VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VÕ PHƯƠNG QUANG
BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM,
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VÕ PHƯƠNG QUANG
BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 838.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. Hoàng Thị Minh Sơn
HÀ NỘI, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Học viên xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
bản thân. Các số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ
Võ Phương Quang
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ ....................................................................................................................... 9
1.1. Những vấn đề lý luận về bị cáo trong tố tụng hình sự ....................................... 9
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bị cáo trước khi ban hành
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ............................................................................ 15
1.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bị cáo theo Bộ luật tố tụng
hình sự 2015 ............................................................................................................. 21
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
BỊ CÁO TẠI HUYỆN HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH ..................................... 43
2.1. Khái quát thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về bị cáo trong tố tụng hình
sự tại huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định (2015-2019) ............................................. 43
2.2. Đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về bị cáo trong tố tụng hình
sự tại huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định (2015-2019) ............................................. 45
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ............... 59
3.1 Quan điểm và yêu cầu nâng cao chất lượng thực hiện quy định của pháp luật về
bị cáo trong tố tụng hình sự ...................................................................................... 59
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật .......................................................................... 63
3.3. Các giải pháp khác ............................................................................................. 67
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
: Áp dụng pháp luật
ADPL
: Bộ luật Dân sự
BLDS
: Bộ luật Hình sự
BLHS
BLTTHS
: Bộ luật Tố tụng hình sự
: Cấu thành tội phạm
CTTP
: Đảng cộng sản
ĐCS
: Hội đồng xét xử
HĐXX
: Kiểm sát viên
KSV
: Luật tố tụng hình sự
LTTHS
: Người chưa thành niên
NCTN
: Nhà nước
NN
: Pháp luật
PL
: Quyền con người
QCN
: Toà án nhân dân
TAND
: Trợ giúp pháp lý
TGPL
: Tiến hành tố tụng
THTT
: Trách nhiệm hình sự
TNHS
Thẩm phán
:
TP
Tố tụng hình sự
:
TTHS
Hội thẩm nhân dân
:
HTND
Kiểm sát viên
KSV
: Thư ký tòa án
TKTA
Vụ án hình sự
:
VAHS
Xé xử sơ thẩm
:
XXST
:
Viện kiểm sát nhân dân
VKSND
:
Vi phạm, tội phạm
VP, TP
Xã hội chủ nghĩa
XHCN
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Như đã biết lịch sử phát triển xã hội loài người luôn quan tâm đấu tranh bảo vệ
và phát triển QCN. Kể từ khi xã hội có giai cấp hình thành, NN ra đời thì pháp luật
chính là công cụ hữu hiệu nhất để đảm bảo thực hiện quyền con người. Ngày nay, vấn
đề QCN càng được đề cao và phát triển thành một trong những tiêu trí quan trọng để
đánh giá mức độ dân chủ của một quốc gia. Bản chất của NN Việt Nam là NN của
dân, do dân, vì dân, vì thế vấn đề QCN đã luôn được ĐCS Việt Nam quán triệt, quan
tâm. Điều này thể hiện rất rõ ràng trong việc Đảng và NN đã nhanh chóng điều chỉnh
từ nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN,
giúp cho đời sống kinh tế của nhân dân ngày càng được nâng cao, chính sách an sinh
xã hội ngày càng được chú trọng quan tâm. Tuy nhiên thời gian gần đây, song song
với việc phát triển kinh tế thị trường và bùng nổ công nghệ thông tin (4.0), thì tình
hình vi phạm, tội phạm đang có chiều hướng gia tăng cả số lượng, lẫn các loại thủ
đoạn phạm tội ngày tinh vi phức tạp hơn. Mặc dù, các cơ quan THTT đã có nhiều cố
gắng, nỗ lực trong đấu tranh, phòng ngừa VP, TP. Nhưng có những thời điểm chất
lượng công tác tư pháp còn hạn chế, chưa đáp ứng với yêu cầu phát triển kinh tế xã
hội và xây dựng NN pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vẫn còn tình trạng bỏ lọt tội phạm,
làm oan người vô tội, vi phạm các QCN.
Đứng trước khó khăn, thách thức nêu trên Đảng và NN đã đề ra chiến lược cải
cách tư pháp, với các Chỉ thị và Nghị quyết như: Nghị quyết 08/NQ - TW ngày
02/01/2002 [7]; Nghị quyết 48/NQ -TW ngày 24/5/2005 [8]; Nghị quyết 49/NQ - TW
ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 khẳng
định: “Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng
tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp” [9]; và
tiếp theo đó là Nghị quyết số 37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội [36], yêu
cầu TAND tối cao chỉ đạo các tòa án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa;
đảm bảo việc giải quyết, xét xử và ra bản án, quyết định đúng pháp luật… Những chủ
trương, chính sách nêu trên cũng chính là việc Đảng và NN muốn nâng cao QCN
trong hoạt động tư pháp. Và để cụ thể QCN trong hoạt động tư pháp, Hiến pháp Việt
1
Nam năm 2013 đã khẳng định các QCN, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật [33]; Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp về QCN trong hoạt động TTHS, tại
BLTTHS 2015 đã tiếp nối bằng rất nhiều các quy định về quyền, nghĩa vụ cũng như
các nguyên tắc để bảo vệ những người tham gia tố tụng như: Người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo, bị hại …; Trong đó tại Điều 61 BLTTHS 2015 [29], các nhà làm luật đã rất
chú trọng đến việc ban hành các quyền về con người để đưa vào BLTTHS nhằm mục
đích để bảo vệ được nhiều những quyền và lợi ích chính đáng của bị cáo.
Ở địa phương huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định - nơi học viên công tác trong
những năm qua tình hình VP, TP nói chung diễn biến ngày càng phức tạp, trung bình
mỗi năm TAND huyện Hoài Nhơn thụ lý XXST hơn 100 VAHS [50]. Nhìn chung các
HĐXX của TAND luôn quan tâm áp dụng đầy đủ các quy định của luật TTHS về
quyền và nghĩa vụ của bị cáo. Tuy nhiên trong thực tiễn xét xử thì vẫn còn dấu hiệu vi
phạm các quy định và quyền và nghĩa vụ của bị cáo, dẫn đến việc vị trí, vai trò của bị
cáo trong TTHS có những thời điểm chưa được nhận thức và đánh giá đúng mức, dẫn
đến khi áp dụng các quy định của pháp luật về bị cáo trong XXST các VAHS không
bảo đảm QCN theo quy định của PL. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó,
trong đó bị cáo - là chủ thể tham gia tố tụng chưa nhận thức và thực hiện đày đủ, các
quyền và nghĩa vụ tố tụng. Vì vậy việc nghiên cứu các quy định của luật TTHS về
người tham gia tố tụng nói chung và bị cáo nói riêng, một cách khoa học không những
bổ sung thêm về mặt lý luận bị cáo còn giúp cho những người làm công tác thực tiễn
thực hiện tốt các quy định của PL về quyền và nghĩa vụ trong xét xử các VAHS, góp
phần xét xử đúng người, đúng tội, đúng PL, không kết tội oan sai, bản án được nhân
dân đồng tình ủng hộ, đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp là đề tài có tính thời sự
cấp thiết.
Xuất phát từ yêu cầu việc nghiên cứu khoa học trong chương trình đào tạo thạc sĩ
luật học của Viện hà lâm khoa học xã hội Việt Nam, học viện khoa học xã hội và nhu
cầu phục vụ thực tiễn công tác xét xử của bản thân, học viên đã chọn đề tài: “Bị cáo
trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Hoài Nhơn, tình Bình Định” làm
luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2
Bảo vệ QCN nói chung, bảo vệ quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội nói riêng là
một đề tài được rất nhiều các nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu. Trong thời gian gần đây đề
tài về bị cáo theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam cũng bắt đầu thu hút được
sự chú ý quan tâm, nghiên cứu như:
Luận án tiến sĩ luật học: “Bảo đảm quyền của người tham gia tố tụng theo nghĩa
vụ pháp lý trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Trần Thảo, Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh, 2015 [44]. Đây là đề tài nguyên cứu các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự trong việc bảo đảm quyền của người tham gia tố tụng, gồm tất cả
các giai đoạn kể từ khi tội phạm xảy ra, được các cơ quan THTT phát hiện khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử … và những người tham gia tố tụng với những tư cách như:
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị hại, người bào chữa (Luật sư, trợ giúp viên pháp
lý)…
Luận án tiến sĩ luật học: “Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay, của tác
giả Võ Quốc Tuấn, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Nhà nước và
Pháp luật, 2017 [58]. Đây là đề nghiên cứu các quy định của pháp luật TTHS về bảo
đảm quyền của bị cáo trong phiên tòa XXST của TAND cấp tỉnh. Điểm trọng tâm và
mấu chốt của đề tài, do đây là giai đoạn chuyển giao giữa BLTTHS 2003 và 2015,
lên tác đã rất thành công khi đưa ra những so sánh giữa hai BLTTHS để tìm ra những
điểm mới, điểm tiến bộ trong các quy định của pháp luật TTHS.
Luận án tiến sĩ luật học: “Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành
niên trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Phan Thị Thanh Tâm, Viện hàn lâm
khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2017 [42]. Đây là đề nghiên
cứu các quy định của pháp luật TTHS về bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người
chưa thành niên (người dưới 18 tuổi phạm tội) từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố
và xét xử. Tác đã thành công công khi phân tích và so sánh những điểm khác nhau
giữa hai cụm từ: “Người chưa thành niên”, theo quy định của BLHS 1999, BLTTHS
2003 và “Người dưới 18 tuổi” của BLHS và BLTTHS 2015 để qua đó thấy được
những điểm mới về quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên (người dưới 18
tuổi) giữa Luật hình sự và TTHS mới 2015 với các Luật trước đấy.
3
Luận án tiến sĩ luật học: “Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong
hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử vụ án hình sự” của tác giả Nguyễn Hữu Hậu, Viện hàn lâm khoa học
xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2019 [19].
Luận văn thạc sĩ luật học: “Người làm chứng trong tố tụng hình sự Việt Nam,
trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk” của tác giả Lê Viết Kiên, Đại học
Quốc gia Hà Nội, Khoa luật - 2015[22].
Luận văn thạc sĩ luật học: “Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng hình
sự Việt Nam” của tác giả Dương Văn Công, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật -
2017 [15].
Luận văn thạc sĩ luật học: “Quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội
trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội”
của tác giả Đinh Hải Ninh, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật, 2017[24]. Đây là đề
tài nghiên cứu về quyền của người bị buộc tội, trong đó tác giả cũng đã nêu ra được
trong các giai đoạn điều tra, truy tố thì người bị buộc tội được pháp luật TTHS gọi
với tư cách tham gia tố tụng là Bị can; Còn trong giai đoạn xét xử thì người bị buộc
tội, được gọi với tư cách là Bị cáo…; tác giả cũng đã so sánh được quyền và nghĩa vụ
của bị can, bị cáo được quy định trong hai BLTTHS 2003 và 2015 và đã nêu nên
được thực tiễn áp dụng các quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong các giai đoạn
tố tụng hình sự tại địa phương thành phố Hà Nội.
Luận văn thạc sĩ luật học: “Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là
người dưới 18 tuổi theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ
Chí Minh”, của tác giả Phạm Hồng Khải, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam,
Học viện khoa học xã hội, 2017 [21].
Luận văn thạc sĩ luật học: “Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ
án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”, của tác giả Phan Hùng, Viện
hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2018 [20].
Luận văn thạc sĩ luật học: “Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự
Việt Nam”, của tác giả Phạm Nguyễn Việt Cường, Viện hàn lâm khoa học xã hội
Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2019 [13].
4
Bài viết: Một số kiến nghị hoàn thiện chế định người tham gia tố tụng trong
BLTTHS, của các tác giả Thái Chí Bình - Tạp chí Nghề Luật số 2/2015[4].
Bài viết: Quy định pháp luật quyền bào chữa của bị cáo trong hoạt động xét xử
sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân của các tác giả Võ Quốc Tuấn - Tạp
chí Nghề Luật số 4/2015[57].
Bài viết: Trực tiếp ghi nhận quyền im lặng cho người bị buộc tội trong Tố tụng
hình sự Việt Nam, của các tác giả Lê Huỳnh Tấn Duy, Tạp chí Khoa học pháp lý số
4/2015[16].
Bài viết: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng
minh buộc tội của Viện kiểm sát, của các tác giả Nguyễn Hữu Hậu, Tạp chí Kiểm sát
số 12/2015[18].
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta đã có một
số công trình nghiên cứu cơ bản về người bị buộc tội, người tham gia TTHS Việt
Nam. Nhưng đối với việc nghiên cứu một cách toàn diện về Bị cáo trong luật TTHS
Việt Nam thông qua thực tiễn xét xử ở TAND huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định thì
chưa có công trình nào đề cập đến.
Từ thực tiễn trong công tác xét xử sơ thẩm các VAHS của bản thân học viên tại TAND
huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Cũng như trước yêu cầu của sự nghiệp cải cách tư pháp, tổ
chức thực hiện Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức TAND 2014 và thi hành BLTTHS 2015 cùng
các văn dưới bản luật trong lĩnh vực TTHS quy định về Bị cáo, thì việc nghiên cứu những vấn
đề lý luận, và thực tiễn để đưa ra giải pháp đảm bảo thực hiện tốt những quy định của pháp
luật TTHS về Bị cáo trong XXST các VAHS là cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và các quy định của
PL về bị cáo trong xét xử án hình sự sơ thẩm, đảm bảo thực hiện các quy định về bị
cáo trong TTHS và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật TTHS về bị cáo
trong XXST các VAHS tại TAND huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Đình; qua đó, luận
văn đưa ra những giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của
luật THHS về bị cáo trong XXST các VAHS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
5
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về bị cáo trong xét xử án
hình sự sơ thẩm, như: Khái niệm Bị cáo, đặc điểm của bị cáo; quyền và nghĩa vụ của
bị cáo trong xét xử sơ thẩm các VAHS;
- Khái quát lịch sử hình thành, phát triển của Bị cáo trong TTHS Việt Nam, từ
sau Cách mạng tháng 8.1945 cho đến nay để rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu những quy định cụ thể về bị cáo của BLTTHS 2015, từ đó thấy
được những điểm mới, tiến bộ cũng như một số điểm còn bất cập của các chế định về
Bị cáo trong BLTTHS 2015, để từ đó đề xuất quan điểm về hướng sửa đổi, bổ sung
BLTTHS 2015;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về bị cáo trong XXST
các VAHS theo luật TTHS Việt Nam trên địa bàn huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định;
đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc áp dụng và những
nguyên nhân của nó;
- Từ đó đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về bị cáo
trong XXST các VAHS theo luật TTHS Việt Nam hiện hành và nâng cao hiệu quả việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong XXST các VAHS trong thực tiễn ở nước ta
trước yêu cầu tiếp tục cải cách tư pháp và xây dựng NN pháp quyền.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật về bị cáo
trong xét xử án hình sự sơ thẩm qua thực tiễn xét xử ở Toà án nhân dân huyện Hoài
Nhơn, tỉnh Bình Định.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề bị cáo trong XXST các
VAHS theo luật TTHS Việt Nam, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá thực tiễn áp
dụng các quy định của PL tố tụng về quyền và nghĩa vụ của bị cáo tại TAND Hoài
Nhơn, tỉnh Bình Định Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn việc ADPL quy
định về bị cáo trong TTHS tại các phiên tòa XXST các VAHS ở TAND huyện Hoài
Nhơn, tỉnh Bình Định giai đoạn 2015-2019.
5. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
6
5.1. Cở sở lý luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
(chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử) và tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của ĐCS Việt Nam về NN và PL, xây dựng NN pháp quyền, về cải cách tư
pháp và bảo vệ QCN trong xét xử hình sự ở nước ta hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
chủ yếu sử dụng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phân tích và tổng
hợp, lịch sử cụ thể. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng các phương pháp của các bộ môn
khoa học khác, như phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp hệ thống
hóa, phương pháp logic...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý
luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ một luận văn
thạc sĩ luật học về thực hiện các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về bị cáo
trong XXST các VAHS theo yêu cầu cải cách tư pháp, mà trong đó giải quyết nhiều
vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới quyền và nghĩa vụ của bị cáo
theo luật TTHS Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Nghiên cứu việc đảm bảo ADPL về quyền, nghĩa vụ của bị cáo trong XXST
nhằm bổ sung những vấn đề lý luận về hoàn thiện PL bảo đảm thực hiện quyền và
nghĩa vụ của bị cáo trong xét xử hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta
hiện nay;
- Tổng hợp các quan điểm khoa học của một số nhà khoa học về bị cáo trong tố
tụng hình sự để đưa ra quan niệm của học viên về bị cáo trong tố tụng hình sự;
- Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của chế định bị cáo trong pháp
luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay;
- Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng các quy định về quyền và
nghĩa vụ của bị cáo tại các phiên tòa hình sự sơ thẩm của TAND huyện Hoài Nhơn,
tỉnh Bình Định; những tồn tại, hạn chế cũng như những nguyên nhân của các tồn tại,
hạn chế đó;
7
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất phương
hướng và giải pháp đảm bảo thực hiện các chế định về bị cáo trong XXST các VAHS
trong giai đoạn xây dựng NN pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay.
- Bản thân tác giả là TP công tác TAND cấp huyện, đã tham gia XXST nhiều
VAHS, từ việc nghiên cứu và trải nghiệm bản thân, những kiến nghị trong luận văn
không chỉ có ý nghĩa như một đề xuất mang tính khoa học có giá trị tham khảo cho các
cơ quan, tổ chức trong xây dựng, hoàn thiện PL bảo đảm thực hiện các quy định về bị
cáo trong TTHS. Học viên cũng hy luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo bổ ích cho
các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy và học viên chuyên ngành luật học; và phục
vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ làm công tác thực
tiễn đang công tác tại các Cơ quan VKSND, TAND trong quá trình giải quyết VAHS
được khách quan, có căn cứ và đúng PL.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn chia làm 3
chương và 8 tiết.
8
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Những vấn đề lý luận về bị cáo trong tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm bị cáo trong tố tụng hình sự
Như đã biết theo quy định của pháp luật TTHS thì các giai đoạn từ khởi tố,
điều tra cho đến truy tố chỉ là giai đoạn thu thập nguồn chứng (tìm kiếm thông tin)
chứng minh sự việc phạm tội xảy ra mà chưa phải là qúa trình xác định VP, TP. Do đó
xét xử tại phiên tòa mới là giai đoạn quan trọng nhằm xác định có phạm tội hay không
phải là tội phạm của một người thực hiện hành vi trái PL. Cơ quan điều tra sẽ ra quyết
định khởi tố VAHS, khởi tố bị can. Bị can sẽ trải qua quá trình điều tra, truy tố, cho
đến khi TAND ra quyết định đưa bị can (người bị VKS buộc tội) ra xét xử thì bị can
lúc này được gọi là bị cáo. Theo quy định tại Điều 50 BLTTHS 2003 thì “Bị cáo là
người bị Tòa án quyết đưa vụ án ra xét xử” [28]. Vậy nên khái niệm bị cáo được hiểu
trong phạm vi hẹp nhưng cũng đã nêu lên được, sự việc một người bị truy cứu TNHS
hay bị VKS truy tố thì chưa được gọi là bị cáo, chỉ đến khi TAND ra quyết định đưa
VAHS ra xét xử thì bị can mới được gọi là bị cáo.
Về mặt ngôn ngữ học, có thể hiểu bị cáo là người cụ thể trong xã hội, có hành
vi gây ảnh hưởng, tác động tiêu cực đến sự việc, đối tượng cụ thể. Theo từ điển luật
học, thì bị cáo là người bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử [59], định nghĩa pháp lý về
khái niệm bị cáo, bị cáo là người bị truy cứu TNHS trước Tòa án. Như vậy, có thể
hiểu là sau khi có quyết định truy tố của VKS và hồ sơ VAHS được chuyển đến
TAND, thì vẫn coi người bị VKS truy tố là bị can, chỉ khi có quyết định của TAND
đưa VAHS ra xét xử mới coi người đó là bị cáo.
Bị cáo được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử, tham gia phiên tòa, đề nghị
thay đổi người THTT, người giám định, người phiên dịch, đưa ra chứng cứ và những
yêu cầu, tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa, nói lời sau cùng trước khi nghị án,
kháng cáo bản án và quyết định sơ thẩm.
Bị cáo phải có mặt theo giấy triệu tập của tòa án. Trong trường hợp vắng mặt
không có lý do chính đáng, thì có thể bị áp giải.
9
Bị cáo là người bị TAND đưa ra xét xử, là người bị VKS truy tố và buộc tội, là
người bị tình nghi thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong BLHS và được gọi
là VAHS. Tuy nhiên không đồng nghĩa với việc bị cáo được coi là nghười có tội vì
theo quy định tại Điều 31 Hiếp pháp 2013 thì: “Người bị buộc tội được coi là không
có tội cho đến khi chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội đã có hiệu
lực pháp luật” [33]. Mặc dù bị tình nghi là người đã thực hiện hành vi vi phạm PL
hình sự dẫn đến là người bị TAND đưa ra xét xử nhưng khi chưa có bản án kết tội của
TAND có hiệu lực hoặc đã có bản án mà bản án nhưng bản án đó vẫn chưa có hiệu
lực pháp thì cũng chưa được xem người đó là có tội. Vậy nên, khái niệm bị cáo không
đồng nghĩa với chủ thể của tội phạm. Bị cáo chỉ là một trong những chủ thể tham gia
TTHS được quy định tại khoản 7 Điều 55 BLTTHS 2015 [29], bị cáo tham gia vào
quá trình giải quyết VAHS nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính họ.
Trong BLTTHS 2015 đã quy định khái niệm bị cáo trong phạm vi rộng hơn, bổ
sung thêm pháp nhân cũng có thể là bị cáo. Mà cụ thể tại khoản 1 Điều 61 quy định:
Bị cáo là pháp nhân được thực hiện qua người đại diện hợp pháp của pháp nhân theo
quy định của BLHS 2015 [29]. Tức là những người hoặc pháp nhân đã bị TAND
quyết định đưa xét xử mới gọi là bị cáo, bị cáo tham gia trong giai đoạn xét xử khi đó
họ mới có đầy đủ quyền và nghĩ vụ bị cáo được luật TTHS quy định.
Nếu pháp nhân thực hiện hành vi phạm thì đều bị TAND quyết định đưa ra xet
xử như mọi công dân với tư cách xét xử là bị cáo. Quyết định đưa ra xét xử của
TAND đối với bị cáo là pháp nhân sẽ được thông qua người đại diện theo pháp luật
của pháp nhân,
Do đó, tư cách tham gia TTHS của bị cáo sẽ xuất hiện kể từ khi TAND ra
quyết định đưa VAHS ra xét và chấm dứt khi VAHS được đình chỉ hoặc khi có bản án
kết tội có hiệu PL được thi hành.
Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm bị cáo trong tố tụng hình sự như
sau: Bị cáo là cá nhân hoặc pháp nhân thương mại bị Tòa quyết định đưa ra xét xử
về hành vi vi phạm pháp luật.
Chỉ những người, pháp nhân bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử mới được gọi
là bị cáo và bị cáo không đồng nghĩa với người có tội, không được xem bị cáo là
người có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa hoặc bản án kết tội đó chưa có hiệu
10
lực thi hành. Khi tham gia tố tụng bị cáo có quyền và nghĩa vụ được PL quy định và
bảo đảm thực hiện.
1.1.2. Đặc điểm bị cáo trong tố tụng hình sự
Một là: Bị cáo là người tham gia tố tung
Bị cáo là một trong những chủ thể tham gia TTHS có quyền được PL bảo vệ
nhưng không mang quyền lực NN, bị cáo tham gia TTHS nhằm để xác định sự thật
của VAHS, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị cáo liên quan đến hành vi phạm tội.
Khi tham gia TTHS, bị cáo được hưởng quyền và thực hiện quyền của bị cáo theo quy
định tại Điều 61 BLTTHS 2015 [29]. Tuy nhiên do bị cáo tham gia TTHS với vai trò
là người bị đưa ra XXST vụ án hình sự. Nên bị cáo luôn ở trong tình thế bất lợi hơn
những người tham gia TTHS khác vì họ phải gánh chịu ảnh hưởng của dư luận xã hội.
Với quan điểm bị cáo luôn là người có tội vì không có thì làm sao lại bị TAND đưa ra
xét xử, bị cáo chưa bị HĐXX kết tội nhưng quan hệ xã hội của bị cáo cũng ít nhiều bị
ảnh hưởng. Vì đại đa số người dân đều cho rằng bị cáo là người phạm tội trước khi
chưa có bản án, quyết định của TAND.
Bị cáo là người tham gia TTHS nhằm xác định sự thật của VAHS, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân liên quan đến hành vi phạm tội. Bị cáo có
quyền được biết mình bị buộc tội về tội gì? Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người bào
chữa khác bào chữa cho mình; Quyền được chứng minh sự vô tội của mình bằng việc
đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Quyền được khiếu nại các quyết định của các cơ quan
tiến hành tố tụng; Quyền được tham gia phiên tòa và được tranh luận tại phiên tòa;
Quyền không bị xét xử một cách qúa chậm trễ thể hiện các quy định về thời hạn tạm
giữ để khởi tố VAHS; thời hạn điều tra; thời hạn truy tố, thời hạn xét xử ..., cụ thể
như: Khi hết thời hạn tạm giữ hình sự nếu Cơ quan CSĐT Công an huyện Hoài Nhơn,
tỉnh Bình Định không có căn cứ để khởi tố VAHS và khởi tố bị can thì phải trả tự do
cho người bị bắt tạm giữ; Nếu hết thời hạn điều tra không chứng minh được tội phạm
thì phải đình chỉ điều tra VAHS và đình chỉ VAHS đối với bị can, hủy bỏ hết quyết
định khởi tố bị can và các quyết định TTHS về biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với
bị can, trả lại cho bị can đầy đủ quyền công dân, có thể phải công khai xin lỗi và bồi
thường thiệt hại theo quy định của PL.
11
Ngoài ra bị cáo tham gia trong TTHS cũng có ý nghĩa rất quan trọng đối với
bản thân họ, là nhằm mục đích đảm bảo quyền và nghĩa vụ của bị cáo, để đảm bảo
quyền lợi của bị cáo, cơ quan THTT phải xác định sự xuất hiện của tư cách bị cáo.
Tham gia hoạt động TTHS với tư cách là bị cáo, họ sẽ được thực hiện các
quyền đặc thù như: Nói lời sau cùng trước khi HĐXX nghị án; xem biên bản phiên
tòa; yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa, quyền kháng cáo mà
chỉ có bị cáo mới có quyền, còn những người tham gia TTHS khác thì không.
Hai là, Bị cáo xuất hiện trong vụ án hình sự
Bị cáo xuất hiện trong VAHS để chứng minh hành vi phạm tội có xảy ra hay
không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội. Đây là những
vấn đề đầu tiên cần phải chứng minh trong VAHS. Trong mỗi VAHS cần phải chứng
minh một cách khẳng định rằng hành vi bị khởi tố, điều tra, truy tố đã xảy ra trên thực
tế. Việc chứng minh đó thể hiện ở việc làm sáng tỏ một cách đầy đủ và toàn diện nhất
tất cả các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, có ý nghĩa đối với việc
định tội danh đúng hay sai và suy cho cùng nó có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng
đắn VAHS. Đó là những dấu hiệu thuộc chủ thể và mặt khách quan của tội phạm.
Ngoài ra bị cáo xuất hiện trong VAHS là để chứng minh có thực hiện hành vi
phạm tội hay không, có lỗi hay không có lỗi, do lỗi vô ý hay cố ý, có năng lực chịu
TNHS hay không?, động cơ, mục đích thực hiện tội phạm là gì?. Chứng minh bị cáo
là người thực hiện hành vi phạm tội, nghĩa là xác định chủ thể của tội phạm. Sau đso
là để xác định chủ thể đó có lỗi hay không?. Nếu có lỗi thì là lỗi cố ý hay vô ý?. Mục
đích và động cơ phạm tội cần được chứng minh. Khái quát lại những dấu hiệu cơ bản
thuộc chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm được làm sáng tỏ.
Cùng với thì việc bị cáo xuất hiện trong VAHS có ý nghĩa quan trọng giúp
HĐXX chứng minh sự thật khách quan, trung thực chính xác làm cơ sở để xét xử
đúng người, đúng tội. Làm sáng tỏ một cách đầy đủ và toàn diện tất cả các tình tiết
liên quan đến hành vi phạm tội, nó có ý nghĩa đối với việc định tội danh đúng tính
chất và hành vi của tội phạm giúp cho việc giải quyết VAHS đảm bảo đúng quy định
của PL.
Ba là, Bị cáo là người bị buộc tội
12
Tính từ thời điểm VAHS được TAND huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Đình có
quyết định đưa vụ án ra XXST thì lúc này bị can đã trở thành bị cáo. Và để nhận biết
đó là bị cáo thì đồng thời cũng là việc đảm bảo của NN đối với công dân vì không ai
bị TAND đưa ra xét xử khi không có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Chỉ có những
người đã bị TAND quyết định đưa ra xét xử VAHS mới được gọi là bị cáo, còn những
người mặc dù thực hiện hành vi vi phạm PL hình sự (tội phạm được quy định trong
BLHS), đã được VKSND truy tố nhưng chưa được TAND ra quyết định đưa vụ án ra
XXST thì cũng chưa được gọi là bị cáo.
Vì theo tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hiệp Quốc năm 1948 thì: Bất kỳ
người nào bị buộc tội đều có quyền được coi là chưa có tội cho đến khi TAND công
khai, nơi người đó đã có được tất cả những đảm bảo cần thiết để bào chữa cho hành vi
của bản thân, chứng minh được tội phạm của người bị buộc tội trên cơ sở các quy
định của pháp luật [23].
Cũng theo quy định của Hiến pháp 2013 [33], quy định về nguyên tắc suy đoán
vô tội: Người bị buộc tội được TAND xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công
bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của PL thì việc tuyên án phải
được công khai. Tại phiên tòa sơ thẩm VAHS việc xét xử kịp thời, công khai là đảm
bảo quyền lợi cho bị cáo được xét xử trong một phiên tòa có nhiều Cơ quan THTT và
nhiều người tham dự. Sự công bằng thể hiện ở việc bị cáo được xét xử theo những
quy định chung của PL hình sự và TTHS.
Trong đó tại phiên tòa XXST các VAHS, thì HĐXX thực hiện việc điều tra
công khai, trực tiếp các tài liệu chứng cứ liên quan đến VAHS với sự tham gia của
VKSND (bên buộc tội) và bên gỡ tội (bị cáo và người bào chữa cho bị cáo). Thông
qua việc xét xử công khai, HĐXX vừa có thể thu thập thêm các chứng cứ quan trọng
để xem xét, đánh giá những chưgs cứ khác, khắc phục được những thiếu sót, sai lầm
trong hoạt động TTHS trước đấy. Để qua đó đảm bảo bản án, quyết định của HĐXX
dược ban hành một cách chính xác, công bằng và kịp thời.
Với việc nguyên tắc suy đoán vô tội đã lần đầu tiên được quy định và áp dụng
trong BLTTHS 2015 thì bị cáo được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh
theo trình tự, thủ tục do luật TTHS quy định và có bản án, quyết định kết tội của
TAND đã có hiệu lực thi hành....[29]. Khi bản án, quyết định của TAND chưa có hiệu
13
lực thi hành thì bị cáo vẫn chưa bị coi là tội phạm. Vậy nên các cơ quan THTT hình
sự không được đối xử với bị cáo như là tội phạm. Khi không đủ và không thể làm
sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục theo quy định tại BLTTHS thì
Cơ quan điều tra, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc
tội không có tội (vô tội). Nghĩa là, nếu trong giai đoạn TTHS nào đã áp dụng đầy đủ
các biện pháp cần thiết nhưng vẫn không đủ và không thể có đủ nguồn tài liệu, chứng
cứ để chứng minh tội phạm thì cơ quan, người THTT phải kết luận người buộc tội là
không có tội và phải giải quyết theo hướng có lợi cho người bị buộc tội.
Bốn là, Bị cáo xuất hiện trong giai đoạn xét xử
Đây chính là đặc điểm để nhận biết và phân biệt rõ bị cáo, và cũng là sự bảo
đảm của NN đối với công dân vì không ai bị TAND đưa ra xét xử khi không có quyết
định đưa VAHS ra XXST. Chỉ có những người bị TAND quyết định đưa ra xét xử
mới được gọi là bị cáo, những người tuy có hành vi phạm tội, đã bị VKSND truy tố
nhưng chưa được TAND ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử thì cũng không gọi
là bị cáo.
Bị cáo là người được TAND đưa ra xét xử nhưng không vì thế mà xem bị cáo
là người có tội (là tội phạm), khi chưa có bản án, quyết định kết tội của TAND có hiệu
lực PL được thi hành. Nên bị cáo được đảm bảo các quyền cơ bản của công dân. Các
quyền tự do cơ bản của công dân được ghi nhận tại Hiến pháp 2013 chính là những
giá trị xã hội có ý nghĩa to lớn về mặt mọi mặt cần phải được tôn trong và bảo vệ một
cách có hiệu quả. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân được quy định trong Điều 8 BLTTHS 2015: “Khi tiến hành tố tụng, trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp
dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp
luật hoặc thấy không còn cần thiết” [29]. Nghĩa là, khi có các căn cứ áp dụng biện
pháp ngăn chặn, biện pháp điều tra, thu thập chứng cứ không còn cần thiết hoặc
những biện pháp này không còn cần thiết nữa thì cắc cơ quan, người có thẩm quyền
phải kịp thời hủy bỏ hoặc thay thế các biện pháp đó. Nguyên tắc này đảm bảo không
một công dân nào bị xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
14
Năm là, Bị cáo chỉ trở thành người có tội nếu sau khi xét xử họ bị Tòa án ra
bản án kết tội và bản án đã có hiệu lực PL.
Bị cáo là người bị TAND đưa ra xét xử sơ thẩm VAHS nhưng không có nghĩa
bị cáo đã là tội phạm và đồng thời nếu có là người thực hiện hành vi vi phạm PL hình
sự thì bị cáo cũng được thực hiện quyền của bị cáo. Cho nên dù là người bị TAND có
quyết định đưa án ra xét xử thì bị cáo vẫn được thực hiện đầy đủ các quyền của công
dân, đến khi có bản án, quyết định kết tội đã có hiệu lực của PL bị cáo vẫn được thực
hiện quyền bào chữa (tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa) nhằm giảm bớt TNHS
của bản thân bị cáo.
Vậy nên, khi TAND chưa ra bản án, quyết định để kết tội bị cáo, và kể cả khi
Tòa đã ra bản án, quyết định kết tội nhưng bản án, quyết định ấy vẫn chưa có hiệu lực
PL được thi hành thì bị cáo vẫn được thực hiện quyền bào chữa bằng cách tự đưa ra lý
lẽ, chứng cứ, tài liệu của mình để nhằm giúp bị cáo trong việc bác bỏ một phần hoặc
toàn bộ lời buộc hoặc giảm TNHS cho bị cáo, giúp làm sáng tỏ sự thật, minh oan cho
bản thân bị cáo; giúp cho bị cáo về mặt pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bị cáo. Bên cạnh đó thì ngoài quyền tự bào chữa của bị cáo, thì bị cáo còn có thể nhờ
hoặc thuê người khác bào chữa cho bị cáo, để nhằm mục đích trao cho bị cáo có cơ
hội bảo vệ, quyền và lợi ích chính đáng của bản thân trước sự buộc tội của VKSND
và của các chủ thể có thẩm quyền khác.
Trong khi điều kiện để thực hiện quyền tự bào chữa của bị cáo hạn chế do bị
các cơ quan và người THTT áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo hoặc do
chính bản thân bị cáo không có đủ khả năng và trình độ, kiến thức để thực hiện quyền
tự bào chữa cho mình, thì bị cáo có quyền được đề nghị, yêu cầu cơ quan tiến hành tố
tụng chỉ định (mời) người bào chữa (có thể là Luật sư hoặc Trợ giúp viên pháp lý).
Việc cơ quan TTHS chỉ định (mời) người bào chữa còn đảm bảo tính nhân đâọ của
NN Pháp quyền XHCN Việt Nam và góp phần hỗ trợ cơ quan có thẩm quyền THTT
xác định sự thật khách quan của VAHS.
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bị cáo trước
khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
1.2.1. Khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về bị cáo từ sau cách mạng
tháng 8.1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988
15
Từ khi NN Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời cho đến trước năm 1988, hệ
thống PL - TTHS được điều chỉnh chủ yếu bằng các sắc lệnh, nghị định, thông tư
hoặc các bản hướng dẫn của TAND tối cao. Việc quy định như vậy không tạo thành
một hệ thống thống nhất mà mỗi văn bản lại điều chỉnh một khía cạnh khác nhau của
TTHS. Chính bởi vậy, thời kỳ này không có một BLTTHS riêng biệt quy định về bị
cáo mà các quy định này nằm rải rác ở rất nhiều văn bản PL khác nhau.
Trong suốt thời gian dài trước khi BLTTHS 1988 được ban hành, các thuật ngữ
có liên quan đến bị cáo được sử dụng nhiều trong các văn bản, các sắc lệnh. Tuy
nhiên, chỉ có thuật ngữ bị cáo được định nghĩa chính thức. Các văn bản thời kỳ này
phần lớn không phân biệt bị can, bị cáo và dùng lẫn lộn nhau, vì vậy pháp luật TTHS
thời kỳ 1945 - 1988 không có thuật ngữ bị cáo một cách rõ ràng.
Tuy còn có sự lẫn lộn trong thuật ngữ, không rành mạch trong cách quy định
nhưng nhìn chung, vẫn có những điều khoản quy định về bị cáo. Như Sắc lệnh số 33C
do Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ban hành ngày
13/9/1945, tại Điều V đã quy định:“Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác
bênh vực cho” [39]. Việc quy định quyền bào chữa của bị cáo trong những văn bản
đầu tiên khi thành lập đất nước có giá trị rất lớn bởi nó không chỉ là quyền cơ bản của
bị cáo mà nó còn khẳng định sự quan tâm của NN ta trong việc bảo đảm quyền của bị
cáo nói riêng (người bị buộc tội nói chung), khẳng định tư tưởng lập pháp tiến bộ, dân
chủ của NN Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Quy định trên chính là tiền đề để bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam ra
đời năm 1946 đã ghi nhận quyền bào chữa của bị cáo: “Người bị cáo được quyền tự
bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”[30, Điều 67]. Bản hiến pháp này cũng ghi nhận
quyền “Cấm không được tra tấn, đánh đập, ngược đãi những bị cáo và tội nhân” [ 30
, Điều 68]. Trong các bản hiến pháp sau đó là Hiến pháp 1959 [31] và Hiến pháp 1980
[32] cũng tiếp tục ghi nhận quyền này của người bị cáo.
Ngoài quyền bào chữa là quyền quan trọng và được đề cập nhiều nhất bị cáo
còn có quyền kháng án lên Tòa cấp cao hơn, điều này được quy định tại Sắc lệnh 13
do Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ Cộng hòa ban hành ngày
24/01/1946 tại Điều thứ 34: “Toà đại hình xử sơ thẩm. Ông Biện lý, bị can và nguyên
16
đơn có quyền chống án lên Toà Thượng thẩm” [40]. Thêm vào đó, tại phiên toà, bị
cáo được trình bày ý kiến, quyền bào chữa:
Sau khi nghe các bị cáo, các người làm chứng, cáo trạng của ông Chưởng lý, và
sau cùng, nghe lời cãi của các bị cáo, ông Chánh án, hai Hội thẩm và hai Phụ thẩm
nhân dân lui vào phòng nghị xử đề cùng quyết định về tất cả các vấn đề thuộc về tội
trạng, hình phạt, trường hợp tăng tội và trường hợp giảm tội (Điều thứ 31).
Các văn bản quy định về trình tự, thủ tục phiên toà cũng tiếp tục ghi nhận
quyền này của bị cáo.
Ngoài ra tại phiên toà, bị cáo còn có quyền đề xuất lời thỉnh cầu, nói lời sau
cùng, được giải thích quyền và nghĩa vụ, được quyền chống án. Điều này thể hiện lần
đầu tiên tại mục II, Thông tư số 2225/HCTP ngày 21/10/1956 của Bộ Tư pháp về việc
chấn chỉnh thực hiện quyền bào chữa của bị cáo, cụ thể như sau:
- Bị cáo có quyền trình bày lời lẽ bào chữa, khai nại, đưa ra chứng cớ mới, xin
mời người làm chứng mới, mời người giám định v.v…;
- Bị cáo được đề xuất bất cứ một thỉnh cầu nào hoặc phản đối bất cứ một thỉnh
cầu nào của người khác trong quá trình vụ án;
- Bị cáo lại có quyền trình bày viết những lời thanh minh và những điều chỉnh
thỉnh cầu của mình.
- Bị cáo phải được biết về nội dung buộc tội trước ngày phiên tòa xét xử một
thời gian cần thiết để bị cáo có đủ thì giờ chuẩn bị việc bào chữa trước phiên tòa.
- Trong phiên tòa, bị cáo được viện dẫn tất cả chứng cớ và lý lẽ để chứng minh
rằng mình không có tội hoặc trình bày những tình huống giảm nhẹ tội mà không bị ai
cản trở.
- Sau khi cuộc thẩm vấn kết thúc, bị cáo được nói lời cuối cùng. Bị cáo có
quyền chống án trong thời hạn luật định nếu họ không phục bản án xử sơ thẩm [10]
Chính việc lần đầu tiên quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của bị cáo nên
Thông tư số 2225/HCTP là một trong những văn bản pháp lý quan trọng liên quan đến
quyền của người bị buộc tội. Đó là các quyền được mời người làm chứng mới, quyền
mời người giám định, quyền nói lời cuối cùng, quyền chống án… Tiếp theo Thông tư
2225/HCTP [10], các quyền này cũng tiếp tục được ghi nhận tại Thông tư 16/TATC
ngày 27/9/1974 [54], Sắc luật số 01/SL-76 ngày 15/03/1976 [41].
17
Bên cạnh những quy định ở các văn bản pháp lý này thì Hiến pháp 1946, 1959
và 1980 cũng ghi nhận những quyền cơ bản bị cáo. Đó là quyền được bình đẳng trước
PL, bình đẳng trước TAND; tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở,
đồ vật, thư tín; được dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trong quá trình tố tụng;
được xét xử công khai, được suy đoán vô tội…
Ngoài các quyền nói trên, bị cáo thời kỳ này có nghĩa vụ phải chấp hành các
quy định của cơ quan tiến hành tố tụng.
Nói tóm lại, quyền và nghĩa vụ pháp lý của bị cáo trong giai đoạn 1945 -1988
mặc dù có nhiều quy định nhưng không tập trung, nằm rải rắc ở nhiều văn bản, do vậy
các quyền và nghĩa vụ này chưa được rõ ràng và chưa có cơ chế đảm bảo. Đây cũng là
lý do BLTTHS 1988 được ra đời. Tuy vậy, chúng ta cũng cần đánh giá cao những nỗ
lực của các nhà lập pháp trong việc từng bước xây dựng chế định quyền và nghĩa vụ
pháp lý của bị cáo trong thời kỳ đầu của đất nước, bởi đây là thời kỳ vô cùng khó
khăn của Cách mạng Việt Nam khi vừa xây dựng đất nước, vừa bảo vệ Tổ quốc.
1.2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bị cáo theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam năm 1988
Bộ luật TTHS 1988 là BLTTHS đầu tiên của nước ta. Sự ra đời của Bộ luật này
đã đánh dấu mốc vô cùng quan trọng trong quá trình pháp điển hoá những quy định tố
tụng hình sự bởi nó đã“quy định trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự” [27, Điều 1]. Bởi vậy, BLTTHS 1988
đã quy định tương đối đầy đủ về các vấn đề trong quá trình TTHS, bao gồm cả chế
định liên quan đến quyền và nghĩa vụ pháp lý của bị cáo.
Trước hết, ngoài các quyền và nghĩa vụ cụ thể của bị cáo thì họ có quyền và
nghĩa vụ chung được quy định ở phần nguyên tắc của BLTTHS 1988. Theo phần
chung thì bị cáo có quyền được bình đẳng trước PL, được tôn trọng các quyền cơ bản,
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh
sự và nhân phẩm, bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại,
điện tín. Thêm nữa, bị cáo có quyền được suy đoán vô tội, không có trách nhiệm phải
chứng minh mình vô tội, được dùng tiếng nói chữ viết trong tố tụng hình sự. Bị cáo có
quyền được bình đẳng trước Tòa án, có quyền được xét xử bằng một án công khai
hoặc được tuyên án công khai bằng một bản án.
18
Bị cáo có nghĩa vụ chung đó là tôn trọng nhân phẩm, danh dự, sức khỏe và tính
mạng của người khác mà trước hết là người THTT và người tham gia tố tụng. Ngoài
các quyền và nghĩa vụ chung, bị cáo theo quy định tại Điều 34 BLTTHS 1988 lại có
những quy định riêng như:
Bị cáo được giao nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; được tham gia phiên toà;
được đề nghị thay đổi người THTT, người giám định, người phiên dịch theo quy định
của BLHS; đưa ra chứng cứ và những yêu cầu; tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào
chữa; nói lời sau cùng trước khi nghị án; được kháng cáo bản án và quyết định của
TAND [27, Điều 34].
Đầu tiên, bị cáo được giao nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định này
được giao cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ và người bào chữa chậm nhất là
mười ngày trước khi mở phiên tòa [27, khoản 1 Điều 157]. Quyết định đưa vụ án ra
xét xử phải có: tội danh và điều khoản BLHS mà VKS viện dẫn đối với hành vi của bị
cáo, họ tên TP, HTND, TKTA, họ tên KSV thực hành quyền công tố tại phiên tòa, vật
chứng cần đưa ra xem xét tại phiên tòa. Việc quy định này là để tạo điều kiện cho bị
cáo thực hiện quyền bào chữa của mình. Trong trường hợp bị cáo chưa được giao
nhận bản cáo trạng và quyết định đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn quy định thì bị
cáo có quyền yêu cầu HĐXX hoãn phiên toà.
Bị cáo có quyền tham dự phiên toà, sự có mặt tại phiên tòa vừa là quyền, vừa là
nghĩa vụ của bị cáo: “Bị cáo phải có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án;
nếu vắng mặt không có lý do chính đáng thì bị áp giải; nếu bị cáo vắng mặt có lý do
chính đáng thì phải hoãn phiên tòa” [27, Điều 62.].
Tại phiên tòa, bị cáo có quyền đề nghị thay đổi người THTT, người giám định,
người phiên dịch theo quy định của BLTTHS. HĐXX xem xét và quyết định đề nghị
này của bị cáo.
Bị cáo có quyền đưa ra chứng cứ và những yêu cầu, có quyền tự bào chữa hoặc
nhờ khác bào chữa. Bị cáo có quyền trình bày những nhận xét của mình về vật chứng,
về những tài liệu của vụ án và nhận xét về kết luận giám định.
Bị cáo có quyền nói lời sau cùng trước khi nghị án. Lời nói sau cùng thể hiện
thái độ cuối cùng của bị cáo đối với các tình tiết có liên quan trong vụ án, cho nên
19
theo quy định của TTHS, không ai được đặt câu hỏi, không được hạn chế thời gian,
trừ trường hợp bị cáo trình bày những điểm không có liên quan đến VAHS.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án. Đây là
một trong những quyền cơ bản của bị cáo. Sau phiên tòa bị cáo được xem biên bản
phiên tòa. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày
tuyên án. Bị cáo cũng có quyền được nhận thông báo kháng cáo, kháng nghị nếu có
kháng cáo, kháng nghị của VKS, của những người tham gia tố tụng khác. Tại phiên
tòa phúc thẩm, bị cáo cũng được hưởng các quyền như tại phiên tòa sơ thẩm.
Bị cáo có nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của các cơ quan THTT; nếu vắng
mặt không rõ lý do thì có thể bị áp giải, nếu bỏ trốn thì có thể bị truy nã. Bị cáo có
nghĩa vụ chấp hành các quyết định của các cơ quan THTT như áp dụng các biện pháp
ngăn chặn. Bị cáo có nghĩa vụ chấp hành nội quy phiên tòa, đóng án phí hoặc bồi
thường dân sự (nếu có).
Có thể nói trong BLTTHS 1988, quyền và nghĩa vụ của bị cáo đã phần nào
được đảm bảo, đáp ứng yêu cầu của việc điều tra, truy tố, xét xử các VAHS lúc bấy
giờ. Tuy nhiên bên cạnh đó thì vẫn còn rất nhiều những hạn chế cần được sửa đổi, bổ
sung để chế định quyền và nghĩa vụ của bị cáo hoàn thiện hơn.
1.2.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bị cáo trong
BLTTHS 2003
Ngày 01.7.2004, BLTTHS 2003 chính thức có hiệu lực thay thế BLTTHS
1988, đã sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến bị cáo, cụ thể như sau:
Đã quy định rõ hơn một số quyền: Quy định cho bị cáo có quyền được nhận
các văn bản như quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, bản
án, quyết định …, và quyền được giải thích quyền và nghĩa vụ, được khiếu nại quyết
định và hành vi của người có thẩm quyền, quyền trình bày ý kiến và tranh luận tại
phiên tòa (TAND) …. [28, Điều 50].
Còn tại Điều 57 BLTTHS 2003 đã bổ sung thêm quy định Ủy ban mặt trận tổ
quốc Việt Nam, các thành viên của mặt trận tổ quốc có quyền cử bào chữa viên nhân
dân để bào chữa cho bị cáo là thành viên của tổ chức mình [28]
20
Trong khi tại Điều 58 BLTTHS 2003 cũng đã mở rộng quyền bào chữa theo
hướng bổ sung thêm quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa và cũng quy định
rõ trách nhiệm của người bào chữa [28].
Về tranh tụng tại phiên tòa: Tuy BLTTHS 1988 đã có quy định về tranh tụng,
nhưng những quy định đó chưa thể hiện đầy đủ việc tranh tụng, nhất là tranh tụng tại
phiên tòa. Do vậy trong Nghị quyết số 08/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác
tư pháp trong thời gian tới xác định là: Khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi
công dân đều bình đẳng trước PL, thực sự dân chủ, khách quan; TP và HTND độc lập
và chỉ tuân theo PL; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của
KSV, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có
quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng PL, có sức thuyết phục
và trong thời hạn PL quy định” [6].
Và để thể chế hóa quan điểm của Đảng và NN về tranh tụng tại phiên tòa, nâng
cao chất lượng xét xử các VAHS, BLTTHS 2003 đã sửa đổi, bổ sung nguyên tắc bảo
đảm quyền bình đẳng trước TAND và các quy định khác để KSV phải chủ động trong
việc thực hành quyền công tố, khi tranh luận còn có ý kiến khác nhau thì KSV phải
đưa ra lập luận của nình đối với từng ý kiến. Bị cáo, người bào chữa và những người
tham gia tố tụng khác có quyền tranh luận dân chủ tại phiên tòa, HĐXX khi nghị án
chỉ được căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở
xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của KSV, bị cáo và những người tham
gia tố tụng khác [28, Điều 217, 218, 222].
1.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bị cáo theo Bộ
luật tố tụng hình sự 2015
Ngày 27-11-2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Bộ luật
tố tụng hình sự (BLTTHS). BLTTHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), chính thức có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 01.01.2018 được xác định là sửa đổi căn bản, toàn diện
gồm 510 điều, trong đó, bổ sung mới 176 điều, sửa đổi 317 điều, bãi bỏ 26 điều. Bộ
luật ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện NN pháp quyền XHCN Việt
Nam và thực hiện chủ trương cải cách tư pháp, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công tác
21
điều tra, truy tố, xét xử và bảo đảm QCN, trong đó có các quy định về bị cáo trong
TTHS Việt Nam, cụ thể như sau:
1.3.1. Quy định về quyền của bị cáo
Theo quy định tại khoản 2 Điều 61 BLTTHS năm 2015, bị cáo có những quyền
sau đây:
a) Nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ
biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết
định của Tòa án và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;
b) Tham gia phiên tòa;
c) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
d) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người
dịch thuật; đề nghị triệu tập người làm chứng, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án, người giám định, người định giá tài sản, người tham gia tố tụng
khác và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa;
đ) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
g) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
h) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống
lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
i) Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu
được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa;
k) Nói lời sau cùng trước khi nghị án;
l) Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản
phiên tòa;
m) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;
n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng;
o) Các quyền khác theo quy định của pháp luật" [29].
22
Từ quy định của khoản 2 Điều 62 BLTTHS 2015 nêu trên, học viên nhận thấy
bị cáo có tổng cộng 14 quyền (hơn 4 quyền so với khoản 2 Điều 50 BLTTHS 2003, sẽ
phân tích ở mục 1.3.4.1 của luận văn), các quyền đó cụ thể như sau:
1.3.1.1. Bị cáo được quyền nhận các văn bản tố tụng
Các văn bản tố tụng gồm: Quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyết định đình chỉ vụ
án; bản án, quyết định … Đây là một quyền rất quan trọng của bị cáo, bởi vì thông
qua quyền này bị cáo được biết minh đang ở vị trí, giai đoạn nào của qúa trình giải
quyết xét xử VAHS, và biết được bản thân được làm gì và phải làm gì.
Trong đó khi bị can được nhận quyết định đưa vụ án ra XXST của TAND, thì
đây chính là văn bản TTHS chính thức xác định người bị nghi ngờ thực hiện hành vi
VP, TP hình sự bị VKSND ra cáo trạng buộc tội trước đó, sẽ chuyển từ bị can sang bị
cáo. Quyết định này chính là văn kiện đánh dấu sự việc được thay đổi tư cách tham
gia tố tụng, hay còn gọi là được hưởng địa vị pháp lý mới (quyền và nghĩa vụ của bị
cáo). Đi kèm theo quyết định đưa vụ án ra XXST thì theo quy định tại khoản 1 Điều
255 BLTTHS 2015 [29] trong nội dung quyết định đưa vụ án ra XXST đã thể hiện rất
rõ ràng những nội dung như: Tội danh và điều khoản của BLHS mà VKSND áp dụng
để truy tố, buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa; thông báo về thời gian, địa điểm mở
phiên tòa; những người THTT (họ và tên TP, HTND, KSV …); những người tham gia
phiên tòa khác ngoài bị cáo (bị hại, người bào chữa, người phiên dịch, người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan …) và những vật chứng cần đưa ra xem xét công khai tại phiên
xét xử. Đây là những thông tin giúp cho bị cáo thực hiện được quyền tham gia phiên
tòa, quyền yêu cầu thay đổi người người THTT ... và chuẩn bị tâm lý cũng như tài liệu
để tự bản thân bào chữa, gỡ tội để bảo vệ lợi ích chính đánh, hợp pháp cho bản thân
mình.
Còn đối với bản án, quyết định của HĐXX, thì tại Điều 260 BLTTHS 2015 [29]
quy định: Bản án phải ghi rõ ngày, tháng, năm và địa điểm mở phiên tòa; họ tên các
thành viên HĐXX, TKTA, KSV; người bào chữa, người phiên dịch, dịch thuật, ...; Họ
tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, thành
phần xã hội, tiền án, tiền sự của bị cáo; ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam; họ tên, tuổi,
nghề nghiệp, nơi sinh, nơi cư trú của người đại diện hợp pháp của bị cáo; họ tên của
23
người bào chữa; họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp
pháp của họ ... Trong bản án phải trình bày việc phạm tội của bị cáo, phân tích những
chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định không có tội, xác định bị cáo có phạm
tội hay không và nếu bị cáo phạm tội thì phạm tội gì, theo điều, khoản nào của BLHS,
tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ TNHS và cần phải xử lý như thế nào. Nếu bị cáo
không phạm tôi thì bản án phải ghi rõ những căn cứ xác định bị cáo không có tội và
giải quyết việc khôi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Phần cuối cùng
của bản án ghi những quyết định của Tòa án và quyền kháng cáo đối với bản án. Như
vây, bản án, quyết định chính là văn bản mà TAND nhân danh NN để ban hành. Bên
cạnh việc xác định lý lịch của bị cáo cũng như những người tham gia và người THTT
thì bản án còn rình bày sự việc phạm tội, phân tích và đánh giá những chứng cứ, đối
chiếu với các quy định của PL để đưa ra phán xét về hành vi của bị cáo, ghi những
quyết định của TAND đối với những hành vi của bị cáo và quyền kháng cáo. Ngoài ra,
đối với bị cáo mà có những căn cứ xác định họ không có tội thì bản án phải giải quyết
việc khôi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Do đó, việc nhận được bản
án bên cạnh giúp bị cáo thực hiện các quyền khác như quyền kháng cáo, quyền bào
chữa,…., việc nhận bản án còn giúp các bị cáo nhận thức đúng đắn về hành vi mà mình
đã thực hiện, qua đó có thể giúp bị cáo sửa chữa sai lầm và nhận thức đúng đắn về hành
vi của mình và các quy định PL hình sự hiện hành .
1.3.1.2. Bị cáo được quyền tham gia phiên tòa
Đây là quyền vô cùng quan trọng của bị cáo trong TTHS, bởi lẽ phiên tòa là nơi
diễn ra toàn bộ hoạt đồng xét xử, từ việc xác minh lý lịch của bị cáo cho đến quá trình
xét hỏi, tranh luận. Bản án, quyết định của cơ quan TAND phải dựa trên những chứng
cứ được thẩm tra tại phiên tòa, dựa trên những diễn biến thực tế tại phiên tòa. Do đó,
quyền được tham gia phiên tòa trực tiếp hỗ trợ cho quyền bào chữa của bị cáo, ngoài ra
con hỗ trợ các quyền khác như quyền được giải thích quyền và nghĩa vụ, quyền kháng
cáo… Bên cạnh đó việc tham gia phiên tòa sẽ giúp bị cáo nhận thức sâu sắc hơn về
hành vi của mình, về mức độ lỗi và mức độ nguy hiểm của hành vi của mình. Ngoài ra,
theo tinh thần nghị quyết 49/NQ - TW [8], về đảm bảo tính công khai minh bạch,
quyền bình đẳng trước Tòa án thì việc bị cáo được tham gia phiên tòa sẽ khẳng định
24
được tính công khai, minh, rõ rang trong việc phán xét hành vi của bị cáo và thể hiện
sự bình đẳng của bị cáo trước PL và sự bình đẳng đối với những người tham gia tố tụng
khác.
1.3.1.3. Bị cáo được quyền thông báo, giải thích về quyền và và nghĩa vụ
Như đã biết các quy định của BLTTHS đã rất rõ ràng và dễ hiểu, tuy nhiên, cùng
một vấn đề lại được quy định ở nhiều Điều luật, nhiều chương khác nhau nên nếu một
người không có kiến thức PL tổng hợp thì sẽ không thể nắm được toàn diện và hiểu đầy
đủ các quy định TTHS. Hơn thế nữa, đa phần các bị cáo lại là những người có trình độ
hạn chế, do đó nên việc các bị cáo biết được quyền và nghĩa vụ của mình như thế nào
là điều dễ hiểu, chưa kể giữa việc biết được mình có những quyền và nghĩa vụ đó lại là
cả một khoảng cách lớn. Chính vì vậy việc giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị cáo là
một quyền quan trọng của bị cáo đồng thời cũng là một trách nhiệm lớn của TAND.
1.3.1.4. Bị cáo được quyền đề giám định, đình giá tài sản, đề nghị thay đổi
người tiến hành tố tụng, và một số người tham gia phiên tòa
Bị cáo là người bị đưa ra xét xử, là người trực tiếp làm việc với những người
THTT, gồm: TP, TKTA, HTND, KSV là những người cho bị cáo thực hiện quyền lợi
của mình đồng thời họ lại là người trực tiếp xét xử, đưa ra nhưng câu hỏi, đưa ra những
đánh giá về chứng cứ, đưa ra những phán xét về hành vi của bị cáo, do đó vai trò của
những người THTT là rất quan trọng. Thái độ làm việc và tinh thần trách nhiệm của
những người THTT là yếu tố quan trọng trong việc giải quyết vụ án theo quy định.
Đối với người phiên dịch và người giám định, đây không phải là những người
THTT và là những người phải xuất hiện trong tất cả các VAHS. Nhưng trong một số vụ
án cụ thể thì những người này chính là những người quan trọng trong việc xác minh sự
thật của VAHS và góp phần đánh giá đúng tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi
mà bị cáo đã thực hiện. Do đó để đảm bảo cho bị cáo quyền được xét xử công bằng thì
khi có những bằng chứng rõ ràng chứng tỏ những người THTT, giám định viên, phiên
dịch viên có thể không đảm bảo khách quan, công bằng thì bị cáo có quyền yêu cầu
thay đổi những người này. Nhưng quyền này không phải là không có giới hạn, không
phải bị cáo muốn thay đổi ai và thay đổi như thế nào cũng được, mà chi khi nào bị cáo
có đủ căn cứ để khẳng định người bị đề nghị thay đổi là thật sự không thể khách quan
khi làm nhiệm hoặc những người này đã vi phạm các về các trường hợp phải từ chối
25
hoặc thay đổi người THTT, giám định viên, phiên dịch viên ..., quy định tại các Điều
luật trong BLTTHS 2015, như: Điều 49 (Các trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi
người có thẩm quyền THTT); Điều 52 (thay đổi KSV, KTV); Điều 53 (Thay đổi TP,
HTND); Điều 54 (Thay đổi TKTA); Điều 68 (Người giám định); Điều 69 (Người định
giá tài sản) và Điều 70 (Người phiên dịch, người dịch thuật) [29].Thì bị cáo mới có
quyền được đề nghị, yêu cầu thay đổi. Nếu bị cáo yêu cầu thay đổi trước khi mở phiên
tòa XXST thì thẩm quyền quyết định là của Chánh án TAND, còn yêu cầu thay đổi tại
phiên tòa thị quyền quyết định thuộc về HĐXX, biểu quyết và được thông qua trong
phòng nghị án.
1.3.2.5. Bị cáo được quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu
Đây là quyền được thực xuyên suốt trong qúa điều tra giải quyết VAHS (kể từ
giai đoạn thụ lý tố giác, tin báo về tội phạm), nghĩa là khi chưa có tư cách là bị cáo thì
người bị tình nghi thực hiện hành vi phạm tội cũng đã có quyền được đưa ra tài liệu, đồ
vật và yêu cầu. Tuy nhiên đến giai đoạn xét xử nhà làm luật vẫn quy định cho bị cáo
được hưởng quyền này bởi lẽ đây là một quyền quan trọng và có ảnh hưởng sâu sắc
đến một số các quyền quan trọng khác. Trong suốt giai đoạn xét xử, bị cáo có quyền
đưa ra tài liệu, đồ vật và yêu cầu vào bất cứ lúc nào từ khi bắt đầu giai đoạn xét xử cho
đến khi kết thúc phiên tòa và HĐXX có nhiệm vụ là phải kiểm tra, xác minh và đánh
giá các đồ vật, tài liệu đó, chúng có phải là chứng cứ của vụ án hay không và giá trị sử
dụng của chúng đối với VAHS.
1.3.2.6. Bị cáo được quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên
quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá
Thường thì những chứng cứ, tài liệu, đồ vật này có ý nghĩa gỡ tội cho bị cáo,
chứng minh bị cáo không phạm tội hoặc chứng minh những tình tiết giảm nhẹ hình
phạt cho bị cáo. Do vậy, HĐXX khi nhận được các chứng cứ, tài liệu, đồ vật do bị cáo
cung cấp thì phải tiến hành kiểm tra, đánh giá khách quan để xác định các chứng cứ,
tài liệu, đồ vật đó có phải là chứng cứ trong vụ án hay không? và giá trị của nó trong
việc xác định sự thật của vụ án.
1.3.2.7. Bị cáo được quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa
Đây là quyền mà bị cáo được sử dụng các biện pháp hợp pháp để bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân, tại phiên tòa bị cáo thực hiện tự quyền bào
26
chữa thông qua việc tự đưa ra tài liệu đồ vật, yêu cầu, ý kiến tranh luận hoặc các
nguồn chứng cứ để chứng minh và bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bân thân. Tuy
nhiên nếu bị cáo không tự bào chữa được hoặc nết thấy không đủ khả năng để tự bào
chữa và có nguyện vọng muốn nhờ người bào chữa thì luật tố tụng luôn tạo điều kiện
để bị cáo được quyền nhờ (thuê) người bào chữa, và trong một số trường hợp nếu bị
cáo không tự nhờ (thuê) người bào chữa thì TAND sẽ chỉ định người bào chữa (là
Luật sư hoặc Trợ giúp viên pháp lý).
1.3.2.8. Bị cáo được quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải
đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội
Đây là quyền cho phép bị cáo đưa ra những ý kiến, lập luận để đối đáp với
quan điểm của những người tham gia tố tụng khác và KSV được VKS phân công thực
hành quyền công tố tại phiên xét xử. Ngoài ra khi bị cáo đối diện với những câu hỏi
khó mang tính buộc tội và tăng nặng TNHS thì luật TTHS có những quy định không
bắt buộc bị cáo phải trả lời (có thể giữ quyền im nặng trước câu hỏi, thực ra quyền im
nặng chưa được quy định trong BLTTHS 2015, học viên sẽ phân tích và kiến nghị tại
mục 3.2. của luận văn) và đưa ra lời khai mang nội dung chống lại bản thân bị cáo và
có thể làm tăng nặng thêm tình tiết định tội, định khung hình phạt cho hành vi phạm
tội của bị cáo.
1.3.2.9. Bị cáo được quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi
người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa
Việc đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa
sẽ làm tăng tính chủ động cho bị cáo, giúp bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình
được tốt hơn, việc hỏi cũng như đối chất trực tiếp tại phiên tòa sẽ là căn cứ quan trọng
làm cho việc xét xử được khách quan, toàn diện và đầy đủ.
1.3.2.10. Bị cáo được quyền nói lời sau cùng trước khi nghị án
Quy định về bị cáo được trình bày lời nói sau cùng trước khi HĐXX vào phòng
nghị án được quy định tại Thông tư số 2225/HCTP và Thông tư số 06/TC ngày
09.9.1967 của TAND tối cao về việc bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của bị cáo.
Theo đó, bị cáo được trình bày lời nói sau cùng để thực hiện quyền tự bào chữa của
mình trước khi HĐXX vào phòng nghị án. Quy định này được pháp điển hoá và ghi
nhận tại Điều 34 và Điều 194 BLTTHS 1988 [27] và Điều 210 BLTTHS 2003 [28].
27
Trong lời nói sau cùng, bị cáo được trình bày những vấn đề mà họ cho là cần thiết
nhất đối với mình để đề nghị HĐXX xem xét khi nghị án. Nếu bị cáo nhận tội thì họ
có thể đề nghị HĐXX, giảm nhẹ hình phạt hoặc cho hưởng án treo; nếu không nhận
tội thì đề nghị HĐXX lưu ý các chứng cứ gỡ tội.
Khi bị cáo nói lời sau cùng, HĐXX không được đặt câu hỏi và hạn chế thời
gian trình bày của bị cáo nhưng có quyền yêu cầu bị cáo không nhắc lại chỉ tiết những
vấn đề đã được xét hỏi, không được trình bày những điểm không liên quan đến vụ án.
Nếu trong lời nói sau cùng, bị cáo trình bày thêm tình tiết mới có ý nghĩa quan trọng
đối với vụ án thì HĐXX quyết định trở lại việc xét hỏi, sau đó lại cho tranh luận về
những vấn đề mới được xét hỏi.
1.3.2.11. Bị cáo được quyền xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa
đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa
Để tránh những thiếu sót trong việc ghi chép diễn biến tại phiên tòa, bị cáo có
quyền xem biên bản phiên tòa và yêu cầu ghi những sửa đổi bổ sung vào biên bản đó,
điều này đồng nghĩa với việc bị cáo đồng ý với quá trình xét xử nếu không có những
yêu cầu bổ sung hoặc thay đổi khác.
1.3.2.12. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án
Kháng cáo bản án, quyết định của tòa án là việc những người tham gia tố tụng
không đồng ý với toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm,
trong thời hạn mà PL quy định gửi đơn đề nghị Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại toàn
bộ hoặc một phần bản án chưa có hiệu lực PL.
Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án là quyền theo luật định của các
đương sự trong vụ án. PL quy định cụ thể những người có quyền kháng cáo, thủ tục
kháng cáo và trách nhiệm của Tòa án trong đảm bảo thực hiện quyền kháng cáo của
các đương sự. Những người có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Toà án gồm:
bị cáo, người bị hại và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án
hoặc quyết định sơ thẩm; người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của
người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần; nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo
phần bản án hoặc quyết định sơ thẩm có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại; người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện hợp pháp của họ có
28
quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ
của họ; người được Toà án tuyên là vô tội có quyền kháng cáo phần nhận định của
bản án sơ thẩm đã tuyên là họ vô tội.
Pháp luật TTHS quy định cụ thể về thủ tục kháng cáo, theo đó người có quyền
kháng cáo phải gửi đơn kháng cáo đến TAND đã XXST hoặc Tòa cấp phúc thẩm.
Trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam, ban giám thị trại giam phải bảo đảm cho
bị cáo thực hiện quyền kháng cáo, Người kháng cáo cũng có thể trình bày trực tiếp
với Toà đã XXST về việc kháng cáo và Toà án phải lập biên bản về việc kháng cáo
đó. Đơn kháng cáo phải nêu rõ nội dung phần quyết định của bản án, quyết định của
Toà án bị kháng cáo; lí do kháng cáo và yêu cầu của người kháng cáo. Những phần
của bản án bị kháng cáo thì chưa được đưa ra thi hành. Khi có kháng cáo đối với toàn
bộ bản án thì toàn bộ bản án chưa được đưa ra thi hành.
1.3.2.13. Bị cáo được quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
Bị cáo có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái
pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình, theo quy định tại Điều 469
BLTTHS 2015 [29]. Các quyết định tố tụng có thể bị bị cáo khiếu nại là các quyết
định của Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND, KSV, Chánh án, Phó Chánh án, TP,
người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động xét xử và kiểm sát xét xử được ban
hành theo quy định BLTTHS 2015. Các hành vi tố tụng có thể bị bị cáo khiếu nại là
hành vi được thực hiện trong hoạt động xét xử của Viện trưởng, Phó Viện trưởng
VKSND, KSV, Kiểm tra viên, Chánh án, Phó Chánh án, TP, Thẩm tra viên, người
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động xét xử và kiểm sát xét xử được thực
hiện theo quy định Tại Điều 470 BLTTHS 2015 [29].
1.3.2.14. Bị cáo còn có các quyền khác theo quy định của pháp luật
Đây là trường hợp được các nhà làm luật dự liệu để sau khi BLTTHS 2015 có
hiệu lực thi hành, ngoài việc bị cáo được 13 quyền như đã nêu thì khi áp dụng pháp
luật TTHS nếu có phát sinh thêm quyền mới của bị cáo theo nhu cầu của thực tiễn (ví
như quyền im nặng của bị cáo hoặc quyền yêu cầu không được công khai nội dung vụ
29
án, bản án, quyết định ..., nội dung này học viên sẽ đề cập ở mục 3.2 của luận văn) thì
các nhà làm luật sẽ bổ sung và có văn hướng dẫn thi hành cụ thể.
1.3.2. Quy định về nghĩa vụ của bị cáo
Tại khoản 3 Điều 61 BLTHHS 2015, quy định bị cáo có các nghĩa vụ, gồm:
a) Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Trường hợp vắng mặt không vì lý do
bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì
bị truy nã;
b) Chấp hành quyết định, yêu cầu của Tòa án
Với dung các quy định nêu trên, theo học viên thì nói một cách tổng quát lại: Bị
cáo nghĩa vụ chung nhất là phải có mặt tại phiên tòa, vì bị cáo là người bị VKS truy
cứu TNHS và có quyền bào chữa trước tòa. Sự có mặt của bị cáo tại phiên toà là bắt
buộc, nhằm thực hiện nguyên tắc xét xử trực tiếp; bảo đảm cho tòa xác định sự thật
khách quan và tạo điều kiện thuận lợi cho bị cáo thực hiện quyền bào chữa tại phiên
tòa theo quy định của PL, được quy định tại [29, Điều 290].
Bị cáo phải có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập cùa Tòa án. Bị cáo đang bị
tạm giam phải được cơ quan công an, lực lượng cảnh vệ trong quân đội dẫn giải đến
phiên tòa theo giấy triệu tập và kế hoạch xét xử của Tòa án.
Bị cáo tại ngoại phải có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án; nếu
vắng mặt không có lý do chính đáng thì bị áp giải. Đối với bị cáo bị áp giải thì thời
gian giải lao, nghỉ nghị án... phải chịu sự giám sát của cảnh sát hoặc cảnh vệ; nếu
phiên tòa kéo dài trong nhiều ngày thì HĐXX có thể quyết định tạm giam bị cáo để
đảm bảo cho việc xét xử. Nếu bị cáo trốn tránh thì HĐXX tạm đình chỉ vụ án và yêu
cầu Cơ quan điều tra truy nã bị cáo...
1.3.3. Các quy định khác có liên quan
1.3.3.1. Các nguyên tắc tố tụng liên quan đến bị cáo
- Nguyên tắc suy đoán vô tội: Tại Điều 13 BLTTHS 2015 quy định:
Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo
trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật.
30
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự,
thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
phải kết luận người bị buộc tội không có tội” [29]
Thứ nhất, người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng
minh theo trình tự, thủ tục do BLTTHS 2015 quy định và có bản án kết tội của tòa án
đã có hiệu lực PL. Nguyên tắc này khẳng định chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền phán
quyết, xác định một người có tội bằng bản án kết tội có hiệu lực PL. Chừng nào chưa
có bản án kết tội có hiệu lực PL của Tòa án thì người bị buộc tội vẫn là người vô tội.
Thứ hai, nghĩa vụ chứng minh thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng phải tuân thủ nghiêm ngặt trình tự, thủ tục luật định.
Tại Điều 15 BLTTHS 2015 quy định về ngyên tắc xác định sự thật vụ án như
sau: Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan THTT, người bị buộc tội có
quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình có tội [29].
Để xác định một người là phạm tội, trên cơ sở đó tiến hành truy cứu, áp dụng
TNHS đối với người đó, các cơ quan có thẩm quyền THTT phải chứng minh được
người đó là người thực hiện hành vi bị BLHS coi là tội phạm. Nếu không chứng minh
được một người đã thực hiện tội phạm thì không thể kết tội người đó.
Về khách quan, họ là người phạm tội, nhưng nếu không chứng minh được
người đó đã thực hiện hành vi được luật hình sự coi là tội phạm, thì các cơ quan tiến
hành tố tụng cũng không thể truy cứu, áp dụng TNHS đối với người đó.
Bộ luật TTHS 2015 tuy không quy định quyền im lặng của người bị buộc tội
thành một nguyên tắc riêng nhưng việc quy định người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền “Trình bày lời khai, trình
bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận
mình có tội” tại điểm d khoản 1 Điều 58; điểm c khoản 2 Điều 59; điểm d khoản 2
Điều 60 và điểm h khoản 2 Điều 61 BLTTHS 2015 đã mặc nhiên thừa nhận quyền im
lặng của những người này [29].
Chứng minh tội phạm là một quá trình diễn ra ở cả ba giai đoạn điều tra, truy
tố, xét xử. Ba giai đoạn này độc lập nhưng lại có cơ chế giám sát, chế ước, bổ sung
cho nhau nhằm bảo đảm việc kết tội được chính xác, không làm oan người vô tội.
31
Từng chủ thể của giai đoạn tố tụng phải có nghĩa vụ chứng minh tội phạm ở giai đoạn
của mình phụ trách và chịu trách nhiệm về việc chứng minh đó.
Thứ ba, việc truy tố, xét xử phải tiến hành theo trình tự, thủ tục do PL quy
định. Nội dung này nhấn mạnh yêu cầu về mặt thủ tục pháp lý, là dấu hiệu quan trọng
nhất của chế độ pháp quyền, theo đó, thủ tục công khai, minh bạch là đòi hỏi số một
cho việc bảo vệ QCN chống lại sự truy bức tùy tiện.
Điều 7 của BLTTHS 2015 xác định: “Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được
thực hiện theo quy định của Bộ luật này. Không được giải quyết nguồn tin về tội
phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ
luật này quy định”. Chứng cứ sẽ vô hiệu (Điều 87), hồ sơ phải được trả lại để điều tra
bổ sung (Điều 236 và 280), bản án bị hủy để điều tra lại hoặc xét xử lại khi xét xử
phúc thẩm (Điều 358) và trong thủ tục giám đốc thẩm (khoản 3 Điều 371, Điều 388)
nếu phát hiện có vi phạm thủ tục tố tụng [29].
Trong giai đoạn xét xử nếu không đủ căn cứ để xác định bị cáo có tội thì
HĐXX ra bản án, quyết định tuyên bố bị cáo vô tội.
Thứ tư, phải đảm bảo xem xét các tình tiết vụ án một cách khách quan, đầy đủ.
Khách quan là dựa vào sự thật trước mắt, tồn tại bên ngoài không phụ thuộc vào ý
thức, ý muốn con người.
Đảm bảo xem xét vụ án tình tiết vụ án một cách khách quan thì cơ quan điều
tra, VKSND, TAND phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật vụ án
một cách khách quan, toàn diện không bị chi phối bới ý chí của người khác và không
xem xét vụ án một cách phiến diện.
Đảm bảo xem xét tình tiết vụ án một cách đầy đủ là bất cứ vụ án nào cũng phải
được chứng minh theo thủ tục đầy đủ theo quy định của PL tránh tình trạng rút gọn
nhằm đẩy nhanh quá trình điều tra làm bỏ sót tình tiết quan trọng vụ án làm vụ án sai
lệch so với sự thật gây ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng.
Đảm bảo xem xét tình tiết vụ án một cách khách quan đầy đủ nhằm xác định sự
thật vụ án một cách đúng đắn chính xác nhất, từ đó xem xét bị cáo có tội hay không
có tội để đưa ra một bản án xét xử đúng người đúng tội.
Trong thực tế hoạt động TTHS có nhiều người bị buộc tội, bị truy tố trước Tòa
án nhưng Tòa án không kết tội, bản án của Tòa án đã tuyên bố người bị buộc tội
32
không phạm tội như cáo trạng đã truy tố. Có người bị buộc tội đã có bản án có hiệu
lực PL nhưng người bị kết án đó vẫn được quyền suy đoán là mình vô tội, đó là khi họ
bị kết án oan.
- Nguyên tắc tranh tụng: BLTTHS 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung cơ bản
để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp 2013, đưa vấn đề tranh tụng trong xét xử trở
thành một nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tố tụng của tất cả các chủ thể tham gia
vào quá trình giải quyết các VAHS.
+ Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng là thành tựu của nền văn minh nhân loại,
Hiến pháp 2013 đã ghi nhận tranh tụng thành một nguyên tắc, cụ thể: “nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử được đảm bảo” [33, khoản 5 Điều 103].
+ Nội dung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo theo Điều 26
BLTTHS 2015 bao gồm các nội dung sau:
Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do VKSND đến Tòa án để xét xử phải đầy
đủ và hợp pháp. Phiên tòa xét xử VAHS phải có mặt đầy đủ những người theo quy
định của luật TTHS, trường hợp vắng mặt phải vì lý do bất khả kháng hoặc do trở
ngại khách quan hoặc trường hợp khác do luật TTHS quy định. Tòa án có trách nhiệm
tạo điều kiện cho KSV, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác
thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước
Tòa án; Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng,
tình tiết giảm nhẹ TNHS, áp dụng điểm, khoản, điều của BLHS để xác định tội danh,
quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và
những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận,
làm rõ tại phiên tòa; Bản án quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra,
đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa [29].
+ Trên cơ sở nguyên tắc tranh tụng khi xét xử được đảm bảo, BLTTHS 2015,
đã có nhiều nội dung sửa đổi, bổ sung, cụ thể hóa nguyên tắc này, cụ thể như: Quy
định đầy đủ các quyền và cơ chế đảm bảo các quyền của người bị buộc tội, nhất là
quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc nhờ người khác bào chữa; các quyền và cơ chế
đảm bảo các quyền của người bào chữa, tạo sự bình đẳng và các điều kiện thuận lợi
cho người bào chữa, tham gia các hoạt động tố tụng hình sự. Để đảm bảo tranh tụng
dân chủ, cũng như quyền bào chữa cho bị can, bị cáo, BLTTHS bổ sung quy định cho
33
người bào chữa có quyền thu thập chứng cứ thay vì chỉ có quyền thu thập tài liệu, đồ
vật như hiện nay; đồng thời quy định người bào chữa có quyền kiểm tra, đánh giá và
trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá [29, Điều 73]; Quy định đầy đủ nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm của VKSND, KSV và các trình tự, thủ tục trong giai đoạn
điều tra, truy tố để đảm bảo việc buộc tội tranh tụng tại phiên tòa. Bên cạnh đó, nhằm
khắc phục tình trạng chất lượng tranh tụng còn hạn chế ở một số phiên tòa có đông bị
cáo, có nhiều luật sư tham gia, nhưng đối với KSV luận TTHS 2003 chỉ cho phép tối
đa 02 KSV tham gia thì BLTTHS 2015 đã sửa đổi, bổ sung quy định này theo hướng:
Kiểm sát viên VKSND cùng cấp phải có mặt để thực hành quyền công tố, kiểm sát xét
xử tại phiên tòa; nếu KSV vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa. Đối với vụ án có tính
chất nghiêm trọng, phức tạp thì có thể có nhiều KSV [29, khoản 1 Điều 289]; Quy
định rõ trách nhiệm của Tòa án và các thủ tục tố tụng tại phiên tòa để đảm bảo việc
tranh tụng trong xét xử. Để hoạt động xét xử thực sự là trọng tâm, Tòa án là trung tâm
của hệ thống tư pháp, BLTTHS 2015 đã bổ sung nhiều quy định để đảm bảo nguyên
tắc tranh tụng trong xét xử. Đặc biệt, nhằm cụ thể hóa nguyên tắc tranh tụng tại phiên
tòa, đảm bảo việc tranh tụng không chỉ thể hiện ở phần tranh luận mà còn được thể
hiện ngay trong phần xét hỏi và đã nhập thủ tục xét hỏi tại phiên tòa với thủ tục tranh
luận tại phiên tòa thành “thủ tục tranh tụng tại phiên tòa”.
Ngoài ra trong xét xử VAHS, thực hiện nguyên tắc chế độ hai cấp xét xử. Bản
án, quyết định sơ thẩm của Toà án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của
luật TTHS; Khi Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong
thời hạn theo quy định của luật TTHS thì có hiệu lực PL. Đối với bản án bị kháng cáo,
kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Đối với bản án, quyết định của Tòa
án đã có hiệu lực PL mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được
xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Toà án cấp trên giám đốc việc xét xử của Toà án cấp dưới, TAND tối cao giám
đốc việc xét xử của TAND các cấp để bảo đảm việc áp dụng PL được nghiêm chỉnh
và thống nhất.
1.3.3.2. Quy định về trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
trong việc bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo
34
Cơ quan điều tra, VKSND, TAND có nhiệm vụ bảo đảm cho bị cáo thực hiện
quyền bào chữa của họ theo quy định của BLTTHS. Trong quá trình THTT thì cơ
quan THTT và người THTT phải nghiêm chỉnh thực hiện những quy định của PL và
phải chịu trách nhiệm về những hành vi, quyết định của mình; Người làm trái PL
trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thì tuỳ theo tính
chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu TNHS.
Đối trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự, khi phát hiện có dấu hiệu tội
phạm thì Cơ quan điều tra, VKSND, TAND trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp do luật TTHS quy định
để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội; Không được khởi tố vụ án ngoài những
căn cứ và trình tự do BLTTHS quy định.
Bảo đảm sự vô tư của những người THTT và người tham gia tố tụng: Thủ
trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, ĐTV, Viện trưởng, Phó Viện trưởng
VKSND, KSV, Chánh án, Phó Chánh án, TP, HTND, TKTA không được THTT hoặc
người phiên dịch, người giám định không được tham gia tố tụng, khi có thể không vô
tư trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình.
Thực hiện chế độ xét xử của TAND có HTND tham gia. Khi xét xử, HTND
ngang quyền với TP; TP và HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo PL. Toà án xét xử
tập thể và quyết định theo đa số và Xét xử công khai, mọi người đều có quyền tham
dự, trừ trường hợp do luật TTHS quy định.
Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của
dân tộc hoặc để giữ bí mật của bị cáo, theo yêu cầu chính đáng của bị cáo thì Toà án
xét xử kín, nhưng phải tuyên án công khai.
Bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án, KSV, bị cáo, người bào chữa, người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có
quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh
luận dân chủ trước Toà án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các
quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Bản án và quyết định của Toà án đã có hiệu lực PL phải được thi hành và phải
được các cơ quan, tổ chức và mọi công dân tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu
35
quan trong phạm vi trách nhiệm của mình phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết
định của Toà và phải chịu trách nhiệm trước PL về việc chấp hành đó; Trong phạm vi
trách nhiệm của mình, các cơ quan NN, chính quyền xã … tổ chức và công dân phải
phối hợp với cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Tòa án
trong việc thi hành án. Các cơ quan NN, chính quyền xã, phường, thị trấn có trách
nhiệm tạo điều kiện và thực hiện yêu cầu của cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành
bản án, quyết định của Tòa trong việc thi hành án.
Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo PL trong TTHS có trách nhiệm phát hiện
kịp thời vi phạm PL của các cơ quan THTT, người THTT và người tham gia tố tụng,
áp dụng những biện pháp do luật TTHS quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật
của những cơ quan hoặc cá nhân này; Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo PL trong TTHS nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được
xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội,
đúng PL, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.
1.3.4. Những điểm mới, hạn chế và nội dung chưa phù hợp
1.3.4.1. Những điểm mới về bị cáo theo quy định của BLTTHS Việt Nam 2015
so với BLTTHS Việt Nam 2003
Bộ luật TTHS 2015 đã bổ sung một chủ thể mới của bị cáo đó là pháp nhân,
vệc bổ sung này là dựa trên nhu cầu của thực tiễn trong đó những tổ chức là pháp
nhân thường có những hành vi phạm tội về các vấn đề như môi trường, thuế, chứng
khoán, bảo hiểm…mà BLTTHS 2003 không có chế tài xử lý đối với pháp nhân mà
chỉ áp dụng hình thức xử lý hành chính nên dẫn tới việc bỏ lọt tội phạm. Việc quy
định thêm chủ thể là pháp nhân đã khắc phục được những hạn chế này.
Ngoài ra khi so sánh Điều 62 BLTTHS 2015 với Điều 50 BLTTHS 2003, học
viên nhận thấy BLTTHS 2015 quy định theo hướng mở rộng quyền của bị cáo trong
TTHS có ảnh hưởng rất lớn tới công tác điều tra, truy tố, xét xử; góp phần nâng cao
trách nhiệm của các cơ quan THTT cũng như người có thẩm quyền THTT trong các
giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Không nên coi việc mở rộng quyền cho bị cáo là
làm yếu cuộc đấu tranh chống tội phạm. ĐTV cần sử dụng mọi kỹ năng để thu thập
những chứng cứ buộc tội và gỡ tội, tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS của bị
can; KSV cần chủ động kiểm sát chặt chẽ ngay từ khi khởi tố điều tra cho đến khi truy
36
tố, xét xử; TAND cần thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình bảo đảm
tính công bằng, đúng đắn, chính xác trong quá trình xét xử. Mọi hoạt động của cơ
quan THTT, người THTT phải được bảo đảm thực hiện khách quan, công bằng, đúng
trình tự, thủ tục PL quy định, bảo đảm việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử bị cáo
đúng người, đúng tội, đúng PL, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội,
tôn trọng và bảo đảm QCN, quyền của bị cáo được pháp luật TTHS quy định. Trong
đó bị cáo theo quy định của BLTTHS 2015, có một số quyền và nghĩa vụ mới sau:
- Nhận quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện biện pháp cưỡng chế;
- Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền
tiến hành TTHS, người định giá tài sản, người dịch thuật; đề nghị triệu tập người làm
chứng, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám định,
người định giá tài sản, người tham gia tố tụng khác và người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng tham gia phiên tòa;
- Đưa ra chứng cứ;
- Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có
thẩm quyền THTT kiểm tra, đánh giá;
- Trình bày lời khai, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc
buộc phải nhận mình có tội;
- Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu
được chủ tọa đồng ý;
- Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản
phiên tòa.
- Dự liệu trước cho bị cáo có “Các quyền khác theo quy định của pháp luật”.
Ngoài ra BLTTHS 2015 cũng bổ sung nghĩa vụ của bị cáo là phải chấp hành
quyết định, yêu cầu của Tòa án. Việc áp giải bị cáo thực hiện theo quy định tại khoản
3 Điều 127 BLTTHS 2015 [29].
- Vắng mặt khi Tòa án triệu tập mà không vì lý do bất khả kháng.
- Vắng mặt khi Tòa án triệu tập mà không do trở ngại khách quan.
1.3.4.2. Những bất cập trong BLTTHS 2015 cần tiếp tục hoàn thiện
Một là, thiếu cơ chế bảo đảm quyền nhận Quyết định đưa vụ án ra xét xử của
bị cáo: Quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong TTHS là một vấn đề rất quan trọng,
37
ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình THTT. Tuy nhiên, BLTTHS 2015 đã không còn
quy định bị cáo chưa nhận được Cáo trạng, Quyết định đưa vụ án ra xét xử mà có yêu
cầu thì HĐXX phải hoãn phiên tòa.
Khắc phục những bất cập của BLTTHS 2003 và để thể chế hóa các quy định
của Hiến pháp 2013 về QCN, quyền công dân, BLTTHS 2015 đã có những quy định
cụ thể, rõ ràng và mở rộng quyền của bị cáo, bảo đảm tính công bằng trong việc thực
thi PL hình sự. Có thể thấy, so với BLTTHS 2003 thì BLTTHS 2015 đã ghi nhận cho
bị cáo thêm một số quyền của bị cáo, như học viên đã nêu tại mục 1.3.4.1 của luận
văn. Tuy nhiên, một số sự thay đổi của BLTTHS 2015 lại cho thấy sự không phù hợp,
đó là việc quy định về quyền nhận Quyết định đưa vụ án ra xét xử của bị cáo.
Theo đó, điểm a khoản 2 Điều 61 BLTTHS 2015 quy định: Bị cáo có quyền
nhận Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Đồng thời, khoản 1 Điều 286 cũng nêu rõ:
Quyết định đưa vụ án ra xét xử được giao cho bị cáo… chậm nhất là 10 ngày trước
khi mở phiên tòa”. Ngoài ra, trước khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử, tư cách bị
cáo chưa xuất hiện mà tư cách tố tụng lúc này là bị can, theo đó, bị can có quyền nhận
bản Cáo trạng [29, điểm c khoản 2 Điều 60]. Do đó, trước ngày mở phiên tòa ít nhất
10 ngày, bị cáo đã phải được nhận đầy đủ bản cáo trạng và Quyết định đưa vụ án ra
xét xử. Đây là một trong những quyền quan trọng của bị cáo, tuy nhiên, so với
BLTTHS 2003, cơ chế bảo đảm cho việc thực hiện quyền này của BLTTHS 2015 là
chưa rõ ràng. Việc thực hiện quyền này đi kèm với việc thực hiện nghĩa vụ của các cơ
quan THTT trong việc giao, gửi bản Cáo trạng, Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Để
bảo đảm cho việc này được thực hiện nghiêm túc và bảo đảm quyền lợi cho bị cáo
trong trường hợp các cơ quan THTT thực hiện không đúng, không thực hiện nghĩa vụ
của mình, đòi hỏi phải có hệ quả pháp lý cho việc đó. Luật LTTHS 2003 ghi nhận hệ
quả này như sau: “…Trong trường hợp bị cáo chưa được giao nhận bản Cáo trạng
theo quy định tại khoản 2 Điều 49 và Quyết định đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn
quy định tại khoản 1 Điều 182 của Bộ luật này và nếu bị cáo yêu cầu thì Hội đồng xét
xử phải hoãn phiên tòa” [28, Điều 201]. Như vậy, hệ quả pháp lý khi bị cáo không
nhận được bản Cáo trạng, Quyết định đưa vụ án ra xét xử đúng thời hạn quy định là bị
cáo có quyền yêu cầu hoãn phiên tòa.
38
Đối chiếu với BLTTHS 2015, quy định trên đã bị loại bỏ. Theo đó, không còn
căn cứ để bị cáo yêu cầu HĐXX hoãn phiên tòa trong trường hợp chưa nhận được bản
Cáo trạng, Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Và nếu có trường hợp này xảy ra, HĐXX
nếu muốn cũng khó có căn cứ để hoãn phiên tòa. Bởi những căn cứ để hoãn phiên tòa
đã được quy định tại Điều 297 BLTTHS 2015 gồm:
a) Có một trong những căn cứ quy định tại các điều 52, 53, 288, 289, 290, 291,
292, 293, 294 và 295 của Bộ luật này;
b) Cần phải xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể
thực hiện ngay tại phiên tòa;
c) Cần tiến hành giám định bổ sung, giám định lại;
d) Cần định giá tài sản, định giá lại tài sản [29].
Như vậy, BLTTHS 2015 đã không quy định về quyền yêu cầu hoãn phiên tòa
khi chưa nhận được bản Cáo trạng, Quyết định đưa vụ án ra xét xử của bị cáo.
Hai là, Còn bất cập trong quy định của BLTTHS 2015 về việc bảo đảm quyền
bào chữa của bị cáo trong giai đoạn XXST. Yêu cầu cải cách tư pháp đã và đang đặt
ra yêu cầu liên quan đến việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội nói
chung và bị cáo nói riêng. Mặc dù BLTTHS 2015 đã có nhiều quy định tiến bộ nhằm
khắc phục những hạn chế của BLTTHS 2003. Tuy nhiên, các quy định này là chưa
hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu hiện nay, cụ thể như:
Về các vấn đề chưa được quy định trong BLTTHS 2015
Thứ nhất, việc thu thập chứng cứ, tài liệu: Bộ luật TTHS 2015 đã khắc phục
hạn chế của quy định trước đây là quy định cho phép người bào chữa tiến hành thu
thập chứng cứ, tài liệu. Tuy nhiên, hoạt động thu thập chứng cứ, tài liệu của người bào
chữa hiện nay vẫn còn thụ động, nhất là trong việc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân
hỗ trợ, cung cấp các chứng cứ họ đang nắm giữ. Bởi vì pháp luật TTHS hiện nay chưa
có quy định về trách nhiệm này cũng như các chế tài đối với các hành vi cản trở, cố
tình che giấu, không cung cấp chứng cứ, tài liệu khi có yêu cầu.
Thứ hai, điểm a khoản 1 Điều 73 BLTTHS chỉ quy định chung chung quyền của
người bào chữa là “Gặp, hỏi người bị buộc tội” [29], mà chưa quy định rõ về trình tự,
thủ tục và các vấn đề liên quan khác như thời gian gặp, gặp riêng hay có sự giám sát,
việc bảo đảm bí mật thông tin trao đổi giữa hai bên… Chính sự thiếu sót này đã dẫn
39
đến tình trạng gây khó dễ cho việc gặp giữa người bào chữa và bị cáo đang bị tạm
giam. Ở một số nước phát triển, pháp luật TTHS của họ đều cho phép người bào chữa
gặp riêng thân chủ của mình. Đây là quy định tiến bộ và phù hợp, cần được bổ sung
vào BLTTHS nước ta.
Thứ ba, việc quy định các quyền cho người bào chữa nhưng không quy định
chế tài cho hành vi vi phạm, cản trở… việc thực hiện các quyền đó là chưa đầy đủ. Do
đó, cần bổ sung thêm quy định xử lý đối với các hành vi này, cụ thể có thể coi đây
như trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Bởi vì hậu quả của hành vi này
mang lại nhiều khi rất nghiêm trọng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của
người được bào chữa, thậm chí có thể dẫn đến oan sai.
Thứ tư, nếu như các quy định tại Điều 232, 238, 245 BLTTHS 2015 quy định
bị can có quyền được biết kết quả hoạt động điều tra bổ sung thông qua việc giao
nhận kết luận điều tra bổ sung, kết luận điều tra mới hoặc bản cáo trạng mới [29]. Thì
các quy định tại Điều 252, 284 BLTTHS 2015 lại không quy định cho bị cáo có quyền
tương tự [29]. Theo đó, trong trường hợp Tòa án tự bổ sung, thu thập chứng cứ hay
TAND yêu cầu VKSND thực hiện thì đều không có ghi nhận kết quả thu thập, bổ
sung chứng cứ, tài liệu có bắt buộc giao cho bị cáo hay không? Do vậy, thông thường
trên thực tế bị cáo không có cơ hội tiếp cận với chứng cứ, tài liệu được bổ sung. Điều
này cũng ảnh hưởng ít nhiều đến hoạt động bào chữa của chính bị cáo hay người bào
chữa cho bị cáo.
Về các quy định chưa phù hợp các vấn đề
Thứ nhất, Điều 72 BLTTHS 2015 quy định về những người không được bào
chữa gồm: Người đang bị truy cứu TNHS, bị kết án mà chưa được xóa án tích, đang
bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện, giáo dục bắt buộc.
Theo học viên, quy định chưa đầy đủ, chưa thống nhất với các quy định của Luật Luật
sư cũng như BLTTHS. Theo đó, một cá nhân đang bị kỷ luật buộc thôi việc hay bị
tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề Luật sư… thì không thể tham gia tố tụng với
tư cách người bào chữa [29]. Người bào chữa phải thực hiện việc đăng ký bào chữa và
nếu như người đó rơi vào những trường hợp nêu trên, thì liệu họ có được chấp nhận
để trở thành người bào chữa?
40
Thứ hai, khoản 3 Điều 81 BLTTHS 2015: Trường hợp không thể thu thập được
chứng cứ, tài liệu, đồ vật thì người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền
tiến hành thu thập [29]. Đây là một trong những quy định tiến bộ, tuy nhiên, nếu chỉ
dừng lại ở việc quy định như hiện nay, thì việc này khó có thể được bảo đảm bởi nó
phụ thuộc nhiều vào mặt chủ quan từ phía các cơ quan THTT.
Thứ ba, điểm đ, khoản 1, Điều 73 BLTTHS 2015 quy định người bào chữa được
xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng có liên
quan đến người mà mình bào chữa [29]. Mặt khác, luật lại cho phép tiếp tục xét xử
trong trường hợp người bào chữa vắng mặt và người được bào chữa đồng ý; hoặc
trong những trường hợp người bào chữa vắng mặt vì lý do chính đáng thì trong những
trường hợp đó, người bào chữa không có quyền xem biên bản. Đây là một hạn chế của
Điều 73 BLTTHS 2015 cần phải được sửa đổi, bổ sung.
Thứ tư, Điều 291 BLTTH 2015 quy định về việc có mặt của người bào chữa
trong trường hợp Tòa án triệu tập lần 2 nhưng vẫn vắng mặt thì Tòa án vẫn mở phiên
tòa xét xử là không phù hợp [29]. Vấn đề bảo đảm quyền bào chữa cho bị cáo đang
ngày càng trở nên quan trọng, do đó, việc bảo đảm có người bào chữa hoặc bản bào
chữa khi xét xử là việc cần thiết. Chưa hết, người bào chữa vắng mặt lần 2 nhưng cả
hai lần đều vì lý do chính đáng, bản bào chữa chưa được gửi đến Tòa án thì việc hoãn
phiên tòa sẽ bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa cho bị cáo so với việc Tòa án vẫn tiếp
tục mở phiên tòa.
Tiểu kết chương 1
Tại Chương 1 của luận văn, học viên đã nêu và phân tích những vấn đề lý luận
và pháp luật về bị cáo trong TTHS. Trong đó nêu và phân tích khái niệm về bị cáo,
đặc điểm của bị cáo trong TTHS; Đã khái quát lược sử quá trình hình thành và phát
triển của các quy định của pháp luật TTHS về bị cáo kể từ sau cách mạng tháng 8 năm
1945 đến những quy định cụ thể bị cáo tại BLTTHS 2015.
Ngoài ra học viên cũng tích cực nêu và so sánh các quy định mở rộng về quyền
và nghĩa vụ của bị cáo tại BLTTHS 2015 so với BLTTHS 2003. Trên cơ sở các quy
định về quyền và nghĩa của bị cáo trong BLTTHS 2015 tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
các VAHS. Tại chương 2 của luận văn, học viên sẽ nêu kháo quát về đặc điểm kinh tế,
41
xã hội cũng như thực tiễn áp dụng các quy định của PL về quyền và nghĩa vụ của bị
cáo tại phiên tòa xét xử các VAHS của các Hội đồng xét xử TAND huyện Hoài Nhơn
(2015-2019).
42
CHƯƠNG 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BỊ CÁO
TẠI HUYỆN HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH
2.1. Khái quát thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về bị cáo trong
tố tụng hình sự tại huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định (2015-2019)
2.1.1. Tổng số thụ lý án hình VKSND huyện Hoài Nhơn truy tố, TAND huyện
Hoài Nhơn thụ lý xét xử (giải quyết) 608 vụ/1.113 bị can, trong đó:
- Nhóm các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con
người là 87 vụ/ 164 bị can;
- Nhóm các tội xâm phạm sở hữu là 168 vụ/307 bị can;
- Nhóm các tội về ma túy 155 vụ/289 bị can;
- Nhóm các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng 176 vụ/314 bị can;
- Nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính 06 vụ/13 bị can;
- Nhóm tội xâm phạm quản lý trật tự kinh tế 09 vụ/15 bị can;
- Các tội phạm khác 07 vụ/11 bị can.
Sau khi tiếp nhận hồ sơ VAHS do VKSND chuyển đến TAND huyện Hoài
Nhơn đã thụ lý và đình chỉ 12 vụ/17 bị can (chủ yếu do bị hại rút đơn yêu cầu hoặc do
gười phạm tội đã chết) và trả hồ sơ để VKS điều tra bổ 24 vụ/39 bị can; Tòa án đã ra
quyết định đưa vụ án ra xét xử và tổ chức tổ chức XXST 572 vụ/1.057 bị cáo, kết quả
cụ thể học viên nêu và phân tích tại mục 2.2.2. của luận văn.
2.1.2. Tòa án nhân dân huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Đình đã ra quyết định
đưa vụ án ra xét xử và thực hiện phiên tòa xét xử sơ thẩm
Tổng số 572 vụ/1.057 bị cáo, trong đó:
- Nhóm các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con
người là 155 vụ/288 bị cáo (phạt tù có thời hạn dưới 15 năm là 163 bị cáo; phạt tù cho
hưởng án treo, cải tạo không giam giữ và hình phạt khác là 125 bị cáo);
- Nhóm các tội xâm phạm sở hữu là 168 vụ/301 bị cáo (phạt tù có thời hạn dưới
15 năm là 175 bị cáo; phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ và hình phạt
khác là 106 bị cáo);
- Nhóm các tội về ma túy 153 vụ/281 bị cáo (đều là án phạt tù dưới 15 năm);
43
- Nhóm các tội xâm phạm an toàn công công, trật tự công cộng là 77 vụ/148 bị
cáo (phạt tù có thời hạn dưới 15 năm là 97 bị cáo; phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo
không giam giữ và hình phạt khác là 51 bị cáo);
- Nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính 06 vụ/13 bị cáo (đều là án
phạt tù dưới 15 năm);
- Nhóm tội xâm phạm quản lý trật tự kinh tế 07 vụ/13 bị cáo (đều là án phạt tù
dưới 15 năm);
- Các tội phạm khác 06 vụ/11 bị cáo (đều là án phạt tù dưới 15 năm).
Qua các số liệu nêu trên, học viên nhận thấy trong 05 năm qua tỷ lệ xét xử sơ
thẩm các VAHS thuộc nhóm tội phạm xâm hại sở hữu chiếm tỷ lệ cao nhất (168
VAHS, chiếm 29,3% trong tổng số 572 VAHS được TAND huyện Hoài Nhơn,
XXST); tỷ lệ án phạt tù có thời hạn cũng tương đối cao (472 bị cáo, chiếm 44,6 trong
tổng số 1.057 bị cáo được đưa ra XXST), điều này thể hiện sự nghiêm minh, trừng trị
thích đáng đối với những vi vi phạm tội của bị cáo. Mặc dù vậy cũng cần phải ghi
nhận việc các HĐXX của TAND huyện Hoài Nhơn cũng đã thể hiện rõ quan điểm
nhân đạo, nhân văn của NN ta về chính sách PL đối với những người phạm tội lần
đầu, ít nghiêm trọng, người phạm tội là người dưới 18 tuổi, người phạm tội có nhiều
tình tiết giảm nhẹ TNHS và có khả năng giáo dục để trở thành công dân có ích cho xã
hội, thể hiện ở việc các HĐXX của TAND huyện Hoài Nhơn, đã vận dụng và áp dụng
các quy định của PL để tuyên phạt các hình phạt: Phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo
không giam giữ, phạt tiền là hình phạt chính ... theo đúng chính sách khoan hồng với
người phạm tội được Đảng và NN quan tâm, đảm bảo đúng quy định: với tổng số 585
bị, chiếm 55,4% trong tổng số 1.057 bị cáo được XXST. (Những mặt tích cực đã đạt
được trong công tác XXST các VAHS về thực hiện những quy định của luật TTHS
đối với bị cáo sẽ được học viên nêu tại mục 2.3 của luận văn).
2.1.3. Những bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị, bị hủy do vi
phạm thủ tục phiên tòa
Trong 05 năm Toà án nhân dân huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định có 133
vụ/298 VAHS kháng cáo, kháng nghị, chiếm tỷ lệ 23.2%, trong đó kháng cáo 108 vụ,
kháng nghị 25 vụ; kết quả xét xử phúc thẩm: Đình chỉ xét xử phúc thẩm 56 vụ do bị
44
cáo rút kháng cáo, cấp phúc thẩm xử y án sơ thẩm 67 vụ, cấp phúc thẩm sửa án sơ
thẩm 10 vụ (không có trường hợp bị Tòa cấp trên huỷ án sơ thẩm).
Qua mục 2.2.2 và 2.2.3 của luận văn, học viên nhận thấy trong 05 năm qua
TAND huyện Hoài Nhơn đã hoàn thành tốt nhiệm vụ thụ lý giải quyết VAHS, trong
đó kết quả ra quyết định đưa VAHS ra XXST là 572vụ/1.057 bị cán (tổng số thụ lý là
608vụ/1.113 bị cáo) = 94%, tỷ lệ xét xử sơ thẩm xong đạt 100% (572vụ/1.057 bị cáo);
Tính bình quân trung mỗi TP (theo bảng 2.1 của luận văn thì TAND huyện Hoài
Nhơn có tổng số 09 TP, gồm 01 TP trung cấp và 08 TP sơ cấp), mỗi năm XXST được
12,7 VAHS; tỷ lệ bị cáo kháng cáo, VKS hoặc Tòa án cấp trên kháng nghị ở mức thấp
(23,2%), trong đó tỷ lệ án được cấp phúc thẩm tuyên y án sơ thẩm là tương đối cao 67
vụ, chiếm hơn 50% số bán án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Ngoài ra
thì tỷ lệ đình chỉ xét xử phúc thẩm (với lý do bị cáo hoặc bị hại rút kháng cáo là tương
đối cao, chiếm 42%). Tuy nhiên điều đó thể hiện việc tại phiên XXST các HĐXX của
TAND huyện Hoài Nhơn đã thực hiện tốt công tác giải thích PL (giải thích quyền
được thực hiện kháng cáo của bị cáo và bị hại), sau khi ban hành bản, quyết định đã
luôn tạo điều kiện thuận lợi để bị cáo được thực hiện quyền kháng cáo bản án, quyết
định sơ thẩm và thông báo kháng cáo theo đúng quy định của luật TTHS.
2.2. Đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về bị cáo trong
tố tụng hình sự tại huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định (2015-2019)
Mặc dù theo số liệu tại mục 2.2.2 của luận văn thể hiện việc thống kê trong giai
đoạn 2015-2019 tổng số VAHS được TAND huyện Hoài Nhơn, kết thúc giai đoạn xét
xử là 572vụ/1.057bị cáo. Tuy nhiên do điều kiện thời gian không cho phép nên học
viên chưa thực hiện được việc nghiên cứu cả 572 hồ sơ VAHS đã nêu. Tuy nhiên
trong thời gian theo học khóa học thạc sỹ Luật học cũng như việc đăng ký đề tài về bị
cáo TTHS, từ thực tiễn huyện Hoài Nhơn để bảo vệ Luận văn thạc sỹ Luật học. Bản
học viên cũng là TP đã được phân công thụ lý xét xử khoảng hơn 70 VAHS. Ngoài ra
tính đến nay, học viên cũng đã tích cực nghiên cứu khoảng 200 hồ sơ VAHS đã được
các HĐXX của TAND huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định hoàn thành công tác xét xử
bàn giao để lưu trữ theo quy định (các bị án đều đã chấp hành bản án, quyết định để
Thi hành án theo quy định).
2.2.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân
45
2.2.1.1. Trong việc thực hiện các quyền
- Đối với quyền được nhận các quyết định tố tụng của bị cáo: Qua nghiên cứu
khoảng hơn 200 hồ sơ VAHS, trên tổng số 572 VAHS được TAND huyện Hoài
Nhơn, đưa ra xét xử và đã hoàn thành việc XXST, học viên nhận thấy tất cả hơn 200
hồ sơ VAHS với hơn 450 bị cáo, tại phiên tòa XXST các bị cáo đều xác nhận đã được
nhận đầy đủ các quyết định TTHS theo quy định, gồm: Quyết định đưa vụ án ra xét
xử, quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ, biện pháp ngăn chặn ..... không có vụ án nào
trong tổng số hơn 200 hồ sơ được học viên trực tiếp thụ lý và nghiên cứu, phát hiện có
dấu hiệu vi phạm điểm a khoản 2 Điều 61 BLTTHS 2015.
- Về việc thực quyền tham gia phiên tòa của bị cáo: Tất cả các VAHS được học
viên trực tiếp thụ lý xét xử cũng như nghiên cứu, các HĐXX của TAND huyện Hoài
Nhơn, tỉnh Bình Định đều đảm bảo tuân thủ đúng quy định tại điểm b khoản 2 Điều
61 BLTTHS 2015, không có vụ án nào bị cáo vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
VAHS. Tuy nhiên để đảm bảo thực hiện nghiêm quyền tham gia phiên tòa của bị cáo
thì HĐXX của TAND cũng phải có những lần áp dụng, linh hoạt các quy định của
pháp luật tố tụng quy định về việc Tạm ngừng phiên tòa, theo Điều 251 BLTTHS
2015 và Tạm hoãn phiên tòa theo Điều 297 BLTTHS 2015 [29]. Việc HĐXX tôn
trong và đảm bảo thưc hiện quyền tham gia phiên tòa của bị cáo, trên thực tế là rất tốt,
tuân thủ đúng quy định của pháp luât. Nhưng cũng có trường hợp bị cáo cũng lợi
dụng vào quyền này để trì hoãn, kéo dài thời gian xét xử (trường hợp này, học viên sẽ
nêu rõ tại mục 2.3.2 của luận văn).
- 100% các VAHS được TAND huyện Hoài Nhơn đưa ra và thực hiện việc
XXST, không thực hiện quyền đề nghị giám định, định giá tài sản, đề nghị thay đổi
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng khác. Điều này thể hiện việc các
nguồn chứng cứ được cơ quan điều tra và VKSND thu thập trong các giai đoạn điều
tra và truy tố đảm bảo đúng quy định của PL. Tại phiên tòa XXST các cơ quan THTT
đã phân công các thành viên HĐXX, Thư ký, KSV … cũng như việc triệu tập và mời
những người tham gia phiên tòa đều đúng thành phần và đúng tư cách, đảm bảo tính
công khai, dân chủ, khách quan khi tham gia phiên tòa.
- Đối với nội dung bị cáo được quyền nghe HĐXX thông báo, giải thích về
quyền nghĩa vụ theo quy định của luật tố tụng hình sự. Ở nội dung này, do đây phần
46
thủ tục khai mạc phiên tòa, theo quy định tại Điều 301 BLTTHS 2015, nên 100% các
hồ sơ VAHS được học viên thụ lý xét xử và nghiên cứu đều đảm bảo tuân thủ việc
tuyên quyền hay còn gọi là phổ biến quyền và nghĩa vụ cho bị cáo.
- Đặc biệt là đối với các quyền được quy định tại các điểm đ, e, g, h, i khoản 2
Điều 61 BLTTHS 2015 (hay còn gọi là các quyền để bị cáo được đảm bảo thực hiện
nguyên tắc tranh tụng, được quy định tại Điều 26 BLTTHS 2015) [29]. Nói về nguyên
tắc tranh tụng, đây là lần đầu tiên TTHS Việt Nam dành riêng một Điều luật để quy
định về nguyên tắc này. Tuy nguyên tắc tranh tụng được coi là điểm mới trong
BLTTHS 2015, nhưng thực chất đây là những quy định đã được quy định rải rác tại
các BLTTHS trước đây và đặc biệt là sau khi Đảng và NN ban hành Nghị Quyết 08,
Nghị Quyết 48, Nghị Quyết 49 về cải cách tư pháp thì khi ban hành BLTTHS 2015,
các nhà làm luật đã cụ thể hóa nguyên tắc tranh tụng vào Điều 26 của BLTTHS 2015
[29]. Thông qua kết quả nghiên cứu hồ VAHS và thực tiễn xét xử của học viên, học
viên khẳng định 100% các phiên tòa xét xử sơ thẩm VAHS giai đoạn từ năm 2015 đến
2019 của TAND huyện Hoài Nhơn đều được thực hiện và diễn biến theo đúng trình tự
thủ tụng tố tụng nói chung và thủ tụng tranh luận nói riêng. Điều đó thể hiện tất cả các
bị cáo khi được TAND đưa ra xét xử tại phiên tòa đều được thực hiện đầy đủ quyền
của mình trong tranh tụng như quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa, quyền đưa ra
đồ vật, chứng cứ cứ, quyền trình bày ý kiến và nhất là quyền không buộc phải đưa ra
lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của các bị cáo. Việc để
các bị cáo được thực hiện đầy đủ các nhóm quyền trong việc thực hiện nguyên tắc, nói
chung là rất tốt, đảm bảo tinh dân chủ, khách quan, công bằng trong tranh tụng và
luận tội bị cáo. Tuy nhiên cũng có một số trường hợp các bị cáo vận dụng vào quyền
không buộc phải đưa ra lời khai chống lại bị cáo và không buộc phải khai bản thân bị
cáo là người thực hiện hành vi vi phạm PL, nên có một vài trường hợp bị cáo đã lạm
dụng quyền này để “im lặng” khi những người THTT hoặc những người tham gia tố
tụng khác (nhất là KSV hỏi những câu hỏi để làm rõ hành vi thực hiện tội phạm, về
động cơ, mục đích …). Gây khó khăn cho việc xét xử vụ án, nội dung này sẽ được
học viên phân tích và nêu rõ tại mục 2.3.2 của luận văn.
- 100% các VAHS được XXST, trước khi kết thúc phần tranh tụng các bị cáo
đều được TP chủ tọa phiên tòa tuyên quyền được nói lời sau cùng trước khi HĐXX
47
nghị án, và khi bị cáo nói sau cùng tất cả các thành viên trong HĐXX đều tập trung
lắng nghe lời nói sau cùng, tập chung nhìn vào thái độ cử chỉ (mức độ ăn năn, hối lỗi)
của bị cáo khi nói lời sau. Để khi nghị án có được sự đánh giá khách quan, công bằng
nhất cho bị cáo và đảm bảo quyết định tội danh, khung hình phạt của bản án, quyết
định đúng người, đúng tội, đúng quy định của PL, không làm oan, bỏ lọt tội phạm.
- Đối với quyền được xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ
sung vào biên bản phiên tòa. Đây là một quyền mới lên được các HĐXX của TAND
huyện Hoài Nhơn đặc biệt quan tâm phổ biến. Mặc dù HĐXX luôn tạo điều kiện để
các bị cáo được thực hiện quyền này, nhưng trên thực tế rất ít các vụ án các biên bản
phiên tòa ghi dấu việc bị cáo yêu cầu sửa đổi bổ sung. Điều đó thể hiện TKTA đã thực
hiện tốt việc ghi chép tổng hợp đúng diễn biến, đúng nội dung và các tình tiết diễn ra
tại phiên tòa, nhưng cũng có thể do các bị cáo không thực hiện quyền này (về vấn đề
này, học viên xin nêu thêm tại mục 2.3.2 của luận văn.
Như đã nêu tại mục 2.2.3 của luận văn, trong số 572 VAHS được TAND đưa ra
XXST thì có 108 bản án các bị cáo (và cả bị hại) thực hiện quyền kháng cáo. Điều này
trước tiết nói nên việc các HĐXX đã tạo điều kiện các bị cáo được thực hiện quyền
kháng cáo bản án, quyết định. Còn các quy định tại điểm n và điểm o khoản 2 Điều 61
BLTTHS 2015 [29] về quyền bị cáo khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng và các
quyền khác về cơ bản các quyền này nói riêng và tất cả các quyền được quy định tại
khoản 2 Điều 61 BLTTHS 2015 đều đã và đang được các HĐXX của TAND áp dụng
và thực hiện đầy đủ các quyền này đối với bị cáo tại phiên tòa XXST các VAHS theo
đúng quy định của luật TTHS hiện hành.
2.2.1.2. Việc thực hiện nghĩa vụ của bị cáo
Như học viên đã nêu tại mục 2.3.1.1 của luận văn, về việc 100% các bị cáo
được TAND huyện Hoài Nhơn XXST ở hơn 200 VAHS được học viên nghiên cứu và
trực tiếp thụ lý xét xử đều thực hiện quyền tham gia phiên tòa. Điều đó đồng nghĩa
với việc 100% bị cáo đều thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của bị cáo khi có giấy triệu tập
của Tòa án; không có trường hợp bị cáo tại ngoại được TAND áp dụng biện pháp áp
giải hoặc phải ban hành Lệnh truy nã. Tất cả các bị cáo đều chấp hành nghiêm chỉnh
các quyết định và yêu cầu của Tòa án.
2.2.1.3. Việc thực hiện các quy định khác
48
Song song với việc các HĐXX của TAND huyện Hoài Nhơn luôn thực hiện
nghiêm chỉnh việc áp dụng các quy định của luật TTHS về quyền và nghĩa vụ của bị
cáo trong xét xử VAHS được quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 61 BLTHHS 2015.
Thì trong qúa trình xét xử hơn 200 VAHS mà học viên đã nghiên cứu hồ sơ và trực
tiếp tiến hành, học viên nhận thấy tất cả các HĐXX đều đã thực hiện nghiêm chỉnh
các nguyên tắc trong XXST các VAHS, như: Nguyên tắc suy đoán vô tội được quy
định tại Điều 13, nguyên tắc tranh tụng tại Điều 26 BLTTHS 2015, Nguyên tắc Tòa
án xét xử hai cấp được quy định tại Điều 27 BLTTHS 2015, điều này thể hiện rõ việc
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm VAHS các HĐXX đã tuyên quyền và giải thích rõ việc
kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm cho bị cáo; sau khi phiên tòa kết thúc, nếu có bị
cáo kháng cáo bản án, quyết định thì Tòa án luôn tạo điều kiện để đảm bảo các bị cáo
thực hiện được quyền này thông qua việc TAND luôn tích cực phối hợp và ra thông
báo kháng cáo đúng thời hạn luật định và hợp pháp để các bị cáo được xem xét thụ lý
giải quyết ở giai đoạn xét xử phúc thẩm VAHS. Ngoài ra 100% phiên tòa xét xử án
hình sự sơ thẩm tại TAND huyện Hoài Nhơn đều đảm nguyên tắc Tòa án xét xử tập
thể (Điều 24); chế độ xét xử có HTND (Điều 22); Các thành viên HĐXX gồm TP và
HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo PL (Điều 23) BLTTHS 2015 [29].
2.2.1.4. Nguyên nhân
Do các quy định của PL về bị cáo trong BLTTHS 2015 tương đối rõ rang, rành
mạnh và có sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan THTT, nên về cơ bản các HĐXX
của TAND huyện Hoài Nhơn trong thời gian qua đều chú trong quan tâm thực hiện
đầy đủ, hiệu quả các quyền, nghĩa vụ của bị cáo tại phiên tòa hình sự.
Mặt khác do trình độ hiểu biết và nhận thức PL của những người tham gia
phiên tòa, đặc biệt là bị cáo đã ngày càng được nâng cao, vì có một trường hợp các bị
cáo đã tự mình thực hiện các quyền của bị cáo, như việc các bị cáo tự mình bào chữa,
tự mình thu thập chứng cứ để bảo vệ cho quyền và lợi ích của bản. Đã giúp cho cơ
quan THTT và người THTT nói chung, HĐXX nói riêng nhanh chóng xác định sự
thật khách quan của VAHS để giải quyết VAHS có hiệu quả đúng người, đúng tội,
đúng quy định của PL, không làm oan người vô tội và bỏ lọt tội phạm.
Học viên xin nêu ví dụ về phiên tòa XXST vụ án hình sự, đối với bị cáo Lê
Thanh V, về tội “Vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ”. Mà cơ quan
49
THTT, người THTT và bị cáo đã thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về quyền cũng
như nghĩa vụ của bị cáo trong TTHS với kết quả là ban hành bản án đúng người, đúng
tội, đúng quy định của pháp luật:
BẢN ÁN 59/2019/HS-ST NGÀY 11/11/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY
ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 11 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoài Nhơn xét
xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 57/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 9 năm
2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng
10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 44/2019/HSST-QĐ ngày 06 tháng 11
năm 2019 đối với bị cáo:
Lê Thanh V, sinh ngày 18.3.1996 tại Bình Định; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở:
Thôn GH2, xã HT, huyện HN, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Phụ xe; trình độ văn hóa
(học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh, giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt
Nam; con ông Lê Văn Nh (1975) và bà Nguyễn Thị Th (1973); chưa có vợ, con; tiền
án, tiền sự: Không; bị cáo đang được tại ngoại, có mặt.
- Người bị hại: Bà Nguyễn Thị Ng (chết).
- Đại diện hợp pháp của bị hại:
Ông Châu Văn Qu, sinh năm 1931; địa chỉ: Thôn ĐĐ3, xã HT, huyện HT, tỉnh
Bình Định, là chồng của bị hại.
Bà Châu Thị Thanh V1, sinh năm 1959; địa chỉ: Thôn ĐĐ3, xã HT, huyện HN,
tỉnh Bình Định, là con của bị hại, có mặt.
Bà Châu Thị Như H, sinh năm 1960; địa chỉ: Xã PL, huyện TP, tỉnh Bình Định,
là con của bị hại.
Ông Châu Văn M, sinh năm 1964; địa chỉ: Thôn ĐĐ2, xã HT, huyện HN, tỉnh
Bình Định, là con của bị hại.
Ông Châu Văn H1, sinh năm 1968; địa chỉ: Thôn ĐĐ3, xã HT, huyện HN, tỉnh
Bình Định, là con của bị hại.
Bà Châu Thị Thanh T, sinh năm 1969; địa chỉ: Thôn ĐĐ3, xã HT, huyện HN,
tỉnh Bình Định, là con của bị hại.
Bà Châu Thị Thanh L, sinh năm 1972; địa chỉ: Số 212 đường NAN, p7, thành
phố VT, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, là con của bị hại.
50
Ông Châu Văn T1, sinh năm 1974; địa chỉ: địa chỉ: Thôn ĐĐ3, xã HT, huyện
HN, tỉnh Bình Định, là con của bị hại.
Ông Châu Văn T2, sinh năm 1976; địa chỉ: Thôn ĐĐ3, xã HT, huyện HN, tỉnh
Bình Định, là con của bị hại.
Ông Châu Văn T3, sinh năm 1977; địa chỉ: Thôn ĐĐ3, xã HT, huyện HN, tỉnh
Bình Định, là con của bị hại.
Ông Qu, bà H, ông M, ông H1, bà T, bà L, ông T1, ông T2 và ông T3 đồng
ủy quyền cho bà Châu Thị Thanh V (tại văn bản ủy quyền đề ngày 20/5/2019).
- Người làm chứng: Ông Trần Ngọc A, sinh năm 1962; địa chỉ: Thôn ĐĐ3, xã
HT, huyện HN, tỉnh Bình Định, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án
được tóm tắt như sau:
Lê Thanh V không có giấy phép lái xe. Khoảng 14 giờ ngày 15/5/2019, sau khi
uống bia, V điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 77C1-511.90 lưu thông trên đường
Quốc lộ 1A theo hướng Bắc-Nam. Khi đến ngã ba MT thuộc thôn ĐĐ3, xã HT, huyện
HN, tỉnh Bình Định; lúc này, bà Nguyễn Thị Ng đang dắt xe đạp sang đường theo
hướng Đông-Tây đi từ làn đường xe thô sơ phía Đông đến làn đường xe cơ giới phía
Tây, V điều khiển xe trên làn đường xe cơ giới phía Tây, không làm chủ tốc độ, đã
tông vào bà Ng cùng xe đạp, gây tai nạn. Hậu quả, bà Nguyễn Thị Ng chết tại bệnh
viện đa khoa khu vực Bồng Sơn cùng ngày.
Ngày 23/5/2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định kết luận: Bà
Nguyễn Thị Ng chết do nứt xương sọ, chấn thương sọ não.
Lê Thanh V được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa khu vực Bồng Sơn, kết
quả xét nghiệm cận lâm sàn có giá trị chẩn đoán: Lê Thanh V nồng độ còn trong máu
là 146mg/dl (146 miligam/100 mililit máu).
Về việc thu giữ, tạm giữ vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện
Hoài Nhơn đã tạm giữ và trả lại cho các chủ sở hữu hợp pháp 01 xe mô tô biển kiểm
soát 77C1-511.90 và 01 xe đạp; tạm giữ 01 USB có chứa đựng các đoạn phim ghi
hình tại hiện trường.
51
Về trách nhiệm dân sự: Lê Thanh V đã bồi thường cho đại diện hợp pháp của
bị hại 20.000.000 đồng.
Bản cáo trạng số: 58/CT-VKSHN ngày 17 tháng 9 năm 2019, Viện kiểm sát
nhân dân huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định truy tố bị cáo Lê Thanh V về tội “Vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại các điểm a, b
khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, KSV đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định như Cáo
trạng đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điểm a, b khoản 2 Điều 260, các
điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 54, Điều 38 của BLHS xử phạt bị cáo Lê Thanh V từ
18 đến 24 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
Ý kiến của đại diện hợp pháp của bị hại: Không còn yêu cầu bồi thường; về
hình phạt, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Ý kiến của bị cáo: Bị cáo thừa nhận tòa bộ hành vi phạm tội của mình và xin
hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa, bị cáo Lê Thanh V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội
như sau: Bị cáo Lê Thanh V không có giấy phép lái xe. Vào khoảng 14 giờ 00 phút
15/5/2019, tại ngã ba MT nằm trên Quốc lộ 1A thuộc thôn ĐĐ3, xã HT, huyện HN,
tỉnh Bình Định, bị cáo V sau khi sử dụng bia với nồng độ cồn trong máu 146mg/dl, đã
điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 77C1-511.90 tham gia giao thông, không làm chủ
tốc độ gây tai nạn làm chết 01 người.
Lời khai của bị cáo Lê Thanh V phù hợp với bản cáo trạng của Viện kiểm sát
nhân dân huyện Hoài Nhơn, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Hành vi của bị cáo vi phạm khoản 8, 9 và 23 Điều 8 của Luật giao thông đường bộ và
các điểm a, b khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.
[2] Hành vi của bị cáo Lê Thanh V là nguy hiểm cho xã hội, điều khiển xe mô
tô tham gia giao thông trong tình trạng sử dụng bia, nồng độ cồn trong máu vượt quá
mức độ cho phép, không làm chủ tốc độ gây tai nạn làm chết 01 người. Cần phải xử lý
52
nghiêm bị cáo theo quy định của pháp luật để răn đe, giáo dục bị cáo thành người có
ích cho xã hội và phòng ngừa tội phạm chung.
[3] Trong quá trình xem xét quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử thấy rằng:
quá trình điều tra, truy tố, xét xử tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn
năn hối cải; bị cáo tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 20.000.000 đồng;
đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo;
vì vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm b, s
khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an
huyện Hoài Nhơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoài Nhơn, Kiểm sát
viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục
quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, đại diện hợp pháp
của bị hại, người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định
của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết
định tố tụng của Cơ quan THTT, người THTT đã thực hiện là hợp pháp.
Vật chứng tạm giữ: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hoài Nhơn đã
tạm giữ và trả lại cho các chủ sở hữu hợp pháp 01 xe mô tô biển kiểm soát 77C1-
511.90 và 01 xe đạp; tạm giữ 01 USB chứa đứng các đoạn phim ghi hình tại hiện
trường vụ án là đúng theo quy định của pháp luật.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Đã thỏa thuận giải quyết xong, tại phiên tòa, các
bên không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xét.
[6] Về xử lý vật chứng: Chuyển theo hồ sơ vụ án 01 USB chứa đứng các đoạn
phim ghi hình tại hiện trường vụ án.
[7] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Lê Thanh V phải chịu theo quy định của
pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào các điểm a, b khoản 2 Điều 260, các điểm b, s khoản 1 và khoản 2
Điều 51, Điều 54, Điều 38 của Bộ luật Hình sự:
Tuyên bố bị cáo Lê Thanh V phạm tội Vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ.
53
Xử phạt bị cáo Lê Thanh V 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình
phạt tính từ ngày bắt đi thi hành án.
- Về trách nhiệm dân sự: Không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xét.
- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ
luật Tố tụng Hình sự: Chuyển theo hồ sơ vụ án 01 USB chứa đứng các đoạn phim ghi
hình tại hiện trường vụ án.
- Về án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật
Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016
của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Bị cáo Lê Thanh V phải chịu 200.000 (hai trăm
nghìn) đồng án phí hình sự để sung công quỹ Nhà nước.
Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo
trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để tòa cấp trên xét xử phúc thẩm [48].
2.2.2. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân
Như học viên đã nêu ở mục 2.2.2 thì bên cạnh những ưu điểm trong thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong TTHS, thì các HĐXX của TAND huyện Hoài
Nhơn cũng thể hiện một số điểm hạn chế cụ thể như sau:
2.2.2.1. Trong việc thực hiện các quyền
Một là: Để xảy ra trường các bị cáo lợi dụng quyền được tham gia phiên tòa để
cố tình kéo dài, trì hoãn dẫn việc TAND huyện Hoài Nhơn phải kéo dài thời gian mở
phiên tòa xét xử công khai, trường hợp này thường xảy ra đối với các bị can được áp
dụng biện pháp ngăn chặn là cấm đi khỏi nơi cứ trú (bị cáo được tại ngoại), sau khi bị
cáo được nhận quyết định đưa vụ ra xét xử nhưng vì lý do cá nhân muốn được tại
ngoại lâu hơn, thay vì khi phiên tòa diễn ra với tội danh và khung hình phạt VKS truy
tố trước đó, bị cáo sẽ bị mức án nặng không được áp dụng các biện pháp ngăn là cấm
đi khỏi nơi cư trú nữa. Lên khi gần đến ngày xét xử, bị cáo sẽ lấy một số lý do như bị
đau ốm… để tìm cách làm chậm việc mở phiên tòa xét xử công khai. Về phía TAND,
khi gặp trường hợp như vậy, để cho bị cáo thực hiện được quyền tham gia phiên tòa
thì sẽ phải lựa chọn giải pháp hoãn phiên tòa [29, Điều 297], hoặc như trường hợp tại
phiên tòa XXST bị cáo cứ lấy lý do sức khỏe không đảm bảo để xin HĐXX tạm dừng
phiên tòa, trong khi trước khi phiên tòa diễn ra do chưa dự liệu được tình huống phát
54
sinh, nên đã không mời đại diện của các cơ sở y tế đến làm nhiệm vụ tại phiên tòa,
dẫn đến việc HĐXX phải áp dụng Điều 251 BLTTHS để tạm ngừng phiên tòa [29].
Hai là: Để xảy ra trường hợp bị cáo lạm dụng các quy định về tranh tụng, trong
đó đáng kể đến là quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình hoặc phải
nhận mình có tội [29, điểm h khoản 2 Điều 61], bị cáo thực hiện hành vi im lặng
không trả lời các câu hỏi của người THTT hoặc của những người tham gia tố tụng
khác. Do không dự liệu được tình huống phát sinh, nên HĐXX đã núng túng để nghị
KSV thực hiện việc xét hỏi thay vì biện pháp có thể công bố lời khai và các tài liệu
chứng cứ đã được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ.
Ba là: Qua trực tiếp nghiên cứu hồ sơ và tham dự các phiên tòa, học viên nhận
thấy mặc dù tất cả các HĐXX đều tuyên quyền cho bị cáo có quyền xem biên bản
phiên tòa. Chỉ một ít số vụ án có sự tham gia của người bào chữa cho bị cáo là Luật sư
thì quyền này mới được đảm bảo thực hiện, còn lại phần lớn các phiên tòa không có
luật sư thì không diễn ra việc bị cáo được xem biên bản phiên tòa.
Bốn là: Trong 05 năm qua với tổng số 572 vụ án được XXST [49] nhưng có
đến 108 vụ án bị kháng cáo (chiếm 18,9%), tuy ở giai đoạn xét xử phúc thẩm nhiều bị
cáo đã rút đơn kháng cáo. Nhưng điều đó cũng thể hiện việc các HĐXX vẫn còn có
những điểm hạn chế trong công tác XXST án hình sự, trong đó phần nào đó là việc
thực hiện các quyền của bị cáo trong TTHS, đã để các bị cáo lạm dụng quyền kháng
cáo để kháng cáo bản án, quyết định của Tòa gây khó khăn cho việc thi hành bản án,
quyết định hình sự sơ thẩm của TAND huyện Hoài Nhơn.
2.2.2.2. Trong việc thực hiện nghĩa vụ
Đã để xảy ra trường hợp bị cáo thực hiện chưa nghiêm các nghĩa vụ của bị cáo
như việc để một số bị cáo tại ngoại chậm trễ trong việc có mặt theo giấy triệu tập của
TAND, có những trường hợp sáu khi sử dụng các biện pháp nghiệp vụ đã xác định
được bị cáo vì lý do chưa muốn phiên tòa xét xử công khai bị cáo được diễn ra theo
đúng thời gian, địa điểm được ấn định trong quyết định đưa VAHS ra XXST, nên bị
cáo mới viện cớ ra một số lý do để cố ý không có mặt hoặc có mặt không đúng thời
gian, ghi trong giấy triệu tập của Tòa. Do chưa dự liệu được các tình huống có thể
phát sinh, nên trước sự việc đó HĐXX đã không có phương án nghiệp vụ để nhanh
chóng xác minh làm rõ những lý do bất hợp pháp để nhằm mục đích trốn tránh việc
55
xét xử của TAND huyện Hoài Nhơn, dẫn đến việc phải ra quyết định hoãn phiên tòa
(theo đúng ý định của bị cáo).
Ví dụ: Ngày 30/9/2019 TAND huyện Hoài Nhơn được hồ sơ VAHS do
VKSND chuyển đến, với nội dung truy tố bị cáo Nguyễn Văn A, về tội trộm cắp tài
sản, theo khoản 1 Điều 173 BLHS 2015, bị cáo S đang được VKSND áp dụng biện
pháp ngăn chặn là cấm đi khỏi nơi cứ trú (tại ngoại). Ngày 02/20/2019 Tòa án đã ra
quyết định đưa vụ ra xét xử, trong nội dung xác định là đưa vụ án ra xét xử lưu động
tại địa phương nơi A sinh sống và đang bị cấm đi khỏi nơi cứ trú vào ngày
25.10.2019. Tuy nhiên đúng ngày 25.10.2019, A đã không có mặt như quyết định đưa
vụ án ra xét xử và giấy triệu tập của tòa án. Dẫn đến việc phải tạm ngừng phiên tòa và
chuyển sang xét xử ngày 30.10.2019 và không xét xử lưu động nữa. Sau khi tiến hành
các thủ tụng tố tụng và các biện pháp nghiệp vụ cần thiết, ngày 30.10.2019 tại trụ sở
TAND huyện Hoài Nhơn đã xét xử và tuyên phạt A, 06 tháng tù, thời hạn chấp hành
hình phạt tính từ ngày bắt đi thi hành án. Về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại
khoản 1 Điều 173, các điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của BLHS 2015. Điều
đáng nói là trong thời gian diễn ra phiên tòa XXST nêu trên, tự bản thân bị cáo A đã
thừa nhận ngày 25.10.2019 lý do bị cáo A không đến hồi trường xét xử lưu động là vì
bị cáo không muốn bị xét xử lưu động, và suy nghĩ khi bị xét xử lưu động thì mức án
sẽ cao hơn là không bị xét xử lưu động. Cho nên khi được Tòa ra quyết định tạm
ngừng phiên tòa, không tiến hành xét xử lưu động nữa. Thì ngày 30.10.2019 bị cáo A
mới chấp hành nghiêm chỉnh quyết định và yêu cầu của TAND [47].
2.2.2.3. Trong việc thực hiện các quy định khác
Mặc dù các HĐXX của TAND huyện Hoài Nhơn đã có nhiều nỗ lực trong việc
thực hiện các quy định của PL về quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong TTHS. Tuy
nhiên thông qua việc nghiên cứu hồ sơ VAHS đã kết giai đoạn xét xử, học viên nhận
thấy một số HĐXX còn chưa đảm bảo thực hiện các quy định về nguyên tắc tranh
tụng trong XXST các VAHS [29, Điều 26], trong đó còn có những phiên toà không
đạt yêu cầu như việc áp dụng các thủ tục tố tụng, điều khiển phiên toà, viết bản án
chưa dựa vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa...cũng như các hoạt động khác của Toà
án, thực ra mới đạt yêu cầu ở việc áp dụng mức hình phạt, ở đường lối xét xử, còn tác
dụng giáo dục phòng ngừa chung, tôn vinh tính tối cao của PL thông qua quá trình
56
tranh tụng tại phiên toà mà cụ thể là hoạt động của HĐXX tại phiên toà, qua bản án
hoặc bản luận tội của VKSND, thì còn chưa đạt yêu cầu của công tác xét xử. Có
những trường hợp xét xử thiếu chính xác dẫn đến việc cấp phúc thẩm cải sửa bản án
sơ thẩm (tổng số cấp phúc thẩm đã sửa 10 bản án sơ thẩm như học viên đã nêu và
phân tích tại mục 2.2.3 của luận văn). Sự thiếu chính xác đó vừa làm cho việc giải
quyết vụ án bị kéo dài, vừa gây phiền hà cho nhân dân, làm giảm lòng tin của nhân
dân đối với cơ quan bảo vệ công lý.
2.2.2.4. Nguyên nhân
- Mặc dù BLTTHS 2015 đã có nhiểu điểm mới và nhiều quy định tiến bộ về bị
cáo trong TTHS nhưng qúa trình triển thực hiện vẫn còn một số hạn chế, bất cập như
học viên đã nêu và phân tích tại mục 1.3.4.2 của luận văn. Chính vì sự thiếu đồng bộ,
thiếu chặt chẽ và chưa thật sự rõ ràng trong một số ít các quy định của PL về bị cáo
trong TTHS nhưng chưa kịp thời được các nhà làm luật nghiên cứu sửa đổi, bổ sung
và ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành dẫn đến trường hợp các cơ quan THTT
và người THTT không thể thực hiện đầy đủ các chế định về bị cáo trong TTHS.
- Do trình độ hiểu biết và nhận thực PL của bị cáo còn hạn chế, nhiều khi các bị
cáo không nhận thức đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của bị cáo. Bị cáo không nhận thức
được những quyền lợi mà mình được hưởng, những nghĩa vụ và trách nhiệm mà cơ
quan THTT và người THTT phải thực hiện cho bị cáo. Bị cáo không nhận thức được
những nghĩa vụ mà bị cáo phải tuân thủ theo quy định của TTHS (nghĩa là bị cáo phải
tuân theo những quy định về trình tự, thủ tục tố tụng do cơ quan THTT và do người
THTT thực hiện trong giai đoạn xét xử).
- Do sự làm việc thiếu hiệu quả, thiếu trách nhiệm của cơ quan THTT và người
THTT. Cơ quan THTT và người THTT là những chủ thể có kiến thức chuyên sâu về
bị cáo trong TTHS, nhưng trong qúa trình THTT có thể do ý thức chủ quan hoặc do
thiếu trách nhiệm, thiếu hiểu biết mà những chủ thể THTT đã không thực hiện đầy đủ
các chế định về quyền và nghĩa vụ của bị cáo theo quy định của pháp luật TTHS.
- Quy định về trách nhiệm của cơ quan THTT (VKSND và TAND) trong việc
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của bị cáo còn mang tính thụ động, giao quyền quyết
định cho các cơ quan tiến hành tố tụng mà không có tính bắt buộc nên các cơ quan
THTT có thể thực hiện hoặc không thực hiện. Nhưng luật cũng chưa quy định rõ rang,
57
minh bạch về chế tài trách nhiệm đối với người THTT. Vì thế khó có căn cứ xử lý
trách nhiệm với người có thẩm quyền THTT nói chung và người THTT trong việc bảo
đảm thực hiện các quy định về bị cáo trong TTHS.
- Do điều kiện về trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật phục vụ hoạt động xét xử
các VAHS như Hội trường xét xử, chất lượng âm thanh ... hiện tại còn hạn chế.
- Do trình độ hiểu biết, nhận thức pháp luật của những người tham gia tố tụng
khác (bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan...), của người dân, của các cơ
quan báo chí, dư luận vẫn còn nhiều hạn chế đối với các quy định PL về quyền và
nghĩa vụ đối với bị cáo trong TTHS.
Tiểu kết chương 2
Tại Chương 2 của luận văn, học viên đã nêu và phân tích các đặc điểm về tình
hình kinh tế, xã hội của huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định; Về cơ cấu tổ chức của
TAND và VKSND huyện Hoài Nhơn; Về thực tiễn áp dụng của quy định của pháp
luật TTHS về bị cáo trong XXST các VAHS của TAND huyện Hoài Nhơn. Trong đó
học viên đi sâu nghiên cứu, phân tích, đánh giá kết quả đạt được cũng như những tồn
tại hạn chế của các HĐXX của TAND huyện Hoài Nhơn trong giai đoạn 2015-2019.
Để từ đó tại chương 3 của luận văn, học viên sẽ đưa ra một số giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng thực hiện các quy định về bị cáo trong tố tụng, trong thời gian tới nói
chung trong hoạt động xét xử các VAHS nói chung và trong XXST các VAHS tại
TAND huyện Hoài Nhơn, tình Bình Định nói riêng
58
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VỀ BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
3.1. Quan điểm và yêu cầu nâng cao chất lượng thực hiện quy định của
pháp luật về bị cáo trong tố tụng hình sự
3.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xét xử của ngành
Tòa án nhân dân
Đảng lãnh đạo toàn diện đối với NN và xã hội là nguyên tắc cơ bản đã được
quy định trong Hiến Pháp. Hoạt động tư pháp là lĩnh vực thực hiện quyền lực NN
nhằm đảm bảo QCN, cho nên hoạt động của các cơ quan NN nói chung và cơ quan
xét xử nói riêng đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Về vai trò lãnh đạo của Đảng cần được xác định ràng: Đảng không bao biện,
làm thay, không can thiệp trực tiếp vào công việc chuyên môn mà là lãnh đạo thông
qua đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, thông qua công tác tổ chức cán bộ,
công tác kiểm tra, giám sát đổi với hoạt động chuyên môn....Mặt khác, sự lãnh đạo
của Đảng không làm mất đi tính độc lập, chủ động mà làm cho quá trình thực hiện
chức năng, nhiệm vụ đúng với chủ trương, chính sách của Đảng. Thực tế cho thấy, cơ
quan, tổ chức, địa phương nào quán triệt được đầy đủ, sâu sắc vai trò lãnh đạo của
Đảng, đảm bảo được vai trò lãnh đạo của Đảng thì ở đó thực hiện có hiệu lực, hiệu
quả chức năng, nhiệm vụ của mình.
Trong lĩnh vực hoạt động tư pháp, vai trò lãnh đạo của Đảng được thể hiện một
cách toàn diện qua việc: Đảng lãnh đạo về chiến lược, sách lược do quá trình tổ chức
và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp về lâu dài cũng như trong từng giai đoạn
cụ thể; trong việc lãnh đạo xây dựng về cơ cấu, tổ chức và hoạt động của cơ quan tư
pháp; trong đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ tư pháp; trong việc kiểm
tra, giám sát đối với lĩnh vực hoạt động tư pháp, trong kiểm tra chất lượng của đảng viên ở
các cơ quan tư pháp...
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vai trò lãnh đạo của Đảng trong hoạt động
tư pháp được thể hiện một cách toàn diện và sâu sắc qua các Nghị quyết số 08-NQ/TW
và Nghị quyết số 49 - NQ/TW về Cải cách tư pháp đã xác định Tòa án là trung tâm của
59
cải cách tư pháp và hoạt động xét xử là trọng tâm, Nghị quyết 49 đã khẳng định vai trò
và vị thế của ngành Tòa án [8] song sự lãnh đạo của Đảng vẫn luôn là điều kiện tiên
quyết để vấn đề QCN ngày càng được bảo đảm hơn thông qua hoạt động xét xử các vụ
án nói chung và xét xử án hình sự nói riêng .
3.1.2. Quan điểm chỉ đạo của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định trong việc
bảo đảm quyền con người và thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của luật tố
tụng hình sự về bị cáo trong hoạt động xét xử hình sự
Con người luôn được xác định là mục tiêu, là động lực của cách mạng, cho nên
Đảng ta đã xác định: Chăm lo cho con người, cho cộng đồng xã hội là trách nhiệm
của toàn xã hội, của mỗi đơn vị, của từng gia đình, là sự nghiệp của Đảng, NN và
toàn dân. Với chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội theo tinh thần xã hội hóa, trong
đó NN giữ vai trò nòng cốt. Việc chăm lo cho con người, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của con người luôn là nhiệm vụ trọng tâm mà Đảng và NN ta đã đề ra. Vì vậy,
để bảo đảm QCN và bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong hoạt động
xét xử hình sự TAND tỉnh Bình Định cần xác định:
Thứ nhất: Bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong hoạt
động xét xử hình sự phải gắn với việc thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng,
bám sát và phục vụ có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn cách mạng.
Đường lối chủ trương của Đảng là định hướng, tư tưởng chỉ đạo đối với các
nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn cụ thể cũng như toàn bộ sự nghiệp cách mạng
của nước ta. Bảo đảm QCN, quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong hoạt động xét xử
hình sự là một trong những mục tiêu về con người mà Đảng và NN ta đã đề ra trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Vì thế, nó có mối quan hệ mật thiết với các mục
tiêu về đảm bảo QCN nói chung và quyền, nghĩa vụ của bị cáo nói riêng. Là một yếu tố,
bộ phận của công cuộc cải cách tư pháp của Đảng và NN, cho nên việc tăng cường các
đảm bảo QCN, quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong hoạt động xét xử hình sự không thể
tách rời với việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị chung của đất nước, mà phải
tiến hành đồng thời và chịu sự tác động, chi phối của các mục tiêu khác, trên cơ sở đó,
góp phần thiết thực vào việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng chung trong
từng giai đoạn xây dựng và phát triển của đất nước.
Thứ hai: Bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong hoạt
60
động xét xử hình sự trên cơ sở một hệ thống pháp luật hoàn thiện.
Nghị quyết số 49- NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp nói
chung và Chiến lược cải cách tư pháp trong TAND đến năm 2030 đã xác định:
Thể chế hóa kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối của Đảng, cụ thể hóa các
quy định của Hiến pháp về xây dựng NN pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân; bảo đảm QCN, quyền tự do dân chủ của công dân; xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát triển văn hóa – xã hội, giữ vững
quốc phòng an ninh.
Thời gian qua, NN đã sửa đổi, bổ xung và ban hành mới nhiều bộ luật và văn
bản dưới luật quan trọng liên quan đến QCN, quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong
TTHS, nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng ngày càng phù hợp với
pháp luật quốc tế. Chủ động hội nhập quốc tế, cũng đồng nghĩa với việc thiết lập các
mối quan hệ xã hội mới, trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc mà cộng đồng quốc tế đã
thừa nhận. Để các cam kết quốc tế được thực hiện một cách đầy đủ thì các quốc gia
thành viên đều phải nội luật hóa các cam kết đó.
Qua thực tiễn xét xử của hai cấp TAND tỉnh Bình Định nói chung và TAND
huyện Hoài Nhơn nói riêng cho thấy, để QCN, quyền và nghĩa vụ của bị cáo bảo đảm
thông qua hoạt động xét xử hình sự thì phải nhanh chóng xây dựng, hoàn thiện được
hệ thống PL không những phải phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh trong nước, mà
đồng thời còn phải phù hợp với xu hướng phát triển chung của tình hình quốc tế và
khu vực. Mặc dù Đảng và NN đã quan tâm xây dựng mới, bổ sung hoàn thiện Hiến
pháp 2013, Luật tổ chức TAND 2014; BLTTHS 2015 ... Đây là những quy định của
pháp luật có liên quan trực tiếp đến QCN, quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong TTHS.
Tuy nhiên qúa trình áp dụng vẫn phát hiện còn nhiều khó khăn, bất cập. Nên yêu cầu
đặt ra là tiếp tục phải rà soát, hệ thống hóa các quy định QCN nói chung và về bị cáo
trong TTHS nói riêng để trên cơ sở đó ban hành mới hoặc sửa đổi bổ sung các quy định
này theo hướng tổng thể, toàn diện và phù hợp với PL quốc tế mà trước hết là phù hợp
với các văn bản PL quốc tế về QCN, quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong TTHS.
Thứ ba: Đảm bảo quyền con người, quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong hoạt
động xét xử hình sự phải gắn liền với việc xây dựng các cơ quan tư pháp trong đó có
Tòa án nhân dân trong sạch vững mạnh và từng bước hiện đại, góp phần xây dựng
61
Đảng và bảo vệ Nhà nước.
Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là
NN pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Vì vậy, cải cách tổ chức và hoạt động của
bộ máy NN là để thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước vì dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Trong đó cải cách hệ thống
tư pháp hiện nay ở nước ta là một lĩnh vực quan trọng, được Đảng và NN đặc biệt
quan tâm. Để hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, các cơ quan tư pháp phải được kiện
toàn lại tổ chức, làm cho bộ máy cơ quan tinh gọn, thông suốt, thực hiện đúng chức
năng nhiệm vụ. Đội ngũ các cán bộ tư pháp phải được bồi dưỡng tăng cường về trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ, được rèn luyện, đào tạo, bồi dưỡng về phẩm chất chính
trị, đạo đức, lối sống, có tinh thần trách nhiệm và bản lĩnh. Đồng thời phải tăng
cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, công cụ, phương tiện làm việc đáp ứng với yêu
cầu của cải cách tư pháp. Từng bước xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững
mạnh, hiện đại nhằm góp phần thực hiện có hiệu lực, hiệu quả nhất chức năng, nhiệm
vụ bảo vệ an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội bảo vệ lợi ích NN, quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân.
Thứ tư: Bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong hoạt
động xét xử hình sự phải kết hợp với các hoạt động giám sát Nhà nước và giám sát
xã hội.
Bản chất của NN ta là NN của dân, do dân và vì dân. Hoạt động xét xử là hoạt
động mang tính quyền lực NN, nên về bản chất hoạt động xét xử của Tòa án là thực
hiện quyền lực nhân dân nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của nhân dân. Trong hoạt
động TTHS, với chức năng là cơ quan xét xử của nước Công hòa XHCN Việt Nam,
TAND là chỗ dựa vững chắc nhằm đảm bảo quy định về bị cáo trong TTHS. Vì thế,
sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan NN, tổ chức xã hội và công dân là góp phần làm
cho các hoạt động này được thông suốt, ngăn ngừa sự vi phạm PL về quyền và nghĩa vụ
của bị cáo trong TTHS, từ phía các TP trong hoạt động xét xử. Như vậy, tăng cường các
đảm bảo QCN, quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong hoạt động xét xử hiện nay phải luôn
gắn liền với việc tăng cường mối quan hệ giữa các cơ quan tư pháp trong đó có TAND
với các giai tầng trong xã hội, cũng như hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước khác,
hoạt động xét xử hình sự phải chịu sự giám sát của NN và giám sát của xã hội.
62
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật
Như học viên đã nêu và phân tích tại mục 1.3.4.2 của luận văn, về một số hạn
chế vướng mắc trong quy định về bị cáo của BLTTHS 2015, học viên cũng mạnh dạn
đưa ra một số kiến nghị các nhà làm luật cần sửa đổi, hoàn thiện luật TTHS trong thời
gian tới cụ thể như sau:
Một là, Do BLTTHS 2015 hoàn toàn không quy định về quyền yêu cầu hoãn
phiên tòa khi chưa nhận được bản Cáo trạng, Quyết định đưa vụ án ra xét xử của bị
cáo. Do đó theo học viên, cần bổ sung thêm quy định theo một trong hai hướng.
Hướng thứ nhất, có thể quy định như BLTTHS 2003 (tức là bổ sung quy định này vào
Điều về thủ tục bắt đầu phiên tòa) [28]; hay hướng thứ hai là quy định đây là một
trường hợp bổ sung vào Điều 297 BLTTHS 2015 [29].
Hai là, Do hiện nay hoạt động thu thập chứng cứ, tài liệu của người bào chữa
hiện nay vẫn còn thụ động, nhất là trong việc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hỗ
trợ, cung cấp các chứng cứ họ đang nắm giữ. Bởi vì pháp luật TTHS hiện nay chưa có
quy định về trách nhiệm này cũng như các chế tài đối với các hành vi cản trở, cố tình
che giấu, không cung cấp chứng cứ, tài liệu khi có yêu cầu. Do vậy cần thiết phải bổ
sung các quy định về chế tài đối các hành vi nêu trên.
Ba là, Quyền tự bào chữa và nhờ người bào chữa [điểm g khoản 2 Điều 61
BLTTHS 2015) [29], mà cụ thể là việc bị cáo quyền bị cáo có nhờ người bào chữa.
Đây là một quyền rất rộng mở và có ý nghĩa đối với bị cáo. Tuy nhiên cũng có một số
bất cập như việc Điều 72 và Điều 73 BLTTHS 2015 quy định Người bào chữa; về
quyền và nghĩa vụ của người bào chữa [29]. Nhưng luật TTHS lại không quy định về
trách nhiệm nghề nghiệp đồng thời cũng là nghĩa vụ của người bào chữa (điển hình
nhất là Luật sư trước bị cáo). Nên theo học viên thì luật TTHS và các và các văn bản
PL khác cần quy định rõ trách nhiệm pháp lý của Luật sư bào chữa trước bị cáo trong
những trường hợp Luật sư không làm tròn nghĩa vụ và chức năng nghề nghiệp của
mình là bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo. Trách nhiệm đó phải là trách
nhiệm vật chất dân sự: như phải hoàn trả lại cho thân chủ tiền thù lao đã nhận và bị
phạt một khoản tiền nào đó hoặc là trách nhiệm kỷ luật - hành chính trước tổ chức
đoàn Luật sư (phê bình, cảnh cáo, tạm đình chỉ hành nghề có thời hạn...) thậm chí cả
TNHS nếu để xảy ra hậu quả nghiêm trọng ví dụ như bị cáo bị xử phạt oan, sai mà
63
Luật sư không can thiệp bảo vệ kịp thời dẫn đến bị cáo tự tử ...) với hình phạt bổ sung
cấm hành nghề Luật sư. Cũng cần xác định rõ thời điểm bắt đầu và kết thúc nghĩa vụ
của Luật sư đối với bị cáo (Ví dụ từ thời điểm Luật sư nhận làm người bào chữa cho
đến khi bản án có hiệu lực PL).
Bốn là, cần bổ sung quy định về quyền im lặng của bị cáo tại phiên tòa.
Hiện nay “Quyền im lặng” không được quy định cụ thể trong luật; BLTTHS
2015 cũng chưa nêu khái niệm về “Quyền im lặng”, nhưng đã cụ thể hóa một số
nguyên tắc cơ bản về quyền con người, quyền công dân của Hiến pháp năm 2013 như:
Nguyên tắc “Suy đoán vô tội” (Điều 13); “Xác định sự thật của vụ án” (Điều 15);
“Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của bị hại, đương sự” (Điều 16); “Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (Điều 26).
Điều 59 đến Điều 62 BLTTHS năm 2015 quy định quyền của người bị buộc tội (gồm:
Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) được “Trình bày lời khai, trình bày ý
kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình
có tội”. Quyền này được thể hiện xuyên suốt từ khi bị bắt, bị khởi tố cho đến xét xử.
Tuy nhiên, đây có phải chính là nội hàm, tinh thần cốt lõi của “Quyền im lặng” được
thể hiện trong Hiến pháp năm 2013 và BLTTHS năm 2015 hay không? Trên thực tế,
“Quyền im lặng” được hiểu và áp dụng khác nhau ở các chủ thể (người bị tạm giữ,
người bị bắt, bị can, bị cáo, Luật sư, Điều tra viên, Kiểm sát viên…) mang tính đối lập
nhau, thể hiện như sau: Người bị tạm giữ, người bị bắt, bị can, bị cáo luôn cho rằng
“Quyền im lặng” được thể hiện xuyên suốt ở các giai đoạn tố tụng của vụ án, họ
“không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có
tội”, vì nghĩa vụ chứng minh họ có tội hay không thuộc về Cơ quan điều tra, VKS. Và
thường thì người bào chữa (gồm Luật sư và Trợ giúp viên pháp lý) luôn ủng hộ thân
chủ ( bị cán, bị cáo) của mình thực hiện “Quyền im lặng” ở các giai đoạn tố tụng, nhất
là khi vụ án được đưa ra xét xử. Nhưng do pháp luật TTHS chưa quy định về “Quyền
im lặng” lên tại phiên tòa khi các bị cáo im lặng, không khai báo, từ chối khai báo
luôn được xem là bất hợp tác, không thành khẩn, gây bất lợi cho chính bị cáo trong
quá trình xử lý vụ án.
Năm là, cần bổ sung quy định bị cáo có quyền đề nghị không công bố bản án
lên Công thông tin điện tử của Tòa án
64
Do BLTTHS 2015 chưa quy định cho bị cáo có quyền đề nghị không công bố
bản án lên Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhưng ngày 16/3/2017, TANDTC ban
hành Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP về việc công bố bản án, quyết định trên cổng
thông tin điện tử của Tòa án (Nghị quyết 03) [53], sau đó ngày 04/7/2017 TANDTC
ban hành Công văn 144/TANDTC-PC để Hướng dẫn Nghị quyết số 03/2017/NQ-
HĐTP [51]. Tuy nhiên trong Nghị quyết 03/2017/NQ-HĐTP và Công văn số
144/TANDTC-PC có một số nội dung quy định chưa rõ dẫn đến cách hiểu khác nhau
nên khi triển khai thực hiện tại phiên tòa không có sự đồng nhất.
Tại Điều 5 Nghị quyết 03 quy định: “Khi phổ biến quyền, nghĩa vụ của những
người tham gia tố tụng trong quá trình xét xử, giải quyết vụ việc thuộc thẩm quyền
của Tòa án, Chủ tọa phiên tòa, phiên họp phải giải thích cho những người tham gia
tố tụng biết về những bản án, quyết định được công bố trên Cổng thông tin điện tử
của Tòa án và quyền của họ về việc yêu cầu Tòa án không công bố những nội dung
liên quan đến bí mật cá nhân, bí mật gia đình, bí mật kinh doanh” [53]. Tại mục 3
của Công văn 144 quy định về phổ biến quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng
như sau: “… Khi phổ biến quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, Chủ tọa
phiên tòa phải thông báo cho họ biết bản án, quyết định giải quyết vụ việc mà họ là
người tham gia tố tụng thuộc diện được công bố trên Cổng thông tin điện tử của Tòa
án và quyền của họ được yêu cầu giữ bí mật một số thông tin theo quy định của pháp
luật”[51].
Cũng tại mục 3 của Công văn 144 quy định: “Việc phổ biến quyền và nghĩa vụ
của những người tham gia tố tụng; yêu cầu của người tham gia tố tụng về công bố
hoặc không công bố bản án, quyết định phải được ghi vào biên bản phiên tòa, phiên
họp” [51].
Với những quy định như trên, dẫn đến HĐXX rất khó áp dụng pháp luật trong
trường hợp bị cáo đề nghị không công bố bản án lên Công thông tin điện tử để bảo vệ
bí mật ... của bản thân bị cáo.
Sáu là, cần bổ sung vào điểm a khoản 1 Điều 73 BLTTHS 2015 về quyền của
người bào chữa có quyền “Gặp hỏi riêng người bị buộc tội”
Điểm a khoản 1 Điều 73 BLTTHS 2015 chỉ quy định chung chung quyền của
người bào chữa là “Gặp, hỏi người bị buộc tội” mà chưa quy định rõ về trình tự, thủ
65
tục và các vấn đề liên quan khác như thời gian gặp, gặp riêng hay có sự giám sát, việc
bảo đảm bí mật thông tin trao đổi giữa hai bên… Chính sự thiếu sót này đã dẫn đến
tình trạng gây khó dễ cho việc gặp giữa người bào chữa và bị cáo đang bị tạm giam. Ở
một số nước phát triển, pháp luật tố tụng hình sự của họ đều cho phép người bào chữa
gặp riêng thân chủ của mình. Đây là quy định tiến bộ và phù hợp, cần được bổ sung
vào BLTTHS nước ta.
Bảy là, cần bổ sung thêm quy định “Bị cáo được nhận thông báo kết quả xác
minh thu thập chứng cứ bổ sung của Tòa án”.
Theo quy định tại Điều 232, 238, 245 BLTTHS 2015 [29], Bị can có quyền
được biết kết quả hoạt động điều tra bổ sung thông qua việc giao nhận kết luận điều
tra bổ sung, kết luận điều tra mới hoặc bản cáo trạng mới thì các quy định tại Điều
252, 284 BLTTHs 2015 [29] lại không quy định cho bị cáo có quyền tương tự. Ví
như, trong trường hợp Tòa án tự bổ sung, thu thập chứng cứ hay Tòa án yêu cầu VKS
thực hiện thì đều không có ghi nhận kết quả thu thập, bổ sung chứng cứ, tài liệu có bắt
buộc giao cho bị cáo hay không? Do vậy, thông thường trên thực tế bị cáo không có
cơ hội tiếp cận với chứng cứ, tài liệu được bổ sung. Điều này cũng ảnh hưởng ít nhiều
đến hoạt động bào chữa của chính bị cáo hay người bào chữa cho bị cáo.
Tám là, cần bổ sung thêm trường hợp người bào chữa không được bào chữa,
khi “người bào chữa là bị xử lý kỷ luật bằng hình thức buộc thôi việc mà chưa hết thời
hạn 3 năm kể từ ngày có quyết định buộc thôi việc có hiệu lực, đang bị tước quyền sử
dụng chứng chỉ hành nghề Luật sư”.
Theo quy định tại Điều 72 BLTTHS 2015 [29] quy định về những người không
được bào chữa gồm: Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị kết án mà chưa
được xóa án tích, đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai
nghiện, giáo dục bắt buộc. Theo học viên, quy định chưa đầy đủ, chưa thống nhất với
các quy định của Luật Luật sư 2015 [34] cũng như BLTTHS 2015 [29]. Vì trong
trường hợp, một cá nhân đang bị kỷ luật buộc thôi việc hay bị tước quyền sử dụng
chứng chỉ hành nghề Luật sư… thì không thể tham gia tố tụng với tư cách người bào
chữa. Người bào chữa phải thực hiện việc đăng ký bào chữa và nếu như người đó rơi
vào những trường hợp nêu trên, thì liệu họ có được chấp nhận để trở thành người bào
chữa? Do đó, nên bổ sung vào quy định này những trường hợp không được bào chữa,
66
Chín là, Cần quy định và giải thích rõ hơn nữa trách nhiệm của các cơ quan
Tiến hành tố tụng đối với yêu cầu thu thập chứng cứ, tài liệu của người bào chữa.
Tại khoản 3 Điều 81 BLTTHS 2015 quy định: Trường hợp không thể thu thập
được chứng cứ, tài liệu, đồ vật thì người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan có thẩm
quyền tiến hành thu thập [29]. Đây là một trong những quy định tiến bộ của BLTTHS,
tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở việc quy định như hiện nay, thì việc này khó có thể được
bảo đảm bởi nó phụ thuộc nhiều vào mặt chủ quan từ phía các cơ quan THTT. Vậy
nên, cần quy định rõ hơn nữa trách nhiệm của các cơ quan đó đối với yêu cầu thu thập
chứng cứ, tài liệu của người bào chữa.
Mười là, Cần phải bổ sung quy định về việc vắng mặt bị cáo hoặc vắng mặt
người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa xét xử án hình sự “Trong trường hợp phiên
tòa không có sự tham gia của bị cáo hoặc người bào chữa của bị cáo thì họ vẫn được
đảm bảo quyền được xem biên bản về hoạt động tố tụng …”
Tại điểm đ, khoản 1, Điều 73 BLTTHS 2015, quy định: Người bào chữa được
xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng có liên
quan đến người mà mình bào chữa. Mặt khác, luật lại cho phép tiếp tục xét xử trong
trường hợp người bào chữa vắng mặt và người được bào chữa đồng ý; hoặc trong
những trường hợp người bào chữa vắng mặt vì lý do chính đáng thì trong những
trường hợp đó, người bào chữa không có quyền xem biên bản. Đây là một hạn chế của
Điều 73 BLTTHS 2015 cần phải được sửa đổi. Tiếp thu tinh thần pháp luật từ các nền
pháp luật tiến bộ, quy định trên nên được thay đổi bằng quy định “Được xem những
biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình hoặc lẽ ra phải có sự tham gia
của mình nhưng vì lý do chính đáng mà không thể tham gia”.
3.3. Các giải pháp khác
3.3.1. Tăng cường hướng dẫn thực hiện quy định của pháp luật về bị cáo
Luật tổ chức TAND 2014 quy định, Uỷ ban thẩm phán TAND tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương có nhiệm vụ: “Bảo đảm việc áp dụng thống nhất PL tại TAND cấp
mình và TAND dưới”; “Tổng kết kinh nghiệm xét xử” [36].
Như vậy, có thể thấy nhiệm vụ của Uỷ ban thẩm phán TAND tỉnh Bình Định
trong việc bảo đảm áp dụng PL thống nhất là rất quan trọng. Thông qua công tác
hướng dẫn giải quyết các VAHS của TAND huyện sẽ giúp cho việc phát hiện những
67
sai sót trong việc đảm bảo QCN, quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong hoạt động xét xử
hình sự để kịp thời uốn nắn và rút kinh nghiệm.
Để phát huy vai trò của Uỷ ban thẩm phán TAND tỉnh trong việc bảo đảm áp
dụng PL thống nhất và giải quyết tốt các VAHS đảm bảo được QCN, quyền và nghĩ
của bị cáo trong hoạt động xét xử hình sự cần thực hiện các vấn đề sau:
- Kiện toàn lại tổ chức của Uỷ ban thẩm phán TAND tỉnh Bình Định theo
hướng tăng cường lực lượng. Ngoài các chức danh bắt buộc theo qui định của pháp
PL là Chánh án, phó Chánh án, thì cần có thêm các TP giỏi, có năng lực và kinh
nghiệm xét xử các VAHS là thành viên của Uỷ ban thẩm phán TAND tỉnh.
- Hàng năm, thông qua việc giải quyết, xét xử các VAHS, Uỷ ban thẩm phán
cần tiến hành tổng kết, đánh giá tình hình xét xử để rút kinh nghiệm trong toàn tỉnh,
qua đó góp phần nâng cao chất lượng đảm bảo quyền con người trong hoạt động xét
xử hình sự của Toà án.
- Kết hợp với việc tổng kết kinh nghiệm xét xử, Uỷ ban TP cần chủ trì tổ chức
các Hội nghị chuyên đề, các cuộc Hội thảo và nghiên cứu khoa học ở cấp cơ sở về
việc đảm bảo QCN, quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong xét xử hình sự của các cấp
TAND tỉnh Bình Định nói chung và TAND huyện Hoài Nhơn nói riêng.
- Với ưu tiên hiện tại là cần tập trung hướng dẫn quy định tại điểm o, khoản 2
Điều 61 BLTTHS 2015 quy định bị cáo có các quyền khác theo quy định của PL [29].
Các quyền này có thể là quyền im lặng của bị cáo hay không? Có thể là quyền của bị
cáo yêu cầu không đăng bản án lên trương Thông tin điện tử của ngành Tòa án?. Đề
nghị các ban ngành trung ương cần tập trung thảo luận và sớm đưa ra các văn bản
hướng dẫn.
3.3.2. Nâng cao năng lực của người tiến hành tố tụng…
3.3.2.1. Kiện toàn đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và tổ chức, hoạt
động của Toà án.
Để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay, TP và HTND cần có nhận thức
thống nhất về khái niệm, nội dung và ý nghĩa của thuật ngữ "bị cáo” về “quyền và
nghĩa vụ của bị cáo” trong tố tụng hình sự. Thẩm phán và HTND cần phải ý thức
được rằng mình chính là người trọng tài vô tư, khách quan thay mặt Nhà nước để đảm
bảo áp dụng đúng các quy định của luật tố tụng hình sự về bị cáo trong giai đoạn xét
68
xử nói chung và tại phiên tòa xét xử VAHS nói riêng. Các thành viên trong HĐXX
của TAND huyện Hoài Nhơn cần xác định nghĩa vụ là làm rõ sự thật khách quan của
vụ án, chứng minh căn cứ và lý do cho phán quyết trong bản án hoặc quyết định đối
với hành vi vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa.
Ngành Toà án cần có biện pháp xây dựng đội ngũ TP đủ về số lượng, đảm bảo
về chất lượng để hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của mình. Trình độ, năng lực của
TP dù có giỏi đến đâu nhưng số lượng không đủ, công việc quá tải, áp lực công việc
đè nặng thì hiệu quả chắc chắn không cao. Do đó, cần có quy định về việc mở rộng
nguồn bổ nhiệm thẩm phán không chỉ đối với cán bộ đang công tác trong ngành mà
còn cả những người là luật gia, Luật sư nếu họ đáp ứng được các điều kiện theo quy
định của PL. Khi đảm bảo đủ số lượng TP cần thay đổi số lượng TP trong thành phần
HĐXX theo hướng nâng từ một lên hai TP, giảm số lượng Hội thẩm từ hai xuống một
(nếu HĐXX có 3 người). Nâng TP từ hai lên ba người, giảm số lượng Hội thẩm từ ba
xuống hai người (nếu HĐXX có 5 người).
Cần thường xuyên quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao năng lực,
trình độ cho TP trước và sau khi bổ nhiệm, công việc này cần tiến hành thường xuyên.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị trường cần phải đào tạo, bồi
dưỡng kỹ năng xét xử chuyên sâu cho thẩm phán đối với các vụ án trong các lĩnh vực
tham nhũng, chứng khoán, công nghệ thông tin, tài chính ngân hàng, xây dựng …
Bên cạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ công tác thì
việc giáo dục nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ TP là nhiệm vụ vô cùng
quan trọng. Cần chú ý đến văn hóa ứng xử khi điều khiển tranh tụng của thẩm phán
tại phiên tòa. Vấn đề này tuy không được điều chỉnh bởi pháp luật nhưng nó ảnh
hưởng không nhỏ đến hiệu quả của phiên tòa cũng như uy tín, vị thế của thẩm phán
nói riêng, của ngành Tòa án nói chung.
3.3.2.2. Kiện toàn đội ngũ KSV và tổ chức, hoạt động của VKS
Qua thực tiễn xét xử cho thấy, trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp
của đội ngũ kiểm sát viên nói chung và KSV - VKSND huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình
Định nói riêng còn nhiều bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình
mới”. Vì vậy, các cơ quan hữu quan cần phối hợp chặt chẽ với nhau để có kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ KSV. Có như vậy mới kịp thời trang bị cho đội ngũ
69
Kiểm sát những kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và
lâu dài trong giai đoạn mới.
Về tổ chức bộ máy của VKS, chức năng của Viện kiểm sát cần sớm tổ chức
VKS theo mô hình Viện công tố với chức năng duy nhất trong TTHS là thực hành
quyền công tố (buộc tội), bảo đảm cho các Công tố viên hoạt động một cách khách
quan, không thiên vị và trên cơ sở pháp luật.
Ngoài ra, đối với ĐTV (là người trực tiếp thực hiện việc điều tra tội phạm)
thì ngoài kiến thức PL cần phải giỏi về nghiệp vụ điều tra, khám phá tội phạm,
hiểu và sử dụng thành thạo các quy định của BLTTHS về hoạt động điều tra, thu
thập chứng cứ. Đặc biệt trong quá trình THTT bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị
can, Luật sư và những người tham gia tố tụng khác thực hiện đúng và đầy đủ
quyền và nghĩa vụ của mình.
3.3.3. Nâng cao năng lực của những người tham gia tố tụng khác
3.3.3.1. Nâng cáo Trợ giúp viên pháp lý
Một là, tiếp tục tổ chức tập huấn, quán triệt các quy định pháp luật liên quan
đến Trợ giúp pháp lý để thống nhất nhận thức về vai trò của TGPL khi tham gia bào
chữa tại phiên tòa hình sự;
Hai là, nâng cao chất lượng đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý thông qua tổ chức
nhiều lớp tập huấn kỹ năng TGPL trong lĩnh vực TTHS nói chung và hoạt động bào
chữa tại phiên tòa hình sự nói riêng nhằm rút ngắn khoảng cách về trình độ chuyên
môn, kỹ năng nghề nghiệp với đội ngũ luật sư. Đặc biệt nâng cao trình độ kỹ năng
hỏi, tranh luận tại phiên tòa đối với các TGPL, chú trọng vào bản chất của hoạt động
bào chữa của TGPL tại phiên tòa hình sự là vụ việc hỗ trợ miễn phí theo tinh thần
thượng tôn pháp luật, bảo vệ lẽ phải và những đối tượng yếu thế trong xã hội để từ đó
có thể bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người được bào chữa, qua đó
cũng góp phần nâng cao chất lượng tranh tụng trong xét xử.
Ba là, cần nâng cao hoạt động tuyển dụng, bổ nhiệm chức danh TGPL đảm bảo
yêu về số lượng, chất lượng, nhất là đối với các địa phương đang thiếu. Bên cạnh đó,
cần huy động các luật sư có kinh nghiệm, trình độ, các tổ chức hành nghề luật sư có
uy tín tham gia thực hiện TGPL để người dân có quyền tiếp cận dịch vụ TGPL có chất
70
lượng theo hai hình thức là ký hợp đồng và đăng ký tham gia theo các nội dung: điều
kiện, tiêu chuẩn và việc thù lao, chi phí khi thực hiện vụ việc.
Bốn là, cần nghiên cứu đổi mới tổ chức và hoạt động TGPL theo hướng chủ
động, tinh gọn về con người và tổ chức, đảm bảo hiệu quả hoạt động của các Chi
nhánh TGPL phù hợp với thực tiễn hoạt động này, đáp ứng yêu cầu mở rộng tranh
tụng tại tòa án, bảo đảm thực thi quyền bào chữa, quyền bình đẳng trước pháp luật,
đáp ứng nhu cầu giúp đỡ pháp luật của công dân.
Năm là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật TTHS sự theo hướng bổ sung
thêm các quy định bảo đảm quyền bào chữa, quyền của người bào chữa, khi tham gia
TTHS; nhận thức và xác định đúng vai trò, vị trí của người bào chữa trong hoạt động
TTHS; xây dựng cơ chế bảo đảm cho các quy định của PL về quyền của TGPL được
thực hiện trên thực tế.
Như vậy, trong thời gian qua thể chế về TGPL nói chung và vai trò của TGPL
nói riêng đã được Đảng và NN ngày càng quan tâm; các quy định về TGPL trong
TTHS đã được bổ sung, hoàn thiện hơn, góp phần nâng cao vai trò của TGPL lý khi
tham gia bào chữa cho bị cáo thuộc đối tượng TGPL, đặc biệt nâng cao hiệu quả và
hiệu lực trong việc bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp thông qua các quy
định của PL trong cả quá trình giải quyết vụ án. Điều đó cho thấy vị thế quan trọng
của TGPL khi thực hiện chức năng bào chữa trong mối quan hệ biện chứng với các
chủ thể thực hiện chức năng buộc tội và chức năng xét xử. Đồng thời, cũng cần khẳng
định sự tham gia của TGPL lý tại phiên tòa hình sự đã góp phần bảo đảm cho các
nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS được thực hiện nghiêm túc, góp phần đảm bảo
quyền, lợi ích hợp pháp của người được
3.3.3.2. Kiện toàn đội ngũ Luật sư.
Luật Luật sư ra đời năm 2006 và đã được sửa đổi bổ sung năm 2012. Cùng với
việc thành lập tổ chức Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã khắc phục nhiều sơ hở, bất cập
trong quản lý và xây dựng đội ngũ Luật sư. Tuy nhiên, để nâng cao chất lượng hoạt
động của đội ngũ Luật sư nhằm đáp ứng sự phát triển của xã hội cần phát triển đội
ngũ Luật sư cả về số lượng và chất lượng theo hướng: đáp ứng yêu cầu tham gia bào
chữa đối với tất cả các vụ án trên phạm vi toàn quốc, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ,
có đạo đức nghề nghiệp. Các cơ quan THTT cần tạo điều kiện để Luật sư thực hiện
71
các hoạt động tranh tụng có hiệu quả. Đồng thời với việc tăng cường số lượng cần
quan tâm đến chất lượng, chế độ đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, thi tuyển phải bảo
đảm các tiêu chuẩn về năng lực và đạo đức nghề nghiệp của Luật sư; chế độ miễn cho
những người THTT (TP, KSV, ĐTV …) cũng phải có tiêu chí cụ thể chứ không phải
ai cũng được miễn như quy định hiện nay. Cần có quy định bảo vệ Luật sư khi hành
nghề, đồng thời xử lý nghiêm minh đối với Luật sư vi phạm pháp luật và đạo đức
nghề nghiệp.
Để nâng cao chất lượng của đội ngũ Luật sư hiện nay cần quy định rõ tiêu
chuẩn chuyên môn của người hành nghề Luật sư phải có bằng cử nhân luật, có thời
gian làm thực tiễn từ 4 đến 6 năm trở lên, tuổi đời cũng cần giới hạn không quá 65
tuổi và phải qua sát hạch thi tuyển trước khi cấp giấy phép hành nghề Luật sư. Được
như vậy thì trình độ của Luật sư mới được nâng lên, đảm bảo hoàn thành được một
cách tốt nhất nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị cáo.
3.3.4. Các giải pháp khác…
3.3.4.1. Bảo đảm chế độ tiền lương và chính sách ưu đãi cho cán bộ
Để đảm bảo công tác xét xử nói chung và xét xử sơ thẩm VAHS nói riêng, ần
đảm bảo đủ cơ sở vật chất cần thiết về chế độ tiền lương, trụ sở, trang thiết bị làm
việc, phương tiện kỹ thuật...Ở một số nước đang phát triển như Brazil lương thẩm
phán cao gấp 33 lần mức lương trung bình; tại Ecuador là 18 lần; tại Pêru là 14 lần...
Với sự đảm bảo về vật chất này sẽ hạn chế được tối đa những tác động tiêu cực đối
với Thẩm phán trong vấn đề độc lập xét xử.
Thực tế còn cho thấy, công tác tuyển chọn, bổ nhiệm TP ở các huyện vùng sâu,
vùng xa hiện nay còn nhiều khó khăn. Chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức
ngành Toà án còn thấp, điều kiện sinh hoạt và làm việc còn nhiều khó khăn, thiếu
thốn, cộng với áp lực và trách nhiệm đối với công việc rất lớn. Đối với đội ngũ KSV
cũng tương tự. Họ đều là người thực hiện những hoạt động nghề nghiệp đặc thù. Do
đó, cần có chính sách đãi ngộ đặc biệt để đảm bảo tốt nhất hiệu quả công việc mà họ
thực hiện.
Hiện nay lương và chế độ chính sách đối với cán bộ công chức ngành Toà án
rất thấp cụ thể như khi được bổ nhiệm mới TP sơ cấp khi được bổ nhiệm hệ số
lương so với công việc trước đó là thư ký hay thẩm tra viên vẫn giữ nguyên không
72
có sự thay đổi, trong khi đó trách nhiệm và áp lực trong công việc của TP rất cao,
nhân danh NN ra các phán quyết và chịu trách nhiệm về các phán quyết của mình.
Với mức lương như vậy thì không đủ đáp ứng cho nhu cầu sinh hoạt bình thường
của mình và gia đình. Vì vậy cần được tăng lên đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tối thiểu,
để TP tránh những hiện tượng tiêu cực trong xét xử cũng như giải quyết các loại án.
Để góp phần độc lập trong xét xử và tận tâm công tác của TP cần nghiên cứu
chế độ bổ nhiệm TP suốt đời, (hiện nay nhiệm kỳ thứ 2 của TP đã được nâng lên 10
năm), với chế độ chính sách lương cao để tránh những cám dỗ của cuộc sống khi xét
xử, đồng thời quy định việc bãi miễn chỉ có thể được thực hiện thông qua việc cáo
buộc. Có như vậy mới đảm bảo đội ngũ cán bộ công chức nói chung tận tâm toàn ý với
công việc của mình mà thực hiện nhiệm vụ được giao hiệu quả nhất.
3.3.4.2. Tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ quan tiến hành tố tụng nói
chung và ngành toà án nói riêng
Hiện nay một số trụ sở TAND cấp huyện thuộc tỉnh Bình Định nói chung và
TAND huyện Hoài Nhơn nói riêng rất chật hẹp, các trụ sở chủ yếu là do mẫu cũ từ
thời BTP quản lý và xây dựng đã lâu nên đã xuống cấp trầm trọng, có những trụ sở
phòng xét xử và phòng làm việc không đảm bảo diện tích phần nào ảnh hưởng đến
việc giải quyết các vụ án. Vì vậy các cấp ngành cần có sự phối hợp chặt chẽ, đề ra kế
hoạch chi tiết từng bước giao đất và cấp kinh phí để xây dựng các cơ quan tư pháp tại
các địa phương ngang tầm với vị thế theo như tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW. Vì
thế đây không những là những đòi hỏi cấp bách của các cơ quan tư pháp nói chung và
cơ quan xét xử nói riêng, nên việc sớm xây dựng các trụ sở khang trang, sạch sẽ, uy
nghiêm sẽ tạo điều kiện rất lớn cho các cơ quan đó hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng
và nhân dân giao phó. Cần tăng cường phương tiện và những thiết bị thiết yếu cho các
cơ quan xét xử nhằm phục vụ nhiệm vụ xét xử, vì hiện nay các trang thiết bị này đã
xuống cấp trầm trọng. Việc xét xử lưu động ở cấp huyện cần được cấp kinh phí để
phục vụ phiên toà hoặc cấp xe tải nhỏ để phục vụ nhiệm vụ này. Những cơ sở vật
chất, trang thiết bị thiết yếu cần được sự quan tâm để cấp đủ. Trong giai đoạn trước
mắt sớm đầu tư kinh phí để bố trí phòng xử án theo tinh thần thông tư số 01/2017/TT-
TANDTC ngày 28/7/2017 của TAND tối cao [55] quy định về phòng xử án, bảo đảm
quyền bình đẳng vị trí giữa KSV với Luật sư tại phiên tòa hình sự.
73
3.3.4.3. Tăng cường ý thức pháp luật trong nhân dân
Việc tăng cường ý thức pháp luật trong nhân dân có tầm ý nghĩa rất quan trọng
trong việc nhận thức và thực hiện các quy định của PL. Trong TTHS, bằng việc nâng
cao nhận thức của người dân về vai trò của Toà án, người bào chữa, KSV, các nguyên
tắc bảo đảm tranh tụng…cũng góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động tranh tụng
tại phiên toà. Để thực hiện được điều đó thì công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là
khâu đầu tiên của quá trình thi hành pháp luật và có ý nghĩa, vai trò hết sức quan trọng
trong việc tăng cường pháp chế, xây dựng NN pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân. Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa quan trọng đó Đảng và
NN ta luôn quan tâm đến công tác này. Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị chỉ rõ:
"Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật với nhiều hình thức
phong phú, sinh động, đặc biệt là thông qua các phiên toà xét xử lưu động và bằng
những phán quyết công minh để tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ
và nhân dân” [7]. Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến giáo dục PL, nâng
cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân đã khẳng định: "Phổ biến, giáo
dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ
của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng” [4]
Tiểu kết chương 3
Trơn cơ sở những lý luận và pháp luật về bị cáo trong tố tụng hình sự (tại
Chương 1 của luận văn) và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình
sự về bị cáo tại TAND huyện Hoài Nhơn, tình Bình Định giai đoạn 2015-2019
(Chương 2 của luận văn). Tại Chương 3 của học viên đã mạnh dạn đưa ra một số giải
pháp để nâng cao chất lượng thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
bị cáo trong thời gian sắp tới, cụ thể:
Học viên đã nêu được quan điểm và yêu cầu nâng cao chất lượng thực hiện quy
định của PL về bị cáo trong TTHS; Nêu giải pháp hoàn thiện PL và các giải pháp
nâng cao năng lực của TP, HTND, KSV, TKTA (là những người THTT; giải pháp về
hướng dẫn thực hiện các quy định của PL tố tụng về bị cáo ...).
74
KẾT LUẬN
Trong điều kiện xây dựng NN pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân hiện nay thì cải cách tư pháp có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc
hình thành các thể chế pháp lý và cơ chế xã hội để bảo đảm và thực hiện tốt QCN và
quyền công dân trong TTHS. Cải cách tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử, đòi
hỏi bảo đảm công khai, minh bạch, đảm bảo QCN nói chung; quyền, nghĩa vụ của bị
cáo nói riêng tại phiên tòa XXST các VAHS.
Tại phiên tòa xét xử các VAHS nói chung và trong XXST hình sự ở TAND
huyện Hoài Nhơn nói riêng việc các HĐXX áp dụng đầy đủ và nghiêm chỉnh các quy
định của Điều 61 BLTTHS 2015 về quyền và nghĩa vụ của bị cáo, có ý nghĩa to lớn
trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người nói chung và của bị cáo nói
riêng. Tuy nhiên để nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật về bị cáo,
thì cần phải nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện cả về góc độ lý luận cũng như
thực tiễn áp dụng tranh tụng tại phiên tòa. Chính vì vậy luận văn đã:
- Phân tích cơ sở lý luận và pháp luật về bị cáo trong tố tụng hình sự, với các
nội dung: Khái niệm, đặc điểm và vai trò của bị cáo trong tố tụng hình sự.
- Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển các quy định của luật tố tụng hình
sự Việt Nam về bị cáo, trên cơ sở đó đánh giá được tính kế thừa và những điểm còng
hạn chế của BLTTHS 2015 quy định về bị cáo.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và những đánh giá về thực trạng áp dụng các
quy định của pháp luật về bị cáo tại phiên tòa XXST hình sự của TAND huyện Hoài
Nhơn, tỉnh Bình Định. Luận văn đưa ra những giải pháp khoa học đảm bảo thực hiện
nghiêm chỉnh và đầy đủ các quy định của BLTTHS 2015 về bị cáo trong xét xử án
hình sự. Những giải pháp này góp phần bảo đảm thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ
của bị cáo trong xét xử giữa những người tiến hành tố tụng với bị cáo, từ đó nâng cao
chất lượng áp dụng các quy định về bị cáo trong tố tụng hình sự của TAND huyện
Hoài Nhơn nói riêng và Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định nói chung.
Luận văn cũng đề cập đến vấn đề cần sửa đổi, bổ sung thêm cho bị cáo có
quyền giữ im lặng; và quyền được yêu cầu bảo đảm nội dung vụ án (như danh tính
của bị cáo cần được bảo vệ, hạn chế việc đăng lên các trang thông tin điện tử).
75
Với những kết quả nghiên cứu của đề tài, học viên hy vọng sẽ đóng góp một
phần nhỏ bé về mặt lý luận và thực tiễn trong việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
thực hiện các quy định của pháp luật TTHS quy định về bị cáo tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự góp phần góp phần thực hiện thành công công cuộc cải cách tư
pháp mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1957), Hán Việt từ điển, NXB Trương Thi, Sài Gòn;
2. Ban chỉ đạo cải cách tư pháp (2006), Kết luận số 79-KL/TW về Đề án đổi mới
tổ chức và hoạt động của Toà án, Viện kiểm sát và cơ quan Điều tra theo Nghị
quyết 49-NQ/TW của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020, Hà Nội.
3. Ban Bí thư Trung ương Đảng, Chị thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003, về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật của cán bộ, nhân dân.
4. Thái Chí Bình, bài viết: Một số kiến nghị hoàn thiện chế định người tham gia
tố tụng trong Bộ luật tố tụng hình sự, Tạp chí Nghề Luật số 2/2015
5. Bộ Chính trị ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (1996),
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII.
6. Bộ Chính trị ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2002),
Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về Một số nhiệm vụ trọng tâm công
tác tư pháp trong thời gian tới.
7. Bộ Chính trị ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2005),
Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
8. Bộ Chính trị ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2005),
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020.
9. Bộ Chính trị ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Hà Nội.
10. Bộ tư pháp, Thông tư số 2225/HCTP ngày 21/10/1956 của Bộ Tư pháp về việc
chấn chỉnh thực hiền quyền bào chữa của bị can
11. Bộ Tư pháp - Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp,
Hà Nội.
12. Lê Văn Cảm, Nguyễn Huy Phượng (5/2011): “Tòa án là trung tâm, xét xử là
trọng tâm trong tố tụng hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp”, bài viết, tạp
chí Tòa án nhân dân số 9.
13. Nguyễn Việt Cường (2019): “Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự
Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ Luật học, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt
Nam, Học viện khoa học xã hội.
14. Chính Phủ (2012), Quyết định số 41/QĐ-TTG ngày 05.10.2012 của Thủ tướng
Chính phủ về chế độ dưỡng bồi người tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết
vụ việc dân sự).
15. Dương Văn Công (2017): “Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam”, luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia, Khoa luật.
16. Lê Huỳnh Tấn Duy, bài biết: Trực tiếp ghi nhận quyền im lặng cho người bị
buộc tội trong Tố tụng hình sự Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý số 4/2015
17. Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự, NXB. Tư pháp,
Hà nội.
18. Nguyễn Hữu Hậu, bài viết: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội
trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát, Tạp chí Kiểm sát số
12/2015
19. Nguyễn Hữu Hậu (2019): “Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội
trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”, Luận án tiến sỹ Luật học, Viện hàn
lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội.
20. Phan Hùng (2018): “Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên sơ thẩm vụ án
hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, từ thực tiễn tỉnh Ninh
Thuận”. Luận văn thạc sĩ luật học, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam,
Học viện khoa học xã hội.
21. Phạm Hồng Khải (2017): “Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là
người dưới 18 tuổi theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành
phố Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sỹ Luật học, Viện hàn lâm khoa học xã hội
Việt Nam, Học viện khoa học xã hội.
22. Lê Viết Kiên (2015): “Người làm chứng trong tố tụng hình sự Việt Nam, trên
cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk”, luận văn thạc sĩ luận học, Đại
học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật.
23. Liên Hiệp Quốc (1948) Tuyên ngôn nhân quyền.
24. Đinh Hải Ninh (2017): “Quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội
trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà
Nội”, luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia, Khoa luật
25. Quốc hội (2009), Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung 2009.
26. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung 2017.
27. Quốc hội (1988), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988.
28. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự 2003.
29. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.
30. Quốc hội (1946), Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1946.
31. Quốc hội (1959), Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1959.
32. Quốc hội (1980), Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1980.
33. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013.
34. Quốc hội (2015), Luật Luật sư.
35. Quốc hội (2002), Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002.
36. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014.
37. Quốc hội (2012), Nghị quyết 37/2012/QH13, về công tác phòng chống tội
phạm và vi phạm pháp luật, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân
dân và công tác thi hành án.
38. Quốc hội (2019), Nghị quyết 96/2019/QH14, về công tác phòng chống tội
phạm và vi phạm pháp luật, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân
dân và công tác thi hành án.
39. Quốc hội (1945), Sắc luật số 33C ngày 13.9.1945.
40. Quốc hội (1946), Sắc luật số 13 ngày 13.9.1946 (Điều 34).
41. Quốc hội (1976), Sắc luật số 01/SL-76 ngày 15.3.1976.
42. Phan Thị Thanh Tâm (2017): “Bảo đảm quyền của bị cán, bị cáo là người
chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận án tiến sỹ Luật học,
Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội.
43. Quản Thị Ngọc Thảo (2016): “Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc
lập chỉ tuân theo pháp luật”. Luận văn thạc sĩ luật học, trường Đại học Quốc
gia Hà Nội, Khoa luật.
44. Trần Thảo (2015): “Bảo đảm quyền của người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ
pháp lý trong tố tụng hình sự Việt Nam”. Luận án tiến sĩ luật học, trường Đại
học Luật thành phố Hồ Chi Minh.
45. Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP
BLĐTBXH ngày 12.7.2011 của VKSNDTC, TANDTC, Bộ Công an, Bộ tư
pháp và Bộ Lao động Thương binh và Xã hội.
46. Nguyễn Anh Thư (2015), “Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền
con người trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, trên cơ sở số liệu thực tiễn địa
bàn tỉnh Đắk Lắk”, Luận văn thạc sỹ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa
luật.
47. Tòa án nhân dân quận huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định, Bản án 56/2019/HS-
ST ngày 30.10.2019 về tội trộm cắp tài sản.
48. Tòa án nhân dân quận huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định, Bản án 59/2019/HS-
ST ngày 11/11/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ.
49. Tòa án nhân dân quận huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định, số liệu thông kế
2015 - 2019.
50. Tòa án nhân dân tối cao (2016), Công văn số 99/TANDTC ngày 14.4.2016 về
việc triển khai thực hiện việc tổ chức Tòa án gia đình và người chưa thành
niên, Hà Nội.
51. Tòa án nhân dân tối cao (2017), Công văn số 144/TANDTC ngày 04.7.2017
về việc Hướng dẫn Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP.
52. Tòa án nhân dân tối cao (2019), Hội nghị, hội thảo về “Chiến lược cải cách tư
pháp trong ngành Tòa án nhân dân định hướng đến năm 2030”.
53. Tòa án nhân dân tối cao (2017), Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP về việc
công bố bản án, quyết định trên cổng thông tin điện tử của Tòa án.
54. Tòa án nhân dân tối cao (1974), thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 hướng
dẫn hoạt động xét xử.
55. Tòa án nhân dân tối cao, thông tư số 01/2016/TT-CA ngày 12/4/2016 của
Chánh án TAND tối cao tuy có hướng dẫn tổ chức mô hình phiên tòa xét xử bị
cáo là người dưới 18 tuổi
56. Tòa án nhân dân tối cao (2017), Thông tư 02/2017/TT-TANDTC ngày
28.7.2017 về Quy chế tổ chức phiên tòa.
57. Võ Quốc Tuấn, bài viết: Quy định pháp luật quyền bào chữa của bị cáo trong
hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân, Tạp chí
Nghề Luật số 4/2015
58. Võ Quốc Tuấn (2017): “Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay”,
Luận án tiến sĩ luật học, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Nhà
nước và Pháp luật.
59. Viện khoa học pháp lý, Bộ tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb tư pháp, Hà
Nội.
60. Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định (2020), số liệu
2015-2019.