây còn thiếu một chủ thể giữ vai trò quyết định đó là

Tòa án với chức năng xét xử. Theo tác giả, mặc dù tranh tụng xuất hiện ở

14

nhiều giai đoạn khác nhau của quá trình tiến hành tố tụng. Tuy nhiên tranh

tụng chỉ thực sự được tiến hành đầy đủ và rõ nét nhất là khi có sự hiện diện

đầy đủ các bên buộc tội, bên bào chữa dưới sự kiểm tra, giám sát của Tòa

án… Do đó trong phạm vi luận văn, tác giả sẽ chỉ đề cập tranh tụng trong giai

đoạn xét xử sơ thẩm, đặc biệt chú trọng quá trình tố tụng tại phiên tòa. Tại

đây, với sự có mặt đầy đủ các chủ thể, quá trình tranh tụng được tiến hành

thông qua hoạt động của các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên bào chữa và Tòa

án với ba chức năng tương ứng: buộc tội, bào chữa và xét xử. Tuy nhiên ở đây

cần chú ý rằng để tiến hành được việc tranh tụng và tranh tụng có hiệu quả

các bên cần phải có thời gian và các điều kiện cần thiết để thu thập các chứng

cứ, tài liệu và các tình tiết của vụ án trước khi bước vào cuộc tranh tụng.

Xuất phát từ quan điểm, tranh tụng chỉ xuất hiện từ giai đoạn xét xử vụ

án hình sự, do đó chủ thể tham gia tranh tụng bao gồm: kiểm sát viên – đại

diện cho Viện kiểm sát và người bị hại (trong trường hợp khởi tố vụ án hình

sự theo yêu cầu của người bị hại); bị cáo và người bào chữa; Hội đồng xét xử

tương ứng với ba chức năng cơ bản trong TTHS đó là buộc tội, bào chữa và

xét xử. Các chủ thể khác như: người làm chứng, người giám định, nhà chuyên

môn, người phiên dịch và người chứng kiến... không phải là chủ thể của tranh

tụng mà họ trợ giúp cho các bên và Tòa án để xác định sự thật khách quan của

vụ án.

Bản chất của tranh tụng là sự tranh luận giữa các bên (bên buộc tội và

bên gỡ tội) dựa trên những tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình

giải quyết vụ án, làm cơ sở cho việc ra phán quyết của Tòa án. Do đó, để bảo

đảm tranh tụng trong xét xử, luôn phải có sự hiện diện của các bên tham gia

tố tụng nói trên. Điều kiện quan trọng nhất để tranh tụng có hiệu quả đòi hỏi

chủ thể buộc tội và chủ thể bên gỡ tội phải bình đẳng với nhau trong việc thực

hiện chức năng của mình. Đây là một nguyên tắc được xác định trong suốt

15

quá trình giải quyết vụ án. Sự bình đẳng giữa các chủ thể đại diện cho bên

buộc tội và bên gỡ tội thể hiện trong việc họ được thực hiện các quyền cơ bản

của mình.

Thứ hai, bảo đảm cho các bên tham gia tố tụng được đưa ra các quan

điểm, chứng cứ để lập luận, đối đáp lẫn nhau nhằm bảo vệ quyền và lợi ích

của mình, làm sáng tỏ sự thật của vụ án.

Hồ sơ, chứng cứ được xác lập trong giai đoạn điều tra là rất quan trọng

cho việc xét xử tại phiên tòa. Tuy nhiên, các chứng cứ có trong hồ sơ là do

các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập, nhiều trường hợp chưa thể hiện đầy đủ

và không loại trừ việc thiếu khách quan. Đặc biệt đối với vụ án hình sự, trách

nhiệm chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng; tuy nhiên một số

trường hợp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát chỉ thu thập chứng cứ buộc tội,

không chú trọng thu thập chứng cứ gỡ tội; trong khi đó bên bào chữa (người

bào chữa, bị cáo) không được quyền chủ động thu thập chứng cứ làm hạn chế

khả năng tranh tụng của họ tại phiên tòa. Vì vậy, để tranh tụng trong xét xử

đạt được hiệu quả thực sự phải bảo đảm cho các bên tham gia tố tụng được

đưa ra các quan điểm, chứng cứ để lập luận trước Tòa án.

Qua việc điều tra chính thức, công khai tại phiên tòa, mỗi bên tham gia

tố tụng đều có cách nhìn nhận, đánh giá của mình về kết quả chứng minh. Để

thực hiện chức năng tố tụng, nhiệm vụ tố tụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của mình, các bên tham gia tố tụng phải công khai đưa ra ý kiến đánh

giá của mình, đưa ra các chứng cứ để lập luận đối đáp với nhau nhằm làm

sáng tỏ vụ án, giúp cho Tòa án cân nhắc khi ra phán quyết. Các đánh giá khác

nhau, phản biện nhau của các bên tham gia tố tụng tại phiên tòa sẽ giúp cho

Tòa án khách quan hơn, toàn diện hơn, thận trọng hơn khi đánh giá để ra phán

quyết.

16

Thứ ba, kết quả tranh tụng là cơ sở để Tòa án đánh giá toàn bộ nội dung

vụ án, đưa ra phán quyết cuối cùng, bảo đảm tính khách quan, công bằng.

Mục đích chính của tố tụng tranh tụng là tìm ra sự thật khách quan của

vụ án, và nó bắt đầu từ giai đoạn xét xử. Mọi thông tin thu thập được trong

quá trình điều tra đều chưa được xem xét cho đến khi được trình bày trước

Toà. Mỗi bên sẽ trình bày "sự thật của phía mình” và Thẩm phán cùng với

bồi thẩm đoàn sẽ quyết định xem "sự thật” nào có tính thuyết phục hơn...Hệ

thẩm vấn chú trọng đến khía cạnh thực tế, còn hệ tranh tụng lại đánh giá cao

khía cạnh pháp lý.

Tại phiên tòa, bên buộc tội và bên gỡ tội thực hiện chức năng tranh tụng

của mình thông qua việc lập luận và đối đáp, đưa ra các chứng cứ bảo vệ

quyền và lợi ích của mình. Tranh luận để đưa ra quan điểm về vụ án. Đối đáp

thể hiện sự phản đối hoặc đồng ý với quan điểm của phía bên kia. Đưa ra các

chứng cứ chứng minh quyền của mình, bảo vệ lợi ích của mình.

Thông qua hoạt động tranh tụng, bên buộc tội và bên gỡ tội đều có điều

kiện áp dụng các biện pháp cần thiết do luật định để kiểm tra lại tính hợp pháp

và có căn cứ của các chứng cứ, kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kiểm tra các

quyết định của các cơ quan có thẩm quyền tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện

kiểm sát) có trong hồ sơ vụ án nhằm hạn chế các những vi phạm tố tụng, hoặc

những sơ xuất, sai lầm không đáng có trong quá trình giải quyết vụ án hình

sự.

Tòa án với vai trò là cơ quan xét xử sẽ là trọng tài kiểm tra đánh giá một

cách đầy đủ, khách quan và toàn diện các chứng cứ, các tình tiết của vụ án

hình sự, thông qua quan điểm tranh luận, đối đáp của của bên buộc tội và bên

gỡ tội để đưa ra những nhận định khách quan, làm rõ bản chất vụ án, đưa ra

phán quyết nghiêm minh, công bằng, tránh bỏ lọt tội phạm và kết án oan

người vô tội.

17

1.2. Vị trí, vai trò của bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ

án hình sự

“Đối với các thẩm phán, tranh tụng là con đường đi đến công lý” [37],

tranh tụng tại phiên tòa có vai trò hết sức quan trọng, không chỉ là sự đánh giá

kết quả hoạt động của các giai đoạn điều tra, truy tố mà còn có tác dụng đối

với chính giai đoạn xét xử; là cơ chế tối ưu nhất để bảo vệ quyền lợi hợp pháp

của bị cáo, đảm bảo việc truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,

đảm bảo quyền con người trong TTHS, góp phần khắc phục tình trạng để xảy

ra oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Tranh tụng tại phiên tòa hình sự không chỉ là

yêu cầu của việc bảo đảm tính dân chủ, công bằng giữa những người tham gia

tố tụng với Viện kiểm sát mà kết quả tranh tụng tại phiên tòa là căn cứ để Hội

đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của các đương sự xác định sự thật vụ án.

Trong toàn bộ quá trình tố tụng, xét xử đóng vai trò trung tâm, là giai

đoạn quyết định tính đúng đắn, khách quan của việc giải quyết vụ án, bảo vệ

lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Do đó

tranh tụng tại phiên tòa có vai trò đặc biệt quan trọng và mang tính quyết định

trong giải quyết vụ án, điều đó thể hiện ở những điểm sau:

 Bảo đảm tranh tụng trong xét xử là bảo đảm quyền con người, quyền

công dân một cách tối đa.

Vấn đề nhân quyền luôn là điểm nóng của hầu hết các quốc gia trên thế

giới. Bảo đảm tranh tụng chính là bảo đảm cho người tham gia tố tụng thực

hiện đầy đủ quyền tố tụng của mình; đồng thời thực hiện việc tranh tụng cũng

có nghĩa là các cơ quan tiến hành tố tụng, các bên tham gia tranh tụng phải

thực hiện nghĩa vụ tố tụng của mình để bảo đảm cho người tham gia tố tụng

thực hiện các quyền tố tụng tương ứng. Với nguyên tắc tranh tụng, những

người tham gia không bị hạn chế về thời gian trình bày ý kiến của mình về vụ

18

án, đề nghị Tòa án ra các quyết định cụ thể liên quan đến quyền và lợi ích hợp

pháp của mình. Nếu không đồng ý với các ý kiến tranh luận của các bên tham

gia tố tụng, HĐXX mới có điều kiện cân nhắc, xem xét để ra đúng đắn, khách

quan và đúng pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người tham

gia tố tụng.

 Bảo đảm tranh tụng trong xét xử là bảo đảm cho hoạt động xét xử

của Tòa án công khai, minh bạch, đúng người, đúng tội.

Thực tiễn cho thấy, tại các phiên tòa do xuất phát từ các lợi ích khác

nhau, do tư cách tố tụng khác nhau cho nên các kết quả đánh giá chứng cứ,

nhận thức về pháp luật cũng như các đề nghị cụ thể giải quyết vụ án về thực

chất là khác nhau. Trên cơ sở các chứng cứ thu thập được, bằng việc phân

tích, đánh giá các chứng cứ và đặc biệt thông qua hoạt động tranh tụng,

HĐXX xem xét quyết định vụ án một cách khách quan, toàn diện, từ đó ra

một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh được việc chỉ thiên về

buộc tội và xem xét một chiều, nâng cao uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng.

Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là thể hiện sự tôn

trọng việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, nâng cao hơn

nữa trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ

án hình sự. Nó không chỉ góp phần vào việc xử lý công minh, kịp thời mọi

hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội mà góp

phần vào việc hạn chế những vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố

tụng; tránh được tình trạng oan, sai đáng tiếc có thể xảy ra làm tổn hại uy tín

của cơ quan tiến hành tố tụng và giảm lòng tin của nhân dân đối với sự công

minh của pháp luật.

 Bảo đảm tranh tụng trong xét xử là bảo đảm sự bình đẳng và tính

hiệu quả trong hoạt động tranh tụng.

19

“Tranh tụng tốt, chúng ta lắng nghe được ý kiến phản biện, chúng tôi

không hạn chế việc tranh tụng, Chánh án TAND tối cao nhấn mạnh.

Theo ông Nguyễn Hòa Bình, chủ thể tranh tụng không phải tòa án mà là VKS

và luật sư, bên buộc tội và bên gỡ tội. Tòa chỉ là cơ quan tạo điều kiện tối đa

cho tranh tụng và sử dụng kết quả tranh tụng.

Chất lượng tranh tụng phụ thuộc và các chủ thể chứ tòa án chỉ tạo môi

trường và tôn trọng việc đó. Quan điểm của chúng tôi tranh tụng chính là con

đường đi đến chân lý”, Chánh án Nguyễn Hòa Bình nói. [38].

Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng bảo đảm cho bên buộc tội và bên gỡ tội

bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ tố tụng, giúp có những khả năng

ngang nhau trong việc chứng minh, tranh luận về nội dung cũng như pháp luật

áp dụng, v.v, để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Bảo đảm tranh tụng trong xét xử cho các chủ thể tham gia vào hoạt động

tố tụng thực hiện một cách hiệu quả nhất chức năng, nhiệm vụ tố tụng của

mình. Nó đòi hỏi phải có sự phân định rõ ràng các chức năng buộc tội, chức

năng bào chữa và chức năng xét xử của Tòa án. Tòa án đóng vai trò là trọng

tài điều khiển việc tranh luận giữa các bên và ra phán quyết theo chức năng

độc lập của mình.

Xét cả dưới góc độ lý luận và thực tiễn, bảo đảm tranh tụng trong xét xử

sơ thẩm vụ án hình sự có vai trò quan trọng trong việc xác định sự thật khách

quan của vụ án. Hoạt động tranh tụng thực chất là hình thức tố tụng mà trong

đó các bên tham gia tố tụng thực hiện việc chứng minh có tính căn cứ và hợp

pháp của cáo trạng trong vụ án hình sự. Các hoạt động của các chủ thể tham

gia tố tụng là hoạt động xem xét, đánh giá chứng minh xoay quanh đơn kiện

của các bên. Hay nói cách khác, nguyên tắc tranh tụng cho phép các bên tham

gia tố tụng có quyền chứng minh. Trên cơ sở đó, Toà án ra phán quyết công

khai tại phiên toà.

20

Bảo đảm tranh tụng còn là cách thức nâng cao nhận thức, tạo ra môi

trường dân chủ bình đẳng trong quan hệ tố tụng, buộc các chủ thể có thẩm

quyền từ điều tra, truy tố, xét xử nâng cao năng lực, trình độ, hạn chế được

chủ quan, duy ý chí trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần rất quan

trọng để Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế tình

trạng oan sai. Đồng thời, đây cũng là cách thức mà nền tư pháp tham gia bảo

vệ quyền con người, quyền công dân một cách hữu hiệu nhất. Áp dụng

nguyên tắc tranh tụng trong xét xử là phù hợp với xu hướng quốc tế, bởi đa số

các nước có nền dân chủ tiến bộ đều áp dụng nguyên tắc này với các mức độ

và hình thức khác nhau. Kết quả tranh tụng tại phiên tòa đóng góp phần lớn

cho việc ra bản án, quyết định của Tòa án.

Nghiên cứu mô hình tố tụng tranh tụng có ý nghĩa to lớn về nhận thức.

Kết quả của nó cho ta tri thức có tính hệ thống về mô hình. Nó giúp chúng ta

thấy được vai trò của nó trong đời sống xã hội, mối quan hệ giữa mô hình này

với mô hình TTHS, nhà nước và pháp luật. Nghiên cứu nó cho ta thấy có ý

nghĩa về phương pháp luận. Kết quả nghiên cứu của mô hình này là cơ sở

khoa học cho việc xác định hướng giải quyêt những nội dung cụ thể của mô

hình tố tụng này, so sánh với mô hình tố tụng thẩm vấn, mô hình tố tụng pha

trộn, hướng bảo đảm tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự nhằm hoàn thiện

BLTTHS và tìm ra các giải pháp bảo đảm hiệu quả của chúng trong thực tiễn.

1.3. Bảo đảm tranh tụng trong luật tố tụng hình sự một số nước

Mỗi hệ thống tố tụng lại có phương cách xác định sự thật khác nhau, cơ

sở pháp lý khác nhau, nên phạm vi, tính chất và mức độ tranh tụng cũng có

những điểm khác nhau. Căn cứ vào phương cách mà tố tụng được thực hiện,

cơ sở pháp lý cho việc thực hiện phương cách đó, người ta phân tố tụng tư

pháp, đặc biệt là TTHS thành các hệ thống khác nhau: hệ thống tranh tụng, hệ

21

thống xét hỏi (hay thẩm vấn) và hệ thống pha trộn. Và trong mỗi hệ thống đó,

mức độ tranh tụng cũng khác nhau.

1.3.1. Tranh tụng trong tố tụng hình sự của các nước theo hệ thống

châu Âu lục địa:

Hệ thống xét hỏi thường được sử dụng trong các nước theo hệ thống luật

châu Âu lục địa (Continental law). Mục đích chính của tố tụng theo hệ thống

này là cố gắng xác định sự thật khách quan của vụ án để từ đó ra phán quyết.

Vì vậy, quá trình tố tụng được thực hiện bằng văn bản và bằng lời, bao gồm

cả giai đoạn điều tra và xét xử tại phiên tòa. Tòa án thực hiện việc chứng

minh vụ án trên cơ sở sử dụng kết quả đóng vai trò quyết định trong xác định

sự thật khách quan tại phiên tòa. Vì vậy thủ tục tố tụng tại phiên tòa đơn giản

hơn, ít khắt khe hơn về mặt hình thức: việc xét xử không nhất thiết phải có

mặt tất cả những người tham gia tố tụng, chứng cứ thu thập chỉ cần thẩm tra

lại tại phiên tòa, gánh nặng xét hỏi do Tòa án đảm nhận. Phán quyết của Tòa

án được đưa ra trên cơ sở niềm tin nội tâm của Tòa án về sự thật khách quan

của vụ án, chứ không phải là kết qủa của việc ai thuyết phục tòa án tốt hơn tại

phiên tòa…Hiện nay các quốc gia theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa đã

tiếp thu một phần các yếu tố của hệ thống pháp luật tranh tụng vào các thủ

tục TTHS của mình, điển hình là cộng hòa Pháp. Ngày 15/6/2000 Pháp đã

ban hành “Luật về suy đoán vô tội và tăng quyền của nạn nhân” đã bổ sung

một số nội dung của tố tụng tranh tụng nhằm tăng cường vai trò, quyền hạn

của các bên tại phiên toà và đảm bảo tốt hơn nguyên tắc tranh tụng [34, tr.33].

 Mô hình tố tụng của Pháp:

Ở Pháp, việc tiếp thu một số nội dung của mô hình tố tụng tranh tụng

được diễn ra từ cuối thế kỷ XVIII, thể hiện thông qua chế định Bồi thẩm

đoàn. Chế định Bồi thẩm đoàn ở Pháp trải qua 3 thời kỳ khác nhau. Thời kỳ

đầu tiên, vào khoảng năm 1808, sau cách mạng Bồi thẩm đoàn chỉ có quyền

22

phát biểu ý kiến về sự việc và tính chất tội phạm, việc xét xử về mặt pháp luật

và định mức hình phạt do các thẩm phán chuyên nghiệp đảm nhận. Năm

1932, với sự sửa đổi của pháp luật thì Bồi thẩm đoàn được phát biểu ý kiến về

tình tiết vụ việc và cùng các thẩm phán chuyên nghiệp quyết định mức hình

phạt. Sau đó, năm 1941, để bảo đảm sự bình đẳng giữa vai trò của Bồi thẩm

đoàn và vai trò của thẩm phán chuyên nghiệp, nguyên tắc xét xử tập thể tuyệt

đối được áp dụng. Thẩm phán chuyên nghiệp và Bồi thẩm đoàn cùng tham gia

xét xử sự việc, các vấn đề pháp luật cũng như mức hình phạt [17, tr.34].

Theo quy định, Bồi thẩm có thể ghi chép lại những điểm quan trọng

trong lời khai của người làm chứng hoặc trong lời bào chữa của bị cáo; có thể

hỏi bị cáo và người làm chứng hoặc xem xét tang vật tại phiên tòa nếu được

chủ tọa phiên tòa cho phép. Tuy nhiên, vai trò của Bồi thẩm đoàn trong phiên

tòa vẫn còn tương đối thụ động và trung lập với nghĩa vụ không được thể hiện

ý kiến của mình. Bồi thẩm đoàn cùng thẩm phán nghị án, biểu quyết bằng

phiếu kín về sự kiện chính và các tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ hình phạt

theo quy định của pháp luật. Các câu trả lời của Bồi thẩm viên dù là “có” hay

“không” đều không thể bị bác bỏ. Tuy không có sự chia sẻ quyền lực giữa Bồi

thẩm đoàn và thẩm phán nhưng cơ cấu 09 Bồi thẩm trong HĐXX bảo đảm ưu

thế của Đoàn Bồi thẩm so với các thẩm phán chuyên nghiệp, đồng nghĩa với

việc các thẩm phán chuyên nghiệp không thể áp đặt quyết định của mình chi

Bồi thẩm đoàn.

Chế định Bồi thẩm đoàn thể hiện sự hy vọng ở công lý của người dân

Pháp. Sự tham gia rộng rãi của nhân dân có thể khiến cho mọi người có cái

nhìn thông dụng hơn đối với Tòa án và khiến cho các phán quyết trở nên công

bằng hơn.

Năm 2000, Pháp tiếp tục đưa một số nội dung của tố tụng tranh tụng vào

hệ thống pháp luật với đạo luật “Luật về suy đoán vô tội và tăng quyền của

23

nạn nhân”. Có thể nói: giai đoạn điều tra sơ bộ của cảnh sát và giai đoạn điều

tra của Tòa là hai giai đoạn thuộc loại hình tố tụng chủ yếu là thẩm cứu; giai

đoạn xét xử thì chủ yếu mang tính chất tranh tụng, công khai [17, tr.19].

Trong giai đoạn điều tra, chủ thể tiến hành điều tra sơ bộ là cơ quan cảnh

sát và cơ quan quân cảnh; chủ thể tiến hành điều tra của tòa là dự thẩm. Các

chủ thể này tiến hành điều tra nhằm tìm kiếm người phạm tội và xác nhận

những dấu hiệu phạm tội. Viện công tố với tư cách là người đại diện cho xã

hội, không phải là một bên tham gia tố tụng như các bên đương sự [17, tr.27],

có quyền giám sát, chỉ đạo toàn bộ hoạt động điều tra. Luật sư ở Pháp không

có quyền điều tra, thay vào đó, Dự thẩm là người chịu trách nhiệm tiến hành

điều tra theo hướng gỡ tội. Trong giai đoạn này, tính chất tranh tụng được thể

hiện ở chỗ mọi án hình sự đều phải có Luật sư.

Luật sư được tham gia vào mọi giai đoạn tố tụng, ngay sau khi thân chủ

bị xem xét. Biên bản ghi lời khai của bị can nếu không có sự có mặt của Luật

sư xem như không có giá trị. Luật sư được quyền xem xét, sao chép hồ sơ,

gặp gỡ, trao đổi với thân chủ và yêu cầu dự thẩm tiến hành giám định, tái

giám định, mời nhân chứng, yêu cầu Thẩm phán điều tra thực hiện một số

hoạt động điều tra cần thiết.

Trong giai đoạn xét xử, sau khi phiên tòa được khai mạc, Chủ tọa phiên

tòa đỏi hòi căn cước của bị cáo nhằm bảo đảm xác định đúng người được xét

xử tại phiên tòa; sau đó mới đề cập tới hồ sơ vụ án. Ở mức độ nào đó, Chủ tọa

phiên tòa phải tiến hành thẩm tra lại vụ việc bằng cách đặt các câu hỏi cho bị

cáo, lấy lời khai của các nhân chứng và có thể cho đối chất. Luật sư bắt buộc

phải có mặt tại phiên tòa (Điều 317). Các Thẩm phán thành viên HĐXX và

Bồi thẩm đoàn có thể hỏi bị cáo và người làm chứng sau khi được Chủ tọa

cho phép (Điều 311). Sau khi kết thúc thẩm vấn tại phiên tòa, nguyên đơn dân

sự hay Luật sư của nguyên đơn dân sự được phép trình bày. Sau đó, Công tố

24

viên nêu rõ lập luận, lý do truy tố bị cáo và nhân danh xã hội đề nghị mức

hình phạt đối với bị cáo. Bị cáo và Luật sư của bị cáo có quyền bào chữa,

tranh luận chống lại cáo trạng truy tố và thời gian biện hộ của Luật sư là

không hạn chế. Nguyên đơn dân sự và Công tố viên được quyền đáp lại

nhưng bị cáo hay Luật sư của bị cáo luôn được nói lời sau cùng (Điều 316 -

BLTTHS Cộng hòa Pháp). Một viên lục sự sẽ ghi lại toàn bộ diễn biến phiên

tòa.

Mặc dù ở Pháp không có sự phân chia quyền lực giữa Bồi thẩm đoàn và

Thẩm phán như trong hệ tranh tụng. Bằng danh dự và lương tâm, Chủ toạ

phiên toà có toàn quyền trong việc áp dụng mọi biện pháp cần thiết để xác

định sự thật (Điều 310), nhưng không được biểu lộ ý kiến của mình về tội

trạng của bị cáo, không được tóm tắt lý do buộc tội hay bào chữa. Thẩm phán

chuyên nghiệp và Bồi thẩm cùng tham gia xét xử, cùng quyết định các vấn đề

về pháp luật cũng như mức hình phạt. Bất kỳ quyết định nào không có lợi cho

bị cáo được tiến hành với số phiếu đa số ít nhất là tám phiếu (cấp sơ thẩm) và

10 phiếu (ở cấp phúc thẩm) - (Điều 359). Bản án mà toà sẽ tuyên dựa hoàn

toàn vào kết quả tranh tụng tại phiên toà. Những người được xử trắng án một

cách hợp pháp (trừ trường hợp Viện Công tố đã bảo lưu quyền truy tố) sẽ

không thể bị bắt hoặc bị truy tố về sự việc tương tự thậm chí dưới một tội

danh khác (Điều 368).

 Mô hình tố tụng của Đức:

Cũng như Pháp, là nước điển hình của mô hình tố tụng thẩm vấn nhưng

trong thời gian gần đây, nhiều quy định liên quan đến tranh tụng đã được ghi

nhận trong BLTTHS Cộng hòa liên bang Đức. Điều 137 quy định bị can, bị

cáo có thể nhận sự giúp đỡ của Luật sư bào chữa tại bất cứ giai đoạn nào của

quá trình tố tụng, tối đa ba Luật sư bào chữa có thể được lựa chọn. Điều 140,

141 còn quy định những trường hợp bắt buộc phải có Luật sư bào chữa và

25

việc chỉ định Luật sư bào chữa. Trong quá trình điều tra, nếu một người bị áp

dụng biện pháp ngăn chặn là bị bắt giữ thì theo Điều 115, anh ta phải được

mang tới chỗ Thẩm phán có thẩm quyền ngay lập tức, Thẩm phán sẽ xem xét

việc buộc tội bị can ngay sau khi bắt và không muộn hơn ngày tiếp theo. Tại

phiên xét xử, cơ quan công tố, bị can và Luật sư có quyền tham gia, được

thông báo về thời gian, địa điểm xét xử. Các bên tham gia sẽ được phát biểu

ý kiến trong phiên xét xử. Điều 136 và 163a quy định tại thời điểm lấy lời

khai lần đầu tiên của bị cáo, thì bị cáo sẽ được thông báo về tội danh bị khởi

tố và các điều khoản luật hình sự áp dụng, có quyền trình bày ý kiến đối với

lời buộc tội hoặc không phát biểu bất cứ điều gì về lời buộc tội ngay trước khi

tiến hành kiểm tra, trao đổi với Luật sư bào chữa do anh ta lựa chọn. Tại

phiên tòa chính thức, sau khi nghe công tố viên trình bày bản cáo buộc, bị cáo

có thể lựa chọn việc trả lời cáo buộc hoặc không đưa ra bất kỳ tuyên bố nào

về cáo buộc. Bị cáo cũng có quyền yêu cầu Tòa án mở rộng việc thu thập

chứng cứ. Sau khi tiến hành thu thập chứng cứ kết thúc, công tố viên và bị

cáo sẽ được tạo điều kiện để thể hiện quan điểm tranh luận của mình về yêu

cầu đã đưa ra. Công tố viên có quyền trả lời, bị cáo sẽ nói lời sau cùng. Cho

dù bị cáo có người bào chữa nói thay, bị cáo sẽ được hỏi về vấn đề có bổ sung

thêm hay không đối với việc bào chữa cho mình. (Điều 243, 244, 258) [5].

1.3.2. Tranh tụng trong tố tụng hình sự của các nước theo hệ thống

pháp luật Anh- Mỹ:

Hệ thống tranh tụng thường được sử dụng trong các nước có hệ thống

luật án lệ (Common law). Mục đích chính của tố tụng theo hệ thống này là

phán quyết trên cơ sở thỏa mãn với sự thật pháp lý mà các bên chứng minh tại

phiên tòa. Theo hệ thống này, hoạt động tư pháp thực chất được bó gọn trong

hoạt động xét xử tại phiên tòa với các quy định nghiêm ngặt (nhiều khi đến

mức máy móc) về thủ tục tố tụng. Tính tranh tụng trong xét xử vụ án được

26

thực hiện một cách triệt để, sự thật chỉ được xác lập tại phiên. Tòa án đóng

vai trò là người trọng tài và qua phiên tòa xác định xem “sự thật Tòa” của

aithuyết phục hơn để qua đó phán xét. Quyết định của Tòa án dường như

được thực hiện không phải trên cơ sở sự thật khách quan của vụ án mà là trên

cơ sở sự thật được các bên chứng minh tại phiên tòa có tính thuyết phục cao

hơn. Vì vậy, Tòa án không xét hỏi, không tranh luận và cũng không gợi ý

tranh luận, mà chỉ là người trọng tài điều khiển phiên tòa, đóng vai trò thụ

động trong quá trình chứng minh, nhưng lại toàn quyền phán quyết về vụ án.

Toàn bộ quá trình tố tụng được thực hiện bằng miệng vì vậy, tại phiên tòa

phải có mặt tất cả những người tham gia tố tụng, đặc biệt là người làm chứng,

các vật chứng phải được các bên đưa ra xem xét tại phiên tòa. Thủ tục tố tụng

tại phiên tòa sơ thẩm hình sự của Vương quốc Anh, Hoa Kỳ áp dụng triệt để

nguyên tắc tranh tụng đối kháng. Sau phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, phiên

tòa chuyển ngay sang phần tranh tụng quyết liệt giữa bên buộc tội (Công tố

viên) và bên Luật sư bào chữa. Trách nhiệm chứng minh tội phạm và người

phạm tội hoàn toàn thuộc về Công tố viên và Luật sư bào chữa. Công tố viên

và Luật sư bào chữa có toàn quyền trong việc quyết định mời nhân chứng,

quyết định những chứng cứ được đưa ra phiên tòa phục vụ cho hoạt động

buộc tội hoặc gỡ tội. HĐXX đóng vai trò trọng tài trong lập, ra phán quyết

trên cơ sở chấp thuận những chứng cứ có căn cứ của các bên. HĐXX hầu như

không đặt câu hỏi với bị cáo và người làm chứng vì cho rằng có thể ảnh

hưởng đến tính vô tư, trung lập của Tòa án. Kết thúc thủ tục tranh tụng, phiên

tòa chuyển sang phần nghị án. Đối với những phiên tòa sơ thẩm không có sự

tham gia của Bồi thẩm đoàn, Thẩm phán có toàn quyền trong việc quyết định

hình phạt đối với bị cáo. Đối với phiên tòa sơ thẩm có sự tham gia của Bồi

thẩm đoàn, Luật TTHS quy định Bồi thẩm đoàn có thẩm quyền phán quyết

hành vi của bị cáo là có tội hay không có tội, Thẩm phán có quyền quyết định

27

áp dụng hình phạt với bị cáo trong trường hợp phán quyết của Bồi thẩm đoàn

tuyên bị cáo có tội.

 Mô hình tố tụng tại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ:

Vì tầm quan trọng to lớn về kinh tế và chính trị của quốc gia này, hệ

thống pháp luật của nó cần được nghiên cứu một cách độc lập, nghĩa là không

đơn thuần chỉ là phần phụ bản của pháp luật Anh quốc. Khởi nguồn từ nước

Anh nhưng tố tụng tranh tụng lại được tiếp thu và phát huy một cách rực rỡ

tại Hoa Kỳ và có thể nói rằng Hoa Kỳ có một hệ tố tụng hiến định [13, tr.116]

rất điển hình và tiến bộ.

Từ thực tiễn hoạt động của các Toà án Hoa Kỳ, hệ thống tranh tụng là sự

tìm kiếm chân lý trong việc bảo vệ quyền cá nhân của người bị buộc tội. Hệ

thống tranh tụng ở Hoa Kỳ đòi hỏi người bị buộc tội được coi là không có tội

cho đến khi chứng minh được là họ có tội và tội phạm đó cần phải được

chứng minh và loại trừ mọi nghi ngờ có thể. Vì vậy, vai trò của Công tố viên

là phải bảo đảm công lý chứ không chỉ đơn thuần tìm mọi cách để kết tội bị

can, bị cáo, Công tố viên cần phải công bằng đối với cả những người đứng ra

buộc tội và những người bị buộc tội.

Ở Hoa Kỳ có hai dạng bắt giữ người là bắt giữ có lệnh và bắt giữ không

có lệnh. Khi bị bắt giữ người bị tình nghi nhất định phải được thông báo về

các quyền hiến định một cách chính xác, trong đó "bị can nhất định phải được

thông báo trước khi thẩm vấn rằng bị can có quyền giữ im lặng, rằng bất kỳ

những gì bị can nói có thể được sử dụng để chống lại bị can tại Toà án; rằng

bị can có quyền đòi hỏi sự có mặt của Luật sư và rằng nếu bị can không có

khả năng thuê Luật sư thì một Luật sư có thể được chỉ định giúp bị can trước

khi thẩm vấn" [12, tr.5]. Theo luật TTHS Liên bang Mỹ, Luật sư được tham

gia vụ án kể từ khi một nghi phạm bị bắt giữ và thẩm vấn nhân chứng, điều

tra tại hiện trường vụ án và xem xét bất cứ chứng cứ phạm tội nào. Ở Hoa Kỳ,

28

bên buộc tội không có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho bị can trong toàn bộ

quá trình điều tra nhưng công tố viên phải cung cấp cho bị can, bị cáo những

chứng cứ chứng minh bị can, bị cáo vô tội. Luật sư của bị can, bị cáo có

quyền tìm chứng cứ để bác lại những chứng cứ của bên buộc tội và được biết

những chứng cứ mà bên công tố dự định dùng để buộc tội bị cáo tại Toà.

Phiên toà hình sự sẽ được bắt đầu với phần Công tố viên đọc bản cáo trạng,

tiếp theo Công tố viên sẽ đưa ra chứng cứ và nhân chứng để làm rõ việc kết

tội của mình. Luật sư bào chữa có quyền chất vấn những nhân chứng từ phía

công tố và có thể đưa ra sự bác bỏ những chứng cứ này với lý lẽ của mình.

Bên công tố cũng có thể chất vấn những nhân chứng từ phía bào chữa và đưa

ra chứng cứ hoặc lý lẽ để bác bỏ chúng. Bị cáo có quyền đối chất với điều tra

viên. Như vậy quá trình xét xử vụ án hình sự đòi hỏi đáp ứng các nguyên tắc

sau: Nguyên tắc Công tố viên phải chứng minh tội phạm và loại trừ mọi nghi

ngờ về việc thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo; Nguyên tắc thẩm vấn nhân

chứng trước toà và những vấn đề đặc thù liên quan đến bị cáo với tư cách là

người làm chứng; Công tố viên và bị cáo đều có quyền yêu cầu nhân chứng

và người giám định tham dự phiên toà và đối chất với họ [23, tr.13]. Thủ tục

"hỏi - đáp" hết sức được tôn trọng. Tại phiên toà, Thẩm phán cần phải trung

lập nhưng phải bảo vệ các quyền của bị cáo. Trong khi hai bên buộc tội và gỡ

tội thực hiện thủ tục tranh tụng, Thẩm phán đóng vai trò trung gian với công

việc đầu tiên là theo dõi phiên toà, sau đó là xem xét các kiến nghị của Công

tố viên và Luật sư liên quan đến các dạng chứng cứ và các câu hỏi được đặt ra

cho nhân chứng. Phần tranh tụng tại toà kết thúc bằng lời phát biểu cuối cùng

của cả hai bên kết tội và bào chữa. Thẩm phán giới thiệu cho các thành viên

đoàn Bồi thẩm về luật trước khi Đoàn bồi thẩm bắt đầu thảo luận. Bồi thẩm

đoàn - Quan toà về thực tế sẽ thảo luận và quyết định vấn đề bị cáo có tội hay

không có tội. Nếu Bồi thẩm đoàn phán quyết là bị cáo có tội thì giai đoạn kết

29

án sẽ được bắt đầu. Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà là Quan toà về luật, là

người quyết định tộ i danh, hình phạt đối với bị cáo và cách thức thi hành

hình phạt đó. Bị cáo có quyền trực tiếp kháng cáo, quyền kháng nghị của

Công tố là rất hạn chế. Công tố không được quyền kháng nghị đối với quyết

định của Toà án tuyên bị cáo không phạm tội, cho dù có chứng cứ mới được

phát hiện.

 Mô hình tố tụng ở Nhật Bản:

Nhật Bản là nước mà hệ thống tư pháp hình sự có ảnh hưởng bởi hai

truyền thống pháp luật (cụ thể là Đức và Hoa Kì). Trong TTHS, vấn đề tranh

tụng cũng được thể hiện qua một số điểm cụ thể như: áp dụng nguyên tắc suy

đoán vô tội trong TTHS; người bị tình nghi, bị can, bị cáo có quyền im lặng

và có quyền có Luật sư bào chữa; việc ra lệnh tạm giam do Thẩm phán quyết

định. Khi nhận được đề nghị của Công tố viên, Thẩm phán phải nghiên cứu

các tài liệu có liên quan, xem xét chứng cứ và tiến hành thẩm vấn riêng người

bị tình nghi [36, tr.50-54].

Sự ra đời và phát triển của khái niệm tranh tụng trong tố tụng gắn liền

với sự hình thành và phát triển của các tư tưởng dân chủ, tiến bộ trong lịch sử

tư tưởng nhân loại. Qua nghiên cứu hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử

vụ án hình sự ở một số quốc gia cho thấy: Hiện nay, ở các nước dù theo mô

hình tố tụng nào thì trong đó cũng đều có yêu tố tranh tụng. Đây là cơ chế tố

tụng có hiệu quả đảm bảo cho Tòa án xác định sự thật khách quan của vụ án,

giải quyết đúng đắn vụ việc, đảm bảo sự công bằng và bảo vệ các quyền và

lợi ích của các bên tham gia tố tụng. Tùy vào điều kiện cụ thể mà mỗi quốc

gia có những lựa chọn mô hình tố tụng riêng. Sự khác biệt giữa mô hình tố

tụng tranh tụng và mô hình tố tụng thẩm vấn ở chỗ trong mô hình thẩm vấn,

Thẩm phán giữ vai trò tích cực trong toàn bộ quá trình xét xử kể từ hoạt động

thẩm vấn, điều tra công khai tại phiên tòa đối với các bên có liên quan và ra

30

phán quyết. Còn trong mô hình tranh tụng thì Công tố viên và Luật sư bào

chữa sẽ kiểm tra nhân chứng và thẩm vấn tất cả các bên, Thẩm phán đóng vai

trò thụ động hơn, làm trọng tài cho công tố viên và Luật sư tranh luận [33].

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo,

định hướng cho toàn bộ hoạt động tố tụng nhằm xác định sự thật khách quan

về vụ án, đồng thời cũng là phương tiện để đạt được mục đích và các nhiệm

vụ đặt ra trong quá trình xét xử vụ án hình sự. Do vậy nghiên cứu cơ sở lý

luận về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có

vai trò đặc biệt quan trọng. Sau khi tham khảo từ các quan điểm khác nhau,

tác giả đã đưa ra khái niệm bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, đồng

thời phân tích vị trí, vai trò của nó trong hoạt động tố tụng. Tác giả cũng đã

tham khảo các mô hình TTHS chủ yếu của một số nước trên thế giới, qua đó

phân tích bảo đảm tranh tụng trong các mô hình đó, từ đó làm tiền đề để phân

tích quy định của pháp luật Việt Nam và đưa ra thực trạng, kiến nghị ở những

chương tiếp theo của luận văn.

31

Chương 2.

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM

TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

2.1. Quy định của pháp luật về bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự trước năm 2015

* Giai đoạn trước khi có BLTTHS năm 1988:

Quá trình hình thành và phát triển các nguyên tắc của pháp luật TTHS

gắn liền với những thành tựu trong lĩnh vực lập pháp ở nước ta. Các nguyên

tắc này dần được hoàn thiện với những nội dung tiến bộ nhằm đáp ứng các

nhu cầu phát triển của xã hội.

Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra

nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ngày 02 tháng 9 năm 1945, nhiều văn bản

pháp luật có hàm chứa quy phạm TTHS đã được Nhà nước ban hành nhưng

phải đến những năm 1960 thì những quy định về pháp luật TTHS mới được

hình thành một cách cơ bản. Sau khi Nhà nước ta đã thông qua một số Luật tổ

chức các cơ quan tiến hành tố tụng như: Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật

tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ngày và Pháp lệnh năm 1962 quy định nhiệm

vụ, quyền hạn của Cảnh sát nhân dân. Trong các văn bản đó có rất nhiều quy

phạm pháp luật điều chỉnh việc tổ chức phiên toà và tiến hành tố tụng tại

phiên toà của Toà án nhân dân. Nhìn chung các quy phạm tố tụng trong giai

đoạn này chủ yếu điều chỉnh quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan và người

có trách nhiệm tiến hành tố tụng tại phiên toà, một số nguyên tắc cơ bản của

pháp luật tố tụng trong việc tiến hành và tổ chức các phiên toà của Toà án

như: quyền dùng tiếng nói chữ viết của công dân, quyền bào chữa, việc xét xử

công khai và xử kín, việc mở phiên toà tại trụ sở hay xử lưu động...

32

Sau khi Nhà nước ta ban hành Hiến pháp 1959 và Luật tổ chức Toà án

nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, đến năm 1964 căn cứ vào các quy định

của pháp luật, những kinh nghiệm thực tiễn của gần 20 năm thực tiễn tiến

hành tố tụng và việc tham khảo học tập pháp luật tố tụng của Liên Xô và

nhiều nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, Toà án nhân dân Tối cao đã hệ thống

lại các quy định của pháp luật tố tụng lúc bấy giờ thành Bản đề án về trình tự

xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, trong đó có quy định tương đối cụ thể về hình

thức và thủ tục tiến hành tố tụng tại phiên toà của Toà án nhân dân, để gửi về

các Toà án nhân dân địa phương thống nhất áp dụng. Bản đề án đã trở thành

tài liệu hướng dẫn thống nhất áp dụng pháp luật tố tụng tại phiên toà cho tất

cả các Toà án, xác định những hành vi tố tụng cần thiết mà Thẩm phán và Hội

thẩm phải tiến hành kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi mở phiên toà, kết thúc

phiên toà. Tuy nhiên Bản đề án chưa hướng dẫn cụ thể dẫn đến tình trạng một

số Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chỉ tin vào chứng cứ đã có trong hồ sơ

mà coi nhẹ việc thẩm vấn và tranh luận tại phiên toà công khai, hậu quả là

Toà án ra các quyết định không phù hợp với thực tế khách quan. Để khắc

phục nhược điểm này, ngày 27/9/1974, Toà án nhân dân Tối cao đã ban hành

bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm (kèm theo Thông tư số 16-TATC),

trong đó có phần thứ 3 quy định về trình tự tố tụng chuẩn bị cho việc xét xử

tại phiên toà và phần thứ 4 quy định về trình tự tố tụng xét xử tại phiên toà

của Toà án nhân dân.

Tại phần chuẩn bị cho việc xét xử trước phiên toà Thông tư số 16-TATC

đã hướng dẫn cụ thể các hoạt động tố tụng của Toà án trong các khâu nghiên

cứu hồ sơ, họp trù bị với Viện kiểm sát, những việc phải làm để đưa vụ án ra

xét xử như: ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, triệu tập bị cáo và những người

tham gia phiên toà, chuẩn bị kế hoạch thẩm vấn, xử công khai hay xử

kín...Thông tư 16- TATC đã có bước phát triển cao hơn về tri thức hoàn thiện

33

pháp luật tố tụng so với giai đoạn trước đó, nó đã tổng kết được những kinh

nghiệm thực tiễn của nhiều chục năm trước đây và đặc biệt đã có những quy

định thể hiện nội dung tranh tụng trong quá trình xét xử. Thông tư là sự kết

hợp tốt giữa thực tiễn xét xử với việc nghiên cứu lý luận và làm nền tảng

vững chắc, nội dung chủ yếu của BLTTHS sau này.

Qua đó có thể thấy hệ thống pháp luật tố tụng từ năm 1945 đến trước khi

có BLTTHS năm 1988 thì những quy định mang tính tranh tụng còn ít, không

có sự hệ thống.

* Giai đoạn thi hành BLTTHS năm 1988:

Trong giai đoạn này, các quy định về tranh tụng đã tương đối rõ nét hơn

so với các giai đoạn trước. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001),

Luật tổ chức TAND và Luật tổ chức VKSND năm 2002 và đặc biệt là

BLTTHS năm 1988 (được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1990, 1992 và 2000)

và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có nhiều quy định nhằm bảo đảm việc

tranh tụng trong TTHS.

BLTTHS năm 1988 đã được Quốc hội thông qua ngày 28 tháng 6 năm

1988, đây là lần đầu tiên các quy định về xét xử tại phiên toà được hệ thống

hoá và có tính pháp lý cao với tư cách là những quy phạm của một Bộ luật.

Giai đoạn này, tranh tụng tại phiên toà chưa được nhà làm luật nước ta ghi

nhận với tính chất là một nguyên tắc cơ bản của luật TTHS nhưng những dấu

hiệu về tranh tụng cũng đã được quy định rải rác ở một số điều luật.

Một số điều luật có dấu hiệu về tranh tụng có thể kể đến như sau: quy

định về thủ tục tố tụng tại phiên toà ở chương XVII; một số điều tại chương

XVIII về thủ tục bắt đầu phiên toà, chương XX về thủ tục xét hỏi tại phiên

toà, chương XXI về tranh luận tại phiên toà; Điều 159 quy định về việc xét xử

phải trực tiếp, bằng lời nói và liên tục, đây thực chất cũng là một nguyên tắc

của tranh tụng. Theo Điều 159 thì Toà án phải trực tiếp xác định các tình tiết

34

của vụ án bằng cách hỏi và nghe ý kiến của bị cáo, nghe lời bào chữa. Bản án

chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà. Và để

đảm bảo cho quyền bào chữa của bị cáo, đảm bảo cho việc xét xử được khách

quan, Điều 162 quy định bị cáo phải có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập

của Toà án, nếu vắng mặt không có lý do chính đáng thì bị áp giải, nếu vắng

mặt có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên toà. Toà án chỉ xử vắng mặt bị

cáo nếu bị cáo trốn tránh và việc truy nã không có kết quả, bị cáo đang ở nước

ngoài và không thể triệu tập đến phiên toà, sự vắng mặt của bị cáo không trở

ngại cho việc xét xử và họ đã được giao giấy triệu tập hợp lệ.

Tại phiên toà, bên buộc tội là Kiểm sát viên bắt buộc phải có mặt nếu

không phải hoãn phiên toà theo Điều 164 BLTTHS. Người bào chữa cho bị

cáo là bên gỡ tội cũng có nghĩa vụ phải tham gia phiên toà trừ trường hợp có

gửi trước bản bào chữa. Trong một số trường hợp người bào chữa vắng mặt

thì phải hoãn phiên toà theo quy định tại Điều 165 BLTTHS. Ngoài ra để đảm

bảo cho quá trình tranh luận, xác định sự thật vụ án, đảm bảo cho phán quyết

của Toà án khách quan sự có mặt của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn

dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc những người

đại diện hợp pháp của họ, sự có mặt của người làm chứng, người giám định

cũng được quy định tại các Điều 166, 167, 168 BLTTHS.

Bước vào quá trình tranh tụng, trước hết Kiểm sát viên sẽ đọc cáo trạng,

sau đó Hội đồng xét xử sẽ xét hỏi theo thứ tự xét hỏi hợp lý. Khi xét hỏi từng

người, Chủ toạ phiên toà hỏi trước rồi đến các Hội thẩm nhân dân, sau đó đến

Kiểm sát viên, người bào chữa. Những người tham gia phiên toà cũng có

quyền đề nghị với Chủ toạ phiên toà hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng

tỏ. Trong quá trình xét hỏi Hội đồng xét xử xem xét những vật chứng có liên

quan trong vụ án. Tiếp đó Kiểm sát viên (bên buộc tội) sẽ luận tội, bị cáo,

người bào chữa cho bị cáo (bên gỡ tội) cũng trình bày quan điểm của mình,

35

trong quá trình tranh luận đó người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý

kiến của người khác nhưng chỉ được phát biểu một lần đối với mỗi ý kiến mà

mình không đồng ý. Chủ toạ phiên toà không được hạn chế thời gian tranh

luận, nhưng có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án. Sau khi

những người tham gia tranh luận không còn trình bày gì thêm, Chủ toạ phiên

toà tuyên bố kết thúc tranh luận. Bị cáo được nói lời sau cùng. Đến đây giai

đoạn tranh tụng tại phiên toà đã cơ bản hoàn thành. Kết quả của quá trình

tranh tụng tại phiên toà được xác định bởi phán quyết của Hội đồng xét xử và

đó cũng đánh dấu sự kết thúc của quá trình tranh tụng tại phiên toà.

Mặc dù quá trình tranh luận giữa các bên tại phiên tòa được thực hiện

khá tốt nhưng nhìn chung có thể nhận thấy quá trình này ở thời kỳ này mới

được coi là quá trình thể hiện quan điểm của các bên, nhưng chưa thực sự là

tranh tụng. Thực tiễn cho thấy, phần xét hỏi tại các phiên toà vẫn được chú

trọng nhiều trong khi phần tranh luận còn mang nặng hình thức. Nếu Luật sư

trình bày phần bào chữa có nội dung khác với kết luận của Viện kiểm sát về

vụ án thì phần đối đáp cũng chẳng có gì nhiều và mới hơn câu “Giữ nguyên

quan điểm như đã nêu trong phần kết luận vụ án”. Tranh luận chỉ là đủ thủ

tục, còn thực chất có thể nói là hầu như không có tranh luận. Về phía hoạt

động của Hội đồng xét xử thì kinh nghiệm điều hành phiên toà theo hướng

tranh tụng còn yếu: Theo quy định của pháp luật, bị cáo, Luật sư bào chữa

cho bị cáo có quyền trình bày lời bào chữa mà không bị hạn chế về thời gian.

Do tâm lý “mở rộng tranh tụng triệt để” nên Chủ toạ phiên toà không có ý

kiến gì khi những người này trình bày những vấn đề đi lạc trọng tâm, không

có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.

Về phía Luật sư bào chữa thì nhiều Luật sư đi lạc trọng tâm vụ án theo

kiểu đối phó về mặt hình thức. Thậm chí có Luật sư thể hiện cách làm việc

thiếu tinh thần trách nhiệm trong quá trình diễn ra phiên toà với những biểu

36

hiện rất khác nhau như ngủ gật tại phiên toà, nghe điện thoại trong phòng xử

án, thậm chí sau khi trình bày lời bào chữa đã bỏ về để đến phần đối đáp Hội

đồng xét xử không còn nhìn thấy Luật sư ngồi ở vị trí của mình. Những phiên

toà Luật sư bào chữa chỉ định tham gia thì bào chữa qua loa theo kiểu nêu tình

tiết giảm nhẹ của bị cáo cho Toà án xem xét nhằm mục đích đủ thủ tục.

Có thể nói, những hạn chế trong quy định của pháp luật và từ thực tiễn

áp dụng là một tro ng những lý do về sự ra đời của BLTTHS năm 2003.

* Giai đoạn thi hành BLTTHS năm 2003:

Kể từ khi có Nghị quyết 08/NQ-TW, giới chuyên môn cũng như những

người làm công tác pháp luật chờ đợi sự ra đời của một văn bản pháp luật mà

nó là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để những hành vi tố tụng của tất cả những

cá nhân và tổ chức có liên quan phải tuân theo, nhằm đáp ứng được yêu cầu

nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và nâng cao

hiệu quả tranh tụng tại phiên toà nói riêng. BLTTHS năm 2003 đã được Quốc

hội khoá XI thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003 đã đáp ứng phần nào yêu

cầu tranh tụng tại phiên tòa.

BLTTHS năm 2003 đã bổ sung đầy đủ hơn các quyền của người tham

gia tố tụng. Theo đó, người tham gia tố tụng: được khiếu nại đối với các quyết

định, hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà có liên

quan đến họ (các Điều 48, 49, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 58 và 59); được quyền

đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu (các Điều 48, 49, 50,51, 52, 53, 54, 58 và 59);

bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên

toà để bảo vệ quyền và lợi ích của mình (các Điều 50, 51, 52, 53 và 54). Bên

cạnh đó, BLTTHS năm 2003 cũng đã quy định bổ sung nghĩa vụ có mặt theo

giấy triệu tập của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án đối với những người

tham gia tố tụng. Trong trường hợp vắng mặt không có lý chính đáng thì bị

37

can, bị cáo có thể bị áp giải, người làm chứng có thể bị dẫn giải; nếu bị can, bị

cáo bỏ trốn thì bị truy nã.

Tại Điều 50 BLTTHS năm 2003 đã ghi nhận bị cáo có quyền trình bày ý

kiến và tranh luận tại phiên toà, được giải thích về quyền và nghĩa vụ và để

thực hiện quyền đó thì Bộ luật cũng đã mở rộng hơn các quyền của người bào

chữa, tạo điều kiện cho họ hoàn thành tốt nhiệm vụ bào chữa, gỡ tội. Tại Điều

58 quy định: trường hợp bắt người theo Điều 81 và Điều 82 thì người bào

chữa được tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Luật sư có quyền đề

nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để

có mặt khi hỏi cung bị can. Có quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên

quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích

của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân nếu không thuộc bí

mật nhà nước, bí mật công tác (đây là những tiền đề để người bào chữa có thể

thu thập chứng cứ, chuẩn bị cho quá trình tranh tụng tại phiên toà). Điều 209

BLTTHS năm 2003 cũng đã quy định về xét hỏi đối với bị cáo theo hướng cụ

thể hơn với các bên tranh tụng: Kiểm sát viên hỏi về những tình tiết buộc tội,

người bào chữa hỏi về tình tiết gỡ tội...

Điều đặc biệt của BLTTHS năm 2003 là khi quy định về tranh luận và

đối đáp tại phiên toà đã có những quy định mới đảm bảo cho việc luận tội của

Viện kiểm sát tại phiên toà được khách quan (Điều 217 quy định: “Luận tội

của Kiểm sát viên phải căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra

tại phiên toà và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi

của đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà”). Và để

đảm bảo cho quá trình tranh tụng tại phiên toà được khách quan, sau khi nghe

lời luận tội bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có

quyền: “..Trình bày ý kiến về luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra đề nghị

của mình, Kiểm sát viên phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý

38

kiến” (Điều 218). Chủ toạ phiên toà không được hạn chế thời gian tranh luận,

tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến. Chủ

toạ phiên toà có quyền đề nghị Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến có

liên quan đến vụ án của người bào chữa và những người tham gia tố tụng

khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận.

BLTTHS năm 2003 đã quy định về thời điểm người bào chữa được tham

gia tố tụng sớm hơn so với quy định của BLTTHS năm 1988, cụ thể: đối với

trường hợp bắt người trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang hoặc

đang bị truy nã thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm

giữ (khoản 1 Điều 58). Quy định này nhằm mục đích bảo đảm quyền con

người cũng như nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong

việc hạn chế truy tố, điều tra, xét xử oan sai. Thủ tục cấp giấy chứng nhận

người bào chữa cũng được bổ sung một cách đầy đủ hơn.

Để mở rộng thêm quyền năng tố tụng của người bào chữa Bộ luật tố tụng

năm 2003 quy định: người bào chữa được có mặt khi lấy lời khai của người bị

tạm giữ, và được hỏi người bị tạm giữ, bị can khi được Điều tra viên đồng ý;

được xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các

quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa; được đề nghị cơ

quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt hỏi

cung bị can (điểm a và điểm b khoản 1 Điều 58). Bên cạnh quyền được đọc

và ghi chép hồ sơ vụ án như quy định của Bộ luật năm 1988, người bào chữa

còn có quyền mới là được sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan

đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra (điểm g khoản 2 Điều 58), người

bào chữa được thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa

từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này

hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can,

39

bị cáo nếu không thuộc bí mật Nhà nước, bí mật công tác (điểm d khoản 2

Điều 58).

Như vậy BLTTHS năm 2003 đã có những tiến bộ hơn trong việc tạo

điều kiện cho việc tranh luận tại phiên toà so với BLTTHS năm 1988. Theo

những quy định đó thì Bộ luật đã bước đầu tạo ra sự khách quan trong quá

trình tranh luận cũng như những tiền đề để quá trình tranh tụng tại phiên toà

đạt hiệu quả. Tuy nhiên, những quy định đó vẫn còn chưa cụ thể và chưa tạo

ra cơ chế hoàn toàn đầy đủ cho quá trình tranh tụng của các bên: Trách nhiệm

chứng minh tội phạm vẫn đặt nặng lên vai Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên và

Luật sư vẫn chưa có vị thế bình đẳng với nhau, những quy định chưa tạo ra

được sự trung lập trọng tài của Hội đồng xét xử, những cơ chế bắt buộc Kiểm

sát viên và Luật sư phải chủ động chứng minh tội phạm và chứng minh sự vô

tội, những quy định để Luật sư có thể thực hiện quyền gỡ tội một cách dễ

dàng nhất....Và như thế quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo cũng như những

bên tham gia vào quá trình tranh tụng chưa hoàn toàn được đảm bảo.

Để đáp ứng được nhiệm vụ lớn lao của cải cách tư pháp, cần có sự quy

định trong Bộ luật tố tụng sâu rộng hơn nữa về tranh tụng tại phiên toà và

những điều kiện để đảm bảo thực hiện. Đó là một trong các cơ sở để các nhà

làm luật nghiên cứu và đưa ra các quy định của BLTTHS năm 2015 được

hoàn thiện hơn.

2.2. Quy định của pháp luật về bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự theo BLTTHS năm 2015

Để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đảng ta

đã đề ra nhiều chủ trương cải cách tư pháp như: Nghị quyết số 08-NQ/TW

ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 26/5/2005, Nghị quyết số

49-NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010, Kết luận

số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị; Văn kiện Đại hội đại biểu

40

toàn quốc lần X, XI của Đảng. Các nghị quyết của Đảng nhấn mạnh: Cải cách

mạnh mẽ thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai,

minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của

nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các

phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán

quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư

pháp; đồng thời, yêu cầu cải cách nhiều nội dung cụ thể khác của TTHS. Đây

là những định hướng quan trọng, chỉ đạo việc nghiên cứu, hoàn thiện các quy

định của BLTTHS.

Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ

6 đã thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng ta về tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm

quyền con người, quyền công dân, bổ sung nhiều nguyên tắc tư pháp tiến bộ,

bổ sung và làm rõ hơn nhiệm vụ của Tòa án và Viện kiểm sát khi thực hiện

chức năng Hiến định. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử là những quy định

pháp luật TTHS có ý nghĩa chỉ đạo và thể hiện bản chất, mục đích tố tụng xác

định được việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong giai đoạn xét xử

vụ án hình sự.

“Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo” được quy định tại

khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013. Có thể nói, đây là lần đầu tiên trong

lịch sử lập hiến, tranh tụng được ghi nhận là một nguyên tắc. Tuy nhiên việc

cụ thể hoá nguyên tắc tranh tụng trong BLTTHS như thế nào? Phạm vi điều

chỉnh ra sao?... Nguyên tắc này có những nội dung gì? là những vấn đề đang

được nghiên cứu, xây dựng của những nhà làm luật, của những cơ quan có

thẩm quyền.

Để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm nguyên tắc

tranh tụng trong xét xử và quyền của người bị buộc tội phải được Tòa án xét

xử công bằng, BLTTHS năm 2015 đưa ra các quy định nhằm mục đích tăng

41

cường tranh tụng trong TTHS, nhằm bảo đảm quyền con người, chống oan

sai, nhanh chóng xác định sự thật khách quan của vụ án. Cụ thể như sau:

 Ngoài cơ quan tố tụng có quyền thu thập chứng cứ như hiện nay còn

bổ sung người bị buộc tội và người bào chữa có quyền thu thập, cung cấp

chứng cứ (Điều 58, 59, 60, 61, 73). Thu thập chứng cứ là một giai đoạn của

quá trình chứng minh. Nếu không có thu thập chứng cứ thì cũng không có

kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Các cơ quan tiến hành tố tụng có

thẩm quyền thu thập chứng cứ.

Theo quy định tại Điều 88 thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án

thu thập chứng cứ bằng cách: Triệu tập những người biết về vụ án để hỏi và

nghe họ trình bày về những vấn đề có liên quan đến vụ án, trưng cầu giám

định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt động điều tra khác theo

quy định của BLTTHS. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp những tài

liệu, đồ vật, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án. Về thủ tục thu thập

chứng cứ trong những trường hợp này phải tuân thủ những quy định như:

- Thủ tục giải thích quyền và nghĩa vụ cho đối tượng bị áp dụng: Thủ tục

này được áp dụng trong các biện pháp hỏi cung; lấy lời khai của người bị bắt,

người bị tạm giữ, người làm chứng, người bị hại; khi tiến hành đối chất, nhận

dạng, khám người, khám nơi làm việc, khám chỗ ở, địa điểm.

- Quy định về việc phải có người chứng kiến trong các trường hợp:

+ Đối với biện pháp khám người, khám xét dấu vết trên thân thể bị can,

bị hại, nhân chứng khám nghiệm hiện trường, khám nghiện tử thi, thực

nghiệm điều tra, nhận dạng thì người chứng kiến là bất kỳ ai và chỉ cần một

người (riêng biện pháp khám người, khám xét dấu vết trên thân thể, thì phải là

người cùng giới).

+ Biện pháp khám chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm đòi hỏi phải có người

láng giềng, đại diện chính quyền địa phương (nơi làm việc thì đại diện cơ

42

quan, tổ chức nơi người đó làm việc) chứng kiến. Trường hợp vắng chủ nhà

thì phải có hai người chứng kiến.

+ Biện pháp thu giữ thư tín, điện tín, bưu phẩm tại bưu điện thì phải có

sự chứng kiến của đại diện cơ quan bưu điện...

Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào

chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe

họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức,

cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa.

Chứng cứ của Luật sư thu thập và đưa ra nhằm chứng minh, có giá trị “gỡ

tội”, mang tính phản biện cao (một phần hoặc toàn bộ) đối với chứng cứ buộc

tội và luận điểm của cơ quan tiến hành tố tụng. Để bào chữa có hiệu quả, Luật

sư sẽ có những hoạt động thu thập chứng cứ và đưa ra những kiến nghị điều

tra bổ sung, điều tra lại, đình chỉ điều tra, rút quyết định truy tố, thay đổi tội

danh... Và những kiến nghị này của Luật sư cũng cần phải được các cơ quan

xem xét một cách đầy đủ.

Những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá

nhân nào đều có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và trình

bày những vấn đề có liên quan đến vụ án.

Việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng có nghĩa là sự đối kháng nhau của

các chủ thể có các chức năng khác nhau trong tố tụng. Chính vì vậy, trong

tranh tụng không thể chỉ cho phép một chủ thể được đơn phương, độc quyền

trong việc thu thập và đánh giá chứng cứ. Điều này là sự bảo đảm cho quá

trình tranh tụng được bình đẳng và hiệu quả cao hơn. Vấn đề này đã được

BLTTHS năm 2015 cụ thể hóa hơn trong các quy định về: quyền và nghĩa vụ

của bị can (Điều 60), quyền và nghĩa vụ của bị cáo (Điều 61), quyền và nghĩa

vụ của người bào chữa (Điều 73)...

43

 Quy định người bị buộc tội, người bào chữa có quyền trình bày ý kiến

về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến

hành tố tụng kiểm tra, đánh giá.

Để đảm bảo tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, vấn đề xác

định chứng cứ là rất quan trọng. Bên cạnh việc quy định quyền bình đẳng

trong việc đưa ra chứng cứ của các bên trong quan hệ tranh tụng, trong

nguyên tắc tranh tụng tại Điều 26 BLTTHS quy định các chứng cứ do Viện

kiểm sát đưa ra Tòa án để xét xử phải được quy định đầy đủ, mọi chứng cứ

xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ

trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự để xác

định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo,

xử lý vật chứng và các tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải

được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa. Như vậy, điều này cũng cho

thấy, hoạt động tranh tụng công khai tại phiên tòa là sự thể hiện tập trung

nhất, cơ bản nhất của nguyên tắc tranh tụng. Bản chất của quá trình tranh tụng

này là việc các bên quá quá trình tranh tụng đưa ra những trình bày, tranh luận

để làm rõ các chứng cứ buộc tội và gỡ tội tại phiên tòa.

 Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa

án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp. Sau khi nhận được hồ sơ do Viện kiểm

sát chuyển đến, Toà án có trách nhiệm kiểm tra, nếu các tài liệu trong hồ sơ

vụ án, vật chứng kèm theo (nếu có) đã đầy đủ so với bản kê tài liệu, vật chứng

và bản cáo trạng đã được giao cho bị can, người đại diện của bị can thì Toà án

mới nhận hồ sơ vụ án.

Do tranh tụng biểu hiện tập trung nhất tại phiên tòa nên nguyên tắc tranh

tụng cũng có những điều chỉnh để quá trình tranh tụng diễn ra một cách thuận

lợi nhất. Để các chứng cứ của vụ án phải được thể hiện đầy đủ trước phiên

tòa, làm căn cứ cho việc xét hỏi, tranh luận công khai, khách quan, toàn diện

44

đòi hỏi tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa

án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp. Nhằm bảo đảm quyền buộc tội và bào

chữa của các bên, nguyên tắc cũng bảo đảm sự có mặt đầy đủ những người

theo quy định của Bộ luật, nếu vắng mặt phải vì lý do bất khả kháng hoặc do

trở ngại khách quan hoặc trường hợp khác do Bộ luật quy định. Trên cơ sở có

đủ các chủ thể tranh tụng cũng như chứng cứ liên quan đến việc giải quyết vụ

án, các bên sẽ tranh luận công khai tại phiên tòa để bảo vệ quan điểm của

mình; Tòa án kiểm tra, đánh giá chứng cứ và dựa trên kết quả tranh tụng tại

phiên tòa để đưa ra kết luận cuối cùng về các vấn đề có tội hay không có tội,

liên quan đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, căn cứ định tội và

quyết định hình phạt, xác định mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo và đây

cũng chính là cơ sở để Tòa án ra bản án, quyết định cuối cùng.

 Quy định chặt chẽ sự có mặt của bị cáo, người bào chữa tại phiên tòa

(Điều 290, 291).

Sự có mặt tại phiên tòa là quyền và nghĩa vụ của bị cáo vì họ là người bị

truy cứu trách nhiệm hình sự và có quyền bào chữa trước tòa. Sự có mặt của

bị cáo tại phiên toà là bắt buộc, nhằm thực hiện nguyên tăc xét xử trực tiếp;

bảo đảm cho Tòa án xác định sự thật khách quan và tạo điều kiện thuận lợi

cho bị cáo thực hiện quyền bào chữa tại phiên tòa theo quy định của pháp

luật.

Bị cáo phải có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập cùa Tòa án. Bị cáo

đang bị tạm giam phải được cơ quan công an, lực lượng cảnh vệ trong quân

đọi dẫn giải đến phiên tòa theo giấy triệu tạp và kế hoạch xét xử của Tòa án.

Bị cáo tại ngoại phải có mặt tại phiên tòa theo giấỳ triệu tập của Tòa án; nếu

vắng mặt không có lý do chính đáng thì bị áp giải. Đối với bị cáo bị áp giai thì

thơi gian giải lao, nghỉ nghị án... phảĩ chịu sự giám sát của cảnh sát hoặc cảnh

vệ; nếu phiên tòa kéo dài trông nhiều ngày thì Hội đồng xét xử có thể quyết

45

định tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc xét xử. Trường hợp bị cáo vắng

mặt có lý do chính đáng như do không nhận được giấy triệu tập cua Tòa án, vì

ốm đau, vì thiên tai không đến được phiên tòa thì phải hoãn phiên tòa.

Tòa án quyết định tạm đình chi vụ án trong các trường hợp:

- Bị cáo bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh hiểm nghèo khác như ung thư,

lao phổi, đột quỵ... thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chi vụ án cho

đến khi bị cáo khỏi bệnh. Việc khẳng định bị cáo bị bệnh tâm thần hay bệnh

hiểm nghèo khác cũng như kết luận bị cáo đã khỏi bệnh hay chưa do Hội

đồng giám định pháp y kết luận bằng văn bản.

- Bị cáo trốn tránh thì Hội đồng xét xừ tạm đình chỉ vụ án và yêu cầu

Cơ quan điều tra truy nã bị cáo.

Tòa án chỉ có thể xử vắng mặt bị cáo trong những trường hợp sau đây

(Điều 290 BLTTHS):

- Bị cáo trốn tránh và việc truy nã không có kết quả. Trong thời hạn 1

tháng kể từ khi có lệnh truy nã mà không bắt được bị cáo thì Tòa án phục hồi

tố tụng và tổ chức phiên tòa xét xử vắng mặt bị cáo;

- Bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa. Không

phải mọi trường hợp bị cáo đang ở nước ngoài Tòa án đều có thể xét xử vắng

mặt. Để Tòa án có thề xét xử vắng mặt bị cáo, ngoài điều kiện bị cáo đang ờ

nước ngoài, phải thêm một điều kiện đủ nữa là Tòa án không thể triệu tập bị

cáo đến phiên tòa được. Thông thường Tòa án không thể triệu tập bị cáo đến

phiên tòa trong những trường hợp bị cáo đang ở một quốc gia mà Việt Nam

chưa có hiệp định tương trợ tư pháp, bị cáo ở nước ngoài nhằm trốn tránh việc

trừng phạt theo pháp luật Việt Nam, không rõ địa chi bị cáo ở nước ngoài...;

Nếu sự vắng mặt của bị cáo không trờ ngại cho việc xét xừ và họ đã

được giao giấy triệu tập hợp lệ. Thông thường Tòa án xét xử vắng mặt bị cáo

trong những trường hợp phạm tội đơn giản, rõ ràng, ít nghiêm trọng, chế tài

46

quy định đôi với tội phạm đó ít nghiêm khắc, bị cáo tại ngoại và nhận tội. Đây

là những trường hợp bị cáo yêu cầu xét xử vắng mặt bị cáo.

Với nhiệm vụ bào chữa cho bị cáo, người bào chữa có nghĩa vụ tham gia

phiên tòa. Tuy nhiên, điều luật không quy định người bào chữa phải có mặt

thì Tòa án mới được xét xử, trừ trường hợp Tòa án đã yêu cầu Đoàn luật sư

cử người bào chữa cho bị cáo. Trong trường hợp này, nếu người bào chữa

vắng mặt thì Tòa án phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo hoặc người đại

diện của bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa. Người bào chữa phải

có mặt tại phiên tòa để bào chữa cho người mà mình đã nhận bào chữa. Người

bào chữa có thể gửi trước bản bào chữa cho Tòa án. Trường hợp người bào

chữa vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách

quan thì Tòa án phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo đồng ý xét xử vắng

mặt người bào chữa. Điều đó cũng có nghĩa rằng không phải trong mọi trường

hợp người bào chữa vắng mặt Tòa án đều vẫn mở phiên tòa xét xử.

Nếu vì lý do chính đáng như ốm đau, thiên tai... mà người bào chữa

không thể có mặt được tại phiên tòa thì có quyền yêu cầu Tòa án hoãn phiên

tòa. Trong trường hợp này Tòa án xem xét yêu cầu của người bào chữa và tùy

theo vụ án cụ thể để quyết định hoãn phiên tòa hay vẫn tiếp tục xét xử. Mọi

trường hợp người bào chữa được bị cáo mời mà vắng mặt không có lý do

chính đáng thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

Tại phiên tòa xét xử bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm

về thể chất hoặc tâm thần hoặc bị cáo bị xét xử về tội có mức hình phạt cao

nhất là tử hình mà người bào chữa vắng mặt, thậm chí dù đã gửi trước bản

bào chữa cho bị cáo, thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa.Tuy nhiên, nếu

trong trường hợp này bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị cáo chưa thành

niên, bị cáo có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần từ chổi người bào chữa

và khăng định tự mình bào chữa thì Tòa án vẫn xét xử vụ án. Việc từ chối nhờ

47

người khác bào chữa phải được lập thành văn bản hoặc ghi vào biên bản

phiên tòa.

 Quyền tự bào chữa, quyền nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa:

Trên cơ sở bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, BLTTHS năm 2015

có các nội dung sửa đổi, bổ sung để cụ thể hóa nguyên tắc này, bảo đảm

nguyên tắc tranh tụng đầy đủ sẽ bảo vệ các quyền của người bị buộc tội, nhất

là quyền tự bào chữa, quyền nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. BLTTHS

năm 2003 có quy định quyền bào chữa, chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ

trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội, nhưng đến BLTTHS năm 2015

quy định cụ thể hơn và đảm bảo tốt hơn quyền nhờ luật sư hoặc người khác

bào chữa, nhất là quyền tự bào chữa của người bị buộc tội, bị can, bị cáo (các

Điều 60, 61). Các quy định này có ý nghĩa rất quan trọng nhằm bảo đảm

quyền tự bào chữa, bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tranh tụng tại phiên

tòa của bị can, bị cáo.

Bên cạnh đó, tại Điều 75 BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể về quyền

lựa chọn người bào chữa, tạo thuận lợi về thủ tục cho người bị bắt, người bị

tạm giữ, bị can, bị cáo được tiếp cận với người bào chữa, đồng thời còn bổ

sung quy định người thân thích của người bị buộc tội có quyền lựa chọn

người bào chữa.

BLTTHS năm 2015 quy định Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên phải thực

hành quyền công tố ngay từ khi Cơ quan điều tra tiếp nhận, giải quyết nguồn

tin về tội phạm và các trình tự, thủ tục trong giai đoạn điều tra, truy tố, để

đảm bảo việc buộc tội, tranh tụng tại phiên tòa có nhiều đổi mới nhằm nâng

cao vị trí, vai trò của Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên. Bên cạnh đó, nhằm khắc

phục tình trạng chất lượng tranh tụng còn hạn chế ở một số phiên tòa có đông

bị cáo, có nhiều luật sư tham gia, nhưng BLTTHS năm 2003 cho cho phép tối

đa 02 Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, đến BLTTHS năm 2015 sửa đổi, bổ

48

sung theo hướng có thể có nhiều Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đối với

những vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp (Điều 289).

 Đổi mới trình tự và trách nhiệm xét hỏi theo hướng việc xét hỏi trước

tiên phải thuộc về chủ tòa phiên tòa, sau đó chủ tọa quyết định ai hỏi trước, ai

hỏi sau mà không tuân theo trình tự xét hỏi như trước (Điều 307).

BLTTHS năm 2003 quy định: Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ các

tình tiết về từng sự việc và về từng tội của vụ án theo thứ tự xét hỏi hợp lý.

Chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến Kiểm sát viên,

người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự (Điều 207). Theo

BLTTHS năm 2015 thì chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người

hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý. Chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết

định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi. Người định giá tài

sản được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc định giá tài sản. Mục đích

của việc sửa đổi là để thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo

đảm; tăng sự chủ động của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, phù hợp với từng vụ

án và diễn biến cụ thể tại các phiên tòa xét xử, bảo đảm cho hoạt động tranh

tụng được thực hiện ngay trong phần xét hỏi tại phiên tòa.

Để bảo đảm tranh tụng trong xét hỏi, chủ tọa phiên tòa căn cứ vào đề

cương, kế hoạch xét hỏi để khi xét hỏi phải xác định được đầy đủ các tình tiết

về từng sự việc, từng hành vi phạm tội và các tình tiết khác có liên quan đến

việc giải quyết vụ án theo thứ tự xét hỏi hợp lý. Việc quy định trình tự xét hỏi,

ai hỏi trước, ai hỏi sau vừa thể hiện đúng quy định của pháp luật vừa bảo đảm

tính tranh tụng tại phiên tòa, chủ tọa phiên tòa vẫn phải hỏi trước, nhưng chỉ

đặt câu hỏi có tính chất nêu vấn đề, gợi mở chứ không kết luận. Còn lại những

câu hỏi có tính chất buộc tội hoặc gỡ tội dành cho Kiểm sát viên và người bào

chữa. Nếu trong quá trình điều hành phần xét hỏi, khi thấy câu hỏi có tính

49

chất mớm cung, ép cung hoặc những câu hỏi có liên quan đến bí mật Nhà

nước, bí mật công tác, bí mật điều tra; xúc phạm nhân phẩm, danh dự con

người thì chủ tọa phiên tòa phải yêu cầu người hỏi đặt lại câu hỏi hoặc yêu

cầu người trả lời không trả lời câu hỏi đó. Đối với người Bào chữa khi tham

gia xét hỏi để bào chữa cho bị cáo hoặc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của

đương sự, thông thường hay đặt câu hỏi nhằm có lợi cho thân chủ mà mình

bảo vệ, đôi khi có tính mớm cung hoặc tạo điều kiện để thân chủ của mình

phản cung tại phiên tòa.

Tuy nhiên, quy định này đã làm tăng vai trò của chủ tọa phiên tòa, ít

nhiều làm lu mờ vai trò của kiểm sát viên với tư cách là chủ thể buộc tội tại

phiên tòa. Điều này chưa phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp, tăng tính

tranh tụng và bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa. Bên cạnh đó, nó có

thể làm lẫn lộn các chức năng tố tụng. Tác giả cho rằng, chủ tọa phiên tòa nên

tập trung vào nhiệm vụ dẫn dắt phiên tranh tụng, chỉ nên hỏi bổ sung và sau

cùng, nếu thấy cần thiết. Nếu hội đồng xét xử và chủ tọa phiên tòa đảm trách

việc hỏi, công bố lời khai, vật chứng, tài liệu để buộc tội thì vô hình trung,

Tòa án đã đứng về phía cơ quan buộc tội. Cách làm này của hội đồng xét xử

sẽ không tránh được định kiến là buộc tội và thiên vị (hỏi để buộc tội), cũng

như sẽ gây bất lợi cho bị cáo và làm cho phiên tranh tụng thiếu tính khánh

quan, công bằng. Trong phiên tòa, trách nhiệm xét hỏi chính thuộc về kiểm

sát viên - người giữ vai trò buộc tội.

Có thể nói rằng, ở giai đoạn tranh tụng, thủ tục xét hỏi và tranh luận

đóng vai trò quan trọng nhất. Bởi lẽ, quá trình chứng minh làm rõ sự thật

khách quan của vụ án phụ thuộc rất lớn vào phần xét hỏi. Đổi mới thủ tục xét

xử và đổi mới phiên tòa theo hướng tăng cường yếu tố tranh tụng là mục tiêu

lớn của quá trình cải cách tư pháp ở nước ta, nhưng quy định này của

50

BLTTHS năm 2015 vẫn chưa tạo ra được sự chuyển biến căn bản về hoạt

động tranh tụng.

 Bị cáo có quyền trực tiếp đặt câu hỏi với các bị cáo khác nếu được

Chủ tọa đồng ý thay vì chỉ có quyền đề nghị Chủ tọa hỏi như hiện nay (Điều

309).

Để mở rộng quyền của bị cáo trong thủ tục xét hỏi, Điều 309, Điều 310

và Điều 311 BLTTHS năm 2015 quy định quyền trực tiếp xét hỏi của bị cáo.

Theo đó, bị cáo có quyền hỏi bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người

có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của

họ, và cả người làm chứng - nếu được chủ tọa phiên tòa đồng ý. Bị cáo có

quyền đặt câu hỏi trực tiếp với người tham gia tố tụng khác về các vấn đề có

liên quan đến bị cáo, mà không phải truyền đạt câu hỏi của mình cho chủ tọa

phiên tòa như trước đây.

Tuy nhiên, quyền đặt câu hỏi của bị cáo vẫn bị phụ thuộc vào việc đề

nghị của bị cáo có được chủ tọa phiên tòa đồng ý hay không. Chúng tôi cho

rằng, chỉ nên giới hạn là chủ tọa phiên tòa cắt những câu hỏi của bị cáo không

liên quan đến vụ án hoặc câu hỏi trùng lặp, vòng vo. Mặt khác, quy định nêu

trên của Bộ luật TTHS năm 2015 vẫn chưa mở rộng quyền đặt câu hỏi trực

tiếp của những người tham gia tố tụng khác là bị hại, nguyên đơn dân sự, bị

đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại

diện của họ. Đây là điểm hạn chế cần phải được khắc phục để bảo đảm quyền

chứng minh cho người tham gia tố tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.

 HĐXX tự mình hoặc theo đề nghị của người tham gia tố tụng yêu cầu

Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng,

người tham gia tố tụng trình bày ý kiến để làm rõ những quyết định, hành vi

tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử (Điều 317):

51

Trong thời gian qua, một số vụ án oan xảy ra như vụ Nguyễn Thanh

Chấn ở Bắc Giang, vụ Huỳnh Văn Nén ở Bình Thuận mà nguyên nhân gây ra

oan sai chính là việc các Điều tra viên đã có hành vi ép cung, dùng nhục hình,

việc tranh tụng tại phiên tòa không được bảo đảm dẫn đến Nguyễn Thanh

Chấn phải ngồi tù oan 10 năm còn Huỳnh Văn Nén phải ngồi tù oan tới 17

năm và như một phản ứng dây chuyền dẫn đến rất nhiều vụ án hình sự khi ra

Tòa xét xử các bị cáo đều phản cung và cho rằng bản thân bị ép cung, dùng

nhục hình, gây rất nhiều khó khăn cho Hội đồng xét xử khi xem xét, đánh giá

và sử dụng chứng cứ khi xét xử. Chính vì vậy, Bộ luật tố tụng 2015 đã quy

định một điều mới là Điều 317 “Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có

thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trình bày ý kiến” quy

định như sau:

“Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử tự mình hoặc theo đề nghị của

người tham gia tố tụng yêu cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có

thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trình bày ý kiến để làm

rõ những quyết định, hành vi tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét

xử”. Quy định này là hết sức cần thiết thể hiện sự công khai, bình đẳng trong

tranh tụng, giúp cho Hội đồng xét xử đánh giá và sử dụng đúng các chứng cứ

buộc tội và gỡ tội tại phiên tòa làm cơ sở cho việc ra Bản án hoặc các Quyết

định của Hội đồng xét xử. Chỉ khi xét thấy những tình tiết của vụ án đã được

xem xét đầy đủ thì chủ tọa phiên tòa hỏi Kiểm sát viên, bị cáo, người bào

chữa, người khác tham gia phiên tòa xem họ có yêu cầu xét hỏi vấn đề gì nữa

không. Nếu không có yêu cầu xét hỏi thì kết thúc việc xét hỏi; nếu có người

yêu cầu và xét thấy yêu cầu đó là cần thiết thì chủ tọa phiên tòa quyết định

tiếp tục việc xét hỏi.

 Đưa ra các quy định nhằm đảm bảo cơ chế thực hiện tranh tụng:

52

Để tranh tụng có hiệu quả thì một trong những điều kiện quan trọng nhất

là các bên buộc tội và gỡ tội phải thực sự bình đẳng với nhau và Tòa án phải

đứng ở vị trí trung gian, độc lập, khách quan, bảo đảm cho hai bên thực hiện

chức năng của mình. Tư tưởng bình đẳng này không chỉ được thể hiện tại

phiên tòa mà còn ở các giai đoạn trước khi mở phiên tòa. Theo đó, nguyên tắc

xác định trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, các bên buộc tội

và gỡ tội đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng

cứ và đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án và Tòa án phải

có trách nhiệm trong việc tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào

chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ

của mình và tranh luận dân chủ trước Tòa án.

 Khẳng định rõ nội dung “bản án, quyết định của Tòa án chỉ được căn

cứ trên cơ sở kết quả thẩm vấn, tranh tụng và những chứng cứ đã được xem

xét tại phiên tòa” (Điều 26).

Điều 26 BLTTHS quy định: “Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ

vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa”.

Chất lượng tranh tụng tại phiên tòa có được nâng cao hay không, phụ

thuộc chủ yếu vào kỹ năng điều hành phần tranh tụng của Thẩm phán chủ tọa

phiên tòa và Hội đồng xét xử cũng như kết quả phiên tòa tốt hay không tốt

phụ thuộc chủ yếu vào vai trò của chủ toạ phiên toà vì: Theo quy định của

pháp luật TTHS thì tại phiên toà sơ thẩm hình sự, Chủ tọa phiên tòa vừa là

người tiến hành tố tụng vừa là người điều khiển toàn bộ hoạt động tố tụng tại

phiên tòa của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng khác.

Với vai trò là người tiến hành tố tụng, chủ tọa phiên tòa phải thực hiện

đầy đủ, chính xác các công việc mà BLTTHS quy định, đồng thời phải chịu

trách nhiệm chính về những vấn đề BLTTHS quy định đối với Hội đồng xét

xử, thay mặt Hội đồng xét xử công bố những quyết định đã được thông qua

53

trong phòng nghị án cũng như tại phòng xử án. Với vai trò của người điều

khiển phiên tòa, chủ tọa phiên tòa phải là người tổ chức, người chỉ huy cao

nhất đối với mọi hoạt động tố tụng và hành vi tố tụng tại phòng xử án. Để

điều khiển việc tranh tụng đạt kết quả theo ý muốn, đòi hỏi chủ tọa phiên tòa

phải là người nắm chắc các quy định của BLTTHS; đọc kỹ hồ sơ vụ án; dự

kiến các tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa, có kế hoạch xét hỏi chặt chẽ,

cụ thể và chủ động tìm biện pháp giải quyết mọi tình huống xảy ra tại phiên

tòa.

Do vậy, việc tranh tụng chỉ là hình thức nếu kết quả tranh tụng không

được thể hiện trong bản án, quyết định của Tòa án. Mặc dù không hoàn toàn

dựa vào kết quả tranh tụng như mô hình tố tụng tranh tụng, nhưng việc quy

định bản án, quyết định của toàn án phải dựa vào kết quả kiểm tra, đánh giá

chứng cứ và kết quả tranh tụng là một trong những điểm mới nổi bật trong

quy định về nguyên tắc tranh tụng.

Với ý nghĩa là lần đầu tiên quy định tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản

trong BLTTHS, Việt Nam cho thấy quyết tâm tiếp tục thực hiện tiến trình cải

cách tư pháp với mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân

chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân,

phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Có thể thấy, nguyên tắc này

duy trì và phát huy những ưu điểm của mô hình tố tụng thẩm vấn, đồng thời

tham khảo kinh nghiệm quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những hạt nhân hợp lý

của mô hình tố tụng tranh tụng, phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta.

Nguyên tắc này đòi hỏi hoạt động xét xử phải bảo đảm tranh tụng giữa

Kiểm sát viên, bị hại, nguyên đơn dân sự với bị cáo, người bào chữa, bị đơn

dân sự, giữa các đương sự với nhau và những người này có quyền bình đẳng

trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu và tranh luận dân chủ

54

trước tòa án. Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả xét hỏi,

tranh tụng và những chứng cứ đã được kiểm tra, đánh giá tại phiên tòa.

 Ngoài các quy định về nguyên tắc tranh tụng, để bảo đảm tranh tụng

trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, BLTTHS quy định về quyền im lặng dành

cho người bị buộc tội. Có thể nói, việc quy định quyền im lặng là một bước

tiến lớn trong việc bảo vệ quyền con người và thực hiện trình tự xét xử công

bằng trong TTHS. Bộ luật TTHS 2015 ghi nhận quyền im lặng dành cho

người bị buộc tội, gồm bốn chủ thể pháp lý khác nhau, bao gồm: người bị bắt;

người bị tạm giữ; bị can; bị cáo. Theo đó, trong quá trình tham gia tố tụng, tất

cả các đối tượng trên đều có quyền “không buộc phải đưa ra lời khai chống

lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”.

Việc quy định quyền không đưa ra lời khai chống lại chính mình có thể

được hiểu là người bị buộc tội có quyền không khai những điều chứa đựng

thông tin bất lợi cho bản thân mình. Quy định này có thể hiểu tương đương

với quyền im lặng. Tuy nhiên, căn cứ theo nội dung điều luật, người bị buộc

tội chỉ có thể từ chối đưa ra lời khai nếu sự thẩm vấn yêu cầu lời khai có chứa

đựng thông tin chống lại họ hoặc buộc họ phải nhận mình có tội. Còn đối với

những câu hỏi khác trong quá trình thẩm vấn, người bị buộc tội không có

quyền giữ im lặng. Mặt khác, một trong các nghĩa vụ của người bị buộc tội là

phải có mặt theo sự triệu tập hoặc chấp hành yêu cầu của của cơ quan, cá

nhân có thẩm quyền, điều này có nghĩa là họ không thể từ chối tham gia cuộc

hỏi cung, lấy lời khai hoặc tại phiên tòa. Suy ra, người bị buộc tội phải có mặt

trong các cuộc thẩm vấn và không thể giữ im lặng trong suốt thời gian này.

Có thể thấy, khi so sánh với luật pháp các nước và luật quốc tế, quy định

về quyền im lặng của Việt Nam có nội dung và phạm vi tương đối hẹp. Lý

giải cho điều này, có thể xét rằng đây là loại quyền mới đối với Việt Nam,

một quyền im lặng tuyệt đối dành cho người bị buộc tội có thể gây ra nhiều

55

rào cản cho các cơ quan TTHS trong việc giải quyết vụ án. Sự quy định quyền

im lặng ở mức độ tương đối, hay còn gọi là quyền không tự buộc tội chính

mình, là sự cân bằng giữa quyền cá nhân và lợi ích xã hội.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Trong những năm gần đây, vấn đề tranh tụng trong TTHS là một trong

những vấn đề được tranh luận khá sôi nổi trong quá trình nghiên cứu và lập

pháp nhằm cải cách thủ tục tố tụng tư pháp hình sự. Quá trình hình thành và

phát triển các quy định bảo đảm tranh tụng trong pháp luật TTHS gắn liền với

những thành tựu trong lĩnh vực lập pháp ở nước ta. Các quy định này dần

được hoàn thiện với những nội dung tiến bộ nhằm đáp ứng các nhu cầu phát

triển của xã hội. Xuyên suốt theo lịch sử của đất nước từ trước khi có BLHS

năm 1988, giai đoạn thi hành BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 và

hiện nay là BLTTHS năm 2015, các quy định bảo đảm tranh tụng đã dần hoàn

thiện. Luận văn về cơ bản đã tóm tắt, phân tích những điểm thiếu sót của các

BLTTHS trước và điểm mới của BLTTHS năm 2015 hiện hành.

56

Chương 3.

THỰC TIỄN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TRANH TỤNG

TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

TẠI HUYỆN VĂN LÂM, TỈNH HƯNG YÊN

3.1. Khái quát về huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên

* Khái quát địa giới hành chính huyện:

Huyện Văn Lâm là huyện phía bắc tỉnh Hưng Yên, phía bắc giáp

huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh; phía tây giáp huyện Gia Lâm, thành phố Hà

Nội; phía tây nam giáp huyện Văn Giang với ranh giới là sông Bắc Hưng Hải;

phía nam giáp huyện Yên Mỹ và thị xã Mỹ Hào; phía đông giáp huyện Cẩm

Giàng, tỉnh Hải Dương. Huyện trước đây thuộc tỉnh Hưng Yên, từ 1968 – 1996

thuộc tỉnh Hải Hưng, từ 1977 hợp nhất với các huyện: Mỹ Hào, Yên Mỹ thành

huyện Mỹ Văn. Từ 24.7.1999, chia huyện Mỹ Văn trở lại 3 huyện cũ thuộc tỉnh

Hưng Yên (6.11.1996); đồng thời chuyển 2 xã Vĩnh Khúc và Nghĩa Trụ về huyện

Văn Giang quản lý.

Văn Lâm có đặc điểm địa hình bằng phẳng, cốt đất cao thấp không đều,

độ dốc thoải dần từ tây bắc xuống đông nam, độ cao trung bình từ 3 - 4 mét.

Là huyện có độ cao trung bình cao nhất tỉnh Hưng Yên, có diện tích là

74,42 km2 và dân số là 122.867 người. Thu nhập bình quân trên 120,000,000

đồng/ người, tăng 45 triệu đồng so với năm 2015) theo Đại hội Đại biểu Đảng

bộ huyện Văn Lâm nhiệm kỳ 2020 - 2025. Đây được coi là một trong các

huyện có kinh tế phát triển nhất tỉnh Hưng Yên.

* Tình hình tội phạm trên địa bàn huyện:

Trong thời gian 05 năm trở lại đây, tình hình tội phạm trên địa bàn huyện

Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên diễn ra khá phức tạp. Mỗi năm phát hiện trung bình

hơn 100 vụ án phạm tội các loại, trong đó chủ yếu là nhóm các tội xâm phạm

57

sở hữu (trộm cắp tài sản, cướp, cướp giật tài sản…), các tội xâm phạm tính

mạng, sức khỏe (cố ý gây thương tích, hiếp dâm… và các tội xâm phạm trật

tự công cộng (đánh bạc, gá bạc…).

Tình hình tội phạm tại địa phương có đặc điểm: các vụ án hình sự chứa

nhiều yếu tố phức tạp, có nhiều vụ án có nhiều đồng phạm, xu hướng liên kết

hình thành các băng, nhóm tội phạm ngày càng gia tăng rõ rệt, hoạt động có

tính chất lưu động ở nhiều địa bàn khác nhau, gây nhiều loại án khác nhau.

Trên địa bàn huyện còn xuất hiện loại tội phạm có tổ chức, hoạt động theo

kiểu "xã hội đen" núp dưới nhiều vỏ bọc công khai như khách sạn, nhà hàng,

nghiệp đoàn, doanh nghiệp tư nhân… Với tính chất côn đồ hung hãn, thủ

đoạn tinh vi như bảo kê nhà hàng, cho vay nặng lãi, xiết nợ thuê... hoạt động

ngang nhiên, trắng trợn, táo bạo, thách thức pháp luật. Ngoài ra, các vụ án về

đánh bạc, gá bạc cũng ngày càng gia tăng, nhất là vào các khoảng thời gian

ngày lễ, tết. Các đối tượng rủ nhau tụ tập, chơi cờ bạc, cá độ bóng đá quy mô

lớn, hình thành nhiều tụ điểm trên địa bàn huyện khiến lực lượng chức năng

phải mất nhiều ngày theo dõi và lập tổ vây bắt mới bắt gặp quả tang phạm tội.

Nhiều đối tượng từng có tiền án, tiền sự xong không hối cải vẫn tiếp tục tái

phạm, gây nguy hiểm cho xã hội.

Tội phạm trong lứa tuổi dưới 18 tuổi tăng cao trong những năm gần đây,

thậm chí hình thành những băng nhóm học sinh dùng dao lê, côn, kiếm... đâm

chém, sát phạt lẫn nhau. Hoạt động cờ bạc, cá độ bóng đá xảy ra phức tạp, đã

phát hiện một số đường dây cá độ bóng đá lớn (vụ cá độ bóng đá ở thị trấn

Như Quỳnh do Hồ Văn H cầm đầu với số tiền hơn 500 triệu đồng; vụ cá độ,

dàn xếp tỷ số liên quan đến nhiều trọng tài, cầu thủ, huấn luyện viên…).

* Khái quát hệ thống cơ quan tư pháp:

58

Cùng với sự ra đời và phát triển của hệ thống Tòa án Việt Nam, lịch sử

Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Hưng Yên được hình thành và phát triển trải qua

ba giai đoạn:

Giai đoạn thứ nhất từ khi mới thành lập đến trước khi sáp nhập tỉnh Hưng

Yên và Hải Dương vào tháng 01- 1968.

Giai đoạn thứ hai từ khi sát nhập tỉnh tháng 1 năm 1968 đến tháng 01-

1997 là thời kỳ hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên sáp nhập thành tỉnh Hải

Hưng, là Toà án nhân dân tỉnh Hải Hưng.

Giai đoạn thứ ba từ tháng 1 năm 1997 đến nay, cùng với sự kiện chia tách

tỉnh Hải Hưng thành hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên; Toà án nhân dân tỉnh

Hưng Yên được tái lập phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thiếu thốn về tổ

chức cũng như về cơ sở vật chất; cán bộ thiếu, trình độ lại bất cập, cơ sở vật

chất thiếu thốn, 04 đơn vị cấp huyện và Toà án tỉnh chưa có trụ sở làm việc

phải đi làm việc nhờ trụ sở, 06 đơn vị còn lại cũng trong tình trạng trụ sở

không còn đáp ứng được yêu cầu cần phải cải tạo nâng cấp, nhưng với sự

quan tâm lãnh đạo của Toà án nhân dân tối cao, của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân

dân tỉnh, Toà án nhân dân hai cấp tỉnh HưngYên đã nhanh chóng ổn định tổ

chức bộ máy, chủ động và linh hoạt bố trí địa điểm làm việc và địa điểm xét

xử, tận dụng mọi điều kiện trang thiết bị và cơ sở vật chất, bắt tay ngay vào

hoạt động xét xử.

Trải qua 20 năm xây dựng và phát triển, cùng toàn Đảng, toàn dân tiếp tục

đẩy mạnh công cuộc đổi mới, thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IX, X, XI,

XII của Đảng về cải cách Tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa, Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Hưng Yên bao gồm Tòa án nhân dân

tỉnh và 10 tòa án cấp huyện, Thành phố với tổng số 134 cán bộ công chức,

trong đó có 50 thẩm phán và 66 thư ký. Toàn hệ thống luôn phấn đấu hoàn

thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được Đảng và nhân dân giao phó, kịp thời

59

đưa ra xét xử nhiều vụ án dân sự, hình sự, hành chính, lao động, kinh doanh

thương mại, đúng pháp luật, bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của

Nhà nước, tổ chức và công dân, giữ gìn được sự đoàn kết nội bộ nhân dân,

không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Bên cạnh việc xét xử,

công tác thi hành án hình sự, xét giảm án, đặc xá luôn được thi hành đúng

pháp luật. Đặc biệt có sự phối hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra, Viện Kiểm

sát kịp thời đưa ra xét xử những vụ án lớn, trọng điểm đáp ứng yêu cầu nhiệm

vụ chính trị tại địa phương, đã góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ

quyền, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, duy trì

ổn định trật tự an toàn xã hội. Thông qua công tác xét xử tại Tòa án và tổ

chức các phiên tòa lưu động tại địa phương đã góp phần nâng cao hiệu quả

tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao ý thức đấu tranh, phòng ngừa tội

phạm trong quần chúng nhân dân.

Đứng trước những yêu cầu của nhiệm vụ mới, Toà án nhân dân hai cấp

tỉnh Hưng Yên, trong đó có Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm đã phát huy

truyền thống vẻ vang đoàn kết nhất trí, đồng sức, đồng lòng, khắc phục mọi

khó khăn thử thách, toàn thể cán bộ, công chức không ngừng trau dồi kiến

thức pháp luật, tinh thông nghiệp vụ, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống tiếp

tục đẩy mạnh phong trào thi đua theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại

“ Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” và “Phải gần dân, hiểu dân, giúp dân

và học dân”, dũng cảm đấu tranh bảo vệ sự thật, bảo vệ lẽ phải và sự công

bằng của pháp luật, vững vàng, kiên định trong mọi tình huống, nâng cao

trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, xây dựng tập thể, cơ quan, đơn vị

ngành trong sạch, vững mạnh, thực hiện và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ,

góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định an ninh - chính trị nhất là an

ninh nông thôn, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, phục vụ đắc lực cho việc thực

hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh, khẳng

60

định và ngày càng xứng đáng với vai trò trung tâm của hệ thống cơ quan Tư

pháp mà Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị đã xác định.

Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Tòa án

nhân dân tỉnh Hưng yên. Hiện nay Tòa có 9 biên chế trong đó có 04 Thẩm

phán, 04 Thư ký và 01 lái xe. Được sự quan tâm lãnh đạo trực tiếp của TAND

tỉnh Hưng Yên, Ban thường vụ huyện ủy, sự giám sát của Hội đồng nhân dân

và sự phối kết hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành trong huyện; cán bộ, công

chức TAND huyện Văn Lâm đã có nhiều nỗ lực, cố gắng, vượt qua khó khăn

hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị đặt ra, giúp phần giữ vững an ninh, chính trị

và trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho phát triển kinh

tế xã hội ở địa phương.

Trong công tác xét xử các vụ án hình sự, Toà án huyện Văn Lâm luôn

bám sát các yêu cầu nhiệm vụ chính trị, quán triệt sâu sắc các quan điểm,

đường lối của Đảng, áp dụng đúng đắn các quy định của pháp luật để giải

quyết, xét xử các vụ án. Đặc biệt luôn chú trọng đến việc bảo đảm tranh tụng

trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, đảm bảo cho những người tham gia tố

tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của họ. Do vậy, qua các năm (từ

2016 đến 2020) nhìn chung chất lượng giải quyết, xét xử các vụ án hình sự

tiếp tục được đảm bảo, các thủ tục tố tụng cũng như áp dụng hình phạt đối với

các bị cáo trong vụ án là tương đối chuẩn xác. HĐXX đã chú ý hơn tới việc

xem xét, đánh giá chứng cứ buộc tội và gỡ tội cho các bị cáo. Các vụ án đều

được đưa ra xét xử đúng thời hạn quy định của pháp luật, trong quá trình xét

xử, Toà án đó áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với những bị cáo có nhiều

tiền án, tiền sự, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, đồng thời cũng khoan hồng

đối với những người có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, ít nghiêm trọng, biết

ăn năn hối cải. Do vậy, đã đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội

phạm.

61

3.2. Thực tiễn bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

tại huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên

3.2.1. Đánh giá khái quát bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ

án hình sự

Để đánh giá về thực tiễn bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án

hình sự tại huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, tác giả đã thu thập số liệu thống

kê số vụ án hình sự, số bị cáo được đưa ra xét xử sơ thẩm và số lượng vụ án

có sự tham gia của luật sư trong 5 năm gần đây, tức là từ năm 2016 đến hết

năm 2020 (theo Báo cáo hàng năm của TAND huyện Văn Lâm). Cụ thể như sau:

Bảng 3.2.1: Số vụ án được xét xử sơ thẩm trong giai đoạn 5 năm

(từ năm 2016 đến năm 2020)

Số vụ án Số bị cáo Năm

188 91 2016

124 77 2017

166 91 2018

214 95 2019

166 93 2020

(Nguồn: Báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm)

Thông qua số liệu tại Bảng 3.2.1 trên có thể thấy năm 2016 Tòa xét xử

được tổng số 91 vụ án, trong đó có 188 bị cáo; năm 2017 xét xử được 77 vụ

án với 124 bị cáo; năm 2018 xét xử được 91 vụ án với 166 bị cáo; năm 2019

xét xử được 95 vụ án với 214 bị cáo và đến năm 2020 xét xử được 93 vụ án

với 166 bị cáo. Như vậy trong 05 năm TAND huyện Văn Lâm đã xét xử được

tổng số 447 vụ án bao gồm tất cả 885 bị cáo. Xuyên suốt thời gian 05 năm từ

năm 2016 đến năm 2020, số vụ án được xét xử về cơ bản năm sau cao hơn

năm trước không đáng kể, chỉ có năm 2017 số vụ án giảm đi đáng kể so với

62

năm 2016; số bị cáo được đưa ra xét xử tương ứng tỷ lệ thuận với số lượng vụ

án được xét xử và năm 2017 cũng giảm đi đáng kể so với năm 2016. Qua đó

có thể thấy tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Văn Lâm khá ổn định,

không có sự gia tăng đột biến.

Để nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, sự tham gia của Luật sư

đóng vai trò quan trọng, góp phần đảm bảo tính dân chủ, tranh luận bình đẳng

giữa các bên tham gia tố tụng. Để đánh giá thực trạng bảo đảm tranh tụng

trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, tác giả tiếp tục thống kê số liệu về tổng số

vụ án có luật sư tham gia cũng trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020, cụ

thể như sau:

Bảng 3.2.2: Số vụ án sơ thẩm có luật sư tham gia trong giai đoạn

5 năm (từ năm 2016 đến năm 2020)

Số vụ án có luật sư tham gia

Năm Số vụ án Luật sư tham Luật sư tham

gia theo chỉ định gia theo yêu cầu

2016 91 17 05

2017 77 15 04

2018 91 16 06

2019 95 19 04

2020 93 17 06

(Nguồn: Báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm)

Để nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, sự tham gia của Luật sư

đóng vai trò quan trọng, góp phần đảm bảo tính dân chủ, tranh luận bình đẳng

giữa các bên tham gia tố tụng. Hiện nay trên địa bàn huyện Văn Lâm, tỉnh

Hưng Yên có duy nhất 01 văn phòng luật sư đặt trụ sở, trong đó có 02 luật sư

có chứng chỉ hành nghề luật sư và được mời tham gia tố tụng khi có yêu cầu

63

của người bị buộc tội hoặc được chỉ định trong những vụ án có người dưới 18

tuổi hoặc người có nhược điểm về thể chất, tâm thần.

Thông qua các số liệu thống kê xem tại Bảng 3.2.2 cho thấy: Năm 2016

theo 91 vụ án có tổng số 17 luật sư tham gia theo chỉ định, chiếm 18,68% và

05 luật sư tham gia theo yêu cầu, chiếm 5,49%; năm 2017 theo 77 vụ án có

tổng số 15 luật sư tham gia theo chỉ định, chiếm 19,48% và 05 luật sư tham

gia theo yêu cầu, chiếm 5,19%; năm 2018 theo 91 vụ án có tổng số 16 luật sư

tham gia theo chỉ định, chiếm 18,68% và 06 luật sư tham gia theo yêu cầu,

chiếm 6,59%; năm 2019 theo 95 vụ án có tổng số 19 luật sư tham gia theo chỉ

định, chiếm 20% và 04 luật sư tham gia theo yêu cầu, chiếm 4,21%; năm

2020 theo 93 vụ án có tổng số 17 luật sư tham gia theo chỉ định, chiếm

18,27% và 06 luật sư tham gia theo yêu cầu, chiếm 6,45%. Trong 05 năm qua,

số lượng vụ án được xét xử có thay đổi tăng lên hoặc giảm xuống thì số lượng

luật sư tham gia bào chữa cũng tăng lên hoặc giảm đi tương ứng với số lượng

vụ án đó.

Nhìn chung, được sự quan tâm lãnh đạo trực tiếp của TAND tỉnh, Ban

thường vụ huyện uỷ, sự giám sát của Hội đồng nhân dân và sự phối kết hợp

chặt chẽ của các cấp, các ngành trong tỉnh, huyện; cán bộ, công chức TAND

huyện Văn Lâm đã có nhiều nỗ lực, cố gắng, vượt qua khó khăn hoàn thành

tốt nhiệm vụ chính trị đặt ra, giúp phần giữ vững an ninh, chính trị và trật tự

an toàn xã hội, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội ở

địa phương. Trong công tác xét xử các vụ án hình sự, Toà án luôn bám sát các

yêu cầu nhiệm vụ chính trị, quán triệt sâu sắc các quan điểm, đường lối của

Đảng, áp dụng đúng đắn các quy định của pháp luật để giải quyết, xét xử các

vụ án. Đặc biệt luôn chú trọng đến việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại

phiên toà, đảm bảo cho những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các

quyền và nghĩa vụ của họ. Do vậy, qua các năm (từ 2016 đến 2020) nhìn

64

chung chất lượng giải quyết, xét xử các vụ án hình sự tiếp tục được đảm bảo,

các thủ tục tố tụng cũng như áp dụng hình phạt đối với các bị cáo trong vụ án

là tương đối chuẩn xác, không có vụ án nào xét xử oan người phạm tội hoặc

bỏ lọt tội phạm. HĐXX đã chú ý hơn tới việc xem xét, đánh giá chứng cứ

buộc tội và gỡ tội cho các bị cáo. Các vụ án đều được đưa ra xét xử đúng thời

hạn quy định của pháp luật, trong quá trình xét xử, Toà án đó áp dụng hình

phạt nghiêm khắc đối với những bị cáo có nhiều tiền án, tiền sự, phạm tội đặc

biệt nghiêm trọng, đồng thời cũng khoan hồng đối với những người có nhân

thân tốt, phạm tội lần đầu, ít nghiêm trọng, biết ăn năn hối cải. Do vậy, đã đáp

ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.

* Một số hạn chế về bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án

hính sự:

Thứ nhất, về quy định của pháp luật về bảo đảm tranh tụng.

 Các nguyên tắc đặc trưng của thủ tục xét xử sơ thẩm còn những hạn

chế:

- Nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ

tuân theo quy định của pháp luật ra đời gắn liền với yêu cầu xây dựng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Mọi người đều có quyền được xét xử công

bằng, công khai bởi một tòa án có thẩm quyền, độc lập, công minh được thiết

lập theo quy định của pháp luật”. Ở nước ta, độc lập xét xử là nguyên tắc hiến

định và được nhắc lại trong BLTTHS.

- Nguyên tắc xét xử công khai chưa thể hiện rõ ràng và chưa đầy đủ

những vấn đề của thực tiễn. Tòa án có thể quyết định xử kín một phần nào đó

của vụ án hoặc toàn bộ vụ án nhưng khi tuyên án phải công khai.

- Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số, qua thực

tiễn áp dụng đã nảy sinh những trường hợp bên Hội thẩm chiếm đa số đã

quyết định sai lầm, trái với quyết định đúng đắn của Thẩm phán, dẫn đến phải

65

hủy bản án để xét xử lại.

 Quyền nhờ người khác bào chữa cho bị can vẫn chưa được cơ quan tiến

hành tố tụng thật sự tôn trọng, nhất là đối với cơ quan điều tra. Trên thực tế,

hầu hết các bị can, nhất là bị can đang bị tạm giam (kể cả các trường hợp bị

can theo quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS) đều không được điều tra

viên giải thích hoặc giải thích không đầy đủ về quyền được nhờ người khác

bào chữa, quyền được cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn Luật sư chỉ

định Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho mình.

 Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật hiện hành chưa xác

định rõ tư cách tố tụng của luật sư bào chữa trong tranh tụng và nghĩa vụ pháp

lý của luật sư trước bị can, bị cáo; các tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn,

năng lực và sức khỏe đối với những người hành nghề luật sư cũng chưa được

quy định chặt chẽ. Điều đó làm hạn chế đến khả năng thực hiện chức năng và

nghĩa vụ của luật sư trong quá trình tranh tụng.

 Thứ hai, về áp dụng pháp luật trong bảo đảm tranh tụng.

Giải quyết án hình sự của TAND bao gồm giai đoạn trước xét xử, trong

xét xử và sau xét xử. Đặc trưng của việc giải quyết án của Toà án là xét xử,

hoạt động cụ thể nhất của xét xử là phiên toà hình sự. Áp dụng pháp luật

trong hoạt động giải quyết án hình sự là hoạt động thường xuyên của TAND

trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình do Hiến pháp và

pháp luật quy định. Áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết án hình sự

của Toà án mang những đặc điểm chung của hoạt động áp dụng pháp luật,

bên cạnh đó, nó còn có những đặc điểm riêng. Quy trình áp dụng pháp luật

trong hoạt động giải quyết án hình sự của Toà án được thực hiện theo quy

định của Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng luật nội dung giải quyết vụ án hình sự

phải là BLHS. Việc áp dụng pháp luật trong hoạt động của Toà án luôn là mối

66

quan tâm của xã hội, đặc biệt là khi chúng ta đang tiến hành cải cách tư pháp

nhằm thực hiện tốt nhất công cuộc đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền.

BLTTHS năm 2015 đã có những quy định tiến bộ về bảo đảm tranh tụng

trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ

án hình sự, nhìn chung các cơ quan tiến hành tố tụng còn chưa thực sự cập

nhật và áp dụng triệt để các quy định về tranh tụng để bảo đảm quyền con

người, quyền công dân trong hoat động tố tụng và hướng tới mục tiêu cuối

cùng là tìm ra sự thật khách quan của vụ án.

Thực tế cho thấy, quyền nhờ người khác bào chữa cho bị can vẫn chưa

được cơ quan tiến hành tố tụng thật sự tôn trọng, nhất là đối với cơ quan điều

tra. Trên thực tế, hầu hết các bị can, nhất là bị can đang bị tạm giam (kể cả các

trường hợp bị can theo quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS) đều không

được điều tra viên giải thích hoặc giải thích không đầy đủ về quyền được nhờ

người khác bào chữa, quyền được cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn

Luật sư chỉ định Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho mình. Cho nên,

trong thời gian chưa kết thúc điều tra vụ án, hầu hết các bị can đang bị tạm

giam đều không nhờ người khác bào chữa cho mình thông qua cơ quan điều

tra hay được cơ quan điều tra yêu cầu Văn phòng luật sư cử người bào chữa,

mặc dù họ đang có nhu cầu này (nếu họ có người bào chữa là do người khác

mời). Vì vậy, để khắc phục tình trạng này cần có quy định cụ thể về việc các

cơ quan tiến hành tố tụng phải giải thích cụ thể quyền này của bị can.

Có thể nhận định, mô hình tố tụng hiện tại của Việt Nam về cơ bản là mô

hình tố tụng thẩm vấn. Hiện diện trong suốt quá trình tố tụng là một hồ sơ vụ

án hình sự (sau đây gọi là “hồ sơ hình sự”) thống nhất được lập từ giai đoạn

điều tra và là nơi chứa đựng chứng cứ xác định tội phạm. Các cơ quan tiến

hành tố tụng, bao gồm Cơ quan điều tra, VKS và Toà án là những chủ thể

đóng vai trò chính trong toàn bộ quá trình tố tụng và chi phối toàn bộ mô hình

67

tố tụng. BLTTHS đã xác định một nguyên tắc rằng chính các cơ quan tiến

hành tố tụng, chứ không phải là chủ thể nào khác, phải là người xác định sự

thật khách quan của vụ án. Bộ luật cũng quy định các cơ quan này phải có

trách nhiệm xem xét các chứng cứ một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ,

bao gồm cả các chứng cứ xác định có tội và vô tội. Tuy nhiên, không ai trong

số các cơ quan này được pháp luật quy định một cách rõ ràng trách nhiệm

trực tiếp bảo vệ quyền cơ bản của bị can, bị cáo đang vướng vào vòng lao lý,

đặc biệt là trong giai đoạn điều tra và truy tố khi quyền cơ bản của bị can dễ

bị vi phạm nhất. Cơ quan Điều tra là người lập hồ sơ hình sự, sau đó hồ sơ

được chuyển sang VKS và Toà án để dựa vào đó các cơ quan này xem xét

việc truy tố và xét xử. Nếu nội dung bản luận tội của đại diện VKS tại phiên

tòa viện dẫn chứng cứ kết tội mà không tập trung nêu chứng cứ chứng minh

tội phạm dẫn đến tính thuyết phục của bản luận tội không cao. Có trường hợp

bản luận tội được chuẩn bị sẵn, không chú ý kết quả thẩm vấn công khai tại

phiên tòa để bổ sung vào lập luận trước đó. Tại cơ quan điều tra và khi thực

hiện việc phúc cung của Viện kiểm sát, bị cáo chỉ khai nhận một phần hành vi

vi phạm của mình. Nhưng do có đủ chứng cứ kết tội nên Kiểm sát viên đã xây

dựng bản luận tội theo hướng bị cáo ngoan cố, không thành khẩn nhận tội.

Trong phần xét hỏi tại phiên tòa, mặc dù bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn

bộ hành vi phạm tội phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, nhưng

do đề xuất tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo không đúng qui định của pháp luật,

áp dụng pháp luật chưa triệt để làm ảnh hưởng quyền lợi của bị cáo.

Thứ ba, một số hạn chế khác như: trình độ, kỹ năng của người có thẩm

quyền tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng; cơ sở vật chất…

Trong công tác xét xử vẫn còn một số hạn chế như: một số bản án sơ thẩm

nhận định, đánh giá áp dụng các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ TNHS chưa

chính xác, một số bản án còn bỏ sót, không áp dụng hết các tình tiết tăng nặng

68

hay giảm nhẹ TNHS với bị cáo; một số bản án xem xét trách nhiệm bồi

thường dân sự trong vụ án hình sự chưa chính xác... Việc tống đạt, triệu tập bị

cáo tại ngoại, người bị hại, người làm chứng… trong một số vụ án còn chưa

đảm bảo. Thẩm phán thiếu trách nhiệm, không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, bỏ

qua những tình tiết quan trọng của vụ án; Thẩm phán cẩu thả trong chuẩn bị

xét xử, xét xử thiếu trách nhiệm, xử cho xong, không tôn trọng quyền tranh

luận và ý kiến của các bên; vi phạm nghiêm trọng thủ tục TTHS.

Ví dụ, tại bản án sơ thẩm đối với bị cáo Nguyễn Văn M phạm tội “Trộm

cắp tài sản”, bị cáo bị bắt quả tang khi đang lén lút lấy ví của anh H, sau khi

bị bắt, bị cáo lại khai về hành vi trước đó đã 01 lần lấy trộm tiền của chị L.

Tuy nhiên bản án sơ thẩm chỉ áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần

đối với bị cáo mà không áp dụng tình tiết giảm nhẹ là tự thú cho bị cáo.

Hoặc tại bản án sơ thẩm đối với bị cáo Nguyễn Văn L và các đồng phạm

phạm tội “đánh bạc”, bị cáo và các đồng phạm bị bắt quả tang khi đang đánh

bạc tại nhà bị cáo, trong quá trình lấy lời khai, bị cáo khai nhận có nhận tiền

hồ của những người chơi và buổi tối khi vợ đi làm về thì anh đưa cho vợ là

chị Trần Thị T chỉ bảo để đóng tiền điện nhưng không nói rõ đó là tiền gì.

Tuy nhiên, bản án sơ thẩm lại tuyên chị Trần Thị T phạm tội gá bạc mà chưa

xác định rõ thời điểm chị T nhận tiền của chồng đưa là khi nào, có biết tiền đó

ở đâu ra không, có biết nhóm các đối tượng chơi đánh bạc tại nhà mình hay

không.

Tại bản án sơ thẩm số 20/2018/HS-ST, vụ án chị Vũ Thị L phạm tội “lừa

đảo chiếm đoạt tài sản”, tại Cơ quan điều tra bị cáo nhận tội nhưng tại phiên

tòa bị cáo không nhận tội với lý do người bị hại xúi giục, đồng thời đưa ra

một số vấn đề chưa rõ ràng trong vụ án và có dấu hiệu người bị hại có thề là

người lừa bị cáo. Tuy nhiên, Chủ tọa phiên tòa đã lấy bản cung tại cơ quan

điều tra đọc và giải thích với bị cáo việc bị cáo nhận tội sẽ được hưởng tình tiết

69

giảm nhẹ là thành khẩn khai báo. Khi những người biết sự việc có mặt tại phiên

tòa xin trình bày nội dung liên quan đến vụ án thì Chủ tọa phiên tòa không cho

phép phát biểu với lý do những người này không được Tòa án triệu tập đến

phiên tòa. Kết quả chị Vũ Thị L bị tuyên 02 năm tù về tội “lừa đảo chiếm đoạt

tài sản”, sau đó chị đã kháng cáo lên Tòa án cấp tỉnh và vụ án đã được xét xử

lại.

Ngoài ra, còn những sai lầm trong một số bản án khi xét xử bị cáo là

người dưới 18 tuổi nhưng không có người đại diện hợp pháp của bị cáo hoặc

nhà trường tham gia đã làm ảnh hưởng đến quyền bào chữa cho bị cáo quyền

được bào chữa, được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình qua quá

trình tranh tụng tại phiên tòa. Những bản án vi phạm đều đã bị hủy theo quy

định của pháp luật. Thực tế tại phiên tòa có Thẩm phán còn giải thích những

tình tiết về nội dung vụ án đối với những người tham gia tố tụng khác, đây là

một nguyên nhân làm cho việc xét xử một số vụ án thiếu khách quan, không

đảm bảo dân chủ và cũng là cái cớ để những người tham gia phiên tòa cho

rằng Tòa án và VKS là một, việc xét xử chỉ là hình thức còn kết quả đã được

định sẵn.

Thực tiễn còn tồn tại thiếu sót của Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa là khi

xét hỏi bị cáo thường thẩm vấn theo hướng buộc tội như cáo trạng của VKS,

giúp Kiểm sát viên bảo vệ cáo trạng, việc xét hỏi tại phiên toà chưa thực sự

đổi mới theo tinh thần cải cách tư pháp, chưa bảo đảm yếu tố tranh tụng trong

xét xử. Không ít trường hợp Kiểm sát viên tham gia phiên tòa trong suốt thời

gian xét hỏi không hỏi một câu nào mà chỉ đọc cáo trạng rồi ngồi xem HĐXX

hỏi, hoạt động xét hỏi chủ yếu vẫn do HĐXX thực hiện, khi HĐXX hỏi xong

và hỏi Kiểm sát viên có hỏi gì không thì Kiểm sát viên không hỏi gì thêm nữa

vì thấy những vấn đề HĐXX hỏi đã đủ. Rõ ràng, Kiểm sát viên đã không ý

thức được mình là một bên của quá trình tranh tụng tại phiên tòa, việc xét hỏi

70

và tranh luận không phải của HĐXX. Có những vụ án, VKS không tham gia

vào việc xét hỏi hoặc có xét hỏi nhưng không đúng vào nội dung chính, hỏi

những câu hỏi mà HĐXX đã hỏi trước đó. Đối với những vụ án có Luật sư

chỉ định thì việc tham gia xét hỏi của Luật sư cũng mang tính hạn chế, cầm

chừng. Trong những trường hợp như vậy, lẽ ra với vai trò là người trọng tài

điều khiển hoạt động tranh tụng, HĐXX phải nhắc nhở Kiểm sát viên không

được lặp lại những câu hỏi trước đó, hoặc đề nghị Luật sư hỏi những câu hỏi

liên quan đến vấn đề mình bào chữa thì HĐXX lại cho qua, xem việc dành

thời gian cho Kiểm sát viên, Luật sư đặt câu hỏi là một thủ tục mang tính hình

thức cần phải có, không cần quan tâm đến nội dung vấn đề cũng như kết quả

đạt được khi dành thời gian cho Kiểm sát viên, Luật sư đặt câu hỏi bởi lẽ mọi

tình tiết, sự kiện của vụ án đã được Toà án thẩm tra, làm rõ trước đó. Trong

những trường hợp như vậy, Toà án vô hình chung đã tự đặt gánh nặng lên vai

mình, tự mình “lấn sân” của bên buộc tội hoặc bên gỡ tội. Điều này đã hạn

chế Toà án trong việc thực hiện chức năng xét xử, không phát huy được tính

chủ động, tích cực của các bên tranh tụng, do vậy kết quả giải quyết vụ án chủ

yếu phụ thuộc vào HĐXX, các phán quyết về vụ án có thể không đảm bảo

tính khách quan, đầy đủ và chính xác.

Thực tiễn không ít cơ quan, người tiến hành tố tụng cho rằng tranh tụng

tại phiên tòa là tại phần tranh luận, các bên tranh luận công khai tại phiên tòa

với sự tham gia đầy đủ của các bên (bên buộc tội và bên gỡ tội). Do nhận thức

như vậy nên quá trình tiến hành tố tụng tại phiên tòa nhiều Thẩm phán – Chủ

tọa phiên tòa chỉ thực sự tạo điều kiện đảm bảo sự công bằng, dân chủ cho

các bên trong giai đoạn tranh luận, còn các giai đoạn trước đó như bắt đầu

phiên tòa, giai đoạn xét hỏi thì Chủ tọa phiên tòa thường đóng vai trò chủ

chốt, vài trò của Kiểm sát viên và nhất là của người bào chữa rất mờ nhạt.

Thực tiễn cũng có trường hợp Luật sư đề nghị triệu tập thêm người làm chứng

71

nhưng nếu người làm chứng đó đã có lời khai trong hồ sơ thì thường bị

HĐXX không chấp nhận. Trong giai đoạn xét hỏi, vai trò chính vẫn là Thẩm

phán – Chủ tọa phiên tòa.

Ngoài ra, bản án của nhiều vụ án còn chưa thể hiện được đầy đủ, cô đọng

những vấn đề đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án không được chuẩn bị

kỹ, nội dung những nhận định, đánh giá của HĐXX qua tranh tụng chưa được

đưa vào làm căn cứ để quyết định, án văn viết vẫn không đúng mẫu, chất

lượng án tuy có được nâng lên nhưng một số Thẩm phán viết án vẫn chưa đạt

yêu cầu trong tình hình hiện nay, Bản án, quyết định của HĐXX trong nhiều

trường hợp vẫn còn hạn chế, nhất là lập luận chấp nhận hoặc không chấp nhận

quan điểm của người bào chữa, nhiều trường hợp đánh giá một cách chung

chung. Ví dụ vẫn còn Bản án ghi: “chấp nhận một phần ý kiến của Luật sư”

mà không ghi rõ một phần ý kiến là ý kiến gì, như thế nào.

Về sự tham gia của Luật sư trong tranh tụng tại phiên tòa, qua Bảng thống

kê 3.2.2 cho thấy số lượng vụ án có Luật sư tham gia còn chiếm tỉ lệ nhỏ

(khoảng từ 18% đến 20 % tổng số vụ án có Luật sư tham gia theo chỉ định và

khoảng từ 4% đến 7% tổng số vụ án có Luật sư tham gia theo yêu cầu). Trong

số các vụ án có Luật sư tham gia, phần lớn là những vụ án cần phải có sự

tham gia của Luật sư và Tòa án tiến hành chỉ định Luật sư cho các bị cáo và

những Luật sư được chỉ định này thường chỉ chuẩn bị sẵn một bản luận cứ để

trình bày tại phiên tòa mà không hoặc ít có ý kiến tranh luận đối đáp tại phiên

tòa. Luật sư ít tham gia vào tranh tụng, số lượng Luật sư được bị cáo mời

chiếm tỉ lệ quá nhỏ chứng tỏ chất lượng tranh tụng chưa đạt được yêu cầu đặt

ra trong chiến lược nâng cao tranh tụng tại phiên tòa.

72

3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế bảo đảm tranh tụng trong xét

xử sơ thẩm vụ án hình sự

Trong tất cả những nguyên nhân dẫn đến việc tranh tụng tại phiên toà

không đúng với tinh thần tranh tụng nổi lên một nguyên nhân cơ bản đó là

yếu tố con người. Hiện nay còn có những trường hợp mà năng lực, phẩm chất

của Thẩm phán, Kiểm sát viên, Hội thẩm nhân dân không đạt yêu cầu. Trong

đó vấn đề cơ bản nhất là ý thức trách nhiệm, bản lĩnh chính trị và nghề nghiệp

của một số người tiến hành tố tụng chưa cao, một số khác thì sa sút về phẩm

chất đạo đức, không chịu rèn luyện bản lĩnh chính trị và nghề nghiệp. Chất

lượng Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phụ thuộc rất nhiều vào

việc họ tự học tập nâng cao trình độ, nhưng còn có những người không chịu

học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, vì vậy có những sai sót

trong công tác. Đặc biệt về đội ngũ Kiểm sát viên hiện nay trình độ cao đẳng

và trình độ trung cấp là rất phổ biến, như vậy về trình độ chuyên môn là chưa

đảm bảo.

Trong quá trình xét xử, chất lượng phụ thuộc rất nhiều vào vai trò điều

khiển của Thẩm phán Chủ toạ phiên toà, vai trò chủ động xét hỏi tranh luận

của Kiểm sát viên. Do đó đòi hỏi họ phải vừa là người có cái tâm trong sáng

đồng thời vừa là người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng.

Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế không chỉ có những người tiến hành

tố tụng mà đội ngũ Luật sư thiếu về số lượng và hạn chế về chất lượng, mà

tình hình huyện Văn Lâm cho thấy như đã phân tích ở trên là một minh

chứng. Mặt khác, Luật sư tham gia bào chữa còn nặng về khai thác các tình

tiết gỡ tội, giảm nhẹ nên các bài bào chữa của họ cũng ít quan tâm tới việc

làm rõ các tình tiết của vụ án một cách đầy đủ, toàn diện; thậm chí có những

Luật sư có việc làm không trong sáng, làm lộ bí mật điều tra hòng chạy tội

cho bị can, bị cáo. Chính những biểu hiện, việc làm của Luật sư đã tự cản trở

73

việc thực hiện quy định người bào chữa tham gia tố tụng kể từ khi khởi tố vụ

án và tiếng nói của Luật sư bào chữa trong một vài vụ án chưa được người

dân đồng tình, coi trọng.

Bên cạnh đó, dù nguyên tắc bảo đảm tranh tụng đã được ghi nhận chính

thức trong Hiến pháp cũng như BLTTHS nhưng nhận thức của cơ quan tiến

hành tố tụng, những người trực tiếp tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng

còn chưa thấy được ý nghĩa, vai trò cả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa,

chưa nắm vững tinh thần tranh tụng tại phiên tòa nên quá trình triển khai hoạt

động tranh tụng tại phiên tòa chưa theo một quy trình chặt chẽ, chưa có sự

nhận thức thống nhất về bản chất, cách thức và phạm vi của vấn đề tranh

tụng, dẫn đến chất lượng tranh tụng phần nào bị hạn chế.

Hơn nữa, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở cho tranh

tụng còn chưa hoàn thiện, có nhiều vướng mắc chưa kịp thời được hướng

dẫn. Chưa có cơ sở pháp lý cho hoạt động tranh tụng như: Quy định về quyền

và nghĩa vụ của Kiểm sát viên, Luật sư bào chữa tại phiên toà; quy định về

trách nhiệm của Hội đồng xét xử, của Thẩm phán trong việc đảm bảo cho

hoạt động tranh tụng; trách nhiệm hoặc chế tài của luật sư bào chữa tại phiên

tòa; quy định về văn hoá pháp lý. Các quy định pháp luật về nội dung có liên

quan đến các vấn đề đưa ra tranh tụng như: Quy định của pháp luật hình sự và

văn bản hướng dẫn làm cơ sở đánh giá về vụ án. Hiện nay còn rất nhiều quy

định của Bộ luật hình sự còn có vướng mắc nhưng chưa được cấp có thẩm

quyền hướng dẫn, do vậy khi tranh tụng, giữa Kiểm sát viên với người bào

chữa vẫn có những quan điểm khác nhau.

Ngoài những nguyên nhân về yếu tố con người nói trên còn một số

nguyên nhân khác cũng ảnh hưởng tới bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự như:

74

- Thực tiễn công tác xét xử gặp vướng mắc trong việc áp dụng các quy

định của pháp luật, đặc biệt là các văn bản quy phạm pháp luật mới liên quan

tới hoạt động của hệ thống TAND chưa được hướng dẫn áp dụng pháp luật

kịp thời, đầy đủ làm ảnh hưởng nhất định tới chất lượng, hiệu quả hoạt động

trên thực tế.

- Tổ chức bộ máy của các cơ quan bổ trợ tư pháp không đủ lớn mạnh,

không đúng tầm với nhiệm vụ, nên đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực đó còn

thiếu, trình độ của nhiều người còn hạn chế không đảm bảo hoàn thành được

một cách tốt nhất nhiệm vụ được giao.

- Chế độ chính sách đối với cán bộ tư pháp nói chung và cán bộ ngành

Toà án nói riêng còn quá hạn chế. Nhìn chung các cán bộ Toà án và Thẩm

phán ở các nước phát triển luôn có chế độ lương cao hơn so với các công

chức khác trong cơ quan nhà nước.

- Cơ sở vật chất, trang thiết bị của ngành Toà án phần lớn đã xuống cấp,

lạc hậu, chưa có nguồn kinh phí thường xuyên cho việc đầu tư cơ sở vật chất,

trang bị phương tiện làm việc và bảo đảm phù hợp với tranh tụng và cho hoạt

động thường xuyên của ngành Tòa án. Chế độ tiền lương và chính sách đãi

ngộ đối với cán bộ, công chức Tòa án chưa phù hợp với tính chất đặc thù của

hoạt động xét xử. Trong khi số lượng án hàng năm phải giải quyết rất lớn thì

trụ sở làm việc của các Toà án lại quá chật hẹp, xuống cấp, thậm chí còn phải

đi thuê. Toà án thường được coi là biểu tượng công lý, biểu tượng của pháp

luật nhưng có Toà án phải thuê trụ sở làm việc, xét xử ở những khuôn viên

không đảm bảo uy nghiêm.

75

3.3. Một số giải pháp đảm bảo tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án

hình sự tại huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.

3.3.1. Hoàn thiện nguyên tắc “tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”.

Mặc dù bảo đảm tranh tụng là một nguyên tắc hiến định và Bộ luật TTHS

năm 2015 đã dành hẳn một điều để quy định về nguyên tắc này (Điều 26). Đó

là một nguyên tắc cơ bản xuyên suốt các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ

án hình sự. Tuy nhiên, quá trình thực hiện vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất

định. Để khắc phục một số hạn chế đã nêu trong các phần trên, cần thiết phải

có một số giải pháp sau đây:

Một là, về mặt kỹ thuật lập pháp trong tương lai cần sửa đổi điều luật theo

hướng quy định các quyền năng của chủ thể gỡ tội là quyền chủ động, không

bị phụ thuộc bởi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Xác định rõ trách

nhiệm của các cơ quan, người tiến hành tố tụng trong việc thông báo, giải

thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ

quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của

BLTTHS năm 2015.

Hai là, Cần có quy định cụ thể về việc Toà án tiến hành xác minh, thu

thập bổ sung chứng cứ. Điều 252 BLTTHS quy định về việc Toà án được

quyền xác minh thu thập, bổ sung chứng cứ… đây vấn đề mới, lần đầu tiên

được đưa vào Bộ luật TTHS, qua đó nhằm nâng cao tính chủ động trong việc

thu thập chứng cứ của Toà án. Tuy vậy, Hội đồng Thẩm phán TANDTC cần

ban hành Nghị quyết hướng dẫn riêng về việc Toà án xác minh, thu thập, bổ

sung chứng cứ. Theo đó, quy định cụ thể về những loại việc và trình tự, thủ

tục Toà án xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ.

Ba là, cần thay đổi tư duy, nhận thức của những người có thẩm quyền tiến

hành tố tụng, xây dựng cơ chế bảo đảm cho mọi bản án, quyết định của Tòa

án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng

76

tại phiên tòa. Nghiêm túc loại bỏ tình trạng “án bỏ túi” vẫn còn tồn tại trong

thực tế đời sống.

Bốn là quy định các nội dung bảo đảm các cơ quan tiến hành tố tụng,

người tiến hành tố tụng có nghĩa vụ tạo điều kiện cho người bào chữa tham

gia tố tụng thực hiện quyền bào chữa của họ, quy định cụ thể những trường

hợp người bào chữa không được tham gia hoặc hạn chế sự tham gia của họ

vào các hoạt động tố tụng do yêu cầu của việc việc giải quyết vụ án hình sự.

Bên cạnh đó, cần phải vận dụng những quy định tiến bộ của các nước trên

thế giới khi quy định quyền im lặng của người bị buộc tội. Quá trình lấy lời

khai hay hỏi cung bị can, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cần thiết

phải giải thích cho người bị buộc tội hiểu rằng họ không buộc phải đưa ra lời

khai chống lại mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.

3.3.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật bảo đảm tranh tụng trong

xét xử

Để nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên toà, bên cạnh việc

hoàn thiện nguyên tắc “bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa” cần hoàn thiện, bổ

sung những qui định khác nhằm cụ thể hoá những quy định về tranh tụng tại

phiên toà, tạo ra cơ chế thích hợp và hiệu quả cho quá trình tranh tụng trong

xét xử, đó là:

- Việc sửa đổi các quy định về thủ tục xét hỏi cần theo hướng Toà án là

chủ thể điều hành phiên toà, điều hành việc xét hỏi, tranh luận của các bên và

quyết định của HĐXX dựa trên kết quả xét hỏi và tranh luận tại phiên toà.

Mặt khác, trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nên chỉ giữ vai trò

là “trọng tài điều khiển” tranh tụng tại phiên tòa giữa đại diện Viện Kiểm sát

với người bào chữa (luật sư) và bị cáo, các bên tranh tụng thực hiện trách

nhiệm chứng minh và tiến hành xét hỏi là chủ yếu. Theo quy định pháp luật

hiện hành về việc xét hỏi tại phiên toà cho thấy, việc xét hỏi được thực hiện

77

chủ yếu bởi HĐXX, việc làm rõ những tình tiết dùng làm chứng cứ để truy tố

bị cáo phụ thuộc vào HĐXX, mặc dù đây chính là nhiệm vụ của VKS trong

thủ tục xét hỏi. Vì vậy, trong các điều luật về xét hỏi, cụ thể là Khoản 2 Điều

307 BLTTHS 2015 cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng sau: “Khi xét hỏi

từng người, KSV hỏi trước rồi đến người bào chữa, người bảo vệ quyền,

nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Người tham gia tố tụng tại phiên toà có quyền

đề nghị chủ toạ phiên toà hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ… Hội

đồng xét xử chỉ hỏi khi thấy còn những điểm chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc có

mâu thuẫn”. Sửa đổi theo hướng này là phù hợp với vị trí, trách nhiệm của

từng chủ thể tại phiên toà và phù hợp với nguyên tắc tranh tụng trong xét xử

đã được Hiến pháp quy định.

- Cần loại bỏ những trách nhiệm, nghĩa vụ tố tụng không thuộc chức năng

xét xử của tòa án để bảo đảm chất lượng tranh tụng trong xét xử:

Thứ nhất, nguyên tắc trách nhiệm khởi tố vụ án và xử lý vụ án hình sự

(Điều 18 BLTTHS năm 2015). Nguyên tắc này quy định trách nhiệm khởi tố

vụ án hình sự thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Tuy nhiên,

nếu phải thực thi trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự liệu có ảnh hưởng đến

chức năng xét xử của Tòa án và có lấn sân sang chức năng công tố không. Vì

vậy, không nên quy định thẩm quyền khởi tố vụ án cho Tòa án, trong trường

hợp phát hiện tội phạm mới khi xét xử tại phiên tòa, Tòa án có thể kiến nghị

để Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố.

Thứ hai, nguyên tắc “xác định sự thật của vụ án” (Điều 15 Bộ luật Tố

tụng hình sự 2015). Nguyên tắc này quy định “Trách nhiệm chứng minh tội

phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng

không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Theo đó, trách nhiệm chứng

minh tội phạm thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Tuy nhiên,

chức năng, thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng đã được phân rõ thì

78

nên bỏ trách nhiệm chứng minh tội phạm của Tòa án do trách nhiệm

này thuộc chức năng của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát. Mặt khác, việc phải

chứng minh tội phạm sẽ ảnh hưởng tới tính khách quan của Tòa án khi ra bản án

và phán quyết của mình, đồng thời thêm chức “trọng tài anh minh”, “người cầm

cân nảy mực” của Tòa án dễ bị hiểu sai lệch.

- Quyền bào chữa của bị can, bị cáo đã có nhiều đổi mới trong Luật

TTHS 2015 hiện hành nhằm đáp ứng được yêu cầu bình đẳng giữa bên buộc

tội và bên gỡ tội theo hướng bảo đảm hơn nữa quyền bình đẳng của luật sư

trước và trong phiên tòa để họ có thể tranh tụng dân chủ, bình đẳng với bên

buộc tội. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành chưa chú ý xây dựng

các quy định tạo ra các cơ chế, điều kiện để thực hiện quyền bình đẳng ấy. Do

đó, tác giả đề xuất cần quy định thêm các nội dung như: Quyền được thu thập,

xuất trình chứng cứ; quyền hỏi nhân chứng, bác bỏ nhân chứng do phía buộc

tội đưa ra; quyền tranh luận, đối đáp bình đẳng với bên buộc tội...

- Điều 88, BLTTHS 2015 quy định: “Để thu thập chứng cứ, người bào

chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và

những người biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên

quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ

liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa”. Theo ý kiến tác giả nên mở rộng

quyền thu thập chứng cứ cho người bào chữa, cụ thể theo hướng: “Để thu

thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại,

người làm chứng và những người biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày, có

quyền được ghi lời khai, ghi âm, ghi hình việc hỏi những người này… Những

phương thức trên được dùng làm chứng cứ tham gia tranh tụng tại phiên toà”.

Quy định này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa thu thập chứng cứ

và tranh tụng tại phiên toà.

79

- Chức năng bào chữa là một chức năng quan trọng trong quá trình tố

tụng, đây là trách nhiệm nghề nghiệp đồng thời cũng là nghĩa vụ của luật sư

trước bị can, bị cáo. Tuy nhiên trong Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản

pháp luật hiện hành chưa xác định rõ tư cách tố tụng của luật sư bào chữa trong

tranh tụng và nghĩa vụ pháp lý của luật sư trước bị can, bị cáo; các tiêu chuẩn

về trình độ chuyên môn, năng lực và sức khỏe đối với những người hành nghề

luật sư cũng chưa được quy định chặt chẽ. Điều đó làm hạn chế đến khả năng

thực hiện chức năng và nghĩa vụ của luật sư trong quá trình tranh tụng. Cần

thiết phải quy định rõ luật sư, bị cáo là một bên tranh tụng bình đẳng trong suốt

quá trình xét xử.

Trong Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật khác cần quy

định rõ trách nhiệm pháp lý của luật sư bào chữa trước bị can, bị cáo trong

những trường hợp luật sư không làm tròn nghĩa vụ và chức năng nghề nghiệp

của mình là bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Trách

nhiệm đó phải là trách nhiệm vật chất dân sự: như phải hoàn trả lại cho thân

chủ tiền thù lao đã nhận và bị phạt một khoản tiền nào đó hoặc là trách nhiệm

kỷ luật - hành chính trước tổ chức đoàn luật sư (phê bình, cảnh cáo, tạm đình

chỉ hành nghề có thời hạn...) thậm chí cả trách nhiệm hình sự nếu để xảy ra

hậu quả nghiêm trọng ví dụ như bị cáo bị xử phạt oan, bị can bị bắt giam

trái pháp luật mà luật sư không can thiệp bảo vệ kịp thời dẫn đến bị can tự

tử hoặc bị dùng nhục hình dẫn đến chết người..) với hình phạt bổ sung cấm

hành nghề luật sư.

3.3.3. Nâng cao trình độ, kỹ năng của những người tiến hành tố tụng

trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên

Mọi sự thay đổi, cải cách bảo đảm tăng cường tính tranh tụng tại phiên

tòa, vấn đề quyết định vẫn là con người. Nếu trình độ, năng lực, kinh nghiệm

nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán, Công tố viên, Điều tra viên và Luật sư

80

như hiện nay thì mục tiêu cải cách sẽ không đạt được. Vì vậy, việc tiêu chuẩn

hóa đội ngũ này cần phải tiến hành đồng bộ với quá trình cải cách tư pháp

theo một lộ trình hợp lý.

- Nâng cao kĩ năng điều khiển tranh tụng đối với Thẩm phán, Hội thẩm

nhân dân: Đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay, Thẩm phán và Hội

thẩm nhân dân cần có nhận thức thống nhất về khái niệm, nội dung và ý nghĩa

của thuật ngữ “tranh tụng” là nguyên tắc của TTHS theo tinh thần cải cách tư

pháp. Thẩm phán và Hội thẩm cần phải ý thức được rằng mình chính là người

trọng tài vô tư, khách quan điều khiển quá trình tranh tụng giữa các bên tại

phiên tòa. HĐXX cần luôn nhận thức được rằng “bản án chỉ căn cứ vào

những chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa”, tất cả tài liệu trong hồ sơ và

các vấn đề đều phải thẩm tra tại phiên tòa, trong khi xét hỏi phải “thoát ra

khỏi hồ sơ” để đưa ra những bản án, quyết định có sức thuyết phục. Hiện nay

công tác tập huấn trực tuyến cho các Thẩm phán ở tất cả hệ thống tòa án 02

cấp ở địa phương vẫn thường xuyên được thực hiện, tuy nhiên chưa có những

nội dung tập huấn tập trung về bảo đảm tranh tụng, do vậy các Thẩm phán,

Thư ký Tòa án còn chưa thực sự nắm rõ và có kinh nghiệm về hoạt động tố

tụng đảm bảo yếu tố tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự. Do đó Tòa án

nhân dân tối cao cần có những thay đổi về nội dung tập huấn liên quan đến

vấn đề này để đảm bảo tăng cường kiến thức, kỹ năng về tranh tụng cho đội

ngũ cán bộ Tòa án. Bên cạnh đó, cần thường xuyên tổ chức các khóa tập huấn

nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất chính trị, đạo đức của

đội ngũ Hội thẩm nhân dân; tăng cường bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng điểu

khiển tranh tụng, phổ biến các văn bản pháp luật mới cho Hội thẩm nhân dân.

- Tăng cường biên chế Thẩm phán, Thư ký Tòa án để đáp ứng nhu cầu

giải quyết án. Trình độ, năng lực của Thẩm phán dù có giỏi đến đâu nhưng số

lượng không đủ, công việc quá tải, áp lực công việc đè nặng thì hiệu quả chắc

81

chắn không cao. Do vậy cần thường xuyên quan tâm công tác đào tạo, bồi

dưỡng để nâng cao năng lực, trình độ cho Thẩm phán trước và sau khi bổ

nhiệm, công việc này cần tiến hành thường xuyên.

- Đối với kiểm sát viên, ngoài kiến thức về kiểm sát điều tra thì phải có

kiến thức điều tra và chỉ huy điều tra; năng lực, trình độ, kinh nghiệm xét hỏi,

tranh luận tại phiên tòa.

- Đối với Điều tra viên (là người trực tiếp thực hiện việc điều tra tội

phạm) thì ngoài kiến thức pháp luật cần phải giỏi về nghiệp vụ điều tra, khám

phá tội phạm, hiểu và sử dụng thành thạo các quy định của BLTTHS về hoạt

động điều tra, thu thập chứng cứ.

- Đối với Luật sư, cần tăng về số lượng nhất là những địa bàn cách xa

thành phố như huyện Văn Lâm, cả huyện chỉ có duy nhất 01 văn phòng luật

sư và chỉ có 02 luật sư có chứng chỉ hành nghề thì không thể đáp ứng được

yêu cầu tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án, bảo đảm được quyền của

bị can, bị cáo. Đồng thời với việc tăng cường số lượng cần quan tâm đến chất

lượng, chế độ đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, thi tuyển phải bảo đảm các tiêu

chuẩn về năng lực và đạo đức nghề nghiệp của Luật sư. Cần có quy định bảo

vệ Luật sư khi hành nghề, đồng thời xử lý nghiêm minh đối với Luật sư vi

phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp.

3.3.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến về việc thực hiện bảo

đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại huyện Văn Lâm,

tỉnh Hưng Yên

Việc tăng cường ý thức pháp luật trong nhân dân có tầm ý nghĩa rất quan

trọng trong việc nhận thức và thực hiện các quy định của pháp luật. Trên địa

bàn huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, có thể nói trình độ dân trí khá cao,

người dân cơ bản đều có ít nhiều kiến thức về pháp luật. Tuy nhiên, yếu tố

tranh tụng khi xét xử thì chưa được nhiều người hiểu rõ, cũng chưa biết

82

những bảo đảm tranh tụng trong xét xử, do đó khi bị buộc tội còn chưa nắm

rõ được những quyền lợi của mình. Nhiều người không có niềm tin vào các

cơ quan tiến hành tố tụng, do đó có những nhận thực lệch lạc. Vì vậy, bằng

việc nâng cao nhận thức của người dân về vai trò của Toà án, người bào chữa,

Kiểm sát viên, các nguyên tắc bảo đảm tranh tụng… cũng góp phần nâng cao

chất lượng của hoạt động tranh tụng tại phiên toà. Để thực hiện được điều đó

thì công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của quá trình thi

hành pháp luật và có ý nghĩa, vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng cường

pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì

nhân dân.

Do vậy cần tuyên truyền về các đường lối, quan điểm của Đảng về cải

cách tư pháp, nhất là việc tổ chức phiên tòa xét xử theo tinh thần cải cách tư

pháp, đảm bảo bình đẳng giữa các bên (bên buộc tội và bên gỡ tội), Tòa án

đóng vai trò trọng tài trung gian điểu khiển tranh tụng và đưa ra phán quyết

dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Bên cạnh đó cần thực hiện việc đẩy

mạnh tuyên truyền pháp luật nói chung và pháp luật về hình sự, TTHS nói

riêng để người dân hiểu về những quyền và nghĩa vụ của mình. Cần tuyên

truyền cho người tham gia tranh tụng biết về quyền tự bào chữa cho mình,

nếu họ không có khả năng đó thì nhất thiết phải được sự trợ giúp của Luật sư.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có vai trò hết sức

quan trọng. Nó chính là cơ chế tối ưu nhất để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của

bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, nguyên đơn, bị đơn dân

sự, đảm bảo việc truy tố, xét xử ra phán quyết đúng người, đúng tội, đúng

pháp luật. Tuy nhiên để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động tranh tụng

trong xét xử sơ thẩm nói chung, cụ thể trên địa bàn huyện Văn Lâm, tỉnh

Hưng Yên nói riêng, tác giả đã đánh giá khái quát bảo đảm tranh tụng trong

83

xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thông qua số liệu số vụ án, số bị cáo và số vụ án

có luật sư tham gia trong thời gian 05 năm gần đây từ năm 2016 đến năm

2020. Qua đó phân tích được những bất cập, hạn chế của tình hình thực hiện

bảo đảm tranh tụng trong xét xử tại Tòa án huyện, đồng thời phân tích những

nguyên nhân gây ra sự bất cập, hạn chế đó. Tác giả cũng đã nghiên cứu và

đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa yếu tố bảo đảm tranh tụng

trong xét xử, từ việc hoàn thiện các quy định của nguyên tắc tranh tụng được

bảo đảm, hoàn thiện các quy định khác của pháp luật nhằm hỗ trợ, đảm bảo

nguyên tắc này, tới việc hoàn thiện về con người – những người trực tiếp tiến

hành tố tụng, nắm quyền điều tra, công tố, xét xử; tuyên truyền cho người dân

hiểu về bảo đảm tranh tụng, để có cái nhìn toàn diện và sâu sắc, tăng cường

pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì

nhân dân.

84

KẾT LUẬN

Qua những nội dung đã phân tích trong các chương của luận văn, có thể

thấy vai trò quan trọng của việc bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ

án hình sự, nó là cơ chế tối ưu nhất để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị cáo,

đảm bảo việc truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo

quyền con người trong TTHS, góp phần khắc phục tình trạng để xảy ra oan,

sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm không chỉ

là yêu cầu của việc bảo đảm tính dân chủ, công bằng giữa những người tham

gia tố tụng với Viện kiểm sát mà kết quả tranh tụng tại phiên tòa là căn cứ để

Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của các đương sự xác định sự thật vụ án. Trong bối cảnh Việt

Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số

08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trong tâm công tác

tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ

Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam

đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề

ra yêu cầu "Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất

lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là hoạt động đột phá

của các cơ quan tư pháp" và Nghị quyết số 37/2012/HQ13 ngày 23/11/2012

của Quốc Hội cũng yêu cầu Tòa án nhân dân tối cao chỉ đạo các Tòa án tiếp

tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa; đảm bảo việc giải quyết, xét xử và

ra bản án, quyết định đúng pháp luật. Do đó luận văn đã nêu được những vấn

đề nổi trội như: Những vấn đề lý luận về bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự; Quy định của pháp luật từ trước khi có BLTTHS năm

2015 đến khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực; Thực tiễn và một số giải pháp

85

bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại huyện Văn Lâm,

tỉnh Hưng Yên.

Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một vấn đề lớn

trong luật TTHS. Tính phức tạp và nhiều mặt về nội dung, về sự thể hiện của

nó không chỉ ở giai đoạn xét xử đã là những khó khăn cho những người

nghiên. Vì nhiều lý do, đề tài này chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu một

cách triệt để và toàn diện tất cả những vấn đề đang được thực tiễn xây dựng

và áp dụng pháp luật đặt ra. Những kết quả khiêm tốn của đề tài này hy vọng

sẽ đóng góp một phần nhỏ bé về mặt lý luận và thực tiễn trong việc hoàn

thiện và nâng cao hiệu quả tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự, góp

phần thực hiện thành công công cuộc cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước

ta đề ra.

86

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban chấp hành trung ương Đảng (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW

ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư

pháp trong thời gian tới", Hà Nội;

2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 48/NQ-TW ngày 24/5/2005;

3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005;

4. Bộ Tư pháp, Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, NXB từ

điển bách khoa, NXB Tư pháp;

5. Bộ luật tố tụng hình sự cộng hòa liên bang Đức,

http://tks.edu.vn/law/detail/1027_0_Bo-luat-to-tung-hinh-su-Cong-hoalien-

bang-Duc.html

6. Bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản,

http://tks.edu.vn/law/detail/1280_0_Bo-luat-to-tung-hinh-su-Nhat-Ban.html

7. Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt

Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội;

8. Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội;

9. Đinh Văn Quế (2015), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015,

NXB Thông tin và truyền thông.

10. Hoàng Phê (chủ biên) (1991), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Khoa

học xã hội;

11. Lê Văn Cảm (chủ biên) (2003), Giáo trình luật hình sự Việt Nam

(phần riêng), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội;

12. Lê Cảm và Nguyễn Ngọc Chí (2004), Cải cách tư pháp ở Việt Nam

trong giai đoạn xây dựng Nhà nước Pháp quyền, Nhà xuất bản đại học Quốc

Gia Hà Nội;

87

13. Michel Bogdan (2002), Luật so sánh, Xưởng in Trung tâm học liệu,

Đại học Sư phạm Hà Nội;

14. Nguyễn Ngọc Chí (2018), Giáo trình các nguyên tắc cơ bản của luật tố

tụng hình sự, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội;

15. Nguyễn Ngọc Kiện (2019), Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ

thẩm, Nxb Tư pháp;

16. Ngô Huy Cương (2002), “Đổi mới hoạt động xét xử theo nguyên tắc

tranh tụng”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Hà Nội;

17. Nhà pháp luật Việt - Pháp (1997), Tố tụng hình sự và vai trò của Viện

công tố trong tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;

18. Nguyễn Mạnh Tiến (2005), “Bàn về một số quy định của Bộ luật tố

tụng hình sự về tranh tụng tại phiên tòa”, Tạp chí Tòa án nhân dân;

19. Nguyễn Văn Trượng (2008), “Bàn về vần đề tranh tụng và các yếu tố

tranh tụng trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Tòa án nhân

dân.

20. Nguyễn Thúc Linh (1972), Từ điển Luật học diễn giải, Nxb Khai Trí,

Sài Gòn;

21. Phương hướng hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, Tạp chí

Tòa án nhân dân (kỳ 1&2 tháng 12);

22. Phạm Văn Phiếm (2015), Tranh tụng trong xét xử theo luật tố tụng hình sự

Việt Nam trên số liệu thực tiễn tỉnh Đăk Nông, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa luật

Đại học quốc gia Hà Nội;

23. Phan Lan (2002), Mỹ - tranh tụng khi xét xử tại toà, Báo pháp luật

Thành phố Hồ Chí Minh, số ra ngày 21/10/2002;

24. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003, Hà

Nội;

88

25. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam (sửa đổi năm 2013), Hà Nội;

26. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Hà Nội;

27. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hà Nội;

28. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Luật tố tụng hình sự,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

29. Đại học Luật Hà Nội (2011), Bộ luật hình sự Liên bang Nga, NXB

Công an nhân dân, Hà Nội.

30. Trần Thị Bích Thủy (2017), Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét

xử các vụ án hình sự từ thực tiễn xét xử thành phố Hồ Chí Minh; Luận văn

thạc sỹ luật học, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội;

31. Trần Văn Độ (2004), "Bản chất của tranh tụng tại phiên tòa", Tạp chí

khoa học pháp lý;

32. Tống Anh Hào (2003), “Về tranh tụng tại phiên tòa hình sự”, Tạp chí

Tòa án nhân dân;

33. Trần Duy Bình (2012), Thực trạng và một số kiến nghị nhằm nâng

cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự theo tinh thần cải cách tư

pháp,http://www.toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/Baiviet?p_page_id=

&p_cateid=1751909&article_details=1&item_id=11719754

34. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (1999), chuyên đề về

“Tư pháp hình sự so sánh” (do tập thể tác giả biên dịch, hiệu đính bởi PTS.

Dương Thanh Mai và Ths. Cao Thanh Phong), Thông tin khoa học pháp lý,

Hà Nội;

35. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2011), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng

hình sự, NXB Tư Pháp Hà Nội;

89

36. Viện khoa học kiểm sát (1998), Tố tụng hình sự (trích: Truyền thống

luật dân sự châu Âu, Mỹ Latinh và châu Á), Dự án VIE/95/018, Viện kiểm

sát nhân dân tối cao, Hà Nội.

37. https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/quoc-hoi/vien-truong-le-minh-tri-co-

viec-toi-biet-bi-ghet-nhung-van-phai-lam-704836.html

38. https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/quoc-hoi/vien-truong-le-minh-tri-co-

viec-toi-biet-bi-ghet-nhung-van-phai-lam-704836.html

90